|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:45:22 GMT 9
Vết xích chiến xa trên đất Kontum mùa Hè đỏ lửa 1972 Lê Quang Vinh, Chi Ðoàn 1/8 Suu Tam-------------------------------------------------------------------------------- Mưa giăng phủ trên nền trời Kontum, hạt mưa nhẹ như sương mù, những hạt mưa chỉ mang lại ướt át, lầy lội, những hạt mưa không gây chết chóc ai. Nhưng giữa những cơn mưa vô tình đó là một vùng Komtum khói lửa. Ðịch pháo như mưa, pháo theo mưa liên tục trút xuống thành phố và các vị trí của quân ta mà Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn là mục tiêu mưa pháo của địch. Trong những cơn mưa pháo đó, mỗi khi đạn đạo của pháo thu ngắn lại do tầm điều chỉnh của Bắc quân, là vị trí của Chi Ðoàn bị ăn đạn. Lý do là vị trí phòng thủ của thiết giáp chỉ cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn chưa tới 500 mét. Gia đình kỵ binh các cấp đều ăn ngủ bên cạnh chiến xa, tất cả trong tình trạng sẳn sàng tác chiến, nhận lệnh, chỉ cần khoảng 2 phút là tất cả xích sắt chiến xa chuyển động. Cùng lúc, khả năng tác chiến của Chi Ðoàn được phục hồi sau khi được trực thăng tiếp tế cơ phận và sửa chữa các chiến xa bị hư. Chi Ðoàn có được 10 chiếc M41 trong tay sẳn sàng tham chiến. Giữa tháng 5/1972, SÐ23BB và các đơn vị thống thuộc đã bẽ gẵy ít nhất là 2 cuộc tấn công của Bắc quân, song áp lực địch vẫn còn đè nặng trên thị trấn Cao Nguyên này. Quốc lộ 14 lại bị chốt cứng tại đèo Chu Pao. Phương tiện tiếp tế duy nhứt cho mặt trận Kontum là thả dù, mà địa điểm thả là bãi thả dù nằm phía Nam khu nghĩa địa. Nếu dù tiếp tế rơi bên này bờ suối thì lọt vào tay bạn, nếu gió đưa dù qua bên kia bờ suối thì địch có dịp ăn gạo xấy, thịt hộp của phe ta! Cả tháng trời chỉ có gạo xấy và thịt hộp, không có một miếng rau hay lương thực tươi, mà nếu từ trời bỗng rơi xuống mấy miếng thịt heo tươi anh em cũng chưa chắc dám ăn. Cái cảnh heo ăn thịt người làm anh em lợm giọng. Trước mắt chúng tôi, có mấy lần chứng kiến bầy heo đói sút chuồng chạy rong dọc đường Nguyễn Huệ, Phương Nghĩa phía Nam phi trường Kontum. Ðàn heo giành nhau gậm xé một cái chân người, kéo lê trên vệ đường với chiếc giép râu còn dính chặc ở bàn chân, y như trong một phim ma kinh dị... Như mọi ngày, địch pháo ngày, pháo đêm, pháo trong cơn mưa, pháo khi trời nắng, pháo lúc sương mù... Nhưng đêm nay, địch bỗng ngưng pháo. Trực giác chiến trường cho biết có một cái gì bất thường, nghĩa là địch chuẩn bị giở trò. Các Chi Ðội báo động và tăng cường canh gác. Trời Kontum tối đen như mực, màn đêm lại rải xuống những cơn mưa phùn tê buốt thịt da, héo hắt lòng chinh nhân đang chong súng chờ giặc. Thời gian chầm chậm trôi như con kiến bò từ lổ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi, những con mắt chong vào đêm tối. Vừa qua khỏi nửa khuya, khắp nơi, hàng loạt tiếng nổ vang rền như phá tung màn đêm. Ðịch bắt đầu đợt tấn công mới. Qua hệ thống truyền tin, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn nhận các báo cáo: - Ðịch vào tới phi trường! - Ðịch tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB trong thành Dak - Pha - Ðịch tấn công hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh.... Nằm trong tầm quan sát của Thiết Kỵ, trong cái tĩnh lặng của màn đêm lạnh lẽo giăng giăng mưa lạnh, chợt mìn chiếu sáng và claymore đồng loạt nổ rực sáng về phía cánh Bravo, nơi bãi thả dù tiếp tế những ngày vừa qua. Bravo khai hỏa. Ðại bác và đại liên nổ rền một góc thành phố Kontum. Mìn chiếu sáng và hỏa châu rọi rõ khu vực giao tranh, soi rõ bước chuyển quân của địch khi địch bị hỏa lực khủng khiếp của chiến xa bắn giạt về phía Nam khu trường học, nhưng cuộc di quân trốn đạn của định vẫn bị hỏa lực cánh Bravo bám chặt và bị dồn ngược lại để sau cùng lui về bờ suối, vừa rút vừa bắn trả bằng đại liên, B40, 41 và cả AT3 nhưng không gây thiệt hại cho các chiến xa cánh Bravo, vì địch không nhìn ra vị trí các chiến xa. Hỏa lực địch dồn vào vách các căn nhà cháy phía sau lưng kháng tuyến của Bravo. Hỏa châu đã thay mặt trời. Tiếng súng ngưng, chiến trường im lặng. Mặt trời lại từ từ bò lên thế hỏa châu. Tôi phóng ống dòm qua các vùng địch xâm nhập tấn công hồi đêm, xác địch nằm la liệt trên những gò đất, trên những bụi cây ngoài tuyến phòng thủ. Ðịnh bụng là sẽ xin lệnh Sư Ðoàn cho các đứa con bung ra truy kích và khai tác chiến quả, tôi chưa bốc máy thì bất ngờ Trung Tâm Hành Quân Sư Ðoàn gọi khẩn cấp: - Toàn bộ gia đình Tài Lực rời vị trí, giao lại cho Bộ Binh. Chuẩn bị cải cách để giải tỏa áp lực địch trong thành Dak - Pha và tái chiếm lại phi trường Kontum! - Tài Lực nhận rõ! Lệnh ra, trong phút chốc, tất cả chiến xa lăn xích rời vị trí tiến ngược vào thành phố, rẽ trái tại đường Lê Lợi rồi đổi hướng Bắc để vào thành Dak-Pha. Tại khu nghĩa địa nhỏ trước cổng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, địch ẩn nấp trong các gò mả và giao tranh ác liệt với Trinh Sát Sư Ðoàn. Cách thành Dak - Pha khoảng 500m về phía Nam, có một khu vườn mít, tôi cho lệnh các chiến xa chui hết vào trong đó để ẩn nấp và quan sát mục tiêu. Cổng thành Dak - Pha sập đổ nát nhưng bức tường thành phía Nam vẫn đứng nguyên sừng sững, phân chia trong và ngoài. Tôi nhìn đăm đăm vào tháp nước nơi khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên nóc tháp tác xạ lên máy bay, tác xạ vào các cánh quân ta tiến vào trong thành. Không thể đi bằng cổng chính để làm mục tiêu cho địch tác xạ, tôi lệnh cho ba chiến xa dưới quyền: - Chuẩn bị khoan tường để tiến vào thành! - Nhận rõ! Ngay tức khắc, ba chiếc M41 như ba con cua sắt dương càng húc vào tường. Rầm! Rầm Rầm! Tường vừa sập, chiến xa tràn vào, tác xạ liên tục vô cổng chính và các căn nhà sập gần tháp nước, nơi địch bắn ra. Vừa lọt vào bờ thành là các chiến xa đầu chạm địch dữ dội. Toàn bộ Chi Ðoàn vượt qua bức tường đổ. Ðịch có mặt khắp nơi, trong đống gạch vụn, sau bức vách đổ, sau nhưng ngôi nhà sụp, trong hầm, trong hố, sau gốc cây... Chỗ nào cũng có tiếng súng địch nhắm vào thiết giáp. Bên cạnh, cuộc ác chiến từ hồi đêm còn đang diễn ra tại Bội Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB, nơi trước đó đã đặt Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. Nhìn chung, địa thế rất khó điều động chiến xa. Tôi quyết định nhanh, chia gia đình ra từng phân đội, cứ hai chiến xa tiến theo một trục để yễm trợ và bảo vệ lẫn nhau. Trục tiến là đường đi giữa hai dãy nhà đổ nát, một chiếc chạy sát dãy bên phải, một chiếc chạy sát dãy bên trái, thận trọng tối đa khi tới ngả tư. Ðịch ẩn nấp trong những căn nhà đổ nát nên tất cả mọi loại vũ khí đều được đem ra sử dụng: Ðại bác phóng vào hầm địch, đại liên 50 và 30 dìm cứng địch trong vòng tử địa, lựu đạn được tung vào từng ô cửa sổ, từng góc nhà, từng lổ trống vách tường. Vũ khí chống chiến xa của địch bị vô hiệu vì khoảng cách hai bên quá gần. Trong trận quần thảo cận chiến sinh tử này, thế bám trận của địch bị vỡ và địch tháo chạy về hướng Bắc, để lại vô số cán binh bị chết và bị thương, một tổn thất nặng nề. Các đơn vị bộ binh của Trung Ðoàn 44 tức tốc tràn ra khỏi vị trí phòng thủ, và một trận phản công ác liệt diễn ra khắp nơi trong thành Dak- Pha. Chi Ðoàn đã hoàn thành nhiệm vụ. Trong trận giải tỏa thành Dak – Pha, Chi Ðoàn bị hy sinh cũng không nhỏ, kể cả 5 sĩ quan và 3 chiến xa bị hư hại. Dù vết thương còn đang rướm máu, gia đình Tài Lực lại nhận tiếp lệnh của thượng cấp: Rời Dak – Pha, giao lại cho Bộ Binh, di chuyển gấp để giải tỏa phi trường. Xích sắt chiến xa lại nghiến đường bụi đỏ mà ào ào tiến lên, lại lao vào "gió cát" mà chừng như nghe đâu đó âm thanh của một thứ "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" trong gió Kontum từ thành Dak – Pha thổi theo vết lăn của xích sắt... * * * Phi trường Kontum nằm về phía Ðông của thành phố và ở vị trí Ðông Nam thành Dak - Pha. Phi đạo chạy dài theo chiều Ðông - Tây. Phía Nam phi đạo, gần cổng ra vào có vài căn nhà dành cho hành khách Air Việt Nam và An Ninh Phi Trường. Phía Bắc phi đạo có một số ụ để máy bay. Cuối phi đạo và dọc theo hàng rào phi trường là những lô cốt bảo vệ phi trường. Phi trường là một trong những mục tiêu quan yếu mà Bắc quân phải tấn chiếm. Tiếng khua động của xích sắt chiến xa không át được tiếng súng nổ vang mỗi lúc một rõ từ hướng hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Tôi mừng trong bụng là tiếng đại liên 50 vẫn còn nổ ròn rã, vì điều nay cho biết địch chưa chiếm được căn cứ Trung Ðoàn, dù có nhiều đám cháy trong doanh trại. Từ các ụ máy bay cuối phi đạo, địch đặt đại liên bắn vào Trung Ðoàn Thiết Giáp để yễm trợ cho bộ binh tấn công vào hậu cứ Thiết Giáp và khu vực Quân Tiếp Vụ gần thành Dak - Pha... Một vài lô cốt bị địch thổi sập, nhưng địch vẫn chưa lọt vào được. Ðịch chưa vào được là hậu cứ Thiết Giáp chưa mất, lực lượng quân ta vẫn còn. Tôi lệnh cho phân đội chiến xa đầu bọc về phía Nam của hậu cứ Thiết Giáp, sau đó chuyển sang hướng Ðông rồi bố trí đợi lệnh. Tôi cần thời gian để quan sát, ước lượng ý đồ, khả năng và mục tiêu của địch... trước khi có kế hoạch tấn công. Ước lượng sai, hành động sai là tự sát. Ðịch đã ở trong vị thế đã dàn trận và tấn công. Tôi nghĩ đến cái câu của người xưa "biết mình biết địch, trăm trận trăm thắng." Thắng bại gì thì chưa biết, nhưng chỉ biết là yếu tố địch, khả năng địch, lực lượng địch, vũ khí địch... tôi chưa nắm hết, mà biết mình thì tôi biết khá rõ. Mặc dù được bổ sung trên 10 sĩ quan sau trận ác chiến trong nghĩa địa và sửa chữa, bổ sung chiến xa, nhưng khi giải tỏa thành Dak - Pha, gia đình Tài Lực bị hy sinh nghiêm trọng một số sĩ quan ưu tú để bây giờ, đối chiến với Bắc quân đã chiếm phi trường và đang uy hiếp dữ dội hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh, Chi Ðoàn chỉ còn lại hai sĩ quan là Chi Ðoàn Trưởng và Thiếu úy Nguyễn Văn Tám. Các Chi Ðội, Phân Ðội chiến xa được trao quyền chỉ huy cho các Hạ Sĩ Quan Kỵ Binh kế quyền. Trong tình huống nguy khốn mà vết xích chiến xa chỉ có đường lăn tới, thầy trò chúng tôi đựa lưng nhau chiến đấu. Tôi gọi Tám:
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:45:55 GMT 9
- Nhiệm vụ của cậu là ở lại với 2 M113 và bảo vệ cho 3 chiến xa bị hư. Tất cả chiến xa còn lại và anh em Hạ Sĩ Quan gia đình Chi Ðoàn do tôi điều động. Nhiệm vụ phải hoàn thành trong bất cứ tình huống nào! Cậu nhận rõ?
- Rõ 5! Thẩm quyền!
Giọng Tám chắc và quyết liệt. Tôi họp tham mưu bỏ túi với tất cả anh em còn lại mà trong đó tôi là Chi Ðoàn trưởng, người sĩ quan duy nhất trong trận đánh sắp diễn ra. Tuy nhiên, tôi vô cùng tin tưởng những Hạ Sĩ Quan Thiết Kỵ can đảm và đầy kinh nghiệm của Chi Ðoàn. Theo lệnh tôi, tất cả chiến xa còn lại của Chi Ðoàn được chia làm 3 Phân Ðội:
- Phân đội 1 gồm 2 chiến xa, do Trung Sĩ Nhất Y – Ðê – Niê ( người Thượng) chỉ huy.
- Phân đội 2 gồm 2 chiến xa, do Thượng Sĩ Bảo chỉ huy.
- Phân đội chỉ huy gồm 3 chiến xa do tôi, Chi Ðoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy.
Qua hệ thống âm thoại đặc biệt của gia đình Tài Lực, tôi gọi, 2 Phân Ðội và giao trách nhiệm:
- 1 tấn công địch ở ụ máy bay đầu. Phân Ðội Chỉ Huy trách nhiệm giữ cạnh sườn phải cho 1, sau khi 1 vào tới mục tiêu, Phân Ðội Chỉ Huy tấn công mục tiêu 2 ở ụ máy bay thứ hai. 2 bảo vệ phía Nam, và Ðông khi Phân Ðội Chỉ Huy chiếm mục tiêu thì 2 tức tốc tấn công mục tiêu 3 ở ụ máy bay thứ ba. Ngay sau đó, 1 rút ra bảo vệ cạnh sườn mặt Ðông cho 2. Tất cả 1,2 nhận rõ?
- 1, 2 nhận rõ 5! Thẩm quyền!
Xích sắt chiến xa bắt đầu lăn trên kế hoạch, sau lưng là bộ binh SÐ23 tùng thiết theo sát chiến xa. Bắc quân đang chỉa tất cả các loại vũ khí vào hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh, bất ngờ tiếng xích sắt vang sau lưng họ. Bắc quân ngỡ ngàng hoang mang trong tình huống này. Chỉ với 7 chiến xa mà Bắc quân đã chào đón vô cùng nồng nhiệt với pháo 130 ly, cối 120 ly, đại bác 75 ly không giật. Pháo địch bắn thành một hàng rào lửa cản chiến xa, lấy phi đạo làm ranh giới.
Ðể tránh bị ăn pháo, tôi lệnh cho phân đội 1 tác xạ và lao thẳng vào mục tiêu với tốc độâ nhanh tối đa, trong lúc đó, phân đội chỉ huy trải lưới lửa vào cạnh sườn địch từ từ ụ máy bay 1 đến ụ máy bay 2. Chiến xa phân đội 1 đã gặp sự chống trả mãnh liệt của địch với đại liên được đặt ngay trên bờ thành cùng với B40 và B41 tác xạ thẳng vào đội hình của phân đội, đồng thời pháo và đại bác 75 ly không giật của địch từ cuối phi đạo cũng đồng loạt trút đạn vào các chiến xa đang tấn công. Chiến xa vẫn tiến. Một trung đội bộ binh bám sát theo chiến xa. Mục tiêu địch càng lúc càng gần, và "Ầm! Ầm!" Ðại lên địch trên bờ thành ụ máy bay số 1 bị đại bác chiến xa bắn tung, chiến xa ủi mục tiêu và bộ binh tràn ngập liền sau đó. Tiếng hô "xung phong" muốn át cả tiếng đạn nổ vang trời.
Trận đánh càng lúc càng ác liệt và không kém phần hào hứng. Tinh thần chiến đấu tuyệt vời của Thiết Giáp và Bộ Binh SÐ23 thể hiện rõ ngay trên trận mạc máu lửa. Người trúng đạn nằm lại tại chỗ, còn khả năng bắn yễm trợ anh em cứ tiếp tục bắn. Người không bị đạn cứ tiếp tục xông vào phía trước. Chiến xa nào đứt xích thì nằm lại, tiếp tục tác xạ theo khả năng còn lại của mình, chiến xa nào còn nguyên cứ lăn xích xông tới. Cả 3 phân đội chiến xa và bộ binh quần thảo với địch đến xế chiều, từng ụ đại liên địch, từ ụ 75 ly không giật của địch... liên tục bị nổ tung và tràn ngập. Ðến chiều cùng ngày, Bắc quân bị đẩy sát hàng rào phía Ðông phi trường và sau đó bị quét sạch.
Súng im tiếng trên toàn phi trường và hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh. Khói từ những đám cháy còn phảng phất trong ánh chiều tà. Trận địa xơ xác, tiêu điều, những vị trí súng bị phá hủy, những thây người, những vết xích ngang dọc. Tôi cho chiến xa tiếp cận hàng rào phi trường về mặt Ðông, số tử thương của địch bỏ lại nơi này có hơn một tiểu đoàn.
Màn đêm kép sụp đến che kín dần những tang thương đổ nát của chiến trường. Công tác thu dọn chiến trường và tản thương xong, gia đình Tài Lực di chuyển về vị trí được chỉ định, và mắt vẫn chong vào bóng đêm vất vưởng âm hồn tử sỉ hai bên.
Lê Quang Vinh
Phụ chú liên hệ:
- Ngày 3/5/1972, TT Việt Nam Cộng Hòa bay lên Kontum, đáp trực thăng đến mặt trận thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ. Mùi thuốc súng vẫn chưa tan trong thành phố. Cùng ngày, vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội đã gắn một sao lên cổ áo vị Ðại Tá Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Lý Tòng Bá, đồng thời cũng là tư lệnh chiến trường Kontum 1972. Cùng lúc, có quyết định thăng một cấp cho hầu hết các chiến binh tham dự mặt trận.
Chi Ðoàn Thiết Kỵ 1/8 đã là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp cho chiến thắng giải tỏa và cứu Kontum, từ ngày nhổ chốt Chu Pao đến lúc chiếm lại phi trường Kontum. Chi Ðoàn đã hy sinh cho chiến thắng này:
- 68 kỵ binh mũ đen, trong đó có 18 sĩ quan. - Trên 300 bị thương - 2 chiến xa M41 bị phá hủy. - 10 chiến xa bị hư hại nặng.
Ðổi lại về phía địch:
- Trên 10 chiến xa T54 bị bắn cháy. - Bắt sống một T54 còn nguyên vẹn. - Hơn một ngàn chết bỏ xác tại trận địa, số tử thương và bị thương được đồng đội mang theo không rõ.
Chi Ðoàn, với những tổn thất nặng nề như trên nhưng lúc nào cũng còn khả năng tác chiến và hoàn thành nhiệm vụ trong khói lửa, một phần nhờ lòng ưu ái của Ðại tá Nguyễn Xuân Hường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 Kỵ Binh Thiết Giáp. Gần như Ðại tá Hường đã vét cạn nhân lực của hai Chi Ðoàn 2/8 và 3/8 để bổ sung cho 1/8 sau những trận giao tranh nặng nề. Ðiều này được thể hiện rõ trong trận giải tỏa phi trường Kontum và hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Khi trực thăng còn đang đáp xuống sân vận động để di tản thương binh cũng là lúc những sĩ quan và binh sĩ Kỵ Binh Thiết Giáp đổ xuống từ trực thăng để tăng cường, bổ sung cho gia đình 1/8 kịp lúc cho những trận đánh kế tiếp. Chính vì thế, toàn thể Kỵ Binh Thiết Giáp, nhất là Chi Ðoàn 1/8, đã rất kính mến người anh cả Kỵ Binh Ðại tá Nguyễn Xuân Hường.
Sau khi Kontum được giải tỏa, Chi Ðoàn 1/8 vẫn lại là đơn vị Thiết Kỵ duy nhất ở lại Kontum chứ không được thay thế để dưỡng quân, để rồi vài tháng sau đó, 1/8 Thiết kỵ lại cùng Bộ Binh SÐ23 lại quần thảo với Bắc quân trong một trận dạ chiến ác liệt để tái chiếm căn cứ hỏa lực Non Nước gần Ngô Trang nằm về hướng Tây Bắc Kontum, đánh bật 2 tiểu đoàn địch ra khỏi vị trí đóng chốt, cứu nguy cho Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 53 và toán cố vấn Mỹ.
Khi căn cứ hỏa lực Non Nước lọt lại vào tay ta, Trung tá cố vấn trưởng Trung Ðoàn đã nói trước mọi người:
- Ðây là đơn vị chiến xa tuyệt vời mà lần đầu tiên trong đời binh nghiệp tôi mới chứng kiến trong trận đánh!
Cũng sau đó, chính ông đã đề nghị cấp huy chương "anh dũng bội tinh/silver star " của Hoa Kỳ cho Chi Ðoàn Truởng 1/8 Thiết Kỵ Lê Quang Vinh.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 5:02:18 GMT 9
Các tranh luận trong nội bộ đảng CSVN về cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân Việt Long, phóng viên đài RFA ********************************* Trung Tâm Việt Nam của đại học Texas Tech tổ chức cuộc hội thảo lớn về nhiều khiá cạnh liên quan đến cuộc tổng công kích tết Mậu thân1968, biến cố đem lại đau thương tang tóc cho hằng vạn gia đình ở cả hai miền Nam - Bắc.  Diễn giả Mere Pribbenow. Photo: RFA/ Việt Long. Vì sao Hà Nội phải tung ra trận tổng công kích Mậu Thân? Ai trong bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam ủng hộ và phản bác kế hoạch đó? Ông Hồ Chí Minh can dự ra sao? Các nhân vật khác có lập trường thế nào? Các tư lệnh và chỉ huy chiến trường Huế của Cộng sản đã điều động và thực hiện kế hoạch ra sao? Đó là những đề tài đáng chú ý trong những cuộc thảo luận trong ngày thứ nhì của cuộc hội thảo. Việt-Long tường trình tiếp cùng quý vị trong bài sau đây, ý kiến của nhà nghiên cứu độc lập Merle Pribbenow, nguyên là chuyên viên ngôn ngữ của cơ quan tình báo Trung ương Mỹ CIA, làm việc tại Sài Gòn trước đây. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp phản đối Nhiều người trong giới nghiên cứu của Hoa Kỳ cho rằng quan niệm về kế hoạch tổng công kích Mậu thân là của tướng Võ nguyên Giáp, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Bắc Việt Nam. Có người lại cho đó là của tướng Nguyễn Chí Thanh, tư lệnh quân sự các lực lượng Cộng sản chiến đấu ở miền Nam. Tưởng chừng còn phải chờ nhiều năm nữa mới xác minh được sự thật, nhưng gần đây những nguồn thông tin từ Hà Nội cho thấy cả hai vị tướng kia đều không phải là tác giả kế hoạch tổng công kích tổng nổi dậy Mậu thân 1968. Đó là lời của nhà nghiên cứu Merle Pribbenow trong bài thuyết trình về biến cố tết Mậu thân. Cựu chuyên viên ngôn ngữ của cục tình báo trung ương CIA cho biết tiếp, thực ra hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là hai người bày tỏ quan điểm chống lại kế hoạch đó qua những cuộc bàn cãi sôi nổi trong bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam. Phần trình bày của sử gia Villard tiếp tục như sau: Quan niệm về một cuộc tổng công kích tổng nổi dậy thực ra đã bắt nguồn từ những năm giữa thập niên 1960. Và kế hoạch đó sau cùng đã là sản phẩm chung của tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp cao cấp nhất của tướng Giáp, và tổng bí thư Lê Duẩn, đối thủ lâu năm của vị tướng được cả quân dân miền Bắc ngưỡng mộ và thường gọi là anh Văn. Tháng 12 năm 1963, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam chấp thuận môt nghị quyết, nguyên văn có đoạn là “một cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy là tối cần thiết để đạt đến chiến thắng hoàn toàn tại miền Nam” Tuy nhiên nghị quyết này khẳng định rằng tổng công kích tổng nổi dậy chỉ có thể được thực hiện sau khi quân đội miền Nam đã tan rã, để lực lượng địch không còn sức đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân, là trung tâm của cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy. Tháng 9 năm 1964, bộ chính trị quyết tâm đạt chiến thắng toàn diện, điều động vào miền Nam một đại đơn vị thiện chiến đầu tiên, với nhiệm vụ chuẩn bị tổng công kích sau khi quân đội miền Nam bị đánh bại. Kế hoạch của Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng Một kế hoạch quân sự gọi là kế hoạch X được soạn thảo, nhằm tấn công Sài Gòn từ năm hướng, sử dụng các đơn vị đặc công làm mũi tiến công tiền đạo, sách động dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền Sài Gòn. Kế hoạch này y hệt kế hoạch được sử dụng trong chiến cuộc Mậu thân 1968. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn là đồng tác giả và người chủ động nhất trong kế hoạch này, sau đó phải ngưng kế hoạch lại vì lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè 1965 đã đánh tiêu tan mọi hy vọng về tổng công kích tổng nổi dậy vào năm đó. Tướng Võ Nguyên Giáp không giữ vai trò chủ chốt trong cuộc chiến ở miền Nam như ông từng giữ trong chiến tranh chống Pháp. Tuy mang chức vụ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng quốc phòng, nhưng ông chỉ là một trong 5 uỷ viên của quân uỷ Trung ương, là cơ chế chỉ đạo chiến trường miền Nam. Chính trị bộ thường tranh luận gay gắt về chiến lược chiến thuật cho chiến trường này, và tướng Giáp thường ở về phía thua cuộc. Không rõ chi tiết những cuộc tranh cãi, nhưng tin cho hay một bên là bí thư Lê Duẩn cùng những uỷ viên người miền Nam, bên kia là tướng Giáp và những người còn lại trong bộ chính trị. Hai nhân vật này đã xung khắc từ lâu. Những sự kiện được biết chắc là năm 1956 tướng Giáp được toàn Đảng coi là ứng viên sáng giá nhất cho chức vụ bí thư thứ nhất, thay thế Trường Chinh. Nhưng cuối năm 1957 Lê Duẩn qua mặt ông Giáp, được bầu chọn làm quyền Tổng bí thư. Hai người cũng mâu thuẫn về vấn đề tái khởi phát chiến tranh ở miền Nam. Cuộc tranh cãi kéo dài tới hai năm, cả giữa khi ra đời nghị quyết 15. Ông Giáp có nhiệm vụ soạn thảo nghị quyết, nhưng có tin cho là ông không đệ nạp dự thảo cho tổng bí thư Lê Duẩn trong nhiều tháng trời. Sau này khi nhận được, ông Duẩn đã sửa chữa nhiều điểm trước khi đưa ra Trung ương Đảng để chuẩn phê. Mùa hè 1966, lực lượng Bắc Việt rơi vào chiến lược phòng vệ khi quân Mỹ đổ vào ngày càng đông. Giới lãnh đạo quân sự miền Bắc luôn luôn quan niệm rằng phải tiến công liên tục để giành thế chủ động chiến trường. Tháng 6 năm 1966, bộ tổng tham mưu ở Hà Nội soạn thảo một kế hoạch cho chiến dịch Đông xuân 66-67, dự kiến đạt chiến thắng quyết định trong năm 1967. Chiến dịch nhắm tấn công một số tỉnh thành, đánh tan quân đội Việt Nam và gây tổn thất nặng nề cho lực lượng Mỹ. Tướng Võ nguyên Giáp và tướng Nguyễn Chí Thanh ủng hộ kế hoạch này, nhưng cảnh giác rằng phải giành thắng lợi trong những trận chiến sắp tới khi lực lượng Mỹ của tướng Westmoreland tung ra hành quân lùng và diệt. RFA graphic. >> Xem hình lớn hơn Những cuộc tấn công vào thành thị phải thực hiện ở quy mô nhỏ, và chỉ tiến tới giai đoạn tổng nổi dậy ở những địa phương chọn lựa vào khi lực lượng Cộng sản chiếm hoàn toàn ưu thế quân sự. Thương lượng với Mỹ Nhưng cũng cùng tháng đó bộ chính trị quyết định mở cuộc thương lượng với Hoa Kỳ. Quyết định được chính thức hoá vào tháng giêng 1967 khi Trung ương Đảng chuẩn thụân nghị quyết 13, kêu gọi bàn thảo chiến lược thương lượng với Mỹ. Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh thuyết trình với Trung ương Đảng về nghị quyết 13, nói rằng cuộc chiến đi vào bế tắc. Người Mỹ phải chọn giữa hai giải pháp, một là phải leo thang chiến sự trong một cuộc chiến lâu dài, hai là phải đạt một chiến thắng nhanh chóng tạm thời làm lợi khí thương thuyết dàn xếp và đòi hỏi những điều kịên có lợi hơn cho phía Mỹ, trước khi diễn ra cuộc tuyển cử Tổng thống Mỹ vào năm 1968. Ngọai trưởng Việt Nam cho rằng phía Mỹ đang gặp sự chống đối chiến tranh từ trong nước, Tổng thống Johnson phải chọn phương cách khác để giữ ghế Tổng thống. Điều này là cơ hội tốt cho phía Cộng sản Việt Nam. Cộng sản sẽ đề nghị thương thuyết nhưng vẫn tiếp tục tấn công trên chiến trường để giành ưu thế trong lúc Tổng thống Johnson ở thế yếu vì phải đạt giải pháp trước bầu cử. Tuy nhiên ông Trinh nhấn mạnh rằng trước khi khởi sự thương thuyết, lực lượng Cộng sản phải giành cho được một chiến thắng đáng kể về quân sự để làm lợi khí cho các nhà thương thuyết. Nghị quýêt 13 cổ võ toàn quân tung hết nỗ lực giành một chiến thắng quyết định, là gây tổn thất nặng cho lực lượng Mỹ và đập tan quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Mục đích là tạo dựng những điều kiện cần thiết cho một cuộc tổng công kích tổng nổi dậy, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Sau đó một chính phủ liên hiệp sẽ cho người Mỹ rút quân khỏi Việt Nam mà không mất thể diện. Nghị quyết nhấn mạnh rằng cuộc tổng công kích tổng nổi dậy lật đổ chính quyền là giai đoạn cuối cùng của kế hoạch, sau khi lực lượng vũ trang của Việt Nam Cộng Hoà đã bị đánh tan. Rõ ràng là quân miền Bắc bị cấm tổng công kích vào thành phố trước khi đánh tan quân đội miền Nam. Chiến dịch Đông xuân 66-67 phải được tung ra ngay trước khi quân đội Mỹ thay đổi kế hoạch hành quân. Mục tiêu đặt ra là phải tiêu diệt từ 3 tới 5 lữ đoàn Hoa Kỳ, giết và làm bị thương 150 ngàn quân Mỹ, đánh tan từ 5 tới 7 sư đoàn Việt Nam Cộng Hoà, giải phóng, tức là chiếm giữ lãnh thổ với từ 5 triệu tới 8 triệu dân, chiếm Đông Hà, Quảng Trị, tấn công Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Kế hoạch còn được duyệt đi duyệt lại vào tháng tư, tháng sáu năm 1967. Tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, không hài lòng với kế hoạch này. Ông phát biểu rằng càng xem xét càng thấy không ổn. Kế hoạch này cũng không khác gì kế hoạch trước đó, chỉ đặt mục tiêu cao hơn thôi. Thực tế chiến trường cho thấy không thể đạt được những mục tiêu này. Bộ chính trị cũng không bằng lòng với kế hoạch trong nghị quyết. Tài liệu của Việt Nam cho biết bộ chính trị thấy không có cách nào đạt được chiến thắng quyết định trong năm 1968. Bộ chính trị cho rằng sau hai năm chiến đấu, thực tế cho thấy việc tiêu diệt trọn một đơn vị Mỹ cấp đại đội hay tiểu đoàn cũng đã là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh Sáng sớm ngày mùng 6 tháng 7 năm 1967, trước giờ xuất phát để trở vào chiến trường miền Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh bị triệu chứng tim tại nhà riêng, được đưa ngay vào quân y vịên 108, nhưng đến 9 giờ sáng hôm sau thì chết. Cái chết của vị tướng tư lệnh chiến trường miền Nam khiến kế hoạch phải thay đổi, và người hăng hái nhận lãnh quyền chỉ huy đã sẵn sàng, đó là tướng Văn Tiến Dũng. Tướng Dũng là cấp dưới trực tiếp của tướng Giáp trong cả chục năm, làm Tổng tham mưu trưởng duới quyền tổng tư lệnh của ông Giáp. Hai người có nhiều khác biệt. Ông Giáp là người trí thức, xuất thân từ gia đình quan lại, trong khi ông Dũng thuộc gia đình nông dân, trình độ văn hoá chưa quá bậc tiểu học. Tướng Dũng có tham vọng thay thế tướng Giáp, và âm thầm thực hiện điều đó đã từ nhiều năm. Trong cuộc phỏng vấn dành cho một tờ báo Việt Nam năm 2004, ông Dũng cho biết lúc tướng Thanh chết ông đã tìm gặp riêng Tổng Bí thư Lê Duẩn, đề nghị thay đổi kế hoạch quân sự cho mìên Nam. Như vậy là ông Dũng đã qua mặt và hành động qua đầu ông Giáp, với người thích hợp nhất cho việc đó là ông Lê Duẩn. Sau khi nghe ông Dũng trình bày, ông Duẩn bất ngờ phát biểu, vậy thì tại sao mình không đẩy thẳng kế hoạch lên giai đoạn tổng công kích tổng nổi dậy? Ý kiến này đi nguợc với chỉ thị theo tình thần nghị quyết 13, đốt giai đoạn, nhảy qua hẳn mục tiêu đánh thiệt hại nặng quân Mỹ và đánh tan quân miền Nam, tiến ngay tới tổng công kích tổng nổi dậy. Nhưng tướng Dũng lập tức đồng ý, và ông Lê Duẩn soạn ngay chỉ thị quân uỷ Trung ương đệ trình ý kiến này cho bộ chính trị. Ý kiến này cũng đề nghị tướng Dũng thay tướng Giáp trong chức vụ bí thư quân uỷ Trung ương.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 5:08:50 GMT 9
Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước Thiện Giao, phóng viên đài RFA Thưa quí vị, trong bài trình bày trước, để mở đầu cho loạt bài về biến cố Mậu Thân năm 1968 tại Huế, chúng tôi đã gởi đến những con số tổn thất nhân mạng, những nhận định liên quan đến vụ thảm sát nhiều ngàn người tại Huế trong tháng Hai năm 1968.Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục phần thứ nhì. Trong phần này, xin gởi đến tiếng nói của những người trong cuộc, kể lại Huế trong 25 ngày kinh hoàng cách đây đúng 40 năm. Bên cạnh đó, các nhân chứng cũng không khỏi bùi ngùi nhớ lại đất cố đô những ngày trước thảm sát, trong một không khí thanh bình, cho dù vẫn còn văng vẳng xa xa tiếng đại bác. Biên tập viên Thiện Giao trình bày sau đây. Những ngày giáp Tết Mậu Thân 1968, những ngày giáp Tết Mậu Thân, Huế vẫn bình yên, một tình trạng bình yên của thời chiến. Huế, những ngày ấy, bỗng nhiên thanh bình hơn. Chợ hoa đầu cầu Trường Tiền vẫn mở. Chợ Đông Ba, dân chúng vẫn tụ tập, mọi người vẫn hớn hở. Vẫn có tiếng đại bác xa xa vọng về, nhưng vẫn là một trạng thái yên bình. Linh mục Phan Văn Lợi, vào thời điểm năm 1968, mới 17 tuổi, hồi tưởng: “Tình hình tạm yên, vẫn nghe tiếng đại bác từ xa vọng về. Nhưng lúc ấy tôi thấy yên lành hơn. Vì thường thường hai bên đình chiến.” Đình chiến, một danh từ hấp dẫn. Đối với Huế, đình chiến có nghĩa là được thêm vài chục giờ thanh bình. Hồi tưởng lại những ngày giáp Tết Mậu Thân, ông Nguyễn Phúc Liên Thành, lúc ấy là Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên cho biết: “Huế những ngày ấy thanh bình hơn những ngày khác. Chợ Hoa đầu cầu Trường Tiền, Chợ Đông Ba, đông dân chúng tụ tập, mọi người hớn hở. Mọi người biết có thoả hiệp đình chiến giữa Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh và Việt Cộng. Đình chiến 3 ngày Tết để dân chúng được hưởng một cái tết thanh bình giữa tình trạng chiến tranh.” Từ Sài Gòn, những người gốc Huế cũng háo hức về đất thần kinh đón Xuân. Anh Nguyễn Xuân Thắng, năm 1968 vừa mới tròn 7 tuổi, nhớ lại: “Mình là dân Huế, được về Huế thì rất mừng. Khung cảnh Huế yên tĩnh, rất thơ mộng. Tối 30, ông Bác dẫn về nhà ông nội ở đường Hàn Thuyên đối diện nhà luật sư Lê Trọng Quát. Tối đó người lớn đi chơi thì chở mình đi theo.” Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn. Các xác đó đã bị vùi xuống khe. Tấn công ngay trong đêm Giao thừa Khoảng thời gian đình chiến, theo tài liệu xuất bản tháng 8 năm 1968, do trung tá Phạm Văn Sơn chủ biên, trước định 48 giờ, sau được lệnh rút xuống 36 tiếng, nghĩa là, lệnh hưu chiến chỉ còn giá trị từ 18 giờ ngày 29 tháng Giêng đến 6 giờ ngày 31 tháng Giêng năm 1968. Quân đội Bắc Việt chọn tấn công miền Nam đúng vào giờ giao thừa, và xem đó là một trong những bí mật của trận Mậu Thân. Đại Tướng Quân Đội Bắc Việt Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh, trận Mậu Thân có ba điểm bất ngờ, là mục tiêu, qui mô, và trên hết là thời điểm, đúng giao thừa: “Ra đến cầu Tràng Tiền thì thấy xe tăng hai bên đường. Tôi nghe người lớn nói với nhau: Không biết chuyện gì xảy ra tối nay.” Mà thật là như vậy, tối hôm ấy, mọi chuyện bắt đầu xảy ra. Bộ Đội Bắc Việt đã có mặt trong thành phố Huế từ sáng sớm mùng Một Tết. Ông Trần Ngọc Huế, vào thời điểm đó, là Đại Đội Trưởng Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn Một Bộ Binh, kể lại rằng cho đến buổi tối, khi phía Bắc Việt bắt đầu tấn công, ông mới trực tiếp nhìn thấy bộ đội đặc công di chuyển vào sân bay Thành Nội. Ông thừa nhận, quân đội Bắc Việt có ưu điểm là giữ bí mật: “Tối đó, sau khi bố trí đơn vị, tôi về nhà. Đến khuya thì một trung úy của tôi lái xe đi tuần. Tôi nói, mai về sớm để đón tôi vào đơn vị. Đến khuya thì phía Bắc Việt bắt đầu đánh. Tôi mặc áo quần rồi lấy chiếc xe đạp ra đi. Trên đường đi, tôi thấy Đặc Công tiến vào sân bay Thành Nội. Họ đi lúp xúp, tôi nhìn kỹ, thấy không phải mình. Khi thấy họ ngụy trang đi quẹo vào phi trường. Tôi đi chầm chậm sau đó, rồi băng qua cống Vĩnh Lợi rồi đánh kẻng báo động.” Đến 2 giờ 33 phút sáng ngày mồng Hai, những trái đạn pháo đầu tiên bắt đầu bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh và một số địa điểm tại Quận 3 thuộc thị xã Huế. Thân nhân họ hàng đứng cạnh các bộ phận thân thể vừa được đào lên từ các mộ tập thể trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Photo courtesy of Wikipedia. Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại, có thời điểm, Đặc Công của phía Bắc Việt đã vào đến bên trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh, cách phòng tướng tư lệnh Ngô Quang Trưởng chỉ có 30 mét, và tướng Trưởng cũng đang có mặt tại đó: “Đặc công đã vào trong bộ tư lệnh Sư Đoàn Một rồi. Lúc đó là 10 giờ sáng, chuẩn bị mở đường máu vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để giữ an ninh cho bộ tư lệnh. Đặc công chỉ còn cách văn phòng tướng Trưởng 30 mét.” Cuộc thảm sát kinh hoàng Chiếm thành phố Huế đến đâu, phía Bắc Việt lập Chính Quyền Cách Mạng đến đó. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành kể lại, khi Việt Cộng làm chủ Huế qua ngày thứ hai thì họ bắt đầu thành lập chính quyền Cách Mạng. Cụ thể, tại Quận Nhì, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế Hoàng Kim Loan, cấp trung tá, đứng đầu cùng Hoàng Lanh. Chính quyền Quận Nhất cũng được thành lập. Riêng Quận 3 chưa kịp nhưng được giao cho đại tá Bảy Lanh, phụ trách an ninh thành. Ông Liên Thành nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền thì bắt đầu thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ 3 thì họ yêu cầu tất cả những người đã trình diện lần l và 2 ra trình diện lại, đây là lần quyết định. Và cuộc thảm sát xảy ra.” Đầu tiên là những tòa án nhân dân: “Ngay lúc đầu, có một số người bị đưa ra tòa án nhân dân xử và chôn sống tại Bãi Dâu, tại vùng Chùa Áo Vàng gần chùa Diệu Đế và một số nơi khác trong Quận Nhì.” Tiếp theo là Dòng Chúa Cứu Thế và nhà thờ lớn Phủ Cam: “Riêng tại Quận Ba, Việt Cộng bắt đi hơn 500 người đang trốn trong Dòng Chúa Cứu Thế, dẫn đi hết, rồi chôn sống. Tội nghiệp nhất là một số nạn nhân hoàn toàn không dính dáng gì đến chính quyền. Ngoài ra, trong số này còn có một người rất tiếng tăm là Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Ngoài ra, tại vùng Phủ Cam, bốn ngày sau khi Việt Cộng chiếm Huế, Nhà Thờ Lớn Phủ Cam bị ập vào, bắt đi 300 thanh niên sau này được tìm thấy xác ở vùng phía tây Nam Hoà, tức vùng núi dọc khe Đá Mài, lăng Gia Long.” Các quan tài của những nạn nhân chưa nhận dạng nằm trong một trường học tại Huế, Tết Mậu Thân, 1968. Photo courtesy of Wikipedia.  Đã có bao nhiêu người bị giết, và đã có bao nhiêu địa điểm chôn người? Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân Biểu đại diện khu vực Thừa Thiên, nói rằng con số 5 đến 6 ngàn người là không sai lệch mấy. Và khoảng 22 địa điểm trở thành nơi che dấu các thi hài: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu.” Ông Nguyễn Lý Tưởng kể rằng, cuộc tìm kiếm nạn nhân Tết Mậu Thân bắt đầu từ giai đoạn Tết đến mùa Hè năm 1968 và đỉnh điểm là vụ Khe Đá Mài, thuộc đỉnh núi Đình Môn Kim Ngọc, tại đây, khoảng 400 bộ hài cốt đã được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, thuộc làng Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên: “Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn. Các xác đó đã bị vùi xuống khe. Từ Tết, tức tháng 2 năm 1968 đến tháng 9 năm 1969, khoảng 20 tháng, có một số người của Cộng Sản về hồi chánh, họ chỉ. Mở đường hành quân vào tìm, thì tìm được. Sọ người xương người dồn đống dưới khe. Nơi đây thuộc quận Nam Hòa, có tên là Khe Đá Mài, thuộc vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Quân đội mang hết xương và sọ về để tại một trường tiểu học thuộc quận Nam Hòa, các đồ vật gồm có thẻ căn cước bọc nhựa, có áo quần, đồ dùng, vật kỷ niệm mang theo trong người. Hàng ngàn thân nhân đến tìm. Nhờ đó, gia đình tìm được dấu vết. Trong số các nạn nhân, có cả học trò tôi, như em Phan Minh, Bùi Kha, mới 16, 17 tuổi.” Một trong các vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót. Ngày 13 tháng Tư, linh cữu đưa thi hài các bác sĩ này rời Việt Nam, về Đức. 250 sinh viên y khoa Huế và Sài Gòn cùng đội quân danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đi theo chiếc xe có bốn ngựa kéo, bên trên chở linh cữu của các ân nhân. Chiến sự tiếp diễn trong thành nội Huế đến ngày 22 tháng Hai. Vào ngày này, các lực lượng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã kết thúc 2 trận đánh quan trọng, đẩy phía Bắc Việt lui khỏi Đại Nội, nơi cung điện các vua triều Nguyễn, và kéo lá cờ Việt Nam Cộng Hoà lên thay cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Hai ngày sau đó, chiến trường Huế chấm dứt. Huế lại trở về vòng kiểm soát của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Vừa rồi là những nét chính về tình hình Huế những ngày trước và trong khi quân đội Bắc Việt kiểm soát thành phố. Như đã trình bày, gần như ngay lập tức sau khi kiểm soát Huế, Bắc Việt đã cho thành lập chính quyền và bắt đầu các cuộc thảm sát. Trong bài tiếp theo vào kỳ sau, biên tập viên Thiện Giao sẽ trình bày tổng quát kế hoạch tái chiếm Huế, hai trận đánh đặc biệt tại Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu qua lời kể của những người tham gia trận đánh. Cuộc truy tìm và cải táng nạn nhân trong các mồ chôn tập thể sau khi quân đội miền Nam cùng đồng minh tái chiếm Huế được thực hiện ra sao? Những nhân chứng cũng sẽ trình bày lại ký ức của những ngày đau buồn ấy, 40 năm trước.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 6:25:25 GMT 9
Huế 1968: Khăn Tang và Nước Mắt đường lên Ba Đồn 2008-02-01
Thiện Giao, phóng viên đài RFA
Trong bài thứ ba của loạt 5 bài tường thuật tưởng niệm biến cố Mậu Thân tại Huế năm 1968, biên tập viên Thiện Giao của đài chúng tôi sẽ tiếp tục gởi đến quí thính giả nghe đài những nét chính yếu của cuộc phản công tái chiếm Huế mà đỉnh cao là ngày 22 tháng Hai, khi quân lực Việt Nam Cộng Hoà tái chiếm Đại Nội và Kỳ Đài Phu Văn Lâu.
* Nghe bài tường trình này * Download story audio
Wactch the video We Were There - Hue 1968 on Youtube.
Ngay sau những giờ khắc xúc động nhìn lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên trên đỉnh Kỳ Đài, người dân Huế bàng hoàng nhận ra rằng hàng ngàn thân nhân của mình, bị bắt trong vài tuần lễ phía Bắc Việt làm chủ thành phố Huế, sẽ không bao giờ trở về nữa. Họ đã bị thảm sát ra sao, và được che dấu trong các hầm chôn tập thể như thế nào? Xin hãy điểm lại ký ức của những nhân chứng từ 40 năm trước.
“Người dân Huế bị dồn vào đường cùng, không còn chọn lựa nào khác nên phải chọn chiến đấu. Chiến đấu để tự tồn. Chiến đấu để có tự do. Chiến đấu để sống hay là chết.”, ông Trần Ngọc Huế, người chỉ huy Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn Một Bộ Binh tái chiếm Đại Nội ngày 22 tháng Hai năm 1968 nhớ lại.
Huế, tháng Hai năm 1968, mỗi tấc đất là một tấc máu. Máu, của tất cả những ai có mặt tại Huế; của người dân Huế, của các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà, của các lực lượng Hoa Kỳ, và của các lực lượng Bắc Việt.
Huế trở thành chiến trường đổ lửa, vì Huế là nơi không một ai muốn mất.
“Huế không lớn, nhưng đánh dai dẳng vì quyết tâm của Cộng Sản, muốn thắng bằng bất cứ giá nào. Mà ý chí của miền Nam và người dân Huế cũng bằng bất cứ giá nào cũng phải dành lấy mảnh đất thiêng liêng của mình.”, (Trần Ngọc Huế, Đại Đội Trưởng Đại Đội Hắc Báo Sư Đoàn 1 Bộ Binh).
Cuộc phản công tái chiếm Huế
Chỉ một thời gian rất ngắn sau khi vào Huế, phía Bắc Việt Nam đã có thể tự do đi lại. Trong ngày Mùng Hai Tết, quân đội Bắc Việt di chuyển trong thành phố kiểm soát dân chúng như chỗ không người.
Và phía miền Nam, cùng đồng minh, phải bắt đầu từ đầu nhiệm vụ vãn hồi an bình cho Huế.
Hai bên quần thảo, tiến lên, rồi lui lại, rồi lại tiến lên, rồi lui lại, tranh từng căn nhà, từng khu phố. Mỗi tấc đất là một tấc máu. Từng cái nhà, đánh liên tục không có thời giờ ăn và thời giờ ngủ. Đánh liên tục. Nhiều khi phải chia thành từng tổ 2, 3 người thay phiên nhau ngủ.
Huế, trở thành chiến trường của an ninh, của vận mệnh, và có lẽ, của cả danh dự.
Quân đội Bắc Việt, quân lực Việt Nam Cộng Hoà, và quân đội đồng minh Hoa Kỳ đã quần thảo trên một chiến trường không lớn, giữa thành vách kinh đô cũ và giữa nỗi kinh hoàng của dân Huế trong nỗi lo sợ thảm sát, đã xảy ra ngay từ đầu khi miền Bắc kiểm soát và lập chính quyền tại Huế.
Theo lời kể của hai người trong cuộc, là ông Nguyễn Văn Ngẫu, vào năm 1968 là thiếu uý thuộc Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh và ông Trần Ngọc Huế, Đại Đội Trưởng Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, các lực lượng tham gia chiến trường Huế vào thời điểm Mậu Thân gồm có:
Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có Sư đoàn 1 Bộ Binh. Thiết đoàn 7 kỵ binh. Lực lượng sư đoàn nhảy dù và thuỷ quân lục chiến Việt Nam. Các tiểu đoàn Biệt Động Quân Quân Đoàn 1. Một đại đội trinh sát. Trực thăng và máy bay skyrider Việt Nam với sự yểm trợ của máy bay phản lực và trực thăng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Phía Pháo binh có 2 tiểu đoàn cơ hữu thuộc sư đoàn 1. Phía Hải Quân có Giang đoàn 11 và 12 yểm trợ chiến trường.
Phía đồng minh Hoa Kỳ có Thuỷ Quân Lục Chiến, Sư Đoàn 101 Nhảy Dù và Sư Đoàn 1 Không Kỵ.
Thiếu uý Nguyễn Văn Ngẫu nhớ lại những ngày chuẩn bị phản công:
“Sau 31 tháng Giêng, dân chúng đang ăn tết vui vẻ. Thành phố Huế trở thành trọng tâm của chiến trường. Đặc công và nội thành do trung tá Khánh Lửa dẫn quân vào bốn Kỳ Đài và 4 con đường chính gồm vùng An Hoà, Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập từ vùng núi đi về tập kích. Lực lượng Nội Thành gần đó đang đóng ở Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập cũng tiến vào. Đơn vị tôi đang đóng tại quận Hương Trà. Một ngày sau khi nổi lên, tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp điện đàm với quân Khu 1, tướng Hoàng Xuân Lãm, tổng tham mưu và sau hai ngày là bắt đầu phản công phản công.”
Đại Đội Trưởng Hắc Báo, ông Trần Ngọc Huế hồi tưởng:
“Huế không lớn nhưng đánh dai dẳng vì quyết tâm của Cộng Sản là muốn thắng lợi bằng bất cứ giá nào. Mà ý chí của miền Nam và Huế cũng bằng bất cứ giá nào phải dành lấy mảnh đất thiêng liêng của mình.” Các quan tài của những nạn nhân chưa nhận dạng nằm trong một trường học tại Huế, Tết Mậu Thân, 1968. Photo courtesy of Wikipedia.
Cuộc phản công tái chiếm Huế diễn ra ác liệt. Hai bên giằng co từng căn nhà, từng khu phố, từng tấc đất.
Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại:
“Hai bên quần thảo, tiến lên, rồi lui lại, rồi lại tiến lên, rồi lui lại, tranh từng căn nhà, từng khu phố. Mỗi tấc đất là một tấc máu. Từng cái nhà, đánh liên tục không có thời giờ ăn và thời giờ ngủ. Đánh liên tục. Nhiều khi phải chia thành từng tổ 2, 3 người thay phiên nhau ngủ.”
Vòng vây ngày càng xiết chặt. Phía Bắc Việt bắt đầu nao núng, lui vào Đại Nội cố thủ.
Dựng lại cờ VNCH trên Kỳ Đài ở Phú Văn Lâu
Đại Nội, biểu tượng của kinh thành Huế, nằm gần Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Lúc ấy, cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vẫn đang bay giữa trung tâm Huế.
Thế rồi, đến ngày 18 tháng Hai, ông Nguyễn Văn Ngẫu và đơn vị nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tại đây, tướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ đặc biệt cho tiểu đoàn của thiếu uý Nguyễn Văn Ngẫu: Đánh chiếm và dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hoà ở Kỳ Đài.
“Hướng dẫn đại đội ra khỏi sư đoàn và đến đường Mai Thúc Loan, tướng Trưởng chỉ vào lá cờ Mặt Trận Giải Phóng cách khoảng 1 cây số, nói “nhiệm vụ của toa đấy.” Rồi ông đưa bản đồ hành quân, các cơ quan liên lạc, và hỏi tôi hai câu. Tôi trả lời, chính tôi là kẻ muốn thắng trận, và tôi ngỏ ý cần một lá cờ để thay thế cờ Mặt Trận.”
Cùng thời điểm ấy, người chỉ huy Đại Đội Hắc Báo cũng ngỏ lời với tướng Ngô Quang Trưởng, yêu cầu được giao nhiệm vụ tái chiếm Đại Nội:
“Cuối cùng chúng tôi yêu cầu Tướng Tư Lệnh được tái chiếm Đại Nội, là biểu tượng về nền tự chủ và độc lâp của Việt Nam từ năm 1802. Chúng tôi được vinh dự lãnh trách nhiệm tái chiếm Huế từ tay Cộng Sản. Và chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của con dân Huế và miền Nam.”
10 giờ sáng ngày 22, cờ Việt Nam Cộng Hoà được kéo lên Kỳ Đài sau khi 2 người lính đã bị phía Bắc Việt từ Đại Nội bắn tỉa.
“Bên kia là toà tỉnh, các phái đoàn tổng tham mưu, truyền hình, truyền thanh, hàng chục ngàn dân nhìn lên lá cờ để tưởng niệm những ngày tang thương nhất qua đi. Nhìn lá cờ mà rưng rưng nước mắt, bao nhiêu ngày bị bao phủ bởi khổ đau.”
Hai giờ chiều cùng ngày, Đại Đội Hắc Báo chiếm Đại Nội:
“Tấn công nhưng phải bảo vệ di tích lịch sử. Phải bảo tồn. Chúng tôi cũng yêu cầu người Mỹ như vậy. Tôi là con dân Việt Nam, tôi tôn trọng di tích tổ tiên để lại.”
Hàng ngàn người vô tội bị giết hại
Hai ngày sau, Huế hoàn toàn được vãn hồi an bình. Người dân trở lại thành phố, vừa ngơ ngác, vừa vui mừng, vừa chờ đợi. Họ chờ đợi sự trở lại của những người thân đã bị bắt đi trong thời gian phía Bắc Việt chiếm Huế.
Chờ đợi, để rồi họ bàng hoàng nhận ra: Tất cả đã bị giết.
Hành trình đau đớn truy tìm các hố chôn tập thể bắt đầu.
Một trong những người tham gia đi tìm các hố chôn tập thể thời ấy là ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Tết Mậu Thân, nói rằng Uỷ Ban của ông đã tìm được khoảng 3,000 hài cốt. Trong số ấy, đau đớn nhất, chỉ khoảng 10% được nhận diện và được gia đình mang về cải táng. Thân nhân họ hàng đứng cạnh các bộ phận thân thể vừa được đào lên từ các mộ tập thể trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Photo courtesy of Wikipedia.
Số nạn nhân còn lại phải được an táng tập thể tại 2 nghĩa trang ở Huế gần núi Ngự Bình là Ba Đồn và Ba Tầng. Dựa trên thi hài và các đồ vật còn sót lại của nạn nhân, ông Bằng phỏng tính là 20% số nạn nhân là quân nhân, 40% là công chức và 40% là dân thường:
“Sau Mậu Thân, khoảng 1 đến 2 tháng, chúng tôi biết những cái chết rất vô lý. Ví dụ: tại vùng Gia Hội, có một chị tên Tuý. Chị là một sinh viên. Khi Cộng Sản đến tìm anh chị, không có nên bắt chị thay thế. Chị Tuý bị bắn và chôn tại cồn Gia Hội. Còn tại Vỹ Dạ, có chị tên Hương Sen. Hương Sen có nhiều anh tham gia quân đội. Khi vào bắt thì không có các anh của chị nên họ bắt chị ra hành quyết tại chỗ. Hoàn toàn là người vô tội.”
Về nguyên nhân thành lập Uỷ Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân, ông Võ Văn Bằng cho biết nhờ một sự tình cờ, mà sau đó người dân Huế mới vỡ lẽ ra là thân nhân mình bị thảm sát tập thể:
“Một năm sau, nhân cuộc hành quân của tiểu khu Thừa Thiên ngang qua khu vực giáp giới của Phú Vang, Hương Thuỷ và Phú Thứ, người ta thấy một đầu lâu trồi lên dưới một trảng cát dài hàng cây số. Đào lên, đó là thi hài của thiếu uý Trần Văn Đỉnh, nhận biết nhờ tấm thẻ bài. Tin này loan ra rất nhanh nên tạo phong trào tìm xác ở Phú Thứ.”
Những cảnh tượng kinh hoàng
Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống truyền thanh quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, đã có mặt tại Huế từ mùng Năm đến 29 Tết Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn xác tập thể, kể lại cảm giác của ông khi lần đầu nhìn thấy những cảnh tượng ấy:
“Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó.”
Những hình đó là gì? Ông kể tiếp.
Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1,000 người. Khi khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống. Sau này môt nhân chứng cho biết: Họ được lệnh đập đầu bằng đầu cuốc, từ phía lưỡi vào. Quan trọng nhất là, theo nhân chứng: người này phải đập người kia. Cứ 10 người bị cột vào điện thoại và đều bị đập vỡ từ phía sau.”
“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1,000 người. Khi khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống.
Sau này tôi có hỏi các nhân chứng, là một phóng viên bị bắt đi theo Việt Cộng và bị An Ninh VNCH bắt lại, cho biết: Họ được lệnh đập đầu bằng đầu cuốc, từ phía lưỡi vào. Quan trọng nhất là, theo nhân chứng: người này phải đập người kia. Cứ 10 người bị cột vào điện thoại và đều bị đập vỡ từ phía sau.”
Ông Võ Văn Bằng kể tiếp rằng, vì người ta bị chôn lớp này trên lớp khác, đến khi tìm được vị trí, thân xác đã không còn nguyên vẹn. Để giúp các thân nhân tìm được người thân, Uỷ Ban đều đánh số lên thi hài và ghi các chi tiết liên quan, chẳng hạn đầu vỡ, sọ bể, tay bị cột như thế nào, dây lạt hay điện thoại, vạt áo, nilông còn sót.
Và rồi đến bước cuối cùng: “Sau đó loan tin trên đài phát thành Huế để đồng bào nhận dạng.”
Huế, trước Tết 1968, bình thường như mọi Tết khác!
Huế, trong Tết 1968, kinh hoàng như chưa bao giờ!
Huế, từ sau Tết 1968, đón Xuân trong niềm ngậm ngùi.
40 năm, có đủ để làm lành một vết thương?
Thế hệ Mậu Thân của Huế vẫn còn đang sống, và năm nay, người dân Huế, ở trong nước thì chốn riêng tư, ở nước ngoài thì nơi công khai, vẫn tiếp tục tưởng niệm những nạn nhân xấu số của vụ thảm sát 40 năm về trước.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 25, 2011 4:04:37 GMT 9
Tướng Trần Thiện Khiêm Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam Tác Giả: Trần Ngọc Giang Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đã có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lãnh tụ miền Nam như Tổng Thống Diệm, Tuớng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v...đều là những người đã một phần chịu trách nhiệm để Cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên bình diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử thì thật là phiến diện. Do đó tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào dòng định mệnh của Lịch sử Việt Nam. Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại Tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng Thống Diệm ưa thích vì vậy Đại Tá Khiêm đã được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 4 BB. Thời gian này Đại Tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại Tá Nguyễn Khánh và Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ cuối tuần nào , Đại Tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại Tá Khánh tại đồn điền trà J'Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung Tá Thiệu đương là Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung Tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại Tá Khiêm Tư lệnh SĐ 21BB từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng Thống Diệm, và kể từ đó Đại tá Khiêm được Tổng Thống Diệm tín cẩn tuyệt đối, thăng cấp Thiếu Tướng và được bổ nhiệm Tham Mưu Trưởng Liên Quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng Thống, Thiếu Tướng Khiêm đã đề cử Trung Tá Thiệu làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB và Thiếu Tướng Khánh làm Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật. Tóm lại tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào thới điểm này nếu có sự đề bạt của Thiếu Tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng Thống Diệm chấp thuận, ngoài ra Th. T Khiêm hơn hẳn các Tướng lãnh khác là được cả ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu Tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Hòa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các Tướng lãnh và tư lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của Th.T Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác. Từ trước tới nay đã có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 nhưng nhiều sự kiện vẫn còn thiếu sót và không chính xác vì chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường thì không phải vậy, Trung Tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng nhưng không được các Tư Lệnh Quân Binh Chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay còn lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng trấn Sài Gòn mà thôi. Đến đây tiện giả xin trình bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1-11-63 để quý vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đã soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh. Khoảng đầu tháng 10-1963 Thiếu Tướng Khiêm gọi Thiếu Tá Giang lên văn phòng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vì Thiếu Tướng Khiêm được biết ông Ngô Đình Nhu đã có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu Tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu Tá Giang vì Thiếu Tá Giang đã từng là Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân Thiếu Tướng Khiêm đã yêu cầu Nha An Ninh Quân Đội đưa Thiếu Tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 20-10-1963 Thiếu Tướng Khiêm chỉ thị Thiếu Tá Giang qua gặp Đại Tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội để cho Đại Tá Mậu biết là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu Tướng Khiêm tạm giữ Đại Tá Mậu vì ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu Tướng Khiêm dặn Thiếu Tá Giang nói với Đại Tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu Tướng Khiêm dễ dàng trình lên ông Cố Vấn. Cũng trong thời gian này Thiếu Tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu Tá Giang về phía Tướng lãnh Thiếu Tướng Khiêm đã tranh thủ được hầu hết, chỉ còn có Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh vùng 4 là chưa hội ý, riêng Tướng Khánh và Đại Tá Thiệu hoàn toàn đồng ý với Thiếu Tướng Khiêm, ngoài ra các Tư Lệnh Quân Binh Chủng đã có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu Tướng Khiêm. Nói tóm lại việc vận động, tổ chức cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu Tướng Khiêm chủ động vì chỉ có Tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các Tướng lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng tin tưởng. Sáng sớm ngày 31-10-1963 Thiếu Tướng Khiêm gọi Thiếu Tá Giang lên văn phòng; khi Thiếu Tá Giang bước vào thì thấy Đại Tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu Tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu Tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại Tá Có xuống Mỹ Tho để bàn giao chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn hiện do Đại Tá Đạm là Tư Lệnh. Sở dĩ Thiếu Tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu Tá Giang đi với Đại tá Có là để Đại Tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng ký vì Đại Tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu Tướng Khiêm và Thiếu Tá Giang. Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu Tá Giang trở về Bộ Tổng Tham mưu và được Thiếu Tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu Tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh thì Thiếu Tá Giang phải giữ lại trong phòng họp Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn thì Đại Úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Minh tự ý bắt Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt dẫn đi đâu không rõ, sau đó Đại Úy Nhung trở lại định bắt Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và ông Lê Văn Tư, Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, nhưng Thiếu Tá Giang đã ngăn chặn kịp thời. Đại Úy Nhung báo lên Trung Tướng Minh và Trung Tướng đến hỏi lý do cản trở Đại Úy Nhung thì Thiếu Tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm. Khoảng 2 giờ trưa ngày 31-10-63 Đại Úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại Tá Tung dẫn 1 Đại Đội Lực Lượng Đặc Biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham Mưu để hỏi tình trạng Đại Tá Tung, ngay khi đó Đại Úy Nhung chạy ra gặp Đại Úy Triệu và yêu cầu Đại Úy vào trình diện Thiếu Tướng Khiêm, Đại Úy Triệu nghe lệnh trình diện Thiếu Tướng Khiêm nên Đại Úy không nghi ngờ gì do đó mới bị chết thảm. Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31-10-63 Thiếu Tướng Khiêm đã chủ động qua các diễn trình như: - Ra lệnh cho Đại Tá Có điều động Sư Đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ Vùng IV Chiến Thuật. - Lệnh cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 điều quân về Sài Gòn để làm chủ lực tấn công Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống và Dinh Gia Long. - Cô lập tất cả Tư Lệnh Quân Binh Chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh. - Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư Lệnh Vùng II và Tướng Trí Vùng I Chiến Thuật thi hành những biện pháp cần thiết. Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v...có mặt tại Tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền vì tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong phòng làm việc của Tướng Khiêm. Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu Tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng Thống Diệm. Sau cuộc điện đàm Thiếu Tướng Khiêm quay qua Tướng Minh, Đôn nói "Tổng Thống nói với các Tướng lãnh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ý rồi sẽ trình lại Tổng Thống sau" nhưng sau đó Tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ý đến gặp Tổng Thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4:30 chiều 31-10-63 Thiếu Tướng Khiêm tự ý điện thoại cho Tổng Thống Diệm với đề nghị đưa Tổng Thống cùng toàn thể gia đình ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu Tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều Tổng Thống Diệm gọi cho Tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ý đề nghị nói trên nhưng khi Tướng Khiêm hội ý với Tướng Minh, Đôn, Kim thì Tướng Minh nói ngay "Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục". Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng Thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng Thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu Tướng Khiêm mà thôi. Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đã nhận ra vai trò của Tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1-11-63 thành công, nếu Tướng Khiêm không được Tổng Thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với Tướng Minh, Đôn v.v...chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được vì trên cương vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân lại được sự tín cẩn của Tổng Thống vì vậy các Tư Lệnh Quân Binh Chủng đã không có phản ứng nên cách mạng 1-11-63 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu Tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu Tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của vùng 4, và Sư Đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống với dinh Gia Long. Sau cuộc cách mạng 1-11-63 thành công vai trò nổi bật là những Tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng Tướng Khiêm với chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của Tướng Khiêm trong Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng hầu như bị lãng quên do đó cuộc chỉnh lý mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất mãn của Tướng Khiêm. Người tổ chức, thảo kế hoạch do Tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của Tướng Khánh và Tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư Lệnh Quân Binh Chủng. Tuy nhiên vì sở trường của Tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên Tướng Khánh được Tướng Khiêm chỉ định coi như lãnh đạo cuộc chỉnh lý. Trên thực tế Tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có Tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ Tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân, Thủ ướng v.v... Mục tiêu của cuộc chỉnh lý không ngoài mục đích của Tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các Tướng Minh, Đôn, Kim v.v...để trả thù lại sự vô ơn của các Tướng đối với Tướng Khiêm sau cách mạng 1-11-63 và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là Tướng Khánh, Tướng Thiệu v.v... Do đó ngay khi cuộc chỉnh lý thành công Tướng Khiêm không muốn ở vị thế lãnh đạo nên đẩy Tướng Khánh ra thay thế Tướng Minh, đưa Tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành hình thì Tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đã gây dựng sự nghiệp cho mình là Tướng Khiêm, nên Tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền mặt khác loại bỏ những người thân cận của Tướng Khiêm. Tiện giả còn nhớ câu của Tướng Khánh nói với Tướng Khiêm khi Tướng Khánh tống Tướng Khiêm đi làm Đại sứ tại Đài Loan như sau: "Anh phải dời VN trong vòng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh". Mặc dù sau khi Tướng Khánh loại được Tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan Tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ Tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi Tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Tồn, Trang v.v... Tuy nhiên, Tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là Tướng Thiệu, vì ngay khi Tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống thì Tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ Tướng cho đến sát biến cố 4-1975. Xuyên qua những sụ kiện trình bày trên tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng hoà mà tiện giả nghĩ rằng nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đã nắm giữ một vai trò tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v... Tiện giả cũng nghĩ rằng nếu không có Trần Thiện Khiêm sẽ không có đảo chánh 1-11-63, không có chỗ cho vai trò của Tướng Khánh trên sân khấu chính trị "cải lương" nhất trong giòng lịch sử Việt và chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống nền Đệ nhị Cộng hòa, người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm làm tan rã QĐVNCH trong một thời gian kỷ lục cũng như đau khổ, tủi nhục cho hàng triệu gia đình Việt Nam. Trần Ngọc Giang (Văn Nghệ Tiền Phong số 272)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 4:19:04 GMT 9
Đại Tướng Cao Văn Viên Kể Lại Chiến Sự 1975: 5 Sự Kiện Đã Quyết Định Giai Đoạn Cuối Cuộc Chiến Như VietBao đã trình bày, trong 10 ngày cuối cùng của tháng 4/1975, Cộng quân đã tập trung lực lượng tấn công vòng đai Sài Gòn từ nhiều hướng. Chiều ngày 27-4-1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, đã cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều tướng lãnh trong Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến Quốc hội để trình bày trước lưỡng viện về tình hình chiến sự. Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã tóm tắt: Sài Gòn bị bao vây bởi 15 sư đoàn địch dưới quyền điều động của 3 quân đoàn. Quốc lộ Sài Gòn-Vũng Tàu bị cắt đứt và địch quân đang tiến đến Long Bình. Tối 27-4-1975, Đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận, 2 chống) chấp thuận trao quyền Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh. Tình hình trở nên nguy kịch hơn sau khi Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho cựu Đại tướng Dương Văn Minh vào ngày 28-4-1975. Trước khi từ chức, Tổng thống Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên thôi giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân Lực VNCH, theo đơn xin của ông. Sau đây là những ghi nhận và phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên về 5 sự kiện đã quyết định giai đoạn cuối của cuộc chiến Việt Nam. Phần này được biên soạn tổng lược dựa theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản, dịch giả Duy Nguyên chuyển sang Việt ngữ và đồng ý cho VB sử dụng để biên soạn các bài viết về cuộc chiến VB.* Đại tướng Cao Văn Viên nêu ra 5 sự kiện quyết định đến cuộc diện Việt Nam 1- VNCH phải chấp nhận một hiệp định mà trong đó quá nhiều điểm bất lợi cho sự sống còn của mình. Hiệp định Ba Lê đã làm cho sự tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Bắc Việt và để cho Bắc Việt toàn quyền tung ra cuộc tấn công 1975. 2- Lời hứa của Tổng thống Hoa Kỳ (TT Nixon) sẽ phản ứng mạnh mẽ mà Việt Nam Cộng Hòa xem như là một sự cam kết mang tính cách giữa hai quốc gia lại không được chính quyền kế nhiệm (TT Ford) tôn trọng, thậm chí ngay cả vào lúc Cộng sản vi phạm trắng trợn. 3- Việc quân viện của Hoa Kỳ bị cắt giảm một cách bất ngờ và lớn lao đã làm kiệt quệ khả năng và tinh thần chiến đấu của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa. 4- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra quyết định quá chậm nên không còn cơ may nào để thực hiện thành công mặc dầu ông đưa ra như vậy là cần thiết. Việc rút quân khỏi Vùng 2 (quân khu 2) quá vội vã và hỗn độn, kéo theo sự sụp đổ của Vùng 1 và Vùng 2 quá nhanh (toàn miền Trung và Cao nguyên). 5- Các nhà lãnh đạo VNCH không nhận ra được chính sách Hoa Kỳ đã thay đổi sang hòa hoãn và tạo thuận lợi cho Cộng sản dù cho phải trả giá cho sự thất hứa với một đồng minh là giúp đồng minh đó giữ vững nền độc lập của mình. Vì vậy các nhà lãnh đạo này không thể hành động phù hợp với thực tế của Hiệp định Ba Lê mà vẫn cứ tiếp tục đẩy số phận của VNCH vào thế phải tránh né và thúc thủ. Cuối cùng sau nhiều năm chiến tranh liên tiếp, VNCH phải lâm vào tình trạng phá sản về kinh tế và chính trị. Sự đoàn kết quốc gia không còn nữa; không ai có đủ uy tín để tập hợp người dân về với chính nghĩa quốc gia. Cũng theo Đại tướng Cao Văn Viên, ngoài những nguyên nhân chính vừa nêu trên, dĩ nhiên còn vô số những lý do chằng chịt khác tác dụng vào tạo nên sự suy sụp này. Vào cuối thế chiến thứ hai, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ đối với Thế giới Tự do không ai mà không nhìn nhận. Nhưng chừng như khi có cuộc chiến tại VN và nhất là tại khu vực Đông Nam Á nói chung, chính sách Hoa Kỳ đã thay đổi nhiều lần, mà thoạt đầu là chính sách phi chính sách. Rồi đến khi cuộc can thiệp để chống Cộng sản lên đến giai đoạn quyết liệt thì lại nhượng bộ và hòa hoãn. Sự thay đổi này làm ảnh hưởng một cách nặng nề đến chính sách viện trợ và cung cách tiến hành chiến tranh tại phần đất này của thế giới. Đại tướng Cao Văn Viên cũng nhắc lại một số sự kiện như sau: Tổng thống Franklin D.Roosevelt không bao giờ có quyết định là có nên giúp cho Pháp trở lại tái lập chế độ thuộc địa tại Đông Dương hay không. Chính quyền Truman thì có một phản ứng rõ ràng về trước cuộc xung đột giữa Việt Minh và Pháp trong khoảng 1945-1946. Chính quyền Mỹ từ khước việc Pháp yêu cầu phi cơ và tàu chiến Hoa Kỳ giúp chuyên chở quân lính Pháp đến Đông Dương và đồng thời cũng từ khước việc Pháp yêu cầu trang bị vũ khí cho quân đội Pháp đánh nhau với Việt Minh. Đồng thời chính quyền Truman cũng từ khước lời kêu gọi của Hồ Chí Minh. Tháng 8 và tháng 9 năm 1945, trong khi lực lượng Việt Minh đang kiểm soát Hà Nội, Hồ Chí Minh, qua trung gian của Văn phòng Cơ quan Chiến lược, gửi yêu cầu lên Tổng thống Truman xin cho Việt Nam được hưởng quy chế "như của Phi Luật Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc lập." Từ tháng 10/1945 cho đến tháng Hai năm 1946, Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống Truman ít nhất 8 lá thư, chính thức kêu gọi Hoa Kỳ và LHQ can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp. Không có bằng chứng nào cho thấy các lá thư này được trả lời. Chính sách của Hoa Kỳ đối với VN bắt đầu ló dạng từ khi Mao Trạch Đông bắt đầu nắm vận mệnh Trung Hoa vào cuối năm 1949. Mục đích của Hoa Kỳ là chận đứng sự bành trướng của Cộng sản tại châu Á. * Cuộc chiến tự vệ của VNCH Đề cập đến cuộc chiến đấu tự vệ của VNCH, Đai tướng Cao Văn Viên nhận xét rằng: Trong cuộc chiến vừa qua, về phía Việt Nam Cộng Hòa, việc tiến hành chiến tranh chỉ mang tính cách tự vệ. Mục tiêu của chính phủ là ngăn chận sự bành trướng Cộng sản trong lãnh thổ quốc gia. Chỉ có hai lần quân đội vượt biên giới và đánh vào các căn cứ địch tại đất Lào và đất Cam Bốt, nhưng đó chỉ là hành động tự vệ chứ không hề được vạch ra thành chiến lược lâu dài. Nhiệm vụ đầu tiên của Quân lực VNCH là luôn luôn tìm cách bình định được lãnh thổ quốc gia. Do đó luôn có hai phương cách tiến hành song song: bình định các vùng đông dân cư và truy lùng diệt địch tại những khu vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt. Suốt trong cuộc chiến, chiến lược tự vệ này khiến cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị lâm vào tình trạng bị động, trong khi địch lúc nào cũng ở thế chủ động; vừa về chiến thuật lẫn lợi thế của vũ khí. Trình bày về giai đoạn cuối cuộc chiến, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận và phân tích như sau. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, nhiều người mang sắc phục thường hay hỏi rằng tại sao quân đội có số lượng đông đảo hơn địch mà không đánh bại địch ? Lý do căn bản là vì chiến tranh du kích có quy luật riêng của nó. Địch không lộ nguyên hình và không có căn cứ đồn trú để phải bảo vệ. Địch sống chen lẫn với dân chúng ngay trong lãnh thổ của VNCH hay trong những mật khu. Khi nào địch có số lượng vượt trội hơn quân đội chính phủ thì lúc đó địch mới xuất đầu lộ diện, nhưng nếu yếu thế thì lại trốn tránh không dám chạm trán. Sau khi giao chiến xong, địch phân tán mỏng, tái tổ chức, tái huấn luyện lại tại một nơi kín đáo nào đó. Thật là dễ cho quân đội đánh du kích tại Hy Lạp, tại Mã Lai, tại Phi Luật Tân. Những nước này gồm toàn đảo hay bán đảo, nên xâm nhập người và trang bị từ ngoài vào trở ngại rất nhiều. Riêng tại Việt Nam thì có chung một biên giới với Lào và Cao Miên dài hàng ngàn dặm từ Bắc xuống Nam. Đường biên giới này nối liền liên tục, không bị đứt quảng chỗ nào nhưng lại đầy rừng rậm và núi non, rất thuận tiện cho địch lập căn cứ để từ đó Cộng sản Bắc Việt tiếp tế cho Cộng quân miền Nam từ quân chính quy miền Bắc cho đến đồ tiếp tế. Ngược lại VNCH phải sử dụng hết số quân trong tay để bảo vệ và giữ vững những căn cứ quân sự, những cơ quan dân sự. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho dân chúng trong các làng mạc, thôn xóm. Thêm vào đó, quân đội cần người để tiến hành các cuộc hành quân truy tìm và diệt địch hoặc phản ứng chống trả khi bị tấn công. Các quân sự gia chuyên về chiến tranh du kích thường ước tính rằng muốn đạt được chiến thắng thì phải có số lượng 10 chống 1. Nếu tỷ lệ này rút xuống còn 5/1 thì cuộc chiến sẽ kéo dài triền miên và bất phân thắng bại. Còn nếu chỉ có hai, ba chống một thì không thể nào thắng được. Vào thời điểm sức mạnh tấn công của Quân lực VNCH và đồng minh là 1.5 triệu người để đánh với lực lượng địch lúc bấy giờ là 320 ngàn người, tỷ lệ lúc đó là 4.7/1. Nhưng lúc ấy lực lượng Đồng Minh và VN được yểm trợ của Không quân từ các căn cứ trên đất liền hay trên các hàng không mẫu hạm. Hơn nữa hỏa lực cơ hữu của các Sư đoàn BB Mỹ cũng yểm trợ rất hữu hiệu. Đại tướng Cao Văn Viên giải thích thêm: Chiến cuộc Việt Nam như vậy thì không thể gọi như nhiều người vẫn gọi sai là "cuộc nội chiến" được. Vào giai đoạn gần kết thúc cuộc chiến hoàn toàn theo quy ước bằng trận địa chiến dữ dội với sự đủ loại vũ khí tối tân, tiếp phẩm từ phía khối Cộng sản. Đó là cuộc chiến tranh phác họa, trù tính, thực hiện và chỉ huy bởi Cộng sản Bắc Việt núp dưới chiêu bài giải phóng miền Nam và chính phủ lâm thời miền Nam VN.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:31:19 GMT 9
Các lực lượng trong nước trong chiến tranh 1960-1975Trần Gia Phụng 1. Việt Nam Cộng Hoà (Nam Việt Nam) Chống đỡ cuộc xâm lăng của VNDCCH là quân đội VNCH. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (QĐVNCH) là hậu thân của Quân đội Quốc Gia Việt Nam (QGVN). Quân đội QGVN được thành lập tại Hội nghị cao cấp Pháp Việt ngày 5-11-1950 tại Đà Lạt, giữa quốc trưởng Bảo Đại, thủ tướng Trần Văn Hữu và Phan Văn Giáo, chánh thanh tra quân đội (hàm trung tướng ngày 4-4-1950) phía QGVN, và Jean Letourneau, bộ trưởng Các quốc gia liên hiệp và đại tướng Alphonse Juin, tổng thanh tra quân đội Pháp về phía Pháp. Hội nghị đã dự tính trong vòng 5 năm, QĐQGVN sẽ gồm 115,000 người, với quân trang và võ khí do Hoa Kỳ viện trợ. Trong giai đoạn đầu, Pháp sẽ cho mượn sĩ quan, kinh phí sẽ do ngân sách Việt Nam và viện trợ Hoa Kỳ đài thọ.  TT Nguyễn Văn Thiệu (VNCH) tại cuộc họp báp, 1971. Nguồn: Life Theo hiệp định quân sự ngày 8-12-1950 tại Sài Gòn giữa quốc trưởng Bảo Đại cùng thủ tướng Trần Văn Hữu ký với cao uỷ Pháp tại Đông Dương là Léon Pignon, thì từ đây QĐQGVN thuộc thẩm quyền của quốc trưởng Việt Nam, có cơ quan liên lạc với Quân đội Liên Hiệp Pháp (LHP). Tổng tư lệnh quân đội LHP tại Đông Dương nắm quyền chỉ huy tối cao, nhưng các đơn vị Việt Nam có cấp chỉ huy người Việt. (1) Nghị định 147/QĐ/NĐ ngày 12-4-1952 quyết định thành lập Bộ Tổng tham mưu QĐQGVN. Ngày 1-7-1952, bộ Tổng tham mưu đã chia toàn thể lãnh thổ QGVN thành 4 quân khu: Đệ nhất quân khu : Nam Việt. Đệ nhị quân khu : Trung Việt. Đệ tam quân khu : Bắc Việt, kể cả cao nguyên Bắc Việt. Đệ tứ quân khu : Cao nguyên Trung Việt.(2) Sau Hiệp định Genève (20-7-1954), hệ thống quân khu trên đây thay đổi vì Đệ tam quân khu là Bắc Việt thuộc về nhà cầm quyền phía bắc vĩ tuyến 17. Năm 1956, hệ thống quân khu QĐVNCH được chia lại như sau: Đệ nhất quân khu : Các tỉnh miền Đông Nam phần Đệ nhị quân khu : Trung phần (không thay đổi) Đệ tam quân khu : Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên Đệ tứ quân khu : Các tỉnh phía nam Cao nguyên Trung phần và phía nam duyên hải Trung phần Đệ ngũ quân khu : Các tỉnh miền Tây Nam phần Quân khu Thủ đô : Sài Gòn, Gia Định, Long An (Sau Long An tách khỏi QKTĐ) (3) Vào tháng 12-1954, quân đội QGVN gồm 165,000 bộ binh chính quy và 65,000 quân địa phương (phụ lực quân). (4) Khi QGVN trở thành VNCH, thì quân đội QGVN được đổi thành Quân đội VNCH. Các đại đơn vị QĐVNCH lần lượt được thành lập: Quân đoàn I ngày 1-6-1957, Quân đoàn II ngày 1-10-1957, Quân đoàn III ngày 1-3-1959. Sau đó, ngày 13-4-1961, sắc lệnh số SL.98/QP chia lại lãnh thổ thành ba vùng chiến thuật (CT) và Biệt khu Thủ Đô. Cần chú ý là quân khu và vùng chiến thuật là khu vực quân sự, còn quân đoàn là đơn vị quân sự đóng trên các khu vực quân sự. Ba vùng chiến thuật theo sắc lệnh số SL.98/QP ngày 13-4-1961 như sau: Vùng I CT gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, do Quân đoàn I trấn đóng. Vùng II CT gồn Cao nguyên Trung phần và các tỉnh từ Bình Định vào Bình Thuận, do Quân đoàn II trấn đóng. Vùng III CT gồm các tỉnh từ Bình Tuy vào Nam do quân đoàn III trấn đóng. Tháng 5-1961, tân phó tổng thống Hoa Kỳ là Lyndon Johnson đến thăm Việt Nam. Sau khi Johnson trở về Hoa Kỳ, tổng thống Ngô Đình Diệm đề nghị tăng thêm 100,000 quân, nghĩa là từ 170,000 lên 270,000 người, nhưng lúc đầu phía Hoa Kỳ đồng ý giúp tăng thêm 30,000 người từ tháng 8-1961.(5) Sau đó, tháng 12-1962 quân số tăng lên 205,000 (bộ binh), 5,000 không quân, 5,000 Hải quân và 67,000 Địa phương quân.(6) Từ ngày 1-1-1963, một đại đơn vị mới được thành lập, đó là Quân đoàn IV và Vùng IV CT.(7) Vì vậy Nam phần được chia lại: Vùng III CT gồm các tỉnh Bình Tuy, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An. Vùng IV CT từ Định Tường xuống tới Cà Mau. Dưới các Vùng CT là các Khu CT (cấp liên tỉnh), tiểu khu (cấp tỉnh), chi khu (cấp quận). Thời chính phủ Trần Văn Hương, ngày 27-11-1964, Hội Đồng Quân Lực ấn định lại các Vùng và Khu CT: Toàn quốc được chia thành 4 Vùng CT, 1 Biệt khu Thủ đô và 1 Đặc khu Rừng Sác. Một lần nữa, vào tháng 7-1970, các Vùng CT đổi trở lại thành các quân khu. (8) Vì cấp Vùng CT bị thay thế, nên khu CT bị bãi bỏ, chỉ còn tiểu khu trực thuộc quân khu. Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ năm 1963, cường độ chiến tranh càng ngày càng ác liệt. Do nhu cầu chiến trường, quân số QĐVNCH gia tăng nhanh chóng: 363,787 (chính quy, nghĩa quân, địa phương quân) 12-1964 443,165 (nt) 12-1965 633,645 (nt) 12-1966 678,728 (nt) 12-1967 866,728 (nt) 12-1968 883,730 (nt) 12-1969 1,054,125 (nt) 12-1970 1,046,254 (nt) 12-1971 1,089,982 (nt) 12-1972. (9) Cho đến khi chấm dứt cuộc chiến năm 1975, số lượng trên đây ít thay đổi. Ngày 19-6-1965, các tướng lãnh QĐVNCH thành lập Hội đồng Quân lực và nắm chính quyền. Từ đây QĐVNCH đổi thành Quân lực VNCH. Trước năm 1971, QLVNCH gồm 10 sư đoàn Bộ binh. Tháng 10-1971, Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập, trở thành sư đoàn thứ 11 của QLVNCH.  Quân lực VNCH, 1973. Nguồn: flickr Theo lượng giá của một số chuyên viên quân sự, tuy QLVNCH gồm 11 sư đoàn và khoảng 1,100,000 quân, nhưng quân chủ lực thực sự chiến đấu chỉ khoảng trên dưới 300,000. Phần còn lại là Địa phương quân, Nghĩa quân và các lực lượng hậu cần. Quân chủng VNCH gồm có Lục quân với 4 quân đoàn (gồm 11 sư đoàn Bộ binh), Không quân, Hải quân. Binh chủng VNCH gồm Thiết giáp, Công binh, Quân vận, Truyền tin, Quân y, Lực lượng Đặc biệt, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù và Lực lượng tổng trừ bị gồm có Sư đoàn Nhảy dù, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến và 21 Liên đoàn Biệt động quân. Lực lượng võ trang còn có Nghĩa quân và Địa phương quân, được chính thức sáp nhập vào QĐVNCH bằng sắc lệnh số 161/SL/CT ngày 22-5-1964. Binh sĩ được tuyển chọn có hai hạng: hạng tình nguyện và hạng quân dịch. Tình nguyện là những thanh niên tự ý tham gia quân đội. Quân dịch gồm những thanh niên đến 18 tuổi, không vì lý do gia đình, lý do học vấn, hoặc nghề nghiệp, đều thi hành quân dịch. Thời hạn quân dịch tùy hoàn cảnh chiến tranh. Lúc đầu 12 tháng, sau tăng 18 tháng và rồi 24 tháng. Đa số các tỉnh đều có trường huấn luyện tân binh, khóa căn bản quân sự 3 tháng, và trường huấn luyện hạ sĩ quan, khóa học 6 tháng. Về cấp bậc sĩ quan, có hai trường huấn luyện sĩ quan là là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức. Ngoài ra, có các trường huấn luyện sĩ quan Không quân, Hải quân và trường Chiến tranh chính trị. Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được khánh thành ngày 5-11-1950. Năm 1959, tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh cải tổ thành Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Trường huấn luyện sĩ quan hiện dịch chuyên nghiệp cho quân đội. Lúc đầu, chương trình học chỉ 3 năm. Đến năm 1966, nhà trường áp dụng chương trình học 4 năm., lấy học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu. Hai năm đầu sinh viên học chung. Hai năm sau, sinh viên học riêng theo quân chủng đã chọn: Lục quân (bộ binh), Không quân, Hải quân. Trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức khai giảng ngày 9-10-1951, cùng một lần với Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định. Mỗi khóa học trong 9 tháng. Sau khóa đầu tiên, trường Nam Định đóng cửa năm 1952. Trường SQTB Thủ Đức tiếp tục hoạt động, đổi tên năm 1955 thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Năm 1963, trường đổi tên lần nữa thành Trường Bộ Binh Thủ Đức. Từ năm 1968, do tình hình chiến tranh, mỗi năm nhà trường đào tạo ba khóa cho đến năm 1975. Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân được thiết lập tại Nha Trang năm 1952, lúc đầu do các sĩ quan Pháp huấn luyện. Tước 1954, các sĩ quan Không quân đều xuất thân từ các trường Không quân của Pháp. Sau năm 1954, Trung tân mầy càng ngày càng phát triển, tuy nhiên sau phần huấn luyện căn bản, các sĩ quan đều được gởi du học Hoa Kỳ. Đến năm 1973, thì sĩ quan được đào tạo tại chỗ. Trung tâm HLKQ Nha Trang gồm các trường: Trường Huấn Luyện Phi hành, Trường Huấn Luyện Kỹ Thuật và Trường Huấn Luyện Quân Sự, Trường Sinh Ngữ. Trường Sĩ Quan Hải Quân được thành lập tại Nha Trang ngày 26-4-1955, chuyên đào tạo sĩ quan Hải quân cho Quân lực VNCH. Có một số sĩ quan được gởi qua học tại Hoa Kỳ. Trường Đại học Chiến tranh Chính trị được thành lập tại Đà Lạt, theo sắc lệnh số 48/SL/QP ngày 18-3-1966, chính thức hoạt động ngày 1-1-1967. Từ đó đến năm 1975, Đại học nầy tổ chức được 6 khóa học. Khóa 4 ra trường ngày 22-4-1975 và khóa 5 cùng khóa 6 chưa hoàn tất thì miền Nam Việt Nam sụp đổ năm 1975. 2. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Bắc Việt Nam) Chủ tâm mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam Việt Nam, ngay từ khi về Hà Nội cầm quyền sau hiệp định Genève (20-7-1954), đảng Lao Động (LĐ) liền tái huấn luyện “quân đội nhân dân”. Đạo quân nầy được “đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của ĐCSVN [đảng LĐ], thuộc quyền thống lĩnh của chủ tịch nước, và chỉ huy, điều hành của bộ trưởng Bộ Quốc phòng.”(10) Giúp bộ Quốc phòng có bộ Tổng tham mưu, Tổng cục chính trị, Tổng cục hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục công nghiệp quốc phòng.  Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946. Nguồn: wikipedia Đảng LĐ kiểm soát quân đội bằng các cấp ủy. Cấp ủy cao nhất của đảng bộ quân đội Bắc Việt là Quân ủy trung ương. Trong thời kỳ chiến tranh 1946-1954, Trung ương Quân ủy được thành lập năm 1946, đổi thành Tổng chính ủy năm 1948, rồi Tổng quân ủy năm 1952, và Quân ủy trung ương từ 1961 đến 1982. Quân ủy Trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị để Ban chấp hành TƯĐ quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quốc phòng và quân sự, đồng thời Quân ủy trung ương trực tiếp lãnh đạo Tổng cục chính trị quân đội Bắc Việt. Theo điều lệ đảng LĐ, Quân ủy trung ương bao gồm một số ủy viên ngoài quân đội do Bộ chính trị chỉ định trong số các ủy viên TƯĐ. Trong suốt thời gian chiến tranh Nam Bắc (1956-1975), Võ Nguyên Giáp giữ chức tổng quân ủy kiêm tổng tư lệnh quân đội. Ngoài Quân ủy trung ương, trong tất cả các đơn vị quân đội của Bắc Việt Nam đều có đảng ủy do một chính ủy đứng đầu. Chính ủy và đảng ủy nắm quyền quyết định tất cả các sinh hoạt của đơn vị. Hệ thống đảng ủy và chính ủy giữ vững quân đội thành một tổ chức tuyệt đối trung thành và vâng lệnh đảng LĐ. Quân đội Bắc Việt Nam gồm có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, và đủ các quân chủng lục quân, hải quân, phòng không – không quân. Tiền thân của ngành Hải quân Bắc Việt là Cục phòng thủ bờ biển (lập 7-5-1955), Cục hải quân (lập 24-1-1959) và Bộ tư lệnh hải quân (lập 3-1-1964). Quân chủng phòng không – không quân được chính thức thành lập ngày 22-10-1963 bằng cách hợp nhất Bộ tư lệnh phòng không và Cục không quân. Ngoài ra, còn có các binh chủng Pháo binh, Công binh, Thông tin (truyền tin), Vận tải (thuộc tổng cục hậu cần). (11) Sau năm 1954, Bắc Việt Nam tái tổ chức và tái huấn luyện quân đội. Đến cuối năm 1956, trước khi khởi động chiến tranh xâm chiếm miền Nam Việt Nam, quân đội Bắc Việt Nam gồm có: 14 sư đoàn (308, 304, 312, 316, 320, 325, 350, 305, 324, 330, 328, 332, 335, 338); 5 trung đoàn bộ binh độc lập, 4 sư đoàn pháo binh và phòng không; các trung đoàn, tiểu đoàn công binh, thông tin và vận tải. (12) Từ năm 1957, nhà cầm quyền đảng LĐ tái cấu trúc các khu vực quân sự. Theo sắc lệnh số 017-SL ngày 3-6-1957, Bắc Việt Nam được chia thành các quân khu như sau: - Quân khu Tây Bắc: gồm các tỉnh gồm Lai Châu, Sơn La - Quân khu Đông Bắc: gồm các tỉnh Lạng Sơn, Hải Ninh. - Quân khu Việt Bắc: gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang Vĩnh Phúc, Phú Thọ Lào Cai Yên Bái, năm 1958 thêm Lạng Sơn. - Quân khu Tả Ngạn: gồm các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Yên, Hà Bắc từ năm 1958 có thêm Hải Ninh. - Quân khu Hữu Ngạn: gồm các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây (Hà Đông và Sơn Tây hợp nhất), Hòa Bình và Thanh Hóa. - Quân khu 4: gồm các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh. - Thành đội Hà Nội: trực thuộc bộ Tổng tư lệnh, từ 1964 đổi thành bộ Tư lệnh thủ đô, trực thuộc quân khu 3. Năm 1958, quân khu Đông Bắc giải thể, Lạng Sơn sát nhập vào quân khu Việt Bắc; Hải Ninh sát nhập vào quân khu Tả ngạn. Ngày 1-11-1963, hai quân khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn nhập lại thành Quân khu 3. 3. Lực lượng Cộng sản tại miền Nam Việt Nam Để chuẩn bị tổng tuyển cử, tại miền Nam Việt Nam, từ cuối năm 1956, đảng Lao Động (LĐ) Bắc Việt ra lệnh tổ chức lại các đội võ trang tuyên truyền tại miền Nam Việt Nam. Sau nghị quyết 15 của ban chấp hành TƯĐLĐ ở Hà Nội ngày 13-5-1959, chủ trương thống nhất đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực), đảng LĐ gởi nhiều cán bộ kỹ thuật quân sự tăng cường các đơn vị du kích miền Nam. Đại hội lần thứ III của đảng LĐ cũng tại Hà Nội từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, một lần nữa đảng LĐ xác quyết kế hoạch “giải phóng” miền Nam bằng võ lực. Để tiến hành kế hoạch nầy, ngày 12-12-1960, tại Hà Nội đảng LĐ thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGP). Ngày 20-12-1960, đảng LĐ tổ chức ra mắt MTDTGP tại chiến khu Dương Minh Châu (tỉnh Tây Ninh), Nam Việt Nam và đặt MTDTGP dưới sự chỉ huy của Trung ương cục Miền Nam (TƯCMN), cơ quan đại diện ban Chấp hành Trung ương đảng LĐ tại miền Nam. (13)  Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên). Nguồn: Wikipedia Các lãnh tụ ban đầu là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát là những đảng viên cộng sản hoạt động tại miền Nam. Lúc đó, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, (14) phó chủ tịch Phong trào Hòa bình Sài Gòn bị chính quyền VNCH quản thúc tại Củng Sơn (Phú Yên). Cuối tháng 11-1961, quân du kích giải thoát cho Nguyễn Hữu Thọ, đưa về Tây Ninh và cử Nguyễn HữuThọ làm chủ tịch MTDTGP trong Đại hội lần thứ I vào tháng 2-1962. Phó chủ tịch là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát, Ybih Aleo, đại đức Sơn Vọng, và Nguyễn Văn Hiếu làm tổng thư ký MTDTGP. Mặt trận DTGP ra “Tuyên ngôn” và “Chương trình hành động mười điểm”, mục đích đoàn kết toàn dân miền Nam Việt Nam chống chính quyền VNCH và “đế quốc” Mỹ, và tiến tới thống nhất đất nước. Hai ban quan trọng trong TƯCMN là ban Quân sự và ban An ninh. Tháng 2-1961, Tổng quân ủy đảng LĐ (sau đổi thành Quân ủy trung ương) công bố quyết định lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam thành một bộ phận của quân đội Bắc Việt để chiến đấu ở miền Nam. Quân giải phóng miền Nam của cộng sản Việt Nam gồm hai thành phần chính: Quân đội du kích địa phương tại các huyện, tỉnh miền Nam do các cấp ủy đảng địa phương thành lập và Quân đội chính quy từ Bắc Việt chuyển vào. Tháng 10-1963, ban Quân sự TƯCMN đổi thành Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam. Tháng 10-1964, đảng LĐ điều chỉnh lại tổ chức, tách TƯCMN thành hai: TƯCMN phụ trách trực tiếp từ Ninh Thuận vào đến Cà Mau, (15) gồm 4 quân khu VI, VII, VIII và IX; từ Khánh Hòa trở ra đến đèo Hải Vân là quân khu V do Võ Chí Công làm bí thư khu ủy. Tính đến cuối năm 1961, tại miền Nam Việt Nam, quân chủ lực cộng sản khoảng 24,500 người và tự vệ địa phương khoảng 100,000 quân, chia ra 70,000 ở Nam phần và 30,000 ở Trung phần (khu V). Lực lượng cộng sản càng ngày càng tăng trưởng, nhất là từ năm 1964, khi đảng LĐ quyết định đưa nhiều đơn vị quân đội chính quy Bắc Việt vào Nam: Năm 1964, Bắc Việt đưa vào khoảng 10,000 quân. Trong biến cố Mậu Thân (1968), quân cộng sản miền Nam thiệt hại nặng nề, nên Bắc Việt ào ạt gởi quân vào miền Nam. Cho đến cuối năm 1973, quân chính quy Bắc Việt lên 100,000 và cuối năm 1974 lên 200,000 quân. (16) (Trích Việt sử đại cương tập 6.) Trần Gia Phụng CHÚ THÍCH 1. Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, Cali: Nxb Xuân Thu tái bản, không đề năm, tr. 82. 2. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 292. 3. Vương Hồng Anh, “Công binh VNCH”, Việt Báo, California: ngày 2-5-2000. Điều nầy phù hợp với báo cáo “Thành tích của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong thời gian 1955-1960” đăng trong Thành tích sáu năm hoạt động của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, Sài Gòn 1960, in lại tại California năm 2007, tr. 852. Cách phân chia trên đây bắt nguồn từ sự điều chỉnh các quân khu thời trước năm 1954, nên không theo thứ tự vị trí địa lý. Ví dụ Quân khu 1 trước năm 1954 được chia thành Quân khu 1 (miền Đông Nam phần), quân khu 5 (miền Tây Nam phần) và Quân khu Thủ đô. Vì vậy cách phân chia nầy sẽ thay đổi khi các đại đơn vị “quân đoàn” được thành lập. 4. Web: RVNAF Table.pdf Spreadsheet on troop levels and other information : A Brief Overview of the Vietnam National Army and the Republic of Vietnam Armed Forces (1952-1975) (Presented by Mr. Stephen Sherman and Mr. Bill Laurie Supplemental Material On the TTU Web Site ). 5. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, Tập I-C: 1955-1963, Houston: Nxb. Văn Hóa, tt. 225. 6. Web: RVNAF Table.pdf Spreadsheet on troop levels and other information . 7. Vùng I CT (bộ chỉ huy ở Đà Nẵng) được chia thành Khu 11 CT (Quảng Trị và Thừa Thiên, bộ chỉ huy ở Huế), Khu 12 CT (Quảng Ngãi) và Biệt khu Quảng Đà (Quảng Nam). Khu 11 CT do Sư đoàn 1 Bộ binh phụ trách. Khu 12 CT do Sư đoàn 2 BB phụ trách. Biệt khu Quảng Đà do Trung đoàn 51 BB phụ trách. Quân đoàn I lúc đầu có 2 sư đoàn 1 và sư đoàn 2. Về sau, có thêm sư đoàn 3 BB đóng ở Quảng Trị. Vùng II CT (bộ chỉ huy ở Pleiku) gồm Khu CT 22 (Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, bộ chỉ huy ở Quy Nhơn); Khu 23 CT (Darlac, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Cam Ranh, bộ chỉ huy ở Ban Mê Thuột). Quân đoàn II có hai sư đoàn là Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng III CT (bộ chỉ huy ở Biên Hòa), gồm Khu CT 31 (Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, bộ chỉ huy ở Tây Ninh); Khu 32 CT (Bình Long, Phước Long, Bình Dương, bộ chỉ huy ở Bình Dương); Khu 33 CT (Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa, Biệt khu Thủ đô, bộ chỉ huy ở Biên Hòa). Quân đoàn III có ba sư đoàn là Sư đoàn 5, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25. Vùng IV CT (bộ chỉ huy ở Cần Thơ) gồm có Khu 41 CT (Châu Đốc, An Giang, Sadec, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, bộ chỉ huy ở (Mỹ Tho); Khu 42 CT (Kiên Giang, Phong Dinh Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu An Xuyên, bộ chỉ huy ở Cần Thơ); Khu CT Định Tường (gồm Định Tường, Kiến Tường, Kiến Hòa, Gò Công, bộ chỉ huy ở Định Tường). Quân đoàn IV gồm ba sư đoàn là Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21. 8. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xem chữ “Việt Nam Cộng Hòa”. 9. Web: RVNAF Table.pdf Spreadsheet on troop levels and other information . 10. Bộ Quốc phòng CHXHCNVN, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tr. 835.(Trích nguyên văn.). 11. Tài liệu viết mục nầy dựa vào Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, sđd. 12. Bộ Quốc Phòng CHXHCN Việt Nam, Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2005, tr. 365. 13. Trung ương cục Miền Nam: Ngày 20-1-1951, Xứ ủy Nam Bộ đổi thành TƯCMN do Lê Duẫn làm bí thư. Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN. Các bí thư TƯCMN là: Lê Duẫn (1951-1954), Nguyễn Văn Linh (1961-1964), Nguyễn Chí Thanh (1964-1967), Phạm Hùng (1967-1975). 14. Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996): Sinh tại làng Long Phú, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Long Phú, Bến Lức, tĩnh long An), du học Pháp từ năm 1921, đỗ tú tài năm 1929, tốt nghiệp cử nhân luật tại Aix-en-Provence năm 1932, trở về nuóc năm 1933 và tập sự luật sư tại Mỹ Tho và trở thành luật sư năm 1939. Ông tham gia Phong trào Hòa bình, bị bắt năm 1950 và được thả năm 1953. Sau hiệp định Genève, ông hoạt động trong Phong trào Bảo vệ Hòa bình tại Sài Gòn và bị bắt tháng 11-1954 và bị đưa ra giam ở Củng Sơn (Phú Yên). 15. Bộ chỉ huy ban Quân sự TƯCMN gồm có thiếu tướng Trần Lương (trưởng ban), Phạm Thái Bường (chính ủy), thiếu tướng Trần Văn Quang (chỉ huy trưởng các lực lượng võ trang giải phóng miền Nam), Nguyễn Hữu Xuyến (chỉ huy phó), Phạm Văn Xô (phụ trách hậu cần). Tháng 10-1963, bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đảng LĐ thành lập Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam và cấp ủy đảng đồng cấp, thường được gọi Quân ủy Miền và bộ Tư lệnh Miền. Ban lãnh đạo gồm Nguyễn Văn Linh, ủy viên Trưng ương đảng LĐ, bí thư TƯC kiêm bí thư Quân ủy Miền, trung tướng Trần Văn Trà, phó tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam làm tư lệnh Miền và tướng Trần Độ làm phó chính ủy Miền. 16. Theo Wikipedia, Bách khoa Toàn thư mở. Bài “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam”. (trích ngày 25-12-2009). Wikipedia theo tài liệu của Bộ tổng tham mưu quân đội Bắc Việt, Lịch sử Cục tác chiến, Nxb. Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2001. Đàn Chim Việt minh họa
