Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:13:47 GMT 9
Týớng Charles de Gaulle
Phạm Vãn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng 03/01/2008
Týớng Charles de Gaulle (1890-1970) Vị Anh Hùng và Tổng Thống của Nýớc Pháp
Týớng de Gaulle là một nhà lãnh ðạo quân sự và một vị chính khách của nýớc Pháp. Trýớc Thế Chiến Thứ Hai, ông nổi tiếng là một nhà chiến thuật chủ trýõng dùng xe thiết giáp phối hợp với máy bay chiến ðấu. Khi Thế Chiến kể trên xẩy ra, ông de Gaulle mang cấp bậc Thiếu Týớng, là nhà lãnh ðạo của Chính Phủ Pháp Tự Do, hoạt ðộng lýu vong tại nýớc Anh trong các nãm từ 1944 tới nãm 1946.
Sau cuộc nổi dậy của một số týớng lãnh Pháp tại Algiers vào nãm 1958, Týớng de Gaulle ðã kêu gọi thiết lập một hiến pháp mới và ông là Tổng Thống ðầu tiên của Nền Cộng Hòa Thứ Nãm của nýớc Pháp, phục vụ từ nãm 1958 tới nãm 1969.
Ý thức hệ chính trị của ông de Gaulle ðýợc gọi là chủ thuyết de Gaulle (Gaullism) với ðặc tính mong muốn nền ðộc lập quốc gia trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, với chủ trýõng kinh tế ðiều khiển và tự nguyện (economic dirigisme and voluntarism). Ðây là một phong trào xã hội bảo thủ (social conservative movement). Chủ thuyết này ðã gây ảnh hýởng lớn tới nền chính trị của nýớc Pháp trong các nãm về sau.
1/ Thời Niên Thiếu.
Charles de Gaulle là ngýời con thứ ba trong 5 ngýời con của một gia ðình bảo thủ, theo ðạo Cõ Ðốc La Mã (Roman Catholic). Cậu de Gaulle chào ðời ngày 22/11/1890 tại thành phố Lille, lớn lên tại thành phố Paris và theo học trýờng Stanislas và cũng có một thời gian học hành tại nýớc Bỉ.
Gia ðình bên cha có nguồn gốc quý tộc từ miền Normandie và Burgundy nhýng ðã ðịnh cý tại Paris một thế kỷ và chữ ðệm "de" trong tên gọi "de Gaulle" không phải là từ chỉ cãn gốc quý tộc dù cho gia ðình này thuộc loại danh giá. Gia ðình bên mẹ của cậu de Gaulle thuộc giới kinh doanh giàu có của miền kỹ nghệ Lille trong vùng Flandres của nýớc Pháp.
Ông nội của cậu de Gaulle là một nhà sử học, còn bà nội là một nhà vãn, cha của cậu tên là Henri, là một giáo sý dạy Triết Học và Vãn Chýõng của các trýờng tý thục Cõ Ðốc. Trong gia ðình này thýờng hay có các cuộc tranh luận chính trị bởi vì họ rất ái quốc và ngay từ thuở nhỏ, cậu de Gaulle ðã ðýợc cha mẹ dạy dỗ tinh thần quốc gia và hýớng dẫn ðọc các sách của các tác giả bảo thủ. Mặc dù mang nặng tính bảo thủ, gia ðình này cũng tôn trọng luật pháp và các ðịnh chế của nýớc cộng hòa nhýng các tý týởng xã hội và chính trị còn mang ðặc tính cởi mở, ảnh hýởng bởi ðạo Thiên Chúa La Mã, với tinh thần rộng lýợng, hay giúp ðỡ và tôn trọng truyền thống.
2/ Theo Binh Nghiệp 1912-1940.
