|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 4:46:44 GMT 9
Chỉnh trang phía nam cổng Đoan Môn Thành cổ Hà Nội14/04/2010 -Ngày 13/4, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng đã ký quyết định dự chi gần 7 tỷ đồng ngân sách để tháo dỡ nhiều công trình tại khu vực phía nam cổng Đoan Môn di tích Thành cổ Hà Nội, nhằm chuẩn bị mặt bằng chỉnh trang khu vực này. Hoàng thành Thăng Long Các công trình sẽ được tháo dỡ để “nhường” mặt bằng tạo cảnh quan thông thoáng, liên thông cho khu di tích Thành cổ này, gồm: Khu thể thao (sân vận động, bể bơi, sân tennis, nhà thi đấu), trụ sở Cty Trường An, trụ sở BQLDA 678, nhà họp báo, hội trường T83… trong khuôn viên khu đất diện tích khoảng 30.230m2 tại phía nam cổng Đoan Môn di tích này. Theo lãnh đạo Hà Nội, việc tháo dỡ này sẽ tạo thuận lợi cho quá trình triển khai lập Quy hoạch chi tiết bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích Thành cổ Hà Nội (tỉ lệ 1/500) cũng như công tác quản lý khu di tích này, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. v Trục trung tâm của Cấm Thành: Bắc Môn - Hậu Lâu - Kính Thiên - Đoan Môn - Cột cờ. Đường viền đỏ là phạm vi trung tâm của Cấm Thành còn sót lại. Đoan Môn - một trong những di tích tại đây được giới khảo cổ học cho rằng “may mà còn”, với năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 - 1814, triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn còn). Năm 2002, giới khảo cổ được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, theo các chuyên gia có thể sẽ thấy cả con đường từ Đoan Môn. Liên quan đến việc tôn tạo di tích Thành cổ Hà Nội, hiện khu vực Điện Kính Thiên tại đây cũng đang được lên kế hoạch khai quật, thăm dò khảo cổ học. UBND TP cũng vừa đồng ý về chủ trương theo đề xuất của Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội về việc trưng bày bổ sung di tích cách mạng Nhà D67 và Hầm D67 trong khu này. Hà Nội cũng đã tạm ứng từ ngân sách Thành phố 20,9 tỷ đồng để chi trả Bộ Quốc phòng thực hiện cải tạo, sửa chữa các địa điểm phục vụ di chuyển tạm các đơn vị quân đội đang đóng tại khu vực phía tây đường Nguyễn Tri Phương thuộc khu di tích Thành cổ Hà Nội. Đồng thời, Hà Nội đã ra Quyết định giải ngân kế hoạch vốn 2010 cho các dự án giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất để thực hiện các dự án liên quan, trong đó có dự án khu 1,44ha Xuân Đỉnh, khu 20ha Mễ Trì và khu 74,3ha Tây Mỗ, Đại Mỗ (Từ Liêm). Được biết, việc giải phóng mặt bằng, bàn giao các khu đất trên cho Bộ Quốc phòng thuộc trách nhiệm UBND TP Hà Nội. Toàn bộ kinh phí, bồi thường giải phóng mặt bằng do ngân sách Thành phố chi trả. Ong Mi
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:27:43 GMT 9
Ô Cầu Dừa, Ô cầu Dền, Ô Quan Chưởng… Đây hẳn là những “đặc sản” của Hà Nội, vì khắc các tỉnh thành nước ta chẳng nơi nào có các ô, các cửa ô. Nhất là các cửa ô đó lại đã từng đi vào sử sách. Ví dụ: Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển XVII có đoạn chép: “Trịnh Tùng qua sông Tô lịch, đến cầu Nhân mục, đóng ở Gò Bán, chia tả quân một vạn đánh Cầu Dừa… hữu quân một vạn rưởi đánh Cầu Dền”… (Bản dịch của Viện sử học). Thượng kinh ký sự của Hải thượng Lãn Ông ở chương Vào phủ chúa có ghi: “Hôm sau quan văn thư theo đường bên tả qua Nhân Mục thẳng qua Hoàng Mai, theo Cầu Dền mà vào thành”. Sách Cổ tích và thắng cảnh thủ đô (bản dịch của Phan Võ) của Sở Bảo có viết về Ô quan Chưởng: “Ngày Pháp sinh sự đánh thành Hà Nội (20-11-1873) chúng đi qua cửa ô này. Viên chưởng cơ chỉ huy quân sĩ chống cự rất anh dũng và hy sinh tại đó. Vì vậy mới có tên gọi là Ô quan Chưởng”. Gần đây hơn, lại có một cửa ô đã chứng kiến tội ác của Thực dân Pháp khi chúng quay lại gây chiến năm 1946: tại ngã ba phố Hàng Bún hiện có tấm bia mang những dòng chữ: “khắc sâu căm thù thực dân xâm lược Pháp đã tàn sát đồng bào ta tại nơi đây ngày 17 tháng 12 năm 1946 mở đầu cuộc gây hấn của chúng ở Thủ đô Hà Nội”. Ngã ba đó chính là cửa Ô Thạch Khối ngày xưa. Vào mùa hè năm 1967, hai tên giặc lái Mỹ từ hai máy bay bị quân dân Hà Nội bắn tan đã rơi xuống chỗ ngôi nhà 71 phố Thụy Khuê, thì đấy cũng lại là cửa ô Thụy Chương đời trước. Còn như trong thơ ca văn nhạc thì các cửa ô nghiễm nhiên đã trở thành hình ảnh có tượng trưng cho Hà Nội từ lâu rồi. Vậy ô là gì? Cửa ô là gì? Tại sao lại có các cửa ô? và có từ bao giờ?. Dưới đây xin trình bày lần lượt về các vấn đề trên. Thực ra ngay bản thân cái danh từ “Ô” cũng đã là vấn đề hóc búa! Ô là tiếng Nôm hay tiếng Hán Việt? - trong tất cả những tiếng Hán Việt đọc là “ô” đều không có nghĩa nào phù hợp với thực tế các cửa ô nói trong sách cũ cũng như cửa ô Quan Chưởng còn sót lại kia. Tuy rằng các sách chữ Hán của ta có dùng chữ “ô môn” nhưng thực ra dịch ra đó là dịch chữ “cửa ô” chứ không phải là danh từ vốn có của từ vựng Hán Việt. Trong tiếng Nôm thì chữ ‘ô” có nhiều nghĩa. Nhưng xét ra chỉ có cái nghĩa ngăn là có phần phù hợp. Một ô là một ngăn. Ta vẫn thường nói “ô trầu”, “ô thuốc”… Phải chăng là vì các cửa này có những ô, những ngăn ở hai bên cửa chính (như cửa ô quan Chưởng) nên gọi chung là các cửa ô? (Hoặc có thể hiểu một cách đơn giản hơn là cửa có nhiều ô?). Vấn đề này cần nghiên cứu thêm về ngữ ngôn. Có điều đáng chú ý là từ vựng Hán Việt có chữ “ổ” hình như liên quan đến tiếng “ô”. Có thể tiếng nôm “ô” là do tiếng Hán - Việt “ổ” đọc chệch đi chăng?. Vì trong Từ nguyên tập sửu bộ Thổ trang 348 có chữ “ổ” với nghĩa là : “Ụ chắn nhỏ”. Ngoài các thôn xóm đắp đất làm ụ đề phòng giữ, gọi là ổ. Hậu Hán thư chép: Đổng Trác đắp ụ ở Mi, gọi là Vạn tuế ổ”. Kể ra cái cửa ô Quan Chưởng kia không phải là “Ụ chắn nhỏ” nhưng thực tế thì rõ là một công trình có ý nghĩa phòng giữ. Kiến trúc cửa ô đó có khác nào một cổng thành: tường khá dày, ba ô cửa xưa kia hẳn còn có cánh cửa khép mở, trên ô chính giữa có vọng lâu để nhìn xa, nhìn bao quát, phát huy tính năng của điểm cao. Xưa kia tại các cửa ô thường xuyên có lính gác, vì hiện nay ở cửa ô Quan Chưởng trên tường cửa chính còn có gắn một tấm bia đá niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1882), ghi lệnh của ông Tổng đốc Hoàng Diệu cấm người canh cửa không được sách nhiễu dân khi đưa đám ma qua ô. Thời Lê Mạt cũng có lính gác các cửa ô. Hải Thượng Lãn Ông trong Thượng kinh ký sự có kể lại quang cảnh của ô Cầu Dền: …“thấy một thành đất, không cao lắm, cạnh có tường. Trên thành là đường xe ngựa đi. Ngoài là hàng rào tre. Dưới chân là hào sâu, có thả đầy chông. Thành có 3 vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng gươm dao sáng quắc”. Rõ ràng là các cửa ô có công dụng như các cổng thành, điều đó không nghi ngờ gì nữa. Có điều chúng thuộc về tòa thành nào? Có từ bao giờ?. Về câu hỏi thứ nhất, căn cứ vào hai bản đồ tỉnh thành Hà Nội dựng năm 1831 và 1866 - mà ông Trần Huy Bá vẽ lại, đem in trong Lịch sử thủ đô Hà Nội chúng ta có thể giải đáp dễ dàng. Đó là một tòa thành đất (gọi là lũy đất cũng được) có bốn mặt như sau: mặt phía Đông gần chung với đê sông Hồng, từ dốc Yên Phụ đến ngã ba đường Nguyễn Khoái - Lãng Yên, dài khoảng 6.000m. Mặt Nam thì tiếp đó, thành chạy sang ô Đông Mác rồi nối theo con đê lần lượt mang các tên đường Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La thành, tới ngã ba Giảng Võ dài khoảng 5.000m. Từ ngã ba này thành chạy ngược theo đường Giảng Võ, qua bến ô tô Kim Mã, vượt đường Nguyễn Thái Học ra phố Ngọc Hà, chạy bao quanh phía sau núi Sưa (mà lâu nay thường gọi lầm là núi Khán) tới đầu dốc Hoàng Hoa Thám, dài khoảng 3.000m. Đó là mặt Tây. Còn mặt Bắc thì lại tiếp đấy chạy ngược đường Hoàng Hoa Thám ra đền Quan Thánh, noi theo đường Thanh niên để trở lại dốc Yên Phụ, dài khoảng 2.000m. Tổng cộng chu vi thành này là khoảng 16km. Trước đây nhiều người cho đó là thành Đại La của Cao Biền, đắp hồi thế kỷ thứ 9 (như các tác giả Bắc thành địa dư chí, C.Madrolle trong Bắc Đông Dương chỉ nam (Indochine du North - Guide), Nguyễn Bá Chính trong Hà Nội chỉ nam)). Ngày nay, tuy tập Lịch sử thủ đô Hà Nội của Viện sử học cũng như các báo đăng rải rác trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (các số 9, 14, 15, 17, 68, 85, 91) đã bước đầu xác định vị trí thành Đại La nhưng trong thực tế, vẫn có đoạn đường mang tên là Đường La thành nên vẫn có thể gây ra sự hiểu nhầm, vẫn có thể có người xem toà thành đất bên trên là thành Đại La. Đến đây, xin phép nhắc lại những tòa thành cũ ở Hà Nội xưa mà sử gọi là La Thành, thành Đại La, thành Thăng Long… Thành Thăng Long đời Nguyễn thì nay ai cũng nhận ra được, nó gần trùng với những con đường Lý Nam Đế (Đông), Phan Đình Phùng (Bắc), Hùng Vương (Tây), Trần Phú (Nam). Bắc thành địa dư chí tờ 1a chép: “Năm Gia Long thứ 4 (1805) sai đắp thành chu vi 1958 tầm 2 thước 5 tấc” (một tầm bằng 8 thước, một thước khoảng 0m40). Vậy thành Thăng Long nhà Nguyễn chu vi khoảng 6.300m. Thành này lại không xê xích gì lắm so với thành Thăng Long thời Lê, vì hành cung của thời Nguyễn xây trên nền điện Kính thiên của thành nhà Lê (điện này cũng như hành cung đều phải xây ở vị trí trung tâm thành). Thành nhà Lê so với thành nhà Lý lại cũng không khác nhau, vì điện Kính thiên của nhà Lê lại xây trên nền đài chính điện của thành nhà Lý vốn là núi Nùng (Nùng sơn chính điện). Vậy mà khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long (khi đó còn gọi là thành Đại La) thì ông cũng không xây thành mới mà dùng luôn thành Đại La của Cao Biền làm Hoàng thành. Thành Cao Biền này dù tính cả đê bọc bên ngoài cũng chỉ khoảng 6.500m là cùng (2125 trượng, mỗi trượng khoảng 3m10) nghĩa là cũng khoảng như thành nhà Nguyễn sau này đó thôi[1]. Vậy tòa thành đất nói ở bên trên kia với 16km chu vi rõ ràng không phải là Đại La thành của Cao Biền. Nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ từ đời Lý. Vì Cương mục, chính biên II, có ghi về năm 1014 như sau: “Đắp thành đất ở Thăng Long. Bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất”. Nói là có lẽ, vì lời chép trên không chỉ định cụ thể vị trí và quy mô tòa thành ấy. Có thể hiểu đó là thành lũy ở vòng phía ngoài rộng hơn nữa, từ Nhật Tân qua Bưởi - Cầu Giấy - Ngã Tư sở - Ngã Tư Vọng - Ngã tư Trung hiền tới đê Vĩnh tuy mà nay vẫn còn là đường đi (trước kia Pháp gọi là Route Circulaire). Phải đợi đến thế kỷ 16 vấn đề mới rõ. Sử Toàn thư, Q.XVII có đoạn: “Mậu tý (1588) tháng 2, họ Mạc thấy quan quân (nhà Lê Trung hưng) ngày một mạnh, bèn bàn kế giữ (kinh đô). Hạ lệnh cho binh dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm 3 lần lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật chiêu vượt qua Hồ Tây, qua Cầu Dừa, qua Cầu Dền, đến Thanh trì, cao hơn thành Thăng Long vài trượng, rộng 25 trượng đào 3 lần hào, đều trồng tre, dài mấy mươi dặm bọc lấy ngoại thành”. Hồ Tây - Cầu Dừa - Cầu Dền - Thanh Trì, rõ là khớp với tòa thành đất còn thấy vẽ trong bản đồ năm 1831 nói ở bên trên. Như thế là ở bên ngoài tòa thành xây bằng gạch - là nơi ở của vua, hoàng gia và triều đình mà đoạn sử trên kia gọi bằng hai tên lẫn lộn là thành Đại La và thành Thăng Long - thì vua Mạc đã sai đắp một tòa thành ở bên ngoài có 3 lần lũy bằng đất, để che chở cho kinh thành Thăng Long (gần Hoàng thành và khu dân cư 36 phố phường). Và vậy thì rõ ràng là để kinh thành có thể thông với bên ngoài tất phải xẻ ra nhiều cửa. Cho nên vào năm 1592, khi Trịnh Tùng kéo quân ra đánh Thăng Long mới có việc vua Mạc cắt bọn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn “đem quân bốn vệ giữ Cửa Cầu Dừa, qua Cửa Cầu Muống, thẳng đến cửa Cầu Dền” (Toàn thư, Q.XVII).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:28:15 GMT 9
Điều đáng lưu ý là tuy có cửa nhưng chưa gọi là cửa ô. Phải đợi trăm rưởi năm sau danh từ này mới xuất hiện. Số là sau khi hạ được thành Thăng Long, trước khi rút về Thanh Hóa, Trịnh Tùng đã theo lời khuyên của hàng tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện, ra lệnh san phẳng tòa thành ngoài nọ (thực ra như vậy là Trịnh Tùng đã mắc mưu Nguyễn Quyện). Non trăm rưởi năm sau, cháu sáu đời của Trịnh Tùng là Doanh lại phải làm lại cái việc của nhà Mạc. Sử Cương mục, chính biên XL, có ghi ý kiến của Trịng Doanh khi y bảo quần thần: “Kinh sư là cội gốc của nước, cung miếu của triều đường, dinh thự của trăm quan đều ở đấy; thế mà đường ngõ bốn mặt đi lại thông thống, thành lũy không thể trông cậy… “Doanh đã hạ lệnh đắp lại thành đất bao quanh kinh thành, đặt tên là Đại độ. Cương mục ghi tiếp: “Khi đắp xong, mở 8 cửa, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, phân phối binh lính canh giữ…”. Việc này xảy ra năm 1749. Có lẽ danh từ cửa ô ra đời từ đây. Và như vậy tới giữa thế kỷ 18, Hà Nội có 8 cửa ô. Hình thù của chúng chắc không khác cửa ô Quan Chưởng còn lại đến ngày nay là mấy với cấu trúc “mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu”. Có điều 8 cửa đó tên là gì và ở vào những chỗ nào so với bây giờ thì không rõ. Tuy nhiên đoạn sử trích lại ở trên cũng lưu lại ba tên: cửa Cầu Dừa, cửa cầu Muống, cửa Cầu Dền. Cầu Muống nằm ở giữa. Vậy mà hiện nay giữa Cầu Dền và Cầu Dừa là cửa ô Đồng Lầm (tên chữ Hán là Kim Liên, giáp giới làng Trung Phụng). Như vậy, cửa Cầu Muống ứng với cửa Đồng Lầm nay[2]. Vậy tòa thành đất vẽ trong bản đồ năm 1831 rõ ràng là thành cũ đắp từ đời Trịnh Doanh còn sót lại. Vì từ năm đắp thành (1749) đến năm dựng bản đồ (1831) trong sử không hề có ghi việc phá thành cũ hoặc đắp thành mới (Những việc này ngày xưa rất hệ trọng nên nếu có sử phải chép). Vả lại Đại Nam nhất thống chí, quyển Hà Nội còn chép rành rành: “Thành Đại La: Trương Bá Nghi đắp đời Đường Đại Hữu, sau Triệu Xương đắp thêm. Đời Đường Ý Tông Cao Biền đắp thêm, quanh co 1982 trượng, có 55 vọng lâu, 6 cửa tò vò, lâu năm đổ lở, không rõ ở chỗ nào. Nay phía ngoài tỉnh thành (Hà Nội) có lũy tre bao bọc bốn mặt hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, có 12 cửa ô là xây đắp năm Cảnh Hưng thứ 10 chính là năm 1749. Chỉ khác một điều là tới năm 1831 thì thành đất đã mở ra tới 16 cửa ô, chứ không phải chỉ 8 cửa như Cương mục chép hoặc 12 cửa như Nhất thống chí chép[3]. Một vấn đề cuối cùng: Hà Nội thực ra có bao nhiêu cửa ô? Giữa ô và cửa ô có gì khác nhau?. Nói “ô” (như ô Yên Phụ, ô Đống Mác) là nói tắt, thực ra phải nói cửa ô. Ví như nói ô Yên Phụ, ô Đồng Lầm là để chỉ những cửa ô xây ở làng Yên Phụ và làng Đồng Lầm. Hoặc nói ô Cầu Dền, hoặc Cầu Dừa là để chỉ các cửa ô xây ở cạnh Cầu Dền cạnh chợ Dừa (hoặc Cầu Dừa, cái cầu ở bên chợ, bắc ngang sông Kim Ngưu cũ). Hà Nội có bao nhiêu cửa ô?. Lời đáp không đơn giản vì số cửa ô tùy thuộc từng thời kỳ lịch sử. Đành rằng nhiều nhà văn nhà thơ cho Hà Nội có 5 cửa ô (ví dụ tập Hà Nội thơ in năm 1968 chẳng hạn: “khói đạn trắng trời năm cửa ô” (trang 35); “Những ngày vít giặc năm cửa ô” (trang 103). Nhưng đó là chuyện văn học, chuyện hư cấu. Bên trên đã nêu là vào năm 1749 Hà Nội có 8 cửa ô (hoặc 12 cửa ô) và có hai cửa còn lưu tên đến ngày nay; Cầu Dên, Cầu Dừa. Sau đó sách Bắc thành địa dư chí (tờ 3a) soạn vào những năm đầu thế kỷ XIX cho biết là Hà Nội có 21 cửa ô. Song cách này lại không kể đủ tên các ô đó. Phải đợi đến năm 1831 thì mới được ghi chép cụ thể. Trong bản đồ dựng năm này có ghi lại vị trí và tên gọi của 16 cửa ô. Đó là ô Yên Hoa nay là chỗ ngã ba đê Yên Phụ - đường Thanh Niên; ô Yên Tĩnh nay là chỗ ngã ba đê Yên Phụ - Cửa Bắc; ô Thạch Khối ở đầu dốc Yên Ninh; ô Phúc Lâm ở đầu phố Hàng Đậu; ô Đông Hà nay quen gọi là Ô Quan Chưởng; Ô Trừng Thanh ở đầu phố Hàng Chĩnh; Ô Mỹ Lộc ở vào ngã tư Hàng Mắm - Hàng Muối; ô Đông Yên nay là ngã tư Hàng Tre - Hàng Thùng; ô Tây Luông nay là khu Nhà hát lớn; ô Nhân Hòa ở trước cửa viện Quân y 108 đường Trần Hưng Đạo; Ô Thanh Long nay quen gọi là ô Đông Mác, ô Yên Ninh tức là Ô Cầu Dền; Ô Kim Hoa tức Ô Đồng lầm, ở gần Ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên; Ô Thịnh Quang tức là ô Chợ Dừa nay; ô Thanh Bảo nay ở vào khoảng bến ô tô Kim Mã và ô Thụy Chương nay ở vào khoảng đầu phố Thụy Khuê trên bờ Hồ Tây. Như vậy là vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, Hà Nội có 16 cửa ô như đã nêu trên. Nhưng đến năm 1866 thì thấy mất một cửa ô. Vì xem bản đồ Hà Nội dựng năm 1866 không còn cửa ô Nhân Hòa nữa. Và điều đáng chú ý là nhiều cửa ô đã mang tên mới: Yên Hòa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luôngthành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào. Chín cửa ô đã đổi tên!. Và chỉ trong có ba chục năm! Nhưng không chỉ có thế, sự thay đổi ấy lại vẫn tiếp tục diễn ra, vì một bài vè xuất hiện sau đó mười lăm năm có những câu sau: Mười năm ô đứng đường đường: Yên Ninh,Yên Phụ, Thụy Chương một bề Tiền Trung, Nghĩa Lập gần kề Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông Yên Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên Thịnh Yên, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào[4]. Vẫn 15 cửa, nhưng Yên Định lại đã thành ra Yên Ninh, Đông Hà thành Thanh Hà, Trừng Thanh thành Ưu Nghĩa, Trường Long thành Cựu Lâu và Lãng Yên thành Lương Yên. Có sự đổi thay như vậy là do chính các làng có cửa ô đã bị đổi tên. Có lẽ vì hay thay đổi sinh ra khó nhớ, lại dễ lẫn nên nhân dân cứ gọi theo thói tục là ô Hàng Đậu, ô Hàng Mắm, ô Quan Chưởng, ô Cầu Dền, ô Đống Mác… (về cửa ô này, có thuyết giải thích là ở đó, vào một thời xưa, có nhiều gò đống dáo mác hư hỏng nên nhân đó thành tên; có thuyết lại bảo là do chữ Ông Mạc đọc chệch ra. Cũng có thể, vì Toàn thư, Bản kỷ, quyển XVIII có chép: Tháng 11 năm Canh Tý (1600) Trịnh Tùng sai làm cầu phao qua sông Cái ở bến Ông Mạc. Phải chăng thời đó Lương Yên có tên là Ông Mạc?). Một điều đáng chú ý nữa là phần lớn cửa ô đều tập trung ở mặt Đông: 11 cửa, trong khi mặt Tây có 2 cửa, và mặt Nam có 3 cửa thôi. Đó là vì mặt Đông thông ra sông Hồng, là nơi tụ hội buôn bán đông đúc. Đặc biệt các làng, các phường ở mặt này đều buôn bán những mặt hàng hoặc gắn với sông nước, hoặc cồng kềnh chỉ có thể chuyên chỏ bằng thuyền bè: chiếu từ Ninh Bình, Thái Bình ra, muối từ Nam Định lên, mắm cá mắm tôm từ Thanh Nghệ tới, tre gỗ từ rừng về xuôi, đồ sành chum chĩnh từ Móng Cái, Thổ Hà…theo các triền sông mà đến và buồm cho mọi thuyền bè. Nhưng bên cạnh lý do kinh tế nói trên, mặt Đông với nhiều cửa ô như thế còn có một tầm quan trọng về quân sự. Hẳn rằng khi cho xẻ nhiều cửa ở mặt này, những người thiết kế thành lũy hồi xưa đã không quên các cuộc tấn công thành Thăng Long đều từ phía sông Hồng tràn vào mặt đông kinh thành. Một tòa thành, ở mặt xung yếu, có nhiều cửa thì lợi cả thế công lẫn thế thủ. Công thì có thể bất ngờ xuất quân cùng một lúc bằng nhiều cửa, đánh địch bằng nhiều lối, gây rối loạn cho bên địch. Mà thủ thì sách “Binh Thư yếu lược” mục Giữ thành (trang 273, bản dịch của Viện sử học) có viết rằng: “cách giữ thành chẳng những mở các cổng to, mà ở khoảng giữa hai cửa mở hai, ba cửa nữa cả quanh thành có vài mươi cửa, mỗi cửa đều cho chở thổ mộc từ trong thành ra ngoài, lấp hào làm đường cho quân ta ra vào không trở ngại…”. Ấy là chưa kể do có nhiều cửa thì việc thông tin liên lạc trong và ngoài tất là dễ dàng và thuận tiện hơn. Một chi tiết nữa cũng cần phải giải quyết: Vậy còn ô Cầu Giấy, thuộc về thành lũy nào mà chưa thấy nói tới? Chúng tôi cho rằng ô Cầu Giấy cũng vẫn ở tòa thành đất mà ta đang nói tới. Nó chính là cửa ô Thanh Bảo, tức là vào chỗ bến ô tô Kim Mã trên đường Nguyễn Thái Học bây giờ. ít lâu nay, ta vẫn lẫn lộn Cầu Giấy và Ô Cầu Giấy. Trước đây năm sáu chục năm người Hà Nội phân biệt hai địa điểm này rất rõ rệt. Chứng cứ: sách “Hà Nội chỉ nam” của Nguyễn Bá Chính, soạn năm 1923 (Trung Hoa xuất bản) ở trang 131 trong khi chỉ dẫn con đường đi Cầu Giấy có viết :”…xe điện đi khỏi Giám độ 600 thước Tây, khỏi ô Cầu giấy (ô Cầu Giấy và Cầu Giấy khác; đến ô Cầu Giấy rồi còn xa mới đến Cầu giấy) phía cạnh đường có mộ vua Phùng Hưng”… Giám nói trong đoạn văn nói trên là Văn Miếu ngày nay. Đi qua Văn Miếu 600m, qua Ô Cầu giấy là tới mộ Phùng Hưng. Vậy Ô cầu giấy đúng là bến ô tô Kim Mã ngày nay, tức là ô Thanh Bảo ở trên bản đồ năm 1831. (Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 160 (1/1975), tr.60-65) [1] Đây nói là thành Thăng Long với tư cách là thành nội và thành cấm. Vì ngoài thành nội, thành cấm này, các vua Lý và tiếp đó các vua Trần có phát triển quy mô Hoàng thành về phía Tây và di tích còn lại ngày nay là các lũy, các đê lần lượt mang tên Hoàng Hoa Thám, đê Bưởi - Cầu Giấy, đường Kim Mã. [2] Ca dao cổ Hà Nội có câu: Trên trời có cái cầu vồng Kẻ Chợ có Cầu Muống, Cầu Đông, Cầu Dền… Ngày nay nhân dân ở làng Kim Liên còn cho biết cái cầu ở chỗ Ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên trên đường Quốc lộ số 1 vốn xưa là cầu gỗ bắc qua sông Kim Ngưu và có tên là Cầu Muống, cũng như xứ đồng ở nơi này vẫn còn gọi tên là xứ Cầu Muống. [3]Ô Quan Chưởng cứ tên khắc trên nóc cửa là “Đông Hà môn”. Cách giải thích của ông Sở Bảo về cái tên “Quan Chưởng”, ở phần đầu bài này có nói đến. Trần Huy Bá có đưa ra một cách giải thích khác: Khi xây cửa ô có một khách thương họ Quan tên Chưởng đã bỏ ra nhiều tiền ủng hộ, do đó dân phố tưởng lệ bằng cách ghép tên vào cửa ô (Báo Tổ Quốc, số 12 năm 1963). Về thời gian ra đời của cửa ô này, tấm bia ở đình Thanh Hà (nay mang số 10 phố Ngõ Gạch) dựng năm 1855 do Bùi Tú Lĩnh soạn có cho biết: “Nguyên xưa đình thờ thần xây ở đầu thôn, đến năm Gia Long Đinh Sửu (1817) mở làm cửa ô, ngôi đình thượng bị rỡ để mở đường, nên hương lão mới mời thày xem đất dời đến phía tả La thành …”. Như vậy thì cửa Ô Quan chưởng này xây năm 1817 và ở vào chỗ đình làng Thanh Hà xưa. Điều nay khẳng định thêm một sự thật là từ lần đắp thành đất năm 1749 đến khi có bản đồ có cự mở mang thêm các cửa ô. [4] Trích bài 17 trong Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản, 1971.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:29:37 GMT 9
XÁC ĐỊNH ĐỊA ĐIỂM ĐÔNG BỘ ĐẦU Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán Đông Bộ Đầu là một địa điểm được nhắc đến nhiều lần trong lịch sử Việt Nam thời Lý, Trần, Lê. Nó là một bến quan trọng trên sông Hồng, là nơi đã diễn ra nhiều trận quyết chiến của quân dân ta chống xâm lược Nguyên, Minh... Hầu hết các nhà sử học đều xác nhận vị trí Đông Bộ Đầu ở miền huyện Thượng Phúc (Thường Tín) tỉnh Hà Đông với lý do là ven sông Hồng thuộc huyện đó còn một xã tên là Bộ Đầu. Một vài tác giả ban đầu theo quan điểm trên, về sau cảm thấy sai lầm nhưng vẫn chưa xác định được vị trí chính xác của Đông Bộ Đầu và chỉ nói chung chung là ở phía Đông kinh thành Thăng Long. Dưới đây chúng tôi sẽ chứng minh rằng việc đặt Đông Bộ Đầu ở xã Bộ Đầu huyện Thường Tín là sai lầm. Dựa vào các tài liệu thư tịch, bi ký chúng tôi sẽ cố gắng chỉ định một vị trí chính xác cho Đông Bộ Đầu, đồng thời tìm hiểu vai trò của Đông Bộ Đầu đối với kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê. Đông Bộ Đầu là một bến sông quan trọng của thành Thăng Long, ở trên bờ sông Hồng phía Đông kinh thành, không thể ở huyện Thường Tín, phía Nam kinh thành được. Bộ Đầu vốn là một danh từ chung, có nghĩa là bến sông, là nơi đỗ thuyền ở bên sông[1]. Đại Việt sử kỳ Toàn thư (đời Lê) là sách chép sớm nhất tên Đông Bộ Đầu, khi nói đến loạn Quách Bốc, năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 đời Lý Cao Tông (1209). Sách ấy chép như sau: “Tướng của Phạm Bỉnh Di là bọn Quách Bốc nghe tin (Bỉnh Di bị vuia bắt giam), bèn đem quân hò hét mà vào đến ngoài cửa Đại thành, bị người giữ cửa kháng cự, liền chém cửa mà vào. Vua thấy việc đã gấp, sai triệu Bỉnh Di và Phụ (con Bỉnh Di - TG) đến Lương Thạch xứ ở thềm Thuỷ Tinh giết chết. Bọn Bốc đột nhập Lương Thạch, lấy xe ngựa chở thây Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc thây Phụ, do cửa Vịêt Thành đi ra, xuống bến Đông Bộ Đầu, rồi lại trở vào cung Vạn Diên lập hoàng tử Thẩm làm vua...”[2]. Sách Đại Việt sử lược (đời Trần) cũng chép việc đó nhưng lại gọi Đông Bộ Đầu là bến Triều Đông bộ : Quách Bốc “do cửa Việt Thành ra bến Triều Đông rồi lại vào cung Vạn Diên rước Vương tử Thẩm và Vương tử Sảm về Hải Ấp”[3]. Việt sử thông giám cương mục (đời Nguyễn) chép lại việc đó đã chú thích Đông Bộ Đầu là bến Đông Tân sông Nhị Hà bây giờ[4]. Ở một chố khác sách đó ghi rõ: Đông Tân ở bờ sông Nhị, phía Đông thành Đông Kinh”[5]. Vậy Triều Đông Bộ, Đông Bộ Đầu, Đông Tân đều chỉ một địa điểm, đó là bến phía Đông kinh thành Thăng Long (thành Đông Kinh thời Lê) trên sông Hồng. Đông Bộ Đầu (hay Triều Đông bộ) theo ghi chép của Toàn thư và Việt sử lược ở ngay sát kinh thành Thăng Long thời Lý Trần: từ cửa Việt Thành ở bên trái điện Kính Thiên đi ra ngay bến Đông Bộ Đầu[6]. Việt sử lược còn chép một đoạn rất rõ: Năm 1209 “Thuận Lưu, Khoái vì việc Bỉnh Di chết, đem thuỷ quân đến đánh kinh sư. Tiền quân đỗ ở bến Đông Bộ (tức Đông Bộ Đầu - TG), do cửa nách bên trái vào thẳng Cấm thành cướp lấy các bảo vật[7]. Vậy rõ ràng Đông Bộ Đầu không thể ở tận Thường Tín được. Vì Đông Bộ Đầu là bến sông quan trọng sát kinh thành nên thuyền bè của vua chúa, tướng tá thường cập bến Đông Bộ Đầu khi về kinh thành. Sau khi đánh Chiêm Thành, ngày 17 tháng 7 năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Nguyên soái Lý Thường Kiệt “từ Chiêm Thành về đến bến Triều Đông”[8]. Năm 1370, Trần Nghệ Tông từ bến Chử Gia (Khoái Châu, Hưng Yên) tiến lên Thăng Long dẹp Dương Nhật Lễ, thuyền quân cập bến Đông Bộ Đầu[9]. Cũng vì Đông Bộ Đầu là cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long nên nhà Lý đã cho xây dựng một cửa thành ở bến Triều Đông và cắt quân coi giữ. Năm Chính Long Bảo Ứng thứ 3 đời Lý Anh Tông (1165), nhà Lý sai “dời Đại La thành ở cửa Triều Đông lùi vào 75 thước, xây bằng gạch đá để tránh nước sông vỡ lở”[10]. Là bến sông quan trọng trên sông Hồng, Đông Bộ Đầu đồng thời là nơi đã diễn ra các cuộc thi bơi chải hàng năm. Bơi chải là một phong tục cổ truyền của nhân dân Việt Nam. Ngay sau khi dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, năm 1011 Lý Thái Tổ đã cho xây ở “bến Đông của sông Lô” (đời Lý gọi sông Hồng là sông Lô) một cung điện gọi là điện Hàm Quang, chuyên dùng làm nơi vua ngự xem đua thuyền vào mùa thu hàng năm. Năm 1058, Lý Thánh Tông sai xây điện Linh Quang trên sông Lô (Hồng) làm nơi xem đua thuyền[11]. Năm 1237 nhà Trần xây “điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu[12], gọi là điện Phong Thuỷ. Phàm xa giá (nhà vua) đi qua trú chân ở đó, trăm quan nghênh tiếp và tống tiễn đều dâng (trầu) cau và trà nên tục gọi là “Trà điện”[13]. Năm Hưng Long thứ 4 (1296), tháng 7, Trần Anh Tông “ra Đông Bộ Đầu xem đua thuyền”[14]. Năm Thiệu Bình thứ 2 (1435), ngày 18 tháng 10 Lê Thái Tông “ra bến Đông Tân xem trăm quân đua bơi”[15]. Năm 1619, Bình An vương Trịnh Tùng “ra lầu ở bến Đông Tân xem bơi thuyền”[16]. Đông Bộ Đầu là một khởi điểm giao thông quan trọng từ Thăng Long sang miền Bắc, không thể ở phía Bộ Đầu huyện Thường Tín được. Từ thời Lý ở bến Triều Đông có bắc cầu phao qua sông Hồng để giao thông với miền Bắc Giang[17]. Thời thuộc Minh, giặc Minh cũng bắc cầu phao ở bến Đông Tân thuộc huyện Đông Quan để thông với phủ Bắc Giang[18]. Huyện Đông Quan thời thuộc Minh là huyện phụ quách của thành Đông Quan, tức là huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận là huyện phụ quách của thành Hà Nội thời Nguyễn[19]. Vậy Đông Tân hay Đông Bộ Đầu không thể ở Bộ Đầu huyện Thường Tín vốn là huyện Bảo Phúc thời thuộc Minh. Vả lại, căn cứ vào việc quân Minh bắc cầu nổi ở Đông Tân để thông với Bắc Giang, thì việc đặt Đông Bộ Đầu ở Thường Tín (đối diện với Hưng Yên) lại càng không đúng. Đông Bộ Đầu là một vị trí quân sự xung yếu của kinh thành Thăng Long, nơi giành giật giữa ta và giặc ngoại xâm, nơi đã ghi lại những chiến công oanh liệt của quân dân ta chống giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lầng thứ nhất (1258), quân Mông Cổ đã tiến chiếm Đông Bộ Đầu[20]. Sau khi tạm rút lui xuống vùng sông Thiên Mạc (Hưng Yên), ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Tỵ, niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 (29-1-1258), Trần Thái Tông cùng Thái tử thống suất lâu thuyền, tiến quân lên Đông Bộ Đầu, tổ chức phản công, đại phá quân Mông Cổ, thu phục lại Thăng Long và kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh vệ quốc. Được tin quân Nguyên sắp kéo sang xâm lược nước ta lần thứ hai, năm Giáp Thân niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 đời Trần Nhân Tông (1284), “tháng 8, Trần Hưng Đạo điều động quân của các vương hầu duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu (rồi) chia quân đi đóng giữ Bình Than và các nơi xung yếu...”[21]. Ngày 6 tháng Giêng năm Thiệu Bảo thứ 7 (11-2-1285), Ô Mã Nhi và giặc Nguyên đánh vạn Kiếp, Phả Lại; ngày 12 (17-2-1258) giặc đánh Vũ Ninh (Võ Giàng), Đông Ngàn (Từ Sơn), Gia Lâm, đến Đông Bộ Đầu, dựng lá cờ lớn[22]. Vua Trần sai Đỗ Khắc Chung đến trại Ô Mã Nhi dò hư thực. Giờ mão ngày 13 (5-7 giờ sáng ngày 12-8-1258), Khắc Chung từ chỗ quân Nguyên về, giặc đuổi theo, cùng quân ta đại chiến. Ngày 13, sau khi đánh bại quân ta ở Lô giang (sông Hồng), quân Nguyên chiếm được Thăng Long[23]. Tháng 5-1285, quân ta phản công địch mạnh mẽ: Trung Thành vương đánh Thiên hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu (tức Hà Khẩu, khoảng phố Chợ Gạo và cuối phố Hàng Buồm ngày nay[24]), Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, Thượng tướng Trần Quang Khải cùng Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại giặc ở Chương Dương (Thường tín), kinh thành... Quân giặc tan vỡ lớn, Thoát Hoan, A Thích bỏ chạy qua sông Lô (Hồng Hà) về Bắc Giang[25]. Cứ theo những ghi chép trên thì Đông Bộ Đầu phải là bến sông đối diện với Gia Lâm. Giặc chiếm Đông Bộ Đầu rồi tiến vào chiếm Thăng Long. Nếu cho Đông Bộ Đầu ở phía huyện Thường Tín thì cuộc hành quân của giặc trở nên quanh quẩn và rõ ràng là phi lý!. Sang thế kỷ XV, trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống giặc Minh, sau các chiến thắng Tốt Động, Chúc Động, Lê Lợi thống suất đại quân từ Thanh Hoá tiến gấp ra Bắc, tổ chức vây hãm thành Đông Quan. Tháng 11 năm 1426, Lê Lợi trú quân ở Lung Giang (vùng sông Đáy). Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị “theo Đại Lung giang ra cửa sông Hát, thuận dòng xuôi đến bến Đông Bộ Đầu của sông Lô”[26], tấn công vào mặt Đông thành Đông Quan, trong khi Đinh Lễ đánh vào vùng cầu Tây Dương (Cầu Giấy) ở mặt Tây và Lê Lợi chỉ huy đạo quân chủ lực tiến lên cửa Nam Đại La thành, đánh vào mặt Nam[27]. Xem thế đủ biết Đông Bộ Đầu là một cửa ngõ quan trọng ở ngay phía Đông thành Đông Quan, tức Kinh thành Thăng Long cũ. Gần đây nhân đọc một bài bi ký thời Lê Trung hưng ở chùa Hồng Phúc (còn gọi là chùa Hoà Nhai hay chùa Hoè Nhai, ở phố Hàng Than, Hà Nội) chúng tôi thấy có thể định một vị trí chính xác cho Đông Bộ Đầu. Bia đề ngày 21 tháng Chạp năm 24 hiệu Chính Hoà triều Lê (1703 - đời Lê Hy Tông và chúa Trịnh Căn) do hà Tông Mục (người Thiên Lộc, nay là Can Lộc, Hà Tĩnh) đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1688) làm quan Bồi tụng, tước Hồng Lô tự khanh[28]) soạn nhân dịp làm lại chùa Hồng Phúc. Văn bia có đoạn như sau: Ngã Đại Việt Thăng Long Thành chi Đông Bộ Đầu Hoè Nhai phường hữu tự danh Hồng Phúc Đài Lô giang nhi khâm Tô Lịch, khống Tản lĩnh nhi củng Thần cư . Tạm dịch: “Phường Hoè Nhai ở bến Đông Bộ Đầu của thành Thăng Long nước Đại Việt có ngôi chùa tên là Hồng Phúc, lấy Lô giang (sông Hồng) làm đai, Tô Lịch làm vạt, chắn ngang non Tản mà chầu về cung vua”. Sách Hà thành linh tích cổ lục (mục Hồng Phúc tự)[29] cũng viết: Chùa Hồng Phúc “ở phường Giai Cảnh, tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận, tục gọi là chùa Hoà Giai, thuộc Đông Bộ Đầu...” (Hoà Giai chắc là tên đọc trệch của Hoè Nhai). Chùa Hồng Phúc nay ở cạnh số nhà 17 phố Hàng Than, gần dốc lên đê Yên Phụ, xưa thuộc địa phận xã Hoè Nhai (còn gọi là Giai Cảnh), huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội. Phố Hoè Nhai ở mé dưới chùa, chạy thẳng ra đê Yên Phụ. Vậy Đông Bộ Đầu là bến sông Hồng ở vào khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc phố Hoè Nhai hiện nay, mé trên cầu Long Biên một chút. Ngày nay chỗ đó chỉ còn một lạch nhỏ thuộc bãi Phúc Xá hạ. Thượng toạ Thích Tâm Huy (năm nay 72 tuổi, trụ trì chùa Hồng Phúc và ở chùa này từ bé) cho chúng tôi biết hồi còn bé, thượng toạ vẫn đi cổng sau chùa ra tắm ở bến sông này, thuyền bè đậu san sát ở đó. Về nguyên uỷ tên phố Hoè Nhai, theo tục truyền, mỗi khi vua Lý từ Hoàng thành Thăng Long ra chùa Hồng Phúc hay về thăm quê Cổ Pháp Đình Bảng, Bắc Ninh), đều đi theo đường phố này rồi ra sông Hồng; theo lệ quy định, mỗi triều thần phải trồng một cây hoè ở hai bên đường, vì vậy nó được gọi là “đường trồng hoè” (Hoè Nhai)[30]. Truyền thuyết đó chứng tỏ Đông Bộ Đầu ở cuối phố Hoè Nhai, bên bờ sông Hồng quả là bến sông quan trọng của kinh thành Thăng Long thời Lý, giao thông với phủ Bắc Giang (nơi có quê hương nhà Lý). Bên tả ngạn sông Hồng, xế dốc Hàng Than, đối diện với xã Tứ Liên, có thôn Bắc Cầu, xưa có tên là Đông Cầu (cầu phía Đông), tương truyền xưa là đầu cầu về phía Đông của cầu phao bắc qua sông Hồng sang Hà Nội[31]. Truyền thuyết này cũng phù hợp với sự thực lịch sử là ở thời Lý-Trần-Lê thỉnh thoảng có bắc cầu phao từ Đông Bộ Đầu qua bên tả ngạn sông Hồng để sang Kinh Bắc. Hai truyền thuyết kể trên là tá chứng, giúp thêm vào việc xác định vị trí Đông Bộ Đầu ở đầu dốc Hàng Than và dốc Hoè Nhai. Vị trí đó của Đông Bộ Đầu phù hợp với toàn bộ các tài liệu thư tịch đã dẫn ở trên. * Việc xác định vị trí Đông Bộ đầu như đã trình bày ở trên sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề vị trí của Hoàng thành Thăng Long thời Lý Trần. Mấy năm gần đây, trong giới sử học Việt Nam đã phổ biến quan niệm cho rằng Hoàng thành thời Lý Trần không phải ở vị trí thành Hà Nội thời Nguyễn mà là ở phía Tây thành Hà Nội thời Nguyễn. Về phía Đông nó chỉ đến vùng Quảng trường Ba Đình, đường Hùng Vương và đền Quán Thánh. Đến thời Lê, Hoàng thành mới xê dịch dần về phía Đông cho gần sông Hồng[32]. Theo ý chúng tôi, những chứng cớ mà các nhà nghiên cứu sử học và địa lý lịch sử đã nêu ra để bênh vực giả thuyết đó chưa được dồi dào và vững chắc. Nhân tìm hiểu vị trí Đông Bộ Đầu, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một gợi ý sau đây: Theo Toàn thư và Việt sử lược, từ cửa Việt Thành ở bên trái điện Kính Thiên trong Hoàng thành đi ra là xuống bến Đông Bộ Đầu, ngược lại từ Đông Bộ Đầu đi vào theo cửa nách bên trái là đến thẳng Cấm thành. Vậy phải chăng Hoàng thành Thăng Long từ thời Lý Trần đã được xây dựng ở gần sông Hồng?. Tuy nhiên, đấy là một vấn đề phức tạp, cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu thêm. Chúng tôi hy vọng sẽ đề cập đến vấn đề vị trí thành Thăng Long thời Lý Trần trong một bài nghiên cứu riêng. (Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 77 (8/1965), tr.56-59) [1] Xem Từ nguyên, Từ hải…. [2] Toàn thư, Bản kỷ, Q.4, 25b. [3] Việt sử lược, Q.3, 19a, bản dịch của Nxb. Văn sử địa, Hà Nội, 1960, tr.176-177. [4] Cương mục, Chính biên, Q.5, tờ 33 (Bản dịch của Ban Nghiên cứu Văn sử địa). [5] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, tr.176 đã đoán: “Triều Đông hẳn là bến Đông Bộ Đầu đời sau trên sông Hồng, trước thành Thăng Long”. Triều Đông bộ có lẽ có nghĩa là bến Đông chầu vào Kinh thành Thăng Long. [6] Toàn thư, Bản kỷ, Q.4, 25b; Việt sử lược, Q.3, 14a (bản dịch, trang 165-166): Chữ “hữu” phải sửa là chữ “tả” . Tả là phía Đông. [7] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.178. [8] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.105, cũng xem các trang 146, 178, 183. [9] Toàn thư, Q.6, 33b; Cương mục, Q.10, tờ 26. [10] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.72; Toàn thư, Q.2, 5a. [11] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.96, 113; Toàn thư, Q.3, 19a, b, 35b chép các cuộc đua thuyền ở đó năm 1080, 1118, 1119, 1123, 1130… Sau năm 1058 không thấy nói đến điện Hàm Quang nữa. Có thể điện Hàm Quang sau đổi là Linh Quang. [12] Toàn thư, Q.5, 11a chép là "dời xây (di tạo) điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu”. Có thể là “tu tạo” (sửa lại) vì điện Linh Quang trên sông Hồng đã có từ thời Lý. [13] Toàn thư, Q.5, 11a. [14] Toàn thư, Q.6, 4b. [15] Toàn thư, Q.11, 31a; Cương mục, Q.16, tờ 31. [16] Toàn thư, Q.18, 18b; Cương mục, Q.31, tờ 17. [17] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, 193: “Vương Lê, Nguyễn cải đánh cầu nổi ở bến Triều Đông”; tr.194: “Bọn Đoàn Cấm người Hồng Châu (Hải Dương) đánh nhau với tướng nhà Trần là Phan Lân ở Chợ Dừa “thua chạy, qua cầu nổi ở bến Triều Đông mà về”. [18] An Nam chí nguyên, Q.2; Đại Thanh nhất thống chí cũng chép như vậy. [19] Toàn thư, Q.5, 23a. [20] Toàn thư, Q.5, 22b. [21] Toàn thư, Q.5, 44a. [22] Toàn thư, Q.5, 45. [23] An Nam chí lược, Q.4 (Việc Chinh thảo và vận lương). [24] Toàn thư, Q.5, 25a có nói đến cầu Giang Khẩu, Q.5, 33b nói đến phường Giang Khẩu. Theo Vũ trung tuỳ bút (Nxb. Văn hoá, 1960), Giang Khẩu là Hà Khẩu. [25] Toàn thư, Q.5, 48b. [26] Toàn thư, Q.10, 23b; Cương mục, Q.13, tờ 29. [27] Toàn thư, Q.10, 23b. [28] Đăng khoa lục, Cương mục đều chép Hà Tông Mục người xã Tinh Thạch, huyện Thiên Lộc, đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1688), năm 1699 được thăng Tự khanh (Cương mục, Q.34, tờ 30, 46). [29] Ký hiệu A.497 Thư viện Khoa học Trung ương. [30] Xem Lược sử tên phố Hà Nội, Hà Nội, 1964, tr.253. [31] Tài liệu do cụ Nguyễn Đình Mán, 72 tuổi, người thôn Bắc Cầu cung cấp. Các cố lão vùng đó đều nói thời xưa từ Hà Nội sang Bắc Ninh đều đi qua sông Cầu chứ không đi theo lối cầu Long Biên hiện nay. [32] Trần Huy Bá, Thử bàn về vị trí thành Thăng Long đời Lý, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (8/1959); Hoàng Xuân Chinh, Thử bàn về vị trí thành Thăng Long, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 9 (11/1959); Lịch sử thủ đô Hà Nội, Nxb. Sử học, 1960, tr.23, 58; Trần Hải Lượng, Bàn về địa giới thành Thăng Long, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 68 (11/1964), tr.15…
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:31:25 GMT 9
VIỆC ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONGVÀ VỀ GỐC TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT Vũ Tuấn Sán Ở bên kia cầu Long Biên, tại thôn Bắc Biên xã Ngọc Thụy có ngôi chùa còn giữ được một quả chuông với bài ký khắc năm 1690 ghi lại việc cúng tiền đúc chuông và việc miễn trừ các sưu thuế cho dân làng Cơ Xá là tên cũ của xã Phúc Xá trong đó có thôn Bắc Biên hiện nay. Bài ký này không những có giá trị về mặt lịch sử địa phương mà còn cung cấp một số tài liệu đáng chú ý cho việc định đô Thăng Long năm 1010, và cho việc xác định gốc tích của Lý Thường Kiệt, bổ sung cho cuốn Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn (2 tập, Nhà Xuất bản Sông Nhị, 1950) là một tác phẩm nghiên cứu khá công phu về vị danh nhân này. Sau đây tôi giới thiệu bài ký khắc ở chuông chùa thôn Bắc Biên, và phối hợp thêm với một số tài liệu văn tự khác, nhất là rút từ cuốn Tây Hồ chí, để cung cấp một số điều nhận xét về việc định đô ở Thăng Long dưới thời Lý Công Uẩn, cùng về một số điểm trong tiểu sử của Lý Thường Kiệt. I - VỀ BÀI KÝ KHẮC TRÊN QUẢ CHUÔNG Ở CHÙA BẮC BIÊN Quả chuông ở chùa Bắc Biên là một quả chuông lớn, cao 1,20m đường kính ngoài là 0,65m. Khắp mặt chuông chia làm bốn cột đều nhau từ trên xuống dưới, ở phía trên mỗi cột có khắc một chữ lớn, hình thành bốn chữ: “An Xá tự chung” (chuông chùa An Xá). Mỗi cột lại chia làm hai khoảng, khoảng trên và khoảng dưới, và thảy đều có khắc chữ, ghi rõ trường hợp đúc chuông và ghi tên những người cúng tiền, cũng chép lại một số lệnh chỉ thời Lê Trung hưng, cũ nhất vào năm Vĩnh Tộ nguyên niên (1619) dưới thời Trịnh Tùng miễn cho dân làng Cơ Xá mọi thứ sưu thuế. Tôi đã chọn dịch bài tự sau đây, đầu đề là: “Sơ lập An Xá tự châu thổ san chung tự” 初立安舍寺洲土刊鍾字 ở khoảng trên cột có chữ 舍 (xá), vì bài tự này ngoài việc nói tới chuyện miễn trừ sưu thuế có nhắc đến Lý Thường Kiệt. Bài tự nguyên bản bằng chữ Hán, chúng tôi tạm dịch như sau: Bài tự sự khắc vào chuông và đất bãi của chùa An Xá mới thành lập [A. Về việc miễn thuế từ triều Lý đến đầu triều Lê][1]. Cần xét: cái gốc của chính sách bậc vương giả là lấy ruộng lộc điền[2] để ưu đãi người quân tử, dành đất ruộng chùa để thờ cúng nhà Phật. Trộm thấy: chùa An Xá là nơi danh lam cổ tích vốn xưa ở trong thành Thăng Long, thuộc về đất nội điện nhà vua, nên được vua chuẩn y cho dời ra bãi Trung Giang[3] tức là bãi Cơ Xá . Từ lúc lập kinh đô đến nay, kính được vua Lý Thái Tổ triều Lý ra ngự chỉ cho tới ở bãi Trung Giang, dân không có ruộng cấy lúa, chỉ làm nghề trồng dâu chăn tằm. Lại có tờ biểu do quan đệ thay cho bản địa nên hằng năm không phải chịu thuế gốc dâu, còn mọi khoản đắp sửa đê điều, đường sá, cùng các khoản lính tráng, nhà cửa, bến đò đều được miễn trừ cho chỗ đất cũ, để làm điện vua và cũng để thờ Phật. May mà lòng trời đoái thương, có vị tổ địa[4] giáng sinh là Ngô Quảng Châu 廣珠 vốn hầu cận trong màn trướng nhà vua, kính cẩn tâu xin, được sắc chỉ cho ghi rõ đông tây nam bắc đúng như sổ điền và không phải nộp thuế, để làm cơ nghiệp muôn đời cho đất châu thổ ta. Đó là vị tổ địa, trung thư giám trung thư xá nhân, Đình úy sứ, Quản châu bầu được ban quốc tính là Lý Thường Kiệt tên thụy là Quảng Châu 廣洲 phủ quản. Phúc điền [5] hàng năm là do vị tổ địa đặt ra vậy. Xưa nước Đại Việt ta, từ triều Lý lập đô trải đến vua Thái tổ triều Lê đều có ngự chỉ miễn trừ cho châu thổ ta mọi thứ sưu dịch như thể lệ trước kia. [B. Về việc miễn thuế dưới thời Hồng Đức] Năm Hồng Đức thứ 18 (1487) ngày 14 tháng 2, Chiêu liệt đại phu hộ khoa đô cấp sự trung Nguyễn Thanh Lương, Hiển cung đại phu hộ khoa đô cấp sự trung Nguyễn Úc sao gửi một bản của bản lệnh truyền của Tư lệ giám tổng thái giám tri giám sự Phúc Dương bá Nguyễn Xuân Lan, truyền cho bãi Cơ Xá thuộc huyện Từ Liêm trong đạo Sơn Tây, phía Đông gần các xã Lỗi Cầu, Lâm Hạ phía Tây gần các phường Quảng Bá, An Hoa, phía Nam gần cống Ông Mạc[6], phía Bắc gần các xã thôn Xuân Canh, Bắc Cầu, trên từ chỗ quai bàn giáp với Tam Bảo Châu, dưới đến cống Ông Mạc, cư dân ở bãi Trung Giang, không có ruộng cây lúa, lấy việc nuôi tằm trồng dâu làm nghề nghiệp. Đất châu thổ của bãi đó nguyên dùng để cúng Phật nay thỏa thuận cấp cho trên từ quan viên cho đến dưới dân chúng, mỗi người 4 sào đất làm nhà, 8 sào khẩu phần, cho đến các hạng tàn phế, bệnh tật, mồ côi, góa bụa mỗi người 2 sào, còn thừa lại là đất của Tam - Bảo để thờ cúng Phật đều không phải chịu ngạch thuế. Xã trưởng bản châu là bọn Nguyễn Thì Ý, Nguyễn Vĩnh Xương, Nguyễn Bá Vãng nguyên từ tiền triều đến nay nhiều lần được sắc chỉ cho phép bản châu được miễn trừ mọi thứ thuế sưu dịch về đê điều, đường sá, bến đò, đã trình bày đầy đủ lên vị thừa tuyên sứ của ty Tán trị thừa tuyên sứ Sơn Tây, trung trinh đại phu, Quốc mỹ bá, thiếu doãn Quách Đình Bảo, và Hiến sát sứ trong ty Thanh hình hiến sát đạo Sơn Tây Dương Văn Đán để được phê phán. Các quan Tri huyện sở tại là Phạm Như Trung rồi Lại Kim Bảng đã lần lượt cộng đồng khám xét, đúng là bãi Cơ Xá không hề phải chịu ngạch thuế và viết sửa lại sổ điền bạ nộp lên nha môn. Vị Nam quân đô đốc phủ Chưởng sự kiêm Tông nhân lệnh, Thái bảo, Bình Lạc bá Trịnh Duy Hiếu đã đem đất bãi thuộc hạng nói trên cùng bến đò và ruộng của chùa với số mẫu sào thước, tấc, kê từng số mục tâu bày lên. Được quân thượng tự mình xem xét, rồi trao cho triều thần nghị bàn, tuân hành sắc chỉ “Khâm thử”: [Chiểu lời] bọn Trịnh Duy Hiếu phụng nghị thì các khu đất bãi của Cơ Xá châu ở huyện Từ Liêm phải được mọi nha môn miễn trừ mọi ngạch thuế và đê điều, đường sá, bến đò cùng mọi thứ sưu dịch khác như thể lệ trước đây”[7]. II. VIỆC XÂY DỰNG KINH THÀNH THĂNG LONG Theo bài ký trên đây, ta thấy rằng làng Cơ Xá xưa kia vị trí “nguyên ở trong thành Thăng Long, mặt trước ở ngay nội điện” nhà vua, vì cần xây dựng kinh thành nên đã được lệnh Lý Thái Tổ cho di ra bãi Trung Giang. Như vậy dựa vào tài liệu hiện tại có thể cho rằng làng Cơ Xá là làng cổ nhất ở Hà Nội, vì có trước cả thời kỳ xây dựng kinh thành Thăng Long. Làng Cơ Xá khi xưa đặt tên là làng An Xá. Năm 1010, sau khi Lý Thái Tổ lấy đất làng này để xây dựng kinh thành Thăng Long, làng Cơ Xá đã được lệnh dời ra “bãi giữa sông” - có thể hiểu theo nghĩa “ở ngoài đê”, gồm cả đất ở bãi nổi giữa sông lẫn đất bãi ở ngoài đê sông Hồng. Theo bài “Sự tích xã An Xá” chép cuối cuốn gia phả bằng chữ Hán của họ Nguyễn hiện ở thôn Bắc Biên[8] thì Lý Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 5 đắp thành Thăng Long đã đổi cho xã An Xá cho dời ra giữa sông, địa phận ở phía Tây bờ sông giáp với đất liền làm địa giới, và thành An Xá châu, phụ thuộc vào Kinh Bắc phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, tổng Gia Thị[9]. Đến đời thứ năm vua Thần Tông năm Nhâm Tý [1132] nước lớn, vua thấy dân cư đều phải ở trên nhà sàn để đổi làm xã Cơ Xá[10]. Tài liệu trên còn ghi thêm một chuyện xảy ra khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô: khi Lý Thái Tổ thấy kinh đô Hoa Lư “địa thế chật hẹp không phải đất cư trú đế vương nên định dời đi, còn phân vân chưa định chọn nơi nào thì bỗng thấy có con chó cái có thai cao hơn hai thước, màu sắc rất là kỳ lạ, từ nước phương Bắc đến chùa An Xá thì sinh nở một mẹ tám con, do đó mới ra chiếu [dời đô]”… “Đến đời thứ 9 là Lý Chiêu Hoàng thì nhường ngôi cho nhà Trần, đời Lý chấm dứt mới thấy việc chó sinh 8 con là ứng nghiệm”. Câu chuyện trên có tính cách hoang đường, nhưng nó được nhắc lại trong phần chủ yếu ở một số tài liệu văn tự khác: - Theo Tây Hồ chí (sách Thư viện Khoa học Trung ương, ký hiệu A.3192) thì trước khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, tại chùa Thiên Tân trên núi Ba Tiêu châu Bắc Giang con chó trắng có thai, vượt sông đến ở trên núi Khán Sơn sau đẻ ra đứa con, ai cũng lấy làm lạ. Đến năm Nhâm Tuất [1010], lúc nhà Lý thiên đô về Thăng Long thì hai mẹ con đều hóa…Việc tâu lên, vua cho là chó thần cho lập đền thờ, ở địa phận thôn Trúc Yên. Cũng theo Tây Hồ chí, chùa Khán Sơn là nền cũ của chùa Cẩu Mẫu triều nhà Lý, đến năm đầu Lê Vĩnh Tộ (1619) miếu đổ nát, nhân thế mới chữa làm chùa. - Đại Việt sử ký (quyển 2 tờ 1a) chép “Trước kia ở châu Cổ Pháp [tức vào khoảng huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh hiện nay] tại Viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm có một con chó sinh ra một con, màu trắng có lông đen hình hai chữ “Thiên tử”. Người thức giả bảo rằng đó là triệu chứng người tuổi tuất sẽ lên ngôi thiên tử. Sau vua [chỉ Lý Công Uẩn] sinh năm Giáp Tuất lên ngôi đế, mới biết là ứng nghiệm” (Việc này có được diễn trong Thiên Nam ngữ lục, câu 4474, 4478). Mấy tài liệu trên có nhiều chỗ không ăn khớp với nhau, nhưng thống nhất ở chỗ ghi lại việc xuất hiện một con chó mẹ đẻ con có tính cách quái dị (đẻ ra đứa trẻ theo Tây Hồ chí, đẻ ra chó trắng có lông đen hình thành chữ “Thiên tử” theo Đại Việt sử kí và Thiên Nam ngữ lục, đẻ ra 8 con theo Sự tích làng Cơ Xá). Dù sao, thì việc Lý công Uẩn sinh năm Tuất (Giáp Tuất, 974), việc dời đô ra Thăng Long cũng đúng năm Tuất (Canh Tuất, 1010) ngay sau khi lên ngôi vua cũng vào năm ấy, sự trùng nhau đó hẳn đã gây cho những đầu óc mê tín hồi ấy một đối tượng đặc biệt đối với loài chó được tôn lên làm thần và được thờ ở miếu[11]. Như vậy, dựa theo những tài liệu trên, có thể sơ bộ kết luận rằng: 1. Kinh thành Thăng Long xây dựng năm 1010, là địa phận làng An Xá cũ, ở khu vực mé trên vườn Bách thảo hiện nay, làng An Xá bị nhà Lý lấy đất và được đền bù bằng khu đất ở ngoài bờ sông, sát nhập vào huyện Gia Lâm, Kinh Bắc. 2. Việc xây dựng kinh thành dựa phần chính vào địa thế thuận lợi khu vực thành Đại La cũ như đã được trình bày trong tờ chiếu định đô của Lý Thái Tổ, nhưng truyền thuyết đã thêu dệt một số chuyện có tính cách hoang đường như việc xuất hiện thần Cẩu Mẫu, việc chó cái đẻ 8 con, việc chó trắng có chữ “thiên tử” trên lưng để gây thêm niềm tin tưởng của quần chúng với triều đại mới và đối việc thiên đô vốn có một tầm quan trọng đặc biệt. (Tại Cổ Loa - kinh đô của nước Âu Lạc - cũng có những chuyện tương tự: theo truyền thuyết Cổ Loa cũng được xây dựng trên một làng cũ, làng này bị dời ra ở cuối sông và trở thành làng Quậy (có nghĩa là “Cuối Quậy” tức là cuối) gồm những làng Đại Vỹ, Giao Tác hiện nay. Về việc xây thành Cổ Loa cũng có những truyền thuyết về thần Kim Qui, thần Bạch Kê cùng thánh Trấn Vũ[12].
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:31:59 GMT 9
III. GỐC TÍCH VÀ CHỖ Ở CỦA LÝ THƯỜNG KIỆT A. Về gốc tích của Lý Thường Kiệt: Hoàng Xuân Hãn trong cuốn Lý Thường Kiệt dựa vào Việt Điện u linh và Hoàng Việt địa dư cho Lý Thường Kiệt quê ở phường Thái Hòa trong thành Thăng Long. Nhưng cuốn Việt điện u linh (bản dịch của Trịnh Đình Rư, tr.29) chỉ ghi là người ở “phường Thái Hòa”, tức không nhất thiết phải là nguyên quán mà có thể chỉ là chỗ cư trú. Hoàng Việt địa dư (tờ 20a) không nói tới phường Thái Hòa, chỉ đến núi Thái Hòa, và khẳng định đây là một nơi cư trú: Lý Thường Kiệt “núi Thái Hòa ở phía Tây trong thành. Xưa dưới triều Lý, thượng tướng quân Lý Thường Kiệt từng làm nhà ở đấy (tằng ư thử trí trạch yên). Về sau nhà Lê lập hành cung ở trên núi gọi là điện Thái Hòa”. Bài ký trên chuông nói trên cho ta biết rằng Lý Thường Kiệt chính là người làng An Xá cũ, sau đổi là thôn Cơ Xá, nguyên người họ Ngô tên là Quảng Châu. Lý thường Kiệt được coi là “tổ địa” của làng Cơ Xá , nên tại những địa điểm dính líu đến làng đều thờ ông. Tại thôn Trung Hà ở giữa sông, thôn Cơ Xá nam ở phía dưới bến Đồng Nhân, là những xóm cũ của làng Cơ Xá xưa kia đều có miếu thờ Lý Thường Kiệt: miếu Trung Hà bị rỡ vì đổ nát cách đây ít lâu, còn đền Cơ Xá Nam thì hiện còn ở số 4 phố Nguyễn Huy Tự, tại thôn Bắc Biên, gia đình họ Ngô vẫn thờ Lý Thường Kiệt làm thủy tổ. Trong cuốn Tây Hồ chí[13] có một số tài liệu về Lý Thường Kiệt và xác nhận nguyên quán của vị danh nhân này. Ở chương “Nhân vật” cuốn này ghi rõ “Ngô Tuấn người Cơ Xá huyện Quảng Đức [tức là huyện Vĩnh Thuận sau năm 1805] họ Ngô, tên Tuấn, tự là Lý Thường Kiệt, được ban quốc tính là họ Lý” Ở chương “Cổ tích” mục “Nhà cũ của Việt quốc công” có ghi: Lý thường Kiệt “nguyên người động Bình Sa làng ở phía Nam Dâm Đàm[14]. Sau khi nhà Lý đóng đô ở Thăng Long, ông dời nhà về phía Bắc bờ sông Nhị…”. Như vậy có thể khẳng định được rằng Lý Thường Kiệt chính nguyên quán thuộc làng An Xá (An Xá châu) vốn ở trong khu vực phía Nam Hồ Tây trong thành Thăng Long đời Lý. Làng An Xá có phải là động Bình Sa trong Tây Hồ chí hay không, hiện nay chưa có đủ tài liệu để quyết đoán. Vị trí chính xác ở chỗ nào? hiện nay cũng chưa thể xác định một cách chắc chắn, có thể là ở vùng Khán Sơn trong vườn Bách thảo hiện nay vì theo gia phả họ Ngô ở Bắc Biên thì con chó cái từ phương Bắc sang sinh con ở chùa Cơ Xá , và đền thờ thần Cẩu mẫu theo Tây Hồ chí thì ở tại núi Khán Sơn. Cũng có thuyết cho là vùng thôn Vĩnh Phúc hiện nay là khu Thái Hòa cũ vì ở đó còn cái đồi tương truyền là di chỉ của cung Thái Hòa đời Lý và chữ “nội điện” nói trong bài tự ở chuông chùa An Xá chính là chỉ cung Thái Hòa. Điểm này phụ thuộc vào việc phát hiện vị trí đích xác của thành Thăng Long đời Lý là một vấn đề chưa thực sự giải quyết dứt khoát. B. Về chỗ ở của Lý Thường Kiệt Tây Hồ chí ở mục “Nhà cũ của Việt quốc công” có ghi: “Sau khi nhà Lý đóng đô ở Thăng Long, ông dời nhà về phía Bắc bờ sông Nhị. Nhà ông ở đấy bây giờ là chỗ nộp lương (lương trường) thôn Bắc Môn huyện Vĩnh thuận. Ông lại có nhà riêng ở đường Nam Nhai trước cửa Thái Hòa thành nhà Lý tức là nhà vua ban cho các quan (quan tứ)”. Theo tài liệu trên thì Lý Thường Kiệt có hai chỗ ở: 1. Sau khi nguyên quán là làng An Xá bị chuyển từ khu vực phía Nam Hồ tây ra ngoài bãi bờ sông Nhị, Lý Thường Kiệt đã dời nhà “về phía Bắc bờ sông Nhị…bấy giờ là chỗ nộp lương thôn Bắc Môn huyện Vĩnh Thuận”. Nói rằng Lý Thường Kiệt đã dời nhà từ An Xá về thôn Bắc Môn là mâu thuẫn với chính sử vì Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, chín năm sau khi Thăng Long được định đô, và quê cũ đã bị lấy làm kinh thành từ lâu. Như vậy nếu có sự chuyển chỗ đến thôn Bắc Môn thì phải do bố mẹ Lý Thường Kiệt. Thôn Bắc Môn hiện nay ở đâu? Dựa vào vị trí ở phía Bắc thành và gần kho lương thực[15] thì thôn Bắc Môn chắc ở vào khoảng các phố cửa Bắc, Châu Long, phía Bắc phố Quán Thánh và phía Đông Hồ Trúc Bạch hiện nay. Vị trí nhà ở là như vậy, nên con đường đi học hàng ngày của Lý Thường Kiệt đến trường của Lý Công Ẩn ở làng Bái Ân theo Tây Hồ chí là “theo dọc sông Tô Lịch đến Bái Ân” hoặc “từ Yên Ninh đến Yên Thái”, cả hai đều chỉ một đường từ Yên Ninh lên đến Bưởi để rẽ vào Bái Ân, dọc theo quãng phía Tây của nhánh sông Tô Lịch chảy từ Bưởi sang phía Đông đổ vào con hào phía Bắc thành Hà Nội rồi chảy ra sông Hồng ở chỗ chợ Gạo hiện nay. Ở khu vực hiện giờ không có dấu vết gì về thôn Bắc Môn. Nhưng cuốn địa chí về Hà Nội dưới triều Nguyễn có chép danh sách các thôn phường cũ theo chỗ tôi được biết như Phương Đình địa chí, Đồng Khánh địa dư không thấy ghi tên này, mà chỉ có thôn Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc tổng Vĩnh Xương huyện Thọ Xương tức là vào khoảng cuối phố Hàng Bông gần phố Cửa Nam hiện nay. Tại số nhà 120b phố Hàng Bông bên cạnh đền Thiên Tiên có ngôi đình thôn Bắc Hạ cũ trong có thờ Lý Thường Kiệt, còn giữ được đạo sắc cũ nhất về thời Tự Đức năm thứ 6 phong cho “Lý Thái úy Việt quốc công”. Dựa vào hiện tượng thường thấy ở thời cũ là việc thờ phụng thành hoàng phần lớn dựa vào mối liên lạc nào đó giữa vị thần với địa phương và dựa vào tên thôn Bắc thượng bắc Hạ không phù hợp với vị trí của thôn ở phố Hàng Bông hiện nay, tôi nghĩ rằng có thể thôn Bắc thượng bắc hạ xưa kia là thôn Bắc Môn nói trong Tây Hồ chí, sau vì một lí do nào đó phải dời đến vị trí ở khoảng phố Hàng Bông, nên đã đổi tên cũ không thích hợp nữa vì không còn ở phía Bắc cổng thành nhưng chỉ bỏ có chữ “môn” còn giữ lại chữ Bắc, và biến thành hai thôn Bắc Thượng, Bắc Hạ[16]. 2. Chỗ ở thứ hai của Lý Thường Kiệt sau khi đã giữ chức vụ trọng yếu trong triều là nhà của vua ban cho các quan tức là dinh thự riêng ở đường Nam Nhai. Tây Hồ chí xác định vị trí địa điểm này như sau: “Xét Nam Nhai về đời nhà Trần thuộc phường Thái Thạch 太石. Đến Lê sơ, Thái Thạch được đổi là Thái Hòa 太和. Đời Hậu Lê bỏ hoang gọi là bến Sa thảo (Sa Thảo tân) tục gọi là Hàng Cỏ. Thảo Tân về đầu bản triều [triều Nguyễn] thuộc làng Hoà Mỹ huyện Vĩnh Thuận bây giờ”. Trong danh sách các làng và phường thuộc huyện Vĩnh Thuận (ở các sách đã dẫn trên) tôi chưa tìm thấy làng Hòa Mỹ hay Nam Nhai hoặc Thái Thạch hay Thái Hòa. Theo tên Nam Nhai, có thể đoán được rằng “con đường phía Nam” này phải ở ngay phía Nam cổng cửa nam thành Hà Nội cũ. Còn tên ở Thái Hòa ở phía Nam ngoài thành này chắc không dính líu gì đến cái tên phường Thái Hòa vẫn được coi là nguyên quán của Lý Thường Kiệt tức là ở vào chỗ cung Thái Hòa đời Lý. Dựa vào chỗ ở đây có bến cỏ và có tên Hàng Cỏ, ta có thể sơ bộ đặt nó vào khoảng khu vực Ga Hàng Cỏ và đầu phố Khâm Thiên hiện nay, và có lẽ Hòa Mỹ hiện tại. Tên Hàng Cỏ như vậy đã có từ trước và gắn liền với tên Thảo Tân một bến có nhiều cỏ vì ở một vùng có rất nhiều đầm ao mà cái lớn nhất là hồ Văn Chương hiện đang được lấp đi một phần rộng lớn, theo quy hoạch sửa sang Thành phố. Trong tập Thăng Long tam thập vịnh (sách Thư viện Khoa học trung ương ký hiệu A.2548 có bài “Linh Động phạm ngưu” (Chăn bò ở khu Linh Đồng) mở đầu bằng hai câu: Tứ Mỹ phường đầu cận đế thành Phạn ngưu na lý động danh linh (Đầu phường Tứ Mỹ gần thành vua Chăn trâu ở khu làng Linh Động…). Linh đồng là một làng ở phía Tây ga Hàng Cỏ hiện nay, còn Tứ Mỹ (bốn làng Mỹ) chưa rõ chỉ những làng nào nhưng chắc chắn trong đó có làng Mỹ Đức và có lẽ có cả làng Tiên Mỹ xưa đều thuộc huyện Thọ Xương. Như vậy, ở đây trước kia vẫn có nhiều cỏ và có tên là Bến cỏ (thảo tân) cùng Hàng Cỏ. Sau khi Pháp sang, vào khoảng trước năm 1890, chúng đã lập một trường đua ngựa ở ngay chỗ nhà hát nhân dân hiện tại, có lẽ một phần để tiện tiếp tế cho ngựa vì gần nơi Hàng cỏ và thực tế hồi đó cũng có nhiều gánh hàng cỏ đến tập trung chỗ này để bán cho ngựa ăn. Nhưng tên Hàng Cỏ đã có trước cả hồi Pháp thuộc nhiều. Và tên này đã thành tên ga chính ở Hà Nội, sau khi thực dân Pháp làm xong đường xe lửa đầu tiên[17]. C. Về phần mộ của Lý Thường Kiệt Trong cuốn Lý Thường Kiệt, Hoàng Xuân Hãn đã dân bia của Nhữ Bá Sĩ ở đền làng Ngô xá Thạch Hóa, cho rằng mộ Lý Thường Kiệt ở làng Yên Lạc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Nhưng ngay sau đó, Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh rằng điều nói trên là không đúng, vì đền Yên Lạc thờ Đỗ Anh Vũ cũng làm Thái úy đời Lý chứ không phải thờ Lý Thường Kiệt. Cuốn Tây Hồ chí ở chương Nhân vật, khi nói về Lý Thường Kiệt có cho biết mộ vị tướng này ở trại Nam Đồng ngoại thành Hà Nội. Hiện nay ở phố Nam Đồng số 63 còn ngôi đền thờ Lý Thường Kiệt. Tiếc rằng cuộc điều tra tại chỗ trong giới phụ lão làng Nam Đồng không phát hiện được tài liệu gì về ngôi mộ của Lý thường Kiệt. Những câu đối hiện còn ở đền (trong đó có câu của Nguyễn Thượng Hiền làm năm 1902) cũng không nói gì đến chuyện này. * * * Trên đây là một số tài liệu và nhận xét nhân một bài ký trên quả chuông ở ngôi chùa An Xá làng Bắc Biên và nhân một số tài liệu ghi trong cuốn Tây hồ chí. Có nhiều điều nghi vấn hiện chưa giải quyết được, như trong bài ký trên quả chuông Lý Thường Kiệt được ghi là Quản châu hầu, tuy rằng theo chính sử, ông được tặng tước Việt Quốc công. Ngoài ra một số địa danh cũng cần được đi sâu để xác minh rõ ràng vị trí. Có điều đáng tiếc rằng theo các phụ lão thôn Bắc Biên, năm 1960, thôn này đã bán cho Công ty Tư liệu Gia Lâm (Hợp tác xã mua bán quận 8) một số đồ đồng gồm 375 cân trong đó có chiếc khánh đồng nặng chừng 2 tạ, khánh này có chữ “An Xá tự” và có ghi khá nhiều tài liệu về làng Cơ Xá cũ. (Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 75, 1965, tr.4-9)
[1] Những chữ trong dấu móc là do người dịch thêm vào để tiện việc theo dõi. [2] Ruộng tế của Khanh đại phu thời cổ. [3] Tức là bãi ở khoảng giữa sông, hiện nay có thôn Trung Hà là một thôn của xã Ngọc Thụy. Thôn Trung Hà trước đây là xóm Trung Hà cùng với xóm Bắc Biên nằm trong xã Phúc Xá tức Cơ Xá cũ. [4] “Tổ địa” tra những từ điển Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải và Phật học đại từ điển không thấy giải nghĩa. Theo một số phụ lão thì đấy là chữ nhà Phật; chỉ những tín đồ có uy thế. [5] Chỉ những ruộng cúng vào chùa chiều để làm hậu hay dùng bố thí cho người nghèo. [6] Lâm Hạ là tên cũ của Lâm Do. An Hoa là tên cũ của Yên Phụ. Cống Ông Mạc nay thường gọi chạnh là Ô Đống Mác tức đoạn cuối phố Lò Đúc, giáp giới với Thanh Nhàn hiện nay. [7] Thủ tục cho miễn thuế và các quan chức cho miễn thuế trên đây được ghi lại hầu như toàn bộ, kể cả các tên người, trong bài văn bia chùa Tam bảo tức chùa Ba làng dựng năm Đức Long thứ 3 (1631), nay thuộc xã Tứ Liên - huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. [8] Tài liệu do cụ Lê Đăng Tiêm thôn Bắc Biên giữ. [9] Về tổng, chắc do sau này thêm vào, vì đời Lý chưa đặt tên tổng. [10] Cơ Xá 機舍, “cơ” là máy. Không rõ dựa vào nghĩa nào của chữ “cơ” này mà Lý Thần Tông đã đổi tên xã An Xá cũ. Xã Cơ Xá thuộc Kinh Bắc, cho đến năm Tân Hợi Tự Đức thứ 4 [1861] mới trở lại phụ thuộc vào tỉnh Hà Nội. Đến năm Duy Tân thứ 4 [1891], do sự yêu cầu của dân, Cơ Xá đổi tên là Phúc Xá (vẫn theo tài liệu trên). Trong thời Pháp thuộc xã Phú Xá gồm: 1. xóm Bắc Biên, xuất hiện vào năm 1918 -19 ở trên đám tư thổ do dân làng mua của mấy làng Yên Tân, Bắc Cầu… ở bên tả ngạn sông Hồng; 2. xóm Trung Hà ở bãi nổi giữa sông Hồng; 3. xóm Tân biên ở giáp Yên Phụ, bên tả ngạn sông Hồng; Ngoài ra, thôn Cơ Xá Nam ở ngoài bãi giáp Đồng Nhân cũng do dân thôn Cơ Xá tới lập nghiệp cách đây độ 100 năm. [11] Phật giáo kỵ sát sinh, nhưng kỵ nhất là giết và ăn thịt chó, không rõ là có liên lạc gì với địa vị “chó thần” đối với triều Lý là một triều đại gắn liền với uy thế tột bậc của đạo Phật ở nước ta hay không?. [12] Trong ngày hội lớn Cổ Loa mùng 6 tháng 1 dân làng Quậy vẫn được dành một chiếc chiếu lễ ở đền, giải ngay sau chiếu chủ tế, và trước cả dân làng Cổ Loa. (Tài liệu điều tra tại chỗ. Xem thêm lược sử xã Quyết Tâm tức xã Cổ Loa, và lược sử xã Liên Hà trong đó có thôn Đại Vĩ, huyện Đông Anh do đoàn cán bộ và sinh viên khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp viết, trong đợt phối hợp với Sở Văn hóa Hà Nội làm kiểm kê di tích ở một số xã Đông Anh, tháng Giêng năm 1965). [13] Sách đã dẫn ở trên. Sách này không được Hoàng Xuân Hãn sử dụng khi viết Lý Thường Kiệt, và hiện có hai bản: A.3192(1) và A.3192(2) đều là bản viết tay. Bản trên ngờ là nguyên tác vì có nhiều chỗ sửa chữa, thêm vào, xóa đi, còn bản sau chỉ là sao lại bản trên, và mới được chép gần đây. [14][14] Ở bản A.3192 (1) ở Thư viện Khoa học Trung ương có một chữ thêm vào rồi lại bị xóa đi, nhưng vẫn còn đọc được: “Long thành Cơ Xá ấp nhân… án kim tỉnh thành Bắc Môn ngoại vi Cơ Xá địa 龍城機舍邑人按今省城北門外古為機舍地 (người ấp Cơ Xá thành Thăng Long. Xét ngoài cửa Bắc tỉnh thành hiện nay, thời cổ là đất Cơ Xá ). Cõ lẽ tác giả Tây Hồ chí đã xóa dòng này vì ở cuốn sách chương Nhân vật (như đã nói ở trên trong bài) cũng khẳng định rằng Lý Thường Kiệt là người làng Cơ Xá , còn đoạn câu thêm vào nói rằng đất Cơ Xá xưa ở phía Bắc tỉnh thành hiện nay thì có lẽ đã bị xóa đi vì không đúng sự thực: Tài liệu chuông chùa An Xá và phả ký thôn Bắc Biên cho biết rằng sau khi Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long thì làng An Xá (tức Cơ Xá) bị dời ngay ra bãi ngoài đê sông Nhị. [15] Trong một bài ký “Dời chỗ ở” của Cao Bá Quát thì nhà ở Cao Bá Quát cũng đã có lần dời từ khu cửa Nam đến khu cửa Bắc thành “phía Nam trông ra lầu canh của thành… phía Đông tiếp nơi thu thuế đông người tụ tập, phía Tây là cảnh đẹp hồ Kim Ngưu và hồ Trúc Bạch… phía Bắc là ngôi chùa Linh Sơn và mấy chùa khác…”. Nghĩa là vào khoảng thôn Bắc Môn là khu vực nhà của Lý Thường Kiệt (xem bài Góp thêm tài liệu về năm sinh và chỗ ở của Cao Bá Quát của Tảo Trang, Tạp chí văn học, số tháng XI năm 1963). [16] Trường hợp này thường xảy ra, thí dụ như thôn Phụ Khánh, huyện Thọ Xương cũ tục gọi là làng Hỏa lò, xưa kia ở khu vực phố Hỏa Lò hiện nay đã di dời xuống mạn cuối phố Bà Triệu, và đình làng Phụ Khánh hiện tại ở bên cạnh chùa Chân Tiên số 93 phố Bà Triệu. [17] Thảo Tân hay Sa Thảo tân là một địa điểm thường được nhắc đến nhiều trong sử cũ, nhất là vào khoảng đầu thời Lê Trung hưng. Xem Việt sử cương mục, chương XXIX, 33, XXX, 2, 10, 12. Các nhà biên tập Việt sử cương mục ghi: “chắc là phía Nam bờ sông Nhị nay ở đâu không rõ”. Nhưng theo tổ biên dịch Viện sử học thì “có thể là ở vùng ga Hàng Cỏ (tức là ga Hà Nội) và phố Hàng Cỏ (nay là đường Nam Bộ) Hà Nội ngày nay (xem bản dịch của Viện Sử học, tr.1401).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:33:24 GMT 9
THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ - TRẦN - LÊ: ĐÔI LỜI BÀN THÊM VỀ PHẠM VI, VỊ TRÍ CỦA HOÀNG THÀNH VÀ CUNG THÀNH GS.TS Nguyễn Quang Ngọc Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội Hình như do quá phấn khởi trước kết quả khai quật khảo cổ gần 20.000m2 ở khu dự định xây nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình mới ở 18 Hoàng Diệu mà nhiều người tin rằng vấn đề thành Thăng Long coi như đã được giải quyết thỏa đáng. Thành quả khai quật khu 18 Hoàng Diệu là quá lớn, thậm chí còn vượt ra ngoài cả tầm suy nghĩ và ao ước bấy lâu nay của cả giới khoa học ở trong và ngoài nước về một tòa thành Thăng Long cổ kính và huyền bí, hướng tới Kỷ niệm tròn một thiên niên kỷ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta đã biết tất cả. Chỉ có một câu hỏi hết sức cơ bản là phạm vi của Hoàng thành Thăng Long thời Lê tương đương với những vị trí cụ thể nào ở khu vực Hà Nội hiện nay thì cũng vẫn còn những quan niệm không giống nhau và chắc chắn còn phải nghiên cứu và thảo luận nhiều thêm nữa thì mới có câu trả lời thỏa đáng. Khu khai quật 18 Hoàng Diệu nằm trong Hoàng thành Thăng Long thời Lê thì có lẽ không cần phải nói thêm nữa, nhưng nó nằm ở trung tâm Hoàng thành hay chỉ là khu vực phía Tây Hoàng thành như nhiều văn bản công bố lâu nay? Trong khu vực được coi là Hoàng thành Thăng Long, nói như PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ vào thời Lý - Trần không thể có khái niệm Hoàng thành, vậy thì tòa thành hiện hữu ấy phải được gọi là thành gì?. Chắc chắn ngay từ khi mới định đô, Lý Công Uẩn đã cho xây dựng hay cải tạo (hoặc vừa xây dựng vừa cải tạo) tòa thành Đại La của Cao Biền làm Thăng Long kinh thành, mở bốn cửa Tường Phù ở phía Đông, Quảng Phúc ở phía Tây, Đại Hưng ở phía Nam và Diệu Đức ở phía Bắc[1]. Vậy tòa thành Thăng Long kinh thành này có phải là tòa thành Thăng Long thời mới định đô không? Cũng vào đầu thời Lý sử còn chép đến các tòa thành như thành đất ở 4 mặt kinh thành Thăng Long (1014)[2], Đại Nội (1024, 1055, 1224)[3], Thăng Long thành[4], Long thành (1028)[5], Cấm thành (1028, 1029, 1213)[6], Đại La thành (1028, 1078)[7], mà sách Việt sử thông giám Cương mục cho rằng đấy cũng chính là thành Thăng Long[8], Phượng Thành (1049)[9]. Sang thời Trần sách chép nhiều đến Phượng thành, thậm chí còn xác định Phượng thành nằm trong thành Thăng Long[10] và đến năm 1243 có thêm thành Long Phượng[11]. Sang thời Lê đến năm 1463, xuất hiện tên Hoàng thành[12] và sau đó 4 năm, năm 1467, lại thấy sử chép đến việc đốc thúc xây Hoàng thành và ngừng việc xây Cung thành[13]. Theo chúng tôi, muốn tìm hiểu về thành Thăng Long thì điều trước hết phải lý giải cho được chức năng của các tòa thành trên. Đại La thành trong một vài trường hợp cụ thể được gọi là thành Thăng Long, còn trong thực tế và trong quan niệm phổ biến thì chỉ là một tòa thành bao ngoài. Long thành có tài liệu chép là Cấm thành, nhưng cũng có tư liệu chép phân biệt nó với Cấm thành (Chẳng hạn ghi chép về sự biến năm 1028, trong một mạch văn, sử chép phân biệt Cấm thành và Long thành[14], nhưng chỉ ngay năm sau, năm 1029 sử lại chép tòa thành bao quanh các cung điện Càn Nguyên, Thiên An… là Long thành[15], có nghĩa là Cấm thành). Chúng tôi xin xếp riêng Đại La thành ra một bên, còn các tòa thành kể ra ở trên có mối quan hệ với nhau như thế nào, vấn đề không thể không tập trung giải quyết. Chẳng hạn Kinh thành Thăng Long gắn với sự kiện định đô được chép xây dựng được chép vào năm 1010 (nhưng thật ra năm 1010 Lý Thái Tổ chưa kịp xây dựng thành, mãi đến năm 1014 mới đắp thành đất ở 4 mặt kinh thành[16], nên sử chép kinh thành buổi đầu định đô vào năm 1010 và thành đất năm 1014 chỉ là một) với Đại Nội, Thăng Long thành liệu có được xem là cùng loại với Hoàng thành năm 1467 hay không?. Mối quan hệ giữa Cấm thành (năm 1028, 1029, 1213) với Phượng thành (1049), Long thành (1029), Long Phượng thành (1243) và cả Cung thành (1476) như thế nào?. Chúng tôi cho rằng trên đại thể có thể coi Kinh thành, Đại Nội, Thăng Long thành là các tên gọi và tên gọi trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của Hoàng thành; còn Phượng thành, Long thành, Long Phượng thành, Cung thành, Cấm thành tuy có lúc mở rộng, có lúc thu hẹp nhưng đều là chỉ vòng thành ở phía trong Hoàng thành ngăn cách và bảo vệ khu trung tâm chính trị đầu não của vương triều. Thật ra giữa hai khu Hoàng thành và Cung thành không phải ngay từ đầu và cũng không hẳn bất cứ lúc nào cũng có sự ngăn cách rạch ròi, nhưng sự phân biệt này hiển nhiên và thiết nghĩ cũng không phải bàn thên nữa. Vấn đề đặt ra chỉ là phạm vi của Hoàng thành và Cung thành qua các thời kỳ là như thế nào và quan trọng hơn là khu vực chúng ta đang tiến hành khai quật khảo cổ ở 18 Hoàng Diệu là thuộc Hoàng thành hay Cung thành của các vương triều hay các thời kỳ lịch sử chúng ta quan tâm?. Để làm công việc này chúng tôi cho rằng công việc có ý nghĩa quan trọng đầu tiên là không thể không nghiên cứu, phân tích hệ thống bản đồ cổ về thành Thăng Long. Điều có thể dễ dàng nhận thấy là tất cả các thế hệ bản đồ thành Thăng Long đều vẽ Thăng Long thành là vòng thành ngoài, tương đối thuần nhất và khép kín, trong đó các cạnh phía Bắc và phía Tây đều bám sát hoặc nương theo dòng sông Tô Lịch. Các bản đồ như Hồng Đức bản đồ (A2499, VHt41), Toản tập Thiên Nam lộ đồ (A1081), Trung Đô đồ (A2351), An Nam hình thắng chi đồ (A3034), Thiên tải nhàn đàm (A2716, A2006), Trung Đô Thăng Long thành nhất phủ, nhị huyện đồ (A2716)… đều chú rất rõ vòng thành ngoài bám theo sông Tô Lịch là Thăng Long thành. Đặc biệt Thiên hạ bản đồ (A1362) lại vẽ hết sức giản lược, chỉ có một vòng thành tương đương với vòng thành ngoài chúng tôi vừa nói ở trên và chú chữ Thăng Long không phải ở cạnh sông Tô Lịch mà gần khu vực Thủ Lệ - Vạn Phúc. Vậy thì tất cả các bản đồ đều thống nhất xác định thành Thăng Long (hay Hoàng thành Thăng Long) thời Lê, hay chí ít là thời Lê - Trịnh bao lấy toàn bộ không chỉ khu vực thành nhà Nguyễn và một số phố phường xung quanh mà còn mở rộng ra toàn bộ khu vực Thập tam trại. Nghiên cứu các tấm bản đồ thành Thăng Long, bất cứ ai cũng có thể nhận ra một tòa thành nhỏ, hình chữ nhật nằm ở bên trong và lệch hẳn về cạnh phía Đông Hoàng thành. Tòa thành ở phía Đông rất gần Đông Môn hay Đông Hoa Môn của Hoàng thành; cửa Nam là Đoan Môn; cửa Tây là Tây Môn (hơi thiên về góc phía Tây Bắc, cạnh đường Hoàng thành và nhìn ra chùa Khán Sơn). Trong thành có các địa danh Kính Thiên (điện), Vạn Thọ (điện), Càn Thọ (điện), Chí Kính (điện), Thị Triều (điện), Triều Nguyên, Đông Cung… và được chia ra thành các ô nhỏ. Hoàn toàn có thể khẳng định đây là Cung thành hay Cấm thành. Cũng có đủ cơ sở để tin rằng đây còn được gọi là Phượng thành hay Long Phượng thành (thậm chí cả Long thành nữa). Phạm vi của tòa thành này có thể xác định được tương đối chính xác với cạnh Đông là cửa Long Môn, ở bên trong của Đông Hoa, cách không xa Hoàng thành phía Đông; cạnh Nam được giới hạn bởi Đoan Môn; cạnh Bắc gần sát Hoàng thành phía Bắc và đương nhiên cũng gần sông Tô Lịch; còn cạnh Tây nằm ở bên trong chùa Khán Sơn, gần vườn Tây Cấm (khu vực chùa Một Cột ngày nay), tức là chưa tới đường Hùng Vương. Tòa thành lâu nay được nhiều người quan niệm là Hoàng thành, nhưng tư liệu bản đồ và tư liệu thư tịch cổ xác nhận đây là tòa thành nằm trong Hoàng thành, Cung thành, Long Phượng thành hay Phượng thành là tùy từng thời kỳ và hoàn cảnh cụ thể. Vì quan niệm như vậy nên chúng tôi cho rằng khu di tích khảo cổ học chúng ta đang khai quật ở 18 Hoàng Diệu nằm gọn ở bên trong Cung thành hay Cấm thành. Đương nhiên một khu di tích đã nằm trong Cấm thành thì cũng có nghĩa là nó nằm trong Hoàng thành, nhưng chắc chắn phải là trung tâm của Hoàng thành, chứ không thể gọi là phía Tây Hoàng thành như nhiều nhà nghiên cứu xác định lâu nay. Kết quả khai quật khảo cổ học với sự phát lộ của những công trình kiến trúc đồ sộ, bộ sưu tập hiện vật hết sức phong phú, độc đáo, nhất là một tập hợp các đồ ngự dụng là cơ sở xác thực xác nhận khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu nằm trong Cung thành hay Cấm thành Thăng Long các thời Lý, Trần, Lê. Đây là vấn đề tưởng như hết sức gay cấn[17], nhưng thật ra đã được các nhà địa lý học lịch sử đời Nguyễn nghiên cứu kỹ lưỡng, đưa ra những kiến giải khá thống nhất và theo chúng tôi là có sức thuyết phục. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), người Hà Nội gốc trong sách Đại Việt địa dư toàn biên từng chỉ rõ: “Căn cứ vào bản đồ thành Thăng Long đời Hồng Đức, thì thành này hình như thước thợ mộc. Ba mặt Đông, Nam, Bắc vuông vắn, mặt Tây và Nam dài bằng một nửa. Cửa Đông bắt đầu từ thôn Đức Môn (trước là thôn Đông Môn) tổng Đồng Môn theo hướng Bắc đến sông Tô Lịch đi bờ bên Tả qua cửa Bắc về phía Tây đối với phường Nhật Chiêu, theo về phía Nam là cửa Bảo Khánh, theo hướng Nam đến phía trước bên Hữu Văn Miếu, lại đến phía sau qua sang bên Tả là Cửa Nam, đi thẳng về phía Đông. Đấy là dấu cũ thành Thăng Long. Ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu điện Kính Thiên là điện Chí Kính, bên Tả là điện Vạn Thọ. Bên Hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên Tả là Đông Trường An. Trong có suối Ngọc. Ngoài Cung thành là Hoàng thành. Về bên Đông phía trước là Thái Miếu, phía sau là Đông Cung. Bên Tây qua núi Khán Sơn là điện Giảng Võ. Lại về phía Tây là đền thờ Linh Lang. Trường thi hội đều ở đấy. Hoàng thành, Cung thành đều xây bằng gạch”[18].
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:34:01 GMT 9
Tư liệu thư tịch và tư liệu khảo cổ học cũng góp phần xác định thêm là khu vực Cung thành, Cấm thành hay Phượng thành Thăng Long suốt thời Lý - Trần cho đến Lê hầu như không có sự thay đổi thật đáng kể. Chỉ có vào năm 1490 vua Lê Thánh Tông cho đắp rộng thêm Phượng thành, mở rộng 8 dặm ra phía ngoài trường Đấu Võ[19]. Tấm bia Trùng tu Huy Văn điện Dục Khánh tự bi do Dương Bá Cung soạn năm Tự Đức thứ 17 (1864) đặt ở chùa Huy Văn cho biết khu vực Ngọc Hà hiện nay là chỗ luyện tập võ nghệ xưa (Ngọc Hà diễn xứ cố võ)[20]. Vua Lê Thánh Tông thuở sinh thời thường lên Khán Đài trên núi Khán Sơn để xem diễn võ nên mới có tên núi và tên chùa Khán Sơn. Khán Sơn nằm ở khu vực đường Hùng Vương, trước cổng Phủ Chủ tịch hiện nay thì trước năm 1490, Phượng thành nằm ở phía trong đường Hùng Vương, còn sau năm 1490 Phượng thành mới được mở rộng về phía Tây (có nghĩa là sau năm 1490 Phượng thành đã được mở rộng ra phía ngoài đường Hùng Vương). Phượng thành năm 1490 được mở rộng đến đâu và như thế nào cũng còn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên cũng có thể tin như những giải thích gần đây của một số chuyên gia nghiên cứu về Hà Nội rằng “đoạn tường thành mới đắp thêm (dang dở hoặc đã hoàn thành) nối Phượng thành với thành Thăng Long về phía Tây, có lẽ đã thể hiện sự mở rộng này”[21]. Đấy là đoạn thành (hay một hệ thống gò) chạy từ Thủ Lệ cho đến Kim Mã. Nếu giả thiết này đúng và tấm bản đồ Thiên hạ bản đồ (A1362) chú thích đấy là thành Thăng Long là chính xác, thì cũng có thể tin là đoạn thành này chỉ là cải tạo đoạn thành đã có từ thời Lý - Trần, vì sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết khá cụ thể rằng việc Lê Thánh Tông cho mở rộng Phượng thành là dựa theo quy mô thời Lý - Trần (Quảng trúc Phượng thành nhân Lý Trần chi chế dã)[22]. Nhiều tư liệu khác cũng cho phép dự đoán thành Thăng Long thời Lý - Trần chỉ chạy đến khu vực này mà không bao gồm cả Giảng Võ, Ngọc Khánh. Điều cần phải giải thích rõ là kể từ sau năm 1490, tuy Phượng thành được mở rộng về phía Tây nhưng trung tâm chính trị của triều đình Lê Thánh Tông hầu như vẫn không có sự chuyển dịch. Tại khu vực mới được mở rộng Lê Thánh Tông cho xây thêm điện Danh Bảo (hay Thạch Thất) và lập vườn Thượng Lâm phục vụ cho nhu cầu ăn chơi, thưởng ngoạn. Việc mở rộng thêm Phượng thành của Lê Thánh Tông đã được sử sách chép rất rõ, hoàn toàn không phải là để chuyển trung tâm chính trị sang đấy mà chủ yếu là quy gọn lại trường Đấu Võ vào khu vực Giảng Võ hiện nay và tạo ra một khu đệm, bảo vệ an toàn cho khu trung tâm chính trị đầu não của vương triều. Hình như thế cho nên khu này không được tập trung xây dựng và bước sang đầu thế kỷ XVI, chế độ Trung ương tập quyền của nhà Lê nghiêng ngả và sụp đổ, thì khu vực này lại càng ít được quan tâm hơn. Có lẽ vì lý do này mà phía Tây Phượng thành mặc dù có mấy chục năm được tích hợp vào Phượng thành mà không để lại được dấu ấn gì đáng kể. Cũng không thể không quan tâm đến sự kiện vào năm 1514 - 1416 vua Lê Tương Dực cho “đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Trấn Vũ chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ; từ phía Đông đến phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp Hoàng thành dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang”[23]. Đoạn thành này nằm phía ngoài sông Tô Lịch mà dấu tích còn lại là các đường Thụy Khê, Quán Thánh… Sự kiện này xác định rõ phạm vi và vị trí của Hoàng thành Thăng Long trước năm 1514, mà nó cũng đồng thời là cái mốc đánh dấu sự tàn lụi của Hoàng thành Thăng Long. Cũng ngay trong năm Hoàng thành vừa được đắp mới thì vua Lê Tương Dực bị giết chết, Trần Cảo chiếm kinh thành, triều đình biến loạn triền miên và Mạc Đăng Dung đã lợi dụng cơ hội đó phế bỏ nhà Lê lập ra nhà Mạc. Chế độ Trung ương tập quyền sụp đổ, hỗn chiến phong kiến triền miên… Thành Thăng Long vì thế mà ngày một điêu tàn. Hoàng thành Thăng Long kể cả từ thời Lý, Trần cho đến Lê đều được chia thành hai khu tương đối độc lập là khu Chính trị và khu Quân sự. Khu Chính trị là khu đặc biệt quan trọng của triều đình được bảo vệ nghiêm ngặt và mức độ nghiêm ngặt càng ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của chế độ Trung ương tập quyền. Khu Quân sự đương nhiên phải lấy các hoạt động học hành, luyện tập, thao diễn quân sự của quân đội là chính, nhưng cũng có các cung điện, lầu gác, hành cung, chùa quán, vườn Thượng uyển, danh lam thắng cảnh, kho tàng của nhà nước… phục vụ cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, thưởng ngoạn của hoàng đế, hoàng gia và triều đình. Trong khu này chắc chắn có các dinh thự của quan lại, có khu gia binh, thậm chí có cả khu vực sinh sống và sản xuất của những người làm việc và phục dịch trong kinh thành. Tài liệu thư tịch nói đến những phường phố hay tài liệu khảo cổ học, tư liệu điều tra điền dã xác nhận có không ít những dấu tích của cuộc sống và sinh hoạt bình dân trong khu vực Hoàng thành phía Tây cũng không phải là điều khó hiểu. Đó là chưa nói đến tình trạng khu vực này bị bỏ hoang phế từ lâu và cũng từ rất sớm đã bị gạt hẳn ra khỏi vùng Hoàng thành. Công việc khảo sát thực địa của chúng tôi được triển khai trên cơ sở những phân tích và đoán định này và may thay kết quả khảo sát không những không mâu thuẫn mà lại hoàn toàn thống nhất, đã làm rõ ràng hơn, cụ thể hơn về vị trí, diện mạo của một vùng Hoàng thành và Cung thành Thăng Long trong lịch sử[24]. Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, các nhà thiết kế và thi công tòa thành Thăng Long dần dần cũng hướng tới mô hình “tam trùng thành quách”, nhưng hoàn toàn không phải là sự sao chép hay rập khuôn theo nguyên mẫu của Trung Quốc, mà là sự tận dụng, thích ứng và nương theo địa hình gò bãi, sông nước, đầm hồ của vũng ngã ba Nhị Hà - Tô Lịch. Mục đích nhất quán của Lý Thái Tổ và các vương triều Lý, Trần, Lê là tạo dựng kinh thành tầm thế, thoáng rộng, đủ làm chỗ ở của đế vương giữa trung tâm đất nước, làm nơi “thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Kiến trúc của Hoàng thành Thăng Long không chỉ là vòng thành bao lấy Cung thành, tạo độ nghiêm cẩn và bảo vệ cho Cung thành ở bên trong, mà Hoàng thành còn bao lấy cả các khu luyện quân, giảng võ, khu đền, đài, cung, quán, kho tàng, khu vườn Thượng uyển với các danh lam thắng cảnh phục vụ nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng cung đình. Hoàng thành Thăng Long vì thế cần phải được nhìn nhận một cách thực tế và linh hoạt, không nên gò bó theo mô hình “tam trùng thành quách” một cách cứng nhắc hay quy về các mẫu tiêu biểu như thành Bắc Kinh thời nhà Minh ở Trung Quốc hay thành Huế thời Nguyễn ở Việt Nam. Nghiên cứu thành Thăng Long, theo chúng tôi không thể không nhận diện một cách rõ ràng hai khu vực Hoàng thành và Cung thành với những chức năng cụ thể của chúng, trong đó khu vực Cung thành bao giờ cũng là trung tâm chính trị đầu não quan trọng nhất. Cung thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê tuy cũng có mở rộng hay thu hẹp qua từng thời kỳ, nhưng về cơ bản vẫn là thành nhà Nguyễn sau này. Có thể nói là thành Hà Nội thời Nguyễn được xây dựng trên khu vực Cung thành hay Cấm thành, Long thành, Phượng thành, Long Phượng thành các thời Lý - Trần - Lê. Vì thế khu vực 18 Hoàng Diệu mà chúng ta đang tiến hành khai quật khảo cổ học không phải là khu vực phía Tây Hoàng thành như một số tài liệu đã công bố, mà chính là Cung thành/Cấm thành, hay có thể nói cụ thể hơn là khu vực phía Tây ở bên trong Cung thành/Cấm thành. Đấy là khu vực không thể không giữ bằng mọi giá. Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2/2005, tr.10-15.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,1993, Tập I, tr.141. [2] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.244. [3] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.247, 271; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hôi, Hà Nội, 1997, tr.311. [4] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.241. [5] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.248. [6] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.248. [7] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.251. [8] Việt sử thông giám Cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tập I, tr.303. [9] Việt sử lược, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.89. [10] Sách chép rõ “Thăng Long Phượng thành” (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.12). [11] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.19. [12] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.399. [13] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.430-432. [14] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr.248. [15] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr.254. [16] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.244. [17] Vì gần đây có quá nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phạm vi và vị trí của Hoàng thành Thăng Long. [18] Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997, tr.177-178. Sách Đại Nam nhất thống chí và nhiều bộ sách lịch sử thời Nguyễn cũng đồng quan niệm về tòa thành Thăng Long với Phương Đình Nguyễn Văn Siêu. [19] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.508. [20] Tuyển tập văn bia Hà Nội, Quyển II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.10. [21] Nguyễn Thừa Hỷ, Về phức hợp thành Thăng Long, Bài viết tham gia nghiên cứu thành Thăng Long, 2004. PGS.TS Đỗ Văn Ninh cũng có kiến giải tương tự PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ về đoạn thành này. [22] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.508. [23] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.79. [24] Xin tham khảo các bài viết của Nguyễn Ngọc Phúc, Phạm Đức Anh (về khu vực phía Tây), Tống Văn Lợi, Hà Duy Biển (về khu vực phía Nam), Vũ Đường Luân (về khu vực phía Đông) và Nguyễn Thị Bình (về khu vực phía Bắc) đã trình bày trong Hội thảo tổ chức tại Viện Khảo cổ học các ngày 27 và 28 tháng 7 năm 2004.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:35:27 GMT 9
VỊ THẾ ĐỊA VĂN HOÁ - ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH VÙNG CHÂU THỔ SÔNG HỒNG VÀ VIỆT NAM GS Trần Quốc Vượng 00. Hà Nội là gì? Đó là vấn đề hàng đầu khi nhập môn nghiên cứu Hà Nội học và Lịch sử Hà Nội. Cũng như khoa học hiện đại tin học hóa, chúng ta cần chấp nhận nhiều câu trả lời khác nhau, nhiều cách tiếp cận khác nhau hay/và cách tiếp cận liên ngành (Interdisciplinary Approach). * * * 01. Trung tâm Hà Nội ở tọa độ địa lý 21005 vĩ tuyến Bắc, 105087 kinh tuyến Đông, nằm trên đường trục của tam giác châu Bắc Bộ, được che chắn ở - Đông Bắc bởi dải núi Tam Đảo và ở phía Tây - Tây Nam bởi dãy núi Ba Vì - Tản Viên, đều cách trung tâm thủ đô khoảng 50km. 02.1. Tam giác châu Bắc Bộ (sông Hồng và sông Thái Bình cùng các chi lưu mạng cành cây và mạng song song) có hình phễu bổ đôi, bề mặt nghiêng từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Nhưng nó không phải là một mặt phẳng. Do vậy chúng tôi không sử dụng khái niệm “đồng bằng” (plaine) mà chỉ sử dụng khái niệm tam giác châu (delta). Mặt cắt ngang của nó giống như một chiếc võng, vùng trục giữa, thấp hơn hai bên “rìa”. Dạng “võng” này không phải chỉ là hình dạng trên “bề mặt” mà thực sự phản ánh dáng dấp của cấu trúc móng nền tận 30 - 40km sâu trong lòng đất Hà Nội - Bắc Bộ, do giới địa - vật lý học Việt Nam xác định. Và giới Địa học Việt Nam (Viện Khoa học Trái đất, Khoa Địa học Đại học Quốc gia Hà Nội...) hoàn toàn có lý khi đặt tên miền trũng tam giác châu sông Nhị - Hồng, trong đó có lãnh thổ Thủ đô Hà Nội là “võng Hà Nội” hay “trũng Hà Nội”. 02.2. Võng Hà Nội là một vùng rất “động” (dynamic) về mặt địa chất kiến tạo, bởi vì nó là một vùng xung yếu của vỏ trái đất. Nói xung yếu, vì vỏ trái đất ở nơi đây chẳng những mỏng hơn các nơi khác mà còn bị đứt gãy sâu chia cắt suốt bề dày của nó. Vỏ trái đất ở trũng Hà Nội bị chia cắt như các manh áo rách và dáng vẻ những đường đứt gãy giống như những đường khâu nối liền các mảnh áo, cho nên các nhà kiến tạo học gọi chúng là đường khâu. 02.3. Không phải chỉ có các đứt gãy dọc mà còn nhiều đứt gãy ngang, chia cắt “trũng Hà Nội”, cho nên nó có dạng bậc thang: Các bậc cao nằm ở phía Tây Bắc, các bậc thấp nằm ở phía Đông Nam... Như đã nói, lãnh thổ Hà Nội nằm ngang trên trục của một vùng xung yếu do có hệ thống đứt gãy sâu cắt qua, cho nên Hà Nội là một vùng có cường độ chuyển động lớn của vỏ trái đất. Tại đây các hoạt động kiến tạo lớn đã từng diễn ra mạnh mẽ trong suốt cả quá khứ địa chất trăm triệu năm về trước mà vẫn còn đang tiếp diễn mạnh trong kỷ địa chất hiện nay. 02.4 Các đứt gãy sâu sông Hồng - sông Chảy cắt qua lãnh thổ Hà Nội là những đường xung yếu đã từng gây ra động đất mạnh đến cấp 7, cấp 8 (độ Richter). Lấy ví dụ về Thăng Long đời Lý - Trần, biên niên sử (Đại Việt sử lược, Toàn thư, Cương mục) chép nhiều lần đất động. Năm 1016 động đất, năm 1017 điện Càn Nguyên sụp đổ. Năm 1284 đất Thịnh Quang, Xã Đàn (nay thuộc quận Đống Đa) “nứt toác, rộng 4 tấc, dài trên 2 dặm, bề sâu khôn lường”... Giữa những năm kháng chiến chống Nguyên - Mông 1277, 1278, 1285... toàn động đất cấp 7, cấp 8, đất nứt, bia đá tháp Báo Thiên bên bờ hồ Lục Thủy (Hoàn Kiếm) gãy làm đôi... Thế kỷ XX, Hà Nội nhiều lần xảy ra động đất cấp 6 và đã 2 lần động đất cấp 7. Những năm gần đây, hiện tượng động ở vùng Hà Nội tăng lên rõ rệt. Mặt đất Hà Nội xuất hiện nhiều khe nứt sâu, phương Tây Bắc - Đông Nam, trùng với hướng sông Hồng và cũng là hướng các đứt gãy sâu trong vỏ trái đất. 02.5. Khi xem bản đồ “dị thường trọng lực” vùng Hà Nội do các nhà địa - vật lý học thành lập, có một điều đập ngay vào mắt chúng ta: Đó là những dáng hình thon thon hơi kéo dài và nhô cao lên của móng cấu trúc sâu miền võng Hà Nội. Chúng tựa như dáng hình những con rồng đời Lý, với những khúc uốn cong mềm mại, đơn giản. Đó là những nơi vỏ trái đất “mỏng” hơn nơi khác vì phần “cùi” dưới “vỏ” nhô lên gần mặt đất hơn. “Gần” nghĩa là ở độ sâu 30 - 35km trong khi ở những nơi khác, “cùi” nằm sâu 40 - 50km, nếu chúng ta tạm coi trái đất như một quả bưởi khổng lồ. “Rồng vàng” bay trên bầu trời Thăng Long là huyền thoại lịch sử đầu thời Lý. “Rồng đất” nổi trên móng sâu 30 - 35km của cấu trúc miền võng Hà Nội là hiện thực địa lý - địa chất. Mỗi lần “rồng” quẫy lưng là một lần động đất. Lưng rồng, đó là những đường đồng mức khép kín, biểu hiện những dải “dị thường”... vì trọng lực đá tăng vọt, nói lên sự xâm nhập của các vật chất nóng chảy dưới vỏ quả trái đất (magma... ). 03. Từ miền võng Hà Nội với những chuyển động thăng trầm có tính chất chu kỳ trăm ngàn triệu năm trước, ta đến với “máng trũng” Hà Nội trong những giai đoạn lịch sử ngày càng “trẻ” hơn... 03.1. Đầu kỷ Đệ Tam (Tertiare), cách ngày nay khoảng 50 triệu năm, ở vùng trũng Hà Nội, các đứt gãy sâu lại hoạt động mạnh, tạo thành một “máng trũng” mới, trên nền cũ miền võng xưa. Vì vậy các nhà địa chất gọi máng trũng Hà Nội là máng trũng “chồng gối” hay “địa hào chồng gối”. Các vùng đồi núi hai bên “máng trũng” được nâng cao lên và sau đó bị xói mòn. Vật liệu theo “nước chảy chỗ trũng” lấp dần vào đáy máng hết lớp này đến lớp khác dày 1.000 - 2.000m. Lúc đầu, do vận động sụt lún mạnh mẽ ở máng, đi đôi với vận động tạo sơn ở hai bên rìa, vật liệu xói mòn mạnh gồm toàn cuội sỏi. Chúng lăn từ sườn núi, theo dòng nước chuyển dần xuống và tích tụ ở đáy máng. Về sau, vận động yếu dần, các dòng chảy trở nên “êm đềm” hơn, vì vậy các trầm tích gồm toàn những hạt nhỏ, mịn. Sau đó nữa, là thời kỳ tương đối bình ổn, điều kiện tốt để tích tụ than và dầu hỏa... Có những thời kỳ biển tiến vào, tràn ngập châu thổ, do vậy có nhà nghiên cứu lịch sử gọi là “vịnh Hà Nội”. 03.2. Sang kỷ Đệ Tứ (Quaternaire), ở giai đoạn sớn (QI) - khoảng 1 triệu đến 30 vạn năm cách ngày nay (đầu QII), biển rút khỏi châu thổ, đặc biệt ở những nơi có các khối nâng lên, trong đó có vùng Hà Nội. Trầm tích lục địa thay thế trầm tích biển. Châu thổ bồi tích phơi ra dưới nắng. Hệ thống sông Thao - Nhị vận chuyển phù sa bồi đắp lên trên trầm tích biển. Do đó trong các lỗ khoan ở vùng trũng, ta có thể thấy cuội sỏi xen với đất đỏ dạng la-tê-rít phủ lên trầm tích biển và dày tới 150m nằm sâu dưới bề mặt châu thổ hiện nay, khoảng 50m trở xuống. Các tầng cuội sỏi này cũng lộ ra trên các thềm cổ sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Cầu... ở độ cao từ 10 - 30m, ven rìa vùng trũng Hà Nội. Khoảng sau, 30 vạn năm cách ngày nay (cuối QII), biển lại tiến, trùm phủ lên đồng bằng, để lại những tầng sét cao - lanh, sét - cát mịn chứa di tích các sinh vật của vùng biển ven bờ (sò, điệp, trùng lỗ... ). Biển vào sâu quá nội thành Hà Nội hiện nay. 03.3. Khoảng sau đó (QIII) biển lại rút dần khoảng từ 4 vạn đến 2 vạn năm cách ngày nay, bề mặt châu thổ Bắc Bộ trải rộng ra đến vùng bán đảo Bạch Long Vĩ ngày nay. 03.4. Tới đầu thế Hô-lô-xen (QIV), khoảng từ 17.000 - 12.000 năm cách ngày nay, biển lại tiến vào đất liền, tới quãng Thường Tín, Phả Lại... nếu không nói là sâu, xa hơn. 03.5. Theo các nhà địa chất, nếu khoan sâu xuống lòng đất Hà Nội sẽ thấy ở địa tầng từ sau thuở Cánh tân (từ 1 triệu đến 1 vạn năm cách ngày nay) Hà Nội là một đáy biển nông. Bấy giờ, ảnh hưởng phá hủy của sóng biển và hải lưu hạn chế, mà tác dụng bồi tích của sông Hồng lại rất lớn. Dòng sông này chảy qua những vùng miền núi đang ở vào giai đoạn xâm thực, bóc trụi dữ dội nên mang theo rất nhiều phù sa; Những mũi khoan vào sâu lòng đất Gia Lâm, trong khu vực Học viện Nông nghiệp, cách sông Hồng 2,5km, trong tầng dầy trên 50m của trầm tích cho thấy sự phân tách rất rõ hai lớp: lớp trên từ mặt đất hiện nay đến - 39,5m; lớp dưới: từ -50,5m đến -39,5m. Trong hai lớp đó, trầm tích sỏi cát thô được thay dần bằng trầm tích sét nặng hơn. Điều đó giúp ta có cơ sở phát biểu rằng có hai giai đoạn hoạt động của sông Hồng, mỗi giai đoạn đều có bước chuyển tiếp từ lúc sông chảy nhanh dữ dội (khi cát thô và sỏi lắng đọng) đến lúc sông chảy tương đối êm đềm (sản phẩm hạt mịn (sét) lắng đọng). Qua “99 cái lắc lư mới vào cái lừ đừ sông Thao”, như dân gian thường nói. Trong khu Đại học Sư phạm, kết quả của 3 lỗ khoan thăm dò địa chất xuống lòng đất Từ Liêm tới độ sâu - 48,86m cũng cho thấy khá rõ quá trình tam giác châu xưa kia qua minh chứng là một lớp trầm tích phá - tam giác châu, gồm cát và bùn dày tới 20m! Tổng hợp địa tầng ở nhiều lỗ khoan trên vùng Hà Nội, ta có thể thấy một quy luật khá rõ nét. Bao giờ cũng có một tầng cuội sỏi sạn và cát thô nằm bên dưới. Đó là lòng sông cổ. Bên trên là những tầng đất có hạt nhỏ dần đến mịn, nhiều chỗ có sét dẻo màu xám hay xám đen, chứa nhiều chất hữu cơ, đặc trưng cho trầm tích đầm hồ. Trong một cột địa tầng, có thể lặp đi lặp lại vài lần “nhịp” trầm tích như trên. Điều đó nói lên những hoạt động của sông Hồng lúc chảy xiết xói mòn mạnh, tạo ra những hạt thô lúc chảy chậm lờ đờ như vũng nước tù. Tầng trầm tích hạt mịn chứa sét phổ biến trên bề mặt các bãi bồi nói lên giai đoạn biển tiến cuối (Hô-lô-xen trung) cách ngày nay khoảng 1 vạn năm. Ở thế kỷ XVIII, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đã viết Tang thương ngẫu lục, song chỉ là chuyện “tang thương” của Hà Nội - Việt Nam thời cuối Lê - đầu Nguyễn. Ta có thể ghi lại chuyện “tang thương” không phải theo nghĩa bóng mà theo nghĩa đen hẳn hoi, hàng vạn ngàn năm trước: “Thương hải biến vi tang điền”: biển biến thành bãi dâu!. Nước biển không giữ nguyên một mực, nước biển có giao động. Đất không ở nguyên một mực, đất có thời nâng lên, thời sụt xuống. Cách đây 4000 năm (tính số tròn), là thời kỳ biển tiến, mực nước biển cao trên 3,5m so với mực nước biển ngày nay. Cách đây 3000 năm, chỉ trong vòng 1000 năm đó, biển lùi dần, mực nước xuống thấp dưới mực nước ngày nay 3m. Biển lùi và sông bồi tích phù sa, phá Hà Nội cạn dần. Thế là có đất và có những đầm lầy, vũng đọng. Có đất nên cây cỏ mọc thành rừng rậm, với thú dữ: hổ, voi... Có đầm vực, nên có cá sấu, thuồng luồng, rùa, giải... Rùa còn có ở hồ Gươm, ấy là chưa kể Rùa Vàng thời Lê Lợi và Kim Quy thời Thục Phán. Voi rừng còn đầy ở vùng Tây Hồ thời Lý (thế kỷ XI). Cá sấu còn sống sót ở bến sông Hồng Thăng Long thế kỷ XIII khiến vua Trần phải sai Hàn (Nguyễn) Thuyên soạn “Văn tế cá sấu”. Hổ rừng về quẩn quanh tận vùng chùa Một Cột thời Lê (thế kỷ XV)... Đó đều là chuyện sử gia Ngô Sĩ Liên còn chép rành rành. Vào thế kỷ XVIII, ở vùng Đình Bảng, Từ Sơn nay, còn rừng Báng, còn có củ mài ngon và lộc vừng để ăn cùng nem Báng. Rừng Sặt ở Trang Liệt, rất gần đấy, còn khá um tùm. Rừng Xuân Quan mấy chục năm về trước còn đủ các loại gỗ “tứ thiết”: đinh, lim, sến, táu... Rừng bàng Yên Thái (Bưởi) là một trong “Tây Hồ bát cảnh” thời Lê. Rừng gỗ tầm giữa bán đảo hồ Tây, rừng tre ngà viền một dải sông Tô vùng Cửa Bắc bấy giờ cũng còn ghi lại trong sử cũ. Và một di tích RỪNG còn sống động ở ngay nội thành Hà Nội, khu phố Ba Đình: Rừng nứa đền Voi Phục. Và theo tên đất cổ, chỉ cần qua sông Cái, ta bắt gặp bến Bồ Đề (Phú Viên), Gia Lâm (rừng Đa), Du Lâm (rừng Dâu da), Mai Lâm (rừng Mơ, gồm cả Mai Động - Hoàng Mai - Bạch Mai - Hồng Mai - Tương Mai - Chợ Mơ... xưa là rừng mơ cả). Rồi nào là Văn Lâm, Trường Lâm, Đông Ngàn... toàn là rừng, là ngàn, xanh tươi rậm rịt... Đào lòng đất Đông Anh (Dục Tú, Tiên Hội) đào lòng đất Thanh Trì (Vĩnh Ninh, Văn Điển...) nhà khảo cổ bắt gặp nhiều cặp ngà voi, răng nanh hổ, gạc hươu, răng lợn lòi... có tuổi 3 - 3000 năm, theo sự xác định niên đại bằng phương pháp phóng xạ đồng vị các bon (C14). Chứng tích rõ rệt nhất của thời kỳ rừng rậm đầm lầy Hà Nội cổ là những dải than bùn xếp lớp dưới lòng đất Hà Nội. Than bùn Từ Liêm (qua lỗ khoan Dịch Vọng) có chỗ dày tới 4m, nằm từ độ cao xấp xỉ mực nước biển trở xuống (xuống sâu dưới 4,876m). Mỏ than bùn giàu có Lỗ Khê (Đông Anh), một dải dài vài kilômét, Hà Nội ta khai thác đã hàng chục năm nay! Có rừng rậm, đầm lầy cộng với bão tố, động đất... rồi mới có than bùn: rừng đổ xuống đầm, gỗ bị lấp bồi cản ngăn hiện tượng ôxy hóa, dần dà phân giải thành than bùn. Phủ lên trên lớp than bùn Hà Nội cổ, mới là lớp phù sa sông, gồm đất sét và sét pha, càng lên trên càng nhẹ dần tới đất thịt trung bình, có nơi thịt nhẹ. Di tích của đời sống con người sẽ thấy ở lớp đất này. Thế là khá rõ: một Hà Nội trước khi trở thành Lịch sử, một Hà Nội thiên nhiên hoang dã, đã trải qua ít ra là ba loại cảnh quan: - Vịnh biển (tính bằng triệu năm) - Phá (tính bằng vạn năm) - Rừng rậm - Đầm lầy (tính bằng ngàn năm trước Công nguyên). Từ thời kỳ lịch sử “ngàn năm văn hiến” tới ngày nay, các sông hệ Hồng Hà vẫn tiếp tục đổi dòng, để lại nhiều hồ hình móng ngựa (như Hồ Tây) hay những dải ao đầm kế tiếp nhau xen kẽ với những dải cát của lòng sông cũ. Nét địa lý trường tồn của nghìn xưa Thăng Long và hôm nay Hà Nội, đó là cái đặc trưng thành phố sông: thành phố ngã ba sông, nếu lấy cả hai dòng Nhị Hà - Tô Lịch làm hệ quy chiếu, làm trục chủ đạo; thành phố một bờ sông (bờ phải) nếu chỉ lấy một sông Nhị làm trục chính. Một điều hiển nhiên, đất Hà Nội là đất bãi - và trên bãi của sông Hồng, do phù sa sông Hồng đắp đổi mà nên. Nhưng sự đắp đổi, trải mấy nghìn năm đã diễn ra không đơn giản: Có đời sống du đãng tự nhiên của những con sông ở đồng bằng do chính chúng tạo thành (đổi dòng từ từ, hay có khi đột biến) có sự can thiệp, hữu thức và vô thức của con người. Thục Phán đắp lũy thành Cổ Loa thì cũng là đắp đê phòng lụt. Sử biên niên nhà Hán chép rằng ở đầu Công nguyên, huyện Phong Khê (Đông Anh) đã có đê phòng lụt. Đê sẽ làm cho quá trình bồi tụ tự nhiên bị ngăn chặn lại, ít nhất là từng phần. Cho nên đất Hà Nội nội thành, bên hồ Tây, có dòng Tô Lịch, lại có rất nhiều đầm hồ. Xem trên các bản đồ từ thời xưa cho đến giữa thế kỷ này, thì thấy lãnh thổ Hà Nội là một vùng đầm lầy, một thành phố sông hồ, nửa đất, nửa nước. Quy hoạch Hà Nội cổ là nương theo và thích ứng đến mức tối đa cái hình thể tự nhiên sông hồ đó. Phần lãnh thổ chủ yếu của Thăng Long - Hà Nội xưa là phần đất bồi, được bao bọc bởi sông Hồng ở và phía Đông, bởi sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu (nhánh sông Tô) ở phía Tây và phía Nam. Lũy bọc ngoài là đê mà cũng là thành đất, là đường giao thông (đê La Thành). Sông hồ là nguồn nước trên mặt cho sinh hoạt mà cũng là hệ thống thủy lợi và giao thông truyền thống. Sông hồ cũng là những sự kiện địa lý được dùng làm nguyên lý sơ khởi chỉ đạo việc quy tụ xóm làng, phường phố và thành lũy phòng vệ (sử dụng những đoạn sông Hồng, sông Tô làm ngoại hào).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:36:11 GMT 9
