|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 8:22:42 GMT 9
30 tháng Tư, nói về những người lính bị bỏ rơiTác Giả: Đàn Chim Việt -21/04/2020 www.danchimviet.info/30-thang-tu-noi-ve-nhung-nguoi-linh-bi-bo-roi/04/2020/19187/Nghĩa trang quân đội VNCH ở Biên Hòa bị bỏ hoang nhiều năm, gần đây mới được phép tu sửa Hôm nay tôi vừa ký cái check nho nhỏ để ủng hộ chương trình “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” do Đài Truyền Hình SBTN thực hiện. Vài tuần trước, khi nghe nói SBTN đang dựng chương trình, tôi tò mò ghé qua. Đúng lúc đó thì nhóm sản xuất đang cố đưa một chiếc trực thăng thời chiến tranh Việt Nam vào studio để dựng cảnh. Tuy nhiên, vì chiếc trực thăng lớn quá nên người ta phải cắt luôn cánh cửa để đưa vào. Tôi ngạc nhiên trong thích thú: SBTN chịu chơi thiệt!
Nói vậy để thấy đây là một chương trình được dàn dựng rất công phu, được quay hình trong 10 ngày liền. Ngoài phần âm nhạc, chương trình còn có những tài liệu, phim ảnh lịch sử và quân sử giá trị. Đặc biệt, tất cả đều có phụ đề Anh ngữ để thế hệ trẻ hải ngoại có thể hiểu và học được một phần lịch sử về cha anh mình.
Từng làm việc trong ngành truyền thông và sản xuất chương trình TV trong nhiều năm, tôi biết để thực hiện bất cứ tác phẩm văn hóa, nghệ thuật hay lịch sử gì cho cộng đồng, việc kiếm lợi nhuận là chuyện rất xa vời. Thị trường băng đĩa gần như biến mất cùng với trào lưu xem free trên mạng đã đẩy các công ty truyền thông cũng như những chương trình âm nhạc và văn hóa tại hải ngoại đi đến kiệt quệ về tài chánh. Nếu may mắn thì có thể tìm được công ty bảo trợ lớn, mà thường các công ty này đều ở Việt Nam. Với một chương trình tôn vinh lịch sử VNCH như thế này thì hẳn nhiên rất khó tìm nguồn tài trợ.
Đó là lý do tôi muốn đóng góp một phần rất nhỏ trong khả năng cho bộ DVD “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”. Là con một người lính VNCH, tôi cho rằng đây là trách nhiệm để góp phần vào việc giữ gìn bất cứ những gì nói lên sự thật lịch sử về những người lính VNCH. Tôi không phải là người thiên về quá khứ nhưng việc ôm ấp quá khứ với thái độ tôn trọng sự thật lịch sử là hai việc khác nhau.
Lịch sử đó là gì?
Đã 45 năm từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, hình ảnh người lính VNCH ngày càng trở thành cái bóng mờ trong lịch sử của cuộc chiến chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Thế giới tự do đã chiến thắng với sự sụp đổ của cái nôi cộng sản tại Liên Xô cũng như tại các đồng minh Đông Âu và Trung Á. Trong khi đó, những hy sinh của người lính VNCH tại miền Nam, một thời là tiền đồn Đông Nam Á chống lại sự lan rộng của làn sóng Đỏ, lại dường như đang trôi vào lãng quên, nếu không nói chỉ còn đọng lại trong ký ức của thế hệ cha anh.
Tại Việt Nam sau 1975, người lính VNCH phải gánh chịu sự trả thù hèn hạ từ những kẻ thắng cuộc. Họ bị cầm tù, bị tước đoạt quyền làm người, bị sỉ nhục và bị ngược đãi nhân phẩm. Con cái của “thành phần” gọi là “ngụy quân” cũng không thể trở thành công dân bình thường. Chính cá nhân tôi đã gánh chịu tình trạng phân biệt đối xử như vậy vì ba tôi từng là lính “ngụy” và bị bắt đi “học tập cải tạo” ròng rã 7 năm trời.
Những gì tiêu biểu cho hình ảnh người lính miền Nam đều bị xóa bỏ đến cùng. Những tượng đài bị giật sập, các nghĩa trang bị cào nát. Bức tượng Thương Tiếc trước Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hoặc Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây Gò Vấp đã bị giật sập và san bằng không còn dấu tích. Thậm chí sách vở và âm nhạc với hình ảnh người lính VNCH trong đó cũng trở thành “văn hóa phẩm độc hại”. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã được soi chiếu lại với nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, những tài liệu này do người Mỹ thực hiện nên họ chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến nước Mỹ hơn là đối với đồng minh cũ của họ ở Nam Việt Nam. Họ quan tâm đến các chính sách của các đời tổng thống Mỹ liên quan cuộc chiến Việt Nam, hơn là số phận của những người Việt Nam từng cầm súng bảo vệ tiền đồn chống cộng sản. Họ thuật lại những phát biểu của giới chức chính trị và quân sự Mỹ về cuộc chiến Việt Nam, hơn là cho thấy cảm nghĩ lẫn ý chí của những người lính từng là hình ảnh đại diện cho giá trị của tự do.
Xét ở góc độ nào đó, có thể nói đây là sự bất công, khi lịch sử chỉ được nhìn ở một hoặc vài góc mà không phải toàn cảnh. Những người lính VNCH xứng đáng được nhớ đến và sự hy sinh của họ đáng được ghi nhận. Họ đã đổ máu chiến đấu suốt 20 năm với thế giới tự do để giúp đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản. Hàng trăm ngàn người lính đã vĩnh viễn ra đi để có được một miền Nam ấm no, thịnh vượng, và một sự tự do vô giá, mà từ đó, miền Nam có những tác phẩm văn chương lộng lẫy, có những thi phẩm rạng ngời, có những nhạc phẩm sống mãi với thời gian. Cho đến tận hôm nay, sau 45 năm, nền nghệ thuật VNCH vẫn còn tồn tại, không chỉ ở hải ngoại mà cả trong nước. Cộng sản đã chiến thắng một cuộc chiến bằng súng nhưng cộng sản đã đại bại một cuộc “giao tranh” bằng giá trị tinh thần.
45 năm qua, dù ở nơi nào, nhiều người Việt khi bỏ nước ra đi vẫn mang theo tình yêu quê hương cùng với hình ảnh hào hùng của người lính VNCH. Nhiều bia tưởng niệm, tượng đài được dựng lên tôn vinh người lính miền Nam đã hiện diện nhiều nơi khắp thế giới. Thế hệ trẻ gốc Việt cũng cho ra đời những tài liệu nghiên cứu, tiếng Việt lẫn Anh, để không chỉ bày tỏ lòng biết ơn với thế hệ cha anh mà còn nhằm mang lại sự thật lịch sử về người lính VNCH mà chế độ cộng sản Việt Nam chưa bao giờ ngừng bôi nhọ, không chỉ với tư cách là kẻ thắng cuộc mà còn với mặc cảm là kẻ bại trận trước sự trường tồn của giá trị văn hóa miền Nam mà người lính VNCH từng góp phần bảo vệ.
Riêng với tôi, cũng nhờ tìm hiểu về người lính VNCH, giờ đây tôi đồng cảm với ba mình hơn. Một người đàn ông tóc điểm sương lúc nào cũng ngồi trước máy tính hay cuốn tập giấy, ghi ghi chép chép điều gì đó mà ông chẳng bao giờ cho tôi đọc. Ông sống nội tâm và ít nói chuyện với tôi. Khi ngồi viết những dòng tâm sự này, tôi có dịp gợi lại cho ông những ký ức cũ, trong đó có câu chuyện khiến tôi không thể cầm nước mắt. Ông kể, chiều 30/4/1975, Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam đến thăm bệnh viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ, để thăm lần cuối những người lính bị thương. Một thương binh xúc động đã níu tay ông lại. Khi ra về, ông đã bật khóc và hứa: “Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em”. Và để “ở lại với các em”, vị Tư lệnh đã tuẫn tiết vào ngày hôm sau… Khi nghe câu chuyện này, tôi muốn ba tôi mãi ở lại với tôi. Tôi muốn người lính VNCH mãi ở lại trên những trang sử vinh danh họ. Tôi muốn hình ảnh người lính VNCH mãi mãi được tôn vinh…
Hồng Thuận (Facebook)
Cali 21 tháng 4, 2020***************************************************** David Tran April 6 · Nhân dịp tưởng niệm 47 năm ngày nước Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, xin mời Quý vị và các Bạn xem một cuốn phim mà chúng ta không thể nào quên trong cuộc đời của mình! Những ai chưa biết về nước Việt Nam Cộng Hòa thì càng nên xem để biết về những sự thật đã xảy ra trong lịch sử của nước Việt Nam trong quá khứ. Ngày nay, nhờ có nhiều phương tiện truyền thông tân tiến nên mọi người dân trong nước mới biết rõ được bộ mặt thật của đảng cộng sản Việt Nam sau bao năm bị bưng bít và tuyên truyền dối trá do chủ trương nhồi sọ để trị của bọn người ngu dốt và độc ác như loài quỷ dữ. Vào 47 năm trước, Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ rơi đồng minh của mình là nước Việt Nam Cộng Hòa và bán đứng chúng ta chỉ vì lợi ích lâu dài của họ. Kể từ ngày 21 tháng 2 năm 1972, Hoa Kỳ đã khai tử nước Việt Nam Cộng Hòa để bắt tay với Trung cộng nhằm chia rẽ cộng sản Liên Xô với đảng cộng sản Trung cộng hòng làm suy yếu thế giới cộng sản. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì lúc nào cũng hăng say chiến đấu cho đến giờ phút cuối cùng để bảo vệ quê hương và đồng bào ruột thịt của mình. Chỉ vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn đạn dược và súng ống cũng như cạn kiệt tiếp liệu nên đã trói tay binh sĩ không còn khả năng chiến đấu như lúc còn viện trợ quân dụng đầy đủ từ Hoa Kỳ. Quý vị và các Bạn hãy đọc quyển sách "Khi đồng minh tháo chạy" của tác giả là Giáo sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng để biết rõ hơn về việc Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi đồng minh của họ là nước Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Vào ngày 3 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Gerald Ford công bố "Chiến dịch Babylift", nhằm di tản khoảng 2.000 trẻ em mồ côi ra khỏi nước Việt Nam Cộng Hòa trước khi quân cộng sản tiến vào Thủ Đô Sàigòn. Một trong những chiếc máy bay Lockheed C-5 Galaxy khi chuẩn bị cắt cánh đã bị rơi vì trúng đạn pháo kích của cộng quân, khiến cho 155 hành khách và phi hành đoàn bị thiệt mạng làm cho tinh thần của nhân viên người Mỹ xuống dốc rất nhiều. Ngoài hơn 2.500 trẻ em mồ côi được di tản bằng Chiến dịch Babylift, Kết quả của Chiến dịch "Cuộc Sống Mới" đã dẫn đến việc di tản được hơn 110.000 người tị nạn Việt Nam ra khỏi đất nước. Cuộc di tản cuối cùng là Chiến dịch "Gió thổi thường xuyên" đã đi tản đuoc 7.000 người rời khỏi Việt Nam bằng máy bay trực thăng trên các cao ốc ở Thủ Đô Sàigòn vào sáng ngày cuối cùng 30 tháng 4 năm 1975. Rất nhiều người muốn vào tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Thủ Đô Sàigòn vào những giờ phút cuối để được di tản ra khỏi Việt Nam. Nhưng cuối cùng đã không còn thì giờ nên một số đông người chờ đợi trong tòa Đại Sứ vẫn chưa được đi tản nên họ đành phải tìm phương cách khác để rời khỏi Việt Nam vì họ không muốn sống dưới sự cai trị độc ác của đảng cộng sản. Trước đó trận chiến cuối cùng giữa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa do Thiếu Tướng Bộ Binh Lê Minh Đảo chỉ huy chống trả lại sự xâm lăng của quân cộng sản khát máu vẫn đang tiếp diễn ác liệt ở mặt trận Xuân Lộc, phòng tuyến cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta, những công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ quên công lao các anh chiến sĩ oai hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã xã thân ngoài chiến địa nhằm chống trả lại sự xâm lăng của bọn cộng sản gian ác và khát máu. Bọn cộng sản đã không từ bỏ một thủ đoạn đê hèn và tàn ác nào hòng xâm chiếm đất nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta. Các anh chiến sĩ anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh một phần xương máu của mình để bảo vệ đất nước và người dân thoát khỏi bàn tay khát máu của loài quỷ dữ nhất hành tinh này. ************ Xin mời Quý vị và các Bạn xem bài phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm của đài RFA (Đài Á Châu Tự Do) với Thiếu Tướng Lê Minh Đảo sau đây về 12 ngày đêm trận chiến ở Xuân Lộc: Đúng vào ngày 8 tháng 4 năm 1975 bốn mươi năm về trước trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc vẫn còn sống mãi trong lòng rất nhiều người đặc biệt là các đơn vị tham gia trực tiếp. Mặc Lâm được dành riêng một cuộc phỏng vấn với Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh sư đoàn 18 Bộ binh cũng là vị tướng mang trọng trách bảo vệ vành đai Xuân Lộc trước cuộc tấn công của quân đội miền Bắc nhằm chiếm lĩnh Biên Hòa và tiến về Sài Gòn sau đó. Mặc Lâm: Xin cám ơn Thiếu tướng Lê Minh Đảo đã dành cho đài Á châu Tự do cuộc phỏng vấn đặc biệt này. Thưa ông ngày 8 tháng 4 hàng năm chắc có lẽ là ngày đáng nhớ nhất trong cuộc đời tướng lãnh của ông, xin Thiếu tướng cho biết diễn tiến trận đánh này để thính giả, độc giả của đài có cơ hội biết thêm những gì mà nhiều người chưa rõ ràng lắm thưa ông. Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tôi có lời chào tất cả quý thính giả của đài Á châu Tự do và chào ông Mặc Lâm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào vấn đề của mặt trận Xuân Lộc. Mặt trận Xuân Lộc nó ác liệt đẫm máu ngay vào ngày đầu tiên 8 tháng 4 năm 1975 và kéo dài cho tới ngày sư đoàn 18 rút ra khỏi trận địa vào ngày 21 tháng 4. Cộng sản Bắc Việt đã tung vào mặt trận này một quân đoàn tăng cường gồm 3 sư đoàn là sư đoàn 341, sư đoàn 7 sư đoàn 6 và một sư đoàn pháo 130 ly, 122 ly và phòng không. Trung đoàn chiến xa và các đơn vị đặc công. Đến 5 ngày sau sau khi họ thiệt hại khá nặng nề thì họ tăng cường thêm trung đoàn biệt lập 95A cùng với sư đoàn 325 nữa. Lực lượng này do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy nhưng sau 5 ngày tổn thất thì họ điều Trần Văn Trà xuống điều nghiên và sau đó Trần Văn Trà chỉ huy luôn các đơn vị này của giai đoạn hai. Còn lực lượng của VNCH trong 5 ngày đầu tiên chỉ có sư đoàn 18 bộ binh trừ một tiểu đoàn tăng phái cho quân đoàn III đưa qua sư đoàn 25. Có tiểu đoàn 82 biệt động quân họ rút đi từ Lâm Đồng tạm ghé Long Khánh để dưỡng chân và chờ về Sài Gòn. Chúng tôi đã trang bị tiếp tế cho tiểu đoàn này đầy đủ và họ sẵn sàng ứng chiến. Khi họ ứng chiến ở đó thì cộng sản đánh vào đêm 8 thì họ kẹt lại và lực lượng này đặt dưới quyền chỉ huy của tôi. Cho nên tôi có một tiểu đoàn Biệt động quân cộng thêm các lực lượng địa phương quân, nghĩa quân và tiểu khu Long Khánh. Về lực lượng yễm trợ thì có sư đoàn III không quân gồm có các phi tuần khu trục và các trực thăng chở quân và võ trang của Biên Hòa. Về diễn tiến của cuộc hành quân này thì vào ngày 8 cộng quân ồ ạt tấn công dưới chiến thuật của họ là tiền pháo hậu xung tức là họ pháo kích trước rồi cho đơn vị xung phong vào sau. Họ pháo ác liệt trong suốt ngày đầu tiên 2.000 quả tối đêm 8 rạng ngày 9. Đến sáng họ cho hai mũi tấn công có chiến xa yễm trợ, tức nhiên họ bị chúng tôi đẩy lui ra ngoài. Ngày thứ hai họ cũng tiếp tục tấn công như vậy, pháo vào 2.000 quả họ bắn vào thành phố kể như nát hết tất cả nhưng đơn vị chúng tôi thiệt hại rất ít vì tôi đã tổ chức trận địa trước và tôi biết pháo nó sẽ rớt ở trong chứ không thể rớt ở rìa ngoài trong khi chúng tôi đóng ở rìa bên ngoài chờ họ. Ngày thứ ba họ tiếp tục tấn công vũ bão như vậy là 3 ngày tất cả, mỗi ngày gần 3 trung đoàn kể như một sư đoàn. Sau ba ngày tấn công họ vẫn không vào được và tổn thất rất nặng nề. Trong ba ngày đó họ tổn thất khoảng một sư đoàn rưỡi cho nên tới ngày thứ tư, thứ năm thì lực lượng họ yếu dần họ chỉ tấn công lấy lệ nhưng mà cường độ pháo của họ vẫn tiếp tục mạnh mẽ áp đảo thật nặng vào thị xã Xuân Lộc và các đơn vị phòng thủ. Đến đây thì mặt trận Xuân Lộc có biến chuyển khác. Quân đoàn thấy mặt trận trở nên quan trọng ở đó cho nên ông Tư lệnh quân đoàn là Trung tướng Toàn mới tăng cường cho tôi một lữ đoàn I nhảy dù với bốn tiểu đoàn. Trực thăng từ Biên Hòa do Chinook đưa vào. Tôi đưa một tiểu đoàn để giữ sân bay Long Khánh giúp cho ông Đại tá Phúc Tỉnh trưởng Long Khánh để có lực lượng bảo vệ cho vững chắc để tôi yên tâm một chút. Ba tiểu đoàn còn lại đánh từ ngoài đánh vô sau lưng địch bọc phía trong và ở ngoài đánh vào cũng như một ổ bánh mì sandwich. Nếu chúng tôi còn tiếp tục ở lại thì có thể nói với anh rằng tôi sẽ bắt luôn một tiểu đoàn của cộng quân bị kẹt vì họ không còn ai tiếp tế cho họ hết tại một vườn cây ăn trái tại Xuân Lộc. Có những lúc chúng tôi phải đánh với họ một chống ba, có nơi một chống tới năm và có nơi như ở đồi Móng ngựa chúng tôi chỉ có hai đại đội phải chống nguyên cả một trung đoàn tăng cường chia làm ba hướng vào nhưng mà họ cũng khó mà đánh thủng chúng tôi được. Tại sao? Có thể nói chúng tôi yếu lực lượng nhưng mình yếu thì mình dùng mưu, dùng kế hoạch, mình không dùng sức. Trận địa đó tôi đã tổ chức hai tuần lễ trước rồi cứ giao thông hào mà đánh. Tôi gài họ vào trong đó để họ dính vào trận địa pháo của tôi. Tôi có những cái hỏa tập ở nhiều khu vực chọn trước vì biết được họ tới đó sẽ bị cầm chân. Trong này tôi đánh ra cầm chân họ mà vô không được thì họ phải nằm ở đó. Khi họ nằm ở đó thì tôi cho pháo binh pháo vào tiêu diệt. Pháo binh tôi đem ra ngoài tất cả và tôi bắn vào trong thành phố yễm trợ các đơn vị cho nên sự thiệt hại của họ rất lớn. Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng với tình hình mà Thiếu tướng vừa diễn tả đâu có gì quá nguy hiểm khiến ông phải rút quân ồ ạt vào ngày 20 tháng 4? Có gì thay đổi quan trọng khiến cho ông buộc phải rút quân thưa Thiếu tướng? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tình hình bắt đầu thay đổi khi ngày 16 tây thì mặt trận Phan Rang bắt đầu bể, một quân đoàn gọi là quân đoàn 2 Hương Giang họ đi ở quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang họ xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Họ đi vô Bình Tuy ngang Xuyên Mộc về Bà Rịa để tấn công con đường Bà Rịa đi Biên Hòa, đây là một sự uy hiếp vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ đi ngõ đó. Đồng thời Trần Văn Trà đã thay đổi kế hoạch họ đánh phá rất mạnh vào phi trường Biên Hòa vì họ biết phi trường đó còn thì sẽ yễm trợ cho chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi có chừng 50 phi xuất của Biên Hòa thành ra yễm trợ cho chúng tôi nhất là trực thăng võ trang anh em đó đánh rất là ngoan cường, đánh rất hay rót bom lên địch thành ra họ bị thiệt hại rất nhiều vì phi pháo của chúng tôi. Chiến đoàn 52 của tôi ở tại ngã ba Dầu giây họ đánh nhiều ngày hết đạn dược rồi nên họ xuyên rừng đi thẳng vào rừng, họ đi xuyên rừng Bình Sơn để về Biên Hòa. Trước sự uy hiếp trên quân đoàn sợ rằng mặt trận của tôi nằm ở phía trên mà cộng sản nó đã lọt được vào bên dưới do quân đoàn Hương Giang đi từ bên kia nó vòng ngõ tắt về Biên Hòa cho nên ông trung tướng Toàn ra lệnh phải thay đổi chiến thuật, xin Tổng thống Thiệu và Tổng thống chấp nhận phải đổi chiến thuật là đưa sư đoàn 18 bộ binh về giữ mặt trận Trảng Bom, giữ quốc lộ 1 từ Trảng Bom về Biên Hòa. Mặt trận này hồi nào đến giờ do Chuẩn tướng Khôi, tư lệnh lữ đoàn 3 thiết giáp, đem chiến đoàn lên giữ mặt trận đó mà không lên tiếp được cho sư đoàn 18 tại vì ổng kẹt ngay chỗ đó vì tụi Việt cộng nó chận và ổng phải cầm cự ở đó. Thật ra thì ông Toàn cũng muốn giữ lực lượng đó để bảo vệ cho quân đoàn III nếu cái đoạn này mà lữ đoàn 3 dính vào mà nó đánh vô thì ổng không có đường mà đỡ, ổng ra lệnh cho tôi rút càng sớm càng tốt. Một đơn vị khi đang chạm súng mạnh và hàng ngày như thế này mà phải rút quân là chuyện khó vô vàn. Đánh thì dễ còn rút thì dễ hỗn loạn và bị thua nhưng bây giờ lệnh thì phải rút. Kế hoạch tôi rút là dùng một chiến thuật không ngờ. Cái táo bạo của tôi là đi vào con đường hậu phương của nó. Đó là liên tỉnh lộ Long Giao, con lộ đi từ Long Giao xuống ranh giới của quận Đức Thạnh ở Bình Giả đi về Bà Rịa con đường đó dài khoảng 30 cây số. Tôi biết khi họ đánh mặt trận lớn bên ngoài thì chỗ này không đáng kể, họ coi không quan trọng, họ điều nghiên chỗ khác coi như chỗ đó không có. Muốn rút trên con đường này tôi lại ra lệnh lần nữa là không rút ban ngày, rút ban ngày địch nó biết nên tôi rút ban đêm. Bắt đầu 8 giờ tối tôi cho rút quân vì tôi biết cộng sản không bao giờ có thể nghĩ rằng một đại đơn vị của quân lực VNCH mà rút quân vào ban đêm như thế này hết, họ không bao giờ ngờ! Sáng hôm ông Toàn ra lệnh tìm cách rút quân thì tôi đã cho lệnh tất cả lữ đoàn dù và một tiểu đoàn của tôi ở trên Núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để làm cho họ thấy rằng chúng tôi bắt đầu phản công để tiêu diệt họ thì họ lo chống đỡ và nghĩ rằng chúng tôi đánh họ chứ họ không biết khi đó tôi chuẩn bị rút đi. Rút quân trong cuộc hành quân này thì rất táo bạo nhưng phải bình tĩnh tối đa, rút từng đơn vị. Trước hết tôi cho trung đoàn của tôi đi đầu, trung đoàn đó được một đơn vị pháo lớn tại căn cứ Long Giao của trung đoàn 48 nằm đó nó yễm trợ. Khi họ rút được êm rồi thì đơn vị pháo đó rút sâu dưới kia họ bắn ngược lên. Sau đó là lực lượng cơ giới do ông Đại tá Tham mưu trưởng hành quân (Đại tá Hứa Yến Lến) của tôi ổng dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe cả xác chết của binh sĩ mình trong ngày hôm đó không đi được bỏ lên xe chở về hết tất cả. Kế đó là lực lượng tiểu khu xong rồi thì mới tới lực lượng của tôi là trung đoàn 43 do ông Đại tá Lê Xuân Hiếu và tôi cùng đi với ổng đi bộ để chỉ huy. Lực lượng sau cùng là Lữ đoàn dù và tiểu đoàn 2/43 của sư đoàn 18 rút sau. Cuộc rút quân này tương đối an toàn lắm. Chúng tôi đã đem tất cả đại bộ phận của mình đi ra khỏi Bình Giả sáng ngày hôm sau vào lúc 9 giờ thì tới rồi. Chỉ có buổi sáng do rút trễ cho nên quân dù bị kẹt vì nó biết được do những đơn vị bôn tập nó đánh vội vàng đánh vào đại đội pháo của dù khi đại đội này rút đi. Nhưng rồi sau khi đến nơi tôi bay tới yễm trợ ngược trở lại với anh em dù, lúc 12 giờ trưa thì anh em cũng rút ra hết tất cả. Mặc Lâm: Vâng thưa Thiếu tướng cho tới hôm nay vẫn còn một câu hỏi đặt ra trước việc có nhiều người cho là hai trái bom CBU-55 đã thả trong trận chiến khu vực Tân Lập nhưng cũng có người đã khước từ nói là chuyện này không có. Xin Thiếu tướng cho biết vấn đề này như thế nào. Thiếu tướng Lê Minh Đảo: CBU-55 thì nó hút hết tất cả không khí oxygen làm người ta chết chứ còn hai trái bom mà đánh ở đó là BLU 82 đó nặng 14 ngàn pound nói theo kilogram thì nó chừng 7 tấn. Trái bom đó Hoa Kỳ họ đem qua Việt Nam họ dùng trong khi họ còn ở đây. Quả bom đó để tại Việt Nam nhưng không có ngòi nổ vì họ đã đem ngòi nổ về Mỹ. Và khi có phái bộ của ông đại tướng Frederick Weyand ổng qua duyệt xét tình hình, mang hai chiếc tank M48 trên phi cơ Galaxy để làm quà viện trợ cho quân lực VNCH đồng thời chở các em mồ côi về Mỹ. Chiếc phi cơ này bị rớt ở Tân Sơn Nhất. Phái bộ này họ đem mấy cái ngòi nổ cho mấy quả bom BLU 82 qua bởi họ thấy cộng sản nó đi lẹ quá họ cho VNCH cái đó để cản bước tiến của cộng sản. Trong mặt trận Xuân Lộc của tôi được họ cho 2 trái. Tôi không biết là có cái này đâu, tôi phải nói là như vậy. Tôi chỉ biết là mỗi một ngày tôi chấm tọa độ. Tối tôi chấm tọa độ nơi nào cộng sản đóng quân, chẳng hạn chỗ này sư đoàn đóng chỗ này trung đoàn đóng, chỗ này là điểm tập trung quân của quân đoàn còn chỗ này là điểm của một đơn vị sắp sửa xuất phát. Tại sao tôi biết? Bởi vì trong cuộc chiến thì tới giờ này tôi nói luôn cho biết về vấn đề gọi là mật mã. Tháo ra hết tất cả mật mã của cộng sản thì chúng tôi có Phòng 7 họ gửi bao nhiêu chúng ta mở ra hết tất cả. Buổi chiều khi họ truyền tin thì chúng tôi bắt được hết. Họ báo tất cả bức điện của họ bằng chữ, ví dụ một lô chữ azkd...nhưng trong số chữ đó chúng tôi biết đọc ra mật mã, chính chỗ đó nên tôi đánh trúng họ và họ thiệt hại rất nhiều. Trung tâm phối hợp hỏa lực của tôi chiều nào cũng kiểm tra cái này hết. Những mục tiêu xa tập trung những đơn vị của họ ở gần trên Định Quán thì tôi xin quân đoàn cho tôi đánh mục tiêu này. Tôi xin đánh vào mục tiêu đó nhưng tôi không biết rõ là quân đoàn đánh bằng quả bom BLU 82. Sự thiệt hại của địch quân rất cao. Còn một quả nữa thì tôi thấy nó không ép-phê gì trong trận địa của tôi, trái thứ hai không kết quả bao nhiêu. Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng sau khi miền Nam hoàn toàn thất thủ thì Thiếu tướng cũng như toàn bộ sĩ quan, cán bộ viên chức cao cấp của VNCH đều bị giam giữ và chế độ mới gọi những tù nhân này là tù cải tạo. Có bao giờ ông đòi hỏi chế độ phải thay đổi cách gọi như vậy mà phải gọi chính xác những người tù này là “tù binh chiến tranh” hay không? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Lúc đó chúng nó cả vú lấp miệng em nó nói: các anh còn cái gì nữa, còn đất nước đâu? Sự thật thì chúng tôi có còn đất nước đâu? Lực lượng bạn, đồng minh đã phản bội rồi. Tất cả các nước ký Hiệp định Paris họ đều êm re, họ như đầu hàng trước bạo lực của Cộng sản. Chúng tôi là những con người sống lạc loài trong xứ sở của mình mà cộng sản gán cho chúng tôi thành tội nhân của chiến tranh thành ra chúng tôi không nói được. Chúng áp đặt chúng tôi, buộc tội chúng tôi ngay trong cái bản án, thí dụ một ông Trung tá thì nó đề: Ông Trung tá can tội gì? Can tội Trung tá tiểu đoàn trưởng hay cái gì đó. Còn tôi, tôi là Lê Minh Đảo, can tội gì? Can tội Tư lệnh sư đoàn 18 bộ binh! Như vậy sư đoàn 18 bộ binh là cái tội sao? Nó nắm quyền sinh sát trong tay nó nói gì nó nói làm sao chúng tôi nói được. Chúng tôi không nghe nó nói, chúng tôi chỉ kiên cường bất khuất trong nhà tù, cắn răng mà chịu. Nó bắt mình quỳ nhưng mình không quỳ. Anh em họ chiến đấu một cách can trường như vậy. Đến ngày bắt buộc chúng nó phải thả chúng tôi ra có người nào trong đó mà được chúng tẩy não, rửa sạch theo cộng sản đâu? Mặc Lâm: Trong lúc bị giam giữ cá nhân Thiếu tướng và các vị tướng khác có được đối xử một cách khác biệt hay không, chẳng hạn về tiện nghi cũng như chế độ ăn uống có đặc biệt hơn những anh em khác? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Nó giam riêng chúng tôi, nó sợ giam chung với nhau thì dù sao chăng nữa kỷ luật quân đội cũng như hệ thống quân giai anh em họ còn nể trọng chúng tôi thành ra khó cho nó. Nó giam riêng chúng tôi nó hành hạ chúng tôi kiểu khác. Có lần nó thử đưa tôi với ông Tướng Sang về trại giam Nam Hà nhưng do sự kính nể của anh em đối với cấp chỉ huy và thấy tôi bắt đầu quậy thì nó đem tôi về lại. Mặc Lâm: 30 tháng 4 năm nay là kỷ niệm 40 năm cuộc di tản khổng lồ của người dân Việt. Nhìn ngược lại cuộc chiến đã qua Thiếu tướng thấy điều gì cần phải ghi nhớ và mổ xẻ như một kinh nghiệm sống không thể quên cho toàn dân tộc? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Khi cuộc chiến tranh chấm dứt rồi tôi đang bị cộng sản đày đọa, bây giờ nhìn ngược lại cuộc chiến tranh Việt Nam trong suốt hai mươi mấy năm chúng tôi đã chiến đấu để bảo vệ đất nước mà rốt cuộc chúng tôi không làm tròn nhiệm vụ của mình là bảo vệ người dân Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản. Tôi nghĩ cuộc chiến nó như thế này, cuộc chiến tranh Việt Nam nếu anh nhìn kỹ từ sau năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt thì Việt Nam là một điểm nóng trong chiến tranh lạnh kéo dài 50 năm giữa thế giới tự do và bên kia là cộng sản độc tài Nga và Trung cộng. Nó kèn cựa dành giựt từng quốc gia, từng tất đất để lấy ảnh hưởng của mình. Còn Việt Nam là điểm nóng trong cuộc chiến tranh lạnh đó. Nó lạnh nhưng Việt Nam thì nóng. Bây giờ nhìn lại: Ai thắng, ai bại, ai thua, ai đau khổ nhiều nhất? Tôi thấy rốt cuộc lại thì Mỹ thắng, thắng vẻ vang trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài 50 năm. Mỹ đã hoàn toàn triệt tiêu chế độ cộng sản ở Liên xô. Mỹ dùng chiến tranh Việt Nam để rồi bắt tay được với Trung Quốc. Họ đã hóa giải được với Trung cộng để kéo Trung Quốc về làm lực lượng của mình để rồi tiếp tục sức mạnh của Mỹ với sự để yên của Trung Quốc và chấp cánh thêm để đập tan Xã hội chủ nghĩa của Liên xô là mối đe dọa của thế giới tự do thì tôi thấy Mỹ đã thắng. Mỹ vì quyền lợi của họ cũng như thế chiến lược của họ, họ bội ước với VNCH, họ bỏ rơi VNCH đem VNCH dâng cho cộng sản Tàu để liên minh với cộng sản Tàu. Không phải mình ghét hay căm thù mình nói mà đây là sự thật lịch sử. Tội đồ của dân tộc Việt Nam là cộng sản Việt Nam đã cõng rắn cắn gà nhà. Họ đã hiến dâng cái giang san này cho kẻ thù phương Bắc. Họ cầm quyền cai trị, đày ải dân mình. Họ dâng đất dâng biển của mình cho Tàu, cam tâm làm nô lệ cho phương Bắc đổi lấy quyền cai trị ngồi lên đầu dân tộc cỡi cổ vĩnh viễn. Bây giờ tôi nói về nạn nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam: toàn thể nhân dân cả hai miền Nam Bắc chứ không phải chỉ có miền Nam không mà là miền Bắc. Miền Bắc đã hy sinh rất nhiều những đứa con ưu tú của mình. Cái sức sống của quốc gia của từ 3 tới 4 triệu người. Rồi cũng cái tập đoàn đó nghe lời lường gạt họ gây tang tóc cho gần 1 triệu người ở miền Nam nữa. Năm triệu thanh niên miền Nam và miền Bắc đã chết oan uổng vì sự ngu xuẩn tàn độc của đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói đây là một thiệt hại to lớn cho dân tộc chúng ta do Cộng sản Việt Nam đã tạo ra cuộc chiến tranh này đưa Việt Nam đến sự đau khổ ngày hôm nay. Sự đau khổ của người dân Việt Nam thì ai là người đau khổ tột cùng? Chính người phụ nữ Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc, nhất là ở ngoài Bắc thì nhiều hơn. Họ mất chồng, mất cha, mất con. Chính đây là sự đau khổ của chị em trong cuộc chiến tranh oan nghiệt này đã làm cho đất nước Việt Nam của chúng ta đầy tang tóc và nước mắt lúc nào cũng không ngưng chảy cho đến ngày hôm nay. Chúng ta thấy rằng ngày nào họ còn cai trị đất nước thì cộng sản Tàu còn bành trướng theo kiểu mới đối với dân tộc của ta và dân tộc sẽ chết dần chết mòn đi đến diệt vong. Mặc Lâm: Đó là với người cộng sản Việt Nam, riêng về Hoa Kỳ một thời từng là đồng minh cay đắng của VNCH thì ông có kinh nghiệm gì để chia sẻ thưa Thiếu tướng? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tôi nói như thế này, tôi có thương mà tôi cũng có buồn! Tôi thương và kính trọng nhân dân Hoa Kỳ họ đã dang tay rộng mở đón tiếp chúng ta, lòng họ hào hiệp lắm nhờ họ mà chúng ta mới sponsor cho người Việt ngày nay. Những người mà tôi kính trọng, tôi thương và tôi khóc đó là những người lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam. Họ có lý tưởng anh à. Họ chiến đấu vì lý tưởng tốt đẹp cho tự do và họ làm tròn bổn phận công dân của họ nhưng vì thế lực chính trị của Hoa Kỳ, những thế lực mà tôi không ưa được. Họ sống theo mùa, họ sống như con cắc kè họ đổi màu đủ thứ hết trơn. Họ chỉ vì quyền lợi cá nhân của họ, họ vì quyền lợi đảng phái của họ mà họ đã giết cả một dân tộc người ta một cách tàn nhẫn không tiếc thương gì cả. Họ cũng giết người dân tộc của họ một cách lạnh mình. Những người lính Mỹ từ Việt Nam trở về có được họ đón tiếp gì đâu? Những người này là anh hùng của nước Mỹ. Họ phải được nước Mỹ tôn sùng họ, kính trọng và tổ chức những lễ vinh danh họ cũng như lo cho đời sống của họ không để họ như ngày nay. Tôi trân trọng cám ơn tất cả những người Mỹ có lòng hào hiệp đã cưu mang dân tộc Việt Nam. Mặc Lâm: Vâng, trong 40 năm qua bên cạnh những khó khăn mà người tỵ nạn gặp không thể không nhìn thấy những thành tựu của những người trẻ trên nhiều lĩnh vực. Thiếu tướng nghĩ gì về họ? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Ngày hôm nay tôi rất sung sướng mà nói với anh điều này: tuổi trẻ Việt Nam là nguồn sinh lực, một điểm tựa hết sức vững chắc cho tương lai Việt Nam sau này. Mình phân tích để thấy tuổi trẻ Việt Nam họ hội nhập nền văn minh các quốc gia mà họ lớn lên ở đây, họ gọi là tổ quốc của họ. Họ hoàn toàn không chịu một chút ảnh hưởng nào của nền văn hóa hủ lậu, lạc hậu của các triều đại phương Bắc vua chúa ngày xưa. Có những điều làm cho dân tộc không thể nào tiến bộ được. Tuổi trẻ ở đây họ hoàn toàn thoát khỏi cái đó trong khi trong nước hỏi là làm sao thoát Trung, tội nghiệp tuổi trẻ trong nước! Tuồi trẻ hải ngoại đã hấp thụ được nền văn hóa phương Tây với văn minh khoa học kỹ thuật cũng như cuộc sống mới ngay thẳng, tự do, cởi mở hiểu được quyền con người. Đó là điều mà tôi hết sức tâm đắc. Trong 40 năm qua đám trẻ của mình rất hiếu học, siêng năng, nó có truyền thống siêng năng từ cha mẹ đã làm vẻ vang cộng đồng Việt Nam khi đóng góp với cộng đồng hải ngoại. Từ Việt Nam sang đây họ lấy gia đình làm căn bản. Họ sống dưới sự giáo dục của cha mẹ cũng như cha mẹ họ có sự hào hùng do chống cộng sản ở bên kia. Họ lấy sự chết ngoài biển khơi để làm sự sống mới. Cái giá nó nặng lắm cho nên họ khuyên bảo dạy dỗ con cái và con cái họ cũng hiểu điều đó và rất thương gia đình. Họ hiểu thế nào là sự đau khổ của Việt Nam và họ biết quê mẹ của họ là Việt Nam. Các thế hệ cha mẹ tiếp tục đi đừng xao lãng việc đó! Phải làm thế nào dạy dỗ cho con cái, hướng dẫn con cái mình phải biết lịch sử Việt Nam. Phải hiểu biết thật tường tận và trung thực. Thật trung thực chứ không méo mó sai lầm về lịch sử Việt Nam. Nó biết cái đó để nó thương mình, nó thương những người đã chiến đấu để cho nó có cuộc sống ngày hôm nay như thế này. Mà khi nó thương cha mẹ nó thì tự nhiên nó thương nước Việt Nam. Mặc Lâm: Đó là người trẻ, thích hợp với cuộc sống mới rất dễ dàng, còn riêng với thế hệ thứ nhất, những người cùng thời với ông khi ra nước ngoài ông có suy nghĩ gì về họ? Đặc biệt là đồng đội từng chiến đấu với Thiều tướng? Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Thế hệ chúng tôi hồi tôi mới qua đây tôi thấy anh em buồn lắm. Mấy anh em có vẻ còn mặc cảm là người thua cuộc thì thường thường tôi hay đi nói với anh em đừng mặc cảm. Các anh em đã làm hết bổn phận của các anh em rồi, chúng ta bị ngoại cảnh cũng như bạn đồng minh không cho chúng ta dịp thắng, các anh em đã làm hết bổn phận rồi. Qua đây các anh em biến tất cả đau thương của mình, sự cực khổ của mình để dạy dỗ con cái để nó thay thế mình nó làm những chuyện mà mình không làm được, tôi nói mọi người hãy tiếp tục đi. Mặc Lâm: Xin cám ơn Thiếu tướng Lê Minh Đảo về những chia sẻ mà ông vừa trình bày với thính giả, độc giả của Đài Á châu Tự do. *********** Những người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn nhớ đến các anh chiến sĩ anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu vì chính nghĩa để bảo vệ quê hương và người dân chúng tôi thoát khỏi sự xâm lăng của đảng cộng sản. Các anh đã ngã xuống hoặc hy sinh một phần thân thể của mình cho quê hương miền Nam dấu yêu của chúng tôi. Xin chân thành đa tạ tất cả các anh hùng của chúng ta. Nếu Quý vị và các Bạn muốn tìm hiểu về nước Việt Nam Cộng Hòa và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thì Quý vị và các Bạn có thể tìm đọc các quyển sách sau đây trong các Thư viện của Hoa Kỳ hay có thể mua trên Amazon: Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Khi Đồng Minh Nhảy Vào (2016), Khi Đồng Minh Tháo Chạy và The Palace File của tác giả Nguyễn Tiến Hưng. Trong 4 quyển sách đó có ba cuốn thuộc vào loại bán chạy nhất, đó là Hồ sơ mật Dinh Độc Lập (The Palace File, 1986), Khi đồng minh tháo chạy (2005) và Tâm tư tổng thống Thiệu (2010). Nguyễn Tiến Hưng đã tốt nghiệp Tiến sĩ về Kinh tế tại Đại Học Virginia, Hoa Kỳ vào năm 1965. Ông từng là Tổng Trưởng Kế Hoạch kiêm Cố Vấn thân cận nhất của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện nay, ông là Giáo sư môn Kinh tế học tại Đại học Howard ở Thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ. Xin mời Quý vị và các Bạn xem tiếp những đoạn phim và hình ảnh đã đăng trong những kỳ trước nói về chương trình Người Cày Có Ruộng do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào ngày 26 tháng 3 năm 1970: www.facebook.com/NHAYDUDAVID/videos/656667334763716 và Bệnh Viện Vì Dân do Đệ Nhất Phu Nhân Nguyễn Thị Mai Anh khởi xướng và thành lập: www.facebook.com/NHAYDUDAVID/videos/652569701840146Xin mời Quý vị và các Bạn xem cuốn phim về Ngài Tổng Thống của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà lúc nào chúng ta cũng yêu quý và thương nhớ lẫn kính trọng theo cái link sau đây: www.facebook.com/NHAYDUDAVID/videos/1046365312460581Ngày 30 tháng 3 năm 2022, quyển sách về Thiếu Tướng Lê Minh Đảo "Children of Hope: The Story of Lê Minh Đảo" được viết bởi con gái của ông là Michelle Lê và Thomas Porky McDonald đã được chính thức phát hành trên đất nước Hoa Kỳ. San Jose, Ngày 6 tháng 4 năm 2022. David Tran
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 2:46:06 GMT 9
30/04/1975: Những nhân chứng trong Dinh Độc Lập và cuộc chuyển giao không ký văn bản30 Tháng Tư 2020 hung-viet.org/a27732/30-04-1975-nhung-nhan-chung-trong-dinh-doc-lap-va-cuoc-chuyen-giao-khong-ky-van-banPhạm Cao Phong Trên trang web của BBC News Tiếng Việt đã có nhiều bài đề cập đến ngày 30/04/1975 và những diễn biến trong Dinh Độc Lập.
Để tôn trọng tính lịch sử của sự kiện, tôi ghi lại nguyên văn những lời kể dưới đây của đại tá Bùi Tín, người vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ông kể cho tôi năm 2018 tại một bệnh viện Paris, nơi ông xin tỵ nạn sau khi rời khỏi Việt Nam, và qua đời năm 11/8/2018 tại Montreuil, thọ 90 tuổi.
“Cảm tưởng khi vào Dinh Độc Lập à. Mệt và đói. Bà con đem bánh mỳ đến xung quanh cho bộ đội. Mô tô hàng mấy chục chiếc, cứ thanh niên trẻ phóng, đậu lại, ngẩng đầu lên chuyền cho mấy ông lái xe tăng rồi lại phóng đi ngay để trở về nhà để kể lại đấy. Mình viết bài xong trong 40 phút. Mình ăn mỳ ăn liền và mấy phong lương khô rồi nằm nghỉ, chớp mắt do mệt quá. Sau đó là phải nhờ ngay cậu lái xe thông tin vào trại David. Ở trại David mới dựa vào thông tin để đánh mooc ra Hà Nội. Bài của mình duy nhất bởi vì bưu điện đóng cửa. Tất cả điện tín, điện thoại đều bị cắt.
Lúc ấy Nguyễn Đình Ước nhận bài và trung tá Hồng Phương biên tập. Có mỗi một bài của mình đưa ra khỏi Sài Gòn ngày hôm đó. Hồng Phương chữa lại câu mình viết là - Một cán bộ cấp cao của ta đã nói: "Các ông không còn cái gì còn có trong tay, người ta không thể giao cái gì người ta không có". Nói lơ lửng chứ không nói là ai cả. Börries Gallasch và Terzani nhờ mình chuyển bài của họ. Mình bảo rằng, được rồi các ông yên tâm, tôi có cách. Thế là Börries Gallasch tự nhiên lăn đùng ra đất, nói "Tao sướng quá, như thế là mày cứu cho tao rồi." Có máy bay ra ngày hôm sau nên mình nhận luôn, cho vào cái phong bì to mình gửi cho Thông tấn xã Việt Nam là ông Ngô Điền. Ông này sau làm đại sứ. Ngô Điền lúc đó làm giám đốc TTX. Mình mới viết cái thư là có mấy phóng viên không có cách nào chuyển bài qua bưu điện được, thế thì nhờ anh chuyển hộ. Sau đó một ngày là báo Đức ở Hamburg đăng bài của Gallasch."
Theo tôi tìm hiểu, khi ở Hà Nội tháng 2.2019, nếu hỏi bài báo ra khỏi Sài Gòn ngày 30/4/1975 của ông cựu Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân ở Thư viện Quốc gia trên đường Tràng Thi Hà Nội thì sẽ không được đáp ứng.
Còn một tấm ảnh này tôi rửa ra từ bộ phim "Hừng đông trên thành phố Hồ Chí Minh" do Xưởng phim Quân Giải phóng ra mắt tháng Năm 1975. Ai biết bộ phim này hiện ở đâu tại Việt Nam?
Đại tá Bùi Tín đang nói chuyện với Thủ Tướng Vũ Văn Mậu, Tổng thống cuối cùng của VNCH Dương Văn Minh "Big Minh" đứng phía sau.
Ai làm gì trong Dinh Độc Lập? Ông Bùi Tín kể với tôi về ngày 30/4/1975 trong Dinh Độc Lập: "Tùng và Hân theo tập quán của quân đội là phải tôn trọng người cao cấp nhất. Phải xin ý kiến người cao cấp nhất và để cho người cao cấp nhất có ý kiến giải quyết. Lúc đó họ cũng sợ vì lúc đó cả hai đều là trung tá. Mà ông biết trung tá với đại tá là khác về bậc, chứ không phải khác về cấp.Trung cấp có hai bậc thôi - trung tá và thiếu tá. Thượng tá là bậc khác, coi là cán bộ cao cấp. Họ vào thấy mình là cao cấp hơn, nghiễm nhiên họ nghĩ rằng là việc gì cũng phải trao đổi với mình, thực sự mình là cấp trên nhất để giải quyết. Đấy là tâm lý bình thường".
Câu hỏi tại sao ông Bùi Tín cấp hàm thượng tá lại là người tiếp nhận sự đầu hàng của VNCH vẫn gây tranh cãi đến bây giờ.
Nghe thật giống câu hỏi có phải Hoàng thân Mikhail Koutouzov (1745-1813) người đè bẹp đạo quân của Napoleon có phải quân Pháp đã bị đâm bởi xe Volga?
Còn việc 'tiếp quản đầu hàng' từ Tổng thống cuối cùng của VNCH tại sao đã xảy ra như thế mà không khác đi, không có một lễ bàn giao cao cấp với sự chứng kiến của nhiều nhà báo nước ngoài vẫn chưa bị đuổi khỏi Nam VN ngày 30/04/1075?
Tôi có cách giải thích thế này.
Những người Việt Nam một thời đi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh và tướng Võ Nguyên Giáp đa số là người nông dân mặc áo lính có trái tim yêu nước thuần hậu, lên đường không phải theo chủ thuyết cộng sản.
Với họ, tổ quốc lâm nguy thì cầm súng, đánh giặc xong quay về với ruộng đồng. Họ đơn giản và trong trắng, dễ bị lừa bởi một ông vua ma mãnh và những quan tham.
Năm 1945, vua Bảo Đại mới 30 tuổi đã bịp được cả Bộ trưởng Thông tin Trần Huy Liệu khi diễn tuồng trao cho cái kiếm rỉ và một cái ấn giả đem về cho chính phủ cách mạng. Không có một văn bản quốc tế nào công nhận sự kiện đó ở Huế.
Ông Bùi Tín với tướng Nam Long Tư lệnh Quân đoàn Hai ngày 30/4/1975 Ba mươi năm sau ngày 23/8/1945, những cán bộ, bộ đội tiếp quản Sài Gòn vẫn chỉ là những học trò không thuộc bài.
Trong ngày 30/4/1975 khi tướng Dương Văn Minh đợi họ trong gian đại sảnh của Dinh Độc Lập, không ai trong số sĩ quan Bắc Việt, thậm chí ngày hôm sau đã có tướng Trần Văn Trà (Mặt Trận) nghĩ ra điều là phải mời Tổng thống VNCH ngồi xuống một chiếc bàn có khăn trắng và hai lọ mực.
Cuộc chuyển giao của VNCH không có ký một văn bản nào cho MTDTGP hay VNDCCH. Nó không hề giống lễ hạ vũ khí đầu hàng Đồng Minh của Đức, phải ký đến hai lần. Lần thứ nhất vào 2h41 phút ngày 7/5/1945 và lần thứ hai vào 23h01phút ngày 8/5/1945, giờ châu Âu, tức là 01:01ngày 9/5/1945 giờ Mouscow, với Nguyên soái Nga Georgi Zhukov chứng kiến. Charles de Gaulle cũng phải cử một vị tướng đến ký vào để Pháp có phần cùng Liên Xô, Mỹ và Anh. Sau đó Đồng minh tha hồ chiếm đóng, chia cắt các lãnh thổ Đức lại còn được thế giới hoan hô.
Lẽ ra VNDCCH đã sở hữu đầy đủ giấy tờ chuyển giao quyền lực, quyền tài phán, quan hệ ngoại giao với 77 quốc gia, quyền kế thừa VNCH về phương diện quốc tế thì họ có quyền đòi lại những máy bay, tầu thuyền sở hữu của VNCH chạy đi sau biến cố 30/4/1975. Những sở hữu, bất động sản kể cả những tài khoản ký gửi tại các ngân hàng ngoài nước đã tuột khỏi tay người chiến thắng vì họ không mang vũ khí pháp luật trong cuộc hành quân. Nó để lại di hại cho đến bây giờ.
Theo tôi hiểu thì hiện tại Pháp vẫn giữ khoảng 40 triệu đô la từ thời điểm 1975 đang trong vòng tranh tụng. Giá trị lãi suất 30 năm và tỷ suất hiện nay gấp nhiều lần con số đó. Chưa kể những tài khoản khác của VNCH Mỹ đã phong tỏa. Các đảo do VNCH khai thác và có chủ quyền nếu dựa trên những giấy tờ mang tính quốc tế ấy sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong các tranh tụng pháp lý về chủ quyền.
Đại tá Bùi Tín, sĩ quan – nhà báo mang quân hàm cao nhất của QĐNDVN có mặt trong Dinh Độc lập ngày định mệnh đó kể với tôi:
-Thế còn về phía Dương Văn Minh thì mình gặp lại nhiều lần lắm. Ông bảo là khi Nguyễn Văn Hân vào nói là có một cán bộ cấp cao thì họ mới nghĩ rằng chắc là ông này là cao, không biết là tướng hay là gì đấy nên họ bàn chuyện bàn giao chính quyền. Ba ông trao đổi với nhau và nói ngay về vấn đề 16 tấn vàng. Họ ở lại Dinh Độc Lập cho đến ngày mùng 1 tháng 5, sau khi ông Trà vào mới cho về.
Với đại tá Bùi Tín, ông hiểu ngôn ngữ quốc tế của cụm từ "tiếp nhận đầu hàng" là chủ nhà nộp vàng thế là đủ. Cha ông, Thượng thư Bộ Lễ Bùi Bằng Đoàn, Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước VNDCCH không còn để nhắc ông là phải làm giấy tờ, đóng dấu triện son nhận đủ tài sản của vương quốc đang chìm vào bụi tàn.
Ông đúng một nửa, nếu ông nghĩ rằng là ông người được "Chọn mặt gửi vàng" nhận ngân khố quốc gia từ tay thủ tướng Vũ văn Mẫu đồng nghĩa với "chuyển giao nhân phẩm và quyền lực". Ông sống trong cái thời một ông bố bà mẹ nào đấy khi con cái chưa ra đời đã hứa gả cho nhau.
Ông Bùi Tín kể tiếp:
"Chính mình chơi rất thân với Bùi Văn Tùng nhưng cái câu mà mình nói là ‘Không còn cái gì mà để bàn giao nữa’- thì cậu ta lại nói là câu của Phạm Xuân Thệ. Lúc thì nói là của Thệ, lúc lại nói là của Tùng. Lúc ấy chuyện Nguyễn Công Trang vào là có thật. Ông là đại tá phó chính uỷ quân đoàn, nhưng không hề vào gặp Dương Văn Minh. Mình hỏi thì nói đang bận giải quyết vấn đề thương binh liệt sĩ. Lúc đánh vào Sài Gòn có một số thương binh không biết gửi ở đâu và có một số liệt sĩ chết, không biết đặt ở đâu giữa đường. Chẳng nhẽ lại đưa vào Dinh Độc Lập à? Ông ta nói còn thu xếp và cũng không được nhận lệnh."
Tác giả Phạm Cao Phong và nhà báo Bùi Tín tại Paris
Luôn trở thành nhân chứng khó xử Hiện nay ông Bùi Tín bị “xóa hẳn” khỏi chính sử của ngành tuyên giáo Việt Nam, kể cả vai trò của ông trong ngày 30/04/1975.
Có dịp sống cạnh ông thời gian ở Pháp, tôi hiểu vì sao ông trở thành một “nhân chứng cồng kềnh”, khó xử cho bộ máy báo chí.
Năm 1984, ông Bùi Tín viết bài về việc Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam lem nhem trong việc thực hiện Di Chúc chủ tịch Hồ Chí Minh, cắt xén lời dặn sau "chống Mỹ thành công"cần khoan sức dân, miễn thuế trong hai năm cho cả nước và phải tiến hành ngay chỉnh huấn tránh bệnh kiêu ngạo. Quốc hội Việt Nam buộc phải họp lại, ra nghị quyết. Người dân cả nước, sau mười lăm năm bị ăn quịt, thu lại hạt gạo ngày 30.4.
Ông công bố tư liệu này khi còn đang chức Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân. Không như những "đồng chí"của ông chỉ nói điều nghịch nhĩ với Đảng sau khi cầm sổ hưu hoặc thì thụt trong đám bạn bè.
Song nếu phải tính con số thóc thu hoạch trong cả nước suốt hai năm tức là sáu vụ lúa mà ông đòi lại cho dân từ tay nhà cầm quyền, mà bắt buộc phải tính trong tiểu sử của ông, thì hình như ai cũng mắc bệnh Alzheimer, hay trí nhớ đoản, hoặc cố tình lú.
Hàng triệu tấn thóc đó có làm giảm tội "phản quốc" của ông Bùi Tín ?
Sau khi sang Pháp, ông Bùi Tín công bố Kiến Nghị Của Một Công Dân, nội dung kêu gọi chính quyền Việt nam tiến hành đổi mới thực sự. Nội dung đã được đài BBC của Anh truyền về Việt nam, tổng cộng khoảng 200 phút trong 14 tuần lễ của năm 1991.
Ông Đỗ Văn của BBC Tiếng Việt hồi tưởng (trong bài trên trang bbcvietnamese 12/08/2018):
“Kế đó vào tháng 11 ông gặp tôi tại Paris và cho biết có nhờ Đại sứ quán Việt Nam tại Paris chuyển về một kiến nghị do ông soạn thảo, nói tới những ưu tư và phương hướng cần phải theo đuổi để cứu vãn cho "chế độ" thoát khỏi tình trạng khó khăn về các lãnh vực kinh tế và chính trị.
Theo tôi, ông là một nhân vật trí thức, hiểu biết nhiều và có lẽ quá ưu tư khắc khoải về vận mệnh của dân tộc, nếu không nói là thái quá.
Ông Đỗ Văn của Đài BBC vẫn còn bị ám ảnh bởi luật không viết thành văn ở Việt Nam:
“Cùng lúc ông Tín trao cho tôi một bản sao kiến nghị này và nhờ phổ biến trên làn sóng của Ban Việt ngữ Đài BBC. Phản ứng tức thời của tôi là nếu bản Kiến nghị đó được công khai phổ biến, liệu ông Bùi Tín có e ngại đến những di luỵ tới bản thân hoặc thậm chí tới cả gia đình của ông nữa. Nhưng câu trả lời của ông đã khiến tôi có những suy nghĩ khác.
Tôi cho rằng lúc ấy ông vẫn còn là một người cộng sản trung kiên. Kể cũng lạ là sau khi Bản Kiến nghị của ông Bùi Tín được công bố trên Đài BBC mãi vài tuần lễ sau mới có phản ứng bất bình của Hà Nội và vẫn chưa có sự công khai cách chức Phó Tổng biên tập tờ Nhân Dân, mặc dầu trên các hệ thống truyền thông báo chí nước ngoài cho biết Bản Kiến nghị của ông Bùi Tín đã gây ra chấn động nhân tâm trong nước.
Tôi nhớ ông Bùi Tín ở Pháp ra sao?
Ở Paris, ông Bùi Tín sử dụng thành thạo ngôn ngữ Pháp học được từ những năm tại trường Quốc học Huế. Sông Seine vẫn trôi lững lờ dưới chân cầu Mirabeau như trong thơ Apollinaire, ông gặp lại cô người tình học sau ông một lớp, mê ông từ thời học sinh ở Huế, khi ông đến lớp bằng xe gọng đồng có phu kéo, cha ông là một trong 5 quan Thượng Thư Đại thần của vua Bảo Đại. Họ đi chơi bãi biển Deauville với nhau, da rám nắng đẹp đẽ, uống champagne. Ông như sống lại thời thanh niên sôi nổi khi hát "Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi."
Luật pháp bảo vệ ông như những bức tường bằng kính của tiệm cà phê trên đường St. Ambroise mỗi sáng ông ghé uống cà phê. Ông cười với những cô bạn gái mới, ông bị lây những tiếng cười như tiếng nổ nút chai champagne ‘pùm, pùm’, hay khe khé, hay ho sặc sụa như bị tương cải cay Dijon sực lên mũi, ông cùng bạn bè đàm tiếu chuyện tổng thống Mitterrand xây cái Kim Tự Tháp pha lê khổng lồ trên sân điện Louvre vì trót buông lời với người tình. Ông sao nhãng, quên rằng ở Việt Nam xa xôi, đất nước của ông vẫn tồn tại những quan phụ mẫu, làm quan như là làm bố mẹ dân.
Sau này những người cộng sản Trung Quốc còn cho người dân đất nước ông món đồ hộp "Chuyên chính vô sản" xào nấu cho rất nhiều ớt theo kiểu nhà nghèo châu Á. Những Luật Nhân quyền quốc tế, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được dán như những chiếc bùa trừ tà, bị lấp đi dưới những bức tranh cổ động ba người lực lưỡng, một cầm búa, một cầm liềm, một cầm súng phía sau là một lá cờ đỏ khổng lồ. Ông cẩu thả không nghĩ đến nơi đến chốn sẽ bị khép vào tội phản quốc, nông cạn cho rằng ví thử mình nói năng quá khích cũng chỉ phải ra tòa về vu cáo sai.
Ông đã đưa Kiến nghị của ông cho cụ Trường Chinh từ năm 1986, hồi ngày ngày xe Volga đen đón ông lên Hồ Tây viết hồi ký cho Tổng Bí thư rồi kia mà? Ở bên Pháp ông cũng nhờ Sứ quán ở đây chuyển Thỉnh nguyện thư về nước, rồi ông gửi đến BBC, đúng trình tự báo cáo? Ông dám nghĩ là chân thật, bắt chước Phan Chu Trinh một cách vớ vẩn như thế?
Ông Bùi Tín với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt nam, Chủ tịch nước Việt nam năm 1986 Trường Chinh Ông Bùi Tín đã mất năm 2018 ở Pháp.
Ông đã sai khi hiểu máy móc Jules Roy (1907-2000): "Nước Pháp đã nêu điển hình với thái độ hoàn toàn dửng dưng đối với quân đội của mình và cái tội ác do thiếu trách nhiệm ấy gọi là tội không cứu giúp người đang lâm nạn. Đối với một công dân bình thường, tội đó bị pháp luật trừng trị, khi cả một dân tộc phạm tội, nó dẫn đến tội đào nhiệm tập thể, một dân tộc khó đứng dậy nổi sau tình trạng đó và một ngày kia, nó sẽ trả giá bằng sự diệt vong của chính mình."
Lịch sử luôn thay đổi...trên báo VN Chiếc ảnh Quân đoàn Hai tặng ông Bùi Tín mang đi từ Việt Nam như một sự trớ trêu nữa. Chiếc ảnh đặc biệt để tặng những người đặc biệt được dựng lại để chiếc xe tăng 843 thay vị trí húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập của tăng 390 như báo chí Việt Nam đưa tin.
Ghét xe tăng Trung Quốc 390 hay vì lý do nào khác mà chiếc tăng Liên Xô 843 do Bùi Quang Thận phải đóng thế vai? Chúng ta đang xem"Cuộc chiến đấu ngồi-Der Sítzkrieg"nhại lại Blitzkrieg-Cuộc Chiến tranh chớp nhoáng trong tiếng Đức hay cuộc "Chiến đấu Nực cười-La drole de Guerre" của những tranh cãi, tranh công?
Ông Bùi Tín trong một lần trả lời BBC Không thấy một dòng nào thuật lại số phận của 200 người lính của Quân Đoàn II không còn được ăn bữa cơm tối hòa bình đầu tiên.
Tiziano Terzani của báo Der Spiegel viết: "Trên đại lộ Công Lý, những chiếc xe tăng khác cũng tiến lại. Đó là tiền quân của đội hình tăng kéo về từ hướng Đông, vượt qua Tân Sơn Nhất, nơi họ đụng độ với một đơn vị quân lực VNCH ngoan cường chống trả. Năm xe T54 và 200 lính Giải Phóng đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. "
Sao chỉ có Nguyễn Duy là nhớ bạn bè nằm xuống với "Tiếng tắc kè với lời mong sắp về " ?
Lá me vàng lăn tăn rải thảm phố hè
chồi xanh lăn tăn nơi đầu cành run rẩy
cơn gió thoảng chút hương rừng đâu đấy
hột mưa đầu mùa trong suốt giữa lòng tay
Người bạn tôi không về tới nơi này
anh nằm lại bên kia cầu xa lộ
anh gục ngã trước cửa vào thành phố
giây phút lạnh lùng chấm dứt cuộc chiến tranh
Đồng đội, bao người không "về tới" như anh
nằm lại Cầu Bông, Đồng Dù, và xa nữa...
tất cả họ, suốt một thời máu lửa
đều ước ao thật giản dị:
sắp về!
Nữ nhà báo Pháp Françoise Demulder (09/06/1947-3/9/2008) - người chụp tấm hình xe tăng 390 húc đổ cánh cửa Dinh Độc Lập-cũng đã mất năm 2008. Tấm ảnh chụp từ chiếc Nikon của bà lật tẩy sự dối trá cố tình từ 20 năm trước.
Chả có Phạm Xuân Thệ nào húc đổ cổng Dinh mà chỉ có êkíp xe tăng 390 của lữ đoàn 203, Quân đoàn II của trung úy Vũ Đăng Toàn, Ngô Sĩ Nguyên, Nguyễn Văn Tập, Lê Văn Phượng. Họ bị khuất sau những Bùi Xuân Thệ, Bùi Văn Tùng.
Tôi nhìn vào bức ảnh cuối cùng kết thúc cho bài viết là ảnh ông Bùi Tín chụp sau trận Đồ Xá, Chiến khu 5, năm 1971 của quân VNCH.
