|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 14:07:16 GMT 9
fudozon.com/archipixĐình làng Nam Bộ Bùi Thụy Đào Nguyên Đình làng hay đình thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. Kiểu thức Không như ngôi đình làng ngoài Bắc là một kiến trúc gỗ đồ sộ, gồm 5-7 gian; ngôi đình Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi nhà sát liền nhau theo kiểu sắp đọi [1]; và thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, tiện việc đi lại, ít bị chi phối bởi thuật phong thủy. Ngày nay, đình thần Nam Bộ có lối kiến trúc khá đa dạng, bởi sau khi bị hư hại bởi thời gian & chiến tranh; kiểu thức truyền thống chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy đã ít nhiều thay đổi, nhưng một ngôi đình ở Nam Bộ, lần lượt từ ngoài vào trong đại để như sau: - Cổng đình có kiểu dáng không chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái lợp ngói, hoặc trên hai trụ có đặt cặp lân bằng sành tráng men. - Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp. - Sân đình thường có đàn thờ Thần Nông (tức Tắc thần), có nơi lập đàn tế chung với thần Thần Đất (tức Xã thần) gọi là đàn Xã Tắc [2]. Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân), miễu thờ Hội đồng hoặc miễu thờ nữ thần (có thể là một trong các nữ thần sau: Năm Bà ngũ Hành, Chúa Xứ Nguyên Nhung, Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Tiên, Chúa Ngọc...). - Ngôi đình chính thường là ba hoặc nhiều nếp nhà tứ trụ (tức nhà vuông có 4 cột cái, một gian, hai chái), cùng kiểu cùng cỡ, bố trí theo kiểu "trùng thềm điệp ốc". Mái đình thường lợp ngói âm dương hoặc ngói ống kiểu Trung Quốc, ngói kiểu vảy cá (kiểu Pháp, có sau năm 1920); trên nóc thường gắn những hình sành tráng men màu như Lưỡng long tranh châu, chim phượng ngậm cuốn thư, lân mẹ dạy lân con, cá hóa long, bát tiên, ông mặt trời, bà mặt trăng, con nạ (một loài thủy quái theo truyền thuyết); nhằm tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng. Bên trong mỗi đình có cách phân chia hơi khác nhau, nhưng thường là có ba gian chính: -Vỏ ca (gian trước), dành làm nơi xây chầu & hát Bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên. -Vỏ qui còn gọi vỏ cua hay nhà chầu (gian giữa), có nơi như Đình Phú Nhuận (thành phố Hồ Chí Minh), đặt bàn thờ Hội đồng ngoại [3]; có nơi như Đình Mỹ Phước (Long Xuyên, An Giang) đặt bàn thờ 18 đời vua Hùng, bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; và cũng có nơi dùng làm chỗ cho các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát Bội) hoặc hội họp. -Chính điện hay Chính tẩm (gian cuối), là gian được coi là mỹ thuật nhất ở đình, gồm hoành phi, câu đối, khám thờ, các bao lam và các mảng phù điêu...Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, tinh tế. Ở gian này, đối tượng thờ chính là Thành Hoàng làng; ngoài ra có nơi như Đình Mỹ Phước có thờ thêm Hội đồng nội. Ngoài ra, ở hiên phụ (cất dọc theo các gian chính), có thờ thêm Tả ban, Hữu Ban, Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền...Và tùy theo diện tích đình, mà có thể có thêm: -Nhà hậu hay nhà hội, để hương chức, ban tế tự hội họp; để dân làng qui tụ chuẩn bị lễ cúng tế. -Nhà trù (nhà bếp) và nhà ở của ông Từ giữ đình v.v... Bày trí Tuy mỗi nơi có đôi chút dị biệt, nhưng việc bày trí thờ thần ở đình phải tuân thủ mấy nguyên tắc sau. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì: - Câu đối ở đình chỉ trạm triện rồng hoặc tứ linh (long, lân, qui, phụng). - Bát bửu là 8 món quí báu gồm: bút, sách, quạt, gươm, lẵng hoa, đàn và sáo, bầu rượu, túi thơ. Có nơi là: pho sách, ngọc như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt, phất trần. - Cửa võng (bao lam) thường chạm lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trăng), hoặc là: lục long ngự thiên (sáu con rồng bay về trời), ngũ phụng hàm thư (năm con phụng ngậm tờ thư). - Bàn thờ thần Thành hoàng có ngai chạm hai con rồng, với cái long vị hình chử nhật (thần vị) mô phõng dáng người ngồi, ghi tên hiệu của thần...Trước long vị, đặt cái gương nhỏ, tượng trưng cho cái hốt mà vị quan cầm che trước mặt mỗi khi vào chầu vua. Ngoài ra, ở đây còn có tráp đựng sắc phong[4], tam sự hoặc ngũ sự (Tam sự là cái lư để đốt trầm và hai cái chân đèn. Ngũ sự thì có thêm hai ống cắm nhang), bình, khay, kỷ tam sơn là ba khối vuông (khối giữa nhô lên) dùng để lư hương, trầu, rượu, gợi bóng dáng ba ngọn núi. Ở đây còn có vài tàn lọng, cờ vía, đồ lỗ bộ, mũ cùng quần áo thờ. Hai bên hương án thường là đôi hạc đứng trên lưng rùa. Nếu thần là quan võ, có nơi còn có chưng cái giá, trên để ba thanh gươm cán dài, gọi là gươm vía hoặc gươm cẩn và ngựa...Chiêng trống là dụng cụ cần thiết khi tế lễ. Cái mõ là một khúc cây dài khoét bọng, dấu ấn của thời xưa, dùng để đánh lên báo động khi trong làng xảy ra hỏa hoạn, hoặc có giặc cướp... Tế lễ Tùy theo tập quán của từng địa phương, không nơi nào giống hệt nơi nào, nhưng nhìn chung ở đình làng Nam Bộ thường diễn ra các cuộc lễ như sau: - Lễ Niêm ấn & lễ Khai sơn [5]: Xưa, vào ngày 25 tháng Chạp, hương chức làm lễ rửa con dấu, bỏ vào hộp niêm kín. Kể từ ngày này, công việc hành chính trong làng đều đình chỉ cho đến mồng 7 tháng Giêng. Lễ Khai sơn (hay Khai hạ, Khai ấn), được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Xưa ngày này có lễ Hạ nêu và lễ Khai ấn. Hương chức làm lễ làm lễ Khai sơn xong, thì lấy cuốc bổ vài nhát tượng trưng gọi là động thổ, cho dân theo đó mà khởi sự cày cấy, trồng trọt; và các công việc hành chính trong làng trở lại bình thường. - Lễ Bầu ông: Thuở Nam Bộ còn hoang vu, nhiều người sợ cọp nên mỗi làng chỉ cử đến Hương chủ, vì chức Hương cả phải nhường cho cọp (tục lệ này có ghi trong Minh điều hương ước ban hành năm 1852). Và bởi cọp là hương chức đứng đầu, nên hàng năm, tùy theo đình chọn ra một ngày [6] để làm lễ "Bầu ông": cúng một con heo trắng, kèm theo một tờ cử hương chức. Gần đây, tục cúng Cả cọp vẫn còn nhưng chỉ nhằm cầu an cho bá tánh. - Lễ Tam Nguyên (hay Tam Ngươn): là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn: tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười. - Lễ Hạ điền và Thượng điền: Đây là hai lễ lớn trong năm (Xuân Thu nhị kỳ). Hai lễ này chính là sự biến đổi từ tập tế xuân (Xuân tế) và tế thu (Thu tế). Ở Nam Bộ, lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai trương việc cày cấy, trồng trọt. Lễ Thượng điền, được cử hành vào cuối mùa mưa, lúc mùa màng đã có kết quả. Hai lễ này mang tính chất lễ nghi nông nghiệp rõ rệt. Bên cạnh việc cầu Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình; là lễ cúng Thần Nông, Hậu Tắc, Vũ Sư, Phong Bá, Điển Di...Thông thường, lễ Hạ điền long trọng hơn lễ Thượng điền. Ngoài ra ở đình Nam Bộ còn có các lễ nhỏ khác, như: Giỗ hậu và Giỗ các anh hùng lịch sử; lễ vía Bà (các nữ thần được phối tự); và các lễ khác gọi chung là Tứ thời tiết lạp, gồm: Nguyên Đán, Hàn Thực (3 tháng Ba âm lịch), Thanh Minh (trong khoảng tháng Ba âm lịch), Trung Thu (rằm tháng Tám âm lịch), Trùng Cửu (mồng 9 tháng Chín âm lịch), Trùng Thập (mồng 10 tháng Mười âm lịch), Trừ Tịch (30 tháng Chạp âm lịch)... - Lễ Kỳ yên Đây là lễ chính trong năm. Lệ phổ biến là 3 năm cúng lớn một lần, gọi là Đại lễ Kỳ yên (Tam niên đáo lệ Kỳ yên). Sách Gia Định thành thông chí chép: Mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu, cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy. Ban quí tế Tên cũ là Ban Hương chức hội tề, hay Ban tế tự, gồm nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì đại khái chia ra làm ba loại hương chức: - Hương chức loại 1: tức hương chức Hội chánh, gồm có: Kế hiền (Hội trưởng); Chánh bái (hay Chánh niệm hương), Phó bái, Bồi bái, Tiên bái (bốn chức chung lo việc ngoại vụ); Chánh tế, Phó tế, Bồi tế (ba chức chung lo việc nội vụ). - Hương chức loại 2: tức hương chức Hội tề, gồm có: Giáo sư (cố vấn mọi mặt), Hương quan (cố vấn nghi lễ, tục lệ), Hương lễ (chỉ huy ban lễ sinh), Hương nhạc (chỉ huy ban nhạc lễ), Hương văn ( soạn thảo văn tế), Hương ẩm (tổ chức tiệc tùng), Thủ bổn (lo việc sổ sách và kiểm tra lễ vật), Thủ từ (giữ đình, lo việc đèn nhang mỗi ngày). - Hương chức loại 3: tức hương chức Hội hương hay Ngoại hội tề, gồm những người phụ giúp việc đình miếu. Một điều khác lạ là ở Nam Bộ, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quí khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Một điều khác nữa là ở Nam Bộ không hề phân biệt dân cố cựu, dân ngụ cư. Dân mới cư ngụ đôi ba năm, vẫn có thể được cử làm hương chức. Và ở đây cũng không hề có trường hợp bắt họ phải làm "thằng mõ". Có thể nói Ban quí tế đình miếu ở Nam Bộ là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn. Tuy có nơi, họ bị mang tiếng là bọn xôi thịt; nhưng đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác; bổn phận nhiều hơn quyền lợi. [7] Ý nghĩa Đình là thiết chế văn hóa tín ngưỡng của làng xã thời xưa, là nơi thờ thần Thành hoàng, được sắc phong theo ý nghĩa là thần phù hộ cư dân một làng. Ngoài ra, ngôi đình còn là nơi thờ các vị phúc thần, thần linh, danh nhân lịch sử, Tiền hiền, Hậu hiền (những người có công thành lập và xây dựng làng xã); là nơi dân làng đến lễ bái cầu mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn, là nơi tụ họp dân làng, yến ẩm, vui chơi... Trong một giai đoạn ngắn của lịch sử hành chánh, ngôi đình còn là trụ sở hành chánh của làng xã. Trích thêm nhận định của các nhà nghiên cứu. - Sơn Nam: Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng "lưu dân tập thể", mặc dù làng lắm gạo nhiều tiền...[8] Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch: Ngôi đình ở Nam Bộ gần như thống nhất từ đầu với lịch sử ngôi làng ngay từ lúc mới thành lập. Công trình này là nhân chứng và là một lực lượng (ít nhất là về tinh thần) vào sự hình thành, phát triển của vùng đất mới này. Ngoài ra, đình còn biểu hiện sinh hoạt luân lý, đoàn kết, hội hè của những kẻ tha phương...[9] Nguyễn Đăng Duy: Đình Nam Bộ không có ruộng công. Kinh phí cho hoạt động thờ thần, hội làng đều do các các nhà hảo tâm, do dân làng tự nguyện đóng góp. Đặc biệt, ở đây việc ăn uống, chỗ ngồi không bị phân ra ngôi thứ quá khắt khe như ở các đình đền ngoài Bắc. Cái khác nữa, là các đình ở ngoài Bắc, thường chỉ thờ một nhân thần hoặc một nhiên thần; còn ở Nam Bộ, đình là trụ sở của một tập hợp thần linh đa tạp. Tất cả được hỗn dung tổ hợp từ nhiều nguồn, nhiều phía. Có thể tạm phân ra như sau: - Từ ý thức biết ơn, biểu dương các người có công giữ nước, dựng làng. - Từ ý thức hiếu nghĩa đối với tổ tiên. - Từ ý thức nhớ về cội nguồn vẻ vang. - Từ ý niệm thiêng liêng phong sắc cho thần. - Từ ý niệm thờ thần gắn với không gian nghề nghiệp.[10] Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích [ 1 ] - Đọi: từ cổ, tương đương chữ chén bát ngày nay. [ 2 ] - Xã thần (Thần Đất,社) và Tắc thần (tức Thần Nông, 稷 ) là hai vị thần của nền văn minh lúa nước. [ 3 ] - Hội đồng nội và ngoại, theo Sơn Nam gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi v.v...(Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 28). [ 4 ] - Nhiều đình không để sắc phong ở tráp, mà để ở nhà một hương chức có uy tín để tiện bảo quản. Khi có lễ, mới cử đoàn đi rước sắc về đình. [ 5 ] - Có thể tục có nguồn gốc từ các thôn làng ở gần núi nên có tên là lễ Khai sơn. [ 6 ] - Đình làng Trà Tân ở Cai Lậy, làm lễ "Bầu ông" ngày 17 tháng Ba (âm lịch), Đình làng Tân Tĩnh ở Mỹ Tho làm lễ ngày 16 tháng Giêng (âm lịch). [ 7 ] - Lược theo Trương Ngọc Tường, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, in kèm trong Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 80-83. ở sách Kiến thức phục vụ thuyết minhdu lịch, tên chức danh trong Ban quý tế có hơi khác. [ 8 ] -Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 21 [ 9 ] -Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr. 351. [ 10 ] - Lược theo Văn hóa tâm linh Nam Bộ, tr. 103-117. Tài liệu tham khảo - Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. - Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam , Nxb Trẻ, 2005. - Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. - Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. - Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 14:08:41 GMT 9
Thần Thành hoàng Bùi Thụy Đào Nguyên Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Tên gọi Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam trong sách "Thuần phong mỹ tục Việt Nam" đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).(1) Nguồn gốc Sách "Việt Nam phong tục" chép: Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình...Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh... Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài Chuyện thần Tô Lịch trong sách Việt điện u linh (2). Sách này chép: Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó...Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần sông Tô Lịch) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng...Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng...(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay... Các thứ hạng Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có ba hạng: *Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương(3), Sóc thiên vương, Sử đồng tử[4], Liễu Hạnh công chúa...Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. *Trung đẳng thần là những vị thần ân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. *Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết...Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì... Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ. Nơi thờ phụng Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lịnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu... Vai trò & ý nghĩa Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành...Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng. Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổn của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc "Quốc điển hóa" sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên. Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích 1.Thần Thành hoàng ở các tỉnh phía Nam, đa phần không có tượng thờ, trừ một vài đình như Đình Tân Lân ở Biên Hòa có tượng Đô đốc Trần Thượng Xuyên, Đình Châu Phú ở Châu Đốc có tượng Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh... 2. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của Việt điện u linh là Lý Tế Xuyên, người đời nhà Trần. Ông soạn sách này vào năm 1329 3. Đông Thiên vương là Trì quốc thiên ( , sa. dh?tara???ra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh. 4. Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến Chử Đồng Tử hay không. Tài liệu tham khảo *Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. *Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, 2005. *Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb TP. HCM in lại năm 1990. *Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. *Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. *Sổ tay Hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002. *Võ Thành Phương, Thờ Thần Hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân An Giang, tạp chí Thất Sơn số 57, 2000. *Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long, 1992.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 3:09:18 GMT 9
Hinh Anh KienTrucVNkhanhhoathuynga.wordpress.com/thuyngakhanhhoa.wordpress.com/diendansuutam.lefora.com/Vần luật trong kiến trúc, còn gọi là nhịp điệu kiến trúc, là một trong những quy luật bố cục không gian kiến trúc cơ bản. Vần luật trong kiến trúc là sự lặp đi lặp lại có quy luật, sự biến hóa có tổ chức các yếu tố bố cục tạo hình kiến trúc cơ bản (như điểm kiến trúc, tuyến (hay đường nét), diện (bề mặt), màu sắc, chất cảm (cảm quan của chất liệu), hình khối, không gian, đơn thể và quần thể kiến trúc), đem lại cho con người một ấn tượng mỹ cảm nhất định. Như vậy, vần luật kiến trúc vừa tạo ra sự thống nhất nhờ việc lặp lại một cách có quy luật các yếu tố tạo hình kiến trúc, nhưng cũng vừa tạo ra sự đa dạng nhờ tính biến hóa có tổ chức trong sắp xếp bố cục kiến trúc. Mục lục [ẩn] * 1 Vai trò của vần luật trong ngôn ngữ tạo hình kiến trúc * 2 Các hình thức vần luật trong kiến trúc o 2.1 Vần luật liên tục o 2.2 Vần luật tiệm biến o 2.3 Vần luật lồi lõm o 2.4 Vần luật giao thoa * 3 Chú thích * 4 Tham khảo Vai trò của vần luật trong ngôn ngữ tạo hình kiến trúcVần luật là phương tiện quan trọng trong nghệ thuật tổ hợp kiến trúc, thiếu nó tác phẩm kiến trúc trở nên vô hồn và câm lặng, đồng thời lại hỗn độn vô tổ chức. Số lượng các chu kỳ của sự nhắc lại (lặp lại) trong vần luật thường phải lớn hơn ba thì mới tạo được hiệu quả thẩm mỹ. Với những số chu kỳ lẻ như 3, 5, 7, 9 tạo thành những đơn vị vần luật kiến trúc không thể chia cắt được. Quy luật này thường được áp dụng trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, với các nhà ở truyền thống của người Việt thường là nhà 3 gian, 5 gian, 7 gian... có nhịp điệu lặp lại theo từng gian với những chi tiết thống nhất như cửa bức bàn, lan can con tiện. Theo Le Corbusier: "Sự thống nhất các thành phần xây dựng là một sự bảo đảm cho thẩm mỹ, tính đa dạng do các đơn vị ở đưa vào kiến trúc sẽ dẫn đến những bố cục lớn, những nhịp điệu kiến trúc chân chính" (đơn vị ở lớn Marseille). Các hình thức vần luật trong kiến trúc* Vần luật liên tục Vần luật liên tục, còn gọi là nhịp điệu đều hay tiết điệu, là vần luật sinh ra do sự sắp xếp lặp lại một cách liên tục một hay một số loại thành phần cơ bản (đường nét, bề mặt, hình khối, không gian) trong bố cục tạo hình kiến trúc. Khi sự lặp lại chỉ với một loại thành phần cơ bản đặt cạnh nhau thì tạo thành vần luật liên tục đơn giản. Nếu sử dụng, trong mỗi lần lặp đi lặp lại một cách liên tục, nhiều (tức là hai hay một số) loại thành phần cơ bản thì sẽ được vần luật liên tục phức tạp. * Vần luật tiệm biến Vần luật tiệm biến, còn gọi là nhịp điệu tăng giảm đều, là vần luật thay đổi dần dần một cách có quy luật, có sự biến thái trong thành phần của nhịp điệu (tức là các yếu tố kích thước, màu sắc, chất liệu,...). * Vần luật lồi lõm Nếu vần luật tiệm biến chỉ phát triển đơn hướng hoặc tăng đều hoặc giảm đều, thì vần luật lồi lõm vừa là vần luật tiệm biến (tăng, giảm có quy luật), vừa là vần luật dạng giao động hình sóng, lúc lên lúc xuống, lúc âm lúc dương, lúc hạ thấp lúc đột khởi theo quy luật nhất định. * Vần luật giao thoa Vần luật giao thoa hình thành do các thành phần kiến trúc đan chéo nhau, chồng lấn giao thoa với nhau. Chú thích 1. ^ Kiến trúc cổ Việt Nam, Vũ Tam Lang, trang 201. Tham khảo * Cuốn sách Sáng tác kiến trúc, của Đặng Thái Hoàng, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, trang 90-93. * Cuốn sách Cơ sở tạo hình kiến trúc, của Đặng Đức Quang, Nhà xuất bản Xây dựng, trang 137-146. * Cuốn sách Nguyên lý thiết kế kiến trúc, của Tạ Trường Xuân, Nhà xuất bản Xây dựng, trang 106-113. * Kiến trúc cổ Việt Nam của Vũ Tam Lang
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 3:36:25 GMT 9
Quy thức kiến trúc cổ Việt NamBách khoa toàn thư mở Wikipedia (đổi hướng từ Thức kiến trúc cổ Việt Nam)Phương đình Đền Đô ở Bắc NinhQuy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Mục lục [ẩn] * 1 Hình ảnh ban đầu * 2 Nét đặc trưng o 2.1 Mái nhà o 2.2 Cột o 2.3 Chạm khắc o 2.4 Thước tầm * 3 Một số hình ảnh tham khảo và so sánh * 4 Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam o 4.1 Bộ phận trần thiết * 5 Chú thích * 6 Xem thêm * 7 Liên kết ngoài Hình ảnh ban đầuĐình Chợ Vân, một công trình tiêu biểu theo quy thức Việt Nam cổ truyềnKiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu... có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt Nam". Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là sao bản của kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung Hoa và Nhật Bản, nhất là về phần cấu tạo mái cong. Hai nước Hoa và Nhật này khá tương đồng nhau vì dùng phương pháp "chồng đấu tiếp rui" trong khi Việt Nam dùng "tàu đao lá mái" để cấu tạo mái cong.[1] Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên thế giới. [sửa] Nét đặc trưng Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng, khi xuống gần diềm mái hiên thì dùng bảyVì kèo truyền thống với câu đầu nối hai cột cái (hình trên), chồng rường xếp trên xà nách (giữa), và chi tiết chạm khắc (dưới)Góc tầu đao mái chùa Hoa Yên trên núi Yên TửCó 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: * Dốc mái thẳng * Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên * Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau: * Dốc mái võng xuống * Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là "con sơn chồng đấu" hoặc "chồng đấu tiếp rui") * Cột thanh mảnh, tròn đều Mái nhàTàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc NinhChùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, chùa Keo, Thái BìnhTriền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột) , con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi. Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu-củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa. CộtCột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông. Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Chạm khắcTrong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu, thích chạm trổ. Thước tầmThước TầmTrong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo "thước tầm", một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Một số hình ảnh tham khảo và so sánhChi tiết dáng cột chuẩn Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng Kiến trúc cổ điển Trung Hoa. Lưu ý mái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt NamTên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ máiChạm khắc trên kẻ bảy, đình Thổ Tang, Vĩnh PhúcKhung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: * Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: * Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu. * Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái. * Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên. * Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: * Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; * Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. * Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: * Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; * Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái. * Bẩy hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên. * Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). * Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. * Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. * Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: * Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà. * Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà. * Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. * Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. * Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. * Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. * Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: * Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. * Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. * Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên. * Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. * Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa. Các chi tiết kiến trúc khác: * Cửa bức bàn * Con tiện * Dạ tàu * Đầu đao Công trình hai mái, hai đầu hồi bít đốc, đình Kim Liên, Hà NộiCông trình bốn mái: hai mái chính và hai mái chái ở hai đầu nhàCăn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo: * hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc, * hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. * hoặc hình thức 8 mái chồng diêm. Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ: * phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng; * nhà 3 gian; * nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái; * nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái; * nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái. Bộ phận trần thiếtCửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấp liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng "cửa bức bàn" bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa "thượng song hạ bản" tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua. Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 4:40:14 GMT 9
