Post by Vĩnh Long on Oct 24, 2007 8:33:09 GMT 9
Ðọc “Nguyễn Khoa Nam”
Wednesday, April 11, 2007
Tổng hợp và trình bày: Nguyễn Mạnh Trí - Trần Ðỗ Cẩm
Người Ðọc: Vũ Ánh
Nếu chỉ nói về tướng tuẫn tiết Nguyễn Khoa Nam thì cuốn sách dày 326 trang, nhưng nếu kể cả phần viết về những tướng lãnh khác đã chọn cái chết cho trọn nghĩa với đất nước như tướng Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ và Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn thì tác phẩm Nguyễn Khoa Nam dầy đến 571 trang. Một người có sức đọc nhanh, đọc một tối 100 trang cũng phải mất cả tuần lễ. Như thế cũng đủ hiểu, sự đóng góp của các tác giả nhiệt tình biết chừng nào và cựu Hải Quân Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí và Trần Ðỗ Cẩm cũng đã phải bỏ khá nhiêu công phu để hệ thống hóa, sửa chữa và tổng hợp bài vở.
Người điểm cuốn sách này vốn là một phóng viên mặt trận trong thời gian chiến tranh Việt Nam, có mặt trong khá nhiều trận đánh đẫm máu giữa Chiến Ðoàn 3, rồi Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù của Ðại Tá Nguyễn Khoa Nam với Cộng quân. Trận đánh trên đỉnh Ngọc Văn 1416 ở Kontum 1967, tôi được giúp đỡ cơ hội để lội theo các cánh quân của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù do Thiếu Tá Nguyễn Viết Cần chỉ huy thay thế Thiếu tá Trần Quốc Lịch công du ngoại quốc. Trong trận này, lần đầu tiên trong đời làm phóng viên mặt trận, tôi được tham dự cuộc tấn công vào ban đêm của các đơn vị Nhảy Dù, và tôi suýt đã bị “té” khi một viên AK-47 trúng vào chiếc ba lô đeo sau lưng. Viên đạn xuyên qua chiếc máy chữ Olivetti nhỏ (dùng để viết tin và bài vì thời đó chưa có computer) để ở trong cùng với khoảng một chục cuốn băng nhựa reel-to-reel dùng cho chiếc máy ghi âm UHER-2000L. May mắn, chiếc ba lô rách toang nhưng đầu đạn kẹt trong máy chữ, chỉ nhô ra khỏi lớp vải ba lô chạm nhẹ vào thanh thép chéo giữ cho chiếc ba lô ép sát vào lưng. Ấy vậy mà sức chạm của viên đạn cũng làm tôi ngã chúi xuống một bụi cây. Khi Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn lên được đỉnh núi, Trung Tá Nguyễn Khoa Nam đến bắt tay tôi khích lệ và hỏi thăm xem có vết thương không, đoạn ông thúc giục tôi làm phỏng vấn ghi âm cho lẹ để rời mặt trận trên chuyến trực thăng tải thương cuối cùng trước khi trời tối. Tôi từ chối lấy cớ là tôi không nên chiếm một chỗ nào của thương binh, dù tôi biết hảo ý của Trung Tá Nam muốn tôi ra khỏi mặt trận an toàn với những cuốn băng ghi âm đầy những tài liệu ghi âm tại chỗ để tôi có thể gởi đến hàng triệu thính giả của Ðài Phát Thanh Quốc Gia về trận đánh lừng danh này (trận đánh khiến cho có đến 1,600 Cộng quân thiệt mạng chung quanh vùng núi rừng trùng điệp này). Mà quả thật chuyến trực thăng tản thương chiều hôm đó có quá nhiều thương binh, nên ông Chiến Ðoàn Trưởng đành chịu.Tôi chọn một vị trí tự đào hố cá nhân bên một gốc cây. Trải chiếc poncho, lấy trong túi ra một khẩu phần C-Ration, chọn mấy chiếc bánh bắp nuốt cho qua bữa với vài ngụm nước dự trữ trong chiếc bi-đông nhựa, loại lớn của TQLC Hoa Kỳ, rồi thiếp đi cho đến khi có những tiếng lưu đạn nổ ở phần sườn núi gần chỗ tôi ngủ. Bọn đặc công lợi dụng đêm tối mò lên ném lưu đạn vào những vị trí chúng nghi có có chốt đóng quân của ta. Lập tức hỏa châu được soi sáng và một cuộc chạm súng nhẹ kéo dài khoảng 5 phút. Nhảy dù có 2 người bị thương. Sáng hôm sau, ngay khi trời hừng sáng trực thăng đến tản thương, Trung Tá Nam đẩy tôi lên trực thăng ngay để về Kontum. Phóng viên Dương Phục theo cánh quân của Thiếu Tá Trần Kim Thạch cũng phải rời mặt trận theo lời yêu cầu của Trung Tá