|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:12:42 GMT 9
Tính chất Việt và nguồn gốc triều Trần trong lịch sử Việt Nam Nguyễn Đức Hiệp
Có các ý kiến cho rằng tổ các vua Trần là người Hán đi từ Nam Trung Quốc, nên các triều thần Trần có khuynh hướng dung hòa và thần phục với thiên triều. Điển hình là ngay cả trong lúc đất nước đang đối đầu với các cuộc xâm lăng của nhà Nguyên Mông Cổ, một số tôn thất nhà Trần đã khuyên vua nên qui hàng với khẩu hiệu "nhập Tống". Nhà Trần đã chia ra hai, một số theo Trần Ích Tắc về cố hương trong khi đa số còn lại trung thành với vua chiến đấu chống ngoại xâm.
Ý kiến này đựa vào một đoạn của chính sử về tổ tiên họ Trần.
Theo "Đại Việt Sử Ký toàn thư", (Quyển 5, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993) nói về Thái Tông Hoàng Đế :
"..Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần...."
Như vậy có phải tổ 3 đời của vua Trần là người Hán Hoa hay không? Có nhiều dữ kiện cho thấy rằng không phải vậy. Bài này có mục đích chứng tỏ rằng họ Trần từ đất Mân không phải thuộc dòng văn hoá Hán Hoa.
Chúng ta đã biết rằng dưới đời Trần phong tục xâm hình (nhất là rồng) rất phổ biến mà sứ giả Tống Nguyên, khi đến Việt Nam đã ghi lại và gọi là "Thái Long". Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã từng khuyên răn vua và con cháu rằng: "Nhà ta vốn là dân hạ bạn ưa chuộng việc hùng dũng, thường thích hình rồng vào đùi để tỏ mình không quên gốc.". Tục xâm mình không bao giờ có ở văn hoá Hán Hoa.
Để bảo vệ cho triều đại Trần ban đầu khỏi bị lung lay, tôn thất nhà Trần đã không ngần ngại lấy nhau trong họ hàng. Đây là một điều mà văn hóa Hán Hoa cấm kỵ.
Nhà Trần có nguồn gốc là dân chài lưới đi từ đất Mân (hay có người nói là từ Quế Lâm) đã đến vùng bờ biển Bắc Việt định cư. Đất Mân có địa thế ở vùng biển Nam Trung Quốc dọc từ Phúc Kiến đến Quảng Đông. Vậy thì những người ở xứ Mân là những người có nguồn gốc như thế nào.
Bây giờ nói đến chuyện Hán hoá ở miền Nam Trung Hoa. Tôi có một chút ý kiến về mức độ Hán hóa trong thế kỷ 13. Theo tôi mức Hán hóa trong giai đoạn này không sâu rộng nhất là ở miền quê hẻo lánh hoặc ở miền núi và vùng biển của các làng chài dọc bờ biển.
Như ta đã biết Vương quốc Nam Chiếu (Nan Chao) ở miền Nam Trung Hoa (Vân Nam) tồn tại cho đến khi nhà Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Sự di dân của người Nam Chiếu ở thế kỷ 13 dẫn đến sự thành lập của các vương quốc Thai Sukhothai, Ayuthaya và ngày nay Thailand. Đến bây giờ ngay cả đi dến miền Nam Trung Quốc giáp giới Vietnam, ta vẫn còn thấy nhiều dân tộc chưa bị Hán Hoá. Ngay cả đến Côn Minh, phong thái của dân vùng này còn đượm nét Nam Á. Ta cũng không quên nhắc lại là đảo Đài Loan (hay Formosa) đã được định cư từ lâu đời bởi những người Polynesian thổ dân. Chỉ đến thế kỷ 17 khi nhà Minh mất thì số lượng người Hán di dân và lập nghiệp đến đông đảo và chiếm đa số và đẩy người Hoà Lan ra khỏi đảo. Hòa Lan lúc đó đang lập một thuộc địa ở đảo Formosa và dùng nơi đó làm trạm buôn bán với các nước Nhật, Đại Hàn và Trung Quốc. Họ đã đánh và đẩy người bản xứ vào sâu trong rừng núi hải đảo.
Về nguồn gốc họ Trần, tôi trích đây một đoan ngắn trong bài "Sông Châu, Núi Đọi Họ Trần và những quan hệ với cụ Kép Trà" (Trần Quốc Vượng - Theo dòng lịch sử) :
"...
Ai cũng biết: Họ Trần gốc dân chài miệt biển, trãi daì từ Phúc Kiến đến tận Xanhgapo, có cội nguồn Malai cổ (Anhdônêdiêng), theo một hệ thống thân tộc khác với chế độ cửu tộc của người Hoa mà sau này các họ người Việt cũng áp dụng, anh em gọi là "con chú con bác ruột" thuộc diện "hôn nhân ưu tiên", mà giới nho sĩ Hoa hoá sau này gọi là "loạn luân". Họ đã dần dà ngược sông lên làm ruộng lúa nước ở các vùng ô trũng, tập trung nhất là ở Sơn Nam Hạ (Thái Bình - Nam Định cũ) và ở Quảng Ninh (Yên Tử - Đông Triều) rồi tản mát đi các nơi.
..."
Từ các kiến trúc đời Trần, đời sống văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ về sông biển mà họ Trần có nguồn Việt cổ dùng cùng với các địa danh vần còn lưu lại, cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Chàm vào văn hoá Việt .. ta có thể đặt câu hỏi : Phải chăng họ Trần có nguồn gốc Việt cổ mà các dấu vết để lại đã cho phép và gợi cho ta câu trả lời xác định ?
Một vài phương chính về tâm thức, xã hội học, văn hóa học.. bổ túc thêm về nguồn gốc họ Trần và thời đại Trần nói chung sẽ được phân tích sau đây.
(1) Tâm linh văn hóa dưới đời Trần Người dân Việt miền biển Bắc phần mà họ nhà Trần tập trung từ Nam Định, Hải Dương lan vào nội địa có văn hoá sông nước gắn liền với văn hóa vùng cao tạo thành một bản sắc của văn hóa Việt nam. Bản chất sông nước của họ Trần được thể hiện sau đây (trích Trần Quốc Vượng "Xứ đông Hải Hưng nhìn từ kẻ chợ" trong sách "Theo dòng lịch sử"):
".. xứ Nam có Chử Đồng Tử rồi mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải đại vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc đường 5 xuống tận Hải Phòng.
Thần là ai? Ai biết đi điền dã dân tộc-sử (Ethno-historic) thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đấy là những đền thờ CÁ-ÔNG-VOI của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang đời Trần, thì thần Đông Hải Hải Đông đã được nhân cách hóa và hóa thân vào một nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, người đã cùng tướng quân hoài Đạo Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm nghiên ngửa lịch sử cuối Lý đầu Trần. Để cuối cùng, vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ Nam.
Họ Trần trở thành hoàng tộc, nở rộ từ xứ Nam-Thiên Trường rồi loan toa sang cả lộ Hải Đông và cả nước, với "cái nhìn về biển" rộng rãi hơn. Chính nhà Trần đã chia miền Biển Đại Việt khi ấy thành 2 khu vực quản lý: HẢI ĐÔNG từ cửa Đáy đến giáp Khâm Liêm Quảng Đông, HẢI TÂY chạy dọc dài ven biển Thanh-Nghê.-Tỉnh Bình-Tri.-Thiên..." Gốc nhà Trần vì thế là thế giới sông nước và biển.
Nếu bây giờ chúng ta so sánh với lập nghiệp của họ Trần so với lập nghiệp của họ Mạc Cưũ ở Hà Tiên Trấn sau naỳ, ta sẽ thấy những sự khác biệt to lớn. Nếu viếng Hà Tiên và xem đền thờ hoặc chùa chiền của họ Mạc, ta sẽ thấy kiến trúc và thần linh đều là của Hán và ảnh hưởng Hán rất manh. Trái lại chúng ta không thấy những dấu vết này ở các kiến trúc đời Trần.
Đền thờ và kiến trúc của họ Trần ở Thiên Trường, Yên Tử hoặc các nơi khác như Thăng Long thì rõ ràng là mang nặng tâm thần Đại Việt. Đặc biệt ở quê hương họ Trần, có nhiều đền thờ thủy thần. Vùng Hà Nam Ninh cũng là nơi khám phá nhiều thuyền mộ (một nghi thức tiêu biểu cuả cư dân sông nước Đông Nam Á). Có thể nói nơi này là nơi các làn sóng cư dân hải đảo từ nhiều nơi đi đến, kể cả họ Trần. Những đoàn ngư dân tổ họ Trần làm vua, nếu là Hán Hoa đến đây bằng thuyền thì sẽ cảm thấy lạc lõng trong một môi trường văn hóa xa lạ (Xem thêm Hà Văn Tấn: "Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội nguồn của văn hóa dân gian", Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3, p.9-12. Phạm Quốc Quân: Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh", Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981)
Sự thờ thuỷ thần là một nét đặc biệt ở vùng naỳ như thờ Quảng Bá đại vương và mẫu thuỷ thần cùng 5 con trai của thủy thần như ở đền Thánh Cả, Thánh Hai, Thánh Ba, Thánh Tư và đền Thánh Ngũ.
Theo Trần Quốc Vượng, ở các vùng văn hóa Champa cũng có cơ cấu gắn với các dòng sông miền Trung và lên mô hình qui hoạch "tiểu quốc" Chăm cổ lấy dòng sông là trục chủ đạo (generator) như ở cơ cấu Hà Nam Ninh thời Trần (xem TQV "Sông Châu-Núi Đọi-Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà" trong sách "Theo dòng Lịch Sử").
Cũng không lạ gì, khi những từ Việt Nam như: sông ngòi, cá, cù lao.. là những từ gốc Malayo-Polynesian mà người Việt, Chàm, Mã Lai và gốc Malaya-Indonesian ở Đài Loan.. (xin mở ngoặc đây là từ cá, một món ăn không thể thiếu được của cư dân đảo và nước, như Họ Trần nhà ta, là từ gốc cho nhiều dân tộc trên)
"Theo Từ nguyên học dân gian kiểu "đền Gàn" ở Thanh Trì là ông thánh này có tính gàn. Kỳ thực, theo văn bia còn lại ở đền đời Lê và theo Lĩnh Nam Chích Quái đền có tên là "Xá Càn" và thần là con của Thuỷ Thần. Xá Càn, cũng như Càn, Gàn (K-G về ngữ âm, kiểu Cấu, Cáo của phương ngữ Thanh Hóa và Mường) đều có gốc Malayo-Polynesian là CÁ. Tiếng Nhật: Xa-kan = cá, tiếng Chàm Kan=Cá)" (TQV "Mấy nét tóm tắt về làng Giẽ Hạ - Xã Thịnh Phúc và Phủ Từ họ Đặng ở xã nhà" trong Theo dòng Lịch Sử)
Cũng vậy các loại cửa biển mang tên Cờn - Càn ở Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình-Tri-Thiên đều mang ý nghĩ đó theo gốc Mã Lai cổ. Ông tổ các họ Trần đi thuyền đến định cư vùng này sẽ tìm thấy một môi trường quen thuộc và dễ chịu chứ không phải là một môi trường văn hóa xa lạ
(2) Giao lư u văn hóa Việt-Chàm dưới đời Trần Phần trên tôi trình bày vài nét về tính chất Việt cổ trong tâm thức thời Trần. Đây là sự kết tục từ đời Lý qua nhiều triều đại vua mà sự thể hiện rõ rệt và nổi bật nhất là dưới triều vua Trần Nhân Tông.
Trong phần này tôi trình bày về những ảnh hưởng và giao lưu văn hóa Chàm-Việt dưới thời Trần. Sự giao lưu này là kết quả của những cộng hưởng tâm thức và văn hoá ngội cuồn cổ của 2 dân tộc cùng nguồn mà ở đời Trần là tiêu biểu của tính chất Việt gắn liền với đặc tính Đông Nam Á.
Vì nói về vấn đề giao lưu cộng hưởng tâm thức Chàm Việt, tôi sẽ chú trọng nhiều về viễn tượng văn hoá (cultural perspective) hơn là viễn tượng chính trị (political perpective).
Về phương diện ngoại giao và chính trị, trong thời điểm dưới nhà Trần, Champa ở vào thế nguy kịch của lịch sử mình ở Đông Nam Á. Chiến tranh với Mông cổ, Khmer và sau này Đại Việt chưa kể trước đó với Java.
Để mở đầu, tôi xin trích một vài đoạn trong bài của GS Cao Xuân Phổ trong một hội nghị về sử học Đông Nam Á (5):
“..
Lúc bấy giờ, cư dân Đông Nam Á lần lần cư ngụ trên các đồng bằng và vùng trung du dọc theo các sông lớn như Mekong, Menam, Salween, Irrawady, Hồng, Mã ... (và các phụ lưu) và chính những con sông này, như những đường chỉ trong sâu chuổi, nối những cư dân với nhau. Biển Nam Hải, với những dòng biển gió mùa thổi trong những khu đã được thiết lập, nối những cư dân vùng biển trên lục địa, kể cả dân hải đảo lẫn nhau. Sông, và biển ở Đông Nam Á, không những là những thành phần cá tính đóng góp vào lối sống Đông Nam Á, mà còn là sợi dây liên kết dân cư ở lục địa và hải đảo. Vì thế ngay cả trước khi văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc, Đông Nam Á đã có một cá tính riêng biệt và thành đạt. “
“Khi mà dân ở vùng phía Nam bán đảo Ấn Hoa và ỏ các hải đảo tiếp nhận các thành phần của văn hoá Ấn Độ và lần lần thiết lập tổ chức xã hội của họ (Xây Dựng), thì những cư dân phía Bắc ở bán đảo, nhất là các bộ tộc Việt, phải chống lại sự Hoa hoá (Bảo tồn) khi bắc buộc phải tiếp nhận văn hoá Trung Quốc..”
“Các người Việt, dưới triều đại Lý và Trần, trên đường thiết lập quốc gia, có để ý đặc biệt về biển. Ta nên nhớ rằng từ thời đại Đông Sơn, họ đã kết hợp ba thành phần văn hoá: đồng bằng, biển và núi trong một cơ cấu thành đạt, mặc dầu vẫn còn thô sơ. Cơ cấu này sau đó đã bị phá mất dưới sự thống trị cả ngàn năm của Trung Quốc. Và bây giờ nước Việt đang hội nhập vào đại gia đình Đông Nam Á. Rất là tự nhiên rằng sau giải phóng và trở lại với các dân tộc khác ở Đông Nam Á, người Việt tiếp nhận từ các dân tộc ấy những thành tựu văn hoá để tăng thêm vị thế của mình dù đây chỉ là việc trong gia đình các dân tộc. Trong sự tiếp nhận này, không có sự chống đối thù nghịch. Thật là kỳ diệu khi con chim thần Garuda đã nằm ở các bệ đá chùa của các triều đại Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14). Các tượng người gác khổng lồ ở chùa Phật Tích (vết tích đời Lý - thế kỷ 11) rất giống các tượng thần dvarapalas ở Đồng Dương (Champa), hay các trống Java treo trước ngực của chim thần Kinnaris dưới đời Lý. Và phật giáo dưới triều Lý rất hãnh diện với phái “Thảo Đường” tạo lập bởi vị sư cùng tên đã sống ở Chàm “.
Quả vậy, ngoài hình tượng rồng phổ biến trên nóc các đền, chuà.., khi ta đến chùa Ngọc Đ`inh (Hà Sơn Bình) sẽ thấy ở vị trí trụ cột trên bốn góc của nhiều bệ đá, hình dáng những con Garuda mình người đầu chim. Những hoa mỹ trên bức trạm gỗ con Kinnari, mình chim đầu người, ở chùa Thái Lạc (Hải Hưng) dâng hoa tấu nhạc với những nhân vật trung tâm là vũ nữ, là nhạc công.
Kiến trúc, hoa văn, điêu khắc, tượng trong nghệ thuật Trần có phẩm chất dân gian. Phong cách ấy chuộng những hình khối và đường nét mập và khoẻ. Cái mập và khoẻ ở đây được thể hiện trong những khối căn và lẳn, những đường thanh và mạnh, với một cấu trúc hình khối tinh lọc và giản dị, khiến cho tất cả những tượng này nói chung đều vững chải mà không nặng nề, ung dung, đường bệ mà không tĩnh. (Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1977).
Phong cách này hoàn toàn hoà hợp với hình thể phong cách Champa trong những kiến trúc Chàm sau khi gạt lọc đi những biểu tượng Ấn hoá.
Champa vi thế trong đời Lý-Trần trở thành như trạm chuyển -gạch nối giữa Đaị Việt và cộng đồng các dân tộc vùng Đông Nam Á. Ảnh hưởng và giao lưu của văn hoá Chàm vào một đất Việt có tính cách đón nhận hay bổ sung chứ không miễn cưỡng như văn hóa Hán. Để hiểu rõ thêm về luồng nhận trên, ta hảy xem xét một vài khía cạnh văn hoá và con người dưới thời Trần.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:14:25 GMT 9
Trần Quốc Vượng trong bài "Bắc Thái - Anh là ai" trong 'Theo dòng lịch sử" có đề cập đến giao thoa văn hoá như sau:
"..
Không thể hiểu được Bắc Ninh văn hiến nếu không cắt nghĩa nó là một hiệu quả giao thoa, giao hoà văn hoá Việt, Hán, Ấn, Chàm.. trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ đại đến Lý-Trần.. Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Dà La (tỳ khuư A Xa Lê tức Thầy Đen, Ấn Độ), Ti Ni Đa Luư Chi, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh-nghệ sĩ Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng.. thì cũng khó mà có một truyền thống văn hiến Kinh Bắc của thời tự chủ như ta hiện thấỵ Đằng sau một Nguyễn Nộn cư sĩ Phù Đổng, là một nguời Chàm Phan Ma Lôi "giỏi cuỡi ngựa" như Ngôn Thông, Đa Bảo và cộng đồng Chàm nơi đó thì không thể có Phù Đổng Thiên Vương, huyền tích Gióng và Hội Gióng hôm nay.. Tôi cũng có thể nói như vậy về pho tượng Phật bằng đá và những điêu khắc đá tuyệt vời ở chùa Phật Tích: Đấy là nghệ thuật Việt, cái đẹp Đại Việt đã biết hội nhập nhiều yếu tố ngoại sinh Hán, Đường, Champa."
Nếu chia văn hóa làm hai loại văn hóa dân gian và văn hoá bác học, thì giao lưu Chàm-Việt đạt nhiều trong lãnh vực dân gian trong khi đó giao thoa Hán-Việt ở vào lãnh vực bác học. Tuy vậy tính chất dân gian cũng không thiếu tính chất bác học trong nền văn minh Đại Việt.
Trở lại Trần Quốc Vượng:
"..
Quan họ là âm nhạc dân gian Kinh Bắc nhưng các nhà nhạc học Trần Văn Khê, Thanh Bảo mách tôi rằng giới nhạc học Nga và Tây Âu nói với hai vị ấy rằng Quan họ có rất nhiều chất bác học về điệu thức và giai điệu. Ta nên nhớ âm nhạc Champa đã được Nhạc Phủ đời Đường sưu tập và nghiên cưú. Lý Nhân Tông trở thành nhạc sĩ là do biết "hoà Đường Phạn nhị âm". Quan họ hình thành, có nghệ sĩ âm nhạc Chàm góp công, góp sức.."
Cũng theo An Nam Chí Lược, ở Thăng Long đời Trần, về nhạc thì có trống cơm (tên chữ Hán là "Phạn cổ") gốc ở Chiêm Thành truyền qua Việt Nam. Hình trống tròn dài, nghiền cơm đắp vào giữa mặt trống rồi dánh, tiếng ra trong trẻo, rõ ràng. Trống ấy hòa với tất tiêu (tiêu), tiểu quản (sáo), tiểu bạt (não bạt), đại cốc (mõ to) gọi là đại nhạc.
("Hà Nội nghìn xưa", Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn San, 1975)
Về sinh hoạt ở kinh thành Thăng Long dưới đời Trần, sứ giả Nguyên Trần Phu lưu lại 52 ngày năm 1293, đã tả chi tiết qua bài An Nam Tức sư. Vua quan nhà Trần thường đi võng hay kiệụ Võng cánh dùng một mảnh vải dài hơn một trượng lấy 2 dóng gỗ tròn dài 5 tấc, treo 2 đầu tấm vải vào hai dóng gỗ nhờ một sợi dây thừng, rồi lại lấy một đòn tre to xỏ qua 2 dây thừng ấy, hai người khiêng hai đầu đòn. Cáng thời ấy gọi là "Đề Nha", một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Vua dùng kiệu hồng, tán đỏ, tám người khiêng. Khi đi voi thì trên lưng voi bày đủ yên cương bành ngồi, gọi là "la nga", cũng một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Xứ Nguyên, Trương Lập Đạo, năm 1291 có kể trong bài "Hành Lục" về vua Trần Nhân Tông ở kinh thành Thăng Long. Vua tiếp sứ và đọc chiếu xong, xuống điện Tập Hiền đãi yến. Trên bàn tiệc, bày la liệt các bát món ăn, thịt cá, hải sản và hoa quả quý lạ. Vua Trần ung dung ngồi nhai trầu, trầu têm, cau bổ và vôi hàu, có đua mời sứ giả.
Về phương diện tâm linh, Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần với sự ủng hộ của giới quý tộc Trần và coi như là quốc giáo. Ngoài những thiền tăng từ nhà Nguyên Trung Hoa, còn có nhiều nhà sư Ấn Độ, Trung Á có khuynh hướng Mật giáo đến Việ Nam, như nhà sư Du Chi Bà Lam đến hai lần vào thời Nhân Tông và Anh Tông, nhà sư Bồ Đề Thất Lý (Bodhisri) đến thời Minh Tông. Trúc Lâm đệ nhị tổ, được thượng hoàng Nhân Tông sai đi tìm nhà sư Ấn có tên là Ban Đề Đa Ô Tra Thất Lợi (Panditausasri ?). (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991).
