|
Post by Huu Le on Dec 6, 2007 18:57:08 GMT 9
Rabindranath Tagore Nguyễn Phúc Bửu Tập Cuối thiên niên thứ Hai, tưởng nên nhắc lại một vĩ nhân của châu Á mà tư tưởng và văn tài đã nhuộm đầy thế kỷ Hai mươi sau rốt với màu sắc Ðông phương, đặc biệt là màu sắc đạo Phật: Rabindranath Tagore. Ông là nhà thơ đầu tiên của Ðông phương được người Tây phương trao tặng giải thưởng văn chương Nobel. Người Việt chúng ta, suốt tám mươi năm thuộc Pháp được nhào nặn trong tinh thần tự tôn của Văn học Pháp chỉ thoáng biết Tagore là một nhà thơ và ít khi có cơ hội hiểu biết rõ văn tài của ông, nhất là ảnh hưởng của ông trong lãnh vực tư tưởng thế giới vào cuối thế kỷ Mười chín sang đầu thế kỷ Hai mươi. Tại học đường, ít khi chúng ta được nghe nói chính Tagore là người đã gợi ý và đóng góp nhiều, giúp Einstein phát sinh ra lý thuyết khoa học về Sự thật. Chính Tagore là người đi tiên phong trong lãnh vực triết lý cách ngôn ý thức hệ Lý tưởng. Nói chung, ông được xem là người đã đóng góp nhiều nhất đưa tư tưởng Ðông phương vào thế giới Tây phương và cũng là người đã đem tư tưởng Tây phương vào Châu Á. Và sở dĩ ông làm được vậy vì ông đã thấm nhuần văn hóa đạo Phật. Trong vũ trụ quan anglo-saxon đến bây giờ còn ít nhiều xa lạ đối với phần đông người Việt chúng ta, ảnh hưởng của Tagore đã đi vào chiều rộng và chiều sâu của mọi lãnh vực tư tưởng và nghệ thuật, cho nên trong bài sưu khảo nhỏ này, chúng tôi sẽ tự hạn chế tìm hiểu Tagore trong phạm trù thi văn của ông, và chỉ phần thi văn đã đóng góp nhằm vinh thăng đạo Phật. Trong phần đầu, ta sẽ tìm hiểu qua về tiểu sử của Tagore; phần sau, đôi chút văn chương và tư tưởng Tagore hướng về đức Phật, và đồng thời tìm những dữ kiện đã đánh dấu văn chương và tư tưởng này đã được đạo Phật thấm nhuần sâu sắc như thế nào. Ðọc lại tiểu sử Tagore Rabindranath Tagore sanh năm 1861 tại Calcutta, ngày đó là thủ đô của nước Ấn Ðộ, trong một gia đình đại gia quý tộc. Tên ông có nghĩa là "thiên thần ánh sáng mặt trời." Thân phụ, Debendranath Tagore là một triết gia và một lãnh tụ tôn giáo chủ trương canh tân Ấn Ðộ giáo. Người sáng lập ra hội Brahmo Samaj (phong trào Phạm thiên Bà-la-môn, giai cấp cao nhất trong xã hội Ấn Ðộ), thân phụ Tagore chủ trương loại bỏ các thủ tục hủ lậu và tàn khốc của Ấn Ðộ giáo như tục lệ hy sinh nhân mạng để tế thần, tục lệ suttee buộc người đàn bà phải nhảy vào lửa chết theo chồng, tục lệ sát nữ nhi (giết bé gái mới lọt lòng mẹ vì kỳ thị trọng nam khinh nữ). Debendranath Tagore được người Ấn Ðộ đương thời tôn sùng gọi là Maharishi, đại vĩ nhân. Rabindranath Tagore sinh trưởng trong một môi trường quý tộc, tỉ phú và chủ điền, dĩ nhiên lúc trẻ ông là một hoàng tử Bà-la-môn được hấp thụ một nền giáo dục hoàn mỹ về ngôn ngữ cổ điển, tiếng Phạn Sanskrit, tiếng cổ ngữ Ba tư Persian. Nhưng từ nhỏ, Tagore đã làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ, Bengali, và tiếng Anh, lúc này mới xâm nhập vào xã hội Ấn Ðộ. Trên bình diện nghệ thuật, Tagore là một nghệ sĩ thuần túy và đa hiệu được nền văn học Ấn Ðộ -- và cả văn học thế giới -- sắp lên hàng đầu các vĩ nhân của thế kỷ Hai mươi. Ông viết văn, làm thơ, viết kịch, soạn nhạc, sở trường về truyện ngắn, tranh đấu bằng văn học và tư tưởng cho quốc gia và xã hội Ấn Ðộ, và cao hơn tất cả, ông là một lãnh tụ của đức tin. Ông là con út trong một gia đình 14 anh em, ông theo thân phụ năm ông mười một tuổi đến Santiniketan, trang viện của gia đình làm lễ tĩnh tâm. Từ ngày đó, ông hấp thụ và lớn lên trong một môi trường thấm nhuần thi ca và đạo đức, và từ năm 1878 đến 1880, ông được gởi sang Luân Ðôn, Anh quốc học Luật để thành một luật gia. Nhưng thay vì học luật, ông hoàn toàn để thì giờ làm quen với văn chương và âm nhạc Tây phương. Năm 1881 trở lại nhà, ông cho in tập truyện "Thư của một người đi du lịch Âu châu", trong tạp chí Barati do hai người anh của ông chủ trương. Cũng trong thời gian này, ông cho xuất bản tập thơ đầu tiên Manasi, gồm những bài thơ trữ tình đoản thiên ca tụng tạo vật, tình yêu, và cũng bắt đầu tranh luận về những vấn đề xã hội và chính trị. Tập thơ "Tiếng hát Hoàng hôn" (Evening Songs, Les Chants du Crépuscule) được xuất bản năm 1882. Một năm sau, tại Calcutta, Tagore là nhân chứng của một cuộc giác ngộ tín ngưỡng, ảnh hưởng rất mạnh trên đức tin của ông, và ông xuất bản tập thơ tiếp theo nặng màu sắc tôn giáo "Tiếng hát Ban mai" (Morning Songs, Chants de l'Aurore). Cũng trong năm đó, Tagore lập gia đình với người con gái mười tuổi, cùng một bộ tộc và giai cấp của ông. Thân phụ của ông nhuốm bệnh giao việc quản trị sự nghiệp và tài sản gia đình lại cho ông. Trong khoản thời gian hai mươi năm kế tiếp, Tagore đi du lịch khắp nước Ấn Ðộ, và tiếp tục sáng tác thi văn. Tập thơ Citra (1896) được xem là một tuyệt tác thi phẩm. Thập niên 90 cũng là lúc Tagore bắt đầu viết tiểu thuyết ngắn trình bày tội ác của người phương Tây đã bóc lột dân tộc Ấn Ðộ quá dã man. Ðiển hình là tập truyện ngắn "The Cloud and Sun" (1894) bức vẽ truyền hình của người anh hùng Ấn Ðộ đứng lên tranh đấu chống bạo quyền của người da trắng, gợi ý và làm mẫu mực cho các nhân vật cách mệnh của André Malraux trong văn chương Pháp 30 năm sau. Cuối năm 1901, Tagore thực hiện được giấc mơ ông thường ấp ủ là lập một trung tâm giáo huấn đào tạo những con người tự do suy tư và giữ được hòa hợp cân bằng trong nhân sinh: ngôi trường trên lãnh thổ gia tộc của ông gọi là Trường Santiniketan. Từ năm 1902 đến năm 1907, tai họa giáng xuống gia đình của Tagore: vợ ông mất, con gái mất, một người bạn và học trò yêu, thi sĩ Chandra Roy mất , thân phụ mất (1905) và một người con trai út mất. Ðau khổ lại làm thiên tài của Tagore sung mãn hơn. Năm 1904, Tagore viết bản tuyên ngôn Svadeci Samaj (Phong trào quốc gia) đề xướng cuộc chiến đấu dành độc lập cho dân tộc Ấn Ðộ. Sinh viên Ấn Ðộ tại các đại học trong nước và tại Anh quốc đáp ứng phong trào bị thực dân Anh đuổi ra khỏi đại học. Ông tranh đấu quyên tiền giúp sinh viên tiếp tục được học trình. Năm 1910, xuất hiện tập thơ vĩ đại của Tagore, Gitanjali bằng tiếng Bengali, chính ông dịch ra Anh ngữ, xuất bản tại Luân đôn (Song Offerings, 1912), André Gide dịch ra Pháp ngữ (L'Offrande Lyrique, 1913), và một nhà thơ Nga dịch ra Nga ngữ (1914). Văn học Tây phương vinh thăng Tagore, tặng Giải thưởng Nobel văn chương năm 1913. Từ ngày đó, tác phẩm của Tagore được thi đua dịch ra Tây ngữ và các đô thị lớn ở Âu châu, Mỹ châu, Á châu, Ðông Nam Á dành nhau tổ chức những cuộc tiếp rước lớn để được nghe ông diễn thuyết về văn học và nghệ thuật. Cuối năm 1921, Tagore chuyển Trường Santinikenan thành một Viện đại học quốc tế gọi là Vicva Barati, Viện đại học đầu tiên tại Á đông truyền bá tư tưởng của người phương Ðông. Từ ngày đó, Tagore không ngớt du lịch thế giới để truyền bá tư tưởng văn học, triết lý và chính trị của ông. Tagore mất ngày mồng Bảy tháng Tám năm 1941, tại quận Jorasanko, tỉnh Calcutta. Năm 1961, khắp mọi nơi trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tagore. Vì sao Tagore đến với Ðức Phật Ở trên đã nói, Tagore là một vị hoàng tử Bà-la-môn, trong một gia tộc thấm nhuần Ấn Ðộ giáo, và tôn giáo này cũng như Hồi giáo không bao giờ chấp nhận chung sống trong đức tin với tôn giáo khác. Vậy ta cần tìm hiểu những lý do đã đưa nhà thơ đến gần đức Phật. Hậu bán thế kỷ thứ XIX tại Ấn Ðộ là giao thời giữa xã hội truyền thống quý tộc và đạo giáo với văn minh đô hộ Tây phương do người Anh đem tới. Giai cấp Bà-la-môn thượng lưu của Ấn Ðộ phản ứng bằng hai cách: một là thủ cựu, chống đối ra mặt hay chống đối dè đặt với trào lưu mới; hai là đổ xô chấp nhận văn minh tinh thần - nhiều hơn là văn minh vật chất - của phương Tây. Gia tộc của Tagore đã đi con đường trung dung: giữ gìn những điều tốt đẹp cổ truyền, và chấp nhận nhưng chọn lọc những điều mới, tốt và hữu lý của Tây phương. Trong sách Towards Universal Man ("Tiến tới con Người đại đồng hoàn vũ" New York, 1961) ta đọc trong bài "East and West" ("Ðông và Tây") một trích đoạn lại của Tagore: "Chúng ta (người Ấn Ðộ) bị nét huy hoàng của châu Âu làm ngây ngất, và đã đón nhận món quà phương Tây như những kẻ đi ăn xin. Nhận của bố thí như vậy không ích lợi gì. Dù đó là kiến thức, hay là một quyền hạn chính trị, ta nên đem trả đắt giá để mua, làm cho những thứ đó chỉ thật đến với chúng ta nếu chúng ta biết đấu tranh khắc phục những điều thoái hóa để đón nhận món quà mới. Nếu ta nhận chúng như là một ân huệ người phương Tây thí vào tay mình, ta sẽ không giữ được món quà (vì lâu dần thành ra vô giá trị). Chúng ta đã tự phỉ nhổ vào mặt mình khi đi ăn xin như vậy, và món quà nhận được chỉ làm hại ta, không ích lợi gì." Cái ví dụ cụ thể nhất là ngôn ngữ. Khi người Anh mới đến, thiết lập chính quyền