Cậu Charles de Gaulle sau khi học xong bậc trung học, ðã chọn con ðýờng binh nghiệp, ðã theo học 4 nãm tại trýờng Quân Sự Saint-Cyr. Tốt nghiệp nãm 1912, Thiếu Úy de Gaulle tham gia một trung ðoàn bộ binh chỉ huy do Ðại Tá Philippe Pétain. De Gaulle là một sĩ quan trẻ, thông minh, làm việc chãm chỉ và rất can ðảm. Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Trung Úy de Gaulle ðã chiến ðấu tại Verdun, 3 lần bị thýõng và bị bắt làm tù binh trong 2 nãm 8 tháng, trong thời gian bị cầm tù này, chàng de Gaulle ðã tìm cách výợt ngục 5 lần nhýng không thành công.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất chấm dứt, chàng de Gaulle vẫn còn trong quân ngũ, làm việc tại các bộ tham mýu của các Týớng Maxime Weygand và Philippe Pétain. Khi cuộc chiến tranh Ba Lan – Xô Viết xảy ra (1919-1921), ông de Gaulle tình nguyện vào Phái Bộ Quân Sự Pháp tại Ba Lan (the French Military Mission to Poland) và ðã là một huấn luyện viên quân sự cho Bộ Binh Ba Lan. Ðại Úy de Gaulle ðã hoạt ðộng rất xuất sắc trong các cuộc hành quân gần giòng sông Zbrucz và ðã ðýợc trao tặng một huy chýõng quân sự cao cấp nhất của Ba Lan: Huy Chýõng Virtuti Militari.
Vào nãm 1927, ông de Gaulle ðýợc thãng cấp lên Thiếu Tá và ðýợc ðề nghị ở lại Ba Lan, nhýng ông ðã lựa chọn việc trở về nýớc Pháp ðể phục vụ với chức vụ sĩ quan tham mýu của Hội Ðồng Chiến Tranh Cao Cấp (Conseil Supérieur de la Guerre = Supreme War Council) ðồng thời ông cũng giảng dạy tại một trýờng quân sự và Thiếu Tá de Gaulle trở nên một sĩ quan ðýợc Týớng Pétain bảo trợ.
Ông de Gaulle ðã chịu ảnh hýởng rất nhiều của cuộc chiến tranh Ba Lan- Xô Viết, nên ông chủ trýõng dùng nhiều xe tãng, dùng cách vận chuyển nhanh chóng và giới hạn cách dùng chiến luỹ. Ông cũng học hỏi ðýợc nhiều bài học từ vị Thống Chế Jozef Pilsudski của nýớc Ba Lan, ðây là nhân vật mà trýớc ðó vài thập niên, ðã từng chủ trýõng tạo dựng một liên bang châu Âu.
Cãn cứ vào các nhận xét từ cuộc chiến tranh tại Ba Lan, ông de Gaulle ðã viết nhiều bài báo và cho xuất bản nhiều cuốn sách, ðặc biệt là cuốn "Về Ðạo Quân Chuyên Nghiệp" (Vers l' Armée de Metiers = Towards the Professional Army, 1934). Trong tác phẩm này, ông de Gaulle ðã ðề nghị một loại quân ðội cõ giới chuyên nghiệp với các sý ðoàn thiết giáp ðặc biệt, hõn là dùng cách phòng thủ tại chỗ, ðiển hình là Chiến Lũy Marginot.
Các quan ðiểm chiến thuật týõng tự ðã ðýợc nhiều nhà quân sự tài giỏi ðề cập tới: J.F.C. Fuller của nýớc Anh, Dwight D. Eisenhower và George S. Patton của nýớc Mỹ, Heinz Guderian của nýớc Ðức, Mikhail Tukhachevsky của nýớc Nga và Wladyslaw Sikorski của nýớc Ba Lan, nhýng các lý thuyết quân sự tân tiến của ông de Gaulle ðã bị các sĩ quan cao cấp ngýời Pháp bác bỏ, kể cả vị thầy cũ là Týớng Philippe Pétain, và rồi các liên lạc giữa ông de Gaulle với các cấp trên trở nên xấu ði, ngoại trừ với ông Paul Reynaud.
Nhý vậy trong 2 thập niên 1920 và 1930, do các quan ðiểm táo bạo, Thiếu Tá de Gaulle ðã bất hòa với các nhà lãnh ðạo quân sự Pháp, vì vậy cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông de Gaulle chỉ là một vị Trung Tá. Ngày 15/5/1940, Trung Tá de Gaulle ðýợc giao trách nhiệm chỉ huy Sý Ðoàn 4 Thiết Giáp (the 4th Armoured Division).
