|
Post by NhiHa on Feb 28, 2007 10:47:18 GMT 9
Thời Tây Sơn (1771-1802) - và 15 năm văn hóa Phú Xuân Lê Văn Hảo "...Trong vài năm ngắn ngủi (1789-1792), Quang Trung đã ra sức phát triển văn hóa dân tộc ..." Quang Trung Nguyễn Huệ, một ánh sao băng trên bầu trời lịch sử Việt Nam Sự nghiệp oanh liệt mà chớp nhoáng của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792) như kỳ công xóa bỏ nạn phân tranh Trịnh-Nguyễn, rồi võ công bình Xiêm (1786) diệt Thanh (1789) thì người Việt nào cũng biết, nhưng tính giản dị khiêm tốn, lòng nhân đạo, đức hiếu sinh và ý chí tôn trọng người hiến tài của người anh hùng áo vải này thì không phải ai cũng am tường. Vậy Quang Trung Nguyễn Huệ đã nói những gì và làm những gì ? Tháng 12-1788, trước nạn xâm lược của quân Thanh, Nguyễn Huệ đã tuyên đọc chiếu lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân: " [...] Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn mong được vua hiền cứu đời yên dân nên trẫm đã tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi, đi xe cỏ, cốt quét sạch loạn lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa [...]. Hỡi muôn dân trăm họ, nhân nghĩa trung chính là đạo lớn của người ... Trẫm năm nay có cả thiên hạ, sẽ dìu dắt dân và đạo lớn, đưa dân lên đài xuân". Sau đại thắng Đống Đa (30-1-1789), Quang Trung không hề tự đắc tự mãn mà lại muốn bày tỏ lòng nhân đạo và tinh thần hiếu hòa của mình nên đã ra lệnh đối xử tử tế với tất cả tù binh, hàng binh trước khi tha họ về Trung Quốc, lại cho thu nhặt hài cốt giặc trên chiến trường, chôn thành 12 gò đống và lập đàn cúng tế. Nhân dịp này, Quang Trung mượn lời bài văn tế nói lên tấm lòng khoan dung độ lượng của người chiến thắng : " [...] Nay ta cho thu nhặt xương cốt chôn vùi. Bảo lập đàn bên sông cúng tế. Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc. Xuất của kho đắp điếm đống xương khô. Hồn các ngươi đừng vất vưởng dưới trời Nam. Hãy lên đường quay về nơi hương chỉ ". Chỉ trong vòng nửa năm sau Đống Đa, nước Đại Việt của Quang Trung đã lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh để dân ta được sống trong độc lập và hòa bình. Cũng sau Đống Đa, Quang Trung ban chiếu hiểu dụ các quan văn võ triều cũ, cũng là dịp vua bày tỏ ý chí trân trọng người tài, lòng nhân đạo và đức hiếu sinh : " Trẫm một lòng yêu mến nhân tài nên ban đặc ân xá hết tội lỗi cho các ngươi, tất cả những ai bị giam cầm trẫm đều tha hết, những kẻ trốn tránh trẫm không truy nã để tỏ lượng khoan hồng ". Mượn lời bài chiếu cầu hiền tài, Quang Trung còn muốn nhấn mạnh hơn nữa : " Trẫm nghĩ rằng sức một cây gỗ không chống nổi tòa nhà lớn, mưu lược một kẻ sĩ không dựng được cuộc thái bình. Vậy ban chiếu xuống quan liêu lớn nhỏ và chúng dân trăm họ ai có tài năng, mưu kế hay giúp ích cho đời, cho phép các quan văn võ được tiến cử, lại cho dẫn tới yết kiến tùy tài bổ dụng. [...] Nay trời đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp gỡ gió mây. Những ai tài đức đều nên gắng lên để được rỡ ràng chốn vương đình ". Rõ ràng là những văn kiện quan trọng như chiếu Lên ngôi, chiếu Cầu người hiền tái, chiếu Cầu lời nói thẳng, chiếu Mở rộng ân đức, chiếu Lập học, chiếu Khuyến nông... đều đánh dấu một thời thái bình thịnh trị và văn hiến. 15 năm ưu việt của văn hóa Phú Xuân thời Tây Sơn Vào cuối thế kỷ 18, văn học Tây Sơn ra đời để khẳng định sự nghiệp lớn lao của vua Quang Trung và nhà Tây Sơn trong chiến đấu chống ngoại xâm cũng như trong hòa bình xây dựng. Những nhà văn, nhà thơ đã thể hiện tinh thần của thời Tây Sơn trong tác phẩm của mình là : - Lê Ngọc Hân với Vãn ai tư và Văn tế vua Quang Trung ; - Cao Huy Diệu với tập thơ Hồng quế hiên ; - Ngô Ngọc Du với bài thơ Long thành quang phục kỷ thực ; - Ninh Tốn với tập thơ Tuyết Sơn ; - Đoàn nguyên Tuấn với tập thơ Hải Ông ; - Phan Huy Ích với Dụ am ngâm lục và Dụ am văn tập ; - Hồ Xuân Hương với Thơ Nôm và tập Lưu hương ký (chữ Hán); - Ngô Thời Nhiệm với nhiều tác phẩm đã đưa ông lên hàng nhà thơ kiêm nhà văn hóa lớn nhất thời Tây Sơn. Tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Tây Sơn là Hoàng Lê nhất thống chí viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và sự nghiệp Quang Trung phong phú, sinh động hơn tất cả các tác phẩm khác, đặc biệt hồi thứ 14 và 15 đã tập trung mô tả chiến thắng Đống Đa oanh liệt qua những trang sách chứa chan hào khí và niềm tự hào dân tộc, tràn trề khí phách anh hùng ca. Hình tượng Quang Trung, lãnh tụ phong trào nông dân và anh hùng ca dân tộc, đã được thể hiện đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Hoàng Lê nhất thống chí đáng được xem là cuốn ký sự lịch sử tuyệt tác phản ánh sâu sắc nhiều mặt của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 18. Một khía cạnh đáng chú ý của văn học Tây Sơn là sự phát triển rực rỡ của văn học chính luận với hàng chục tác phẩm được tập hợp lại trong hai cuốn Bang giao hảo thoại và Đại Việt quốc thư nói lên chính nghĩa của triều đại Tây Sơn và tiếp nối truyền thống ưu tú của văn học chính luận thời Lê Lợi-Nguyễn Trãi. Trong vài năm ngắn ngủi (1789-1792), Quang Trung đã ra sức phát triển văn hóa dân tộc : việc học được mở rộng, chế độ thi cử được chấn chỉnh, đặc biệt vua rất coi trọng tiếng nói của dân tộc và đã đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức của triều đại. Hai cơ quan học thuật lớn của Tây Sơn là Viện Sùng Chính ở Nghệ An và Quán Quốc Sử ở Phú Xuân. Dưới sự điều khiển của viện trưởng Nguyễn Thiếp, Viện Sùng Chính đã dịch nhiều sách chữ Hán ra chữ Nôm để dùng dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm đã dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi và hiện nay còn giữ được hai công trình lớn của viện là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa. Ngô Thì Nhậm là tổng tài Quốc Sử Quán và trong hơn 10 năm hoạt động đã cho xuất bản ba công trình lớn: Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký tục biên và Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự. Đây là những bộ sử có giá trị với nhiều lời bình luận xác đáng, thấm nhuần tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Từ năm 1788, Quang Trung đã chủ trương biên soạn một bộ luật cho triều đại mới nhưng vì công việc quá bề bộn và thời gian trị vì quá ngắn ngủi nên chưa có dịp thực hiện. Đến đời Cảnh Thịnh, thượng thư bộ Hình Lê Công Miễn mới biên soạn xong Bộ hình thư trên cơ sở tham khảo kỹ lưỡng bộ luật Hồng Đức thời Lê Sơ. Có thể xem Bộ hình thư mới này là một thành tựu lập pháp của thời Tây Sơn. Y học thời này đã kế thừa thành tựu của nền y học dân tộc các thời trước. Lãnh đạo ngành y tế của triều đình dưới thời Quang Trung là Nguyễn Hoành, tác giả bộ Nam dược trình bày 500 vị thuốc ; lãnh đạo Viện Thái Y là Nguyễn Quang Tuân, soạn bộ La Khê phương dược và danh y quan trọng nhất thời ấy là Nguyễn Gia Phan, thượng thư bộ Lại thời Cảnh Thịnh mà cũng là tác giả của các sách về nhi khoa, phụ khoa và khoa truyền nhiễm. Bình Định vốn là một trong những cái nôi của nghệ thuật hát bội nhờ công lao đầu tiên của Đào Duy Từ. Đến thời Tây Sơn, hát bội lại rất thịnh hành. Bên cạnh vè Chàng Lía đã có thêm vở tuồng hát bội Văn Lía và có những thầy tuồng nổi tiếng như Ông Nhưng Huy. Vào năm 1790 niên hiệu Quang Trung thứ ba, nhà du lịch người Anh John Barrow (1764-1849) đã đến thăm nước ta và sau đó xuất bản cuốn Những cuộc du hành ở Nam Phi và Đàng Trong (Voyages dans le Sud de l’Afrique et à la Cochinchine) kèm theo một bức tranh màu vẽ một cảnh hát bội. Phú Xuân vốn là cái nôi của ca nhạc Huế từ thời các chúa Nguyễn. Đến cuối thế kỷ 18, nhân dịp lễ thượng thọ 80 tuổi của hoàng đế Càn Long, vua Quang Trung đã gởi sang Bắc Kinh một đoàn ca múa nhạc gồm 6 ca công và 6 nhạc công dưới sự dìu dắt của Phan Huy Ích. Theo Đại Việt quốc thư, đoàn văn nghệ này đã biểu diễn thành công 10 bài bản ca nhạc Huế ("Nhạc phủ từ khúc thập điệu"). Khi nói tới mỹ thuật thời Tây Sơn, người ta thường nghĩ tới bộ tượng 16 vị tổ được thờ tại chùa Tây Phương (Hà Tây) sáng tác từ cuối thế kỷ 18 mà giới nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam cũng như những nhà mỹ học nước ngoài đánh giá là một đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo Việt Nam. Võ thuật thời Tây Sơn là loại võ đạo phổ biến trong quân đội của Quang Trung. Đây là một bước tiến mới của võ Bình Định truyền thống. Bên cạnh võ thuật Tây Sơn lại có nhạc võ Tây Sơn để nâng thêm khí thế trong chiến đấu. Khi đánh trống võ Tây Sơn không ngồi mà phải đứng, hai tay vừa múa võ vừa đánh trống, có lúc nhanh đến mức tưởng chừng như cả 12 trống được gõ cùng một lúc bởi một nghệ nhân duy nhất. Ngoài ra còn có thêm trống cái và bộ chiêng để tạo nên một bầu khí hào hùng. Sáu danh nhân thời Tây Sơn - Lê Ngọc Hân kết hôn với Nguyễn Huệ năm 16 tuổi (1786), trở thành Bắc cung hoàng hậu, rồi góa bụa năm 22 tuổi và mất khi chưa đầy 30 tuổi (1799), để lại cho văn học Việt Nam hai áng văn nổi tiếng là Vãn ai tư và Văn tế vua Quang Trung. Vãn ai tư có lẽ là tác phẩm nói lên đầy đủ nhất con người và sự nghiệp của Quang Trung cũng như mối tình tuyệt đẹp giữa một công chúa và một tướng quân: Mà nay áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước biết bao công trình Kiếp này chưa trọn chữ duyên Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương - Bùi Thị Xuân (?