Nam cũng với lòng nhân hậu là tránh nguy hiểm cho Phục. Năm 1968, chúng tôi gặp ông ở Ái Tử, có hỏi lý do ông “đuổi” chúng tôi khỏi mặt trận sớm như thế, ông cười và nói: “Các cậu chưa phải là nhà binh. Ðể các cậu ở lại nhỡ ra các cậu té thì làm gì chúng tôi còn dịp nào để nghe các phóng sự của cậu và bà con hậu phương làm thế nào hiểu được những gì đã xảy ra ở cái đỉnh núi ấy?” Xong, ông thân mật: “Bữa nào rảnh về Saigon, tớ rủ cậu với Dương Phục đi nhảy mấy saut bồi dưỡng hả?” (từ ngữ bồi dưỡng không phải là tiếng Việt Cộng dùng mà dưới thời VNCH, Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù gọi những lần nhảy ngoài 7 lần nhảy (6 ban ngày và 1 nhảy đêm) để lấy bằng thì được gọi là nhảy bồi dưỡng, thường là từ 4 đến 8 sauts nhảy hàng năm). Lần hẹn nhảy bồi dưỡng ấy không bao giờ được thực hiện bởi vì chúng tôi đều bị đẩy vào những cơn lốc của chiến cuộc ở những vị thế khác nhau cho đến ngày mất Miền Nam.
Vâng, trong suốt 426 trang sách viết về Tướng Nguyễn Khoa Nam đầy ắp những kỷ niệm nhẹ nhàng và trong sáng về con người và nhân cách của ông. Những kỷ niệm ấy cho thấy, Tướng Nam lớn hơn những vì sao ông đeo trên cổ áo, vĩ đại hơn cả vùng lãnh thổ mà ông được trao để bình định, để chỉ huy. Ðến nỗi, cựu chuẩn tướng Trần Quốc Lịch nguyên tư lệnh Sư Ðoàn 5 BB mà trước đó từng là tiểu đoàn trưởng xuất sắc của Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của chiến đoàn trưởng rồi Lữ Ðoàn Trưởng Nguyễn Khoa Nam đã viết ở trang 214 như sau:
“...Trách Nhiệm và Danh Dự là hai gánh nặng luôn luôn đè nặng trên vai ông (tướng Nam). Quả thật ông là vị tướng tài đức khó ai bì kịp. Nhận định đó khiến tôi không ngạc nhiên khi được tin tướng Nam tuẫn tiết vào ngày mất nước. Ðiều đáng nói là xưa kia, một vị Tướng thường chỉ tuẫn tiết khi bị địch đánh mà không giữ được thành. Nhưng chúng ta ai cũng biết mất nước, mất thành không phải lỗi của tướng Nam mà là do các cấp lãnh đạo quốc gia và tình hình thế giới. Vậy mà tướng Nam cũng cũng như vài vị tướng khác (các tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú-NÐ) vẫn tuẫn tiết bởi vì không thể sống để nhìn thấy đất nước bị rơi vào tay kẻ thù. Lòng trung dũng của ông quả là cao độ. Con người ông thật đáng cho chúng ta tôn thờ. Tên tuổi ông sẽ đi vào lịch sử.”
Tuẫn tiết thời nay thường là một phản ứng nhanh gọn bằng cây súng và quyết định chỉ kéo dài trong vòng vài phút. Nhưng hình ảnh tuẫn tiết của tướng Nguyễn Khoa Nam là hình ảnh ngược lại chỉ tìm thấy được trong cổ sử. Có nghĩa là ông lựa chọn cái kết thúc của thân làm tướng bằng sự chuẩn bị cho một thiên bi hùng ca về quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một thiên bi hùng ca giống như những lát dao hằn sâu vào những trang vàng sử sách, vĩnh viễn không có quyền lực nào có thể xóa đi được. Trong suốt những năm dài trong các trại cải tạo của Cộng Sản sau ngày 30-4-1975, chúng tôi tôn thờ hình ảnh của những tướng lãnh đã chọn cái chết trong danh dự, dùng những hình ảnh ấy để giữ sự đoàn kết anh em tù cải tạo với nhau, giữ vững giềng mối có trên, có dưới cho dù có bị đẩy vào hoàn cảnh bi phẫn nhất. Chúng tôi nói về những cái chết này bằng những lời kể đầy chất huyền thoại về tướng Nguyễn Khoa Nam. Vì là huyền thoại cho nên vô tình chúng tôi đã biến tướng Nam thành một vị Thánh chứ không còn là người trần thế nữa. Chúng tôi đã vô tình cởi áo ông, lột lon ông khiến ông cũng không còn là hình ảnh của một “người lính” nữa. Bản thân chúng tôi vào những lúc ấy cần một người lính, cần một bậc đàn anh trọn vẹn tài đức, trọng danh dự và trách nhiệm hơn là cần một vị thánh.