cai trị, cả nước Ấn Ðộ ngày đó đổ xô đi học tiếng Anh để làm ông thông, ông ký cho chính quyền mới. Riêng tất cả con em trong gia tộc Tagore phải học tiếng Bengali trước mới được học Anh ngữ sau, và riêng cậu bé Tagore khi đọc cuốn Macbeth bắt buộc phải dịch từng câu từng chương sang tiếng Bengali để làm giàu cho quốc văn và để giúp cho mọi người hưởng thụ một áng văn hay. Những cố gắng này của từng cá nhân hay tập thể nhỏ, tuy có giá trị làm gương mẫu, tiếc là không ảnh hưởng được bao nhiêu để ngăn chận cái phong trào đua đòi chung theo Tây phương, hoàn toàn theo Tây phương, loại bỏ những giá trị cổ truyền của phương Ðông. Chính vào lúc này, những công trình sưu khảo đại quy mô của các nhà học giả phương Tây (như Huân tước Cunningham, Ðại tướng Marshall, người Anh; như Eugène Burnouf, Alfred Foucher, và Emile Sénart, người Pháp; như Odenberg và Kern, người Ðức và Hòa Lan) lại khám phá ra văn minh vĩ đại của đạo Phật bị chôn vùi suốt nghìn năm từ lúc các đạo quân Hồi giáo tràn từ phía Tây sang quét sạch đạo của Thích Ca ra khỏi nước Ấn Ðộ. Nhất là từ khi một sự tình cờ hãn hữu giúp nhà khảo cổ James Prinsep tìm lại được văn tự Pali làm sống lại kho tàng vô giá của kinh điển đạo Phật và đem dần ra ánh sáng sự nghiệp lập quốc, kiến quốc và sự nghiệp hoằng dương đạo Phật của đại đế Asoka mà nhà khảo cổ Pháp Alfred Foucher đặt vị thế trong lịch sử loài người cao hơn cả Tần Thủy Hoàng nước Trung Hoa, Charlemagne của Châu Âu, thì người Ấn Ðộ mới được chút nào tỉnh thức. Từ đó nẩy ra một mầm mống làm tái sinh đạo Phật tại Ấn Ðộ. Và chắc chắn đó là một lý do tiềm tàng để cho người tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt Tagore đã đến gần đức Phật. Trong buổi lễ khánh thành việc tái tạo tu viện Mulagandhakuti Vihara tại tháp lớn Sarnath, nơi đức Phật lần đầu tiên công bố giáo lý của ngài, Tagore ngày đó 26 tuổi xuất thần đưa ra lời cầu nguyện bằng một bài thơ: Nguyện cầu xin Ðấng Chí tôn, một lần nữa giáng xuống nơi đây uy danh của Ngài, Uy danh đã làm cho đất sanh thành của Ngài (đất Ấn Ðộ) * thành nơi chiêm ngưỡng của bao nhiêu giải đất gần và xa! Xin ánh sáng giác ngộ của Ngài dưới cây bồ đề lại sáng chói niềm toàn vẹn, Ðẩy xa âm u ngu muội; Và cầu xin đêm tối chấm dứt, để kỷ nguyên của Ngài lại rực rỡ trên đất Ấn Ðộ. (Tập thơ Parisesh, 1887) Tưởng nơi đây cần trình bày đôi điều nhận xét về ngôn ngữ trong thơ Tagore và các bổn dịch (tiếng Anh và tiếng Pháp mà người Việt chúng ta có thể tìm đọc). Tagore làm thơ bằng tiếng Bengali là tiếng mẹ đẻ của ông, và chính ông dịch thơ của ông sang Anh ngữ. Cũng có đôi khi ông làm thơ bằng tiếng Anh và chính ông dịch ra tiếng Bengali. Thơ Tagore được dịch ra rất nhiều Âu ngữ, như tiếng Anh, Ðức, Pháp, Ý, Y-pha-nho... và Á ngữ như tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật, do các nhà văn và nhà thơ lừng danh ở địa phương phiên dịch. Người Việt Nam chúng ta yêu thơ Tagore chỉ đọc được một bản dịch làm sách gối đầu của Ðỗ Khánh Hoan (Nxb An Tiêm) nhưng tiếc là dịch giả không có một lời giới thiệu hay chú thích làm lạc lõng người tìm đọc và tìm học trung bình. Hy vọng là tủ sách Hà Nội đã có nhiều bản dịch Tagore khác qua tiếng Việt, bởi lẽ "văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa" của Cách mệnh vô sản Sô viết trong bảy mươi năm trước đã hết sức ve vãn Tagore xem ông cũng như Picasso là "anh hùng của nghệ thuật cách mệnh." Bengali vào đầu thế lỷ XX là tiếng nói của hơn trăm triệu người Ấn Ðộ miền Tây (Calcutta), và miền Ðông (đất Bangladesh hiện tại). Bengali là một tiếng nói có nhiều giọng, âm thanh, lời nói như tiếng hát. Dịch thơ buộc dịch giả phải quen thuộc với âm thanh tiếng nói, suy luận cách dùng lời hiểu biết cú pháp, cảm thông nét tinh vi của tình ý. Các điểm phiến diện này vẫn chưa đủ. Người dịch còn làm thế nào tái tạo, phục sinh linh hồn của câu thơ qua tiếng nói của chính mình. Vì có ai đã làm được cho người ngoại quốc hiểu và cảm được một câu lục bát Kiều, nhất là câu Kiều ngâm sa mạc chăng? Như vậy, dịch thơ đã khó, dịch thơ Tagore lại càng khó hơn. Bởi lẽ Bengali chỉ là một thổ ngữ trong hàng trăm thổ ngữ của người Ấn Ðộ, và chính số lớn người Ấn Ðộ trung bình không đọc được thơ Tagore. Ðiều vui mừng là vì ảnh hưởng thi văn Tagore sâu rộng quá, thu hút được nhiều văn nhân châu Âu, nên hầu hết các bổn thơ, kịch, truyện ngắn... của ông đều được phiên dịch qua tiếng Anh, Pháp, Ðức do những ngòi bút giá trị thực hiện; và nhờ đó mà thi văn Tagore trở lại với người Ấn Ðộ, và trong một giới hạn nào đã đến với người Việt chúng ta! Nhưng ta hẳn trở lại với đề tài. Cũng là cái tinh thần yêu nước Ấn Ðộ ngày nay bị người da trắng dày xéo, đã khiến người thơ Tagore, trong một chuyến du lịch (mà ông gọi là hành hương) qua đất Thái Lan (ngày đó gọi là đất Xiêm), đã ca tụng dấu vết huy hoàng của đạo Phật còn lại trên chùa chiền và đền đài đất Thái, trong "Bài thơ tặng nước Xiêm," như sau: Tôi đến đây, một kẻ hành hương nhỏ bé quỳ trên ngưỡng cửa đất Xiêm
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 6, 2007 18:57:54 GMT 9
Tôi đến đây, một kẻ hành hương nhỏ bé quỳ trên ngưỡng cửa đất Xiêm Dâng lên lời thơ đạm bạc vĩnh hằng đất Ấn Ðộ vĩ đại còn dấu vết nơi đây xa cách nghìn trùng các đền đài khói nhang tàn lụi Và tôi xin tắm nước cam lồ tuôn ra từ lòng đất Xiêm, Suối nước muôn đời đã thoát ra từ nơi thâm nghiêm đất Ấn Ðộ Mặt trời của vô lượng Tình thương và Chánh đạo. (To Siam, Parisesh)
Ðất Thái láng giềng không phải là nơi độc nhất Tagore để lại bài thơ vinh ca đạo Phật. Bất cứ nơi nào ở châu Á và Ðông Nam Á có vết tích đền đài hay văn minh đạo Phật như Java, Bali, Miến Ðiện, Trung Hoa, Nhật Bổn... (điều đáng buồn là không có các xứ Ðông Dương thuộc Pháp!) mà Tagore đã ghé chân lúc còn trẻ hay về sau ở trên đỉnh cao danh vọng, ông cũng để lại thi văn tán dương đức Phật. Năm 1927, du hành qua các nước Ðông Nam Á, đến Java, thăm đại tháp Borobudur, Tagore viết:
Con người hôm nay không còn chút yên vui, trái tim khô cạn, rong ruổi chạy theo bả lợi quyền trước mặt, lợi quyền mà khi buông tay không còn chút ý nghĩa gì. Ðã đến lúc ta phải suy tư tự tại trú chân giữa cơn lốc vũ bão, để nhận chân đức từ bi vô lượng là ý nghĩa tận cùng của tự do Và nguyện cầu: Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh... (Borobudur, Parisesh,1932)
Tagore và đức từ bi của đạo Phật Nhưng không phải chỉ riêng cái tinh thần ái quốc của một người Ấn Ðộ hay cái tinh thần tự tôn của một người Ðông phương trước sức tàn bạo của phương Tây đã đưa Tagore đến với đạo Phật. Tagore đã đến với đạo Phật vì cái "tâm" của ông. Là một người Bà-la-môn sống trong truyền thống Ấn Ðộ giáo, Tagore đã được cái ý niệm "từ bi vô lượng" của giáo lý Thích Ca thu hút, và đã trở thành một đệ tử của Thích Ca. Ngày xưa đức Phật đã giải phóng con người thoát khỏi mọi trình tự nghi thức, mọi tín ngưỡng dị đoan, và Ngài đã xóa bỏ mọi điều chướng ngại về sắc da và chủng tộc giữa người và người. Lý luận của Ngài và bức thông điệp của Ngài về tình thương cũng như lời dạy bất bạo động của Ngài đã chinh phục khối óc và trái tim của nhà thơ Tagore. Những người bạn gần và hiểu biết cặn kẽ như huân tước William Rothenstein, thi hào người Ái-nhĩ-lan William Yeats đều lặp lại bằng chứng là tất cả lời dạy của đức Phật đều được thể hiện trong đời sống của Tagore. Một nhà thơ khác Edward Thompson đã từng dạy môn văn chương Bengali tại Bengal và Oxford, tác giả cuốn sách Rabindranath Tagore: His Life and Work (Calcutta, 1921) khẳng định "Ông ta (Rabindranath) thờ đạo Phật nhiều hơn là ông ta có cảm tình với vài giáo phái đạo Bà-la-môn thịnh hành (ngày đó) tại quê hương Bengal của ông. Tất cả lời dạy của đạo Phật đều được thể hiện trong đời sống hằng ngày của ông ta."
Ví dụ cụ thể là sát sanh. Nhà thơ đau đớn tột độ khi nhìn thấy cảnh sát sanh, và sự kiện này được mô tả biết bao lần trong tác phẩm kịch nghệ, trong truyện ngắn của Tagore, rút ý từ những Chuyện Tiền Thân Jataka của kinh Phật. Ðiển hình là bổn kịch Prayaschitta viết năm 1893, đem lên sân khấu năm 1909 cùng với bổn dịch tiếng Anh (Bổn dịch tiếng Pháp L'Expiatoire 1922). Nhân vật chính là hình ảnh của một tráng sĩ vô cùng tế nhị không chịu được nỗi đau xót của một con giun, con kiến bị chà đạp dãy chết, nhưng mà trái lại, nung nấu ý chí đấu tranh bất bạo động cho quyền làm người bình đẳng giữa người bản xứ với nhau (chế độ giai cấp, caste) và giữa người da trắng thống trị và người da vàng bị trị, đấu tranh chịu nhục hình để không đóng thuế cho quân cướp nước. Trên sân khấu chính trị, Thánh Cam-địa (Mahatma Gandhi) hai mươi năm sau mới xuất hiện, nhưng nhân vật trong kịch bổn của Tagore đã gợi lên hình dáng rực rỡ của người anh hùng Ấn Ðộ và Á châu Gandhi, từ đầu thế kỷ.
