|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 8:30:06 GMT 9
Kiến trúc Phật Giáo thời Lê Sơ và thời Mạc Chùa Thầy-Hà Tây Theo dòng chảy lịch sử, thời Hậu Lê cho đến thời Tây Sơn mang trong mình các phong cách kiến trúc và mỹ thuật của nhiều giai đoạn. Sơ bộ, ta phân ra phong cách mỹ thuật các thời kỳ Lê Sơ, thời Mạc, thời Lê Trung Hưng (vua Lê chúa Trịnh), thời Lê Mạt (Trịnh Nguyễn phân tranh), cuối cùng là thời Tây Sơn. Trong phạm vi bài viết này, nội dung nghiên cứu đi sâu vào kiến trúc Phật giáo thời Lê Sơ và thời Mạc. - Tình hình phát triển Phật giáo a. Thời Lê Sơ: (1428 - 1527) Sau cuộc chiến ròng rã 10 năm, cuộc kháng chiến chống quân Minh đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ngày 15/4 năm Mậu Thân, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế mở ra triều đại nhà Lê. Nhà Lê trị vì đất nước 99 năm và trải 10 đời vua gồm Lê Thái Tổ (1428-1433); Lê Thái Tông (1434-1442); Lê Nhân Tông (1443-71459); Lê Thánh Tông (1460-1497); Lê Hiến Tông (1497-1504); Lê Túc Tông (1504); Lê Uy Mục (1505-1509); Lê Tương Dực (1510-1516); Lê Chiêu Tông (1516-1522); Lê Cung Hoàng (1522-1527). Nhà nước phong kiến Lê Sơ được thành lập trong bối cảnh nền văn hóa bị hủy hoại nghiêm trọng, xã hội đầy rẫy những khó khăn. Hai mươi năm giặc Minh đô hộ, những công trình Phật giáo nổi tiếng một thời như chùa Long Đọi, tháp Chương Sơn… đều bị phá hủy. Trong bối cảnh hệ tư tưởng thống trị của triều đình thời Lê Sơ là Nho giáo, Phật giáo cùng các tôn giáo khác lâm vào cảnh tưởng chừng như suy tàn. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và là nền tảng để xây dựng mọi thể chế chính trị và xã hội. Thời kỳ đầu, nhà nước ngăn cấm việc dựng chùa, đúc chuông, tạc tượng mà đẩy mạnh xây dựng cung điện đền đài, lăng mộ, văn miếu... mang nặng tư tưởng Nho giáo. Do đó thời gian này kiến trúc Phật giáo không phát triển. Kiến trúc được xây dựng phổ biến là kiến trúc cung đình, đình làng (ra đời và phát triển rầm rộ theo thiết chế Khổng giáo) và kiến trúc lăng mộ… Dưới thời Lê Thánh Tông, năm 1461 ban hành sắc lệnh “chùa quán nào không có ngạch cũ thì không được tự tiện làm mới”. Thời Lê Sơ, muốn làm tăng nhân, nhà sư phải thi nhiều cuộc thi tuyển chọn lựa, phải làu thông kinh sử và tuổi tác trên 50. Những cấm đoán của nhà nước như ban hành các đạo luật hạn chế Phật giáo, hạn chế xây dựng chùa chiền và phát triển tăng lữ khiến các ngôi chùa lớn khó có điều kiện ra đời. Tuy nhiên, đạo Phật với sức sống mãnh liệt vẫn được quần chúng và một bộ phận tầng lớp trên tin theo. Các nhà vua như Lê Thánh Tông vẫn vịnh cảnh chùa với các bài thơ tuyệt bút vịnh chùa Trấn Quốc, chùa Pháp Vân… Các lễ hội tâm linh như rước Tứ Pháp vẫn được tổ chức. Chùa chiền vẫn là nơi sinh hoạt của tín ngưỡng dân gian, đạo Phật đã hòa chung vào dòng chảy văn hóa dân tộc không thể tách rời. b. Thời Mạc: (1527 - 1592) Sau một thế kỷ tồn tại, nhà nước Lê Sơ với hệ tư tưởng Nho giáo đã suy yếu hoàn toàn. Mạc Đăng Dung, một cận thần có thế lực lên ngôi vua, lập ra triều đình nhà Mạc, một giai đoạn mới đầy biến động được mở ra trong lịch sử. Nhà Mạc trải năm đời vua kéo dài 65 năm, năm 1592 rút lên Cao Bằng và suy tàn hẳn vào năm 1677. Năm đời vua gồm Mạc Đăng Dung (1527-1529), Mạc Đăng Doanh (1530-1540), Mạc Phúc Hải (1541-1546), Mạc Phúc Nguyên (1546-1561) và Mạc Mậu Hợp (1562-1592). Từ thời Mạc, Nho giáo không còn giữ vị trí độc tôn nữa, nhà Mạc tuy vẫn lấy hệ tư tưởng Nho giáo làm chính thống nhưng không hạn chế những tư tưởng phi Nho khác. Kiến trúc Phật giáo bắt đầu có những dấu hiệu hồi sinh sau trăm năm bị hạn chế dưới nhà nước Lê Sơ. Sự lớn mạnh của Thiền tông và các tông phái khác được du nhập rầm rộ trong thời kỳ này đã khiến kiến trúc có nhiều thay đổi đáng kể. Hàng trăm công trình chùa tháp được tu sửa và làm mới thời kỳ này (theo số liệu thống kê của Viện Mỹ thuật là 142 chùa) nhưng con số thực tế còn lớn hơn nhiều. Các công trình tôn giáo tín ngưỡng bị cấm đoán dưới thời Lê Sơ được khởi sắc trở lại. Đạo Phật trong giai đoạn này phát triển rộng khắp, chủ yếu trong quần chúng nhân dân. Phật giáo mang tư tưởng bác ái, làm điều lành, tránh điều dữ và có những hòa đồng nhất định với các tôn giáo khác đã thỏa mãn được nhu cầu và phù hợp với tư tưởng của nhân dân. Càng về cuối thời Mạc, trong bối cảnh nội chiến liên miên, số lượng chùa chiền được tu sửa càng nhiều, điều này cho thấy nhu cầu thờ cúng Phật giáo là một sinh hoạt tinh thần vô cùng quan trọng và cần thiết ở nông thôn Việt Nam thời bấy giờ. Một số quý tộc thời Mạc đã đóng góp tiền của tu sửa chùa chiền như tu sửa chùa Phổ Minh (Nam Định), làm chùa Nhân Trai (Hải Phòng), Trà Phương (Hải Phòng), Bối Am… Nhiều ngôi chùa làng được xây dựng và trùng tu như chùa Thượng Trưng, chùa Hạ (Vĩnh Phúc), chùa Nành (Hà Nội), chùa Ða Tốn (Gia Lâm), chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Hương Trai (Hà Tây)… - Những công trình Phật giáo tiêu biểu a. Thời Lê Sơ: Chùa chiền trong thời Lê Sơ không được dựng mới nhiều nhưng vẫn được trùng tu tôn tạo. Năm 1434, triều đình cho làm lại chùa Báo Thiên, đại thần Lê Sát tổ chức xây chùa Thanh Đàm và Chiêu Đô (rộng hơn 90 gian). Đời Hồng Đức (1470-1479), vua Lê Thánh Tông mở mang chùa Minh Độ (Hưng Yên). Năm 1499 tu sửa chùa Thầy (Hà Tây) và để lại bệ tượng vua Lý Thần Tông với các hình chạm sóng nước, rồng mây xen kẽ hình con tiện ảnh hưởng phương Bắc… Theo văn bia để lại, chùa làng thời kỳ này cũng được nhân dân quyên góp tu sửa như chùa Kim Liên (Hà Nội) năm 1445, chùa Đại Bi (Bắc Ninh) năm 1490, chùa Vô Vi (Hà Tây) năm 1515, chùa Bối Khê (Hà Tây) năm 1515… Dấu tích mỹ thuật thời Lê Sơ còn lại trên các chùa rất ít ỏi, có nơi lưu giữ được bia (như chùa Kim Liên, Bối Khê), có nơi thì những thành phần kiến trúc tu sửa của thời kỳ sau đã thay thế hầu hết. Những di vật đáng giá về kiến trúc Phật giáo hiện còn là tháp đá Huệ Quang, vốn có từ thời Trần được đại trùng tu thời Lê Sơ, bệ tượng bằng gỗ chùa Thầy… b. Thời Mạc: Các ngôi chùa khởi dựng trong thời kỳ này hầu hết là những ngôi chùa được dựng nên ở các làng xóm nông thôn, ít có công trình lớn do nhà nước đứng ra xây dựng. Tuy nhiên, cũng hiếm các công trình xây mới hoàn toàn mà thường là trùng tu hoặc làm lại. Những di tích, công trình khởi dựng hoàn toàn còn dấu tích của thời Mạc đến nay còn rất ít, cho nên bài viết có đề cập thêm một số di tích có niên đại xây dựng sớm hơn còn lưu giữ được di vật từ lần trùng tu trong thời Mạc. + Chùa Cập Nhất (Hưng Yên) niên đại trùng tu thời Mạc năm 1530 và 1536. Còn lưu giữ được một số mảng chạm trang trí đề tài rồng, mây lửa tại Thượng Điện, pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn bằng gỗ cao 80cm. + Chùa Cói (Vĩnh Phúc) công trình bị phá hủy trong chiến tranh nhưng chúng ta còn lưu giữ được tư liệu ảnh và đạc họa năm 1939 của Trường Viễn Đông Bác Cổ, giúp hình dung toàn bộ kiến trúc ngôi chùa thời kỳ này. + Chùa Hội Hạ (Vĩnh Phúc) lưu giữ được tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Đây được coi là pho tượng đẹp tiêu biểu cho nghệ thuật thời Mạc. + Chùa Đông Ninh (Hải Phòng) kiến trúc hiện nay mới hoàn toàn, di vật thời Mạc còn thành bậc đá trước nhà Tiền Đường với trang trí hai hình sấu, hai thành bậc hai bên chạm mây và sóng nước. + Chùa Hòa Liễu (Hải Phòng) còn thành bậc chạm rồng, ba pho tam thế, hai pho Ngọc Hoàng, một pho Quan Âm và Tổ bằng đá. Ngoài ra, động bên phải chùa có một pho tượng bằng đá cũng từ thời Mạc. + Chùa Ngo (Hà Tây) được trùng tu lớn thời Mạc còn tòa Thượng Điện 1 gian hai chái, dấu vết còn lại ở 3 đầu dư và 2 đầu bẩy. Chùa có một số tượng đất sét đã hư hỏng, và tấm bia dựng năm 1589. + Chùa Nhân Trai (Hải Phòng) niên đại năm 1590, còn lưu giữ các di vật sau: 2 thành bậc đá hình rồng và 4 thành bậc mây xoắn, tượng Ngọc Hoàng và bia đá. + Chùa Trà Phương niên đại năm 1562 (Hải Phòng) còn lưu giữ phù điêu đá tương truyền là bà Nguyễn Thị Ngọc Toàn, vợ vua Mạc Đăng Dung, tượng đá vua Mạc Đăng Dung, 5 bệ tượng Phật, một bia đá lập năm 1562 và hai đôi sấu đá đặt ở nhà bia. + Chùa Thượng (Hà Tây) cuối thế kỷ 16, còn một số vì kèo tại Tiền Đường với những mảng chạm đánh vật, mây xoắn và hươu, hai thành bậc đá chạm hình lân. Một số chùa thực chất là quán đạo như chùa Mui (Hà Tây), lưu giữ được tòa Thượng Điện với các trang trí mang dấu ấn thời Mạc, là công trình có bộ mái duy nhất từ thời Mạc đến nay. Chùa Sổ (Hà Tây) lưu giữ được nhiều gạch trang trí hoa văn, một số điêu khắc đầu dư chạm rồng, tượng Ngọc Hoàng và bia đá dựng năm 1590. Nhiều chùa thời Lý Trần lưu giữ được một số di vật qua lần trùng tu thời Mạc nhưng không còn nhiều như chùa Chúc Thánh (Hà Tây), còn lưu được các viên gạch trang trí thời Mạc, tượng Quan Âm và bia. Chùa Dâu còn bộ tượng Tam thế, chùa Bối Khê (Hà Tây) còn tượng quan âm, tượng hậu Phật và vài mảng chạm gỗ kiến trúc. Chùa Dương Liễu (Hà Tây) còn 3 vì kèo gỗ ở tòa Thiêu Hương. Chùa Đậu (Hà Tây) có từ thời Lý Trần và được trùng tu lớn vào thời Mạc, di vật hiện còn một số thành phần kiến trúc tại tòa Tiền Đường và ván bưng tầng 2 gác chuông, một số gạch trang trí hình con thú, lá cây. Chùa Phổ Minh còn cây tháp đất nung sau chùa, tượng bà chúa Mạc. Chùa Tổng (Hà Tây) còn ba bộ tam thế gỗ, bia đá ghi rõ đợt đại trùng tu năm 1579. Chùa Thầy (Hà Tây) còn lưu được một vài bộ phận chạm khắc ở vì kèo tòa Thiêu Hương, khám thờ Từ Đạo Hạnh, ba pho Tam thế (được coi là điển hình cho tượng Tam thế thời Mạc) và bia đá năm 1538. Chùa Trăm Gian (Hà Tây) còn bệ tượng Tam thế đất nung lớn trang trí cánh sen, chim thần garuda, trang trí các đề tài rồng, lân, hổ, voi và hoa lá… Chùa Vĩnh Phệ (Hà Tây) còn một số mảng chạm trên đầu dư, ván rốn nhện và trụ giá chiêng, hai bệ tượng Phật bằng gỗ và hai bia đá lập năm 1578 và 1589. - Đặc điểm kiến trúc Mặc dù có một phong cách mỹ thuật Lê Sơ với những đặc trưng so với các thời kỳ khác, nhưng do biến động xã hội và chính sách nhà nước đã khiến cho kiến trúc Phật giáo không có tiếng nói mỹ thuật và kiến trúc thời kỳ này. Như vậy, về mặt kiến trúc Phật giáo, các công trình thời Lê thực chất là không có nhiều và không đủ tư liệu để xác định được những nét đặc trưng kiến trúc. Do đó phần này, bài viết tập trung nghiên cứu về kiến trúc và đặc điểm kiến trúc Phật giáo thời Mạc. Trong các ngôi chùa thời Mạc còn lại đến ngày nay thì kiến trúc bị chắp vá nhiều, thời gian và chiến tranh làm cho các công trình có giá trị đã bị hủy hoại. Chỉ dựa vào văn bia, khám thờ, tượng tròn mà các nhà nghiên cứu xác định được niên đại thời Mạc cho phần nhiều di tích. Một vài di tích còn giữ được một số mảng chạm khắc như chùa Giám (Hưng Yên), chùa Nhân Trai (Hải Phòng). Những ngôi chùa còn dấu tích kiến trúc nhiều nhất là một gian Thượng Điện như chùa Ngo (Hà Tây), chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa Cói (Vĩnh Phú), tòa Thiêu Hương chùa Đông (Hà Tây). Chùa Cói, ngôi chùa đã bị phá hủy trong chiến tranh nhưng rất may chúng ta đã lưu giữ được các bản vẽ tương đối đầy đủ góp phần phác họa hoàn chỉnh điện mạo kiến trúc chùa thời Mạc. + Vị trí, thế đất Các công trình chùa thời Mạc chủ yếu vẫn tập trung và phát tiển ở đồng bằng Bắc Bộ (nhất là ở Hưng Yên, Hải Phòng), dọc các triền sông Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, rồi Hà Nội. Sau đó là những vùng ven biển vào tới Thanh Hóa (3 chùa), Nghệ An (3 chùa). Di tích thời Mạc gặp được ở trên diện rộng chứng tỏ vai trò của người Kinh được phát triển ở một địa bàn rộng hơn. Nhiều di tích của thế kỷ 16 đã được mở rộng hơn ra các hải đảo, ven biển, ven sông, tập trung quanh các trung tâm văn hóa kinh tế thời đó, đồng thời có xu hướng phát triển về phía trung du và miền núi. Như vậy, trong nhà Mạc, thời kỳ thương nghiệp phát triển, các đường sông lên đến các miền trung du, miền núi hay ven biển đã mở ra những con đường giao thông thủy, đồng thời cũng mở ra những vùng đất mới xây dựng kiến trúc Phật giáo. Các pho tượng và di vật cổ thời Mạc cũng được tìm thấy dọc triền sông Hồng, sông Đáy và các chi lưu. Điều này cho thấy, ngôi chùa luôn được ưu tiên xây dựng gần nguồn nước, gần đường giao thông thuận tiện thời đó. Ngôi chùa vốn trước đây gắn liền với những nơi hành lễ nghiêm trang, trở về hòa nhập với xóm làng, gắn bó với người nông dân lao động. Các khu đất được chọn xây dựng chùa rộng rãi, thoáng đãng không xa khu dân cư. Điều này là một trong những nguyên nhân phát triển kiểu kiến trúc “nội công ngoại quốc“. Kiểu kiến trúc sử dụng không gian nửa kín nửa hở để tách biệt với thế giới bên ngoài nhưng vẫn gần gũi với nhân dân. Đủ để thỏa mãn yêu cầu tu hành được thiền sư Pháp Loa đã viết trong sách Tam Tổ Thực lục “cảnh không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian, vì gần thì ồn ào, mà xa thì không ai giúp đỡ cho. Cảnh có thể là chỗ yên nghiệp để dưỡng thân, nuôi tính, tâm linh sáng suốt…”. + Tổ hợp không gian Về bố cục mặt bằng, có chùa nhỏ chỉ gồm một tòa Thượng Điện một gian hai chái hoặc chỉ là những ngôi chùa hình chữ công, nhưng phổ biến và điển hình nhất trong thời gian này là lối bố cục mặt bằng kiểu “nội công ngoại quốc”. Trước cổng chùa thường có cổng tam quan và sau chùa có gác chuông hai tầng, kiến trúc tách rời độc lập với khối nhà chính. Đối với các công trình kiến trúc Phật giáo thời kỳ này, ngôi tháp nhỏ thường là tháp mộ không đóng vai trò quan trọng trong tổng thể. Phật giáo phổ biến tới các làng xã, đồng hóa với các tín ngưỡng dân gian, song hành với các tôn giáo khác tạo nên không gian kiến trúc vô cùng khác biệt với các thời kỳ trước. Lối bố cục chữ “công” manh nha xuất hiện từ thời Lý với nhu cầu chạy đàn, sang thời Trần (được biết qua những mô hình đất nung nung nhỏ chôn theo mộ sư), tòa ống muống được thêm vào tăng diện tích chùa và để hành lễ trong những ngày mưa gió. Nhưng đến thời gian này, sự phát triển của hệ thống tượng thờ và nhu cầu hành lễ đã khiến kiểu chùa chữ “công” ở thời Mạc trở thành phổ biến. Cuối thế kỷ XVI, kiểu chùa “nội công ngoại quốc” bắt đầu xuất hiện (dựa theo văn bia chùa Phúc Lâm - Hà Tây). Kiểu mặt bằng này tạo cho ngôi chùa một sự bề thế, khang trang, làm thay đổi diện mạo kiến trúc Phật giáo một cách mạnh mẽ, mà vẫn giữ được khuôn viên vuông vắn, tạo nên một không gian cân đối, có chiều sâu, phù hợp với chức năng thờ cúng. Nói chung, qua các thành phần kiến trúc rải rác trên thực địa và tư liệu văn bia cho thấy kiến trúc chùa tháp thời kỳ này về quy mô không to lớn như thời Lý Trần. Các ngôi chùa nhỏ, vóc dáng vừa phải, hòa vào làng xóm chung quanh. Tháp chủ yếu nhỏ lẻ, làm tháp mộ là chính. Điện chính thường là một gian bố cục chính giữa, các gian phụ bố trí bốn bên nhưng kích thước thường chỉ khoảng dài 12 mét mỗi cạnh. Bố cục này là bố cục hoàn chỉnh nhất của một ngôi chùa còn lưu giữ và phát triển đến các thời kỳ sau. Ngôi chùa gồm khối nhà phía trong (Tiền Đường - Thiêu Hương - Thượng Điện) hình chữ công (工), phía ngoài hình chữ khẩu (口) tạo nên hình chữ quốc (国) bao trùm, tuy trên thực tế, hai hình không hẳn lồng vào nhau mà có chung cạnh trên là tòa Tiền Đường. Hai đầu của nhà Tiền Đường nối với hai dãy hành lang chạy vuông góc hai bên nối với dãy nhà phụ phía sau (thường gồm nhà Tổ thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa, nhà Oản là nơi để làm oản cũng trong ngày lễ và nhà nghỉ ngơi cơm nước gọi là Nhà thụ trai) tạo nên một hình vuông khép kín bao ngoài khu thờ Phật. Được xây dựng tại những khu vực tương đối bằng phẳng, mặt bằng chùa thường dàn trải theo một trục dọc hoặc hướng vào một tâm điểm. Nguyên tắc bố cục chung là cân bằng, quy củ hoặc tự do một cách có hệ thống dễ tạo được sự trang nghiêm cho công trình. Các lớp kiến trúc được dàn theo tuyến ngang và phân bố hai bên trục xuyên tâm này tương đối cân bằng, các lớp nhà ngang liên tục cắt trục dọc tạo cảm giác sâu hơn về không gian. Khu trung tâm thờ Phật trong kiến trúc nội công ngoại quốc thường được đắp nền cao hẳn so với các khối nhà chung quanh, với ý nghĩa vào chùa là lên với Phật, nói lên sự tiếp nối truyền thống xây dựng chùa thờ Phật từ những thế kỷ đầu Công nguyên, đó là từ hình tượng những cây tháp thờ Phật vươn cao. Tựu chung lại, nguyên tắc xây dựng chùa tháp từ thời Mạc về sau luôn theo quy tắc khép kín, biệt lập với thế giới bên ngoài, tạo ra một không gian tôn giáo thiêng liêng. Tuy nhiên, ở trong không gian khép kín đấy, mối tương quan hài hoà chính là sự hoà nhập đường nét kiến trúc với các yếu tố thiên nhiên. Ðã vào trong khuôn viên chùa, thì các kiến trúc đều được làm theo dạng mở, kiến trúc chuyển tiếp nhau dần dần.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:03:18 GMT 9
Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội được tính từ tháng Bảy Âm lịch năm Thuận Thiên thứ nhất, tức năm 1010. Khi ấy, Lý Thái Tổ, sau 9 năm lên ngôi, thấy Hoa Lư chật hẹp, thưa dân, hiểm trở, không có thế mở mang ra làm chỗ đô hội được, quyết định dời đô về thành Đại La (hay La Thành). Theo truyền thuyết, khi ra đến La Thành, ông trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành. Cái tên Thăng Long có từ lúc ấy, mở đầu cho một thời kỳ thịnh vượng mới của dân tộc Đại Việt. Nhưng không phải chỉ có Chiếu dời đô với tầm nhìn thiên niên kỷ, Lý Thái Tổ và nhà Lý, vương triều lần đầu tiên giữ vững được chính quyền lâu dài đến hơn hai trăm năm (khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm), bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của Đền Đô thờ các vị vua triều Lý mình, ngoài ra còn có nhiều đóng góp to lớn, đặt nền móng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam, một đặc sắc văn hóa ở Nam Á và Đông Nam Á. 1.000 năm đã đi qua, tinh thần, văn hóa ấy như ngọn đèn không tắt. Chuyên đề tuần này lấy “điểm nhìn” từ Hà Nội năm 2010 và từ những góc nhìn riêng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, của họa sĩ - nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân và của tiến sĩ - kiến trúc sư trẻ Phó Đức Tùng, với hy vọng không chỉ hiểu được những giá trị lớn lao được gieo mầm từ văn hóa Thăng Long mà còn nhìn thấy cả những thách thức cho văn hóa Hà Nội sau ngàn năm và ngàn năm sau nữa... Trong cuốn băng tôi xem mấy năm trước, ghi hình buổi nói chuyện của một thiền sư người Việt nổi tiếng thế giới. Thiền sư kể ông đã giảng pháp rất nhiều lần cho người ngoại quốc, nhưng nhớ mãi buổi ở Đức, giảng cho người Việt Nam, đa phần là dân lao động bình thường, sang đây buôn bán hoặc làm thuê… Kết thúc buổi giảng, một đệ tử phương Tây đi theo đoàn, thắc mắc rằng thầy giảng vẫn như mọi khi, vậy mà thấy bầu không khí ở đây khác, nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cái khác đó là gì. Thiền sư trả lời: Có lẽ đối với tôi, nói chuyện với người Việt cảm thấy như mình trở về nhà. Còn về phía người nghe, có lẽ vì người dân Việt Nam là một dân tộc theo Phật giáo. Ngày nay, có nhiều người không phải là Phật tử, nhưng cha mẹ, ông bà họ vốn là Phật tử. Những chủng tử Phật giáo của cha ông vẫn truyền tới cho họ. Vì thế, khi nghe tôi nói, họ thấy không xa lạ. Vấn đề này ta phải truy nguyên từ thời dân Việt dựng nước. 1. Phật giáo vào Việt Nam đã 2.000 năm (phía Nam từ Ấn Độ, phía Bắc từ Trung Hoa) chủ yếu do hai dòng thiền Tì ni đa lưu chi và Vô ngôn thông mà tổ đình là chùa Dâu (Thuận Thành) và chùa Kiến Sơ (Phù Đổng). Hai dòng thiền này, khác hẳn các dòng thiền Trung Hoa, quan niệm thuyết địa linh cho mảnh đất Đại Việt là đất linh thiêng tất sẽ sinh minh chúa. Rồi “Phật ở mọi nơi”, “Tây Thiên cõi này, cõi này Tây Thiên” tức là các thiền phái đều quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam này thành một cõi Tây Thiên, đất Phật. Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, phong trào đấu tranh giành độc lập rất sôi nổi. Các triều đại ngắn ngủi ra đời. Những anh hùng dân tộc xuất hiện. Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành. Những trí thức cũng tham gia, nhất là các trí thức Phật giáo. Như sư Khuông Việt phò vua Đinh Tiên Hoàng, sư Pháp Thuận phò vua Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh phò Lý Công Uẩn. Không thấy những trí thức Nho giáo. Có lẽ từ thời Sĩ Nhiếp, người Tàu dạy Nho học cho người Việt nhưng chỉ ở mức sơ đẳng, chỉ đủ sức làm thư lại, tức là làm tay sai cho ngoại bang. Còn những trí thức lớn thì phải là các nhà sư! Triết lý đạo Phật sâu sắc, phải có một học lực thâm sâu, thậm chí phải giỏi cả Khổng, Lão mới hiểu được Phật. Mà những thiền phái Việt Nam lại rất yêu nước. Người Phật tử hiểu rằng chỉ khi đất nước được độc lập thì Phật giáo mới phát triển được. Từ đó tôi hiểu tại sao thời Lý Trần, Phật giáo lại là quốc giáo và tại sao nói dân tộc Việt là dân tộc Phật giáo. Thiền sư Vạn Hạnh là một con người uyên thâm, hết lòng vì đạo, hết lòng vì đời, ở ngay giữa đời mà tu đạo, không câu nệ, không chấp trước điều gì, miễn là làm cho đất nước được hòa bình, cường thịnh. Ông phò ba triều đại Đinh, Lê, Lý. Ông tham dự vào việc Lê Hoàn phá Tống. Ông dạy dỗ, đào tạo Lý Công Uẩn. Ông đưa Lý Công Uẩn vào làm quan cho Lê Đại Hành. Ông tham dự vào việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông quân sư cho Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Có thể nói như vậy vì sư Vạn Hạnh là người giỏi sấm ký, phong thủy. Không có Vạn Hạnh thì không có việc Lý Công Uẩn lên ngôi, như vậy cũng không có triều Lý, không có Thăng Long. Đọc bài kệ lúc sắp thị tịch của người, lòng rung lên niềm cảm phục: Thân như bóng chớp có rồi không/Cây cối xuân tươi, thu não nùng/Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi/Thịnh suy, ngọn cỏ giọt sương đông. Hai câu đầu nói về thân phận cá nhân, hai câu sau nói về xã hội. Đó là triết lý của con người hành động, hết lòng với đời, nắm vững quy luật sống chết thịnh suy, điềm nhiên, hết lòng vì cuộc sống. Tôi thích bài thơ của sư Vạn Hạnh, nên một nhân vật thiền sư trong cuốn sách mới của tôi có tên là Vô Úy. 2. Đầu năm nay, ngày mùng Một chúng tôi đi lễ chùa. Đoàn có các vãi già, ông bạn thời nhỏ từng tham gia bảo vệ Thủ đô năm 46, ông giám đốc về hưu, ông đại tá về hưu. Thời trẻ, có thể chưa biết đạo Phật là gì, chúng tôi đã không có lòng tin. Nhưng bây giờ, các bạn tôi, vẻ mặt đều hớn hở và kính cẩn. Vả lại, đi lễ chùa vào ngày mồng Một Tết, nếu không phải là người kính Phật thì không thể đi. Chúng tôi đến chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh, nơi trụ trì của sư Vạn Hạnh và là nơi học tập của Lý Công Uẩn… Khác hẳn Tiêu Sơn hoang vu ngày xưa, mà có đôi lần tôi đã tới. Không áo nâu áo, không áo mớ ba mớ bảy, không đường đất đỏ, không cả cảm nghĩ và không khí lãng mạn của Tiêu Sơn tráng sĩ mà Khái Hưng tưởng tượng. Bây giờ đường vào chùa rộng rãi, có vỉa hè và cây trồng như đường phố. Chùa Tiêu Sơn đang hiện đại hóa. Cứ tưởng chúng tôi là người xông đất nhà chùa. Nào ngờ, trước đó đã có một xe ôtô đưa các cô giáo và các em học sinh đến dâng hương. Các cô giáo ăn mặc đẹp, hiện đại nghiêm trang kính cẩn trước ban thờ Phật. Các cháu học sinh chắp tay trước ngực trong khói hương mờ ảo. Tôi chợt nhớ lời vị thiền sư giảng pháp ở Đức kể trên kia: Mỗi người Việt Nam đều có những yếu tố Phật giáo trong người… Có hai nhân vật của triều Lý khiến tôi có nhiều suy nghĩ: vua Lý Thánh Tông và bà Ỷ Lan. Trong đám tù binh của nhà Lý có một thiền sư tên là Thảo Đường. Ông là người Trung Hoa sang Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt. Qua trò chuyện, Lý Thánh Tông khâm phục sự học và đạo đức của Thảo Đường bèn phong làm quốc sư và xin làm đệ tử! Phái Thảo Đường thành lập, tổ đình là chùa Khai quốc. Lý Thánh Tông cũng chính là người mở cửa để Nho học chính thức xuất hiện ở Việt Nam. Trước kia, Phật giáo có công rất lớn trong nền giáo dục đào tạo nhân tài cho đất nước. Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàng, Lý Công Uẩn, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh và nhiều quốc sư khác đều nhờ nhà chùa mà thành danh nhân đất nước. Ngoài ra nhà chùa còn đào tạo nhiều anh tài khác để làm việc ở các cấp chính quyền. Thời ấy nhà chùa ngoài chức năng tín ngưỡng còn là một trường học. Ở đấy người ta học chữ, học Phật pháp. Nhà chùa vốn bao dung cởi mở nên các vị thiền sư còn dạy cả Nho học và Lão trang. Tuy nhiên dần dần người ta thấy riêng Phật giáo rất khó điều khiển đất nước bởi Phật giáo quan tâm tới chính trị nhưng không nghiên cứu chính trị, lo đến giải thoát con người hơn là đến cai trị. Còn Nho giáo thì khác. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là mối quan tâm chủ yếu của Nho giáo, lại có cả một hệ thống để cai trị và mở mang bờ cõi. Thiền sư Thảo Đường chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Trong khi ấy, nhà Lý đang thời kỳ cực thịnh và muốn phát triển xuống phương Nam... Nhà Lý muốn có một chính quyền tập trung mạnh mẽ. Từ yêu cầu lịch sử ấy, Lý Thánh Tông là người đầu tiên cho xây Văn Miếu. Và bà Ỷ Lan nhiếp chính đã thay con cho mở hội thi Nho học đầu tiên để kén chọn người tài. Ỷ Lan là một phụ nữ kiệt xuất, từ một nông dân bình thường trở thành một phụ nữ uyên thâm Phật giáo, rồi lại hai lần thay vua điều hành chính trị. Có thể do tự tay điều hành đất nước nên bà mới rõ tầm quan trọng của Nho giáo. Bà xây dựng 100 ngôi chùa nhưng lại là người cho mở khoa thi Nho giáo. Tôi nghĩ, trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cảm ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay. Một đặc điểm nổi bật nữa của Phật giáo Việt Nam là tính chất nhập thế. Tính chất ấy bộc lộ rõ từ triều Lý. Trần Nhân Tông đệ nhất tổ phái Trúc Lâm viết Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Phải tùy duyên, ở ngay chính cõi trần này mà vui với đạo. Tư tưởng ấy đã có sẵn từ Phật giáo thời Lý! Sư Khuông Việt là học trò sư Vân Phong. Vân Phong là học trò sư Thiện Hội. Sư Hội dạy sư Phong: Phải ở trong sống chết, biết nắm lấy cái không sống chết thì mới được (nghĩa là Phật tử phải ung ung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi hoàn thành việc đời là chứng minh cho sự hoàn thành việc đạo). Lý Thái Tông, người xây dựng chùa Một Cột vừa làm vua vừa làm cư sĩ thiền sư. Theo gương Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông cũng đều vừa làm vua vừa làm thiền sư. Sau này, nhà Lê, nhà Nguyễn lên ngôi. Nho giáo trở thành độc tôn ở triều đình. Phật giáo không tham dự triều chính nữa, nó rút lui về làng xã. Nhưng Phật giáo mãi mãi là một thành tố trong tâm hồn người Việt, trong văn hóa Việt. Trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cám ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay. Làng nào cũng có đình và có chùa. Đình tượng trưng cho Nho giáo, là nơi sinh hoạt của đàn ông. Chùa là Phật giáo, là nơi sinh hoạt của phụ nữ, cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của thanh niên, trẻ nhỏ trong những ngày hội. Người phụ nữ khi có chồng con thường vào hội bà vãi. Người mẹ nào cũng đi lễ chùa và cũng có nhiệm vụ dạy dỗ con cái. Hầu như đứa trẻ Việt Nam nào cũng có lần theo mẹ đi lễ chùa. Đi lễ chùa, tuy không được hiểu những giáo lý Phật giáo một cách sâu sắc, nhưng ít nhất người ta cũng biết được những đạo lý, biết rằng làm việc thiện là tốt, biết rằng phải giúp đỡ những người đau khổ thiệt thòi và phải tránh xa điều hung bạo, điều ác. Có lẽ những ngôi chùa làng là những ngọn đèn tiếp nối ánh sáng từ bi Phật giáo. Nó rực sáng vào thời Lý và kéo dài cho tới ngày nay./.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:08:31 GMT 9