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:54:28 GMT 9
Triệt thoái quân đoàn 2, cuộc hành quân phá sản
Nguồn Internet Một ngày trước khi Tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hoà do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội, Đại sữ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế có nghĩa họ bỏ rơi miền Nam hoàn toàn, Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đủ đạn dược để đánh trận trong vòng một vài tháng. Tại Pleiku Liên đoàn 4 BĐQ chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, Sư đoàn 22 BB tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với Sư đoàn 3 Sao Vàng CS, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy. Sư đoàn 10 CS sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây ta chỉ còn 700 người và 4 khẩu 105 ly. Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng Tướng lãnh gồm các Tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang để trình bầy kế hoạch mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với tình hình vũ khí đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 Quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Đà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lãnh đồng ý, không ai phản đối. Mất Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu nay biết rõ địch mạnh hơn hồi 1968, và Mùa hè đỏ lửa 1972. CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris, Đồng Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước tình hình nguy khốn, ông Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo bạo trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong Hội nghị này có Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975. Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, áp lực địch rất mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của Quân đoàn về phòng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum.. Nghe thế Tướng Phú bèn xin cho toàn bộ Quân đoàn ở lại chiến đấu, ông thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của TT Thiệu. “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên. Tướng Thiệu cười nhạt: - Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản? - Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày! - Rồi sao nữa? Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp: - Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa! . . . . . . . . . . … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn: - Thưa Tổng thống, thưa quí vị tướng lãnh,nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới!” (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85) Tổng Thống Thiệu bác bỏ ý kiến Tướng Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội Đồng Tướng Lãnh mà ông đã bàn thảo. “- Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay …về phòng thủ Duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. . . . .. . . . . . . . . . . - Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết. - Thưa Tổng thống… - Có nghĩa là các lực lượng Địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉn,Pleiku, Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ. . . . . . . . . . . . - Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã thảo luận với các tướng lãnh. Đây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lãnh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I. Phòng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần như lạc đề: - Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ? - Thì cho thằng Cộng Sản số dân đó! Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên Vùng Cao nguyên…” (CTTCN1975, trang 85, 86) Về buổi họp này, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH) thuật lại cũng gần giống như Phạm Huấn, theo ông Tổng Thống Thiệu cho biết phải chiếm lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú xin thêm quân tiếp viện, ông Thiệu hỏi Tướng Viên có đủ quân tiếp viện cho Tướng Phú không, Tướng Viên trả lời không còn quân trừ bị. Khi ấy ông Thiệu đứng trước bản đồ miền Nam nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku, Kontum nhập lại về kinh tế, dân số, nhiệm vụ Quân đoàn 2 phải tái chiếm Ban Mê Thuột, ông hỏi Tướng Phú dùng đường nào để đem quân về tái chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Phú đề nghị theo đường số 7. Văn Tiến Dũng cũng đã ghi lại lời khai của Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất bị CS bắt trong hồi ký của y. Tướng Tất cho biết chiều 14-3 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau khi dự Hội nghị Cam Ranh về đã họp Bộ Tham Mưu Quân đoàn và kể lại diễn tiến buổi họp. Ông Thiệu hỏi Tướng Viên còn quân trừ bị không, Tướng Viên nói không còn, ông Thiệu hỏi Tướng Phú nếu không có quân tăng viện thì giữ được bao lâu, Tướng Phú nói có thể giữ được một tháng nếu có yểm trợ không quân, tiếp tế bằng không vận về đạn dược, vật liệu và bổ sung quân số bù lại thiệt hại vừa qua, ông sẽ ở lại Pleiku chiến đấu và chết ở đó. Ông Thiệu nói không thoả mãn được các điều kiện đó, CS thì rất mạnh nên phải rút khỏi Kontum, Pleiku đưa quân về giữ đồng bằng duyên hải. Sau đó ông Thiệu hỏi rút bằng đướng số 19 được không, Tướng Viên trả lời đường này rất nguy hiểm, ông Thiệu hỏi đường số 14 đi được không, Tướng Viên đáp đường 14 không thể đi được. Cuối cùng chỉ còn đường số 7 ( CSBV gọi là đường số 7B) từ lâu không dùng tới nhưng tạo được sự bất ngờ. Tướng Phú cũng cho biết theo lệnh ông Thiệu chỉ rút các đơn vị chủ lực, bỏ Địa phương quân lại, không được thông báo cho các Tỉnh trưởng biết để họ ở lại tiếp tục chống giữ. Như vậy những lời thuật lại của Phạm Huấn, Đại Tướng Viên, Văn Tiến Dũng.. gần giống nhau. Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lãnh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 Sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku – Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Đông, Tây, Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7 không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7, kế hoạch được chấp thuận. Tổng Thống Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, ông dặn Tướng Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực của Quân đoàn rút, Địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế hoạch đượm vẻ bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ Lệnh hành quân cấp Quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vã không được chặt chẽ. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 BĐQ và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7. Tỉnh Lộ 7 từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7 trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông. Ngày 16-3 đoàn xe quân sự bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1,200 xe cộ (theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe). Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn. Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, tình hình đã không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái. Ngày 18-3 Liên đoàn 7 BĐQ đang cùng thiết giáp đánh chốt CS xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến tình hình càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, CS pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xã gây nhiều tử thương cho quân dân di tản. Các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. Từ ngày 16-3 –1975 Sư đoàn 320 CS Ở Buôn Hô (Ban Mê Thuột) gần đoàn quân triệt thoái được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá, đến 18-3 lực lượng lớn của BV tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn, các Liên đoàn BĐQ, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của miền Nam để truy kích đánh phá, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới. Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng quân đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BĐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng. Binh lính chửi rủa Tổng thống Thiệu suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, mộït hành lang máu. Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. CSBV tổ chức các chốt chặn đường, một Tiểu đoàn ĐPQ và một Tiểu đoàn BĐQ được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai Tiểu đoàn BĐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 CS (SĐ -320) gây nhiều thiệt hại, Trung đoàn phải rút lui. BV đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng Đông. Phía Tây xe tăng CS đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam địch đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 Tiểu đoàn 34 BĐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng, những người, xe còn lại của cuộc lui binh đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới nơi. Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Đài phát thanh VOA đã bình luận. “Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”. Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Đức Phương khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BĐQ khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113. Trong Những Ngày Cuối VNCH ông Cao Viên cho biết có nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương. Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Văn Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp. Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới nhiều nghìn hay hàng vạn người. Ông Cao Văn Viên nói: “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người” Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra, cũng có thể do CS nằm vùng tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đã ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc và phá hoại của đài BBC Luân Đôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lãnh thổ của miền Nam . Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7 đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp. Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng, vùng trách niệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh vùng 1. Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui binh tức thì ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 Trung đoàn ồ ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I. Cộng quân thừa cơ pháo theo chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng mấy nghìn người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác … Đại tá Phạm bá Hoa nói. “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa. Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…” (Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7) Cũng theo ông Phạm Bá Hoa, một điều trớ trêu là ta tưởng Cộng quân bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta rút đi ngày 16-3-1975 thì bốn ngày sau đó, 20-3 địch mới tiến vào tỉnh lỵ sở dĩ như vậy vì ta thiếu tin tình báo. Cộng quân còn ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng Tướng Phú đã quá sợ hãi, ông tưởng địch sắp vây tấn công tới nơi. Sự thực các Sư đoàn CS còn ở xa về phía Nam và Đông Nam Pleiku và gần đoàn quân triệt thoái nên ta mới bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh. Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là do một mình ông ấy nghĩ ra, không hỏi ý kiến ai. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng khó có thể thể chấp nhận được vì nó là một kế hoạch bất nhân bỏ đồng bào lại cho CS. Khi ông Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đã gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch cho phép bỏ rơi đồng bào ruột thịt của mình vào tay Cộng sản, chính người miền Nam đã bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh. Kế hoạch rút quân về duyên hải để rồi từ đó theo đường Quốc lộ 21 lên tái chiếm Ban Mê Thuột của ông Thiệu nói trong phiên họp tại Cam Ranh thật không có gì vô lý hơn. Đường rút quân từ tỉnh lộ 7 xuống Tuy Hoà, từ đó xuống Nha Trang rồi lại từ Nha Trang đi ngược lên Ban Mê Thuột dài gấp 3 lần đườùng Quốc Lộ số 14 từ Pleiku xuống Ban Mê Thuột, đầy gian nan nguy hiểm. Lui binh để tái chiếm Ban Mê Thuột chỉ là một cách nói dối để đánh lừa các Tướng Lãnh trong phiên họp và để che dấu cái ý định rút bỏ Cao Nguyên của TT Thiệu mà thôi. Hầu như tất cả giới quân nhân, chính khách, ký giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của ông Thiệu là tai hại, nó đã làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất không tưởng vì không thể di tản hàng nghìn xe cộ, hằng mấy trăm nghìn quân dân chạy loạn tới nơi tới chốn qua một con đường đã bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp, một điều xui xẻo tai hại là đường rút quân lại đi ngang ổ kiến lửa CSBV đóng tại Buôn Hô, chúng đã đuổi theo đánh phá gây thiệt hại trầm trọng. Sự sai lầm của kế hoạch tái phối trí lực lượng đã khiến cho CS chiếm được cả hai tỉnh Kontum Pleiku mà không mất một viên đạn. Lệnh cho Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đã mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy. Thất bại trên đường số 7 một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra tin cắt quân viện của Quốc Hội Mỹ cũng làm ông Thiệu hốt hoảng điên đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, một phần vì ông Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy. Triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt nhau để bỏ nhau chạy trước. Nhiều người cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn. Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Lê Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời, cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm. Tướng Trần văn Nhựt, người hùng An Lộc năm 1972 lại cho rằng Trung Ương đã không yểm trợ cuộc triệt thoái đến nơi đến chốn: “Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhã. Đúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị cho Đại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận tình giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn vì mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông” (Cuộc Chiến Dang Dở trang 272) Trang 146 Những Ngày Cuối VNCH, Ông Cao Văn Viên cho biết mặc dù mất Ban Mê Thuột nhưng lực lượng VNCH tại quân khu 2 còn khá mạnh, sự sai lầm của TT Thiệu đã khiến cho Vùng 2 sụp đổ nhanh chóng kéo theo sự sụp đổ của Vùng 1 và cả VNCH “Sau khi Ban Mê Thuột mất, các lực lượng còn lại ở vùng II trong phạm vi Kontum-Pleiku là: một tiểu đoàn của Trung đoàn 44, 5 liên đoàn Biệt Động Quân (7, 21, 22, 24 và 25); thiết đoàn 21 kỵ binh (xe tăng M-48); 2 tiểu đoàn pháo binh 155 ly, 1 tiểu đoàn 175 ly; và các đơn vị Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Các đơn vị tiếp vận còn lại gồm: Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, liên đoàn 231 Tiếp Liệu; 20 ngàn tấn đạn và bom của bộ binh và không quân; nhiên liệu đủ cung cấp cho 45 ngày; và thực phẩm cho 60 ngày. Nhiệm vụ của tướng Phú là di chuyển tất cả các đơn vị, quân liệu này về Nha Trang, và từ Nha Trang tấn công lấy lại Ban Mê Thuột” Theo cựu Đại tá Phạm Bá Hoa trong bài Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 nói: “Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa thì rõ ràng là quân Cộng Sản mà mình tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vậy Pleiku, nhưng thật ra chúng còn ở tận đâu đâu nên mãi bốn ngày sau đó là thời gian sớm nhất chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lện Quân Đoàn , trong khi những Sư đoàn của chúng càng ở xa Pleiku về hướng Nam và Đông Nam thì khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoát hơn, do đó mà thiệt hại của quân đoàn nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng…” Một điều xui tai hại là con đường đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn hô , Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp và đánh phá đoàn quân triệt thoát gây thiệt hại nặng nề. Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, người ta đã cho di tản gia đình binh sĩ trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2 và 1. - Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút. - Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy. - Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội. - Không duy trì được kỷ luật. Ngoài ra vì thiếu tin tức tình báo đoàn quân triệt thoái lại đi ngang tổ kiến VC, Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô gần đoàn di tản đã đuổi kịp sau hai ngày. Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy loạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn. Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đã để lọt vào tay địch nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác. Tỉnh Quảng Đức nằm ở tây Nam Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía Bắc Lâm đồng vẫn còn đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận Kiến đức phía Tây thị xã Gia nghĩa. Ngày 9-3-1975 một Sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Đức lập phía Tây Bắc Quảng Đức, còn lại Quận Kiến đức phía Tây thị xã vẫn còn đứng vững, họ bảo vệ được thị xã yên ổn được gần hai tuần lễ. Đến ngày 22-3 tình hình tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch, tỉnh đã tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh của Quân đoàn. Sáng 22-3-1975 Đại tá tỉnh trưởng Quảng đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng đưa về Sài gòn rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy bay trở về Quảng Đức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là theo lời ông ấy nói. Đến chiều Trung tá Tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản, hai Tiểu đoàn BĐQ tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các quan đã triệt thoái nên anh em cũng lui binh trong trật tự, họ đã gài mìn trên đường về thị xã rồi rút theo đoàn quân của tỉnh. Về điểm này trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đã tiến sát Phi trường Quảng Đức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh trưởng Quảng Đức bị pháo sập. Đại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng còn lại của Tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”. Không biết Phạm Huấn căn cứ vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng từ đầu chí cuối tại đây đã biết rõ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức bị mất, thị xã Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch còn bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xã khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đã đi máy bay trực thăng từ sáng, hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng. Đoàn quân triệt thoái từ Quảng Đức sau 5 ngày băng rừng thì tới Lâm Đồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy nghìn người gồm ĐPQ, BĐQ, Cảnh sát..Đa số quân đội và một số ít dân chúng vượt sông tại Kinh Đà qua được Lâm Đồng, phần nhiều dân chúng bị bỏ lại vì không thể đem theo hết mọi người được. Cuộc di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật, hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng tiếc. Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Đồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước Sư đoàn 7 CS thuộc quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà chiếm Định Quán, Hoài Đức, Giá Rai .. rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Đồng. Họ tiến theo đội hình xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Đồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, ông ta lấy tiền trong ngân khố chạy lên Đà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng gì Lâm Đồng, Quảng Đức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ quan cao cấp thấy tình hình bi đát đã bỏ đơn vị chạy tháo thân, tâm lý chung con người ta ai mà chẳng sợ chết. Cuộc di tản từ Lâm Đồng về Phan Rang được tiến hành có trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái trên đường số 7 có lẽ vì không bị Cộng quân đuổi theo pháo kích. Trong khi ấy hai Trung đoàn CS băng rừng từ Phước Long qua tiến chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Đà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Đà Lạt cũng di tản về Phan Rang. Dưới đây là những ngày cuối cùng của Quân đoàn 2, phần này chúng tôi dựa cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH của ông Cao Văn Viên. Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải Sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững phòng tuyến ở Bình Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan phía Bắc Bình Định, hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 chống trả mãnh liệt cuộc tấn công của Sư đoàn 3 CS dưới chân đồi Bình Khê phía Tây Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung đoàn 95B, Sư đoàn 968 BV được tăng cường tấn công hai Trung đoàn 41, 42 nhưng ta vẫn giữ được phòng tuyến cho đến 30-3. Ở duyên hải, BV tăng viện thêm từ Quảng Ngãi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập phòng tuyến mới ở đó. Sư đoàn 320 BV sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Đặc công, thám sát CS xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, ĐPQ của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 BB được lệnh rút về Qui Nhơn. Ngày 30-3 Trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận Bình Khê, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn Hữu Thống đã năn nỉ xin Tư lệnh ở lại đánh, ông nói tình hình chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đã quá trễ, khi hai Trung đoàn vào thị xã Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong thị xã chận đánh, ĐPQ của ta tại đây đã di tản, Qui nhơn đã nằm trong tay Sư đoàn 3 CS. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với sự yểm trợ của Hải pháo, Trung đoàn 41, 42 phá được phòng tuyến địch ở Nam thành phố. Quân của hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía Nam cách bến tầu 6 cây số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4 ba tầu Hải quân cập bến chở đám binh sĩ còn lại của Sư đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thống từ chối di tản và ở lại tự sát. Trung đoàn 47 sau hai ngày cố thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát, trên đường di tản về Qui Nhơn Trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ tự tử, xác còn nằm trước văn phòng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi vòng chiến. Sư đoàn 22 BB khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ còn hơn 2,000 quân. Sáng 2-4 Cộng quân chiếm Tuy Hoà, ĐPQ rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía Nam Phú Yên Tiểu đoàn BĐQ 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương Sư đoàn 10 CS và Lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, BV được pháo binh, xe tăng yểm trợ đã phá được phòng tuyến VNCH. Tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận đánh, quân Dù giữ được Khánh Dương một tuần thì thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn tan rã trước áp lực quá đông của địch chỉ còn hơn 300 người chạy về Nha Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà. Nha Trang đã trở thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ. Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư lệnh Quân đoàn gặp Tướng Phu,ù hai người bàn bạc với nhau chừng 15 phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi tìm các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức phòng thủ phi trường Nha Trang.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:57:57 GMT 9
Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha Trang, ông không nói gì với Ban Tham mưu Quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch gì cả, quá tuyệt vọng ông bèn bay về Sài Gòn nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không còn tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng còn gì cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Từ 27, 28-3 các đơn vị của Lâm Đồng, Tuyên Đức rút về Phan rang để tháo chạy về miền Nam. Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía Bắc Quân khu 2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng nhập bọn chạy về phía Nam. Địa phương quân, cảnh sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Đại Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết. Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang để dò thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và phòng thủ tỉnh. Trật tự được vãn hồi, tại phía Tây Phan Thiết Sư đoàn 7 CS đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2 Sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km. Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về vùng 3 để phòng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một Trung đoàn của Sư đoàn 22 mới trang bị, bổ sung, một Liên đoàn BĐQ, một Tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn tất thì ngày 4-4 địch tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một Tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một Tiểu đoàn Dù, một Trung đoàn bộ binh, một Liên đoàn BĐQ, 4 tiểu đoàn ĐPQ, một Chi đoàn Thiết giáp M-113, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, Duyên đoàn 27, một Giang pháo hạm, một Hải vận hạm và một số tầu yểm trợ. Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đã di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4 Sư đoàn 3 và 10 CS tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây Tiểu đoàn Dù giao chiến với Cộng quân, địch chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú phòng đánh trảù ác liệt BV cho tăng thêm Sư đoàn 325 và nhiều xe tăng, đại bác tấn công phi trường Phan Rang đến trưa thì phòng tuyến vỡ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương Lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn lọt vào tay CSBV. Cuộc triệt thoái Cao nguyên đã khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ còn Sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại mấy Sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đã rơi vào tay BV. Nhiều người đổ cho Tướng Phú đã làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn. Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân đoàn 2 có những tị hiềm các nhân, kình chống nhau giữa những phụ tá của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng văn phòng ở Sài Gòn của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng và có cảm tình, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đã làm suy yếu phần nào nội bộ của ta. “Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên. Phạm Huấn (CTTCN, trang 125) Sự thực Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban Mê Thuột vào tay CS vì ông đã mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đã thấy Tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất vì kế hoạch của ông đã có nhiều lỗi lầm tai hại. Tướng Phú đã nhìn thấy cái nguy hại của triệt thoái và đã xin ở lại tử thủ, nếu được yểm trợ về tiếp liệu thì có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không thể giao chiến được nữa nhưng ông Thiệu một mực bắt phải lui binh Trong Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 134 ông Cao Văn Viên nói. “ Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô . Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiến được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”. Các giới chức quân sự, chính trị, nhà báo… cũng cho rằng nếu ta không rút, cứ đánh chưa chắc đã thua. Sách Mạnh Tử có câu “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hoà”, Ngài giảng: Kẻ địch cất quân sang đánh nước ta là chúng có Thiên thời, nước ta có núi non hiểm trở, thành lũy cao, hào sâu là ta có Địa lợi, nhưng khi quân địch vừa tới, binh sĩ ta quăng gươm giáo bỏ chạy là vì ta không có Nhân hoà” (ta không được lòng người). Thật vậy chúng ta lui binh tức là từ bỏ ưu thế địa lợi để rồi mất luôn cả ưu thế nhân hoà. Trước một kế hoạch tối quan trọng như thế ông Thiệu cần phải hội thảo với các vị Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu… để lấy quyết định chung thay vì tự quyết định và như vậy ông đã tránh được trách nhiệm bản thân . Lịch sử đã chứng tỏ rằng sự tập trung quyền hành trong tay một người đã đưa tới những sai lầm trầm trọng như Hitler đã làm tiêu tan nguyên một lộ quân ba trăm ngàn người trong trận Stalingrad 1942 vì quá độc tài. Nhà báo, dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên Năm 1975 viết. “đây là cuốn sách đầu tiên đã nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đã mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nhìn thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và cũng đã phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của nhóm người lãnh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội. . . . . . . . . . . Ba ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đã hoàn toàn im lặng, không góp bàn gì về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả” (CTTCN 1975, trang 265, 266) Kế hoạch của ông Thiệu và tập đoàn Tướng lãnh đã bị chỉ trích gay gắt như sau: “Người đọc cũng thấy rõ sự tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát cho Tướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện…. . . . . . . . . . . . . . . . Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh còn đặt ra một khía cạnh khác của nhân tình thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh.Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng triệu dân, hàng trăm nghìn Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đình binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách tình hình rồi lạnh lùng chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đã được quyết định rồi và không còn gì để bàn cãi nữa” Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267) Những lời kết án của Trần văn Ân, của Phạm Huấn… cũng như của bao nhiêu người khác nữa thể hiện niềm phẫn uất của quân dân đối với Hội Nghị Cam Ranh . “Lịch sử sẽ ghi những gì về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ thì sử xanh đã truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày 14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu sụp đổ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Hai biến cố này thực sự là dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đã dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Đa Số Tướng lãnh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đã bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lãnh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm. Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lãnh đạo sẽ được lịch sử ghi rõ đời đời. Lương tâm thui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công bình. Liệu rồi đây, khi họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh hùng đã chết trên chiến địa, đã tự sát khi bại trận hay đã chết trong lao tù? Những anh hùng này đã hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng vì một Lãnh Đạo tồi tàn” Trần Văn Ân CTTCN trang 272). Tướng Phú phải chịu trách nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự trọng ông đã can đảm tự xử lấy bản thân vì đã không chu toàn trách nhiệm. Ký giả Trần Văn Ân đã luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết vinh còn hơn sống nhục như sau. “Tướng Phú đã nằm xuống. . . . với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đã dám tự xử mình khi trách nhiệm không hoàn tất. Tại sao những Tướng lãnh đạo nền Đệ II Cộng Hoà lại không thấy được tội lỗi của mình và không dám tự xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người yêu nước thật sự và người làm chính trị vì tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng chính trị Nguyễn Văn Thiệu Trần Thiện Khiêm? Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đã vị quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của mình” (CTTCN 1975 trang 273) Cuộc triệt thoái đã ảnh hưởng tai hại tới tình hình Quân khu I để rồi cuối cùng đưa tới sự sụp đổ hai vùng chiến thuật và sự sụp đổ của cả VNCH. © Trọng Đạt © Đàn Chim Việt ——————————————— Tài Liệu tham khảo. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam. Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003. Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988. Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987. Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005. Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006. Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990. Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing. The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1958. Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991. Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002. Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký, internet. Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004 Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005. Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005. Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 . Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006. Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004 Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas Tháng 4-2005. Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn nhỏ Dallas 28-4-2006.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 23, 2012 14:24:24 GMT 9
Trận Đức HuệBài của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi Tư-lệnh Lữ-đoàn 3 KB  Những hình ảnh quý giá trong bài được cung cấp bởi D.T.Vu   Vào những tháng đầu năm 1974, khi người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã gần như hoàn tất lịch trình rút quân, bắt đầu cho một cuộc tháo chạy. Giữa những biến động chính trị và những vi phạm trầm trọng của cộng sản Bắc Việt về Hiệp Định Ba Lê, và trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, thiếu thốn mọi phương tiện và nhu cầu quân sự để chiến đấu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nên một chiến thắng lẫy lừng trong quân sử: Trận phản công chớp nhoáng giải vây đồn Đức Huệ. Đây là một trận đánh có bài bản, theo đúng sách lược binh thư, cộng vơí những sáng kiến táo bạo có tính toán, và yếu tố thần tốc bất ngờ đã đánh tan tành một sư đoàn bộ chiến xâm lược của cộng sản Bắc Việt . Bài viết sau đây của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi sẽ tường thuật lại thật đầy đủ chi tiết trận đánh lịch sử này. và cũng để chia xẻ với độc giả và các bạn trẻ về những kinh nghiệm chiến trường, tinh thần bất khuất và ý chí bảo vệ đất nước của những người trai thời loạn, dù trong nghịch cảnh vẫn hoàn thành được sứ mạng. Và bây giờ xin các bạn chuẩn bị lên đường, tham dự cuộc hành quân giải vây đồn Đức Huệ. Bây giờ là 22:00 giờ đêm, ngày N, 28 tháng Tư năm 1974.  1. Tình-hình chung ở Vùng 3 Chiến-Thuật Sau khi ký-kết Hiệp-Định Paris, đầu năm 1973, Quân-đội Mỹ ở Miền Nam Việt-Nam (MNVN) bắt đầu rút quân về nước. Các đơn-vị chủ-lực của CSVN ở Vùng 3 Chiến-Thuật gồm có 3 Sư-đoàn Bộ-binh: 5, 7, 9 và các đơn-vị đặc-công ém-quân bên kia biên-giới Việt-Miên thường-xuyên xâm-nhập vào lãnh-thổ nước ta quấy-nhiễu hoặc bao-vây tấn-công các đồn biên-phòng của chúng ta dọc theo biên-giới ở các tỉnh Hậu-Nghĩa, Tây-Ninh, Bình-Long và Phước-Long. Chủ-lực của Quân-đoàn III gồm có 3 Sư-đoàn Bộ-Binh 5, 18, 25 và Lữ-đoàn 3 Kỵ-Binh được sự yểm-trợ trực-tiếp của Tiểu-đoàn 46 Pháo-binh 155 ly, Tiểu-đoàn 61 PB 105 ly và Liên-đoàn 30 Công-Binh dưới quyền chỉ-huy của trung-tướng Nguyễn-Văn-Minh, một mặt phải lo dàn mỏng quân ra thay-thế Lực-lượng II Dã-chiến Hoa-Kỳ để bảo-vệ lãnh-thổ chống lại chủ-trương “dành dân lấn đất” của Cộng-Sản sau khi Hiệp-Định Paris ra đời; mặt khác, trung-tướng Nguyễn-Văn-Minh, tư-lệnh Quân-Đoàn III phạm sai lầm rất lớn về tổ-chức và sử-dụng lực-lượng là giải-tán  Lực-Lượng Xung-Kích Quân-Đoàn III và phân-tán nát Lữ-Đoàn 3 Kỵ-Binh ra từng mảnh nhỏ sau khi tôi rời Lữ-đoàn đi du-học ở Hoa-Kỳ năm 1972. Hai sự-kiện đó làm cho Quân-đoàn III bị suy-yếu trầm-trọng và hoàn-toàn bị mất đi tính di-động. Vì thế mà Lộc-Ninh bị địch chiếm và các đồn biên-phòng ở Tây-Ninh lần-lần bị lọt vào tay địch. Tháng 7 năm 1973 tôi từ Mỹ trở về nước. Trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần cũng vừa thay-thế trung-tướng Nguyễn-Văn-Minh đảm-nhiệm chức-vụ Tư-lệnh Quân-đoàn III. Ông nghe tiếng tôi đã từng chỉ-huy chiến-đoàn 318 và Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh đánh thắng nhiều trận lớn trên chiến-trường Campuchia từ thời đại-tướng Đỗ-Cao-Trí trong 2 năm 1970-1971, nên vận-động xin tôi về trở lại Quân-đoàn III với ông. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, tôi nhận quyền chỉ-huy Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh ở Biên-Hòa.  Việc đầu tiên là tôi gom các đơn-vị Thiết-giáp bị phân-tán về lại Lữ-đoàn và trình trung-tướng Thuần gấp rút tổ-chức lại Lực-Lượng Xung-Kích Quân-Đoàn III (LLXKQĐIII) theo mô-hình tổ-chức của đại-tướng Đỗ-Cao-Trí. Ông cho tôi toàn-quyền hành-động.  Tình-hình quân-sự càng ngày càng nặng sau khi quân Mỹ rút đi. Trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, nhiều chiến-xa T-54 địch xuất-hiện lần đầu tiên ở miền Nam trên chiến-trường ở An-Lộc, nên tôi tiên-đoán chiến-trường tương-lai chiến-xa địch có thể xuất-hiện ở Biên-Hòa; tôi xin Quân-Đoàn trang-bị cho tất cả các đơn-vị Địa-Phương-Quân ở Biên-Hòa súng phóng hỏa-tiễn M72 chống chiến-xa, được phép huấn-luyện họ sử dụng loại vũ khí này và huấn luyện họ phối-hợp tác-chiến với Thiết-giáp, đồng-thời tích-cực tổ-chức địa-thế chống chiến-xa địch chung-quanh thành-phố Biên-Hòa. Các đường xâm-nhập vào thành-phố đều được thiết-kế đặt mìn chống chiến-xa và hầm hào chống chiến-xa địch. Chính nhờ nỗ-lực này của Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh mà sau này trong “Chiến-Dịch Hồ-Chí-Minh” năm 1975 của Cộng-Sản Bắc-Việt, Quân-đoàn 4 CS đã thất-bại trong kế-hoạch đánh chiếm tỉnh Biên-Hòa và Sư-đoàn 341 CS bị quân ta đánh bại ở Biên-Hòa trong ngày 30-4-1975. Tôi ra sức cải-tổ lại Lữ-đoàn 3 KB cho phù-hợp với địa-thế Việt Nam. Mỗi Chi-đội Chiến-xa có 3 Chiến-xa M48 thay vì 5 chiếc. Tôi cơ-động-hóa Pháo-Binh bằng cách dùng xe xích M548 biến-cải chở pháo 105 ly. Tôi tổ-chức LLXKQĐIII thành một đại đơn-vị liên-binh Thiết-giáp – Biệt-động-quân – Pháo-binh – Công-binh hoàn-toàn cơ-động gồm 3 chiến-đoàn : 315, 318 và 322. Tôi khẩn-trương huấn-luyện tác-chiến liên-binh nhuần-nhuyễn và thường-xuyên làm công-tác tư-tưởng để mọi quân-nhân hiểu rõ địch, hiểu rõ nhiệm-vụ và mục-tiêu chiến-đấu của chúng ta, nhất là để mọi chiến-sĩ dưới quyền có niềm tin ở sự chỉ-huy của tôi. Đến hạ tuần tháng ba, 1974, LLXKQĐIII đã trở thành một đại-đơn-vị cơ-động tinh-nhuệ sẵn-sàng lên đường chiến đấu. 2. Tình-hình đặc-biệt : Cuộc chiến-đấu anh-hùng của Tiểu-đoàn 83 Biệt-Động-Quân  Click for large Căn-cứ Đức-Huệ nằm gần biên-giới Việt-Miên thuộc quận Đức-Hòa, tỉnh Hậu-Nghĩa do Tiểu-đoàn 83 BĐQ Biên-phòng trấn giữ với quân-số trên dưới 420 người cùng với gia-đình vợ con binh-sĩ vào khoảng 80 người sống trong căn-cứ nguyên là một trại Lực-lượng Đặc-biệt của Mỹ để lại. Tiểu-đoàn-trưởng là thiếu-tá Hoa-Văn-Hạnh. Khi xảy ra trận chiến thì thiếu-tá Hạnh đi nghỉ phép vắng mặt. Thiếu-tá Nguyễn-Văn-Bảo, tiểu-đoàn-phó thay-thế chỉ-huy. Tiểu-đoàn 83 BĐQ có 4 Đại-đội tác-chiến và 1 Đại-đội Chỉ-huy và Công-vụ: - Trung-úy Thạch-Thông chỉ-huy Đại-đội 1, - Trung-úy Hiền chỉ-huy Đại-đội 2, - Trung-úy Thất chỉ-huy Đại-đội 3, - Trung-úy Tuội chỉ-huy Đại-đội 4 và - Thiếu-úy Vạng chỉ-huy Đại-đội Chỉ-huy và Công-vụ. Được tin tình-báo VC sẽ đến đánh căn-cứ, Thiếu-tá Nguyễn-Văn-Bảo cho 3 Đại-đội tác-chiến ra ngoài căn-cứ: 1 đại-đội bố-trí các tiền-đồn an-ninh xa và 2 đại-đội hành-quân tìm và diệt địch ngoài xa căn-cứ. Còn lại một đại-đội tác-chiến trừ-bị bố-phòng trong căn-cứ. (1)Đêm 27-3-1974, một Đại-đội Đặc-công CS xâm-nhập được vào bên trong căn-cứ Đức-Huệ; vào lúc 02:00 giờ sáng ngày 28-3-1974, chúng chiếm được một góc trong căn-cứ. Ngay từ những phát súng nổ đầu tiên, thiếu-tá Bảo bị thương ở chân, gọi được 3 Đại-đội tác-chiến bên ngoài gấp rút trở về. Tiểu-đoàn tập-trung lại phản-công quyết-liệt. Bên ngoài căn-cứ, Sư-đoàn 5 CS (Công-Trường 5) bao-vây chặt; pháo-binh địch tập-trung hỏa-lực pháo-kích vào căn-cứ rất dữ-dội. Bên trong căn-cứ Biệt-động-quân và Đặc-Công CS cận-chiến giành nhau từng vị-trí một, đánh nhau bằng lưỡi lê và lựu đạn. Đến sáng thì Đại-đội Đặc-công CS bị quân ta tiêu-diệt hết. Tiểu-đoàn 83 BĐQ làm chủ tình-hình bên trong căn-cứ, tổ-chức lại phòng-thủ chặt-chẽ và sử-dụng pháo-binh của Tiểu-khu Hậu-Nghĩa bắn yểm-trợ hỏa-lực chung-quanh căn-cứ. Trong khi đó, các đại-đội tác-chiến BĐQ bố-phòng bên trong chặn đứng các đợt xung-phong bên ngoài của các đơn-vị Bộ-binh Sư-đoàn 5 CS. Hai bên giao-chiến ác-liệt ngày đêm không ngừng nghỉ. Tiểu-đoàn 36 BĐQ do thiếu-tá Lê-Quang-Giai chỉ-huy, tăng-phái cho Tiểu-khu Hậu-Nghĩa, vượt sông Vàm Cỏ Đông ở Đức-Hòa tiến về hướng căn-cứ Đức-Huệ bị phục-binh của các đơn-vị thuộc Sư-đoàn 5 CS ở Giồng Thổ Địa thuộc xã Đức-Huệ tấn-công buộc Tiểu-đoàn phải thối-lui lại gần bờ sông Vàm Cỏ. (2)Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn III liền điều-động Bộ Chỉ-huy Liên-đoàn 33 BĐQ do trung-tá Lê-Tất-Biên phụ-trách sang Đức-Hòa cùng với Tiểu-đoàn 64 BĐQ do thiếu-tá Nguyễn-Chiêu-Minh chỉ-huy. Ngày 31-3-1974, Đại-đội 3 thuộc Tiểu-đoàn 64 BĐQ (khoảng 50 người) do trung-úy Anh chỉ-huy được trực-thăng-vận xuống căn-cứ Đức-Huệ tăng-cường cho Tiểu-đoàn 83 BĐQ, đồng-thời Tiểu-đoàn 64 BĐQ (-) vượt sông Vàm Cỏ Đông ở gần nhà máy đường Hiệp-Hòa, nhập với Tiểu-đoàn 36 BĐQ làm 2 cánh quân tiến song-song về hướng căn-cứ Đức-Huệ ở cách đó chừng 10 cây-số đường chim bay về hướng Tây. Tiến được chừng 2 cây-số, khoảng hơn 1 Trung-đoàn Bộ-binh thuộc Sư-đoàn 5 CS từ những vị-trí hầm-hào đào sẵn, xông lên tấn-công mạnh, đồng-thời pháo-binh địch tập-trung hỏa-lực bắn xối-xả vào đội-hình của hai cánh quân này gây tổn-thất nặng. Cuối cùng Tiểu-đoàn 64 BĐQ (-) và Tiểu-đoàn 36 BĐQ buộc phải gom quân rút lui về lại bên này bờ sông Vàm Cỏ. (3) Sư-đoàn 25 BB hành-quân giải-tỏa. Tiếp theo, Bộ Tư-lệnh QĐIII giao nhiệm-vụ cho Sư-đoàn 25 BB do đại-tá Nguyễn-Hữu-Toán chỉ-huy, tổ-chức hành-quân giải-tỏa căn-cứ Đức-Huệ. Đại-tá Toán liền điều-động các đơn-vị thuộc Sư-đoàn đang hành-quân trong vùng lân-cận biên-giới từ phía Bắc đến giải-tỏa. Một căn-cứ hỏa-lực được thành-lập tại làng Phước-Chỉ thuộc tỉnh Tây-Ninh. Căn-cứ này nằm cách biên-giới khoảng 2 Km về phía Nam đồn biên-giới An-Hòa và cách căn-cứ Đức-Huệ khoảng 13 Km về phía Bắc. Ngoài Tiểu-đoàn Pháo-binh 105 ly cơ-hữu Sư-đoàn phối-trí trong căn-cứ Phước-Chỉ, còn có Trung-đoàn 46/SĐ25 BB được tăng-cường Chi-đoàn 3/10 Thiết-kỵ. Chi-đoàn-trưởng Chi-đoàn này là đại-úy Trần-Văn-Hiền. Tất cả lực-lượng liên-binh này được đặt dưới quyền điều-động của trung-tá Cao-Xuân-Nhuận, trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 46 BB và được giám-sát chỉ-huy bởi Bộ Tư-lệnh Sư-đoàn 25 BB ở Củ-Chi.  Để đối-phó với đoàn quân giải-tỏa của Sư-đoàn 25 BB, quân địch đã chủ-động tổ-chức địa-thế, bố-trí quân kín-đáo chờ đánh quân tiếp-viện. Chúng đặt các chốt chặn trên trục tiến quân của ta không vượt qua được, đồng-thời pháo-binh tầm xa của chúng nằm sâu bên kia biên-giới mở những trận địa-pháo chính-xác, liên-tục và ác-liệt gây nhiều thương-vong cho Trung-đoàn 46 BB, làm tê-liệt các cánh quân không điều-động được, nên kế-hoạch giải-tỏa của Sư-đoàn 25 BB thất-bại. Một phi-cơ quan-sát L19 bị phòng-không địch bắn rơi gần đó, Trung-đoàn cũng không tiếp-cứu nổi phi-hành-đoàn. Sau đó quân địch pháo-kích tập-trung hỏa-lực thẳng vào căn-cứ Phước-Chỉ bằng hỏa-tiễn 107 ly và 122 ly khiến trung-tá Cao-Xuân-Nhuận, trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 46/SĐ25 BB bị tử-thương. Trong suốt thời-gian gần một tháng trời, quân bạn không đem lại một kết-quả khả-quan nào, hàng ngày vẫn bị pháo-kích dồn-dập, trực-thăng tản-thương và tiếp-tế bị bắn rớt ngay trong căn-cứ, 1 khu trục cơ Skyraider yểm-trợ hành-quân và 1 phi-cơ DC3 thả dù tiếp-tế bị hỏa-tiễn SA-7 bắn rớt; những cánh dù mang lương-thực và đạn-dược cho căn-cứ Đức-Huệ thường bay ra ngoài vòng rào và lọt vào tay quân địch. Như vậy là cả hai nỗ-lực từ phía sông Vàm Cỏ Đông của BĐQ qua và từ phía Bắc của Sư-đoàn 25 BB xuống đều bị thất-bại trong việc tiếp-cứu Tiểu-đoàn 83 BĐQ (xem bản đồ minh họa bên trên). (4)Những “Anh-hùng Alamo Việt Nam”. Bên trong căn-cứ, trong lúc đó, các chiến-sĩ Tiểu-đoàn 83 BĐQ và Đại-đội 3 của trung-úy Anh thuộc Tiểu-đoàn 64 BĐQ dưới quyền chỉ-huy của thiếu-tá Nguyễn-Văn-Bảo chiến-đấu vô-cùng dũng-mãnh, càng đánh càng hăng từ lúc đầu cận-chiến với Đặc-công địch bằng lưỡi lê và lựu-đạn bên trong căn-cứ cho đến về sau này phải chiến-đấu đẩy lui các đợt xung-phong của địch ngày đêm không ngừng nghỉ. Cuối cùng lương-thực và đạn-dược bắt đầu cạn, căn-cứ bị cô-lập không được tiếp-tế, không tản-thương được, nhưng không vì thế mà tinh-thần chiến-đấu của các chiến-sĩ BĐQ bị suy-giảm. Họ thề quyết tử-chiến với quân thù. Gia-đình vợ con của các chiến-sĩ BĐQ trong căn-cứ cũng tích-cực tham-gia chiến-đấu bên cạnh chồng cha họ. Họ cổ-võ, họ giúp tản-thương, cứu-thương, tiếp-tế đạn-dược và lo cơm nước. Có người còn cầm súng chiến-đấu vô-cùng dũng-cảm. Mặc dù tỷ-lệ quân-số giữa ta và địch quá chênh-lệch, quân địch không sao dứt điểm được. Xác địch chồng-chất ngổn-ngang bên trong và bên ngoài căn-cứ Đức-Huệ. So-sánh sự tử-thủ nổi tiếng của Quân-đội Mỹ ở Đồn binh “Alamo” năm 1836 do trung-tá William Barret Travis chỉ-huy với quân-số 189 người chống lại sự bao-vây và tấn-công của hơn 2,000 quân Mễ với tỷ-lệ quân-số hai bên là 1/11. Sau 13 ngày đêm tử-chiến, đồn binh bị quân địch tràn-ngập ngày 6-3-1836. Tất cả 189 chiến-sĩ trong đồn binh đều tử-trận, chỉ còn sống sót 14 người là đàn bà và trẻ con. Khoảng 1,600 quân Mễ bị giết. Hoặc so-sánh sự tử-thủ nổi tiếng của quân Lê-Dương Pháp ở làng “Camerone” ngày 30-4-1863 với 65 chiến-sĩ do đại-úy Danjou chỉ-huy chống lại sự bao-vây và tấn-công của 2,000 quân Mễ với tỷ-lệ quân-số hai bên là 1/34. Sau 11 giờ tử-chiến, quân Lê-Dương Pháp giết hơn 300 quân Mễ, vị-trí phòng-thủ bị tràn-ngập, 62 quân Lê-Dương Pháp bị giết, chỉ còn sống-sót 3 người bị trọng-thương. Tiểu-đoàn 83 BĐQ phòng-thủ trong căn-cứ Đức-Huệ với quân-số khoảng 420 người được tăng-cường 50 người của Đại-đội 3 thuộc Tiểu-đoàn 64 BĐQ. Tổng-cộng quân-số là 470 người chống lại sự bao-vây và tấn-công của hơn 6,500 quân của Sư-đoàn 5 CS với tỷ-lệ quân-số đôi bên là 1/13. Sau hơn 1 tháng chiến-đấu quyết-liệt từ ngày 27-3-1974 đến ngày 28-4-1974, giữ vững vị-trí phòng-thủ, giết hơn 200 quân địch và gây thương-tích cho khoảng 500 tên khác. Tổn-thất bên BĐQ là 24 chết và hơn 100 người bị thương. Mặc dù thời-đại có khác nhau, mẫu-số chung của những anh-hùng ở Alamo, Camerone và Đức-Huệ là sự quyết-tâm tử-thủ bằng mọi giá. Với tỷ-lệ quân-số đôi bên chênh-lệch như thế, họ vẫn hiên-ngang chiến-đấu đến viên đạn cuối cùng, đến hơi thở cuối cùng. Có thể nói không quá đáng là những chiến-sĩ Biệt-Động-Quân chiến-đấu ở Căn-cứ Đức-Huệ đích thật là những “Anh-hùng Alamo Việt-Nam”. Sự chiến-đấu kiên-cường và dũng-cảm của BĐQ ở Căn-cứ Đức-Huệ còn chứng-minh hùng hồn cho thế-giới thấy rằng tinh-thần và khả-năng chiến-đấu của quân-lực chúng ta không thua bất cứ quân-đội tân-tiến nào trên thế-giới. Một số người thiển-cận và một số dư-luận báo-chí kỳ-thị của Mỹ cho rằng khi Quân-đội Mỹ rút đi khỏi Miền Nam Việt-Nam thì Quân-lực VNCH thiếu tinh-thần chiến-đấu đưa đến việc mất Miền Nam Việt-Nam. Nhận-định này là vô-lý và hoàn-toàn sai sự-thật. Mất Miền Nam Việt Nam rõ-ràng là vì quân ta thiếu phương-tiện chiến-đấu chứ không phải thiếu tinh-thần chiến-đấu. 3. Lữ-đoàn 3 Kỵ Binh - Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III Xuất-Trận  Vấn-đề vô-cùng khẩn-trương lúc đó là việc tản-thương, cứu-thương và tiếp-tế lương-thực, nước uống, đạn-dược cho căn-cứ Đức-Huệ trong lúc mọi đường giao-thông liên-lạc vào căn-cứ đều bị Sư-đoàn 5 CS hoàn-toàn cắt đứt nhiều ngày. Căn-cứ bị cô-lập và bị bao-vây chặt. Tình-hình bên trong căn-cứ rất căng thẳng. (1)Ngày 17-4-1974, trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần, tư-lệnh Quân-đoàn III, cho gọi tôi. Lúc bấy giờ tôi đang chỉ-huy Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh hành-quân thám-sát “Khu Tam-giác Sắt” và “Vùng Hố Bò”, sau khi Chiến-đoàn 315 của trung-tá Dư-Ngọc-Thanh đập tan Tiểu-đoàn Tây-Sơn thuộc Trung-đoàn 101 Địa phương Việt-Cộng giải-tỏa áp-lực địch chung-quanh đồn Bò Cạp và đồn Chà Rày thuộc Chi-khu Tràng-Bàng của tỉnh Tây-Ninh. Tôi lên trực-thăng chỉ-huy bay về Biên-Hòa trình-diện trung-tướng Tư-lệnh Quân-đoàn. Ông tiếp tôi và cho tôi biết qua tình-hình địch và bạn và tình-trạng hiện nay bên trong căn-cứ Đức-Huệ. Sau đó trung-tướng ra lệnh cho tôi lấy trực-thăng bay qua Đức-Hòa xem-xét tình-hình chiến-sự bên đó rồi về trình cho ông biết ý-kiến. Tôi liền lên trực-thăng bay qua Đức-Hòa. Trên đường bay, tôi mải-mê lo nghĩ phải làm gì để đối-phó với Sư-đoàn 5 CS đây? Linh-tính cho tôi biết có thể tôi sẽ được Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn chỉ-định giải-quyết tình-trạng nguy-kịch ở Căn-cứ Đức-Huệ. Đây là một nhiệm-vụ rất khó-khăn. Cách đánh của quân địch từ trước tới nay vẫn là “Công Đồn Đả Viện”. Địch chủ-động tổ-chức chiến-trường nhiều ngày chờ ta đến. Pháo-binh tầm-xa của chúng bố-trí an-toàn bên kia biên-giới và sẵn-sàng mở những trận địa-pháo chính-xác và ác-liệt khó lọt qua được. Địch lại nắm ưu-thế về quân-số và địa-thế. Ta có lực-lượng Thiết-giáp hùng-hậu, ta làm chủ không-phận và có không-lực yểm-trợ mạnh-mẽ. Nhưng gần đây, quân địch được trang-bị nhiều vũ-khí hiện-đại của Liên-Sô như hỏa-tiễn phòng- không tầm nhiệt SA7 đã gây cho Không-lực ta nhiều tổn-thất đáng kể, và hỏa-tiễn chống chiến-xa AT3, một loại hỏa-tiễn lợi hại có bộ-phận điều-khiển giống hỏa-tiễn TOW chống xe tăng của Mỹ. Tôi đã từng gặp hỏa-tiễn AT3 này một lần trên chiến-trường Campuchia. Mải-mê suy-nghĩ, trực-thăng đáp xuống sân bay Đức-Hòa lúc nào không biết khi một loạt đạn pháo-kích của địch nổ chát-chúa chung-quanh trực-thăng làm tôi giật mình bừng tỉnh. Tôi cầm bản-đồ phóng nhanh xuống đất và ra dấu cho trực-thăng bay đi. Tôi vội lên xe Jeep đang chờ và cho tài-xế chạy nhanh đến nhà máy đường Hiệp-Hòa là nơi Bộ Chỉ-huy Liên-đoàn 33 BĐQ đang tạm đóng. Tôi leo lên tầng cao nhất của nhà máy. Ở đây nhìn ra ngoài, ta thấy con sông Vàm Cỏ Đông uốn khúc bên dưới. Bên kia sông là một dãy đất trải dài xa tắp đến tận biên-giới Việt-Miên. Trung-tá Lê-Tất-Biên, liên-đoàn-trưởng Liên-đoàn 33 BĐQ, tiếp tôi và thuyết-trình cho tôi rõ tình-hình của cánh quân BĐQ ở phía Đông căn-cứ Đức-Huệ. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ Đông thất-bại, Tiểu-đoàn 36 BĐQ và Tiểu-đoàn 64 BĐQ đang tổ-chức lại hàng ngũ, bổ-sung quân-số và chờ lệnh mới của Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn.  (2)Kế-hoạch hành-quân của Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh. Rời Bộ Chỉ-huy của Liên-đoàn 33 BĐQ, tôi lên trực-thăng bay về hướng biên-giới. Tôi cho trực-thăng bay thật cao để có cái nhìn tổng-quát bên dưới và cũng để đề-phòng phòng-không của địch bố-trí dày-đặc ở bên dưới. Bay qua khỏi sông Vàm Cỏ Đông là đến vùng biên-giới Việt-Miên. Bên này biên-giới là một dãy đất bằng-phẳng sình-lầy, chi-chít những kinh lạch gần giống như vùng Đồng Tháp Mười ở Miền Tây. Xa xa trên đất Miên là những làng mạc rải-rác vắng vẻ. Nằm xa tít về hướng Nam là căn-cứ Đức-Huệ lẻ-loi, cô-độc. Tôi cho trực-thăng bay sâu vào đất Miên. Thị-trấn ChiPu của Campuchia xuất-hiện ở phía trước. Về phía Nam một chút, có một khu rừng chừng 10 mẫu Tây gây sự chú-ý của tôi. Tôi chợt nhớ lại cách đó 4 năm, trong cuộc hành-quân “Toàn-Thắng 42” cuối tháng 4-1970, tôi có đi qua khu rừng này và tôi có biết rất rõ địa-thế phía Nam của Thị-trấn ChiPu. Trong chớp mắt, tôi thấy ngay là phải hành-động như thế nào để đánh bại Sư-đoàn 5 CS, cứu Tiểu-đoàn 83 BĐQ ở căn-cứ Đức-Huệ. Quả thật giản-dị đúng như Napoléon nói: La guerre est un art simple et tout d’exécution (Chiến-tranh là một nghệ-thuật giản-dị và tất cả là cách thực-hiện trên chiến-trường). Trong đầu tôi hiện ra cách thực-hiện một kế-hoạch hành-quân giản-dị trong đó hành-động táo-bạo, nhanh chóng và hoàn-toàn bất-ngờ là chìa khóa của thắng lợi. Lòng tôi cảm thấy nhẹ-nhỏm. Trở về hậu-cứ của Lữ-đoàn ở Biên-Hòa, tôi liền tự tay phác họa ra kế-hoạch phản-công trong vòng 20 phút. Đặc điểm của kế-hoạch này là sự giản-dị tối-đa và bất-ngờ hoàn-toàn: Toàn bộ LLXKQĐIII sẽ cùng tôi vượt biên đêm và bí mật tiến sâu vô lãnh-thổ Campuchia về hướng ChiPu. Nỗ-lực chính là đột-kích đêm vào hậu-tuyến của Sư-đoàn 5 CS từ hướng Nam ChiPu. Phải hết sức giữ bí-mật và hành-động thật nhanh, tập-trung toàn-bộ sức mạnh của Thiết-giáp, khai-thác tối-đa tốc-độ và “Shock Action” trên trận-địa, không cho địch trở tay kịp. Tôi cầm kế-hoạch trong tay đi lên Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn gặp trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần. Ông tiếp tôi và tôi xin được trình bày. Tôi trải tấm bản-đồ 1/50,000 ra bàn. Ông chăm-chú lắng nghe tôi nói: “Sáng nay, theo lệnh trung-tướng, tôi đã bay đi thám-sát mặt-trận ở Đức-Hòa – Đức-Huệ. Tình-hình rất xấu, chúng ta phải hành-động ngay, sợ không kịp vì căn cứ Đức-Huệ bị vây-hãm từ 27-3 đến nay hơn 20 ngày. Tiếp-tế và tản-thương cho căn-cứ Đức-Huệ bị địch cắt đứt hoàn-toàn. Tôi xin đề-nghị lên trung-tướng: Sử-dụng LLXKQĐIII phản-công ở căn-cứ Đức-Huệ. Kế-hoạch phản-công của tôi có 2 giai-đoạn. Giai-đoạn 1: Hành-quân lừa địch: Từ ngày N-6 đến ngày N: Rút LLXKQĐIII đang hành-quân thám-sát trong tỉnh Tây-Ninh về khu Comi ở Lái-Thiêu (Thủ Đầu Một). Tôi sẽ tung tin là LLXKQĐIII sẽ di-chuyển lên Xuân-Lộc (Long-Khánh). Mục-đích của cuộc điều-quân này là làm cho quân địch tưởng là lực-lượng Thiết-giáp sẽ rút đi đến một nơi khác. Giai-đoạn 2: Hành-quân phản-công: Từ ngày N: Xuất-quân đêm, trở lên Gò Dầu Hạ, vượt biên-giới tiến sâu vào lãnh-thổ Campuchia về hướng ChiPu. Sau đó chuyển sang hướng Nam ChiPu, dựa vào đêm tối tấn-công toàn lực vào hậu-tuyến của Sư-đoàn 5 CS bố-trí ở phía Tây căn-cứ Đức-Huệ ”. Sau khi tôi trình bày xong, trung-tướng có vẻ băn-khoăn lo-lắng. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói: Tôi lo kế-hoạch này của anh sẽ đưa đến những hậu-quả nghiêm-trọng về chính-trị. Vì như thế là chúng ta xâm-phạm vào lãnh-thổ của một quốc-gia có chủ-quyền. Chính-phủ Campuchia sẽ có phản-ứng và Liên-Hiệp-Quốc chắc-chắn sẽ lên tiếng phản-đối. Tôi sẽ gặp khó-khăn. - Nhưng thưa trung-tướng, CSBV đâu có tôn-trọng chủ-quyền của Campuchia. Chúng đang sử-dụng lãnh-thổ của Campuchia để tấn-công chúng ta. Tôi đáp lại. - Đúng vậy, nhưng đây là một vấn-đề rất tế-nhị. Anh có thể làm một kế-hoạch khác được không? Ông hỏi tôi. Tôi liền đáp: - Thưa trung-tướng, tôi đã xem xét kỹ tình-hình và địa-thế, tôi nghĩ chỉ có kế-hoạch này chúng ta mới đánh bại Sư-đoàn 5 CS, cứu Tiểu-đoàn 83 BĐQ ở căn-cứ Đức-Huệ.Ông trầm-ngâm suy-nghĩ một lúc rồi nói: - Thôi được, tôi sẽ trình kế-hoạch này của anh lên Tổng-thống để ông quyết-định .Nếu được chấp-thuận, anh sẽ chỉ-huy cuộc hành-quân này. Hãy về chuẩn-bị lực-lượng. Tôi nhận lệnh, đứng nghiêm chào rồi lui ra. Trên đường về Lữ-đoàn, tôi nghĩ chắc rồi tổng-thống Nguyễn-Văn-Thiệu sẽ chấp-thuận vì chúng ta không thể vì lo ngại Liên-Hiệp-Quốc mà hy-sinh sinh-mạng của hơn 500 chiến-sĩ BĐQ và gia-đình họ ở căn-cứ Đức-Huệ. Trong lòng tôi rất vui-mừng và biết ơn được vị tư-lệnh Quân-đoàn tín-nhiệm. Đây là lần đầu tiên tôi có trong tay sự tập-trung một lực-lượng Thiết-giáp lớn nhất trong chiến-tranh Việt-Nam và cũng là lần đầu-tiên tôi được cho toàn quyền hành-động để đương đầu trực-diện với một Sư-đoàn CS kể từ khi Hiệp-Định Paris ra đời. Tôi vừa được tổng-thống Nguyễn-Văn-Thiệu thăng-cấp tướng một sao cùng với các anh Nguyễn-Văn-Điềm Sư-đoàn 1 BB, Phạm-Ngọc-Sang Không-quân, Hoàng-Cơ-Minh Hải-quân. . . Đây là dịp tôi muốn chứng-tỏ khả-năng chỉ-huy của mình và muốn chứng-tỏ một đại đơn-vị Thiết-giáp biết sử-dụng tập-trung là một vũ-khí lợi-hại có thể đánh bại các đại đơn-vị CS trong thế-công cũng như trong thế-thủ. Ngày 20-4-1974, tổng-thống Nguyễn-Văn-Thiệu chấp-thuận Kế-hoạch Hành-quân của tôi, đồng-thời ra lệnh cho Không-lực VNCH trực-tiếp yểm-trợ tác-chiến cho Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh 120 phi-xuất (Tactical Air Support) từ ngày N đến ngày N+3 theo yêu-cầu của tôi. Tôi chọn ngày N là ngày 28-4-1974. (3)Công-tác chuẩn-bị Ngày 21-4-1974, Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn III triệu-tập buổi họp hành-quân ở Biên-Hòa do trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần, tư-lệnh Quân-đoàn III chủ-tọa. Có mặt Bộ tham-mưu Quân-đoàn, Bộ Chỉ-huy 3 Tiếp-vận và 3 tư-lệnh Sư-đoàn 5, 18, 25: đại-tá Lê-Nguyên-Vỹ, chuẩn-tướng Lê-Minh-Đảo và đại-tá Nguyễn-Hữu-Toán. Sau khi Bộ Tham-mưu trình-bày tình-hình chung ở Vùng 3 Chiến-thuật và tình-hình đặc-biệt ở Căn-cứ Đức-Huệ, trung-tướng tư-lệnh Quân-đoàn tuyên-bố chỉ-định tôi thay-thế tư-lệnh Sư-đoàn 25 Bộ-binh chỉ-huy mặt trận Đức-Hòa – Đức-Huệ và sử-dụng LLXKQĐIII phản-công, giải-vây Căn-cứ Đức-Huệ. Tôi đứng lên trình-bày ngắn gọn trước hội-nghị Kế-hoạch Hành-quân vượt biên đêm của LLXKQĐIII ở Gò Dầu Hạ và Hành-quân Phản-công của LLXKQĐIII trên lãnh-thổ Campuchia . Theo nhu-cầu hành-quân của tôi, các đơn-vị sau đây được trung-tướng tư-lệnh Quân-đoàn III chỉ-định tăng-phái cho Lữ-đoàn 3 KB đễ nằm trong tổ-chức của LLXKQĐIII: Tiểu-đoàn 64 BĐQ đi với Thiết-đoàn 15 KB, thành-phần nòng cốt của Chiến-đoàn 315 do trung-tá Dư-Ngọc-Thanh chỉ-huy; Tiểu-đoàn 36 BĐQ đi với Thiết-đoàn 18 KB, thành-phần nòng cốt của Chiến-đoàn 318 do trung-tá Phan-Văn-Sĩ chỉ-huy; 1 Đại-đội Bộ-binh thuộc Tiểu-đoàn 1/43 (Sư-đoàn 18 BB) đi với Thiết-đoàn 22 Chiến-xa, thành-phần nòng cốt của Chiến-đoàn 322 do trung-tá Nguyễn-Văn-Liên chỉ-huy; Thiết-đoàn 10 KB (Sư-đoàn 25 BB) + Tiểu-đoàn 1/43 BB (-)(Sư-đoàn 18 BB) + 1 Chi-đội Chiến-xa M48 thuộc Thiết-đoàn 22 Chiến-xa do trung-tá Trần-Văn-Nhuận chỉ-huy; Tiểu-đoàn 61 Pháo-binh 105 ly + 1 Pháo-đội 155 ly thuộc Tiểu-đoàn 46 Pháo-binh do thiếu-tá Hoa-Vạn-Thọ chỉ-huy; Tiểu-đoàn 302 thuộc Liên-đoàn 30 Công-binh do thiếu-tá Lê-Hồng-Sơn chỉ-huy; một Trung-đội Điện-tử (Quân-đoàn) do thiếu-tá Hiển, Trưởng phòng 2 Lữ-đoàn kiểm-soát; một Trung-đội Truyền-tin Siêu tần-số (Quân-đoàn) do trung-úy Bùi Đình Lộ Trưởng-phòng Truyền-tin Lữ-đoàn giám-sát; 1 Đại-đội yểm trợ Tiếp-vận thuộc Bộ chỉ-huy 3 Tiếp-vận do thượng sĩ Nhất Phan-Thanh-Nhàn (Quân-cụ) chỉ-huy. Ngoài ra trung-tướng còn ra lệnh cho 3 tư-lệnh Sư-đoàn Bộ-binh cho tôi mượn 6 giàn hỏa-tiễn chống xe tăng TOW để phân-phối cho mỗi Chiến-đoàn Thiết-giáp vượt biên 2 giàn hỏa-tiễn TOW gắn trên xe Thiết-vận-xa M113 đề phòng trường-hợp có chiến-xa T-54 của địch xuất hiện trên chiến-trường Campuchia. Trước khi kết-thúc buổi họp, Trung-tướng tư-lệnh Quân-đoàn chúc tôi thành-công trong nhiệm-vụ giao-phó. Tôi đứng lên đáp lời cám ơn Trung-tướng. Lúc đó trong lòng tôi có một sự tin-tưởng mãnh-liệt vào chiến-thắng của cuộc hành-quân này, nên tự-nhiên tôi buột miệng thốt ra: - Thưa Trung-tướng, chúng tôi sẽ đánh bại Sư-đoàn 5 Cộng-Sản! Trêân đường về Lữ-đoàn, tôi giật mình khi nghĩ lại những lời mình vừa nói. Tại sao tôi dám liều-lĩnh khẳng-định trước hội-nghị là sẽ đánh bại Sư-đoàn 5 Cộng-Sản? Mặc dù tôi có trong tay LLXKQĐIII là một lực-lượng chiến-đấu tinh-nhuệ chưa từng bị thất trận và mặc dù tôi đã nắm chặt trong tay những yếu-tố có tính-cách quyết-định thắng-lợi, nhưng vẫn còn 2 yếu-tố khác ngoài tầm tay của tôi có thể làm tôi bị thất-bại trong cuộc hành-quân này. Đó là thời-tiết và kế-hoạch hành-quân bị bại-lộ. Thật vậy, nếu đến ngày N là ngày xuất-quân trời đổ mưa trong vùng hành-quân, địa-thế trở nên lầy-lội, tôi sẽ không thể điều-động lực-lượng Thiết-giáp như ý-muốn được, hoặc kế-hoạch hành-quân của tôi được trình lên phủ Tổng-thống để xin quyết-định, nếu bị tiết-lộ ra ngoài, chắc-chắn sẽ đưa tôi đến thảm-bại. Cứ nghĩ đến 2 yếu-tố này là tôi không ăn ngủ được. Tôi thấy hối-tiếc đã thốt ra những lời khẳng-định trước là sẽ đánh thắng quân địch. Lời khẳng-định này cứ ám-ảnh tôi ngày đêm. Cuối cùng tôi tự nhủ: phải giữ đúng lời hứa; bằng mọi cách, mọi giá, phải đánh thắng Sư-đoàn 5 Cộng-Sản. Ngày 22-4-1974, tôi ra lệnh cho toàn bộ LLXKQĐIII đang hành-quân thám-sát trong Chi-khu Khiêm-Hanh thuộc tỉnh Tây-Ninh rút quân về đóng ở Khu Còmi thuộc quận Lái-Thiêu tỉnh Bình-Dương (Thủ-Đầu-Một). Tôi cho phao tin là LLXKQĐIII sẽ di-chuyển qua Xuân-Lộc thuộc tỉnh Long-Khánh. Mục-đích của cuộc rút quân này là để đánh lừa địch, làm cho chúng tưởng là quân Thiết-giáp sẽ rút đi luôn không trở lại. Tôi cho trung-đội điện-tử thường-xuyên nghe lén và theo dõi địch trao đổi tin-tức với nhau. Khi LLXKQĐIII vừa rút đi khỏi Gò-Dầu-Hạ về Lái-Thiêu thì đài tình-báo của địch ở An-Hòa – Gò-Dầu lên tiếng báo-cáo: “Quân Thiết-giáp đã rút đi”. Tôi biết chắc là chúng đã bị mắc lừa. Từ ngày 22-4-74 đến ngày 28-4-74, trong 6 ngày này đóng quân ở Khu Còmi quận Lái-Thiêu, các chiến-đoàn 315, 318 và 322 theo lệnh tôi ra sức ôn-tập hợp-đồng tác-chiến giữa Thiết-giáp – Biệt-động-quân – Pháo-binh từ cấp Trung-đội, Đại-đội, Tiểu-đoàn, Chiến-đoàn thật nhuần-nhuyễn. Riêng tôi trong 6 ngày đó, tôi tích-cực không ngừng làm công-tác tư-tưởng. Karl Max nói: “Nếu tư-tưởng được đả-thông, mọi người đều giác-ngộ thì sức-mạnh vật-chất sẽ tăng lên gấp đôi.” Kinh-nghiệm chiến-trường cho tôi thấy tinh-thần hăng say làm tăng sức mạnh của đơn-vị lên gấp bội. Động-viên được sự chiến-đấu của toàn-quân là yếu-tố số một của thắng-lợi. Tôi lần lượt đi xuống họp với các cấp chỉ-huy Trung-đội, Đại-đội, Tiểu-đoàn của các binh-chủng và với các chiến-đoàn-trưởng, nói rõ tình-hình của ta và địch, nói rõ nhiệm-vụ và cách đánh của LLXKQĐIII để mọi người đều thông suốt và tin-tưởng sự tất thắng của chúng ta. Tôi thuyết-phục họ tin ở sự chỉ-huy của tôi và nói rõ sự quyết-tâm của tôi là phải chiến-thắng bằng mọi giá. Tôi động-viên họ, tôi nói đến tình đồng-đội: -Chúng ta không thể bỏ rơi đồng-đội của mình đang bị địch bao vây và mong chờ chúng ta đến cứu họ. Tôi nhắc đến những chiến-thắng vẻ-vang năm xưa thời đại-tướng Đỗ-Cao-Trí: - Chúng ta đã từng gặp nhiều trận khó-khăn gây-cấn hơn trận này, chúng ta đều chiến-thắng, đều vượt qua. Mỗi lần nói chuyện với các sĩ-quan thuộc cấp tôi đều kết-luận: - Kỳ này nhất-định phải chiến-thắng, tôi sẽ cùng đi với các anh, kỳ này nếu thất-bại thì tất cả chúng ta kể cả tôi, sẽ không một ai trở về Việt-Nam. Ý của tôi, quyết-tâm của tôi đã rõ ràng: một là chiến-thắng trở về, hai là chết trên đất Miên. Không có con đường nào khác. 4. Veni, Vidi, Vici "Tôi đến, tôi thấy, tôi chinh phục" - (Julius Caesar) (1)Ngày N đã đến. Đó là ngày 28-4-1974. Chiều ngày 28-4-1974, Công-binh đã sẵn-sàng; Thiếu-tá Lâm-Hồng-Sơn, tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 302 CB, theo lệnh tôi đã kín-đáo cho bố-trí từ chiều tối ngày hôm trước ở hai bên bờ sông Gò-Dầu-Hạ, gần cầu, các phà cao-su để đưa chiến-xa M48 qua sông. Lúc 20:00 giờ, tôi cải-trang đích-thân đến tận 2 bờ sông Gò-Dầu-Hạ kiểm-tra Công-binh làm công-tác chuẩn-bị cho chiến-xa vượt sông. Đúng 22:00 giờ đêm, toàn bộ LLXKQĐIII gồm 3 Chiến-đoàn 315, 318 và 322 cùng Bộ Chỉ-huy nhẹ Lữ-đoàn và Pháo-binh Lữ-đoàn bắt đầu rời vùng tập-trung ở Lái-Thiêu (Thủ-Đầu-Một) di-chuyển bằng đèn mắt mèo và im-lặng truyền-tin trực-chỉ Gò-Dầu-Hạ. (2) Ngày 29-4-1974, lúc 00:00 giờ, các chiến-xa M48 bắt đầu xuống phà qua sông Gò-Dầu-Hạ. Các loại xe xích khác và xe chạy bánh qua cầu Gò-Dầu-Hạ theo Quốc-lộ 1 trực-chỉ ra hướng biên-giới Việt-Miên. Từ 01:00 giờ đến 03:00 giờ, các Chiến-đoàn, Bộ Chỉ-huy nhẹ Lữ-đoàn và Pháo-binh Lữ-đoàn lần-lượt vượt-biên sang lãnh-thổ Campuchia và vào vùng tập-trung nằm sâu trong đất Miên về hướng Đông-Nam thị-trấn Chipu . Đến 03:15 giờ, tất cả các đơn-vị đã bố-trí xong, trong vùng tập-trung, sẵn-sàng chờ lệnh xuất-phát. Trung-đội điện-tử theo-dõi nghe địch, không thấy chỉ dấu gì chúng nghi-ngờ. Đúng 03:30, tôi ra lệnh cho hai Chiến-đoàn 315 và 318 vượt tuyến xuất-phát, tấn-công song-song tiến xuống phía Nam, Chiến-đoàn 315 bên phải, Chiến-đoàn 318 bên trái, Bộ Chỉ-huy của tôi theo sau Chiến-đoàn 315; Chiến-đoàn 322 trừ-bị, bố-trí phía Nam Quốc-lộ 1 chờ lệnh. Đúng 04:30 giờ, Pháo-binh Lữ-đoàn bắt đầu khai-hỏa, tác-xạ đồng-loạt tập-trung vào các mục-tiêu của địch nằm phía Tây căn-cứ Đức-Huệ, đồng-thời Thiết-đoàn 10 Kỵ-binh và Tiểu-đoàn 1/43 BB(-) vượt tuyến xuất-phát mở đường từ căn-cứ Phước-Chỉ xuống Căn-cứ Đức-Huệ. (xem bản đồ minh họa bên trên) Đến 05:00 giờ sáng ngày 29-4-74, các cánh quân của Chiến-đoàn 315 và 318 báo-cáo chạm địch. Quân ta liền điều-động bao-vây, chia cắt, tấn-công liên-tục. Quân địch bị đánh bất-ngờ tháo chạy, quân ta truy đuổi chặn bắt. Các Bộ Chỉ-huy Trung-đoàn, Sư-đoàn, Bộ Chỉ-huy Hậu-cần và các căn-cứ Pháo-binh của quân địch bị quân ta tràn-ngập và lần-lượt bị quyét sạch. Nhiều dàn pháo các loại 4 ống, 8 ống và 12 ống, và hàng ngàn hỏa-tiễn 107 ly và 122 ly bị quân ta tịch thu và tiêu hủy tại chỗ . Đặc-biệt hơn cả có hơn 30 hỏa-tiễn chống xe tăng AT-3 của Liên-Xô nằm trên giàn phóng, chưa kịp khai-hỏa bị quân ta chiếm-đoạt. Đến 08:00 giờ sáng, Không-quân Chiến-thuật lên vùng; đại-tá Trần-Văn-Thoàn, tư-lệnh-phó Lữ-đoàn bay trực-thăng chỉ-huy, điều-khiển Không-lực liên-tục oanh-kích và oanh-tạc địch từ sáng đến chiều tối. Đến 19:00 giờ ngày 29-4-74, đại-quân của Sư-đoàn 5 CS bị đánh tan-rã rút chạy về hướng Mộc-Hóa thuộc Vùng 4 Chiến-Thuật. Tôi liền tung cả ba Chiến-đoàn đồng-loạt truy đuổi địch và cho Không-quân Chiến-thuật tập-trung truy-kích chúng sâu trong lãnh-thổ Vùng 4 Chiến-thuật. Hàng ngàn quân địch bị giết và bị thương và hàng trăm tên bị quân ta bắt sống. (3)Sáng ngày 30-4-74, các đơn-vị địch còn kẹt lại chung-quanh Căn-cứ Đức-Huệ chống-trả yếu-ớt, lần-lượt bị quân ta tiêu-diệt gần hết. Đến trưa, một cánh quân của Thiết-đoàn 10 đã bắt tay được với Biệt-động-quân trong căn-cứ Đức-Huệ và đến chiều toàn bộ Sư-đoàn 5 CS hoàn-toàn bị quân ta quyét sạch. Bộ Chỉ-huy của tôi nằm sâu trong lãnh-thổ Campuchia về phía Đông Nam Chipu trong một làng nhỏ hoang vắng. Tin chiến-thắng làm nức lòng mọi người. Màn đêm xuống, tiếng súng im bặt. Đêm hôm đó thật êm-ả, trời trong vắt, đầy sao, lòng tôi tràn ngập một niềm sung-sướng khó tả. Có lẽ đây là một đêm đẹp nhất trong đời tôi. Tôi đã khẳng-định trướ
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 23, 2012 14:27:35 GMT 9
Tôi đã khẳng-định trước với Quân-đoàn là chúng tôi sẽ đánh bại Sư-đoàn 5 CS và bây giờ chúng tôi đã đánh bại chúng. Tôi đã nói trước khi xuất-quân với thuộc-cấp là nếu thất-bại thì sẽ không một ai được trở về Việt- Nam và bây giờ chúng tôi đã chiến-thắng có thể trở về. Đối với tôi cũng giống như một canh bạc mà tôi đã lấy mạng sống của tôi ra đánh và bây giờ tôi đã thắng. Cho tới ngày hôm đó trong đời tôi, thật không có một niềm hạnh-phúc nào lớn hơn được.  Chưa bao giờ trong lịch-sử của hai cuộc chiến-tranh Việt-Nam có một trận vận-động chiến nào mà quân ta hoặc quân Đồng-Minh đã chiến-thắng một đại đơn-vị CS nhanh-chóng như thế, triệt để như thế. Tôi chợt nhớ đến cung-cách và những lời của Julius Ceasar trong chiến-dịch thần-tốc ở Zela vùng Tiểu-Á báo-cáo chiến-thắng về La-Mã “Veni, Vidi, Vici : Tôi đến, Tôi thấy, Tôi chiến-thắng”, tôi liền lấy một mẫu giấy nhỏ, tự tay thảo ngay bức Công-điện ngắn báo-cáo chiến-thắng về Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn III. Trân-trọng báo cáo: - Ngày 28-4-74: Xuất-quân - Ngày 29-4-74: Phản-công - Ngày 30-4-74: Tiêu-diệt địch - Ngày 1-5-74: Hoàn-thành nhiệm-vụ. (4) Ngày 2-5-1974, tại Bộ Chỉ-huy Hành-quân của Lữ-đoàn ở Gò-Dầu-Hạ, phóng-viên đài VOA phỏng-vấn hỏi tôi: - Có phải thiếu-tướng đã đưa quân sang lãnh-thổ Campuchia không? Tôi liền đáp ngay: - Không, tôi hành-quân dọc theo biên-giới trong lãnh-thổ của Việt-Nam. Chính Cộng-Sản Việt-Nam mới có quân trên lãnh-thổ Campuchia. Tối đến, đài VOA và đài BBC loan-tin chiến-thắng của Quân-lực ta ở Căn-cứ Đức-Huệ. Riêng đài BBC nói thêm: - Tướng Trần-Quang-Khôi nói không có đưa quân sang lãnh-thổ Campuchia, nhưng theo tin-tức của chúng tôi nhận được thì Quân-lực VNCH có truy đuổi quân Cộng-Sản Bắc-Việt trên lãnh-thổ Campuchia. (5)Ngày 3-5-1974, tổng-thống Nguyễn-Văn-Thiệu đi trực-thăng đến Gò-Dầu-Hạ tham-quan chiến-trường. Trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần và tôi tiếp đón Tổng-thống. Ông vui-vẻ bắt tay chúng tôi rồi đi đến xem chiến lợi phẩm tịch-thu của quân địch: Rất nhiều vũ-khí cộng-đồng các loại. Nổi bật là các giàn phóng hỏa-tiễn 4 ống, 8 ống và 12 ống cùng hàng trăm hỏa-tiễn 107 và 122 ly. Đặc-biệt hơn cả là hơn 30 hỏa-tiễn AT-3, loại mới nhất của Liên-Sô có hệ-thống điều-khiển chống tăng, lần đầu tiên bị quân ta tịch thu trên chiến-trường miền Nam. Các tùy-viên quân-sự Tây-phương mỗi người xin một quả nói để đem về nước nghiên-cứu. Nhìn số vũ-khí khổng-lồ của địch bị quân ta tịch-thu mới hiểu được sự tàn-phá khủng-khiếp trong căn-cứ Đức-Huệ và sự chiến-đấu anh-hùng của Tiểu-đoàn 83 BĐQ. Tiếp đến, Tổng-thống đi thăm bộ tham-mưu Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh và các đơn-vị-trưởng của các binh-chủng trong tổ-chức LLXKQĐIII, ông bắt tay khen-ngợi từng người và gắn cấp-bậc đại-tá cho trung-tá Thiết-giáp Dư-Ngọc-Thanh, Chiến-đoàn-trưởng Chiến-đoàn 315. Sau đó Tổng-thống lên trực-thăng chỉ-huy của tôi cùng tôi bay đến Đức-Huệ. Các trực-thăng của trung-tướng Phạm-Quốc-Thuần và phái-đoàn Phủ Tổng-thống bay theo sau. Trên đường bay, Tổng-thống bắt chuyện với tôi: - Tôi rất thích tính táo-bạo liều-lĩnh trong kế-hoạch hành-quân của anh. - Thưa Tổng-thống, đây là sự liều-lĩnh có tính-toán. Tôi đáp lại. Thấy Tổng-thống vui-vẻ, sự hân-hoan hiện trên nét mặt, tôi nói đùa một câu tiếng Pháp với Tổng-thống: - La chance sourit toujours aux audacieux. (Sự may mắn luôn-luôn “cười” với những kẻ liều-lĩnh). Ông gật-gù cười có vẻ đắc-ý lắm. Trực-thăng đáp xuống căn-cứ Đức-Huệ. Các chiến-sĩ Tiểu-đoàn 83 BĐQ và Đại-đội 3 thuộc Tiểu-đoàn 64 BĐQ hân-hoan tiếp đón Tổng-thống. Ông đi bộ một vòng viếng-thăm, ủy-lạo và ban thưởng. Doanh-trại trong căn-cứ bị pháo-binh địch tàn-phá đổ sập gần hết, nhưng sự hãnh-diện giữ vững được đồn hiện ra trong đôi mắt của mỗi chiến-sĩ BĐQ. Một chuẩn-úy BĐQ còn rất trẻ đi đến tôi, đứng nghiêm chào, rồi thình-lình anh bước tới gần tôi, hai tay nắm chặt lấy tay tôi bật khóc và nói: - Cám ơn Thiếu-tướng đã cứu mạng chúng em. Tôi cảm-động ôn-tồn đáp lại: - Chính anh phải cám-ơn các em mới đúng. Sự chiến-đấu vô cùng dũng-cảm của các em là một tấm gương sáng chói, là niềm hãnh-diện chung của Quân-lực chúng ta. Chúng em mới thật-sự là những anh-hùng của Quân-đội mà mọi người Việt-Nam Tự-do phải mang ơn các em. (6)Một tuần sau tôi nhận được một thư của DAO (Defense Attaché Office) trong đó tướng Homer Smith chuyển lời khen ngợi của đại-sứ Graham Martin đến tôi: Đây là lần đầu tiên kể từ khi ký-kết Hòa-Đàm Paris, một kế-hoạch hành-quân được thiết-kế tuyệt-hảo và được thực-hiện tuyệt hảo (very well planned and very well executed). Hai tuần sau, tôi nhận được một thư của Đại-tá Raymond Battreall nguyên Cố-vấn-trưởng của Bộ Chỉ-huy Thiết-Giáp-Binh QLVNCH. Battreall cho rằng đây là một chiến-thắng ngoạn-mục và xuất-sắc nhất trong Chiến-tranh Việt-Nam. Cuối thư ông viết bằng chữ Việt-Nam: Kỵ-Binh Việt-Nam Muôn-Năm. Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đến Gò-Dầu-Hạ quan sat chiến-trường    5. Kết Luận Trong chiến-tranh Việt-Nam, đại-tá Raymond R. Battreall là một chuyên-viên Thiết-Giáp xuất-sắc của Lục-Quân Hoa-Kỳ. Ông vừa là Cố-vấn-trưởng của Bộ Chỉ-huy Thiết-Giáp-Binh QLVNCH trong hai nhiệm-kỳ 1965-66 và 1970-72, vừa là Cố-vấn của đại-tướng W. Westmoreland và đại-tướng C. Abrams, Tổng Tư-lệnh Quân-lực Hoa-Kỳ ở Việt-Nam, trong các vấn-đề liên-quan đến tổ-chức, huấn-luyện, phát-triển và sử-dụng Thiết-Giáp-Binh QLVNCH. Battreall có công rất lớn trong việc tổ-chức và phát-triển lực-lượng Thiết-Giáp VNCH hùng-mạnh. Có thể nói đại-tá Raymond R. Battreall là nhà kiến-trúc của Thiết-Giáp-Binh QLVNCH. Bằng chiến-thắng đánh bại Sư-đoàn 5 CS ở căn-cứ Đức-Huệ ngày 30-4-1974 và bằng chiến-thắng đánh bại Sư-đoàn 341 CS ở Biên-Hòa ngày 30-4-1975, đại-tá Thiết-giáp Raymond Battreall ngày nay cho rằng tôi là một trong các nhà chỉ-huy Thiết-giáp ưu-việt của thế-kỷ 20 và xếp tôi đứng ngang hàng với bốn danh-tướng Thiết-giáp Thế-giới: Guderian, Patton, Rommel và Abrams. Trong thư giới-thiệu tôi vào học Cao-học ở trường George Mason University ngày 4 tháng 1, 1994, Battreall viết: “. . . Tran Quang Khoi is clearly one of the preeminent Armor leaders of the 20th century: a member of a small fraternity including such Greats as Heinz Guderian, George Patton, Erwin Rommel, and Creighton Abrams. He was by a clear margin the finest Armor leader in the RVNAF. His brigade was designed to control up to six battalions, I have seen him control, as many as eighteen (the equivalent of two divisions) in violent combat. He is quite simply, a superb leader of men....” Tôi rất hãnh-diện nêu điểm này ra đây vì đã có công đưa chất lượng của Thiết-Giáp-Binh QLVNCH lên ngang tầm của Thiết-Giáp-Binh Thế-giới. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh kể từ ngày thành-lập tháng 11-1970 đến ngày 30-4-1975 do tôi chỉ-huy, chưa bao giờ bị thất trận dù ở ngoại-biên hay trong nước, luôn-luôn chiến-thắng và đã từng cứu nhiều đơn-vị bạn thoát nạn trên chiến-trường. Được như vậy là nhờ tất cả Kỵ-binh các cấp từ tham-mưu đến tài-xế, sửa chữa, xạ-thủ, truyền-tin, trưởng-xa, chi-đội-trưởng, chi-đoàn-trưởng, thiết-đoàn-trưởng, lữ-đoàn-trưởng trên dưới một lòng, mỗi người đều tích-cực đóng góp sức-lực, trí-tuệ và sẵn-sàng hi-sinh cả tính-mạng của mình cho sự-nghiệp vẻ-vang của Thiết-Giáp-Binh QLVNCH vì Danh-Dự và Tổ-Quốc.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 11, 2013 10:53:46 GMT 9
Madame Ho Thi Que, The Tiger Lady
Madame Ho Thi Que, The Tiger Lady, courageously served in combat with the South Vietnamese 44th Ranger Battalion.