Ðồng thời với bổn kịch Prayanutsta, là tập truyện ngắn Rajarshi (có ghi trong thư mục ba bổn tiểu sử đầy đủ nhất của Tagore do Ernest Rhys (1915), Rothenstein (1932) và Krisna Kripalani (1962) viết, (nhưng không thấy ghi tên bổn dịch ra ngoại ngữ) lên án việc sát sinh thú vật. Tagore mô tả từng chi tiết với nỗi khổ đau không nói ra được của con vật bị người đem ra giết làm thức ăn hay giết để tế lễ theo tín ngưỡng dị đoan. Santiniketan là ấp riêng của gia tộc Tagore bao bọc con sông Shelaidaha bốn mùa có bóng mát nên rất nhiều chim muông. Ông ra lệnh cho người trong ấp và du khách không được săn bắn súc vật, tạo nên một khu đất dành riêng làm môi trường cho việc bảo tồn thiên nhiên. Và cho đến ngày nay dân chúng trong vùng giữ kỷ niệm tốt đẹp của Tagore, vẫn tuân theo các luật lệ cấm săn bắn, cấm phá hoại thiên nhiên của ông đặt ra từ lúc sanh thời.
Tagore biết rõ là trên hoàn vũ và trong suốt lịch sử nhân thế, đức Phật lên tiếng trước tất cả, tìm cách ngăn chận và chỉ rõ hậu quả tác hại do sự độc ác của loài người đối với cầm thú, đối với môi trường thiên nhiên gây ra, hãm hại đời sống ngày mai. Bởi vậy mà nhà thơ cầu nguyện xin đức Phật tái sinh (NatirPuja): OSerene, OFee, bổn dịch tiếng Anh):
Khẩn cầu xin Ðức Thế Tôn lại giáng xuống trần! Ngài, đấng vô lượng thọ, vô đẳng luân Xin xót thương ban niềm hy vọng muôn đời, Xin tưới xuống mật ngọt vô lượng tỏa ra từng cánh trên đài sen sáng chói! Thanh thản làm sao, bao la làm sao là đức từ bi vô lượng, là lòng hỷ xả không bờ của đấng Thế Tôn. Xin giang tay xóa bỏ mọi tục lụy trên cõi ta bà này
Cũng trong tập thơ này, ta đọc:
Ngài đã ban muôn vàn ân huệ, xin Ngài ban thêm cho mỗi chúng con ý thiện thoát ly, Xin Ngài khơi dậy trong mỗi chúng con chất men gây lại vốn người.
Tagore và đức trí của đạo Phật Tagore, như ta đã thấy ở trên, không chỉ đến với đạo Phật vì lòng ái quốc, vì cái tâm, mà sâu đậm hơn nữa vì điều trí. Trong Dhammapada, cuốn sách về tư tưởng triết lý và chính trị xuất bản năm 1930, ông viết:
"Không biết bao nhiêu chất liệu dưới mọi hình sắc đã được chôn vùi trong kinh điển nhà Phật. Và chính bởi ngày nay chúng ta đã xa lạ với các chất liệu vô giá đó mà tất cả lịch sử của văn minh Ấn Ðộ chưa được khai thác vẹn toàn. Ước gì một số thanh niên Ấn Ðộ chúng ta, khi đã được điều nhận xét trên khắc phục, bỏ tâm huyết vào chuyên chú học Phật, làm việc tìm học đạo Phật thành một sứ mệnh để phục hưng cái gia sản muôn đời."
Tagore không chỉ đưa ra một lời kêu gọi suông. Chính ông tự bắt tay vào việc, gom góp sưu tầm kinh Phật, hiệu đính và dịch thuật qua Anh ngữ, giúp tạo nên phong trào học Phật vào đầu thế kỷ Hai mươi. Trong Ðại học Visva Bharati dựng lên một Phân khoa Phật học, hằng năm mở các khóa đào tạo và tu nghiệp cho người học Phật. Học giả trên toàn thế giới đổ xô đến tham gia học tập, thảo luận và sưu khảo dưới sự chỉ đạo của ông.
Năm 1935, khi uy danh của ông đã vang lừng bốn bể, Tagore nhận lời mời của Hội Maha Bodhi Society đến chủ tọa lễ đản sanh của Ðức Phật, người Ấn Ðộ gọi là lễ Purnima (danh từ thống nhất về sau gọi là lễ Visakha). Nhà thơ tuyên bố: "Ngày trăng tròn visakha hôm nay, tôi được đến đây thành tâm thiết lễ Ðản Sanh của đấng Chí Tôn. Tôi xin cúi đầu đãnh lễ trước đức Phật mà từ đáy lòng tôi hiểu Ngài là con người cao cả nhất trong mọi tầng lớp người đã sinh ra trong cõi đất này. Ðây là dịp cho tôi chứng minh được lòng tôn kính của tôi đối với đức Phật, đây là cơ hội hãn hữu đối với tôi. Tôi xin thành kính đãnh lễ đức Phật mà mỗi ngày tự trong thâm tâm tôi vẫn thành kính chiêm ngưỡng." Trong dịp này, nhà thơ đặt một bài thơ phổ nhạc ca tụng đức Phật mà người Ấn Ðộ ví như bài thơ "Ode to Joy" của Frederic Schiller soạn và được đại nhạc gia Beethoven phổ qua nhạc trong khúc Ðại hòa tấu giao hưởng số Chín. Bài thơ phổ nhạc của Tagore (do chính ông phổ nhạc) bắt đầu bằng câu: "Vạn tuế đức Thế Tôn đã thành công loại bỏ lỗi lầm đen tối (của mọi người"). Giáo sư Krishna Kripalani tác giả bộ tiểu sử bằng Anh ngữ được xem là xác thực nhất của Tagore viết là Tagore vô cùng kiêu ngạo, suốt đời ông chưa hề quỳ lạy một người hay hình tượng nào, vậy mà khi đến Bồ đề đạo tràng Buddha Gaya, thấy bức tượng của Thích Ca, ông sụp xuống lạy đãnh lễ. Cũng chính Tagore đã viết về mình: "Tôi là một đệ tử của Ðức Phật, quy y vì trí tuệ của Ngài. Thế nhưng mỗi khi tôi đến những nơi có xá lợi của Ngài, tôi vô cùng xúc động vì cảm thấy được gần gũi Ngài" (Trích trong sách Samalochana, 1888). Khi xa hình tượng đức Phật, không còn bồi hồi xúc động, nhà thơ và triết gia trở lại với lý trí thuần túy, viết trong sách Buddha & Buddhism (Ðức Phật và Ðạo Phật 1927): "Ðạo Phật là sức mạnh tinh thần đầu tiên trong lịch sử loài người đã liên kết được bao nhiêu nòi giống xa cách nhau bằng muôn nghìn sông núi, bằng tiếng nói và phong tục, bằng nếp chênh lệch giữa trình độ văn minh. Sức mạnh liên kết này không phải là mối giao liên thương mãi, không phải là thành trì đế quốc, hay là điều hiếu kỳ khoa học, lại càng không phải là nổi khát vọng tìm đất mới để di cư. Sức mạnh liên kết này thuần túy là tinh thần cố gắng bất vụ lợi giúp con người đạt tới cứu cánh tận cùng của mình ("Tagore: Buddha & Buddhism đã dẫn).
Thật vậy, hài hòa giữa muôn loài để tìm lối thoát nghiệp chướng khổ đau "cứu cánh tận cùng của con người (man's find goal)" là ý nguyện của đức Phật. Ngài đã liên kết chúng sinh trên trái đất bằng tình yêu và nhà thơ Tagore đã nhận chân được điều đó. Phương tiện đạt tới hài hòa là làm theo lời dạy của đức Phật: tin Phật, tin vào Pháp của Phật, và xem tăng lữ là người bạn dẫn đường. Tagore viết:
Khi lời rao giảng quy y Tam Bảo Như sấm vang trên thinh không qua đồi qua núi Qua sa mạc, qua biển khơi Các quốc gia thức tỉnh cùng vùng dậy đáp ứng giữa miếu đường, quyết tâm dứt nghiệp dâng lời thề nguyện hướng về giải thoát đập tan xiềng xích trói buộc nhục thân (Bài thơ tặng nước Xiêm, Parisesh)
*
Giáo sư Buddhadeva Bose thuộc Viện đại học Bombay là một trong những chuyên gia nghiên cứu Tagore, đã mô tả ông như là "một hiện tượng của thế kỷ"..., "một sức mạnh của Tạo hóa thổi vào nền văn học"... và "điểm đặc trưng nhất của ông là khối lượng, bao xuyến mọi lãnh vực, muôn hình muôn trạng"... "Rabindranath Tagore là nhà văn toàn diện, đầy đủ bậc nhất trên thế giới." Buddhadeva Bose cũng như các nhà học giả cổ điển khác sắp văn phẩm của Tagore thành bốn mục: thơ trữ tình; chuyện ngắn và tiểu thuyết; kịch nghệ và âm nhạc; tư tưởng triết học và chính trị.
Trong lãnh vực thi ca trữ tình, địa vị của Tagore tại Ấn Ðộ có thể đem so sánh với Nguyễn Du trong thi văn nước ta trong mực thước khiêm tốn hơn, dĩ nhiên khiêm tốn về phần chúng ta. Trước Tagore,thơ trữ tình Bengali không ai để ý; sau Tagore chưa có một nhà thơ nào sánh kịp được một phần. Thơ Tagore lại còn là loại thơ để phổ nhạc vì lẽ âm thanh đặc biệt của tiếng nói Bengali, và cũng vì lẽ Tagore là một nhạc sĩ thiên tài.
Chuyện ngắn và tiểu thuyết của Tagore phần đã được dịch ra Anh ngữ được sắp xếp thành ba bộ lớn, gồm bốn đề tài: sự cách biệt giữa đời sống thôn quê và thành thị; giáo dục là phương tiện để tiến bộ; tinh thần quốc gia và ý kiến chính trị; khai phóng nữ lưu và cộng đồng.
Tác phẩm kịch nghệ và phần phổ nhạc là phần sáng tác Tagore vừa ý nhất. Như ở trên đã minh định giới hạn, trong bài này ta không bàn tới tư tưởng triết lý và chính trị của Tagore, mà chỉ tìm hiểu phần sáng tác thuần túy văn nghệ của ông liên hệ đến đạo Phật.
Ðiều cần phải nhắc lại ngay là chín mươi phần trăm sáng tác thi văn của Tagore viết bằng tiếng Bengali, và chỉ khoảng gần một nửa được dịch qua Anh ngữ. Trong số tác phẩm được dịch ra Anh Ngữ, phần liên hệ tới đạo Phật không đếm được bao nhiêu bởi lẽ người Tây phương làm quen với Ấn Ðộ ngày đó rất nghi ngại, nếu không nói là khinh khi đạo của Thích Ca.