Kiến trúc cổ Việt Nam Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Mục lục * 1 Kiến trúc quân sự - quốc phòng o 1.1 Thành Cổ Loa o 1.2 Thành Hoa Lư o 1.3 Thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội o 1.4 Thành Tây Đô o 1.5 Thành Huế * 2 Kiến trúc cung điện - dinh thự * 3 Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng o 3.1 Chùa tháp o 3.2 Đền miếu o 3.3 Văn Miếu - Văn chỉ o 3.4 Lăng mộ o 3.5 Đình làng o 3.6 Tháp Chàm * 4 Kiến trúc dân gian o 4.1 Nhà ở dân gian o 4.2 Kiến trúc công cộng dân gian * 5 Kiến trúc vườn cảnh o 5.1 Các vườn đẹp ở Việt nam o 5.2 Trong nhà ở o 5.3 Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng o 5.4 Trong triều đình o 5.5 Vườn Lăng tẩm * 6 Xem thêm Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn liền với môi trường thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng trong thời kỳ phong kiến - chủ yếu là trước thế kỷ 19. Dù là công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ sộ, phức tạp như kiến trúc cung đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử dụng phổ biến và rộng khắp: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá..., sau này còn có các vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu khung cột, vì kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất về kích thước, tương quan về tỷ lệ và qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam. Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng có nhiều công trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những công trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân tộc rất rõ nét. Kiến trúc cổ Việt Nam được chia thành các loại hình như sau: [sửa] Kiến trúc quân sự - quốc phòng Đây là loại hình kiến trúc bao gồm thành lũy, pháp đài, đồn, cửa ô... Những kiến trúc quân sự quốc phòng cổ Việt nam có mặt bằng bố cục gồm các hình như: hình vuông, hình chữ nhật, hình đa giác đều, hình tròn, hình ngôi sao và những hình đặc biệt khác. Vật liệu xây dựng các loại hình kiến trúc này rất phong phú. Ở miền núi, người ta sử dụng phiến đá xanh có đẽo gọt hoặc không; ở miền trung du, người ta sử dụng đá ong; ở miền đồng bằng sử dụng đất hoặc gạch và vôi vữa xây thành. [sửa] Thành Cổ Loa Bố cục thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) có 3 vòng rõ rệt: vòng ngoài, vòng trong và vòng giữa đều được đắp bằng đất. Người ta thông thường đào đất ngay tại chỗ đắp tường thành, phần đất bị đào đi tạo nên hào chạy xung quanh thành và hào cũng là bộ phận có tác dụng phòng ngự của thành. Thành Cổ Loa có hình dáng khá đặc biệt giống hình xoáy vỏ ốc. Toàn bộ xung quanh các vòng thành Cổ Loa đều có đào hào, trừ phía Tây Nam và Đông Nam là sông hoặc đầm lầy tự nhiên, còn toàn bộ là hào nhân tạo rộng từ 20-50 m. [sửa] Thành Hoa Lư Thành Hoa Lư (Ninh Bình) là kinh đô thuộc thời nhà Đinh - Tiền Lê. Đây là công trình đạt tới đỉnh cao về mức độ kiên cố, hiểm trở của loại hình công trình phòng ngự trong lịch sử đương thời. Thành Hoa Lư nằm trên một khoảnh đất khá bằng phẳng trong khu vực những dải (dãy) núi đá vôi hiểm trở, bao bọc xung quanh, tạo thành những bức tường thành thiên nhiên kiên cố. Mười đoạn tường thành nhân tạo nối liền những dải núi đá vôi tạo nên 2 vòng thành khép kín sát cạnh nhau, được gọi là thành ngoài và thành trong, với diện tích toàn bộ khoảng trên 300 ha. [sửa] Thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội Bài chi tiết: Hoàng thành Thăng Long Thành Thăng Long thời nhà Lý gồm nhiều vòng thành. Vòng ngoài cùng là La thành, vừa là nơi phòng ngự, vừa là nơi ngăn lụt, có độ dài khoảng 30 km. Trong khu vực này là Kinh thành bao gồm nhiều phường phố, chợ búa... nơi ăn ở buôn bán sản xuất thủ công nghiệp của nhân dân và quan lại. Hoàng thành được xây bằng gạch, là nơi đóng các cơ quan đầu não của nhà nước và triều đình phong kiến, bên trong có Cấm thành là nơi dành cho vua và gia đình ở, sinh hoạt. [sửa] Thành Tây Đô Bài chi tiết: Thành Tây Đô Cổng Tiền Thành Tây Đô, Thanh Hóa Thành Huế Bài chi tiết: Thành Huế Cổng Ngọ Môn của thành HuếVòng thành ngoài là Kinh thành, xây kiểu Vauban, dạng gần hình vuông, mỗi cạnh 2235 m, chu vi gần 9000 m. Tường thành xây ốp bằng gạch hộp dày khoảng trên 2 m và cao khoảng 6,50 m. Vòng thành giữa gọi là Hoàng cung hay Đại nội hình chữ nhật. Vòng thành trong cùng là Tử Cấm thành. Tường xây cao 3,1 m, dày 0,72 m và có 7 cửa.c [sửa] Kiến trúc cung điện - dinh thự [sửa] Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng [sửa] Chùa tháp Tam quan Chùa Trăm Gian ở Hải DươngChùa tháp là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Bố cục mặt bằng ngôi chùa có các loại hình như sau: * Chữ Đinh (T), bên ngoài rộng 5 gian, 7 gian... * Chữ Công (I), hau còn gọi là nội công, ngoại quốc (trong là chữ I, ngoài là chữ ♬) * Chữ Nhị (=), chữ Tam... bao gồm một tổng thể nhiều công trình đơn lẻ, có hành lang bao quanh hoặc tường vây kín. [sửa] Đền miếu Đền Trung Liệt trên gò Đống Đa, Hà NộiCông trình đền đài, miếu mạo là nơi thờ cúng của Đạo giáo (Lão giáo). Địa điểm xây dựng thường được lựa chọn ở những vị trí có liên quan đến những truyền thuyết hoặc sự tích, cuộc sống của vị thần siêu nhiên hoặc các nhân vật được tôn thờ. Đại thể kiến trúc bên ngoài của đền đài miếu mạo có những đặc điểm cơ bản giống của kiến trúc đình chùa, nhưng nội dung thờ cúng và trang trí nội thất có khác nhau. [sửa] Văn Miếu - Văn chỉ Bài chi tiết: Văn Miếu-Quốc Tử Giám Văn Miếu, Tự miếu, Văn chỉ là những công trình kiến trúc Nho giáo thời Khổng Tử. Quần thể Văn miếu - Quốc tử Giám Hà Nội được xây dựng theo trục Bắc Nam. phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương. Ngoài cổng chính có một dãy 4 cột trụ, hai bên tả hữu có bia.Cổng Văn miếu xây kiểu Tam Quan trên có 3 chữ lớn Văn miếu môn viết bằng chữ Hán. [sửa] Lăng mộ Lăng Khải Định Kiến trúc lăng mộ là các công trình lăng tẩm và mộ táng cổ xưa. Một số dân tộc còn có nhà mồ. Có hai loại mộ táng: * Mộ của những người thế tục * Mộ của những người tu hành. Vật liệu xây dựng mộ thường là những viên gạch có độ nung già. Gạch hộp kích thước 40x30cm và gạch múi bưởi (gạch lưỡi búa) để xây cuốn, có trang trí nổi hình quả trám đời nhà Hán, hình chữ S hoặc con giống, hoa lá. [sửa] Đình làng Đình Bảng Môn, Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Đình làm theo kiểu hai mái bít đốc. Đình làng nguyên là nơi thờ thành hoàng theo phong tục tín ngưỡng trong xã hội Việt Nam cổ đại. Vì vậy nó thường được xếp vào thể loại công trình phục vụ cho tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, đình làng còn là một công trình thuộc thể loại kiến trúc công cộng dân dụng do tính chất phục vụ đa chức năng của nó. Ngoài là nơi thờ Thành hoàng làng, đình làng còn là trung tâm hành chính, quản trị phục vụ cho mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã; là nơi làm việc của Hội đồng kỳ mục trước đây (trong thời phong kiến); là nơi hội họp của dân làng;... Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội làng truyền thống, nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của làng. Nói chung, với ba chức năng cơ bản trên (tín ngưỡng, hành chính, văn hóa-văn nghệ), đình làng là nơi diễn ra mọi hoạt động của làng xã Việt Nam dưới thời phong kiến. Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ nước cây xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng có thể chỉ 5-7 gian, hoặc có thể có tới 9 gian như ở đình làng Đình Bảng. Đây cũng là số gian lớn nhất mà kiến trúc cổ Việt nam có được. Đình làng thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng phát triển thêm loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này. Mặt bằng đình có thể là kiểu chữ Nhất (kiểu này thường thấy ở các đình cổ, thế kỷ XVI); hoặc quy mô, phức tạp hơn với những bố cục mặt bằng chữ Đinh, chữ Nhị, chữ Công, chữ Môn (chữ Hán)...Đây là các dạng mặt bằng xuất hiện về sau, bổ sung cho sự phong phú của đình làng Việt Nam, đi liền với quá trình phát triển thêm về mặt chức năng của đình làng. Không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng (ống muống), tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình,... Trong bố cục đó, không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ... của dân làng. Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở các đình cổ thường có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho những người ngồi ở Đại đình. Ở những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có Hậu cung, bàn thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa Đại đình, gian này không lát ván sàn và có tên là "Lòng thuyền". Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong Hậu cung có Cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung quanh Hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, tạo không khí uy nghiêm và linh thiêng. Đình làng không những có giá trị về mặt kiến trúc cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc, mà còn là kho tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế giới cho nền nghệ thuật điêu khắc dân gian phát triển mạnh mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy, đầu dư, đố, xà kẻ, ván gió, ván nong (dong)... là nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu khắc đình làng còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh thần của người Việt Nam trước đây. Nó có giá trị lịch sử sâu sắc. [sửa] Tháp Chàm Bài chi tiết: Tháp Chàm Một tháp Chàm ở Phan Thiết Tháp Chàm là những đền miếu cổ, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm, sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng mặt trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Trên các bức tường không thấy mạch vữa liên kết, song các viên gạch lại liên kết với nhau rất rắn chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ. [sửa] Kiến trúc dân gian Nhà theo kiến trúc cổ truyền ở đồng bằng sông Hồng [sửa] Nhà ở dân gian Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình chuyển biến từ nhà sàn đến nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ hay lá dừa nước; nếu là kết cấu khung gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng ngói, tường bao quanh bằng gạch với vì kèo gỗ. Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang, nhà bếp) và chuồng gia súc cùng sân, vườn, ao, giếng hoặc bể nước và hàng rào, tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà chính thường có số gian lẻ (1, 3 hay 5) cùng với 1 hoặc 2 chái. Nhà chính thường quay về hướng nam, hướng này có thể đón ánh nắng khi trời lạnh, đón được gió mát để giải nồng. Phía trước thường trồng cây có tán cao đề làm cảnh, đón gió tốt. Phía sau, trồng cây bụi để ngăn gió lạnh. [sửa] Kiến trúc công cộng dân gian Chùa Cầu, Hội AnCổng làng Thổ Hà, Bắc Giang * Cầu: Có các loại như cầu tre, cầu gỗ, cầu đá, cầu gạch ngói... * Quán điếm: Quán có thể là quán nghỉ của nông dân ở goài ruộng hoặc quán chợ trong các chợ buôn bán. Điếm có thể là điếm tuần canh trong làng xóm, điếm canh đề phòng lũ lụt vỡ đê hay điếm ở ngoài nghĩa trang... Quán điếm thường có cấu tạo đơn giản, được xây dựng bằng tranh, tre, nứa, lá hoặc gạch, đá, gỗ ngói... * Chợ làng: Chợ làng là nơi mua bán, trao đổi nông sản, hàng hóa... giữa những người trong làng. Chợ làng thông thường có một quán chính (5 gian) và nhiều quán nhỏ khác. * Cổng làng: Làng xóm Việt Nam được bao bọc bới lũy tre và cổng làng chính là cửa ngõ của làng xóm. Vật liệu xây dựng của cổng làng thường là gạch, gỗ, ngói, đá ong,...Những cổng làng có quy mô thường có cửa đóng then cài và bảo vệ nghiêm ngặt, kết hợp với lũy tre làm thành pháo đài kiên cố chống lại giặc dã, cướp bóc hay ngoại xâm. * Kiến trúc vườn cảnhVườn cảnh là nghệ thuật tạo hình mô phỏng thiên nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo cảnh tôn cao giá trị công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn cảnh của Việt Nam chịu ảnh hưởng của vườn cảnh Á Đông, có nhiều nét tương tự vườn cảnh Trung Quốc và Nhật Bản, thường gồm 3 thành phần: mặt nước, cây xanh và đá núi nhỏ. Vườn cảnh Việt Nam không nổi tiếng như vườn Nhật, vườn Trung Hoa do không có những nét đặc trưng rõ ràng và khuôn mẫu cụ thể cũng như độ phổ biến rộng rãi ra ngoài khu vực. Các vườn cảnh ở Việt Nam, nhất là những khu vườn lớn, cổ thường mang những nét tương đồng với vườn Trung Hoa như hòn non bộ, thủy đình, các lầu hóng gió, ngắm trăng, các hồ nước được trồng viền liễu rủ... Vườn Việt Nam thường là sự thể hiện lại nét tự nhiên của thiên nhiên mộc mạc, ở Việt Nam vườn cảnh thường được Việt hóa để tạo nên nét riêng và phù hợp với điều kiện thời tiết, đất đai và văn hóa, lịch sử (Việt Nam là nước vùng nhiệt đới)... từ đó khiến vườn Việt Nam có những đặc điểm riêng; ví dụ ở vườn Việt Nam, những yếu tố như nét dân dã và mộc mạc và bản sắc dân tộc luôn được đề cao, coi trọng và thể hiện[cần dẫn nguồn]. Đó là những nét rất gần gũi với cuộc sống thường nhật ở thôn quê Việt Nam như: cây đa bến nước, cây khế bờ ao, lũy tre, hàng rào chè tàu hay dâm bụt, cây cau vương vít bụi trầu, giếng khơi, lu nước với chiếc gáo dừa được tra chiếc cán tre xinh xắn... Đặc biệt, trong vườn cảnh Việt Nam ở mỗi miền lại thường có những ngôi nhà mang đậm nét đặc trưng như: nhà ba gian, hai chái ở những vườn cảnh ở Bắc bộ; nhà rường trong những nhà vườn Huế; hoặc được làm đẹp bằng những kiểu nhà sàn của dân tộc thiểu số vùng cao. Ở Nam bộ trong vườn thường có thêm những cây cầu khỉ bằng tre vắt vẻo qua các mương nước như thách thức du khách đến chơi vườn... Chính vì những nét riêng này mà ở Việt Nam có nhà vườn Huế rất đặc biệt, được nhiều người biết đến, công nhận về tính đặc hữu[cần dẫn nguồn]. [sửa] Các vườn đẹp ở Việt nam Ở Việt Nam có các khu vườn cảnh cổ đẹp, đáng chú ý như các khu nhà vườn Huế, các vườn cảnh cổ ở các lăng mộ vua chúa, Tử cấm thành các triều đại vua chúa phong kiến, vườn trong các đình, chùa cổ... * Trong nhà ởTrong ngôi nhà cổ truyền của Việt Nam thường có một bộ phận không thể thiếu được là mảnh vườn. Đây là nơi tăng gia và cũng có thể là nơi cải thiện môi trường sống, tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà. Đặc biệt, nhà - vườn ở Huế đã trở thành một nét đặc sắc của miền Trung Việt Nam. Trong khuôn viên nhà vườn Huế có nhiều loại cây hoa màu sắc phong phú, cây cảnh tạo dáng thẩm mỹ, cây bóng mát bốn mùa, cây ăn quả mùa nào thức nấy cùng với hòn non bộ, bể cá vàng, chuồng chim cảnh... khiến cho khuôn viên nhà vườn Huế là một không gian sinh động thu nhỏ, vừa có lợi ích kinh tế, vừa có hiệu quả thẩm mỹ nghệ thuật. [sửa] Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng Vườn cảnh trong khu Hoàng thành HuếCác loại cây thường được trồng trong vườn của công trình tôn giáo tín ngưỡng là cây đa, cây si và cây đại... góp phần tạo cảnh làm nơi nghỉ ngơi cho khách thập phương đến thăm viếng và hành lễ đồng thời làm tôn giá trị nghệ thuật kiến trúc, tạo cảm giác thanh tịnh, trang nghiêm cho công trình tôn giáo. Hoa sen là loại cây quen thuộc và phổ biến trong kiến trúc Phật giáo. * Trong triều đìnhVườn thượng uyển là vườn cảnh dành riêng cho nhà vua và hoàng gia cùng quan lại cao cấp trong triều đình phong kiến thưởng thức và du ngoạn. Cố đô Huế của triều nhà Nguyễn còn để lại những khu vườn cảnh có giá trị như: vườn Ngự uyển trong Tử Cấm Thành, vườn Cơ hạ trong Hoàng thành, vườn Tĩnh tâm Giả viên với mặt nước, hồ sen kết hợp với các kiến trúc hành lang, Thủy tạ tạo nên một khung cảnh nên thơ, u tịch. Vườn Lăng tẩmChùa Một CộtNguyễn Nam Kinh (1) Chùa Một Cột ở Hà Nội hiện nay là tên quen thuộc của Liên Hoa Ðài dựng trong khuôn viên của một quần thể kiến trúc chùa, gồm chính điện thờ Tam Bảo, nhà Tổ, nhà khách v.v. được gọi chung là chùa Diên Hựu (lấy tên đầu của Liên Hoa Ðài). Chùa Một cột nổi danh vì kiến trúc độc đáo là một lầu gỗ hình vuông đặt trên một cột đá trồng giữa một hồ nước. Lầu được củng cố bằng một hệ thống con sơn sóc nách bằng gỗ. Tất cả tượng hình cho một bông sen vươn lên khỏi mặt nước, do đó mà có tên là Liên Hoa Ðài. Liên Hoa Ðài theo sử biên niên đã được dựng vào thời Lý năm 1049. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: "Mùa đông tháng 10 âm lịch, dựng chùa Diên Hựu ở vườn Tây cấm (bên phía Tây cấm thành Thăng Long). Trước đấy vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Ðức Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi vua tỉnh dậy, vua đem việc đó nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột trụ như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng kinh, cầu cho vua trường thọ". Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ). Năm 1105 vua Lý Nhân Tông lại cho sửa sang, tô điểm Liên Hoa Ðài, đào thêm hồ, xây tháp báu ở phía trước. Văn bia tháp Sùng thiện Diên Linh trên núi Ðọi (tỉnh Hà Nam) có đoạn ghi tả chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Thăng Long như sau: "Ðảo ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột đá hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng một ngôi đền đỏ xẫm, trong đền đặt một pho tượng Quan Âm sắc vàng. Vòng quanh ao có dẫy hành lang trang trí bằng những hình vẽ bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, mỗi phía đều bắc cầu cong để đi lại. - sân trước mặt, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu ly..." Hai tháp báu này xây bằng gạch nung đất trắng, một cạnh gạch có chạm rồng (kiểu rồng thời Lý) ngoài cũng phủ men trắng mà khoảng năm 1954 đã được tìm thấy trong khuôn viên chùa Diên Hựu. Thiền sư Huyền Quang, đệ tam tổ phái Trúc Lâm thời Trần có làm thơ vịnh cảnh Diên Hựu Tự dưới trăng thu, có đề cập đến những ngọn tháp này: "Thượng Phương thu dạ nhất chung lan, Nguyệt sắc như ba phong thu đan, Xi vần (chi vẫn)* đảo miên phương kính lãnh, Tháp quang song chĩ, ngọc tiêm hàn" Phương trượng đêm thu vẳng tiếng chuông, Lá bàng đỏ xẫm ánh trăng suông, Gương hồ in ngược chim đầu nóc, Một đôi tháp ngọc nhọn đầu vươn. Vua Lý Nhân Tông còn cho xây thêm một gác chuông bằng đá cao mấy trượng và đúc một quả chuông thật lớn định để treo lên, nhưng chuông rè, không kêu nên để bỏ ở thửa ruộng bên chùa. Ruộng trũng nhiều rùa, nên được gọi là chuông Qui điền. Chuông này sau Vương Thông nhà Minh bị Bình Ðịnh Vương vây hãm, phá đi để lấy đồng đúc khí giới (T.K.X.V). Vào những ngày sóc (mồng một), ngày vọng (rằm) mỗi tháng nhà vua thường đến lễ chùa và hàng năm đến ngày Phật Ðản (mồng 8 tháng tư ta) vua đều đến dự lễ tắm Phật. Ðó là thời cực thịnh của chùa Diên Hựu. Từ đó đến nay, chùa cùng với đất nước trải qua bao cuộc thịnh xuy nhưng vẫn tồn tại và đã được tu sửa nhiều lần. Ý niệm xây dựng chùa Một Cột có lẽ đã phát xuất từ thời Ðinh Lê (T.K.X.) bằng chứng là ở Hoa Lư cũng còn di tích của một chùa Một Cột. Còn chùa Một Cột thời Lý tức Diên Hựu Tự là "Hoa sen nghìn cánh nở trên cột đá " trên dựng điện Phật, mặc dù «hoa sen nghìn cánh" có là mỹ tự đi nữa thì kiến trúc xưa cũng to lớn huy hoàng hơn bây giờ. Một số nhà khảo cứu đã đưa những con số chiều cao, chiều rộng to lớn gấp bội hiện nay nhưng không biết căn cứ vào đâu. Những hình ảnh xưa nhất của Liên Hoa Ðài, được ghi lại là những tấm hình chụp về cuối thế kỷ XIX (khoảng trên một trăm năm trước đây) cho ta thấy chùa Một Cột bấy giờ trông tương tự như bây giờ, nhưng tình trạng bắt đầu hư nát và quang cảnh xung quanh khá hoang tàn. Ðến năm 1923 chùa Một Cột được trường Viễn Ðông Bác Cổ xây cất lại và xây bao lan bọc quanh 4 phía hồ. Nhưng cuộc trùng tu này vì thiếu kinh nghiệm nên kết quả không được mỹ mãn lắm. Kích thước thì nhỏ hẹp đi, mái cũng thấp hơn, quang cảnh có gọn gàng phong quang hơn nhưng đường nét cũng khô khan hơn. Nhưng từ đây trở đi nhờ phương tiện truyền thông, sách vở, báo chí hình ảnh, chùa Một Cột được phổ biến, thậm chí nha bưu điện Ðông Dương cũng dã mấy lần phát hành tem chùa, nên càng ngày kiến trúc này càng được biết đến, không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới nữa. Ðến cuối năm 1954 khi thi hành hiệp định Genève, quân Pháp sửa soạn rút lui khỏi Hà Nội và miền Bắc Việt Nam thì có kẻ lạ mặt đặt thuốc nổ phá hủy chùa Một Cột ngày 11-9-1954 (rằm tháng tám ta). Liên Hoa Ðài bị phá hủy từ mặt sàn trở lên vì chất nổ được dấu ở dưới bát hương. Tuy nhiên, pho tượng Quan Âm nơi đây, vẫn ngồi y nguyên ở gần ngay đấy, chỉ bị rời mấy cánh tay gỗ chắp. Sau khi tiếp quản Hà Nội, được mấy tháng thì chính quyền tiếp quản quyết định phục hồi lại chùa và ủy nhiệm cho chuyên viên Sở Bảo Tồn Cổ Tích Nguyễn Bá Lăng, nghiên cứu họa đồ và điều khiển công trường. Họa đồ đã được nghiên cứu căn cứ theo một ảnh chụp cũ khoảng cuối thế kỷ XIX của trường Viễn Ðông Bác Cổ. Vì là ảnh chụp lập diện (géométral) nên những kích thước cũ, chiều rộng, chiều cao, độ dốc mái kể cả chi tiết tầu đao, lan can được phục nguyên một cách chính xác. Cột đá đường kính 1m20 và bộ con sơn sóc nách bên dưới vẫn được giữ nguyên, còn bên trên bình đồ vuông nay được phục nguyên mỗi mặt rộng 4m20, chiều cao từ sàn đến diềm mái là 2m20. Chi tiết trang trí trên nóc mái là đôi rồng ngoảnh cổ lại chầu mặt nguyệt, là đặc điểm trang trí từ thời cuối Lê sang Nguyễn được đắp lại như cũ. Bốn góc mái đao được làm cong hớt lên hơn trước một ít. Những hình đắp trang trí trên bốn góc đao trong hình chụp không rõ vì đã hư mòn thì được đắp lại theo hình đầu rồng lá lật như kiểu cuối thời Lê, còn thấy khá phổ thông ở các kiểu kiến trúc cổ tại miền Bắc. Vách gỗ bao quanh cung thờ được làm theo kỹ thuật cổ truyền là vách nong đố gỗ. Lan can được làm con tiện và cái "vỉ ruồi" trang trí ở hai đầu hồi thì được chạm theo kiểu chép ở nhà thủy tạ chùa Tam Sơn, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Bên trong, phía sau bên trên bàn thờ Ðức Quan Thế Âm, được trang trí bằng một giải ván thượng diệp chạm lưỡng long chầu nguyệt dập theo một kiểu chạm gỗ ở đình làng Ðình Bảng (Bắc Ninh). Cũng ở đây bên trên giáp mái treo tấm bảng chữ Hán "Liên Hoa Ðài". Tòa Liên Hoa đài này đã được dập kiểu để dựng trong vườn của một bảo tàng viện tại Varsovia (Ba Lan) nhưng theo tỷ lệ thu nhỏ ơ và thay thế cầu thang gạch bằng cầu thang gỗ. Làm như vậy có lý hơn vì rất có thể là trước kia người ta leo lên Liên Hoa đài bằng một thang gỗ, rồi đến cuối thế kỷ trước Kinh lược Hoàng Cao Khải trong đợt tu bổ cổ tích mới cho xây bằng gạch như hiện nay: Liên Hoa đài nằm chếch phía sau, bên phía Tây Bắc chính điện thờ tam bảo trong khu vườn riêng của chùa, thì nay vườn này được mở rộng thành công viên của thành phố, mé bên kia khu vực chùa Diên Hựu thì khoảng thập niên 80 dùng để xây tòa nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh đồ sộ cao lớn ở gần xát ngay bên, không biết tôn trọng di sản lịch sử văn hóa xưa. Tuy nhiên khách vào thăm chùa Một Cột vẫn đông đảo vì ai cũng nhận thức là chùa Một Cột đích thực là kiến trúc văn hóa Việt Nam. Nguyễn Nam Kinh (1) * Một loại chim, đắp bằng sành để trang trí trên đầu nóc mái _______________________ (1) - Nguyễn Nam Kinh là một bút hiệu của Nguyễn Bá Lăng. Bài này được đăng lần đầu tiên trên báo Hương Sen số 60 - Ngày 19-2-1996 Xuân Bính Tý. (Trên báo Hương Sen, sau bài chùa Một cột, các bài khác, trong những số kế tiếp, đều được ký tên thật là Nguyễn Bá Lăng). Vào năm 1996, tác giả có gửi kèm theo ba tấm ảnh: - Chùa Một cột trước khi bị phá năm 1954 - Chùa Một cột đang cất dựng lại hồi đầu năm 1955 - Chùa Một cột ngày nay. Lúc đó, điều kiện kỹ thuật không cho phép in lại ảnh trên báo Hương Sen. Ngày nay, dù bản thảo ngày xưa của tác giả còn giữ được, nhưng rất tiếc các ảnh đã thất lạc, nhất là ảnh Chùa Một cột trong khi đang cất dựng lại năm 1955. Tác giả đã qua đời. Chúng tôi (chủ biên CVCN, cũng là chủ biên báo Hương Sen 1990-2000) đã tìm cách liên lạc với gia đình của tác giả , hy vọng còn giữ được hình ảnh nào chăng, nhưng chưa được.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 4:45:18 GMT 9