Bản sắc kiến trúc Việt?Kiến trúc nông thôn mà ứng xử không thận trọng sẽ đơn điệu, phi nhân văn như những căn hộ, những lồng sắt tập thể không bản sắc. Hiện đã và đang diễn ra quá trình đóng khung đời sống tinh thần nông thôn trong những mẫu nhà hộp - hình ống đô thị. Những ngày cuối năm 2010, công trình Nhà cộng đồng thôn Suối Rè (xã Cư Yên, huyện Lương Sơn) do KTS Hoàng Thúc Hào thiết kế, vừa là chủ đầu tư đã khánh thành. Đây là lần đầu tiên 1 KTS tự đầu tư cho 1 công trình kiến trúc hoàn toàn mang ý nghĩa xã hội, phi lợi nhuận, lại là kiến trúc dành cho nông thôn, nên đã gây chú ý trong cộng đồng giới KTS. Không chỉ là công trình cụ thể dành cho 1 địa bàn cụ thể, từ cách làm này, KTS Hoàng Thúc Hào mong muốn sẽ mở ra hướng đi mới, góp phần tạo nên bản sắc kiến trúc nông thôn Việt Nam hiện đại, trong đó người KTS có vai trò chủ động sáng tạo. Tuần Việt Nam có cuộc trò chuyện với KTS Hoàng Thúc Hào, hy vọng mở đầu cho loạt ý kiến của giới KTS tiếp tục chủ đề "đi tìm bản sắc kiến trúc Việt Nam hiện đại". Loay hoay với ngôn ngữ kiến trúc Việt - Mấy năm vừa rồi gặp anh đều nghe chuyện công trình Nhà cộng đồng thôn Suối Rè do anh vừa thiết kế, vừa là chủ đầu tư, từ khi chỉ là ý tưởng đến suốt quá trình thực hiện. Ấp ủ công trình lâu như thế, đâu là khó khăn lớn nhất để công trình có thể hoàn thành? - Khó khăn đầu tiên là việc lựa chọn cho đúng mình sẽ làm công trình gì ở nông thôn. Đến giờ tôi nghĩ lựa chọn của chúng tôi hoàn toàn xác đáng. Khi làm nhà cộng đồng, mọi người dân trong làng đương nhiên có quyền sử dụng nhưng họ không nhất thiết phải ở đó. Nếu mình làm nhà ở bằng đất, bằng tre thì khả năng thuyết phục khó khăn hơn, vì dân làng vẫn bị tâm lý thích nhà cao cửa rộng, muốn chắc chắn, bằng bê tông cốt thép hệt đô thị. Quyết định dựng nhà cộng đồng rồi, trăn trở tiếp theo là tìm lời giải cho tính "đa năng" của nó - người dân có thể sử dụng vào nhiều mục đích. Như ở ngôi nhà này vừa là nhà trẻ - lớp mẫu giáo, vừa là chỗ đọc sách, không gian tụ họp, sinh hoạt văn hóa thể thao, cập nhật thông tin... kể cả tổ chức hội hè, cưới xin, ma chay... Đa năng như vậy mà làm cho hay, cho đẹp thì vẫn là thứ xa xỉ ở nông thôn Việt. Song băn khoăn nhất, hồi hộp nhất là việc không hiểu người dân sẽ đón nhận công trình thế nào? Có bị xơ cứng, hình thức như phần lớn nhà văn hóa thôn bản khác - suốt ngày đóng cửa không? Làm sao tạo sức sống cho nó? Trước khi công trình hoàn thành, chúng tôi lo có thể người dân thờ ơ, vì cuộc mưu sinh bươn chải khiến họ mất hết thời gian, sức lực, không hơi đâu màng đến sinh hoạt tinh thần... Bởi vậy, chúng tôi tập trung sâu vào những hoạt động thường nhật nhất, thiết thực nhất như không gian dành cho nhà trẻ, mẫu giáo thôn, một sân chơi bóng chuyền, bóng đá... hay đơn giản là tủ sách nhỏ cho các cháu. Chứng kiến những trẻ chăn trâu thả trâu ở triền đồi, vào tầng trệt đọc sách, nghe tiếng vui đùa trong lớp mẫu giáo, hay chiều đến thanh niên thôn tụ tập đánh bóng chuyền trước nhà, thì bước đầu chúng tôi cảm thấy ấm lòng. Công trình có phong thủy đắc địa, thế tựa sơn, tránh gió bão, lũ quét, mặt hướng thẳng ra thung lũng. Ảnh: Ashui.com - Một công trình tự mình làm sẽ gửi đi thông điệp gì đó. Thông điệp chính mà anh muốn nhắn gửi lần này? - Thứ nhất, về mặt chuyên môn, có thể hy vọng từng bước kiến tạo một ngôn ngữ kiến trúc nông thôn mới, vừa kế thừa truyền thống, lại có hơi thở ngày hôm nay: Hiện đại, thân thiện, tiết kiệm năng lượng. Mong muốn của tôi là qua công trình có thể kiểm chứng khả năng xây dựng một ngữ pháp kiến trúc Việt hiện đại? Bạn thấy đấy, kiến trúc nông thôn xưa rất đẹp thì kiến trúc nông thôn nay cũng phải xứng tầm. Làm cho nông thôn không chỉ là những chương trình "tình nghĩa", từ thiện nặng về hình thức, tạm bợ, lấy số lượng mà bỏ quên tính hữu dụng và thẩm mỹ. Thông điệp thứ hai, về mặt xã hội, có hay không khả năng huy động các nguồn lực xã hội để giải quyết vấn đề kiến trúc nông thôn? Cốt lõi phải có những tổ chức trung gian, có thể dạng quỹ kiến trúc xã hội, nhằm kết nối các nguồn lực xã hội với người dân và chính quyền địa phương, vì để tự nông dân sẽ rất khó tiếp cận các nguồn lực đô thị. Thông điệp thứ ba: Hy vọng phổ biến và nhân rộng quy trình thiết kế "3 xanh" cùng công nghệ xây dựng và phương thức vận hành nhà cộng đồng. Quy trình thiết kế "3 xanh" là xanh về mặt văn hóa xã hội, xanh về môi trường - kiến trúc và xanh về kinh tế - kỹ thuật. Công nghệ xây dựng chủ yếu tận dụng vật liệu, nhân công địa phương, kết hợp công nghệ truyền thống và cải tiến, tiết kiệm năng lượng, thân thiện. Phương thức vận hành nhà cộng đồng: Có hoạt động thường xuyên và định kỳ. Chủ yếu diễn ra những sinh hoạt thường ngày, thiết yếu của dân làng, Kết hợp sinh hoạt định kỳ có tính hiện đại, cập nhật thông tin, kỹ thuật mới, giao lưu với văn minh đô thị. Vì danh ư? Tôi nghĩ rất bình thường! - Công trình rất được giới KTS chú ý và bàn luận. Anh có nhận phản hồi trái chiều nào không? - Thật ra phản ứng trái chiều không nhiều. Thí dụ có người bảo nhà mở nhiều cửa thế thì mùa đông lạnh, hay tầng trệt như vậy sẽ bị ướt, ẩm thấp? Rồi giá thành xây dựng có cao không? Làm cho nông thôn nghèo mà sàn tre hơi xịn, hơi bị bóng. Cũng có ý kiến nói rằng ở bên Mỹ có mô hình tương tự làm cho nông thôn như ở văn phòng Rural studio của KTS Samuel Mockbee? Thậm chí tôi nghe phong phanh rằng công trình này có mục đích chính trị, hoặc vì cái danh... 70% dân mình vẫn ở nông thôn, và trong quá khứ kiến trúc đặc sắc nhất của người Việt là từ làng. Chúng ta mải chạy theo kiến trúc đô thị bỏ quên nông thôn quá lâu, nên trở về là tất yếu. Hầu hết kiến trúc nông thôn xây dựng gần đây xấu là do người thiếu năng lực chuyên môn, hay họ cho rằng kiến trúc nông thôn đơn giản, không cần đầu tư công sức, chỉ cần "rẻ"? - Bỏ qua những phản hồi về chuyên môn, anh lý giải thế nào về giá thành công trình và chuyện mục đích chính trị hay vì cái danh? - Về giá thành, do đây là công trình đầu tiên mang tính thử nghiệm, không tránh khỏi những chi phí phát sinh, nhiều cái vừa làm vừa thử nên làm đi làm lại nhiều lần, thậm chí vài chục lần nên chi phí đội lên, nhất là phí nhân công. Song song quá trình thử nghiệm, chọn hệ vì kèo, cấu kiện, module điển hình, là câu chuyện giao thoa văn hoá, bản sắc Kinh - Mường biểu hiện ra sao trong không gian hình khối? Vấn đề văn hoá cũng ảnh hưởng kinh tế... Thứ hai, đây là công trình tự đầu tư, mọi chi phí mình tự trả, vật liệu, nhân công... Nếu công trình được nhân rộng, có thể huy động lao động công ích vào thứ bảy, chủ nhật, trong lúc nông nhàn hay sự góp sức của lực lượng thanh niên, tình nguyện... Cộng với vật liệu tại chỗ, lên kế hoạch trước, ngâm tre, gom đá, xử lý đất, thì giá thành sẽ rất rẻ. Về mục đích chính trị: Mỗi vấn đề của kiến trúc, quy hoạch thường gắn với việc chia sẻ quyền lực. To như quy hoạch thành phố, nhỏ như xây một ngôi nhà đều liên quan tới những khía cạnh quản lý, luật pháp, tức là gián tiếp gắn với chính trị. Lâu nay công trình làm cho nông thôn chưa nhiều, chưa hiệu quả nên nếu có công trình đi vào cuộc sống thì hiển nhiên có ý nghĩa chính trị, xã hội nhất định. Còn làm vì danh? Tôi nghĩ rất bình thường. Một người tâm huyết, khao khát làm gì chính đáng thì mong có danh với cuộc đời cũng là lẽ thường. Người làm nghề nào mà chẳng mong muốn tác phẩm của mình tốt, được xã hội công nhận? Vấn đề là công việc trong sáng, chính danh, tận lực hay không? Chuyện đến đâu để xã hội và thời gian trả lời. Giải pháp kết cấu đơn giản, tiết kiệm, vật liệu địa phương sẵn có, theo nguyên tắc: Thống nhất trong tương phản đa dạng. Ảnh: Ashui.com Lòng tốt phải đến đúng địa chỉ - Công trình này là nỗ lực chủ yếu của cá nhân KTS, nhưng để nhân rộng mô hình không thể chỉ là nỗ lực cá nhân. Anh đã nhắc đến vai trò của tổ chức trung gian, và các anh cũng đã công bố ý tưởng thành lập Quỹ kiến trúc xã hội. Vậy anh có lạc quan về khả năng tham gia của xã hội? Sẽ cần những "bên liên quan" nào? - Vấn đề phổ biến nhân rộng cực khó nếu là nỗ lực của chỉ một nhóm nhỏ, dù có tâm huyết đến đâu cũng không thể phát huy. Sự nghiệp này đòi hỏi hợp lực của nhiều tổ chức, cá nhân tâm huyết thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tôi tin rằng trong xã hội luôn có những tấm lòng. Câu chuyện về môi trường, kiến trúc, cảnh quan, vệ sinh nông thôn cũng là câu chuyện lớn, cần chia sẻ và đóng góp của cộng đồng. Hy vọng sẽ có những Bill Gates, Waren Buffet của Việt Nam. Song những tấm lòng đó phải gửi đến đúng địa chỉ. Kiến trúc nông thôn mà ứng xử không thận trọng sẽ đơn điệu, phi nhân văn như những căn hộ, những lồng sắt tập thể không bản sắc. Hiện đã và đang diễn ra quá trình đóng khung đời sống tinh thần nông thôn trong những mẫu nhà hộp - hình ống đô thị. Quỹ chúng tôi cần và phải khẳng định được sự tin cậy cho những tấm lòng muốn chia sẻ. - Tới đây anh sẽ dành bao nhiêu thời gian cho kiến trúc nông thôn? Bao nhiêu thời gian cho những công trình hiện đại? - Có thể nói thế này, tất cả hoạt động chuyên môn của tôi, giảng dạy đại học, quy hoạch - thiết kế công trình là một tổng thể hữu cơ, khó phân định rạch ròi. Nhưng vài năm lại đây, câu chuyện kiến trúc xã hội choán phần lớn tâm trí tôi, tôi cảm nhận rằng con đường tìm kiếm một ngôn ngữ kiến trúc Việt hiện đại có thể hé lộ, phát lộ ra từ kiến trúc xã hội chăng? Ngôi nhà này vừa là nhà trẻ - lớp mẫu giáo, vừa là chỗ đọc sách, không gian tụ họp, sinh hoạt văn hóa thể thao, cập nhật thông tin... kể cả tổ chức hội hè, cưới xin, ma chay... Ảnh: Ashui.com - Anh có nghĩ xây dựng các công trình cho nông thôn bằng vật liệu địa phương, nhân công địa phương, thân thiện môi trường... là một xu hướng mà kiến trúc Việt Nam nên đi? - Chỉ biết 70% dân mình vẫn ở nông thôn, và trong quá khứ kiến trúc đặc sắc nhất của người Việt là từ làng. Chúng ta mải chạy theo kiến trúc đô thị bỏ quên nông thôn quá lâu, nên trở về là tất yếu. Hầu hết kiến trúc nông thôn xây dựng gần đây xấu là do người thiếu năng lực chuyên môn, hay họ cho rằng kiến trúc nông thôn đơn giản, không cần đầu tư công sức, chỉ cần "rẻ"? Vấn đề cốt lõi để tìm ra cái đẹp và hữu dụng, chắc chắn cần những cá nhân, tổ chức dấn thân, cần cả tâm huyết song hành cùng khả năng nghề nghiệp, để khi xuất hiện nguồn lực xã hội sẽ cho kết quả xứng đáng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:11:53 GMT 9
THÁP CÁNH TIÊN Tháp Cánh Tiên toạ lạc trên đỉnh gò không cao lắm ở trung tâm thành Đồ Bàn, cố đô xưa của vương quốc Champa thuộc thôn Nam An, huyện An Nhơn. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có chép: “An Nam cổ tháp ở thôn Nam An, huyện Tường Vân, trong thành Đồ bàn, tục gọi là tháp Cánh Tiên. từ vai tháp trở lên, bốn phía đều giống như cánh tiên nên gọi tên ấy”. Còn các nhà nghiên cứu Pháp theo cách mệnh danh riêng gọi đó là Tour de Cuvre (Tháp Đồng). Để tháp xây cao, bề thế trên một bình diện gần vuông, mỗi bề dài khoảng gần 10 mét với các đường giật cấp so le. Toàn tháp cao khoảng 20mét, bốn mặt quanh thân tháp đều trang trí các cột trụ ốp tường, nhô ra theo một tỉ lệ hài hoà với tổng thể kiến trúc. Các góc thân tháp được bó bằng các khối đá có kích thước lớn nên khá vững chắc. Về hình thức tháp có 4 cửa vòm nhọn vút lên mở ra 4 hướng, nhưng chỉ có cửa chính hướng đông là ăn thông với lòng tháp, còn lại là 3 cửa giả. Bộ diềm hơi nhô ra tạo thành bộ đỡ cho các tháp góc bên trên. Các hình chặm khắc chủ yếu tập trung trên bộ mái. Với bốn tầng hiện còn, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc lại có những tầng nhỏ, tạo dáng lá lật nhỏ dần về phía trên tạo cảm giác như những chú chim đang bay. Có lẽ chính do dáng vẻ này mà người đời thả trí tưởng tượng, gắn với hình tượng thần tiên mà đặt tên cho tháp là Cánh Tiên. Những tảng đá chạm khắc hình đuôi phụng gắn trên các tầng tháp giả và hình Makara, một loài thuỷ quái trong thần thoại Ấn Độ với nanh nhọn, vòi dai, trang trí ở các góc đầu tường đã tạo cho tháp Cánh Tiên một vẻ đẹp sang trong, huyền bí. Cảm tác trước cảnh tháp, một thi sĩ khi đến viếng thăm đã để lại một bài thơ:" Rồng thiêng tiên cỡi đi đâu Cánh Tiên để đó dãi dầu năng mưa Cùng non tháp giữ tình xưa Trải bao dâu bể vẫn chưa nao lòng Đồ Bàn còn núi còn sông Còn tiên kết cánh còn rồng tuôn mây. Khác với nhiều tháp Chàm, trang trí tháp Cánh Tiên cầu kì đến độ hoàn mỹ. Từ hệ thống vòm cửa đến dải hoa văn hình xoắn xếp lớp đối xứng nhau uyển chuyển đến các khối đá ốp cạnh được chạm khắc tinh tế tạo thành những hoa văn nối kết đều toát lên vẻ đẹp vừa thanh thoát, trang nhã, vừa uy nghi, bề thế. Cũng có thể do vẻ đẹp duyên dáng mà tháp còn có tên dân gian là tháp Con Gái. Theo các thư tịch cổ, thành Đồ Bàn do vua Chiêm Thành Ngô Nhật Hoan xây từ thế kỷ thứ X, còn tháp Cánh Tiên được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, dưới đời vua Chế Mân (Jaya Sinbavarman III). Phải chăng, đây là ngôi tháp Chế Mân dành tặng hoàng hậu Paramecvari tức Huyền Trân công chúa, người con gái Việt cao quý đã đặt quyền lợi lên trên hết, cùng ông kết mối lương duyên lịch sử. Tương truyền, trước khi rời Đại Việt, nàng công chúa lá ngọc cành vàng của triều Trần đã học nhuần nhuyễn mọi nghi thức cung đình lẫn sinh hoạt dân gian Chiêm quốc. Đi làm dâu xa xứ, nàng được thần dân yêu quý và kính trọng vì vị hoàng hậu người Việt này không những nói thạo tiếng Chiêm Thành, biết múa hát các điệu dân ca dân vũ Chiêm Thành, mà còn chịu khó truyền dạy các cung nữ và thần dân quê chồng dệt vải, trồng lúa, thêu thùa, may vá. Tưởng không quá khi nói rằng : Cưới Huyền Trân, sính lễ của Chế Mân là hai châu Ô – Lý, còn tháp Cánh Tiên là sínhlễ tình yêu mà ông dành tặng cho nàng, như một lời công nhận thiêng liêng thần dân trăm họ. Theo nhà du khảo người Pháp Ch.Lemire đã mô tả lại : « Trên mỗi cửa bên trong đều có một bức tường có hình gân cung, nó giấu kín một tượng đàn bà bán thân nửa nổi nửa chìm, đầu đội một cái mũ rất sang, cầm trong tay một đoá hoa sen », thì chúng ta có quyền hy vọng vẫn cón đâu đó trong lòng đất, hoặc trầm ẩn giữa các tường tháp cổ xưa, một bức tượng Huyền Trân – Paramecvari với vương miệng hoàng hậu, gương mặt dịu hiền phảng phất nỗi tư hương, trên tay còn rưng rưng một búp sen minh triết.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:16:08 GMT 9
THÁP BÁNH ÍT Tháp Bánh Ít là một trong bảy cụm Tháp trên đất Bình Ðịnh. Ðây là một khu di tích đẹp, đặc sắc và còn lại nhiều tháp nhất, có giá trị văn hóa độc đáo trong kiến trúc của Việt Nam. Lịch sử của các tháp Chàm Bình Ðịnh có nguồn gốc từ khi Vương triều Indrapra suy tàn vào năm 982 - 983, kinh đô được chuyển dời vào Vijaya (Chà Bàn). Từ đây, Bình Ðịnh trở thành đế đô của Vương quốc Chăm-pa và phát triển phồn thịnh cho đến NĂM 1471. RIÊNG THÁP BÁNH ÍT đã được tạo lập vào giai đoạn cuối thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 12, dưới thời trị vì của hai quốc vương Harivarman IV và V. Tháp Bánh Ít lá một quần thể tháp xây dựng trên quả đồi thấp thuộc địa phận thôn Ðại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Quy Nhơn độ 20 km về phía bắc. Tháp còn có tên là Thị Thiện. Sách Ðại Nam nhất thống chí chép: "Tương truyền có bà Thị Thiện làm quán ở chân núi bán bánh, nên gọi tên ấy". Người Pháp đặt tên là Tháp Bạc. Dân địa phương từ lâu đã quen gọi là tháp Bánh Ít. Trong một số tài liệu, táp còn được gọi theo tên thôn:Tháp Đại Lộc. Tháp Bánh Ít là quần thể gồm bốn tháp, nhưng căn cứ vào dấu vết còn lại, số lượng công trình kiến trúc ở đây có thể còn nhiều hơn. Mỗi tháp đều có một dáng vẻ riêng, tiêu biểu cho kiến trúc Chăm-pa. Từ xa nhìn tổng thể, ta thấy một ngọn tháp chính ở đỉnh đồi; ở hướng đông và nam của tháp chính, mỗi hướng có một tháp cổng; ở hướng đông - nam có một tháp thứ tư nhỏ hơn. Du khách theo dốc thoai thoải từ phía đông để lên tháp chính, ngang qua những đống gạch vỡ ngổn ngang là dấu vết của hai lớp tường xây bằng gạch đá ong. Ðây là cửa chính dẫn vào quần thể di tích. Trên dấu vết của bức tường gạch nổi lên hai tháp cổng. Tháp cổng phía đông cao chừng 13 m, xây trên bình đồ hình vuông, mỗi chiều 7 m, chất liệu hoàn toàn bằng gạch đá ong. Tháp mở ra hai cửa thông nhau theo hướng đông - tây. Ðây là kiến trúc Gopura. Vòm cửa hình mũi giáo, có nhiều lớp liên tiếp vút lên phía trên. Hai mặt bắc và nam là hai cửa giả, bịt kín. Thân tháp có những rãnh dọc được xoi lõm, tạo thành những cột ốp có dáng cao vút, thanh thoát nhẹ nhàng. Một tháp cổng phía nam cao chừng 10 m có phần kiến trúc giống tháp cổng phía đông và cùng phong cách kiến trúc Bình Ðịnh: bình đồ vuông, cửa hình mũi giáo, thân được tạo các cột ốp... Song ở tháp cổng phía nam có những đặc điểm riêng như bốn cửa thông nhau. Ðây là kiến trúc Posah. Bộ mái khá đặc biệt, các tầng mái nhỏ dần về phía trên. Mỗi tầng đều có hàng cột thể hiện theo lối thắt giữa, phình ra ở hai đầu trông giống như những quả bầu nậm, tạo cho di tích giá trị riêng biệt. Tháp chính nằm trên đỉnh đồi, cao trên 20 m, bình đồ hình vuông, mỗi chiều đo được 11 m. Tháp có một cửa chính ở phía đông và ba cửa giả. Ðây là kiến trúc Kalan. Cửa chính nhô ra khỏi mặt tường đến 2 m. Vòm cửa hình mũi giáo. Chính giữa vòm có phù điêu mặt Kala. Diềm mái vòm là một băng phù điêu hình khỉ thần HaNuMan đang múa. Ở các cửa giả nhô ra ít hơn, diềm mái vòm lại được tạo các phù điêu Gajasimha (mình người đầu voi). Thân tháp chính có năm cột dọc, rãnh kép, vừa làm cho tường vững chãi, vừa tạo dáng thanh thoát. Bộ diềm mái ngăn cách với thân được ốp bằng những khối đá sa thạch, gắn liền với nhau thành một mảng. Ba mái có ba tầng mô tả như thân tháp nhưng nhỏ dần về phía đỉnh. Các tầng mái, ngoài hệ thống cột và cửa giả còn có những bức trang trí theo mô-tip hoa văn. Tầng một, ở phía nam tạc hình sư tử, phía tây và đông trang trí bò thần Nadin, phía bắc thể hiện mặt Kala nhìn thẳng. Phía trong tầng còn có những tượng thờ bằng đá. Cách tháp chính không xa, về phía nam du khách gặp một kiến trúc lạ mắt, độc nhất vô nhị ở Bình Ðịnh. Tháp cao độ 10 m, bình đồ hình chữ nhật, chiều dài 12 m, chiều rộng 5 m. Cửa chính mở ra phía đông, dẫn sâu vào lòng tháp, thông với cửa trổ ra ở phía bắc và nam. Ðặc biệt mái tháp được tạo dáng lõm ở giữa, vút lên ở hai đầu, giống hình yên ngựa. Tháp này giống như tháp phụ trong quần thể tháp Poklongarai ở Ninh Thuận. Ðế tháp hơi nhô ra so với thân tháp, xây giật cấp vuông vức tạo thành bệ đỡ vững chắc. Thân tháp có phù điêu chim thần trong tư thế hai cánh giơ cao như nâng đỡ cả phần trên của tháp. Du khách đến chiêm ngưỡng Tháp Bánh Ít đều công nhận đây là một khu di tích đồ sộ và kỳ vĩ. Những bức tượng đá trầm tư, những hình vũ nữ uốn lượn, những bức phù điêu linh động... thu hút vào huyền thoại của một vương quốc xa xưa! Sưu tầm
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2011 3:43:17 GMT 9
Ngày nay, nhiều khách Trung Hoa khi tham quan hoàng thành và cung đình nhà Nguyễn ở Huế thường hay nói các vua chúa nhà Nguyễn đã bắt chước kiểu Cố cung của Trung Quốc mà xây dựng hoàng cung và cung điện của mình, nhưng quy mô bé nhỏ hơn nhiều. Mặt khác, bất cứ thượng khách của quốc gia nào trên thế giới hay là khách du lịch ngoại quốc nào tới thăm Bắc Kinh, các cán bộ và lãnh đạo Trung Quốc thường hay giới thiệu cho họ đi tham quan Cố cung, một di tích hoàng cung triều Minh, triều Thanh có quy mô to lớn, gồm nhiều cung điện nguy nga đồ sộ, tráng lệ huy hoàng, sân đình rộng thênh thang, nổi tiếng thế giới. Nhưng rất ít ai được biết công lao đóng góp quan trọng của nhà kiến trúc thiên tài Việt Nam, Nguyễn An trong những công trình kiến trúc vĩ đại này. Lược sử thành phố Bắc Kinh Thành phố Bắc Kinh hiện nay có một lịch sử lâu dài. Ngay từ đời nhà Chu, khi Trung Quốc còn đang ở trong thời kỳ xã hội nô lệ (trước công nguyên 11 thế kỷ), vùng này đã là một thị trấn quan trọng của đất phong của con cháu vua Nghiêu. Ðến đời Xuân Thu (trước công nguyên 720-476 năm), Chiến Quốc (trước công nguyên 475-221 năm), nơi đây là kinh đô của nước Yên. Qua đến đời Tần (trước công nguyên 221-206 năm) thì vùng này thuộc về các quận Quảng Dương, Ngũ Dương và Thượng Cốc. Sang đến đời Hán (trước công nguyên 206-công nguyên 220 năm) và đời Ðường (công nguyên 618-907 năm), vùng này thuộc Bộ Thứ Sử U Châu quản hạt. Năm 938, vua Thái Tôn nhà Liêu lấy nơi đây làm kinh đô phụ và đổi tên thành Yên Kinh (kinh đô chính của nhà Liêu ở Thường Kinh, nay là thành Ba Lê, Taý Kỳ Ba Lâm thuộc tỉnh Liêu Ninh). Tới năm 1153, nhà Kim (công nguyên 1127-1279) chính thức đặt kinh đô ở Yên Kinh và đổi tên thành Trung Ðô. (Nhà Kim có tất cả 3 kinh đô: kinh đô chính ở Hội Ninh, nay là phía nam thành Á, thuộc tỉnh Hắc Long Giang; kinh đô thứ hai là Trung Ðô, nay là Bắc Kinh; kinh đô thứ ba là Nam Kinh, nay là thành phố Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam). Ðến đời Nguyên, Trung Ðô được dùng làm thủ đô của đế quốc triều Nguyên, nhưng được đổi tên gọi là Ðại Ðô. Năm 1368, Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Minh (1368-1644), đóng đô ở phủ Khai Phong, cố đô của triều Bắc Tống. (nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Thủ đô Ðại Ðô của nhà Nguyên được đổi tên thành Bắc Bình. Năm 1403, Chu Lệ (Minh Thành Tổ) lên ngôi, đổi tên phủ Bắc Bình, đất phong của mình thời còn làm Yên Vương thành phủ Thuận Thiên. Ba năm sau (1406), Minh Thành Tổ tổ chức quân dân tiến hành các công trình xây dựng liên tiếp 18 năm trời, tới năm 1424, các công trình ấy hoàn thành, vua Thành Tổ dời đô tới phủ Thuận Thiên, đồng thời đổi tên nơi đây thành Kinh Sư. Tới năm 1425, vua Nhân Tôn nhà Minh, tức Chu Cao Xí, lại đổi Kinh Sư thành Bắc Kinh. Năm 1441, vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trấn, chính thức lập Bắc Kinh làm kinh đô nước mình. Năm 1644, triều Mãn Thanh sau khi diệt nhà Minh, cũng đóng đô ở Bắc Kinh, trải qua 267 năm, cho tới năm 1911, mới bị quân đội cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo lật đổ. Nước Trung Hoa Dân Quốc sau khi thành lập lúc đầu vẫn đặt thủ đô ở Bắc Kinh, tới năm 1928, mới dời đô về Nam Kinh. Bắc Kinh do đó lại dược đỏi tên lại thành Bắc Bình. Sau ngày 1-10-1949, Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do Ðảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo ra đời, lấy Bắc Bình làm thủ đô, khôi phục lại địa danh là thành phố Bắc Kinh cho tới nay. Hiện nay, sách báo phương tây quen gọi thủ đô Bắc Kinh là "Bei Jing" (theo âm tiếng quan thoại) hay là "Peking" (theo âm tiếng Quảng Ðông). Người Ðài Loan thì vẫn giữ cách gọi là "Bei Ping" (theo âm tiếng quan thoại, nghĩa là "Bắc Bình"). Vì lẽ họ không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền do Trung Cộng lãnh đạo. Tính từ ngày thành Kê, quốc đô của nước Yên ra đời trước công nguyên 1057 năm cho tới nay thì thành phố Bắc Kinh đã có 3050 năm lịch sử. Nếu tính từ ngày Bắc Kinh trở thành trung tâm chính trị và thủ đô của chính quyền thống nhất toàn Trung Quốc (năm 1267) thì Bắc Kinh đã được 726 năm lịch sử. Ai thiết kế, tổ chức xây dựng các công trình quan trọng Bắc Kinh đời Minh? Trước ngày nhà Kim đặt quốc đô ở nơi đây, quy mô Bắc Kinh vẫn còn nhỏ lắm. Năm 1149, vua Hải Lăng nhà Kim là Hoài Nhan Lượng định dời đô đến đất Yên Châu, bèn sai thợ vẽ vẽ đồ án, quy cách cung điện Biện Kinh, cố đô của triều Bắc Tống để làm mẫu. Sau đó, động viên 800 ngàn dân phu và 400 ngàn binh lính tiến hành xây dựng và cử Lương Hán Thần làm Chánh Sứ Ðại Nội Yên Kinh, Khổng Nhân Chu làm Phó Sứ, phụ trách điều khiển đoàn quân xây dựng này. Trải qua 3 năm vất vả xây cất, các công trình này mới hoàn thành. Di tích ấy hiện vẫn còn ở vùng cửa thành Hội ở phía tây nam ngoại ô thành phố Bắc Kinh ngày nay. Người thiết kế và tổ chức các công trình xây dựng đô thành và cung điện Ðại Ðô, thủ đô của nhà Nguyên theo các sử gia nghiên cứu là một người Á Rập, tên là Dã Hắc