Phật giáo phát triển lan rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hoà hợp với một tâm linh bản địa Việt tạo lên một kiến trúc van hoá hoài hòa với văn hoá phương Nam. Văn hoá đời Trần là biểu hiện cuả sự nhập chung của hai tâm linh này. Cũng vậy, sự suy thoái của Phật giaó và sự thắng thế của Nho giáo bắt đầu từ thế kỷ 14 do tầng lớp ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ là quí tộc Trần đã mất dần uy lực chính trị và kinh tế. Ở cuối nhà Trần và đầu nhà Hồ, thời kỳ huy hoàng của Phật giáo mới chấm dứt.
"Chế độ sở hữu ruộng đất lớn điền trang thái ấp bắt đầu tan rã. Các quan lại xuất thân nho học "bạch diện thư sinh", đại diện cho tầng lớp địa chủ nhỏ, bắt đầu nắm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Nho giáo với chế độ khoa cử dần dần thắng thế. Nhiều nhà nho như Trương Hán Siêu, Lê Quát bắt đầu lớn tiếng công kích Phật giáo"
Trong số những nhân vật tiêu biểu của đời Trần, ta sẽ nhận thấy có một vài nhân vật thông hiểu tiếng Chàm như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật (xem Phan Huy Chú - Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Nhân Vật Chí). Trần Nhật Duật không những giỏi tiếng Chàm và các ngôn ngữ hải đảo như Sách Mã Tích (gần Java ngày nay) mà còn các ngôn ngữ dân tộc miền núi và tiếng Tống nữa. Ông cũng thường cỡi voi đến thôn Đađa-li (sau gọi trệch là thôn Bà Già) nơi có nhiều người Chàm tù binh định cư gần Thăng Long để nói chuyện và ca hát suốt ngày.
Thời Nhân Tông, sứ giả nước Sách Mã Tích sang cống, không tìm đâu được người phiên di.ch. Cả Thăng Long, chỉ một mình Trần Nhật Duật dịch được.
Nếu ta còn kể thêm là Trần Nhật Duật có vợ người Thanh Hoá, một vùng là cửa ngõ giao lưu văn hoá 2 nước. Cơ sở hậu duệ của Trần Nhật Duật sau này là ở vùng này. (TQV có nói thêm là trong bài của Quatrich Wales "The Dong Son genius and the evolution of Cham Art", Journal of Royal Asiatic Society, 1949 đề cập về văn hóa bản địa Chàm là di sản của văn hóa Đông Sơn, đó là chưa nói đến sự giao lưu giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn)
Ta cũng biết thêm rằng người Chàm không những định cư ở Thanh Hóa hay gần Thăng Long mà còn ở ngay những chốn như Kinh Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang ngày nay). Cái nôi của ngàn năm văn vật. Người Chàm hầu như hoà đồng với người Việt trong một môi trường không xa lạ lắm dưới đời Trần. Ảnh hưởng của người Chàm vào văn hoá Việt nam có thể kể như kiến trúc đdình đền, nhạc, quan họ như đã đề cập ở trên.
Lại nói về vua Trần Nhân Tông, sau khi xuống vua làm Thaí Thượng hoàng và về núi Yên Tử thường dạo chơi và cũng có tiếp xúc với mọi giới ở vùng Luy Lôi, Kinh Bắc. Sự giao thiệp của Nhân Tông mang tính cách đạo, văn và tâm thức. Có thể qua những sự giao tiếp này, người Chàm cảm nhận và danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang dội đến Champa.
Trần Nhân Tông tháng 11 năm 1301 đi chơi ở các địa phương Champa trong 8 tháng dài và nơi đâu cũng được đón tiếp nồng hậu coi như người nhà (1)(9).
Dĩ nhiên khi thượng hoàng Nhân Tông khi đi thăm thú khắp đất Champa trong một thời gian dài, chắc chắn đều có sự tháp tùng của những tu sĩ người Việt gốc Chàm hoặc người Việt thông tiếng và văn hóa họ. Sự ngưỡng mộ của dân Champa với thượng hoàng đã dẫn tới việc vua Champa Chế Mân (Jaya Simhavarman III) đề nghị với thượng hoàng thắt chặt quan hệ chặt chẽ của hai dân tộc bằng cuộc hôn nhân lich sử Simhavarman-Huyền Trân công chuá.
Thượng hoàng Trần Nhân Tông rất tán đồng với ý kiến này và xúc tiến một liên minh Chàm-Việt. Chỉ có vua Trần Anh Tông và một số cận thần đều không muốn và miễn cưỡng theo ý thượng hoàng. Liên minh Chàm-Việt vì thế chỉ vững khi còn Trần Nhân Tông và Simhavarman.
Ta cũng biết trước đó, vua Chế Mân đã đồng minh với vua Trần chống Mông Cổ và từ chối không cho chiến thuyền Mông Cổ ghé Champa trên đường đi chinh phạt Java. Có thể nói Jaya Simhavarman III nhận được ra thế chiến lược của nước Champa giữa các thế lực quanh Champa. Và để bảo đảm sinh tồn của Champa, nên đã hòa min`h tìm bạn đồng minh. Trước khi cưới Huyền Trân, Jaya Simhavarman III đã cưới công chúa Java thành hoàng hậu Tapasi. Huyền Trân công chúa trở thành hoàng hậu thứ hai tên Paramesvari (10).
Sau khi thượng hoàng Nhân Tông và Simhavarman III mất, liên minh Chàm-Việt dần dần đỗ vỡ. Một số các nho sĩ trong quan triều nhân cơ hội không còn thượng hoàng đã lên tiếng chê bai và phá thế liên minh Chàm-Việt. Người quan trọng đứng đầu là Đòan Nhữ Hài đã tìm mọi cách để phá vỡ. Trần Anh Tông không thấy được thế chiến lược của ý tưởng Nhân Tông. Sau này dẩn tới cuộc chiến tranh một mất một còn giữa Đại Việt và Champa. Đại Việt suýt bị tan dưới sự tấn công liên tục của vua Champa Chế Bồng Nga. May thay, vận nước còn cao nhờ các tên đạn cuả tướng Tran Khát Chân và vận Champa đã tới lúc tàn.
(Trần Anh Tông thường hay lẫn trốn đi chơi đêm và uống ruợu say, có lần bị thượng hoàng Nhân Tông quở trách khi đến thăm cung mà vua vẫn còn ngủ vì say rượu. Thượng hoàng giận bỏ về Thiên Trường. Vua tỉnh dậy, rất sợ hãi may nhờ có Đòan Nhữ Hài thay mình viết thơ xin tạ tội. Từ đó vua rất cậy nhờ Đoàn Nhữ Hài. Đoàn Nhữ Hài sau này bị tử trận trên chiến dịch đánh Lào và Champa.. Cũng vậy, có lần Nhân Tông đi đến cung vua cùng với thợ vẽ để thích hình rồng vào người nhưng Anh Tông vờ lúc thưọng hoàng và tuỳ tùng không để ý, lẻn đi mất)
Cũng vậy, sử gia Ngô Sĩ Liên và các quan dưới đời Lê chuộng nho học đã chỉ trích nghiêm khắc hành động của thượng hoàng Trần Nhân Tông dẫn đến cuộc hôn nhân Simhavarman-Huyền Trân. Nhưng tôi cho đó là những người hẹp về cái nhìn.
Tóm lại, tôi đã trình bày tóm tắt và những nhận định chung về giao lưu văn hoá Champa-Vietnam dưới đời Trần. Sự giao lưu này thể hiện mạnh mẽ trong văn hoá dân gian Việt Nam. Văn hoá đời Trần tỏ rẽ nét văn minh bản chất Việt. Đây cũng là thời kỳ mà ảnh hưởng từ Nam Á qua nút Champa thể hiện đậm nét và để lại một dư âm qua các triều đại kế tiếp từ đời Lê đến đời Nguyễn khi Nho Giaó chiếm lỉnh vị trí quan trọng trong triều đình, tầng lớp quan lại và bộ máy chính quyền.
(3) Sự xung khắc của văn hóa bản xứ với Nho giáo Trong phần trước, tôi có nói về văn hóa dân gian bản sứ Việt dưới đời Trần có những nét đồng với văn hoá Đông Nam Á trong khi văn hóa và văn chương bác học chịu ảnh hưởng Hán. Có thể nói ở văn hoá Việt, tầng ảnh hưởng Hán che trên tầng (layer) bản xứ Việt. Nếu đào sâu xuống tầng cuối, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.
Thí dụ, trở lại về chuyện Cửa Càn (hay Cờn) mà chúng ta biết ở Quỳnh Lưu, Nghệ An về đền thờ ở cửa biển này. Đền thờ này được thiết lập dưới cuối triều Trần Anh Tông vào năm Nhâm Tý (1312).
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (DVSKTT) đã chép như sau về truyền thuyết thờ đền như sau:
"Nhâm Tý .. Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải (tức cửa Cờn, chú thích Phan Huy Lê). Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: "Thiếp là cung phi nhà Thiện Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt về đâỵ Thượng đế đã phong thiếp là Thần biển đã lâu, nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công". Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lảo tới hỏi sự thực, cho tế rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân nhà vua tiến thẳng tới thành Đồ Bàn (Vijaya, nay thuộc tỉnh Bình Định), bắt được chúa Chiêm đem về. Đến nay, sai hưủ ty lập đền, bốn mùa cúng tế." (Quyển 6, Kỷ Nhà Trần, Anh Tông Hoàng Đế)
Vị nữ thần biển đó như tôi đã trình bày ở phần trước có nguồn gốc của các dân tộc và ngư dân vùng biển Malayo-Polynesian từ lâu đời: thần phụ mạng cho ngư dân đi biển, thần cá cứu độ (cá ông voi). Không chỉ đến đời Trần mới có thần để nhân dân thờ phụng. Sự cá nhân hoá của một vài nhân vật thay thế cho thần biển phù mạng cổ xưa qua truyện giấc mơ của vua quan Trần là sự "bác học hoá” của tâm linh và văn hoá dân gian địa phương. Sau đó vua ra sắc lênh lập đền thờ và phong nữ thần biển là "Quốc gia Nam Hải Đại Càn thánh nương" là biểu hiện của triều đình đáp ứng tín ngưỡng xưa của dân khi chiêu mộ dân đi biển đánh giặc. Nhưng thêm vào đấy là biểu tượng Hán hoá qua thiên triều vừa mất.
Theo trào luư dân Việt xuống miền Nam, thần Đại Càn thánh nương cũng theo xuống dồng bằng sông Cửu Long cũng như thần Việt cổ Liễu Hanh vậy. Ngay tại Saigon, trên đường Trần Quang Khải có đền Nam Chơn, thờ thần Đại Càn.
Cũng vậy, đền Chế Thắng phu nhân ở huyện Kỳ Anh. Đây cũng là quan triều nhân vật hoá thần biển nhưng lại dùng nhân vật Việt ở triều đình. Chế Thắng phu nhân là cung nữ của Trần Duệ Tông, tên thật Nguyễn Thị Bích Châu, từng theo vua đi dánh Chiêm Thành. Khi qua cửa biển, sóng gió nổi lên, vua muốn bày lể tế thần biển : bà phải đứng trên cái mâm to bằng đồng, để cho vua ném bà xuống. Nhờ vậy bớt sóng gió. Biết chuyện ấy, người địa phương lập đền thờ.
(xem "Sơn Nam - Phạm Xuân Thảo, "Một thoáng Việt Nam", Nxb Trẻ, 1996)
Cuối đời Trần, nho học đã bắt đầu có ảnh hưởng rộng lớn ở quan triềụ Hán-Việt hoá các thần thoại, địa danh, danh từ dân gian tiếp diển mạnh hơn. Nhưng dưới những vỏ Hán-Việt là di tích, truyền thuyết văn hóa cuả Việt xưa.
Tuy vậy ngôn ngữ dân gian vẫn còn giữ những tên tục của các tên Hán hoá vẫn còn lưu truyền nhiều thế hệ cho đến những thế kỷ gần đây như kẻ chợ (Thang Long), kẻ bưởi..(các thương nhân người Bồ, Hoà Lan dùng "ke cho" để chỉ Thang Long do tiếp xúc với dân gian buôn bán). Sự Hán-Việt hoá các danh từ dân gian còn tiếp tục cho đến đời Nguyễn ở miền Nam như đổi Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đét.. ra tên Hán-Việt nhưng không thành công lắm.
Trở lại bản chất Việt của văn hóa và tâm linh dưới đời Trần bắt đầu bị nho học dời chổ và cho đến đời Lê thì nho học Hán thắng thế hoàn toàn mà đỉnh cao là dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Văn hoá làng mạc Việt Nam dưới triều Lê được triều đình nổ lực cố gắng thay thế bằng phương cách Hán nho hoá. Mục đích cuối cùng cũng vẫn là quyền lực của triều đình nhà nước làm sao kiểm soát và làm chủ mọi đời sống nhân dân. Làng xã Việt Nam tuy vậy vẫn còn giữ được một phần tự chủ cũng như tâm linh, văn hoá truyền thống không bị nho hoá hoàn toàn cho đến ngày nay.
" Năm Quang Thuận thứ 8 (1467), ông vua độc tôn Nho Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi Đọi, nên có lên chơi núi, làm bài thơ khắc sau bia Lý, cười vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật). Và vua Lê để mặc chùa, bia đổ nát" (Trần Quốc Vượng, Sông Châu-núi Đọi - họ Trần và những mối quan hệ với cụ kép Trà. Trong Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:15:47 GMT 9
Để thấy một cái nhìn tiêu biểu của giới nho học đánh giá về đời Trần, gần đây nhà sử học O.W Wolters đã viết một bài nghiên cứu về những chủ ý và động cơ về những lời bàn của Ngô Sĩ Liên trong bài "What else Ngo Si Lien mean? A matter of distinctions in the fifteen century" (trong quyển “Sojourners and settlers, Histories of South East Asia and the Chinese - Edited by Anthony Reid”, 1996)
Trích một vài đoạn của ọ Wolters, vì ông nói rõ hơn ý tôi nói:
"Ngô Sĩ Liên là một người Việt lúc nào cũng kính trọng cái học từ Trung Quốc cho đến mực là sự cao tụng cao nhất mà ông dành cho nguời cầm quyền ở Việt Nam là sự nghiệp thành công của người đó cũng không thể làm hơn được bởi các vị hoàng đế nổi tiếng nhất ở Trung Quốc ngày xưa . Năm 1479, Ngô Sĩ Liên được hoàng đế Lê Thánh Tôn, trao cho nhiệm vụ viết lịch sử biên niên Việt Nam. Cũng ở khoảng giữa cùng thế kỷ ấy, một nhà sử gia khác, Phan Phu Tiên, cũng đã viết sử biên niên của đời Trần (1226-1400), thời kỳ mà tôi chú ý đến. Lời bình của Liên về sử biên niên nhà Trần dựa theo truyền thống sử học Trung hoa và có mục đích dạy các bài học của quá khứ để huấn luyện những người ở thời nay and tương lai; phần lớn những gì ông Liên viết có ý tương phản những gì xảy ra ở Việt Nam với những điển cố hay sự kiện được ghi lại trong văn học lịch sử Trung Quốc - hầu như lúc nào cũng không thuận lợi cho triều đại nhà Trần.
Cái mà ông Liên khi đọc niên biểu lịch sử nhà Trần đã làm ông than vãn quá khứ vừa xảy ra ở nước ông là nước ông đã không xứng đáng đúng là một nước mẫu mực oai vệ "uy nghi", được trị bởi một "thiên tử" và so sánh được trên mọi phương diện với một quốc gia mẫu mực "uy nghi" duy nhất: Trung Quốc. Lời bàn của Liên có ý gì? Những lời bàn này có thể cho ta thấy gì hơn không ngoài việc ông là người giỏi thông thái về cổ văn Trung Quốc và dùng vốn ấy để phê bình gay gắt triều Trần đã qua? ..."
Trong 72 lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên về đời Trần, ta có thể thấy một thầy nho nghiêm khắc phê bình và chỉ trích gắt gỏng những chất không nho học của các dữ kiện, hành động của các vua Trần từ tu hành Phật giáo tới không nghiêm trong cai trị, lỏng lẻo luật pháp, hôn nhân trong họ hàng... Và tương phản những giá trị chung của nhà Trần với những giá trị của các bậc thánh nhân.
"..Ông, như người Việt bao thế kỷ trước đã từng làm, mang những đoạn trong sách vở Trung Quốc để ủng hộ cho những câu nói, ý tưởng của ông; những lời bàn của ông thường kèm theo các dẫn chứng tham khảo về các triều đại, vua của Trung Quốc cổ xưa hay các hiền triết của thế hệ xa xưa.”...
Những lời bàn của Liên, công kích cứng rắn và thẳng thừng. Ông là một thầy giáo nghiêm khắc hay nhấn mạnh và thích nói lên những gì ông cho rằng "rất" không hợp hay sai trái. Ông thích viết những câu như kêu la hoảng hốt với dấu chấm than, một kiểu viết mang cảm tưởng là ông đang thét vào tôi để truyền đạt sự giận dữ của ông .
Ngô Sĩ Liên lấy thước đo quân tử, tiểu nhân để so sánh các nhân vật nhà Trần.
".. Người quân tử thì tương phản với nhà sư; nhà sư cho rằng mình có quyền phép tiên đoán, quay lưng lại với xã hội, từ bỏ thế giới và thiền tịnh để đạt yên bình. Người quân tử không chấp nhận những thứ như vậy ."..
Ngô Sĩ Liên hầu như coi tất cả đều phải dựa vào mô hình hán-nho ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt xảy ra dưới đời Trần.
"Có chắc rằng Liên có lý và đúng, thí dụ như than phiền rằng thi hài vua đã bị hoãn chôn cất đến 4 năm khi mà theo phép phải được táng 7 tháng sau khi mất?. Việc như thế có thể đúng ở Trung Quốc nhưng rõ ràng chắc chắn không thể áp dụng khuôn phép y trang được như vậy ở Việt Nam. Có phải là Liên gắn liền thể diện với quyền lực là xác thực không? hay là ông có một ý gì ấy hơn thế nữa .
Liên dĩ nhiên có thể hiểu sai và che đậy tình huống lịch sử trong giai đoạn lúc ấy thời nhà Trần, bởi vì, lúc ấy trong thời ông, một khoảng cách văn hoá đã được tạo ra giữa ông và quá khứ do một nền giáo dục mới và chính phủ mới, hậu quả của sự chiếm đóng của nhà Minh ở đầu thế kỷ thứ 15.
Đối với Ngô Sĩ Liên, triều đình nhà Trần dễ dãi, khoan hồng, lễ nghi xuề xoà và không có một sắc thái nghiêm minh xứng đáng của triều đình một nước.
"Vì thế Liên đỗ lỗi các vua Trần quá "khoan hồng" thay vì "kỹ cương" đúng mực. Phong tục thì "giản dị" mà không "giới hạn" Ông quan sát rằng các vua Trần, cũng như các vua Lý trước đó, "kính nể thờ phụng Đức Phật như là khởi nguồn của tất cả thế sự", một niềm tin đã làm các vua có lòng từ bi trắc ẩn và khuyến khích khuynh hướng rộng lượng ở lòng người"
Trong các vua Trần, chỉ có dưới đời vua Trần Anh Tông là được Ngô Sĩ Liên chấp thuận hơn các đời vua khác trong những quyết định và một số hành động nhưng cũng không tránh khỏi những chỉ trích.
"Vua khéo biết thừa kế, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi yên Tử, làm nhọc sức dân dưng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao? "
(DVSKTT, Kỷ Nhà Trần, Quyển VI)
O. Wolters cho rằng những giá trị truyền thống mà Ngô Sĩ Liên tấn công mãnh liệt ở nhà Trần, đấy có thể là những điều tốt mạnh của xã hội Việt mà sử thần Ngô Sĩ Liên không thấy.
“Tôi vì thế cho rằng những gì Liên đau buồn không phải là những việc xảy ra trệch khác đi với những gì đã được tạo dựng dựa trên tiêu chuẩn Trung Quốc mà là những dấu hiệu che đậy không kỹ của một phong thái, tình trạng văn hoá còn tồn tại qua bao thế kỷ ở Việt Nam mặc dầu đã có liên hệ với Trung Quốc từ bao đời. Những gì Liên, đứng từ góc dộ quan điểm “nho giáo” ở cuối thế kỷ 15, cho đó là sự yếu kém thì phải nên nhận thấy thực sự ra đó là những dấu hiệu của một truyền thống chính thể Việt Nam vững chắc”
Sự thật thì giá trị truyền thống Vietnam uyển chuyển và hoà hợp với công đồng hơn là giá trị cứng ngắt, "ưu tú" của nho giáo. Vì Ngô Sĩ Liên có ảnh hưởng lớn đối với các tầng lớp sĩ phu sau này qua bộ sử quan trọng nhất của nước nhà nên ý kiến cứng và độc tôn nho giáo của ông đã phủ lấp giá trị bản địa và truyền bá cái cứng của giá trị Hán-nho đưa đến những hậu quả lớn lao sau này khi Việt Nam phải đối diện với những thử thách và giá trị của tư tưởng mới lạ ở thế kỷ 19, 20 khi tiếp xúc với nền Tây phương mang đến.
Tôi nhận thấy lời kết của O. Wolters tóm tắt hoàn hảo ý chính tôi muốn nêu lên ở phần nàỵ
".. Và trong bài khảo luận này, tôi đã cố gắng trình bày một nhận thức đã được thay đổi khác đi về cái gì nên được xem là “thể diện” của một nước; nó phải biểu hiện sức mạnh của “một vương quốc thích đáng”, phục vụ bởi các “quân tử” không khi nào quay lưng ra khỏi những vấn đề của xã hội.