Năm 1961, kỷ niệm 100 năm sinh hạ Tagore, nhà xuất bản Macmillan tổng kê tác phẩm Tagore trong tập sách Centenary Volume trong đó ghi chú 41 tác phẩm kịch nghệ. Chín bổn đã được dịch lúc sinh thời tác giả, tám bổn được in sau khi ông mất, 24 bổn còn lại nguyên tiếng Bengali. Trong những bài đã dịch qua tiếng Anh chỉ có đôi bổn như kịch bản Prayaschitta đã dẫn trên quen thuộc với chúng ta về mặt đạo Phật. Bây giờ nếu ta đọc giáo sư Bimal Barna, một học giả Phật giáo trường Nalanda (Calcutta Reviews, 1960) ta học được là rất nhiều bài thơ trữ tình, chuyện ngắn, kịch bản của Tagore được sáng tác rút chất liệu trong những Chuyện Tiền thân đức Phật (Kinh Jataka). Bismal Barna dẫn những bài thơ ngắn hoặc trường thiên, nhiều bài đã viết ra kịch bản, tiểu thuyết như tập thơ Katha, Sreshta-Bhiksha, Mastakbikray, Nagarlaksmi, Pujarini... những đề mục quen thuộc trong kỹ nghệ điện ảnh Ấn Ðộ ngày nay! Nhà sưu khảo còn viết thêm là những bài thơ, truyện ngắn ,kịch bản này được diễn tả với bút pháp "không so sánh được trong lịch sử văn chương."
Rất tiếc vì hàng rào ngôn ngữ, thế hệ chúng ta bắt buộc trở thành xa lạ với những kỳ quan này. Phương Tây -- vì lý do hoàn cảnh, có chúng ta trong đó -- chỉ biết được Tagore thoáng qua và không trọn vẹn. Sau này những người trẻ tìm học đạo Phật, nếu đến với Tagore, chắc chắn sẽ gặp một kho tàng vô giá chờ đợi được khai thác.
(* chữ trong vòng đơn là lời của người dịch. Tập thơ Parisesh viết bằng tiếng Pali năm 1887, dịch ra Anh ngữ và xuất bản tại Luân đôn năm 1932.)
--------------------------------------------------------------------------------
Source: Thế Kỷ 21, Năm Thứ Mười Một, #124, August 1999
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 17:26:05 GMT 9
Rabindranath Tagore Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Rabindranath Tagore Rabindranath Tagore tại Kolkata, khoảng 1915 Sinh ngày: 7 tháng 5 năm 1861 tại Kolkata, Ấn Độ Mất ngày: 7 tháng 8, 1941 (80 tuổi) tại Kolkata, Ấn Độ Nghề nghiệp: Nhà thơ, Nhà viết kịch, Triết gia Quốc tịch: Anh Ấn Giai đoạn sáng tác: Thời kỳ phục hưng Bengal Ảnh hưởng tới: D. R. Bendre, André Gide, Yasunari Kawabata, Kuvempu, Gabriela Mistral, Pablo Neruda, Octavio Paz Rabindranath Tagore, hay Rabindranath Thakur, (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là một nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao Giải Nobel Văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel. Tagore sinh tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia... thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch... Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. Dù sao thì Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa rất ưu việt. Khi đi học, cậu được học tất cả trên mọi lĩnh vực nhưng cậu thích nhất thơ ca, tiểu thuyết và kịch. Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài (50 tập thơ). Bắt đầu từ việc năm 14 tuổi ông được đăng bài thơ "Tặng hội đền tín đồ Ấn Độ giáo" ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (12 bộ dài và vừa), luận văn, hàng trăm truyện ngắn, kí, kịch (42 vở), 2000 tranh vẽ,... Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực. Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông. Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn... Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội. Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi là Brahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành Đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951. Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới. Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương. Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore gọi Gandhi là "Mahatma" - linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là "Gurudev" - thánh sư. Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác. Visva-Bharati represents India where she has her wealth of mind which is for all. Visva-Bharati acknowledges India's obligation to offer to others the hospitality of her best culture and India's right to accept from others their best R. Tagore (Founder of VISVA-BHARATI)
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 17:26:54 GMT 9
Các bậc thầy văn chương thế giới: Rabindranath Tagore 17:16' 22/04/2006 (GMT+7) (VietNamNet) - Thơ của Tagore giàu tinh thần nhân loại, là chiếc gạch nối giữa những truyền thống văn hóa Ấn Độ và văn hóa hiện đại Phương Tây.
Rabindranath Tagore (7/5/1861-7/8/1941)
Giải Nobel văn học 1913
* Nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhạc sĩ và họa sĩ Ấn Độ
* Nơi sinh: Calcutta (Ấn Độ)
* Nơi mất: Calcutta (Ấn Độ)
Rabindranath Tagore (1861-1941) Rabindranath Tagore được trao giải vì những vần thơ tuyệt diệu, mang những cảm nhận sâu sắc, độc đáo, thể hiện một tài năng thơ ca đặc biệt khác thường. Thơ của Tagore giàu tinh thần nhân loại, là chiếc gạch nối giữa những truyền thống văn hóa Ấn Độ và văn hóa hiện đại Phương Tây. Thi phẩm nổi tiếng nhất của ông là Lời dâng (Gitanjali).
Rabindranath Tagore là con thứ mười bốn của một điền chủ - nhà cải cách tôn giáo giàu có. Ông đi học ở trường một thời gian ngắn; về sau học ở nhà với cha. 8 tuổi, R. Tagore nổi tiếng giỏi văn nhất vùng Bengal; 13 tuổi có thể sáng tác nhạc, họa, đọc sách cổ bằng tiếng Phạn và dịch kịch Shakespeare(*); 17 tuổi sang Anh du học; năm 1880, trở về Ấn Độ, viết vở nhạc kịch đầu tiên. Từ giữa những năm 1880, R. Tagore sáng tác nhiều tập thơ, truyện ngắn, kịch; về sau, khi trở thành chủ bút các tờ báo khác nhau ông đã tự in tác phẩm của mình. Hầu hết sáng tác viết bằng tiếng Bengal, trong đó có một phần được R. Tagore dịch sang tiếng Anh.
Là người yêu nước nhiệt thành, nhưng R. Tagore không thể hiện mối quan tâm lớn đến chính trị, và việc từ chối ủng hộ M. Gandhi(*) của ông đã làm thất vọng nhiều người hâm mộ ông ở Ấn Độ. R. Tagore coi điều quan trọng hơn cả không phải là thay đổi chính thể, mà là phục hưng dân tộc, cho rằng có thể tổng hợp những tinh hoa từ các nền văn hóa Đông và Tây. Vì mục đích đó, năm 1901 ông thành lập trường tư thục Santiniketan dành cho học sinh nam tại thái ấp cùng tên của gia đình ở ngoại ô Calcutta; năm 1921 nơi đây trở thành trường Đại học Tổng hợp Quốc tế Visvabkharati dành cho các nhà khoa học có nguyện vọng tìm hiểu các nền văn minh Phương Đông. R. Tagore dành phần lớn thời gian trong những năm cuối đời cho việc phát triển trường đại học này và cho nhiệm vụ đoàn kết thế giới trong nền văn hóa quốc tế. 50 năm sau Visvabkharati trở thành một trường Đại học Tổng hợp danh tiếng thế giới.
Năm 1910 ra đời tiểu thuyết sáng giá nhất của R. Tagore - Gora - ủng hộ tính nhẫn nại tôn giáo và chính trị.
Năm 49 tuổi R. Tagore xuất bản bằng tiếng Anh tập thơ Gitanjali (theo tiếng Bengal có nghĩa là Lời dâng). Thi phẩm này là lí do cho việc đề cử trao giải Nobel Văn học năm 1913, được cả thế giới công nhận là kì công thứ hai của văn học Ấn Độ (sau Sakuntala của Kalidasa(*), nhà thơ lớn Ấn Độ thế kỉ thứ V). Đang ở Mỹ, R. Tagore không đến Thụy Điển nhận giải, chỉ gửi một bức điện cảm ơn ngắn. Nhà thơ hiến số tiền nhận từ giải thưởng cho ngôi trường của mình để miễn học phí cho học sinh. Thời kì sau Lời dâng R. Tagore bắt đầu được tôn vinh ở Tổ quốc của mình như một vị thánh.
Từ năm 45 đến 59 tuổi, R. Tagore lần lượt đi thăm các nước Nhật, Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc và Liên Xô; năm 1929 ông đã đến thăm Sài Gòn 3 ngày. Năm 1915, ông được vua Anh phong tước hiệu quý tộc, nhưng sau vụ thảm sát ở Amritsar năm 1919, ông đã từ chối danh hiệu đó. R. Tagore được trao học vị danh dự của bốn trường đại học tổng hợp Ấn Độ và trường Đại học Tổng hợp Oxford.
Năm 68 tuổi R. Tagore bắt đầu vẽ tranh và triển lãm ở Münich, New York, Paris, Moxcva và nhiều nơi khác.
80 tuổi R. Tagore qua đời sau hai năm bị mù, để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút kí, tiểu luận, diễn văn, hồi ức, thư tín cùng hàng ngàn ca khúc và tranh vẽ vô giá.
ở Việt Nam, R. Tagore được dịch khá nhiều. Năm 2004 Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đã tổ chức xuất bản R. Tagore. Tuyển tập tác phẩm - bao gồm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn của R. Tagore và các công trình nghiên cứu về ông.
Ca khúc Chúa là linh hồn tất cả chúng sinh viết năm 1911 trở thành quốc ca Ấn Độ từ năm 1950.
* Tác phẩm:
- Câu chuyện nhà thơ (Kabikahine, 1878), trường ca.
- Tiếng hát buổi chiều (Sandhya sangeet, 1882), thơ.
- Tiếng hát buổi sáng (Prabhat sangeet, 1883), thơ.
- Lễ hiến sinh (Visarjan, 1890), kịch.
- Một lí tưởng (Manasi, 1890), thơ [The ideal one].
- Con thuyền vàng (Sonar tari, 1894), thơ [The golden boat].
- Khoảnh khắc (Khanika, 1900), thơ.
- Tặng vật (Naivedya, 1901), thơ.
- Kí ức (Sharan, 1902), thơ.
- Hạt cát nhỏ (Cokher bāli, 1903), tiểu thuyết.
- Đắm thuyền (Naukādubi, 1906), tiểu thuyết.
- Trẻ thơ (Sisu, 1909; năm 1915 đổi tên thành Trăng non), thơ.
- Gora (1910), tiểu thuyết.
- Vượt biển (Kheya, 1906), thơ.
- Hi sinh (Naibedya, 1910), thơ.
- Lời dâng (Gitanjali, 1910), thơ [(Song offerings].
- Thân chủ của gia đình (Raja, 1910), kịch [The king of the dark chamber].
- Vô cảm (Achalayatan, 1912), kịch [The immovable].
- Sở bưu điện (Dakghar, 1912), kịch.
- Hồi ức (Jibansmriti, 1912), thơ.
- Đá khát và những câu chuyện khác (Hungry stones and other stories, 1913), tập truyện.
- Bài hát tưởng niệm (Gitimalya, 1914), thơ [Wreath of song].
- Người làm vườn (The gardener, 1914), thơ.
- Vòng hoa thơ (Gitali, 1914), thơ.
- Ngôi nhà và thế giới (Ghare - baire, 1916), tiểu thuyết [The home and the world].
- Thầy tu khổ hạnh (Xaniaxi, 1916), kịch.
- Mùa xuân trở lại (Phalguni, 1916), kịch.
- Đường bay của chiếc cần cẩu (Balaka, 1916), thơ [The flight of cranes].
- Mùa hái quả (Fruit - gathering, 1916), thơ.