Diệp Nhi. Vậy ai là người đứng ra thiết kế và tổ chức thi công xây dựng các công trình hoàng cung và thành phố Bắc Kinh đời Minh cách đây hơn 500 năm? Cách đây hơn 40 năm, có một nhà sử học Trung Quốc tên là Trương Tú Dân liên tiếp phát biểu một số bài vở ghi nhớ công lao của Nguyễn An trên các báo chí đương thời với những đầu đề như "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Nguyễn An, vị Thái giám nhà Minh, người An Nam" [1], "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" [2], "Sự đóng góp của người Giao Chỉ cho Trung Quốc đời Minh" [3]. Sau năm 1953, các nhà sử học Việt Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Ðào Duy Anh và Ðặng Thai Mai lần lượt sang thăm Trung Quốc, đến Thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt Nam. Phía Trung Quốc nhiều lần giới thiệu với khách Việt Nam về những cống hiến của Nguyễn An đối với công cuộc xây dựng Bắc Kinh và coi đó là giai thoại về mối tình hữu nghị Việt-Trung lâu đời. Nhưng những năm gần đây, nhiều tài liệu Trung Quốc khi nói tới các công trình xây dựng Bắc Kinh đời Minh, chẳng hạn như quyển "Niên Biểu Ðại Sự Lịch Sử Trung Quốc" và quyển "Giới Thiệu Sơ Lược Về Cố Cung" của Thẩm Khởi Vĩ khi nhắc tới chuyện Minh Thành Tổ và Minh Anh Tôn xây dựng Bắc Kinh, đều không có tên của Nguyễn An. Quyển "Danh lam cổ tích Bắc Kinh" liệt kê danh sách những người tham dự công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh, có Ngô Trung, Thái Tài, thợ mộc Khoái Tường, thợ nề Dương Thanh và thợ đá Lục Tường, nói "Lục Tường có đóng góp rất to trong công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh". Tuy quyển này có thừa nhận sự đóng góp về quy hoạch thiết kế và thi công của Nguyễn An cũng không nhỏ, nhưng đặt tên của Nguyễn An ở chỗ cuối cùng, đứng sau cả thợ nề, thợ đá. Ðiều đó hiển nhiên là một sự bất công. Cuốn "Kỷ Niên Lịch Sử Bắc Kinh" ghi chép đời vua Minh Anh Tôn có hạ lệnh cho Thái giám Nguyễn An xây dựng chín cửa thành lầu Kinh Sư và đốc công xây dụng tường thành Bắc Kinh, nhưng khi nói đến các công trình kiến trúc quy mô lớn nhất thời đó như hai cung, ba điện thì lại không có tên tuổi của Nguyễn An. Hơn nữa, lại lầm đem Tây cung đặt vào vị trí của Cố cung ngày nay, đem điện Phụng Thiên của Tây cung gán vào điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung ngày nay [4]. Vĩnh Lạc năm thứ 8 (1410) và năm thứ 12 (1414), vua Minh Thành Tổ hai lần thân chinh, khi ban sư về triều, đã làm lễ chúc mừng ở điện Phụng Thiên. Ðiện Phụng Thiên này là điện Phụng Thiên của Tây cung, chứ không phải là điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung ngày nay. Vì điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung mãi tới năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) mới bắt đầu khởi công xây cất. Mấy năm trước đây, tạp chí "Văn Hiến" do Thư viện Bắc Kinh xuất bản lại đem công lao xây dựng hoàng cung Bắc Kinh hoàn toàn quy vào một anh thợ mộc tên là Khoái Tường, người gốc Hương Sơn, Tô Châu, chẳng nhắc đến Nguyễn An một lời [5]. Ðiều này lại càng không phù hợp với sự thực lịch sự Các quyển "Hoàng Minh Kỷ Lược" của Hoàng Phố tuy quả có chép chuyện Khoái Tường trong những năm Vĩnh Lạc được triệu về triều tham gia công việc xây dựng hoàng cung, được vua Hiến Tôn nhà Minh khen là Khoái Lỗ Ban. Nhưng thực ra, Khoái Tường chỉ phụ trách một bộ phận của công trình. Sách "Ngô Lương Chí" đời Khang Hy chép rằng: Vĩnh Lạc năm thứ 15 (1417) xây dựng cung điện Bắc Kinh và năm 1436, đời Chính Thống vua Anh Tôn nhà Minh trùng tu lại ba cung điện với quy mô to lớn, đều do Khoái Tường phụ trách. Nhưng đây chẳng qua chỉ là những lời lẽ khoe khoang ở chốn quê nhà. Các sử sách chính thức của nhà Minh, như "Minh Sử", "Minh Thực Lục" đều không có ghi chép như thế. Ngược lại, nhiều sử sách khi nói đến các công trình xây dựng quan trọng đời Minh đều nhắc tới Nguyên An. Thí dụ như cuốn "Thủy Ðông Nhật Ký" của Diệp Thịnh đời Minh ghi chép rằng: "Nguyễn An, cũng gọi là Á Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc. Trong các công trình xây dựng thành trì Bắc Kinh và chín cửa thành lầu, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ ở Bắc Kinh và nạo vét sông Trạch Chư ở thôn Dương, đều có nhiều công lao to lớn [6]. Các nhân viên thuộc hạ của Nguyễn An ở Bộ Công chẳng qua chỉ là những người thừa hành phận sự chấp hành những công trình do Nguyễn An quy hoạch, thiết kế ra đó thôi." Các sách "Quốc Triều Chính Lục" của Tiêu Hoành, "Minh Sử Thiết" của Doãn Thu Hoành đời Minh và "Minh Thư" của Phố Duy Lân, "Ngu Sơn Tập" của Thi Nhuận Chương đời Thanh đều đồng thanh nói rằng các công trình xây dựng quan trọng ở Bắc Kinh thời đó như thành trì Bắc Kinh, chín cửa thành lầu, hai cung, ba điện và các dinh thự năm phủ, sáu bộ của triều đình nhà Minh đều do Nguyễn An một tay phụ trách thiết kế, quy hoạch, mắt đo, bụng nhẩm tính, nhanh nhẹn, chính xác, mọi việc xếp đặt đâu ra đó, đạt yêu cầu của hoàng thượng. Thuộc hạ trong ngành ai nấy đều râm rấp tuân theo. "Minh Sử" quyển thứ 304 phần phụ lục Truyện Kim Anh cũng có đoạn nói về Nguyễn An như sau: "Nguyễn An người Giao Chỉ, đầu óc minh mẫn, kỹ thuật tài giỏi hơn người, vâng mệnh vua Thành tổ xây dựng thành trì, cung điện và các dinh thự của các phủ, bộ, mắt đo, bụng nhẩm tính đâu ra đó, đều đúng kế hoạch. Công bộ chỉ biết vâng theo, chấp hành. Ðời vua Anh Tôn (1436-1449), Nguyễn An phụ trách dựng lại ba điện và trị thủy sông Dương Thôn, lập được công to". "Chính Thống Thực Lục" đời Anh Tôn quyển 54, 84, 91 và 130 cũng có ghi chép những nội dung tương tự như thế, quy công cho Nguyễn An, chẳng hạn như: "Ngày 10 tháng 2 năm thứ 6 Chính Thống (1441), hai cung ba điện xây dựng hoàn thành, nhà vua ban thưởng cho Thái giám Nguyễn An và Tăng Bảo (Sâm Bảo) mỗi người 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm lụa, 1 vạn quan tiền; thăng thưởng cho Ðô đốc Ðồng Tri Thẩm Thanh tước Tu Vũ Bá, ăn lộc 1.000 thạch, con cháu được quyền thế tập; Công bộ Thượng Thư Ngô Trung thăng chức Thiếu Soáị Các nhân viên công tác khác cũng được ban thưởng tiền bạc, lụa là khác nhau." Tháng 11 năm đó, nhân việc hai cung, ba điện xây dựng hoàn thành, nhà vua ra lệnh đại xá toàn quốc và định đô Bắc Kinh. Tháng 4 năm sau (1442), vua Anh Tôn thấy các cung điện hoàng thành đã xây dựng xong, bèn ra lệnh cho đội quân lao động ấy tiếp tục tiến quân xây phủ Tôn nhân [7], Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Công, Hồng Lô Tự, Khâm Thiên Giám [8], Viện Thái Y, Viện Hàn Lâm và Quốc Học (Quốc Tử Giám).... "Chính Thống Thực Lục" tuy không ghi chép rõ ràng việc nhà vua hạ lệnh cho Nguyễn An phụ trách những công trình này, nhưng các sử sách khác đều có nói rằng các dinh thự, ty sở thuộc 5 phủ, 6 bộ đều do Nguyễn An quy hoạch, tổ chức, xây dựng. Chỉ tiếc là những tòa kiến trúc đó về sau đều bị phá hủy hầu hết, chỉ còn lại có tòa kiến trúc Quốc Tử Giám trong cửa An Dinh là hoàn chỉnh, nay đổi thành Thư viện Thủ đô Bắc Kinh. Ðể hiểu rõ giá trị đóng góp của Nguyễn An trong việc thiết kế, xây dựng các kiến trúc thời đó, chúng ta hãy thử đi sâu nghiên cứu vài công trình quan trọng nói trên. 1. Thành trì Bắc Kinh. Thành trì Bắc Kinh đời Minh lúc đó chu vi 68 dặm. Do cấu tạo thuần túy bằng đất, nên tường thành dễ bị sụp đổ. Những năm Vĩnh Lạc (1403-1424), Tuyên Ðức (1426-1435) có tu sửa đôi chút, nhưng bên trong tường thành vẫn còn làm bằng đất, nên gặp phải khi mưa dầm lụt lội, tường thành thường hay sụp đổ. Ðến đời vua Anh Tôn năm thứ 10 (1445), Nguyễn An vâng lệnh triều đình đốc công tu sửa tường thành, kể cả phía trong và phía ngoài, khiến cho tường thành Bắc Kinh từ đó cao đến 3 trượng 5 thước (đời Minh mỗi thước dài 31,1 cm hiện naỵ 3 trượng rưỡi tức là 10 mét 88,5 cm), nền tường thành dày 6 trượng 2 thước (19 mét), mặt thành rộng 5 trượng (15,5 mét). Mấy năm trước đây, các tường thành Bắc Kinh đều bị phá hủy hết. 2. Chín cửa thành lầu. Chín cửa thành lầu do Nguyễn An thiết kế, đốc công xây dựng lúc đó là các cửa nội thành: cửa Chính Dương, cửa Sùng Văn, cửa Tuyên Vũ, cửa Triều Dương, cửa Ðông Trực, cửa Phủ Thành, cửa Tây Trực, cửa An Dinh và cửa Ðức Thắng. Mỗi cửa thành trên đều có xây lầu chính và một nguyệt thành - một thành nhỏ hình bán nguyệt bao quanh che chở cho cửa thành. Do kiến trúc nguy nga đồ sộ, hùng vĩ, nên sau khi xây xong đều trở thành những thắng cảnh ở kinh đô lúc bấy giợ Rất tiếc là hầu hết các cửa thành lầu này qua thời gian trên 500 năm, trải qua nhiều cuộc biển dâu, nay chỉ còn có cửa thành lầu Chính Dương tồn tại. * Cửa Chính Dương (Chính Dương Môn) nay gọi là Tiền Môn, nằm ở phía nam quảng trường Thiên An Môn, là cửa chính của Nội thành Bắc Kinh đời Minh và đời Thanh, được xây dựng từ đời Vĩnh Lạc năm thứ 19 (1421), cao 42 mét, mặt tiền rộng bảy gian, ngói ống màu xám, phía cạnh màu xanh lá cây, mái to mà cong, dưới mái, mặt tiền và mặt hậu có nhiều cửa to và cửa sổ, cửa sổ hình trám. Tầng dưới tường gạch màu đọ Mặt trước và mặt sau có một cửa to dùng để cho người qua lại hay xe cộ ra vào. Trên lầu thành, còn có lầu cao dùng để bắn tên, gọi là "tiễn lầu". Hình dáng nóc, mái tiễn lầu cũng giống như thành lầu, có khác là trên tường dưới mái hiên ở ba phía đông, tây và nam có tất cả 82 cửa nhỏ dùng để nhắm bắn tên ra bên ngoàị Phía bắc chia thành 5 gian, có ba cửa thông ra sân thành lầu. Cửa lầu thành Chính Dương từng bị hỏa hoạn và chiến tranh phá hoại nhiều lần, nhưng nhờ đuợc tổ chức trùng tu, nên kết quả hình thành cảnh vật như ngày nay. 3. Hai cung, ba điện. Hai cung ba điện là một quần thể kiến trúc to nhất ở Cố cung. Cố cung cũng gọi là "Tử Cấm Thành", là hoàng cung của nhà Minh và nhà Thanh, nằm ở trung tâm thành phố Bắc Kinh. Nơi đây bảo tồn quần thể kiến trúc cổ đại Trung Quốc quy mô to nhất và hoàn chỉnh nhất, là trung tâm tiêu biểu cho chế độ phong kiến quân chủ lâu dài vào bậc nhất thế giớị Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ bắt đầu xây dựng Bắc Kinh. Lúc bấy gió, công trình trọng điểm là xây cất Tử Cấm Thành (Hoàng cung) và hoàng thành. Tử Cấm Thành nam bắc dài 960 mét, đông tây rộng 760 mét, trong đó, theo đường trục giữa, phía trước có ba tiền điện: điện Phụng Thiên, điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân. Phía sau có ba hậu điện: cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh. Cửa chính Tử Cấm Thành là cửa Ngọ Môn ở phía nam. Cửa bắc là Huyền Vũ Môn. Hai phía đông tây có cửa Ðông Hoa Môn và Tây Hoa Môn. Chung quanh Tử Cấm Thành có sông đào bao bọc bảo hô Hai bên bờ dùng đá miếng xếp thành. Ðồng thời tiến hành còn có các công trình cải tạo thủ dô Bắc Kinh. Ngoài ra, ở Nam giao (ngoại ô phía nam) Bắc Kinh còn xây dựng Thiên Ðàn với quy mô to lớn. Những công trình này khởi công xây dựng từ năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) tới năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) cơ bản hoàn thành, trải qua 570 năm, 24 đời vua. Tuy đời Minh và đời Thanh có tu sửa và mở mang nhiều lần, song bố cục vẫn như buổi ban đầu. Cố cung ngày nay chiếm diện tích 72 vạn mét vuông, cung điện, lầu gác, kiến trúc trên 9900 ngôi (ngụ ý "cửu cửu"), diện tích kiến trúc là 15 vạn mét vuông. Chung quanh là tường thành cao hơn 10 mét, chu vi dài độ 3 cây số. Bốn góc có lầu gác, phong cách độc đáo, tráng lệ. Ngoài tường hoàng thành có sông đào bao quanh hộ vệ thành, mặt sông rộng 52 mét, khiến cho hoàng cung thành một thành lũy trang nghiêm, kiên cố. Cách bố cục của các kiến trúc trong Cố cung ngày nay vẫn chia thành 2 phần: phần triều ngoại và phần hướng đình. Phần triều ngoại lấy ba điện Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa làm trung tâm, hai điện Văn Hoa và Vũ Anh ở hai bên cạnh sườn. Phía nam Cố cung là một sân trước (tiền đình) hình dài theo chiều nam bắc, có cửa Thiên An Môn và cửa Ðoan Môn, hình thành trước cung điện có một loạt dài kiến trúc. Cửa chính hoàng thành là cửa Ngọ Môn ở phía nam, cửa bắc là Thần Vũ Môn, cửa đông là Ðông Hoa Môn, cửa tây là Tây Hoa Môn. Sau Ngọ Môn là một quảng trường hình vuông. Giữa quảng trường có con sông nhỏ - sông Kim Thủy uốn khúc lượn quanh. Trên sông Kim Thủy có 5 chiếc cầu làm bằng đá trắng Hán Bạch ngọc. Phía bắc, sau cầu Kim Thủy, là cổng Thái Hòa mái to, hai bên có 9 điện nhỏ. Hai phía đông tây có hai cổng Hiệp Hòa và Hy Hòa có thể thông sang điện Văn Hoa và điện Vũ Anh. Sau khi vào cổng Thái Hòa, đối diện là điện Thái Hòa. Sau điện Thái Hòa là điện Trung Hòa. Tiếp đó là điện Bảo Hòa Ba điện này đều hình vuông, tường đỏ, xây trên nền đá trắng Hán Bạch ngọc cao độ 2 mét, theo hình chữ "công" (ứu), mái bốn phía lợp ngói lưu ly, chóp mũi nhọn mạ vàng. Bốn bề của ba điện trên có mái che, dưới có trụ đá vây quanh. Trên các trụ đá, điêu khắc rồng bay phượng múa. Mặt tiền và mặt hậu của mỗi điện, mỗi phía có ba bậc thềm đa. Giữa các bậc đá đó có điêu khắc Ngự lộ với hình rồng lượn trên mây, sóng gợn phía dưới. Ðiện Thái Hòa phía trước rộng 11 gian, phía sau sâu tới 5 gian. Ðiện cao 35 mét, bề ngang 63 mét, mái cong to, kết cấu điện phức tạp, tổng diện tích là 2.377 mét vuông. Các trụ cột trong điện đều được sơn son thếp vàng, đầy vẻ giàu sang phú quỵ Ðiện Thái Hòa là kiến trúc điện cấu tạo bằng gỗ to nhất và đẹp nhất ở Cố cung cũng như ở Trung Quốc ngày nay. Các vị hoàng đế Trung Hoa đời Minh, đời Thanh trước đây thường ngự trên chiếc ngai vàng tượng trưng cho vương quyền phong kiến ở trong điện này để chủ trì các buổi lễ lớn, quan trọng như lên ngôi, mừng sinh nhật, Tết Xuân, Tết Ðông Chí, Xuất chinh.... Ðiện Trung Hòa là nơi nhà vua tiếp kiến thành viên Nội các, Lễ bộ và Thị vệ triều bái, đôi khi cũng xem biểu chương, chúc từ và làm việc ở đây. Ðiện Bảo Hòa nằm ở sau điện Trung Hòa, hàng năm đến đêm trừ tịch, nhà vua thường làm tiệc thết đãi các hoàng thân vương công quý tộc và quần thần văn võ trong kinh đô lúc đó. Cuối đời Càn Long, nơi đây trở thành chốn điện thi (thi đình) cho các khảo sinh sau khi qua các đợt thi hương, thi hội. Phần nội đình (cũng gọi là hướng đình) bắt đầu từ cổng Càn Thanh nằm sau điện Bảo Hòa. Các kiến trúc ở đường trục giữa có cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh. Cuối cùng là Vườn hoa Ngự và điện Khâm An. Hai phía đông, tây điện Càn Thanh có 6 Ðông cung và 6 Tây cung. Ðây là nơi nhà vua cùng các hậu phi, hoàng tử cư ngụ, vui chơi và thờ cúng. Phía nam 6 Ðông cung là điện Phụng Thiên, Trai quán và cung Dục Khánh. Phía trước Tây cung là điện Dưỡng Tâm. Phía đông đường trục giữa có nhóm cung Ninh Thọ. Phía tây đường trục giữa có các cung Từ Ninh, Thọ Khang và điện Anh Hoa. Cung Ninh Thọ và cung Từ Ninh còn có vườn hoa riêng.... Hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh do Nguyễn An thiết kế, xây dựng lại đời vua Anh Tôn, đời Thanh tuy có trùng tu nhiều lần, song tên vẫn giữ y như cũ. Ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân xây dựng lần đầu tiên hoàn thành vào tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420). Tết nguyên đán tháng giêng năm sau (1421), Minh Thành Tổ ra ngự ở điện Phụng Thiên nghe quần thần chúc mừng, và đại xá toàn quốc. Nhưng đến ngày mồng 8 tháng 4 năm đó, ba điện này đều bị sét đánh, lửa cháy, thiêu hủy ra tro tàn. * Các cung điện của Trung Quốc thời cổ, kết cấu đa số làm bằng gỗ, nên rất dễ bị lửa bốc cháy. Ngoài việc binh đao khói lửa chiến tranh phá họai gây ra, hiện tượng bị sét đánh bốc cháy cũng là nguyên nhân chính đưa đến tai nạn hỏa hoạn. Vì hồi đó, Trung Quốc chưa có kim thu lôi. Một khi vật kiến trúc to lớn bằng gỗ bị sét đánh thì dễ xảy ra hỏa hoạn, và thường thường là bị thiêu trụi, vô phương cứu chữa. Sau trận hỏa hoạn này, vua Minh đành chỉ ngự triều ở cửa Phụng Thiên, vì không còn khả năng tài chính để xây dựng lại nữa. Mãi cho đến đời chắt của Thái Tôn là vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trăn, nước nhà thái bình, nông dân được mùa, trong và ngoài nước không có việc chinh chiến, dân giàu nước mạnh, mới có sức người và sức của đi trùng tu lại. Tháng 3 năm Chính Thống thứ 6, Minh Anh Tôn phái Nguyễn An thiết kế, tổ chức thi công xây dựng lại ba điện này, kết quả so với đợt xây dựng trưóc càng thêm tráng lệ huy hoàng. Nhưng đến ngày 13 tháng 4 âm lịch năm Gia Tĩnh thứ 36 (1557), Bắc Kinh lai gặp phải một trận mưa to gió lớn, giờ Tuất (độ 7-9 giờ tối), đột nhiên có một trận lửa bốc cháy. Ngọn lửa bắt đầu từ điện Phụng Thiên, cháy lan ra điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân, gây ra thiệt hại nặng nề. * Ðến năm Gia Tĩnh thứ 38 (1559), tham khảo đợt xây dựng trước, ba điện lại một lần nữa được khởi công xây dựng lại. Ngày 3 tháng 9 năm 1562, công trình hoàn thành. Lần này, điện Phụng Thiên được đổi tên thành điện Hoàng Cực, điện Hoa Cái đổi thành điện Trung Cực, điện Cẩn Thân đổi thành điện Kiến Cực. Ðến đời Thuận Trị năm thứ 2 (1645), lại đổi tên ba điện thành Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa cho đến ngày nay. Qua những điều kể trên, chúng ta có thể thấy rõ tác dụng của Nguyễn An trong công cuộc xây dựng Bắc Kinh và hoàng cung nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Người Mãn Thanh từ đông bắc Trung Quốc, ngoài Trường Thành vào làm chủ Trung Nguyên, song le, mọi chế độ, cung đình đều giữ y theo nhà Minh. Vì thế, Cố cung nhà Thanh hiện nay, dù đã trải qua nhiều cuộc tu sửa, mở mang, nhưng trên thực tế vẫn là Cố cung của nhà Minh. Ngày nay, nếu ta theo đường phía tây đi tham quan Cố cung, vẫn còn có thể trông thấy một số kiến trúc cung điện xây cất từ đời nhà Minh. Vì thế, phủ nhận sự đóng góp của Nguyễn An về mặt này là một điều thiếu khách quan. Thực ra, Nguyễn An không những là một nhà tổng kỷ sư kiến trúc thiên tài, mà còn là một nhà tổ chức, chỉ huy xuất sắc xây dựng các công trình quan trọng thời bấy giờ. Tháng 10 năm 1436 đời vua Minh Anh Tôn, khi chuẩn bị xây dựng công trình chín cửa thành lầu ở Kinh Sư, Công bộ Thị lang Thái Tín cho rằng: "Một công trình quy mô to lớn như vậy, cần phải có nhiều sức lao động, ít nhất phải trưng dụng 18 vạn dân phu." Nhà vua giao cho Nguyễn An toàn quyền phụ trách công trình này. Nguyễn An chỉ lấy có hơn 1 vạn quan binh đang thao luyện ở Kinh Sư cho tạm ngừng thao tập, tổ chức họ tham gia xây dựng chín cửa thành lầu. Ðể cho quan binh làm tốt nhiệm vụ này, Nguyễn An đã phát lương bổng và cung cấp thực phẩm đầy đủ cho đội quân lao động ấy. Trong quá trình xây cất, Nguyễn An lại chú ý tổ chức họ kết hợp lao động và nghỉ ngơi một cách thích đáng. Kết quả, tháng giêng năm 1437 khởi công, đến tháng 4 năm 1439, chín cửa thành lầu, bao gồm cả hào thành, cầu cống có liên quan đều hoàn tất một cách tốt đẹp. Như trên đã nói, công trình quy mô to lớn này, đáng lẽ phải huy động tới 18 vạn dân phu, song le, Nguyễn An chỉ dùng có hơn 1 vạn quan binh là có thể hoàn thành nhiệm vụ đạt yêu cầu. Dân chúng không ai bị quấy nhiễu. Dương Kỳ, người đời Minh đã viết trong bài "Ðô thành lam thắng thi lãm" trong quyển thứ 23 "Ðổng lý tục tập" rằng: "Sở dĩ sự việc nêu trên đạt được thành công, đó là do Nguyễn An giỏi về quy hoạch, trung thành với việc công, đối với thuộc hạ, nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ, nên mới có kết quả như vậy." Tháng 3 năm 1440, Nguyễn An vâng mệnh vua Anh Tôn xây lại ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân (tiền thân của ba điện Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa ngày nay). Trong đợt xây dựng này, Nguyễn An chỉ huy 7 vạn thợ nghề và quan binh hiện dịch tạm ngừng thao luyện để tham gia thi công. Ðến tháng 10 năm sau (1441) thì hoàn thành toàn bộ công trình. Kết quả, vua Anh Tôn rất vừa ý, trọng thưởng cho Nguyễn An. Ðiều khiển một đoàn quân lao động gồm 70 ngàn người, nếu người chỉ huy không có tài tổ chức, biết cách điều động, xếp đặt, thì tất không thể nào khiến cho mọi người đều tin phục mình mà chung sức chung lòng trong vòng thời gian ngắn một năm rưỡi hoàn thành xong toàn bộ ba công trình to lớn, phức tạp như vậy. Ðánh giá Nguyễn An Ngày nay, mỗi ngày có hàng vạn khách du lịch thập phương đến thăm Cố cung. Ai nấy đều vô cùng khen ngợi cảnh kiến trúc đồ sộ, huy hoàng, tráng lệ, tầng tầng lớp lớp, nào cung nào điện, tường đỏ ngói vàng, đặc biệt là điện Thái Hòa với nét kiến trúc độc đáo và quy mô to lớn, hùng vĩ hiếm thấy của nó trên đời, khiến cho người người hết lời tán thưởng. Các cung điện trưng bày các của báu về nghệ thuật lại càng khiến cho mọi người ưa chuộng. Nhưng mấy ai được biết rằng điện Thái Hòa này trước kia vốn do một người Việt Nam quy hoạch, thiết kế, xây dựng nên.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2011 3:46:08 GMT 9
Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài VN (Tiep Theo)Nguyễn An là người Việt Nam vì sao tới Bắc Kinh? Do đâu được các vua chúa nhà Minh tin yêu như vậy? Muốn tìm hiểu vấn đề này, ta hãy quay ngược dòng thời gian, lần tìm những trang sử cũ. Ðời vua Vĩnh Lạc năm thứ 5 (1407), Trương Phụ, một vị tướng trẻ 33 tuổi đã bình định vùng An Nam trong vòng 8 tháng. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang, Trung Quốc), Trương Phụ theo lệnh vua, khôi phục địa danh "Giao Chỉ" như đời Hán, tỏ ý sau hơn 400 năm địa phương cát cứ, độc lập, Trung ương mất đất, giờ khôi phục lại chủ quyền của Trung Quốc trên phần đất này. Tháng 10 năm 1407, căn cứ theo chiếu chỉ của Minh Thành Tổ, "Sau khi bình định vùng An Nam, nên rộng rãi tìm kiếm các người hiền đức và có tài nghề trong vùng, đối xử lễ phép, tuyển đưa về Kinh", Trương Phụ cho người đưa 9.000 các loại nhân tài hiền đức, giỏi về Minh kinh, văn hóa và binh pháp cùng với 7.700 các loại nghệ nhân về Nam Kinh cho nhà vua tuyển dùng. Ngoài ra, Trương Phụ còn chọn một số thanh, thiếu niên Giao Chỉ dáng mạo thông minh, tuấn tú đưa về Nam Kinh, cho ăn học, đào tạo làm Thái Giám để hầu giúp vua, trong số đó có Nguyễn An, Phạm Hoành, Vương Cẩn.... (Tháng 11 năm đó, cha con Hồ Quý Ly bị Liễu Thăng đưa về Trung Quốc, vì là tội nhân, nên không thuộc diện này. Hồ Quý Ly sau được tha về Quảng Tây làm lính tuần, con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương, do giỏi về binh khí, dâng vua súng thần, được cử trông coi chế tạo vũ khí, năm 1445 được thăng làm Công bộ Thị lang. Con cháu Hồ Hán Thương nối nghiệp cha, làm đến chức Hữu Thị lang Công bộ). Nhà Minh từ đời Tuyên Ðức trở đi, quyền hành của Thái giám rất lớn, thế lực của phe Thái giám Giao Chỉ lại càng mạnh. Mọi việc bảo vệ, phò tá Thái Tử, quyết định chinh chiến đối ngoại, đề cử các quan chức trông coi việc ngoại thương, nắm giữ quyền hành về tài chính.... đều có Thái giám phe Giao Chỉ tham dự, chẳng hạn như Phạm Hoành dùng hơn 70 vạn lạng bạc đi xây cất chùa Vĩnh An (Vĩnh An Tự) ở Hương Sơn, tây nam Bắc Kinh; Vương Cẩn (tức Trần Vũ) được chiếu vua cho miễn chết, lại được ban cho cung nữ và hàng vạn lạng bạc. Nguyễn An được các vua Thành Tổ, Anh Tôn tin dùng giao cho trọng trách xây dựng Bắc Kinh..... Trong thời kỳ xã hội phong kiến chuyên chế ở Trung Quốc, bọn hoạn quan đã gây ra nhiều tội ác. Số người tốt rất hiếm. Nguyễn An tuy là Thái giám, nhưng ông có khác với những Thái giám thường khác. Không những có công trong việc xây dựng Bắc Kinh, mà còn có nhiều cống hiến trong công việc trị thủy. Sử sách cho biết, Nguyễn An ngoài công việc thiết kế chỉ huy xây dựng các công trình quan trọng ở Bắc kinh ra, còn phụ trách công tác trị thủy ở sông Dương Thôn, sông Tái Dương và sông Thu Lịch. Ðiều đó có lẽ là vì công việc của Công bộ là trông coi về xây dựng các công trình kiến trúc và thủy lợi mà Công bộ thời đó do Nguyễn An phụ trách. Nguyễn An cũng từng trông coi việc vận tải đường thủy từ Thông Châu (nay là thành phố Nam Thông, tỉnh Giang Tô) đến Nam Kinh. Năm Cảnh Thái thứ 7 (1456) đời Minh Ðại Tôn, vùng Trương Thu, Sơn Ðông, sông Hoàng Hà vở đê, hàn mãi không được. Triều đình lại cử Nguyễn An đi trị thủy, không may bị bệnh mất trên đường công tác. Công lao của Nguyễn An tuy to lớn như vậy, song ông ta sống một cuộc đời rất là thanh bạch. Khi mất, nhà còn không đầy 10 lạng bạc. Phẩm hạnh thanh cao của Nguyễn An đã khiến cho nhiều người đương thời hết sức khâm phục, cảm mến. Có người nhận xét rằng, Nguyễn An cùng với Trịnh Hòa [9] là hai vị Thái giám xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Nhưng nay, tên nhà hàng hải Thái giám Tam bảo Trịnh Hòa ở Trung Quốc cũng như trên thế giới, nhiều người rất quen thuộc, nhưng tên tuổi của Nguyễn An thì không mấy ai được biết. Ngay cả giới sử học Trung Quốc đa số cũng chẳng biết Nguyễn An là ai. Ðó cũng là một điều bất hạnh. Theo người viết thì đem Nguyễn An đi so sánh với Trịnh Hòa là một việc không cần thiết. Vì lẽ hoàn cảnh sinh hoạt của mỗi người một khác. Phạm vi hoạt động của họ cũng không giống nhau. Khuếch đại vai trò của Nguyễn An trong đầu thế kỷ 14, nói ngay từ năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ mới bắt đầu xây dựng thủ đô Bắc Kinh, Nguyễn An đã phụ trách tổng thiết kê xây dựng Bắc Kinh như các tác giả "Trung-Việt quan hệ sử giản biên" là chuyện khó tin (Xem "Trung-Việt quan hệ sử giản biên", đồng tác giả Hoàng Quốc An, Dương Vạn Tú, Dương Lập Băng và Hoàng Tranh, Nhà xuất bản Nhân dân Quảng Tây xuất bản, Nam Ninh, 1986). Vì làm thế, xa rời sự thật. Trương Phụ đưa người Giao Chỉ sang Trung Quốc, đợt đầu tiên và đợt thứ hai vào tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Ðột thứ ba vào tháng 11 năm đó. Lúc bấy giò, Nguyễn An mới hơn 10 tuổi, lại chưa sang đến Trung Quốc, làm sao có thể phụ trách thiết kế các công trình kiến thiết quan trọng ở Bắc Kinh? Ông Thanh An nói năm 1407, Nguyễn An còn là một cậu bé, nhưng ngược dòng thời gian - năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Nguyễn An đã "hai mươi mấy tuổi" "đảm đương một công công trình trọng đại", phụ trách thiết kế, xây dựng lưỡng cung và tam điện lúc bấy giờ, lại càng khó hiểu (xem Làng Văn số 116 trang 67, bài " Ðất nước ngàn năm văn hiến"). Nhưng nếu cho rằng lúc bấy giờ, Nguyễn An sinh sống ở nước ngoài, mọi cống hiến của ông ta đều không dính dáng gì tới người trong nước nên gạt bỏ Nguyễn An ra ngoài lịch sử Việt Nam thì tôi thấy đó là chuyện đáng tiếc. Nếu cho vậy là đúng thì từ nay, khi học lịch sử Việt Nam, chúng ta không nên nhắc lại những tên Lý Ông Trọng, Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ [10] và hàng ngàn người Việt Nam tài giỏi khác lúc sinh thời do hoàn cảnh phải sống nơi xa quê cha đất tổ. Ðem Nguyễn An đi so sánh với một số người đời nay, thì tôi thấy Nguyễn An vẫn đáng cho chúng ta khâm phục, kính mến. Vì ít nhất, ông ta không phải là phường ích kỷ hại người, lừa thầy phản bạn, bán nước buôn dân, bóc lột, đày ải đồng bào, đưa đất nước, dân tộc đến chỗ bần cùng, lạc hậụ Tuy sống ở nước ngoài, nhưng Nguyễn An đã không làm nhơ danh tổ tiên, dân tộc, để tiếng xấu lại cho muôn đời. Cách đây 6 năm, tôi có viết một bài nhan đề là "Năm Thìn kể chuyện Rồng" phát biểu trên tạp chí Quê Mẹ số Xuân Giai Phẩm ở Pháp. Trong bài đó, phần đầu bàn về nguồn gốc hình thành khái niệm "Rồng", phần thứ hai nói về những diễn biến của ý nghĩa "Rồng" qua các thời đại, phần cuối liên hệ tới hiện tình Việt Nam, đưa ra nguyện vọng mong mỏi mọi người Việt Nam ngày nay, bất cứ đang sống trong hoàn cảnh nào, đều nên sống sao cho ra sống, sống sao không hổ thẹn với non sông đất Việt, sống sao không nhơ danh dòng giống Tiên Rồng. Hôm nay, ngồi trước máy điện toán cá nhân, gõ mấy dòng chữ nói về Nguyễn An này, người viết không có ý định khuyến khích mọi người bỏ nước ra đi tìm cảnh giàu sang phú quý hay phục vụ cho nước ngoài để vinh thân phì gia, tận hưởng vật chất, mà chỉ là muốn ghi lại một sự việc có liên quan tới Việt Nam, hầu cung cấp sử liệu cho các sử gia tham khảo khi nghiên cứu, và thành tâm mong mỏi những ai đang phải sống cuộc đời lưu vong nơi hải ngoại hay đang phấn đấu ở trong nước nên cố gắng, sống sao cho ra sống, sống sao không hổ thẹn với cha ông, tiên tổ, sống sao cho xứng đáng là dòng dõi Lạc Hồng. Chỉ có thế thôi. Nguyễn Sang Chú thích: 1. Bài "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Thái giám Nguyễn An, người An Nam" phát biểu ngày 11-11-1947 trên Tuần san Sử địa báo "Cái Thế" xuất bản ở Thiên Tân. 2. Bài "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" phát biểu dưới bút danh là "Người Việt", đăng trên Nhật báo Tiến Bộ xuất bản ở Thiên Tân ngày 2-2-1950. 