Thành hoàngBách khoa toàn thư mở Wikipedia Đình Bình Thủy, Cần Thơ. Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Mục lục [ẩn] * 1 Tên gọi * 2 Nguồn gốc * 3 Các thứ hạng * 4 Nơi thờ phụng * 5 Vai trò & ý nghĩa * 6 Xem thêm * 7 Chú thích * 8 Tài liệu tham khảo * 9 Liên kết ngoài [sửa] Tên gọi Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành[1]. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật.[2]Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có[3]. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng"[4] cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách Minh Mạng chính yếu, quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ)[5]. [sửa] Nguồn gốc Bên trong Đình Mỹ Phước, Long Xuyên. Sách Việt Nam phong tục chép: Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình...Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh...[6] Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài Chuyện thần Tô Lịch trong sách Việt điện u linh[7]: Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó...Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần sông Tô Lịch) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng...Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng...(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay...[8] [sửa] Các thứ hạng Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có ba hạng: * Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương[9], Sóc thiên vương, Sử đồng tử[10], Liễu Hạnh công chúa...Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. * Trung đẳng thần là những vị thần ân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. * Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết...Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì...[11] Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ. [sửa] Nơi thờ phụng Bàn thờ thần Thành hoàng ở Đình Mỹ Phước. Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lịnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu...[12] [sửa] Vai trò & ý nghĩa Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành...Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng. Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổn của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc “Quốc điển hóa” sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên.[13] [sửa] Xem thêm * Đình làng * Đình làng Nam Bộ * Lễ Kỳ yên * Lễ Xây chầu * Hát chầu [sửa] Chú thích 1. ^ Theo Thờ Thần hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân An Giang, tr. 46. 2. ^ Theo Sơn Nam, Nói về miền Nam [1]. 3. ^ Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian (tr. 19). Đào Duy Anh gọi tục này là Phần hoàng (Việt Nam văn hóa sử cương. Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, 1961, tr. 201). 4. ^ Xem Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam(tr. 317). 5. ^ Theo Đình miếu & lễ hội dân gian (tr. 21, 47, 49, 75) và Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (tr. 354.) Thần Thành hoàng ở các tỉnh phía Nam, đa phần không có tượng thờ, trừ một vài đình như Đình Tân Lân ở Biên Hòa có tượng Đô đốc Trần Thượng Xuyên, Đình Châu Phú ở Châu Đốc có tượng Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh... 6. ^ Việt Nam phong tục, sách đã dẫn, tr.78-79. Những chữ trong ngoặc do người soạn chua thêm. 7. ^ Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của Việt điện u linh là Lý Tế Xuyên, người đời nhà Trần. Ông soạn sách này vào năm 1329 (Việt điện u linh, tr. 6. và Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr. 1994. 8. ^ Việt điện u linh, tr. 104-105. 9. ^ Đông Thiên vương là Trì quốc thiên (持國天, sa. dhṛtarāṣṭra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh. 10. ^ Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến Chử Đồng Tử hay không. 11. ^ Việt Nam phong tục, tr. 75-75. 12. ^ Tạp chí Tri Tân số 137 ra ngày 6 tháng 4 năm 1944. Dẫn lại theo Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 18. 13. ^ Lược theo Văn hóa & tín ngưỡng Nam Bộ trong sách Hành hương đất phương Nam, tr. 27. [sửa] Tài liệu tham khảo * Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. * Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam (sách in chung), Nxb Trẻ, 2005. * Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb TP. HCM in lại năm 1990. * Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. * Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. * Hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002. * Võ Thành Phương, Thờ Thần Hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân An Giang, tạp chí Thất Sơn số 57, 2000. * Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long, 1992.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 4:52:13 GMT 9
DINH CHUA VNĐình Bình Thủy là một đình thần tại Thành phố Cần Thơ. Đình Long Tuyền, là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật của một vùng đất mới khai phá thuộc miền Tây Nam bộ. Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844), do đình tọa lạc tại phường Bình Thủy (Thành phố Cần Thơ) nên người dân nơi này còn gọi là Đình Bình Thủy. Mục lục * 1 Lịch sử tên gọi * 2 Lịch sử xây dựng o 2.1 Lần đầu tiên (năm 1844) o 2.2 Lần thứ hai (năm 1853) o 2.3 Lần thứ ba (năm 1909) * 3 Kiến trúc của Đình Bình Thủy * 4 Hội đình Bình Thủy * 5 Liên kết ngoài [sửa] Lịch sử tên gọi Đình Bình Thủy có sự đổi tên như vậy là do lúc khởi nguyên được dựng tại Bình Thủy. Nhưng đến đầu thế kỷ 20, Bình Thủy lại có tên khác là Long Tuyền (do rạch Bình Thủy có hình tựa con Rồng nằm) và nhân dân nơi đây còn gọi là đình thần Long Tuyền hay Long Tuyền Cổ Miếu (Long Tuyền còn là một làng cổ ở miền tây Nam bộ, nên còn được gọi là Làng cổ Long Tuyền, đây cũng là nơi sinh ra cụ Thủ khoa Nghi Chi Bùi Hữu Nghĩa). Đến năm 1979 xã Long Tuyền được chia làm 3 đơn vị hành chính là: phường Bình Thủy, phường An Thới và xã Long Tuyền, và đình nằm trong phạm vi phường Bình Thủy. Cho nên đình thần Long Tuyền hay đình Long Tuyền lại quay trở về tên nguyên gốc là đình Bình Thủy, và tên này tồn tại cho đến ngày nay. Đình Bình Thủy nằm sát với khu cư dân được bao quanh bởi hàng rào tứ giác: Mặt Bắc cách bờ sông Hậu khoảng 200 m, mặt Đông là bờ con rạch Bình Thủy, còn mặt Nam sát đường Lê Hồng Phong. Từ trung tâm Thành phố Cần Thơ, nếu đi theo đường Nguyễn Trãi qua đường Cách mạng tháng tám và Lê Hồng Phong 5 km là tới đình Bình Thủy. [sửa] Lịch sử xây dựng [sửa] Lần đầu tiên (năm 1844) Vào năm Giáp Thìn (1844) do nạn bão lụt hoành hành dữ dội ở làng Long Tuyền, nhà cửa ruộng vườn tiêu tan, nhân dân đói rét. Sau trận thiên tai đó, nhân dân trở về làng làm ăn ngày càng đông và lập một ngôi đình bằng tre gỗ, lợp lá tại vòm rạch Bình Thủy, để cầu nguyện thần linh phù hộ cho mưa thuận, gió hoà để giúp bà con được luôn an lành. [sửa] Lần thứ hai (năm 1853) Thời vua Tự Đức năm thứ 5 (1852) quan Khâm sai đại thần là Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một chiếc hải thuyền, khi thuyền gần đến Cồn Linh nơi đầu vàm rạch Bình Thủy thì gặp một trận cuồng phong lớn, làm mọi người trong thuyền đều hoảng sợ. Khi đó quan đại thần bèn ra lệnh cho thuyền nấp ngay vào vàm rạch Bình Thủy và được an toàn vô sự. Qua sự kiện này, quan bèn mở tiệc vui chơi ba ngày cùng dân làng. Nhân sự kiện này ông đổi lại tên cồn này là Bình Thủy. Khi trở về triều, quan đại thần tâu cùng vua Tự Đức xin ban sắc phong thần cho làng Bình Thủy. Sau đó, vua hạ chỉ phê sắc phong thần cho làng là Bổn Cảnh Thành Hoàng vào ngày 29 tháng 11 năm 1852 (năm Nhâm Tý). Sau khi có sắc phong của nhà vua, dân địa phương đã cùng nhau cất lại đình lần thứ hai. Lần này lợp ngói phía trước đình để xây thêm một nhà võ ca (thường dùng để làm Nhà hát bộ, trong đó có một sân khấu nhỏ, thấp, bằng gỗ để cho các đoàn hát đến biểu diễn cho bà con thưởng ngoạn). Theo cuốn "Cần Thơ xưa và nay" của tác giả Huỳnh Minh thì đình này còn thờ Trầm Hương công chúa và Huệ Cơ công chúa nhưng cũng không có sự tích. Sau này nhân dân còn đưa thêm những người có công với nước vào thờ như: Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập... [sửa] Lần thứ ba (năm 1909) Lần này, Đình Bình Thủy được xây lại mới hoàn toàn. Nguyên vào năm 1904, quan tri phủ Nguyễn Đức Nhuận thấy đình sắp sập, đề nghị cất lại đình ở ngã tư trên sở đất của làng rộng 2,9 ha, ông La Xuân Thanh, nghiệp chủ giúp đỡ tiền và chỉ huy xây dựng. Chẳng may quan tri phủ qua đời, công việc bị đình trệ. Năm 1909 ông cả Nguyễn Doãn Cung cùng ông thông gia điền chủ đồng tán thành ý kiến xây dựng lại ngôi đình lần thứ ba cũng tại chỗ cũ (Vàm Bình Thủy) với số tiền chung là 5.823 đ Đông Dương. Công việc xây dựng được khởi công từ ngày 12 tháng 7 năm 1909 đến 1910 thì hoàn thành. Công việc xây dựng được tiến hành tốt đẹp với sự thiết kế của ông Huỳnh Trung Trinh. [sửa] Kiến trúc của Đình Bình Thủy Đình Bình Thủy thuộc loại di tích kiến trúc tôn giáo và công trình nghệ thuật độc đáo. Nay Đình nằm trên khoảnh đất rộng hơn 4000 m². Cách kiến trúc ngôi đình này khác rất nhiều so với kiến trúc ở miền Bắc. Đình được cất trên một nền cao ráo và có chiều sâu, nhà trước và nhà sau đều là hình vuông nên chiều nào cũng có 6 hàng cột, các chân cột đều choãi ra làm cho đình càng thêm vững chắc. Về trang trí ngoại thất, nhìn trên nóc đình, ta thấy nhà trước hai mái chồng lên nhau, nhà chánh điện sau 3 mái chồng lên nhau theo kiểu kiến trúc "thượng lầu hạ hiên". Trên nóc đình có gắn tượng hình người, hình kỳ lân, hình cá hóa rồng. Nhìn sang bên trái nóc đình có mảng trang trí bằng xi măng giữa là quyển thư (tựa như cuốn thư đình được bày trí ở các đình miền Bắc) bên cạnh đó là giỏ lam đào và bình hoa, ở bìa mái ngói dưới cùng có ốp lá xoài màu xanh đen và ống ngói cũng được bịt lại bằng sành tráng men xanh. Mặt trước nhà là các cột xi măng trang trí các hình hoa lá đắp nổi thật tinh tế. Hình Hoa văn trang trí bên ngoài Trong đình, các bàn thờ được bố trí như sau: Tại tòa tiền đường có bàn thờ Nghi Hạ, Nghi Trung đặt ở gian giữa. Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ Nghi Thượng dùng làm lễ chính của các ngày lễ hội. Ở tòa chính điện: chính giữa nhà là bàn thờ chính, bên trái sát vách phía ngoài là bàn thờ Hương chức Tiên Giác, phía trong là bàn thờ Hậu tiền. Đối diện ở sát vách bên phải là bàn thờ chức sắc Tiên Giác và bàn thờ Tiền Hiền. Sát vách trong cùng ở gian giữa có bàn thờ Hậu thần, hai bên là hai bàn thờ Hữu Bang và Tả Bang. Bên ngoài đình có hai miếu lớn thờ thần Nông và thần Hổ, gần cổng có hai miếu thờ thần Rừng và thần Khai kênh dẫn nước. Noi that dinh binh thuy Can Tho.jpg Đình Bình thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Tuy được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 nhưng kiến trúc của đình còn giữ được nhiều yếu tố kiến trúc truyền thống của dân tộc. Đình còn giữ được những mảng chạm, những họa tiết trang trí gần gũi với nghệ thuật dân tộc. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở nơi đây hết sức tinh tế và sinh động. Tiềm ẩn dưới mái đình này không chỉ là lịch sử truyền thống cội nguồn của một làng cổ Nam Bộ mà còn là nơi gìn giữ những giá trị tinh hoa của văn hóa, văn minh sông nước miệt vườn Cần Thơ nói riêng và Miền Tây Nam Bộ nói chung. Cùng với những sinh hoạt văn hóa khác, đình Bình Thủy đã tạo nên một bản sắc riêng của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá năm xưa. Nay Đình Bình Thủy vẫn được giữ gìn, trùng tu và bảo vệ tốt. [sửa] Hội đình Bình Thủy Cảnh nhân dân xem hát bội ở Đình Bình Thủy (1960) Hàng năm nhân dân địa phương tổ chức các ngày lễ Thượng điền, Hạ điền rất đông vui. Lễ hội có không khí náo nhiệt vui tươi của hội làng, với các trò chơi dân gian như thả vịt, kéo co, hát bội, hát tiều, nữ công gia chánh v.v. được duy trì phong phú từ xưa cho đến nay. Đây là một lễ hội văn hóa thu hút hàng nghìn dân chúng khắp nơi tham gia, mang đậm tính chất nền văn minh lúa nước (cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, gia đạo an khang). Hội đình Bình Thủy là một trong 3 hội đình lớn nhất miền Tây. * Lễ Thượng điền - Cúng Bổn Cảnh Thành Hoàng (hay còn gọi là Thành hoàng làng là thổ thần canh giữ đất) sau khi thu hoạch. Đây là lễ hội cầu an, cúng tế, rước thần trên xe rồng tán phượng, thỉnh sắc thần bằng bè ghép 3 thuyền trang trí lộng lẫy, hát bội ba đêm liền: từ ngày 12 đến ngày 14/4 âm lịch hàng năm. * Lễ Hạ điền: thì tổ chức các ngày vào ngày 14, 15 tháng chạp.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 26, 2010 5:05:01 GMT 9
Cao Biền Một Nhân Vật Nhiều Huyền Thoại. Cao Biền là quan đô hộ nước ta thời Bắc thuộc, được cử sang trấn nhậm Giao Châu từ năm 866 đến 887. Căn cứ Cựu Đường thư, Cao Biền liệt truyện thì Cao Biền thuộc dòng dõi thế gia, từ bé đã giỏi văn chương, lại có tài võ nghệ. Một hôm có hai con diều sóng đôi bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, một phát tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc Điêu Thị Ngự Sử". Năm 865, sau khi đánh thắng quân Nam Chiếu, Cao Biền được cử làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. CAO BIỀN ĐẮP THÀNH ĐẠI LACao Biền là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử và các huyền thoại còn lưu truyền đến nay. Lúc ở Giao Châu, Cao Biền là quan cai trị hà khắc nhưng cũng có công chỉnh đốn mọi việc và đắp lại thành Đại La. Theo Đại Việt Sử kí toàn thư thì Thành Đại La nằm bên sông Tô Lịch (1), “vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ… Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian”. Sự sống của nhân dân trong thành khá sầm uất… Năm 938, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, chấm dứt thời kì Bắc thuộc. Đến năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) mới dời đô về Đại La. Tương truyền lúc thuyền còn đỗ dưới thành, bỗng có con rồng vàng hiện lên trên thuyền ngự nên đổi tên thành là Thăng Long. Vậy Thăng Long nguyên là thành Đại La, năm 1010 đã trở thành kinh đô nước ta, đến nay vừa tròn 1.000 năm. CAO BIỀN TRONG CÁC HUYỀN THOẠI NƯỚC NAM: Truyện dân gian nước ta nay vẫn còn nhiều truyền thuyết hoang đường về nhân vật Cao Biền như cho rằng Cao Biền thấy đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và yểm những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu… Cùng những huyền thoại ca ngợi tài năng của Cao Biền, sử sách nước ta cũng có nhiều truyền thuyết nhằm bài bác những kinh sợ mê tín của quần chúng đối với nhân vật này: Truyện sông Tô Lịch chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã kể như sau: “Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường Ý Tông sai Cao Biền làm Đô Hộ Tướng Quân, đem binh đánh quân Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt Tĩnh Hải Quân ở thành Lĩnh Nam, cho Biền làm Tiết Độ Sứ. Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía tây Lô Giang, chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây bắc, cuốn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông Cái. Hồi đó đang giữa tháng sáu, nước mưa lên cao. Cao Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào sông con, đi khoảng một dặm bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kì, tắm ở giữa dòng sông, cười nói hớn hở. Biền hỏi họ tên. Đáp: ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: nhà ở đâu? Đáp: nhà ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch. Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy một trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trôi mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một quãng trời, chập chờn lên xuống trong khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn chưa tan. Biền rất kinh dị, muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần tới nói rằng: “Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh. Ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi; ta có sợ gì bùa phép?” Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền càng kinh hãi, than rằng: “Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”. Sau Ý Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết và Cao Tàm được cử sang thay…” (2) Truyện Dấu trâu vàng ở huyện Tiên Du (Lĩnh Nam Chích Quái) viết về Cao Biền: “…Người đời truyền tụng rằng Cao Biền giỏi thuật số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh...”. Tuy có nhiều phép thuật nhưng Cao Biền vẫn thường rất e dè thần linh đất phương Nam. Những truyện Thần Chính Khí Long Đỗ, Tướng quân họ Cao ở Vũ Ninh, đặc biệt truyện Tản Viên Sơn Thánh đã mô tả Cao Biền rất kính nể linh khí phương Nam: Truyện Tản Viên Sơn Thánh: “… Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm trượng. Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy. Theo sách Ai Giao Châu Tự của Đường Tăng thì đại vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam, muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc quần áo vào, rồi đặt ngồi trên ngai, tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến Đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây, nhổ nước bọt mà bỏ đi. Biền than rằng: “Linh khí ở phương Nam không thể lường được. Vượng khí đời nào hết được…”. Sự tích đền Bạch Mã: Sách Lĩnh Nam Chích Quái, truyện Thần Chính Khí Long Đỗ kể rằng : “Đời Đường, Cao Biền sang đóng ở nước ta, chiếm phủ, xưng vua, đắp thêm La Thành. Vừa đắp xong, một buổi sáng sớm, Biền dạo xem phía ngoài cửa đông thành, bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, thấy mây ngũ sắc từ dưới đất dâng lên, ánh sáng lóe mắt. Một dị nhân mặc áo màu sặc sỡ, trang sức trông kỳ vĩ, cưỡi con rồng đỏ, tay cầm giản vàng, lơ lửng trong mây khói, khí thế ngùn ngụt, bay lên lượn xuống hồi lâu mới tan. Biền kinh ngạc, cho là ma quỷ, muốn thiết đàn để cúng. Đêm ấy, mộng thấy có thần nhân đến nói rằng: "Xin ông đừng có bụng nghi ngờ, ta không phải là yêu khí đâu. Ta chính là Long Đỗ Vương Chính Khí Thần, vì muốn xem kỹ thành mới mà hiện ra đó thôi!" Biền tỉnh dậy. Sáng hôm sau họp quần thần, than rằng: "Ta không khuất phục được người phương xa chăng? Đến nỗi để cho loài ngoại quỷ dòm ngó điều không hay của mình ru!". Có người khuyên lập đàn, và dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dạng thần nhân để làm bùa yểm. Biền y theo kế đó. Vừa đọc thần chú bỗng trời đất mù mịt ngày đêm, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nát vụn ra mà bay lên không. Biền sợ hãi, có ý muốn về phương Bắc. Người đời lấy làm lạ, bèn lập chùa ở mạn phía đông kinh thành.…” Đây là đền thờ Thần Long Đỗ (3) tức là đền Bạch Mã tại Phố Hàng Buồm (xưa thuộc phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương). Truyện Tướng quân họ Cao ở Vũ Ninh (Việt Điện U Linh tập): “…Tướng quân họ Cao tên Lỗ, là người huyện Vũ Ninh. Thời An Dương Vương, tướng quân được vuốt thần Kim Quy bèn chế ra nỏ thần Kim Quy. Khi Cao Biền dẹp quân Nam Chiếu trở về, qua châu Vũ Ninh, tới một chỗ, đêm nằm mộng thấy có một dị nhân mình cao chín thước, diện mạo cương nghị, búi tóc, mặc áo đỏ, tự xưng họ tên mà nói rằng: “Ta ngày trước phò tá An Dương Vương, giết giặc lập đại công, bị Lạc hầu gièm pha mà trừ bỏ. Sau khi ta chết, Thượng Đế thương tình vô tội, một lòng trung liệt nên phong cho làm Quản Lĩnh Đô Thống Tướng Quân ở một dải sơn hà này…; nay ngài trở về bản bộ, nếu không cáo tạ là trái lễ đó!” Cao Biền tỉnh mộng, bụng còn ghi tên Vũ Ninh, bèn lập đền thờ, nay là Đền Vũ Ninh tức là đền Gia Định, có một hang đá ăn vào sông Đại Than. Đền thường gọi là đền Đô Lỗ, ở xã Đại Than, huyện Gia Định (nay là Gia Bình), tỉnh Bắc Ninh. Còn một đền nữa ở thôn Tráng Liệt, xã Phúc Cầu, huyện Đường An. Truyền thuyết núi Cánh Diều ở Ninh Bình: Khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết núi Cánh Diều ở Ninh Bình kể rằng Cao Biền khi cưỡi diều giấy bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cùng dân chúng ở đây dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều. Ở Thanh Hóa cũng có những truyền thuyết kể về những cuộc so tài giữa Tả Ao - người được mệnh danh là thánh địa lí của nước Nam - với Cao Biền ở núi Hàm Rồng, nhưng xem ra điều này sai với thực tế lịch sử bởi vì theo Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí) thì Tả Ao sống vào đời Lê sơ ; theo Phan Kế Bính (Nam Hải Dị nhân liệt truyện) thì Tả Ao sống vào cuối đời nhà Mạc, vậy là phải cách thời Cao Biền khoảng từ 6 đến 7 trăm năm; không có lí gì hai nhân vật này lại gặp nhau mà so tài phong thủy được. Thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”: (chữ “dậy non” ở đây nghĩa là dậy thiếu ngày, tương tự chữ đẻ non…). Cùng với thành ngữ này, truyền thuyết dân gian ta kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Khi cần quân lính, Cao Biền chỉ gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính. Truyện kể có lần Cao Biền đọc thiếu thần chú, lúc mở ra những hạt đậu cũng thành binh nhưng còn non, chưa đủ sức nên đi lẩy bẩy. Một truyền thuyết khác lại kể rằng: khi sang nước Nam để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Cao Biền có nuôi 100 âm binh. Đến nước Nam, Cao Biền ở trọ nhà một bà hàng nước và nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương, gọi dậy một âm binh. 100 ngày thắp đủ 100 nén hương sẽ gọi dậy được 100 âm binh. Bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền, giả vờ quên, thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Kết quả là 100 âm binh của Cao Biền đã dậy đủ nhưng mà dậy non, thiếu ngày nên chẳng hiệu quả gì. Truyền thuyết Mả Cao Biền ở nước Nam: Cao Biền tuy bị bắt và bị giết ở Trung Quốc(4) nhưng dân ta lại kể về mả Cao Biền ở nước Nam, thậm chí mả lại có ở tận vùng trung Trung bộ; chẳng hạn ở Phú Yên có truyền thuyết mả Cao Biền. Đại khái chuyện kể là sau khi trấn yểm đất thành Đại La không thành, Cao Biền sợ linh khí nước Nam bèn đi mãi về phương nam, đến tận Phú Yên. Tìm được một làng nhỏ ven biển Phú Yên có long mạch, Cao Biền quyết định sinh sống tại đây, không về Bắc nữa. Qua nhiều năm tháng, Cao Biền giúp dân làng nhiều việc, nhất là đã giúp nhiều người xem đất dựng nhà, để mồ mả... Lúc sắp mất, Cao Biền nhờ dân làng giúp lại cho một việc là sau khi chết chôn xác ông vào huyệt đất đã chọn trước. Nay ở xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên trên một ngọn đồi có mả Cao Biền. Ở đây có câu ca dao: Nhìn ra thấy mả Cao Biền; Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài. CAO BIỀN TRONG VĂN HỌC Trong thơ văn Trung Quốc, Cao Biền là một nhà thơ Đường có nhiều bài thơ khá nổi tiếng. Xin tạm trích ở đây 02 bài thơ ít nhiều bộc lộ tâm tư của một nhà thơ giàu cảm xúc: Biên phương xuân hứng Thảo sắc thanh thanh liễu sắc nùng, Ngọc hồ khuynh tửu mãn kim chung. Sinh ca liệu lượng tuỳ phong khứ, Tri tận quan sơn đệ kỷ trùng. Hứng xuân chốn biên thùy (Nguyễn Cẩm Xuyên dịch) Cỏ sắc xanh xanh, liễu sắc nồng, Rượu ngon hồ ngọc rót đầy chung. Sênh ca réo rắt vời theo gió, Vọng đến quan san vượt mấy trùng. Phỏng ẩn giả bất ngộ Lạc hoa lưu thuỷ nhận Thiên Thai, Bán tuý nhàn ngâm độc tự lai. Trù trướng tiên ông hà xứ khứ, Mãn đình hồng hạnh bích đào khai. Đến thăm người ở ẩn không gặp (Nguyễn Cẩm Xuyên dịch) Hoa rơi nước chảy tưởng Thiên Thai, Thơ rượu ngà say đến viếng ai . Buồn quá ! tiên ông đâu vắng tá ? Đầy sân hồng hạnh bích đào khai. . Những truyện truyền kì về phép thuật của Cao Biền cùng những hiển linh của các vị thần nước Nam đã vô hiệu hóa được mưu của Cao Biền… hầu hết chỉ ghi lại trong Việt Điện U Linh tập, Lĩnh Nam Chích Quái cùng một số các ngọc phả thần tích. Soạn niên của các tác phẩm này tuy còn có ý kiến bàn cãi (5) nhưng chắc chắn là được viết sau thời Cao Biền nhiều thế kỉ; ví dụ như ở bài tựa đầu sách Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên ghi rõ là sách viết năm Kỷ Tị, Khai Hựu nguyên niên, tức là năm 1329. Lĩnh Nam Chích Quái cũng vậy, bài tựa của Vũ Quỳnh cho biết: ông tìm được sách này và tiến hành nhuận chính vào năm 1492; vậy là sách đều được viết sau thời Cao Biền làm quan ở nước ta đến hơn 500 năm. Sau một thời gian dài như vậy, trải qua bao nhiêu cuộc chiến, nguồn tư liệu hầu hết lại chỉ là truyền miệng…nội dung truyện hẳn không thể nào chính xác được. Riêng việc Cao Biền yểm bùa ở nước Nam thì các bộ sử giá trị của ta như Đại Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không hề nhắc đến mà chỉ kể lại chuyện nhờ trời giúp sấm sét đánh tan đá núi mà Cao Biền khai thông được kênh Thiên Uy. Các truyện truyền kì về nhân vật Cao Biền tuy có những chi tiết hoang đường sai với lịch sử song về mặt văn học, cả một quãng sinh hoạt văn hóa của tiền nhân lại hiện lên đầy màu sắc kì bí và đầy những đường nét cực kì sống động./. CHÚ THÍCH: (1) Trước đời Cao Biền sông chưa có tên này. Tô Lịch là tên do Cao Biền đặt. (2)Việt Điện U Linh tập cũng có truyện Tô Lịch. (3) Nguyên tên thần đền Bạch Mã là Long Độ; đời Trần, vì kiêng húy Trần Thủ Độ mà đổi thành “Long Đỗ”. Tương tự như vậy, vì kiêng húy Thái Tổ Lê Lợi mà vào đời Lê “Quảng Lợi” đã đổi thành “Quảng Lại” . (4) Sử Trung Quốc có ghi rõ rằng khi quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá. Cao Biền không tuân lệnh mà lại tạo phản, cát cứ ở Dương Châu nên đã bị Đường Hi Tông bãi chức. Vua Đường đã cử Tần Ngạn cùng với Tất Sư Đạc tấn công Dương Châu (887). Thành Dương Châu bị phá, Cao Biền bị bắt, một thời gian sau bị Tần Ngạn và Tất Sư Đạc giết chết. (5) Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi bàn về lai lịch Việt Điện U Linh tập đã cho rằng Lý Tế Xuyên không thể sống ở đời Trần. Nguyễn Cẩm Xuyên (Tạp chí KIẾN THỨC NGÀY NAY số Tân niên, ngày 20/2/2010) Nhà thờ họ tổ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Nhà thờ họ là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.[1] Chi họ lớn, sau khi đã phân chi thì nhà thờ của dòng trưởng nam sẽ là nới nơi thờ phụng từ đời ông thủy tổ, nơi giữ gia phả gốc, nhà thờ này sẽ được gọi là nhà thờ đại tôn. Các nhánh họ khác đều có nơi thờ cúng riêng từ đời ông tổ chi trưởng, gọi là nhà thờ chi họ (hay cửa họ).[1] Nhà thờ họ sẽ được xây cất với quy mô, kiến trúc phụ thuộc vào khả năng tài chính và đóng góp của các suất họ (từng thành viên nam) và theo địa vị xã hội của những người vai vế trong dòng họ. Phần nội thất, gian giữa thường kiến trúc kiểu mở rộng ra phía tường hậu (chuôi vồ) để xây bệ thờ. Trên bệ thờ đặt các linh toạ hoặc giá gương hoặc (vì tay ngai chạm hình rồng nên còn có tên khác là long ngai). Ngai sẽ là nơi để bài vị tổ tiên hoặc là một ống quyển, hoặc khối hộp chữ nhật sơn son thiếp vàng đứng chứa đựng gia phả, có phủ nhiễu điều bên ngoài. Nơi đây là nơi được xem là linh thiêng nhất, nơi mà linh hồn tổ tiên sẽ ngự trị.[1] Hằng năm, ngày lễ giỗ tổ tiên tại nhà thờ họ là dịp hội họp lớn nhất của tộc họ, nó đồng thời cũng là dịp để đại bộ phận có xu hướng khuếch đại quan hệ họ hàng”, nối lại mối quan hệ lỏng lẻo.[2] Người theo Công giáo ở Việt Nam cũng có một hình thức nhà thờ tương tự gọi tên là nhà thờ giáo họ nhưng có điểm khác biệt là họ trong các dịp quần tụ họ còn hành lễ, thờ phụng Thiên chúa.[cần dẫn nguồn] [sửa] Chú thích 1. ^ a b c Mục từ Nhà Thờ Họ trên Bách khoa toàn thư Việt Nam. 2. ^ Tục thờ cúng tổ tiên: Chén nước trong soi lòng trinh bạch (phần IV)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:06:00 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 6:50:17 GMT 9