Ngày 17/ 5/1940, ðạo quân của Trung Tá de Gaulle ðã tấn công các lực lýợng chiến xa Ðức tại Montcornet. Với 200 chiến xa và không có máy bay khu trục yểm trợ, cuộc tấn công này ðã không cản ðýợc býớc tiến của quân xâm lãng Ðức, nhýng ðến ngày 28/5, các lực lýợng thiết giáp của Trung Tá de Gaulle ðã khiến cho bộ binh Ðức phải rút lui tại Caumont. Ðây chỉ là một trong số rất ít các chiến thắng của quân ðội Pháp trong suốt cuộc chiến. Nhờ chiến thắng kể trên, ông de Gaulle ðýợc Thủ Týớng Pháp Paul Reynaud thãng chức Thiếu Týớng và từ nay, ông ðýợc mọi ngýời gọi là "Týớng de Gaulle".
Ngày 6/6/1940, Thủ Týớng Paul Reynaud bổ nhiệm Týớng de Gaulle làm Thứ Trýởng Bộ Quốc Phòng và Chiến Tranh, rồi cử ông lo việc phối hợp với nýớc Anh. Vì chỉ là một nhân viên cấp thấp trong Chính Phủ Pháp, Týớng de Gaulle ðã không thành công khi phản ðối việc nýớc Pháp ðầu hàng Quân Ðội Ðức Quốc Xã. Ông ðã không thuyết phục ðýợc chính phủ này di tản qua Bắc Phi ðể tiếp tục chiến ðấu từ các thuộc ðịa của nýớc Pháp.
Tại nýớc Anh, Týớng de Gaulle là sĩ quan liên lạc với chính quyền Anh và ông ðã ðề nghị với Thủ Týớng Churchill vào ngày 16/6 tại London, công cuộc kết hợp chính trị giữa nýớc Pháp và nýớc Anh. Khi chính phủ Pháp tạm thời dời về thành phố Bordeaux, Týớng de Gaulle ðã dùng máy bay quay về nõi này và ðýợc biết tin rằng Týớng Pétain ðã trở nên Thủ Týớng cùng với ý ðịnh tìm kiếm cách ðình chiến với quân ðội Ðức Quốc Xã.
Vào ngày 16/6 này, Týớng de Gaulle ðã thực hiện một quyết ðịnh quan trọng nhất trong cuộc ðời của ông và trong lịch sử mới của nýớc Pháp: ông từ chối chấp nhận nýớc Pháp ðầu hàng và ông nổi loạn, chống lại chính quyền Pétain, khi ðó ðýợc coi là hợp pháp. Týớng de Gaulle ðã kêu gọi mọi ngýời dân Pháp tiếp tục công việc chiến tranh chống lại nýớc Ðức của Adolf Hitler.
Vào sáng ngày 17/6/1940, với 100,000 ðồng quan Pháp do ông Paul Reynaud giao cho ðêm hôm trýớc, Týớng de Gaulle lên máy bay, trốn khỏi thành phố Bordeaux, tránh ðýợc sự truy lùng của máy bay Ðức và chiều hôm ðó, ông ðã hạ cánh xuống thành phố London. Từ nay, Týớng de Gaulle bác bỏ việc nýớc Pháp ðầu hàng và ông bắt ðầu xây dựng một phong trào kêu gọi mọi thành phần Pháp hải ngoại ðoàn kết ðể chống lại quân Ðức Quốc Xã. Nhý vậy từ nay bắt ðầu cuộc nội chiến Pháp giữa chính phủ Vichy ðứng về phe Trục và nýớc Pháp Tự Do (the Free France) ðứng ðầu do Týớng de Gaulle, với lập trýờng bác bỏ cuộc ðình chiến và tham gia vào các lực lýợng Ðồng minh ðể chống quân Ðức.
3/ Lãnh ðạo các Lực Lýợng Pháp Tự Do 1940-45.
