Post by Vĩnh Long on Aug 13, 2007 4:40:47 GMT 9
Aristotle
Phạm Vãn Tuấn
Aristotle là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học ðã tạo nên ảnh hýởng hết sức lớn lao trong nền Vãn Minh Tây Phýõng. Cùng với Plato, Aristotle ðýợc coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Aristotle hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời ðại trýớc, ðã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh hýởng trong nhiều thế kỷ về sau.
1/ Cuộc ðời của Aristotle.
Aristotle chào ðời tại Stagira thuộc miền Thrace nãm 384 trýớc Tây Lịch. Stagira là một tỉnh nhỏ, là thuộc ðịa của Hy Lạp bên bờ phía bắc biển Aegean mà ngày nay có lẽ là Stavro. Cả hai cha và mẹ của Aristotle ðều gốc ngýời Ionien. Cha Aristotle, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều ðình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip of Macedonia. Mẹ của Aristotle vốn ngýời miền Chalcis. Có lẽ trong 17 nãm ðầu, Aristotle ðã sống với cha mẹ và ðýợc cha dạy cho về Y Khoa. Nãm 17 tuổi, Aristotle tới thành Athens và theo hoc nghề thầy thuốc.
Nãm 367 trýớc TL, Aristotle vào học Trýờng Academos của Plato. Vào thời gian này, Plato 61 tuổi và ðã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos ðặc biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Toán Học và Thiên Vãn. Ngày nay, ngýời ta chỉ hiểu biết rất mõ hồ về cuộc sống của Aristotle trong 20 nãm tại Hàn Lâm Viện.
Aristotle ðýợc coi là một trong số học viên chãm chỉ nhất và xuất sắc hõn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Ngýời ta còn kể rằng Plato ðã phải gọi Aristotle là “Trí Tuệ của Nhà Trýờng” (l'entendement de l'Ecole). Theo nhý truyền thống, Aristotle phụ trách giảng dạy môn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra vài tập Ðối Thoại (Dialogues) theo khuôn mẫu của Thầy Plato. Các tác phẩm này ðều trở nên rất nổi danh vì lối hành vãn trôi chảy và trong sáng. Có ngýời cho rằng giữa Aristotle và Plato có sự bất ðồng ý kiến trầm trọng, nhýng không ai tìm ra ðýợc các dẫn chứng ðáng tin cậy. Có lẽ ðối với Plato, Aristotle ðã bất ðồng ý về nhiều giáo ðiều song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết õn. Khi Plato qua ðời vào nãm 347, Aristotle viết một bài ðiếu vãn trong ðó ông ðã ca tụng Thầy.
Theo Diogene Laerce, Aristotle mắc tật nói lắp (cà lãm). Ông có ðôi mắt nhỏ, ðôi chân gầy còm và rất ýa thích quần áo ðẹp. Khả nãng làm việc của Aristotle rất lớn lao và ngýời ta kết luận nhý vậy cãn cứ vào số tác phẩm do ông ðã viết ra. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tãng thêm số giờ làm việc, Aristotle ðã nghĩ ra phýõng pháp sau: khi ðọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nõi tay trái một quả cầu bằng ðồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rõi xuống thì tiếng ðộng sẽ ðánh thức ông dậy. Aristotle bị ðau dạ dầy và ðể làm giảm bớt nỗi ðau ðớn, ông thýờng ðeo ở trýớc ngực một cái bị ðựng dầu ðun nóng.
Vào nãm 347 khi Plato qua ðời, Speusippus trở thành ngýời ðứng ðầu trýờng Academos. Aristotle ðã cùng với Xenocrates và một vài môn ðệ của Plato, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Plato và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á (Asia Minor). Aristotle có cảm tình rất nhiều với Hermias và ðã kết hôn cùng Pithias, ngýời con gái nuôi của bạo chúa. Hermias cũng cảm thấy sung sýớng khi ðýợc Aristotle sống ở gần mình.
Thời bấy giờ, Hermias ðang ðiều khiển một lực lýợng giữa hai xứ hùng mạnh là Macedonia và Ba Tý. Luôn luôn bạo chúa thù nghịch với một trong hai phe kể trên, ðể rồi rõi vào cạm bẫy của Mentor, ðại týớng ngýời Hy Lạp ði theo Ba Tý. Hermias bị trao cho Artaxerxes và bị treo cổ. Cái chết thảm thýõng của Hermias ðã ảnh hýởng rất lớn tới Aristotle.
Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristotle ðã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn ðệ, dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào nãm 344. Chính tại nõi này, Aristotle ðã nghiên cứu trong hai nãm trýờng môn Sinh Học, ðặc biệt là ngành Hải Sinh Học (marine biology).
Nãm 342, Aristotle ðýợc mời tới Macedonia ðể dạy dỗ Thái Tử Alexander khi ðó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Aristotle ðã từng sống tại triều ðình này, có thể là do danh tiếng của ông nhờ các tập Ðối Thoại, nhýng cũng chính vì Aristotle ðã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là ngýời ðã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tý. Aristotle ðã ở lại Macedonia trong 7 nãm. Theo nhý thông lệ, nhà Ðại Hiền Triết ðã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristotle cũng soạn một tác phẩm của Homer ðể giảng cho Alexander. Aristotle ðã cố gắng làm phát triển nõi Thái Tử các ðức tính về ðiều ðộ và lý trí mà ðối với ông, rất cần thiết cho một výõng quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristotle ðã soạn ra cuốn “Khảo Sát về Výõng Quyền” (Traité de la Royauté) ðể giáo huấn Thái Tử nhýng tác phẩm này ðã bị thất lạc hoàn toàn.
Nãm 340 khi vua Philip ði chinh chiến nõi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Aristotle lập ra một ngôi trýờng và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình ðể học hỏi thêm. Aristotle cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nõi ðã bị tàn phá vài nãm trýớc và có lẽ cũng do ông, thành phố này có một hiến pháp.
Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi ðã thay cha lên ngôi vua, vẫn lýu giữ Aristotle bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết õn ðối với Thầy cũ bằng cách biệt ðãi nhà Ðại Hiền Triết trong mọi công việc. Nhýng nếu Alexander rất mến yêu Thầy thì trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình nhý ðã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”.
Vào nãm 335 khi Ðại Ðế Alexander ði chinh phục châu Á thì Aristotle tự thấy rằng nhiệm vụ của mình ðã chấm dứt. Ông ðề nghị ðể ngýời cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Ðại Ðế. Alexander ðã chấp nhận lời ðề nghị và còn dùng Callisthenes làm sử gia theo ðoàn quân viễn chinh. Aristotle là ngýời hiểu rõ tính tình của nhà vua học trò cũ, ông ðã từng nhắc nhở cháu ông phải thận trọng trong lời nói, nhýng Callisthenes ðã không cản ðýợc tấm lòng bảo vệ ðýờng lối chính trị thuần Hy Lạp trong khi Ðại Ðế Alexander lại tỏ ra nhýợng bộ trýớc ảnh hýởng của châu Á. Chính vì sự bất cẩn này, Callisthenes ðã bị kết án tử hình và theo lời Diogene Laerce, ông ta bị quãng cho thú dữ phân thây.
Sau khi từ biệt Alexander, Aristotle trở lại thành Athens. Tại nõi này, Xenocrates ðang ðiều khiển Hàn Lâm Viện Academos. Aristotle liền lập ra trýờng Lyceum, gần ðền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay mới có danh từ “Lycée”. Trýờng Lyceum là nõi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Vãn Chýõng, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trýờng có rất nhiều học cụ, kể cả bản ðồ, lại có một thý viện rất ðầy ðủ. Tại ngôi trýờng này, Aristotle trình bày các ý týởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc dạo chõi ngoài výờn, vì vậy ngôi trýờng của Aristotle còn ðýợc gọi là “Trýờng Dạo Chõi” (Peritatetic school) do danh từ Peripatetic (dạo chõi) theo tiếng Hy Lạp.
Nền giáo dục do Aristotle chủ trýõng gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai (exoteric)(phổ biến ra bên ngoài). Nhà Ðại Hiền Triết ðề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristotle giảng dạy những học viên cũ về nhiều ðiều làm mở mang kiến thức trong ðó môn Tu Từ Pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 nãm liền, Aristotle vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm ðề cập tới hầu hết kiến thức của thời ðại. Trong các nãm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristotle ðã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng nhý lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này ðã ðýợc dùng làm cãn bản ðể ấn ðịnh ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp.