- Tặng vật (Lover's gift, 1918), thơ.
- Kẻ lánh nạn (The fugitive, 1921), thơ.
- Thác nước (Muktadhara, 1922), kịch [The waterfall].
- Cây trúc đào đỏ (Rakta - karabi, 1926), kịch [Red oleanders].
- Dòng chảy (Yogayog, 1929), tiểu thuyết [Crosscurrents].
- Cuộc khủng hoảng của nền văn minh (Sabhyatar sankat, 1941), tiểu luận.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Lời tuyên cáo của Đông phương, Hoa Đường dịch, Tạp chí Nam Phong số 89, 1924.
- Thần ái tình, Diệp Văn Kỳ dịch, Nhứt đức - thơ xã, 1929.
- Gia đình và thế giới, Mặc Lan dịch, Tạp chí Tao Đàn (từ số 6-13), 1939.
- Tagorơ, (thơ, truyện ngắn, kịch), Cao Huy Đỉnh - La Côn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn Học, 1961.
- Tập thơ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Rơ- vin Đra-nat Ta-gor, nhiều người dịch, NXB Văn Học, 1961.
- Thơ, Xuân Diệu - Yến Lan - Nguyễn Đình Thi tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn Học, 1961.
- Khúc hát dâng đời, Phạm Hồng Dung - Phạm Bích Thủy dịch, NXB Nguồn Sáng, 1969.
- Thực hiện tâm linh, Như Hạnh dịch, NXB Kinh Thi, 1969.
- Tâm tình hiến dâng (nguyên tác: The gardener, thơ), Đỗ Khánh Hoan dịch, NXB An Tiêm, 1969 - 1986; NXB Ba Vì, 1969 -1971 - 1972 - 1973 - 1974; NXB Đà Nẵng, 1997 - 2001.
- Lời dâng (thơ), Đỗ Khánh Hoan dịch, NXB An Tiêm, 1972; NXB Ba Vì, 1969 - 1971 - 1972 - 1973 - 1974; NXB Đà Nẵng, 1997 - 2001.
- Tặng vật (thơ), Đỗ Khánh Hoan dịch, NXB An Tiêm, 1972; NXB Ba Vì, 1969-1971- 1972 - 1973 - 1974; NXB Đà Nẵng, 1997 - 2001.
- Khúc hát dâng đời - Gitanjali - và ba danh tác khác: Tặng phẩm người tình, Mảnh trăng non, Chim lạc, Phạm Hồng Dung - Phạm Bích Thủy dịch, NXB Nguồn Sáng, 1971.
- Kẻ lang thang (truyện), Lê Thanh Hoàng Dân dịch, NXB Trẻ, 1973.
- Thực hiện toàn mãn, Nguyễn Ngọc Thơ dịch, NXB An Tiêm, 1973.
- R.Tagore - Thơ, Đào Xuân Quý dịch, NXB Văn Học, 1979.
- Đời tôi, Hoàng Hải dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, 1984.
- Mây và mặt trời (tuyển tập truyện ngắn), Hoàng Cường - Nguyên Tâm dịch, NXB Văn Học, 1986.
- Nàng Binôdini (tiểu thuyết), Hồng Tiến - Mạnh Chương, NXB Đà Nẵng, 1989.
- Đắm thuyền (tiểu thuyết, 2 tập), Lưu Đức Trung - Trương Thị Thu Vân - Hoàng Dũng dịch, NXB Văn Học, 1989.
- R. Tagore - Tác phẩm chọn lọc, Lưu Đức Trung tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, 1990 - 1994.
- Tagore - người tình của cuộc đời (có tuyển chọn một số bản dịch thơ của Tagore), Nhật Chiêu - Hoàng Hữu Đản biên soạn, NXB Hội Nhà Văn, 1991.
- Mảnh trăng non (thơ), Phạm Hồng Dung - Phạm Bích Thủy dịch, NXB Nguồn Sáng, 1969; NXB Đà Nẵng, 1997.
- Thơ Tago (thơ), Đào Xuân Quý dịch, NXB Văn hóa - Thông tin, 2000.
- Người đàn ông xứ Kabul, Phạm Viêm Phương dịch; Ảo ảnh tan vỡ, Quan chánh án, Hoàng Cường dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997.
- Cứu rỗi, Ngô Tự Lập dịch, in trong Đôi mắt lụa, NXB Văn Học, 1998.
- R. Tagore như tôi hiểu (60 bài thơ), Nguyễn Linh Quang dịch, NXB Văn hóa - Thông tin, 2001; NXB Giáo Dục, 2003.
- Đói, Lá số tử vi, Từ con, Người láng giềng xinh đẹp, Hoàng Cường dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Dàn hỏa thiêu, Chiến thắng, Kho vàng bí mật, Những bậc bến tắm bên sông, Hoàng Cường dịch; Từ con, Các babu vùng Nayajor, Nguyễn Tâm dịch; Cô dâu bé nhỏ, Nguyễn Văn dịch; Cứu rỗi, Ngô Minh Tự dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999.
- R. Tagore, tuyển tập tác phẩm, Lưu Đức Trung tuyển chọn và giới thiệu, 2 tập, NXB Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004.
Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển
Harald Hjärne, Chủ tịch Uỷ ban giải Nobel, Viện Hàn lâm Thụy Điển
Khi trao giải Nobel văn chương cho nhà thơ Anh - Ấn Rabindranath Tagore, Viện Hàn lâm Thụy Điển lấy làm vinh hạnh trao sự công nhận này cho một tác giả mà, đúng như những lời trong bản di chúc cuối cùng của Alfred Nobel, trong suốt một năm qua đã viết nên những bài thơ hay nhất "của một khuynh hướng lí tưởng". Hơn nữa, sau khi cân nhắc kĩ lưỡng thấu đáo và đi đến kết luận rằng những bài thơ của ông gần như đã đạt những chuẩn mực qui định, Viện Hàn lâm cho rằng không còn lí do gì để do dự, bởi vì tên tuổi nhà thơ vẫn còn xa lạ với châu Âu do sự xa cách về địa lí, càng không có lí do gì để từ chối, khi người sáng lập ra giải thưởng đã nói dứt khoát ý nguyện và mong muốn của ông rằng “khi xét trao giải, không nên quan tâm đến quốc tịch của người được đề cử”.
Tác phẩm Thơ Dâng (1912) (Gitanjali), một tuyển tập các bài thơ tôn giáo, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đặc biệt thu hút sự chú ý của các nhà phê bình văn học.
Kể từ năm ngoái, tập thơ này, trong ý nghĩa đích thực và đầy đủ nhất, đã thuộc về nền văn học Anh, bởi vì chính tác giả, một người được giáo dục và tôi luyện thành nhà thơ bằng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn, đã tự dịch các bài thơ của mình sang tiếng Anh, khoác lên chúng một chiếc áo mới, cũng hoàn thiện trong hình thức và độc sáng trong cảm hứng không kém nguyên tác. Nhờ vậy mà những bài thơ đến được với mọi người ở cả Anh, Hoa Kỳ và toàn thế giới phương Tây, nơi văn chương tao nhã luôn luôn được chú ý và coi trọng. Hoàn toàn độc lập với bất kì kiến thức nào về thơ ca Bengal, cũng đứng ngoài mọi khác biệt về niềm tin tôn giáo, trường phái văn học và mục đích đảng phái, Tagore nổi lên ở mọi lĩnh vực như một bậc thầy mới mẻ và đáng khâm phục về nghệ thuật thơ ca, nền nghệ thuật luôn luôn khăng khít không rời với sự bành trướng của nền văn minh nước Anh kể từ thời Nữ hoàng Elizabeth. Đặc điểm của loại thơ này, một loại thơ mà ngay lập tức đã nhận được sự ngưỡng mộ nồng nhiệt, là sự kết hợp hoàn hảo những ý tưởng của chính nhà thơ và những ý tưởng vay mượn từ người khác thành một chỉnh thể thống nhất; phong cách cân đối về tiết tấu của ông, như một nhà phê bình Anh đã đúc kết, là "sự kết hợp đồng thời giữa nét duyên dáng nữ tính của thơ ca với sức mạnh đầy nam tính của văn xuôi"; sở thích nghiêm ngặt, có thể nói là cổ điển của ông trong việc chọn từ, và cách sử dụng những yếu tố biểu đạt trong một ngôn ngữ vay mượn - tất cả những đặc điểm này, nói ngắn gọn, đã làm tác phẩm của ông thật độc đáo, không thể lặp lại, nhưng cũng vì vậy mà khó lòng chuyển được sang bất kì ngôn ngữ nào khác.
Sự đánh giá tương tự cũng đúng với tập thơ ra đời trước đó: Người làm vườn, Những vần thơ tình ái và cuộc sống (1913). Tuy nhiên, trong tác phẩm này, như chính tác giả chỉ ra, ông đã đúc kết lại chứ không phải diễn dịch những cảm hứng của ông thời trước. ở đây ta thấy một khía cạnh khác của con người ông, một con người lúc đắm mình trong những cảm xúc hạnh phúc và dằn vặt luân phiên xen kẽ nhau trong tình yêu non trẻ, khi lại làm mồi cho những cảm xúc đợi chờ và vui sướng dâng lên trước những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, tất cả lại đan xen với những hình ảnh thoáng qua về một thế giới cao hơn cõi trần thế.
Bản dịch tiếng Anh cuốn tiểu thuyết của Tagore được xuất bản với tiêu đề Phác hoạ về cuộc sống người Bengali (1913). Mặc dù hình thức những câu chuyện này không mang đậm dấu Ấn của ông - dấu Ấn của một bút lực khác hẳn, nhưng nội dung của chúng minh chứng cho sự linh hoạt và tầm quan sát rộng của ông, sự thông cảm sâu sắc với số phận và cuộc đời của nhiều loại người khác nhau, và tài năng của ông trong việc xây dựng và phát triển cốt truyện.
Từ đó đến nay, Tagore xuất bản một tuyển tập thơ, tranh vẽ về tuổi thơ và cuộc sống gia đình, có tựa đề mang tính biểu tượng là Trăng non (1913) (The Crescent Moon), và một số bài thuyết trình trước sinh viên các trường đại học Hoa Kỳ và Anh, về sau được tập hợp thành một quyển sách mà ông gọi là Sādhanā (bản dịch tại Việt Nam: Thực nghiệm tâm linh, hay Thực hiện toàn mãn (1913)). Những tác phẩm này tiêu biểu cho quan điểm của ông về những phương cách để con người đạt được một đức tin mà nhờ nó họ có thể sống. Chính sự kiên trì tìm kiếm mối quan hệ đích thực giữa đức tin và tư tưởng đã khiến Tagore nổi bật lên là một nhà thơ có tài năng phong phú mà nét đặc trưng là tư tưởng uyên thâm, nhưng trên hết là cảm xúc nồng nàn và sức mạnh lớn lao trong ngôn ngữ hình tượng. Quả thật, văn học hư cấu rất hiếm khi đạt tới những âm thanh và sắc màu với sự tương phản và đa dạng lớn lao đến thế, có khả năng thể hiện một cách hài hoà và tinh tế mọi cung bậc khác nhau của cảm xúc, từ sự khao khát của linh hồn về cõi vĩnh hằng cho đến niềm hân hoan khi ngắm nhìn những trò chơi con trẻ. ********** Chúng tôi được biết đại thi hào Tagore có ghé thăm Sài Gòn hồi đầu thế kỷ 20, BPVH có thể cho biết những thông tin về chuyến viếng thăm này còn lưu trữ ở đâu. Trước mắt có thể cho chúng tôi biết đại lược nội dung chuyến viếng thăm này không?