Ngày 18/6/1940, Týớng de Gaulle chuẩn bị nói chuyện với dân chúng Pháp qua ðài phát
Vào 25 tháng 8 nãm 1944, ông ðã ðọc một bài diễn vãn nổi tiếng, nhấn mạnh vai trò của ngýời dân Pháp trong công cuộc giải phóng. «... Paris, Paris outragé, Paris brisé, Paris martyrisé, mais Paris libéré. Libéré par lui-même, libéré par son peuple, avec le concours des armées de la France, avec l’appui et le concours de la France tout entière, c’est-à-dire de la France qui se bat, c’est-à-dire de la seule France, de la vraie France, de la France éternelle...»
("... Paris, Paris bị lãng nhục, Paris tan nát, Paris bị ðọa ðày, nhýng Paris ðýợc giải phóng. Tự giải phóng, ðýợc nhân dân giải phóng, với sự hợp tác của quân ðội Pháp, với sự hỗ trợ và sự hợp tác của toàn thể nýớc Pháp, nghĩa là của nýớc Pháp ðấu tranh, nghĩa là của một mình nýớc Pháp, của nýớc Pháp thực thụ, của nýớc Pháp vĩnh cửu.."
Sau khi trở lại Paris, Týớng de Gaulle di chuyển vãn phòng về Bộ Chiến Tranh và công bố tiếp tục Nền Cộng Hòa Thứ Ba (the Third Republic), ðồng thời bác bỏ tính cách hợp lệ của chính phủ Vichy.
Kể từ tháng 9/1944, Týớng de Gaulle ðýợc coi là Tổng Thống (President) của Chính Phủ Lâm Thời của nýớc Cộng Hòa Pháp (the Provisional Government of the French Republic).
Vào nãm 1945, Týớng de Gaulle ðã phái Ðạo Quân Viễn Chinh Pháp (the French Far East Expeditionary Corps) sang Ðông Dýõng ðể thiết lập lại chủ quyền của nýớc Pháp, bổ nhiệm Ðô Ðốc d' Argenlieu làm Cao Ủy Ðông Dýõng thuộc Pháp (High Commissioner of French Indochina) và chỉ ðịnh Týớng Leclerc làm Tổng Tý Lệnh của các lực lýợng viễn chinh và tại Ðông Dýõng.
Dýới sự lãnh ðạo của Týớng de Gaulle, quân kháng chiến Pháp cùng với các ðạo quân thuộc ðịa, ðã giải phóng gần nhý 1/3 diện tích của nýớc Pháp. Ðạo quân này, ðýợc gọi là Lộ Quân Pháp Thứ Nhất (the French First Army) cũng chiếm ðýợc một diện tích lớn của lãnh thổ Ðức khi các lực lýợng Ðồng Minh tràn vào nýớc Ðức. Sự kiện này ðã khiến cho nýớc Pháp trở nên một thành phần tích cực khi các ðại diện Ðức Quốc Xã ký nhận ðầu hàng.
Ngày 20/11/1946, Týớng de Gaulle từ chức vì các xung khắc giữa các ðảng phái chính trị và ông cũng không ðồng ý về bản dự thảo Hiến Pháp của nền Cộng Hòa Thứ Tý, bởi vì ông tin týởng rằng bản dự thảo này ðặt quá nhiều quyền lực vào trong tầm tay của một quốc hội với cách thay ðổi tỉ lệ ðảng phái. Các nhân vật thay thế Týớng de Gaulle là các ông Felix Gouin, Georges Bidault và Léon Blum.
4/ Thời kỳ Cộng Hòa Thứ Tý (1946-1958).
Bởi vì các ðảng phái thuộc phe tả ðã ủng hộ chế ðộ ðại nghị (parliamentary regime) nên các chống ðối của Týớng de Gaulle ðối với dự thảo hiến pháp ðã không thành công. Bản dự thảo thứ hai của hiến pháp ðã ðýợc chấp thuận với tỉ lệ thấp trong cuộc trýng cầu dân ý tổ chức vào tháng 10/1946. Ðây là thứ mà Týớng de Gaulle không ýa nhiều hõn so với bản dự thảo thứ nhất.