-1802) đã cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia khởi nghĩa Tây Sơn từ buổi đầu để trở thành một vị nữ tướng tài ba dũng liệt, tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu tới cùng của nghĩa quân. Một giáo sĩ phương Tây, sau khi chứng kiến cuộc hành hình toàn thể gia đình bà, đã nói lên trong tập hồi ký của mình lòng khâm phục sâu sắc khi gợi lại hình tượng người nữ tướng hiên ngang tiến thẳng tới con voi sắp dày xéo mình. Sau khi bà mất, dân gian đã sáng tác nhiều thơ ca, giai thoại và câu đối đề cao tài năng và khí tiết của bà, cụ thể là áng vè Bà thiếu phó (chức tước của bà Bùi Thị Xuân) và truyện thơ Nôm Cân quắc anh hùng truyện được sáng tác 3/4 thế kỷ sau khi bà mất, đó là áng anh hùng ca của nhà Nho Nguyễn Bá Huân tuyên dương vị nữ anh hùng lỗi lạc. - Nguyễn Thiếp (1723-1704) thường được tôn xưng là La Sơn Phu Tử. Ra làm quan cho vua Lê chúa Trịnh ít lâu thì xin cáo về ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn để đóc sách và nghiên cứu y lý, để rồi nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao. Khi vua Quang Trung trọng vọng mời Nguyễn Thiấp, ông đã nhận lời hợp tác. Là viện trưởng Viện Sùnh Chính, ông đã đề suất với Quang Trung nhiều vấn đề cải cách giáo dục và thi cử. Trong tập Hạnh am thi cảo ( chữ Hán ), ông đã sáng tác những bài thơ bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc với nỗi khổ đau của nhân dân thời loạn. - Ngô Thời Nhiệm (1746-1803) đã được Nguyễn Huệ trọng dụng từ năm 1788, với các chức tước đại học sĩ, thị lang bộ Lại, rồi thượng thư bộ Binh. Hai lần làm chánh sứ sang Trung Quốc, ông đã tỏ ra là một nhà tư tưởng chiến lược kiêm nhà ngoại giao tài giỏi nên đã đóng góp rất nhiều trong việc chuyển quan hệ ngoại giao giữa hai nước từ đối kháng sang hòa hảo. Ông đã để lại cho đời sau nhiều tác phẩm văn, sử, triết học, tôn giáo và chính trị. Sau khi sáng tác bộ sách Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, ông đã được tôn vinh là tổ thứ tư của thiền phái Trúc Lâm. - Phan Huy Ích (1751-1822) đã hết lòng đi theo chính nghĩa Tây Sơn với chức thị lang bộ Hộ, rồi thượng thư bộ Lễ. Sau khi Quang Trung mất, ông trở về quê hương Sài Sơn sống ẩn dật, dạy học và gom góp lại các sáng tác của mình thành hai công trình qui mô lớn: Dụ am ngâm lục (600 bài thơ), Dụ am văn tập (khoảng 400 bài văn), trong đó đáng chú ý nhất là 5 bài văn tế chữ Nôm sáng tác khi hoàng hậu Lê Ngọc Hân mất (1799) để bày tỏ lòng biết ơn và sự khâm phục của mình đối với vua Quang Trung mà ông gọi là "con người tài năng hơn ngàn đời trước". - Nguyễn Gia Phan (1748-1817) là vị danh y cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nối đời làm thuốc. Từ năm 24 tuổi ông đã đi sâu vào nghề y và bắt đầu soạn một số sách về nhi khoa và phụ khoa. Ông thường được mời về Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Sâm và nhiều người trong phủ chúa. Ông đã có công chế thuốc chống ôn dịch để cứu dân vùng Sơn Tây. Được Quang Trung triệu về làm việc ở Thái Y Viện, ông đã xin về hưu để chữa bệnh cứu dân và hoàn thành các công trình y học lớn của mình để lại cho đời sau : Liệu dịch phương pháp toàn tập (chuyên về chữa trị các bệnh truyền nhiễm), Lý âm phương pháp thông lục (chuyên về phụ khoa và sản khoa), Hộ nhi phương pháp tổng lục (chuyên về nhi khoa), Y gia phương pháp tổng lục (chuyên về y lý trị liệu). Ông còn là một nhà thơ và nhà văn. Trước khi mất, ông đã hoàn thành cuốn Thiệp lý sự trạng ghi lại những công việc cứu nhân độ thế trong đời mình. Lê Văn Hảo (Paris)
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 19, 2008 5:09:09 GMT 9
Nguyễn Văn Lục 16-02-2008 Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo (I) Nguyễn Văn Lục – Giới thiệu Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương Càng lớn tuổi đời, tôi càng nghi ngại những chân lý sự thật đã định trước. Thứ chân lý định sẵn, đúng không thể sai là rất nguy hiểm. Tôi nghi ngại đến gần như nghĩ đến một thứ chủ nghĩa vô tri, chủ nghĩa hoài nghi về sự thật. Và việc đọc, việc viết đối với tôi bây giờ gần như là công việc dùng đèn pin soi bóng tối trong một đường hầm. Nó khổ chứ chẳng sung sướng gì. Nó làm tôi liên tưởng đến những người tù bị trói suốt đời chỉ được nhìn vào bức tường trong hang mà không có cơ hội ngoảnh ra nhìn phía bên ngoài. Chân lý, sự thật phải chăng chỉ là những bóng hình phản chiếu trên bức tường trong hang? Và sự thật thì nằm ở chỗ nào? Trước đây, chúng ta chỉ đọc “chính sử”. Đó là một thói quen đã trở thành nếp, như những sự thật không chối cãi được khi viết về Vua Quang Trung. Đó là một vị vua anh hùng dân tộc vì đã đại phá quân Thanh . Một chiến thắng lẫy lừng, thần tốc, vô tiền khoáng hậu. Tượng bán thân Vua Quang Trung Nguồn ảnh: Thomas J. Barnes -------------------------------------------------------------------------------- Thật vậy, ba anh em họ Hồ đã đổi ra họ Nguyễn chỉ với mục đích “TUÂN MỆNH TRỜI”, Thế thiên hành đạo? Thoạt kỳ thủy chỉ muốn chống triều đình vì nạn sưu cao, thuế nặng và chặt đứt nguồn lợi nhuận làm giầu của bọn vua quan. Phải chăng đã hé lộ ra một ý thức xã hội cách mạng? Người lái buôn Nguyễn Nhạc bỗng chốc trở thành người hùng làm nổ ra phong trào phản kháng. Sự suy nhược, yếu hèn, tham lam ô trọc của từng lớp thống trị phải chăng là dọn đường hay là tiếng pháo lệnh cho một cuộc nổi dậỵ? Cướp thành Quy Nhơn, phá Trịnh cưỡng Lê như dọn đường cho một cuộc cưỡng chế: “Vua Lê đã không giữ được nước thì các trấn từ Thanh Hóa ra, Tây Sơn không lấy, người khác cũng lấy”. Lấy rồi thì bọn Lê thần phải mời Tôn Sĩ Nghị với 20 vạn quân Thanh sang làm cỏ nước Nam. Tôn Sĩ Nghị chỉ quên một điều, không thuộc những bài học lịch sử của những tiền nhân của y, khi tràn xuống phương Nam? Nghị đã cẩn thận dùng những tấm lá chắn bằng da trâu sống để làm mộc che tên lửa của Tây Sơn. Nhưng Nghị lại nghĩ tới vơ vét, buôn bán và cho quân sĩ nghỉ ngơi thay vì đánh tiếp một mẻ đến tận sào huyệt của Tây Sơn. Cái thế đánh như chẻ tre đã làm Nghị khinh địch, coi thường Ngô Văn Sở và chỉ ngồi đó “thiết triều” nhìn Lê Chiêu Thống quỳ gối vào chầu mỗi buổi? Nhưng chẳng ai ngạc nhiên và hỏi xem bằng cách nào 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị tràn được xuống phía Nam? Đi bằng gì, lương đâu, ăn bằng gì trong suốt dặm đường chinh chiến chỉ có núi đèo? Nhưng rõ rệt là có một chiến thắng. Chiến thắng đó đó góp phần vào một lịch sử vẻ vang chẳng những cho triều đại Quang Trung mà cho lịch sử tộc Việt. Tuy nhiên, đó là giòng sử Việt có nhiều hào quang sáng chói, nhưng phải chăng cũng có nhiều huyền thoại chung quanh người anh hùng áo vải? Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một vị vua mà sau này cả hai phía người Quốc Gia cũng như người Cộng Sản đều trân trọng coi như một vị anh hùng dân tộc. Một phần, nó thỏa mãn tự ái dân tộc của chúng ta, thỏa mãn cái mặc cảm thua kém đã bị người Trung Hoa đô hộ. Nhưng phải chăng đó là những sự thật của lịch sử? Khi đọc những lá thư trao đổi giữa các thừa sai Công giáo người Pháp từ thế kỷ thứ 18 chúng ta sẽ hiểu rõ thêm về triều đại Tây Sơn. Những lá thư này không phải là chính sử, nhưng nó lại chứa nhiều sự thật mà chính sử có thể bỏ qua hoặc đã bóp méo sự thật vì lý do chính trị. Mặc dù vậy, cái nhìn của các vị thừa sai này có bị giới hạn vì họ luôn luôn coi Nguyễn Ánh Gia Long là chính thống. Họ gọi Nguyễn Ánh bằng Vua Nam Hà. Còn họ gọi Tây Sơn chỉ là bọn phiến loạn Nam Hà. Nhưng hãy cứ đọc để thấy xem sự thực lịch sử nằm ở chỗ nào? Và đây là vài dữ kiện về quân lính Tây Sơn: Những kẻ man rợ từ cao nguyên miền Nam đến không biết gì về thuật cai trị cả. Họ chỉ biết cướp phá quấy nhiễu mà không sợ bị truy nã. Họ đã lấy hết tiền bạc của vương quốc., tất cả các dược phẩm của các y sư và dược tế sư. Họ đã bắt những kẻ cầy ruộng tại thôn quê đi lính. Họ đã đốt phá một phần lớn các làng mạc và đã hành hạ dân chúng với thuế má và khổ dịch. (bởi thế nên mới có đói kém, dịch hạch và số tử xuất người và súc vật tăng lên)... Vì ông ta (Quang Trung) là một người có can đảm và được coi như một Alexandre tại đây, nên ông lập tức xuất chinh đem theo tất cả thanh thiếu niên và bô lão mà ông bắt gặp. Quân đội ông trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn hơn là một đoàn chiến binh. Nhưng không can gì. Những binh lính khốn khổ ấy đã tiêu diệt quân Trung Hoa hồi đầu năm. Trong khi đó dân chúng đáng thương đang chết đói. Mùa này, tháng 10 âm lịch, năm 1788 đã bị mất vì đại hạn vào mùa hè năm trước. Vị tân chúa tể của chúng tôi ít mê tín hơn chủ tể các thế kỷ trước. Họ đã cướp phá chùa và họ đã đốt những ngôi chùa danh tiếng nhất của các cựu vương Bắc hà. Nắng quá, mưa quá, bệnh dịch, cướp. Nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, 6 người đi cả 6, nhà có 5 người thì đi cả 5, không kỳ già nua, trẻ yếu... quân này nó lấy sự chém người ta như chơi vậy... Có khi cả làng, có khi một phần làng bị tàn phá, nhà cửa không còn người ở, ruộng noơng bị bỏ hoang không ai cầy cấy. Cả xứ hoang tàn. Nơi nào cũng chỉ có khủng bố tang tóc và tiếng khí giới xô xát, kêu lẻng xẻng. Và họ kết luận như sau: Tôi phải nói rằng lũ quân phản loạn, mọi rợ đó mà người ta gọi là Tây Sơn theo tiếng bản xứ, đã tàn phá đất nước này từ 4 năm nay. Chúng thật là lũ quỷ hiếm có trên thế gian này. Đó là một giống người gian manh, dữ tợn, chỉ biết chém giết, đánh nhau không chừa nam nữ, không nể chức vụ hay tuổi tác, luôn luôn làm hại, tàn ác, phá phách, cướp bóc. Đọc mà như thể sống lại cái thời kỳ đó với bao khốn khổ, oan nghiệt, chết chóc, tàn phá do chiến tranh. Không khỏi bùi ngùi. Không hẳn là không có phần lớn sự thật? Và sau đây là những nhận xét của các thừa sai về quân lính Tầu và cho biết do đâu mà họ đã thua trận. Vua Chiêu Thống kế vị vương của ông là Cảnh Hưng đã cầu viện Hoàng Đế Càn Long bên trung Hoa. Càn Long đã gửi một số khá đông quân lính sang Bắc Hà vào khoảng cuối năm ngoái, 1788, nhưng đoàn quân vừa yếu, vừa quá mê tín dị đoan. Giống như vị hiền triết Hy Lạp nói: “Tôi mang mọi thứ theo tôi”, lính Trung Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ klhác, đeo lủng lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính, vừa lái buôn bồi bếp... Bởi vậy, quân Tầu đã không động binh, chỉ nghĩ đến kiếm lợi với nhau và với dân Bắc Hà. Trong khi đó quân Nam Hà chưa bỏ cuộc. Họ đã tập trung gần nơi chúng tôi ở bên kia sông tại một nơi gọi là Vặn làng. Nếu quân Tầu muốn đánh đuổi họ chắc cũng đuổi được họ một cách dễ dàng khỏi vương quốc. Về tổn thất của quân đội Tầu thì không đến nỗi to tát với hàng vạn binh lính Tầu bị giết như sử sách của ta ghi chép lại đâu: Quân Tầu này cũng gây thiệt hại cho quân Nam Hà và cũng tỏ ra có chút giá trị. Chiến phẩm của họ gồm có bạc, quần áo, vải lụa, v.v... đã vào tay quân Nam Hà và độ 3400 người bị bắt làm tù binh. Sau trận đó quân Trung Hoa đã lên đường trở về nước Sau đó quân Trung Hoa trở về nước... Trở về nước có nghĩa là chúng không xô đẩy, dầy xéo, đạp lên nhau mà chết, thây chất đầy sông như sử sách ghi lại. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu trực tiếp một số đoạn tiêu biểu trong tập tài liệu gồm những bức thư trao đổi giữa các giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo tại Việt Nam và Trung Hoa cùng những bản tường trình của họ cho các vị Giám Đốc Giáo Hội, hiện được tàng trữ tại Văn Khố Hội Truyền Giáo Paris (Archives des Missions Etrangères de Paris). Những tài liệu này đã được đóng thành tập và được xếp theo thứ tự từ số 1 và dưới ký hiệu Tonkin và Cochinchine. Những văn liệu liên quan đến Tây Sơn từ năm 1787 đến 1792 ở trong tập Tonkin 692 đến 700 và Cochinchin 740 trở đi. Một số thư đã được đăng tải trong bộ: “Lettres Édifiantes et Curieuses” và “Nouvelles Lettres Édifiantes et Curieuses” hay trong các bài báo của ông Cordier L.M. Cadière. (T’oungpao, B.A.V.H., B.E.F.E.O...) Hiện nay còn rất nhiều những tài liệu về Tây Sơn cũng như về Việt Nam Văn Khố của Hội Truyền Giáo Paris vẫn chưa được khai thác. Đó là một điều khiếm khuyết rất lớn cho sử học Việt Nam bởi các tài liệu này rất quí giá, cho biết thực trạng xã hội Việt Nam trước thời Pháp thuộc, có thể bổ túc cho sự thiếu sót của sử liệu nước nhà. Phần trích dẫn dịch thuật ở trên và sau đây do Đặng Phương Nghi hoàn chỉnh và đã được Tập san Sử Địa, do Nguyễn Nhã chủ biên, ấn hành trong số 17, 1969 tại Sài Gòn. Xin trân trọng giới thiệu. Tập Tonkin 662 06/07/1789: Thư của ông Lefro (1) gửi cho ông Blandin (2) [tr. 111] Họ Trịnh và nhà Lê đã suy. Dường như họ không bao giờ có thể khôi phục cơ nghiệp được nữa. Tất cả các đại thần đã bị giết. Ông Coung Chỉnh (3) hữu danh, người đã mang chiến tranh đến ngay tại xứ sở của ông đã bị xử trảm tại kinh thành [tr. 112], cùng với người con trai ông. Các tòa án không còn quan tòa. Những kẻ man rợ (4) từ cao nguyên miền Nam đến không biết gì về thuật cai trị cả. Họ chỉ biết cướp phá quấy nhiễu mà không sợ bị truy nã. Họ đã lấy hết tiền bạc của vương quốc, tất cả các dược phẩm của các y sư và dược tế sư. Họ đã bắt những kẻ cày ruộng tại thôn quê đi lính. Họ đã đốt phá một phần lớn các làng mạc và đã hành hạ dân chúng với thuế má và khổ dịch (bởi thế nên mới có đói kém, dịch hạch và số tử xuất người và súc vật tăng lên). Vua Chiêu Thống (5), kế vị vương của ông ngài là Cảnh Hưng đã cầu viện Hoàng Đế Càn Long bên Trung Hoa. Càn Long đã gửi một số khá đông quân lính sang Bắc Hà vào khoảng cuối năm ngoái (1788) nhưng đoàn quân vừa yếu vừa quá mê tin dị đoan. Giống như vị hiền triết Hy Lạp đã nói: “Tôi mang mọi thứ theo tôi”, lính Trung Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ khác, đeo lủng lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính vừa là lái buôn, bồi bếp... Tây Sơn: Cuộc nổi loạn thế kỷ thứ 18 tại Việt Nam Nguồn ảnh: Thomas J. Barnes -------------------------------------------------------------------------------- ...Quân Thanh thoạt đầu đã đánh đuổi quân Nam Hà khỏi Kinh Thành. Vua Bắc Hà đã được đặt lên ngôi trở lại. Người ta đồn rằng Hoàng Đế Mãn Thanh đã biếu nhà vua một số tiền lớn, mà nhà vua cần món tiền này lắm. Nhưng các tướng nhà Thanh không được quảng đại như vậy. Chắc họ tưởng rằng vua Chiêu Thống sẽ biết ơn họ và sẽ đền bù công khó nhọc của họ. Nhưng ông vua nghèo cai trị một xứ nghèo như xứ này không thể thỏa mãn từng đó túi tham. Bởi vậy quân Tầu đã không động binh, chỉ nghĩ đến kiếm lợi với nhau và với dân Bắc Hà... Trong khi đó, quân Nam Hà chưa bỏ cuộc. Họ đã tập trung gần nơi chúng tôi ở bên kia sông tại một nơi gọi là Vặn Làng (6). Họ còn chặn tất cả những lối đi từ xứ Nam tới hai xứ Thanh-Nghệ. Nếu quân Tầu muốn đánh đuổi họ chắc cũng đuổi được họ một cách dễ dàng khỏi vương quốc. Trong khi đó Tân Vương Nam Hà đã kịp hay tin quân Tầu tới và những chiến công của họ. Vì ông ta là người có can đảm và được coi như là một Alexandre tại đây, nên ông lập tức xuất chinh đem theo tất cả thanh thiếu niên và bô lão mà ông bắt gặp. Quân đội ông trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh. Nhưng không can gì! Những binh lính [tr. 113] khốn khổ ấy đã tiêu diệt quân Trung Hoa hồi đầu năm. Quân Tầu này cũng gây thiệt hại cho quân Nam Hà và cũng tỏ ra có chút giá trị. Chiến phẩm của họ gồm có bạc, quần áo, vải lụa v.v... đã vào tay quân Nam Hà và độ ba ngàn 3,400 người của họ bị bắt làm tù binh. Sau trận đó quân Trung Hoa đã lên đường trở về nước. Có thể tin chắc rằng Hoàng Đế Mãn Thanh sẽ không được hài lòng lắm về chiến trận này và ông sẽ không đợi gì mà chẳng gửi sang đây đội quân khác được chỉ huy chỉnh bị khá hơn. Trong khi đó dân chúng đáng thương đang chết đói. Mùa này tháng 10 (âm lịch) năm 1788 đã bị mất vì đại hạn vào mùa hè năm trước. Gạo cũ còn lại của mùa trước thì bị vơ vét vào kho lương địch thành thử ngay cả lái buôn cũng chết đói [có cả bệnh dịch nữa]. Vị tân chúa tể của chúng tôi ít mê tín hơn chủ tể các thế kỷ trước. Họ đã cướp phá chùa và họ đốt những ngôi chùa danh tiếng nhất của các cựu Vương Bắc Hà [Nói về Linh mục Hóa đến thăm Lạc Thổ tại xứ Thanh ở ranh giới xứ Thượng, xứ Đoài và xứ Nam, về những người Thượng có phong tục khác hẳn người