Aristotle còn biên khảo về Hiến Pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo Sát về Hiến Pháp của Thành Athens” (On the Athenian Constitution). Khi Alexander chinh phục xứ Ba Tý, Ðại Ðế ðã cho ngýời ðem về tặng Thầy cũ các tài liệu và mẫu hải sinh vật nhờ vậy, Aristotle hoàn thành cuốn sách “Tính Chất của các Sinh Vật” (La Nature des Animaux).
Nãm 323 khi Ðại Ðế Alexander qua ðời, cuộc sống của Aristotle cũng bị ảnh hýởng. Mặc dù Aristotle chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi ngýời cháu của ông bị tử hình, nhýng nhà Ðại Hiền Triết thýờng ði lại với Antipater và ðýợc viên tổng trấn này che chở. Ðảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes lãnh ðạo ðã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Ðại Ðế Alexander không còn nữa. Aristotle nhận thấy ðời sống và tài sản của mình bị ðe dọa. Ngýời ta ðã tố cáo ông phạm tội bất kính (impiety) vì 20 nãm trýớc, ông ðã sáng tác một bài thõ týởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thýợng Ðế. Aristotle nhớ lại số phận của Socrates rồi không ðợi tòa án xét xử, vì chắc chắn ông sẽ bị kết án, Aristotle rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis. Ông tuyên bố “Tôi sẽ không ðể ngýời Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I will not let the Athenians offend twice against Philosophy).
Sống tại Chalcis ðýợc vài tháng, Aristotle qua ðời vào nãm 322 có lẽ do bệnh ðau dạ dầy, một cãn bệnh ðã hành hạ ông trong nhiều nãm trýờng. Ông ðể lại hai ngýời con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và ngýời con gái mang tên mẹ Pithias. Theo nhý lời yêu cầu, nắm xýõng tàn của nhà Ðại Hiền Triết ðýợc chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông.
2/ Các tác phẩm của Aristotle.
Các tác phẩm của Aristotle ðýợc chia làm ba loại: (1) các bài viết phổ thông (popular writings), (2) các sách ghi chép (memoranda) và (3) các sách luận ðề (treatises).
Các bài viết phổ thông ða số gồm các tập ðối thoại (dialogues) theo mẫu của Plato và ðýợc viết ra khi Aristotle còn cý ngụ tại trýờng Academos. Các công trình sáng tạo này ðýợc nhà Ðại Hiền Triết gọi là các bài viết phổ biến ngoại (exoteric writings) với ý ðịnh dành cho công chúng bên ngoài trýờng học, hõn là các học viên của trýờng. Ngoại trừ một số ðoạn rời rạc còn sót lại, hầu hết các tập ðối thoại này ðã bị thất lạc.
Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu (historical records). Những sách này do Aristotle và các môn ðệ của ông thực hiện với chủ ðích dùng làm nguồn tý liệu cho các học giả. Giống nhý các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi chép ðều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận ðề, ðýợc viết ra dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng (lecture notes) tại Trýờng Lyceum, liên quan tới mọi ngành của Kiến Thức và Nghệ Thuật. Không giống nhý các bài viết phổ thông, các sách luận ðề chỉ ðýợc dùng cho học viên trong trýờng, vì vậy ðýợc gọi là các công trình phổ biến nội (esoteric works). Danh tiếng của Aristotle ðýợc cãn cứ vào các công trình này và ðây là các tác phẩm mà các nhà biên tập ðời sau ðã thu thập và xếp ðặt.
Công trình khảo cứu của Aristotle về Luận Lý (Logic) ðýợc xếp chung vào bộ tác phẩm gọi tên là Organon, có nghĩa là “cách dùng” (instrument) bởi vì ðây là phýõng tiện (the means) ðể ðạt ðýợc kiến thức (positive knowledge), là cách ðể tìm hiểu tý týởng. Bộ Organon gồm các tác phẩm The Categories (các Loại), The Prior and Posterior Analytics (các Phân Tích trýớc và sau), The Topics (các Chủ Ðề) và On Interpretation (Về cách Diễn Ðạt).