Phạm Vãn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng 03/01/2008
Týớng Charles de Gaulle (1890-1970) Vị Anh Hùng và Tổng Thống của Nýớc Pháp
Týớng de Gaulle là một nhà lãnh ðạo quân sự và một vị chính khách của nýớc Pháp. Trýớc Thế Chiến Thứ Hai, ông nổi tiếng là một nhà chiến thuật chủ trýõng dùng xe thiết giáp phối hợp với máy bay chiến ðấu. Khi Thế Chiến kể trên xẩy ra, ông de Gaulle mang cấp bậc Thiếu Týớng, là nhà lãnh ðạo của Chính Phủ Pháp Tự Do, hoạt ðộng lýu vong tại nýớc Anh trong các nãm từ 1944 tới nãm 1946.
Sau cuộc nổi dậy của một số týớng lãnh Pháp tại Algiers vào nãm 1958, Týớng de Gaulle ðã kêu gọi thiết lập một hiến pháp mới và ông là Tổng Thống ðầu tiên của Nền Cộng Hòa Thứ Nãm của nýớc Pháp, phục vụ từ nãm 1958 tới nãm 1969.
Ý thức hệ chính trị của ông de Gaulle ðýợc gọi là chủ thuyết de Gaulle (Gaullism) với ðặc tính mong muốn nền ðộc lập quốc gia trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, với chủ trýõng kinh tế ðiều khiển và tự nguyện (economic dirigisme and voluntarism). Ðây là một phong trào xã hội bảo thủ (social conservative movement). Chủ thuyết này ðã gây ảnh hýởng lớn tới nền chính trị của nýớc Pháp trong các nãm về sau.
1/ Thời Niên Thiếu.
Charles de Gaulle là ngýời con thứ ba trong 5 ngýời con của một gia ðình bảo thủ, theo ðạo Cõ Ðốc La Mã (Roman Catholic). Cậu de Gaulle chào ðời ngày 22/11/1890 tại thành phố Lille, lớn lên tại thành phố Paris và theo học trýờng Stanislas và cũng có một thời gian học hành tại nýớc Bỉ.
Gia ðình bên cha có nguồn gốc quý tộc từ miền Normandie và Burgundy nhýng ðã ðịnh cý tại Paris một thế kỷ và chữ ðệm "de" trong tên gọi "de Gaulle" không phải là từ chỉ cãn gốc quý tộc dù cho gia ðình này thuộc loại danh giá. Gia ðình bên mẹ của cậu de Gaulle thuộc giới kinh doanh giàu có của miền kỹ nghệ Lille trong vùng Flandres của nýớc Pháp.
Ông nội của cậu de Gaulle là một nhà sử học, còn bà nội là một nhà vãn, cha của cậu tên là Henri, là một giáo sý dạy Triết Học và Vãn Chýõng của các trýờng tý thục Cõ Ðốc. Trong gia ðình này thýờng hay có các cuộc tranh luận chính trị bởi vì họ rất ái quốc và ngay từ thuở nhỏ, cậu de Gaulle ðã ðýợc cha mẹ dạy dỗ tinh thần quốc gia và hýớng dẫn ðọc các sách của các tác giả bảo thủ. Mặc dù mang nặng tính bảo thủ, gia ðình này cũng tôn trọng luật pháp và các ðịnh chế của nýớc cộng hòa nhýng các tý týởng xã hội và chính trị còn mang ðặc tính cởi mở, ảnh hýởng bởi ðạo Thiên Chúa La Mã, với tinh thần rộng lýợng, hay giúp ðỡ và tôn trọng truyền thống.
2/ Theo Binh Nghiệp 1912-1940.