Bắc Hà]. Các làng gọi là Mường và xã trưởng gọi là Lang. Các Lang có uy quyền lớn. Đó là một thứ tiểu vương có quyền sinh sát dân làng. Dân dưới quyền ông ta phải cày ruộng ở cạnh nhà cho ông ta và chịu tất cả tổn phí bắt buộc để nuôi con ông ta hay chôn cha mẹ ông ta... Những người Mường đó rất giản dị mộc mạc và sống như những người thời Hoàng Kim mà ta thường tưởng tượng đến. Phần đông họ không biết ất giáp gì, không đếm ngày và cũng không đếm năm. Họ ăn cơm với muối không thêm nước chấm, rau cỏ hay thịt cá gì. Thật là một đời sống khổ cực. Họ không có vườn hay có tiền. Để trả thuế má họ phải đi thật xa bán gạo bởi tại cả châu huyện không có hội chợ nào. Họ để lúa trong nhà họ và mỗi buổi sáng họ phải đập lúa để có đủ gạo cho ban chiều hôm đó. Làng họ ở trên núi và trên dốc đồi. Họ không thích đồng ruộng mà họ chỉ dùng để gieo mạ. Mỗi làng có nhiều nhất là 40 nóc gia. Mỗi gia đình có tòa nhà vuông rộng chia ra làm 3 phần bằng nhau ở dưới là chuồng ngựa. Con cái họ kể cả những người lập gia đình... 04/07/1789: Thư của Vincente Lâm ký (7) [tr. 127]. “...Năm sau, ngày ấy tháng ấy (30/01/1788) tôi đã được (thư) vì năm ấy có tầu Frégate nước Phalansa đem năm thầy cả và các thư bởi Macao mà về nước Annam.” [Nguyên văn chữ quốc ngữ] 05/07/1789: Thư của ông Eyot (8) gửi cho ông Blandin [tr. 128-30]. ...Người ta thu thuế không ngừng và thuế nặng quá đáng đến nỗi nhiều hàng “xiêu đi” [nguyên văn]. Lúc bấy giờ thì quân địch vào nhà và cướp đoạt tất cả cái gì vừa mắt chúng. Đó là số phận của những làng đáng thương không đủ sức nộp thuế. Dân Bắc Hà bất hạnh của chúng ta còn phải chịu sự tham lam vô bờ bến của quân địch và của người Bắc Hà trốn phe địch nữa, nếu không có một trận lụt làm mất mùa tháng 10 khiến dân chúng lâm vào một cảnh nghèo khổ vô cùng [có làng mất đi ½ hay ¾ dân số người còn thì bỏ đi] mùa tháng 5 đã chặn sự đói kém nhưng quân Nam Hà vẫn tiếp tục thu thuế; vì tại nhiều nơi mùa gặt không được phong phú và vì nhiều làng chỉ trồng cấy một phần ruộng của họ hoặc vì họ đói quá không đủ sức cày hoặc tại chủ ruộng đã chết hoặc vì một lý do nào khác, nên chẳng bao lâu nữa dân chúng có thể lại rơi vào sự nghèo khổ. ...Hết đói kém lại đến bệnh tật... Kẻ Vĩnh (9) 06/07/1789: Thư của ông La Mothe (10) gửi ông Blandin [tr. 132-5]. [Đói kém... Vua đã ẩn tránh tại nhà một võ quan công giáo; ông này rước vua tới nhà một người nông phu công giáo, cha vợ của ông ta, và vua đã cải trang trong 3 tháng]. Nhà vua [Chiêu Thống] đã được quân Trung Hoa đặt lên ngai vàng trở lại vào cuối năm ngoái, cha vợ thì trở thành thượng thư [tr. 135] người con làm đại thần. 12/07/1789: Thư của ông Sérard (11) gửi ông Blandin [tr. 136-]. [tr. 137] Chúa Trịnh thua. Lộn xộn sau khi quân Tây Sơn rút lui. Không một vị tướng nào có thể ngăn cấm dân chúng cướp bóc lẫn nhau, đánh nhau, đốt phá, không chịu nộp thuế cho vua hay cho chúa và như thế trong 4 tháng trời. [tr. 138] [nói về] Sự kiêu căng của các võ quan tân chính quyền. Sự nghi kỵ giữa các tướng sĩ, nhất là sự mê tín của vị vua trẻ tuổi [Chiêu Thống] đối với “thần” mà ông thăng tước hay thưởng... [quân phiến loạn trở lại; vua và Coũ Chỉnh thua] quân địch ngay khi đó đã vào kinh thành, đại tướng đã bị kết tội mưu phản đã bị xử trảm. Vua đã chạy vào rừng. Chuyện này xảy ra hồi năm 1788 khi chiếc Tầu Pháp mang giáo sĩ đến [quân Tây Sơn có hay việc này và có bắn đại bác vào phía Tầu... vua chạy đến hạm đội của ngài nhưng không thoát] vua đã chạy về phía bờ biển ở xứ nam và từ đó rút lui vào trong núi bằng đường bộ, vài chiếc Tầu đã đi về phía duyên hải các trấn miền đông; đó là những chiếc Tầu duy nhất không rơi về tay địch. [tr. 140] “quân Tây Sơn là ‘quân quảng’” “quân Trung Hoa là ‘quân Ngô’” “... Nắng quá, mưa quá, bệnh dịch, cướp (?) Nhà nào có mấy người thì bắt đi lính cả, 6 người thì đi cả 6, nhà có 5 người thì đi cả 5 (không kỳ già nua, trẻ, yếu)... quân này nó lấy sự chém người ta như chơi vậy... Ngoài nước Nam bây giờ đang bắt làm thành lũy khó nhọc lắm; Trão xứ Nghệ đã làm 3, 4 nơi, làm chỗ nọ rồi lại bỏ đi làm nơi khác bắt cả thảy thảy lên rừng đành gỗ, chém củi, nung gạch [tr. 141] ganh đất ganh cát làm đền làm phủ (động gì thì chém)” [Nguyên văn] Kẻ Đầm 17/01/1790: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 153-6]. [tr. 154] [Dịch hạch, chiến tranh đói kém]. ... Có những làng mạc xưa nay đông dân cư bây giờ không còn ai, có cả hàng huyện nữa như vậy: Thạch Liêm, Bình Lục, Thiên Bản bị tàn phá và Gia Viễn (14) ở xứ Thanh gần như không còn ai nữa. 20/01/1790: Thư của ông Eyot gửi ông Blandin [tr. 207-9]. Ba tai ương: Đói kém, dịch hạch và chiến tranh, đã sát hại nhiều người, người ta đồn rằng “khí Địch” (15) hiện cai trị ở xứ Nghệ! Xứ này đã bị tàn phá nhiều. Biết bao người đã chết ở đó. Ngay đến cọp cũng ăn thịt mất 10 người trong 15 ngày, trong số đó có 1 nữ tu sĩ của chúng tôi. [tr. 208] Ông Letondal viết cho tôi rằng chúa Nguyễn hiện ở Nam Hà. Người ta đồn rằng quân Bồ Đào Nha giúp ngài trong cuộc viễn chinh của ngài... 28/05/1790: Thư của ông La Mothe gửi ông Blandin [tr. 216]. Tiếm Vương Quan Trung yên hưởng kết quả của sự tiếm ngôi dầu lời đồn [ngược lại]... ông vẫn đắm chìm trong niềm hoan lạc và bình thản hưởng cái kết quả của những chiến thắng của ông tại Phú Xuân, và như chúa Sơn Lâm, tuy ra vẻ nằm ngủ nhưng sẵn sàng vồ mồi nếu kẻ nào chọc tới nó. Về phần dân Bắc Hà chúng tôi, chúng tôi chỉ có một cậu bé 6, 7 tuổi là con cả (16) của tiếm vương, làm vua hay đúng hơn làm chúa, nhưng cậu bé đó có đại tướng và đại thần biết kiềm chế chúng tôi và bắt chúng tôi vâng lời. [Chiêu Thống có yêu cầu ẩn tránh tại nhà dân công giáo của Cha Thành ở xứ Đoài, ông đã cải giáo, chúa cũng vậy?] Kẻ Đầm 18/01/1791: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin. [tr. 224] Gần cửa nhà chúng tôi, ở giữa làng này có một trại lính gồm tất cả lính huyện Thanh Liêm (17). Họ để chúng tôi muốn làm gì thì làm. Trại của trấn thủ từ Hiến (18) đem về Sở Kiện (19) cũng tại huyện này, rất dễ chịu. Chỉ có tại xứ Nghệ là họ quấy nhiễu không nể nang ai. (Còn tiếp) © DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- Chú ý: Các phần ở giữa hai dấu móc [...] hoặc do dịch giả chú thích hoặc tóm tắt một đoạn văn dài ở nguyên văn, cốt lược lấy những ý quan trọng. (1) Le Roy (Jean Francois): Giáo sĩ sinh trưởng ở địa phận Besancon nước Pháp. Nhận lãnh nhiệm vụ đi truyền đạo từ ngày 08/10/1780 và sống ở Bắc Hà khoảng 24 năm. Ông mất ngày 20/08/1825. (2) Blandin (Pierre-Antoine): Giáo sĩ, sinh trưởng tại Amiens; lên đường đi truyền giáo ngày 07/12/1778. Trước khi sang Bắc Hà, ông bị bắt giữ mấy tháng ở Quảng Đông. Năm 1785, ông làm đại biểu cho Hội Truyền Giáo Bắc Hà ở Chủng viện Ba Lê. Thời Cách Mạng Pháp, ông phải trốn qua Anh và mất ở Luân Đôn ngày 22/06/1801. (3) Coung Chỉnh hay Coũ Chỉnh: Cống Chỉnh viết theo chữ quốc ngữ thời sơ khai. (4) Các giáo sĩ có một thành kiến không tốt với Tây Sơn, qui mọi tội lỗi chiến tranh cho Tây Sơn. Họ thường dùng tiếng phiến loạn (rebelles) để chỉ quân Tây Sơn và tiếng Tiếm vương (usurpateur) hay bạo chúa (Tyran) để gọi Quang Trung hay Nguyễn Nhạc... Còn Nguyễn Ánh thì được gọi là ông hoàng hay ông vua chính thống (le prince, le roy légitime). (5) Chiêu Thoung, Chiêu Thoũ: vua Chiêu Thống. (6) Vặn Làng: Vận Sàng? một làng giáp ranh tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. (7) Bức thư của một giáo dân Việt Nam không biết gửi cho ai vì không tên người nhận. (8) Eyo (Pierre) [1762-1827]: Giáo sĩ sang Bắc Hà năm 1787 ở Nghệ An rồi tới ở Chủng viện Phúc Nhạc, huyện Yên Khánh, Ninh Bình. (9) Kẻ Vĩnh: một thị trấn thuộc tỉnh Ninh Bình. (10) La Mothe (Charles) [1751-1816]: Giáo sĩ sang Bắc Hà năm 1782 tới năm 1793, ông làm phụ tá cho Giám mục Longer ở địa phận Kẻ Vinh (Nam Định). (11) Sérard (Philippe) [1738-1804]: Giáo sĩ sang Bắc Hà truyền đạo năm 1762 ở Kẻ Vinh (Nam Định), cho tới khi ông mất (ngày 02/10/1804). (14) Huyện Gia Viễn nay thuộc về tỉnh Ninh Bình. (15) “Khí Địch”: nguyên văn chữ quốc ngữ, có lẽ là quân địch? (16) Nguyễn Quang Thùy là con cả? Theo các sách sử, ta biết có Nguyễn Quan Thùy được Quang Trung cử coi việc cai trị ở ngoài Bắc. (17) Thanh Liêm: một huyện thuộc trấn Sơn Nam Thượng (thời Tây Sơn). Tới thời Tự Đức thứ 5 sát nhập vào huyện Bình Lục. Nay thuộc tỉnh Hà Nam. (18) Hiến: Hiến Nam, Trấn lị Sơn Nam Thượng, ở huyện Kim Bảng. Nay là Châu Cầu (Hà Nam). (19) Sở Kiện: một làng ở huyện Kim Bảng (Hà Nam).