3. Bài "Sự đóng góp cho Trung Quốc của người Giao Chỉ đời Minh" phát biểu trong tập 2 quyển 3 tạp chí "Học Nguyên" ở Hương Cảng. Bài này sau được thu vào tập "Minh sử luận tùng" xuất bản ở Ðài Loan. Trương Tú Dân là một nhà sử học Trung Hoa, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Việt Nam. Cho đến năm 1988, tuy đã về hưu ở quê nhà, vẫn còn phát biểu bài vở bàn về lịch sử Việt Nam. Nếu còn khỏe mạnh, năm nay ông đã 87 tuổi. 4. Tây cung này vốn là phủ phiên vương Yên Vương ở vùng điện Quang Minh phía nam đường trong cửa Tây An Môn. (cũng có thuyết cho rằng phủ Yên Vương là Cung Hưng Thánh của nhà Nguyên, địa điểm ở bờ tây Bắc Hải và vùng vườn Tập Linh ngày nay). Vì nằm ở phía tây Cố cung, nên gọi là Tây cung. Tây cung này xây dựng từ đời Hồng Vũ thứ 15 (1382), tổng số kiến trúc có 1630 ngôi, trong có cổng Phụng Thiên và điện Phụng Thiên, có khác với ba điện Tây cung xây dựng sau năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) có trên 8350 tòa kiến trúc, tức Cố cung ngày nay. 5. Ðời Minh có hai người cùng tên là Nguyễn An, đều là người Giao Chỉ. Một người có tên là Á Lưu, là nhà kiến trúc, Thái giám; một người khác cũng tên là Nguyễn An, vốn là thợ trốn dịch. Sau làm tới chức Phó sứ Văn Tư Uyển, đến năm Thành Hóa năm thứ 20 (1484) hãy còn sống. 6. 5 phủ 6 bộ: 5 phủ là: phủ Thái phó, phủ Thái úy, phủ Tư đồ, phủ Tư không và phủ Ðại Tướng quân. 6 bộ là: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hình và Bộ Công. Phủ Thái Phó là dinh thự của thầy nhà vua, cấp bậc Tễ Tướng; Phủ Thái úy là dinh thự của võ quan cấp cao nhất toàn quốc; Phủ Tư đồ là dinh thự của Hộ bộ Thượng thư; Phủ Tư Không là dinh thự của Công bộ Thượng thư; Phủ Ðại Tướng quân là dinh thự của võ tướng cao cấp, người phụ trách việc chinh chiến trong nước. Bộ Lại phụ trách những công tác tuyển chọn, ủy nhiệm, bãi bỏ, khảo sát, thanh tra, thăng thưởng quan chức. Bộ Hộ chủ quản hộ tịch, ruộng đất, tiền tệ, thuế má, lương bổng quan chức toàn quốc, tương đương với Bộ Nông nghiệp và Bộ Tài chính hiện naỵ Bộ Binh chủ quản việc tuyển dụng, khảo sát các quan chức võ bị, luyện binh, vũ khí và trạm dịch, tương đương với Bộ Quốc phòng ngày naỵ Bộ Hình chủ quản công việc hành chính Tư pháp, tương đương với Bộ Tư pháp ngày nay. Bộ Lễ chủ quản những nghi lễ cúng tế quan trọng của triều đình, tổ chức thi cử, tiếp đãi khách nước ngoài, tương đương với Bộ Giáo dục và Vụ Lễ tân của Bộ Ngoại giao ngày nay. Bộ Công chủ quản xây dựng các công trình thủy lợi, đồn điền, các công trình kiến trúc thổ mộc quan trọng, tương đương với Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc ngày nay. Ðứng đầu mỗi bộ là chức quan Thượng thư, tương đương với chức Bộ trưởng ngày naỵ chức Thị lang tương đương với chức Phó Bộ trưởng hay Thứ trưởng ngày nay. 7. Phủ Tôn Nhân là cơ quan nắm giữ danh sách và các vấn đề tước lộc, thưởng phạt trong hoàng tộc. 8. Hồng Lô Tự là cơ quan quản lý công việc cúng tế, phán đoán kiết hung, tiếp khách ngoại quốc... Cơ quan này sau gộp vào Bộ Lễ, tương đương Vụ Lễ Tân ngày nay. www.mevietnam.org/NguonGoc/ns-nguyenan.html
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 16:44:29 GMT 9
Thức kiến trúc cổ Việt NamDecember 31, 2010Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Phương đình Đền Đô ở Bắc Ninh Hình ảnh ban đầu Đình Chợ Vân, một công trình tiêu biểu theo quy thức Việt Nam cổ truyền Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu… có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là “thức kiến trúc cổ Việt Nam”. Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là sao bản của kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung Hoa và Nhật Bản, nhất là về phần cấu tạo mái cong. Hai nước Hoa và Nhật này khá tương đồng nhau vì dùng phương pháp “chồng đấu tiếp rui” trong khi Việt Nam dùng “tàu đao lá mái” để cấu tạo mái cong.[1] Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên thế giới. Nét đặc trưng Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng, khi xuống gần diềm mái hiên thì dùng bảy Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: Dốc mái thẳng Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau: Dốc mái võng xuống Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là “con sơn chồng đấu” hoặc “chồng đấu tiếp rui”) Cột thanh mảnh, tròn đều
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 16:53:51 GMT 9
Mái nhàTàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc Ninh Chùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, chùa Keo, Thái Bình Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức “tàu đao” làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Vì kèo truyền thống với câu đầu nối hai cột cái (hình trên), chồng rường xếp trên xà nách (giữa), và chi tiết chạm khắc (dưới) Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột) , con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi. Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu-củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa. Cột Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông. Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Chạm khắc Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu, thích chạm trổ. Thước tầm Thước Tầm Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo “thước tầm”, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Một số hình ảnh tham khảo và so sánh Chi tiết dáng cột chuẩn Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng Kiến trúc cổ điển Trung Hoa. Lưu ý mái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 17:00:12 GMT 9
Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt NamGóc tầu đao mái chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử Tàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc Ninh Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu. Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái. Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên. Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: Chùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, chùa Keo, Thái Bình Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái. Bẩy hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà. Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà. Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên. Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa. Chạm khắc trên kẻ bảy, đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc Công trình hai mái, hai đầu hồi bít đốc, đình Kim Liên, Hà Nội
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 17:02:14 GMT 9
Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam( Tiep Theo)
Các chi tiết kiến trúc khác: Cửa bức bàn Con tiện Dạ tàu Đầu đao Căn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo:
hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc, hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. hoặc hình thức 8 mái chồng diêm. Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:
phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng; nhà 3 gian; nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái; nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái; nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái. Bộ phận trần thiết Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấp liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng “cửa bức bàn” bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa “thượng song hạ bản” tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua. Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào. Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 8:01:11 GMT 9
Đình làng Nam Bộ Bùi Thụy Đào Nguyên Đình làng hay đình thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. Kiểu thức Không như ngôi đình làng ngoài Bắc là một kiến trúc gỗ đồ sộ, gồm 5-7 gian; ngôi đình Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi nhà sát liền nhau theo kiểu sắp đọi [1]; và thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, tiện việc đi lại, ít bị chi phối bởi thuật phong thủy. Ngày nay, đình thần Nam Bộ có lối kiến trúc khá đa dạng, bởi sau khi bị hư hại bởi thời gian & chiến tranh; kiểu thức truyền thống chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy đã ít nhiều thay đổi, nhưng một ngôi đình ở Nam Bộ, lần lượt từ ngoài vào trong đại để như sau: - Cổng đình có kiểu dáng không chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái lợp ngói, hoặc trên hai trụ có đặt cặp lân bằng sành tráng men. - Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp. - Sân đình thường có đàn thờ Thần Nông (tức Tắc thần), có nơi lập đàn tế chung với thần Thần Đất (tức Xã thần) gọi là đàn Xã Tắc [2]. Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân), miễu thờ Hội đồng hoặc miễu thờ nữ thần (có thể là một trong các nữ thần sau: Năm Bà ngũ Hành, Chúa Xứ Nguyên Nhung, Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Tiên, Chúa Ngọc...). - Ngôi đình chính thường là ba hoặc nhiều nếp nhà tứ trụ (tức nhà vuông có 4 cột cái, một gian, hai chái), cùng kiểu cùng cỡ, bố trí theo kiểu "trùng thềm điệp ốc". Mái đình thường lợp ngói âm dương hoặc ngói ống kiểu Trung Quốc, ngói kiểu vảy cá (kiểu Pháp, có sau năm 1920); trên nóc thường gắn những hình sành tráng men màu như Lưỡng long tranh châu, chim phượng ngậm cuốn thư, lân mẹ dạy lân con, cá hóa long, bát tiên, ông mặt trời, bà mặt trăng, con nạ (một loài thủy quái theo truyền thuyết); nhằm tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng. Bên trong mỗi đình có cách phân chia hơi khác nhau, nhưng thường là có ba gian chính: -Vỏ ca (gian trước), dành làm nơi xây chầu & hát Bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên. -Vỏ qui còn gọi vỏ cua hay nhà chầu (gian giữa), có nơi như Đình Phú Nhuận (thành phố Hồ Chí Minh), đặt bàn thờ Hội đồng ngoại [3]; có nơi như Đình Mỹ Phước (Long Xuyên, An Giang) đặt bàn thờ 18 đời vua Hùng, bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; và cũng có nơi dùng làm chỗ cho các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát Bội) hoặc hội họp. -Chính điện hay Chính tẩm (gian cuối), là gian được coi là mỹ thuật nhất ở đình, gồm hoành phi, câu đối, khám thờ, các bao lam và các mảng phù điêu...Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, tinh tế. Ở gian này, đối tượng thờ chính là Thành Hoàng làng; ngoài ra có nơi như Đình Mỹ Phước có thờ thêm Hội đồng nội. Ngoài ra, ở hiên phụ (cất dọc theo các gian chính), có thờ thêm Tả ban, Hữu Ban, Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền...Và tùy theo diện tích đình, mà có thể có thêm: -Nhà hậu hay nhà hội, để hương chức, ban tế tự hội họp; để dân làng qui tụ chuẩn bị lễ cúng tế. -Nhà trù (nhà bếp) và nhà ở của ông Từ giữ đình v.v... Bày trí Tuy mỗi nơi có đôi chút dị biệt, nhưng việc bày trí thờ thần ở đình phải tuân thủ mấy nguyên tắc sau. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì: - Câu đối ở đình chỉ trạm triện rồng hoặc tứ linh (long, lân, qui, phụng). - Bát bửu là 8 món quí báu gồm: bút, sách, quạt, gươm, lẵng hoa, đàn và sáo, bầu rượu, túi thơ. Có nơi là: pho sách, ngọc như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt, phất trần. - Cửa võng (bao lam) thường chạm lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trăng), hoặc là: lục long ngự thiên (sáu con rồng bay về trời), ngũ phụng hàm thư (năm con phụng ngậm tờ thư). - Bàn thờ thần Thành hoàng có ngai chạm hai con rồng, với cái long vị hình chử nhật (thần vị) mô phõng dáng người ngồi, ghi tên hiệu của thần...Trước long vị, đặt cái gương nhỏ, tượng trưng cho cái hốt mà vị quan cầm che trước mặt mỗi khi vào chầu vua. Ngoài ra, ở đây còn có tráp đựng sắc phong[4], tam sự hoặc ngũ sự (Tam sự là cái lư để đốt trầm và hai cái chân đèn. Ngũ sự thì có thêm hai ống cắm nhang), bình, khay, kỷ tam sơn là ba khối vuông (khối giữa nhô lên) dùng để lư hương, trầu, rượu, gợi bóng dáng ba ngọn núi. Ở đây còn có vài tàn lọng, cờ vía, đồ lỗ bộ, mũ cùng quần áo thờ. Hai bên hương án thường là đôi hạc đứng trên lưng rùa. Nếu thần là quan võ, có nơi còn có chưng cái giá, trên để ba thanh gươm cán dài, gọi là gươm vía hoặc gươm cẩn và ngựa...Chiêng trống là dụng cụ cần thiết khi tế lễ. Cái mõ là một khúc cây dài khoét bọng, dấu ấn của thời xưa, dùng để đánh lên báo động khi trong làng xảy ra hỏa hoạn, hoặc có giặc cướp... Tế lễ Tùy theo tập quán của từng địa phương, không nơi nào giống hệt nơi nào, nhưng nhìn chung ở đình làng Nam Bộ thường diễn ra các cuộc lễ như sau: - Lễ Niêm ấn & lễ Khai sơn [5]: Xưa, vào ngày 25 tháng Chạp, hương chức làm lễ rửa con dấu, bỏ vào hộp niêm kín. Kể từ ngày này, công việc hành chính trong làng đều đình chỉ cho đến mồng 7 tháng Giêng. Lễ Khai sơn (hay Khai hạ, Khai ấn), được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Xưa ngày này có lễ Hạ nêu và lễ Khai ấn. Hương chức làm lễ làm lễ Khai sơn xong, thì lấy cuốc bổ vài nhát tượng trưng gọi là động thổ, cho dân theo đó mà khởi sự cày cấy, trồng trọt; và các công việc hành chính trong làng trở lại bình thường. - Lễ Bầu ông: Thuở Nam Bộ còn hoang vu, nhiều người sợ cọp nên mỗi làng chỉ cử đến Hương chủ, vì chức Hương cả phải nhường cho cọp (tục lệ này có ghi trong Minh điều hương ước ban hành năm 1852). Và bởi cọp là hương chức đứng đầu, nên hàng năm, tùy theo đình chọn ra một ngày [6] để làm lễ "Bầu ông": cúng một con heo trắng, kèm theo một tờ cử hương chức. Gần đây, tục cúng Cả cọp vẫn còn nhưng chỉ nhằm cầu an cho bá tánh. - Lễ Tam Nguyên (hay Tam Ngươn): là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn: tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười. - Lễ Hạ điền và Thượng điền: Đây là hai lễ lớn trong năm (Xuân Thu nhị kỳ). Hai lễ này chính là sự biến đổi từ tập tế xuân (Xuân tế) và tế thu (Thu tế). Ở Nam Bộ, lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai trương việc cày cấy, trồng trọt. Lễ Thượng điền, được cử hành vào cuối mùa mưa, lúc mùa màng đã có kết quả. Hai lễ này mang tính chất lễ nghi nông nghiệp rõ rệt. Bên cạnh việc cầu Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình; là lễ cúng Thần Nông, Hậu Tắc, Vũ Sư, Phong Bá, Điển Di...Thông thường, lễ Hạ điền long trọng hơn lễ Thượng điền. Ngoài ra ở đình Nam Bộ còn có các lễ nhỏ khác, như: Giỗ hậu và Giỗ các anh hùng lịch sử; lễ vía Bà (các nữ thần được phối tự); và các lễ khác gọi chung là Tứ thời tiết lạp, gồm: Nguyên Đán, Hàn Thực (3 tháng Ba âm lịch), Thanh Minh (trong khoảng tháng Ba âm lịch), Trung Thu (rằm tháng Tám âm lịch), Trùng Cửu (mồng 9 tháng Chín âm lịch), Trùng Thập (mồng 10 tháng Mười âm lịch), Trừ Tịch (30 tháng Chạp âm lịch)... - Lễ Kỳ yên Đây là lễ chính trong năm. Lệ phổ biến là 3 năm cúng lớn một lần, gọi là Đại lễ Kỳ yên (Tam niên đáo lệ Kỳ yên). Sách Gia Định thành thông chí chép: Mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu, cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy. Ban quí tế Tên cũ là Ban Hương chức hội tề, hay Ban tế tự, gồm nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì đại khái chia ra làm ba loại hương chức: - Hương chức loại 1: tức hương chức Hội chánh, gồm có: Kế hiền (Hội trưởng); Chánh bái (hay Chánh niệm hương), Phó bái, Bồi bái, Tiên bái (bốn chức chung lo việc ngoại vụ); Chánh tế, Phó tế, Bồi tế (ba chức chung lo việc nội vụ). - Hương chức loại 2: tức hương chức Hội tề, gồm có: Giáo sư (cố vấn mọi mặt), Hương quan (cố vấn nghi lễ, tục lệ), Hương lễ (chỉ huy ban lễ sinh), Hương nhạc (chỉ huy ban nhạc lễ), Hương văn ( soạn thảo văn tế), Hương ẩm (tổ chức tiệc tùng), Thủ bổn (lo việc sổ sách và kiểm tra lễ vật), Thủ từ (giữ đình, lo việc đèn nhang mỗi ngày). - Hương chức loại 3: tức hương chức Hội hương hay Ngoại hội tề, gồm những người phụ giúp việc đình miếu. Một điều khác lạ là ở Nam Bộ, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quí khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Một điều khác nữa là ở Nam Bộ không hề phân biệt dân cố cựu, dân ngụ cư. Dân mới cư ngụ đôi ba năm, vẫn có thể được cử làm hương chức. Và ở đây cũng không hề có trường hợp bắt họ phải làm "thằng mõ". Có thể nói Ban quí tế đình miếu ở Nam Bộ là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn. Tuy có nơi, họ bị mang tiếng là bọn xôi thịt; nhưng đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác; bổn phận nhiều hơn quyền lợi. [7] Ý nghĩa Đình là thiết chế văn hóa tín ngưỡng của làng xã thời xưa, là nơi thờ thần Thành hoàng, được sắc phong theo ý nghĩa là thần phù hộ cư dân một làng. Ngoài ra, ngôi đình còn là nơi thờ các vị phúc thần, thần linh, danh nhân lịch sử, Tiền hiền, Hậu hiền (những người có công thành lập và xây dựng làng xã); là nơi dân làng đến lễ bái cầu mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn, là nơi tụ họp dân làng, yến ẩm, vui chơi... Trong một giai đoạn ngắn của lịch sử hành chánh, ngôi đình còn là trụ sở hành chánh của làng xã. Trích thêm nhận định của các nhà nghiên cứu. - Sơn Nam: Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng "lưu dân tập thể", mặc dù làng lắm gạo nhiều tiền...[8] Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch: Ngôi đình ở Nam Bộ gần như thống nhất từ đầu với lịch sử ngôi làng ngay từ lúc mới thành lập. Công trình này là nhân chứng và là một lực lượng (ít nhất là về tinh thần) vào sự hình thành, phát triển của vùng đất mới này. Ngoài ra, đình còn biểu hiện sinh hoạt luân lý, đoàn kết, hội hè của những kẻ tha phương...[9] Nguyễn Đăng Duy: Đình Nam Bộ không có ruộng công. Kinh phí cho hoạt động thờ thần, hội làng đều do các các nhà hảo tâm, do dân làng tự nguyện đóng góp. Đặc biệt, ở đây việc ăn uống, chỗ ngồi không bị phân ra ngôi thứ quá khắt khe như ở các đình đền ngoài Bắc. Cái khác nữa, là các đình ở ngoài Bắc, thường chỉ thờ một nhân thần hoặc một nhiên thần; còn ở Nam Bộ, đình là trụ sở của một tập hợp thần linh đa tạp. Tất cả được hỗn dung tổ hợp từ nhiều nguồn, nhiều phía. Có thể tạm phân ra như sau: - Từ ý thức biết ơn, biểu dương các người có công giữ nước, dựng làng. - Từ ý thức hiếu nghĩa đối với tổ tiên. - Từ ý thức nhớ về cội nguồn vẻ vang. - Từ ý niệm thiêng liêng phong sắc cho thần. - Từ ý niệm thờ thần gắn với không gian nghề nghiệp.[10] Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích [ 1 ] - Đọi: từ cổ, tương đương chữ chén bát ngày nay. [ 2 ] - Xã thần (Thần Đất,社) và Tắc thần (tức Thần Nông, 稷 ) là hai vị thần của nền văn minh lúa nước. [ 3 ] - Hội đồng nội và ngoại, theo Sơn Nam gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi v.v...(Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 28). [ 4 ] - Nhiều đình không để sắc phong ở tráp, mà để ở nhà một hương chức có uy tín để tiện bảo quản. Khi có lễ, mới cử đoàn đi rước sắc về đình. [ 5 ] - Có thể tục có nguồn gốc từ các thôn làng ở gần núi nên có tên là lễ Khai sơn. [ 6 ] - Đình làng Trà Tân ở Cai Lậy, làm lễ "Bầu ông" ngày 17 tháng Ba (âm lịch), Đình làng Tân Tĩnh ở Mỹ Tho làm lễ ngày 16 tháng Giêng (âm lịch). [ 7 ] - Lược theo Trương Ngọc Tường, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, in kèm trong Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 80-83. ở sách Kiến thức phục vụ thuyết minhdu lịch, tên chức danh trong Ban quý tế có hơi khác. [ 8 ] -Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 21 [ 9 ] -Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr. 351. [ 10 ] - Lược theo Văn hóa tâm linh Nam Bộ, tr. 103-117. Tài liệu tham khảo - Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. - Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam , Nxb Trẻ, 2005. - Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. - Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. - Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 8:02:01 GMT 9
Thần Thành hoàng Bùi Thụy Đào Nguyên Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Tên gọi Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam trong sách "Thuần phong mỹ tục Việt Nam" đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).(1) Nguồn gốc Sách "Việt Nam phong tục" chép: Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình...Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh... Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài Chuyện thần Tô Lịch trong sách Việt điện u linh (2). Sách này chép: Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó...Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần sông Tô Lịch) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng...Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng...(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay... Các thứ hạng Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có ba hạng: *Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương(3), Sóc thiên vương, Sử đồng tử[4], Liễu Hạnh công chúa...Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. *Trung đẳng thần là những vị thần ân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. *Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết...Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì... Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ. Nơi thờ phụng Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lịnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu... Vai trò & ý nghĩa Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành...Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng. Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổn của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc "Quốc điển hóa" sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên. Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích 1.Thần Thành hoàng ở các tỉnh phía Nam, đa phần không có tượng thờ, trừ một vài đình như Đình Tân Lân ở Biên Hòa có tượng Đô đốc Trần Thượng Xuyên, Đình Châu Phú ở Châu Đốc có tượng Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh... 2. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của Việt điện u linh là Lý Tế Xuyên, người đời nhà Trần. Ông soạn sách này vào năm 1329 3. Đông Thiên vương là Trì quốc thiên ( , sa. dh?tara???ra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh. 4. Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến Chử Đồng Tử hay không. Tài liệu tham khảo *Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. *Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, 2005. *Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb TP. HCM in lại năm 1990. *Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. *Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. *Sổ tay Hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002. *Võ Thành Phương, Thờ Thần Hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân An Giang, tạp chí Thất Sơn số 57, 2000. *Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long, 1992.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2011 4:29:58 GMT 9