Cậu Charles de Gaulle sau khi học xong bậc trung học, ðã chọn con ðýờng binh nghiệp, ðã theo học 4 nãm tại trýờng Quân Sự Saint-Cyr. Tốt nghiệp nãm 1912, Thiếu Úy de Gaulle tham gia một trung ðoàn bộ binh chỉ huy do Ðại Tá Philippe Pétain. De Gaulle là một sĩ quan trẻ, thông minh, làm việc chãm chỉ và rất can ðảm. Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Trung Úy de Gaulle ðã chiến ðấu tại Verdun, 3 lần bị thýõng và bị bắt làm tù binh trong 2 nãm 8 tháng, trong thời gian bị cầm tù này, chàng de Gaulle ðã tìm cách výợt ngục 5 lần nhýng không thành công.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất chấm dứt, chàng de Gaulle vẫn còn trong quân ngũ, làm việc tại các bộ tham mýu của các Týớng Maxime Weygand và Philippe Pétain. Khi cuộc chiến tranh Ba Lan – Xô Viết xảy ra (1919-1921), ông de Gaulle tình nguyện vào Phái Bộ Quân Sự Pháp tại Ba Lan (the French Military Mission to Poland) và ðã là một huấn luyện viên quân sự cho Bộ Binh Ba Lan. Ðại Úy de Gaulle ðã hoạt ðộng rất xuất sắc trong các cuộc hành quân gần giòng sông Zbrucz và ðã ðýợc trao tặng một huy chýõng quân sự cao cấp nhất của Ba Lan: Huy Chýõng Virtuti Militari.
Vào nãm 1927, ông de Gaulle ðýợc thãng cấp lên Thiếu Tá và ðýợc ðề nghị ở lại Ba Lan, nhýng ông ðã lựa chọn việc trở về nýớc Pháp ðể phục vụ với chức vụ sĩ quan tham mýu của Hội Ðồng Chiến Tranh Cao Cấp (Conseil Supérieur de la Guerre = Supreme War Council) ðồng thời ông cũng giảng dạy tại một trýờng quân sự và Thiếu Tá de Gaulle trở nên một sĩ quan ðýợc Týớng Pétain bảo trợ.
Ông de Gaulle ðã chịu ảnh hýởng rất nhiều của cuộc chiến tranh Ba Lan- Xô Viết, nên ông chủ trýõng dùng nhiều xe tãng, dùng cách vận chuyển nhanh chóng và giới hạn cách dùng chiến luỹ. Ông cũng học hỏi ðýợc nhiều bài học từ vị Thống Chế Jozef Pilsudski của nýớc Ba Lan, ðây là nhân vật mà trýớc ðó vài thập niên, ðã từng chủ trýõng tạo dựng một liên bang châu Âu.
Cãn cứ vào các nhận xét từ cuộc chiến tranh tại Ba Lan, ông de Gaulle ðã viết nhiều bài báo và cho xuất bản nhiều cuốn sách, ðặc biệt là cuốn "Về Ðạo Quân Chuyên Nghiệp" (Vers l' Armée de Metiers = Towards the Professional Army, 1934). Trong tác phẩm này, ông de Gaulle ðã ðề nghị một loại quân ðội cõ giới chuyên nghiệp với các sý ðoàn thiết giáp ðặc biệt, hõn là dùng cách phòng thủ tại chỗ, ðiển hình là Chiến Lũy Marginot.
Các quan ðiểm chiến thuật týõng tự ðã ðýợc nhiều nhà quân sự tài giỏi ðề cập tới: J.F.C. Fuller của nýớc Anh, Dwight D. Eisenhower và George S. Patton của nýớc Mỹ, Heinz Guderian của nýớc Ðức, Mikhail Tukhachevsky của nýớc Nga và Wladyslaw Sikorski của nýớc Ba Lan, nhýng các lý thuyết quân sự tân tiến của ông de Gaulle ðã bị các sĩ quan cao cấp ngýời Pháp bác bỏ, kể cả vị thầy cũ là Týớng Philippe Pétain, và rồi các liên lạc giữa ông de Gaulle với các cấp trên trở nên xấu ði, ngoại trừ với ông Paul Reynaud.
Nhý vậy trong 2 thập niên 1920 và 1930, do các quan ðiểm táo bạo, Thiếu Tá de Gaulle ðã bất hòa với các nhà lãnh ðạo quân sự Pháp, vì vậy cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông de Gaulle chỉ là một vị Trung Tá. Ngày 15/5/1940, Trung Tá de Gaulle ðýợc giao trách nhiệm chỉ huy Sý Ðoàn 4 Thiết Giáp (the 4th Armoured Division).
