|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 8:55:08 GMT 9
Hồi Ký - Yểm Trợ Trận Chiến Hoàng Sa Nguyễn Văn Sáng
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 17 tháng 4 năm 1974, chiến hạm Vĩnh Long HQ-802 (LST) của chúng tôi bỗng sôi động hẳn lên với lệnh rời vùng trách nhiệm Trường Sa để tiến về quần đảo Hoàng Sa. Có tin đồn Trung Cộng sắp tấn công tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, và Hải Ðội III Ðặc Nhiệm trực thuộc Hạm Ðội chuẩn bị nghênh chiến. Chiến hạm chúng tôi được điều động đi yểm trợ tiếp vận vì đã được thực tập trong lực lượng đặc nhiệm Hải Ðội III năm 1973, vừa là 1 tàu với nhiều máy móc kỹ thuật. Phản ảnh sự sôi động của tình hình bây giờ, người ta còn nghe mọi thủy thủ trên tàu trong câu chuyện thường nhật lại nói chêm thêm dăm ba câu tiếng tàu vào các câu đùa cợt trong suốt hải trình ra vùng Hoàng Sa. Ðời quân đội là thế, thằm chút khôi hài trong cái cực nhọc để tìm chút vui tươi. Cá nhân tôi, vừa được đi du tập qua các quốc gia Á Châu trong vùng trách nhiệm của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ về lại Hạm Ðội VN, nhận thấy quá rõ ràng thái độ mới của chính trường Hoa Kỳ và sự bấp bênh của chính quyền Nixon, lòng tôi âu lo về sự xuất hiện của loài cá mập này càng làm gia tăng gánh nặng cho HQVN. Như vậy, thật bất ngờ, trận hải chiến Hoàng Sa sắp thành sự thật. Nhiệm vụ của Hải Ðội đặc nhiệm được thành lập từ năm 1973 nhằm đối phó với vấn đề đặt quân trú phòng trên lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa, song song với việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên dầu hỏa thuộc về chủ quyền VN. Hải Ðội đặc nhiệm được chỉ huy bởi HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc (Khóa 5), cũng là Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội 3 (Hải Ðội Tuần Dương), thuộc BTL Hạm Ðội. Thành phần của Hải Ðội đặc nhiệm cùng thao dượt mùa hè 1973 gồm có: CXH HQ-802 (Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công) là soái hạm, CXH HQ-801 (có chở theo các Sinh Viên Sĩ Quan thuộc Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang), Khu Trục Hạm HQ-4 (DER) và 3 Tuần Dương Hạm (WHEC). Ngoài ra còn được tăng phái 1 số hạm trưởng thâm niên để thực tập các công tác tiếp vận quy mô ngoài khơi.
Trước đó khoảng 3 tháng, bỗng dưng Bắc Kinh lên tiếng tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa. Ngoại trưởng VNCH ông Vũ Văn Bắc liền lên tiếng bác bỏ và cực lực lên án ý đồ xâm lăng này của Trung Cộng. Ngày 16-1-1974 Trung Cộng mang 2 chiến hạm số 402 và 407 cùng nhiều ngư thuyền vũ trang đổ bộ lên đảo Cam Tuyền, một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Khu Trục Hạm HQ-4 đến Hoàng Sa gây áp lực buộc lức lượng Trung Cộng rút khỏi 2 đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Tuy nhiên, chiến hạm của Trung Cộng vẫn lảng vảng trong vùng. Chiều lại, tin báo cáo cho biết có thêm 2 chiến hạm săn tàu ngầm loại Kronstad của Trung Cộng được tăng cường. Nhận thấy tình hình nghiêm trọng, Bộ Tư Lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng và Vĩnh Lạc. Ðồng thời, tăng cường thêm Tuần Duyên Hạm HQ-5 (Cruiser) và Hộ Tống Hạm HQ-10 (Escort) vào vùng chiến cùng với Khu Trục Hạm HQ-4 (Destroyer) và Tuần Duyên Hạm HQ-16 (Cruiser). Tăng cường thêm có Toán Hải Kích SEAL điều động bởi HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Khóa 20), và toán Biệt Hải điều động bởi HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Khóa 20), 1 Trung Ðội Ðịa Phương Quân đang trú phòng tại đảo chính, đảo Hoàng Sa, và 1 phái đoàn công binh của Quân Ðoàn 1 (do Thiếu Tá Hồng chỉ huy) tăng viện để xây cất một phi đạo trên đảo Hoàng Sa. Lực lượng HQ Trung Cộng có 11 chiến hạm và ghe thuyền (gồm các tàu Khinh Tốc Ðỉnh Komar với hỏa tiễn hải-hải, Vớt Mìn, Trục Lôi Hạm và Hộ Tống Hạm), tổng số binh sĩ Trung Cộng hiện diện không rõ.
Chiến hạm chúng tôi, HQ-802, hai máy tiến full vận chuyển với tốc độ nhanh đến vùng 1 Duyên Hải ngày 18-1-1974 để nhận lệnh. Trên đường đi Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công ra lệnh hạm phó, Thiếu Tá Thái, chỉ huy bắn thử các trọng pháo để thao dượt tác xạ. Mỗi phát đại bác bắn đi, tàu chúng tôi rung chuyển khắp thân của khối sắt nỗi, hầu hết thủy thủ đoàn đều lên boong tàu lúc thao dượt tác xạ. Chúng tôi chỉ biết HQ-5 đã tiến ra Hoàng Sa với toán SEAL, HQ-4 mang theo toán Biệt Hải, và HQ-16 đang có mặt ngoài khơi Hoàng Sa. Dĩ nhiên là mọi thủy thủ đều quan tâm đến những diễn tiến đầy kinh ngạc này. Ðang bận đương đầu với chiến cuộc với CSVN mà HQVN tham dự bằng yểm trợ hỏa pháo từ mặt biển, nay nghe tin HQ Trung Cộng sử dụng chiến hạm với tốc độ nhanh trang bị hỏa tiễn vượt trội hơn hỏa lực HQVN, ai cũng lo ngại về sự bất cân bằng của trận hải chiến. Trước đó khoảng 1 năm, CXH Vĩnh Long HQ-802 được lệnh đi thao dượt tập đội tại ngoài khơi Trường Sa, theo các tin tức là 2 quần đảo Trường và Hoàng Sa có thể có các mỏ dầu quan trọng. Từ đó chúng tôi rời đất liền với những công tác dài hạn kéo dài vài ba tháng lênh đênh chỉ thấy những nước và sóng biển, thèm khát mặt đất, cây cối, nhà cửa và những tà áo dài. Hải đảo Trường Sa buổi chiều các hải âu bay về hòn đảo nhỏ với số lượng đông đảo làm đen cả bầu trời và tiếng kêu chíu chít nhộn nhịp của bầy chim có thể nói kinh khủng như phim “Birds” của vua kinh dị Hitchkok. Ai muốn bắt bao nhiêu chim và lấy bao nhiêu trứng chim hải âu này đều được cả. Chỉ cần lấy xoong, giỏ ra mà xúc bắt vì chúng nhiều vô số. Các sinh vật dưới biển nhiều con thật lạ lùng, các anh Ðịa Phương Quân ăn phải cá biển độc bị sưng phù và nhiễm bệnh nhiều đến nỗi chúng tôi phải chở thêm y sĩ ra trị bệnh. Có buổi chiều tàu bỏ neo, tôi đứng gần anh hạ sĩ Ðương đang thả mồi câu cá. Mồi nhấp nhấp rung dưới nước, hạ sĩ Ðương giật lên 1 con cá khá lớn. Anh vừa kéo cá lên khỏi mặt nước khoảng 1 mét, bỗng từ dưới nước nổi lên 1 con cá mập phóng ngang qua táp mất con cá của hạ sĩ Ðương, cắn đứt luôn cả dây câu, và biến vào lòng biển. Mọi người chúng tôi đều nhìn nhau kêu “Ồ” một tiếng. Từ hôm ấy, chúng tôi không rủ nhau nhảy xuống biển vùng ấy để bơi lội khi trời nóng bức, điều mà chúng tôi vẫn thường làm mấy hôm trước. Cả hai vùng biển Trường và Hoàng Sa đều nổi tiếng là có nhiều đá ngầm tức là các đỉnh núi của những núi chìm với chân núi sâu một hai ngàn thước, ví như các bãi chông dễ thọc lũng các tàu bè. Các tàu khi mắc đá ngầm bị bể nát cả thân, chỉ nỗi lềnh bềnh phần trên trở thành xác khô phơi thân cùng sương gió. Ngày còn phục vụ trên HQ-800 tàu chúng tôi cũng đã trợ giúp kéo tàu Trường Xuân của Vishipcoline khi tàu này bị mắc cạn ở Trường Sa. Có trải qua cái khổ tâm đó thì mới hiểu cái kinh dị của hai vùng biển này.
Sáng sớm ngày 19-1-74, trong khi tàu chúng tôi được lệnh bỏ neo ngoài khơi, quá Ðà Nẵng ngang hòn Tri Tôn, Hạm trưởng Công ra lệnh 2 toán đặc biệt trang bị vũ khí và áo phao có cả 2 binh sĩ người nhái trực thuộc HQ-802 hạ xuồng chuẩn bị ứng chiến. Tuy nhiên, lệnh từ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 vẫn giữ chúng tôi trong tình trạng chờ để yểm trợ. Cùng lúc ấy, tại quần đảo Hoàng Sa, toán Hải Kích SEAL (Người Nhái) của HQVN được lênh đổ quân lên đảo Quang Hòa do Trung Cộng chiếm cứ. Quân Trung Cộng nổ súng khiến cho 2 người nhái VN chết (Hạ Sĩ Long “sandwich”, và HQ Trung Úy Ðơn). Toán Hải Kích rút về chiến hạm HQ-5 lúc 9:30 sáng. Trận hải chiến ngay sau đó bắt đầu lúc 10:00 sáng. Tôi được biết chiến hạm 2 phía dàn hình đối mặt, HQ Việt Nam ở vòng ngoài tiến về hướng Ðông Nam vào, Trung Cộng vây quanh đảo Quang Hòa, hướng về phía Ðông Bắc nghênh chiến. Sĩ quan chỉ huy chiến thuật (HQ Ðại Tá Ngạc) ra lịnh khai hỏa, tác xạ trực tiếp vào tàu địch. HQ Trung Cộng phản công. Trận hải chiến diễn ra với tổn thất hai bên như sau:
- VNCH: HQ-10 bị chìm tại trận. HQ-16 bị hư hại nặng, (phòng máy bị trúng đạn nhưng còn hải hành được). HQ-5 và HQ-4 bị hư hại nhẹ. Gần 50 binh sĩ bị tử thương, kể cả hạm trưởng HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà của HQ-10 cùng chết theo tàu.
- Trung Cộng: Chiếc Kronstad 271 (soái hạm ) bị chìm. Ba chiến hạm tham chiến còn lại bi hư hại nặng và trung bình. Con số tử vong và bị thương không rõ.
Chúng tôi nóng lòng theo dõi các diễn tiến của trận hải chiến và rất đau lòng trước cái chết của một số đàn anh và các chiến hữu mà chúng tôi đã gặp từ Hải Ðội 3 Duyên Phòng (Vũng Tàu). . . Một lần nữa cái đau xót xưa lại trở về, kẻ thù Phương Bắc lại dày xéo mãnh giang sơn mà cha ông chúng ta đã lập nên. Sau trận Hoàng Sa, Trung Cộng lập tức huy động một lực lượng hùng hậu kết hợp Hải-Lục-Không Quân với gồm cả 42 chiến hạm và 2 tiềm thủy đĩnh tấn công đổ bộ bao vây tấn chiếm đảo chánh Hoàng Sa và các đảo kế cận, bắt giữ tất cả binh sĩ VN trên các đảo giải về Trung Cộng.
Sáng ngày 20-1-74, hai chiến hạm HQ-4 và HQ-5 về lại Ðà Nẵng cập bến an toàn gặp lại HQ-16 đã về đó trước, tất cả các chiến hạm đều bị trúng đạn. Chiến hạm chúng tôi sau đó được lệnh trở về Vũng Tàu. Sau này khi tàu về đến Vũng Tàu, tôi thấp thỏm mong tin về các bạn SQ cùng khóa tham dự trong trận đánh đó là HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Người Nhái) và nhất là HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Biệt Hải) bị HQ Trung Cộng tiến chiếm đảo Hoàng Sa bắt mang về Trung Cộng, cùng với các Ðịa Phương Quân và toán Công Binh. Khi thoáng thấy HQ-471 do HQ Ð/Úy Hoàng Thế Dân (Khóa 20) làm Hạm Phó lù lù xuất hiện về lại cửa biển Vũng Tàu từ vùng chiến Hoàng Sa, chúng tôi đã lên máy truyền tin và vì quá mong đợi tin an nguy lẫn nhau đã liên lạc trực tiếp bằng bạch văn về tin tức của trận hải chiến, bất chấp các lệnh mã hóa truyền tin.
Trong hải sử cận đại mà các cuộc hải chiến xảy ra rất hiếm hoi, biến cố Hoàng Sa là trận hải chiến đã hâm nóng lại mối thù sâu xa với kẻ thù Phương Bắc, mà liên tục qua nhiều thế kỷ đã tìm cách xâm chiếm và xâm phạm chủ quyền nước Việt Nam, như một anh láng giềng ngoan cố tệ hại nhất. Trận hải chiến Hoàng Sa đã để lại tâm khảm tôi một số ưu tư dằn vặt mà qua thời gian tôi vẫn không thể nào khuây. Chúng ta không thể nào quên được ý đồ xâm chiếm của kẻ thù Phương Bắc. Kém may mắn thay, đi kèm với hành động xâm lăng ấy là một thái độ trở cờ của chính trường HK, hậu quả của lỗi lầm về chánh trị của Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate. Nước VN đã bị cô lập và bị từ khước các chọn lựa bằng giải pháp ngoại giao, để rồi phải chọn hình thức hi sinh, chiến đấu trong vô vọng, liều chết để bảo tồn danh dự trước kẻ thù mạnh hơn mình về quân sự. Tuy nhiên có lẽ niềm đau day dứt nhất vẫn là cái chết đáng thương của các chiến sĩ Hải Kích kiêu hùng mà quân chủng Hải Quân đã phải tốn bao nhiêu công sức để đào tạo. Họ được lệnh đổ bộ lên đảo trước các mũi súng địch đang gờm chờ sẵn trong hàng phòng thủ, mà không hề được hải pháo dọn bãi yểm trợ. Rồi nghĩ lại hoàn cảnh HQ-10 trong tình trạng bán khiển dụng (tàu có 2 máy chánh nhưng một đã bị hư), mà vẫn được lệnh tham chiến để rồi bị trúng đạn chìm vào lòng biển cả. Người lính VN đã phải trực diện với bao phi lý của thời cuộc như thế chỉ để nối tiếp các thế hệ đàn anh viết lên những trang sử đỏ thẳm bằng máu của chính họ. Xin đốt một nén hương lòng cho các anh hùng Hoàng Sa và mượn lời thơ của Nguyệt Trinh để ghi khắc công trạng ấy và cầu mong cái chết của họ không trở thành vô nghĩa:
Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa Vành khăn tang trắng đầu con trẻ Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha
Nguyễn Văn Sáng
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 4:37:50 GMT 9
Hai chiến dịch truyền thông theo sử Trung Quốc và theo công pháp quốc tếLs. Nguyễn HữuThốngI TRỊNH HOÀ CHIẾM HOÀNG SA TRƯỜNG SA NĂM 1413 VÀ KHÁM PHÁ MỸ CHÂU NĂM 1421? Mới đây, các học giả trong Viện Nghiên Cứu Chính Sách Hoa Kỳ đã phê phán chính sách bá quyền của Trung Quốc là Chính Sách Phát Xít Cổ Điển. Thay vì thực thi chế độ đa nguyên, đa đảng theo sự mong đợi của mọi người, Trung Quốc càng ngày càng trở nên giáo điều và bảo thủ. Cũng như tại Ý 50 năm sau khi Phát Xít sụp đổ, nước Ý vẫn theo chế độ độc tài và đàn áp đối lập. Để biện minh cho chế độ họ đề cao Dân Tộc Ý Vĩ Đại thời Đế Quốc La Mã 2000 năm về trước. Ngày nay, bắt chước Đế Quốc La Mã, Trung Quốc cũng đề cao “Dân Tộc Hán Vĩ Đại” để giữ độc quyền lãnh đạo. Với “tứ hiện đại hoá” Trung Quốc ra sức bành trướng về kinh tế và lãnh thổ. Họ phóng kim ngân thu nhân tâm, vận dụng truyền thông để giành cảm tình của các dân tộc trên thế giới, kỳ vọng rằng quốc tế sẽ khâm phục họ và mặc nhiên để họ thôn tính các lãnh thổ và hải đảo tại Á Châu Thái Bình Dương. Bản đồ đường qua xứ Quảng Nam đời Lê, theo Thiên Nam lộ đồ vẽ lại năm 1741 (bản sao chép của Dumoutier). “Bãi cát vàng” tức là Hoàng Sa Tiếp theo Thế Vận Hội Bắc Kinh và Hội Chợ Quốc Tế Thượng Hải, trong thời gian gần đây, Trung Quốc còn phát động hai chiến dịch phô trương, tuyên truyền rằng: 1. Năm 1421, trong Chuyến Đi Thứ Sáu (1421-1422) của Chiến Dịch Thất Hạ Tây Dương, Trịnh Hoà đã khám phá Mỹ Châu, trước Christopher Columbus 71 năm (năm1492). So với Vasco Da Gama là người đã khám phá Mũi Hảo Vọng và đi xuyên 3 đại dương, từ Đại Tây Dương qua Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương (năm 1498), Trịnh Hoà đã thực hiện cuộc hành trình xuyên 3 Đại Dương từ năm 1421, nghĩa là trước Vasco Da Gama 77 năm. 2. Và trước đó, trong Chuyền Đi Thứ Tư (1413-1415), Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hoà đã xâm chiếm Chiêm Thành cả trên lục địa lẫn ngoài hải phận trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là hai chiến dịch truyền thông mạo nhận thành tích để phô trương thanh thế. Dầu sao sự mạo nhận này đã bị lịch sử phủ nhận. Trịnh Hoà khám phá Mỹ châu năm 1421? Trước hết, theo chính sử Trung Quốc, cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978 đã viết như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương. Thản hoặc, trong các thế kỷ thứ ba và thứ hai Trước Công Nguyên (thời Đế Quốc Tần Hán), Trung Hoa đã gửi những đoàn thám hiểm đến Biển Nhật Bản. Và trong thế kỷ 15, Minh Thành Tổ đã gửi những phái đoàn thám hiểm Tây Dương đến Đông Nam Á, Ấn Độ và Phi Châu. Riêng tại Thái Bình Dương, không có những vụ xâm nhập quy mô của Trung Quốc”. Theo Minh Sử, dưới các đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc) và Minh Tuyên Tông (Tuyên Đức), Trịnh Hoà đã 7 lần thám hiểm Ấn Độ Dương hay Tây Dương tọa lạc về phía tây Trung Quốc. Theo cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ, trong 28 năm, từ 1405 đến 1433, phái bộ Trịnh Hoà đã viếng thăm hơn 30 quốc gia duyên hải tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Các địa điểm xa nhất là Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải về phía tây bắc, và đông Phi Châu về phía cực tây Ấn Độ Dương. Đó là những chuyến đi về ngoại giao và thương mại (tribute and trade). Những sự kiện này đã được ghi chép trong 3 loại tài liệu lịch sử: a. Cuốn Minh Sử là chính sử b. Các bia kỷ niệm và các đồ bản tuyên dương thành thích được tồn trữ tại Phúc Kiến là nơi xuất phát Chiến Dịch. c. Các cuốn sách trước tác bởi các thành viên tham gia Chiến Dịch như Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan năm 1451 (Ma Huan, Ying Yai Sheng Lan: Triumphant Vision of the Boundless Ocean); hay Tinh Tra Thắng Lãm của Phi Tín năm 1436 (Fei Xin, Hsing Cha Sheng Lan: Triumphant Vision of the Starring Raft). Ngoài ra cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi năm 1621 cũng tường thuật về 7 chuyến Thất Hạ Tây Dương trong đó Trịnh Hoà chỉ đi qua Biển Nam Hoa để khai phá Ấn Độ Dương. Thông thường mỗi cuộc hải trình kéo dài 2 năm. Trong ba chuyến đi đầu tiên (1405-1411) phái bộ Trịnh Hoà xuất phát từ Phúc Kiến, tới Phi Luật Tân, Nam Dương và Mã Lai tại Thái Bình Dương, và đến Ấn Độ Dương tại Tích Lan và Calicut về phía tây Ấn Độ. Trong các Chuyến Đi Thứ Tư (1413-1415) và Chuyến Đi Thứ Năm (1417-1419) Trịnh Hoà đã đi quá Ấn Độ tới Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải đến các địa điểm xa nhất tại đông Phi Châu về phía cực tây Ấn Độ Dương. Về Chuyến Đi Thứ Sáu (1421-1422) chiến dịch truyền thông hiện nay quảng bá rằng Trịnh Hoà đã đi xuyên qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương và đã khám phá Mỹ Châu năm 1421. Sau khi Minh Thành Tổ mất năm 1424, Trịnh Hoà không còn được trọng đãi. Dưới đời Minh Nhân Tông, Chiến Dịch bị đình chỉ. Mãi 9 năm sau, năm 1431, dưới triều Minh Tuyên Tông Trịnh Hoà mới thực hiện Chuyến Đi Sau Cùng (1431-1433). Nhưng cũng chỉ đến Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải và Đông Phi Châu, địa điểm xa nhất là Malindi phía nam đường xích đạo. Tuy nhiên, theo chính sử, Chuyến Đi Thứ Sáu của Trịnh Hoà là chuyến đi ngắn nhất chỉ kéo dài trong 7 tháng, từ tháng 2-1421 đến tháng 9-1421. Trong chuyền đi này Trịnh Hoà chỉ đi từ Phúc Kiến đến Sumatra (Nam Dương). Kể từ đó hai sĩ quan tùy viên Yang Ching và Hung Pao đã điều khiển cuộc hải trình. (Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ, trang 290-292). Hải trình lần thứ bảy của Trịnh Hoà Tổng kết lại, theo Trung Quốc Sử, trong 7 chuyến công du, Trịnh Hoà không đến Đại Tây Dương, mà chỉ đi qua Thái Bình Dương (Biển Nam Hoa) và Ấn Độ Dương mà họ gọi là Tây Dương. Và như vậy không có việc, trong thế kỷ 15, Trịnh Hoà đã đi xuyên qua 3 đại dương (Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương). Và cũng không có việc Trịnh Hoà đã đi qua 3 châu (Á, Phi và Âu) để khám phá Mỹ Châu năm 1421. Cùng với các nhà sử học Trung Quốc, các nhà khảo cứu về thám hiểm đại dương danh tiếng trên thế giới trong tập Bách Khoa Toàn Thư Anh Quốc cũng viết: “Đầu thế kỷ 15, Minh Thành Tổ phát động chính sách thổ địa và hải dương tích cực, cử Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hoà phụ trách những cuộc hải trình qui mô bành trướng ngoại giao (massive tribute–collecting voyages) tại Đông Nam Á, Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư, đến Đông Phi Châu là địa điểm xa nhất”. (Encyclopedia Britannica 1981, p. 350) Hơn nữa, trong cuốn Tân Lịch Sử Trung Quốc, Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard đã vẽ bản đồ 7 cuộc hải trình của Trịnh Hoà, xuất phát từ Phúc Kiến, ghé qua Đồ Bàn hay Trà Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành, đến Java, Sumatra (Nam Dương), Colombo (Tích Lan), Calicut (Ấn Độ), Hormuz (Vịnh Ba Tư), Jiddah (Biển Hồng Hải) về phía tây bắc, rồi đến các hải cảng Magadishu và Malindi tại Đông Phi Châu về phía cực tây Ấn Độ Dương. (John King Fairbank, China, A New History, Map 18: The Voyages of Zheng He, Harvard University Press, 1991, p. 133). Ngoài ra, theo cuốn Trung Hoa Thao Túng Đại Dương nhà văn Louise Levathes viết cho Nữu Ước Nhật Báo và là học giả thỉnh giảng tại Đại Học Nam Kinh, cũng xác nhận như sau: “Trong thời gian từ 1405-1433, đoàn bảo thuyền (treasure ships) do Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hoà chỉ huy đã thực hiện 7 cuộc hành trình vượt qua các Biển Trung Hoa và Ấn Độ Dương, đến Đài Loan về phía đông, rồi đến Vịnh Ba Tư và bờ biển Đông Phi Châu về phía tây. Trong những cuộc tiếp xúc với các thương gia Ả Rập, người Trung Hoa cũng có nghe nói về Âu Châu. Tuy nhiên họ đã không đến miền “cực tây” đó, vì Âu Châu chỉ sản xuất len dạ và rượu vang là những sản phẩm không được thị trường Trung Quốc ưa chuộng”. (Louise Levathes: When China Ruled the Seas. Simon & Schuster, New York, 1994, p. 20) Như vậy, theo các sử liệu Trung Quốc và thế giới, Trịnh Hoà không lai vãng đến Đại Tây Dương và cũng không khám phá Mỹ Châu năm 1421. Đây chỉ là một chiến dịch tuyên truyền dối trá, bịa đặt thành tích để phô trương thanh thế và bóp méo sự thật. Tuyên truyền dối trá là võ khí chiến lược số một của cộng sản. Trung thành với sách lược này, ngày nay Bắc Kinh còn dựng đứng câu chuyện Trịnh Hoà đã chiếm Chiêm Thành cả trên lục địa lẫn ngoài hải phận với Hoàng Sa-Trường Sa từ thế kỷ 15. Trịnh Hoà chiếm Hoàng Sa & Trường Sa năm 1413? Sau khi đảo chánh cướp ngôi của cháu ruột là Minh Huệ Đế (1398-1402), để làm lạc hướng dư luận, về mặt quốc tế, năm 1405, Minh Thành Tổ phát động chiến dịch Thất Hạ Tây Dương. Về mặt quốc nội, huy động hàng trăm học giả Trung Quốc soạn thảo và phổ biến cuốn Vĩnh Lạc Đại Toàn để đề cao cá nhân kẻ soán đoạt là Chu Đệ hay Yên Vương nay là Minh Thành Tổ hiệu Vĩnh Lạc. Điều mỉa mai là, viện cớ khôi phục nhà Trần, Minh Thành Tổ, một kẻ soán đoạt, đã đem quân trừng phạt Hồ Quý Ly là một kẻ soán đoạt khác. Trương Phụ, Mộc Thạnh truyền hịch loan báo quân Tầu chỉ sang Việt Nam để tái lập ngôi vua nhà Trần, một triều đại vinh quang được toàn dân kính mến sau 3 trận đại thắng quân Mông Cổ. Với chiêu bài “cứu dân phạt tội” nhằm thu phục nhân tâm, quân nhà Minh đánh đâu được đó, quân nhà Hồ phần giã ngũ, phần qui hàng. Chủ yếu Minh Thành Tổ đã lợi dụng thời cơ để đem quân thôn tính Đại Việt trong suốt 20 năm (từ 1407 đến 1427). Cũng như hồi đầu thế kỷ thứ hai, năm 111 Trước Công Nguyên, Hán Vũ Đế đã xâm chiếm nước Nam Việt do Triệu Vũ Đế thiết lập từ đầu thế kỷ thứ 3 Trước Công Nguyên (năm 207). Về Chiến Dịch Thất Hạ Tây Dương, trong Chuyến Đi Thứ Nhất (1405-1407), với một hạm đội hùng mạnh trên 27 ngàn sĩ tốt và hơn 300 chiếc tàu, trong đó có 62 bảo thuyền lớn (large treasure ships), Trịnh Hoà đã không đổ bộ tại Việt Nam, chỉ ghé bến Đồ Bàn hay Trà Bàn (Chaban) trong cuộc hải trình đến Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, Tích Lan và Ấn Độ (Calicut). Lúc này, nếu có kế hoạch thôn tính Chiêm Thành, Minh Thành Tổ chỉ cần điều động hạm đội hùng mạnh của Trịnh Hoà trong Chuyến Đi Thứ Nhất, chứ không cần phải đợi đến Chuyến Đi Thứ Tư (năm 1413) mới dùng thủ đoạn đồng minh giả hiệu để xâm chiếm Chiêm Thành cả trên lục địa lẫn ngoài hải phận. Vả lại, theo chính sử, về Chuyến Đi Thứ Tư (1413- 1415), Minh Sử chỉ ghi Trịnh Hoà đã đến Ấn Độ, Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải và Đông Phi Châu, chứ không ghi việc Trịnh Hoà đã chiếm Hoàng Sa Trường Sa. Đặc biệt Trịnh Hoà đã ra huấn thị: “phải tránh xa các vùng đá ngầm và các đảo nguy hiểm tại Biển Nam Hoa”. Trong nhiều chuyến đi sau này, nhiều bảo thuyền đã bị mất tích vì bão tố. (The fleet headed across the South China Sea toward Champa. Special care was taken to avoid the hazardous reefs and islands in the South China Sea. On later voyages some of the treasure ships were lost there in storms. Cf: Louise Levathes: When China Ruled the Seas, p. 93). Điều đáng lưu ý là, lập trường hiện nay của Chính Phủ Bắc Kinh cho rằng Trịnh Hoà đã chiếm Chiêm Thành và vùng hải phận Hoàng Sa Trường Sa dưới đời Nhà Minh (thế kỷ 15) hoàn toàn mâu thuẫn với lập trường của chính họ năm 1951 trong Bản Chú Giải về Đảo Nam Uy và Quần Đảo Tây Sa ngày 1-9-1951, theo đó Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa Trường Sa từ đời Nhà Tống (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13) (Notes on the Nanwei and Sisha Islands of 9-1-1951: People’s China Foreign Language Press)! Tuy nhiên, 5 năm sau, khi Phi Luật Tân đòi chủ quyền các hải đảo tại Trường Sa, ngày 29-5-1956 Trung Quốc đã lên tiếng phản kháng và chủ trương rằng các hải đảo này đã thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc từ đời Nhà Minh (thế kỷ 15). Dầu sao, trong cả hai trường hợp, đây chỉ là những quyết đoán hồ đồ hay những khẩu thuyết vô bằng. Vì nếu Bắc Kinh dám tuyên bố Trịnh Hoà đã khám phá Mỹ Châu năm 1421, thì họ cũng không ngần ngại bịa đặt rằng Trịnh Hoà đã thôn tính Chiêm Thành và các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa năm 1413. Kết luận: Về hai chiến dịch truyền thông cho rằng Trịnh Hoà đã khám phá Mỹ Châu năm 1421, và đã chiếm hữu Hoàng Sa Trường Sa năm 1413, chúng ta chỉ có thể kết luận: Phải là người Đại Hán có đảm lược (to gan lớn mật) mới dám lấy những chuyện hoang đường võng tưởng làm sự thật lịch sử.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 4:39:37 GMT 9