Những dấu hiệu đổi khác này phản ảnh thế nào những nhà trí thức Việt Nam đã càng ngày càng nghiêng theo những gì của Trung quốc mà họ tin rằng là những mẫu mực của một chính phủ vững mạnh, từ đó là phơi trần ra một đối trọng: quyền lệ của dân làng được để yên, và cũng là cơ sở bắt đầu để kiểm soát cai trị tuyệt đối trên xã hội. Tôi xin được kết luận có thể vô trách nhiệm, cho rằng một số trong chúng ta có thể hối tiếc rằng Ngô Sĩ Liên đã khuyến khích khuyên giới ưu tú, lãnh đạo Việt Nam từ đi những phong tục cách sống ngày trước. Chúng ta phải hối tiếc như vậy bởi vì cách và lối sống lúc trước có thể bớt căng thẳng, bớt lề lối cứng ngắc, nhiều co dãn linh động, và cởi mở hơn, và để lại cho thế hệ hệ sau một cơ sở tốt khi mà thời điểm cuối cùng cũng phải đến để đối phó với thế giới phương Tây cũng như Trung Quốc sau này.”
Sự thắng thế và ảnh hưởng rộng lớn của nền văn hoá Hán nho sau đời Trần quả thật đã để lại những di sản to lớn trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử Việt Nam có thể khác đi nhiều không khi tâm thức Việt đi theo chiều khác?.
(4) Tính Chất Việt đời Trần - Viễn cảnh lịch sử Một số tư liệu và ý tưởng trong phần này lấy từ sách của Gs Vĩnh Sính nhưng những nét chính của bài là cái nhìn của tôi về toàn cảnh lịch sử của nước nhà dưới góc cạnh tư tưởng và đặc tính tâm thức của con người Việt Nam sau đời Trần.
Ở phần trước tôi có nói về sự thắng thế của nho giáo Hán ở xã hội và tầng lớp quý tộc học thức cuối đời Trần. Phần này tôi nói về giai đoạn sau về nho giáo và ảnh hưởng của nó từ đời Lê, Lê trung hưng tới đời Nguyễn.
Như tôi đã nói, phong cách, tôn giáo và tâm thức đời Trần đã bị chỉ trích và bị dần dần xoá bỏ hoặc lãng quên nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Một vì vua thành công nhất gây dựng lên nền tảng nho giáo và pháp chế trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam mà sau này vua Minh Mạng dưới triều Nguyễn đã coi như là gương mẩu để noi theo.
Để làm nền cho việc bàn luận sau, tôi xin nhắc lại một một vài điểm chính của tư tưởng Việt Nam trong lịch sử
(a) Thời sơ nguyên và dựng nước : Vật tổ (totem) rồng tiên, thành hoàng thổ thần, thần đồng cổ và tín ngưỡng vật linh như cây, đá.. gọi chung là tâm linh Việt cổ cùng cơ bản với các dân tộc khác ở Đông Nam Á.
(b) Thời Bắc thuộc tới Đinh Lê : Tâm linh Việt cổ với Sĩ Nhiếp bắt đầu sáng tạo ý thức hệ Tam giáo Nho Đạo-Thích ảnh hưởng lan rộng. (Thích tức đạo Phật Thích ca)
(c) Thời Lý-Trần : Tín ngưỡng Thần Đồng Cổ (Thần Trống Đồng) được triều đình chính thức áp dụng. Thần hoàng thổ thần cùng với Tam giáo, Phật Nho và Lãọ với Phật giáo ảnh hưởng chính.
(d) Thời Lê, Mạc : Nho giáo độc tôn (trừ tư tưởng thiền nhân bản Nguyễn Trãi và trong đời Mạc giảm đi sức ảnh hưởng của Nho giáo).
(e) Lê Trung hưng tới Nguyễn : Nho giáo uư thế và thành độc tôn dưới triều Nguyễn Minh Mạng.
Nho giáo độc tôn ảnh hưởng trong 5 thế kỷ từ Lê đến Nguyễn. Nói đến Nho giáo, chúng ta phải phân biệt ra hai trường phái nho giáo mà sự khác biệt rất là quan trọng và cơ bản : Tống nho và Minh nho.
Minh nho có một cái nhìn khá cởi mở về văn hóa, tín ngưỡng mà không bị giam hãm trong những tín điều của Tống nho. Minh nho mà cốt lỏi là Vương học (Vương Dương Minh) là cái học thực tế, nhân bản hơn cái học Tống nho.
Chu Hy là một đại diện tiêu biểu của Tống Nho chủ trương "Đạo vấn học", đời người ta xem rộng, xét nhiều rồi mới thu vào chổ yếu ước chủ chốt, cho nên bắt đầu bằng công phu "Cách vật, trí tri" mà phân ra "tri" rồi mới "hành". Chu Hy thuyết cùng lý ở ngoài "tâm". Chu Hy quan niệm lý đứng độc lập với "Tâm". Cái học Tống nho thường nặng về giáo lý, coi trọng thuyết lý hơn hành động thực tế.
Trái lại, Minh nho chủ trương "tâm" tại vật là "lý". "Đạo tâm" là "lương tri". Vương Dương Minh với triết lý "lương tri", hợp nhất tri hành ("Tri Hành Hợp Nhất") đã đặt cơ sở cho một cái học hợp nhất khoa học với đạo đức, trên nhân bản toàn diện "Thiên địa vạn vật nhất thể".
(Đỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb Thuận Hoá, 1996)
Tư tưởng ảnh hưởng mạnh đến văn hóa và tạo thành một đặc thù cá tính của dân tộc, của con người Việt Nam. Bắt đầu từ thời cuối Trần văn hoá Hán nho đã chiếm địa vị độc tôn. Một đặc điểm của nho giao (nhất là Tống nho) là không khoan nhượng một tâm linh tôn giáo khác cùng đứng chung.
"Sau Nguyễn Trãi ý thức hệ Thiền Tam Giáo khai phóng thời Lý Trần cũng cáo chung. Nhà Lê độc tôn Nho giáo theo Tống Nho "tịch Thích Đạo" bài Phật Giáo và Lão Giáo, tạo nên ở Việt Nam trong triều đình bè phái tàn sát lẫn nhau gây nên tranh giành, nào Lê Mạc, Lê Trịnh, Trịnh Nguyễn suốt hai trăm năm cho đến ngày mất chủ quyền với thực dân"
(Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư tưởng bình dân Việt Nam)
Trái với "tịch Thích Đạo" của Tống Nho, Phật giáo và tín ngưỡng Thổ thần Thành hoàng của người Việt nguyên thuỷ thu hút và chấp nhận các tư tưỏng và tôn giáo khác cùng chung đất dụng võ. Nhưng sự uyển chuyển khoan dung và thực dụng này đã bị Tống nho lần lần tiêu diệt và tạo nên một văn hoá Hán nho cứng, kỹ cương và giáo điều từ chương trong suốt 5 thế kỷ tạo nên một đặc thù cá tính của người Việt mà hiện nay tâm thức chúng ta đang mang.
Bắt đầu từ thế kỷ 20 khi Nho giáo bắt đầu tàn lụi và con người Việt Nam phải đối diện trực tiếp với một thế giới cạnh tranh khắc nghiệt và có lúc tàn nhẩn như dưới thời thực dân, hay thay đổi nhanh chóng và xa lạ như hiện nay, chúng ta đã không còn một hệ thống giá trị nào khác để dựa vào khi Tống nho đã làm tàn lụi hết những giá trị của tôn giáo khác hay tâm linh cơ bản uyển chuyển, thực dụng của người Việt xưa.
Con người Việt Nam phải tìm mọi chủ thuyết hay giá trị mới để thay thế để có một chỗ đứng làm nền. Giá trị văn minh Tây phương với nhiều mô hình, giá trị nền tảng gia đình mà nho giáo và tâm thức củ vẫn còn ảnh hưởng trộn lẫn để cố gắng đến một văn hoá, con người Việt nam mới hiện nay.
Di sản Tống nho độc tôn đã làm cho con người Việt ngay cả lúc thu nhận vẫn còn đặc thù cứng. Có phải mặc cảm tự ti nhưng cố gắng che đậy không mất sĩ diện và cố chấp, lý thuyết, ít thực dụng, không uyển chuyển là một trong những di sản đó còn tồn tại trong con người cũng như trong các cá tính đặc thù khác của người Việt ngày nay?
Để tìm một khía cạnh cho sự trả lời câu hỏi này, ta có thể so sánh 2 hình thức thu nhận của Nhật và Việt Nam về phương diện Hán nho nói riêng và văn minh Hán Trung quốc nói chung.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2006 5:16:03 GMT 9
Theo giáo sư Vĩnh Sính, thì thái độ của Việt Nam là đề kháng xâm lăng quân sự nhưng chấp nhận y như khuôn mẫu văn hoá Trung quốc, điển hình là Tống nho dưới triều Lê. Đây cũng là tính chất "bảo hoàng hơn vua". Ngược lại Nhật Bản với tinh thần sáng tạo và độc lập hơn có thái độ là "kính nể hoặc phủ nhận văn hóa Trung quốc" (15).
"Nay ta thử xem thái độ "kính nể/phủ nhận" của người Nhật đối với Nho giáọ Tokugawa Ieyasu (Đức xuyên Gia khang), người sáng lập chính quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp dụng học thuyết Tống nho của Chu Hy để củng cố chính quyền Bakufu (mạc phủ). Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính thống. Nhưng trên thực tế, dưới thời Tokugawa có nhiều Nho gia như Yamaga Soko (Sơn lộc Tố hành; 1622-1685) và Yamazaki Ansai (Sơn kỳ Ám tế; 1618-1682) phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung quốc và cho rằng về cả ba mặt nhân, trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối với Khổng Tử, cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc và Việt Nam.
Sách Sensetsu sodan (Tiên triết Tùng đàm) biên soạn cuối thời Tokugawa có ghi lại đoạn vấn đáp sau đây giữa Ansai và các môn đê.. Ansai một hôm vấn nạn các môn đệ:
"Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng Tử làm đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ binh sang tấn công nước ta, với tư cách là người Theo học đạo của Khổng Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng xử như thế nào?"
Thấy các môn đệ lúng túng, Ansai tự đáp:
" Nếu điều bất hạnh này xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm ra trận bắt sống Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy chúng ta!".
Chắc hẳn đối với các Nho gia Việt Nam, phản ứng đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: "Đối với các bậc thánh hiền ai lại đặt câu hỏi kỳ cục như thế?". Cách vấn nạn của Ansai chắc hẳn đã lạ lùng, khó nghe, mà câu trả lời của Ansai cũng lhông kém bất ngờ, đường đột. Phải là một "Nho gia" không bị chi phối bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính khách quan để đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.
Vị trí lãnh đạo về văn hoá của Trung Quốc cũng bị các học phái Kokugaku (Quốc học) và Rangaku (Lan học) phủ nhận tận gốc. Motoori Norinaga (Bản cư Tuyên Trường; 1730-1801) và các học giả của học phái Kokugaku khởi đầu nghiên cứu Hán học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ triệt để "đầu óc Trung Hoa" (Karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và nhân tạo của Nho giáo, sự sai lạc và tính chất quá khích của thuyết "thiên mệnh". Theo Norinaga, trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người Nhật thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tâ,p thơ đầu tiên của người Nhật là Manyoshu (Vạn diệp tập; biên soạn xong năm 760 sau CN). Học phái Kokugaku đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống dậy tinh thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX."
Tại sao tâm hồn người Nhật thuần phát và bộc trực không khác mấy tâm hồn Việt truyền thống của con người Diên Hồng lại sáng tạo thu nhập văn minh Hán nhưng không mù quáng mà chúng ta lại "bảo hoàng hơn vua", sao rập từ chương cứng ngắt trong nô dịch văn hoá để đi dến thảm họa sau này?.
Cũng vậy dân tộc anh em Thái Nam Chiếu uyển chuyển như dòng nước cùng thời điểm lập nước đời cuối Trần đã đi gây dưng một nước với văn hoá hấp thụ các tinh hoa của các nền văn minh mà không độc tôn, tạo thành một văn minh bản sứ thực dụng và mở rộng.
Phải chăng mô hình Tống nho mà Việt Nam theo đuổi trong 5 thế kỹ qua đã đưa Việt Nam tới thái độ cứng ngắc, bảo thủ, một giá trị xa lạ với tâm thức người Việt truyền thống xưa, làm đất nước rơi vào tay thực dân Pháp mà giới trí thức nho sĩ phải chịu trách nhiệm chính?
Nhưng trong khi quốc gia trong nguy kịch hoặc phải đối diện với những khủng hoảng thì người dân thường lại phải gánh chịu nhiều nhất. Sĩ phu thường nói "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Sĩ phu chúng ta có trách nhiệm nhiều lắm với lịch sử
Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp gần đây trong những năm cuối thập niên 80 đã có những truyện đả kích dữ dội trí thức sĩ phu là có cơ nguồn gốc này?
Tham Khảo
(1) Đại Việt Sử Ký toàn thư, Quyển 5 và 6, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993
(2) Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996
(3) Hà Văn Tấn, Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội nguồn của văn hóa dân gian, Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3, p.9-12.
(4) Phạm Quốc Quân, Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh, Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981.
(5) Cao Xuân Phổ, Vietnam in her South East Asian Context - A historical cultural view, Eight Conference International Association of Historians of Asia, 25-29 August 1980, Kuala Lumpur.
(6) Nhiều tác giả, Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1977
(7) Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn San, Hà Nội nghìn xưa, 1975.
(8) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
(9) Nguyễn Duy Hinh "Yên Tử -Vua Trần-Trúc Lâm Suy nghĩ sử học", trong Nghiên Cứu Lịch Sử, 2, 173, 3-4/1977.
(10) G. Coedes, The indianised states of Southeast Asia, 1968, University of Hawaii.
(11) Sơn Nam - Phạm Xuân Thảo, Một thoáng Việt Nam, Nxb Trẻ, 1996.
(12) O.W Wolters, What else Ngo Si Lien mean? A matter of distinctions in the fifteen century, trong sách “Sojourners and settlers, Histories of South East Asia and the Chinese”. Edited by Anthony Reid, 1996.
(13) Đỗ Bang-Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb Thuận Hoá, 1996.
(14) Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư tưởng bình dân Việt Nam.
(15) Vĩnh Sính, Hồn Đại Việt giọng Hàn Thuyên, Vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản, trong sách "Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á", Sở VHTT, Khoa sử DHSP, Tp HCM. 1993
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 8:59:09 GMT 9
“Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?” Vietsciences- Trần thị Vĩnh Tường Salam! Hôm nay là ngày kỷ niệm 20 năm thành lập Văn Phòng Quốc Tế Champa (International Office of Champa), hãy cùng nhau hé mở cánh cửa bí mật vào một nền văn hoá rực rỡ, tưởng là bị lãng quên, đó là văn hoá Champa, mà ngưòi Việt quen gọi là Chiêm thành hay Chàm, Hời hay Lồi. Ngưòi Chàm tự gọi là Chăm hay Champaka, tên một loài hoa. Hoa champaka màu trắng, vừa giống ngọc lan vùa giống hoa sứ. Trong một chuyến đi cruise đầu năm 2008, tôi mang theo tập san Champaka, bìa có in một bông hoa sứ. Một nhân viên người Bali mượn đọc và cho hay hoa champaka cũng là hoa của đảo Bali, thuộc Indonesia. Anh cũng đọc và hiểu một số những chữ Chàm in trong sách. Từ đó thủy thủ đoàn nguời Indonesian và tôi chào nhau theo kiểu Bali và Chàm, cũng giống người Việt xá nhau khi vào chùa, hai tay chắp truớc ngực, đầu hơi cúi. Bông hoa và tay chắp, như dấu hiệu văn hoá xuyên quốc gia, bỗng dưng mang lại niềm vui dịu dàng suốt cuộc hải hành dù giữa một biển ngưòi xa lạ. Hương thơm của nền văn minh rực rỡ của vương quốc Champa, xứ sở của trầm hương, đã được nhiều nhà sử học và khảo cổ học nghiên cứu. Tuy nhiên, sức tàn phá cuả thiên nhiên và con người thô bạo hơn, đến nỗi một thi sĩ người Việt là Phan Ngọc Hoan, yêu Champa đến lấy bút hiệu Chế Lan Viên, đã ai oán kêu lên : Chắc có lẽ linh hồn ta lay động Khi vội vàng trở lại nước non Chiêm Chiến tranh liên tục giữa hai nước láng giềng Chàm-Việt xảy ra hàng ngàn năm đã tàn phá cả hai dân tộc. Chỉ nhắc loáng thoáng đôi điều nơi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Đời Lê, năm 982, “…vua Lê Đại Hành chém Vua Chiêm là Phế Mị Thuế tại trận, bắt sống quân giặc không biết bao nhiêu mà kể, bắt được kỹ nữ trong cung trăm ngừoi và một thầy tăng người Thiên Trúc, lấy các đồ quí mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá huỷ tôn miếu, vừa một năm thì trở về Kinh sư...” Đời Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tôn mang quân đi đánh Chiêm Thành, “…Quách Gia chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Bắt sống hơn 5,000 nguời, còn thì bị quan quân giết chết, máu đầy gươm giáo, xác chất đầy đồng. Vua lấy làm thương xót mới hạ lệnh rằng “Kẻ nào giết bậy ngưòi Chiêm thành thì sẽ giết không tha…” Năm 1069, “Vua Lí Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn nguời…." Về phía Đại Việt, ngoài những lần quân Chàm quấy đảo nơi biên giới, kinh thành Thăng Long cũng ba lần bị thớt voi Chàm dẫm nát vào những năm 1370, 1377 và 1382 do việc vua Chế Bồng Nga đòi lại hai châu Ô- Lý. Sử sách cũng nhắc đến những khoảng thời gian hòa bình, khi liên minh Chàm-Việt dựa lưng vào nhau chống quân Nguyên. Mối giao hảo đẹp đẽ tới nỗi Thuợng Hoàng Trần Nhân Tôn, lúc đó là thiền sư, sang viếng thăm nước Chăm suốt 9 tháng. Chuyến đi này cũng khởi đầu cho cuộc nhân duyên giữa vua Chế Mân 43 tuổi và công chúa Huyền Trân 19 tuổi. Nhắc lại lịch sử làm gì? Không ngoài mục đích nhắc nhở nhau, rằng không có quá khứ, sẽ không có hiện tại. Không thể thay đổi lịch sử, thì hãy cùng nhau ghi nhận, học tập những chinh chiến can qua, để thấy bài học lịch sử gồm cả khiếm khuyết của các lãnh đạo, và sự bất toàn nơi chính-sự các quốc gia, Những giọt lệ nặng trĩu dài trên má của ông Từ Công Thu - anh cả của nhạc sĩ Từ Công Phụng - ngưòi sáng lập Văn Phòng Quốc Tế Champa, khiến bài phát biểu của ông bị ngưng lại nhiều lần, cho thấy nỗi khắc khoải khôn nguôi về một vết thương còn tươi máu. Giấc mơ phục hồi vưong quốc Champa hoàn toàn bị vua Minh Mạng dập tắt năm 1832 khi lãnh thổ cuối cùng của Champa bị đổi tên thành Bình Thuận. Lãnh thổ mất, nhưng Champa không mất, bởi vì trong Chàm có Việt, trong Việt có Chàm. Chăm-Việt đã bất khả phân ly từ hàng ngàn năm truớc. Thế kỷ 10 và 11, dân số Đại Việt ở đồng bằng sông Hồng từ 2 triệu đến 2.600.000, thì con số tù binh 50,000 chiếm tỷ lệ khá lớn. Đám tù binh này bị an trí ở nhiều nơi mà dấu tích còn ghi đến ngày nay: Phía Tây Thăng Long, 2 làng Yên Sở, Đắc Sở thuộc tỉnh Hưng Yên, có đền Lý Phục Man, chung quanh có trồng rất nhiều dừa, một sản phẩm hiếm hoi của đất Bắc. Có thể tù binh của bộ tộc Dừa của nước Chăm đã trồng những hàng dừa trên để nhớ đến cố huơng. Tạ Chí Đại Trường dẫn Trần Quốc Vuợng, cho biết ngay tại Yên Sở tới bây giờ, vẫn thấy “dấu vết một nơi an tháp tù binh Chàm, vẫn nói tiếng với ngữ điệu khó nghe nhận”. Trong số 50.000 tù binh có 100 mỹ nữ, vũ nữ hoàng gia Chàm. Hưng Yên nổi tiếng với hát chèo, hát ả đào, có thể xuất phát từ các cung nữ Chàm. Nhóm tù binh nữ đã có kỹ thuật dệt vải riêng, nên có cả đền bà Chúa Dệt Lĩnh. Các ca nữ này cũng đã trao truyền lại những khúc hát Nam Ai Nam Binh vọng về quê hương hết sức bi