04. Từ bề sâu địa chất với số đo vạn triệu năm, ta trở về với bề mặt địa lý Thăng Long Hà Nội, với số đo nghìn năm trở lại đây. Hà Nội đã sinh thành và lớn lên cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: Từ một làng quê, một kẻ quê khiêm tốn bên bờ sông Tô, cạnh gò cao mang tên lịch sử núi Nùng, ở thời đại Đồng thau hay thời đại các vua Hùng bắt đầu dựng nước Văn Lang; Đến một thị trấn, một phố huyện thế kỷ V, mang tên Tống Bình của một thời Bắc thuộc hay tên Long Đỗ bắt nguồn từ huyền thoại; Đến một trung tâm đầu tiên của nước Vạn Xuân một thời độc lập tạm thời, giữa thế kỷ VI, với tòa thành cổ đầu tiên mà sử sách còn ghi ở cửa sông Tô Lịch; Và trải qua mấy trăm năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc giữa trung tâm An Nam đô hộ phủ đời Đường (thế kỷ VII - X); Mảnh đất núi Nùng sông Nhị, núi Tản sông Tô này mới vươn lên trong chức năng trung tâm đầu não của quốc gia Đại Việt đầu thế kỷ XI. Rồi Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh - Hà Nội (hay giản dị hơn, nôm na hơn, Kẻ Chợ trong cách gọi dân gian) trong chín thế kỷ tồn tại và phát triển, cuộc đời lịch sử Hà Nội không bằng phẳng như đất bằng Hà Nội, mà cũng trải “ba chìm bảy nổi” nhiều sóng gió trong nội loạn và nhất là trong ngoại xâm và chống ngoại xâm, bành trướng. Địa vị trung tâm đầu não chính trị của Hà Nội cũng có lúc lung lay khi thể chế quân chủ lâm vào tình huống suy thoái, suy tàn. 04.1. Có rất nhiều “cách nhìn”, “cái nhìn” về nghìn xưa Hà Nội, từ Dân gian đến Bác học. Thực ra, đã từng có cách trả lời dân gian được tinh kết trong Folklore Hà Nội: - Nhĩ Hà quanh Bắc sang Đông Kim Ngưu Tô Lịch là sông bên này - Phồn hoa thứ nhất Long thành Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ. - Khen ai khéo họa dư đồ Trước sông Nhị Thủy sau hồ Hoàn Gươm. Cũng có câu trả lời rất kỳ thú của Người sáng lập ra kinh đô Thăng Long - thành phố Rồng bay, khi dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Trong tờ chiếu (hỏi ý các quan) về việc dời Đô, Lý Công Uẩn, hay ai đó cố vấn cho ông, đã nói: “Ở trung tâm cõi bờ đất nước, có cái thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa bốn phương Đông Tây Nam Bắc, tiện hình thế núi sông sau trước. Ở nơi đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, cư dân không khổ vì ngập lụt, muôn vật đều phong nhiêu tươi tốt. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thực là chỗ bốn phương tụ hội, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời!”. Ta có thể xem đó là một bản Tuyên ngôn địa chính trị - địa chiến lược về Hà Nội nghìn xưa. Cố GS. Phạm Huy Thông đã tóm tắt bài Tuyên ngôn Thủ đô đó bằng 4 chữ của chính bài Chiếu: ĐỒ ĐẠI (mưu toan việc lớn) - CHÍNH TRUNG (ở nơi chính giữa). Nhà địa lý học tài danh Nguyễn Thiệu Lâu khẳng định: Hà Nội là thủ đô tự nhiên của (Bắc) Việt Nam: các mạch núi đều châu về đây, các sông đều tụ hội về đây rồi lan tỏa, đi ra Biển! Có thể có câu trả lời của nhà thơ, đại bút thời Trần Phạm Sư Mạnh (đầu và giữa thế kỷ XVI): “Trấn áp Đông Tây, vững đế đô Hiên ngang một tháp trội nguy nga Non sông bền chặt cột Trời chống Kim cổ khó mòn dùi Đất nhô”. (Đề tháp Báo Thiên). Cũng vẫn là sự ngôn từ hóa cái ý Trung tâm và vòi vọi. Và đây là cách trả lời của tiến sĩ Nguyễn Giản Thanh thế kỷ XV đầu XVI trong bài Phụng Thành xuân sắc phú (viết năm 1508): “Sum một chốn y quan lễ nhạc, Vầy một nơi vạn vật thanh danh. Trời đợm khí xuân, sắc tươi tốt khắp hòa vũ trụ, Nước mừng thịnh trị, thế vững vàng chống cột Thần kinh. Nhớ xưa: Cõi giữa bang trung Đứng trên thượng quốc Đỉnh Tản sơn hùm chiếm Tây Nam Dòng Nhị thủy rồng chầu Đông Bắc. Chợ chợ, nhà nhà, trăm dáng tựa đồ bôi tám bức. Thành thành, thị thị, muôn tía chen thức ánh ngàn hồng. Hương bốn phương cùng họp đất này, giữa chung thiên hạ. Hòa mỗi chốn đều làm đô đấy, ngăn được thế hình... ... Những thấy: Đời đời thành (Long) Phụng ấy, Kiếp kiếp sắc (thái) Xuân này Con cháu dõi truyền đến chưng muôn vạn ức!. Bài phú Nôm này, là sự phát triển thêm cái ý chính “CHÍNH TRUNG - ĐỒ ĐẠI” của Lý Thái tổ, là cái nhìn phong thủy về vị thế địa chiến lược của Hà Nội bao gồm thế lưỡng, giữa: Trong (hoàng cung) - Ngoài (Khu dân sự phố phường chợ búa) và Trước: sông Nhị - Sau: núi Tản. Sông và Núi đều được “thiêng” hóa và trở thành biểu tượng của khu vực chiếc Nôi của dân Việt, nước Việt. Và cái “rốn” của Long thành, “Long Đỗ” (Đỗ 肚 trong chữ Hán có nghĩa là Rốn - Bụng - Dạ dầy) là núi Nùng, trục trung tâm nối Trời/Đất. Trên núi ấy, các vua Lý - Trần - Lê xây điện Càn Nguyên, điện Kính Thiên và núi Nùng. Huyền thoại được thiêng hóa và cùng Sông Cái, trở thành hai biểu tượng của Kinh thành: NÚI NÙNG - SÔNG NHỊ. Diễn trình địa lý của Hà Nội là: VỊNH -> VỤNG -> BIỂN NÔNG -> ĐẦM LẦY RỘNG LỚN + với rừng (sau thành than bùn). Sông Nhị và các chi lưu, hồ Tây, hồ Gươm và các khúc dòng sông cổ khác, đã bao quanh Hà Nội nghìn xưa và hôm nay... Sau nhiều năm điền dã, chúng tôi và các đồng nghiệp trẻ tuổi đã mô hình hóa mảnh đất Hà Nộilà như sau: Từ sơ đồ này, có thể rút ra các nhận xét cơ bản: 1. Các cửa ô xưa đều là cửa nước ở nơi giao hội (ngã ba) các sông (đúng nghĩa water-gate). Ô Cầu Giấy nằm ở ngã ba Tô Lịch - Kim Ngưu - Sét. Ô Đông Mác (Thanh Nhàn) nằm ở ngã ba Kim Ngưu - Lừ, Ô Bưởi (Hồng tâm của Tây Hồ chí) nằm ở ngã ba Tô Lịch - Thiên Phù... Đây là một nhận xét quan trọng về nhiều mặt. Từ đó, ta hiểu các chợ ven đô - hay chợ ô nằm ở các cửa nước của thành Ngoại (La Thành hay Đại La thành trong sử sách từ thời Lý, dài hơn 30km), đấy là nơi giao lưu kinh tế văn hóa giữa nội thành (kinh thành) với vùng ngoại thành rộng lớn ở châu thổ Bắc Bộ và đấy đều vốn là chợ bến - chợ búa, nghĩa là chợ ở ngã ba sông, trên bến dưới thuyền tấp nập... Cũng từ đó, ta hiểu công việc nạo vét sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu của các triều đại ngày trước cùng nguyên nhân sâu xa của cảnh ngập lụt, của chống lấn chiếm đất, giải tỏa các công trình xây trên lòng sông cũ (như ở ngã ba Hồ Khẩu, dọc dài sông Tô từ Thụy Khê xuống Bưởi... ) là một công việc “cần làm ngay”, rất bức bách... 2. La Thành hay Đại La Thành (khoảng 30km) bao quanh Hà Nội cổ truyền có 3 chức năng biểu hiện qua tên gọi dân gian của Nó: ĐƯỜNG ĐÊ LA THÀNH. a. Đường (vành đai thành thị cổ) b. Đê (đắp đất kè đá) c. La Thành (lũy đắp đất trồng tre). Thành lũy ngoài cùng này của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh không phải hoàn toàn kín mà phải mở nhiều cống ở bên dưới lũy để thoát nước xuống phía Nam, Đông Nam, Tây Nam gọi chung là xuống vùng Thanh Đàm (Thanh Trì). Ở vùng “Đàm - Trì” đã và hiện còn nhiều hồ đầm (hồ Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, đầm Hoàng Cầu, hồ Ba Bể (Đống Đa)... và xa hơn là hồ Linh Đàm, hồ Vạn Xoan, đầm Thịnh Liệt... ). Sông Nhị, sông Tô, sông Kim Ngưu vẫn tiếp tục từ Thăng Long - Hà Nội chảy xuống phía Nam, lại thêm sông Nhuệ ở phía Tây, nối nhằng nhịt với nhau và với sông Nhị ở phía Đông, tạo thành mạng sông nằm giữa Đông (Nhị Hà) và Tây (Nhuệ Giang, Hát Giang - sông Đáy) mà nổi bật và gắn bó hữu cơ với Thăng Long - Hà Nội cổ kim là hai sông Sét (Thịnh Liệt) và sông Lừ. 3. Xã hội Việt Nam xưa được xếp vào loại hình “xã hội thủy lợi và trị thủy” (hydraulic Society). Hà Nội là một loại hình đô thị thủy lợi và trị thủy (hydraulic City). Các chuyên gia lớn, như GS. Yves Lacoste (Pháp), xem Xã hội Việt Nam đã thực hiện ở tam giác châu sông Hồng những công trình trị/lợi thủy mạnh mẽ và gắn kết nhau. Sức mạnh và tính phức tạp của mạng đê sông - biển ở Hà Nội và châu thổ sông Hồng bị quy định trước hết bởi sự kiện là con sông này và các chi lưu của nó (mạng song song, mạng cành cây) bắt nguồn từ vùng núi rất gần ở và hàng năm nhận một lượng gió mùa khổng lồ. Lũ rất mạnh và tới bất thần, không chỉ thế, các dòng sông chở nặng phù sa bào xói ở miền núi ở quá cao Hà Nội và đồng bằng. Và do vậy vùng Hà Nội và miền châu thổ chỉ có cách tự vệ, thích nghi để tồn tại là đắp Đê cho vững: Lũ lụt thì lút cả làng Đắp đê phòng lụt thiếp chàng cùng lo!. Sách Hậu Hán thư cho biết: Huyện Phong Khê (vùng Cổ Loa, Đông Anh) có Đê Phòng Lụt từ đầu Công nguyên. Thành lũy Cổ Loa cũng là đê. La Thành, Đại La thành Thăng Long - Đông Kinh cũng cùng truyền thống đó của người Việt phương Nam... Một khi từ Bắc Việt Nam đất cổ và đất Tổ, do áp lực dân số và do chiến tranh, từ trong xã hội Việt nổi lên một trào lưu năng động Nam tiến suốt ngàn năm lịch sử (từ X đến XIX). Theo quá trình Nam tiến đó, là sự tạo dựng các đô thị mới, như Huế, Đà Nẵng-Hội An, Sài Gòn... Chúng vẫn mang một mẫu số chung với Hà Nội cổ truyền là thuộc loại hình ĐÔ THỊ SÔNG. Nhưng chúng cũng mang một nét bản sắc mới: Đó là những cảng thị ven sông biển. Trên Tuổi trẻ chủ nhật (Số 28 - 29,17/7/94), tôi đã nêu lên tư duy về một nền văn hóa cảng thị là cái “mặt tiền” của văn hóa miền Trung (mặt hậu là văn hóa xóm làng). Hà Nội cần có những tiền cảng thị, ở thế kỷ XVII - XVIII là cảng thị sông Phố Hiến với câu ca để đời: Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến. Và đến cuối XIX - đầu XX đó là cảng thị Hải Phòng mà giờ đây cái nhìn chiến lược kinh tế mới đã nói đến khu tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hà Nội đã nhiều phen bị mất (hay đe dọa bị mất) vai trò Thủ đô (như thời gian cuối thế kỷ XVIII - gần hết thế kỷ XIX). Người Hà Nội khi ấy đã nhận thức lại sâu hơn về vị thế địa - văn hóa của mình và vẫn nói: Long thành thật xứng CỐ ĐÔ Kim Âu chẳng mẻ cơ đồ dài lâu. Huế, Sài Gòn đã từng có lúc đóng vai trò THỦ ĐÔ, của cả nước hay của một miền. Và ở nửa sau thế kỷ XX, chúng đã trở thành trung tâm của từng vùng miền của nước Việt Nam. Nhưng không nên nói rằng Huế là kinh đô của Việt Nam cho đến 1945. Ngay ở nửa cuối thế kỷ XIX một tác giả Pháp đã viết: “Hà Nội vẫn là trái tim của cả nước” cho dù Huế đã là kinh đô Việt Nam từ 1802. Và dưới thời thuộc Pháp, Hà Nội (chứ không phải Huế, Sài Gòn) là thủ đô của cả Đông Pháp hay Đông Dương thuộc Pháp - Indochine francaise, bao gồm Bắc kỳ, Trung kỳ (An Nam), Nam kỳ, Lào, Miên. Tới 1945, với cách mạng tháng Tám, Hà Nội lại trở thành THỦ ĐÔ của cả nước Việt Nam. Lịch sử có khi Tụ khi Tán. Huế và Sài Gòn nảy sinh và phát triển ở thời kỳ LI TÁN đó là cũng vì Việt Nam địa thế hẹp chiều ngang Tây - Đông, rộng chiều dài Bắc - Nam. Cái nhìn địa - lịch sử (Geo Historie) cho ta thấy: Sự kiện lịch sử lớn (Nam tiến) phối hợp với không gian địa lý của một cư dân nông nghiệp lúa nước vùng châu thổ đã tạo dựng nên hình dạng kỳ lạ độc đáo của một nước Việt Nam hiện tại. Hà Nội chia sẻ quyền uy kinh tế với các trung tâm miền Trung và miền Nam. Huế, Sài Gòn cũng mang chở (bên sắc thái chung của Việt Nam như Hà Nội) những sắc thái văn hóa riêng, ngưng kết của một vùng - miền: miền Trung, miền Nam. Vùng - miền văn hóa là một thực thể của tổng thể văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa Hà Nội là bản sắc chung của văn hóa Việt Nam song trước hết là sự kết tinh của văn hóa châu thổ sông Hồng. Đấy không phải là một tư duy kỳ thị, chia rẽ Bắc Trung Nam. Tư duy địa văn hóa ấy, ta thấy cần thiết phải có một chiến lược văn hóa: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới đậm đà bản sắc chung của dân tộc - dân gian và tôn trọng những sắc thái văn hóa riêng của từng vùng - miền, từng cộng đồng tộc người. (Bài in trong Trần Quốc Vượng: Hà Nội như tôi hiểu, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005, tr.43-66)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:37:23 GMT 9
KỈ NIỆM 950 NĂM
THÀNH LẬP THỦ ĐÔ HÀ NỘI Trần Huy Liệu Kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội sẽ nói lên nước ta lập quốc từ lâu, có một nền văn hóa lâu đời mà thủ đô là tiêu biểu. Kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội còn nói lên truyền thống anh dũng của dân tộc ta mà thủ đô là một biểu hiện rõ rệt nhất. Đặc biệt là kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội càng nói lên một cách hùng hồn đất nước ta là một, nền thống nhất của Tổ quốc đã được xây dựng từ lâu mà thủ đô là tượng trưng của nó. Thật thế, Thủ đô Hà Nội yêu quý của chúng ta là tiêu biểu của cả nước, đã thấm sâu vào tình cảm của dân tộc ta. Trước kia cũng như ngày nay, nghìn năm văn vật đất Thăng Long luôn luôn ấp ủ trong lòng người dân Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, dù đương ở chỗ nào, đương sống trong hoàn cảnh nào cũng đều hướng về nơi trung tâm của đất nước, tự hào về lịch sử văn hiến của dân tộc với thủ đô Thăng Long ngày trước tức Thủ đô Hà Nội bây giờ. Hiện nay, mặc dầu đất nước còn bị chia cắt, nhưng đồng bào chúng ta từ Nam chí Bắc ai mà không nhận thấy Tổ quốc ta là một, lịch sử ta là một, văn hóa ta là một, thủ đô ta là một; ở đó có Hồ Chủ tịch, có Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, có Quốc hội và có Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, kỷ niệm thành lập Thủ đô Hà Nội chẳng những có một ý nghĩa sâu sắc về lịch sử, mà còn có một ý nghĩa to lớn về chính trị. * * * ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP THỦ ĐÔ CỦA MỘT NƯỚC VÀ VIỆC ĐỊNH ĐÔ Ở THĂNG LONG CỦA NƯỚC TA Một vấn đề đề ra là: thế nào là thủ đô của một nước và thủ đô của một nước khác với thủ phủ của một địa phương thế nào để đi đến việc định đô ở Thăng Long, thủ đô của nước ta? Trước hết, chúng ta phải nhận điều kiện thành lập một thủ đô quan hệ với sự hình thành một nhà nước, một quốc gia. Thủ đô của một nước chỉ có thể dựng nên khi mà tình trạng cát cứ đã không còn, nhà nước trung ương tập quyền đã thành lập và thủ đô trở lên là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là chính trị của một nước. Do đó, một vấn đề nữa đặt ra: với điều kiện kể trên, Thăng Long trước kia tức Hà Nội ngày nay có phải là thủ đô đầu tiên của nước ta không và nó đã được thành lập trong điều kiện lịch sử nào?. Chúng tôi trả lời ngay rằng thủ đô Thăng Long chính là thủ đô đầu tiên của nước ta và nó đã được dựng nên vào lúc nhà nước trung ương tập quyền bắt đầu thành lập: đầu triều Lý. Về thuyết này, có người cho rằng nhà nước trung ương tập quyền của ta có thể bắt đầu từ Ngô Quyền (939 - 944), mà nếu kể từ hồi Ngô Quyền thì thủ đô đầu tiên của nước ta không phải Thăng Long, mà là Cổ Loa. Nhưng theo chỗ nghiên cứu của chúng tôi, thì Ngô Quyền sau khi phá quân xâm lược Nam Hán, sự thực là vẫn chưa thống nhất được lãnh thổ. Cho tới khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong mười hai sứ quân, nạn cát cứ được thủ tiêu, đóng đô tại Hoa Lư, nhưng chính quyền vẫn chưa thật ổn định, Hoa Lư chưa phải là thủ đô của nhà nước trung ương tập quyền. Do đó, việc Lý Thái tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long chẳng phải chỉ vì thấy địa thế Hoa Lư chật hẹp, mà còn chính vì nhà nước trung uơng tập quyền đòi hỏi phải có một thủ đô “…ở giữa bờ cõi…, nơi hội họp then chốt của bốn phương chầu về”[2]. Cố nhiên nói đến lịch sử thủ đô Thằng Long ngày trước, tức là Thủ đô Hà Nội ngày nay, chúng ta không cần nhắc đến thành Đại La của Cao Biền, một tên tướng xâm lược của phong kiến nhà Đường, xuất hiện từ năm 875 trước đó. Như vậy, nói việc thành lập thủ đô Thăng Long, chúng ta còn phải gắn nó với việc thành lập nhà nước trung uơng tập quyền và Thăng Long là một thủ đô chính thức đầu tiên của nước ta. Tài liệu lịch sử chép rằng: tháng 7 năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên (1010), Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ khởi sự dời đô từ Hoa Lư về La thành. Vì… “La thành ở giữa bờ cõi, có thế rồng quần hổ chầu, chính được vị trí bốn phương. Vùng đất rộng rãi và bằng phẳng, mặt đất cao ráo và sáng sủa. Dân cư không sợ ngập lụt, muôn vật lại rất thịnh giầu. Nhìn khắp đất Việt chỉ có nơi đó là đất đẹp, thực là nơi hội họp then chốt của bốn phương chầu lại”[3]. Chuyện “rồng vàng hiện lên” đối với chúng ta, không có nghĩa mê tín, mà chỉ có nghĩa là một nơi phồn thịnh với khí thế đương lên của nó. Cái tên Thăng Long tốt đẹp này đã truyền đi hơn tám thế kỷ, tượng trưng cho dân tộc ta không ngừng phát triển từ hàng nghìn năm. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA THỦ ĐÔ THĂNG LONG TỨC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 1. Thủ đô Thăng Long là một trong những thủ đô vào hạng cổ nhất thế giới Từ 1010 đến 1960, Thủ đô của chúng ta đã có 950 năm lịch sử, vào hạng thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Nếu so với thủ đô của một số nước Đông Nam Á thì thủ đô của ta đã xuất hiện rất sớm. Từ năm 1010 tới năm 1945, mặc dầu có những lúc gián đoạn như Hồ Quý Ly tạm dời đô về Thanh hóa, Nguyễn Huệ không đóng đô ở Thăng Long và triều Nguyễn đã hạ thấp thủ đô Thăng Long thành một tỉnh thường lấy tên là Hà Nội, Thăng Long đã là cố đô của nhiều triều đại và ngày nay, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lịch sử lâu dài của Thủ đô chứng minh sự phát triển rất sớm và sự trường tồn mạnh mẽ của dân tộc ta. 2. Thủ đô Thăng Long là nơi trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước ta suốt trong thời kỳ độc lập dưới chế độ phong kiến Chưa nói từ năm 1945 tới giờ, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Suốt trong thời kỳ độc lập của phong kiến, Thăng Long tức Hà Nội vẫn là nơi trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của đất nước. Các cơ quan đầu não của bộ máy nhà nước đều tập trung ở đấy. Những biến cố chính trị đều diễn ra ở Thăng Long là vũ đài chính của nó. Nếu lịch sử Thủ đô có những thời gian gián đoạn vì những động cơ nhất thời như đã nói ở trên thì Thăng Long vẫn không lúc nào mất địa vị trung tâm chính trị của đất nước. Như chúng ta đã biết, việc Hồ Quý Ly đắp thành Tây Giai ở Thanh Hóa là nằm trong kế hoạch quân sự đối phó với giặc Minh. Nhưng Thăng Long, tức Đông Đô, vẫn giữ vai trò thủ đô của đất nước. Nguyễn Huệ xưng đế nhưng không ra ở Thăng Long vì còn phải ở Phú Xuân để đối phó với tập đoàn Nguyễn Phúc Ánh ở miền Nam. Sau khi Nguyễn Huệ chết, con là Nguyễn Quang Toản tức vua Cảnh Thịnh đã dời đô ra Thăng Long. Còn triều Nguyễn, Gia Long sau khi đã bình định được toàn quốc rồi, vẫn không nghe lời Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành để đóng đô ở Thăng Long vì chúng vẫn không thu phục được một số đông nhân sĩ Bắc Hà và không tiêu diệt được những cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn kế tiếp nổi dậy. Rồi đó, trong âm mưu chia cắt đất nước thành Bắc thành và Gia Định thành, triều Nguyễn đã tìm đủ cách hạ thấp thủ đô tiêu biểu của đất nước. Chúng đã e ngại cả cái tên Thăng Long với ý nghĩa rồng bay bổng để đổi chữ “long” (龍) con rồng ra “long” (隆) là thịnh. Chúng đã phá hết những dấu vết cũ của Tây Sơn (1804) bằng việc phá thành cũ, dựng thành mới theo kiểu Vô - băng (Vauban) của Pháp. Cho đến năm 1831, Minh Mạng lại đổi Bắc thành (tức Thăng Long) làm một tỉnh thường, lấy tên là Hà Nội (bên trong sông Hồng) và bắt hàng ngàn dân phu vận chuyển những vật liệu kiến trúc bằng gỗ đáo có giá trị mỹ thuật đưa vào Huế. Mặc dầu Thăng Long đã bị đổi tên, bị phá hủy triệt để, Hà Nội, tức Thăng Long, vẫn ngang nhiên là tiêu biểu của đất nước, đến nỗi bọn phong kiến nhà Thanh khi phong sắc cho Minh Mạng và Thiệu Trị vẫn chỉ đến Hà Nội rồi buộc bọn này ra Hà Nội nhận sắc. Tới khi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, chúng đã lấy Hà Nội làm thủ phủ cho 5 xứ ở Đông Dương. Về văn hóa và kinh tế, Thăng Long hay Hà Nội, dưới thời phong kiến, là nơi tập trung những cơ quan văn hóa như Quốc Tử Giám, nhà Thái học, quán Chiêu Văn, cục Tú Lâm… và những kỳ thi cao cấp như thi Hội, thi Đình đều mở ở đây. Thăng Long còn là nơi tập trung những sĩ phu trí thức, đã xuất hiện nhiều sách vở, thơ văn nổi tiếng ở các thời đại. Ấy là chưa nói đến những danh lam thắng cảnh của Thủ đô đã là đề tài ngâm vịnh của nhiều danh sĩ qua các thời đại và nhiều câu ca dao tuyệt đẹp trong dân gian. Năm 1877, khi thực dân Pháp đã đánh chiếm Nam Bộ, tên quan cai trị người Pháp là De La Liraye còn viết về Hà Nội như sau: “Mặc dù Kẻ Chợ (tức Hà Nội) không phải là nơi vua ở nữa, nhưng Kẻ Chợ vẫn là một thành phố đứng đầu trong cả nước về mặt nghệ thuật, công nghiệp, thương nghiệp, về sự giầu có, về dân cư, về sự lịch thiệp và văn hóa. Phải nói rằng trong cả nước không ở đâu công nghiệp bằng Kẻ Chợ và cả miền Bắc lẫn miền Nam không đâu hơn Kẻ Chợ. Chính đây là nơi tập hợp những người trí thức, những người thợ giỏi và những nhà buôn lớn. Những đồ vật cần dùng hàng ngày và những mỹ nghệ phẩm xa hoa cũng đều ở đấy mà ra. Nói tóm lại, Kẻ Chợ chính là trái tim của dân tộc Việt Nam”. Những nhận xét kể trên của một tên thực dân, về phương diện khách quan cũng đã nói lên địa vị ưu việt về kinh tế và văn hóa của Hà Nội.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:37:59 GMT 9
3. Thủ đô Thăng Long là một thành phố đông, vui, to, đẹp trong thời phong kiến Chúng ta chưa nói Thủ đô Hà Nội ngày nay với tương lai tươi đẹp của nó, hãy nói thủ đô Thăng Long thời phong kiến. Theo tài liệu lịch sử, thì đầu thế kỷ thứ XI, Thăng Long đã có một quy mô kiến trúc to lớn: “Hoàng thành tráng lệ ở phía Bắc kinh thành; quan lại và quân đội ở phía Nam kinh thành; Đông và Tây là nơi phố phường dân ở và buôn bán”. Cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV, thành phố Thăng Long đã có “những phường phố sầm uất, buôn bán cả đêm tối”. Một giai thoại đương thời nói chuyện “vua Trần Anh Tôn đêm đêm thường đi kiệu cùng vài chục người dạo chơi kinh thành đến gà gáy mới về cung”. Chúng ta cũng có thể đoán biết kinh thành có đông vui thì mỗi đêm, ông vua mới đi chơi bê tha như thế. Cũng theo tài liệu lịch sử, thì thế kỷ XI, XII, khách thương quốc tế, chủ yếu là Trung Quốc, Giava, Thái Lan đã tập trung nhiều ở Thăng Long. Thế kỷ XV, XVI, tàu buôn các nước ra vào Thăng Long như mắc cửi, không mấy ngày không có. Trong số tàu thuyền qua lại, có các tàu thuyền của Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Phi Luật Tân, Thái Lan, Campuchia... Từ thế kỷ XIV, XV, đã từng có những phố Hoa Kiều buôn bán. Đến thế kỷ XVII, XVIII đã có những cửa hàng người Hà Lan, người Anh. Họ được phép thuê đất làm nhà buôn bán ở phía bờ sông. Để chứng rõ Thăng Long đông vui, to, đẹp, chúng tôi chỉ cần trích dẫn những câu nói của một số người Âu châu đã đến nước ta từ những thế kỷ XVI, XVII, XIX nói về Thăng Long. Cố đạo Ma ri ni, người Ý, đã ở Thăng Long vào đầu thế kỷ thứ XVII, viết: “Kẻ Chợ chiếm một vùng đồng bằng rất đẹp và rất phì nhiêu, rộng hàng bao nhiêu dặm. Thành phố có 72 phường, mỗi phường rộng bằng một thành phố trung bình nước Ý. Nếu ta đi từ kinh thành tức là thị trấn mà vào triều tức là nơi cung điện nhà vua thì không chỉ thấy một cung điện, mà là cả một thị trấn rất đẹp và rộng. Số lính canh gác và các quan văn võ rất đông, voi ngựa và khí giới đạn dược rất nhiều, lạ quá sức tưởng tượng của mọi người. Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ, nhưng ở đó có rất nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu, thảm, rất tốt và đủ các màu sắc để tô điểm, thật không đâu sánh kịp”. Nhà buôn Anh Samuel Baron ở Thăng Long vào nửa cuối thế kỷ 17 đã viết: “Về diện tích, Kẻ Chợ có thể so sánh với nhiều thành phố khác ở châu Á, về dân số thì đông hơn nhiều”. Cố đạo Ri sa (Richard) cũng nói về Thăng Long ở thế kỷ XVIII: “Phố sá Kẻ Chợ rộng và đẹp, lát gạch từng quãng, hoặc lát từng hàng dài, để chừa những lối đi không lát cho ngựa, voi, xe của nhà vua và các súc vật khác”, “Số lượng thuyền bè rất lớn đến nỗi khó mà lội được xuống bờ sông. Những sông bến buôn bán sầm uất nhất của chúng ta (châu Âu) kể cả Vơ ni dơ (Vennise) với tất cả những thuyền lớn nhỏ của nó cũng không thể làm người ta hình dung được đúng sự hoạt động buôn bán và dân cư đông đúc trên sông Kẻ Chợ”. Cho đến đầu thế kỷ XIX, Se-nhô (Chaigneau), một võ quan Pháp giúp việc cho Gia Long đã nói về Thăng Long năm 1820: “Trước khi bị chiến tranh tàn phá, Thăng Long như người ta nói, là một trong những công trình xây dựng đẹp nhất châu Á”. Có lẽ chúng tôi không cần chứng dẫn nhiều hơn nữa vì những lời nhận xét của người ngoại quốc kể trên đã hình dung được cảnh to, đẹp, đông vui của Thăng Long trước kia. Và, nếu các bạn có thì giờ hãy đọc lại bài phú: “Tụng Tây hồ” của Nguyễn Huy Lượng để tưởng tượng lại Thăng Long văn vật cuối thế kỷ XVIII. Đây là cảnh sản xuất đông vui và buôn bán sầm uất của Thăng Long: - Chày Yên Thái nện trong sương chềnh choàng? Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co - Rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm; Thanh lánh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn ghi cửa tò vò. - Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm; Sen vàng nọ nảy tiền xanh lác đác, lừa đóm ghen Năm xã gây lò. Này đây là cảnh đẹp đầy thi vị của Thăng Long: - Gió đìu hiu dòng Nhị thủy đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc; Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trăng từ lũ cá đàn cò. - Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái Trúc (- Bạch); Non Phục Tượng (Voi Phục) lúc vắng trăng hé mở, tiếng hàn châm nghe cách dải sông Tô (-Lịch). 4. Thủ đô Thăng Long đã nổi bật lên trong những cuộc chống ngoại xâm và vận động cách mạng Thủ đô Thăng Long chẳng những là một thành phố to, đẹp, đông vui như trên đã nói, mà còn nổi bật lên trong những cuộc chống ngoại xâm và vận động cách mạng. Là thủ đô lâu năm của một nước, là trung tâm điểm chính trị, Thăng Long đã sống rất nhiều với những biến cố lịch sử. Trong những năm về phần cuối thế kỷ thứ XIII, quân Mông Cổ ồ ạt kéo vào ba lần đánh chiếm Thăng Long, nhưng rồi ba lần vua tôi nhà Trần, dựa vào sức ủng hộ to lớn của nhân dân lại thắng trận trở về Thăng Long với câu thơ: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã; Sơn hà tự cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông muôn thủa vững âu vàng). Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã làm rung động kinh thành Thăng Long; có những lần quân khởi nghĩa đã làm chủ kinh thành trong một thời gian ngắn như cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở cuối thể kỷ XIV, của Trần Cao đầu thế kỷ XVI. Thế kỷ XV, sau mười năm chiến đấu anh dũng và gian khổ, Lê Lợi thu phục Đông Quan (tức Thủ đô Thăng Long) ghi trận thắng lợi cuối cùng với bài “Bình Ngô đại cáo”. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, lính Tam phủ, những người nông dân mặc áo lính, đã bốn lần gây chính biến ở Thăng Long, làm đảo lộn cả trật tự của vua Lê chúa Trịnh. Khoái chá nhất là trận Đống Đa ngày mồng 5 tháng Giêng năm Mậu Thân (1789) của người hùng áo vải là Nguyễn Huệ, đã diệt 20 vạn quân ngoại xâm, chấm dứt cuộc xâm lược của triều đình Mãn Thanh và cũng chấm dứt luôn cả cuộc xâm lược của phong kiến Trung Quốc. Thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, Hà Nội hai lần bị thất thủ (1873 và 1882), nhưng quân dân Hà Nội đã anh dũng chống giặc và qua những bài Chính khí ca và Hà Thành thất thủ ca, chúng ta thấy rõ sự tham gia chiến đấu hay ủng hộ chiến đấu của nhân dân Hà Nội bấy giờ. Đầu thế kỷ thứ XX, Đông Kinh nghĩa thục (1907) của các sĩ phu yêu nước đã được lập ra ở Hà Nội và tỏa đi các nơi, gây thành một phong trào cách mạng về văn hóa. Cuộc bỏ thuốc độc cho sĩ quan Pháp và chuẩn bị khởi nghĩa của binh lính người Việt đã nổ ra ở Hà Nội năm 1908. Việc ném bom giết hai sĩ quan Pháp tại khách sạn Hà Nội do các đảng viên Việt Nam Quang phục hội chủ trương đã nổ ra năm 1913. Cho đến những tiếng bom của nhóm học sinh trường Kỹ nghệ Hà Nội hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã nổ ra đêm 10 - 2 - 1930. Bắt đầu từ năm 1930, cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo bước sang một giai đoạn mới thì Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã được thành lập giữa những người lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tại Hà Nội. Chính tại Hà Nội đã xuất hiện Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong những năm 1936 - 39, phong trào Mặt trận Dân chủ dâng lên, Hà Nội là nơi trung tâm với nhóm Cộng sản công khai là nhóm Tin tức, đã xuất hiện những tờ báo của Đảng, của Mặt trận và những cuộc biểu tình khổng lồ, đình công, bãi thị của đông đảo công nhân, nông dân, tiểu thương, học sinh... đã liên tiếp nổ ra ở Hà Nội. Cho đến ngày 19 - 8 -1945, ngày đoạt chính quyền ở Hà Nội mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc, đưa đến Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tại quảng trường Ba Đình đã khai sinh cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mà thủ đô là Hà Nội. Thế là sau một thời gian 143 năm, kể từ khi Gia Long đóng đô ở Thuận Hóa, thủ đô của đất nước ta lại trở về với chốn nghìn năm văn vật. Từ đó, dân tộc ta chuyển mình trong những ngày vinh quang nhất, Thủ đô Hà Nội với Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ là nơi tỏa ra những hào quang chiếu dọi khắp nước. Rồi, ngày 19-12-1946, tiếng súng giết giặc nổ ra ở Thủ đô báo hiệu một cuộc toàn quốc kháng chiến. Ngày 10-10-1954, quân đội vinh quang của ta trở về Thủ đô cũng báo hiệu cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi và một lần nữa, nhân dân Thủ đô cũng như nhân dân toàn quốc sang một giai đoạn mới của lịch sử. * * * Trở lên trên, chúng tôi đã trình bày bày về Thủ đô Thăng Long tức Thủ đô Hà Nội qua các triều đại với những đặc điểm của nó. Thủ đô của chúng ta với 950 năm từ ngày thành lập đã qua 848 năm dưới chế độ phong kiến, 87 năm dưới chế độ thực dân nửa phong kiến và từ năm 1945 tới nay, Thủ đô hoàn toàn giải phóng dưới chính quyền Dân chủ Nhân dân và đương xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhắc đến Thủ đô Hà Nội và kỷ niệm 950 năm thành lập Thủ đô Hà Nội, chúng ta không đượm màu hoài cổ, nhớ tiếc những cái dĩ vãng đã lỗi thời để ngâm lại những câu: Nghìn xưa cung cũ, đường vùi dấu Một khúc thành nay, điện mất tăm (Nguyễn Du). Hay: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nếp cũ lâu đài bóng tịch dương (Bà Huyện Thanh Quan). Chúng ta rất phấn khởi tự hào cho dân tộc có một thủ đô lâu năm, nhưng chúng ta càng phấn khởi thấy Thủ đô mới dẫn đầu đất nước tiến lên giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước. Chúng ta không thương cảm cái đã mất, cái lạc hậu mà hăng hái xây dựng những cái mới để làm cho Thủ đô non một nghìn năm của chúng ta vẫn trẻ và ngày càng tươi trẻ, xứng đáng là Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất và Xã hội chủ nghĩa. (Diễn văn của đồng chí Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học, đọc tại buổi lễ kỷ niệm 950 năm thành lập Thủ đô và 6 năm giải phóng Thủ đô do Uỷ ban Hành chính và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội tổ chức ngày 10 tháng 10 năm 1960. Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 20 (11/1960), tr.74-78)
[2] Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. [3] Chiều dời đô của Lý Thái Tổ.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:48:44 GMT 9