Her exploits were legendary, even in the war torn region of South East Asia. She marched and fought with one of the most respected military units in Vietnam: the South Vietnamese 44th Ranger Battalion-"The Black Tigers". Madame Ho Thi Que, or "The Tiger Lady", had earned her reputation the hard way, and her fame had spread throughout South Vietnam. Her husband, Major Le Van Dan – the commander of the 44th Rangers-was also a warrior. He had been awarded almost every South Vietnamese military medal that was issued. His 44th Ranger Battalion had been awarded the US Presidential Unit Citation – the first South Vietnamese unit to be so honoured. It was during the beginning of the American troop build-up in an unconventional war that would take thousands of American lives before it drew to a close. It was a war where American advisors fought side-by-side with their Vietnamese counterparts, often dying in the process. It was a war where the field advisor spent as much time trying to understand the nature of the people, their culture and his own existence, than he did his mission of containing Communist insurgency. It was a war in which stories would emerge of great warriors and their performances on the field of battle; some apocryphal, some true. The story of the Tiger Lady was just such a story, a courageous and remarkable woman and soldier. In 1965 the South Vietnamese people were shocked when they heard the news that Madame Ho Thi Que had been shot and killed by her husband, Major Le Van Dan. Major Dan was quickly arrested and jailed in connection with the death of his wife. On 5th May 1966, after a quick trial, he was sentence to serve one year in prison for the 'murder.' In court he had testified that Madame Que had attacked him with a knife when she had found him with a younger woman in the tiny village of Vi Thanh, a village often used by the 44th Ranger Battalion as a forward support base during their operations in the U Minh Forest. He claimed to have shot her in self-defence, stating, “her jealousy was as fierce as her courage in combat.” The prosecutor had countered that the Major hated his wife and had killed her because he though her jealousy had ruined his career. Other ranking South Vietnamese officers believed that Dan was distraught over the fact that he had been replaced as battalion commander of the 44th after the unit had suffered a disastrous defeat after being ambushed by two Viet Cong battalions. The rangers had lost 58 KIA and over 70 wounded, including all of the American advisors attached to the battalion. Shortly afterwards, while a full investigation was underway, he had been quietly transferred to a lesser position as a security officer in another area of operations. There was a general consensus among many of his fellow officers that the Saigon government had been looking for an excuse to relieve Major Dan. A great deal of resentment had arisen against him because of the many heralded victories of the 44th Ranger Battalion, the reputation of the Tiger Lady, and his own personal success. Like his wife, Le Van Dan was a colourful figure. He had led his rangers on many successful combat operations, which made his fellow commanders pale in comparison. Wearing his maroon beret in place of a helmet, and armed only with a .38 calibre revolver, he was an inspiration to his men. He carried a lacquered swagger stick, which he used with dramatic flair in the heat of battle to exhort his rangers in the attack. But his success was not enough to protect him from petty jealousies of his fellow officers. After the trial, Dan stated, “I accept the verdict. It was inevitable.” He showed no remorse for the death of his wife and long time companion. Known as 'Big Sister' by the Vietnamese rangers who fought by her side, they remembered her for both her temper and her kindness. Many ranger had felt her wrath when she caught them stealing a chicken or looting a village's belongings. She often reverted to swearing, shouting and sometimes even slapping the culprit to drive her point home. But at other times, her compassion and understanding were the soothing balm that comforted a wounded or dying soldier. She felt a deep sense of responsibility for all her ranger brothers. Caring for the wounded on the battlefield, or approaching stubborn government bureaucrats to insure that a dead ranger's family received the benefits due to them, as much a part of her personality as the open hate she harboured for the enemy. She would not hesitate to lend or give money to the wives and families of wounded or slain rangers to tide them over during their period of grief. She felt their pain, sometimes shaving her head in a sign of mourning. She attended the customary burials conducted for the dead, and through her mask of grief watchers stated that they could see her determination to settle the score. She set the standards for morale and esprit de corps in the unit during her service with the rangers, and her reputation became legendary and inspired the rangers until the cease-fire in 1975. After her death in mid December 1965, one of her daughters came to Soc Trang (the home base of the 44th Ranger Battalion at the time), trying to collect some of the debts owed to her mother by a number of the rangers. The family was having a difficult time making ends meet with the mother gone, and the father in jail. Little is known of the Tiger Lady's childhood except that she lived for a time in the Imperial City of Hue. In the war against the French, she served as an intelligence agent for the Viet Minh until the later part of 1953, just prior to the French disaster at Dien Bien Phu. During this period she met and married her husband, Le Van Dan. When the two of them saw that the Communists were taking over the Viet Minh, and that they were determined to rule the nation, the couple left the movement. Within a year, Dan had joined the Vietnamese Army. Madame Que joined, too, rising to the rank of master sergeant during the remainder of the colonial period. But her legend was built on her deeds on the battlefield with the Biet Dong Quan (Rangers) in the early sixties. She was often seen at the height of battle, moving forward under intense enemy fire to aid wounded rangers. The Tiger Lady led by example, almost always up front with the lead company. She often charged headlong across open rice paddies with the assaulting rangers, inspiring them to victory. Her courage and sincerity were never questioned. She stalked the battlefield armed only with a pearl handled Colt .45, wearing a helmet with black and yellow stripes and the black tiger head – the symbol of the 44th Vietnamese Ranger Battalion. The Viet Cong knew her well. Stories were told that they had named her "Madame Death". It was reputation well earned and richly deserved, for she could be as dangerous as any combat soldier. She had seen war as few Americans would ever see it. She wore numerous medals testifying to her courage and her prowess in combat. Just a few months prior to her death, she had survived a ferocious battle with a guerrilla estimated at a thousand strong. An American advisor was killed in that fight and another severely wounded. She came out without a scratch. The mystique and legend of the Tiger Lady continued to grow long after her untimely death. She was a warrior bigger than life and a heroine of unparalleled magnitude. Among the rangers and ranger advisors who served with her, her memory will never die.
firebasenam.myfastforum.org/sutra5665.php
More on this case: news.google.com/newspapers?id=rOUNAAAAIBAJ& sjid=R3QDA... Hero Sentenced for Killing Wife . St. Petersburg Times - May 6, 1966 news.google.com/newspapers?id=0wcFAAAAIBAJ& sjid=ozEDA... Viet Nam Major Is Convicted Of Killing Wife . Rome News-Tribune - May 5, 1966
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 8:48:17 GMT 9
Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 và Hoàng Sa 10-1-1974Suu Tam Trí Nhân Media: Trong trận hải chiến Hoàng Sa, Hải quân Việt Nam Cộng hoà gặp bất lợi rất lớn là hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên khu trục hạm HQ4 bị trở ngại kỹ thuật nên HQ4 phải rút lui ngay từ đầu trận chiến. HQ16 chiến đấu một thời gian ngắn thì bị trúng đạn pháo 127 ly của HQ5 xuyên thủng hầm máy do đó bị loại ra khỏi trận chiến. Hải quân Việt Nam Cộng hoà đã chiến đấu trong thế bị động, thiếu thốn trang bị nên việc phối hợp liên lạc giữa các chiến hạm kém hiệu quả dẫn đến HQ5 bắn trúng HQ16.
Với sự việc xảy ra nhiều nghi vấn nêu lên khiến tinh thần HQ5 xuống thấp: "HQ5 âm thầm thi hành nhiệm vụ, ngày đêm tinh thần căng thẳng, ám ảnh", "Nghi vấn rõ ràng: bỏ chạy về hướng nam, không liên lạc với các đơn vị tham chiến, bắn vào bạn, chứng cớ rành rành, làm sao chối cãi. Ngậm đắng nuốt cay !!! Làm sao giải thích?".
Mỗi nhân chứng nhìn và viết về cuộc hải chiến dưới những góc cạnh khác nhau. TNM giới thiệu bài viết về Tuần Dương Hạm HQ5, chiếc soái hạm đã tạo nghi vấn khi bắn nhầm HQ16, và tác giả Trương Văn Liêm là người đã có mặt trên HQ5 tham dự trực tiếp vào cuộc chiến đấu chống giặc Tàu bảo vệ Hoàng Sa ngày 19-1-1974 năm xưa.
=====================  Lời người viết: Tôi thuyên chuyển về Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 ngày 18 tháng 2 năm 1972 từ Giang đoàn 73TB thuộc Lực lượng Thủy bộ 211. Lúc này HQ5 đã hoàn tất huấn luyện với Hải quân Hoa Kỳ và đã được bàn giao cho Hải Quân VNCH. Qua ba đời Hạm trưởng: - HQ Đại tá Nguyễn văn Thiện, sau là Tư Lịnh Vùng 4 Duyên Hải, Phú Quốc; - HQ Trung tá Võ văn Huệ; - HQ Trung tá Phạm trọng Quỳnh; HQ5 đã tham dự một số hành quân quan trọng như: yểm trợ hải pháo cho TQLC vào mùa hè đỏ lửa phía bắc Đà nẵng; trận Sa huỳnh vào ngày ký kết hiệp định Paris ngày 27-1-1973; và sau cùng là trận Hoàng sa ngày 19-1-1974. Trong thời gian Trung tá Võ văn Huệ làm Hạm trưởng (HT), với kế hoạch “bồi dưỡng hải nghiệp” cho các sĩ quan ngành chỉ huy không đủ hải nghiệp của cựu Tư lịnh Đề đốc Trần văn Chơn, sĩ quan đã thuyên chuyển ồ ạt đến chiến hạm, gây ra tình trạng thặng dư. Hạm trưởng Võ văn Huệ đã đặt ra một chức vụ không cấp số, chỉ định tôi là Sĩ quan phụ tá Hạm phó đặc trách: - Huấn luyện và dịch thuật tài liệu binh thư hải quân, - Nhiệm sở tác chiến toàn diện - CTCT. Khi quyền HT được bàn giao giữa Trung tá Võ văn Huệ và Trung tá Phạm trọng Quỳnh trước khi tham dự trận Hoàng sa khoảng một tuần, tôi đã có dịp nhìn thấy cụ thể sự điều hợp của chiến hạm nói riêng và của các lực lượng tham chiến nói chung, một cách tổng quát trước khi khai hỏa, trong khi giao chiến và lịnh rời bỏ chiến trường. Hy vọng những điều tôi còn nhớ được ghi lại dưới đây sẽ không là mầm móng gây nên sự bất hòa, công kích, hiềm khích, và va chạm tự ái. Cuối cùng, tôi xin phép được dành một phút tưởng niệm cho tất cả những anh hùng đã nằm xuống cho Tổ Quốc trên chiến trường ngày 19-1-1974. * * * Chiến hạm nhập vùng tuần tiểu quần đảo Trường sa, chưa đầy 24 giờ. Công điện khẩn chỉ thị rời vùng trực chỉ Vũng tàu chờ lịnh. Biển động cấp 3 cấp 4. Bốn máy tiến full. Sau hai đêm một ngày, tàu về đến nơi và được chỉ định điểm neo. Lịnh cấm trại 100%. Không cho đi bờ. Không cho tiếp tế. HT được mời đi họp ở BTL/HQ/V3/ZH (Bộ tư lịnh/ Hải quân/Vùng 3/ Duyên hải). Đi ca trực neo. Khoảng 6 giờ chiều, HT về và chỉ thị chuẩn bị hải đồ trực chỉ Đà Nẵng. Kéo neo hải hành trong đêm. Tin từ Trung tâm truyền tin, 2 chiến hạm ta ở Hoàng sa gặp rắc rối. Chiến hạm có lẽ sẽ ra đó tăng cường vì tình hình căng thẳng. Vào cảng Đà nẵng khoảng 10 giờ sáng. Cặp cầu Thống nhứt vị trí 1. Từ xa đã thấy HQ801 đang neo trong vịnh. Hai trực thăng của Không quân Vùng 1 đang thực tập cất cánh và hạ cánh trên sân chiến xa của chiến hạm này. Trên cầu tàu, đạn đại pháo 127 ly đã có sẵn từ bao giờ cùng một đống lương khô hành quân. Cặp cầu xong, lại lịnh cấm trại 100%. Chỉ cho đi chợ, nhận tiếp tế nước ngọt và nhiên liệu. Công điện mời HT, Hạm phó (HP) và tất cả sĩ quan tham mưu đi họp tại BTL/HQ/V1/ZH (Bộ tư lịnh/Hải quân/Vùng 1/ Duyên hải). Là sĩ quan không cấp số, tôi ở lại chiến hạm phụ giúp Sĩ quan trực điều động nhận đạn và lương khô. Công việc chuyển đạn và 15 ngày lương khô diễn tiến đều đặn. Phái đoàn Sĩ quan đi họp vẫn chưa về. Khoảng 3:15 công điện chỉ thị cho nhập hạm 1 trung đội Biệt hải với đầy đủ trang bị, đồng thời chỉ thị phải hoàn tất nhận đạn và nhiên liệu trước 7:00 giờ tối. Toán tiếp vụ trở về với thực phẩm tươi. Phái đoàn sĩ quan trở về chiến hạm khoảng 5:30 chiều và HP chỉ thị sẵn sàng zulu (khởi hành) ra Hoàng sa trong đêm khi có lịnh của HT. Cùng lúc nhận công điện báo Đại tá Hà văn Ngạc CHT/HĐ3/BTL/HĐ ( Chỉ huy trưởng/Hải đội 3/Bộ tư lịnh/Hạm đội) nhập hạm và chiến hạm được chỉ định là Soái hạm. Một Thiếu tá Bộ binh từ Bộ tư lịnh /Vùng 1 Chiến thuật nhập hạm. Khoảng 7:00 tối, công điện chỉ thị cho nhập hạm một nhân viên Hoa Kỳ từ Tòa Tổng Lãnh sự Mỹ ở Đà nẵng. HQ10 cặp cầu phía sau HQ5 từ trưa, sẽ zulu trước vì nhỏ và chậm. Anh bạn người Mỹ nhập hạm lúc 9:00 tối, không hành lý.  Về địa thế, Hoàng sa là một quần đảo hình vòng cung, bề khuyết hướng về Đà nẵng. Quần đảo gồm 5 đảo chính, kể theo ngược chiều kim đồng hồ là Hoàng sa (Pattle), Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond). Hoàng sa cách Đà nẵng khoảng 210 hải lý về hướng Đông, cách đảo Hải nam của Trung cộng (TC) khoảng 80 hải lý về hướng Tây Bắc và nhóm quần đảo Amphitrite của TC vào khoảng 70 hải lý về hướng Đông Bắc. Hoàng sa là đảo lớn nhứt, có đài khí tượng với vài nhân viên luân phiên nhau mỗi 6 tháng và một Trung đội Địa phương quân của tiểu khu Quảng Nam trấn đóng. Toàn bộ quần đảo này được bao bọc bởi những bãi san hô (đá ngầm) xung quanh chỉ có thủy lộ thuận tiện duy nhứt đi vào vịnh rộng khoảng 10 hải lý ( khoảng cách từ Hoàng sa đến Money, theo chiều Bắc Nam). Chiến hạm vượt qua HQ10 trong đêm và đối vật (echo) đảo Hoàng sa hiện trên màn ảnh radar khoảng 8:00 sáng ngày 18-1-1974. Nhận báo cáo tình hình từ các chiến hạm và được biết như sau: - HQ16 đã ở ngoài vùng lâu nhứt. - HQ4 tăng phái và đã có những va chạm nhẹ với các chiến hạm TC trong mấy ngày qua. - Phía TC có 2 ngư thuyền ngụy trang, có võ trang. Họ có 2 chiến hạm loại Kronstad tại chỗ. - Trên đảo Duy Mộng và Quang hòa đã có sự hiện diện của bộ binh TC. Với tư cách là sĩ quan thâm niên hiện diện, Trung tá Vũ hữu San, HT HQ4 đã đặc phái một toán xung kích trích ra từ nhân viên cơ hữu của HQ4, do Trung úy Lê văn Dũng làm trưởng toán đổ bộ lên đảo Cam Tuyền, mục đích cắm cờ giữ đất. Toán thứ hai từ HQ16 do Trung úy Lâm trí Liêm làm trưởng toán đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc. Chiến hạm chánh thức nhập vùng vào khoảng 10:30. Đại tá Hà văn Ngạc chỉ thị HQ10 gia nhập HQ16 ở lại trong vịnh tuần tiểu án ngữ. HQ4 tháp tùng HQ5 tiến về phía đảo bị chiếm đóng để thám sát. Hai chiến hạm ta tiến về phía Duy Mộng theo đội hình hàng dọc. Khi còn cách đảo khoảng 3 hải lý thì 2 chiến hạm TC ra nghinh cản. Quang hiệu được trao đổi, cả hai phía đều xác định chủ quyền lãnh thổ trên đảo. Để chứng tỏ là không gây hấn, Đại tá Ngạc chỉ thị tất cả súng không được tháo bao bọc súng và để ở thế chờ, tàu tiến một máy tiến một, tránh va chạm và tiến càng gần đảo càng tốt để quan sát. Chiến hạm hai bên tiến sát vào nhau, có lúc chỉ cách nhau khoảng 500 yards. Trên đảo, ta nhận thấy công sự chiến đấu và giao thông hào bằng cement đã được xây cất. Cờ TC bay phất phới. Nhân sự trên tàu địch đều mặc đồng phục lạnh một mãnh từ đầu đến chân như mấy anh skydivers. Quan sát khoảng 15 phút, Đại tá Ngạc ra lịnh quay về trong vịnh. Buổi chiều, một buổi họp các HT được triệu tập dưới quyền chủ tọa của Đại tá Ngạc. Ban đêm, HQ16, HQ10 và HQ4 lập đội hình tuần tiểu án ngữ trong vịnh. Trời sa mù nhẹ, tầm quan sát giới hạn, biển động cấp 3 cấp 4. Nhân viên trên HQ5 chia nhau đi ca hải hành thường lệ, nhận báo cáo từ các chiến hạm khác cùng lúc trực phòng không. Khoảng 8 giờ tối, CIC ( Trung tâm chiến báo của chiến hạm-Combat Information Center) báo cáo có thêm 2 đối vật tiến về phía Duy Mộng. 9:00 tối, anh bạn người Mỹ xin rời chiến hạm vì không muốn hiện diện trên chiến hạm sau nữa đêm. Thả xuồng trong đêm. Từ lúc gia nhập HQVN, đây là lần đầu tiên nhân viên thả xuồng ban đêm không đèn (làm tối chiến hạm 100%). Sau vài lần không thành công vì thiếu dây an toàn, toán vận chuyển đã quyết định thả hành khách (anh bạn Mỹ và Thiếu tá bộ binh)) và xuồng cùng một lúc sau khi tăng cường áo phao, đèn hiệu cấp cứu, trái độn và dây an toàn kéo tay. Nguy hiểm hơn nhưng không còn cách nào khác. Xuồng phải chèo âm thầm từ chiến hạm vào đảo Hoàng sa và do sĩ quan đương phiên điều khiển từ đài chỉ huy HQ5. Võ xuồng bằng fiber glass, cho nên khi vào gần đến san hô, toán vận chuyển phải dùng chèo thăm dò độ sâu và tiến chậm vào bãi để đổ bộ. Cuộc đổ bộ chấm dứt lúc 11:30 đêm. Đi ca cách mạng. Sau khi hoàn tất kiểm chứng thủ tục bàn giao, tôi ghi nhận, TC đã tăng cường thêm 2 chiến hạm trong vài giờ qua và đã báo cáo cho HT cùng vị tư lệnh chiến trường. Đến khoảng 1:00 sáng, phòng vô tuyến đưa cho tôi một công điện gởi cho HT chưa mở khóa vừa mới nhận. Tôi điện thoại báo cho HT và ông chỉ thị mang xuống gấp với bản mã. Hơn nữa giờ sau, HT ra lịnh họp tham mưu khẩn và chỉ thị tôi giao ca cho sĩ quan phụ phiên để dự phiên họp. Tôi cho nhân viên đánh thức HP và tất cả sĩ quan đồng thời thông báo lịnh của HT. Kim đồng hồ chỉ 1:45 sáng, sĩ quan hiện diện đầy đủ (trừ sĩ quan đi ca). Sĩ quan Trưởng khối báo cáo quân số cho HP. Sau đó HP báo cáo cho HT. Không khi trong phòng họp có vẻ căng thẳng. Phòng họp hoàn toàn yên lặng. Tiếng rè rè của máy điều hòa không khí phát ra một âm thanh nhạt nhẽo rời rạc. Mồ hôi thoáng xuất hiện trên trán vài sĩ quan, riêng tôi, cảm thấy như mình đang đi giữa trời Sài gòn vào trưa tháng 5. HT phá tan sự im lặng nầy khi ông dõng dạc tuyên bố: lịnh chỉ thị đổ bộ vào sáng sớm. Tất cả phải sẵn sàng ở nhiệm sở tác chiến toàn diện lúc 4:00 sáng. HP chiếu nhiệm vụ thi hành. HT rời phòng họp. HP chỉ thị tất cả sĩ quan trưởng nhiệm sở kiểm tra tình trạng sẵn sàng về nhân viên, kỹ thuật, khiển dụng….chỉ thị tôi thâu thập báo cáo từ các sĩ quan, trình cho ông lúc 4:00 sáng, và bế mạc buổi họp. Rời phòng họp, tôi quay về phòng cùng với Trung úy Rạng ( Rạng và tôi ở cùng phòng. Rạng là sĩ quan Nội Vụ và cũng là một trong 5 sĩ quan tốt nghiệp chương trình 2 năm tại trường Hải quân Hoàng gia Úc, vừa về nước). Rạng trao cho tôi một bản sao nhiệm sở tác chiến toàn diện và nói rằng: - Đây là bản sao, có một vài nhân viên đi phép. Tôi chưa cập nhật hóa được. Nhiệm sở của tôi ở hầm đạn 127. Sẽ báo cáo qua điện thoại. Tùy anh, OK hay muốn kiểm tra tại chỗ cũng được. Tôi trả lời: - Mình đã biết cách làm việc của nhau rồi, tôi không cần phải xuống tận nơi đâu. Anh ráng giữ liên lạc với tôi. Cần phải kiểm soát kỹ nhân viên chuyển đạn bằng tay lỡ khi hệ thống thủy điều và điện không sử dụng được. - Anh yên chí. Khẩu 127 là mạng sống của mình. Nói xong Rạng rời phòng. Rạng và tôi cùng tỉnh, xuất thân cùng trường, không biết nhau trước, tình cờ gặp nhau tại đây. Còn lại một mình, tôi chuẩn bị cho mình cái dấu vết, di tích cuối cùng của một chiến sĩ: ra đi trên chiến trường. Tôi lấy tấm căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ và căn cước dân sự bọc chung tất cả trong một bao nhựa, cẩn thận ép lại để không thấm nước, chuyển vào sợi dây thẻ bài đeo cổ, cẩn thận bỏ vào túi áo trên và gài nút. Chiếc áo sẽ mặc khi vào nhiệm sở. Tôi nghĩ, để dễ dàng nhận diện nếu may mắn xác được vớt. Sau đó đi tắm thay quần áo và đi thâu nhận báo cáo từ các trưởng nhiệm sở. Tôi xuống phòng Nội vụ, HP đã ở đây từ hồi nào. Ông nhìn tôi và nói: - Trung úy Liêm tạm thời ông tăng cường khẩu 40 ly đôi trên sân thượng. Giữ liên lạc với tôi qua điện thoại. Tôi không muốn tập trung trên đài chỉ huy. Vã lại nếu có gì thì tôi vẫn có thể gọi ông bằng loa cầm tay, vẫn gần hơn. Nên nhớ, ông với tôi như tay mặt tay trái đấy nhé ( giọng bắc kỳ của Thiếu tá Đoàn trọng Thông (k.13/SQHQ/NT), tôi không bao giờ quên). Ông phải nắm vững tình hình chung trên pont và sẵn sàng di động. - Được mà HP. Tôi trả lời. Ông hỏi tiếp: - Các nhiệm sở ra sao? - Khẩu 127 Thiếu úy Đồng (khóa 25 Đà lạt đáo nhận đơn vị cùng lúc với Thiếu úy Phú) sẵn sàng. Đã kiểm soát và thử hệ thống bắn tự động, chuyển đạn tự động, cơ hành…Nhân viên đầy đủ. Hầm đạn 127, Trung úy Rạng sẵn sàng, khi có lịnh sẽ lắp đầu nổ. Trung sĩ nhứt Trọng pháo Phạm ngọc Quang sẽ đảm trách 2 khẩu đại bác 20 ly hai bên tả, hữu hạm, vì một nhân viên đi phép. Hai khẩu 40 ly sân sau,Thiếu úy Phú (k25 Đà lạt) sẵn sàng, một nhân viên tiếp đạn đi phép. Tôi đã hội ý với Thiếu úy Phú và ông sẽ đảm trách tiếp đạn nếu cần.Khẩu 40 ly đôi sân thượng sẵn sàng. Văn phòng cơ khí tôi đã hội ý với Đại úy cơ khí HH/TT ( không nhớ họ) Nguyền và đề nghị ông báo cáo trực tiếp với HP các phần hành liên hệ (phòng tai,cứu thủy….) 4:00 giờ sáng. Nhiệm sở tác chiến toàn diện được ban hành. Lực lượng được chia làm hai toán: - Toán thứ nhứt gồm HQ16 và HQ10 chịu trách nhiệm mặt trận phía Bắc (nằm trong vịnh) và do HT HQ16 chỉ huy - Toán thứ hai gồm HQ4 và HQ5 do Đại tá Hà văn Ngạc trực tiếp chỉ huy. Toán này sẽ đi vòng xuống phía Nam của hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa để đổ bộ toán biệt hải. Hai mặt trận cách nhau khoảng 6 đến 10 hải lý. HQ4 và HQ5 hải hành âm thầm, đi vòng ra ngoài đảo Vĩnh Lạc, tiến về phía Duy Mộng và Quang Hòa. Lúc này, được biết Sài gòn thúc giục tại sao không đổ bộ và muốn đổ bộ tức khắc. Đại tá Ngạc phải trình bày (và thương lượng?) xin để tùy tình hình thi hành vì thời tiết và tầm quan sát. Tờ mờ sáng, HQ4 và HQ5 đã tiến gần đến hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Hai chiến hạm TC số 271 và 274 ra ứng chiến. Phía ta, tất cả súng đã được tháo bao và sẵn sàng, nhưng vẫn để ở thế chờ và nhân viên ở các vị trí lộ thiên không được vào vị trí mà phải núp dưới các vòng chắn an toàn của các pháo tháp. Phía TC, nhân viên của họ đứng dầy đặc trên sân chính. Đặc biệt họ có 2 toán trang bị hỏa tiển (?) phóng tay (có thể là bazooka?), mỗi toán 3 người, một ở sân trước và một ở sân sau. Lực lượng ta tiến chậm vào hướng đảo Quang Hòa. Lúc này Sài gòn cứ thúc giục và hỏi tại sao chưa khai hỏa, tai sao chưa đổ bộ. Đại tá Ngạc, đi lên đi xuống giữa đài chỉ huy và phòng CIC ( Trung úy Trần đức Thịnh k4 OCS là Trung tâm trưởng) để liên lạc trả lời. Gió nhẹ và lạnh. Biển động cấp 3, cấp 4. Hai bên ghìm nhau, có lúc HQ5 và tàu số 274 tiến gần nhau khoảng 300 yards. Từ Sài gòn, lịnh khai hỏa thúc giục từng cơn. HQ5 ở về phía Tây Nam và cách đảo Quang Hòa khoảng 2 hải lý. Bãi đá ngầm (san hô) trắng xóa bao bọc 2 đảo này hiện rõ trong tầm mắt. Với áp lực nặng nề từ Sài gòn, khoảng 9:00 sáng ngày 19-1-1974, Đại tá Ngạc đã ra lịnh đổ bộ toán biệt hải. Toán biệt hải do Trung úy Cảnh (k.20) làm Đại đội trưởng, đã dùng hai xuồng của HQ5 đổ bộ. Họ chia làm 2 toán mỗi toán 9 người trang bị đầy đủ, gồm súng cá nhân M16, súng phóng lựu M79 và đại liên M60. Vị trí các lực lượng như sau: tàu số 271 và 274 ở phía trái của chiến hạm ta, đảo Quang Hòa ở hướng 2 giờ của chiến hạm ta và (trên lý thuyết) toán đổ bộ được yểm trợ từ chiến hạm ta. Xuồng chở toán đổ bộ nhấp nhô trên sóng, tiến vào đảo. Khi họ sắp sửa đến bãi đá ngầm, một lính TC trên đảo xuất hiện với cờ TC trên tay phất qua phất lại và ra hiệu cho toán đổ bộ rút lui. Lịnh từ chiến hạm, họ phải tiến vào đảo và tất cả súng phải để ở thế chờ, không được khai hỏa trước. Xuồng không vào được trên bãi đá ngầm, họ phải đi bộ vào. Mực nước biển sâu ngang thắt lưng, có chỗ sâu ngang ngực. Toán biệt hải giăng hàng ngang đi vào. Khoảng cách từ riềm san hô (nơi họ rời xuồng để đổ bộ) vào trong bãi cát khoảng 700 m. Một người bình thường phải mất 15-20 phút mới có thể đến nơi. Trưởng toán đổ bộ, Trung úy Đơn báo cáo là họ đã tiến vào được khoảng 200 thước và quân TC trên bờ xuất hiện, khoác tay ra hiệu cho họ đi ra. Lịnh từ Đại tá Ngạc: cứ tiến vào và không được nổ súng. Vài phút sau, tiếng súng liên thanh nổ dòn như pháo tết. Toán đổ bộ báo cáo họ bị tấn công bằng thượng liên. Họ phản công nhưng M79 thì thiếu tầm, còn M16 thì không ăn thua gì. Họ không có chỗ núp và trở thành những mục tiêu tác xạ tự do cho phía TC. Tổn thất đầu tiên được ghi nhận: Trung úy Đơn đã bỏ mình. Hạ sĩ nhứt Long đã tử thương. Họ cố gắng đưa 2 xác trở ra nhưng dưới mức tác xạ dữ dội của TC, họ vất vả đưa được xác của Trung úy Đơn mà thôi.Lịnh rút lui ban hành. Hạ sĩ nhứt Long bị bỏ lại trên chiến trường. Tất cả vất vả lên xuồng trở về chiến hạm. Thời gian từ lúc hạ xuồng để đổ bộ cho đến khi họ hoàn toàn trở về lại chiến hạm mất khoảng một giờ. Trong lúc ta đổ bộ, chiến hạm hai bên vẫn ghìm nhau. Diễn tiến cuộc đổ bộ và tổn thất được báo cáo đều đặn về Sài gòn. Việc gì đến đã phải đến. Cuộc chạm trán không thể tránh khỏi. Đại tá Ngạc chỉ thị: - Phia bắc, HQ16 ở phía sau yểm trợ cho HQ10 đi vào sát hai chiến hạm TC mới được tăng cường trong đêm vừa qua, sẵn sàng khi có lịnh thì sẽ khai hỏa. Đó là tiếng súng lịnh cho 2 mặt trận phía bắc và phía nam (mặt trận phía bắc nằm trong vịnh, mặt trận phía nam nằm ngoài vịnh và ở phía tây nam đảo Quang Hòa). Sau khi HQ10 khai hỏa thì HT HQ16 sẽ trực tiếp chỉ huy mặt trận này. - Phía nam, Đại tá Ngạc chỉ huy trực tiếp. HQ4 sẽ yểm trợ HQ5. Với nhận định rằng phía TC có thể tăng cường tàu ngầm và không quân của họ có lợi điểm nhiều hơn không quân ta, nên Đại tá Ngạc nhấn mạnh rằng ta sẽ cố gắng bám càng gần thềm san hô càng tốt để giảm thiểu khả năng tàu ngầm và phi cơ địch. HP chỉ thị quàng xác Trung úy Đơn trên kho giám lộ. Từ đài chỉ huy, HP phân chia mục tiêu cho từng khẩu và chỉ thị điều chỉnh đạn tự hủy và chạm nổ. Khẩu 127 ly trực xạ, nhắm vào vị trí chân vịt và hầm máy, các khẩu 40 ly nhắm vào đài chỉ huy. Lúc này khoảng cách giữa ta và TC khoảng 300-500 m. Lịnh khai hỏa đã được ban ra lúc 10:20 sáng ngày 19-01-1974. HQ10 bắn quả đầu tiên, và báo cáo qua âm thoại, tiếng nổ đã được ghi nhận. Tất cả súng trên HQ5 đã nổ ran và uy hiếp tàu địch. Trong những giây phút đầu tiên của trận chiến, phía TC hầu như bất ngờ và đã không kịp phản ứng. Đài chỉ huy tàu địch mịt mù khói và những viên đạn chỉ đường (tracer) cho ta biết sự tác xạ chính xác. Khói trắng bốc lên từ phía sau lái của tàu địch Báo cáo sơ khởi: - Mặt trận phía bắc: sau khi HQ10 khai hỏa, TC phản pháo mãnh liệt và họ tập trung hỏa lực vào HQ10. Vì nhỏ hơn và hỏa lực yếu hơn, HQ10 báo cáo đài chỉ huy trúng đạn. Hạm Trưởng HQ Thiếu tá Ngụy văn Thà tử thương, bộ chỉ huy hoàn toàn tê liệt. Tàu bất khiển dụng. Hạm phó Đại úy Nguyễn thành Trí, bị thương nặng và ra lịnh đào thoát. HQ16 yểm trợ phía sau đã rời vòng chiến sau khi bị hai chiến hạm địch uy hiếp. - Mặt trận phía nam: khẩu 76.2 ly của HQ4 bị trở ngại tác xạ sau khi bắn được 6-7 quả. Sửa chửa cấp thời, tác xạ trở lại. Cố gắng bắn nhưng vẫn bị trở ngại và tự ý tách rời HQ5. Sau khi giao chiến được chừng 10-15 phút, với kết quả sơ khởi thất lợi, Đại tá Ngạc cố gắng liên lạc với HQ16 để biết thêm thực tình của HQ10 nhưng vô hiệu. Cùng lúc, HQ5 bị hai tàu địch tấn công mãnh liệt. Khẩu 127 trúng đạn, bất khiển dụng. Thiếu úy Đồng tử thương tại chỗ. Giải tán khẩu 127 ly, nhân viên tăng cường cho 2 khẩu 20 ly hai bên và sân sau. Trung tâm truyền tin bị trúng đạn 100ly. Thượng sĩ nhứt điện tử Hảo, trưởng ban điện tử tử thương. Hệ thống truyền tin hoàn toàn tê liệt. Phòng cơ khí báo cáo phía hữu hạm, gần văn phòng cơ khí, trúng đạn 100ly cách mặt nước 2ft, lỗ thủng khoảng 3’x5’, nước biển tràn vào mỗi khi tàu lắc. Phía TC bắn một hỏa tiển cầm tay qua ngang đài chỉ huy. Máy điện sụp. Radar phòng không bất khiển dụng. Khẩu 40 ly đôi trên sân thượng và 2 khẩu 40 ly đơn sân sau là hỏa lực chính. Lúc này HQ5 một mình đối phó với hai tàu địch. Tàu đổi cấp và vận chuyển theo hình số 8 để dồn địch về một phía, giữ vị trí của chiến hạm ta ở hướng 12 giờ của tàu địch để họ không tác xạ được và vẫn giữ sát bờ san hô. Tôi nhảy vào ghế xạ thủ để nhân viên này phụ tiếp đạn và đồng thời đổi hướng bắn từ hữu sang tả hạm và ngược lại tùy theo sự vận chuyển của tàu. Bắn được 5 gắp đạn (20 viên) thì ống thủy điều (hydraulic) bị bể vì vận tốc bắn nhanh. Phòng chuyển đạn 127 cháy.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 8:49:05 GMT 9
HT cho đánh ngập hầm đạn, sợ bị nổ. Tôi cho thay ống thủy điều và tiếp tục phản pháo. HP chỉ thị tôi rời nhiệm sở và lên đài chỉ huy gặp ông. Đi ngang qua hành lang phòng ăn sĩ quan tôi thấy Trung sĩ nhứt Trọng pháo Quang trúng đạn trọng thương nằm dưới chân cầu thang. Tôi gọi y tá chỉ thị cấp cứu. Phòng ngủ của Rạng và tôi (sân phía trên văn phòng cơ khí) cháy vì dây điện trúng đạn.
Lúc này HQ5 như người câm. Máy vô tuyến duy nhứt còn lại khiển dụng là cái máy VRC-46 trên đài chỉ huy. Tôi vừa lên đến đài chỉ huy thì khẩu 40 ly đôi báo cáo bất khiển dụng (ống giải nhiệt bằng nước bị bể). Không thương vong. Giải tán nhiệm sở, tăng cường cho 2 khẩu 40 ly sân sau.
HP chỉ thị tôi đi ghi nhận tổn thất và phụ giúp tản thương. Đại tá Ngạc cố gắng liên lạc với không quân (danh hiệu Kitty) nhưng vô hiệu (không trả lời), gọi HQ4 cũng biệt vô âm tín. Không quân địch vẫn xuất hiện trên cao từng đoàn từ lúc sáng. Khói lửa khắp nơi. Toán phòng tai được tăng cường. Tôi phân bổ toán di chuyển xác Thiếu úy Đồng, Thượng sĩ nhứt Hảo và Trung sĩ nhứt Quang lên chung với Trung úy Đơn.
Ghi nhận thượng từng kiến trúc của chiến hạm bị trúng đạn 37 ly của địch nhiều. Trên đài chỉ huy, HT đang vận chuyển để dồn tàu địch về phía sau lái của chiến hạm và hai khẩu 40 ly sân sau tác xạ cầm chân. Đại tá Ngạc đang ở bên hữu hạm vẫn cố gắng liên lạc với không quân.
Từ phía chân trời phía bắc, tôi thấy hai vệt sóng trắng chạy rất nhanh, càng lúc càng rõ hơn. Tôi báo cáo cho Đại tá Ngạc và HT. Ông chỉ thị nhân viên quan sát theo dõi,báo cáo. Đồng thời chỉ thị cho CIC xác định hướng và vận tốc. Vài phút sau họ báo cáo vận tốc 35knots và hướng 195, khoảng cách 25 hải lý. Đại tá Ngạc buột miệng: “Komar” và ông ra lịnh đổi cấp 180 tiến full. Lúc này khoảng 11:00 sáng. Trên đường về hướng nam, nhiệm sở phòng không vẫn duy trì. Hai khẩu 40 ly sân sau vẫn tác xạ cầm chừng tàu địch truy kích. Tất cả nhân lực còn lại tăng cường cứu thủy, cứu hỏa và tản thương. Hoàn toàn mất liên lạc với tất cả các đơn vị. Nhân viên tất cả các ban ngành làm việc rất tận lực và nhịp nhàng.
Kết quả tổng quát được ghi nhận như sau:
- Tử thương: Thiếu úy Đông, Thượng sĩ nhứt Hảo và Trung sĩ nhứt Quang. Vài nhân viên bị thương nhẹ.
- Vật chất: hầm đạn 127 ly đã được làm ngập. Khẩu 127 và 40 ly đôi bất khiển dụng, trung tâm truyền tin bất khiển dụng, hầm máy chính vô nước, boiler bất khiển dụng, nước ngọt tạm thời không sử dụng , đặc biệt để dằn lườn. Điện sẽ được sử dụng ở mức tối thiểu. Bơm điện ngầm chạy 24/24 để bơm nước biển tràn vào từ lỗ thủng gần văn phòng cơ khí. Toán phòng tai đã làm chủ tình hình. Họ di động nhanh và ứng biến kịp thời cô lập các nơi bị cháy. Hệ thống kín nước đã được duy trì đúng mức. Máy điện khẩn cấp được sử dụng để cung ứng cho các nhu cầu tối cần thiết. Nhân viên điện tử và truyền tin ráo riết thiết trí hệ thống liên lạc và antenne dã chiến.
Chiến hạm đi về hướng nam đến khoảng 3:00 chiều thì liên lạc được với HQ4, Đại tá Ngạc nhận báo cáo từ các đơn vị. HQ10 trôi lềnh bềnh trong vịnh. Toán đào thoát đã không được TC tiếp vớt. Hai toán xung kích từ HQ4 và HQ16 đổ bộ lên 2 đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc đã bị bỏ lại. HQ4 và HQ16 trên đường hướng về Đà nẵng. HQ4 đã báo cáo diễn tiến tình hình mặt trận về Sài gòn trong khi không liên lạc được qua hệ thống chỉ huy với Đại tá Ngạc.
Đại tá Ngạc xin về Đà nẵng sửa chửa và chuyển xác các tử sĩ nhưng bị từ chối. Lịnh chỉ thị HQ5, trong khi chờ quyết định cấp trên, trở lại gần vùng giao tranh để có thể vớt toán đào thoát; nếu cần sẽ phải đâm vào san hô (run aground) để chứng tỏ chủ quyền lãnh thổ. Tinh thần nhân viên giao động. HT cho giảm vận tốc và đổi hướng trở lại Hoàng sa trong khi chờ lịnh. Tôi nhận lịnh HP chia cắt sĩ quan và nhân viên gác xác. Khoảng 5 giờ chiều, chiến hạm được lịnh về Đà nẵng để chuyển giao xác.
Hải hành trong đêm. Âm thầm. Không đèn hải hành. Radar hoạt động nhưng tầm xa bị hạn chế. Vận tốc giới hạn vì hầm đạn 127 ở mũi tàu đầy nước. Lỗ thủng ngang hông đã được toán phòng tai dùng hai tấm nệm cá nhân và ván ép tạm thời dựng lên để ngăn nước, nhưng bơm điện chìm vẫn chạy 24/24 để bơm nước ra ngoài. Toán quan sát được tăng cường.
Sau một ngày làm việc không ngừng, tất cả đều mệt mỏi. Toán gác xác thay nhau mỗi giờ. Không một lời trao đổi giữa các nhân viên trong lúc làm việc. Mọi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Khoảng 2 giờ sáng, đài quan sát báo cáo có echo hướng 2 giờ, không đèn hải hành, di chuyển về hướng tây. Một phen hồi hộp. Sau này mới biết đó là HQ16. Chiến hạm hải hành đơn độc, không có dụng cụ truyền tin hữu hiệu, không khả năng tự vệ. Đi ngang cù lao Ré, trong tầm liên lạc của máy VRC46, đài kiểm báo trên đảo cung cấp vị trí chính xác của chiến hạm và cho biết họ có nhiệm vụ theo dõi suốt lộ trình còn lại của chiến hạm về Đà nẵng.
Tại Đà nẵng, các tử sĩ đã được chuyển lên bờ. Cấm trại 100%. Các toán kỹ thuật từ CCYT/TV/ĐNG (Căn Cứ Yểm Trợ/ Tiếp Vận/ Đà nẵng) xuống sửa chửa cấp thời và thay thế các dụng cụ truyền tin hư hại để chuẩn bị cho chiến hạm trở ra gần vùng giao chiến tuần tiểu, vớt các nhân viên đào thoát. Võ tàu bị hư hại đã không được nằm trong danh sách sửa chửa!!! Trong ngày, Trung tướng Ngô quang Trưởng, Tư lịnh vùng 1 kiêm quân khu 1 đã đến viếng đơn vị, thanh sát các nơi bị trúng đạn. Đài truyền hình Đà nẵng phỏng vấn Đại tá Ngạc và HT.
Tin hành lang (lại tin truyền miệng), sở dĩ chiến hạm không được về sửa chửa mà phải trở ra gần vùng giao tranh tiếp tục tuần tiểu và quan sát để vớt các nhân viên đào thoát từ HQ10 và các toán đổ bộ của HQ4 và HQ16; bởi vì chiến hạm đã:
- bỏ chạy khỏi chiến trường để cho HQ4 bị tấn công,
- không giữ liên lạc với các đơn vị.
- bắn vào hầm máy HQ16 (đầu đạn 127 ly không nổ, số danh bộ của lô đạn thuộc HQ5)
Một số nhân viên tỏ vẻ bất mãn, không khí trên chiến hạm đột nhiên ngột ngạt, có tiếng than phiền HT quá hiền và tôi với chức vụ SQ/Chiến tranh chánh trị lâm vào tình trạng khó xử.
Chiến hạm ra khơi trong tình trạng không thuận lợi về kỹ thuật cũng như tâm lý: lỗ thủng bên hông tàu đã được sửa chửa khẩn cấp để nước không vô, máy truyền tin được cho mượn (không được thay thế), 40 ly đôi hồi phục. Máy điện không đủ công xuất cung cấp cho hệ thống máy lạnh phòng ngủ cho thủy thủ đoàn. Nước ngọt dùng để dằn lườn, chỉ sử dụng cho nhà bếp và nhu cầu nấu nướng. Không có nước để làm vệ sinh cá nhân. Đơn vị phải ra khơi trong ngày cuối năm âm lịch. Trong vùng tuần tiểu, chiến hạm được đặt dưới sự điều động của đài kiểm báo cù lao Ré (chỗ này tôi phải nhấn mạnh cái nghĩa điều động ở đây: cù lao Ré kiểm soát vị trí của chiến hạm theo trục tuần tiểu đã được ấn định và liên lạc với phi cơ trinh sát của không quân khi họ phát hiện bè đào thoát). Chuyến công tác lịch sử này kéo dài khoảng một tuần.
Tại Sài gòn, trong lúc đó HQ16 và HQ4 được cả hai đài phát thanh Sài gòn và quân đội liên tục ca ngợi, tuyên dương công trạng đơn vị. Thủ đô đã tổ chức rầm rộ những cuộc tiếp đón các anh hùng trở về. Từng đoàn học sinh các trường ở thủ đô trao vòng hoa chiến thắng, phóng sự, phỏng vấn, tuyên bố, v.v và v.v…
HQ10 đã được trang trọng ghi nhận đi vào lịch sử. HQ5 âm thầm thi hành nhiệm vụ, ngày đêm tinh thần căng thẳng, ám ảnh có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và không có khả năng tự vệ cũng như không có lực lượng tiếp viện kịp thời. Từ mấy chiếc máy thu thanh được bạn bè cung cấp khi còn ở Đà nẵng, chúng tôi theo dõi ngày đêm các bài bình luận cũng như tin tức, mà lòng ngậm ngùi. Tại sao? Ai bỏ ai? Nhân viên rỉ tai nhau: “chúng ta đang thi hành quân kỷ ”.
Nghi vấn rõ ràng: bỏ chạy về hướng nam, không liên lạc với các đơn vị tham chiến, bắn vào bạn, chứng cớ rành rành, làm sao chối cãi. Ngậm đắng nuốt cay !!! Làm sao giải thích? Qua tin tức, khi nghe HQ16 trên đường tiến vào quân cảng Sài gòn, chiến hạm nghiêng nghiêng tiến từ từ qua bến Bạch đằng mà lòng đau da diết. Công việc bảo trì và làm vệ sinh chiến hạm vẫn tiến hành đều đặn hàng ngày. Nào phải lau chùi làm vệ sinh kho đạn 127, sơn sửa những nơi hư hại nhẹ trên sân tàu, dọn dẹp vật liệu cứu hỏa, sửa chửa máy móc….và đi ca quan sát, cố gắng tìm vớt nhân viên đào thoát.
Công điện cho rời vùng về Sài gòn. Mừng vui xen lẫn với mặc cảm. Vui mừng là vì còn sống trở về sum họp gia đình. Ăn Tết tuy muộn nhưng vẫn còn tốt hơn là không được thưởng thức mùa xuân với gia đình. Mặc cảm là vì khó giải thích được tại sao đạn của mình nằm trong bụng bạn.
Đến Sài gòn, âm thầm. Sự tiếp đón tổ chức đơn sơ, có thể gọi là tạm bợ., thiếu hoan hỷ. Không khí toàn chiến hạm nặng nề vì lịnh cắm trại 100% an ninh hải quân làm việc với từng sĩ quan cũng như một số nhân viên để điều tra tại sao đạn 127 ly của HQ5 nằm trong hầm máy HQ16. Tôi không rõ các vị sĩ quan khác đã được hỏi những gì và trả lời ra sao. Riêng tôi đã được một Trung úy an ninh hỏi:
- Nhiệm sở tác chiến của tôi ở đâu và tôi đã thấy thiệt hại của chiến hạm Trung cộng ra sao?
- Tại sao bỏ chạy về hướng nam và không liên lạc với các đơn vị khi lâm trận?
- Có biết HQ5 bắn vào HQ16 không?
- Là SQ/CTCT tôi đã làm gì, nói gì với nhân viên chiến hạm trước và sau khi lâm chiến?
Câu trả lời của tôi hình như đã không làm vừa ý người hỏi:
- Trưởng khẩu 40 ly đôi sân thượng, là xạ thủ, tác xạ vào đài chỉ huy tàu địch theo sự chỉ định. Tất cả súng trên tàu đều bắn trực xạ vào mục tiêu đã được chỉ định. Đổi hướng hải hành về hướng nam khi phát hiện tàu địch. Hệ thống liên lạc hoàn toàn tê liệt sau khi trung tâm truyền tin trúng đạn. Lúc đó không thấy HQ4 và đang chịu áp lực nặng của 2 tàu địch. Biển động. Trong lúc bắn ở nhịp độ nhanh và hai mặt trận cách xa nhau, không nhìn thấy rõ nhau, và do sự vận chuyển chiến thuật của từng chiến hạm, rủi ro có thể xảy ra. Nếu đạn 127 của HQ5 trúng đơn vị bạn thì đạn 40 ly cũng có thể bắn trúng bạn. Tôi không làm CTCT gì cả. Chỉ trao đổi suy nghĩ cá nhân mà thôi. Trực tiếp dưới sự điều động của Hạm phó theo tinh thần bản nhiệm sở và chức vụ chỉ định.
Vài ngày sau, đơn vị được một số học sinh trường Nguyễn bá Tòng đến tặng vòng hoa chiến thắng trong một bầu không khí gượng ép nhạt nhẽo. Tiếp theo là các đề nghị thăng thưởng. Sau cùng, HQ5 âm thầm nhận bằng tuyên dương công trạng trước quân đội: anh dũng bội tinh với nhành dương liễu.
Tôi thuyên chuyển từ HQ5 lên BTL/HQ/HQ/LĐB (Bộ tư lịnh/Hải quân/Hành quân/ Lưu động Biển) toán không tuần vào tháng 5-1974. Khi trình diện nhận đơn vị, Đại tá Phạm mạnh Khuê hỏi tôi: “Tại sao HQ5 bắn HQ16”?. Tôi đã trấn áp sự bất bình, cố nuốt tiếng nấc và trả lời: “ Thưa Tư lịnh, biển động, trực xạ và có thể lạc đạn vì khi nhẩy sóng, vị trí quá xa, đạn đạo cầu vòng”.
Sự việc đã hơn 28 năm. Tôi không nghĩ câu chuyện đạn 127 ly của HQ5 nằm trong bụng HQ16 là một câu chuyện tếu như những câu chuyện tếu vô thưởng vô phạt khác. Tôi nghĩ rằng đó là một phát biểu thiếu nhận định khách quan, cụ thể của một số cá nhân không tinh thần trách nhiệm, quan điểm hẹp hòi. Mỗi cá nhân tham dự trận này đều có cái nhìn từ nhiều góc cạnh khác nhau do cương vị của chính mình và đơn vị mình lúc đó.
Bài viết của tôi có thể gây phật ý một số vị, cũng có thể gây ra tranh cãi, biện minh. Tôi chân thành xin được miễn thứ.
Một lần nữa, tôi xin kính cẩn nghiêng mình tưởng niệm các vị đã “VỊ QUỐC VONG THÂN”
Trương văn Liêm (k.1OCS)
Mùa Đông 2001, Dallas-Texas
Nguồn: HQVNCH
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 9:56:39 GMT 9
NGƯỜI ANH HÙNG HỌ NGỤY(Trần Mạnh Hảo - Sài Gòn 15-9-2009)  NGƯỜI ANH HÙNG HỌ NGỤY Trần Mạnh Hảo Bài từ miền Nam gửi ra Người yêu nước không thể nào là ngụy Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy Nhưng anh: Là Ngụy Văn Thà (*) Anh - hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo Lao thẳng vào tàu giặc cướp Tên anh còn mãi với Hoàng Sa Biển vật mình thét đại bác Giặc bủa vây chiến dịch biển người Lửa dựng trời dìm tàu giặc Máu anh cùng đồng đội ngời ngời Ôm chặt tàu Ôm chặt đảo Anh hóa thành Tổ Quốc giữa trùng khơi Gió mùa đông bắc gào khóc Ngụy Văn Thà Mãi mãi neo tàu vào quần đảo Tổ Quốc ngoài Hoàng Sa Trận chiến ba mươi phút Tượng đài anh là phong ba Đỉnh sóng khói hương nghi ngút Biển để tang anh bằng sóng bạc đầu Quần đảo nhấp nhô mộ phần liệt sĩ Linh hồn anh hú gọi đất liền Ngụy Văn Thà Tên anh không phải bài ca Tên anh là lời thề độc: - Phải giành lại Hoàng Sa Sóng vẫn vồ lấy đảo… Sài Gòn 15-9-2009 (*) Ghi chú: Theo báo Tuổi Trẻ ra ngày 14-9-2009: liệt sĩ thiếu tá Ngụy Văn Thà hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ-10 của hải quân Sài Gòn và đồng đội đã anh dũng hi sinh bảo vệ đảo Hoàng Sa (cùng các chiến hạm khác: HQ-4, HQ-5, HQ-16) trong trận hải chiến đẫm máu với tàu Trung Quốc xâm lược ngày 19-01-1974).                  