Phạm Vãn Tuấn
Aristotle là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học ðã tạo nên ảnh hýởng hết sức lớn lao trong nền Vãn Minh Tây Phýõng. Cùng với Plato, Aristotle ðýợc coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Aristotle hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời ðại trýớc, ðã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh hýởng trong nhiều thế kỷ về sau.
1/ Cuộc ðời của Aristotle.
Aristotle chào ðời tại Stagira thuộc miền Thrace nãm 384 trýớc Tây Lịch. Stagira là một tỉnh nhỏ, là thuộc ðịa của Hy Lạp bên bờ phía bắc biển Aegean mà ngày nay có lẽ là Stavro. Cả hai cha và mẹ của Aristotle ðều gốc ngýời Ionien. Cha Aristotle, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều ðình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip of Macedonia. Mẹ của Aristotle vốn ngýời miền Chalcis. Có lẽ trong 17 nãm ðầu, Aristotle ðã sống với cha mẹ và ðýợc cha dạy cho về Y Khoa. Nãm 17 tuổi, Aristotle tới thành Athens và theo hoc nghề thầy thuốc.
Nãm 367 trýớc TL, Aristotle vào học Trýờng Academos của Plato. Vào thời gian này, Plato 61 tuổi và ðã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn Lâm Viện Academos ðặc biệt chú trọng về Luật Pháp, Chính Trị, thêm vào là Toán Học và Thiên Vãn. Ngày nay, ngýời ta chỉ hiểu biết rất mõ hồ về cuộc sống của Aristotle trong 20 nãm tại Hàn Lâm Viện.
Aristotle ðýợc coi là một trong số học viên chãm chỉ nhất và xuất sắc hõn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Ngýời ta còn kể rằng Plato ðã phải gọi Aristotle là “Trí Tuệ của Nhà Trýờng” (l'entendement de l'Ecole). Theo nhý truyền thống, Aristotle phụ trách giảng dạy môn Tu Từ Pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra vài tập Ðối Thoại (Dialogues) theo khuôn mẫu của Thầy Plato. Các tác phẩm này ðều trở nên rất nổi danh vì lối hành vãn trôi chảy và trong sáng. Có ngýời cho rằng giữa Aristotle và Plato có sự bất ðồng ý kiến trầm trọng, nhýng không ai tìm ra ðýợc các dẫn chứng ðáng tin cậy. Có lẽ ðối với Plato, Aristotle ðã bất ðồng ý về nhiều giáo ðiều song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết õn. Khi Plato qua ðời vào nãm 347, Aristotle viết một bài ðiếu vãn trong ðó ông ðã ca tụng Thầy.
Theo Diogene Laerce, Aristotle mắc tật nói lắp (cà lãm). Ông có ðôi mắt nhỏ, ðôi chân gầy còm và rất ýa thích quần áo ðẹp. Khả nãng làm việc của Aristotle rất lớn lao và ngýời ta kết luận nhý vậy cãn cứ vào số tác phẩm do ông ðã viết ra. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tãng thêm số giờ làm việc, Aristotle ðã nghĩ ra phýõng pháp sau: khi ðọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nõi tay trái một quả cầu bằng ðồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rõi xuống thì tiếng ðộng sẽ ðánh thức ông dậy. Aristotle bị ðau dạ dầy và ðể làm giảm bớt nỗi ðau ðớn, ông thýờng ðeo ở trýớc ngực một cái bị ðựng dầu ðun nóng.
Vào nãm 347 khi Plato qua ðời, Speusippus trở thành ngýời ðứng ðầu trýờng Academos. Aristotle ðã cùng với Xenocrates và một vài môn ðệ của Plato, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Plato và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á (Asia Minor). Aristotle có cảm tình rất nhiều với Hermias và ðã kết hôn cùng Pithias, ngýời con gái nuôi của bạo chúa. Hermias cũng cảm thấy sung sýớng khi ðýợc Aristotle sống ở gần mình.
Thời bấy giờ, Hermias ðang ðiều khiển một lực lýợng giữa hai xứ hùng mạnh là Macedonia và Ba Tý. Luôn luôn bạo chúa thù nghịch với một trong hai phe kể trên, ðể rồi rõi vào cạm bẫy của Mentor, ðại týớng ngýời Hy Lạp ði theo Ba Tý. Hermias bị trao cho Artaxerxes và bị treo cổ. Cái chết thảm thýõng của Hermias ðã ảnh hýởng rất lớn tới Aristotle.
Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristotle ðã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn ðệ, dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào nãm 344. Chính tại nõi này, Aristotle ðã nghiên cứu trong hai nãm trýờng môn Sinh Học, ðặc biệt là ngành Hải Sinh Học (marine biology).
Nãm 342, Aristotle ðýợc mời tới Macedonia ðể dạy dỗ Thái Tử Alexander khi ðó mới 13 tuổi. Lời mời của Vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Aristotle ðã từng sống tại triều ðình này, có thể là do danh tiếng của ông nhờ các tập Ðối Thoại, nhýng cũng chính vì Aristotle ðã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là ngýời ðã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tý. Aristotle ðã ở lại Macedonia trong 7 nãm. Theo nhý thông lệ, nhà Ðại Hiền Triết ðã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristotle cũng soạn một tác phẩm của Homer ðể giảng cho Alexander. Aristotle ðã cố gắng làm phát triển nõi Thái Tử các ðức tính về ðiều ðộ và lý trí mà ðối với ông, rất cần thiết cho một výõng quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristotle ðã soạn ra cuốn “Khảo Sát về Výõng Quyền” (Traité de la Royauté) ðể giáo huấn Thái Tử nhýng tác phẩm này ðã bị thất lạc hoàn toàn.
Nãm 340 khi vua Philip ði chinh chiến nõi xa, Thái Tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Aristotle lập ra một ngôi trýờng và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình ðể học hỏi thêm. Aristotle cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nõi ðã bị tàn phá vài nãm trýớc và có lẽ cũng do ông, thành phố này có một hiến pháp.
Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi ðã thay cha lên ngôi vua, vẫn lýu giữ Aristotle bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết õn ðối với Thầy cũ bằng cách biệt ðãi nhà Ðại Hiền Triết trong mọi công việc. Nhýng nếu Alexander rất mến yêu Thầy thì trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình nhý ðã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”.
Vào nãm 335 khi Ðại Ðế Alexander ði chinh phục châu Á thì Aristotle tự thấy rằng nhiệm vụ của mình ðã chấm dứt. Ông ðề nghị ðể ngýời cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Ðại Ðế. Alexander ðã chấp nhận lời ðề nghị và còn dùng Callisthenes làm sử gia theo ðoàn quân viễn chinh. Aristotle là ngýời hiểu rõ tính tình của nhà vua học trò cũ, ông ðã từng nhắc nhở cháu ông phải thận trọng trong lời nói, nhýng Callisthenes ðã không cản ðýợc tấm lòng bảo vệ ðýờng lối chính trị thuần Hy Lạp trong khi Ðại Ðế Alexander lại tỏ ra nhýợng bộ trýớc ảnh hýởng của châu Á. Chính vì sự bất cẩn này, Callisthenes ðã bị kết án tử hình và theo lời Diogene Laerce, ông ta bị quãng cho thú dữ phân thây.
Sau khi từ biệt Alexander, Aristotle trở lại thành Athens. Tại nõi này, Xenocrates ðang ðiều khiển Hàn Lâm Viện Academos. Aristotle liền lập ra trýờng Lyceum, gần ðền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay mới có danh từ “Lycée”. Trýờng Lyceum là nõi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Vãn Chýõng, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trýờng có rất nhiều học cụ, kể cả bản ðồ, lại có một thý viện rất ðầy ðủ. Tại ngôi trýờng này, Aristotle trình bày các ý týởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc dạo chõi ngoài výờn, vì vậy ngôi trýờng của Aristotle còn ðýợc gọi là “Trýờng Dạo Chõi” (Peritatetic school) do danh từ Peripatetic (dạo chõi) theo tiếng Hy Lạp.
Nền giáo dục do Aristotle chủ trýõng gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai (exoteric)(phổ biến ra bên ngoài). Nhà Ðại Hiền Triết ðề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng còn buổi chiều, Aristotle giảng dạy những học viên cũ về nhiều ðiều làm mở mang kiến thức trong ðó môn Tu Từ Pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 nãm liền, Aristotle vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm ðề cập tới hầu hết kiến thức của thời ðại. Trong các nãm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristotle ðã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng nhý lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này ðã ðýợc dùng làm cãn bản ðể ấn ðịnh ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp.