II VỀ CHIẾN DỊCH TRUYỀN THÔNG THEO CÔNG PHÁP QUỐC TẾ Theo lập trường cố hữu, Trung Quốc không bao giờ dám đưa vụ tranh chấp hải phận và hải đảo tại Biển Đông Nam Á ra trước Toà Án Quốc Tế, Toà Án Luật Biển hay trước các Ủy Ban Trọng Tài và Điều Giải Liên Hiệp Quốc. Rập theo Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ thứ nhất gọi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử Của Chúng Tôi (mare nostrum), cho đến thế kỷ 21, Trung Quốc cũng gọi Biển Đông Nam Á (dưới danh xưng Biển Nam Hoa) là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc. Theo quan niệm của Đế Quốc Ngai Rồng (Dragon Throne Imperialism) đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”. Sách lược thôn tính Biển Đông của Trung Quốc gồm 3 giai đoạn: Hán hoá đảo danh; hán hoá hải đảo và hán hoá Biển Đông. Kế hoạch hán hoá đảo danh được phát động năm 1947 do Sắc Lệnh ngày 1-12-1947 của Chính Phủ Trùng Khánh công bố cải danh cho 102 hải đảo tại Biển Đông với những danh xưng hán hoá như Tây Sa, Nam Sa, Vĩnh Lạc, Tuyên Đức, Cam Tuyền, Thái Bình, Nam Uy v. v. Bản đồ Việt Nam năm 1754 Tháng 4-1956, thừa dịp quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Hải Quân Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc (Amphitrite Group). Đó là vùng biển Thất Châu Dương của Việt Nam gồm 7 đảo: Phú Lâm, Lincoln, Đảo Cây, Đảo Hòn Đá, Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam. Tháng 1-1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent Group) phía tây nam với các đảo Hoàng Sa, Quang Hoà, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng và Tri Tôn. Về vụ này, ngày 20-1-1974 Việt Nam Cộng Hoà đã đệ đơn khiếu tố Trung Quốc trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên nội vụ không được thụ lý vì không hội đủ túc số. Trong dịp này Hội Đồng Bảo An chính thức gửi văn thư yêu cầu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cho biết ý kiến về chủ quyền lãnh thổ tại quần đảo Hoàng Sa. Nhưng từ đó đến nay Liên Hiệp Quốc vẫn không nhận được văn thư phúc đáp của Chính Phủ Hà Nội. Bất khả hay khả tranh nghị? Mới đây, với thủ đoạn ném đá giấu tay, Trung Quốc lại tung chiến dịch thăm dò dư luận bằng cách viện dẫn Công Pháp Quốc Tế nhằm hán hoá một số hải đảo tại Hoàng Sa. Trong chiến dịch này họ lý sự rằng trong Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển 1982 có điều khoản quy định sự thủ đắc chủ quyền các hải đảo do tiêu diệt thời hiệu: “Nước nào chiếm hữu các hải đảo quá 50 năm mà không gặp phản kháng, khiếu nại hay khiếu tố thì được hợp thức hoá chủ quyền”. Đó là Chiến Dịch Truyền Thông Theo Công Pháp Quốc Tế. Với chính sách gậm nhắm, từ hải đảo này sang hải đảo khác; từ hải phận miền Bắc xuống hải phận miền Nam. Với lý sự và “tranh nghị” này, chiếu nguyên tắc thủ đắc chủ quyền theo tiêu diệt thời hiệu, Trung Quốc chủ trương họ đã thủ đắc chủ quyền một số hải đảo Hoàng Sa do sự hưởng dụng hải đảo trong vòng ôn hoà và không gián đoạn trong một thời gian luật định là 50 năm. Sau thời gian này, do sự tiêu diệt thời hiệu, không ai có quyền đòi lại quyền sở hữu bất động sản (ở đây là các hải đảo) đã được Trung Quốc thủ đắc chủ quyền (Prescription Acquisitive or Statute of Limitation: The transfer of rights in real property by enjoying it peacefully without interruption, over a long period of time, after which a person is prevented by the statute of limitation from recovering the real property or an interest therein. Cf: Wesley Gilmer Jr., The Law Dictionary, revised ed., 1986). Chiếu chủ thuyết này, Bắc Kinh khẳng định rằng tại quần đảo Hoàng Sa, Nhóm An Vĩnh đã thuộc quyền chiếm hữu và hưởng dụng của Trung Quốc từ năm 1956 nghĩa là quá thời hạn tiêu diệt 50 năm. Trong thời gian này, vì không có tranh chấp hay khiếu tố về phía Việt Nam nên các hải đảo này đã vĩnh viễn thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Để làm hậu thuẫn cho lập trường của họ, Bắc Kinh nói có “một điều luật” trong Công Ước Về Luật Biển qui định như vậy. Để phản bác lý sự hay tranh nghị của Bắc Kinh chúng ta nêu lên những khước biện sau đây: Điểm thứ nhất: Bắc Kinh không nói rõ điều luật đó là điều nào. Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển ký kết năm 1982 và có hiệu lực chấp hành năm 1994. Công Ước gồm 200 trang và hơn 400 điều (320 điều về Phần Chính Yếu và 125 điều về Phần Phụ Đính). Duyệt xét toàn bộ Công Ước, trong số 445 điều, chúng ta không thấy một điều nào đề cập đến vấn đề thủ đắc chủ quyền của các quốc gia duyên hải liên quan đến các hải đảo mà họ đã chiếm cứ ôn hoà và liên tục trong thời gian 50 năm. Dầu sao Trung Quốc có thể tiếp tục tranh nghị bằng cách nêu lên Thuyết Thủ Đắc Chủ Quyền Các Đất Vô Chủ Do Chiếm Cứ. Điểm thứ hai: Chiếm cứ võ trang Theo án lệ của Toà Án Quốc Tế họp thành Luật Tục Lệ Quốc Tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ (terra nullius), sự chiếm cứ phải có đặc tính sau đây: Chiếm cứ hoà bình (peaceful occupation) nghĩa là không chiếm cứ võ trang. Trong hiện vụ, không có sự chối cãi rằng hồi tháng 4-1956 Hải Quân Trung Quốc đã dùng võ trang chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh về phía đông bắc. Và hồi tháng 1-1974, Trung Quốc lại dùng võ trang chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam. Tại Trường Sa, hồi tháng 3-1988, lần đầu tiên Hải Quân Trung Quốc tấn công võ trang, và đã chiếm Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Đá Gaven cùng một số đá chìm và bãi ngầm. Năm 1992, Trung Quốc lại dùng võ trang chiếm Bãi Vạn An (Wanan Bei) tọa lạc trong Thềm Lục Địa Việt Nam về phía đông nam Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank). Trong suốt thời gian 56 năm nay, Trung Quốc đã chiếm cứ những đảo, cồn, đá, bãi tại Biển Đông Hải. Những sự chiếm cứ này không có tính hoà bình mà do xâm lăng võ trang nên không được luật pháp bảo vệ vì đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc nghiêm cấm mọi sự bạo hành để thôn tính đất đai. Cũng như thời Thế Chiến II, Nhật Bản đã chiếm Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có tư cách chủ quyền hợp pháp. Điểm thứ ba: Không có sự thừa nhận chủ quyền của các quốc gia liên hệ. Trong mọi trường hợp, theo học thuyết và án lệ, sự chiếm cứ hoà bình phải có tính liên tục và trường kỳ (continuous occupation for a considerable time). Cho đến thập niên 1950, Trung Quốc không bao giờ lên tiếng đòi chủ quyền các hải đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi đó, ít nhất từ năm 1816 dưới đời Vua Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ thực sự, công khai, hoà bình và liên tục các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi: République Francaise (Cộng Hoà Pháp) Empire D’Annam (Vương Quốc Việt Nam) Archipel des Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa) 1816 -Ile de Pattle- l938 (Đảo Hoàng Sa) Chiếm cứ năm 1816 và dựng bia năm 1938) Các căn cứ quân sự của người Pháp được thiết lập từ đầu thập niên l930. Đài Khí Tượng Hoàng Sa mang số 48860 thuộc Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới bắt đầu hoạt động từ 1938. Trước đó, trong thập niên 1920, Công Ty Phosphate Bắc Kỳ đã khởi sự khai thác phân chim. Ngoài ra còn có hải đăng, Miễu Bà, Nhà Thờ Thiên Chúa, cầu tàu và các nhà cửa công sự xây cất với sự đồn trú của Đội Phòng Vệ Đông Dương và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Sự chiếm cứ này có tính thực sự, công khai, hoà bình, trường kỳ và liên tục cho đến 1956 và 1974 khi Hải Quân Trung Quốc xâm lăng. Hơn nữa, sự chiếm cứ phải được sự thừa nhận của các quốc gia liên hệ (acquiescence). Tại Hội Nghị Hoà Bình San Francisco 1951, 51 quốc gia đồng minh ký Hiệp Ước Hoà Bình Nhật Bản trong đó Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng Sa Trường Sa, nhưng không nói để trả cho nước nào. Ngoại Trưởng Liên Sô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả cho Trung Quốc. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng. Sau đó Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa và không gặp sự phản kháng nào. Đặc biệt là Hội Nghị Geneva 1954 đã minh thị thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được triệu tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Miền Bắc). Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thật vậy, chiếu Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 “giới tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Lực lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17). “Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17) nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau). Do đó chiếu Hiệp Định Geneva 1954, quân đội Bắc Việt phải triệt thoái ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía nam Vĩ Tuyến 17 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Và, lẽ tất nhiên, tất cả các quân đội ngoại quốc khác (kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc) phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà và không được chiếm cứ hay đồn trú tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa kể cả vùng hải phận tại Biển Đông Hải. (Từ 1955 Quốc Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hoà). Ngoài ra Điều 12 Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva ngày 21-7-1954 cũng khẳng định: “Các quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva (trong đó có Trung Quốc) cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. (Trung Quốc là một trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva 1954 với Anh Quốc và Liên Xô là đồng chủ tịch). Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (1998) cũng khuyến cáo các quốc gia hội viên tránh mọi vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguốn từ sự chiếm đóng, gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ bằng cách phủ nhận quyền của các dân tộc được hành sử chủ quyền đối với các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”. Hơn nữa, sự thừa nhận chủ quyền hải đảo chỉ có ý nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên hải đối diện hay tiếp cận. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhận. Mà cho đến nay, trong tất cả các quốc gia Đông Nam Á không một nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Điểm thứ tư: Hoàng Sa và Trường Sa không phải là đất vô chủ. Điều đáng lưu ý là, cho tới những năm 1956, 1974, 1988 và 1992 các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã do Việt Nam chiếm cứ hợp pháp nên không phải là đất vô chủ (terra nullius). Điểm thứ năm: Năm 1974 Việt Nam đã khiếu tố hành vi xâm lăng của Trung Quốc tại Hội Đồng Bảo An Trái với luận điệu xuyên tạc của Bắc Kinh, như đã trình bày ở trên, ngay từ năm 1974, Việt Nam đã khiếu tố hành vi xâm lăng võ trang của Trung Quốc tại Hoàng Sa vì đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt hơn nữa, theo Công Pháp Quốc Tế, ngay từ 1954, Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 đã minh thị thừa nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa. Như vậy hành vi xâm lăng của Trung Quốc đã vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Điểm thứ sáu: Theo Công Pháp Quốc Tế Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam Thật vậy, Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển dành cho Việt Nam tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa cộng với 12 hải lý Biển Lãnh Thổ chưa kể vùng biển của Đường Cơ Sở từ bờ biển Việt Nam ra Biển Lãnh Thổ. Như vậy, các hải đảo Hoàng Sa tọa lạc tại Thềm Lục Địa 200 hải lý và trong vùng hải phận khoảng 220 hải lý của Việt Nam. Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển đây là chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Bất cứ sự chiếm hữu nào của ngoại bang, dầu là chiếm cứ võ trang hay không võ trang, cũng đều vô giá trị và vô hiệu lực. Trong trường hợp Trung Quốc từ bỏ lập trường “bất khả tranh nghị” về những vấn đề liên quan đến Luật Biển mà họ đã ký kết từ 28 năm nay để nhận tranh nghị thì Thuyết Thủ Đắc Chủ Quyền do Chiếm Cứ mà họ muốn viện dẫn cũng trở thành vô dụng. Vì nó vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, vi phạm Luật Tục Lệ Quốc Tế, vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển và vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam về cả 3 phương diện pháp lý, địa lý và lịch sử. Rốt cuộc đó cũng chỉ là một chiến dịch truyền thông theo Công Pháp Quốc Tế. Kết luận: Từ những phân tích trên, chúng ta, lại một lần nữa, có thể khẳng quyết rằng:Phải là người Đại Hán có đảm lược (to gan lớn mật) mới dám lấy những chuyện hoang đường võng tưởng làm sự thật lịch sử. . Luật Sư Nguyễn Hữu Thống (Tháng 8 – 10.2010)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jan 8, 2014 7:04:01 GMT 9
Hải Chiến Hoàng Sa 19741.Bối cảnhSau khi Pháp rút khỏi Ðông Dương, Việt Nam Cộng Hòa đã đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo này cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, được gọi là nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Ðức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Ðà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Năm 1956, hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo. Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản tuyên ngôn lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Ðài Loan, Ðông Sa/Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield, quần đảo Bành Hồ (Pescadores). Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ. Ngày 22 /9/1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Ðồng gửi thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 Tháng Chín năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận. Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời gian 1964 -1971, hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng Hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa. Năm 1973, với Hiệp Ðịnh Paris, Hoa Kỳ và Ðệ Thất Hạm Ðội sau khi rút quân và thiết bị ra khỏi quần đảo Hoàng Sa đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1974 khi một phái đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou thì khám phá ra sự hiện diện của hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó. 2.Tương quan lực lượngPhía Việt Nam có tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), một đại đội hải kích thuộc hải quân Việt Nam Cộng Hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa. Phía Trung Quốc có Liệp Tiềm Ðĩnh Số 274, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 271, Tảo Lôi Hạm Số 389, Tảo Lôi Hạm Số 391, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 282, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân (không rõ loại), Tiểu Ðoàn 4 và Tiểu Ðoàn 5 thuộc Trung Ðoàn 10 Hải Quân Lục Chiến, và hai đội trinh sát. Ngày 16 /01/1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402 và số 407 của hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Sau khi cấp báo về bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải tại Ðà Nẵng, HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng Hòa rời lãnh hải Trung Quốc. Ngày 17/01/1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa rút trở lên tàu. Cùng trong ngày Liệp Tiềm Ðĩnh Số 274 và Liệp Tiềm Ðĩnh Số 271 của Trung Quốc xuất hiện. Ngày 17/01/1974, trước những tin tức về việc các chiến hạm Trung Quốc hăm dọa quần đảo Hoàng Sa, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Chiến Thuật, đã chỉ thị cho vị Tư lệnh HQ Vùng I là Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Ngày 18/01/1974, Ðề Ðốc Lâm Ngươn Tánh, tư lệnh phó hải quân Việt Nam Cộng Hòa bay ra Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Chiến Thuật tại Ðà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh. Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1 được tăng cường thêm tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm cho cuộc hành quân, và hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ còn một máy hoạt động. Ngày 19/01/1974, biệt hải và hải kích Việt Nam Cộng Hòa từ HQ-5 đổ quân lên mặt Nam đảo Quang Hòa và hải quân Trung Quốc đổ quân xuống mặt Bắc đảo. Hai bên giao tranh và phía Việt Nam Cộng Hòa có 3 chết và 2 bị thương. Do quân Trung Quốc quá đông, quân Việt Nam Cộng Hòa rút trở lên HQ-5. Ngay sau đó chiến hạm hai bên triển khai đội hình gần đảo Quang Hòa và chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa khai hỏa trước. Hai bên chạm súng từ 30 đến 45 phút, cùng thời điểm đó bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa nhận được thông báo của văn phòng tùy viên quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar đệ thất hạm đội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided missile frigate) và chiến đấu cơ MiG từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội trợ giúp, nhưng không thành công. 3.Kết quảTheo tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa thì phía Trung Cộng Liệp Tiềm Ðĩnh 274 trúng đạn, tay lái bất khiển dụng phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, Liệp Tiềm Ðĩnh 271 và 389 bị chìm tại trận. Liệp Tiềm Ðĩnh 389 và 391 bị hư hại nặng. Phía Việt Nam Cộng Hòa chiến hạm HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, chiến hạm HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, chiến hạm HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương. Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20/01/1974, tàu chở dầu Hà Lan “Kopionella” vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của chiến hạm HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Ðến mười ngày sau, ngày 29 Tháng Giêng, ngư dân Việt Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng Hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ. Số tù binh đó sau này được trao trả tại Hồng Kông qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế. Sau trận chiến, Việt Nam Cộng Hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình và đã được chính phủ Cộng Hòa Pháp ủng hộ vì trước đây theo hòa ước Pháp -Thanh thì người Pháp đã thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt để áp đặt chủ quyền của họ trên quần đảo này. Nguồn : Việt Sử ************************* Kẻ sống sót trong trận Hải chiến Hoàng SaNhóm Hành Khất (Danlambao) - Đây là một câu chuyện hiếm hoi, có thật của một quân nhân Hải quân Việt Nam Cộng hòa thoát hiểm và kể lại trên mạng Hải quân. Xin chia sẻ cùng bạn đọc, gọi là tưởng nhớ đến những người quên mình vì đất nước Việt Nam, nhưng bị ruồng bỏ trong lịch sử đảng nơi mà rồi đây sẽ được ghi đậm dòng chữ “đảng Cộng sản Hà Nội thông đồng thừa nhận Hoàng Sa là của Trung Cộng vì âm mưu của Bắc Việt muốn thôn tính miền Nam Việt Nam Cộng hòa.”