thương. Vương tử Trần Nhật Duật hay cưỡi voi đến thôn Da-da-li –Việt gọi trệch là thôn Bà Già- nơi tù binh Chàm sinh sống, chơi mấy ngày mới về. Chùa Bà Đanh Chùa Bà Đanh, hữu ngạn sông Đáy, thuộc thôn Đanh Xá, hay Đinh Xá, thuộc huyện Kim Bảng, cũng là một làng có nguồn gốc của tù binh Chăm. Chùa Dạm Chùa Dạm, Bắc Ninh, nổi tiếng với cột đá cột đá cao chừng 5m, một khối hình trụ (đường kính 1m30) chồng lên một khối hộp (1m4 x 1m6) - hai bộ phận sinh dục nam nữ - là biểu hiệu cho sự trường tồn, một biệt sắc rất Chăm. Ảnh của Vũ Kim Lộc - Cổ Vật Huyền Bí – NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội 2006. Cây trầm hương bằng vàng, thế kỷ 4-5. Một loại Cây Đời của Champa, tìm thấy ở Nhà Bè. Một tuyệt phẩm vô song, cả về ý tưởng lẫn kỹ thuật làm nữ trang. Cây cao 95mm, chiều dài của tán 130mm, chiều rộng 87mm, nặng 363,27 gram. Lớp vàng dát dầy 0,3mm. Cây đuợc tạo theo dáng bộ phận sinh vật nữ, hướng lên trời để giao thoa với thần thánh. Tổng cộng 8 trái và 26 bông hoa, nói lên ước nguyện sinh sôi nảy nở. Tháp Bảo Thiên, nóc được lợp bằng đồng, cao 12 tầng, cũng là công trình của thợ Chàm. Khi quân nhà Minh xâm chiếm Đại Việt, đã gỡ lớp đồng để đúc khí giới. Chỉ mới cách đây vài tháng, tháp Bảo Thiên là đề tài tranh dành giũa hai giáo hội Ki-Tô giáo và Phật giáo trong nước. Rất ngộ, không thấy hai giáo hội - và đồng nghiệp - nhắc nhở, hay hỏi ý kiến sở hữu chủ thật sự của địa điểm lịch sử này, là dân tộc Việt Nam. Vào đến miền Trung, sự pha trộn văn hóa Champa-Việt còn rõ ràng hơn: từ tục thờ cúng Cá Ông, đến việc thờ nữ thần Thiên Y A Na - bà mẹ vương quốc Chămpa - ngự ở đền Ngọc Trản, tức điện Hòn Chén, mà triều đình nhà Nguyễn sắc phong làm Thượng Đẳng Thần. Người Bắc di cư 1954, mang theo bà chúa Liễu Hạnh tá túc thờ chung ở đền này. Theo Phan Khoan, cống phẩm của Champa cho Đại Việt năm 1659 gồm 2 con voi đực, 20 con bò sắc vàng, 6 cặp ngà voi, 10 sừng tê giác, 50 cân sáp vàng, 50 khăn luạ trắng, 200 bó vi cá, 200 cây gỗ mun, 1 cây cột buồm, 500 nón lá. “Nón lá che ngang mặt chữ điền”! Cả hai, nón lá và khuôn mặt chữ điền đều là tặng phẩm Champa. Người Việt nói “đội nón”, người Chàm nói “đuô non”. Miền Bắc, phụ nữ chít khăn mỏ quạ, ngày hội mới đội nón quai thao. Ở miền Trung, nón lá phổ thông hơn. Chốn kinh đô Huế, nón lá hoá thân thành chiếc nón bài thơ. Tà áo dài Việt in hệt tà áo cổ truyền của Chăm, chỉ khác có sẻ tà. Phụ nữ đồng bằng sông Hồng đa số có mặt tròn, hơi tèn tẹt, mắt hai mí lót hơi húp. Nguợc lại, phụ nữ miền Trung có trán cao hơi dô, mũi cao, mắt to sâu hình trái hạnh, gò má cao, quai hàm vuông, đôi nguời có tóc quăn, vì vậy có ca dao “Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi tóc vẫn còn quăn”. Khác biệt giữa phụ nữ Bắc và Trung không biết có phải do máu Chàm pha trộn? Cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu có nhận xét “Ở miền Trung, không ai là không có máu Chàm” không phải vô lý. Cộng cư và hoà huyết luôn đi đôi, ngay cả khi chưa có những “nhà nước” kẻ vạch biên giới hoặc những sử gia phải uốn bút viết sử theo nhu cầu của triều đại. Mai Hắc Đế (722) nổi dậy chống nhà Đường, quê ở Hà Tĩnh có cha là người Chăm, mẹ Việt. Năm 1499, vua Lê Hiến Tông xuống chiếu …“Từ nay trên từ thân vương, dưới đến trăm họ, nhất luật không ai được lấy đàn bà con gái nước Chiêm thành làm vợ cả hay vợ lẽ để cho phong tục được thuần hậu”. “Từ nay nhân dân đạo Quảng Nam không được thuận tiện cướp bóc dân Man (ám chỉ dân Chiêm), mua bán nô tì riêng. Ai trái lệnh sẽ bị tội.” - cho thấy việc hôn nhân với nguời Chàm rất phổ biến từ quan đến dân. Chiếu vua bỏ quên giới phụ nữ, không nói rõ họ đuợc lập gia đình với chồng Chăm? Đó là tình hình Thăng Long. Kể từ 1588, Nguyễn Hoàng làm trấn thủ vùng Thuận Hoá và bắt đầu cuộc Nam tiến từ 1611. Những người đi theo Nguyễn Hoàng có họ hàng thuộc huyện Tống Sơn (Thanh Hoá) cùng quân lính vùng Thanh Nghệ. Di dân không thể mang theo gia đình, những cuộc hoà huyết vói dân bản địa Chàm chắc chắn đã ra khỏi luật vua. Vì vậy, tôi linh đình phản đối câu ca dao mà tác giả vô danh phát biểu dưới nhãn quan… thái thú Tô định. "Tiếc thay cây quế giữa rừng Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo" Người Chàm theo mẫu hệ, con gái phải dâng lễ vật đi cưới con trai. Đằng này, ông vua đa tình Chế Mân đã theo yêu cầu của thượng hoàng Trần Nhân Tôn thuận dâng hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên) để cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1306, tháng sáu, công chúa Huyền Trân sang Chiêm. Năm 1307, tháng năm, vua Chế Mân băng. Tháng sáu, vua đựợc hoả táng. Tháng mười, Trần Khắc Chung tuân lệnh vua Trần Anh Tôn sang Chiêm, lập mưu đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về Việt. Lúc này, đe doạ về một cuộc hoả táng đã không còn. Theo sách sử và phong tục Chàm, lên giàn hoả là một điều tự nguyện chỉ chánh cung mới đuợc khẩn nài nếu muốn, và phải đuợc hội đồng hoàng gia duyệt xét. Hoàng hậu Tapasi - gốc người Java – đã đuợc đưa về nước sau ngày vua Chế Mân từ trần. Công chúa Huyền Trân không phải chánh cung, nên không được lên giàn hỏa chết theo đấng quân vương. Triều Trần cướp công chúa về là bội hôn. Cướp ngưòi nhưng không trả đất là bội ước. Điều ai oán, sau khi về tới Thăng Long, với sự cay độc của một triều đình ảnh hưởng Nho giáo, Huyền Trân đã vào chùa tu, khi mới ngoài 20 tuổi. Thế tử Đa Da mồ côi bé bỏng, không hề đuợc sử sách nhắc tới, dù chỉ một lần. Cũng may, văn hiến nước Việt cũng vẫn còn, nên câu ca dao này không chính thức ghi trong sử Việt. Cũng không may, câu ca dao này vẫn được các văn sĩ thời nay trích dẫn tỉnh bơ – hệt như họ là hậu duệ của thái thú Tô Định hay quan toàn quyền Decoux – Các quan thái thú/toàn quyền tân thời này coi thuờng lịch sử, khinh rẻ tấm chân tình của vua Chế Mân, cũng coi rẻ cả bước chân ngàn dậm ra đi của công chúa Huyền Trân. Thử hỏi, không có miền Trung, làm gì có miền Nam? Một dải đồng bằng sông Hồng - mà vua Trần tả “bé bằng cái bàn tay, mà làm sao đặt ra lắm ban lắm bệ thế”- làm sao chống trả nổi đe doạ triền miên từ phương Bắc? Suốt một ngàn năm, người Việt Giao Chỉ không tiến xa hơn đèo Ngang để đặt chân tới đất Nhật Nam. Chỉ 600 năm sau công chúa Huyền Trân, biên giới cực Nam của nước Việt đã như ngày nay. Tổ tiên thế nào, chúng ta nhận chịu như thế ấy. Nhưng không vì thế ngồi hưởng sự buồn đau của dân tộc Champa. Hãy vọng về cố đô Mỹ Sơn, vọng về cố đô Thăng Long, tưởng nhớ đến mối u tình của vua Chế Mân và Công Chúa Huyền Trân, tưởng niệm triệu triệu sinh linh Việt-Chăm lót máu suốt giải giang sơn, và hiểu câu thơ của Nguyễn Bính khác với lối mòn lãng mạn, Huyền Trân Huyên Trân Huyền Trân ơi Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi Ngoài kia chín vạn bông trời nở Riêng có tình ta khép lại thôi Không việc gì phải khép lại! Ngay cả thảm kịch cũng thiêng liêng và ích lợi nếu nhận biết nỗi đau lịch sử không của riêng ai. Trong nước, vừa mở hội thảo “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn: Một hội thảo lịch sử”. Chắc cũng đã đến lúc ngưòi Việt đủ tự tin và bình tâm mở nhiều hội thảo chính thức về sự đa nguồn gốc của Việt tộc, trong đó có Champa, một trong những cội nguồn của Việt tộc, cả DNA lẫn văn hoá. Chỉ sự lương thiện ấy mới có thể tạo được những rung cảm giống nhau về đất nước và con ngưòi, yếu tố cần thiết cho sự thống nhất và đoàn kết từ trong sâu thẳm. Những học giả người Chàm, người Tây Phương nghiên cứu Champa đã đành, cũng không thiếu gì học giả người Việt để ngòi bút tự do vượt khỏi lũy tre xanh chật hẹp khi viết về nguồn cội Champa. Trong nước có Ngô Văn Doanh, ở Pháp có Lê Thành Khôi, ở Úc có Nguyên Nguyên, Nguyễn Đức Hiệp. Ở Cali có Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Hy Vọng, Thu Tứ. Ở Texas có Nguyễn Cúc… Mới hôm qua, đài VNCR giới thiệu về ngày sinh nhật của IOC trên làn sóng, cộng thêm sự có mặt của giới truyền thông và đông đảo ngưòi Việt trong buổi lễ kỷ niệm hôm nay, cho thấy dù kết quả ban đầu có khiêm nhường, cũng xin các anh em Champa ghi nhận những ân cần ấy, để trái tim đỡ bị rạn nứt; và lòng tin vào cuộc đời và giòng sinh mệnh Champa sẽ không bao giờ phai nhạt. Salam, xin chào. Trần Thị Vĩnh Tường, 27-12-2008, California (Bài phát biểu nhân sinh nhật hai mươi năm Văn Phòng Quốc Tế Champa)
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:16:13 GMT 9
Công chúa đời Trần - Mỹ nhân kế - Loạn luân Vietsciences-Nguyễn thị Chân Quỳnh Nói tới công chúa đời Trần người ta thường liên tưởng ngay đến Huyền Trân công chúa do Thượng hoàng Nhân Tôn trong một chuyến đi thăm Chiêm Thành đã hứa gả cho quốc vương Chế Mân để kết mối giao hảo giữa hai nước; thứ nữa, người ta nghĩ đến An Tư công chúa gả cho Thoát Hoan để mong hoà giải với quân Nguyên; nàng công chúa thứ ba đời Trần còn được nhắc nhở tới là Thiên Ninh công chúa vì có dính liếu tới một vụ loạn dâm với em ruột. Trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ đã chê trách nhà Trần về hai điểm : - Phải dùng " mỹ nhân kế " để giữ nước - Loạn luân. Nhưng công bình mà nhận xét thì ở nước ta " loạn luân " và dùng " mỹ nhân kế " để giữ nước không phải chỉ xảy ra ở đời Trần. I.- Mỹ nhân kế Dù ở Âu hay Á, xưa hay nay, thì phụ nữ vẫn thường được dùng làm " vật hi sinh " trên bàn thờ tổ quốc. Riêng đời Trần không phải chỉ Huyền Trân hay An Tư công chúa mới được đem ra làm vật đổi chác. Theo thứ tự ta phải kể : 1) Năm 1228, gả Ngoạn Thiềm công chúa - em vua Thánh Tôn, con Thái Tôn - cho Nguyễn Nộn. Nộn là cư sĩ chùa Phù Đổng, vì bắt được vàng ngọc không dâng lên triều đình nên vua hạ chiếu bắt giam. Tự Khánh, anh thứ hai của Linh Từ quốc mẫu - mẹ Lý Chiêu Hoàng - xin cho Nộn được đánh giặc chuộc tội, vua sai đi đánh dẹp người Mán ở Quảng Oai. Nộn chiếm cứ vùng Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm vùng châu Hồng (Hải Dương). Nộn giết Đoàn Thượng, chiếm quân và cướp của châu Hồng, thanh thế lừng lẫy. Thủ Độ lo lắng, một mặt sắc phong cho Nộn làm Hoài đạo Hiếu vũ vương, một mặt gả Ngoạn Thiềm cho để ngầm dò la tin tức. Nộn biết ý, dọn cho công chúa ở riêng một nơi nên công chúa không làm gì được cả. 2) Năm 1286, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi đánh rất gấp, quân ta tan vỡ, bọn Trần Kiện, Lê Tắc(1) đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên. Triều đình phải sai người đưa công chúa An Tư - em gái út của Thánh Tôn - đến cho Thoát Hoan để xoa dịu. 3) Chế Mân, dựa vào lời hứa của Thượng hoàng Nhân Tôn, dâng kỳ hương cùng báu vật xin cưới Huyền Trân. Triều đình chỉ có hai người bàn nên gả là Trần Khắc Chung và Văn Đạo Tái, con Trần Quang Khải. Sau Chế Mân dâng thêm hai châu Ô, Lý, vua Anh Tôn mới quyết định. Tháng 6 năm 1306, vua Anh Tôn gả em gái là Huyền Trân cho Chế Mân. Tháng 5 năm 1307 Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành thì Hoàng Hậu phải lên dàn hỏa thiêu chết theo. Tháng 10, vua sai Trần Khắc Chung sang điếu tang và tìm cách đem Huyền Trân cùng Thế tử Đa Gia, con Chế Mân, về. Sử chép trên đường về Trần Khắc Chung và công chúa Huyền Trân tư thông với nhau loanh quanh mãi trên biển đến tận tháng 8 năm 1308 mới cập bến(2). 4) Năm 1363, Minh Tôn gả Nguyệt Sơn công chúa cho Ngô Dẫn vì Dẫn có viên ngọc rất lớn, bán được nhiều tiền, trở nên giầu có. Dẫn cậy giầu, tư thông với người khác, khinh khi công chúa. Công chúa tâu lên, Dẫn được miễn tội chết nhưng gia sản bị tịch thu. Ngô Thì Sĩ viết : " Nhà Trần quen làm lối này, cốt được lợi trông thấy, đem má phấn đánh đổi lấy tràng thành, gả Ngoạm Thiềm cho Nguyễn Nộn, An Tư cho Thoát Hoan đều lối ấy cả " (3). Ngô Sĩ Liên cũng chê trách : " Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh có khó gì mà đem gả cho người xa, không phải giống nòi, cho đúng lời hẹn trước rồi sau dùng mưu gian trá cướp lại thế thì tín ở đâu(4) ? " . Phê bình như thế e có hơi khe khắt. Trước hết, khi gả Huyền Trân, vua Anh Tôn không thể biết trước năm sau Chế Mân sẽ chết, việc dùng mưu đón Huyền Trân về để tránh cho công chúa khỏi bị hỏa thiêu không thể coi là " gian trá " đánh lừa lấy được thành rồi thì cướp người về như một vài người đã trách cứ. Còn " đổi mệnh " không gả, theo lời bàn của Ngô Sĩ Liên, thì cũng không phải là thủ tín. Chẳng qua các sử gia ghét nhà Trần về tội loạn luân nên thấy cái gì nhà Trần làm cũng đáng chê trách. Ở nước ta, dùng " mỹ nhân kế " nào phải chỉ nhà Trần ? Sử chép rõ ràng về nhà Lý : 1) Năm 1029, gả Bình Dương công chúa cho châu mục lang là Thân Thiệu Thái. 2) Năm 1036, Lý Thái Tôn, sợ khó khống chế các tù trưởng quản lĩnh các châu miền thượng du, kết mối giao hảo bằng hôn nhân, gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu là Lê Tông Thuận, gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiên Lãm. 3. Năm 1082, gả Khâm Thánh công chúa cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh. 4. Năm 1126, đem Diên Bình công chúa gả cho Dương Tự Minh là thủ lĩnh phủ Phú Lương. 5. Năm 1144, lại gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh lúc này cai quản các khe động dọc theo biên giới đường bộ và phong Minh làm Phò mã lang. Thế là một mình Dương Tự Minh được cưới tới hai nàng công chúa và nhà Lý đã dùng tới 5 công chúa làm " vật hi sinh " , nhà Trần 4. Sử nhà Lê tuy không ghi chép tỉ mỉ về các công chúa như nhà Trần, nhưng cũng cho biết năm 1706 đem người tông nữ, lấy danh nghĩa quận chúa gả cho tù trưởng Triều Phúc người Ai Lao. Ngô Thì Sĩ đã viết sử lẽ nào không biết những chuyện này ? II.- Loạn luân Quả thật đời Trần người trong họ lấy lẫn nhau rất nhiều. Sử chép : 1) Trần Liễu, anh Thái Tôn, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công chúa, con vua Lý Huệ Tôn và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu. 2) Năm 1225, Trần Cảnh, tức Thái Tôn, lấy Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên. 3) Sau khi Lý Huệ Tôn chết, giáng Huệ hậu làm Thiên Cực công chúa, gả cho Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình với nhau từ trước. 4) Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tôn lấy Thuận Thiên, lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu. 5) Vua Thái Tôn hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành(5) cho Trung Thành vương(6) và đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành vương, để chờ ngày cưới. 6) Năm 1251, Hưng Đạo vương muốn lấy Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tôn và Thiên Thành, mẹ nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười mâm vàng sống xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng vương. Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cô ruột Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành. 7) Năm 1258, Thánh Tôn lấy Thiên Cảm là con Trần Liễu, tức là con chú con bác lấy nhau. 8) Thụy Bảo công chúa, con vua Thái Tôn, lấy Uy Văn vương Toại. 9) Gả công chúa tên Thúy, con Thái Tôn cho Thượng vị Văn Hưng hầu(7). 10) Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tôn và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tôn và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn, là con Hưng Đạo, cháu nội Trần Liễu, vừa là con cô con cậu (Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau. 11) Thiên Thụy lại tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng Thánh Tôn nhận làm con nuôi. 12 & 13) Năm 1274, Nhân Tôn, con Thánh Tôn, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn. 14) Anh Tôn, con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, chắt Thái Tôn, lấy Văn Đức phu nhân năm 1292, là con Hưng Ngượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo, chắt Trần Liễu. Thế là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau. 15) Sau Anh Tôn lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư. 16) Anh Tôn lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em Thánh Tôn, Anh Tôn là cháu nội Thánh Tôn, tức cháu lấy cô. 17) Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Anh Tôn, Anh Tôn là con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, lấy Uy Túc công Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Quang Khải và Thánh Tôn là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau. 18) Thiên Trân chết, Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa. 19) Thượng Trân công chúa, em Anh Tôn, chắt Thái Tôn lấy Văn Huệ công Quang Triều, con Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau. 20) Minh Tôn, con Anh Tôn, cháu Nhân Tôn, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn / Trẩn. Trẩn là em Anh Tôn : Con chú con bác lấy nhau. 21) Minh Tôn gả Huy Chân, con Nhân Tôn, cho Uy Giản hầu năm 1317. 22) Mẹ Huy Chân là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tôn. 23) Năm 1318 Minh Tôn gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương. 24) Năm 1337 Hiến Tôn, con Minh Tôn, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc vương Đại Niên. 25) Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Minh Tôn, lấy Hưng/Chính Túc vương Kham. 26) Năm 1349, Dụ Tôn, con Minh Tôn, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ Từ Nghi Thánh. 