Ngày xưa, nhà tranh vách đấtNha Nong Thon VNMột trong số rất ít ngôi nhà tranh vách đất còn sót lại ở vùng nông thôn. Ảnh: Văn Cảnh Bây giờ ở nhiều vùng nông thôn, nhà tranh đã vắng bóng thực rồi. Sau này mấy ai còn được biết cái nhà tranh vách đất là gì.Đó là cái nhà phổ thông của nông thôn hồi xưa. Nhà đủ che nắng mưa, cốt sao để người ta có được một mái gia đình. Nhà tranh vách đất được cất theo nhiều quy mô khác nhau: Nhà cặp là nhà ba gian hai chái (hoặc năm gian hai chái), có cột gỗ kèo tre làm khung chống đỡ, mái tranh dày. Nhà cặp có hè rộng, trước hè có hàng cột gỗ tròn. Nội thất nhà cặp có nền đất, trần bằng sìa tre, ở giữa đặt bàn thờ gia tiên, chái tây kê giường hoặc bộ ván (phản). Túp lều tranh là nhà ba gian hai chái, cất hoàn toàn bằng tranh tre. Nhiều nhà dừng vách cũng bằng tấm tranh, không làm vách đất. Bên trong túp lều tranh có giường thờ lạnh lẽo khói hương, giường người nhà nằm, đều làm bằng tre (ở đây không đề cập nhà lá mái, mặc dù đa số nhà lá mái cũng lợp tranh. Bởi nhà lá mái là nhà có móng xây đá ong, nền lát gạch Bát Tràng, có bộ khung nhà làm bằng gỗ quý được chạm trổ, có nội thất sang trọng gồm những đồ quý giá. Nhà lá mái là nhà của người giàu ở trong làng). Nhà tranh vách đất cũng cần ngăn nắp. Toàn bộ ngôi nhà cặp gồm có nhà trên, nhà dưới, nhà buồng, nhà bếp... Nhà trên có phần kỹ lưỡng hơn hết: Cửa vào nhà trên trổ ở giữa vách mặt tiền, hai cửa sổ ở hai bên, chái tây nhà còn có thêm cửa sổ, nhà trên có cửa thông với nhà dưới. Cũng có nhiều nhà trổ cửa nhà trên lệch bên trái nhà, tiếp theo là hàng phên giại (bằng nan tre đan) thay bức vách mặt tiền, không có cửa sổ. Khi nhà có đám tiệc thì mở phên giại cho được rộng rãi. Nhà dưới, nhà buồng, nhà bếp thường là những hiên lai từ nhà trên. Nhà tranh vách đất thường được cất thấp để phòng tránh gió bão; giọt tranh trước nhà thấp đến mức người bước vào nhà nếu quên cúi xuống là bị đụng đầu. Nguyên, vật liệu làm nhà tranh vách đất chủ yếu chủ nhà tự túc. Cây cau, cây xoan trong vườn nhà thân thẳng chặt làm cột nhà; cây xoài, cây mít thân to hạ xuống, cưa xẻ lấy gỗ làm đà, làm kèo, ra ván làm cửa, làm phản... Cây tre ngoài bờ rào cung cấp nguồn nguyên liệu chính cho ngôi nhà, nhiều ngôi nhà cất toàn bằng tre, không cần đến gỗ. Rơm rạ thì nhà nông có sẵn, chờ giũ rạ, đánh tranh. Cũng có nhà lợp mái bằng tấm tranh săng, tấm tàu dừa. Vùng Tam Quan (Hoài Nhơn) là xứ dừa, cất nhà lợp lá dừa. Cây tre làm nhà thường được ngâm bùn 5-7 tháng, gọi là tre ngâm, không còn sợ mối mọt. Ông thợ cất nhà tranh vách đất được gọi là ông thợ mái. Thợ mái làm phần tranh tre: khoét kèo, gác đòn tay, thả rui mè, dựng mầm trỉ, lợp mái, cắt đuôi tranh, trát vách... Ngoài thợ mái, chủ nhà còn phải kêu thợ đất để xe đất đắp nền; thợ mộc làm phần gỗ: dựng cột, thả đà, đóng cửa, đóng giường... Chủ nhà có tay nghề thì cùng làm với thợ. Kêu thợ cất nhà thường theo kinh nghiệm dân gian: “Chữa bệnh rước thầy già, cất nhà kêu thợ trẻ”. Có những thợ mộc gõ dùi đục “cắc cụp cắc” tính ngày công (ý nói năng suất kém) bị chủ nhà không vừa ý. Cất túp lều tranh mà chủ nhà biết chẻ sợi mây, sợi lạt, biết đánh nên tấm tranh, cầm được cái đục khoét lỗ con sẻ thì tự làm lấy, không cần phải kêu thợ mái. Thợ khéo tay nghề cất được cái nhà đẹp. Nhìn từ ngoài, nhà tranh vách đất được cho đẹp là nhà có hè đắp ngay thẳng, vách trát phẳng lì không nứt nẻ, mái tranh không lởm chởm, giọt tranh dày mà cắt bằng, vút hình mũi đao ở các góc; bên trong nhà, cột kèo câu kết với nhau vững chắc, mặt bào, nét chỉ, lỗ đục láng, sắc, thẳng mực, khít khao. Vẻ đẹp của nhà còn nhờ ở bối cảnh. Những nhà có ngõ trước vườn sau, giàn bầu, luống cải trong sân, trưa có tiếng chim cu gáy trong khóm tre già, chiều có mái nhà khói tỏa… thì đậm hồn quê lắm, không đẹp sao được. Nhà tranh vách đất mau “xuống cấp”, trải chừng 2-3 mùa mưa dầm thì lở hè, rã vách, dột mái… Cho nên chủ nhà phải siêng năng sửa chữa. Có vậy, mới có những nhà từ đường truyền đến 4-5 đời con cháu, mới có chuyện cái nhà “bách niên” để kể cho con cháu nghe mà biết bổn phận phải gìn giữ cái mái ấm gia đình. Túp lều tranh ít níu giữ tình cảm và bước chân người trong buổi ra đi. Một trong số rất ít ngôi nhà tranh vách đất còn sót lại ở vùng nông thôn. Ảnh: Văn CảnhChủ nhân những ngôi nhà tranh vách đất thường là những nông dân nghèo, những nông dân bậc trung. Hạng khá giả trong làng thường ở nhà gạch, nhà lá mái. Cũng có những nhà nho lỡ vận, quan thanh liêm về hưu, thậm chí “anh hùng khi vị ngộ”… ở nhà tranh vách đất. Trần Tế Xương đã từng than: “Hai mái trống tung đành chịu dột”, còn Nguyễn Công Trứ từng cười ra nước mắt: “Bóng nắng dọi trứng gà trên vách, thằng bé tri trô / Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó” (Hàn nho phong vị phú). Bây giờ người xa xứ về thăm lại làng quê mình, nhìn thấy cảnh đổi thay, đâu cũng nhà ngói, chỗ kia chỗ nọ nhà đúc mái bằng, ắt lòng khôn xiết mừng vui. Thế nhưng, làm sao người ta không chạnh nhớ cái thuở ở nhà tranh vách đất, với những đêm gió bấc lạnh lùng nằm ngủ ổ rơm. Huỳnh Kim Bửu
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 6:53:43 GMT 9
Nhà lá mái Nét văn hóa độc đáo của làng quê Bình Định Bàn thờ gia tiên Ảnh:Nguyễn Vĩnh Hảo Gosanh.vn Vì tính chất qui mô, nên để làm được ngôi nhà lá mái là cả quá trình gian khổ, lâu dài và là một sự kiện trọng đại của đời người. Người Bình Định có câu: “ Một lần cất nhà bằng ba lần cha chết ” là vậy. Đối với người Bình Định, ngoài lo cái ăn, cái mặc thì việc dựng nhà là sự kiện trọng đại nhất của một đời người. Ngày Xưa, nhà cửa ở nông thôn Bình Định đều lợp tranh. Chỉ có đền, chùa, đình, miễu hoặc vùng thị tứ giàu có mới lợp ngói. Nhà cửa của dân thường có hai loại: nhà cặp và nhà lá mái. Nhà lá mái to lớn hơn nhà cặp. Cột kèo, xiên trính đều bằng gỗ danh mộc. Đoạn tiếp giáp các cột kèo có chạm hình lân, qui, hoặc nho sóc tuỳ theo từng nhà. Vách thường trét đất ở trong, tô vôi ở ngoài, hoặc xây toàn đá ong hay gạch, rồi tô vôi láng; thường thì nhà nào cũng ba gian hai chái, có nhà đến 5 gian hai chái. Những gian giữa, phía trước đóng bàng khoa, có nhà đóng phên dại, hoặc cổng. Hè trước rất rộng. Có khi lại làm một lớp cổng hoặc phên dại ở ngoài cho thêm chắc chắn. "Cất nhà lá mái tháng ba em về.” Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ còn phải tổ chức giã gạo để nấu cơm cho thợ làm nhà ăn. Đây là công việc được khá nhiều nam thanh nữ tú trong thôn và các vùng lân cận hưởng ứng; vì giã gạo không đơn thuần là một hoạt động nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hoá khá độc đáo của người Bình Định, bỡi nó gắng liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo.Tuy hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng nhà lá mái là một loại hình kiến trúc khá bền vững, nhiều nhà do bị cháy phần mái, hoặc vì điều kiện phải di dời, người ta tháo rời các mộng bằng gỗ, cắt các vòng mây buộc rồi dỡ từng cây cột, kèo, trính để dựng nhà khác. Ngôi nhà của cha tôi ở thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn có dàn cột kèo, xiên, trính… truyền qua ba đời với ba lần dựng nhà, đến đời cuối cùng đã gần một trăm năm sử dụng, nhưng vẫn vững chắc. Nét độc đáo của nhà lá mái là nó có tới hai lớp mái. Lớp mái thứ nhất ( giống phần la phông trong nhà xây), nhưng được lợp phủ lên các đầu cột, kèo vào bám chặt vào các đòn tay bằng các sợi dây mây chuốt rất kỹ. Phần mái này có nơi lát ván hoặc vỏ cây đập dập, hoặc bằng những cây tre già (có sẵng ở khắp nơi ) đã ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, rồi dùng chàng( dụng cụ của thợ mộc ) đục, dầm thành những tấm khịa bằng phẳng trải lên trên đầu cột, kèo và các đòn tay trước khi đắp đất sét đã trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh với độ dốc lớn, song song với lớp mái thứ nhất để đến mùa mưa thóat nước nhanh, giữ được độ bền của mái rạ lâu hơn. Như vậy, nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói.Lớp mái này lợp bằng tranh rạ đánh thành tấm dài độ 1,5- 2m. Người ta dùng lạt tre cột tấm tranh vào cây mè phủ lên trên lớp mái thứ nhất theo thứ tự lớp lang từ dưới lên đến nóc. Nhà Lá mái ở Bình Định. Ảnh: N.V.H - Gosanh.vn Ngày nay lớp mái tranh này được thay bằng ngói cho vững bền hơn. Mái nhà và mái lá nằm cách nhau chừng năm baỷ tấc, hoặc một thước, do những trụ chống. Vì thế ở trong nhà lá mái, mùa nắng đóng kín cữa thấy mát rượi, mùa đông thì ấm áp, dễ chịu chứ không như nhà bê tông ngày nay phải luôn có quạt hoặc máy điều hoà nhiệt độ.Vách nhà lá mái cũng được làm hai lớp. Để trét vách, người ta dùng tre đã ngâm kỹ, chẻ thành mầm, trỉ.Cây mầm to bảng hơn cây trỉ ( khoảng ½ cây tre ) dựng đứng bên trong vách cách nhau vài ba tấc để cột cây trỉ làm sườn trét vách. Ðất ruộng pha sét nhào nhuyễn với rơm, nhét vào những ô mầm trỉ. Hàng trỉ giữ cho đất không rơi. Trét 2 phía trong ngoài xong, thợ đất còn dùng đất gò mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Nếu trét không kỹ hoặc trét bằng đất bở thì khi vách khô, đất nứt nẻ, rơm lòi ra ngoài rất xấu. Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt, nhưng có một điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Xung quanh nền thường đắp đá ong có nhiều ở đồi Gò Quánh, hoặc Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Nền nhà trên phải cao hơn nhà dưới, nhà trước phải cao hơn nhà sau, vì theo quan niệm của người Bình Định thì: Nền nhà nước đổ chảy vào làm ăn phát đạt đón chào ngợi ca nền nhà nước đổ chảy ra làm ăn kha khá tiêu pha bội phần nền nhà bằng phẳng như cân đề phòng con cháu ái ân tư tình. Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rảnh, chạm khắc công phu. Ngày trước chủ yếu là cửa bàng khoa gồm nhiều khung hình chữ nhật theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một số ô vuông ở trên có những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được để tạo ra khoảng trống cho mát. Vì thế nên cửa này còn có tên gọi là cửa” thượng song hạ bảng” là vậy. Nhà nghèo thì làm cửa” phên dại”, cửa này cũng có cấu tạo bằng khung gỗ hình chữ nhật đứng, có khổ thường là khoảng ( 8 tấc x 1,6m ), có các thanh ngang cho chắc. Người ta chẻ tre, vót kỹ rồi gài vào các thanh ngang của khung này cho kín sịt sẽ có một tấm cửa phênh dại bằng phẳng và kín đáo . Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cửa cho rộng rãi và tận dụng kê làm bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi. Ngày nay, người ta ít dùng cửa phênh dại hoặc cửa bàng khoa mà thay bằng các cửa lá sách hoặc cửa bảng tiện lợi và đẹp hơn. Cửa lá sách phần dưới khép kín bằng những tấm ván vuông như cửa bảng, phần trên có nhiều thanh gỗ xếp nghiêng nghiêng để thông gió và từ bên ngoài không nhìn vào được. Lối kết cấu cửa ngõ của nhà lá mái cũng thể hiện tính cách của chủ gia là sống khép kín, “ đóng cửa bảo nhau”, không muốn “ chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường. ” Cửa của nhà lá mái ở Bình Định thường thấp, bậc lại cao, đặc biệt là cửa đi lên gian nhà trên, nơi có bàn thờ. Theo các cụ già giải thích thì cần bố trí cửa như thế để nhắc nhở mọi người khi bước vào gian thờ tự phải cúi đầu, mọi động tác phải khoan thai, cung kính. Đặc biệt, ngày xưa, gian thờ này người phụ nữ không được vãng lai. Trần đất - Nét đặc trưng của nhà lá mái Bình Định. Ảnh: N.V.H - Gosanh.vn Ngày nay, tục này không còn nữa, vì vai trò nam nữ bình quyền và cũng vì người đàn ông luôn đi làm ăn xa, mọi công việc ở nhà, kể cả nhang đèn, cúng giỗ đều do người phụ nữ quán xuyến, nếu không được vãng lai thì lấy người đâu mà hương khói ! Ngoài việc chạm khắc sao cho sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao. Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là đạt yêu cầu. Trong việc dựng nhà lá mái, quan trọng nhất là gác đòn dông. Lễ gác đòn dông thường tiến hành vào đêm khuya để tránh người ta “ dòm ngó “, nhất là đàn bà chửa. Luận về cách chọn ngày giờ để gác đòn dông, dân gian Bình Định có bài thơ: Kinh Dịch luận gác đòn dông Giờ Tí, giờ Sửu: Phước hồng trời ban. Khi đòn dông gác lên phải dán một lá bùa và treo một bát quái bằng gỗ để cầu an, trừ tà. Gỗ làm đòn dông phải là cây thẳng, tròn, không bị sâu mọt. Khi gác đòn dông, bao giờ đầu ngọn cũng phải nằm bên tay phải của ngôi nhà. Về kinh nghiệm này, người Bình Định có bài thơ về cách đặt trang ông táo và gác đòn dông: Ngồi trong nhà nhìn ra đường cái/ Gốc đòn dông tay trái tả ban/ Ngọn dông tay phải rõ ràng/ Cùng là trang táo thiếp chàng nên ghi. Mai Thìn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 6:59:14 GMT 9
Hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng Việt thế kỷ XVIICuối thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc kiến trúc đình làng Việt và nhiều ngôi đình nổi tiếng xuất hiện trong giai đoạn này như: đình So, đình Chu Quyến (Hà Tây), đình Kiền Bái (Hải Phòng), đình Diềm (Bắc Ninh ) . Hiện chưa có một thống kê đầy đủ về số lượng những ngôi đình thế kỷ XVII, nhưng có thể khẳng định chúng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong loại hình đình làng Việt, tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ và rất nhiều trong số đó còn bảo lưu được các giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật. Đi liền với những công trình kiến trúc công cộng làng xã là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian, góp phần tạo nên giá trị độc đáo của kiến trúc đình làng thế kỷ XVII. Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc đình làng giai đoạn này, hình tượng con người nổi lên như một hình ảnh trung tâm, một điểm nhấn độc đáo(1). Điêu khắc gỗ tại đình Hà Hiệp - Hà Tây Nghệ thuật đã phát triển lên một trình độ mới, thể hiện ý thức về cuộc sống tinh thần của người dân đương thời. Hình tượng con người không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà còn đa dạng về thủ pháp nghệ thuật diễn đạt và chiếm một vị trí trang trọng trong đình. Có thể chia theo hai nội dung chính: - Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại, ước lệ được thể hiện ở những mảng trạm khắc theo các chủ đề: “Vũ nữ thiên thần” “người cưỡi rồng, phượng, hạc”, “táng mả Hàm Rồng” “Người cưỡi hổ” - Với hình tượng con người phản ánh cuộc sống xã hội đương thời được thể hiện ở cảnh”Đấu vật”, “uống rượu”; “đánh cờ”; “mẹ con”; “cưỡi ngựa”, “chọi gà, lễ hội”, “nam nữ tình tự”, “thiếu nữ tắm hồ sen”, “chèo thuyền”, “đi săn”. Với hình tượng con người mang yếu tố thần thoại nổi bật với những hình tượng vũ nữ thiên thần có cánh và không có cánh. Tượng vũ nữ ở vị trí ván gió cánh gà thường chạm chính diện với khuôn mặt trái xoan , mũi thấp , môi mỏng , cổ cao thanh tú , đôi khi thể hiện rõ cả 3 ngấn (Đình Diềm – Bắc Ninh). Có khi tượng vũ nữ lại có những đặc điểm chung là ngực nở bụng thon, cánh tay dài với những ngón tay búp măng mềm mại. Bên cạnh đó còn rất nhiều hình tượng con người khác như những đạo sĩ ngồi bó gối trầm tư (đình Hạ Hiệp), người bắt lợn (đình Hạ Hiệp, đình Hương Canh...), chồng nụ, chồng hoa, thôn nữ ngồi trên đầu rồng; đá cầu (đình Hạ Hiệp, đình Hương Canh), cưỡi ngựa, cưỡi voi, quản tượng... Với hàng trăm con người đã vẽ lên bức tranh làng quê xưa: có điều thiện và tội ác, có hạnh phúc và khổ đau, có nụ cười và nước mắt, có khát vọng, lạc quan và bi luỵ, đau thương... Tuỳ từng đề tài mà cách diễn đạt, mô tả, nhấn mạnh từng đặc điểm khác nhau. Đạo sĩ thường có khuôn mặt đăm chiêu (đình Hạ Hiệp), cảnh đấu vật, đi săn.. thì nhấn mạnh các bắp thịt cuồn cuộn của nhân vật chính (đình Hạ Hiệp, Đại Phùng, Hoàng Xá), cảnh nam nữ tình tự, cảnh thiếu nữ... lại chú ý diễn tả khuôn mặt vui vẻ, viên mãn; các cô gái được diễn tả với khuôn ngực căng tròn, đầy sức sống (đình Phù Lão); Người nông dân thường có đặc điểm: đầu tròn, to, cạo trọc; đàn bà thường có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc búi thành búi lớn trên đỉnh. Nói chung hình ảnh con người đa phần đều mang những nét cơ bản của người bản địa, thuộc chủng tộc Nam á, với những đặc điểm: người thấp, đậm, mặt tròn, mũi to, sống mũi thấp, môi dày, mắt to... Cũng có một vài mảng chạm người đàn ông có vóc dáng khá cao lớn, mũi cao, và đặc biệt dựa vào trang phục (áo dài, chân đi ủng, đầu đội mũ phớt rộng vành...), có thể đó là những người phương Tây đến nước ta buôn bán trong giai đoạn này; Những bức chạm mô tả người đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn, táng mả hàm rồng... thường có thân hình vạm vỡ, ngực nở, đôi khi các cơ bắp được phóng đại lên quá mức. Nhìn chung, hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng thế kỷ XVII thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ, chỉ bằng 1/3. Một đóng góp quan trọng của điêu khắc đình làng là sự phản ánh cuộc sống hiện thực của nông thôn Việt Nam thế kỷ XVII. Hoàn cảnh kinh tế xã hội lúc đó không chỉ có sự thay đổi về vật chất mà còn mang lại những trào lưu tư tưởng mới. Chính vì thế, khi ngọn lửa của cuộc nội chiến vừa tắt, thôn xóm mới trở lại yên bình, người dân đã bắt tay xây dựng đình, chùa. Người nghệ sĩ dân gian đã thể hiện cách nhìn lãng mạn của họ về một thế giới đang hồi sinh: cảnh náo nhiệt của hội làng, phút giây đoàn tụ chồng vợ, cuộc hò hẹn của bạn tình, sự nồng nàn của ái ân, nụ cười không tắt của cuộc rượu, phút thư nhàn của buổi săn... tất cả đều tươi mát tình nhân ái, tính nhân văn. Song, cái chất lãng mạn của điêu khắc đình làng không mang tính dung tục, thấp hèn. Có rất nhiều cảnh tình tự không hề khơi dậy cảm giác xác thịt mà chỉ thể hiện tình yêu và cái đẹp cùng ý thức phản kháng mãnh liệt của con người đương thời. Có thể thấy qua những bức chạm của đình làng Việt thế kỷ XVII rất nhiều mặt của đời sống xã hội: trong lao động - cảnh đi săn thú, trong sinh hoạt - vợ chồng gãi chân cho nhau, đá cầu, đấu khiên, hát chèo, nam nữ tự tình, uống rượu... Ngoài ra còn khá nhiều bức chạm mô tả về tầng lớp quan lại: cảnh người hầu quạt cho quan, cảnh quan cưỡi ngựa, cảnh cướp con, đòi nợ và đặc biệt là cảnh phạt vạ gái chửa hoang ở sân đình (đình làng Phù Lão)... Tính hiện thực thể hiện ngay trong từng chi tiết: Khẩu súng kíp, đao, kiếm, cung của thế kỷ XVII; Y phục của con người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội đương thời: (váy, mũ miện, hạt cườm của phụ nữ; áo dài, ủng, mũ phớt của đàn ông...); Những nhạc cụ cổ xưa (kèn, sáo, trống, thanh la...) hay các trò chơi dân gian (đấu vật, chọi gà, đá cầu...) vv... Đó là những tư liệu phong phú, sống động cho các ngành khoa học như: Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Lịch sử quân sự... Thông qua tính hiện thực của đề tài, điêu khắc trang trí đình làng Việt thế kỷ XVII còn thể hiện tính đấu tranh sâu sắc. Dưới chế độ phụ quyền Nho giáo, người phụ nữ bị khinh miệt, coi rẻ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “phụ nhân nan hoá”).... Vì vậy, người phụ nữ không được tới đình làng. Vậy nhưng điêu khắc đình làng lại dày đặc hình ảnh người phụ nữ. Họ tự do thể hiện tình yêu với chồng, với con, với bạn bè; tự do vui đùa, ca hát... Có thể nói, không ở một công trình kiến trúc dân gian nào khát vọng yêu đương lại được bộc lộ mạnh mẽ như ở đình làng Việt. Điêu khắc gỗ tại đình Phù Lưu - Bắc Ninh Bên cạnh chủ đề ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, một phần nội dung nghệ thuật đã trở thành tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến đương thời. Đó là cảnh những tên quan bụng phệ ngồi trên sập có thê thiếp hầu quạt. Cảnh phạt vạ của làng với một cô gái đang bụng mang dạ chửa (đình Phù Lão). Đây chính là những; lời tố cáo đanh thép. Tóm lại, dù phản ánh hiện thực cuộc sống hay phản ánh ước mơ, khát vọng của người nông dân đương thời thì những tác phẩm điêu khắc trang trí đó vẫn mang đậm tính dân gian, dân dã. Người thợ chạm khắc gỗ thế kỷ XVII đã tự vượt ra khỏi khuôn khổ gò bó để tạo nên những tác phẩm sinh động, cởi mở. Chỉ với vài nét đục, vài đường chạm sơ phác nhưng những tác phẩm điêu khắc đó đã trở nên có hồn, vô cùng sống động. Hơn thế nữa các đề tài thể hiện lại vô cùng phong phú, cho thấy đời sống và sinh hoạt của người dân rõ ràng đã có ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí kiến trúc và ngược lại, kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc lại là tấm gương phản ánh cuộc sống của người xưa.Ghi chú. (1)Thực tế sang thế kỷ 18 ta vẫn gặp một số đình làng mô tả hình tượng con người trên điêu khắc kiến trúc (đình Hồi Quan – Bắc Ninh, đình Hoành Sơn – Nghệ An...)
(Theo kientrucvietnam)
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:02:25 GMT 9
Nhà rường Quảng Nam Kiến Trúc Nhà Rường Là nhà ngôn ngữ vừa là nhà dân tộc học,ông Nguyễn Bạt Tụy đã có nhiều bài viết nghiên cứu về văn hóa miền Trung và Tây Nguyên.Các bộ phận của bất cứ căn nhà nào cũng có thể chia ra làm ba hạng: những bộ phận che trên, những bộ phận vây quanh và những bộ phận phụ thuộc.