Lời phi lộ: “Lướt Sóng“ mới nhận được bài “Kẻ sống sót trong trận hải chiến Hoàng Sa” của tác giả Vương Văn Hà. Vì tính chất quan trọng của dữ kiện không ít thì nhiều cũng là một sử liệu của cuộc hải chiến và đã biểu lộ được tinh thần quả cảm và lòng căm hận của người chiến sĩ HQ/QLVNCH trước kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng luôn nuôi tham vọng xâm chiếm hải phận và đất đai của cha ông chúng ta mà CSVN không những đã là kẻ nối giáo cho giặc mà còn công khai, trơ trẽn bán đứng quê hương chúng ta nữa! Để tài liệu thêm phần khả tín, phần tiểu sử người viết do chính tác giả cung cấp. ____________________ Phần I: Tiểu sử tác giả - Họ và tên: Vương Văn Hà - Ngày và nơi sinh: 17/6/1950 tại Lạng Sơn, Bắc Việt - Học Lực: Tốt nghiệp Trung học Kỹ thuật. - Ra nhập HQVNCH (Hải quân Việt Nam Cộng hòa) vào tháng 11/1968. - SQ: 70A 706340. - Thụ huấn Khóa 53 Tân Binh tại TTHL/HQ/Cam Ranh (Trung tâm Huấn luyện Hải quân). - Khóa I OJT năm 1969 do HQHK (Hải quân Hoa Kỳ) đảm trách huấn luyện về Thủy bộ, Tuần dương, Tuần giang. - Cuối năm 1969 mãn khoá phục vụ thực tập với GD (Giang đỉnh) Patrol Boat River 514 của HQHK. - Thuyên chuyển về GD 54 TT (2 GD 53 và 54 Tuần thám (TT) do HQHK giao lại cho HQVNCH) - Tham dự các chiến dịch Trần Hưng Đạo 1, 2, 3, và 4. - Thuyên chuyển về Hộ tống Hạm Nhựt Tảo HQ vào tháng 10 năm 1972. - Bị thương, sống sót trong trận hải chiến Hoàng Sa vào ngày 21/1/1974. - Huy Chương: Anh dũng Bội tinh, Chiến thương Bội tinh, và Hải dũng Bội tinh. - Được thăng cấp Hs1/Tp (Hạ sĩ cấp 1/Trọng pháo) thuyên chuyển về TTTL/HQ Saigon (Trung tâm Tư lệnh Hải quân Sài Gòn). - Di tản ngày 30/4/1975 trên Hải Vận Hạm Lam Giang HQ 402. Lúc đó chiến hạm BKZ đã phụ giúp Tr/úy Hùng “Bắc Kỳ” giựt máy ép gió, khởi động máy tàu ra khơi với gần 2000 đồng bào và quân cán chính. (**) - Định cư tại Pháp Quốc. - Làm việc cho hãng Citroen. - Gia cảnh: ly dị --có một con đã trưởng thành. - Hiện sống với phụ cấp tàn phế 80%. (***) Ghi chú của Lướt Sóng: HQ 402 đã được Đệ thất Hạm đội của HQHK phá hủy và bắn chìm tại hải phận quốc tế để tránh trở ngại cho các tàu qua lại vào chiều ngày 2/5/1975. Chi tiết xin đọc cuốn: “HQ/VNCH Ra Khơi” năm 1975 của nhà văn nữ Điệp Mỹ Linh. Phần II: Người về từ Hoàng Sa Gần hai mươi bảy năm qua, Hộ tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 đã và đang nằm yên giấc ngàn thu dưới lòng biển Hoàng Sa mà nay Trung Cộng đã trắng trợn xâm chiếm. Từ bấy lâu nay, tôi đã tưởng những kỷ niệm đau buồn này đã đi vào quên lãng! Nhưng nay trước sự cổ võ của các bạn trong Hải Quân, dù rằng chưa bao giờ tôi viết bất cứ một đề tài nào, nhưng nghĩ lại, là một trong những người trực tiếp tham dự trận chiến Hoàng Sa thì cũng nên cố gắng ghi lại những sự kiện có thật mà mình đã chứng kiến để rộng đường dư luận cùng tưởng niệm những chiến hữu HQ/VNCH đã dâng hiến thân mình cho tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tôi được tân đáo đến Hộ tống Hạm Nhật Tảo vào mùa hè đỏ lửa năm 1972 sau một thời gian phục vụ tại Giang đoàn 54 Tuần thám với cấp bậc Hạ sĩ Trọng pháo (Hs/Tp). Xuất thân khóa 53/TB Cam Ranh, SQ 70A706340. Hạm trưởng HQ 10 lúc đó là HQ Thiếu tá Đức sau làm Hạm trưởng HQ 17. Những ngày đầu trên chiến hạm thật khá vất vả đối với tôi vì nếp sống quen thuộc từ các đơn vị chiến đấu như Giang đoàn Thủy bộ, Ngăn chặn, Tuần thám... nay phải bị gò bó nhiều về kỷ luật trên chiến hạm. Một phần cũng có mặc cảm về hải nghiệp còn bỡ ngỡ. Nhưng với thời gian tôi đã thích ứng rất mau. Khoảng gần một năm sau thì thay đổi Hạm trưởng. Tân Hạm trưởng Ngụy Văn Thà là một vị Hạm trưởng được rất nhiều cảm tình của sĩ quan, hạ sĩ quan (HSQ), và đoàn viên trên chiến hạm. Nhiệm vụ chính của HQ 10 vẫn thường xuyên biệt phái cho Vùng I Duyên hải với những cuộc tuần phòng viễn duyên. Thỉnh thoảng có các cuộc yểm trợ hải pháo. Cứ mỗi lần yểm trợ hải pháo, tôi thấy thích thú vô vùng vì đã được sống lại với những kỷ niệm của các cuộc hành quân hồi còn ở giang đoàn. Tôi luôn luôn ở bên ổ trọng pháo 76. 2 ly mà sau này tôi rất quen thuộc. Công việc trên chiến hạm của tôi là đi “ca” đài chỉ huy, tu bổ chiến hạm, bảo trì cây 76.2 ly. Bản tính bẩm sinh đã hơi phóng túng và ngang tàng do đó tôi thường hay bị ông Quản nội Trưởng là Thượng sĩ TP Châu la rầy (Thượng sĩ Châu là HSQ Huấn luyện Viên của các khóa SVSQ (Sinh viên Sĩ quan)). Trên chiến hạm lúc đó có hai phe: một bên là những người rất quen thuộc với các chiến hạm thuộc Hạm đội, một bên là nhân viên từ các giang đoàn thuyên chuyển về do đó nhiệm vụ của ông Quản nội Trưởng rất mệt nhọc để tạo nên bầu không khí hài hòa thông cảm. Dù vậy, với thời gian chúng tôi trở nên những người bạn thân thiết. Đời tôi nay đã quen với biển cả trùng dương, dù rằng đôi lúc cũng nhớ tới lục bình Cửu Long Giang hoặc Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây... A- Chuyến ra khơi lần cuối của HQ 10: Trời gần vào Xuân, Hộ tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 tháo dây rời bến Hải quân Công xưởng vào lúc xế chiều. Khí hậu Sài Gòn có phần nào mát mẻ, dễ chịu hơn. Chiến hạm từ từ chạy qua Bộ tư Lệnh Hải quân, với hàng dàn chào trong quân phục tiểu lễ trắng toát uy nghi. Quốc kỳ, Chiến kỳ của HQ 10 tung bay lộng gió... Tàu chạy ngang qua nhà hàng Majestic tráng lệ để lần lần rời xa Sài Gòn với đầy thương nhớ: gia đình, người yêu, và thành phố thân yêu quen thuộc. Cũng như mọi chuyến tuần dương, thời gian biệt phái công tác của HQ 10 từ tháng 11/73 đến cuối tháng 01/74. Sau hai tháng chu toàn nhiệm vụ, tàu được lệnh về căn cứ thuộc Vùng I Duyên hải để bàn giao công tác cho Chiến hạm thay thế là HQ 11. Mọi người trên chiến hạm ai cũng hân hoan ra mặt vì sẽ được xum họp cùng gia đình vợ con vào dịp Xuân Con Cọp 1974. Hải quân Đại tá Trần Văn Triết đã lên tàu chúc chiến hạm về Saigon ăn Tết vui vẻ. Chúng tôi lãnh lương, và được đi bờ. Chia nhau từng nhóm nhỏ ra phố mua sắm quà Tết cho gia đình. Có người lo gửi tiền về để ở nhà kịp sắm sửa lo Tết trước. Tôi và một số các bạn khác tung hoành trên các đường phố Đà Nẵng để tiêu khiển một vài chung lếu láo. Sau đó qua đường rầy xe lửa nổi tiếng là khu vực nóng của Đà Nẵng... thế là thoải mái sau những ngày gò bó lênh đênh trên biển cả. Cuộc chơi nào cũng tàn, chúng tôi trở về tàu thì chiến hạm lại được lệnh đi công tác khẩn cấp đạc biệt. Tôi vẫn bình tĩnh phì phà điếu thuốc nhìn sang bên kia sông thấy chiếc HQ 5 đang đậu tại cầu BTL/VIZH. Riêng HQ 10 đang đậu tại cầu tàu CCYT/ĐN. Chiến Hạm HQ 10 rời cầu tàu vào khoảng 2000H. Trên HQ 5 có sự hiện diện của HQ Đại tá Hà Văn Ngạc, Chỉ huy Trưởng Chiến dịch Hoàng Sa. Trên đài chỉ huy HQ 10, với không khí khác thường so với các cuộc tuần dương thường lệ. Máy truyền tin inh ỏi. Tiếng ra lệnh lập lại liên hồi khiến tôi có cảm tưởng chuyến công tác lần này rất quan trọng và khẩn trương. Tôi đi ca từ 20:00 giờ đến 24:00 giờ. Đài chỉ huy có sự hiện diện của Hạm trưởng HQ Th/tá (Thiếu tá) Thà và Hạm phó HQ Đ/úy (Đại úy) Nguyễn Thành Trí cùng một vị sĩ quan đương phiên. Đoàn tàu vận chuyển theo đội hình hàng dọc. Đi đầu là HQ 5. Lúc này tôi có dịp quan sát trên khuôn mặt mọi người như có chuyện gì rất căng thẳng với chút ưu tư, lo lắng. Mãn ca, như thường lệ, tôi trở về khu vực nghỉ ngơi. Sau một ngày mệt mỏi nên tôi đã ngủ một giấc ngon lành. Giật mình vào lúc sáng sớm vì tiếng còi gọi nhiệm sở tác chiến kéo lên như thúc giục. Tôi vội vã mặc nhanh quân phục chạy vào nhiệm sở tác chiến là khẩu 76.2 ly quen thuộc. Tại đây có Hs/Vc (Hạ sĩ Vận chuyển) Trứ, Hs/Tp (Hạ sĩ Trọng pháo) Hùng mập, Tt/Tp (Toán trưởng Trọng pháo) Đức, Ts/Tp (Thượng sĩ Trọng pháo) Nam và Trưởng khẩu là HQ/Tr/úy Đông. Mọi người ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với bọn xâm lăng Trung Cộng. Về phía HQVN (Hải quân Việt Nam) tôi thấy có các chiến hạm như sau: HQ5, HQ10, HQ4, HQ16. Hạm đôi của chúng tôi được chia làm hai toán. Toán 1 là HQ5 và HQ4; toán 2 là HQ10 và HQ16. Quan sát phía địch tôi thấy chúng có 4 chiến hạm, tôi nghĩ có lẽ là loại Constadt của Liên Sô (?) Phía xa hơn xuất hiện thêm hai chiến hạm nhỏ có trang bị đại bác 57 ly không giật. Thấy bạn bè có vẻ căng thẳng tôi đã khích lệ họ và mời họ hút thuốc Captan cho lên tình thần và xuống nhà bếp lấy cháo trắng với thịt mỡ lên ăn tại chỗ cho đỡ đói vì nhiệm sở từ sáu giờ sáng mà bây giờ đã hơn chín giờ. Không xa là quần đảo Hoàng Sa, mảnh đất ngoài khơi từ đời nào vẫn thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trên đảo cây cỏ mọc không cao lắm, chim én bay lượn đày trời. Trần mây dầy và thấp. Biển êm và rất oi bức. Lòng tôi rất rộn rã, bị kích thích bởi ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lăng, tôi tự nhủ khi được lệnh là đánh chìm ngay chiếc tàu địch kế cận... Đang quan sát các tàu Trung Cộng thì Hạm trưởng ra lệnh tất cả các khẩu trọng pháo chĩa thẳng vào chúng. Nhờ ở sân trước với tầm nhìn khá xa, tôi thấy HQ16 đang ở bên HQ10. Trái lại HQ4 và HQ5 ở khá xa chúng tôi. Nếu tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 21/01/74 và giờ giấc thì tôi hoàn toàn không nhớ rõ, chúng tôi được lệnh từ đài chỉ huy là trực xạ ngay vào các tàu Trung Cộng. B- Trận hải chiến bắt đầu với HQ10: Ngay từ phút đầu của cuộc hải chiến, trái đạn 76.2 ly từ khẩu hải pháo của HQ10 đã trúng ngay đài chỉ huy của tàu địch rồi tiếp theo là 10 trái nữa khiến tàu Trung Cộng mất đều khiển và quay vòng vòng ở phía tả hạm của HQ10. Chiếc thứ hai, bên hữu hạm HQ10 đã dùng hỏa tiễn bắn vào hầm máy HQ10, cùng lúc các khẩu 37.2 ly nhả đạn vào đài chỉ huy của HQ10. Lần này thì đến phiên HQ10 bị bất khiển dụng khiến cho tàu địch đã bị bắn ở phía tả hạm đụng vào tàu chúng tôi. Lợi dụng lúc HQ10 bị mất ưu thế, tàu địch đã dùng 37.2 ly bắn tiếp vào đài chỉ huy của HQ10 và khẩu 76.2 ly của chúng tôi. Sau những loạt đạn của địch, trước mắt tôi là cả một thảm kịch đau lòng. Trên đài chỉ huy Hạm trưởng Ngụy Văn Thà đã hy sinh. Thượng sĩ Vận chuyển (Ts/Vc) Lễ, bị đạn vào đầu gục chết ngay tại tay lái. Hạm Phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng cùng các nhân viên giám lộ, vô tuyến khác. Riêng ở khẩu 76 ly 2 của Trung úy Đông, Trưởng khẩu, hy sinh. Ts/Tp (Thượng sĩ Trọng pháo) Nam, Hs/Tp (Hạ sĩ Trọng pháo) Trứ, TT/Tp (Toán trưởng Trọng pháo) Đức đều hy sinh tại vị trí chiến đấu. Chỉ mình tôi vô sự. Lòng tôi đau đớn vô cùng trước cảnh Hạm trưởng, các sĩ quan và bạn bè chung quanh đã hy sinh không toàn thây! Trong khi đó thì tàu địch quá sát tàu ta lại bắn xối xả vào. Đau đớn trong cảnh bất lực của minh, tôi ao ước như được ở giang đoàn, giá mà có vài trái M72 tôi sẽ đứng thẳng xơi tái ngay chúng nó. Ở phía sân sau các khẩu Baufort 40 ly, 20 ly vẫn còn đang nhả đạn oanh liệt tuy rằng một số đã bị thương và chết. Nhân viên cơ khí còn đủ sức từ hầm máy chạy lên lối đào thoát phía trước, tôi thấy người nào người nấy cũng bị cháy đen thui với thân mình đầy dầu, mỡ. Sau một hồi giao tranh thì một con sóng đã làm tàu địch và HQ10 tách ra xa khoảng 50 mét. Tiếng súng đã êm bớt. Hạm phó Trí mặt đầy máu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc tuyên bố: “Hạm trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm trưởng tuyên bố ra lệnh đào thoát”. Còn một mình trên khẩu 76 ly 2, tôi chạy nhanh đến hai bè bên hữu hạm, giựt bè rớt xuống và nhảy xuống biển. Bọn Trung Cộng đã không tôn trọng quy ước quốc tế tiếp tục bắn vào bè của chúng tôi và lần này tôi bị trúng thương ở chân trái nhưng cũng may nhờ mang đôi giầy chiến đấu ở giang đoàn nên không đến nỗi nặng lắm. Trong lúc nhảy xuống biển đào thoát, xương sống tôi đã bị đập vào thành bè đó là hậu quả nặng nề nhất cho tôi tới ngày nay. Xương sống bị yếu gây thiệt thòi cho cuộc sống của tôi ở hải ngoại. Dù bị thương nặng, cuối cùng Hạm phó Trí cũng đã xuống được bè đào thoát. Tôi vớt được Trung sĩ Vô tuyến (Ts/Vt) Tuấn, bị thương đang lềnh bềnh trôi xa bè. Lúc này tôi thấy 4 chiếc bè trên mặt biển và bọn Trung Cộng vẫn tiếp tục nhả đạn vào bè chúng tôi. Đạn văng tung tóe trên mặt biển. Nhờ có chút kinh nghiệm trên chiến trường, tôi vội la lớn anh em chỉ để lên đầu ti xíu để tránh đạn địch. Vào lúc này tôi không thấy hai chiếc HQ4 và HQ5. Chắc chắn cũng đang hải chiến với các tàu Trung Cộng khác. Riêng HQ16, phần sau lái bên tả hạm đã bị nghiêng. Tôi nghĩ có lẽ tàu Trung Cộng đã dồn hết hỏa lực để tấn công HQ10 vì là chiếc khai hỏa đầu tiên và rất mãnh liệt tấn công gây thiệt hại nặng nề cho chúng. Bốn chiếc bè đã được cột chặt vào nhau và rời xa tàu mẹ thân yêu đang từ từ chìm vào lòng biển. Buổi lễ thủy táng đầu tiên cho Ts/Vt Tuấn bị thương nơi đầu vào chiều tối đầu tiên của ngày đào thoát. Qua sáng hôm sau Hạm phó Trí ra đi vì vết thương quá nặng. Đến đêm thứ hai thì vì sóng gió 4 chiếc bè đã bị đứt dây nối văng ra xa mỗi chiếc một nẻo. Thật đau đớn thay! Trên bè tôi vẫn còn một ít thực phẩm khô dù rằng đã bị mục nát và ít nước ngọt. Được vậy là do công ơn của Thượng sĩ Lê, lúc nào ông cũng săn sóc để ý đến các bè cấp cứu. Tiếc thay ông đã ra đi ngay từ phút đầu. Trên bè tôi gồm có Thượng sĩ Châu, Ts/Gl (Thượng sĩ Giám lộ) Vương Thương, Hs Tuấn và một người nữa mà lâu ngày tôi không còn nhớ tên. Đến ngày thứ tư thì Ts/Gl Thương đã bắt đầu mê sảng vì thiếu nước và không chịu nổi sức nóng kinh khủng ở giữa biển và Thương đã chết dù rằng trước đó anh không bị thương. Chúng tôi đã giữ xác anh trên bè một ngày nhưng vì mùi hôi nên cuối cùng đã làm lễ thủy táng vào khoảng 17.00 giờ. Chúng tôi đã cầu nguyện và khấn vái anh: “là nghề nghiệp Giám Lộ, xin anh chỉ dẫn đường để được gặp tàu bạn”. C- Cơ may thoát nạn: Đến khoảng 20.00 giờ, Thượng sĩ Châu đã bắt đầu quá mệt mỏi. Còn lại tôi và hai anh em khác nữa cũng gần trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Bỗng như có vong hồn anh Thương cứu độ, tôi thấy một chiếc thương thuyền đang chạy từ đằng xa đã đổi hướng quay đầu về phía chúng tôi. Sau này, tôi biết đó là chiếc tàu của Hòa Lan. Trời đã tối, tôi thấy mấy ngọn đèn pha chiếu vào bè chúng tôi và sau đó chiếc cano cấp cứu đã vớt chúng tôi lên tàu. Vì vết thương đã làm độc và quá mệt mỏi sau bốn ngày ba đêm ngâm trong nước biển, nên tôi đã ngất xỉu hồi nào không hay. Lúc tỉnh dậy, tôi thấy tất cả mọi người trên thương thuyền đã tận tình giúp đỡ lo lắng cho anh em HQ10. Các cô trên tàu đã cho chúng tôi dùng soup. Vì quá đói, thay vì ăn uống từ từ, chúng tôi đã phạm sai lầm ăn uống quá nhiều nên thân nhiệt tăng lên cao rất nhanh. Vì quá nóng, Thượng sĩ Châu lê vào phòng tắm xối nước cho mát đã ngất xỉu và chết trong buồng tắm trên tàu. Riêng tôi cũng gần chết nhưng nhờ còn trẻ nên đã vượt qua được. Sau đó tàu Hòa Lan cũng vớt được các bè khác trong đó có Thiếu úy Ngưu. Có lẽ Thiếu úy Ngưu là người biết nhiều về cuộc vượt thoát này. Hiện ông đang ở Mỹ. Sau cùng thì chúng tôi được chuyển sang HQ17 kể cả xác của Thượng sĩ Châu đem về Đà Nẵng. Vào đến Căn cứ Hải quân Đà Nẵng, chúng tôi được Đại tá Thiện, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đón tiếp. Riêng tôi được chuyển đến Bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng, để được giải phẫu vết thương ở chân. Sau đó tôi được chuyển tiếp về Bệnh viện Hải quân Saigon điều trị. Về huy chương, tôi được Chiến thương Bội tinh do Đô đốc Trần Văn Chơn Tư lệnh Hải quân gắn. Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh VI Ct (vùng 4 Chiến thuật) ban tặng Anh dũng Bội tinh. Về đến Saigon được Thủ tướng Trần Thiện Khiêm gắn Hải dũng Bội tinh. Ngày nay khi viết lại những ngày này, tôi không khỏi bùi ngùi tưởng nhớ tới những người anh, người bạn đã dũng cảm hy sinh thân xác để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Xin ghi ơn những người đã vị quốc vong thân! Miền Nam Việt Nam lúc đó, một mặt dù phải chiến đấu cam go, và một mình đương đầu với CSBV (Cộng sản Bắc Việt) có cả một khối Cộng sản Quốc tế lớn lao đứng đằng sau, vẫn hiên ngang, can đảm bảo vệ chủ quyền đất nước mà trận Hoàng Sa là tiêu biểu. Những người Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam vẫn luôn luôn rêu rao, tuyên bố láo khoét là bảo vệ vùng đất, vùng biển, vùng trời của nước Việt, vậy mà không dám đá động gì tới quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Cộng, một đàn anh và cũng là một đồng chí của họ, đã chiếm đoạt từ hai mươi bảy năm nay. Than ôi ! Hs1/Tp Vương Văn Hà Paris Mùa Xuân 2001
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 20, 2021 2:37:08 GMT 9
100 ngày