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 19, 2008 5:11:55 GMT 9
Nguyễn Văn Lục 17-02-2008 Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo (Kết) Nguyễn Văn Lục – Giới thiệu Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương Kẻ Sở (20) 20/09/1790: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 229-32]. Bệnh dịch vẫn lan tràn ở nhiều nơi và vẫn giết hại nhiều người nhất là từ 2, 3 tháng nay. Sự trồng trọt tốt đẹp, từ thủ đô Nam Hà tới khắp Bắc Hà, tại tất cả đất đai dưới quyền cai trị của Tiếm Vương của chúng tôi, đang hứa hẹn một mùa màng phong phú thì lúa lúc đó, tôi xin nhắc lại, bị hư hại bởi một vụ đại hạn và lúa đã không lên mầm tại các đồng ruộng cạn và phần nhiều đã bị khô héo tận rễ. Cho nên thực phẩm đắt đỏ liên tiếp. Hễ họ [dân di dời] rỗi rãi, nghỉ ngơi một chút là họ chỉ nghĩ đến việc sửa đền và tổ chức những buổi tế thần của họ. Xứ Đoài (21) 20/10/1790: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 263-65]. ... Mới đây, ông Leroy đã nhờ đưa các thơ của chúng tôi cho một thuyền trưởng Trung Hoa đi với 4 chiếc thuyền nhỏ hộ tống (ông ta không dám mang theo 2 “sứ giả” chúng tôi) và bỗng nhiên chúng tôi hay tin 4 thuyền đó bị bắt bởi bọn cướp biển Trung Hoa đã đầu hàng quân “phiến loạn” và đã bị dẫn đến thủ đô Nam Hà. Người ta tin rằng Chỉnh dùng làm chiến thuyền để tấn công vua Nam Hà [tr. 264] hiện đang ở Doũ Nai vì tướng phiến loạn đang chuẩn bị cho mục đích đó... Dân Trung Hoa càng ngày càng khó dễ và đòi hỏi một giá tiền quá đắt [cho công chuyển thư] đến nỗi không thể thỏa mãn họ được [tr. 226]. [Có một kẻ mang danh vua Chiêu Thoung nhưng thực ra chỉ là một kẻ bịp bợm]... 02/05/1791: Thư của ông Sérard gởi ông Descourvières (22) [tr. 279-81]. ... Khó mà cựu hoàng Nam Hà đánh bại nổi kẻ địch của ông. Về phần vua Bắc Hà thì dường như ông không thể khôi phục cơ nghiệp nổi bằng sức mạnh. Chỉ có thuế má và dịch vụ là làm dân chúng bị áp bức kêu ca và mong mỏi được giải phóng... 19/07/1791: Thư của ông Longer (23) gởi Đức Champenois (24) [tr. 283-5]. ... Sự giao thông giữa Nam Hà và Bắc Hà gần như bị cắt đứt [tr. 284]. Tiếm vương cai trị chúng tôi có lý khi sợ vua Nam Hà hiện đóng tại Đồng Nai gửi một số người theo ông ra ngoài Bắc lập đảng... Làng Kẻ Seo (25), Bố Chính, 01/05/1792: Thư của ông Sérard gởi ông Blandin. [tr. 366] Không có giao thông giữa các xứ. Ông Girard (26) được cử làm thày thuốc cho Tiếm vương, Phú Xuân. Gò Đống Da (Hà Nội, 1942) Nguồn: i2.photobucket.comhr noshade size=1> Có lẽ tôi phải kêu gọi đến ông Girard ở Phú Xuân để nhờ ông ấy giao thư cho thuyền Trung Hoa cập bến tại đó, hay yêu cầu ông ấy đích thân mang theo nếu Tiếm vương bắt ông ấy đi Quảng Châu mời người Âu Châu đến kinh đô buôn bán như ông đã dự định năm ngoái... Ma Cao, 25/11/1792: Thư của ông Girard gửi ông Boiret (27) [tr. 397-99]. Riêng bức thư này đã đăng trong “Nouvelles Lettres Idifiantes et Curieuses...” pp. 154-156. Ngày 7 tháng 3-1791, tôi được giới thiệu với Tiếm vương cai trị các tỉnh Nam Hà Thượng và Bắc Hà. Người vợ mà ông coi như vợ lớn (28) bị bệnh trầm trọng. Người ta có nói với ông ấy rằng chỉ còn trông đợi ở các thày thuốc người Âu Châu thôi. Bởi vậy ông sai một vị đại thần là một người Công giáo đã nhiều dịp giúp chúng tôi đắc lực đi tìm một giáo sĩ người Âu đến chữa bệnh cho vợ ông. Lúc đó tôi đang ở với Đức Verén (29) [tr. 398]. Các quan đã khuyên Tiếm vương cho mời một người Âu vào cung. Sau lại yêu cầu tôi kê thuốc cho phu nhân Tiếm vương, nhưng bà ta từ trần. Ngày 29/03 năm ấy. Ngày 25/66 bà ta được chôn cất. Tiếm vương gần như thành điên khùng. Ông ta muốn hành quyết 2 thày lang đã săn sóc vợ ông. May thay họ chỉ phải mang cùm thôi... [tr. 369]. Nên hiểu rằng tôi không còn ở đó (kinh đô) nữa. Năm ngoái ông ta (Tiếm vương) muốn gửi tôi đi Macao kêu gọi người Âu Châu đến buôn bán tại vương quốc của ông. May sao chỉ có vài chiếc thuyền Trung Hoa, mà không một chiếc nào chịu chở tôi cả. Năm nay có một cơ hội khác. Một chiếc Tầu từ Áo Môn tới và một chiếc khác từ Ma Ni qua, vì bất bình công việc làm ăn của họ tại Đồng Nai, đến đất của Tiếm vương, nơi tôi ở, và đã bán cho ông ta 100 000 cân (30) lưu huỳnh. Tôi đã bắt buộc phải du hành đi Macao. Tôi đã tới đó hôm 3-7... Người ta đã báo tin cho tôi rằng vua Chính Thống Nam Hà đã thắng một trận và đã đến hải cảng Touron (31) tại xứ Chàm (36)... Macao, 21/12/1792: Thư của ông Longer gửi ông Blandin [tr. 403-5]. [tr. 403] Ở đây người ta đồn rằng vua Nam Hà [Nguyễn Ánh] đã chiếm lại được vài tỉnh Nam Hà thuộc vương quốc của Tiếm vương Nhạc (Thái Đức). Người ta cũng nói rằng em Tiếm vương ấy, người cai trị Bắc Hà và Nam Hà Thượng đã chết vì bệnh và một trong những người con trai của ông lên nối ngôi... Tuy nhiên những tin đó cần được xác nhận lại... Macao, 05/02/1793: Thư của ông Langlois (33) gửi cho ông Chaumont (34) [tr. 411-14]. [tr. 412] Thư nhận được từ Bắc Hà ngày 15-1 mới đây do một sứ giả mang theo từ tháng 8 xác nhận tin Tiếm vương cai trị Bắc Hà và Nam Hà Thượng đã mất. Các con ông còn nhỏ (người con lớn nhất mới 14 tuổi). Các quan của ông lại đánh lẫn nhau, đã có nhiều người bị giết trong những vụ lộn xộn về vấn đề kế vị. Chắc ông đã biết những tin ấy với nhiều chi tiết hơn... Macao, 10/02/1793: Thư của ông Longer gửi ông Blandin [tr. 415-417]. Ông La Mothe cũng báo cho tôi rằng “Cái chết của Tiếm vương Quang Trung được giữ bí mật gần 2 tháng trời bây giờ mới được công bố bởi sắc lệnh bắt buộc toàn quốc chịu tang một vị Hoàng đế anh minh như ông. Chúng tôi chưa biết ông mất vì bệnh gì... Bố Chính, 06/06/1793: Thư ông Sérard gởi ông Boiret và Descourvières [tr. 426-429]. ... Ở đây sẽ khó khăn hơn vì xa xôi, và vì sự canh gác nghiêm mật ở thành lũy phân chia Bắc Hà và Nam Hà. Sự đào tẩu khỏi Phú Xuân của lính Bắc Hà chạy khỏi Phú Xuân là lý do chính khiến lính canh gác phải chu đáo. Đường biển cũng như đường núi được canh chừng rất cẩn mật. [tr. 427] [Ông Girard trốn tránh vì sợ bị lôi thôi về việc đi sứ ở Quảng Châu]. Họ [quân Bắc Hà] muốn có nhiều Tầu bè Âu Châu đến Hải Cảng của họ với những hàng hóa mà họ đòi hỏi, nhưng chỉ có 2 Tầu tới; chiếc Tầu trước bị bạc đãi bởi quan trấn thủ xứ đàng trong (Phủ Châm) nên đã nhổ neo và đã tẩu thoát để tránh tai họa. Chiếc kia mới từ Macao đến, đã được tiếp đãi tử tế hơn nhưng tôi không tin rằng nó chở nhiều hàng hóa cho “Tiểu vương” và triều đình của ông ta. [tr. 428] Tiếm vương [Quang Trung] đã mất nhưng tinh thần ông vẫn còn sống trong các đình thần của ông. Người ta rất chán nản để đợi vua Dõn-Nai ông này không thể kiếm được một cơ hội nào tốt hơn bây giờ. [tr. 429] Hai tướng “phiến loạn” đã chết. “Hoàng đế” danh tiếng, bị vua Dõu Nai bao vây lâu ngày và bị đoạt hết thành trì, đã tắt thở ngay sau khi được cháu ông đến cứu và đã khiến vua Dõn-Nai rút quân. Thế là vương quốc của 2 anh em thù địch được sát nhập làm một. Mọi điều hình như có lợi cho vua chính thống: hạm đội của ông mạnh hơn hạm đội đối phương nhiều, binh lính của ông đã được họp thành một quân đoàn, dân Bắc Hà và Nam Hà có ý định đầu hàng và sẵn sàng chống đối lại kẻ cai trị họ. Tuy nhiên, ông không có vẻ lợi dụng thời cơ đó... [Đói kém, dịch hạch...] 19/06/1793: Thư của ông La Mothe gửi các ông Boiret, Descourvières, de Chaumont và Blandin. [tr. 449] ...Vả lại, cái chết của Tiếm vương khét tiếng Quang Trung không gây một sự thay đổi mong đợi nào tại 2 vương quốc. Những người con còn nhỏ tuổi và các cận thần của ông vẫn an hưởng các đất đai do ông chiếm lãnh. Theo ý kiến của những người hiểu biết thì đó không phải là một tai ương đối với dân chúng... 