- Sự kiện thi hào Rabindranath Tagore đến Sài Gòn được báo Phụ Nữ Tân Văn số ra ngày 27-6-1929 và số ra ngày 4-7-1929 ghi nhận. Theo đó, ngày 21-6-1929, Tagore đến Sài Gòn và ông "xuống tàu về Ấn Độ" ngày 23-6-1929.
Tại Sài Gòn, "Tagore có viếng thăm các nhà bảo tàng, nhiều ngôi chùa cổ cũng như các trường học nổi tiếng" - Phụ Nữ Tân Văn ghi nhận. Đặc biệt, dịp này thi hào Rabindranath Tagore có ghé thăm tòa soạn Phụ Nữ Tân Văn, lúc đó đóng tại số 42 Catinat (nay là đường Đồng Khởi).
Tại đây, ông bà Nguyễn Đức Nhuận - chủ bút báo Phụ Nữ Tân Văn - có tặng Tagore một cây lãnh của Hãng dệt Lê Phát Vĩnh ở Cầu Kho để làm kỷ niệm. Tagore cũng "đặt may một cái áo dài Annam" và "mua hai cái khăn đóng" mà theo ghi nhận của bà Nguyễn Đức Nhuận là "nhà thi hào Ấn Độ ưng ý cái lối quốc phục của mình". Được biết trong chuyến viếng thăm này. Tagore có ý định diễn thuyết tại rạp hát Thành Xương (lúc đó ở đường Boresse - Yersin sau này) nhưng đã bị nhà cầm quyền Pháp ngăn cản, không cho
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 17:27:21 GMT 9
Tầm hiểu biết của chúng ta (người phương Tây, ND) về loại thơ này, vốn hoàn toàn không phải là một thứ thơ “của lạ phương xa” (exotic, còn dịch là “dị lãm”, ND) mà thực chất là một thứ thơ phổ quát toàn nhân loại, tương lai có lẽ sẽ bổ khuyết cho những gì ta biết ngày nay. Tuy nhiên chúng ta biết rằng, động cơ của nhà thơ là nhằm đạt tới nỗ lực hòa giải hai bán cầu của nền văn minh vốn bị tách xa nhau, sự tách biệt mà trên tất cả là dấu Ấn đặc thù của thời đại chúng ta và chứa đựng những nhiệm vụ và vấn nạn quan trọng nhất của nó. Ý nghĩa đích thực của tác phẩm này được phát lộ một cách rõ ràng và thuần khiết nhất trong những nỗ lực truyền bá Cơ đốc giáo trên toàn thế giới. Trong tương lai, những người nghiên cứu sử sẽ biết rõ hơn chúng ta trong việc đánh giá tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó (việc truyền bá Cơ đốc giáo), kể cả trong những điều hiện nay còn ẩn giấu khỏi tầm nhìn của chúng ta, và ở những nơi người ta không hề công nhận nó hoặc chỉ công nhận một cách ậm ừ miễn cưỡng. Họ sẽ không ngần ngại đánh giá nó cao hơn cách đánh giá mà hiện nay người ta nghĩ là thích hợp ở nhiều nơi. Chính nhờ chuyển động này mà những suối nguồn tươi trẻ và trong mát được khai thông, từ đó thơ ca uống nguồn cảm hứng, thậm chí cho dù những dòng suối này có thể hòa quyện với những dòng chảy lạ, và cho dù ta có thể lần về đúng cội nguồn của chúng hay không, hay nguồn của chúng có được qui vào những chiều sâu của thế giới mộng mơ không. Đặc biệt hơn, ở nhiều nơi trên thế giới, sự truyền bá Cơ đốc giáo đã đem lại cú hích quyết định đầu tiên cho sự hồi sinh và phục hưng ngôn ngữ bản địa, ví như việc thoát khỏi sự ràng buộc vào một truyền thống giả tạo, hay, như hệ quả tự nhiên, hướng tới sự phát triển khả năng của nó trong việc nuôi dưỡng và duy trì mạch máu thơ ca sống động, tự nhiên. Hội truyền giáo Cơ đốc đã sử dụng ảnh hưởng như một lực lượng có tác dụng trẻ hoá ở cả Ấn Độ, nơi mà, cùng với sự phục hưng tôn giáo, nhiều ngôn ngữ bản địa đã sớm được đưa vào sử dụng trong văn học, nhờ vậy mà được công nhận và có một vị trí ổn định. Tuy nhiên, rất có thể, chúng lại hoá thạch một lần nữa dưới áp lực của một truyền thống mới đang dần hình thành. Nhưng ảnh hưởng của Hội truyền giáo Cơ đốc lớn lao hơn nhiều so với danh sách chính thức những người đăng kí cải đạo. Cuộc chiến tranh trong suốt thế kỉ qua giữa những ngôn ngữ bản địa đang tồn tại và thứ ngôn ngữ linh thiêng (đã chết từ lâu) của những thời xa xưa để kiểm soát những nền văn học mới lẽ ra đã có một chiều hướng và một kết cục hoàn toàn khác, nếu như các ngôn ngữ bản địa kia không được sự quan tâm hỗ trợ và nâng đỡ từ các nhà truyền giáo đầy đức độ hi sinh. Chính ở Bengal, tỉnh Anh-Ấn lâu đời nhất, nơi mà nhiều năm trước mục sư Carey, nhà tiên phong trong sứ mệnh truyền giáo không mệt mỏi ấy, đã tới để rao giảng về nước Chúa và cải thiện ngôn ngữ bản địa. Chính ở đó, Rabindranath Tagore đã ra đời, năm 1861. Ông là con của một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống về năng lực trí tuệ trong rất nhiều lĩnh vực. Môi trường nơi cậu bé, sau là chàng thanh niên Tagore lớn lên hoàn toàn không phải một môi trường thô thiển, một môi trường áp đặt cho con người những ý niệm có sẵn về thế giới và cuộc sống. Ngược lại, trong gia đình ông, bên cạnh một cảm quan được hàm dưỡng cao độ về nghệ thuật là một niềm tôn kính sâu xa đối với tinh thần tìm kiếm và sự minh triết của tổ tiên, những người đã để lại cho đời sau những bản văn thiêng dùng trong nghi lễ thờ cúng của gia đình. Xung quanh ông cũng vậy, đang hình thành một tinh thần văn học mới có ý thức vươn tới nhân dân và làm quen với những nhu cầu cuộc sống của họ. Tinh thần mới này được tiếp thêm sức mạnh bởi những cải cách mà chính phủ tiến hành sau khi cuộc nổi dậy của người lai Ấn bị dập tắt. Cha của Rabindranath là một trong những thành viên lãnh đạo nhiệt thành nhất của một cộng đồng tôn giáo mà con trai ông vẫn theo cho đến nay. Tổ chức này, tên gọi là "Brahmo Samaj", không nổi lên như một giáo phái theo kiểu Ấn Độ giáo thời cổ, mà với mục đích truyền bá việc tôn thờ một số vị thánh siêu việt hơn mọi vị thánh khác. Đúng hơn, nó được sáng lập vào nửa đầu thế kỉ XIX bởi một người giác ngộ và có thế lực, bị lôi cuốn bởi giáo lí đạo Cơ đốc mà ông học được ở Anh. Ông cố gắng mang lại cho truyền thống Ấn Độ giáo cổ xưa một cách diễn dịch mới phù hợp với những gì ông cho là tinh thần và ngụ ý của niềm tin Cơ đốc giáo. Cuộc tranh luận về giáo thuyết từ đó lan rộng cùng với sự diễn dịch về sự thật mà ông và những người kế tục rao giảng, từ đó cộng đồng bi chia cắt thành nhiều giáo phái độc lập. Đặc điểm của tổ chức này, vốn đặc biệt hấp dẫn với những người trí thức được đào tạo ở trình độ cao, ngay từ khởi thủy đã luôn luôn loại trừ sự gia tăng tín đồ đơn thuần về số lượng. Tuy nhiên, ảnh hưởng gián tiếp của tổ chức này, ngay cả đối với sự phát triển của nền giáo dục cộng đồng và văn học, thật sự là rất to lớn. Trong các thành viên của tổ chức trưởng thành mấy năm gần đây, Rabindranath Tagore đã đạt tới mức độ ưu việt. Đối với họ, ông như một vị đạo sư và nhà tiên tri đáng kính. Mối liên hệ mật thiết giữa đạo sư và môn đồ cùng với những điều mà người ta nhiệt thành tìm kiếm đã đuợc thể hiện một cách sâu sắc và giản dị cả trong cuộc sống tôn giáo lẫn trong đào tạo văn chuơng. Để thực hiện tác phẩm của đời mình, Tagore đã tự trang bị một nền văn hoá đa diện, Âu cũng như Ấn, được mở rộng và trưởng thành bằng cách đi du lịch nước ngoài và học tập chuyên sâu tại Luân Đôn. Thời thanh niên ông đã đi du lịch khắp đất nước, cùng với cha đến tận dãy Himalaya. Khi bắt đầu sáng tác bằng tiếng Bengali ông vẫn còn rất trẻ, và ông cũng đã thử tài năng trong lĩnh vực văn xuôi và thơ, thơ trữ tình và kịch. Ngoài việc mô tả cuộc sống của những người bình thường ở đất nước mình, ông còn nhắc đến trong nhiều tác phẩm những vấn đề về phê bình văn học, triết học và xã hội học. Cách đây không lâu, ông đã có một thời kì ngắt quãng trong vòng quay những hoạt động sôi nổi và bận rộn, bởi vì, theo đúng tập tục lâu đời của dòng họ, ông cảm thấy cần phải sống ẩn dật một thời gian trên một chiếc thuyền bồng bềnh trên mặt nước tại một chi lưu của sông Hằng thiêng liêng. Sau khi trở về cuộc sống bình thường, ông ngày càng nổi danh với mọi người như một người thông thái và đáng sùng kính. Ngôi trường ngoài trời mà ông thành lập ở miền tây Bengal, dưới tán những cây xoài, đã đào tạo một số lớn thanh niên, và đến lượt họ, những người này, môn đệ thuần thành của ông, lại truyền bá học thuyết của ông trên toàn quốc. Hiện nay ông đã nghỉ hưu, sau gần một năm là khách mời danh dự của các hội văn chương ở Anh và Hoa Kỳ, và tham gia Đại hội về Lịch sử tôn giáo tổ chức mùa hè năm ngoái (1913) tại Paris. Bất cứ khi nào gặp những tâm hồn rộng mở đón nhận học thuyết cao siêu của mình, ông đều truyền dạy với tư cách kẻ mang tin lành đến từ ngôi nhà báu vật ở phía Đông mà từ lâu người ta tiên đoán là có thật, bằng một ngôn ngữ mà mọi người đều hiểu. Hơn nữa, trong thái độ của chính Tagore, ông chỉ là người trung gian trao lại cho kẻ khác những gì bẩm sinh ông có mà không đòi hỏi gì đáp lại. Ông hoàn toàn không có ý định toả sáng trước mọi người như một thiên tài hay kẻ phát minh ra cái gì mới mẻ. Trái với sự sùng bái công việc, vốn là sản phẩm của cuộc sống khép kín của những thành phố phương Tây, luôn nuôi dưỡng một tinh thần bất an, luôn tranh đấu là tinh thần luôn đấu tranh đòi chinh phục tự nhiên nhằm thỏa mãn ý thích sở hữu và lợi nhuận, "dường như chúng ta đang sống" - Tagore nói - "trong một thế giới thù địch nơi chúng ta phải vắt kiệt mọi thứ ta cần từ một kết cấu sự vật ương bướng và xa lạ" (Sādhanā, trang 5). Ngược với tất cả những vội vàng tất bật khiến con người kiệt sức kia, ông đặt trước chúng ta một nền văn hoá mà trong những khu rừng rộng lớn, hoà bình và thiêng liêng của Ấn Độ đã đạt được sự hoàn thiện của nó, một