Sống trên đảo Hoàng Sa (phần I) Dư Mỹ thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_100NgayTrenDaoHoangSa1.htm?fbclid=IwAR2Ahp0RwPWzPtwy8UXtz-S_yd8djjkyxITepckrZeW-A1W-Hf098GmGlUYCuối cùng thì tôi cũng không thể thoái thác về sự mong muốn của cậu vợ tôi – ông Trần Huỳnh Mính và anh bạn Đồ Xuân Trúc –người cùng học trường chùa Bà Mụ và ở cùng xóm với tôi sau Chùa Phật Học Hội An từ những năm 1952-1953.Mong muốn của hai người là được tôi viết kể về những ngày sống trên đảo Hoàng Sa vào thời điểm tôi làm đảo trưởng để góp mặt với tờ đặc san xuân Quảng Nam-Đà Nẳng với chủ đề :Hoàng Sa-Phần đất quê hương . Tôi đã được đọc những bài viết về Hoàng Sa trên các báo .Hầu hết viết về tài liệu lịch sử chủ quyền đảo Hoàng Sa,về tài nguyên hải sản và khoáng sản của đảo Hoàng Sa ,về cuộc hải chiên đẩm máu anh dũng của hải quân Việt Nam Cộng Hòa với bọn cướp đảo Trung Cọng vào ngày 20/1/1974 nhưng chưa được đọc (hoặc chưa ai viết)về cuộc sống của những người lính chiến được giao nhiệm vụ trấn thủ đảo Hoàng Sa . Vào những năm1966 – 1967 ,lúc bấy giờ tình hình chiến sự ở chiến trường Quảng Nam chưa đến thời kỳ ác liệt cho nên việc tự nguyện đi Hoàng Sa là điều rất hiếm .Hầu hết những người trong chúng tôi là những người bị phạt đưa đi – tuy nhiên cũng có người bị chỉ định vì chuyên môn như hiệu thính viên ,y tá ,truyền tin và cũng có một số ít người tự nguyện .Riêng bản thân tôi ,sau khi cải vả dần đến xô xát với Đai đôi trưởng,tôi đã bị đưa về ty An Ninh QuânĐội của Tiểu khu để làm tự thuật và đã bị bút phê của Trung tá Tín –Tiểu Khu Trưởng T/K Quảng Nam phạt đưa đi Hoàng Sa thay quân . Nhận công điện của P3/Tiểu Khu,tôi bắt đầu gom góp quân để thành lập trung đội Hoàng Sa ,quân số có 35 người bao gồm cả tôi là đảo trưởng .Trung đội Hoàng Sa qui tụ hầu hết những thành phần bị kỷ luật từ các đại đội tác chiến đưa về,mỗi đại đội từ 2 đến 3 người để tôi gom góp lại cho nên sau này anh em gọi đùa tôi là chúa đảo của trung đội trừng giới Hoàng Sa . Về tổ chức,trung đội được chia ra làm 3 tiểu đội trấn thủ 3 đảo chính gồm: -Đảo Hoàng Sa (Pattle) có 13 người gồm tôi là đảo trưởng,trung sĩ Huynh là hiệu thính viên đánh morce(liên lạc với Quân Đoàn bằng máy đánh tich tich te te )y tá Khôn và thêm 10 binh sĩ nữa . -Đảo Quang Hòa (Duncan)11 người do một Trung sĩ làm đảo trưởng . -Đảo Duy Mộng (Drummond) 11 người cũng do một Trung Sĩ làm đảo trưởng . Thời gian trấn thủ trên đảo HoàngSa của chúng tôi là 3 tháng ,sau 3 tháng sẽ có đợt khác thay quân Từ một trung đội trưởng tác chiến quen với những ngày cầm súng hành quân lùng giặc ,nay trở thành một đảo trưởng không hề biết gì về đảo Hoàng Sa nên mọi việc đối với tôi thật ngỡ ngàng .Rất may mắn,tôi đã gặp được C/úy Hệ thuộc Đại đội Hành chánh Tiếp vận/TKQN-người phụ trách về tiếp liệu và hướng dẫn mua sắm những thực phẩm cần thiết để đủ ăn trong 3 tháng ở trên đảo mà không có tiếp tế .Tàu của hải quân chỉ chở chúng tôi đến đảo và sẽ trở lại chở chúng tôi về đất liền sau ba tháng trấn thủ(nếu điều kiện trời yên biển lặng không có bão) .Riêng trung đội Hoàng Sa chúng tôi đã phải chịu trể thêm 10 ngày vì đợt thay quân cho chúng tôi bị cơn biển động nên tàu của hải quân không ra đúng hẹn .Chính vì vậy cho nên tôi đã chọn tiêu đề cho những trang hồi ký này là :100 ngày sống trên đảo Hoàng Sa .(3tháng +10 ngày tàu trể ) Để có đủ thực phẩm tiêu dùng cho ba tháng sống trên đảo(ngoại trừ 3 tháng gạo cho mỗi người được nhận từ Đại đội HCTV)chúng tôi đã được nhận một tháng tiền lương để đi mua sắm đầy đủ những thực phẩm để được lâu ngày như thịt hộp,gia vị,mắm muối,dầu ăn v..v…Ngoài ra chúng tôi còn mua thêm những thứ khác như thuốc lá ,lưỡi câu,sơn đỏ (dùng để đồ mộ bia trên đảo)lưới đánh cá và 35 con vịt sống cho mỗi người một con . Sau một hai ngày lang thang nấn ná tại Hội An để từ giã người yêu ,từ giã vợ con và bạn bè –ngày rời đất liền để ra hải đảo của chúng tôi cũng đã đến .Xe của TK/QN chuyên chở chúng tôi ra trú tạm tại trại tiếp liên Quân vận Đà Nẵng trên đường Độc Lập gần trường Sao Mai để chờ tàu .Chúng tôi ở đây một ngày và sau đó được chuyên chở tiếp ra quân cảng Tiên Sa để chuẩn bị lên tàu ra đảo Hoàng Sa .Tại đây tôi đã gặp được toán nhân viên khí tượng gồm có năm người của sở khí tượng Đà Nằng . Họ cùng đi trên cùng con tàu với chúng tôi và cũng sẽ cùng trở về đất liền sau ba tháng làm việc tại đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa Trong năm người nhân viên khí tượng,tôi lân la đến làm quen với bác Phong –một người Bắc di cư lớn tuổi –bác cho tôi biết là bác đã tình nguyện đi thế cho những người khác để làm việc trên đảo Hoàng Sa đã bốn đợt và đợt này là đợt thứ năm ,vì vậy sau này sống trên đảo bác đã cho tôi biết được nhiều chuyện về Hoàng Sa và một vài kinh nghiệm về câu các loại cá,cách bắt ốc gân,ốc nhảy ,ốc tai tượng v..v.. Dù chỉ có năm người nhưng hành trang họ mang theo ra đảo thì lỉnh kỉnh đủ thứ .Khác với chúng tôi,ngoại trừ súng đạn cá nhân,trong chiếc ba-lô chỉ võn vẹn một hai bộ áo quần .Đặc biệt tôi thấy lạ hơn là một vài người lính trong chúng tôi mang theo những bao cát đựng đầy đất lấy từ quê nhà .Tôi hỏi họ và được trả lời là mang ra đảo để gối đầu ngủ vì ở ngoài đảo Hoàng Sa không có hơi đất dễ bị chứng phù thủng . Chiếc quân vận hạm mà tôi đọc được hai chữ Đống Đa màu trắng viết trên thân tàu đã cập vào bến cảng .Chúng tôi chuyển mọi thứ lên boong tàu và chia riêng rẽ ra ba phần cho ba đảo để khi đến Hoàng Sa dề bề di chuyển vào bờ .Cùng đi với chúng tôi đợt này còn có ba vị sĩ quan Công Binh thuộc Quân Đoàn I -nghe đâu họ ra Hoàng Sa để khảo sát địa hình thiết lập sân bay cho loại phi cơ Ca-ri-bu –loại phi cơ chỉ cần phi đạo ngắn để cất và hạ cánh . Sau một hồi còi tàu dài để chào từ giả những người trên đất liền,con tàu từ từ rời cảng Tiên Sa và bắt đầu cuộc hải trình hướng đến Hoàng Sa .Tôi nhớ thời điểm đó là ba giờ chiều vào một ngày cuối tháng sáu của năm 1967 . Hoàng hôn buông xuống .Con tàu vẫn nhẹ nhàng rẻ sóng ra khơi .Nước biển đã đổi màu đen sậm .Cảng Tiên Sa và thành phố Đà Nằng đã lùi lại đằng sau .Chúng tôi chỉ còn nhìn được những vệt sáng của ánh điện để biết hướng đó là đất liền .Bây giờ ngồi trên boong tàu,bốn bề mênh mông là biển cả .Nhìn những khuôn mặt sạm nắng nhưng rạng rờ vui tươi của những người lính chiến lòng tôi cũng cảm thấy vui lây .Là những người quanh năm chỉ biết cầm súng lùng giặc,giờ đây không còn e ngại đến những mìn bẩy bãi chông hay sự sống chết thương tật ,đời lính chiến dễ ai có được một lần lênh đênh trên biển vừa ăn cơm chiều vừa ngắm sao trời và sóng nước như chúng tôi . Để khỏi bị nôn mửa,y tá Khôn đã cho tôi và Trung sĩ Huynh uống mỗi người một viên thuốc trừ say sóng,chính nhờ viên thuốc này mà tôi đã đủ sức vận chuyển thực phẩm cùng quân trang của những người lính đi cùng tôi vào bờ khi đến đảo vì hầu hết họ đều bị say sóng nằm la liêt. Sau bừa cơm tối tự túc đầy thú vị của mỗi người,chúng tôi dần dần tìm vào giấc ngủ-giấc ngủ chập chờn cùng con tàu lênh đênh trên sóng nước mông mênh . Nằm thao thức mãi không ngủ được,tôi ngồi dậy dựa mình vào boong tàu,đốt điếu thuốc và rít từng hơi dài nghĩ về buổi chia tay từ giã với Tuyết Mai –tên người yêu tôi-(bà xã tôi bây giờ) ngày hôm qua tại Đà Nẵng mà lòng dâng lên bao nỗi nhớ .Tôi lấy cuốn sổ tay mang theo ghi vội mấy câu thơ : Tàu ra khơi anh mang theo nỗi nhớ Gọi người tình giữa sóng nước mù Em thành phố,anh miền xa hải đảo Nhớ nhau xin soi mặt ánh trăng rằm . Có phải chúng tôi cùng hẹn nhìn vào ánh trăng rằm mỗi tháng để cùng thấy nhau cho vơi đi bao nỗi nhớ nhung . Gió biển đêm lành lạnh .Một vài người lính cũng không ngủ được thức dậy dựa vào boong tàu hút thuốc,vài người thì nôn mữa vì không quen với những cái lắc chồng chềnh của con tàu .Sóng vẫn vỗ vào mạn tàu trên màn tối đen của mặt biển tôi chỉ nhìn thấy được những đốm sáng của chất lân tinh trên bọt sóng .Điếu thuốc cũng sắp tàn trên tay,tôi ghi vội thêm bốn câu thơ vào quyển sổ : Khói quyện tơ sầu trên ngón tay Chiến y năm tháng nặng vai gầy Hành trang nửa mãnh trăng đầu súng Đi mãi cho tròn nghĩa nước mây . Sau này bốn câu thơ đó tôi đà viết bằng sơn đỏ lên bờ tường loang lỗ của tòa nhà trên đảo-nơi chúng tôi trú đóng .Khoảng cuối năm 1974,tình cờ trong một lần ngồi trò chuyện về Hoàng Sa,Trung úy Phạm Hy –đại đội trưởng của tiểu đoàn tôi –người đã bị Trung Cọng bắt làm tù binh trong trận đánh cướp đảo Hoàng Sa vào ngày 20 tháng 1 năm 1974 đã đọc lại cho tôi nghe bốn câu thơ đó Anh ta lúc bấy giờ cũng là đảo trưởng Hoàng Sa,anh nói anh em lính trên đảo rất thích bốn câu thơ đó mà không biết tác giả là ai . Sau một đêm dài lênh đênh trên biển,trời bắt đầu hừng sáng báo hiệu cho chúng tôi một ngày mới .Réo gọi nhau thức dậy nhìn xem mặt trời mọc lên từ chân biển hướng đông .Như một chảo lửa đỏ từ từ nhô lên khỏi mặt biển,đẹp và cũng lạ lùng đối với chúng tôi .Mặt nước biển bây giờ đã đổi từ màu đen sậm sang màu xanh .Tôi nhìn đồng hồ bấy giờ đã là tám giờ sáng ,chúng tôi dùng điểm tâm. bằng những ổ bánh mì mua tại đất liền từ chiều hôm qua .Đứng trên boong tàu vừa ăn vừa nhìn những con cá chuồn vụt bay lên khỏi mặt biển khi con tàu chạy đến gần,xa xa là những con hải âu và nhạn biển đang chúi đầu bay sà xuống để bắt mồi là những con cá con bơi gần mặt nước Từ xa chúng tôi đã nhìn thấy phía trước mũi tàu hình ảnh lờ mờ của nhóm đảo Hoàng Sa .Lòng chúng tôi cũng rộn ràng mong tàu sớm cập bờ .Và cuối cùng thì tàu cũng đã đến .Tôi nhìn đồng hồ kim chỉ đúng 11 giờ sáng ,như vậy chuyến hải hành của chúng tôi từ cảng Tiên Sa Đà Nẵng đến Hoàng Sa phải mất đến 20 giờ tàu chạy liên tục . Anh em lính trên tàu nhốn nháo chuẩn bị thu xếp mọi thứ để rời tàu .Con tàu chạy chậm lại và vài người lính hải quân đang chuẩn bị thả neo .Tàu đậu ngoài mí sóng (từ của anh em lính ở Hoàng Sa)nơi vùng nước sâu .Từ đây vào đến bờ để lên đảo khoảng cách xa hơn 100 mét,hải quân phải hạ thuyền nhỏ có gắn động cơ để chuyển hành lý,thực phẩm và đưa chúng tôi lên bờ .Từ trên boong tàu nhìn vào đảo tôi đã thấy lố nhố những anh em lính đảo đợt trước chạy tới chạy lui trông có vẻ nôn nóng muốn sớm trở lại đất liền . Toán chúng tôi có 13 người nhưng đã mất hết tám người bị say sóng không còn làm gì được .Tôi,trung sĩ Huynh,y tá Khôn và thêm hai người lính nừa cố gắng vận chuyển mọi thứ xuống thuyền máy để di chuyển vào bờ .Chỗ chúng tôi chất quân trang và thực phẩm lên bờ là một cầu tàu nhỏ xây bằng xi-măng chạy dài ra biển độ khoảng 50 mét .Trên cầu tàu có hai đường rây bằng sắt dùng để đẩy xe gòong (là một loại xe nhỏ bằng sắt có bốn bánh nhỏ giống như bánh xe lửa chạy trên đường rây dùng để chở phân phốt-phát) Nhờ có chiếc xe này nên chúng tôi chuyển quân trang và thực phẩm một cách dễ dàng từ cầu tàu vào đến tòa nhà chúng tôi trú đóng . Ba vị sĩ quan Công Binh cũng theo chúng tôi lên đảo .Tôi thì bận rộn đi nhận bàn giao còn ba vị sĩ quan công binh thì đi vòng quanh đảo để khảo sát địa hình .Chuẩn úy Bửu – tên người đảo trưởng tiền nhiệm –vội vã bàn giao cho tôi một vài thứ trên đảo để kịp thời gian ra thuyền máy lên tàu .Tôi ký nhận một khẩu đại liên 50 đặt trên sân thượng tòa nhà,một máy phát điện đã bị gỉ sét vì hơi nước mặn không còn xử dụng được,ba tháng gạo dự trử cho mỗi người đã mục nát không ăn được,một sơ đồ phòng thủ trên đảo và một máy hiệu thính để hàng ngày liên lạc với quân đoàn I . Nhiệm vụ chính của chúng tôi là trấn thủ trên đảo để bảo vệ và xác định chủ quyền của đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa đồng thời bảo vệ an ninh cho đài khí tượng . Ký nhận bàn giao xong,tôi chưa kịp hỏi thêm được gì thì C/úy Bửu đã vội vàng lên thuyền máy ra tàu lớn .Con tàu nhổ neo và tiếp tục chạy đến thay quân cho hai đảo Duncan và Drummond .Khoảng ba giờ chiều cùng ngày tàu trở lại đảo Hoàng Sa thả neo đón ba vị sĩ quan công binh .Một hồi còi tàu dài vang lên cùng với những cái vẫy tay giả từ của anh em lính hải quân,con tàu từ từ rời đảo và hướng về phía đất liền . Và .Chúng tôi thật sự bắt đầu một cuộc sống mới – cuộc sống yên bình không có không khí chiến tranh,bốn bề xung quanh là trời nước xa tít đến tận chân mây ,một nơi hoàn toàn xa rời cuộc chiến,đêm không còn nghe tiếng bom gầm đạn hú và thật sự một nơi vắng bóng đàn bà . Sau khi ổn định được vài việc và phân chia công tác dọn dẹp ,nấu nướng cho anh em lính,tôi cùng trung sĩ Huynh đi loanh quanh quan sát một vài nơi trên đảo . Nơi trú ngụ của chúng tôi là một tòa nhà lớn xây rất kiên cố,có lẽ xây dựng từ lâu(có thể xây từ thời Pháp thuộc)nên trông rất cũ kỷ .Nhà xây cao,gồm một nhà lớn ở giữa và hai nhà ngang ở hai đầu dính vào nhau .Nơi hai nhà ngang có hai thang bằng sắt thẳng đứng để leo lên sân tầng thượng,tại đây có một tháp hải đăng nhỏ(không xử dụng)và chúng tôi đã đặt một khẩu đại liên 50 có thể xoay quanh bốn phía biển .Đứng trên tầng sân thượng chúng tôi có thể nhìn thấy lờ mờ ba cây dừa từ đảo Duncan khi thủy triều xuống .Chúng tôi cũng xử dụng sân thượng để phơi khô cá và ốc gân bắt được hàng ngày .Để báo hiệu cho máy bay biết đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa ,trên mặt bằng sân thượng có vẽ bằng sơn một lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ rất lớn .Nền nhà được lát bằng gạch hoa rất đẹp,tất cả các cửa sổ và cửa lớn đều không có,vì thế chúng tôi rất khốn khổ chịu cảnh ướt át và lạnh mỗi khi trên đảo bị gió bão .Dưới nền móng nhà là một tầng hầm lớn có đường ống dẫn từ sân thượng xuống để chứa nước mưa xử dụng cho sinh hoạt hàng ngày .Những bức tường trong nhà thì loang lỗ viết đầy những tên tuổi ngày tháng để lưu niệm của những người từng có mặt trên đảo .Tôi đọc được có người đã đến đây từ năm 1955,và chính trên bức tường này tôi đã viết bốn câu thơ như đã nói ở phần trước . Nhìn về phía bên trái của tòa nhà chúng tôi ở cách khoảng ba mươi mét là tòa nhà đài khí tượng Hoàng Sa .Nhà đẹp,khang trang ,đầy đủ cửa kính hai lớp .Phòng làm việc ,phòng truyền tin,phòng ngủ đều riêng biệt thứ tự .Dưới nền sàn nhà cũng là một hầm lớn chứa nước mưa dùng để nấu nướng ăn uống .Chúng tôi thường sang lấy nước tại đây về dùng vì nước sạch còn hầm chứa nước của tòa nhà chúng tôi ở thì đầy xác chuột chết và gián nổi lềnh bềnh .Chúng tôi không thể vớt bỏ chúng được vì chỉ có một ô vuông trống nhỏ trên sàn nhà đủ để thả gàu xuống múc nước .. Toán khí tượng gồm có năm người .Một người lo phụ trách công việc nấu ăn và giật nổ máy chạy điện còn bốn người kia là chuyên viên .Công việc của họ là cứ khoảng hai đến ba giờ là cho máy điện nổ bơm một bong bóng lớn màu đỏ xong thả bay lên không trung rồi dùng kính chuyên môn để đo tốc độ gió và biết hướng gió di chuyển .Họ cũng xử dụng một kính viễn vọng lớn để quan sát quanh đảo,tìm biết vùng nào có bảo đang tập trung và di chuyển về hướng nào .Cứ khoảng hai đến ba giờ họ lại lặp lại công việc đó và báo cáo về đất liền ,vì vậy thời gian lội biển và đi câu cá của họ rất hiếm,khác với chúng tôi cả ngày cứ lang thang quanh đảo . Sống gần đài khí tượng chúng tôi cũng nhờ được họ báo cho biết mỗi khi có mưa sắp di chuyển về hướng đảo Hoàng Sa là chúng tôi mang ốc và cá đang phơi nắng vào .Đứng trên tầng thượng tòa nhà chúng tôi ở,với mắt thường chúng tôi cũng có thể biết được hướng nào có bảo đang tập trung .Vùng có bảo tập trung thì từ mặt biển lên không trung trông cả một vùng đen xám và u ám trong lúc xung quanh vùng đó trời vẫn nắng và trong sáng . Phía trước tòa nhà chúng tôi ở có một cái giếng còn tốt đầy nước nhìn rất trong nhưng lại không thể dùng để nấu nướng được mà chỉ dùng để tắm giặt .Nước hơi lờ lợ mặn,chúng tôi múc nấu thử thì nước sủi bọt và chuyển sang màu đục ngầu như nước vo gạo .Cạnh giếng là một cây dừa,vài cây ớt,vài đám rau sam và nhiều nhất là những bụi sả .Có lẽ nhờ có phân phốt-phát trên đảo nên những bụi sả phát triển và lan ra cả một vùng rộng đến vài mét .Nhờ có những bụi sả này mà chúng tôi có được một gia vị thơm để ướp vào thịt vít xào nấu ngon hơn .Từ cái giếng này chạy ra đến cầu tàu có hai đường rây để đẩy xe gòong chở phân và vận chuyển những vật liệu cần thiết . Bên kia đường rây là một nhà nguyện cho những người theo đạo Công Giáo .Nhà nguyện nhỏ ,tường xây bằng gạch và lợp tôn .Tôi bước vào trong chỉ thấy còn lại một cây thánh giá bằng gỗ treo trên tường trông có vẻ hoang tàn không có người lui tới .Tôi đã cho hai người lính có đạo Công Giáo dọn quét sạch sẽ .Thời gian sau hai người lính này cùng bác Phong bên khí tượng thường vào đây cầu nguyện cho sự bình an của họ trên đảo .Cách nhà nguyện không xa là ba bốn nhà làm bằng tôn khá lớn,đây là cơ sở chế biến phân phốt-phát để chở về đất liền .Tôi nghe bác Phong nói lại cơ sở này là của bà Nhu,sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Diệm năm 1963 thì cơ sở này ngưng hoạt động,toán công nhân chế biên phân phốt-phát ở đây suýt đói vì bị bỏ quên .sau nhiều lần nhờ truyền tin bên đài khí tượng cầu cứu,tàu hải quân đã ra chở họ về đất liền .Quan sát bên trong những căn nhà này tôi thấy còn bỏ lại một cổ máy xay nghiền phân phốt-phát đã gỉ sét,vài ba bao phân lở dỡ . Sau khi đi loanh quanh quan sát khu vực gần tòa nhà chúng tôi ở, tôi rũ trung sĩ Huynh cùng tôi đi dạo một vòng quanh đảo .Để ra được bãi cát chạy quanh đảo,chúng tôi có được ba con đường mòn đi xuyên qua rừng cây ráy biển (là một loại cây cao độ hai đến ba mét,thân mềm và xốp,lá nhỏ mọc chi chít trên cát,nhờ những cành khô của loại cây này mà chúng tôi có đủ chất đốt để nấu nướng trong suốt thời gian sinh sống trên đảo) và cây nhàu(loại cây này nghe nói rễ và vỏ cây có thể dùng nấu nước làm trà chửa bệnh gì đó) ngoại trừ con đường chính từ cầu tàu theo đường rây dẫn vào đến giếng nước .Xung quanh đảo có được ba pháo đài phòng thủ,nhỏ,xây bằng xi-măng có lỗ châu mai hướng ra phía biển .Đi vòng quanh hơn nửa đảo vễ phía bên trái,chúng tôi thấy một ngôi miếu xưa xây bằng gạch và vôi, mái lợp ngói âm dương tọa lạc trên bãi cát cao xung quanh bao phủ bởi những cây nhàu và cây ráy biển . Theo lời bác Phong bên đài khí tượng thì ngôi miếu này được xây dựng từ thời vua Gia Long khi chính vua đã thân hành ngự giá đến đảo Hoàng Sa khoảng vào năm 1816 .Ngôi miếu được gọi là Miếu Bà vì bên trong nơi bàn thờ chính thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (một vị nữ thần ban sự bình an và cứu những người đi biển gặp nạn )hai bên bàn thờ là hai câu liễn đỏ viết bằng chữ Hán .Ngôi miếu được anh em lính những đợt trước quét dọn sạch sẽ và cúng bái đầy đủ vào những ngày rằm và mồng một mỗi tháng .Phía sau ngôi miếu là một nghĩa địa nhỏ có khoảng hơn mười ngôi mộ,có hai ngôi mộ có bia bằng chữ Hán,số còn lại là mộ đắp bằng cát không có bia .Nghe bác Phong nói lại những ngôi mộ này là mộ của những người đi đánh cá bị bão đánh chìm và trôi dạt vào đảo,được những người trên đảo chôn cất .Tuy bác Phong là người theo đạo Công Giáo nhưng bác nói với tôi ngôi Miếu Bà này rất linh thiêng,đêm tối đi dạo biển một mình bác không dám đi ngang qua đây .Những người lính đợt trước chúng tôi cũng nói vậy,họ kể lại một cách vội vã trước khi ra tàu trở về đất liền là từ cầu tàu họ đã nhìn thấy một khối lửa đỏ như quả cầu bay xẹt trên mặt biển từ đảo Cam Tuyền qua đến Miếu Bà rồi tắt lịm,họ còn dặn dò chúng tôi nếu thấy thì không được quở (tiếng địa phương Quảng Nam có nghĩa là không được kêu,không được hỏi ,không được chỉ chỏ khi nhìn thấy một sự cố gì đó có vẻ ma quái,linh thiêng,nếu không sẽ bị điên hoăc bị bệnh )Chính vì vậy cho nên nhiều người trong chúng tôi thường đến đây thắp nhang cúng vái trong những ngày rằm và mồng một mỗi tháng để cầu xin được bình an và sức khỏe trong suốt thời gian sống trên đảo . Bãi biển trước Miếu Bà phần lớn là cát,rất ít san hô và bông đá biển (là tảng đá có hình dáng tròn,dẹp,có dộ dày từ hai đến ba tất ,màu vàng nhạt,trên và xung quanh tảng đá có nhiều con hàu biển bám vào, .dưới tảng đá có nhiều hang nhỏ để cho những con cá mú bông sinh sống,chúng tôi có thể dùng gậy nạy lên khỏi mặt cát ) .Nước sâu và trong vắt nhìn tận đáy .Chính tại bãi biển này ,chúng tôi đã bắt được nhiều ốc nhảy để lấy ruột phơi khô đem về đất liền . Đối diện với Miếu Bà qua một khoảng cách biển nước sâu,xa từ ba đến bốn km về phía tây nam là đảo Cam Tuyền (Robert)Chính con tàu đưa chúng tôi ra đảo đã chạy kẹp vào giữa hai đảo Hoàng Sa và Cam Tuyền, đây là một đảo nhỏ có diện tích khoảng 1,5 km vuông có nhiều phốt-phát,không có quân trú đóng .Từ đảo Hoàng Sa nhìn sang chúng tôi thấy được những tảng đá lớn nhỏ chen với bờ cát bao quanh đảo .Có thể gọi đây là quê hương của những đàn hải âu và nhạn biển .Hầu hết chúng qui tụ về đảo này vào những buổi chiều tối hoặc những lúc biển bị bão tố Tiếp tục đi theo bãi biển từ Miếu Bà đến một khoảng cách xa nữa thì chúng tôi gặp được cầu tàu-nơi đầu tiên chúng tôi đặt chân lên đảo .Từ cầu tàu ra đến mí sóng –nơi tàu lớn đậu-có một đường nước sâu khoảng hai đến ba mét không có san hô,nước trong có thể nhìn thấy được những con cá nhỏ bơi dưới đáy .Chính tại đây tôi đã câu được hai con cá mập lớn và cũng là nơi anh em lính chúng tôi thường tụ tập lại để câu cá ban đêm . Đứng trên cầu tàu nhìn chếch về hướng tây bắc,chúng tôi thấy được xác một chiếc tàu lớn bị chìm ,đứng trơ vơ giữa bãi san hô gần mí sóng cách chỗ chúng tôi đứng chừng 200 mét .Bác Phong cho tôi biết chiếc tàu này là tàu chở phân phốt phát về đất liền bị bỏ lại sau năm 1963 .Trên boong tàu gỉ sét là nơi tụ hội của các loài chim biển như bồ nông,nhạn biển ,hải âu . Tôi đã tốn hết 30 phút để đi giáp một vòng quanh đảo quan sát toàn cảnh khu vực đảo từ bờ cát ra đến mí sóng .Tôi ước đoán đảo Hoàng Sa có diện tích chừng 3,5 đến 4 km vuông .Phần đảo nhô lên khỏi mặt nước biển chừng 1,5 km vuông gồm có những tảng đá lớn nhỏ,bờ cát vàng bao quanh cùng với những cây nhàu và cây ráy biển mọc chi chít .Phần này cao hơn mặt nước biển độ 5 mét có bãi cát chạy lài xuống đến bờ nước .Từ bờ nước ra đến mí sóng là những rặng san hô đủ màu sắc và bông đá biển bao quanh đảo ngoại trừ bãi trước Miếu Bà thì rất ít san hô .Những bãi san hô này mọc lan xa ra tận mí sóng đến cả trăm mét có bãi xa đến hơn hai trăm mét .Hầu hết san hô và bông đá biển đều nằm chìm dưới mặt nước . Với mắt thường không cần dùng đến kính lặn biển ,chúng tôi cũng có thể thấy rỏ được những màu xanh tím đỏ vàng cam trắng của những nhánh san hô .Xen kẽ vào những nhánh san hô,những con cá nhỏ đủ màu sắc bơi lội và rỉa mồi là những sinh vật li ti bám trên san hô và bông đá biển .