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 8:04:06 GMT 9
THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM VỚI CUỘC TỔNG CÔNG KÍCH TỔNG NỔI DẬY 1972 CỦA CSBV TẠI VÙNG I CHIẾN THUẬTTài liệu tổng hợp của MX Trần Văn Hiển  Tổng Thống Richard Nixon, trong bài diễn văn được truyền hình toàn quốc ngày 25 tháng 1 năm 1972, đã đề nghị một kế hoạch hòa bình 8 điểm nhằm chấm dứt chiến tranh VN, trong đó Hoa Kỳ đồng ý rút quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh khỏi VN trong thời hạn 6 tháng sau khi một hòa ước dược ký kết. Không đầy môt tuần lễ sau, ngày 31 tháng 1, Hà Nội đưa ra một kế hoạch hòa bình khác gồm 9 điểm. Hà Nội nhấn mạnh đòi quân đội Hoa Kỳ và quân đội ngoại quốc triệt thoái ngay khỏi Đông Dương và ngưng mọi hình thức viện trợ cho chính phủ VNCH. Về phía VNCH, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vừa tái đắc cử vào tháng 8/71, mạnh mẽ phản đối kế hoạch hòa bình của Hoa Kỳ, vì trong đó, TT Nixon đã bỏ điều kiện đòi CSBV rút quân đội khỏi Nam VN cùng một lúc với quân đội Hoa Kỳ. Nhằm tạo áp lực đưa Hà Nội đến bàn hội đàm một cách nghiêm chỉnh, chính phủ Hoa Kỳ, một mặt đẩy mạnh kế hoạch vận động ngoại giao quốc tế, mặt khác, tăng cường các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắt Việt và đường mòn Hồ chí Minh. Chuyến công du lần đầu tiên của TT Nixon qua Trung Cộng ngày 17 tháng 2/72 để mật đàm với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, rồi chuyến đi của Ngoại Trưởng Henry Kissinger qua Nga gặp Brezhnev và Kosygin trong tháng 4/72, và những cuộc oanh tạc nặng nề của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ xuất phát từ Đà Nẵng, Thái Lan và Hạm Đội 7, đã đưa đến kết quả là Hà Nội chấp thuận mở lại những cuộc hòa đàm giữa Ngoại Trưởng Kissinger và Lê Đức Thọ vào đầu tháng 5/72 tại Paris. Trong khy đó, để hậu thuẫn cho cuộc thương thuyết, Hà Nội áp dụng chiến thuật cố hữu "vừa đánh vừa đàm". Cuối tháng 3/72, CSBV và MTGPMN mở cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa (TCK-TKN) mang tên "Cuộc tấn công Nguyễn Huệ" (người Hoa Kỳ gọi là "Easter Offensive" vì nhằm đúng vào dịp cuối tuần lễ Phuc Sinh). Cuộc tấn công đã diễn ra đồng loạt trên 3 mặt trận: Mặt trận thứ nhất khởi diễn tai Vùng 1 Chiến Thuật vào ngày 30 tháng 3 với 6 sư đoàn CSBV 304, 308, 312, 324, 325, Mặt Trận B-5(4 trung đoàn) cùng vói 2 trung đoàn biệt lập, vượt sông Bến Hải và từ phía Tây từ biên giới Lào, tấn công Sư Đoàn 3 Bộ Binh(SĐ3/BB) và 2 Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái, lúc đó đang tran thu giới tuyến. Mặt trận thứ nhì diễn ra vài ngày sau đó, ngay 5 thang 4 bằng 3 sư đoàn CSBV 5, 7 và 9 từ biên giới Cam Bốt xâm nhập Vùng 3 Chiến Thuật, tấn công Tỉnh Bình Long, chiếm Lộc Ninh và bao vây An Lộc, cách Sài Gòn 96 cây số. Mặt trận thứ ba tại Vùng 2 Chiến Thuật, khai diễn tiếp theo vào ngày 6 tháng 4, nỗ lực chính với 3 sư đoàn 2, 320 và sư đoàn Sao Vang cùng nhiều tiểu đoàn biệt lập, tấn công Kontum, Dakto, Tân Cảnh, đèo Mang Yang và nhằm cắt đứt quốc lộ 1, nơi giáp ranh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chủ đích tách rời Vùng 1 khỏi lãnh thổ Miền Nam, để MTGPMN có đất, có dân và có thế đứng thương thuyết. GIAI ĐOẠN 1: CSBV XÂM LĂNG TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG. Lực lượng QLVNCH tai Vùng 1 Chiến Thuật (phía Bắc đèo Hải Vân) gồm có: -Sư Đoàn 1/BB trách nhiệm lãnh thổ Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, -Sư Đoàn 3/BB, -Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh với Thiết Đoàn 20 chiến xa M-48, -Lữ Đoàn 147 và 258/TQLC, -Và lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân(ĐPQ/NQ), trách nhiệm Tỉnh Quảng Trị và Thị Xã Đông Hà diện tích rộng trên 300 dặm vuông. Hai lữ đoàn TQLC được đặt dưới quyền điều động hành quân của BTL/SĐ3, một đại đơn vị tân lập, vừa hoàn tất chương trình huấn luyện đơn vị trước đó 6 tháng, chưa có kinh nghiệm nhiều về hành quân từ cấp trung đoàn trở lên và phối hợp hỏa lực hành quân liên quân binh chủng. Các đơn vỉ tại giới tuyến được phí trí như sau: -Trung Đoàn 57/SĐ3/BB tại các căn cứ A1, A2, A3 và C1(Gio Linh). -Trung Đoàn 2/SĐ3/BB tại A4(Cồn Thiên), Fuller, C2 và C3. -Trung Đoàn 56/SĐ3/BB tại Cam Lộ, Khe Gió và Carroll (Tân Lâm). -Lữ Đoàn 147/TQLC tại 4 cứ điểm: núi Bá Hô, Sarge, Holcomb và Mai Lộc. -Lữ Đoàn 258/TQLC trừ bị tại những cứ điểm: Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara và Nancy. -Lực lượng ĐPQ/NQ phụ trách các đồn bót và cầu cống, dưới quyền điều động chiến thuật của Tiểu khu Quảng Trị. -Ba Liên Đoàn 1, 4 và 5 Biệt Động Quân (BĐQ) được tăng cường sau khi nhiều vị trí của SĐ3/BB và TQLC tại Đông Hà và Quảng Trị thất thủ. Lực lượng Cộng quân: Để chuẩn bị cho cuộc đại tấn công này, CSBV đã được Nga Sô và Trung Cộng viện trợ một số lượng vũ khí tối tân khổng lồ. Trong hai năm 70 và 71, nhiều số lượng vũ khí đã đưọc vận chuyển đến Bắc Việt gồm: chiến đấu cơ MIG 19 và 21, hỏa tiễn địa không SA-2, chiến xa T-54, T-55, chiến xa lội nước PT-76, đại bác 130 và 152 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 160 ly, đại liên phòng không 23 và 57 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 chống phi cơ,hỏa tiễn AT-3 chống chiến xa, và nhiều vũ khí cá nhân hiện đại khác. Tướng Võ Nguyên Giáp đã tung chủ lực gồm 14 sư đoàn chính quy CSBV, 26 trung đoàn biệt lập và các đơn vị trợ chiến khác vào chiến dịch TCK-TKN này. Tại Vùng 1 Chiến Thuật, CSBV tấn công bằng các Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt Trận B-5 (gồm 4 trung đoàn), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương. Trong tháng 4 và 5/72, 2 Su đoàn 320 và 325 từ BV xuống và Sư đoàn 312 từ Lào về tăng cường tấn công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị. Tương quan lực lượng giữa Ta và Địch là 1 chống 4. DIỄN TIẾN CUỘC TẤN CÔNG. Ngày 30 tháng 3/72, lúc 11 giờ sáng, tại tuyến phòng thủ phía Tây, 2 cứ điểm Sarge và núi Bá Hô của Tiểu Đoàn 4/TQLC phát hiện quân CSBV điều động ào ạt. Pháo binh bạn được yêu cầu bắn ngăn chặn và tiêu diệt. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 8/TQLC tại cứ điểm Holcomb bị pháo kích và tấn công. Đúng 12 giờ trưa, chủ lực CSBV trên 45,000 quân gồm 3 sư đoàn chính qui, 4 trung đoàn của Mặt Trận B-5, 2 trung đoàn chiến xa T-54 T-55 và PT-76, được pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2 yểm trợ, đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi dùi tấn công phòng tuyến của SĐ3/BB và LĐ 147/TQLC. Trước đó, từ 8 giờ sáng, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ3/BB cho lệnh hoán đổi khu vực hoạt động của 2 Trung Đoàn 2 và 56/BB, trùng vào ngày giờ CSBV mở cuộc tổng tấn công, mặc dù Ông đã được Phòng 2/QĐ1 và cố vấn Hoa Kỳ báo động trước sẽ có cuộc tấn công lớn của CSBV. Trong cuốn "Easter Offensive" của Ông Gerald H. Turley, Đãi tá TQLC/HK hồi hưu đã cho biết thêm chi tiết: "...Theo chương trình, vào trưa ngày 30/3, Tướng Giai và vị cố vấn Hoa Kỳ sẽ bay về Sài Gòn nghỉ lễ Phục Sinh cuối tuần, mặc dù việc hoán đổi vị trí của 2 trung đoàn đến 6 giờ chiều mới hoàn tất...". Khi CSBV mở màn cuộc tấn công và pháo kích, 60 phần trăm lực lượng của hai trung đoàn này còn đang trên đường di chuyển hoán đổi, đã không kịp phản ứng, tuyến phòng thủ nhiều nơi bị bỏ ngỏ. Hỏa lực pháo binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam. Chiến xa T-54 và chiến xa lội nước PT-76 vượt sông Bến Hải bắn phá, gây kinh hoàng và bất ngờ cho binh sĩ trú phòng tuyến đầu. Trong 24 giờ đầu của cuộc tấn công, trên 5,000 quả đạn pháo binh, hỏa tiễn và súng cối đủ loại của CS đã rơi vào 12 căn cứ hỏa lực và phòng thủ chính của quân VNCH. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị CSBV pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm trợ được cho quân bạn và bắn phản pháo. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể yểm trợ đươc cho quân bạn. Tính đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch tấn công tràn ngập căn cứ Sarge. 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4, Bộ Chỉ Huy LD147/TQLC mất liên lạc với TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công. Trước đó, ngày 30/3, BTL/QĐ1 điều động TĐ7/TQLC từ Đà Nẵng tăng cương mặt trận Quảng Trị cho LĐ147/TQLC. Đồng thời, TĐ3/TQLC thuộc LĐ258/TQLC phòng thủ cứ điểm Nancy phía bắc sông Mỹ Chánh đươc điều động lên Đông Hà dể giữ an ninh quốc lộ 9 từ Đông Hà đến Cam Lộ. Ngày 31/3, BCH/LĐ 258/TQLC được điều động lên căn cứ Ái Tử, nơi đặt bản doanh BTL/SĐ3/BB, liền bị pháo kích trên 800 đạn pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. TĐ6/TQLC từ căn cứ Barbara lên tăng cường và phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong đêm, Tướng Giai cùng với một số sĩ quan tham mưu SĐ triệt thoái về cổ thành Quảng Trị, không còn liên lạc trực tiếp được với các đơn vị cơ hữu và tăng phái. Việc phối hợp điều quân và yểm trợ hỏa lực phi pháo tạm thời do BCH/LĐ258/TQLC và toán cố vấn HK do Trung Ta Gerald H.Turley, cố vấn phó SĐ/TQLC đang bị kẹt tại đây, khi ông vừa từ Sài Gòn ra thăm các cố vấn TQLC/HK và các đơn vị TQLC/VN. Qua ngày 1/4/72, chiến trương giớo tuyến càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) và Holcomb ( TĐ/8TQLC) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH. Địch xử dụng những máy truyền tin tịch thu được từ những đơn vị thất trận để quấy phá hệ thống liên lạc của QLVNCH và cho những lệnh ngụy tạo, làm xáo trộn việc điều quân, gây hỗn loạn thêm cho binh sĩ VNCH. Ngày 2/4, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1. Một trục chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, tiến dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN, lực lượng bộ binh CSBV với chiến xa T-54 và PT-76 yểm trợ, trực diện với TQLC có đại bác 106 ly và hỏa tiễn M-72 chống chiến xa. Hải pháo của Hạm Đội 7 HQ/HK yểm trợ bắn vào 2 đoàn chiến xa CSBV. Kết quả, một số chiến xa bị trúng đạn, gây nhiều tiếng nổ phụ và 4 cột khói và đám cháy lớn. Thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà, trước những cặp mắt nhìn vô vọng của quân bạn. Để đề phòng chiến xa địcg vượt qua cầu Đông Hà, toán công binh chiến đấu TQLC và cố vấn HK đã can đảm, dưới hỏa lực che chở của bộ binh, đặt trên 500 cân Anh thuốc nọ dưới gầm cầu Đông Hà và cầu xe lửa gần đó. Đúng vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, 2 chiếc cầu này được giật xập, ngăn cản phần nào kế hoạch của CSBV dùng cầu này đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam. Một biến cố xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến đó là, căn cứ hòa lữc Carroll cách vùng phi quân sự 13 cây số, sau 3 ngày liên tiếp bị pháo kích và bao vây, sau khi toán cố vấn HK may mắn được một trực thăng HK bốc đi, đã mất về tay địch. Đúng 14 giờ 30 chiều, cờ trắng được kéo lên tại căn cứ Carrol. Trung Tá Phạm Văn Đính, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56/BB, sau khi họp với các cấp chỉ huy trực thuộc, đã liên lạc với đối phương xin đầu hàng cùng với gần 1,500 binh sĩ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Ngày hôm sau, qua làn sóng đài phát thanh của Hà Nội và MTGPMN, người ta nghe được tiếng nói của Trung Tá Đính kêu gọi chiến sĩ QLVNCH đầu hàng. Về phía TQLC, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng trong đêm 30/3 phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 đã liên lạc lại được với BCH/LĐ147/TQLC và tập trung tại căn cứ Mai Lộc cùng với Thiếu Tá Walter Boomer, cố vấn trưởng tiểu đoàn (Sau này, Ông lên cấp trung tướng tư lệnh quân đoàn gồm 2 sư đoàn TQLC/HK trong trận chiến Vùng Vịnh đầu năm 1991). Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hất đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, lực lượng này về tới Đông Hà, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về tuyến sau tái bổ sung. Sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, lực lượng QLVNCH tại giới tuyến đã mất 53 khẩu trọng pháo đủ loại, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị. Hầu hết các căn cứ phòng thủ tuyến đầu bị thất thủ. Các vị trí phía sau như của LĐ258/TQLC với các TĐ1, 3 và 6 TQLC tại Phượng Hoàng, Ái Tử và Đông Hà vẫn còn được duy trì. Về phía Hoa Kỳ, hỏa lực yểm trợ của phi cơ chiến lược B-52 và chiến thuật đã được tăng cường cấp thời oanh tạc các vị trí tập trung quân CSBV tại giới tuyến và tại Bắc Việt. Ngày 3/5, hai hàng không mẫu hạm Kitty Hawk và Coral Sea tiến vào hải phận VN hợp lực với hai hàng không mẫu hạm Hanthingy và Constellation hiện có trong vùng, tăng số phi cơ oanh tạc của Hải quân lên 275 chiếc và 250 chiếc khác của không quân từ Đà Nẵng và Thái Lan, tạo nên một hỏa lực không trợ hùng hậu chưa từng thấy, kể từ sau cuộc oanh tạc Bắc Việt năm 1968. Thời gian từ ngày 3 đến 8/4, một mặt, các đơn vị bộ binh bạn tái phối trí chung quanh căn cứ Ái Tử và Thị xã Quảng Trị, mặt khác, TĐ3/TQLC vẫn án ngữ tuyến phòng thủ phía Bắc, đẩy lui nhiều cươc tấn công của quân CSBV, bắn cháy 3 chiến xa PT-76 khi chúng mưu toan vượt qua sông Cửa Việt và Đông Hà. Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Mặc dù toàn bộ lực lượng của SĐ/TQLC đã có mặt tại giới tuyến, nhưng 2 trong 3 LĐ/TQLC vẫn đặt dưới quyền điều động hành quân trực tiếp của BTL/SĐ3/BB, đây là một sai lầm quan trọng về chiến thuật khi xử dụng toàn bộ một SĐ Tổng Trừ Bị của BTL/QĐ1, để mãi 2 tháng sau khi Tướng Ngô Quang Trưởng thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm, mới được điều chỉnh lại. Do đó, đã có nhiều trường hợp, các đơn vị TQLC và BĐQ chỉ thi hành lệnh của BTL/SĐ3/BB khi đã được cấp chỉ huy đơn vị gốc chấp thuận. Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị. Vì cầu Đông Hà đã bị giật xập, nên bộ binh và chiến xa CSBV phải qua sông bằng cầu Cam Lộ phía Tây. Từ đó, một cánh quân tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam, một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây. Sáng ngày 9/4, 2 tiểu đoàn CSBV phối hợp với chiến xa T-54 tấn công TĐ6/TQLC tại căn cứ Phượng Hoàng (Pedro). Nhờ pháo binh TQLC từ căn cứ Ái TỬ yểm trợ hữu hiệu, quân bạn đã chận đứng nhiều đợt xung phong. Trận xa chiến tuyệt vời trên đồi Phượng Hoàng giữa đoàn Cọp Biển dùng hỏa tiễn chống chiến xa M-72 phản công quân CSBV tháp tùng chiến xa, tại địa điểm 10 cây số Tây Nam Quảng Trị khi Cộng quân thọc mũi dùi tấn công về thị xã này. LĐ 258/TQLC điều động 2 đại đội của TĐ1/TQLC từ Ái Tử cùng với thiết đoàn 20 chiến xa M48 và thiết vận xa M113 tăng cường cho TĐ6/TQLC. Cuộc phản công phối hợp diễn ra ác liệt và phần thắng lợi nghiêng hẳn về phía liên quân binh chủng pháo binh, thiết giáp, không quân và TQLC. Phi cơ Skyraider VN lên yểm trợ kịp thời, bắn cháy nhiều chiến xa. Các binh sĩ TQLC lên tinh thần tiến gần địch quân, dùng hỏa tiễn M72 và dại bác không dật 106 ly bắn cháy nhiều chiến xa T-54 . Sau hơn 2 giờ tử chiến, 13 trong số 16 chiếc T-54 bị bắn cháy tại chỗ, 3 chiếc còn lại bỏ chạy về hướng thung lũng Ba Lòng, bị pháo binh ta bắn chặn đầu, quá hoảng sợ, xạ thủ và tài công rời chiến xa bỏ chạy thoát thân, để lại 2 chiếc T-54 còn nổ máy tại chỗ, được TQLC lái về căn cứ Ái Tử (sau đó được đưa về Sài Gòn triển lãm cho dân chúng xem cùng với các chiến lợi phẩm khác). Địch để lại trận địa 157 xác chết với toàn bộ vũ khí. Trong hai ngày 10 và 11/4, quân CSBV mở thêm nhiều đợt tấn công vào căn cứ Phượng Hoàng nhưng bị pháo binh bạn và lực lượng trú phàng đẩy lui, để lại 211 xác chết và nhiều vũ khí. Tài liệu tịch thu được cho biết, 2 trung đoàn của sư đoàn 304/CSBV có nhiệm vụ đánh chiếm Phượng Hoàng và Ái Tử. Qua trận chiến phía Tây Bắc giới tuyến này chứng tỏ, vũ khí của QLVNCH có đủ khả năng chống trả lại những chiến xa Nga sô và Trung Cộng trang bị cho quân CSBV. Kinh nghiệm sương máu của các Cọp Biển TQLC lần đầu tiên dùng hỏa tiễn M72 hạ chiến xa địch, đã được Bộ TTM QLVNCH phổ biến cho toàn quân đang chiến đấu trên các mặt trận. Kể từ đó, chiến xa CSBV và chiến thuật tấn công theo thế chân vạc Pháo-Bộ-Xa không còn là một mối nguy hại trên trận địa nữa. Ngày 23/4, LĐ147/TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC, sau một thời gian ngắn nghỉ bồi dưỡng, đã thay thế vùng trách nhiệm cũa LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng. LĐ258/TQLC và 2 TĐ3 và 7/TQLC về Huế tái bổ xung. Trong thời gian này, Trung Đoàn 57/BB, LĐ1 Kỵ Binh, 2 Liên Đoàn 4 và 5/BĐQ phòng thủ tuyến Đông Hà phía Bắc và Đông căn cứ Ái Tử. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hãn. Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đã mở nhiều mũi dùi tấn công LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ. Ngày 28/4, địch đè nặng áp lực lên lực lượng BĐQ tại Đông Hà, khiến đơn vị này phải lui quân về Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC, trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng Trị. Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được bảo mật và thi hành tốt đẹp. Nhưng, cũng vì thiếu phối hợp, toán công binh SĐ3/BB đã đặt chất nổ giật xập cầu Quảng Trị trên QL1 và cầu xe lửa bắc qua sông Thạch Hãn trướoc khi đoàn xe của TĐ2/PB/TQLC với 12 khẩu pháo 105 ly đi qua. Đoàn xe và súng kẹt ở bờ phía Bắc, được lệnh phá hủy tại chỗ. Ba TĐ1, 4 và 8/TQLC vượt sông Thạch Hãn an toàn, chiếm giữ các vị trí phòng thủ trong Thị Xã Quảng Trị. Sáng ngày 1/5, BTL/SD3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: "5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị", và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1. Vào giữa trưa, Bộ tham mưu SĐ3/BB và 8 cố vấn HK đã được 3 trực thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành Quảng Trị (16 cố vấn TQLC/HK vẫn ở lại với các đơn vị TQLC/VN), để lại phía sau các đơn vị thuộc quyền "tùy nghi ứng biến", đánh dấu một ngày đầy bi thảm của các đơn vị và đồng bào đang kẹt tại Thị Xã Quảng Trị. Quốc lộ 1, quãng đường gần quận Hải Lăng, cách Quảng Trị hơn 10 cây số phía Nam mất an ninh nhiều ngày trước. Đoàn quân triệt thoái không đội hình, quân xa các loại và đồng bào chạy loạn bị địch phục kích tấn công, gây thiệt hại thảm khốc. Hàng trăm chiến xa, xe quân sự, xe hàng, xe tư nhân đủ loại bị bắn cháy, nằm ngổn ngang trên quốc lộ và hai bên đường. Quân nhân và thường dân, lớn bé già trẻ chết thảm khốc, nằm chồng chất lên nhau trên đường, dưới ruộng. Một phóng viên ngoại quốc chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên cho đoạn đường này là "Đại Lộ Kinh Hoàng". Vào lúc 14 giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa và thiết vận xa còn lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đã đụng độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đã tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người chạy giặc đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC án ngữ. Chiều tối, địch nã trọng pháo nặng nề vào tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sáng sớm ngày 3/5, quân CSBV có chiến xa yểm trợ, tấn công cầu Đập Đá trên sông Mỹ Chánh do TĐ9/TQLC án ngữ. Kết quả, 17 chiến xa bị bắn cháy, trên 500 xác địch để lại trận địa. Địch tiến sát phòng tuyến sông Mỹ Chánh và ngăn chận tất cả các ngả đường dân chúng di tản về hướng Nam. ĐOẠN KẾT GIAI ĐOẠN I. Hai LĐ147 và 258/TQLC đã bị tổn thất nặng nề trong giai đoạn 1, nhất là tại mặt trận phía Tây, nhưng các đơn vị vẫn giữ được đội hình và tổ chức, nhờ đó đã tạo được thời gian trì hoãn và truy cản cần thiết để Bộ TTM tại Sài Gòn và BTL/QĐ1 tại Đà Nẵng tái phối trí lực lượng và phản công sau này. Riêng LĐ369/TQLC, đa cố thủ được tuyến Mỹ Chánh, và nhờ đó các đơn vị QLVNCH, những quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào chạy giặc đến được vùng đất an toàn. Đồng thời, đã bẻ gãy kế hoạch thừa thắng tấn chiếm Tỉnh Thừa Thiên và Cố Đô Huế của Võ Nguyên Giáp. Phòng tuyến Mỹ Chánh sau ngày 2/5, do lực lượng của SĐTQLC và một số đơn vị tăng phái án ngữ đã trở thành tuyến đầu cùa VNCH sau cuộc xâm lăng phi pháp của CSBV cuối tháng 3/72. Và cũng từ phòng tuyến này, những đoàn quân dũng mãnh của QLVNCH dùng để xuất phát taqn công tái chiếm vùng đất đã mất là Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị. Trong lúc tình hình khẩn trương và sau khi nhận định Tướng Lãm và BTM/QĐ1 của Ông không còn khả năng và uy tín để chỉ huy những đại đơn vị thuộc quyền, và một phần tình hình quân sự Vùng 4 Chiến Thuật tương đối yên tĩnh, nên ngày 1/5, TT Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐ4 thay thế Tướng Lãm trong chức vụ Tư Lệnh QĐ1. Tướng Trưởng từng là Tư lệnh SĐ1/BB dưới quyền Tướng Lãm, Ông linh cảm được sự thay thế này, nên đã tuyển chọn trước một số sĩ quan thâm niên và kinh nghiệm, cả về chiến thuật lẫn tham mưu để theo Ông ra Vùng I. Ngày 4/5/72, Đại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Phó SĐ, sĩ quan có nhiều kinh nghiệm về tham mưu, được TT Thiệu bổ nhiệm làm Tư Lệnh SĐ/TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang. Tướng Khang về Bộ TTM giữ chức vụ Phụ tá Hành quân cho Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên. Kể từ ngày TQLC được tổ chức thành sư đoàn vào đầu năm 1970, lần đầu tiên, BTL/SĐ/TQLC trực tiếp chỉ huy và điều động toàn bộ lực lượng trực thuộc với một vùng trách nhiệm chiến thuật được giao phó. Một vài sự kiện khác cũng đã xảy ra: Ngày 4/5/72, trong khi TT Thiệu thăm viếng vùng hỏa tuyến, tờ nhật báo "Pacific Stars and Stripes" của quân đội HK vùng Thái Bình Dương đăng lá thư của Tướng Vũ Văn Giai bằng Anh ngữ, trong đó Ông viết: "...Tôi chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử và pháp luật về cuộc triệt thoái này. Thị Xã Quảng Trị đã hoang tàn đổ nát. Lương thực, đạn dược và nhiên liệu dự trữ đã cạn. Các đơn vị tác chiến đã quá mệt mỏi. Tôi thấy không còn lý do nào chính đáng để ở lại bảo vệ những hoang tàn đổ nát ấy. Tôi ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền triệt thoái trong trật tự để tái củng cố lực lượng, thiết lập phòng tuyến và mặt trận mới, để tấn công lại đối phương nếu chúng vẫn còn duy trì cuộc chiến tranh đầy sai trái này...". Ngày 5/5/72, TT Thiệu bổ nhiệm Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh thay thế Chuẩn Tướng Giai trong chức vụ Tư Lệnh SĐ3/BB vào lúc đơn vị chỉ còn lại chưa đầy 1/4 quân số (2,700 người), trong đó hơn 1,000 quân nhân được dùng để tái thành lập Trung Đoàn 56/BB (đã đầu hàng tập thể ngày 2/4 tại căn cứ Carroll). SĐ3/BB được lệnh tạm ngưng các cuộc hành quân chiến thuật đến cuối năm 72, để dồn nỗ lực vào việc tái tổ chức và huấn luyện đơn vị. GIAI ĐOẠN 2 : TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ. PHÒNG THỦ HUẾ. Ngay sau khi nhận chức Tư Lệnh Vùng 1 ngày 1 tháng 5, Trung Tưởng Ngô Quang Trưởng thấy ngay hai nhiệm vụ phải hoàn tất: Phòng thủ thị xã Huế và tái chiếm Tỉnh Quảng Trị. Hai nhiệm vụ này không dễ gì đạt được trước tình trnạg tinh thần chiến aấu sa sút của binh sĩ doới quyền. Trong khi đó, hàng trăm ngàn đồng bào tị nạn cộng snả từ Quảng Trị đổ dồn về Huế và Ðà Nẵng, tệ trạng phá phcáh cướp bóc xảy ra trên đường phố Huế, do một số quân nhân thất trận bỏ ngũ ừừ mặt trận Quảng Trị chạy về. Thêm vào đó, đặc công cộng sản trá hình thường dân tuyên truyền rỉ tai, gây bạo động, đốt chợ Động Ba, vật giá leo thang v.v... tất cả đã gây hoang mang và lo sợ cho đồng bào và làm suy giảm thêm tiềm năng chiến đấu của quân đội. Trước tình hình đó, ngày 3/5, Tướng Trưởng ban hành lệnh giới nghiêm toàn tỉnh Thừa Thiên, buộc tất cả quân nhân phải trở về đơn vị, cho lệnh bắn tại chỗ những người mang vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp. Lực lượng chính yếu phòng thủ Huế chỉ còn lại 2 Trung Đoàn của Sư Đoàn 1/BB và Sư Đoàn TQLC. Lực lượng TQLC phòng thủ từ ranh giới tỉnh Thừa Thiên phía Bắc (sông Mỹ Chánh) tới sông Bồ. Sư Đoàn 1/BB tiếp nối từ sông Bồ về phía Nam thành phố Huế. Với một đường lối chỉ huy rõ ràng, đơn giản và linh động đối với các đon vị trưởng trực thuộc, Tướng Trưởng nói: "...Sư Đoàn TQLC và Sư Đoàn 1/BB, được toàn quyền mở những cuộc hành quân trong khu vực trách nhiệm để tiêu diệt lực lượng địch. Điều quan tâm của tôi lúc này là thiết lập hệ thống phòng thủ có chiều sâu, lực lượng trừ bị mạnh, và xen kẻ các đơn vị Địa Phương Quân vào lực lượng chủ lực quân trong kế hoạch phòng thủ...". Để hổ trợ cho các lực lượng phòng thủ, Tướng Trưởng đề ra một kế hoạch hỏa lực thế công đại quy mô, mang tên "Lôi Phong", gồm hỏa lực của phi cơ chiến lược B-52, phi cơ chiến thuật Việt-Mỹ, hải pháo của Hạm Đội 7 và pháo binh QLVNCH, tập trung vào từng mục tiêu địch, được phối kiểm qua những nguồn tin chính xác cung cấp, đặc biệt nhắm vào những tuyến đường tiếp tế yểm trợ những cuộc tấn công của địch. Một kế hoạch hỏa lực "Lôi Phong" điển hình nhắm vào các lộ trình tiếp vận của địch, đã triệt hạ phần lớn tiềm năng tấn công của địch vào thị xã Huế từ hướng Nam. Nhu cầu tái trang bị cho các đơn vị QLVNCH tại Vùng I trở nên khẩn thiết. Các quân dụng đang được Hoa Kỳ viện trợ cấp thời. Phi trường Đà Nẵng bận rộn ngày đêm với những phi vụ của phi cơ vận tải khổng lồ C-141 và C-5A lên xuống. Trên 200 chiến xa đủ loại, hàng trăm khẩu pháo binh đủ loại và xe vận tải được thay thế cấp thời. Những phi vụ C-130 của TQLC Hoa Kỳ từ Okinawa đến, chở quân dụng và vũ khí thay thế trực tiếp cho các đơn vị TQLC Việt Nam. Lần đầu tiên, từ đầu tháng 5/72, hỏa tiển điều khiển chống chiến xa TOW được dưa qua VN, và theo chỉ thị của Tư Lệnh MACV, Tưóng Creighton Abrams, vũ khí mới này chỉ được trang bị cho các đơn vị TQLC và Nhảy Dù. Để rút ngắn thời gian chuẩn bị, Tướng Trưởng ra lệnh thu ngắn thời gian huấn luyện đơn vị còn lại 2 tuần lễ để sẵn sàng chiến đấu. Ngày 1/5, theo lời yêu cầu khẩn cấp của Tướng Trưởng, Bộ TTM/QLVNCH điều động Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù từ Vùng 3 ra tăng cường Vùng 1, được BTL Quân Đoàn 1 tăng phái cho Sư Đoàn TQLC phòng thủ tuyến đầu. Dau đó, Liên Đoàn 1/BĐQ cũng được tăng cường thêm cho SĐ/TQLC phòng thủ khu vực Tây Bắc. Ngày 5/5, Lữ Đoàn 258/TQLC được điều động lên trách nhiệm phòng thủ phía Tây Quốc lộ 1 từ sông Mỹ Chánh. Lữ Đoàn 369/TQLC phòng thủ phía Đông từ Quốc lộ 1 ra đến bờ biển. PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ Đầu tháng 5/72, Tổng Thống Nixon đã có những quyết định quan trọng: - Cho lệnh ngưng những cuộc đàm phán với CSBV tại Paris - Phong tỏa bờ biển Bắc Việt - Thả thuỷ lôi hải cảng Hải Phòng và nhiều hải cảng khác - Tái oanh tạc các mục tiêu trên toàn lãnh thổ miền Bắc. Không và Hải quân Hoa Kỳ khai diễn cuộc không kích mang tên "Bảo vệ chiến tuyến" (Linebacker). Tất cả những mục tiêu cũ và mới đều bị oanh tạc. Những mục tiêu như cầu Hàm Rồng ở Hà Nội mới vừa sửa chữa xong, những cầu xe lửa quan trọng phía Đông Bắc và Tây Bắc nối liền với Trung Quốc, những bồn chứa dầu, những nhà kho chứa hàng, bãi đậu xe, những trung tâm điện lực, hệ thống ống dẫn dầu và nhất là các vị trí hỏa tiển SAM và phi trường phản lực. Tất cả đều bị oanh tạc và tái oanh tạc nặng nề. Một kế hoạch không tập đặc biệt liên tiếp 11 ngày vào cuối tháng 10/72 với 740 phi vụ B-52 và trên 1,000 phi vụ phản lực cơ chiến thuật nhắm vào những mục tiêu giới hạn như: những nhà ga xe lửa, trung tâm điện lực ở những thành phố lớn, cảng Hải Phòng, những trung tâm viễn thông, những đài radar .... Kết quả của nhiều tháng oanh tạc, phi cơ Hoa Kỳ không còn bắt gặp phi cơ MIG trên không phận Bắc Việt và cường độ hỏa lực phòng không cũng giảm sụt hẳn. Tại miền Nam, không lực Hoa Kỳ, đặc biết phi cơ chiến lược B-52 đã giữ vai trò yểm trợ chủ yếu và hữu hiệu cho QLVNCH, gây tổn thất nặng nề cho lực lượng CSBV, trên trận địa cũng như trên đường mòn HCM, giúp phần lớn vào chiến thắng của QLVNCH trên cả 3 chiến tuyến: Trị Thiên, Cao Nguyên Trung Phần và Bình Long, An Lộc trong mùa hè 1972. NHỮNG CUỘC TẤN CÔNG THĂM DÒ Từ giữa tháng 5/72, các đơn vị phòng thủ Thừa Thiên bắt đầu mở những cuộc tấn công giới hạn để thăm dò. Ngày 12/5, LĐ-369/TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 5-72, một đơn vị Viễn Thám TQLC vượt sông Mỹ Chánh ban đêm, chiếm cứ một vị trí để đặt bộ chỉ huy hành quân cho ngày hôm sau. Sáng sớm hôm sau, trực thăng của LĐ-9 Thủy Bộ TQLC/Hoa Kỳ từ quân vận hạm Okinawa bay vào bốc Tiểu Đoàn 3 và 8 TQLC đổ bộ xuống vùng kế cận phía Tây quận lỵ Hải Lăng, 10 cây số phía Nam thị xã Quảng Trị. Cuộc hành quân trực thăng vận chớp nhoáng vào hậu tuyến địch đã gây bất ngờ, khiến địch không kịp trở tay. Trên 1,200 Cọp Biển đã được trực thăng vận xông vào lúc 9 giờ sáng, chỉ có một chiếc trực thăng CH-53 bị trúng đạn, được phá hủy tại chỗ. Hai Tiểu Đoàn TQLC tảo thanh nhanh chóng về hướng Nam để giao tiếp với Tiểu Đoàn 9 TQLC, cũng trong buổi sáng hôm đó vướt sông Mỹ Chánh tiến về hướng Bắc. Trung đoàn 66/CSBV bị tấn công bất ngờ từ hai hướng Bắc và Nam đã phân tán lực lượng và né tránh giao tranh. Địch có trên 200 tên chết do hỏa lực của phi pháo, phía TQLC chỉ bị tổn thất nhẹ. Các cánh quân đã tiến nhanh để trở lại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh trong buổi tối cùng ngày. Ba ngày sau 15/5, hai Trung Đoàn của SĐ 1/BB mở cuộc hành quân thăm dò, nhằm tái chiếm những căn cứ đã mất trước đó 3 tuần. Hai Trung Đội cảm tử được trực thăng vận vào căn cứ hỏa lực Bastogne. Bị tấn công bất ngờ, địch bỏ chạy. Chiều tối, lực lượng chính của SĐ 1/BB tiến đến Bastogne và kiểm soát hoàn toàn căn cứ này. Hơn 1 tuần sau đó, căn cứ Checkmate cũng được SĐ 1/BB tái chiếm lại. Kế hoạch hỏa lực "Lôi Phong" của Tưóng Trưởng có kết quả trông thấy, trong vùng hành quân của SĐ 1/BB. Tin tình báo Hoa Kỳ cho biết, SĐ 324B CSBV bị tổn thất nặng nề về nhân mạng do hỏa lực pháo binh ta và đã phải triệt thoái về bên kia biên giới Lào để tái bổ xung. Sau khi bi tan cong bat ngo vao hau tuyen, ngay 21/5, quan CSBV va chien xa, tan cong vao khu vuc Lu Doan 369/TQLC. Khong nhu nhung cuoc tan cong truoc day cua dich thuong ap dung chien thuat "tien phao hau xung", lan nay bo binh va chien xa dich dan doi hinh han hoi tan cong vao tuyen My Chanh theo huong lo 555 gan bo bien. Khi thay chien xa dich xuat hien, luc luong Dia Phuong Quan tai day rut lui. Theo da, dich thoc sau ve tuyen sau cua ta de bao vay va danh boc hau 2 Tieu Doan 3 va 9/TQLC, nhung 2 don vi nay da tai phoi tri ve tuyen sau gan 5 cay so theo ke hoach. Nho hoa luc yem tro cap thoi cua khong quan Viet-My, phao binh va chien xa yem tro truc tiep, TQLC da danh bat dich lui tro lai tuyen phong thu cu vao chieu toi cung ngay. Sang som hom sau 22/5, mot luc luong khac cua dich voi 20 chien xa mo dot tan cong lan thu 2 vao Tieu Doan 3/TQLC va Bo Chi Huy cua Lu Doan 369 TQLC. Cac Cop Bien da xu dung hoa tien TOW va M-72 ban chay nhieu chien xa, 5 chien xa PT-76 bi ban chay cach ham chi huy cua Lu Doan 400 thuoc. Tong ket, sau 2 cuoc tan cong cua dich, 10 chien xa T-54 va PT-76 bi ban chay va 542 xac dich de lai tai cho. Phia TQLC bi thiet hai trung binh. Ngay 25/5, dich chuyen mui dui tan cong sang phia Tay, vung trach nhiem cua Lu Doan 258 TQLC. Ba ngay lien tiep, dich dan tran tan cong giua ban ngay, nhung da tro thanh nhung muc tieu tot cho phao binh va khong quan ta tieu diet. Ngay 26/5, Lien Doan 1/BDQ bi dich tan cong manh, chung co gang pha vo tuyen phong thu cua ta, dich da lot vao duoc toi Bo Chi Huy cua mot vai Tieu Doan BDQ, nhung sau cung, da bi day lui, de lai tren tran dia tren 200 xac chet va nhieu vu khi. Mac du tran chien phia Tay cua Lu Doan 258/TQLC con dang soi dong, Su Doan TQLC mo tiep cuoc hanh quan Song Than 6-72 voi 3 tieu doan cua Lu Doan 147/TQLC. Ngay 23/5, Tieu Doan 7/TQLC di chuyen den ben tau Tan My, 5 cay so phia Dong Bac thi xa Hue, de ra Ham Doi 7 dau ngoai khoi, tham du cuoc hanh quan do bo bang duong bien, phoi hop voi 2 Tieu Doan TQLC khac do bo truc thang vao vung co biet danh chien su "Day pho buon thiu". Cuoc hanh quan khai dien luc 7 gio 30 sang ngay 24/5. Phao binh, hai phao va khong quan oanh kich cac muc tieu tai cac bai do bo, trong khi doan tau cho Tieu Doan 7/TQLC con cach bo 3 cay so. Trong khi do, 2 Tieu Doan TQLC va truc thang Hoa ky san sang tai bai boc. Voi su phoi hop chat che cua hai Bo Tham Muu Su Doan TQLC va Ham Doi 7 dat tren chien ham chi huy USS Blue Ridge, phi vu B-52 bay toi trai nhung tham lua xuong cac bai dap, luc doan tau do bo con cach bo khong day 2 cay so. Khi B-52 vua cham dut oanh tac, 2 dot tau do bo, moi dot 40 chiec cap bai do Tieu Doan 7/TQLC len cac bai an dinh. Khong chan cho, cac Cop Bien xung phong nhu vu bao, tien chiem cac doi cat cao, nhanh chong chiem cac muc tieu, ha sat tai cho tren 50 ten dich, bat song 10 tu binh con ngo ngac so hai. Cung mot luc, 2 Tieu Doan 4 va 6/TQLC duoc truc thang TQLC Hoa ky do xuong khu vuc giao diem cua 2 huong lo 555 va 602. Tai day, luc luong TQLC dung do ngay voi 1 don vi cua Trung Doan 18, Su Doan 325/CSBV, ma chu luc da rut lui truoc do. Cuoc hanh quan Song Than 6-72 cham dut ngay 31/5, sau khi 3 Tieu Doan 4, 6 va 7/TQLC tro lai tuyen phong thu My Chanh. Sau hon 2 tuan le lien tiep giao tranh va bi nhieu ton that nang ne, 2 trung doan 66 va 88 CSBV da phai triet thoai khoi tran dia. Trong thang 5-72, da co tren 2,000 dich bi ha sat, tren 1,000 vu khi bi tich thu va tren 60 chien xa du loai bi pha huy va bi bat. Trong khi luc luong TQLC van giu vung phong tuyen My Chanh, nhung qua nhung cuoc tan cong cua quan CSBV, ngay 22/5, Bo TTM quyet dinh tang cuong them cho Vung 1 Bo Tu Lenh Su Doan ND va Lu Doan 3/ND. Bo Tu Lenh Su Doan ND dat tai can cu Sally va duoc giao vung trach nhiem hoat dong phia Tay Bac thi xa Hue, nam giua Su Doan 1/BB va Su Doan TQLC. Nhung thanh qua thu hoach duoc cua Su Doan TQLC, mot phan, nho hoa luc yem tro cap thoi va huu hieu cua khong quan va phao binh, va phan khac, nho tinh than chien dau hang say va hanh dong can dam cao do cua chien si cac cap. Thang 5-72, danh dau nhung thanh cong khoi dau cua Quan Doan 1. Ngay 28/5, tai ban doanh cua Bo Tu Lenh Su Doan TQLC dat trong Thanh Noi Hue, Tong Thong Thieu da vinh thang cap Chuan Tuong cho Dai Ta Bui The Lan, Tu Lenh Su Doan TQLC va tuong thuong cho nhieu quan nhan TQLC khac. TAI CHIEM QUANG TRI. Thang 6-72 mo man no luc cua TQLC tan cong tai chiem Quang Tri. Ngay 6/6, Su Doan TQLC khai dien cuoc hanh quan Song Than 8-72. Dong loat, 4 Tieu Doan TQLC vuot song My Chanh duoi hoa luc yem tro cua khong quan va phao binh. Cac truc tien quan cua ta gap suc khang cu manh me cua dich, dac biet, canh quan tien theo truc huong lo 555 phia Dong. Tien sau TQLC la nhung don vi Cong binh, co nhiem vu thiet lap va sua chua nhung cau cong, de cac don vi chien xa ban tien len yem tro. Cuoc hanh quan Song Than 8-72 cham dut sau mot tuan le voi ket qua: 230 dich chet, 7 chien xa bi ban chay, TQLC co 9 tu thuong va mot so bi thuong. TQLC chiem giu phan dat vua chiem, thiet lap tuyen phong thu moi phia Bac My Chanh. Ngay 18/6, cuoc hanh quan Song Than 8A-72 duoc khai dien voi cac don vi cua 3 Lu Doan TQLC tien ve huong thi xa Quang Tri. Tieu Doan 7/TQLC tien doc theo bo bien, gap suc khang cu khong dang ke. Tieu Doan 6/TQLC tien song song voi Tieu Doan 7/TQLC theo huong lo 555, gap suc khang cu cua bo binh va chien xa dich. Tieu Doan 5/TQLC tien ben trai, gan quoc lo 1. Cac canh quan khong tien nhanh duoc, mot phan, do su chong tra manh liet cua dich, mot phan khac, do viec thieu phoi hop yem tro hoa luc giua cac canh quan. Cuoc hanh quan Song Than 8A-72 cham dut ngay 27/6 voi ket qua: 761 dich bi ha, 8 chien xa bi pha huy, TQLC co 10 tu thuong va tren 40 bi thuong, tren 2,000 dong bao duoc giai thoat ve Hue. Tuyen phong thu moi duoc thiet lap 4 cay so phia Bac tuyen My Chanh. Ngay 28/6, Bo Tu Lenh Quan Doan 1 khoi dien cuoc hanh quan Lam Son 72, TQLC lay ten la Song Than 9-72, voi Su Doan ND va Su Doan TQLC song song va dong loat tien ve huong Quang Tri, co thanh Dinh Cong Trang la muc tieu cuoi cung cua Su Doan ND. Su Doan TQLC trach nhiem vung hanh quan tu bo bien huong Dong den quoc lo 1 huong Tay. Su Doan ND phu trach khu vuc tu quoc lo 1, giap ranh voi TQLC huong Dong den chan rang Truong Son phia Tay. Lu Doan 2/ND la luc luong tien phong cua Su Doan ND cung voi TQLC va BDQ. Trong thang 6-72, phia dich co 1,515 bi giet, 15 bi bat lam tu binh, 18 xe thiet giap bi pha huy, 4 chiec khac bi bat, tren 500 vu khi du loai bi tich thu. Phia TQLC bi 150 tu thuong va tren 300 bi thuong, vu khi bao toan. Tiep tuc cuoc hanh quan Song Than 9-72, trong thang 7-92, cac don vi TQLC giao tranh manh me tren cac truc tien quan. Dac biet, TQLC da mo 2 cuoc hanh quan truc thang van vao hau phuong dich: -Ngay 11, Tieu Doan 1/TQLC nhay vao vung 2 cay so phia Bac thi xa Quang Tri, chan ngang huong lo 560, truc lo tiep van va chuyen quan cua CSBV vao Quang Tri. Trong cuoc hanh quan nay, 1 truc thang CH-53 bi hoa tien SA-7 ban ha, gay tu thuong cho 30 linh TQLC va phi hanh doan Hoa ky. -Ngay 27, Tieu Doan 5/TQLC duoc truc thang van vao vung 10 cay so phia Dong Bac Quang Tri, gap suc khang cu manh cua dich. Day cung la cuoc yem tro hanh quan truc thang van cuoi cung cua TQLC Hoa ky trong cuoc chien VN. Tong ket trong thang 7-72: Dich co 1,880 ten bi ha sat, 51 chien xa du loai bi pha huy. TQLC tich thu: 3 khau dai bac 130 ly, 7 dai lien phong khong 37 ly, 1,200 vu khi ca nhan va tren 20 tan dan duoc du loai. Su Doan ND tien quan vao thanh pho Quang Tri song song voi Su Doan TQLC tu dau thang 7-72. Nhieu don vi ND, vi bi ton that nhieu qua nhung tran chien ac liet truoc do tai cac mat tran Cao Nguyen, Binh Long va An Loc, nen tien quan cham. Sau hon 1 tuan le, Lu Doan 3/ND moi chi tien duoc toi khu vuc ngoai o thi xa Quang Tri. Nhung tuan le ke tiep la thoi gian chien dau day cam go va chet choc cho ca 2 phia ta va dich. Mac dau voi hoa luc yem tro hung hau cua hai phao, phi co Viet-My va phao binh, nhung don vi tuyen dau cua ND van chua tien sat duoc toi chan tuong cua co thanh Quang Tri. Doi ben khai thac toi da hoa luc cua phao binh va sung coi de tieu diet quan bo chien. Nhung tran mua bom cua B-52, phan luc co du loai cua Hoa ky va phao binh ban tap trung, da gay ton that nang ne cho quan CSBV. Trong luc do, tinh hinh chinh tri quoc te anh huong khong it den chien truong. Bo truong Quoc phong Hoa ky, Ong Melvin Laird ly luan rang: "...Nam VN nen bo y dinh tai chiem Quang Tri, de don no luc bao ve phan dat dang kiem soat se it bi ton that hon...". Mot vien chuc ngoai giao Hoa ky tai Paris noi rang : "...Khi thanh pho Quang Tri duoc dua ra thao luan tren ban hoi nghi, duong nhien, chung ta muon no thuoc ve chung ta...". Tai Sai Gon, Bo TTM/QLVNCH nghien cuu de co the dieu dong 1 su doan bo binh tu Vung 4 tang cuong cho Vung 1, nhung sau cung da phai huy bo, vi thay co qua nhieu tro ngai, tu chien thuat, tiep van den tam ly binh si. Tuong Truong qua quyet rang, Quan doan 1 co du suc danh bai doi phuong bang luc luong hien co. Luc dau, Ong khong dong y ke hoach tan cong thang vao thi xa Quang Tri. Thay vao do, Ong nham vao viec cat dut cac truc lo tiep van va chuyen quan cua dich vao Quang Tri, roi sau do, se tan cong chiem Quang Tri. Nhung sau nay, Tuong Truong doi y, xu dung luc luong hung hau cua Su Doan TQLC thay the Su Doan ND tan cong chiem Quang Tri. Ngay 27/7, luc 9 gio 30 sang, cac tieu doan cua Lu Doan 258/TQLC thay the cac don vi cua ND trong khi doi ben dang giao tranh, vi tri gan nhat, con cach tuong thanh Quang Tri khoang 200 thuoc. Trong thang 8-72, cac trung doan cua Su Doan 325/CSBV de nang ap luc vao cac don vi cua Lu Doan 147/TQLC dang ngan chan truc lo tiep van cua chung theo huong lo 560. Do do, cac nguon tiep te cua dich vao Co Thanh Quang Tri phai bang ngang qua song Thach Han, de dang bi ta phat giac. Cung trong thang nay, cac don vi cua Lu Doan 258 TQLC phai chien dau rat cam go trong thanh pho, duoi hoa luc phao binh va sung coi ngay dem cua dich, tren 50,000 dan phao binh va sung coi dich ban vao cac vi tri TQLC. Mot so vi tri then chot trong thanh pho bi mat va lay lai, dang co giua ta va dich. Dau thang 9-72, Lien Doan 1/BDQ voi 3 tieu doan duoc dieu dong len thay the Lu Doan 147 TQLC an ngu tran tuyen phia Bac. Ngay 9, cuoc tan cong quyet dinh cua Su Doan TQLC bat dau. Bo Tu Lenh Su Doan TQLC xu dung 2 Lu Doan 147 va 258/TQLC tan cong chiem co thanh Quang Tri. Lu Doan 147/TQLC xu dung 2 Tieu Doan 3 va 7 TQLC tan cong tu huong Dong Bac xuong. Lu Doan 258/TQLC dieu dong 3 Tieu Doan 6 va 9 TQLC tan cong tu huong Dong Nam va Tieu Doan 1/TQLC tu huong Nam len. Hoa luc khong quan va phao binh duoc tap trung toi da vao co thanh va vung ke can. Tren 200 phi vu phan luc co Hoa ky oanh tac nhung muc tieu trong co thanh. Trong 2 dem 9 va 10/9, tieu doi biet kich cua Tieu Doan 6/TQLC xam nhap bi mat vao trong co thanh tham sat tinh hinh, trong khi dich quan van khang cu manh me. Sang som ngay 11, trung doi tien phong cua Tieu Doan 6/TQLC da tien sat duoc toi chan tuong co thanh lam dau cau. Ngay 13, Tieu Doan 3/TQLC cung tien den chan tuong Dong Bac co thanh. Ngay 15/9, sau khi phoi hop, 2 Tieu Doan 3 va 6/TQLC dan quan doi hinh tien ve huong Tay, can quet nhung o khang cu con lai trong co thanh. Cac Cop Bien da khong dan duoc niem sung suong ho hoi, ho het trong vui mung khi ho vuot qua nhung hoang tan do nat tien ve bo thanh phia Tay. Dem do, nhung o khang cu cuoi cung cua dich duoc thanh toan va thanh pho Quang Tri da thuc su thuoc quyen kiem soat cua Quan Dan Mien Nam. VAN THU, CONG DIEN CHUC MUNG. Tu phia Viet Nam Cong Hoa: - Dien van cua TT Nguyen Van Thieu: "Toi tran trong yeu cau Dai Tuong chuyen den Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan I, Chuan Tuong Tu Lenh Su Doan TQLC cung toan the don vi va chien si TQLC da danh tan quan Cong san xam luoc ra khoi Thi Xa va Co Thanh Quang Tri, loi ngoi khen nong nhiet nhat, dong thoi long kham phuc vo bien cua toi va toan the Chanh Phu hop tai Dinh Doc Lap sang hom 16-9-72... Muu do cua bon Cong san xam luoc muon bien Quang Tri thanh mot Binh Long anh dung, mot Kontum kieu hung cua chung, dong thoi bam lay mot dia danh tam ly va chinh tri de lua bip du luan, da bi toan the anh em danh tan ra may khoi...Toi se den tham cac anh em". Ky ten: TT VNCH Nguyen Van Thieu. - Cong dien cua nhom Dan bieu Quoc gia Ha vien: "Kinh yeu cau Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan I chuyen toi Bo Tu Lenh, cac si quan, ha si quan va anh em binh si thuoc Su Doan TQLC, Su Doan ND, Su Doan 1/KQ va toan the chien si Quan Khu I loi nong nhiet chuc mung va ca ngoi cua nhom Dan bieu Quoc gia ve chien thang Quang Tri vo cung anh dung va lay lung - Biet on sau xa doi voi cac hy sinh cao ca cua cac chien si da bo minh hay bi thuong tich va hien con chien dau trong cuoc hanh quan tai chiem Quang Tri, va dac biet Co Thanh. Triet de hau thuan cac chien si giet giac cuu nuoc". Dan bieu: Nguyen Tuan Anh, Nguyen Van Binh, Nguyen Van Cu, Nguyen Duc Cung, Nguyen Minh Dang, Nguyen Van Kim, Duong Minh Kinh, Nguyen Trong Nho, Dang Van Tiep, Pham Ke Toai, Do Sinh Tu. - Buu Diep cua Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan 1: "Toi da nhin Quoc ky tung bay tren nen troi Quang Tri chi it lau sau khi nhung ban tay kieu dung cua anh em keo len tu trong Co Thanh hom 16-9-1972. Toi da muon thay tai cho chien thang cua anh em, de ngay tai chien truong, tu cam thay hanh dien duoc chi huy Su Doan TQLC trong mot chien dich quy mo nhat cua Quan Doi. Tu Ben Hai den Ca Mau, got chan nguoi chien si TQLC da trai qua bao nhieu thu thach, gian kho va chien thang. Nhung phai noi rang, day la lan dau tien Su Doan da chien dau trong mot hoan canh dac biet, doi dau voi nhieu kho khan nhat, voi mot ke thu dong gap boi. Vi the, chien thang Quang Tri danh tan quan dich, giai phong Thi Xa, la chien thang lon nhat, lay lung nhat...".Trung Tuong Ngo Quang Truong. - Cong dien cua Dang Cong Nong, co quan do dau Su Doan TQLC: "Toan the anh em Dang Cong Nong VN rat vui mung duoc tin anh em TQLC da anh dung tai chiem Co Thanh va Thi Xa Quang Tri sau cac tran danh vo cung ac liet duoi mua dan va phong ba bao tap. Chung toi xin nghieng minh truoc anh linh cac chien si da hy sinh...". Tran Quoc Buu, Chu tich Dang Cong Nong VN. Tu phia Hoa ky: - Thu cua Dai Tuong Tu Lenh TQLC/HK: "...Chien thang vang son cua quy Binh Chung tai chiem hoan toan Thi Xa Quang Tri da la mot hinh anh hung hon, se mai mai ton tai, de bieu duong long dung cam va kha nang chien dau can truong cua binh chung TQLC/VN...". Dai Tuong R. E. Cushman JR. - Van Thu cua Dai Tuong Tu Lenh MACV: "... Rieng trong cuoc tan cong xam lang cua Cong san vua qua, quy Binh Chung da chung to cho the gioi thay ro kha nang chien dau dung cam va hao hung hon bat cu luc nao. Chien thang lay lung cua quy Binh Chung o Quang Tri da the hien long yeu nuoc va nang cao gia tri va truyen thong cua TQLC VN...". Dai Tuong Fred C. Weyand. - Dien van cua Trung Tuong Tu Lenh luc luong De Tam Thuy Bo TQLC/HK: "...Danh tieng cua quy Binh Chung vang doi khap nam chau, nguoi linh TQLC tren khap the gioi dang theo doi su chien dau cam go va long quyet tam dat den chien thang cua quy Binh Chung...". TrungTuong Metzger. - Dien van cua Tu Lenh Su Doan 1/TQLC/HK: "Nhan ngay ky niem 18 nam thanh lap TQLC/VN, toan the quan nhan thuoc Su Doan 1/TQLC/HK xin chan thanh gui loi chao mung den quy binh chung qua chien thang lay lung tai Quang Tri...". Thieu Tuong Schwenk. - Dien van cua De Doc Tu Lenh Ham Doi 7/HK: "...Chung toi kinh trong va kham phuc Chuan Tuong cung toan the quan nhan cac cap thuoc quy Binh Chung ma chung toi han hanh yem tro trong cac cuoc hanh quan, dat den chien thang vang doi tai tinh Quang Tri...". De Doc W. D. Toole JR. -Va cac dien van cua: Thieu Tuong Fegan, Tu Lenh SD3/TQLC/HK; Dai Ta Charles Williamson, Tu Lenh luc luong 33 Thuy Bo TQLC/HK; Thieu Tuong Cooksey, Co van Truong QD1/QK1; Pho De Doc Wilson, Co van Truong Hai Quan VN; Dai Ta Donald Newton, Tu Lenh luc luong 31 TQLC HK; Dai Ta J. W. Dorsey, Co van Truong Su Doan TQLC VN; Trung Tuong Wilson, Tu Lenh TQLC HK tai Thai Binh Duong; Va Trung Tuong R. P. Keller, Chi huy Truong TTHL/TQLC Hoa ky, Quantico, VA. KET LUAN. - Voi hoa luc yem tro doi dao cua Hoa ky va cac don vi ban, cung voi nhung cong lao chien dau gian kho cua cac chien huu Su Doan 1/BB, Su Doan ND va cac Lien Doan BDQ, Su Doan TQLC da hoan thanh nhiem vu Quan Doi va Chinh phu trao pho: Phong Thu Hue va Tai Chiem Co Thanh Quang Tri. Trong suot 7 tuan le chien dau day mau xuong va nuoc mat cua chien huu dong ngu, duoi nhung lan mua dan phao nang ne cua doi phuong, tinh trung binh, cu 4 nguoi linh TQLC, co 1 nguoi hy sinh. Tinh tu thang 6-72 den ngay toan thang, ve quan so, TQLC bi ton that tren 5,000, trong do co 3,658 chien si hy sinh. - Trua ngay 16/9/72, Tieu Doan 6/TQLC dung ngon co Vang 3 Soc Do dau tien tren cong tuong phia Tay Co Thanh Quang Tri. Voi bieu tuong do, ho cho the gioi biet rang, khong nhung QLVNCH da ngan chan duoc cuoc xam lang, nhung da thuc su danh bai quan chinh quy CSBV. Hinh anh nguoi linh TQLC Viet Nam dung co, tuy voc dang gay om vi chien tran, nhung chat chua day long can dam, cuong quyet va hy sinh, da la bieu tuong nguoi hung cua Quan Luc Mien Nam, truoc nhung cap mat nhin day nguong mo cua cac binh chung TQLC Dong Minh. - Trung Tuong Ngo Quang Truong, nguoi hung cua chien truong Tri Thien, da bao ve duoc Co Do Hue va lam dao nguoc the co cua quan Bac phuong. De ghi nhan chien thang lon lao nay, Tong Thong Thieu da tu Sai Gon bay ra Hue trong ngay vinh quang de chuc mung Tuong Truong, sau do dung truc thang bay len tuyen dau, Co Thanh Quang Tri, bat tay va cam on Tuong Bui The Lan, Tu Lenh Su Doan TQLC. Hung khoi voi chien thang lon, Tong Thong Thieu dung xe jeep den tham Bo Chi Huy Lu Doan 147/TQLC va Tieu Doan 6 TQLC, om hon va chuc mung vi Tieu Doan Truong va anh em binh si da chien dau anh dung, tao nen chien thang vi dai cho Quan Doi va toan Dan Mien Nam. - Sau cuoc tong cong kich Tet Mau Than nam 1968, Tuong Vo Nguyen Giap da thu nhan tham bai voi tren 300,000 can bo va quan linh chet, bi thuong va bi bat. Voi cuoc tan cong mua Xuan 1972, Tuong Giap da tung vao Mien Nam, gan nhu toan bo luc quan Bac Viet: 14 su doan chinh quy va 26 trung doan biet lap, nhung lai mot lan nua, nhan lay that bai nang ne, khong chiem giu duoc mot tinh ly nao cua VNCH, bi "nghien nat" tren chien truong voi tren 120,000 thuong vong, phan lon vu khi va trang bi nang bi mat, do nhung uoc tinh chu quan va vi ap dung chien tranh quy uoc tren 3 tran tuyen rong lon, ngoai kha nang tiep van, tiep lieu va yem tro tu hau phuong Mien Bac (Luc luong chien xa CSBV tai mat tran Vung 3: Binh Long, An Loc bi tieu diet hoan toan). Mien Bac voi nhung hoang tan do nat vi bom dan cua khong quan Hoa ky, da lam tieu tan mong xam lang va chien thang Mien Nam bang vo luc cua tap doan lanh dao quan su Bac Viet. Ngoi sao Vo Nguyen Giap cua chien thang Dien Bien Phu nam 1954, da bi lu mo tu sau nam 1972. Va, ngay 23 thang 1 nam 1973, Ha noi da phai chap nhan ky ket hoa uoc tai Paris, "tam thoi" ngung xam lang Viet Nam Cong Hoa. MX Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN (10/74 - 4/75)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 8:21:16 GMT 9
QUẢNG TRỊ 1972 - TRẬN ĐỊA LỊCH SỬ Tác giả: Lê Văn Trạch (SD3BB)  Đây là huy hiệu cũ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971 tại Quảng Trị, nên trên huy hiệu có chữ Bến Hải do cựu Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy và đã tan hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1972 sau 6 tháng thành lập  Ngày 9 tháng 6 năm 1972, đơn vị được đưa về tái phối trí tại Quảng Nam, nhận bàn giao lại căn cứ Hòa Khánh và do cựu Tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. Sư đoàn 3 Bộ Binh mang huy hiệu mới Trên chặng đường dài của lịch sử dân tộc, có từng niên biểu đánh dấu đậm nét những dữ kiện nổi bật ảnh hưởng đến toàn bộ sinh hoạt của đất nước, hơn thế là một dấu ấn khắc khoải ngậm ngùi cho hàng bao thế hệ. Năm 1972, Quảng Trị được chọn như là một chiến trường quyết định, chiến trường trắc nghiệm: những chiến thuật và súng đạn mới nhất đều được cả hai phía đem thi thố với một mức độ và cường độ ác liệt thảm khốc chưa từng thấy. Mọi tấc đất đều cháy xém rung lên như một cơn địa chấn kéo dài hàng tháng trời, tất cả những gì được chăm chút xây dựng hàng bao thế kỷ để tạo nên một nét văn hoá, một cảnh quan hiền dịu phút chốc trở thành bình địa. Dân Quảng Trị đói nghèo giờ đây chỉ còn tay trắng, xác thân bơ phờ với một tâm trạng u uất tan nát. Năm 1972 điểm mốc quan trọng của lịch sử là vết hằn in dấu chót vót cao của điêu linh thảm khốc đoạ đày trong mỗi một người Quảng Trị. Lúc này hội đàm Paris đang gặp bế tắc, tuy thế sau chuyến công du của Tổng thống Nixon qua Trung Cộng ngày 17-2-1972 và của ngoại trưởng Kissinger qua Liên Xô kết hợp với những cuộc oanh kích nặng nề của không quân Hoa Kỳ trên miền Bắc. Chính phủ Bắc Việt đã chấp thuận mở lại cuộc hoà đàm. Để hậu thuẫn cho cuộc thương thuyết này, Bộ Chính trị đảng Cộng sản đã ra nghị quyết mở cuộc tấn công đồng loạt trên toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam mà ý định ban đầu lấy miền đông Nam bộ làm điểm, để nếu có thời cơ thuận tiện sẽ tấn công uy hiếp Saigon, tạo áp lực trên bàn hội nghị, nhưng sau khi cân nhắc thấy còn nhiều điểm yếu chưa hoàn thiện, Bộ Chính trị quyết định chuyển hướng tấn công, lấy Trị Thiên làm điểm với một cố gắng cao nhất để chiếm được hai tỉnh này bởi ở đây dễ tập trung lực lượng, chỉ đạo và bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô lớn. I. TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG: A. Quân lực Việt Nam Cộng Hoà: a/ Giai đoạn đầu: 1/ Bộ binh: - Sư đoàn 3 Bộ binh: Các trung đoàn 2, 56, 57 - Sư đoàn TQLC: 2 Lữ đoàn 147, 258 - Địa phương quân: 41 đại đội - Nghĩa quân: 152 trung đội 2/ Pháo binh: 7 tiểu đoàn và 1 pháo đội PB cơ động 175 ly, 3/ Thiết giáp: 7 chi đoàn 4/ Không quân: SD 1/KQ b/ Giai đoạn tái phối trí: - Giảm trung đoàn 56 - Được tăng cường thêm: Lữ đoàn 369 TQLC; 3 liên đoàn BDQ: 4, 5, 6 - 2 Thiết đoàn kỵ binh c/ Giai đoạn phòng thủ tuyến Mỹ Chánh và tái chiếm: - Sư đoàn Dù - Sư đoàn TQLC - 4 LD Biệt động quân - LD 81 Biệt kích Dù - Đại đội Hắc Báo SD1 - 3 Thiết đoàn 7, 18, 20 - SD1 Không Quân Về phía Hoa kỳ: Ngoài 250 máy bay tại sân bay Đà Nẵng và Thái lan, ngày 3-5, hai hàng không mẫu hạm Kitty Hawk và Coral Sea vào hải phận Việt Nam hợp lực với 2 HKMH Hancoc va Constellation nâng số phi cơ của Hải quân lên 275 chiếc. Lần đầu tiên, QLVNCH đưa pháo binh cơ động 175 và chiến xa M48 ra chiến trường. Đầu tháng 5, hoả tiễn chống tăng TOW cũng được không vận đến Đà Nẵng để trang bị cho SD Dù và TQLC. B. Quân đội Bắc Việt: 1/ Bộ binh: - 6 Sư đoàn Bộ binh: 304, 308, 324, 320, 325, 312 - Trung đoàn Độc Lập: 6 - 5 Tiểu đoàn độc lập: 2,15, 19, 38, 7 - 4 Tiểu đoàn đặc công: 25, 31, 33, 35 - 5 Tiểu đoàn địa phương: 3, 8, 10,14 (Quảng Trị) và 47 (Vĩnh Linh) 2/ Pháo binh: - 4 Trung đoàn: 84, 68, 164, 45. 3/ Phòng không: - 4 Trung đoàn cao xạ: 241, 243, 250, 280. - 1 Trung đoàn hỏa tiễn Sam 2: 236 4/ Thiết giáp: 2 Trung đoàn: 202, 203 5/ Công binh: 2 Trung đoàn: 229, 249 6/ Hải quân: Đoàn 126 thuộc khu vực 5 HQ Lần đầu tiên tại chiến trường miền Nam, QD/BV đã sử dụng xe tăng T54, pháo 130 ly, hoả tiễn địa không Sam 2, HT chống tăng có điều khiển AT3, HT tầm nhiệt chống máy bay SA7, đại bác PK57 với chiến thuật tấn công hợp đồng binh chủng xa bộ pháo mà một mũi tiến quân lên đến cấp sư đoàn. II. QUÂN ĐỘI BẮC VIỆT TẤN CÔNG: Do tính chất quan trọng của trận chiến, Quân Uỷ Trung ương quân đội Bắc Việt đã cho thành lập Đảng Uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị Thiên do tướng Lê Trọng Tấn phó tổng Tham mưu trưởng làm Tư Lệnh, tướng Lê Quang Đạo, phó chủ Nhiệm Tổng Cục Chính trị làm Chính uỷ kiêm Bí thư Đảng Uỷ, các tướng Cao văn Khánh, Giáp văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lương Nhân, Anh Đệ làm phó Tư lệnh chiến dịch Bí Thư Tỉnh Uỷ QT Hồ Sĩ Thản cũng được tham gia đảng uỷ Bộ Tư Lệnh chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của quân uỷ Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này . Ngày 11-3-1972, BCT thông qua nghị quyết của Quân Uỷ Trung ương. Mọi binh chủng đều dồn nổ lực chuẩn bị chiến trường, tất cả đơn vị Trinh sát bộ và pháo áp sát điều nghiên các căn cứ của QLVNCH, cơ sở nội tuyến được lệnh theo dõi hoạt động trên mọi bình diện để phát hiện sớm nhất các kế hoạch, đơn vị công binh bí mật, gấp rút mở đường cho tăng, pháo. Các sư đoàn ở phía Bắc đang âm thầm hành quân đến tuyến xuất phát… Về phía QLVNCH, vào trung tuần tháng 3, các tin tức không ảnh và không thám đã phát hiện những chỉ dấu làm đường ở phía tây và tây nam, đài quan sát ở căn cứ Fuller, Baho, Holcomb đã nghe được những tiếng động cơ giới, trong trận phục kích của đơn vị DPQ tại một địa điểm phía TN căn cứ Ái Tử, đã phát hiện phiên hiệu của một đơn vị trinh sát chủ lực, các tin tức do mật báo viên cung cấp cho P2/TK và Ty Cảnh sát quốc gia Quảng Trị cũng cho biết những dấu hiệu chuẩn bị cho một trận chiến qui mô . Tổng hợp những tin trên, P2/SD3 và P2/BTL/QD1 đã đưa ra ước tính tình báo về một cuộc tấn công mạnh của QD Bắc Việt vào Quảng Trị . Tuy nhiên những ước tính này dường như không thuyết phục được các cấp chỉ huy để có những kế hoạch quân sự đứng đắn. Bộ TTM nhận định rằng hướng tấn công của QDBV là Tây nguyên nên điều động sư đoàn Dù và một số đơn vị trừ bị khác lên Kontum – Pleiku. Quân đội Bắc Việt nắm được điều này nên đã cho nghi binh chiến lược bằng cách có những hoạt động trinh sát và chuyển quân tương đối lộ liễu và những cuộc tấn công hạn chế vào các căn cứ ở Quân Đoàn 2. Sư đoàn 304 đang ém quân tại Khe Sanh, đã cho tổ đài vô tuyến tiếp tục hành quân vào Tây Nguyên và thường xuyên phát đi những chỉ thị, lệnh hành quân y như thật. BTL/SD3 có lẽ đánh giá tình hình chưa đến nỗi nào nên đã cho đổi quân đúng vào ngày mở màn tấn công của Quân Đội Bắc Việt, trong cuốn “Easter Offensive”' của Đại tá Gerry H. Turley cũng cho biết: “ … theo chương trình, vào trưa ngày 30-3-1972, tướng Giai và vị cố vấn HK sẽ bay về Saigon nghỉ Lễ Phục sinh cuối tuần, mặc dầu việc hoán đổi vị trí của 2 Trung đoàn đến 6 giờ chiều mới hoàn tất…” Nói tóm lại, QD Bắc Việt đã tạo được yếu tố bí mật bất ngờ đến phút chót. Ngày 15-3-1972, tại Bãi Hà (tây Vĩnh Linh) tướng Tấn đã họp Bộ Chỉ huy Chiến dịch để đánh giá tình hình 2 phía trong khu vực đồng thời phổ biến nhiệm vụ và phân công cụ thể. Ngày mở cuộc tấn công là 4 giờ 30 chiều 30-3-1972. Có 3 nhiệm vụ chủ yếu: - Tiêu diệt cho được 2 Sư đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 SD khác - Phối hợp tấn công quân sự và binh vận, nổi dậy cả nông thôn lẫn thành thị, làm tan rã lực lượng địa phương, đánh bại kế hoạch bình định. - Chiếm phần lớn lãnh thổ Trị Thiên, có điều kiện đánh chiếm toàn bộ Căn cứ vào việc phối trí lực lượng của SD3 và TQLC, Bộ Tư Lệnh chiến dịch đã tổ chức 4 cánh quân và sử dụng các lực lượng tác chiến trên từng cánh như sau: 1. Cánh Bắc, cánh chủ yếu, sử dụng SD 308, 2 Trung đoàn độc lập 48, 47, Tiểu đoàn 15 độc lập, 2 Trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), 1 Trung đoàn pháo cao xạ (284), 2 Tiểu đoàn xe tăng, 2 Tiểu đoàn công binh, TD 33 đặc công do tướng Hồng Sơn phó tư lệnh chiến dịch và Hoàng Minh Thi phó chính uỷ trực tiếp chỉ huy . Mục tiêu tấn công là các vị trí đóng quân của Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 từ căn cứ A1 đến Fuller, mục tiêu kế tiếp là thị xã Đông Hà. 2. Cánh Tây, sử dụng SD.304, 2 Trung đoàn 38 và 68, 4 Trung đoàn cao xạ (230, 232, 241, 280), 2 Tiểu đoàn hoả tiễn 122 ly, 1 Tiểu đoàn xe tăng, 1 Tiểu đoàn công binh, do tướng Hoàng Đan, tư lệnh SD 304 chỉ huy, có nhiệm vụ tấn công tuyến phòng thủ của Lữ đoàn 147 TQLC tai Ba Hô, Sarge, Holcomb, bao vây tiêu diệt các căn cứ Mai Lộc, Carroll (đồi 241 hay Tân Lâm), Khe Gió . Sau đó chuyển hướng tấn công về căn cứ Ái Tử (nơi đặt BTL/SD3). 3. Cánh Nam, cánh thứ yếu nhưng rất quan trọng, do SD.324, 3 Tiểu đoàn địa phương Quảng Trị cùng các binh chủng phối thuộc, do tướng Giáp văn Cương, phó tư lệnh chiến dịch và Lê Tự Đồng phó chính uỷ chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt các lực lượng ở nam, bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng (Pedro) Babara và đoạn đường Bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt Trị Thiên. 4. Cánh Đông, cánh thứ yếu, sử dụng tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh, 2 Tiểu đoàn đặc công (31, 25), 1 Tiểu đoàn pháo, 4 đại đội địa phương, đoàn 126 Hải quân do Bùi Thúc Dưỡng trưởng phòng đặc công chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ Hải quân Cửa Việt, phá kế hoạch bình định ở Triệu Phong, thọc sâu vào đông bắc Ái Tử. Photo: PHÓNG ĐỒ CUỘC TẤN CÔNG CỦA QUÂN ĐỘI BẮC VIỆT VÀO CÁC VỊ TRÍ QL/VNCH TẠI QUẢNG TRỊ NGÀY 30-3-1972 Đến ngày 26-3-72, mọi chuẩn bị cho chiến dịch cơ bản hoàn thành. Cục vận tải, đoàn 559, đoàn vận tải QK4 cùng hàng ngàn thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến của Quảng Bình, Vĩnh Linh đã chuyển được hàng chục ngàn tấn hàng phục vụ chiến dịch. Sáng ngày 30-3-72, Bộ Tư lệnh chiến dịch quân đội Bắc Việt họp lần cuối để khai triển kế hoạch. Trưởng phòng Quân Báo của mặt trận báo cáo Trung đoàn 56 đang trên đường đến thay quân ở Fuller. Tướng Tấn nhận định như vậy kế hoạch chưa bại lộ nên đã cho giờ nổ súng sớm hơn, tức 11 giờ 30. Tuy vậy lúc 10 giờ 30 khi TD. 2/56 lọt vào ổ phục kích của TD.3/27, SD.308, Tiểu đoàn trưởng đã ra lệnh nổ súng (sớm hơn kế hoạch 1 giờ). Đến 11 giờ 30 khi giờ G khởi điểm, hàng trăm khẩu pháo 130 ly, HT. 122 đồng loạt nã đạn vào 14 căn cứ phòng thủ của Sư đoàn 3 và Thuỷ Quân Lục Chiến. Đến 10 giờ sáng 31-3-72 căn cứ Fuller bị tràn ngập, tại phía Bắc, dưới áp lực nặng nề của pháo binh và bộ binh vây ép. Tiểu đoàn 2/2 phải bỏ Cồn Tiên rút vào căn cứ C2, đồng thời TD 2 và 3/57 về căn cứ C1. Tại cánh đông, đoàn 126 Hải quân đã ồ ạt tấn công duyên đoàn 11 và khống chế cảng Cửa Việt, cùng lúc Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh, 2 Tiểu đoàn đặc công 25, 31, 4 đại đội địa phương Quảng Trị và 1 Tiểu đoàn pháo phối hợp đã làm tan rã các đơn vị địa phương quân, nghĩa quân tiểu khu Quảng Trị tại phía bắc sông Thạch Hãn. Tại cánh tây, được xem là cánh trọng yếu của chiến dịch, từ trưa ngày 30-3-72, tất cả các khẩu pháo 130 ly của 2 Trung đoàn 68, 38 và 2 Tiểu đoàn hoả tiễn đều tập trung nhắm vào Carroll, Mai Lộc, Holcomb, Ba Hô, Sarge, riêng tại 2 căn cứ sau do TD 4/147 trú đóng đã bị gần 1000 quả đạn, đồng thời cho Trung đoàn 9 và 66/304 ồ ạt tấn công, cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, đôi bên thiệt hại nặng nề, đến 10 giờ 45 đêm 31-3-72, căn cứ Sarge di tản và 4 giờ sáng 1- 4 -72, TD4/TQLC cũng phải rút khỏi Ba Hô. Tại Khe Gió trên QL 9 nơi trú quân của TD 3/56, trưa 31-3 một bộ phận của Trung đoàn 9/304 đã tấn công tràn ngập, cùng lúc căn cứ Holcomb do TD 8/147 trấn giữ đã bị 2 Trung đoàn 1 và 2/324 tấn công dữ dội, buộc phải rút về căn cứ Phượng Hoàng. Trong ngày 31 - 3 BTL/QD1 điều TD7 TQLC tăng cường cho LD147 tại Mai Lộc. TD3/258 từ Nancy được điều đến giữ an ninh QL9 đoàn Đông Hà – Cam Lộ. BCH Lữ đoàn 258 TQLC cùng TD 6 được điều động đến căn cứ Ái Tử, trong đêm, Bộ Tham mưu Sư đoàn 3 triệt thoái vào Cổ Thành Quảng Trị . Qua ngày 2 – 4 - 72, BTL/SD3 dồn nổ lực gom quân thiết lập hệ thống phòng thủ mới theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc, Phượng Hoàng. Tuy nhiên sau khi chiếm xong các căn cứ, quân đội Bắc Việt tiến chiếm chi khu Cam Lộ, đồng thời dồn mọi nỗ lực đánh vào Caroll và Mai Lộc. Vào lúc 14 giờ 30 ngày 2 – 4 - 72, không chịu nổi áp lực nặng nề của pháo và bộ binh vây khốn, Trung tá Phạm văn Đính , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 đã liên lạc với quân đội Bắc Việt xin đầu hàng cùng với 1500 binh sĩ. Biến cố này đã gây kinh hoàng và chấn động đến tinh thần chiến đấu của toàn binh sĩ trong vùng. Mất Carroll, căn cứ Mai Lộc nơi đặt BCH/LD147/TQLC liên tục bị pháo kích và tấn công, đến 10 giờ đêm 2 - 4 toàn bộ rút về Đông Hà và lui tuyến sau tại tổ chức. Vào lúc 9 giờ sáng 2-4, 20 chiến xa T54 từ hướng bắc theo QL1 tiến vào Đông Hà . TD 3/ TQLC với toàn chống chiến xa trang bị đại bác 106 được lệnh phải tử thủ bằng mọi giá. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN, bộ binh BV cũng chiến xa với sự yểm trợ của các loại pháo, hoả tiễn địa không Sam 2 đã trực diện với TQLC có DB 106, M72 chống chiến xa, pháo binh, hải pháo, phi cơ các loại. Cuộc tấn công bị chận lại ở phía bắc sông, đến 4 giờ 30 chiều, toán công binh TQLC đã giật sập cầu Đông Hà. Sau 4 ngày tấn công của quân đội Bắc Việt, 14 cứ điểm từ hướng Bắc, Tây, Tây Nam và 3 chi khu đã phải rút bỏ, QLVNCH tại giới tuyến mất nguyên 1 BCH Trung đoàn, 7000 binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt hoặc thất lạc đơn vị . Trên 50.000 đồng bào thuộc các huyện Cam Lộ, Hương Hoá, Gio Linh đã bỏ nhà cửa, ruộng vườn với hai bàn tay trắng đổ dồn ra QL1 và 9 để chạy về Quảng Trị, nhiều cái chết thê thảm đã xảy ra! Ngày 2 – 4 - 72, TT Nguyễn văn Thiệu ra Huế đã chỉ thị cho các Tư lệnh tăng cường lực lượng để bằng mọi giá cầm chân đối phương trên tuyến phòng ngự Đông Hà , Ái Tử, Phượng Hoàng, La Vang. Ngày 3 – 4 - 72 đã không vận BTL/SD/ TQLC và LD 369 từ Saigon ra Mỹ Chánh, hôm sau Bộ chỉ huy BDQ cùng 3 Liên đoàn 4,5,6 từ QK2 và QK4 cũng đã đến Quảng Trị . Tất cả các lực lượng trên được phối trí như sau: Tại Đông Hà, Lai Phước do Trung đoàn 57, 2 Liên đoàn 4 và 5 BDQ, 2 Thiết đoàn 17, 20 đảm trách dưới sự chỉ huy của Đại tá Nguyễn Trọng Luật – Trung đoàn 2 trách nhiệm khu vực nam Ái Tử đến bờ bắc sông Thạch Hãn, Liên đoàn 1 BDQ phòng thủ thị Xã Quảng Trị, lập phòng tuyến phía nam sông Thạch Hãn. Lữ đoàn 258 tại phía tây CC/Ái Tử và Phượng Hoàng. Tất cả các đơn vị này đều đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh SD/23BB mặc dầu SD/ TQLC có đến 2 Lữ đoàn tham chiến và Bộ chỉ huy BDQ với 3 Liên đoàn, đây là một sai lầm nghiêm trọng về chiến thuật chỉ huy, bởi thế đã có nhiều trường hợp các đơn vị này chỉ thi hành lệnh sau khi gặp chỉ huy đơn vị gốc chấp thuận. Về phía QDBV, BCH/ CD nhận định tuy QLVNCH tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần hoang mang giao động, nếu đánh nhanh đánh mạnh sẽ tan vỡ mau chóng do đó đã ra lệnh cho các SD tấn công vào trung tâm phòng ngự theo 3 hướng: - SD 308 được tăng cường thêm Trung đoàn 48 sẽ tấn công Đông Hà – Lai Phước - SD 304 tấn công căn cứ Ái Tử, Cầu Quảng Trị - SD 324 tấn công căn cứ Phượng Hoàng La Vang cắt giao thông trên QL1 từ Cầu Nhùng đến Bến Đá, Mỹ Chánh Tại Cánh Đông, ngoài lực lượng hiện có ở giai đoạn 1, được tăng cường thêm Trung đoàn 27 để chiếm giữ cho được khu vực quận Triệu Phong. Đúng 15 giờ ngày 8 - 4, tất cả các Trung đoàn pháo và hoả tiễn được lệnh nổ súng nhắm vào các mục tiêu trên. Vào lúc 5 giờ sáng 9 - 4, SD 308 và Trung đoàn 102 chiến xa đã ồ ạt tấn công tuyến phòng thủ của BDQ và Lữ Đoàn 1 Kỵ binh tại Đông Hà, đồi Quai Vạc (cây số 6 trên QL 9) nhưng trước sự chiến đấu kiên cường dạn dày kinh nghiệm của BDQ, tuyến phòng thủ này vẫn giữ vững. Cùng giờ tại phía tây Ái Tử, Trung đoàn 24/SD304 cùng một TD xe tăng đã tấn công căn cứ Phượng Hoàng do TD 6/TQLC trú đóng. Nhờ hoả lực phi pháo yểm trợ kịp thời chính xác, các mũi tấn công đều bị đẩy lùi. Lần đầu tiên tại chiến trường VN, xe tăng M48 đã đụng đầu với T 54. Trận đánh ngày 9 - 4 tại căn cứ Phượng Hoàng là một cuộc hợp đồng binh chủng phi xa bộ pháo tuyệt vời nhất của QLVNCH. 13 trong số 16 xe tăng bị bắn cháy tại chỗ, 2 chiếc còn nguyên vẹn được TQLC kéo về Ái Tử, sau đó đưa về Saigon triển lãm . Như vậy sau 2 ngày mở cuộc tấn công đợt 2 vào tuyến phòng thủ Đông Hà, Ái Tử, Phượng Hoàng, các đơn vị BV đã không đạt được kế hoạch mà còn bị tổn thất nặng do QLVNCH thay đổi phương thức tác chiến mới là phòng thủ di động liên hoàn, phối hợp hoả lực nhịp nhàng chính xác, nâng cao tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Tại Ái Tử, ngày 23 - 4, LD147 đến thay LD258. Từ ngày 10 –> 26/4, chiến trường tương đối ở mức trung bình QDBV chỉ mở những đợt tấn công thăm dò nhằm phát hiện quy luật và kỹ thuật tác chiến của QLVNCH đồng thời để ổn định phương tiện và phương án tấn công, quyết đạt được mục tiêu đã đề ra lúc ban đầu. Đúng 5 giờ 30 sáng 27 – 4 - 72, QD/BV đã tập trung tất cả các loại pháo cối 130, D74, lựu pháo 155, 122, 100, 105, cối 160, 120, hoả tiễn BM14, A12, H12, DKB đồng loạt bắn vào Đông Hà, Lai Phước, Ái Tử, La Vang và thị xã Quảng Trị, 20 phút sau, 3 Sư đoàn bộ binh, 2 Trung đoàn xe tăng được lệnh xung phong: SD308 điều Trung đoàn 102 với một TD xe tăng tấn công cầu Lai Phước, 2 Trung đoàn 36 và 88 tiến thẳng vào Đông Hà. Đến 10 giờ 30 ngày 28 - 4, QD/BV đã làm chủ Đông Hà - Lai Phước. tại khu vực Ái Tử, Quảng Trị, SD304 điều Trung đoàn 66 chiếm Tích Tường, Như Lệ, khai triển về hướng Cầu Ga, chận đường lui quân trên QL1 đồng thời cho 2 Trung đoàn 21, 48 và một Trung đoàn xe tăng tiến thẳng vào Ái Tử. Trước áp lực nặng nề của hoả lực và quân số đông gấp bội, ngày 30 – 4 - 72, LD147 phải rút vào thị xã Quảng Trị . Trong lúc 2 Sư đoàn 304, 308 tấn công Đông Hà- Lai Phước, Ái Tử, SD324 âm thầm hành quân chiếm lĩnh các khu vực trọng yếu phía tây QL1 từ Hải Lâm đến Mỹ Chánh nhằm cắt đường tiếp từ Huế ra và lui quân từ cổ thành Quảng Trị . Riêng tại Cầu Nhùng, Mai Đàn đã sử dụng nguyên Trung đoàn 1 để tấn công, Trung đoàn 2 hướng Bến Đá . Nhiều trận đánh đẫm máu, ác liệt đã xảy ra, SD 324 khống chế được hoàn toàn đoạn đường này đặc biệt từ Cầu Nhùng đến Bến Đá, tất cả hoả lực đều bắn xả xuống khi phát hiện có sự di chuyển bất chấp đó là xe hàng, xe cứu thương hay dân thường. Ba SĐ/QBV đang tạo thế gọng kềm vây ép những khu vực còn lại trong lúc pháo binh tập trung huỷ diệt thị xã (chỉ trong cổ thành đến lúc rút đi vẫn chưa bị quả đạn nào!), một số đông binh sĩ đã bỏ đơn vị đưa gia đình di tản. Tinh thần quân dân giao động mạnh, lực lượng tăng viện không có, SD1 Không quân không được phép bay qua sông Mỹ Chánh. Trước tình hình đó, sáng 1 – 5 - 72, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai họp Bộ Tham Mưu Sư Đoàn cùng chỉ huy các binh chủng tuyên bố rút quân khỏi Quảng Trị. Sau khi các đơn vị trong cổ thành ra khỏi theo hướng Trí Bưu, Quy Thiện, Hải Lăng đến giữa trưa, 3 trực thăng CH54 đã bốc tướng Giai và các cố vấn vào Huế (Tướng Giai sau đó được giải giao về SG ra toà án quân sự mặt trận, tước đoạt binh quyền và giam ở khám Chí Hoà cho đến năm 75). Đến 14 giờ 30, LD147 và LD1KB rút khỏi Quảng Trị . Ngày 2 – 5 - 72 phòng tuyến cuối cùng của QLVNCH là sông Mỹ Chánh. Ngày 4 – 5 - 72 trên tờ nhật báo Pacific Stars and Stripes của quân đội Hoa Kỳ, người ta đọc được bức thư của Tướng Giai bằng Anh ngữ, trong đó ông viết: “… Tôi chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử và pháp luật về cuộc triệt thoái này. Thị xã Quảng Trị đã hoang tàn đổ nát. Lương thực, đạn dược và nhiên liệu dự trữ đã cạn . Các đơn vị tác chiến đã quá mệt mỏi. Tôi thấy không còn lý do nào chính đáng để ở lại bảo vệ những hoang tàn đổ nát ấy. Tôi ra lệnh cho các đơn vị dưới quyền triệt thoái trong trật tự, để tái củng cố lực lượng, thiết lấp phòng tuyến và mặt trận mới, để tấn công lại đối phương, nếu chúng vẫn còn duy trì cuộc chiến tranh đầy sai trái này…" HUE, Vietnam (UPI) --The commander of a South Vietnamese division routed in the fighting in Quang Tri Province issued an emotional letter Tuesday night claiming "full responsibility" for the retreat. In what he called a "letter from the heart" to men of the 3rd Div. at Hue, Brig. Gen. Vo Van Giai declared: "The capital of Quang Tri Province is in ruins. Our food, our ammunition and all our fuel supplies are gone. Our force is exhausted. "I see no further reason why we should stay on in this ruined situation. I ordered you to withdraw in order to fortify our units again from a new front to annihilate remaining Communist forces if they still engage in this wrongful war." The letter was unprecedented in the Vietnam conflict. In it, Giai declared, "I bear full responsibility for history and the law for this withdrawal." Giai has set up a new headquarters base about 18 miles north of Hue, the former imperial capital on Highway 1, about 400 miles north of Saigon. SOURCE: Code: www.thebattleofkontum.com/stars/083.htmlIII.TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ: Trước tình hình khẩn trương, có nguy cơ QD/BV sẽ tấn công vào Thừa Thiên Huế, trong khi Tướng Lãm cùng Bộ Tham Mưu của ông không còn khả năng và uy tín để chỉ huy những đại đơn vị thuộc quyền và ứng phó với một chiến trường quá cỡ. Ngày 1 – 5 - 72 Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Trung tướng Ngô Quang Trưởng đảm nhận chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn 1. Ngày 4 - 5 Đại tá Bùi Thế Lân thay Tướng Lê Nguyên Khang làm Tư lệnh SD/TQLC. Ngày 5 - 5 Tướng Nguyễn Duy Hinh giữ chức vụ Tư lệnh SD/3BB (Sư đoàn này được đưa về Phú Bài tái huấn luyện và bổ sung, đến cuối năm vào hoạt động tại chiến trường Quảng Đà). Tình huống lúc này rất phức tạp: hàng trăm ngàn dân QT lánh nạn đổ dồn về Huế – Đà Nẵng, một số quân nhân bỏ đơn vị gây cảnh phi pháp hỗn loạn trên đường phố Huế, trinh sát, đặc công VC trà trộn tuyên truyền rỉ tai, bạo động, đốt chợ Đông Ba… một số căn cứ do SD1 trấn giữ ở tây Huế đã bị chiếm… tất cả tạo nên những nỗi hoang mang lo sợ cho dân và giảm tiềm năng chiến đấu của binh sĩ. Để đối phó với tình hình ấy, Tướng Trưởng ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn tỉnh Thừa Thiên và đưa ra 2 nhiệm vụ phải khẩn cấp thực hiện là phòng thủ Huế và tái chiếm Quảng Trị . Tuyến Mỹ Chánh lúc này do Lữ đoàn 2 Dù, Liên đoàn 1 BDQ và 2 Lữ đoàn TQLC trấn giữ. Từ trung tuần tháng 5, SD/TQLC với sự phối hợp yểm trợ của Hạm đội 7 đã mở những cuộc hành quân trực thăng vận và đổ bộ vào hậu tuyến của Quân đội BV, đồng thời QD/BV cũng cho các SD với chiến xa yểm trợ dàn trận tấn công trên toàn tuyến: những trận đánh dữ dội, thảm khốc xảy ra, thiệt hại cả đôi bên rất lớn. Ngày 22 - 5 Bộ TTM đã tăng cường BTL Sư đoàn Dù và LD 3 Dù. Bước vào tháng 6, SD/TQLC bắt đầu mở những cuộc hành quân tiến ra phía Bắc, cho đến ngày 18 - 6 đã lập phòng tuyến mới phía ngoài Mỹ Chánh 4 cây số . Ngày 28 - 6, BT/LQD1 khai diễn cuộc hành quân Lam Sơn 72 với Sư đoàn Dù hướng tây và SD/TQLC hướng đông QL1 dàn hàng ngang tiến thẳng ra hướng thị xã Quảng Trị. Có thể đây là trận chiến vĩ đại, khốc liệt gay cấn nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, khi lực lượng tham chiến mỗi bên lên đến cấp quân đoàn với những phương tiện tối tân hiện đai. Các SĐ/QBV hành quân trên vùng đồng bằng và cồn cát đã bị phi cơ chiến lược, chiến thuật, pháo binh gây thiệt hại nặng, tăng pháo bỏ lại ngổn ngang. Chỉ sau 1 tuần hành quân, với sự yểm trợ hoả lực tối đa của Hoa Kỳ, 2 Sư đoàn Tổng Trừ Bị của QLVNCH đã hoàn toàn tái chiếm Hải Lăng, đẩy lui 4 Sư đoàn QD/BC 320, 325, 303, 308 về khu vực chung quanh thị xã và một phần quận Triệu Phong. Thị xã và Cổ thành Quảng Trị lúc này trở thành vật mặc cả tại bàn hội nghị Paris, cả hai bên đều muốn có những thành quả để tạo ưu thế trong cuộc họp ngày 27-7-72. Từ trung tuần tháng 7, QD/BV đưa sư đoàn trừ bị cuối cùng, SD 312 ra mặt trận, nâng lực lượng tham chiến lên đến 6 Sư đoàn, đồng thời điều thêm Trung đoàn 95/325 vào tăng viện cho Trung đoàn 48 đang chốt giữ Cổ thành và thị xã. Về phía QLVNCH, BTTM dự tính đưa ra 1 Sư đoàn Bộ binh từ vùng 4 ra tăng cường nhưng sau cùng phải huỷ bỏ vì có quá nhiều trở ngại từ chiến thuật, tiếp vấn đến tâm lý binh sĩ. Hai mũi tấn công của QLVNCH khi tiến gần vòng đai thị xã đều phải khựng lại vì những tổ chốt liên hoan dày đặc của quân đội BV đặc biệt là tại ngã ba Long Hưng, ngã tư Thạch Hãn, Nhà Ga. Sau mấy tuần liên tục tấn công, Lữ đoàn 3 Dù quá mệt mỏi và bị một số tổn thất, ngày 27 - 7 được lệnh lui về tuyến sau nhường khu vực hoạt động cho LD 258/ TQLC, như vậy toàn bộ SD/TQLC từ 3 hướng đang nhắm vào Cổ thành . Ngày 29 - 7 hoả lực Việt Mỹ bắt đầu trận tập kích phong lôi vào khu vực 4 cây số vuông của thị xã bằng phi cơ chiến lược, chiến thuật, hải pháo, pháo binh. Vùng ngoại vi Long Hưng, Thạch Hãn, Nhà Ga đến Trí Bưu, An Tiêm, Quy Thiện hầu như đã thanh bình địa. Lực lượng hai bên tranh nhau từng căn nhà, đoạn hào, gầm cầu, hố đất, cống rãnh, khai thác tối đa hoả lực để tiêu diệt quân bộ chiến. Trận đánh cam go dai dẳng suốt 2 tháng trời. Qua đầu tháng 9, BTL/QD1 điều 2 Liên đoàn BDQ thay tuyến phòng thủ của Lữ đoàn 147 ở hướng Bắc, tập trung 2 Lữ đoàn 147, 258 cùng thiết giáp tấn công dứt điểm thị xã và Cổ thành Quảng Trị . QD/BV cùng nổ lực tăng cường lực lượng và đích thân Tư lệnh phó chiến dịch xuống hành quân với các Sư đoàn, quân số trong thành cổ lên đến 8 Tiểu đoàn. Nhưng trong lúc này ở Quảng Trị bắt đầu chuyển mùa, mưa lũ liên miên, QD/BV gặp nhiều khó khăn trong công sự phòng thủ, hầm hào vừa bị ngập nước, vừa bị hoả lực phi pháo tập trung huỷ diệt, các cánh quân của TQLC đã làm chủ thị xã, dồn lực lượng đối phương vào gọn trong thành cổ và bị thiệt hại nặng, theo tài liệu chính thức của phòng Quân lực mặt trận, trung bình hàng ngày có trên 100 người chết, chưa kể số bị thương, trong lúc đó hoả lực yểm trợ giảm và đường tiếp tế bị cắt… Những ngày trung tuần tháng 9 đã xảy ra biết bao trận cận chiến đẫm máu dưới chân cổ thành, trận chiến một mất một còn giữa TQLC và 8 Tiểu đoàn CS/BV. Nhằm cứu nguy tình trạng bi đát này, BTL chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 18/325 vượt sông sang thị xã quyết giữ thành cổ, nhưng nước sông Thạch Hãn dâng cao, hoả lực Việt Mỹ khống chế liên tục, cuộc chuyển quân không thực hiện được. Chiều 15-9 các đơn vị TQLC đã cắm cờ trên Cổ thành và ngày 16-9 đã làm chủ hoàn toàn thị xã. Cả thế giới đang hướng về Quảng Trị, dưới ánh mắt tò mò trông đợi để nhìn mặt kẻ thắng người thua trên một canh bạc, những phóng viên rình rập hàng giờ để tranh nhau chớp cho được bức ảnh đầu tiên khi dựng một ngọn cờ. Riêng người Quảng Trị tâm tư bồn chồn, ngóng chờ một khoảng lặng yên tiếng súng để trở về, nhưng họ có thấy gì đâu, một nỗi chết bao trùm trái dài từ đại lộ kinh hoàng đến thị xã, mà có còn cái gì để gợi nhắc một thành phố hay không? “Những sự kiện kinh hoàng nhất đã xảy đến, những thống khổ đoạ đày nhất đã hiện hiện, tất cả tàn khốc chất ngất chiến tranh đã ào xuống trên Quảng Trị ! ”. Người dân mất hết, ngơ ngác quẩn quanh để định vị trí ngôi nhà của mình, nhưng mọi thứ bây giờ chỉ là đống gạch vụn khổng lồ, chẳng có ngôn từ nào đủ ý để diễn đạt hết mức độ tàn phá và nỗi u uất trong lòng người … Cả hai phe đều mở tiệc mừng, tưởng thưởng công lao, tung hô chiến thắng và làm cuộc thống kê: người ta đếm những xác chết, những tấn bom đạn, phương tiện chiến tranh, công trình xây dựng bị phá huỷ… nhưng có biết bao điều không đếm được tiềm ẩn trong tận đáy tâm hồn, lúc chùng xuống, khi dâng lên nghẹn ngào... Người Quảng Trị mất đến cả những dấu tích của ký ức, họ trở về, ngậm ngùi rồi cất bước. Trong tang thương, ngút ngàn khổ ải, họ tự hỏi sao định mệnh quá khắt khe với một vùng đất khô cằn cùng những con người chơn chất đến thế !? Năm 72 đã tạo nên một nỗi đau của dân tộc và một cái tang, một mất mát lớn lao trong mỗi người Quảng Trị TỔNG HỢP TỪ CÁC TÀI LIỆU: Quảng Trị 72 của Sở Văn Hoá Thông Tin Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam Bài viết: “ Thuỷ Quân Lục Chiến VN và trận chiến Xuân Hè 72 tại vùng I Chiến thuật ” của Trần văn Hiển – Trưởng phòng 3SD/TQLC Tác giả: LÊ VĂN TRẠCH (SD3BB) *** TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3 BB LUI QUÂN TẠI QUẢNG TRỊ VÀO MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972 Năm nay, tháng 7/2010 trong dịp nghỉ hè tại Mỹ, chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư Đoàn 3BB cư ngụ tại vùng Nam California . Trong cuộc trao đổi, anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh lửa, trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên " Đại Lộ Kinh Hoàng" năm 1972 . Sự kiện đó đã khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng cay về một trận đánh oan khiên tới độ phi lý mà các đơn vị trú phòng tại đây đã phải gánh chịu và đấy cũng là những băn khoăn, thắc mắc nằm sâu trong ký ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua . Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Phòng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu . Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lãnh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM . Trung bình mỗi tuần, chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp . Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu, Thủ tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rõ tình hình và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi quân sự . Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971, VC đã ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự .Con đường này đã được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72 . Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác sự kiện đó . VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS . Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC . Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh đạo quân sự cao nhất của VNCH về tình hình QS tại tòa nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục . Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì, mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân HK oanh kích . Sự bỏ ngõ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đã làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc. I/ Mạn đàm với Chuẩn tướng Vũ văn Giai, Cựu Tư Lệnh SĐ3BB Cuộc chuyện trò với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua . Bởi vậy, tôi ngỏ ý muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được . Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California . Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3 . Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3 . Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17 . Do đó, chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm . Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của mình, ông không thể làm gì hơn được . Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau, vì theo họ, lực lượng trú phòng của ta không thể đương cự được . Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng . Ngược lại, ông Lãm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt . Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH . SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH . Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách . Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 vì ông này không được cảm tình của John Paul Vaunn, người Cố vấn Mỹ " rất đặc biệt " tại Quân Đoàn 2 lúc đó Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với tình hình sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu . Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác . Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái Bình Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố ! Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đã thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt - Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải . Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản " Đề nghị mục tiêu oanh kích " mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Saigon, vào thời điểm đó, đã không được thực hiện . Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị phòng thủ của VNCH tại phía nam của vùng PQS . Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là " Tiền đồn chống Cộng " của Thế Giới Tự Do . Tổng thống Thiệu, Đ.T. Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó ? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ? Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC . Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ TTM ở Saigon hay không ? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc động . Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa . Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh quyền và khi VC chiếm được miền Nam, ông lại bị Cộng sản đọa đầy thêm 13 năm nữa . Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan lắm Có lẽ vì định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Hòa Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Saigon ra tăng cường cho P2/SĐ3 . Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân " lấn đất giành dân " trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973 . Trong gần 3 năm, tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa . Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung . Nguyên tắc " một đổi một " được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện . Điều đó có nghĩa là : VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết ! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng . Ai chịu trách nhiệm về việc này ? Tại Ngã Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75 . Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Hòa Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng . Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Saigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS II/ Phân tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972: Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ . Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này . Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng . Để nhìn vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nhìn từ " góc cạnh chính trị " của cuộc chiến VN vào thời điểm đó . Tuy nhiên, trên bình diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau : 1. Thành phần :[/B ] Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1 . Đặc biệt, Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn . Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2 . Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến . Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại của Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số còn lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng, pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm ai ngạc nhiên . Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đã phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường đã được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước
2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập . Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác . Hiện tượng này đã được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước .
Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy . Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai . Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức .
3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay QĐ đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa, người Mỹ đến VN gọi là để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của võ khí . QĐ Mỹ đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN . Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc . Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến . Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh . Qua hình thái chiến tranh ấy, VC đã làm cho người Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính
Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian . Làm việc gì họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối nặm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân . Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đã một phần chứng minh điều đó . Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ không biết gì về cuộc Tổng công kích này trước khi nó xảy ra . Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lý, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ . Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đã tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT vì cuộc chiến VN đã bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN . Mỗi năm CSQT đã chi ra hàng trăm triệu Mỹ kim về lãnh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía VC . Các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương . Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH .
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân . Đã thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên . Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ viện Mỹ đả kích chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN . Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn . Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải lo lắng nên họ đòi chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ
4. Mục tiêu của chính phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ của mình vì sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn . Đó là lý do khiến HK tham dự vào 2 cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau Thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng . Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ 19 . Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận CSQT bành trướng về phía ĐNA vì theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS . VNCH không còn một lựa chọn nào khác . Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đã được nói đến ở trên .
5. Lý do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ còn nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến VN thì Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng . Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt - Trung . Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn . Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những hình ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rõ ràng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến vì sự xung đột về ý thức hệ và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT . Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ . Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc tế . Đó là kết quả của chính sách " ngoại giao bóng bàn " của Henry Kissenger va Richard Nixon . Tình nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt ! VNCH bị bức tử .
Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ . Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ . Trong bối cảnh ấy, HK lại tìm cách để làm thân với VC để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới
III/ Kết luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH . Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín . Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất cho mình . Hơn ai hết, HK đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy . Tôi không nhớ tên một nhà lãnh đạo nào đó của HK đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng HK không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết . Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả dân tộc
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ TƯỞNG TỰ DO và chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đã bị đọa đầy, khổ nhục sau cuộc chiến đấu " oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ " để bảo vệ Đất Nước
THẾ HUY, Paris
Viết xong tại California ngày 19/7/2010 Ghi chú: (1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ QĐ đã tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 8:32:00 GMT 9
Chuyện Hai Người Lính Nguyễn Kỳ Phong Ðọc Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN  Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN By Andrew Wiest. New York University Press, 2007, 368 pages Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên: Anh Hùng và Bội Phản Trong Quân Ðội VNCH, là một cuốn sách viết về hai người lính và binh nghiệp của họ trong cuộc chiến Việt Nam. Hai người lính — trong trường hợp này là hai sĩ quan — Trung tá Phạm Văn Ðính và Thiếu tá Trần Ngọc Huế. Trung tá Ðính và Thiếu tá Huế, hai ngôi sao sáng đang lên của quân lực VNCH. Hai người đang xã thân chiến đấu chống lại một chủ nghĩa mà họ thù ghét từ lúc mới lớn. Nhưng vào những giờ cuối cùng trong đời binh nghiệp, hai người chọn hai lối đi khác nhau: Thiếu tá Huế chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi bị bắt làm tù binh; Trung tá Ðính, dưới áp lực của địch, đầu hàng để khỏi bị bắt làm tù binh. Bìa tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army. Đại úy Trần Ngọc Huế đang được Đại tướng Abrams gắn huy chuơng. Bên phải là Thiếu tá Phạm Văn Ðính. Người sĩ quan Hoa Kỳ đứng phía sau là Đại úy cố vấn cho đại đội Hắc Báo William Joe Bolt. Bolt hồi hưu với cấp bậc Trung tướng Tình tiết trong Một Quân Ðội Bị Quên giống như một cuốn tiểu thuyết, nhưng tất cả đều sự thật; đều có thể kiểm chứng được. Ðường binh nghiệp của Tr/T Ðính và Th/T Huệ gần như đi song song với nhau: cả hai là sĩ quan tác chiến; đều là chỉ huy trưởng những đơn vị vang tiếng của quân lực VNCH. Và đoạn cuối binh nghiệp của cả hai cũng giống nhau, khi bị chấm dứt trong hai trận đánh khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam: Th/T Huế trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971; Tr/T Ðính vào Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972. Tr/T Phạm Văn Ðính tốt nghiệp khóa 9, Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức; T/T Trần Ngọc Huế, khóa 18, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Ðà Lạt. Ra trường hai người về phục vụ ở miền Trung — nơi sanh ra và lớn lên của Huế và Ðính. Ðính phục vụ ở tiểu đoàn 3/trung đoàn 3/ sư đoàn 1 Bộ Binh; Huế, TÐ1/ Tr.Ð1/ SÐ1BB. Sau vài năm nếm mùi binh lửa ở vị trí thấp nhất của một sĩ quan mới ra trường, cả hai được hoán chuyển về đơn vị mới, với nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Ðầu năm 1965, Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, tư lệnh sư đoàn 1BB, quyết định thành lập một đại đội xung kích, có khả năng phản ứng nhanh để đáp ứng những trường hợp khẩn cấp ở Vùng I. Ðại đội này còn phải có khả năng trinh sát như một đại đội thám báo/ viễn thám của sư đoàn. Ðại đội tân lập đó được đặt tên Hắc Báo, nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tư lệnh sư đoàn. Và Trung úy (lên Đại úy vài tháng sau đó) Ðính được danh dự chọn làm Đại đội trưởng đầu tiên. Ðại đội Hắc Báo của sư đoàn 1BB có lẽ là một trong những đơn vị cấp đại đội được nhắc đến tên nhiều nhất trong quân lực VNCH. Thành hình vào tháng 2-1965, đại đội có năm trung đội tác chiến (năm 1968 có sáu trung đội) ; có một đơn vị không vận cơ hữu ứng trực 24 tiếng đồng hồ một ngày, gồm năm trực thăng chuyên chở và hai trực thăng võ trang yểm trợ. Ðại đội có một toán cố vấn Mỹ và Úc Ðại Lợi đi kèm. Sự có mặt của các cố vấn ở cấp đại đội cho thấy sự quan trọng của đơn vị này: thông thường cố vấn chỉ có mặt ở cấp tiểu đoàn trở lên. Từ lúc thành hình cho đến ngày VNCH thất thủ, đại đội Hắc Báo chưa bao giờ thất bại với những công tác giao phó. Từ những công tác giải cứu phi công bị rớt trong lòng đất địch, cho đến những cuộc đột kích vào những binh trạm của CSBV ở thung lũng A Shau, ở Co Roc, hay xa hơn bên kia biên giới Lào. Ðại tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, nhiều lần nhắc đến tên đại đội Hắc Báo trong những buổi họp tham mưu cuối tuần (ghi lại trong The Abrams Tapes, của Lewis Sorley). Ít có một đại đội nào của quân lực VNCH có danh tiếng vang tận đến Bộ Quốc Phòng Mỹ ở Hoa Thịnh Ðốn như đại đội Hắc Báo. Cuối năm 1971, trong cao điểm của chương trình Việt Nam Hóa, phó giám đốc Nha Nghiên Cứu và Biến Chế của Bộ Quốc Phòng, Leonard Sullivan — đang làm việc trực tiếp cho Bộ trưởng quốc phòng Melvin Lair — sang Việt Nam nghiên cứu một kế hoạch ít tốn kém để ngăn chận đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Trong lần viếng thăm Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và Thiếu tướng Phạm Văn Phú vào trung tuần tháng 10-1971, Sullivan cho biết Bộ trưởng đã Laird thông báo là Không Quân Hoa Kỳ sẽ không còn tài chánh để tiếp tục dội bom ngăn chận bằng B-52 vào năm tới. Thay vào đó, bộ quốc phòng Mỹ đề nghị một phương cách ngăn chận khác là dùng những đại đội như đại đội … Hắc Báo để đột kích những binh trạm của CSBV trên đuờng mòn Hồ Chí Minh! Tiếp theo, Sullivan đề nghị quân đoàn I nên lập thêm vài đại đội Hắc Báo nữa và đưa vào Vùng II để đột kích những binh trạm ở vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào. Nhưng hai vị tư lệnh quân đoàn và sư đoàn cho biết họ chỉ có thể thực hiện lời yêu cầu nếu có lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Hơn nữa, nhân sự của đại đội Hắc Báo không phải dể có. Trung tá Nguyễn Xuân Lộc, trưởng Phòng 2 Sư Ðoàn 1BB, cho biết nhân sự của Hắc Báo đến từ hai đại đội thám báo của trung đoàn 3 và 54. Nghĩa là hai trung đoàn này không có đại đội thám báo như hai trung đoàn 1 và 2 của SÐ 1BB, để có chổ cho nhân sự của đại đội Hắc Báo. Tóm lại, lập ra một đại đội như đại đội Hắc báo không phải là chuyện đơn giản (Ðọc thêm: Ðiện tín của Trung tướng Welborn G. Dolvin, tư lệnh Quân Ðoàn XXIV, gởi Đại tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV. Secret DNG 2997 Eyes Only, 20 October 1971. Subject: Visit to MR 1 of Mr. Leonard Sullivan; về vai trò của Phó giám đốc Leonard Sullivan, đọc Bernard C. Nalty, The War Agaisnt Truck.). Liên hệ và thành tích của Ðính với đại đội thiện chiến và lừng danh như Hắc Báo, làm độc giả khó giải thích được hành động đầu hàng CSBV sau này của ông. Trong thời gian Ðính chỉ huy đại đội Hắc Báo, Trung úy Huế, sau khi tốt nghiệp khoá sình lầy ở Mã Lai Á, được về làm sĩ quan tùy viên cho Tướng Chuân ở Sư Ðoàn 1BB. Cùng phục vụ cho một vị tư lệnh, Ðính và Huế thường gặp nhau, tìm hiểu về nhau. Sau những biến động liên tục ở miền Trung năm 1966; sau nhiều lần tư lệnh của Quân Ðoàn I và Sư Ðoàn 1 BB bị thay đổi, nhiệm sở của Ðính và Huế cũng bị thay đổi theo, nhưng thay đổi theo chiều hướng khả quan. Khi Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng về coi SÐ 1 BB, ông đề bạt Ðính về làm tiểu đoàn trưởng TÐ 2/ Tr.Ð 3, kiêm luôn quận trưởng Quảng Ðiền. Nhiệm vụ của Th/T Ðính lúc đó là vừa đáng giặc, vừa bình định. Về phần Huế, dù có chọn lựa để được thuyên chuyển một đơn vị không tác chiến, để hưởng thụ một đời sống gia đình (vừa mới lấy vợ), anh xin đổi về một đơn tác chiến: đại đội Hắc Báo. Về làm Đại đội phó Hắc Báo được chừng hai tháng thì Tướng Trưởng bổ nhiệm Huế làm Đại đội trưởng, thay vào chổ của Ðính. Một lần nữa, Huế và Ðính lại làm việc chung cho một ông thầy, cùng ở chung một sư đoàn. Sự liên hệ, quen biết liên tục đó làm tăng thêm ngỡ ngàng về sau, sau khi hai người trở thành kẻ thù — dù kẻ thù trong yên lặng. Trong hai năm 1968 và 1969, phục vụ ở Sư Ðoàn 1BB, đường binh nghiệp của Tr/T Ðính và Th/T Huế được thăng hoa. Hai đơn vị của Huế và Ðính có công tiếp cứu bộ tư lệnh sư đoàn 1 BB của Tướng Trưởng, và một phần nào đó, có công giải tỏa thành nội và dựng lại lá cờ VNCH ở kỳ đài Ðại Nội vào trận Mậu Thân 1968. Dựa vào những gì hai nhân vật chánh trong tác phẩm kể lại, TÐ2/ 3 của Ðính là đơn vị triệt tiêu những điểm kháng cự cuối cùng của cộng sản ở kỳ đài; và đại đội Hắc Báo là đơn vị bảo vệ bộ tư lệnh Sư Ðoàn 1 BB trong giờ phút kịch liệt nhất của trận Mậu Thân. Cũng trong trận này, liên hệ của hai người gắn chặc nhau hơn khi tiểu đoàn 2/3 và đại đội Hắc Báo cùng được giao nhiệm vụ chung là giải tỏa một góc chiến trường của thành nội Huế. Năm 1969. Trần Ngọc Huế bây giờ mang Thiếu tá, rời đại đội Hắc Báo về coi tiểu đoàn 2/2; trong khi đó Ðính đã là Trung tá, vẫn còn coi tiểu đoàn 2/3. Năm 1969 tiểu đoàn của Tr/T Ðính liên quan đến một trận đánh mãnh liệt, nhưng không được bao nhiêu báo chí nhắc đến: Trận Ðộng Ấp Bia — mà báo chí và các quân nhân tham dự đặt cho một tên rất biểu tượng là Ðồi Hamburger Hill (Thịt Bằm). Theo báo chí và phần lớn sách sử về chiến tranh Việt Nam, trận Hamburger Hill kết thúc khi lính của một trong ba tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ — sau hơn 10 ngày giao chiến ác liệt — triệt tiêu những lô cốt cuối cùng của trung đoàn 29 CSBV trên đỉnh đồi cao 937 thước và làm làm chủ ngọn đồi. Nhưng theo tác giả Wiest, và theo một số sử liệu chúng ta có thể tìm được, thì tiểu đoàn 2/ trung đoàn 3 của Trung tá Ðính là đơn vị lên được đỉnh đồi trước nhất. Trận đánh này, lúc khởi đầu, chỉ có một tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ phục trách, nhưng sau hơn một tuần quần thảo, bộ tư lệnh Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù quyết định lấy ngọn đồi bằng mọi giá. Tướng Trưởng, trong tinh thần hợp tác Việt-Mỹ, gởi tiểu đoàn 2/3 của Trung tá Ðính để phụ lực vào cuộc tấn công cuối cùng. Bốn tiểu đoàn đánh bốn hướng từ chân đồi lên, và lính của tiểu đoàn 2/3 có mặt trên cao điểm của đỉnh đồi trước nhất. Trong tác phẩm, tác giả Wiest trích lời của Đại tướng Abrams trong buổi họp tham mưu ở MACV ngày 24 tháng 5-1969. Tướng Abrams nói tuy các cơ quan truyền thông nói là lính Nhảy Dù Mỹ chiếm được ngọn đồi, nhưng ông có tin riêng nói lính VNCH là đơn vị được vinh dự đó (Tác giả Wiest trích lời của Abrams trong The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley. Cũng trong buổi họp đó, Tướng Abrams có nhắc lại chuyện đại đội Hắc Báo và trận đánh chung quanh kỳ đài thành nội Huế năm 1968). Ðiều đáng tiếc, tác giả Wiest kết luận, là đơn vị VNCH không được tuyên dương như sự thật đã xảy ra. Sau trận Hamburger Hill Tr/T Ðính về làm sĩ quan hành quân cho bộ tư lệnh Sư Ðoàn 1BB Tiền Phương (Ðây là một đơn vị gồm trung đoàn 2/ SÐ1BB và một lữ đoàn TQLC VNCH, được lập ra để trám vào chổ của những đơn vị TQLC Mỹ rút đi trong chương trình Việt Nam Hóa. Ðơn vị này nằm dưới quyền chỉ huy của Đại tá Vũ Văn Giai, Tư lệnh phó sư đoàn). Thiếu tá Huế thì vẫn coi tiểu đoàn 2, trung đoàn 2, đóng quân sát vùng giới tuyến. Là một đơn vị nằm dưới quyền điều khiển của SÐ 1 BB Tiền Phương, con đường binh nghiệp của Huế và Ðính lại gặp nhau. Tháng 5-1970, Tướng Trưởng yêu cầu Đại tá Giai đưa Trung tá Ðính về trung đoàn 54/ SÐ1BB với chức vụ trung đoàn phó. Trong khi đó Huế và tiểu đoàn 2/2 vẫn hoạt động ở hướng bắc Ðông Hà. Ở chương 4 của tác phẩm, chương nói về thành tích của Huế và Ðính trong năm 1968, tác giả Andrew Wiest đặt tên là, “Thời của Những Người Hùng. ”  Ðại bác 175 ly ở căn cứ Carroll Chương 4 ghi lại một số dữ kiện để đưa độc giả đến hai chương nồng cốt 8 và 9, làm tiền đề cho quyển sách: anh hùng và bội phản. Chương 8 “Shattered Lives and Broken Dreams: Operation Lam Son 719,” nói về giấc mơ chiến thắng của Huế bị tan vỡ— và những mảnh vụng của cuộc đời theo sau đó. Và chương 9, “The Making of a Traitor,” nói về sự phản bội của Trung tá Ðính khi ông đầu hàng cộng sản vào năm 1972 trong trận Mùa Hè Ðỏ Lửa. Ở chương này, tác giả Wiest đã cố gắng giải thích những sự kiện và hoàn cảnh chung quanh quyết định đầu hàng của Tr/T Ðính. Giấc mơ chiến thắng của Thiếu tá Trần Ngọc Huế tan vỡ vào mùa Xuân năm 1971 ở Hạ Lào. Ðầu tháng 2-1971, khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua những căn cứ hậu cần của CSBV trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh xảy ra, đơn vị của Th/T Huế vẫn còn hoạt động ở vùng phi quân sự, và trung đoàn 54 của Tr/T Ðính vẫn lo an ninh ở phía nam cố đô Huế. Mặc dù Sư Ðoàn 1BB là một trong ba lực lượng chính của cuộc hành quân, trong thời gian đầu BTL Sư Ðoàn 1BB chỉ xử dụng hai trung đoàn. Nhưng đến cuối tháng 2, tình hình thay đổi bất lợi ở mặt trận Hạ Lào. Sau cuộc hội thảo với Tổng thống Thiệu ở Sài Gòn ngày 28 tháng 2, Tướng Hoàng Xuân Lãm quyết định thay Sư Ðoàn Nhảy Dù bằng Sư Ðoàn 1BB, làm đơn vị chính đánh vào Tchepone. Ngày 2 tháng 3 đơn vị của Huế, TÐ 2/2; TÐ 3/2; và một ban tiền trạm của trung đoàn 4 được trục thăng vận đến Khe Sanh để chuẩn bị nhảy vào Tchepone. Sau khi các tiểu đoàn của trung đoàn 1 liên tiếp thiết lập các cứ điểm dây chuyền Lolo, Liz và Sophia ở hướng nam dẫn về Tchepone để chuẩn bị cho mục tiêu chánh. Ngày 6 tháng 3, TÐ 2 và 3 của trung đoàn 2 nhảy vào Tchepone theo đúng lịch trình của kế hoạch. Hơn 120 trực thăng đưa hai tiểu đoàn 2/2 và 3/2 vào cứ điểm — một bãi đáp trực thăng — có tên là Hope ở hướng bắc của Tchepone. Chỉ gặp một vài kháng cự nhỏ sau khi đổ quân, tiểu đoàn của 2/2 của Th/T Huế bung ra lục soát và tiến vào Tchepone. Ðến ngày 8, tiểu đoàn 2/2 báo cáo họ đã nằm bên trong thị trấn. Sau hai ngày lục soát, thay vì hai tiểu đoàn sẽ được trực thăng vận ra khỏi Tchepone như kế hoạch nguyên thủy, Tướng Lãm ra lệnh cho tiểu đoàn của Huế tiến sâu về phía nam, vượt qua sông Xe Pone, rồi hành quân lục soát về hướng các cứ điểm Sophia, Liz, và LoLo. Tại đây họ sẽ nhập chung với quân của trung đoàn 1, rồi cả hai trung đoàn sẽ được trực thăng vận về khu vục đường 914 ở để phá hủy binh trạm 33. Sau khi hành quân ở đó từ bảy đến mười ngày, Sư Ðoàn 1 BB sẽ theo thứ tự rút về biên giới Việt Nam. Tại sao lại có sự thay đổi trái ngược như vậy? Tại sao không “nhảy vào Tchepone ... đái một cái rồi nhảy ra …” như những gì báo chí đã viết về mục đích của cuộc đột kích vào Tchepone như chúng ta thường đọc qua? Theo tác giả Wiest, phấn khởi vì những chống trả yếu ớt của địch ở chung quanh Tchepone, Tướng Lãm quyết định kéo dài nhiệm vụ của trung đoàn 1 và 2 thêm 10 ngày nữa. Ðây không phải là ý kiến riêng của Tướng Lãm. Những tài liệu giải mật sau này cho thấy, ba ngày sau khi quân VNCH đặt chân xuống Tchepone, Tướng lãm bay về Sài Gòn họp với tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên. Trong buổi họp ngày 9 tháng 3, Tổng thống Thiệu muốn TQLC và Sư Ðoàn 1BB bỏ ra bảy đến 10 ngày hành quân ở khu vực đường 914/ binh trạm 33, một vị trí khoảng chín cây số tây nam căn cứ Bản Ðông/ A Loui trên đường 9 (Ðiện văn, Top Secret MAC 02455 Eyes Only, Đại tướng Abarms gởi Trung tướng Sutherland, 9 March 1971; điện văn, Top Secret QTR 0306 Eyes Only, Trung tướng Sutherland gởi Đại tướng Abarms, 10 March 1971).  Bãi đáp LoLo, 5-3-1971. Một ngày trước khi 2/2 của Th/T Trần Ngọc Huế nhảy vào Tchepone Ngày 11, từ bải đáp Liz, tiểu đoàn 2/2 của Huế được trực thăng vận đến bải đáp Brown ở khu vực đường 914. Tại đây tiểu đoàn lục soát về phía nam cho đến ngày 14. Nhưng ngày 14 tháng 3 cũng là ngày địch quân đồng loạt phản công trên mọi hướng. Ðến hôm đó, CSBV đã tụ đủ quân để tấn công liên tục vào tất cả căn cứ hỏa lực hay bãi đáp ở phía nam đường 9. Ở phía nam đường 9 — mặt trận của Sư Ðoàn 1 BB và Lữ Ðoàn 147 TQLC — cộng quân có Sư Ðoàn 2 và 324B, cộng với hai binh trạm (một binh trạm tương đương một trung đoàn), một số quân hơn là đủ để ngăn chận mọi kế hoạch rút quân của VNCH. Từ sáu giờ sáng ngày 14, cứ điểm LoLo và chung quanh phía nam Tchepone, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 1 bị CSBV tấn công liên tục. Ðến ngày 17 trung đoàn quyết định phải di tản. Tiểu đoàn 4/1 ở lại chận hậu cho ba tiểu đoàn kia được trực thăng vận khỏi mặt trận. Khi đến lượt TÐ 4/1 di tản, trung đoàn phải yêu cầu B-52 đánh bom cách vị trí tiểu đoàn chừng 500 mét (so với khoảng an toàn thông thường là 1.000-1.500 mét) để ngăn chận những đợt tấn công của cộng quân, hầu có thì giờ lên trực thăng. Nhưng tiểu đoàn chỉ có 83 quân nhân thoát khỏi LoLo; tiểu đoàn phó và tiễu đoàn trưởng thì ở lại LoLo vĩnh viễn. Cùng ngày, ở khu vực đường 914, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 2 cũng chuẩn bị rời mặt trận. Ngày 18, TÐ 5/2 được bốc về Khe Sanh trước, trong khi ba tiểu đoàn 2, 3, và 4 được lệnh di chuyển theo hướng đông về cứ điểm Delta I để tiếp tục được di tản. Trên đường về Delta I, ba tiểu đoàn chạm địch liên tục. Khi biết không thể tiến về điểm hẹn ở Delta I, Huế cho tiểu đoàn nằm lại tại một cao điểm và dàn quân ra chuẩn bị tử thủ. Tối đêm 19, cộng quân tấn công bằng pháo và hỏa tiễn trước, tiếp theo đó là quân bộ binh có trang bị súng phun lữa ồ ạt xung phong. Trưa ngày 20, trung đoàn xin bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, bằng mọi cách phải cho trực thăng phải hạ cánh di tản ba tiểu đoàn còn lại trước khi họ bị tiêu diệt. Nhưng với gần 1,400 phi vụ trực thăng võ trang; 11 phi vụ B-52; và 270 phi vụ oanh tạc chiến thuật trong ngày, hỏa lực đó chỉ đủ giảm áp lực của địch đủ để trực thăng đáp xuống bốc được tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn 2 và 4 phải chờ những phi vụ di tản ngày hôm sau. Nhưng ngày ngày hôm sau là một ngày quá trễ cho Huế và những quân nhân còn lại. Trong cao điểm của những cuộc tấn công đêm đó, Huế bị trúng đạn súng cối và ngất lịm. Trong lúc loa phóng thanh của địch vang dội những lời kêu gọi đầu hàng, bộ chỉ huy sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 2/2 phải đánh mở đường máu để di tản. Khi lính của Huế chuẩn bị đến khiêng ông đi, T/T Huế từ chối, biết rằng mình sẽ là một gánh nặng cho toán quân rút đi. Huế ra lệnh cho họ đánh mở đường máu rời mặt trận. Tiểu đoàn phó Nguyễn Hữu Cước chào vĩnh biệt Huế trước khi dẩn toán quân 60 người còn lại đánh mở đường máu rút quân. Vài phút sau, Huế trở thành một trong những tù binh cao cấp bị bắt tại mặt trận Hạ Lào. (Theo lời Th/T Huế kể lại, sau khi thành công nhảy vào Tchepone, ông được đặc cách vinh thăng Trung tá. Chuẩn tướng Phạm Văn Phú trực tiếp chuyển tin đó dến ông. Sau khi bi bắt làm tù binh, Th/T Huế khai chức vụ ông là Thiếu tá. Nhưng sĩ quan thẩm vấn của CSBV nói ông đã là Trung tá, theo những gì họ nghe được trên hệ thống truyền tin của loan truyền ngoài mặt trận của VNCH) Ở bên kia biên giới, Tr/T Ðính theo dõi tất cả diễn biến. Trong những ngày cuối cùng của hành quân Lam Sơn 719, Ðính đưa tiểu đoàn 2 của trung đoàn 54 đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ Khe Sanh. Nhìn những chiến tích — và chiến bại — của Lam Sơn 719, Ðính suy nghĩ nhiều về một cuộc chiến không tương lai, và thân phận của những quân nhân trong cuộc chiến. Cảm nghĩ đó, tác giả Wiest thuật lại theo những gì Tr./T Ðính kể. Trong chương 9, “The Making of A Traitor,” tác giả Wiest viết sơ qua về cuộc tổng tấn công của CSBV vào mùa Hè năm 1972, nhưng tác giả viết sâu hơn khi nói về hoàn cảnh chung quanh việc Tr./T Ðính đầu hàng. Dựa vào những cuộc phỏng vấn với các cố vấn của trung đoàn và sư đoàn có mặt tại chiến trường; dựa vào các nhân vật — những sĩ quan trong ban tham mưu của trung đoàn 56/SÐ 3BB — còn sống, như Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Trung tá Trung đoàn phó Vĩnh Phong; Đại úy Nguyễn đình Nhu, trung đoàn 56; Trung úy Mai Xuân Tiểm, ban 3 trung đoàn; Thiếu tá Tôn Thất Mãn, tiểu đoàn trưởng TÐ 1/56. ... Với những lời kể của nhân chứng, Andrew Wiest viết lại hoàn cảnh đưa đến quyết định đầu hàng tập thể của trung đoàn 56 tại căn cứ Carroll. Nhưng những gì Tr./T Ðính thuật lại sau cuộc chiến có phải là những lý do để chạy tội? Ðính và hơn 600 quân nhân của trung đoàn 56/ SÐ3BB phải đầu hàng vì không còn lối thoát, vì bị bỏ rơi, hay chính Tr./T Ðính là người đã vẽ cho họ một bức tranh bi đát, rồi thuyết phục họ đầu hàng? Mỗi độïc giả sẽ là một chánh án đối với Tr./T Ðính, sau khi thẩm định sự kiện và hoàn cảnh được trình bày trong sách. Người điểm sách này xin nói trước: trước khi đọc tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army, người viết đã có một định kiến về hành động đầu hàng của Tr./T Ðính: đó là hành động của một sĩ quan chủ bại, chưa đánh đã chạy. Và sau khi đọc tác phẩm, người viết vẫn không hoàn toàn đồng ý với lý do đầu hàng của ông Trung tá: Thông cảm? Có. Chấp nhận? Không! Gần nửa năm sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, để gia tăng quân số thay vào khoảng trống của các đơn vị Mỹ rút quân, tháng 10-1971 bộ tổng tham mưu thành lập Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Sư đoàn tân lập này chỉ có một trung đoàn làm rường cột chánh, hai trung đoàn còn lại là lính thuyên chuyển từ các đơn vị khác, tân binh tuyển mộ từ các lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, hay một đôi khi là những quân nhân tòng phạm được ân xá để trở lại quân ngũ. Trong ba trung đoàn 2, 56 và 57 của Sư Ðoàn 3BB, chỉ có trung đoàn 2 lấy ra từ Sư Ðoàn 1BB, là đơn vị có kinh nghiệm chiến trường lâu nhất. Với một sư đoàn như vậy, không vị sĩ quan nào muốn nhận chức sư đoàn trưởng. Sau cùng, chuẩn tướng Vũ Văn Giai nhận chức tư lệnh sư đoàn. Theo lời ông kể, ông là một “tư lệnh kém may mắn của một sư đoàn không không ai muốn nhận.” Và khi tìm sĩ quan về chỉ huy trung đoàn, tướng Giai tìm những thuộc viên cũ đã làm việc chung với ông: Tr/T Ðính được mời về làm chỉ huy trưởng trung đoàn 56. Cuối năm 1971 đầu năm 1972, quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Vùng I. Còn lại chỉ là những đơn vị tiếp vận và cố vấn. Hơn 80 ngàn lính TQLC Hoa Kỳ có mặt ở Vùng I vào giữa năm 1969, bây giờ chỉ còn khoảng 500. Ðể phòng thủ năm tỉnh của Vùng I, tướng Hoàng Xuân Lãm cho SÐ 1BB giữ phía tây thành phố Huế; SÐ 2BB giữ ba tỉnh ở phía nam; và sư đoàn yếu nhất, SÐ 3 BB, được giao nhiệm vụ trấn giữ hai hướng bắc và tây Quảng Trị. Trung đoàn 57 phụ trách bên phải quốc lộ 1, hướng bắc Cửa Việt; trung đoàn 2, bên trái quốc lộ 1, bắc Cam Lộ; và, trung đoàn 56, phía nam đường 9, gần những căn cứ Khe Gió, Carrol, Mai Lộc. Ðể yểm trợ và phụ giúp thêm cho SÐ 3BB, Vùng I cho hai lữ đoàn TQLC đóng ở những tiền đồn dọc theo vòng cung tây nam đường 9, gần biên giới Lào, như là vòng đai phòng thủ đầu tiên cho trung đoàn 56. Vì trung đoàn 56 còn mới, để tiếp tục huấn luyện các tiểu đoàn tân lập của Tr./Ð 56, và tránh tình trạng đóng quân ù lì một chổ, tướng Giai cho thay đổi vị trí của hai trung đoàn 2 và 56 theo chu kỳ: trung đoàn này đến vùng trách nhiệm của trung đoàn kia, và ngược lại. Ðó là lối bày binh và trận liệt ở Vùng I khi CSBV đồng loạt tấn công — và CSBV tấn công vào ngay thời điểm bất ngờ và nguy hiểm nhất. Chín giờ sáng ngày 30 tháng 3-1972 Tr./Ð 2 và 56 hoán chuyển trại và vùng trách nhiệm. Tr./Ð 56 của Ðính từ căn cứ C2 ở bắc Cam Lộ di chuyển về hướng nam, thay thế Tr/Ð 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió. Mười một giờ ba mươi, khi đoàn quân còn đang di chuyển, một số chưa kịp qua sông (sông Cam Lộ, trên đầu đường 9), chỉ có một đại đội tác chiến và đại đội chỉ huy vừa vào trong căn cứ Carroll thì địch quân tấn công. Pháo 130 ly của địch bắn tràn ngập các mục tiêu. Không phải chỉ có Tr./Ð 2 và 56 bị tấn công, tất cả các căn cứ trên toàn Quảng Trị bị tấn công. Ở hướng bắc SÐ 308 CSBV chia làm bốn mũi vược qua vĩ tuyến 17 đánh thẳng vào Tr./Ð 57; ở hướng tây từ biên giời Lào, SÐ 304 và một trung đoàn thiết giáp đánh vào các tiền đồn của lữ đoàn 147 TQLC ở Núi Ba Hô và Sarge. Ngày hôm đó, mặt trận bắc và tây bắc Quảng Trị hoàn toàn trong biển lửa: CSBV bắn 2.000 quả đạn chung quanh căn cứ Fuller, Khe Gió, Carroll trong tổng số 11.000 trái trong 24 tiếng đầu của chiến dịch. Với cuộc hoán chuyển vị trí đang diễn ra khi cộng sản tấn công, ba tiểu đoàn của Tr./Ð 56 chỉ có một phần bên trong những căn cứ đã được chỉ định. Hai tiểu đoàn 1/56 và 2/56 vẫn còn kẹt giữa đường và đang bị pháo của địch quân kèm lại một chổ; tiểu đoàn 3/56 ở Khe Gió và 1/2 (tiểu đoàn 1 của trung đoàn 2, chưa rời trại khi cộng quân tấn công) ở Fuller cũng không di chuyển được vì bị pháo. Bộ binh CSBV tấn công hai căn cứ suốt ngày 30. Trưa 31, Khe Gió và Fuller thất thủ. Lực lượng ở hai căn cứ này mở đường máu rút về hướng đông nam, về căn cứ Carroll. Với hệ thống truyền tin bị phá hủy, Ðính gần như hoàn toàn bất lực trong việc điều động các cánh quân đang phân tán. Không phải chỉ có trung đoàn 56 của Ðính là nằm trong hoàn cảnh ngặc nghèo: bên trái của căn cứ Carroll, ở hướng tây và tây nam, hai căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô và Sarge — vòng đai bảo vệ của Carroll — sắp bị tràn ngập. Mười giờ rưởi đêm 31, tiểu đoàn 4 TQLC ở căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô di tản. Khi Núi Ba Hồ di tản thì căn cứ Sarge ở phía nam cũng không thể giữ được. Bốn giờ sáng đêm đó, sau khi khẳng định được tình hình ở hướng bắc, bộ chỉ huy TÐ 4 TQLC ở Sarge cũng rút đi. Hai toán quân TQLC đều di tản về căn cứ Mai Lộc, ba cây số hướng nam căn cứ Carroll, nơi có bản doanh của lữ đoàn 147 TQLC. Bây giờ chỉ còn Carroll và Mai Lộc nằm trên hướng tiến quân của SÐ 304 về Quảng Trị. Ngày 31 tháng 3-1972 Tr./T Ðính liên lạc với Chuẩn tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. “Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi.” Ðính báo cáo với Tướng Giai. “Ráng chờ, sẽ có tiếp viện,” Tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1 tháng 4, Tướng Lãm đích thân gọi Ðính. Lạc quan vì nghĩ rằng mình sẽ có tin vui, nhưng Tướng Lãm chi ra lệnh vắn tắt, là Sư Ðoàn 3BB và Quân Ðoàn I không còn gì để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá! Chỉ có vậy, chỉ có vậy từ người tư lệnh quân đoàn. Cùng ngày, những cánh quân di tản hay những cánh quân bị kẹt vì pháo kích lần lượt về được bên trong căn cứ Carroll, trong đó có cánh quân dưới quyền chỉ huy của Trung đoàn phó Vĩnh Phong. Tường trình của Trung tá Phong làm cho Ðính bi quan thêm: Sư Ðoàn 308 CSBV đang truy kích họ. Sự bi quan trở thành thất vọng khi tin tức qua hệ thống truyền tin cho biết hai trung đoàn 2 và 57 trên đường di tản về Ðông Hà; và bộ chỉ huy Sư Ðoàn 3 BB sẽ rời căn cứ Ái Tử về Quảng Trị để tránh tầm đại bác 130 ly của cộng quân từ bên kia sông Bến Hải bắn qua. Tối ngày 1 tháng 4, với tất cả quân di tản tụ về, căn cứ Carroll bay giờ có khoảng 1,500 tay súng trong vòng đai phòng thủ (có tường trình nói quân số bên trong căn cứ trước giờ đầu hàng là 1,800 quân). Ðọc đến đoạn này trong Vietnam’s Forgotten Army, không ít đọc giả sẽ có chút thông cảm cho hoàn cảnh Trung tá Ðính, như tác giả Wiest ít nhiều đã có — theo sự nhận xét của người điểm sách. Chúng ta có thể thấy được sự lo sợ và hoang mang của Tr/T Ðính: Ðường tiếp viện toàn bị cắt đứt; đối diện với một lực lượng của địch lớn hơn ba đến bốn lần về nhân lực cũng như hỏa lực; và bộ chỉ huy hình như đã bỏ trung đoàn, hay sẽ dùng trung đoàn như một lực lượng tế thần để đình trệ đường tiến quân của đối phương. Trong ý nghĩ của Ðính, quân lệnh cuối cùng của Trung tướng Lãm có hàm ý như vậy. Nhưng nhìn lại địa hình và tình hình của mặt trận ở hướng tây và tây bắc Quảng Trị, quân lệnh của Tướng Giai và Tướng Lãm không phải không có ý nghĩa. Những căn cứ nhỏ như Núi Ba Hô, Sarge, C2, C3, hay Mai Lộc có thể di tản được vì đó là những căn cứ nhỏ, không có địa hình thuận lợi để phòng thủ. Nhưng căn cứ Carroll thì hoàn toàn khác. Ðây là một căn cứ có thể cầm cự một hay là hai trung đoàn địch dể dàng. Tên chánh thức của căn cứ là Camp James J. Carroll. Tên căn cứ đến từ tên một đại úy TQLC Hoa Kỳ tử trận trong cuộc hành quân Prarie ở khu vực đó vào năm 1966. Trong cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, căn cứ Carroll là căn cứ pháo binh quan trọng của TQLC Hoa Kỳ ở bắc đường 9. Từ căn cứ Carroll, đại bác 175 ly của Lục Quân và đại bác nòng 8 inches của TQLC bắn yểm trợ cho căn cứ Khe Sanh (cách đó 20 cây số về hướng tây nam) và thường xuyên đấu súng với những pháo đội 130 ly của CSBV ở bên kia sông bến Hải (20-22 cây số hướng bắc). Trước khi trao lại cho quân lực VNCH, căn cứ là nơi đóng quân của bốn tiểu đoàn pháo binh Hoa Kỳ (hai tiểu đoàn của trung đoàn 12 pháo binh TQLC; hai tiểu đoàn của liên đoàn 94 pháo binh Lục Quân). Căn cứ rộng đủ để chứa hơn 2,000 quân và một vòng đai phòng thủ qui mô. Ðịa hình của căn cứ rất lý tưởng để phòng thủ: Xây theo hình ngũ giác trên một ngọn đồi trống, quân phòng thủ bên trong Carroll có thể quan sát bốn hướng: địch quân không thể tấn công bằng bộ binh mà không bị phác giác từ xa 500-1,000 mét. Ðịch quân có thể pháo kích — như họ đang làm — nhưng tấn công bằng quân bộ bịnh thì lại là một chuyện khó khăn nếu quân trú phòng quyết định tử thủ. Ngày 1 tháng 4, như đã nói ở trên, căn cứ Carroll có 1,500-1,800 tay súng bên trong và một lực lượng pháo binh gồm 26 khẩu đại bác từ 105 cho đến 175 ly, với vài chiến xa hạng nhẹ có trang bị đại bác 40 ly (loại thiết giáp tương tự như M.41, gọi là “Duster,” trang bị hai khẩu 40mm và một đại liên 30 trên pháo tháp). Nhìn từ quan điểm phòng ngự, lực lượng này có thể gây thiệt hại đáng kể cho mọi cuộc tấn công — hay ít nhất có thể cầm chân một lực không nhỏ của CSBV. Sáng Chủ Nhật ngày 2 tháng 4, vùng I được một phi tuần B-52 yểm trợ. Bom bỏ hướng tây bắc vòng đai bên ngoài của căn cứ. Liền sau cuộc dội bom, CSBV tấn công căn cứ từ ba hướng. Nhưng với địa hình kiên cố của căn cứ, CSBV bỏ cuộc sau vài tiếng tấn công biển người. Tác giả Wiest viết, cuộc tấn công biển người bị đẩy ngoài công sự một cách dể dàng bằng mìn và súng cá nhân. Cuộc tấn công bị coi thường đến độ vị trung tá cố vấn Mỹ đang có mặt bên trong căn cứ, trả lời với tiền sát viên không quân là ông chưa cần yểm trợ không lực trong lúc đó vì không có mục tiêu nào thích đáng (đọc, Trial By Fire: the 1972 Easter Offensive, Americas Last Vietnam Battle, của Dale Andradé). Sau cuộc tấn công vào buổi sáng, Ðính gọi về bộ tư lệnh sư đoàn xin yểm trợ. ) Trung tá Cương trả lời là ông không thể trả lời cho Ðính được; và Chuẩn tướng Giai thì đang ở Ðông Hà thị sát tình hình. (Người viết bài muốn chú một chi tiết về cuộc đối thoại giữa hai Trung tá Cương và Ðính: Một độc giả đã liên lạc với Trung tá Cương (sau khi đọc bài viết này lần đầu tiên). Trung tá Nguyễn Hữu Cương, nói ông không có nhận điện thoại, và cũng không có mặt ở bộ tư lệnh sư đoàn lúc đó. Ðó là lời xác nhận của Trung tá Cương. Trong sách, tác giả Wiest trích theo sách cuả Dale Andradé. Người viết ghi chú ở đây để cảm ơn sự bổ túc của độc giả). Chuẩn tướng Giai thì đang ở Ðông Hà thị sát tình hình. Cũng như lần nói chuyện trước, không ai có một câu trả lời rõ ràng về số phận của Trung Ðoàn 56. Hai giờ trưa, cộng quân tấn công lần thứ nhì: lần này địch tiến gần được hàng rào phòng thủ hơn lần trước, nhưng vẫn không làm được gì. Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra, Ðính nghe trên hệ thống truyền tin một sĩ quan CSBV muốn nói chuyện với ông. Người trên hệ thống truyền tin nói ông ta đang quan sát mặt trận. Ông nói số phận của Ðính và quân lính dưới quyền đang nằm trong tình trạng nguy hiểm. Nếu Ðính và quân của trung đoàn đầu hàng thì họ sẽ được đón tiếp và bảo vệ an toàn. Nếu không tất cả sẽ bị tiêu diệt. Chưa đầy một tiếng sau, một tư lệnh mặt trận lên máy truyền tin nói chuyện với Ðính một lần nữa. Người tự nhận là tư lệnh mặt trận cho biết đây là lần đề nghị cuối cùng trước khi họ tấn công. Ðính yêu cầu CSBV ngưng bắn và cho thêm giờ để quyết định. Ba giờ trưa, Ðính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định. Ðính mở lời trước, cho biết tình thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của địch quân. Sau đó Ðính nói ra ý nghĩ thật của mình, là “Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, thì cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân.” Tiếp theo Ðính nói về đề nghị của địch. Sau đó ông hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ý tiếp tục đánh thì ông sẽ nghe chiều theo ý họ. Trong số sĩ quan hiện diện, chĩ có Thiếu tá Tôn Thất Mãn (khóa 12 Thủ Ðức, TÐT 1/56) lên tiến đòi đánh đến cùng. Số sĩ quan còn lại yên lặng không ý kiến. Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Ðính nói về gia đình của họ … về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Sau đó — theo tác giả Wiest viết — họ bỏ phiếu để quyết định: tất cả đều đồng ý đầu hàng, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Mãn không bỏ phiếu. Với quyết định đã được đồng thuận, Ðính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng Thiếu tá Joseph Brown và Trung tá William Camper không đồng ý. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra vòng đai mở đường máu. Ðính không chịu, nói vô ích. “Tôi muốn giết ông Trung tá [Ðính] ngay tại chổ”, Trung tá Camper kể lại sự tức giận của ông khi Ðính nằng nặc đòi đầu hàng. Sau khi nói với Trung tá Ðính là nếu ông ta đầu hàng thì trách nhiệm của hai người cố vấn đã hết. Camper gọi về trung tâm hành quân của Sư Ðoàn 3BB cho biết “nhiệm vụ của ông ta không còn cần ở căn cứ Carroll nữa, và xin được di tản.” May mắn, một trực thăng C-47 trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc hai sĩ quan Hoa Kỳ và 30 người lính không chịu đầu hàng và muốn đi theo hai sĩ quan Mỹ. Khi chiếc trực thăng cất cánh thì cờ đầu hàng đã bay trên căn cứ Carroll. Trung tá Ðính dẫn toán quân 600 người ra khỏi trại đi đến điểm hẹn với địch. Bên trong, số quân không chịu đầu hàng còn lại rút đi về hướng đông. Trong nhóm quân không chịu theo Tr./T Ðính là Pháo Ðội B của TÐ 1 Pháo Binh TQLC. Ðây là pháo binh đi kèm TÐ 4 TQLC, họ đóng nhờ trong căn cứ Carroll. Theo tường trình của cố vấn Mỹ sau này, Pháo Ðội B hạ nòng đại bác xuống bắn thẳng cho đến khi bị tràn ngập. Tất cả toán quân rút đi, về đến phòng tuyến VNCH được khoảng 1,000 người, trong đó có một tiểu đoàn còn nguyên vẹn. Tối đêm đó Ðính và 600 quân đến một địa điểm gần căn cứ Khe Gió. Ở đây một sĩ quan CSBV ra đón họ. Ngày hôm sau, 3 tháng 4, Ðính lên lên đài phát thanh CSBV đọc lời kêu gọi quân nhân VNCH đầu hàng như ông đã làm. Thiếu tá Huế bị đưa về bắc được hơn một năm thì Trung tá Ðính cũng được CSBV đem ra bắc để tiếp tục thực hiện kế hoạch tuyên truyền của họ. CSBV đề nghị Ðính gia nhập quân đội CSBV thì sẽ được phục hồi chức vụ Trung tá trong quân đội của họ. Ðính đồng ý. Ðính làm như vậy chỉ để — theo lời Ðính kể — giúp đỡ 600 quân nhân đầu hàng bị đưa về miền bắc. Những quân nhân này đang phục vụ công tác lao động ở các đơn vị hậu cần CSBV. Trở thành một sĩ quan cộng sản, Ðính có lương và nhà ở, và làm việc như một sĩ quan văn phòng ở Hà Nội. Sau này, sau khi VNCH thất thủ, Ðính đã phục vụ trong công tác tuyên truyền cho CSBV. Một trong những công tác là làm giảng viên ở những trại tập trung quân đội VNCH. Về phần Huế, sau sáu tháng bị nhốt ở Hỏa Lò, ông bị đưa về trại tù Sơn Tây. Trong thời gian ở Sơn Tây, CSBV đưa Ðính và Trung tá Vĩnh Phong vào nói chuyện với một số tù binh. Trong buổi gặp mặt đó, bên phía tù binh VNCH ngoài Huế còn có Đại tá Nguyễn Văn Thọ và Thiếu tá Trần Văn Ðức của lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Trong lần nói chuyện đĩ phía bên kia không thẳng lời chiêu dụ Huế và hai sĩ quan Nhảy Dù. Nhưng họ có hàm ý là nếu ba người sĩ quan đầu hàng thì sẽ có được một đời sống thoãi mái hơn là đời sống của tù binh. Sau đó, Huế và một số sĩ quan được đưa về Hà Nội để chiêu dụ thêm một lần nữa. Nhưng một lần nữa Huế từ chối không theo về bên kia. Hai năm sau, cuộc đời của Thiếu tá Huế bị thêm một “tai nạn” nữa. Sau khi Hiệp Ðịnh Paris 1973 được ký kết: Là một tù binh, tên của ông được nằm trong bản trao trả tù binh chính thức. Nhưng chỉ vài giờ trước khi được giao trả về miền nam, CSBV giữ ông lại. Vì ông bị bắt ở Hạ Lào, nên nói “một cách kỹ thuật,” ông là tù binh của Pathet Lào! Huế bị giam đến năm 1983 mới được trả tự do. Theo lời kể của Huế, trước khi gia đình ông được phép rời Việt Nam sang Mỹ, Tr./T Ðính có tìm vào Sài Gòn gặp Huế. Ðính muốn khi Huế đến Mỹ và khi gặp lại những sĩ quan cố vấn, nên giải thích hoàn cảnh đã làm cho ông phải đầu hàng —Những hoàn cảnh mà Th/T Huế cho là không chính đáng để đầu hàng. Tài liệu căn bản của Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN đến từ phỏng vấn những nhân vật có liên quan đến sự kiện. Sử liệu trong tác phẩm không quan trọng hay mới lạ trên quan điểm sử học. Nhưng đó là sự lôi kéo của tác phẩm: tác giả tạo được một tác phẩm lý thú dựa trên những gì rất ít ông đã tìm được. Andrew Wiest là giáo sư sử học tại đại học Southern Mississippi. Ông đã có một thời gian giảng dạy tại trường Cao Ðẳng Không Quân (Air War College), nơi đào tạo sĩ quan cấp tướng tương lai cho Không Quân Hoa Kỳ. Vietnam’s Forgotten Army là tác phẩm thứ ba về chiến tranh Việt Nam của tác giả ******************************************************************** Tướng Vũ Văn Giai, Thế Trận Phòng Tuyến Bến Hải 67-72 Tác giả : Vương Hồng Anh  Trong loạt bài viết về trận chiến Quảng Trị trong mùa Hè 1972, chúng tôi có nhắc đến cuộc triệt thoái của lực lượng Sư đoàn 3 BB và các đơn vị bộ chiến ra khỏi thị xã tỉnh lỵ vào đầu tháng 5/1972. Trước áp lực quá nặng của 3 sư đoàn CSBV, cuộc rút quân của lực lượng bộ chiến VNCH đã diễn ra trong bi tráng. Trong cuộc triệt thoái này, mọi trách nhiệm về tổn thất đã dồn hết cho chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 3 BB, vị dũng tướng đã điều động quân sĩ các cấp chiến đấu hơn 1 tháng ròng rã trên mặt trận giới tuyến. Khi Sư đoàn 3 BB về tập trung ở Phú Bài thì vị tư lệnh Sư đoàn đã bị Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu giải nhiệm, ông còn bị truy tố ra Tòa án Quân sự để nhận bản án quá nặng đối với một cấp chỉ huy đã hết lòng với đơn vị: mất hết binh quyền và bị tù giam. 5 năm trước đó, vào mùa Hè 1967, khi còn là trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 BB kiêm biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến, ông Vũ Văn Giai đã cùng với các chỉ huy lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ phối nhiệm dàn thế trận để giữ vững phòng tuyến bờ Nam Bến Hải. Sau đây là bài tổng lược về mặt trận giới tuyến Hè 1967 mà nỗ lực chính là Trung đoàn 2 Bộ binh. Phần này được biên soạn dựa theo các bài viết của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland, và tài liệu riêng của VB. * Biệt khu trưởng Giới tuyến Vũ Văn Giai Giữa năm 1966, thiếu tá Vũ Văn Giai, nguyên phó tỉnh trưởng Nội an kiêm tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Nam (tỉnh trưởng lúc đó là một viên chức dân sự), được bổ nhiệm giữ chức trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Bộ binh Bộ bi kiêm Biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến. Trung đoàn 2 BB lúc bấy giờ là 1 trong 3 trung đoàn cơ hữu của Sư đoàn 1 Bộ binh mà tư lệnh là đại tá Ngô Quang Trưởng (thăng cấp chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thiếu tướng tháng 5/1968, trung tướng tháng 11/1970). Với chức vụ trung đoàn trưởng, thiếu tá Giai được thăng trung tá vào tháng 6/1967, thăng đại tá vào tháng 1/1969. Giữa năm 1969, ông giữ chức chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh đặt tại Đông Hà. Khi Sư đoàn 1 BB tham dự cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 vào tháng 2/1971, ông là tư lệnh phó của sư đoàn này. Tháng 3/1971, sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc, đại tá Vũ Văn Giai được thăng chuẩn tướng. Cùng lần thăng thưởng này có chuẩn tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Sư đoàn 1 BB, được thăng thiếu tướng, và đại tá Hồ Trung Hậu, tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, được thăng chuẩn tướng. Tháng 10/1971, chuẩn tướng Giai được Tổng thống VNCH bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Sư đoàn 3 BB vừa mới thành lập. * Thế trận Hè 1967 tại giới tuyến. Trở lại với chiến trường giới tuyến, từ giữa năm 1966 đến giữa năm 1967, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa các đơn vị của Trung đoàn 2 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và các trung đoàn chủ lực của CQ từ Bắc vào. Đến hạ tuần tháng 3/1967, cuộc chiến đã bùng nổ khi Cộng quân áp lực nặng khu vực giới tuyến ở phía Nam sông Bến Hải. Tại khu vực này, cụm tiền cứ của các đơn vị thuộc Trung đoàn 2/Sư đoàn 1 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm trong tầm tác xạ của pháo binh Cộng quân. Để có thể phản pháo, Liên quân Việt Mỹ đã điều động một Pháo đội 175 mm của Hoa Kỳ đang hoạt động gần Sài Gòn và tiểu đoàn Pháo binh 175 mm vừa mới đến Việt Nam được đưa thẳng ra Quảng Trị, để phối trí ở Đông Hà, cách Bến Hải gần 20 km đường chim bay. Loại đại bác này có tầm tác xạ 32 km, có thể bắn qua vùng phi quân sự. Đêm 20 tháng 3/1967, Cộng quân đã khởi động trận cuộc hỏa công, pháo kích vào vị trí đóng quân của các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ quanh cụm căn cứ Cồn Tiên và Gio Linh (cách Đông Hà khoảng 10 km đường chim bay), với hàng ngàn quả đạn đủ loại, từ súng cối, hỏa tiễn đến đại bác. Riêng tại căn cứ hỏa lực của Liên quân Việt-Mỹ ở Gio Linh, trong hơn hai giờ liền, Cộng quân đã pháo hơn 720 đạn súng cối và phi đạn, ngày hôm sau địch phục kích một đoàn xe chở đạn của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ chỉ cách Gio Linh hơn 3 km. Lúc bấy giờ Cồn Tiên đã trở thành mục tiêu số 1. Các bình luận gia truyền hình và báo chí quốc tế đã gọi đây là điểm chờ Điện Biên Phủ. * Cộng quân vượt sông Bến Hải, toàn khu giới tuyến sôi động Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm nóng, Cộng quân đã tung sư đoàn 324B, và sư đoàn 341 tổng trừ bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào cụm tuyến phòng ngự dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm một đồn Cảnh sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và một số xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến); trước đó vào tối 5/1967, Cộng quân đã tấn công vào Yếu khu La Vang ở phía Tây thị xã Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ, nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng, đặc công địch đã yểm trợ để tù binh CQ phá nhà giam, vượt thoát. Tại phía Nam Bến Hải, khi trận chiến xảy ra, thiếu tá Vũ Văn Giai đã chỉ huy Trung đoàn 2 Bộ binh nhanh chóng chận đứng được các đợt xung phong “dọn đường” của 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 324 CSBV. Ngày 7 tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung đoàn 2 Bộ binh và một thành phần thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã giữ vững cụm tuyến Cồn Tiên và Gio Linh, buộc lực lượng địch phải tạt lên phía Tây Bắc để tránh tổn thất. Theo phân tích của đại tướng Westmoreland, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời gian này, thì trận tấn công của 2 sư đoàn CSBV vào khu giới tuyến mang tính cách chiến lược. Cộng quân muốn chọc thủng cụm tuyến phòng ngự của liên quân Việt-Mỹ tại khu phi quân sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của Cộng quân đã bị trung đoàn 2 Bộ binh tinh nhuệ của Sư đoàn 1 Bộ binh và 1 trung đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vô hiệu hóa. Các trận giao tranh kéo dài đến giữa tháng 4/1967, trong suốt thời gian này, quân trú phòng tại các tiền cứ đã phải “đội mưa pháo hàng ngày”. Một số cựu sĩ quan của trung đoàn 2 Bộ binh đã kể lại là cứ vào rạng sáng, khi tầm quan sát của phi cơ còn bị hạn chế, Cộng quân đã pháo như mưa vào các hào tuyến của quân trú phòng. Nhờ có hệ thống công sự chiến đấu kiên cố và kinh nghiệm chiến trường, các đơn vị trung đoàn 2 Bộ binh đã chịu đựng được trận địa pháo của Cộng quân, sau đó, Không quân Hoa Kỳ xuất trận oanh tạc vào các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định của các chuyên viên tình báo, sư đoàn 324B CSBV đã bị thiệt hại gần 1/3 quân số. Về Trung đoàn 2 Bộ binh, cùng với nỗ lực chận địch, một thành phần của trung đoàn này đã phối hợp cùng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Cảnh sát Quốc gia đã đưa được hơn 13 ngàn ngàn đồng bào tại hai quận Trung Lương và Gio Linh về tạm cư tại Cam Lộ. Để phối hợp các hoạt động cứu trợ, thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm (lên trung tướng tháng 7/1967), tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật, đã cử đại tá Đỗ Kiến Nhiễu,phụ tá Tư lệnh, trực tiếp điều hợp và giám sát trại tạm cư. (Tháng 6/1968 đại tá Nhiểu được cử làm đô trưởng Sài Gòn, hai năm sau được thăng cấp chuẩn tướng). * Tướng Vũ Văn Giai và mặt trận Quảng Trị vào tháng 4-5/1972 5 năm sau kể từ khi công khai tung quân vượt sông Bến Hải vi phạm Hiệp định Genève, ngày 30-3-1972, CSBV lại tung một lực lượng gồm 3 sư đoàn chính quy, 4 trung đoàn biệt lập của B-5 tăng cường, 2 trung đoàn chiến xa T-54 và PT-76 với sự yểm trợ của các đơn vị pháo 130 và hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2, tất cả đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi tấn công vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn 3 Bộ binh và Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến VNCH. Sau một tháng kịch chiến, trước áp lực quá nặng của CQ, ngày 30 tháng 4/1972, tướng Giai cho triệu tập cấp chỉ huy các đơn vị trực thuộc và tăng phái về họp tại bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh đặt trong Cổ Thành Quảng Trị để bàn về kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Bến Hải để lập phòng tuyến mới. Tất cả các đơn vị sẽ bắt đầu di chuyển vào buổi sáng ngày hôm sau, 1 tháng 5. Theo đúng hệ thống quân giai, tướng Vũ Văn Giai đã trình kế hoạch với trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn 1 để xin quyết định. Theo tài liệu của trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì khi nhận được kế hoạch triệt thoái của vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB, tướng Lãm lặng thinh như là biểu thị cho một sự đồng ý, dù rằng vị tư lệnh Quân đoàn 1 chưa bao giờ xác nhận sự chấp thuận của ông về kế hoạch rút quân, cũng như ông chưa đưa ra bất cứ một chỉ thị nào cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Thế nhưng, buổi sáng ngày 1 tháng 5/1972, trung tướng Lãm gọi điện thoại cho tướng Giai và nói rằng ông không chấp thuận kế hoạch rút quân, đồng thời ra lệnh cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB phải chuyển lệnh cho tất cả các đơn vị là giữ yên vị trí hiện tại và tử thủ bằng mọi giá. Sau này người ta được biết lệnh của trung tướng Hoàng Xuân Lãm là sự lập lại các chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Thế nhưng, tất cả đã quá muộn, tướng Vũ Văn Giai không có đủ thời gian để thu hồi quân lệnh mà ông đã ban ra trước khi tướng Lãm gọi cho ông. Và ngày 1 tháng 5/1972, cuộc triệt thoái đã diễn ra trong bi tráng, đó là ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Vũ Văn Giai. TƯ LỆNH MẶT TRẬN GIỚI TUYẾN - VŨ VĂN GIAI, ĐIỀU CHƯA NÓI ĐẾN NGUYỄN CHÍ KHẢ Thiếu Tá - Trưởng Phòng Chính Huấn SD3  * Trung đoàn trưởng Vũ Văn Giai và chiến trường giới tuyến Giữa năm 1966, Thiếu tá Vũ Văn Giai,nguyên Phó Tỉnh trưởng Nội an Quảng Nam , được bổ nhiệm giữ chức trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Bộ binh Bộ binh kiêm Biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến. Trung đoàn 2 Bộ binh (BB) lúc bấy giờ là 1 trong 3 trung đoàn cơ hữu của Sư đoàn 1 Bộ binh. Với chức vụ trung đoàn trưởng, Thiếu tá Giai được thăng Trung tá vào tháng 6/1967, thăng Đại tá vào tháng 1/1969 ( Giữa năm 1969, ông giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh đặt tại Đông Hà. Khi Sư đoàn 1 BB tham dự cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 vào tháng 2/1971, ông là tư lệnh phó của sư đoàn này. Tháng 3/1971, sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc, Đại tá Vũ Văn Giai được thăng Chuẩn tướng. Tháng 10/1971, Chuẩn tướng Giai được Tổng thống VNCH bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Sư đoàn 3 BB vừa mới thành lập). Ngay sau khi nhận chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Bộ binh, Thiếu tá Vũ Văn Giai đã đối mặt với tình hình khốc liệt tại chiến trường giới tuyến: từ giữa năm 1966 đến giữa năm 1967, nhiều trận giao tranh đã diễn ra giữa các đơn vị của Trung đoàn 2 Bộ binh và các trung đoàn chủ lực của Cộng sản Bắc Việt (CSBV) xâm nhập vào phía Nam Bến Hải. Đến hạ tuần tháng 3/1967, cuộc chiến đã bùng nổ khi Cộng quân áp lực nặng chiến trường giới tuyến, các tiền cứ của các đơn vị thuộc Trung đoàn 2/Sư đoàn 1 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Mỹ nằm trong tầm tác xạ của pháo binh của Cộngsản Bắc Việt.Để có thể phản pháo, Liên quân Việt Mỹ đã điều động một Pháo đội 175 mm của Hoa Kỳ đang hoạt động gần Sài Gòn và tiểu đoàn Pháo binh 175 mm vừa mới đến Việt Nam được đưa thẳng ra Quảng Trị, để phối trí ở Đông Hà, cách Bến Hải gần 20 km đường chim bay. Loại đại bác này có tầm tác xạ 32 km, có thể bắn qua vùng phi quân sự. Đêm 20 tháng 3/1967, Cộng quân đã khởi động trận cuộc hỏa công, pháo kích vào vị trí đóng quân của các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2 Bộ binh và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ quanh cụm căn cứ Cồn Tiên và Gio Linh (cách Đông Hà khoảng 10 km đường chim bay), với hàng ngàn quả đạn đủ loại, từ súng cối, hỏa tiễn đến đại bác. Riêng tại căn cứ hỏa lực của Liên quân Việt-Mỹ ở Gio Linh, trong hơn hai giờ liền, Cộng quân đã pháo hơn 720 đạn súng cối và phi đạn, ngày hôm sau địch phục kích một đoàn xe chở đạn của Thủy quân Lục chiến Mỹ chỉ cách Gio Linh hơn 3 km. Lúc bấy giờ Cồn Tiên đã trở thành mục tiêu số 1. Các bình luận gia truyền hình và báo chí quốc tế đã gọi đây là điểm chờ Điện Biên Phủ. Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm nóng, Cộng quân đã tung sư đoàn 324B, và sư đoàn 341 tổng trừ bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào cụm tuyến phòng ngự dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm một đồn Cảnh sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và một số xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến); trước đó vào tối 5/1967, Cộng quân đã tấn công vào Yếu khu La Vang ở phía Tây thị xã Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ, nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng, đặc công địch đã yểm trợ để tù binh CQ phá nhà giam, vượt thoát. Tại phía Nam Bến Hải, khi trận chiến xảy ra , Trung đoàn trưởng Vũ Văn Giai đã chỉ huy Trung đoàn 2 Bộ binh nhanh chóng chận đứng được các đợt xung phong "dọn đường" của 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 324 CSBV. Ngày 7 tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung đoàn 2 Bộ binh và một thành phần thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã giữ vững cụm tuyến Cồn Tiên và Gio Linh, buộc lực lượng địch phải tạt lên phía Tây Bắc để tránh tổn thất. Theo phân tích của Đại tướng Westmoreland, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời gian này, thì trận tấn công của 2 sư đoàn CSBV vào khu giới tuyến mang tính cách chiến lược. Cộng quân muốn chọc thủng cụm tuyến phòng ngự của liên quân Việt-Mỹ tại khu phi quân sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của Cộng quân đã bị trung đoàn 2 Bộ binh tinh nhuệ của Sư đoàn 1 Bộ binh và 1 trung đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vô hiệu hóa. Các trận giao tranh kéo dài đến giữa tháng 4/1967, trong suốt thời gian này, quân trú phòng tại các tiền cứ đã phải "đội mưa pháo hàng ngày". Cứ vào rạng sáng, khi tầm quan sát của phi cơ còn bị hạn chế, Cộng quân đã pháo như mưa vào các hào tuyến của quân trú phòng. Nhờ có hệ thống công sự chiến đấu kiên cố và kinh nghiệm chiến trường, các đơn vị trung đoàn 2 Bộ binh đã chịu đựng được trận địa pháo của Cộng quân, sau đó, Không quân Mỹ trận oanh tạc vào các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định của các chuyên viên tình báo, sư đoàn 324B CSBV đã bị thiệt hại gần 1/3 quân số. Về Trung đoàn 2 Bộ binh, cùng với nỗ lực chận địch, một thành phần của trung đoàn này đã phối hợp cùng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Cảnh sát Quốc gia đã đưa được hơn 13 ngàn ngàn đồng bào tại hai quận Trung Lương và Gio Linh về tạm cư tại Cam Lộ. * Tướng Vũ Văn Giai và chiến trường giới tuyến hè 1972 5 năm sau kể từ khi công khai tung quân vượt sông Bến Hải vi phạm Hiệp định Genève, cuối tháng 3-1972, CSBV lại tung một lực lượng gồm 3 sư đoàn chính quy, 4 trung đoàn biệt lập của B-5 tăng cường, 2 trung đoàn chiến xa T-54 và PT-76 với sự yểm trợ của các đơn vị pháo 130 và hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2, tất cả đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi tấn công vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn 3 Bộ binh và Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến VNCH. Theo những dữ kiện mà cựu tướng Vũ Văn Giai, hiện đang cư ngụ tại Nam Cali, cho chúng tôi biết qua điện thư và cuộc tiếp xúc tại nhà riêng vào tháng 9/2005, thì diễn tiến cuộc chiến tại Quảng Trị có những chi tiết đặc biệt như sau: 1. Gần cuối tháng 3 năm 1972, Đại tá Metcalf, cố vấn trưởng Sư đoàn 3 Bộ binh có mời Tướng Giai đi cùng với ông ta vào Sài Gòn, nhưng Tướng Giai đã từ chối ngay vì vị cố vấn đi công tác riêng, hơn nưã, Tướng Giai muốn đi thì cũng phải xin phép thượng cấp và và lúc đó ông cũng rất bận. Cuối tháng 3 vào ngày 28, Cộng quân mở cuộc tấn công vào 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 56 va Trung đoàn 2 khi đang hoán đổi vị trí , cũng vì vậy mà Đại tá Metcalfcũng đã hủy bỏ chuyến đi để ở lại đối phó với tình hình đột biến này. Như vậy là chuyến đi đó đã không có . Tướng Giai không hiểu vì lý do gì mà lại có chuyện mời mọc này. 2. Việc Tướng Giai cho dời Bộ Tư lệnh vào Cổ Thành Quảng Trị được ông phân tích như sau: Ái Tử là căn cứ của Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Mỹ cũ, quá rộng và không dễ phòng thủ bằng Cổ Thành Quảng Trị, bản doanh của Bộ Chỉ huy Tiểu khu Quảng Trị. để phốì hợp với các lực lượng diện địa , đây cũng là tiêu biểu cho tỉnh Quảng Trị trong lịch sử cũng như thành Mang Cá Huế vậy, đáng được phòng thủ. Hơn nưã căn cứ Ái Tử đã bị Việt Cộng điều chỉnh pháo rất kỷ, bắn suốt ngày khiến cho Bộ chỉ huy Tướng Giai và ban tham mưu Cố Vấn cứ lo tránh pháo, rất trở ngại cho hoạt động điều quân và yểm trợ. Sự dời Bộ chỉ huy này đã làm cho Cộng quân phải đổi kế hoạch, những khẩu pháo của Cộng quân đã phải di chuyển và điều chỉnh lại, nên Bộ chỉ huy của Tướng Giai đã làm việc hữu hiện hơn. 3. Trước áp lực nặng của Cộng quân, cuối tháng 4/1972, Tướng Giai cho triệu tập cấp chỉ huy các đơn vị trực thuộc và tăng phái về họp tại bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh đặt trong Cổ Thành Quảng Trị để bàn về kế hoạch triệt thoái về Mỹ Chánh để củng cố lực lượng và để phản công tái chiếm Quảng Trị hơn là nằm trong thế bị động tại chỗ cho địch tấn công. 4- Trước khi tiến hành cuộc triệt thoái vào đầu tháng 5/1972, Tướng Giai đã thông báo cho Cố vấn trưởng Sư đoàn 3 Bộ binh, và yêu cầu vị cố vấn này khẩn báo cho Cố Vấn trưởng Quân đoàn 1 để báo lại cho Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1. ( Theo lời của một số sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh thì sở dĩ Tướng Giai không xin lệnh trực tiếp của Tướng Lãm vì ông biết Tướng Lãm luôn luôn ra lệnh cố thủ mà thôi) Theo tài liệu của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, thì khi nhận được thông báo về kế hoạch triệt thoái của vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB, Tướng Lãm lặng thinh như là biểu thị cho một sự đồng ý, dù rằng vị tư lệnh Quân đoàn 1 chưa bao giờ xác nhận sự chấp thuận của ông về kế hoạch rút quân, cũng như ông chưa đưa ra bất cứ một chỉ thị nào cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Thế nhưng, buổi sáng ngày 1 tháng 5/1972, Trung tướng Lãm gọi điện thoại cho tướng Giai và nói rằng ông không chấp thuận kế hoạch rút quân, đồng thời ra lệnh cho vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB phải chuyển lệnh cho tất cả các đơn vị là giữ yên vị trí hiện tại và tử thủ bằng mọi giá. Sau này người ta được biết lệnh của trung tướng Hoàng Xuân Lãm là sự lập lại các chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Và ngày 1 tháng 5/1972, cuộc triệt thoái đã diễn ra trong bi tráng, đó là ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của Tướng Vũ Văn Giai. Vào tháng 4/1974, Tướng Giai bị đưa ra Tòa án quân sự, bị kết án 5 năm khổ sai. Sau 30 tháng 4/1975, cũng như bao quân nhân VNCH, ông bị CS bắt giam hơn 12 năm. Ngày 3 tháng 3/1993, ông và gia định cư tại Mỹ theo H0. 16 Tác giả: NGUYỄN CHÍ KHẢ PHÚT CUỐI TÂN LÂM - Tác giả: Lê Văn Trạch (SD3BB)  Thiếu tá TÔN THẤT MÃN Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56/SĐ3/BB Sau mấy tháng hành quân yểm trợ công tác bình định và trấn giữ một số căn cứ vùng Gio Linh, vào hạ tuần tháng 3/72, Tiểu đoàn 1/56 được về dưỡng quân và làm trừ bị cho Trung đoàn tại căn cứ Ái Tử - nơi đặt bản doanh BTL/ SĐ3 BB. Sau khi sắp xếp bố trí mọi công việc cho đơn vị, chiều 29/3/1972 Thiếu tá Tôn thất Mãn, Tiểu đoàn trưởng vào thăm nhà ở Huế để nhìn mặt đứa con gái vừa sinh mấy tháng. Đêm 30/3, vừa chợp mắt một lúc, nghe tiếng điện thoại reo, đầu dây là giọng của Trung tá Đính - Trung đoàn trưởng, ra lệnh phải ra gấp Ái Tử để đưa Tiểu đoàn lên căn cứ Tân Lâm. Sáng 31/3/1972, đơn vị được xe chở đến Chi Khu Cam Lộ và từ đây, hành quân bộ lên căn cứ. Áp lực địch lúc này rất nặng, một vành đai lửa dậy lên từ căn cứ C1 ở phía Bắc, đến căn cứ Phượng Hoàng ở Tây Nam, nhiều tiền đồn đã phải di tản, địch đang dồn hỏa lực để đập nát Tân Lâm ... Tiểu đoàn được lệnh bố trí quân tại ngọn đồi phía Bắc để cùng với Tiểu đoàn 3/56 đang trấn giữ Khe Gió hình thành một tuyến phòng ngự trên Quốc Lộ 9, sau khi căn cứ Fuller bị tràn ngập. Ngày 1/4, Thiếu tá Mãn lại nhận được lệnh dẫn BCH Tiểu đoàn và một Trung đội vào ngay Trung tâm để bảo vệ BCH Trung đoàn. Tân Lâm lúc này như một biển lửa, Thiếu tá Mãn, bàn giao công việc cho Đại úy Đỗ Triền - Tiểu đoàn phó - vất vả lắm, đến 3 giờ chiều toán quân này mới đến được vị trí quy định. Trung tá Đính cho anh biết sơ qua tình hình: Hỏa lực cơ hữu tại đây rất hùng hậu, nhưng không hoạt động được vì bị pháo địch kềm chế, hỏa lực yểm trợ không có, đặc biệt là không quân. Sáng mồng 2/4, Trung tá Đính triệu tập cuộc họp Ban Chỉ huy Trung đoàn và các Đơn vị trưởng tăng phái gồm có: - Trung tá Phạm văn Đính - Trung đoàn trưởng - Trung tá Vĩnh Phong - Trung đoàn phó - Thiếu tá Thuế - Pháo Binh, phụ tá hỏa lực - Thiếu tá Tôn Thất Mãn - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56 - Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng ban 3 - Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2 - Đại úy Hoàng Trọng Bôi - Pháo đội trưởng 175 - Đại úy Nguyễn văn Tâm - Pháo đội trưởng TĐ1/PB/TQLC. - Trung úy Lê Văn Kiểu - Pháo đội 105 - Thiếu úy Thái Thanh Bình - Chi đội trưởng Thiết Giáp - ……………. Sau khi nêu tình hình nguy ngập của căn cứ sau 3 ngày bị pháo hủy diệt, mặc dầu chưa có bộ binh địch tấn công, nhưng khả năng của đơn vị trú phòng không thể cầm cự lâu dài, viện binh, không yểm không có, ông Đính đã trình với Tướng Giai và được trả lời toàn quyền quyết định, tiếp đó ông đưa ra 3 hướng giải quyết để mọi người lựa chọn: 1. Tử thủ, chiến đấu đến giây phút cuối cùng 2. Mở đường máu để rời khỏi căn cứ 3. Đầu hàng Bên ngoài pháo địch bắn liên hồi, nhưng trong phòng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một quyết định lịch sử, bỗng người ta nghe một giọng nói vang lên - Chậm, rõ ràng nhưng cương quyết: - Tôi chọn một trong 2 điều trước và bác bỏ điều thứ 3. Tôi không chấp nhận đầu hàng. Mọi người cùng nhìn về phía phát ra tiếng nói ấy: Thiếu tá Tôn Thất Mãn. Nhưng ý kiến của anh như tiếng vọng giữa sa mạc, chẳng ai quan tâm như trong hồi ký của Đại Tá Turkley - Cố Vấn Sư Đoàn TQLC - có kể rằng khi vị Cố vấn đề nghị sử dụng Chi đội M - 41 làm mũi tấn công mở đường máu, thì ông Đính trả lời: “Tất cả sĩ quan đã đồng thuận đầu hàng!” Thiếu tá Mãn đâu biết rằng ngay đêm trước ông Đính đã tìm cách liên lạc với Chỉ huy Trung đoàn Pháo Bông Lau để trình bày ý định của mình. Vị Tiểu đoàn trưởng gọi máy thông báo sự việc và chia tay với Đại úy Triền, đồng thời để ông tùy nghi giải quyết ! Ngay từ giây phút ấy, cuộc đời binh nghiệp oai hùng của anh khép lại để bước vào một giai đoạn trầm luân khổ ải và chính câu nói khẳng khái ấy đã là nguyên nhân để anh bị đày đọa gần 12 năm trong các trại tù từ Bắc chí Nam ! ********** Như bao chàng trai cùng thời, người con xứ Kim Long hiền hòa cũng đã " xếp bút nghiên theo việc kiếm cung ", theo học Khóa 12 tại trường Bộ binh Thủ Đức Tháng 10/62, mãn khóa, phân bổ về Sư đoàn 25 Bộ binh. Cuối năm 1963, về Huế cưới vợ - người tình của tuổi học trò năm nào, lúc chàng học Bán Công, nàng học Bồ Đề. Sau 3 năm chiến đấu tại chiến trường miền Nam, năm 1965, anh xin thuyên chuyển về nguyên quán, lúc này anh chị có đứa con đầu lòng. Phục vụ tại Trung đoàn 54/ SĐ1/ BB với cấp bậc Trung úy Đại Đội trưởng hoạt động vùng La Sơn, Tây Nam Huế. Tháng 6/1967, qua làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2/3, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Phạm văn Đính, phụ trách khu vực Phong Điền, Quảng Điền, ông Đính kiêm luôn Chi khu trưởng Quảng Điền. Ngày 30 Tết Mậu Thân, anh về nhà nhưng buổi chiều vô lại đơn vị. Đêm hôm đó Cộng quân xâm nhập thành phố, cứ tưởng anh còn trong nhà, chúng ra lệnh cho mẹ và vợ anh đi tìm để giao nạp, nếu không sẽ bị giết. Cộng quân vào nhà không thấy anh, chúng dẫn chị đến nơi hành quyết, nhưng hai đứa con khóc quá, đành cho về. Lúc đó TĐ 2/3 đang ở Xước Dủ, Hương Trà, được lệnh hành quân về thành phố để bảo vệ BTL/SĐ, đơn vị được tàu Hải quân vận chuyển từ Trường Kiểu Mẫu, men theo Cồn Hến vào Cửa Trài, Mang Cá và từ đó xuyên qua Thành Nội đánh ra cửa Thượng Tứ. Chính TĐ này có vinh dự hạ cờ VC và kéo cờ vàng lên tại cột cờ Phú Văn Lâu, cụ thể là do binh sĩ Đại đội 3/2/3 của Đại úy Huỳnh Quang Tuân. Sau chiến thắng này, anh được Quân Đội Hoa Kỳ gắn Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng. Do thành quả của những chiến công đã đạt được và để tạo điều kiện trau dồi thêm khả năng chỉ huy và tiến thân, đầu năm 1970, anh được cử đi học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Đà Lạt, giữa năm được thăng cấp Thiếu tá. Đầu năm 71, tham dự hành quân Lam Sơn 719 là đơn vị dự bị cho Trung đoàn giữ an ninh khu vực Tà Cơn, Lao Bảo. Sau đó, anh được đưa ra Trung đoàn 2, làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/2. ********** Sau hành quân Lam Sơn 719, Bộ Tổng Tham Mưu xét thấy tình hình chiến sự tại Vùng I ngày càng sôi động, có nhiều chỉ dấu Cộng quân gia tăng áp lực để có những hoạt động qui mô trong tương lai và để giữ những khu vực mà quân đội Mỹ bàn giao lại, do đó đã trình Bộ Quốc Phòng để thành lập riêng vùng Hỏa tuyến Quảng Trị, một đơn vị cấp Sư đoàn nhằm hình thành phòng tuyến bảo vệ vững chắc khu vực chiến lược quan trọng này, đồng thời tạo vòng đai an toàn để các đơn vị địa phương làm tốt công tác Bình Định Nông Thôn. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1/10/1971, Sư đoàn 3 được thành lập, đặt Bộ Tư Lệnh tại căn cứ Ái Tử, cạnh chùa Sắc Tứ nơi mà 413 năm trước Chúa Tiên Nguyễn Hoàng từ Thăng Long vào dừng lại đặt bản doanh gọi là Dinh Cát làm đầu cầu mở mang bờ cõi vào phía Nam sau này. Trung đoàn 2 của SĐ1 đang có mặt thường xuyên tại khu vực hỏa tuyến được giữ lại làm nồng cốt, chủ lực cùng với 2 Trung đoàn Tân Lập 56 và 57 Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 2 được tách ra, làm căn bản để thành lập Trung đoàn 56, như thế, đơn vị và chức vụ của Thiếu tá Tôn Thất Mãn bây giờ là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56/SĐ3 BB. **********  Photo: Camp Carroll Sáng 2/4/1972, sau khi Trung tá Đính thông báo lệnh đầu hàng, ngoài Thiếu tá Tôn Thất Mãn, còn 2 sĩ quan khác chống lại (sau khi trở về đơn vị của mình), đó là Đại úy Nguyễn văn Tâm - Pháo đội trưởng B/TĐ1/PB/TQLC và Thiếu úy Thái Thanh Bình - Chi đội trưởng Thiết đoàn 11 Kỵ Binh. Ngay giờ phút ấy, Cố vấn Trung đoàn liên lạc được với trực thăng đang tiếp tế cho căn cứ Mai Lộc đã đáp xuống để bốc 2 vị này, một số chiến sĩ VNCH lên theo, trong đó có Thiếu úy Bình. Lúc này Trung tá Đính ra lệnh Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2, cởi chiếc áo lót màu trắng ra treo trước cổng để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng (chuyện cờ trắng như vừa trình bày là do Thiếu tá Mãn kể, nhưng theo Thiếu tá Hà Thúc Mẫn được Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng Ban 3 thuật lại lúc cùng nhau ở trong tù thì Trung tá Đính lệnh cho Trung sĩ Sừng xé tấm drap trải giường làm đôi. Trong một bài tùy bút của Nguyễn Thắng - phóng viên chiến trường Quân Đội BV cũng viết như thế: “Sau khi sai lính lấy tấm vải trắng trải giường nằm, kéo lên cột cờ, anh Đính đã gọi cho chúng tôi : Alô, Bông Lau đâu, đã trông thấy cờ trắng chưa ?”). Làm đúng theo điều kiện của cấp chỉ huy Trung đoàn 38, Pháo Bông Lau, mọi người đi theo hàng đôi ra hướng Quốc Lộ 9 theo thứ tự cấp bậc Tá - Úy - Hạ Sĩ Quan ..., bốn vị cấp Tá được tách riêng để khai thác và tuyên truyền. Sáng 3/4, tất cả bị áp tải ra Bắc, chiều tối, lúc đến Bến Than, Bến Tắt chuẩn bị vượt sông Bến Hải thì anh Mãn cùng một số khác đã tìm cách bỏ trốn, tuy nhiên lúc này địch quân đã tràn ngập khắp nơi và có lẽ đã được báo động để lùng sục, nên sau 5 ngày đào thoát, anh bị bắt lại ... Riêng Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2 trốn được, lần tìm về khu vực Ái Tử, có hành động gì đó làm cho các chiến sĩ TQLC nghi ngờ, tạm giữ rồi chuyển giao cho Sư Đoàn, sau đó đưa vào Sở 1 An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng, có những ẩn khuất nào đó không ai biết hay do anh Nhơn là người cầm cờ trắng ra trước cổng căn cứ Tân Lâm để làm tín hiệu chấp nhận đầu hàng ? Đoàn tù và hàng binh đi bộ 10 ngày đến Quảng Bình, tại đây có xe đưa ra Thanh Hóa và lên tàu đến trại giam Bất Bạt, Sơn Tây, thời gian này liên tục bị hỏi cung, viết bản tự khai, kiểm điểm. Đặc biệt là công an bắt tất cả những sĩ quan có đi du học Mỹ phải tường trình đầy đủ những gì đã lãnh hội được và giao cho ông Đính tổng hợp trình lên chúng. Trong khoảng thời gian này, lãnh đạo trại giam mở đợt vận động tuyên truyền, kêu gọi tất cả sĩ quan đứng lên tự giác từ bỏ lý lịch căn cước QL/VNCH để trở về với Quân Đội Nhân Dân. Thiếu tá Tôn Thất Mãn đã khí khái quyết liệt phản đối chiêu bài này. Khi được trực tiếp đặt vấn đề, anh nói với tên Thiếu tá phản gián Nguyễn Phương: “ Ngay từ lúc ở căn cứ Tân Lâm, tôi đã chống lại việc đầu hàng của Trung đoàn trưởng, mặc dầu mọi người đều im lặng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ đến sự an nguy của tính mạng mình và đã chống đối đến cùng. Đời lính thắng bại là chuyện thường tình, bây giờ tôi sa cơ thất thế bị các ông bắt, hãy xem tôi như là một tù binh chiến tranh, tôi hoàn toàn chấp nhận vị trí ấy, tôi luôn luôn trung thành với lý tưởng mà tôi đã phụng thờ : TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM, đồng thời tôi không phản bội những chiến hữu dưới quyền đã hy sinh”. Tên Thiếu tá lên tiếng: “ Tôi được phân công xuống giúp đỡ anh, tạo điều kiện cho anh trở về với cách mạng, phục vụ nhân dân, lập công chuộc tội, nhưng anh vẫn ngoan cố, đó là quyền của anh, có gì đừng ân hận. Tôi sẽ báo cáo với trên”. Sau hôm ấy, anh bị đưa đi giam riêng, được một thời gian, chúng chuyển anh xuống Hỏa Lò Hà Nội, nhốt vào xà lim. Trong lúc thân phận anh như thế, ở bên ngoài, CSBV tổ chức một buổi lễ rầm rộ cho ông Phạm văn Đính và ông Vĩnh Phong đăng đàn, nêu lên những tội ác và sai lầm khi theo " Đế quốc Mỹ " dày xéo đất nước và nay thấy rõ đường lối chính đáng của Cách mạng nên đã đem Trung đoàn về với nhân dân, xin được đứng trong hàng ngũ Quân Đội Nhân Dân để chống lại kẻ thù xâm lược ! Cả hai ông Đính và Phong đều được giữ nguyên cấp bậc Trung tá và hưởng lương từ tháng 4/1972. Theo chỉ thị của chính quyền CS, ông Đính viết lịch sử miền Nam, phân tích nghệ thuật và hình thái tác chiến của QL/VNCH. Ngoài ra, còn có những ký sự để tuyên truyền xuyên tạc và ca ngợi chính quyền miền Bắc như : “ Saigon - Phủ Đầu Rồng ", " Cây Đa Bến Cũ ", " Một cái gì mới " . Tháng 4/1994, cả hai ông ra Hà Nội để được gắn lon Thượng tá và Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất ! Photo: Hai ông Đính và Phong trong buổi lễ của CSBV Những ngày tháng nằm trong xà lim, anh không đau đớn cho thân xác bởi cực hình và thiếu đói, mà xót xa nhiều điều: Mười năm lính, lúc ở Sư đoàn 25 BB, tình hình tương đối yên tĩnh, chủ yếu là lo công tác an ninh, bảo vệ dân chúng an tâm làm ăn trong những vùng xa thường bị địch quân về quấy rối ... Nhưng khi được trở về chiến đấu trên quê hương Trị Thiên là thời kỳ gian khổ, ác liệt nhất ... Bước chân anh đã đi qua mọi miền từ Lăng Cô, Bạch Mã đến Gio Linh, từ đồng bằng ven biển đến biên giới Lào Việt, kể cả những lúc tác chiến trong thành phố. Có những thời khắc, mạng sống như nghìn cân treo sợi tóc, phải chiến đấu để chiếm từng thước đất, ngọn đồi, từng bờ tường, con phố, nhưng bằng mưu trí và sự can trường, anh đã dẫn đơn vị đi qua và chiến thắng, đôi khi có những tình huống hết sức nghiệt ngã! Thế mà đến đầu tháng 4/1972, đó chưa phải là giờ thứ 25 của cuộc chiến, tại một căn cứ hỏa lực hùng hậu, có ưu thế phòng thủ với trên 1000 tay súng và một Ban Chỉ huy dày dạn chiến trường …. và anh, một người chỉ huy tác chiến … Tất cả chưa bắn một phát súng nào, chưa có đơn vị bộ binh nào của địch xuất hiện, cũng không có lời kêu gọi áp đảo tinh thần, mà chỉ mới là những quả đạn pháo binh được bắn vào căn cứ liên tục, đồng ý là địch có ưu thế hỏa lực, áp dụng chiến thuật phong lôi, cả một Trung đoàn Pháo cùng lúc bắn vào mục tiêu, nhưng như thế chưa phải là hoàn toàn bế tắc, để không thể tổ chức chiến đấu, thế mà chúng tôi đã phải buộc lòng quy giáp đầu hàng. Đầu hàng ! Tại sao lại như thế. Động cơ nào? Đó là câu hỏi nhức nhối dày xéo tâm can anh! Anh cũng đã thẳng thắn nói ra những ý nghĩ ấy cho đối phương là Nguyễn Quý Hải, tác giả của hồi ký Mùa Hè Cháy, nguyên Tiểu đoàn trưởng Pháo Binh thuộc Trung đoàn Bông Lau, đơn vị trực tiếp gây áp lực buộc Trung đoàn 56 đầu hàng. Trong quyển sách này, tác giả kể lại cảm nghĩ của Thiếu tá Mãn về sự thất bại của Trung đoàn 56 trước sức tấn công như vũ bão của Trung đoàn 38 Pháo Bông Lau, Thiếu tá Mãn đã trả lời: “ Tôi hết sức ngạc nhiên, không thể tin nổi là số phận của một căn cứ hỏa lực mạnh nhất Quân Đoàn đã được quyết định chỉ trong vòng năm phút !” Hôm nay anh vẫn xác nhận như thế và trình bày thêm: “Sau khi tuyên bố 3 hướng giải quyết, ông Đính đã không có sự thảo luận với tất cả sĩ quan có mặt và sau lời phản đối của anh Mãn, ông Đính liền ra lệnh Đại úy Nhơn cởi áo lót làm tín hiệu ...”. Quả thật lúc này chúng ta mới biết 3 cách giải quyết được đưa ra như là một thông báo, chứ không phải để bàn bạc, bởi vì mọi chuyện đã được quyết định và Trung tá Đính không có thì giờ !   Hình Th.T Mãn tại căn cứ Tân Lâm trong ngày 2-4-1972 - người đội nón sắt được chụp chính diện (chú thích trong Source là Tr. T Đính là không đúng) Trong bài viết: " N+3 Một Ngày Oanh Liệt ", Đại tá Cao Sơn - Trung đoàn trưởng Pháo binh Bông Lau ghi lại cuộc nói chuyện và những điều kiện ông ra lệnh cho Tr. Tá Đính: " ... Yêu cầu tuân thủ nghiêm những quy định sau : 1. Kéo cờ trắng lên 2. Bắt hai tên Cố Vấn Mỹ cùng ra hàng 3. Để nguyên vũ khí, phương tiện chiến đấu tại chỗ. Cả chỉ huy và binh sĩ đứng trên mặt đất, xếp hàng đôi đi theo con đường duy nhất tới Đầu Mầu, sẽ có người đón. CHÚNG TÔI NGỪNG BẮN 30 PHÚT ĐỂ CÁC ANH CHẤP HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH TRÊN " . Anh kể chuyện tôi nghe, trong bao năm cận kề chiến đấu, vào sinh ra tử bên nhau với Trung đoàn trưởng, anh đã có sự liên hệ thân tình, kính mến. Phút cuối ở Tân Lâm, có thể có những lý do thầm kín nào đó để ông Đính đưa đến quyết định tai hại ấy! Lòng anh có đôi chút thông cảm, tuy nhiên, qua những việc ông cư xử với anh em trong trại tù, cũng như sự hăng say hợp tác với đối phương sau này làm anh thất vọng, bao nhiêu niềm tin và sự kính phục đã không còn nữa! Khi còn ở trong tù năm 1973, mọi người được biết về Hiệp Định Ngưng Bắn, trao trả tù binh, riêng cá nhân anh và Thiếu tá Thuế Pháo Binh không được nằm trong danh sách ! Các anh đặt vấn đề với cán bộ trại, được trả lời là sẽ đề đạt lên cấp trên giải quyết, nhưng chẳng bao giờ nhận được câu trả lời ! Cho đến năm 1975, khi nghe tin miền Nam mất, tất cả đều nghẹn ngào, chua xót, cùng bảo với nhau: Thế là hết ... đất nước mất, Quân Đội mất, chúng ta không còn gì để nương tựa, để trở về ! Cuối năm 1975, từ Bất Bạt Sơn Tây, anh bị đưa lên giam tại Cao Bằng, năm sau lại chuyển qua Sơn La, lúc này Bắc Việt cũng đã ồ ạt đưa những sĩ quan QL/VNCH từ miền Nam ra Bắc - đây là những trại tù khổ sai khủng khiếp đã được nhiều người nhắc đến. Đầu năm 1979, trước khi Trung Cộng mở đợt tấn công qua biên giới, chúng lại chuyển các anh về trại Đầm Đùn Sơn Tây. Ở đây cho đến năm 1981, được đưa về Nam, giam tại trại Z30D cho đến cuối năm 1983, anh mới được trả về với gia đình ! Tính từ tháng 4/1972 đến lúc ấy, thân xác anh bị đày đọa gần 12 năm trong những trại tù nổi tiếng ác độc nhất. Công bằng mà thấy, sau 30/4/1975, một vị Tiểu đoàn trưởng bị giam khoảng 10 năm, nhưng Thiếu tá Mãn - Tiểu đoàn trưởng TD 1/56/SĐ3/BB đã phải trải qua thời gian trong lao lý dài như thế, chỉ vì một câu nói bất khuất ! Khi trở về, anh phải tạm trú với mẹ ở Kim Long bởi vì sau 1975, vợ anh bỏ căn nhà thuê ở Huế, về nương náu quê ngoại tại Long Thọ. Cô nữ sinh năm nào bây giờ chân lấm tay bùn với đồng ruộng ! Những tưởng đất nước đã thống nhất, hòa bình lập lại, các anh sẽ được đối xử công bằng sau thời gian " đền tội " trong tinh thần hòa hợp dân tộc như đã được nghe cán bộ tuyên bố trước lúc ra trại . Nhưng không, trong mấy tháng đầu, hàng đêm chúng bắt anh phải đến Trạm Công an xã để ngủ và sau đó anh được " biên chế " vào tổ khai thác đót (một nguyên liệu để làm chổi ) tại núi rừng Tây Thừa Thiên với chỉ tiêu MỘT TẤN mỗi ngày ! Không chịu nổi sự kham khổ cực nhọc, đày đọa đủ điều, tháng 7/1984, anh trốn vào Nam, xin đi làm thuê tại một Công Ty Cao su ở Đồng Nai tại ấp Cấp Ráng ... Cũng tưởng là sẽ được bình yên ở vùng đất xa lạ này, nhưng lam sơn chướng khí và những loài rắn độc đã ngày đêm đe dọa, tấm thân ốm yếu bây giờ thêm còm cõi ! Bà chị ruột cầm lòng không đậu trước hoàn cảnh bi thương ấy, đã cưu mang anh đem về Saigon, chăm sóc, bồi dưỡng và hàng ngày phụ với đứa cháu có nghề sửa xe ... anh sống âm thầm, lặng lẽ như thế giữa Saigon náo nhiệt, cứ nghĩ mình là kẻ sống ngoài lề và bị xã hội bỏ quên ! Nhưng niềm vui lại đến khi nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ cho những tù nhân chiến tranh bị CS giam giữ. Một lần nữa, bà chị của anh lại phải chạy đôn chạy đáo tốn kém tiền bạc để lo cho anh đầy đủ giấy tờ hợp lệ để được định cư tại Mỹ. Hồ sơ HO 29 của anh đã được phái đoàn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xét duyệt đôn lên HO 22 và anh đến Mỹ năm 1994. Anh Mãn tâm sự: Tôi tuổi Mậu Dần, cầm tinh con Cọp, mà con cọp thì bao giờ cũng chỉ đi một mình, có khi nó là chúa sơn lâm. Ngẫm nghĩ lại, cuộc đời tôi cũng thế, lúc nào cũng cô đơn, mặc dầu ở chỗ đông người ! Tôi không có cái vinh quang của con cọp, mà đơn độc trong những tình huống đôi khi quá oan nghiệt, ngay cả lúc đứng giữa những người gọi là chiến hữu ! Tôi cũng đã ở trong rừng, nhưng không phải để " cất vang tiếng thét " mà bị dẫn đi từ trại tù đến một căn chòi lá vào lúc 1,2 giờ sáng, dưới ngọn đèn leo lét, mặt đối mặt với tên công an thẩm vấn ! Cũng thế, với cây rựa trong tay, một mình cùng rừng đót ngút ngàn hoặc với những cây cao su ngang dọc thẳng tắp ! Tưởng chừng như Con Cọp Cầm Tinh mệnh số của anh chẳng bao giờ thét, nhưng thật ra anh đã dùng ý chí để nói với Tổ Quốc và bạn bè chiến đấu anh dũng bên cạnh anh rằng: Anh đã nghĩ đúng và làm đúng những gì anh nghĩ để không thẹn lòng và thẹn với non sông. Chẳng có điều gì làm anh ân hận, cho đến bây giờ, anh vẫn nhớ và thực hành đúng bài học địa hình căn bản ở Trường Bộ Binh Thủ Đức 47 năm trước: Luôn luôn phải xác định điểm đứng. Phải xác định vị trí mình đang đứng để biết bạn đang ở đâu, địch đang ở đâu, để có những quyết định chính xác. Hậu quả của những quyết định ấy đôi lúc là tai hoạ, nhưng vượt qua được, ta cảm thấy trưởng thành hơn, đúng đắn với lý tưởng mình phụng thờ và nhân cách đạo lý đã được giáo dục. Có người bảo là mình bị quân đội bỏ quên, tôi thì không bao giờ có ý nghĩ ấy bởi vì ngay lúc này, mỗi cá nhân chúng ta đã là quân đội, phải làm sao để xứng đáng với tên gọi linh thiêng ấy, mặc dầu hình tướng tổ chức không còn ! Những buổi tối lái xe về nhà ở Baton Rouge, Louisiana sau 14 giờ với hai công việc nặng nhọc khác nhau, lòng tôi dâng lên bao nỗi ngậm ngùi khi nghĩ đến Mẹ tôi, người có tấm lòng biển cả rộng lượng vô biên. Những lúc canh khuya thức giấc, nghe tiếng sóng vỗ bên này mà nhớ đến Mẹ già bên kia bờ đại dương quay quắt. Từ ngày rời ghế nhà trường đến nay, tôi chưa bao giờ có được một khoảng thời gian bình yên thật trọn vẹn để chăm sóc bà, mà ngược lại, tôi luôn luôn là nỗi nhớ thương, lo lắng, trông ngóng trong lòng bà kể từ khi tôi bước chân vào những ngày binh lửa, rồi gian truân với những năm dài tù tội, đến quãng đời lao động cực nhọc ở một xó xỉnh nào đó! Năm nay bà đã 97 tuổi, sáng chiều đứng ngồi với một tâm trạng bồn chồn như thế trong căn nhà nhỏ của cô em út trong thành nội. Ở bên này tâm tôi cũng không yên, đôi khi thảng thốt vì một cuộc điện thoại từ Việt Nam, vẫn biết bây giờ Mẹ như cây đèn giữa khoảng không, chỉ cần một làn gió nhẹ … nhưng tôi lo sợ bàng hoàng nếu một ngày nào đó nhận được tin ấy. Gia đình anh đến lúc này vẫn chưa hoàn toàn đoàn tụ, còn đứa con ở VN đợi ngày qua bên này định cư ... Bởi thế đã qua tuổi về hưu, anh vẫn gắng làm 2 jobs để ngoài việc trang trải chi phí ở đây, giúp thêm được phần nào hay phần đó cho những người thân ở quê nhà. Tôi đã đọc “ Một Quân Đội Bị Bỏ Quên - Anh Hùng và Bội Phản " của Andrew Wiest và bài viết " Chàng Pháo Thủ Thành Carroll " của nhà văn Giao Chỉ . Cả hai tác phẩm đều nhắc về những nhân vật có liên quan đến Tân Lâm. Tôi khâm phục sự can trường, hy sinh cho thuộc cấp ngoài mặt trận và lẫm liệt, kiên cường trong trại giam của Thiếu tá Huế. Cũng là người lính, nhưng tôi cảm thấy bé nhỏ và tầm thường trước sự quyết đoán kịp thời, dũng mãnh bảo vệ sự an toàn cho anh em trong đơn vị của Đại úy Tâm - chàng Pháo thủ Cọp Rằn thành Carroll, không chịu đầu hàng, chấp nhận ở lại để chiến sĩ mình rút đi ... Nhưng đối với Thiếu tá Tôn Thất Mãn, sự cảm kích, ngưỡng mộ, kính phục và thương mến gấp nhiều lần hơn ! Bởi vị trí của anh hoàn toàn khác, rất đặc biệt. Anh đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm, ý chí bất khuất của một Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: Cái dũng khí của một kẻ sĩ ngay trước mặt cấp chỉ huy và chiến hữu khi chống lại tư tưởng chủ bại, đầu hàng của những con người ấy, sau đó trên đường áp tải đã tìm cách trốn thoát, không chịu đội trời chung với Cộng sản và rất đáng phục, rất oai phong khi trong gông cùm của địch đã dứt khoát chối từ, bác bỏ luận điệu tuyên truyền dụ dỗ để quy phục, luôn luôn giữ tấm lòng sắt son với lý tưởng và đồng đội ! Tôi biết anh không cần thiết, bận tâm đến sự vinh danh, anh nói chỉ làm những việc bình thường của một người lính với tinh thần " Uy vũ bất năng khuất " ! Rất tiếc khả năng viết lách của tôi có hạn, nên không diễn bày được hết những oai hùng và đoạn đường gian khổ mà anh Mãn đã kinh qua ... Tôi cố gắng trong những gì có thể làm được với tất cả tấm lòng chân thật, để mọi người biết Quân Lực của chúng ta đã có một con người, một cấp chỉ huy minh định vững vàng, kiên cường lập trường trong mọi tình huống như thế. Riêng cá nhân mình, xin trang trọng nói rằng: ANH LÀ NGƯỜI HÙNG CỦA TÔI. LÊ VĂN TRẠCH (SD3BB) (Bản hiệu đính 8 - 8 - 2011) Source: Nhận trực tiếp từ tác giả Lê Văn Trạch (Lê Bộ Binh) ĐÂY LÀ LỜI VIẾT CỦA CỰU CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI - TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH GỞI CHO CỰU TRUNG TÁ NGUYỄN TRI TẤN VỀ BÀI VIẾT "PHÚT CUỐI TÂN LÂM" (Tác giả LÊ BỘ BINH) " Đính không nói với tôi trước khi đầu hàng mà chỉ nhờ Đại Tá Chung Tư lệnh phó chuyển lời chào từ biệt - vì ngày hôm đó tôi vào Huế gặp TT Thiệu ra thăm, tới chiều tôi về mới biết. Đính đầu hàng mà không ai báo cáo gì cho tôi cả ! Tôi đâu có cho Đính toàn quyền quyết định ! Tôi đã gặp ngay cố vấn của Đính được trực thăng bốc về và tôi đã nghe ông ta nói những gì đã xảy ra . Nếu tôi biết được tôi đã ngăn cản".