Năm 1989 tôi được thả. Sau khi tìm ra được một công việc làm bằng chân tay, cần sức khỏe mà không cần đầu óc, tôi bắt đầu thăm hỏi người này, người kia về cái chết của Tướng Nguyễn Khoa Nam, nhưng mỗi người nói khác nhau. Những thắc mắc của tôi kéo dài cho đến khi đọc được hồi ký của cựu Trung úy Lê Ngọc Danh, nguyên tùy viên của Tướng Nguyễn Khoa Nam cho đến ngày 1-5-1975. Hồi ký này chiếm từ trang 376 cho đến trang 415 sách “Nguyễn Khoa Nam”, trong đó ông mô tả rất chi tiết từ lúc tướng Nam rời Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 BB để về làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và Vùng IV Chiến Thuật thay thế tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, thời gian làm việc và theo chân Tư Lệnh đi khắp vùng... cho đến những ngày hấp hối của chế độ, thời gian chứng kiến được sự chuẩn bị cho cái chết dũng liệt của “ông thầy”.
Không văn vẻ, nhưng rất chi tiết, tác giả Lê Ngọc Danh đã đắp được bức tượng hoàn chỉnh của người lính chiến mà anh em chúng tôi ngưỡng mộ. Một trong những chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng mà tôi tin rằng độc giả sẽ chú ý, đó là tấm khăn trắng trải trên chiếc bàn ăn dài trong phòng ăn ở tư dinh của Tư Lệnh. Tác giả Lê Ngọc Danh viết ở trang 379:
“Tầng dưới (của tư dinh) khi bước vào cửa: bên trái là phòng thuyết trình cũng là nơi làm việc của tùy viên, phía trên vách tường có bản đồ của Vùng IV Chiến Thuật, bàn làm việc của tùy viên và một bộ sofa. Bên phải là phòng thờ Phật với bàn thờ Phật đặt giữa bức tường phía sau. Trên bàn thờ Phật có tượng Phật Thích Ca, phía bên phải bàn thờ Phật có một cái chuông nhỏ, giữa là lư hương điện cắm nhang được, bên trái là đĩa trái cây và hai cây đèn cầy bằng điện ở hai bên bàn thờ. Trước bàn thờ độ 2 thước có một bộ sofa (bộ sofa này là nơi Tư Lệnh ngồi trước khi tự sát). Bên phải phòng thờ Phật là phòng ăn của Tư Lệnh, phòng rất dài, trên 10 thước đặt một bàn ăn dài trải vải trắng (tấm vải trắng này đã đắp cho Tư Lệnh khi ông chết). Trong phòng ăn có hồ cá kiểng, máy TV và ít tranh ảnh trên tường...”
Lê Ngọc Danh còn nhấn mạnh ở trang 383 về một chi tiết cũng đáng chú ý khác:
“Trong thời gian từ Sư Ðoàn 7 Bộ Binh cho đến khi về làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, tôi thấy Tư Lệnh sống rất cô đơn, không thấy hay ít ai đến thăm., thỉnh thoảng lên họp ở Saigon về nhà ở số 403 đường Lê Ðại Hành, trước cửa trường đua Phú Thọ. Tư lệnh suốt ngày làm việc, ngoài những lúc đi thăm các đơn vị, thời gian rảnh rỗi tôi đều thấy ông có mặt ở trung tâm hành quân. Tư lệnh làm việc mỗi ngày đến sau 6 giờ chiều mới về tư dinh. Buổi trưa ông ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long, tối về trung sĩ Hộ (quản gia) nấu ít món ăn đơn giản để Thiếu Tướng dùng và ông không bao giờ than phiền ngon, dở. Tư lệnh không uống rượu, có lần party ở Tiểu Ðoàn 7 Quân Y ở Ðồng Tâm, ông chỉ uống một chút champagne. Thỉnh thoảng Tư Lệnh nói chuyện với tôi. Có lần thấy Tư Lệnh vui vẻ nói chuyện, tôi đưa đề nghị với ông:
- Cơm ở câu lạc bộ chắc không ngon miệng, vì thề em sẽ nói Trung sĩ Hộ lo cơm trưa để Tư Lệnh về ăn thay vì xuống câu lạc bộ.
Tư lệnh ôn tồn nói:
- Thôi lính tráng ăn sao qua ăn vậy.