Vào những năm 60,70 của thế kỷ XX, các tập san như Văn hóa Nguyệt san, Xây dựng mới Sài Gòn… đã liên tục đăng nhiều số về những bài khảo luận của ông. Để tăng thêm nguồn thông tin mà ông đã ghi, giải thích cặn kẽ trong những chuyến đi điền dã, cách dựng nhà, những bộ phận cấu kiện của những ngôi nhà xưa ở Quảng Nam, chúng tôi xin trích một phần trong bài “Những nhà xưa ở Quảng Nam”, Văn hóa Nguyệt San số (1961) Sài Gòn từ trang 233-2411.Các bộ phận của bất cứ căn nhà nào cũng có thể chia ra làm ba hạng: những bộ phận che trên, những bộ phận vây quanh và những bộ phận phụ thuộc. Những bộ phận che trên của căn nhà Quảng Nam, cũng như ở Bắc hay ở Nam, gồm có hai mái chính, một mái trước, một mái sau gặp nhau ở nóc, và hai mái bên nếu nhà có hai chái. Các mái được chống đỡ bằng cột và sườn mái lập thành nởi những kèo đổ dốc xuống hai bên nóc, trên có những hoành tử nằm ngang và trên nữa có những rui nằm dọc theo chiều kèo. Ngoài những tên ấy, ta thấy vài cách gọi các bộ phận hơi khác. a. Cây gỗ dài nằm ngang trên vị trí của các đầu kèo giáp nhau để đỡ nóc không gọi là giép nóc (Hà-đông) như ở Bắc, mà gọi là đòn đông. Tiếng này phát âm là đòn đông từ Bình Định trở vào, là đòn-đôông ở tỉnh Bình Trị Thiên, và có lý do của nó. Khác cái “giép nóc” ở Bắc thường xẻ vuông và ở những nhà năm gian sáu vì, muốn kỹ hơn thì “chém cạnh xoi lu” rồi “thắt cổ chày” hai đầu cho lọt vào hai cái chốt ở cái chồng – rường (x.A.1d), ”đòn-đông” ở đây chuốt tròn theo nguyên hình cây gỗ hạ ở rừng về, với một đầu “gốc” hơi lớn hơn đầu “ngọn” để dễ phân biệt khi chọn hướng đặt. Theo mối tin tưởng cổ truyền thì cây đòn đỡ nóc là chủ chốt của căn nhà, nên đầu gốc phải để về một hướng nhất định là bên tả, đầu ngọn để về bên hữu. Lại theo một ước lệ thì trong căn nhà, bên tả gọi là “đông”, bên hữu gọi là “tây” (“đông vị tà,tây vị hữu”), nên cây đòn ấy phải có góc quay về bên đông, và nhân đó có luôn tên là đòn-đông. Như vậy tiếng đông ở đây để gọi hướng, vì ngoan cố hay vì hiểu lầm nghĩa tiếng đông, đã cho đòn đông quay về phía biển, tức phương đông, mà ngược với hướng nhà cổ truyền, thì chẳng bao lâu cũng xảy ra nhiều chuyện lục đục và phải xoay chiều đòn đông lại. Nhân đó, về cây đòn đông có một giai thoại nho nhỏ, theo đó xưa kia có một ông nhà giàu đã xuýt vì tính tình khắc nghiệt của ông mà bị hại trong vụ cất nhà. Thoạt đầu ông quá chặt chẽ với người thợ rừng nên người này “chơi trác”, chuốt gốc cây nhỏ hơn ngọn để người thợ cả cứ đầu lớn mà để về bên “đông” và như thế là lầm gốc về bên “tây”. Nhưng rồi ông ta lại quá khó tính với người thợ cả, nên người thợ này lập tâm phản cho bỏ ghét mà để đầu nhỏ về bên “đông” thay vì đầu lớn, đinh ninh rằng đó là đầu ngọn. Ai ngờ rùi lại hóa may: chính đầu nhỏ ấy mới là đầu gốc và ông nhà giàu vô tình đã thoát hiểm, vì đầu gốc rút cục lại vẫn ở bên “đông”. b. Các cột cũng có nhưng khác nhau tùy theo vị rí của nó trong cái nhà. Nếu ta nhận xét một căn nhà rường thông thường có sáu hàng cột thì hai hàng cột ở liền hai bên nóc là cột lòng nhất, tức cột cái trước và cột cái sau ở Bắc, hai hàng cột kế đó là cột lòng nhì, tức cột đóng cửa và cột cửa võng ở Bắc; hai hàng cột trước nhất và sau nhất và sau cùng là cột lòng ba, tức cột hiên trước và cột hiên sau ở Bắc. Cột nhà ở Quảng Nam thường sàn sàn như nhau, không mấy khi lớn, chớ ở Bắc phân biệt những nhà “tiểu khoa” có cột 2 tấc, những nhà “trung khoa” có cột trên 2 tấc, và những nhà “đại khoa” có cột tới 5 tấc. Ngoài ra, những cột ở hai bên chái có những tên đặc biệt: cột quyết để chống, hai cây “quyết”, cột đấm để chống hai cây “đấm”. Hai tiếng này được dùng suốt lên tới Quảng Bình, Hà Tĩnh. c. Các kèo cũng bắt vào nhau ở chỗ giao nguyên, nghĩa là chỗ gặp nhau dưới đòn đông, bằng những chốt dài gọi là con sỏ như ở Bắc, nhưng ở Quảng Nam không phân biệt như ở Bắc: kèo dài suốt nóc xuống chân mái, với kẻ có từng đoạn chồng lên nhau ở các đầu cột mà truyền đi. Bởi vậy ở đây không có những tên: Nhà kèo là hạng nhà thường; Nhà kẻ là hạng nhà lớn có kẻ truyền chia ra kẻ nóc, kẻ ngồi, kẻ hiên. Trái lại, theo mỗi khu giữa hàng cột,người ta chỉ gọi: kèo lòng nhất từ đòn đông xuống cột lòng nhất; Kèo lòng nhì từ cột lòng nhất xuống cột hàng nhì; kèo lòng ba từ cột lòng nhì xuống cột lòng ba. d. Các cây gỗ nối các cột với nhau có hai loại: trính và xuyên. Trính nối cột trước với cột sau. Nó có thể là trính đoản nếu chỉ ở giữa hai cột lòng nhất với hai đầu thòi ra mà chặn bằng hai cái chốt thắt, hay là trính-trường nếu chạy suốt từ tường trước đến tường sau mà không có cột chống giữa. Những trính này, dầu là đoản hay trường, thường đỡ một hay hai cột ngắn đứng trên để chống kèo: nếu một cái thì ăn thẳng vào giao nguyên, nếu hai cái thì gặp hai bên kèo ở lưng chừng. Đó là những con đội mà từ Bình Định trở vào người ta gọi là trụ lỏng. Ở Thừa Thiên, cái trính gọi là cái trến, còn con đội lại là trụ tiêu đứng trên hạ để đỡ trến-thượng, hay báp quả (có người nói áp quả) đứng trên trến-thượng để chống đòn đông. Tôi còn nhớ, khi thăm vài ngôi chùa ở núi Non Nước, có hỏi chuyện vài thầy chùa trẻ tuổi về các bộ phận trong chùa. Khi hỏi về “con đội” thì không vị nào biết gọi là gì mà xác nhận là lo việc tu hành nên không để ý đến những cái tỉ mỉ ấy. Sau cùng một vị đến bảo rằng đó là cái “trụ lòng” thì tôi không cần chú trọng đến giọng nói mà hỏi ngay: “xin lỗi thầy, nếu tôi không lầm thì thầy là người Bình Định”. Nhà sư rất ngạc nhiên và chịu rằng tôi đã đoán trúng: đó cũng là dịp để áp dụng những nhận xét về tiếng địa phương. Riêng ở những nhà lớn, nhất là ở nhà phố, thay vì một cây trính, người ta có thể chồng dùi, nghĩa là để hai ba cây trính chồng lên nhau bằng những con đội ngắn có trốn phình ra như hình trái bí mà gọi là trụ trái bí. Đó là trường hợp kiểu trính Nhật Bổn trong đó có trính nhất, trính nhì, trính ba, kể từ dưới lên, như lối chồng rường ngoài Bắc có ba cái Rường chồng lên nhau bằng những đấu trên một cái báng,ở những kiểu nhà “đại khoa”. Nhân đây cũng nên thêm rằng ở Trung, ngoài trính ra, không còn có cây gỗ dọc nào nối cột với nhau nữa, chớ ở Bắc, dưới báng còn có xà dọc chia ra xà lòng ở giữa hai cột cái và hai xà nách trước và sau. Ở các đình-miếu hay các nhà quan, người ta thường bỏ xà lòng đi cho tòa kiến trúc có vẻ nguy nga, nhưng ở nhà dân phải để, nếu không thì là “lộng hành”. Xuyên nối giữa các cột giữa với cột bên, tức là xà ngang ở Bắc, trám ở Hà Tĩnh. Ở những kiểu nhà “ba gian hai chái” cố nhiên mỗi hàng cột chỉ có một xuyên nằm ngang, nhưng ở kiểu nhà “ba gian hai chái”, ngoài những đoạn xuyên nối các cột ở trước và sau, còn có hai trường hợp riêng về xuyên ở giữa. Trong các nhà rội, ở hàng cột cái có một xuyên trung ở giữa và hai xuyên thứ ở hai bên mà thấp hơn: đó là loại xuyên tam sơn. Trong các nhà rường thì nhiều khi hai hàng cột lòng nhất có hai xuyên trung song song theo chiều ngang và hai trính đoản song song theo chiều dọc mà đỡ những tấm ván bắc ngang để lập thành cái khuông cụi. Ngoài ra cũng nên kể cây xà cò (có lẽ là xà cò nói chệch thành, vì ở Thừa Thiên còn có tên xà rút), song song với đòn đông mà ở dưới một chút để nối, hay “co”, hai đầu cột với nhau. e. Các cây gỗ đặt ngang trên kèo để đỡ rui gọi là hoành tử ở Quảng Nam, cũng như ở Bắc, và một số gọi là đoàn tay, như người ta vẫn quen gọi ở vùng Nghệ Tĩnh. Nhưng đặc biệt có một điều là các hoành tử đặt đúng trên đầu cột thì gọi là xà, và “cái mè” ở Bắc gọi là mèn, và ở xã Kỳ Sanh, quận Tam Kỳ tôi còn thấy phân biệt mèn ở nhà ngói với ron ở nhà lá. Trái lại, ở Thừa Thiên, xà nối các đầu cột với nhau và trên nó vẫn có đòn tay để đỡ rui. 2. Những bộ phận vây quanh nhà gồm ba mặt ván hay tường và một mặt cửa. a. Về những tường quanh nhà, gọi là thành rào thì không có gì đáng nói, trừ cách gọi tên quá lạ của nó, và hai lối đi chừa ra hai bên ngăn hai hàng cột bên với vách và gọi là hè dục, nghĩa là một thứ hè đã bít kín ở các nhà chỉ có 4 hàng cột và khi cất lên không trù tính trái. Hơn nữa, hai tấm vách hẹp ở mặt trước nối hai đầu thành rào với hai cột bên cũng có một tên không kém lạ là phên bắc, và tiếng phên này làm ta suy luận và ước đoán rằng xưa kia chắc có nhiều nhà có làm phên ở đó thay vì tường. Nhưng cũng phải nhận xét rằng ở đây trước nhà không thấy che phên, che dại hay che sáo. Riêng tiếng sáo phải lên đến Huế mới thấy nói đến, nhưng không phải thứ sáo bằng nan tre nhỏ ken khít, đứng trong nhìn ra thì thấy rõ, đứng ngoài nhìn vào thì tối om, mà là thứ sáo bằng nan tre to ken thưa chặn lên trên lớp gót (=cót) ngoài cùng của cái mui “nốc”, một thứ thuyền bằng mũi băng lái thông dụng từ Thừa Thiên lên tới Hà Tĩnh. b. Về cửa trước, có ba khuôn dựng trong phạm vi bốn cây cột lòng ta, thì nhiều cái đáng kể hơn. Cửa các nhà thôn quê ở Bắc thường có một cái khung dựng trên một cây ngạch nằm ngang sát đất. Phía dưới cây gỗ ngang của khung bao giờ cũng có một cây thứ hai gọi là quang, phía trên ngạch lại có một cây gỗ ngang khác gọi là bậc. Từ quang đến khu bằng từ bậc đến ngạch và mỗi khoảng cách ấy được bít bằng những tấm ván có những tên rất có ý nghĩa: lá gió trên và lá gió dưới, Nhưng cửa các nhà ở Quảng Nam nói riêng và ở miền Trung nói chung chỉ có ngạch mà không có bậc, nghĩa là ta có thể qua lại tự nhiên, khỏi phải “ngoạch”cái chân mà bước từ hè vào nhà. Như vậy cái khuôn nhận phía trên cửa ở Quảng Nam tức là tấm lá gió trên ở Bắc. Còn ở Thừa Thiên thì nó lại có tên là liên ba cửa, vì cũng giống các liên ba tiền, hậu, thượng, hạ ở phía trong nhà. 3. Cuối cùng là vài bộ phận phụ thuộc mà ta có thể kể như sau: a. Những khuông nhận (tác giả muốn nói những khuông bông trang trí trong lòng xuyên B.T) để trám vào các khoảng trống giữa xuyên ở dưới, xà ở trên và cột hai bên, dầu ở hàng cột lòng nhất hay lòng ba. Khuông nhận này có thể là cả một tấm ván, là những tấm ván nhỏ lồng vào then ngang dọc, hay là những con tiện xinh xắn góp vẻ tinh vi vào những đường chạm trỗ ở các đầu trính, đầu kèo. b. Những phên lụa là những vách ván chạy vòng theo các cột bên và sau,thường thấy trong các kiểu nhà vườn chỉ có bốn hàng cột: hai hàng cột lòng nhất, cũng gọi là cột cái, hai hàng cột lòng nhì, cũng gọi là cột con. Phên lụa này chạy dọc nối hai cột cái tiền và hậu ở hai bên, rồi chạy ngang nối hai cột cái hậu ở bên và giữa, để đến khoảng hai cột cái hậu giữa thì dựng thụt vào phía sau mà không ăn vào cột con hậu. Như vậy, hai gian thứ ở hai bên trông nông hơn gian trung ở giữa, vì gian này có thêm một chỗ ăn sâu vào để bày bàn thờ, và người ta có thể đi vòng từ hè dục này qua phía sau các phên lụa mà ra hè dục kia. c. Hai khu đĩ là phần tam giác còn chừa lại phía trên chỗ mái chái nhà đổ từ hai đầu hồi xuống. Tiếng này thông dụng cho đến Quảng Bình, Hà Tĩnh, và câu tục ngữ “Ma trèo khu đĩ” là một bằng chứng rằng tiếng ấy có từ lâu ở miền Trung, mặc dầu không được nhã, trong khi ở miền Bắc, theo tầm hiểu biết của tôi, không ai nghĩ đến một tên cho phần nhà ấy. Nguyễn Bạt Tụy
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:05:11 GMT 9
Tháp Chăm Bình ĐịnhVết thời gian trên tháp ở Tuy Phước Bình Định ngày nay, Vijaya xưa là vùng định đô của vương quốc Chămpa cổ từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Đây là giai đoạn phát triển văn hóa rực rỡ của Chămpa. Trên vùng đất này, văn hoá Chămpa đã để lại di tích khá đậm đặc với nhiều loại hình và số lượng phong phú, tiêu biểu trong số này là hệ thống các tháp Chăm ở Bình Định. Tháp Chăm Bình Định là một dạng kiến trúc tôn giáo mang bản sắc rất riêng của dân tộc Chămpa. Theo các sử liệu thì trong quá trình trị vì đất nước, các triều đại Chămpa cổ đã cho xây dựng khá nhiều đền đài, nhưng trải qua nhiều thời gian đấu tranh tồn tại, cộng thêm sự tàn phá của thiên nhiên, chiến tranh, con người... cho đến nay trên vùng cư trú xưa của họ chỉ còn lại một số dạng kiến trúc đền đài là các tháp. Bình Định là địa phương thứ hai, sau Quảng Nam sở hữu được nhiều tháp Chăm nhất nước ta, với 8 cụm di tích tháp với 14 tháp rải ra trên địa giới ba huyện và một thành phố: Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và Quy Nhơn. Niên đại của các tháp Chăm được xác định là từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 12, tức tuổi thọ trung bình của chúng cách nay ngót 1.000 năm. Khi định niên đại của các tháp Chăm thuộc phong cách Bình Định, P. Stec đưa ra giả thuyết như sau: phong cách bắt đầu từ tháp Bánh Ít - còn gọi là tháp Bạc (nửa đầu thế kỷ 12); tháp Dương Long (đầu thế kỷ 13); tháp Hưng Thạnh (nửa đầu thế kỷ 12); tháp Thủ Thiện Cánh Tiên (hay tháp Đồng); tháp Phú Lốc hay tháp Vàng (thuộc thế kỷ 13); và bắt đầu suy thoái ở tháp Po Klung Garai, Ninh Thuận. Chăm được xây dựng theo tín ngưỡng thống nhất thờ thần Siva, một trong tam vị nhất thể của đạo Bà La Môn. Siva - tượng trưng cho sự huỷ diệt, hai vị thần kia là Vishnu - tượng trưng cho sự bảo tồn và Brahma - tượng trưng cho sự sinh thành. Cả ba nằm trong một vòng luân chuyển không ngừng. Người Chăm thờ thần Siva là chính, trong khi người Khmer thờ người Vishnu là chính. Tín ngưỡng này của người Chăm kết hợp với tục thờ cúng tổ tiên tạo thành bản sắc trong đời sống tinh thần của họ. Tháp Bánh Ít Tháp Chăm, trong Ấn Độ giáo người ta gọi là Sikhara, một dạng kiến trúc tiêu biểu của Bà La Môn giáo. Từ Sikhara có nghĩa là đỉnh nhọn, đỉnh núi nhọn, biểu thị của núi Mêru trong Bà La Môn giáo. Núi Mêru là núi thần thoại có nhiều đỉnh cao thấp khác nhau. Vị thần tối cao ngự trên đỉnh núi cao nhất. Các vị thần tuỳ theo các bậc cao thấp khác nhau mà ngự trị ở những đỉnh núi thấp hơn trên cùng một dãy Mêru. Núi Mêru được biểu hiện thành kiến trúc Sikhara, người Chăm gọi là Kalan, có nghĩa là đền thờ. Đúng ra là Kalan Chăm chứ không phải là tháp Chăm, nhưng người ta quen gọi là tháp Chăm, đồng thời từ tháp đã trở thành một thuật ngữ kiến trúc chỉ loại hình cao tầng đế nhỏ. Cho nên người ta chỉ dùng từ "tháp" để gọi loại hình kiến trúc này. Tháp Chăm Bình Định đã đạt tới độ chín muồi của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, và dung hoà được trong phong cách nghệ thuật Chămpa và Khmer khiến chúng khác với những quần thể tháp Chăm có trước và sau chúng. Nói đến tháp Chăm là nói đến sự độc đáo của chất liệu xây dựng nên chúng: gạch Chăm. Gạch Chăm cũng làm từ đất sét như mọi loại đất khác, nhưng nó bí ẩn đến mức chúng ta không biết người nghệ sĩ Chăm xưa đã khắc tạc trực tiếp lên gạch sống hay gạch chín? Vì những nhát khắc quá ngọt ngào trên chất liệu, vì cái cảm giác đất nung quá ấm áp và gần gũi mỗi khi ta chạm tay vào cơ-thể-gạch của ngọn tháp đã truyền cho ta niềm tin qua hàng nghìn năm về sự bền bỉ của một loại chất liệu. Không trường cửu như gạch nhưng vĩnh cửu là đất. Vì sao trải qua hàng nghìn năm với những biến thiên, bao tai hoạ mà những ngọn tháp đất nung này vẫn tồn tại? Những đền tháp Chăm này được đặt trong sự gắn kết với cộng đồng cư dân, thể hiện bằng một trung tâm chính trị, kinh tế quân sự và tôn giáo cổ (thành Đồ Bàn), với hoạt động kinh tế (đồ gốm Gò Sành), và trung tâm thương mại (cảng Thị Nại, thành Thị Nại). Trải qua hàng nghìn năm với chất liệu đất vẫn còn trường tồn là một bí ẩn và độc đáo mà chỉ có ở tháp Chăm. Hoa văn trên chóp tháp Thủ Thiện Nhạc sĩ Văn Cao trong một lần về thăm tháp Chăm Bình Định đã lưu lại mấy câu thơ bất hủ: Từ trời xanh/ Rơi/ Vài giọt tháp Chăm/ Quanh Quy Nhơn/ Tôi/ Như đứa trẻ yêu huyền thoại. Chính vì tính cách nhỏ giọt của "bản đồ" mà tháp Chăm Bình Định đã cho Văn Cao những suy nghĩ ấy. Vì bao giờ tháp Chăm Bình Định cũng đều được xây trên những ngọn đồi ở vị trí cao nhất, ở những vùng đất mà nó ngự trị. Tháp Chăm Bình Định là nguồn cảm hứng của nhiều du khách đến thăm bởi sự hùng vĩ và trải qua hàng nghìn năm nó tồn tại một cách ngạo nghễ với thời gian. Nhà thơ Chế Lan Viên, trong một lần đến thăm tháp Chăm Bình Định, suy nghĩ về sự đổi thay dâu bể của lịch sử và số phận của những người Chăm đã có cảm hứng: Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn. Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi; Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn, Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy! Bình Định ngày nay, Vijaya xưa là vùng định đô của vương quốc Chămpa cổ từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Đây là giai đoạn phát triển văn hóa rực rỡ của Chămpa. Trên vùng đất này, văn hoá Chămpa đã để lại di tích khá đậm đặc với nhiều loại hình và số lượng phong phú, tiêu biểu trong số này là hệ thống các tháp Chăm ở Bình Định. Chính vì những giá trị nổi bật, độc đáo mà Ủy ban Nhân dân Bình Định, Viện Khảo cổ học đang xúc tiến xây dựng hồ sơ, khuyến nghị Chính phủ, đề nghị UNESCO công nhận: "Hệ thống các di tích tháp Chăm Bình Định là di sản văn hoá thế giới". Tuy nhiên, lộ trình đi từ di tích đến di sản còn nhiều việc phải làm đối với mọi người. Nếu thấy rằng hệ thống tháp Chăm Bình Định thực sự là quý báu, thực sự là có giá trị của nước ta, di tích trải qua 1.000 năm, thì vì sao không đề cử tháp Chăm Bình Định là Di sản văn hoá thế giới? TS Đinh Văn Liên
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:09:13 GMT 9
Nhà cổ VNChạm khắc trong nhà mái lá Nhà lá mái là một loại hình kiến trúc dân gian nổi bật ở Bình Định. Tuy nhiên, nhận diện hiện trạng của di sản này và định hướng trong công tác bảo tồn vẫn là những vấn đề đang đặt ra hiện nay. Từ số báo này, Báo Bình Định khởi đăng loạt bài về nhà lá mái ở Bình Định, trên trang Văn hóa - Nghệ thuật số thứ Bảy hàng tuần. Kỳ I: Gặp nhà lá mái ở trung du Ẩn dưới những xóm, những làng của vùng trung du Hoài Ân xanh thẳm, là những ngôi nhà lá mái còn lưu giữ lại thật nhiều dáng nét xưa… * Giữ một nét xưa Tạt vào nhà của ông Nguyễn Ngọc Anh (thôn Đức Long, xã Ân Đức), ngôi nhà nay đã tường xây, nhưng kết cấu bên trong lẫn cặp mái đều còn nguyên nét cũ (tất nhiên là lớp mái lá đã được thay bằng mái ngói). Cả lẫm thượng, rồi buồng gia chủ phía dưới, vẫn còn được giữ nguyên. Vì kèo lưỡng đoạn (vì kèo hai tầng, nhằm nâng cao mái) được tạo tác thẩm mỹ, trông như một dải sóng, tạo nên vẻ đẹp khỏe khoắn mà vẫn mềm mại cho cả kết cấu gỗ. Ngay như toàn bộ không gian ngôi nhà, nằm giữa một vườn cây rợp bóng dừa, vẫn giữ được nét xưa của không gian nhà lá mái Bình Định, chỉ thiếu thổ kỳ. Hỏi mới hay, hóa ra, trong một trận lụt, thổ kỳ đã bị đổ nên gia chủ đã đưa vào thờ bên cạnh ba chiếc bàn thờ phía trong nhà. Ngôi nhà vẫn giữ được hai lớp mái vốn là đặc trưng lớn nhất của nhà lá mái Bình Định. Lớp mái đất (còn gọi là đa cái) đan bằng tre, gọi là khịa, rồi dùng đất nhồi rơm trát lên một lớp dày khoảng 10cm. Lớp mái phía trên, thay vì mái lá, đã lợp lại bằng ngói. Lớp mái thứ hai phần đỉnh cao, tạo độ dốc lớn, thoát nước nhanh. Giữa hai lớp mái có một lớp đòn tay để đỡ rui, mè để móc ngói. Lớp đòn tay mái trong có nhiệm vụ đỡ phần khịa đã trét đất. Ngoài ra, ngôi nhà này còn khá hoàn chỉnh về hệ thống bàn thờ. Mỗi bàn thờ, có tẩm, giường, nghi gần như nguyên vẹn, trông rất nghiêm trang và hoàn chỉnh. Các chi tiết như chồng đùi chạm khắc hình dơi, hoa văn dải lụa, ô khám, các họa tiết trang trí trái đào… rất tinh xảo, chứng tỏ ngôi nhà được làm khá công kỹ. Nét khác biệt lớn nhất là thay vì trính cối như những ngôi nhà Bình Định khác thì ngôi nhà này chỉ có những con đội và trụ lỏng. Một nét khác nữa là nhà cổ ở Bình Định cũng có mắt cửa, nhưng thường nằm ở vách ván, thì ngôi nhà này, mắt cửa lại nằm ngay cửa chính. Nhiều chi tiết trong ngôi nhà gần đây đã được chỉnh sửa phần nào cho phù hợp với điều kiện sống. Chẳng hạn, ngạo (phần kèo nằm phía ngoài nhà) bắt ra cột hàng ba, nhưng do nhà đã có tường xây, nên cột hàng ba được dỡ đi để mở rộng diện tích của hiên phía trước ngôi nhà. Phần buồng gia chủ dưới lẫm cũng đã dỡ vách ván để cho thoáng hơn. Kết cấu bên trong một ngôi nhà lá mái ở Phú Xuân (Tây Sơn). Ông Nguyễn Ngọc Anh, chủ nhân ngôi nhà tâm sự, ngôi nhà đã có từ thời ông nội của ông. Đến nay, gia đình ông vẫn giữ lại, càng vẹn nguyên kết cấu cũ chừng nào càng tốt, bởi đây là một hiện vật còn của ông cha. Ngồi ăn cơm với gia đình ông Anh ngay dưới mái hiên của ngôi nhà cũ, nhìn lên những nét chạm khắc, nhìn những chiếc ngạo bắt ra, mà tưởng, đang trở lại nơi một mái nhà xưa, với không gian sống đặc trưng của người Bình Định thời trước. * Xóm nhà mái Thôn Đức Long không chỉ còn mỗi ngôi nhà cổ của ông Anh mà có thể gọi đây là một xóm nhà cổ, bởi chỉ trong một xóm, đã có bốn, năm nhà lá mái. Những ngôi nhà, thấp thoáng dưới những tán dừa, trông cũng bình thường, nhưng một khi tận mặt, mới thấy hết cái độc đáo, công kỹ của nó. Tạt vào nhà anh Hiến. Ngôi nhà trông vẻ ngoài khá xuống cấp. Mái ngói đã thủng lỗ chỗ, không còn vẹn nguyên kết cấu hai tầng mái như ngôi nhà ông Ngọc Anh. Tuy nhiên, khi bước vào bên trong, kết cấu khung gỗ ngôi nhà còn khá hoàn chỉnh và có phần hoành tráng. Và xét kỹ từng chi tiết chạm khắc thì ngôi nhà này có vẻ “mộc” hơn. Chủ nhân ngôi nhà cho biết, có người đã trả 35 triệu đồng nhưng bà vẫn chưa muốn bán. Dường như chủ nhân chỉ dùng ngôi nhà làm nơi tiếp khách, còn lại toàn bộ sinh hoạt gia đình đã chuyển sang gian nhà gạch xây kế bên. Rời Đức Long, chúng tôi lên Ân Tường Đông. Theo lời người địa phương, nơi đây vốn hãy còn một ngôi nhà lá mái, tất nhiên, chỉ còn kết cấu gỗ. Nhưng khi đến nơi, chỉ còn thấy một nền gạch trống. Nhà đã theo người chủ mới về nơi đâu. Hỏi, chỉ thấy chủ nhân ngôi nhà lắc đầu: bí mật. Chi tiết chạm khắc một ngôi nhà lá mái ở Hoài Ân. * Ghi dấu một thời phồn thịnh Sự có mặt khá nhiều những ngôi nhà lá mái ở Hoài Ân cũng là dễ hiểu. Bởi vùng đất này là cửa ngõ của một vùng núi trù phú phía Tây của tỉnh Bình Định. Vùng thượng nguồn sông Kim Sơn này từng nổi danh với trà Cam Khổ, có nghề đi điệu khai thác trầm hương mà đến nay, vẫn còn những thợ tìm trầm còn sống… Chỉ dụ lập huyện Hoài Ân với ba tổng, 61 làng của vua Thành Thái ban năm 1899. Như vậy, hẳn những xóm làng người Việt đã tụ cư ở vùng đất này từ trước đó khá lâu. Điều thú vị là tại những ngôi nhà lá mái Hoài Ân, ngoài kết cấu hai bộ mái còn giữ lại, ta còn thấy dấu tích của lẫm thượng khá rõ. KTS Nguyễn Khắc Tụng từng cho rằng, lẫm thượng là dấu ấn còn lại của nhà sàn. Sự hiện diện của con đội và trụ lỏng thay vì trính cối hay mắt cửa đặt ở cửa chính thay vì cửa phụ như những ngôi nhà lá mái khác ở Bình Định, có lẽ là do ảnh hưởng của cánh thợ Quảng Nam được đưa vào đây để làm nhà chứ không phải thợ địa phương. Điều này cho thấy sự giao thương đã diễn ra trên vùng đất thời đó. Cũng nằm trên cửa ngõ lên cao nguyên, là những ngôi nhà lá mái ở Tây Sơn. Một ngôi nhà lá mái chúng tôi gặp ở thôn Phú Xuân, huyện Tây Sơn, quê hương của nữ tướng Bùi Thị Xuân, còn giữ nguyên không gian xưa với chiếc cổng cũ, hàng cau trải dài trên con đường vào nhà, và ngôi nhà chính, nhà dưới khá hoàn thiện. Ngôi nhà trên trăm tuổi, nhưng nay đã được chủ nhân của nó duy tu, nên vừa giữ lại được dáng nét xưa, vừa thuận cho việc sinh hoạt của người đời nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:12:37 GMT 9