(San hô là loài động vật xoang trùng sống thành từng bãi ở bờ biển,cơ thể có bộ xương bằng chất khoáng kết thành khối theo hình gạc hưu)Tôi bẻ thử một nhánh san hô màu xanh đem lên khỏi mặt nước biển để phơi nắng độ 15 phút,san hô từ từ khô dần và chuyển sang màu trắng như vôi .Vì vậy chất phốt-phát trên đảo là do sự tác dụng của phân chim lên chất vôi của san hô tạo nên .Giữa những rặng san hô tôi cũng thấy được những khoảng cát rộng hơn một sân bóng rổ,chính tại những vũng cát trũng này anh em lính chúng tôi đã rượt bắt những con cá chúc đầu khi thủy triều rút xuống . Về hai đảo Quang Hòa (Duncan)và Duy Mộng (Drummond)thì tôi không được nhìn thấy vì tàu hải quân thay quân cho đảo Hoàng Sa (Pattle)trước tiên,sau đó mới đến đảo Duncan và cuối cùng là Drummond .Sau hơn ba tháng trú đóng trên đảo Hoàng Sa,ngày trở lại đất liền,đứng trên boong tàu tôi mới nhìn thấy được hai đảo này và theo lời kể lại của anh em lính đóng trên hai đảo cùng với sự quan sát được của tôi thì: đảo Duncan gồm có một đảo lớn nối liền với một đảo nhỏ bằng một giải cát chạy dài,nhô lên khỏi mặt nước biển độ bốn mét có nhiều tảng đá lớn nhỏ và bãi cát vàng bao quanh .Trên đảo có ngôi nhà bằng tôn cho anh em lính ở ,ba cây dừa cùng những bụi cây ráy biển .Đảo Drummond thì cũng vậy nhưng lại có được một con lạch nhỏ sâu chạy gần sát bờ . Vào thời điểm tôi ra thay quân cho đảo Hoàng Sa năm 1967, tôi không hề nghe ai nói (kể cả bác Phong bên đài khí tượng )về tên đảo Phú Lâm .Trên biên bản ký nhận bàn giao chỉ có những tên đảo Hoàng Sa (do tôi làm đảo trưởng )và hai đảo Duncan và Drummond do hai trung sĩ làm đảo trưởng .Năm 1974,Tr/úy Phạm Hy (Đại đội trưởng của tiểu đoàn tôi) kể lại với tôi là Trung Cọng đã cho quân đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert) trước rồi sau đó mới chiếm tiếp đảo Hoàng Sa và bắt toàn bộ anh em trên đảo làm tù binh chở về đảo Hải Nam Với sự kiện tranh giành xác định chủ quyền của đảo Hoàng Sa hiện thời giữa CS Việt Nam và Trung Cọng thì tôi nghĩ tên gọi đảo Phú Lâm (tên gọi hiện tại) có phải là tên của đảo Hoàng Sa do tôi trấn đóng năm 1967 ?
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 20, 2021 2:42:25 GMT 9
100 ngày
Sống trên đảo Hoàng Sa (phần II) Dư Mỹ thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_100NgayTrenDaoHoangSa2.htmHình dung trở lại những ngày tháng cũ sống trên đảo Hoàng Sa từ năm 1967 đến nay đã 46 năm trôi qua – 46 năm dài đăng đẳng .Hoàng Sa tuy đã mất vào tay quân cướp đảo Trung Cọng nhưng hình ảnh Hoàng Sa vẫn còn sống mãi trong tâm tưởng của tôi .Những kỷ niệm về Hoàng Sa,từ những sinh hoạt hàng ngày,từ những khuôn mặt sạm nắng của những người lính giữ đảo đến những chuyện vui buồn trên đảo vẫn còn in rỏ nét trong ký ức của tôi .Bây giờ tuy đã ngoại tuổi thất thập,đã là người lính già sống đời lưu xứ,nhớ trước quên sau nhưng có một dịp nào đó để tâm hồn lảng đảng trôi đến Hoàng Sa thì mọi việc trên đảo trong ký ức của tôi dễ dàng sống lại. Sinh hoạt hàng ngày trên đảo. Bắt vít và tìm trứng vít.Con vít Vít là tên gọi từ những người đánh cá biển và anh em lính đảo chúng tôi chỉ danh những con rùa biển,hình dáng giống như con đồi mồi,rất lớn,có con có mu dài đến 1,3 mét và ngang hơn 1 mét có bốn chân giống như chân đồi mồi dùng để bơi .Khi bò lên bờ để đẻ thì quạt bốn chân để trườn mình tới nhưng ở dưới nước thì bơi rất nhanh .Tuy là con vật sống dưới nước nhưng lại bò lên bờ cát đào ổ cạnh những bụi cây ráy biển để đẻ .Trứng vít có hinh tròn và nhỏ như quả bóng bàn,vỏ trứng mỏng nhưng dai ,màu trắng Khi luộc trứng vít,lòng đỏ trứng đông cứng lại như lòng đỏ trứng gà nhưng lòng trắng thì vẫn lỏng .Một con vít đẻ gần cả trăm trứng,có con đẻ nhiều hơn. Bữa thịt vít đầu tiên trên đảo. Sau hơn 20 tiếng đồng hồ lênh đênh trên mặt biển,đêm đầu tiên chúng tôi tìm vào giấc ngủ ngon lành .Thật sự một giấc ngủ bình yên đối với những người lính chiến như chúng tôi . Xa rời cuộc chiến .Sao trời trên đảo thay cho những đóm hỏa châu,tiếng gió biển cùng với tiếng sóng vỗ rì rầm đã thay cho tiếng rít dài của làn đạn pháo .Sống trên đảo không có hơi đất,ngủ nhiều và ít hoạt động dễ sinh ra bệnh phù thủng .cho nên từ chiều tôi đã động viên anh em lính mỗi sáng hàng ngày phải thức dậy sớm chạy vòng quanh đảo. Mặt trời mới bắt đầu hừng sáng nơi chân mây, chưa kịp thức dậy thì chúng tôi đã nghe tiếng réo gọi của Chi –tên một người lính –kêu anh em chúng tôi đi lật bắt vít .Té ra cậu này thức dậy từ sớm đi một mình ra bãi biển và trông thấy một con vít đang đẻ chưa bò xuống nước .Toàn thể chúng tôi thức dậy chạy xuống bãi cát nơi có con vít,ba người lính cùng nhau lật ngữa một con vít lớn .Con vít bị lật ngữa,phần nhô lên của mu vít nằm trũng xuống cát và bốn chân ngọ ngoạy giữa khoảng không .Đầu con vít giống như đầu con rùa và lớn như một bàn tay tôi chụm lại. Tôi thấy hai mắt của nó chảy dài nước mắt, những giọt nước mắt nhỏ xuống ướt cả một vùng cát nhỏ. Lần đầu tiên nhìn thấy được một con vít,chúng tôi không biết bằng cách nào để xẻ thịt .Trung sĩ Huynh đề nghị bắn vào đầu vít trước cho chết rồi mới lấy thịt .Hai phát súng cac-bin đoành đoành,đầu con vít nát bấy .Theo chỉ dẫn của trung sĩ Huynh ,tôi dùng lưỡi lê rọc theo đường mềm của cái yếm con vít dưới bụng .Cái yếm vít được nâng lên,cả cái mu vít lật ngữa giống như một cái chảo lớn đựng đầy huyết và ruột gan phèo phổi. Chúng tôi nghiêng mu vít cho huyết vít chảy ra ngoài xong dùng dao lạng từng miếng thịt vít và đem bộ lòng vít ra ngoài .Con vít lớn nên thịt vít rất nhiều,tôi đề nghị bỏ vào thùng thiếc muối để dành ăn trong những ngày biển động không bắt được cá .(kết quả năm ngày sau đó phải mang ra cầu tàu đổ vì hôi thối) Chúng tôi mang thịt vít về xắt ướp với gia vị từ đất liền mang theo cùng với sả trồng trên đảo. nấu hai món xào và cari .(thịt vít có màu đỏ,mềm,giống thịt bò,nhưng có người nói ăn nhiều sẽ bị nổi phong) .Trong bộ lòng vít,phần ngon nhất là bao tử vít (giống như bao tử bò )màu trắng,mặt bên trong bao tử có những lớp gai lớn ngắn và không có mùi hôi vì vít ăn toàn rong biển ,luộc chín ,chấm với mắm ăn giòn như bao tử bò .Thế là ngày hôm đó và hai ba ngày kế tiếp chúng tôi chỉ ăn toàn thịt vịt đến phát ớn. Tìm đào trứng vít. Vít thường bò lên bờ cát đào lỗ để đẻ trứng .Thời điểm chúng bò lên bờ là sau 10 giờ tối và bò trở lại xuống nước khi trời hừng sáng .Sau khi tìm được vị trí thích hợp làm ổ,vít dùng hai chân sau moi một cái lỗ sâu chừng bốn tất và rộng chừng ba tất,kê đít vào để rặn đẻ .Khi đã đẻ hết trứng chúng dùng hai chân sau lấp cát lại và xoay mình cà cái yếm dưới bụng tại lỗ vừa mới đẻ ngang với mặt cát,tiếp tục bò đi và lặp lại như vậy vài chỗ để ngụy trang,vì thế nếu không rình được chỗ vít đẻ rất khó tìm thấy trứng. Xung quanh bãi cát đảo Hoàng Sa,chúng tôi thường thấy mỗi đêm có chừng năm sáu con vít bò lên bờ để đẻ .Để tìm được trứng vít,chúng tôi dùng cây thông nòng súng garant M1 thọc sâu xuống cát những chỗ vít xoay mình ngụy trang xong rút cây thông nòng lên,nếu đầu cây thông nòng có dính chất ướt nhầy của trứng thì đích thực là ổ vit đẻ và từ từ moi cát đem trứng vít lên Thường một ổ vít đẻ chúng tôi đếm được trên 80 trứng Trứng vit đào được không thể ăn hết một lần,chúng tôi đào một lỗ cát bỏ trứng xuống và lấp cát lại,khi cần ăn lại moi cát lấy trứng lên. Hầu như mỗi người trong chúng tôi đều có một lỗ chôn trứng vít để ăn từ từ. Rình xem vít đẻ. Để biết được vít đẻ trứng như thế nào,tôi rũ Trung sĩ Huynh,y tá Khôn và tôi mang đèn pin đi rình xem vít đẻ .Đúng 11 giờ tối (thời điểm vít thường bò lên bờ )chúng tôi đi vòng quanh đảo,giữ im lặng và không mở đèn sáng .Trời sáng lờ mờ nhờ đêm có nhiều sao .Chúng tôi thấy một con vít lớn từ dưới nước đang bò trườn lên bờ một cách nặng nề .Chúng tôi dừng lại,nấp vào một bụi cây ráy biển để quan sát ,rất im lặng (nếu vít phát hiện có tiếng động hoặc có người thì sẽ bò trở lại xuống nước )con vít bò tới bò lui tìm một vài chỗ và cuối cùng thì cùng tìm được một vị trí thích hợp là một chỗ cát cao cạnh bụi cây ráy biển để đào lỗ đẻ trứng. Ba người chúng tôi yên lặng quan sát .Con vít nằm im,dùng hai chân sau đào một cái lỗ cát sâu và rộng chừng ba tất .Hai chân sau của con vít hất tung cát ra xa,chúng tôi cũng nghe được tiếng cát bay rào rào khi chạm vào những lá cây ráy biển .Đào được một hồi lâu,con vít đặt đít ngay trên miệng lỗ cát vừa mới đào,hai chân sau khép lại hai bên miệng lỗ cát,hai chân trước khép lại hai bên đầu và bắt đầu rặn đẻ .Ba người chúng tôi rón rén bò lại phía sau nằm dài trên cát và pin đèn ngay xuống miệng ổ vít để xem .Con vít rặn và thở rất lớn ,nó có vẻ như rất mệt .Mỗi lần vít rặn đẻ,chúng tôi thấy rơi ra từ hai đến ba trứng và có rất nhiều nước nhờn .Tôi se sẽ đặt một bao cát dưới đít con vít và mỗi lần nó rặn trứng vít đều rớt vào bao cát .Trứng trong bao đã nhiều,con vít ngưng không rặn nữa,tôi xách bao cát trứng lên và không quên nhặt lấy những quả trứng còn lại trong lỗ .Con vít bắt đầu dùng hai chân sau lấp cát lại .Lỗ cát đã đầy và nó xoay mình dùng bụng để khỏa bằng ổ trứng vừa mới đẻ .Vít tiếp tục bò trên cát cách ổ của nó chừng hai đến ba mét ,lại xoay mình cà bụng trên cát và cứ như vậy đến ba bốn lần lặp lại như để ngụy trang cho ổ trứng. Xong công việc ngụy trang ,con vít trườn mình bò trở lại xuống nước một cách mệt mõi .Tôi không hiểu bao lâu thì trứng vít sẽ nở ra vít con và vít mẹ có nhận ra được đàn con của nó hay không. Thời gian sau,tình cờ một lần dạo quanh đảo tôi đã chứng kiến được một đàn vít con nhỏ hơn quả trứng gà đang ngoai lên từ mặt cát và từ từ bò trườn xuống nước. Nhừng con vít con trông thật dễ thương. Thỉnh thoảng trong những lần dạo biển tôi cũng nhìn thấy những xác vít con chết bị sóng đánh tấp vào bờ. Ăn bao tử vít. Có một việc làm mà bây giờ hồi tưởng lại tôi vẫn cảm thấy ân hận ,một việc mà đáng lý ra tôi phải ngăn cản và không nên tham dự vào,một việc rất ư tàn nhẩn đối với một sinh vật biển .Đó là lật bắt vít mổ bụng lấy bao tử luộc ăn. Tán thành với đề nghị của mọi người ,chúng tôi lật ngữa một con vít,dùng lưỡi lê rọc theo một nửa bụng vít xong nâng yếm vít lên .Thò tay sâu vào trong bụng con vít ,móc bộ lòng vít ra ngoài và chỉ cắt lấy phần bao tử vít .Tôi thấy bốn chân nó ngọ ngoạy liên tục,nước mắt chảy dài xuống cát .Sau khi cắt lấy bao tử,chúng tôi lật úp con vít trở lại .Nó cố gắng trườn mình bò xuống nước .Máu vít đỏ loang đầy trên cát .Đến được nước,nó quạt mạnh bốn chân và bơi thật nhanh ra chỗ nước sâu .Con vít thật ra rất mạnh .Đôi lúc nghịch ngợm,hai người lính leo lên đứng trên mu vít ,nó vẫn trườn mình bò đi được. Ngày hôm sau,cách chỗ chúng tôi mổ bụng vít khoảng 50 mét,tôi thấy cả một đàn cá mập lớn nhỏ có đến 10 con quần tụ giành mồi .Thì ra con vít đã chết nổi lềnh bềnh và lũ cá mập có được một bữa thịt vít ngon lành .Có phải vì tôi đã quen nhìn nhừng cái chết bi thương ,những đau đớn tột cùng khi đạp phải mìn của anh em lính chúng tôi trong những cuộc hành quân mà tôi lại dửng dưng trước sự quằn quại đau đớn của một con vật ! Trong suốt thờì gian trấn đóng trên đảo ,chúng tôi chỉ bắt ăn thịt tổng cọng 3 con vít kể cả con vít chỉ ăn độc nhất cái bao tử .Những người bên đài khí tượng họ không ăn thịt vít nên đã từ chối khi chúng tôi mang thịt vít cho họ .Lấy thịt một con vít thì quá nhiều,chúng tôi ít người nên cũng biếng nhác không muốn làm thịt vít dù hàng đêm vít bò lên đảo rất nhiều . Câu cá và bắt cá.Nói đến Hoàng Sa,ngoài những tài nguyên phong phú về khoáng sản,khí đốt và dầu lửa chúng ta phải kể đến trử lượng cá .Biển quanh đảo Hoàng Sa là nơi qui tụ hầu hết các loại cá ngon có giá trị cao trong ngành đánh bắt thủy sản .Cũng chính vì vậy , nên dù quân cướp đảo Trung Cọng đã chiếm đảo Hoàng Sa từ năm 1974,kiểm soát các đảo và những vùng biển xung quanh,ngư dân Việt Nam chúng ta từ các tỉnh lân cận cùng với ngư dân Quảng Nam Đà Nẵng vẫn kiên cường bám biển đánh bắt thủy sản .Một phần vì cuộc sống ,một phần để xác định chủ quyền của vùng biển quê hương . Cá ở Hoàng Sa thì nhiều vô kể,nhưng những loại cá đánh bắt được nhiều thì hầu hết nằm ở ngoài khơi .Riêng quanh đảo chúng tôi trấn đóng ,kể từ mí sóng trở vào bờ cát,xen kẽ với những bãi san hô chúng tôi thấy có rất nhiều loại cá .Nhiều nhất là cá mó xanh(loại cá này lớn bằng hai ngón tay có màu xanh lá cây)và cá rô biển có màu đen .Hai loại cá này thì rất nhiều ,chúng lội quanh những nhánh san hô và bông đá biển để rỉa mồi ,chúng tôi lội xuống nước chúng thường bu lại rỉa cắn xung quanh chân .Ngoài hai loại cá này ra là những con cá đủ màu(cá cảnh) bơi lội chen vào giữa những nhánh san hô đầy màu sắc trông rất đẹp mắt .Những con cá mú bông lớn bằng cổ tay,miệng rộng với những đốm vàng ,đen trên lưng cũng không ít ,chúng thường ẩn nấp trong những hang nhỏ dưới tảng bông đá .Thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy được nhiều đàn cá lạ di chuyển vào gần đảo,cá đối,cá cơm, mực và đôi khi là những con cá mập lội sát bờ bắt mồi .Khi thủy triều xuống ,chúng tôi lội trên những bãi san hô nước khoảng trên đầu gối thấy được những con hải sâm ( đĩa biển )và rất nhiều nhím biển ( sinh vật biển có hình tròn,dẹp,có rất nhiều gai nhọn dài gần 1 tất mọc tua tủa quanh mình,có màu nâu hoặc đen )Lội biển đụng phải chúng thì chân bị ngứa ngáy khó chịu . Bủa lưới bắt cá. Sau ba ngày ăn thịt vít ớn đến tận cổ,chúng tôi bắt đầu đi bủa lưới bắt cá .Trời về chiều,chúng tôi đem hai tay lưới mua từ Đà Nẳng ra thả xuống bãi nước gần cầu tàu và dự trù sáng hôm sau sẽ rủ nhau ra gở cá .Chúng tôi trở vào nhà và yên trí nhờ hai tay lưới này chúng tôi sẽ có cá ăn đều đặn mỗi ngày. Sáng hôm sau thức dậy sớm mọi người gọi nhau đi gở cá mắc lưới .Đến nơi lội xuống bãi nước nơi thả hai tay lưới,chúng tôi thấy cá mắc vào lưới dày đặc,nhiều nhất là cá rô biển và cá mó xanh ,ngoài ra cũng có một vài con cá lạ mà chúng tôi không biết tên .Lưới quện vào nhau như một đống bùi nhùi,có đoạn rách toạc vì những con cá lớn vùng vẩy khi bị mắc lưới .Kết quả không như chúng tôi mong muốn,hai tay lưới chỉ dùng được một đêm ,loại cá mó xanh và cá rô biển thì không cần thả lưới bắt lúc nào cũng được .Hy vọng dùng hai tay lưới để có cá ăn hàng ngày đã tiêu tan và chúng tôi lên phương kế khác . Câu cá mú bông. Trong các loại cá quanh đảo,chúng tôi thấy cá mú bông là loại cá có thịt ăn ngon hơn cả .Dưới hang của những tảng bông đá biển thường có từ ba đến bốn con cá mú bông trú ngụ .Câu loại cá này thì cũng dễ dàng vì miệng cá lớn và lại tạp ăn .Để câu được cá mú bông ,chúng tôi phải lội ra chỗ có nước sâu đến ngực .Đầu tiên ,chúng tôi bắt ốc câu vài con cá mó xanh bằng lưỡi câu nhỏ xong cắt cá ra từng khúc móc vào lưỡi câu làm mồi câu cá mú, ném miếng mồi gần cạnh tảng bông đá,chìm đưới nước và nhìn thấy được miếng mồi .Vì nước biển trong và sóng nhỏ nên chúng tôi có thể nhìn thấy được những con cá mó xanh và cá rô biển bu quanh rỉa mồi .Từ trong hang bông đá ,cá mú sẽ chạy ra đớp mạnh miếng mồi và chạy ngược vào hang ,chúng tôi giật mạnh cần câu ,con cá chưa kịp vào hang đã bị dính lưỡi câu .Nếu chẳng may cá rúc vào hang rồi,bắt lấy cá rất khó .Đôi lúc chúng tôi phải dùng một cây gậy dài để nạy tảng bông đá lên bắt lấy cá .Gặp phải tảng bông đá lớn thì phải đành cắt cước bỏ lười câu. Đi câu cá mú ,thường chúng tôi đi chung hai đến ba người ,đem theo mỗi người một cây gậy dùng để đi dạo biển .Cây gậy thường dài độ hai mét chắc và cứng .Một đầu gậy chúng tôi cột vào ba chỉa nhọn bằng sắt ,mục đích để cắm xuống cát giữ xâu cá mú câu được và dùng làm vũ khí để đề phòng chống đỡ những con cá mập lội gần bờ bắt mồi .Khi cá mập bơi đến gẫn ,chúng tôi rút cây gậy và thọc lia lịa để xua cá mập đi nơi khác .Thường những con cá mập vào kiếm mồi gần bờ không lớn lắm,chúng lội đưa cả vây trên lưng lên khỏi mặt nước .Trong khoảng thời gian hai đến ba tiếng đồng hồ ,chúng tôi có thể câu được 50 đến 60 con cá mú (nếu mặt nước biển yên không có sóng )Phần nhiều sóng lớn đánh ngoài mí sóng và lan dần vào bờ đảo chỉ còn lại những gợn sóng nhỏ lăn tăn .Có nhiều hôm biển lặng mặt nước biển như một mặt gương nằm ngang phẳng lặng .Gặp những hôm như vậy chúng tôi câu được rất nhiều cá mú bông . Cá mú câu được,chúng tôi dùng một phần nấu canh ,xào đôi lúc nướng ăn rất ngon,số lớn còn lại chúng tôi xẻ làm hai và phơi khô mang về đất liền .Cái thú của chúng tôi khi đi câu cá mú bông là đốt một đống lửa trên bãi cát nướng những con cá mú lớn vừa câu được,ngồi gở thịt ăn và tán gẫu chuyện đời . Câu cá mập. Một đêm trăng ,năm người chúng tôi rủ nhau ra cầu tàu câu cá mập .