Ðối với thuộc cấp, Tư Lệnh ăn nói nhẹ nhàng, thường gọi thuộc cấp là em hay cấp bậc kèm theo tên, còn tư lệnh thì xưng “tôi” hay “qua”. Tư lệnh rất trân trọng và tiếp xúc ngay, gặp mặt hay bằng điện thoại với các đơn vị trưởng, nói chung là các quân nhân. Còn các bà quả phụ qua điện thoại xin gặp Tư Lệnh, ông từ chối và bảo cần việc gì có Thiếu tá Ðức Chánh Văn Phòng, tôi hay Trung úy Việt giải quyết... Còn các xì thẩu (những ông chủ người Hoa ở Cần Thơ nhiều lần xin gặp Tư Lệnh nhưng ông đều lấy lý do bận việc để không gặp họ...”
Hoặc ở trang 385:
“Mỗi buổi sáng, trước 7 giờ, trước khi Tư Lệnh đi làm việc, mặc quân phục xong, đến bàn thờ đốt nhang xá Phật, cắm hương vào lư nhang và gõ vài tiếng chuông. Chiều về, sau khi đến phòng thuyết trình xem tình hình tổng quat, tắm rửa, ăn tối, xem truyền hình ở phòng ăn, sau đó đến bàn phật đốt nhang như buổi sáng trước khi vào trailer ngủ. Tư Lệnh có thói quen mỗi buổi sáng trước khi đi làm việc, tôi đứng nghiêm chào, Tư Lệnh chỉ đưa tay cỡ tầm ngực đáp lại và mỉm cười, ngày này qua ngày khác không nói gì thêm”.
Có nhiều cách nhìn về cái dũng của một vị tướng và cách nhìn cũng thay đổi tùy theo từng giai đoạn, từng thời và từng dân tộc. Nhưng dân gian ở Miền Nam Việt Nam vào thời gian chiến tranh lan rộng vẫn ngưỡng mộ những quân nhân “tỉnh” và “tỏ được bản lãnh” trước mối hiểm nguy. Tác giả Lê Ngọc Danh cũng không thoát khỏi cái thông tục này. Ông kể ở trang 386:
“Có lần Tư lệnh đi thăm một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 12 đang đánh nhau với Việt Cộng ở Long Khốt sát biên giới giữa tiểu khu Kiến Tường và Kampuchia. Tư lệnh đáp trực thăng xuống thăm đơn vị trong khi Việt Cộng đang pháo bằng hỏa tiễn 122 ly cách đơn vị không xa. Vị tiểu đoàn trưởng thấy vậy đến gần tôi nói:
- Danh cho trực thăng về phi trường Mọc Hóa đậu, chừng nào xong, goi đến rước Tư Lệnh, ở đây nguy hiểm quá, rủi 122 ly nổ trúng thì chết tao.
- Vâng để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi đến gần Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, em cho trực thăng về phi trường Mộc Hóa, chừng nào xong em gọi lên rước.
Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm ngâm không trả lời. Một lúc sau, vị tiểu đoàn trưởng lại thúc tiếp:
“Pháo nổ gần quá, nguy hiểm, Danh cho trực thằng về Mộc Hóa đi.
Một lần nữa tôi đến gần Tư Lệnh, nhỏ giọng nói:
- Trình Thiếu tướng, em cho trực thăng về...
Nói chưa hết câu Tư Lệnh xoay qua hướng tôi, nghiêm nét mặt nói:
- Lẩm cẩm hoài! Lẩm cẩm hoài!
Tôi cụt hứng, tiu nghỉu không dám nói gì thêm. Tư lệnh ở lại thăm đơn vị trực thuộc trong khi pháo nổ ngay bên cạnh hơn nửa giờ, Tư Lệnh mới cho trực thăng cất cảnh về Cần Thơ”.
Bây giờ đã vào trung tuần Tháng Tư. Mùa xuân ở Nam California đang rộ lên thật đẹp. Nhưng lòng người Việt tha hương vẫn vương buồn, có lẽ vì chưa ai có thể quên được tấn bi kịch của đất nước cách đây 32 năm. Lẫn trong những điệu buồn vẫn còn vang vọng, bức tượng Nguyễn Khoa Nam Tuẫn Tiết được tác giả Lê Ngọc Danh xây dựng bằng những gì ông đã chứng kiến giờ phút cuối cùng của người Thầy của mình. Lối hồi tưởng của ông chân thật, câu văn không mài giũa, tình cảm không che đậy sẽ khiến cho người đọc có thể yên tâm rằng đây là những nét chấm phá cuối cùng cho một tác phẩm điêu khắc bằng đá hình ảnh của một bậc anh hùng.