21/06/1793: Thư của ông La Mothe gởi cho các cô Mesnard (35) tại Lorient [tr. 452-55]. [tr. 454] Tôi không chắc rằng một ngày nào đó, khi vua Nam Hà, cha củsa vị hoàng tử (36) mà các cô đã từng đón tiếp lên ngôi vua Bắc Hà là xứ của ông, nơi ông rất được mong đợi, tôi không chắc rằng lúc đó chúng ta sẽ được lợi nhiều trừ khi ông nhường ngôi lại cho người con theo Gia Tô giáo (37) của ông... Làng Hoàng Lý (38), 15/07/1793: Thư của ông Bissachère (39), gửi các ông Blandin, de Chaumont và Descourvières [tr. 469-73]. Riêng bức thư này đã đăng ở “Nouvelles Lettres...” pp. 205-208. [tr. 469] Tôi và các thầy tuyên giáo của tôi đã đuổi được 3 ông từ của 3 ngôi đền khác nhau tại ba huyện thuộc giáo khu tôi. Một trong các đền đó đã bị đốt cùng với 25 tượng mạ vàng, người ta có dành cho tôi 5 tượng bằng gỗ quý mạ vàng và một tượng bằng đồng hay kim khí dùng để đúc tiền bản xứ, mà tôi đã bán với một giá khá cao sau khi đã đập nó tan ra từng mảnh. Người ta đã mang cho tôi các tượng đó ngay đêm cháy đền. Nhưng chúng tôi đã biếu quan vài quan tiền và họ không dám theo đuổi kiện nữa [Dân Công giáo biến đình làng trước dành cho việc cúng bái thành 2 nhà thờ – Đền thứ 2 không được sửa vì xã trưởng là một dân Công giáo]. [tr. 471] Dân Công giáo trong làng đó không dám bán [các cây xung quanh đền] cho tôi vì sợ dân tà giáo, nên quyết định bán nó để giúp làng trả thuế. Vì không ai dám mua các cây ấy, chính họ đã mua lại với giá rẻ và tôi hy vọng sẽ được chia một phần nhỏ. [Đền thứ 3 thì bị phá] Tôi giữ tại chỗ công cộng hay nhà xí của chính dinh hay thủ phủ giáo khu này một nữ thần bằng gỗ khá lớn. Tượng thần này có 12 bàn tay ôm đầy quả, và kính bằng vàng và bạc; cả pho tượng đều mạ vàng. 17/07/1793: Thư của ông Leroy gửi ông Blandin [tr. 482-89]. Riêng bức thư này đã đăng ở “Nouvelles Lettres...” pp. 211-215. ... Có người trốn tránh không chịu ghi tên vào sổ “hộ khẩu”, hay không chịu lãnh “thẻ bài” mà họ cấp phát khắp vương quốc [tr. 486]. Tôi đã in [bộ luật Bắc Hà] cùng với một bản dịch mà tôi đã nhờ một viên cựu quan dịch hộ viên quan này đã từ trần tại nhà chúng tôi [tr. 487]. Bộ luật đó dường như không được dùng nữa từ khi vương quốc này đổi chủ. Các quan xử theo lương tri họ, phần đông không biết đọc hay biết viết, họ xử kiện như người Thổ Nhĩ Kỳ vậy, nhiều khi 2 bên đều bị quất roi mây và bị đuổi ra khỏi pháp đình, cốt sao cho kẻ thích sinh sự nhất cũng phải ôn hòa, còn sách vở thì chẳng dùng làm gì cả. Gần như không ai học nữa, không có “khoa thi” nữa như dưới thời các chúa “nhà Trịnh”... Ngày lễ thánh Ignace, 1793: Thư của ông Bissachère gửi ông de Chaumont [tr. 490-3]. ...Tôi vừa hay tin có 5 chiếc Tầu Anh thả neo ngoài khơi Nam Hà Thượng làm cho quan phụ chính của tiểu vương [Quang Toản] sợ và nghi có việc bí ẩn của vua chính thống Nam Hà khiến ông ta định ngược đãi thánh đạo của chúng ta, vì ông ta tin rằng người Công giáo nào cũng trung thành với vua chính thống. Tôi biết việc đó nhờ ông tổng trấn xứ này... (Làng Đò) (40) 06/03/1792: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 494-495]. ...[tr. 495] Từ tháng 1 năm ngoái, đê bị vỡ, gây ra một vụ lụt lớn khó ai ở đời thấy được; lụt ngập phần lớn xứ Nam và làm mất mùa tháng 10 [âm lịch]; nhờ các xứ khác tiếp tế cho các xứ này nên các thức ăn mới không hao hụt vì thiên tai đó. Dân bị quấy nhiễu đủ thứ, bị thuế má đủ loại và khổ dịch đọa đày. Sự kiểm tra hay sự điều tra dân chúng từ 9 tới 70 tuổi được thi hành một cách khắt khe để bắt hết mọi người phải trả thuế thân và đi lính, sự bắt bớ những kẻ không mang một dấu hiệu (thẻ) đã được cấp phát tại mỗi làng. Sự áp chế đó gây bực mình cho mọi người hay đúng hơn gây mầm loạn khắp nơi. Nhiều lần vì vậy dân chúng đã nổi dậy và tụ họp thành quân phiến loạn nhưng bao giờ kết cuộc cũng chỉ đem lại tai họa cho người dân khốn khổ... Vì sự quấy nhiễu tại Nam Hà dữ hơn tại Bắc Hà nhiều, nên các bạn đồng giáo của tôi bắt buộc phải lẩn trốn trong rừng núi từ nhiều tháng nay. Ngoài việc bắt những người có đủ năng lực tòng quân, họ còn bắt các trẻ con từ 7 đến 8 tuổi xung vào các đoàn binh cận vệ của các Hoàng tử của Tiếm vương [Quang Trung]... 1793: Thư [một đoạn] của ông Eyot, gửi ông Blandin [tr. 510-512]. ... Quan phụ chính [Bùi Đắc Tuyên] vương quốc trong thời gian con Tiếm vương còn vị thành niên, bị tố cáo là muốn tiếm đoạt vương quyền. Cho nên ông ta bị bắt; ngay lập tức người ta triệu bắt [tr. 511] quan đại thần [Ngô Văn Sở] của chúng tôi bị nghi là có nhúng tay vào âm mưu của quan phụ chính. Người ta nói rằng con quan phụ chính định lên ngôi vua và quan đại thần của chúng tôi sẽ là chúa. Nhưng khó mà bắt được ông ta: ông ấy có nhiều binh lính và tay chân. Có mật lệnh gửi cho các tổng trấn các xứ phải chuẩn bị quân lính để tăng cường trong trường hợp có sự kháng cự của ông ta. Đặc sứ của vua Nam Hà đến kinh thành Bắc Hà mang theo trát bắt quan đại thần của chúng tôi: Ông ta không ngờ có một lệnh như vậy nên bị bắt bất ngờ, bị trói nhốt vào cũi và dẫn vào Nam. Nếu ông ấy biết được tin đó thì có lẽ đã xảy ra một cuộc nội chiến. Người ta nói rằng vị quan ấy dự định giết ba bốn đại thần khác ở trong nhiếp chính viện. Ngày khởi sự đã quyết định rồi nhưng ông bị bắt trước. Người ta đồn rằng ông ta và quan phụ chính hãy còn sống nhưng bị tù và đến ngay giỗ của Tiếm vương [Quang Trung], họ sẽ bị dùng làm nến nghĩa là họ sẽ bị bọc bởi một thứ vải tẩm dầu dùng làm sáp, thân thể họ sẽ bị dùng làm bấc, và họ sẽ bị đốt như vậy vì đã không trung thành với vua. Thật là một cực hình ác độc. Theo như lời đồn hai ông đó vừa mới bị bắt, tất cả các mệnh lệnh của vị đại thần của chúng tôi đều bị bãi bỏ [không có sự ngược đãi đạo Công giáo nữa]... Bố Chính, mồng 05/06/1793: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 517-26]. [tr. 521] Về việc dịch luật Bắc Hà, thì linh mục Văn đã dịch được cả tập hay một phần. Tôi có được đọc qua cuốn đó nhưng tôi quả quyết với ông rằng nó chẳng rõ gì hơn chữ viết... Hằng năm tổ yến bị giặc biển Trung Hoa ở Đông Hải đoạt mất; hay đúng hơn tôi không biết các con chim yến ấy còn ở trong các hòn đảo nhỏ mà chúng vẫn dùng làm nơi ẩn trú hay không, vì chúng bị quân cướp đó quấy rối quá. Về gỗ “trầm hương” thì chẳng nên nghĩ tới làm gì. Bây giờ không thể kiếm được hay mua được đến một miếng gỗ dác nhỏ để trộn với hương dùng để thắp cúng ở bàn thờ. Dân Bắc Hà không có thì giờ chạy vào trong rừng để kiếm gỗ ấy vì họ quá bận đi đánh nhau và công tác khổ dịch, và cọp lại tăng gấp bội và trở nên dữ tợn đến nỗi không ai dám đặt chân vào rừng cả trừ phi đi hàng đoàn để chặt cây đóng Tầu thủy. Hơn thế nữa, người Lào hay người Thượng bắt buộc phải cung cấp cho Tiếm vương một số gỗ lớn đến nỗi họ không còn để bán. Sáp thì cũng vậy, lên giá quá chừng!... 29/04/1794: Thư của ông La Mothe gởi ông Boiret [tr. 539-411]. [tr. 540] ...Cuối cùng ông Nhạc nổi danh đã chết hôm 13 tháng 12 năm ngoái: vài tháng trước khi ông chết, vì không thể chống cự lại vua chính thống Nam Hà, ông đã cầu cứu vua của Cảnh Thạnh (hay Thịnh), cháu ông. Tướng chỉ huy (34) đội quân nầy đã làm nhục ông đến nỗi ông chết vì uất hận. Người ta còn đồn rằng ông bị đầu độc. Khi nghe tin có quân đội của Cảnh Thạnh vào tiếp viện, vua Nam Hà [Nguyễn Ánh] đã lập tức thôi vây thành Qui Nhơn hay Qui Phủ và rút lui về Phú Yên; hiện ông vẫn đóng ở đấy. Chắc hẳn rằng sớm muộn gì cũng sẽ có một hành động [tr. 541] quyết liệt... [tr. 564] Năm 1793 ông Eyot đã gặp một vị quan Nam Hà, vị quan này có nói chuyện lâu với ông và cho phép ông tiếp tục đi truyền đạo và có dặn ông nên: “dạy người ta sự lành” [nguyên văn bằng chữ quốc ngữ]... 14/01/1795: Thư của ông Longer gửi Bố Giáo Thánh Hội (La Propagande) [tr. 583]. ... Địa hạt của giáo hội này (Bắc Hà) nằm từ sông Gianh, ranh giới Bắc Hà và Nam Hà đến tỉnh phía Tây của Trung Hoa mà người Bắc Hà gọi là “Vân Nam” và tiếng Trung Hoa gọi là Yunam. Đường đi từ sông Gianh đến phủ lỵ Bắc Hà là 15 ngày đường; từ kinh thành mà chúng ta nhắc tới đến giáo khu xa nhất ở miền núi ít nhất là 10 ngày đường nữa. Từ giáo khu tới Trung Hoa phải mất bao nhiêu ngày đường thì tôi không rõ. Giáo khu này [tác giả ở – phía Tây Nam Bắc Hà] cũng được gọi là miền Tây và nó ở phía tây sông Bồ Đề [sông Hồng] trong khi một giáo khu khác ở phía đông sông có tên ngược lại (là miền Đông). Về thế quyền thì cả 2 giáo khu đều thuộc về vua Cảnh Thịnh hay Thạnh, con Tiếm vương Quang Trung, hiện còn thống trị một số lớn các tỉnh Nam Hà; vua này thật ra mới có 13 tuổi nên ông cậu [Bùi Đắc Tuyên] của ông ta (một cựu tăng sĩ) nhiếp chính. Các tỉnh [trấn] của địa phận giáo hội này là: gần sông Gianh đã nói ở trên là Bắc Bố Chính được gọi như vậy để phân biệt với một tỉnh [dinh] cùng tên ở phía bên kia sông thuộc Nam Hà. Địa phận này được chia làm 3 “tổng”và có 12.000 giáo dân. Cạnh đó là tỉnh [trấn] Nghệ An, có 2 huyện và có gần 13.000 người Công giáo. Ở giáp giới tỉnh này là tỉnh [trấn] “Tanh Hòa” [Thanh Hóa] với 15.000 người Công giáo. Còn thỉnh “xứ Nam” (trấn Sơn Nam) thì ở phía Bắc giáo khu chúng tôi nhưng lại ở phía nam một giáo khu khác gọi là tỉnh Bắc (xứ Bắc) [trấn Kinh Bắc]; “xứ Nam” đó được chia ra làm 36 huyện trong đó có 14 huyện giáp khu phía Tây có hơn 30.000 giáo dân. Tại tỉnh cuối cùng tên là xứ Đoàn [trấn Sơn Tây], có hơn 10.000 giáo đồ... [Nguyên văn bằng chữ La Tinh]. 