Ngày 17/ 5/1940, ðạo quân của Trung Tá de Gaulle ðã tấn công các lực lýợng chiến xa Ðức tại Montcornet. Với 200 chiến xa và không có máy bay khu trục yểm trợ, cuộc tấn công này ðã không cản ðýợc býớc tiến của quân xâm lãng Ðức, nhýng ðến ngày 28/5, các lực lýợng thiết giáp của Trung Tá de Gaulle ðã khiến cho bộ binh Ðức phải rút lui tại Caumont. Ðây chỉ là một trong số rất ít các chiến thắng của quân ðội Pháp trong suốt cuộc chiến. Nhờ chiến thắng kể trên, ông de Gaulle ðýợc Thủ Týớng Pháp Paul Reynaud thãng chức Thiếu Týớng và từ nay, ông ðýợc mọi ngýời gọi là "Týớng de Gaulle".
Ngày 6/6/1940, Thủ Týớng Paul Reynaud bổ nhiệm Týớng de Gaulle làm Thứ Trýởng Bộ Quốc Phòng và Chiến Tranh, rồi cử ông lo việc phối hợp với nýớc Anh. Vì chỉ là một nhân viên cấp thấp trong Chính Phủ Pháp, Týớng de Gaulle ðã không thành công khi phản ðối việc nýớc Pháp ðầu hàng Quân Ðội Ðức Quốc Xã. Ông ðã không thuyết phục ðýợc chính phủ này di tản qua Bắc Phi ðể tiếp tục chiến ðấu từ các thuộc ðịa của nýớc Pháp.
Tại nýớc Anh, Týớng de Gaulle là sĩ quan liên lạc với chính quyền Anh và ông ðã ðề nghị với Thủ Týớng Churchill vào ngày 16/6 tại London, công cuộc kết hợp chính trị giữa nýớc Pháp và nýớc Anh. Khi chính phủ Pháp tạm thời dời về thành phố Bordeaux, Týớng de Gaulle ðã dùng máy bay quay về nõi này và ðýợc biết tin rằng Týớng Pétain ðã trở nên Thủ Týớng cùng với ý ðịnh tìm kiếm cách ðình chiến với quân ðội Ðức Quốc Xã.
Vào ngày 16/6 này, Týớng de Gaulle ðã thực hiện một quyết ðịnh quan trọng nhất trong cuộc ðời của ông và trong lịch sử mới của nýớc Pháp: ông từ chối chấp nhận nýớc Pháp ðầu hàng và ông nổi loạn, chống lại chính quyền Pétain, khi ðó ðýợc coi là hợp pháp. Týớng de Gaulle ðã kêu gọi mọi ngýời dân Pháp tiếp tục công việc chiến tranh chống lại nýớc Ðức của Adolf Hitler.
Vào sáng ngày 17/6/1940, với 100,000 ðồng quan Pháp do ông Paul Reynaud giao cho ðêm hôm trýớc, Týớng de Gaulle lên máy bay, trốn khỏi thành phố Bordeaux, tránh ðýợc sự truy lùng của máy bay Ðức và chiều hôm ðó, ông ðã hạ cánh xuống thành phố London. Từ nay, Týớng de Gaulle bác bỏ việc nýớc Pháp ðầu hàng và ông bắt ðầu xây dựng một phong trào kêu gọi mọi thành phần Pháp hải ngoại ðoàn kết ðể chống lại quân Ðức Quốc Xã. Nhý vậy từ nay bắt ðầu cuộc nội chiến Pháp giữa chính phủ Vichy ðứng về phe Trục và nýớc Pháp Tự Do (the Free France) ðứng ðầu do Týớng de Gaulle, với lập trýờng bác bỏ cuộc ðình chiến và tham gia vào các lực lýợng Ðồng minh ðể chống quân Ðức.
3/ Lãnh ðạo các Lực Lýợng Pháp Tự Do 1940-45.