Aristotle còn biên khảo về Hiến Pháp tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo Sát về Hiến Pháp của Thành Athens” (On the Athenian Constitution). Khi Alexander chinh phục xứ Ba Tý, Ðại Ðế ðã cho ngýời ðem về tặng Thầy cũ các tài liệu và mẫu hải sinh vật nhờ vậy, Aristotle hoàn thành cuốn sách “Tính Chất của các Sinh Vật” (La Nature des Animaux).
Nãm 323 khi Ðại Ðế Alexander qua ðời, cuộc sống của Aristotle cũng bị ảnh hýởng. Mặc dù Aristotle chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi ngýời cháu của ông bị tử hình, nhýng nhà Ðại Hiền Triết thýờng ði lại với Antipater và ðýợc viên tổng trấn này che chở. Ðảng Quốc Gia thành Athens do Demosthenes lãnh ðạo ðã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Ðại Ðế Alexander không còn nữa. Aristotle nhận thấy ðời sống và tài sản của mình bị ðe dọa. Ngýời ta ðã tố cáo ông phạm tội bất kính (impiety) vì 20 nãm trýớc, ông ðã sáng tác một bài thõ týởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thýợng Ðế. Aristotle nhớ lại số phận của Socrates rồi không ðợi tòa án xét xử, vì chắc chắn ông sẽ bị kết án, Aristotle rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis. Ông tuyên bố “Tôi sẽ không ðể ngýời Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I will not let the Athenians offend twice against Philosophy).
Sống tại Chalcis ðýợc vài tháng, Aristotle qua ðời vào nãm 322 có lẽ do bệnh ðau dạ dầy, một cãn bệnh ðã hành hạ ông trong nhiều nãm trýờng. Ông ðể lại hai ngýời con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và ngýời con gái mang tên mẹ Pithias. Theo nhý lời yêu cầu, nắm xýõng tàn của nhà Ðại Hiền Triết ðýợc chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông.
2/ Các tác phẩm của Aristotle.
Các tác phẩm của Aristotle ðýợc chia làm ba loại: (1) các bài viết phổ thông (popular writings), (2) các sách ghi chép (memoranda) và (3) các sách luận ðề (treatises).
Các bài viết phổ thông ða số gồm các tập ðối thoại (dialogues) theo mẫu của Plato và ðýợc viết ra khi Aristotle còn cý ngụ tại trýờng Academos. Các công trình sáng tạo này ðýợc nhà Ðại Hiền Triết gọi là các bài viết phổ biến ngoại (exoteric writings) với ý ðịnh dành cho công chúng bên ngoài trýờng học, hõn là các học viên của trýờng. Ngoại trừ một số ðoạn rời rạc còn sót lại, hầu hết các tập ðối thoại này ðã bị thất lạc.
Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu (historical records). Những sách này do Aristotle và các môn ðệ của ông thực hiện với chủ ðích dùng làm nguồn tý liệu cho các học giả. Giống nhý các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi chép ðều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận ðề, ðýợc viết ra dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng (lecture notes) tại Trýờng Lyceum, liên quan tới mọi ngành của Kiến Thức và Nghệ Thuật. Không giống nhý các bài viết phổ thông, các sách luận ðề chỉ ðýợc dùng cho học viên trong trýờng, vì vậy ðýợc gọi là các công trình phổ biến nội (esoteric works). Danh tiếng của Aristotle ðýợc cãn cứ vào các công trình này và ðây là các tác phẩm mà các nhà biên tập ðời sau ðã thu thập và xếp ðặt.
Công trình khảo cứu của Aristotle về Luận Lý (Logic) ðýợc xếp chung vào bộ tác phẩm gọi tên là Organon, có nghĩa là “cách dùng” (instrument) bởi vì ðây là phýõng tiện (the means) ðể ðạt ðýợc kiến thức (positive knowledge), là cách ðể tìm hiểu tý týởng. Bộ Organon gồm các tác phẩm The Categories (các Loại), The Prior and Posterior Analytics (các Phân Tích trýớc và sau), The Topics (các Chủ Ðề) và On Interpretation (Về cách Diễn Ðạt).