20/07/1796: Thư của ông Guérard (41) gửi ông Blandin [tr. 729-31]. [tr. 730] Tôi được đến thăm một tăng viện [Mường] mà họ gọi là Cả Đễ. Có 2 “Chậu Húa” hay thầy tăng với 6 hay 8 người “sơ tu”. Họ tiếp đãi tôi rất tử tế. Cả làng họp lại để xem mặt tôi. Họ mặc áo đỏ, không làm gì [tr. 731] cả, không lấy vợ nhưng nghe đâu họ cũng rất “phóng túng”. Làng của Cả Đễ đó nuôi tất cả những người ở trong tăng viện, không để ai phải mất công làm bếp. Khi có một người đến thăm họ, theo tục lệ, trước nhất phải bái tượng đặt tại một góc phòng, sau đó quì dưới chân Chậu Húa để chào ông ta và để “thưởng công” khách ông ta đưa tay cho hôn. Trong khi đó thì Chậu Húa ngồi nghiêm. Họ chỉ ăn có 2 lần một ngày. Nhưng ai ham ăn thường viện cớ cúng để giữ lại 2 phần cơm sáng hay trưa để đến tối ăn. Tăng viện hay Cả Đễ ở trên núi cao nhất vì, theo sách dạy, họ tin rằng họ ở nơi cao bao nhiêu khi chết họ càng dễ lên trời bấy nhiêu vì họ cho rằng trời chỉ cách núi cao nhất có 20 dặm. ...Ai cũng mạnh khỏe, béo tốt hơn người Kinh... 19/03/1795: Thư của Đức Longer gửi ông De Chaumont [tr. 613-15]. ...[Sắp có vụ ngược đãi đạo Gia Tô mà quan phụ chính muốn che chở] [tr. 614] Ông ấy mời các nhà nho học và các sư tăng họp nhau lại để hoàn thành dự án rất cao cả đó. Tuy nhiên ông ấy làm cho các sư tăng một “vố đau” khi không cho phép mỗi làng đều có chùa như trước nữa, khoảng 200 làng mới có thể họp lại xây một ngôi chùa chung; vì vậy ông ra lệnh phá hủy các chùa riêng cũng như các giáo đường hay tiểu thánh đường của chúng tôi... Vùng Cao nguyên, ngày 05/07/1795: Thư của ông Lapavée (42) gửi thân phụ ông [tr. 633-43]. [tr. 637] ...Quan phụ chính vương quốc, một ông già 80 tuổi và là thúc phụ (43) của vua Quang Trung, người đã mất từ 2 năm nay, có ý định đoạt ngôi của cháu ông để truyền cho con ông. Ông bèn âm mưu với một vị quan can trường và táo bạo, ngược đãi Công giáo, mà ông mới cử làm kinh lược [vice-roi] Bắc Hà. Khi cả 2 đã thỏa hiệp về ngày “dựng cờ khởi nghĩa”, ngày mà họ định giết 3 người con vua Quang Trung, cháu ông, quan phụ chính cho người tâm phúc của ông ra Bắc với toàn quyền hành động theo ý muốn. Chuyện đang tiến hành tốt đẹp và mọi sự đã được xếp đặt xong cho sự hành quyết 3 vị hoàng tử và các quan đại thần thị cựu kinh lược Bắc Hà [Võ Văn Dũng] mới tới Nam Hà Thượng, ở gần quan phụ chính bắt đầu nghi ngờ thái độ của vị quan phụ chính này, giấu giếm việc gì đây khi ông thấy có kẻ đem tin đến hay đi mà tiểu vương [Quang Toản] chẳng được hay báo gì cả, ông bèn tâu với vua: “Bệ hạ hãy đề phòng, người ta muốn ám hại bệ hạ. Bệ hạ hãy cho bắt sứ giả lại”. Sứ giả liền bị bắt và quả nhiên cuộc âm mưu kỹ lưỡng của quan phụ chính và kinh lược Bắc Hà bị bại lộ, chỉ còn có 20 ngày nữa là họ hành động, lập tức có lệnh bắt quan phụ chính và chỉ trong vài ngày sau ông bị giải ra tòa xử tử. Một sứ giả mang lệnh vua được gửi ra Bắc Hà. Quan “kinh lược” cũng bị bắt và phải chịu chung cực hình với đồng lõa của ông là người anh vị “kinh lược” là người đòi ngược đãi dân Công giáo không sống lâu để thi hành cái thú dã man ấy vì 10 ngày sau chính ông ta bị truy tố vì tội phản loạn [tr. 638] và nghịch vua... Hai vị đại thần Bắc Hà đi bắt quan phụ chính đã trách mắng ông nhiều điều khi ông bị dẫn ra pháp trường; trong số đó có một điều mà tôi thấy đáng được thuật lại vì nó lợi cho thánh đạo nhất là khi những lời trên được thốt ra từ miệng người đi đời... [lệnh ngược đãi đạo Gia Tô đã bị hủy bỏ]. 21/08/1795: Thư của ông S. Tessier gửi ông De Chaumont [tr. 685-687]. [tr. 686] Một cô gái “giang hồ”, không có chồng mà đẻ con, làm cha cô ta giận ghê gớm vì đó là một trọng tội tại xứ này, khiến cha mẹ có thể bị tịch thu tài sản. Trong lúc quá nóng giận, người cha đã chặt đầu cô con gái. 29/06/1797: Thư của ông Langlois gửi ông Blandin [tr. 854-855]. Vua Nam Hà Hạ [Nguyễn Ánh] đã xuất chinh năm nay. Người ta đồn rằng ông đã làm chủ Nam Hà Thượng đến tận biên giới Bắc Hà [tr. 855] và Tiểu vương (Nam Hà Thượng và Bắc Hà) đã chạy ra Bắc, về phía Kinh Thành (Thăng Long). Nếu thật như vậy, thì Tiểu vương sẽ không giữ được Bắc Hà lâu vì thứ nhất, trong hơn 10 năm thống trị, quân Nam Hà [Tây Sơn] bị dân chúng chán ghét vì họ phải đóng thuế quá nặng và dân chúng chỉ mong có cơ hội tốt để nổi dậy; thứ nhì, họ đã mất đất, nơi họ vẫn tuyển dụng các quan cai trị Bắc Hà... (Tin cuối cùng cho biết vua Nam Hà chưa chiếm được thủ đô Nam Hà Thượng). 31/07/1797: Thư của ông Sérard gửi ông Blandin [tr. 895-98]. [tr. 897] (tiền công và tiền nuôi thợ xây cất một giáo đường là 300 quan)... 06/08/1797: Thư của ông Tessier gửi ông De Chaumont [tr. 903-906]. [tr. 904] Cuối cùng bao giờ vua Đồng Nai cũng chẳng làm gì cả sau khi bắt mọi người chuẩn bị sẵn sàng, khiến dân chúng rất khốn khổ vì phải công tác tạp dịch để đánh đuổi ông. 07/08/1797: Thư của Đức Longer gửi các ông Boiret và Descourvières [tr. 907-910]. [tr. 908]... Có tin đồn rằng vua Nam Hà [Nguyễn Ánh] đi qua Quí Phủ hay Qui Nhơn để tiến về phía Cửa Ải, một thứ đèo ngăn chia Huế và Quảng (Nam). Như vậy là Cửa Hàn hay Hải Cảng Thoran [Touran] theo người Bồ Đào Nha mới rơi vào tay vua ấy. Chúng tôi không rõ thành trì hay thành phố Qui Nhơn đã hàng hay bị phong tỏa. Hình như vua Nam Hà đã bị thua to hồi tháng 7 vì tại xứ [tr. 909] Nghệ, có lệnh làm lễ tạ quỉ thần cho họ (quân Tây Sơn) thắng trận. © DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- Chú ý: Các phần ở giữa hai dấu móc [...] hoặc do dịch giả chú thích hoặc tóm tắt một đoạn văn dài ở nguyên văn, cốt lược lấy những ý quan trọng. (20) Kẻ Sở: một làng ở Trấn Sơn Nam Hạ (Nam Định). (21) Xứ Đoài: Trấn Sơn Tây. (22) Descourvières (Jean Jacques): Giáo sĩ, sinh trưởng tại Besancon. Thoạt đầu, ông đến truyền giáo ở Phi Châu. Năm 1776, ông sang Macao. Sau đó, ông bị nhà cầm quyền Quảng Đông buộc rời khỏi Macao. Ông làm đại diện cho Giáo Hội Xiêm La ở Paris. Ông mất ở La Mã ngày 6-8-1804. (23) Longer (Jacques, Benjamin): Giáo sĩ, sinh trưởng tại Rouen. Ông đến truyền giáo tại Nam Hà ngày 4-12-1775. Ngay khi tới đây, ông bị bọn cướp bắt và bị trọng thương, ông bị quan Bắc Hà (Trịnh) bắt giữ hai lần. Năm 1790, ông được tấn phong chức Giám mục và cai quản địa phận miền Tây Bắc Hà (Tonkin occidental). Ông mất ngày 8-2-1831, hưởng thọ 80 tuổi. (24) Đức Champenois (Nicolas) [1734-1810]. Ông sang Pondichéry năm 1777. Năm 1783 ông được tấn phong làm Giám mục. (25) Kẻ Seo: một làng thuộc Bắc Bố Chính (Quảng Bình)? (26) Girard (Francois-Joseph) [17?-1812]: Giáo sĩ, sang truyền đạo tại Nam Hà từ năm 1785. (27) Boiret (Denis) [1734-1813]: Năm 1761, ông sang truyền giáo ở Xiêm La. Tới năm 1765, ông đến Nam Hà truyền đạo. Năm 1771 ông sang La Mã và năm 1778, ông làm Giám đốc Chủng viện. (28) Tả Cung Hoàng Hậu họ Phạm, sinh ra Quang Toản? (29) Đức Véren: Đức Giám mục Labartette (Jean) [1744-1823]. Năm 1773, ông tới Nam Hà truyền đạo tại Dinh Cát, thuộc xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (Quảng Trị). Năm 1784, ông được tấn phong Giám mục. (30) Cân (livre): 1 livre là 489,5g. (31) Touron (Tourane): Đà Nẵng. (32) Xứ Chàm: dinh Quảng Nam. (33) Langlois (Charles-Francois) [1767-1851]. Năm 1792, ông sang Bắc Hà ở Thanh Hóa. Năm 1805, ông làm đại diện cho Giáo Hội Bắc Hà, khu phía Tây (Tonkin Occidental) tại Paris. (34) Chaumont (Denis) [1752-1819]: Giáo sĩ, sang Macao năm 1766. Năm 1784, ông về Ba Lê và năm 1814, ông làm Giám đốc Chủng viện tại đây. (35) Mesnard: Chắc các cô này là bà con với giáo sĩ La Mothe, là những người đã gặp Hoàng tử Cảnh tại Lorient, khi Hoàng tử sang Pháp với Giám mục Bá Đa Lộc. (36) Hoàng tử Cảnh. (37) Hoàng tử Cảnh đã theo đạo Công giáo. (38) Làng Hoàng Lý: một làng thuộc huyện Kẻ Bèo? (39) Bissachère (Le Monnier de, Jean Jacques) [1764-1830]: Giáo sĩ sang Bắc Hà năm 1789, ở huyện Kẻ Bèo. Tới năm 1806, ông trở về Âu Châu. Tác giả quyển: Relation sur le Tonkin et la Cochinchine (1807). (40) Làng Đò: một làng thuộc Trấn Sơn Nam Hạ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2008 3:00:18 GMT 9
Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung Vietsciences-Bùi Minh Đức 02/07/2008
Những bài cùng tác giả
Vua Quang Trung đã qua đời cách đây (2008) đúng 206 năm . Vua Quang Trung mất nhằm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý tức là vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 dương lịch sau một thời gian bị “bạo bệnh” . Vua mất lúc mới 40 tuổi .