27) Năm 1351, Dụ Tôn loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tôn bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tầu Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa. 28) Huy Ninh công chúa, con Minh Tôn, lấy Tôn thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết, Nghệ Tôn là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly. 29) Duệ Tôn, con Minh Tôn và Lê Đơn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau. 30) Duệ Tôn lấy Thái bảo Trần Liêu làm phi. 31) Năm 1375 Duệ Tôn gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính vương. Cung Chính vương và Duệ Tôn đều là con Minh Tôn, tức con chú con bác lấy nhau. 32) Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Nghệ Tôn, lấy Phế Đế là con Duệ Tôn. Nghệ Tôn và Duệ Tôn cùng là con Minh Tôn, mẹ Nghệ Tôn là Minh Từ, mẹ Duệ Tôn là Đơn Từ, là hai chị em ruột, cô của Quý Ly : vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau. 33) Sau khi Phế Đế chết, Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín vương Thiên Trạch, em Nghệ Tôn : con chú con bác lấy nhau. 34) Năm 1393, Nghệ Tôn giận đem gả Thái Dương cho Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên để làm nhục. 35) Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tôn, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tôn, giống trường hợp Thái Dương lấy Phế Đế. 36) Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tôn thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Mộng Dữ, con Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải. 37) Thuận Tôn, con út Nghệ Tôn, lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Quý Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tôn, tức là con cô con cậu lấy nhau. Thuận Tôn lại là cháu nội của Đơn Từ, cô của Quý Ly, lấy con gái Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau. 38) Hồ Hán Thương, con của Huy Ninh và Quý Ly, lấy Trần thị. Tóm lại, nếu không phân biệt nội ngoại thì ít nhất cũng có gần 40 vụ người trong họ Trần lấy nhau còn ghi trong sử sách. Không riêng gì Ngô Sĩ Liên, và Ngô Thì Sĩ chê trách nhà Trần, ngay cả Lê Quý Đôn, đầu óc tương đối cởi mở, cũng hạ bút : " Họ Trần lập Hoàng hậu lấy chị em con chú con bác cùng họ làm vợ. Nhờn lễ loạn luân như thế mà vẫn điềm nhiên không coi là kỳ quái...Triều Lê ta gia pháp rất đúng, giáo dục luân thường rất rõ ràng, khi chọn phi tần tất lấy trong con em các dòng họ công thần và con nhà tử tế mà lễ trật phân biệt, tôn ti rạch ròi, không có cái tệ bất chính trong chốn buồng the của đời trước " (7). Nhưng nếu ta tò mò lật sử ra sẽ thấy gì ? 1&2) Lê Thần Tôn, con Kính Tôn và Trịnh thị Ngọc Trinh, em Trịnh Tráng, lấy Trịnh thị Ngọc Trúc/Hành, con Trịnh Tráng, tức con cô con cậu lấy nhau. Trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ vua là Cường quận công Lê Trụ, sinh được bốn con. Trụ bị bắt giam, Trịnh Tráng đem Trúc gả cho vua, thế là cháu lấy thím họ. 3) Lê Chân Tôn, con Thần Tôn, lấy Trịnh thị Phương Từ, em Ngọc Trúc. 4) 1663 Lê Huyền Tôn, con Thần Tôn, cháu ngoại Ngọc Trinh, lấy Ngọc Áng, con thứ Trịnh Tạc, cháu Trịnh Tráng, tức cháu cô cháu cậu lấy nhau (Tráng và Ngọc Trinh đều là con Trịnh Tùng). 5) Lê Dụ Tôn, con Hi Tôn, cháu Thần Tôn, chắt Ngọc Trinh, lấy Ngọc Trang là cháu 7 đời của Trịnh Tráng (Tráng sinh ra Tạc, Tạc sinh ra Căn, Căn sinh ra Vĩnh, Vĩnh sinh ra Bính, Bính sinh ra Cương, Cương sinh ra Ngọc Trang). 6) Duy Phường, con Dụ Tôn và Ngọc Trang, bị Trịnh Giang tố cáo tư thông với vợ Trịnh Cương, tức cha đẻ ra Ngọc Trang. 7) Duy Vĩ, con Hiển Tôn, cháu Thuận Tôn, chắt Dụ Tôn và Ngọc Trang, đính hôn với Tiên Dung quận chúa, con Trịnh Sâm, cháu Trịnh Doanh, Doanh và Ngọc Trang đều là con Trịnh Cương. Thế là cháu lấy cô họ. Đấy là chưa kể trường hợp Lê Tương Dực loạn dâm với vợ lẽ của cha và những vụ chưa minh định được vì sử chép quá sơ sài như : - Lê Thái Tổ lấy nguyên phi là Lê thị Ngọc Dao, con Thủ tướng Lê Sát. Sát người Lam Sơn, trên bảng 93 công thần được xếp hạng nhì. - Huệ phi của Thái Tổ là Lê thị Nhật Lễ, con Thủ tướng Lê Ngân, cũng người Lam Sơn, và được xếp hạng tư trên bảng công thần. - Lê Nhân Tôn gả em gái là Vệ Quốc Trưởng công chúa cho con Thái úy Lê Thụ, cũng có tên trên bảng công thần. Xét rằng thời xưa những người nắm quyền cao phần nhiều đều trong hoàng tộc thì rất có thể Lê Thụ, Lê Ngân, Lê Sát, đều có họ với Thái Tổ, đặc biệt Sát và Ngân đều quê ở Lam Sơn. Mặt khác, 93 người có tên trên bảng công thần đều cùng họ Lê thì chắc một số vì có công lớn được ban quốc tính (được nhận họ của vua làm họ của mình) khó mà biết rõ sự thật, như Lê Lễ, cũng có tên trên bảng công thần, người ở Lam Sơn, được ban quốc tính, lại chính là cháu gọi Thái Tổ bằng cậu (8). Triều Lý có vua Thần Tôn năm 1128 lấy con gái Điện Tiền Chỉ huy sứ Lý Sơn là Lệ Thiên hoàng hậu. Có lẽ Lê Quý Đôn cũng như hai vị sử gia họ Ngô chỉ kể tội riêng nhà Trần vì theo thuyết " nữ nhân ngoại tộc " , con chú con bác kể như là họ thân lấy nhau phạm tội, còn con cô con cậu họ sơ, kể như lấy người ngoài, không có tội gì cả. Thời xưa nội ngoại phân biệt rất kỹ cho nên Phạm Đình Hổ, trong Vũ Trung Tuỳ Bút, cho rằng người nào không có con trai cho con gái ăn thừa tự cũng phạm tội loạn luân (9). Nhưng theo con mắt đời nay, trai gái cũng là con cả, cùng chung một huyết thống thì không thể cho con chú con bác lấy nhau là có tội mà con cô con cậu lấy nhau lại vô tội được. " Nữ nhân ngoại tộc " không phải là luật tự nhiên, chẳng qua là một đạo lý do người đặt ra nhưng không phải là một đạo lý được khắp mọi nước tôn thờ. Ngược lại, loạn luân là một hiện tượng tự nhiên, ở đâu cũng có. Việt Nam ta có câu : Cháu cậu mà lấy cháu cô, Thóc giống đầy bồ, lúa má nhà ta. Ở Pháp, trên đài truyền hình thỉnh thoảng vẫn thấy người ta khuyến khích con cái mạnh dạn tố cáo phụ huynh đã cưỡng hiếp con em trong nhà. Tại Bretagne, hiện có một gia đình cha con ăn ở với nhau đã có mấy mặt con. Theo Gilbert Prouteau, thời Trung Cổ, Âu Châu có những buổi lễ của phù thủy, sau khi múa hát xong thì tha hồ cha mẹ loạn dâm với con, anh với em. Người Hi Lạp và Incas thời xưa chính thức cho phép con cùng cha lấy nhau và còn khuyến khích người trong hoàng tộc lấy nhau để giữ cho huyết thống hoàng gia không bị pha trộn với những dòng máu khác (10) vì họ cho rằng những cuộc hôn phối này không có hại gì cho đời sống, người cùng chung một huyết thống và giáo dục lấy nhau dễ hợp nhau hơn, như thế chỉ có lợi chứ không có hại. Cho nên " Nữ nhân ngoại tộc " không nhất thiết là luật chung của thiên hạ. Thuyết này do người đặt ra thì người cũng có thể đặt khác hoặc hủy bỏ, dựa vào nó kết tội nhà Trần là " bất chính " và cho nhà Lê là " gia pháp rất nghiêm " e không ổn, với cách suy luận ngày nay. Để chứng minh nhà Trần có tội, Ngô Thì Sĩ viết : " nhà Trần lấy vợ người cùng họ, âm dương không phải lứa đôi nên có tai biến (11) " chỉ vì sử chép : * Năm 1300 người đàn bà ở Hồng Lộ sinh con trai hai đầu. * Năm 1304, người đàn bà ở kinh thành sinh con gái hai đầu, bốn chân, bốn tay. * Năm 1350, làng Thiên Cương (Nghệ An) có người con gái hoá trai. Theo Nho giáo thì vua là con Trời, vua hành sự không phải thì Trời ra tai để răn dậy. Đấy là một phương pháp để hạn chế uy quyền vua, không cho lộng hành, vua tuy có quyền sinh sát nhưng còn phải e dè sự kiểm soát của Trời. Ngô Thì Sĩ vì có thành kiến với nhà Trần nên chỉ vạch tội nhà Trần mà cố ý bỏ qua những tai dị xẩy ra không thiếu gì dưới thời Lê Trịnh, cũng như đời Lý. Ngày nay tuy chúng ta không tin những tai dị xẩy ra vì Trời muốn vua phải sửa lỗi, nhưng y học công nhận người trong họ không nên lấy lẫn nhau dễ mắc bệnh. Có điều lạ là không thấy sử chép họ Trần mắc bệnh này, mặc dầu những bệnh kỳ lạ khác đều được ghi lại như : - Lê Ngọa Triều vì hoang dâm không ngồi dậy được nên khi lâm triều phải nằm. - Lý Huệ Tôn bị trúng gió sinh chứng cuồng dịch, khi thì xưng là Thiên tuớng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, trên búi tóc cắm lá cờ nhỏ, đùa giỡn múa may suốt ngày, khi thì toát mồ hôi, trong người ráo khát, uống rượu say ngủ li bì, hôm sau mới tỉnh, không làm được việc phải giao hết chính sự cho Trần Tự Khánh là anh vợ (12). - Trần Dụ Tôn bị liệt dương. - Vệ Quốc Trưởng công chúa bị câm. - Lê Thần Tôn bị bệnh ung thư mà băng. - Trịnh Giang dâm loạn, thông gian cả với vợ lẽ của bố là Đặng thị. Một lần bị sét đánh gần chết, từ đấy sợ hãi, đào hầm dưới đất trú ẩn không dám ra nữa, chính sự giao lại cho em là Trịnh Doanh (13). Sử không ghi chép người trong họ Trần bị bệnh máu loãng có thể nào vì người xưa biết phép điểm huyệt cầm máu nên không nhận ra chứng bệnh máu loãng ? III.- Cái vạ ngoại thích Người ta thường cho rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để bảo vệ ngôi báu không để lọt ra ngoài vì chính nhà Trần đã cướp ngôi nhà Lý một cách êm thắm qua cuộc hôn nhân dàn xếp giữa Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi, với Trần Cảnh 9 tuổi. Theo Văn Hòe thì Thủ Độ, người chủ mưu sang đoạt cơ nghiệp nhà Lý, đã ra lệnh : " Con gái nhà Trần phải gả cho họ Trần " (14). Tuy nhiên, mặc dầu Thủ Độ đã phòng xa nhưng nhà Trần vẫn mất vì lấy người họ khác, không phải một lần mà tới hai lần : - Cung Túc vương Dục, con trưởng của Minh Tôn, vì bất tài không được lập làm Thái tử, say mê một người con hát đẹp hay đóng vai Tây vương mẫu, lấy làm vợ mặc dầu người này đã có mang với chồng, cũng là phường chèo, tên là Dương Khương. Sau đẻ ra Nhật Lễ được Dục nhận làm con. Các vua Hiến Tôn, Dụ Tôn và Dục đều mất, Thái hậu, mẹ Dục, lấy cớ Nhật Lễ được Dục chính thức nhận làm con thì có quyền lên ngôi. Năm 1369 Nhật Lễ lên ngôi rồi có ý muốn trở về họ Dương của cha đẻ nên bị Nghệ Tôn giết. Nhà Trần suýt mất lần thứ nhất. - Minh Tôn lấy hai người cô của Quý Ly : Minh Từ sinh ra Nghệ Tôn, Đơn Từ sinh ra Duệ Tôn. Nghệ Tôn cướp lại ngôi trong tay Nhật Lễ ít lâu nhường ngôi cho Duệ Tôn. Duệ Tôn lấy em họ Quý Ly là Hiển Trinh sinh ra Phế Đế. Nghệ Tôn nghe Quý Ly giết Phế Đế lập con út mình là Thuận Tôn lên ngôi. Thuận Tôn lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Quý Ly và Huy Ninh công chúa đẻ ra Thiếu Đế. Quý Ly ép Thuận Tôn nhường ngôi cho Thiếu Đế khi ấy mới hai tuổi, sau lại cướp ngôi của Thiếu Đế, tức cháu ngoại mình, mà lập ra nhà Hồ. Nói rằng nhà Trần mất vì cái vạ ngoại thích cũng được, song sự thật làm gì có một dòng họ nào nắm được chính quyền mãi mãi ? Nhà Trần nếu không mất vì " cái vạ ngoại thích " ắt cũng mất vì một lí do khác. Còn nói rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để giữ ngôi báu cho họ Trần cũng chưa hẳn hoàn toàn đúng vì Thủ Độ đã tư thông với chị họ là mẹ Lý Chiêu Hoàng từ trước khi Trần Cảnh được Chiêu Hoàng nhường ngôi, khi ấy đã có ngôi báu đâu mà giữ ? Phải nói rằng họ Trần vẫn lấy lẫn nhau từ trước nhưng đặc biệt được Thủ Độ khuyến khích từ khi Trần Cảnh lên ngôi mở đầu cho nhà Trần. Không rõ lấy tài liệu ở đâu, Ngô Thì Sĩ viết : " Con nhà chài lưới chả biết lễ nghĩa, tập tục loạn luân như thế từ đời Kính, Hấp đã có " (15). Tổ tiên nhà Trần lập nghiệp ở hương Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, làm nghề đánh cá trở nên giầu có. Trong An Nam Chí Lược, Lê Tắc cho biết Trần Thừa nhờ có công đánh giặc được phong chức Thái úy, em là Kiến Quốc được làm Đại tướng quân. Tuy nhiên nhà Trần vốn không phải gốc Việt mà từ đất Mân (có nơi nói là Quế Lâm) ở Trung Quốc sang từ đời Trần Kính, Kính sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa sinh ra Cảnh. Nếu nhà Trần biết rõ gốc gác của mình như thế ắt có chép gia phả và không đến nỗi không hiểu lễ nghĩa như Ngô Thì Sĩ nói. Không giữ lễ là một chuyện, không biết lễ lại là một chuyện khác.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:17:05 GMT 9
IV.- Vài nét sinh hoạt của các công chús đời Trần
Ngoài những cuộc hôn nhân với người trong họ, hoặc với người ngoài vì chính sự, sử nhà Trần còn ghi chép đôi nét về những sinh hoạt khác của các công chúa :
1) Phàm người nào lấy công chúa, nếu công chúa chết hay bỏ đều không được lấy người khác, có lấy cũng phải giấu. Có lẽ đây là luật lệ chỉ áp dụng với người ngoài, vì khi Thiên Trân công chúa, con Anh Tôn, mất thì Uy Túc công Văn Bích lại lấy Huy Thánh công chúa (16).
2) Bắt đầu từ 1266 các công chúa cũng như vương hầu, cung tần được phép chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng hoang, đắp đê ngăn nước mặn ở ven biển độ hai, ba năm sau khai thành ruộng. Nhưng từ 1397, Quý Ly chỉ cho các Đại vương va Trưởng công chúa được có ruộng không hạn định.
3) Võ học. Nhà Trần chấn chỉnh văn học nhưng cũng rất trọng võ học, xét ra có phần còn trọng võ hơn văn, như năm 1281, khi Nhân Tôn mở nhà học ở phủ Thiên Trường (Xuân Trường) lại cấm người làng Tức Mặc, quê hương vua, không được vào học văn nghệ, cũng như không cho hiệu quân Thiên Thuộc (những binh sĩ ứng tuyển ở Tức Mặc) học văn sợ khí lực kém đi (17).
Khi các vương hầu, công chúa lập trang trại thì phải luyện binh lính trừ bị thành từng đội quân bản bộ. Thưở ấy trai tráng trong nước theo luật " toàn quốc vi binh " khắp nước từ trên xuống dưới đều tinh thông võ nghệ nên mới đẩy lui được cả quân Chiêm lẫn quân Nguyên mấy lần định xâm lăng. Do đó ta mới có câu khen " đánh giặc đời Trần ... "
Do truyền thống tinh thần thượng võ ấy, các công chúa cũng luyện tập võ nghệ đến trình độ có thể điều binh khiển tướng như khi quân Minh sang, công chúa Thiên Huy cùng với Thị Trung họ Hồ là Trần Nguyên Chi đem dân tránh loạn ra Đồ Sơn, trong khi công chúa Thiên Gia và Trung sư lệnh Trần Sư Hiền ngược sông Cái, đầu hàng quân Minh (18).
Đặc biệt năm 1369, khi Nhật Lễ lên ngôi dự tính trở về họ Dương của cha đẻ, nhà Trần suýt mất. Khi ấy người họ Trần tuy lo sợ nhưng không thấy ai nhúc nhích. Cung Định vương vốn đã không có chí làm vua, lại có con gả cho Nhật Lệ, càng e dè. Công chúa Thiên Ninh phải đứng ra khuyến khích : " Thiên hạ này là của cha ông ta lẽ nào bỏ cho người khác ? Ông nên đi đi, tôi sẽ đem gia nô dẹp yên nó cho " . Cung Định vương nghe theo, cùng với Tuyên vương Chương Túc hầu Nguyên Đán hẹn với Thiên Ninh ở Đại La giang, thuộc Thanh Hoá, để khởi binh, giết được Nhật Lễ năm 1370. Cung Định vương lên ngôi năm 1371 và phong cho Thiên Ninh làm Lạng quốc Thái Trưởng công chúa, đổi tên là Quốc Hinh (19). Cung Định vương tức là vua Nghệ Tôn.
Ngày nay nhắc đến Thiên Ninh công chúa người ta chỉ nhớ tới tội loạn dâm với em, mà cũng không xét kỹ xem có thực là " tội " hay không ? " Tội " là khi công chúa ưng thuận vì bị kích thích, ham muốn một cuộc phối hợp với em ruột. Nhưng nếu Thiên Ninh ưng chịu chỉ vì thầy thuốc Trâu Canh phán như thế mới chữa cho Dụ Tôn khỏi chứng liệt dương thì đấy lại là chuyện khác. Trâu Canh đã từng cứu Dụ Tôn thoát chết một lần, lời nói ắt có giá trị. Nếu Thiên Ninh hi sinh để cứu Dụ Tôn thiết tưởng đấy là " công " chứ không còn là " tội " nữa, hay ít ra cũng " tội " nhỏ mà " công " lớn. Thêm vào đấy còn cái công đánh dẹp Nhật Lễ, giành lại ngội báu cho nhà Trần. Chỉ tiếc rằng Thiên Ninh lại dem cơ nghiệp nhà Trần giao vào tay Nghệ Tôn, trước đã không có chí làm vua, sau lại một mực tin dùng Quý Ly, nên nhà Trần lại mất về tay nhà Hồ.
Tuy sử không chép nhiều, nhưng ta cũng thấy rằng các công chúa đời Trần không phải chỉ thụ động tuân theo thượng lệnh, hoặc nằm trong lòng địch dò la tin tức như công chúa Ngoạn Thiềm, hay lấy mỹ sắc xoa dịu đối phương đê đem lại hoà bình cho đất nước như Huyền Trân hay An Tư, hoặc lấy người cùng họ để giữ ngôi báu nhà Trần khỏi lọt vào tay họ khác, mà còn có những hoạt động như lập trang trại, luyện tập quân sĩ, điều binh khiển tướng, ít nhất cũng tích cực đóng góp vào công việc mở mang đất nước và gìn giữ ngai vàng cho nhà Trần. Châtenay-Malabry, tháng 2, 1993
(Văn Lang, số 5, tháng 6 - 1993)
Chú thích
1. Lê Tắc là tác giả An Nam Chí Lược.
2. Trong " Chuyện nàng công chúa có ân sâu với Huế " , Nhớ Huế (30/8/92) tác giả viết rằng thuyền của Huyền Trân đi 7 ngày đã tới Cửa Thuận, chờ đợi 2 tháng tin bắt cóc hoàng tử Đa Gia không thấy nên công chúa lên kiệu về kinh, 20 ngày tới Thăng Long và chỉ ba tháng sau công chúa xuất gia, nhằm ngày Tết Nguyên Đán năm Kỷ Dậu (1309) nghĩa là 6 tháng sau khi dời Chiêm Thành. Thuyết này e không ổn vì Chế Mân mất tháng 5/1307, vua sai Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân từ tháng 10/1307, cho là hai tháng sau Trần Khắc Chung mới đến Chiêm Thành và đón được Huyền Trân về thì họ phải khởi hành vào khoảng đầu 1308, sáu tháng sau Huyền Trân đi tu, phải vào khoảng giữa 1308 chứ không thể vào Tết 1309, vì có một lỗ hỗng khoảng 6 tháng không biết họ đi đâu.
3. Việt Sử Tiêu Án, tr. 222
4. Toàn Thư, II, tr. 93.
5. " Trưởng công chúa " , là chị em ruột của vua, con của Thượng hoàng, chứ không phải là " công chúa lớn nhất " (Cuơng Mục, VII, tr. 29).
6. " Từ 1241, anh em vua phong vương, con trưởng các vương cũng phong vương, con thứ phong Thượng vị hầu. Làm chế độ vĩnh viễn. (Toàn Thư II, tr. 17 và Cương Mục V, 38).
7. Thông Sử, tr. 115-6.
8. Thông Sử, tr. 165, Toàn Thư III, tr. 69.
9. Vũ Trung Tuỳ Bút, tr. 69.
10. Les Miroirs de la Perversité, tr. 346.
11. Việt Sử Tiêu Án, tr. 221.
12. Cương Mục, IV, tr. 64.
13. Sử Ký Tục Biên, tr. 159. Theo Vũ Trung Tuỳ Bút thì người bị sét đánh là Trịnh Sâm, con Trịnh Doanh, và Trịnh Giang, Trịnh Doanh đều là con Vũ Thị.
14. " Trần Thủ Độ " , Trung Bắc Chủ Nhật số 182.
15. Việt Sử Tiêu Án, tr. 170.
16. Toàn Thư II, tr. 97.
17. Toàn Thư II, tr. 47 và Cương Mục V, tr. 500. Tuy vậy, những tướng giỏi đời Trần như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật v.v...đều tài kiêm văn võ.