Wednesday, April 11, 2007
Tổng hợp và trình bày: Nguyễn Mạnh Trí - Trần Ðỗ Cẩm
Người Ðọc: Vũ Ánh
Nếu chỉ nói về tướng tuẫn tiết Nguyễn Khoa Nam thì cuốn sách dày 326 trang, nhưng nếu kể cả phần viết về những tướng lãnh khác đã chọn cái chết cho trọn nghĩa với đất nước như tướng Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ và Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn thì tác phẩm Nguyễn Khoa Nam dầy đến 571 trang. Một người có sức đọc nhanh, đọc một tối 100 trang cũng phải mất cả tuần lễ. Như thế cũng đủ hiểu, sự đóng góp của các tác giả nhiệt tình biết chừng nào và cựu Hải Quân Trung Tá Nguyễn Mạnh Trí và Trần Ðỗ Cẩm cũng đã phải bỏ khá nhiêu công phu để hệ thống hóa, sửa chữa và tổng hợp bài vở.
Người điểm cuốn sách này vốn là một phóng viên mặt trận trong thời gian chiến tranh Việt Nam, có mặt trong khá nhiều trận đánh đẫm máu giữa Chiến Ðoàn 3, rồi Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù của Ðại Tá Nguyễn Khoa Nam với Cộng quân. Trận đánh trên đỉnh Ngọc Văn 1416 ở Kontum 1967, tôi được giúp đỡ cơ hội để lội theo các cánh quân của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù do Thiếu Tá Nguyễn Viết Cần chỉ huy thay thế Thiếu tá Trần Quốc Lịch công du ngoại quốc. Trong trận này, lần đầu tiên trong đời làm phóng viên mặt trận, tôi được tham dự cuộc tấn công vào ban đêm của các đơn vị Nhảy Dù, và tôi suýt đã bị “té” khi một viên AK-47 trúng vào chiếc ba lô đeo sau lưng. Viên đạn xuyên qua chiếc máy chữ Olivetti nhỏ (dùng để viết tin và bài vì thời đó chưa có computer) để ở trong cùng với khoảng một chục cuốn băng nhựa reel-to-reel dùng cho chiếc máy ghi âm UHER-2000L. May mắn, chiếc ba lô rách toang nhưng đầu đạn kẹt trong máy chữ, chỉ nhô ra khỏi lớp vải ba lô chạm nhẹ vào thanh thép chéo giữ cho chiếc ba lô ép sát vào lưng. Ấy vậy mà sức chạm của viên đạn cũng làm tôi ngã chúi xuống một bụi cây. Khi Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn lên được đỉnh núi, Trung Tá Nguyễn Khoa Nam đến bắt tay tôi khích lệ và hỏi thăm xem có vết thương không, đoạn ông thúc giục tôi làm phỏng vấn ghi âm cho lẹ để rời mặt trận trên chuyến trực thăng tải thương cuối cùng trước khi trời tối. Tôi từ chối lấy cớ là tôi không nên chiếm một chỗ nào của thương binh, dù tôi biết hảo ý của Trung Tá Nam muốn tôi ra khỏi mặt trận an toàn với những cuốn băng ghi âm đầy những tài liệu ghi âm tại chỗ để tôi có thể gởi đến hàng triệu thính giả của Ðài Phát Thanh Quốc Gia về trận đánh lừng danh này (trận đánh khiến cho có đến 1,600 Cộng quân thiệt mạng chung quanh vùng núi rừng trùng điệp này). Mà quả thật chuyến trực thăng tản thương chiều hôm đó có quá nhiều thương binh, nên ông Chiến Ðoàn Trưởng đành chịu.Tôi chọn một vị trí tự đào hố cá nhân bên một gốc cây. Trải chiếc poncho, lấy trong túi ra một khẩu phần C-Ration, chọn mấy chiếc bánh bắp nuốt cho qua bữa với vài ngụm nước dự trữ trong chiếc bi-đông nhựa, loại lớn của TQLC Hoa Kỳ, rồi thiếp đi cho đến khi có những tiếng lưu đạn nổ ở phần sườn núi gần chỗ tôi ngủ. Bọn đặc công lợi dụng đêm tối mò lên ném lưu đạn vào những vị trí chúng nghi có có chốt đóng quân của ta. Lập tức hỏa châu được soi sáng và một cuộc chạm súng nhẹ kéo dài khoảng 5 phút. Nhảy dù có 2 người bị thương. Sáng hôm sau, ngay khi trời hừng sáng trực thăng đến tản thương, Trung Tá Nam đẩy tôi lên trực thăng ngay để về Kontum. Phóng viên Dương Phục theo cánh quân của Thiếu Tá Trần Kim Thạch cũng phải rời mặt trận theo lời yêu cầu của Trung Tá Nam cũng với lòng nhân hậu là tránh nguy hiểm cho