Vừa đúng 7 người, như tuyên truyền của VNCH hồi đó nói “7 Việt Cộng đu một cọng đu đủ không gẫy". Người thứ hai từ trái sang là người ngày 30/4/1975 tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của VNCH. Người đã cùng tướng Giáp, đại tá Lê Trọng Nghĩa hát năm 1945: "Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi!"
Phạm Cao Phong BBC
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 16:39:16 GMT 9
“Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật”: Cuộc Phòng Thủ Xuân Lộc Của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà 9–21 Tháng Tư, 197529/04/2020 Dịch giả: Khôi An và Trần Sơn Tác giả: George J. Veith and Merle L. Pribbenow II Lời Giới Thiệu của dịch giả Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%. Tóm Lược Bài ViếtTừ đầu tháng cho đến giữa tháng Tư, 1975, Sư Đoàn 18 của Miền Nam Việt Nam đã phòng thủ ngã đường chiến lược tại Xuân Lộc, Đông Bắc của Sài Gòn, giữ vững nơi này sau những cuộc tấn công ồ ạt của cả một quân đoàn của Cộng Sản Bắc Việt trong kế hoạch tấn công bất ngờ để tràn chiến Sài Gòn và nhanh chóng kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Với những trận đánh khốc liệt, Sư Đoàn 18 đã chận được cuộc tấn công của Cộng quân trước khi được lệnh rút về phòng thủ Sài Gòn. Mặc dù Cộng quân đã vấp phải lỗi quá tự tin, sự thành công của Sư Đoàn 18 phần lớn là kết quả của tài đánh trận có kế hoạch và sự chỉ huy dũng cảm của vị Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, người đã chứng tỏ rằng ngay trong những giờ phút đen tối nhất của Miền Nam Việt Nam, những người lính Việt Nam Cộng Hoà -- những người đã từng bị chỉ trích rất nhiều, sẽ chiến đấu nếu cấp chỉ huy của họ là những sĩ quan có khả năng. Quả đạn pháo kích đầu tiên rót vào ngay nhà Tướng Lê Minh Đảo. Đó là một căn nhà hai tầng nhỏ, không có gì nổi bật, dù tường nhà sơn màu hồng. Căn nhà nằm đối diện với tư gia của ông Tỉnh Trưởng, gần nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở giữa thị xã Xuân Lộc, thủ phủ của tỉnh Long Khánh. Ông Tướng, như phần lớn binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), sống trong cái tỉnh nhỏ miền quê, yên lặng và đượm nét hoang tàn. Trái đạn pháo xuyên thẳng qua mái nhà và nổ tung ngay trong phòng ngủ, chứng tỏ độ chính xác của pháo binh Bắc Việt. Tiếp theo ngay sau đó là hai ngàn quả đạn pháo vào tỉnh trong vòng một tiếng đồng hồ. May thay, ông Tướng không ở nhà. Những tiếng nổ liên tục của pháo địch đã đánh thức binh sĩ của Sư Đoàn 18 Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) và Địa Phương Quân (ĐPQ) của tỉnh Long Khánh đang núp ở trong những vị trí đã được sửa soạn trước trên vòng đai quanh tỉnh. Cộng quân liên tiếp pháo vào trung tâm tỉnh mà không hề biết rằng QLVNCH và ĐPQ đã dời ra vùng ngoại ô để tránh pháo kích. Mờ sáng, tiếng xích thép nghiến trên đường báo hiệu sự xuất hiện của chiến xa Bắc Việt, theo sau là lớp lớp Cộng quân đang hăm hở, tin chắc vào chiến thắng. Lúc đó là 05:40 sáng ngày 9 tháng Tư, 1975. Trận đánh quyết định cho Sài Gòn bắt đầu. Tuy trận Xuân Lộc có một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của Sài Gòn, các sử gia Tây Phương biết rất ít về trận đánh huyền thoại này, khi Sư Đoàn 18 QLVNCH và Địa Phương Quân Long Khánh đã đứng vững trước những loạt tấn công ồ ạt bằng bộ binh, thiết giáp và pháo binh của cả một Quân Đoàn Bắc Việt. Tuy những tài liệu đã được xuất bản thường không được chính xác và có nhiều sai lạc, một điều không thể chối cãi là: dù QLVNCH có nhiều thất bại trầm trọng năm 1975, Sư Đoàn 18 đã làm nên một chiến công hiển hách, đó là giữ vững Xuân Lộc trong mười một ngày trong tình trạng tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam trong khi hầu hết những đơn vị khác tan hàng hoặc rút chạy. Tại sao vậy? Có những khác biệt nào giữa Sư Đoàn 18 và các đơn vị khác? Sức mạnh nào đã giúp các binh sĩ của Sư Đoàn 18 không những giữ vững phòng tuyến mà còn dũng cảm đánh trả lại địch quân? Bằng cách nào họ đã chịu đựng được mưa pháo và chống cự lại những cuộc tấn công bằng chiến xa của Cộng quân? Quan trọng hơn, những quyết định nào đã biến thị xã này thành chiến trường khốc liệt nhất sau trận An Lộc và Quảng Trị năm 1972? Sau hơn hai mươi lăm năm, những câu trả lời không dễ tìm, nhưng điều khá dễ thấy là vị trí chiến lược của Xuân Lộc đã làm cho thị xã này trở thành điểm chính cho cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt. Thị xã này nằm ở phía Đông Bắc Sài Gòn, thủ đô của Miền Nam Việt Nam, cách Sài Gòn sáu mươi cây số. Đây là nơi kiểm soát ngã ba Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20, hai xa lộ lớn nối liền Miền Trung với Sài Gòn. Sau sự sụp đổ của hai Quân Khu I và II ở phía Bắc, Xuân Lộc biến thành giao điểm trọng yếu của đường dây phòng thủ xung quanh Sài Gòn mà Miền Nam gấp rút dựng lên trong tuyệt vọng. Hình 1 - Nước Việt Nam Cộng Hoà được chia làm 4 vùng: Quân Đoàn I, Quân Đoàn II, Quân Đoàn III, và Quân Đoàn IV. Mỗi quân đoàn chịu trách nhiệm về các hoạt động quân sự trong vùng lãnh thổ của quân đoàn. Đặc biệt Sài Gòn, Gia Định là thuộc vùng Đặc Khu Thủ Đô. Nguồn: 720mpreunion.org/history/project_vietnam/maps/Corps_Tactical_Zones.html . Tháng 4, 2020 Phần lớn các quan sát viên đều nhận thấy rằng chút hy vọng của QLVNCH khi phòng thủ Sài Gòn trước vòng vây của Cộng quân tuỳ thuộc vào sự tồn tại của phòng tuyến Xuân Lộc. Nếu VNCH giữ được nơi đó, họ sẽ còn cơ hội để ổn định tình thế, tập họp lại quân đội đang tản mác khắp nơi, và thoát được chiến bại. Lãnh đạo của Cộng Sản Bắc Việt nhất quyết “tiêu diệt tay sai từ trong ổ” bằng mọi giá, trước khi VNCH có cơ hội hồi phục. Từ những hỗn loạn làm cho Đà Nẵng thất thủ, Hà Nội mong tìm cơ hội kết thúc cuộc chiến nhanh chóng bằng cách tấn công thẳng vào Sài Gòn qua ngõ Xuân Lộc. Họ tin rằng một trận tập kích mạnh sẽ phá tan sức chống cự cuối cùng của QLVNCH, và sự thất thủ của thị xã Xuân Lộc sẽ mở đường cho họ tiến vào Sài Gòn, kết thúc cuộc chiến dài mấy thập niên bằng một trận tấn công quyết liệt. Để đạt được mục tiêu, Bắc Việt ném cả Quân Đoàn 4 gồm ba sư đoàn để phá tan Sư Đoàn 18 QLVNCH tại Xuân Lộc. Tuy vậy, Sư Đoàn 18 đã không tan rã; và mộng tưởng về một chiến thắng dễ dàng đã tàn rụi theo lửa đạn trong một trận đánh mà một cấp chỉ huy Cộng quân, người đã từng tham gia các trận đánh chống Pháp và Mỹ, gọi là trận đánh khốc liệt nhất trong ba mưoi năm binh nghiệp của ông ta. Sự thành công của Sư Đoàn 18 trong lúc tinh thần của QLVNCH xuống thấp tận cùng đã trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người lúc đó: liệu QLVNCH có chống trả Cộng quân? Dù cuối cùng Sư Đoàn 18 đã phải theo lệnh rút khỏi thị xã đổ nát, sự chống cự anh dũng của họ đã đem lại hy vọng ngắn ngủi là QLVNCH sẽ đứng vững trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc Việt và cầm cự cho đến mùa mưa khi các cuộc công kích phải ngưng lại hay các nỗ lực ngoại giao đạt được thoả thuận ngưng bắn. Hơn nữa, hành động chống giữ quả cảm của Sư Đoàn 18 đã cứu vãn phần nào cho sự tổn thương danh dự của QLVNCH khi Quân Đoàn I và Quân Đoàn II sụp đổ. Các Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà Trong Trận Xuân Lộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh Hình 2 - Huy hiệu của Sư Đoàn 18 QLVNCH. Màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời. Màu xanh đậm tượng trưng cho đất. Vật trên huy hiệu là nỏ thần và mũi tên thần trong sử Việt Nam. Hình 3 – Tư Lệnh SĐ 18 năm 1975 Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo (chụp khi còn là Chuẩn Tướng) Sư Đoàn 18 được thành lập ngày 16 tháng Năm, 1965. Tên đầu tiên là Sư Đoàn 10, nhưng theo tiếng lóng của người Việt, “số mười” là hạng chót, do đó, vào cuối năm 1966, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đổi tên sư đoàn thành Sư Đoàn 18. Phần lớn Sư Đoàn 18 ở tại Long Khánh, một tỉnh nằm ở phía Đông của Quân Đoàn III. Sư Đoàn 18 có ba trung đoàn cơ hữu: Trung Đoàn 43, 48, và 52. Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội trinh sát. Sư đoàn cũng có một thiết đoàn là Thiết Đoàn 5. Thiết Đội 1 có chiến xa M-41, Thiết Đội 2 và 3 có chiến xa M-113. Các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 18 gồm có: Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy Trung Đoàn 43, Trung tá Trần Minh Công chỉ huy Trung Đoàn 48, Đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy Trung Đoàn 52, Trung Tá Trần Văn Nô chỉ huy Thiết Đoàn 5, và Đại Tá Ngô Văn Hưng chỉ huy pháo binh. Theo ông Đảo, Trung Đoàn 43 là đơn vị thiện chiến nhất. Căn cứ chính của Sư Đoàn 18 đặt ở Long Bình, nơi có trung tâm tiếp liệu lớn. Bộ Tư Lệnh Hành Quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại Xuân Lộc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo là Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông ta là một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH nhưng ít được biết đến ở ngoài quân đội.(1) Ông Đảo, một người lãnh đạo đầy nhiệt huyết và nghị lực, đã sống với binh sĩ của Ông và thường xuyên thăm hỏi gia đình họ. Khác với những sĩ quan cao cấp thường ở trong Bộ Chỉ Huy và ra lệnh qua máy truyền tin, Ông Đảo hay ở trong hàng ngũ thuộc cấp trong các trận chiến, và đi sát bên họ trong các cuộc hành quân. Ông tin rằng niềm tin của binh lính đến từ sự cố gắng của cấp chỉ huy, và Ông yêu cầu các sĩ quan trong Sư Đoàn phải quan tâm thăm hỏi và thấu hiểu các thuộc cấp ở “hai tầng phía dưới”. Đây là một cách chỉ huy mới mẻ so với lối chỉ huy đặt nặng về cấp bậc của một số sĩ quan VNCH. Sự chia cách về văn hoá và xã hội thường thấy giữa sĩ quan và binh sĩ đã khiến cho nỗ lực của Tướng Đảo tạo được sự gắn bó đặc biệt đáng chú ý giữa các cấp trong hàng ngũ của ông. Các thuộc cấp của Tướng Đảo đáp lại bằng sự kính phục và trung thành. Dưới sự chỉ huy của Tướng Đảo, Sư Đoàn 18 đã nhanh chóng trở thành “đơn vị hữu hiệu nhất của Quân Đoàn III” (2) ; hơn nữa, sự chỉ huy mạnh mẽ của ông là một trong những nguyên nhân cho khả năng chiến đấu dũng mãnh của Sư Đoàn 18. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân (BĐQ) Tiểu Đoàn 82 BĐQ Biên Phòng thuộc Liên Đoàn 24 BĐQ cùng với Tiểu Đoàn 63, 81. Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Vương Mộng Long, một trong những vị chỉ huy nổi tiếng của BĐQ. Đơn vị của ông đã đẩy lui phần lớn Sư Đoàn 320 CS trong trận đánh tại Pleime. Trong trận Ban Mê Thuột, Tiểu Đoàn 82 đang ở Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Liên Đoàn 24 được lệnh rút bằng đường bộ đến các tỉnh ven biển rồi tìm cách liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Len lỏi qua vùng đất do Cộng quân kiểm soát, ăn trộm thực phẩm trong kho của Cộng quân, những BĐQ đã đi bộ hai mươi ngày cho tới khi họ đến được lãnh thổ do quân bạn kiểm soát. (3) Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy vừa di chuyển từ trại Bến Hét (Quân Khu II VNCH) về tạm trú tại Xuân Lộc để chờ phương tiện chuyên chở tiếp về hậu cứ nhưng qua ngày hôm sau tình hình Xuân Lộc sôi động nên Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng phái đơn vị trên cho SĐ18BB để tăng cường cho Trung Đoàn 43 phòng thủ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh). (101) Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Đại Đội Trinh Sát Dù được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Đại Đội 3 Công Binh Dù, và Đại Đội 1 Quân Y Dù. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. (102) Sư Đoàn 3 Không Quân Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa yểm trợ chiến thuật theo yêu cầu của Tư Lệnh Mặt Trận qua các Chiến đoàn và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. (103) Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ Chuẩn tướng Trần Quang Khôi là Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ. Lữ đoàn có những đơn vị trực thuộc được thành lập theo nhiệm vụ riêng biệt. Ông có ba chiến đoàn: 315, 318, 322. Mỗi chiến đoàn có một tiểu đoàn BĐQ, một pháo đội pháo binh và một chi đội thiết giáp. Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu III ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Khu III di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ Ấp Hưng Nghĩa đến ngã ba Dầu Giây. Trung Đoàn 8 / Sư Đoàn 5 Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi với mục đích chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1 tại Dầu Giây. Các đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân Bốn tiểu đoàn ĐPQ: 340, 342, 353, 367 dưới sự chỉ huy của Đại Tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Long Khánh Phạm Văn Phúc. Ông Phúc là một sĩ quan Biệt Động Quân, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu khu Long Khánh vào ngày 1 tháng Tư, 1975. Các Lực Lượng Quân Bắc Việt Cộng Sản Bắc Việt chia toàn thể nước Việt Nam thành những quân khu. Trên lãnh thổ của VNCH, Bắc Việt còn đặt ra những mặt trận. Mặt trận B-5 là Mặt Trận Trị Thiên Huế, đây là vùng phía Bắc của Quân đoàn I VNCH. Mặt trận B-3 cũng có tên là Mặt Trận Tây Nguyên bao gồm phần núi non ở miền Trung Việt Nam, đây là vùng dọc theo biên giới phía Tây của Quân Đoàn II VNCH. Khu 5 bao gồm các tỉnh đông dân cư dọc theo bờ biển ở miền Trung, đây là phần ven biển của Quân Đoàn II VNCH. Mặt Trận B-2 kiểm soát mọi hoạt động quân sự của Cộng quân trên một địa bàn rộng lớn, từ ranh giới phía Nam của vùng cao nguyên Miền Trung cho đến mũi Cà Mau, cực nam của nước Việt Nam. Mặt Trận B-2 là đối trọng của Quân Đoàn III và IV VNCH. Trung Ương Cục Miền Nam là bộ chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam, có bí hiệu là Cục “R”. Người Mỹ thường dùng chữ tắt để gọi bộ phận này là COSVN – Central Office for South Vietnam. Hình 4– Những Mặt Trận trong Chiến Trường Miền Nam của Cộng quân Sư Đoàn 7/Quân Đoàn 4 Cộng quân Quân Đoàn 4 Cộng quân được thành lập vào tháng 7, 1974 (4) gồm các sư đoàn 5, 7, 9 cùng với thành phần chỉ huy, thiết giáp, pháo binh, đặc công, và các đơn vị hậu cần. Quân Đoàn 4 trực thuộc Mặt Trận B-2. Hoàng Cầm là Thiếu Tướng chỉ huy Quân Đoàn 4 từ khi quân đoàn này được thành lập.(5) Ông Cầm đã từng chỉ huy tiểu đoàn trong trận Điện Biên Phủ, 1954 và từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 của Cộng quân. Vào cuối tháng 12, 1964, Bộ Chỉ Huy quân đội Bắc Việt gởi ông ta vào Nam để gia nhập Mặt Trận B-2. Mùa Xuân năm 1965, Hoàng Cầm được cho làm người chỉ huy đầu tiên của Sư Đoàn 9 của Cộng quân, sư đoàn đầu tiên của B-2, thành lập ngày 2 tháng 9, 1965. Ngay sau khi được thành lập, Quân đoàn 4 đã đụng trận khi dẫn đầu trận đánh chiếm Phước Long vào đầu tháng Một, 1975. Sư Đoàn 341 Cộng quân Sau khi chiếm được Phước Long, Cộng quân ngưng tấn công trong một thời gian ngắn để sửa soạn cho các trận đánh tới và để thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ sau khi cả một tỉnh của VNCH bị thất thủ kể từ sau Hiệp Định Paris. Bắc Việt cũng dùng thời gian tạm ngưng này để đưa những sư đoàn mới vào củng cố cho chiến trường miền Nam. Một đơn vị được lệnh vào Nam trong thời gian này là Sư Đoàn 341, lúc đó đang đóng tại miền Bắc và là một phần của lực lượng tổng trừ bị của Cộng quân.(6) Sư Đoàn 341 được thành lập cuối năm 1972 từ những đơn vị khác nhau từ Quân khu 4 của Cộng quân và được bổ túc bằng những lực lượng trừ bị của từ các tỉnh trong vùng. Sư Đoàn 341 có ba trung đoàn: 266, 270, và 273. Giống như những sư đoàn Cộng quân khác, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh. Sư đoàn cũng có trung đoàn pháo cơ hữu, tiểu đoàn phòng không, các nhóm trinh sát, và các đơn vị hậu cần. Nhóm đầu tiên được tung vào chiến trường trong Nam là Trung Đoàn 273 và Tiểu Đoàn pháo 14 cùng với đơn vị chỉ huy và các nhóm tiếp vận. Trên năm trăm xe vận tải đã được dùng để chở lực lượng này vào Nam theo con đường mòn Hồ Chí Minh. Khi những toán quân của Sư Đoàn 341 CS đến miền Nam vào cuối tháng Hai, họ được chính thức giao cho Quân Đoàn 4 CS. Cục “R” lập tức giao cho sư đoàn này hai nhiệm vụ: thứ nhất, chuyển trung đoàn 273 từ Sư Đoàn 341 sang Sư Đoàn 9. Thứ hai, Sư Đoàn 341 phải “nghiên cứu Quốc Lộ 20 từ cầu La Ngà tới ngã ba Dầu Giây (nơi Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 cắt nhau) và thị xã Xuân Lộc. Chuẩn bị mọi điều cần thiết để tấn công tiêu diệt đối phương khi được lệnh.” (7) Sư Đoàn 6 Cộng quân Sư Đoàn 6 được thành lập tháng 8, 1974 cho Khu 7 khi “Cục ‘R’ quyết định thành lập một sư đoàn nhẹ cho mỗi quân khu bằng cách kết hợp những trung đoàn độc lập, cung cấp cho họ lực lượng yểm trợ tác chiến, và thành lập bộ chỉ huy sư đoàn bằng cách cho tư lệnh phó của khu kiêm chức tư lệnh sư đoàn. Hai trung đoàn độc lập của Khu 7 là Trung Đoàn 33 và 4 và đã phối hợp thành Sư Đoàn 6 CS. Sau đó Trung Đoàn 4 được đổi tên thành Trung Đoàn 274. Tư Lệnh của Sư Đoàn 6 CS là Đặng Ngọc Sĩ. Ông Sĩ thuộc nhóm người miền Nam đầu tiên tập kết ra Bắc gọi là Nhóm B500. Sau đó, ông ta đã đi theo con đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập vào miền Nam khi con đường này mới mở vào tháng Mười Hai, 1959. (8) Khoi An Những Trận Đánh ở Quân Đoàn II và III VNCH Trước Trận Xuân Lộc Từ lâu, tình báo Hoa Kỳ đã nhận xét rằng sự di chuyển những đơn vị đóng ở miền Bắc vào Nam là một dấu hiệu rõ rệt rằng cuộc tổng tấn công sắp xảy ra. Tháng Ba, 1975 một cuộc tấn công bắt đầu ở Ban Mê Thuột, vùng Cao Nguyên Trung Phần (Bắc Việt gọi vùng này là Tây Nguyên). Cùng lúc đó, Cục “R” cũng được lệnh tấn công vào phía Tây và phía Đông của Quân Đoàn III VNCH. Mục đích của hai mũi tấn công này là để hỗ trợ cho chiến trường Ban Mê Thuột bằng cách cầm chân các lực lượng quân sự của Quân Đoàn III VNCH và chiếm phần đất ở Khu 5 giữa hai Mặt Trận B-2 và B-5. Điều này sẽ cho Cộng quân một hậu cứ an toàn nơi họ sắp đặt một cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn. Tình báo Mỹ đã nhanh chóng phát giác ra sự chuyển quân của Bắc Việt. Những tài liệu bắt được và một đào binh từ Sư Đoàn 7 CS tiết lộ rằng ngày 18 tháng 2, một đội trinh sát đông đảo đã đến vùng Túc Trưng - Định Quán trên Quốc Lộ 20. (10) Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, nằm trãi dài dọc theo Quốc Lộ 20, phía Tây Bắc của Xuân Lộc, Túc Trưng là một làng thuộc phía Nam của Định Quán nằm cạnh Quốc Lộ 20. Nhiệm vụ của đội trinh sát này chấm dứt vào đầu tháng Ba khi hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 CS, Trung Đoàn 141 và 209, đã đến gần Định Quán. Cùng lúc đó, Sư Đoàn 6 CS đóng ở phía Đông tỉnh Long Khánh tiến đánh những đồn Địa Phương Quân (ĐPQ) của QLVNCH dọc Quốc Lộ 1 ở phía Đông của Xuân Lộc vào đến tỉnh Bình Tuy. Các cuộc tấn công được phối hợp của hai sư đoàn Cộng quân này nhằm mục đích làm mòn yếu sự kiểm soát của chính quyền VNCH ở Long Khánh, để phân tán thật mỏng Sư Đoàn 18 QLVNCH, và ngăn chận Sư Đoàn 18 tăng cường cho nơi khác trong Quân Đoàn III. Ngày 5 tháng Ba, 1975 Sư Đoàn 7 CS được lệnh giải toả Quốc Lộ 20 phía Bắc Túc Trưng với “trận mở đầu là tràn ngập và chiếm đóng Văn Phòng Chỉ Huy Quân Sự quận Định Quán” (11). Nằm cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Bắc, quận Định Quán nhỏ bé là một điểm phòng thủ quan trọng của Quốc Lộ 20. Quận này nằm giữa hai làng Túc Trưng và Phương Lâm. Địa Phương Quân cố thủ ở trung tâm quận, và Tiểu Đoàn 2/43 của Sư Đoàn 18 VNCH do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy giữ những căn cứ ở ngoại ô. Nhiệm vụ của Sư Đoàn 7 CS là tiêu diệt lực lượng quân VNCH ở Định Quán và chiếm lấy nơi này để ngăn quân Cộng Hoà từ các tỉnh miền Trung như Lâm Đồng và Đà Lạt rút về Long Khánh. Một khi Định Quán mất, Sư Đoàn 7 CS sẽ vừa tấn công về phía Tây Nam để chiếm cây cầu quan trọng trên sông La Ngà vừa cố gắng chiếm Phương Lâm ở phía Đông Bắc. Nếu thành công, Sư Đoàn 7 CS sẽ tiến ngược về phía Đông Bắc và làm chủ Quốc Lộ 20 lên tới Đà Lạt. Ngày 17 tháng Ba, Trung Đoàn 141 của Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán. Sau hai ngày giao tranh kịch liệt, Cộng quân với số lượng đông hơn rất nhiều đã đánh bại Tiểu đoàn 377 Địa Phương Quân VNCH và chiếm được vùng đất cao có thể nhìn suốt cả thị trấn. Được tăng phái chiến xa, Trung Đoàn 141 CS nhanh chóng tiến vào trung tâm thị trấn và tiến thẳng đến công sự phòng thủ của Quận Trưởng. Mặc dù lực lượng phòng thủ đã chống trả mãnh liệt, Định Quán thất thủ ngày 18 tháng Ba. Phương Lâm cũng mất cùng ngày. Ở bên ngoài Định Quán, Tiểu Đoàn 2/43 VNCH cố chận đường tiến của Cộng quân nhưng cuối cùng cũng phải rút lui. Tiểu Đoàn rút về Núi Trân và cố thủ trên vị trí cao nhìn xuống cầu sông La Ngà. Một đại đội Địa Phương Quân trấn giữ cái cầu quan trọng này. Theo kế hoạch đã định trước, Bắc quân tiếp tục tiến về hướng Tây Nam Quốc Lộ 20. Ngày 20 tháng Ba, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 CS tấn công núi Trân. Cộng quân cố đánh bật Tiểu Đoàn 2/43 VNCH nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui. Vào đợt tấn công thứ ba, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế dùng hai khẩu đại bác 105 ly bắn thẳng hai quả đạn đại bác chống biển người vào địch, giết chết hàng loạt Cộng quân và chận đứng chúng. (12) Tuy Cộng quân bị tốn thất nặng nề, đến buổi chiều ngày 20 tháng Ba, sự phòng thủ núi Trân trở nên hết sức khó khăn. Khi Cộng quân tấn công lần nữa, ông Chế đã phải gọi xin Không Quân VNCH dùng phản lực cơ F-5E thả bom yểm trợ mặc dù Cộng quân và lực lượng của ông đang ở rất gần nhau. Những trái bom đầu tiên đã rơi chính xác xuống địch quân ở sườn Đông, nhưng không may, hai trái bom cuối đã rơi chệch vào một tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 2/43. Sau những đợt tấn công liên tiếp của địch và tai nạn thả bom lầm, Tiểu Đoàn 2/43 thiệt hại trên tám mươi người vừa chết vừa bị thương. Không thể tiếp viện cho Tiểu Đoàn, nửa đêm Tướng Lê Minh Đảo cho lệnh rút về Núi Thị, một vùng cao phía Tây Xuân Lộc. Cộng quân chiếm được Núi Trân và tràn xuống cầu sông La Ngà. Không thể chận được địch, vị chỉ huy Địa Phương Quân VNCH là Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay đã gọi pháo binh bắn thẳng vào vị trí chân cầu, ngay nơi ông đang đóng. Đạn pháo đã hạ được khoảng một tá Cộng quân, nhưng cây cầu cầu vẫn rơi vào tay quân Bắc Việt. Phải đương đầu với sự tấn công liên tục của địch trong khi Trung Đoàn 48 đã đi đánh ở Tây Ninh và Trung Đoàn 52 bận phòng thủ Xuân Lộc, đơn vị giỏi nhất của Tướng Đảo là Trung Đoàn 43 phải trải mỏng để giữ đất và bảo vệ các thị trấn và làng xã trước số địch quân đông hơn nhiều và có thể chủ động tấn công bất cứ lúc nào. Đến cuối tháng Ba, Tướng Đảo không còn lựa chọn nào khác hơn là đem hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43 về giữ Xuân Lộc và để Bắc quân chiếm phần lớn phía Bắc tỉnh Long Khánh. Cùng một lúc với Sư Đoàn 7 CS tấn công Định Quán, Sư Đoàn 6 CS bắt đầu đánh chiếm các vùng. Từ ngày 15 tới 18 tháng Ba, Sư Đoàn 6 chiếm một quãng dài trên Quốc Lộ 2, con đường đi từ Xuân Lộc xuống phía Nam về tới Bà Rịa. Sau đó, sư đoàn này tiến về phía Đông Bắc, và đến ngày 28 tháng Ba, họ đã kiểm soát một đoạn dài 50 cây số của Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc đi về hướng Bình Tuy. Sư Đoàn 6 CS đã cắt đứt con đường huyết mạch từ Sài Gòn ra miền Trung và chận quân đội VNCH ở phía Đông rút về Xuân Lộc.(13) Trong vòng hai tuần, Sư Đoàn 6 và 7 CS đã thành công trong việc “nới rộng các tuyến đường của Cộng quân để họ có thể di chuyển số lượng lớn quân sĩ, quân trang, và quân cụ đến mặt trận quan trọng ở Đông Nam bộ.” (14) Trước tuần lễ thứ ba của tháng Ba, những đơn vị còn lại của Sư Đoàn 341 CS đã vào tới Mặt Trận B-2. (15) Cuối tháng Ba, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho hai trung đoàn mới đến, 266 và 270, giữ Định Quán thay cho Sư Đoàn 7 CS. Trung đoàn 270 giữ phần đất mới chiếm trong khi Trung Đoàn 266 sửa soạn đánh Túc Trưng, một căn cứ của QLVNCH chỉ cách Núi Trân vỏn vẹn 4 cây số. Sau đó, Trung Đoàn này sẽ tiếp tục đánh xuống phía Nam Quốc Lộ 20 và chiếm mục tiêu kế tiếp là quận Kiệm Tân.Cùng lúc đó, Trung Đoàn 273 được tách khỏi Sư Đoàn 9 CS và trở về tăng cường cho Sư Đoàn 341 CS. (16) Dĩ nhiên, Tướng Đảo hiểu rõ sự cần thiết phải ngăn chận Cộng quân tiến thêm về phía Nam trên Quốc Lộ 20. Ngày 28 tháng Ba, Ông cho Tiểu Đoàn 2/52 và đội trinh sát của tiểu đoàn tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20 để lấy lại con đường từ cầu La Ngà tới Phương Lâm. Được sự yểm trợ của không quân và pháo binh, Tiểu Đoàn 2/52 đã thành công một phần và chiếm lại Núi Trân (Định Quán). Trong khi Tiểu đoàn đã phải mất nhiều thời gian đánh dẹp hai bên Quốc Lộ 20, họ tiến thẳng vào căn cứ của những trung đoàn Cộng quân thuộc Sư Đoàn 341 CS đang đóng ở chân núi trên một quãng đường gọi là “Vòng chữ C”. Trận chạm súng đầu tiên của Trung Đoàn 270 CS diễn ra dữ dội từ sáng 29 tháng Ba tới chiều hôm sau. Tuy Cộng quân giữ được vị trí, quân VNCH tiêu diệt 50 địch quân và bắt sống nhiều tù binh. Không thể tiến thêm, Tiểu Đoàn 2/52 lui về cố thủ ở Túc Trưng. (17) Khi thẩm vấn các tù binh, Tướng Đảo ngạc nhiên khi thấy họ quá trẻ. Rõ ràng là nhà cầm quyền Bắc Việt đã vét tận đáy nguồn nhân lực của họ. Nhiều tù binh chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng họ được trang bị những vũ khí tối tân nhất của Liên Sô. Khi họ tiết lộ rằng họ thuộc Sư Đoàn 341, Tướng Đảo biết rằng việc Cộng quân tấn công Xuân Lộc chỉ là vấn đề thời gian. Ngay từ tháng Hai, sự nghi ngờ của ông đã nhen nhúm khi Địa Phương Quân đóng tại núi Chứa Chan đã gây bất ngờ và tiêu diệt một nhóm dò đường của pháo binh Quân Đoàn 4 CS. Giờ đây, với xác nhận là có ba sư đoàn Cộng quân trong khu vực, ông biết chắc là Cộng quân sắp ồ ạt tràn vào Xuân Lộc. Ông lập tức lên kế hoạch phòng thủ. Lúc đó là cuối tháng Ba. Sau những cuộc tấn công của Cộng quân và những sai lầm về chiến lược và chiến thuật của các lãnh đạo quân sự và dân sự, VNCH đã mất nửa phần đất ở phía Bắc (Quân Đoàn I và Quân Đoàn II) cùng với 40% binh lính và vũ khí. Người dân chạy loạn và đào binh VNCH đã biến Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nhì của miền Nam sau Sài Gòn, thành một vùng hỗn loạn, đầy cướp bóc và phá hoại như trong một cơn ác mộng. Với sự thất thủ của Huế ngày 25 tháng Ba và Đà Nẵng ngày 29 tháng Ba, trận đánh ở Núi Trân, Định Quán và cầu sông La Ngà không được ai chú ý, nhưng thật ra, chiến cuộc trên Quốc Lộ 20 ở phía Bắc và và Quốc Lộ 1 ở phía Đông Xuân Lộc thực sự mở màn cho chiến trường Sài Gòn. Những Chuẩn Bị của Cộng Quân cho Trận Xuân Lộc Với áp lực nặng nề và liên tục của Cộng quân tại phía Tây của Quân Đoàn III VNCH từ giữa tháng Ba, nhất là tại Tây Ninh, cửa ngõ đã bị dùng nhiều lần để xâm chiếm Sài Gòn, cả Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Toà Đại Sứ Mỹ đều bị ám ảnh về một cuộc tổng tấn công của Cộng quân từ phía đó và bớt chú ý đến đe doạ của một cuộc tấn công bằng chiến xa từ phía Đông. Tuy vậy, cả Tướng Đảo và thượng cấp của ông đều không biết những người chỉ huy Cộng quân đã có hai quyết định làm cho QLVNCH có thêm một chút cơ hội xoay sở. Trong kế hoạch đầu tiên cho cuộc tấn công mùa khô Đông – Xuân 1975, Bắc Việt muốn chiếm một phần Cao Nguyên miền Trung (Tây Nguyên). Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột vào ngày 11 tháng Ba, 1975, Bắc Việt đổi kế hoạch và chia cuộc tấn công làm ba phần: đầu tiên là Tây Nguyên, kế đến là Quân Đoàn I của VNCH, rồi đến Sài Gòn. Trong trận Ban Mê Thuột, Mặt Trận B-2 được lệnh mở nhiều cuộc tấn công để cầm chân lực lượng của Quân Đoàn III VNCH, mở đường liên lạc với các vùng Nam Trung Phần, và chờ lực lượng của Mặt Trận B-3 từ Tây Nguyên tiến về. Khi tình thế thay đổi nhanh chóng và thuận lợi, ngày 19 tháng Ba, 1975, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 CS Hoàng Cầm đã đánh điện khẩn về Trung Ương Cục đề nghị thay vì cho Sư Đoàn 7 đổi hướng để tiến về phía Bắc tấn công Lâm Đồng, hãy để cho sư đoàn đó đi tiếp về phía Nam trên Quốc Lộ 20 và đánh thẳng vào ngã ba Dầu Giây gần thị xã Xuân Lộc và tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. (18) Đó là một đề nghị táo bạo và có thể đã mang lại kết quả tốt cho Cộng quân. Sự xuất hiện của một sư đoàn Cộng quân ngay sát thủ đô Sài Gòn có thể đưa đến sự hoảng hốt và sụp đổ của VNCH. Tuy vậy, Cục “R” đã bác bỏ đề nghị của Hoàng Cầm và ra lệnh cho ông ta “tiếp tục bành trướng các thông lộ của chúng ta về phía Bắc để tại những bàn đạp cho cuộc tấn công vào Sài Gòn từ Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 20 phía Bắc và Đông Sài Gòn.” (19) Quyết định từ chối này là điều lạ vì trong thời gian đó Tướng CS Trần Văn Trà cũng cố xin Hà Nội cho ông ta hoạch định tương tự: tấn công Sài Gòn lập tức mà không chờ những lực lượng Cộng quân khác tăng cường. Mặc dù Bộ Chỉ Huy Tối Cao lúc đầu bãi bỏ đề nghị của ông Trà, sau đó Hà Nội bắt đầu xét lại vì sự kiên trì của ông Trà. Trưa 29 tháng Ba, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư Đảng CSVN gởi một điện thư cho Phạm Hùng, Uỷ Viên Chính Trị đặc trách Cục “R” và bảo ông Hùng tìm cách lợi dụng tình thế hỗn loạn vì sự xụp đổ của Quân Đoàn I và II của VNCH. Thư viết “Tôi hoàn toàn đồng ý với đồng chí là trong thời điểm này cần ra tay nhanh nhẹn, quyết đoán, và gan dạ… Tôi muốn nhấn mạnh một yêu cầu cấp thiết… lập tức thi hành công tác quan trọng là thi hành một cuộc cô lập và bao vây Sài Gòn” (20) .Thực ra, điều ông Duẩn nói là “chúng ta có thể coi là cuộc tiến chiếm Sài Gòn đã bắt đầu.” (21) Ông Trà hết sức phấn khởi vì ông ta có thể đánh Sài Gòn ngay mà không phải chờ các lực lượng bổ xung từ Bắc Việt: “Thư của anh Ba gởi cho Cục “R” xác định tình thế sẽ biến đổi nhanh chóng, và chúng ta cần tấn công mạnh hơn và tiến về gần Sài Gòn hơn.” (22) Trà được lệnh dùng những lực lượng có sẵn của B-2 để tấn công thẳng vào vòng đai quanh Sài Gòn và không chờ lực lượng tăng cường từ Tây Nguyên. Cục “R” và Chi Bộ Quân Sự của Đảng CSVN lập tức họp để đưa ra một chương trình hành động. Họ quyết định rằng Mặt Trận B-2 sẽ tấn công thẳng vào vòng đai quanh Sài Gòn vào đầu tháng Tư. Lực lượng từ vùng sông Cửu Long sẽ đánh lên từ phía Nam, trong khi đó Quân Đoàn 4 CS sẽ mở ngay cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tiêu diệt Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn Thiết Giáp, lực lượng nòng cốt của Quân Đoàn III VNCH, sau đó sẽ tiến sát vào Biên Hoà. (23) Cuộc tấn công từ phía Đông được coi là chính yếu. Sau đó, ông Trà tóm tắt những quyết định của Chi Bộ Đảng và kế hoạch tấn công. Ông Cầm được lệnh mới – chiếm Xuân Lộc rồi tiến chiếm căn cứ không quân Biên Hoà ở ngoại ô Sài Gòn. Sư Đoàn 6 của Quân Khu 7 với hai trung đoàn được giao cho Quân Đoàn 4 của ông Hoàng Cầm. Tư lệnh và Chính Uỷ của Quân Khu 7 hợp lực với bộ chỉ huy quân đoàn để đặt ra kế hoạch. Ông Cầm xin ông Trà hoãn ngày tấn công đến 9 tháng Tư, 1975 để có thì giờ chuẩn bị và ông Trà đồng ý. (24) Cuối ngày 3 tháng Tư, ông Cầm và những người khác trở về bộ chỉ huy hỗn hợp lúc đó đóng ở phía Đông Nam cầu La Ngà. Ông Cầm lập tức ra lệnh cho Sư Đoàn 7 CS đang trên đường tiến về Đà Lạt quay trở lại để tiến về phía Nam. Trong khi ông Cầm nói rằng các thuộc cấp của ông nghiền ngẫm tất cả mọi kế hoạch tấn công Xuân Lộc, dưới áp lực có thể đến từ ông Trà về việc tiến quân nhanh chóng, và chỉ còn năm ngày trước khi tổng tấn công, ông Cầm và những người chỉ huy cấp dưới đã phải làm một quyết định chiến lược duy nhất có thể: đánh thẳng vào thủ phủ của thị xã. Ông Cầm thấy đó là cách duy nhất để chiếm lấy thị xã và ngã ba Dầu Giây quan trọng. Tuy vậy, ông ta lo ngại về tình trạng của Sư Đoàn 7 CS – đã mệt mỏi vì đánh nhau liên tục, vì đây chính là “đơn vị tấn công chính” của ông.(25) Đảng uỷ Đảng CS tại địa phương Xuân Lộc được hỏi ý để “biết thêm về tình hình địch, tình hình bên ta, và kết hợp cuộc tấn công với sự nổi dậy trong dân chúng.” (26) Cầm viết thêm, “Đảng uỷ đã chuẩn bị cho chúng tôi, cho chúng tôi những nâng đỡ cần thiết và những địa điểm thiết yếu để quan sát mục tiêu trong lúc chúng tôi không có thì giờ thực hiện một kế hoạch thám sát từng bước, đầy đủ, và có hệ thống.” (27) Sư Đoàn 7 CS ở quá xa để thám sát vùng chiến trường. Tuy nhiên, Sư Đoàn 341 ở gần đó đã tận dụng sự “giúp đỡ cần thiết” của các lực lượng địa phương (28) để hoàn tất một cuộc nghiên cứu về vùng họ sắp tiến đánh. Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 341, các Trung Đoàn Trưởng và toàn thể bộ chỉ huy vượt qua sông La Ngà để cùng các đảng viên và các uỷ viên quân sự địa phương và thảo luận về địa hình và những diễn biến có thể xảy ra khi họ tấn công. Họ đồng ý là du kích địa phương sẽ dẫn đường cho các đơn vị tấn công và một đại đội du kích sẽ cố kích thích để dân chúng nổi dậy và chịu trách nhiệm giữ tù binh. Sau khi quan sát đường tới Xuân Lộc từ hướng Tây Bắc và tình hình trong thị xã, ngày 6 tháng Tư bộ chỉ huy Sư Đoàn 341 họp và đề ra kế hoạch tấn công rồi gởi tới Quân Đoàn 4 CS xin được chấp thuận. Quân đoàn đồng ý và chia công tác như sau: Trung Đoàn 266 sẽ tấn công những điểm trong thị xã , Trung Đoàn 270 sẽ tấn công Gia Tân (một phần của quận Kiệm Tân) và Núi Thị, nơi có một tiểu đoàn pháo binh VNCH, một trung tâm truyền tin, và Tiểu Đoàn 2/43 VNCH. Trung Đoàn pháo 55 CS sẽ yểm trợ, và Tiểu Đoàn 12 AAA sẽ phụ trách phòng không. Sư Đoàn 6 CS với hai Trung Đoàn 33 và 274 sẽ đi vòng phía Nam thị xã và tấn công ngã ba Dầu Giây và những điểm trọng yếu dọc theo Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc giữa thị xã và thị trấn Hưng Nghĩa. Với vai trò chính yếu trong cuộc tấn công, Sư Đoàn 7 CS tới địa điểm tập trung tối ngày 7 tháng Tư, 1975. Thoạt đầu họ được lệnh tiêu diệt Trung Đoàn 48 VNCH và chiếm ngã tư giữa Quốc Lộ 1 và Quốc Lộ 2 tại Tân Phong phía Nam Xuân Lộc. Trong lúc bộ tham mưu Sư Đoàn 7 CS đang lên kế hoạch thì họ được lệnh thay đổi chiến lược. Sư Đoàn 7 CS được lệnh phải chiếm thị xã trước rồi mới tập trung vào chuyện tiêu diệt Sư Đoàn 18 VNCH. Với ít hơn một ngày để làm kế hoạch tấn công mới, Sư Đoàn 7 CS quyết định: “Trung Đoàn 165 CS sẽ dẫn đầu mũi tấn công chính vào căn cứ hậu cần và bộ chỉ huy Sư Đoàn 18 ở Đông Bắc thị xã (và căn cứ của Trung đoàn 52). Tiểu Đoàn 5 CS, đơn vị tấn công chính, sẽ chọc thủng phòng tuyến của địch ở phía Đông Nam; Tiểu Đoàn 6, đơn vị tấn công thứ nhì, sẽ đánh từ phía Nam – Đông Nam. Tiểu Đoàn 4 CS ở đằng sau Tiểu Đoàn 5 CS làm lực lượng trừ bị. Trung Đoàn 209 CS sẽ chiếm Quốc Lộ 1 từ Suối Cát (một làng nhỏ cách thị xã khoảng tám cây số về phía Đông) tới ngã tư Tân Phong, rồi tấn công vào thành phố từ phía Nam, và sẵn sàng tấn công các lực lượng tăng viện của địch.” (29) Quân đoàn 4 CS chuyển bộ chỉ huy chính tới một địa điểm ở Đông Bắc Xuân Lộc. Quân Đoàn lo phối hợp pháo binh cho tất cả các đơn vị và thành lập đường tiếp vận cho ba đơn vị tấn công chính của quân đoàn. Ngày 7 tháng Tư, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Bắc quân, Cục “R”, và Uỷ Ban Quân Sự họp và phê chuẩn kế hoạch cuối cùng về cuộc tấn công Sài Gòn.(30) Theo kế hoạch của Cộng quân, cuộc tấn công sẽ được thi hành qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu “liên quan tới những tấn công để cắt đứt liên lạc, cô lập, và bao vây địch… Nếu quân ta có thể cắt đứt Quốc Lộ 4 và tiêu diệt Sư Đoàn 18… kế tiếp ta sẽ đánh thẳng vào Sài Gòn không cần chờ tiếp viện.” (31) Giờ “H” được định vào 05:30 sáng ngày 9 tháng Tư. Nếu tấn công của Cộng quân vào Xuân Lộc đưa đến một cuộc rút lui vội vã của QLVNCH thì sẽ không còn gì ở giữa Quân Đoàn 4 CS và Sài Gòn ngoài vài đơn vị Biệt Động Quân, cảnh sát địa phương, và hai Lữ Đoàn Nhảy Dù VNCH. Sẽ có những hỗn loạn trong Sài Gòn, hàng ngàn người Mỹ và đồng minh Việt Nam của họ, cùng với nhân viên và bạn hữu sẽ không di tản được nếu không dùng quân đội Mỹ và không lực của Mỹ. Chuẩn Bị Của Sư Đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà Hình 4 – Bản Đồ Xuân Lộc Trong khi Cộng quân chuẩn bị tấn công, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo bận rộn tổ chức phòng thủ. Trước hết, ông xem xét lại cho thật kỹ lưỡng địa hình chung quanh thị xã. Xuân Lộc nằm lọt ở giữa rất nhiều đồn điền trồng chuối và cao su, tại chân núi phía cực Nam của rặng núi Trường Sơn trải dài từ biên giới Trung Hoa đến biển, làm thành xương sống của bán đảo Đông Dương. Vùng đồi núi phía Tây thị xã đầy rừng rậm bao phủ và có nhiều sông suối nhỏ chạy ngang dọc, ở phía Đông đất mở rộng hơn mặc dù có núi Chứa Chan sừng sững. Dù Tướng Đảo có hơn một tuần để chuẩn bị chống cuộc tấn công của Cộng quân, lực lượng Sư Đoàn 18 VNCH phòng thủ Xuân Lộc phải trải mỏng. Hai trong ba trung đoàn đang ở ngoài thị xã: Trung Đoàn 52 phải canh giữ Quốc Lộ 20 ở Dầu Giây cách Xuân Lộc khoảng 10 cây số, trong khi Trung Đoàn 48 đang tham chiến ở Tây Ninh, gần 200 cây số về phía Tây. Đầu tháng Tư, 1975, Tướng Đảo chỉ có Trung Đoàn 43, lực lượng hậu cần, một chi đội thiết giáp và đại đội trinh sát của Sư Đoàn để phòng thủ Xuân Lộc. Bốn đơn vị Địa Phương Quân dưới quyền Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc giúp canh giữ phía Bắc Xuân Lộc và khu vực Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tuy nhiên, phía sau lưng của Tướng Đảo, phía Nam của thị xã hoàn toàn bỏ ngỏ, đúng chỗ Sư Đoàn 7 CS dự định tấn công. Tướng Đảo biết rằng ông cần cả Sư Đoàn để chống trả những trận tấn công của Cộng quân. Cơ hội đến với ông vào ngày 3 tháng Tư khi Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III VNCH đến thăm ông. Trong lúc tường trình về những chuẩn bị chống địch, Tướng Đảo xin Tướng Toàn cho Trung Đoàn 48 về lại với Sư Đoàn. Tướng Toàn lưỡng lự nhưng ông Đảo kiên trì nói với ông Toàn rằng nếu Sư Đoàn 18 VNCH được giao nhiệm vụ giữ Xuân Lộc, ông cần phải bảo vệ phía sau lưng Xuân Lộc. Để thuyết phục ông Toàn, ông Đảo nói rằng ông dự định dùng Trung Đoàn 48 để lấy lại Núi Chứa Chan lúc đó đang bị Cộng quân chiếm đóng. Cuối cùng, Tướng Toàn đồng ý cho Trung Đoàn 48 về, nhưng ông lại ra lệnh cho ông Đảo gởi Tiểu Đoàn 2/48 đến Hàm Tân, một thị xã ven biển để giữ an ninh cho những đoàn dân chạy loạn đang từ Quân Đoàn II VNCH đổ về. Trung Đoàn 48 được trả về ngày 5 tháng Tư. Ngày 7 tháng Tư, Tướng Đảo cho Trung Đoàn đi dọn đường cho tới Suối Cát phía Đông Nam Xuân Lộc, trên đường đi Núi Chứa Chan nhưng không tiến thêm. Để Tiểu Đoàn 3/48 ở lại giữ Suối Cát, ông đem Tiểu Đoàn 1/48 về giữ ngã tư Tân Phong ngay phía Nam thị xã Xuân Lộc và dùng tiểu đoàn này làm quân trừ bị cùng với chi đội 1 và 2 của Thiết Đoàn 5, đơn vị thiết giáp của Sư Đoàn 18 VNCH. Nhận thức được tai hoạ ở Quân Đoàn I và II VNCH khi nhiều đơn vị tan rã toàn bộ vì binh sĩ đào ngũ để về nhà cứu vợ con, ông Đảo cho lực lượng tiếp vận, quân y, và tối đa số gia đình binh sĩ và thường dân trong vùng di chuyển về Long Bình, một căn cứ hậu cần rất lớn gần Biên Hoà. Những thường dân còn lại núp trong hầm trú ẩn gần Dinh Tỉnh Trưởng. Quan trọng hơn, ông Đảo chuyển lính phòng thủ thị xã ra ngoại ô với hy vọng là pháo của địch sẽ tập trung vào trung tâm thị xã. Ông cho đại đội trinh sát, chỉ huy bởi một Đại Uý rất gan dạ, trang bị đại liên 50 ly và đóng gần trường Trung Học Hoà Bình, ven Tây Bắc của thị xã. Ông Đảo cũng thành lập ba bộ chỉ huy riêng rẽ: bộ đầu tiên đóng ở nhà riêng của ông, bộ thứ nhì ở ngã tư Tân Phong phía Nam thị xã, và bộ thứ ba ở một vườn trái vải phía Đông của Tân Phong và phía Bắc của Quốc Lộ 1. Trong khi các binh sĩ xuống hầm, ông tiếp tục nghiên cứu địa hình, cố gắng đoán cho được kế hoạch tấn công của Cộng quân. Không lâu sau, ông nhận ra: không còn nghi ngờ rằng Cộng quân sẽ tiến quân theo con đường họ đã dùng để tấn công Xuân Lộc vào Tết Mậu Thân, 1968 với vài thay đổi dựa trên lực lượng hiện tại của họ. Lượng định của Tướng Đảo đã đúng. Tướng Đảo quyết định giăng bẫy đợi địch. Ông gọi đó là cái “máy nghiền thịt”. Ông tạo ra một khu vực tử thần bằng cách đặt pháo binh của ông gồm 36 khẩu đại bác (24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly) trong một tam giác phía Tây Xuân Lộc, mỗi đỉnh tam giác có 4 đại bác 155 ly và 8 đại bác 105 ly. Ở đỉnh thứ nhất của tam giác, Ông để 10 khẩu đại bác cùng với Tiểu Đoàn 2/43 trên Núi Thị, còn 2 khẩu 105 ly và phần còn lại của Trung Đoàn 43 thì để ở bên ngoài thị xã. Ở đỉnh thứ hai của tam giác, ông Đảo đặt 12 khẩu đại bác tại Trung Đoàn 48 ngay phía Tây của Tân Phong. Ở đỉnh thứ ba có tiểu đoàn pháo binh trực thuộc Trung Đoàn 52 cùng với Trung Đoàn này tại Ấp Nguyễn Thái Học. Lực lượng của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc có 2 đại bác 105 ly để phòng thủ khu vực của họ trong thị xã. Thêm vào đó, nhiều ngày trước trận chiến, Quân Đoàn III có gởi cho ông Đảo hai khẩu đại pháo tự hành 175 ly, và ông giữ 2 đại pháo này tại bộ chỉ huy thứ hai tại Tân Phong. Quan trọng hơn cả, chỉ huy pháo binh của Tướng Đảo là Đại Tá Ngô văn Hưng đã giữ vai trò trọng yếu trong việc sắp xếp, chuẩn bị pháo binh. Ông Hưng ra lệnh cho xe ủi đất để đào những hố đặt súng đại bác và những hầm để kéo đại bác vào sau khi bắn. Ông Hưng cũng đích thân kiểm soát tất cả súng đại bác. Tướng Đảo cho mở rộng hệ thống hầm và giao thông hào có sẵn không những để chứa các khẩu pháo mà cho tất cả lực lượng binh sĩ bảo vệ thị xã. Mục đích của ông là vô hiệu hoá sự phản pháo của Cộng quân. Nỗ lực này đã đạt được kết quả mong muốn, như ông nói, “Pháo của họ (Cộng quân) không bao giờ tìm được chúng tôi.” Tuy vậy, sự chiết giảm tối đa các viện trợ quân sự cho Việt Nam của Quốc Hội Hoa Kỳ trong tài khoá 1974-75 đã làm cho dự trữ nhiên liệu, võ khí, và đạn dược, nhất là đạn pháo binh xuống thấp thê thảm. Vì biết trước là Cộng quân sẽ đánh Xuân Lộc, trước đó ông Đảo đã thực hiện hai chương trình. Thứ nhất, ông dự trữ đạn pháo binh. Từ tháng Hai, ông đã giảm bớt 20% số đạn sử dụng hàng ngày. Thứ hai, ông đã thành lập một trung đội trinh sát trong mỗi tiểu đoàn tác chiến để “tìm địch”. Dù Trung Đoàn 341 CS có nhiều hoạt động trinh sát, ông Đảo không thụ động khi quân địch tăng cường dọ thám. Ông dùng những trung đội trinh sát để càn quét những vùng quanh Xuân Lộc. Ngày 6 tháng Tư, trung đội trinh sát Tiểu Đoàn 2/43 phục kích và tiêu diệt một lực lượng thám thính của Cộng quân ở núi Ma, một điểm cao quan trọng ở Tây Bắc Xuân Lộc. Quân VNCH sau đó đóng ở những ngọn đồi khác để ngăn ngừa Cộng quân trở lại và dùng chúng làm những trạm quan sát. Giữa trưa ngày 6 tháng Tư, Tướng Đảo được báo có một lực lượng Biệt Động Quân (BĐQ VNCH), Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân biên phòng từ Quân Đoàn II, mới đến từ căn cứ bỏ lại ở tỉnh Quảng Đức, sau một cuộc chạy thoát khủng khiếp qua vùng Cộng quân kiểm soát. Dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn 82 đã đi bộ qua rất nhiều cây số rừng rậm để đến được thành phố Bảo Lộc trong tỉnh Lâm Đồng. Ông Long đã giữ được mạng sống của phần lớn tiểu đoàn của ông và gần năm trăm đồng bào khi đi qua rừng rậm. Tướng Toàn vội gởi đại diện của bộ chỉ huy BĐQ để dàn xếp trực thăng đón những người sống sót mệt lả. Tiểu Đoàn 82 sau đó được đưa tới Xuân Lộc, Tướng Đảo cung cấp đạn dược và thực phẩm cho họ, để họ đóng ở phi trường và để họ tạm dưới quyền Trung Đoàn 43. Tướng Toàn nói với Tướng Đảo rằng sáng ngày 9 tháng Tư đưa Tiểu Đoàn 82 về Sài Gòn để bổ xung lực lượng. Những chiến sĩ không thể ngờ rằng họ bước từ một chảo dầu nóng vào một đám cháy. Chiều ngày 8 tháng Tư, Tướng Đảo nhận được một tin khẩn từ Quân Đoàn III VNCH. Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, được tìm thấy đã chết trong văn phòng của ông ta với một vết thương rõ ràng là tự bắn. Ông Đảo luôn coi ông Hiếu là một sĩ quan tham mưu lỗi lạc và người bạn thân thiết, do đó, ông vội đáp trực thăng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hoà. Ông cũng muốn nhân dịp này bay vòng quanh Xuân Lộc nhiều lần để xem xét lại những vị trí phòng thủ vừa dựng lên, đặc biệt là ở vùng đất trống trải phía Đông thị xã. Sau những buổi thảo luận tại trung tâm chỉ huy của quân đoàn, ông Đảo bay về Long Bình để làm việc với Trưởng Phòng Tiếp Vận của Quân Đoàn III. Ông quyết định nghỉ đêm tại Long Bình. Khi đêm xuống ngày 8 tháng Tư, binh lính ở Xuân Lộc được sắp đặt như sau: Trung Đoàn 52 đã được rút về để bảo vệ ngã ba chiến lược ở Dầu Giây; Tiểu Đoàn 1/52 ở phía Nam, sát Dầu Giây; Tiểu Đoàn 2/52 cùng bộ chỉ huy trung đoàn, pháo binh, và các thiết vận xa M113 của chi đội thiết giáp 3/5 đóng gần giao lộ về phía Bắc. Đơn vị xa nhất ở phía Bắc của ông Đảo, Tiểu Đoàn 3/52 phòng thủ vùng đất cao dọc Quốc Lộ 20 và có một đại đội đóng ở trên Đồi Móng Ngựa, một ngọn đồi nhỏ nằm cạnh Quốc Lộ 20 gần Núi Ma. (32) Đi xa hơn về phía Đông, Tiểu Đoàn 2/43 giữ vùng Núi Thị, trong khi đại đội trinh sát đóng ở trường Trung Học trên lối vào thị xã ở phía Tây Bắc, và hai tiểu đoàn ĐPQ 340 và 342 đóng ở sườn bên phải. Tiểu Đoàn 1/43 và 3/43 giữ những lối vào Xuân Lộc ở hướng Đông. Cách bố trí trên để lại một lỗ hổng đáng lo ở giữa Trung Đoàn 52 và thị xã, chỗ mà Tướng Đảo chỉ có thể trám vào bằng đại bác. Tiểu Đoàn 1/48 và hai chi đội của Thiết Đoàn 5 được giữ làm trừ bị, trong lúc Tiểu Đoàn 2/48 được gởi đi Hàm Tân. Tiểu Đoàn 3/48 đóng hai bên trên Quốc Lộ 1 phần đi từ thị xã về phía Đông. Tiểu Đoàn 82 BĐQ phòng thủ phi trường Xuân Lộc. Hai tiểu đoàn ĐPQ, 353 và 367, đóng ở các vị trí trong thị xã. Diễn Tiến Trận Xuân Lộc Hình 5 - Phóng Đồ Kế Hoạch Điều Quân Trận Xuân Lộc Nguồn: Copyright của Trần Đỗ Cẩm - xuanloc75.blogspot.com/2009/09/tuyen-thep-xuan-loc-long-khanh.htmlBuổi sáng 9 tháng Tư, 1975, Cộng quân vào vị trí. Sư Đoàn 6 CS băng qua Quốc Lộ 2 phía Nam Xuân Lộc mà không bị phát hiện và di chuyển nhanh chóng xuyên qua những đồn điền cao su phía Bắc về phía Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến gần tới hàng rào phòng thủ của quân VNCH. Lúc 05:00 giờ sáng, tất cả mọi đơn vị của Quân Đoàn 4 CS báo cáo rằng họ đã tới vị trí định sẵn. Pháo binh Cộng quân cũng sửa soạn xong toạ độ súng và chờ lệnh khai hoả. Trong khu vực Sư Đoàn 341, mười phút trước giờ ấn định khai hoả, quan sát viên thấy sương mù chưa hết hẳn nên họ xin chờ thêm mười phút. Quân Đoàn 4 CS chấp thuận. Đúng 05: 40 sáng 9 tháng Tư, 1975, Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn ra lệnh bắt đầu. Với những tiếng nổ long trời, pháo binh từ Quân Đoàn 4 CS và các sư đoàn trực thuộc đồng loạt tác xạ. (33) Trong suốt một tiếng đồng hồ, pháo binh Cộng Sản rót vào Xuân Lộc đạn đại bác, súng cối và hoả tiễn. Từ hai đến ba ngàn quả đạn đã bắn vào thị xã nằm trơ trọi (34). Họ tàn phá trung tâm thị xã, biến nhiều công trình kiến trúc thành gạch vụn. Tuy vậy, dù đã thám thính trước, Cộng quân không hề biết rằng Trung Đoàn 43 và ĐPQ VNCH đã chuyển ra ngoại ô. Phần lớn đạn pháo rớt vào nhà dân, các binh sĩ VNCH trong hầm và giao thông hào không bị thiệt hại gì. Đến 6 giờ 40, hai quả pháo hiệu loé sáng trong bầu trời bình minh. Đó là dấu hiệu cho xe tăng và bộ binh tùng thiết CS tiến vào. Cán bộ và binh lính của Sư Đoàn 7 và 341 CS tiến đến sát gần binh sĩ của Sư Đoàn 18 VNCH đang mai phục. Ngay khi quả pháo đầu tiên bắn đi lúc 05:40 giờ, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến của Sư Đoàn 18 VNCH gọi điện cho Tướng Lê Minh Đảo ở Long Bình. Ông ta báo cáo là nhân sự ở bộ chỉ huy đều vô sự nhưng tư gia của Tướng Đảo, địa điểm của Bộ Chỉ Huy 1 đã bị trúng đạn. Tướng Đảo ra lệnh đem Bộ Chỉ Huy 1 đến chung địa điểm của Bộ Chỉ Huy 2 tại Tân Phong rồi lên trực thăng bay ngay tới chiến trường. Trên đường đi, Tướng Đảo điện cho các Trung Đoàn Trưởng để hỏi về tình hình. Mọi người đều cho biết là họ không sao. Tướng Đảo nói chờ lệnh của ông khi ông về tới. Trong khu vực phía Đông, Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 CS dẫn đầu cuộc tấn công. Tất cả tám chiếc xe tăng của Sư Đoàn 7 đều tham dự (35). Nghĩ là lính VNCH sẽ bỏ chạy ngay sau khi pháo kích ngưng, Cộng quân tự tin tiến lên. Họ phải đi lên dốc, băng qua những khu đất trống, vượt qua 8 hàng rào kẽm gai, nhiều bãi mìn, và leo lên một bờ đất trước khi đến giao thông hào của VNCH. Trung Đoàn 165 CS đã nhanh chóng phải ngừng lại. Chiếc tăng T-54 dẫn đầu trúng mìn chống chiến xa, đứt tung xích bên trái và trở thành vô dụng (36). Pháo binh của QLVNCH lập tức nhả đạn, và khi trời vừa sáng, chiến đấu cơ A-37 và F-5 của VNCH bắt đầu không kích vào đoàn Cộng quân bị lộ. Trong khi các chiến xa tiếp tục đi tới, Cộng quân cố tiến lên lần thứ hai. Nhưng, Trung Đoàn 43 VNCH đã cho họ một bất ngờ mới: phi đạn 2.75 inch gắn trên hai càng và bắn bằng điện từ những cục pin đơn giản (37). Oanh tạc của không quân và phi đạn của quân VNCH đã tiêu huỷ bốn xe tăng của Cộng quân và chận đứng Trung Đoàn 165 CS. Trung Đoàn 209 CS với nhiệm vụ mở đường Quốc Lộ 1 từ hướng Đông đã đụng với Tiểu Đoàn 82 BĐQ VNCH tại phi trường Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 82 VNCH chận đứng hai tiểu đoàn Cộng quân và gây tổn thất nặng cho địch (38). Tiểu Đoàn 3/48 VNCH từ Suối Cát rút về để giúp phòng vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 18 VNCH ở Tân Phong. Như thế là cuộc tấn công chính của Tướng CS Hoàng Cầm đã bị chận lại. Trong sách “Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân” đã ghi: “không cuộc tấn công nào của Sư Đoàn ta vào Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 18 của ‘Ngụy.’ và phía sau Trung Đoàn 52 ‘Ngụỵ’ đạt được thành công. Quân ta giằng co với địch để giành từng giao thông hào, từng căn nhà, từng con đường.” (39) Cuộc tấn công bị chận lại lập tức không phải chỉ vì oanh tạc, pháo binh, và bộ binh VNCH nhưng cũng vì Tướng Đảo giao cho mỗi người trong Sư Đoàn một vị trí phòng thủ. Như ông giải thích, “Tất cả mọi người đều chiến đấu. Ngay cả sĩ quan tiếp vận và nhân viên làm việc ở căn cứ cũng đào hầm phòng thủ. Thêm vào đó, những người mất sức sắp được giải ngũ hoặc đã bị thương đều được cấp phát súng đạn và giao vị trí phòng thủ. Những người này đánh rất hiệu quả và tiêu diệt được nhiều quân địch.” Sư Đoàn 341 CS lúc đầu khá hơn ở phía Tây thành phố. Với địa bàn hoạt động đỡ trống trải và đã có dịp quan sát kỹ càng những con đường vào thị xã, ba tiểu đoàn của Trung Đoàn 266 CS đã lọt qua năm lớp kẽm gai đầu tiên ở gần trường Trung Học thị xã và “Vòng Cua Heo” nơi Quốc Lộ 1 đánh một vòng lớn vào thị xã. Tư Lệnh Sư Đoàn 341 CS đi theo Trung Đoàn 266 trong lúc tấn công. Tuy thế, pháo binh VNCH mau chóng bắn vào Cộng quân và một phi cơ C-119 rải đạn xuống chỗ bị xâm nhập. Đại đội trinh sát ở trường Trung Học Hoà Bình góc Tây Bắc thị xã bắn tung Cộng quân bằng đạn đại liên. Những người lính ít kinh nghiệm của Trung Đoàn 266 CS cố gắng mở một ngõ xâm nhập thứ hai về hướng Đông và đã đi thẳng vào nơi hai tiểu đoàn 340 và 342 ĐPQ VNCH đang cố thủ. Cuối cùng, sau khi bị tổn thất nặng, các nhóm quân của Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 Bắc Việt cũng tìm được lối đi vòng qua trường học và xâm nhập được khoảng 300 mét vào trong thị xã nơi họ chiếm đóng ở những nơi gần khu chợ, nhà thờ, bến xe đò, và bộ chỉ huy thị xã, tuy vậy lính VNCH vẫn giữ được phần lớn thành phố. (40) Xa hơn về phía Tây, Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 CS tiến đánh Núi Thị và Gia Tân. Như những lực lượng khác của Sư Đoàn 18 CS, Tiểu Đoàn 2/43 đã chống cự mãnh liệt tại Núi Thị. Trong một thời gian ngắn, Trung Đoàn 270 CS cũng phải rút lui, để lại hàng tá tử thi và thương binh. Không phí thời gian, vào lúc 11:00 giờ, ông Đảo cho lực lượng trừ bị gồm Tiểu Đoàn 1/48 và thiết giáp liên đoàn 5 phản công ở phía ngoài thị xã. Tiểu Đoàn 1/48 VNCH nhanh chóng tiến lên nhưng Sư Đoàn 341 CS cho một tiểu đoàn của Trung Đoàn 270 CS đánh vào hông cánh quân 1/48. Trung Đoàn 270 CS cũng được đem tới để chận cuộc phản công của 1/48, do đó vòng vây của VNCH không thể khép kín. Tuy vậy, pháo binh VNCH cùng với những cuộc oanh tạc hữu hiệu của không quân VNCH đã liên tiếp tìm ra những điểm tập trung của Cộng quân và trút xuống đó những loạt đạn pháo và bom. (41) Bên trong thị xã Xuân Lộc, Tướng Đảo cho nhổ sạch những đơn vị Cộng quân đã lọt vào thị xã. Tiểu Đoàn 1/43 VNCH và hai tiểu đoàn ĐPQ của Đại Tá Phúc, được yểm trợ bằng không kích chính xác, giữ vững bộ chỉ huy tiểu khu và chiếm lại phần lớn những vị trí Cộng quân đã chiếm trước đó trong ngày. Dù một vài người lính của Trung Đoàn 266 CS cố bám được vài toà nhà, đến cuối ngày đầu, Sư Đoàn 341 CS đã bị thiệt hại nặng nề với gần 600 người chết và bị thương. (42) Trong ba sư đoàn Cộng quân 7, 341, và 6, Sư Đoàn 6 CS thành công nhất vì họ đương đầu với ít phản công nhất. Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 CS tấn công những vị trí của ĐPQ dọc Quốc Lộ 1 phía Tây Xuân Lộc, chiếm được Ấp Trần Hưng Đạo và đèo Mẹ Bồng Con., khoá Quốc Lộ 1 giữa Xuân Lộc và ngã ba Dầu Giây. Trung Đoàn 33 còn lại của Sư Đoàn 6 CS tấn công các ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc ở phía Tây Dầu Giây. Họ chiếm được Hưng Lộc nhưng bị lực lượng tự vệ ở Hưng Nghĩa đẩy lùi và cuộc tấn công Dầu Giây cũng bị Tiểu Đoàn 1/52 đẩy lui. (43) Đến buổi chiều Cộng quân thiệt hại gần 700 chết và bị thương, phía VNCH tổn thất dưới 50. Sư Đoàn 18 vẫn tiếp tục giữ vững vị trí. Lần đầu tiên trong vòng năm tuần lễ, quân đội VNCH không bị đánh bật ra, thay vào đó lại chống cự mạnh mẽ làm ngay cả quan sát viên Tây Phương ngạc nhiên. Sự phản công dũng mãnh làm chấn động quân đội miền Bắc, như họ viết, “Phi cơ địch cất cánh từ Biên Hoà… ném bom dồn dập xuống Xuân Lộc. Trận chiến trở thành một cuộc giành giật khó khăn và đẫm máu, những đơn vị của ta bị tổn thất nặng… Kho đạn pháo binh của ta đã cạn. Hơn nửa xe tăng của ta đã bị tiêu huỷ.” (44) Quân VNCH bắt được ba mươi tù binh, và trực thăng chở họ về Sài Gòn thẩm vấn. Khi đêm buông xuống, Bắc Việt cố gắng tiếp tế cho lính của họ trong thành phố và ngoại ô. Quân Đoàn 4 CS tin là họ đã giữ được nửa thành phố và đã cắt Quốc Lộ 1 đoạn từ Dầu Giây đến đèo Mẹ Bồng Con nhưng cũng công nhận là họ không đạt được mục tiêu. Tuy vậy, họ quyết định giữ nguyên chiến thuật: đánh trực diện. Hoàng Cầm chấp thuận bộ chỉ huy tiền phương của CS đưa thêm đơn vị trừ bị vào chiến trường. (45) Sư Đoàn 7 đưa Trung Đoàn 141 với một tiểu đoàn phòng không vào vị trí đánh trực tiếp. Trung Đoàn 165, 209 và thêm các chiến xa lại sẵn sàng tấn công từ phía Đông. Sư Đoàn 341 CS đưa Trung Đoàn 270 vào thị xã để chống đỡ cho Trung Đoàn 266 đang cố giữ rìa phía Tây thị xã. Sáng sớm ngày thứ hai, pháo binh Cộng quân lại bắn một loạt pháo để yểm trợ cho pháo binh của họ. 05:27 sáng ngày 10 tháng Tư một ngàn quả đạn lại bắn vào thành phố còn đang nghi ngút khói. Sư Đoàn 7 CS tấn công liên tiếp vào công sự phòng thủ kiên cố của quân VNCH ở phía Đông nhưng không thể tiến qua Tiểu Đoàn 82 BĐQ và các lực lượng VNCH. Ở phía Tây, Trung Đoàn 270 CS tấn công năm lần vào lực lượng VNCH ở đó, chủ yếu là hai tiểu đoàn ĐPQ đóng ở trại Lê Lợi gần khu chợ trong thành phố. Mỗi lần Cộng quân tấn công là lại bị đánh bật ra. Có một lúc trận chiến trở thành xáp lá cà, “một trận chiến khủng khiếp bằng lưỡi lê và lựu đạn.” (46) Pháo binh VNCH được không quân yểm trợ hữu hiệu, tiếp tục bắn vào Cộng quân gây thương vong nặng nề. Thêm năm chiếc xe tăng T-54 bị huỷ diệt. Đến buổi trưa, Tướng Đảo phản công lần nữa. Thấy được hai trung đoàn của Sư Đoàn 341 CS bị giữ chân trong thị xã, ông Đảo đưa hai tiểu đoàn phản công hai mặt từ phía trong và ngoài thị xã. Lần phản công thứ hai này vượt quá sức chịu đựng của các binh lính còn quá trẻ của Sư Đoàn 341 CS. Trong lúc súng nổ liên tục và bị tổn thất nặng trong hai ngày, nhiều bộ đội CS sợ hãi, không còn muốn chiến đấu. Họ trốn trong hầm và những toà nhà đổ nát. Theo lời Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Tướng Cao Văn Viên, “Họ không biết về vùng đất, sợ đánh nhau và đạn pháo. Sau khi xâm nhập vào thị xã, họ núp trong cống và không bắn một viên đạn nào trong băng đạn 70 viên cơ bản của họ.” (47) Từng địa điểm một, quân VNCH giải toả những nơi mà Cộng quân đã chiếm hôm trước. Trong lúc đó các lực lượng ĐPQ và Tiểu Đoàn 1/43 VNCH đẩy Trung Đoàn 266 CS hoàn toàn ra khỏi thành phố. Vào tối ngày 10 tháng Tư, tất cả Xuân Lộc nằm trong tay quân VNCH nhưng phần phía Bắc của thị xã chỉ còn là một khu đổ nát nghi ngút khói. Ký giả Phillip Caputo của tờ Chicago Tribune viết: Hầu như mọi kiến trúc đều bị thiệt hại, và trung tâm thị xã bị biến thành một khu đổ nát. Đường phố thì đầy hố do những quả đạn 130 ly xé gió bay tới từ vùng đồi núi xanh bí hiểm ở phía Bắc. Những khu dân cư trước đây giờ là những đống gạch vụn và cột gỗ cháy thành than… Ngôi chợ chính, với những sạp gắn mái tôn quằn lại méo mó, trông giống như một bãi đồ phế thải, và bến xe buýt, nơi trận giao tranh đầu tiên diễn ra, chỉ còn nhận ra được bởi vài khung xe buýt cháy đen thui. Ngay cả gác chuông nhà thờ cũng không thoát. Trông giống như phần còn lại của một tháp chuông thời cổ, nó đứng lặng lẽ nhìn những tan hoang, những đám cháy, những tử thi chương sình và thối rữa dưới ánh nắng của những người lính Bắc Việt nằm rải rác trong những tư thế chết lạ lùng. “Cảnh vật giống như một thành phố sau Thế Chiến Thứ Hai”, một người lính miền Nam nói. (48) Tối đến nhưng những người lính VNCH vẫn không được ngưng nghỉ vì pháo Cộng bắn phá cả đêm. Cộng quân bắn thêm 2,000 quả vào thị xã buổi tối 10 tháng Tư. (49) Sư Đoàn 18 VNCH phản pháo hiệu quả, cố phá những điểm tập trung của địch. Sư Đoàn 341 CS ghi lại “Địch quân bắn phá các địa điểm pháo binh của ta trong vùng, cùng lúc đó bắn vào những con đường dẫn từ những căn cứ phía sau của ta vào thị xã. Vận tải cơ C-130 gắn đại bác 20 ly bắn rải hàng loạt xuống các vị trí của ta. Địch quân hy vọng phủ một bức màn lửa để chận nỗ lực tái tiếp viện đạn dược cho quân ta và công tác tải thương.” (50)