Thức kiến trúc cổ Việt Nam Thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Hình ảnh ban đầu Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu... có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt Nam". Phương đình Đền Đô ở Bắc Ninh Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung-Nhật-Hàn (3 nước này khá tương đồng nhau). Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc gạch đá của các vùng còn lại trên thế giới. Nét đặc trưng Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: - Dốc mái thẳng - Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên - Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau: - Dốc mái võng xuống - Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là con sơn chồng đấu) - Cột thanh mảnh, tròn đều Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình. Trong khi kiến trúc Trung Hoa mái cong và chỉ hơi hếch ở góc mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm, con sô, con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi. Trang trí mái lưỡng long chầu hổ phù Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu - củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa. Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Chi tiết giằng cột chuẩn Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu, thích chạm trổ. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo Thước Tầm, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Thước Tầm Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: Tên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ mái Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: - Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính - Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính; - Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước. Liên kết đầu cột Liên kết đầu cột Liên kết cột - kẻ nóc Liên kết chân cột Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: - Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; - Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: - Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; - Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái. Chi tiết hiên Bẩy hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: - Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau. - Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. - Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. - Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. - Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. - Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: - Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. - Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. - Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên. - Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. - Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa. Chi tiết đỡ mái Các chi tiết kiến trúc khác: - Cửa bức bàn - Con tiện - Dạ tàu - Đầu đao Cửa dân gian Nhà Việt cổ có thể làm theo: - Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc - Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. - Hình thức 8 mái chồng diêm. Modulor trong thức cổ Việt Nam Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ: - Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng - Nhà 3 gian - Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái - Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái - Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 24, 2011 7:52:10 GMT 9
Kiến trúc nông thôn – Cội nguồn truyền thống Phaìt triêÒn nêÌn kiêìn truìc Viêòt Nam theo hýõìng hiêòn ðaòi, giaÌu baÒn sãìc dân tôòc laÌ ðiònh hýõìng chãìc không ai duÌ laÌ ngýõÌi dân hay kiêìn truìc sý ðang haÌnh nghêÌ muôìn phaÒn ðôìi. BaÒn sãìc, tiình dân tôòc ðaÞ ðýõòc ðêÌ câòp ðêìn trong nhiêÌu nghiên cýìu khaìi quaìt. Ðôi khi vaÌi taìc giaÒ týÌ thôìng kê, ðiêÌu tra xaÞ hôòi, phê biÌnh công triÌnh kiêìn truìc… ðaÞ khaìi quaìt ðêÒ nâng lên thaÌnh yêìu tôì câìu truìc, thaÌnh baÒn sãìc dân tôòc. Râìt coì thêÒ coÌn coì yì kiêìn khaìc nhau song cuÞng laÌ nhýÞng khõÒi ðôòng coì yì nghiÞa. Liòch sýÒ phaìt triêÒn vãn hoaì, khoa hoòc kyÞ thuâòt noìi chung cuÞng nhý kiêìn truìc noìi riêng luôn laÌ môòt doÌng chaÒy, coì bên lõÒ bên bôÌi song doÌng nýõìc vâÞn luôn chaÒy vaÌ phaÒi chãng taòi ngoòn nguôÌn bao giõÌ doÌng nýõìc cuÞng trong. Ðêìn ðýõòc ngoòn nguôÌn ðaÞ khoì nhýng thâìy ðýõòc giaì triò truyêÌn thôìng taòi nguôÌn maÌ doÌng thõÌi gian ðaÞ vuÌi lâìp thiÌ laòi caÌng không dêÞ. TiÌm hiêÒu vêÌ kiêìn truìc nông thôn phaÒi chãng laÌ tiÌm kiêìm nõi côòi nguôÌn truyêÌn thôìng, nõi chýìa ðýòng nhiêÌu giaì triò truyêÌn thôìng cuÒa kiêìn truìc nhaÌ õÒ, kiêìn truìc dân gian vaÌ caÒ tôÒ chýìc không gian quy hoaòch cho môi trýõÌng õÒ bêÌn výÞng. Ðô thiò hoaì laÌ quaì triÌnh phaìt triêÒn tâìt yêìu song duÌ laÌ ðô thiò ðãòc biêòt nhý HaÌ Nôòi, TP HôÌ Chiì Minh thiÌ vâÞn tôÌn taòi laÌng trong nôòi ðô, laÌng ven ðô, laÌng ngoaòi thaÌnh. Ðâìy laÌ chýa kêÒ ðêìn ðô thiò ven biêÒn, ðô thiò miêÌn nuìi laòi caÌng roÞ kiêìn truìc nông thôn trong ðô thiò maÌ roÞ neìt coì leÞ laÌ õÒ Huêì, ÐaÌ NãÞng, Buôn Ma Thuôòt… Nghiên cýìu kiêìn truìc nông thôn ðêÒ xaìc ðiònh caìc yêìu tôì kêì thýÌa laÌ viêòc câÌn coì thõÌi gian vaÌ công sýìc. Trong phaòm vi baÌi viêìt naÌy, chiÒ mong muôìn nêu vaÌi vâìn ðêÌ dêÞ thâìy ðêÒ trao ðôÒi võìi kyÌ voòng ðoìng goìp iìt nhiêÌu cho viêòc ðôÒi mõìi caìch laÌm quy hoaòch vaÌ giaÒi phaìp kiêìn truìc công triÌnh. 1. Cõ câìu không gian ðõn viò õÒ: TýÌ xa xýa, laÌng xaÞ õÒ nông thôn luôn laÌ haòt nhân cuÒa xaÞ hôòi Viêòt Nam, vãn hoaì Viêòt Nam, noì mang ðâòm tiình côòng ðôÌng râìt ðaìng quyì nhý: - Quan hêò gia ðiÌnh, doÌng hoò - Quan hêò laìng giêÌng, xoìm ngoÞ - Quan hêò tôÒ chýìc xaÞ hôòi, nghêÌ nghiêòp nhý giaìp (tôÒ chýìc nam giõìi), phýõÌng thiò (tôÒ chýìc nghêÌ nghiêòp)… Výõòt trên tâìt caÒ laÌ thêÒ chêì xaÞ hôòi õÒ laÌng, quaÒn lyì bao quaìt laÌ hôòi ðôÌng laÌng (hýõng ýõìc) ðôi khi coÌn výõòt qua caÒ thêÒ chêì quôìc gia - “pheìp vua thua lêò laÌng”. MôÞi nõi coì neìt vãn hoaì riêng biêòt: lêÞ hôòi, thêÒ thao vãn nghêò, chõò. NgoaÌi nhýÞng hoaòt ðôòng kinh têì truyêÌn thôìng nhý nông nghiêòp, lâm nghiêòp, ngý nghiêòp thiÌ coì nõi coÌn saÒn xuâìt tiêÒu thuÒ công nghiêòp (laÌng nghêÌ). Caìc yêìu tôì ðoì ðaÞ taòo nên môòt không gian - Cõ câìu môòt ðõn viò õÒ cõ baÒn câÌn ðýõòc nghiên cýìu. Một ví dụ về bố cục ngôi nhà nông thôn Trong cõ câìu naÌy, công triÌnh công côòng thýõÌng ðýõòc bôì cuòc õÒ trung tâm, nhaÌ õÒ gãìn võìi thiên nhiên, cây xanh ðýõòc khai thaìc triêòt ðêÒ bao gôÌm caÒ cây xanh tâòp trung (theo daÒi, diêòn) vaÌ cây xanh, výõÌn trong khuôn viên, rôÌi caÒ mãòt nýõìc (doÌng sông, ao, hôÌ) ðýõòc sýÒ duòng ðêÒ chêì ngýò caìi bâìt lõòi cuÒa khiì hâòu noìng âÒm. PhaÒi chãng ðây laÌ caìc yêìu tôì câÌn khai thaìc ðêÒ kêì thýÌa trong qui hoaòch ðõn viò õÒ. Võìi thõÌi ðaòi công nghiêòp vaÌ xây dýòng tâòp trung thiÌ tôÒ hõòp nhiêÌu ðõn viò õÒ laÌ câÌn thiêìt song cuÞng nên tiình ðêìn tiình ðôòc lâòp cuÒa týÌng ðõn viò õÒ. 2. Cõ câìu không gian lô ðâìt õÒ (hôò gia ðiÌnh) TuyÌ theo chýìc nãng saÒn xuâìt, nguôÌn thu nhâòp maÌ caìc hôò gia ðiÌnh ðýõòc phân loaòi: thuâÌn nông, laÌm nghêÌ tiêÒu thuÒ công hoãòc diòch vuò võìi cõ câìu khaìi quaìt: MôÞi hôò gia ðiÌnh ðêÌu ðaÒm baÒo tiình ðôòc lâòp vaÌ ðýõòc bôì triì theo hiÌnh thýìc chuÌm, tuyêìn gãìn võìi giao thông. Trong môÞi lô ðâìt, ðêÌu ðýõòc bôì triì ngôi nhaÌ coì hýõìng ðoìn gioì maìt thiònh haÌnh, taòo thông thoaìng, khai thaìc triêòt ðêÒ cây xanh ðêÒ haòn chêì býìc xaò. Taòi caìc khu ðô thiò mõìi hiêòn nay không thiêìu caìc lô ðâìt daÌnh cho nhaÌ výõÌn, biêòt thýò song thiêìu vãìng nhýÞng ýu ðiêÒm cuÒa kiêìn truìc nông thôn truyêÌn thôìng Viêòt Nam. Caìch bôì cuòc caìc ngôi nhaÌ (nay thýõÌng goòi laÌ TMB) trong hôò gia ðiÌnh nông thôn thýõÌng thâìy: 1. NhaÌ chýÞ nhiò: hai nhaÌ soìng ðôi 2. NhaÌ hiÌnh thýõìc thõò: hai nhaÌ xêìp vuông goìc võìi nhau 3. NhaÌ chýÞ công: trýõìc sau 2 nhaÌ song coì maìi hiên (nhaÌ câÌu) nôìi 4. NhaÌ chýÞ môn: nhaÌ chiình vaÌ hai nhaÌ phuò hai bên vuông goìc võìi nhaÌ chiình Ðây laÌ nhýÞng bôì cuòc nên chãng câÌn kêì thýÌa trong thiêìt kêì caìc công triÌnh thâìp tâÌng hoãòc tôÒ hõòp caìc nhaÌ cao tâÌng hiêòn nay. 3. NhaÌ ở Nhà ở truyền thống Miêng Hạ - Quốc Oai – Hà Tây NhýÞng giÌ maÌ nhaÌ õÒ nông thôn truyêÌn thôìng nhâìt laÌ nhýÞng laÌng côÒ coÌn ðêÒ laòi ðêìn nay cho thâìy môòt kiêÒu mâÞu bêÌn výÞng vêÌ giaÒi quyêìt môìi quan hêò giýÞa con ngýõÌi võìi thiên nhiên, giýÞa con ngýõÌi võìi con ngýõÌi (trong gia ðiÌnh, quan hêò ðôìi ngoaòi). Ngay caÒ võìi nhýÞng maìi nhaÌ tranh, nhaÌ môòt tâÌng maìi dôìc coÌn laòi cuÞng cho chuìng ta thâìy yì thýìc ðâÌy ðuÒ caÒ vêÌ giaÒi phaìp kyÞ thuâòt vaÌ nghêò thuâòt. Khiì hâòu nhiêòt ðõìi noìng âÒm ðaÞ bôÌi ðãìp cho nhaÌ õÒ caìch giaÒi quyêìt phaÒi ðôÌng thõÌi laÌm chuÒ caÒ nhýÞng ýu ðaÞi vaÌ tai ýõng. Choòn hýõìng nhaÌ ðoìn gioì maìt võìi kiêìn truìc mõÒ thông thoaìng laÌ nhýÞng giaÒi phaìp ðôòc ðaìo cuÒa nhaÌ õÒ nông thôn. Hýõìng nhaÌ ðoìn gioì không chiÒ taòo thông thoaìng maÌ coÌn diêòt trýÌ ðýõòc caÒ caìi âÒm sinh bêònh, caìi môìc ðôòc haòi. Thiên nhiên không thêÒ âìn ðiònh ðýõòc côìt caìch nêìp nhaÌ maÌ chiình con ngýõÌi ðaÞ nhâòn thýìc thiên nhiên ðêÒ taòo ra côìt caìch cho nêìp nhaÌ. Liòch sýÒ ðaÞ hun ðuìc nên chân lyì “Không coì giÌ quyì hõn ðôòc lâòp týò do” vaÌ cuÞng ðaÞ taòo nên ðýõòc giaÒi phaìp bôì cuòc kiìn ðaìo giýÞ ðýõòc týò do cho môÞi gia ðiÌnh. ThõÌi ðaòi ngaÌy nay võìi trang thiêìt biò hiêòn ðaòi coì khaÒ nãng caÒi taòo vi khiì hâòu thiìch hõòp cho ngôi nhaÌ song caìc giaÒi phaìp truyêÌn thôìng vâÞn maÞi coì giaì triò. NhiÌn laòi môòt sôì bôì cuòc cãn hôò trong nhaÌ cao tâÌng thâìy ðýõòc ngay nhýÞng tôÌn taòi: - Nõi tiêìp khaìch quaì sâu trong cãn hôò phaÒi ði qua khu výòc giao thông trong hôò. - Cãn hôò không thông thoaìng, thiêìu diêòn tiìch “baìn lôò thiên” nhý lôgia, sân caÒnh... NhýÞng nhýõòc ðiêÒm naÌy ðaÞ laÌm giaÒm giaì triò công triÌnh, câÌn ðýõòc xem xeìt theo hýõìng aìp duòng giaÒi phaìp truyêÌn thôìng. Nghiên cýìu vêÌ kiêìn truìc nông thôn coÌn nhiêÌu viêòc ðaìng baÌn song baÌi viêìt naÌy chiÒ xin nêu vaÌi viêòc maÌ nhiÌn laòi laÌ thâìy ngay ðêÒ mong sõìm ðýõòc aìp duòng vaÌo thýòc tiêÞn. Theo kientrucvietnam.org.vn tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=8&catid=28&ID=2469&shname=Nha-co-tu-giac-net-Hue-trong-kien-truc-thuoc-dia-Phap
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 24, 2011 8:53:01 GMT 9
Chùa tháp Khmer Chùa tháp Khmer là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ về kiến trúc của Phật giáo, Bà La Môn giáo và tín ngưỡng bản địa. Chính điều đó đã làm nên vẻ đẹp rực rỡ, bí ẩn của kiến trúc chùa tháp - một di sản văn hoá đặc sắc của văn hoá Khmer Nam Bộ, góp vào sự đa sắc của văn hoá Việt. Với người Khmer, Phật giáo là quốc đạo. Chùa vừa là bộ mặt của phum/sóc, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, văn hoá, xã hội, là trường học và cũng là nơi bảo lưu những giá trị văn hoá dân tộc. Chùa được đặt ở vị trí trung tâm, nơi đất tốt, cao ráo, luôn quay về hướng đông, vì theo quan niệm của người Khmer đó là hướng cõi sống. Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện còn vài trăm ngôi chùa Khmer, nhiều nhất là ở các vùng Trà Vinh, Sóc Trăng... Có thể kể tên chùa Bom Pên Swai (Kiên Giang), chùa Ông (Trà Vinh), chùa Dơi, chùa Koldan (Sóc Trăng), Cái Giá (Bạc Liêu)... Nổi tiếng nhất là chùa Kleang ở thị xã Sóc Trăng, xây từ năm 1533, khuôn viên rộng 3ha, sân chùa gồm 3 cấp, mỗi cấp có tường xây thấp, được trang trí bằng những con tiện, đều đặn, thông thoáng. Trong khuôn viên chùa tháp, công trình kiến trúc quan trọng nhất là ngôi chính điện (Vihia). Ấn tượng đặc sắc của chính điện chùa Khmer là kỹ thuật cấu trúc hệ thống cấp mái. Mái gồm 3 cấp, cấp mái trên nhô cao và dốc, hai cấp giữa và dưới thấp, đối xứng hai bên khiến cấu trúc mái chùa Khmer trở nên đồ sộ, cân đối, vững chãi, đẹp mắt nhưng lại không quá nặng nề. Mái chùa lợp ngói màu đỏ, vàng, xanh nhạt... Trên bờ nóc, góc mái có gắn tượng rắn hoặc rồng. Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí của chùa Khmer tập trung chủ yếu ở ngôi chính điện. Khác với những ngôi chùa theo Phật giáo Đại thừa miền Bắc, chùa Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa, chỉ thờ duy nhất Đức Phật Thích Ca, luôn được đặt ở vị trí trung tâm trên bệ thờ cao nhất của chính điện. Nóc trần và dọc 4 bức tường trong chính điện được phủ kín bằng nhiều bức tranh kể về cuộc đời Đức Phật. Bên cạnh đó nhiều môtíp của Bà La Môn giáo và tín ngưỡng dân gian vẫn hiện diện sống động, là nguồn cảm hứng bất biến trong trang trí kiến trúc của chùa qua hệ thống phong phú tượng các linh thần, linh thú như đầu vị thần 4 mặt "Mara Prưm" (tiền thân của Brama - vị thần sáng tạo ra thế giới của Bà La Môn giáo), nữ thần "Kầyno" nửa người, nửa chim, chim thần "Maha Krút", phúc thần "Tévođa, sư tử, voi, khỉ, nữ thần đất "Him tholny", rắn là biểu tượng của Thần nước, gắn liền với nghi lễ cầu mưa của tín ngưỡng dân gian... Nhiều hoạ tiết hoa lá, nhất là dạng hoa dây, hoa cúc, hoa reang được trang trí trên các bệ cửa, phù điêu, riềm tường... từ giản đơn đến phức tạp, tinh tế như một nét đặc thù tài hoa của mỹ thuật cổ điển Khmer. Văn hoá Khmer cộng với văn hoá của các cộng đồng người Việt, người Hoa, người Chăm... đã tạo nên bức tranh văn hoá Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:36:30 GMT 9
Vị thế của đình làng trong đời sống của người Việt
Thiết chế văn hoá của người Việt (Kinh) được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành kỷ cương, linh hồn và ngưỡng vọng của mỗi người dân. Một cơ sở vật chất của thiết chế văn hoá đó có đình làng là rất quan trọng, nó là ngôi nhà chung của cư dân mỗi làng xã người Việt, tương tự như nhà rông của đồng bào Tây Nguyên, hay nhà gơl của người Cà Tu (miền núi Trung bộ)...
Thông thường một tộc người, một đơn vị dân cư, một đơn vị hành chính cơ sở đều có một ngôi nhà chung để giải quyết những vấn đề luật tự, luật pháp, tín ngưỡng, tôn giáo và những nhu cầu văn hoá của cộng đồng. Buổi đầu có thể là ngôi nhà của thủ lĩnh, của tộc trưởng. Khi tín ngưỡng phát triển, luật pháp được đề cao, thì cơ sở vật chất của cộng đồng cư dân theo đơn vị hành chính thấp nhất (làng, bản, buôn, sóc...) dần tách khỏi sự ràng buộc của những cá nhân, để ngôi nhà chung hình thành. Đối với người Kinh đó là đình làng. Có thể nói, trong lịch sử, nơi nào có người Việt tụ cư thành làng xã, phố phường là ở đó có đình làng. Những thợ thủ công lên Thăng Long làm ăn đã xây đình tại phố, thờ vọng Thành hoàng làng, như thợ đóng giầy của Tam Lâm (gia tộc), thợ nhuộm Đan Loan, thợ Vàng bạc Châu Khê (Bình Giang)...
Làng, trước Cách mạng, trong văn bản pháp quy gọi là xã, đơn vị hành chính cơ sở. Dưới làng còn có thôn, xóm, trại ấp... Đây là những đơn vị dân cư phụ thuộc, không có tổ chức hành chính riêng. Sau Cách mạng tháng Tám. Nhà nước tổ chức lại đơn vị hành chính cơ sở, thực hiện liên xã, nghĩa là góp nhiều làng cũ thành một xã mới, trong đó có một số xã cũ khá lớn được giữ nguyên, không phải hợp nhất, hoặc được chia tách trong CCRĐ. Trường hợp này không nhiều. Phần lớn xã hiện nay gồm 2-3 làng xã cũ hợp lại.
Thông lệ, mỗi làng xưa có một đình, những làng lớn hoặc giầu có do nhiều lý do riêng mà có tới 2-3 đình. Làng Bồ Dương, Ninh Giang có hai đình lớn, gọi là đình Đông và đình Tây ở cùng một khuôn viên, nhưng cùng thờ một Thành Hoàng. Mỗi xã hiện nay có thể có từ 2-3 đình đã khá nhiều. Song qua chiến tranh mà phần lớn chỉ còn dưới phế tích hoặc mới khôi phục trong những năm gần đây.
Theo quốc sử thì đình được ghi nhận muộn hơn so với đền, miếu, chùa, quán. năm Tân Mão, Kiến Trung thứ 7 (1231) “Thượng hoàng (Trần Thái Tông) xuống chiếu rằng, trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ.
Trước đây, tục nước ta vì nóng bức nên làm nhiều đình cho người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó...” (Đại Việt sử ký toàn thư). Như vậy đình ban đầu là đình trạm, nơi dừng chân của những người đi đường (thượng chí vua, hạ chí dân). Đình có thời mang chức năng như một nguôi chùa, đôi khi như một hành cung của nhà vua. Có lẽ vì thế mà hậu cung các đình sau này thường có bức đại tự: Thánh cung vạn tuế- Thánh thể muôn năm (Chữ cung ở đây có nghĩa là thân thể). Một dạng đình khác còn có nghĩa là nơi dừng chân để ngắm cảnh như: Vọng giang đình, lương đình. Ở Côn Sơn xưa có Đình Thấu Ngọc, một chiếc cầu có mái kiểu thượng gia hạ kiều, để người qua đó có thể dừng chân ngắm cảnh. Thời nhà Hán ở Trung Quốc, chia đất cứ 1 dặm vuông có một đình, 10 đình là một làng, người trông coi việc làng gọi là đình trưởngmột dạng như lý trưởng của làng xã Việt Nam. Đình ở đây còn là đơn vị hành chính, đơn vị dân cư.
Khoảng từ thế kỷ XV, đình trở thành trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội của làng xã người Việt. Ba yếu tố trên thường xuyên diễn ra ở đình làng, không dễ gì tách bạch ra từng yếu tố.
Về mặt chính trị: Đình là trụ sở hành chính của làng xã, hầu hết công việc của chính quyền cơ sở giải quyết tại đây. Nó mang chức năng tương tự như trụ sở của UBND xã hiện nay. Sau Cách mạng Tháng Tám, phần lớn UBHC xã lập trụ sở tại đình.
Về mặt văn hoá: Đình làng là một trung tâm tín ngưỡng, hoạt động văn hoá, văn nghệ, giáo dục truyền thống, duy trì những thuần phong mỹ tục. Khoảng từ thếkỷ XV, đình không còn chức năng thờ Phật như trong những thế kỷ trước, mà là nơi thờ Thành hoàng. Nó không phụ thuộc một tôn giáo nào. Thành hoàng có thể là những người có công với nước, với dân... Thành hoàng làng cũng có thể là người có công đầu trong việc lập làng, hoặc khởi xướng một ngành nghề, tức các vị tổ nghề. Đôi khi Thành hoàng làng chỉ là những nhân vật huyền thoại. Đình cũng có thể thờ những anh hùng cái thế của dân tộc, từ vua chúa đến các danh nhân, các vị tổ các dòng họ có công lập làng và những người có nhiều công đức với làng tuy không được tôn làm Thành hoàng. Thành hoàng làng có thể có từ 1 đến 7 -8 vị. Thành hoàng làng được thờ đều có thần tích hay thần phả ghi tiểu sử và các tiết lệ tế lễ hàng năm. Tiểu sử chủ yếu do Bộ Lễ biên soạn, lưu ở trung ương và có bản sao cho các nơi thờ phụng. Thảng hoặc có nhân vật được tôn vinh làm Thành hoàng làng, khi còn đang sống, gọi là sinh phong, như trường hợp danh tướng Đinh Văn Tả ở thế kỷ XVII, quê tại Hàn Giang, nay thuộc thành phố Hải Dương. Dù là thiên thần hay nhân thần thì Thành hoàng làng vẫn biểu trưng cho thần quyền của cư dân của một làng xã. Các dòng họ, mọi thành viên trong làng đều phải phục tùng các hương ước, trong đó có việc tránh các tên huý và thực hiện một số luật tục hoặc lệ làng. Chính vì thế mà đình làng được xây dựng ở nơi trung tâm, cao ráo, thoáng đãng với quy mô bề thế nhất trong hệ thống cơ sở thiết chế văn hoá của làng xã. Đình thường được xây dựng ở vị trí trước chùa hoặc nhà thờ để xác định vị thế của thần quyền cũng như chính quyền ở làng xã trong mối quan hệ với các tôn giáo tín ngưỡng.
Thành hoàng làng đều có ngày sinh, ngày hoá, ngày khánh hạ. Đây là những ngày lễ trọng. Đối với các tỉnh phía Bắc, dân chúng thường chọn một trong ba ngày đó, vào thời gian nông nhàn và mát mẻ để mở hội làng, thông thường là vào mùa xuân hoặc cuối thu sang đông. Trong những ngày hội, mọi trò diễn dân gian được dịp thăng hoa, tạo nên niềm tin và hy vọng cho một cộng đồng làng xã và cũng nhằm nuôi dưỡng và phát triển nền văn hoá truyền thống của dân tộc. Đêm giao thừa, mọi nhà đều có người đến đình làng để thắp hương lễ Thành hoàng làng hoặc ra chùa lễ Phật, khi về thường hái một cành lộc để lấy may. Các thành viên l àng xã, từ nhỏ, đã được cha dẫn đến đình để học lễ nghi, những thuần p hong mỹ tục, cấm kỵ những việc làm thất đức, hỗn xược... Những việc làm như thế có tác dụng giáo dục rất lớn, nó quy định hành vi, tình cảm, nếp sống của cả cộng đồng.
Về mặt xã hội: Đình làng là nơi giải quyết những vấn đề xã hội của làng xã. Giải quyết tốt các vấn đề về chính trị và văn hoá là đã giải quyết căn bản vấn đề xã hội, không những thế, đình làng còn là nơi hội họp, giải quyết mọi chuyện vui, buồn của xã thôn, hoà giải những bất đồng trong nội bộ cộng đồng. Chính vì vị thế của đình làng như vậy mà mọi thành viên trong làng đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ. Người ta giành cho đình làng cơ sở vật chất tốt nhất, những tài năng siêu việt nhất trong quá trình xây dựng, đồng thời cũng cung tiến cho đình những đồ tế tự quý báu nhất. đình Mộ Trạch (Bình Giang) bị tàn phá, năm Tân Mùi, Cảnh Hưng thứ 12 (1751), bà Nhữ Thị Nhuận, một phụ nữ tài danh đương thời đã cung tiến cho làng 3000 quan tiền để làm lại đình, lại bỏ 200 quan và 10 mẫu ruộng cho làng để đèn hương và bảo dưỡng ngôi đình lâu dài. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn vàn trường hợp người dân tự nguyện đóng góp xây dựng đình trong lích ử. Buổi đầu đình làng có thể còn là ngôi nhà giản dị, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo mới có những ngôi đình to lớn mà một vài làng xã còn bảo tồn được đến nay. Có những ngôi đình được nhân dân đóng góp, tích luỹ hàng chục năm mới tiến hành xây dựng, như Đình Bảng (Bắc Ninh). Có thể nói, đình là công trình kiến trúc lớn nhất của làng xã. Nó là đặc điểm, là một hiện thân văn hoá của người Việt, ở đó văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần (mà nay chúng ta gọi là văn hoá phi vật thể) cùng tồn tại và phát triển. Tinh hoa văn hoá nơi thôn dã là một thứ văn hoá nền tảng, tạo nên bản sắc dân tộc, không chỉ được diễn tả, nâng cao bằng các trò diễn dân gian qua mỗi mùa hội làng mà nó còn kết tinh định hình ở các bức chạm trên các chi tiết của kiến trúc.
Điêu khắc trang trí của đình làng phổ biến là: tứ linh, tứ quý, hoặc tách ra từng cá thể: long, ly, quy, phượng; thông, mai, cúc, trúc; đặc biệt là hình ảnh về hoạt cảnh dân gian, những hình ảnh thân thuộc ở làng quê. Ngoài những đề tài kinh điển, mỗi người thợ còn tuỳ theo nhận thức và khả năng diễn tả của mình mà chạm khắc những hình ảnh lấy ra từ hiện thực cuộc sống đương thời. Cùng một đề tài, một chi tiết trang trí như nhau, mỗi hiệp thợ lại có cách thể hiện riêng, tạo nên sự phong phú và đa dạng. Tài năng của nghệ nhân kiến trúc cổ nói chung ở chỗ: biến các chi tiết, các thành phần kết cấu vốn thực dụng chuyển sang mang dáng vẻ hấp dẫn, giảm đi cảm giác nặng nề, thô phác, mà trở thành những tác phẩm nghệ thuật dân dã, hồn nhiên và ý nhị. Trong số đó cũng không thiếu tác phẩm đạt tới trình độ điển hình của từng thời đại.
Trong khuôn viên của đình thường có: sân đình, hồ nước, hoặc bến sông và chợ làng. Sân đình ngoài chức năng tạo sự bề thế thì còn là nơi diễn ra những trò diễn dân gian cũng như những việc chung của cộng đồng. Cây cối tượng trưng cho sự sung mãn và trường tồn, nó thu hút chim muông, tượng trưng cho sự phồn thịnh của một vùng quê, chúng như một chiếc máy điều hoà không khí, tạo nên một tiểu khí hậy mát mể. Nước là một nguồn sống quan trọng của cư dân. Hồ/giếng đặt ở nơi thiêng liêng sẽ được giữ gìn trong sạch hơn. Bến sông là đầu mối giao thông, một đặc điểm của vùng châu thổ, tạo nên mối giao lưu thuận tiện, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Chợ làng, nhất là chợ chiều là một thị trường không thể thiếu trong sinh hoạt của cư dân làng xã. Cây đa, giếng nước, bến sông, sân đình đã đi vào tâm khảm của biết bao thế hệ. Nó trở thành hoài niệm của những người con xa xứ. Nó nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước của cộng đồng người Việt. Những người xa quê dù một đời hay nhiều đời, khi trở về cố hương, đều có thể đến đình thắp hương, tưởng nhớ các bậc tiền bối và đèu có quyền tự hào về đình làng của mình.
Đình làng giữ vai trò to lớn với người Việt, đến mức bất cứ một việc gì to lớn đều ví với đình: việc lớn tầy đình, lớn bằng cột đình... Đình làng cũng đã đi vào thơ ca:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh. Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Những ngôi đình lớn và đẹp thường được xây dựng ở thế kỷ XVI - XVII - XVIII Đình Tây Đằng, Hoàng Xá, Chu Quyến (Hà Tây), Đình Bảng (Bắc Ninh), Đình Hàng Kênh (Hải Phòng), đình Trà Cổ (Quảng Ninh)... là những ngôi đình tiêu biểu của đất nước. Đình Nhân lý (Nam Sách), Thạch Lỗi (Cẩm Giàng), Bồ Dương (Ninh Giang) tuy không còn được nguyên vẹn nhưng đều là những ngôi đình lớn và tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc ở Hải Dương mang niên đại vào thế kỷ XVII - XVIII. Đình Huề Trì (Kinh Môn, Hải Dương) có kiến trúc độc đáo, với bình diện vuông, nhìn bốn mặt đều thấy một mái dài rộng bề thế, là một trong những ngôi đình có diện tích lớn bậc nhất của đất nước, trên 620m2. Đình Chu Quyến (Hà Tây) với kiến trúc gỗ đồ sộ, đường kính cột gần 80cm. Chúng ta biết rằng, cách đây 3-4 thế kỷ, dân còn thưa, đời sống còn thấp kém mà mỗi làng xã đã tự dựng thành công một ngôi đình to lớn, xứng đáng là những công trình văn hoá. Năm 1900 làng Nhân Lý có số dân mới xấp xỉ 900 khẩu, trước đó hơn 2 thế kỷ hẳn số dân còn thấp hơn nhiều, trong làng chỉ có vài ba ngôi nhà ngói nhỏ và hẳn còn nhiều người đóng khố, cởi trần mà đã dựng thành công một ngôi đình lớn với nhiều bức chạm xứng đáng là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về ý chí và sức mạnh của cộng đồng người Việt trong việc xây dựng làng xã, vươn tới những đỉnh cao văn hoá trong hoàn cảnh biết mấy khó khăn. Thiếu vắng những công trình như vậy lấy gì chứng minh cho nền văn minh của quá khứ tại các làng xã Việt.