Để có đủ đồ nghề câu cá mập ngoài chiếc lưỡi câu lớn (có đường kính bằng đầu chiếc đủa )chúng tôi dùng ba sợi dây kéo điện thoại bện con tít lại với nhau dài độ 20 mét ,một cục chì lớn nấu từ 10 mũi đạn Garant M1 cột vào gần lưỡi câu .Mồi là một con cá mú lớn .Nơi cầu tàu có một luồng nước sâu từ mí sóng chạy vào và có một khoảng cát rộng không có san hô .Những con cá mập lớn nhỏ từ mí sóng thường hay lộivào đây săn mồi khi thủy triều lên . Sau khi móc mồi vào lưỡi câu,tôi cuốn vòng sợi dây điện thoại lại theo nhiều vòng và ném thật mạnh ra xa giống như những chàng cao-bồi miền viễn tây vung vòng dây bắt ngựa .Mồi chìm sâu xuống nước ,tôi cột sợi dây điện thoại vào cây cọc sắt trên cầu tàu vòng qua một thùng thiếc trống để khi cá mập ăn mồi kéo dây,thùng thiếc sẽ rơi xuống báo hiệu cho chúng tôi biết .Chúng tôi ngồi đợi cá ăn mồi và kể cho nhau nghe những chuyện ở quê nhà. Đúng như mong đợi của tôi,chiếc thùng thiếc rơi xuống ,tôi cầm dây điện thoại giật mạnh,con cá mập bị mắc lưỡi câu .Với sức một mình tôi không thể nào kéo nổi ,bốn anh em lính xúm vào kéo hộ .Có lúc chúng tôi nới dây điện thoại ,có lúc chúng tôi kéo mạnh để quần thảo với con cá mập .Đang trên đà ráng sức kéo lui ,dây điện thoại đứt,chúng tôi ngã lăn trên cầu tàu .Kết quả mất một lưỡi câu cá mập và chúng tôi lồm cồm đứng dậy vào nhà .Tôi kể chuyện câu cá mập với bác Phong ,bác cười và cho tôi 20 sải cước câu cá mập .Cước có màu xanh nhạt và lớn hơn sợi dây điện thoại ,bác Phong nói chỉ có loại cước này mới đủ sức câu được cá mập lớn . Đêm hôm sau ,sửa soạn đầy đủ mọi thứ câu cá mập ,chúng tôi lại trở ra cầu tàu và lặp lại những động tác cũ .Ngồi đợi và tán gẫu với nhau độ 30 phút ,chiếc thùng thiếc rơi xuống báo hiệu cá đã ăn mồi ,tôi cầm sợi cước giật mạnh và cá mập mắc câu .Chúng tôi chung sức lại kéo sợi cước,con cá mập trì mình lại ,chúng tôi nới cước xong lại tiếp tục kéo và cứ như vậy đến hơn 30 phút,con cá mập mắc câu hình như đã đuối sức theo chiều cước vào đến gần chân cầu tàu Tôi rọi đèn xuống nước và thấy cá rất lớn .Con cá vẫn vùng vẫy lăn lộn còn chúng tôi xúm nhau giữ chặc sợi cước Tôi bảo Hóa –tên một người lính –chạy vào nhà lấy khẩu Garant M1 ,tôi nhắm bắn nguyên một gắp đạn Garant tám viên vào đầu con cá mập ..Con cá bị đạn bớt vùng vẫy và đã yếu sức .Lúc bấy giờ tất cả chúng tôi đều có mặt trên cầu tàu .Mười người lính lội xuống nước khiên con cá lên để nằm dài trên sàn xi-măng , nó vẫn còn sống ,chiều dài gần 2,5 mét và thân cá rất lớn có màu xam xám .Chi –tên một người lính –tưởng cá đã chết,thò tay vào miệng rờ mấy cái răng,con cá táp mạnh bị thương một lóng tay . Chúng tôi khiên con cá mập bỏ lên xe gòong đẩy về nơi giếng nước trước tòa nhà chúng tôi ở .Đốt đèn sáng lên ,chúng tôi cắt đầu con cá mập và mổ bụng đem bộ lòng ra ngoài,bộ lòng cá đựng đầy một thúng lớn .Đầu con cá vẫn còn nguyên 8 mũi đạn Garant ghim vào mà không xuyên thấu qua được,lý do những mũi đạn khi tôi bắn xuống đã bị nước cản .Con cá tôi câu được có cái đuôi và bộ vây thật lớn .Trung sĩ Huynh xin toàn bộ .Tôi hỏi anh ta và được trả lời xin về làm thuốc .Sau này tôi mới biết được anh ta mang về đất liền và bán được rất nhiều tiền ,người ta mua để chế biến vi cá nấu súp .Chúng tôi lấy một ít lòng cá nấu cháo còn toàn bộ thịt cá tôi chia cho tất cả anh em lính phơi khô làm khô cá mập .Trong suốt thời gian đóng trên đảo ,tôi và trung sĩ Huynh đã câu được bốn con cá mập nhưng chỉ có con cá mập tôi câu được đầu tiên là lớn hơn cả . Bắt cá chúc đầu. Khi thũy triều rút xuống ,xung quanh đảo chỉ còn trơ lại những bãi san hô chạy ra xa tận mí sóng .Bình thường khi san hô ở dưới mặt nước ,chúng cho những màu sắc rất đẹp nhưng khi nước cạn ,san hô nhô lên khỏi mặt nước trông chúng xấu xí chỉ toàn là một màu trắng đục vì chưa bị khô chết .Vào thời điểm này ,chúng tôi rủ nhau đi tìm bắt cá chúc đầu . Sỡ dĩ chúng tôi gọi là cá chúc đầu vì chúng tôi không biết tên loại cá này .Mình cá hơi dẹp,lớn bằng bắp chân,vảy cá nhỏ màu trắng .Đặc biệt miệng cá rất nhỏ nên chúng thường chúc đầu xuống rỉa những sinh vật biển li ti bám dưới những gốc san hô hoặc trên mặt bông đá biển.Chúng say sưa rỉa mồi không hề để ý đến thời gian thủy triều xuống .Khi phát hiện nước đã rút ,chúng lui ra vùng nước sâu thì bị những rặng san hô như hàng rào cản đường .Để thoát thân ,chúng tìm những trũng nước rộng để qui tụ vào đó .Chúng tôi cầm trên tay mỗi người một khúc cây ngắn rượt đánh và ném chúng lên bãi san hô .Thường một trũng nước có khoảng 20 đến 25 con cá chúc đầu .Thịt chúng mềm,không có độ dai nên chúng tôi ít phơi khô . Ném lựu đạn bắt cá. Ngày rời đất liền,chúng tôi mang theo nhiều lựu đạn M 26 xin từ các bạn đồng đội để ra đảo ném cá , nhờ những quả lựu đạn này mà chúng tôi bắt được nhiều mẻ cá lớn .Khi thủy triều lên ,chúng tôi thường đi dạo quanh đảo để tìm những đàn cá vào sát bờ , khi đã phát hiện ra ,chúng tôi xử dụng lựu đạn để bắt cá .Đã hai lần bắt cá bằng lựu đạn thất bại ,rút chốt lựu đạn , chúng tôi ném xuống ngay đàn cá , lựu đạn chìm xuống nước và chờ một vài giây sau mới nổ .Kết quả đàn cá vụt chạy tứ tung chỉ chết có vài con chạy sau cùng .Một người lính tên Thanh đã “gồng mình” nghĩ ra một cách ném lựu đạn bắt cá .Anh ta cho lựu đạn bật chốt trên tay,đếm 1,2,3 rồi mới ném xuống nước .(có hai loại lựu đạn :lựu đạn ném tay và lựu đạn gài,lựu đạn gài có một dấu chấm đỏ trên mỏ vịt ,bật mỏ vịt lựu đạn sẽ nổ ngay )Kết quả nhờ lối ném này,chúng tôi đã bắt được nhiều đàn cá bơi vào gần bờ .Có nhiều đàn cá anh em chúng tôi bắt được đến hai ,ba bao tải,loại bao tải gạo 46 kg đem phơi khô .Hầu hết cá bắt bằng cách ném lựu đạn đều nhỏ như cá liệc hoặc cá đối .Chúng tôi cũng thử ném lựu đạn để bắt cá mập nơi cầu tàu nhưng chẳng ăn thua gì đối với chúng .Lựu đạn nổ , chúng quay đuôi chạy ra mí sóng xong lại trở vào để ăn những con cá bị chết vì lựu đạn . Tôi còn nhớ,có một lần tôi cùng cậu vợ tôi Trần Huỳnh Mính,anh Phùng Rân và Phạm Phú Lợi đi ra Cù Lao Chàm đóng trại hè với học sinh Trần Quí Cáp .Tôi mang theo lựu đạn và dùng lối ném này bắt được một bao tải cá đủ loại về giao cho đầu bếp .Bây giờ đã là người lính già,nghĩ lại nếu phải ném lựu đạn theo kiểu này thì tôi sẽ xin đưa tay chào thua. Ốc ở Hoàng Sa.Ngoài những tài nguyên phong phú về hải sản như cá ,rong biển ,rùa biển quanh đảo ,Hoàng Sa còn có nhiễu loại ốc ngon như ốc gân,ốc vú nàng ,ốc nhảy ,ốc tai tượng v..v..và nhiều loại ốc hoa dùng trong lĩnh vực mỹ nghệ rất đẹp mắt . Bắt ốc gân. Mọi người từ những đợt trước cũng như chúng tôi đều gọi loại ốc này là ốc gân ,nhưng thật ra hình dáng của chúng giống như một con sò rất lớn .Bình thường chúng lớn bằng chiếc nón sắt quân đội nhưng đôi khi chúng tôi cũng thấy được có con lớn gấp đôi .Chúng có hai chiếc vỏ,nơi miệng vỏ có những đường cong lên cong xuống rất bén ,khi chúng khép hai vỏ lại thì những đường cong này ăn khớp với nhau .Chúng mở và ngậm hai vỏ lại nhờ một sợi gân lớn màu trắng trong và có tính đàn hồi . Theo chỉ dẫn của bác Phong ,bắt ốc gân phải thật cẩn thận nếu chẳng may bị ốc kẹp ,gặp con ốc lớn có thể bị đứt lóng tay .Muốn bắt ốc gân phải dùng một cây gậy và một con dao bén có lưỡi giống như chiếc đục hoăc có thể dùng lưỡi lê mài bén để nhủi đứt gân ốc . Ở dưới nước ,ốc gân mở rộng hai vỏ ra để bắt mồi .Mồi là những sinh vật li ti bị hút và miệng .Khi phát hiện ra ốc gân ,chúng tôi lấy cây gậy thọc vào miêng ,ốc gân khép hai vỏ lại rất nhanh ,bị cấn cây gậy hai vỏ ốc không thể liền kín vào nhau được và để hở một đường trống dài theo miệng ốc .Chúng tôi dùng dao nhủi sát bên trong vỏ ốc nơi có chiếc gân .Bị đứt gân , hai vỏ ốc tự động mở rộng và chúng tôi tiếp tục nhủi phần vỏ còn lại ,moi toàn bộ thịt ốc ra và gở lấy gân . Thường sợi gân ốc khi thun lại có đường kính từ hai đến ba phân .Chúng tôi chỉ bắt những con ốc gân có độ lớn hơn cái tô lớn ,thịt và ruột ốc rất nhiều nhưng chúng tôi không ăn mà chỉ bằm nhỏ làm thức ăn cho vịt .Gân ốc ,chúng tôi dùng dao lạng theo vòng tròn hoặc xẻ mỏng dài theo đường zic-zac đem phơi khô .Gân ốc gân khô nướng ăn ngon hơn mực khô nhưng gân còn tươi đem xào ăn rất dỡ . Bắt ốc nhảy. Ốc nhảy Ốc nhảy có độ lớn bằng ba ngón tay chụm lại ,nơi vảy đậy miệng ốc có một cái càng dài độ 5 phân đưa ra ngoài,khi di chuyển ốc nhảy dùng chiếc càng này búng mạnh xuống cát và đưa mình tới .Ốc nhảy sống rất nhiều ở bãi cát trước Miếu Bà,khi nước cạn chúng tôi rủ nhau đi bắt ốc tại bãi này .Ốc bắt được ,luộc chín cầm chiếc càng và rút thịt ốc ra khỏi vỏ dễ dàng .Thịt ốc nhảy xào ăn rất ngon , chúng tôi cũng phơi khô và mang về đất liền .Loại ốc này có đít ốc rất dày dùng để mài nhẩn nhiều màu sắc rất đẹp nên chúng còn có tên là ốc nhẩn .Thường mài được một chiếc nhẩn ốc ,chúng tôi cũng mất nửa ngày công tùy theo kiểu cách . Bắt ốc tai tượng. Ốc tai tượng Loại ốc này thường sống ở những bãi cát sạch nước sâu trên hai mét .Chúng thường úp miệng xuống cát và đưa vỏ ốc lên trên .Miệng vỏ ốc có màu vàng ánh rất đẹp ,lớn và loa ra giống như cái tai voi vì vậy nên được gọi là ốc tai tượng .Thịt ốc có màu vàng nhạt ,luộc hoặc xào ăn giống như lưỡi bò .Vỏ ốc thường để trang trí làm cảnh nơi phòng khách cho nên muốn giữ được màu vàng ánh nơi miệng ốc chúng tôi không thể luộc chín ốc mà phải lấy thịt ốc khi còn tươi .Nếu không muốn lấy thịt ốc để ăn thì có thể đem ốc chôn xuống cát độ một tuần sau đó đào lên đem súc sạch để lấy vỏ .Còn muốn lấy cả vỏ ốc lẫn thịt (con lớn thịt có thể gần 1 kg)thì phải biết phương pháp . Theo chỉ dẫn của bác Phong ,đầu tiên chúng tôi cột một sợi dây trên vỏ ốc và treo chúc ngược miệng ốc xuống phía mặt đất .Đợi chừng 30 phút ốc khát nước và ló miệng ra ngoài (nếu đụng vào ốc sẽ thụt miệng vào ngay),chúng tôi dùng một sợi dây điện thoại thắt chiếc vòng,chờ ốc ló miệng ra,thật nhanh tay đưa vòng thắt chặt miệng ốc lại,lúc này ốc đã thụt miệng vào .Chúng tôi dùng một cục đá nặng độ 2 đến 3 kg cột vào sợi dây vừa thắt miệng ốc và treo tòn ten như vậy . Ốc khát nước,lại thò miệng ra ,cục đá nặng cứ trì xuống và cứ như thế từ từ ốc sẽ mõi và tụt toàn bộ thịt ốc ra ngoài .Đem vỏ ốc súc sạch với nước biển và vẫn giữ được màu vàng ánh rất đẹp Trong một lần về Việt Nam ,du lịch xuống Vũng Tàu tôi thấy tại đây người ta bán rất nhiều ốc tai tượng ,họ xử dụng ốc tai tượng trong mỹ nghệ chạm khắc nhiều hình rất đẹp . Ốc gạo Hòang Sa. Sở dĩ chúng tôi gọi là ốc gạo Hòang Sa vì hình dáng của loại ốc này giống như ốc gạo nhỏ bán ở Hội An .Ốc gạo Hoàng Sa có độ lớn bằng đầu ngón tay cái ,ban ngày không thấy được chúng nhưng chạng vạng tối chúng từ dưới cát bò lên rất nhiều .Những bãi cát cạnh cầu tàu là nơichúng sinh sản và trú ngụ nhiều nhất .Chúng tôi đốt đèn sáng và rủ nhau đi bắt ốc khi trời tối ,thường mỗi đêm chúng tôi có thể bắt được hơn một thùng thiếc .Ốc bắt được đem về ngâm nước biển độ một ngày cho sạch cát rồi đem luộc chín lể (nhể) ăn rất ngon ,đôi lúc chúng tôi lể dồn lại rồi đem xào với bí đỏ từ đất liền mang ra . Ốc vú nàng. Ốc vú nàng Ốc có hình xoắn nhiều vòng và có chóp nhọn như hình kim tự tháp lớn bằng nắm tay ,vì vậy nên mọi người đều gọi là ốc vú nàng .Ốc không có nhiều và thịt loại ốc này rất ngon .Thường khi thủy triều xuống,chúng tôi đi dạo trên những bãi san hô thì bắt được chúng . Ốc hoa. Xung quanh những bãi san hô ,dưới những tảng bông đá có rất nhiều loại ốc hoa đủ màu sắc đủ kích cỡ hình dáng .Con lớn nhất cũng bằng quả trứng gà và nhỏ cũng bằng hạt đậu phụng .Có nhiều con ốc trên vỏ ốc sần sù và có nhiều càng đưa ra dính liền với vỏ ốc .Khi nước cạn,chúng tôi lội gần đến mí sóng lật những tảng bông đá nhỏ và bắt được rất nhiều ốc hoa .Đứng sát mí sóng ,nhìn xuống những hang đá nước sâu xanh thẳm chúng tôi thấy rất nhiều đàn cá mú lớn bằng bắp chân lội qua lội lại .Chúng tôi phải bắt nhanh ốc hoa để quay vào bờ vì thủy triều sẽ lên trở lại .Riêng tôi đã bắt được nhiều con ốc hoa rất đẹp,có con trên lưng vỏ ốc đen nhánh điểm những chấm vàng ánh như những hoa mai vàng năm cánh .Có con có màu đỏ huyết dụ trên vỏ điểm những chấm trắng, vàng. Với những con ốc hoa này khi mang chúng về đất liền, tôi đã tặng cho người tôi yêu làm quà từ hải đảo. Đi dạo biển bắt ốc hoa,chúng tôi cũng thường bắt được những con hải sâm,hình dáng chúng giống như con đĩa nên còn có tên là đĩa biển,lớn bằng ổ bánh mì thịt Lee Sandwiche có màu nâu hoặc màu vàng sậm .Chúng tôi dùng dao bén rọc từ đầu đến đít,mở rộng thân ra,trong bụng hải sâm chỉ thấy toàn tơ giống như mủ mít màu trắng .Hải sâm được cạo rửa sạch và phơi khô,khi dùng đem ngâm nước nở ra cắt từng miếng nhỏ nấu cháo hoặc súp rất bổ cho sức khỏe . Chim ở Hoàng Sa. Khoáng sản chính của Hoàng Sa là phốt-phát do sự tác dụng của phân chim lên chất vôi của san hô tạo nên vì vậy chim ở Hoàng Sa nhiều vô số kể .Những loại chim mà chúng tôi thường thấy là hải âu,nhạn biển,yến, bồ nông .Chúng thường qui tụ về những đảo không có người để làm tổ đẻ con .Thịt của chúng rất tanh dù ướp nhiều gia vị khi nấu ,chúng tôi đã bắn thử vài con nhưng không thể ăn được .Đứng trên đảo Hoàng Sa nhìn ra hướng biển chúng tôi thường thấy những bầy chim chúi đầu sà xuống mặt nước bắt mồi .Nếu thấy cả bầy chim là nơi vùng biển đó có cả một đàn cá nhỏ bơi gần mặt nước ,thường là những đàn cá cơm . Chiếc tàu chở phân bị chìm cách bờ cát 200 mét là nơi các loại chim biển thường tụ tập lại phơi nắng .Một lần đi câu cá mú bông với Trung sĩ Huynh,tôi đến gần chiếc tàu đã bị chúng tấn công,bay sà xuống mổ lên đầu tôi giống như những chiếc phản lực chúi xuống ném bom ,may là tôi có đội chiếc mũ đi rừng .Tôi dùng cây gậy đi biển quơ lia lịa trên đầu để đuổi chúng,Trung sĩ Huynh câu gần đó chạy đến vừa la vừa quơ gậy đuổi dùm chúng mới chịu bay đi . Còn chim yến,chúng làm tổ ở nơi đâu chúng tôi không tìm thấy .Chỉ khi nào ở Hoàng Sa bị gió bão,chúng không bay về kịp tổ nên phải bay đến trú tạm nơi tòa nhà chúng tôi ở,qua cơn gió bão chúng lại bay đi (còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 20, 2021 2:46:48 GMT 9
100 ngày
Sống trên đảo Hoàng Sa (đoạn kết) Dư Mỹ thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_100NgayTrenDaoHoangSa3.htmTản mạn về những chuyện vui buồn trên đảo. Đi câu cá bị cá rỉa “chim” Ở một nơi thật sự vắng bóng đàn bà nên những ngày đầu tiên trên đảo ,một vài anh em lính thích khỏa thân dạo quanh đảo. Một lần đi câu cá mú bông,lội xuống nước sâu đến ngực,vài người không mặc quần ,mắt đăm đăm nhìn vào miếng mồi đang chờ cá mú trong hang cắn câu không hề để ý đến những gì xảy ra quanh thân mình .Bỗng cảm thấy bị đau nhẹ và và nhột nơi hạ bộ,nhìn xuống thấy hơn mười con cá mó xanh và rô biển xúm nhau bu lại rỉa “chim” .Đưa tay đuổi chúng đi,rút tay lên chúng lại tiếp tục bu rỉa, cuối cùng đành ngưng câu chạy vào nhà lấy quần mặc vào câu tiếp. Những ngày đầu lội biển,hầu hết chúng tôi đi chân không và mặc mỗi chiếc quần đùi thậm chí có người khỏa thân như Adam ,kết quả chân người nào người nấy bị san hô cắt trầy xước rất nhiều .Đôi lúc bị sụp chân vào rặng san hô phải khó khăn lắm mới rút chân lên được ,sau đó chúng tôi đi câu hoặc đi lội biển bắt ốc đều phải mặc quần dài và mang giày bố . Câu cá mập bị cá kéo chạy . Có một đêm,năm người chúng tôi rủ nhau ra bãi cát gần cầu tàu trải pon-cho ngủ và luôn tiện câu cá mập .Sau khi ném mồi ra chỗ nước sâu,chúng tôi nằm nhai ốc gân nướng và kể cho nhau nghe những lần hành quân ở quê nhà và mơ ước viễn vông trên hải đảo .