nền văn hoá chủ yếu tìm kiếm bình an trong tâm hồn trong sự hoà điệu ngày càng viên mãn với sự sống của chính tự nhiên. Đó là một bức hoạ mang chất thơ - chứ không phải tính lịch sử - mà Tagore đã phát lộ cho chúng ta để khẳng định lời hứa của ông rằng có một hoà bình cũng đang chờ đợi chúng ta. Nhờ quyền lực gắn liền với năng lực tiên tri, ông thoải mái miêu tả những quang cảnh lờ mờ hiển lộ trước nhãn quan sáng tạo của ông vào một giai đoạn đồng thời với chỗ khởi đầu của thời gian. Tuy nhiên, cũng như chúng ta, ông cách xa những gì quen được gọi là triết học phương Đông, cách xa những giấc mơ đau đớn về sự chuyển linh hồn và cái nghiệp (karma) phi ngã, cách xa đức tin phiếm thần - trên thực tế là trừu tượng - vốn được xem như một đặc tính riêng biệt của nền văn minh cao ở Ấn Độ. Chính Tagore không thừa nhận rằng một đức tin như thế lại có thể được rút từ những hành ngôn dù sâu sắc nhất của các nhà hiền triết trong quá khứ. Ông nghiên cứu thánh kinh Veda, Áo nghĩa thư (Upanishad) và cả lời của Phật tổ theo cách của riêng ông, để khám phá ra trong đó những gì đối với ông là sự thật không thể chối cãi. Khi tìm kiếm cái thần thánh trong thiên nhiên, ông tìm thấy một nhân cách sống thực với những đặc điểm của quyền năng tuyệt đối, vị Chúa Trời bao quát toàn vũ trụ, kẻ mà năng lực tinh thần siêu nhiên dù thế nào đi nữa vẫn hiển lộ trong mọi đời sống tạm bợ phù du, nhỏ cũng như lớn, nhưng đặc biệt là trong tâm hồn con người luôn khao khát sự vĩnh hằng. Lời ngợi ca, cầu nguyện, và lòng mộ đạo nhiệt thành tràn ngập những bài thánh ca mà ông đặt dưới chân vị Chúa Trời vô danh của ông. Một tinh thần khắc khổ hay thậm chí là đạo hạnh sẽ trở nên xa lạ với kiểu sùng mộ thánh thần này của ông, kiểu tôn thờ có thể xem như một loại thuyết hữu thần duy mĩ. Lòng mộ đạo đó hoàn toàn hòa hợp với toàn bộ sự nghiệp thơ ca của ông, và nó đã mang lại bình an cho ông. Ông tuyên giảng về bình an sẽ đến với những tâm hồn kiệt sức và mòn mỏi âu lo ngay cả trong vương quốc của Chúa Trời Cơ đốc giáo. Đây chính là thuyết huyền nhiệm, có thể gọi như vậy, nhưng không phải là kiểu huyền nhiệm tìm kiếm sự từ bỏ cá nhân để thể nhập vào một cái Tất cả gần với cái Hư không (Nothingness), mà là một thuyết huyền nhiệm, với tất cả sự thông thái và tài năng của một tâm hồn được tu dưỡng đến độ cao nhất, nhiệt thành lên đường tìm gặp Chúa, người tạo dựng toàn vũ trụ. Dạng thức tích cực và năng động này của thuyết huyền nhiệm không phải là không ai biết tới ở Ấn Độ trước thời của Tagore, đúng ra chỉ hạn chế trong số những người tu khổ hạnh và triết gia thời cổ đại, nhưng thường gặp hơn trong nhiều hình thức của bhakti, một loại người mộ đạo mà bản chất là tình yêu và đức tin sâu xa vào Thượng đế. Ngay từ thời trung cổ, bị ảnh hưởng một số biện pháp của đạo Cơ đốc và một số tôn giáo ngoại nhập khác, bhakti đã tìm kiếm lí tưởng cho đức tin của mình trong những khúc đoạn khác nhau của Ấn Độ giáo, rất khác nhau về đặc tính, nhưng về thực chất đều là độc thần trong khái niệm. Tất cả những dạng thức cao của đức tin này đã biến mất hoặc bị thoái hoá đến không nhận ra được, bị bóp nghẹt bởi sự sinh sôi nảy nở tràn lan của vô số thứ ngẫu tượng hổ lốn đã lôi kéo được tất cả những người Ấn mà nội lực không đủ mạnh để cưỡng lại những lời đường mật của chúng. Mặc dù Tagore đã vay mượn đây đó vài nốt nhạc trong những bản tấu khúc của những người tiền bối, nhưng ông bước trên một nền móng vững chắc hơn trong thời đại này, thời đại mà các dân tộc trên trái đất xích lại gần nhau hơn cùng tiến trên con đường hòa bình, nhưng cũng là con đường của xung đột, để chung lưng đấu cật gánh vác trách nhiệm, một thời đại dùng năng lượng của chính mình để gửi đi những thông điệp chào mừng và lời chúc tốt đẹp vượt xa mọi đất liền và biển cả. Mặc dù vậy, bằng những hình ảnh gợi suy tư, Tagore đã chỉ cho ta thấy làm thế nào muôn sự phù vân đều bị cuốn vào trong cõi vĩnh hằng: Thời gian là vô tận trong tay Người, hỡi Chúa của con. Không ai đếm được những phút của Ngườì Ngày và đêm qua đi, năm tháng nở rồi tàn như những bông hoa. Người biết chờ đợi. Những thế kỉ của Người nối nhau hoàn thiện một bông hoa dại nhỏ nhoi. Chúng con không có thời gian để mất, và vì không có thời gian, chúng con phải giành giật cơ hội. Chúng con quá nghèo nên không thể chậm trễ. Và như vậy thời gian trôi qua, trong khi con trao nó cho bất cứ ai cáu kỉnh đòi hỏi nó, và bàn thờ của Người không có bất kì lễ vật gì. Lúc ngày tàn, con vội vã vì sợ chẳng may cửa của Người sẽ đóng; nhưng rồi con nhận thấy vẫn còn thời gian. (Thơ Dâng, 82) Trần Tiễn Cao Đăng và Tân Đôn dịch Bản quyền bản tiếng Việt bài tuyên dương này thuộc Trung tâm Culture Globe.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 15, 2007 17:32:24 GMT 9
Lời cầu nguyện (Người dịch: Đông Hồ)
Cầu nguyện đấng toàn năng toàn trí Đánh tan lòng vị kỷ đê hèn Cầu cho lòng được tự nhiên Khi vui vui thoảng khi buồn buồn qua Cầu cho được tài hoa lỗi lạc Để đem thân gánh vác việc đời Lòng ta nguyện với lòng trời Gần đời cao thượng xa đời nhỏ nhen Nguyện đừng khuất phục quyền uy vũ Nguyện đừng khinh bỏ kẻ khốn cùng Lòng trời xin tựa cho lòng Trong khuôn số mạng vui cùng Hóa nhi. Quê hương nhân loại (Người dịch: Đông Hồ) Đó là chốn lẳng tăng khí cốt Đó là nơi khoáng đạt tâm hồn Là nơi bác ái chứa chan Là nơi chẳng có tương tàn tương ly Đó là chốn trí tri cách vật Đó là nơi nỗ lực thành công Là nơi đạo lý quán thông Thanh cao chẳng lẫn trong vòng tối tăm Đó là chốn vững cầm thiên ý Bước vào nơi ngõ trí đường nhân Thảnh thơi trong cõi tinh thần Quê hương nhân loại muôn phần tỉnh tươi.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 14, 2022 2:02:38 GMT 9
Hai Vị Thiền Sư Phạm Công Thiện
Huu Dung Nguyen Chúng ta tốn hơi nhiều thời gian cho "Giặc thầy chùa" (TTQ, TNH), chữ của Đặng văn Nhâm (nhà văn, nhà báo VNCH), nhưng GHPG tại VN có những vị chân tu đúng nghĩa, Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát, những viên ngọc. Mời các bạn. Các vị chân tu thì im lặng, lo tu, suy nghiệm, mặc sự đời trôi chảy, tìm chân lý. Mời các bạn xem Phạm Công Thiện viết về các vị ấy. 1. Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát đã bị kết án tử hình nhưng đảng, vì áp lực quốc tế, phải buông tay. 2. Thế nào là thiền sư. 3. Những gì Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát đã làm cho đạo Phật tại VN .
Hai Vị Thiền Sư Phạm Công Thiện California ngày 18.10.1988
Tôi được may mắn quen biết Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát khi hai vị này còn rất trẻ và còn dưới hai mươi tuổi. Bây giờ hai vị đã được 45 tuổi (cả hai đều sinh năm 1943).
Lúc tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa; bây giờ thì hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc và lại cũng là Anh Hùng Dân Tộc của Lịch Sử Việt nam hiện đại. Tại sao "gọi là Anh Hùng Dân Tộc" thì rất dễ nhận thấy (mà cụ thể nhất là cái án tử hình về tội "phản cách mạng và bạo động vũ khí lật đổ chế độ", vân vân).
Nhưng tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là "hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt nam hiện nay"? "Thiền sư" à? Chỉ nội cái danh hiệu "thiền sư" đã là mệt rồi, lại còn thêm mấy chữ mơ hồ như "lỗi lạc nhất, thông minh nhất.."? Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với tất cả thận trọng và suy nghĩ chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cái nhìn khác thường của tôi đối với nhị vị.
Tại sao là "thiền sư"? Và "thiền sư": Là thế nào? Không cần trả lời trực tiếp về những câu hỏi bất thường này. Nơi đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đôi điều gián tiếp và ai muốn hiểu gì thì cứ hiểu. Không ai có thể tự nhận đủ thẩm quyền tôn giáo và tâm linh để trả lời dứt khoát những câu hỏi bất thường trên. Chỉ có những kẻ bỏ cả trọn đời mình lặng lẽ sống chết với cái gọi là "Bồ Đề tâm" hay "Phát Bồ Đề Tâm" thì may ra mới trực nhận đâu đó khí phách và thần dụng bảng lảng của "nghịch hành thiền".
Mấy chữ "thiền sư" đã bị người ta lạm dụng để tự truy tặng một cách lố bịch hay truy tặng kẻ khác với nông nổi dễ dãi tự mãn phè phỡn nông cạn, nhất là từ lúc Thiền hay Zen trở thành cái mốt trí thức đốn mạt. Bất cứ người nào tỏ vẻ "kiêu ngạo khác thường" một chút là có những hành động cử chỉ "ngược đời trái đạo" một chút thì tự gán hay bị gán là "thiền sư'.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ không bao giờ tự nhận lời "thiền sư" và cũng không bao giờ nghĩ mình là cái gì cả trên mặt đất này. Hai người này chỉ là những kẻ lễ độ khiêm tốn một cách tự nhiên và không bao giờ biết giả vờ "hạ mình" với ý đồ kín đáo chà đạp lên trên kẻ khác.
Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau, thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên và một cách "vô công dụng hạnh" từ đời sống thường nhật và tinh thần "diệu nhập" của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là "thiền sư" với tất cả đắn đo thận trọng và với tất cả ý nghĩa cao đẹp và "như thực" của một danh xưng "xung thiên chí"...