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 16:51:37 GMT 9
Mặc dù tổn thất nặng, các chỉ huy Bắc Việt vẫn không bỏ cuộc. Sáng ngày thứ ba, Cộng quân tiếp tục tấn công. Quân đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 chuyển trục tấn công vào Trung Đoàn 43 VNCH và nối kết với Sư Đoàn 7 CS. Lúc 05:30 sáng ngày 11 tháng Tư, pháo Cộng rót vào địa điểm của Trung Đoàn 43 suốt ba mươi phút. Lúc 6 giờ sáng, pháo Cộng chuyển qua hai vùng Núi Thị và Tân Phong. Sư Đoàn 7 CS cũng được lệnh tái tấn công. Kết quả cũng giống như cũ. Quân phòng thủ VNCH kiên cường đẩy lui những cuộc tấn công của cả hai sư đoàn địch. Thêm nhiều xe tăng T-54 của Cộng quân bị phá huỷ. Quân VNCH phản công, chận đứng xâm nhập của Cộng quân và giành lại những phần đất đã mất. Một lần nữa, Cộng quân không lấy nổi thị xã dù với tổn thất cực kỳ cao và vẫn tiếp tục tăng. Ông Hoàng Cầm viết, “Đây là trận đánh ác liệt nhất mà tôi từng tham dự! Nhận xét cá nhân của tôi là, sau ba ngày chiến đấu, ngay cả sau khi quân trừ bị của ta đã vào trận, tình hình vẫn chẳng tiến triển và ta tổn thất khá nặng.” Trong một phần chú thích, ông Cầm đã ghi lại những con số giống như trong quyển Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam: “Trong ba ngày đầu của trận chiến, Sư Đoàn 7 tổn thất 300 người vừa chết vừa bị thương, và Sư Đoàn 341 tổn thất 1200 người vừa chết vừa bị thương… hầu như tất cả đại bác 85 ly và 57 ly đều bị phá huỷ.” (51) Theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Bắc Việt, Tướng Văn Tiến Dũng, “Trận Xuân Lộc dữ dội và ác liệt từ những ngày đầu tiên… Những sư đoàn của ta đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào thị xã, tiến công và tái tiến công để phá tan từng mục tiêu, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (52) Trên thực tế, quyết định của Tướng Đảo để có được kho đạn và pháo binh dự trữ, sự sửa soạn toạ độ cho pháo binh để bắn vào những “khu tử thần”, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của không quân, và sự chỉ huy cương quyết của ông đã là những yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công của Sư Đoàn 18 VNCH với sự trợ giúp đắc lực của Tiểu Đoàn 82 BĐQ trong việc đẩy lui các cuộc tấn công của Cộng quân trong ba ngày đầu. Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH nhận thức được tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của tình hình tại Xuân Lộc. Phòng thủ thành công thị xã này là điều trọng yếu để bảo vệ Sài Gòn và nâng cao tinh thần của cả miền Nam. Nếu quân VNCH có thể làm cho Cộng quân thảm bại tại Xuân Lộc, miền Nam sẽ có thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, người chỉ huy trực tiếp của tướng Đảo, định dùng khả năng chuyển quân để dồn lực lượng trừ bị vào những nơi bị tấn công và tiêu diệt các đội hình của địch. Thêm vào đó, Tổng Thống Thiệu nói với ông Toàn rằng nếu ông Toàn có thể cầm chân ba sư đoàn cộng sản tại Xuân Lộc, "B-52 sẽ trở lại." (53) Tuy vậy, ông Toàn lo là Sư Đoàn 18 VNCH sẽ bị Cộng quân tràn ngập, do đó ông đã có nhiều hành động. Vào ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đơn vị trừ bị cuối cùng của ông, từ phía Tây Quân Đoàn III VNCH di chuyển về phía Xuân Lộc để mở lại Quốc Lộ 1 từ làng Hưng Nghĩa đến ngã ba Dầu Giây. (54) Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ đã bị tấn công dữ dội vào ngày 9 tháng Tư, đó là một phần trong kế hoạch tổng tấn công của cục “R” CS. Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, chỉ huy Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, đã bị tấn công vào cả hai cánh hông, nhưng ông đẩy lui được địch. Tuy vậy, quyết định chuyển Lữ Đoàn 3 đi để lại Sư Đoàn 25 VNCH ở Tây Ninh trong tình trạng bấp bênh, không có lực lượng trừ bị nếu bị tấn công. Lữ đoàn 3 Thiết Giáp tới Hưng Nghĩa vào 11 tháng 4 và lập tức chạm với Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chận trên Quốc Lộ 1 về phía Đông gần Hưng Lộc. Tướng Khôi điều động quân của ông để Chiến đoàn 315 đánh dọc Quốc Lộ 1 làm mũi chính trong khi ông cho Chiến đoàn 318 tiến về phía Bắc vừa để canh chừng bên hông cho mũi chính, vừa cố đi vòng qua chỗ cản của cộng quân trên Quốc Lộ 1. Ông giữ Chiến đoàn 322 làm trừ bị. Lực lượng của Tướng Khôi không tiến lên được. Ông Khôi sững sờ khi xe tăng của ông bị chận đứng, ông nói, "Đây là lần đầu tiên chúng tôi không vuợt qua được." (55) Vào lúc đó, tiểu đoàn 2/48 (đã gửi tới Hàm Tân để giữ an ninh cho đồng bào chạy loạn từ trước), được đưa vội về Xuân Lộc bằng trực thăng. Quan trọng hơn, sáng ngày 11 tháng Tư, Tướng Toàn cho di chuyển Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, một trong nhũng đơn vị cuối cùng của lực lượng tổng trừ bị VNCH, và, đối với ông Thiệu, là một phần của lực lượng bảo vệ Dinh Tổng Thống không chính thức, để tăng cường cho Sư Đoàn 18 VNCH. Tư lệnh của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh. Lữ Đoàn gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8 và 9, được yểm trợ bằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Trong vòng hai ngày, ông Toàn sử dụng tất cả trực thăng còn lại để bốn Tiểu Đoàn của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào Xuân Lộc; họ đáp xuống gần Tân Phong. (56) Đó là cuộc trực thăng vận lớn cuối cùng trong cuộc chiến. Một nguồn tin VNCH cho biết "Mọi trực thăng của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 4 Không Quân VNCH, tổng cộng một trăm chiếc UH -1B, chở hơn hai ngàn lính nhảy dù....tới trận chiến." Các trung đội pháo binh nhảy dù được vận chuyển bằng trực thăng Chinook tới bộ chỉ huy hành quân nhảy dù đặt ở bên cạnh bộ chỉ huy sư đoàn 18. (57) Thương binh và thường dân được chở đi sau khi trực thăng đổ quân xuống. Tướng Đảo cũng có một thay đổi nội bộ để bổ xung cho sự phòng thủ Xuân Lộc. Mặc dù bị cắt đứt với các đơn vị bạn và bị pháo kích, Trung Đoàn 52 VNCH vẫn giữ được một khúc Quốc Lộ 20 bắt đầu từ Ấp Phan Bội Châu ở phía Nam Dầu Giây tới Ấp Nguyễn Thái Học, và đến vị trí xa nhất là Đồi Móng Ngựa. Ngoài Tiểu Đòan 1/52, không đơn vị nào khác của trung đoàn bị bộ binh CS tấn công. Tuy nhiên 1/52 bị áp lực thường xuyên từ Trung Đoàn 33 CS. Ấp Phan Bội Châu là mục tiêu khá dễ dàng cho pháo binh Cộng Sản. Từng đợt pháo dội lên đầu các chiến sĩ VNCH đang cố thủ, và khi pháo tạm ngưng là bộ binh địch lại tấn công. Tiểu đoàn 1/52 đẩy lui nhiều đợt nhung đã chịu tổn thất nặng để hoàn tất nhiệm vụ. Mặc dù Tiểu Đoàn 1/52 phải chịu áp lực như trên, sáng mùng 10 tháng Tư, Tướng Đảo quyết định rút bớt Tiểu Đòan 2/52 từ Ấp Nguyễn Thái Học về tăng cường Xuân Lộc và ra lệnh cho Tiểu đoàn 3/52 gởi hai đại đội gần đó ra thay thế. (58) Tiểu đoàn 2/52 VNCH theo một đường mòn trong rừng phía Bắc Quốc Lộ 1 để tránh Trung Đoàn 274 CS đang chận ở Đèo Mẹ Bồng Con. Họ cắm trại ngắn qua đêm ở một đồn điền gần Ấp Núi Tùng , ngay phía Tây Bắc Xuân Lộc . Sáng sớm 11 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đụng độ toán Cộng quân giữ ấp. Một giao tranh ác liệt kéo dài mãi đến 4 giờ chiều cùng ngày. 2/52 giết trên 20 địch quân và tịch thu một đại bác phòng không 37 ly. Sau trận chiến, 2/52 đi tiếp tới Xuân Lộc và đóng gần Vòng Cua "Con Heo" ban đêm. Sáng 12 tháng Tư, Tiểu Đoàn 2/52 đánh vào lưng Cộng quân, xuyên qua tuyến địch, và bắt tay được với Trung Đoàn 43 VNCH vào trưa 12 tháng Tư. Trong trận đánh này, họ tịch thu trên sáu mươi vũ khí và tiêu diệt sáu mươi quân địch. (59) Ngày 12 tháng Tư, một tiểu đoàn nhảy dù đánh một trận chiến dữ dội với một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS. (60) Vào ngày 13 tháng Tư, Tướng Đảo đem hai tiểu đoàn Nhảy Dù khác từ phía Đông thị xã về tấn công Sư Đoàn 7 CS. Một tiểu đoàn dù tấn công và chọc thủng phòng tuyến địch tại làng Bảo Định dọc Quốc Lộ 1, giúp tiểu đoàn kia tiến lên và bao vây Tiểu Đoàn 8 của Trung Đoàn 209 CS. (61) Bị Sư Đoàn 18 chận đứng, và thấy quân VNCH được tung thêm vào Xuân Lộc, các chỉ huy Bắc Việt bắt đầu đánh giá lại tình hình và hoạch định chương trình mới. Quân Đoàn 4 CS khó chịu các báo cáo bắt đầu đến Cục "R" là Quân Đoàn 4 CS bị buộc phải rút lui . Sau những hăng hái về những báo cáo tốt đẹp lúc đầu, lãnh đạo Cộng Sản trở nên "rất lo lắng". Quân Đoàn 4 phàn nàn là “thiếu đạn dược đủ loại, và nhất là Sư Đoàn 341, 6 và 7 đều không đủ quân số bởi vì họ đã chiến đấu không nghỉ từ lúc bắt đầu giao tranh trên Quốc Lộ 20.” (62) Buổi trưa ngày 11 tháng Tư, sau cuộc bàn thảo giữa Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, và một số người khác, ông Trà được gửi tới thẳng đến Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 CS để lượng định tình hình, và nếu cần, nắm quyền chỉ huy. Thêm vào đó, ông Trà đem theo giấy chỉ đạo chiến thuật mới. Sau khi ông Trà vừa đi, ông Văn Tiến Dũng điện cho Hoàng Cầm và cho Cầm biết sơ về những lệnh mới ông Trà mang tới. (63) Thấy VNCH đã tập trung phần lớn lực lượng trừ bị còn lại để phòng thủ thành phố, ông Dũng và cục "R" thấy được tình trạng của Tướng Đảo có hai chỗ yếu: sự lệ thuộc của ông vào căn cứ Không Quân Biên Hòa, nơi xuất phát của phần lớn sự trợ giúp của không quân, và sự cô lập của Trung Đoàn 52 VNCH đang giữ ngã ba Dầu Giây, nơi không nằm trong hệ thống phòng thủ của ông Đảo. Ông Dũng ghi chú "một khi địch quân tập trung để… giữ Xuân Lộc, chúng ta không cần tụ lại để tấn công trực diện. Chúng ta cần di chuyển lực lượng để đánh vào đơn vị phản công địch ở vòng ngoài... trước khi địch đến đó. Chúng ta nên dùng pháo binh tầm xa để phá hủy căn cứ không quân Biên Hòa... để phi cơ địch không cất cánh được." (64) Cộng quân quyết định bỏ lối đánh trực diện và dùng lối khác để đạt được những gì mà đánh trực diện không đạt được. Ông Trà và các chỉ huy Bắc Việt chưa quên thất bại 1972 của họ tại An Lộc, lúc đó họ không chịu đi vòng qua thành phố mà cứ đánh thẳng vào thị xã, một tình thế giống như Xuân Lộc. (65) Sau cú điện thoại của ông Dũng , bộ tham mưu Quân Đoàn 4 mở một cuộc họp vào chiều 11 tháng Tư để duyệt xét tình hình. Theo lời chỉ đạo của ông Dũng, ông Cầm ra lệnh hai trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS vẫn tiếp tục giữ vị tri tạm của mình và rút lui từ từ. Trung đoàn còn lại của Sư Đoàn 7 CS được lệnh đánh vào bên hông những đơn vị Dù. Sư Đoàn 341 CS vẫn giữ vị trí và từ từ rút để chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào Núi Thị. Thêm vào đó, Cộng quân "làm những việc để phía địch tưởng là chúng ta sẽ tiếp tục tấn công để tràn ngập trong vòng mấy ngày tới." (66) "Kế hoạch nghi binh” của Cầm gồm thêm hai cuộc tấn công trực diện vào 12 tháng Tư. Cuôc tấn công bắt đầu tờ mờ sáng, đánh vào Tiểu Đoàn 1/43 tại phía Đông Bắc Xuân Lộc và kéo dài đến 9 giờ 30 sáng. Không Quân VNCH dùng máy bay vận tải C-130 làm máy bay dội bom, họ cột những chồng bom 750 cân Anh vào những bè gỗ và đẩy ra từ cửa lớn ở đằng sau máy bay. Pháo binh của VNCH cũng bắt đầu lại với sức tàn phá đầy hiệu quả. Khi quân Bắc Việt ngưng chiến, họ không chiếm được thêm đất, và quân VNCH đếm được 235 xác địch. Tình báo Hoa Kỳ tin rằng "Thiệt hại của địch quân chắc cao hơn xác đếm được nhiều." (67) Tới giữa trưa, Cộng quân mở cuộc tấn công lần thứ nhì, tung vào trận những đơn vị đã cạn lính của Sư Đoàn 341 để đánh Tiểu Đoàn 1/43 và các đơn vị tham mưu đang cố thủ. Khu trục cơ A-1 của Không Quân VNCH bay hai mươi phi tuần chống lại Cộng quân, phá vỡ hàng ngũ của binh lính Bắc Việt trước khi họ tới được vị trí của Tiểu Đoàn 1/43. Tướng Đảo quan sát rằng trong những cuộc tấn công cuối với những tổn thất rợn người, những chỉ huy địch phải dùng tay đẩy lính của họ ra khỏi những hố cá nhân. Thiệt hại của quân Bắc Việt lên đến hai ngàn người chết và bị thương, trong khi về phía QLVNCH chỉ tổn thất vài trăm người. Ông Đảo, Sư Đoàn 18, và các đơn vị trợ giúp đã biến Xuân Lộc thành một chiến trường đẫm máu cho Cộng quân. Sau trận chiến ngày 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS được tăng cường với chiến xa, những khẩu pháo và binh lính mới. Ông Trà ghi là "Quân Đoàn đã được tăng cường [với]… một chi đội xe tăng, một số khẩu pháo, súng phòng không và khẩn cấp đưa về binh lính tăng cường và đạn dược để chúng ta vẫn còn quân số chiến đấu tốt." (68) Chiều 12 tháng Tư, Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho Sư Đoàn 341 CS rút ra khỏi ngoại ô thành phố. Đến tối , Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đã rút lui xong để được tái võ trang; Trung Đoàn 270 của Sư Đoàn 341 thì thay đổi vị trí để yểm trợ cuộc đánh chiếm Núi Thị của Cộng quân. (69) Sư Đoàn 6 CS vẫn ở vị trí cũ dọc Quốc Lộ 1 hai bên Dầu Giây, phía Tây Xuân Lộc. Trong lúc đó, các đơn vị của Sư Đoàn 7 CS cố chận tiến quân của Nhảy Dù VNCH. Một điều đáng lo cho quân đội VNCH là Trung Đoàn 95B CS từ Tây Nguyên, một đơn vị của Quân Đoàn 2 Bắc Việt đã được xử dụng để tấn công Ban Mê Thuột tháng trước, đã bí mật đến Xuân Lộc vào 13 tháng Tư. Tướng Văn Tiến Dũng đã ra lệnh trung đoàn đó xuôi Nam ngay từ khi Quân Đoàn 4 CS gặp những trở ngại đầu tiên. Hành động này cho thấy ông Dũng hết sức lo lắng. Vào lúc đó, đơn vị lão luyện 95B CS có thể nói là một trong những trung đoàn bộ binh nhẹ thuộc loại ưu việt của thế giới. Họ đã tham dự trận Ban Mê Thuột, và sau đó đi về phía Bắc để giúp Sư Đoàn 320 CS trong việc phá hoại đoàn xe di tản của Quân Đoàn II VNCH trên Quốc Lộ 7B từ Cao Nguyên miền Trung. Sau này, Trung Đoàn 95B CS được xác nhận là đơn vị Cộng quân duy nhất được giao cho cả bốn Quân Đoàn Bắc Việt vào những lúc khác nhau trong cuộc tổng tấn công 1975. Gởi trung đoàn này tấn công những đơn vị VNCH đã kiệt sức có thể thay đổi cục diện ở Xuân Lộc. Tướng Trà đến bộ tư lệnh Quân Đoàn 4 CS vào ngày 13 tháng Tư và gặp bộ chỉ huy quân đoàn. Khi phân tích tình hình, Trà và các chỉ huy Bắc Việt đã đi đến một kết luận rõ ràng: “Xuân Lộc là một điểm tối quan trọng trên tuyến phòng thủ của địch, do đó họ tập trung nhiều lực lượng để cố thủ... Chúng ta không còn yếu tố bất ngờ. Do đó, chúng ta không còn lợi thế để tiếp tục đánh Xuân Lộc." Vì vậy, "Nếu chúng ta chiếm và giữ ngã ba Dầu Giây... Xuân Lộc không còn là một điểm chính yếu nữa vì nó nằm ngoài tuyến phòng thủ... Do đó chúng ta sẽ làm hai công tác: một, tập trung để đánh vào Dầu Giây từ hai phía. Hai, chúng ta sẽ rút khỏi Xuân Lộc." (70) Ông Trà nhận ra rằng lúc nào Sư Đoàn 18 còn có không quân yểm trợ hữu hiệu, Cộng quân cực kỳ khó khăn để lấy được thị xã đổ nát đó. Ông ta dự tính sẽ bí mật đem đại bác 130 ly vào trong tầm bắn đến Căn Cứ Không Quân Biên Hòa và bắt đầu pháo kích, tìm cách làm tê liệt phi trường hay là giảm bớt số phi vụ của không quân VNCH. Trong lúc Bắc quân bắt đầu rút từ ngoại ô thành phố vào đêm 12 tháng Tư, Tướng Đảo tiến lên ngay, không phí thời gian. Thấy Cộng quân rút lui, Trung Đoàn 43 và 48 của Sư Đoàn 18 VNCH lập tức chiếm lại phía bên ngoài bị mất lúc trước. Sư đoàn cũng lo nhận tiếp tế. Vào trưa ngày 12 tháng Tư, Không Quân VNCH đưa vào chín mươi ba tấn đạn pháo bằng tám trực thăng Chinooks. (71) Chinooks cũng chở pháo binh nhảy dù vào, và ông Đảo đã xử dụng những chiếc Chinooks này để hoàn tất việc tái tiếp tế cho những tiểu đoàn pháo binh của ông. Ngày hôm sau, QLVNCH chở thêm một trăm tấn tiếp tế, bao gồm thực phẩm và đạn súng nhỏ; tuy vậy, ông Đảo không hề biết sự thay đổi chiến thuật của Bắc quân và việc trung đoàn 95-B đã tới từ Cao Nguyên miền Trung. Chính phủ VNCH cố dùng sự giữ vững Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 để làm tăng niềm tin cho dân chúng đang sợ hãi và quân đội đang mất tinh thần. Trước đó, có những ký giả đã lái xe tới Hưng Xuân, Lộc Nghĩa phía Dầu Giây để tường thuật chiến trường nhưng không tới được Xuân Lộc. Biết rằng, cần một biến cố gì để lấy lại tinh thần sau những cuộc rút lui bi thảm từ hai Quân Đoàn phía Bắc, chính phủ VNCH tổ chức một cuộc thăm viếng Xuân Lộc cho báo chí để biểu dương chiến thắng. Vào ngày 13 tháng Tư, một buổi sáng chủ nhật trời nắng, những phóng viên đầu tiên bay vào thành phố bằng trực thăng Chinook. Họ đáp ở Tân Phong, nơi họ được nghe tường trình từ ông Chuẩn Tướng bất khuất, Lê Minh Đảo, người đã thề sẽ "đập tan" bất cứ bao nhiêu sư đoàn địch gởi tới. (72) Các phóng viên đi bộ vào thành phố trên Quốc Lộ 1 và xem xét những đổ nát phần phía Bắc thành phố sau năm ngày đánh không ngừng. Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Đại Tá Phạm Văn Phúc tường trình cùng báo chí, và Đại Tá Lê Xuân Hiếu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 đưa phóng viên đi bộ quan sát khu chợ, chỉ vào quân địch bị chết và triển lãm số lớn vũ khí tịch thu và vài tù binh. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng pháo của Cộng quân rớt xuống tạo ra những cụm khói bay lên. Phóng viên Nicolas Profitt của tờ Newsweek viết rằng, "Những đợt pháo và những trận đánh khốc liệt trên đường phố đã làm những khúc đường biến thành những đống tro trắng, gạch cháy đen và kim loại cong queo... khu chợ chính của Xuân Lộc từng nhộn nhịp bây giờ chỉ là đống gạch vụn cao hơn sáu tấc.” (73) Không may, chuyến về của báo chí bằng trực thăng là một mất mặt của QLVNCH. Những người dân địa phương cố giành giật để được một chỗ trên những chiếc Chinook, chỉ để bị vài đào binh VNCH đang tìm mọi cách để thoát khỏi thành phố, đẩy xuống. (74) Những người lính đang tải thương, bị tràn ngập bởi đám đông dân chúng, bỏ cả những thương binh trên cáng xuống đất, trong lúc những phóng viên Hoa Kỳ xô đẩy, chen lấn để leo lên những chiếc trực thăng quá tải. (75) Với cuộc trở về đầy cam go này, những câu chuyện của các ký giả đã rộng lượng một cách đáng ngạc nhiên đối với những binh sĩ sư đoàn 18 VNCH. Trong lúc chính phủ Nam Việt Nam tuyên cáo về thành công của họ, từ đêm 12 tháng Tư, Cộng quân đã điều động lực lượng của họ vào cuộc tấn công mới, một cuộc tập kích vào ngã Ba Dầu Giây. Ngày 13 tháng Tư, cuộc tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh của Cộng quân đẩy Tiểu Đoàn 1/52 VNCH, đã bị yếu đi qua các trận đánh, ra khỏi Ấp Phan Bội Châu đến tận bìa của ngã ba. Đêm đó, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 ra lệnh cho hai đại đội của Tiểu Đoàn 3/52 tới Dầu Giây bắt tay với 1/52 và lui về Ấp Nguyễn Thái Học. Di chuyển ban đêm qua những bụi rậm, quân VNCH cứu được Tiểu Đoàn 1/52 nhưng Dầu Giây bị bỏ ngỏ. Tiểu Đoàn 1/52 chỉ còn lại một phần ba quân số sau năm ngày bị Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS liên tục tấn công. Bị bao vây và không thể tải thương hoặc nhận tiếp tế, Trung Đoàn 52 rơi vào tình trạng bấp bênh. Sau khi Tiểu Đoàn 2/52 được đưa về tăng cường phòng thủ Xuân Lộc, sức phòng thủ của Trung Đoàn 52 yếu hẳn. Khi Tướng Đảo quyết định rút 2/52 về Xuân Lộc, chỉ có 1/52 là đụng trận nặng và Tướng Toàn đã hứa với ông Đảo là Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp sẽ tiến qua Hưng Lộc đến Dầu Giây. Dù sao, quyết định chuyển Tiểu Đoàn 2/52 ra khỏi Dầu Giây, dù đã thắng bất ngờ Cộng quân ở Ấp Núi Tùng ngày 11 tháng Tư, vẫn là một sai lầm về chiến thuật của Tướng Đảo . Giao tranh vẫn xảy ra ác liệt trong vùng của Lữ Đoàn 1 Dù VNCH trong khi Tiểu Đoàn 8 Cộng quân vẫn cố gắng thoát vòng vây. Nhưng quan trọng hơn là những trận chiến ở phía Tây, trong lúc Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp VNCH vẫn không thể vượt qua nút chận của Cộng Quân trên Quốc Lộ 1 để bắt tay với Trung Đoàn 52 VNCH . Tướng Khôi quyết định đi vòng qua chỗ chận của Sư Đoàn 6 CS bằng cách gửi LLĐN 315 và 322 đi về phía Bắc của ấp Hưng Lộc để liên kết thẳng với Trung Đoàn 52. LLĐN 315 được chia làm hai cánh, A và B. Cánh A tiếp tục dọc theo Quốc Lộ 1 chịu trách nhiệm phía Nam. Cánh B gồm có tiểu đoàn BĐQ 64 và Chi Đoàn 1/15 Thiết Giáp do Đại Úy Phạm Văn Ban chỉ huy và được trao nhiệm vụ chọc thủng tuyến phòng thủ của địch và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại Ấp Nguyễn Thái Học. Tới giữa ngày 14 tháng Tư, ông Ban đã thành công trong việc chiếm đồi 122, chỗ đất cao của Hưng Lộc, với những chống trả lẻ tẻ của Cộng quân. Tuy thế, nhiều giòng nước làm thiết giáp của ông không di chuyển thêm được, ông phải chờ công binh cố làm cầu đi qua. Cộng quân khám phá được sự di chuyển bất ngờ của Lữ Đoàn 3 và nhanh chóng phản công. Chẳng bao lâu lực lượng của ông Ban bị tấn công mạnh từ ba phía: Bắc, Đông, và Tây. Theo lời ông Ban, "địch quân tràn ra như kiến phóng ra tấn công biển người từ ba phía của ngọn đồi... trong tình hình nguy kịch tôi gọi bộ chỉ huy LLĐN cho pháo binh và không yểm. Không may chúng tôi chỉ nhận được vài trực thăng bắn phi đạn và rời đi ngay... Cộng quân tấn công càng lúc càng mạnh. Tôi tưởng là Việt Cộng sẽ tràn ngập đồi 122 hoặc là cô lập chúng tôi hoàn toàn... Bất ngờ Cộng quân rút lui và trận chiến lặng xuống... Chúng tôi có 20 người bị thương vong , BĐQ mất gần 40... Xác Việt cộng nằm rải rác trên ruộng lúa." (76) Cánh B của ông Ban đóng lại ban đêm trên đồi. Nỗ lực của Tướng Khôi để đi vòng phía Bắc bị chận lại, làm cho Sư Đoàn 18 và Trung Đoàn 52 bị tách rời nhau. Để phá vòng vây, quân VNCH vẫn tiếp tục vội vã tìm bất cứ phương tiện gì để quân bình lại cán cân trước những lợi thế về pháo binh và bộ binh của Cộng quân. Cho tới lúc đó, Không Quân VNCH đã giúp vận chuyển và oanh tạc hữu hiệu, gây thiệt hại cho Cộng quân. Bây giờ, cần có những biện pháp liều lĩnh và quyết liệt hơn. Một lợi điểm chiến thuật của Tướng Đảo là sự xử dụng hiệu quả của những làn sóng truyền radio của địch mà quân VNCH chận nghe được. Bộ tổng tham mưu QLVNCH đã xử dụng những nhóm hai mươi chuyên viên cho mỗi sư đoàn để theo dõi và chận bắt những truyền tin của địch. Ông Đảo nói, "Những đơn vị địch báo cáo vị trí và quân số tới bộ chỉ huy của họ. Mỗi ngày tôi định giá những tin tức nghe được và bắn pháo binh vào họ. Tôi cũng gởi những vị trí này lên Quân Đoàn III để sắp xếp oanh tạc vào những địa điểm đó." Không có B-52, không quân VNCH chọn thả những trái bom nặng mười lăm ngàn cân Anh được gọi là "Daisy Cutter" (77) vào những mục tiêu hàng đầu. Căn cứ vào những tin tức nghe được, ngày 14 tháng Tư , "Daisy Cutter" đầu tiên được thả vào địa điểm tình nghi là bộ chỉ huy Quân Đoàn 4 CS, mười hai cây số phía Đông Bắc của Xuân Lộc. Bảy mươi lăm phần trăm của Bộ Chỉ Huy này bị phá hủy. (78) Ngoài ra "Không Quân Việt Nam tự có sáng kiến là xử dụng tám vận tải cơ C-130 hàng ngày chở những thùng 55-galông đựng dầu và khí đốt để oanh tạc địch”, một chương trình được gọi là “Chiến Tranh Lửa”. (79) Hiển nhiên là những cuộc bỏ bom bằng C-130 của Không Quân Việt Nam là một trở ngại lớn cho Cộng quân. Lịch sử của Cộng quân không nhắc đến cuộc bỏ bom vào bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, mặc dù quân sử của đơn vị đó viết "Địch quân thả bom trung bình 80 phi vụ mỗi ngày, và ngày cao nhất lên đến 125 phi vụ. Họ còn thả một loại bom rất tác hại là CBU (bom bi), tạo những khó khăn lớn cho các đơn vị ta." (80) Sáng sớm 15 tháng Tư , mở màn cho một chiến dịch mới của Cộng quân, pháo Bắc Việt bắn vào Biên Hòa khi bốn đại bác 130 ly từ Tiểu Đoàn 26/Trung Đoàn Pháo 75 CS bắt đầu hoạt động. (81) Một toán đặc công lẻn vào căn cứ Biên Hòa và cho nổ kho đạn. Tiếng nổ rung chuyển Sài Gòn. Những quả pháo kích tiếp theo, chính xác hơn, làm hư hại phi đạo và nhiều phi cơ. Huyết mạch của Tướng Đảo, phi trường Biên Hòa, đóng cửa mất nửa ngày. Mờ sáng 15 tháng Tư, Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 CS và Trung Đoàn 95B CS bắt đầu phối hợp bất ngờ tấn công Tiểu Đoàn 1/52 và 3/52 VNCH đang giữ đồi Móng Ngựa và Ấp Nguyễn Thái Học. Nhiều ngàn quả đạn dội xuống hai đơn vị đã tổn thất và yếu mệt sau nhũng trận đánh liên tiếp. (82) Sau khi chiếm được nhiều cửa ngõ quan trọng, Trung Đoàn 33 CS sửa soạn tràn vào Ấp Nguyễn Thái Học, nhưng họ đổi hướng để quay sang giúp chống lại cánh quân VNCH của Đại Úy Ban đang tiếp tục hành quân. Về phía Bắc, Trung Đoàn 95B CS bắt đầu tấn công đại đội VNCH duy nhất đang giữ đồi Móng Ngựa. Sau khi đánh bật ba đợt tấn công, chỉ huy Trung Đoàn 52 VNCH ra lệnh một đại đội khác từ Tiểu Đoàn 3/52 tới tăng cường cho đại đội ở trên đồi. Ngay lúc quân tăng viện mang tiếp tế và tải thương tới, 95B CS mở cuộc tấn công thẳng lên đồi. Từng đợt bộ binh Cộng Sản tràn qua những cánh đồng trống, nhưng bị đốn gục bời binh sĩ Cộng Hòa. Một tiểu đoàn Cộng quân đi theo Quốc Lộ 20 để đánh vào hông quân VNCH trên đồi nhưng bị chận lại bằng hoả lực pháo binh. Tiểu Đoàn Trưởng của 3/52 nói, “Đại Đội 1 và 4 trên đồi Móng Ngựa phải đánh bật đợt tấn công này sang đợt khác... lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng Tư một sĩ quan phòng thủ đồi báo cáo ‘Không còn gì xung quanh chúng tôi... xác địch che đầy chân đồi và cây cối trong rừng hoàn toàn bị phá hủy, đến nỗi trông như sườn đồi cũng thay đổi.... Đỉnh đồi màu xanh đã thành trơ trọi, không còn cây cỏ. Những khu vườn biến thành đống rác lớn. Gốc cây và xác người chồng lên nhau từng hàng.' “ (83) Có lẽ giây phút “hãnh diện nhất" cho Sư Đoàn 18 là trong một ngày đánh nhau khốc liệt, hai đại đội binh sĩ VNCH với sự yểm trợ của pháo binh đã gây tổn thất nặng cho một trong những trung đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt . Không chiếm được ngọn đồi, Cộng quân dùng loa phóng thanh để kêu gọi lính Cộng Hòa đầu hàng. Đến chiều cùng ngày, Cộng quân tấn công Ấp Nguyễn Thái Học, nơi hai đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52 , Chi Đoàn Thiết Giáp 3/5 và thành phần còn lại của Trung Đoàn 52 đang đóng. Lúc 18 giờ, sau một ngày chiến đấu và bị pháo liên tục, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng 52 ra lệnh rút lui ban đêm về phòng tuyến quân bạn.Tới lúc đó, binh sĩ VNCH ở trên đồi Móng Ngựa cũng đã chiến đấu đến hết đạn, họ đành rút lui để tái nhập tiểu đoàn 3/52. (84) Quân VNCH chia làm hai đoàn vào lúc 18:30 giờ, với Đại Tá Dũng chỉ huy đoàn thứ nhất đi với thiết giáp ra khỏi đồn điền, và Tiểu Đoàn 3/52 là đoàn thứ nhì. Những khẩu pháo được phá hủy trước khi rút. Một sĩ quan VNCH viết, "Chúng tôi không thể làm gì hơn. Cộng quân bắn mấy ngàn quả đạn – mấy ngàn. Rồi họ tấn công bằng hai trung đoàn bộ binh sáng nay. Tổn thất của chúng tôi không phải là nhẹ, do đó chúng tôi băng rừng để thoát." (85) Cộng quân lại pháo hàng ngàn lần để ngăn Sư Đoàn 18 và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiếp cứu Trung Đoàn 52. Dù Sư Đoàn 18 đã phòng thủ rất anh dũng, Cộng quân, với khả năng hành quân nhanh chóng, đã chuyển lực lượng bộ binh nhẹ qua rừng rậm và bọc sườn quân Cộng Hoà. Tuyến phòng ngự tại ngã ba Dầu Giây bị tan rã. Những gì được xưng tụng là chiến thắng hai ngày trước bây giờ đã trở ngược. Thất bại của VNCH khi không mở được Quốc Lộ 1 từ ngã ba Dầu Giây đến Xuân Lôc sau ngày 9 tháng 4, và không phòng thủ Dầu Giây với một lực lượng mạnh hơn đã gây một thiệt hại lớn cho Miền Nam Việt Nam. Ngày hôm sau có thêm những tin xấu. Chiến xa và bộ binh Bắc Việt đã tràn ngập Phan Rang trên Quốc Lộ 1 ở Quân Đoàn II, phòng tuyến lớn cuối cùng ở phía Bắc Xuân Lộc. Sớm hôm đó, các đơn vị của Sư Đoàn 341 CS tiến về phía Bắc Quốc Lộ 20, chiếm Kiệm Tân và Túc Trưng. Sự thất thủ Phan Rang, trận pháo kích Biên Hòa, và mất đoạn Quốc Lộ 20 cuối cùng làm rúng động Sài Gòn và làm tiêu tan cơ hội cuối cùng của Nam Việt Nam để có thể chận đứng Cộng quân. Ngày 17 tháng Tư, Uỷ Ban Quốc Phòng Thượng Viện Mỹ phản ảnh mong muốn của đại đa số quốc hội muốn chấm dứt chuyện Viêt Nam, bác bỏ yêu cầu viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho miền Nam Việt Nam của chính phủ Ford. Dù sao, nếu yêu cầu viện trợ này có được chấp thuận, cũng không ảnh hưởng gì đến kết quả trên chiến trường. Lúc đó đã quá trễ cho sự viện trợ. Chỉ có sự sử dụng Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ mới có thể chận được Cộng quân và cho miền Nam thời gian và không gian cần thiết để phòng thủ những gì còn lại của VNCH. Tướng Toàn không thể chờ sự xuất hiện của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Ông lập tức ra lệnh cho Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5 VNCH do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy đến giúp Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp của Chuẩn Tướng Khôi chọc thủng điểm chặn của Cộng quân trên Quốc Lộ 1. Đơn vị của ông Hùng đang giữ Phú Giáo, một tỉnh phía Bắc của Lai Khê, căn cứ chính của Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 VNCH. Họ mất bốn tiếng để tới Hưng Nghĩa, cách Dầu Giây 2.5 cây số, nơi họ gặp lực lượng của ông Khôi. (86) Ông Khôi giao Chiến đoàn 322 cho ông Hùng và ra lệnh cho ông Hùng giải toả Quốc Lộ 1. Mặc dù bị tấn công liên tục, Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 của Cộng quân ở Hưng Nghĩa và Hưng Lộc quyết tử thủ; và lực lượng VNCH đã không tiến lên được. Ông Hùng nói, "Cộng quân đã thiết lập khoảng mười công sự phòng thủ, mỗi chỗ được một trung đội chống giữ, không thể chọc thủng được." Quân Sử Quân Đoàn 4 viết, "Trận đánh tại Hưng Nghĩa và đồi 122 rất khốc liệt." (87) Sau nhiều ngày đánh nhau, Sư Đoàn 341 CS tiến vào để thay thế Trung Đoàn 95B và Sư Đoàn 6 CS. Trong lúc đó, bốn khẩu 130 ly của Cộng quân và một đại đội hỏa tiễn 122 ly vừa được tăng cường tiếp tục bắn phá không ngừng vào phi trường Biên Hòa mặc dù quân VNCH cố gắng hết sức để tìm kiếm và tiêu diệt họ. Những cuộc pháo kích đã giới hạn khả năng không quân để trợ giúp Tướng Đảo và Tướng Khôi. Ba trăm hai mươi sáu quả đạn 130 ly bắn vào phi trường Biên Hoà từ 14 đến 26 tháng Tư đã giúp đánh hồi chuông báo tử cho Xuân Lộc. (88) Những đoàn quân Cộng Sản dọc bờ biển tiếp tục tiến như chẻ tre về phía Nam. Vào 18 tháng Tư, Phan Thiết, chỉ cách Xuân Lộc bảy mươi cây số, rơi vào tay Cộng quân. Ngày 20 tháng Tư, Sư Đoàn 325 CS và những đơn vị tiền phương của Quân Đoàn 2 Bắc Việt tới Rừng Lá, một làng trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Xuân Lộc 20 cây số về phía Tây. Với sự thất thủ ở ngã ba Dầu Giây, với Sư Đoàn 18 bị bao vây và đang đối diện với một cuộc tấn công biển người của những đơn vị Cộng quân dày dạn chiến trường, một tập trung lực lượng đông đảo nhất của Cộng Sản trong cả cuộc chiến Viêt Nam, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH không còn chọn lựa nào khác. Vào 09:00 giờ ngày 20 tháng Tư, Tướng Toàn bay vào Xuân Lôc gặp Tướng Đảo. Lệnh của ông Toàn khô khốc: rút lui ngay. Tướng Toàn cần lực lượng của Tướng Đảo để đánh những trận sắp tới cho Sài Gòn. Ông Đảo và ông Toàn quyết định là Sư Đoàn 18 sẽ rút theo đường số 2, một con đường đất đi về phía Nam đến tỉnh Phước Tuy, khi tới nơi họ sẽ được chở bằng xe nhà binh đến Long Bình để tái trang bị và được tăng cường. Trong khi Tướng Đảo đồng ý với quyết định của Tướng Toàn, ông vẫn lo về việc rút lui trên một con đường vừa bị Sư Đoàn 6 CS tấn công. Tai hoạ trên đường rút quân của Quân Đoàn I và II vẫn ám ảnh ông. Để đi thoát, Sư Đoàn 18 cần phải đi bộ bốn mươi cây số ban đêm trên một con đường đất từ Xuân Lộc đến nơi tập trung ở Đức Thạnh, một điều khó thực hiện trong đêm tối. Do đó, ông Đảo gởi một sĩ quan tham mưu trong bộ chỉ huy G-3 của ông đi thám thính con đường bằng trực thăng để xem tình trạng của con đường và xem có chốt chặn của cộng sản hay không. Sĩ quan đó báo cáo lại là con đường đi được và có vẻ không có Cộng quân. Mặc dù du kích CS địa phương vẫn quấy phá trên đường, Tướng Đảo tin là ông có thể dẹp họ một cách dễ dàng. Ông ta lo lắng hơn về việc lặng lẽ rút sao cho địch quân còn đang ở chung quanh thị xã không hay biết. Nếu Cộng quân biết được, quân của ông có thể bị tràn ngập dễ dàng. Tướng Đảo lên kế hoạch lừa địch để họ mất tập trung. Ông ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù VNCH mở cuộc tấn công lớn vào Sư Đoàn 7 ở phía Đông thị xã. Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 2/43 và hai đại bác trên Núi Thị ở lại và làm một phần lực lượng bảo vệ phía sau. (89) Nhảy dù, được yểm trợ bằng "lượng pháo dữ dội" quần thảo cả ngày 20 tháng Tư với các lực lượng của Sư Đoàn 7 CS, chủ yếu là Trung Đoàn 141. Với chỉ nửa ngày để sửa soạn chiến lược mang Sư Đoàn 18 ra, Tướng Đảo quyết định chương trình như sau: Tướng Đảo sẽ đi với Trung Đoàn 43, trong khi Đại Tá Ngô Kỳ Dũng lái trực thăng chỉ huy của Tướng Đảo để ra lệnh và kiểm soát. Đơn vị đầu tiên rời Tân Phong lúc 20:00 giờ là Trung Đoàn 48, tiếp theo là Liên Đoàn 5 Thiết Kỵ, rồi đến những lực lượng pháo binh và các đơn vị điều động, công xa và công binh do Đại Tá Hứa Yến Lến chỉ huy. Khi pháo binh tới căn cứ cũ của Trung Đoàn Thiết Kỵ Hoa Kỳ ở Long Giao, họ sẽ thiết lập một căn cứ hỏa pháo, có đại đội trinh sát bảo vệ, để yểm trợ cuộc rút lui. Kế tiếp là các đơn vị ĐPQ và dân chúng. (204) Tiếp theo là hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 43, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 BĐQ là lực lượng chót trong đoàn. Đến khuya, Tiểu Đoàn 2/43 sẽ rời Núi Thị và gặp Lữ Đoàn 1 Dù tại Tân Phong. Hai đơn vị đó sẽ rời Xuân Lộc vào rạng ngày 21 tháng Tư. Khi đoàn quân bắt đầu rút, Tham Mưu Trưởng Hứa Yến Lến nhớ lại: Tướng Lê Minh Đảo đi chung với những đoàn lính để cho lệnh và hành động lập tức nếu gặp trở ngại trên đường rút. Một trực thăng chỉ huy bay trên đường rút suốt đêm để cung cấp phương hướng và để yểm trợ, nếu cần. Đường số 2 là đường chính để xe cộ và gia đình binh lính đi từ Xuân Lộc đến điểm tập trung Đức Thạnh. Mặc dù lực lượng du kích Việt Cộng địa phương cố chiếm một số địa điểm dọc đường và thiết lập ổ phục kích trên những đồi dọc đường số 2 để làm chậm lại cuộc di tản và gây tổn thất cho ta, sự chiến đấu với tinh thần cao của tất cả binh sĩ mọi cấp của sư đoàn 18 bộ binh và các đơn vị trực thuộc đã gạt ra dễ dàng những điểm chặn và phục kích của địch . Kết quả là tất cả mọi lực lượng đã có thể tới được khu tập trung Đức Thạnh an toàn vào sớm ngày hôm sau 21 tháng Tư 1975. (90) Mặc dù nhiều nguy hiểm, cuộc rút lui của Tướng Đảo và Sư Đoàn 18 là một sự dàn xếp bậc thầy. Tài chỉ huy của ông Đảo một lần nữa tạo được sự khác biệt. Đi bộ lên xuống trong đoàn suốt đêm. Tướng Đảo khuyến khích đoàn binh đã thấm mệt tiếp tục di chuyển và bảo vệ đồng bào cùng rút lui. Quân Bắc Việt sững sờ vì cuộc triệt thoái bất thình lình. Quân Đoàn 4 CS ra lệnh cho mọi đơn vị truy kích quân VNCH nhưng không bắt kịp bởi vì "Chúng ta đã trễ trong chuyện phát hiện di chuyển của địch và đã không tổ chức được một cách thích hợp lực lượng chận địch." (91) Tuy thế mọi chuyện không xảy ra êm thắm cho Lữ Đoàn 1 nhảy dù và tiểu đoàn 2/43, lực lượng đoạn hậu. Theo lời một cựu sĩ quan Sư Đoàn 18. Trong cuộc triệt thoái, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đương đầu với nhiều nguy hiểm nhất và tổn thất nhiều nhất vì họ là đơn vị cuối cùng và được trao cho trọng trách đoạn hậu… Hôm 20 tháng Tư, khi lệnh rút lui được ban hành, Lữ Đoàn còn đang giao tranh kịch liệt tại Bảo Định, và các binh sĩ chết và bị thuơng của Lữ Đoàn vẫn chưa đuợc di tản. Tất cả đã phải bị bỏ lại, như đã xảy ra trong cuộc hành quân Lam Sơn ở Hạ Lào [Lam Sơn 719 vào tháng Hai - tháng Ba 1971]. Chuyện này bắt buộc phải làm, bởi vì, đối với những người sống sót, đi qua con đường thoát hiểm dài hơn 40 cây số qua những rừng cao su đen kịt như là đi qua những cửa địa ngục. Đây là những bi kịch mà người lính VNCH phải đối đầu. Đúng 9:00 giờ tối ngay khi những tiểu đoàn dù đến đường số 2 họ gặp phải một cảnh đáng nhớ và cảm động. Tất cả những gia đình Công Giáo từ giáo phận Bảo Định, Bảo Toàn, và Bảo Hòa tập trung dọc theo hai bên đường chờ để đi theo binh sĩ VNCH trong cuộc di tản... Việc đi qua nhiều cây số trên con đường rừng bỏ hoang, Liên Tỉnh Lộ 2 từ Tân Phong tới Đức Thạnh, quả thật không dễ cho một đoàn người dân chạy loạn lẫn lộn với lính ....chỉ có Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, bảo vệ bởi một đại đội trinh sát dù, đi trên đường. Những tiểu đoàn Dù khác đều di chuyển qua những rừng cây cao su, bọc phía sau. Vào 4:00 giờ sáng ngày 21 tháng Tư, 1975, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù và Đại Đội Trinh Sát Dù bị hai tiểu đoàn Việt cộng phục kích tại ấp Quí Cà gần ranh giới tỉnh Long Khánh - Phước Tuy. Hầu như tất cả trung đội pháo C và trung đội trinh sát nhảy dù đều bị chết hay bị thương trong cuộc tấn công biển người đó... Ngoại trừ những tổn thất vừa kể cuộc di tản trên đường 2 diễn tiến tốt." (92) Có một sự hiểu lầm giữa Tướng Đảo và Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, chỉ huy Lữ Đoàn 1 Dù. Ông Đảo cần Tiểu Đoàn 2/43 giữ Núi Thị để bảo vệ phía Bắc của cuộc triệt thoái. Tiểu đoàn này sẽ rút lui từ từ và gặp Nhảy Dù tại Tân Phong. Không may, ông Đỉnh rút và để lại 2/43. Khi tới Đức Thạnh, Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng 43, báo cáo là Nhảy Dù gặp trở ngại tại ranh giới Long Khánh - Phước Tuy. Tướng Đảo lập tức lên trực thăng và bay về phía vị trí của Nhảy Dù để giúp họ và chỉ đường cho không quân đánh. Dọc đường, ông Hiếu gọi ông Đảo bằng radio và cho ông Đảo biết 2/43 vẫn đang chờ ở Tân Phong. Ông Đảo đổi qua tần số của Tiểu Đoàn 2/43 và ra lệnh không dùng đường 2, mà phải đi xuyên rừng để tránh những vị trí của cộng sản. (105) Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế ra lệnh cho lính của ông phân tán thành những đơn vị nhỏ. Mất ba ngày để họ rút lui qua rừng, chiến đấu suốt dọc đường. Họ bị tổn thất nặng với hơn 50% tiểu đoàn bị thiệt hại. Một tổn thất nặng thứ hai trên đường rút là Trung Tá Tiểu Khu Phó Long Khánh Lê Quang Định bị tử thương khi xe jeep của ông bị trúng đạn B-40 của Cộng quân, và Cộng quân bắt được Đại tá Tỉnh Trưởng/Tiểu Khu Trưởng Phạm Văn Phúc và một số sĩ quan của ông. (93) Ông Phúc và ông Định đã quyết định rút lui cùng với Nhảy Dù, trong khi phẩn lớn ĐPQ của tiểu khu đã rời thành phố với Sư Đoàn 18 trong đêm. Ngày 22 tháng Tư, lực lượng Nhảy Dù được lệnh tách khỏi Sư Đoàn 18 và đến phòng thủ Vũng Tàu. Lữ đoàn ở gần thành phố cảng nầy cho đến khi lệnh đầu hàng tới vào ngày 30 tháng Tư. Dù quân VNCH đã rút khỏi Xuân Lộc, giao tranh vẫn không ngừng hẳn. Những toán đo độ sóng truyền tin của QLVNCH đã định được tọạ độ của bộ tư lệnh Sư đoàn 341 CS từ những rất nhiều thông tin qua lại trong khi đơn vị này cố sức tìm bắt cho được lực lượng VNCH rút lui. Không Quân VNCH quyết định đánh bom bằng một vũ khí sát hại cao, CBU-55, một loại bom bi hơi ngạt với không khí - nhiên liệu, thiết kế với mục đích nguyên thuỷ là để dọn bãi mìn: Với sự giúp đỡ của chuyên viên DAO Mỹ, phi công VNCH chế biến một giá đỡ bom cho quả bom… một thiết bị giết người khủng khiếp được biết dưới tên là CBU-55. Sự hiệu quả của vũ khí ghê gớm nầy đã được chứng minh không còn một chút nghi ngờ vào chiều thứ Ba [22 tháng Tư giờ Sài Gòn]. Một C-130 vận tải cơ với một CBU bay lên từ Tân Sơn Nhất, bay vòng Xuân Lộc một lần về phía Đông, và thả bom CBU trên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341 ở ngay bên ngoài thị xã mới chiếm được. Tổn thất rất lớn, trên 250 Cộng quân bị thiêu hoặc chết vì ngạt trong vùng chân không sau khi bom nổ, và trong một khoảnh khắc quân của Tướng Dũng bị lảo đảo khi đang bước." (94) Ngay khi cộng sản tìm được nguyên nhân của lần tấn công đó, họ tố cáo dữ dội rằng Sài Gòn "coi thường tất cả những luân lý thông thường và luật lệ quốc tế" và lên án những viên chức ra lệnh xử dụng vũ khí đó là "tội phạm chiến tranh." (95) Cuộc thả bom những CBU-55 là cú đánh cuối cùng trong trận chiến Xuân Lộc, mặc dù Lữ Đoàn 3 của Tướng Khôi và Trung Đoàn 8 của Trung Tá Hùng vẫn đánh ở Hưng Nghĩa. Vào 22 tháng Tư, Trung Đoàn 8 thực ra đã chiếm lại được thị trấn sau khi giao tranh nặng nề và tiến lên phía Dầu Giây, nhưng được lệnh ngưng khi Sư Đoàn 18 rút lui. (96) Ngày 25 tháng Tư, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ được lệnh rút về Biên Hòa để nghỉ ngơi và bảo trì chiến xa và xiết chặt vòng đai phòng thủ Sài Gòn . Lực lượng của Tướng Đảo dưỡng quân ở Long Bình được ba ngày. Họ đã phá hủy hơn ba mươi xe tăng địch, gây tử thương cho nhiều ngàn địch quân, và sấp sỉ số đó bị thương, trong lúc chính họ cũng bị tổn thất nặng. Buổi sáng 30 tháng Tư, Sư Đoàn 18 của Tướng Đảo đang ở Nghĩa Trang Quân Đội Quốc Gia khi chính phủ VNCH đầu hàng. Ông Đảo liên lạc với gia đình, rồi ông mặc thường phục và trốn về phía Cần Thơ với cố gắng kết hợp với bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV VNCH, hy vọng Quân Đoàn IV và các lực lượng VNCH sẽ tiếp tục chiến đấu. Mặc dù chính phủ đã đầu hàng, ông muốn chiến đấu tiếp. Khi ông tới được Cần Thơ và biết được rằng Tư Lệnh và Phó Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã tự sát, ông hiểu rằng mọi chuyện đã kết thúc. Ngày 9 tháng Năm, Ông Đảo ra trình diện nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong mười bảy năm kế tiếp, ông Đảo bị giam trong một trại tù cải tạo. (97) Nhận Xét của Tác Giả George Veith Tuy rằng chương trình cục "R" tấn công Sài Gòn từ phía Đông Bắc bị phá hỏng , nhưng cuối cùng các lực lượng Quân Đoàn III cũng không chống nổi cả một quân đội Bắc Việt. Mặc dù bị mang tiếng tham nhũng và thiếu khả năng, QLVNCH, như đã thấy trong trận chiến Xuân Lộc, không phải là một đạo quân không làm được việc và hèn nhát như báo chí ở Mỹ thường nói. Khi những người bắt ông Đảo hỏi tại sao ông không chạy thoát như những tướng lãnh khác của VNCH, ông Đảo nói với họ là ông không thể bỏ những binh sĩ đã chiến đấu cực khổ vì ông. Tôi là Tướng của họ, ông nói với cai tù, và nếu các ông còn giữ một thuộc cấp nào của tôi, tôi muốn tôi là người cuối cùng của Sư Đoàn 18 VNCH được thả. "Nếu không, tôi không dám nhìn mặt họ," ông nói. Nói về trận Xuân Lộc, ông Đảo bình thản tuyên bố, "Chiến đấu là môt nghệ thuật; bạn không thể chỉ sử dụng tay chân, mà phải dùng cả trí óc. Mặc dù chúng tôi biết là chúng tôi đã thua trong cuộc chiến, tôi vẫn chiến đấu. Tôi đã tràn đầy tuyệt vọng sau khi mất các Quân Đoàn phía Bắc, nhưng tôi vẫn chiến đấu." Ông đã trả lời tương tự cho một phóng viên trong chuyến thăm thị xã Xuân Lộc vào 13 tháng Tư , 1975 "Tại sao quân Cộng Hoà chiến đấu tại Xuân Lộc mà không ở phía Bắc?” “Làm sao tôi có thể trả lời cho họ,” Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 VNCH nói, “tôi chỉ trả lời cho tôi, và chúng tôi đã chiến đấu." (98) Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo được thả khỏi tù vào 4 tháng Năm 1992 và tới Hoa Kỳ vào tháng Tư 1993. Ông hoạt động trong những cộng đồng người Việt lưu vong, dùng nhiều thì giờ để đi thăm binh sĩ cũ của ông, phần lớn là sĩ quan, bởi vì rất ít binh sĩ cấp dưới rời Việt Nam. Ông yêu cầu người viết, "Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Binh sĩ của tôi, những người đã chết ở Xuân Lộc và cả trăm trận đánh trước, mới thực sự là anh hùng." Không cần gọi Tướng Lê Minh Đảo là anh hùng. Có những sự thật tự nó đã là bằng chứng. Sơ Lược về Các Tác Giả
George J. Veith là cựu Đại Uý Thiết Giáp Quân Đội Hoa Kỳ và là tác giả quyển “Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts During the Viet Nam War (New York: Free Press, 1997). Ông sẽ cho xuất bản sắp tới “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for America POW/MIA’s from the Vietnam War.”