Có nhu cầu làm đình, tất phải có thợ làm đình, một công trình văn hoá to lớn như vậy, các làng xã khó có thể tự làm lấy được. Dựng một cái đình ít nhất phải có hai hiệp thợ chính và một số thợ thủ công khác liên kết lại để thực hiện, như: mộc, nề, ngoã, đá, chạm khảm, sơn... tham gia liên tục hàng năm mới có thể hoàn thành, tuy vậy, phần chính vẫn thuộc về nghề mộc. Do đặc điểm và quy mô của công trình thợ làm đình tách khỏi nghề mộc thông thường, lập thành từng hiệp, như một tổ chức riêng, có khi thành làng nghề thủ công. ở đồng bằng Bắc bộ nhu cầu làm đình rất lớn nên đã hình thành những hiệp thợ của làng chuyên làm đình và sản phẩm là những công trình to lớn có bộ khung bằng gỗ từ những thế kỷ trước, Cúc Bồ thuộc Ninh Giang, Hải Dương là một làng như thế.
Trải qua hai cuộc chiến tranh và những biến động xã hội, đình làng của chúng ta còn lại không nhiều. Cái hiện còn thường không đồng bộ, cái mất hậu cung, cái không còn tiền tế, cổ vật thì thưa vắng dần. Hơn 40 năm qua, thực hiện chủ trương của Nhà nước, một số ngôi đình tiêu biểu đã được xếp hạng, từng bước được trùng tu tôn tạo. Gần đây một số làng xã được nhân dân hưởng ứng đã làm lại đình trên nền cũ. Tai xã Yết Kiêu (Gia Lộc) có gia đình cung tiến hơn 100 triệu đồng để xây lại đình làng, Thông Đại Điền, xã Hồng Lạc (Thanh Hà) chỉ trong 5 tháng đã tái tạo một ngôi đình lớn bằng tiền công đức của nhân dân, nhất là những người xa quê. Như vậy, không chỉ ngày xưa mà nay việc làm đình nếu được chính quyền địa phương quan tâm vẫn được nhân daan hưởng ứng tích cực. Thật hạnh phúc cho một dân tộc khi tiềm thức về cội nguồn, về truyền thống văn hoá còn dạt dào trong mỗi người dân.
Do hoàn cảnh hiện nay mà chất liệu có khác, nhưng kiểu dáng vẫn gữ được nét xưa. Hồ/giếng nước được tu bổ, dù không còn là nguồn nước ăn của làng thì cũng là chiếc gương soi của cố hương muôn thuở. Nội dung tín ngưỡng và sinh hoạt cũng phong phú và nhân văn hơn. Nhiều đình nay ngoài việc thờ Thành hoàng còn thờ các anh hùng liệt sĩ của quê hương, đồng thời là nơi hội họp của các tổ chức quần chúng. Xưa, phụ nữ không được vào hậu cung của đình làng, nay nam nữ bình đẳng, các cô, các bà có thể tham gia lễ bái như nam giới. Thuần phong, mỹ tục được phát huy những hủ tục từng bước bị loại bỏ.
Đình làng là một biểu trưng tinh thần của làng xã Việt, ở đây lưu giữ tinh hoa văn hoá của nhân dân thuộc từng thời kỳ lịch sử, nhưng tiếc rằng số làng còn lưu giữ được đình có không nhiều. Hiện nay nhà nước đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc dựng lại nhà rông, nhà gươl để duy trì sinh hoạt văn hoá của đồng bào Tây Nguyên, qua đó mà góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá từng tộc người. Tin rằng ngôi đình làng của người Việt sẽ được quan tâm, phục hồi, phát huy và tồn tại cùng cộng đồng Việt, để mỗi khi xuân về, đình làng lại là nơi hội tụ những người con quê hương và của những người con xa xứ.
Tăng Bá Hoành
************************ Bất kì một làng quê nào của VIỆT NAM cũng có một ngôi đình. Đình là ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa dùng để thờ THÀNH HOÀNG và họp việc làng.
Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng xây bằng gạch. Mái lợp ngói mũi hài, là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con NGHÊ. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là THÀNH HOÀNG. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình làng để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.
Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong THÀNH HOÀNG và TRỜI ĐẤT giúp cho mưa thuận gió hoà, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phước lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành san khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những cây đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên.
Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt . Đình làng còn là nơi nam thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng VIỆT NAM cổ kính, trang nghiêm ẩn mình sau luỹ tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hoà nhập trong làng quê.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:40:38 GMT 9
Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam Có lẽ nói đến văn hoá làng, một nét văn hoá của nông thôn Việt Nam, chúng ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu tượng của làng quê. Đó là những hình ảnh của "cây đa, bến nước, sân đình, bụi tre, vườn cây, ao cá...".
Mái đình như vậy đã có từ ngàn xưa, gợi nhớ một di tích cổ kính thân tình.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2000, đình được định nghĩa là "Nhà công cộng của làng thời trước, dùng làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng". Như vậy, đình trước hết là một địa điểm mang nghi thức tôn giáo, sau đó mới là nơi hội họp hoặc sinh hoạt mang tính cộng đồng. Hiển nhiên là, đình phải là một công trình kiến trúc tiêu biểu, to lớn, đẹp và trang nghiêm.
Cái đình trang trọng và thiêng liêng là thế, nó gần như đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Nhưng đình làng lại là nơi tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt chung, vốn rất cần cho cuộc sống nông thôn cần có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Đình lại trở thành một nơi thân quen gần gũi với mọi người. Đình, đình làng còn được mọi người gọi bằng cái tên trìu mến mái đình. Nói đến mái là ta nghĩ tới những kết hợp từ như mái nhà, mái trường, mái rạ, mái ấm tình thương... Nó là nơi che chở, là nơi ở, là cuộc sống của mỗi người chúng ta. Nói tới mái đình, người Việt đã làm cho ngôi đình tôn nghiêm trang trọng trở nên thân quen gần gũi hơn:
Hôm qua tát nước đầu đình Để quên chiếc áo trên cành hoa sen (Ca dao)
Đình (ở giữa hay đầu làng) là nơi thân quen, qua lại, gặp gỡ hàng ngày. Đình được chọn làm hình ảnh để ví von về niềm thương nỗi nhớ: “Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu". Mái đình dài rộng, cong như hình mũi hài, lợp bằng lớp lớp ngói âm dương (còn gọi là ngói ta). Phải biết bao nhiêu viên ngói mới làm nên mái đình đẹp và vững chãi. Vì vậy, người đời lấy nó để ví von về tấm lòng thương mến của mình với người thân, như người ta ví von với lá rừng: "Đố ai quét sạch lá rừng".
Mái đình như vậy đã có từ ngàn xưa, gợi nhớ một di tích cổ kính thân tình. Mái đình lại theo ta vào cuộc sống mới và hình ảnh đậm nét về nó không hề phai nhạt trong cuộc sống của người Việt Nam hôm nay. Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc nổi tiếng, khi nói về sự chia tay giữa người ở chiến khu với người về Thủ đô khi kháng chiến chấm dứt, đã có những dòng thơ thật xúc động:
Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
Hình ảnh mái đình, cây đa cứ lặp đi lặp lại như một điệp khúc trong suốt bài thơ, làm người đọc xốn xang về sự gắn bó giữa con người, cảnh vật, quê hương, đất nước đã qua một thời chiến tranh gian khó. Ở đây, mái đình, cây đa là nơi hội tụ bao kỉ niệm, bao niềm thương nhớ. Mái đình năm xưa vẫn đẹp, và giờ đây càng đẹp hơn, đằm thắm và sâu nặng nghĩa tình. Nhà văn Đoàn Giỏi, trong bài tuỳ bút Măng tầm vông đã có những dòng thật cảm động, mô tả tâm trạng của người con miền Nam tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại xóm làng của mình lần cuối: “Tôi đứng mãi trên boong, chờ đợi phút qua ngang nhà. Làng tôi, xanh ngắt những tàu dừa, tàu chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra giữa rặng cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, ngọn tầm vông hoe vàng trong ánh nắng một chiều thu".
“Mái đình cháy hơn một nửa" - vết tích của chiến tranh tàn phá, như một nỗi đau gieo giữa lòng nhà văn, một người con sắp tạm rời xa xứ sở. Đấy là nỗi đau đau đáu của dân tộc bao nhiêu năm.
Đó là một mảnh hồn quê, làm nên nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng thơ văn.
(Theo danangpt) Mái đình - nét đẹp trong hồn quê Việt Nam
Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng vì vậy mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống.
Thế kỷ XVIII, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một cụm kiến trúc nghệ thuật tôn giáo đình đền chùa với hàng trăm pho tượng và nhiều đồ trang trí thờ cúng khác nhau.
Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hóa. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa. Còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi "cân bằng" phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng, nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng, người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống.
Nhìn quan đình làng, ta sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ''uống nước nhớ nguồn'' của người Việt Nam. Tuy đình là của dân làng, nhưng thần không hẳn là người của làng. Hơn nữa, người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy, nên thờ và tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần biển, thần nước (thần Tản Viên)... ở Phù Ninh (Phú Thọ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ thần cá, thần rắn... Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối nhau tạo thành một nền văn hoá đình, một nền văn hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin, một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng xã cộng đồng Việt Nam.
Có lẽ, những đình cổ nhất nước ta vẫn là những ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh, nguyên xưa là chữ nhất, nhưng qua các đời sau tu bổ đã thêm hậu cung nên đình thành chữ Đinh. Theo quan niệm kiến trúc, đình là một kiến trúc công cộng, rộng mở để chờ đón bất cứ người con nào của đất Việt. Với ý nghĩa như thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ nhất văn hóa hiện thực của đời sống nhân dân.
Mái cong của đình không giống với bất cứ một mái cong nào của vùng Đông Nam Á, kể cả Nhật, Trung Hoa và Thái Lan, vì góc đao của đình uốn cong và vút cao do một hệ thống cấu trúc đặc biệt có tên gọi riêng là tâu đao lá mái, không do vôi vữa đắp thành.
Nhìn lại các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Cao Thương (Hà Bắc), Phù Lão, Chu Nguyên, đình Hương Lộc, Phùng Thượng, đình Thổ Tang, Ngọc Canh để thấy rằng, đình là một khối điêu khắc trong không gian, đầy chi tiết tinh tế, nhưng cũng đầy tính khoa học kiến trúc. Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt hảo, gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu và đồ họa. Ví dụ như: ở đình Phù Lão (Bắc Giang) có hình điêu khắc phụ nữ khỏa thân đùa với rồng, gối đầu lên mình rồng; một hình trang trí đầy sáng tạo nữa là mây bay. Để đưa mây vào trang trí cho đình, người thợ Việt Nam đã cố gắng diễn đạt được cái nhẹ nhàng phù vân của mây vào các bẩy hiên cổn và mây đã thành hình khối di động, uyển chuyển, chỗ dày, chỗ mỏng như có gì lay động.
Hội làng thường được tổ chức ở sân đình, trong hội làng, dân làng thường diễn Hèm. Theo tự điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Hèm có nghĩa là trò diễn lại sinh hoạt sự tích của vị thần thờ trong làng, những điều kiêng kỵ của thần... Việc Việt hóa, dân dã hóa vị ''Thành Hoàng'' bằng cách triều đình ''tấn phong'' cho các thần linh của thôn xã chức Thành Hoàng làng đã góp phần thúc đẩy ngôi đình dần chiếm địa vị trung tâm sinh hoạt trong xã hội nông thôn Việt Nam để tới nay đình được coi là biểu tượng quê hương.
Nhìn chung, văn hoá đình Việt Nam rõ ràng có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hòa mọi nền văn hóa khác thành một nét văn hóa riêng nhằm phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong ấy, yếu tố chủ yếu vẫn là thờ cúng những người có công với xã, người anh hùng dựng lập nước và bảo vệ đất nước.
(theo danangpt.vnn) ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG
Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình.
Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu.
Ơở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế : "Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...". Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí tên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ơở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn.
Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ...
Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước.
(Bài của bạn Solid- haiduongonline.net)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:42:21 GMT 9
Nét đẹp nhà rường Huế xưa -Quang Vinh- Ngót một thế kỷ rưỡi, Huế là kinh đô của nhà Nguyễn (1802 - 1945), triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong suốt thời gian ấy, Huế từng là nơi hội tụ tinh hoa của cả nước. Tất cả mọi cái ăn, ở đến sinh hoạt đều được nâng lên tầm nghệ thuật. Nếp nhà vốn được người Việt coi trọng, ở đây càng được trau chuốt hơn, nhất là ở những gia đình danh gia vọng tộc hoặc chí ít cũng thuộc hàng khá giả trong xã hội. Nhà của các tầng lớp ở Huế, từ trung lưu trở lên ngày xưa thường được làm theo kiểu nhà rường và tùy theo khả năng kinh tế của chủ nhân mà nhà được làm lớn hay nhỏ, trang trí cầu kỳ hay đơn giản. Rường là cách gọi rút ngắn của rường cột. Nhà rường là loại nhà có hệ thống cột kèo gỗ, được dựng lên theo những quy cách nhất định, thường kiến trúc theo hình chữ đinh, chữ khẩu, chữ công hoặc nội công ngoại quốc. Dù to lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng hệ thống chốt và mộng gỗ, để có thể lắp ráp và tháo gỡ dễ dàng. Số gian trong nhà được phân định bằng hàng cột, chỉ có hai trái ở hai đầu nhà là phân cách với các gian giữa bằng vách ngăn. Mọi mặt của đời sống đế đô đều bị chi phối bởi phong tục và lễ nghi. Việc làm nhà của cư dân cũng không nằm ngoài luật lệ vua ban. Ví như năm Minh Mạng thứ ba (1822) có ban hành một đạo dụ, quy định, tất cả nhà cửa, dù là phủ của hoàng thân quốc thích cũng không được làm quá ba gian hai trái. Cụ Đông các đại học sĩ Thân Trọng Huề, khi dựng nhà ở Gia Hội đã thay hai trái bằng hai gian, làm thành nhà năm gian để không phạm vào phép vua. Để tránh ảnh hưởng của mưa bão và không vượt quá chiều cao của cung điện, nhà ở Huế được làm khá thấp, mái nhà có độ dốc lớn để thoát nước mưa. Nhà rường Huế có kích thước nhỏ. Nhà một gian hai trái ít khi dài quá tám thước tây. Ngôi nhà rường ba gian hai trái dài nhất cũng chỉ khoảng mười hai thước. Những gia đình đông người, chủ nhân thường phải xây thêm nhà ngang, nhà phụ làm chỗ ở. Nhà rường Huế được chạm khắc rất công phu. Mỗi đòn, kèo, cột... trong nhà thật sự là một bức họa nổi. Tùy theo khuynh hướng và khiếu thẩm mỹ của chủ nhân, hoa văn được dùng trong trang trí rất đa dạng, bao gồm: tứ linh, bát bửu, mai - điểu - trúc - tước, gô đồng - phụng, liễu - mã, liên - áp, nho - sóc, lựu -thử... Những chi tiết nhỏ nhất tận trong ngóc ngách không ai để ý cũng không bao giờ bị bỏ sót khi chạm trổ. Gỗ dùng để dựng nhà được chọn lựa rất kỹ. Người ta thường dùng những loại gỗ như kiền, gõ, mít rừng. Phần chính của ngôi nhà rường ba gian hai chái ở Huế trung bình có 56 cột, số lượng kèo, xà và đòn tay cần chạm trổ vì thế tính ra rất nhiều. Một tốp thợ lành nghề tám người cũng phải mất hơn hai năm để hoàn thành phần mộc của ngôi nhà. Khi phần mộc và các nguyên vật liệu khác đã đầy đủ, gia chủ sẽ chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ Thượng Lương, tức lễ dựng đòn nóc cho căn nhà. Lễ vật chính trên bàn thờ là một lá bùa bát quái trấn trạch. Trên đó ghi ngày làm lễ, tuổi của gia chủ. Phần trên của lá cờ có gắn hai lá thiên tuế để cầu cho sự trường tồn của căn nhà, mép dưới lá cờ gắn 2, 4 hoặc 6 đồng tiền cổ để cầu tài lợi cho gia chủ. Ngoài hương trà hoa quả, trên bàn thờ còn bày thêm gạo, vàng mã. Những người thợ cũng để lên bàn thờ mỗi người một đĩa gạo, tiền để xin lộc của lá bùa. Người thợ cả còn để thêm một chiếc khăn đầu rìu màu đỏ lên đĩa của mình và dùng khăn đó chít đầu khi dựng đòn nóc. Khi hành lễ, gia chủ sẽ khấn bài lễ Thượng Lương với năm câu phụng thỉnh các vị tổ của nghề xây nhà. Một trong những vị ấy là Lỗ Ban. Một vị khác không kém phần quan trọng là Cửu Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các vật liệu trong thiên nhiên để bà cho phép dùng gỗ làm nhà. Hướng nhà được ấn định bằng cách xem tuổi của chủ nhà. Kích thước nhà và cửa ngõ rất được coi trọng. Người ta cho rằng sự hưng thịnh của gia chủ về sau bị chi phối bởi những yếu tố này. Chính vì vậy mà cây thước Lỗ Ban là dụng cụ không thể thiếu trong việc xây cất nhà. Tục truyền, trong quá trình làm nhà, gia chủ phải dùng lễ đối đãi với thợ, nhất là thợ cả. Những người thợ có thể dùng bùa Lỗ Ban để hại gia đình nếu họ bị ngược đãi. Bùa Lỗ Ban có ba loại thượng, trung và hạ. Mỗi loại có 16 cặp để yểm và giải. Tùy theo tuổi và căn cơ cao thấp của chủ nhà, người thợ cả sẽ chọn bùa. Thường người thợ cả vẽ một lá bùa nhỏ giấu vào khe đòn tay, kèo hay chân cột khi thuận tiện, có khi yểm thêm một miếng sắt nhỏ khắc ngựa và đao. Những người thợ cả cao tay ấn chỉ cần vẽ bùa trong không khí rồi vỗ vào cột chính cũng đủ cho gia chủ liêu xiêu. Nhà rường Huế không bao giờ thiếu vườn. Vườn được thiết kế công phu không kém gì ngôi nhà chính. Tổng thể nhà vườn được quy hoạch kiến trúc theo các nguyên tắc của thuật phong thủy. Ngôi nhà phải có bình phong (nằm phía trước nhà, ngay trên trục chính của gian giữa), hai biểu tượng rồng chầu hổ phục đối xứng hai bên sân, và “minh đường” là yếu tố mặt nước, có thể là cai bể cạn trên sân hoặc cái ao sen nằm sau hòn non bộ. Trong vườn Huế, người ta thường chưng những chậu cảnh uốn theo các thế, trồng hoa và các loại cây ăn trái. Cây cối đem trồng được chọn lựa rất kỹ. Mỗi thứ cây đều có một ý nghĩa nào đó. Tùng, bách là những cây tiên lão, trường sinh, chỉ nên trồng trong lăng tẩm; ngô đồng là cây quân tử nên trồng trước nhà; đào ngăn quỷ nhưng quỳnh chiêu gọi ma; cây vả đem lại sự không may mắn nên không trồng gần nhà... Ngày nay, nhà rường ở Huế còn lại không nhiều và mỗi ngôi nhà thật sự là một công trình nghệ thuật độc đáo. Nhà rường Huế là tài sản không những của chủ nhân ngôi nhà, của Huế mà là của cả dân tộc. Nó không chỉ có giá trị về mặt vật chất mà còn có giá trị rất lớn về mặt tinh thần, là một phần tinh hoa cần phải gìn giữ, bảo tồn để ngoài sông Hương, núi Ngự, còn có nét gì nhớ về Huế xưa.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:44:53 GMT 9
Nhà vườn HuếHuế là một thành phố vườn, cả thành phố là một công viên vĩ đại, ở đâu cũng thấy được một màu xanh mát dịu của sông, hồ, đồi núi, cỏ cây. Khi xây dựng cố đô Huế vào đầu thế kỷ XIX, các nhà kiến trúc cổ đã dùng núi Ngự Bình làm tấm bình phong để che chắn những gì sâu xa không cho xâm nhập vào ngôi nhà của mình là Kinh Thành và Đại Nội. Sông Hương trở thành một cái hồ phẳng lặng để soi bóng các công trình kiến trúc nghệ thuật ở đôi bờ. Thuật phong thủy gọi phần thủy điện đó là "minh đường", một bộ phận phải có ở trước mặt các công trình kiến trúc. Trên sông lại nổi lên hai hòn đảo nhỏ, là Cồn Hến và Cồn Dã Viên, được dùng làm thế "tả Thanh Long hữu Bạch Hổ", chầu về ở giữa để bảo vệ đế đô. Khu vườn có độ rộng lớn ấy đã được quy hoạch và xây dựng với những đường nét đối xứng rõ rệt. Và đặc biệt là người xưa rất quan tâm đến sự thưa thoáng của không gian kiến trúc. Người Huế đã thu gọn không gian kiến trúc ấy vào trong các khu vườn của mình với một bố cục tương tự. Mãi đến ngày nay, người Huế vẫn còn bảo lưu được một số nhà vườn truyền thống như thế. Ai đã từng đi dạo trong vườn nhà bà Lan Hữu ở Kim Long, hay vườn nhà cụ Đô ở vùng Gia Hội, hoặc một số nhà vườn khác ở Vĩ Dạ, phường Đúc, An Cựu, Bao Vinh, Chợ Cống..., chắc đều cảm thấy lòng mình trở nên thanh bình, yên ổn. Màu sắc đằm thắm của cỏ cây, hương thơm dịu nhẹ tỏa ra từ hoa trái, tiếng chim hót líu lo trong không gian tĩnh mịch làm cho lòng người thư thái, nhẹ nhàng và thấy mình đang được sống thật gần gũi với thiên nhiên đầm ấm. Mỗi khu vườn như vậy là một thế giới biệt lập, rộng khoảng vài mẫu hoặc năm ba sào, bao bọc bằng luỹ tre xanh hay hàng rào chè tàu được cắt xén ngay ngắn, tươm tất. Trong phạm vi ấy ngoài ngôi nhà giường kiến trúc bằng gỗ quý, chạm khắc tinh tế dùng để thờ tổ tiên, vài ngôi nhà phụ dùng cho con cháu ăn ở, không gian còn lại là sân vườn với những ao hồ, bể cạn, non bộ, bình phong, giếng nước, và đôi khi còn có cả ngôi mộ của người đã có công tạo lập ra cơ ngơi ấy. Người ta đi vào vườn bằng một chiếc cổng nhỏ xây bằng vôi gạch, hoa cỏ trồng dọc lối đi. Nhưng lối đi ấy không bao giờ được trổ thẳng vào gian giữa của ngôi nhà chính, vì đây nhà gian nhà thiêng liêng dành để thờ phụng tổ tiên. Lối đi ấy được chặn lại bằng một tấm bình phong cao quá đầu người và phải rẽ phải qua hướng khác để vào sân nhà. Tấm bình phong có thể xây bằng vôi, gạch, tô nối bởi chữ "thọ" chữ "phúc", hay một hàng cây dâm bụt, hoặc một dãy chè tàu đơn giản. Sau tấm bình phong là hòn non bộ, nhưng đôi khi hòn non bộ ấy còn giữ chức năng của tấm bình phong. Non bộ là những cảnh sơn thủy hữu tình được chủ nhân yêu thích và thường do chính bàn tay mình thu nhỏ lại. Ở đó có núi đồi, hang động, sông suối, cỏ cây, cầu cống, và đôi nơi còn thể hiện một vài sinh hoạt của con ngwoif. Mấy tiều phu làm củi bên bờ suối. Và cũng có thể có đủ bốn hình ảnh: ngư, tiều, canh, mục. Với chiếc bể cạn xây hòn dã sơm, chủ nhân thường trồng lên đó một số hoa cỏ sống được cả bốn mùa: mai, lan, cúc, trúc hoặc: mai, liên, cúc, tùng tượng trưng cho tứ thời: xuân - hạ - thu - đông. Như vậy, cả không gian lẫn thời gian đều đã được thu gọn lại trên mặt bằng mỗi bề năm ba mét. Ở vườn phú cụ Đô, trên hòn non bộ còn thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước. Trước mặt dãy Trường Sơn trùng điệp là hình ảnh chùa Một Cột (miền Bắc), chùa Thiên Mụ (miền Trung) và Tháp Mười (miền Nam). Hình ảnh Tổ quốc Việt Nam đã được thu nhỏ lại một cách gọn gàng, xinh xắn, để hàng ngày chủ nhân nhìn ngắm, nâng niu. Và ở đó, người ta thấy rõ được hình ảnh "cỏ cây chen đá, lá chen hoa" của Bà huyện Thanh Quan thuở trước. Nếu khu vườn rộng của cố đô có Cồn Hến và Cồn Dã Viên thì trong sân vườn này cũng có hai tảng đá hình thù đặc biệt dựng ở hai bên sân trước nhà để tượng trưng cho thế "rồng chầu, hổ phục". Nếu kinh thành Huế có con sông Hương trước mặt thì vườn nhà ở đây lại có ao trồng sen thả cá với những chiếc ghế đá, ghế gỗ đặt dưới những gốc dừa, gốc mít trồng dọc bên bờ. Mặt ao là một tấm gương trong suốt phản chiếu hình ảnh các công trình kiến trúc và cảnh vật trong khu vườn ấy. Tất cả là một màu xanh tươi tắn, dịu dàng: Nhà vườn An Hiên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Hàn Mặc Tử). Trong khu vườn Huế, người ta còn trồng nhiều loại cây lưu niên để cho bóng mát và quả chín bốn mùa. Nhiều loại cây ăn quả ở đây được đưa từ miền Bắc vào và từ miền Nam ra, có cả nhãn lồng Hưng Yên lẫn sầu riêng Nam Bộ. Ngôi mộ trong vườn tạo cảm giác gần gũi thân thương giữa người chết và người đang sống. Đó là một thể hiện tình cảm gắn bó và một sự biết ơn của những người trong gia đình đối với tiền nhân. Và cũng nói lên rằng nằm dưới mộ như đang còn sống và ăn ở trong vườn, trong nhà cùng con cháu. Người sống và người chết ở bên nhau. Người xưa xem chuyện sinh tử là chuyện bình thường. Có được nhân sinh quan như thế, cuộc sống của con người sẽ càng được ung dung, thanh thản. Người Huế đã thể hiện lòng khao khát chế ngự thiên nhiên của mình bằng cách khái quát không gian rộng lớn và thời gian vô cùng vào trong bố cục của sân vườn. Nhà vườn Huế thể hiện rõ nét thú tiêu khiển thanh tao, sự chăm sóc kiên trì, tưới bón cẩn thận, bàn tay tài hoa và khối óc đất chất văn hóa của chủ nhân. Nhà vườn là một nét đặc trưng trong nhân văn Huế. Không thiên hẳn về mục đích kinh tế như một số nơi khác, chủ nhân ở đây vừa dùng nó để nuôi dưỡng chính mình, vừa để bảo tồn một phong cách sống đẹp của con người./. smileys.smileycentral.com/cat/11/11_12_11.gif
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:46:37 GMT 9
Nhà lá mái của người An Nhơn - Bình Định
Nhà lá mái ở An Nhơn xưa thường có nền cao 5 đến 7 tấc hơn. Cột kèo, xiên trính đều bằng gỗ danh mộc. Đoạn tiếp giáp các cột kèo có chạm hình lân, qui, hoặc nho sóc tùy theo từng nhà. Vách thường trét đất ở trong, tô vôi ở ngoài, hoặc xây toàn đá ong hay gạch, rồi tô vôi láng, thường cũng 3 gian 2 chái. Có nhà đến 5 gian 2 chái.
Những gian giữa, phía trước đóng bàng khoa, có nhà đóng phên dại, hoặc cổng. Hè trước rất rộng. Có khi lại làm một lớp cổng hoặc phên dại ở ngoài cho thêm chắc chắn.
Vì tính chất qui mô như vậy, nên để làm được ngôi nhà lá mái là cả quá trình gian khổ, lâu dài. Thợ làm nhà lá mái thường phải là thợ giỏi, có tay nghề cao trong vùng. Họ được gia chủ rước về nuôi ăn ở trong trại để làm từ năm này sang năm khác. Có nhà, từ khi khởi công dựng nhà, người con trai chưa lấy vợ, nhưng đến khi khánh thành thì đã có cháu nội để ẵm bồng; nghĩa là phải mất hai-ba năm mới hoàn thành.
Gia chủ phải đi mua gỗ tận vùng Bình Khê (Tây Sơn) đóng bè chở về, rồi tre phải được chặt, ngâm ở ao, mương trước đó cả năm trời để chống mối mọt; còn đá ong thì đặt cho các thợ làm đá ở Vĩnh Phú, Nhơn Mỹ hay Thiết Trụ xã Nhơn Hậu làm theo kích cỡ đã định sẵn. Vì thế nên ca dao mới có câu:
Anh về dỡ gỗ đa đa Cất nhà lá mái tháng ba em về.
Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ còn phải tổ chức giã gạo để nấu cơm cho thợ làm nhà ăn. Đây là công việc được khá nhiều nam thanh nữ tú trong thôn và các vùng lân cận hưởng ứng, vì giã gạo không đơn thuần là một hoạt động nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hóa khá độc đáo của người An Nhơn, bởi nó gắn liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo.
Tuy hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng nhà lá mái là một loại hình kiến trúc khá bền vững, nhiều nhà do bị cháy phần mái, hoặc vì điều kiện phải di dời, người ta tháo rời các mộng bằng gỗ, cắt các vòng mây buộc rồi dỡ từng cây cột, kèo, trính để dựng nhà khác. Như ngôi nhà của ông Mai Bích ở thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, có dàn cột kèo, xiên, trính… truyền qua ba đời với ba lần dựng nhà, đến đời cuối cùng đã gần một trăm năm sử dụng, nhưng vẫn vững chắc.
Nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói. Mái nhà và mái lá nằm cách nhau chừng năm bảy tấc, hoặc một thước, do những trụ chống. Vì thế ở trong nhà lá mái, mùa nắng đóng kín cửa thấy mát rượi, mùa đông thì ấm áp, dễ chịu. Vách nhà lá mái được trét bằng hai lớp đất. Nền nhà lá mái đắp bằng đất, nện kỹ, phả lớp nước cây bời lời cho láng và không bị nứt nẻ. Xung quanh nền thường đắp đá ong.
Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rãnh, chạm khắc công phu. Ngày trước chủ yếu là cửa bàng khoa gồm nhiều khung hình chữ nhật theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một số ô vuông ở trên có những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được để tạo ra khoảng trống cho mát. Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cửa cho rộng rãi và tận dụng kê làm bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi...