Phục. Năm 1968, chúng tôi gặp ông ở Ái Tử, có hỏi lý do ông “đuổi” chúng tôi khỏi mặt trận sớm như thế, ông cười và nói: “Các cậu chưa phải là nhà binh. Ðể các cậu ở lại nhỡ ra các cậu té thì làm gì chúng tôi còn dịp nào để nghe các phóng sự của cậu và bà con hậu phương làm thế nào hiểu được những gì đã xảy ra ở cái đỉnh núi ấy?” Xong, ông thân mật: “Bữa nào rảnh về Saigon, tớ rủ cậu với Dương Phục đi nhảy mấy saut bồi dưỡng hả?” (từ ngữ bồi dưỡng không phải là tiếng Việt Cộng dùng mà dưới thời VNCH, Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù gọi những lần nhảy ngoài 7 lần nhảy (6 ban ngày và 1 nhảy đêm) để lấy bằng thì được gọi là nhảy bồi dưỡng, thường là từ 4 đến 8 sauts nhảy hàng năm). Lần hẹn nhảy bồi dưỡng ấy không bao giờ được thực hiện bởi vì chúng tôi đều bị đẩy vào những cơn lốc của chiến cuộc ở những vị thế khác nhau cho đến ngày mất Miền Nam.
Vâng, trong suốt 426 trang sách viết về Tướng Nguyễn Khoa Nam đầy ắp những kỷ niệm nhẹ nhàng và trong sáng về con người và nhân cách của ông. Những kỷ niệm ấy cho thấy, Tướng Nam lớn hơn những vì sao ông đeo trên cổ áo, vĩ đại hơn cả vùng lãnh thổ mà ông được trao để bình định, để chỉ huy. Ðến nỗi, cựu chuẩn tướng Trần Quốc Lịch nguyên tư lệnh Sư Ðoàn 5 BB mà trước đó từng là tiểu đoàn trưởng xuất sắc của Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của chiến đoàn trưởng rồi Lữ Ðoàn Trưởng Nguyễn Khoa Nam đã viết ở trang 214 như sau:
“...Trách Nhiệm và Danh Dự là hai gánh nặng luôn luôn đè nặng trên vai ông (tướng Nam). Quả thật ông là vị tướng tài đức khó ai bì kịp. Nhận định đó khiến tôi không ngạc nhiên khi được tin tướng Nam tuẫn tiết vào ngày mất nước. Ðiều đáng nói là xưa kia, một vị Tướng thường chỉ tuẫn tiết khi bị địch đánh mà không giữ được thành. Nhưng chúng ta ai cũng biết mất nước, mất thành không phải lỗi của tướng Nam mà là do các cấp lãnh đạo quốc gia và tình hình thế giới. Vậy mà tướng Nam cũng cũng như vài vị tướng khác (các tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú-NÐ) vẫn tuẫn tiết bởi vì không thể sống để nhìn thấy đất nước bị rơi vào tay kẻ thù. Lòng trung dũng của ông quả là cao độ. Con người ông thật đáng cho chúng ta tôn thờ. Tên tuổi ông sẽ đi vào lịch sử.”
Tuẫn tiết thời nay thường là một phản ứng nhanh gọn bằng cây súng và quyết định chỉ kéo dài trong vòng vài phút. Nhưng hình ảnh tuẫn tiết của tướng Nguyễn Khoa Nam là hình ảnh ngược lại chỉ tìm thấy được trong cổ sử. Có nghĩa là ông lựa chọn cái kết thúc của thân làm tướng bằng sự chuẩn bị cho một thiên bi hùng ca về quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một thiên bi hùng ca giống như những lát dao hằn sâu vào những trang vàng sử sách, vĩnh viễn không có quyền lực nào có thể xóa đi được. Trong suốt những năm dài trong các trại cải tạo của Cộng Sản sau ngày 30-4-1975, chúng tôi tôn thờ hình ảnh của những tướng lãnh đã chọn cái chết trong danh dự, dùng những hình ảnh ấy để giữ sự đoàn kết anh em tù cải tạo với nhau, giữ vững giềng mối có trên, có dưới cho dù có bị đẩy vào hoàn cảnh bi phẫn nhất. Chúng tôi nói về những cái chết này bằng những lời kể đầy chất huyền thoại về tướng Nguyễn Khoa Nam. Vì là huyền thoại cho nên vô tình chúng tôi đã biến tướng Nam thành một vị Thánh chứ không còn là người trần thế nữa. Chúng tôi đã vô tình cởi áo ông, lột lon ông khiến ông cũng không còn là hình ảnh của một “người lính” nữa. Bản thân chúng tôi vào những lúc ấy cần một người lính, cần một bậc đàn anh trọn vẹn tài đức, trọng danh dự và trách nhiệm hơn là cần một vị thánh.