Giữa dòng thác lũ ào ạt và địa chấn thường trực của sinh mệnh, thế mệnh, và tính mệnh của quê hương, một sớm hôm nào đó, tôi đã được xô đẩy lặn hụp với Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát; tất cả ba anh em chúng tôi đều xuất thân từ Viện Phật Học miền Trung mà vị cha già của chúng tôi Hòa Thượng Trí Thủ (người đã bị Cộng sản Hà Nội thủ tiêu ngay lập tức sau khi Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị bắt giam vào ngày 1 tháng 4 năm 1984, vì "tội tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ Cộng sản").
Đối với tôi, từ lúc nào cho đến lúc nào thì Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát cũng như và hơn cả "những đứa em ruột thịt" (mang vị thế "đàn anh" thì chỉ thực sự là "anh" khi mình có đủ sức mạnh và sở kiến xô đẩy cho những đứa em vượt xa hơn mình, và sự thực hiện nay là Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đã vượt xa hẳn tôi đến nghìn trùng biên tế trong việc cưu mang trọn vẹn Tính Mệnh Việt Nam mà hậu quả bi đát là cái án tử hình do Hà Nội tàn nhẫn thực hiện bao nhiêu lần đối với bao nhiêu bộ óc siêu việt và bao nhiêu Anh hùng Liệt sĩ bất khuất của Dân Tộc.)
Cả ba anh em đều lớn lên, trưởng thành và làm việc với Viện Đại Học Vạn Hạnh mà chúng tôi coi như mái nhà gia đình trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa trắng; chúng tôi đều là thành phần chính yếu nhất của Ban Biên Tập Tạp chí Tư Tưởng do tôi chủ trương thành lập, cùng với Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Trí Hải (Phùng Khánh), Chân Hạnh, Lê Mạnh Thát.
Tất cả ý thức dẫn đạo cho cả Viện Đại Học Vạn Hạnh là do chính tất cả anh em chúng tôi quyết định (vị Viện Trưởng đương thời chỉ có thế lực về mặt hành chánh quản trị đại học, còn tất cả đường hướng tư tưởng triết lý dẫn đạo đều do chúng tôi khai thông và thể hiện trong những năm từ 1966 đến 1970, sau đó, tôi xa lìa Việt Nam cho đến nay và tôi không còn biết rõ tinh thần Vạn Hạnh như thế nào từ 1970 cho đến khi bị Cộng sản đóng cửa vào khoảng sau năm 1975.
Thực sự từ những năm 1966 cho đến 1970, Lê Mạnh Thát đang còn du học tại Hoa Kỳ, học ban tiến sĩ tại Viện Đại Học Wisconsin, Madison, hình như mãi đến năm 1973 mới về Đại Học Vạn Hạnh nhưng chúng tôi vẫn liên lạc với nhau thường xuyên, nhất là qua bài vở của tạp chí Tư Tưởng.
Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sinh năm 1943 (Thát sinh quán tại Quảng Trị và Tuệ Sỹ thì nguyên quán tại Quảng Bình và ra đời ở Paksé tại Lào). Tên thực của Tuệ Sỹ là Phạm Văn Thương và pháp hiệu Tuệ Sỹ do chính mình tự đặt ra, có lẽ vì muốn theo gương của vị Đại Thiền sư đời Trần Tuệ Trung Thượng Sỹ? Cũng như Lê Mạnh Thát đã tự đặt pháp hiệu là Trí Siêu để gợi lại tên tuổi của hai vị Trưởng lão Thiền sư có tài và có đức nhất thời hiện đại?
Tuệ Sỹ và Trí Siêu đều tu ở chùa từ lúc rất bé nhỏ; cả hai đều rất giỏi chữ Hán, và rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc hiểu chữ Đức, đọc được chữ Pali và chữ Phạn (Lê Mạnh Thát cũng biết đôi chút chữ Tây Tạng); cả hai đều có kiến thức uyên bác về những kinh luận chính yếu của Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa.
Ít có nhà Phật học nào ở Việt nam có thể am hiểu tường tận về tư tưởng Vasubandhu và cả tư tưởng Asanga cho bằng Lê Mạnh Thát; cũng như có ít người hiểu được tư tưởng Abhidharma (hệ thống phức tạp nhất của Phật giáo Nguyên Thủy) và tư tưởng Nagarjuna một cách sâu sắc cho bằng Tuệ Sỹ.
Chẳng những thế, Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đều có kiến thức sâu rộng về Triết học Tây Phương (Tuệ Sỹ đọc rất kỹ Heiderrer và Michel Foucault; bài diễn thuyết đầu tiên về Michel Foucault tại Việt Nam dạo đó là do Tuệ Sỹ thuyết trình tại giảng đường Đại Học Vạn Hạnh; còn Lê Mạnh Thát rất thông thạo về Marxism, đọc cặn kẽ bộ Recherches logiques của Husserl, hiểu biết rành rọt Wittgenstein và Bertrand Russell và Merleau-Ponty.
Tuệ Sỹ thì có tâm hồn thi sĩ chơi vơi, sống trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật và thi ca, thổi sáo, chơi dương cầm, làm thơ, say mê thi sĩ Đức Hoelderlin, đọc hết toàn tập đường thi ngay nguyên tác, viết một tác phẩm sâu sắc thơ mộng nhan đề "Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng"; còn Lê Mạnh Thát thì không biết làm thơ và chẳng hề để ý đến nghiên cứu văn chương nghệ thuật, mà chỉ say mê luận lý học, khoa học và toán học, nghiên cứu sâu rộng về kinh tế, chính trị, và quân sự nhất là lịch sử thế giới, đặc biệt nhất là lịch sử những cuộc cách mạng ở thế giới (trong thư viện của tôi ngày xưa tặng cho Phật Học Viện Nha Trang có bộ sách Révolution Russe của Trotski).
Hồi đó vào khoảng năm 1962 hay 1963, tôi thấy Lê Mạnh Thát thường mượn đi mượn lại bộ sách ấy. Lê Mạmh Thát rất nặng tính thực nghiệm duy lý khoa học. Tôi còn nhớ vào năm 1968, nhân dịp được US State Department mời qua thăm viếng một số trường đại học Hoa Kỳ, tôi có dịp gặp Lê Mạnh Thát tại Wisconsin và không ngờ đó là lần cuối cùng và mãi đến bây giờ là 20 năm rồi mà chúng tôi vẫn chưa gặp nhau lại; đêm cuối cùng ấy, chúng tôi đã thức suốt đêm nói chuyện, và Thát đã làm tôi tức cười một cách khó quên khi Thát đề nghị xử dụng computer để hệ thống hóa tư tưởng bao la của Bát Nhã Ba La Mật. Còn nói riêng về mặt lịch sử Phật giáo bộ Chân Nguyên toàn tập (2 cuốn) và bộ Sơ thảo Lịch Sử Phật giáo Việt Nam (mới in được 2 cuốn) của Lê Mạnh Thát là những sử liệu quý báu nhất chưa từng thấy xuất hiện tại Việt Nam từ cả thế kỷ nay.
Chính Thát là người đầu tiên đã phát hiện ra "Sáu Bức Thư" quan trọng ở thế kỷ thứ V ở Việt Nam giữa Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu. Trong Ngiên Cứu Lịch Sử năm 1981 ở Việt Nam. Trần Văn Giầu đã trích dẫn tài liệu của Lê Mạnh Thát về "bằng chứng sáng tỏ của một số sinh hoạt văn hóa của nhân dân Giao Châu hồi thế kỷ thứ V... rằng sinh hoạt văn hóa đó đã phát triển đến một trình độ đáng tự hào, mang nhiều đặc sắc dân tộc, yêu nước. "cả một kho tàng chờ đợi chúng ta khai thác."
Lý thuyết gia cộng sản Trần Văn Giầu đã tận lực khai thác sự phát hiện của Lê Mạnh Thát để xuyên tạc một cách ngu xuẩn tất cả nội dung tư tưởng cao siêu của Việt Nam ở vào thế kỷ thứ V. Cộng sản Việt Nam cũng xử dụng và khai thác triệt để những công trình nghiên cứu độc đáo của Lê Mạnh Thát về Nguyễn Trãi, nhân dịp UNESCO tổ chức kỷ niệm lần thứ 600 ngày sinh nhật của Nguyên Trãi. Điều này ít ai biêt.
Nếu không bị giam từ ngày 1 tháng 4 năm 1984 thì chắc chắn Lê Mạnh Thát còn tiếp tục phát hiện biết bao điều bí ẩn dấu kín "đã chôn vùi trong bóng tối ngàn năm" như lời của Trần Văn Giầu nói về sự phát hiện tư liệu lịch sử về thế kỷ thứ V ở Việt Nam do Lê Mạnh Thát khai quật ra từ "Hoàng Minh Tập' và sau cùng mới đây khi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ bị Hà Nội kết án tử hình thì đó chính là sự phát hiện lỗi lạc nhất của nhị vị để cho cả thế giới thấy rằng Cộng sản Việt Nam đã lạnh lùng tàn phá tiêu diệt tất cả những gì là tinh ba, là trí tuệ thượng đằng tâm linh siêu việt của dân tộc.
Từ lúc hãy còn rất nhỏ cho tới lớn khôn trưởng thành, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sống một đời tu hành khắc khổ và trong sạch hoàn toàn, không bao giờ ham mê danh vọng thế tục, không bao giờ để ý đến địa vị xã hội và chẳng bao giờ biết đến tiền bạc lợi lộc cho chính bản thân.
Trong lòng nhị vị vẫn thường trực hừng hực thệ nguyện vô biên đến Giác ngộ vì lợi cho tất cả và giải thoát cho tất cả, mà bước đi hùng dũng đã dược thể hiện oanh liệt nhất hiện nay là dâng hiến cả sinh mệnh mình để giải phóng quê hương thoát khỏi cái chủ nghĩa ngu xuẩn nhất, tàn bạo nhất và vô minh nhất của thế kỷ XX.
Chúng ta chỉ đủ sức nhìn thấy được những Thiền sư đúng nghĩa mỗi khi nào chúng ta có đủ sức mạnh tâm linh để tự quên mình, cũng như Đại sư Đạo Cao đã dạy thống thiết trong sách "Sáu Bức Thư ở thế kỷ thứ V" mà Lê Mạnh Thát đã phát hiện cho toàn dân tộc:
"Nếu quên mình mà hết lòng thành thì tất cả cảm và có cảm thì tất có thấy: không cảm thì không thấy. Thánh nhân đâu phải không thường ở với quần sinh, đâu phải là ta không thường thấy".
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đã quên mình mà hết lòng thành thì tất nhiên nhị vị cảm được tất cả những đổ vỡ bi đát của quê hương và kiếp người: Hai người đã được hết tất cả tính mệnh của Việt Nam thì tất nhiên nhìn thấy được những gì vẫn giữ lại Việt tính, và họ đã lên đường trở thành những Đạo sư dẫn đường cho cả dân tộc. Lúc Hà Nội kết án tử hình Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát hay bất cứ kẻ nào khác vô danh đã tranh đấu cho quyền làm người Việt Nam thì chính Hà Nội đã kết án tử hình toàn thể dân tộc.
Khi mà toàn thể dân tộc Việt nam bị một chế độ tàn bạo kết án tử hình thì đó cũng là lúc chế độ ấy đang tự hủy diệt trong lòng địa chấn linh diệu của Đại mệnh Việt Nam.
Phạm Công Thiện California ngày 18.10.1988
|
|