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 8:40:34 GMT 9
CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI / Anh Hùng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa  Số Quân 54/304.295 Sinh ngày 12-5-1934 làng Duy Tác, huyện Giao Thủy, Tỉnh Nam Định 1945-1946: Văn Lang, Hà Nội 1946-1948: Nguyễn Khuyến, Nam Định 1949-1951: Hồ Ngọc Cẩn, Bùi Chu 1951: Tốt nghiệp bằng Thành Chung 1953: Khóa 10 Trần Bình Trọng Võ Bị Liên Quân Đà Lạt 1954: Thiếu Úy Hiện Dịch 1954: Tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù tốt nghiệp Bằng Nhảy Dù cùng Thiếu Úy Nguyễn Đình Vinh sau là Đại Tá, Thiếu Úy Ngô Quang Trưởng sau là Trung Tướng, Thiếu Úy Lê Quang Lưỡng sau là Chuẩn Tướng. 1954: Tháng 7 Trung Đội Trưởng - Đại Đội 4 - Tiểu Đòan 5 Nhảy dù, Sau hiệp định Geneve 1954 TĐ5ND thuyên chuyển về Mỹ Khê, Đà Nẵng Tháng 10-1954 Xóm Bóng Đồng Đế Nha Trang Cuối năm 1954 theo học khóa Huấn Luyện Viên Nhảy Dù cùng theo học khóa này có Thiếu Úy Trương Quang Ân sau này là Cố Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đòan 23BB 1955: Sỉ Quan An Ninh Quân Đội TĐ5ND 1956: Thăng cấp Trung Úy 1957: Khóa Sỉ Quan Tình Báo Cây Mai, Sài Gòn. 1957-1958: Khóa Bộ Binh Cao Cấp và Khóa Nhảy Dù tại trường Võ Bị Lục Quân Hoa Kỳ Fort Benning, Georgia Hoa Kỳ 1960: Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Tiểu Đòan Sơn Cước An Khê Pleiku 1960: Tiểu Đòan Phó Tiểu Đòan Công Vụ, Thành Nội Huế 1960: Đại Đội Trưởng Đại Đội Biệt Kích Rhe 1961: Thăng Cấp Đại Úy, theo học khóa Sỉ Quan Cán Bộ Biệt Động Quân 1961: Tỉnh Đòan Phó Bảo An kiêm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Dân Vệ Thừa Thiên 1963: Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt Khu 11 Chiến thuật Huế 1964: Trưởng Phòng 2 Sư Đòan 1 Bộ Binh 1965: Phó Tỉnh Trưởng Nội An kiêm Tiểu Khu Phó Nội An Quảng Nam 1965: Thăng Thiếu Tá Nhiệm Chức 1965: Du Học khóa Tình Báo Cao Cấp tại Fort Hollabird, Baltimore, Maryland. 1965: Biệt Đội Trưởng Biệt Đội 6 Quân Báo 1966: Trung Đòan Trưởng Trung Đòan 2 Sư Đòan 1 Bộ Binh kiêm Biệt Khu Trưởng Biệt Khu giới tuyến Đông Hà, Quảng Trị 1967: Vinh Thăng Trung Tá 1969: Vinh Thăng Đại Tá 1969: Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đòan 1 Bộ Binh Ái Tử Quảng Trị. 1970: Tư Lệnh Phó Sư Đòan 1 Bộ Binh tại Huế 1971: Vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức 1971: Tư Lệnh Sư Đòan 3 Tân Lập 1972: ngày 3-5 rời khỏi chức vụ Tư Lệnh Sư Đòan 3 bị kết án 5 năm tù về việc mất Quảng Trị 1975: Tù Cộng Sản qua các trại, Quang Trung 5-1975 đến 5-1976 , Yên Bái, Hòang Liên Sơn 5-1976 đến 4-1978, Hà Tây, Hà Sơn Bình 4-1978 đến 1983 , Trại Ba Sao Hà Nam Ninh 1983 đến 9-9-1987. 1987: 9-9 ra khỏi tù Việt Cộng 1993: Định cư tại Stanton California Mất ngày 13 tháng 10 năm 2012 tại Garden Grove, Nam California Hoa Ky Huy Chương: - Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương - Chương Mỹ Bội Tinh Đệ Nhất Hạng - 10 Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu - 2 Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao bạc. - 2 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Đồng - 2 Silver Stars - 2 Bronze Stars Gia Đình Thân Phụ cụ Vũ Viết Trí Thân Mẫu cụ Đòan Thị Tín Phu Nhân Bà Phan Li Li Trưỡng Nữ Vũ Thị Kim Phượng, chồng Nguyễn Ngọc Anh Thứ Nữ Vũ Thị Thu Nguyệt, chồng Trần Văn An Trưỡng Nam Vũ Hồng Đức vợ Nguyễn Asley Thứ Nữ Vũ Lim Liên Thứ Nam Vũ Tiến Dũng Chị Vũ Thị Na Anh Vũ Văn Tri Anh Vũ Quang Rong  Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (hàng trên cùng, thứ hai từ trái) 16 Sĩ quan trong tấm hình lịch sữ 55 năm sau, 15 vị đã ra người thiên cổ, một vị còn lại Trung Tá Nguyễn Mộng Hùng (Hùng Xùi San Jose) thứ ba từ trái hàng đứng trên cùng cạnh Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai   SAIGON - 3/10/1973 --Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, bên phải, đang nói chuyện với vị chỉ huy trước đây của mình, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và một vị luật sư hôm Chủ nhật trong lúc tạm nghỉ của một phiên tòa quân sự xét xử ông tại Sài Gòn. Vị cựu tư lịnh Sư đoàn 3 BB đã bị tuyên án 5 năm khổ sai vào hôm thứ tư sau khi bị buộc tội bỏ rơi TP Quảng tri cho quân CS trong đợt tổng công kích năm 1972. (AP Wirephoto) VĨNH BIỆT TƯỚNG GIAI Thứ sáu - 19/10/2012 16:02 Vĩnh biệt Tướng Vũ-Văn Giai. Cách đây không lâu, tình cờ có gặp ông, và được biết ông đang lo lắng săn sóc cho phu nhân đang lâm trọng bịnh, nhưng không ngờ ông lại phải ra đi trong khi bà vẫn còn trên giường bệnh. Chuẩn Tướng Vũ văn Giai nguyên tư lệnh sư đoàn 3 BB, một vị tướng tài ba trong sạch và ngay thẳng của Quân lực VNCH, đã có nhiều tài liệu sách vở nói về ông, chúng tôi có liên quan với ông về mặt họ hàng, đều được biết một điều là đừng nghĩ đến chuyện nhờ vả cái lon Tướng của ông che chở bao bọc cho tình riêng mà không qua hệ thống quân giai cơ bản. Tôi đã đến đưa tiễn ông, vái ông như một người cháu, và chào tay ông như một quân nhân chào vĩnh biệt một vị tướng được mọi người thương tiếc VĨNH BIỆT TƯỚNG GIAI TRÒ CHUYỆN VỚI CỰU CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI: NĂM 1972: CHUYỂN QUÂN, KHÔNG RÚT LUI Trần Gia Phụng  Trong việc tìm kiếm tài liệu để viết lại giai đoạn 1954-1975, tôi được bác sĩ Phạm Hữu Trác (Montreal) và cựu đại tá Pháo binh Lê Văn Trang (California) giới thiệu với cựu chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 3 Bộ binh (SĐ3BB) Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong chuyến đến California vào cuối tháng 7-2011, tôi gặp chuẩn tướng Giai tại nhà đại tá Trang. Cuộc trò chuyện bắt đầu từ 01 giờ đến 05 giờ chiều Thứ Hai 25-7-2011. Sau đây là nội dung cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, được trình bày với sự đồng ý của chuẩn tướng Giai. Tôi không dám gọi đây là một cuộc phỏng vấn, mà chỉ là một cuộc trò chuyện với một nhân vật đã tham dự vào những biến cố quân sự ở Quân khu I vào đầu thập niên 70 vừa qua. Để cuộc trò chuyện được thoải mái, thân mật, tôi đề nghị gọi chuẩn tướng Giai bằng anh và được ông đồng ý. 1) Trước hết, thưa anh Giai, xin anh cho biết đôi chút về thân thế của anh? - Thưa anh, tôi có thể nói đơn giản thế nầy: Tôi sinh năm 1934 tại làng Duy Tắc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Cha tôi mất sớm, mẹ tôi làm ruộng, tần tảo nuôi con. Cha mẹ tôi có 4 người con, 1 gái và 3 trai. Tôi là con út trong gia đình. 2) Thưa anh, hoàn cảnh nào đưa anh vào binh nghiệp, và xin anh trình bày các cấp bậc anh đã trải qua trước khi lên tướng. - Năm 1953, tôi đang theo học lớp Đệ nhị [tức lớp 11 ngày nay] trường Văn Hóa ở Hà Nội, thì tôi nộp đơn thi vào Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Lý do thứ nhất vì mẹ tôi không còn khả năng tiếp tế cho tôi. Làng tôi bị Việt Minh cộng sản kiểm soát. Gia đình tôi bị coi là tư sản, theo văn hóa nô dịch, nên Việt Minh bắt hai người anh của tôi đi tù, và tịch thu hết ruộng đất, cho nên ngay từ thời thiếu niên, tôi không ưa gì cộng sản. Lý do thứ hai là trước sau gì tôi cũng sẽ được gọi động viên dù tôi thi đậu bằng Tú tài I vào cuối năm học ấy. Tôi nghĩ rằng sớm muộn gì tôi cũng sẽ theo đường binh nghiệp, nên tôi tình nguyện đi sớm, trước hết là để tiến thân, sau là để phục vụ quốc gia chống cộng sản. Tôi ra Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt tháng 6-1954, cấp bậc thiếu uý hiện dịch. Tôi theo học nhảy dù, và thuyên chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (ND) ở cạnh Hồ Tây, Hà Nội, giữ chức trung đội trưởng. Tháng 7-1954, đất nước bị chia hai, quân đội Quốc Gia rút về Nam Việt Nam. Sau hai năm thiếu uý, tôi được thăng cấp trung uý năm 1956, giữ chức đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 5 ND, cùng với trung uý Ngô Quang Trưởng (sau nầy là trung tướng), coi Đại đội 1 TĐ5ND. Năm 1961, sau trận đánh quận Phú Đức, gần Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, tôi được đặc cách thăng đại uý, rồi lên thiếu tá năm 1964 khi tôi đang làm trưởng phòng 2 Sư đoàn 1 Bộ Binh (SĐ1BB) ở Huế. Năm 1966, tôi thăng trung tá lúc đang giữ chức trung đoàn trưỏng Trung Đoàn 2 SĐ1BB, trấn giữ vùng giới tuyến ở Đông Hà, Quảng Trị. Sau trận Mậu Thân năm 1968, tôi lên đại tá và được đưa giữ chức chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương SĐ1BB tại Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 1971 ở Hạ Lào, tôi lên chuẩn tướng. Đó là sơ lược sự thăng tiến trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. 3) Thưa anh, khi VNCH mở cuộc hành quân Hạ Lào (Lam Sơn 719), anh là Phó tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (SĐ1BB), là sư đoàn chính trong cuộc tấn công qua Lào. Xin anh vui lòng cho biết mục đích chính của cuộc hành quân nầy? - Mục đích chính của cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 là: 1) Phá hủy con đường xâm nhập và tiếp vận của Việt Cộng từ Bắc vào Nam thông qua con đường Trường Sơn Tây trên đất Lào. 2) Tiêu diệt hết những lực lượng cộng sản trú ẩn trong vùng. Đây là một cuộc hành quân quan trọng có tính cách chiến lược, quyết định chiến tranh Việt Nam. 4) Thế thì diễn tiến cuộc hành quân như thế nào thưa anh? - Theo kế hoạch, cuộc hành quân chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Ba cánh quân Biệt động quân ở phía bắc, Sư đoàn Nhảy dù và Lữ đoàn 1 Thiết giáp cánh giữa dọc theo đường số 9 và sông Tchepone, SĐ1BB cánh nam sông Tchepone, tiến chiếm các mục tiêu đến tuyến 1 Bản Đông. Giai đoạn 2: Các cánh quân tiến chiếm các mục tiêu trên tuyến 2 tỉnh Tchepone. Giai đoạn3: SĐ Nhảy Dù sẽ đổi hướng quét lên phía bắc tận biên giới miền Bắc Việt Nam. Trong giai đoạn 1 sau khi các cánh quân tiến chiếm được các mục tiêu và lập các căn cứ hỏa lực dọc tuyến 1 thì bắt đầu có giao tranh. Biệt động quân bị tấn công mạnh, Lữ đoàn Dù ở căn cứ 31 bị thiết giáp Việt cộng tràn ngập. Đại tá Thọ, lữ đoàn trưởng, bạn tôi, bị bắt. Vì vậy mà giai đoạn 2 không tiến hành được. Lệnh hành quân thay đổi. SĐ1BB cánh Nam thay thế SĐND tiến chiếm Tchepone. Sau khi quét xong Tchepone, SĐ1BB rút lên cao địa phía nam sông Tchepone thay vì bọc thẳng về Khe Sanh theo như kế hoạch đã định. Quyết định nầy làm mất thêm thời gian, nên Việt cộng có thời giờ điều động tấn công và bao vây quân ta, làm chúng ta phải vất vả mới bốc được các đơn vị ra khỏi vùng hành quân với nhiều thương vong! Thú thật, trông thấy cảnh binh sĩ phải bám vào cần trực thăng, tôi không cầm được nước mắt. 5) Theo anh, với tư cách là Phó tư lệnh SĐ1BB, lúc đó anh còn là đại tá, anh nhận xét cuộc hành quân nầy thành công hay thất bại như thế nào? Vì lý do gì thành công hay thất bại? - Theo tôi, cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 không đạt được mục tiêu đã định và có một số ảnh hưởng tinh thần không tốt cho Quân đội VNCH sau đó. Tuy nhiên, quân đội VNCH cũng đã gây cho địch nhiều thiệt hại to lớn về tiếp vận và nhân lực. 6) Lúc đó, người Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh, rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam, người Mỹ có tham gia hành quân nầy không? Và người Mỹ có giúp đỡ cho quân đội VNCH không? - Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, quân đội Mỹ đã yểm trợ tối đa bằng Không quân, kể cả B52, trực thăng đổ quân và tiếp tế tải thương. Tuy nhiên, cố vấn Mỹ không đi theo chúng ta sang Lào. Thông thường trong các cuộc hành quân trước đây, có cố vấn Mỹ đi theo, chúng ta nhờ cố vấn Mỹ gọi yểm trợ không kích. Trong cuộc hành quân Hạ Lào, do vấn đề ngoại giao, Mỹ không theo chúng ta qua Hạ Lào. Không có cố vấn Mỹ, việc gọi Không quân yểm trợ gặp một số trở ngại về chuyên môn kỹ thuật, nên việc yểm trợ không hữu hiệu, nhưng thật sự là không thể phủ nhận là Không quân Mỹ đã yểm trợ chúng ta trong cuộc hành quân nầy. 7) Trong trường hợp nào, anh trở thành tư lệnh SĐ3BB? Đây là một sư đoàn tân lập (thành lập tháng 10-1971), lấy quân từ đâu, huấn luyện như thế nào và bộ chỉ huy ở đâu? - Có một điểm cần nêu rõ: Do nhu cầu chiến trường, bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH quyết định thành lập một sư đoàn mới để trấn giữ vùng giới tuyến phía Bắc vì SĐ1BB không đủ lực lượng. Tuy nhiên, có thể vì dự tính rút quân theo kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, phía Mỹ không chịu yểm trợ cho việc thành lập nầy. Mỹ đề nghị đưa một sư đoàn cơ hữu từ Nam (VNCH) ra Bắc (VNCH), hoặc điều động Biệt Động Quân ra giữ vùng giới tuyến. Sau khi bàn bạc, Bộ TTM quyết định lấy Trung đoàn 2 SĐ1BB làm nòng cốt và tăng cường thêm lao công đào binh từ miền Nam ra. Ở đây tôi xin mở ngoặc: Thông thường, một sư đoàn có 3 trung đoàn. Riêng Sư đoàn 1BB có 4 trung đoàn. Vì vậy, cắt bớt Trung đoàn 2 SĐ1BB, thì SĐ1BB vẫn còn 3 trung đoàn. Đặc biệt nữa, Trung đoàn 2SĐ1BB lại có 5 tiểu đoàn, mà mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, nên Trung đoàn 2SĐ1BB có 20 đại đội. Nếu theo cách tức cũ, mỗi sư đoàn có 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội, thì sư đoàn tân lập cần có số đại đội là: 3 X 3 X 3 = 27 đại đội. Trong khi đó Trung đoàn 2 SĐ1BB có 20 đại đội, nên chỉ cần bổ sung thêm 7 đại đội để thành lập sư đoàn mới. Sư đoàn mới nầy là Sư đoàn 3 BB. Về tiếp liệu, SĐ3BB lấy tiếp liệu sẵn có chứ Mỹ không cung cấp đồ mới nữa. Sư đoàn 3BB không được tập trung huấn luyện mà chỉ tiếp nhận những đơn vị sẵn có và bổ sung thêm quân số từ miền Nam ra. Bộ tư lệnh SĐ3BB và hậu cứ chính ở căn cứ Ái Tử, Quảng Trị do Mỹ để lại. Đó là thực trạng SĐ3BB trước khi đụng trận vào năm 1972. 8 ) Thưa anh, trong cuộc tấn công vào Mùa hè đỏ lửa, CSBV mở chiến dịch Trị Thiên ở Quân khu I. Sư đoàn 3 BB đóng ở tuyến đầu tại QKI. Lúc đó, tình hình địch như thế nào và tình hình quân đội VNCH như thế nào? - Trong cuộc tấn công Mùa hè đỏ lửa năm 1972, lực lượng địch gồm có: hai sư đoàn Bộ binh 304 và 308, 5 trung đoàn BB biệt lập số 27, 31, 126, 220 và 246, 01 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp 203, 204 và 1 trung đoàn Xe lội nước PT 76. Lực lượng quân đội chúng ta gồm có: Giai đoạn đầu SĐ 3BB, Lữ đoàn 147 TQLC, Thiết đoàn 18, Lực lượng diện địa tỉnh Quảng Trị gồm địa phương quân và nghĩa quân. Giai đoạn sau tăng phái thêm Lữ đoàn 258 TQLC, 2 Liên đoàn Biệt động quân, Lữ đoàn 1 Thiết giáp. Trong tương quan lực lượng giữa hai bên thì rõ ràng lực lượng Việt cộng vượt trội hơn nhiều: Thiết giáp Việt cộng trang bị T54 tối tân của Liên Xô, Bộ binh Việt cộng gần 4 sư đoàn và Việt cộng chủ động tấn công trong khi chúng ta quân số ít hơn, lại bị thụ động chống trả. 9) Xin anh vui lòng trình bày lại diễn tiến của trận đánh nầy. - Trận đánh nầy bắt đầu ngày 29-3-1972, thật bất ngờ với chúng tôi. Phía VNCH, chúng tôi không được tin tức tình báo việc chuyển quân của địch. Lúc đó hai trung đoàn của SĐ3BB chúng tôi đang đổi quân. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 26 hoán chuyển vị trí. Trong lúc chuyển quân thì chúng ta phát giác Việt cộng cũng đang chuyển quân. Thế là chiến trận xảy ra. Kể từ đó, Cộng quân tấn công liên tục trong vòng một tháng. Về phía cố vấn Mỹ, ngay từ đầu, do những tin tức tình báo về phía Mỹ, đại tá cố vấn Metcalf đã cho tôi hay là: Đây không phải là cuộc tấn công bình thường như trước đã xảy ra, mà là cuộc tổng tấn công tổng lực toàn diện, cho nên không thể phòng thủ bằng cụm cứ điểm được. Việt cộng đưa quân vượt sông Bến Hải rất đông, sẽ tấn công và tràn ngập các cứ điểm, và sau cùng sẽ tấn công vào căn cứ cuối cùng. Do đó, đại tá Metcalf đề nghị nên phòng thủ di động mới chống cự được. Tôi cho rằng đây là kế hoạch tốt nhất để áp dụng và tôi đã tự mình soạn thảo và vạch ra kế hoạch di chuyển từ tuyến 1 đến tuyến 3. (Tuyến 1 là khúc sông Cam Lộ hay Đồng Hà. Tuyến 2 là khúc sông Thạch Hãn. Tuyến 3 là sông Mỹ Chánh.) 10) Lúc đó, do áp lực nặng nề của Cộng quân, SĐ3BB phải rút lui. Thưa anh có thể cho biết cuộc rút quân đó do lệnh của ai hay do chính bộ Tư lệnh Sư đoàn quyết định? Lúc đó, bộ Tư lệnh Quân đoàn I có ý kiến gì không? - Tôi xin nói ngay là chúng tôi không rút lui mà chúng tôi chuyển quân chiến thuật. Trước khi ra lệnh di chuyển về tuyến 3 (sông Mỹ Chánh), tôi đã trình lên Bộ tư lệnh Quân đoàn I, đồng thời khi biết quyết định nầy, đại tá Metcalf điện báo cho thượng cấp của ông là đại tướng Creighton Abrams, thì tướng Abrams trả lời cho Metcalf như sau: “Tướng Giai có toàn quyền hành động”. Phía Quân đoàn I, khi tôi trình kế hoạch chuyển quân, tư lệnh Quân đoàn I là trung tướng Hoàng Xuân Lãm không trả lời, nhưng vì tình hình khẩn cấp tôi đã ra lệnh chuyển quân, thì vào phút chót trung tướng Lãm ra lệnh tử thủ Quảng Trị, nghĩa là không chấp thuận kế hoạch chuyển quân của tôi, nhưng đã trễ vì lệnh chuyển quân đã bắt đầu thi hành rồi nên không thể lấy lại lệnh. Vì vậy tôi đã bị cấp trên quy tội là “Bất tuân thượng lệnh.”. Tôi nhấn mạnh là chúng tôi không rút lui. Chúng tôi chuyển quân theo chiến thuật cần thiết để đối phó với tình hình lúc đó. Rút lui có nghĩa là mở cuộc hành quân, hay tấn công một nơi nào đó, rồi sau đó rút lui. Đàng nầy, không phải chúng tôi rút lui, tức bỏ đi, mà chúng tôi chỉ chuyển quân, bảo toàn lực lượng và chờ đợi cơ hội phản công. SĐ3BB và các đơn vị tăng phái di chuyển theo kế hoạch đã vạch ra. Cuộc chuyển quân diễn ra theo đúng kế hoạch. Chỉ có một cuộc chạm súng nhỏ và chúng tôi đã hạ được 2 xe tăng PT76 của Việt cộng. Thương vong về phía chúng ta trong cuộc rút quân rất thấp, vì tất cả đi về phía đông quốc lộ 1, nhưng bị thổi phồng lên hàng ngàn người. Sự chết chóc trên quốc lộ 1 từ Quảng Trị về Mỹ Chánh xảy ra không phải riêng trong cuộc chuyển quân của chúng tôi mà trước đó đã xảy ra trong suốt tháng 4-1972 khi dân chúng di chuyển từ Quảng Trị về Huế, lúc Việt cộng bắt đầu tấn công từ ngày 29-3-1972. Cuộc chuyển quân của SĐ3BB về tuyến phòng thủ 3 (sông Mỹ Chánh) coi như thành công chứ không thất bại, nhưng tôi không có thời gian để chấn chỉnh đội ngũ SĐ3BB vì sau ngày 30-4-1972, tôi được gọi về bộ Tổng tham mưu phúc trình sự việc. Đại tá Ngô Văn Chung, tư lệnh phó SĐ3BB tạm thay tôi cho đến khi thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh được cử làm tân tư lệnh SĐ3BB. 11) Hậu quả đầu tiên của cuộc chuyển quân nầy là anh bị kỷ luật. Xin anh cho biết rõ những biện pháp kỷ luật đối với anh. - Về bộ Tổng tham mưu, tôi trình diện ở Phòng thanh tra và bị giữ tại Đại đội Tổng hành dinh một tháng. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh truy tố tôi. Tôi bị chuyển qua Khám Chí Hòa và bị đưa ra Tòa. Tòa án Quân sự kết án tôi năm năm tù vị tội “bất tuân thượng lệnh”. Tôi bị giam giữ ở Khám Chí Hòa. Đang thọ án, biến cố 30-4-1975 xảy ra. Khám Chí Hòa tự động mở cửa cho mọi người ra ngoài. Tôi đi về nhà. 12) Đời sống trong khám Chí Hòa như thế nào, thưa anh? - Người ta cho tôi sống riêng trong một căn nhà nhỏ như cái thư viện. Sau đó có thêm vài người nữa như chuẩn tướng Trần Quốc Lịch, ông Nguyễn Tấn Đời. Đời sống thoải mái. Cơm nước do gia đình mang vào. Trong thời gian nầy, vị tướng tư lệnh Mỹ ở Thái Lan vào thăm tôi trong Chí Hòa, đề nghị đưa tôi ra cầm quân trở lại, nhưng tôi thấy khó làm việc trong hoàn cảnh lúc đó nên tôi yêu cầu để tôi có thời giờ suy nghĩ. 13) Là một quân nhân, anh im lặng chấp nhận kỷ luật, nhưng trong tận cùng suy nghĩ của anh, anh có thấy mình bị oan ức không? Xin anh thành thật kể ra. - Tôi nhận trách nhiệm những gì tôi làm. Tôi im lặng chịu đựng tất cả hậu quả những gì tôi đã làm mà tôi cho là đúng với tình hình. Tôi ra lệnh chuyển quân để lập tuyến phòng thủ mới như đã dự định nhằm tạo lại thế phản công thay vì bị động, nhằm tránh thương vong trong sự co cụm, để Việt cộng vào và chúng ta dùng phi pháo tiêu diệt, rồi sẽ tấn công trở lại. Đúng như những gì sau đó xảy ra, cổ thành Quảng Trị là mồ chôn hàng ngàn Việt cộng, sau khi SĐ3BB ra khỏi cổ thành. Tôi nghĩ rằng tổng thống Thiệu đã không hiểu được tình hình thực tế tại chiến trường mà chỉ khăng khăng giữ từng tấc đất và rồi để mất tất cả. Đó là kết quả của những vị tướng làm việc sau bàn giấy. 14) Sau ngày 30-4-1975, vì sao anh bị kẹt lại ở Việt Nam? Anh bị Cộng sản bắt giam ở đâu, trong bao lâu? - Sau ngày 30-4-1975, mới ra khỏi tù, tôi về ở nhà, không đi đâu nữa. Tôi sống với gia đình cho đến khi đi “tập trung cải tạo” tức bị đi tù cộng sản ngày 16-5-1975. Tôi bị giam cùng với các tướng lãnh khác ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung một năm. Trong năm nầy, chúng tôi phải học 10 bài. Tôi nhớ bài thứ nhất là “Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, là kẻ thù nhân dân ta”. Bài thứ hai là “Ngụy quân ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta”. Tôi quên đề tài mấy bài giữa. Bài số 10, tức bài cuối cùng là “Lao động là vinh quang”. Sau bài số 10 nầy, Việt cộng bảo rằng ở đây không có đất để chúng tôi thực tập lao động, nên chuyển bọn tù chúng tôi ra Bắc, ở trại 5 Hoàng Liên Sơn. Ở tại đây cho đến năm 1978, Trung cộng đe dọa vùng biên giới, chúng tôi bị di chuyển về Hà Tây biệt giam. Năm 1983, tôi chuyển trại một lần nữa, đến trại tù Nam Hà. Cuối năm 1987, tôi ra tù và được qua Mỹ theo chương trình H.O. 16 năm 1993. Trước khi ra đi, Việt cộng bắt tôi phải ký giấy cam kết không được hoạt động chống đối chúng nó. Có lẽ không phải riêng tôi, mà ai ra đi chúng nó cũng đều bắt buộc như vậy. 15) Là một sĩ quan cấp tướng, khi hỏi cung anh, CS chú trọng đến những vấn đề nào nhất? - Khi hỏi cung tôi, lúc đầu Việt cộng hỏi nhiều về âm mưu của Mỹ sau ngày 30-4-1975. Mục đích của Việt cộng là tìm bắt những ai còn hoạt động chống cộng và tìm những ai là người do Mỹ cài lại Việt Nam. Việt cộng cũng cho tôi là người của Mỹ, có lẽ là vì lúc tôi bị giữ ở Khám Chí Hòa, có vị tướng Tư lệnh Lực lượng Mỹ ở Thái Lan vào thăm tôi. Có thể chúng được ai đó báo cho biết việc nầy, nên chúng nó nghi ngờ tôi. Chúng cũng hỏi tôi lúc ở Quảng Trị có được “cách mạng móc nối” không? Tôi trả lời là không. Như thế là có thể Việt cộng đã sai người kiếm cách móc nối tôi, nhưng chúng không móc được. Ngoài ra, Việt cộng bắt tôi viết tự thuật lại toàn bộ đời tôi. 16) Cuối cùng, anh ra nước ngoài năm nào? Đời sống của anh hiện nay ra sao? - Tôi đến Mỹ ngày 3-3-1993, theo chương trình H.O. 16. Đời sống của tôi nay đã ổn định, an dưỡng tuổi già, con cái đã trưởng thành. Thật là hạnh phúc sau 77 năm cuộc sống phiêu bạt: 7 năm thời thơ ấu, 11 năm học đường, 19 năm binh nghiệp, 3 năm tù thời VNCH, 12 năm rưỡi tù cộng sản, 5 năm chờ đợi ở Sài Gòn và 18 năm trên đất Mỹ… KẾT LUẬN: Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi khá lâu, khoảng 4 giờ đồng hồ, rất vui vẻ, chân tình. Xin cảm ơn anh Giai. Kể lại chuyện xưa, cựu chuẩn tướng Giai trình bày rất tự nhiên thoải mái, không có gì là bực bội hay hằn học đối với các cấp lãnh đạo quân đội VNCH đã truy tố và bỏ tù ông. Ngay sau trận Quảng Trị tháng 4-1972, chuẩn tướng Vũ Văn Giai đã bị “hy sinh”, bị đưa ra tòa, bị ghép tội “bất tuân thượng lệnh” và lãnh án 5 năm tù giam. Vụ án của ông còn bị dư luận thổi phồng vì hai lý do: 1) Người dân chỉ thấy cuộc chuyển quân thất bại và nhiều người chết trên con đường Quảng Trị-Huế, mà không biết diễn tiến nội vụ chuyện chuyển quân, và quên chú ý rằng người ta chết vì suốt một tháng giao tranh trong khi việc chuyển quân chỉ diễn ra một ngày vào cuối tháng 4-1972. 2) Những lãnh đạo của tướng Giai tìm cách tránh né trách nhiệm của chính các ông về những sai lầm trong cuộc hành quân, và đổ hết tội lỗi lên hai vai của tướng Giai. Ông gánh chịu dư luận quốc nội cũng như quốc tế thay cho các cấp lãnh đạo trung ương và Quân đoàn I. Tuy nhiên, dần dần theo thời gian, những uẩn khúc về trận đánh nầy được làm sáng tỏ. Gần đây nhất, trong cuộc hội thảo “Việt Nam, 35 năm nhìn lại” vào tháng 4-2010 tại Washington D.C., sử gia Dale Andrade, thuộc Trung Tâm Lịch Sử Quân Đội Hoa Kỳ, đã nói như sau: “Thấy được sự nghiêm trọng của vấn đề, tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh, ra lệnh lui quân về phía Nam để có thể tạo ra một đồn lũy vững chãi hơn. Các cố vấn Hoa Kỳ cho rằng đây là một quyết định hợp lý, có cơ sở, có triển vọng giữ lại được hàng ngũ của ông trong tình thế hiểm nghèo lúc đó. Nhưng tiếc thay, ngay khi kế hoạch chuyển quân bắt đầu, thì nửa đêm hôm đó, tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I, gọi phôn ra, ra lệnh tử thủ Quảng Trị…. Sau khi Quảng Trị thất thủ, tướng Giai bị đổ hết tội lỗi lên đầu, và còn bị bỏ tù. Tướng Giai đã bị đối xử bất công. Tôi cho rằng ông đã làm hết sức mình trong một hoàn cảnh rất khó khăn trước quân thù, khi không được cả sự đồng thuận của đồng đội…” (Nhật báo NGƯỜI VIỆT, California, ngày Thứ Hai 26-4-2010, số 8906, tr. A6) Một người đứng ngoài cuộc chiến như Dale Andrade, với đầy đủ điều kiện nghiên cứu, sàng lọc nhiều tài liệu trong văn khố quân sử Hoa Kỳ, nắm rõ diễn tiến các trận đánh, hy vọng là khách quan và khả tín. Tuy nhiên, có một điều quan trọng đáng nói hơn hết: cựu chuẩn tướng Vũ Văn Giai, trong cương vị tư lệnh SĐ3BB, năm 1972 đã tận lực chiến đấu với tất cả khả năng của mình nhằm bảo vệ tuyến đầu đất nước. Ông là một tướng lãnh tận trung với Tổ quốc, can đảm, tận tụy, nhưng kết quả không may mắn, ông đành im lặng xuôi theo số phận vào cuối đời binh nghiệp, mà vẫn không thẹn với lương tâm, với đồng đội và với dân tộc. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 3-8-2011) Tướng Vũ Văn Giai ra đi và nghĩ về một ẩn sửTướng Vũ Văn Giai tuy không là một vị tướng tài ba lỗi lạc nhưng cũng không là một vị tướng tồi. Ông là một vịt ướng cương nghị, trầm tĩnh cần mẫn, trong sạch và không kém tài chỉ huy thao lược. Ông liên miên thị sát chiến trường và luôn sát cạnh với các Đơn vị trưởng Trung ,Tiểu đoàn chỉ huy và hoạch định kế hoạch truy lùng, diệt địch.Nếu giá như ông có được quyền chỉ huy tự chủ và được sự yểm trợ của Quân Đoàn, của Đồng Minh Hoa Kỳ đúng mức , có lẽ biến cố Mùa Hè Đỏ Lửa không đến nỗi thê thảm đến mức độ chính ông phải bị thân bại danh liệt và Sư Đoàn 3_BB không phải mang tiếng xấu khó tẩy rửa: "Sư Đoàn 3 chạy làng"! Thử nhớ lại,Sư Đoàn 3 là một Sư Đoàn non trẻ nhất và được thành lập sau rốt trong Quân Lực VNCH. Nó được cấu thành sau khi chiến dịch Lam sơn 719 tấn công sang Hạ Lào nhằm phá hủy một phần Đường Mòn Hồ Chí Minh bị coi là thất bại vì chiến thuật lui binh thiếu chuẩn bị chu đáo và kém cõi_do đã hoạch định, đã chọn con đường triệt thoái cũng lại là con đường tiến quân trong một địa thế núi rừng trùng điệp, nên địch dễ dàng tái phối trí, chuẩn bị vị trí xạ kích những tụ điểm đã bị tấn chiếm và phục binh cạnh sườn cũng như đánh tập hậu khi lực lượng quân đội VNCH lui binh. Sự thất bại nầy đã nêu bật yếu điểm chủ trương chiến tranh có tính quy định của Hoa Kỳ : Phòng thủ nội địa và không tấn công sang đất địch để tránh chiến tranh lan rộng, trong khi Binh thư bao đời đã chỉ rõ "trong cuộc chiến không tiến công được địch tất sẽ bại vong !". Cho nên , chủ trương quái đản đó đã dẫn đến một thảm bại tất yếu vào tháng Tư năm 1975 ! Nếu không có sự quy định có tính tự trói buộc ngu xuẩn đó, nếu Chiến dịch Lam sơn 719 được vạch ra với một chiến thuật phóng khoáng sáng tạo hơn: tiến quân theo đường 9 Hạ Lào , phá hủy chớp nhoáng các tụ điểm của địch trên Đường Mòn Hồ Chí Minh, rồi bất ngờ và nhanh chóng ‘lùi về trong thếtiến công, đánh vòng xuyên biên giới Lào qua Đồng Hới, vượt sông Bến Hải trở về phía Nam thì chiến thắng chắc chắn sẽ nắm chắc trong tay và cục diện chiến tranh sẽ hoàn toàn đổi khác. Vì sự thất bại Chiến Dịch Lam Sơn 719 chính là sự thất bại có tính thử lửa Việt Nam Hóa Chiến Tranh của Hoa Kỳ.Nó ảnh hưởng mạnh đến sự cân nhắc chính sách yểm trợ hay ngưng yểm trợ VNCH trong chính giới Hoa Kỳ, trong Quốc Hội Mỹ. Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã hình thành ngay sau sự thất bại có tính thử lửa đó. Thật ra,t hực lực của nó chỉ là một ‘trung đoàn +’. Nội lực chính của Sư Đoàn tân tạo nầy chính là Trung Đoàn 2-Bến Hải thiện chiến gồm 5 Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 1 BB trước đó. Trung Đoàn 2 BB bị xén đi hai tiểu đoàn, để lập ra hai Trung Đoàn mới là 56 và 57. Sau đó hai Trung Đoàn mới nầy được bổ sung quân số cho đủ cấp số mỗi Trung Đoàn có ba Tiểu đoàn. Phải nói, thật hết sức ngao ngán khi chứng kiến thành phần quân số mới bổ sung đến cho Sư Đoàn 3 tân lập:_ hết 99% là thương bệnh binh, lao công đào binh mãn hạn tái ngũ, thanh niên trốn lính bị cưỡng bách thi hành nghĩa vụ quân dịch từ khắp bốn vùng chiến thuật đổ dồn về. Cho nên vào những năm 1971 và 1972, nhìn chung Sư Đoàn 3 BB là một Sư Đoàn gần như ô hợp và bết bát nhất của QLVNCH dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Vũ Văn Giai! Vậy mà Sư Đoàn nầy lại được bố trí trấn thủ ngay tại địa đầu Giới Tuyến Bến Hải_ vùng lửa đạn không ngớt sôi động từng giây từng phút, vùng tột cùng hiểm nguy mà các chiến binh gan dạ nhất khi nghe nói đến cũng không khỏi có phần chột dạ ! Vào thời điểm đó đã có những đồn đoán, những nghi ngại : Đây là một Sư Đoàn non yếu được dàn dựng với một khung sườn rã rời, tạm bợ, lõng lẽo dễ dàng bị xóa sổ ngay trong giây phút đầu tiên đụng trận, sẽ là một ‘Đơn vị thí mạng' để giúp cho Bắc Quân nhanh chóng tiến đến miền đất hứa_Bờ Bắc Sông Mỹ Chánh, cho một cuộc đổi chác giữa Hoa Kỳ và Cọng Sãn Bắc Việt: Phía Hoa Kỳ sẽ được giao trả tù binh, phía CS Bắc Việt sẽ có được phần đất từ Bến Hải đến bờ bắc Sông Mỹ Chánh. Đây tuy chỉ còn là một đồn đoán vì chưa có một bạch hóa nào từ hai phía Mỹ và Bắc Việt,nhưng nếu đó không là sự thật thì khó bề lý giải sự ngu dốt cực kỳ vô lý của Cố Vấn Hoa Kỳ lẫn Tổng tư lệnh VNCH và Tư Lệnh Quân Đoàn I _BB vào thời điểm đó, khi những giới chức nầy đã bố tri một lực lượng tác chiến còn quá non yếu như Sư Đoàn 3BB tân lập trấn nhậm, đứng mũi chịu sào tại Hỏa Tuyến Địa Đầu ! Đầu mùa xuân 1972 , các Trung Đoàn 2, 56,57- Hành Quân trấn đóng tại các Căn cứ Caroll (thuộc Tân lâm, Khe Gió ngăn chận tuyến đường xâm nhập Bắc Quân qua biên giới Việt lào vào Đông Hà ,Quảng Trị), Căn cứ C1,C2 (Cồn Thiên 1 và 2 trấn đóng phòng thủ dọc theo phía nam sông Bến Hải) đã phát hiện ra các hoạt động đánh mìn mở rộng đường mòn HCM của Cộng Quân Bắc Việt ; sự di chuyển Bắc quân qua biên giới bị hàng rào điện tử Mac Namara báo động; cùng các cuộc chạm súng lẻ tẻ của các Đại Đội trực thuộc các Trung Đoàn với Cộng quân quanh các căn cứ hỏa lực nầy ngày càng dày hơn. Nhận được các báo cáo nầy từ các Trung Đoàn, Tướng Vũ Văn Giai đã liên tục sát cánh cùng với các Trung Đoàn Trưởng lên máy bay thị sát các mặt trận. Sau đó Ông đã nhiều lần đi cùng Cố vấn Mỹ của Sư Đoàn đến tận Trung Đoàn để nghe các Trung Đoàn Trưởng thuyết trình báo cáo tình hình chiến sự có tính khẩn trương tại khu vực trách nhiệm, hầu mong có một phối trí lực lượng quân sự cần thiết giữa Hoa Kỳ và Sư Đoàn, Nhưng,hầu hết các buổi thuyết trình đều bị Cố Vấn Mỹ nghe với thái độ hững hờ, hoặc tỏ ý nghi ngờ, bác bỏ_ nại cớ Bắc quân không bao giờ dám vi phạm hiệp định đình chiến Genève vượt qua Vĩ Tuyến 17 . Thêm một điều khá lạ lùng là với tư cách Tư Lệnh Quân Khu I, người ta chưa bao giờ thấy Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm ló mặt ra vào những lúc còn bình thường tại bất cứ một đơn vị hành quân trú đóng nào ở vùng Giới Tuyến thì còn mong chi đến một sự yểm trợ của Quân Đoàn đúng mực và cấp thiết trong lúc dầu sôi lửa bỏng nhất! Và rồi việc gì phải đến đã đến. Mùa hè 1972 Bắc Quân với bốn Sư Đoàn Bộ được tháp tùng với các Trung đoàn pháo và chiến xa từ Đường 9 Nam Lào tấn công căn cứ hỏa lực Caroll. Cùng thời, Bắc Quânđã thực sự vi phạm Hiệp Định Genève vượt giới tuyến Bến Hải tấn công căn cứ C1 và C2. Đúng ngay trước đêm của thời điểm Bắc quân mở màn ồ ạt tấn công các căn cứ trấn thủ trọng yếu nầy của Đông Hà, Quảng Trị. Không biết có không một bàn tay phù thủy nào đó đã sắp xếp,sai sử để có một Lệnh Hành Quân “ khẩn”, hoán chuyển quân có tính bất thường giữa các Trung Đoàn Hành Quân:_Trung Đoàn 2 thường xuyên đóng tai Caroll có lệnh phải di chuyển đến căn cứ C1 ,đang trênđường đến C1 thì Bộ Chỉ huy Trung Đoàn nhận được tin báo Bắc quân đã đánh chiếm C1. Trung Đoàn 56 mới được vừa bàn giao bởi Trung Đoàn 2 chưa nóng chỗ,chưa kịp làm quen với những vị trí đặt hỏa pháo đây đó,còn lạ lẫm với các công sự phòng thủ bố trí trên một vòng đai rộng..thì bị Cộng Quân tấn công tới tấp với đủ các loại súng cở lớn nòng, bắn trực xạ vào các hầm trú.,các công sự phòng thủ, đến đổi Trung Đoàn không kịp trở tay chống cự.Cuối cùng Trung Đoàn Trưởng Phạm Văn Đính_một Chỉ huy có tiếng thao lược mới được thuyên chuyển từ Sư Đoàn 1 về, buộc lòng ra lệnh đầu hàng ! Trung Đoàn 57 ở C2 bị pháo kích nặng nề ,sau đó có lệnh rút lui .Ở giây phút hiểm nghèo nầy,chúng ta phải ghi nhận một điểm son không thểchối cải về tài chỉ huy của Tướng Vũ văn Giai.Bị một cú đánh phủ đầu bất ngờnhư trời giáng như thế,Tướng Giai đã bình tỉnh phối trí lại Sư Đoàn,chiến đấu chống trả trực diện, phòng thủ giữ vững Quảng Trị gần một tháng trường so với một lực lượng địch có quân số gấp bốn lần được trang bị vũ khí nhiều hơn,tối tân hơn như hỏa tiễn tầm nhiệt,hỏa tiễn 122 ly,súng đại bác 130 ly.Số lượng chiến xa địch cấp Trung đoàn,trong khi Sư Đoàn 3 chỉ có số lượng chiến xa cấp Tiểu Đoàn ! Trong một tháng chống trả Bắc Quân nầy của Sư Đoàn 3BB đã không có lấy một phi vụ nào từ phía Không Quân Mỹ yểm trợ,cũng như không có một phối hợp hành quân tác chiến nào từ phía Quân đội Mỹ !Một Sư Đoàn được coi là ô hợp và non trẻ như Sư Đoàn 3 mà chống trả,cầm cự được với một lực lượng địch có quân số lớn hơn nhiều lần trong một tháng trường thì phải ghi nhận đó là một kỳ tích trong quân sử không những của VN mà của cả thế giới nữa.Cuối cùng, theo tin từcác sĩ quan tham mưu trong Sư Đoàn, tướng Giai đã bị Cố Vấn Hoa Kỳ ép lên phi cơ đưa về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn,bị cách chức và chịu kỹ luật ! Khi rắn đã khôngđầu thì mạnh quan mạnh quân tan hàng chạy về Huế .Một cuộc triệt thoái hổn loạn như thế đương nhiên không thể tránh khỏi bị địch phục kích,bị sơn pháo của địch bắn chụp tàn sát.Người bị thương oằn oại không còn bò lết được kêu cứu, rên la chờ chết; xác chết của dân: già, trẻ ,lớn bé, đàn ông,đàn bà đủ loại,xác của lính: bộ binh,TQLC,Địa Phương Quân,Nghĩa Quân các thứ,xác xe cộ tan tác cháy xém sắp lớp từ Cầu Dài qua Diên sanh với máu loang thẩm đất,với các chi thểchân tay,đầu ,óc não bầy nhầy vung vít đây đó dính quyện với bụi đỏ tanh tưởi kinh khiếp không thể tả.Đó_ đúng là Đoạn Đường Kinh Hoàng như ai đó đã gọi tên một cách thật chính xác! .Không biết do tin từ đâu, khi ai vượt được qua bờ nam sông Mỹ Chánh thì đều tin tưởng mình đã thoát chết ? Về sau,sự phản công tái chiếm lại Quảng Trị có sự phối hợp với Không Lực Hoa kỳ thì có tin đồn : Hoa Kỳ đã bị phía Bắc Việt bội tín không trả tù binh Mỹ,nên Mỹ phối trí với VNCH phản công đánh chiếm lại Cổ Thành và thành phố Quảng Trị .Cũng có tin đồn Bắc Việt viện lý do phía Hoa Kỳ đã không sớm khống chế được Sư Đoàn 3 BB ngay từ đầu như đã thỏa thuận, sự cầm cự của Sư Đoàn 3 BB đã kéo dài cả tháng trái với sự cam kết giữa đôi bên ,nên Bắc Việt đã không giao trả tù binh Mỹ ! Nếu đó là một sự thật thì đúng là một oan khuất cho Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai_ Một chỉ huy đáng kính của Sư Đoàn và là một uất nghẹn cho toàn thể Sĩ Quan và Binh Sĩ Sư Đoàn 3 Bộ binh trước nhẫn tâm 'thí mạng đồng minh' vì lợi ích chính trị riêng tư của chính phủ Mỹ trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Cũng như,lại thêm một lần nữa_ vào tháng 3 năm 1975 theo như lời kể trong hồi ký Sĩ Quan Tùy Viên của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng_ Tư Lệnh Quân Khu 1, Sư Đoàn 3 lại thêm một lần nữa, bị biến thành một ‘ Đơn Vị thí thân’ trong mục đích cản bước địch, một Đơn Vị bị bỏ rơi trong kế hoạch di tản dù là Sư Đoàn nầy sau khi tái phối trí tại Hòa Khánh Quảng Nam đã sớm trở thành một Đợn vị chiến đấu vững mạnh ,lập nhiều chiến công hiển hách ở các trận chiến Hiệp Đức, Lộc Hiệp, Thượng Đức, Kỳ Long Tiên Phước, Quế Sơn...).Sư Đoàn 3 phải nằm lại chịu thí thân để làm rào cản giúp cho các lực lượng cơ động thiện chiến như Dù và Thủy quân lục chiến có đủ thì giờ bình an rút về phòng vệ Thủ Đô Sài Gòn trong cái gọi là Chiến Lược Co Cụm đưa đến mất nước của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thời bấy giờ! Đúng vào ngày 29 tháng 3 ngày cuối cùng thành phố Đà Nẵng bị thất thủ vào tay Bắc Quân, trên 2/3 quân số Sư Đoàn 3 Bộ binh đã thoát hiểm ra biển vào Nam tập hợp và tái lập Sư Đoàn tại Vạn Kiếp cũng lại là một phép lạ không thể nghĩ bàn. Hôm qua ngày 13-10-2012, được tin Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai đã vĩnh viễn ra đi, toàn thể Sĩ Quan và Binh sĩ Sư Đoàn 3 Bộ binh, một Đơn Vị sinh sau đẻ muộn chịu nhiều vô lý thiệt thòi khuất tất, chắc không khỏi ngậm ngùi thương tiếc một vị Tư Lệnh đáng kính mẫn cán, nghiêm cẩn, trong sạch, thao lược _và, càng rất đáng được khâm phục hơn qua sự im ẩn, chịu oan khuất của Ông bao nhiêu năm qua chỉ vì đại cuộc. Mong rằng đám mù sương còn bao phủ quanh Ông cũng như những dư luận, những điều tiếng không xứng hợp, bất công đối với Sư Đoàn 3 BB sẽ sớm tan biến và quân sử VNCH sẽ điều chỉnh đúng thực về năng lực, tư cách và công trạng của Cố Chuẩn Tướng Vũ văn Giai cũng như của Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Hà Nguyên Lãng CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI, NGƯỜI HÙNG QUẢNG TRỊ NĂM 1972 ĐÃ QUA ĐỜI Tin Garden Grove - Cựu Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, người được mệnh danh là người hùng Quảng Trị năm 1972, đã qua đời vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 13 tháng 10 vừa qua tại thành phố Garden Grove, tiểu bang California, hưởng thọ 78 tuổi. Sinh năm 1934 tại làng Duy Tắc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Cha mất sớm, mẹ làm ruộng, tần tảo nuôi con. Ông là con út trong gia dình 4 người con, 1 gái và 3 trai. 2 người anh của ông bị Việt Minh bắt, gia đình bị tịch thu hết ruộng đất, ông ghi danh thi vào Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt và sau đó theo học nhảy dù, thuyên chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở Hồ Tây, Hà Nội, giữ chức trung đội trưởng. Ông di cư vào Nam năm 1954, sau đó được giữ chức đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Sau nhiều lần thăng cấp, sau trận Mậu Thân năm 1968 ông trở thành Đại tá và được đưa giữ chức chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 bộ binh tại Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 1971 ở Hạ Lào, ông là Phó tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh và được vinh thăng lên Chuẩn tướng. Do nhu cầu chiến trường, bộ Tổng tham mưu lúc đó lập ra Sư đoàn 3 Bộ binh và chỉ định ông là Tư lệnh. Trong cuộc tấn công vào Mùa hè đỏ lửa, Cộng sản Bắc Việt mở chiến dịch Trị Thiên ở Quân khu I. Sư đoàn 3 Bộ binh đóng ở tuyến đầu tại Quân khu 1. Tháng 3 năm 1972, Cộng sản Việt Nam mở cuộc tấn công vào Quảng Trị, sư đoàn 3 Bộ binh đã anh dũng đánh bật quân Cộng sản khiến cho hơn 12,000 bộ đội tử thương, hơn 10,000 tên bị thương trong khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ tổn thất 2500 binh sĩ và 4000 người bị thương. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị kẹt lại và bị giam cùng với các tướng lãnh khác mãi cho đến cuối năm 1987 ông mới được ra tù và được qua Mỹ theo chương trình HO 16 năm 1993. Ông là một tướng lãnh tận trung với Tổ quốc, can đảm, tận tụy, sống không thẹn với lương tâm, với đồng đội và với dân tộc. Tang lễ của ông sẽ được tổ chức tại nhà quàn Peek Family tại thành phố Westminster, ngày mai thứ năm sẽ cho thăm viếng từ 3 giờ chiều đến 7 giờ rưỡi chiều, sau đó linh cữu sẽ được hỏa táng vào lúc 11 giờ rưỡi sáng thứ sáu ngày 19 tháng 10 cũng tại nghĩa trang này. Đài truyền hình SB-TN xin trân trọng thông báo tin buồn một vị tướng lãnh tài ba của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã ra đi, và xin chân thành phân ưu cùng tang quyến cựu chuẩn tướng Vũ Văn Giai và binh chủng Nhảy Dù. CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI TT Thiệu gắn đôi Sao chiến thắng cho : Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai tại mặt trận Vùng 1 năm 1971. Kính tặng Tướng quân Vũ Văn Giai , Đại tá Chung, Trung tá Khưu Đức Hùng , các Sỉ quan và, Chiến binh Sư đoàn 3 bộ binh ,, Đại tá Ngô Văn Định Trung tá Đỗ Đình Vượng, Trung tá Lê Bá Bình . Cố Đại tá Nguyễn Năng Bảo, Cố Trung tá Nguyễn Xuân Phúc, Cố Trung tá Nguyễn Hữu Tùng, , Cố Trung tá Ngô Minh Hồng, Các sĩ quan và chiến binh Lữ đoàn 147, 258 TQLC , Các Liên đoàn Biệt động quân , Lữ đoàn 1 Kỵ binh, các tiểu đoàn pháo binh , cùng Đia phương quân , nghĩa quân Tỉnh Quảng Trị trong những ngày tháng Phản kích và Tử thủ tại Mặt trận Quảng Trị, trong tháng tư bi hùng năm 1972 Lực lượng tham chiến. Quân lực Việt Nam Cộng hòa Tư Lệnh chiến trường :Chuẩn tướng Vũ Văn Giai Tư lệnh phó : Đại tá Chung Phụ tá Hành Quân Trung tá : Khưu Đức Hùng Sư đoàn 3 bộ binh 3 trung đoàn 1,3, 56 3 Liên đoàn Biệt Động Quân . 2 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến 147 và 258 Lữ đoàn 1 Kỵ binh và 2 chi đoàn thiết giáp: thiết đoàn 7,18 kỵ binh, trung đoàn 51 bộ binh Một số tiểu đoàn pháo binh và công binh Quân đội CS Bắc Việt : Tư lệnh tối cao : Đại tướng Văn tiến Dũng TTM QĐ CS Bắc Việt. Tư lệnh chiến trường : Trung tướng (2 sao) Lê trọng Tấn Các sư đoàn bộ binh: 304, 308, 320, 324 và 325, sau được tăng cường thêm 312 tại Lào. 2 trung đoàn tăng, thiết giáp: 202 và 203 với 400 xe tăng T-34, T-54, PT-76 5 tiểu đoàn đặc công Bốn trung đoàn pháo binh cơ giới với hơn 300 pháo các loại Hai sư đoàn phòng không: sư 367 và 376 với 3 trung đoàn pháo phòng không 282, 284, 224 và hai trung đoàn tên lửa (Hỏa tiễn)238, 237 với tên lửa đất đối không SAM 2 Các lực lượng tại chỗ của B5, B4 và Đoàn 559 . Tổng cộng hơn 80,000 quân. Kế hoạch Phản kích và Tử thủ của Tướng Vũ Văn Giai QLVNCH : Tây Tiến 1 : Xé xác Chiến xa T.54 -Quyết tử Tây Bắc Quảng Trị Tây Tiến 2: Xa chiến dọc Sông Đông Hà -Kịch Chiến Ái tử Kế hoạch của quân CS . :Bão Táp 1 : " Ra quân như Nguyễn Huệ , khí thế hơn Mậu Thân " Bão Táp 2 : Bổ sung quân số thương vong , tiếp tế đạn dượt : "Tổng tấn công" VNCH: 2,500 chết, 4.,000 bị thương CS : 12.000 chết, hơn 10,.000 bị thương KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ Tinh Quảng Trị 4. 1972 Tỉnh Quảng Trị Chính trị và hành chính Tư Lệnh chiến trường :Chuẩn tương Vũ Văn Giai Tư lệnh phó : Đại tá Chung Phụ tá Hành Quân Trung tá : Khưu Đức Hùng Địa lý Thị xã Quảng Trị Miền Bắc Trung Bộ Diện tích 4.745,7 km² Các thị xã / Quận , 2 thị xã và 7 Quận ,1 Đảo Số dân • Mật độ 200,.000 người 41 người/km² Dân tộc Việt, Bru - Vân Kiều, Hoa, Tà-ôi Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây giáp nước Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thi xa Quang trị( Quan Mai Lin)nằm cách 598 km về phía nam thanh phố Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Sai Gon. Nơi đây có sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong suốt 20 năm (1954 - 1975). Thị xã Đông Hà Quận Mai Lĩnh (Thị xã Quảng Trị ) Quận Cam Lộ Đảo Cồn Cỏ Quận Gio Linh Quận Hải Lăng Quận Hướng Hóa (Khe Sanh) Quận Triệu Phong Điều kiện tự nhiên Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi, sông ở các huyện miền núi có khả năng Điều kiện tự nhiên Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi, sông ở các huyện miền núi có khả năngung lùng sông lớn như Cam Lộ, Thạch hãn, Bến Hải... Tính phân bậc của địa hình từ tây sang đông thể hiện khá rõ ràng. mếu ở phía tây của đường phân thủy địa hình nghiêng khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi trung bình xuống đồng bằng. Các bạc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới sông suối dỳ đặc với trắc diện dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía tây thì lộ đá gốc, phía đông thì địa hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bới phù sa ở giữa lại thấp và dễ dàng bị Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền Quảng Trị ở vào vị trí: Cực bắc là 17010' vĩ độ bắc, thuộc địa phận thôn Mạch Nước, xã Vĩnh Thái, Thị trấn Vĩnh Linh. Cực nam là 16018' vĩ độ bắc thuộc bản A Ngo, xã A Ngo, huyện Đakrông. ngập úng vào mùa mưa lũ. Cực đông là 1070 23'58 kinh độ đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê, Hải Lăng. Cực tây là 106028'55 kinh độ đông, thuộc địa phận biên gioi Cù Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa. Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển đông. CáchHà Nội 582 km(350 Miles) về phía Bắc, thành phố Sai gon 1.121 km (675 miles)về phía Nam.. Phía bắc Quảng Trị giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), phía nam giáp A Lươí, quận Phong điền (Thừa Thiên - Huế), phía tây giáp tỉnh Savanakhet ( Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206 km, được phân chia bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía đông giáp biển đông với chiều dài bờ biển 75 km và được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý 1709'36 vĩ bắc và 107020' kinh đông, đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25 km, diện tích khoảng 4 km2. Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km).. Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác biển Đông, cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thế giới qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt. Khí hậu đặc trưng của Quảng Trị Gió tây nam khô nóng thường gọi là "gió Lào", hiện tượng thời tiết đặc biệt khô nóng thổi từ Lào qua, thường những ngày có gió Lào là ngày có nhiệt độ cao nhất trên 35 độ C, độ ẩm tương đối thấp dưới 50%. Mùa gió khô nóng vào tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày khô nóng. Bão: Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó tháng 9-10 nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ bộ vào khu vực , bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp. ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to dài ngày (2-5 ngày) gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp nhiệt đới ngây ra chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10,. Lượng mưa do một cơn bão gây ra khoảng 300-400 mm, có khi 1000mm. mệnh danh là "hoàng hậu của các bãi tắm" Đông Dương. Mỹ Thủy bãi biển thơ mộng là một trong những bãi tắm đẹp ở miền Trung.  Dân chúng Quảng Trị, di tản về Thừa Thiên - Huế tháng 4. 1972  Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 258 TQLC trong tháng 4 Bi Hùng tại Quảng Trị Trung tá Ngô văn Định LĐT, Trung tá Đỗ Đình Vượng LĐ phó và ban tham mưu.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:49:46 GMT 9
Cuộc Di Tản Của Không Quân VNCH Ngày Chim Vỡ Tổ: Tập 'Quân sử Không Quân' trang 199 ghi lại: 'Về Không quân VNCH ngoài một số nhỏ quân nhân và gia đình được di tản bằng phi cơ C130, C141 của KQHK từ ngày 20/4, đa số còn lại chỉ di tản sau ngày 28/4/1975, khi Bộ Tư lệnh KQ không còn hoạt động theo đúng chức năng của một Bộ Tư lệnh nữa.. Số lượng phi cơ của KQVN bay thoát được sang Utapao, Thái Lan, do các tác giả đưa ra, không thống nhất, theo Robert Miskesh trong 'Flying Dragons: the South Vietnamese Air Force thì tổng cộng vào khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5, 27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC 119, 5 C7 và 45 UH1., trong khi đó Wayne Muntza, trong The A-1 Skyraider in Viet Nam: The Spad's Last War, và Ralph Wetterhahn trong 'Escape to Itupao thì con số máy bay được cho là 165 chiếc. thêm vào đo là các U-17 và O-1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN.. Cũng vào ngày cuối cùng, một số trực thăng đã bay ra đáp xuống các chiến hạm của HQHK, con số này được ước lượng là khoảng 100 chiếc, đa số là UH1 và CH47..Cũng có những chiếc tuy bay được ra biển nhưng do trục trặc kỹ thuật, hoặc hết nhiên liệu đã rớt xuống biển..Con số này được ước lượng là khoảng 18 chiếc..' 37 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các tài liệu quân sự được giải mật và những bài hồi ký, bút ký của nhiều tác giả trong cuộc đã giúp 'vẽ lại' toàn cảnh (tuy có thể chưa hoàn toàn chính xác) về cuộc di tản..hay đúng hơn là 'tự tan hàng' của KQVNCH. Cuộc di tản chiến thuật, rút bỏ Quân Đoàn 2, ngày 6 tháng 3 năm 1975 đã bỏ lại tại Pleiku 64 phi cơ các loại. Ngày Quân Đoàn 1 tan hàng tại Đà Nẵng (30 tháng 3, 1975), 180 phi cơ đã bị bỏ lại.. trong số này có 33 phi cơ vận tải C-7 Caribou đang bị đình động còn bọc kin trong bao tồn trữ.. Trong những tháng cuối củng của cuộc chiến, khả năng chiến đãu của KQ VNCH càng ngày càng bị giơi hạn do không còn một Hệ thống chỉ huy và kiểm soát hữu hiệu. KQ VNCH không có những phi cơ trang bị hệ thống chỉ huy, dẫn đạo không trợ bay trên vùng cần yểm trợ hành quân (theo phương pháp của KQ HK, dùng các C-130 làm trạm chỉ huy trên vùng). Trong khi đó sự kiện bị mất các Đài Kiểm báo và Không trợ như Trung Tâm CRC (Combat Report Center) Panama Đà Nẵng, các Trạm CRP (Combat Report Point) Peathingy PleiKu, Pyramid Ban Mê Thuột..đã khiến Hệ thống Kiểm Báo Chiến Thuật trở thành tê liệt, vô hiệu.. Tuy Trung Tâm CRC Tân Sơn Nhất vẫn còn hoạt động nhưng nhiệm vụ chinh lại..không phải là để điều hành cac phi vụ yểm trợ chiến trường, hoặc hương dẫn oanh tạc các mục tiêu dươi đất.. Các phi vụ oanh tạc tùy thuộc vào các phi cơ Quan sát FAC (Forward Air Controller= Điều không tiền tuyến) và tùy phi công có mặt trên vùng..nhận định mục tiêu bằng mắt thường.. Vào thời điểm của Trận Xuân Lộc: KQVNCH còn 1492 phi cơ các loại, trong đó có 976 chiếc hoạt động được, 135 chiếc hư hỏng không bay được và 381 chiếc kể như phế thải..Lực lượng phi cơ chiến đấu gồm 169 chiếc A-37 (trong đó 92 chiếc khả dụng) và 109 F-5s (93 chiếc khả dụng). Những phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH trên không phận Sài Gòn: Trong những ngày cuối cùng của VNCH, KQVN vẫn còn hoạt động vơi một số phi vụ yểm trợ bộ binh và chống pháo kích. Đ/úy Phi công Trần văn Phúc PĐ 518 ghi nhận một số phi xuất trong những ngày 28 và 29 tháng 4 như: PĐ 518 với Phi vụ Phi Long 51 do một phi tuần gồm 2 Skyraiders..(một do Đ/u Phúc và 1 do Th/tá Trương Phùng) bay vào sáng 29/4. Phi cơ của Th/tá Phùng bị phòng không BV bắn hạ. Ông đáp xuống ruộng gần cầu Bình Điền, bị bắt và sau đó bị CQ hành quyết vào ngày 30 tháng 4. PĐ 514 với một phi tuần 2 Skyraiders cất cánh từ Cần Thơ để bay trên không phận Sài gòn vào sáng 29..do các Th/tá Hồ ngọc Ân và Đ/u Nguyễn Tiến Thụy điều khiển. Những phi vụ Tinh Long của các AC-119 như Tinh Long 06, Tinh Long 07.. Tinh Long 07 (sáng 29) do Tr/u Trang văn Thành điều khiển đã bị SA-7 của CQ bắn hạ, phi cơ gẫy làm đôi và rơi ngày tại vòng đai phi trường.. Phi hành đoàn gồm 9 người, 8 hy sinh ngoại trừ nhân viên nhảy dù thoát được. Theo Đ/u Phúc 'ngoài Tinh Long 07, còn có thể cò thêm 2 AC 119 khác bị bắn hạ (?) (một rơi tại đường Ngô Quyền, và một rơi tại Tân Tạo..). Sáng 30 tháng 4, một phi xuất A-37 (PĐ 526) từ Cần Thơ, phối hợp với O-1 (PĐ112) từ Đồng Tâm..bay yểm trợ khu vực Hoàng Hoa Thám ngay trước giờ DV Minh tuyên bố đầu hàng..(A-37 do Tr/u Nguyễn Mạnh Dũng điều khiển); (O-1 do Đ/u Mai Tri Dung). Đây có thể là phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH.. (Xin xem bài: Những Phi vụ hành quân sau cùng của KQ VNCH, của Trần Lý) Những giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư lệnh KQVNCH Chiều 28 tháng 4, CSBV đã dùng 4 A-37 (lấy được, từ Phan Rang) oanh kich Phi trường TSN, gây tổn hại cho 3 chiếc C-119 và nhiều C-47. Tối 28 tháng 4: một sự kiện 'kỳ lạ' đầy bí ẩn đã xẩy ra tại TSN: Tác giả Thiên Lôi Ngô Đưc Cửu trong 'Chuyện 30 năm trước' (website bgkq.net/hoiky) ghi lại như sau: ..'8 giờ tối 28 tháng 4 năm 1975..tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải, nơi tạm trú của 3 Phi đoàn 524, 534 và 548 di tản từ các căn cứ về..Bước xuống xe, tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A-37 trang bị đầy bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước, cách ụ 50 feet. Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ khỏi ụ ? Anh ta trả lời:theo lệnh Trung tá kỹ thuật và Bộ CH Hành quân..Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi TT Hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư lệnh KQ hay..Bộ TTM..gì đó ? Tôi hỏi:Anh có biêt là hồi chiều phi đạo 07 vừa bị dội bom không ?..Tôi liên lạc với Đ/tá Ước, nhưng không được..Trở lại bãi đậu,tôi yêu cầu Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại ụ, nhưng không được.. Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục KL VNCH, nhất là KĐ 92 có các PĐ 524, 534, 548 cho đến giờ phút này: 22 giờ 18 tối 28 tháng 4 tât cả phi công đều có mặt ứng chiến, không thiếu một ai. Suốt đêm tất cả anh em 3 phi đoàn chờ đợi, điều động cất cánh..nhưng tuyệt nhiên không một tiếng điện thoại reo.. Nửa đêm VC bắt đầu..pháo kích.. và hơn 50 chục A-37..bị phá hủy.. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư? 6 giờ 15 sáng 29, tât cả phi công lên xe chạy về Bộ Chỉ huy KĐ 33..Đ/tá Thảo chạy vào rồi chạy trở ra..Đến nơi các phòng vắng lặng, không còn ai cả..Trở lại sân cờ KĐ 33, Đ/tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tự tìm lấy phương tiện di tản.. Mọi người xuống xe, nhưng chạy về đâu bây giờ ? Tan hàng, nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của QL VNCH, giờ đang bị bó tay. Lệnh ai sắp hàng ngang trên 50 chiếc A-37, cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt ? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai đang bủa quanh phi trường chứ ? Chúng tôi đâu có..rã ngũ ?..' Sự kiện phi cơ bị 'tự hủy'(?) này cũng được ghi nhận trong 'Can trường trong Chiến bại' của Tướng Hải Quân Hồ văn Kỳ Thoại, trang 306-307' như sau: 'Tới đêm 28 tháng 4, tại căn cứ Duyên đoàn ở Vũng Tàu, một sĩ quan KQ cấp tá xin vào gặp tôi và cho biết có một số trực thăng đang đậu tại Vũng Tàu.. có Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn trưởng SĐ 3 KQ muốn đến gặp tôi, cần trình bầy một sự kiện quan trọng.. Tương Tinh vào căn cứ duyên đoàn gặp tôi và các tướng lãnh khác (Nguyễn duy Hinh, Trần văn Nhựt..).. kể chuyện xẩy ra, rất bi thảm Ông không biết lịnh từ đâu..bỗng nhiên một số phi cơ phát nổ, sau đó được biết có lệnh của Saigon..cho phá hủy các phi cơ của KQ ? Tướng Tính phân vân..không muốn về trình diện Bộ TLKQ..khi ông chưa biết ai ra lệnh hủy phi cơ thuộc SĐ của ông ? Chúng tôi thuyết phục ông Tính liên lạc trực tiếp với Tướng Minh TL KQ.. Trong đêm 28, rạng sáng 29 tháng 4 CQ bắt đầu pháo kích vào Phi trường TSN phá hủy nhiều phi cơ.. Khoảng 8 giờ sáng, Tướng Phan Phụng Tiên, Sư đoàn trưởng SĐ5 KQ, đến gặp Tướng Minh, và sau đó bỏ đi. 10 giờ 30 phút sáng 29 tháng 4, sau khi họp riêng vơi Tướng Minh Tư lệnh KQVN, Tướng Nguyễn Cao Kỳ (không có một chức vụ chính thức nào trong Chính Phủ cũng như trong Quân lực VNCH), bay trực thăng riêng về Bộ TTM..Thấy không còn ai.. Tướng Kỳ gặp Tướng Ngô Quang Trưởng..ngồi không nên rủ Ông Trưởng cùng lên trực thăng, theo đoàn tùy tùng bay ra USS Midway đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Khoảng 11 giờ, Trung tướng Nguyễn văn Mạnh Cựu TMT Liên quân cùng với Trung tướng Dư Quốc Đống vào gặp Tướng Minh.. Sau khi chờ không thấy HK liên lạc như đã dự trù, Tướng Minh cùng các Tướng Tá Bộ binh và KQ tùy tùng đã di chuyển sang DAO để chờ di tản.. Kể từ 1 giờ trưa: Trung Tâm Hành quân KQ kể như bỏ trống. Các Phi đoàn trưởng..ra lệnh tự tan tan hàng..phi công bay đi đâu hoặc chạy đâu, tự ý quyết định.. Riêng SĐ 4 KQ tại Trà Nóc Cần Thơ, còn hoạt động (cho đến sáng 30/4 một số phi vụ vẫn từ Cần Thơ bay lên yểm trợ chiến trường quanh Sài Gòn) và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Sư đoàn trưởng có thể được xem là vị Tư lệnh sau cùng của KQ VNCH (?) Trong bài bút ký 'Giây phút nát lòng' (Lý Tưởng Tháng 4/2002) Tác giả Không Quân Liệt Lão, Chỉ huy trưởng Phòng vệ BTLKQ đã kể lại những giây phút tan hàng tại Tân Sơn Nhất với những đoạn tạm trích như sau: ..' tôi lên trình diện Tư lệnh bộ, toan phúc trình tình hình phòng thủ, nhưng chẳng ai bận tâm. Người người nhìn nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm ai cũng muốn buông rơi tât cả..Ai cũng thần sắc không còn, dũng khí tiêu tan như 'đại bàng xệ cánh'..'Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét tình hình chung, lấy quyết định tối hậu 'Chiến' hay 'lui' Chiến thì chiến ra sao ? Lùi thì lùi thế nào ? Có tuần tự, trước sau, không bỏ một ai hay hỗn loạn..mạnh ai nấy chuồn ?.. Tôi chờ lệnh, nhưng không có lệnh ? Bài viết có thêm những chi tiết di tản của một số Tướng KQ và BB như: ..' Tôi đưa tay chào nghiêm túc theo quân cách, Cửu Long (danh hiệu của Tường Minh, Tư lệnh KQ), chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nhìn tôi và đột nhiên dứt khoát: Toa ở lại, đi sau với Lành (Tương Võ Xuân Lành) nghe.. ..' Tôi mỉm cười, quay bước vào phòng tình hình, lúc này chỉ còn Ông Linh, ông Lành, ông Lượng đã đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng 10 giờ gì đó, Ông Ươc (Đ ta Vũ văn Ươc) đáp trực thăng trên sân banh, chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Lành trở ra, kéo luôn theo tôi, miệng nói: Đi mày.. Tôi nhìn Lành, quay qua hỏi Ươc: Đi dâu ? Qua Tổng Tham mưu xem tìmh hình ra sao ? Ước nói và nắm tay tôi..lôi đi..Tôi, Ước, Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trươc tiền đình Bộ TTM.Linh, Ươc chạy lên văn phòng TTM trưởng..Tôi không theo.. Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tương Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ, vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ: Trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge.. ông hảy lên, cùng đi..Tôi hỏi: Tương đâu ?- Họp trên văn phòng TTM Trưởng.. Tôi bước lại trực thăng, nhìn vào..thây Hà Xuân Vịnh (Đ tá) ngồi trên đó từ hồi nào..Tôi leo lên ngồi cạnh.. Đang miên man suy nghĩ cho mạt vận của đất nước, mạt kiếp của mình thì ông Linh từ bộ TTM chạy ra một mình đến bên trực thăng có tôi và Vịnh đang ngồi đăm chiêu, mỗi người một ý nghĩ..Linh cứ loanh quanh ở dưới chẵng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo xuống, lại gần Linh nhỏ to:' Linh, Kỳ sẽ rút ra Đệ Thât hạm đội. Hảy lên, cùng đi. Hết cách thôi..' Linh có điều gì bất ưng, nhất định không lên tàu..Tôi hỏi: Sao ? Linh nói: thiếu gì máy bay..Tôi vội báo động: Máy bay nào ?, còn duy nhất chiếc này thôi. 'Chiếc kia kìa', Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà tôi, Ươc và Linh vừa đáp hồi nẫy..'Tàu còn đó, hoa tiêu bỏ đi rồi..'Tôi nói vơi Linh vì thấy họ phóng jeep ra khỏi TTM... Linh nhất định không lên tàu..tôi đành ở lại bên anh.. Tôi còn đang phân vân bàn thảo vơi Linh những bước kế tiếp, thì ông Kỳ, từ đại sảnh bộ TTM bước ra, hướng về trực thăng, dẫn theo số đông tương lãnh bay đi cùng Ươc..để lại tôi và Linh tự quyết định lấy phận mình.. Tôi và Linh, đồng thời cả Đặng Duy Lạc (KĐ trưởng KĐ 62) không biết từ đâu chui ra, gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi về lại Bộ TL KQ.. Xe rồ máy phóng đi trực chỉ cổng Phi Long.. Tinh cầu trên vai, Linh cho lệnh mở cửa..Quân ta phớt tỉnh..không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên như khúc gỗ..Tình hình thực gây cấn. Thấy ông Linh hết 'linh', tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh..mở cỗng. Anh liu riu vâng lời.. Chúng tôi vào Bộ Tư lệnh KQ gặp ông Lành.. Niềm tự hào của KQ đang ở chỗ này: Tương Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh, kiên trì thủ đài Chỉ huy Hành quân Chiến cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc vơi SĐ 4 KQ, SĐ KQ duy nhất còn hăng say chiến đấu trong khi nhiều đơn vị đã tự ngừng nghỉ. Ông Linh tóm lược tình hình bên Bộ TTM cho ông Lành rõ..ông đề nghị rút khỏi Tân Sơn Nhưt..Tướng Lành, nói vơi Linh trươc sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc: Moa chưa có lệnh.. Ông vẫn đợi lệnh.. phải chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ..nhưng chờ lệnh ai đây ?. Mọi người đã bỏ đi cả rồi, tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh..mà lệnh của ai đây ? Tôi buột miệng: Ông chờ lệnh ai ? còn ai đây nữa mà ra lệnh cho mình? Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ..(lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lê quang Lưỡng (Nhảy dù) xịch jeep đến, thấy tụi này còn đương nhìn nhau, hỏi: Tụi toa định làm gì đây ? Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói? Tôi nhìn thẳng Tương dù nói nhanh: Tụi này zulu dây. Ông có theo thì cùng đi ? Zulu ? zulu bỏ mây đứa con (ý nói quân dù) lang thang..sao đành ? Ông Lành hỏi: Toa còn mấy đứa con ? Sáu đứa chung quanh Đô thành.. Lúc này trực thăng TQLC Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào trên không phận SàiGòn.. Tôi đỡ lời ông Lành: Tân sơn Nhất không giữ được..KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đã.. Ông Lưỡng vội hỏi: Tụi toa định rút đi đâu ? Tôi nhanh nhẩu: Có thể vùng 4..có thể đi luôn.. Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đã.. Nói xong, ông Lưỡng lên xe jeep về Sư đoàn Dù.. Trong khi chờ Tương Dù trở lại, các sĩ quan cấp Không đoàn và Tham mưu Bộ Tư lệnh KQ hiện diện cùng vơi một số binh sĩ thuộc Tổng hành dinh KQ vội tập họp quanh chúng tôi tại tiền đình Bộ TL..bao quanh, nghe ngóng tình hình..Tôi nói thẳng: Dưới áp lực của pháo Cộng, Bộ TLKQ buộc phải rút khỏi đây..Ai muốn đi theo, hãy sẵn sàng..Kể từ giờ phút này, các anh không còn trách nhiệm gì với KQ nữa..Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sơm càng tốt.. Cùng trong lúc đó, Tướng Dù đã trở lại. Chúng tôi thảo luận kế rút đi. Khi xét kỹ lại trong chúng tôi..không ai là hoa tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo nâu, Duy Lạc..đều là hoa tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO.. Tôi hỏi nhỏ ông Linh: SĐ 5 KQ thì sao ?..Các hoa tiêu đã tự ý rút cả rồi..Linh thở dài trả lời..Sau phút suy tính, vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút..Tất cả lên 3 jeep trực chỉ DAO. Tới cổng DAO, một dân sự Mẽo, mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn lại: Generals only.. Y hách dịch ra lệnh.. Hai Tướng KQ, một Tương Dù bước vào trong hàng rào kẽm gai.. Tôi lắc đầu quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vùng phân ranh Mỹ-Việt. Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu tại sao cái anh phi hành đã vào rồi lại bỏ ra..khi nhiều người muốn vào lại không được.. Tác giả sau đó, cùng một số sĩ quan cấp Tá quay lại BTL KQ để tìm phương cách khác tự di tản.. (Ghi chú: Danh sách một số Tướng, Tá và chức vụ tại Bộ TLKQ, trong những ngày cuối cùng của VNCH Trung Tướng Trần văn Minh, Tư lệnh KQVN Thiếu Tướng Võ Xuân Lành: Tư lệnh phó Chuẩn Tướng Võ Dinh: TM Trưởng Ch/Tướng Đặng Đình Linh:TM Phó Kỹ thuật/Tiếp vận Bác sĩ Phạm gia Lữ trong bài 'Tân sơn Nhất trong giờ hấp hối' (Lý Tưởng, tháng 4/2002) kể lại một số diễn biến tại Trung Tâm Y Khoa KQ..với nhiều tiết khá..chua chát của một đơn vị..hầu như bị..bỏ quên ? ..'chiều thứ hai 28 tháng tư..lệnh giới nghiêm 24/24 bắt đầu, cổng Phi Long đóng cửa..Phi trường TSN vừa bị A-37 oanh kích trước đó.. Khoảng nửa đêm, Th/t L. nhào vào bô bô nói: Tình hình thế này mà các cậu ngủ được thì lạ thật. Đàn anh biến đi đâu hết rồi.(hắn ám chỉ các anh lớn của KQ)..họ đang lập cầu không vận đi Côn sơn kia kìa.. SĐ5 KQ đang tổ chức di tản cho thân nhân binh sĩ thuộc SĐ đi Côn sơn.. Đêm 28, CQ pháo kich vào phi trường..gây thiệt hại cho nhiều máy bay.. ..Khoảng 7 giờ sáng. (29/4) trong lúc quanh quẩn tại BCHHKQ, tôi gặp Đ/tá H Giám đốc Trường Chỉ huy và Tham mưu Trung cấp KQ trước cửa văn phòng ông, vẻ buồn bã lộ trên nét mặt..tuy thuộc cấp chỉ huy nhưng không cổ cánh, máy bay không có trong tay, nên cũng chẳng xoay sở gì được.. Đ/tá Th. Chỉ huy trưởng Trung Tâm Kiểm báo, cũng là người rất kỷ luật, cứ nằm lỳ trong đơn vị để làm gương cho thuộc cấp nên cũng bị kẹt trong cơn hấp hối của TSN.. Khoảng 10 giờ..cùng Th/t Vũ BH thuộc trường CH/TM..chúng tôi cùng lái xe..đi thăm tình hình..Trên đường chạy ra Phi đạo, một dẫy dài xe hơi bỏ trống, nối dài từ cửa chính vào văn phòng Tư lệnh ra đến ngoài đường.. Tôi gặp chiếc falcon màu vàng nhạt của Th/t Khoa (đen), vẫy tay ra hiệu cho anh ngưng lại và hỏi: Đi đâu bây giờ ?'. Khoa trả lời vắn tắt: Theo moa...'Vừa khỏi vòng rào BTL, Kh quẹo phải rồi quẹo trái, thì ra anh ở nhà cũ của LCK, sau khi vợ con hành lý lên xe, chúng tôi nối đuôi nhau trở ra phi đạo. Trạm canh ra phi đạo không còn quân cảnh canh gác..' Bay đi Utapao: Để thoát khỏi Việt Nam, các phi cơ vận tải, phản lực..nếu đủ nhiên liệu có thể tự bay sang Singapore ( 590 miles về phia Tây-Nam) hoặc gần hơn là sang Utapao (Thái Lan) (350 miles phia Tây-Bắc). Đa số các phi cơ vận tải và phản lực đã chọn Utapao, chỉ một số rất ít C-130 bay đến Singapore.. Bài viết chinh thức về cuộc di tản của các phi cơ VNCH đến Utapao trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN:Escape to Utapao của Tác giả Ralph Westerhaan đã được đăng trên Tập san Air and Space/ Smithsonian Số Dec-Jan 1997. ..' Vài ngày trước khi xẩy ra cuộc di tản của KQVNCH ra khỏi Sài gon, Tương KQ HK Harry Aderholt, Chỉ huy trưởng Phái bộ Quân viện HK tại Thái Lan (MAC-Thai) đã gửi Đại úy KQ Roger L YoungBlood bay đến Phi trường Trat, nằm sát biên giới Thái-Miên. Bay trên một chiếc phi cơ AU-23 của Không lực Thái (AU -23 là một phi cơ cải biến từ loại Pilatus PC-6, có khả năng đáp được xuống những phi đạo thật ngắn) YoungBlood bay vòng vòng trên không phận Thái cùng một phi công phụ VNCH. Phi công phụ này giữ tần số vô tuyến và hướng dẫn các phi cơ VN bay về Utapao..' Skyraiders A-1: 11 chiếc Skyraiders đã đến được Utapao, gồm 5 A-1E, một A-1G và 5 A-1H. Trong số này 7 chiếc thuộc Phi đoàn 514, 3 chiếc thuộc PĐ 518 và một thuộc PĐ 530: Chiếc Skyraider A-1H, số hiệu 139606 thuộc PĐ 518 là chiếc Skyraider sau cùng bay khỏi VN đến Utapao, phi công đã chở cả gia đình'nêm' chật cứng trong phòng lái (danh từ lóng của KQ Mỹ gọi đây là một hell hole). Trên một chiếc A-1E, phi công (Th/tá Hồ văn Hiển PD 514) đã cất cánh, chở theo 15 người, nhét cứng trong..'blue room'.. Tác giả Phi Long 51 trong bài 'Chuyến bay định mệnh' (trên Diễn đàn Cánh thép) ghi lại: ..' Sáng 29..tôi trở lại Bộ chỉ huy Hành quân KQ sau 10 giờ và khám phá ra PĐ 518 đã cất cánh đi Cần Thơ. Tôi gặp Tr/tá NCP trong BCH và tìm phi cơ để đi..Do cơ trưởng Lợi huớng dẫn, chúng tôi tìm được một AD-5 (chiếc này có 2 chỗ ngồi lái và một phòng trống khoảng 3x4x3 feet cao ở phía sau ghế pilot). Phi cơ trang bị đầy bom đạn..Sau khi thay bình điện, phi cơ rời ụ và tuy quá tải cũng cất cánh được, không liên lạc được với đài kiểm soát..Phi cơ bay đi Cần Thơ xin đáp nhưng bị từ chối..sau đó đành bay ra An Thới (Phú Quốc), thả bớt bom xuống biển..Tại An thới phi cơ được bỏ bớt đạn đại bác, tạm bị giữ, không cho cất cánh..Đến 10 giờ sáng, sau khi có lệnh đầu hàng, phi cơ bay đi Utapao.cũng vẫn vơi 15 người trên phi cơ.. Số Skyraiders bị bỏ lại là 40 chiếc, trong đó 26 chiếc bỏ lại ở TSN. F-5s: Trong số 26 chiếc F-5s bay thoát khỏi VN (gồm 22 chiếc F-5E và 4 chiếc F-5A/B), có 2 trường hợp đặc biệt được Anthony Tambini ghi lại trong F-5 Tigers over Việt Nam: Một chiếc F-5F (loại 2 chỗ ngồi), đã chở theo 4 phi công trong 2 phòng lái, bằng cách tháo bỏ các dù, hạ ghế xuống thấp hết mức, một phi công ngồi và phi công thứ nhì đứng khom lưng đối mặt, lưng dựa vào thingypit.. Phi cơ cất cánh khi phi trường đang bị pháo kích: lúc đầu phi cơ định bay lên với hệ thống thắng để mở. Cảm nhận được tình hình không thể bay lên, phi công đã phải mở dù 'drag chute) để làm chậm vận tốc..sau đó đóng hệ thống thắng để phi cơ bay lên được và bay đi Thái Lan. Tuy nhiên, có lẽ hệ thống thắng đã bị hư hại khi bị pháo kích nên không còn sử dụng được..Phi cơ đáp xuống một phi dạo thô sơ và chật hẹp.. không ngừng được nên đâm vào cây và phát nổ, gây tử thương cho cả 4 phi công..(Các phi công tử nạn gồm các Th/tá Mai Tiến Đạt, Nguyễn Đức Toàn, Ngô văn Trung và Đ/u Lê Thiện Hữu..) Một F-5A khác, cất cánh với 3 phi công, cất cánh ngược hướng bay, bay qua đầu các phi cơ đang đậu trên phi đạo chờ đến lượt bay lên..Phi cơ đến được Utapao.. Số F-5 bị bỏ lại gồm 87 chiếc, trong đó có 27 F-5E A-37s: Gần 50 chiếc A-37 đã bị hủy diệt trong đợt pháo kich đêm 28/4 (xem phần trên) và Đ/tá Thảo (KĐ trưởng KĐ 33) đã cho lệnh tan hàng vào khoảng 8 giờ sáng 29.. Th/tá Ngô đức Cửu, đón được một L-19 và về được Trà Nóc (Cần Thơ)..Tại đây ông trình bày tình hình của Bộ Tư lệnh KQ Sàigòn (bỏ ngỏ..) và hướng dẫn các PĐ A-37 còn lại bay đi Utapao: ..' từ Bình Thủy đi Utapao, hướng 300, khoảng 45 phút là đến..Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại..và ghi các chi tiết tần số tower..' 10 giờ sáng 30/4 khi có lệnh 'đâu hàng' Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng..Bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật.. ..'tôi rất thán phục anh em A-37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là..lịch sự..Tôi lên tiếng vì nhu cầu, tất cả hoa tiêu A-37 phải rời VN, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được 3 người, không dù không hành lý..ngoại trừ Phi công bay ghế trái phải đội helmet để liên lạc..tất cả phi cơ phải bay ở 12 ngàn bộ, không cần dưỡng khí..' Đa số phi cơ bình điện yếu, Th/tá Cửu và Th/tá Kim (Liên đoàn trưởng Kỹ thuật) đã dùng APU để khởi động từng phi cơ theo thứ tự..Thiếu tá Cửu lên chiếc sau cùng..rời phi đạo để cùng hợp đoàn gần 30 chiếc A-37 bay đi Utapao. Đây có thể được xem là 'chuyến di tản' trật tự và 'thành công' nhất của KQ VNCH. Ngoài ra, còn có một A-37 đáp xuống một xa lộ gần Căn cứ KQ Korat, phía Bắc Bangkok, gần một trường học, bom đạn còn đầy dưới cánh và Tướng Aderholt đã phải gửi một Đ/u phi công Mỹ đến để bay chiếc này về Căn cứ Udorn. Theo thống kê 27 chiếc A-37 đến được Utapao..95 chiếc bị bỏ lại VN Phi cơ vận tải: Tân Sơn Nhất là căn cứ tập trung của nhiều Phi đoàn vận tải của KQVNCH..Cuộc di tản cũng rất hỗn loạn, nhiều phi cơ bị bỏ lại vì không có phi công, không người đổ xăng..có những trường hợp phi cơ không cất cánh nổi do quá tải, hay do quá vội. Một số phi cơ vận tải đã bay được sang Utapao do đã ở sẵn tại Côn đảo, tất cả đều chở vượt quy định..có những C-47 bay đến Utapao với cả trăm hành khách (bình thường chỉ chở 30 binh sĩ)..bánh đáp bị gãy khi chạm đất.. Phi công Hungphan trong bài hồi ký 'Những giờ phút sau Tinh Long 07' ghi lại: Sáng 29/04/75 ..' đồng loạt không ai bảo ai, chúng tôi tháo chạy về phia Không đoàn bộ (PĐ 437), cạnh một bên là đại bản doanh của PĐ 435, chúng tôi đang ngơ ngác tìm nơi trú ẩn, thì thấy ông PĐ trưởng Tr/tá MMC bước ra, nhìn chúng tôi lên tiếng..' giờ này pilot quý lắm, ai ở phi đoàn nào..về phi đoàn nấy..'chúng tôi im lặng rút sâu vào tầng dươi của SĐ bộ..thấy đủ mặt văn võ bá quan.. TT Vinh con 435, TT Vinh Trô 437, TrT Dinh, Đ/u Chư..đã có mặt từ lúc nào ?..gần giống một cuộc họp của Không đoàn.. Không biết thời gian nặng nề, dai dẵng này kéo dài bao lâu, thỉnh thoảng như để phá tan bầu im lặng, tiếng pháo lại vang lên phía bên ngoài..bỗng nghe tiếng điện thoại reo vang trên lầu, rồi lại im lặng, tất cả mọi khuôn mặt không dấu vẻ lo lắng, đợi chờ..tình hình căng thẳng..khoảng mười phút sau, tiếng chuông điện thoại lại một lần nữa reo lên..và chưa hết tiếng reo..bỗng một tiếng của..ai đó hét to Ra xe.. (nghĩa là chưa ai nghe điện thoại..)..Không ai bảo ai, chúng tôi chạy nhanh và chen chân nhẩy lên xe.. Tôi cũng nhảy lên một step van, chạy một quãng, 4-5 anh phòng thủ, súng ống đầy mình chạy ra chận lại, có tiếng trong xe la lớn:'ĐM, lên xe luôn, giờ này mà chặn cái gì?' thế là thêm đông.. Đến parking tôi chạy về chiếc GZA 027, Herky 027, mà tôi biết tàu tốt..vì tôi mơi bay về tối hôm qua...Trên phòng lái, có độ 10 ông pilot C-130..phí thật.. Chỉ một phút sau, chúng tôi take-off..2 phút sau đã có cao độ an toàn (TT Nhân nhẩy vào ghế pilot thay Đ/u Chuân, ngồi co-pilot là Tr/T Đinh..) (14 chiếc C-130 bị bỏ lại, 9 chiếc đến được Utapao, ngoài ra còn 1 chiếc đã đào thoát sang Singapore từ khoảng đầu tháng 4) Tác giả 'Không quân liệt lão' trong bài 'Giây phút não lòng' (xem phần trên) ghi tiếp: ..Thảo bảo tôi: Mình ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phía gần phi đạo hướng Bà quẹo đó.. Đến khu trực thăng, lên chiếc nào mở máy cũng không..nổ.. tàu nào cũng khô ran..(Tướng Tiên cho lệnh rút xăng..khỏi tàu vì..sợ các phi công..tự động tan hàng).. Chọn trực thăng không xong, Thảo Nâu chở tôi trên jeep đi tìm Cessna..Gặp Cessna, Thảo leo lên, bảo tôi ngồi ghế phài..hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội..Quan quân ở đâu đông thế đang dành nhau leo lên tàu..Cessna chỉ có 5 chỗ, làm sao chở nỗi cả chục người..Không ai chịu xuống.. Tôi tự quyết định.. nhường chỗ, mở cửa buớc xuống., leo lên jeep để lái đi,có QC Vân cùng bỏ Cessna lái đi..tìm xem còn chiếc nào để quá giang.. Trên đường rời khỏi SĐ 5KQ, ngang qua văn phòng Tư lệnh phó SĐ, thấy có ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào.. Gặp Đinh thạch On ngồi thẫn thờ sau bàn giấy..Tôi hỏi: - On, sao còn ngồi đây? Tât cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi.. On như người mât hồn: C-130 tụi nó lấy trốn cả rồi.. T6i nhắc: còn C-47 mà..On thở dài: Đã lâu lắm, tôi không lái C47. .. Sau khi ngồi chờ ông On, lôi quyển kỹ thuật C-47..ra 'ôn bài', cả đám đi tìm C-47 để chạy..Đến bãi đậu, các phi cơ đều bất khả dụng: hoặc không xăng, hoặc bị trúng đạn pháo kích..Đang tuyệt vọng, cả đám tìm được một C-47 đang nằm trong hangar. khóa kín..Đó là chiếc phi cơ riêng của Tư lệnh Vùng 2..Sau đó có thêm Đ/u Qui chạy đến.. Phi cơ chở đến gần 80 người, cộng theo thiết bị linh tinh..cố gắng cất cánh..để sau cùng đến được..Utapao. Nhóm của BS Phạm gia Lữ (xem phần trên) sau đó đến phi đạo C-47 để tìm máy bay di tản, có chiếc không khởi động được do bình điện yếu..Chiếc DC-6 'Bình Long Anh dũng' tuy nằm cạnh nhưng được..canh giữ. Sau đó tìm được chiếc C-47 của Tư lệnh KQ, Kh bắn bể khóa..Tất cả leo lên tàu để bay ra Côn sơn..Sau những trục trặc như không có bản đồ phi hành, phi cơ hết dầu thắng (tìm được 2 gallon nơi đuôi phi cơ)..phi cơ đáp được xuống Côn sơn..Th/t Khoa bay thêm một chuyến trở lại Saigon (TSN đã bỏ ngỏ) để đón thân nhân và bay lại ra Côn sơn.. Dùng nón sắt để chuyển xăng, phi cơ đã bay đi Utapao sáng 30/4 khi DV Minh ra lệnh đầu hàng.. Tác giả Nguyễn Cao Thiên trong bài 'PĐ 314, Chuyến bay không phi vụ lệnh '(Đặc san Liên khóa 64SVSQ, 2009) ghi lại một số chi tiết mô tả tình trạng hoảng loạn, vô trật tự.. tại TSN khi phi trường bị pháo kich..Sau khi PĐ phó Tấn từ KĐ trở về cho biết 'Trên đó có ai đâu ? vắng hoe ?'.. Mạnh ai nấy chạy..tự tìm phi cơ để..bay đi..Có phi cơ cất cánh quá vội, quên cả gỡ kẹp đuôi, nên bị..rơi ngay tại phi trường. Chiếc C-47 của PĐ 314 bay đến Utapao với trên 40 người.. (16 chiếc C-47, đủ loại kể cả EC, AC đến được Utapao.. 38 chiếc bỏ lại..) Ngoài ra cũng có 3 AC-119 và 6 C-7A Caribou đến Utapao, 37 chiếc AC-119 cùng 6 chiếc C-119 vận tải bị bỏ lại.. Số Caribou lên đến 33 (trong tình trạng đình động..) Tại Utapao còn có: - 14 chiếc Cessna U-17 Skywagon - 12 chiếc UH-1 - 3 chiếc O-1 Bird dog Bảng tổng kết của HK ghi nhận: số phi cơ của KQVN bỏ lại còn có 434 chiếc UH-1, 114 chiếc O-1, 32 chiếc CH-47 Chinook và 72 phi cơ các loại khác gồm U-17, O-2A, T-37, T-41 và cả U-6 Beaver.. Bay ra biển: Các phi cơ trực thăng (UH-1 và Chinook), khi tự động tan hàng..đa số tìm đường thoát bằng cách bay ra biển, để đáp xuống bất cứ tàu bè nào đang di chuyển ngoài khơi: đáp trên chiến hạm Mỹ, nếu có chỗ đáp là tốt nhất, đáp trên chiến hạm VN..và trong tinh trạng 'bi thảm 'nhất' là đáp xuống biển..và phi công tự thoát, nếu may mắn sẽ được tiếp cứu và vớt lên tàu.. Trường hợp đặc biệt nhất được ghi vào lịch sử KQ và HQ Hoa Kỳ là trường hợp đáp của một L-19 chở đầy..'hành khách' trên Hàng Không Mẫu hạm.. Sau đây là một số trường hợp được kể lại trong các bài hồi ký: Phi đoàn Thần Tượng 215 Khoảng 10 giờ sáng 29 tháng 4, bộ chỉ huy Phi đoàn 215 đã dùng 3 trực thăng để 'di tản 'về Côn Sơn. Trên các trực thăng có Phi đoàn trưởng (Tr/tá Khưu văn Phát), PĐ phó (Th/tá Đức)..các phi đội trưởng.. Tuy nhiên do hết xăng nên cả 3 chiếc sau khi gặp Tàu chở dầu của hãng Shell.đã cố gắng thả người (nhảy từ máy bay xuống sàn tàu từ cao độ chừng 3 m) và phi công còn lại sau cùng đã đáp xuống biển, bơi thoát khỏi chiếc phi cơ đang chìm và được canô vớt..Cả 3 phi công (Đ/úy Chín, Đ/u Vĩnh và Th/tá Lương) đều được an toàn..(Vĩnh Hiếu: Phi đoàn Thần tượng Giờ thứ 25) Phi đoàn Lôi Vũ 221: Phi đoàn di tản từ Biên Hòa về TSN trong đêm 27 tháng 4, khi phi trường bị pháo kích..Chiều 29 tháng 4, Tr/Tá Nguyễn văn Trọng, PĐT tuyên bố giải tán Phi đoàn.. 13 trực thăng của PĐ bay được ra Hạm đội HK..Trong đoàn di tản còn có các Đ/tá Phước, Đ/tá Vy (Sư đoàn phó SĐ 1 KQ) (Tâm tư Lôi Vũ -52, Van Nguyên). Phi đoàn Lôi Thanh 237 (Chinook CH-47) Ngày 29 tháng 4, lúc 4 giờ sáng, 4 trực thăng Chinook CH-47 đậu song song vơi nhau trước phi cảng Hàng Không dân sự. Các nhân viên phi hành..chờ quyết định của Th/tá Nguyễn văn Ba, Phi đoàn phó..nhưng ông vẩn trì hoãn chờ PĐ trưởng (Tr/tá Ch.) còn đang kẹt ở Biên Hòa..Các sỉ quan tham mưu của PĐ đều vắng mặt..Sau đó, ông quyết định di tản 4 phi cơ khả dụng đi Vũng Tàu..khi 4 phi cơ vứa đáp xuống Vũng tàu..thì phi trường này cũng vừa bị pháo kích..Chỉ 3 phi cơ bay về Cần Thơ, một chiếc đã tự tách khỏi hợp đoàn..3 phi cơ đáp xuống Mỹ Tho, 1 bay trở lại Sàigòn để..đón gia đình.. khi trở lại Mỹ Tho, phi cơ bị trục trặc nên đành bỏ lại nơi bờ sông..Hai chiêc còn lại cất cánh lúc 2 giờ trưa..bay ra hạm đội HK..thả người xuống chiến hạm Kirk,và phi công 'ditching' để sau đó được vớt (Chuyến bay cuối cùng-Nguyển văn Ba- Lý Tưởng Úc châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 1-7-2011) O-1 Birđ Dog (L-19) đáp trên Hàng Không Mẫu hạm: Một trường hợp đặc biệt nhất của cuộc di tản, được ghi vào quân sử Hoa Kỳ, phi cơ được lưu giữ tại Viện bảo tàng là trường hợp dùng L-19 đáp xuống Hàng không Mẫu hạm Midway của Thiếu tá Lý Bửng, Sĩ quan trưởng phòng hành quân của PĐ Sao Mai 114/ KĐ 62 CT/ SĐ 2 KQ. Việc O-1 đáp trên Hàng không Mẫu hạm đang di chuyển là chuyện không thể tưởng tượng nổi, ngay cả với các phi công Hoa Kỳ và những chuyên viên thiết kế máy bay của hãng Cessna.. Điều gây 'kinh ngạc' hơn nữa là trên phi cơ còn có thêm 6 người (vợ và 5 đứa con) ngồi chật cứng trên ghế sau.. Phi công Lý Bửng kể lại như sau (Chuyến bay về vùng tự do của KQ Lý Bửng- Đặc san Lý Tưởng số 02/2010): ..'Sáng 29 tháng 4, tôi và Hường, Nhị cùng bay chiếc O-1 này ra Côn Sơn. Vợ con tôi đã ra Côn sơn bằng phương tiện trực thăng trước, hình như của PĐ 215..Chiếc O-1 này tình trạng máy tốt, chỉ có vô tuyên là không hoạt động được...Tôi cất cánh từ TSN trong lúc phi trường đang bị pháo kich..Chúng tôi quyết định bay ra Côn sơn vì không rõ tình hình Cần Thơ.. Đêm nghỉ tại Côn sơn, chúng tôi chưa biết chắc sẽ đi Thái bằng phi cơ gì..Sáng 30 tháng 4, có lệnh đầu hàng, tôi sắp xếp cho tất cả anh em PĐ 114 trật tự lên các C-123 và C-130 đi Thái Lan..Tôi và gia đình dự trù sẽ đi chiếc C-123 sau cùng..nhưng chiếc này bị hư không cất cánh được. Khoảng 130 người còn lại đành chờ tàu HQ..Cảnh tượng xuống tàu rất hỗn loạn. Tôi quyết định dùng chiếc O-1 mà tôi đã bay ra Côn sơn hôm qua để chở cả gia đình để bay đi..nhưng chưa biết đi đâu? Trời rất xấu, mưa mù mịt, tôi bay rase motte trên mặt biển, khoảng từ 500 đến 700 bộ. Trong lúc bay tôi thấy nhiều trực thăng bay ra biển..tôi cũng lấy hướng bay này..cho đến khi thấy chiếc hàng không mẫu hạm.. Chiếc O-1 bị hỏng hệ thống vô tuyến nên tôi không thể liên lạc được với ai..Tôi dùng phương thức bay qua đài kiểm soat của chiến hạm, lắc cánh để cho biết hệ thống vô tuyến bị hỏng và xin đáp. Dưới mẫu hạm bắn hỏa pháo đỏ liên tiếp ra dấu cho biết là họ không chấp thuận cho hạ cánh..có lẽ vì không còn chỗ ? Tôi lấy bản đồ, giấy tờ trong máy bay viết chữ xin hạ cánh vì phi cơ còn có vợ con..và buộc vào botte để thả xuống..sàn tàu. Sau đó nhân viên trên tàu xô một số trực thăng xuống biển và dọn các trực thăng khác để lấy chỗ cho tôi đáp..Phi đạo họ dành cho cho tôi đáp là cạnh ngắn, khoãng 150 feet..' Sau một lần đáp thử để ước lượng các thông số kỹ thuật, như gió ngang, sự di chuyển của mẫu hạm..Phi công Lý Bửng đã đáp thành công..xuống Mẫu hạm Midway trước sự kinh ngạc và thán phục của nhân viên thủy thủ trên tàu.. Trong 'chiến dịch di tản' Frequent Wind': Hàng không mẫu hạm Midway đã tiếp nhận khoảng 60 trực thăng của KQ VNCH, trong đó có chiếc UH-1 của Tướng Kỳ và cả vài trực thăng của Air America.. Chiến hạm USS Kirk, trong thời gian yểm trợ đoàn tàu di tản của HQ VNCH đã là nơi đáp cho 16 chiếc trực thăng của KQ VNCH..Sàn đáp của chiến hạm chỉ dành cho một trực thăng nên sau khi đáp, trực thăng phải đẩy xuống biển để lấy chỗ cho chiếc kế tiếp..Ngoài 16 chiếc UH-1, còn có 1 Chinook sau khi thả người trên sàn đáp đã phải đáp xuống biển, phi công được cứu thoát..Số người trên các trực thăng đáp xuống USS Kirk lên đến gần 200 người..USS Kirk chở được về Subic Bay 3 chiếc UH-1.. Các chiến hạm khác như Blue Ridge, Mobile (LK 115).. đều tiếp nhận các trực thăng của KQVN.. Tài liệu của Air America ghi nhận một số trường hợp các phi công VN dùng súng..'tạm mượn' phi cơ của Air America để bay ra Hạm đội Hoa Kỳ: Chiếc UH-1H (69-16715) của Air America màng dấu hiệu ICSS (Ủy Ban Liên hợp 4 bên) đã do phi công VN bay ra đáp tại Chiến hạm Blue Ridge..trưa ngày 29/4. Tất cả có 6 chiếc trực thăng bị phi công VN mượn tạm, trong đó 5 chiếc loại UH-1 và một chiếc Bell 204B (?), chiếc Bell này sau đó đáp trên USS Kirk. (Air America in South Viet Nam: The Collapse. Tác giả Joe Leeker) Số phận những phi cơ..đến được Utapao: Ngay khi các phi cơ của KQ VNCH đáp xuống Utapao, vừa ngừng bánh, tắt máy..các nhân viên phi đạo lập tức sơn lại cờ.. chuyển từ VNCH sang thành máy bay của Hoa Kỳ. Người Thái không muốn 'chứa chấp' những người Việt vừa phải bỏ nước ra đi nên HK đã phải lập cầu không vận, dùng các C-141 để đưa người tỵ nạn sang Guam. Một trục trặc nhỏ đã xẩy ra: 65 người, tất cả trên cùng một chuyến C-130 đến Utapao.. đã đòi trở về VN..Dưới sự lãnh đạo của Tr/Uy Cao van Le (?), những nhân viên KQVN này.. khi bay khỏi TSN, không biết là họ sẽ phải..biệt xứ, trong khi gia đình còn kẹt lại tại VN..và dọa sẽ tự tử nếu không được như ý. Một Đại tá KQVN và một Tuyên úy QĐ HK đã giúp điều đình để giải quyết vấn đề và còn 13 người cương quyết đòi về.. Sau cùng cả 13 người đã được chích thuốc ngủ để đưa lên C-141 đi Guam.. CSVN đã lên tiếng đòi hỏi chủ quyền về những máy bay tỵ nạn tại Thái và Hà Nội đã đòi đưa một phái đoàn đến Thái để kiểm kê các phi cơ..Chính quyền Thái, do áp lực của Hà Nội đã đòi' tạm giữ' các máy bay đang ở Utapao. Tướng Aderholt cho biết' các phi cơ này thuộc quyền sỡ hữu của HK theo một điều khoản có ghi trong Thỏa ước Viện trợ Quân sự Mỹ-Việt' nhưng chưa chắc Thái..đồng ý nên ông tìm cách chuyển các phi cơ..khỏi Thái..càng nhanh càng tốt. Trước hết, Aderholt 'tặng' cho Tư lệnh KQ Thái 5 chiếc F-5 (đễ..mua chuộc giới quân sự Thái, thật ra Aderholt..không có quyền.. nhưng trước chuyện đã rồi HK khó lấy lại được 5 phi cơ này). Và ngay khi Hàng không mẫu hạm Midway ghé một Căn cứ HQ Thái gần Utapao ngảy 5 tháng 5..khoảng 140 phi cơ đủ loại đã được chở ra khỏi Thái (trong số này có lẽ gồm cả một số phi cơ, trong tổng số 93 chiếc của Không lực Kmer đã bay sang Thái khi Nam Vang thất thủ). 4 chiếc Skyraiders được Aderholt cho bay đi, cất giấu tại Căn cứ Takhli..Mẫu hạm Midway đã chở về Guam 101 phi cơ của KQVN, trong đó có 21 chiếc F-5E.. Theo 'Escape to Utapao' một chiếc C-123K được đưa ra khỏi Thái (số đuôi 54-00592)..chiếc này hiện ở Phi trường Avra Valley và..không ai biết về trường hợp này..(Theo danh mục trong Flying Dragons trang 164 thì chiếc này của KQVN) Tài liệu của Hải Quân Thái ghi nhận: trong danh mục phi cơ thuộc HQ Thái có một số phi cơ 'cũ' của KQVN như: - C-47A (43-48101, VNAF) - VC-47D (43-48777, VNAF 'EY' - AC-47D (43-49095, VNAF 'EK' - RC-47 (43-49701, VNAF) và (43-49925, VNAF 'EF') và (44-76418, VNAF 'EB') - EC-47 P (45-1044, VNAF 'WA') Ngoài ra còn 3 chiếc U-7 mang các số đuôi 71-1438; 71-1442 và 7-1455 được ghi là VNAF(?)Trần Lý (tháng 4/2012)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 13:14:50 GMT 9
Tâm sự người ở lại....Phi vụ ngày 22-07-1969 ..Rước tóan bằng dây..
Ngày 22-07-1969 Theo yêu cầu của Trại Trưởng FOB-1, hôm nay KingBee phải có sáu chiếc trực thăng để rước một team đặc biệt, 10 giờ sáng, sáu chiếc trực thăng cất cánh rời phi trường DNG bay ra Phú Bài đáp xuống sân bay của trại FOB-1, anh Sĩ Quan trực ra mời các Trưởng Phi cơ vào phòng họp, Theo lời thuyết trình, hôm nay KingBee có nhiệm vụ bay ra Quảng Trị rước một tóan 18 troops bị CS bao vây ở phía bắc cây số 17 nằm trên đường mòn HCM, hiện giờ tóan đả di chuyển đến một nơi an tòan nằm dưới rừng cây rậm rạp của dảy Trường Sơn, KingBee sẻ rước toán bằng dây, mỗi chiếc trực thăng sẽ rướt ba troops. Sau buổi thuyết trình, anh em ra phi cơ và người của trại củng mang dây ra phụ với Cơ phi của mỏi chiếc trực thăng cột dây vào các khoen của sàn tàu, mọi việc chuẩn bị đả xong, sáu chiếc trực thăng bắt đầu mở máy và cất cánh lấy hướng tây bắc bay thẳng đến mục tiêu,, yểm trợ KingBee là hai chiếc Gunship của Mỹ, củng như tất cả các phi vụ rước thả tóan là sự phối hợp chặc chẻ của bộ ba, phi cơ Quan sát, Gunship của Mỹ và trực thăng H-34 của VN Bay khỏang một giờ, trước mặt chiếc O-2 đang bay lòng vòng trên mục tiêu, có lẽ đã thấy KingBee và Gunship trên đường bay đến LZ, phi công O-2 bắt đầu liên lạc, hướng dẩn KingBee tiếp tục bay và gọi Gunship bay đến LZ trước để clearn bải, hai chiếc gunship bay nhanh hơn, hạ dần cao độ, tiến thẳng đến mục tiêu trước, vài phút sau những trái rocket đầu tiên được phóng ra trong đó có những trái rocket nail để chống biển người, sau một lúc bắn phá dữ dội, hai chiếc Gunship rời mục tiêu và KingBee được gọi vào LZ làm nhiệm vụ Theo hướng dẫn của phi cơ quan sát, tóan đang nằm dưới rừng cây cao, rậm rạp và không có một bải nào dù nhỏ đủ để trực thăng có thể đáp vào rước tóan mà phải dùng dây, sau khi liên lạc, chiếc leader bắt đầu xuống, tiến thẳng vào mục tiêu, trực thăng được điều khiển hovering trên đầu ngọn cây, dây trong phi cơ được thả xuống, gió cánh quạt quá mạnh làm cây rừng ngã nghiêng, một lúc sau trực thăng được kéo lên, một người lính BK được kéo theo, liên tiếp như vậy người lính thứ hai rồi người lính thứ ba củng được kéo lên qua khỏi đầu ngọn cây, trực thăng bắt đầu rời bải rước mang theo ba người lính đang treo lơ lửng giửa trời rộng bao la . Chiếc leader làm xong nhiệm vụ, chiếc thứ hai bắt đầu vào và củng rời bải sau khi đả mang theo ba người lính, bây giờ đến lượt tôi xuống, tôi đóng auto, trực thăng rơi rất nhanh, tôi đưa cần lái qua phải, rồi qua trái, trực thăng theo đó mà chao qua đảo lại vài lần, tôi đưa mắt nhìn vào bải đáp để quan sát, khi tôi ước lượng khõang cách giữa phi cơ và bải đáp vừa đủ , tôi kéo cần pitch lên, trực thăng bắt đầu khựng lại ,chầm chậm tiến vào bải,tôi điều khiển trực thăng hovering trên đầu ngọn cây ngay chổ tóan đang có mặt dưới đất, cây thật cao , rừng thật dầy chỉ có một khỏang nhỏ vừa đủ để thả dây xuống, anh cơ phi bắt đầu thả dây,anh BK đầu tiên móc vào dây, anh cơ phi gọi lên báo, tôi kéo cần pitch lên người lính BK được kéo lên và liên tiếp anh BK thứ hai, thứ ba được tôi kéo lên qua đầu ngọn cây, gió thổi mạnh cây lá ngã nghiêng, nhiêm vụ rước tóan của tôi đả hòan tất ba người lính đang treo lơ lửng trên không, tôi đẩy cần lái về trước, trực thăng từ từ rời bải mỗi lúc một lên cao rời xa bải rước trong an tòan, tiếp theo chiếc thứ tư rồi chiếc thứ năm và cuối cùng chiếc thứ sáu củng đã rời bải rước sau khi kéo được ba người linh còn lại, trong thời gian KingBee lo rước tóan hai chiếc Gunship bay trên đầu mục tiêu để yễm trợ KingBee Sau khi sáu chiếc trực thăng làm xong nhiệm vụ rước tóan và an tòan rời xa bải , hai chiếc Gunship bắt đầu bắn vào bải rước như muốn tiêu diệt hết quân thù. Trên đường bay về, chúng tôi bay chậm, lấy hướng căn cứ cây số 17 (Huế) bay đến, lúc nầy tôi đả giao cần lái cho Copilot, tôi thở phào nhẹ nhỏm sau một phi vụ khá nguy hiểm và cũng rất đặc biệt. Nhìn ra ngòai, những người lính nhỏ bé đang treo lơ lửng dưới thân tàu, những người lính vừa được chúng tôi rước về từ cỏi chết, tôi chợt nhớ lại những ngày tôi qua Non Nước trong phi vụ huấn luyện tôi đã từng tập câu dây không dè nhờ luyện tập cần mẩn mà giờ đây trong thực tế được áp dụng tôi đã thực hành thành thạo và an tòan, Theo quyết định của leader chúng tôi đáp xuớng căn cứ cây số 17, tôi giử lại tay lái, sau khi đáp, tất cả tóan viên lần lượt lên lại một chiếc trực thăng rồi bay thẳng về trại FOB-1 Hôm nay ngòai phi vụ nầy, chúng tôi còn bay thêm một phi vụ liên lạc, đến 16 giờ chiều sáu chiếc trực thăng rời Phú Bài bay về DNG như đàn chim sau một ngày vất vả trong cuộc sống chiều bay về tổ ấm đòan tụ cùng vợ con , Qua khỏi đèo Hải Vân, sáu chiếc trực thăng vào formation bay thấp ngang đầu phi đạo của sân bay DNG, bay dọc sông Hàn lần lượt tách khỏi đàn đáp xuống Taxiway 35 để đi vào parking của Phi Đòan 219 chấm dứt một ngày trực hành quân khá đặc biệt............ Capt Vương văn Ngọ 63D219
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 13:41:57 GMT 9
Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 1: Tài Liệu trích ra từ Báo Tuổi Trẻ ONLINE / Sài Gòn dùng làm tài liệu đối chiếu Xin góp ý cho những dữ kiện không phù hợp trong phần comments phía dưới Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 1: Phi vụ đầu tiên ở Trường Sa TT - Đầu tháng 1-1976, trung đoàn không quân 917 nhận nhiệm vụ đưa thiếu tướng Lê Ngọc Hiền (phó tổng tham mưu trưởng) và đoàn cán bộ của Bộ Tổng tham mưu đi thị sát tình hình và kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội hải quân trên quần đảo Trường Sa. Chiếc máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ số hiệu 60139 được lệnh đưa xuống tàu ra đảo! Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, máy bay của không quân nhân dân VN thực hiện một phi vụ ở quần đảo Trường Sa.  Từ phải qua: Lê Quang Vinh, Hồ Duy Hùng, Lê Đình Ký, Hoàng Đức Ngư, Lê Hồng Nhị trong chuyến bay đầu tiên hạ cánh xuống đảo Trường Sa - Ảnh tư liệu trung đoàn 917 Chuyến đi nhớ đời Đoàn công tác cả trăm người gồm lãnh đạo của Bộ tư lệnh Không quân và Hải quân cùng các bộ phận liên quan đến... chiếc máy bay UH-1. Trung đoàn trưởng trung đoàn 917 khi đó là anh Lê Đình Ký lái chính, Hồ Duy Hùng lái phụ, anh Lê Quang Vinh lái phụ kiêm dẫn đường và kỹ thuật mặt đất, kỹ thuật trên không. Đặc biệt, một xe chở xăng dầu chỉ chuyên phục vụ chiếc máy bay UH-1 cũng được xuống tàu ra Trường Sa. Càng của chiếc máy bay UH-1 được ràng buộc rất kỹ xuống sàn tàu. Đoàn công tác đi bằng tàu đổ bộ của Mỹ trọng tải 4.000 tấn sản xuất từ năm 1942, mỗi lần sóng đánh tàu kêu răng rắc. Tàu cũ nên tốc độ chỉ 7-8 hải lý/giờ. Tàu lắc liên tục. Sóng gió lớn quá. Nhiều người say lả. Hùng cũng bị say sóng nhưng chỉ qua một ngày là quen sóng ngay. Lái phụ số 2 kiêm dẫn đường Lê Quang Vinh nằm bẹp một chỗ, tổ bay chỉ còn Lê Đình Ký và Hồ Duy Hùng. Càng gần đến quần đảo Trường Sa sóng càng lớn. Mờ sáng ngày thứ ba, sau hành trình ba ngày hai đêm, đảo Trường Sa Lớn đã hiện ra trong tầm mắt. Đây là hòn đảo lớn nhất thuộc các đảo do quân ta đóng giữ. Tàu đậu cách đảo Trường Sa Lớn chừng 2 hải lý. Nhiệm vụ của tổ bay là chở đoàn cán bộ cao cấp của quân đội thị sát năm đảo vừa tiếp quản và hạ cánh trên đảo. Chiếc máy bay UH-1 khi đó như taxi, chở lần lượt từng đợt cho tới khi hết đoàn công tác. Ở nơi sóng gió khắc nghiệt này, để một chiếc máy bay cất cánh không đơn giản, nhất là lại cất cánh ở trên boong một con tàu không ngừng chao lắc. Phi công phải căng tất cả giác quan, chú ý không cất cánh khi độ nghiêng của tàu lớn quá, cánh máy bay sẽ đập vô boong tàu. Hạ cánh còn gian nan hơn. Con tàu cứ chòng chành, lắc lư. Phi công phải treo máy bay, canh đúng khoảng ngưng chỉ 1-2 giây ngắn ngủi giữa độ lắc của tàu là hạ cánh xuống. Nhưng nếu chọn không đúng thời cơ đặt càng hạ cánh, chỉ với độ nghiêng lớn có thể đánh bật chiếc trực thăng rớt xuống biển! “Phi công bay biển thường cao hơn phi công đất liền một bậc vì bay biển khó hơn rất nhiều. Đường chân trời mờ mịt, không biết đâu là trời, đâu là biển, dễ bị cảm giác sai, nhưng khi đó tôi cứ nhằm vào vật đối chứng là tàu và đảo mà canh chừng để bay, cất hạ cánh” - ông Hùng nhớ lại chuyến đi lịch sử ấy. Đoàn công tác ở Trường Sa hơn hai tuần, đi qua năm đảo: Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca, Song Tử Tây - những cái tên mà trước đó Hồ Duy Hùng chỉ nghe qua và ước ao được một lần bay đến. “Tôi đã bay nhiều đảo ở Lý Sơn, Phú Quốc, Thổ Chu, cù lao Xanh... toàn đảo lớn, cây cối um tùm. Còn các đảo ở Trường Sa khi đó nhỏ và hoang vu lắm. Nhiều đảo chìm nước lên là ngập. Bản đồ Nhật Bản vẽ đảo Trường Sa Lớn năm 1942 chỉ dài 450m nhưng khi tôi bay ra đảo lớn hơn, dài trên 600m. Hồi đó sâm đất trên đảo rất nhiều. Mùa chim đẻ trứng, các bãi cát mênh mông trắng màu trứng chim, nếu chở phải dùng xe tải!” - ông Hùng bồi hồi nhớ lại. Chiếc UH-1 số hiệu 60139, sau khi huấn luyện bay chuyển loại cho hai tổ bay đầu tiên xong là hết giờ bay, đã được giao lại cho Bộ tư lệnh Phòng không không quân, kết thúc hành trình lịch sử, nhưng nó tiếp tục kể lại câu chuyện độc đáo và thú vị của mình cho hậu thế tại Bảo tàng Phòng không không quân Việt Nam. Còn thiếu úy không quân nhân dân VN Hồ Duy Hùng, người tham gia lái chiếc UH-1 ở Trường Sa năm ấy, sau này trở thành tổng giám đốc Công ty Du lịch Phú Thọ, là người có công rất lớn để biến bãi đầm lầy thành khu du lịch nổi tiếng Đầm Sen. Ông nghỉ hưu năm 2008. Nhưng không nhiều người biết được: Hồ Duy Hùng là sĩ quan không quân quân đội Sài Gòn. Hồ Duy Hùng là ai? Năm 1968, theo sự chỉ đạo của mạng lưới điệp báo, Hồ Duy Hùng gia nhập quân đội Sài Gòn. Tháng 8-1968, anh được tuyển đi học Trường Sĩ quan bộ binh Thủ Đức. Do có khả năng và kiến thức, Hùng lọt vào những sinh viên sĩ quan được chọn học tiếng Anh phi hành. Cuối năm 1969, sau khi hoàn thành khóa học tiếng Anh, Hồ Duy Hùng được chọn đi học lái trực thăng ở Mỹ. Sau khi tốt nghiệp loại giỏi phi công lái chính UH-1, Hùng được học bay thêm một tháng gunship (trực thăng vũ trang). Tháng 10-1970, anh tốt nghiệp và về Việt Nam, được tổ chức phân công về công tác tại tổ điệp báo E4. Và như vậy, “Việt cộng nằm vùng” Hồ Duy Hùng bắt đầu hoạt động với tư cách thiếu úy phi công trực thăng UH-1 thuộc phi đoàn 215 (không đoàn 62, sư đoàn 2 không quân quân đội Sài Gòn đóng ở Nha Trang). Do có điều kiện đi về bằng máy bay từ Nha Trang vào Sài Gòn nên Hùng thường xuyên liên lạc với tổ E4 và đồng chí Sáu Bán - người phụ trách trực tiếp. Anh đã cung cấp cho B7 nhiều tài liệu quý, trong đó có tập tài liệu tối mật in toàn bộ bản đồ, không ảnh các sân bay lớn nhỏ ở miền Nam và các nước Đông Nam Á cùng các tần số liên lạc với các sân bay và các căn cứ pháo binh. Toàn bộ tài liệu quý này được chuyển về Khu an toàn. Ngày 12-3-1971, khi vừa thực hiện một phi vụ trở về, Hồ Duy Hùng bị hai sĩ quan của phòng an ninh sư đoàn 2 không quân tịch thu súng và bắt ngay trước phòng trực ban của phi đoàn ở sân bay Nha Trang! Đó là một ngày không may mắn vì buổi sáng trước đó, khi đi đổ quân ở Di Linh, anh bị quân giải phóng bắn suýt thiệt mạng. Sau năm tháng giam giữ với dồn dập những cuộc thẩm vấn, ngày 30-7-1971 Hồ Duy Hùng bị sa thải khỏi không lực Việt Nam cộng hòa vì “khai man lý lịch, có nhiều thân nhân hoạt động cho cộng sản, có tư tưởng thiên cộng”. Sau đó, anh còn bị giam thêm ba tháng ở Tổng nha Cảnh sát với những cuộc thẩm vấn kỹ hơn. Cuối cùng vẫn không khai thác được gì thêm, Tổng nha Cảnh sát chuyển Hồ Duy Hùng về bót Ngô Quyền làm các thủ tục giải giao về cho Ty Cảnh sát Gia Long (Đà Nẵng) để quản lý ở địa phương. MY LĂNG _____________________ Điều rất thú vị là chiếc UH-1 số hiệu 60139 bay trên bầu trời Trường Sa năm ấy chính là chiếc trực thăng bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973. Và người đánh cắp chiếc máy bay ấy cũng chính là Hồ Duy Hùng, thiếu úy không quân VNCH Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 2: Chiếc trực thăng bị đánh cắp  Đầu tháng 5-1972, Hồ Duy Hùng được gọi vào căn cứ ở vùng Sở Cốt (Trảng Bàng, Tây Ninh) để gặp cấp trên. Đó là một cuộc gặp gỡ bí mật vào ban đêm. Hùng được một người không biết mặt, chỉ nghe giọng nói, tự giới thiệu là Ba Tú, giao nhiệm vụ tuyệt mật: đánh cắp một chiếc máy bay để kêu gọi phản chiến, hỗ trợ chiến dịch Nguyễn Huệ. Sáng hôm sau, Hùng trở lại Sài Gòn, rồi đi một số nơi mà trực thăng thường đến trực cấp cứu hoặc hạ cánh như Phan Thiết, Quy Nhơn, bãi đáp máy bay ở sân vận động Buôn Ma Thuột...tìm cơ hội thực hiện nhiệm vụ. Chuyến đi này bất thành vì không có cách nào vào sân bay có lính gác. “Tôi nghĩ chỉ còn cách lấy máy bay ở sân bay dã chiến hoặc chỗ nào máy bay thỉnh thoảng hạ cánh”. Sau đó phát hiện có người theo dõi, Hồ Duy Hùng lập tức rút lên Đà Lạt. Ở được một thời gian ngắn, anh lánh ra Phan Rang đi đốt than để tránh mật thám. Được vài tháng, Hùng được lệnh của cấp trên yêu cầu phải vào khu gấp vì đang bị truy bắt! Giữa tháng 10-1973, Hồ Duy Hùng chủ động đề xuất với ông Năm Hà (Lê Nam Hà, phó ban quân báo, khi này là người trực tiếp phụ trách anh) kế hoạch: quay trở ra, lấy cắp một chiếc trực thăng bay về căn cứ! “Đó là một đề xuất rất mạo hiểm, không chỉ là tình huống không may bị địch bắt” - ông Năm Nhưỡng, phó ban quân báo, nhận xét. Bởi Hùng mới có gần 400 giờ bay tích lũy, tính cả thời gian huấn luyện ở trường! Với phi công, giờ bay tích lũy như thế chỉ mới là con chim non nớt. Phi công giỏi phải trên 1.000 giờ bay. Hơn nữa, anh đã dừng bay trên 2 năm 8 tháng, một thời gian gián đoạn quá dài, gấp 10 lần cho phép! “Tôi vẫn quyết định thực hiện lại nhiệm vụ này dù biết rất khó khăn và vô cùng nguy hiểm”, ông Hùng giải thích. Giờ hành động 9g30 sáng 7-11-1973, bầu trời Đà Lạt vẫn mù sương. Trên con đường dốc gần hồ Xuân Hương, một thanh niên chừng 25 tuổi, choàng áo pardessus xanh đen của phi công, đi giày đen, đội mũ lưỡi trai đen, đeo kính Pilot, vội vã bước những bước rất nhanh về bãi đất trống sát bờ hồ. Đó là Hồ Duy Hùng. Chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 đang đậu gần đấy. Hùng đảo mắt nhìn xung quanh. Bên kia hông trực thăng là chốt gác có mấy tay nhân dân tự vệ. Anh vòng lên đầu ra phía đuôi máy bay. Nếu có ai đó nhìn từ ngoài đường vào, phía này sẽ được che khuất bởi máy bay. “Mình sẽ lấy được chiếc UH-1 này nếu nó còn đủ xăng và điện”, Hùng nhớ lại cảm giác lúc đó. Anh bình tĩnh mở cửa trước máy bay, leo vô buồng lái. Lượng xăng còn đủ để bay được khoảng 105 phút. Bật công tắc bình ắcquy, đủ để nổ máy. Kiểm tra nhiên liệu và điện xong, người thanh niên leo xuống đóng cửa lại, quan sát xung quanh và dọc con đường lên chợ Đà Lạt. Trong khoảng cách gần 300m, không thấy có người theo dõi, cũng không thấy phi hành đoàn. Chỉ có một đứa bé chừng 10 tuổi đang tò mò đến gần chiếc máy bay, mở đôi mắt trẻ con to tròn ngắm nhìn! “Phải hành động thật nhanh, chỉ sợ đám an ninh đột ngột xuất hiện hoặc phi hành đoàn bất ngờ trở lại”, Hùng quyết định trong sự hồi hộp. Anh nhanh chóng tháo dây buộc cánh máy bay khỏi đuôi, rồi leo lên buồng lái, gấp rút thực hiện những thao tác khởi động động cơ. Từ hôm trước khi đề xuất nhiệm vụ đầy táo bạo và nguy hiểm này, anh đã cố nhớ lại hết các động tác khởi động và cất cánh chiếc UH-1, nhưng lúc này anh như một thí sinh sắp hết giờ... Thời điểm này một giây cũng là vàng. Không dám chần chừ, anh quyết định nổ máy theo điều kiện khẩn cấp, chỉ mất 40 giây. Tuy nhiên, lựa chọn này sẽ rất căng thẳng. Phải giữ đồng hồ chỉ nhiệt độ động cơ ở vạch vàng, chỉ cần qua vạch đỏ 3 - 5 giây sẽ bị cháy động cơ ngay lập tức! Người thanh niên căng mắt nhìn đồng hồ nhiệt độ và giữ tay ga đúng 40 giây, rồi kéo cần điều khiển. Chiếc UH-1 cất cánh khỏi bờ hồ Xuân Hương... Đánh cắp “Ngọc hoàng”, đưa về “Thượng đế” Hồ Duy Hùng đã có mặt ở Đà Lạt 7 ngày để “săn tìm” trực thăng theo kế hoạch đã đề xuất. Thời gian cấp trên cho Hùng thực hiện nhiệm vụ này là hai tháng. Nếu sau hai tháng không lấy được, Hùng phải ra ngay chiến khu vì anh đang bị an ninh quân đội Sài Gòn săn lùng khắp nơi. “Anh em đã bàn tính rất kỹ, rất cẩn trọng trước khi để Hùng hành động. Đã vào hang bắt cọp thì chuyện mất còn dễ như chơi. Nhưng chúng tôi tin Hùng sẽ làm được dù rất khó khăn, nguy hiểm!” - ông Năm Nhưỡng, một lãnh đạo của Hồ Duy Hùng, nhớ lại. “Buổi sáng hôm ấy, khi chạy xe gần tới nhà người cô ở đường Thái Phiên thì tôi nghe tiếng máy bay trực thăng hạ cánh phành phạch xuống bờ hồ Xuân Hương - Hồ Duy Hùng nhớ lại - Hôm nay trời mù lại nhiều mây như thế này mà sao vẫn có máy bay đến? Tôi khá ngạc nhiên vì trực thăng không hạ cánh xuống được sân bay dã chiến trong điều kiện thời tiết không thuận lợi như thế. Có lẽ do thời tiết quá xấu nên các phi công chiếc UH-1 này phải đáp xuống đây để chờ trời tốt lên”. Anh vội vàng quay về trả xe cho người cô, chỉ kịp nói: “Nếu con không về là con đi luôn nghe cô”, rồi tức tốc xuống bến xe trước chợ Đà Lạt trong bộ quần áo rất... pilot. “Trước đó hai tháng, chúng tôi đã thống nhất hai phương án: đánh cắp hoặc cướp máy bay nếu có bảo vệ. Kế hoạch lúc đầu chỉ có một mình Hồ Duy Hùng hành động. Nhưng sau đó nhận thấy phải có thêm một người hỗ trợ để khi cần, một người khống chế lực lượng bảo vệ để người còn lại lấy máy bay. Hùng chọn Tư Đen”, ông Năm Nhưỡng cho biết. Tư Đen tên thật là Hoàng Đôn Bảnh, một chiến sĩ tình báo, khoảng 20 - 22 tuổi, rất gan dạ, chuyện gì cũng dám làm. Và Tư Đen đã có lúc làm nhân viên kỹ thuật máy bay trực thăng ở sân bay Biên Hòa. Họ hẹn nhau 8g sáng 30-10-1973 ở quán phở Tùng - một quán phở khá nổi tiếng ngày đó - nằm sau bến xe nhỏ của Đà Lạt. Nhưng Tư Đen không đến. Rồi đến ngày 1 và 2-11, Hồ Duy Hùng vẫn đến điểm hẹn ở phở Tùng và cà phê Ngọc Lan nhưng không gặp được Tư Đen. Sau này anh mới biết Tư Đen bị phục kích ở bàn đạp (vùng đệm giữa vùng giải phóng và tạm chiếm) nên ra trễ mất ba ngày. Không có Tư Đen, Hồ Duy Hùng vẫn quyết thực hiện nhiệm vụ một mình. “Theo bàn bạc, Hùng sẽ bay thật thấp để tránh rađa địch theo dõi và tránh súng phòng không, súng bộ binh của ta khi bay qua vùng giải phóng - ông Nguyễn Trung Hiếu, nhân viên kỹ thuật điện đài của ban quân báo, kể - Hùng sẽ dùng tần số FM của máy thu phát trên trực thăng gọi về máy PRC 25 của bộ phận trinh sát kỹ thuật điện đài ở nhà (vùng giải phóng). Mật danh để gọi ở nhà là “Thượng đế”, máy bay là “Ngọc hoàng”. Thời gian trực máy từ 10g - 15g hằng ngày”. Đường bay từ Đà Lạt về đến điểm hẹn bí mật dài 235km, thời gian bay khoảng 90 phút nếu không có gió lớn. Nhưng thực tế việc đưa chiếc UH-1 về vùng giải phóng là một hành trình đầy rẫy chết chóc, nhất là 15 phút đầu tiên trên không đầy kịch tính... MY LĂNG Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 3: Chuyến bay sinh tử TT - Vừa cất cánh lên, chiếc UH-1 lập tức chui vào biển mây khổng lồ dày đặc và xám xịt của một ngày xấu trời. Đó là điều rất kiêng kỵ với phi công còn ít kinh nghiệm và lại dừng bay quá lâu như Hồ Duy Hùng! Ông Hồ Duy Hùng kể lại khoảnh khắc sinh tử khi đưa chiếc UH-1 về chiến khu - Ảnh: GIA TIẾN “Bịt mắt” bay trong mây mù Vì quá căng thẳng và khẩn cấp, Hồ Duy Hùng không kịp nhớ phải bật công tắc đảo điện AC. Tất cả các đồng hồ chỉ trạng thái máy bay, đồng hồ la bàn điện và nhiều đồng hồ khác - đặc biệt là đồng hồ chỉ đường chân trời, “bảo bối” rất quan trọng với phi công khi bay trong thời tiết xấu - không hoạt động. “Tôi không khác gì người mù - ông Hùng kể - Chỉ còn cách dùng tốc độ để cân bằng một phần trạng thái máy bay. Nếu kim đồng hồ tăng nhanh là máy bay chúc đầu xuống, còn khi giảm tốc độ thì máy bay sẽ dựng đầu lên. Nhưng máy bay không giữ được thăng bằng, nghiêng qua đảo lại điên cuồng như con chim hoảng loạn giữa bầu trời đầy mây dông xám xịt”. Anh cứ sợ máy bay đụng núi Lang Bian cao trên 2.000m ở phía bắc Đà Lạt. Phía trước là núi hay là mặt đất Hùng cũng không kịp rõ, cứ thấy bay được là bay. Anh chỉ biết mình phải kéo máy bay lên cao để tránh đâm vào núi. Nhìn đồng hồ cao độ, Hùng biết mình đã bay ở độ cao cần thiết! Nhưng bay ở độ cao này rất nguy hiểm vì rađa của đối phương ở đài kiểm báo Buôn Ma Thuột có thể sẽ phát hiện! “Tôi và chiếc máy bay như con chim nhỏ bị bao vây đến cùng đường, vùng vẫy trong cảnh hỗn mang - ông Hùng kể - Tử thần đã đùa giỡn không biết bao lần. Lúc thấy đất, thấy núi giây lát rồi lại vào mây mù dày đặc. Cứ thoát ra được đám mây này máy bay lại chui vào đám mây khác, mù mịt, tối sầm. Tôi chống chọi quá lâu với tử thần trong hoang mang không gì bấu víu, hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi kiệt sức tưởng chừng không thể thở nổi nhưng nghĩ phải đưa bằng được máy bay về chiến khu an toàn”. Bình thường một tổ bay phải có hai phi công, một người lái chính còn người kia làm dẫn đường, coi bản đồ chỉ hướng, độ cao... vì phi công lái chính không thể quan sát hết hệ thống 30-40 đồng hồ, bảng tín hiệu. Nhưng khi đó trên máy bay chỉ có một mình Hồ Duy Hùng. Anh không thể buông tay và không thể để nhiệm vụ quan trọng này thất bại! “Thật sự lúc đó tôi không xác định được hướng nữa, thấy mình chưa đụng vô núi thì cứ bay!” - người chiến sĩ tình báo nhớ lại. Trong những phút giây cùng cực nhất của tuyệt vọng thì bất ngờ ánh sáng của sự sống chói lóa trước mắt Hồ Duy Hùng! Nhờ một sự may mắn trời cho, chiếc UH-1 bỗng chui ra khỏi mây. Trời trong veo và an lành quá. Khi ánh sáng hắt vào buồng lái, anh vội sửa lại ngay tư thế bay. Hùng nhìn xuống, bên dưới độ cao hơn 1.600m là sân bay Liên Khương! Anh như bừng tỉnh sau những giây phút hoang mang, bế tắc tột độ. Hùng chợt nhớ ra, đưa tay bật công tắc điện AC. Các đồng hồ và các bảng điện báo đồng loạt hoạt động. Anh đã mất 15 phút để bay đoạn đường chỉ gần 13km theo đường chim bay. “Chỉ 15 phút mà tôi thấy dài khủng khiếp. Cũng may tôi lạc đúng hướng về vì hướng này núi thấp nên ít mây hơn - ông Hùng cho hay - Nếu chếch lên các hướng khác toàn núi cao, đầy mây thì cơ hội sống sót không còn”. Người chiến sĩ tình báo lập tức hạ độ cao để rađa địch không phát hiện rồi điều chỉnh hướng, giữ tốc độ và vòng quay cánh quạt có lợi nhất để bay về. Lúc này anh mới nhận ra người mình đã ướt đẫm mồ hôi dù 15 phút quay cuồng, nhào lộn trên không nhiệt độ chỉ khoảng 5-10 độ! Anh nhớ lại từ Đà Lạt về đến điểm hạ cánh sẽ mất khoảng 90 phút nếu không có gió. Vừa khi đó, dưới đất, những đám khói đốt rẫy trải dài ngược chiều bay lại. Gió tây nam đang thổi! “Thật là họa vô đơn chí. Đã mất gần 15 phút vô ích giờ lại gặp gió ngược! Tôi lo sợ không đủ nhiên liệu để về nhà...” - ông Hùng kể lại cảm giác khi đó. “Ngọc hoàng gọi...”, “Thượng đế” không trả lời Cựu thiếu tá không quân nhân dân VN Lê Thành Chơn, người được một hạ sĩ quan VN cộng hòa trao cho tập hồ sơ liên quan đến vụ việc này, kể lại: Ngay buổi chiều 7-11-1973, hình ảnh từ Trung tâm Không ảnh không quân (nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất) cho thấy tại khu rừng ở Bến Cát, nơi khu vực bị cháy vài chỗ, lọt thỏm trong thảm xanh có đốm màu nâu, được nghi là chiếc máy bay UH-1. Tư lệnh không quân VN cộng hòa - trung tướng Trần Văn Minh - đã ra lệnh cho máy bay trinh sát L-19 nhiều lần bay đến gần khu vực nghi ngờ có chiếc UH-1 ngay buổi chiều hôm đó... Sang hôm sau 8-11, một phi đội F-5E được lệnh trút bom xuống một cái trảng tọa độ đã xác định, hòng phá hủy chiếc UH-1 khỏi rơi vào tay Việt cộng... Điểm hạ cánh đã ấn định trước là bàu Cà Tông (huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương), cách căn cứ Quân khu Sài Gòn - Gia Định chừng 20km. “Tôi phải bay thật thấp để tránh rađa địch theo dõi và tránh súng phòng không, súng bộ binh của ta khi bay qua vùng giải phóng - ông Hùng kể - Trên đường bay, sợ nhất là qua vùng rừng thưa. Súng bộ binh của ta có thể bắn rất dễ vì nhìn thấy từ xa. Còn không quân địch thì không sợ vì tôi bay rất thấp, khó rađa nào bắt được. Các căn cứ máy bay tiêm kích của địch đều ở xa, nếu có cất cánh đi tìm tôi thì cũng không dễ tìm ra”. Chiếc UH-1 men theo rìa phải của Di Linh, rồi Bảo Lộc. Những đồi chè xanh mướt chạy ngút ngàn dưới tầm mắt Hồ Duy Hùng. Một lát sau sông Đồng Nai uốn lượn phía dưới. Khi qua sông Đồng Nai và sông Bé, thấy trực thăng địch, từ dưới căn cứ quân ta bắn lên dữ dội. “Tôi nhìn thấy có nhiều anh em bộ đội chạy đuổi theo ở mép sông chĩa súng lên. Mở máy liên lạc gọi về nhà mấy lần nhưng không nghe trả lời. Bây giờ tôi mới thấy việc tìm ra bàu Cà Tông rất khó. Nâng độ cao lên thì tìm được nhưng dễ ăn đạn của quân ta hoặc rađa của địch ở Biên Hòa, Tân Sơn Nhất sẽ phát hiện ngay. Còn bay thấp mà lệch mục tiêu mấy trăm mét thì không thấy được. Chắc chắn tôi đã bị lệch tương đối nhiều vì đường bay khá xa và bị tác động của gió”, ông Hùng nhớ lại. Những cánh rừng mênh mông lần lượt lướt qua dưới máy bay. Chưa đến đường 13 thì đèn nhiên liệu bật đỏ nhấp nháy, báo dầu chỉ còn 20 phút bay! Không còn đủ nhiên liệu bay tiếp để tìm ra được bàu Cà Tông. Hồ Duy Hùng quyết định sau khi vượt qua đường 13 sẽ tìm cách hạ cánh vào vùng giải phóng nằm lọt giữa ba căn cứ của địch là Dầu Tiếng, Chơn Thành và Bến Cát. “Hạ cánh trong khu vực này là một quyết định rất mạo hiểm và đòi hỏi phải cực kỳ chuẩn xác - người chiến sĩ tình báo nói - Chỉ cần tiến lên một chút hay lệch về bên phải, bên trái, lui đằng sau đều trúng căn cứ địch!”. Vừa bay vượt đường 13 chừng mấy phút thì cánh rừng cao su trong vùng giải phóng đã hiện ra. Từ trên máy bay nhìn xuyên qua tán lá cây, thấy lấp ló một số lán trại của bộ đội. Người chiến sĩ trẻ tìm mãi mới chọn được chỗ hạ cánh là một đầm lầy có nền đất khá cứng (sau đó anh mới biết đây là làng 18 cao su Minh Thành). Hùng nóng lòng gọi lại cho “Thượng đế”. Gọi mấy lần vẫn không có tín hiệu trả lời. “Trưa 7-11, bộ phận kỹ thuật của ta có bắt được bức điện từ đài kiểm báo Buôn Ma Thuột gửi về Bộ tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng khi giải mã xong bức điện của địch với nội dung báo lúc 10g hơn có phát hiện một chiếc máy bay lạ trên không phận Đà Lạt độ 10 phút rồi biến mất, anh em biết là Hùng đã lấy được máy bay nhưng không biết có về được hay không. Máy mở liên tục nhưng tần số rất nhiễu, nghe không được và gọi cho Hùng cũng không được” - ông Nguyễn Trung Hiếu, kỹ thuật điện đài của Ban Quân báo, người được phân công trực máy theo dõi Hồ Duy Hùng, cho biết. Trong thời gian đó, không lực VN cộng hòa đã tung các máy bay trinh sát và ba chiếc A-37 ráo riết truy tìm chiếc UH-1 60139. Thế nên khi vừa hạ cánh, Hồ Duy Hùng đã nghe tiếng động cơ máy bay từ xa. Hùng vội lấy sình bôi lên phần sơn trắng trên cánh quạt và bôi lên kính để chống phản chiếu, rồi bẻ lá cây phủ ngụy trang máy bay... MY LĂNG Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 4: Vụ án “tản thất quân dụng” TT - Mất chiếc máy bay trực thăng UH-1 ngay giữa ban ngày ở một thành phố du lịch nổi tiếng như Đà Lạt là một cú sốc gây xôn xao dư luận trong và ngoài quân lực VNCH. Và chuyện gì đã xảy ra sau đó? Báo chí Sài Gòn đưa tin về vụ mất chiếc trực thăng UH-1 - Ảnh: M.L. chụp lại Xôn xao dư luận Tối 7-11-1973, Đài BBC nói một chiếc máy bay trực thăng UH-1 đã bị “không tặc” đánh cắp tại Đà Lạt. Trang nhất báo Sóng Thần số ra ngày 10-11 giật tít: Khó tin nhưng có thật: Mất trực thăng giữa ban ngày bên hồ thác Cam Ly! Bài báo cho biết: Một trực thăng thuộc không lực VNCH loại UH-1 từ Quảng Đức đi Nha Trang nhưng vì thời tiết xấu nên đáp xuống bãi đáp trực thăng bên bờ hồ Đà Lạt lúc 11g ngày 7-11-1973. Cả ba người để trực thăng tại bãi đáp đi dùng cơm trưa, lúc 14g ba người trở lại mới phát giác chiếc trực thăng đã bị mất cắp...”. “Phát ngôn quân sự VNCH cho biết chiếc trực thăng bị đánh cắp trị giá 237.000 mỹ kim - báo Điện Tín số ra thứ hai ngày 12-11-1973 viết: Đây là chiếc trực thăng có trang bị hai súng máy 60. Chưa biết trực thăng đã bay đi đâu nhưng tìm không ra. Phi hành trưởng của chiếc trực thăng đã bị cách chức và tống giam. Hai nhân viên phi hành khác, trong đó có trung tá phi công, cũng đã bị tống giam. Khi bị đánh cắp, trực thăng còn đủ xăng để bay trên 80 cây số”. Theo báo Sóng Thần, ngay buổi chiều cùng ngày và liên tiếp hôm sau, nhiều phi cơ thuộc không lực VNCH đã được huy động từ Sài Gòn lên Đà Lạt truy tìm nhưng đến 11g ngày 8-11 vẫn chưa tìm thấy dấu tích gì của chiếc trực thăng bị đánh cắp. Cũng theo báo chí Sài Gòn lúc đó, quân đội và chính quyền VNCH đã xác định được thủ phạm lấy cắp chiếc UH-1. Hồ Duy Hùng bị đưa vào tầm ngắm số một. “Theo trung tá Lê Trung Hiền, vụ này đang được điều tra và kẻ bị tình nghi đánh cắp trực thăng là một cựu phi công VNCH bị loại ra khỏi quân lực VNCH hồi 1971 vì hoạt động mờ ám có lợi cho cộng sản”, báo Điện Tín cho biết. Hồ sơ về Hồ Duy Hùng được lật lại. Trong khi cả phi hành đoàn bị tống giam với tội danh “tản thất quân dụng” và đối mặt với tòa án binh, Bộ tư lệnh không quân VNCH hết sức lúng túng. Họ coi đó là một tổn thất uy tín nặng nề nhất từ trước tới giờ, bởi trong không lực chưa từng xảy ra chuyện bị mất cắp nào nghiêm trọng như thế. Trong khi đó, Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia yêu cầu phải điều tra kỹ, lập hồ sơ chi tiết để đưa ra xét xử theo pháp luật. Chuyện gì xảy ra với phi hành đoàn chiếc UH-1? Chiếc UH-1 bị lấy cắp thuộc phi đoàn 219 (sư đoàn 2 không quân VNCH). Phi hành đoàn lái chiếc UH-1 hôm đó là trung tá phi đoàn trưởng Nguyễn Văn Nghĩa, thiếu tá Huỳnh Xuân Thu và thượng sĩ Trần Minh Mẫn. Vào đầu năm 2009, ông Trần Minh Mẫn đã thuật lại vụ việc trên. Bài viết được đăng tải trên một website của các cựu sĩ quan không quân Sài Gòn: “... Lúc 9 giờ sáng, phi cơ đáp xuống bờ hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ. Sau đó ba thầy trò (trung tá Nguyễn Văn Nghĩa, thiếu tá Huỳnh Xuân Thu và thượng sĩ Trần Minh Mẫn - tác giả đoạn viết này) đi vào tiểu khu Tuyên Ðức nhờ gửi phi cơ nhưng không gặp đại diện không quân ở đó. Định bay vào sân bay Cam Ly nhưng từ đó lại không có phương tiện ra thành phố, hơn nữa lúc đó thời tiết quá xấu, bay vào đáp ở trung tâm Ðà Lạt là đã giỏi lắm rồi. Anh Nghĩa rủ lên nhà hàng Mekong uống cà phê và ăn sáng. Tôi xin anh Nghĩa cho về nhà vì nhà bác tôi ở đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mekong. Thấy ngay sát bên, anh Nghĩa đồng ý cho tôi về nhà, hẹn khi nào về thì hai anh sẽ đến gọi. Tôi ở nhà chơi và chờ các anh gọi bay về Nha Trang, nhưng mãi đến 1 giờ rưỡi trưa vẫn không thấy các anh đến gọi. Tôi chạy sang nhà hàng Mekong thì không thấy các anh đâu. Sau đó tôi nhờ bác tôi chở ra nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu máy bay. Khi ra đến nơi thì không thấy máy bay đâu cả, chạy qua sân vận động gần đó cũng không thấy. Thật tình lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ anh Nghĩa la rầy mà sợ lỡ phi cơ có bị gì thì sao? Hai anh có sao không? Tôi quay ngay ra bến xe đò mua vé trở về Nha Trang. Khi về đến trại Hàm Tử khu gia binh của phi đoàn 219, lúc đó khoảng 7 giờ rưỡi tối, Hồng “già” chặn tôi lại hỏi: “Mày có biết gì không? Máy bay của mày bị mất cắp rồi”, tôi chỉ cười vì cho đây là lời đùa. Vừa về tới cửa phòng trong trại Bắc Bình Vương định lấy chìa khóa mở cửa phòng thì có hai trung sĩ không quân ngồi trên xe Ford Pick-up chờ sẵn ở đó, họ lại chào và hỏi tôi: ”Xin lỗi có phải thượng sĩ Mẫn không ạ?”. Tôi trả lời ngay: ”Vâng, tôi đây”. Một trong hai người nói:”Chúng tôi mời thượng sĩ lên phòng an ninh có việc cần”. Mặc dù mệt mỏi, tôi cũng phải lên phòng an ninh, việc đầu tiên là họ phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào căn phòng 12 mét vuông, cửa sổ bị đóng bít lại bằng ván ép dằn từ phía bên ngoài, không có đèn điện. Một lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và bốn cây đèn cầy của em bé đốt đèn trung thu, rồi khoảng 15 phút sau, họ đứng bên ngoài quăng vào cái bô nhôm nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn pin vào xem tôi có tự tử hay không. Khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì vị đại úy an ninh tôi quên mất tên cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm. Vị đại úy nói: ”Tôi biết thượng sĩ chỉ là tép riu thôi, như vậy không có gì phải sợ, thượng sĩ cứ trình bày máy bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Ðức làm gì, sau đó mấy giờ cất cánh và xuống Ðà Lạt lúc mấy giờ, và gặp ai, trông thấy ai, rồi đi về hướng nào, và cứ như thế cho đến khi thượng sĩ khám phá ra mất máy bay”. Rồi ông ta đưa cho tôi một xấp giấy bơ luya và một cây bút bi, tôi cứ hí hoáy viết và kể lại toàn bộ những gì tôi biết được. Xong, vị đại úy đọc lại rất cẩn thận rồi đọc lại cho tôi nghe, sau đó nói là sai chưa đúng, bắt tôi khai lại và ông cất tờ kia đi. Cứ như thế nhiều lần... Cho đến 2, 3 giờ sáng tay tôi cứng lại không còn viết được nữa, vị đại úy mới cho tôi nghỉ và đưa về phòng giam. Về phần anh Nghĩa và anh Thu khi đến nhà bác tôi gọi tôi đi về thì bác tôi mới nói:”Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó lên xe đò về Nha Trang rồi”. Lúc đó hai anh mới hết hồn và quyết định trình diện tiểu khu báo cáo sự việc và nơi đây phòng an ninh của tiểu khu đưa hai anh về phòng an ninh không quân Nha Trang ngày 8-11-1973. Tại Nha Trang hai anh không bị giam giữ, hai anh ở nhà và nhân viên điều tra đến tận nhà làm việc. Sau một tuần lễ, họ lại đưa thiếu tá Thu vào ở chung với tôi. Sau khi đối chiếu tất cả những lời khai của anh Nghĩa, anh Thu và tôi, phòng an ninh không quân chuyển hồ sơ về Bộ tư lệnh không quân cho trung tướng Trần Văn Minh duyệt xét, sau đó chuyển lên cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Xem xong, tổng thống đã bác lời khai của chúng tôi. Thế là thầy trò chúng tôi phải khai lại, và cứ như thế khai đi khai lại cho đến lần thứ ba, trung tướng Trần Văn Minh tuyên bố ông đã duyệt xét theo hệ thống quân giai, nếu tổng thống còn bác nữa tức là không tín nhiệm, ông sẽ từ chức. Đồng thời, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng can thiệp yêu cầu tổng thống xét lại. Cho tới lúc đó ông Thiệu mới chịu duyệt. Hết tuần lễ thứ hai, họ đưa anh Nghĩa lên phòng an ninh làm thủ tục, xong xuôi họ giải cả ba thầy trò chúng tôi ra đại đội 24 quân cảnh tư pháp Nha Trang. Sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ lý của chúng tôi, họ đưa anh Nghĩa vô quân lao, còn anh Thu và tôi được cho về. Ðến tháng 5-1974, anh Thu và tôi được Tòa án quân sự Nha Trang mời ra làm việc và mọi sự lại khai lại như ban đầu. Sau đó, trong phiên tòa xử ngày 12-7-1974, trung tá Nguyễn Văn Nghĩa bị tuyên án “8 tháng tù ở, kể từ ngày bị bắt giam”. MY LĂNG Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ 5 Tấn công hay... tháo rời? TT - Sau khi lấy được máy bay về, tối 12-11-1973, Hồ Duy Hùng được kết nạp Đảng. Buổi lễ được tổ chức ngay trong hầm của ông Năm Hà, phó Ban quân báo Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Ông Hồ Duy Hùng (phải) và ông Nguyễn Hồng Giáo, tổ trưởng tổ tình báo E4 (ảnh chụp năm 2011) - Ảnh tư liệu Sau đó anh được phong quân hàm “Đại đội bậc phó”, tương đương thiếu úy sĩ quan quân đội nhân dân VN, được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng 3 và một radio National để nghe tin tức. Lúc đó mọi người mới biết người vừa lập nên chiến công lớn cho Ban Quân báo Sài Gòn - Gia Định là Hồ Duy Hùng, người của tổ tình báo E4 thuộc Cụm tình báo J90 (Ban Quân báo Sài Gòn - Gia Định), bí danh Bảy Hiền và sau này là Chín Chinh. Chở thuốc nổ, tấn công dinh Độc Lập? Mấy hôm sau ngày kết nạp Đảng, Ban quân báo cử Sáu Lễ (phó ban) và Hồ Duy Hùng đi kiểm tra lại tình trạng máy bay, rồi về báo cáo ông Tư Chu (tức Nguyễn Đức Hùng, tư lệnh phó - tham mưu trưởng Quân khu Sài Gòn - Gia Định, kiêm chỉ huy trưởng lực lượng biệt động). Ngay sau đó, một cuộc họp mật chỉ có 4-5 người do ông Tư Chu chủ trì ngay trong phòng làm việc của trưởng Ban quân báo Năm Lâm. Nội dung là bàn phần tiếp theo của điệp vụ: lấy UH-1 chở thuốc nổ đánh dinh Độc Lập diệt tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. “Anh Tư Chu hỏi Hùng đánh như thế nào, Hùng đề xuất kế hoạch chở thuốc nổ chứ không chở bom vì UH-1 không được thiết kế để chở bom - ông Năm Nhưỡng (phó Ban quân báo) kể - Hùng nhấn mạnh phải là lượng chất nổ mạnh và chế tạo sao cho có sức công phá lớn. Cậu ấy đề xuất dùng 400-500kg thuốc nổ C4 (tương đương một quả bom 1 tấn)! Thuốc nổ C4 có sức công phá gấp 3-4 lần TNT và dễ đánh hơn TNT”. Lượng thuốc nổ gần nửa tấn sẽ gói lại, kết cấu lại giống như quả bom, to bằng hai thùng phuy treo dưới bụng máy bay. Trên máy bay chế tạo một hệ thống móc, khi bay vào dinh Độc Lập, phi công chỉ cần giật móc, “quả bom” sẽ lập tức rơi xuống. Trong “quả bom” có gắn rất nhiều nụ xòe (ngòi nổ), khi rơi xuống những ngòi nổ này sẽ bị bung ra và làm nổ hết toàn bộ lượng thuốc nổ. Theo tin từ một cơ sở quân báo trong dinh Độc Lập, lúc 7g sáng 1-1-1974, tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu sẽ tổ chức lễ đón mừng năm mới tại dinh Độc Lập. Đây là thời cơ hiếm có để tiêu diệt Nguyễn Văn Thiệu. Mọi người thống nhất theo đề xuất của Hồ Duy Hùng (Chín Chinh): dùng chiếc UH-1 chở khoảng nửa tấn thuốc nổ, đúng 8g sáng 1-1-1974 sẽ ném vào dinh tổng thống Sài Gòn. Vấn đề là bay đến dinh Độc Lập và ném “bom” như thế nào. “Khi đó ở miền Nam, ta chưa có máy bay - ông Năm Nhưỡng cho biết - Bầu trời là của đối phương nên họ không có súng phòng không. Chiếc UH-1 có thể bay theo đường 13 hoặc men theo sông Sài Gòn. Quãng đường từ căn cứ đến mục tiêu khoảng 15-20 phút. Chín Chinh sẽ giữ tốc độ 80-90km/g, bay ở độ cao 30-50m để tránh đạn nếu bị tấn công”. Mọi người rất hăng hái với điệp vụ này. Một bộ phận chuyên chế tạo bom của Quân khu Sài Gòn - Gia Định lập tức nghiên cứu tìm chất nổ, tính toán thời gian nổ và chế tạo rất nhiều loại bom chuẩn bị cho điệp vụ tối mật này. Chín Chinh phối hợp với công binh thiết kế giá treo bom dưới bụng máy bay. Khoảng 20 ngày sau, theo chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, Quân chủng phòng không không quân đã cử một số phi công và nhân viên kỹ thuật từ Hà Nội vào để nghiên cứu sử dụng chiếc máy bay UH -1 đầu tiên lấy được của Mỹ. Chín Chinh được giao nhiệm vụ huấn luyện cho phi công và kỹ thuật viên ngay tại chỗ, để sau này lấy được máy bay UH-1 có thể bay được, dùng luôn. Tuy nhiên, phương án huấn luyện bay chuyển loại tại chỗ không thành. Vì giữa rừng, công tác bảo đảm mặt đất (xe điện, vận chuyển xăng dầu khó khăn...) và kỹ thuật không đáp ứng được. Hơn nữa nếu bay lên cao radar của quân đội Sài Gòn sẽ phát hiện. Sau khi kế hoạch chi tiết được hoàn chỉnh, Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định cử Sáu Lễ mang kế hoạch đến căn cứ Bộ Tư lệnh Miền ở Tà Thiết (Lộc Ninh) để báo cáo. Trong khi đó, ở nhà ai cũng âm thầm ráo riết hoàn thành nhiệm vụ của mình và náo nức chờ ý kiến của Bộ Tư lệnh Miền để thực hiện. Công việc xúc tiến rất khẩn trương. Bom sắp đem về. Công việc phối hợp kỹ thuật để gắn bom đã hoàn thành. Hai hôm sau Sáu Lễ về, mang theo mệnh lệnh của cấp trên: không thực hiện nhiệm vụ này nữa mà đưa chiếc UH-1 mang số hiệu 60139 lên biên giới! “Quân lệnh như sơn! Không ai nói lời nào nhưng trong lòng cứ ấm ức không nguôi. Các đồng chí trưởng, phó ban mấy ngày sau vẫn trầm tư như sau một chiến dịch thất bại” - Hồ Duy Hùng nhớ lại. Sau đó Sáu Lễ và Chín Chinh được gọi lên Bộ Tư lệnh Miền để nhận nhiệm vụ. Tại đây, tham mưu phó quân giải phóng miền Nam Nguyễn Minh Châu giao nhiệm vụ phải đưa chiếc UH-1 này lên vùng rừng sâu giữa Tây Ninh và Lộc Ninh để chờ lệnh. Sáu Lễ và Chín Chinh được lệnh phối hợp với một đơn vị pháo binh bàn bạc kế hoạch chi tiết, chọn thời gian và địa điểm hạ cánh, đảm bảo an toàn cho chiếc UH-1. Theo hợp đồng tín hiệu, đơn vị này sẽ đốt khói hiệu ngay rìa bãi đáp, cách doanh trại của đơn vị chừng 5km. Sau khi nghe báo cáo lại, đại tá Bùi Cát Vũ, tư lệnh pháo binh miền, đồng ý và nói: “Trong buổi chiều đó tôi sẽ lệnh cho các loại súng, pháo phòng không từ 12 li 7 trở lên sẽ không bắn trực thăng UH-1, còn súng bộ binh thì các đồng chí phải... tự lo liệu để tránh!”