Merle L. Pribbenow II về hưu từ the Central Intelligence Agency vào 1995 sau hai mươi bảy năm làm viêc với chức vụ điều hành viên về Ngôn Ngữ Việt Nam và Công Tác. Những bài viết của ông về lịch sử Chiến Tranh Việt Nam đã được phát hành trong “Vietnam , Parameters, and Military Review.” Bản dịch của ông về lịch sử cuôc chiến, chính thức của Bộ Quốc Phòng “Victory in Vietnam”, đã được phát hành vào 2002 bởi “University Press of Kansas”.
***
(1) Phỏng Vấn Cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, East Hartfort, Connecticut, 7 tháng Tư, 2001. Ông giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 18 QLVNCH từ tháng 3, 1972. Tháng 11, 1972, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng và tiếp tục chỉ huy Sư Đoàn 18 cho tới ngày miền Nam Việt Nam mất. Ngày 24 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Trần Văn Hương ra nghị định thăng cấp cho ông lên Thiếu Tướng. Cuộc phỏng vấn với tác giả Veith là lần nói chuyện đầy đủ đầu tiên với vị Tướng của QLVNCH chỉ huy trong trận chiến Xuân Lộc sau khi ông được ra tù vào tháng Năm, 1992. Ông là một trong bốn vị tướng được thả sau cùng trong số những sĩ quan VNCH bị Cộng Sản giam giữ. Các tác giả xin cám ơn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo về những nỗ lực của ông để giúp tác giả thấu hiểu về góc nhìn của QLVNCH trong trận Xuân Lộc. Tất cả những chuyện về Tướng Lê trong bài viết là từ cuộc phỏng vấn và những trao đổi sau đó.
(2) Tuỳ Viên Quân Sự Sài Gòn, Nhận Định Sau Cùng Về Không Quân VNCH, Tháng Một Đến Tháng Tư 1975 [Phổ Biến Công Khai ngày 19 tháng Một, 1980] (Washington: Bộ Lục Quân Hoa Kỳ, 1975), 5-19. Các tác giả xin cám ơn Ông Dale Andrade tại Trung Tâm Lịch Sử Quân Đội đã cung cấp những trích đoạn từ các bản báo cáo của Văn Phòng Tuỳ Viên Quân Sự về trận Xuân Lộc.
(3) Theo: Biệt Động Quân QLVNCH (Tác giả tự xuất bản, Carrollton, MD, 1996), 94.
(4) Nguyễn Quốc Dũng, Phan Xuân, Hồ Sĩ Lương, Phạm Xuân Trường, Lê Văn Chương, Binh Đoàn Cửu Long (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1989) 80. Trong Chiến Dịch Đường 14 – Phước Long, Quân Đoàn 4 có mật danh là “Nhóm 301”. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4.
(5) Hoàng Cầm và Nhật Tiến, Chặng Đường Mười Nghìn Ngày: Hồi Ký ((Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1995), 436. Các tác giả xin cám ơn ông Robert Destatte đã cho chúng tôi mượn quyển sách này và nhiều sách khác trong thư viện các sách từ Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân rất phong phú của ông. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Hoàng Cầm, Hồi Ký.
(6) Trần Văn Trà, Lịch Sử Chiến Tuyến B-2, vol. 5, Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm (Arlington, Va.: JPRS, 1982), 144. Dịch tại JPRS #82782. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2.
(7) Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn Phi Yên, và Nguyễn Văn Thắng, Sư Đoàn Sông Lam (Hanoi: Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1984), 36. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Nguyễn Thanh Hồng at al, Sư Đoàn 341.
(8) Vì Sư Đoàn 6 không tồn tại lâu nên rất ít tài liệu được ghi lại trong lịch sử của quân đội Bắc Việt. Do đó, bài viết chỉ có chi tiết tổng quát về hoạt động của Sư Đoàn 6 CS trong trận Xuân Lộc. “Cuộcc Họp Mặt B500 Giữa Thành Phố Mang Tên Bác”, Báo Quân Đội Nhân Dân, 3 tháng Hai, 1995.
(9) Không có nghi ngờ rằng Quân Đoàn 4 CS có một trung đoàn thiết giáp. Quân sử của Quân Đoàn 4 CS có những chi tiết xác nhận là họ có Trung Đoàn 26 thiết giáp. Tuy vậy, quân sử của Quân Đoàn 4 không hề nhắc đến Trung Đoàn 26 thiết giáp trong trận Xuân Lộc, mặc dù có nói mơ hồ rằng “tất cả thiết giáp đều được tung vào trận đánh.” Một tù binh bị bắt trong ngày đầu tiên thuộc tiểu đoàn 25 công binh của Sư Đoàn 7 CS khai rằng sư đoàn này có 20 xe tăng. Trong khi khá chắc chắn rằng một tiểu đoàn 8 chiếc xe tăng đã được xử dụng trong ngày đầu, những xe tăng còn lại không rõ là ở đâu vì Sư Đoàn 6 và 341 đều không có xe tăng.
(10) Nguyễn Hữu Chế, Người Ở Lại Định Quán (http://www.sudoan18bobinh.com/nguoi-o-lai-dinh-qua/4516877282)
(11) Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7: Ký Sự (Hanoi: Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1986), 266. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7.
(12) Phỏng vấn bằng điện thoại với cựu Tiểu Đoàn Trưởng 2/43, Thiếu Tá Nguyễ Hữu Chế, Warran Michigan, 22 tháng Tám, 2001.
(13) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 158.
(14) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 442.
(15) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 52.
(16) Không có bằng chứng chắc chắn về việc Trung Đoàn 273 CS đánh Xuân Lộc. Quân sử của Sư Đoàn 341 CS không nhắc gì về trung đoàn này tham dự trận đánh.
(17) Theo lời Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/52 VNCH, ông Huỳnh Văn Út, dân chúng tại Kiệm Tân là những người theo đạo Thiên Chúa Giáo, đã bỏ miền Bắc ra đi từ năm 1954. Dân chúng đã mang biếu binh sĩ của Tiểu Đoàn hai con bò và hai trăm ngàn đồng VN vì họ đã chận được Cộng quân tại “Vòng chữ C”, không cho chúng tiến xa hơn. Thư của ông Huỳnh Văn Út gởi cho tác giả, ngày 18 Tháng Tám, 2001.
(18) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 144.
(19) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 460.
(20) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 153.
(21) Võ Nguyên Giáp , với Phạm Chí Nhân, Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Toàn Thắng (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quốc Gia, 2000), 261.
(22) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 154. “Anh Ba” là mật hiệu của Lê Duẩn.
(23) Ibid.
(24) Cầm ghi lại là vào lúc đó ông đã thấy quá trễ để đánh Xuân Lộc.
(25) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 447.
(26) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 448.
(27) Ibid, 450.
(28) Sự trợ giúp và những cuộc tấn công của Việt Cộng tại Xuân Lộc bị những người viết Cộng Sản bỏ quên. Tác giả không chắc điều này là vì sự giúp đỡ ít ỏi của các Chi Bộ địa phương hay là họ bị quên lãng như chuyện thường xảy sau chiến tranh ra khi những cây bút miền Bắc thay đổi tài liệu về sự đóng góp của người Nam. Trong tất cả sử sách của Cộng Sản Việt Nam, chỉ có một ít nhắc nhở tới sự giúp đỡ của những lực lượng này.
(29) Đặng Văn Hùng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 290.
(30) Đại Tá CS Phạm Đính, Đại Tá CS Hoàng Cơ Quang, Đại Tá CS Nguyễn Đức Thông, Đại Tá CS Hồ Hữu Vinh, Thượng Tá CS Nguyễn Quốc Dũng, Trung Tướng CS Hoàng Phùng, Lịch Sử QĐND Việt Nam, Tập 2 (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 1993), 563. Trong những phần tới, nguồn này sẽ được gọi là Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND.
(31) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh, 279.
(32) Ý Yên, Trên Đồi Móng Ngựa, Saigon Post.
Ý Yên là bút hiệu của Phan Tấn Mỹ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/52. Ông viết bài báo theo lời kể của Tướng Đảo để tóm tắt về những diễn tiến của trận Xuân Lộc. Saigon Post là một tờ báo của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại Orange County, California nhưng đã ngưng xuất bản.
(33) Mọi nguồn tin trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân VN đều nói là những trái pháo đầu tiên đã tiêu huỷ hệ thống liên lạc của Sư Đoàn 18 VNCH và đánh xập cột ăng ten trên Núi Thị. Tuy nhiên, cả Tướng Lê Minh Đảo và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Đoàn Trưởng 2/43 đóng trên Núi Thị đều bác bỏ điều này. Ông Đảo nói rằng hệ thống liên lạc với các đơn vị của ông đều tốt trong suốt trận đánh.
(34) Theo nhiều nguồn tin về ngày mở đầu của trận đánh.
(35) Tất cả các nguồn tin trong lịch sử của Cộng Sản Bắc Việt đều nói là Sư Đoàn 7 CS tấn công ngày đầu với chỉ 8 xe tăng, nhưng Tướng Đảo nói rằng cả một trung đoàn thiết giáp đã được sử dụng trong suốt trận Xuân Lộc. Cả hai bên CS và VNCH đều nói có bốn xe tăng của Cộng quân bị huỷ diệt trong ngày đầu, riêng Tướng Đảo nói rằng họ đã diệt 10 xe tăng.
(36) Thư gởi cho tác giả từ Thiếu Tá VNCH Đỗ Trung Chu, Tiểu Đoàn Trưởng 1/43, Cabramatta, Australia, 23 tháng Ba, 2002.
(37) Cấp chỉ huy Cộng quân coi sáng kiến này là rất hiệu quả đến độ họ sử dụng cách này trong các trận đánh với quân Khmer Đỏ.
(38) Tướng Đảo nói về Tiểu Đoàn Trưởng 82 BĐQ là “rất anh dũng” và binh sĩ trong tiểu đoàn này chiến đấu “thần sầu” dù là mới thoát về từ trong rừng.
(39) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND, 548. Dù với sự thổi phồng không ngừng về chiến thắng lẫy lừng trước “quân Nguỵ” đang yếu, đây là một công nhận quan trọng vê` những khó khăn Sư Đoàn 7 gặp phải.
(40) Theo FIBS báo cáo của một phóng viên Pháp ở Hồng Kông, “Giao tranh trong thành phố suốt buổi sáng, đến trưa bộ chi huy VNCH nói là phần lớn Cộng quân đã bị đẩy lui. Nhưng giao tranh vẫn diễn ra gần nhà thờ và bến xe đò.” FBIS Asia and Pacific, 9 tháng Tư, 1975, trang. L7.
(41) Những nguồn tin trong Lịch Sử QĐND VN viết là Không Quân VNCH bay tới 60-70 phi vụ trong ngày đầu để yểm trợ Sư Đoàn 18.
(42) Không có chi tiết về thương vong trong từng đơn vị trong quân sử của Cộng quân, nhưng tác giả tin rằng tổn thất nặng nhất là cho Trung Đoàn 266.
(43) Đặng Văn Hưng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 294. Tất cả tin tức của CS nói là họ chiếm được ngã ba chiến lược Dầu Giây ngay ngày đầu nhưng tin đó hoàn toàn sai.
(44) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử QĐND, 548.
(45) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 451.
(46) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 70-71.
(47) Tướng Cao Văn Viên, Sự Sụp Đổ Cuối Cùng (Washington: Chuyên Khảo về Đông Dương, Trung Tâm Lịch Sử Quân Sự, Lục Quân Hoa Kỳ, 1985) 132.
(48) Phillip Caputo, "S. Viets take skeleton of city," Chicago Tribune, 14 April, 1975, 3.
(49) Điện tín, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi Tổng Trưởng Ngoại Giao, “Đề tài: Nhóm (folder) Vietnam: Điện Tín Từ Bộ Ngoại Giao đến Tổng Trương Ngoại Giao, Hộp 21, Hồ Sơ Các Quốc Gia của Tổng Thống về Đông Á và Thái Bình Dương. Thư viện Gerald Ford, Ann Arbor, Michigan.
(50) Nguyễn Thanh Hồng và Nhóm, Sư Đoàn 341, 63.
(51) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 452.
(52) Tướng Văn Tiến Dũng, Our Great Spring Victory: An Account of the Liberation of South Vietnam (New York: Monthly Review, 1977), 167.
(53) Cuộc phỏng vấn với cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân Đoàn III QLVNCH, West Covona, California 17 tháng Bảy, 2001. Toàn tin là nếu được cho đủ hỏa lực, ông ý nói đến B-52, Ông có thể chận cộng quân bên ngoài Sài Gòn và đánh tan sự tập trung của quân đội Cộng Sản. Trong khi ông Toàn chắc chắn biết chuyện đó là không tưởng, ông đã được một số sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ khuyến khích yêu cầu chuyện đó.
(54) Trần Quang Khôi "Chiến Đấu Đến Kết Thúc : Vai Trò của Lữ Đoàn III Thiết Giáp và lực lượng Tấn Công của Quân Đoàn III Trong Những Ngày Cuối Cùng Của Trận Chiến" Thiết Giáp ; Tháng Ba / Tháng Tư 1996, 14.
(55) Phỏng vấn với cựu Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi , tư lệnh, lữ đoàn 3 thiết giáp, Chantilly, Virginia, 14 tháng bảy 2001.
(56) Nhiều quân sử Cộng Sản nói ngày Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đến Xuân Lộc là ngày 10 tháng Tư. Những nguồn tin VNCH nói là ngày 12 tháng Tư. Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ điện tín và báo chí tường thuật là ngày 11 tháng Tư. Người viết tin là đơn vị nhảy dù đầu tiên đáp xuống vào 11 giờ sáng ngày 11 tháng Tư, nhưng đến ngày 12 tháng Tư cả Lữ Đoàn 1 mới đến đủ.
(57) Hồ Dinh , "Mặt Trận Xuân Lộc", 8 tháng Năm,2001,
www.bdqvn.org/Vietnamese/sol18bb.httml, 2.
(58) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập Từ Trận Đầu (Ấp Bắc, 1963) Đến Trận Cuối Cùng (Sài Gòn 1975). Toronto: xuất bản Làng Văn 2001, 787. Ông Ý Yên Phan Tấn Mỹ cũng ghi là đêm 11 tháng Tư đại đội đóng trên đồi Móng Ngựa tiêu diệt một nhóm trinh sát địch xa vào một bẫy phục kích mìn Claymore. Tổng số địch chết mười bảy, kể quá bốn sĩ quan cao cấp mang theo bản đồ chi tiết làm tại China và một thẻ đi đường cấp cho "Nhóm Nghiên Cứu Quân Sự Đặc Biệt 301", nhóm đã sục sạo trong khu vực tới 30 tháng Tư.
(59) Theo thư gửi người viết từ cựu đại úy Huỳnh Văn Út, Tiểu Đoàn Trưởng 2/52, 17 tháng Tám., 2001. Ông Út ghi là ông còn thấy năm xe vận tải bị phá hủy bởi Không Quân VNCH gần Ấp Núi Tùng.
(60) Hai bài viết "55 Ngày: Sự Sụp Đổ Của Nam Việt Nam (Eglewood Cliff,N.J.: Prentice Hall, 1977)" , và một sách Cộng Sản , "Mặt Trận Đông Bắc Sài Gòn: Ký Sự" của Nam Hà (Hồ Chí Minh city : Nhà Xuất Bản Văn Học, 1978) đều viết về một cuộc phục kích quân nhảy dù bởi đơn vị này. Theo Nam Hà, Tiểu Đoàn 8 CS thấy quân nhảy dù tiến tới và vội vàng sửa soạn một cuộc phục kích. Khi các Mũ Đỏ VNCH tiến vào, quân Bắc Việt nổ súng và gây thiệt hại nặng cho đơn vị nhảy dù. Tuy thế, nhảy dù khoá tay quân địch và gởi một đơn vị khác vòng qua hông địch và bao vây Cộng quân. Tác giả không tìm được một xác nhận nào khác về cuộc tấn công này của Cộng quân.
(61) Quân sử của Sư Đoàn 341 CS xác nhận là một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 CS bị bao vây trong một cuộc tấn công của nhảy dù. Quân sử của Sư Đoàn 7 chỉ nói họ được lệnh ngừng tấn công và giữ vị trí của họ. Quân sử Sư Đoàn 341 có nói là tiểu đoàn 18", nhưng tác giả nghĩ là in lầm số và đó là số 8. Quân sử "341" thì nói rõ ràng là sư đoàn được lệnh để "làm một cuộc tấn công để giải vây cho tiểu đoàn 18, sư đoàn 7." Nguyễn Thanh Hồng và nhóm sư đoàn 341, 73
(62) Trần Văn Trà, "Chiến tuyến B-2 ", 170.
Quân sử Quân Đoàn 4 cung cấp rất nhiều lý do sự thất bại không đánh chiếm được Xuân Lộc. Họ công nhận đây là "Những Bài Học Cho Chúng Ta Trên Đường Trưởng Thành Của Quân Đoàn 4”,158-59, Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 158-159
(63) Hoàng Cầm, Hồi Ký, 453-54.
(64) Văn Tiến Dũng, Đại thắng Mùa Xuân, 167.
(65) Tướng CS Hoàng Văn Thái gián tiếp chỉ trích Trần Văn Trà cho sự thất bại của ông không chịu đi vòng qua An Lộc trong trận Bình Long 1972.
(66) Đặng Văn Hưng và Vũ Lâm, Sư Đoàn 7, 298.
(67) Điện tín từ SSO Sài Gòn tới SSO DIA, "Đề tài: Tình Báo Có Ý Nghĩa, Việt Nam," Nhóm (folder) Sài Gòn đến Hoa Thịnh Đốn, 9-18 tháng Tư 1975, Hộp 8, Hồ Sơ của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia: Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Thư viện Ford.
(68) Trần Văn Trà, Chiến Tuyến B-2, 170. Võ Nguyên Giáp và những người khác cũng đề cập đến chuyện tăng viện cho Quân Đoàn 4 nhưng không có những con số rõ ràng.
(69) Nguyễn Thanh Hồng và nhóm sư đoàn 341, 78.
(70) Trần Văn Trà, chiến tuyến B-2, 171. Cả Trà lẫn Hoàng Cầm nói rằng Trà được tóm tắt về kế hoạch tấn công mới khi ông đến. Chiến lược mới được phát triển trong phiên họp trưa ngày 11 tháng Tư, 1975 tại cục "R". Trần Văn Trà, chiến tuyến B-2, 173
(71). Trực thăng Chinook từ phi đoàn 237 và 247 Không Quân Việt Nam. Phi đoàn 247 thoát đi từ Đà Nẵng. Một nửa phi đoàn được gởi đi Quân Đoàn IV và nửa kia đi Quân đoàn III . Phỏng vấn bằng phone với Cựu Đại Úy VNCH Nguyễn Kim Phát, Ft. Worth, Texas. Đại Úy là một phi công Chinook thuộc Phi Đoàn 247 và tham dự trong việc tái tiếp tế và sau đó làm việc với phái đoàn báo chí.
(72) Ngay sau khi phái đoàn báo chí đến thăm, ông Đảo bị một miểng đạn đại bác bắn vào cánh tay từ pháo binh địch. Ông nhận ra Cộng quân đang nghe lén liên lạc của ông. Thứ nhất ông rời bộ chỉ huy của ông về địa điểm thứ ba, trong một vườn trái vải gần Tân Phong. Thứ hai, ông gọi cho Đại tá Hiếu trên máy truyền tin để cố lừa Cộng quân nghe lén bằng cách nói như là đạn đại bác đã rớt gần Hiếu thay vì ông.
(73) Nicolas C .Profitt , "Thoát Từ Xuân Lộc." , Newsweek , 18 tháng Tư 1975, 22.
(74) Đại úy Phát nói cấp chỉ huy dưới đất ra lệnh ông bay lên mà không bắt những người lính đào ngũ xuống. Tuy thế, những phi công dùng điệm đàm báo cáo và bay đến một sân bay gần Biên Hòa để cho Quân Cảnh bắt những người đào ngũ.
(75) Để xem một bài tường thuật giá trị về cuộc thăm của phóng viên, xem David Butler, The Fall of Saigon: Scenes from the Sudden End of a Long War (New York: Simon and Schuster, 1985 ), 244-50. Để xem 6 hình ảnh đẹp chụp đươc trong lần thăm đó (mặc dù sự miêu tả của những biến cố hoàn toàn sai), xem Dizack Halstead - " White Christmas-The Fall of Saigon," journalist.org/issue0005/ch1.htm
(76) Thư gởi người viết từ Cựu Đại Úy VNCH Phạm Văn Ban, chỉ huy chi đoàn 1/15, tháng Mười 2001.
(77) Bom "Daisy Cutter" được dùng để dọn những rừng rậm vì những áp suất cực cao khi bom nổ sẽ làm đổ bất cứ cây nào trong bán kính khá rộng, ngay cả tiêu diệt tất cả côn trùng trong vòng nhiều ngày. Theo theo Frank Snepp, trong tháng Tư 1975, viên chức cao cấp Mỹ đề nghị trang bị "Daisy Cutter" cho Không Quân VNCH xử dụng. Quân đội VNCH đồng ý, và C-130 của Mỹ chở bom tới Tân Sơn Nhất nơi bom được gắn lại trên C-130 A của Việt Nam. Robert C Mikesh, "Flying Dragons: The South Vietnamese Airforce” (London :Osprey, 1988 ), 144
(78) Điện Tín của Trung Tâm Tình Báo Mỹ , ngày 22 tháng Tư 1975, MORI ID 612782, 3,4.
(79) Tướng William W.Momyer, "Không Quân Việt Nam, 1951-1975 : Một Nghiên Cứu Vai Trò của Họ Trong Chiến Tranh, Không Lực Hoa Kỳ Chuyên Khảo về Đông Nam Á, tập 3 , khảo cứu 4 ( Hoa Thịnh Đốn :Văn Phòng của Lịch Sử Không Quân , 1985, 78.
(80) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm, Quân Đoàn 4, 157.
(81) Nguyễn Khắc Tinh, Trần Quang Hậu, P Luan và Bùi Thanh Hùng , "Pháo Binh Nhân Dân Việt Nam : Tập II " ( Hà Nội :Bộ Tư Lệnh Pháo Binh , 1986), 467, 470.
(82) Những quân sử cộng sản nói mơ hồ về trận đánh này. Thật vậy, quân sử của Trần Văn Trà và Quân Khu 7 nói là trận đánh này bắt đầu sáng 14 tháng Tư, giống như trong “Mặt Trận Đông Bắc của Sài Gòn" của Nam Hà. Trong khi đó, phần lớn các tin khác ghi là 15 tháng Tư, như những báo chí Tây Phương. Có lẽ Trà và những tin cộng sản khác nhắc tới cuộc tấn công khác vào tiểu đoàn 1/52 ở Ấp Phan Bội Châu.
(83) Ý Yên "Trận Đánh Tại Đồi Móng Ngựa", Sài Gòn Post, n.d
(84) Đảo đặc biệt khen quân của ông tại đồi Móng Ngựa, khi ông nói họ đã chống trả mãnh liệt nhất trong những binh sĩ của ông trong trận đánh.
(85) Fox Butterfield, "Câu Chuyện của Một Đại Úy từ Xuân Lộc", New York Times, 17 tháng Tư 1975, 20
(86) Phỏng Vấn Điện Thoại với Cựu Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng , Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, sư đoàn 5 VNCH , Garden Grove, California , 19 tháng Bảy 2001.
(87) Nguyễn Quốc Dũng và Nhóm. Quân Đoàn 4, 161
(88) Nguyễn Khắc Tỉnh và Nhóm , "Pháo Binh Nhân Dân",469-73.
(89) Ông Đảo nói với sĩ quan pháo binh trên Núi Thị bắn hết đạn và nhớ phá hủy hai đại bác khi họ ra đi. Đại bác bắn cả đêm 20 tháng Tư có thể đã báo hiệu cho Việt cộng là sư đoàn 18 rút lui.
(90) Hứa Yến Lến, "Phòng Tuyến Thép Xuân Lộc (Long Khánh): 12 Ngày Đêm Chiến Đấu Chống Cộng Quân (8-20 Tháng Tư, 1975)” [“The Line of Steel At Xuan Loc (Long Khanh): 12 Days and Nights of Ferocious Combat Against the North Vietnamese Communists (8-20 April 1975)"] (Chưa Xuất Bản, Seattle, 5 February 1998), 6.
Tướng Đảo nói Đại Tá Dũng bay trên trực thăng của ông, mà ông đã gởi về Biên Hòa lúc mới đánh nhau, và “chiếc trực thăng được sử dụng như một trung tâm phối hợp trên không để giữ liên lạc với các đơn vị của chúng tôi dưới đất, bởi vì... tôi không liên lạc được với những đơn vị ở xa, như Trung Đoàn 48 hoặc đoàn thiết giáp của Đại Tá Lến. Khi cần, tôi liên lạc với đại tá Dũng... Ông truyền lệnh tôi cho đơn vị có lệnh."
(91) Phạm Đính và Nhóm, Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân, 549.
(92) Ho Dinh "Mặt Trận Xuân Lộc", 10.
(93) Nhiều nguồn tin sai lạc ghi là Đại Tá Phúc bị giết trong lúc rút. Phúc ở lại Việt Nam sau khi được thả ra khỏi tù, nhưng gần đây di dân sang Hoa Kỳ.
(94) Tướng Nguyễn Văn Toàn xác nhận là có thả hai trái bom CBU
(95) "Bộ Ngoại Giao, Nhân Dân , Lên Án Sử Dụng Bom Hơi Ngạt", FBIS Á Châu và Thái Bình Dương , 24 tháng Tư 1995, p.k1.
(96) Sau trận ở Hưng Nghĩa, Trung Đoàn 8 trở về phòng thủ tỉnh Bình Dương và ở đó tới 30 tháng Tư. Trung Tá Hùng Trung Đoàn Trưởng nhắc chuyện Tỉnh Ủy Cộng Sản Bình Dương gọi ông trên máy truyền tin vào buổi tối 29 tháng Tư đề nghị một cuộc gặp gỡ. Ông Hùng từ chối. Sau đó chính phủ VNCH đầu hàng. Cộng sản gọi ông lần nữa và bây giờ ông không có sự chọn lựa. Ông ở trong tù mười ba năm.
(97) Trong những năm ở tù, Tướng Đảo là điểm chính trong nỗ lực bán chính thức, chính phủ Mỹ cố vận động cho ông được trả tự do. Richard Childress, Giám Đốc Á Châu Sự Vụ Cho Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thời Tổng Thống Reagan, vẫn thường bàn thảo những liên hệ song phương, phần lớn về chuyện tù nhân chiến tranh và binh sĩ mất tích với Ngoại Trưởng Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Nguyễn Cơ Thạch. Khi còn là một đại úy trẻ trong Lục Quân Mỹ, Childress là cố vấn tỉnh Chương Thiện vùng đồng bằng nơi ông làm việc gần gũi với ông Đảo. Trong những cuộc bàn thảo với Thạch, Childress yêu cầu ông Thạch thả một người bạn trong trại tù. Khi Thạch hỏi là ai, Childress trả lời "Lê Minh Đảo". Thạch cau mày và lẩm bẩm "Cái đó khó". Childress tiếp tục yêu cầu Thạch, nhưng nỗ lực của ông không thành công.
(98) Peter Arnett, "Lính Sài Gòn Ở Xuân Lộc Hãnh Diện." New York Times, 14 tháng Tư 1975.
Chú thích thêm của người dịch:
(101) (102) (103) Hứa Yến Lến, “Tuyến Thép Xuân Lộc”, Tháng 4, 2020 xuanloc75.blogspot.com/2009/09/tuyen-thep-xuan-loc-long-khanh.html, 8
(104) Hứa Yến Lến, “Tuyến Thép Xuân Lộc”, Tháng 4, 2020 xuanloc75.blogspot.com/2009/09/tuyen-thep-xuan-loc-long-khanh.html, 17
Theo Đại Tá Lến BCH/Tiểu Khu/Long Khánh đi trong toán này nhưng thành phần chính của Tiểu khu gồm Đại tá Phạm văn Phúc Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng, Trung tá Lê quang Định/TMT/TK, một số sĩ quan và toán hộ tống đã không di chuyển cùng với BCH/TK/Long Khánh.
(105) Nguyễn Hữu Chế, Trận Chiến Cuối Cùng, Warran Michigan, (Tác giả tự xuất bản, 2010), 75. Theo ông Chế, thực ra Đại Tá Ngô Kỳ Dũng là người nhận lệnh Tướng Đảo bay trực thăng tới để báo cho Tiểu Đoàn 2/43 về việc phải đổi lộ trình đi xuyên rừng để tránh Cộng quân.
(106) Khi tác giả G. Veith viết bài này năm 2001, bài viết “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Đại Tá VNCH Hứa Yến Lến và sách Trận Chiến Cuối Cùng của Thiếu Tá VNCH Nguyễn Hữu Chế chưa được xuất bản. Hai bài viết này, của hai vị chỉ huy đã có nhiều đóng góp trong trận Xuân Lộc, rất mạch lạc và có đầy đủ dữ kiện.
|
|
|
Post by Huu Le on May 2, 2020 10:07:09 GMT 9
NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG TUẪN TIẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU.Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tuẫn tiết dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện. Nhưng trước đó xin quý vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Hòa, sinh sống tại Sài Gòn đã đầu quân vào binh chủng Quân Cảnh từ cấp binh nhì. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học lớp Hạ Sĩ Quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan Quân Cảnh VNCH phải đối diện với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo. Sau khi hiệp định Paris ký kết, trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn Quân Cảnh của Phú Quốc trở về đất liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và bình định. Chiến dịch chấm dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua Biệt Động Quân. Các hạ sĩ quan Quân Cảnh trong đó có thanh niên Kiến Hòa Huỳnh Hồng Hiệp phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn ghét Quân Cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quý vị theo chân người hạ sĩ quan Quân Cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu. Sau cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đã ở lại Sài Gòn rồi sau này mới vượt biên. Vì năm 75 chợt thấy mình yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm sau là thảm kịch gia đình. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ. Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ. Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị. Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là Thượng Sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi quan Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân. Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngả Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế. Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngả ba Bình Tuy (Rừng Lá). Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được. Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay. Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngả Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã. Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngả ba Chú Ía, ngả tư Võ Duy Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngả ba Trương Quốc Dung. Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngả ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần. Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn. Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Đó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai. Sáng ngày 30 tháng 4-1975: Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự. Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh. Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975: Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra. 1 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975: Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia. Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25. Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose ************************************************ Chuyến di tản bằng trực thăng của phi công Hoàng Trọng NghĩaApril 30, 2020 saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/chuyen-di-tan-bang-truc-thang-cua-phi-cong-hoang-trong-nghia/“Crazy pilot” Hoàng Trọng Nghĩa. (Hình: The Blade, Ohio) CÁT LINH LTS: 5 năm trước, 30-4-2015, tôi có cơ duyên phỏng vấn phi công Hoàng Trọng Nghĩa, người từng được tờ báo The Blade, Ohio gọi là “Crazy pilot” trong bài phỏng vấn năm 1971. Vào buổi sáng ngày 30-4-2020, tức 5 năm sau, hỏi thăm ông qua điện thoại, ông nói: “Cảm xúc vẫn thế…chỉ có là tuổi lớn hơn thêm thì nuối tiếc nó nhiều hơn. Nuối tiếc về một thời oai hùng tung cánh chim trời, về những người bạn một thời bay bổng giờ ra đi quá nhiều, nên có những cảm xúc không diễn tả được.” Tôi hỏi ông rằng, liệu ông có tin vào một ngày “hoà hợp hoà giải” như những lời kêu gọi từ “bên kia” không? Sau một chút im lặng, ông chùng giọng: “Cả hai bên, một số thôi, đều không thật lòng, nên thù hằn vẫn còn đó. Nhưng nói thế không phải là không thể mong ước được. Dân tộc Việt Nam có truyền thống rất đoàn kết, khi bị ngoại xâm đánh, thì lúc đó có thể sẽ quên hết tất cả mọi thứ, cùng về đánh đuổi giặc…Điều đó, có thể thôi, may ra…còn những chuyện khác không tiên đoán được.“
Xin đăng tải lại bài phóng sự về ông, “crazy pilot” – Phi công Hoàng Trọng Nghĩa, để thấy rằng dù là 40 năm, 45 năm hay 50 năm, thì có những điều, mãi mãi là ký ức buồn của cả một dân tộc.Kể từ “ngày này tháng ấy”…
30 Tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Đó cũng chính là ngày mà lịch sử thế giới ghi nhận là “cuộc di tản vĩ đại của dân tộc Việt Nam” và chưa bao giờ phai nhòa trong tâm trí người đi cũng như người ở lại. Những chứng nhân của cuộc ra đi đó có người đã vĩnh viễn nằm xuống. Có những đứa bé giờ đã trở thành người thành đạt trên xứ người. Và cũng có người chọn giữ cho riêng mình một quá khứ oai hùng trong suốt 40 năm. Giờ đây, họ bằng lòng kể lại với lời nhắn gửi “chúng tôi là đại bàng đã xếp cánh, xin nhường bầu trời lại cho thế hệ trẻ hôm nay.”
“Crazy pilot” Hoàng Trọng Nghĩa. (Hình: The Blade) Đó là lời của phi công Hoàng Trọng Nghĩa, người từng được tờ báo The Blade, Ohio gọi là “Crazy pilot” trong bài phỏng vấn năm 1971. Phải sau hai lần gửi thư, hai lần nói chuyện qua điện thoại tôi mới được ông đồng ý cho một cuộc hẹn để nghe ông kể câu chuyện của “crazy pilot” cũng như cuộc di tản bằng trực thăng trong những ngày cuối cùng của năm đó.
Dáng người khỏe, nhanh nhẹn, ánh mắt vẫn rất sắc bén, tiếng nói vẫn sang sảng như âm vang một vùng trời ông và những người bạn của mình từng sải cánh.
“Làm sao quên được chứ, dù đã gần 40 năm. Tôi nhớ từng chi tiết không gian và thời gian. Và chắc chắn trong suốt cuộc đời còn lại, nó vẫn theo tôi như một kỷ niệm đau buồn nhưng rất oai hùng,” ông vừa nói vừa hướng mắt ra ngoài cửa, như nói với chính mình.
Những ngày cuối cùng…
Sau ngày 20-4-1975, bộ binh dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo đã rút dần về phòng thủ ở Trảng Bom, Long Bình, Long Thành. Việt Cộng đã bắt đầu uy hiếp Quân đoàn III, trong đó có Sư đoàn III Không Quân.
Các dải đất “co cụm” dần trên bản đồ miền Nam Việt Nam.
Sau khi Buôn Mê Thuộc thất thủ, lần lượt Sư đoàn 6 Không Quân (Pleiku,) Sư đoàn I Không Quân (Đà Nẵng,) Sư đoàn II (Nha Trang,) căn cứ Không Quân Phù Cát và cuối cùng là căn cứ Không quân Phan Rang đều bị di tản chiến thuật về căn cứ Không quân Biên Hòa, Tân Sơn Nhất và Cần Thơ. Những người lái máy bay cánh quạt được lệnh chở gia đình của họ ra Côn Sơn, Phú Quốc.
Đó cũng là những ngày cuối cùng tôi có thể về thăm gia đình. Trong hoàn cảnh biến động và nguy cấp, câu nhắn gửi của ba vợ tôi: “chồng đâu vợ đó” làm cho tôi hiểu được đây là sự gửi gắm cuối cùng của ông đặt vào tôi. Tôi chở theo người vợ mới cưới bằng cách cho cô ấy mặc đồ bay, đội mũ đen hoa lá cành của mình, giả làm phi công ngồi sau lưng tôi.
Tôi nhớ rất rõ đêm hôm ấy, đêm 27-4, Việt Cộng pháo kích vào bãi đậu trực thăng của Không đoàn 43. Đạn nổ rất gần vì đã được điều chỉnh bởi tiền sát viên Việt Cộng. Do đó, tất cả phi công chúng tôi được lệnh từ Lôi Hổ 1, là danh xưng của không đoàn trưởng của Không đoàn 43 cho cất cánh từ Biên Hòa về phi trường Tân Sơn Nhất.
Hàng trăm phi cơ cất cánh cùng một lúc. Như đàn chim vỡ tổ bay trong hoảng loạn, nhưng không hề va đụng nhau, không hề có tai nạn xảy ra. Chúng tôi bay về đáp ở taxiway wisky 7 trong Tân Sơn Nhất.
Buổi sáng 28, dù tình hình đã rất hỗn loạn nhưng vẫn còn những phi hành đoàn hành quân yển trợ bộ binh ở những khu vực quanh Sài Gòn. Đến khoảng 2, 3 giờ trưa một đoàn A-37 dưới sự chỉ huy của Nguyễn Thành Trung đã thả bom khu đậu vận tải cơ. Trước mắt tôi lúc đó là những chùm bơm rời cánh máy báy rớt xuống. Tiếp theo đó là những quả cầu lửa khổng lồ sáng bừng một vùng trời.
Tôi quay máy và cất cánh khẩn cấp về Nhà Bè, đổ xăng và chờ qua đêm ở đó.
Đường bay di tản
Sáng ngày 29, từ Nhà Bè, tôi nghe tiếng pháo kích kinh hoàng ở phía phi trường Tân Sơn Nhất bị tổng pháo kích. Tôi nổ máy, cất cánh và đồng thời mở tần số không lưu. Lúc đó, tôi nghe hiệu lệnh của Thần Phong 1 (là danh hiệu của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ) điều khiển phi tuần đánh về hướng Tây của Tân Sơn Nhất.
Tôi bay về Vũng Tàu để đổ xăng. Tại đây, tôi gặp Đại tá Phùng Văn Chiêu, không đoàn trưởng Không đoàn yểm cứ của Sư đoàn 3 Không quân. Ông lệnh cho tôi bay về vùng IV chiến thuật để chờ lệnh vì Vũng Tàu lúc đó cũng đang bị pháo kích và rất hỗn loạn.
Tôi cất cánh, lấy cao độ trực chỉ vùng IV. Đến Mỹ Tho, bãi đáp không có một bóng người. Tôi đành theo quốc lộ 4 bay về Cần Thơ, đổ xăng và cũng bị pháo kích. Tình hình vô cùng hỗn loạn. Tôi lại cất cánh bay xuống Rạch Sỏi. Nơi đây cũng không có một người lính nào. Lúc đó, trong một tâm trạng không biết bay về đâu khi nơi đây là nơi tận cùng của miền Nam?
Tôi nghĩ đến Phú Quốc có lẽ an toàn hơn.
Chiếc trực thăng của tôi lại cất cánh, hướng ra Phú Quốc. Vì từng phục vụ trong sư đoàn 4 vùng 4 chiến thuật nên tôi thuộc nằm lòng đường bay này. Chúng tôi ở Phú Quốc đến 2 giờ chiều. Mọi người ai cũng đói và khát.
Tôi mở tần số GUARD, một tầng số chỉ dùng cho trường hợp khẩn cấp, để nghe những chỉ dẫn đường bay từ Vũng Tàu, Sài Gòn, Phú Quốc, Côn Đảo ra hạm đội, cũng như từ Việt Nam sang Thái Lan.
Tôi xin một số xăng ở Phú Quốc để dự trữ và cất cánh khoảng 10 ngàn bộ để đỡ hao xăng. Tôi bắt đầu chuyến bay lịch sử nhất của mình, một chuyến bay di tản không bản đồ, thiếu xăng và tâm trạng không biết chuyện gì phía trước.
Có một điều mãi mãi tôi không bao giờ quên trên đoạn đường bay “lịch sử” đó. Khi vừa bay ngang qua hết cánh rừng của Hà Tiên, tôi biết mình đã vào không phận của Campuchia. Tôi biết, tất cả đã hết. Tất cả đã mất. Không còn ngày quay lại nữa.’
Kể đến đây, hình như hơi thở của ông đang dừng lại một nhịp. Đôi mắt ông có nước.
Khi biểu đồ xăng xuống thấp, tôi vẫn không biết mình đang ở đâu. Lúc đó, quyết định nhanh phải đáp xuống để đổ xăng nếu muốn tiếp tục chuyến bay. Tôi đáp xuống ngọn đồi khoảng 4,000 feet, dùng nón sắt để đổ xăng và lại cất cánh, nhắm hướng bay đến Thái Lan.
Từ trên cao, tôi nhìn thấy bình nguyên, thấy xe chạy bên trái trên đường xa lộ phía dưới, tôi biết mình đã vào không phận của Thái Lan. Cố gắng bay đến 5 phút xăng cuối cùng, tôi đáp xuống một ngôi chùa Miên.
Tại đây, chúng tôi được nghỉ ngơi và dùng cơm chay trong chùa. Đến khoảng 11 giờ trưa hôm sau, một máy bay Mỹ đến đổ xăng cho trực thăng của tôi và cùng bay về phi trường TRAT, sát biên giới Thái Lan. Sau đó, có thêm vài trực thăng cũng đáp xuống phi trường này.
Tại đây, họ, những người lính Mỹ, được lệnh phải dùng sơn xóa đi huy hiệu của Không lực Việt Nam Cộng Hòa trên trực thăng của tôi. Những chiếc máy bay khác cũng thế.
Tôi lầm lũi, ngậm ngùi cuối đầu bước đi trong buổi chiều trên đất Thái.
Tôi hiểu từ nay, tất cả đã chấm dứt. Những “người bạn sắt” này không còn là của mình nữa. Người Mỹ đã đào tạo chúng tôi trở thành những phi công anh dũng. Họ đưa cho chúng tôi những chiếc trực thăng này. Giờ đây, chúng tôi trả lại cho họ.
Sau đó chúng tôi được chuyển đến UTAPAO, căn cứ quân sự của Mỹ tại Thái Lan. Tại đó, đã có rất nhiều máy bay VNCH. Sau đó, đoàn người lại tiếp tục được đưa đến ASAN, một trại tỵ nạn ở Phi Luật Tân. Khi chúng tôi đến thì hàng trăm ngàn người Việt Nam đã có ở đó.
(Theo tài liệu được ghi lại trong ‘Flying Dragons: the South Vietnamese Air Force’ của Robert Miskesh, số lượng phi cơ của không quân Việt Nam bay thoát sang Utapao, Thái Lan khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5, 27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC 119, 5 C7 và 45 UH1. Theo Wayne Muntza, trong “The A-1 Skyraider in Viet Nam: The Spad’s Last War” và Ralph Wetterhahn trong “Escape to Itupao” thì con số máy bay được cho là 165 chiếc. thêm vào đo là các U-17 và O-1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN.)
Chúng tôi, những tâm trạng đối nghịch nhau. Người thì hoang mang không biết đi đâu về đâu. Người thì lo lắng vì không biết gia đình thế nào khi còn vướng lại trong loạn lạc. Người thì bàng hoàng khi được tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng…
Sau 20 ngày với những tâm trạng chất chứa đó, tất cả chúng tôi được chuyển đến căn cứ Mỹ ở San Diego.
Một mệnh nước đã đổi thay! Một dân tộc đã phân lìa!
‘Chúng tôi là những con sóng trước’
Ông đã dừng kể từ lâu. Nhưng hình như cả ông và tôi vẫn còn trôi trong những ngày loạn lạc ấy. Tiếng súng, tiếng trực thăng, tiếng đạn pháo kích, và nhất là hình ảnh:
“Liên đoàn 81 biệt kích nhảy dù nghe lệnh đầu hàng, họ xếp thành dọc, mũi súng chĩa xuống, tuần tự oai nghiêm đi từ núi Châu Thới ở Biên Hòa về Đường Sơn Quán.” Nhìn đôi mắt ông khi đó, tôi thấy như có ánh lửa.
“Khi rời trại Pendleton, gia đình tôi đến thành phố Elcampo, Texas. Sau đó, cũng như những người tỵ nạn khác, phải có người tài trợ để chúng tôi ra khỏi trại. Và cũng như bao người khác, tôi bắt đầu lại cuộc đời mình với những công việc bình thường nhất.”
Tôi khẽ hỏi: “ông có nhớ bay không?”
“Tôi đã gắn bó với trời xanh từ năm 1967. Tôi đã được huấn luyện bay trực thăng ở Fort Rucker, Alabama và Fort Wolters, Texas. Trực thăng và bầu trời là cuộc đời của tôi. Như vậy, làm sao mà không nhớ?” ông mỉm cười trả lời.
“Khi qua Texas, có nơi đồng ý cho tôi một công việc gắn bó với máy bay, nhưng phải đi rất xa. Lúc đó, mới sang xứ này, vợ tôi còn rất trẻ. Tôi không thể để cô ấy một mình chống chọi với cuộc sống mới. Tôi đã từ chối. Và sau đó, tôi làm tất cả mọi việc có thể. Từ quét rác, cho đến sửa xe. Thời gian sau, tôi ổn định với công việc bán xe trong một dealer”
“Và trong suốt mấy mươi năm, tôi học cách nhìn cuộc đời rất bình dị và êm ả. Một quá khứ oai hùng của người phi công với cấp bực cuối cùng là thiếu tá đã khép lại. Nhưng ‘chỉ khép lại’ chứ không thể nào mất đi trong chúng tôi.” Đôi mắt của người phi công năm xưa lại rực sáng.
Ông Hoàng Trọng Nghĩa làm đúng lời nhắn gửi của ba mình “chồng đâu vợ đó” từ ngày loạn lạc cho đến suốt 40 năm sau. (Hình: Hoàng Trọng Nghĩa) Ông tự nhận mình là những con sóng trước, “Khi con sóng sau tiến đến thì những con sóng trước phải chìm xuống để có được những đợt sóng cao và mạnh. Đó là đạo và đời.”
Trước khi chào tạm biệt, tôi tò mò hỏi ông về những dãi ngân hà đẹp như thế nào trong những chuyến bay đêm? Cười thật to, ông nói: “Đó là cái đẹp trong bài hát. Những phi công chúng tôi khi bay đêm phải tập trung rất nhiều vào phi cụ và nhiệm vụ của mình phải làm, không thể nào biết được ngân hà trong đêm như thế nào đâu.”
*** Theo bài viết phát hành trong tờ báo The Blade, Ohio năm 1971, phi công Hoàng Trọng Nghĩa được những người chỉ huy của ông gọi ông là “Crazy Pilot” vì trong những lần yểm trợ bộ binh, ông không ngần ngại điều khiển cho trực thăng lao thẳng vào quân địch, ngay trong vùng bom đạn. Ông nói rằng “Làm như thế quân thù mới run sợ.”
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 3:37:22 GMT 9
Tháng Ba Di Tảnwww.caidinh.com/Bối cảnh lịch sử
Đề tài này tôi đã viết vài lần trước đây nên sẽ không đề cập nhiều về chi tiết, trong phần nhận xét sẽ đánh giá lại hậu quả của di tản, xin được trình bầy lại trong dịp 42 năm biến cố bi thảm này.
Đầu tháng 2 năm 1968, trận đánh Tết Mậu Thân nổ ra ngay giữa mấy chục tỉnh và thị xã lớn tại miền nam VN, người ta cho là chiến tranh đã tới giai đoạn tàn khốc nhất và sẽ phải có hòa bình. Nhưng mấy năm sau đó dưới thời tân Tổng thống Nixon, cuộc chiến lại khốc liệt hơn gấp bội lần, những trận đánh lớn qui ước cấp sư đoàn, quân đoàn diễn ra liên tiếp. Mặc dù Mỹ-Việt Nam Cộng Hòa thắng lợi về quân sự nhưng nó không đóng vai trò quyết định mà thực ra trận Mậu Thân tuy cường độ khiêm tốn hơn nhưng đã thay đổi khúc quành cuộc chiến. Miền Nam đánh thắng một trận lớn nhưng thua trận, số phận bi thảm của Đông Dương đã được quyết định từ đây. Người Mỹ quá chán nản mệt mỏi cuộc chiến, họ chống đối dữ dội đòi chính phủ phải rút ra khỏi Đông Dương.
Đầu năm 1969, Nixon nhậm chức Tổng thống và bắt tay vào việc mang lại hòa bình giữa khi phong trào phản chiến bùng phát tới chỗ bạo động, đổ máu, chết người... (1). Trong khi tại miền Bắc, Tổng bí thư Lê Duẩn với lập trường sắt đá quyết chiếm được miền Nam dù phải đẩy hàng triệu cán binh vào tử địa. TT Nixon cứng rắn kiên quyết không nhượng bộ địch nhưng cũng không chế ngự được cuộc chiến tại đất nhà.
Năm 1972 mặc dù TT Nixon (Cộng Hòa) tái đắc cử nhiệm kỳ hai với đại đa số phiếu cử tri đoàn 96% (520/17), hơn đối thủ McGovern (Dân Chủ) 18 triệu phiếu nhưng đảng đối lập vẫn giữ đa số tại Quốc hội với 56% Hạ viện và 57% Thượng viện. Hiệp định Paris ký kết vào cuối tháng 1-1973 khi người dân, Quốc hội Dân Chủ thúc ép phải ký gấp nên VNCH có một số điều khoản bất lợi, Cộng quân vẫn được đóng tại dưới Khu phi quân sự.
Sáu tháng sau Hiệp định Paris, Quốc hội Dân Chủ ra luật cắt tất cả các ngân khoản quân sự cho Hành pháp về những hoạt động quân sự tại Đông Dương có hiệu lực từ giữa tháng 8-1973 (2) và cắt giảm viện trợ từ 2,2 tỷ năm 1973 xuống còn 1 tỷ tài khóa 1974 và chỉ còn 700 triệu tài khóa 1975 (3). TT Nixon cho biết ngày 23-9-1974, Lưỡng viện Quốc Hội (DC) Mỹ chỉ chấp thuận viện trợ cho miền nam VN 500 triệu (4), ông nói các vị dân cử phản chiến đã xóa sổ đồng minh miền nam VN.
Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức vì Watergate, Gerald Ford lên thay, tình hình chính trị VN ngày càng xấu. Vụ tai tiếng Watergate khiến Dân Chủ lấy thêm được 49 ghế trong cuộc bầu cử Hạ viện đầu tháng 11-74, chiếm 291 ghế, tỷ lệ 66,9%.
Họ cũng lấy thêm được 4 ghế Thượng viện thành 60 ghế tỷ lệ 60%, những đảng viên Dân Chủ mới vào kỳ này chống chiến tranh VN tích cực (5).
Trong khi CS quốc tế viện trợ quân sự dồi dào cho Hà Nội, giai đoạn 1972-1975 hàng viện trợ 649.246 tấn hàng vũ khí tương đương với giai đoạn 1969-72 (6). Cuối năm 1974 Nga tăng viện trợ cho BV gấp 4 lần so với những tháng trước đó (7).
Ngược lại miền Nam lại lâm vào tình trạng kiệt quệ nhất trong cuộc chiến 1964-1975 vì bị cắt viện trợ. TTMT Cao Văn Viên cho biết đạn dược súng lớn nhỏ tháng 2-75 chỉ đủ xử dụng cho 30 ngày, tháng 4 chỉ còn đủ cho khoảng hai tuần (8). Xe tăng, máy bay thiếu cơ phận thay thế, khoảng 1/3 nằm ụ. Theo Tướng TL Nguyễn Văn Minh vì thiếu săng nhiều máy bay không cất cánh được, chính BV cũng đã biết tình trạng bi đát của VNCH (9).
Cũng theo lời ông Cao Văn Viên, trước tình hình thiếu thốn tiếp liệu đạn dược do cắt giảm viện trợ, nhiều nhà Chiến lược gia đã đề nghị với TT Thiệu thu hẹp lãnh thổ vì không đủ hỏa lực để bảo vệ cả 4 Quân khu, bỏ Quân khu I và Quân khu II rút về bảo vệ QK III và QK IV (10).
1- Vào năm 1974, Tướng Đồng Văn Khuyên, TMT đệ trình lên tổng thống ý niệm phải thu hẹp lãnh thổ VNCH thế nào tương xứng với sự cắt giảm viện trợ quân sự.
2- Thiếu tướng John Murray thuộc phòng tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ (Defense Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho tổng thống Thiệu qua Tòa Đại Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự.
3- Chuẩn tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới chức Phủ Tổng Thống một kế hoạch tương tự.
Các kế hoạch trên rất khó thực hiện vì nếu rút cả hai QK I, II về phần đất còn lại (QK III, IV) người dân sẽ chạy ùa theo. Ít nhất QK III, QK IV sẽ phải tiếp nhận từ 3 tới 4 triệu người tỵ nạn, chính phủ rất khó nuôi thêm một số dân quá đông.
Giữa tháng 12-1974 ba sư đoàn CSBV tấn công Phước Long, ngày 7-1-1975 họ đã chiếm được toàn bộ tỉnh. BV đánh thăm dò phản ứng Mỹ, TT Ford chỉ phản đối xuông. Trước đó chỉ vài ngày, trong một phiên họp quân sự cao cấp tại Dinh Độc Lập TT Thiệu vẫn lạc quan tin rằng BV chưa phục hồi sau trận đánh lớn 1972, chưa đủ sức tấn công các thị xã, thành phố lớn.
Tám mươi phần trăm quân chính qui BV đã hiện diện tại QK I và QK II của VNCH tháng 3-75, họ giữ lại 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn I) tại miển Bắc. Tại QK I, theo tác giả Nguyễn Đức Phương, Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 712) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (11).
Theo TTMT Cao Văn Viên, tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn (12).
Tại QK II họ để một lực lượng tương đương 6 sư đoàn (13).
Trong khi đó tại QK I, VNCH có 3 sư đoàn cơ hữu (1, 2, 3) và 2 sư đoàn tổng trừ bị (Dù, TQLC), 4 liên đoàn Biệt động quân; QK II có 2 sư đoàn cơ hữu (22, 23) và 7 Liên đoàn BĐQ.
Diễn tiến cuộc di tản
Sau khi đã đánh thử Phước Long, thấy Mỹ chỉ phản đối xuông, Hà Nội bèn mở cuộc tổng tấn công qui mô, họ đánh chiếm Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 mở đầu cho sự sụp đổ của miền nam VN.
Đầu tháng 3-1975 một phái đoàn dân biểu Mỹ tới Việt Nam để nghiên cứu tình hình trước khi quyết định viện trợ thêm, đa số là phản chiến. Khoảng mười ngày sau họ về Mỹ và từ chối giúp đỡ, TT Thiệu hết hy vọng nên phải nghĩ tới kế hoạch tái phối trí lực lượng. Ngày 11-3-1975, ông họp với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, các Tướng Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang tại Dinh Độc Lập và cho biết vì nay không đủ lực lượng nên cần tái phối trí. Theo ông những vùng quan trọng là QK III, QK IV, những vùng cần chiếm lại là những nơi đông dân trù phú, có giá trị về lâm sản. Tại QK II phải chiếm lại Ban Mê Thuột vì tỉnh này quan trọng, miền duyên hải QK II giữ được phần nào hay phần nấy. Ta chỉ có thể giữ được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II. Quân khu I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (14).
Ngày 14-3-1975, TT Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các ông Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú (Tư lệnh QK II). (Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975). Ông Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực khi bị tấn công, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Tướng Phú phải rút quân bỏ Kontum Pleiku về duyên hải, qua Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
Tại Quân khu II, VNCH có 2 sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân, BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập.
Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng ông Thiệu bác bỏ, và căn dặn phải dấu không được cho các Tỉnh trưởng, Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.
Tướng Cao Văn Viên cho biết quốc lộ 21 về Nha Trang không đi được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui Nhơn bị Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, chỉ con đường số 7B. Con đường này tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng bị bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được giữ bí mật, Liên đoàn 20 công binh chiến đấu mở đường, thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.
Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản. Mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ. Điều xui xẻo là đường rút lui lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, chúng đuổi theo ngày 16-3 (ngày 18 đã bắt kịp).
Ngày hôm sau 17-3, các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng chạy ùa theo làm náo loạn.
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Địch pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Chặng đường cuối cùng về Tuy Hòa rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, địch pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Ngày 27-3, sau khi thanh toán chốt cuối cùng, đoàn di tản về tới Tuy Hòa buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1.200 xe) mở đường máu về được Tuy Hòa.
Theo lời kể của Đại tá Phạm Bá Hoa, khi ta rút khỏi Pleiku và Kontum 4 ngày (kể từ 16-3) CSBV mới tiến quân vào hai tỉnh lỵ này, chúng còn đóng ở xa. (PBH: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B). Theo The World Almanac Of The Viet Nam War trong số khoảng 400.000 người dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có chừng một phần tư tới Tuy Hòa. Tướng Hoàng Lạc nói trong số khoảng 200.000 dân chạy loạn chỉ có 45.000 tới Tuy Hòa. 60.000 chủ lực quân chỉ có 20.000 tới được Tuy Hòa. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113. Tướng Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn II gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.
Tại Quân khu I, VNCH có ba sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 và hai sư đoàn tổng trừ bị (Dù, TQLC) và 4 liên đoàn Biệt động quân nhưng ông Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Trung ương.
Ngày 14/3 sau khi họp với TT Thiệu Tướng Trưởng từ Sài Gòn về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối trí.
Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên Quốc lộ 1 gây cản trở.
Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không có quân tăng viện Quân khu I.
Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai để trình bầy hai kế hoạch lui binh:
Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ I từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ I bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế và Chu Lai về Đà nẵng. Đà Nẵng là điểm phòng thủ chánh. Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng và gây tổn thất tối đa cho địch, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, Liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ Chánh lập phòng tuyến mới.
Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá.
Đến chiều khi về tới Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận được lệnh của của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, vì không đủ sức để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu Lai, Huế và Đà Nẵng.
Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên. Tại Huế, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.
Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng. Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu I, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Quảng Ngãi bị Cộng quân tấn công dữ dội.
Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 phòng tuyến chính: Nam Chu Lai, Đà Nẵng và Bắc Huế, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này. Một nửa Sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu Lai thất thủ ngày 25/3.
Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Cộng quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại. Hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư đoàn I tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà Nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân nhân.
Trong khi đó Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo. TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm.
Các Sư đoàn Cộng quân tấn công bao vây Đà Nẵng, VNCH lập tuyến phòng thủ nhưng ngày 27/3/1975 bị vô hiệu trước sự hỗn loạn. Tại đây Quân đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị rã ngũ, một phần đã được tầu chở ra khơi. Lực lượng không đủ đương đầu với áp lực quá đông của địch.
Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng không còn đủ quân tác chiến. Hai giờ trưa các xã ấp quanh Đà Nẵng đã bị địch chiếm.
CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân rất dữ dội và chính xác. Liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại: chân đèo Hải Vân, núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Rạng sáng ngày 29/3/1975 binh sĩ lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi địch phát hiện, pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại. Đoàn tầu di tản được khoảng 6.000 TQLC, 3.000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.
Đà Nẵng thất thủ ngày 29/3/1975, có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng, năm 1976 Tướng Trưởng cho biết khoảng 6.000 TQLC, và 4.000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát. Tổng cộng có 70.000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính. Bốn sư đoàn kể cả TQLC đã bị thiệt hại nặng nề.
Nhận xét
Tướng TTMT Cao Văn Viên cho biết tái phối trí là cần thiết và đã có ý tưởng từ lâu nhưng không tiện nói với TT Thiệu vì sợ hiểu lầm là chủ bại (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 131, 132) và nay mới tái phối trí là quá trễ. Đúng ra phải thực hiện từ giữa năm 1974 hay khi Nixon từ chức (tháng 8-74). Ông nói cuộc di tản QĐ II bị ngăn trở bởi dòng người chạy loạn, nếu làm được cầu qua sông đúng lúc thì địch không đuổi theo kịp (trang 151, 152).
Ông Cao Văn Viên chỉ trích Tướng Phú (TL QĐ II) không chu toàn trách nhiệm, không bàn thảo với ban tham mưu (trang 152), tỉnh trưởng Phú Bổn và Phú Yên thất bại trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh lộ trình. Sự thật sai lầm do thượng cấp nhiều hơn, ông TTMT cũng nói nếu không tái phối trí sẽ không thua nhanh như vậy (trang 153).
Đại tướng Cao Văn Viên mâu thuẫn với chính ông, trong NNCCVNCH trang 92 tác giả nói đạn dược chỉ đủ xử dụng trong 30 ngày (tháng 2-1975). Nhưng ông lại nói ta vẫn còn mạnh, chỉ tại di tản. Không tái phối trí ta không tan nhanh như thế, mất Ban Mê Thuột chỉ mất một phần của sư đoàn 23 BB nhưng nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn, ta vẫn còn mạnh. Dù lấy được Ban Mê Thuột, Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở QK II, ta vẫn còn Sư đoàn 22 BB (trang 134).
Tại Quân đoàn I, sự sụp đổ còn nhanh và tồi tệ hơn QĐ II. Nhiều biểu hiện tiêu cực như cấp chỉ huy bỏ chạy trước khiến cho các đơn vị như rắn không đầu đưa tới hỗn loạn, những điều tệ hại này đã được các nhân chứng kể lại.
Phạm Huấn cho biết tại những địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, triệt thoái vội vã, không có kế hoạch, lịch trình, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh cũng hỗn độn y như cuộc triệt thoái Cao nguyên (15).
TTMT Cao Văn Viên nói:
“Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở Vùng Một xảy ra không phải vì áp lực của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa” (trang 184, 185).
Tác giả lại mâu thuẫn, ông cho biết lực lượng địch tới 8 sư đoàn (trang 160), gấp hai lần VNCH, ta không thể cầm cự lâu dài được. Trong khi tại phía Bắc QK I phải rút từ Huế về Đà Nẵng, các tỉnh phía Nam Quân khu (Quảng Ngãi, Quảng Tín) đều phải hối hả rút về Đà Nẵng vì bị BV tấn công dữ dội mà ông lại nói không phải vì áp lực địch.
Tác giả Nguyễn Đức Phương (16) cho rằng Quân khu I thất thủ dễ dàng không có một lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn, có 4 nguyên nhân chính, xin sơ lược.
Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu I trội hơn nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế hoạch lui binh về các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai quá trễ.
Ông Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút Sư đoàn Dù về Vùng III quá nhanh, khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát thanh lời kêu gọi tử thủ Huế của Tổng thống, sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến quân dân chúng hoang mang mất tin tưởng.
Nhiều sĩ quan cao cấp của Quân đoàn I mất tinh thần đào ngũ bỏ chạy, các đơn vị lần lượt tan rã, Cộng quân chiếm được đất mà không phải giao tranh.
Triệt thoái Quân đoàn II là sai lầm lớn của ông Thiệu như mọi người đã chỉ trích, cuộc lui binh đã làm thiệt mạng nhiều thường dân vô tội. Số thiệt hại của quân lính ít hơn vì họ có kinh nghiệm chiến trận, biết tránh bom đạn và có phương tiện hơn. Theo lời kể của một nhân chứng, cuộc hành trình vô cùng gian nan và bi thảm. Đương sự, một cô giáo đã may mắn sống sót sau nhiều tuần lê lết trong rừng, nhiều ngàn người chết vì đói khát, kiệt sức, lạc lối... trong rừng.
Tuy nhiên không hẳn ông Thiệu là nguyên nhân cho sự sụp đổ miền Nam mà người ta khẳng định. Tướng Cao Văn Viên chỉ trích ông Thiệu, Tướng Phú... nhưng ở cương vị Tổng tham mưu trưởng ông cũng không đưa ra được kế hoạch nào cứu nguy VNCH trước tình thế nguy kịch.
Sau khi ký Hiệp định Paris, hơn nửa triệu quân Mỹ vá các nước đồng minh đã rút đi, quân đội VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường với quân viện bị cắt giảm tận xương tủy, chuyện này ai cũng biết cả. Trong trận Phước Long khi CSBV bắn đại bác thả dàn thì binh sĩ miền Nam, nhất là pháo binh phải đếm từng viên đạn (17). Trong khi BV tổng cộng có 5 quân đoàn (1, 2, 3, 4, 232) tổng cộng 15 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập (18), phía VNCH chỉ có 13 sư đoàn lại trải mỏng để giữ đất thì sự sụp đổ cũng không có gì khó hiểu.
Tại QK I, như ta thấy khó có thể nói do ảnh hưởng của triệt thoái, ông Thiệu chỉ cho rút từ Huế vào Đà Nẵng. Các đơn vị không đủ sức chống lại áp lực quá lớn và hỏa lực mạnh của địch đã phải rút chạy về Đà Nẵng, Chu Lai... nhiều hơn là do cấp chỉ huy bỏ chạy hoặc do sai lầm của thượng cấp.
Lực lượng VNCH tại QK I gấp hai lần QK II (4 sư đoàn chính qui, 4 liên đoàn BĐQ đã tan rã trong 10 ngày lui binh. Tại QĐ I ông Thiệu chỉ ra lệnh bỏ Huế rút về Đà Nẵng vì không đủ lực lượng và hỏa lực, tiếp liệu... không thể nói QK I sụp đổ vì di tản.