Năm 1989 tôi được thả. Sau khi tìm ra được một công việc làm bằng chân tay, cần sức khỏe mà không cần đầu óc, tôi bắt đầu thăm hỏi người này, người kia về cái chết của Tướng Nguyễn Khoa Nam, nhưng mỗi người nói khác nhau. Những thắc mắc của tôi kéo dài cho đến khi đọc được hồi ký của cựu Trung úy Lê Ngọc Danh, nguyên tùy viên của Tướng Nguyễn Khoa Nam cho đến ngày 1-5-1975. Hồi ký này chiếm từ trang 376 cho đến trang 415 sách “Nguyễn Khoa Nam”, trong đó ông mô tả rất chi tiết từ lúc tướng Nam rời Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 BB để về làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và Vùng IV Chiến Thuật thay thế tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, thời gian làm việc và theo chân Tư Lệnh đi khắp vùng... cho đến những ngày hấp hối của chế độ, thời gian chứng kiến được sự chuẩn bị cho cái chết dũng liệt của “ông thầy”.
Không văn vẻ, nhưng rất chi tiết, tác giả Lê Ngọc Danh đã đắp được bức tượng hoàn chỉnh của người lính chiến mà anh em chúng tôi ngưỡng mộ. Một trong những chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng mà tôi tin rằng độc giả sẽ chú ý, đó là tấm khăn trắng trải trên chiếc bàn ăn dài trong phòng ăn ở tư dinh của Tư Lệnh. Tác giả Lê Ngọc Danh viết ở trang 379:
“Tầng dưới (của tư dinh) khi bước vào cửa: bên trái là phòng thuyết trình cũng là nơi làm việc của tùy viên, phía trên vách tường có bản đồ của Vùng IV Chiến Thuật, bàn làm việc của tùy viên và một bộ sofa. Bên phải là phòng thờ Phật với bàn thờ Phật đặt giữa bức tường phía sau. Trên bàn thờ Phật có tượng Phật Thích Ca, phía bên phải bàn thờ Phật có một cái chuông nhỏ, giữa là lư hương điện cắm nhang được, bên trái là đĩa trái cây và hai cây đèn cầy bằng điện ở hai bên bàn thờ. Trước bàn thờ độ 2 thước có một bộ sofa (bộ sofa này là nơi Tư Lệnh ngồi trước khi tự sát). Bên phải phòng thờ Phật là phòng ăn của Tư Lệnh, phòng rất dài, trên 10 thước đặt một bàn ăn dài trải vải trắng (tấm vải trắng này đã đắp cho Tư Lệnh khi ông chết). Trong phòng ăn có hồ cá kiểng, máy TV và ít tranh ảnh trên tường...”
Lê Ngọc Danh còn nhấn mạnh ở trang 383 về một chi tiết cũng đáng chú ý khác:
“Trong thời gian từ Sư Ðoàn 7 Bộ Binh cho đến khi về làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, tôi thấy Tư Lệnh sống rất cô đơn, không thấy hay ít ai đến thăm., thỉnh thoảng lên họp ở Saigon về nhà ở số 403 đường Lê Ðại Hành, trước cửa trường đua Phú Thọ. Tư lệnh suốt ngày làm việc, ngoài những lúc đi thăm các đơn vị, thời gian rảnh rỗi tôi đều thấy ông có mặt ở trung tâm hành quân. Tư lệnh làm việc mỗi ngày đến sau 6 giờ chiều mới về tư dinh. Buổi trưa ông ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long, tối về trung sĩ Hộ (quản gia) nấu ít món ăn đơn giản để Thiếu Tướng dùng và ông không bao giờ than phiền ngon, dở. Tư lệnh không uống rượu, có lần party ở Tiểu Ðoàn 7 Quân Y ở Ðồng Tâm, ông chỉ uống một chút champagne. Thỉnh thoảng Tư Lệnh nói chuyện với tôi. Có lần thấy Tư Lệnh vui vẻ nói chuyện, tôi đưa đề nghị với ông:
- Cơm ở câu lạc bộ chắc không ngon miệng, vì thề em sẽ nói Trung sĩ Hộ lo cơm trưa để Tư Lệnh về ăn thay vì xuống câu lạc bộ.
Tư lệnh ôn tồn nói:
- Thôi lính tráng ăn sao qua ăn vậy.