Đã lâu lắm rồi không thấy được bóng dáng đàn bà nên ước gì có một chiếc ghe trôi giạt vào bờ đảo,trên ghe có được vài người đẹp bị bão đánh chìm tàu bám được trên ghe .Nằm nhìn trời biển ,mơ ước rồi cười và tìm quên vào giấc ngủ .Chờ mãi cá chưa ăn mồi,Thanh-tên người lính-lấy dây cước cột chắc vào người và yên chí nằm ngủ nếu cá ăn mồi sẽ biết được .Trời đã về khuya,lúc này thủy triều đang lên và chúng tôi đang ngủ,bỗng nghe tiếng la hét của Thanh,anh ta bị cá mập ăn mồi kéo anh ta đến gần bờ nước .Chúng tôi vùng thức dậy cùng nhau kéo cá,có lúc nới cước ,có lúc kéo mạnh .Con cá đã nuốt miếng mồi vào bụng nên không có cách nào thoát được,và phải mất hơn nửa giờ chúng tôi mới kéo được con cá mập vào bờ cát . Báo động có ghe lạ vào đảo . Trời chạng vạng tối .Vài người lính đi dạo quanh đảo,bất chợt phát hiện ra có một chiếc ghe từ ngoài xa mí sóng đang từ từ trôi vào trước bãi Miếu Bà .Lệnh báo động được ban ra,mọi người chúng tôi vội. vàng mang súng đạn cá nhân chạy đến bố trí dọc theo bờ đảo nơi Miếu Bà .Nước biển đang lớn,trong bóng tối lờ mờ chúng tôi nhìn thấy chiếc ghe được sóng đưa đến gần bờ cát đảo .Chúng tôi yên lặng quan sát và chờ đợi .Năm phút trôi qua,tôi kẹp khẩu các-bin đã lên đạn cùng hai người lính nữa tiến lại gần chiếc ghe,thì ra đây là một chiếc ghe đánh cá đã bị bão đánh bung cả gỗ nơi sàn ghe .Trên ghe không có bất cứ một thứ gì ngoại trừ cây chèo lái được cột chắc vào ghe .Chúng tôi cùng nhau kéo chiếc ghe lên bờ cát và thu quân trở vào nhà trong tiếng cười nói huyên thuyên . Hiện tượng huyền bí ở Miếu Bà . Có một chuyên xảy ra trên đảo mà cho đến bây giỡ đã bốn mươi sáu năm trôi qua,mỗi lần nhắc lại tôi vẫn không sao hiểu được .Trong một đêm trăng,tôi và sáu người lính rủ nhau ra cầu tàu câu cá .Thủy triều đang lên,những đợt sóng vỗ vào chân cầu tàu tung tóe những bọt sóng lóng lánh dưới ánh trăng .Chúng tôi ngồi tán gẩu những chuyện ở quê nhà bỗng thấy một khối sáng đỏ như quả cầu lửa là đà trên mặt biển từ đảo Cam Tuyền đi đến Miếu Bà rồi tắt lịm .Ngày đầu tiên đặt chân lên đảo đã được các anh em lính đợt trước dặn dò nên khi thấy hiện tượng đó ,mọi người chúng tôi chỉ nhìn trong yên lặng . Có lẽ vì đã từng chứng kiến được hiện tượng huyền bí này nên những anh em lính từ các đợt thay quân Hoàng Sa trước đã truyền miệng lại cho nhau mua sắm đầy đủ nhang đèn áo giấy vàng mã mang ra cúng bái Miếu Bà .Riêng bản thân tôi là đảo trưởng nên đã thường xuyên đến Miếu Bà cúng vái trong những ngày rằm và mồng một hàng tháng để cầu xin được bình an sức khỏe cho mọi người trên đảo . Có phải nhờ vậy mà 13 người trong toán chúng tôi từ ngày đặt chân lên đảo Hoàng Sa đến ngày trở về lại đất liền,không có một ai bị bệnh tật thương tích gì cả ? Tìm thấy hài cốt khi đào tìm trứng vít . Một buổi sáng ,hai người lính đi xăm tìm trứng vít trên cát gần những bụi cây ráy biển .Khi họ đâm sâu cây thông nòng súng Garant M1 xuống cát đã đụng phải một vật gì cứng,họ moi cát lên thì lộ ra một chiếc đầu lâu trắng hếu .Họ chạy về báo cáo lại sự việc vừa tìm thấy .Tôi ,trung sĩ Huynh cùng mọi người đổ xô chạy ra nơi đó,chúng tôi moi từ từ cát lên và lộ nguyên ra một bộ xương của một người đàn ông,bên cạnh có một đống áo quần đã mục nát .Tôi bảo anh em lính tìm những tấm ván ép củ ghép lại thành một cái hòm nhỏ,nhặt tất cả xương cốt bỏ vào và mang đến an tang lại sau Miếu Bà .Vun một mộ cát,thắp một nén nhang và cắm một tấm bia bằng gỗ đề Vô Danh Mộ tìm được vào tháng tám năm 1967 ,chúng tôi hy vọng linh hồn người quá cố mà chúng tôi chưa hề biết đến được siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng .Mọi sự việc tôi có báo cáo về Quân Đoàn nhưng không thấy công điện trả lời . Những ngày biển động . Bình thường những ngày nắng ráo ,trời yên biển lặng nhìn những bãi nước xung quanh đảo, chúng tôi thấy rõ được nhiều loại cá đủ màu sắc tung tăng bơi lội trên những rặng san hô xen lẫn với đàn cá mó xanh và cá rô biển,nhưng khi biển động hoặc có gió bão thổi về hướng Hoàng Sa,quanh bãi nước đảo không còn nhìn thấy bất cứ một con cá nào kể cả những con cá thòi lòi biển hàng ngày thường trườn mình lên nằm trên mặt đá .Những ngày này đối với chúng tôi thật buồn chán , có đi dạo biển thì cũng chỉ nhìn thấy được những cơn sóng lớn vỗ ầm ầm từ mí sóng nối tiếp vào bờ . Hầu hết chúng tôi đều ở nhà,vài người đem ốc nhảy ra mài nhẩn,một số giải trí bằng cách chơi bài ăn ốc gân khô .Khốn khổ nhất cho chúng tôi là bị những cơn gió mạnh thổi mưa vào nhà,chúng tôi phải xử dụng pon-cho để che chắn cho khỏi ướt vì căn nhà hoàn toàn trống trải không còn một cánh cửa nào .Thức ăn của chúng tôi trong những ngày mưa bão hoặc biển động là cá khô câu được hay thịnh soạn hơn là những lon thịt hộp mang ra từ đất liền . Riêng tại đảo Drummond,căn nhà tôn xây dựng trên đảo để cho anh em trú ngụ cũng bị bão đánh trốc cả mái , những tấm tôn lợp bay tứ tung ra rừng cây ráy biển .Mọi người trên đảo phải phủ pon-cho ẩn nấp trong những hốc đá chờ bão tan họ mới cùng nhau đi tìm nhặt những tấm tôn mang về tu sửa lại nhà .Cho nên đối với những người lính giữ đảo như chúng tôi,những ngày trời yên biển lặng nắng ráo là những ngày viên mãn nhất . Kêu cứu từ đảo Duncan . Sống ở đất liền,cho dù ngày đêm đối diện với súng đạn chiến tranh,chạm trán với quân thù,chúng tôi không hề nao núng lo sợ .Ngược lại làm một người lính giữ đảo Hoàng Sa,một nơi cách Đà Nẵng 300 km,phương tiện di chuyển khó khăn,thuốc men thực phẩm thiếu thốn,dù là một nơi bình yên sống an nhàn tự tại với trời nước bao la,chúng tôi vẫn nơm nớp lo âu cho bản thân mình nếu chẳng may gặp phải bệnh hoạn hay thương tật . Mang chung một trách nhiệm giữ đảo,tôi vẫn thường hẹn giờ mở máy liên lạc với hai đảo Drummond và Duncan .Phương tiện liên lạc của chúng tôi lúc bấy giờ là máy PRC-10 của đơn vị tác chiến,nhờ sống ở biển không bị một chướng ngại gì cản trở nên chúng tôi liên lạc nhau rất rỏ .Một người lính trên đảo Duncan lội biển đã bị con đẽn biển cắn vào chân (đẽn biển là một loại giống như con rắn ở đất liền,có nọc cực độc,trên mình có nhiều khoan màu đen ,vàng bơi lặn dưới nước và sống trong những hang bông đá .)Anh ta bị phù chân và lên cơn sốt cao độ vì nọc độc chạy lan cả toàn thân .Mặc dù mỗi đảo đều có y tá ,nhưng với số thuốc men nghèo nàn mang theo chỉ có vài thứ trị cảm cúm,sát trùng,bông băng ,thử hỏi làm sao cứu được một sinh mạng đang trong cơn nguy kịch . Tôi đã điện liên tiếp hai công điện về Tiểu Khu qua phương tiện truyền tin Quân Đoàn I xin tàu để chở bệnh binh về đất liền cấp cứu .Đến công điện khẩn cấp thứ ba thì được Tiểu khu trả lời không có phương tiện ra đảo Hoàng Sa,nếu đương sự chẳng may bị chết,an táng đương sự ngay trên đảo .Đọc nội dung công điện trả lời tôi cảm thấy bàng hoàng cả người và nghĩ đến thân phận những người lính giữ đảo như chúng tôi chẳng khác gì bị đem con bỏ chợ . Tôi gọi máy báo với Trung sĩ Khuyến-tên người đảo trưởng Duncan- khuyên anh em cầu nguyện Ơn Trên phù hộ giùm cho người lính bị đẽn biển cắn sớm tai qua nạn khỏi .Và .Thật ngạc nhiên sau hơn mười ngày bị sốt cao độ và sưng phù toàn thân anh ta đã dần dần hồi phục nhưng không đi được .Sau hơn ba tháng ở đảo,ngày thay quân anh em lính phải khiên anh ta lên tàu về lại đất liền . Chuyện kể từ bác Phong . Trong một lần sang đài khí tượng ngồi chơi,tôi đã được bác Phong kể cho nghe câu chuyện về một người khách lạ không mời mà đến với đảo Hoàng Sa .Bác kể,có một chiếc tàu lớn thả neo ngoài mí sóng đối diện với cầu tàu,những người trên tàu hạ xuống một chiếc ghe máy nhỏ và chạy vào đảo .Trên ghe có ba người,chở theo nhiều bánh kẹo,thuốc lá và những thùng nhựa để xin nước ngọt .Họ là những người Tàu,có một người biết nói tiếng Việt,họ cho biết tàu của họ khởi hành từ Đài Loan đi đến Mã Lai,đi được nửa đường có một ngừơi bị bệnh không thể đi tiếp được và trên tàu đã hết nước ngọt .Họ biếu cho đảo trưởng và anh em lính trên đảo kẹo bánh và thuốc lá,xin vài thùng nước ngọt và gửi lại trên đảo người bị bệnh .Họ nói sau một tuần họ sẽ quay trở lại để đón người bị bệnh về Đài Loan .Người bị bệnh không biết tiếng Việt trùm khăn quanh đầu và mặt nhìn vóc dáng có vẻ đau yếu rũ rượi .Sau khi được đảo trưởng đồng ý,họ xin mấy thùng nước ngọt bên hầm nhà khí tượng và nhổ neo tiếp tục ra khơi .Người Tàu bị bệnh mang nhiều lương khô và sống chung nhà với anh em lính Sau ba ngày ,hắn ta bình phục và lân la cùng với anh em lính đi lòng vòng quanh đảo,hắn quan sát mọi thứ kể cả những sinh hoạt hàng ngày trên đảo như một tên đi dò thám . Đúng hẹn,sau một tuần chiếc tàu đó đã trở lại thả neo và vào đảo để chở người Tàu bị bệnh,cũng không quên cám ơn và biếu cho anh em lính trên đảo thuốc lá cùng bánh kẹo . Ở ngoài khơi đảo Hoàng Sa,chúng tôi nhìn thấy được nhiều tàu ngoại quốc qua lại nhưng không thể biết được tàu của nước nào vì đó là hải phận quốc tế .Chiếc tàu vào đảo gửi người bị bệnh nói là đi từ Đài Loan nhưng làm sao để biết được là tàu của Đài Loan hay của Trung Cọng Qua câu chuyện bác Phong kể,bây giờ Hoàng Sa đã mất vào tay Trung Cọng,tôi mới nghiệm ra rằng:chiêu thức gửi người lên đảo chỉ là giả vờ để do thám tình hình bố trí phòng thủ trên đảo .Một con tàu lớn như vậy không thể nào thiếu nước ngọt và dù có người bị bệnh thì vẫn có thể nằm điều trị trên tàu .Tựu trung lại đã là Tàu thì dù là Tàu Đài Loan hay Tàu Trung Cọng thì vẫn là Tàu với bản chất bành trướng xâm lược đã có sẵn trong máu của chúng .Kể từ khi người Tàu bị bệnh được gửi lên trên đảo Hoàng Sa đến bảy năm sau vào ngày 20 tháng một năm 1974 thì Trung Cọng xua tàu đổ bộ cướp đảo Hoàng Sa,biết đâu đó là âm mưu cướp đảo của bọn chúng đã vạch ra từ bảy năm trước . Ngày lại ngày .Sáng thức dậy chạy quanh đảo,trưa chiều đi câu cá bắt ốc,dạo biển .Có gặp nhau chăng cũng chỉ là mười tám khuôn mặt quen thuộc trên đảo .Cuộc sống của chúng tôi cứ lặp lại như một điệp khúc buồn chán .Vì thế nên vào những ngày cuối gần đến đợt thay quân,mọi người chúng tôi nôn nao mong đợi sớm trở lại đất liền .Nhận được công điện của Tiểu Khu Quảng Nam báo biển bị động,sóng to gió lớn tàu của hải quân sẽ không ra đúng ngày và có thể bị trể .Gạo đã gần cạn,thức ăn cũng đã hết,chỉ còn lại hai con vịt và năm lon nếp để trước khi về lại đất liền nấu xôi cúng ở Miếu Bà và mang theo lên tàu ăn .Hành trang cũng được gói ghém gọn gàng,ngoài chiếc ba lô và súng đạn cá nhân,ngày trở về đất liền của chúng tôi có thêm được những bao cát cá khô,ốc khô lỉnh kỉnh .Lo ngại tàu của hải quân sẽ trễ dài ngày nên tôi đã bắt mọi người phải ăn cháo để tiết kiệm gạo vì gạo dự trử trên đảo đã bị mục nát không thể ăn được .Tâm trạng của những người bên đài khí tượng cũng nôn nóng giống như chúng tôi . Cho đến một ngày,nhận được công điện của Tiểu Khu báo tàu của hải quân đã rời cảng Tiên Sa và đang trên đường hướng ra hải đảo .Chúng tôi la lớn reo mừng .Khoảng mười giờ sáng chúng tôi leo lên tầng thượng nhìn về hướng đất liền để tìm bóng dáng của con tàu ra đảo .Và cuối cùng con tàu đã đến,vẫn là chiếc quân vận hạm Đống Đa đã chở chúng tôi từ hơn ba tháng trước .Điệp khúc ngày nào nay được lặp lại .Những người lính vội vã chuyển hành lý ra cầu tàu để chuẩn bị lên tàu lớn .Tôi ký biên bản bàn giao với người đảo trưởng mới đến,chỉ cho anh ta vài kinh nghiệm có được và vài vị trí của bãi đảo rồi ra đi chuyến cuối cùng với hai người bên đài khí tượng ra tàu lớn . Vẫn những cái vẫy tay,vẫn là hồi còi tàu kéo dài vang động cả một vùng biển đảo để chào từ giã những người lính đến thay thế cho chúng tôi giữ đảo .Tôi đâu có ngờ đối với tôi là lần vẫy tay cuối cùng để vĩnh biệt Hoàng Sa ! Con tàu tiếp tục chạy đến thay quân cho hai đảo Drummond và Duncan .Những người lính ngày nào của trung đội Hoàng Sa do tôi qui tụ hôm nay mới gặp lại .Vui mừng khôn tả .Người lính bị đẽn biển cắn ngày nào được anh em khiên hộ lên tàu và thêm hai người nữa phải dìu đi vì bị phù thủng .Như vậy là sau hơn ba tháng,đúng 100 ngày,anh em lính chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trấn giữ Hòang Sa và bây giờ đang trở lại đất liền .Con tàu rời đảo cuối cùng ở Hoàng Sa khoảng 3 giờ chiều và dự trù sẽ đến cảng Tiên Sa vào 11 giờ sáng hôm sau . Khác với ngày đi,ngày trở về đất liền ngồi trên boong tàu chúng tôi cười nói xôn xao ,kể lại cho nhau nghe những ngày ở đảo .Tâm trạng nôn nóng mong sớm gặp lại người yêu,gặp lại vợ con bạn bè hiện rõ trên khuôn mặt của mỗi người .Và .Đúng như dự tính,11 giờ sáng tàu đã đến cảng Tiên Sa sau một đêm dài lênh đênh cùng sóng nước .Hai chiếc xe GMC của Tiểu Khu Quảng Nam đã ra chờ sẵn chở chúng tôi về Hội An . Ở đảo hơn ba tháng không hớt tóc nên người nào người nấy tóc dài đến tận vai,đen đúa giống như người ở rừng lâu năm xuống phố .Chúng tôi được nhận những tháng lương chưa lảnh khi ở Hoàng Sa và mỗi người được cấp năm ngày phép về thăm gia đình trước khi nhận sứ vụ lệnh ra đơn vị .Điều kiện trước khi nhận giấy phép ,đầu tóc phải gọn gàng sạch sẽ vì vậy nên những tiệm hớt tóc cạnh Tiểu Khu đầy những người lính từ Hoàng Sa về ngồi đợi đến phiên mình hớt tóc . Tôi chào từ giã anh em và hẹn sẽ có dịp gặp lại nhau trong những lần hành quân lùng địch ở quê nhà . Hồi tưởng lại những tháng ngày sống trên đảo Hoàng Sa –đối với tôi đến nay đã 46 năm trôi qua,46 năm gần nửa đời người,46 năm trãi qua với bao thăng trầm vinh nhục,46 năm là một chuỗi thời gian dài để quên ,nhưng làm sao quên được khi thời buổi hiện tại trước âm mưu bành trướng xâm lược quê hương ,biển đảo của Trung Cọng, biết bao nhiêu người Việt Nam yêu nước tay trong tay hô vang hai tiếng Hoàng Sa –Việt Nam . Hoàng Sa –phần đất quê hương lâu đời của Ông cha ta để lại,vùng biển đảo yêu dấu của ngư dân Quảng Nam – Đà Nẵng và của ngư dân các tỉnh lân cận không thể mãi mãi thuộc về quân cướp đảo Trung Cọng .Với tinh thần bất khuất,khí phách hiên ngang hào hùng đã từng đánh bại quân ngoại xâm phương bắc,mỗi người Việt Nam chúng ta hãy nguyện làm con sóng nhỏ âm ĩ quanh đảo Hoàng Sa –triệu triệu con sóng nhỏ kết hợp nhau lại sẽ tạo thành một trận sóng thần trổi dậy quét sạch và chôn vùi quân cướp đảo Trung Cọng xuống tận đáy biển đông để Hoàng Sa trở về lại với phần đất quê hương . Và để kết thúc những trang hồi ký viết về những ngày sống trên đảo Hoàng Sa,tôi xin kính cẩn nghiêng mình mượn hai câu thơ của cụ Nguyễn Du và xin được phép đổi lại hai chữ “tình quê” bằng hai chữ Hoàng Sa . Hoàng Sa góp nhặt dông dài Mua vui cũng được một vài trống canh. Dư Mỹ Boston – Mùa hoa tuyết 2013
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 22, 2022 4:10:43 GMT 9
Chuyện Chưa Kể Về Trận Hoàng Sa
Sau đây là lời kể của Thiếu Tá Phạm Văn Hồng (Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I) câu chuyện của 45 năm trước về trận Hoàng Sa với nhiều tình tiết khá đặc biệt mà ông chưa hề phổ biến trên báo chí lâu nay. Nhận lệnh ra Hoàng Sa với nhiệm vụ thiết lập phi trường Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để thiết lập một phi trường quân sự, lúc đó tôi là Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I nên việc thượng cấp giao cho là hợp lý. Chiều hôm đó, thay vì di chuyển bằng xe quân sự, thì nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc Falcon chở tôi cùng đi với ông qua bên Tiên Sa. Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều, trời đã gần tối, chúng tôi lên chiếc HQ16 do Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự là Hạm Trưởng; HQ16 đưa chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau. Trời hừng sáng, tôi thức dậy và nhìn ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang di chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn vờn trước mũi tàu mình và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “kỳ đà cản mũi”. Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi: “Hình như nó muốn khiêu khích mình”. Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên mặc quần đùi, ở trần ra ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau thì đổ bộ lên bờ. Ngoài tôi làm toán trưởng, còn có một Trung Úy Liên Đoàn 8 Công Binh Kiến Tạo, một Trung Úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ Sĩ Quan đi theo hai Trung Úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6 người đặt chân xuống đảo. Hai Trung Ùy lo đi thám sát địa hình, đo đạc để có dữ kiện thiết lập phi trường. Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết gì về thời tiết, Nhóm Khí Tượng sẵn sàng cung cấp đầy đủ. Ngoài Nhóm Khí Tượng còn có một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng. (Sài Gòn trong tôi/ theo Viễn Đông) Biển Đông dậy sóng Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nhìn ra biển thấy tình hình khác hẳn mấy ngày trước. Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, còn bên Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ5. Hai chiếc HQ5 và HQ16 là Tuần Dương Hạm; chiếc HQ4 là Khu Trục Hạm . HQ4 nhỏ hơn nhưng hỏa lực mạnh hơn. Còn HQ10 là Hộ Tống Hạm. Chiều ngày 18 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên HQ5. HQ5 bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) vì có Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đang ở trên đó để tổng chỉ huy. Tôi lên HQ5 và chờ đến khoảng 10 giờ thì loa phóng thanh nói: “Mời Thiếu Tá Phạm Văn Hồng lên đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”. Tôi lên phòng chỉ huy, Đại Tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cái thằng Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên đảo, nó bảo ở trên tàu nguy hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở lại”. Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo thì đã khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đã ngủ hết . Suốt một đêm vật vã với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng hôm sau khi nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy thì trời đã sáng rõ. Sở dĩ có tiếng heo kêu là vì mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra giữ đảo, biết nhiệm kỳ của mình sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con heo ra nuôi để Tết mổ thịt. Khi vừa rửa mặt xong thì nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao nhao nói: “Có lẽ không xong rồi Thiếu Tá ơi!” Và tôi bắt đầu nghe tiếng súng nổ; lúc đó vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974. Tôi leo lên sân thượng của Đài Khí Tượng nhìn ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng chưa chìm nhưng đang trong tư thế sắp chìm và tôi nghĩ chắc chắn sẽ chìm, còn bên phía Hải Quân mình tôi thấy các lằn đạn của tàu Hải Quân Trung Cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của mình. Hai bên đang thi nhau nã đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ dòn dã. Tôi xuống phòng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để anh em liên lạc với tàu khi lên xuống thôi. Tôi nghe âm thoại viên của Hải Quân nói: “Thiếu Tá Hồng, tôi đã mất liên lạc, nhờ Thiếu Tá gọi ngay về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đã bị nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi đã bị hư”. Đó là tất cả những gì tôi nghe được qua máy truyền tin C.25. Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola, anh em bên Khí Tượng cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa giờ, lên máy không có tín hiệu nhận. Nhưng anh em bên Đài Khi Tượng vẫn mở máy. May quá, có Phú Quốc lên máy. Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài Gòn, yêu cầu Sài Gòn gọi ra Đà Nẵng nói Đà Nẵng “lên máy”. Nói thì nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc đó mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với nửa vòng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc! Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy Dũng” là tên Tổng Đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của Trung Tâm Hành Quân và số máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng ngoài đảo Hoàng Sa. Lúc đó tiếng súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng đã tạm lắng dịu nhưng súng bắt đầu nổ trên đảo. Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát thì thấy các chiến hạm của ta ở vòng ngoài, còn tàu Trung Cộng thì lại ở vòng trong, có nghĩa là chúng tôi đã bị tàu Trung Cộng bao vây. Những chiếc tàu của Trung Cộng theo anh em Hải Quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều quay mũi tàu của họ vào đảo, còn các chiến hạm của ta thì quay mũi ra phía ngoài biển. Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng ngang tiến lên đảo. Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung Đội Địa Phương Quân hơn 20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng tôi 6 người nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng. Cũng cần biết thêm là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi trường có cho biết, chu vi đảo chỉ chừng 1 cây số 6. Nếu thiết lập phi trường thì chỉ có thể làm phi đạo dài 500 thước, ngang 300 thước mà thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi cơ 123 Caribou chứ loại C.130 không thể hạ cánh được. Cho nên với chu vi gần 2 cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở trường của Trung Cộng luôn luôn là “lấy thịt đè người”. Với quân số ít oi và vũ khí cũng không có gì mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là hết đạn. Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng. Mưu mô quỷ quyệt của bọn Trung Cộng Để nắm vững tình hình trên đảo về quân số cũng như cách bố phòng của ta, vào khoảng đầu tháng 10 năm 1973, thời điểm tháng 10 thường hay có mưa bão xảy ra ở vùng biển Đà Nẵng, nên bọn Trung Cộng cho một chiếc tàu giả dạng tàu đánh cá vào đảo xin tránh bão. Việt Nam Cộng Hòa mình vốn có tính nhân đạo và thật thà, thấy họ xin núp bão thì đồng ý ngay, lại còn tiếp tế cho họ nước uống nữa, chúng làm bộ thân thiện với ta, tặng cho anh em quân nhân những bộ bài có hình khỏa thân, và rủ lính của ta chơi trò “trốn tìm”, mục đích là dò xem mình có hầm hố gì không.(Sài Gòn trong tôi/ theo Viễn Đông) Nhưng các anh em Điạ Phương Quân của ta đâu có ngờ, đó là mưu mô “thám sát” của lính Tàu. Vì thế khi chúng tấn công lên đảo, chúng đã nắm rõ quân số của ta có bao nhiêu người, vũ khí ra sao, có hầm hố chiến đấu hay không, còn ta, ta không biết gì về địch. Lực lượng hai bên quá chênh lệch như thế nên chúng ta bị thất bại là lẽ đương nhiên. Tin vào lời hứa, tìm cách ẩn trốn và bị bắt Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo về Đà Nẵng, tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu Tá Hồng cứ yên trí, sẽ có máy bay ra yểm trợ. Vì tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong lòng rằng không bao giờ tôi đầu hàng, giả sử nếu cùng lắm bên Không Quân ta phải thả bom trên đầu, tôi cũng chịu vì đó là chuyện bình thường của quân đội. Vì tôi và anh em trên đảo sẽ được cứu nên tôi tìm cách ẩn trốn vào một bụi cây rậm rạp trên đảo, do đó khi chúng đã bắt hết các anh em, chúng kiểm soát danh sách và biết rằng còn thiếu một viên Thiếu Tá là tôi, cả một tiểu đoàn lính Trung Cộng dàn hàng ngang lùng sục làm sao mà tôi thoát được, và tôi bị chúng bắt sống lúc xế trưa. Cuộc đời tù binh Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có dọa nạt và áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi ăn cơm, ăn với thịt heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đã trình bày ở phần trước, nói là thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi, còn nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi. Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay làm cái gì đó tôi không biết rõ. Đến khuya, chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một hàng dọc ngoài sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn chúng tôi. Một vài anh em trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ bình tĩnh, dù chúng ta có chết cũng chết cho Tổ Quốc, đừng sợ, cứ bình tĩnh và giữ vững khí phách của một Người Lính VNCH”. Nhưng cuối cùng chúng không bắn ai hết! Di chuyển qua Trung Quốc Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài biển có nhiều tiếng lào xào, nhìn ra thì thấy nhiều chiếc dzu dzu đang chèo vô bờ. Nó chuyển chúng tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su (dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu, mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các tàu khác và tàu bắt đầu di chuyển. Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974, chúng tôi tới đảo Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em còn lại lên, rồi nó đưa đám sĩ quan vào phòng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung Úy Hải Quân, 1 Sĩ Quan Địa Phương Quân, 2 Sĩ Quan Công Binh và anh Kosh, cả thảy là 6 người. Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay về Quảng Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin, còn anh em chúng tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đã tối. Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Đài Khí Tượng chúng nhập chung thành một toán cho xuống tàu lớn chở về sông Châu Giang cũng thuộc thành phố Quảng Châu. Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ; trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên Khí tượng và 14 quân nhân Hải Quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ Trung Úy Nguyễn Văn Dũng.(Sài Gòn trong tôi/ theo Viễn Đông) Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố tình khai thác tôi về tổ chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lý do “bí mật quân sự”, phòng nào biết phòng đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập đi lập lại rằng, bên quân đội chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết danh số có những phòng gì, còn mỗi phòng có những ai, làm việc gì, điều đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải Quân Trung Úy nhiều hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải Quân của ta để dự phòng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra. Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người để thả. Người đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh mà họ gọi nguyên văn là “mãn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí Tượng thả một người, bên Địa Phương Quân thả một người, bên Hải Quân thả một anh bị thương nhẹ. Vai trò của ông Kosh trong âm mưu của Mỹ. Lần xuống đảo trước, tôi và anh Kosh này ngồi bên nhau, anh ta kể, anh là Trung Úy Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh, anh làm cho Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ. Lần này anh đi với tôi trong vai trò giám định để xem thực hiện phi trường tốn phí ra sao và đề nghị Tòa Tổng Sự chi trả. Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng thực tế đây chỉ là phi trường ảo mà thôi, không có thật, anh ta đi với chúng tôi trong một sứ mạng đặc biệt đã được Hoa Kỳ và Trung Cộng bí mật dàn dựng từ trước. Sứ mạng đó là dùng chúng tôi làm con cờ thí, làm vật tế thần cho Trung Cộng có cớ xâm lăng Hoàng Sa. Đây là điều bí mật từ trước tới nay chưa có báo chí nào loan tải. Chúng ta hãy xem thái độ và cách hành xử của anh Kosh này cũng như sự đối xử của nhà cầm quyền Trung Cộng thì sẽ rõ. Trên giấy tờ, anh này đi công tác với chúng tôi chỉ có vài ngày, nhưng khi anh mở cái sắc của anh ra, trong đó có đến hai cây thuốc lá. Nếu tính thời gian công tác, anh hút nhiều lắm cũng chỉ 5, 6 gói thuốc, vậy anh mang tới 20 gói thuốc để làm gì? Ngoài thuốc lá, trong sắc tay của anh có đầy đủ dụng cụ mưu sinh thoát hiểm như lưỡi câu, thuốc chống cá mập. Sau khi bị bắt, trong buổi chiều ngồi cạnh tôi trên đảo, anh mở một hộp cá ra ăn, anh mời tôi một lát cá. Tôi để ý thấy hộp cá nhỏ và mỏng hơn hộp cá mòi Sumaco của Marốc, anh đưa cho tôi một lát mỏng như miếng khô mực đã bị ép rất sát, anh nói với tôi: “Anh ăn đi, no đấy!” Tôi nghĩ anh chàng này đùa dai, miếng cá mỏng dính và nhỏ xíu thế này làm sao no. (Sài Gòn trong tôi/ theo Viễn Đông) Vậy mà khi ăn xong, tuy không no thiệt nhưng mà ngang dạ liền. Tiếp theo là sự kiện anh đang ở trên HQ16 lại đòi lên bờ và bảo ở dưới tàu nguy hiểm quá, mà lúc đó trận hải chiến chưa xảy ra. Phải chăng anh đã biết trước sẽ có hải chiến và ở trên tàu khi đánh nhau thì nguy hiểm thật, nên lên đảo để quân Trung Cộng làm bộ bắt cho chắc ăn hơn, và chúng ta thấy, người đầu tiên Trung Cộng thả là anh chàng Kosh này. Nói đến đây, tôi cũng xin mở dấu ngoặc là bây giờ biết anh chàng này đóng vai trò gì trong kế hoạch của Mỹ, nhưng tôi cũng phải cám ơn anh ta, nếu anh không đòi xuống đảo, thì tôi ở trên chiến hạm HQ16 cũng không còn sống trên cõi đời để thuật lại chuyện bí mật này, vì khi ở trên tàu, tôi cứ thích đứng ở trên cái pháo tháp, mà khi hải chiến xảy ra, pháo tháp của HQ16 đã bị trúng đạn Trung Cộng. Sự đổi chác giữa Mỹ và Trung Cộng Khoảng 10 giờ sáng, sau khi chúng tôi bị đưa vào trại giam có tên là “Trại Thu Dung Tù Binh” thuộc Huyện Hoàng Hóa, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông thì có một toán cán bộ Trung Cộng đến. Đám này nói tiếng Việt rất rành và hầu hết đều nói giọng Bắc, dấu hỏi, dấu ngã phân minh, chính xác. Một tên trưởng toán nói với chúng tôi: “Hiện bây giờ, tiến sĩ Kissinger của Mỹ đang ngồi ở Bắc Kinh, chiều hôm nay mọi người sẽ biết tin này, chúng tôi sẽ mang đến đây một chiếc radio mở cho các anh nghe”. Buổi chiều họ mang radio đến và mở cho chúng tôi nghe, đồng thời mở luôn cả đài phát thanh Úc Đại Lợi cho nghe luôn. Trong bản tin của đài phát thanh Trung Cộng có loan thế này: “Trong cuộc chiến đấu, chí nguyện quân Trung Quốc đã bắt được một đám tù binh Miền Nam Việt Nam, trong đó có tên Thiếu Tá Phạm Văn Hồng”. Hồi đó, nếu ai có theo dõi tin tức trên các đài phát thanh cũng đã nghe thấy như vậy. Điều đó cho thấy rõ ràng đã có âm mưu dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Mỹ muốn dùng Hoàng Sa của VNCH làm món quà để bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng. Muốn trao Hoàng Sa cho Trung Cộng, chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ phải tạo ra một cuộc chiến, để Trung Cộng có cớ xâm chiếm Hoàng Sa, và VNCH chúng ta tuy mắc bẫy, nhưng chúng ta đã cho Hoa Kỳ, Trung Cộng và cả thế giới thấy tinh thần yêu nước của chúng ta như thế nào. Hải Quân VNCH chúng ta dám hiên ngang đương đầu chống lại bọn Hải Quân xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp bội. Chúng ta đã anh dũng và hy sinh nhiều sĩ quan, binh sĩ Hải Quân cũng như thiệt hại một số chiến hạm, nhưng chúng ta cũng đã đánh chìm một số tàu Trung Cộng tương đương và chắc chắn nhiều tên gọi là chí nguyện quân của chúng đã bị tử thương. Thêm bằng chứng về âm mưu giữa Mỹ và Trung Cộng trao đổi Hoàng Sa Trước khi kể cho anh nghe chuyện trao trả tù binh, tôi cần nói thêm chuyện này: Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung Tá Lâm (Khóa 10 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt), Trung Tá Lâm kể chuyện với tôi: – Không Quân của mình đã chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường Biên Hòa bay ra Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi công cũng chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa thì đủ nhiên liệu nhưng lúc về thì không; do đó, các anh phi công sẽ bỏ phi cơ và nhảy dù xuống biển, tàu của Hải Quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp cứu. Mọi việc đã chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy bỏ! Thêm nữa, có Đại Tá Lê Khắc Lý, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Tiền Phương Quân Đoàn I, Trung Tướng Lâm Quang Thi là Tư Lệnh Tiền Phương, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà Nẵng; các vị này gọi tôi ra thuyết trình hai lần, buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa Thiên – Huế, buổi chiều cho các quân nhân đồn trú nghe về trân chiến Hoàng Sa tại Phú Văn Lâu. Sau buổi thuyết trình, Đại Tá Lê Khắc Lý vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cố vấn mới nói chuyện với moa, moa bảo nó: ‘Tôi không hiểu tại sao Trung Cộng nó lại đánh chiếm Hoàng Sa?’ Cố vấn Mỹ đã ‘hố’ khi trả lời tôi: ‘Trung Cộng lấy Hoàng Sa, anh ngạc nhiên lắm à?’, moa mới nói trớ đi: ‘Không, ý tôi nói là tại sao nó lại chiếm vào lúc này?’” Rồi Đại Tá Lý nói tiếp: “Toa thấy không, tụi nó có kế hoạch cả rồi, nó đã sắp xếp hết rồi!” Thời đó, Ngoại Trưởng Henry Kissinger chuyên môn đi đêm, và Tổng Thống Mỹ Richard Nixon muốn bắt tay với Trung Cộng thì phải có một cái gì đó trao đổi. Tôi nghĩ món quà chính người Mỹ muốn tặng Trung Cộng là Hoàng Sa của ta, bởi Trung Cộng muốn làm chủ Biển Đông mà Mỹ giao Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đâu có mất gì, chỉ tội nghiệp cho đất nước Việt Nam chúng ta là thân phận một nước nhược tiểu! Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh Phải công bằng mà nói, viết lịch sử thì phải viết trung thực, không nên viết theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là bọn Trung Cộng hơn hẳn bọn cộng phỉ bắc việt trong cung cách đối xử với tù binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù binh chiến tranh đã được quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu Tá thì để tôi ở một phòng riêng, bốn Trung Úy thì cứ hai ông một phòng, như vậy chúng tôi có ba phòng ở liền nhau, còn ông Kosh người Mỹ một phòng riêng. Mỗi ngày họ đem đồ ăn lên tận phòng cho chúng tôi, còn anh em Hạ Sĩ Quan và binh sĩ thì ăn ở nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng. Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi ngày vào buổi tối để nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ thứ tư họ dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc, bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan). Đầu tiên thăm một bệnh viện rồi thăm mấy hợp tác xã. Tôi để ý, hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xã đều là những ngôi chùa xưa kia, bởi vì kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết nhưng vẫn còn dấu tích rõ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đã bị đè bẹp tại nước cộng sản đông dân nhất thế giới này! Sau khi thăm các hợp tác xã, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại đây họ giới thiệu là nơi đúc các khẩu thượng liên và súng AK, sau đó lại dẫn đi xem nhà máy làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ thì phải, rồi thăm một vài cư xá của công nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng tháng được bao nhiêu, thì người công nhân nói được trên 100 Nhân Dân Tệ, trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá 130 Nhân dân tệ, cho ta thấy mức sống của một công nhân trong chế độ cộng sản Trung Quốc như thế nào. Trao trả tù binh Tôi còn nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm 1974, sau khi cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố sẽ trả chúng tôi về Việt Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu xanh và cái mũ mà anh em chúng tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là Tổ Quốc tôi, nhưng hiện tại hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận chế độ của miền Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam ”. Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu, đường dài hơn 40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là Thẩm Quyến để trao trả chúng tôi tại Hồng Kông. Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng Kông, người đầu tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lãnh Sự VNCH tại Hồng Kông. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần áo dân sự mới toanh. Khi lên xe buýt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại trên xe bộ quần áo xanh do bọn Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự. Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho chúng tôi quân phục đầy đủ, ai binh chủng gì thì mặc quân phục binh chủng đó, ông còn mang cho tôi cặp lon Thiếu Tá nữa. Chúng tôi lại thay đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính Phủ VNCH thuê nguyên một chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng Kông đón chúng tôi trở về sau một tháng bị bọn Trung Cộng bắt làm tù binh. Về đến phi trường Tân Sơn Nhứt, ngoài thân nhân, chúng tôi còn được đại diện các cơ quan Chính Phủ và Quân Đội đón tiếp, choàng vòng hoa và đưa về trại an dưỡng Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của tôi kết thúc. Viễn Đông: Sau khi miền Nam rơi vào tay việt cộng, lúc đó Thiếu Tá đang ở đâu? Th/t. Phạm Văn Hồng: Tôi phục vụ tại Đà Nẵng, và Đà Nẵng bị bỏ ngỏ ngày 29-3-1975, ngày 5-4-1975, tôi bị bọn việt cộng bắt được và đưa vào trại tù. Viễn Đông: Thiếu Tá bị giam giữ đến ngày nào thì được thả về? Th/t. Phạm Văn Hồng: Bọn việt cộng thả tôi vào tháng 2 năm 1982. Viễn Đông: Trong thời gian bị tù, cán bộ Việt Cộng có tra vấn gì về vụ Hoàng Sa cũng như thời gian Thiếu Tá bị bắt làm tù binh ở Trung Cộng? Th/t. Phạm Văn Hồng: Không những bọn cán bộ mà ngay cả rất nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi đều hỏi vụ này, đến nỗi tên tôi được anh em gọi là “Hồng Hoàng Sa”. Một hôm, trong buổi gọi là “tọa đàm” anh em có nêu vấn đề Hoàng Sa ra hỏi tên cán bộ cao cấp từ Trung Ương đến chủ tọa. Tên cán bộ này ấp úng và sau một phút suy nghĩ hắn nói bừa: “Chuyện Hoàng Sa, đảng và nhà nước ta đã có hướng giải quyết cụ thể và đã giải thích trên báo Quân Đội Nhân Dân số… ngày…” rồi y vội vàng chuyển qua đề tài khác ngay. Viễn Đông: Khi được về với gia đình, Thiếu Tá làm gì, ở đâu cho đến khi sang định cư tại Hoa Kỳ? Th/t. Phạm Văn Hồng: Khi ra khỏi tù, tôi không về trình diện, tôi trốn lên Sài Gòn và tìm cách vượt biên. Tôi vượt biên tổng cộng 25 lần không thoát, ba lần bị bắt vào tù tiếp. Sau đó, tôi trốn sang Campuchia, ghi tên giả làm Việt Kiều yêu nước, mục đích để tránh theo dõi. Khi bọn bộ đội việt cộng rút về nước năm 1990, tôi xin được giấy chứng nhận là Việt Kiều yêu nước do tòa đại sứ việt cộng ở Campuchia cấp, thế là tôi về nước an toàn và cho tạm trú tại Sài Gòn. Tôi lén gửi hồ sơ sang Bangkok, Thái Lan. Đến khi có lệnh nộp hồ sơ đi Mỹ theo diện HO, tôi được xếp vào danh sách HO 39 nhưng khi họ đối chiếu với hồ sơ tôi nộp lén ở Bangkok, thấy khớp nhau nên họ đôn lên HO 29 và gia đình tôi qua Mỹ vào năm 1995. Viễn Đông: Qua sự kiện Hoàng Sa, Thiếu Tá muốn nói thêm điều gì còn trăn trở chưa nói ra được? Th/t. Phạm Văn Hồng: Chuyện dĩ vãng đã đi vào lịch sử, nhiều người đã kể lại trận chiến Hoàng Sa với đầy đủ chi tiết, và chúng ta sẽ còn nghe nhiều lần khác nữa, vẫn không thừa, vì đó là những điều chúng ta cần nói để vinh danh các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH, đặc biệt binh chủng Hải Quân, để các thế hệ con em chúng ta biết về cha ông của chúng đã không hổ thẹn với tiền nhân, với Quang Trung – Nguyễn Huệ… Tôi không thuộc binh chủng Địa Phương Quân nhưng có một điều tôi mong ước, đó là khi vinh danh các anh hùng gìn giữ bờ cõi Tổ Quốc, chúng ta đừng quên các chiến sĩ Địa Phương Quân cũng như các anh em chuyên viên Khí Tượng, họ đã đóng góp phần mình vào việc gìn giữ một phần hải đảo thiêng liêng của tổ quốc, họ đáng được Tổ Quốc Ghi Ơn bên cạnh tất cả các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH đã Vị Quốc Vong Thân. (Sài Gòn trong tôi/ theo Viễn Đông)
|
|