Nhà cổ - Kỳ II Không chỉ trung du, mà ngay ở những vùng đồng bằng “trời hành cơn lụt mỗi năm”, đều có bóng nhà lá mái. Những ngôi nhà trụ qua hàng trăm mùa lũ này cho ta ví dụ về một dạng kiến trúc phù hợp với điều kiện môi trường nắng lắm mưa nhiều ở miền Trung…Kỳ II: Những ngôi nhà vượt trăm mùa lũ* Đi qua mưa bão Nhìn bề ngoài, ngôi nhà ông Nguyễn Văn Châu (Nhơn Thành, An Nhơn) khá nhỏ. Ngôi nhà nay đã trăm tuổi, tuy cũng ba gian, hai chái, nhưng vách nhà và cửa đều được đan bằng nan, xiên trính, chạm trổ đơn giản. Hệ thống vì kèo trên phần mái phía trên chủ yếu làm bằng tre, cửa cũng là “phên dại”. Tuy đã có phần xuống cấp, nhưng kết cấu bộ khung vẫn khá chắc và bộ mái cặp, kể cả mái đất, vẫn nguyên vẹn. Điều này cho thấy, ngay cho dù được làm đơn giản, nhưng kết cấu ngôi nhà, vượt qua nắng, gió, mưa bão của trăm năm, “vẫn dùng tốt”. Ở thôn Dương Liễu Bắc (Bình Dương, Phù Mỹ) cũng có dăm bảy ngôi nhà có kết cấu nhà lá mái hiện còn. Tất nhiên, phần nhiều ngôi nhà chỉ còn giữ hệ thống kết cấu chịu lực chính, còn không gian xung quanh đã thay đổi. Theo chân ông Nguyễn Vĩnh Hảo (chủ nhân Nhà trưng bày gốm cổ Gò Sành, Quy Nhơn), một người nhiều năm tìm hiểu về nhà lá mái, chúng tôi tìm vào nhà bà Trần Thị Suyển, năm nay 85 tuổi. Ngôi nhà hãy còn vẹn nguyên cả một không gian xưa, với cả chuồng bò, nhà chính, nhà phụ khá hoàn chỉnh. Nhà có kết cấu chữ môn, nhà chính ba gian hai chái. Ngoài hai gian chính dùng để thờ phụng và tiếp khách, gian còn lại ngăn thành phòng, trên có lẫm thượng, là nơi ở của cha mẹ hay con trai. Nhà dưới nối với nhà trên bằng nhà cầu. Ngoài ra, còn có nhà trống dùng để chứa vật liệu và nông cụ. Đáng chú ý là ngôi nhà này vẫn còn nguyên vách đất. Theo bà Suyển, để trét vách, người thợ xưa đã dùng tre ngâm kỹ, chẻ thành mầm, trỉ. Mầm dựng đứng bên trong vách, cách nhau vài ba tấc để cột trỉ, rồi trét đất. Đất ở đây là đất ruộng pha sét, nhào với rơm. Ngôi nhà lá mái do thợ Bình Định dựng ở vùng Tây Sơn thượng đạo (An Khê). Đi sâu vào trong thôn Dương Liễu Bắc, chúng tôi vào nhà anh Hà Đình Giang. Ngôi nhà chỉ còn kết cấu cột, kèo bằng gỗ lim là của nhà lá mái. Anh Giang kể: “Theo lời ông nội tôi, làm ngôi nhà này mất cả ba năm trường, toàn bộ làm bằng lõi gỗ mít. Nhà làm xong, còn mời cả gánh hát bội về hát”. Những chi tiết hệ thống kèo nhất đoạn được tạo tác với nét lượn khá mềm mại. Các chi tiết chạm khắc bên trong tuy ít, nhưng nét nào ra nét ấy, tinh xảo mà mạnh mẽ. Để chạm khắc được như vậy, theo ông Nguyễn Vĩnh Hảo, thay vì dùng “nhót” (một dụng cụ để chạm của thợ mộc) như cánh thợ Bắc, thợ Bình Định sử dụng “dũm”, nét tuy không tinh tế bằng các chạm trổ ở phía Bắc, nhưng mạnh mẽ, phóng khoáng, đúng chất Bình Định. Bên cạnh đó, hệ thống kèo nhất đoạn làm cho đường nét kết cấu ngôi nhà trở nên mạnh mẽ hơn. * Nhà mái đất thành, cảng thị Xuôi về An Nhơn, quanh thị tứ An Thái (Nhơn Phúc), ta gặp nhiều nhà có kết cấu nhà lá mái. Do An Thái từng một thời rất phồn thịnh, nên những ngôi nhà mái ở vùng này đều được làm khá công phu. Mà đâu chỉ An Thái, vùng xung quanh thành Hoàng Đế với các làng nghề trù phú ven thành, đều có thể tìm thấy nhiều nhà lá mái. Cũng có nguồn gốc từ An Nhơn là nhà lá mái của ông Nguyễn Tám (Nhơn Phú, Quy Nhơn). Ngôi nhà ba gian, hai chái, cửa rộng, khoảng cách từ ngạch cửa đến cổ cửa cao, chứng tỏ được ra đời muộn. Ông Tám cho biết, nguyên ngôi nhà này được mua ở vùng Quảng Nghiệp (An Nhơn). Trong nhà, có ba bàn thờ, chạm hình lưỡng long tranh châu khá đẹp; hệ thống cửa bàn pha đường chỉ sắc sảo, chứng tỏ ngôi nhà được xây dựng khá công phu. Địa phương có nhiều nhà lá mái nhất ở Bình Định hiện nay là Tuy Phước. Ở các thôn Tri Thiện, Lộc Ngãi (Phước Quang), Luật Lễ (Phước Long) đều có nhà lá mái. Sự hiện diện khá dày của những ngôi nhà mái ở vùng đồng bằng Bình Định là một minh chứng về khả năng chống chịu của nhà mái qua tác động của thời tiết miền Trung. Thực tế là nhà lá mái, do có tới hai lớp mái, nên mái cao, dốc, trông hơi nặng nề. Tuy nhiên, chính sự vững chãi của kết cấu chịu lực, cộng với đỉnh mái dốc và cao, làm cho ngôi nhà vững chãi trong mưa to, gió lớn. Tuy nhiên, do mái dày, chiếm tỷ lệ lớn trong chiều cao ngôi nhà, cửa lại thấp, nên nhà hơi tối. Do vậy, những ngôi nhà làm sau, có điều kiện hơn, thường làm hệ thống cửa cao và rộng hơn để lấy ánh sáng. (Theo Lê Viết Thọ
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:14:55 GMT 9
Nhà cổ - Kỳ cuốiMột ngôi nhà lá mái ở Bình Dương (Phù Mỹ). Nhà lá mái là kết tinh của tâm lực tài năng của người Bình Định và là một nét đặc trưng trong văn hóa kiến trúc Bình Định. Tuy nhiên, trước hiện trạng nhà lá mái đang mất dần như hiện nay, giải pháp nào cho nhà lá mái? Giải pháp nào cho nhà lá mái? * “Anh về dỡ gồ đa đa” Gửi gắm theo mỗi ngôi nhà lá mái, là ước mơ cả cuộc đời gia chủ và được những người thợ mộc lành nghề thể hiện với không ít công phu, tài khéo. Dựng nhà lá mái, với nhiều gia đình, là tâm nguyện của cả đời người: “Anh về dỡ gỗ đa đa/ Cất nhà lá mái tháng ba em về”. Bởi vậy, để khởi công dựng một ngôi nhà lá mái, việc chuẩn bị đã tiến hành từ khá lâu. Gỗ dựng nhà được đặt mua, gom nhặt dần từ nhiều năm; tre được chặt, ngâm ở ao trước cả năm; đá ong thì đặt. Ông Nguyễn Kỉnh, năm nay 80 tuổi, ở làng Kiều Huyên (Cát Tân, Phù Cát), là một trong số ít người ở Bình Định nay vẫn còn biết cách làm nhà lá mái. Ông Kỉnh đã làm nghề thợ mộc từ năm 18 tuổi. Theo ông Kỉnh, thợ làm nhà lá mái phải là thợ giỏi, có tay nghề cao trong vùng. Họ được gia chủ rước về nuôi ăn ở trong trại gần nơi làm nhà. “Có những ngôi nhà, mua đu đủ về cho thợ ăn, ăn xong vứt hạt sang đám đất bên cạnh; đến khi cây lớn lên, hái ăn một, hai mùa nữa, mới xong ngôi nhà”. Hơn cả một mái nhà, nhà lá mái là không gian sống, đã được người Bình Định gửi vào bao ước mơ, tín niệm về đời sống. Không gian nhà lá mái chan hòa giữa thiên nhiên, ngôi nhà có kết cấu rất phù hợp với môi trường sống miền Trung. Nhà có trính cối trong kết cấu, thể hiện một ước mơ phồn thực; hệ thống bàn thờ với nghi, án, nhạo phía dưới, trang phía trên; tẩm hay khám phía trong; cộng thêm chiếc tiểu kỳ nép dưới bóng điệp sân trước là góc tâm linh của người Bình Định... Bấy nhiêu, cộng với dáng nét kiến trúc độc đáo của nhà lá mái cũng đã xứng đáng cho ta xưng tụng, về vẻ đẹp của một kiến trúc cổ truyền. Lớp khia đan bằng tre là một chi tiết rất độc đáo của nhà lá mái. * Giải pháp cho nhà lá mái Đợt điều tra do Cục Di sản Văn hóa phối hợp với Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa - Nhật Bản tiến hành về kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống tỉnh Bình Định, đã tìm thấy hàng trăm nhà ở các huyện: Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ và một số ít ở Quy Nhơn, Tây Sơn, Hoài Nhơn, Hoài Ân. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã chọn ra 35 nhà còn tương đối tốt thuộc các địa phương: Quy Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ và Tây Sơn. Kết quả đó cho thấy, số lượng nhà lá mái được nhân dân gìn giữ đến nay là khá lớn. Tuy nhiên, ý thức bảo tồn hoàn toàn tự phát, nên tùy theo điều kiện kinh tế và sự hiểu biết, mà mỗi nhà có một cách gìn giữ, bảo quản riêng. Theo ghi nhận của chúng tôi, hiện nay, hầu hết nhà lá mái chỉ còn giữ được kết cấu gỗ 3 gian 2 chái của nhà chính, còn bộ mái cặp bằng tranh và đất, nhà cầu, nhà dưới, lẫm… chỉ còn lại rất ít. Hiện nay, những ngôi nhà ít ỏi này cũng đang trong nguy cơ sẽ bị thay thế bằng mái ngói. Như vậy, chỉ một, hai năm nữa thôi, những ngôi nhà mái tranh vách đất cuối cùng sẽ không còn. Mỗi kết cấu gỗ của những ngôi nhà lá mái hiện đang được mua với giá từ ba chục đến cả hai, ba trăm triệu đồng, tùy vào quy mô và sự toàn vẹn, tinh xảo. Phong trào chơi nhà cổ hiện nay, tuy có phần tích cực là góp phần lưu giữ lại nhà lá mái trong tấm lòng trân trọng di sản tiền nhân, nhưng cũng có phần làm nhà cổ biến dạng. Bởi đơn giản, một ngôi nhà lá mái đúng nghĩa không chỉ là phần kết cấu gỗ mà còn là tổng thể không gian sống của người Bình Định. Huống chi, lại có những ngôi nhà cổ được lắp ghép từ nhiều nguồn khác nhau. Đáng ngạc nhiên là đến nay, chúng ta vẫn chưa có một hành lang pháp lý hay một chính sách thích đáng cho những ngôi nhà cổ cần được bảo tồn. Một dự định của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh về việc xây dựng mô hình về nhà lá mái hoàn chỉnh vẫn chỉ là dự định, trong khi việc bảo tồn một ngôi nhà lá mái với đầy đủ không gian và các hạng mục là hoàn toàn có thể trong điều kiện hiện tại. Nên chăng, trong 35 căn nhà đã được lựa chọn, cần lựa ra vài căn nhà tiêu biểu về kiến trúc, lịch sử để xếp hạng và đưa vào quy hoạch bảo tồn. Với lượng nhà lá mái còn lại không nhiều như hiện nay, vấn đề quy hoạch bảo tồn cần phải được nhanh chóng tiến hành, trước khi quá muộn. Việc nghiên cứu, vận dụng các chi tiết, giải pháp kiến trúc truyền thống của nhà lá mái vào các công trình mới cũng là cần thiết, nhất là với đội ngũ kiến trúc sư hiện nay. (Theo Lê Viết Thọ
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:17:03 GMT 9
NHÀ LÁ MÁI - Nét văn hoá độc đáo của làng quê Bình Định ( phần 1 )Nhà lá mái ở làng quê Bình Định Đối với người Bình Định, ngoài lo cái ăn, cái mặc thì việc dựng nhà là sự kiện trọng đại nhất của một đời người. Ngày Xưa, nhà cửa ở nông thôn Bình Định đều lợp tranh. Chỉ có đền, chùa, đình, miễu hoặc vùng thị tứ giàu có mới lợp ngói. Nhà cửa của dân thường có hai loại: nhà cặp và nhà lá mái. Nhà lá mái to lớn hơn nhà cặp. Cột kèo, xiên trính đều bằng gỗ danh mộc. Đoạn tiếp giáp các cột kèo có chạm hình lân, qui, hoặc nho sóc tuỳ theo từng nhà. Vách thường trét đất ở trong, tô vôi ở ngoài, hoặc xây toàn đá ong hay gạch, rồi tô vôi láng; thường thì nhà nào cũng ba gian hai chái, có nhà đến 5 gian hai chái. Những gian giữa, phía trước đóng bàng khoa, có nhà đóng phên dại, hoặc cổng. Hè trước rất rộng. Có khi lại làm một lớp cổng hoặc phên dại ở ngoài cho thêm chắc chắn. Vì tính chất qui mô như vậy, nên để làm được ngôi nhà lá mái là cả quá trình gian khổ, lâu dài và là một sự kiện trọng đại của đời người. Người Bình Định có câu: “ Một lần cất nhà bằng ba lần cha chết ” là vậy. Nhà từ đường họ Trần Tri Thiện ở Phước Quang Tuy Phước. Ảnh chụp 1960 Thợ làm nhà lá mái thường phải là thợ giỏi, có tay nghề cao trong vùng. Họ được gia chủ rước về nuôi ăn ở trong trại ( được cất lên gần nơi làm nhà ) để làm từ năm này sang năm khác. Có nhà, từ khi khởi công dựng nhà, người con trai chưa lấy vợ, nhưng đến khi khánh thành thì đã có cháu nội để ẵm bồng; nghĩa là phải mất hai-ba năm mới hoàn thành, mặc dù trước đó việc chuẩn bị khởi công dựng nhà cũng đã khá lâu. Gia chủ phải đi mua gỗ tận vùng Bình Khê ( Tây Sơn ) đóng bè chở về, rồi tre phải được chặt, ngâm ở ao, mương trước đó cả năm trời để chống mối mọt; còn đá ong thì đặt cho các thợ làm đá ở Nhơn Mỹ hay Thiết Trụ xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn… chọt theo kích cỡ đã định sẵn.Vì thế nên ca dao mới có câu: “Anh về dỡ gỗ đa đa Cất nhà lá mái tháng ba em về.” Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ còn phải tổ chức giã gạo để nấu cơm cho thợ làm nhà ăn. Đây là công việc được khá nhiều nam thanh nữ tú trong thôn và các vùng lân cận hưởng ứng; vì giã gạo không đơn thuần là một hoạt động nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hoá khá độc đáo của người Bình Định, bỡi nó gắng liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo. Tuy hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng nhà lá mái là một loại hình kiến trúc khá bền vững, nhiều nhà do bị cháy phần mái, hoặc vì điều kiện phải di dời, người ta tháo rời các mộng bằng gỗ, cắt các vòng mây buộc rồi dỡ từng cây cột, kèo, trính để dựng nhà khác. Ngôi nhà của cha tôi ở thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn có dàn cột kèo, xiên, trính… truyền qua ba đời với ba lần dựng nhà, đến đời cuối cùng đã gần một trăm năm sử dụng, nhưng vẫn vững chắc. Nét độc đáo của nhà lá mái là nó có tới hai lớp mái. Lớp mái thứ nhất ( giống phần la phông trong nhà xây), nhưng được lợp phủ lên các đầu cột, kèo vào bám chặt vào các đòn tay bằng các sợi dây mây chuốt rất kỹ. Phần mái này có nơi lát ván hoặc vỏ cây đập dập, hoặc bằng những cây tre già (có sẵng ở khắp nơi ) đã ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, rồi dùng chàng( dụng cụ của thợ mộc ) đục, dầm thành những tấm khịa bằng phẳng trải lên trên đầu cột, kèo và các đòn tay trước khi đắp đất sét đã trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh với độ dốc lớn, song song với lớp mái thứ nhất để đến mùa mưa thóat nước nhanh, giữ được độ bền của mái rạ lâu hơn. Như vậy, nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói. Lớp mái này lợp bằng tranh rạ đánh thành tấm dài độ 1,5- 2m. Người ta dùng lạt tre cột tấm tranh vào cây mè phủ lên trên lớp mái thứ nhất theo thứ tự lớp lang từ dưới lên đến nóc. Ngày nay lớp mái tranh này được thay bằng ngói cho vững bền hơn. Mái nhà và mái lá nằm cách nhau chừng năm baỷ tấc, hoặc một thước, do những trụ chống. Vì thế ở trong nhà lá mái, mùa nắng đóng kín cữa thấy mát rượi, mùa đông thì ấm áp, dễ chịu chứ không như nhà bê tông ngày nay phải luôn có quạt hoặc máy điều hoà nhiệt độ.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:20:09 GMT 9
NHÀ LÁ MÁI - ( phần 2 )Nhà lá mái ở làng quê Bình ĐịnhVách nhà lá mái cũng được làm hai lớp. Để trét vách, người ta dùng tre đã ngâm kỹ, chẻ thành mầm, trỉ.Cây mầm to bảng hơn cây trỉ ( khoảng ½ cây tre ) dựng đứng bên trong vách cách nhau vài ba tấc để cột cây trỉ làm sườn trét vách. Ðất ruộng pha sét nhào nhuyễn với rơm, nhét vào những ô mầm trỉ. Hàng trỉ giữ cho đất không rơi. Trét 2 phía trong ngoài xong, thợ đất còn dùng đất gò mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Nếu trét không kỹ hoặc trét bằng đất bở thì khi vách khô, đất nứt nẻ, rơm lòi ra ngoài rất xấu. Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt, nhưng có một điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Xung quanh nền thường đắp đá ong có nhiều ở đồi Gò Quánh, hoặc Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Nền nhà trên phải cao hơn nhà dưới, nhà trước phải cao hơn nhà sau, vì theo quan niệm của người Bình Định thì: Nền nhà nước đổ chảy vào làm ăn phát đạt đón chào ngợi ca nền nhà nước đổ chảy ra làm ăn kha khá tiêu pha bội phần nền nhà bằng phẳng như cân đề phòng con cháu ái ân tư tình. Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rảnh, chạm khắc công phu. Ngày trước chủ yếu là cửa bàng khoa gồm nhiều khung hình chữ nhật theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một số ô vuông ở trên có những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được để tạo ra khoảng trống cho mát. Vì thế nên cửa này còn có tên gọi là cửa” thượng song hạ bảng” là vậy. Nhà nghèo thì làm cửa” phên dại”, cửa này cũng có cấu tạo bằng khung gỗ hình chữ nhật đứng, có khổ thường là khoảng ( 8tấc x 1,6 m ), có các thanh ngang cho chắc. Người ta chẻ tre, vót kỹ rồi gài vào các thanh ngang của khung này cho kín sịt sẽ có một tấm cửa phênh dại bằng phẳng và kín đáo . Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cửa cho rộng rãi và tận dụng kê làm bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi. Ngày nay, người ta ít dùng cửa phênh dại hoặc cửa bàng khoa mà thay bằng các cửa lá sách hoặc cửa bảng tiện lợi và đẹp hơn. Cửa lá sách phần dưới khép kín bằng những tấm ván vuông như cửa bảng, phần trên có nhiều thanh gỗ xếp nghiêng nghiêng để thông gió và từ bên ngoài không nhìn vào được. Lối kết cấu cửa ngõ của nhà lá mái cũng thể hiện tính cách của chủ gia là sống khép kín, “ đóng cửa bảo nhau”, không muốn “ chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường. ” Cửa của nhà lá mái ở Bình Định thường thấp, bậc lại cao, đặc biệt là cửa đi lên gian nhà trên, nơi có bàn thờ. Theo các cụ già giải thích thì cần bố trí cửa như thế để nhắc nhở mọi người khi bước vào gian thờ tự phải cúi đầu, mọi động tác phải khoan thai, cung kính. Đặc biệt, ngày xưa, gian thờ này người phụ nữ không được vãng lai. Ngày nay, tục này không còn nữa, vì vai trò nam nữ bình quyền và cũng vì người đàn ông luôn đi làm ăn xa, mọi công việc ở nhà, kể cả nhang đèn, cúng giỗ đều do người phụ nữ quán xuyến, nếu không được vãng lai thì lấy người đâu mà hương khói ! Ngoài việc chạm khắc sao cho sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao. Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là đạt yêu cầu. Trong việc dựng nhà lá mái, quan trọng nhất là gác đòn dông. Lễ gác đòn dông thường tiến hành vào đêm khuya để tránh người ta “ dòm ngó “, nhất là đàn bà chửa. Luận về cách chọn ngày giờ để gác đòn dông, dân gian Bình Định có bài thơ: Kinh Dịch luận gác đòn dôngGiờ Tí, giờ Sửu: Phước hồng trời ban Khi đòn dông gác lên phải dán một lá bùa và treo một bát quái bằng gỗ để cầu an, trừ tà. Gỗ làm đòn dông phải là cây thẳng, tròn, không bị sâu mọt. Khi gác đòn dông, bao giờ đầu ngọn cũng phải nằm bên tay phải của ngôi nhà. Về kinh nghiệm này, người Bình Định có bài thơ về cách đặt trang ông táo và gác đòn dông: Ngồi trong nhà nhìn ra đường cái Gốc đòn dông tay trái tả ban Ngọn dông tay phải rõ ràng Cùng là trang táo thiếp chàng nên ghi. Nhà lá mái ở Bình Định thường có từ 12 đến 16 cây cột lớn trồng thẳng xuống đất theo bốn hàng, mỗi hàng bốn cây, bao gồm: Hàng cột cái ( cao và to nhất ) rồi đến hàng cột con, hoặc cột nhì, cột ba nhỏ và thấp hơn. Riêng bốn cây cột ở giữa cao từ 3,5m đến 4m, còn các cây cột bên ngoài giảm đều xuống từ 2 đến 3m. Đoạn tiếp giữa các đầu cột với các cây xiên, trính đều có chạm trổ hình con lân, qui, hoặc nho sóc rất công phu. Xiên là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều dọc ngôi nhà.Trính là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều ngang của ngôi nhà.Ở Bình Định, cây xiên thường bào có cạnh lục giác, chạy rãnh nổi, hoặc chạm hoa văn rất đẹp; còn cây trính ( để đỡ trụ lỏng ) thì được đẽo bằng một khúc gỗ rất to, dáng cong hình vòm, và cũng được chạm trổ hoa văn, sống nổi , uốn lượn dọc theo thân cây. Khi đầu cột có chạm trổ thì đầu kèo cũng chạm trổ cho cân xứng. Các cây trính, xiên dùng gỗ vuông thì ở cạnh có chạy chỉ và những gờ, rãnh dọc chiều dài cho đẹp. Ngoài các cột đứng còn có các trụ lỏng; tuỳ theo nhà mà có trụ lỏng cối, trụ lỏng ba lá hoặc trụ lỏng chữ lập. Trong nhà lá mái, trụ lỏng và xiên, trính là các điểm trang trí quan trọng. Khách đến thường nhìn lên trần và thấy ngay trụ lỏng, cũng như trính, xiên… cho nên trụ lỏng không chỉ là cây gỗ thẳng đơn thuần mà còn được trang trí dưới nhiều hình thức. Điều đặc biệt ở nhà lá mái là nơi giáp khớp, ngàm, người ta không dùng đinh như ngày nay mà khoan lỗ, đóng những con sẻ bằng tre đực già thay đinh giữ chặt, vì thế khi chạm trổ không đụng đến lưỡi bạc, chàng, hoặc cưa đục của thợ mộc. Nhà cất theo kiểu ấy trông nặng nề vì cột choáng hết nhiều chỗ. Hơn nữa, ba gian nhà trên hoàn toàn dùng để thờ. Trước bàn thờ kê trường kỷ hoặc phản gõ, thỉnh thoảng khách đến ngồi và nằm, chứ người trong nhà ít khi dùng đến. Trong nhà lại treo nhiều liễn, đối, trướng, sáo… cho nên dù nhà rộng đến đâu, vào cũng thấy lấn cấn không được thoải mái. Nhà lá mái thường xoay mặt vào hướng Nam. Và nhà nào cũng đều có vườn cây ở chung quanh và sân ở phía trước, rồi hàng rào ở 4 bên. Nhiều nhà chỉ trồng” cau liên phòng “ và chuối, ( chuối vườn sau, cau vườn trước ); sân phần nhiều dện đất thịt. Để khỏi nổi bùn, hàng năm dùng phân bò tươi khuấy nước sềnh sệch, đem tráng lên mặt sân cho láng để phơi thóc đậu, nông sản. Còn hàng rào thì mặt trước thường trồng duối, chè tàu, hớt tỉa mỹ thuật, hoặc rào cây tre khô, bằng thẳng chắc chắn. Phía sau và hai bên thường trồng tre, trúc cao xanh. Trong vườn thì trồng các loại rau cải, hoa quả, mùa nào thức ấy. Đặc biệt, đến ngày tết nhà nào cũng trồng hoa vạn thọ vàng ươm cả vườn. Ngõ ra vào trổ trước nhà. Có nhà trổ thêm ngõ sau. Và ngõ sau cũng như ngõ trước đều trổ xiên một bên, chứ không bao giờ trổ ngay ở giữa. Ngõ trước nếu vì phương hướng phải trổ ở giữa, thì đường vào nhà cũng phải chạy né một bên, hoặc quanh co như ất tự: Đường đi, nước chảy chớ cho ngay Hai bên thềm uyển như ất tự Gia nội an khương, tự nhiên hưng. Từ cách bố trí cửa, ngõ, sân, vườn như trên, đã tạo nên sự hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc. Sống trong nhà lá mái, tuy kín mà không bí, thấp mà không ẩm, con người dễ giao hoà với thiên nhiên cây cỏ nên thường sống thanh bạch, đậm nhân văn và có cốt cách văn hoá cao. “ Mái nhà xưa, khu vườn cổ “ chính là môi trường thích hợp để bảo tồn thuần phong mỹ tục, đạo lý truyền thống của gia đình mà người Bình Định gọi chung là “nếp nhà”. Phải chăng tên gọi “nếp nhà “ này cũng xuất phát từ gia phong của những chủ nhân ngôi nhà lá mái ở Bình Định. Như vậy, không chỉ là một di sản vật chất quý báu, nhà lá mái còn là một phần đời sống tinh thần, một nét văn hóa tốt đẹp của người Bình Ðịnh. Cách đây chừng hơn mươi năm, nhà lá mái vẫn còn khá nhiều ở vùng Bình Định, đặc biệt ở khu vực ven kinh thành Hòang Ðế xưa. Nhưng nay do thiếu điều kiện bảo quản nên nhiều ngôi nhà cổ đã bị hư hỏng dần. Nếu ở Phương Tây có những ngôi nhà tuyền gỗ thì nhà lá mái của Bình Định cũng có thể coi là một loại hình kiến trúc nhà gỗ độc đáo không nơi nào có được. Bỡi gỗ là vật liệu chính của nhà lá mái, gỗ hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi, kể cả trong ký ức và tương lai, trong cuộc sống hiện tại và lâu dài, và ngay cả trong cái chết của con người. Những ai từng lớn lên trong nhà lá mái không thể quên cái bậc cữa mòn nhẵn, mỗi lần bước qua là một lần quệt vào ống quyển đau nhói; và cũng không thể quên những cây cột láng bóng đã không biết bao nhiêu lần va vào trán trong đêm khuya quờ lối tìm cửa ra ngoài. Và có lẽ tiếng động khó quên nhất trong nhà lá mái, đẫm đầy trong ký ức tuổi thơ là tiếng võng đưa cót két những trưa hè thanh vắng. Âm thanh ấy đối với tôi như một sức mạnh huyền bí neo giữ suốt đời những ký ức gắn liền với tuổi thơ trong ngôi nhà lá mái, và trở thành những vần thơ trong bài “ Tiếng võng ” viết năm 1989: “ Đi mòn tuổi xanh chiều nay con về thăm mẹ mới đến đầu hè đã nghe tiếng võng đưa cót két… … mẹ đón con lưng còng dáng võng xưa mẹ ru võng còng cót két… giờ mẹ già rồi ru ai mà cót két hoài tiếng võng mẹ ơi!? “ Âm thanh ấy tạo nên từ gỗ, sắc màu ấy, tâm linh ấy phôi thai từ gỗ. Gỗ không chỉ che chở, nâng đỡ, bao bọc thân xác con người từ lúc mới sinh ra cho đến lúc đã qua đời mà còn hun đúc những ý chí bền bĩ, kiên trung; dưỡng nuôi những tinh thần thuỷ chung, nhân hậu.Thật vậy, ngoài những cột kèo, xiên, trính… gắn liền với ngôi nhà, gỗ còn kề cận với con người trong sinh hoạt, sản xuất qua những vật dụng, như: giường tủ, bàn ghế, hay thúng mủng, cuốc cày…. Từ chiếc tăm xỉa răng, đôi guốc mộc đến chiếc nón đội đầu; từ tấm vạt giường bện tre mát rượi hay chiếc rế đặt dưới niêu cơm, chiếc rương đựng nữ trang, quần áo của cô gái mới về làm dâu, hay cái cối cái chày thức suốt những đêm hò giã gạo, đến tấm phản gõ láng bóng ở nhà trên, hay bộ bình phong, liễn thờ chạm khảm cầu kỳ … Tất cả cùng sống, cùng yêu, cùng buồn vui chia sẻ với con người, giúp con người giữ nếp gia phong đạo lý, sống nhân hậu, yêu thương. Gỗ có mặt ở ruộng vườn, gỗ sinh sôi nảy nở ở đồi nương, sông suối, gỗ đi theo suốt cuộc đời người … Ngày nay, có xi măng, sắt thép, dù bền vững và tiện lợi hơn nhiều, song vẫn không thể thay được chiếc phản gõ mát rượi những trưa hè, không thể thay được chiếc võng đưa cot két, và lại càng không thể thay được ngôi nhà cuối cùng cho người đã qua đời. Người Bình Định bây giờ làm nhà không dụng nhiều cột kèo, xiên trính nữa, mà xây xông thẳng lên chứ không có chái, không có cột gỗ trong nhà. Người ta xây tường, thả đòn tay, đóng rui mè bằng tre ngâm kỹ ( hoặc dùng sắt xà gồ ) rồi móc ngói, lợp to-le cho tiện. Nhà giàu thì đúc trụ, đổ bê tông mái bằng chứ không dụng gỗ, vì bây giờ gỗ đã trở thành thứ không phải “ của trời cho “ như xưa nữa. Song các thứ đồ dùng, như án thờ, bàn ghế, sập, gụ… thì lại được chạm trổ tinh vi, cầu kỳ trông rất sang trọng, cổ kính hơn xưa…./. Mai Thìn ************************ Hãy cứu lấy những ngôi nhà lá máiNói tới văn hóa truyền thống Bình Ðịnh, không thể không đề cập đến kiến trúc nhà lá mái. Thế nhưng những ngôi nhà lá mái cuối cùng ở Bình Ðịnh đang bị gánh nặng thời gian và sự vô tình của con người đẩy vào quên lãng. Nhà lá mái là một kiểu kiến trúc độc đáo vì tuy vật liệu chỉ là gỗ, tre, tranh, đất nhưng độ bền vững của nhà lại rất cao, rất nhiều nhà đã có dư trăm tuổi nhưng gần như vẫn còn nguyên vẹn cấu trúc ban đầu Nhưng nhà lá mái trở nên nổi tiếng không chỉ vì độ bền mà phần lớn là do cấu trúc hai lớp và kiểu thức thi công nghiêm cẩn. Mái của nhà lá mái có tới hai lớp. Lớp mái thứ nhất (giống phần la phông trong nhà xây) là những cây tre già ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, chẻ trải rồi ép phẳng thành tấm, bên trên đắp đất bùn trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh (hình dấu ^) với độ dốc lớn để đến mùa mưa thóat nước nhanh. Mái tranh của loại nhà này dày đến 20, 30cm... Tranh dày, mái dốc, nên thường phải tới hơn 30 năm mới cần lợp lại. Vách nhà lá mái cũng được làm hai lớp. Ðất ruộng nhào nhuyễn với rơm trét 2 phía trong ngoài xong, thợ đất còn dùng đất gò mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt nhưng có một điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rãnh, chạm khắc cỏ cây hoa lá công phu. Trong một ngôi nhà lá mái không hề có một cây đinh sắt nào. Ngoài việc chạm khắc sao cho sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này có vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao.Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là được thừa nhận. Ðể học được nghề thợ làm nhà lá mái, người học việc vừa phải khéo tay, vừa phái có tính kiên trì, nghiêm cẩn khi làm việc. Thợ mộc, thợ chạm bình thường học nghề mất một năm, nhiều lắm là năm rưỡi nhưng thợ làm nhà lá mái phải mất đên 3 năm miệt mài mới được thầy cho ra nghề. Không chỉ là một di sản vật chất quý báu, từ ngôi nhà lá mái, một phần đời sống tinh thần, một nét văn hóa tốt đẹp của người Bình Ðịnh cũng bộc lộ từ hình ảnh ngôi nhà này. Theo cụ Trần Bá Tuyển, một người thợ từng làm rất nhiều nhà lá mái (phường Ðống Ða, TP Quy Nhơn) - Với một hiệp thợ hơn 10 người gồm thợ cả, thợ chính, thợ học việc, để làm xong một ngôi nhà lá mái hoàn chỉnh người ta phải mất không dưới 3 năm ròng rã. Vì thế, thông thường khi nhà làm xong, hiệp thợ ấy gần như trở thành người thân của gia chủ. Nhà lá mái Cách đây chừng mươi năm, nhà lá mái vẫn còn khá nhiều ở Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ, đặc biệt là ở vùng Nhơn Thành (An Nhơn) - khu vực ven kinh thành Hoàng Ðế xưa. Nhưng nay do thiếu điều kiện bảo quản nên nhiều ngôi nhà cổ đã bị hư hỏng dần. Nhà lá mái đẹp, quý giá và có độ bền cao thật nhưng sau hàng trăm năm chống chọi với thời gian, đến nay số nhà lá mái còn lại chỉ còn đâu vài chục cái trong đó số còn nguyên vẹn cỡ 90% hầu như chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Những người trẻ tuổi thì thích sống trong những ngôi nhà xây tiện nghi hiện đại, và không mấy mặn mà với kiểu nhà xưa, đầy vẻ già cỗi trong khi đó lớp người già thì đã gần đất xa trời, chỉ còn biết ngậm ngùi. Vả lại để gìn giữ và bảo quản tốt những ngôi nhà cổ với thành phàn chủ yếu là gỗ quý người ta cần phải đầu tư một mức chi phí không nhỏ, chi phí này thừa sức để đem xây hẳn một ngôi nhà bê tông mới toanh. Không khó hiểu vì sao nhà lá mái cứ vậy mà hao gầy đi theo năm tháng. Ông Dương Văn Bình - chủ một ngôi nhà lá mái ở Nhơn Thành - An Nhơn tâm sự : "Mẹ tôi vẫn thường kể rằng, khi mới về làm dâu nhà này, đã thấy cửa nẻo, cột trụ lên nước đen bóng. Mỗi khi quét tước nhà cửa, bà nội tôi vẫn thường nhắc nhở - cẩn thận kẻo không làm gãy nho sóc, hư những đường chạm trổ. Mà mẹ tôi thì nay đã 101 tuổi, như vậy đủ biết căn nhà kiên cổ đến mức nào. Mùa mưa bão năm 1999, căn nhà này bị tốc mái rồi đổ sập vách sau, đồ gỗ, trang thờ trong nhà chỉ bị hư hỏng một ít còn lại gần như còn nguyên vẹn nhưng mãi đến nay vẫn không có tiền để sửa. Gỗ lạt đắt quá. Mà cũng chẳng riêng gì nhà tôi, nhà của chú tôi cũng vậy, trong chòm Xuân Quang này cũng còn mươi mấy nhà như vậy đó" Ông Ðặng Hữu Thọ, giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định cho biết: "Nhà lá mái rất dễ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá độc đáo. Ưu điểm rất lớn của nhà lá mái là nó đang được tồn tại như một kiểu di tích đang có người sinh sống bên trong, do đó rất dễ bảo quản. Nhà lá mái toạ lạc chủ yếu vẫn ở vùng thôn quê nên những tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường ép lên tương đối nhẹ. Khả năng khai thác di sản này vào mục tiêu du lịch là rất lớn nhưng hai ngành văn hoá và du lịch vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Mua lại rồi phục chế một ngôi nhà lá mái như thật là điều Bảo tàng rất muốn nhưng vì điều kiện tài chính chưa cho phép nên đến nay vẫn chưa thể thực hiện được dự định này.". Hiện nay ở Bảo tàng tổng hợp Bình Ðịnh có một tấm ảnh chụp một ngôi nhà lá mái điển hình và một mô hình thu nhỏ nhưng theo các nghệ nhân thì chưa đạt yêu cầu. Bảo tàng muốn làm còn khó đến thế thì làm sao giúp dân, vì thế làm gì để bảo tồn vốn nhà cổ vẫn cứ là một nỗi day dứt. Nguyễn Hoàng Tú
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:23:55 GMT 9
Nhà lá mái - giải mã một nét riêng văn hóa Bình Định Kiến trúc bên trong nhà lá mái - Ảnh: Đăng Huy Từ năm 2001 đến 2003, Hội Kiến trúc sư Bình Định thực hiện đề tài Nghiên cứu kiến trúc truyền thống Bình Định góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc trong kiến trúc hiện đại. Đây là công trình nghiên cứu nhiều ý nghĩa đối với nền kiến trúc hiện đại mang bản sắc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn kết quả nghiên cứu và giá trị thực tiễn của đề tài, chúng tôi đã phỏng vấn KTS Phạm Thanh Trì, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn Xây dựng A.T.T, Chủ nhiệm đề tài.******************** * Thưa ông, xuất phát từ đâu mà Hội Kiến trúc sư Bình Định tiến hành đề tài này? - Nhà có vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Bình Định. Người Bình Định vẫn quan niệm "Sống có nhà, già có mồ". Gần cả đời người, có khi nỗi lo chủ yếu là làm sao cất được ngôi nhà, như một thứ di sản để lại cho con cháu. Nhà lá mái mang đầy đủ những nét văn hóa của con người Bình Định. Do vậy, hiểu được kiến trúc truyền thống Bình Định, nhất là nhà lá mái - đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này - cũng là giải mã được một nét riêng trong văn hóa Bình Định. Hơn nữa, trong công cuộc "Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" hiện nay, riêng trong lĩnh vực kiến trúc, cũng cần tìm ra những nét đặc sắc riêng, tạo thành phong cách kiến trúc truyền thống Bình Định. Do vậy, cần phải quay trở về, nghiên cứu kiến trúc truyền thống, đặc biệt là nhà lá mái. Đây còn là vấn đề có tính thời sự, do hiện nay, nhiều ngôi nhà lá mái, do chủ nhân không hiểu được những giá trị của nó, nên đang để hư hỏng dần, mất dần. Nếu không làm khẩn trương, có thể chỉ vài năm nữa, sẽ không còn đâu nhà lá mái để nghiên cứu. Hiện nay, trên địa bàn các huyện đồng bằng còn gần cả trăm ngôi nhà lá mái, tất nhiên với mức độ khác nhau. Riêng số chạm trổ công phu, đẹp chỉ còn khoảng trên dưới 10 nhà. Tất nhiên, số này cũng có nhiều thay đổi, chỉ còn giữ được phần nào khuôn viên, bình phong, bộ khung nhà chính, trang thờ… * Riêng về bình diện kiến trúc, nghiên cứu nhà lá mái đã đưa lại những bài học gì với giới kiến trúc sư trong việc xây dựng kiến trúc Bình Định hiện nay, thưa ông? - Theo tôi, tổ chức không gian nhà lá mái là khá hợp lý. Phân khu chức năng rõ ràng như một kiến trúc hiện đại, nhưng cũng khá linh hoạt. Thường nhà lá mái phân chia thành 3 gian, 2 chái. Hai gian đầu dùng để thờ cúng tổ tiên, gian sau là nhà buồng. Nơi đây có nhà lẫm đựng lúa, có rương xe cất đồ quý giá. Ngoài nhà chính, còn có nhà cầu, nhà phụ. Nhà cầu nối nhà trên với nhà dưới, có kết cấu thoáng, là nơi sinh hoạt, nghỉ ngơi, ăn uống của cả gia đình. Nhà dưới có sân cát, bếp nấu ăn, nơi để đồ đạc, phòng ngủ, nghỉ, nơi sinh nở của phụ nữ. Nhà lá mái được bố trí theo lối phong thủy, đặt ở vị trí cao, theo hướng Đông-Nam mát mẻ, có tụ thủy, mang tính khoa học. Nhà có hai lớp mái, một bằng đất sét và một bằng cỏ tranh, có tác dụng cách âm, cách nhiệt và chống cháy tốt; mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Nhà có bộ khung được kết cấu bằng gỗ tốt, thường có bốn hàng cột, 4 vì kèo, nối kết bằng xiên - trính, cối - chày. Liên kết cấu trúc hoàn toàn bằng mộng, vừa vững vàng, chịu được nắng gió khắc nghiệt miền Trung nhưng cũng khá đơn giản, hợp với tích cách người Bình Định. Trong khi đó, nhà ở dân gian Việt ở phía Bắc, nhà rường Huế có kết cấu phức tạp hơn. Qua quá trình nghiên cứu, có thể còn nhiều bài học khác có thể áp dụng cho kiến trúc hiện đại. Tất nhiên, áp dụng với mức độ nào, ra sao, còn tùy thuộc vào mỗi kiến trúc sư. * Từ góc độ người nghiên cứu, theo ông, để giữ gìn nhà lá mái - một nét văn hóa truyền thống Bình Định - chúng ta cần phải làm gì? - Như tôi đã nói, số nhà lá mái đẹp, còn giữ được phần nào dáng xưa lại rất ít. Trước đây, nhiều chủ nhà không hiểu, đã dỡ bỏ; gần đây cũng có một số được bán đi. Nếu không có kế hoạch gìn giữ kịp thời, đến một lúc nào đó, sẽ không còn nhà lá mái. Đã đến lúc cần suy nghĩ đến việc hỗ trợ một phần kinh phí, động viên các chủ nhà gìn giữ, tu bổ nhà lá mái. Đồng thời, ngành du lịch cũng có thể nghiên cứu, dựng nhà lá mái với đầy đủ khuôn viên: sân vườn, nhà trước, nhà giữa, giếng nước, miếu thờ thổ địa… để giới thiệu với du khách về một nét văn hóa truyền thống Bình Định. Lê Viết Thọ ************************************************* Nhà ở dân gian truyền thống Bình ĐịnhNhà ông Nguyễn Rê (Phù Cát) - ngôi nhà lá mái duy nhất ở Bình Định hiện nay còn đủ nhà chính, nhà cầu, nhà đông lợpĐược sự đồng ý của Bộ Văn hóa - Thông tin, Cục Di sản Văn hóa (DSVH) phối hợp với Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa - Nhật Bản triển khai đề tài khoa học "Nghiên cứu và bảo tồn các kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống". Việc triển khai đề tài góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của một loại hình DSVH còn ít được quan tâm và có nguy cơ hủy hoại do quá trình đô thị hóa và gánh nặng của thời gian.Căn cứ vào những đặc trưng của kiến trúc nhà lá mái, năm 2004, Cục DSVH đã chọn Bình Định để nghiên cứu Trung tuần tháng 7 và tháng 8 vừa qua, Cục DSVH phối hợp Trường Đại học Kiến trúc Hồ Chí Minh và Bảo tàng tổng hợp Bình Định, tổ chức điều tra đợt I được 350 nhà và đã chọn ra 35 nhà để điều tra đợt II. Căn cứ kết quả điều tra đợt II, các kiến trúc sư Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa sẽ trực tiếp khảo sát để chọn những nhà tiêu biểu nhất thực hiện điều tra cụ thể lần III vào cuối năm nay. Nhà lá mái là một đặc trưng văn hóa truyền thống của Bình Định được thể hiện qua không gian quy hoạch - kiến trúc. Do đó, nói về kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống Việt Nam không thể không đề cập đến nhà lá mái Bình Định. Ca dao có câu: Tiếng đồn Bình Định tốt nhà/ Phú Yên tốt lúa, Khánh Hòa tốt trâu. Năm 1934, nhà địa lý học nhân văn Pierre Gourou (người Pháp) đã đi khảo sát các ngôi nhà Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định, ông đã nhận xét: Đến phía Nam phá An Khê và dãy Sa Huỳnh, chúng ta đã vào hẳn vùng nhà Bình Định. Trừ những chiếc lều không có hình dạng, tất cả các nhà đều thuộc loại hình mới... Do vậy, điều tra nghiên cứu nhà cổ Bình Định là việc làm cần thiết nhằm làm sáng tỏ sự phát triển một cách có hệ thống của nhà ở dân gian ở các vùng và tính đặc trưng của nhà mái lá, một kiểu kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống độc đáo cần được bảo tồn. Chiến tranh đã cướp đi phần lớn nhà mái lá Bình Định, những huyện bị tàn phá nhiều nhất như: Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ. Ngoài ra, quá trình đô thị hóa, mưa bão và mối mọt cũng là một tác nhân làm hao gầy nhà lá mái. Hiện nay, nhà lá mái được gìn giữ và bảo quản tốt ở một số địa phương như Ân Đức (Hoài Ân), Hoài Đức, Hoài Sơn (Hoài Nhơn), Mỹ Trinh, Mỹ Hòa, Mỹ Cát (Phù Mỹ), Cát Trinh, Cát Nhơn, Cát Hưng, Cát Tài (Phù Cát), Nhơn An, Nhơn Hòa, Nhơn Phúc (An Nhơn), Phước Hưng, Phước Thành, Phước Hòa (Tuy Phước), Tây Phú, Bình Thành (Tây Sơn), Nhơn Phú (Quy Nhơn). Kết quả điều tra trên địa bàn 11 huyện, thành phố trong tỉnh đã lập biểu mẫu 350 nhà thuộc 5 tiêu chuẩn: nhà cổ có hiện trạng tốt, nhà cổ trước năm 1900, nhà kiểu truyền thống trước năm 1945, nhà có đầy đủ khuôn viên trước năm 1945 và nhà tiêu biểu không thuộc 4 loại trên có thể xây sau năm 1945. Do đề tài nghiên cứu khống chế về thời gian và số lượng nhà điều tra nên còn một số lượng lớn nhà cổ trên địa bàn tỉnh chưa được điều tra thống kê lần này. Qua kết quả điều tra cho thấy, số lượng nhà lá mái được nhân dân gìn giữ đến ngày nay là khá lớn, lên đến con số hàng trăm. Điều đó chứng tỏ rằng nhà lá mái vẫn được người dân Bình Định trân trọng, bảo tồn. Có điều, ý thức bảo tồn hoàn toàn tự phát, nên tùy theo điều kiện kinh tế và ý thức bảo tồn của từng gia đình, mỗi nhà có một cách gìn giữ, bảo quản riêng nếp nhà - di sản vật chất quý báu của cha ông để lại. Thường nhà lá mái cất theo kiểu chữ Môn hoặc kiểu chữ công và có hai mái: mái đất và mái lá. Quy mô kiến trúc phụ thuộc vào từng gia cảnh, nhà chính thường 3 gian 2 chái (nhà giàu làm đến 5 gian 2 chái), ở giữa là gian thờ, hai đầu chái là đông phòng và tây phòng. Nhà chính nối với nhà đông và bếp bằng một lối đi có mái gọi là nhà cầu và hình thành một sân nhỏ tạo sự thông thoáng cho cả ngôi nhà. Bên phải nhà chính và thông với nó cũng bằng một lối đi có mái là nhà tây. Sự nghèo giàu của các chủ nhân nhà lá mái thể hiện rõ nét nhất là ở các nhà phụ thuộc. Ngoài ra, nhà lá mái còn có một số công trình phụ như: nhà ngõ, thủ kỳ (miếu thờ Thổ thần). Quy mô nhà lá mái xưa là thế, nhưng hiện nay cả tỉnh chỉ còn vài nhà cổ lợp tranh, lợp rạ đã bị hư hỏng nặng, hàng trăm nhà lá mái khác được thay thế mái lá bằng mái ngói hoặc mái tôn. Một số ít nhà còn giữ được nhà cổng, thủ kỳ, khu vực nhà cầu - nhà đông - nhà bếp và sân nhỏ, nhưng vách mầm trỉ trét đất thay bằng gạch. Một số nhà còn giữ được vách trét đất của nhà chính lại không giữ được các nhà phụ. Có vài nhà để chống mối không những thay vách mầm trỉ trét đất bằng gạch mà còn tháo dỡ cả mái đất chỉ để lại lớp trần sìa tre hoặc ván lát. Do nhiều lý do khách quan buộc các gia chủ phải thu dần các kiến trúc phụ của nhà lá mái để tiện bảo quản, nghĩa là phải chấp nhận tháo dỡ các nhà phụ bị hư hỏng để tập trung đầu tư gìn giữ nhà chính. Đa phần nhà lá mái Bình Định hiện nay chỉ còn giữ lại 3 gian, 2 chái. Có nhà còn giữ đủ 3 gian nhưng thiếu một chái tây hoặc thiếu cả hai chái đông và tây. Một số nhà vẫn giữ nguyên khung gỗ nhưng lại thay trần sìa lá mái bằng trần bằng hoặc chỉ giữ lại các vì kèo, án thờ, bạo xổ để gọi là giữ lại "nếp gỗ" của ông bà. Từ năm 2002, sau khi Chính phủ ban hành Luật Di sản văn hóa, trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị DSVH đã được nâng cao, những ngôi nhà lá mái cũng được gìn giữ và bảo quản tốt hơn. Thế nhưng, cho đến bây giờ, biện pháp bảo tồn nhà cổ vẫn là vấn đề ray rứt của các gia chủ. Hy vọng điều tra lần này là một dịp tốt để khảo sát, đánh giá di sản nhà ở dân gian truyền thống tỉnh nhà; đồng thời dựa trên những kết quả điều tra, Nhà nước có thể tiến hành chỉ định những nhà ở dân gian truyền thống là một DSVH và cố gắng bảo tồn chúng. Nguyễn Thanh Quang
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:25:59 GMT 9
NHÀ CỔ VNMỗi nhà trên của nhà lá mái có hơn 30 cột. Các cột này đều làm từ gỗ quý hiếm mà các chủ nhân nhà lá mái xưa phải cơm ăn cơm dỡ, chiến đấu với cọp beo ở đập Đá Vải (cách Long Bình chừng 1,5 km) mới đốn đủ ngôi nhà này. Cụ Bùi Trần Châu nói rằng, sau các trận bão lớn, dừa xung quanh ngã đổ đập lên mái, nhưng sườn nhà không thể suy suyển. Bên ttrong nhà lá mái đến 3 gian thờ, và hệ thống liễn, khám, trang thờ… đều được trạm trỗ rất nhiều hoa văn, chữ Hán cổ… VĨ THANH CỦA NHÀ CỔ Nhưng, trừ nhà cụ Bùi Trần Châu còn được bảo quản tốt (do thay mái tranh bằng mái ngói), còn lại hai ngôi nhà lá mái của Ma Đồng và bà Ma Thị Quới đều ở trong tình trạng hư hại nhiều. Tất cả các vách của hai ngôi nhà trên đã bị bong từng mảnh lớn, và mối mọt đã tấn công hệ thống sườn nhà. Ông Ma Đồng nói : “Bảy nhà lá mái của họ Ma chỉ còn hai cái này. Chúng tôi rất muốn giữ nguyên vẹn bởi những ngôi nhà này mang nhiều dấu ấn của ông cha tiên tổ, nhưng bảo quản nhọc công và tốn kém quá. Chỉ riêng mái tranh, cứ độ 5 năm là phải thay một lần, tốn ít nhất phải 2 triệu, chưa kể công lợp. Thêm nữa, mối mọt đã phá hưu nhiều đòn tay và kèo rồi, nên lo là không bao lâu nữa nhà sẽ bị sập”. Cả hai người họ Ma có nhà lá mái đều cho rằng nếu có tiền, họ sẽ phá bỏ ngôi nhà đang sống để xây dựng ngôi nhà hiện đại hơn. Như vậy là nguy cơ nhà lá mái ở Phú Yên bị “tuyệt chủng” là có thể xảy ra trong vài ba năm tới. Trong khi đó, theo Giám đốc Bảo tàng Phú Yên Phan Đình Phùng, thì : “Kiến trúc nhà lá mái rất quan trọng ở Phú Yên vì đó là văn hóa ở, và có cả văn hóa sinh hoạt gia đình. Chính vì vậy mà nó là đối tượng cần được bảo tồn”. Với chỉ 3 ngôi nhà, theo chúng tôi, việc bảo vệ và phát huy giá trị của nó là không tốn kém nhiều. Thiết nghĩ các ngành chức năng của Tỉnh nên tìm một phương pháp để phối hợp với chủ nhân để bảo quản nhà lá mái như : hỗ trợ vốn sửa sang lại (theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn để không sai lệch), hoặc mua lại để nghiên cứu, bảo trì (nhiều tỉnh đã thực hiện với những nhà cổ đặc biệt). Trong lúc còn phải chờ đợi, những người thực hiện bài viết này nghĩ rằng UBND huyện Sông Cầu, đặc biệt là Phòng VHTT huyện, nên vận động những chủ nhân của 3 ngôi nhà lá mái bảo vệ nguyên vẹn hiện trạng của những ngôi nhà vốn rất hiếm hoi trên. Bởi dẫu sao, đồng bào Việt Nam có câu : “Cái nhà là nhà của ta Công khó, ông cha làm ra Chúng ta hãy giữ gìn lấy Muôn năm với nước non nhà ...”Xin lấy bài đồng dao Việt Nam làm đoạn kết cho bài viết này
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:30:55 GMT 9
Làng VNTất cả nhà cổ ở Tiên Phước đều Dạo bước trên những ngõ đá nhỏ thanh bình, ngợp mình trong bóng vườn cây trái xum suê, và nghe tiếng gió ngàn chạy dài qua những triền đồi lăn tăn dìu dặt. Ấy là không gian của những ngôi làng đặc biệt miền trung du Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam - nơi thấp thoáng những ngôi nhà cổ ẩn dấu biết bao ký ức thời gian. Những chuyên gia nghiên cứu nhà cổ người Nhật Bản đến đây từng ghi nhận: "Làm nhà không chỉ là kỹ thuật, mà còn là tâm linh, là bản sắc, gỗ cũng là bản sắc văn hoá...". Di sản độc đáo đó giờ vẫn đang trong giấc ngủ êm đềm... Di sản "ở ẩn" Nhiều người vẫn tưởng ngôi nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng tọa lạc ngay ngã ba Tiên Cảnh được công nhận di tích cấp quốc gia chỉ nhờ vào "ăn theo" danh tiếng cụ Huỳnh. Nhưng sự thật không hẳn chỉ có vậy. Trong hồ sơ "xếp hạng" di tích lịch sử - văn hoá, ngôi nhà cổ này còn là một di tích kiến trúc loại đặc biệt có tuổi đến mấy trăm năm, và tiêu biểu cho phong cách kiến trúc nhà cổ dân gian truyền thống miền trung du và phía nam tỉnh Quảng Nam. Đấy là phong cách kiến trúc nhà rường bằng gỗ, 2 gian 3 chái, kiểu thức "tam đoạn kẻ chuyền", đặc trưng là nhà mái lá. Ngôi nhà bằng gỗ này hiện còn tương đối nguyên vẹn, trừ mái lá. Tiêu biểu nhất cho phong cách kiến trúc độc đáo này là ngôi nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh, ở làng Lộc Yên, xã Tiên Cảnh. Cả ngôi nhà gần như vẫn nguyên trạng thuở ban đầu, chỉ có phần mái lợp chuyển từ tranh sang ngói vào năm 1941. Cụ Anh năm nay đã 95 tuổi, và ngôi nhà có niên đại ngót 200 năm, với 6 thế hệ đã lớn lên từ đây. Cụ Anh kể, nguyên mái nhà gồm hai lớp: Lớp mái dưới làm bằng sườn tre đan đắp đất sét, lên khoảng 2 tấc tay là lớp mái trên, lợp tranh, để chống nắng nóng, nhất là sét đánh, hoả hoạn, lỡ cháy lớp tranh thì thay. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thượng Hỷ ở Trung tâm Bảo tồn di sản - di tích Quảng Nam, kiểu mái ấy là đặc trưng của nhà lá mái. Ngôi nhà gồm 3 gian và 2 chái đầu hồi, kiến trúc theo một lối riêng hết sức độc đáo, gọi là nhà "tam đoạn"- kiểu thức nhà rường, kết cấu "tam đoạn" và điêu khắc tinh xảo vẫn còn nguyên trạng khiến ngôi nhà cổ này có giá trị kiến trúc "độc nhất vô nhị". Cụ Anh cũng như chủ các nhà cổ Tiên Phước cho biết, ngôi nhà do phường thợ mộc Vân Hà dựng nên. Mỗi một cây kèo trong ngôi nhà chạm khắc xong tốn chí ít một tháng công phu! Những ngôi nhà cổ có phong cách kiến trúc tương tự hiện còn ở Tiên Phước cũng như vùng trung du và địa bàn phía nam tỉnh Quảng Nam đều do phường thợ mộc Vân Hà ở xã Tam Thành, TP.Tam Kỳ tạo tác. Phường thợ Vân Hà vốn một thời nổi tiếng "ngang ngửa" với phường thợ mộc Kim Bồng (với phong cách kiến trúc nhà cổ ở đô thị cổ Hội An), và dấu ấn tài hoa của họ đã để lại, tạo nên cả một phong cách nhà cổ tiêu biểu. Xứ sở của những ngõ đá Những ngõ đá đặc biệt được xếp từ những viên đá chẻ nhỏ có rất nhiều ở vùng trung du này. Có bó vỉa 2 bên, cũng bằng những viên đá. Những cái ngõ đá xinh xắn, chạy giữa vườn cây xanh um, nhiều tầng bậc và khúc quanh, dài dằng dặc. Cuối ngõ, trên vùng bình địa cao nhất, thấp thoáng bóng mái rêu những ngôi nhà cổ. Tiên Phước được nhiều người mệnh danh là xứ sở của những ngõ đá độc đáo. Không chỉ ở Lộc Yên. Nhà ông Nguyễn Bút, 85 tuổi, ở thôn Hội An, xã Tiên Châu, nhà ông Nguyễn Hoành ở thị trấn Tiên Kỳ, bà Nguyễn Thị Tuần, ở xã Tiên Châu... đều nằm ẩn khuất giữa bóng râm vườn đồi. Những triền đồi thoai thoải nối tiếp nhau không thấy chân trời, phía trước nhà là ruộng lúa, bậc thang, nhưng tương đối trải rộng. Nhìn từ xa, những xóm nhà cổ Tiên Phước ở thôn Lộc Yên (Tiên Cảnh), thôn Hội Hội An (Tiên Châu).. như ẩn hiện thấp thoáng giữa lưng đồi. Cái ngõ đá đầy kỳ thú, sẵn sàng cuốn hút mọi người ấy là một phần quan trọng trong không gian nhà cổ. Từ ruộng đồng xanh mướt đến ngõ đá quanh co, hun hút uốn lượn lên những sườn núi, ngập trong rừng cây ăn trái rồi mới đến nhà cổ. Một yếu tố không kém phần quan trọng đó là tính kế thừa, phát huy giữa các thế hệ trong việc giữ gìn, bảo tồn gia sản -nhà vườn của tổ tiên để lại. Qua nhiều đời, nếp sống ấy trở thành nét văn hoá độc đáo, riêng có. Và điều đáng trân trọng là người dân Tiên Phước rất yêu thiên nhiên, cây trái, hoa lá như một thứ tôn giáo không lễ nghi. Nhà nào không may mắn thụ hưởng tài sản ông bà để lại, không phải là nhà cổ thì cũng nên thơ bở những ngõ đá cầu kỳ, công phu, những vười trái sum suê. Ở đâu có người, ở đó có hoa trái. Một nét văn hoá đáng trân trọng. Thanh Hải - Tâm Thư