Nhà thường xoay mặt vào hướng Nam. Và nhà nào cũng đều có vườn cây ở chung quanh và sân ở phía trước, rồi hàng rào ở 4 bên.
Hiện nay, ở Nhơn Thành còn hơn hai chục ngôi nhà là mái, tập trung ở các thôn Châu Thành, Vĩnh Phú, Phú Thành… như nhà của ông Mai Lập Trác, Mai Xuân Lang, Mai Bích ở Vĩnh Phú, hay nhà của ông Năm Ái ở Châu Thành, hoặc nhà ông Đệ, ông Nguyện, ông Huỳnh ở Vạn Thuận. Đẹp nhất là ngôi nhà của bà Nguyễn Thị Huề đã hơn 100 năm sử dụng, có chạm trổ công phu với nhiều hình ảnh, họa tiết đẹp mắt, song đã bị tháo dỡ từ năm 1998 vì không duy trì được.
Nếu ở phương Tây có những ngôi nhà tuyền gỗ thì nhà lá mái của đất An Nhơn cũng có thể coi là một loại hình kiến trúc nhà gỗ độc đáo không nơi nào có được.
(Theo Baobinhdinh)
Nhà lá mái của người An Nhơn - Bình Định
Nhà mái lá – Nét văn hoá độc đáo của làng quê Bình Định
Đối với người Bình Định, ngoài lo cái ăn, cái mặc thì việc dựng nhà là sự kiện trọng đại nhất của một đời người. Ngày Xưa, nhà cửa ở nông thôn Bình Định đều lợp tranh. Chỉ có đền, chùa, đình, miễu hoặc vùng thị tứ giàu có mới lợp ngói. Nhà cửa của dân thường có hai loại: nhà cặp và nhà lá mái.
Nhà lá mái to lớn hơn nhà cặp. Cột kèo, xiên trính đều bằng gỗ danh mộc. Đoạn tiếp giáp các cột kèo có chạm hình lân, qui, hoặc nho sóc tuỳ theo từng nhà. Vách thường trét đất ở trong, tô vôi ở ngoài, hoặc xây toàn đá ong hay gạch, rồi tô vôi láng; thường thì nhà nào cũng ba gian hai chái, có nhà đến 5 gian hai chái. Những gian giữa, phía trước đóng bàng khoa, có nhà đóng phên dại, hoặc cổng. Hè trước rất rộng. Có khi lại làm một lớp cổng hoặc phên dại ở ngoài cho thêm chắc chắn.
Vì tính chất qui mô như vậy, nên để làm được ngôi nhà lá mái là cả quá trình gian khổ, lâu dài và là một sự kiện trọng đại của đời người. Người Bình Định có câu tục ngữ:“ Một lần cất nhà bằng ba lần cha chết ” là vậy.
Thợ làm nhà lá mái thường phải là thợ giỏi, có tay nghề cao trong vùng. Họ được gia chủ rước về nuôi ăn ở trong trại ( được cất lên gần nơi làm nhà ) để làm từ năm này sang năm khác. Có nhà, từ khi khởi công dựng nhà, người con trai chưa lấy vợ, nhưng đến khi khánh thành thì đã có cháu nội để ẵm bồng; nghĩa là phải mất hai-ba năm mới hoàn thành, mặc dù trước đó việc chuẩn bị khởi công dựng nhà cũng đã khá lâu. Gia chủ phải đi mua gỗ tận vùng Bình Khê ( Tây Sơn ) đóng bè chở về, rồi tre phải được chặt, ngâm ở ao, mương trước đó cả năm trời để chống mối mọt; còn đá ong thì đặt cho các thợ làm đá ở Nhơn Mỹ hay Thiết Trụ xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn… chọt theo kích cỡ đã định sẵn.Vì thế nên ca dao mới có câu:
“Anh về dỡ gỗ đa đa Cất nhà lá mái tháng ba em về.”
Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ còn phải tổ chức giã gạo để nấu cơm cho thợ làm nhà ăn. Đây là công việc được khá nhiều nam thanh nữ tú trong thôn và các vùng lân cận hưởng ứng; vì giã gạo không đơn thuần là một hoạt động nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hoá khá độc đáo của người Bình Định, bỡi nó gắng liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo.
Tuy hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng nhà lá mái là một loại hình kiến trúc khá bền vững, nhiều nhà do bị cháy phần mái, hoặc vì điều kiện phải di dời, người ta tháo rời các mộng bằng gỗ, cắt các vòng mây buộc rồi dỡ từng cây cột, kèo, trính để dựng nhà khác.
Ngôi nhà của cha tôi ở thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn có dàn cột kèo, xiên, trính… truyền qua ba đời với ba lần dựng nhà, đến đời cuối cùng đã gần một trăm năm sử dụng, nhưng vẫn vững chắc.
Nét độc đáo của nhà mái lá nó có tới hai lớp mái. Lớp mái thứ nhất ( giống phần trần trong nhà xây), nhưng được lợp phủ lên các đầu cột, kèo vào bám chặt vào các đòn tay bằng các sợi dây mây chuốt rất kỹ. Phần mái này có nơi lát ván hoặc vỏ cây đập dập, hoặc bằng những cây tre già (có sẵng ở khắp nơi ) đã ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, rồi dùng chàng ( dụng cụ của thợ mộc ) đục, dầm thành những tấm khịa bằng phẳng trải lên trên đầu cột, kèo và các đòn tay trước khi đắp đất sét đã trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh với độ dốc lớn, song song với lớp mái thứ nhất để đến mùa mưa thóat nước nhanh, giữ được độ bền của mái rạ lâu hơn.
Như vậy, nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói.
Lớp mái này lợp bằng tranh rạ đánh thành tấm dài độ 1,5-2m. Người ta dùng lạt tre cột tấm tranh vào cây mè phủ lên trên lớp mái thứ nhất theo thứ tự lớp lang từ dưới lên đến nóc. Ngày nay lớp mái tranh này được thay bằng ngói cho vững bền hơn.
Mái nhà và mái lá nằm cách nhau chừng năm baỷ tấc, hoặc một thước, do những trụ chống. Vì thế ở trong nhà lá mái, mùa nắng đóng kín cữa thấy mát rượi, mùa đông thì ấm áp, dễ chịu chứ không như nhà bê tông ngày nay phải luôn có quạt hoặc máy điều hoà nhiệt độ.
Vách nhà lá mái cũng được làm hai lớp. Để trét vách, người ta dùng tre đã ngâm kỹ, chẻ thành mầm, trỉ. Cây mầm to bảng hơn cây trỉ ( khoảng ½ cây tre ) dựng đứng bên trong vách cách nhau vài ba tấc để cột cây trỉ làm sườn trét vách. Ðất ruộng pha sét nhào nhuyễn với rơm, nhét vào những ô mầm trỉ. Hàng trỉ giữ cho đất không rơi. Trét 2 phía trong ngoài xong, thợ đất cịn dng đất gị mối trộn nước dây tơ hồng hồ lại lớp mặt cho phẳng, nhuyễn. Nếu trét không kỹ hoặc trét bằng đất bở thì khi vách khô, đất nứt nẻ, rơm lòi ra ngoài rất xấu.
Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt, nhưng có một điểm khác là nền của nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Nền nhà kiểu này không bị nứt nẻ vào mùa nóng, lại khô ráo vào mùa mưa. Xung quanh nền thường đắp đá ong có nhiều ở đồi Gò Quánh, hoặc Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Nền nh trn phải cao hơn nh dưới, nh trước phải cao hơn nh sau, vì theo quan niệm của người Bình Định thì:
Nền nhà nước đổ chảy vào làm ăn phát đạt đón chào ngợi ca nền nhà nước đổ chảy ra làm ăn kha khá tiêu pha bội phần nền nàh bằng phẳng như cân đề phòng con cháu ái ân tư tình.
Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rảnh, chạm khắc công phu. Ngày trước chủ yếu là cửa bàng khoa gồm nhiều khung hình chữ nhật theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một số ô vuông ở trên có những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được để tạo ra khoảng trống cho mát. Vì thế nên cữa này còn có tên gọi là cữa” thượng song hạ bảng” là vậy.
Nhà nghèo thì làm cữa” phên dại”, cữa này cũng có cấu tạo bằng khung gỗ hình chữ nhật đứng, có khổ thường là khoảng ( 8 tấc x 1,6 m ), có các thanh ngang cho chắc. Người ta chẻ tre, vót kỹ rồi gài vào các thanh ngang của khung này cho kín sịt sẽ có một tấm cữa phênh dại bằng phẳng và kín đáo .
Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cữa cho rộng rãi và tận dụng kê làm bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi.
Ngày nay, người ta ít dùng cữa phênh dại hoặc cữa bàng khoa mà thay bằng các cữa lá sách hoặc cữa bảng tiện lợi và đẹp hơn.
Cữa lá sách phần dưới khép kín bằng những tấm ván vuông như cữa bảng, phần trên có nhiều thanh gỗ xếp nghiêng nghiêng để thông gió và từ bên ngoài không nhìn vào được. Lối kết cấu cữa ngõ của nhà lá mái cũng thể hiện tính cách của chủ gia là sống khép kín, “đóng cữa bảo nhau”, không muốn “chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường. ”
Cữa của nhà lá mái ở Bình Định thường thấp, bậc lại cao, đặc biệt là cữa đi lên gian nhà trên, nơi có bàn thờ.
Theo các cụ già giải thích thì cần bố trí cữa như thế để nhắc nhở mọi người khi bước vào gian thờ tự phải cúi đầu, mọi động tác phải khoan thai , cung kính. Đặc biệt, ngày xưa, gian thờ này người phụ nữ không được vãng lai. Ngày nay, tục này không còn nữa, vì vai trò nam nữ bình quyền và cũng vì người đàn ông luôn đi làm ăn xa, mọi công việc ở nhà, kể cả nhang đèn, cúng giỗ đều do người phụ nữ quán xuyến, nếu không được vãng lai thì lấy người đâu mà hương khói !
Ngoài việc chạm khắc sao cho sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao. Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là đạt yêu cầu.
Trong việc dựng nhà lá mái, quan trọng nhất là gác đòn dông. Lễ gác đòn dông thường tiến hành vào đêm khuya để tránh người ta “ dòm ngó “, nhất là đàn bà chửa. Luận về cách chọn ngày giờ để gác đòn dông, dân gian Bình Định có bài thơ:
Kinh Dịch luận gác đòn dông Giờ Tí, giờ Sửu: Phước hồng trời ban
Khi đòn dông gác lên phải dán một lá bùa và treo một bát quái bằng gỗ để cầu an, trừ tà. Gỗ làm đòn dông phải là cây thẳng, tròn, không bị sâu mọt. Khi gác đòn dông, bao giờ đầu ngọn cũng phải nằm bên tay phải của ngôi nhà. Về kinh nghiệm này, người Bình Định có bài thơ về cách đặt trang ông táo và gác đòn dông:
Ngồi trong nhà nhìn ra đường cái Gốc đòn dông tay trái tả ban Ngọn dông tay phải rõ ràng Cùng là trang táo thiếp chàng nên ghi.
Nhà lá mái ở Bình Định thường có từ 12 đến 16 cây cột lớn trồng thẳng xuống đất theo bốn hàng, mỗi hàng bốn cây, bao gồm: Hàng cột cái ( cao và to nhất ) rồi đến hàng cột con, hoặc cột nhì, cột ba nhỏ và thấp hơn. Riêng bốn cây cột ở giữa cao từ 3,5m đến 4m, còn các cây cột bên ngoài giảm đều xuống từ 2 đến 3m. Đoạn tiếp giữa các đầu cột với các cây xiên, trính đều có chạm trổ hình con lân, qui, hoặc nho sóc rất công phu.
Xiên là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều dọc ngôi nhà.
Trính là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều ngang của ngôi nhà.
Ở Bình Định, cây xiên thường bào có cạnh lục giác, chạy rãnh nổi, hoặc chạm hoa văn rất đẹp; còn cây trính ( để đỡ trụ lỏng ) thì được đẽo bằng một khúc gỗ rất to, dáng cong hình vòm, và cũng được chạm trổ hoa văn, sống nổi , uốn lượn dọc theo thân cây.
Khi đầu cột có chạm trổ thì đầu kèo cũng chạm trổ cho cân xứng. Các cây trính, xiên dùng gỗ vuông thì ở cạnh có chạy chỉ và những gờ , rãnh dọc chiều dài cho đẹp. Ngoài các cột đứng còn có các trụ lỏng; tuỳ theo nhà mà có trụ lỏng cối, trụ lỏng ba lá hoặc trụ lỏng chữ lập.
Trong nhà lá mái, trụ lỏng và xiên, trính là các điểm trang trí quan trọng. Khách đến thường nhìn lên trần và thấy ngay trụ lỏng, cũng như trính, xiên… cho nên trụ lỏng không chỉ là cây gỗ thẳng đơn thuần mà còn được trang trí dưới nhiều hình thức.
Điều đặc biệt ở nhà lá mái là nơi giáp khớp, ngàm, người ta không dùng đinh như ngày nay mà khoan lỗ, đóng những con sẻ bằng tre đực già thay đinh giữ chặt, vì thế khi chạm trổ không đụng đến lưỡi bạc, chàng, hoặc cưa đục của thợ mộc.
Nhà cất theo kiểu ấy trông nặng nề vì cột choáng hết nhiều chỗ. Hơn nữa, ba gian nhà trên hoàn toàn dùng để thờ. Trước bàn thờ kê trường kỷ hoặc phản gõ, thỉnh thoảng khách đến ngồi và nằm, chứ người trong nhà ít khi dùng đến. Trong nhà lại treo nhiều liễn, đối, trướng, sáo… cho nên dù nhà rộng đến đâu, vào cũng thấy lấn cấn không được thoải mái.
Nhà lá mái thường xoay mặt vào hướng Nam. Và nhà nào cũng đều có vườn cây ở chung quanh và sân ở phía trước, rồi hàng rào ở 4 bên. Nhiều nhà chỉ trồng” cau liên phòng “ và chuối, ( chuối vườn sau, cau vườn trước ); sân phần nhiều dện đất thịt. Để khỏi nổi bùn, hàng năm dùng phân bò tươi khuấy nước sềnh sệch, đem tráng lên mặt sân cho láng để phơi thóc đậu, nông sản. Còn hàng rào thì mặt trước thường trồng duối, chè tàu, hớt tỉa mỹ thuật, hoặc rào cây tre khô, bằng thẳng chắc chắn. Phía sau và hai bên thường trồng tre, trúc cao xanh. Trong vườn thì trồng các loại rau cải, hoa quả, mùa nào thức ấy. Đặc biệt, đến ngày tết nhà nào cũng trồng hoa vạn thọ vàng ươm cả vườn.
Ngõ ra vào trổ trước nhà. Có nhà trổ thêm ngõ sau. Và ngõ sau cũng như ngõ trước đều trổ xiên một bên, chứ không bao giờ trổ ngay ở giữa. Ngõ trước nếu vì phương hướng phải trổ ở giữa, thì đường vào nhà cũng phải chạy né một bên, hoặc quanh co như ất tự:
Đường đi, nước chảy chớ cho ngay Hai bên thềm uyển như ất tự Gia nội an khương, tự nhiên hưng.
Từ cách bố trí cửa, ngõ, sân, vườn như trên, đã tạo nên sự hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc. Sống trong nhà lá mái, tuy kín mà không bí, thấp mà không ẩm, con người dễ giao hoà với thiên nhiên cây cỏ nên thường sống thanh bạch, đậm nhân văn và có cốt cách văn hoá cao.
“Mái nhà xưa, khu vườn cổ “ chính là môi trường thích hợp để bảo tồn thuần phong mỹ tục, đạo lý truyền thống của gia đình mà người Bình Định gọi chung là “nếp nhà”. Phải chăng tên gọi “nếp nhà “ này cũng xuất phát từ gia phong của những chủ nhân ngôi nhà lá mái ở Bình Định.
Như vậy, không chỉ l một di sản vật chất quý bu, nh l mi còn là một phần đời sống tinh thần, một nét văn hóa tốt đẹp của người Bình Ðịnh.
Cách đây chừng hơn mươi năm, nhà lá mái vẫn cịn kh nhiều ở vng Binh Định, đặc biệt l ở - khu vực ven kinh thành Hồng Ðế xưa. Nhưng nay do thiếu điều kiện bảo quản nên nhiều ngôi nhà cổ đã bị hư hỏng dần.
Nếu ở Phương Tây có những ngôi nhà tuyền gỗ thì nhà lá mái của Bình Định cũng có thể coi là một loại hình kiến trúc nhà gỗ độc đáo không nơi nào có được. Bỡi gỗ là vật liệu chính của nhà lá mái, gỗ hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi, kể cả trong ký ức và tương lai, trong cuộc sống hiện tại và lâu dài, và ngay cả trong cái chết của con người.
Những ai từng lớn lên trong nhà lá mái không thể quên cái bậc cữa mòn nhẵn, mỗi lần bước qua là một lần quệt vào ống quyển đau nhói; và cũng không thể quên những cây cột láng bóng đã không biết bao nhiêu lần va vào trán trong đêm khuya quờ lối tìm cữa ra ngoài. Và có lẽ tiếng động khó quên nhất trong nhà lá mái, đẫm đầy trong ký ức tuổi thơ là tiếng võng đưa cót két những trưa hè thanh vắng.
Am thanh ấy đối với tôi như một sức mạnh huyền bí neo giữ suốt đời những ký ức gắn liền với tuổi thơ trong ngôi nhà lá mái, và trở thành những vần thơ trong bài “ Tiếng võng ” viết năm 1989: “
Đi mòn tuổi xanh chiều nay con về thăm mẹ mới đến đầu hè đã nghe tiếng võng đưa cót két… …mẹ đón con lưng còng dáng võng xưa mẹ ru võng còng cót két… giờ mẹ già rồi ru ai mà cót két hoài tiếng võng mẹ ơi! ?
Am thanh ấy tạo nên từ gỗ, sắc màu ấy, tâm linh ấy phôi thai từ gỗ. Gỗ không chỉ che chở, nâng đỡ, bao bọc thân xác con người từ lúc mới sinh ra cho đến lúc đã qua đời mà còn hun đúc những ý chí bền bĩ, kiên trung; dưỡng nuôi những tinh thần thuỷ chung, nhân hậu.
Thật vậy, ngoài những cột kèo, xiên, trính… gắn liền với ngôi nhà, gỗ còn kề cận với con người trong sinh hoạt, sản xuất qua những vật dụng, như: giường tủ, bàn ghế, hay thúng mủng, cuốc cày….Từ chiếc tăm xỉa răng, đôi guốc mộc đến chiếc nón đội đầu; từ tấm vạt giường bện tre mát rượi hay chiếc rế đặt dưới niêu cơm, chiếc rương đựng nữ trang, quần áo của cô gái mới về làm dâu, hay cái cối cái chày thức suốt những đêm hò giã gạo đến tấm phản gõ láng bóng ở nhà trên, hay bộ bình phong, liễn thờ chạm khảm cầu kỳ … tất cả cùng sống, cùng yêu, cùng buồn vui chia sẻ với con người, giúp con người giữ nếp gia phong đạo lý, sống nhân hậu, yêu thương.
Gỗ có mặt ở ruộng vườn, gỗ sinh sôi nảy nở ở đồi nương, sông suối, gỗ đi theo suốt cuộc đời người … Ngày nay, có xi măng, sắt thép, dù bền vững và tiện lợi hơn nhiều, song vẫn không thể thay được chiếc phản gõ mát rượi những trưa hè, không thể thay được chiếc võng đưa cot két, và lại càng không thể thay được ngôi nhà cuối cùng cho người đã qua đời. Người Bình Định bây giờ làm nhà không dụng nhiều cột kèo, xiên trính nữa, mà xây xông thẳng lên chứ không có chái, không có cột gỗ trong nhà. Người ta xây tường, thả đòn tay, đóng rui mè bằng tre ngâm kỹ ( hoặc dùng sắt xà gồ ) rồi móc ngói, lợp to-le cho tiện. Nhà giàu thì đúc trụ, đổ bê tông mái bằng chứ không dụng gỗ, vì bây giờ gỗ đã trở thành thứ không phải “ của trời cho “ như xưa nữa. Song các thứ đồ dùng, như án thờ, bàn ghế, sập, gụ… thì lại được chạm trổ tinh vi, cầu kỳ trông rất sang trọng, cổ kính hơn xưa…./.
MAI THÌN
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 15:53:01 GMT 9
Cây đa - biểu tượng truyền thống của làng quê Việt Nam --- Thu Hương ---
Từ bao đời nay, mỗi người Việt đều coi mái đình, cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.
Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người.
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ con đò khác đưa. Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường ở đầu làng, cuối làng, giữa làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự phân biệt ngôi thứ.
Không tiền ngồi gốc cây đa Có tiền thì hãy lân la vào hàng
Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái:
Em đang dệt vải quay tơ Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà Hẹn giờ ra gốc cây đa Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao.
Không chỉ có vậy, cây đa làng Việt còn là biểu tượng tâm linh của con người. Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Tục ngữ có câu:
"Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề"
Hay:
"Cây thị có ma, cây đa có thần"
Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên linh thiêng hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng hơn với thiên nhiên. Cây đa được coi là nơi ngự trị của các thần linh dân dã và các linh hồn bơ vơ. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn bó với thần linh. Gốc đa ở các di tích thường được dân chúng thắp hương chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã hoặc cầu cho những linh hồn bơ vơ về nương nhờ lộc Phật không đi lang thang quấy nhiễu dân làng.
Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chăng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong văn học dân gian, văn thơ bác học và trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Giếng Làng - Mắt Của Đất --- BBT và TCSD ---
Chẳng phải ngẫu nhiên mà hình ảnh cái giếng làng cứ đi về trong nỗi nhớ của những người xa quê. Cái giếng đã có mặt trong đời sống của người Việt từ lâu lắm rồi. ít nhất thì trong chuyện cổ tích, nó đã hiện hữu để cô Tấm nuôi con cá bống còn sót lại như nuôi giữ cái khát vọng hướng thiện của con người. Giếng đã đi từ huyền thoại, khi Trọng Thủy gieo mình tự vẫn để giải cái oan tình yêu cho Mỵ Châu, qua những câu thơ phồn thực mang đầy ám ảnh của Xuân Hương nữ sĩ, đến tận ngày nay.
Trong tâm thức của mình, người Việt có thể sống thiếu hạt gạo những khi giáp hạt, thiếu áo mặc những ngày đông, nhưng không thể thiếu cái giếng nước. Giếng không chỉ là mắt đất, nó là trái tim của làng, là cái hồn của xóm.
Đồng bằng Bắc Bộ xưa, làng nào cũng có vài ba cái giếng, nhưng không phải nước ở giếng nào cũng giống nhau. Cái giếng cũng có danh phận của nó. Làng giầu có thì cái giếng xây gạch xoải, có cả rồng chầu như giếng làng Mông Phụ ở Sơn Tây, một trong những làng Việt cổ nhất còn lại, dễ có đến hơn 300 năm tuổi. Làng nghèo thì chỉ là giếng đắp đất xung quanh.
Giếng có nhiều loại, nhưng phổ biến nhất là giếng đất và giếng gạch.
Người ta thường thả bèo tổ ong trên mặt giếng. Đám bèo này không chỉ chắn bụi ở trên xuống mà còn giữ lại cái váng đục của nước giếng mỗi khi trở trời. Để giữ vệ sinh cho giếng, người ta không thả cá, nhưng vẫn có một số loài cá sống tự nhiên trong lòng giếng, chủ yếu là loài ăn ngầm như rô ta, cá chuối. Đây là những nhân viên môi trường đắc lực của giếng làng. Người ta cũng thường giữ lại những cây dương xỉ hoặc rêu bám tự nhiên trên thành giếng để tránh lở. Mỗi năm, giếng được tắm rửa một lần. ấy là khi người ta thau giếng, vớt bùn ở đáy lên và rải thay vào đó một lớp cát dày chừng một gang.
Người ta đào giếng ăn mạch dọc chứ không theo mạch ngang của đất, vì mạch dọc thì mới chạm được vào "túi" nước, còn theo mạch ngang thì nước đục và không nhiều. Để thăm mạch ngầm khi đào giếng, người ta chọn buổi tối một ngày khô trời, dùng những cái bát ăn cơm úp lên mặt đất. Sáng ra, bát nào có nhiều hơi nước nhất là nơi mạch nước mạnh nhất, có thể đào giếng. Giếng ở đồng bằng, độ sâu chỉ chừng 6 - 8 m. Giếng ở vùng trung du chiều sâu ít nhất phải là ba tay gầu, mỗi tay dài chừng 8 m.
Dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, xây bằng gạch, đất hay đá ong, giếng vẫn là nơi gắn bó với đời sống nhiều nhất. Đình thì khi nào có lễ có hội mới ra, chứ giếng làng thì hôm nào chẳng đến. Cuộc sống quần cư biến cái giếng trở thành tâm điểm của làng. Người ta ra giếng lấy nước, tranh thủ hỏi nhau về công điểm, về lứa lợn, về chuyện nhà ông nọ làm đám bao nhiêu mâm, con gái bà kia lấy chồng tốt số... Trai gái làng ra giếng tranh thủ chòng ghẹo nhau hay hẹn hò. Cái giếng làng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tình, của biết bao nhiêu thế hệ. Không hiểu nếu biết nói, nó sẽ nói gì về nhân duyên.
Chỉ biết nhân duyên cứ mượn nó mà ngỏ lòng mình. Lúc thì í ẹ "Năng mưa thì giếng năng đầy, anh hay đi lại mẹ thầy năng thương", lúc thì dỗi hờn "Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài, hay đâu giếng cạn tiếc hoài sợi dây", lúc lại phân bua "Tới đây dây vắn gầu thưa, hỏi người cố cựu giếng xưa ai đào. Giếng này là giếng cựu trào, hồi tôi còn nhỏ tôi nào biết đâu."
Cái giếng giữ phần âm của làng. Bản thân cấu trúc hình tròn của nó cũng là một hình thuộc về âm. Chiều sâu của giếng đi vào lòng đất là chiều âm. Cái vị tanh hơi ngọt và cái độ lạnh của nước giếng hiếm khi được tiếp xúc ánh nắng mặt trời cũng là âm. Và nữa, giếng đôi khi còn là cái gì đó linh thiêng và thần bí. Trên đền Hùng giờ vẫn còn giếng Ngọc, thiêng lắm, các bà các cô bảo nhau. Cổ Loa vẫn còn giếng Mỵ Châu, đồn rằng ngọc trai vớt ở sông về đem đến đây rửa thì sẽ sáng. Mà tín ngưỡng thì chưa bao giờ là phần dương trong đời sống Việt.
Từ khi có nước máy và giếng khoan, giếng làng đã bị lấp đi nhiều. Giếng khơi, có nơi còn gọi là giếng thơi, cũng ít nhà giữ lại. Chỉ thương cho những chiếc gầu bây giờ chả biết thả vào đâu. Chỉ thương cho những người kỹ tính không còn cơ hội để chọn nước giếng mà pha trà. Chừng nào cái thương cái tiếc ấy còn, hình ảnh cái giếng vẫn nguyên trong hồn Việt.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:03:02 GMT 9
Giếng làng Việt Nam ---Hồ Đắc Duy---
Đặc biệt các làng ở nam bộ là cái ao làng , còn nét đặt trưng của làng ở miền trung hay bắc bộ là cái giếng làng , một trong những bộ phận không thiếu trong một quần thể kiến trúc bao gồm cổng làng , đình làng , trường làng , đường làng , chợ làng , cây đa , bến nước ....giếng làng là nơi hội tụ , một điễm văn hóa thông tin phong phú đa dạng vì thế mà giếng làng đã trở nên một địa điễm quen thuộc trong cộng đồng làng nước ,
Ở trong khu vực thành nội Huế có hai cái giếng cổ không ai là cư dân ở đó mà không từng nghe nói đến đó là cái giếng sập ở ngả tư đường Âm Hồn và Tịnh Tâm và một cái ở trong khuôn viên Tam Tòa gần cửa Thượng Tứ , lai lịch cái giếng vuông ở trong Tam Tòa thì có người biết chứ lịch sữ cái giếng tròn trên đường Âm Hồn thì phải hỏi các cổ vật và xác người trăm năm được vùi lấp dưới đó may ra mới chủ nhân nó là ai
Hiện tại người ta mới thống kê tại Huế có 28 giếng cổ , trong đó có 24 cái giêng vuông đa số nằm trong khu vực Hoàng Thành , Tử Cấm Thành , lăng tẫm...Thật ra thì giếng cổ ở Huế nằm ở trong các ngôi cổ tự có từ trước khi kinh thành Huế được xây cất , khi mà các chúa Nguyễn trên đường nam tiến khi mà kinh đô Phú Xuân – Núi Bân nơi Quang Trung lên ngôi hoàng đế thống lỉnh đại quân tiến về Hà Thành đuổi quân Mãn Thanh ra khỏi bờ cỏi....
Vị trí và tình cảm gắn bó của giếng làng trong đời sống của dân quê Việt Nam thì đọc bài viết của 2 tác giả Lý khắc Cung , Chu quang Trứ và bài thơ của Bàng bá Lân ta mới thấy hết cái đẹp cái sống động lung linh kỳ diệu của cái giếng làng
Ngày xưa, nhũng cái giếng ở thôn xóm, làng mạc là nơi được sự chú ý của mọi người. Nó thiết thực với cuộc sống, mang những nét độc đáo, ghi lại những năm tháng, những con người, sự thăng trầm của nhiều thế hệ.
Có nhiều loại giếng: giếng đất, giếng ao, giếng xây, giếng lát đá vv... Giếng thường được xây ở nơi trung tâm nhất của cộng đồng. Người ta đón các vị thâm nho, các thầy địa lý (phong thổ) đến để xem nguồn nước, xem cỏ gà, cây cối xung quanh, xem hướng gió v.v... mà xác định vị trí của giếng. Giếng phải đào ở nơi đất "ngọt", xây từ dưới lên. Phần dưới giếng được xây bằng đá ong Sơn Tây, rồi trên mới xây và lát bằng gạch hay bằng đá. Bờ giếng cũng được lát ra thành một vòng tròn, thoải xuống thấp, bằng những phiến đá mặt phẳng... Xây dựng một cái giếng có khi là cả một công trình nghệ thuật do một hay hai phương thợ có tiếng tăm thục hiện.
Giếng thường hòa nhập vào bóng râm những cây cổ thụ, hoặc làm mặt gương soi bóng một ngôi đền hoặc chùa rêu phong. Bên cạnh đền gọi là giếng đền, cạnh chùa gọi là giếng chùa. Có những cái giếng nổi tiếng chỉ cho phép lấy nước ăn và nước pha trà. Giếng làng Dục Tú (Đông Anh), giếng Bảo Hà (Nam Định), giếng xóm Hạ (Phủ Lý) là những cái giếng vừa đẹp vừa ngon nhóc, nổi tiếng khắp vùng. Người ta kháo nhau: "ăn nước giếng làng Hạ, con gái làng cứ nõn nà ra. Con gái làng này đắt chồng nhờ giếng".
Nhưng, cái giếng cũng bị oan: "Mắt toét là tại giếng đình, cả làng toét mắt, riêng mình em đâu”....Câu “Ếch ngồi đáy giếng" chỉ con người chẳng biết cái gì. Rủ nhau đi làm những chuyện không hay ho gì gọi là: dắt nhau xuống giếng...