Mọi người đều biết QK III không di tản và đã chiến đấu hết khả năng, giữ vững vị trí sau khi miền Trung thất thủ nhưng cũng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Người ta cũng đổ cho ông Dương Văn Minh làm mất nước, đầu hàng địch. Các vị nguyên thủ Quốc gia, Tướng lãnh đã làm hết sức mình nhưng cũng không cứu vãn được tình thế.
Miền Nam phải dựa vào yểm trợ của B-52, theo tác giả George Donelson Moss (19) viện trợ Mỹ cho VNCH phải từ 3 cho tới 3 tỷ rưỡi một năm mới đủ nhu cầu cuộc chiến, trên thực tế viện trợ 1975 chỉ còn 700 triệu chưa được bằng một phần tư nhu cầu (1/4).
Về điểm này Tướng Davidson đã công nhận CSBV được cấp nhiều xe tăng, đại bác tối tân, họ luôn mạnh hơn VNCH. Mỹ đã nâng cấp quân đội miền nam VN cho bằng BV nhưng quá trễ và quá ít “too little, too late”, nguyên văn.
“Vì thế quân đội BV luôn đi trước quân đội VNCH một bước. Việt Nam hóa chiến tranh là chuyện chạy đua (vũ trang) quá ít, quá trễ” (20).
Theo lời Tướng Tư lệnh không quân VNCH, năm 1975 thiếu nhiên liệu, máy bay không có khả năng cất cánh. Cắt giảm viện trợ đã khiến xe tăng, đại bác thiếu cơ phận thay thế, có tới 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay phải nằm ụ. (21)
Miền nam không thể chiến đấu khi cạn kiệt tiếp liệu đạn dược, sự sai lầm tái phối trí chỉ làm cho tình hình tồi tệ nhanh hơn.
Tướng Cao Văn Viên nói nếu không có tái phối trí, QK II không sụp đổ nhanh như vậy, ta còn đủ đạn dược, tiếp liệu chiến đấu cho hết mùa khô.
Ta cũng cần nhìn thẳng vào hậu quả có thể của vấn đề với giả thuyết quân đội VNCH chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Trong trường hợp này sự thiệt hại nhân mạng của của hai bên sẽ cao hơn nhiều nếu cuộc chiến kéo dài như xứ Chùa Tháp. Địch sẽ pháo kích ồ ạt vào các các thành phố lớn đông dân như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang... và giết hại nhiều thường dân vô tội hơn.
Sau khi chiếm được miền Nam chúng sẽ trả thù tàn khốc hơn, sẽ tàn sát kẻ chiến bại thẳng tay như trận Tết Mậu Thân Huế năm 1968, miền Nam sẽ phải trả giá đăt hơn nhiều. Trọng Đạt (trích trong Chiến Tranh Việt Nam Dưới Thời Kennedy-Johnson-Nixon-Ford, 2017) _______________________ Tham khảo (1) R.Nixon: No More Vietnams trang 126. (2) No More Vietnams trang 180. (3) No More Vietnams trang 185-186. Kissinger : Years of Renewal trang 471. (4) No More Vietnams trang 189. (5) Henry Kissinger: Years of Renewal - trang 479. (6) BBC.Tiếng Việt ngày 10-5-2006: Viện Trợ Quốc Tế Cho Miền Bắc Trong Chiên Tranh. (7) Henry Kissinger: Years of Renewal - trang 481. (8) Những Ngày Cuối Của VNCH - trang 92. (9) Kissinger. Years Renewal - trang 480. Tháng 1/1975 báo Học tập cùa CS viết. “Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%... Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và chúng gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa và xử dụng các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng. (10) Những Ngày Cuối của VNCH, trang 130. (11) Chiến tranh VN toàn tập, trang 752. (12) Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 160. (13) Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91. (14) Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131. (15) Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 57, 58). “Hơn 20 ngàn Chủ lực quân, hàng mấy trăm chiến xa, đại bác, cùng với cả trăm ngàn dân chúng...., nhưng hai cửa Thuận An và Tư Hiền không được phòng thủ bảo vệ. Sự phối hợp và chỉ huy giữa Bộ Tư Lệnh Tiền Phương và hải quân thật lỏng lẻo. (16) Chiến tranh VN Toàn tập - trang 762, 763, 764. (17) Kissinger: Years of Renewal - trang 490. (18) Chiến tranh VN toàn tập trang 901 - Wikipedia tiếng Việt, Chiến dịch xuân hè 1972. (19) Vietnam, An American Ordeal - trang 388. (20) Vietnam At War, The History 1946-1975 - trang 660: “Therefore the NVA were always at least one step ahead of the RVNAF”. (21) R. Nixon, No More Vietnams trang 187- Phillip B. Davidson Vietnam At War, The History 1946-1975 trang 748.
|
|
|
Post by Can Tho on May 18, 2020 18:18:25 GMT 9
Thiếu Tướng Nguyễn Chấn Á
Thiếu Tướng Nguyễn Chấn Á, sinh năm 1922, tại Chợ Lớn trong một gia đình người Việt gốc Hoa, nguyên quán Cam Túc, TQ . Năm 1942, ông gia nhập Quân đội Pháp, được đào tạo ở trường Sĩ quan thuộc địa Pháp. Tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và phục vụ Quân đội Pháp ở Đông Dương trong đơn vị Bộ binh với chức vụ Trung đội trưởng. Qua năm 1943, ông lên cấp Thiếu úy. Đến năm 1945, ông được thăng cấp Trung úy. Ngày 09/03/1945, Nhật đáo chính Pháp, Khi quân đội Pháp ở Việt Nam đầu hàng Nhật, ông theo một đạo quân Pháp di chuyển sang Trung Hoa Lục địa và gia nhập vào Quân đội Quốc dân đảng do Thống chế Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ,ông được thăng lên Đại úy trong Quốc Dân Đảng của Thống Chế Tưởng Giới Thach. Từ năm 1949 đến năm 1960, Tướng Nguyễn Chấn Á phục vụ quân đội Trung Hoa Dân Quốc và đã được thăng lên cấp Thiếu Tướng. Chuyên môn chính của ông là chính trị và quân sự. Năm 1960, Tướng Nguyễn Chấn Á trở về Việt Nam và gia nhập vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa.Tướng Nguyễn Chấn Á được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho giữ nguyên cấp Thiếu tướng và được cử phục vụ trong Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1966,Tướng Nguyễn Chấn Á được cử làm Giám đốc Cục An Ninh Quân đội thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan. Đến cuối năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Cục An ninh Quân đội lại cho Đại tá Vũ Đức Nhuận. Sau đó, ông được chuyển về phục vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Đầu năm 1972, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Quân cảnh thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Thiệt. Cuối năm 1973, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Quân cảnh lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Phước. Sang đầu năm 1974, ông được cử giữ chức vụ Cố vấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày 30-4-1975 ông bị bắt đi đi tù cộng sản từ nam ra bắc đến năm 1988. Sau ngày ra tù ông không xin đi định cư và sống yên lặng, ẩn mình và không có nhiều thông tin về cuộc sống của ông, không biết ông còn hay đã mất.
***************************************
Đại Úy Trần Thế Vinh.
Năm 2011, một nhóm hậu duệ VNCH tại Hoa Kỳ đã tổ chức đêm vinh danh anh hùng Trần Thế Vinh tại Little Saigon Thủ Đô của người Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới. Khi nhận tấm hình lưu niệm của bố mình, cô Trần Thế Thanh Vân ái nữ của Phi công Trần thế Vinh đã không cầm được nước mắt và nghẹn ngào không nói nên lời, chồng cô đã phải phát biểu thay. Vui mừng thay khi thấy con gái, con rễ và 2 cháu ngoại của người hùng Trần Thế Vinh được sống trên xứ sở tự do... Nghe nói cô con gái này đã được anh của anh hùng không quân Trần Thế Vinh là Luật sư Trần Thế Hiền nuôi dưỡng, bảo bộc. Hiện gia đình ông cùng 1 người con trai và 2 người con gái cũng được định cư tại Cali...
Phi Đoàn Khu Trục 518 của SĐ3 Không Quân (KQ) tại Biên Hòa đã được lệnh ra tăng phái cho SĐ1 KQ tại Đà Nẳng. Vì cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định ký kết, đưa quân vượt Khu Phi Quân Sự tấn công Đông Hà - Quảng Trị vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Trần Thế Vinh vốn là người Bắc di cư, anh tình nguyện gia nhập Không Quân năm 1964 khi đang theo học năm thứ nhất Luật Khoa. Sau khi tốt nghiệp Khóa Hoa Tiêu Quan Sát, anh được gởi theo học khóa phi công AD-6 Skyraider (Còn gọi là Douglas A-1) tại Hoa Kỳ và anh đã tốt nghiệp thủ khoa giữa nhiều phi công của nhiều quốc gia trên thế giới theo học khóa này.
Chỉ trong vài ngày được tăng phái cho Vùng I Chiến Thuật, Đại Úy Trần Thế Vinh đã đánh bom tiêu diệt 20 xe tăng giặc gồm T54, T59 và PT76. Dù rằng vùng này địa thế đồi núi rất hiểm trở và bầu trời có nhiều mây thấp...
Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1972, sau khi pháo kích dữ dội vào Căn Cứ Phượng Hoàng, TrĐ24/SĐ304 cộng sản Bắc Việt cùng với 1 TĐ xe tăng T54/59 tấn công biển người và buộc TĐ6 Thần Ưng TQLC phải rút khỏi căn cứ. Nhưng Trên Đường lui quân, TĐ6 gặp Chi Đoàn 2 Chiến Xa M48 thuộc Thiết Đoàn 20. Hai đơn vị này đã quyết quây trở lại tái chiếm căn cứ (Ca Sĩ Trung Chỉnh, tức Trung Úy Bác Sĩ Quân Y Huỳnh Văn Chỉnh cũng có mặt) và lúc này Không Quân VNCH cũng nhập cuộc. Bắc quân trở tay không kịp nên bị đánh bật ra khỏi Căn Cứ Phượng Hoàng sau vài giờ giao tranh, khoảng 400 tên bỏ xác tại trận. Cuộc đối đầu giữa M48 và T54/59 đã có kết quả rõ ràng chính là 17 tăng T54/59 bị bắn cháy.
Thêm vào đó lại có 4 xe tăng T54/59 nữa do chính phi công Trần Thế Vinh bắn hạ. Với chiến thuật liều lĩnh, anh bay thấp trong mây rồi bất ngờ nhào xuống thật thấp để đánh bom cho chính xác. Nhưng tiếc thương thay sau lần bắn cháy chiếc xe tăng thứ 4, máy bay của anh bị trúng đạn pháo phòng không và lao xuống đất vì bay quá thấp...
Đại Úy Không Quân Trần Thế Vinh hy sinh trong sự tiếc thương của Đồng đội. Tên tuổi anh là tấm gương sáng cho hậu duệ chúng ta học tập và noi theo. Xin kính gởi lời tri ân đến người nhà của người anh hùng phương Nam, Đại Úy Không Quân Trần Thế Vinh.
|
|
|
Post by Can Tho on May 22, 2020 6:02:19 GMT 9
HỒI ỨC CỦA MỘT NGƯỜI MỸ VỀ CẤP CHỈ HUY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG 4.1975Posted on May 9, 2020 by dongsongcu PHẠM PHONG DINH Đa số sách báo Mỹ viết về chiến tranh Việt Nam không tường thuật nhiều về những ngày, những giờ phút cuối cùng của Miền Nam một cách chính xác. Điều dễ hiểu là, những người Mỹ làm việc tại Miền Nam đã được di tản nhiều ngày trước khi quân đội Bắc Việt vào Sài Gòn, nên những chi tiết về giờ thứ 25 rất ít được ghi nhận. Tuy nhiên, cũng có vài tác phẩm viết lại những sự việc xảy ra những ngày cuối tháng Tư, như cuốn Goodnight Saigon của Charles Henderson, Decent Interval của Frank Snepp, hay cuốn Last Man Out của James E. Parker.
Tác phẩm Goodnight Saigon (Giã Biệt Saigon) nghiêng nhiều về tường thuật những diễn biến quân sự từ những thảm họa trên cao nguyên và ngoài Quân Khu 1, đến những ngày hấp hối của Sài gòn, những xao động của dân chúng. Một vài câu chuyện về những nhân vật dân sự như nhà văn Mai Thảo, diễn viên Kiều Chinh. Trong cuốn Decent Interval (Khoảng Thời Gian Coi Được), tác giả Frank Snepp chú trọng nhiều về những diễn biến và xáo trộn chánh trị ở Hoa Kỳ và Miền Nam. Đặc biệt ông tường thuật cuộc ra đi trong đêm 25.4.1975 của Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm. Cái tựa đề đã nói thay cho chánh sách của chánh quyền Hoa Kỳ, hay nói chính xác, là công việc để đời của ông Henry Kissinger, khi ông này tiên liệu sau Hiệp Định Ba Lê thì Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn sống sót được chừng một năm rưỡi nữa là cùng. Đó là khoảng thời gian coi được cho một cái chết từ từ, nếu chết nhanh quá thì coi cũng… kỳ. Tuần lễ cuối của tháng Tư, khi Tổng Thống Thiệu đã ra đi, thì ông Henry đã sốt ruột hỏi nhau với những cộng sự, rằng không biết giờ này VNCH đã chết chưa.
Ở con người Kissinger tương phản hai thái cực kỳ dị. Khi còn trong cuộc hòa đàm thì ông ta nhũn nhặn chìu chuộng Hà Nội đủ mọi thứ, đến đỗi Tổng Thống Thiệu đã bực tức hỏi thẳng ông Phó Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn khi ông ta nài nỉ Tổng Thống Thiệu chịu ký Hiệp Định: “Các ông đại diện cho người Mỹ hay đại diện cho Bắc Việt”. Bằng mọi giá, ông Kissinger phải ký cho được Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, đưa tù binh Mỹ về nước, và chấm hết. Nhưng khi Bắc Việt ngổ ngáo vi phạm hiệp định, tái phát chiến tranh, thì ông lại bênh vực VNCH và đòi trừng phạt Hà Nội. Chẳng biết là ông diễn tuồng, điều mà ông gọi là lương tâm của nước Mỹ, hay là thật lòng. Những dẫu sao thì quốc hội Mỹ cũng đã quyết định thay giùm ông, rằng VNCH phải chết.
live.staticflickr.com/4397/36367747173_bb6652c2b6_b.jpgChiến sĩ Sư đoàn 21 Bộ Binh hành quân diệt giặc
Tác phẩm Last Man Out (Người Cuối Cùng Ra Đi) của James E. Parker là hồi ức về những ngày công tác tại Việt Nam trong cương vị của một nhân viên CIA có trách nhiệm liên lạc và thu thập tin tức quân sự với những cấp chỉ huy của QLVNCH, rồi tổng hợp làm phúc trình cho cơ quan CIA tại Sài Gòn. Ông Parker đang làm việc ở chi nhánh CIA Cần Thơ, thì ông nhận lệnh thuyên chuyển về Vị Thanh, tỉnh lỵ của tỉnh Chương Thiện. Đối với người Việt Nam, thì Chương Thiện là một địa danh ít người muốn đến, còn theo Parker thì bên ngoài tỉnh lỵ bước ra mấy bước là đã ngửi thấy mùi Việt Cộng. Nên bất cứ người Mỹ nào về làm việc ở đấy đều được đồng nghiệp gọi tên giễu (nickname) là Dead Man (Người Chết).
Tuy vậy khi về Vị Thanh, Parker nhận ra rằng Việt Cộng chẳng bao giờ muốn làm phiền ông ta, ông được an toàn. Từ đấy Parker suy luận rằng, chúng chẳng muốn khiêu khích Hoa Kỳ bằng cách giết một CIA Mỹ trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc chiến, chẳng có lợi gì mà có khi còn làm cho anh Mỹ nổi giận quay trở lại thì khốn. Cứ để cho những người Mỹ tà tà làm việc cho đến ngày họ cuốn gói ra khỏi Việt Nam, bởi ngày ấy chẳng còn lâu la gì.
Công tác ở Miền Tây, là nhân viên đại diện cho CIA Cần Thơ, Parker có dịp tiếp xúc với những vị chỉ huy cao cấp của vùng châu thổ Cửu Long, những nhân vật đầy huyền thoại: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai và Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Đặc biệt, trong những ngày cuối cùng của tháng Tư, chiếc trực thăng của Parker gần như hàng ngày đáp xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Hai để nghe ông trình bày quân tình, dân tình lúc ấy, rồi sau này nhiều người đã ngỡ rằng người Mỹ đến mời Chuẩn Tướng Hai ra đi. Nhưng nếu người Mỹ thực sự có ý định đưa Chuẩn Tướng Hai đi, thì ông cũng sẽ khảng khái từ chối, như Tổng Thống Trần Văn Hương từ chối các ông Đại Sứ Mỹ Martin và Đại Sứ Pháp Mérillon, thề ở lại chia sẻ hoạn nạn với chiến sĩ và đồng bào của ông. Hay Thiếu Tướng Lê Minh Đảo từ chối sự mời mọc của người Mỹ, ông thề ở lại cùng sống chết với chiến hữu của ông.
ChuanTuongLeVanHung
Chuẩn Tướng Lê văn Hưng
James Parker đã dành nhiều trang kể lại những cuộc tiếp xúc với những vị chỉ huy cao cấp của quân đội Việt Nam, cuộc gặp đầu tiên là với Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, lúc ấy ông đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, bản doanh sư đoàn đặt tại Vị Thanh, kính mời quý độc giả cùng theo dõi (chú thích trong ngoặc là của chúng tôi):
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Ông Tướng nói tiếng Anh hơi chậm nhưng phát âm rõ ràng, cho biết sư đoàn của ông có trách nhiệm bảo vệ vùng hạ châu thổ. Sư Đoàn trong thế bị áp đảo về quân số nhưng ông đã làm tất cả những gì có thể, ông chọn lựa mục tiêu. Ông không muốn tấn công vào những điểm kiên cố của quân cộng, bởi ông nghĩ rằng ông sẽ bị tổn thất nhân mạng nhanh chóng. Vì ông đang ở trong một cuộc chiến quá lâu dài, ông phải bảo vệ nhân lực và nguồn tiếp liệu của ông. Ông nói với tôi rằng ông không thể xoay chuyển cục diện ở đây, nếu ông muốn tạo một chiến thắng thì quân Bắc Việt chắc chắn sẽ đưa nhiều quân đến nữa. Tôi hỏi ông:
-Tại sao chiến đấu một cuộc chiến đang thấy thua rõ?
Ông Tướng hỏi vặn lại, rồi mĩm cười:
-Tôi còn có sự chọn lựa gì nữa không? Nhưng đây là đất nước của chúng tôi.
Vị Thanh là nơi hiểm nghèo nhứt ở Miền Nam, không có lý lẽ nào để nuôi hy vọng ở đây. Quân địch đầy dẫy chung quanh thành phố. Tại sao lại mạo hiểm để cho những người Mỹ bị địch cầm giữ trong giờ thứ mười một này. Những tháng sau, tôi làm việc nhiều thời gian trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21, thu thập tin tức trong vùng hạ châu thổ, cuối cùng tôi được cho phép thường xuyên tiếp xúc với Phòng 2 và Phòng 3 Sư Đoàn.
Trong lúc đó thì Tướng Hưng có mặt hầu hết ngoài mặt trận. Chiếc trực thăng chỉ huy của ông cất cánh mỗi buổi sáng sớm đưa ông đến những địa điểm xa xôi nhứt để ông có thể thăm hỏi những cấp chỉ huy. Tôi chỉ gặp ông hầu như vào lúc ban đêm, lúc thì dùng bữa tối, lúc thì uống với nhau. Thỉnh thoảng thì tôi cũng gặp ông Tướng vào lúc ban ngày trong văn phòng của ông. Thời gian dần trôi, thì cuộc gặp gỡ của chúng tôi trở nên thoải mái nhiều, chúng tôi thích thú sự hiện diện của nhau.
Terry (nhân viên CIA mà Parker đến thay thế) giới thiệu tôi với vị Tỉnh Trưởng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Đại Tá được tuyên dương là Chiến Sĩ Xuất Sắc Của Năm (1972), trước khi ông đến nhậm chức ở Chương Thiện, một vinh dự gặt hái được từ chiến công anh hùng của ông chống quân Bắc Việt ở An Lộc. Ông đã bị thương rất nặng, mất một phần mặt của ông. Khi tôi gặp ông, thì phần bị mất ấy đã được chữa trị bằng phẫu thuật, từ cái nhìn đầu tiên thì tôi đã có thể nhận ra một vết thẹo dài chạy dọc theo bên hàm. Đại Tá Cẩn có một quan niệm rất tích cực về chiến tranh, dù cảnh quan buồn tẻ ở Vị Thanh. Ông đúng là người lính của những người lính, dũng cảm và thanh liêm. Ban đêm ông thường đi xuồng đến những đồn bót xa xôi nhứt để phát lương cho binh sĩ. Ông nói rằng ông có dưới tay nhiều chiến sĩ giỏi mà có thể chiến đấu chống cộng sản đến khi họ chết hoặc là đất nước được thanh bình.
Những buổi tối của tôi với Chuẩn Tướng Hưng càng lúc càng thân tình. Ông thường hỏi thăm về gia đình tôi, về Hoa Kỳ cùng những gì đang xảy ra bên ấy. Ông rất quan tâm đến văn học Mỹ nên tôi thường có dịp nói về các tác giả Hoa Kỳ và tác phẩm của họ. Mặc dù tôi thường đọc hai, ba cuốn sách mỗi tuần ở Vị Thanh, nhưng tôi lại chưa đọc những cuốn mà Tướng Hưng hỏi tôi. Về phần ông, thì ông nói về lịch sử và chuyện chiến tranh ở Đông Dương. Ông thường nói chuyện một cách có cân nhắc và chậm rãi, hay mĩm cười dù đang đề cập đến những sự việc nghiêm trọng. Từ ông toát ra một vẻ rất tự tin và ánh lên sự trầm tĩnh.
hientinhvn.files.wordpress.com/2012/06/hongoccan.jpg?w=298&h=400
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện
Trong tháng 2 (1975), cấp chỉ huy ở Cần Thơ và Sài Gòn thúc giục, Tướng Hưng cho quân tấn công một đơn vị lớn Bắc Việt về phía Đông Chương Thiện thuộc rừng U Minh, là một khu vực cộng quân chiếm đóng từ lâu. Cuộc tấn công này là chiến dịch lớn nhứt từ lúc tôi về tỉnh Chương Thiện. Ông Tướng sử dụng tất cả nguồn yểm trợ của Không Quân mà ông có. Mặc dù ông sở hữu nhiều khẩu đại bác do quân đội Mỹ để lại, ông lại có khó khăn khi di chuyển chúng vì sự hạn chế phi vụ chuyển vận. Ông cũng thiếu thốn những tiếp liệu cần thiết và đầy đủ để trang bị cho lực lượng tấn công. Thí dụ, ông có rất nhiều mìn claymore nhưng thiếu ngòi nổ, đạn pháo binh cũng thế, có nhiều nhưng rỉ sét. Do vậy, sư đoàn chịu nhiều thiệt hại. Chiến sĩ của ông chiến đấu rất dũng cảm. Tôi hiểu nỗi đau đớn của ông Tướng, và tôi hiểu niềm tự hào của ông đối với những người lính ấy, dù bị thương vong rất nhiều nhưng họ vẫn tiếp tục tiến tới.
Khi trận chiến tàn, quân Bắc Việt bị đẩy lùi vào rừng U Minh, Tướng Hưng vẫn không chắc rằng ông đã thực sự chiếm thượng phong. Ông đã dùng quá nhiều nguồn tiếp liệu mà ông có. Cho cái gì mới được? Mấy ngày sau, một thứ mùi kinh khủng tuôn vào chỗ tôi cư ngụ. Tôi đã từng ngửi thấy mùi này, đó là mùi của thịt thối, của người chết. Một thông dịch viên cho tôi biết nhà xác sư đoàn nằm giữa khu tôi ở và cô nhi viện tỉnh. Những xác tử sĩ nằm chờ được chở đi. Phương tiện chuyên chở đã hiếm hoi mà phòng lạnh cũng không. Một số xác được lấy về từ khu vực chiếm đóng của cộng quân. Dẫu sao thì khi tôi muốn chạy xa khỏi khu nhà ở, thì ông Tướng đã xoay sở phương tiện đưa xác tử sĩ đi trong tuần.
Tháng sau (10.3.1975), Ban Mê Thuột thất thủ, Bộ Tư Lệnh Tối Cao ở Sài Gòn tái phối trí lực lượng để bảo vệ phần còn lại của Miền Nam. Sư Đoàn của Chuẩn Tướng Hưng di chuyển về bảo vệ khu vực phía Bắc Cần Thơ, ông Tướng được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó khu vực phía Nam Sài Gòn (Quân Khu 4).
Ngày 20.3.1975, Huế thất thủ.
Ngày 30.3.1975, Đà Nẵng mất.
Ở Cần Thơ, Tướng Hưng làm việc với Jim D. (xếp CIA Cần Thơ) và những sĩ quan liên lạc quân sự, nhưng ông tỏ ra thích làm việc với tôi ngay lần đầu gặp gỡ hơn là với những người sĩ quan này. Jim D. bảo tôi lên Cần Thơ thường xuyên hơn để làm việc với ông Tướng. Tôi có kế hoạch trở lại Vị Thanh mỗi tuần hay mỗi hai tuần để coi lại khu vực trú ngụ và nghe thuyết trình quân tình từ Đại Tá Mạch Văn Trường, Tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21 đang chỉ huy những đơn vị còn lại ở đấy (Một ngày trước khi ra đi, ngày 24.4.1975, Tổng Thống Thiệu ký nghị định đặc cách thăng Chuẩn Tướng cho Đại Tá Trường. Ông là vị Tướng được thăng chức sau cùng nhứt của cuộc chiến).
Khu vực càng lúc càng thu hút sự quan tâm là con đường Quốc Lộ 4 chạy dài theo hướng Tây và Tây Nam từ Sài Gòn, phía Bắc sông Bassac (tức sông Hậu Giang), rồi đổ vào vùng châu thổ. Các đơn vị của Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm bảo vệ quốc lộ, Chuẩn Tướng Hưng sắp xếp cho tôi được nghe thuyết trình từ Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Tướng Hưng cho biết ông từng phục vụ trong sư đoàn lúc còn trẻ. Ông cố vấn sư đoàn lúc đó là con người đầy huyền thoại Trung Tá John Paul Vann, một nhân vật đầy quyền lực đối với quân đội Nam Việt Nam. Cuối cùng thì ông đã chết (trong một tai nạn trực thăng ở Kontum, tháng 6.1972).
Tôi đáp trực thăng đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và diện kiến Chuẩn Tướng Hai trong văn phòng của ông. Ông Tướng đúng là một bản sao của một sĩ quan Mỹ với bộ quân phục sạch thẳng nếp, tay áo xăn lên quá khuỷu tay. Ông Tướng nói tiếng Anh rất lưu loát (khi còn là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, người ta luôn thấy trong tay Chuẩn Tướng Hai nếu không là một cuốn kinh Phật, thì cũng là một cuốn sách tự học Anh Văn. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông cũng đã từng được gởi đi thụ huấn khóa tham mưu ở Hoa Kỳ). Đôi mắt trên khuôn mặt đầy đặn của ông ánh vẻ nghiêm khắc và ông chẳng tỏ ra thân thiện. Tôi hỏi ông Tướng về tình hình.
-Anh muốn biết tin tức, anh nhân viên chánh phủ Hoa Kỳ, tôi muốn cơ phận cho trực thăng, tôi muốn đạn dược.
-Ngài đang nói chuyện với lầm người rồi, điều ấy chẳng phải là công việc của tôi.
-Anh chính là chánh phủ Hoa Kỳ. Chánh phủ Mỹ hứa luôn cung cấp tiếp liệu cho chúng tôi để chúng tôi có thể chiến đấu. Chúng tôi có thể làm được chuyện ấy, chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, nếu chúng tôi có đạn và máy bay. Hãy nói lại với chánh phủ của anh điều đó rồi tôi sẽ nói anh nghe những gì đang xảy ra ở đây.
-Vâng, tôi sẽ báo cáo rằng quân đội đang thiếu hụt tiếp liệu.
Ông Tướng chằm chằm nhìn tôi một lúc lâu, cuối cùng ông nói:
-Người Mỹ các anh không thường giữ lời hứa với người Việt chúng tôi.
upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/6/61/Tranvanhai.jpg/200px-Tranvanhai.jpg
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh SĐ7BB
Ông Tướng tiếp tục nhìn tôi qua làn khói thuốc, chờ đợi phản ứng của tôi. Khi tôi không tỏ thái độ gì, ông nhún vai và bắt đầu thuyết trình. Ông cho biết binh sĩ của ông chiếm giữ những vị trí trên Quốc Lộ 4 và hành quân đến biên giới Kampuchea để bảo vệ vùng lãnh thổ dưới Sài Gòn. Khu vực này phần lớn là những cánh đồng ruộng trồng lúa. Tinh thần binh sĩ rất cao, ông có thể ngăn chống lực lượng địch cấp sư đoàn của Bắc Việt trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên tinh thần binh sĩ có thể suy sụp nếu sư đoàn đối đầu với lực lượng địch lớn hơn và nếu đạn dược hao hụt. Ông tiên đoán rằng quân Bắc Việt sẽ tấn công sớm, mà ông thì không có tái tiếp tế. Sư đoàn ông đang trực diện với Sư Đoàn 9 Bắc Việt do Tướng Di Thiên Tích chỉ huy, mà đã chiến đấu trong khu vực này từ trước năm 1965.
-Tướng Tích có thể là tướng chỉ huy xuất sắc nhứt mà Bắc Việt có. Anh có biết chiến hiệu (slogan) của sư đoàn ấy là gì không? Là “Quét Sạch Kẻ Thù”. Kẻ thù ấy là tôi.
Có nọc độc trong giọng nói của ông. Quân Lực VNCH đang sụp đổ ở phía Bắc, ông buồn phiền và cay đắng. Không giống như Tướng Hưng, Tướng Hai không triết lý cho tương lai. Ông giận dữ. Tôi đưa ý kiến rằng có thể có cuộc thương thuyết ngừng bắn mà từ đó bảo vệ được chủ quyền của chánh phủ Miền Nam. Ông Tướng nhìn tôi không nói, tôi không rõ ông đang nghĩ gì. Khi tôi trở về Cần Thơ, tôi báo cáo với Jim D. buổi gặp mặt ở Sư Đoàn 7 Bộ Binh, rồi kết thúc bằng sự việc ông Tướng muốn đạn dược và cơ phận. Jim D. nhíu mày nhìn tôi:
-Đưa chuyện ấy vào báo cáo gởi cho Washington, và đứng nói với tôi nữa.
Tôi thường xuyên đến thăm Chuẩn Tướng Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Ông hiếm khi cười. Ông Tướng thường ngồi trên một cái ghế gỗ đằng sau bàn làm việc, ẩn đằng sau khói thuốc khi tôi đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương gần biên giới Miên. Mỗi lần nói chuyện với nhau, thì ông Tướng thường gợi lại những điều mà ông cho là “Sự Can Thiệp Đầy May Rủi” của Quân Đội Hoa Kỳ. Những điều ông nói, đại khái như:
-Giữa hai nền văn hóa có một sự khác biệt lớn lao, người Mỹ các anh luôn muốn chúng tôi suy nghĩ và hành động y hệt như các anh. Thực ra thì chúng tôi đâu có thích các anh hay chánh sách của các anh… Anh có nghe tôi không? Chúng tôi không thích các anh bảo chúng tôi phải làm gì. Nhưng chúng tôi cần sự giúp đỡ để tồn tại, và chúng tôi biết các anh có lợi thế nhìn chúng tôi sinh tồn. Nhưng không có nghĩa là các anh có quyền xía vào công việc và nền văn hóa của chúng tôi.
Tại sao các anh không đưa quân vô Kampuchea. Quân Bắc Việt đang ở đấy đấy, tại sao các anh thì không? Nếu các anh vượt đường xa đến đây để chận đứng chủ nghĩa cộng sản, tại sao các anh không tiến vào đất Miên nơi có những căn cứ của cộng quân rồi đánh cho chúng tiêu tùng. Tại sao các anh không vào Lào? Tại sao các anh không dùng cơ giới nặng ủi sạch con đường Hồ Chí Minh ở đó. Tình hình quân sự ở đây rất đơn giản. Tại sao các anh hành động như những thằng khùng? Người Việt chúng tôi cho là các anh khùng. Anh nói gì về điều đó, anh CIA? Các anh ngáo làm việc cho một tổ chức ngáo.
Sau khi ông Tướng đã giảng thế nào là cách điều khiển chiến tranh, sau khi gọi tôi bằng đủ thứ danh xưng, lập đi lập những chuyện ấy, nổi giận lên, thì ông mới nói đến chuyện quân tình trong khu vực. Trong những lần tiếp xúc tại Bộ Tư Lệnh, dần dà giữa ông Tướng và tôi cảm thấy thoải mái với nhau hơn. Không thân thiết, nhưng thoải mái, chúng tôi biết vị trí của nhau. Có thể là do thời gian hai năm ở Lào tôi có nhiều bạn bản xứ, nhưng cũng có thể ông Tướng nhận biết được sự cảm thông và kính trọng của tôi đối với cảm niệm của ông về Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm ở thời điểm mà rất nhiều cấp chỉ huy khác chỉ nghĩ đến bản thân họ. Cũng có thể khi chúng tôi cảm thấy thoải mái vì tôi là người khách thường xuyên của sư đoàn.
Thượng Nghị Sĩ Frank Church phát biểu trong cuộc họp Thượng Viện ngày 10.4.1975, nói rằng thế là đủ rồi (enough is enough), Quân Đội Nam Việt Nam tự lo liệu lấy. Trong khi đó thì Hạ Viện cũng đã bác bỏ yêu cầu quân viện khẩn cấp 722 triệu mỹ kim và 250 triệu cho kinh tế của Tổng Thống Ford (con số này là do Tướng Weyand lập ra và đệ trình sau khi đi quan sát tình hình quân sự ở Việt Nam về. Còn con số 700 triệu cho tài khóa 1974-1975, rồi bị cắt xuống 300 triệu đã bị cắt bỏ tàn bạo từ lâu). Quốc Hội chỉ đồng ý cấp ngân khoản dùng cho việc di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Ngày hôm sau, trực thăng của Air America (có hợp đồng chuyên chở cho CIA) đưa tôi đến gặp Tướng Hai. Ông Tướng không đứng dậy chào khi tôi bước vào văn phòng. Rất bất ngờ như bước ra từ cõi sương mù, ông nói chậm rãi, hành động của chánh phủ tôi giống như cục phân, nghị sĩ Church xấu xa hơn Hitler, nước Mỹ không còn danh dự, quân đội nước tôi đã vi phạm quy luật hành xử chung của chiến sĩ khi quay lưng với chiến hữu và bỏ rơi họ trên chiến địa.
Ông Tướng đứng dậy và tiến đến gần tôi, đôi mắt ông đỏ hoe, bàn tay ông sờ vào báng súng lục, chằm chằm nhìn tôi không che dấu sự giận dữ từ thái độ của ông. Trong trạng thái căng thẳng đến điểm khó kiềm chế, những ngón tay của ông nắm chặt lấy báng súng. Khoảnh khắc ấy qua đi, ông thở dài:
-Tôi có thể giết anh nhân danh những con người dũng cảm đã hy sinh trong cuộc chiến này. Tôi có thể giết anh vì chánh phủ của anh đã không cố gắng chiến thắng.
Tôi đứng lặng thinh, run rẩy. Tôi nhỏ nhẹ nói:
-Chiến tranh đang tàn lụi, cuộc chiến đấu đã hoàn thành. Ngài phải chấp nhận những gì đã xảy ra, ngài phải chấp nhận số phận.
Chuẩn Tướng Hai hỏi lại:
-Tôi nghe ông Kissinger của anh ngày kia nói rằng Việt Nam đã chết. Ông ta có biết là chúng tôi vẫn còn sống ở đây không?
Tôi không thể trả lời. Cuối cùng thì ông Tướng nhún vai, giọng khàn đục không còn hơi. Ông nói cho tôi nghe tin tức mới nhứt về cuộc điều quân của quân địch mà ông quan sát từ trên máy bay trên vùng biên giới Việt-Miên. Ngày hôm sau, 15.4.1975, tôi bay đến Sư Đoàn 7 từ sáng sớm. Như thường lệ, ông Tướng rầy rà tôi về hành động của Hoa Kỳ:
-Đâu là người bạn của Miền Nam khi Miền Nam cần? Tôi có thể gọi ai đây? Quân giặc đã đến ngưỡng cửa của chúng tôi rồi, đất nước tôi trong cơn nguy khốn tận cùng. Ai sẽ đến tiếp cứu chúng tôi?
Phía bên kia biên giới Miên, ông đã quan sát thấy quân cộng tập trung lên con số đông đảo, cơ giới và chiến cụ liên tục di chuyển đến hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày.
-Máy bay bỏ bom của các anh đâu? Chúng ta đã trông thấy địch lộ diện, đúng là thời điểm dội lên đầu chúng. Chúng chuyển quân rầm rộ trước chiến sĩ của tôi, tôi cần giúp. Hãy giúp tôi, anh bạn CIA.
Như thường lệ, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ nhìn tôi sau màn khói thuốc.
CAC CHIEN SI SD7BB TICH THU VU KHI VC
Những chiến sĩ Thần Ưng Miền Tây, Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Ngày 17.4.1975, Phnom Penh rơi vào tay Khmer Đỏ. Tôi khởi sự đến gặp Chuẩn Tướng Hai mỗi ngày. Ông Tướng cho biết quân Bắc Việt tiếp tục tập kết ngay phía bên kia biên giới, chúng đưa đến chiến xa, cầu nổi và pháo binh. Bộ đội mới, tươi rói đã đến mà ông suy đoán sẽ là nỗ lực chánh tiến đánh Sài Gòn. Đó là mục tiêu thực sự của cộng quân. Cộng quân tập trung đông đảo như vậy không phải là để tấn công Sư Đoàn 7 Bộ Binh hay chiếm lấy QL4. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Chuẩn Tướng Hưng ở Cần Thơ. Ông biết rõ tình hình quân sự toàn quốc, nhưng ông vẫn bình tĩnh và vẫn thư thả đợi cái gì đến sẽ đến. Mười sáu tỉnh của vùng châu thổ chưa có thành phố nào rơi vào tay cộng quân, với một nửa dân số của Miền Nam vẫn được an toàn.
Trong cuộc gặp ngày 19.4.1975, Tướng Hai cho tôi biết có vẻ như là không có thêm quân cộng tập kết ở vùng biên giới nữa, chúng đang điều động đến các vị trí. Ông nghĩ rằng khi chúng bắt đầu đội hình với bộ đội mới vào ở gần biên giới, phía sau những đội công binh bắt cầu, với đoàn chiến xa nặng húc về phía Sài Gòn, cuộc tấn công sẽ nổ ra. Cộng quân sẽ mất bảy ngày để xuất phát từ đất Miên vượt qua vùng Đồng Tháp Mười và tiến về Sài Gòn. Sư Đoàn 7 của ông Tướng chỉ có thể làm chậm tốc độ tiến quân của chúng mà thôi. Tướng Hai nói:
-Chúng tôi không thể chận đứng chúng, quân địch quá đông mà quân chúng tôi quá ít.
Ngày 21.4.1975, Xuân Lộc, một trong những cứ điểm cuối cùng của QLVNCH ở phía Bắc Sài Gòn thất thủ (thật ra chỉ di tản theo lệnh của Trung Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III&Quân Khu 3 về bảo vệ Sài Gòn), sau khi đã anh dũng chận đứng đà tiến của một lực lượng lớn quân Bắc Việt. Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu cũng đã từ chức trong ngày ấy.
Tôi đáp trực thăng đến Bộ Tư Lệnh SĐ7BB trong ngày 22.4.1975. Phòng làm việc của ông Tướng tối quá, ông đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc và hút thuốc.
-Những chiến xa nặng của Bắc Việt đang vào đội hình, bộ binh dàn trận phía sau. Chúng sắp sửa xuất phát, Sài Gòn sẽ rơi vào tay Bắc Việt trong vòng bảy ngày, 29.4.1975.
Ông Tướng đưa cao chiếc tách cà phê nóng lên, làm một cử chỉ vinh danh những người lính đã hy sinh và chào đón tương lai, nhưng ông không cười. Ý định của quân cộng thật rõ ràng đối với Chuẩn Tướng Hai. Chúng sẽ đánh lấy, chiếm được Sài Gòn trong bảy ngày nữa, mà Sư Đoàn 7 thì không thể chận chúng lại được. Tôi đến gặp Chuẩn Tướng Hưng buổi chiều cùng ngày. Ông cho hay từ buổi sáng sớm quân Bắc Việt đã vượt biên giới ở khu vực gần các đơn vị của Chuẩn Tướng Hai và tiến về hướng Sài Gòn. Tướng Hưng đã lệnh cho lực lượng ít ỏi Không Quân và Pháo Binh chuẩn bị chống lại cuộc tiến quân của quân địch, nhưng có lẽ cũng không làm chúng khựng lại được. Ông Tướng vẫn vẻ bình tĩnh và giữ gia đình gần bên.
James E. Parker cùng các đồng sự CIA giúp được nhiều nhân viên Việt Nam và thân nhân ở Cần Thơ thoát được ra biển trong những ngày cuối cùng và được vớt lên chiếc tàu buôn Pioneer Contender.
Đứng trên cầu tàu, tôi quay nhìn về hướng Việt Nam, bất giác tôi chợt nghĩ trong một thoáng thật rõ ràng, rằng dù chúng tôi đã thua trận, nhưng chúng tôi đã hành động đúng khi đến đó và chiến đấu. Lịch sử sẽ rộng lượng phán xét ý định tốt của chúng tôi đến giúp cứu một đất nước bị xâm lấn. Chúng tôi đã không thắng vì những chánh trị gia, những nhà hoạch định chánh sách Hoa Kỳ đã đưa ra những quyết định xấu xa đầy tội lỗi, từ lúc khởi đầu cho đến lúc tàn cuộc.
Con tàu Pioneer Contender cứu mạng hàng ngàn người Việt Nam
Đối với tôi, cái di sản bất tử của cuộc chiến là những người lính đã đáp lời gọi của đất nước, hy sinh thân sống ở Việt Nam. Trong thời điểm của những giá trị chao đảo, họ đã khẳng định những nguyên tắc trường cửu của Trách Nhiệm.Vì Tổ Quốc họ đã tự dấn mình trong những truyền thống Mỹ đẹp đẽ nhứt của những người lính chiến Mỹ. Họ đã chết trẻ rất Danh Dự trong chiến tranh. Mỗi người lính đều là những anh hùng.
Hướng về phía bờ biển, tôi đứng nghiêm chào đúng quân cách, chậm rãi. Tôi đứng lặng thinh trong một khoảnh khắc, rồi quay người đi xuống bên dưới. Cuộc chiến đã chấm dứt.
Chất chở hàng ngàn người tị nạn Việt Nam, con tàu Pionneer Contender nhổ neo buổi sáng sớm hôm sau hướng mũi tàu tiến về hướng Đông. Việt Nam mờ nhạt dần từ phía sau.
PHẠM PHONG DINH
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 10, 2020 17:44:20 GMT 9
Hồi Ký của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến Tháng Tư Đen Và Binh Chủng Mũ Xanh Nguyễn Thành Trí Cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, biệt danh Tango, sinh năm 1935, nguyên Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH từ 1972 cho tới cuối ngày 30 Tháng Tư 1975, đã trải qua 13 năm tù cộng sản, tới Hoa Kỳ theo chương trình HO., hiện định cư tại Houston, Texas cùng vợ và 4 con. Ngày 18 tháng Ba 1975, Đại tá Trí là Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế. Ngày 20-3, từ tuyên Mỹ Chánh trở vào vẫn nguyên vẹn. Mọi cuộc tấn công của Quân Bắc Việt vào phòng tuyến Thuỷ Quân Lục Chiến dọc hành lang sông Bồ và khu vực Cổ Bi đều bị đẩy lui. Nhưng rồi, chỉ 10 ngày sau những lệnh rút quân hoảng loạn từ thượng cấp, Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến tại Vùng I chiến thuật với quân số chừng 11,000, khi được Cơ Xưởng Hạm 802 đưa về đến Vũng Tầu, chỉ còn khoảng 4,000 binh sĩ. Sau đây là chuyện Tháng Tư Đen, trích từ hồi ký “Ngày Tháng Không Quên”, của Đại Tá Nguyễn Thành Trí kể về những ngày giờ sau cùng của binh chủng mũ xanh thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. * Khoảng 09:30 ngày 28-4-75, giờ tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đều bị pháo kích. Trước tuyến LĐ258/TQLC địch cho chiến xa dẫn đường, Bộ binh theo sau, tiến vào vị trí của TĐ6/TQLC. Một phần khu vực của TĐ4/TQLC cũng bị tấn công. Cùng lúc, Sư đoàn 304 CSBV cũng tấn công vào tuyến của LĐ468/TQLC. Các tiểu đoàn thuộc LĐ468/TQLC đã sử dụng pháo binh tác xạ chính xác vào đội hình của địch khiến chúng phải chạy lui về phía sau. Ta bắt được một tù binh thuộc một đơn vị của SĐ304 CSBV. Riêng bên LĐ258/TQLC, địch cũng không thể tiến lên được trước hỏa lực mạnh mẽ của chiến xa và bộ binh của ta. Phi cơ lên vùng yểm trợ và oanh kích hữu hiệu vào đội hình của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địch đã phải rút lui về phía Đông, bỏ lại hai chiến xa do chiến xa ta bắn cháy. Theo cung từ của các tù binh bị bắt, lực lượng tấn công gồm Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 270) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 266). Hai trung đoàn này thuộc Sư đoàn 341 CSBV. Khoảng 14:00 giờ, Tướng Lân gọi điện thoại hỏi tôi về tình hình tại Biên Hòa ra sao. Tôi trình ông biết là tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đang chịu áp lực nặng nề của Sư đoàn 341 và 304 CSBV. Cho tới giờ này anh em vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu. Trong dịp này ông lưu ý tôi hãy chuẩn bị tư tưởng vì có thể SĐ/TQLC sẽ phối hợp với “lực lượng bạn” (?) để bảo vệ an ninh trục lộ từ Biên Hòa về Vũng Tàu. Ông không nói thêm mục đích của công tác nói trên cũng như từ đâu có lệnh đó. Tôi không thể hỏi thêm gì dài dòng vì đang trên đường dây điện thoại và nhận thấy mọi việc cần phải được giữ bí mật trong lúc này. Trước khi chấm dứt điện thoại, Tướng Lân khuyên tôi nên đưa gia đình ra Vũng Tàu, ông sẽ lo liệu trong trường hợp phải di tản. Tôi cám ơn về sự quan tâm của ông, nhưng tôi chưa có ý định cho gia đình đi trong lúc này. Tôi suy nghĩ miên man về những gì Tướng Lân vừa cho biết liên quan đến việc bảo vệ an ninh Quốc lộ 15. Trên thực tế cả Quân đoàn 2 CSBV gồm 3 Sư đoàn đang kiểm soát phần lớn Quốc lộ 15 đi Vũng Tàu. Muốn giải tỏa cần phải có một lực lượng lớn hơn và hành quân trong nhiều ngày với hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Mặt khác phải có kế hoạch ngăn chặn Quân đoàn 4 tấn công vào Biên Hòa trên Quốc lộ 1, chưa kể Quân đoàn này còn có khả năng tăng cường cho Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 15 bất cứ lúc nào. Khoảng 15:00 giờ, Đại tá Lương, Tham mưu trưởng QĐIII, báo cho tôi biết là BTL/QĐ sẽ di chuyển về trại BCH Thiết giáp ở Gò Vấp vào lúc 16:00 giờ. Trước khi rời Biên Hòa ông muốn biết bên TQLC có cần gì không. Ông cho biết thêm là Trung tâm hành quân Quân đoàn vẫn còn để lại một toán nhỏ để làm việc. Tôi cám ơn ông và cho biết chúng tôi chưa cần gì bây giờ. Buổi tối thì nghe tin Tổng thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ cho Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố rằng ông muốn hòa giải, tôn trọng Hiệp định ngưng bắn 1973, và đề nghị ngưng bắn để thương thuyết… Làm sao Cộng sản chịu ngồi xuống thương thuyết khi chúng đang ở thế mạnh? Ngày 29-4-75, tôi được lệnh đến họp tại BTL/SĐ18BB vào lúc 12:00 giờ. Hiện diện gồm có Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, Tướng Đảo, Tư lệnh SĐ18BB, Tướng Khôi, Tư lệnh LĐ3KB, và tôi. Sau khi nghe qua phần trình bày của các vị Tư lệnh và tôi, Tướng Toàn chỉ thị cho các đơn vị rút về gần Biên Hòa và Long Bình để tuyến phòng thủ được bảo vệ chặt chẽ và hữu hiệu hơn. Để có sự thống nhất chỉ huy, do hai LĐ/TQLC khi về vị trí mới thì nằm trong khu vực trách nhiệm của cả LĐ3KB ở phía Bắc và SĐ18BB ở phía Nam, nên LĐ258/TQLC sẽ được tăng phái cho LĐ3KB và LĐ468/TQLC sẽ được tăng phái cho SĐ18BB. Tướng Toàn lưu ý thêm là tôi vẫn chịu trách nhiệm chỉ huy cho đến khi nào các LĐ/TQLC về đến vị trí mới đầy đủ; khi đó phải báo cho ông biết. Về đến BCH tôi chưa kịp mời các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ đến họp về việc rút quân thì địch lại mở cuộc tấn công vào khu vực của TĐ6 và TĐ16/TQLC. Lần tấn công này của địch có vẻ mạnh mẽ hơn. BCH nhẹ SĐ/TQLC liền xin phi cơ lên vùng yểm trợ đồng thời ra lệnh cho Liên đoàn BĐQ sẵn sàng tiếp ứng trong trường hợp cần thiết. Sau vài giờ kịch chiến, địch thấy không thể nào phá được tuyến chặn của ta hai bên Quốc lộ 1, trong khi bị phi cơ ta oanh kích trúng phía sau đội hình nên chúng đành phải rút lui. Trước tuyến của TĐ/16TQLC địch bỏ lại hai chiến xa còn đang bốc cháy. Khoảng 15:30 giờ, tôi họp các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ để phổ biến kế hoạch rút quân và tái phối trí để bảo vệ căn cứ Long Bình và thị trấn Biên Hòa. Các LĐ/TQLC phải đoạn chiến và rút về phía sau từ 10 đến 12 cây số. Liên đoàn BĐQ di chuyển vào bên trong căn cứ Long Bình, tiếp tục làm trừ bị. Thành phần chiến xa tăng phái cho các đơn vị không gì thay đổi. BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ/468 vẫn đóng tại chỗ. Sau khi các LĐ/TQLC về đến tuyến phòng thủ mới thì sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của LĐ3KB (đối với LĐ258/TQLC) và SĐ18BB (đối với LĐ468/TQLC). Phải có kế hoạch yểm trợ Pháo binh bắn chận khi cần thiết trong lúc rút quân. Tôi lưu ý các đơn vị trưởng là địch đang tấn công dữ dội vào hai Đại đội Nhảy dù có nhiệm vụ bảo vệ cầu Đồng Nai và căn cứ Hải quân cách Long Bình vài cây số về hướng Tây Nam. Khoảng 18:00 giờ, sau nhiều lần phản công tái chiếm một vài vị trí đã bị mất, hai Đại đội Nhảy dù đã phải rút lui trước lực lượng đông đảo của đơn vị thuộc đoàn 116 đặc công của địch. Đường về Sài Gòn trên xa lộ qua cầu Đồng Nai đã bị cắt. Giờ đây chỉ còn lại chiếc cầu Đại Hàn duy nhất bắc qua sông Đồng Nai trên Quốc lộ 1 còn sử dụng được để về Sài Gòn, do hai Đại đội Nhảy dù khác đang bảo vệ. blank Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Khi cầu xa lộ Đồng Nai bị chiếm, lực lượng Địa phương quân có nhiệm vụ canh gác các cổng ra vào, kho tiếp liệu, kho đạn… trong căn cứ Long Bình đã tự động rời bỏ vị trí, nhất là khi địch pháo kích vào dữ dội. Một vài cuộc chạm súng giữa một số binh sĩ giữ an ninh còn lại với các toán đặc công địch đã xãy ra tại một vài địa điểm khác nhau trong căn cứ. Lúc bấy giờ thật khó lòng mà xác định được nơi nào là bạn, nơi nào là địch. Tôi gọi điện thoại cho Đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Long Bình nhưng không ai trả lời. Tôi gọi qua Trung tâm hành quân QĐIII tại Biên Hòa (toán liên lạc) để thông báo về tình trạng an ninh trong căn cứ Long Bình không còn kiểm soát được nữa và yêu cầu trình lên thượng cấp để có biện pháp trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Một sĩ quan tại Trung tâm hành quân cho biết không còn ai có thẩm quyền tại đây; anh nói thêm Tướng Toàn đã lên trực thăng lúc 15:00 giờ và BTL/QĐIII ở Gò Vấp cũng không ai biết ông hiện đang ở đâu. Lúc bấy giờ nhiều tiếng súng nổ vang về hướng Biên Hòa. BCH nhẹ SĐ báo cho tôi biết một lực lượng địch đang tấn công vào phía Bắc sân bay Biên Hòa. Độ hơn nửa giờ thì địch bị lực lượng LĐ3KB và BĐQ đẩy lui. Trước đi trời tối BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ468/TQLC di chuyển về khu vực gần cổng trại, cửa đi ra thị trấn Biên Hòa để việc phòng thủ được dễ dàng hơn đồng thời cũng kiểm soát được cổng ra vào quan trọng này. BCH Liên đoàn BĐQ cũng di chuyển theo về gần đó. Tại khu vực này một số văn phòng làm việc vẫn còn để máy lạnh, điện vẫn bật sáng, các máy điện thoại vẫn còn có thể sử dụng được bình thường, nhưng nhân viên chẳng còn ai cả. Mọi thứ vẫn còn bày biện trong văn phòng hay trên bàn làm việc chứng tỏ nhân viên đã rời khỏi nơi này không lâu lắm. Bức ảnh chụp gia đình của một Hạ sĩ quan Mỹ vẫn còn để nguyên trên một nóc tủ đựng hồ sơ, có lẽ trong lúc gấp rút anh ta đã quên mang theo bức ảnh kỷ niệm này. Trong buổi họp lúc 12:00 giờ, khi nhận được lệnh rút khỏi tuyến phòng thủ về bảo vệ vòng đai gần Biên Hòa và Long Bình, chắc ai cũng tự hiểu rằng đây mới chỉ là giai đoạn một. Giai đoạn kế tiếp sẽ có thể là phòng thủ phía Tây sông Đồng Nai, rồi từ đó nếu tình hình nặng hơn, sẽ rút về quanh Sài Gòn. Nhưng giờ đây SĐ18BB, TQLC, LĐ3KB và các đơn vị khác trong khu vực, sẽ phải tự quyết định cách hành động tùy theo sự biến chuyển của tình hình, nhưng chắc chắn không thể nằm lại vòng đai phòng thủ lâu hơn khi không có cấp cao hơn để chịu trách nhiệm về sự thống nhất chỉ huy. Trong những ngày qua nổ lực của Quân đoàn 4 CSBV trên Quốc lộ 1 có phần mạnh mẽ và tập trung hơn do nhu cầu cấp bách của Quân đoàn này phải kết hợp kịp thời với các cánh quân từ các hướng khác để cùng tiến về tổng công kích Thủ đô Sài Gòn. Quân đoàn này tập trung 3 Sư đoàn cứ đánh thẳng từ Đông sang Tây với ý định sau khi chiếm Trảng Bom thì tiếp tục tiến về Biên Hòa và Long Bình rồi sau đó về Sài Gòn. Trong khi áp lực của Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 145 chỉ mạnh mẽ tại khu vực Trường thiết giáp trong lúc đầu với Sư đoàn 304, nhưng không thể nào tiến xa hơn về hướng Long Bình vì gặp phải tuyến phòng thủ của LĐ468/TQLC và lực lượng Thiết giáp. Riêng Sư đoàn 3 và 325 CSBV thì lo tấn công Long Thành và Bà Rịa. Sau khi chiếm được Long Thành thì Sư đoàn 325 CSBV phải tiếp tục băng qua Quốc lộ 15 tiến về hướng Tây Nam để chiếm Nhơn Trạch mà chúng đã có kế hoạch sẽ đặt pháo 130 ly tại đây bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trong khi Sư đoàn 3 CSBV sau khi chiếm Bà Rịa thì tiếp tục triển khai đội hình về hướng Vũng Tàu. Trong một ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV (Binh đoàn Cửu Long) do nhà xuất bản Quân Đội nhân dân ấn hành tại Hà Nội năm 1986, có ghi đoạn nói về nhiệm vụ của Quân đoàn 4 CSBV như sau: “0 giờ ngày 30 tháng 4 cuộc tổng công kích vào Sài Gòn sẽ bắt đầu. Để cùng với tất cả các cánh quân tiến về Sài Gòn, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết tâm đánh chiếm khu liên hợp công nghiệp Biên Hòa trước 0 giờ đêm nay. Sư đoàn 6 được lệnh bỏ các vị trí, các căn cứ còn lại ở Hố Nai, tiến đánh bên trái đường số 1, đánh chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 Ngụy và cầu Ghềnh, thọc sang bên kia sông chiếm đầu cầu giữ bàn đạp. Sư đoàn 341 chiếm sân bay Biên Hòa, Sư đoàn 7 không chờ sang bên kia cầu mới tác chiến, mà phải đột phá tiếp trại tù Hố Nai, đục phăng cái lá chắn của địch ở Tam Hiệp, cố gắng đưa hết đội hình sang bờ Tây sông Đồng Nai trong đêm nay”… Xem qua đoạn trên, ta thấy lực lượng địch tấn công Hố Nai trong mấy ngày qua gồm các đơn vị của 3 Sư đoàn khác nhau xa luân chiến: đầu tiên là Sư đoàn 341, kế tiếp là Sư đoàn 6 và cuối cùng là Sư đoàn 7 CSBV. Nhưng chúng không thể nào vượt qua nổi tuyến phòng thủ của LĐ258 và lực lượng chiến xa của LĐ3KB. Khi thấy LĐ258 và 468/TQLC đoạn chiến để rút về vòng đai Biên Hòa và Long Bình vào buổi chiều, địch đưa chiến xa và Bộ binh tiến vào Hố Nai trong đội hình tác chiến. Chúng tưởng rằng lực lượng phòng thủ đã rút về phía Tây sông Đồng Nai để lập tuyến phòng thủ ở đây. Không ngờ chưa ra khỏi thị trấn Hố Nai thì đã bị lực lượng phòng thủ chận đánh vào lúc 23:00 giờ. Trong ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV có đoạn ghi trận đánh này như sau: “Bộ đội ta tiến lên trong màn đêm mưa pháo địch. Khi Trung đoàn 3 Sư đoàn 6 ra khỏi Hố Nai, tiến về Nam Biên Hòa, thì Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 165 (đây là Trung đoàn 165 của Sư đoàn 7, xin đừng lầm với Trung đoàn 165 của sư đoàn 312 mà ta đã đụng độ nhiều lần ở Quảng Trị năm 1972-1975) có 4 xe tăng dẫn đầu, thuộc phân đội đi đầu của Sư đoàn, cũng bắt đầu tiến vào Hố Nai. Đội hình lọt vào giữa hai dãy phố. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho xe tăng nổ máy vọt lên. Nhưng bốn chiếc xe tăng vừa tiến lên được một đoạn thì bổng từ hai bên sườn và cả trước mặt nhiều chớp lửa xanh lè lóe lên, từng quả đạn đỏ lừ vun vút lao tới bốn chiếc xe tăng ta. Trung đoàn trưởng lệnh súng cối 120, pháo 85 giá súng bắn trả. Bốn khẩu pháo xe tăng cũng nhả đạn, nhưng mới bắn được vài quả đạn thì ba chiếc trúng hỏa tiển chống tăng của địch bốc cháy… Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Trung đoàn trưởng vừa báo cáo xin chỉ thị của Sư đoàn vừa tổ chức đội phá phòng tuyến… Sư đoàn trưởng phóng xe Honda tới hỏi luôn: “Tình hình ra sao rồi? Gặp khó khăn phải không? Một thằng tù binh vừa khai trước mặt Trung đoàn là LĐ258 lính thủy đánh bộ. Chủ yếu là Tiểu đoàn 6 với 60 xe tăng của Lữ kỹ binh 3 đấy”. Trung đoàn trưởng Trần Quang Diệu báo cáo vắn tắt tình hình rồi trình bày ý định tác chiến của Trung đoàn. Sư đoàn trưởng gật đầu: “Tổ chức đánh ngay đi không muộn”. Nhưng cũng như các cuộc tấn công trước, địch cuối cùng cũng phải rút lui về Đông với thiệt hại nặng nề mà không thể nào “đục phăng cái lá chắn” của lực lượng phòng thủ. Khoảng 03:00 giờ ngày 30-4-75, LĐ258/TQLC báo cho BCH nhẹ SĐ một số chiến xa của LĐ3KB chạy qua cầu Đại Hàn để qua phía tây sông Đồng Nai và xin ý kiến. Tôi trả lời hãy giữ liên lạc chặc chẽ với LĐ3KB và thi hành theo sự điều động của LĐ3KB (vì LĐ258/TQLC đang được tăng phái cho LĐ3KB), tuy nhiên phải báo cáo mọi diễn tiến cho BCH nhẹ SĐ/TQLC để tiện theo dõi. Lúc bấy giờ BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ468/TQLCvà Liên đoàn BĐQ vẫn còn đóng trong căn cứ Long Bình. Tình hình có vẻ lắng dịu trong tiếng pháo kích cầm chừng của địch. Khoảng 03:30 giờ, LĐ258/TQLC báo cáo bắt đầu di chuyển về phía Tây cùng với một số chiến xa của LĐ3KB và sẽ bố trí bên phía Tây sông Đồng Nai. Tôi gọi qua BTL/SĐ18BB để gặp Tướng Đảo, nhưng không ai trả lời. Tôi ra lệnh cho LĐ258/TQLC để lại một Tiểu đoàn bảo vệ phía Đông cầu Đại Hàn cho đến khi LĐ468/TQLC và Liên đoàn BĐQ rút qua hết. Khoảng 06:30 giờ, khi các đơn vị thuộc LĐ468/TQLC qua gần hết cầu Đồng Nai thì BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ468/TQLC và Liên đoàn BĐQ bắt đầu di chuyển qua phía Tây Sông Đồng Nai. Hai Đại đội Nhảy dù vẫn còn canh gác cầu này. Điều đặc biệt là địch không còn mở ra cuộc tấn công nào nữa mặc dù các đơn vị của ta quan sát vẫn thấy chúng thấp thoáng cách khoảng 3 cây số về hướng Đông. Vào lúc này qua hệ thống máy ANPCR25, LĐ468/TQLC liên lạc được với SĐ18BB và được biết Tướng Đảo cùng với lực lượng của ông đang bố trí tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ, cách cầu Đồng Nai hơn bốn cây số về hướng Tây Nam. Trong khi tôi băn khoăn chờ đợi xem có lệnh gì kế tiếp thì Trung tá Huỳnh Văn Lượm, Lữ đoàn phó LĐ258/TQLC đến gặp tôi trên Quốc lộ 1 gần đầu cầu Đại Hàn và cho tôi biết Bộ tổng tham mưu nhờ LĐ3KB làm trung gian chuyển lệnh cho các đơn vị như sau: TQLC về căn cứ Sóng Thần (CCST), LĐ3KB về Gò Vấp chờ lệnh tiếp. Không nghe nói lệnh cho SĐ18BB như thế nào, có lẽ Sư đoàn này nhận lệnh thẳng từ Bộ tổng tham mưu rồi. (Lúc bấy giờ Trung tướng Vĩnh Lộc là Tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Ông vừa nhận chức vụ này vào chiều hôm qua.) Tôi cảm thấy có điều gì không ổn bởi lẽ trong khi chiến trường đang sôi động, khoảng hơn 16 Sư đoàn địch đang siết chặt vòng vây vào Sài Gòn từ nhiều hướng, sao lại có lệnh cho TQLC về căn cứ Sóng Thần, hậu cứ của Sư đoàn? BTL/QĐIII giờ đây coi như không còn ai có thẩm quyền giải quyết được gì nữa. BCH nhẹ SĐ/TQLC thông báo lệnh này cho Liên đoàn BĐQ và yêu cầu Liên đoàn này liên lạc với các đơn vị liên hệ để có phương tiện di chuyển đến nơi nào tùy nghi. Nhiệm vụ tăng phái của Liên đoàn BĐQ cho BCH nhẹ SĐ/TQLC được coi như chấm dứt kể từ giờ phút ấy. Tôi không nắm vững được tình hình của SĐ5BB ở hướng Tây Bắc Biên Hòa lúc bấy giờ ra sao. Nếu như cả Quân đoàn 1 CSBV tiếp tục ép xuống phía Nam dọc theo Quốc lộ 13, thì SĐ5BB sẽ khó lòng giữ được Bến Cát: Tỉnh Bình Dương, quận Lái Thiêu rồi sẽ mất. Cộng quân sẽ nhanh chóng tiến chiếm ngã ba Lái Thiêu và Quốc lộ 1. Căn cứ Sóng Thần nằm giữa Biên Hòa (phía Đông) và Lái Thiêu (phía Tây) sẽ trở thành một mục tiêu hoàn toàn bị cô lập. Sau khi thỏa luận với các cấp chỉ huy của hai Lữ đoàn và một vài Tiểu đoàn đang có mặt, tôi ra lệnh cho LĐ258/TQLC đưa một thành phần về thẳng trại Lê Thánh Tôn, bản doanh của BTL/SĐ/TQLC tại Sài Gòn, như là thành phần tiên phong để chuẩn bị nơi đóng quân cho các đơn vị. Sở dĩ chúng tôi có sự lựa chọn này là vì các lý do như sau: thứ nhất là để tránh trở thành mục tiêu bị cô lập tại căn cứ Sóng Thần như đã nói ở trên. Nếu địch tấn công và ta phải chống trả để cố thủ, thì các trại gia binh chung quanh đó sẽ phải gánh chịu hậu quả vô cùng tai hại. Tại Sài Gòn vẫn có các trại sau đây mà các đơn vị TQLC có thể về tạm đóng quân: đó là trại Lê Thánh Tôn, trại Nguyễn Văn Nho và trại Cửu Long. Thứ hai là các thương bệnh binh đang điều trị tại bệnh viện Lê Hữu Sanh, tức bệnh viện của SĐ/TQLC tại CCST, cũng cần được di tản về Sài Gòn để họ được an toàn hơn. Thứ ba là nếu như Sài Gòn thất thủ, TQLC có thể rút về V4CT tương đối dễ dàng để cùng với lực lượng Quân đoàn IV tiếp tục chiến đấu. blank Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Đoàn xe chở thành phần về Sài Gòn do Thiếu tá Quách Ngọc Lâm, trưởng ban 4 LĐ258/TQLC chỉ huy. Trong khi không thể liên lạc được với BTL/QĐIII và Bộ tổng tham mưu, BCH nhẹ SĐ/TQLC tạm có cách giải quyết riêng hầu tránh được mọi nguy hiểm cho các đơn vị được chừng nào hay chừng ấy. Do quân xa tập trung được có hạn, nên các đơn vị của hai Lữ đoàn chỉ sử dụng được những phương tiện hiện có trong tay, tiếp tục chuyển quân về căn cứ Sóng Thần theo phương cách con thoi, sau đó sẽ có kế hoạch di chuyển về Sài Gòn. Vấn đề là làm sao rời khỏi phía Tây sông Đồng Nai càng nhanh càng tốt để tránh thiệt hại do địch pháo kích. Thời gian di chuyển từ Biên Hòa về CCST khoảng 30 phút theo đội hình đoàn xe. Khoảng 09:30 giờ, BCH nhẹ SĐ/TQLC về đến CCST. Tôi ngạc nhiên khi thấy đoàn xe của Thiếu tá Lâm còn đang đậu trên xa lộ trước cổng CCST, binh sĩ xuống xe bố trí hai bên đường. Thiếu tá Lâm chạy đến cho tôi biết là có cuộc đụng độ dữ dội giữa địch và lực lượng ta tại khu vực ngã ba Lái Thiêu – Quốc lộ 1 và cầu Bình Triệu. Do đó đoàn xe phải quay đầu trở lại. Tôi cảm thấy đầy lo âu và thất vọng. Toán Quân cảnh và binh sĩ canh gác nơi cổng ra vào CCST vẫn làm việc bình thường, quân phục gọn gàng, trông thật hùng dũng và kỷ luật, thể hiện tác phong đứng đắn của những chiến sĩ trong Binh chủng Mũ xanh. Tại BCH/CCST tôi gặp Trung tá Hoàng Ngọc Bảo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Truyền tin TQLC, Thiếu tá Tô Văn Cấp, Chỉ huy phó CCST và một số anh em sĩ quan khác. Mọi người tỏ ra đăm chiêu nhưng sau đó có vẻ yên tâm khi thấy các đơn vị hành quân di chuyển về càng lúc càng đông đảo. Tôi tìm cách gọi điện thoại về Vũng Tàu để trình cho Tướng Lân về tình hình đang xãy ra tại Biên Hòa cũng như tại CCST, nhưng đường dây không còn liên lạc được nữa. Khoảng 10:00 giờ hơn, Trung tá Bảo từ ngoài cửa văn phòng bước nhanh vào và bằng một giọng trầm hẳn xuống, buồn bã, đầy xúc động, anh báo cho tôi: “Trình Đại tá mình đầu hàng rồi!” Tôi sửng sốt hỏi lại ngay: “Hả? Anh nói sao?” Trung tá Bảo nói tiếp: “Tổng Thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên cáo yêu cầu Quân lực VNCH hãy ở tại chỗ, tránh nổ súng và chờ lực lượng giải phóng đến bàn giao”. Tin sét đánh ngang tai. Tôi bàng hoàng không biết phải nói gì với mọi người đang có mặt, dù chỉ một câu thật ngắn ngủi; bởi quả tình tôi chưa hề chuẩn bị một chút tâm tư hay suy nghĩ nào cho những phản ứng trước một sự thật phũ phàng đến như thế; bởi mới hôm qua đây, bao nhiêu anh em vừa mới nằm xuống nơi chiến trường phía Đông không xa lắm, cũng chỉ vì hai chữ “DANH DỰ – TỔ QUỐC”; bởi hai chữ “đầu hàng” hay những cụm từ tương đương với ý nghĩa đó, không bao giờ có trong bất cứ binh thư sách vở nào nơi các quân trường… Nhưng biết làm sao đây, bao nhiêu anh em đang nhìn tôi như chờ đợi một giài đáp. Tôi cho mời tất cả các đơn vị trưởng đang có mặt trong căn cứ đến họp để chính thức thông báo về lời tuyên cáo của Tổng thống Dương Văn Minh. Trước mặt mọi người tôi có vài lời vắn tắt như sau: “Chắc các anh em đã nghe lời tuyên cáo của Tổng thống, cũng là vị Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực VNCH. Chúng ta không thể làm gì hơn. Vi là quân nhân, chúng ta phải tuân theo kỷ luật. Yêu cầu các anh em hãy cố gắng tiếp tục đưa đơn vị của mình về CCST, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, đồng thời giải thích cho họ rõ những điều tôi vừa nói để tránh mọi trường hợp đáng tiếc có thể xãy ra. Sau đó anh em có thể cho đơn vị giá súng vào kho và ra về với gia đình. Tôi xin gởi đến tất cả các anh em và gia đình lời chúc bình an và nhiều may mắn. Xin cám ơn tất cả anh em về sự chiến đấu anh dũng và không mệt mỏi trên mặt trận phía Đông Biên Hòa trong những ngày vừa qua”… Có những cặp mắt buồn bã nhìn nhau im lặng… và tôi cũng đã nghẹn ngào, không thể nói thêm được gì hơn. Tôi nhờ Trung tá Bảo gọi bệnh viện Lê Hữu Sanh để tôi hỏi thăm về tình trạng thương bệnh binh ra sao. Một Y tá cho biết Bác sĩ Trần Công Hiệp, Y sĩ trưởng bệnh viện, hiện đang chữa trị cho các thương binh ở khu giải phẫu. Không muốn làm phiền Bác sĩ Hiệp trong lúc ông đang bận săn sóc thương binh, tôi hỏi anh Y tá số thương binh tại bệnh viện hiện giờ là bao nhiêu. Anh cho biết là khoảng gần tám chục người, không kể trên mười thương binh khác trong tình trạng nặng, được chuyển từ mặt trận Biên Hòa về khuya hôm qua và đã được khẩn cấp đưa đi bệnh viện Cộng Hòa điều trị. Bác sĩ Hiệp và các Y tá nam cũng như nữ, vẫn còn tận tụy săn sóc thương binh cho đến giờ phút cuối cùng này. Họ đã chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm, lương tâm của những chiến sĩ quân y TQLC. Sự hiện diện của họ trong lúc này đã xoa dịu phần nào nỗi đau trên thể xác lẫn tâm hồn của các thương bệnh binh. Bên cạnh những bàn tay “Từ mẫu” ấy, các thương bệnh binh hẵn cũng đã tìm được chút niềm an ủi, cảm thấy ấm lòng trong giờ phút đau buồn và tủi nhục nhất của đất nước. Đến trưa thì Bác sĩ Hiệp cho phép các thương bệnh binh và y tá được rời khỏi bệnh viện Lê Hữu Sanh. Các thương binh, kẻ chống nạng, người trên xe lăn, các y tá và bệnh binh còn đi được, thì dắt díu hoặc cõng những thương binh khác, đã nhất quyết rời khỏi bệnh viện vì không muốn chờ kẻ thù đến sỉ nhục hay hành hạ mình. Vâng! Đã đến lúc những thương binh TQLC nói riêng và QLVNCH nói chung, thấy cần phải thể hiện tính khí khái, lòng can đảm và làm bất cứ điều gì mà họ có thể làm được, để bảo vệ danh dự và uy tín của tập thể, mặc dù họ biết chính họ là những kẻ thua thiệt hơn ai hết. Trong giờ phút đầy lo âu và tuyệt vọng này, làm sao quên được những chiến hữu của chúng tôi hiện đang bị bắt làm tù binh hay còn lẩn trốn nơi nào đó ngoài Thừa Thiên và Đà Nẵng. Họ sẽ nghĩ gì khi biết rằng QLVNCH giờ này đã phải ngẩn ngơ buông súng, đầu hàng một cách nhục nhã theo lệnh của Tổng thống VNCH. Họ còn bám víu vào niềm hy vọng nào để tiếp tục phấn đấu trong hoàn cảnh đầy tối tăm ấy? Vợ con và gia đình họ rồi sẽ ra sao? Và cũng mỉa may thay, tôi cũng chưa có được câu trả lời nào dứt khoát cho trường hợp của chính bản thân mình… Khoảng 15:30 giờ, Trung tá Bảo đến khuyên tôi nên ra về vì Căn Cứ Sóng Thần lúc ấy cũng đã vắng vẻ. Chúng tôi cùng một số anh em khác lên chiếc xe Jeep của Trung tá Bảo và hướng ra cổng trại. Điếm canh và vọng gác nơi cổng ra vào CCST lúc bấy giờ cũng đã bỏ trống… Mũ Xanh Nguyễn Thành Trí Nguồn: vietbao.com/a219505/hoi-ky-cua-dai-ta-nguyen-thanh-tri-tu-lenh-pho-su-doan-thuy-quan-luc-chien-thang-tu-den-va-binh-chung-mu-xanh
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 10, 2020 18:07:24 GMT 9
30 THÁNG TƯ, CÁC TƯỚNG LÃNH VNCH ĐI ĐÂU?Posted on June 8, 2020 by dongsongcu Lâm Vĩnh Bình Lê Thy đánh máy từ báo QUỐC GIA (Montreal-Canada) số 151-Quốc Hận 2020 Theo Wikipedia, Quân Lực VNCH có 173 vị tướng từ cấp thống tướng đến chuẩn tướng. Theo tài liệu lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Việt Nam ở San Jose, vào tháng 4 năm 1975, VNCH có 112 tướng lãnh trong số có 80 vị đã rời khỏi Việt Nam khi Cộng Sản chiếm Saigon. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, nếu không kể vị Thống Tướng duy nhất là Lê Văn Tỵ đã mất năm 1964, các tướng lãnh đã mất vì già yếu, vì tử trận (7), các tướng đã hồi hưu hay giải ngũ thì vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH có 107 tướng tại ngũ được liệt kê như sau: Cần chú thích thêm là ngoài 29 tướng bị đi cải tạo còn có thêm 9 vị tướng hồi hưu hay giải ngũ cũng bị cộng sản bắt đi cải tạo, như vậy số tướng lãnh bị bắt đi cải tạo là 38 vị. Ngoài ra, trong số tướng giải ngũ có một tướng thân cận với Dương Văn Minh đã bị TT Thiệu cho giải ngũ, nhưng lại là một tên cộng sản nằm vùng, bí danh là S7, được Dương Văn Minh cho tái ngũ ngày 28/4/1975 là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Những vị tướng tuẫn tiết1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Quân Khu 2, tự sát bằng thuốc độc ngày 29 tháng 4, được gia đình đưa vào nhà thương Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng 4 sau khi được biết Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng. 2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ rạng sáng ngày 1 tháng 5 sau khi thăm các chiến hữu thương binh ở Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. 3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ tối ngày 30 tháng 4 sau khi nói lời vĩnh biệt với vợ và con. 4- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB, tự sát tại Bô Tư Lệnh ở Lai Khê trưa 30 tháng 4 sau khi dùng bữa cơm cuối cùng với chiến hữu. 5- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB, tự tử ở Căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) chiều ngày 30 tháng 4. Những vị tướng di tảnTrong số 11 vị tướng lãnh trên chỉ có TrT Lữ Lan và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại còn tại thế, 9 vị còn lại đã qua đời (năm mất trong dấu ngoặc) Từ ngày 25 đến 30 tháng tư, một số tướng lãnh đã bắt đầu rời Việt Nam, hoặc nhờ phương tiện của Mỹ, hoặc nhờ tàu và phi cơ của VNCH rời VN đến Đệ Thất Hạm Đội hay những căn cứ của Mỹ ở Thái Bình Dương rồi từ đó được di tản đến các trại tiếp cư trên đất Mỹ, một vài vị sau đó đi Canada hay Pháp, trừ Tổng Thống Thiệu đi Anh Quốc. Hai vị tướng rời VN sớm nhất là Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm – Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tổng Thống kiêm Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ chức ngày 21-4-1975, ngày 25-4-1975, ông Thiệu cùng ông Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ tổ chức. – Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng từ chức vào thượng tuần tháng tư 1975, rời Việt Nam cùng lúc với TT Nguyễn văn Thiệu. Danh sách các vị tướng di tản (Chức vụ ghi là chức vụ sau cùng)Cấp Đại Tướng1- Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. 2- Trần Thiện Khiêm. Cấp Trung Tướng1- Nguyễn Văn Thiệu. 2- Chung Tấn Cang (Phó Đô Đốc), Tư Lệnh Hải Quân. 3- Phan Trọng Chinh, Chỉ Huy Trưởng trường Chỉ Huy &Tham Mưu. 4- Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng nội các Nguyễn Bá Cẩn, rời VN qua Pháp. 5- Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Quân Đoàn III. 6- Cao Hảo Hớn, Tổng Trưởng Chương Trình Phát Triển và Bình Định. 7- Lê Nguyên Khang, Phụ Tá Hành Quân bộ Tổng Tham Mưu. 8- Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận. 9- Lữ Lan (Lữ Mộng Lan), Chỉ Huy Trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng. 10- Hoàng Xuân Lãm, Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng. 11- Vĩnh Lộc, nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng lúc 3giờ chiều ngày 29 rồi sáng 30 ra đi cùng với Trung Tướng Trần Văn Trung. 12- Nguyễn Văn Mạnh, TTM phó đặc trách Địa phương quân và Nghĩa quân. 13- Nguyễn văn Minh, (Minh đờn vì đờn guitare rất hay), Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. 14- Trần Văn Minh, (Minh nhỏ, hay Minh Lục quân, còn Minh lớn là Trung Tướng Dương văn Minh), Cựu Tổng Tham Mưu Trưởng, Đai sứ tại Tunisie, Tchad, sang Nice (Pháp). 15- Trần Văn Minh, (Minh đen), Tư Lệnh Không Quân. Chú thích : VNCH có 4 tướng đều có tên Minh nên để dễ phân biệt, mỗi vị được gọi tên với một “biệt danh”. 16- Ðặng văn Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia Phủ Tổng Thống. Lúc đầu đến Montréal, rồi sau sang Mỹ. 17- Trần Ngọc Tám, Cựu Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. 18- Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1 & QK 1. 19- Nguyễn Xuân Thịnh, Tư Lệnh Binh Chủng Pháo Binh. 20- Phạm Quốc Thuần, Chỉ huy Trưởng Trường Sĩ Quan Đồng Đế, Nha Trang. 21- Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, rồi Quân Đoàn 3 kiêm Tư Lệnh Binh chủng Thiết Giáp. 22- Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị, đến Mỹ rồi sau sang Pháp. 23- Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. 24- Ngô Dzu, Trưởng đoàn Quân Sự 4 bên tại Trại Davis, Tân Sơn Nhứt. Cấp Thiếu Tướng1- Nguyễn Cao Kỳ, Cựu Tư Lệnh Không Quân, Cựu Phó Tổng Thống. Trưa ngày 25 tháng tư, trước 10 000 người Công giáo ở xứ đạo Tân Sa Châu, ông tuyên bố: «Tôi sẽ ở lại Saigon chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát». Sau khi tuyên bố xong , ông thu xếp cho máy bay di tản qua Thái Lan trong đó có một chiếc trực thăng chở ông cùng tướng Ngô Quang Trưởng ra Đệ Thất Hạm Đội ngày 29/4. 2- Đào Duy Ân, Tư Lệnh Phó Diện Địa Quân Đoàn III. 3- Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo. 4- Võ văn Cảnh, Phụ Tá Tổng Trưởng Nội Vụ. 5- Bùi Đình Đạm, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng. 6- Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB. 7- Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1. 8- Võ xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân. 9- Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. 10- Nguyễn Ngọc Loan, Chánh Thanh Tra Bộ Quốc Phòng. 11- Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB. 12- Lâm Ngươn Tánh (Hải Hàm Đề Đốc), Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đặc trách cứu trợ đồng bào di cư Miền Trung. 13- Lâm Quang Thơ, Chỉ Huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt. 14- Lê Ngọc Triển, Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ TTM (4/1975). 15- Chương Dzềnh Quay, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Cấp Chuẩn Tướng1- Trương Bảy, Phụ Tá Tư Lệnh Cảnh Sát đặc biệt. 2- Nguyễn Chấn, Cục Công Binh, Biệt phái Phụ Tá Tổng Trưởng Canh Nông. 3- Nguyễn Thanh Châu (Phó Đề Đốc), Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Nha Trang. 4- Nguyễn Hữu Chí (Phó Đề Đốc), Phụ tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển. 5- Nguyễn Văn Chức, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận (4/1975). 6- Vũ Đình Đào (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải. 7- Đinh Mạnh Hùng (Phó Đề Đốc), Phụ Tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Sông. 8- Hoàng Cơ Minh (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải. 9- Nghiêm Văn Phú (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám 212. 10- Đặng Cao Thăng (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Sông ngòi. 11- Hồ Văn Kỳ Thoại (Phó Đề Đốc) Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải. 12- Diệp Quang Thủy (Phó Đề Đốc), Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân. 13- Từ Văn Bê, Chỉ Huy Trưởng Tiếp vận và Kỹ Thuật KQ. 14- Võ Dinh, Chỉ Huy Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu KQ. 15- Nguyễn Đức Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 KQ, định cư ở Montréal. 16 – Đặng Đình Linh, Tham mưu phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân. 17- Nguyễn Văn Lượng, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 KQ. 18- Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện KQ. 19- Nguyễn Hữu Tẩn, Tư Lệnh Sư Đoàn 4 KQ, được Dương Văn Minh cử quyền Tư Lệnh Không Quân ngày 29/4/1975. 20- Phan Phụng Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 KQ. 21- Huỳnh Bá Tính, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 KQ. 22- Nguyễn Văn Giàu (Đại tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Cảnh Lực. 23- Phan Hòa Hiệp, Trưởng Đoàn LHQS 2 bên. 24- Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù. 25- Vũ Đức Lượng, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội. 26- Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn. 27- Phạm Hữu Nhơn, Trưởng Phòng 7 Bộ TTM. 28- Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. 29- Huỳnh Thới Tây, (Đại tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương. 30- Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3, Bộ TTM. 31- Trang Sĩ Tấn (đồng hóa Chuẩn Tướng), Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành. Những Vị Tướng bị Cộng Sản bắt đi “học tập cải tạo”Số tướng lãnh bị đi học tập cải tạo gồm các tướng lãnh không muốn đi hay bị kẹt lai. Một số tướng đã giải ngũ cũng bị đi “cải tạo” (có ghi chữ Cựu). Một số tướng đã bị giam trong khám Chí Hòa thời VNCH vì nghi án tham nhũng hay lý do chính tri bị tiếp tục cải tạo dưới thời cộng sản. Thời gian học tập cải tạo từ vài năm đến 17 năm. Có 8 vị bị 17 năm (từ số 1 đến số 8). Duy nhất có Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ chỉ học tập có 6 tháng. Những vị bị cải tạo 17 năm (1975 -1992)1- Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. 2- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB. 3- Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân. 4- Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh. 5- Chuẩn Tướng Phạm Ngoc Sang, Tư Lệnh Không Đoàn 6 KQ, bị CS bắt khi thua trận ở Phan Rang cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. 6- Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2, Chỉ huy cuộc hành quân rút lui bỏ các tỉnh vùng Cao Nguyên tháng 3, 1975. 7- Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tư Lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2. 8- Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Những vị bị cải tạo 12-13 năm (được thả năm 1987,1988)9- Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi: Bị tai tiếng tham nhũng ở Quân đoàn 4, ông phải bàn giao chức vụ cho Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đi nhận chức Chỉ Huy Trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối tháng 3, 1975, Khi QĐ 2 bị tan rã, TT Thiệu cử ông làm Tư Lệnh phó QĐ 3 kiêm Tư Lệnh Tiền Phương QĐ đặc trách giữ phòng tuyến Phan Rang, nhưng sau cùng Phan Rang cũng bị chiếm và ông bị địch bắt. Ông là tướng lãnh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. 10- Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, đã giải ngũ năm 1967, tuy là cựu thù với ĐT Dương Văn Minh, nhưng lại tái ngũ ngày 28/4/1975 làm Cố Vấn cho Tướng DVM. Bị đi cải tạo 12 năm, nhưng khi được thả lại hoạt động cho Mặt Trận Tổ Quốc, cơ quan ngoại vi của cộng sản. 11- Trung Tướng Lâm Văn Phát, cùng thời với các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương văn Đức, Nguyễn Khánh, tham gia đảo chánh 4 lần, bị tước hết cấp bậc, bị gìải ngũ năm 1965. Ngày 28/4/1075, Dương Văn Minh thăng cấp Trung Tướng cử ông làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô thay tướng Nguyễn Văn Minh vừa đào nhiệm. 12- Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Trang, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh, sau biệt phái qua Bộ Ngoại Giao Phụ tá Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm. 13- Thiếu Tướng Nguyễn Chấn Á, người Việt gốc Hoa, Thiếu Tướng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Gia nhập Quân Lực VNCH, ông được giữ nguyên chức vụ. Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh, Cố Vấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. 14- Thiếu Tướng Văn Thành Cao (Cao Đài) hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm được phong Thiếu Tướng (1955) Tổng Cục Phó Chiến Tranh Chính Trị. 15- Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng, chết trong trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh vì bịnh không thuốc men năm 1984. 16- Chuẩn Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. 17- Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, bị cách chức Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB hồi tháng 5 năm 1972, bị kết tội 5 năm tù vì thua trận Quảng Trị, bị giam trong Khám Chí Hoà . Khi CS vào Saigon ông bị đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987 mới được thả. 18- Chuẩn Tướng Lê Văn Tư, cựu Tư Lệnh SĐ 25BB, bị tạm giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì nghi án buôn lậu trong quân đội, bị đi tù từ Nam ra Bắc 13 năm. 19- Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch, Chánh Thanh Tra QĐ 4, bị giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì nghi can buôn lậu trong quân đội, bị tù từ Nam ra Bắc 13 năm. 20- Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra QĐ 3. Sau khi được thả, ông ở lại VN. 21- Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2, bị CS bắt làm tù binh tại Tuy Hòa. 22- Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3, QK3. 23- Chuẩn Tướng Lê Trung Trực, Phụ Tá Trung Tướng Đặng Văn Quang. 24- Chuẩn Tướng Lý Bá Hỷ, Phó Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, 13 năm tù, sau định cư ở Pháp. 25- Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh. 26- Chuẩn Tướng Chung Tấn Phát, Chánh Văn Phòng Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu. 27- Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát Quốc Gia, chết trong trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh năm 1984 vì bịnh thiếu thuốc men. Những vị bị cải tạo dưới 5 năm28- Thiếu Tướng Quân Y sĩ Vũ Ngọc Hoàn, bị lưu đày từ Nam ra Bắc đến năm 1980. 29- Chuẩn Tướng Quân Y sĩ Phạm Hà Thanh, bị cầm tù đến năm 1977. Những vị cựu tướng lãnh vẫn bị đi tù30- Cựu Trung Tướng Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), chỉ huy Lực Lượng Hòa Hảo được Bảo Đại thăng cấp Đại Tá, rồi Thiếu Tướng và Ngô Đình Diệm đồng hóa Trung Tướng khi về hợp tác với chánh phủ VNCH, Năm 1955, ông được giải ngũ nhưng vẫn là lãnh tụ của giáo phái Hòa Hảo. Năm 1975, ông bị CS bắt giam tại Khám Chí Hòa và chết tại đây năm 1977. 31- Cựu Trung Tướng Dương Văn Đức, được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm thăng Thiếu Tướng năm 1956, lúc ông mới 31 tuổi là người trẻ tuổi nhất được thăng cấp tướng. Bất bình với TT Diệm, ông từ chức, sau ông làm Chỉnh Lý với Nguyễn Khánh, ông được thăng Trung Tướng, được cử làm Tư lệnh Quân Đoàn IV. Ông bị buộc giải ngũ năm 1964, mắc bịnh tâm thần luôn nhục mạ cấp lãnh đạo. Bị CS bắt đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987, ở lại VN sau khi được thả. 32- Cựu Trung Tướng Lê Văn Kim, giải ngũ năm 1965 cùng 2 tướng Mai Hữu Xuân và Trần Văn Đôn lập ra công ty xuất nhập cảng DOXUKI, bị CS bắt đi cải tạo đến năm 1982. 33- Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, giải ngũ năm 1973. Bị CS bắt lúc ông bị trọng bịnh và bị quản thúc ở nhà thương St- Paul cho đến năm 1979(?) ( 1975 ?), được thả nhờ sự can thiệp của Thứ trưởng Quốc Phòng Pháp. Đó là thông tin trên Wikipedia. Nhưng Huy Đức, trong «Bên Thắng Cuộc» viết rõ hơn : «Vừa được thả về cuối năm 1975, Tướng Vỹ phát biểu: Chúng tôi ăn cơm ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tướng cách mạng, đừng tin những lời đồn vô căn cứ. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngày hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: Tôi hiểu rõ quân đội trong nầy lắm, tệ lắm, xấu lắm, và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội cách mạng rất kỹ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng…» (ngưng trích). (Bên Thắng Cuộc, q. 1, tr. 41). Có thế nào một Trung Tướng VNCH tồi tệ như vậy mà Huy Đức căn cứ vào báo Saigon Giải Phóng để nhục mạ tướng lãnh VN hay thực sự tồi tệ như vậy để được cộng sản trả ơn cho xuất cảnh sang Pháp năm 1979.? 34- Cựu Thiếu Tướng (Đề Đốc Hải Quân) Trần Văn Chơn, giải ngũ 1974, là tướng hải quân duy nhất không di tản. Bị giam từ Nam ra Bắc cho đến năm 1987. 35- Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Sằng, giải ngũ năm 1973, bị cầm tù đến năm 1987. 36- Cựu Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, giải ngũ năm 1966 vì Biến Động Miền Trung. Thượng Nghị Sĩ 1967- 1975. Đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến 1987. 37- Cựu Chuẩn Tướng Phan Ðình Thứ (tự Lam Sơn), Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, bị tù năm 1972 vì bắn chết môt trung sĩ người Thượng, bị buộc giải ngũ năm 1973. Ông trải qua 13 năm tù từ Nam đến Bắc. 38- Cựu Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh SĐ 1 BB, bị giáng chức thành Đại Tá và bị giải ngũ vì Biến Động Miền Trung năm 1966. Bị giam ở Hoàng Liên Sơn đến năm 1987 Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,tướng Dương Văn Minh: Tình báo viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền NamLà Cộng sản nằm vùng mang bí danh S7, lại là thân cận của tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống Thiệu cho ông về hưu tháng 5, 1974 cốt để cắt vây cánh của ông Minh, lúc ấy ông là Chánh Thanh Tra Quân Đoàn I ,tháng 4 1975 làm Phụ Tá cho tân Tổng Tham Mưu Trưởng là tướng Vĩnh Lộc, nhưng hôm sau, tướng Vĩnh Lộc di tản, ông thay thế Vĩnh Lộc. Chính ông là người ra nhật lệnh yêu cầu quân đội VNCH buông súng. Vì có công với Việt Cộng, ông không phải đi cải tạo, nhưng không có chức vụ gì ngoài việc được cho làm Ủy viên Mặt Trận tổ Quốc VN, sống nghèo khổ ở làng Bến Tranh (Mỹ Tho) trong một nghĩa địa cho tới ngày mất (29/9/2019). Lâm Vĩnh Bình 15/03/2020 Chú thích : Về các người bị cộng sản bắt đi học tập cải tạo, Huy Đức viết:« Ở Saigon, 443 360 người ra trình diện, trong đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1 806 trung tá, 3 978 thiếu tá, 39 304 sĩ quan cấp úy, 35 564 cảnh sát, 1 932 nhân viên tình báo các loại, 1 469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9 306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là phản động. Chỉ có 4 162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sĩ quan cấp tá» (Huy Đức. Bên Thắng cuộc. q.1, tr 37) . Bộ sách gồm 2 quyển gần 1000 trang do tác giả xuất bản tại Boston (OSIN Book, 2012), lúc tác giả được một học bổng sang Mỹ tu nghiệp. Theo tác giả, ông đã dùng hơn 20 năm để tra cứu tài liệu và phỏng vấn nhiều lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản cũng như phe bại trận. So với các tài liệu của đảng xuất bản, bộ sách nầy cung cấp nhiều thông tin tương đối khả tín mà nhiều nguồn liệu trích dẫn, thí dụ như Wikipedia. Nguồn: baovecovang2012.wordpress.com/2020/05/29/30-thang-tu-cac-tuong-lanh-vnch-di-dau-lam-vinh-binh/
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 1, 2020 15:54:57 GMT 9
Pháo thủ Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh kể chuyện củ…Posted on June 30, 2020 by dongsongcu PT Nguyễn Văn Việt TĐ46PB dongsongcu.files.wordpress.com/2016/12/huy-hieu-tieu-doan-46-phao-binh.jpgTôi nhớ ngày 17/4/75 tôi đến Trảng Bom (Biên Hòa) thay Đại úy Đặng Văn Hùng nhận chức sỉ quan liên lạc Chiến đoàn 318 XK, là một trong ba đơn vị xung kích thuộc LLXKQĐ3-LĐ3KB do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi làm Tư Lệnh.
Chiến đoàn trưởng là Trung Tá Nguyễn Đức Dương, ông đã thay người tiền nhiệm là Trung Tá Phan Văn Sỹ lúc nào tôi không được biết, còn Trưởng Ban 3 vẩn là người “quen”, Đại úy Nguyễn Tẩn. Tôi đã “đi” với Chiến đoàn này nhiều lần rồi kể từ sau mùa hè đỏ lửa 72 khi Thiết đoàn 18KB trở về Quân Khu 3 từ chiền trường Quân Khu 1, vì vậy dù phải làm việc với ông Chiến đòan trưởng mới, tôi vẩn cảm thấy being at home như mình là lính thiết giáp vừa hết phép trở về đơn vị.
***
Tôi có môt kỹ niệm thật “đẹp” với Trung Tá “Thái Tử” Phan Văn Sỹ muốn nhắc lại vì nó đã từng làm cho tôi “mừng hết lớn”.
Đó là vào một ngày của tháng tư năm 74, tôi được “hân hạnh” theo Chiến đoàn “rền tiếng xích sắc thét vang” trực chỉ Gò Dầu Hạ , rẻ trái qua cầu nổi do công binh “ta” vừa bắt xong, tiến thẳng qua bên kia tỉnh Khet Svay Rieng rồi bẻ góc về hướng Nam. Nhiệm vụ của Chiến đoàn 318 là cùng các Chiền đòan 315, 322 giải tỏa áp lực địch đang đè nặng lên tiểu đoàn 83 BĐQ ở căn cứ Đức Huệ.
Đoàn xe tăng lăn xích ào ào đi trong đêm, qua những cánh đồng khô ráo và trống trải không có một sự ngăn cản nào của quân địch, thỉnh thoảng Thái Tử hỏi Đại úy Tẩn và tôi điểm đứng, so sánh 2 tọa tôi thấy ông gật đầu “happy” tin tưởng.
Khoảng 6 giờ sáng thì địch phát hiện “họ” pháo 3 hay 4 quả gì đó vào đội hình đang tiến quân của chúng tôi. Xác định mục tiêu thật nhanh (vì trước đó ít phút tôi được Thái Tử hỏi “tới đâu rồi?”).
Tôi đề nghị dùng đạn nổ thay vì khói để có yếu tố bất ngờ.Thái Tử đồng ý, lúc gửi điện văn tác xạ tôi hơi “teo” vì từ lúc vượt tuyến xuất phát cho đến giờ tôi không có liên lạc gì với pháo đội, giờ này cần mà bên kia im re là “chết”.
Nhưng, đầu “mai” bên kia có người …nghe!
-Địch tập trung tọa độ …pháo đội một tràng “non nước” báo cáo khi sẳn sàng.
Các pháo thủ 46 và 61 thật “tuyệt” vì chỉ vài ba phút chuẩn bị là.
-Đạn đi!
Tiếng đạn xé gió bay đi và nổ ầm, ầm đúng vào mục tiêu, có nhiều tiếng nổ phụ nửa. Là mai mắn thôi! Vậy mà trong lúc bắn hiệu quả Thái Tử lại tặng tôi một gói quà giá trị nghe thiệt “sướng nhĩ”
-Lần này mày được cái nhành dương liểu.
Sau những tràng hiệu quả tôi chuyển xạ ra xa, Tiểu đoàn 36 BĐQ (TĐT là Thiếu tá Giai) với hỏa lực hùng hậu của thiết giáp đồng loạt xung phong và tràn ngập mục tiêu, bắt sống vài chục VC tịch thu được nhiều súng đạn có cả đại bác 4 nòng, chúng tôi “đụng” với một đơn vị pháo thuộc Công trường 5 VC. Chiến lợi phẩm được gom lại một chổ. Tôi “hân hoan” đứng cạnh Thái Tử, Trí Dũng (Trưởng ban 3) cùng nhiều SQ và Binh sỉ Mủ Đen, Mũ Nâu khác chụp vài tấm hình trước đống chiến lơị phẩm ngổn ngang này.
Bên cạnh súng, đạn phe ta còn tịch thu được nhiều lúa của VC nửa, xe M548 chở lúa về Gò Dầu 2, 3 ngày gì đó mới xong. Ngoài cái nhành dương liểu “hàm thụ” (Thật ra là Thái tử cho tôi thật, nhưng vì một lý do “tế nhị” tôi đã không nhận được cái mề đai nầy) Tôi còn được Thái tử lì xì ba chục ngàn đồng gọi là để “uống lade chơi” khi Chiến đoàn về đóng quân cạnh nhà máy xay lúa bên này phần đất VN.
Cũng ở nơi này tôi missed một cái trip “du lịch” Nam Vang, bây giờ nhớ lại còn hơi tiêng tiếc…
Chuyện là: một ngày đẹp trời, một chiếc trực thăng được biệt phái cho Thái Tử xử dụng, ông phi công ham vui đề nghị đi Nam Vang chơi, Thái Tử said “yes” vậy là con chuồn chuồn lạch xạch hướng về Thủ Đô xứ Chùa Tháp …on board, ngoài Phi hành đoàn ra có Thái Tử, Trí Dủng, vài SQ Kỵ Binh nửa mà tôi không nhớ tên và tôi, cũng “ké” được một chổ ngồi trên đó nửa hì hì! Tôi vui quá trời, tưởng tượng lung tung, nhưng mà chừng năm hay mười phút bay gì đó thôi, máy vô tuyến điện cho biết có “mặt giời” tới thăm. Con chuồn chuồn vòng trở lại rồi landing xuống nhà máy xay lúa …thiệt là “buồn vào hồn không tên”!
***
Đến tháng 6/75 Ở An Điền (Bến Cát) trong khi Công binh “ta” còn đang bắt cầu nổi, bờ bên này sông Thị Tính tôi là một trong số vài quân nhân trực thuộc LLXKQĐ3-LĐ3KB “thấy” bằng mắt, 2 chiếc T54 lù lù hướng về Bến Cát, từ lúc nó xuất hiện trên đồi cho dến lúc nó lăn kềnh xuống ruộng lúa. Hai chiếc T54 này nhiều người nhắc đến, nhưng trong Thép và Máu trang 423 Đại tá Hà Mai Việt viết là gần với sự thật nhất “ …Tướng Khôi chỉ huy LLXKQD3-LD3KB đánh bại sư đoàn 9 CS ở An điền – Bến cát, yểm trợ sư đoàn 5 BB tái chiếm căn cứ 81 và căn cứ Rạch bắp vào tháng 7 /74. Trong thời gian này, 1 chiến xa M48 của thiết đoàn 22CX đã bắn lật chiến xa T54CS ở An điền- Bến cát. Một đơn vị BB của sư đoàn 18 BB đã tịch thu chiếc chiến xa này”
Sự thật thì 2 chiếc T54 này rơi xuống ruộng không do M48 bắn lật, mà do “hỏa lực” của một đơn vị cũng thuộc quyền chỉ huy của Tướng Khôi loại khỏi vòng chiến.
Tại đây, Chiến Đòan Trưởng 315XK Đại Tá Dư Ngọc Thanh bị thương hỏng một mắt, còn TĐ46PB một SQLL hy sinh đó là Thiếu Úy Đổ Do.
Đại Úy Trần Văn Làm Chi Đoàn Trưởng 2/18KB cũng hy sinh sau đó ở mặt trận này.
Thời gian này, tôi chờ đợi để được “bốc” ra khỏi An Điền vì “Niên trưởng” Nguyễn Văn Khương (nạn nhân của một cuộc tảo hôn…) đã “hứa” cho đi Nhatrang học khóa Quan sát viên phi cơ, nhưng vào giờ chót Đại Bàng cho biết “Toa quen nước quen cái ở trong đó rồi, thôi ráng ở với 318 cho đến khi xong nhiệm vụ, toa sẽ đi khóa sau”
Và tôi đã “ở” với “Thái Tử” cho đến khi bàn giao vùng trách nhiệm lại cho một đơn vị của Sư Đoàn 5BB.
***
Trở lại với những ngày cuối của tháng 4/75 ở mằt trận Dầu giây Trảng Bom
Chiều ngày 17/4 VC tấn công mạnh vào vị trí của một chi đoàn thuộc Chiến Đoàn 318XK, Thiếu úy Thành SQ tiền sát (TĐ46PB) xin tác xạ thật gần (150m), địch bị đẩy lui nhưng Thành bị thương nặng ở mắt, tôi có gặp Thành nằm trên băng ca trong rừng cao su trước khi được tản thương. Anh rất tỉnh táo không chút buồn bả hay sợ hải nào, dù một con mắt đã bị hư.
Chiều ngày 18/4 tôi còn nhớ Thiết giáp báo là có tiếp nhận một Đại Tá Pháo Binh thuộc Quân đoàn 2 về được tới ngả ba Dầu Giây. Tôi không biết tên vị Đại Tá PB này.
Sau ngày Tổng thống Thiệu từ chức, Trung Tá Trần Duy Lượng (Tiểu đoàn trưởng TĐ46PB) có đến thăm tôi ở BCHCh.Đ318XK, và ông muốn tôi cùng đi với ông thăm các đơn vị pháo thuộc TĐ46PB đóng quanh quẩn trong các vườn cao su ở Trảng Bom. Trên đường đưa tôi trở lại Ch.Đoàn ông buồn hiu chúc tôi mai mắn. Đó là lần sau cùng tôi gặp Trung Tá Lượng. Mới đây qua Đại úy Hùng tôi biết Trung Tá đã mất vì bệnh ở Bidong hồi năm 88 hay 89 gì đó rồi.
***
Ngày 25/4 Sư đoàn 18BB lên thay. Là đơn vị cơ giới nên theo dự trù toàn bộ LĐ3KB sẽ về Long Bình nghỉ ngơi, để xe pháo được sửa chửa, bảo trì. Rời Trảng Bom về đến Long Bình thì trời đã tối lòng thấy vui vui vì sẽ có một hoặc hai ngày phè phởn.
Nhưng lệnh là không được vào cổng mà phải giử yên vị trí chờ lệnh mới. Không lâu lắm, tiếng Alpha 5 (Tướng Khôi) ban lệnh (bạch văn):
-Nhà của Đại Tá Tám cháy, các anh qua bên đó chửa lửa (nguyên văn).
Đại úy Tẩn “dịch” ra cho tôi hiểu là trường thiết giáp đang bị VC tấn công ( Đại tá Huỳnh Văn Tám là chỉ huy trưởng trường)
Đoàn tăng ầm ầm tiến về ngã ba Long Bình, rẻ trái ở QL15 hướng về Long thành đến dốc 47 thì chiếm đóng vị trí và qua đêm ở đây.
Sáng ngày 26/4 tin tức hết sức phấn khởi từ Chiến đoàn 322 đang tiến về trường Thiết Giáp hạ được nhiều T54 gây tổn thất nặng cho VC.
Long Thành đã bị VC chiếm, Trung Tá Dương muốn tôi tiêu hủy các khu rừng cao su dẩn về Long thành vì VC tập trung quân đông đảo ở những nơi này, dĩ nhiên là tôi chấp hành lệnh của Trung Tá Dương, các pháo thủ 46 và 61 hết sức tích cực thỏa mản 100% yêu cầu của tôi. Liên lạc với phi cơ quan sát tôi được viên phi công cho biết như thế này:
-Pháo binh của bạn bắn rất là chính xác, nhưng tụi nó đông lắm bạn ơi!
Gần trưa, một chiếc phản lực bay qua đầu chúng tôi ( ở dốc 47) rồi nhào xuống thả một trái bom, rơi trúng phía bên kia đường cách BCH Ch.Đoàn chừng 200m gây thương vong cho dân đang đông đảo di tản từ Long Thành hướng về Saigòn.
Các đêm 26,27,28/4, Chiến đoàn 318XK vì là thành phần trừ bị cho LĐ3KB nên đóng quân ở trước trại Nguyễn Tuấn, là Bộ Tư Lệnh LĐ3KB nơi đây có 1Pháo đội 105 ly của TĐ61PB chỉ huy bởi Trung Úy Thân, vì ở cạnh bên nên tôi có sang thức binh sập sám chờ sáng.
Trong các ngày 27, 28/4 chiến đoàn di chuyển liên tục từ Long Bình đến Hố Nai, Suối Đĩa, để yểm trợ cho các đơn vị bạn đang tiếp địch ở đây. Dân chúng thưa thớt, nhà thì cửa đóng im lìm, có khá nhiều người tỵ nạn ở nhà thờ Hố Nai.
***
Ngày 28/4 tôi về Trung tâm phối hợp hỏa lực cạnh Bộ Tư Lệnh LĐ3KB, nhận tiền của “Kỹ thương ngân hàng” tặng cho toán SQLL chúng tôi; gồm 3 phong bì mổi cái có 40,000 đồng, một tờ giấy nhỏ với dòng chử in rất đẹp “Toàn dân ngưởng mộ chiến sĩ anh hùng…” còn gì gì nửa? tôi quên rồi, chỉ nhớ được như thế thôi!
Chiều ngày 29/4 Chiến đoàn di chuyển về giữ an ninh mặt Tây TP Biên Hòa , BCH thì qua bên kia sông Đồng Nai đóng trong một sân banh dưới chân Núi Châu Thới không xa Cầu Hang lắm.
Cách nơi đóng quân của Chiến đoàn chừng 400m, VC có trang bị đại bác không giật, đóng chốt trong những hầm hố được đào sâu dưới một bờ tre. Ta và địch “án binh bất động” chưa ai chịu “đi tiền” trước cả.
Khoảng 4 giờ chiều, một đoàn xe đông đảo, đa số thuộc tiểu khu Biên Hoà di chuyển nhanh về hướng Sài Gòn. Khi chạy ngang qua đây VC khai quả. Những chiếc đi đầu thoát nạn chạy luôn, 1,2 chiêc bị trúng đạn rơi xuống ruộng, một số bỏ xe chạy trở lại phía sau, có nhiều quân nhân vào “tá túc” với Chiến đoàn 318KB trong số này có Đại úy Huỳnh Văn Huỳnh trước là Pháo đội trưởng Pháo Đội C/46PB bây giờ thì thuộc TĐ61PB.
Tôi xin pháo tác xạ vào mục tiêu, rồi thì thiết giáp và 1 Trung Đội thuộc TĐ2 PB phòng không (vừa di chuyển đến đây cùng tình nguyện tham chiến) dàn hàng ngang xối xả yểm trợ cho các Binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 92 BĐQ xung phong lục xoát, cái chốt được nhổ dể dàng, con đường được thông, đoàn xe lại tiếp tục “đường trường xa”. Đại úy Huỳnh hớn hở vẩy tay, chào tôi một lần cuối…rồi cho đến nay không biết tin gì của Đại úy cả. Đại bàng ơi! Có còn mạnh khỏe lên “mai” nói chuyện với đàn em cho dzui!
Và đó cũng là lần tác xạ sau cùng trong đời pháo thủ của tôi.
***
Đêm 29/4 súng nổ rền khắp mọi nơi, VC pháo kích ào ạt và liên tục suốt cả đêm vào phi trường Biên Hòa, khói lửa mịt mù. Trực thăng lạch xạch vần vủ dầy đặt trên trời Biên Hòa như đàn ong vở tổ.
Ngồi trên mui chiếc xe tăng M577 tôi nghe đài phát thanh Sài Gòn. Tổng trưởng thông tin Lỳ Quí Chung phỏng vấn ông Huỳnh Tấn Mẩm: nghe vậy thôi chứ không biết họ nói chuyện gì?
Rà qua đài VC tôi nghe họ chỉ dẩn binh sĩ “Ngụy” chúng tôi cách thức đầu hàng: Nếu là thiết giáp thì súng phải quay lên trời khi đến gặp Vixi vv…tôi nghe họ ba hoa nghĩ là họ kể chuyện Phong Thần làm gì có?! Hơn nửa là hồi chiều này, Trung Tá Dương có cho biết là lệnh từ một vị Tướng ở Tổng Tham Mưu là “các em cố gắng giử những gì còn lại, ngày mai có giải pháp chính trị” tôi hiểu “giải pháp chính trị” là huề vốn, là “anh em ta cùng mẹ cha” là” cái nhà là nhà của ta, ông cố ông sơ lập ra…” ai mà ngờ mình có người “anh em” gian tà hết chổ nói!
***
i.pinimg.com/originals/38/50/18/38501822421bb7b27805836d42c4f7a0.jpg
Sáng sớm ngày 30/4 Trung Tá Dương đi họp về phổ biến lệnh HQ là LĐ3KB sẽ di chuyển vế Sài Gòn. Chiến đoàn 318KB giử nguyên vị trí, an ninh cho các Chiến đoàn 315, 322, BCH LĐ3KB thứ tự lần lượt rời Biên Hòa. Khi BCH Lử đoàn đến là chúng tôi nối đuôi và nhập ngay vào dòng xe đang chầm chậm chảy một chiều xuôi vế Thủ Đô thân yêu.
Trời đất ngày hôm đó sao mà ảm đạm, thê lương lạ thường! Trên xa lộ Đại Hàn (con đường chúng tôi đi) chỉ lính với lính, đông vô số kể, đa số mặc quần áo “rằn ri” súng trên vai, di chuyển trong lặng lẻ, kỷ luật và trật tự. Tôi không biết tên đơn vị của những chiến binh này?
Qua khỏi Thủ Đức một chút, có vài người lính Nhảy Dù chạy ngược chiểu hai tay dơ lên đầu. Một anh lính Thiết giáp nào đó giãi nghĩa “như vậy là mình đầu hàng rồi”.
Quả là y như thế! mở radio chúng tôi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi QLVNCH “buông súng đầu hàng vô điều kiện” Vixi. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhân danh phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng Trung tướng Vỉnh Lộc ra lệnh chúng tôi phải “nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của Tổng Thống”…Và Thủ Tướng Vủ Văn Mẫu, ông kêu gọi các tầng lớp đồng bào “hảy vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc”
Thế là ò e cây me đánh đu…
Tôi “ru” tôi ngũ “cũng ô kê thôi mà! Người “anh em bên kia” lucky “đại thắng mùa xuân” thì họ được tiếp tục đội nón cối, mang dép râu, áo bỏ ngoài thùng nhảy lên bàn giấy ngồi chồm hổm làm việc…cộng. Còn mình thua thì về quê “tìm tuổi thơ mất năm nao?”. Nhưng thượng sách có lẻ là qua Vỉnh Long hay xuống Cà Mau gì đó cưới “dợ” (con gái của 2 xứ này có tiếng dịu dàng, hiền lành, đảm đang hơn là gái Sađéc’s Fashion!) tôi sẽ mua trứng gà, vịt về ấp thành gà vịt thiệt, tháng lại ngày qua gà vịt sẽ trở thành heo, bò rồi nhà double storey, xe Toyota RAV4 mấy hồi ?!!!
Hơn nữa cụ Nguyễn Khuyến đã dạy rồi:
“Được, thua, hơn, kém lưng bầu rượu.
Hay, dở, khen, chê một trận cười”.
Cụ means cả hai sêm sêm như nhau đó mà!
Ối! vậy thì đâu có gì để ưu tư, phiền muộn!?
Đang mơ màng với giấc mơ gà, vịt, xe bổng dừng lại. Chúng tôi đã về đến cầu Bỉnh Triệu.
Nhảy xuống xe hối hả bước, chúng tôi đi qua vài cây số dầy đặc những xe, pháo, được xếp hàng thật khít khao, đã bị bỏ rơi chỉ một thời gian ngắn trước đây thôi! Có mấy con gà cồ 155ly nửa, chắc là gà của tiệm phở 46? Tôi có vổ nhẹ vào nòng thay lời “hôm nay đây còn dui trông thấy nhau!”
Qua cầu Kinh nhìn lên đài quan sát Pháo Binh OP10 cao sừng sửng trong kho xăng, hồi năm 72 tôi có một tháng nhờ “kế hoạch khói” ở đây, “né” được cái nóng héo người của mùa hè đỏ lửa. Một kỹ niệm “an toàn trong thành phố” của tôi!
Khỏi cầu Kinh chừng vài trăm thước, một người trong bọn (Đại úy Tẩn?) được một bà cụ nắm tay dắt đi nói “Các con vào đây thay đồ, để tụi nó giết các con à!”
Bà đưa chúng tôi đến nơi có một đống quần áo civil củ, trước một ngôi nhà có lẻ là nhà của bà? Và chúng tôi đã giã từ những chiếc áo lính “thân thương” ở đây. Hích! hích! “Thôi rồi còn chi đâu …có còn lại chăng dư âm thôi ?” hích! hích! hích!
Sau khi “Cởi chiến bào giả dạng những thường dân”, chúng tôi lại tiếp tục rảo bước. Đến gần cầu Sơn gặp mấy chiếc xe tăng đang đậu thẳng góc với con đường binh lính đang ăn cơm, Thiếu úy “Châu Báu” Trần Ngọc Báu (cùng TĐ46PB, đang đi tiền sát cho một chi đoàn thuộc Thiết đoàn 15KB đã đến đây trước) kêu tôi.
-Ê! ghé đây ăn chén cơm đi rồi anh (tên ông chi đoàn trưởng, tôi cũng quen với ông chi đoàn trưởng này nửa, mà bây giờ không thể nào nhớ được tên ông) sẽ đưa mình “dề”. Tôi tấp vào.
Cơm nước xong. Nồi, niêu, chén, dĩa, bàn, ghế được thảy hết vô xe.Tài xế nổ máy kéo cánh cửa sau lên đóng lại. Ông Chi đoàn trưởng ngồi vào ghế chỉ huy của ông. Khẩu đại liên được quay lên trời và che bằng một cái áo cho chắc ăn!
Chiếc xe quay đầu ra đường chờ đợị, sau cùng cũng nhập được vào đoàn Molotova cắm đầy cành lá ngụy trang của VC đang ào ào tràn vào thành phố sắp sửa “mang tên người”.
Chúng tôi vô Sài Gòn bằng ngã cầu Sơn, Hàng Xanh, Thị Nghè, trên cầu Thị Nghè có 2 xác chết của lính BĐQ và vài xác người mặc thường phục. Qua cầu Thị Nghè một đoạn VC họ rẻ trái, xe chúng tôi solo chạy thẳng rồi quẹo trái ở Đường Hồng Thập Tự. Lúc này trên đường có rất nhiều người tay buộc một miếng vải đỏ, cầm súng AK hoặc M16 chạy tới chạy lui bằng đủ các loại phương tiện xe cộ… nổ súng lung tung.
Có nhiều người bị thương hoặc được người khác dìu, hoặc tự mình tay giử chặt vết thương hớt hải trên đường phố.
Xe chúng tôi bị chận lại trên đường Hồng Thập Tự, họ hỏi “nếu có súng ngắn thì giao nạp” chúng tôi lắc đầu. Họ bỏ đi.
Anh tài xế cho xe quẹo phải ở con đường trước cổng vườn Tao Đàn đến đường Phan Đình Phùng. Súng nổ quá xá cở! Thêm vài người bị thương lảo đảo. Anh cho xe leo lên lề tắt máy, nhảy ra khỏi xe.
Chúng tôi cũng nhanh chóng rời “chiến xa” tan hàng, không ai nói được một lời chia tay, hay hẹn ngày tái ngộ gì với nhau cả. (Châu Báu và những Kỵ Binh năm xưa ơi! Cho tôi gửi một lời chào).
Tôi và Báu hướng về đường Nguyễn Thiện Thuật qua đường Cộng Hòa để về nhà.Trên đường chúng tôi bị mấy vị anh hùng đeo băng đỏ chận lại. Chỉ chỏ vào quần kaki đang mặc; nạc nộ, chưởi bới. Thái độ rất hung hăng.Tôi hoang mang chờ đợi những viên đạn, nhưng rồi họ cũng bỏ đi.
Báu đi thẳng về hướng chợ Nancy còn tôi rẻ trái vô đường Vỏ Tánh. Đầu xóm có một VC mặc áo đen, quần đùi đi chân đất, hai vai đeo hai dây đạn , tay cầm súng AK đang đứng gác, xa xa những người hàng xóm của tôi từng nhóm năm, ba ngơ ngác nhìn. Tôi về đến nhà khoảng 3 hay 4 giờ chiều rồi.
***
Sau cùng tôi muốn nhắc đến một người bạn cùng TĐ46PB. Trung úy Nguyễn Văn Thảo anh là Trung Đội Trưởng Trung Đội 3C/46PB sáng ngày 30/4/75 tại đồn Thái Văn Minh ( Bà Hom) sau những tác xạ ngăn chận địch. Đạn đã hết anh cho binh sĩ dưới quyền rời căn cứ, một mình ở lại phá hủy đại bác rồi tự sát. Tôi biết được cái chết thật “Nguyễn Văn Đương”… của anh qua lời kể đầy hảnh diện của Đại úy Hùng. Xin được “report” cái chết của anh đến với đại gia đình Pháo Thủ và cũng là một nén hương lòng của tôi tưởng nhớ đến anh.
***
“Trải qua một cuộc bể dâu…” với những… “mặn, ngọt, chua, cay đầy đủ cả ” Người Pháo thủ trẻ ham vui ngày nào, giờ tuổi “thọ” cũng được sắp sỉ 60 “niên”, nhìn lại đoạn trường đã đi qua, rất thành thật là thời gian được làm Pháo thủ 46 là “ngọt”, là “tuyệt vời” nhất của tôi. Tôi “thấy” mình là một người “mai mắn” vì đã có một thời “hạnh phúc” như thế!?
Vì muốn quyển kỹ yếu Pháo Binh được ra đời và để góp phần. Tôi nhớ và ghi lại những kỹ niệm “chưa quên” của mình như trên …
Xin được thông cảm bỏ qua cho, nếu những tiếng “nổ” gây ưu phiền, khó chịu cho quí vị.Nguồn: phaobinhvnch.org/
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2020 1:26:02 GMT 9
Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng
Ngày 30 tháng 4 năm 2010. LITTLE SAIGON - Năm nay kỷ niệm 35 năm, ngày hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do, một buổi lễ được đặc biệt tổ chức trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, nay là Bảo Tàng Viện USS Midway, đang neo đậu vĩnh viễn tại hải cảng San Diego, miền Nam California. Vào những ngày cuối tháng 4-1975, Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway đã đón nhận hàng ngàn người Việt di tản, trong đó có một số tướng lãnh cao cấp của chính quyền VNCH. Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng, một trong số những người có mặt trên USS Midway đã làm cho cả thế giới thán phục, vì ông là người đầu tiên lái loại phi cơ L19 đáp xuống hàng không mẫu hạm an toàn. Để tìm hiểu chi tiết sự kiện độc đáo của người phi công Không Lực VNCH, chúng tôi đã được ông dành cho cuộc phỏng vấn đặc biệt, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn của chúng tôi với Thiếu Tá Lý Bửng qua đường dây điện thoại viễn liên. Viễn Đông: Xin chào Thiếu Tá Lý Bửng, Thiếu Tá mạnh khỏe không? Thiếu Tá Lý Bửng: Ồ, chào anh, tá với tướng gì nữa, gọi anh em đi cho nó thân mật. Viễn Đông: Vậy thì cám ơn Thiếu Tá, nhưng trước khi xưng hô anh em, xin Thiếu Tá cho biết năm nay bao nhiêu cái xuân xanh rồi mà chưa nghỉ hưu vẫn phải đi cày? Th/Tá Lý Bửng: Xấp xỉ bảy bó rồi, nhưng còn cày được ta cứ cày (cười). Viễn Đông: Vậy thì gọi Thiếu Tá là anh phải rồi, vì đàn em thua anh vài tuổi thôi. (Đến đây xin phép độc giả, chúng tôi đổi cách xưng hô theo lời yêu cầu của Thiếu Tá Lý Bửng). Th/Tá Lý Bửng: Rồi, OK, tôi làm anh, chú là em. Bây giờ chú muốn hỏi điều gì đây? Viễn Đông: Thì hỏi anh chuyện lái máy bay đáp xuống hàng không mẫu hạm USS Midway đó mà! Th/Tá Lý Bửng: Mà hỏi để làm gì? Viễn Đông: Để đăng báo cho bà con đọc! Th/Tá Lý Bửng: Thôi mà, có gì mà phải đăng báo! Mà đăng báo có sao không? Viễn Đông: Sao là sao ạ? Có phải anh khiêm tốn hay là ngại chuyện gì khác? Th/Tá Lý Bửng: Có liên quan đến chính trị không đó? Viễn Đông: Thưa không đâu, chả có chính trị chính em gì cả. Đây là câu chuyện lý thú và rất đặc biệt của một phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba thôi. Th/Tá Lý Bửng: Cho tôi một phút suy nghĩ.... Alô, rồi OK tới luôn đi. Viễn Đông: Thế là ông anh sẵn sàng trả lời rồi phải không? Th/Tá Lý Bửng: Sẵn sàng. Viễn Đông: Trước hết xin cho biết, ông anh gia nhập Không Quân VNCH năm nào? Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, anh mang cấp bậc gì, đơn vị nào và đồn trú tại đâu? Th/Tá Lý Bửng: Cấp bậc cuối của tôi là Thiếu Tá, còn hỏi đơn vị để làm gì vậy chú? Viễn Đông: Thưa ông anh, trước hết để đơn vị của ông anh hãnh diện là có một bạn đồng ngũ nổi tiếng thế giới, đem vinh dự cho đơn vị; thứ hai là để kiểm chứng xem ông anh có ở trong Không Quân thiệt hay là ông anh cướp máy bay đi thì sao? Th/Tá Lý Bửng: Chịu thua. Rồi, OK, tôi vô Không Quân năm 1963, đơn vị tôi là Phi Đoàn 114 Quan Sát, đóng tại Nha Trang, rồi gì nữa đây? Viễn Đông: Anh lái loại máy bay nào khi bay ra hàng không mẫu hạm? Th/Tá Lý Bửng: Tôi lái L19, loại máy bay quan sát. Viễn Đông: Nếu em nhớ không lầm, loại máy bay này người ta thường gọi là máy bay bà già hay là máy bay thám thính, đúng không anh? Th/Tá Lý Bửng: Đúng rồi đó, nhưng mà gọi là máy bay quan sát cho nó nhẹ nhàng, chứ thám thính nghe ghê quá! Viễn Đông: Anh bay từ đâu ra hàng không mẫu hạm, và ngày nào? Th/Tá Lý Bửng: Tôi bay từ Côn Sơn. Đầu tiên tôi bay từ Tân Sơn Nhất ra Côn Sơn ngày 29-4, rồi từ Côn Sơn bay ra HKMH ngày 30-4-1975. Viễn Đông: Anh có biết trước vị trí của chiếc HKMH đang ở đâu hay phải bay đi tìm? Th/Tá Lý Bửng: Tôi biết có HKMH đón người di tản, nhưng không rõ đang ở đâu, nên phải bay đi tìm. Viễn Đông: Anh bay bao lâu thì thấy HKMH? Th/Tá Lý Bửng: Khoảng nửa tiếng hay 45 phút thì gặp chiếc USS Midway. Viễn Đông: Nếu không gặp HKMH, máy bay của anh có đủ nhiên liệu bay qua Thái Lan không? Th/Tá Lý Bửng: Nếu ở sát biên giới Thái Lan thì được, còn ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang hay Côn Sơn thì không đủ nhiên liệu bay qua Bangkok. Viễn Đông: Lúc đó chắc còn nhiều loại máy bay khác, sao anh lại chọn L19? Th/Tá Lý Bửng: Lúc đó chỉ còn duy nhất chiếc L19. Viễn Đông: Ngoài L19, anh còn lái được loại máy bay nào khác? Th/Tá Lý Bửng: Tôi cũng lái được loại AD5, AD6 và Cessna, nhưng không lái thường xuyên như L19. Viễn Đông: Vậy khi gặp HKMH, anh làm gì? Th/Tá Lý Bửng: Thì tôi xin nó cho mình đáp xuống, nhưng khổ nỗi trên máy bay của tôi không có vô tuyến để liên lạc với dưới HKMH, nên tôi cứ bay vòng vòng xung quanh nó và dùng các phương pháp mình đã học để áp dụng cho nó hiểu là mình xin đáp, nhưng chẳng thấy dấu hiệu trả lời! Viễn Đông: Xin anh đơn cử một trong những phương pháp xin đáp? Th/Tá Lý Bửng: Tôi chớp đèn đáp liên tục. Viễn Đông: Rồi sao nữa anh? Th/Tá Lý Bửng: Tôi nghĩ ra cách, viết cái “note” cho họ hiểu là tôi xin đáp. Đầu tiên tôi cột vào con dao và bay sát HKMH, tôi mở cửa liệng dao xuống. Nó đụng sàn tàu, tưng lên rơi xuống biển. Sau đó tôi làm cái thứ hai, thứ ba, cột vào dây súng thảy xuống, cũng rơi luôn xuống biển. Lần thứ tư, tôi cột vào khẩu P. 38, bay thật thấp và liệng xuống. Lạy Trời, lần này không xuống biển. Tôi nhìn thấy một anh chàng chạy lại lượm lên coi và chạy biến đi, không biết đi đâu. Sau khi xuống tàu, được biết, khi họ lượm và đọc cái note của tôi, họ chạy ngay lên báo cho Hạm Trưởng. **************************** Phi vụ hành quân cuối cùng của Không Lực VNCH .