VỀ NGHỀ LÀM QUAN TRONG XÃ HỘI THĂNG LONG - HÀ NỘI XƯA PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ Năm 1688, một lái buôn người Anh là Dampier có đến Thăng Long - Kẻ Chợ, đã nhận xét rằng ở đó, người ta có thể gặp được những người làm đủ mọi loại nghề, và ông ta đưa ra một danh sách dài dặc những nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, có một nghề đặc biệt ở Thăng Long - Kẻ Chợ mà lúc đó ông ta quên không xếp vào bảng mục: đó là nghề làm quan. Thực vậy, trong chế độ phong kiến nhà nước quan liêu của Việt Nam thời xưa, có một đẳng cấp được đào tạo để suốt đời chuyên làm nghề cai trị dân chúng, tức nghề làm quan. Cũng có thời gian học nghề gian khổ, tập sự công phu, có niềm vinh và nỗi nhục nghề nghiệp. Ở chốn kinh thành, nghề làm quan lại càng nhộn nhịp, sôi động. Viễn cảnh “ngựa anh đi trước võng nàng theo sau” đã trở thành mộng ước của bao chàng trai, cô gái. Một học giả phương Tây đã có lý khi nói rằng: “ Ở Việt Nam xưa, mọi người dân ai cũng chứa đựng một ông quan trong bụng”. Có nhiều con đường dẫn đến quan trường, nhưng khoa cử vẫn là phổ biến hơn cả. Thăng Long là nơi kinh đô, có trường Đại học Quốc gia Quốc Tử giám, tập trung nhiều danh sĩ, nhân tài, là trung tâm văn hoá của cả nước. Nho sinh từ bốn phương đổ về sôi kinh, nấu sử, đông như trẩy hội. Anh khoá nào mạnh thế thì chen chân được vào chức giám sinh nội trú Quốc Tử giám, được cấp học bổng, học phẩm. Số đông ít may mắn hơn tụ tập tự học quanh khu Văn Miếu, lập nên cả một ký túc xá sinh viên, tức Quán anh đồ, lại còn các lớp tư thục của một số vị khoa bảng nổi tiếng, đó chính là các “lò luyện thi thời trung đại”, như các lớp của cụ Nghè Tự Tháp, ông Đốc Mọc, ông Bảng Lũ, ông Cử Vũ Thạch. Ba năm đèn sách gian lao mới đến một kỳ thi Hội, thi Đình. Hàng mấy nghìn thí sinh đua chen trong một cuộc chạy vượt rào qua rất nhiều cửa ải, khi về đến đích chẳng còn được là bao. Trong mỗi khoa thi ở Thăng Long nhiều thì một hai chục ông nghè, ít thì vài ông. Sau phút bàng hoàng thấy tên mình được yết trên bảng vàng ở đình Quảng Văn, các vị tân khoa được mời vào Hoàng thành, qua cửa Đoan Môn quỳ gối trước thềm điện Kính Thiên được vua ban mũ áo, cân đai và đãi tiệc yến, rồi võng lọng vinh quy trở về làng, người nho sinh gốc bình dân kia thực sự đã làm một cuộc đời, chuyển dịch qua một đẳng cấp xã hội khác. Sự thử thách đầu tiên là làm sao vận động được các quan thầy hoặc các nhà quyền quý có thế lực để tìm được một chỗ đứng hứa hẹn trong quan giới ở kinh đô. Ở Thăng Long, tập trung một bộ máy quan liêu khá đông từ triều đình trung ương đến các cấp địa phương. Quan chức lại được chia thành nhiều hạng, bậc: có 9 phẩm, hai bậc chính tòng, hai ban văn võ, vị chi 36 chức quan cao thấp khác nhau. Các chức quan thuộc trung ương và có liên quan đến hoàng tộc thường được xếp ở bậc cao. Các chức quan địa phương hoặc các quan chuyên môn ở bậc thấp hơn. Thời Lê, chức Phủ doãn Thuận Thiên (tức Thị trưởng Thăng Long) được xếp vào bậc ngũ phẩm, tức bậc 5/9 từ trên xuống. Các chức quan Tu soạn sử quán (chuyên viết sử cho triều đình), Giáo thụ Quốc Tử giám (giáo sư Đại học), Chánh ty giáo phường (người phụ trách hoạt động múa nhạc của kinh thành) đều xếp ở hạng bát phẩm, tức 8/9, gần cuối cùng. Sau lo việc công đến lo việc tư. Các vị tân khoa có nhiều triển vọng nhất trên đường hoạn lộ thường cũng là những người có nhiều may mắn nhất trên đường tình duyên. Các chàng trai đều thường được các nhà buôn giàu có Hàng Bạc, Hàng Đào để ý, tìm cách mối lái, gả cho các con cháu mình là những cô gái xinh đẹp có chút chữ nghĩa để đọc các truyện nôm về tình yêu trai gái, đồng thời cũng rất thạo buôn bán trên các tráp tiền đồng bạc nén hoặc các sạp hàng tơ lụa. Đây không chỉ là cuộc hôn phối giữa đôi trai tài gái sắc, đó còn là cuộc hôn phối kinh tế, chính trị giữa hai tầng lớp xã hội có quyền và có tiền, bổ sung cho nhau thành một gia đình viên mãn. Cuộc sống giới quan liêu ở Thăng Long - Hà Nội xưa tiêu biểu cho đẳng cấp thượng lưu quý phái có đặc quyền. Họ được xã hội trọng vọng, được miễn trừ sưu thuế, tạp dịch, được chuộc tội bằng tiền, được nhà nước cấp bổng lộc, đất ở, ruộng cày, có tiêu chuẩn độc quyền xây nhà cao, cửa rộng, dùng đồ sơn son thiếp vàng, mặc đồ sa tầu, đoạn tầu, đi giày hài. Ra đường có phu khiêng võng, che lọng, lính hầu, dân phố phuờng thường phải rạp mình quỳ lạy mỗi khi có bậc quan lớn đi qua. Tới công đường hoặc vào triều ban, các quan đều có phẩm phục quy định riêng cho từng cấp bậc. A. de Rhodes khi đến Thăng Long vào thế kỷ XVII, nhận xét là các quan văn mặc áo màu đen, các bậc đại thần mặc áo ngả màu tía. Trên ngực và lưng áo của quan văn thường thêu các loài chim như công, hạc, yểng, cò; quan võ thêu các loài thú như sư tử, hổ, hùm, beo. Nhà vua là người duy nhất được mặc áo hoàng bào màu vàng, thêu rồng. Tất cả các đồ đạc trang phục của giới quan liêu đều được nhà nước ban cấp, do các công tượng ở cục Bách tác làm ra hoặc được thửa tại các cửa hiệu trong phố phường. Hàng Đào bán tơ lụa, nhuộm điều, Hàng Bạc làm đồ trang sức vàng bạc, phường Cổ Vũ sơn thiếp, Tả Khánh tiện gỗ, Hàng Khay chạm khảm, Hài Tượng làm giày hài.... Công việc và hưởng thụ của giới quan liêu Thăng Long - Hà Nội cũng rất khác nhau. Ngạch quan bận rộn nhiều bổng lộc là các ngạch quan có liên quan đến các mặt xét xử kiện tụng, trưng thu thuế má, tiếp xúc nhiều với dân chúng. Sử cũ gọi đó là hạng “phì quan” (quan béo). Còn các loại quan thuộc ngạch giáo dục, văn hoá và các vị tản quan (có hàm mà không có thực chức) công việc và bổng lộc đều ít. Phạm Đình Hổ gọi đó là các vị quan “nhàn rỗi không đủ tiêu”. Trong khi một số quan có quyền thế thường sai gia nhân ra chợ mua hiếp của dân, sai tay chân đi cướp bóc những chậu cây cảnh hiếm quý của các nhà giàu, thì một số đông khác đời sống hàng ngày vẫn rất thanh bạch. Nghề làm quan ở kinh đô Thăng Long có khi đưa con người ta đến chốn tột đỉnh giàu sang, nhưng cũng phải trả giá bằng nhiều nỗi nhọc nhằn. Hàng ngày, từ trong nhà ra ngoài phố, ở công đường, nơi triều chính, tiếp xúc với đủ mọi loại hạng người, người làm quan phải luôn luôn lao tâm khổ tứ, chọn lựa thái độ ứng xử sao cho phải lễ, phải đạo, hợp luật, hợp lệ. Nơi Kinh kỳ đô hội “quan trên trông xuống người ta trông vào”, lại càng phải cẩn trọng, khỏi bị sai phạm trong các kỳ đàn hạch, khảo khoá, nơm nớp mong được thăng quan, những lo bị giáng chức. Trước hết là đối với ngôi vua tối thượng. Làm tôi phải trung với vua, người làm quan đã được vỡ lòng lời dạy đó ngay từ thời để chỏm, tâm niệm nó suốt cuộc đời chính sự. Nhưng có vua sáng vua tối, thời thịnh, thời suy, phân biệt được điều đó đâu phải dễ dàng?. Ở đây, người quan liêu vừa là một người “tôi tớ” (hạ thần) của nhà vua, vừa là người có trách nhiệm đối với quốc gia, cái khó là kết hợp trọn vẹn được đạo vua tôi nghiêm nghặt với lòng cương trực dám nói thẳng. Một số không ít các vị quan nơi kinh kỳ đã nêu được gương sáng về tiết tháo. Chúng ta đều biết chuyện Tô Hiến Thành rất công minh trong việc chọn lựa người tài, về Chu Văn An dũng cảm dâng sớ “Thất trảm” đòi chém bảy tên nịnh thần được nhà vua sủng ái, nhưng mấy ai đã làm được như các ông?. Thời Trần, quan ngự y Phạm Công Bân dám hoãn lại việc khám bệnh cho một quý phi của nhà vua bị cảm mạo để đi cấp cứu cho một phụ nữ thường dân bị băng huyết làm cho nhà vua lúc đầu nổi giận nhưng sau đã chuyển sang cảm phục. Thời Lê, khi vua Lê Thánh Tông muốn xem những điều trong nhật sử ghi chép về mình, sử quan Lê Nghĩa đã khẳng khái tâu: “Nhà vua cứ nên cố sức làm điều lành là đủ rồi, hà tất phải xem quốc sử?” có ý muốn giữ cho ngòi bút của mình được trong sạch khỏi bị uốn cong. Đấy là trường hợp những tôi trong vua sáng. Nhưng trong lịch sử, cũng không hiếm trường hợp chỉ vì muốn nói thẳng căn ngăn vua mà người làm quan đã bị trừng phạt, cách chức, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Cái giá của sự thật đâu phải là rẻ rúng!. Mối quan hệ với các đồng liêu trong giới quan trường cũng hết sức phức tạp. Chín phẩm, 36 cấp bậc văn võ, dưới trên phân biệt, quả thật là cả một bậc thang đẳng cấp trong một đẳng cấp. Trăm điều nghi lễ, nghìn điều xét nét, đó là chưa kể những lời đố kỵ dèm pha, nhất là của các bọn hoạn quan dốt nát, xảo quyệt chuyên nghề hại bạn nịnh vua. Thời Trần, Đoàn Nhữ Hài thấy bạn đồng sự pha trò vô ý thức trong triều, không nghe đứng dậy bỏ đi, nhưng vẫn bị hặc tâu xử phạt là cố tình tránh né. Nguyễn Trung Ngạn có thời làm Kinh sư đại doãn (Thị trưởng Thăng Long) trước đó đã bị giáng chức chỉ vì sơ suất xếp nhầm một chức quan có tiêu chuẩn mặc áo đen (Tạo y) sang tiêu chuẩn mặc áo tía (Tử y), bởi lẽ quan dưới tiếm dụng tiêu chuẩn sinh hoạt của quan trên là phạm thượng. Tổng trấn Bắc Thành đầu tiên triều Gia Long là Nguyễn Văn Thành, bị đồng liêu là Lê Văn Duyệt thù ghét, đã nhân chuyện con trai Thành làm một bài thơ ngông, tố cáo lên vua vu Thành âm mưu phản loạn, buộc vị khai quốc công thần kia phải kết liễu cuộc đời trong chén thuốc độc. Người quan liêu ở đây luôn luôn phải sống trong một mặc cảm tự ty và trong niềm hoang tưởng bị người khác theo dõi. Vị quan có nhiều duyên nợ với Thăng Long là thi hào Nguyễn Du, những khi ở chốn triều đường thường rất ít sử dụng cái lưỡi của mình trong lời ăn tiếng nói, phải chăng chính vì ông luôn sợ hãi những cái lưỡi khác của bạn đồng liêu?. Một quan hệ thường trực hàng ngày của giới quan liêu trấn trị ở Thăng Long - Hà Nội là việc tiếp xúc với dân chúng phố phường: thu thế, nhận đơn kêu xin, xử kiện. Chính ở mặt quan hệ này đã nảy sinh ra những tật bệnh kinh niên phổ biến ở giới quan liêu: tệ lộng quyền và nạn tham nhũng. Trong cơ chế một xã hội đẳng cấp tôn ti, chính cái mặc cảm tự ty nơi cung đình lại rất dễ biến thành mặc cảm tự tôn nơi công đường. Trong đầu óc người làm quan đã ngấm sâu quan điểm Khổng giáo “hạng quân tử thì trị người còn hạng tiểu nhân thì bị người trị”. Dân chúng ở đây chỉ là những thần dân lệ thuộc có bổn phận chăm chỉ làm ăn và biết vâng lời, chứ làm sao lại được phép coi là những công dân tự do, những chủ thể chính trị của thành phố? (Trong khi đó, ở các thành thị tự trị trung đại Tây Âu, thị dân cũng chính là người công dân. Trong tiếng Anh, từ citizen vừa có nghĩa là thị dân, vừa có nghĩa là công dân. Phương ngôn Đức đương thời có câu: “Hít thở không khí đô thị, làm cho con người ta trở thành tự do”). Xã hội Việt Nam cũ là một xã hội lễ trị, nhân trị, không phải pháp trị. Quan liêu tập trung quá nhiều quyền hành, vừa là người thi hành luật pháp, lại cũng vừa là người xét xử luật pháp, cai trị dân đồng nghĩa với ban ơn đức cho dân, thì dù cho một ngày có đến hai lần tu niệm, làm sao tránh khỏi tệ lộng quyền?. Các tác giả phương Tây cho rằng giới quan liêu Việt Nam xưa đều mắc phải chứng kiêu ngạo vĩ cuồng, chính là vì thế. Lộng quyền là cha đẻ của tham nhũng. Ở xã hội giai cấp phương Tây, tiền sinh ra quyền, quyền sinh ra chức. Ở xã hội đẳng cấp phương Đông thì ngược lại, chức sinh ra quyền, quyền sinh ra tiền, quyền gắn liền với lợi. Có một thực tế khó chối cãi là ở Thăng Long - Hà Nội thời trung đại, nhất là thế kỷ XVII, XVIII, XIX, lúc mà nền kinh tế hàng hoá tiền tệ phát triển và lễ giáo phong kiến suy đồi, tệ nạn tham nhũng đã trở thành phổ biến. Triều đình từng cảnh cáo, ngăn cấm, trừng phạt, nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Nhà vua Tự Đức than thở: “Quan vui thì dân khổ. Họ thường mượn việc để yêu cầu hà khắc, cố ý buộc tội mở tội cho người để đòi tiền đút lót, nhân việc thu lương tiền mà lạm dụng chia nhau, đưa quà cáp xin xỏ để làm cái thang bước lên quan trường. Tình tệ ấy kể sao cho xiết”. Tuy nhiên, những gương sáng về đức thanh liêm của giới quan liêu Thăng Long - Hà Nội cũng không phải là quá hiếm. Hành khiển Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng liêm khiết về câu chuyện không nhận 10 quan tiền vô chủ ban đem đặt trước cửa nhà mình. Quan kiểm pháp Trần Thì Kiến vì chót ăn cỗ biếu của người có tình ý hối lộ, đã móc họng nhổ ra hết thức ăn ra, giữ lòng trong sạch. Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương là thông gia của hoàng tộc, đã từng nhiều lần đi công tác nước ngoài. Ở Malina và Singapo mà tư thất vẫn chỉ là một ngôi nhà tranh đơn sơ. Nhưng mặt khác bất kì đi đâu, ông cũng sai quân hầu mang theo lọng che, vì theo quan niệm của người đương thời, lọng là biểu tượng của uy quyền và trách nhiệm của người làm quan, không đơn thuần là vật dùng để che mưa nắng. Dã sử kể rằng chính chiếu lọng mà oan trái đó che trên đầu ông khi ông đứng trên cửa thành chỉ huy đánh giặc ở Hà Nội năm 1873 đã trở thành mục tiêu cho quân Pháp tập trung bắn ông bị tử thương. Còn phải kể đến những viên quan suốt đời tận tuỵ phục vụ lợi ích của dân chúng nơi quê mình như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quý Đức, đã để lại trong lòng mọi người niềm cảm phục. Có chức quyền mà không lộng quyền, quyền đó có khả năng biến thành tiền mà vẫn không màng tiền bạc, làm cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nhưng vẫn là đầy tớ của dân (dân chi công bộc), những đức tính đó của một số người làm quan ở Thăng Long - Hà Nội đã làm rạng rỡ cho vẻ đẹp của những người chốn kinh kỳ, xứng đáng là tinh hoa của đất ngàn năm văn vật. Căng thẳng ở triều đình, chốn đồng liêu, nơi công đường, người làm quan khi về đến nhà vẫn gánh chịu một sức ép tâm lý gia đình, nhiều khi còn mãnh liệt hơn mọi sức ép xã hội. Về nguyên tắc, nghề làm quan là một nghề cai trị thanh tao, hết lòng vì dân, vui với sách vở đạo lý thánh hiền, xa lạ với các hoạt động buôn bán kinh doanh lời lãi. Nhà sử học Nhật Tsuboi gọi đó là “một thái độ ứng xử phản trọng thương” (un comportement anti mercantiliste) khi nói về giới quan liêu Việt Nam xưa. Nhưng liền ngay sau đó, Tsuboi lại phân tích: “Điều đó không có nghĩa là họ ghét bỏ tiền bạc, ngược lại là khác. Rất nhiều ông quan đã lợi dụng địa vị của mình để thu góp của cải cho gia đình. Hành động đó được xã hội chấp nhận coi như hệ quả của chức vụ, có điều chức vụ ấy phải được củng cố về mặt quyền thế trước khi kiếm ra tiền bạc”.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:49:14 GMT 9
Ở chốn kinh kỳ đô hội có rất nhiều điều cám dỗ, nhiều cơ hội để tiêu xài, nhiều của ngon vật lạ để thưởng thức, đồ đạc quý giá để sắm sửa. Theo Phạm Đình Hổ lúc này “con em các nhà quyền quý ở Thăng Long đua nhau chuộng xa xỉ, có khi mua một bộ ấm chén tốn đến vài mươi lạng bạc, thậm chí gửi tàu buôn (ra nước ngoài) đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực. Rồi các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe khoang, các trò bài bạc, chọi gà sinh ra nhan nhản”. Vua Tự Đức than thở: “Hà Nội xưa nay phong tục vẫn là kiêu bạc, xa xỉ, phóng đãng”. Thế là trong gia đình, trước hết là các quan bà, mà một số xuất thân từ nguồn gốc thị dân buôn bán, sau đến các cô chiêu, cậu ấm đã tăng cuờng gây sức ép đến vị quan gia trưởng đáng kính phải làm sao kiếm đuợc nhiều tiền để cung phụng, cho họ khỏi thua chị kém em, xấu hổ với các gia đình quyền quý khác. Khốn nỗi, nếu không tham ô hối lộ, chỉ sống nhờ số lương bổng khiêm tốn, thì lấy đâu ra vàng thoi, bạc nén, nhất là đối với hoàn cảnh các vị “việc quan nhàn rỗi không đủ tiêu”. Có lần Tổng trấn Nguyễn Văn Thành dâng sớ lên Gia Long xin “tăng lương cho quan lại để dưỡng liêm”, nhưng không được chấp nhận. Vì vậy, các quan bà phải xoay ra tự cứu, kiếm cách đi buôn làm giàu. Trong chuyến đến Kẻ Chợ năm 1688, du khách người Trung Quốc Phan Đỉnh Khuê xác nhận: “Ngay cả đến phu nhân các bậc đại thần cũng không e ngại gì khi hoạt động buôn bán”. Rồi dần dần, đến lượt các quan ông ra tay tiếp sức. Lái buôn Dampier nhận xét: “Các quan rất dễ đang trở thành con buôn, khi có thể có được món lợi nào. Các quan mua những thứ gì lớn lao và đắt tiền, còn những thứ gì giá trị kém hơn đã có phụ nữ thân tín giúp”. Đại Nam thực lục có ghi lại chuyện một học giả nổi tiếng đáng kính đời Nguyễn qua hai lần đi sứ nhà Thanh về, đã bị triều đình khiển trách vì mang theo quá nhiều kiện hàng quý giá ngoài tiêu chuẩn. Ở đây, lỗi tại đức tu thân của các bậc quân tử dòn mỏng, tại sự cám dỗ của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ thị trường hay chính ở đường lối chính sách ức thương của triều đình hẹp hòi, bảo thủ?. Dằn vặt cuối cùng và cũng là lớn nhất của những người làm quan còn giữ được thiên lương ở Thăng Long - Hà Nội xưa, là xác định thái độ ứng xử đối với bản thân. Các quan ở mọi cấp bậc, một mặt vừa là bầy tôi tớ của nhà vua và triều đình, là người chăn dắt dân chúng, người rao giảng đạo thánh hiền, mặt khác lại là người nho sĩ trí thức hiểu biết có lý tưởng, một số là các tài tử văn nhân đa tình, tóm lại, họ cũng là những con người với đầy đủ những khát vọng vừa thánh thiện vừa trần tục. Đó chính là những nhân cách lưỡng phân, hai con người cùng tồn tại trong một con người. Vậy sống ra sao đây?. Trong những thời thịnh trị, lúc thuận buồm xuôi gió thì không nói làm gì, còn ở những buổi nhiễu nhương, với đầy trăn trở mâu thuẫn, họ phải chọn lựa một thái độ. “Khắc kỷ phục lễ” (uốn mình theo lễ), tự thủ tiêu nhân cách, thuận theo thói tục; hay lựa chiều chèo chống, xuất xử quyền biến, chọn cách ứng xử trung dung “hoà nhi bất đồng”, “biệt nhi vô dị”. Giữ trọn tiết tháo, rũ bỏ danh lợi phồn hoa, treo ấn từ quan lui về ẩn nơi thôn dã, bạn với ngư tiều, hay cứ ở lại ẩn giữa chốn thành thị, tìm niềm an ủi, tìm thế cân bằng trong hành lạc tiêu dao hoặc trong thế giới tâm linh Phật, Lão?. Ở đây không có lời giải đáp nào là khuôn mẫu. Trên đời này, cái gì rồi cũng phải trả giá. Lịch sử cũng có những cơn nóng giận, nhưng với thời gian, bao giờ cũng là những quan toà công minh. Đẳng cấp quan liêu của Thăng Long - Hà Nội xưa đã từng một thời vang bóng, trước đây được coi là tầng lớp ưu tú trong xã hội, rường cột của quốc gia, niềm vinh hạnh cho con cháu, thì sau đó có thể nào mà lại trở thành một giai cấp phong kiến ăn bám, thống trị bóc lột nhân dân, những tên tội phạm đáng nguyền rủa, là vết nhơ cần phải tẩy xoá hoặc dấu kín đi trong các bản lý lịch công dân. Tuy nhiên, những người đã khuất của thời dĩ vãng đã qua thường là khó tự bào chữa. Mặc nhiên xoá án cho họ cũng như gia tăng tội trạng cho họ đều là những việc dễ làm, nhưng có lẽ thiếu công bằng và ít bổ ích hơn là bình tĩnh gắng hiểu được con người họ, tâm tư và hoàn cảnh xô đẩy của họ, rút ra những bài học lầm lỗi của lịch sử, giúp cho con người cảnh giác, để sao những điều không nên có của ngày hôm qua sẽ mãi mãi không bao giờ trở lại trong những ngày mai tới. (Bài in trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 1/1992, tr.12-15)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:56:14 GMT 9
VỊ TRÍ KHU DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC 18 HOÀNG DIỆU TRONG CẤU TRÚC THÀNH THĂNG LONG - HÀ NỘI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ[1] GS Phan Huy Lê Bài viết này chỉ giới hạn trong nghiên cứu cấu trúc của thành Thăng Long-Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử để góp phần xác định vị trí của khu di tích Hoàng thành Thăng Long mới được giới khảo cổ học phát hiện ở 18 Hoàng Diệu (Ba Đình) và đang cuốn hút sự quan tâm tìm hiểu của các nhà khoa học và của xã hội. Cho đến nay, rất nhiều vấn đề về thành Thăng Long đã được đặt ra và ý kiến cụ thể về nhiều vấn đề hết sức khác nhau. Nhưng chỉ giới hạn trong quan niệm về quy mô, cấu trúc và vị trí của thành Thăng Long - Hà Nội thì ít ra cũng đã có đến bốn kiến giải khác nhau: 1. Trần Huy Bá cho rằng “khu vực chính của nội thành Thăng Long” (không nói rõ là Hoàng thành hay Cấm thành) đời Lý, Trần, Lê không thay đổi và nằm trong giới hạn phía bắc là chỗ rẽ xuống đường trường đua ngựa cho đến đền Quan Thánh, phía Đông là từ đền Quan Thánh đến gần Văn Miếu, phía Nam từ Văn Miếu đến chỗ rẻ tránh đường tàu điện Cầu Giấy, phía Tây là từ chỗ rẽ tránh đường xe lửa Cầu Giấy đến trường đua ngựa. Như vậy thành hình gần chữ nhật nằm về phía Tây thành Hà Nội thời Nguyễn và thành Hà Nội theo tác giả “đã thiên hẳn ra ngoài phía Đông thành Thăng Long cũ”[2] (H.1, bản đồ của tác giả). H.1: Thành Thăng Long thời Lý - Trần nằm phía Tây Thành Hà Nội thời Nguyễn chuyển hẳn sang phía Đông 2. Trần Huy Liệu và các cộng sự phân biệt rõ cấu trúc gồm Kinh Thành, Hoàng thành, Cấm thành và xác định Hoàng thành đời Lý, Trần phía bắc giáp Hồ Tây, phía Tây giáp sông Tô Lịch, phía Nam giáp đường Cầu Giấy, phía Đông giáp thành Hà Nội đời Nguyễn, khoảng đường Hùng Vương[3]. Như vậy tác giả gần như tán đồng quan điểm của Trần Huy Bá cho rằng Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần ở về phía Tây thành Hà Nội thời Nguyễn (H.2: bản đồ của tác giả), tuy giới hạn phía Tây của Hoàng thành có thể đến giáp sông Tô Lịch. Điều khác biệt quan trọng so với Trần Huy Bá là Trần Huy Liệu nhìn nhận một sự chuyển dịch kinh thành từ Lý, Trần sang Lê sơ. Theo nhóm tác giả này, Hoàng thành Đông Kinh thế kỷ XV bao gồm cả thành Thăng Long đời Lý, Trần và thành Hà Nội thời Nguyễn, tức mở rộng về phía Đông[4]. H.2: Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần nằm về phía Đông thành Hà Nội thời Nguyễn 3. Trần Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán cũng phân biệt rõ Hoàng thành, Cấm thành và cho rằng Long Thành, Phượng Thành hay Long Phượng Thành chính là Hoàng thành, mở bốn cửa: cửa Tường Phù ở phía Đông mở ra trước Chợ Đông và đền Bạch Mã, cửa Đại Hưng ở phía Nam khoảng vườn hoa và chợ Cửa Nam, cửa Quảng Phúc ở phía Tây mở ra trước chùa Một Cột, cửa Diệu Đức ở phía bắc mở ra trước sông Tô Lịch khoảng phố Phan Đình Phùng[5]. Hai tác giả nhấn mạnh trải qua các vương triều, các cung điện được xây dựng, tu sửa nhiều lần nhưng phạm vi Hoàng thành và Cấm thành với tâm điểm là điện Kính Thiên trên núi Nùng không thay đổi. Phạm Hân cùng quan điểm này về Hoàng thành, nhưng lại cho rằng Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là Cấm thành[6]. Hoàng thành trong quan niệm của các tác giả có thể được biểu thị trên bản đồ như sau (H.3). H.3: Vị trí Hoàng thành Thăng Long thì Lý, Trần, Lê 4. Philippe Papin là một tác giả nước ngoài đã có hai công trình nghiên cứu về Thăng Long - Hà Nội trong thời gian gần đây là luận án Tiến sĩ Des "villages dans la ville” aux “villages urbains” và cuốn sách Histoire de Hà Nội. Nhận thức về thành Thăng Long của tác giả được thể hiện tập trung trong bản đồ sau[7]. Theo tác giả, vòng thành trong theo sông Tô Lịch đến Cầu Giấy rồi theo đường Giảng Võ nối lên phía Đông Bắc với An Nam La Thành (806) và Đại La thành (866) đời Đường. Hai lớp thành phía bắc tương ứng với đường Hoàng Hoa Thám và Thuỵ Khuê, tác giả giải thích do sự mở rộng thành Đại La cũ. Vòng thành trong mở bốn cửa: Tường Phù, Đại Hưng, Quảng Phúc và Diệu Đức. Vòng thành ngoài cùng đắp năm 1014, tác giả cho bao bọc cả Hồ Tây và có lần mở rộng về phía Nam vào năm 1230. Có thể hiểu vòng thành ngoài là thành Đại La hay La Thành, vòng thành trong là Hoàng thành theo cách dùng phổ biến về cấu trúc kinh thành Thăng Long. H.4: Thành Thăng Long thế kỷ XI-XIV. Với tình trạng tư liệu hiện có, rõ ràng nhiều vấn đề đặt ra về thành Thăng Long - Hà Nội chưa dễ thống nhất, nhưng trên cơ sở thu thập và phân tích đối chiếu kỹ tư liệu thư tịch kết hợp với điều tra thực địa, khảo sát những đền chùa, những di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến các đoạn thành và cửa thành xưa[8] và những kết quả khai quật khảo cổ học gần đây của Viện Khảo cổ học, có thể đưa ra một số nhận xét mới trong nhận thức về cấu trúc của thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử và từ đó, xác định vị trí của Khu di tích khảo cổ học mới phát lộ ở Ba Đình trong hệ thống cấu trúc này. 1. Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Minh thuộc Trước hết, căn cứ vào sử biên niên, chủ yếu là Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, điểm lại những sự kiện lớn trong quá trình kiến tạo và những đổi thay lớn, tên gọi cung điện trung tâm, những vòng thành lần đầu xuất hiện của kinh thành Thăng Long: § Năm 1010 (mùa thu) vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long. Trong năm đó xây dựng 8 điện 3 cung, trung tâm là điện Càn Nguyên, rồi “đắp thành đào hào”, bốn mặt thành mở bốn cửa: phía Đông cửa Tường Phù, phía Tây cửa Quảng Phúc, phía bắc cửa Diệu Đức, phía Nam cửa Đại Hưng. § Năm 1014 “đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long”. § Năm 1028, trong loạn “ba Vương”, ba Vương “đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong Cấm thành, Đông Chinh Vương phục ở trong Long Thành”. § Năm 1029, xây dựng lại điện Càn Nguyên đổi tên là điện Thiên An, xây dựng thêm một số cung điện mới và “bên ngoài đắp thành gọi là Long Thành”. § Năm 1049, “đào ngòi ngự ở phía ngoài Phượng Thành”. § Năm 1078, “sửa lại thành Đại La. Thành này đắp từ năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), đến đây sửa lại”. § Năm 1243, “đắp thành nội gọi là thành Long Phượng”. § Năm 1397, sau khi xây dựng kinh đô mới ở Tây Đô (Thanh Hoá), Thăng Long đổi thành Đông Đô. § Thời thuộc Minh (1407-1427) thành Đông Đô gọi là Phủ thành Giao Chỉ hay Phủ thành Giao Châu và thường gọi là thành Đông Quan. Từ những sự kiện trên và trên cơ sở tư liệu hiện có, có thể đặt ra và xác định mấy vấn đề sau đây về cấu trúc và vị trí của kinh thành Thăng Long: 1.1. Về tên thành, năm 1010 đặt tên thành Thăng Long, năm 1397 đổi là Đông Đô và thời thuộc Minh là Đông Quan. 1.2. Về cấu trúc, trong thời Lý từ năm 1010 đến 1028, đã dần dần hình thành ba vòng thành. 1.3. Vòng thành ngoài cùng đắp bằng đất năm 1014, năm 1078 sửa đắp gọi là thành Đại La. Trong sử biên niên, tên thành Đại La xuất hiện nhiều lần vào các năm: 1078, 1154, 1165, 1170, 1230, 1243. Tên thành cũng có tài liệu gọi là La Thành hay chú thích thành Đại La tức là La Thành và phân biệt với thành Đại La thời thuộc Đường. Nói chung các nhà khoa học không có nhiều bất đồng về vòng thành này và đều thống nhất cho rằng vòng thành dựa theo bờ sông Tô Lịch ở mặt bắc, mặt tây, sông Kim Ngưu ở mặt nam và sông Nhị (sông Hồng) ở mặt đông. Các dòng sông tự nhiên này được sử dụng như lớp hào bên ngoài và hệ thống giao thông đường thủy, hệ thống tiêu thoát nước rất tiện lợi. Thành Đại La giữ vai trò vừa là luỹ phòng vệ vừa là đê ngăn lũ lụt. Vòng thành này cũng qua nhiều lần bồi trúc và sửa đắp, ít nhiều xê dịch theo sự bồi lấp hay xói mòn của dòng sông. Dòng sông Tô Lịch và Kim Ngưu còn được thể hiện rất rõ trên các bản đồ cổ từ bản đồ Hồng Đức thời Lê đến các bản đồ thời Nguyễn thế kỷ XIX, nhưng nói chung bị bồi lấp và thu hẹp dần. Hiện nay dòng sông Tô Lịch ở phía Tây còn rõ và gần đây được cải tạo, kè bê tông trong hệ thống thoát nước của Hà Nội. Còn dòng phía bắc thì vào đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội, dòng sông này được nối với hào phía Tây Bắc rồi đổ ra sông Nhị khoảng phố Nguyễn Siêu - Chợ Gạo hiện nay. Cửa sông Tô hay Giang Khẩu xưa ỏ khoảng đó. Trên các bản đồ thế kỷ XIX, đoạn sông Tô này thể hiện khá rõ. Sau khi thành Hà Nội bị phá hủy và san bằng, đoạn sông Tô từ Thụy Khê đến Giang Khẩu cũng bị lấp dần. Hiện nay dòng sông Tô phía bắc chỉ còn lại một đoạn phía Tây như dòng nước hẹp dọc theo phía Nam đường Thụy Khê cho đến đốc Tam Đa. Sông Kim Ngưu còn thể hiện rõ trên các bản đồ cổ thời Lê và thời Nguyễn, nhưng hiện nay đã bị lấp hoàn toàn. Thành Đại La thời Lý - Trần trên đại thể, mặt bắc chạy dọc theo bờ nam sông Tô Lịch khoảng đường Hoàng Hoa Thám hiện nay, mặt tây theo bờ đông sông Tô Lịch tức đường Bưởi từ Yên Thái đến ô Cầu Giấy và mặt nam theo bờ bắc sông Kim Ngưu khoảng đường La Thành - Đê La Thành - Đại Cồ Việt - Trần Khát Chân từ Cầu Giấy đến ô Đống Mác hiện nay. Thành Đại La phía Đông là đê sông Nhị và chịu ảnh hưởng của sự bồi lở của bờ sông theo xu hướng chung là quá trình bồi tụ bờ hữu ngạn làm cho dòng sông bị chuyển dịch dần về phía Đông. Ví như năm 1165, thành Đại La ở cửa Triều Đông phải đắp lùi vào 75 thước (khoảng 24 m) và xây bằng gạch đá vì xói lở của nước sông Nhị. Hay như năm 1230, nhà Trần “mở rộng phía ngoài thành Đại La”, “xây đắp thêm bốn cửa thành ở phía ngoài thành Đại La”. Thật khó xác định vị trí đoạn phía Đông thành Đại La thời Lý - Trần, nhưng chắc chắn còn nằm sâu vào phía Tây so với đê sông Hồng hiện nay. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lê Hữu Trác trong chuyến lên Kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán năm 1782, lúc trở về còn xuống thuyền ở bến đò chùa Tràng Tín[9]. Chùa Tràng Tín còn dấu tích ở phố Hàng Chuối hiện nay mà vào thế kỷ XVIII còn là bến đò, điều đó chứng tỏ lúc bấy giờ sông Nhị còn ăn sâu vào phía Tây so với dòng sông hiện nay. Theo các sử liệu hiện còn, thành Đại La thời Lý, Trần mở các cửa: Triều Đông (khoảng dốc Hòe Nhai xuống), Tây Dương (ô Cầu Giấy), Trường Quảng (ô Chợ Dừa), Cửa Nam (ô Cầu Dền), cửa Vạn Xuân (ô Đống Mác). Mặt đông của thành Đại La giáp bờ sông Nhị, có hai bến sông giữ vai trò hai bến cảng quan trọng của kinh thành: Giang Khẩu tức cửa sông Tô Lịch và cửa Triều Đông hay Đông Bộ Đầu hay Bến Đông (dốc Hòe Nhai xuống). 1.4. Vòng thành giữa còn có nhiều ý kiến xác định khác nhau. Một số nhà khoa học dùng tên Hoàng thành được sử dụng thời Lê - Nguyễn làm tên gọi khái quát vòng thành thứ hai này trong cấu trúc “tam trùng thành quách”, tuy rằng tên gọi này chưa xuất hiện thời Lý - Trần. Một số tác giả khác cho rằng cũng như thời Lê, vòng thành thứ hai từ thời Lý đã gọi là thành Thăng Long. Tên “thành Thăng Long” xuất hiện trong sử biên niên vào các năm: 1010, 1024, 1028, 1078, 1156. Nhưng vấn đề cần xác định là xác định vị trí của Long Thành, Phượng Thành hay Long Phượng Thành, một tên gọi được sử dụng nhiều thời Lý - Trần. Có người cho đó là vòng thành giữa tức Hoàng thành hay thành Thăng Long, có người lại cho là vòng thành trong cùng tức Cấm thành. Những người cho rằng Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là Cấm thành dựa trên sự kiện năm 1029, nhà Lý xây điện Thiên An và một số cung điện rồi “bên ngoài đắp thành gọi là Long Thành”[10]. Vòng thành bao quanh các cung điện như vậy hẳn là Cấm thành. Như vậy Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành tức là Cấm thành hay nói cách khác Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành và Cấm thành chỉ là tên gọi khác nhau của một tòa thành là Cấm thành. Phân tích một số tư liệu, tôi thấy có những chứng cứ đáng tin cậy để phân biệt Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành với Cấm thành hay nói cách khác đó là những tên gọi thời Lý - Trần chỉ hai tòa thành khác nhau: - Trong “loạn ba vương” năm 1028, chính sử phân biệt Cấm thành và Long Thành: “Ba Vương là Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong Cấm thành, Đông Chinh Vương phục ở trong Long Thành...”[11]. - Trong cuộc tranh chấp cuối đời Lý, năm 1212, Đại Việt sử lược cũng phân biệt Long Thành và Cấm thành: ‘Tự Khánh giận dữ phát binh đến Long Thành, sai điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Ngạnh đem các quan chức đô vào trong Cấm thành”[12]. - Một chứng cứ quan trọng nữa là năm 1024, khi sửa sang kinh thành Thăng Long thì Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi rõ “Thành Thăng Long khởi đắp từ năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đến đây sửa lại”[13]. Tòa thành xây đắp năm 1010 được miêu tả như sau: “Lại xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ... Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nhật Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt mở bốn cửa: phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức”. Rõ ràng điện Càn Nguyên là nơi thiết triều cùng điện Long An, Long Thụy là nơi vua nghỉ, cung Thúy Hoa, Long Thụy là chỗ ở của cung nữ..., về nguyên tắc cấu trúc kinh thành gồm ba vòng thành, thì phải nằm trong vòng thành trong cùng tức Cấm thành. Chính điều đó làm cho nhiều nhà nghiên cứu coi tòa thành xây đắp cùng với các kiến trúc cung đình này là Cấm thành. Nhưng nếu phân tích kỹ các dữ liệu thì ngoài các cung điện trên còn “dựng kho tàng, đắp thành, đào hào” và tòa thành này mở bốn cửa, trong đó có cửa Đại Hưng ở phía Nam thì từ thời Lý, Trần đến đời Lê đều là cửa phía Nam của vòng thành giữa tức Hoàng thành thời Lê. Chính vì vậy mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục gọi là thành Thăng Long. Như vậy Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là vòng thành thứ hai hay vòng thành giữa và để thống nhất tên gọi vòng thành giữa này, tôi tán đồng quan niệm của nhiều nhà khoa học, tạm dùng tên gọi quen thuộc được sử dụng từ thời Lê là Hoàng thành. Trong nghiên cứu lịch sử Thăng Long - Hà Nội, trước đây tôi tán đồng quan điểm của Trần Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán, sau này được Phạm Hân bổ sung và củng cố thêm, cho rằng Hoàng thành Thăng Long từ Lý - Trần đến Lê - Mạc - Lê Trung hưng về cơ bản không thay đổi và không có sự chuyển dịch từ tây sang đông. Nhưng với kết quả nghiên cứu gần đây, tôi thấy cần đính chính một điều quan trọng là Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành thời Lý, Trần không phải là Cấm thành mà chính là Hoàng thành và do đó, phải phân biệt rõ những tư liệu liên quan đến hai tòa thành khi sử dụng. Xác định lại tên gọi này dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến việc xác định phạm vi, vị trí của Hoàng thành và Cấm thành cũng như nhìn nhận sự thay đổi hay không thay đổi của hai tòa thành này. Phạm vi và vị trí Hoàng thành có thể xác định được trên cơ sở định vị bốn cửa thành ở bốn phía Đông, tây, nam, bắc. Cho đến nay, vị trí các cửa Tường Phù ở phía Đông, cửa Đại Hưng ở phía Nam, cửa Diệu Đức ở phía bắc thì tương đối thống nhất § Cửa Tường Phù ở phía Đông còn để lại dấu tích qua cửa sông Tô Lịch tức Giang Khẩu, đền Bạch Mã và văn bia liên quan tại đền Bạch Mã ở 76 Hàng Buồm, chùa Cầu Đông (Đông Kiều tự) ở 38B Hàng Đường, đình Cửa Đông (Đông Môn đình) ở 8 Hàng Cân, Hội quán Phúc Kiến ở 40 Lãn Ông. Đền Bạch Mã đã được xây dựng từ thời thuộc Đường và Việt điện u linh có đoạn chép về đền này: "Đến đời nhà Lý dựng đô ở Thăng Long, vua Thái Tông cho mở phố chợ về phía Cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát đến bên đền, rất là huyên náo. Muốn dựng đền ra một chỗ khác song vua lại nghĩ, một ngôi đền cổ không nên dời đi, mới đem sửa sang lại, đền liền với các nhà ngoài phố, riêng để một nhà bên trong làm nơi thờ thần... Trước đây ở phố Chợ Đông ba lần phát hỏa, các nhà trong phố bị cháy hầu hết, duy đến chỗ thờ thần, lửa không bao giờ cháy đến”[14]. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ là vị thần Thành Hoàng của thành Thăng Long, sau này được coi là một trong bốn vị thần “tứ trấn” của kinh thành. Vị trí của đền Bạch Mã được định vị ở phía Nam sông Tô Lịch trên bản đồ Hồng Đức thế kỷ XV, gần cửa sông Tô đổ ra sông Nhị, thuộc phường Giang Khẩu. Tại ngôi đền này còn lưu giữ được 15 tấm bia thời Lê và Nguyễn. Chùa Cửa Đông (Đông Kiều tự) ở 38B Hàng Đường. Ngôi chùa này gần Cầu Đông tức cầu bắc qua sông Tô Lịch và nằm về phía Cửa Đông nên còn gọi là chùa Cửa Đông (Đông Môn tự). Cửa Tường Phù về sau gọi là cửa Đông Hoa hay Cửa Đông. Văn bia năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) ghi “Đông Môn tự ký” (Bài ký về chùa Đông Môn) cho biết: “Nhị thủy triều tiền...., Long Thành phục hậu” (sông Nhị chầu phía trước..., Long Thành phục phía sau)[15]. Trong văn bia ghi lại việc nhà sư Nguyễn Văn Hiệp tự là Đạo án, cùng vợ hiệu là Diệu Bi, mua cúng nhà chùa một thửa ruộng để mở rộng chùa, có giáp giới như sau: “trên giáp cầu đá, dưới giáp phường Diên Hưng, trước giáp đường cái, sau giáp sở Đông ngục”. Văn bia cung cấp những thông tin cho biết ngôi chùa này nhìn ra sông Nhị, phía sau là Long Thành, gần đó có cầu đá bắc qua sông Tô Lịch gọi là Cầu Đông. Chính vì vậy chùa này là chùa nằm về phía Cửa Đông, gần Cầu Đông trên sông Tô Lịch. Đây là những tư liệu quý để xác định vị trí của tường thành và cửa thành phía Đông trong mối quan hệ với sông Tô, sông Nhị. Bài minh trong chùa có niên đại Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) cho biết vị trí của chùa: bên trái là sông Tô, bên phải là cửa Đông Hoa, phía Đông là cầu đá. Đình Đông Môn ở 8 Hàng Cân chỉ còn giữ được tên đình là “Đông Môn đình”, nhưng cũng là một chỉ giới quan trọng để xác định vị trí Cửa Đông tức cửa Tường Phù thời Lý, Trần sang thời Lê đổi là cửa Đông Hoa và dân gian quen gọi là Cửa Đông. Hội quán Phúc Kiến ở 40 phố Lãn Ông còn lưu giữ một tấm bia mang niên đại muộn năm Gia Long thứ 16 (1817), nhưng cung cấp một thông tin đáng lưu ý là người Hoa đã mua đất ở xứ Cửa Đông Hoa để xây Hội quán. Thông tin này chứng thực thêm địa điểm Hội quán Phúc Kiến nằm trên đất cửa Đông Hoa tức cửa Tường Phù thời Lý. Với những cứ liệu trên, có thể xác định cửa Tường Phù tức Cửa Đông của Hoàng thành mở ra phía đền Bạch Mã, cửa sông Tô, khoảng gần Cầu Đông bắc qua sông Tô ở 38B Hàng Đường, đình Cửa Đông ở 8 Hàng Cân và Hội quán Phúc Kiến ở 40 Lãn Ông hiện nay. Có thể xác định một cách tương đối, đoạn thành phía Đông của Hoàng thành nằm khoảng phố Thuốc Bắc và cửa Tường Phù/Cửa Đông ở khoảng giao nhau của phố Thuốc Bắc - Lãn Ông ngày nay. Khu cửa Đông cũng để lại dấu ấn trong các địa danh hành chính vùng này. Vào đời Gia Long, huyện Thọ Xương có tám tổng thì trong tổng Hậu Túc có thôn Đông Hoa Môn, Hậu Đông Hoa Môn; tổng Tiền Túc có thôn Hữu Đông Môn, Đông Thành Thị, Đông Thành[16]. Vào cuối thế kỷ XIX, theo Đồng Khánh địa dư chí lược, huyện Thọ Xương có tám tổng, tổng Thuận Mỹ có thôn Hữu Đông Môn, Đông Thành Thị, Yên Nội Đông Thành[17]. Cục Văn thư lưu trữ nhà nước còn lưu giữ địa bạ năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) của thôn Hữu Đông Môn, Đông Thành Thị, Yên Nội Đông Thành[18]. Cùng với các tên thôn đó là di tích một số đình, chùa như chùa Đông Hoa Môn ở 38B phố Hàng Đường, đình Đông Môn ở 8 phố Hàng Cân, đình Hậu Đông Hoa ở 2 phố Chả Cá... § Cửa Đại Hưng hay Cửa Nam còn để lại dấu tích qua địa danh và chứng cứ trong các sách địa chí, trong thơ văn và trong sử tích đền Lương Sử. Những địa danh liên quan là vườn hoa Cửa Nam, chợ Cửa Nam còn tồn tại đến nay. Năm 1037 vua Lý Thái Tông phong Thái úy Phạm Cự Lạng đời Tiền Lê làm Hoằng Thánh Đại vương và “dựng đền thờ ở phía Tây Cửa Nam thành”[19]. Đó là đền Hoằng Thánh thờ Phạm Cự Lạng hiện còn dấu tích ở đình Lương Sử tại ngõ Lương Sử A ở khu Cửa Nam. Đình mới xây dựng lại nhưng vẫn giữ nguyên vị trí và hướng đình là hướng bắc. Long Biên bách nhị vịnh của Bùi Cơ Túc sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, trong bài Vịnh lầu Vọng Tiên với lời tiểu dẫn cho biết, lầu Vọng Tiên do Lê Thánh Tông xây dựng, đã bị phá khi Gia Long xây dựng lại thành Thăng Long và “nền cũ cửa Đại Hưng ở phía trong cửa Đông Nam khoảng 20 trượng”, còn “nền cũ lầu Vọng Tiên vốn ở trước cửa Đông Nam, chỗ thành mang cá”[20]. Cửa Đông Nam ở đây là của thành Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn, mặt nam thành mở hai cửa: cửa Đông Nam và cửa Tây Nam. Lầu Vọng Tiên đã bị phá hủy, nhưng vị trí còn lưu dấu tích tại quán Vọng Tiên ở 120 phố Hàng Bông hiện nay. Nguyễn gia phả ký chép rằng năm Canh Tý (năm 1780), Nguyễn Gia Thiều được thăng làm Đô chỉ huy sứ cai quản Thị hầu thị tiền bộ hiệu, có “nhà cũ ở cổng Nam Môn” và tại đây ông xây dựng tháp chùa Tiên Tích[21]. Hà Nội địa dư của Dương Bá Cung cũng xác nhận chùa Tiên Tích do Phủ chúa xây dựng ở vị trí “hơi xế về bên phải cổng Nam Môn,... phía trước hồ Kim Âu”. Chùa Tiên Tích ở 110 đường Lê Duẩn, phía sau chùa vẫn còn hồ Kim Âu. Từ các cứ liệu trên, có thể xác định cửa Đại Hưng hay Cửa Nam (Nam Môn) mở ra phía vườn hoa và chợ Cửa Nam, gần đình Lương Sử, quán Vọng Tiên và chùa Tiên Tích hiện nay. Đoạn Hoàng thành qua cửa Đại Hưng có thể đoán định chạy gần như song song với phố Trần Phú và theo lời tiểu dẫn của Bùi Văn Cơ trong bài Vịnh lầu Vọng Tiên đã trích dẫn ở trên, thì có thể lùi lên phía bắc khoảng 20 trượng (hơn 60 m). § Cửa Diệu Đức là Cửa Bắc, tư liệu rất ít. Căn cứ vào ghi chép của Đại Nam nhất thống chí “cửa Diệu Đức ở phía bắc thì nay bị lở xuống sông”[22], thì có thể nghĩ rằng cửa này ở gần sông Tô Lịch. Mặt bắc của thành Đại La cũng như Hoàng thành chạy theo bờ nam sông Tô và cửa Diệu Đức/Bắc Môn của Hoàng thành dĩ nhiên nhìn ra sông Tô Lịch và ở phía Nam của dòng sông này, có thể khoảng phố Phan Đình Phùng hay giữa phố Phan Đình Phùng và phố Quán Thánh hiện nay. Trên bản đồ Hồng Đức thời Lê, không thấy ghi một cửa thành nào ở phía bắc. Hiện nay chỉ biết quán Trấn Vũ trấn giữ mặt bắc và năm 1427 khi vây hãm thành Đông Quan, Lê Lợi cho quân sĩ “đắp bức lũy từ phường Yên Hoa tới thẳng Cửa Bắc thành”[23]. Như vậy, cửa Diệu Đức hay Cửa Bắc nhìn ra sông Tô Lịch, ở về phía Nam quán Trấn Vũ và gần phường Yên Hoa tức Yên Phụ hiện nay, còn xác định vị trí cụ thể còn phải chờ thêm những cứ liệu mới. § Cửa Quảng Phúc ở phía Tây thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho Cửa Tây này “mở trước chùa Một Cột, trên hành lang chạy dọc đường Hùng Vương ngày nay”[24]. Có người cho rằng cửa Quảng Phúc là cửa phía Tây của Cấm thành[25]. Có người lại cho rằng Cửa Tây của Hoàng thành phải xa hơn về phía Tây, có thể đến giáp sông Tô Lịch[26]. Khi xác định Cửa Tây Hoàng thành, nhiều người sử dụng văn bia tháp Sùng Thiên Diên Linh (Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn và khắc vào năm 1121, đoạn viết về vị trí chùa Diên Hữu như sau: “Hướng tây Cấm chi danh viên xưởng Diện Hựu chi quang tự” (hướng về vườn nổi tiếng [phía] tây Cấm [Thành] dựng chùa Diên Hựu)”[27]. Câu văn còn có chỗ cần tra cứu thêm, nhưng nếu hiểu chữ “tây Cấm” là “phía Tây Cấm thành” thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột nằm về phía Tây Cấm thành, chứ không phải Hoàng thành. Do đó không thể căn cứ vào tư liệu này để xác định cửa Quảng Phúc tức Cửa Tây của Hoàng thành mở ra phía chùa Một Cột, chợ Ngọc Hà và coi đường Hùng Vương như đoạn thành phía Tây của Hoàng thành.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:57:52 GMT 9
Quả thật cho đến nay, tôi chưa tìm thấy cứ liệu trực tiếp nào đáng tin cậy để xác định vị trí cửa Quảng Phúc và giới hạn phía Tây của Hoàng thành. Nhưng nếu căn cứ vào Bản đồ Hồng Đức, Hoàng thành thành Đông Kinh trước khi Lê Thánh Tông mở rộng năm 1490 là tương ứng với Hoàng thành thời Lý, Trần vì từ Lý, Trần sang Lê sơ không thấy sử cũ ghi chép một lần thay đổi lớn nào theo hướng thu hẹp hay mở rộng. Theo suy luận này thì Hoàng thành thời Lý, Trần bao gồm cả một vùng phía Tây nằm trong phạm vi phía bắc là đường Hoàng Hoa Thám dọc theo bờ nam sông Tô Lịch, phía Tây là đường Bưởi dọc theo bờ đông sông Tô Lịch cho đến khoảng Cầu Giấy, phía Nam là khoảng đường Kim Mã. Một quan niệm như vậy về Hoàng thành phải đối mặt với hai yêu cầu giải thích là: - Trên khu vực này khảo cổ học chưa tìm thấy di tích của các cung điện thời Lý, Trần. - Theo sự tích ông Hoàng Lệ Mật thì khu vực này vùng nông nghiệp “Thập tam trại” của cư dân khai hoang từ làng Lệ Mật (Gia Lâm, nay là quận Long Biên, Hà Nội). Về vấn đề thứ nhất, cần lưu ý địa hình tự nhiên, vùng đất này tương đối thấp, có nhiều ao hồ, trên bản đồ Hồng Đức ta thấy vẽ một dải hồ rất rộng chiếm khoảng 1/3 diện tích cả vùng. Theo thư tịch và kết quả khảo sát thực địa, trên địa bàn vùng đất phía Tây này cũng có một số gò núi như núi Voi (Phục Tượng hay Tượng Sơn), núi Vạn Bảo, núi Cung (núi Thái Hòa), núi Cờ, núi Chuối, một dải gò liên tiếp mang tên Gò Dài, Gò Giữa, Gò Đất, gò Miếu Ông chạy từ đền Voi Phục đến Núi Bò gần song song với đường Kim Mã... Trong vùng đất phía Tây Hoàng thành, thường là trên những gò đất cao, nhà Lý xây chùa Chân Giáo (năm 1024) trên núi Voi, quán Thái Thanh (năm 1011), cung Cảnh Linh (1088), cung Thái Hòa trên núi Cung, gần Cấm thành xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, năm 1049)... Nhà Trần tu tạo và xây dựng thêm một số kiến trúc như năm 1248: “làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh, cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ”[28]. Vùng đất phía Tây do cảnh quan tự nhiên ở đây, vương triều Lý, Trần không xây dựng nhiều cung điện quy mô và dày đặc như trong Cấm thành, mà chỉ xây một số chùa, quán, hành cung, dựng cầu, tu sửa các hồ... làm nơi thờ Phật, cầu cúng và thưởng ngoạn của vua cùng hoàng gia, quý tộc. Khi xây chùa Chân Giáo năm 1024, sử cũ ghi rõ “để vua tiện ngự xem tụng kinh”[29]. Khi dựng chùa Diên Hựu năm 1049, văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng cho biết “để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay... Đó là Bệ hạ dựng chùa thờ Phật để cầu phúc thọ”[30]. Trên vùng đất Quần Ngựa, trước đây Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) đã thu thập được một số gạch ngói và đồ gốm sứ, trong đó có những di vật mang đặc trưng Lý - Trần. Từ năm 1970 đến 1978, các nhà khảo cổ học đã bốn lần khai quật một số địa điểm vùng Quần Ngựa. Tại những hố khai quật này đã tìm thấy một số viên gạch, đồ đất nung trang trí như đầu và thân rồng, vịt... rất giống với những tiêu bản tìm thấy trong các di tích thời Lý, Trần chứng tỏ có một số kiến trúc Lý - Trần nào đó nhưng chưa rõ và không nhiều. Mặt khác lại tìm thấy tầng văn hóa với nhiều di vật gốm sứ và một giếng nước mà thành giếng làm bằng bao nung sành (ở Đồng Gạch) chứng tỏ khu cư trú bình dân từ Lý, Trần sang Lê sơ. Diện mạo khu Quần Ngựa như khảo cổ học phát hiện không có gì mâu thuẫn với nhận định đây là bộ phận phía Tây của Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần vì theo tư liệu lịch sử thì trên khu vực phía Tây này, triều Lý, Trần chỉ xây dựng một ít kiến trúc chùa quán và cung điện, còn phần lớn diện tích là ao hồ tự nhiên được tôn tạo làm nơi thưởng ngoạn và một số cư dân phục dịch cũng được sinh sống. Về vấn đề thứ hai, những kết quả nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng, vùng “thập tam trại” ra đời chậm, khoảng cuối Lê đầu Nguyễn khi vùng đất này đã bị đưa ra khỏi Hoàng thành[31]. Câu chuyện ông Hoàng Lệ Mật còn lưu truyền phổ biến và được Phan Huy Chú chép vào Lịch triều hiến chương loại chí[32]. Trại Vĩnh Phúc Thượng và trại Liễu Giai thờ ông làm Thành hoàng, trại Kim Mã và Ngọc Khánh phối thờ với các vị thần khác. Trước đình Vĩnh Phúc Thượng có lăng Thái Tể được coi là lăng mộ ông Hoàng Lệ Mật mà theo Ngọc phả đình Liễu Giai, tên là Hoàng Phúc Trung. Những truyền thuyết đó có thể phản ánh một sự thật lịch sử là từ thời Lý, một số cư dân làng Lệ Mật được chọn làm phu phục dịch trong Hoàng thành và được cư trú trong vùng đất phía Tây này. Họ làm việc phát cỏ, dọn dẹp, cắt cỏ cho voi ngựa... và có thể được khai hoang, lập thành một số xóm làng cư trú, tất nhiên dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của vương triều. Cần lưu ý là vùng đất phía Tây của Hoàng thành vào thời Lý, Trần còn vẻ hoang sơ, tại cạnh chùa Diên Hựu còn có “ruộng rùa” (quy điền) vì có nhiều rùa, năm 1354 có hổ đen xuất hiện trong thành, sau này, năm 1456 lại có hổ xuất hiện ở chùa Diên Hựu. Có thể từ thời Lý, một lớp cư dân làng Lệ Mật đã có mặt tại thành Thăng Long, nhưng công việc khai phá lập thành Thập tam trại diễn ra muộn hơn. Tham gia khai phá không chỉ có cư dân Lệ Mật mà theo gia phả các họ, còn có cư dân đến từ các vùng đất khác, kể cả vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Vì vậy khảo cổ học phát hiện những di tích cư trú mang tính bình dân trong khu Quần Ngựa cũng phù hợp với đặc điểm Hoàng thành thời Lý, Trần. 1.5. Vòng thành trong cùng là Cấm thành. Tên Cấm thành xuất hiện vào các năm 1028, 1209, 1212, 1213 trong sử biên niên. Cùng chỉ vòng thành này, còn có lúc gọi là Cung cấm (1148), Cấm nội (1137), Đại nội (1045, 1055, 1063, 1180). Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán chỉ mới xác định Cấm thành ở trong Hoàng thành, trung tâm là điện Càn Nguyên/Thiên An và có chu vi 4.700 thước, chưa đầy 1,5 km[33]. Phạm Hân nghiên cứu kỹ hơn và xác định quy mô Cấm thành hình vuông mỗi bề chừng 700m, nhưng lại đồng nhất với Long Thành và Long Phượng thành[34]. Xác định thật cụ thể qui mô và giới hạn từng tường thành còn có những quan niệm khác nhau, nhưng về cơ bản không có nhiều khác biệt. Khi xác định phạm vi Cấm thành, các nhà khoa học đều thừa nhận có ba vật chuẩn khá cụ thể. Thứ nhất là núi Nùng trên đó xây dựng điện Càn Nguyên sau đổi thành Thiên An và sang thời Lê sơ đổi là Kính Thiên mà di tích còn lại cho đến nay là nền điện và bậc thềm cùng lan can chạm đá thế kỷ XV. Đó là tâm điểm của Cấm thành qua các thời kỳ lịch sử từ Lý đến cuối Lê. Trong quan niệm phong thủy cổ truyền, núi Nùng hay Long Đỗ được coi là nơi hội tụ khí thiêng non sông nên chính điện của vương triều phải xây dựng trên ngọn núi thiêng này. Thứ hai là Đoan Môn, là cửa Nam của Cấm thành đời Lê và theo nhiều tài liệu lịch sử thì vị trí cửa này không thay đổi, dĩ nhiên là qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Năm 1999, Viện khảo cổ học đào thám sát phía bắc Đoan Môn đã tìm thấy nhiều di vật gồm vật liệu xây dựng và đồ gốm sứ từ thời Lý, Trần đến Lê sơ, Lê Trung hưng và một số vết tích kiến trúc như viền đá lát chân tường Đoan Môn, nền lát gạch, đặc biệt một đoạn đường hai bên viền gạch xếp hình hoa chanh đặc trưng thời Trần. Đoạn đường này dài 15,80m, lòng đường rộng 1,30m, chạy từ chính giữa cửa Đoan Môn về phía điện Kính Thiên theo hướng bắc - nam. Theo nhận định của những người khai quật thì Đoan Môn, kể cả con đường lát gạch chạy về phía điện Càn Nguyên/Thiên An, được xây dựng từ thời Lý, với những loại gạch, ngói ống màu đỏ, đầu ngói và gạch lát in hình hoa sen. Sang thời Trần, kiến trúc bị phá hủy và nhà Trần xây dựng lại con đường bằng vật liệu Trần có sử dụng một số vật liệu Lý. Thế kỷ XV, nhà Lê cho san lấp và dựng lên một Đoan Môn mới. Đoan Môn này cũng qua nhiều lần tu sửa nhưng trên nền tảng kiến trúc thời Lê sơ[35]. Như vậy, kết quả thám sát khảo cổ học xác nhận ghi chép của thư tịch cho rằng Đoan Môn hiện tồn xây dựng trên vị trí của Đoan Môn từ Lý, Trần đến Lê sơ và Lê Trung hưng. Thứ ba là chùa Một Cột ở về phía Tây của Cấm thành như văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh đã chép. Nếu như Cấm thành thời Lý, Trần sang thời Lê sơ không thay đổi thì có thể dựa vào bản đồ thành Đông Kinh để hình dung Cấm thành gần như hình vuông. Từ đó có thể xác định Cấm thành có trung tâm là điện Kính Thiên, phía Nam có Đoan Môn, phía Tây gần chùa Một Cột hiện nay. Ngoài ra có thể kể thêm một căn cứ thời Lê góp phần xác định giới hạn phía Tây và phía bắc của Cấm thành. Đó là vị trí của Khán Sơn và Tam Sơn. Khán Sơn thời Lê được phản ánh trong nhiều bản đồ cổ và tư liệu lịch sử. Bản đồ Đông Kinh thời Lê vẽ Khán Sơn hay chùa Khán Sơn (Khán Sơn tự) ở vị trí phía ngoài và gần góc tây bắc của Cấm thành (Hồng Đức bản đồ, A. 2499; Thiên tải nhàn đàm, A. 2716, A.3034, A. 2006; An Nam quốc Trung Đô tịnh thập tam thừa tuyên, A 2531; Thiên Nam tứ chí lộ đồ, A.73; Toàn tập Thiên Nam lộ đồ, A.1081). Nhưng khi nhà Nguyễn xây thành Thăng Long - Hà Nội thì Khán Sơn lại nằm vào góc tây bắc trong thành[36], tức khoảng góc tây bắc phố Phan Đình Phùng và đường Hùng Vương. Như thế giới hạn phía Tây của Cấm thành ở vào khoảng giữa Quảng trường Ba Đình hiện nay, tức khoảng giữa đường Hùng Vương và đường Độc Lập. Tam Sơn là ba gò đất gồm hai gò tự nhiên cách nhau chừng 20 trượng (hơn 60m) và một gò đắp thêm ở giữa, chu vi hơn 30 trượng (gần 100m), nằm về phía bắc thành Hà Nội[37], tức ở vào phía Nam phố Phan Đình Phùng, gần Cửa Bắc hiện nay. Núi Tam Sơn trước đây nằm ở phía bắc Cấm thành. Như thế, giới hạn phía bắc của Cấm thành là ở vào phía Nam phố Phan Đình Phùng hiện nay. Về giới hạn phía Nam của Cấm thành, trong Long Biên bách nhị vịnh, lời tiểu dẫn bài Vịnh Cột Cờ cho biết Cột Cờ thời Nguyễn xây trên nền cửa Tam Môn ở phía trước cửa Đoan Môn, có từ thời Lý. Như vậy giới hạn phía Nam của Cấm thành là khoảng Cột Cờ hiện nay. Trên cơ sở những vật chuẩn và một số giới hạn bổ sung như trên, có thể phác họa một cách tương đối vị trí và phạm vi của Cấm thành thời Lý, Trần. 1.6. Thành Đông Quan thời Minh thuộc. Trong thời Minh thuộc (1407-1427), nhà Minh lập quận Giao Chỉ và dùng thành Đông Đô làm trị sở của chính quyền đô hộ, gọi là Phủ thành Giao Chỉ hay Phủ thành Giao Châu, thường gọi là thành Đông Quan. Tôi chưa tìm thấy một tư liệu nào phản ánh công việc xây dựng quy mô tại Đông Quan, có lẽ nhà Minh vẫn giữ nguyên cấu trúc và quy mô thành Đông Đô thời Trần, Hồ. Trước đây, khi khảo sát di tích Đoài Môn hay Ủng Môn ở Cống Vị, quận Ba Đình, nằm giữa đường Bưởi và sông Tô Lịch, nhân dân thường gọi là “Đấu Đong” hay “Đấu Đong quân”, tôi ngờ là cổng thành phía Tây do nhà Minh xây dựng. Nhưng kết quả khai quật tháng 10-2003 do Bảo tàng lịch sử và Sở Văn hóa thông tin Hà Nội thực hiện, cho biết đây là một tòa thành nhỏ hình chữ nhật gần vuông, dài 54m, rộng 52m, có niên đại khoảng giữa thế kỷ XVIII, dưới là tầng văn hóa cư trú thời cuối Lý đến đầu Lê sơ[38]. Do nhu cầu quân sự, nhà Minh đặc biệt tập trung vào việc xây dựng một “Khu Diễn Võ” bên ngoài về phía Tây Nam Phủ thành (tức thành Đông Quan), chu vi 12 dặm, trong đó dựng đình Diễn Võ ba gian và phía ngoài có một thành đất “chạy dài từ đông sang tây, xuống tây nam, khoảng 5 hay 6 dặm, phía Đông đến góc đông nam Phủ thành [Đông Quan]”[39]. Đây là chỉ huy sở của quân Minh do Tổng Binh đứng đầu, quân sĩ có 12 doanh, mỗi doanh có doanh trại, xung quanh xây tường, mở bốn cửa đông, tây, nam, bắc. Tại đây, Tổng binh chỉ huy 15 vệ quân Minh chia đóng tại các châu, phủ. Hệ thống quân sự này do Trương Phụ lập ra trong thời gian chỉ huy quân Minh tại Giao Chỉ. Khu Diễn Võ này chính là khu Giảng Võ - Ngọc Khánh hiện nay nằm trong phạm vi đường La Thành, phố Giảng Võ và Kim Mã. Thực ra khu quân sự này đã hình thành từ thời Lý, Trần. Năm 1170, vua Lý Anh Tông “tập bắn và cưỡi ngựa ở phía Nam thành Đại La, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận”[40]. Năm 1253, nhà Trần lập Giảng Võ đường tại đây. 2. Thành Thăng Long - Đông Kinh thời Lê Sơ - Mạc - Lê Trung hưng 2.1. Thành Đông Kinh thời Lê sơ (1428-1527). Năm 1428, triều Lê khôi phục quốc hiệu Đại Việt và năm 1430 đổi tên kinh thành là Đông Kinh. Trong thời Lê sơ, quy mô thành Đại La hầu như không thay đổi và năm 1477 được xây dựng lại. Vòng thành giữa được gọi là Hoàng thành. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tên Hoàng thành xuất hiện đầu tiên năm 1463 và sau đó sử biên niên ghi chép vào các năm 1467, 1514, 1516. Đặc biệt, trong Quốc triều hình luật, việc bảo vệ Hoàng thành được quy định chặt chẽ và nhắc nhiều lần trong các điều 51, 52, 53, 56, 62, 80, 81, 82, 91, 9294, 96[41]. Theo tôi, chúng ta có đủ căn cứ để khẳng định tên gọi Hoàng thành trong thời Lê sơ và từ đó thường được dùng để gọi chung vòng thành giữa của các kinh thành mang cấu trúc “tam trùng thành quách”. Trong thời Lê sơ, thời Mạc và Lê Trung hưng, Hoàng thành còn được gọi là thành Thăng Long. Hoàng thành thời Lê sơ trải qua hai lần mở rộng: Lần thứ nhất vào năm 1490: “[Năm Giáp Tuất, Hồng Đức thứ 21 (1490)] tháng 11, đắp rộng thêm Phượng Thành theo quy mô thời Lý, Trần. Vua cảnh giác về việc Nhân Tông bị hại, nên lấy lính đắp thành đó. Đồng thời phía ngoài Trường đấu võ, mở rộng đến 8 dặm, sau 8 tháng thì đắp xong”[42]. Như vậy, Lê Thánh Tông đã mở rộng Hoàng thành về phía Tây Nam trên cơ sở khu quân sự thời Lý, Trần và Khu diễn võ của thành Đông Quan thời Minh thuộc. Đó là khu Giảng Võ, Ngọc Khánh hiện nay. Lần thứ hai vào năm 1516, vua Tương Dực “[Bính Tý, năm Hồng Thuận thứ 8 (1516)] trước đây vua thích làm nhiều công trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy nghìn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía Đông đến phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp Hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang”[43]. Xung quanh việc mở rộng Hoàng thành lần này, các nhà khoa học có những cách hiểu và giải thích khác nhau. Có người cho rằng, với lần mở rộng năm 1516, Hoàng thành phía bắc bao trùm cả sông Tô Lịch và có thể dấu tích là đoạn đường Thụy Khê hiện nay. Xác định cụ thể phạm vi và ranh giới lần mở rộng này còn phải tìm thêm cứ liệu khoa học. Hơn nữa vương triều Lê sơ lúc đó đã suy sụp nghiêm trọng, vua Tương Dực đưa ra kế hoạch mở rộng Hoàng thành vào đầu năm Bính Tý - 1516 thì đến tháng 4, vua đã bị phái Trịnh Duy Sản giết chết, vậy liệu công trình thổ mộc quy mô lớn này có được hoàn thành không? Trong các cửa Hoàng thành thì cửa Nam là cửa Đại Hưng vẫn giữ nguyên tên từ thời Lý, cửa Đông gọi là cửa Đông Hoa, sử liệu còn ghi Cửa Tây, cửa Bắc Thần, cửa Bảo Khánh. Điều may mắn cho việc nghiên cứu thành Thăng Long - Đông Kinh thời Lê là ngoài các loại tư liệu chữ viết, chúng ta có thêm những bản đồ cổ. Đó là bộ bản đồ quen gọi là Bản đồ Hồng Đức vì do vua Lê Thánh Tông hoàn thành trong thời gian niên hiệu Hồng Đức (1470-1497). Năm 1467, nhà vua sai 12 thừa tuyên điều tra địa hình cùng sông núi, sự tích trong vùng rồi vẽ thành bản đồ từng thừa tuyên. Trên cơ sở đó, Bộ hộ tập hợp thành bản đồ cả nước trong đó có bản đồ Đông Kinh, hoàn thành năm 1490. Hiện nay bản đồ năm 1490 không còn nữa, nhưng tại Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được hơn 10 bản đồ mang ký hiệu và gắn liền với những tên sách khác nhau (chỉ tính những bản đồ có thành Thăng Long - Đông Kinh đầy đủ). Các nhà nghiên cứu đều nhận thấy đây là những truyền bản về sau của Hồng Đức bản đồ mang niên đại thời cuối Lê đầu Nguyễn và có những khác biệt nhất định, thêm vào một số địa danh và kiến trúc sau Lê sơ mà điển hình là Vương phủ[44]. Giám định niên đại từng bản đồ còn là vấn đề văn bản học đang đặt ra và cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là những tư liệu bản đồ cổ rất quý giúp chúng ta hình dung rõ hơn cấu trúc của thành Đông Kinh đời Lê. Theo những bản đồ cổ này thì Hoàng thành thời Lê mở rộng sang phía Tây, mặt bắc và mặt tây dọc theo bờ sông Tô Lịch, đến khoảng Cầu Giấy thì rẽ sang phía Đông theo đường La Thành rồi đường Giảng Võ đến quãng Kim Mã nối với đường thành phía Nam qua cửa Đại Hưng. Cả khu Giảng Võ - Ngọc Khánh được đưa vào phạm vi Hoàng thành. Trên vòng thành này, bản đồ chỉ ghi cửa Đại Hưng, cửa Đông Môn và cửa Bảo Khánh. Cửa Bảo Khánh nằm trên đường La Thành gần ngã ba nối với phố Giảng Võ mà dấu tích còn lại là thôn Bảo Khánh thuộc trại Giảng Võ, tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận thời Nguyễn. Tại cổng làng xây bằng gạch mở ba cửa vào thôn này cho đến những năm 1990 khi chúng tôi đi khảo sát vùng Giảng Võ, còn thấy ba chữ Hán “Bảo Khánh Môn”. Cổng đã bị phá nhưng vị trí ở cổng đình Giảng Võ, gần nhà số 55, ngõ 612 đường Giảng Võ hiện nay. Trong kho địa bạ thời Nguyễn, còn lưu giữ địa bạ thôn Bảo Khánh với niên đại Gia Long 4 (1805)[45]. Dĩ nhiên cổng làng Bảo Khánh Môn không phải là cửa Bảo Khánh của Hoàng thành thời Lê, nhưng địa danh Bảo Khánh còn ẩn chứa thông tin về vị trí tương đối của cửa thành Bảo Khánh xưa.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 4:08:56 GMT 9
Theo Hình luật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì bốn cửa Hoàng thành mang tên Đông Hoa, Đại Hưng, Bắc Thần và Thiên Hựu[46]. Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) quê ở Kim Lũ, huyện Thanh Trì, sống vào thời cuối Lê đầu Nguyễn, là một học giả uyên bác hiểu biết sâu sắc về Thăng Long - Hà Nội. Trong Đại Việt địa dư toàn biên hay còn gọi là Phương Đình dư địa chí, có đoạn mô tả khá rõ ràng về Hoàng thành đời Lê: “Căn cứ vào bản đồ thành Thăng Long thời Hồng Đức thì thành này hình như thước thợ mộc. Ba mặt đông, nam, bắc vuông vắn, mặt tây và nam dài bằng một nửa. Đông Môn bắt đầu từ thôn Đức Môn (trước là thôn Đông Môn) tổng Đồng Xuân, theo hướng bắc đến sông Tô Lịch, theo bờ bên tả qua Bắc Môn về phía Tây đến phường Nhật Chiêu, theo về phía Nam là cửa Bảo Khánh, đến trước bên hữu Văn Miếu, lại qua phía tả là Nam Môn, đi thẳng về phía Đông. Đấy là dấu cũ thành Thăng Long”[47]. “Thành Thăng Long” chính là Hoàng thành với quy mô khá rộng và có thể xác định được qua bản đồ cổ và các sử liệu. Hoàng thành Thăng Long thời Lê sơ vẫn gồm phần trung tâm chính trị của vương triều ở phía Đông, trong đó có Cấm thành, và một khu vực phía Tây. Trên vùng đất phía Tây này, lúc đầu vùng Khán Sơn - Ngọc Hà được quy hoạch như một khu vực quân sự. Tại đây, vua Lê Thái Tổ dựng điện Giảng Võ, sau đó, vua Lê Thánh Tông lập thêm đình Giảng Võ và mở sân Giảng Võ. Nhà vua thường lên núi Khán để xem thao diễn quân đội, vì vậy núi này mang tên Khán Sơn. Sử biên niên nhiều lần ghi chép về thi tập võ nghệ của quân Ngự tiền, tập trận của tượng binh... tại sân điện Giảng Võ hay điện đình Giảng Võ (năm 1435, 1467, 1478). Tại khu luyện tập võ nghệ thời Lý, Trần và khu Diễn võ thời Minh thuộc ở vùng Giảng Võ - Ngọc Khánh, sang thời Lê sơ vẫn là Trường thi võ nghệ hay Trường đấu võ, trong đó có Trường bắn, nơi diễn ra những cuộc thao diễn của quân Năm phủ và luyện thi võ nghệ. Năm 1481, Lê Thánh Tông chuyển điện Giảng Võ về khu vực này và năm 1490 đưa cả khu vực này vào bên trong Hoàng thành. Trên núi Khán, vào đời Vĩnh Tộ (1619-1628), dựng chùa Khán Sơn (Khán Sơn tự), có tượng thờ vua Lê Thánh Tông, đến thời Tây Sơn chuyển tượng về chùa Huy Văn[48]. Cũng trong thời Lê Trung hưng, năm 1664 lại mở Trường thi Hội tại khu Giảng Võ. Vì vậy một số bản đồ Hồng Đức, trên khu phía Tây Bắc Cấm thành có ghi “Khán Sơn tự” và trên Giảng Võ - Ngọc Khánh ghi “Giảng Võ điện”, “Hội thí trường”. Hoàng thành thời Lê có một thay đổi quan trọng là mở rộng về phía Tây Nam. Trên một số bản đồ Hồng Đức, trong khu vực phía Tây của Hoàng thành còn một đoạn thành chạy từ đền Linh Lang (đền Voi Phục) theo hướng tây-đông đến Cấm thành, gần vị trí của đường Kim Mã hiện nay (A. 2499, A.2716, A.1362, A.73, A.3034, A.1081, VHt.41). Có lẽ đó là dấu tích đoạn Hoàng thành thời Lý, Trần (?). Cấm thành đời Lê còn gọi là Cung thành. Cấm thành cũng được thể hiện khá rõ trên bản đồ Hồng Đức. Nguyễn Văn Siêu miêu tả Cấm thành tức Cung thành như sau: “ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn, trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu điện Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An... Ngoài Cung thành là Hoàng thành, về phía Đông phía trước là Thái Miếu, phía sau là Đông Cung...”[49]. Như vậy Cấm thành gần như hình vuông, theo Nguyễn Văn Siêu không bao gồm Thái Miếu và Đông Cung. Hai vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm thành vẫn là Đoan Môn (còn gọi là Đoan Minh) và điện Kính Thiên được xây dựng lại vào thời Lê sơ và di tích còn được bảo tồn cho đến nay, dĩ nhiên qua nhiều lần trùng tu sau đó. Kết quả khai quật Đoan Môn năm 1999 xác nhận di tích Đoan Môn hiện còn là do nhà Lê xây dựng lại vào thế kỷ XV trên nền kiến trúc Lý, Trần. Như vậy, Cấm thành đời Lê sơ hầu như không thay đổi so với thời Lý, Trần, dĩ nhiên các cung điện bên trong thì nhiều lần xây dựng và tu sửa. Theo Hình luật chí thì Cấm thành đời Lê có nhiều lớp cửa, từ ngoài vào có cửa Đoan Minh (Đoan Môn), Hữu Dực, Tường Huy, Đại Định, Trường Lạc, Đại Khánh, Kiến Bình, Huyền Vũ, rồi đến lớp “cửa điện thứ nhất” là Tộ Võ, Văn Minh, Thông Văn, Sùng Hoá, lớp “cửa điện thứ hai” là Gia Hữu, Thái Hoà, và trong cùng là “cửa cung” có cửa Tả Dịch, Hựu Dịch, Vọng Vân[50]. 