18. Toàn Thư II, tr. 17-8.
19. Toàn Thư II, tr. 137-8, Cương Mục VI, tr. 59-64. Sách tham khảo :
* Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tổ biên dịch Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà Nội : Văn Sử Địa, 1957. * Lê Quý Đôn, Đại Việt Thông Sử, Hà Nội : KHXH, 1978. Biên tập : Mai Ngọc Mai. * Lê Tắc, An Nam Chí Lược, Viện Đại học Huế, Ủy Ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961. * Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hà Nội : KHXH, 1967-73. Cao Huy Giu dịch. * ?, Đại Việt Sử Ký Tục Biên, Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng dịch, Hà Nội : KHXH, 1991. * Ngô Thì Sĩ, Việt Sử Tiêu Án, bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc Văn hoá Á châu, Văn Sử tái bản ở Mỹ. * Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút, bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Đông Nam Á tái bản ở Paris. * Prouteau Gilbert, Les Miroirs de la Perversité, Paris : Albin Michel, 1984. * Vân Hạc, " Thanh Niên Đời Trần " , Trung Bắc Chủ Nhật, số 61, 18/5/1941. Văn Hòe, " Trần Thủ Độ " , Trung Bắc Chủ Nhật, số 182, 7/11/1943.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:47:43 GMT 9
Trần Thủ Ðộ (1194 - 1264) Trần Thủ Độ là nhân vật trụ cột của triều Trần. Ông là công thần sáng lập triều Trần và là người thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm (1226-1264). Sử chép: "Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua". (*) Trần Thủ Độ cũng là nhân vật bị các sử thần thời phong kiến chê trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Độ hiện ra như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lý. Nhưng khi chép về việc "Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý" trong Đại Việt sử ký toàn thư; Ngô Sĩ Liên cũng chú trong ngoặc đơn là "việc này chưa chắc đã có thực". Nhân dân lại đánh giá ông với cách nhìn khác quan điểm Nho giáo. Trong đền thờ ông trên đồi Lim (Tiên Sơn, Hà Bắc) có hai câu đối treo ở trước bàn thờ như sau: Công đáo vu kim, bất đán Trần gia nhị bách tải. Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu. (Công đức của ông để mãi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần. Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam). (**) Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng, nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Tổ tiên ông vốn nối đời làm nghề đánh cá, từ Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh) về vùng sông nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven bờ sông Hồng (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), rồi sang ở vùng Bát Xá - Tam Nông (tám làng Xá, ba làng Nông) cạnh dòng sông Luộc. Đến đời thân phụ của Trần Thủ Độ và nguyên tổ Trần Lý của nhà Trần thì họ Trần trở nên giàu có, người ở quanh vùng quy phụ, "...nhân có nhiều người cũng nổi lên làm giặc". Nhất là từ khi Trần Lý có người con gái là Trần Thị Dung lấy Hoàng Thái tử Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) thì thanh thế càng lớn. Trần Thủ Độ cùng với những người con ưu tú khác của họ Trần sớm tham gia lập các đội hương binh đi đánh dẹp các thế lực cát cứ khác, lúc đầu nhằm khôi phục cơ nghiệp cho nhà Lý. Năm 1224, ông được nhà Lý phong làm Điện tiền chỉ huy sứ, quản lý các đạo quân bảo vệ kinh thành. "Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn". Ông mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi. Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục: "Trần Thủ Độ sau khi chết, chôn ở địa phận xã Phù Ngự, huỵện Ngự Thiên, nơi để mả có hồ đá, dơi đá, chim đá và bình phong bằng đá, chỗ đất ấy rộng đến hai mẫu, cây cối um tùm. Về tư điền, trước vẫn liệt vào hạng thượng đẳng, các quan phủ, huyện, huấn, giáo đến kính tế". Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, thường quyết đoán theo ý chí của mình, ít chịu để cho tình cảm sai khiến. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thủ Độ gắn liền với nghiệp đế của họ Trần. Nhưng hiệu quả lịch sử những việc ông làm đã đưa nước nhà qua khỏi cuộc suy vong cuối triều Lý và khởi dựng nên thời đại Đông A rực rỡ những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm và những thành tựu xây dựng đất nước. Cuối triều Lý, chính quyền trung ương bất lực trước cuộc suy thoái về kinh tế và hỗn loạn về chính trị. Thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Ngoài biên thùy, Chiêm Thành và Chân Lạp thường xuyên quấy phá. Đế quốc Mông Cổ cũng đã tung vó ngựa sang phía Đông đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên, chuẩn bị xâm lược Tống và các nước phía Nam. Trong lúc ấy, vua Lý Cao Tông vẫn mải mê rong chơi, say đắm thanh sắc, thích xây dựng cung điện, đền miếu, không thiết gì đến chính sự. Vua Lý Huệ Tông thì nhu nhược, bệnh hoạn, năm Giáp Thân (1224) truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 6 tuổi rồi đi tu ở chùa Chân giáo. Trần Thủ Độ đạo diễn cuộc chính biến tháng Chạp năm ất Dậu (tức tháng 1-1226), xếp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh với lời lẽ trong chiếu nhường ngôi rằng: "...Trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không có người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề". Làm cuộc đảo chính thay đổi triều đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước, Trần Thủ Độ tỏ ra là một nhà chính trị sáng suốt, khôn khéo. Ngay sau khi lên làm vua, Trần Thái Tông phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ nắm giữ mọi việc cai trị thiên hạ. Năm sau lại phong Trần Thủ Độ làm thái sư giữ tất cả việc hành quân, đánh dẹp trong nước. Ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi và tận tụy chăm lo việc nước. Phàm công việc gì làm cho đế nghiệp Đông A vững mạnh, ông đều cương quyết làm bằng được. Năm 70 tuổi, trước lúc chết 5 tháng, sử còn chép việc ông đi tuần ở vùng biên giới Lạng Sơn. "Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc, không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp, giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất". Ngay từ những năm đầu triều Trần, ông đã đánh dẹp được các thế lực cát cứ ở các địa phương và tổ chức lại bộ máy hành chính từ trung ương đến cấp xã. Ông đặt ra sổ trướng tịch ghi chép danh sách dân gian trong xã, thôn, từ quan văn, quan võ, binh lính, hoàng nam, trung lão, tàn tật, người ngụ cư... để nắm chắc hộ khẩu trong nước. Có lần duyệt định hộ khẩu, bà Linh Từ quốc mẫu muốn xin riêng cho một người làm câu đương (một chức dịch trong xã). Ông gật đầu, rồi ghi tên họ, tên quê quán. Khi xét đến xã ấy, hỏi tên ấy đâu, người ấy mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt". Người ấy kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Từ đấy không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa. Ông đề cao tư tưởng pháp trị, định ra luật lệ, quy chế hành chính và gương mẫu thực hiện. Sử còn chép chuyện Linh Từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại. Về nhà bà khóc bảo với Trần Thủ Độ rằng: "Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế". Thủ Độ giận sai đi bắt. Người quân hiệu ấy chắc là phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa". Rồi lấy vàng lụa thưởng cho người ấy. Là người có công dựng nước, có tài trị nước, vua cũng ít khi dám trái ý. Bấy giờ có người đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?". Vua lập tức cùng người ấy đến nhà Trần Thủ Độ và nói lại chuyện đó. Trần Thủ Độ trả lời: "Đúng như lời người ấy đã nói", rồi lấy tiền lụa thưởng cho người ấy. Trần Thái Tông vì quý trọng Thủ Độ nên muốn dùng anh ruột ông là An Quốc làm tể tướng. Ông thẳng thắn nói với vua: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần nên nghỉ việc, nếu cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tể tướng thì việc trong triều đình sẽ ra sao". Vua bèn thôi. Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ "Nhập Tống" ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời: - Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29-1-1258, buộc địch phải rút chạy về nước. Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc. Hà Ân - Trần Quốc Vượng (*) Các đoạn trích dẫn không ghi dấu đều lấy ở sách Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1967, Tập I-II. (**) Theo tài liệu của cụ Hoa Bằng lưu tại Viện sử học
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:50:07 GMT 9
Trần Hưng Đạo (1228-1300) Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn. Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước. Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng. Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút". Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi: - Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước: - Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước. Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ... Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương. Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:51:37 GMT 9
Trần quang Khải (1240 - 1294) Trần Quang Khải sinh năm 1240, mất năm 1294, là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 - 1278). Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh đại vương. Năm 1274, ông được giao giữ chức Tướng quốc Thái úy. Năm 1282, dưới triều Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng tướng Thái sư, nắm giữ quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn, có nhiều công lao lớn trên chiến trường. Trong sự nghiệp quân sự của Thượng tướng Trần Quang Khải, thì trận ông chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5-1285 "là chiến công to nhất lúc bấy giờ", như sử sách từng ca ngợi. Trần Quang Khải còn là một nhà ngoại giao giỏi. Năm 1281, khi nhà Nguyên chuẩn bị xâm lược Việt Nam lần thứ hai, chúng cho Sài Thung đem 1.000 quân đưa bọn Trần Dĩ ái về nước. Khi tới biên giới, quân Nguyên bị nhà Trần phục đánh. Trần Dĩ ái bỏ chạy. Sài Thung được "rước" về Thăng Long để dùng vào kế hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với giặc. Lúc Sài Thung về Trung Quốc, Trần Quang Khải làm bài thơ tiễn tặng rất thân, nhã, đoạn kết có câu viết: Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện, Ân cần ác thủ tự huyên lương. (Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt, Để ân cần nắm tay nhau hàn huyên). Đối với viên sứ giả hống hách của một nước sắp tràn quân sang xâm lược, thái độ Trần Quang Khải vẫn ung dung, niềm nở như vậy, đó cũng thể hiện một nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của ông và con người Việt Nam thời ấy. Trong văn học sử Việt Nam, Trần Quang Khải là một nhà thơ có vị trí không nhỏ. Thơ ông sáng tác có tập Lạc đạo, nay đã thất truyền, chỉ còn lưu được một số bài. Là một vị tướng cầm quân xông pha khắp trận mạc đánh giặc, song thơ ông lại "thanh thoát, nhàn nhã", "sâu xa, lý thú" (Phan Huy Chú). ấy cũng là cốt cách phong thái của các vua Trần, của người Việt Nam ngàn đời nay. Hãy đọc bản dịch bài thơ Vườn Phúc Hưng của Trần Quang Khải để thấy rõ hơn tâm hồn ông: Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh, Vài mẫu vườn quê đất rộng thênh. Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa, Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh. Nắng lên mời khách pha trà nhấp, Mưa lạnh sai đồng dỡ thuốc nhanh, Báo giặc ải Nam không khói lửa, Bên giường một giấc ngủ êm lành. (Theo Hoàng Việt thi văn tuyển). Tâm hồn Trần Quang Khải vừa thoáng đạt, vừa gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị của đất nước và con người: Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt, Kỷ phiến nông soa bích lũng vân. (Tiếng sáo mục đồng dưới ánh trăng bên lầu xanh, Mấy chiếc áo tơi dưới mây trên ruộng biếc) (Chùa Dã Thự). Cuộc đời Trần Quang Khải là một cuộc đời sung mãn, khí phách dọc ngang. Vào tuổi 50, Trần Quang Khải vẫn còn viết những câu thơ đầy khát vọng anh hùng: Linh bình đởm khí luân khuân tại, Giải đảo đông phong phú nhất thi. (Chí khí dũng cảm lúc còn trẻ vẫn ngang tàng, hăng hái. Muốn quật ngã ngọn gió đông, ngâm vang một bài thơ). Ngoài bài Tụng giá hoàn kinh sứ, Lưu Gia độ (Bến đò Lưu Gia) cũng là một bài thơ nổi tiếng của Trần Quang Khải, có thể xếp vào trong số những bài thơ hay của thơ cổ Việt Nam. Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên, Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền. Cựu tháp giang đình lưu thủy thượng, Hoang tử cổ trùng thạch lân tiền. Thái bình đồ chí kỷ thiên lý, Lý đại quan hà nhị bách niên. Thi khách trùng lai đầu phát bạch, Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên. (Bến đò Lưu Gia cây cao ngất trời, Xưa phò giá sang đông từng đỗ thuyền nơi đây. Tháp cũ, đình xưa dựng trên sông thu, Đền hoang, mộ cổ trước mấy con lân đá. Bản đồ thái bình ghi mấy ngàn dặm, Non sông nhà Lý trải hai trăm năm. Khách thơ nay trở lại đầu đã bạc, Hoa mai như tuyết chiếu xuống sông trong). Những vần thơ Trần Quang Khải để lại là những ánh hào quang, ghi dấu ấn của một sự nghiệp lớn trong cuộc đời vị Thượng tướng nhà Trần - vừa làm thơ, vừa đánh giặc
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:54:39 GMT 9
Trần Nhật Duật (1254 - 1330) Danh tướng và vương tử tài hoa Lịch sử Việt Nam đời Trần ghi đậm rõ nét của bao anh hùng tuấn kiệt như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật.. Mỗi người có những sắc thái riêng biệt, tất cả tạo thành một dãy ngân hà soi sáng trong vòm trời đât Nam. Riêng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, không những là một tướng tài chống Nguyên-Mông mà là một trong những nghệ sĩ danh tiếng nhất đời Trần.Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông, tuy là vương tử nhưng đời sống rất xuề xòa, phóng khoáng, dễ tiếp xúc và không câu nệ. Chúng ta biết ông nhiều trong lịch sử kháng chiến chống nhà Nguyên-Mông Cổ xâm lăng lần thứ hai ở trận Hàm Tử (cửa Hàm Tử, Khoái Châu, Hải Hưng). Ông chỉ huy trận chiến thắng lừng lẫy này dọn đường cho trận chiến thắng Chương Dương của các danh tướng Trần Quang Khải và Trần Quốc Toản. Thái sư Trần Quang Khải đã đề bạt trong niềm vui sướng quê hương hết bóng thù: Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ cửu giang san (Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Thái bình nên gắng sức Non nước cũ nghìn thu) Làm quan trải qua bốn đời vua làm đến chức Thái sư nhưng lúc nào cũng có tinh thần phóng khoáng và độ lượng. Ông là một nhà nghệ sĩ giỏi và rất say mê âm nhạc, đã sáng tác rất nhiều khúc nhạc, lời ca, điệu múa. Ở dinh ông không ngày nào không mở cuộc chèo hát hay bày trò chơi, thế mà không ai cho ông là say đắm niềm vui mà quên công việc (1). Giỏi âm nhạc, ông cũng có niềm say mê đặc biệt các ngôn ngữ nước ngoài, rất thích chơi với người nước ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa và triết lý của ho. Từ Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Đa-da-li - một thôn gồm người Việt gốc tù binh Chăm Chiêm Thành (Champa) , sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Văn hóa Chăm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, văn hóa Việt Nam trong các triều đại Lý, Trần. Các điệu nhạc cung đình, chèo và quan họ trong dân gian đều có nguồn gốc ảnh hưởng từ văn hóa Chăm Chiêm Thành (2) (3). Một số kiến trúc chùa đình thời Lý-Trần trong giai đoạn này cũng có mang nét ảnh hưởng kiến trúc Chiêm Thành như một số hình tượng chim thần Garuda (3). Triết và đạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lưu và ảnh hưởng nhau. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc về hưu cũng đã thân hành không ngại đường xa qua Chiêm Thành bàn bạc, học hỏi và sống chung như anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian (2). Nhà nghệ sĩ Trần Nhật Duật có tiếng là người học rộng, thiệp liệp sử sách nhất kinh thành và rất ham thích đạo giáo, thường khi mặc áo lông và đội mũ giống như đạo sĩ. Ông tìm hiểu triết lý của nhiều dân tộc khác ngoài Chiêm Thành. Ông hay đến chơi chùa Tương Phụ, nói chuyện với nhà sư người Tống, ngủ lại rồi về. Khách nước ngoài đến kinh sư, thường được ông mời đến chơi nhà, nếu là người Tống, thì ngồi đối nhau, đàm luận suốt ngày. Sử gia Nguyên triều (Mông Cổ) tưởng ông là người Chân Định (Hà Bắc, Trung Quốc) chính cống. Nếu là người Chiêm hay người các dân tộc khác, ông đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi vì ông đã hiểu và tiếp thu văn hóa của ho. Khi nhà Tống mất, năm 1274 Hồi Hột, đem 30 thuyền cùng binh lính, vợ con đến Đại Việt xin thần phục. Tất cả đều được phép ở kinh thành. Có người như Trần Trọng Vi được Thánh Tông trọng đãi, quyết tâm “Lưu lạc thà làm ma nước Việt”, chết đi được vua làm thơ điếu (4). Sau này trong quân của Trần Nhật Duật chống Mông Cổ có đạo quân Tống với quân phục Nam Tống dưới trướng. Khi quân Mông giáp trận với Trần Nhật Duật, các tướng sĩ Mông Cổ ngạc nhiên và sợ hãi tưởng nhà Tống đã trở lại. Đây là một tác động tâm lý đánh vào quân Nguyên Mông Cổ và quân cựu-Tống dưới quyền Nguyên góp phần vào sự thua trận của quân Mông ở các trận như Hàm Tử mà Trần Nhật Duật lãnh đạo. Năm 1280, vua quan Triều thần được tin chúa đạo Đà Giang, miền núi Tây Bắc, Trịnh Giác Mật tụ họp dân nổi lên chống lại triều đình. Lúc này nhà Nguyên cũng đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Đất nước đang trong tình trạng khẩn trương trước hiểm họa ngoại xâm lớn lao. Để tập trung tâm trí và sức lực đối phó với quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm An phủ sứ Đà Giang để giải quyết gấp rút sự cố nghiêm trọng này. Vị vương tử trẻ mới 27 tuổi này, dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang", làm lễ ra quân lên đường đi Tây Bắc. Ông đã chinh phục tù trưởng Trịnh Giác Mật bằng phong tục "ăn bằng tay, uống bằng mũi" và được các dân tộc miền núi yêu mến như sau: Biết được quân triều đình đến, chúa Đà Giang là Trịnh Giác Mật định ám hại nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật rằng: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến gặp, Giác Mật xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến gặp chúa Đà Giang, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Thản nhiên đi giữa rừng gươm giáo và đám lính dân tộc miền núi sắc phục kỳ dị cố ý phô trương để uy hiếp, Trần Nhật Duật nói với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục rất ngan ngạnh chí khí của dân tộc vùng Đà Giang: “Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải.” Trịnh Giác Mật và các đầu mục đều kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Trần Nhật Duật. Khi mâm rượu, có bầu rượu và dĩa thịt nai muối, được bưng lên, Trịnh Giác Mật đưa tay mời có ý thách thức. Ông không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo như người địa phương. Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta". Trần Nhật Duật đáp lại "chúng ta từ xưa nay vẫn là anh em". Trần Nhật Duật sai tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay Trần Nhật Duật mà họ vừa nhận làm anh em. Đà Giang đã được quy thuận như thế: không đổ một giọt máu, không mất một mũi tên. Trong chuyến đi trấn an Đà Giang này, Trần Nhật Duật cũng được một người Mường tên là Ma Văn Khải tặng một quyển sách dật sử viết bằng Man ngữ do tổ 5 đời là Ma Văn Cao soạn nói về cuộc đời của người Thổ tên Hoàng Quỳnh dưới triều Lý Thần Tông. Trần Nhật Duật sau này dịch từ Man ngữ ra chữ Hán với nhan đề “Lĩnh Nam dật sử” năm 1297. Đây là một bộ sách viết theo lối tiểu thuyết dài Trung hoa rất ly kỳ chia ra làm 28 hồi, giống như tiểu thuyết kiếm hiệp hiện đại, rất có giá trị về phương diện dân tộc, địa lý tư tưởng và văn hóa học (6). Trần Nhật Duật sau đó đã cùng Trịnh Giác Mật và vợ con về kinh thành gặp vua (5). Thời vua Trần Nhân Tông, sứ giả sứ Sách Ma Tích (?, có lẽ là Sri Vijaya ở vùng đảo Sumatra) sang cống, không tìm được người phiên dịch. Cả Thăng Long chỉ có một minh Trần Nhật Duật dịch được. Đó là vì từ thời Thượng hoàng Trần Thái Tông, chàng vương tử Trần Nhật Duật đã chịu khó giao du với họ và học được tiếng nước họ rồi. Vua Nhân Tông thán phục, thường nói đùa: "Chiêu Văn vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man". Khi đã làm tể tướng, ông vẫn thường đến chơi nhà người Hoa kiều là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện phiếm với nhau hàng giờ. Theo lệ cũ, sứ giả nước ngoài đến Thăng Long, tể tướng tiếp sứ không được cùng ngồi nói chuyện, phải thông qua một người phiên dịch, sợ hoặc có sự gi lầm lỗi thì đỗ cho người phiên dịch. Trần Nhật Duật thì không thế, mỗi khi tiếp sứ Nguyên đều nói chuyện trực tiếp, không muốn người phiên dịch. Đến khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay nhau cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn bè. Điều này chứng tỏ đặc tính con người nghệ sĩ của ông khi chúng ta biết rằng cách đó không lâu ông đã cầm quân chống Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Trong số những người Tống đến ở Đại Việt có người phường hát tên Lý Nguyên Cát mang đến đất Việt lối “tuồng truyện”. Lý Nguyên Cát thường đến dinh của Trần Nhật Duật chơi, nơi mà “không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò”. Lối hát này sau được truyền vào cung vua và con của người đào hát tên Dương Nhật Lễ (con nuôi của thái tử đời vua Trần Minh Tông) được lên làm vua trong thời gian ngắn (4). Dương Ngọc Lễ suýt lật đổ triều Trần sớm hơn 30 năm, nếu không nhờ Trần Nghệ Tông rút về trấn Đà Giang nơi Trần Nhật Duật đã thu phục trước đây, để từ đó khôi phục lại ngôi vua cho nhà Trần. Trần Nhật Duật là người nhã nhặn độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong nhà không hề chứa roi vọt để đánh đầy tớ. Cũng có khi ông đánh, thì trước hết kể tội lỗi rồi sau mới đánh. Mặc dầu tài hoa phóng khoáng nhưng trong việc nước ông rất trung thực và thẳng thắng. Việc nước và việc cá nhân là hai việc riêng biệt không thể để lẫn lộn. Vợ ông là Trịnh Túc phu nhân từng có việc nhờ cậy nói riêng với ông ở nhà. Ông giả tảng gật đầu. Đến khi ra phủ, người thư ký đem việc ấy trình với ông, ông không cho. Để kết thúc về con người của ông, có một câu chuyện như sau. Có một lần có người kiện kẻ gia tỳ (người đầy tớ gái) của ông với Quốc Phụ (có lẽ là Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chân). Quốc phụ sai gia đồng đến bắt người đầy tớ. Cô đầy tớ gái chạy vào trong phủ tể tướng, người đi bắt đuổi đến nhà giữa, bắt trói, ầm ỉ. Vợ ông khóc nói: " Ông là tể tướng mà bình thường cũng là tể tướng, chỉ vì ông nhân nhu quá cho nên người ta mới khinh thường đến thế thôi". Trần Nhật Duật vẫn tự nhiên chẳng nói lại câu gì, chỉ khẽ sai người bảo người đầy tớ gái rằng: " Mày cứ ra, đâu đâu cũng đều có phép nước." Trần Nhật Duật xứng đáng là danh nhân Việt Nam, văn võ toàn tài, có thể được xem là ông tổ của ngành ngoại giao Việt Nam. Tuy làm đến chức tể tướng và thái sư nhưng không bao giờ tham lam quyền lực bởi vì sống trong lòng ông là một tinh thần nghệ sĩ độ lượng trong nét khảng khái và nhân hòa. Tham khảo (1) Trần Quốc Vương - Vũ Tuấn San, Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn hóa thông tin Hà Nội – 1975 (2) G. Coedes, The indianized states of South-East Asia, East-West Center, Honolulu, 1968 (3) Cao Xuân Phổ, Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, (Bài trong Hội nghị Sử học Đông Nam Á, Kualua Lumpur 1982). (4) Tạ Chí Đại Trường, Ả Trần, Mai Kiện, Hồi Hột – Phía khuất của Sử-được-kí, Talawas, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8768&rb=0302(5) Lê Mạnh Thát, Vua Trần Nhân Tông Cuộc đời, tác phẩm và sự nghiệp, www.thuvienhoasen.org/u-nhantong-02.html(6) Trần Nhật Duật – Lĩnh Nam dật sử, Nguyễn Tạo dịch từ Hán văn, tái bản, Nxb Trăm Việt, Oregon, USA.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:57:13 GMT 9
Trần Khánh Dư Trần Khánh Dư là người huyện Chí Linh (Hải Hưng), con của Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Ông là người trong họ nhà vua nên được phong tước Nhân Huệ vương. Ông đánh giặc có công, được vua yêu lập làm "Thiên tử nghĩa nam" (con nuôi vua). Sau lại phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Rồi tử tước hầu tăng lên mãi đến Tử phục thượng vị hầu. Sau vì có lỗi với gia đình Trần Quốc Tuấn nên bị cách hết quan tước, tịch thu gia sản. Ông phải lui về sống ở Chí Linh. Một ngày tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282), Khánh Dư chở thuyền qua bến Bình Than, nhà vua trông thấy, trỏ vào thuyền bảo quan thị thần rằng: "Người kia có phải là Nhân Huệ vương không". Rồi lập tức sai người chở thuyền nhỏ đuổi theo. Người quân hiệu gọi: "Ông lái kia, vua sai đòi nhà ngươi". Khánh Dư nói: "Ông già là người buôn bán, có việc gì mà gọi đến". Quân hiệu về tâu thực như thế. Vua nói: "Đúng là Nhân Huệ vương rồi, nếu là người thường tất không dám nói thế". Vua lại sai đi gọi. Khánh Dư đến nơi, mặc áo ngắn, đội nón lá. Vua nói: "Nam nhi cực khổ đến thế là cùng". Vua xuống chiếu tha tội, ban cho áo ngự, vị thứ ngồi dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc đánh giặc. Ông có nhiều kế hay, đúng ý vua. Nhà vua cho phục chức cũ, lại phong làm Phó tướng quân. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba (1288), ông làm Phó tướng giữ Vân Đồn. Khi cánh quân thủy của bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đến Vân Đồn, ông đem quân chặn đánh, không cản được giặc. Thượng hoàng nghe tin, sai bắt về kinh xử tội. Ông bảo với sứ rằng "lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn vài ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu búa rìu cũng chưa muộn". Theo dự đoán của ông, quả nhiên mấy ngày sau, Trương Văn Hổ dẫn hơn 100 thuyền chở lương kéo đến. Ông đánh bắt sống được nhiều tù binh và lương thực khí giới không kể xiết. Quân Nguyên nghe tin mất hết lương thực, chỉ lo việc rút về, không còn chí chiến đấu nữa. Trong số những quý tộc nhà Trần, Trần Khánh Dư là người không chỉ giỏi võ nghệ, lắm mưu lược, lập công lớn về quân sự mà ông còn có đầu óc thực tiễn, biết kinh doanh thương mại. Suốt thời gian bị bãi chức, ông về đất cũ của cha mình ở Chí Linh, làm nghề buôn than để sống. Tác giả các bộ sử cũ với quan điểm kinh tế truyền thống của phong kiến là trọng nghề gốc (nông nghiệp), khinh nghề ngọn (buôn bán) nên coi việc ông buôn than, bán nón là nghề "hèn mọn". Nhưng thực ra, ở thời Trần chưa hề có chính sách trọng nông ức thương, chưa hề có việc bao vây cấm đoán ngoại thương. Chính Trần Khánh Dư là người sớm thấy nguồn lợi lớn trong việc buôn bán. Ông là vị tướng giỏi và cũng là người biết làm kinh tế. Khi là dân thường cũng như lúc làm tướng, ông đều tham gia hoạt động kinh doanh lưu thông hàng hóa. Đấy là điểm tiến bộ ở ông, một biểu hiện mới trong tầng lớp quan liêu vốn chỉ quen sống bám vào đặc quyền đặc lợi của mình, khinh thường lao động sản xuất và kinh doanh buôn bán.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 5:07:41 GMT 9
Trần Khát Chân Ông thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, một danh tướng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ13. Cũng theo sử cũ, Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người sáng lập nhà Tiền Lê thế kỷ 10. Như thế, Trần Khát Chân gốc họ Lê ở Châu ái. Văn bia xã Tương Mai ghi năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) cho biết ông sinh ngày Tân Sửu, tháng Chạp, năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370). Năm Kỷ Tỵ (1389), quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đem quân đi chống cự. Bị thua, Quý Ly trốn về Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bèn sai Trần Khát Chân làm tướng đem quân đi chặn đánh giặc đang theo đường sông Hồng tiến về Thăng Long. Ông "vâng mệnh, khảng khái rỏ nước mắt lạy tạ rồi ra đi". Thượng hoàng cảm động cũng khóc, lấy nước mắt tiễn đưa. Quân Đại Việt đến Hoàng Giang thì gặp địch. Ông liệu nơi ấy không thể đánh nổi nên rút lui về phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà. Ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), thuyền địch đi qua đấy, ông tập trung hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm tan tác như rắn mất đầu, vội rút về nước không dám gây sự nữa. Chiến công này đã cứu Thăng Long khỏi tai họa bị tàn phá. Ông được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan Nội hầu và được ban thái ấp ở vùng Kẻ Mơ, phía nam kinh thành Thăng Long. Năm 1399, thấy Hồ Quý Ly chuyên quyền, giết vua Trần Thuận Tông, ông cùng một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc). Việc bị bại lộ, hơn 730 người bị giết. Người đời truyền rằng khi sắp bị chém, Trần Khát Chân gào thét ba tiếng. Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như còn sống. Tại nơi ông bị hành hình, sau có đền thờ ở làng Phương Nhai và ở sườn núi Đốn Sơn. Ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai có tới 29 làng cúng tế. ở Thăng Long, dân vùng Kẻ Mơ cũng lập đền thờ, tạc tượng đá, dựng bia ghi nhớ công đức của ông. Hiện nay, ở Hà Nội có đường phố mang tên Trần Khát Chân.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 5:30:43 GMT 9
Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn QuốcBị mất ngôi vua vào tay nhà Trần, dòng họ Lý của Đại Việt nhiều người phải tha hương đến tận Cao Ly. Nhưng tại nơi đây họ Lý đã lập chiến công lớn khi đánh bại quân Mông Thát, hậu duệ của họ Lý sau này lại trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc suốt 3 nhiệm kỳ liền. Góc nhìn sử Việt Bị ép nhường ngôi vua, tôn thất tha hương đến tận Cao Ly Năm 1224, vua Lý Huệ Tông không có con trai, Trần Thủ Độ ép vua phải nhường ngôi cho công chúa còn nhỏ là Lý Chiêu Hoàng. Năm sau Trần Thủ Độ lại ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý bị mất từ đó. Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả) Sau khi Trần Cảnh lên ngôi Vua, Trần Thủ Độ loại dần nhà Lý ra khỏi triều đình, đồng thời ngầm diệt trừ hậu họa, khiến dòng họ nhà Lý phải phiêu bạt các nơi. Lý Long Tường là con thứ bảy của vua Lý Anh Tông và Hiền phi Lê Mỹ Nga. Ông là em vua Lý Cao Tông và là chú vua Lý Huệ Tông. Trước sự suy vong của nhà Lý, ông cùng các tôn thất nhà Lý khác quyết định vượt biển ra nước ngoài. Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Lý Long Tường cùng các tôn thất nhà Lý quyết định vượt biển. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả) Năm 1226 Lý Long Tường cùng khoảng 6.000 gia nhân cùng tôn thất nhà Lý ra cửa Thần Phù (Thanh Hóa) chia làm 3 hạm đội chạy ra biển hướng lên phương Bắc. Khi đến Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, bờ biển phía tây Cao Ly thì bị bão đánh dạt vào đất liền. Tương truyền ngay trước đó vua Cao Tông của Cao Ly nằm mộng thấy con chim cực lớn bay từ phương Nam lên. Vì vậy khi đoàn thuyền nhà Lý đến ông cho đón tiếp ân cần và đồng ý cho ở lại dung thân. Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Nhà Lý truyền dạy phái võ Hoa Sơn. (Tranh sưu tầm) Tại Cao Ly dòng họ Lý sống bằng nghề trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi. Đồng thời họ cũng mở võ đường dạy binh pháp, võ thuật. Từ đó phái võ Hoa Sơn nổi tiếng ở Đại Việt được nhà Lý truyền dạy ở Cao Ly. Xem thêm: Viêm phương Trần tộc Lưu phả: Trần Quốc Toản không hề tử trận Lý Long Tường giúp đánh bại quân Mông Thát Năm 1231 Đại Hãn Mông Cổ là Oa Khoát Đài hạ lệnh tiến đánh Cao Ly qua hai đường thủy bộ. Về đường thủy quân Mông Thát tiến vào tỉnh Hoàng Hải nơi gia tộc họ Lý sinh sống. Lý Long Tường lãnh đạo gia thuộc, dân binh sát cánh cùng quân triều đình chặn đứng quân Mông Thát tại nơi đây. Ông thường cưỡi ngựa trắng đôn đốc binh sĩ, nên người dân địa phương thường gọi ông là Bạch Mã tướng quân. Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Bạch Mã tướng quân. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả) Trong khi đó cuộc chiến ở nơi khác diễn ra rất khốc liệt theo chiều hướng khác hẳn. Cánh quân bộ của Mông Thát khi tiến vào Cao Ly, một số thành đã đầu hàng, quân Mông Thát đánh chiếm một số thành trì rồi tiến nhanh đến kinh đô. Quân Cao Ly tập trung phòng thủ 2 thành quan trọng là Yên Châu và Quy Thành nhằm ngăn quân Mông Thát tiến vào kinh thành của Cao Ly. Sau nhiều ngày tấn công quân Mông Thát đã chiếm được Yên Châu, rồi đánh chiếm kinh đô Khai Thành. Chiếm được kinh đô, quân Mông Thát tiếp tục tiến đánh đến tận Trung Châu thuộc miền Trung bán đảo Triều Tiên. Nhận thấy không thể tiếp tục cuộc chiến, Cao Ly đành đồng ý nghị hòa với Mông Cổ, cống nộp 10.000 bộ da rái cá, 20.000 con ngựa, 10.000 súc lụa, quần áo; nhiều trẻ em và thợ thủ công cống nộp để làm nô lệ. Quân Mông Thát rút lui, để lại 72 quan chức giám sát phía Cao Ly thực hiện đúng ký kết trong bản nghị hòa. Năm 1253 Đại Hãn lúc này là Mông Kha lại hạ lệnh cho quân tiến đánh Cao Ly vì không thực hiện theo bản nghị hòa. Quân Mông Thát tiến đánh Hoàng Hải theo cả hai đường thủy bộ. Lý Long Tường đã dùng binh pháp Đại Việt cũng như phái võ Hoa Sơn huấn luyện cho dân làng cùng binh sĩ Cao Ly để chống lại quân Mông Thát. Cuộc chiến chống quân Mông Thát tại Hoàng Hải diễn ra suốt 5 tháng ròng rã, quân Mông Thát không sao tiến được, bị thua trận đầu hàng rồi rút lui. Người Việt giúp đánh bại quân Mông Thát ở Cao Ly, hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Quân Mông Thát thua trận. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả) Trong khi đó cuộc chiến ở các nơi khác không được như thế. Quân Mông Thát cho quân chiếm và cướp phá khắp vùng đồng bằng. Vua Cao Tông phải cho con trai An Khánh Công làm con tin, thỏa mãn các yêu cầu của quân Mông Thát để được ngừng chiến vào tháng 1/1254. Mặc dù không thể giúp Cao Ly đánh bại quân Mông Thát trọn vẹn, nhưng chiến thắng tại Hoàng Hải của Lý Long Tường khiến vua Cao Ly rất đỗi tự hào. Sau chiến công ấy, vua Cao Ly đã đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, Lý Long Tường được phong là Hoa Sơn tướng quân, nơi quân Mông Thát đầu hàng gọi là “Thụ hàng môn”. Vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây để ghi công Lý Long Tường. Lý Long Tường Thụ hàng môn – Nơi quân Mông Thát đầu hàng. (Ảnh từ wikipedia.org) Sau này ở Hoa Sơn, Lý Long Tường thường hay ngồi trên đỉnh núi Quảng Đại nhìn về phương Nam mà khóc. Nơi ấy sau này được gọi là “Vọng quốc đàn”. Khi ông mất được chôn ở chân núi Di Ất. Năm 1960 chính phủ Hàn Quốc xây dựng tượng Bạch Mã tướng quân để tưởng nhớ đến Lý Long Tường. Ngày nay trên đại lộ từ phi trường Kimpo về thủ đô Seoul, người dân Hàn Quốc cũng như du khách có thể chiêm ngưỡng pho tượng này. Xem thêm: Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa? Hậu duệ trở thành tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Vào ngày 6/11/1958, tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn có chuyến thăm Việt Nam cộng hòa. Tại đây, vị tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc với 3 nhiệm kỳ đã nói rằng tổ tiên của ông chính là người Việt, ông chính là hậu duệ đời thứ 25 của Lý Long Tường. Lý Long Tường Ông Lý Thừa Vãn: Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc suốt 3 nhiệm kỳ liền. (Ảnh từ wikipedia.org) Hậu duệ nhà Lý ở Hàn Quốc vẫn không quên cội nguồn của mình. Năm 1994 ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 26 của Lý Long Tường đến Việt Nam, tìm đến từ đường họ Lý ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để bái tổ tiên. Hiện nay ông và gia đình đã định cư và nhập quốc tịch Việt Nam. Trần Hưng Có hay không lễ cưới của Lý Chiêu Hoàng? - Ở ngôi trong khoảng thời gian ngắn, vai trò và tầm ảnh hưởng không lớn nên những gì mà người đời biết về bà chỉ như gió thoảng mây bay mà ai ít ngờ rằng còn rất nhiều điều kỳ thú về Lý Chiêu Hoàng.Lý do Lý Chiêu Hoàng được nhường ngôi Vua Lý Huệ Tông chỉ có hai người con gái, con cả là Thuận Thiên công chúa Lý Ngọc Oanh, người con thứ là Chiêu Thánh công chúa Lý Phật Kim. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) Lý Huệ Tông xuống chiếu lập con gái thứ làm Hoàng thái tử rồi truyền ngôi, lý do là lúc đó Thuận Thiên công chúa đã được gả chồng, theo quan niệm “xuất giá tòng phu” thì Thuận Thiên công chúa không còn là người thuộc hoàng tộc họ Lý nữa. Mặt khác, Chiêu Thánh công chúa là con thứ lại còn nhỏ nhưng được Lý Huệ Tông rất yêu quý nên mới cho làm người kế thừa ngôi báu. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết: “Bấy giờ hoàng hậu Trần Thị sinh được hai công chúa. Công chúa thứ hai là Phật Kim, nhà vua yêu lắm, định lập làm con kế tự, bèn ban cho nàng 24 lộ trong nước để làm ấp thang mộc. Tháng 10, mùa đông, lập con gái là Phật Kim làm Thái tử. Nhà vua không khỏi bệnh, lại chưa có con trai thừa tự, trong cung duy có hai nàng công chúa, con lớn là Thuận Thiên, con bé là Chiêu Thánh, đều do Trần Thị sinh ra. Hiện nay, Thuận Thiên đã lấy Trần Liễu, nên nhà vua lập Chiêu Thánh làm Thái tử. Truyền ngôi cho con gái là Phật Kim, nhà vua ra ở chùa Chân Giáo”. Có hay không lễ cưới của Lý Chiêu Hoàng? Chúng ta thường nghĩ rằng Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh (sau là Trần Thái Tông) là đôi vợ chồng nhưng thực ra hoàn toàn không có lễ cưới của họ xét về mặt nghi thức, lễ tục hôn nhân. Hai người trở thành “vợ chồng” hoàn toàn chỉ qua lời nói của Trần Thủ Độ mà thôi. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế, loan báo cho mọi người: "Bệ hạ đã có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào hầu để làm lễ yết kiến”. Các thư tịch cổ khác như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án… đều có ghi chép tương tự. Riêng có sách An Nam chí lược của Lê Tắc thì cho hay vua Lý Huệ Tông đồng ý cho hai người thành hôn, có điều nghi thức lễ cưới có diễn ra hay chưa thì chưa xác định: “(Trần) Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công chúa Chiêu Thánh. Vương (Lý Huệ Tông) bằng lòng”. Ai là người soạn chiếu nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàng? Dưới sự “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, vở kịch chuyển giao ngôi vị từ họ Lý sang họ Trần hạ màn vào ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (1225), tại điện Thiên An, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu “nhường ngôi cho chồng”. Nội dung bài chiếu được ghi lại rõ ràng trong các sách sử nhưng người chủ trương viết tờ chiếu này thì ít ai rõ, nhưng có thể suy đoán đó là Thái hậu Trần Thị Dung, người đóng vai trò quan trọng trong sự kiện “chuyển giao ngôi vua” này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Thái hậu là con gái Trần Lý, khi Lý Huệ Tông làm Thái tử vì tránh quốc nạn phải chạy ra miền Hải Ấp, Thái tử trông thấy Trần thị tỏ ý hài lòng, rồi lấy làm vợ, sau sách phong làm Hoàng hậu. Gặp lúc ấy trong nước loạn lạc, Hoàng hậu mới cùng với Thủ Độ tư thông, rồi bàn mưu ở trong cung làm tờ chiếu để vua nhà Lý truyền ngôi cho nhà Trần, vì thế mà nhà Lý mất ngôi vua”. Tượng thờ Lý Chiêu Hoàng ở đền Rồng –Bắc Ninh (Ảnh: tác giả) Vợ nhường ngôi cho chồng là sự kiện chưa từng có Sự kiện Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh được nhiều sách sử ghi chép lại, nhưng chỉ có duy nhất bộ sử được viết vào thời nhà Nguyễn là Khâm định Việt sử thông giám cương mục có lời bình cụ thể về việc này và cho đó là chuyện cổ kim chưa chưa từng có trong lịch sử khi so sánh với một số trường hợp được ngôi vua ở các triều đại phương Bắc. Lời bình đó như sau: “Thực là việc lạ, suốt nghìn xưa chưa hề có. Các triều đại Bắc phương chưa từng có chuyện được nước như vậy bao giờ. Kìa như họ Sài nối nhà Chu đã là chuyện lạ, nhưng cũng chưa lạ đến như thế. Xem ra cũng chẳng qua như bọn Vương Mãng và Dương Kiên đó thôi. Dầu chẳng mượn danh nghĩa là "bệ hạ có chồng", thiên hạ thế nào chắc cũng về tay họ Trần. Họ Trần lấy được nước, đều là nhờ công sức Thủ Độ, cũng như vua Thuận Trị nhà Thanh với Đa Nhĩ Cổn, chứ Trần Thái Tông có gì đáng khen đâu?”