Không quân VNCH . Nguyễn Ngọc Trung khóa 64C phi đoàn 116 mất 30 /04 /1975😥😥😥.Tôi bay phi vụ hành quân cuối cùng của Không Lực VNCH Viết để tưởng nhớ bạn tôi : Cố Thiếu-Tá Nguyễn-Ngọc-Trung và tất cả anh linh Chiến-Sĩ VNCH đã hy sinh vì Tổ-Quốc Việt-Nam. Lời người viết : Câu chuyện sau đây đã được Nhà văn Nguyễn-Viết-Trường viết lại và đăng trên các Đặc San KQ, vì liên quan đến cái chết của người bạn thân nhất của anh : Đại-úy Nguyễn-Ngọc-Trung khóa 64C, PĐ 116. Trong bài viết, anh Trường có kể lại : ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đã dùng Rocket chống biển người để tàn sát địch quân, có quá nhiều người thắc mắc, nhất là Quý Vị đồng nghiệp bay Bà Già như tôi, họ muốn chính tôi phải kể lại vì sao L.19 có thể mang hỏa tiễn chống biển người và diệt địch như Gunship được. Tôi xin trả lời : “Khi ta không còn biết sợ chết, thì việc gì cũng liều mà làm được hết”. Hôm nay, ngày 30 tháng 4, tôi xin viết lại phi vụ hành quân cuối cùng của 40 năm trước. Đọc xong bài viết nầy, nếu đọc giả nào muốn biết thêm chi tiết, xin hỏi Thiếu Tá Trần Thủy Lợi (cựu Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Bạc-Liêu, đang ở San Diego) hoặc Đại Úy Tiết (Tiểu Đoàn Phó TĐ 486 Tiểu Khu Sóc Trăng, đang ở Santa Ana). Tôi xin vào chuyện…
Phi-Đoàn 116, thuộc Không-Đoàn 74 Chiến Thuật, Sư-Đoàn 4 KQ, đồn trú tại phi-trường Trà-Nóc. Phi-Đoàn có hai Phi-Đội hành quân, thay phiên nhau, mỗi Phi-Đội đi biệt phái yểm trợ hành quân cho các SĐ Bộ Binh và các Tiểu-Khu 15 ngày, biệt phái xong 15 ngày, trở về Cần-Thơ túc trực 15 ngày, bay các phi-vụ theo lịnh Phòng Hành-Quân Chiến Cuộc Sư-Đoàn. NVPH (nhân viên phi hành) trong PĐ 116, nếu có gia-đình ở địa phương nào thì ưu tiên được xin biệt phái về bay nơi ấy. Đại-Úy Trần Phước Huynh và tôi là rể Bạc-Liêu, riêng Phi Cơ-Trưởng Mã-Tính chánh gốc Công-Tử Bạc-Liêu, nên ba anh em chúng tôi biệt phái trường kỳ nơi xứ Bạc mà tình nồng ấy cho đến ngày mất nước. Hôm ấy, sáng 30 tháng tư năm 1975, mới 5 giờ 30, điện thoại nhà tôi reo inh ỏi, gọi đi bay sớm là chuyện thường tình ở Tiểu-Khu nầy, tôi nghĩ ngay “Đêm qua chắc mất đồn hay có nơi nào bị tấn công, pháo kích gì đây nên cần đi bay sớm”. Tôi bắt điện thoại, đầu dây không phải là tiếng của Thiếu Tá Lợi (Trưởng Phòng 2 T.K B.L, người thường đi bay hành quân với tôi) như mọi hôm mà là tiếng của Nguyễn-ngọc-Trung, bạn cùng học khóa bay với tôi ở Trung-Tâm Huấn Luyện Nha-Trang, tiếng của Trung Đen hối hả “Ê! Combat (nickname của tôi) lên cứu tụi tao mau, VC tấn công tràn ngập phi-trường rồi, mầy lên chậm tụi tao chết hết, lên liền nghe, chiều nhớ mua mồi về, tao mua bia xuống nhà chú Tư Cầu. (nickname Thiếu Tá Nguyễn-văn-Thành khóa 63D) nhậu nghe, đêm qua tao đại thắng (đêm qua Trung Đen gom sòng xập xám chướng). Tôi nghe tiếng súng liên thanh nổ vang trong đầu máy liên hợp bên kia đầu dây của Trung, tôi vội đáp : “Yên chí, tao lên liền”. Tôi biết Trung Đen đang biệt phái Sóc Trăng, Phi hành Đoàn ngủ ngay đầu phi đạo, nếu VC chiếm được phi trường thì bạn tôi chết hết. Tôi chạy vội vào phòng tắm, dùng cái gáo nhựa lớn xối nước lạnh ào ào lên đầu 4,5 gáo cho tỉnh táo, không kịp lau khô, xỏ vội chiếc áo bay và mang áo lưới vào, xách túi đựng helmet, chạy vội xuống lầu, trong túi không phải là nón bay mà là cây súng M79, được cưa bá ngắn lại và mấy mươi viên đạn, mang giày xong tôi dắt xe Honda ra định đi bay một mình, vợ tôi chạy theo hỏi “Không có anh Lợi hay anh Huynh đi bay với anh hả, anh bay đâu sớm quá mà sao chỉ đi một mình vậy?” Vì vội quá, tôi định cất cánh lên rồi mới báo cho Trung Tâm Hành Quân Tiểu-Khu biết, lúc đó họ không cho tôi đi cũng không được, nhưng khi vợ tôi nhắc đến anh Lợi, tôi chợt nhớ lại, cách đây mấy ngày, Đại-Tá Nguyễn-Ngọc-Điệp Tỉnh Trưởng Bạc-Liêu nói với tôi, nửa đùa nửa thật: “Tôi nghe KQ lấy máy bay đi nhiều lắm, ông phi công đừng bỏ tụi “moa” mà bay đi một mình nhen, “toa” cất cánh mà không có lịnh của “moa”, coi chừng lính phi trường “phơ” “toa” ó”. Tôi phải gọi vào Phòng 2 tìm anh Lợi, tôi biết tình hình chiến sự lúc nầy quá căng thẳng nên anh thường ngủ ngay trong phòng làm việc, điện thoại vừa reo anh bắt máy ngay, tôi nói với anh “Tôi phải đi ngay để giải tỏa phi trường Sóc Trăng, cứu phi hành đoàn trên ấy, tụi nó ngủ ngoài phi-trường, nếu VC vào, sẽ giết hết tụi nó”. Anh Lợi đáp:“Ông ra đứng ngoài đường chờ tôi, tôi lại rước ông ngay, tôi sẽ đi bay với ông”. Tôi dặn anh “Anh đừng báo cho ông già biết nghe (ông già là ông Tỉnh-Trưởng kiêm Tiểu-Khu-Trưởng, chúng tôi thường gọi là Papa) khi nào tôi cất cánh xong, anh gọi máy báo Trung Tâm Hành Quân sau”. Tôi vừa đi ra tới đường, xe Jeep của anh cũng vừa tới, tài xế đã nhảy ra ngồi băng sau, nhường tay lái cho tôi như thường lệ. Tôi vừa chạy vừa nói sơ tình hình cho anh biết, anh Lợi rất thân với anh em PĐ 116, anh hỏi ai biệt phái trên ấy, tôi đáp Trung, Hiệp và Phong, anh đều biết hết ba người ấy. Ra đến phi-trường, trời chưa sáng hẳn, tôi leo lên check xăng, thì không hiểu sao Mã-Tính (phi-cơ trưởng đang biệt phái Bạc-Liêu với chúng tôi) hay tin tôi đi bay, Tính cũng đi Honda ôm ra tới, Tính cùng mấy lính cận vệ của anh Lợi chạy lại mở Conex lấy Rocket nổ định lắp lên dàn phóng như thường lệ (từ sau Hiệp-Định Paris, pháo binh giới hạn một ngày mỗi khẩu chỉ được phép bắn 2 quả, phi tuần khu trục xin để yểm trợ cho Tiểu-Khu thì không bao giờ có, Mỹ đã cắt viện trợ hết rồi, mỗi lần đi bay, tôi thường bảo Tính trang bị 8 trái Rocket nổ cho tôi, mặc dù an phi tuyệt đối cấm, L 19 chỉ được mang Rocket khói để bắn đánh dấu mục tiêu cho khu trục oanh kích thôi, không bao giờ được mang Rocket nổ. Sau mỗi phi vụ, nếu chưa bắn hết 8 quả Rocket nổ, tôi thường bay đến những đồn Nghĩa-Quân, quanh Thị-Xã, bắn xuống những mục tiêu nghi ngờ là chốt của VC bám để bắn sẻ lính trong đồn (hình thức giải tỏa bom đạn, không cho một ai trong phi đoàn biết là tôi chuyên bắn Rocket nổ) khi nào hành quân chạm địch, tôi bắn hết 8 quả thì về đáp lắp 8 quả khác vào bay lên bắn tiếp. Tại phi-trường Bạc-Liêu, Rocket nổ của Gunship Mỹ bỏ lại, tất cả đã được tháo ra khỏi thùng, dựng đầy trong 4 Conex, đây là loại Rocket nổ rất mạnh, trên đầu nổ có một cái chụp màu trắng ngà, tôi cũng ít khi thấy Gunship VN bắn loại nầy). Tôi gọi Tính: “Đừng lấy Rocket đó, chờ anh một chút”. Tôi nghĩ ngay đến 6 thùng Rocket của Đại-Tá Điệp, không biết ông đem từ đâu về cất trong conex, ông kêu tôi lại chỉ cho tôi và dặn dò: “Bồ đừng xài cái nầy của tôi nhen, nó là hỏa tiễn chống biển người đó, tôi sẽ gắn dàn phóng Rocket trên xe, tụi nó có tràn ngập vào là tôi xịt trực xạ tụi nó”. Hôm nay địch đã tràn ngập phi trường Sóc Trăng, tôi phải diệt địch và cứu quân bạn, bây giờ tôi không liều mà xử dụng thì đợi đến bao giờ? Mấy ngày nay, nghe tin tức đài BBC thật là thê thảm, quân ta cứ tiếp tục rút lui, VC đã tràn tới Biên Hòa rồi, hôm trước cụ Hương lại bàn giao chức vụ Tổng-Thống thấy mà nản lòng vô cùng. Đêm qua trời nóng quá, ngủ không được, tôi lên nằm trên sân thượng, nhìn những ánh đèn phi cơ lũ lượt bay về hướng Côn-Sơn hoặc bay tít trên cao về hướng Tây. Lúc ấy tôi vẫn còn ngây thơ, suy nghĩ rất nông cạn: Mỹ đã bỏ Kampuchia, không lẽ Mỹ bỏ luôn cả miền Nam Việt Nam sao ? Tôi quyết định ở lại chiến đấu đến phút cuối cùng rồi ra sao thì ra. Tôi bảo Tính khui một thùng Rocket mà Đại-Tá Điệp gọi là “Hoả tiễn chống biển người” thử xem, thùng nầy dẹp và dài hơn thùng Rocket thường, khui ra tôi thấy mỗi thùng chỉ đựng 2 quả, đầu nổ dài và nhỏ hơn đầu nổ của Rocket thường, được sơn màu hồng nhạt chứ không phải màu ô-liu, tôi lấy 2 quả đó, và bảo Tính khui thêm ba thùng nữa đem lại, tôi và Tính gắn 8 quả Rocket ấy vào dàn phóng. Trời đã tờ mờ sáng, tôi cất cánh vội vã lúc 5:50. Tôi đã dặn Trung trực sẵn tần số FM của máy PRC 25 chờ tôi, cất cánh xong vừa lấy cao độ vừa gọi Trung, anh Lợi cũng mở FM ghế sau liên lạc Tiểu-Khu Bạc Liêu. Vừa nghe tiếng tôi, Trung nói ngay “chúng nó nấp vào các ụ phi cơ phía bên kia, chúng đã chiếm tới đài kiểm báo rồi”. Tôi nói ngay “cho tao số nhà đơn vị đang đánh nhau với chúng nó”. Trung cho tôi tần số của quân bạn, tôi liên lạc ngay được thẩm quyền (Tiểu-Đoàn-Trưởng) của cánh quân ấy, anh cho biết tình trạng chiến đấu của anh rất bi đát, đã mất liên lạc với Tiểu Khu Sóc-Trăng (Ba Xuyên) từ chiều hôm qua, (Tiểu-Khu-Trưởng và Bộ chỉ-huy đã bỏ ra đi rồi), không một lực lượng nào tiếp viện cho anh, địch quân thì đông như kiến cỏ, trong khi quân số anh chỉ còn vào khoảng một râu (1 Đại đội) lớp bị tử trận, lớp bị thương, đạn dược sắp cạn, lính của anh vì thương anh, cùng liều chết ở lại chiến đấu đến giờ phút nầy, không thì đã tan hàng từ lâu rồi. Tôi trấn an anh “Bạn yên tâm đi, 5 phút tôi sẽ tới" (Sóc-Trăng chỉ cách Bạc-Liêu khoảng 40 km đường chim bay). Anh mừng lắm nói “Không ngờ giờ nầy còn có anh bay đến, em út tôi lên tinh thần lắm, bọn VC nầy tuy đông, nhưng toàn là con nít không hà, tại tụi nó núp trong mấy ụ phi cơ, chúng tôi không làm gì được, chớ nếu đánh cận chiến, tụi tôi sẽ bẻ cổ chúng hết”. Tôi tính toán rất nhanh, VC ở trong các ụ phi cơ phía Đông Nam phi trường, tôi bay thật thấp, cao độ 500 bộ, lấy trục tấn công từ Đông sang Tây, tôi đã bay đến gần, thấy chúng nó quá đông, nấp dài theo ụ phi cơ, đưa lưng về hướng tôi đang bay tới, làm bia cho hỏa tiễn chống biển người, tôi bật công tắc 2 quả: số 1 và số 8, chúi mũi phi cơ xuống thấp nữa, thật gần, nhắm thật chính xác, hồi hộp lẩy cò, hai quả rocket phóng ra, 2 tiếng nổ lớn, hỏa tiễn nổ tung thêm lần nữa, tỏa ra đám khói nhỏ màu hồng nhạt, tôi thấy những thây người nhảy dựng tung lên. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng hét lớn “Trúng phóc rồi, anh phóng pháo bằng loại gì vậy ?” Tôi không trả lời, tôi bắn trúng là vì tôi liều mạng xuống thật thấp, với lại chiếc phi cơ số đuôi 288 nầy là con tàu tôi thích nhất, bắn Rocket rất dễ trúng mục tiêu, nên lần nầy tôi bắn thật chính xác. Tôi đoán chúng đã biết hướng bay của tôi, bây giờ những tên còn sống chắc đã chạy qua hướng Đông dựa lưng vào vách ụ, chong súng chờ tôi bay vào tấn công từ Đông sang Tây như lần trước, thì tôi không bắn được chúng, và sẽ bị chúng từ sau bắn tới phi cơ tôi. Tôi bay xuống thật thấp vào trong phố Sóc-Trăng, quyết định đổi trục đánh từ Tây sang Đông, tôi vào trục đánh, từ xa, xuống thật thấp tiến lại để địch không thấy tôi bay tới, tôi bật công tắc 2 quả: số 2 và số 7, gần đến mục tiêu, tôi kéo nhẹ cho mũi phi cơ nhô lên, tôi thấy đúng như tôi nghĩ, bọn chúng lưng dựa vào vách ụ, hằng trăm mũi súng đang chĩa về phía tôi, bây giờ tôi đang trực diện chúng, chúng quá bất ngờ vì tôi đổi hướng bay, chúng chưa kịp phản ứng thì tôi đã lẩy cò, hai quả nổ tung, phóng hàng ngàn mũi tên thép chụp xuống chúng như một trận mưa rào, lần nầy không còn chịu đựng nỗi, chúng bỏ phòng tuyến tốc chạy ào về hướng đầu phi đạo phía Nam, quân ta rượt theo bắn giết, đến cuối phi đạo chúng phải lội vượt qua một cái hào khá lớn, mục tiêu quá tốt cho tôi, lần nầy tôi chỉ phóng từng quả một vào đám quân đang bơi thục mạng bên dưới. Sáng sớm, khi vừa cất cánh, tôi đã gọi Trung Tâm Hành Quân Không Trợ 4 (ASOC 4) xin phi tuần, giờ nầy vẫn chưa cho biết có phi-tuần hay không? Địch đã tổn thất nặng nề, đang rút lui chạy đen đầu ngoài đám ruộng khô phía Nam phi trường, bây giờ có Gunship hoặc pháo binh thì hay quá, tôi gọi lại ASOC 4, có tiếng trả lời “Sơn Ca 23, bạn hãy chờ!”. Tôi gào thét gọi pháo binh để bắn theo truy kích, anh Tiểu-Đoàn-Trưởng nói với tôi “Sơn Ca, anh đừng gọi nữa, bọn họ đã bỏ đi hết rồi, bây giờ chỉ còn anh trên đó và tôi dưới nầy thôi, khi nào có ghé Sóc-Trăng, gọi vào Hậu Cứ tôi, tôi ra nhậu với mấy anh một bữa cho thật đả, tôi là : Đống Đa, Ủng Hộ, Đống Đa.” Tôi không còn hỏa tiễn để bắn, tôi bay đuổi theo địch để anh Lợi ngồi ghế sau bắn M79 xuống, còn tôi điều chỉnh mấy khẩu súng cối cơ hữu của tiểu đoàn bắn theo tới tấp. Phi vụ hành quân yểm trợ quân bạn hôm nay hy hữu vô cùng, phi cơ quan sát của chúng tôi không bao giờ trang bị vũ khí, vũ khí của chúng tôi là gọi pháo binh bắn, hay hướng dẫn oanh tạc cơ thả bom, bây giờ khản cổ xin oanh tạc cơ mà chẳng thấy ai trả lời, còn pháo binh thì đã “Thế lên đường hết rồi”. Tôi không ngờ đây là phi vụ hành quân cuối cùng trong đời binh nghiệp của tôi, sau nầy tôi mới biết rõ và hãnh diện: Tôi đã bay phi vụ hành quân cuối cùng của Không Lực VNCH. Tôi hướng dẫn quân bạn truy đuổi, lục soát, thu chiến lợi phẩm và đếm gom xác chết, tôi tiếp tục điều chỉnh súng cối bắn theo địch. Lúc ấy, nhìn đồng hồ tôi đã bay hơn 4 tiếng rồi, tôi gọi Trung “Tao về đáp đổ xăng, lắp rocket lên bắn tiếp, tụi mầy đừng cất cánh vội, tụi nó còn chém vè xung quanh phi trường nhiều lắm”. Trên đường bay về, tôi tiếp tục điều chỉnh súng cối bắn, thì VC vào tần số FM của tôi đang liên lạc với quân bạn, gọi tôi “Sơn Ca, Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi, sao anh còn bắn chúng tôi hoài vậy ?”Anh Lợi thét lên “Mầy đừng nói láo, Dương văn Minh đầu hàng thì tao tự sát”. Chúng nó chẳng thèm trả lời, mà đưa ống liên hợp của máy FM vào gần máy thu thanh, để cho chúng tôi nghe được lịnh kêu gọi buông súng tại chỗ của Tổng-Thống. Tôi kêu lớn 1 tiếng “Trời ơi” tay đấm mạnh liên hồi vào cửa sổ phi cơ, bàng hoàng tưởng như trong giấc chiêm bao. Tôi về đáp Bạc-Liêu đổ đầy xăng, lắp 4 hỏa tiễn chống biển người còn lại và 4 Rocket đầu nổ mạnh vào dàn phóng, tôi chạy về nhà, còn anh Lợi chạy thẳng vào Trung Tâm hành quân để gặp Đại-Tá Tiểu-khu-Trưởng. Tôi vừa bước vào nhà thì Thiếu Tá Giang-kim-Hà (Sĩ quan liên lạc KQ tại Tiểu khu Bạc-Liêu) cũng vừa đến tìm tôi, anh nóí “Trên Vĩnh-Long, Tướng Hoàng-văn-Lạc của SĐ 9 chưa chịu đầu hàng, mình lên thử xem, tôi có người bác làm An Ninh Quân Đội trên đó”. Tôi quyết định sẽ bay lên Vĩnh-Long để cùng chiến đấu với SĐ 9. Tôi và anh Hà ăn vài chén cơm vội vã, tôi bảo vợ tôi lấy cho ít tiền bỏ túi, anh Hà cũng không có sẵn tiền đem theo, vợ tôi lấy cho anh mượn 5.000$. Vừa cất cánh xong, tôi gọi Trung ở tầng số FM, không thấy Trung trả lời, tôi vào tầng số Paddy, gọi xem có bạn nào trên tầng số không? Có vài bạn PĐ 116 và PĐ 122 liên lạc với tôi, tôi báo cho họ biết SĐ 9 còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẽ lên đáp tại Vĩnh-Long (VL). Trên đường bay lên VL, tôi đã bắn hết 8 quả Rocket vào những mục tiêu nào, chỉ có duy nhất Thiếu Tá Hà biết. Tôi đáp xuống VL, lần lượt 6 chiếc khác theo tôi đáp xuống, có một bạn nào đó của PĐ 122 báo cho tôi biết, anh ta từ phi trường Long Xuyên bay qua, phi trường Long Xuyên bây giờ hỗn độn lắm vì nhiều phi cơ từ Trà Nóc lên đáp đổ xăng, 1 chiếc của phi đoàn 122 rớt xuống ở đầu phi đạo, hoa-tiêu là Trung-Úy Thân chết tại chỗ, Quan-sát-Viên là Đại-Úy Trương công Tấn, gãy xương sống, được anh em lôi ra khỏi phi cơ còn nằm trên đó không biết có chết không? (anh Tấn không chết, và anh sống vất vưởng cuộc đời tàn phế 40 năm rồi, hiện nay anh còn bán thuốc lá lẻ ở VN) phi đoàn 116 của anh thì tôi thấy Lý hữu Hiệp từ Sóc Trăng bay lên đáp trên ấy, Đại-Úy Trung ngồi ghế sau đã bị VC bắn chết trên phi cơ. Trời ơi, một tin khủng khiếp cho tôi mà anh ta kể rất bình thường, tôi chụp vai anh ta hỏi “Trung chết thật sao, ông có thấy xác Trung không?” Anh ta đáp: “Tôi không thấy, nhưng Lý Hữu Hiệp nói anh ta vừa cất cánh ở ST, thì VC ngoài Quốc lộ bắn anh bằng đại liên, anh nghe phi cơ bị trúng đạn, khi đã lên cao, anh gọi Trung, không nghe Trung trả lời, anh quay lại nhìn thấy đầu Trung đã nghẻo sang một bên, Trung đã chết ngay trên phi cơ, Hiệp kể lập cập cho chúng tôi nghe mà mặt mày xanh dờn, còn khiếp đảm lắm”! Trung đã chết vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đau thương, bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ… Chiều hôm ấy, Ông Tướng của SĐ 9 cũng phải ra lịnh buông súng. Bọn nước lớn đã ký giấy khai tử VNCH thì chúng ta làm gì hơn… “Lực bất tòng tâm, thôi đành trôi theo vận nước”. Vị Tiểu-Đoàn-Tưởng “Đống-Đa, Ủng-Hộ, Đống-Đa” sau nầy tôi được biết là Đại-Úy Võ-Văn-Đốt, TĐT Tiểu-Đoàn lừng danh 486 của Tiểu-Khu Ba-Xuyên, anh bị phe chiến thắng mang anh từ trại cải tạo về Sóc-Trăng, xử tử anh để trả thù trận đánh sau cùng ấy. Tiểu-Đoàn-Phó là Đại-Úy Tiết, đang sinh sống tại Santa Ana, trong một ngày nào đó trên đất Mỹ, vô tình gặp lại anh Lợi và tôi trong một tiệc cưới, kể lại cho chúng tôi nghe tầm sát hại của hỏa tiễn chống biển người, khi Rocket tôi bắn ra, anh ở dưới đất nghe như một trận mưa rào thật lớn, từ trên chụp xuống hàng ngàn mũi tên thép, dài độ 6,7 phân, sau đuôi có 4 cánh nhỏ, mãnh lực có thể xuyên cả áo giáp, địch ngã ra chết như rạ. Còn chúng tôi ở lại phi trường VL, sáng 1 tháng 5, VC vào tiếp thu phi trường, chúng tôi bị giữ lại và sau đó chúng đưa chúng tôi vào khám lớn Vĩnh-Long. Cuộc đời tù đày của tôi bắt đầu từ 1 tháng 5 năm 1975… Sơn Ca 23. Lê Văn Sùng ___________ Ghi chú : Tôi tìm hiểu về loại Rocket chống biển người mà tôi đã bắn ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi được hai người bạn am hiểu cho tôi biết : 1. Nguyễn-thế-Qui (bay khu-trục) anh cho biết, thỉnh thoảng anh cũng được trang bị Rocket đó, dùng khi căn cứ bạn bị tràn ngập, đó là loại vũ khí sát thương hàng loạt vì bị phía bên kia phản bác, nên Mỹ ít dùng, mỗi quả khoảng 1.200 mũi tên thép, bắn thẳng góc 90 độ sẽ xuyên qua áo giáp. 2. Nguyễn anh Tuấn (bay trực thăng) anh cho biết : Đó là Rocket M255 A1/MK 66, chứa 1.179 mũi tên thép có đuôi, chống biển người, đầu nổ M255 A1, Rocket Motor 66, đường kính 2.75 inches (70 mm) nặng 30 lbs. ********************************************************
Sự Thật Về Tên Phi Công Nguyễn Thành Trung Tác Giả: KQ Lê Phiếu
Chuyện cách đây đã hơn 45 năm, ngày 8/4/1975 một phi công của Không quân Việt Nam Cộng Hoà đã sử dụng phi cơ F5 thả hai trái bom xuống dinh Độc Lập trong lúc miền Nam đang hấp hối, sự việc xảy ra đã lâu nhưng không chìm vào dĩ vãng… tuy nhiên đã để lại trong đầu óc các thế hệ sau những suy nghĩ lệch lạc không đúng sự thật của lịch sử. Tôi năm nay đã 70 tuổi ngày xưa nhập ngủ cùng ngày (1/6/69 Khoá 4/69 Không Quân) cùng học bay ở England AFB Louisiana Hoa Kỳ và tốt nghiệp A37, sau đó cùng xuyên huấn trở thảnh phi công F5 cuối tháng 1/1972, đương sự ở Biên Hoà còn tôi chuyển ra Đà Nắng. Bài góp ý này tôi đã viết cách đây 5 năm đúng vào ngày tưởng niệm Trung cộng đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam và sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Thành Trung tôi quá ức lòng, bài viết của tôi có đăng trên Hội Quán Phi Dũng và hôm nay xin được chia sẻ… Nguyễn Thành Trung là ai? Một sự kiện cách đây đã 40 năm mà hầu như ai cũng chưa quên, và mới đây báo Thanh niên (trong nước) đã đưa ra một bài viết về sự tiết lộ một bí mật mà Nguyễn Thành Trung đã dấu kín trong suốt 40 năm qua “kế hoạch các phi công F5 không kích nhấn chìm 40 tàu Trung Quốc tái chiếm Hoàng Sa” khiến các độc giả nhất là giới trẻ, thế hệ sau của cả hai miền với bầu nhiệt huyết, lòng yêu nước trung thực và truyền thống chống ngoại xâm của cha ông, nức lòng và nuối tiếc. Các cháu góp ý… đọc xong các cháu xúc động muốn khóc và thầm oán trách Tổng Thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu lúc đó tại sao không “tiền trảm hậu tấu” bỏ dở kế hoạch nửa chừng, đừng tin vào Mỹ v.v… Anh hùng phi công huyền thoại Nguyễn Thành Trung còn kết thúc câu chuyện rất tâm lý “… đã để lại cái gánh nặng, nếu không thì thế hệ mai sau đỡ vất vả dường nào v.v…" các cháu đã khóc thật lòng vì quá cảm kích câu nói này. Chính tôi đây cũng muốn khóc vì mình cũng là người trong cuộc, hôm nay đang được các cháu chiêm ngưỡng, nhưng cách đây 39 năm, khi các chiến hữu lần lượt cất cánh, tôi đã tự nguyện từ trên chiếc F5 leo xuống và ở lại, vẫn bị người anh em bên thắng cuộc tù đày đi kinh tế mới khổ sai gần 20 năm… Tôi đã khóc không phải vì nuối tiếc cuộc đời mà chỉ tức tưởi không biết nói làm sao cho thế hệ con cháu ngày sau hiểu được dòng lịch sử nghiệt ngã hôm nay của dân tộc mà sự hủ lậu đã thắng nền văn minh, kẻ độc ác đã thắng nhân bản, khoan dung… Qua bài viết về Nguyễn Thành Trung của tờ báo Thanh Niên, với tư cách một người đồng môn, đồng khoá 4/69 Không Quân và thời gian học bay A37 ở căn cứ England AFB, LA với Nguyễn Thành Trung. Tôi xin góp ý vài nhận xét như sau: Tôi đã đọc bài viết của Long Ly Hồng Tiễn 538 và gần đây tiếng nói của Thiếu Tá Hồ Kim Giàu Phi Đoàn Trưởng của tôi và chỉ huy trực tiếp kế hoạch không kích trả đũa (không nghe nói tái chiếm) rất chính xác trung thực, tôi còn nhớ anh em dấu cả vợ con người thân, ngồi bên nhau tâm tình tới hơn nửa đêm, Thiếu Tá Giàu còn nói nửa đùa nửa thật “chúng mình ăn tết trước” (ý nói, ra đi có thể không trở về). Ngay cả vị chỉ huy trực tiếp trận đánh mà kế hoạch cho biết chỉ trước một ngày, vậy mà Nguyễn Thành Trung lúc đó chỉ mới Thiếu Úy (ngày 28/6/1974 tôi mới được thăng cấp Trung Úy) đã nắm kế hoạch bí mật dấu kín suốt 40 năm? Chỉ có Phi Đoàn Hồng Tiễn 538 đảm trách chọn 10 trong số 18 hoa tiêu cho cuộc không kích, Nguyễn Thành Trung tăng lên năm Phi Đoàn, đương sự còn nói dối không ngượng miệng “các Đại Tá, Trung Tá tuyên bố “đánh Việt cộng chỉ để đánh chơi thôi”. Nguyễn Thành Trung còn biết được như vậy, còn Việt cộng thì sao? Cùng người Việt Nam nhưng thà giết lầm hơn bỏ sót, chôn sống hằng ngàn người dân vô tội kể cả học sinh ở Huế. Trung cộng cưỡng chiếm Hoàng Sa là do ai? Nước Việt Nam Theo đúng nghĩa chỉ tạm thời chia cắt, nhưng cả miền Bắc đứng đầu là Hồ Chí Minh lúc đó… Trung cộng đã là quan thầy. Với hai gọng kềm, vừa thù trong, vừa giặc ngoài cấu kết. Miền Nam có thể làm gì được? Nhưng cuộc hải chiến ngắn ngủi đẫm máu vẫn đã xảy ra ngày 19/1/1974 mặc dù không tương quan lực lượng đã làm rúng động lòng người. Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và 70 chiến hữu của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đã tử trận rất bi hùng. Biết sẽ chết vẫn chiến đấu tới cùng! Miền Bắc lúc bấy giờ im lặng nhưng cả miền Nam sôi sục… Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có lẽ trong giây phút quá kích động đã quyết định trả đủa bằng một trận không kích mạo hiểm F5 (điều kiện và địa hình rất khó khăn chứ không phải như Nguyễn Thành Trung nói phét 100% là thắng) không thành công thì cũng thành nhân, nhưng vào phút cuối, tôi tin rằng Tổng Thống đã hủy bỏ vì không muốn hy sinh thêm nữa xương máu của chiến hữu. Về mặt quốc tế, hình như Mỹ không thể tham dự hay hậu thuẫn trong trường hợp này chứ không phải không muốn can thiệp? Qua hai bài viết, một là cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên với Nguyễn Thành Trung về kế hoạch phản công của các phi công F5 đã tiết lộ những bí mật mà anh hùng phi công huyền thoại Nguyễn Thành Trung đã dấu kín trong suốt 40 năm qua… và bài thứ hai cuộc thảo luận với nhân vật sống Thiếu Tá Hổ Kim Giàu Phi Đoàn Trưởng Hồng Tiễn 538, trực tiếp chỉ huy phi vụ không kích đã lên phương án chu đáo, sẵn sàng cất cánh nếu vào phút cuối kế hoạch không hủy bỏ… Tôi không thể hiểu nổi với dụng ý gì? Và Nguyễn Thành Trung đã suy nghĩ thế nào? Ai đã đứng sau lưng? Hay đã đến lúc tuổi già lẩm cẩm? Mà đương sự dám dựng lên sự kiện với những chi tiếc láo khoét hết sức lố bịch… Nguyễn Thành Trung thật sự là ai? Một anh hùng phi công huyền thoại hay chỉ là nhân vật thức thời cơ hội? Lúc mới nhập ngũ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung ngày 1/6/69 Đại Đội 44, Tiểu Đoàn Nguyễn Huệ. Các bạn nào thuộc khoá 4/69 Không Quân hẳn chưa quên danh hiệu “Trung gà tre” do cái dáng đi, kiểu cách ăn nói và khuôn mặt phảng phất nét gian manh của đương sự (ngay cả bây giờ khi ngồi gát chân trên ghế sofa). Hành động của Nguyễn Thành Trung thả đại hai quả bom xuống Dinh Độc Lập đã tác hại cho ai và ảnh hưởng những gì trong lúc cuộc chiến sắp tàn mà phần thắng đã 100% nghiêng về cộng sản miền Bắc? Sau đó còn kéo thêm một số trở cờ theo gió bay A37 dội bom phi cảng Tân Sơn Nhứt trong lúc người dân đang đau khổ chạy loạn. Thử hỏi đó là hành động anh hùng, quân tử hay độc ác dã man? Có cần thiết hay không? Và phi vụ mà Nguyễn Thành Trung đã phản nghịch dội bom Dinh Độc Lập hôm đó không phải chính thức của đương sự trực bay mà đây chỉ là tình cờ, Thiếu Úy Nguyễn Văn Lượm (hiện đang ở Seatlle, WA) từ Sài Gòn lên trể và Nguyễn Thành Trung đã bay thế. Không có sự chuẩn bị trước nào cả, bởi vậy khi về đáp ở Phước Long ban đầu phi cơ vần bị bắn. Lúc còn ở trong trại tù tôi quên mất là năm nào, nhưng tôi đã tâm sự cùng một số bạn tù thân tín, rất tức giận khi học tập qua báo chí, đã bịa đặt ca ngợi anh hùng Nguyễn Thành Trung đã dám đứng lên ca vang những bài hát ca ngợi “cách mạng” trong thời gian du học ở Mỹ nhân dip vui Tết năm Tân Hợi (1971) mà lúc đó tôi cùng có mặt. Nếu đương sự là nội tuyến được đảng cộng sản cài đặt thì trong suốt hơn ba năm kể từ lúc chính thức trở thành một phi công A37 rồi F5 đương sự đã gây đươc những tác hại gì cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà? Ở vào thời điểm 1972 trận chiến đang giai đoạn cao điếm khốc liệt, tiêu diệt được một phi công, nhất là đánh bom là cả một thành công và mơ ước lớn của cộng sản bắc Việt (một phần vì lòng căm thù) cũng như tổn thất nặng nề cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (đào tạo mất nhiều thời gian và rất tốn kém). Cộng sản bắc Việt có thể cho đặt bom sát hại hằng chục nhân mạng vào mỗi sáng hoặc buổi họp hằng tuần tất cả hoa tiêu có mặt đầy đủ mà Nguyễn Thành Trung với bộ đồ bay thực thụ rất dễ thực hiện? Hoặc phá hủy hằng loạt máy bay, cần gì hôm nay đương sự phải dối trá theo lối trẻ con “cố ý đáp mạnh cho hư” còn việc Long Ly cho rằng Nguyễn Thành Trung cố ý bay tụt hậu, dùng đại bác bắn Nguyễn Thăng Long rồi nhảy dù phi tang. Tôi, Phiếu 538 hoàn toàn không đồng ý với bạn, Nguyễn Thành Trung không can đảm được như thế, hơn nữa đương sự có muốn thủ tiêu phải chờ cơ hội, cỡ như Trung Tá Đàm Thượng Vũ hoặc Thiếu Tá Hồ Kim Giàu nhà mình, còn Nguyễn Thăng Long mới ra trường, đang huấn luyện đâu có nhiều “nợ máu”. Thật ra đây là lỗi của Nguyễn Thành Trung, thiếu kinh nghiệm, làm chết tan xác wingman của mình. Theo nguyên tắc bay hợp đoàn, hai đầu cánh phi cơ cách nhau không quá 1 mét. Và số 2 phải luôn thấp hơn khoảng hai tất. Đổi tần số, leader phải chờ số hai click trước. Đằng này có lẽ cả hai cùng làm một lúc nên mới xảy ra sự cố. Khi đã va chạm vào nhau, số một ở vị trí phía trước còn có khoảng thời gian 10 giây để nhảy dù… nên Nguyễn Thành Trung đã thoát chết, còn phi cơ của Nguyễn Thăng Long bị chạm ở phần đầu nên vở tung tức khắc. Long Ly nói đúng, Nguyễn Thành Trung tưởng rằng dân bay F5 chỉ còn độc nhất là mình nên đương sự đã nói láo trắng trợn. Đổi tai nạn do thiếu kinh nghiệm thành cố ý đáp đường băng ngắn. Đã làm hư hại hai phi cơ. Dù cho rằng Nguyễn Thành Trung là người do cộng sản bắc Việt đã cài đặt, thì trong thời gian 72-75, với nhiệm vụ một phi công A37. Đương sự phải thi hành bao nhiêu phi vụ, thực hiện bao nhiêu lần đánh bom để bảo toàn thân phận? Lẽ dĩ nhiên đương sự không thể đánh sai mục tiêu. Vì có máy ảnh chụp kết quả, L 19 chỉ dẫn. Quân bạn chứng kiến, leader hoặc wingman theo dõi từng pass một. Tóm lại Nguyễn Thành Trung không thể không trút bom xuống đồng đội mình (Việt cộng). Thử hỏi Nguyễn Thành Trung đã mang một sứ mệnh, trọng trách ghê gớm gì mà đồng đội phải hy sinh như thế để bảo toàn thân phận cho đương sự? Trong suốt gần 40 năm qua, báo chí thường nhắc đến Nguyễn Thành Trung với danh xưng một anh hùng phi công huyền thoại, theo tôi nghỉ, dù ở chiến tuyến nào, chủ nghĩa cộng sản hay Tư Bản, hành động của một cá nhân dám hy sinh cả tánh mạng, bất chấp mọi tai ương để mang lại đại nghĩa cho lý tưởng của mình đó mới được gọi là anh hùng, một thành quả, một ý chí, đòi hỏi sự tài ba, xuất chúng không ai làm được. Tự nó sẽ đi vào huyền thoại… trong lòng mọi người… Anh hùng Lý Tống, một phi công A37 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, vượt thoát lao tù cộng sản, qua đến Mỹ bằng đường bộ, trở lại Việt Nam dùng phi cơ dân sự rải truyền đơn kêu gọi toàn dân đứng dậy đòi tự do, nhảy dù bi bắt bi gán tội không tặc, ở tù nhiều năm nhưng được cả thế giới ngưỡng mộ. ra tù trở về Mỹ lại mướn máy bay rãi truyền đơn thách thức cả nước cộng sản Cuba. Lại tiếp tục dùng máy bay từ Thailand bay qua Việt Nam rãi truyền đơn lại ở tù. Đời người có được bao nhiêu cái thập niên mà Lý Tống đã đếm hơn hai cái trong các lao tù khắc nghiệt, bình tĩnh thong thả đếm như chiêm ngưỡng một thành quả, một cái giá đương nhiên mà anh phải trả. Biết đâu anh đang mỉm cười tự nhủ “không chết, vẫn còn hên”. Hành động phi thường của Lý Tống vẫn chưa dám đi vào huyền thoại, còn Nguyễn Thành Trung vội vả trút bỏ hai trái bom để giết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong lúc miền Nam đang giẫy chết, rồi ào ạt thả bom xuống phi cảng Tân Sơn Nhứt bất chấp người dân đang đau khổ chạy trốn. Một hành động mà bất kỳ người phi công khu trục nào cũng làm được nếu mất nhân tính. Người phi công F5 phản bội Nguyễn Thành Trung, anh hùng ở chỗ nào? Huyền thoại ở đâu? Lê Phiếu Cựu Phi công F5 Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn Comments: Hello Phiếu Tất cả những gì Nguyễn Thành Trung nói toàn là không có, tôi đã được xem qua đã lâu rồi. Tôi cùng Phi Đoàn 540 Hắc Ưng tại căn cứ Biên Hoà. 4 phi tuần từ Biên Hoà ra Đà Nẵng nhập chung 1 phi tuần ở Đà Nẵng tổng cộng 5 phi tuần đánh Hoàng Sa. Chúng tôi được nghe 1 Trung Tá trong hành quân chiến cuộc thuyết trình F5 sẽ ra đánh Hoàng Sa. Từ Biên Hoà bay ra Đà Nẵng rồi lấy xăng dầu đầy đủ với 3 bình xăng phụ chỉ mang theo 2 qua 250 lbs. Tính khoảng cách từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa phải dùng bình xăng phụ trước rồi eject thì mới đủ để về đáp. Nếu bay tới mục tiêu mà phải tìm kiếm e có trở ngại về đáp vì không đủ xăng. Sau khi nghe thuyết trình xong về Phi Đoàn chờ lệnh đến chiều hôm mông 2 Tết thì được bỏ lệnh hành quân. Vũ Kim Bài Phi Đoàn 540 Hắc Ưng (30/06/2020)
Nguyễn Thành Trung ,HẢY TÔN TRỌNG SỰ THẬT CỦA LỊCH SỬ, CÓ NHƯ VẬY MỚI THUYẾT PHỤC LÒNG NGƯỜI Qua câu chuyện ném bom Dinh Độc Lập của người phi công F5 Nguyễn Thành Trung vào ngày 8-4-1975, và mãi tới hôm nay đã 47 năm trôi qua, vẫn còn luôn được nhắc nhở, Cho dù có hay không có phi vụ xảy ra ngày hôm đó, thì cuộc diện 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn vẫn đi đến kết thúc mà miền Bắc là bên thắng cuộc. bối cảnh lịch sử đã áp đặt không thể thay đổi khác hơn! Vấn đề muốn nói là Nguyễn Thành Trung thật sự là anh hùng cách mạng, một phi công huyền thoại hay chỉ là hành động phản nghịch thức thời ? Hôm trước tôi đã một lần trình bày qua bài viết “Nguyễn Thành Trung là ai ?“ mà theo suy nghĩ của tôi, dù bạn đứng ở vào chiến tuyến nào, mang hoài bảo lý tưởng khác biệt và dù sai dù đúng lịch sử sẽ phán xét, Nhưng nếu đã có những hành động thực tế, đám hy sinh quên thân mình vì đại cuộc, dù chết vẫn một lòng trung thành với lý tưởng của mình, thì vẫn xứng danh là anh hùng đáng lưu danh . Với tư cách là một người đồng môn và cùng khoá 4-69 KQ, đã trãi qua các khoá huấn luyện trong và ngoài nước ở các bang Texas , Mississippi, Louisiana Hoa Kỳ như NTT đã trình bày Về nước bay A 37 rồi F5 , Nguyễn Thảnh Trung ra đơn vị thuộc vùng 4 Cần Thơ , tôi phục vụ Đà Nẵng vùng 1, có một khoảng thời gian Trung biệt phái ra Đà Nẵng cho tới cuối ngày 29-3 khi Đà Nẵng thất thủ, thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp nhau Hôm nay tôi lại tình cờ được nghe thêm đoạn video dưới đây về buổi phỏng vấn người bạn của tôi Nguyễn Thảnh Trung mả đương nhiên ít nhiều cũng có những gợi ý chuẩn bị bài bản. Xin mời các bạn cùng tôi theo dõi kỷ từng lời nói âm điệu của người hỏi và người trả lời sau khi đã đọc bài góp ý giải thích này để nhận định về những sự kiện, Tôi cũng đã 72 tuổi và bạn tôi Nguyễn Thành Trung 75 thất thập cổ lai hy già rồi ! tin rằng không ai còn nhu cầu gì xa hơn , Tôi chỉ muốn trình bày góp ý một cách khách quan, mục đích là nói lên sự thật , lịch sử là phải trung thực! Không thể để thế hệ mai hậu có cái nhìn và suy nghĩ sai lệch không đúng sự thật. Theo tôi được biết vào Thời xa xưa lúc còn Việt Minh chống Pháp, rồi miền Nam hình thành chế độ Tư Bản Tự Do mà đứng đầu là TT Ngô Đình Diệm, và chiếu theo sau hiệp định Giơ ne vơ 1954 có một số tập kết ra Bắc, ngược lại hàng triệu người di cư vô Nam . Bối cảnh lịch sử đưa đẩy khiến ngay cả trong gia đình có người bên này bên kia gây ra mầm mống hận thù nhau, sự xung đột giữa hai ý thức hệ chủ nghĩa cọng sản miền Bắc và Tư bãn Tự Do miền Nam, một số phãi đổi tên họ để được sống yên thân là chuyện bình thường, và NTT có thể cũng không ngoại lệ, tại miền Nam tới tuổi không có lý do chính đáng để hoản dịch ai cũng phải vào lính, mà vào được Không Quân thì thanh niên ai cũng thích hơn . Nhưng chỉ mới 14 tuổi đầu , NTT đã có lời thề trước dòng sông Mê Kông là sau này quyết chí trở thành một phi công chiến đấu nuôi chí lớn có một ngày sẽ dội bom dinh Độc Lập là chuyện không tưởng ! Cách Mạng đã nuôi dưỡng cài đặt để thực hiện hành động thì chỉ là dối trá đánh bóng tên tuổi thích nghi thời cuộc, điều này không những lố bịch mà còn hết sức khờ khạo . Giả thử toàn miền Nam ai cũng hiểu về cơ cấu của binh chủng Không Quân thì NTT đã không dám vênh váo !. Bản thân Tôi chẵng có trả thù nhà , hận chế độ nhưng vẫn tình nguyện nạp đơn vào lính Không Quân để trở thành phi công từ hồi rất sớm lúc chỉ mới 18 tuổi, trong lúc NTT lòng hừng hực lừa căm thù nuôi chí lớn, mà đợi tới 22 , cái tuồi lớn nhất trong khoá lúc bấy giờ, được gọi là cài đặt được nuôi dưỡng tại sao lại không gia nhập sớm hơn? Phải chăng con đường học vấn thiếu khả năng bị gián đoạn phải tìm một lối thoát là tình nguyện vào Không Quân!? Rồi thời gian phục vụ trong Quân Đội VNCH trước 1975, nếu là một gián điệp, hôm nay đâu cần phãi dấu diếm, đương sự đã hoạt động lập nên được thành tích gì ? hay ngày nào cũng đi thả bom thi hành những phi vụ giết hại vô số bộ đội “ cách mạng “ như chính lời NTT đã thừa nhận, sau đây là nguyên văn lời Trung nói: “ để giử bí mật , tổ chức đã khẳng định không yêu cầu tôi phải hạn chế hay giảm thiểu mức thương vong cho “ cách mạng “ Và NTT cũng can đảm thật ! dám coi thường cả một tập thể phi công miền Nam thời bấy giờ , tình nguyện vào pilot ai cũng hiểu, trong số 10 loại phi cơ, trực thăng UH 1, CH47, vận tải C7, C47 , C119, C123 , C130 , chiến đấu cơ A 1, A 37, F5 ai có thể biết trước được mình sẽ bay loại nào!? tất cả còn tuỳ thuộc vào tài khóa nhu cầu đòi hỏi, Quốc phòng Mỹ và Bộ Tư lệnh KQ cũng chịu thua, vậy mà thắng bé 14 tuổi lại biết trước sẽ có một ngày trở thành phi công chiến đấu lái phản lực F5E đội bom dinh Độc Lập để giết ông Diệm trả thù nhà, không còn ông Diệm thì giết ông Thiệu, Lại còn tuyên bố để sớm kết thúc chiến tranh nghe mới ghê hồn chứ ! Phi công leo lên máy bay, thắt dây belt cũng có chuyên viên trợ giúp , bom đạn đã có cả một đội ngủ kỷ thuật gắn ngòi nổ trước khi cất cánh, vậy mà NTT ngồi trong buồng lái lại có thể cho trái bomb nổ theo ý muốn , nguyên văn và đây là nguyên văn. “ trong những qủa bom mà tôi đã ném xuống , tôi có quyền điều chỉnh cho trái bom nào nỗ, trái nào không nỗ !” Phi vụ dội bom dinh Độc Lập để giết TT Thiệu, NTT cũng cho biết đã được tổ chức tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng ! Bạn Trung ơi ! bạn có biết Thiếu uý Nguyễn v Lượm bị kẹt lại cũng đi tù và hiện ở Seattle đang hết sức tức giận khi nhắc lại chuyện này mà tôi đã có viết trong hồi ký ! ? Ngày định mệnh đó nếu Lượm không từ Sài Gòn lên trể để Trung bay thế, thì Trung lấy máy bay đâu để thả đại hai trái bomb không cần trúng trật vẫn được đổi đời !? leader phi tuần của Trung , đại uý Ngô Hoàng hiện đang ỡ Cali bạn Trung vẫn chưa quên vị niên trưởng này chứ ! Chúng mình ra trường về đơn vị khoảng đầu năm 1972, lúc bấy giờ vẫn chưa được mang lon thiếu uý còn ăn lương trung sĩ, vẫn đang chờ đợi ra Nha Trang hoàn tất giai đoạn 2 quân sự để điều chỉnh cấp bậc, vậy tính đến 8- 4-75 ngày bạn rời bỏ Quân Đội VNCH , làm sao bạn có 4 năm phục vụ trên chiến trường ? mỗi phi xuất cuả A 37 hay F5 chỉ ghi 1.1 tức khoảng 1 giờ 10 phút, pilot không ai bay đều đặn ngày một phi vụ, bạn lấy đâu ra 1000 giờ bay ? dội bom ngoải mặt trận Bạn còn huênh hoan một cách nguy hiểm dại dột, và đây là nguyên văn “ Tổ chức đã khắng định ném bom ở các vùng giải phóng hoặc mặt trận mà anh biết là gây thương vong nhưng anh cũng phải làm và làm cho tốt vai trò của mình, không cần phải hạn chế hay giảm thiểu thương vong” Nghe mà Kinh hoàng! hảy tưởng tượng một trái bom nỗ bao nhiêu người chết mà là phe ta ! bạn đã phát biểu vô ý thức coi rẻ sinh mạng của bao đồng đội… Và cho dù là sự thật ( dù tôi tin không phải) bạn nói ra những điều này mà không sợ làm đau lòng tổn thương tình “ đồng chí “ khi cuộc chiến đã là qúa khứ lụi tản rồi sao !? Bạn đã mắc phải sai lầm hết sức tai hại rồi ! Còn nữa chuyện bạn là phi tuần phó leader dẫn wingman, thiếu uý Nguyễn Thăng Long mới ra trường bay tập dượt, hai chiếc bay hợp đoàn fingertip ( cánh sát cánh) vị trí bạn ở trước nên có thời gian 10 giây để ejection bung dù thoát chết, còn thằng em thì tan xác, sao không nghe bạn nhắc tới hay sợ người đời biết đến điểm yếu của mình? Bạn bè cùng khoá và ngay cả trung tá Phạm Đình Anh Hồng Tiễn 538 cũng biết nhiều về bạn lúc ở Biên Hoà và đã kể cho tôi nghe , bạn đúng là khôn ngoan biết thức thời, thế tại sao không an phận tuổi già có phải dễ sống hơn không! Lúc biệt phái ra Đà Nẵng cho tới khuya 29-3 -75 phi trường thất thủ , bạn vẫn rất hăng say và tỏ ra rất cảm thông cho nỗi đau chung khi Huế rơi vào tay cọng sản, những lần đi ăn trưa bên quán cơm sa mạc mà chính bọn mình đặt tên do con đường đi vô toàn cát, có cả biệt đội AC 47 bên Phước Tường, nhiều người từng nghe chính bạn luôn than vãn - Địt mẹ thẳng Thiệu làm ăn gì kỳ cục để mất Pleiku rồi mất luôn Huế! Bối cảnh lịch sử đất nước qúa nghiệt ngã ! Đã đổi thay mọi thứ , thay đổi luôn cả lòng người!… giọng nói của bạn hôm nay tôi nhận thấy cũng khác không giống ngày xưa, người miền Nam chính thống mà nghe vầng cuối cứ kéo dài na ná như Quãng Bình Hà Tịnh, tại sao lại phải làm thế ? Nghe xa lạ và buồn lắm! Những người bạn của chúng ta Nguyễn Hàn , Trần lưu Uý đã mất rồi từ hồi 1975 . Hàn bị bắn rơi trận Cồ Thành Quãng Trị, Úy thì vượt ngục bị bắn chết, Chỉ có Huỳnh văn Giàu, chính bạn đã quay xe lại gặp cho bằng được rồi dẫn đi ăn phở, Giàu đã giấu đi thân phận một tên tù “ cải tạo” vượt ngục đang tìm cách đảo thoát khỏi Quê hương vì đây là con đường sống duy nhất . Biết đâu lúc đó là gần cuối năm 1978 Trung đã là thiếu tá “ cách mạng “ và cũng dễ dàng nhận diện ra thân phận khi nhìn thấy hình hài bạn đồng khoá năm xưa !… Tôi vẫn hy vọng là như thế! bởi những kỷ niệm một thời trai trẻ cùng bay bỗng bên nhau, làm sao mà quên được phải không!? Cầu mong cho chúng ta ai cũng có được sự bình an chặng cuối đời! Lê Phiếu K4/69KQ Phi công NGUYỄN THÀNH TRUNG và lý do thật sự khiến ông ném bơm dinh độc lập ngày VNCH sụp đổ? YOUTUBE.COM Phi công NGUYỄN THÀNH TRUNG và lý do thật sự khiến ông ném bơm dinh độc lập ngày VNCH sụp đổ?