Ðối với thuộc cấp, Tư Lệnh ăn nói nhẹ nhàng, thường gọi thuộc cấp là em hay cấp bậc kèm theo tên, còn tư lệnh thì xưng “tôi” hay “qua”. Tư lệnh rất trân trọng và tiếp xúc ngay, gặp mặt hay bằng điện thoại với các đơn vị trưởng, nói chung là các quân nhân. Còn các bà quả phụ qua điện thoại xin gặp Tư Lệnh, ông từ chối và bảo cần việc gì có Thiếu tá Ðức Chánh Văn Phòng, tôi hay Trung úy Việt giải quyết... Còn các xì thẩu (những ông chủ người Hoa ở Cần Thơ nhiều lần xin gặp Tư Lệnh nhưng ông đều lấy lý do bận việc để không gặp họ...”
Hoặc ở trang 385:
“Mỗi buổi sáng, trước 7 giờ, trước khi Tư Lệnh đi làm việc, mặc quân phục xong, đến bàn thờ đốt nhang xá Phật, cắm hương vào lư nhang và gõ vài tiếng chuông. Chiều về, sau khi đến phòng thuyết trình xem tình hình tổng quat, tắm rửa, ăn tối, xem truyền hình ở phòng ăn, sau đó đến bàn phật đốt nhang như buổi sáng trước khi vào trailer ngủ. Tư Lệnh có thói quen mỗi buổi sáng trước khi đi làm việc, tôi đứng nghiêm chào, Tư Lệnh chỉ đưa tay cỡ tầm ngực đáp lại và mỉm cười, ngày này qua ngày khác không nói gì thêm”.
Có nhiều cách nhìn về cái dũng của một vị tướng và cách nhìn cũng thay đổi tùy theo từng giai đoạn, từng thời và từng dân tộc. Nhưng dân gian ở Miền Nam Việt Nam vào thời gian chiến tranh lan rộng vẫn ngưỡng mộ những quân nhân “tỉnh” và “tỏ được bản lãnh” trước mối hiểm nguy. Tác giả Lê Ngọc Danh cũng không thoát khỏi cái thông tục này. Ông kể ở trang 386:
“Có lần Tư lệnh đi thăm một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 12 đang đánh nhau với Việt Cộng ở Long Khốt sát biên giới giữa tiểu khu Kiến Tường và Kampuchia. Tư lệnh đáp trực thăng xuống thăm đơn vị trong khi Việt Cộng đang pháo bằng hỏa tiễn 122 ly cách đơn vị không xa. Vị tiểu đoàn trưởng thấy vậy đến gần tôi nói:
- Danh cho trực thăng về phi trường Mọc Hóa đậu, chừng nào xong, goi đến rước Tư Lệnh, ở đây nguy hiểm quá, rủi 122 ly nổ trúng thì chết tao.
- Vâng để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi đến gần Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, em cho trực thăng về phi trường Mộc Hóa, chừng nào xong em gọi lên rước.
Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm ngâm không trả lời. Một lúc sau, vị tiểu đoàn trưởng lại thúc tiếp:
“Pháo nổ gần quá, nguy hiểm, Danh cho trực thằng về Mộc Hóa đi.
Một lần nữa tôi đến gần Tư Lệnh, nhỏ giọng nói:
- Trình Thiếu tướng, em cho trực thăng về...
Nói chưa hết câu Tư Lệnh xoay qua hướng tôi, nghiêm nét mặt nói:
- Lẩm cẩm hoài! Lẩm cẩm hoài!
Tôi cụt hứng, tiu nghỉu không dám nói gì thêm. Tư lệnh ở lại thăm đơn vị trực thuộc trong khi pháo nổ ngay bên cạnh hơn nửa giờ, Tư Lệnh mới cho trực thăng cất cảnh về Cần Thơ”.
Bây giờ đã vào trung tuần Tháng Tư. Mùa xuân ở Nam California đang rộ lên thật đẹp. Nhưng lòng người Việt tha hương vẫn vương buồn, có lẽ vì chưa ai có thể quên được tấn bi kịch của đất nước cách đây 32 năm. Lẫn trong những điệu buồn vẫn còn vang vọng, bức tượng Nguyễn Khoa Nam Tuẫn Tiết được tác giả Lê Ngọc Danh xây dựng bằng những gì ông đã chứng kiến giờ phút cuối cùng của người Thầy của mình. Lối hồi tưởng của ông chân thật, câu văn không mài giũa, tình cảm không che đậy sẽ khiến cho người đọc có thể yên tâm rằng đây là những nét chấm phá cuối cùng cho một tác phẩm điêu khắc bằng đá hình ảnh của một bậc anh hùng.