. Lý Chiêu Hoàng có bao nhiêu người con? Qua hai đời chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh) và Lê Tần (Lê Phụ Trần), Lý Chiêu Hoàng đã sinh hạ tất cả 3 người con là: - Trần Trịnh là người con đầu tiên của Lý Chiêu Hoàng và cũng là kết quả của mối tình với vua Trần Thái Tông, sinh ra năm Quý Tị (1233) nhưng người con này đã chết sau khi sinh không lâu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đặt nghi vấn: “Hoàng thái tử sinh, tất phải chép rõ ngày, tháng, năm sinh; khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất, có lẽ là vừa mới sinh đã chết ngay, nên không chép ngày tháng sinh”. - Trần Bình Trọng là con trai của Lý Chiêu Hoàng với tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần) có tên là Lê Tông, khi trưởng thành được phong tước Thượng vị hầu, ông còn có tên khác là Lê Phụ Hiền sau này được ban quốc tính (họ vua) và đổi tên thành Trần Bình Trọng. Vua Trần Thái Tông đã gả công chúa Thụy Bảo cho Trần Bình Trọng, họ sinh được một người con gái tuyệt sau trở thành hoàng hậu của vua Trần Anh Tông. - Lê Thị Ngọc Khuê: Con gái của Lý Chiêu Hoàng với tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần), sinh năm Tân Dậu (1261), còn được gọi là Minh Khuê, có tài liệu như sách Việt Nam đại hồng sử thì viết bà hiệu là Kiều Thụy tên Minh Khuê. Sử sách và dã sử không cho biết rõ về cuộc đời của bà, chỉ biết rằng bà được phong làm Ứng Thụy quận chúa (có thuyết nói là Ứng Thụy công chúa) sau được gả cho Trần Cố, người xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, Hải Dương) đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần (1266) đời Trần Thái Tông, làm quan đến chức Hiến sát sứ, Thiên chương các đại học sĩ. Lý Chiêu Hoàng đã từng xuất gia đi tu Chính sử không có ghi chép về việc Lý Chiêu Hoàng xuất gia tu Phật sau khi bị truất ngôi Hoàng hậu nhà Trần, nhưng từ bao đời này người dân làng Giao Tự (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội) còn truyền tụng rằng ngôi chùa Linh Tiên của làng mình, xưa kia chính là nơi Lý Chiêu Hoàng về tu hành một thời gian. Bà trở về đây nương nhờ cửa Phật sau khi bị chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh) giáng xuống làm công chúa. Theo cuốn “Lý Thái Hậu thực lục”, sống với vua Trần nhiều năm mà đường con cái muộn mằn, Chiêu Hoàng luôn có nỗi buồn, bà bèn dâng biểu và được nhà vua ưng thuận. Từ đó, và rời cung cấm đi ngao du, thăm phong cảnh và giảng kinh thuyết pháp ở nhiều nơi, sau đó đến tu tại chùa Trấn Quốc bên Hồ Tây (theo sách Việt Nam đại hồng sử). Có thuyết khác nói Lý Chiêu Hoàng tu tại chùa Vân Tiêu nằm trên sườn núi phía tây Yên Tử lấy pháp danh là Vô Huyền, cho đến khi triều đình gả bà cho tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần). Những giả thuyết về cái chết của Lý Chiêu Hoàng Chính sử không ghi rõ nguyên nhân cái chết của Lý Chiêu Hoàng mà chỉ cho biết bà mất vào đầu năm Mậu Dần (1278): “Tháng 3, phu nhân Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh Lý thị mất. Công chúa lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Đến nay 61 tuổi thì mất” (Đại Việt sử ký toàn thư). Trái với ghi chép của chính sử, có một số thuyết khác nhau về cái chết của bà. Dã sử truyền rằng vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), bà phu nhân đại thần Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng) về thăm cố hương Cổ Pháp nhân chuẩn bị cho ngày giỗ tổ và bà đã qua đời tại đây, thọ 60 tuổi (tính tuổi mụ là 61). Có thuyết cho hay bà đã tự vẫn, hiện nay một số nơi như ở Đình Bảng (Bắc Ninh) vẫn truyền miệng về việc Lý Chiêu Hoàng sau khi được gả cho Lê Phụ Trần, bà theo chồng về sống Ái châu (Thanh Hóa), đến tuổi xế chiều bà đã trẫm mình tự vẫn, trong người bà có lá thư với nội dung viết rằng muốn thân xác mình sẽ trôi ngược trở về dòng sông Thiên Đức nơi đất Cổ Pháp quê hương. Khi thi thể Chiêu Thánh trôi qua nhiều vùng dân đã vớt được xác nhưng đọc thấy bức thư trong người bà họ lại thả xuống. Những nơi vớt được xác bà, người dân quanh vùng đều lập miếu thờ. Chỉ đến khi về đến quê, thi thể bà mới dừng lại, người dân đã táng bà bên rừng Báng thuộc đất Đình Bảng. Sách Việt Nam đại hồng sử cũng viết tương tự như vậy và cho biết thêm rằng bà Chiêu Thánh đã trầm mình tự vẫn vào ngày 23 tháng 9 năm Mậu Dần (1278) tại bến Tắm. Một nhà sử học thời Hậu Lê là Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án cũng ghi lại một thuyết nói đến chuyện bà Chiêu Thánh tự vẫn nhưng địa danh lại ở vùng đất thuộc Bắc Giang: “Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy”. Đó chỉ là một số giả thuyết khác nhau về cái chết của bà Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng) được đặt ra và lưu truyền từ nhiều đời nay, khó có thể biết chính xác chuyện đúng sai của nó vì không có tài liệu chính thống nào ghi chép một cách rõ ràng, cụ thể. Bia mộ Lý Chiêu Hoàng ở lăng Cửa Mả (Ảnh: Tác giả)Lăng mộ Lý Chiêu Hoàng được đặt ở đâu? Khi Lý Chiêu Hoàng mất, người dân thương tiếc an táng và đắp mộ bà ở bìa rừng Báng, phía Tây Thọ lăng Thiên Đức, hương Cổ Pháp quê nhà. Khu vực này thuộc hàng “sơn lăng cấm địa” được vua Lý Thái Tổ lựa chọn vào tháng 2 năm Canh Tuất (1010) làm nơi yên nghỉ của các nhà vua Lý. Khu vực Thọ Lăng Thiên Đức nay thuộc thôn Cao Lâm, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Tuy nhiên trong bài viết “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” của nhà văn, nhà nghiên cứu Lý Khắc Cung ông cho biết lăng Lý Chiêu Hoàng ở gần Hồ Tây: “Đến quãng cách chợ Bưởi chừng 200m, có một bãi rộng thuộc xóm Vạc, làng Yên Thái. Nơi đây, có một ngôi mộ khá lớn. Năm 1936 được dân làng xây lên bằng gạch, quét vôi trắng, được mọi người tới thắp hương. Các cụ già bảo đó là mộ Lý Chiêu Hoàng. Bên cạnh mộ là những hàng cây cao vút xếp thành hàng. Vị nữ vương này còn để lại dấu vết trong lòng dân”. Trong cuốn sách “Hà Nội - Văn hóa và Phong Tục”, một lần nữa ông lại nhắc đến ngôi mộ Lý Chiêu Hoàng, trong chương II của cuốn sách có đoạn viết rằng: “… Một bên là Hồ Tây thơ mộng, một bên là thành Đại La có ngôi mộ Lý Chiêu Hoàng rậm rạp cây cối…”. Lăng mộ Lý Chiêu HoàngTại Bắc Ninh, lăng mộ Lý Chiêu Hoàng được gọi là Lăng Cửa Mả. Cũng như lăng mộ các vua Lý khác, lăng mộ của bà đơn sơ, nhỏ bé vì tương truyền trước khi băng hà, Lý Thái Tổ đã dặn không xây lăng to đẹp mà chỉ đắp bằng đất để đỡ tốn tiền bạc của dân, do đó tuy gọi là lăng vua nhưng tất cả chỉ là những ngôi mộ đắp đất giản dị như của dân thường, điều đó thể hiện đức tính kiệm ước của các vua và hoàng tộc nhà Lý. Trải bao biến thiên của lịch sử nhưng nơi yên nghỉ các vua nhà Lý nói chung và Lý Chiêu Hoàng vẫn được giữ gìn cẩn thận. Thời gian gần đây chính quyền và nhân dân địa phương có xây dựng thêm trước mỗi mộ vua một gian thờ nhỏ và xây gạch quanh, trên mộ có dựng tấm bia hai mặt chữ Quốc ngữ và chữ Nho khắc chữ ghi miếu hiệu, tên húy, thời gian ở ngôi báu, tuổi thọ và ngày giỗ của các vua nhà Lý. Lê Thái Dũng
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 15, 2012 7:51:26 GMT 9
Phụng Dương công chúa . Công chúa Phụng Dương (1244-1291) là con Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ, mẹ là phu nhân Bảo Châu. Từ nhỏ, Phụng Dương đã nổi tiếng thông minh và rất mực hiền hậu. Vua Thái Tông Trần Cảnh yêu n đem về cung nhận làm con nuôi, cho hiệu là Phụng Dương. Từ đó Phụng Dương trưởng thành trong hoàng cung như một nàng công chúa.
Lớn lên Phụng Dương được gả cho Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Nghi lễ đúng lệ như con gái vua lấy chồng. Nhưng thật không may cho Phụng Dương, lúc ấy Thái sư Trần Quang Khải đang say mê một người thiếp nên nhạt tình với vợ mới. Chuyện đến tai Trần Thủ Độ khiến ông nổi giận cho gọi con gái về hỏi han cặn kẽ rồi quyết định không cho phép Quang Khải được làm như thế. ở phủ tể tướng, Quang Khải có nhiều thê thiếp nhưng về danh nghĩa, Phụng Dương là chánh phi, tuy nhiên, Phụng Dương đối xử với các thứ thiếp của chồng hết sức bao dung. Bà ân cần chỉ bảo cho họ cách làm ăn, khu xử. Hoặc họ làm điều gì khiến Quang Khải la mắng thì Phụng Dương lại nhẹ nhàng khuyên giải để họ biết lỗi mà sửa. Trần Quang Khải bàn việc nước, bà lo quán xuyến việc nhà, cư xử với người già người trẻ có phép tắc, sắp xếp công việc đâu ra đấy, nên tiền tài không hao phí mà vẫn sinh lợi khiến chồng rất hài lòng.
Đi lấy chồng nhưng Phụng Dương vẫn săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ chu đáo. Khi cha mất, bà đích thân lo cơm nước hầu hạ mẹ hệt như một cô gái thường dân nết na hiếu thảo.
Năm Giáp Thân (1284) quân Nguyên xâm lược nước ta. Thái sư và bà xuôi thuyền cùng triều đình về Thiên Trường. Thình lình nửa đêm có chiếc thuyền bị bốc cháy. Nghe tiếng hoảng loạn, ai nấy tưởng giặc đến nơi rồi. Bà bình tĩnh đánh thức Thái Sư dậy, đưa lá mộc che tên cho chồng. Bà được Thái sư thực sự yêu phục.
Cuối đời, Thượng tướng Thái sư về nghỉ ở trang riêng tại phủ Thiên Trường. Bà về theo rồi mất ở đấy năm 47 tuổi. Nhân cách bà được chính Thái sư đánh giá:
- Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết lưu danh, vượng phu ích tử.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 27, 2013 18:39:25 GMT 9
Vì sao Hồ Quý Ly chọn tên nước là Đại Ngu?(Kienthuc.net.vn) - Có thể nói, dưới triều đại nhà Hồ, ý nghĩa của quốc hiệu Đại Ngu - sự bình yên lớn - mới chỉ thực hiện được non nửa. Từ tháng 3 năm 1400, sau khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền, Quốc hiệu Đại Việt của dân tộc Việt đã được đổi thành Đại Ngu. Quốc hiệu này bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn – một vị vua của Trung Hoa cổ đại nổi tiếng vì đã đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho dân chúng. Chữ “Ngu” trong quốc hiệu “Đại Ngu” của nhà Hồ có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình". “Đại Ngu” có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn. Lịch sử đã ghi nhận những nỗ lực to lớn của nhà Hồ để hiện thực hóa mong muốn này. Đó là những cải cách sâu sắc do Hồ Quý Ly thực hiện từ cuối thời Trần nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi và đổi quốc hiệu thành Đại Ngu, những cuộc cải cách này càng được đẩy mạnh và đem lại nhiều đổi thay cho đất nước. Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách thiết chế chính trị xã hội và hệ tư tưởng phong kiến với các biện pháp cụ thể như: Phát triển đội ngũ quan lại phong kiến quan liêu thay thế dần phong kiến quý tộc, giảm thiểu việc phát triển chùa chiền, không biệt đãi và đưa nhiều tôn thất họ Hồ vào bộ máy nhà nước nhằm đề cao tác dụng và trách nhiệm của hệ thống phong kiến quan liêu. Trên bình diện kinh tế - xã hội, Hồ Quý Ly đã đưa ra nhiều biệp pháp cải tổ như thực hiện phép “Hạn điền" nhằm hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý tộc phong kiến, phép “Hạn nô” để hạn chế số lượng gia nô mà giới phong kiến quý tộc được sở hữu, bổ sung số gia nô dư thừa vào việc củng cố quân đội và chế độ phong kiến quan liêu. Dưới triều Hồ, tiền giấy đã được đưa vào sử dụng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Về văn hóa, giáo dục, Hồ Quý Lý khuyến khích việc sử dụng chữ Nôm, đề cao lối học thực dụng, phê phán những người chỉ biết tầm chương trích cú, học rộng nhưng viển vông. Việc thi cử cũng được cải tiến nhằm kém chọn nhiều người tài hơn. Thành nhà Hồ. Mặc dù còn nhiều điểm chưa triệt để, song, các cải cách của Hồ Quý Ly đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc trong giai đoạn nhà Hồ trị vì. Dưới quốc hiệu Đại Ngu, người Việt cũng được chứng kiến những thành tựu to lớn về khoa học - kỹ thuật như việc phát minh ra súng thần cơ, thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng), những hệ thống thủy lợi quy củ, các công trình kiến trúc hoành tráng… Thành nhà Hồ là một di sản quý giá mà Hồ Quý Ly để lại cho người Việt ngày nay. Công trình độc đáo này đã thể hiện bước phát triển mới trong phong cách kiến trúc và kỹ thuật xây dựng. Việc sử dụng kỹ thuật xây dựng bằng những khối đá lớn là thành tựu chưa từng có ở Việt Nam, chứng minh quyết tâm của nhà Hồ trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy vậy, hào quang Đại Ngu đã vụt tắt chỉ sau 7 năm ngắn ngủi. Trước cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ đã sụp đổ vào tháng 4/1407. Sự tồn tại của quốc hiệu Đại Ngu cũng vĩnh viễn chấm dứt từ thời điểm đó. Có thể nói, dưới triệu đại Hồ, ý nghĩa của quốc hiệu Đại Ngu - sự bình yên lớn - mới chỉ thực hiện được non nửa. Trên một phương diện nhất định, Nhà Hồ đã đem lại sự bình yên cho đất nước về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Nhưng họ đã thất bại trong việc đem lại sự bình yên trong lòng dân. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự đổ vỡ của triều đại này. Những bí ẩn chưa lời giải về thành nhà HồThời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị mất đầu và ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao…là những bí ẩn chưa lời giải của thành nhà Hồ. Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Thành được Hồ Quý Ly cho xây vào mùa xuân năm 1397, còn gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội). Nơi đây từng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa vào cuối triều Trần và kinh đô của nước Đại Ngu trong khoảng 7 năm, từ 1400 đến 1407. Sử cũ chép, vào năm 1397, đất nước đứng trước nạn xâm lăng của nhà Minh, Hồ Quý Ly đã lệnh cho quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tĩnh đến thị sát vùng đất Thanh Hoá để xây dựng thành trì, chuẩn bị cho việc định đô. Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay thuộc xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng người trong thiên hạ xa lánh, đoạn tuyệt với nhà Trần. Cổng Nam thành nhà Hồ, đây là cổng chính, lớn nhất dẫn vào Hoàng thành. Ảnh: Lê Hoàng. Vùng đất được chọn có địa thế hiểm yếu, có đường đi từ Bắc vào Nam và sang Lào. Xung quanh được án ngữ bởi nhiều ngọn núi cao, hai mặt nam, bắc có sông Mã và sông Bưởi chảy qua. Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. Trong đó, công trình đồ sộ nhất và còn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay là Hoàng thành. Toàn bộ mặt ngoài tường thành và bốn cổng chính được xây bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới hơn 6 m, ước nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu. Theo sử sách ghi lại trong thành có nhiều công trình như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, trải qua hơn 6 thế kỷ tồn tại với rất nhiều tác động của thiên nhiên và con người, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá, kiến trúc của Thành nhà Hồ rất khoa học, với các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Điều đặc biệt là công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà quá trình xây dựng chỉ vỏn vẹn ba tháng (từ tháng 1/1397 đến tháng 3/1397). Thời ấy chưa có công nghệ vận chuyển hay ghép đá gắn xi măng, vậy làm sao để những bức tường thành được xếp vuông vắn, thẳng đứng và tồn tại đến ngày nay? Điều gì đã giúp người thợ xưa với công cụ thô sơ lại có thể vận chuyển và xây nên tường thành bằng những phiến đá khổng lồ? Câu trả lời được hé lộ phần nào khi người ta tìm thấy hàng trăm viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây) trong nhiều lần khai quật khảo cổ. Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí xây thành hàng chục km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến đá lên cao để xây thành. Ngoài kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá mất đầu cũng là câu hỏi hiện chưa có lời giải thỏa đáng. Nằm ở trung tâm tòa thành, hai con rồng mất đầu nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Nhà Hồ thất thủ, đôi rồng đá mất tích bí ẩn. Năm 1938, tượng rồng đầu tiên được một nông dân phát hiện khi đang cày ruộng trong thành. Cho rằng đã là tượng rồng ở cung vua thì nhất thiết phải có cặp nên các chức dịch trong làng đã cho đào bới khắp vùng mới tìm được tượng rồng đá thứ hai. Đôi rồng đá bị mất đầu hiện được đặt ở trung tâm tòa thành. Hai con rồng nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Ảnh: Lê Hoàng. Cặp rồng được chạm khắc rất tỉ mỉ. Thân rồng thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Rồng có bốn chân, mỗi chân ba móng với các túm lông lượn mềm mại. Đầu rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn phần bờm dài lượn chín nếp. Các khoảng trống dưới bụng và ô tam giác ghép thành bậc đều được chạm hoa cúc và móc hoa lượn mềm. Theo nhiều nhà nghiên cứu điêu khắc, đôi rồng này là loại được chạm khắc trên thềm bậc của các cung điện như hiện thấy ở điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa). Ai đã chặt đầu rồng, câu hỏi này có nhiều lý giải. Người cho rằng sau khi xâm lược, quân Minh đã chặt đầu rồng, biểu tượng quyền lực của nhà Hồ để thể hiện sự diệt vong của vương triều này. Lại có người cho rằng việc này là do những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ gây ra. Lại có ý kiến rằng thời kỳ mới chiếm đóng Việt Nam, người Pháp bắt dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa trên con đường dẫn tới đôi rồng đá. Người dân bức xúc nên chặt đầu rồng? Còn một cách lý giải lưu truyền trong dân gian rằng có thời kỳ làng Xuân Giai (nằm ở cổng Nam, thuộc xã Vĩnh Tiến) thường xuyên bị cháy nhà. Người dân cho rằng do rồng quay đầu về làng phun lửa gây cháy nên đã chặt đầu rồng. Người dân xứ Thanh còn truyền tai câu chuyện nhuốm màu giang hồ như sau. Nghe đồn trong mắt rồng ở cung cấm thường được vua chúa cho yểm rất nhiều vàng ngọc châu báu, một đêm lợi dụng lúc trời đổ mưa như trút nước, trong thành hoang vắng không bóng người qua lại, hàng chục đạo tặc bí mật chặt đầu đôi rồng mang đi xa đập nát để tìm ngọc quý. Cũng chẳng ai nhớ đó là năm nào. Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Hội sử học Thanh Hoá) đánh giá đôi rồng đá ở thành Tây Đô thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất hiện còn lại ở Việt Nam. Đôi rồng thể hiện nghệ thuật chạm khắc thời Trần lúc hưng thịnh với đặc điểm khỏe khoắn, đầy đặn. “Sử cũ không ghi chép cũng không ai biết đôi rồng đá bị mất đầu từ bao giờ, nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận”, tiến sĩ Đấu nói. Xung quanh ngôi thành đá hơn 600 năm tuổi vẫn còn vô số bí ẩn đang chờ giải mã. Mới đây nhất, trong quá trình tôn tạo, phục dựng di tích đàn tế Nam Giao thuộc di sản thành Nhà Hồ, các nhà khảo cổ đã phát hiện ngôi mộ táng khổng lồ, bên trong có bộ xương còn tương đối nguyên vẹn. Mới đây, các nhà khảo cổ còn phát hiện một ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao, bên trong là bộ cốt trâu còn nguyên vẹn. Ảnh: Lê Hoàng. Bộ xương ở tư thế nằm ngửa, được đặt trong bia mộ quây bằng đá. Vị trí của ngôi mộ đá này nằm dưới lòng bức tường bao vòng ngoài của đàn tế Nam Giao, sát chân núi Đốn Sơn. Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ nhận định, đây là bộ xương trâu. Nhưng vì sao lại mai táng trâu ở vị trí trang trọng là đàn tế, nơi được coi là chốn linh thiêng, thì vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ. Tiến sĩ Đỗ Quang Trọng, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ, cho rằng đối với người phương Đông, quan niệm “tam sinh” (ba vật dùng trong lễ tế thần gồm trâu, dê, ngựa) đã trở thành luật bất thành văn và ăn sâu trong lòng người Việt. Rất có thể trước khi khởi dựng đàn tế, Hồ Quý Ly đã cho cúng trâu để tế thần linh. Mặt khác, xứ Thanh thuộc hạ lưu sông Mã, là vùng canh tác lúa nước màu mỡ phì nhiêu hàng nghìn năm nay, nên con trâu luôn được đánh giá cao. Hồ Quý Ly cho cúng tế thần linh bằng trâu với mong muốn dân được no đủ, mùa vụ bội thu. Hiện ngôi mộ đá táng trâu vẫn nằm nguyên vị trí cũ. Theo kế hoạch tới đây số cốt xương của con trâu được tế lễ hơn 600 năm về trước sẽ được khai quật toàn bộ. Mô hình mộ đá sẽ được dựng lại để đảm bảo thống nhất toàn vẹn của di tích đàn tế trong quần thể di sản Thành nhà Hồ. Thành nhà Hồ nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Trải qua hơn 600 năm tồn tại, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Những dấu tích nền móng của cung điện xưa giờ vẫn đang nằm ẩn mình phía dưới những ruộng lúa của người dân quanh vùng. Ngày 27/6/2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris (Pháp), thành nhà Hồ đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
|
|