2.2. Thời Mạc và Lê Trung hưng (1427-1789) Trong thời nhà Mạc, Hoàng thành và Cấm thành hầu như không thay đổi. Nhà Mạc đã nhiều lần xây dựng, tu bổ các cung điện và nhất là lo tăng cường, mở rộng hệ thống phòng vệ để đối phó với những cuộc tiến công của quân Trịnh trong cuộc chiến Nam - Bắc triều. Năm 1587, “họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long”[51] và “đắp lũy đất các xứ, trên từ sông Hát xuống đến sông Hoa Đình, kéo dài đến vài trăm dặm”[52]. H.5: Thành Đông Kinh theo Bản đồ Hồng Đức, A. 2499 H.6: Cấm thành theo Hồng Đức bản đồ A. 2499 Năm 1588, “đắp thêm ba lớp lũy phía ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật Chiêu, vượt qua Hồ Tây, qua Cầu Dừa đến Cầu Dền suốt đến Thanh Trì, giáp phía Tây Bắc sông Nhị, cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng, rộng 25 trượng, đào ba lớp hào, đều trồng tre, dài đến mấy mươi dặm để bọc lấy phía ngoài thành”[53]. Thành Đại La được mở rộng lên mặt bắc, bao quanh cả Hồ Tây và phía ngoài có ba lớp lũy bảo vệ. Đây là lần mở rộng quy mô thành Đại La lớn nhất nhưng hoàn toàn do nhu cầu chiến tranh và chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Đầu năm 1592, quân Trịnh tiến công, chiếm được thành Thăng Long và đã cho “san phẳng lũy đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phá hết bụi rậm gai góc, cào lấp hào rãnh, phá hết thành bằng đất”2. Thành Đại La và hệ thống hào lũy phòng vệ bên ngoài bị phá hủy và từ đó kinh thành Thăng Long chỉ còn lại Hoàng thành và Cấm thành. Trong thời Lê Trung hưng tức thời vua Lê - chúa Trịnh, về mặt cấu trúc kinh thành Thăng Long có một số thay đổi lớn. Chúa Trịnh chuyển trị sở chính quyền ra khỏi Hoàng thành và xây dựng Vương Phủ trên một khu đất ở phía Tây hồ Hoàn Kiếm và phía Nam tháp Báo Thiên (khoảng Nhà thờ lớn). Tại đây mọc lên một quần thể kiến trúc mới gồm nhiều cung điện nguy nga, phía ngoài có tường thành bao bọc. Phủ chúa được thể hiện trên nhiều bản đồ Hồng Đức, thành hình vuông, mở hai cửa: Chính Môn ở phía Nam và cửa Tuyên Vũ ở phía Đông, nhìn ra hồ Hoàn Kiếm. Trong thời Lê Trung hưng, Phủ chúa mới là trung tâm quyền lực của nhà nước quân chủ. Sự chuyển dịch trung tâm chính trị này kéo theo một loạt thay đổi trong quy hoạch kinh thành Thăng Long. Khu vực phía Tây và tây nam Hoàng thành để hoang phế dần. Cấm thành giành cho vua Lê không còn thực quyền và là nơi cử hành những nghi lễ vương triều, tiếp đón sứ thần nước ngoài. Năm 1749, trước mối đe doạ của khởi nghĩa nông dân, chúa Trịnh Doanh cho sửa đắp thành Đại La nhưng thu nhỏ lại, loại bỏ Hồ Tây và khu vực phía Tây ra khỏi phạm vi kinh thành. Đó là thành Đại Đô, mở tám cửa, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu[54]. Trên bản đồ Hà Nội hiện nay, thành Đại Đô phía bắc là Yên Phụ (Yên Hoa) qua đường Thanh Niên, tiếp đường Hoàng Hoa Thám, vòng theo đường Ngọc Hà ôm lấy vườn Bách Thảo, rồi theo phố Giảng Võ, tiếp theo đường La Thành qua ô Chợ Dừa, đường Đại Cồ Việt qua ô Cầu Dền đến ô Đống Mác và theo đê sông Hồng nối với Yên Phụ. Đoạn đê sông Hồng lúc bấy giờ còn nằm sâu vào phía trong so với đê sông Hồng hiện nay vì ô Tây Long (khoảng Nhà hát lớn), chùa Tràng Tín (Hàng Chuối) còn là bến đò. Qui mô của tòa thành Đại Đô còn thể hiện rõ trên các bản đồ Hà Nội thế kỷ XIX như bản đồ năm 1831, năm 1873 với 16 cửa ô. Bên ngoài thành Đại Đô, những đoạn Hoàng thành và thành Đại La xưa vẫn còn di tích nhưng không được tu bổ. Cả một khu vực rộng lớn về phía Tây và tây nam của Hoàng thành bị nông thôn và nông nghiệp hóa. Chính trong bối cảnh đó, khu Thập tam trại ra đời. Trong phạm vi thành Đại Đô, phần còn lại của Hoàng thành và cả Cấm thành không được chăm sóc tu bổ nên bị xuống cấp và sạt lở nhiều, cửa Bắc bị lở xuống sông Tô Lịch, cửa Đại Hưng và cửa Đông Hoa cũng bị hư hỏng nhiều. Năm 1786, quân Tây Sơn đã đắp lại Hoàng thành từ cửa Đại Hưng đến cửa Đông Hoa. Tuy nhiên vị trí và quy mô Cấm thành vẫn không thay đổi. Đoan Môn và điện Kính Thiên vẫn tồn tại qua biết bao biến thiên và sự cố lịch sử cuối thời Lê Trung hưng. Năm 1786, vua Lê Hiển Tông đã tiếp Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tại điện Kính Thiên và Nguyễn Huệ cùng các tướng lĩnh Tây Sơn theo cửa Đoan Môn vào tiếp kiến nhà vua. 3. Thành Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XIX Từ năm 1788, Quang Trung Nguyễn Huệ đóng đô ở Phú Xuân. Sau khi thành lập, triều Nguyễn (1802 - 1945) cũng đóng đô ở Phú Xuân - Huế. Thăng Long trở thành trị sở của trấn Bắc Thành. Năm 1803 - 1805 vua Gia Long cho xây dựng lại thành Thăng Long theo kiểu Vauban. Năm 1805, trong tên Thăng Long, chữ Long là rồng đổi thành chữ Long là thịnh vượng. Năm 1831 vua Minh Mệnh thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, lập các tỉnh trong đó có tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội xuất hiện từ đây và thành Hà Nội là trị sở của tỉnh Hà Nội. Quy mô và cấu trúc của thành Thăng Long - Hà Nội đời Nguyễn có thể xác định cụ thể qua các tư liệu thư tịch Hán Nôm và tư liệu của Pháp, nhất là qua các bản đồ thế kỷ XIX của ta và của Pháp. Bản đồ do người Việt Nam vẽ gồm những bản đồ vẽ theo lối cổ truyền, không có tỷ lệ và số đo chính xác (như bản đồ Hà Nội đời Nguyễn còn lưu giữ tại Thư viện quốc gia Paris, bản đồ Đồng Khánh 1886-1888) và những bản đồ vẽ theo phương pháp bản đồ phương Tây như bản đồ năm 1831, 1866, 1873 (H.7, 8). H7. H8 H9 H10 Bản đồ Hà Nội do người Pháp vẽ thì rất phong phú, có đến khoảng 200 bản đồ hiện nay đang lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ hải ngoại (CAOM), Thư viện Quốc gia Paris, các thư viện và cơ sở lưu trữ của Pháp và Việt Nam (như bản đồ 1883, H.9; bản đồ 1890, H.10). Những bản đồ có giá trị đã được tuyển chọn và công bố trong Hanoi en plans 1873-1945 và Hanoi, le cycle des métamorphoses. Theo các nguồn tư liệu và bản đồ trên, nhiều người xác định giới hạn của thành Hà Nội là một ô vuông giữa các phố Hùng Vương, Phan Đình Phùng, Phùng Hưng, Trần Phú hiện nay. Nhưng thành xây theo kiểu Vauban nên các pháo đài bố trí trên bốn góc và bốn mặt thành cùng các lớp hào bên ngoài thì lan rộng ra ngoài khá nhiều. Thành mở năm cửa: ba cửa Đông, Bắc, Tây và hai cửa mặt nam là Đông Nam, Tây Nam. Phía ngoài các cửa thành có luỹ bảo vệ nhô ra hình tháp tù (ta quen gọi là mang cá), phía ngoài cũng có hào. Trong các tài liệu của ta, các số đo của thành Hà Nội rất khác nhau. Theo tài liệu của Pháp thì tường thành cao khoảng 5m, mặt trong xây bằng gạch, hào rộng từ 15 đến 18m, sâu khoảng 5m, ngập nước độ 1,2 đến 1,3m, giữa hào và thành có một thềm đất rộng 6-7m[55]. Theo chính sử triều Nguyễn thì thành cao 1 trượng 3 thước, năm 1835 vua Minh Mệnh giảm còn 1 trượng 1 thước 2 tấc[56]. Bác sĩ Hocquard có mặt ở Việt Nam 26 tháng từ giữa tháng 2-1884 đến giữa tháng 4-1886, trong đó có 10 tháng ở Hà Nội, đã cung cấp nhiều miêu tả cụ thể và một số ảnh, bản vẽ quý về Hà Nội, trong đó có những ảnh về thành Hà Nội[57]. Tôi thử dùng phương pháp chồng áp bản đồ cổ Hà Nội lên bản đồ Hà Nội hiện nay để hình dung cụ thể hơn quy mô của thành Hà Nội. Tôi chọn bản đồ thành Hà Nội năm 1890 và bản đồ Hà Nội hiện nay (tạm dùng bản đồ du lịch tuy độ chính xác không cao, nhưng thể hiện rõ các đường phố và một số di tích lịch sử để tiện đối chiếu), quy về cùng tỷ lệ để chồng áp lên và có kết quả như H.11. Theo kết quả này thì tường thành bên trong của Hà Nội hình vuông gần khớp với ô vuông, phía bắc lan xuống mép nam phố Phan Đình Phùng (Cửa Bắc hiện nay), phía Tây ở khoảng đường Hùng Vương (Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh nằm trên cửa Tây), phía Nam đến mép nam phố Trần Phú, phía Đông khoảng phố Lý Nam Đế. Mỗi cạnh khoảng 1km và diện tích bên trong khoảng 100ha. Nhưng mặt ngoài thành Hà Nội gồm các pháo đài và hào, lan ra khá rông, góc tây bắc đến mép đường Thụy Khê, góc đông bắc đến đầu phố Hàng Đậu, góc đông nam đến mép phố Hàng Bông, góc tây nam đến mép phố Nguyễn Thái Học. Vì vậy diện tích toàn bộ thành Hà Nội, theo số liệu của chính quyền Pháp, là 160ha. H.11: Bản đồ thành Hà Nội 1890 chồng áp trên bản đồ Hà Nội hiện nay 4. Vị trí và giá trị lịch sử của Khu di tích Hoàng thành 18 Hoàng Diệu (Ba Đình) 4.1. Thành Thăng Long từ khi Lý Thái Tổ định đô đầu thế kỷ XI đến hết thời Lê Trung hưng cuối thế kỷ XVIII, đã trải qua không ít thay đổi Thành Đại La hầu như không thay đổi trong thời Lý, Trần, Lê sơ, nhưng qua thời Mạc và Lê Trung hưng, có một số thay đổi lớn. Năm 1588 nhà Mạc mở rộng thành Đại La lên đến Nhật Chiêu, ôm toàn bộ Hồ Tây, hồ Trúc Bạch vào trong thành và phía ngoài đắp thêm lũy phòng vệ. Năm 1592, thành Đại La bị quân Trịnh phá hủy và năm 1749 chính quyền Trịnh xây lại theo quy mô thu hẹp, loại bỏ Hồ Tây và khu vực phía Tây ra ngoài, đổi tên là thành Đại Đô. Hoàng thành từ thời Lý, Trần sang thời Lê sơ, được mở rộng thêm về phía Tây Nam năm 1490. Đây là quy mô lớn nhất của Hoàng thành không kể lần mở rộng năm 1516 chưa xác định rõ. Nhưng trong thời Lê - Trịnh, khu vực phía Tây của Hoàng thành bị hoang phế và trở lại quá trình nông thôn hóa, năm 1749 bị đưa ra khỏi thành Đại Đô, tức bị gạt bỏ ra khỏi phạm vi Hoàng thành. Nhưng khu vực phía Đông của Hoàng thành, trong đó có Cấm thành thì gần như không thay đổi. Khu vực này giữ vai trò trung tâm chính trị của các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XVI. Sang thời Lê-Trịnh, quyền lực thực sự tập trung vào tay chúa Trịnh và trung tâm chính trị chuyển sang Phủ chúa thiết lập ở ngoài Hoàng thành. Cấm thành mà trung tâm là điện Càn Nguyên rồi điện Thiên An, điện Kính Thiên trên núi Nùng, thì qui mô và vị trí hầu như không thay đổi qua các vương triều và các thời kỳ lịch sử từ Lý đến hết Lê Trung hưng. Tất nhiên là qua các biến thiên lịch sử, số phận của Cấm thành trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc hưng thịnh, có lúc bị phá hoại nghiêm trọng và các cung điện cũng qua nhiều tu sửa, xây dựng. Thành Hà Nội thời Nguyễn không còn giữ vai trò kinh thành, nhưng vẫn là một trung tâm kinh tế, văn hóa tiêu biểu của đất nước. Thành Hà Nội do nhà Nguyễn xây dựng trên cơ sở Cấm thành mở rộng thêm và trục trung tâm lấy điện Kính Thiên làm tâm điểm vẫn không thay đổi. 4.2. Khu di tích khảo cổ học mới phát lộ ở 18 Hoàng Diệu thuộc quận Ba Đình hiện nay, nằm trong khu vực giữa các phố Hoàng Diệu phía Đông, Hoàng Văn Thụ phía bắc, Độc Lập phía Tây và Bắc Sơn phía Nam, mặt đông cách nền điện Kính Thiên chưa đầy 100 m. Căn cứ vào vị trí đó và đặt trong cấu trúc của thành Thăng Long thời Lý, Trần cho đến Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng, các nhà khảo cổ học và sử học ngay sau khi phát hiện, đã xác định khu di tích nằm trong Hoàng thành và lấy điện Kính Thiên làm tâm điểm thì nằm về phía Tây. Theo tôi, xác định đó hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu hiểu Hoàng thành là tên gọi khái quát vòng thành giữa trong cấu trúc ba vòng thành của kinh thành Thăng Long, tuy tên Hoàng thành mới xuất hiện chính thức vào thời Lê sơ. Nhưng kết quả nghiên cứu gần đây thì có thể tiến thêm một bước, xác định khu di tích Ba Đình nằm trong phạm vi Cấm thành hay Cung thành tức nằm trong khu vực trung tâm của Hoàng thành. Trải qua các thời kỳ lịch sử, tuy các cung điện qua nhiều lần xây dựng, tu bổ, nhưng Cấm thành là khu trung tâm chính trị cao nhất của kinh thành và cũng là nơi tập trung những kiến trúc cung đình tiêu biểu nhất của vương triều (trừ thời Lê-Trịnh, trung tâm chính trị chuyển sang Phủ chúa). Trong Cấm thành chỉ có những cung điện, lầu gác dành cho nơi ở của vua và hoàng gia cùng những kiến trúc cử hành các buổi thiết triều và các nghi lễ của vương triều. 4.3. Từ khi vua Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội gần như liên tục giữ vị trí kinh thành của đất nước trừ vài gián đoạn ngắn. Thời gian gián đoạn đó là thời Tây Sơn khi Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân (1788 - 1802) và thời Nguyễn (1802-1945) khi Gia Long tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân - Huế. Trước đó, những năm cuối triều Trần từ 1397 đến 1400, Hồ Quý Ly dời đô vào thành Tây Đô, nhưng Thăng Long vẫn mang tên Đông Đô. Thời Minh thuộc với tên thành Đông Quan, thành Thăng Long là thủ phủ của chính quyền đô hộ, thời Pháp thuộc Hà Nội cũng là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Hà Nội khôi phục vị trí thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rồi nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay. Đấy là một đặc điểm nổi bật của lịch sử Thăng Long - Hà Nội mà hiện nay Hà Nội và cả nước đang chuẩn bị hướng tới kỷ niệm 1000 năm. Hiếm có thủ đô một nước trên thế giới hiện nay có một bề dày lịch sử - văn hoá liên tục với vai trò kinh đô lâu dài như thế. Khu di tích Ba Đình đã phát lộ cả chiều sâu lịch sử - văn hoá của Thăng Long - Hà Nội từ Thăng Long thời Lý, Trần, Đông Đô thời cuối Trần và Hồ đến Đông Kinh thời Lê sơ rồi Lê Trung hưng với tiến trình liên tục từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XVIII, tiếp theo là thành Hà Nội thời Nguyễn thế kỷ XIX và ngược lên cả thời Tiền Thăng Long cho đến thành An Nam đô hộ phủ thời thuộc Đường. Các di tích, di vật và tầng văn hoá chồng xếp lên nhau, tuy dày mỏng khác nhau nhưng khá liên tục qua các thời kỳ lịch sử . Thật hiếm có một khu di tích lịch sử - văn hoá trải dài qua nhiều thời kỳ lịch sử như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và cũng thật ít thấy thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện một quần thể di tích chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy trong lòng đất. Đây là giá trị đặc biệt của khu di tích mới phát lộ. Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho thấy một phần qui mô và diện mạo của Cấm thành cùng đời sống cung đình của vua quan, quý tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tầng tầng lớp lớp di tích - di vật hiện lên như một bộ sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long - Hà Nội, phản chiếu trình độ và bản sắc dân tộc của một trung tâm văn hóa lớn nhất và lâu đời nhất của đất nước, kết tinh và tiêu biểu của văn hóa dân tộc. Phát hiện này còn cung cấp thông tin cho biết trong lòng đất Cấm thành - Hoàng thành Thăng Long xưa còn bảo tồn nhiều di tích di vật quý. Những khai quật thăm dò khảo cổ học ở Đoan Môn, Hậu Lâu, Cửa Bắc và một số địa điểm khác cũng chứng minh thêm nhận định này. Từ đây có thể đưa ra khả năng mở rộng diện điều tra, xây dựng quy hoạch bảo tồn một khu vực di tích lịch sử - văn hoá của kinh thành Thăng Long, thành Hà Nội từ thời tiền Thăng Long đến thời Thăng Long, thời Hà Nội và mở rộng qua các di tích thời cận đại đến các di tích thời hiện đại tức thời cách mạng và kháng chiến như Hội trường Ba Đình, Lăng và Nhà sàn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ trong thành Hà Nội và cả khu phố cổ Hà Nội, kéo dài từ thế kỷ thứ VII - IX đến thế kỷ XX. Một di sản văn hoá như vậy sẽ tăng thêm vị thế của thủ đô Hà Nội, phát huy tác dụng sâu sắc trong giáo dục truyền thống dân tộc cũng như trong các hoạt động giao lưu văn hoá và du lịch. Với nhận thức về giá trị lịch sử, văn hoá khu di tích khảo cổ học Ba Đình như vậy, tôi tán đồng quan niệm coi đây là một di sản văn hoá vô giá của thủ đô và của dân tộc, cần được bảo tồn toàn bộ và có kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn lâu dài trong một quy hoạch tổng thể, đồng thời có những bước triển khai trong từng giai đoạn cụ thể với những giải pháp bảo tồn hiệu quả, phù hợp với điều kiện tự nhiên và những đặc điểm lịch sử - văn hoá của khu di tích. [1] Bài in trong Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.327-363. [2] Trần Huy Bá, Thử bàn về vị trí thành Thăng Long đời Lý, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, 8/1959, tr.79. [3] Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1960, tái bản Nxb. Hà Nội, 2000, tr.39. [4] Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, Sđd, tr.113. [5] Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa, Hà Nội, 1975, tr.150-151. [6] Phạm Hân, Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2003, tr.81. [7] Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Nxb. Fayard, Paris, 2001, tr.69. [8] Đây là kết quả điều tra, khảo sát của bản thân tác giả trong nhiều năm kết hợp với kết quả làm việc của Tổ điều tra khảo sát của một số nhà khoa học trẻ gồm Nguyễn Ngọc Phúc, Phạm Đức Anh, Tống Văn Lợi, Vũ Đường Luân, Nguyễn Thị Bình, Hà Huy Biển do PGS, TS. Nguyễn Quang Ngọc phụ trách trong năm 2004. [9] Hải Thượng Lãn Ông, Ký sự lên kinh, Nxb. Hà Nội, 1977, tr.176. [10] Đại Việt sử lược, Q.2, 5b, bản dịch Việt sử lược, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.79. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, T.I, tr.254. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, T.I, tr.276. [11] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, T.I, tr.248. [12] Đại Việt sử lược, Q.3, 24b, bản dịch Sđd, tr.189. [13] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, T.I, tr.298. [14] Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr.86. [15] Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, T.I, tr.41, dịch là “sông Nhị Hà chầu phía trước..., thành Long Biên ẩn phía sau” là chưa chuẩn xác vì Long Thành là tên thành thời Lý, không phải thành Long Biên. [16] Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Các tổng trấn xã danh bị lãm), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981, tr.14. Tham khảo thêm: Bắc Thành địa dư chí lược, Đại Việt địa dư toàn biên hay Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu. [17] Đồng Khánh địa dư chí lược, tỉnh Hà Nội, xem Đồng Khánh địa dư chí, bản chữ Hán và bản dịch tiếng Việt, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2003, T.I, tr.11, 52. [18] Phan Huy Lê (chủ biên), Địa bạ cổ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 2005, T.I, tr.350-352, tr.341-342, 380. [19] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd Q.2, 25b; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.217; Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, T.III, tr.200. [20] Dẫn theo Nguyễn Vinh Phúc, Từ văn liệu có thể biết đôi điều cụ thể về tòa thành Thăng Long đời Lê, báo cáo trong Tiểu ban I nghiên cứu vị trí và giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long 18 Hoàng Diệu do Viện Khoa học xã hội tổ chức, Hà Nội, 2004. [21] Nguyễn gia phả ký (Liễu Ngạn-Bắc Ninh), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.186. [22] Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, T.III, tr.165. [23] Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, trong Lê Quý Đôn toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, T.III, tr.67. [24] Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa, Sđd, tr.151. [25] Phạm Hân, Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, Sđd, tr.79. [26] Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, Sđd, tr.38-39; Nguyễn Quang Ngọc, Góp thêm ý kiến về vấn đề Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần và lịch sử “Thập tam trại”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1/1986, tr.25-33. [27] Thơ văn Lý Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, T.I, tr.391; Văn khắc Hán Nôm Việt Nam/Epigraphie en Chinois du Vietnam, Paris, 1998, T.I, tr.137. [28] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Q. 5, tr.15b-16a, bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, T.II, tr.21. [29] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Q.II, tr.9b, bản dịch, Sđd, T.I, tr.247. [30] Văn bia Lý Trần, Sđd, t.I, tr.405. [31] Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Văn Chính, Khu Thập tam trại: nguồn gốc dân cư, tín ngưỡng Thành hoàng và đặc điểm kinh tế, Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1-1986; Nguyễn Quang Ngọc, Góp thêm ý kiến về vấn đề Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần và lịch sử “Thập tam trại”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1-1986, tr.25-33. [32] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, T.I, tr.93. [33] Trần Quốc Vương, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa, Sđd, tr.152. [34] Phạm Hân, Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, Sđd, tr.95. [35] Tống Trung Tín, Trần Anh Dũng, Hà Văn Cẩn, Nguyễn Đăng Cường, Nguyễn Thị Dơn, Nguyễn Anh Hùng, Khai quật địa điểm Đoan Môn (Hà Nội) năm 1999, Báo cáo của Tiểu ban II nghiên cứu vị trí, quy hoạch và dấu tích kiến trúc Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, 2004. [36] Tham khảo: Hoàng Việt địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hà Nội), Thăng Long cổ tích khảo, La Thành cổ tích vịnh, Tây Hồ chí. [37] Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, Sđd, T.III, tr.170; Thăng Long cổ tích khảo. [38] Vũ Quốc Hiền, Nguyễn Văn Đoàn, Nguyễn Ngọc Chất, Di tích Ủng Thành - Đoài Môn qua kết quả thám sát khảo cổ học năm 2003, Báo cáo của Tiểu ban II nghiên cứu vị trí, quy hoạch và dấu tích kiến trúc Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, 2004. [39] Cao Hùng Trưng, An Nam chí nguyên, mục Quân vệ, EFEO, Hà Nội, 1932. Sách mang tên An Nam chí, nhưng bị in nhầm thành An Nam chí nguyên. Gần đây các học giả Trung Quốc đã xác minh lại tên sách là An Nam chí. Trong thư tịch Việt Nam như Khâm định Việt sử thông giám hay Đại Nam nhất thống chí... đều dẫn đúng tên sách là An Nam chí. [40] Đại Việt sử ký toàn thư, Q.IV, tr.15a. [41] Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1991, tr.50-64. [42] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, T.II, tr.508. [43] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, T.III, tr.74. [44] Hồng Đức bản đồ, A.2499, VHt.41. An Nam hình thắng đồ, A.3034. Thiên tải nhàn đàm, A.2006, A.30, A.2716, A.1174. Thiên Nam tứ chí lộ đồ, A.73 Toàn tập Thiên Nam lộ đồ, A.1081 Thiên hạ bản đồ, A.1362 An Nam quốc Trung Đô tịnh thập tam thừa tuyên, A.2513. [45] Phan Huy Lê (chủ biên), Địa bạ cổ Hà Nội, Sđd, tr.582-583. [46] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, t.III, tr.114. [47] Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt địa dư toàn biên, Hà Nội, 1997, tr.178; tham khảo Phương Đình dư địa chí, Sài Gòn 1960, tr.104, có chỉnh lý theo bản chữ Hán. [48] Văn bia Trùng tu Huy Văn điện Dục Khánh tự do Dương Bá Cung soạn năm 1864 tại chùa Huy Văn, xem Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, Q.II, tr.10. [49] Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt địa dư toàn biên, Sđd, tr.178. [50] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, Sđd, T.III, tr.114. [51] Đại Việt sử ký toàn thư, Q.XVII, tr.16a, Bản dịch, Sđd, t.III, tr.162. [52] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Q.XXIX, tr.17a, Bản dịch, Sđd, t.II, tr.179. [53], 2 Đại Việt sử ký toàn thư, Q.XVII, tr.18b, Bản dịch, Sđd, t.III, tr.164, 173. [54] Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Q.XL, tr.33b, Bản dịch, Sđd, t.II, tr.601; Đại Việt sử ký tục biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.217, chép mở 5 cửa là: An Hoa, Vạn Bảo, Vạn Xuân, Thịnh Quang, Thọ Khang; Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.III, tr.183 lại chép mở 12 cửa ô. [55] André Masson, Hanoi pendant la période héroique (1873-1888), Paris, 1939. [56] Đại Nam thực lục, Sđd, t.XVI, tr.126. [57] Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Paris, 1892, in lại 1999.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:27:14 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 1: Bí ẩn động Thông Thiền Trên đất Thăng Long - Hà Nội, nếu chùa Khai Nguyên và đình Quán La có lịch sử khá rõ ràng, thì cho đến nay, động Thông Thiền vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà sử học, khảo cổ học. Tảo xã là vùng đất nằm ở phía tây thành Thăng Long được khai phá từ thời Trần, qua nhiều lần thay đổi nay thuộc phường Xuân La, quận Tây Hồ. Xuân La có hai di tích nằm sát bên nhau là chùa Khai Nguyên và đình Quán La. Đình Quán La và chùa Khai Nguyên được xây trên một khu đất cao được gọi là thất tinh (7 quả núi). Đình và chùa có cảnh quan đẹp và theo sử sách thì đứng ở đây có thể nhìn thấy sông Thiên Phù (sông này còn có tên khác là Già La), nên xưa kia cụm di tích này còn có tên gọi là quán Già La. Trước cửa đình và cổng chùa hiện vẫn còn cây đa cổ thụ và một cây thị có thể khẳng định đó là cây thị lâu năm và to nhất Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, do thân cây đa bị rỗng nên có cán bộ hoạt động bí mật đã ở đây đến mấy tháng. Ngày 23.11.1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Xuân La, Người vào thăm đình rồi đến trước cây đa cổ thụ căn dặn bà con: "Cây đa cổ thụ cũng như ngôi đình này là di tích lịch sử, kiến trúc có giá trị cao, phụ lão và toàn dân phải giữ gìn và bảo vệ cho thật tốt". Năm 1959, khi Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành thăm nước ta, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời ông Kim Nhật Thành đến thăm đình và ông cũng được cụ từ trông đình cho biết dưới đình có một cái động. Đúng 7 năm sau, cũng vào ngày 23.11.1965, Bác Hồ lại về thăm nhân dân trong xã và lại ghé thăm đình Quán La. Thiên khai long trạch sơn hà tráng Địa tiếp long thành thảo mộc hương (Trời mở ra thịnh vượng núi sông hùng vĩ Đình ở bên thành Thăng Long cây cỏ hương thơm) (Đôi câu đối trong đình Quán La) Đình thờ thần hoàng làng là Duệ Trang cùng hai người em bà, gọi là hai Chầu Bà - những người đã có công khai phá đất đai ở vùng Tảo và dạy dân cày cấy. Cho đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến thời gian xây đình, nhưng so sánh với chính sử và dã sử thì đình Quán La có từ rất sớm, vào khoảng đầu đời Trần. Đình hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong do các triều đại phong kiến phong cho thành hoàng làng xã Quán La xưa. Trong đó có các sắc phong có giá trị như sắc phong năm 1653 đời vua Lê Thần Tông, sắc Cảnh trị bát tiên đời vua Lê Huyền Tông, sắc Dương đức tam niên đời vua Lê Gia Tông (1674)... Các sắc phong tặng bà là "Đại vương thượng đẳng thần", “Duệ Trang trung dũng uy mục", “Liệt nữ tôn thần"... Ly kỳ động dưới đình Phía dưới đình Quán La có một cái động (hoặc hang) gọi là động Thông Thiền. Cửa động nằm sau hậu cung đình nhưng hiện tại đã bị đất và gạch ngói vỡ lấp gần kín miệng. Bên trong động được xây khum khum hình múi bưởi bằng gạch có chạm trổ hình hoa khế và tứ linh (long, ly, quy, phượng). Chiều ngang động đủ cho một người lớn chỉ cần hơi khom lưng một chút là có thể vào sâu bên trong. Đi sâu chừng hai chục thước có hai nhánh rẽ. Dân làng từ nhiều đời nay vẫn truyền nhau là vào mùa mưa, thả quả bưởi ở cửa hang thì thấy quả bưởi ở hồ Tây, nghĩa là động kéo dài ra tận hồ Tây (hồ Tây ngày trước cách làng chỉ vài trăm mét, không xa như bây giờ - NV). Đình Quán La - Ảnh: Trường SơnKhoảng năm 1943, Viện Viễn Đông Bác Cổ cho người xuống khảo sát hang nhưng chỉ vào được gần ba chục mét phải quay ra vì thiếu ô-xy và đèn mang theo không đủ ánh sáng để rọi đường. Năm 1964, một đơn vị của quân đội đóng quân ở đình, để chiếc máy phát điện gần cửa hang. Đơn vị này đóng quân ở đây cho đến năm 1970 thì chuyển đi nơi khác. Trong những năm này, khi nước sông Hồng lên cao, dân làng gánh gồng con trẻ đến đây tránh lũ. Những đứa trẻ nghịch ngợm nhất cũng chỉ dám chui vào chừng vài chục mét là phải quay ra. Lại có thông tin, đầu năm 80 thế kỷ trước, một nhóm các nhà khảo cổ cũng có ý định vào động nhưng việc không thành. Hiện tại, đất và gạch ngói vỡ đã bịt gần kín cửa động. Có nhiều giả thiết khác nhau về động này. Theo cụ Hoàng Đạo Thúy, một nhà nghiên cứu văn hóa Hà Nội đáng kính thì động do vua Lý Thần Tôn xây. Tuy nhiên cụ Hoàng Đạo Thúy cũng không nói rõ là vua Lý Thần Tôn xây động Thông Thiền để làm gì. Có nhà nghiên cứu khác tiếp ý cụ Thúy đã lý giải Lý Thần Tôn xây động vì các vua triều Lý đều mộ đạo Phật và đạo Phật trở thành quốc đạo nên việc xây động mang ý nghĩa tâm linh: "Thông Thiền nghĩa là âm dương hòa hợp thì việc triều chính sẽ hanh thông". Song các nhà khảo cổ học dựa vào việc hang có ngách lại cho rằng đây là ngôi mộ có niên đại từ đời Hán, ngách dùng để đồ thờ cúng. Hơn nữa vùng đất này vào năm 930 là nơi mà Lý Khắc Chính và Lý Tiến của triều đình Nam Hán khi chiếm nước ta đã đóng quân ở đây nên lý giải của các nhà khảo cổ có vẻ logic. Bên cạnh đó, căn cứ vào niên đại của các loại gạch dùng để trùng tu đình và sửa hang, các nhà nghiên cứu sử đưa ra một giả thiết khác: Thông Thiền được làm từ đời Trần để ém quân đánh giặc Nguyên Mông. Đến khi Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh (đầu thế kỷ XV) đã dùng hang này làm nơi cất giấu lương thực... Cho dù các sách sử của nước ta bị quân đô hộ phương Bắc đốt hết sau mỗi lần chiếm Thăng Long, song nhiều di tích, địa danh nơi đây vẫn được các nhà nghiên cứu “giải mã” sau thời gian dài thu thập tư liệu, chỉ riêng động Thông Thiền dưới móng đình Quán La vẫn còn là bí ẩn chưa được làm sáng tỏ. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:28:42 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 2: Vết đạn đại bác ở Bắc Môn Đi qua phố Phan Đình Phùng, đoạn trước cửa nhà thờ Cửa Bắc là cửa Bắc Môn. Bên trái cửa là vết đạn đại bác sâu chừng hai chục phân và chu vi vết lõm chừng một mét. Đó là vết đạn do quân của Henri Rivière bắn ngày 25.4.1882 trong lần tấn công thành Hà Nội lần thứ 2. Ngay từ khi xâm chiếm Việt Nam, thực dân Pháp đã nhận ra tầm quan trọng của Hà Nội trong việc thiết lập bộ máy cai trị Việt Nam và cả bán đảo Đông Dương. Để kiếm cớ đưa quân ra Bắc, thực dân Pháp đã bí mật dùng Jean Dupuis, một tên lái súng có tham vọng chiếm sông Hồng để ngược sông Hồng sang Vân Nam (Trung Quốc). Dupuis đến Hà Nội ngày 22.12.1872 với một lực lượng quân sự hùng hậu. Mặc dù triều đình Huế không cho phép nhưng hắn vẫn ngang nhiên đưa hàng ngược sông lên biên giới. Sau chuyến buôn trót lọt, hắn càng hung hăng hơn. Hoàng Diệu người làng Xuân Đài, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh ngày 10.2.1829 trong một gia đình Nho học. 20 tuổi ông đỗ Cử nhân cùng với anh ruột là Hoàng Kim Giám. Năm 25 tuổi, trong khoa thi Hội năm 1853 ông đỗ Phó bảng. Ông được bổ làm quan ở nhiều tỉnh miền Trung và Bắc. Tự Đức ban khen: "Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không ai hơn". Suốt đời làm quan, ông nổi tiếng là người thanh liêm thẳng thắn, hết lòng vì dân, vì nước. Hắn cho quân lên bờ xé các bố cáo của Nguyễn Tri Phương, khi ông mới nhận chức Tổng đốc Hà Nội. Giữa lúc quan hệ đôi bên căng thẳng thì thực dân Pháp phái Francis Garnier đưa quân ra Bắc với danh nghĩa theo yêu cầu của triều đình Huế giải quyết vụ Dupuis. Sau khi có viện binh từ Sài Gòn ra, Garnier tuyên bố trắng trợn mở đường sông Hồng cho thương mại, thiết lập thuế quan mới rồi gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bắt phải giải giáp quân đội, rút hết đại bác trên mặt thành. Không đợi trả lời, sáng sớm ngày 20.11.1873, Garnier ra lệnh nổ súng đánh thành Hà Nội. Dù không chuẩn bị kỹ càng và bị tấn công bất ngờ nhưng quân và dân Hà Nội chiến đấu rất anh dũng. Nguyễn Tri Phương trực tiếp đến cửa thành phía nam chỉ huy quân sĩ. Cuộc chiến diễn ra ác liệt trên mặt thành và Nguyễn Tri Phương bị thương nặng ở bụng. Ông bị giặc Pháp bắt, chúng mua chuộc nhưng ông xé băng, nhịn ăn để chết. Hà thành thất thủ, nhưng việc Garnier bị đền tội tại Cầu Giấy ngày 21.12.1873 đã làm nức lòng quân dân Hà Nội và góp phần buộc Pháp phải trao trả thành cho triều đình Huế. Cửa Bắc Môn - Ảnh: T.L Khi tình hình Bắc kỳ căng thẳng, vua Tự Đức giao cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Năm 1882, lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874, Pháp bắt đầu tăng quân đồn trú ở Bắc kỳ. Tháng 3.1882, Henri Rivière được lệnh kéo quân từ Sài Gòn ra đóng tại Đồn Thủy. Hoàng Diệu chưa có lệnh của triều đình nên chỉ chuẩn bị mà không dám đối phó. Trước đó, ông dự đoán thế nào Pháp cũng kiếm cớ quay lại nên đã cho tu bổ thành, chuẩn bị vũ khí, tăng quân. Hoàng Diệu cũng bố trí một lực lượng ở ngoại thành để hỗ trợ khi thành bị tấn công và cả kế hoạch phòng thủ chung song triều đình không chấp nhận. Quân Pháp ngày càng đông, Hoàng Diệu yêu cầu các địa phương tâu lên triều đình xin thêm viện binh nhưng tới tận lúc Pháp sắp nổ súng, Tự Đức vẫn chỉ muốn thương thuyết. Quân Pháp hoành hành phá rối và hăm dọa trên các đường phố. Bên cạnh Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với thành. Rạng ngày 25.4.1882, Henri Rivière sai phiên dịch viên đưa tối hậu thư vào thành buộc trong 3 giờ phải hạ khí giới và giao thành, Hoàng Diệu cùng các tướng lĩnh phải nộp mình. Chưa hết thời gian, quân Pháp đã nổ súng. Từ 8 giờ sáng, tàu chiến trên sông Hồng thi nhau nhả đạn mở đường cho bộ binh xông lên. Tôn Thất Bá xin ra ngoài để đàm phán nhưng ra khỏi thành, Bá đầu hàng và khai hết vị trí có quân phòng ngự. Rồi Bá lại dâng sớ lên Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, mặt khác Bá xin Henri Rivière làm Tổng đốc Hà Ninh. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa. Ngay từ lúc cuộc chiến bắt đầu, người dân đã mang theo khí giới đến cửa thành xin cùng tham gia chống quân Pháp. Dân xung quanh, các đình, chùa đều đánh trống gõ mõ để hỗ trợ cho tinh thần quan quân trong thành. Hàng nghìn dân binh mang gậy gộc, giáo mác do Võ Nguyễn Đồng người làng Bích Câu (nay là phố Bích Câu) chỉ huy, kéo đến đình Quảng Văn (nay là vườn hoa Cửa Nam) tập hợp rồi xông vào thành. Chưa vào tới nơi thì kho thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt. Đám cháy càng lan rộng, hàng ngũ chiến đấu càng hoang mang, quân giặc thừa cơ bắc thang trèo vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào. Do quân Pháp quá mạnh và tướng kẻ bỏ trốn, kẻ phản bội nên quân giữ thành dần tan rã. Hoàng Diệu về dinh, nai nịt gọn gàng, mặc chiếc áo the thâm, chít khăn nhiễu xanh lên đầu, dải dây lưng nhiễu hồng thắt ra áo ngoài, tay cầm thanh kiếm tuốt trần, lên mình voi xông vào Hoàng cung. Đến sân rồng, Hoàng Diệu lạy năm lạy, vừa lạy vừa khóc rồi quay ra. Đến Võ Miếu, xuống voi, ông đuổi đám quân về rồi bảo rằng: "Ai muốn về Huế thì về, ai muốn đánh thì theo thứ quân lên Sơn Tây". Nói xong đi vào Võ Miếu đóng cửa lại lấy chiếc khăn đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây tuẫn tiết. Lúc đó là giờ Ngọ, ngày 25.4.1882. Chiếm được thành, Pháp cho quân đồn trú tại đây. Sau đó chúng cho phá điện, lầu, phủ mà nhà Nguyễn trước đó đã xây để xây kho quân sự, trại lính và chỗ cho hậu cần. Về cơ bản Bắc thành chỉ còn là cái tên trong sử sách. Một điều thâm hiểm là khi xây doanh trại, chúng phá hết nhưng để lại Bắc Môn như để cảnh cáo những ai có ý định chống Pháp. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:33:34 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 3: Chùa Báo Ân Trên mảnh đất nay là Bưu điện Hà Nội từng tồn tại một công trình kiến trúc Phật giáo nguy nga mà giờ đây chỉ còn lại hình bóng trên các bưu thiếp cổ. Thời Lê Trung hưng, chúa Trịnh Doanh cho xây lầu bên bờ đông của hồ Lục Thủy (hồ Gươm) để làm nơi duyệt quân, vì trên mái có 5 con rồng cuốn nên được gọi là lầu Ngũ long. Khi xây lầu, nhà chúa cho đắp con đường để cưỡi voi từ Phủ chúa sang (phủ nằm trong khoảng khu vực phố Tràng Thi - đầu phố Bà Triệu và Quang Trung hiện nay) nên hồ bị ngăn làm hai. Phía bắc gọi là Tả vọng, phía dưới gọi là Hữu vọng, hay còn được gọi là hồ Thủy quân vì hồ làm nơi luyện tập cho binh sĩ. Đền vàng cửa ngọc Năm 1786, khi Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất, Lê Chiêu Thống còn cho họp tướng lĩnh ở lầu này. Sau khi Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống phóng hỏa đốt năm 1787 thì lầu Ngũ long cũng bị phá. Dân đến đây làm nhà, lập thôn Cựu Lâu. Khoảng năm 1842, Tổng đốc Hà Ninh là Nguyễn Đăng Giai đã quyên tiền dân xây dựng chùa ở khu vực này. Chùa có tên là Báo Ân. Vì hồ trong chùa rất nhiều sen nên dân còn gọi là chùa Liên Trì và cũng còn có tên khác là Quan Thượng, tên của viên quan lập chùa. Chùa có 180 gian, kiến trúc phức tạp và cầu kỳ. Mùng 8 Tết 1876, Trương Vĩnh Ký với tư cách là nhà báo có ghé thăm chùa đã ghi lại trong nhật ký Một chuyến đi Bắc Kỳ. Trương Vĩnh Ký mô tả, bước qua cửa chùa có tháp cao hai bên, trong chùa có hồ được xây bằng gạch và đá, đường lát gạch chạy vòng quanh hồ. Trương Vĩnh Ký cũng mô tả trong chùa có nhiều cầu và xung quanh là hành lang có mái che. Những tấm ảnh chụp của sĩ quan quân y Pháp là Hocquard năm 1884 cho thấy chùa bề thế và có nhiều nhà ngang, dãy dọc. Chùa Báo Ân - Ảnh: DR Hocquard Tháp chùa Báo Ân - Ảnh: DR Hocquard Trong một bức họa đăng trên Hà Nội báo (Ha Noi Journal) năm 1890 của Voignier vẽ cảnh phía đông hồ cho thấy còn cổng tam quan và tháp Hòa Phong nằm gần mép hồ. Tháp hiện vẫn còn. Tháp cao 3 tầng, tầng 1 có 4 cửa nên còn gọi là tứ môn tháp, một kiến trúc thường thấy trong các công trình của Phật giáo. Tầng một có 4 cửa vòm, tầng 2 có hình bát quái, dưới bát quái trên 4 vòm là tên từng cửa: Báo Ân môn, Báo Nghĩa môn, Báo Đức môn và Báo Phúc môn. Tầng 3, trên mặt đông-tây có ghi tên tháp là Hòa Phong nhưng 2 mặt bắc-nam lại ghi Báo Thiên tháp. Báo Thiên tháp do triều Lý xây năm 1057 (nay là khu vực Nhà thờ lớn). Tháp cao 12 tầng (khoảng 80 mét), bị sét đánh năm 1322, năm 1426, tướng giặc Minh là Vương Thông sai phá tháp lấy đồng đúc đạn. Có thể các nhà chủ trương xây chùa Báo Ân ghi chữ Báo Thiên tháp là nhớ về một công trình vĩ đại của đời trước đã bị phá? Tháp Hòa Phong là nơi hội tụ tinh thần của 3 tôn giáo: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo (tam giáo đồng nguyên) vốn tồn tại ở các triều đại phong kiến trước đó. Chùa được dân ca tụng: Gần xa nô nức tưng bừng Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên Lầu chuông gác, trống hai bên Trông ra chợ mới Tràng Tiền kinh đô Khen ai khéo họa dư đồ Sau lưng Đồn Thủy, trước hồ Hoàn Gươm Phong quang cảnh trí trăm đường Trong xây chín giếng ngoài tường lục lăng Rõ mười cử động tưng bừng Đền vàng cửa ngọc chất từng như nêm. Bài thơ này ra đời khi thực dân Pháp đã được triều Nguyễn cho đóng quân ở Đồn Thủy (khu vực Bệnh viện 108 hiện nay) và cũng cho thấy chùa còn nguyên vẹn. Đốt nhà dân, cướp phá chùa Năm 1883, Pháp chiếm được Hà Nội và lấy chùa làm cơ quan hậu cần. Thấy trong chùa có nhiều hình tượng của điện diêm cung dưới địa ngục nên lính Pháp gọi là "pagode des supplices" (chùa khổ hình). Hồi ký của một viên quan viết rằng cha ông ta là Thống sứ Bắc Kỳ có lấy một pho tượng Kim Cương lớn ở chùa Báo Ân đem về bày ở phòng khách gia đình ở Paris. Trong thời gian đóng ở chùa, đám binh lính đã cậy phá gạch đá, đập vỡ các tượng lớn và lấy cắp các tượng nhỏ làm kỷ niệm. Tháng 11.1885, công việc đổ đất, cạp hồ Gươm và lấp các chỗ trũng bắt đầu. Trong một bức thư gửi cho một người bạn, Toàn quyền De Lanessan viết để kịp khánh thành con đường vòng quanh hồ đúng vào dịp Tết năm 1892, ông ta ngầm ra lệnh đốt các nhà lá quanh hồ. Đêm 22.1.1891, 300 nóc nhà ở Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Mắm, Hàng Thùng, Hàng Vôi đã cháy trụi. Đêm ngày 28.1.1891, vụ cháy thứ hai tiêu hủy cả thôn Cự Lâu. Chùa Báo Ân chỉ là mảnh đất hoang tàn. Nguyễn Khuyến trở lại Hà Nội, trước cảnh hoang tàn quanh hồ và các tòa nhà do thực dân Pháp xây dựng ở phía đông, ông đã viết bài Cảm đề: Ba chục năm trở lại hồ Bây giờ cảnh sắc khác ngày xưa Nhà tranh đâu cả toàn lầu gác Súng lạ đì đòm tịt trúc tơ Chim chóc đi về lầm lối cũ Cốc cò chiều tối ngủ sương mưa Đáng thương văn vật trăm năm ấy Còn lại bên hồ một đá trơ. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:36:18 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 4: Từ “hỏa đài” tới Bưu điện Hà Nội Hơn một trăm năm trước, những con tem, bức điện báo đầu tiên gửi đi từ Bưu điện Hà Nội không dành cho người Việt. Và khi người Việt đầu tiên kiện vụ "xâm phạm bí mật thư tín", tòa án cũng không đứng về phía nguyên đơn... Bưu điện Hà Nội được thực dân Pháp thành lập từ năm 1884, ngay sau khi triều Nguyễn ký hiệp ước đầu hàng, chấp nhận chế độ bảo hộ. Vị trí của Bưu điện Hà Nội là nền chùa Báo Ân cũ. Bốn dãy nhà hai tầng được dựng lên, phía bắc tiếp giáp với phố Lê Thạch, mặt chính là phố Đinh Tiên Hoàng, phía nam là phố Đinh Lễ, còn phần hậu của bưu điện là Bắc Bộ phủ. Công trình có kiến trúc đơn giản, cầu thang gỗ, phía trên lợp ngói ardoise màu đen. Trước khi thực dân Pháp đưa điện tín, điện báo và thư từ vào Việt Nam để phục vụ cho việc cai trị của họ thì các triều đại phong kiến trước đó đã sử dụng cờ, đèn, kèn, trống, ngựa, thuyền, chim câu… để làm phương tiện truyền thông tin. Hình ảnh người cầm cờ tín hiệu trên mũi thuyền cong khắc trên trống đồng có thể là dấu hiệu của việc truyền tin bằng cờ hiệu. Quanh thành Cổ Loa vẫn còn di tích các "hỏa đài", đây cũng là những di chỉ thể hiện cách thông tin thời xưa. Theo truyền thuyết, trên đỉnh núi Bài Thơ (tên cũ gọi là "núi Truyền đăng" hay "núi Rọi đèn" ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) có phiến đá lớn dùng làm chỗ đốt lửa báo hiệu khi có biến ở biên thùy. Với cách này, các đồn binh thấy lửa cháy trên núi sẽ chuyển tiếp thông tin về triều đình để vua, quan kịp thời ứng phó. Bưu điện Hà Nội xưa nhìn từ vườn hoa Paul Bert - Ảnh tư liệu Thế kỷ 17, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vẫn sử dụng cách đốt lửa. Nguyễn Hữu Dật, một tướng giỏi nhà Nguyễn, cũng xin lập "lạp đài" ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin cho nhanh. Nhiều triều đại phong kiến còn lập trạm trên tuyến đường bộ, đường thủy làm nơi chuyển tiếp chiếu chỉ, lệnh dụ… tới khắp nơi. Trạm sử dụng ngựa, thuyền và các phương tiện khác để đảm bảo những yêu cầu về thời gian và an toàn trong suốt hành trình của phu trạm. Người của trạm, từ đội, lính hay phu vận trang phục như lính chiến triều đình. Ngựa được tuyển chọn kỹ càng và luôn sẵn sàng lên đường; khi phu trạm trước đến là người, ngựa phi ngay đến trạm tiếp theo. Thời kỳ đầu triều Nguyễn, tên trạm được xác định bằng cách ghép tên tỉnh với tên thôn nơi đặt trạm. Dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1841), trên địa bàn Hà Nội có hai trạm: Hà Trung ở thôn Yên Trung, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi thành Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương (nay là phố Hà Trung, quận Hoàn Kiếm); Hà Mai, nằm ngay trên đường Trương Định ngày nay. Khi thực dân Pháp xây dựng hệ thống bưu điện, các trạm bị hủy bỏ. Con tem đắt hơn 1 cân gạo Trong năm 1884, người Pháp chỉ mới lập ra Bưu cục Hà Nội cùng với các bưu cục Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây và Ninh Bình để phục vụ thông tin liên lạc cho bộ máy cai trị. Hoạt động của bưu cục chủ yếu là nghiệp vụ bưu chính, chuyển thư từ và công văn. Trước đó năm 1883, Toàn quyền Đông Dương đã cho phát hành con tem đầu tiên ở Việt Nam; tem có hình chim phượng hoàng, biểu tượng của Hoàng đế Napoléon đệ tam. Việc sử dụng tem khi ấy rất hạn hẹp, chỉ trong công sở, giới quan chức và số ít người giàu có. Cước rất cao, một con tem trong nước là 4 xu, giá một tiếng điện báo là 6 xu, trong khi một cân gạo giá 3 xu. Năm 1886, thực dân Pháp cho phát hành con tem đầu tiên dùng cho Nam kỳ và đến năm 1889 thì phát hành tem dùng chung cho ba nước Đông Dương. Cuối năm 1884, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương còn cho xây đường dây hữu tuyến Hà Nội - Sài Gòn dài gần 4.000 km và hoàn thành vào năm 1888. Cũng trong thời kỳ này, họ xây dựng đường dây Hà Nội - Hải Phòng. Năm 1888, thông tin điện báo được thiết lập giữa Hà Nội với Sài Gòn, Vinh, Huế và Đà Nẵng. Năm 1889, Bưu điện Hà Nội có đầy đủ các hình thức hoạt động: bưu chính, điện báo, điện thoại. Hình một số con tem được sử dụng tại Đông Dương thời Pháp thuộc - Ảnh tư liệuLàm việc trong các bộ phận của Bưu điện Hà Nội chủ yếu là người Pháp hoặc người ở các nước thuộc địa do họ tuyển. Nhân viên người Việt hầu hết là người vào "làng Tây", cai hoặc lính đã giải ngũ. Tất cả những người Việt làm trong ngành phải tuyên thệ trước tòa sơ thẩm. Lời tuyên thệ của mỗi người được ghi vào biên bản tòa án và lưu trong hồ sơ cá nhân. Nội dung như sau: "Tuyệt đối giữ bí mật những điều đọc được ở bức điện công hay tư, một công văn hay một bức thư. Nghe được cuộc điện thoại không nói cho ai biết dù là đồng nghiệp. Nếu vi phạm bí mật sẽ bị phạt tù". Lương của nhân viên người Việt chỉ bằng một phần mười, thậm chí một phần hai mươi so với nhân viên người Pháp. Thời kỳ đầu, bưu tá của Bưu điện Hà Nội sử dụng xe người kéo đi phát thư. Bưu điện đã chọn những người kéo xe tay trẻ khỏe vì nhiều khi gia đình nhận thư xa trung tâm. Họ được trả công tùy theo độ dài của quãng đường. Những năm 1920, khi xe đạp được nhập vào Việt Nam thì mỗi bưu tá được giao một chiếc xe có gióng ngang làm chỗ để treo xà cột bằng da. Năm 1917, Bưu điện Hà Nội bắt đầu tổ chức bưu chính nông thôn. Tuy nhiên, đối tượng nhận vẫn chỉ là cấp chính quyền xã hay huyện. Năm 1922, người Pháp tiến hành xây dựng đài phát vô tuyến tại Ngã Tư Vọng (nay là khu tập thể 128C phố Đại La) và tại số 4 Phạm Ngũ Lão (nay là Trung tâm Khí tượng - Thủy văn quốc gia) để liên lạc với Paris. Ngoài ra, đài này còn thông báo giá vàng, tỷ giá giữa đồng franc và đồng bạc Đông Dương. Năm 1930, một người Việt Nam tên là Trần Văn Sáng đã kiện Bưu điện Hà Nội, lý do là khi nhận được thư của người thân từ Sài Gòn gửi ra, anh này thấy thư bị bóc đã cương quyết không ký vào sổ của viên bưu tá. Vụ kiện không mang lại phần thắng cho anh vì tòa án đứng về phía bưu điện. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954 đã buộc Chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Genève với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rút toàn bộ quân khỏi Đông Dương. Ngay sau khi tiếp quản thủ đô vào sáng 10.10.1954, công việc bàn giao Bưu điện Hà Nội được tiến hành theo thỏa thuận trước đó. Mặc dù đã thống nhất phải để lại nguyên trạng Bưu điện Hà Nội, nhưng một số thiết bị tại đây đã bị phá hủy, một số khác bị người Pháp mang đi và trên thực tế chỉ còn một tổng đài điện thoại 1.500 số với gần 600 thuê bao. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:38:24 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 5: Người phụ nữ 28 năm chỉnh giờ đồng hồ Đồng hồ Bưu điện Hà Nội - Ảnh: Trường Sơn Tuổi trẻ của bà Lê Thị Yến gắn liền với chiếc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện thành phố, khi tiếng chuông của nó còn là nỗi xúc động và sự chờ mong của bao người Hà Nội. Công trình xây dựng “Nhà bưu điện mới” do Trung Quốc viện trợ được đặt tên là 7138. Theo cách viết của người Trung Quốc, 7138 nghĩa là công trình bắt đầu từ ngày 8.3.1971. Nhà giao dịch hai tầng mặt phố Đinh Tiên Hoàng bị đập bỏ, thay vào đó là tòa nhà 5 tầng và trên nóc đặt một chiếc đồng hồ. Năm 1976, tòa nhà dài 51 mét, trát đá rửa cơ bản hoàn thành. Bên trong không có đường nét uốn lượn. Bên ngoài nặng nề và thô vụng. Các kiến trúc sư lắc đầu vì công trình này phá vỡ sự mềm mại nhẹ nhàng của không gian phía đông hồ Gươm với nhiều công trình có kiến trúc nhẹ nhõm, sang trọng. Chăm sóc “biểu tượng Hà Nội” Trước khi chiếc đồng hồ trên nóc nhà bưu điện trung tâm xuất hiện thì Hà Nội có khá nhiều đồng hồ nằm rải rác ở các phố. Song đáng kể nhất là chiếc đồng hồ ở tháp chuông Nhà thờ lớn và nhà chính của ga Hà Nội. Cả hai chiếc chạy rất chính xác. Nhưng ngày 26.12.1972, Mỹ rải thảm bom bằng B52 đã phá tan chiếc ở ga Hà Nội. Sau khi lắp xong chiếc đồng hồ trên nóc nhà trung tâm, các chuyên gia Trung Quốc thấy Lê Thị Yến còn trẻ lại nhanh nhẹn nên đề nghị bưu điện để Yến trông coi chiếc đồng hồ. Giám đốc Bưu điện Hà Nội là ông Nguyễn Minh Chí đồng ý. Đồng hồ được sản xuất tại Trung Quốc và theo các chuyên gia, mẫu này chỉ sản xuất có 2 chiếc. Bốn mặt giống hệt nhau quay về bốn hướng: đông, tây, nam, bắc. Mặt đồng hồ hình vuông, mỗi chiều 4,5 mét. Phía dưới có 16 chiếc loa chĩa về 4 hướng. Lễ khánh thành chiếc đồng hồ diễn ra vào đúng 11 giờ trưa ngày 2.9.1978. Bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ tịch với nhịp điệu chậm vang xa làm nhiều người Hà Nội trong cả một khu vực rộng lớn xúc động. Phó đoàn chuyên gia Trung Quốc tham gia xây dựng Bưu điện, ông Vương Ngọc Dung trước khi rút khỏi Việt Nam đưa cho Lê Thị Yến sơ đồ của chiếc đồng hồ rồi bảo vẽ lại. Yến thức trắng một đêm và hôm sau mang đến trước sự ngạc nhiên và thán phục của chuyên gia. Rồi đoàn chuyên gia mang theo sơ đồ chính chiếc đồng hồ về nước sau khi bàn giao một ngày. Từ hôm ấy người phụ nữ rắn rỏi sinh ở ra ở Thái Bình đảm trách đời sống chiếc đồng hồ này. Hằng ngày, Yến có trách nhiệm chỉnh giờ sao cho chiếc đồng hồ chạy chính xác. Nhưng do không có thiết bị máy móc nên không biết thế nào là chính xác, bởi vậy thỉnh thoảng, Yến lại đạp xe đạp đến Nhà thờ lớn, lấy giờ chiếc đồng hồ đeo tay theo giờ của đồng hồ trên tháp nhà thờ mang về so sánh. Rồi tháng đôi lần, Yến đạp xe cách bưu điện mấy cây số để kiểm tra tiếng chuông và nhạc có vang xa không. Rồi lúc nào cũng lo tra dầu mỡ, chỉnh thanh đồng cho tiếng chuông trong hơn… Bà Yến hiểu chiếc đồng hồ không chỉ để xem giờ mà nó đã trở thành "biểu tượng của Hà Nội". Nhà bà ở ngách 15, ngõ Thổ Quan, phố Khâm Thiên. Cái ngách sâu hoắm chật hẹp, nhà cửa san sát và cũng thường xuyên tắc nghẽn, cách bưu điện mấy cây số, nhưng dù là nghỉ lễ hay nghỉ chủ nhật, nếu không nghe tiếng nhạc, tiếng chuông là vội vã phóng ngay đến cơ quan để xem sự thể ra sao. Trong suốt 28 năm trông coi chiếc đồng hồ thì 20 năm liên tục bà Yến phải leo lên, leo xuống cầu thang cao chót vót vì thang máy không sử dụng được. Còn đâu tiếng chuông, tiếng nhạc... Không chỉ chăm chút, lo lắng cho chiếc đồng hồ "mẹ" mà bà Yến cùng anh chị em tổ viên còn phải lo 7 chiếc đồng hồ con mà chiếc đồng hồ mẹ có trách nhiệm truyền tín hiệu đến, lắp ở những địa điểm khác nhau trong thành phố. Gần là Bách hóa Tổng hợp, xa thì tận dưới Mơ và ngã tư Sở. Khi nhà khách Chính phủ xây dựng thêm đơn nguyên cao 5 tầng thì mặt đông của chiếc đồng hồ bị che lấp và người đi trên đường Lý Thái Tổ không thể xem được giờ, nhiều ngày liền bà đã khóc thầm. Thiệt thòi cho người dân đã đành, song đáng nói là làm mất giá trị của chiếc đồng hồ. Chồng bà Yến cũng làm cùng cơ quan và theo quy định của thời bao cấp, vợ chồng được phân phối nhà tập thể. Song gần đến ngày phân chia, chồng bà lại "được" điều đi Huế lắp tổng đài. Xong việc quay trở ra thì việc phân chia đã đâu vào đấy, "vợ chồng đồng chí Yến chờ đợt sau nhé". Tuy nhiên, bà cũng không phàn nàn vì "nhà mình tuy không rộng nhưng còn có chỗ riêng tư, nhiều anh chị em vẫn phải ở chung với bố mẹ, chật chội lắm". Năm 2006, trước khi nghỉ hưu, bưu điện cho bà Yến đi du lịch Trung Quốc. Ngồi trên xe buýt, bà cũng ngó nghiêng, đến thành phố nào cũng nhờ phiên dịch hỏi đồng hồ công cộng to nhất đặt ở chỗ nào. Nếu có, bà tìm mọi cách đến bằng được xem nó có phải là anh em với chiếc đồng hồ mà bà đã gắn bó cả đời không. Trước khi về hưu bà vẫn tự hỏi, Việt Nam và Trung Quốc đã nối lại quan hệ từ năm 1992 nhưng sao không thấy ai trong tổ chuyên gia quay lại thăm chiếc đồng hồ do họ lắp đặt xem nó sống chết thế nào. Bây giờ chiếc đồng hồ vẫn chạy tốt. Dù có đeo đồng hồ trên tay nhưng ai cũng ngước lên xem giờ rồi so với đồng hồ họ đang đeo nếu đi qua hồ Gươm. Còn bà Yến, hễ có ngày nào rảnh rỗi hay có việc phải ra đường, bà vẫn phóng lên bờ Hồ, chỉ có điều bà không vui như ngày xưa, bởi bây giờ người đông, xe máy ô tô chạy ầm ầm, đâu còn nghe thấy tiếng chuông, tiếng nhạc... Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:40:24 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 6: Truyền kỳ hồ Gươm “Khen ai khéo họa dư đồ Trước sông Nhị Thủy sau hồ Hoàn Gươm” Thăng Long qua các triều Lý, Trần, Lê có rất nhiều hồ như: Thanh Giám, Thái Cực, Tú Uyên, Kim Âu, Chu Tước, Huy Văn... Nhưng lớn nhất là hồ Lục Thủy (tức hồ Gươm ngày nay). Lục Thủy là dấu tích của đầm bị cát bồi lấp kéo dài xuống tận phố Hàng Chuối hiện nay. Phía bắc Lục Thủy tiếp giáp với hồ Thái Cực bị ngăn bởi thôn Minh Hương (nay là phố Cầu Gỗ). Phía tây ăn tới tận Nhà thờ Lớn hiện nay. Khi chúa Trịnh cho xây phủ chúa và lầu Ngũ Long thì Lục Thủy bị ngăn làm hai, phía bắc gọi là Tả Vọng, còn phía dưới gọi là Hữu Vọng. Con đường đi từ phủ Chúa sang lầu Ngũ Long là phố Hàng Khay hiện nay. Nguyễn Văn Siêu đã từng bật lên cảm xúc trước vẻ đẹp của hồ Gươm: Nhất trản trung phù địa Trường lưu đảo tải thiên Ngư châu xuân tống khách Hồi trạo túc hoa thiên Dịch nghĩa: Một chén giữa lòng đất nổi Nước dài chở lật trời Thuyền câu ngày xuân đưa khách Quay chèo về ngủ bên hoa Năm 1952, chính quyền thành phố tổ chức hội chợ bắt đầu từ Thủy Tạ kéo đến nhà Khai Trí Tiến Đức giới thiệu và bán nhiều loại hàng hóa. Người ta còn bắc cả cầu phao ra tháp Rùa để khách có thể ra chơi và chụp ảnh lưu niệm. Năm 1992, sau 115 năm tồn tại, tháp Rùa được UBND TP Hà Nội cho trùng tu. Không gian thơ mộng lãng mạn của hồ Gươm làm cho Trịnh Giang, vốn là vị chúa thích ăn chơi, đã cho xây Tả Vọng đình trên Gò Rùa làm nơi hóng mát về mùa hè. Khi triều Nguyễn lên nắm quyền thì Tả Vọng đình đã đổ nát. Theo truyền thuyết, Gò Rùa là đất "vạn đại công khanh", nhà nào để được hài cốt vào đó thì con cháu muôn đời làm quan. Chính vì thế, ông Nguyễn Hữu Kim (thường gọi là Bá Kim, 1832 - 1901), khi đó là hào mục của thôn Cựu Lâu (nay là khu vực phố Hàng Khay, Hai Bà Trưng và đầu phố Bà Triệu) đã "lo lót" Kinh lược sứ và cả viên quan Pháp chỉ huy đội quân đóng ở Đồn Thủy để xây tháp làm "hậu chẩm" cho chùa Báo Ân. Tháp Rùa được xây vào khoảng năm 1877. Dân gian truyền rằng, khi bắt đầu xây móng, ông Bá Kim chờ đêm khuya mới cho người nhà mang hài cốt của cha mẹ đựng trong quách chôn giữa gò. Nhưng hôm sau thì chỉ còn quách mà không còn cốt. Dù không còn cốt song việc xây tháp không thể dừng nên ông Bá Kim buộc phải xây tiếp. Khi Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn trước lúc quân Pháp chiếm thành Hà Nội ngày 25.4.1883 thì chính ông Bá Kim cùng với những người yêu nước đã lén lấy xác Hoàng Diệu mang đi chôn gần miếu Trung Liệt (sau gò Đống Đa hiện nay), rồi sau đó lại di ra Dinh Đốc học (Nhà máy xe đạp Thống Nhất sau này). Tháp Rùa có 3 tầng và không phải là công trình kiến trúc đặc sắc nhưng làm cho hồ Gươm đỡ trống trải và bớt đơn điệu. Sau khi Pháp chiếm Hà Nội năm 1883, Công sứ Bắc Kỳ là Bonnal đã cho quy hoạch lại khu vực hồ Gươm. Hồ bị lấp bớt và diện tích hồ chỉ còn lại 12 ha như hiện nay. Hồ Gươm nhìn từ tháp Hòa Phong - Ảnh: T.L Năm 1883, con đường quanh hồ chưa hình thành nên để bớt nguy hiểm, phóng viên của tờ Le Temps và hãng thông tấn Havas ở bên này hồ trong một ngôi chùa nhỏ, còn phóng viên của Le Figaro ở bờ bên kia; để thăm nhau họ đi thuyền qua hồ. Cũng trong năm 1883, Cao ủy Harman khai trương đua thuyền trên hồ Gươm bằng chiếc thuyền độc mộc có mái che với 10 người chèo. Khách sạn Grand Hotel (nay là khu vực siêu thị Intimex) - khách sạn sang trọng đầu tiên ở Hà Nội, được khánh thành vào năm 1886 với 50 phòng ngủ và bàn billard, đã mua 2 chiếc ca nô để chở khách ngắm cảnh trên hồ khi hoàng hôn buông xuống. Hồ Gươm thời kỳ này còn có hoạt động đua thuyền gỗ và thuyền thúng dành cho người Việt. Điểm xuất phát là đền Ngọc Sơn, sau đó đua một vòng quanh hồ. Vì hồ đẹp nên thu hút rất nhiều người Hà Nội đến đây hóng gió, ăn kem và nhiều chuyện không hay diễn ra nên thi sĩ Tản Đà có câu: Bờ Hồ những gió cùng trăng Những trăng cùng gió lăng nhăng sự đời Vào những năm 1930, các cô gái thất tình hay ra hồ Gươm tự vẫn. Trước những chuyện tình éo le, năm 1938, một nhà văn đã dựa theo phóng sự trên báo viết về chuyện tình của cô Phượng với kết cục bằng cái chết ở hồ Hoàn Kiếm để viết thành vở Mồ cô Phượng. Vở kịch này thu hút khá đông khán giả bình dân. Khoảng năm 1951, mật thám Pháp bắt được một người treo cờ đỏ sao vàng trên đỉnh tháp Rùa, chính quyền đem ra xử, luật sư Vũ Văn Hiền nhận bào chữa giúp không lấy tiền công. Luật sư Hiền học luật ở Pháp, ông là một trong mấy chục trí thức lớn cùng thời với Hoàng Xuân Hãn, bác sĩ Trần Văn Lai, Phạm Khắc Quảng, luật sư Nguyễn Mạnh Hà... ở Hà Nội trong nhiều năm liền, mỗi tháng bí mật góp 500 đồng Đông Dương, thuốc kháng sinh và các báo xuất bản ở Pháp để chính phủ kháng chiến biết tình hình thế giới. Khi người treo cờ bị tòa kết án tù chung thân, ông Hiền cãi: “Cờ đỏ sao vàng được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua, Quốc hội là do dân bầu, mặt khác cho đến năm 1951 vẫn chưa có quyết định nào xóa bỏ cờ đỏ sao vàng nên việc treo cờ là không sai. Thưa quý tòa, cờ ba sọc được coi là cờ quốc gia nhưng nó không được Quốc hội nào thông qua, sao lại bảo treo cờ đỏ sao vàng là có tội ?” Tòa bí nhưng vẫn cố: “Treo cờ đỏ sao vàng khiến dân chúng tập trung quanh hồ Gươm gây mất an ninh trật tự nên tòa phạt”. Luật sư Hiền lại cãi: “Dân chúng đâu có mất trật tự, họ đứng quanh hồ Gươm vỗ tay mừng lá cờ được Quốc hội thông qua lâu lắm mới xuất hiện lại chứ đâu có làm gì mà tòa bảo làm mất an ninh trật tự?”. Trước những lý lẽ đầy thuyết phục nói trên, tòa đành phải tha bổng người treo cờ. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:43:44 GMT 9
Vì sao Hoàng thành bị chôn vùi? Trong vòng 2.300 năm nay, biển đã dâng thêm 6 mét. Nếu tính từ thời điểm Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đến nay biển dâng thêm gần 3 mét. Do cha ông ta đã thích ứng với tình trạng này và vì thế Hoàng thành cũ đã bị vùi xuống đất với một độ sâu tương ứng... Từ những khai quật khảo cổ học về Hoàng thành Thăng Long trong mấy chục năm qua, nhất là cuộc khai quật điển hình là tại 18 Hoàng Diệu, các nhà khảo cổ học và văn hóa xác định: Ở độ sâu khoảng 1 mét trở lên: chủ yếu là các di tích có từ thế kỷ 19 - 20, gồm các hiện vật thời nhà Nguyễn cùng với một số hiện vật thời Pháp thuộc xen trộn lẫn nhau. Ở độ sâu từ 1 đến 2 mét: là tầng văn hóa thời Lê - Mạc nằm trong thời gian khoảng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18), có pha trộn một ít di chỉ thời Lý Trần và thời Nguyễn, tuy nhiên đó là hiện tượng thường thấy trong khảo cổ học. Ở độ sâu từ 2 đến 3 mét: là tầng văn hóa Lý - Trần, kéo dài cũng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14), đây là đặc trưng của Văn hóa Thăng Long, giữa văn hóa thời Lý và văn hóa thời Trần được kết nối tương đồng chặt chẽ. Ở độ sâu từ 3 đến 4 mét: là tầng văn hóa tạm gọi là Văn hóa Đại La, có những di chỉ thuộc văn hóa thời Đường bên Trung Quốc, tương ứng với thời kỳ nước ta bị nhà Đường đô hộ. Di tích Hoàng thành Thăng Long - Ảnh: Lưu Quang Phổ Như vậy là, cách mặt đất hiện nay trên dưới 4 mét trở lên, chúng ta đã phát hiện được 4 tầng văn hóa. Tuy có đan xen nối tiếp, nhưng những công trình của thời kỳ sau xây chồng lên những công trình của thời kỳ trước, xưa nhất là thời kỳ Đại La và gần nhất là thời nhà Nguyễn. Và như vậy cũng có thể nói, cái thành Đại La mà vua Lý Thái Tổ đến tiếp quản để xây dựng và phát triển nên Thăng Long - Hà Nội bây giờ, nay đã bị vùi sâu hơn 4 mét. Còn các phế tích của các cung điện do ông xây dựng thì đã nằm sâu 3 mét dưới mặt đất. Dĩ nhiên đó là cách tính ước lệ dựa trên những khai quật một phần Hoàng thành tại 18 Hoàng Diệu. Vì sao có sự chôn vùi đó? Trước hết hãy nói đến những cái hồ của Hà Nội. Hệ thống hồ của Hà Nội tạo thành một bản sắc văn hóa rất riêng, vừa thơ mộng dịu mát vừa trầm mặc sâu lắng, nó là một phần “hồn vía” của thủ đô. Tiến sĩ địa chất học Hoàng Ngọc Kỷ cho biết, Hà Nội hiện nay có khoảng 110 cái hồ lớn nhỏ. Nhưng theo ông Kỷ thì trừ hồ Tây ra còn hầu hết đều là hồ nhân tạo, vì Hà Nội là khu vực ven sông, mà theo địa chất học thì trầm tích khu vực ven sông không thể tạo ra các hồ tự nhiên, trừ hồ móng ngựa. Hệ thống hồ nhân tạo này có liên quan đến việc Hoàng thành bị chôn vùi. Những di vật tìm thấy từ Hoàng thành - Ảnh: L.Q.P Cách đây không lâu Thanh Niên có đăng loạt bài Dựng nước sau cơn đại hồng thủy, trong đó có giới thiệu những kết quả khảo sát địa chất do tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ công bố cho thấy diện mạo đất nước thay đổi cùng với quá trình biển tiến và biển thoái trong thời kỳ địa chất đệ tứ của Việt Nam. Quá trình này là cũng tác nhân sâu xa làm biến đổi khu vực Hoàng thành. Sau khi biển tiến đột biến làm mực nước dâng lên 6 mét so với trước đó, tức là cao hơn 3,5 mét so với mực nước biển hiện nay và “nằm lì” trong khoảng thời gian 1.015 ± 80 năm, biển bắt đầu thoái. Sau khi thoái đột biến rồi xuống dần đến cực tiểu vào thời gian cách đây 2.300 năm với mực nước - 6 mét so với mặt biển hiện nay, biển bắt đầu tiến, tiến mãi cho đến ngày nay. Điều này có nghĩa là trong khoảng 2.300 năm qua, nước biển đã dâng thêm 6 mét. Ngày nay, thế giới đang đối phó với tình trạng biển dâng, tình trạng này không có gì khác là quá trình biển tiến bắt đầu từ 2.300 năm trước đang nối tiếp. Những cái hồ của Hà Nội chính là hệ quả của việc lấy đất đắp đê và lấy đất tôn nền mà có. Thời gian qua đi, công trình sau được xây chồng lên công trình trước. Đó là lý do khiến cho Hoàng thành bị chôn vùi, biến thành 4 tầng văn hóa xếp chồng lên nhau như đã thấy. Với tốc độ như vậy có thể ước tính được là vào thời điểm Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, mực nước biển thấp hơn bây giờ khoảng gần 3 mét, tức là đã dâng thêm hơn 3 mét so với giai đoạn cực tiểu. Đồng bằng Bắc Bộ cũng rộng hơn đáng kể so với hiện nay. Vì vậy, nhận xét của Lý Công Uẩn về thành Đại La: “Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm” là hoàn toàn chính xác. Do mực nước biển thấp nên đáy sông Hồng cũng thấp xa so với hiện tại. Lũ lụt tuy có xảy ra (vì trong quá trình biển tiến) nhưng tần suất thấp. Đọc lịch sử thời Lý ta ít thấy lũ lụt. Gần 100 năm sau khi dời đô đến Thăng Long, đến đời Lý Nhân Tông (1107), con đê đầu tiên - đê Cơ Xá, mới được đắp. Sang thời Trần, lũ lụt xuất hiện với tần số cao hơn. Ngay từ thời Trần Thái Tông, vào năm 1236, lũ đã tràn vào cung Lệ Thiên. Năm 1238, lũ tràn vào cung Thưởng Xuân. Năm 1245, vỡ đê Thanh Đàm, “nước sông tràn ngập, rắn, cá chết nhiều”. Đến đời Trần Thánh Tông, năm 1265, vỡ đê Cơ Xá, “người và súc vật chết đuối nhiều”. Năm 1271 “nước to, các đường phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại bằng thuyền bè”... Do đó, Từ thời nhà Trần, việc đắp đê và hộ đê được chú trọng. Năm 1248, Trần Thái Tông đã đặt ra cơ quan Hà đê, có chánh, phó sứ. Hệ thống đê quai vạc được coi là bước ngoặt trong lịch sử thủy lợi Việt Nam, được bắt đầu đắp từ triều đại này. Ngoài việc đắp đê ngăn nước sông được mở rộng ra khắp các vùng đồng bằng, nhà Trần còn bắt đầu cho đắp đê ngăn nước mặn để bảo vệ mùa màng của dân. Đến thời Lê, Nguyễn, công việc đắp đê tiếp tục được mở rộng. Hệ thống đê điều là công trình vật chất vĩ đại nhất được tiền nhân để lại cho hậu thế, là kết quả của biết bao tâm sức trách nhiệm của nhiều thế hệ. Ngày nay, sự an nguy của thủ đô Hà Nội trước thiên tai đang phụ thuộc rất lớn vào hệ thống đê điều được xây dựng từ ngàn năm trước. Riêng đối với thành Thăng Long - Hà Nội, ngoài hệ thống đê bảo vệ, cha ông ta còn từng bước nâng cao mặt bằng để thích nghi với thiên nhiên. Những cái hồ của Hà Nội chính là hệ quả của việc lấy đất đắp đê và lấy đất tôn nền mà có. Thời gian qua đi, công trình sau được xây chồng lên công trình trước. Đó là lý do khiến cho Hoàng thành bị chôn vùi, biến thành 4 tầng văn hóa xếp chồng lên nhau như đã thấy. Theo tính toán, tốc độ biển dâng bình quân trong 2.300 năm qua là 2,6 mm/năm. Biển dâng tạo trầm tích sông, khiến cho lòng sông cao dần lên, sinh ra lũ lụt. Cha ông ta không hề biết mình đang sống trong quá trình biển tiến, nhưng những gì mà tiền nhân đã làm chính là việc ứng phó khá hữu hiệu với tình trạng biển dâng mà ngày nay nhân loại đang tiến hành bằng các chương trình quốc tế tốn nhiều tiền của. Nghìn năm trước để lại cho nghìn năm sau một di sản đồ sộ cùng những bài học, những vấn đề để cho con cháu giải quyết, tiếp bước... Hoàng Hải Vân
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 6:49:04 GMT 9
Thăng Long giai thoại - Bài 8: Xẩm chợ Đồng Xuân Xẩm xuất hiện ở Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và đầu tiên người ta được thấy những người khiếm thị ê a trước cửa chợ Đồng Xuân. Hà Nội như động tiên sa Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần Vui nhất có chợ Đồng Xuân Mùa nào thức nấy, xa gần xem mua Cổng chợ có chị hàng dừa Hàng cau, hàng quýt, hàng dưa, hàng hồng... Ai ơi đứng lại mà trông Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong rườm rà... "Xẩm chợ Đồng Xuân" liệt kê gần như tất cả các mặt hàng bán trong chợ, không khí bán mua nhộn nhịp khiến người nghe thích thú. Giữa năm 1889, chính quyền thành phố cho lấp đoạn sông Tô Lịch từ cửa sông Nhị Hà (sông Hồng) trở vào đến chân tường thành cổ, tạo nên một bãi đất rộng hàng chục héc-ta để mở mang phố phường và lập chợ vì hai chợ Bạch Mã, Cầu Đông trở nên chật chội. Chợ Đồng Xuân ban đầu họp trên bãi đất trống mới lấp xung quanh có căng dây để tiện thu thuế và không cản trở người đi lại. Năm 1890, công việc xây chợ có mái che bắt đầu. Trúng thầu cung cấp phần khung sắt là nhà thầu Poinsard Veyret (Pháp), còn thi công là một nhà thầu khác. Khung thép cao 19 mét và rộng 25 mét được đúc cầu kỳ làm cho chợ trở thành độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Tổng diện tích chợ khoảng 6.500 mét vuông, tuy nhiên xung quanh chợ vẫn trống hoác và đến năm 1912, người ta mới cho xây tường xung quanh. Lúc đầu chợ Đồng Xuân chỉ họp theo lối chợ phiên, hai ngày một phiên, nhưng về sau do nhu cầu phát triển kinh tế thương mại, chợ họp theo ngày từ sáng đến tối. Khi cầu Long Biên hoàn thành vào năm 1902 thì chợ Đồng Xuân trở thành tụ điểm buôn bán sầm uất không chỉ nổi tiếng nhất Hà Nội mà còn nổi tiếng cả Bắc kỳ, thu hút được sự chú ý của giới thương nhân nước ngoài, nhất là các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ấn Độ... thường xuyên qua lại buôn bán. Cùng với hàng hóa do các vùng lân cận và nhiều tỉnh mang đến thì hàng hóa nhập khẩu cũng phong phú. Không chỉ hàng tiêu dùng mà cả cam, táo và nho tươi được các thương gia nhập từ Hồng Kông, San Francisco (Mỹ) về. Đồng Xuân cũng là nơi đặt văn phòng thương mại của người Pháp, Hoa, Ấn, Việt. Do nguồn hàng đa chủng loại nên Đồng Xuân không chỉ là chợ bán lẻ mà còn là đầu mối phân phối cho các tỉnh ở hầu hết Bắc kỳ. Từ năm 1937 đến 1939, trước cửa chính của chợ có một quầy bán công khai sách báo của Đảng Cộng sản Đông Dương do Phạm Văn Hải trông coi. Nhà nghèo, mới hơn 10 tuổi, cậu bé Kông Tu Nghiệp người làng Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã phải đến chợ Đồng Xuân dọn hàng thuê cho một chủ sạp bán thực phẩm. Thấy cậu bé dễ thương nên vợ chồng một người Pháp hay đến đây mua thực phẩm nhận về làm con nuôi. Bà người Pháp này - rất giỏi nấu nướng các món ăn châu Âu và am hiểu ẩm thực Hà Nội - đã dạy cho Nghiệp cách nấu các món ăn. Lớn lên, Nghiệp xin ra ở riêng và mở quán ăn ở phố Hàng Gai, sau đó chuyển xuống phố Hàng Trống và trở nên nổi tiếng khi mở nhà hàng Phú Gia (136 Hàng Trống). Một nhóm hát xẩm - Ảnh: Tư liệu Đồng Xuân không chỉ là nơi xuất xứ của phở bò - vốn trước đó là bún sáo trâu, sáo bò bán cho phu phen ngoài bến sông vào ăn, mà còn là một trong những nơi đầu tiên bán bún thang. Khoảng năm 1915, cụ Lê Thị Tho khi đó 20 tuổi đã mở quán bán bún thang ở chợ và quán nổi tiếng khắp Hà thành đến mức dân Tây "biết ăn rau muống, nằm võng ngâm Kiều" thường xuyên tìm đến chợ thưởng thức. Sau đó cụ Tho truyền nghề lại cho con gái là bà Đàm Thị Ẩm. Bà Ẩm nấu theo cách của mẹ truyền lại nên duy trì được sự nổi tiếng cho đến khi nghỉ bán hàng. Vì cổng chợ ngày càng có nhiều nhóm hát xẩm nên một số nhóm đã tỏa đi các nơi trong thành phố. Khi đường tàu điện phát triển đến Hà Đông thì có nhóm “cắm rễ” ở bến tàu bờ Hồ (nay là bãi trông giữ ô tô phố Đinh Tiên Hoàng). Tuy nhiên nhiều nhóm vẫn bám trụ ở chợ Đồng Xuân và các khu vực xung quanh. Do người hát hầu hết đều bị khiếm thị nên họ lấy thơ lục bát có nội dung buồn hay éo le như: Lỡ bước sang ngang (Nguyễn Bính), Anh Khóa hoặc các bài ca dao nói về thân phận người nghèo, do đó dễ gây rung động cho người nghe. Sau một ngày mưu sinh vất vả, chiều xuống, vợ chồng con cái những gia đình hát xẩm tay chiếu tay nhị dắt díu nhau về bãi An Dương (nay thuộc quận Ba Đình). Những năm 1930, khu vực nói trên có tới mấy chục nhóm nên mới có tên là "xóm xẩm". Ngày 2.9.1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và việc đầu tiên mà nước cộng hòa non trẻ này tiến hành là "diệt giặc đói và giặc dốt", đồng thời người ta vận động người hát xẩm, dù không biết chữ, tham gia tuyên truyền bình dân học vụ. Xẩm Tiễu trừ giặc dốt ra đời trong thời kỳ này đã lôi cuốn người mù chữ tham gia các lớp học. Sau Hiệp định Genève lập lại hòa bình ở Đông Dương, các nhóm hát xẩm được mời tham gia sáng tác và đến các vùng duyên hải miền Bắc hát tuyên truyền chống dụ dỗ di cư vào Nam của địch. Có rất nhiều bài xẩm thời kỳ này nhưng cảm động hơn cả phải kể đến bài Ở quê có tổ có tiên. Nhà văn Thanh Tịnh được giao phụ trách nhóm gồm 23 anh chị em xẩm Hà Nội đến hát ở vùng Bùi Chu, Phát Diệm. Ngày 19.12.1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hà Nội bước vào cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược. Ngày 14.2.1946, một trận chiến ác liệt đã diễn ra ở chợ Đồng Xuân và trong cuộc chiến không cân sức ấy có cả những thiếu niên đã anh dũng hy sinh. Ngày 14.7.1994, trận hỏa hoạn đầu tiên từ khi có chợ xảy ra, do các họng nước dành cho cứu hỏa khu vực này khô khốc nên xe cứu hỏa phải chạy xuống hồ Gươm lấy nước. Chợ bị thiêu rụi hoàn toàn với tổng thiệt hại là 150 tỉ đồng (tương đương 14 triệu USD). Tháng 10.1995, UBND TP Hà Nội cho xây lại chợ như hiện nay. Nguyễn Ngọc Tiến
|
|