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:32:44 GMT 9
Nhà lá mái ở Quảng NamMột loại nhà đặc biệt có hai tầng mái, mái dưới bằng đất, mái trên lợp bằng tranh - loại nhà mà người ta nghĩ rằng nó chỉ xuất hiện ở Bình Định, Phú Yên. Nhưng từ những thế kỷ trước, kiến trúc này phổ biến ở Quảng Nam, tại các vùng có địa lý đặc thù khá giống nhau. Một phát hiện mới so với những gì mà Pierre Gourou - nhà địa lý học nhân văn - đã từng công bố từ hơn nửa thế kỷ trước... “Hồ sơ” cũ của nhà lá mái Hơn nửa thế kỷ trước, nhà địa lý học nhân văn Pierre Gourou đã đi khảo sát các ngôi nhà ở Việt Nam từ Thanh Hóa đến Bình Định để tìm ra những chỗ khác nhau của nhà ở mỗi vùng, nhấn mạnh sự khác nhau của hai kiến trúc ở phía bắc sông Gianh và phía nam sông Gianh. Nguyên do chọn Quảng Trị làm nơi nghiên cứu của miền Trung Trung Bộ đến đèo Hải Vân bởi lẽ qua những lần đi khảo sát, điều tra ông nhận thấy đa số kiểu nhà ở chung quanh Huế đều giống loại nhà ở Quảng Trị và nhiều nhà ở Huế đã mua lại từ Quảng Trị rồi tháo ráp chuyển vào. Trong bài phác thảo nghiên cứu về nhà Việt Nam, Piene Gourou đã phân chia các kiểu nhà ở vùng miền Trung Trung Bộ này thành 3 loại: nhà rội, nhà rường, nhà thượng rường hạ rội. Trong mô tả có một chi tiết khá thú vị, tại Quảng Trị đã tồn tại từ lâu một loại là nhà ở có hai tầng mái, mà tận Bình Định đến Phú Yên cũng đã có từ lâu một kiểu kết cấu phần mái như vậy. (Kết quả điều tra gần đây còn cho thấy loại nhà này xuất hiện tận đảo Lý Sơn, tức Cù lao Ré, Quảng Ngãi). Đến hôm nay, chúng ta gọi là nhà lá mái, và nhiều nhà nghiên cứu, báo chí đã lên tiếng cảnh báo rằng loại kiến trúc đặc biệt này còn giữ lại rất hiếm hoi chỉ hiện tồn từ một đến hai nhà và có nguy cơ biến mất ở hai tỉnh nói trên. Mặt chính nhà ông Trần Khiêm ở làng cổ Lộc Yên - Tiên Phước . Trở lại nhà lá mái này tại tỉnh Quảng Trị, Pierre Gourou mô tả là một loại nhà rường nằm trên dải đồi đất bazan ở Cửa Tùng tại làng Liêm Công Tây. Với nhà rường (rương có nghĩa là cái hòm gỗ), theo Pierre Gourou, phần liên kết hai cột cái theo hàng ngang bằng quá giang (lõng trếng) và hàng dọc bằng một xà gọi là xuyên. Trên quá giang và xuyên là cái sàn được khép kín về phía cửa vào bằng những tấm ván, trên đó người ta để các loại đồ dùng. (Rương hay rường cũng là một loại nhà giống nhau của miền Trung). Được biết, ngôi nhà này xưa hơn các ngôi nhà hiện có tại vùng này lúc bấy giờ (năm 1934) mà theo chủ nhân thì nó được dựng từ thời Tây Sơn trong những năm cuối thế kỷ XVIII. Mái nhà có hai lớp, gồm một mái đầu tiên bằng đất nện để khô và một mái thứ hai lợp tranh, đỡ bằng những phên đan bằng tre thô sơ được bó đất cẩn thận; khoảng cách giữa hai lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc (40cm). Cấu trúc đó có vẻ hợp lý. Loại mái hai lớp bằng đất và bằng rơm đó người Việt gọi là "mái xông". Đây là loại nhà không lợp mái ngói khá phổ biến ở vùng Cửa Tùng này. Ở tận phía Nam miền Trung, nhà nghiên cứu Pierre Gourou cũng thấy kiểu nhà này xuất hiện ở Bình Định. Phát hiện mới ở Quảng Nam Không thấy Pierre Gourou mô tả kiểu nhà này ở Huế và Quảng Nam. Thế nhưng trong thời gian gần đây, chúng tôi đi khảo sát lại các kiến trúc cổ truyền dân gian tại Quảng Nam thì phát hiện ra ở vùng phía Nam thuộc tỉnh Quảng Nam như Tam Kỳ, Núi Thành, nhất là vùng trung du huyện Tiên Phước - những nơi được xem là có khí hậu oi bức nhất ở Quảng Nam - đã tồn tại rất nhiều kiểu nhà kể trên từ những năm 40 của thế kỷ XX về trước. Cụ Nguyễn Huỳnh Anh (Tiên Phước), chủ nhân của ngôi nhà cổ có niên đại trên 120 năm và đang còn ở tình trạng tốt nhờ sự chăm sóc bảo quản của nhiều thế hệ trong gia đình, kể rằng nhà cụ trước năm 1941 là loại nhà có hai tầng mái. Tầng mái bên dưới gồm hỗn hợp của đất sét trộn với rơm cắt nhỏ đắp một lớp dày 7-10cm phủ trên trần ván gỗ mỏng ghép kín (những tấm rui ở mái nhà ghép khít lại). Phần mái trên được kết cấu như một loại nhà khung tre có đòn tay, rui mè bằng tre và lợp tranh săng dày kín chống mưa. Bộ sườn mái bằng tre này được kê trên những ụ đá liên kết với đất sét đặt trên các vị trí đầu cột của khung nhà gỗ bên dưới, khoảng hở của mái này 40-50cm. Cửa tròn nhà bảo tàng - Ảnh: Nguyễn Vĩnh Hảo Tương tự, nhà anh Nguyễn Đình Mẫn, Đồng Viết Mão (người trong họ của cụ Anh) ở làng Lộc Yên, nay thuộc thôn 4, nhà của Lê Văn Hào ở thôn 5, xã Tiên Cảnh cũng đều được thay mái tranh và đất bằng ngói trong những năm 40 của thế kỷ XX. Điều này được giải thích rằng ngôi nhà bằng gỗ mít chạm trổ công phu, nếu sơ suất bất cẩn để bị cháy hoặc bị sét đánh (vùng này thường xuyên có sấm sét vào mùa hè) thì tất cả đều bị hóa thành tro. Đồng thời, việc sử dụng ngói để lợp nhà như những vùng có thuận lợi giao thông đường thủy sẽ trở nên khó khăn vô cùng nếu thực hiện việc chuyên chở vật liệu dễ vỡ này ở vùng đồi núi này... Vì vậy, mãi đến năm 1941, cụ Nguyễn Huỳnh Anh mới có thể thay mái tranh bằng mái ngói với giá 1 xu mua từ làng gốm Thanh Hà, Hội An chuyển lên. Nhà lưu niệm của cụ Huỳnh Thúc Kháng thôn Thạnh Bình, Tiên Cảnh và nhiều nhà ở vùng này trước đây cũng là nhà lá mái. Đa số được thay bằng mái lợp ngói sau những năm 40 của thế XX... Hiện nay ở thôn 4 (làng Lộc Yên xưa), xã Tiên Cảnh - Tiên Phước may mắn còn một kiến trúc mái đất, tường đất, phần lợp tranh đã thay bằng ngói. Đó là nhà của cụ Trần Khiêm. Từ những tư liệu, kết quả khảo sát điều tra tạm thời cho ta những nhận định: nhà mái lá là một kiến trúc có kết cấu đậm nét yếu tố bản địa (nhà của người Chăm cổ, tiếng Chăm gọi là Thang Lâm), tùy thuộc vào vị trí của vùng đất có khí hậu nóng, khô hạn (xa vùng nước), xa lò sản xuất ngói. Và nhà mái lá xuất hiện ở Quảng Nam cũng khá hợp lý. Quảng Nam là một vùng có nhiều loại gỗ vườn là mít (Tam Xuân, Tam Mỹ - Núi Thành, nhất là Tiên Phước) cùng với những phường thợ mộc Văn Hà và Kim Bồng đã tạo nên những ngôi nhà đẹp, phong phú với nhiều loại hình kiến trúc dân gian đậm nét đặc thù của vùng đất này - trong đó có nhà mái lá. Nguyễn Thượng Hỷ
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 12:33:36 GMT 9
Bình phong trong kiến trúc truyền thống Việt Nam Thật khó tưởng tượng được nếu trong không gian của một ngôi nhà truyền thống Việt lại thiếu vắng một chiếc bình phong. Cái vật duyên dáng ấy có khi được đặt ở ngoài sân với đủ kiểu đủ dáng vẻ; có khi được đặt ngay trong nhà với kích thước vừa phải, ngay sau cửa chính; hoặc có khi kết hợp cả hai. Nhưng cái bình phong tưởng thật thân thiết, thật gần gũi ấy hình như từ trước đến nay lại chưa được tìm hiểu thấu đáo. Bài viết dưới đây của tác giả Phan Thanh Hải sẽ là nỗ lực đầu tiên để khắc phục vấn đề này. I. Từ một huyền thoại Năm 1636, chúa Nguyễn Phước Lan đã vì sự nghiệp phát triển của Đàng Trong và cả vì mối tình với một cô gái yêu kiều ở đất làng Kim Long mà đã quyết định dời thủ phủ-kinh đô từ Phước Yên về vùng đất tươi đẹp bên bờ con sông Hương mang tên Kim Long. Hơn 50 năm tiếp đó, thủ phủ Kim Long đã được xây dựng thành một “đô thị lớn”, phồn hoa diễm lệ bậc nhất của Đàng Trong khiến không ít giáo sĩ phương Tây khi đến đây đã tỏ ra hết sức thán phục. Vậy mà đến năm 1687, ngay sau khi kế vị, chúa Nguyễn Phước Thái đã cho dời ngay thủ phủ về đất Phú Xuân, cách đó chỉ khoảng 3km. Nguyên nhân của sự dịch chuyển này là do đâu? Các nhà nghiên cứu khi phân tích sự kiện trên đã đưa ra nhiều nguyên nhân, nhưng trong huyền thoại dân gian Huế thì dường như chỉ có một: đó là vì ngọn núi Ngự Bình vốn xưa mang tên là Bình Sơn! Ngọn núi này được trời đất tạo ra dường như là để che chắn cho kinh đô của bậc đế vương. Chính chúa Nguyễn Phước Thái là người đầu tiên nhận ra điều này và ông đã không ngần ngại cho xây dựng lại cả một kinh đô chỉ vì một chiếc bình phong! Cũng từ đó Bình Sơn mới chính thức trở thành Ngự Bình và dần dần trở thành biểu tượng của đất Huế (miền Hương-Ngự)(1). II. Nguồn gốc của bình phong Bình phong có từ bao giờ? Thật khó trả lời chính xác câu hỏi này, chỉ biết rằng, ở phương Đông, từ khi con người biết xây dựng nhà cửa thì các quan niệm về phong thuỷ cũng dần dần xuất hiện và từng bước hoàn thiện, chiếc bình phong ra đời cũng từ các nguyên lý của phong thuỷ học. Theo các nhà nghiên cứu về phong thuỷ Trung Quốc, việc sử dụng bình phong cho gia trạch cũng như mộ phần bắt nguồn từ lý thuyết về Triều và án trong Phong thuỷ. Triều có nghĩa là “quay về, hướng về”, viết tắt của chữ Triều sơn, tức chỉ núi quay về, chầu về nhà cửa hay mộ phần – tựa như sự đối ứng giữa chủ và khách. Núi chầu về trong nghĩa triều sơn chỉ những ngọn núi ở phía xa và ở mặt trước. Triều sơn có nhiều loại, có loại đỉnh nhọn, đỉnh bằng, đỉnh tròn…. Trong Phong thuỷ thường chỉ chuộng loại núi tròn đều hay ngang bằng bởi cho rằng loại núi nhọn hay có góc cạnh thường phát ra khí chẳng lành. Còn “Án” vốn nguyên có nghĩa gốc là cái bàn, bàn đương nhiên là đặt trước mặt của người ngồi. Án sơn là để chỉ ngọn núi nhỏ ở phía trước gia trạch hay mộ phần (2). Nói chung, triều và án hết sức cần thiết cho gia trạch và mộ phần, tác dụng của chúng là ngăn cản những ảnh hưởng xấu (theo quan niệm dân gian) hay Hỏa khí (theo thuyết âm dương Ngũ hành) xâm nhập trực diện từ phía trước. Nhưng không phải lúc nào triều và án cũng mang lại những điều tốt lành mà đòi hỏi phải có sự lựa chọn phù hợp nhưng việc lựa chọn này lại hoàn toàn không dễ dàng. Thường thì mộ phần đặt ở vùng núi non nên việc chọn triều án khá thuận tiện, nhưng nhà cửa gia trạch lại chủ yếu nằm ở miền đồng bằng nên rất khó tìm triều và án. Trừ trường hợp cung điện đồ sộ của nhà vua thì đương nhiên phải tìm ra triều và án, còn thì đa số quan lại, thường dân chỉ mong tìm được án đã là tốt lắm rồi. Nếu không có án, người ta thường tạo nên những vật thay thế như đắp non bộ, trồng hàng rào hay xây bức tường ngắn… Chiếc bình phong ra đời từ đây. Thuở ban đầu bình phong được làm rất đơn giản bằng các vật liệu dễ kiếm như tre nứa, gỗ, phiến đá, thậm chí bụi cây cũng được. Nhưng càng về sau, bình phong càng ngày càng được chú trọng làm bằng vật liệu bền vững như xây gạch, đắp đá; hình thức của bình phong cũng ngày càng cầu kỳ và phong phú. Người Việt vốn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của văn minh Trung Hoa và các học thuyết Phong thuỷ nên cũng từ rất sớm, chiếc bình phong đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngôi nhà của họ. Còn hơn cả người Hán, người Việt đã phát triển quan niệm về chiếc bình phong trở nên phong phú, đa dạng lên nhiều. III. Các loại bình phong Đối với đại đa số chúng ta, khái niệm bình phong hầu như không được phân biệt rõ ràng, dù là triều hay án, dù to hay nhỏ đều gọi chung là bình phong. Tuy nhiên trong Phong thuỷ thì không phải như vậy. Như trên đã nói, triều và án là hai khái niệm khác nhau và tác dụng của chúng cũng khác nhau khi áp dụng. Phong thuỷ rất chuộng triều sơn, nhưng trên thực tế thường chỉ áp dụng được cho các công trình có quy mô lớn hoặc cả một quần thể công trình như Kinh đô, lăng tẩm của vua chúa… Ngót ngàn năm trước, khi tìm ra đất Thăng Long, Lý Thái Tổ đã ca ngợi đây là mảnh đất “long bàn hổ cứ” có “sơn triều, thủy tụ”, địa thế tuyệt vời để xây dựng kinh đô. Lê Quý Đôn khi vào tiếp quản đô thành Phú Xuân năm 1775, cũng đã hết lời ca ngợi thế phong thủy của mảnh đất này, đặc biệt là vai trò của triều sơn: “Đất rộng bằng như bàn tay, độ hơn 10 dặm, ở trong là Chính dinh, đất cao, bốn bề đều thấp, tức là chỗ nổi bật giữa đất bằng, ngồi vị Càn trông hướng Tốn; đằng trước quần sơn chầu về la liệt, toàn thu nước về bên hữu, vật lực thịnh giàu”.(3) Nhưng phần lớn đối với các cuộc đất, do không có triều sơn nên người ta chỉ chú trọng đến án. Đối với kinh đô Huế, núi Ngự Bình cũng không phải là triều sơn mà chính là án, cũng như với lăng Thiên Thọ (lăng Gia Long), án chính là ngọn Đại Thiên Thọ Sơn… Thế nhưng án cũng có 2 loại: ngoại án và nội án; ngoại án hay tiền án là chiếc bình phong đặt ở phía bên ngoài, ở phía trước công trình; còn nội án là chiếc bình phong (cũng có khi gọi là trấn phong) đặt ngay trong công trình. Nhìn chung, đối với các công trình lớn, ngoại án thường là các ngọn núi, có thể là núi tự nhiên để nguyên, có thể là núi tự nhiên nhưng được sửa sang lại cho phù hợp, cũng có thể là núi nhân tạo hoàn toàn như ngọn núi nhỏ đắp phía trước phần lăng vua Tự Đức (Khiêm Lăng). Đối với những công trình hoặc cụm công trình có quy mô nhỏ hơn thì ngoại án thường được xây dựng thành một bức bình phong bằng gạch đá, hoặc có thể là một bờ rào, hàng cây, một phiến đá… Đối với các loại bình phong được xây dựng cẩn thận bằng gạch đá, thường ngoài ý nghĩa về phong thuỷ còn là những công trình mang ý nghĩa trang trí thật sự. Về đại thể, tuy chỉ là một bức tường xây ngang nhưng kỳ thực kiểu dáng và cách thức trang trí của bình phong thì thật vô cùng phong phú. Kiểu bình phong phổ biến nhất có lẽ là kiểu cuốn thư nhưng có rất nhiều biến thể. Các đề tài trang trí trên bình phong cũng đa dạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là những con vật trong Tứ linh, gồm long(rồng)-lân-phượng-quy (rùa). Tại các đình làng, các am miếu dân gian, hình tượng long mã hay hổ cũng được sử dụng rất nhiều trên bình phong. Nội án tức chiếc bình phong đặt bên trong công trình, ngay sau cửa chính. Dù có kiểu dáng, hình thức rất phong phú nhưng chúng đều là loại bình phong có thể di chuyển được. Chất liệu làm các loại bình phong này cũng rất đa dạng, bằng gỗ, bằng mây, bằng tre, bằng đá hoặc đá kết hợp với gỗ, thậm chí bằng đồng, bằng bạc, vàng… nhưng có thể nói, gỗ là loại chất liệu được sử dụng phổ biến hơn cả. Hầu hết các bức bình phong được sử dụng làm nội án đều được trang trí rất công phu và có giá trị nghệ thuật cao. Căn cứ vào hình thức kiểu dáng có thể chia nội án thành 2 loại: loại bình phong một tấm cố định và loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành. Loại bình phong một tấm cố định phổ biến nhất là có kiểu cuốn thư, được làm chắc chắn, có chân cố định, khi di chuyển phải di chuyển nguyên tấm. Còn loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành thường có hình chữ nhật hoặc vuông, do 6,8 hay10 tấm gỗ hình chữ nhật ghép lại với nhau bằng bản lề. Loại này có thể có chân hoặc không có chân, khi di chuyển có thể di chuyển cục bộ từng phần hoặc có thể tháo rời ra để tiện vận chuyển. Kiểu bình phong này hiện còn khá phổ biến tại Nhật Bản, Hàn Quốc (4). IV. Sử dụng bình phong thế nào cho phù hợp Đây thực sự là một bí ẩn của Phong thủy học. Sách vở về Phong thuỷ xưa rất hiếm khi đề cập đến điều này, các kiến thức về sử dụng bình phong chủ yếu được truyền thừa qua các thế hệ thầy Địa lý. Phỏng vấn một số thầy Địa lý có uy tín ở khu vực miền Trung thì được biết, kích thước triều sơn không quan trọng lắm, chủ yếu là do dáng vẻ, thần thái của chúng tạo nên; còn kích thước của án (kể cả ngoại án và nội án) thì rất quan trọng đối với chủ nhân công trình. Tuy nhiên, đối với phần đông dân chúng do không hiểu hết các nguyên lý uyên áo của Phong thủy nên thường cho rằng, bình phong cốt để che kín ngôi nhà (hoặc huyệt mộ) cho ấm cúng và ngăn chặn gió độc, hay để ngăn chặn những thứ khí chẳng lành phát ra từ những vật lạ phía trước nhà (cây cối, cột mốc, đường đi…), nên việc dựng bình phong không theo quy chuẩn và kích thước phù hợp, gây mất cân đối cho công trình, ảnh hưởng đến thẩm mỹ thậm chí gây trở ngại cho việc đi lại. Thực ra, theo Phong thủy, nguyên do phải đặt bình phong (kể cả ngoại và nội án) đều nhằm cản bớt hỏa khí xâm nhập quá mạnh vào nhà gây hại cho chủ nhân. Phong thủy căn cứ vào thuyết Ngũ Hành cho rằng, phía trước công trình thuộc Hỏa(phía Nam); bên phải công trình là Kim (phía Tây), tượng cho chủ nhân; bên trái thuộc Mộc(phía Đông) tượng thê tài (vợ, tiền tài); phía sau thuộc Thủy(phía Bắc) tượng tử tôn (con cháu); còn trung ương thuộc Thổ. Quy định này cũng dễ hiểu vì vốn xưa nhà được đắp bằng đất (thổ); nhà sinh ra chủ (Kim), chủ sinh ra con cháu (Thủy) và điều khiển vợ, người làm (Mộc). Ngũ hành tương sinh hay tương khắc tùy thuộc khi ta đặt công trình vào các hướng cụ thể của thiên nhiên. Nếu đặt mặt trước công trình về hướng Nam (đây lại là hướng được người Việt yêu thích nhất khi làm nhà: “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”) thì Hỏa khí càng thêm vượng, dễ gây tổn hại cho chủ nhân nên mới đặt bình phong để ngăn chặn. Còn đối với các công trình xoay mặt về phía Bắc (nhất là các chùa) thì hầu như không sử dụng bình phong vì phía Bắc thuộc Thủy, mà Thủy lại khắc Hỏa. Chính vì những nguyên lý này mà khi làm nhà (hoặc lăng mộ) người ta phải mời thầy Địa lý để có sự nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp. Kích thước bình phong thế nào là vừa phải? Theo Phong thủy, khí được dẫn vào công trình từ cổng hay cửa. Trường hợp cổng và cửa công trình cùng một hướng thì Hỏa khí được dẫn trực tiếp vào mặt trước công trình. Trong kiến trúc truyền thống, cửa giữa là cửa chính để chủ nhân ra vào nên bình phong phải làm sao che kín được cửa giữa. Kinh nghiệm của các thầy Địa lý cho biết, kích thước của bình phong thường lấy từ kích thước của cửa giữa công trình nhưng có gia giảm để làm sao đứng từ trung tâm công trình nhìn ra thì cảm thấy bình phong vừa che kín hết cửa giữa là được. Đó là bề ngang của bình phong, còn chiều cao thì lấy theo mái hiên công trình. Nhà cửa xưa mái hiên thường thấp, chiều cao của bình phong (nhất là nội án) làm sao nhìn ngang bằng mái hiên nếu ta đứng từ trung tâm công trình nhìn ra; còn đối với ngoại án, kích thước là phù hợp nếu ta ngồi trên ghế mà cảm thấy có thể gác hai tay vừa vặn trên đầu bình phong (tức như đặt hai tay trên bàn). Khoảng cách đặt bình phong (ngoại án) đối với công trình cũng khá linh động nhưng đều có căn cứ vào kích thước công trình. Theo phần lớn các thầy Địa lý, khoảng cách giữa công trình và bình phong (Phong thủy gọi là Tiểu minh đường) thường lấy tương đương với kích thước bề ngang công trình. Tuy nhiên, nếu do hoàn cảnh, ngoại án phải đặt hơi xa thì cần có một lớp bình phong khác hoặc nội án hỗ trợ. Tiêu biểu là trường hợp Kinh thành Huế, do núi Ngự Bình cách Kinh thành đến 3km, Tiểu minh đường hơi rộng hơn bề ngang Kinh thành (chỉ khoảng 2,2km) nên trước mặt Hoàng Thành đã có thêm Kỳ Đài có vai trò như lớp án thứ hai che chắn cho nhà vua. Ở Việt Nam, có lẽ Huế là nơi còn giữ lại được nhiều kiểu bình phong nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì Huế là cố đô cuối cùng của Việt Nam, lại vẫn giữ được khá nguyên vẹn diện mạo của kinh đô thời quân chủ. Nhưng không chỉ trong kiến trúc cung đình mà ngay cả ở đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ… dường như nơi nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy những bức bình phong được trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế hiện nay vẫn còn giữ được một số bức bình phong tuyệt đẹp, trong đó có cả bình phong bằng gỗ loại một tấm cố định, có cả loại ghép nhiều tấm hình chữ nhật đan bằng mây trên khung gỗ, lại có cả những bức bằng đá, bằng bạc, bằng ngà voi được chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Đây thật sự là những kiệt phẩm của các nghệ nhân tiền bối mà mỗi khi đứng trước chúng ta thường có cảm giác như bị mê hoặc hút hồn. Chẳng biết do chúng quá đẹp hay do chúng đã hội tụ được phần nào những điều thần bí của Phong thuỷ. V. Chú thích: (1) Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, tập Kinh sư có phần nói rõ về núi Ngự Bình: “ở Tây bắc huyện Hương Thủy, nổi vọt lên ở quãng đất bằng như hình bức bình phong, làm lớp án thứ nhất trước Kinh thành..” ( Bản dịch của Viện Sử học. nxb KHXH, Hà Nội, tr 107). Vua Thiệu Trị đã từng xếp ngọn núi này là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh, có thơ vịnh lấy nhan đề là Bình lãnh đăng cao. Bài thơ được khắc vào bia đá, hiện vẫn còn ở chân núi. (2) Phong thủy không giải thích thật chi tiết vì sao phải dùng triều và án, chỉ thấy truyền lại những câu phú như: Nguyên văn: Điện tiền hữu án trị thiên kim Viễn hỉ tề mi cận ứng tâm Án nhược bất lai vi khoáng đãng Trung phòng phá hoại hoạ tương xâm. Ngoại sơn tác án diệc kham cầu Quan bão nguyên cầu khí bất lưu Túng hữu huyệt tình vô cận án Trung phòng điên bái tẩu tha châu. Tạm dịch: Trước điện có án ngàn vàng Xa hợp ngang mày, gần chính giữa. Án nếu không được khoáng đãng, Gia đình bị phá, hoạ tìm ngay. Núi xa làm án chẳng mong cầu Ôm kín nguyên thần khí chẳng thông Nếu ở gần huyệt không có án Gia đình điên đáo tẩu phương xa. Trác Nguyên sưu tầm
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 8:28:53 GMT 9
Đình Phương Độ - Nét kiến trúc độc đáo thời Lê Nằm ở làng Phương Độ (xã Xuân Phương, huyện Phú Bình, Thái Nguyên) đình Phương Độ được xây dựng vào thế kỷ 15 thờ Đức thánh Dương Tự Minh. Ngôi đình không những là nơi thờ tự, lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống, những kiến trúc cổ độc đáo mà trong cuộc kháng chiến chống Pháp nơi đây còn là một cơ sở cách mạng quan trọng của Đảng. Tháng 8/1945, ngôi đình được chọn làm nơi tổ chức lễ tế cờ chào mừng thành công của Cách mạng Tháng 8; các lớp tuyên truyền chủ trương của Đảng, Chính phủ, các phong trào như “Bình dân học vụ”, “Tuần lễ vàng” cũng được tổ chức tại đây. Với những giá trị lịch sử văn hoá, cách mạng đó từ năm 1993 ngôi đình đã được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đình Phương Độ là một di tích mang đặc trưng của kiến trúc thời Lê, với mái đình được làm bằng ngói mũi, bốn góc cong vút ẩn hiện dưới tán cây đa cổ thụ. Gác chuông được xây 3 tầng, trước cổng đình là ao bán nguyệt. Đình được dựng lên bởi 48 cột lim có đường kính 0,3-0,5m. Bốn góc đình được thiết kế hình mũi cong tạo cho đình một vẻ đẹp thanh thoát nhẹ nhàng. Trên mái đình được trang trí theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Ở trong đình, trên-dưới các đầu trụ, đầu cầu và các xà ngang, xà dọc đều được trang trí hoa văn, chạm trổ các bộ “Tứ linh” (Long-Ly-Quy- Phượng) rất khéo léo, công phu. Gian chính của đình là nơi đặt điện thờ gồm: Một bàn hương án trang trọng lộng lẫy gọi là Thượng Cung Đình. Trên Thượng Cung Đình có Cửa Vọng được sơn son thiếp vàng. Phía trong Nội Cung đặt tượng đức thánh Dương Tự Minh tạc bằng gỗ hình nổi. Bên tả và bên hữu của bàn hương án là bộ “Hạc đứng lưng Quy” thể hiện cho sức mạnh và sự chiến thắng. Trong gian chính còn có câu đối, các bức tranh, bộ bát cửu…được bố trí hài hoà làm tôn thêm vẻ uy nghiêm của ngôi đình. Trong đình hiện vẫn còn lưu giữ các hiện vật có giá trị như: Một sắc phong và 2 bức Đại tự thờ Dương Tự Minh thời Khải Định; Bàn hương án của cuối thời lê Đầu Thời nguyễn; Bát hương sành cổ (thời Lê); Hai cây nến đồng cao 0,8m (thời Lê) và các đồ vật quý như: Kiệu, bát hương, hương án…được trang trí và trạm trổ hoa văn tinh tế. Hàng năm vào Rằm tháng giêng, ngày 4 tháng tư, mùng 10 tháng mười (Âm lịch) và các ngày lễ tết người dân Phương Độ vẫn mở hội truyền thống, có rước kiệu, múa lân, tế lễ, vật, chọi gà và vui văn nghệ thu hút đông đảo khách thập phương gần xa. Nguồn tin: Báo Thái Nguyên
|
|