. Gian nan bảo vệ UH-1 Khoảng 5g chiều một ngày cuối tháng 11-1973, Chín Chinh chuẩn bị nổ máy thì nghe tiếng động cơ máy bay và thấy một chiếc máy bay trinh sát của không quân Sài Gòn bay vòng vòng phía nam. Sau nửa tiếng quần thảo nó mới chịu bay đi. Vậy là trễ mất 30 phút so với thời gian hiệp đồng với đơn vị pháo binh! Chín Chinh lấy hướng đã định và bay rất thấp. Trần Anh Phới, một sĩ quan không quân, ngồi ghế lái phụ kiêm dẫn đường. Bay hết thời gian dự kiến, không thấy bãi đáp, trời bắt đầu tối vì mùa này mặt trời lặn sớm. “Bay thêm gần một phút nữa, tôi biết mình đã đi lệch hướng và đã vượt quá điểm hẹn nên phải vòng lại tìm bãi đáp - ông Hùng kể - Thấy phía trước có đám lửa và khói, tưởng bãi đáp, tôi bay đến thì thấy nhiều bộ đội chạy ra và đạn lửa bay lên rất nhiều”. Có mấy viên trúng vào máy bay kêu cốp cốp! Chín Chinh lách qua lách lại để tránh đạn của... quân ta. Rồi lại thấy một đám khói khác, cũng như lần trước, chiếc UH-1 vừa trờ tới lại bị bắn dữ dội. Đến lần thứ ba thì càng bị bắn nhiều hơn. Bây giờ trời đã tối hơn, phải tìm cách hạ cánh ngay! Sau khi đã tìm được chỗ hạ cánh tạm thời, kiểm tra lại mới biết do nhầm lẫn nên anh Phới đã chỉ lệch phải khoảng 10-15 độ. Nghĩa là họ đã lệch ra phía Lộc Ninh và không biết cách điểm hẹn bao xa! “Sáng hôm sau, tôi mở hết hai cửa thân máy bay để khi hạ xuống thấy máy bay trống trơn, không thấy biệt kích bộ đội sẽ đỡ bắn. Tôi hạ độ cao và chọn một bãi cỏ tranh để hạ cánh. Khi tôi vừa tắt máy và kéo cần cho cánh quạt giảm nhanh, anh Phới nhảy ngay ra khỏi máy bay la thật to: “Máy bay của giải phóng, không bắn”. Tôi nhảy xuống, thấy nhiều anh em bộ đội đang lố nhố ở các gốc cây, lăm lăm chĩa súng vào” - ông Hùng nhớ lại. Sau khi đọc xong tờ giấy viết tay của tham mưu phó Quân Giải phóng miền Nam, người đàn ông có vẻ như là chỉ huy nói to: “Anh em, máy bay của ta, máy bay của ta! Cất súng vào, ra chặt cây ngụy trang máy bay đi...”. Đây là đơn vị bảo vệ của Bộ Tư lệnh Miền. Ông Hùng cho biết thêm: “Hôm sau khi các đồng chí ở đơn vị gần đó đến chơi, kể lại là tối hôm trước do không biết nên các anh đã bắn chiếc UH-1 của chúng tôi hết 270 viên AK! Máy bay bị trúng năm viên nhưng không trúng chỗ hiểm”. Tháng 3-1974, Chín Chinh cùng Nguyễn Tư Long (một sĩ quan kỹ thuật không quân) nhận được lệnh: tháo rời chiếc UH-1, đưa gấp ra Bắc. Đó là một mệnh lệnh không ai nghĩ tới! MY LĂNG Số phận kỳ lạ của chiếc trực thăng UH-1 số hiệu 60139 - Kỳ cuối: Chở UH-1 vượt Trường Sơn ra Bắc TT - Ngày 10-3-1974, với sự hỗ trợ của Cục Hậu cần Miền, Nguyễn Tường Long (sĩ quan kỹ thuật không quân), Hồ Duy Hùng cùng thượng úy Phạm Văn Bờ và trung úy Hoàng Đức Ngư (hai kỹ thuật viên của miền Bắc) bắt đầu tháo rời chiếc UH-1. Họ lần mò tháo chiếc máy bay trực thăng bằng tất cả những gì học được và... nhớ được. Hàng ngồi, từ phải qua: ông Năm Nhưỡng, nguyên phó ban quân báo Sài Gòn - Gia Định, ông Hồ Duy Hùng và các đồng đội trong ngày gặp mặt - Ảnh tư liệu Tháo rời UH-1 bằng dụng cụ sửa ôtô! Cựu thiếu tá không quân nhân dân VN Lê Thành Chơn cho biết: theo những tài liệu của quân đội VNCH, Trung tâm Không ảnh không quân ở phi trường Tân Sơn Nhất nhận một lúc hai bức không ảnh cho thấy một chiếc UH-1 đang đậu cùng với những chiếc trực thăng của Liên Xô tại một sân bay ở phía tây Hà Nội. “Những sĩ quan chỉ huy tại Trung tâm Không ảnh không quân bàng hoàng với câu hỏi: chiếc UH-1 số hiệu 60139 có thể bay ra Hà Nội? - ông Chơn kể - Nhưng họ lập luận: nó đã bay trên 200 giờ, chỉ còn 10 giờ bay nữa là đưa đi đại tu. Từ căn cứ Việt cộng ra Hà Nội chỉ riêng trên đường bay đã mất khoảng 12 giờ, chưa kể cất cánh và hạ cánh. Như vậy nó không thể nào bay ra Hà Nội được, trừ khi... “mọc thêm cánh”. Với một số dụng cụ sửa ôtô, chiếc máy bay UH-1 được tháo rời thành ba bộ phận: hai cánh quạt và đuôi tháo rời khỏi thân. Khó khăn nhất là phần tháo ống đuôi vì không có máy để đo mà dùng bằng tay rất thủ công nên phải nhớ độ siết của ốc để khi ráp lại, siết vào sẽ đúng độ khít vừa vặn. Nếu siết nhiều sẽ đứt con ốc, nếu siết nhẹ ốc sẽ bị long ra rất nguy hiểm cho người lái và cả máy bay khi sử dụng. “Chú Long phụ trách phần này. Không có máy và đồng hồ để đo, chú phải dựa vào cảm giác của tay để biết độ siết của con ốc”, ông Hùng kể. Một kỹ sư ôtô tên Chậm của Cục Hậu cần Miền được điều tới cùng hai xe Zil 157 và một xe Gaz 63 của Liên Xô. Sàn của một chiếc Zil 157 được tháo ra cho thấp xuống và thiết kế lại giàn khung để chở thân máy bay. Còn chiếc Zil khác chở hai cánh quạt và ống đuôi. Chiếc Gaz 63 thì chở các đồ linh tinh. Kỹ sư tên Chậm nhưng anh là người thông minh, nhanh nhẹn. “Với dụng cụ sửa ôtô và một chiếc xe cẩu của Mỹ, chúng tôi đã hoàn thành việc tháo và đưa các bộ phận máy bay lên xe và ràng buộc kỹ lưỡng, chỉ mất ba ngày” - ông Hồ Duy Hùng kể. Chiều 26-3-1974, anh Sáu Đức - cán bộ của Bộ tham mưu Miền - đến tiễn và giao nhiệm vụ cho đoàn công tác đặc biệt này một lần nữa. Anh dặn dò: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải đưa được chiếc trực thăng này ra Bắc an toàn, nguyên vẹn và... bay được”. Nguyễn Tường Long và Hồ Duy Hùng là người chịu trách nhiệm cao nhất trong nhiệm vụ khó khăn này. 4g chiều, đoàn xe nặng nề chuyển bánh. Hồ Duy Hùng theo chiếc xe chở thân máy bay, còn Nguyễn Tường Long ngồi trên chiếc Zil chở hai cánh quạt và ống đuôi. Ông Hùng nhớ lại: “Đó là một hành trình gian nan không tả hết mà tới giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy sợ. 30 ngày đi gần 2.000km từ Lộc Ninh đến Sơn Tây như cực hình, nhất là từ Lộc Ninh theo đường Hồ Chí Minh qua Campuchia, qua Lào vào Lao Bảo (Quảng Trị)... Đường bình thường đã khó đi đối với xe chở hàng hoặc chở quân. Ở đây lại phải chở một chiếc trực thăng kềnh càng”. Đường Trường Sơn rất khó đi. Đường hẹp. Đèo cao. Suối sâu. Dốc thẳng đứng. Có những đoạn đường từ sáng sớm tới chiều chỉ đi được chừng 10km vì đường hẹp, cây rừng hai bên giao cành với nhau, vừa đi vừa chặt những cành sà xuống chắn lối, vướng vào thân máy bay. “Cứ chạy gần 60m lại phải leo lên leo xuống gỡ dây, chặt cành khiến tôi muốn hụt hơi. Có chỗ cây to quá, phải lấy súng bắn để công binh của binh đoàn Trường Sơn đến, nhờ họ dùng chất nổ phá cây. Có đoạn đường qua ngầm xóc quá, xe cứ nhảy chồm chồm, phải vịn chặt tay vào bất cứ thứ nào bám được trong xe” - ông Hùng kể. Chưa hết, có ngày gặp mưa trái mùa rồi “đụng” cả mấy trung đoàn pháo phòng không, xe chở bồn chứa dầu... ở những đường đèo hẹp. “Có chỗ chật cứng toàn xe là xe, đi ra không được mà đi vô cũng không xong, kẹt cứng cả ngày trên đỉnh đèo, khát nước không còn một giọt để uống”, ông Hùng kể. Họ phải đi toàn ban đêm vì khi đó chưa có lệnh cho phép đi ban ngày. Cứ di chuyển từ 4g chiều đến sáng là nghỉ. Cứ đi một đêm 120 - 150km sẽ có một trạm dừng chân để tắm rửa, ăn uống, nhận thêm lương thực (gạo, bột trứng, thịt hộp, nước...) mang theo. Có khi xe hư phải dừng ở trạm 3 - 4 ngày. “Ở thành phố kiếm người sửa xe đã khó huống hồ giữa rừng. Chúng tôi phải nhờ công binh và kỹ thuật của trạm tới giúp”, ông Hùng bảo. Nhưng đáng sợ nhất là những hiểm nguy thập tử nhất sinh luôn bất ngờ phát sinh dọc đường đi. Ấy là khi xe đang đổ dốc, trời mưa, đường trơn, lái xe phanh lại thì bất ngờ chiếc xe quay ngang, trôi tuồn tuột xuống rồi may mắn dừng sát ngay mép vực! Lần khác, cũng vẫn là chiếc xe mà ông Hùng ngồi, bị xe kéo pháo quẹt vô làm bể kính máy bay và kéo chiếc UH-1 suýt rớt xuống hố! Mấy ngày sau, khi chiếc xe tải chở thân máy bay cao lêu nghêu bò lên một đỉnh dốc khác, vừa tới khúc quanh của triền núi, thình lình một chiếc xe tăng trên dốc lao xuống, anh em hốt hoảng nhưng xe tăng kịp thắng lại. Đầu xe tăng cách xe chở máy bay chỉ vài mét! Thật hồn vía lên mây vì bên trái xe là thăm thẳm vực sâu. Anh em đổ mồ hôi hột! Ngày 26-4-1974, sau 30 ngày gian nan, khổ ải, họ cũng về tới sân bay Hòa Lạc (Sơn Tây). Mấy ngày sau, được sự giúp đỡ của trung đoàn không quân vận tải 919 với những phương tiện sửa chữa máy bay chuyên dùng của Liên Xô cùng một số thợ cơ khí, chiếc UH-1 đã được lắp ráp lại hoàn chỉnh. Những chỗ hư hỏng nhẹ lúc vận chuyển và các vết lủng do bị bắn khi bay về Lộc Ninh cũng được sửa chữa kịp thời. Để kịp thời gian trở về chiến trường, Nguyễn Tường Long và Hồ Duy Hùng báo cáo ngay tới Bộ tư lệnh Không quân tình trạng máy bay tốt và đề nghị cho bay thử để bàn giao. Bay thử với chiếc UH-1 được lắp ráp Bay thử chiếc máy bay trực thăng UH-1 lúc này là một thử thách hơn mọi thử thách! Bình thường máy bay được bảo quản trong điều kiện gần như tuyệt đối về các thông số kỹ thuật, nhưng với chiếc UH-1 này đã được tháo rời bằng dụng cụ sửa chữa ôtô, lại chở bằng ôtô vượt hơn ngàn kilômet qua đủ các loại địa hình. “Không ai dám đứng ra đảm bảo độ an toàn của chiếc UH-1 vừa được lắp ráp này. Tôi và chú Tường Long liều mình đảm nhận”, ông Hùng bật cười, nhớ lại quyết định mạo hiểm đầy rủi ro ấy. 8g sáng 10-5-1974. Đích thân thiếu tướng Hoàng Phương, chính ủy không quân, đã đến từ sớm để xem cuộc bay thử tại sân bay Hòa Lạc. Hồ Duy Hùng được phép cất cánh. Nguyễn Tường Long lái phụ. Theo yêu cầu, chiếc UH-1 thực hiện một số động tác hạ cánh xuống địa hình khó như dưới ruộng xâm xấp nước, bay vượt chướng ngại và một số động tác theo yêu cầu khác. 30 phút bay thử kết thúc, thành công tốt đẹp. Khi hạ cánh xuống, Hồ Duy Hùng nhờ Tường Long kiểm tra lại ống đuôi. Tường Long giật mình lạnh ót khi phát hiện ba con ốc trong sáu con ốc vít đuôi hộp số 90 độ (gắn đuôi với cánh quạt đuôi) bị gãy nhưng vẫn nằm trong ổ nên trước khi bay dù kiểm tra rất kỹ vẫn không phát hiện. Có lẽ do trong quá trình vận chuyển, máy bay bị lắc quá mạnh. Đó là điều may mắn vô cùng lạ lùng! Ngay sau cuộc bay thử thành công, thiếu tướng Hoàng Phương lệnh cho chỉ huy đoàn trực thăng MI-6 cùng Hồ Duy Hùng lập phương án huấn luyện cấp tốc sử dụng UH-1 cho một tổ phi hành của đoàn. Và ngay sau giải phóng Sài Gòn, trực tiếp phó tư lệnh quân chủng phòng không không quân, đại tá Đào Đình Luyện, đã cho gọi Hồ Duy Hùng đến và giao nhiệm vụ bay thử tất cả máy bay UH-1 tiếp quản được. MY LĂNG Ngày 07 tháng 11 năm 1973 VỤ ÁN MẤT MÁY BAY TRỰC THĂNG UH.1 H SỐ 60139 PHÐ : NGHĨA – THU – MẪN. Sáng sớm ngày 06 tháng 11 năm 1973 Anh Thu gặp Mẫn nói “ Chú về sửa soạn đi bay Quảng Ðức ngay nhớ mang theo đồ ngủ đêm “Tôi chộp vội bộ đồ nhái cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino sau đó tôi theo Anh Thu và Anh Nghĩa ra kiểm tàu số 139 chúng tôi lên Quảng Ðức thăm biệt đội đang biệt phái nơi đây, Khi đến nơi Chi Khu trưởng thuộc Tiểu Khu Phú Bổn nơi đây tiếp đón niềm nở, phòng nghỉ biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay, từ sân bay qua một con phố xuống dốc rồi lại vòng lên đồi nơi nghỉ ngơi của Biệt Ðội 219, khí hậu ở đây ban ngày thì rất nóng nực nhưng ban đêm thì lại lạnh vô cùng, vì chung quanh toàn là núi đá, Anh Nghĩa và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Ðội hỏi thăm tình hình cuộc sống ăn ở của Anh Em, sau đó Anh muốn ở lại đêm để khích lệ Anh Em , Chiều xuống cái lạnh gía bắt đầu, và rất buồn tẻ, phố xá không có sự nhôn nhịp họ đều tụ tập tại nhà không muốn ra đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn tròn vàng ố không đủ thắp sáng một căn phòng, vì vậy Anh Em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ, nơi đây không có giường chì có ghế bố xếp nhà binh, và đôi khi một vài Anh Em phải ngủ chung một ghế bố vì không đủ giường bố, rất may vì trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu, khoảng 10 giờ đêm khi mọi người đã ngủ thì Chi Khu xuống báo Ðịch quân hăm đánh vào Chi Khu và sân bay, Thế là toàn bộ Anh Em biệt đội ra ứng chiến tại sân bay, Tất cả mở máy kiểm tra tình trạng PC và tắt máy nghe Tr/T Nghĩa hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay khi gặp trường hợp overun , sau đó ai về tàu nấy, Còn lại ba thầy trò chúng tôi trên tàu và một Pilot tôi quên tên ngồi chơi Domino, cứ chơi như vậy cho đến sáng , ban đầu thì tôi thắng nhưng khi đến gần sáng thì Anh Nghĩa gôm sạch. Sáng sớm chúng Tôi bay trở về Nha Trang, bay một đoạn Anh Nghĩa nói “ Thu mày bay thử vào trong đám mây kia xem “Anh Thu bay vào khoảng 5 phút, Anh Nghĩa bay ra lại và nói “mày không chịu khó bay instrument sao mà bay kỳ dậy “ Rồi tiếp tục Anh Nghĩa lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghĩa lại bay ra, mây mỏng cứ lất phất lướt qua PC, sau đó Anh Nghĩa lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghĩa cầm control, và Anh nói luyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời, Anh Nghĩa hỏi Tôi “ Mẩn mày thấy mây thế nào , mây màu gì kìa “Tôi lưỡng lự nhìn vào mây trước mặt và nói “ Tôi thấy mây màu hồng Tr/Tá “ Anh Nghĩa phá lên cười và nói “Trơi ơi thằng này Vertical ( ý nói Vertigo) quá rồi, cho mày cầm lái chắc là chết hết Anh Em “, rồi anh quay qua Anh Thu cũng hỏi mây màu gì và Anh cứ nói và tìm cách la rầy rồi chỉ dạy lung tung , rồi Anh cứ ù bay, 15 phút, rồi 20 phút, rồi 30 và Anh cứ vững tâm mà bay , PC vẫn êm ru, Anh cứ nói chuyện dần lên dến gần tiến đồng hồ trong mây , sau đó Anh hỏi Anh Thu thấy ở phía dưới lờ mờ cây “mày biết mình bay tới đâu rồi không “Anh Trông thấy có đường ở phí dưới và nói ngay “Ở dưới là Ðơn Dương" Anh Nghĩa theo con đường đó vào đến Ðà Lạt lúc 9 giờ sáng, khi đáp xuống bở Hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ, Tôi cất các hành trang của tôi vào sau tail cone ngay chỗ oil cooler fan, sau đó Ba thầy trò đi vào Tiểu Khu Tuyên Ðức nhờ gởi PC nhưng không gặp Alo đai diện KQ ở đó định vào sân bay nhưng lại không có phương tiện ra … và thời tiết thì đang quá xấu vào đến trung tâm Thị Xã Ðà Lạt là giỏi lắm rồi, chúng tôi trở ra lại máy bay, sau đó Anh Nghĩa rủ lên nhà hàng Mekong uống cafée và ăn sáng, Tôi xin Anh Nghĩa cho về nhà vì nhà Bác tôi đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mekong, thấy ngay sát bên cạnh, Anh Nghĩa đồng ý cho tôi về nhà, hẹn khi nào về Anh Nghĩa và Anh Thu sẽ gọi, Tôi ở nhà chơi và chờ các Anh gọi về NhaTrang, nhưng mãi đến 13 giờ 30 không thấy các Anh gọi, tôi chạy qua bên nhà hàng Mekong thì không thấy các Anh đâu, Tôi sơ ý không lên trên lầu, sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra Nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu PC, khi ra đến nơi thì không thấy máy bay đâu cả, chạy qua chỗ sân vân động gần đó cũng không thấy, Tôi nghĩ chắc Anh Nghĩa và Anh Thu quên gọi tôi rồi, hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà thượng sĩ gọi đi bay, các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lý đó, và tất cả những thắc mắc hay nghi vấn chỉ là nhưng điều vô lý mà thôi, và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghĩa và anh Thu bay về thì đồ đạc của Tôi dấu vào sau chỗ oil cooler Fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra hút vào trong cánh quạt của oil cooler thì khổ, và thắc mắc lo âu cứ thế mà dồn dập , rồi cái túi halmet đã kéo phéc mơ tuya chưa, Thật tình lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ Anh Nghĩa la rầy mà sợ lỡ PC có bị gì thì sao, hai Anh có sao không … Tôi quay ngay ra bến xe đò mua vé trở về Nha Trang, trên dọc đường tôi rất là lo lắng và mệt mỏi, rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi, lát sau giật mình thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay mình để lên đùi một cô gái, cô cầm tay tôi nhẹ để qua đùi tôi , Tôi quê quá vội vàng xin lỗi, cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng, cô gái cởi mở và thật là có duyên với đôi răng khểnh dễ thương, Tôi quên hết mọi bồn chồn lo lắng, bắt đầu tấn công cô gái, suốt chặng đường chúng tôi đã quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Nàng Hường tên cô bé đã cho tôi địa chỉ hẹn ngày hôm sau tôi sẽ đến tìm , Khi về đến trại Hàm Tử khu gia Binh của Phi Ðoàn 219 lúc đó khoảng 19 giờ 30 tối, Hồng già chặn tôi lại “mày có biết gì không ?, máy bay của mày đã bị mất cắp rồi, “ Tôi chỉ cười cho đây là đùa và vậy là Anh Nghĩa về với Anh Thu rồi, Tôi thấy yên chí hơn, sau đó Tôi gặp Trần Mạnh Nghiêm, nó nói “mày về Phi Ðoàn ngay đi máy bay bị mất rồi, để tao chở mày vô “Mọi người đều nói một cách nghiêm trang vậy là có thật. Lúc này tôi không còn hoang mang nữa, chẳng hiểu vì sao, không thấy sợ, không thấy lo nghĩ, cứ dững dưng như không có chuyện gì cả, vì cái từ mất máy bay hay mất cắp máy bay nó không có trong Tự Ðiển của HÀN LÂM VIỆN lưu trữ trong đầu tôi, thành ra trong đầu tôi cứ trống rỗng như không có chuyện gì, Có lẽ chỉ số thông minh của Tôi thấp nên không có biết suy nghĩ và không biết phản ứng xử lý như thế nào? nhưng thật tình lúc đó tôi lại thấy mệt lả cả người, Vừa về tới trước cửa phòng trong trại Bắc Bình Vương định lấy chìa khóa mở cửa phòng thì có hai trung sĩ KQ ngồi trên chiếc xe Ford pickup chờ ở đó họ lại chào Tôi và hỏi “ xin lỗi có phải là Thượng Sĩ Mẫn không Ạ ? “ Tôi trả lời ngay “ Vâng Tôi đây “ Một trong hai người nói “Chúng Tôi mời Th/S lên phòng An Ninh có việc cần “ Tôi vô tư trả lời “ Tôi mới vừa về các Anh có thể để cho Tôi tắm một cái rồi Tôi lên ngay “ Nhân viên An Ninh trả lời “ Không có gì đâu , Th/S lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà “mặc dù mệt mỏi Tôi cũng phải lên xe về Phòng An Ninh. Khi lên đến phòng An Ninh, việc đầu tiên họ làm là phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào một căn phòng 12 mét vuông, cửa sổ đóng lại và họ lấy ván ép đóng dằn lên phía ngoài , không có đèn điện , lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của Em bé đốt đèn trung thu, rồi khoảng 15 phút sau họ đứng ngoài quăng vào tiếp một cái bô nhôm, nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn pin vào xem tôi có tự tử hay không, và khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì viên Ðại Úy Sĩ quan An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm thấy điệu bộ của Ð/U Anh Ninh Tôi hiểu ngay là họ làm như vậy nãy giờ là để dọa tôi và cũng là để câu giờ chờ Sĩ Quan đến để thẩm vấn tôi . Viên Ð/U nói “ Tôi biết Th/s chỉ là tép riu thôi như vậy không có gì phải sợ, Th/S cứ trình bày máy bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Ðức làm gì sau đó sáng mấy giờ cất cánh và đáp xuống Ðà Lạt lúc mấy giờ và gặp ai trông thấy ai, rồi đi về hướng nào ,và cứ thế cho đến lúc thượng sĩ phát hiện ra mất máy bay “ rồi ông ta đưa cho tôi một sấp giấy Bơ luya và một cây bút bi, Tôi cứ hí hoáy viết và kể toàn bộ những gì Tôi biết được, qua dàn bài và cách thức sắp xếp văn bản của viên Ð/U A.N , Sau khi xong viên Sĩ quan điều tra đọc lại rất cẩn thận , rồi đọc lại cho tôi nghe sau đó nói là sai chưa đúng , bắt tôi khai lại và tờ kia ông cất đi , cứ như thế nhiều lần… Sau cùng Ðiều Tra viên nói “ Bây giờ Th/S suy nghĩ kỹ máy bay đáp tại Ðà lạt quay đầu về hướng nào và từ máy bay ra đường là bao xa , có nhìn vào nhà hàng thủy tạ không và nếu nhìn thì thấy gì, sau đó Th/S bước ra đường nhìn thấy ai đi về hướng nào, và Họ mặc áo gì , Th/S có thấy người mặc áo Pardessus màu xám đầu đội nón nỉ đen không, và người này quen với Tr/T Nghĩa như thế nào. Bước chân Th/s dài bao nhiêu 9 tấc hay 1 thước, cho là 1 thước đi vậy từ đường cái Th/s đi dược 15 hay 20 bước có nghĩa la cứ ø đi được 20 thước th/s nhìn về đâu và đang suy nghĩ gì lúc đó mấy giờ thấy ai , cứ tuần tự như thế mà kể cho đến cầu ở đầu bờ hồ “ Và theo lời ông ta tôi lại viết, càng viết lại càng viết lại cứ như vậy cho đến ba giờ sáng, tay tôi không còn viết được nữa chữ CH thì viết chữ H chông lên chữ C . nó cứ cứng cái tay lại lúc đó Ð/U điều tra viên mới cho tôi nghỉ, và đưa về phòng giam, Trong lúc đó Anh Nghĩa và Anh Thu khi đến nhà bác Tôi gọi đi về thì Bác Tôi mới nói “ Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó đi xe đò về Nha Trang rồi “Lúc đó Hai Anh hết hồn và rất lo âu sau đó nhờ Bác Tôi chở vô Phi Trường Cam Ly bằng xe LaDalat vẫn không thấy sau bác Tôi đưa hai Anh về Tiểu Khu Tuyên Ðức Ðà Lạt hỏi thăm tế nhị vẫn không ra và Hai Anh Quyết định Trình Diện Tiểu khu báo cáo sự việc và nơi đây Phòng An Ninh Tiểu Khu đưa Hai Anh về Phòng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 08 tháng 11 năm 1973, Nơi đây không giam giữ hai Anh, và hai Anh Nghĩa & Thu ở nhà , nhân viên điều tra đến tại nhà làm việc. Tôi bị giam như vậy lúc đâu tưởng về ngay nên tôi nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng , nhưng rồi vừa nóng lại vừa ngộp Tôi cứ lấy thuốc lá đục thủng từ từ , lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau lỗ lớn lại to , cuối cùng thì có nó cũng như không vì chỗ nào cũng có muỗi , còn ăn uống thì mỗi bữa nhờ nhân viên An ninh mua hộ một ổ bánh mì và một bịch nước mía, còn bạn thì chẳng thấy ma nào bén mảng đến nữa, họ sợ liên lụy chăng, hay là phòng An Ninh không cho vô thăm, ăn bánh mì mãi cũng không thể nuốt nổi, mà Phòng An Ninh không có quy chế ăn uống, Tôi phải tự túc nhờ mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi thì sau một tuần lễ , Họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi, lúc đó họ mới cho hai cái giường sắt vào phòng, rôi họ đóng cửa lại , lát sau viên Ð/U điều tra Tôi vào xin lỗi “Thiếu Tá thông cảm, tôi phải đóng cửa lại “ Anh Thu tức giận nói “ Thiếu tá cái gì, tao là thằng tù “ Ð/U An ninh trả lời “ Lệnh trên chứ tôi đâu dám “Anh Thu nhẩy chồm tới “Tao là thằng Tù mày có ra ngoài không ? “ Thế là viên Ð/U nhẩy ra ngoài và từ hôm đó ngày đêm không đóng cửa, Rồi Chị Thu mỗi bữa mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cho cả Tôi nữa , Chị Thu còn làm một lon gigo đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng Anh Thu không thích ăn , nên giao cho tôi xử lý nó, hai thầy trò được đi lại hay ra ngoài sân hóng mát thoải mái. Tất cả những lời khai của Anh Nghĩa , Anh Thu và Tôi được đối chiếu xong suôi Phòng An Ninh chuyển gấp hồ sơ của chúng tôi về Tư Lênh Không Quân Trung Tướng Trần Văn Minh xét duyệt sau đó chuyển lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, khi xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi , thế là thầy trò chúng tôi phải khai lại và cứ thế khai đi rồi khai lại đến lần thứ ba Tướng Tư Lệnh Không Quân Tuyên bố nói Oâng đã duyệt theo hệ thống Quân giai nếu Tổng Thông còn bác nữa là đã không tín nhiệm ông Thì ông sẽ từ chức, Ðồng thời lúc đó Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại cho lúc đó ông Nguyễn Văn Thiệu mới chịu duyệt. Và đến hết tuần thứ hai họ lại đưa Anh Nghĩa lên phòng An Ninh làm thủ tục xong họ giải cả Ba thầy trò chúng Tôi ra Ðại Ðội 24 thuộc Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang. Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang là một giẫy nhà kiến trúc theo kiểu Pháp cất dã chiến, những phòng làm việc thì bừa bộn, thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung, nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn trong phòng An ninh Không Quân Nha Trang, Khi chúng Tôi đến nơi Một Ðại Úy Chấp Pháp lấy cung chúng Tôi từng người một , và không như trong A.N KQ họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép chứ không để cho chúng Tôi tự ghi chép , và họ viết lại theo giọng điệu của chúng Tôi, Anh Nghỉa vô làm việc trước sau đến Anh Thu và cuối cùng mới đến Tôi , khi họ làm việc cùng Anh Nghĩa xong họ mời Tôi vô đối chứng câu nói của Anh Nghĩa, trước mặt Anh Nghĩa ông Ta hỏi Tôi “ Thượng Sĩ có thể cho chúng Tôi biết , Th/S Nghĩ như thế nào Khi Trung Tá Nghĩa nói với chúng Tôi là ( Tôi ra Lệnh cho thuộc cấp đi chơi ) “ Tôi im lặng một vài giây xong trả lời “ Ð/U cũng là một quân nhân, vậy chắc hẳn là Ð/U biết cấp trên ra lệnh thì thuộc cấp phải thi hành, Theo Tôi khi cấp trên đã ra lệnh đúng sai tôi vẩn phải thi hành , còn sau khi thi hành xong thì vấn đề sai mà hợp lý với Tôi thì chẳng bao giờ khiếu nại làm gì “, Chấp pháp viên có vẻ không hài Lòng vì câu nói của Tôi gắt lên “ Thượng sĩ ra ngoài đi “ sau đó mời Thiếu Tá Thu vào tiếp tục làm việc , Anh Ta lấy cung rất là lâu nên Tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư , Anh Nghĩa thấy vậy nói “ này cái thằng chết nhát, có ai khai cho chú đâu mà vẻ mặt lo lắng và lo sợ vậy hả . xem Anh đây này, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, vợ con … mất hết mà Anh có lo lắng điều gì đâu, mọi việc đã sảy ra rồi, thì việc gì đến cũng sẽ đến, có lo lắng cách nào thì nó cũng phải đến vậy thôi “, rồi việc lấy cung của tôi cũng kéo dài đến chiều, xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng Tôi, vì ở nơi đây chỉ có phòng tạm giam , mà phòng tạm giam thì toàn là lính TRỜI ƠI không thôi, nào là sì ke, ăn cắp, hiếp dâm, đào ngũ, đánh lộn vân …vân… mà phòng tạm giam thì chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt Phi trường chung quanh trống trơn mái cũng bằng vỉ sắt, nếu mưa thì cứ chịu trận vậy thôi và vì không có chỗ giam chúng Tôi nên buộc lòng họ nhường ba giường sắt của họ cho ba thầy trò chúng tôi nằm, còn họ nằm dưới đất, sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ Lý của chúng Tôi, họ đưa Anh Nghĩa vô Quân Lao còn Anh Thu và Tôi được cho về, Lúc này mới nhớ ra cô Bé Hường mà Tôi mới chỉ nắm tay trước đó 20 ngày, Tôi lục tìm địa chỉ mà Em đã cho Tôi, Nó đã thất lạc mất rồi, Tôi tiếc ngẩn người, đã đánh mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu . Vài ngày sau Tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghĩa , Anh trông thất Tôi nói ngay “Thằng chết nhát … mày vô đây làm gì, họ bắt nhốt mày vô đây bây giờ“ , Anh tư thế thật ung dung tôi đưa cho Anh Quyển PAPILON (Người Tù Khổ Sai) , Anh phì cười khi thấy tựa đề cuốn truyện… và Anh kể cho Tôi biết ngày Anh vô đây gặp một tên Ðại Bàng trong Tù khi hắn biết Anh là Phi Ðoàn Trưởng 219, hắn kính phục Anh ngay, vì hắn cũng là một quân nhân, và hắn ta đã nghe về nhưng huyền thoại 219 đồng thời ngoài đời Anh Ta là một tay Anh Chị khét tiếng ở Nha Trang và Anh Ta cũng có một đôi lần đụng độ với những kẻ lì lợm của 219 khi PÐ 219 chưa về Nha Trang vào những năm 1968 – 1969, Và hình như Anh ta là kẻ chém lầm vào tay Anh Châu Lương Cang tại Bar số 1, Khi gặp Anh Nghĩa Hắn ta nể phục ngay , và ra lệnh cho đàn Em phục vụ Anh Nghĩa trong mọi tình huống và nhu cầu Anh muốn, Anh ta tuyên bố với đàn Em “ Ðây là một Ðại ca giang hồ Trí thức của Anh ta “. Sau này một tháng hay vài tuần Anh đều được về phép do Anh Ðặng Duy Lạc và Chuẩn Tướng Lượng bảo lãnh. Khi vào thăm Anh Nghĩa, Lính gát Quân Lao đòi tôi phải trình căn cước Quân Nhân, lúc đó Tôi mới biết là từ ngày nhập Ngũ lên đến Thượng Sĩ mà không hề nghĩ đến làm căn cước quân nhân. Từ lúc đó tôi mới về Phòng Nhân Viên Không Ðoàn Yểm cứ Nha Trang lúc đó là Trung Tá Lê Trọng Hiệp Quyền Không đoàn trưởng KÐ.YC. NTG xin làm căn cước, PNV đòi hỏi Tôi phải có căn cước dân sự mới được làm, vì là Hạ Sĩ Quan cần phải có song song hai căn cước Quân nhân & dân sự . Khi Tôi trình căn cước dân sự thì họ nói CC này không hợp lệ vì đả đổi mẫu mới từ nhiều năm nay rồi, thế là Tôi lại phải ra Cuộc Cảnh Sát ở Ðường Nguyễn Hoàng Nha Trang, Nơi đây Họ cho biết hiến pháp bắt buộc mọi công dân của nước Việt Nam Công Hoà phải có lược giải cá nhân khi chưa nhập ngũ , và phải có căn Cước để chính Quyền theo dõi mọi lý lịch Công Dân, và cũng thuận tiện điều tra tội phạm, và đã quy định toàn dân phải thay đổi căn cước mẫu mới, ai không tuân theo quy định của luật pháp sẽ bị truy tố. Chính vì vậy họ giải tôi ra quân cảnh tư pháp, Một lần nữa Tôi lại có duyên với Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang , lần này thì khác hơn lần trước, Tôi không được ưu đãi mà họ đưa Tôi thẳng vào cũi vĩ sắt , không có nước, làm vệ sinh tại chỗ, ăn uống thì theo tiêu chuẩn cao nhất nước, ngày hai lần một sô cơm không và một sô nhỏ nước mắm , nói là nước mắm cho lịch sự, chứ thật ra nước trà pha với muối, chén bát tự túc, Tôi không thể nào ăn theo kiểu này được, nhưng những quân nhân phạm tội ở đây họ ăn rất ngon lành, hàng ngày có Quý và Nghiêm mang thức ăn đến cho tôi, đúng ra họ chỉ làm việc với Tôi qua loa là cho về ngay, nhưng hình như họ muốn giữ Tôi lại để làm áp lực vòi tiền Anh Thu, Có lẽ Anh Thu vào báo cho Anh Nghĩa và Anh Nghĩa dứt khoát không để cho Anh Thu bị chúng nó làm áp lực, vì vậy sau một tuần không làm gì được chúng phải thả Tôi ra. Qua vài ngày tại Quân cảnh Tư Pháp, vì Tôi chẳng có tội nên ban ngày họ đưa tôi lên văn phòng làm việc nhờ Tôi đọc những bản án cho họ đánh máy, qua đó tôi biết được rất nhiều Quân nhân nhất là địa Phương Quân hay phạm tội hiếp dâm. Sau khi trả Tôi về đơn vị, vài tuần sau tôi nhận sự vụ lệnh về thặng số trại SỐNG MỚI ở Tân Sơn Nhất với lý do Thặng số chờ Tòa, và ngày đi có ngày về thì không. Về đây họ không giam như nhưng quân nhân khác, họ cho tôi làm nhiệm vụ đi liên lạc với các đơn vị Cảnh Sát các Quận trong Saigon tìm hiểu các Quân nhân Không Quân phạm tội, đến tháng tư năm 1974 họ trả tôi về đơn vị và cho đến tháng 5 năm 1974 Anh Thu và Tôi được Tòa Án Quân sự mời ra làm việc, và mọi sự lại khai như ban đầu, sau đó ngày 12 tháng 07 năm 1974 Anh Thu và Tôi được trát tòa gọi ra Trình diện, khi vào phiên tòa Chánh Án chủ tọa của Tòa Án Quân sự là Ðại Tá TỪ DƯƠNG , ông cho hỏi Anh Thu trước là có bà con họ hàng với Anh Nghĩa không và chỉ hỏi như vậy, tiếp đến Tôi ông cũng chỉ hỏi như thế mà thôi, sau đó họ mời Anh Thu và Tôi ra ngoài không cho dự phiên tòa kết tội Anh Nghĩa, Chúng Tôi hiểu đây là sự tế nhị của Tòa án không muốn cho thuộc cấp thấy cấp chỉ huy của mình bị kết tội, sau gần một giờ đồng hồ luận án , Tòa cho mời tất cả nhân chứng và Can phạm ra trước sân cờ ngay trước cổng để tuyên án. Trước tiên Tòa án cho làm lễ chào cờ dàn nhạc Quân đội Trống kèn đã xếp hàng dài trước sân cờ họ mặc lễ phục màu trắng và những đai tay bụng chân bằng da màu trắng nhạc quốc thiều trổi lên châm dứt là giấy phút hồi hộp và căng thẳng đã đến…. Ðại tá Từ Dương đọc bản án “ Xét vì ….. Tr/T Nguyễn Văn Nghĩa đã can tội trái lệnh mà Quân luật đã ra …. Xét vì ….. Tr/T Nguyễn Văn Nghĩa đã làm Tổn thất về Quân sự … Nay với Bản án Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa can Tội VI PHẠM HUẤN LỆNH QUÂN SỰ theo bản án số…. Của TTM/QÐ.VNCH/ T.A QS. NTG. Ngày…… Tòa Tuyên án …..” Tới đó Ð/T Từ Dương ngừng lại và Một hồi Trống quân hành …. CÀ …THÙNG …CÀ…THÙNG …CÀ …THÙNG… nghe tiếng trống làm tức ngực người nghe và thật tình Tim tôi muốn nhẩy ra ngoài, tiếp đến giàn kèn Quân nhạc trổi lên tiếng kèn kêu như thúc quân rầm rộ , càng nghe càng hồi hộp , rồi cả hai kèn và trống đồng hoà nhạc kéo dài 15 phút. Ð/T Từ Dương tiếp tục tuyên án “ Tr/T Nguyễn văn Nghĩa bị kến án tám tháng tù ờ bắt đầu kể từ ngày Tr/T bị bắt giam “và dàn nhạc lại tiếp tục trổi lên, lần này sao tôi nghe hay và có vẻ vui mừng hơn, mọi người lại chúc mừng Anh Nghĩa vì Anh đã ở trong quân Lao 9 tháng rồi qúa thời gian tòa kết án. và từ đó anh về nhà luôn. Sau này tôi được biết người đánh cắp máy bay là Th/u Hồ Duy Hùng một Phi công đã được đào tạo tại Texas Hoa Kỳ cùng khóa với Trần Văn Sua của PÐ 219 sau khi Anh ta về VN thì Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia điều tra ra gia đình Anh ta theo địch Quân và Bộ Tổng tham mưu QLVNCH do Ðại Tướng Cao Văn Viên Tổng tham mưu trưởng QLVNCH chỉ thị BTL.KQ sa thải Anh ta ngày 31 tháng 12 năm 1971. Anh ta lấy máy bay và bay về Dầu Tiếng cách Cà Tum khoảng 5 hoặc 6 cây số khi bay tới mật khu Anh ta bị bắn rấn nhiều và rất may nhờ có Armor tấm giáp chắn đạn đã cứu nguy cho Anh ta . Năm 1974 trong năm này không ai cắt Tôi đi bay nữa chỉ trực tại Phi Ðoàn vì vậy không nhớ những Tai nạn xảy ra năm 1974 , còn Tại Phi Ðoàn lúc đó Anh Huỳnh Văn Phố lên Quyền Phi Ðoàn trưởng sau hoán chuyển với Phi Ðoàn trưởng Phi Ðoàn 253 ngoài Ðà Nẵng là Anh Th/T Phạm Ðăng Luân, Anh Luân trở về PÐ219 giữ chức vụ Phi Ðoàn Tưởng Anh Th/T Huỳnh Xuân Thu Phi Ðoàn Phó Anh Trần Ngọc Thạnh Sỉ Quan Huấn Luyện và Anh Phạm ngọc Sâm Trưởng Phòng Hành Quân, buổi đầu Anh Sâm cắt bay không để ý đến sự trùng hợp Tên Tuổi nên có vài việc buồn cười như Anh cắt bay một Phi Hành Ðoàn đi biệt phái Ban mê Thuật Anh ghi Trên bảng PHÐ BƠ – ÐƯỜNG – XẢ – CẢI ( Phan Công Bơ TPC – Lý Bổn Ðường HTP – Mevo Hồ Văn Xả – Gunner Lê Văn Cải ) thế là mọi người một mẻ cười vì nguyên PHÐ toàn đồ ăn không sợ đói. Sau Anh lại cắt bay một PHÐ cũng bay BMT sáng ra các Anh thấy PHÐ này đều rụng rời tay chân, và không Anh nào chịu bay cả KIỆT – LỰC – QUAN – TÀI (Võ Tuấn Kiệt TPC – Nguyễn Hùng Lực HTP – Mevo Nguyễn Văn Quan – Gunner Nguyễn Văn Tài) Anh Sâm phải cắt lại PHÐ khác các Anh mới dám bay. Cuộc chiến đấu với Ðặc Công tại Phi Trường L.19 One five five (Chờ các Anh có mặt trong mặt trận này bổ xung) Phi Trường one five five là một phi trường L.19 và sở dĩ gọi là Phi trường One five five là vì nó nằm về hướng 155 và chỉ có một số kỹ thuật biệt phái nơi đây còn lại bảo vệ phi trường, Hình như là Ðịa phương Quân chứ không phải là Lính Bảo An. Phi trường nằn song song với đường quốc Lộ đi Pleiku. Ngay cổng vào Phi Trường mở ra nhìn về hướng rạp chiếu Bóng gần bùng binh và Nhà Thờ, vào cổng bên phải là Ðoàn truyền Tin và Khu gia Binh của Bảo Vệ Phi Trường Ðối diện cổng vào băng ngang Phi Ðạo là Bãi đậu trực thăng chiếm gần nửa đoạn dài Phi đạo , bên cạnh Bãi đậu trực Thăng là Câu Lạc Bộ và những dẫy phòng nghỉ của Kỹ thuật và Biệt Ðội trực Thăng những dẫy này nằm thẳng góc với Phi Ðạo , chung quanh Phòng nghỉ là những hàng rào bao bọc băng lưới chống B.40 cổng ra nằm cuối Phi đạo chính vì vậy nơi đây thiết kế không có lối thoát, NV.PH muốn ra chỗ đậu TT phải đi hết một đường Phi đạo , hệ thống phòng thủ ở đây rất lỏng lẻo và không chuyên môn , thiếu kinh nghiệm tác chiến. Ðầu tháng ba năm 1975 Biệt Ðội 219 gồm 7 Phi Hành Ðoàn 3 Gun + 3 Slick và một C&C Nhân viên Phi Hành Tôi Không nhớ thứ tự và quên cũng nhiều gồm : Anh Huỳnh Xuân Thu Biệt Ðội trưởng Anh Lâm Hồng Son, Trần Văn Sua, Lại Công Ân, Võ Văn Còn , Quách Ngọc Thao, Nguyễn Ngọc B , Nguyễn Văn Be , Nguyễn văn Tiều, Phan Công Bơ, Ðặng Quân, Dương Ðức Hạnh, Vũ Kim Long (Long nhí), Trần ngọc Sơn . Mevo có Thảo, Vẹn, Ngọc, Phúc quên 3 mevo và Gunner Thân Ngọc Hải Quên mất 6 Gunner. Bảy PHÐ này biệt phái lên Ban Mê Thuật trực tai sân bay 155 để PC và nghỉ ngơi tại đây và làm việc cho Ðại Tá Quang Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 và Ðại Tá Aân Trung đoàn 53 Ðến ngày 10 tháng 03 năm 1975 là ngày hết nhiệm kỳ công tác , ngày hôm đó Phi Ðoàn 215 phải lên thay thế , Nhưng Oâng Phạm Bính Không Ðoàn Phó Không Ðoàn 62 Chiến Thuật vì thấy chiến cuộc đang sôi động và Oâng ta cũng xuất thân từ Phi Ðoàn 215 , Oâng Ta đã quyết định bắt Phi Ðoàn 219 phải ở lại chiến đấu thay thế cho PÐ215. Sáng Hôm đó ngày 10 tháng 3 năm 1975 Một chiếc Slick chở Ð/T Quang đi thị sát vòng đai bảo vệ Thị Xã gồm những đường Giao Thông hào chống tăng của Công Binh làm , sau đó Họp các Trung Ðoàn Trưởng tại Quận Ðức Lập về những phương Aùn phòng thủ, sau đó PC về đáp Gia Nghĩa (Quảng Ðức) , đến 15 giờ thì Sư Ðoàn điều một C&C và hai Gun cất cánh về Quận Ðức Lập để xạ Kích và yểm trợ Quân bạn , Lúc đó Quận Ðức Lập và căn cứ Núi Lửa gần đó đang bị pháo kích dữ dội, và Ðịch quân đang tràn lên tấn công Hai chiếc Gun là Còn, Tiều bay Gun 1 và Gun 2 không nhớ chiếc C&C thì chỉ nhớ Mevo Nguyễn Phương Thào và Gunner Thân Ngọc Hải. Lúc C&C bay trên cao quan sát thì Phòng không 37 mm bắn phía hông phải khoảng 30 trái nở Hoa trắng như Pháo bông giăng hoa đầy trời chung quang chiếc C&C Trưởng Phi cơ hạ độ cao về phía bên trái , lập tức một đợt Pháo Bông 37 mm nữa nổ đuổi theo phía đuôi tàu , Sau cùng về đáp tại Quảng Ðức an toàn. Ðến 17 giờ Ðức Lập bị Over run Ðịch Quân đã tràn ngập nơi này. Và tất cả PHÐ bay trở về BMT ngủ đêm. Khoảng 2 giờ sáng rạng ngày 11 tháng 03 năm 1975 thì Ðịch Quân bắt đầu pháo kích Phi trường 155 tất cả chạy ra hầm trú ẩn, Một hố cá nhân có Mevo Thảo và Dương Ðức Hạnh, còn tất cả chui vào hầm trú ẩn một giờ sau Thì phòng thủ Phi Trường báo là Ðặc Công của địch đã xâm nhập vào bên trong, lập tức Các Anh Em Phi Hành ra khỏi hầm trú ẩn nhận súng M.16 , lúc đó Gunner T.Hải đang mặc đồ lót vội chạy vào phòng ngủ lấy quần áo và cây súng M.16 chạy ra thì bị một trái Beta nổ ngay bên cạnh khoảng 2 mét , không bị thương T.Hải chạy về Hầm trở lại và nhìn về hướng Câu lạc Bộ nới Ðặc công từng tốp 3 đến 4 tên cởi trần mặc quần đùi chạy vào phía đó , bắt đầu sảy ra một cuộc chiến Không Quân 219 đánh bộ kéo dài đến gần sáng thì Phe ta bị một trái B.40 bắn trúng miệng hầm , phía sau là H.Son, Quân và Quách Ngọc Thao cả ba bị thương nặng do sức nổ làm cho đá và Bê tông bắn tung toé T.Hải nằm sát đất cách 4 mét nên chỉ bị một mảnh đá nhỏ vào đầu, làm máu chảy rất nhiều . Gần sáng thì Anh Em PH rút ra sát hàng rào ranh giới giữa Phi Ðạo và Phòng Nghỉ nhẩy xuống giao thông hào cố thủ , Lúc 4 giờ sáng thì Long Nhí và Mevo Thảo cắt rào chạy ra PC bay về An Toàn có lẽ Trong lúc này Anh Thu và Hạnh , Vẹn cùng nhiều người nữa cũng bay về thì Phải. Long Nhí và Thảo chở thêm 5,7 người lính bộ binh về đáp tại Thành (Nha Trang) cho họ xuống .Sau đó Anh Sua cũng bay về Anh vừa cất cánh thì một chiếc Chinook bị bắn cháy gần cổng PT . đến 5 giờ sáng thì hai chiếc Tiều , Bơ và Sơn Mập bay về an Toàn . Lúc đó Ðặng Quân đang bị thương nặng rủ T.Hải bay về nhưng Hải không dám và Anh Ðặng Quân đã cất cánh an toàn nhưng vì bị thương nặng nên mất phương hướng Anh đã rớt gần cầu 14.và vĩnh viễn rời xa Ðồng Ðội Sáng ngày 11/03/1975. Từ đó trời gần sáng nên địch quân thấy rõ và từng chiếc Pc bị địch quân bắn B.40 nổ tung không còn một chiếc nào, vì thế NV.PH 219 đành phải nằm chờ sáng tìm phương cách thoát thân. Ðến sáng A.37 bay lên đánh chung quang phi trường tới trưa, Phòng không của địch quân bắn như mưa nhưng không trúng chiếc nào. Lúc Ðó Ðặc công nằm im có lẽ đã bắn hết đạn và chỉ có ít người nên không dám tấn công, họ chờ chủ lực của họ đến. Ðến chiều thì tất cả cắt rào kẽm chui ra phi đạo lúc đó Quách Ngọc Thao bị thương rất nặng, phải khiêng anh băng qua Phi Ðạo chạy qua dẫy Truyền Tin và nhờ họ bắt liên lạc về Không Ðoàn nhưng Ông Bính từ chối cho tàu lên rước, và vì thế Anh Quách Ngọc Thao ra đi mãi mãi trước khi Anh ra đi có nhơ Anh H.Son mang tất cả giấy tờ tùy thân và kỷ vật của Anh về cho gia Ðình , tất cả còn lại quyết định phá rào để ra ngoài vì xe Tăng địch quân bắt đầu tràn vào phi trường Lúc này không hiểu sao Nguyễn Văn Be lại bị bắt và Anh đã vĩnh viễn không thấy quay về, riêng Anh H.Son và T.Hải người băng đầu người băng vai nhặt quần áo dân đi bộ ra cổng chính, sau đó trà trộn vào với dân đi về hướng Phước An , lúc đó PHÐ đánh bộ còn lại 7 người gồm H.Son, Aân , T.Hải , mevo Phúc , Mevo Ngoc và hai người nữa quên tên , Tất cả quên máy bay đi chân đất ăn chay bằng khoai mì nướng và ngủ màn trời chiếu đất , tất cả tiếp tục đi đến ngày thứ hai có gặp một đội Trực Thăng , Anh Lại công Aân bắn Pen gun nhưng Ðoàn trực thăng không thấy và họ bay về hướng BMT. Ðến chiều ngày thứ Ba ngày 13/03/1975 đi bộ đến đồi 62 thì đường bị đắp mô, đoàn dừng lại chờ Bộ Binh mở đường lúc đó là 16 giờ, Các PHÐ đánh bộ mua được thịt Heo của dân, trước khi họ di tản họ mổ heo bán và nhặt nồi niêu kho thịt nấu cơm cho bữa chiều. Anh H.Son rủ T.Hải leo lên đồi Trại đóng quân Bộ Binh xin băng bó lại vết thương, vì vết thương Anh H.Son nơi vai có nặng . Gặp lính gác của tiểu Ðoàn Bộ Binh và Xin gặp Tiểu Ðoàn Trưởng để xin liên lạc về Nha Trang, và thật may mắn Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng lại là bạn thân của Anh Phạm Ðăng Luân nên ông ta gọi Bác Sĩ băng bó lại cho Anh H.Son, Lúc đó T.Hải ở ngoài phòng truyền Tin và nghe Anh Luân hỏi Tiểu Ðoàn Trưởng “ Chỗ mày có an toàn không , Tao vừa bị SA.7 làm hết một chiếc tại BMT “ Rồi Anh Luân cho máy bay lên ngay . T.Hải vui mừng chạy xuống báo nhỏ với Anh Em KQ đánh bộ cho hết thức ăn đi và có Xếp đến rước, Tất cả KQ đánh bộ vội vã lên đồi, và đúng lúc Tàu vừa đáp, tất cả về Nha Trang đêm đó. Chấm dức cuộc chiến của những chàng Phi Hành đánh bộ ăn chay nằm đất. Và cũng đúng ngày đó Anh Hùng đế cũng vĩnh viễn ra đi cùng với ba đồng đội. Ngày 13 tháng 03 năm 1975 Tai nạn cuối cùng của Phi Ðoàn 219 PHÐ : HÙNG – HẠNH – NGHIÊM – ÂN (Ð/U Lê Thế Hùng ( Ðế) – Th/U Dươngï Ðức Hạnh – Th/S Trần Mạnh Nghiêm – HS Nguyễn Văn Ân )Thi hành Phi Vụ Hành Quân số B.093 Xạ Kích và yểm trợ cho Trung Ðoàn 53 của Ðại tá ÂN tại chiến trường Phụng Dực Ban Mê Thuật, Lúc đó Anh Hùng đế bay Gun 1 Anh Còn & Tiên bay Gun 2 còn hai Sick là Nhu bay Slick 1 & Long bay Slick 2 còn một chiếc Air cover ở phía bên trên là Anh Phạm Ðăng Luân PÐT 219, Vào lúc 17 giờ 10 Anh Hùng bay vào Toạ độ AQ.895.015 gần trại Biệt Kích B.50 thì bị hoả lực Phòng Không SA.7 của địch quân bắn trực xạ máy bay gẫy làm đôi, bốc cháy và nổ tung tiêu hủy 100% Phi Hành Ðoàn đều tử trận không lấy được xác. Anh Luân ra lệnh toàn thể Phi Cơ phải bay về vì cố gắng cũng không thể nào vào được và Các Anh Ðã Hy Sinh rồi . Ðến cuối tháng 3 năm 1975 một số Phi Cơ từ Phù Cát và Pleiku di tản chiến thuật về Nha Trang sau đó vì sự di tản của máy bay Fixwing Hoa Kỳ làm rối loạn các Anh Phù Cát và Pleiku nên các Anh bay về saigon, Sau khi các Anh rời Nha Trang thì các lực lượng kỹ thuật và một số Quân Nhân không phi Hành hoang mang đã theo máy bay C.119 và C.123 về saigon, lúc đó tình hình các Anh Em Phi Hành của 215 cũng như 219 bị lay chuyển và các anh đã bay về TSN . Khi về đến TSN Phi Ðoàn được cấp phát quân trang mỗi người một bộ, và cho tạm thời đặt văn Phòng 219 tại một căn phòng nhỏ 24 mét vuông bên cạnh Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương Trời. ÐẾN ÐÂY KẾT THÚC NHỮNG HUYỀN THOẠI CỦA PHI ÐOÀN 219 LONG MÃ MÀ QUÂN ÐỘI ÐỒNG MINH GỌI HỌ LÀ KINGBEE. Posted by Thoi Chinh Chien at 11:40 PM
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 13:42:50 GMT 9
Chuyến bay tử thần vào đồi 31 Hạ Lào Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người Tù Binh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân. Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật. Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mê vô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219. Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel. Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội Tác chiến Điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 213 do trung uý Thục bay trước mở đường. Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971. Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn. Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật. Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng. Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù. Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!". Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm. Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường. Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không? Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 33 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần. Kingbee Bùi Tá Khánh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 13:49:17 GMT 9
Phi Vụ Cuối Cùng 2 Những ngày cuối tháng 3/75, tình hình chiến sự ở miền Trung vô cùng nóng bỏng và thay đổi hàng ngày, thậm chí thay đổi hàng giờ. Sư Ðoàn 2 Không Quân mà Phi Ðoàn 219 (Long Mã) của chúng tôi là đơn vị trực thuộc đang đồn trú tại Phi Trường Nha Trang là Phi Ðoàn trực thăng bị tổn thất nặng nhất trong đợt tấn công Ban Mê Thuột của Cộng Sản Bắc Việt, mở màn cho đợt xâm lăng trắng trợn, phá bỏ tất cả các Hiệp Ước mà chúng đã ký kết từ trước để nhuộm đỏ miền Nam. Phi Ðoàn 219 chúng tôi đã bị bất khiển dụng gần 1/5 quân số (vừa tử trận và bị thương) trong đợt tấn công bằng bộ binh và hỏa tiển 122 ly vào Ðài Kiểm Báo Ban Mê Thuột (sân bay L19 ở cây số 3) mà Phi Ðoàn 219 có một Biệt Ðội đang đồn trú tại đó vào đêm 10/3/1975. Quân số đã thiếu thì nay lại càng thiếu hơn, cho nên chúng tôi phải bay và trực hành quân liên tục. Vào ngày 1/4/75 thì tình hình xáo trộn và nhốn nháo đã bắt đầu xảy ra ở thành phố Nha Trang, khi có rất nhiều dân và các sắc lính đã bị rã ngũ từ các quân trường của Huấn Khu Dục Mỹ và các tỉnh hướng Bắc, như Bình Ðịnh và Phú Yên, đổ dồn về. Phần đường bộ thì Quốc Lộ 1 đã bị nghẹt cứng người và xe cộ từ Thành (Diên Khánh) đến Cam Ranh, cho nên mọi người đều dồn vào hai nơi được xem là an toàn và có phương tiện để tiếp tục di chuyển về Sài Gòn. Ðó là Phi Trường Nha Trang và Cảng Hải Quân Cầu Ðá. Tất cả các cổng chính của Phi Trường Nha Trang đều bị bao vây bởi lính Biệt Kích, Nhảy Dù ở Bộ Tư Lệnh đồn trú kế bên Phi Trường Nha Trang, lính Biệt Ðộng Quân ở Dục Mỹ kéo về, lính Thủy Quân Lục Chiến, ở Ðà Nẵng vào, đang đổ bộ từ xà lan lên bờ, và dân chúng chạy nạn. Là ngày xuống "ca" vì Phi Ðội của chúng tôi đã đi bay ngày hôm trước, nhưng tất cả quân nhân cơ hữu phải có mặt tại Phi Ðoàn từ sáng sớm do lệnh thiết quân luật đã được ban hành trên toàn lãnh thổ Tiểu Khu Khánh Hòa. Các hợp đoàn hành quân đã cất cánh từ sớm (như trong bài viết "Phi vụ cuối cùng" của Pilot Dzỏm đã trình bày), số hoa tiêu, cơ phi và xạ thủ còn lại đều có mặt ứng chiến tại Phòng Hành Quân hay nằm xả hơi tại phòng nghỉ Phi Ðoàn. Câu chuyện "Phi vụ cuối cùng # 2" của tôi sẽ nói về công việc của những người còn lại ở Phi Ðoàn 219 ngày hôm đó (1/4/75), mà tôi là một hoa tiêu trực thăng đã lỡ khóc, lỡ cười trong một phi vụ cuối cùng của đời bay bổng. Tôi kể ra đây thì xấu hổ, nhưng để trong lòng thì ấm ức, vì đâu phải chỉ một mình thằng Pilot Dzỏm bạn tôi là thằng bị nạn duy nhất của ngày hôm đó đâu?!... Khoảng 8 giờ sáng thì Phòng Hành Quân Chiến Cuộc báo cho Phi Ðoàn biết tất cả số trực thăng còn khiển dụng, và ra lệnh "cắt" tên phi hành đoàn cho tất cả các tàu đó. Nếu số hoa tiêu, cơ phi và xạ thủ còn dư lại thì cũng đều được ghi tên hết vào bảng phi lệnh, nghĩa là không còn một người nào còn ở lại Phi Ðoàn. Tôi thầm nghĩ chắc lệnh di tản sắp được ban hành. Tất cả phi hành đoàn đều ra vị trí tàu đậu để làm tiền phi, quay máy và đổ đầy xăng. Ngày thường thì khi đưa hay đón phi hành đoàn, chúng tôi đều được xe step-van hay xe pick-up đưa đón tận nơi tàu đậu nhưng hôm nay thì toàn thể mọi người đều đi check tàu cùng một lúc, nên chúng tôi phải đi bộ. Phi hành đoàn của tàu tôi mừng rơn trong bụng khi trông thấy số đuôi của tàu mình nằm ở ụ thứ ba, có nghĩa là chỉ cách Trạm Hàng Không Dân Sự và Phòng Phi Ðạo 219 khoảng vài chục mét. Vừa check tàu tôi vừa nghĩ ngợi, chắc phi trường có thể di tản nội ngày hôm nay... Nếu thế thì làm sao tôi kịp đưa vợ và hai đứa con của tôi vào phi trường bây giờ? Không thể chần chờ, sau khi đổ đầy xăng và đưa tàu vào ụ, thay vì vào Phòng Hành Quân Phi Ðoàn chờ lệnh, thì tôi ra nhà để xe lấy chiếc Honda 67 của tôi chạy ra phố, nhưng cũng không quên trang bị cho mình một khẩu M16 và cây P38 lúc nào cũng kè kè bên hông. Nếu có ai tìm tôi thì họ nghĩ tôi vẫn còn ở bãi đậu trực thăng và đang check tàu. Trước tiên tôi chạy ra cổng Long Vân (cổng Trung Tâm Huấn Luyện KQ) nhưng ở đây Quân Cảnh và lính phòng vệ phi trường không cho ra, vì lúc này ở ngoài cổng một số lính Biệt Ðộng Quân đang nổ súng chỉ thiên đe dọa phá cổng để tràn vào phi trường. Tôi quay ngược xe về hướng cổng Hoàng Diệu (cổng Sư Ðoàn 2), nhưng vẫn gặp trường hợp tương tự với một số đông lính Thủy Quân Lục Chiến vừa từ sà lan ngoài biển đổ bộ vào. Ðến lúc này thì tôi nghĩ chỉ còn cổng Phước Hải, nằm ở hướng Tây phi trường, chỉ dành riêng cho lính Không Quân cơ hữu, may ra sẽ có ít người biết đến cổng này. Ðến nơi tình hình cũng không khá hơn hai cổng kia cho nên Quân Cảnh nhất quyết không cho tôi ra, mặc dù trong số đó có người tôi quen. Các anh Quân Cảnh còn tính đến trường hợp nếu cho tôi ra cổng lúc này, thì "họ" có thể bắt tôi để làm áp lực phải mở cổng cho họ vào. Ngán ngẩm, tôi chạy xe về lại Phi Ðoàn, không buồn kiếm thứ gì "bỏ bụng" mặc dầu lúc này đã quá mười hai giờ trưa... Vào khoảng gần hai giờ chiều thì Phòng Hành Quân Chiến Cuộc ra lệnh tất cả phi hành đoàn ra tàu quay máy và nhận lệnh sau. Với bản tánh lề mề, chậm chạp, lại thêm chắc mẩm con tàu của mình nằm rất gần, cho nên tôi thủng thẳng xách túi đựng nón bay tà tà ra khỏi Phi Ðoàn sau chót. Lúc này tình hình trật tự tại phi trường đã thay đổi hoàn toàn. Buổi sáng phi trường yên vắng bao nhiêu thì bây giờ xô bồ và bát nháo bấy nhiêu. Sân của Trạm Hàng Không Dân Sự đầy người, trong đó không chỉ là hành khách đáp máy bay về Sài Gòn mà còn có rất nhiều người do các Cha và Dì Phước hướng dẩn vào phi trường. Thoát ra khỏi được đám đông ở sân Trạm Hàng Không Dân Sự để hướng về chiếc trực thăng của tôi thì tôi lại hoàn toàn thất vọng, vì trên taxiway lúc này đầy nghẹt lính Không Quân đang hốt hoảng chạy về các chiếc trực thăng đang quay máy. Từ xa tôi thấy chiếc trực thăng của tôi đã quay máy, tôi khen thầm trong bụng rằng thằng co-pilot của tôi coi vậy mà khá, chỉ chờ tôi lên ghế lái là dzọt! Ði ngang qua chiếc trực thăng thứ nhất tôi sững sốt và chưng hững. Quái lạ. Người ở đâu mà ngồi nghẹt cả máy bay thế này? Qua chiếc trực thăng thứ hai cũng thế. Ðầy nghẹt người, toàn là lính Không Quân, có đến hai chục. Tôi nghĩ thầm trong bụng với số lượng người đông như thế thì máy bay cất cánh sao cho nổi? Tôi qua chiếc thứ ba, là chiếc trực thăng của tôi, thì tôi thấy phi hành đoàn đầy đủ nghĩa là đã có trưởng phi cơ, co-pilot, cơ phi và xạ thủ. Lại còn dư thêm hai ông pilot nữa chứ. Tôi tiến đến gần thì .. hỡi ôi! Trên ghế trưởng phi cơ là thằng bạn thân của tôi, còn ghế bên kia thì không phải là thằng "co-pilot" được cắt bay với tôi hồi sáng, mà lại là một thằng khác. Tôi tức quá mở cửa và hỏi nó: -Máy bay mày đâu mà lại bay chiếc của tao? Không trả lời câu hỏi của tôi mà nó còn la lớn như ra lệnh: -Tìm chiếc nào còn trống thì bay. Lẹ lên! Tình hình lúc này không cho phép tôi đôi co với nó, phải tự tìm máy bay khác để lái mà thôi. Khoác túi đựng nón bay lên vai, tôi tà tà đi về hướng các máy bay còn lại. Ðến tàu nào cũng nghẹt cứng người với đầy đủ phi hành đoàn. "Ðiệu này thì bay giống chó gì được!" Tôi tức mình chửi đổng. Tất cả các tàu đều đã quay máy nên tôi càng nôn nóng hơn nữa, không khéo tôi sẽ bị bỏ lại "mình ên". Cuối cùng tôi nhìn về cuối phi đạo phụ, gần POL (chổ refill xăng cho trực thăng): còn một chiếc gunship đang đậu im lìm, cánh quạt còn cột cứng ngắt. Tôi nghĩ thầm rằng đó là tàu khiển dụng, vì nếu tàu bất khiển dụng thì không đậu chổ đó. Tuy nhiên tôi cũng phân vân, nếu tàu bay được thì sao cho đến giờ này mà tàu vẫn còn cột cánh quạt? Phi hành đoàn đang ở đâu? Thời gian cấp bách không cho phép tôi nghĩ ngợi mông lung. Tôi vội tiến đến tàu, trong bụng không chắc lắm nhưng cứ liều, vì nếu đến nơi mà tàu không bay được thì tôi không thể nào quay ngược trở lại kịp để làm "hành khách" của các bạn mình... Rồi tôi lại tự trấn an: nếu không di tản được hôm nay thì về lại với vợ con rồi sau đó tìm cách khác mà đi. Bề nào thì vợ con tôi vẫn còn bị kẹt lại ngoài nhà ông bà ngoại mà... Từ xa, tôi đã thấy có người ngồi lúc nhúc trong tàu. Tiến đến gần hơn thì tôi không thấy phi hành đoàn đâu cả. Hai ghế lái vẫn còn trống. Tôi mở cửa và hỏi: -Phi hành đoàn tàu này đâu rồi? -Nãy giờ em không thấy ai hết. Một anh Trung sĩ phi đạo trả lời tôi, và nói thêm: -Lên bay đi Trung úy. Tàu "OK", em kiểm xong hồi sáng. -Ðược rồi. Anh mở cánh quạt và clear cho tôi quay máy. Tôi nhìn đồng hồ xăng. Xăng đầy. "OK" thì bay. Sợ gì. Ðến lúc này tôi nhìn lại thì chỉ có một mình tôi, không co-pilot, không cơ phi, không xạ thủ. Rồi lại thêm là tàu gunship: chần dần hai bó rocket, hai súng minigun với đầy đủ cấp số đạn, kèm theo chật cứng người và hành lý! Thôi kệ cứ quay máy thử tàu rồi tính sau. Tôi chắc mẫm là tàu này phải có phi hành đoàn cho nên tôi quay máy và chờ... Kiểm soát các phi cụ xong, hoàn toàn yên tâm, tôi quay lại phía sau thì không thấy bóng một áo bay nào cả, mà toàn là dân "không phi hành", chỉ có anh Trung sĩ phi đạo là được "nửa này, nửa nọ", nên tôi ra lệnh cho anh ta đếm được bao nhiêu người trên máy bay. Mười sáu người cả thảy. Tôi biết không thể nào cất cánh được với chiếc tàu gunship lại cộng thêm mười sáu người. Một mình một chợ biết làm sao đây? Trong khi đó thì hợp đoàn từ từ di chuyển ra taxiway. Ðến lúc này thì tôi biết chắc chắn là phi hành đoàn tàu này đã "an vị" trên các tàu khác rồi, biết đâu chừng họ đang bay chiếc tàu của tôi khi sáng?! "Bắt cóc bỏ dỉa", tôi biểu anh Trung sĩ phi đạo lên ngồi ở ghế co-pilot, đồng thời ra lệnh cho tất cả những người trên tàu phải bỏ lại hành lý, nếu không thì phải rời tàu. Chỉ còn có phương cách đó, chứ lúc này người nào họ đã lên được tàu thì không bao giờ họ chịu xuống cả. Có hai người nhảy xuống khỏi tàu và mang theo hành lý đi ngược về hướng Trạm Hàng Không Dân Sự. Còn lại đúng mười bốn người. Vẫn còn bị quá tải. Tôi release hai bó rocket và ra lệnh quăng hết những thùng đạn và những thứ không cần thiết. Tôi đưa tàu vào hướng gió và nhấc tàu lên thử. Chưa được một feet, tàu tuột "tua", alarm réo lên eo éo, và .. rớt xuống cái "bịch"! Ðiệu này thì làm sao cất cánh cho nổi đây? Biết là không ai sẽ xuống tàu, nhưng tôi vẫn quay ra sau và năn nỉ họ xuống cho tàu nhẹ bớt mới mong cất cánh nổi... Không ai chịu xuống cả. Trong khi đó thì hợp đoàn đang liên lạc tần số nội bộ để sửa soạn cất cánh. Tôi quyết định giữ im lặng tần số để hợp đoàn cất cánh xong sẽ tính, coi như tôi đi solo không có trong hợp đoàn. Thật sự mà nói, nếu không có hai khẩu minigun thì tàu cất cánh được ngay, nhưng làm sao mà tháo nó ra được khi trong tay chúng tôi không có một thứ đồ nghề nào cả. Ðến nước này thì chỉ còn có một cách là cứ để máy nổ chờ xăng giảm bớt cho nhẹ tàu mà thôi. Biết đâu, vì đợi quá lâu mà tàu chưa cất cánh được, có người mất kiên nhẫn sẽ rời tàu thì sao... Công cóc! Vẫn còn đủ mười bốn người. Tôi đưa tàu vào hướng gió và nhấc lên thử. Mừng rơn vì thấy tàu vẫn nằm yên ở độ cao ba feet, có thể cất cánh được rồi. Tôi mở tần số liên lạc với hợp đoàn (đã cất cánh và đang hướng về Cam Ranh). Tôi nghe trên tần số: -Trail. Ðây Lead gọi. -Nghe Lead năm trên năm. -Hợp đoàn cất cánh đủ chưa? -Thiếu thằng gun 2. Ðang liên lạc mà chưa thấy nó lên tiếng. Thì ra thằng gun 2 là tôi đây, vả lại tôi có mở tần số liên lạc đâu mà nghe tôi lên tiếng... -Gun 2. Ðây Trail gọi. Nghe rõ trả lời? -Nghe Trail năm trên năm. -Vị trí đang ở đâu? -Vẫn chưa cất cánh được vì tàu quá nặng. -Có cần hợp đoàn chờ hay không? -Không cần thiết. Tôi sẽ cất cánh ngay bây giờ. -OK. Ðáp Phan Rang chờ lệnh. -Roger! Tuy báo cáo như vậy để hợp đoàn yên tâm khỏi chờ đợi, chứ thật tình lúc đó tôi cũng không biết là tàu có cất cánh nổi hay không?.. Tôi gọi Ðài Không Lưu để xin chỉ thị cất cánh. Ðài clear và cho lệnh tôi cất cánh ở phi đạo phụ, hướng về phía biển nhưng phải bay trên đầu Quân Y Viện Nguyễn Huệ, vượt qua những đọt cây dương cao ngất ngưỡng và dây điện giăng ngang. Ðiệu này thì không thể cất cánh được rồi vì như thế sẽ hơi bị gió ngang. Không có co-pilot "beep" phụ RPM thì tuột "tua" là cái chắc. Tôi mở monitor nội bộ và hỏi: -Anh có biết cái núm để "beep" trên cyclic hay không? Không nghe tiếng trả lời, tôi nhìn lại thì thấy co-pilot bất đắc dĩ của tôi không có nón bay. Chán mớ đời! Chỉ còn nước cất cánh liều, băng ngang phi đạo chính, một hành động mất an phi trầm trọng mà nếu bình thường thì có thể bị Phòng An Phi ký tặng cho chục ngày trọng cấm. Nhưng trong lúc hổn loạn như thế này, mạnh ai nấy tìm cách thoát thân, thì tôi không còn dư thì giờ để lựa chọn... Trên phi đạo chính lúc này có một chiếc C130 đang taxi chầm chậm vô bãi đậu của Trạm Hàng Không Dân Sự, trong khi đó có hàng trăm người dân túa ra hướng phi cơ, được dẩn đầu bởi các Cha và Dì Phước. Không để mất cơ hội hiếm có này, vì Ðài Không Lưu sẽ không cho phép một máy bay nào cất và hạ cánh trong lúc trên phi đạo đang có một chiếc C130 taxi vào bãi đậu. Tôi không gọi Ðài Không Lưu để xin lệnh cất cánh nữa, vì nếu có gọi Ðài thì cũng sẽ được cho lệnh cất cánh về hướng phi đạo phụ mà thôi. Tôi đưa mũi máy bay về hướng Cầu Ðá, lấy trớn nhanh dần, băng ngang qua phi đạo chính, vượt qua đầu chiếc C130 và lấy cao độ ra biển. Trên tần số UHF, Ðài Không Lưu la ỏm tỏi, và giận dữ hỏi tên phi hành đoàn của chiếc trực thăng vừa cất cánh ngang qua phi đạo. Tôi nín thinh, tiếp tục lấy cao độ và hướng về Cam Ranh để liên lạc với hợp đoàn. Tới đâu thì tới, cất cánh an toàn là tốt rồi. Lúc này không còn ai rảnh để lo ba cái chuyện an phi này đâu. Hợp đoàn cố bay chậm và đợi tôi ở không phận Cam Ranh. Khi nhìn thấy hợp đoàn tôi cố bay nhanh hơn nhưng tàu rung quá tôi theo không kịp. Lúc này tôi liên tưởng tới những đoạn phim chiếu cảnh bầy chim thiên di từ miền Bắc về miền Nam tránh tuyết, trong đó có những cánh chim yếu ớt bay vật vờ theo đàn nhưng cuối cùng đành lìa đàn tức tưởi, không kịp về đến chổ dung thân. Và lúc này tôi đây cũng vậy. Tôi cố đưa con tàu về chốn bình yên, nhưng tôi nghĩ nó sẽ không về tới được Sài Gòn, vì tàu gunship lại cõng thêm mười bốn con người, thì tàu bị overtorque là lẽ đương nhiên. Hợp đoàn đáp tại Phan Rang, và những chuyện xảy ra sau đó đã được thằng bạn Pilot Dzỏm của tôi kể chi tiết trong câu chuyện "Phi vụ cuối cùng". Duy có một điều khác là chiếc gunship bất đắc dĩ mà tôi đã lái thì bị over torque, và phải bỏ lại ở phi trường Phan Rang. Tôi chia tay em không một lời từ giã, không bịn rịn nhớ thương, không hẹn hò tái ngộ, để em nằm hiu quạnh nơi xứ cát nóng khô cằn chớ không đưa được em về đến Sài Gòn, nơi mà Pilot Dzỏm đã đưa được em UH1H của nó về nơi "đất hứa", và nơi đó nó đã tâm sự với em hơn cả tiếng đồng hồ rồi mới bịn rịn chia tay trong nức nở, nghẹn ngào. Nghĩ cho cùng thì tôi còn tệ hơn thằng Pilot Dzỏm bạn tôi nhiều lắm... Ôi! Phi vụ cuối cùng sao mà thương đau đến thế! Thím Tư.
|
|