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 22, 2022 7:34:56 GMT 9
**Người Tù “Cải Tạo” Về Từ Yên Bái** Nguyễn Minh Châu TÐ3 Soibien
Tôi còn nhớ là những Sĩ quan cấp bậc Trung tá phải trình diện tại Trường học Don Bosco, Gò Vấp trong ba ngày từ 14, 15 và 16 của tháng 6 năm 1975. Tôi trình diện ngày giữa để không sớm mà cũng không trễ. Chúng tôi ngoan ngoãn như những con cừu non mang theo đủ số thuốc men, đồ đạc và tiền để học tập ba tháng rồi sẽ trở về với gia đình (Theo thông cáo). Vợ tôi đã khuyên tôi trốn về quê hoặc nơi nào khác một thời gian rồi sẽ tính sau. Nhưng vì sự đi đứng của tôi khó khăn (chống gậy) và hơn nữa với 21 năm trong Quân đội và Hành chánh nên được nhiều người biết sẽ dễ bị lộ tông tích. Tôi cũng sợ liên lụy đến vợ con nếu tôi không ra trình diện. Trong thời gian chờ thanh lọc, bọn CS nhốt chúng tôi tại trại Long Giao, căn cứ của Trung Ðoàn 48 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Nơi đây tôi có gặp gỡ nhiều chiến hữu cùng cấp bực và nhiều vị Chỉ huy cũ của tôi như các cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thế Lương, Nguyễn Năng Bảo, NT Nguyễn Thành Trí, cựu Tư lệnh phó Sư đoàn, sau khi tôi đã rời Binh chủng. Tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh khó quên về cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, một chiến đoàn trưởng TQLC đã lập nhiều chiến công hiển hách trong thời gian ông chỉ huy các Tiểu đoàn TQLC hành quân trên 4 miền Chiến thuật. Sau cùng ông là Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa khi tôi làm Quận trưởng Ðức Hòa. Ông cũng được mọi thành phần Quân Cán Chính mến thương như lúc ông còn là Chiến đoàn trưởng vì tính hiền hậu và nhã nhặn của ông ấy. Tôi không bao giờ quên và tội nghiệp cho một anh hùng lỡ vận. Mới vài tháng trước đây ông là một vị Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa uy quyền, hôm nay thấy ông vác củi rừng và mặc bộ đồ Kaki vàng lượm được đâu đó đã rách tả tơi. Tôi rất xúc động và căm hờn. Tôi nghĩ rằng tinh thần của Ðại Tá Soạn cũng như tôi lúc bấy giờ còn tả tơi hơn bộ đồ Kaki rách rã rời này nữa. Ôi! một thời oanh liệt nay đã tiêu tùng theo vận nước! Trước khi chở ra Bắc, bọn CS đưa tất cả Sĩ quan từ cấp Tướng đến cấp Tá về trại tù Suối Máu mà trước kia Chính quyền miền Nam giam tù phiến Cộng. Nơi đây trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, bọn chúng có giường ngủ, chăn màn đầy đủ. Chúng được ăn uống theo tiêu chuẩn Quốc tế cho nên tên tù Việt Cộng nào cũng mập béo. Các phái đoàn Mỹ và ngoại quốc đến thăm viếng thường xuyên. Trại được xây cất nơi thờ phượng cho các Tôn giáo. Khi chúng tôi vào trại Suối Máu thì những căn trại trống không, phải nằm đất và cơm ngày hai bữa với canh rau nấu muối hột, thỉnh thoảng có chút cá loại rẻ tiền hôi tanh khó ngửi. Có một lần bọn CS cho chúng tôi ăn hủ tiếu đã lâu ngày bị mốc meo nên hầu hết anh em tù đều bị kiết lỵ, một số người bị chết vì không có thuốc trị. Vấn đề vệ sinh rất là bẩn thỉu, tồi tệ. Nhưng chẳng thấy phái đoàn nào đến thăm chúng tôi. Tôi còn nhớ là vài tháng trước ngày 30 tháng 4, 1975, phái đoàn của Ni sư Huỳnh Liên đã gây khó dễ với Chính quyền Tổng Thống Thiệu là phải được vào thăm bọn Việt Công bị giam tại Suối Máu. Khi chúng tôi vào trại này, các nơi thờ phượng đều bị bọn man rợ đập phá, các tượng Phật, tượng Chúa đều gẫy nát, không khác nào bị bọn ma quỷ phá nhà chay. Mỗi buổi sáng chúng tôi cố phóng tầm mắt xa ra ngoài lộ xem có thấy bóng dáng vợ con mình lai vãng hay không cho thỏa lòng nhung nhớ! Vì CS đâu cho thăm nuôi. Tại Suối Máu tôi rất mừng gặp lại một đồng nghiệp sau cùng ở tỉnh Hậu Nghĩa là cựu Trung Tá Bùi Văn Ngô, một vị Quận trưởng lâu năm ở đây. Tôi đã được thuyên chuyển từ Dĩ An về Hậu Nghĩa hơn một năm rồi lại được trở về Dĩ An một tháng cuối cùng. Nhưng tôi cũng biết ông là một Quận trưởng có khả năng, luôn nghĩ đến Binh sĩ và hiền hòa dễ mến. Tôi xin hết lòng cám ơn ông Ngô đã tận tình giúp bạn bè lúc khổ nhọc vì mỗi chiều sau giờ cơm ông hay rủ tôi cùng đi tắm để ông xách nước giếng giùm tôi vì bàn tay mặt của tôi đã bị tàn phế do thương tích. Ông Ngô và gia đình đi diện HO, các con nay đã thành gia thất và thành công trên xứ người. Vợ chồng chúng tôi xin chúc mừng hai ông bà và các cháu. Tôi cũng không quên ơn Mũ Xanh Trung Tá Lê Văn Khánh ở tù chung trại 1 Yên Bái đã nhiều lần xách hộ tôi chiếc Valise đựng quần áo mỗi khi chuyển trại. Ông luôn giúp đỡ tôi vì chân tôi đi khập khểnh khó khăn. Nếu không có ông Khánh trợ giúp thì tôi có thể té nhào xuống sông bến Tân Cảng vì phải đi qua chiếc cầu rất nhỏ từ bến xuống tàu Sông Hương chở ra Bắc. Tôi còn nhớ có một người trong chuyến tàu này mang túi đồ nặng trĩu trên vai đã lọt xuống sông bị chìm mất dạng mà bọn bộ đội CS vẫn đứng trơ mắt nhìn không tiếp cứu. Nơi xứ này mỗi khi anh em có dịp gặp nhau là kể cho nhau nghe về đơn vị cũ, chiến trường xưa và cũng không bỏ qua chuyện tù Cộng Sản vô cùng nhục nhã khó quên. **Ðoạn đường xuôi Nam** Sau một năm bị giam cầm trong Nam và hai năm ở miền Bắc, bọn CS thả những người tù già yếu và bệnh tật trong đó có tôi mà bọn chúng thấy không còn lao động được nữa và bọn chúng nghĩ rằng có thả về nhà chúng tôi cũng sẽ chết thôi. Trước khi được thả về, bọn bộ đội CS ban Chỉ huy trại tù Yên Bái trả lại quần áo mà chúng tôi mang theo lúc trình diện để học tập “ba tháng” theo thông cáo. Tôi lấy bộ đồ mà tôi đã mặc đi trình diện ở Gò Vấp mặc thử xem ra sao. Khi vừa mặc chiếc quần tây vào thì cái quần bị tuột xuống tới chân làm cho tôi sững sờ vì không ngờ tôi ốm tới thế này, và mấy anh bạn tù cùng lán cười rộ lên khi nhìn thấy cái thân người khỏa thân của tôi nó teo nhách từ trên xuống dưới! Trong mấy năm tù có nhìn thân mình trong kiếng soi bao giờ mà biết được cái độ gầy ốm của thân người mình ra sao? mặt mày của mình như thế nào? Mấy năm đầu bọn Cộng Sản không cho gia đình thăm nuôi và tiếp tế lương thực nên anh em tù bị đói tả tơi, có người không chịu nổi cái đói đến kiệt sức mà chết! Những người mập mạp lại càng tiều tụy hơn chúng tôi nhiều và càng dễ chết do thiếu dinh dưỡng. Hôm ngày tập trung về Ðoàn để chuẩn bị trở về Nam, một cựu Ðại Úy LLÐB đến chào hỏi tôi mà tôi không thể nhìn ra ông ấy là ai. Ông ấy bèn nói rằng: Anh Năm (Colonel) không nhận ra em sao? Em là Ðại Úy M… mập đây. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ ra ông, vì ngày xưa ông rất mập và bụng to đến đổi khi ông ngồi lái xe Jeep là cái bụng bệ vệ và nặng nề của ông đụng tới cái Volant xe. Ông ta bèn giở áo lên cho tôi xem cái bụng của ông có nhiều miếng da xếp lại không khác nào cây đàn Accordéon. Gương mặt tròn trịa của ông năm xưa nay bị hóp lại trông thật não nề! Mọi người tù đều ốm yếu như nhau nên tôi cũng không nhận định được thân người của tôi nó gầy ròm như thế nào? Khi đến đón tôi được thả về tại cổng thành Ông Năm, Gò Vấp, vợ tôi chỉ nhìn ra tôi nhờ tôi chống gậy đi khập khễnh từ sau ngày tôi bị thương tại vùng giới tuyến vào cuối năm 1966, lúc tôi còn là Tiểu đoàn phó TÐ 3 Thủy Quân Lục Chiến. Toán đầu được thả ra là những Sĩ quan thuộc ngành chuyên môn như Hành chánh hay Kỹ thuật. Trong toán này có một anh Thiếu tá ngành Quân Nhu, khi vùa tới cổng trại anh nhìn thấy bà vợ đang ngơ ngác nhìn tám người tù đi ra mà không nhận dạng được chồng bà. Anh ấy bèn lên tiếng: Em! anh là T… đây. Bà vợ nhìn chồng quá tiều tụy và xúc động đến ngã quỵ. Anh Thiếu Tá cũng khóc sụt sùi nức nở nên bị giữ lại cho trở vào trại để lên lớp cùng với chúng tôi đang mong chờ đợi phiên về kế tiếp. Tên quản giáo nói rằng: “Đảng và nhà nước với chánh sách khoan hồng đã nuôi các anh ăn học rất chu đáo để trở thành công dân tốt, chứ nhà nước đâu có hành hạ mấy anh đâu mà tại sao các anh lại tủi thân mà khóc với vợ con?”. Tôi bực mình và nói thầm: “Chúng tao đâu có chém trâu đốt nhà như loài Cộng sản chúng mầy mà được bọn bây giáo dục để trở thành công dân tốt?” Nghe mấy câu nói nhàm tai này tôi càng tức sôi gan và tôi nghĩ rằng chắc quý vị cũng rất bực mình nghe tôi kể lại câu chuyện này. Bọn Cộng sản thả những người trong nhóm chúng tôi làm năm đợt, mỗi đợt tám người và cách nhau mỗi đợt một tuần lễ. Cứ sáng ngày Thứ Năm trong tuần là anh em tù hồi họp chờ đợi tên cán ngố đến gọi tên mình và dẫn ra cổng trại. Sống với bọn này lúc nào cũng hoang mang và đầu óc luôn luôn bị căng thẳng! Một cựu Trung Tá Phòng Nhì, lúc bấy giờ đã bảy mươi hai tuổi còn bị giữ lại với tôi sau khi toán cuối cùng đã được về hai tuần qua rồi. Ðiều này làm cho ông và tôi rất đắn đo vì tên thủ trưởng trại chẳng cho biết lý do tại sao? mà chúng tôi cũng chẳng dám hỏi. Ông ấy tự suy đoán và nói với tôi rằng: Có lẽ tôi là Nhân viên phòng Nhì còn cậu làm Quận trưởng lâu năm, chắc chúng mình thuộc thành phần “ác ôn” (Đây là danh từ của bọn Cộng sản gán ghép cho những người của chế độ miền Nam). Thật là nhức đầu với lối khủng bố tinh thần của lũ Cộng sản. Về đến nhà tôi nhìn vào kiếng thấy người tôi chỉ còn da bọc xương, hai xương vai nhô ra, đưa bộ ngực Oméga sâu hõm, mặt mày xanh xao như tàu là chuối trông giống như người mắc bịnh Aids Disease mà bên Việt Nam gọi là bịnh Sida. Ðứa con trai út của tôi tám tuổi hỏi mẹ nó sao ba bây giờ không giống ba mấy năm trước vậy? Tôi buồn muốn rơi nước mắt vì tủi thân và nghĩ rằng không biết tôi có thể khỏe mạnh lại như xưa không? Khi đi trình diện tôi cân nặng 65 ký, bây giờ chỉ còn 40 ký. Tôi không biết rằng có được hồi phục sức khỏe để nuôi bản thân tôi và lo cho gia đình nổi không? Vì biết rằng tôi phải lao động cày cuốc theo chánh sách của bọn chúng (CS) khi được thả về với gia đình. Lần này chúng tôi được chở về Nam bằng xe lửa từ Yên Bái đến Vinh, rồi từ Vinh đi bằng xe đò trong Nam ra đón chở thẳng về thành ông Năm, quận Hóc Môn. Tôi cũng xin nói rõ thêm là trên đoạn đường về Nam anh em chúng tôi được chuyên chở trong điều kiện thoải mái, không phải như lần ra Bắc bọn Cộng Sản nhốt chúng tôi dưới hầm tàu Sông Hương rất khổ sở từ bến Tân cảng Saigon ra Vinh rồi từ Vinh ra Yên Bái lại tiếp tục bị nhốt trong những toa sắt chở hàng hóa như súc vật. Trên đoạn đường từ phía Nam cầu Hiền Lương ngay vĩ tuyến 17, về tới Saigon, tôi được nhìn thấy lại những phong cảnh và địa danh mà đơn vị TQLC chúng tôi đã hành quân qua trong những năm chinh chiến và không khỏi ngậm ngùi khi thấy và nhớ lại những mặt trận chạy dài theo Quốc lộ số 1 mà anh em Chiến sĩ cùng tôi đã một thời tung hoành, oanh liệt và đã cùng sống chết bên nhau trong các trận đánh đẫm máu với quân Cộng Sản Bắc Việt. Lúc bấy giờ tôi thật xúc động và buồn lắm! Còn một điều nữa làm cho tôi rất buồn và luyến tiếc là quê hương mình rất đẹp mà để quân Cộng sản vào gây chiến tranh tàn khốc và gây biết bao cảnh đổ nát điêu tàn, biết bao gia đình phải điêu linh! Ðến thành phố Huế, hai “bộ đội” cho chúng tôi xuống xe để ăn trưa. Ðồng bào hay tin tù cảo tạo được về Nam từ các trại tù miền Bắc đã đổ xô tới bao vây chúng tôi. Các bà cụ già và các phụ nữ nhìn thấy chúng tôi mặt mày xanh xao hốc hác, bơ phờ và ốm gầy nên động lòng khóc nức nở. Chúng tôi bị cấm không cho tiếp xúc với đồng bào, nhưng khi nhìn qua ánh mắt của mấy bà tôi hiểu là các bà rất thương cảm chúng tôi và họ hình dung bóng dáng chồng con hay anh em của họ cũng tiêu điều như chúng tôi vậy, nên họ mủi lòng không cầm được nước mắt. Có một bà cụ chửi khe khẽ rằng: “Ðồ quân khốn nạn! Chúng bay đày đọa mấy người cải tạo ra nông nỗi này!” Một điều làm cho tôi luyến tiếc là phố Huế ngày xưa thanh bình thơ mộng, nay sao tôi thấy tiêu điều buồn tênh! Có lẽ phố Huế cũng buồn theo vận nước? Anh em chúng tôi chia ra từng toán vào các quán ăn cạnh nhau trên một đường phố. Các người chủ quán đều không tính tiền và còn cho uống Beer và nước ngọt thật ngon lành vì mấy năm nay đâu được có những thứ này. Ngồi trên xe đò đi tiếp về Saigon, chúng tôi nghe các anh lơ và tài xế chửi xỏ chửi móc chế độ Cộng sản thậm tệ bất cần hai “bộ đội” đi theo chúng tôi. Nhưng lúc ấy tinh thần chúng tôi bị sa sút sau mấy năm trong tù luôn bị đe dọa, bị khủng bố và hoang mang thành ra nhút nhát nên nghe họ chửi rủa anh em chúng tôi cũng ngại lắm. Một anh bạn tù cắt ngang những lời trách oán của anh lơ xe và hỏi anh lơ rằng: “Lúc này nước nhà được giải phóng và được thống nhất chắc là đồng bào mình có cuộc sống ấm no lắm phải không?” Tôi nghĩ là anh bạn tù này muốn hỏi để cho anh lơ ấy không chửi nữa vì sợ ảnh hưởng không tốt cho anh ta, chứ chúng tôi cũng biết dân miền Bắc khổ và đói rách lắm dưới sự cai trị của bọn bạo tàn cộng sản đã mấy mươi năm qua, làm gì mà dân Nam có được sung sướng? Nhưng anh lơ lại nói thêm: “Giải phóng cái con mẹ gì, giải phóng là phỏng… đó mấy ông ơi! Dân khổ chết cha đi mấy ông, muốn mua gạo ăn phải trình hộ khẩu và đăng ký, mua thứ gì cũng không có để mà xài, vật giá leo thang và đồng tiền rẻ mạt vì bị mất giá.” Xe đò chở chúng tôi đi qua Thành phố Sài Gòn đến Gò Vấp rồi từ từ vào thành Ông Năm là trại giam Sĩ quan cấp Úy. Tôi rất ngậm ngùi khi thấy quang cảnh điêu tàn và buồn tẻ, các cửa hàng khang trang của Sài Gòn năm xưa đều đóng. Thủ đô Sài Gòn ngày nay không phải như trước năm 1975 mà lúc xưa được gọi là hòn ngọc Viễn Ðông. Lòng mãi u buồn nhớ Sài Gòn. Tên ấy không còn với nước non. Sài Gòn mất tên trong sử sách. Giặc Cộng vào bôi dấu bia son. Sài Gòn trải qua cơn hỗn loạn. Tự do, hạnh phúc cũng chẳng còn. Hòn ngọc Viễn Ðông nay tan biến. Lòng mãi u buồn tiếc Sài Gòn. MC Khi chúng tôi vừa mới tới thành Ông Năm, tên “thủ trưởng” trại chịu trách nhiệm toán chúng tôi nói rằng: “Các anh học tập tốt được Cách mạng cho về đây ăn học tiếp.” Tôi nói thầm: Tốt chỗ nào? Lao động khổ sai đói rét muốn bỏ mạng mà gọi là học tập, bọn chúng mầy lúc nào cũng nói láo. Ðầu óc chúng tôi rất hoang mang không biết còn phải ở tù thêm bao lâu nữa? Hay lại chuyện gì sẽ xảy ra đây? trong khi tên trưởng trại tù Yên Bái đã nói rằng chúng tôi được về sớm vì lý do già yếu, bịnh nặng gần chết và tàn phế, v.v… Thật là chánh sách của Đảng dạy bọn chúng mầy là nói láo, nói láo từ trên xuống dưới và nói láo từ nơi này đến nơi khác. Trước khi chúng tôi được về có anh Trung Tá H… tùy viên quân sự của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại nước ngoài và một số tù cải tạo ở chung trại số 1 Yên Bái với tôi được chúng bảo chuẩn bị hành trang để được thả về. Nhưng một thời gian sau đó anh em đi vào rừng gặp lại anh H…đang lao động với anh em của trại khác. Một anh tù đã hỏi rằng: Sao anh H…còn ở đây? Chưa về với gia đình sao? Anh H…khe khẽ chửi thề: “Ðồ bọn nói láo, mấy anh đừng có tin chúng nó.” Nhớ lại câu chuyện này tôi càng hoang mang lắm mặc dù đã về trong Nam rồi, nhưng tôi nghĩ rằng dù sao đi nữa về đây ở tù thêm cũng được gần gia đình và khí hậu ấm áp hơn. **Nỗi lo âu và tinh thần bị khủng hoảng khi về với gia đình.** Về nhà mừng vui được sum hợp gia đình nhưng không khí rất là ngộp thở vì những tên Công an Khu vực tới nhà xét bất cứ lúc nào. Lúc bấy giờ những tù cải tạo khi được thả về gia đình phải trình diện mỗi tuần hoặc hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy ý của bọn công an địa phương. Vợ tôi phải đi báo cáo ngay cho công an khu vực khi vừa về tới nhà. Ngày hôm sau tôi phải trình diện đồn quân trấn Thủ Ðức và sau đó mỗi tuần một lần. Tôi nghe nói tên công an trưởng đồn quân trấn lúc trước là anh thợ vá vỏ xe đạp tại chợ Thủ Ðức. Tôi không bao giờ có ý chê bai hay khi dễ những người ít học. Tôi rất thông cảm hoàn cảnh sống nghèo khổ của mỗi người. Nhưng tôi rất bực mình thái độ đã vô học lại còn vô giáo dục với bản chất hèn hạ và nhỏ mọn của quân Cộng sản như lũ chém trâu đốt nhà và ăn hại đồng bào. Mỗi lần tôi trình diện, tên này luôn luôn có cái bản mặt mày hằn học với tôi lắm, vì theo giấy ra trại hắn biết tôi trước năm 1975 là Quận trưởng Dĩ An, Biên Hòa và quận Ðức Hòa, Hậu Nghĩa. Còn tên Công an Khu vực cứ mỗi ngày đến kiểm soát tôi và hắn ta nói rằng: “Tôi tới thăm anh Châu khỏe không? và tiến bộ ra sao sau khi Cách mạng nuôi ăn học một thời gian”. Tôi tức căm hờn với những câu nói này vì bị bọn Cộng sản chúng nó đày đọa gần chết mà nói ăn học cái gì? Chúng tôi đã nhiều lần nghe những lời nói y rập một khuôn của bè lũ này từ lúc vào Long Giao đến trại Suối Máu rồi ra Yên Bái. Tên Công an Khu vực thường đến nhà đúng lúc vợ tôi đi chợ về là hắn lục lạo vào giỏ đi chợ xem vợ tôi đã mua thứ gì để theo dõi hằng ngày mình ăn món gì, nhưng hắn nói trớ là xem vợ tôi “có mua đủ thức ăn cho tôi bồi dưỡng không”, theo ngôn ngữ của bọn Cộng sản. Trong thời gian tôi làm việc tại quận Dĩ An, anh em Chiến sĩ Địa phương chúng tôi đã không ngại gian khổ hành quân ngày đêm nên tiêu diệt gần hết thành phần hạ từng cơ sở trong Quận. Vài tên còn lại phải bỏ vùng hoạt động và ẩn náu giũa hai liên ranh Dĩ An và Tân Uyên. Cho nên sau hai tháng được miền Bắc thả về, bọn Việt Cộng địa phương đến bắt tôi lại để trả thù, nhưng chúng nói là tôi được Công an tỉnh Sông Bé và Biên Hòa mời tôi lên đó làm việc với chúng trong 10 ngày. Chúng nó cho tôi mười phút chuẩn bị đồ đạc và thuốc men đủ dùng trong hai tuần lễ. Nhìn mặt chúng lộ vẻ đằng đằng sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi để trả thù hay sẽ làm nhục tôi trước dân chúng tại quận Dĩ An nơi tôi làm việc trước kia, cũng như chúng đã bắt vài Sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy chi khu của tôi đi quét đường và làm vệ sinh quanh khu phố. Tôi quyết định dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn chúng làm nhục trước công chúng. Tôi đoán chắc rằng bọn nó sẽ giết tôi và vùi xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Tôi bèn mở tủ thuốc lấy một ống Optalidon mang vào phòng tắm vì không muốn cho hai con gái lớn của tôi thấy và uống gần hết ống thuốc. Sau đó vài phút tôi bắt đầu xây xẩm mặt mày và biết chắc chắn rằng tôi sẽ chết. Không còn sợ chi nữa và rất bực tức, tôi trở ra phòng trước chửi bọn chúng dữ dội và nói rằng chánh sách của bọn chúng bây là nói láo, đừng hòng mà bắt tao lại để trả thù. Ngay lúc đó vợ tôi đi vắng nhà vừa về và tôi chỉ còn nói được ú ớ vài tiếng rồi ngã vào vòng tay của vợ tôi và ngất lịm luôn. Sau khi tỉnh lại, được vợ tôi thuật rằng chúng muốn chở tôi đến Bệnh viện Sông Bé để bọn chúng lo. Vợ tôi đoán rằng bọn Cộng sản sẽ giết tôi nên nhứt quyết không cho chúng chở đi. Trước sự giằng co dữ dội của vợ con tôi cùng sự chứng kiến của người cùng xóm, bọn Việt Cộng đành để vợ con tôi đem tôi ra xe chở vào Bệnh viện Nguyễn Văn Học và đuổi theo chúng tôi sau đó. Tôi đã may mắn được người cháu là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Tùng đang là BS trực tận tình cứu tôi trong khi đó tên “BS” Cộng sản Trưởng khu cấp cứu nói rằng: Anh này đã chết rồi, anh Tùng không cần chạy chữa nữa. Tên “BS” Việt Cộng ra lịnh cho y tá rút ống dưỡng khí ra, nhưng vợ tôi và BS Tùng mạnh dạn kháng cự lại. Thật rõ ràng là bọn chúng muốn giết tôi chết. Tên này và bè lũ quả thật dã man, tàn ác. Trong thời gian này vợ tôi vất vả vô cùng vì sợ chúng giết tôi nên mỗi đêm phải nằm túc trực tại hành lang phòng hồi sinh để theo dõi và canh chừng tôi. Sau ba ngày đêm nằm nơi phòng hồi sinh tôi tỉnh lại và tìm mọi lý do nằm thêm môt hai tuần nữa vì còn yếu sức để nghĩ ra mưu kế trốn thoát khỏi Bệnh viện vì vợ chồng chúng tôi được bà BS M…và cô Y tá A…, bạn học cũ Gia Long với vợ tôi, đã mật báo cho vợ tôi biết là mỗi buổi sáng khi bàn giao phiên trực, tên “BS thủ trưởng” đều lưu ý tất cả Nhân viên là hãy coi chừng và theo dõi một tên Trung Tá ngụy đang nằm chữa bệnh. Tôi đã biết là chúng nó sẽ bắt tôi tại bệnh viện. Lúc bấy giờ tôi cũng được hay tin có một số Sĩ quan về cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại, không biết số phận của các ông ấy đã ra sao? **Những phút giây hồi hộp.** Vào một buổi sáng bà BS M… mật báo cho vợ tôi biết là tên “thủ trưởng sẽ ra lịnh cho tôi xuất viện lúc 4 giờ chiều ngày mai”. Vợ chồng chúng tôi hiểu ngay là bọn chúng sắp đặt âm mưu để bắt tôi lại khi tôi ra khỏi cửa nhà thương. Vợ chồng chúng tôi quyết định phải trốn khỏi bịnh viện vào lúc sáng sớm ngày hôm sau. Thấy tình hình nguy kịch, chị cả của tôi là một Soeur của nhà dòng Vinh Sơn và cũng là Y tá trưởng của Khoa Nhi Ðồng đang làm việc tại đây đã cùng vợ tôi đến gặp vị Linh mục của nhà thờ nằm ngay phía sau của Bệnh viện Nguyễn Văn Học để cầu cứu. Chị tôi kể sự việc của tôi đã xảy ra cho Linh mục nghe và nói rằng: “Bọn Việt cộng sẽ bắt em tôi lại tại Bệnh viện này vào chiều ngày mai, vậy nhờ Cha cho chúng con dẫn em con đi qua cửa sau để tẩu thoát, nếu không sẽ nguy cho tánh mạng của em con lắm.” Linh mục được biết hoàn cảnh nguy hiểm của tôi liền chấp nhận và nói rằng: Sáng mai từ lúc 5 giờ Cha sẽ chờ và sẵn sàng mở cửa sau khi các con tới. Chị tôi nay đã trên tám mươi và đã về hưu, còn vị Linh mục đã cứu giúp tôi không rõ còn sống hay không? Lúc bấy giờ tôi còn quá yếu, mặc dù bà chị và vợ tôi dìu hai bên giúp tôi đi cho nhanh, nhưng tôi lê lết từ bước chân đi âm thầm, chậm rãi và thật hồi họp dưới ánh đèn lờ mờ vào khoảng gần 5 giờ sáng, lúc bệnh nhân còn ngủ nên không ai hay biết. Vừa đến cửa sau thì linh mục nhanh tay mở cửa ngay cho chúng tôi đi qua. Sau khi chúng tôi vào phòng khách của nhà dòng vợ tôi lập tức gọi xe Taxi chở thẳng về nhà ông bà ngoại của mấy cháu tại Chợ Lớn. Thế là một lần nữa tôi được thoát khỏi gông cùm Cộng sản trong gang tấc. Tôi không quên ơn cháu BS Tùng hiện đang hành nghề tại thành phố Winnibeg, Canada, đã cứu sống tôi. Cám ơn bà BS M… và bà Y tá A… đã mật báo cho vợ chồng tôi biết trước những âm mưu của Cộng sản trong lúc tôi đang nằm điều trị. Những ơn nghĩa lớn lao này chúng tôi còn mang mãi trong lòng đến trọn đời. Vừa về tới nhà cha mẹ vợ ở đường Trần Hoàng Quân thì cháu gái lớn của chúng tôi xuống nhà báo cho biết là bọn Công an đồn Quân trấn Thủ Ðức đến bao vây và xét nhà để tìm tôi. Bọn chúng hỏi cháu rằng tôi đã ra khỏi bệnh viện rồi, bây giờ ở đâu? Cháu đã được vợ tôi căn dặn trước là tôi sẽ trốn ra khỏi nhà thương nên cháu trả lời là không hay biết gì, vì hai tuần nay phải ở nhà trông nom các em nhỏ. Tên công an trưởng ra lịnh cho con tôi là sáng ngày hôm sau phải ra trình diện đồn Quân trấn Thủ Ðức. Chúng tôi dư biết rằng bọn man rợ sẽ bắt giam con gái tôi để điều tra nên chúng tôi bảo sáu đứa nhỏ phải lén trốn khỏi nhà ở Thủ Ðức mà về ẩn náu tạm nơi nhà bà chị tôi ở Gia Ðịnh. Con gái lớn chúng tôi lúc đó mới được mười bốn tuổi cùng một cháu gái con của cựu Trung Tá Tiểng, Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, ở Cư xá Kiết Thiết giúp đỡ phải dẫn dắt năm em nhỏ âm thầm chạy trốn trong lúc trời còn mờ sương chưa sáng. Sau đó vợ tôi đưa mấy cháu về Chợ Lớn sống nhờ với ông bà ngoại để vợ tôi rảnh tay mà đối phó với tình hình vô cùng nguy hiểm của tôi. Chú Thím Châu còn nhớ ơn của cháu Trang đã không ngại nguy hiểm để lo cho mấy em được an toàn. Tôi ngẫm nghĩ lại chế độ Tự do của miền Nam chúng ta quá rộng lượng và quảng đại. Trong thời gian tôi làm Quận trưởng, từ cơ quan Chính quyền đến Quân đội, anh em chúng tôi không bao giờ khuấy nhiễu hay hành hạ thể xác hoặc tinh thần của gia đình bọn Việt Cộng địa phương đang nằm trong lòng bàn tay quyền lực của chúng tôi. Nếu thế cờ Quốc tế đảo ngược lại, miền Nam thắng và chế độ Cộng sản sụp đổ, chúng ta sẽ đối xử chúng với khí thế quân tử của đại trượng phu. Miền Bắc sẽ không phải là một trại tù khổng lồ như miền Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Bọn Cộng sản chúng nó thật là quân hèn hạ và vô liêm sỉ! Tôi còn nhớ trong thời gian tôi làm Quận trưởng Dĩ An, có một bà vợ bé của tên Tướng Việt Cộng Ðào Sơn Tây được chúng tôi để sống rất bình yên trước Bộ Chỉ Huy Quận của chúng tôi. Tướng VC Ðào Sơn Tây này trước kia là Công nhân của sở Hỏa xa tại Dĩ An hồi thời Pháp thuộc. Những ngày tháng buồn não nề trên gác trọ. Sau khi trốn ra khỏi nhà thương, tôi tuyệt đối không tiếp xúc với bất cứ ai ngoài vợ tôi. Mỗi chiều tối vợ tôi phải lén lúc đến nơi tôi sống ẩn dật để tiếp tế. Trong người tôi chỉ có tờ giấy ra trại và giấy chứng nhận trình diện của đồn công an Thủ Ðức mà nay đã vô dụng rồi. Tôi phải dùng tờ giấy Chứng cử tri của em trai kế tôi. Nhờ trên hình của tờ giấy rất thô sơ không có đóng mộc, thành thử tôi chỉ thay tấm hình của tôi vào mà xài mỗi khi di chuyển hay đổi chỗ ở. Mỗi lần đi vượt biên cũng xài giấy Công nhân giả do bạn tôi chứng nhận tôi đi công tác sửa chữa máy đèn. Bây giờ nhớ lại cũng buồn cười là tôi chẳng có biết chút kinh nghiệm gì về việc sửa chữa máy đèn hay máy phát điện. Nhưng cũng nhờ bọn Công an ngu ngốc không biết hạch hỏi tôi hoặc là nếu chúng nó nhờ tôi sửa máy đèn thì tôi chẳng biết gì và sẽ bi lộ tẩy ngay là tôi xài giấy tờ giả mạo. Trong hoàn cảnh tôi là tù vượt ngục ai cũng rất ngại ngùng sợ bị mang họa cho gia đình họ nếu tôi bị phát giác và bị chúng nó bắt lại. Sau hơn sáu tháng sống rày đây mai đó rồi tôi cũng liều mạng cứ trụ lại một chỗ tương đối kín đáo tại cư xá Lữ gia, Phú Thọ. Người chủ nhà là một Sĩ quan cấp bực Chuẩn úy bà con dám chứa chấp tôi ở luôn. Nhưng mỗi khi nghe tin Công an sẽ xét nhà tôi lập tức dời đi nơi khác. Có một lần ông chủ nhà toa rập với bọn Việt Cộng giữ kho sơn tẩu tán một số sơn bột của Mỹ và cất giấu trong nhà ông ta. Ðã nghèo lại mắc cái eo, nhận thấy tình hình nguy hiểm quá tôi phải dời đi nơi khác một thời gian vì sợ vụ buôn lậu bị bại lộ thì tôi cũng lộ mặt luôn. Tôi sống âm thầm cô đơn trên từng gác trọ thật không khác nào kiếp sống tù, nhưng dù sao tôi cũng được no ấm hơn anh em còn kẹt lại trong các trại tù ngoài Yên Bái. Lúc bấy giờ tinh thần tôi bị khủng hoảng trầm trọng vì sợ bọn Cộng sản tìm ra tôi và bắt lại là đời tàn. Cứ vài ba tháng tôi lén lút về thăm các con đang sống nhờ nơi nhà ông bà ngoại mấy cháu. Có một đêm nhằm lúc tôi về, tên Công an Khu vực đến xét hộ khẩu, tôi phải thoát ra cửa sau ẩn trốn cạnh chuồng gà. Ôi! thật là nhục nhã cho cuộc đời lính bại trận. Trong thời gian đó vợ tôi luôn tìm đường dẫn tôi vượt biển để bảo toàn tánh mạng. Trong hoàn cảnh trốn chui trốn nhủi tôi bắt buộc phải vượt biển đơn thân độc mã đi trước. Thật là đau đớn không khác nào ra đi mà bứt tim gan để lại vì không biết đến bao giờ mới gặp lại vợ con? Nhưng tôi quyết phải ra đi để tìm con đường sống rồi sẽ tính tới việc gia đình sau. Mối căm thù này không phải chỉ của riêng tôi mà cũng là của biết bao nhiêu Chiến sĩ đồng đội của tôi trong cùng một hoàn cảnh. Tôi không bao giờ quên mối hận này được, cho nên mặc dù qua Mỹ đã lâu rồi và tôi rất thương nhớ Quê hương, nhớ vài anh chị em ruột thịt còn kẹt lại bên quê nhà, nhưng tôi thật sự không muốn trở về lúc này để nhìn thấy lại mặt mày bọn man ri, mọi rợ và tôi cũng không muốn thấy lá cờ máu hôi tanh của bọn chúng! Xuân, Hạ, Thu, Ðông, đã mấy lần? Sống kiếp lưu vong, buồn quốc hận! Mong ngày nào trở về quê cũ. Nước thanh bình, thỏa thích vui Xuân!? (Trích bài thơ bốn Mùa Trên Quê Hương – N.M.Châu ) o0o Sau hai lần ra Nha Trang mà chuyến đi không thành phải trở về. Lần thứ ba có chuyến vượt biển từ Cà Mau nhưng bị đình hoãn. Vợ chồng chúng tôi rất khổ sở vì chuyến đi bị đình hoãn nhiều ngày rồi lại bỏ cuộc, nên trong hai tuần lễ ăn ở chờ đợi đã hết tiền. Vợ tôi phải bán mấy bộ đồ chúng tôi mang theo để sống qua ngày, đến cuối cùng không còn gì để bán ngoài bộ đồ đang mặc. Thật là thất vọng vô cùng! vì chẳng quen biết ai nơi đây mà xin xỏ hay vay mượn tiền, và lúc này cuộc sống của mọi nhà đều rất khó khăn. Tôi nói đùa với vợ tôi rằng: không lẽ chúng mình bán hết cả bộ đồ đang mặc và mặc đồ tắm biển mà trở về Sàigòn hay sao? Chúng tôi chỉ còn đủ tiền đi quá giang xe chở gạo đến nhà thờ Phụng Hiệp, Cần Thơ, để xin tiền bà chị tôi lúc đó đã đổi về làm bà Nhứt tại một nhà dòng tu nhỏ nơi đây để xin tiền mới có đủ mà mua vé xe chợ đen về đến Saigon. Thật là khốn cùng! Cứ mỗi lần đi không được tôi quá thất vọng và chán nản vì phải tiếp tục cuộc sống âm thầm lén lút trên gác trọ với bao nỗi lo âu! Muốn tìm mảnh đất Tự do để dung thân không phải là dễ dàng. Hai chữ “Tự Do” thật là quí giá vô cùng! Vấn đề di chuyển vào những năm đó rất khó khăn vì xe đò bị kiểm soát và rất hạn chế. Trong những lần đi tìm đường vượt biển vợ chồng chúng tôi ngủ bến xe rất thường cũng như bao nhiêu hành khách phải nằm bến xe để dành ưu tiên “Đăng ký” mua vé, nếu chậm trễ là hết. Muốn di chuyển từ Saigon ra Nha Trang hay từ Sàigòn xuống tỉnh cũng phải vất vả như thế. Có những khi chúng tôi phải ngủ bờ ruộng hay ngủ gò mã vì không dám vào khách sạn dễ bị bọn Công an chú ý. Tôi đã quen những cảnh ngủ bờ ngủ bụi gian khổ như thế này trong những năm chinh chiến, nhưng trong cái thế hào hùng của người của người lính trận đi hành quân diệt giặc. Bây giờ trong hoàn cảnh của một kẻ tù vượt ngục và vượt biển thật là nhục nhã ê chề. Tôi thật thương vợ tôi vô cùng, tội nghiệp và xót xa cho vợ tôi phải chịu cảnh vất vả, đắng cay như thế này! Cuối cùng tôi đi được an toàn đến bờ biển Thái Lan trên một chiếc thuyền con chỉ dài hơn chín thước. Sau khi được tin tức của tôi từ đất Thái, vợ tôi đã yên tâm và rãnh tay tự một mình hướng dẫn và lèo lái chiếc ghe nhỏ dẫn dắt sáu đứa con thơ đến bờ biển Mã Lai bình yên vô sự. Thật là một ơn phước lớn của Thượng đế đã ban cho gia đình chúng tôi! Thế là từ đây một thời hoạn nạn khốn khổ của gia đình đã qua. Chúng tôi cũng nghĩ rằng mưu sự tại nhân và thành sự tại Thiên. Chúng tôi rất mang ơn Thượng đế đã giúp gia đình chúng tôi được sớm đoàn tựu và đã ổn định cuộc sống nơi xứ người. Nhưng ngày nay lại rủi thay! với hoàn cảnh hiện tại tôi không hiểu rằng khi đất nước thật sự được Thanh bình và tự do dân chủ tôi có thể trở về lại quê nhà được không?! Tôi xin ghi vài dòng thơ đơn giản nói lên một ước mơ ngày về thăm quê hương. Nếu Tôi Về… Nếu về, tôi xuống miền quê Cao Lãnh. Viếng mồ cha mả mẹ ngủ thiên thu. Ði trên đường đê, tìm ngôi trường cũ. Thăm lớp học vỡ lòng thời thơ ấu. Nếu về, tôi thăm Trà Vinh yêu dấu. Nhớ lại một thời thiếu niên lận đận. Sống đời côi cút, sống cảnh cơ bần. Lao động, học hành, mong được tiến thân. Nếu về, tôi thăm Gia định, người thân. Tạ ơn anh, nuôi tôi sống an lành, Nhớ chị, thay mẹ dạy dỗ thành danh. Có một hành trang cho đời khôn lớn. Nếu về, tôi thăm đồi Tăng Nhơn Phú. Nơi đây được rèn binh thư, võ luyện. Giúp tôi trở thành một người lính chiến. Giữ yên bờ cõi, giữ vững giang san. Nếu về, thăm vùng chinh chiến gian nan. Tìm lại vết tích một thời oanh liệt. Tìm kỷ niệm vui buồn đời lính chiến. Và nhìn lại những danh lam thắng cảnh. Nếu về, tôi đến Dĩ An đất lành. Thăm các Chiến sĩ địa phương anh dũng. Ðã cùng tôi diệt Cộng phỉ nằm vùng. Gặp đồng bào, thăm xóm làng thân ái. Nếu về, tôi sẽ lên miền Yên Bái. Thăm bạn tù nằm giữa núi hoang vu. Nơi bọn dã thú đày ải người tù. Chỉ vì cái tội giúp dân cứu nước. Nếu về, tôi đến Nghĩa Trang Quân Ðội. Tìm lại hình bóng Pho Tượng Tiếc Thương. Thăm những đồng đội gục ngã chiến trường. Tưởng niệm anh hùng bỏ mình vì nước. Những điều tôi muốn chỉ là mộng ước. Vết đạn thù làm đời tôi nghiệt ngã. Xe lăn bánh mỏi mòn trên đất lạ. Chỉ mong ngày về trong đống tro tàn! Nguyễn Minh Châu
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 11:13:23 GMT 9
Người Hùng Lê Anh Tuấn và Mặt Trận Tuyên Nhơn
Điệp Mỹ Linh Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 – dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ – đóng cạnh Chi-Khu Tuyên-Nhơn, gồm có hai đơn vị sau đây: Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn. Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá T.M.H. Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 chịu trách nhiệm những vùng sông rạch thuộc tỉnh Kiến-Tường (Mộc-Hóa) và Định-Tường. Là một chướng ngại đáng kể đối với những đơn vị cộng sản Việt Nam (csVN) lâm le muốn đưa quân vào Long-An bằng đường thủy, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 luôn luôn sẵn sàng chấp nhận những trận thư hùng đẩm máu. Trong tất cả những trận đụng độ, phải kể đến những cuộc tấn công quy mô do Trung-Đoàn E1 của csVN tấn công vào Tuyên-Nhơn vào cuối năm 1974. Đêm 6 tháng 12 năm 1974, csVN tấn công dữ dội/dai dẳng/điên cuồng, chiếm được chợ Tuyên-Nhơn và nhiều đồn. Nhưng csVN cũng vẫn không thể xâm nhập vòng đai đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn; vì Chi-Khu đóng cạnh Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân. Thời điểm này, Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ và Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám đều về Đồng-Tâm hội. Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo, phải túc trực tại Bộ-Chỉ-Huy Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh để điều hợp hành quân. Chỉ còn Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn – Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận – là sĩ quan thâm niên hiện diện tại đơn vị. Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn sinh ngày 12 tháng 12 năm 1943; xuất thân trường trung học Chu-Văn-An. Ông học hết năm thứ ba Đại-Học Luật-Khoa thì gia nhập khóa 14 sĩ-quan Hải-Quân Nha-Trang. Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn Là người em út của một vị Tướng đầy uy quyền – Trung Tướng Lê Nguyên Khang – nhưng Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn không xin phục vụ tại những đơn vị ít nguy hiểm mà Ông lại tình nguyện về các đơn vị tác chiến. Đơn vị cuối cùng do Ông chỉ huy là Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, đóng tại Tuyên-Nhơn Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn điều động và chỉ huy phản công. CsVN rút lui, bỏ lại hơn 20 xác! Đêm 7 tháng 12 năm 1974, để rửa hận, csVN lại tấn công tàn bạo hơn, quyết dứt điểm Hải-Quân để tiến chiếm Chi-Khu Tuyên-Nhơn; nhưng vẫn bị Hải-Quân chống trả mãnh liệt. CsVN lại rút lui, bỏ lại 11 xác! Sau đó, biết không thể dứt nổi Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, csVN vẫn cố giữ những địa điểm đã chiếm; đồng thời pháo kích dai dẳng vào đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn. Không-Quân Việt-Nam được điều động đến yểm trợ và Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh cũng tham chiến, chận đường tiến quân của địch. Ngày 11 tháng 12 năm 1974, trên đường viện binh, một Chinook chở một đại đội Trinh-Sát thuộc Sư-Đoàn 9 bị csVN dùng SA7 bắn hạ. Rất nhiều thương vong! Kể từ thời điểm này cho đến tháng 3 năm 1975, đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn luôn luôn bị áp lực của địch rất nặng nề. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, csVN lại tấn công hết sức quy mô và tàn bạo vào Chi-Khu Tuyên-Nhơn. Hải-Quân và quân bạn chống trả rất mãnh liệt. Cuối cùng, csVN phải rút lui, để lại trận địa khoảng 200 xác! Vũ khí của địch bị tịch thu phải chuyển vận bằng GMC. Sau chiến thắng tại Tuyên-Nhơn, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn được đề nghị thăng Trung-Tá tại mặt trận. Ngày 23 tháng 4, Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn về Saigon họp. Khi trở lại đơn vị, trên đường từ Cai-Lậy vào Mộc-Hóa để vào Tuyên-Nhơn, Thiếu-Tá Tuấn xử dụng GMC và bị csVN pháo kích liên tục. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc truyền tin với người bạn cùng khóa – Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận – xin tiếp viện. Nhưng ăng-ten bị gãy, cuộc điện đàm đứt đoạn. Tối 24 tháng 4 Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn về đến Tuyên-Nhơn. Ngày 26 tháng 4, csVN dốc toàn lực tấn công Tuyên-Nhơn. Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 đi phép. Lực-Lượng Hải-Quân tại Tuyên-Nhơn bị pháo kích nặng nề. Tất cả hệ thống truyền tin bị hư hại. Thiếu-Tá Tuấn cố gắng liên lạc với Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cho Thiếu-Tá Tuấn biết rằng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cũng đang bị địch pháo kích dữ dội. Và, với giọng thất vọng, Ông nói với Thiếu-Tá Tuấn: -Thôi, mày báo cáo chi nữa. Hai đứa mình chịu trận cho đến chết thôi! Cuộc điện đàm vừa đến đó, bỗng, một tiếng nổ lớn, mọi tần số liên lạc truyền tin đều bất khiển dụng. Cùng lúc đó, csVN đứng thẳng người, vừa tràn vào phòng tuyến của quân Việt-Nam Cộng-Hòa (VNCH) vừa bắn chứ không còn ẩn núp nữa! Tuy trận chiến khốc liệt như vậy, nhưng Tuyên-Nhơn vẫn đứng vững như tinh thần chiến đấu kiên cường của Người Lính VNCH. Sau khi không phá vỡ được phòng tuyến Tuyên-Nhơn, Trung-Đoàn E1 của csVN phong tỏa Tuyên-Nhơn bằng một hệ thống phòng không dày đặc và thả thủy lôi trên mọi thủy trình dẫn đến Tuyên-Nhơn. Sự tiếp tế cho Chi-Khu và Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 vô cùng khó khăn. Tối 29 tháng 4, Tư-Lệnh-Phó Lực-Lượng Trung-Ương – Hải-Quân Đại-Tá Vũ Xuân An – từ Đồng-Tâm, liên lạc được với Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn và ra lệnh Thiếu-Tá Tuấn, bằng mọi cách, phải đưa đơn vị rời Tuyên-Nhơn. Là một sĩ quan nặng tinh thần kỹ luật, Thiếu-Tá Tuấn triệu tập ngay cuộc họp khẩn cấp. Tất cả sĩ quan chỉ mới tề tựu được mấy phút thì csVN tiến vào và dừng lại cách vòng đai căn cứ Hải-Quân một khoảng ngắn. Hai bên không nổ súng. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc, hỏi Đại-Tá An: -Có đi được không, Commandant? Đến lúc đó Đại-Tá Vũ Xuân An mới cho Thiếu-Tá Tuấn biết là đã rã ngũ! Thiếu-Tá Tuấn lại liên lạc với Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 – Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo – để được xác nhận. Hiểu rõ tình hình, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn nhân danh Tư-Lệnh Hải-Quân, tuyên bố giải nhiệm những đơn vị Hải-Quân trong vùng trách nhiệm; rồi Ông mở đường máu, đưa đoàn chiến đỉnh về Bến-Lức. Khi đoàn chiến đỉnh vừa rời nơi đồn trú khoảng một cây số thì bị csVN tấn công. Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận và Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám vừa phản công vừa xuôi theo sông Vàm-Cỏ. Tối 30 tháng 4, khoảng nửa đêm, đoàn giang đỉnh về gần đến kinh Thủ-Thừa, csVN bắn chỉ thiên, gọi đoàn giang đỉnh lại. Để tránh đổ máu, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn ra lệnh đoàn chiến đỉnh cứ tiến, không được bắn trả, trừ trường hợp csVN cố tình tiêu diệt mình thì mình mới tự vệ. Thấy đoàn chiến đỉnh vẫn tiếp tục di chuyển, chiến xa csVN hạ nòng súng bắn trực xạ. Nhiều nhân viên Giang-Đoàn chết và bị thương. Tức tốc, đoàn chiến đỉnh bắn trả. Khi bắt được tần số truyền tin nội bộ của Hải-Quân, csVN kêu gọi Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn cho chiến đỉnh ủi bãi, lên bờ trình diện. Quá phẫn uất, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn đưa nòng súng “ru-lô” lên… Khuya 30 tháng 4, rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975, trên sông Vàm-Cỏ-Tây, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận – Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn – “đi” vào lịch sử! ĐIỆP MỸ LINH www.diepmylinh.com/(Trích Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975)
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 11:18:37 GMT 9
Những Cánh Thép Ngày Trước...
Vũ Xuân Thông Như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ "Tự Do" ... Cho tôi xin dù chỉ một lần Mơ làm cánh én giữa trời Xuân Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân Firebird24 Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam. Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu. Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934...đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra ...và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất. Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính. Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua ...để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó. Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ? Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên. Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính BCD 81 không biết bơi). Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn. Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch...nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng. Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi. Ấy là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thắng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm sấy. Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên "check" tàu, tái trang bị bom đạn, "rocket" để chờ phi vụ tiếp theo. Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai "33"cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!! Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau. Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể. Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50, súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời. Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu. Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn ...phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch. Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lý và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kịp thời nên chúng đã bị tiêu diệt ngay sau đó. Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975. Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 ... phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội. Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này. Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh để chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa "giang hồ". Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh: "Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm" Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh. Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng. Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên "Cho tàu đáp xuống" ...khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn...Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi . Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa. Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm. Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu ...Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận "thắt cổ họng còn sướng hơn" như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài ...và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ. Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản. Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch? Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt...đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy. Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc nằm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do . Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi ... "Old soldiers never die; they just fade away." General Douglas MacArthur A20 Vũ Xuân Thông Liên Đoàn 81 BCND
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 29, 2023 16:34:25 GMT 9
NGƯỜI GIỮ 16 TẤN VÀNG CỦA VNCH QUA ĐỜI TẠI THÁI LAN Ông Lê Quang Uyển, người có trách nhiệm giữ 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc gia (NHQG), tài sản của VNCH, đã qua đời tại Chiang Mai, Thái Lan thọ 81 tuổi. Ông sinh năm 1937 và mất ngày 26-1-2018. Nhân dịp 49 ngày ông mất, tôi xin có bài sau đây. Trong giới kinh tế tài chính, nhất là vào những năm chót của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ai cũng biết đến Thống đốc trẻ tuổi của NHQG là ông Lê Quang Uyển. Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris năm 1960, ông Lê Quang Uyển về Việt Nam phục vụ. Ông đã làm một thời gian ngắn cho Ngân hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác đã bị động viên vào quân đội và lên đến cấp bậc đại úy. Từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các nhà lãnh đạo tương lai trong ngành kinh tế, tài chính, giáo dục; các công ty của chính phủ – nhà đèn, công ty đường, Air Vietnam… Và sau này có thể có những trách nhiệm cao cấp trong chính phủ. Ngạch này được thành lập từ thời TT Ngô Đình Diệm để kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho chính phủ VNCH. Trong cương vị này, ông đã tham gia nhiều chuyến đi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm Manilla. Sau này ông đã được đề nghị giữ ghế thống đốc NHQG. ... Trong những ngày chót của VNCH, Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân hàng Trung ương tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước đều có trương mục với ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, Thống đốc Lê Quang Uyển quyết định gởi các thoi vàng qua Thụy Sĩ, tại Ngân hàng Banque International Ressettlement – BIR ở Basle. Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu Châu trước đây, khi bị Cộng sản xâm chiếm họ đã gởi vàng dự trữ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch đã được lập lên để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ chứ không phải sang Hoa Kỳ. NHQG đã cho mướn một chuyến máy bay để chở số vàng này qua Thụy Sĩ. Trong lúc hỗn loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở vàng không thể đáp xuống sân bay, vì vậy kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ không thực hiện được. Vào những ngày chót, một số nhân viên ngân hàng cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau nhằm bảo vệ tài sản cho Việt Nam. Thống đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG và chỉ mở cửa NHQG khi Cộng sản mang nhiều xe tăng đến định bắn vào NHQG. CS lúc nào cũng phao tin đồn là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều người cũng kể công về việc giữ số vàng này. Vậy sự thật ra sao? Bài báo sau đây của nhân chứng nói về kiểm tra vàng tại NHQG do báo Tuổi Trẻ đăng: Bài viết của tác giả Huỳnh Bửu Sơn trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau: “…Những ngày đầu Tháng Năm, 1975, tôi vào trình diện tại NHQG ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản NHQG là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan. Lần kiểm kê cuối cùng… Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách. Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của NHQG vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn. Đại diện Ban Quân quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị tiếp quản NHQG. Số vàng đúc lưu giữ tại kho của NHQG vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại VN, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào. Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi. Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại NHQG…” Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234 thoi vàng.” Qua việc bảo tồn tài sản quốc gia, việc này cho thấy là các công chức của NHQG và người đứng đầu là Thống đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm túc - với tinh thần trách nhiệm của một công chức. Đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tình thần trách nhiệm) và rất trung thực. Thống đốc Lê Quang Uyển là một tấm gương soi sáng cho thế hệ trẻ - cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam. Thống đốc Lê Quang Uyển và tù cải tạo Ông Uyển, cũng như nhiều người khác, đã phải đi cải tạo trên 3 năm trong Nam (1975-1979). Trái với ông phó thống đốc NHQG là ông Dõng, ông Uyển không trình diện liền khi CS kêu gọi thành phần nội các ra trình diện học tập (họ không biết là thống đốc NHQG có hàm bộ trưởng). Ông Phó thống đốc Dõng đã ra trình diện và bị chết trong trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa. (Tôi còn gặp bà Dõng tại Sài Gòn sau khi bà bị trục xuất ra khỏi nhà tại NHQG, khi tôi đi cải tạo về vào năm 1979). Ông Uyển là một sĩ quan VNCH cấp bậc đại úy và đã ra trình diện khi CS gọi các sĩ quan cấp đại úy trình diện. Ông bị đi tù cải tạo 3 năm. Ông đã đi Pháp cùng vợ vì bà vợ, chị Geneviève LyLap (một huynh trưởng nữ hướng đạo hệ Scout et Guide de France, bà là công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại sứ Pháp tại Sài Gòn). Năm 1981, ông Uyển tham gia vào Ngân hàng Banque Indosuez. Ông được gởi làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia và ở đây đến 1990. Ông đứng đầu chi nhánh “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Ả Rập Saoudi. Sau 1990, ông Lê Quang Uyển được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của Ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau. Ông đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Trong dịp 49 ngày ông qua đời (ba má và gia đình ông Lê Quang Uyển theo đạo Cao Đài), tôi viết vài hàng này để đề cao tinh thần trách nhiệm của cựu Thống đốc Lê Quang Uyển. Với tư cách một chuyên viên trẻ đã từng có thời gian làm việc với ông, tôi xin thành kính chia sẻ nỗi buồn với chị Uyển trong sự mất mát này và cầu mong ông sớm được về miền Cực Lạc. TS. Đinh Xuân Quân (Cali,18-3-2018) _______ Trên đây là bài viết của TS Đinh Xuân Quân TS Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát triển trực thuộc NHQG. Ông là cựu giáo sư Đại học Luật khoa, Ban Kinh tế, Đại học Sài Gòn (khóa 1974-1975). Hiện nay ông là chuyên gia, cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc (UNDP+World Bank) và USAID tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia…
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 11, 2023 17:45:24 GMT 9
Dân NẪU KHÁT MÁU ... Những Thảm Sát Kinh Hoàng, đêm ngày 3 tháng 4 năm 1975, tỉnh Phú Yên Posted by BIENXUA on APRIL 7, 2021
Ngày 1 tháng 4 năm 1975, tỉnh Phú Yên bị thất thủ, có rất nhiều anh em Sĩ quan, Công chức, cán bộ Xây dựng nông thôn, Cảnh sát… của Miền Nam lâm cảnh hung hiểm. Việt cộng mong muốn hãm hại thành phần Sĩ quan hoặc Công chức cao cấp của Việt Nam cộng hòa và thành phần đảng phái Quốc gia đối lập với đảng Cộng sản Tại tỉnh Phú Yên có nhiều người theo đảng Đại Việt, bởi lẽ đảng trưởng là chí sĩ Trương Tử Anh (1914-1946), quê Hiếu Xương (nay là Tuy Hòa), tỉnh Phú Yên, có lẽ từ đấy mà ảnh hưởng đến nhiều người nơi địa phương này, những ai sinh sống nơi đây, có lòng nhiệt huyết vì quốc gia dân tộc, đã vào đảng Đại Việt theo tiếng gọi chống Cộng cứu nước, mặc dù họ chỉ là Cán bộ Xây dựng nông thôn, Cảnh sát hay thường dân. Sau mấy ngày gọi là “giải phóng”, chính phủ “cắt mạng” tại địa phương đến bắt bớ hoặc kêu gọi đích danh, gồm 125 người đi học tập, trong số ấy có sĩ quan, cảnh sát, xây dựng nông thôn, ấp trưởng… mà đa số là những người đảng viên của Đại Việt, trình diện tại tỉnh Phú Yên, để học tập với thời gian ngắn hạn. Người viết được một người sống sót trong vụ thảm sát, anh ngậm ngùi kể lại: “Nghe đi học tập thời gian ngắn hạn, tôi lật đật lấy đồ dùng cá nhân, không quên đem theo lưỡi lam để cạo râu. Râu của tôi dài, chưa cạo được, vì mấy ngày lo trốn tránh. Sợ râu ria xồm xoàm họ ghét, nên vừa đến tỉnh, trong khi ngồi chờ đợi thì tôi cạo râu ngay. Sau đấy, mọi người được dẫn đến Núi Đất thuộc xã Hòa Định, quận Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (gần mương dẫn thủy số 1, gần nơi Lù Đôi), tay bị trói chặt phía trước và cột lối xâu chuỗi, từ tay người này đến tay người kia. Tôi nhớ, đêm đó là vào khoảng đêm ngày 3 tháng tư năm 1975 (22 tháng 2 năm Ất mão), nên trời không trăng, những ánh sao xa xăm trông lờ mờ, vì vậy cả vùng núi đồi nơi đấây như bóng đen bao trùm vạn vật. Chúng đã dùng súng trung liên và AK bắn xối xả. Tôi đứng gần sau chót, mặc dù chưa bị trúng đạn, nhưng tôi ngã người xuống đất để cầu may sống sót, những anh em bị trúng đạn, tiếng la thảm thiết, thân xác ngã chồng chất lên mình tôi, máu me chảy lênh láng, chúng bắn liên tục khoảng một tiếng đồng hồ mới xong việc thảm sát này. Thời gian bắn giết kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, là vì sự bắn giết do du kích thực hiện, nên chỉ có súng trung liên và AK. Tôi nghe chúng nói với nhau, tất cả mọi người đều bị bắn chết sạch rồi, bây giờ chúng ta đi tìm kiếm đồng hồ và lục lọi bóp (ví). Nghe vậy, sợ bọn chúng biết tôi còn sống sẽ bắn bồi, nên dùng lưỡi lam cắt dây trói, bỏ chạy. Chúng bắn theo, tôi bị trúng đạn ở đùi, nhưng nhờ trời tối tăm, nên trốn được. Trời ơi! Sau mấy ngày thân nhân của anh em bị thảm sát mới hay biết, tìm đến nơi thấy cả một đống thân người chết chồng chất, những thân xác chết nằm ở bìa ngoài bị khô đét thật thảm thương! Họ phải tỉ mỉ tìm tòi từng chân răng kẽ tóc, hoặc dấu vết đặc biệt của người quá cố, mới biết ai là người của gia đình bị thảm sát nơi này. Tôi còn nhớ tên một số người bị thảm sát: – Ông Nguyễn Khánh, chủ tịch xã Hòa Thắng – Ông Nguyễn Phúc (em ông Khánh), trưởng ban quân xa ty Cảnh sát Phú Yên – Ông Trung úy Nguyễn Văn Nê là cuộc trưởng thị xã Tuy Hòa – Ông Nguyễn Phương (rể ông Khánh) là cuộc phó xã Hòa Đa – Ông Châu Văn Hiển là Cảnh sát viên ty Cảnh sát Tuy Hòa – Ông Nguyễn Hai là Cán bộ Xây dựng nông thôn – Ông Ngô Văn Bộn là Cán bộ Xây dựng nông thôn… Thảm thiết thay gia đình ông Nguyễn Khánh, bị thảm sát bốn người một lúc. Ngoài ra, trong số sát thủ trong đêm thảm sát hãi hùng, tôi còn nhớ tên một người du kích là: Nguyễn Công Chánh”. Trong thời gian xảy ra đêm thảm sát hãi hùng này, lúc ấy người viết đã bị Việt cộng bắt giam ở một nơi khác gọi là Tam Giác Sốt (3 hòn núi chụm lại, chính giữa có một con suối cạn, ai vào đây một tuần là bị bệnh sốt rét ngay, mỗi ngày trung bình một người bị chết vì sốt rét xuất huyết, nơi này thuộc quận Sơn Hòa. Ở đây giam giữ các sĩ quan VNCH, đa số là bị bắt trong cuộc di tản từ cao nguyên, trên liên tỉnh lộ 7B. Lúc ấy người viết ở trong tù có nghe nhưng thiếu tin tức chính xác về vụ thảm sát, mãi cho đến nay người viết được nghe người còn sống sót kể lại vụ thảm sát ấy, nên nhân dịp 30 tháng tư đen năm 2009, người viết xin tường trình, nếu sau này có thêm chi tiết khác sẽ xin bổ túc. Việc tường trình này là để cho đồng bào thấy được một sự trả thù dã man và hèn hạ của kẻ luôn tráo trở “chính sách khoan hồng của cách mạng”. Không biết bà con đồng hương nghĩ sao về vụ thảm sát này? Riêng người viết nghiêng mình kính cẩn tiếc thương những người quá cố, để thắp nén hương lòng, người viết xin trân trọng gởi vài vần thơ chia sẻ cùng thân nhân và tưởng niệm người quá cố. Nước nhà “giải phóng” giải gì đây?! Nòi giống tương tàn đau đớn thay! Lang sói xuống đồng, gây thảm thiết Đồng bào vượt biển, chịu chua cay Bóng hình người mất, luôn nhung nhớ Dân chúng sống còn, mãi đọa đày Hồn hỡi phiêu diêu miền cực lạc! Anh linh phù hộ nước non này!
Ngày 4 tháng Tư năm 1975, chiếc phi cơ C-5 mở màn chiến dịch Babylift Operation di tản trẻ mồ côi Việt Nam sang Mỹ đã gặp tai nạn thảm khốc. Nhưng điều này vẫn không ngăn được một sứ mạng cao cả đầy nhân đạo của những người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Operation Babylift, sứ mạng nhân đạo và yêu thương Đinh Yên Thảo Trong những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam, chiến dịch di tản các trẻ em mồ côi sang Hoa Kỳ với tên gọi Operation Babylift đã được thực hiện theo sự chuẩn thuận của Tổng Thống Gerald Ford. Ông tuyên bố rằng, " Trong khi truy điệu những người đã mất, chúng ta không thể quên những người còn sống" để không chỉ có kế hoạch di tản hàng chục ngàn nhân viên người Việt, mà còn có thêm một chiến dịch dành riêng cho trẻ mồ côi được di tản bằng phi cơ quân sự, có ngân sách khoảng hai triệu đô la. Theo số liệu từ bộ phim tài liệu Precious Cargo của PBS, đã có ít nhất 2,700 trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ và khoảng 1,300 em được đưa sang Canada, Úc và Châu Âu trong sứ mạng nhân đạo này. Rất không may là chiến dịch đã mở màn với một tai nạn thương tâm. Ngày 4 tháng 4 năm 1975, tin chiếc phi cơ C-5 bốc trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Babylift gặp nạn, gây thiệt mạng 153 trẻ em, phi hành đoàn, nhân viên thiện nguyện và nhân viên văn phòng DAO tại Sài Gòn đã gây bàng hoàng và xúc động cho những người theo dõi tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam. Chiếc phi cơ C-5 mang số hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang căn cứ Clark Air Base tại Phi Luật Tân vào chiều thứ Sáu, là chuyến bay đầu tiên chở các trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ trong chiến dịch này. Theo kế hoạch dự tính, các em sẽ tiếp tục được chuyển sang máy bay dân sự từ Phi Luật Tân để bay tiếp đến San Diego với sự chào đón của chính Tổng Thống Ford ngay phi trường. Dù tai nạn thảm khốc xảy ra đã gây thiệt mạng gần một nửa trẻ em và các nhân viên trên phi cơ, chiến dịch vẫn được tiếp tục. Và cũng không vì điều này mà có thể cản chân hàng chục y tá trẻ người Mỹ, đang làm việc tại Hồng Kông đã quyết định tình nguyện bay sang Sài Gòn để giúp đưa các trẻ em VN về Mỹ. Một thương gia Mỹ là ông Robert Macauley đã cầm nhà mình để lấy tiền thuê một chiếc Boeing 747 của hãng hàng không Pan Am, tiếp tục bốc dỡ những trẻ em sống sót, khi ông biết rằng các phi cơ quân đội phải mất hàng tuần để đưa các trẻ em này sang Mỹ. Câu chuyện trở thành một cổ tích tuyệt đẹp giữa những đổ nát, thương đau của buổi ly loạn trong giờ phút cuối cùng của miền Nam tự do. Không chỉ câu chuyện đầy tình người của Robert Macauley gây xúc động, mà cả chiến dịch nhân đạo Operation Babylift có lẽ sẽ mãi còn là câu chuyện đẹp trong chiến tranh Việt Nam cho những ai nhìn lại ở một góc nhỏ khác. Những ngày đầu tháng Tư năm 1975, tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam xem ra đã thay đổi nhanh chóng, nhất là từ sau khi Ðà Nẵng bị thất thủ. Các tổ chức quốc tế giúp đỡ và nuôi trẻ mồ côi tại Việt Nam đã có những kế hoạch riêng để di tản các trẻ em này cùng nhân viên của họ. Nhưng với kế hoạch di tản chính thức từ Tổng Thống Gerald Ford, hàng ngàn gia đình người Mỹ đã sẳn sàng đón nhận các em bé mồ côi này. Theo dự định ban đầu, khoảng 30 chuyến bay sẽ di tản hàng chục ngàn trẻ mồ côi sang Mỹ. Trên thực tế, vì tình thế thay đổi quá nhanh cũng như vì sự an toàn nên con số cuối cùng chỉ còn tổng cộng khoảng 4,000 em được di tản. Ðây là nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ cùng một số các tổ chức quốc tế như Holt, Friends of Children of Vietnam (FCVN), Friends for All Children (FFAC), Catholic Relief Service, International Social Services, International Orphans và The Pearl S. Buck Foundation thực hiện. Không chỉ với các phi cơ vận tải C-5 của quân đội, còn có hàng chục chuyến bay dân sự lớn nhỏ khác cùng tham gia việc di tản đến tận ngày 26 tháng Tư, khi phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích. Theo lời bà Joyce Harrington, một nữ y tá trong nhóm bác sĩ và y tá người Mỹ tình nguyện từHồng Kông bay sang Tân Sơn Nhất, có cả phu nhân Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hồng Kông tham gia chiến dịch này. Họ đã nghe tin về chuyến bay gặp nạn cũng như tình hình chiến sự Việt Nam đang giao tranh khốc liệt, không phải không lường được bất trắc có thể xảy ra, nhưng chẳng có gì ngăn cản bước chân họ trong sứ mạng cao cả đến với những em bé mồ côi đang cần sự giúp đỡ kia. Có cả một số cha mẹ nuôi đã bay thẳng sang Việt Nam để cùng tham gia nhóm nhân viên thiện nguyện, chăm sóc các em trên đường về Mỹ. Ðây là sứ mạng mà những người từng tham dự cho rằng những thiện nguyện viên, những vị nữ tu, những nhân viên các tổ chức cứu trợ trực tiếp tham gia là những con người có tấm lòng hy sinh cao cả, làm xúc động lòng người. Trong cuốn hồi ký "Đây đích thực là người anh em tôi" (This Must Be My Brother), bà LeAnn Thieman - một y tá trẻ thiện nguyện lúc bấy giờ kể rằng, trên chuyến bay mà bà tham gia, có một người đàn ông tóc muối tiêu lặng lẽ và vụng về thay tả cho các em bé. Nhiều người không biết ông là người có vợ bị tử nạn trên chuyến bay đầu tiên gặp nạn nói trên. Một đường dây điện thoại khẩn cấp được thiết lập tại Washington D.C để những cha mẹ nuôi tương lai gọi đến các nhân viên các tổ chức lo vấn đề con nuôi. Bên cạnh hàng ngàn gia đình Mỹ, có cả một số tài tử, chính trị gia, triệu phú, nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi. Melody, em bé còn sống sót trên chuyến phi cơ C-5 Galaxy gặp nạn là em bé mồ côi đã được tài tử Mỹ gốc Nga Yul Brynner chờ đón để nhận nuôi. Chính Brynner đã mượn phi cơ riêng của tỉ phú Hugh Hefner, chủ nhân tạp chí Playboy để đưa Melody cùng khoảng 40 em bé khác sang New York. Hay như Kym, một bé gái mồ côi Việt Nam đã may mắn được em gái Tổng Thống Kennedy là bà Jean Kennedy Smith nhận làm con nuôi. Những em nhỏ từng được di tản trong sứ mạng Babylift ngày ấy nay đã là những người quá tuổi trung niên, trên dưới 50. Ðược các gia đình người Mỹ nuôi nấng từ nhỏ, theo các tự bạch trên các trang mạng, một số người thú nhận rằng họ không hề có những khái niệm hay sự liên hệ gì đến Việt Nam cùng quá khứ. Dù vậy, cũng đã có khá nhiều những trang mạng được thiết lập để những người trong cuộc tìm lại với nhau. Hay thông qua sự bảo trợ của một vài tổ chức cùng giới truyền thông, một số người cũng đã quay về Việt Nam sau vài chục năm với những cảm xúc lẫn lộn, kể từ khi họ được đưa sang Mỹ. Phần lớn là sự tò mò hơn là để tìm lại cội nguồn. Trong bài thơ "Bản thể" (Identity) mà Jane Burns, một cô bé năm tháng tuổi ngày nào, đã viết bài thơ dài, so sánh giữa người mẹ ruột đã từ bỏ mình trong chiến tranh loạn lạc cùng người mẹ nuôi của mình rằng: "... I awake from this nightmare and am shivering uncontrollably Scenes of my biological mother have disappeared And in her place stands my mother. The woman who came to the airport to get me When I was just five months old. The woman who has been there to share My laughter My joys My tears And my sorrows. My mother tells me that even though I did not grow Under her heart, I grew in it. Someday, I may decide to return to my homeland, But for now, This is where I belong" "... chợt rùng mình tỉnh giấc sau ác mộng mẹ ruột tôi đã biến khỏi giấc mơ chỗ bà đứng, chỉ còn mẹ tôi đó người đón tôi chiều phi trường năm ấy, đứa bé con chỉ vừa năm tháng tuổi người đã sẻ chia qua cùng năm tháng những tiếng cười niềm vui những giọt nước mắt ngậm ngùi cùng nỗi buồn của tôi người đã bao lần từng bảo mẹ chẳng cưu mang con trong bụng mà ấp ủ bằng trọn cả con tim ngày nào đó tôi sẽ về thăm đất mẹ còn bây giờ tôi thuộc về chính nơi đây" (ĐYT chuyển dịch) Không biết bao nhiêu sách báo và phim ảnh đã nói về Operation Babylift, nhưng quả chẳng thừa để nhắc đến sứ mạng nhân đạo chứa đầy tình người trong những ngày tháng Tư này. Bởi nhìn lại nỗ lực nhân đạo tột bực này từ nước Mỹ, từ không ít bao nhiêu tấm lòng bác ái và hy sinh của những thiện nguyện viên tham gia Operation Babylift, để nhắc rằng cũng với tinh thần nhân đạo đó, nước Mỹ đã cưu mang hàng triệu người Việt vượt biển cùng những người đến Mỹ qua các chương trình nhân đạo sau này. Nên nếu có ai đó viết câu thơ như Jane Burns rằng "Tôi thuộc về chính nơi đây" thì quả cũng là điều tự nhiên. Đinh Yên Thảo
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 17, 2023 0:54:57 GMT 9
LÍNH ĐÁNH THUÊ? (NGƯỜI LÍNH CUỐI CÙNG) Trần Thị Phương Lan
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà ai cũng đều hiểu rằng Việt Nam Cộng Hòa không còn có thể cứu vãn được nữa, vẫn có những người chiến sĩ VNCH tiếp tục cuộc chiến đấu vô cùng oanh liệt: 1/ Phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, 2 chiến đấu cơ Skyraider của Không lực VNCH đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng vị trí các ổ pháo kích của địch. Cả hai chiếc đều bị hỏa tiễn SA-7 của VC bắn hạ. 2/ Ngay tại cửa ngõ vào Saigon, khoảng một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số lính Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu, ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon, từ hai ngả ngã tư Bảy Hiền và Hàng Sanh, từ Long Khánh kéo về, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập. Lính VNCH chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Cộng, 3 sư đoàn quân Nam Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo tấn công từ hai ngả. Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, họ vẫn chiến đấu đến cùng. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên. Trong khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long. Tháp pháo xe tăng T-55 bằng thép dầy 30 cm bị bắn lủng như chơi. Hình như vào giờ chót, Mỹ viện trợ súng chống xe tăng đặc biệt, loại 106 ly. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản trong xe thiết giáp. Khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thủ đô Saigon 3/ Ngày 30 tháng 4, Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. VC ngưng bắn muốn điều đình. Các em thiếu sinh quân đòi chúng phải rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát quốc ca, làm lễ hạ cờ, cởi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và ra khỏi trường, mắt nhòa lệ… 4/ Trong những ngày tàn của cuộc chiến, Xuân Lộc trở thành vùng giới tuyến của đất nước. Dưới sự chỉ huy của chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn 1 Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Lôi Hổ, lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm Trung Đoàn 8 (Sư Đoàn 5), lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên Đoàn 7BĐQ, 2 Tiểu Đoàn Pháo Binh, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và toàn bộ Lữ Đoàn 1 Dù (với các Tiểu Đoàn 1, 2, 8, 9) và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Sư Đoàn 4 không Quân VN từ phi trường Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật ...vẫn tiếp tục chiến đấu, anh dũng hơn bao giờ hết. 5/ Các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa trong những bộ đồng phục mới, giầy đánh xi láng cóong. Các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết, oai hùng như đi diễn hành. Raoul Coutard ký giả Pháp đã thu được cảnh xuất quân bi tráng này vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” "Vì sao các anh muốn chiến đấu?" – "Vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! " 6/ Trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ của đô thành Sài Gòn, nơi đây, chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản áp đảo toàn bộ. 7. Ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. Đến chiều tối 400 chiến sĩ Nhảy Dù được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng…Đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát. 8/ Và còn đây nữa, chính tôi cũng được tận mắt chứng kiến một toán những người lính áo xann hoa rừng ấy ở ngay trong nội thành, tại khu vực chúng tôi sinh sống, vào những ngày cuối cùng đầy bi tráng ấy. Vị chỉ huy nghiêm nghị ra lịnh vài người lính lên trấn giữ nóc nhà cao, số khác vào hẻm nọ, hẻm kia...ghì tay súng và lựu đạn sẵn sàng, nóng lòng chờ địch quân tới. Nước mắt tôi đã tuôn trào trên má, lúc ấy cũng như bây giờ, khi đang tổng hợp tư liệu trên mạng để viết bài này, nhân ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, như muôn lời tri ân tự đáy lòng gởi đến họ, những người con yêu quí nhất của VNCH, của quốc gia dân tộc. Như vặy, tất cả những người lính VNCH oai hùng ấy của chúng ta, từ không quân tới nhảy dù, từ sinh viên sĩ quan võ bị Đà Lạt đến cảnh sát, thiếu sinh quân...họ vẫn anh dũng chiến đấu tới giây phút cuối cho miền Nam TỰ DO. Ngày cuối rồi, còn ai đâu để phát lương cho họ, để trả tiền tử tuất hay trợ cấp cô nhi/quả phụ/ tổ phụ cho thân nhân họ .. lỡ họ hy sinh? Vì sao họ lại quên mình chiến đấu anh dũng đến thế? Vậy tại sao lại có những kẻ gọi họ là lính đánh thuê? Còn đây đêm cuối cùng Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha Ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em Người đi giúp núi sông. Hàng hàng lớp lớp chưa về Hàng hàng nối tiếp câu thề giành lấy quê hương.... (Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Nguyễn Văn Đông) TTPL Hình đính kèm: Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bổ sung quân số những ngày cuối cùng cuộc chiến (30/04/1975)
|
|