Trẻ em có câu đố về cái giếng: "Vừa bằng cái nong, cả làng đong không hết". Cái giếng mang lại nhớ nhung: Đi xa về, không thấy người cũ, giếng đá, trăng vàng, em ở đâu?
Chúng ta hãy nhớ lại cái giếng Cổ Loa còn gọi là giếng Mỹ Châu - Trọng Thủy. Cái giếng này hãy còn đến ngày nay. Nó đã trải qua hơn 2000 năm và cứ luôn luôn được nhắc tới với một tấm lòng trân trọng và bâng khuâng. Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết về nó:
Nỏ thiêng hờ hững dây oan nghiệt Giếng ngọc đầy vơi giọt lệ phai. . .
Giếng của nữ sĩ Hồ Xuân Huống là cái giếng đặt biệt:
Ngõ ngàng thăm thẳm tới nhà ông Giếng tọt thảnh thơi, giếng lạ lùng Cầu trắng phau phau, đôi ván ghép Nước trong leo lẻo, một dòng thông Cỏ gà lún phún leo quanh mép Cá điếc le te, lách giữa dòng Giếng ấy thanh tân, ai chẳng biết. . . Đố ai dám thả nạ dòng dòng
Cái giếng xưa cũng chứng kiến đầy bi kịch. Đôi trai gái thề thốt gắn bó với nhau bên bờ giếng. Thề ở đình, ở miếu cũng không quyết liệt như thề ở giếng. Nếu họ phụ nhau hoặc không lấy được nhau, sẽ có một người trong họ hoặc là cả hai gieo mình xuống giếng. Và tất cả những bí mật trong tình sử của họ chỉ còn có cái giếng không biết nói biếtđược mà thôi. Nếu có thêm ai nhìn thấy, họa chăng chỉ có vầng trăng.
Đến với cái giếng là biết được mọi chuyện chi tiết về cuộc sống của xóm làng. Có khi biết được đến chuyện hàng tổng qua những người lui tới lấy nước hoặc nghỉ ngơi.
Cái giếng tượng trưng cho sự trong sạch, mát mẻ, giúp quên đi sự mệt nhọc và cái khát. Có cô gái làm dáng soi gương ở giếng. Hoặc người đi đường ngả nón xin một gầu nước mát uống cho đỡ khát rồi rửa mặt qua loa. Giếng là linh hồn của cả một cộng đồng nho nhỏ. Ai cũng cần đến nó, yêu quý, trân trọng nó. Giếng có ở mỗi làng quê Việt Nam...
Nông thôn Việt Nam xưa phần nhiều là nhà gianh, do đó rất ít nhà có bể nước mưa, người làng chủ yếu dùng nước giếng công cộng để nấu ăn. Vì thế “Cây đa - Giếng nước - Mái chùa” đã trở thành những hình ảnh của quê hương, nhất là đối với người xa xứ.
Nước mưa là tinh khí của trời cha và được đất mẹ giữ lấy, để từ đây mọi sinh linh sinh sôi và phát triển. Giếng nước là nơi tụ hội nguồn sống, là nơi tích phúc để dân làng ăn nên làm ra, và do đó nó là nơi của niềm hoan lạc kỳ thú. Trong sinh hoạt đời thường, người ta lấy nước giếng về dùng trong sinh hoạt như nước mưa, nó ngọt lịm khoan khoái như móc lành, làm dịu cơn khát và góp phần tạo nên những bữa ăn hàng ngày. Giếng nước còn là chiếc gương lớn để các cô gái ra gánh nước thì tranh thủ soi mình làm duyên. Và vì thế bên giếng làng thường diễn ra những cuộc hò hẹn ân tình lứa đôi.
Trong cái tổng thể văn hoá làng quê bình dị mà lung linh huyền ảo, cây đa có thần, mái chùa có phật thì giếng nước là sự tượng trưng cho sự dồi dào sung mãn và cho nguồn gốc của sự sống. Bàn thờ gia tiên ở nhà dân hay bàn thờ thần thánh ở đền, đình đều không thể thiếu được bát nước mưa hay nước giếng. Trước ngày hội làng, bài vị và ngai thờ Thành hoàng đều được mục dục (lau chùi) bằng nước giếng hay nước sông. Và nếu hội có thi nấu cơm hay thi làm cỗ thì đều lấy nước từ giếng làng.
Vài mươi năm nay, nông thôn từ ngày ngói hoá thì nhiều nhà đồng thời cũng có bể nước mưa, và khi triển khai phong trào nước sạch nông thôn thì nhà nhà có giếng đào và giếng khoan, do đó nhiều nơi chiếc giếng làng bị lãng quên và rồi san lấp để lấy mặt bằng xây dựng! Tuy nhiên không ít nơi chiếc giếng vẫn đang tham gia vào cuộc sống thường nhật của dân làng, thậm chí gắn bó với đời sống tâm linh của cả cộng đồng. Làng Giang Xá (Hà Tây) ngay trước cửa đền Lý Nam Đế là một khẩu giếng đất to, mặt thoáng thường xuyên thả bèo ong giữ cho nước giếng luôn trong mát. Làng Hiệp Thuận (Hà Tây) đào trong cù lao nhỏ giữa hồ có đường thông ra, đang là nguồn nước sạch của nhiều nhà. Nhiều nơi, trước cửa đình vẫn còn khẩu giếng bán nguyệt xây gạch Bát Tràng gợi lại khúc sông cong làm nơi tụ thuỷ - tụ phúc.
Cũng có một số giếng ngày nay không còn giá trị sử dụng nhưng vẫn được địa phương giữ gìn sạch sẽ, chẳng hạn khẩu giếng ở đầu đình Đại Phùng (Hà Tây) bên dưới xây bằng những thỏi đá ong, còn thành giếng là cả một khối đá ong khoét rỗng lòng, trông thật mộc mạc mà đanh chắc, hay khẩu giếng ở trước nhà Tổ chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) có thành giếng là một khối đá xanh khoét rỗng lòng, phía ngoài toả chân ra nền sân giếng tạo thành một đoá sen nở rộ với những cánh hoa chạm khá cầu kỳ. Bảo tàng Mỹ thuật đã phục chế khẩu giếng này trưng bày trong vườn cảnh như một di sản văn hoá quý. Sân chim Dâu (Bắc Ninh) còn khẩu giếng không có thành cao, hình thức đơn giản như truyền thuyết cho biết là lỗ cắm cây gậy của nàng Man Nương được sư Khâu Đà La cho để chống hạn, nước rất trong và không bao giờ cạn, nhà chùa vẫn dùng cho sinh hoạt. Trong thượng điện quán Linh Tiên (Hà Tây) có một khẩu giếng mà dân địa phương bảo là huyệt đan sa rất thiêng, nước trong ngọt và không bao giờ cạn, vẫn lấy nước cúng trong Thần điện.
Chùa Phật Tích (Bắc Ninh) được dựng từ thời Lý, hiện còn dấu tích những 3 khẩu giếng cổ: khẩu giếng trên sườn núi phía sau chùa được kè đá với bậc xuống từ phía sau, đáy ao từ một tảng đá tự nhiên được chạm thành đôi rồng, nay tuy không còn nguyên vẫn nhận ra rõ ràng, thư tịch xưa gọi là Long Trì. Trên sân bãi trước cửa chùa có khẩu giếng dưới đáy có tượng đầu rồng thời Lý rất điển hình, từ đây nước dù tát cạn lại phun ra rất nhanh. Dưới ao chùa cạnh đó, gần đây cũng phát hiện một khẩu giếng nữa, dưới đáy có một số đồ đất nung vốn xưa được trang trí cho kiến trúc. Chùa Giam (Bắc Ninh) trên nền chùa, phía sau cột đá chạm rồng cao hơn 5m vẫn còn dấu tích một khẩu giếng, dù ở phía bắc cột nhưng dân địa phương kể trong năm có ngày bóng cột sẽ ngả vào giếng, biểu hiện sự trường tồn cho dân cho nước. Chùa Phổ Minh (Nam Định) ngoài cặp giếng đất cân đối ở sân trước chùa được truyền là cặp mắt rồng, phía sau chùa đã phát hiện khẩu giếng cổ mà thân giếng được xếp bằng những chiếc vại đựng vôi đảm bảo cho nước luôn trong và sạch. Còn chùa Keo (Thái Bình) có khẩu giếng bên cạnh điện thánh, thân giếng được xếp bởi những chiếc cối đá thủng, truyền là đã dùng để giã gạo trong khi dựng chùa.
Ở đình Ngô Nội (Bắc Ninh) có bức chạm từ cuối thế kỷ 17, trong bức cốn gỗ ở trên cao, nghệ sĩ xưa chạm cảnh cô gái làng ra giếng gánh nước, đôi quang thùng nước và chiếc đòn gánh còn gác lên thành giếng, cô gái gặp người tình và hai người đang ân ái thì bị người khác thổi ống xì đồng làm chết. Họ chết vào giờ thiêng, được dân làng ghi hình và thờ phụng.
Thiêng hơn cả là những chiếc giếng từ buổi đầu dựng nước. Trên núi Trân Sơn (Bắc Ninh) có vạt núi đá được gọi là “Giếng Việt”, các khe đá nứt từ đó toả ra xung quanh, trên cao nhìn xuống như hình cửa mình bà mẹ xứ sở khổng lồ. Và có lẽ vì thế, giếng luôn là biểu trưng của âm tính với nước thiêng nguồn sống vĩnh hằng. Còn trong khu đền Hùng (Phú Thọ), ở dưới chân núi phía đông nam có đền Giếng là nơi thờ tự công chúa Ngọc Hoa (sau lấy Sơn Tinh) và công chúa Tiên Dung (sau lấy Chử Đồng Tử), hiện vẫn còn khẩu giếng tương truyền là gương soi của hai nàng công chúa con Vua Hùng thứ 18. Trong khu thành Cổ Loa (Hà Nội), trước đền Thượng vẫn còn khẩu giếng ở giữa hồ, tương truyền nơi hồn Mị Châu đã hiện hình để dụ cho Trọng Thuỷ nhẩy xuống, dân địa phương bảo để trả mối thù bị lừa lấy mất lẫy nỏ thần, song văn học dân gian lại ghi nhận mối tình đôi lứa thuỷ chung.
Giếng làng nay còn ít và cũng ít giá trị thực dụng, nhưng những giá trị văn hoá của nó lại càng đậm trong tâm thức mọi người, và vì thế nó cứ lung linh toả sáng.
Giếng Làng
Hẹn nhau bên bờ giếng Chờ nhau lúc rạng trăng Nàng vân vê dải yếm Chàng nắn sửa vành khăn
Dưới trăng nàng bối rối Dưới trăng chàng băn khoăn Nhìn nhau mà chẳng nói Bốn mắt đọng trăng rằm.....
Hẹn nhau bên bờ giếng Chờ nhau lúc rạng trăng Trăng đến, nàng không đến Chàng lo buồn đăm đăm
Nàng đã đi làng khác Theo một người khăn đen Không còn nghe giọng hát Bên đình lúc nguyệt lên
Ai cúi mình trên giếng ? Ai thả gầu múc trăng ? Ai cười yêu nửa miệng ? Tan rồi mộng gối chăn !
Không hẹn bên bờ giếng Không chờ lúc rạng trăng Đêm đêm chàng vẫn đến Bên giếng khóc âm thầm
Đêm nay chàng lại đến Bên giếng khóc âm thầm Bỗng gặp bên bờ giếng Đôi bóng người dưới trăng
Nàng cũng vê dải yếm Chàng cũng nắn vành khăn Cũng nhìn nhau âu yếm Bốn mắt đọng trăng rằm
Giếng trăng, nơi hò hẹn Giếng trăng, nơi hẹn hò Từ xa xưa đến bây giờ Giếng làng ghi dấu bao trò hợp tan.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:06:00 GMT 9
Mái nhà Hà Nội xưa- Lê Anh Dũng - Nhà cổ trên phố Hàng Bạc qua tranh của Họa sỹ Bùi Xuân Phái Hai bên những con phố nhỏ bé trong lòng Hà Nội cổ, lấp ló sau tán cây xanh thẫm là những mảng mái ngói nâu đen rêu phong in đậm màu thời gian. Khác với mái nhà dân gian thường thấy trong các làng mạc cổ xưa của vùng đồng bằng Bắc Bộ, mái nhà ở đô thị cổ Hà Nội được hình thành từ những sáng tạo kiến trúc của những người thợ xưa trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Và nay, những mái nhà ấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc thơ mộng của Hà Nội, vừa cổ kính về giá trị lịch sử ngàn năm, vừa hiện đại trong thế kỷ 21. Trở lại với những ngày xa xưa, khi chế độ phong kiến sớm suy tàn, và hình ảnh của người phương Tây không mấy xa lạ với người dân Hà Nội, khi đó cuộc sống tại đây vẫn giữ nguyên đặc tính của dân kẻ chợ, vốn dĩ sống cụm thành từng phường hội, kinh doanh chuyên biệt một mặt hàng nào đó. Cũng từ đó, đô thị cổ đã hình thành một cách tự nhiên theo phương thức chia lô đất xây dựng, tạo nên các đường phố có ngành nghề kinh doanh thuộc nền kinh tế thương nghiệp nhỏ riêng biệt, tồn tại bên cạnh khu thành cổ có chức năng đầu não chính trị, quân sự. Chính nhờ điều này đã tạo cho khu phố cổ Hà Nội có được những nếp nhà xinh xắn, duyên dáng nhấp nhô một cách gợi cảm, là nguồn cảm hứng muôn đời cho biết bao thế hệ hoạ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ Việt Nam. Qua nét hoạ của một vài nếp nhà nhỏ trong những bức tranh, người ta dễ dàng hình dung về một thành phố cổ có ngàn năm văn hiến. Hình ảnh của Hà Nội xưa đã gắn liền với những mái ngói lô xô tự nhiên như thể sinh ra đã là thế. Khi nghiên cứu kỹ các chi tiết của những mái nhà cổ, sẽ bắt gặp nhiều điều thú vị. Trong tổng thể từ chất liệu cho tới hình thức trang trí, những mái nhà Hà Nội đều chứa đựng những câu chuyện dài, bắt nguồn từ nền văn hoá vừa độc lập, vừa tương tác với các nền văn hoá khác. Điều dễ nhận thấy nhất là những chi tiết và vật liệu dân gian được sử dụng thông dụng đầu thế kỷ. Đó là ngói âm dương vẩy cá hoặc ngói mũi hài. Bờ nóc, bờ chảy được trang trí bằng các hoạ tiết riềm, tuân theo lối kiến trúc cổ. Đôi khi ta còn bắt gặp trên nóc một ngôi nhà, hoặc phổ biến nhất là tại các đình chùa cổ nằm giữa khu phố Hà Nội, các hoa văn trên đỉnh hay những đường riềm mái bằng gỗ có hình chạm khắc rất kỹ... Các chi tiết và hoạ tiết dân gian, cách cấu tạo phối kết được truyền tải trên kiến trúc cổ của Hà Nội là một chặng đường phát triển văn hoá truyền thống. Nó phát triển mạnh cả về chất lượng và số lượng vào cuối thời kỳ phong kiến Việt Nam. Về kết cấu, đa phần các mái nhà Hà Nội cổ thường được làm theo phương pháp "xang gạch", kết hợp với dầm gỗ thuộc chủng loại gỗ quý như Lim, Táu Xanh, Đinh Hương... hoặc nhà có kết cầu dầm gồ chịu lực và các hệ cầu phong, li tô đỡ ngói. Tuỳ theo từng chất liệu mái ngói mà kết cấu li tô khác nhau. Song, đáng ngạc nhiên là những công thức tính toán kết cấu thời đó đều chỉ do những tốp thợ thực hiện theo kinh nghiệm truyền thống. Họ có thể hoàn toàn không qua trường lớp nào, song vẫn để lại cho tới nay các di sản văn hoá - kiến trúc tuyệt đẹp và ổn định sau gần một thế kỷ tồn tại. Tới đầu những năm 30 của thế kỷ 20, lẫn trong các dãy nhà cổ đã xuất hiện những ngôi nhà có bộ mái ảnh hưởng của xu hướng và trào lưu của kiến trúc thuộc địa. Lúc này, đất nước có một nền kinh tế tương đối mở và điều này đã tạo ra sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới bộ mặt của các khu phố cổ. Việc xuất hiện nhiều các dãy phố Tây do người Pháp định cư ở gần các khu phố cổ hoặc khu người Hoa định cư đã ảnh hưởng trực tiếp tới phong cách kiến trúc trong giai đoạn này. Những ngôi nhà xây dựng trong thời kỳ này đã khoác lên mình tấm mái bằng bê tông cốt thép thay thế cho mái ngói mũi hài, vảy cá dân tộc. Hoặc nếu vẫn sử dụng ngói để lợp mái, thì khi đó người Hà Nội đã tỏ ra ưa chuộng loại ngói là ngói 11, 12 (11 hoặc 12 viên cho một mét vuông mái nhà). Loại ngói này có hình chữ nhật, dễ dàng hơn trong xây cất nên đã từng được sử dụng rộng rãi. Sự đa dạng về vật liệu đã vô hình chinh tạo sắc thái sinh động thêm cho đường phố Hà Nội, song vẫn không tách khỏi những giá trị truyền thống. Cho tới nay, dù thời gian và cả những tác động của con người đã làm thay đổi bộ mặt của những ngôi nhà trên phố phường Hà Nội, song chúng ta vẫn còn bắt gặp những nét kiến trúc tài hoa của người thợ vô danh đầu thế kỷ. Sự pha trộn văn hoá đã để lại cho những ngôi nhà Hà Nội những hoạ tiết trang trí đa dạng và độc đáo. Nếu trước đây, người thhợ dân gian thưởng chỉ áp dụng các kích thước quen thuộc trong trang trí như Long nhiễu vân đài, Song long chầu nguyệt... thuần tuý á Đông, thì sau này là các hoạ tiết trang trí hoa dây bên dưới mái ngói âm dương. Tại một số ngôi nhà của chủ nhân Hoa kiều, những dòng chữ Hán đắp nổi còn tồn tại sau biết bao biến loạn của thời cuộc. Đẹp nhất trong số này phải nhắc tới ngôi nhà tại đường Phùng Hưng với những hàng chữ Hán "Tân Hoa đại tửu lầu" trang trọng bên trên hàng chữ phiên âm. Phía sau ngôi nhà là những dãy nhà 2 tầng lâu có các hoa văn cách điệu trang trí trên đỉnh, tầng áp mái có cửa sổ hình tam giác, vừa bí ẩn, vừa trang trọng. Tại một số ngôi nhà khác, kiến trúc phương Tây đã pha trộn hài hoà cùng với kiến trúc á Đông, thể hiện rõ nét ở hình khối trang trí hoa lan tây, lá nho, dây leo, mặt trời... bao quanh những chữ Hán cổ. Nếu trước đây, người Việt luôn tạo độ dốc cho mái nhà của mình dao động trong khoảng 32-380, thì sau này, tại Hà Nội đã hình thành những ngôi nhà có thể dốc đứng, hoặc thoai thoải như mái bằng. Chính sự giao thoa văn hoá phức hợp như vậy nên tại Hà Nội một thời đã từng có các trường phái kiến trúc ảnh hưởng sâu sắc tới việc tạo nên hình dáng bề ngoài của một thành phố cổ xinh đẹp. Điều đáng ngạc nhiên là sau tất cả quá trình giao thoa đó, các dòng văn hoá tưởng như khá đối lập nhau lại là sự kết hợp hài hoà trong kiến trúc của những mái nhà Hà Nội cổ. Để tới ngày nay, sau rất nhiều biến cố về thời gian và lịch sử, chúng ta vẫn còn tìm thấy vẻ đẹp của các mái ngói lô xô ẩn dấu dưới tàn cây xanh thẫm, hay chìm khuất dưới các hình khối kiến trúc hiện đại sau này. Và cho đến nay, có một điều không khi nào mất đi với bất kỳ ai, nhất là với những người đã sống trọn cuộc đời mình tại đây là sức cuốn hút mãnh liệt trong kiến trúc mái nhà Hà Nội, nửa thân thương, nửa như gợi nhớ về một điều xa vắng. Theo hanoixuavanay
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:22:17 GMT 9
Công quán - dấu ấn văn hoá làngTừng nghe, khởi thuỷ đình làng là nhà trạm cho người đi đường nghỉ chân, dịch trạm là nhà trạm xem việc chuyển độ thư tín công văn. Nhưng ít nghe nói tới những công quán hay quán làng cũng với những chức năng ấy. Từ Đại Hoá về Lam Cốt (Tân Yên), mọi người đều có thể ghé vào ngôi nhà lớn đầu làng Chúc để thư giãn đôi phút trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Người dân nơi đây coi chuyện khách dừng chân nghỉ lại là chuyện bình thường bởi lẽ ngôi quán này được dựng lên chính là để làm việc đó và nó có tên gọi: Quán Chúc. Cảnh quê tĩnh lặng, ngôi quán mát mẻ khiến mọi người cảm thấy bình tâm. Sờ tay lên những hàng cột lim nhẵn lỳ, lên nước đen bóng vì thời gian lòng người thêm thư thái, phá đi sự tĩnh lặng là tiếng trẻ mục đồng chơi trò trốn tìm quanh những cây duối, cây bàng cổ thụ và những câu chuyện đồng áng rôm rả của nông phu. Quán Chúc thuộc làng Chúc, xã Đại Hoá, trong làng đa phần là người mang họ Chúc - một dòng họ ít thấy ở Tân Yên. Quán nằm ở vị trí đẹp, trước là hồ nước rộng, sau là những hàng cây duối, bàng xanh tốt. Quán Chúc có từ bao giờ không ai biết, những người cao tuổi nhất làng cũng chỉ biết mình sinh ra đã thấy nó hiện diện ở đầu làng. Lần làm lại cuối cùng cũng đã hơn trăm năm khi làng Chúc bị giặc tràn vào phá hoại. Căn cứ vào những gốc duối già quanh ngôi quán, gốc rễ xù xì, thân tày người ôm có thể đoán định tuổi của ngôi quán đã có cách đây vài trăm năm. Quán Chúc làm theo lối 3 gian 2 chái, kèo suốt, toàn bộ làm bằng gỗ lim bào trơn đóng bén. Bốn mặt quán để trống, trong có sàn gỗ chia làm hai cấp dùng để ngồi, mặt gỗ giờ cũng đã nhẵn lỳ. Theo những người dân trong làng cho biết, nếp xưa nay ngôi quán là chỗ dừng chân của khách qua đường, vào những buổi trưa hè, quán là nơi thợ cầy thợ cấy trong làng ngồi nghỉ bàn chuyện mùa vụ sau buổi làm việc vất vả, là chỗ vui chơi của lũ trẻ chăn trâu và là điểm hội tụ của mọi người những buổi chiều tà. Cách quán Chúc không xa là ngôi chùa cổ và tất cả hợp thành quần thể di tích khá bề thế của làng. Rời làng Chúc về Phố Thễ (Lan Giới), tại đây cũng có một địa danh gắn với quán làng, đó là quán Kĩnh. Cụ Trần Văn Phúc, 76 tuổi cho biết: Quán Kĩnh vốn là ngôi nhà 3 gian nền đất do người dân làng Thễ dựng bên đường, xung quanh trồng hàng chục gốc đa cho khách nhỡ độ đường nghỉ chân. Khi xưa Yên Thế hạ còn toàn là rừng rậm thì Lan Giới vốn là nơi "Thâm Sơn cùng cốc", có được chỗ nghỉ ngơi như quán Kĩnh thực là điều may mắn. Đất lành chim đậu, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, địa điểm người xưa làm quán Kĩnh trở thành chỗ tản cư của nhân dân vùng xuôi, là nơi đứng chân của nhiều cơ quan, trường học, đơn vị bộ đội dần mở rộng “thành làng thành phố". Quán Kĩnh nay thuộc địa phận Phố Thễ, tuy ngôi nhà 3 gian xưa cũ không còn, nhưng dân làng dựng tại đây ngôi miếu nhỏ và là nơi làng tổ chức hội lệ hàng năm. Bỏ công sức dựng nên những ngôi quán cho mọi người có chỗ dừng chân nghỉ ngơi, chỉ vậy thôi nhưng nó thể hiện rõ quan niệm hướng thiện, tích âm đức để phúc cho con cháu và cách ứng xử "Thương người như thể thương thân" của người xưa. Quan niệm cũng như cách ứng xử này đã được các thế hệ làng Chúc, Phố Thễ hôm nay gìn giữ phát huy thể hiện trong sự thuần hậu và hiếu khách của dân làng. Từ nhiều năm nay những đơn vị này đều là khu dân cư tiên tiến, làng văn hoá. Công quán kiểu như quán Chúc, quán Kĩnh ở Tân Yên không có nhiều. Lâu nay trong công tác bảo tồn văn hoá vật thể, chúng ta mới chỉ chú ý tới những ngôi đình, chùa, đền, miếu mà ít để ý tới loại hình công quán. Có thể nói những ngôi quán làng ở Tân Yên là một dấu ấn, là nét văn hoá đặc sắc, mang đậm tính nhân văn, thể hiện rõ phong cách ứng xử của người Việt và có tính giáo dục rất lớn. Có được ngôi quán nguyên trạng như quán Chúc là điều đáng mừng, rất đáng để chúng ta quan tâm tìm hiểu và sớm đưa vào danh sách để ghi nhận. Châu Giang 082life.com/ website mua bán trực tuyến với các sản phẩm thời trang, sâm nấm linh chi, mỹ phẩm... đang thịnh và lưu hành trên đất nước Hàn Quốc. Phương châm của chúng tôi là: Nhanh gọn - An toàn - Thuận tiện. Có thể bạn không cần nhưng những người xung quanh bạn lại rất cẩn " Hãy chia sẻ thông tin để niềm vui cùng đến với mọi người bạn nhé!". 082life.com/ đưa Hàn Quốc về tận nhà bạn ************** Hội làng – nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Hầu như người Việt Nam nào cũng đều có những cảm xúc về làng. Có những cảm xúc rõ rệt, nhưng cũng có những cảm xúc mơ hồ khiến người ta suốt đời gắn bó với quê hương. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử cho đến ngày nay làng vẫn tồn tại như một đơn vị hành chính, là một yếu tố khá bền vững trong kết cấu xã hội Việt. Tôi nhớ cái cảm giác được vây bọc trong các luỹ tre làng. Màu xanh mướt của tre có lúc xòa mát khoảng trời trên đầu. Trên đường làng, lúc gió nhiều, những chiếc lá tre rụng xuống quấn chân người đi. Lũ trẻ ùa ra con đường làng sau giờ học đánh đáo, chơi khăng. Chúng xúm quanh ông già nặn tò he, vừa nghe ông kể chuyện cổ tích vừa ngắm nhìn những cục bột gạo nhuộm màu dưới bàn tay ông trở thành những con giống gà lợn, chó, mèo vô cùng sinh động... Những cuộc vui chơi bất tận trong cái không gian yên tĩnh đó thường để lại dấu ấn rất sâu của tuổi thơ. Các con đường làng cũng nối nhau truyền từ đời này sang đời khác. Đường không rộng quá nhưng cũng không quá nhỏ, những chiếc xe bò, xe trâu có thể thoải mái đi lại. Đường làng là trục chính, nhưng khi cần có thể đi tắt qua nhà nhau mà không e ngại. Có nhiều nơi ra tục lệ là mỗi đôi vợ chồng trẻ mới cưới góp cho làng một mét đường lát gạch. Dần dần những con đường làng lát gạch nối liền các ngách, các nhà. Người nhà quê sống chân tình, thân thiện, luôn sẵn sàng cùng nhau chia xẻ buồn vui trong cuộc sống “tối lửa tắt đèn có nhau”. Mỗi làng đều có những ngày đáng nhớ. Việc làng thì nhiều không kể xiết. Cộng đồng xúm vào lo toan, hình thành nên thói quen chung, tập quán chung, khiến ai cũng thuộc nằm lòng lề thói, quy tắc của làng, không muốn vi phạm, sợ mang tiếng xấu. Có kẻ trộm, kẻ cướp thì chỉ cần hô lên một tiếng là cả làng thức dậy. Làng cũng liên quan tới cả hệ thống ao chuôm, hệ thống giếng nước, cần cho các vườn cây nhỏ, cho sinh hoạt của đời sống hàng ngày. Những vườn cây của các gia đình bao giờ cũng là nơi hấp dẫn với lũ trẻ. Vườn nào cũng riêng tư đấy, mà cũng có nét chung. Trong vườn ngoài gà, vịt... nuôi lấy thịt, thường thả rông, còn có thêm những bụi chuối, cây ổi, cây cam, cây nhãn... hình thành một loại vườn cây đa dạng, cây lưu niên bên cạnh vườn rau quả để tự cấp, tự túc cho các bữa ăn gia đình, khi cần có củ tỏi, quả ớt, vài lá rau thơm cũng có thể có ngay. Trong những câu ca dao Việt Nam, những câu đẹp nhất cũng là những câu về làng. Cây đa, bến nước, sân đình... là nơi hò hẹn, trao duyên, là nơi tâm tưởng người Việt sống với tầng thức văn hoá lúa nước. Những con đường phủ rơm vàng, những cổng làng như con mắt nhìn theo tiễn người đi xa, như tấm lòng rộng mở đón người về đã làm xúc động biết bao nhiêu người Việt trên khắp thế giới. Có một hoạ sĩ Hà Nội quá yêu mến hình ảnh của làng quê đã đi chụp ảnh hàng ngàn cái cổng làng để làm một bộ sưu tập nhìn khá hấp dẫn. Có một điều rất thú vị với ai đã từng đặt chân đến Hà Nội, đó là ngay ở Thủ đô cũng có làng. Làng hoa như Nghi Tàm, Nhật Tân đã đi vào sử sách thì ai cũng biết, nhưng ngay giữa lòng Thủ đô, bên những khu phố sầm uất nhất cũng ẩn khuất bóng làng. Trong một phố cổ Hà Nội, giữa trung tâm Thủ đô, có xóm Hạ Hồi. Không ồn ào, tĩnh lặng, là một ngõ nhỏ, vừa đủ đi, hết sức ấm cúng. Bạn có thể rẽ vào một quán ăn như quán nhà số 4 Hạ Hồi và thưởng thức phong vị của một bữa ăn quê. Quán cũng gợi nhớ cho ta hình ảnh của làng, với các món ăn Việt, với sự cẩn trọng quý khách của những cư dân trong một xóm thuộc vào loại cổ của thành phố. Vẻ đẹp tạo hình của một lối ngõ, nhất là trong tiết trời mùa thu bất giác làm ta thấy nhớ quê. Có nhiều chuyên luận nghiên cứu về làng. Nhưng tựu trung các nghiên cứu thường nói về cái đặc sắc của làng Việt dựa trên nền văn minh lúa nước. Tùy thuộc vào chân ruộng cao hay thấp mà hình thành nên các tập quán khác nhau. Gần núi hơn làm ruộng, gần sông nước hơn gắn với nghề chài lưới, nơi bằng phẳng thuận tiện thì phát triển làng vườn. Những sinh hoạt, tập quán của làng đã hình thành nên một phần tính cách của người dân quê. Trong các tầng thức văn hoá của người Việt thì văn hóa làng là sâu đậm nhất. Nó đã giúp người dân Việt Nam trải qua bao thử thách, bao biến thiên của lịch sử vẫn giữ được cốt cách, tâm hồn, bản sắc văn hóa Việt. Bài: Vũ Đức Tân
|
|