Ngày 18/6/1940, Týớng de Gaulle chuẩn bị nói chuyện với dân chúng Pháp qua ðài phát
Vào 25 tháng 8 nãm 1944, ông ðã ðọc một bài diễn vãn nổi tiếng, nhấn mạnh vai trò của ngýời dân Pháp trong công cuộc giải phóng. «... Paris, Paris outragé, Paris brisé, Paris martyrisé, mais Paris libéré. Libéré par lui-même, libéré par son peuple, avec le concours des armées de la France, avec l’appui et le concours de la France tout entière, c’est-à-dire de la France qui se bat, c’est-à-dire de la seule France, de la vraie France, de la France éternelle...»
("... Paris, Paris bị lãng nhục, Paris tan nát, Paris bị ðọa ðày, nhýng Paris ðýợc giải phóng. Tự giải phóng, ðýợc nhân dân giải phóng, với sự hợp tác của quân ðội Pháp, với sự hỗ trợ và sự hợp tác của toàn thể nýớc Pháp, nghĩa là của nýớc Pháp ðấu tranh, nghĩa là của một mình nýớc Pháp, của nýớc Pháp thực thụ, của nýớc Pháp vĩnh cửu.."
Sau khi trở lại Paris, Týớng de Gaulle di chuyển vãn phòng về Bộ Chiến Tranh và công bố tiếp tục Nền Cộng Hòa Thứ Ba (the Third Republic), ðồng thời bác bỏ tính cách hợp lệ của chính phủ Vichy.
Kể từ tháng 9/1944, Týớng de Gaulle ðýợc coi là Tổng Thống (President) của Chính Phủ Lâm Thời của nýớc Cộng Hòa Pháp (the Provisional Government of the French Republic).
Vào nãm 1945, Týớng de Gaulle ðã phái Ðạo Quân Viễn Chinh Pháp (the French Far East Expeditionary Corps) sang Ðông Dýõng ðể thiết lập lại chủ quyền của nýớc Pháp, bổ nhiệm Ðô Ðốc d' Argenlieu làm Cao Ủy Ðông Dýõng thuộc Pháp (High Commissioner of French Indochina) và chỉ ðịnh Týớng Leclerc làm Tổng Tý Lệnh của các lực lýợng viễn chinh và tại Ðông Dýõng.
Dýới sự lãnh ðạo của Týớng de Gaulle, quân kháng chiến Pháp cùng với các ðạo quân thuộc ðịa, ðã giải phóng gần nhý 1/3 diện tích của nýớc Pháp. Ðạo quân này, ðýợc gọi là Lộ Quân Pháp Thứ Nhất (the French First Army) cũng chiếm ðýợc một diện tích lớn của lãnh thổ Ðức khi các lực lýợng Ðồng Minh tràn vào nýớc Ðức. Sự kiện này ðã khiến cho nýớc Pháp trở nên một thành phần tích cực khi các ðại diện Ðức Quốc Xã ký nhận ðầu hàng.
Ngày 20/11/1946, Týớng de Gaulle từ chức vì các xung khắc giữa các ðảng phái chính trị và ông cũng không ðồng ý về bản dự thảo Hiến Pháp của nền Cộng Hòa Thứ Tý, bởi vì ông tin týởng rằng bản dự thảo này ðặt quá nhiều quyền lực vào trong tầm tay của một quốc hội với cách thay ðổi tỉ lệ ðảng phái. Các nhân vật thay thế Týớng de Gaulle là các ông Felix Gouin, Georges Bidault và Léon Blum.
4/ Thời kỳ Cộng Hòa Thứ Tý (1946-1958).
Bởi vì các ðảng phái thuộc phe tả ðã ủng hộ chế ðộ ðại nghị (parliamentary regime) nên các chống ðối của Týớng de Gaulle ðối với dự thảo hiến pháp ðã không thành công. Bản dự thảo thứ hai của hiến pháp ðã ðýợc chấp thuận với tỉ lệ thấp trong cuộc trýng cầu dân ý tổ chức vào tháng 10/1946. Ðây là thứ mà Týớng de Gaulle không ýa nhiều hõn so với bản dự thảo thứ nhất.