ĐẶT VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG :
Các tài liệu lịch sử đều ghi là vua Quang Trung đã chết vì “bạo bệnh” nhưng không có tài liệu nào nói rõ ra đó là bệnh gì . Riêng tác giả Hoa Bằng thì cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh “huyết vựng” .
Vua Quang Trung đã được xem là một vị anh hùng dân tộc nên trong quá khứ đã có nhiều người quan tâm đến cái chết đột ngột của vị anh hùng áo vải đó . Cũng vì thế nên đã có nhiều người đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của vị Vua nầy . Tuy nhiên , từ trước đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào căn cứ vào Y khoa hiện đại để phối hợp với các sự kiện đã được ghi trong lịch sử để có thể cho chúng ta biết một cách chắc chắn hơn về bệnh trạng cũng như về nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung vào hồi đó .
Và vì vậy , chúng tôi đã làm công việc đó .
Chúng tôi đã dựa trên các hiểu biết của nền Y học hiện đại và phối hợp với các tài liệu lịch sử giá trị của ngành Sử Học Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay để suy diễn bệnh tình của vua Quang Trung trước giờ lâm chung . Mục đích của chúng tôi là “Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ khi xẫy ra bạo bệnh cho đến ngày qua đời” . Chúng tôi hy vọng bài khảo cứu của chúng tôi ngày hôm nay sẽ có thể đưa ra được lời giải đáp cho hai câu hỏi chính yếu về “CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” mà mọi người chúng ta hằng quan tâm là:
1/ Vua Quang trung đã bị bạo bệnh đột ngột trước lúc qua đời , vậy đó là “CĂN BỆNH “ gì ? 2/ Vua Quang trung qua đời nhiều ngày sau “bạo bệnh” , vậy “NGUYÊN NHÂN TỬ VONG” là gì ?
THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG :
I/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : Phương pháp làm việc của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu căn bệnh của vua Quang Trung là căn cứ vào những tư liệu có giá trị đích thực của Sử Học Việt Nam , những tư liệu có đả động đến bệnh trạng của Vua Quang Trung để suy nghiệm ra các triệu chứng khá “chắc chắn” của bệnh trạng của Nhà Vua hồi đó . Sau đó , chúng tôi đối chiếu các triệu chứng “chắc chắn” đó với một số các căn bệnh cũng có cùng những bệnh chứng đó trong Y Khoa ngày nay để có thể phỏng đoán được “bệnh trạng” của Nhà Vua là gì . Rồi từ “căn bệnh phỏng đoán” khá chính xác đó , chúng tôi lại sẽ quay ngược lại để biết thêm những “triệu chứng có thể” đã xuất hiện trên người Vua sau ngày bạo bệnh , căn cứ vào các hiểu biết của Y khoa tân tiến ngày nay .
Độ chính xác của “căn bệnh phỏng đoán” của Nhà Vua trên thực tế chắc chắn sẽ không thể nào là 100% vì bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua từ bấy đến nay (đã trên 200 năm) nhưng chúng tôi tin rằng đó là “độ chính xác cao nhất có thể đạt được và có thể tin cậy được” căn cứ vào các tư liệu hiện hữu và các hiểu biết của Y khoa ngày nay
Trong bài khảo cứu nầy chúng tôi cũng đã phải sử dụng đến các sơ đồ “Flow Charts” , nói nôm na là sơ đồ của “cái nầy đưa đến cái kia” về triêụ chứng và về căn bệnh . Chúng tôi cũng áp dụng lối lý luận bằng “phương pháp loại trừ” của logic theo Y khoa ngày nay theo lối “không có cái nầy thì sẽ không có cái kia” . Chúng tôi cũng đã sử dụng một số kết quả về thống kê của các bệnh tật theo các khảo cứu của Y học ngày nay và chúng tôi cũng sẽ luôn luôn dựa vào các kết quả thống kê cao nhất , khả dĩ nhất để lấy quyết định .
Cũng trên đường đi tìm “bạo bệnh” của Vua Quang Trung , chúng tôi đã phải tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu cao cấp của các Chuyên Nghành trong Y khoa ngày nay . Chúng tôi cũng đã có cơ hội tiếp xúc được với nhiều Chuyên gia cao cấp , đi từ điạ hạt Nội Thần Kinh , Ngoại Thần Kinh qua Tai Mũi Họng và Nội thương cho đến Tim học . Và cũng vì thế , chúng tôi đã có nhiều cơ hội tiếp nhận được những kinh nghiệm lâm sàng trực tiếp từ các vị Chuyên gia hàng đầu trong các ngành đó .
Nói tóm lại , chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những tư liệu Sử học mà chúng tôi sử dụng và cùng lúc đưa ra những kết quả về triệu chứng bệnh lý mà chúng tôi suy nghiệm được dựa vào những tư liệu đó . Chúng tôi cũng sẽ thử “tái xây dựng” hồ sơ bệnh lý của Vua Quang Trung theo nguyên tắc “SOAP” của các hồ sơ bệnh lý y khoa ngày nay : “S” (Subjective) là các triệu chứng chủ quan tự cảm thấy của bệnh nhân (phần Bệnh sử) , “O” (Objective) là các triệu chứng khách quan tìm thấy được trên người bệnh nhân (phần Triệu chứng) , “A” (Assessment) là kết luận về bệnh trạng đã được suy diễn ra (phần Định Bệnh Phân Biệt “Differential Diagnosis” và phần Định Bệnh Lâm Sàng “Clinical Điagnosis) và cuối cùng , “P” (Plan) là những quyết định thử nghiệm (Laboratory Tests) và điều trị (Treatment Plan) về căn bệnh đã được suy diễn ra đó .
2/ THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG :
HỒ SƠ BỆNH LÝ
TÊN VÀ HỌ : NGUYỄN HUỆ (VUA QUANG TRUNG) TUỔI : 40 GIỚI TÍNH : NAM NGHỀ NGHIỆP : Chỉ Huy Quân Đội . Tánh xông xáo , thích hoạt động .
I/ BỆNH SỬ (HISTORY OF THE PRESENT ILLNESS) :
A/ TƯ LIỆU CHỨNG MINH : Trước hết chúng tôi đưa ra vài tư liệu dính dáng đển khởi điểm của bạo bệnh của Nhà Vua .
1/ Theo “Đại NamThực Lục Chính Biên” , Tập II , Đệ Nhất Kỷ 1 (Tổ phiên dịch Viện Sử Học , Đào Duy Anh hiệu đính , tr. 159- 160) : “..Tây Sơn Ngyễn Văn Huệ chết . Nguyễn Huệ ngồi chơi buổi chiều , bỗng mơ thấy một ông già tóc bạc từ trên không xuống , mặc áo trắng , tay cầm gậy sắt , chỉ vào Huệ mà bảo rằng “Ông cha mày sống trên đất vua, đời làm dân vua , mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm ?” . Rồi đánh vào trán một cái . Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mói tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trng thư Trần Văn Kỷ . Nhân đó , ốm không dậy được , dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng “Ta sẽ chết đây! Thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được . Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên , khi Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An , dời dân vào Qui nhơn) , đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được . Ta đắp thành dày để làm kế Tấn Dương ngày khác cho mày . Sau khi ta chết , mày nên về đó . Nếu có biến cố còn có thể giữ được “ . Rồi Huệ chết” .
2/ Theo “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” , phần “Ngụy Tây Liệt truyện” : “Một hôm về chiều , Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm , kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống , tay cầm gậy sắt mắng rằng “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa , đời đời làm dân của chúa , ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm ?” Rồi lấy gậy đánh vào trán , bất tỉnh nhân sự lâu lắm . Lúc tỉnh dậy , nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ . Từ đó bệnh chuyển nặng , mời quan Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó . Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia Định , chiếm Bình Thuận , Bình Khang , Diên Khánh , thanh thế chấn động . Quang Trung nghe được lo buồn , bệnh ngày càng kịch liệt” .
B/ BỆNH SỬ QUA CÁC TƯ LIỆU ĐÃ DẪN : Qua hai tài liệu trên , chúng ta có thể suy diễn được diễn tiến của bệnh trạng lúc khởi đầu như sau : “Bệnh nhân là một người nam , mới 40 tuổi . Bệnh nhân đang ngồi chơi buổi chiều , không vận dụng sức lực hay làm việc gì nặng nhọc , bỗng cảm thấy xây xẩm tối tăm , đầu đau như có ai cầm gậy sắt đánh vào trước trán và té xuống liền , hôn mê bất tỉnh . Sự việc xẩy ra rất đột ngột . Giờ lâu bệnh nhân mới tỉnh lại” .
II/ TRIỆU CHỨNG CĂN BỆNH (SIGNS AND SYMPTOMS) :
Xét theo bệnh sử , chúng ta có thể ngược dòng thời gian để suy nghiệm ra các triệu chứng của căn bệnh ban đầu của Vua Quang Trung . Chúng tôi đã có thể ghi nhận chín (9) yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là :
-1/ “BỆNH NHÂN CÒN TRẺ” , chỉ mới 40 tuổi . -2/ “ĐAU ĐẦU DỮ DỘI , ĐỘT NGỘT” (Headache Severe , Sudden Onset) -3/ “XÂY XẨM” : CHÓNG MẶT (Dizziness) -4/ “TỐI TĂM” : MẮT NHÌN KHÔNG THẤY (Trouble of Vision) -5/ “HÔN MÊ NGẤT XỈU THÌNH LÌNH” (Sudden Loss of Consciousness , gọi tắt là L.O.C.) . -6/ “KHÔNG VẬN ĐỘNG SỨC LỰC” khi xẫy ra biến cố (No Physical Exertion) . -7/ “KHÔNG BỊ TỔN THƯƠNG TRÊN ĐẦU” , không bị va đập trên đầu trước đó (No Previous Head Trauma History) . -8/ “BỆNH NHÂN TỈNH LẠI : Bệnh nhân bị té xuống hôn mê bất tỉnh ,“giờ lâu mới tỉnh” (Recovering from Consciousness after an Interval). -9/ “BỆNH NHÂN KHÔNG BỊ HÔN MÊ DÀI NGÀY” (No Coma of long duration) .
III/ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT (DIFFERENTIAL DIAGNOSIS) :
Dựa trên các yếu tố đó , chúng ta có thể suy diễn ra các điều khác để tìm bệnh . Chúng ta lấy triệu chứng “Bất Tỉnh” (Loss of Consciousness) là triệu chứng quan trọng nhất của căn bệnh để làm điểm khởi đầu của lý luận định bệnh của chúng ta .
Trong từ ngữ Y khoa , “Bất Tỉnh Mê Man” được gọi bằng từ ngữ chung là “Loss of Consciousness” , gọi tắt là “L.O.C.”. Nếu bất tỉnh nhẹ và tỉnh lại ngay liền , thì gọi là “Syncope” , nếu hôn mê nặng thì gọi là “Coma” .
Thông thường , khi bệnh sử có ghi “LOC” đột ngột mà trước đó không có dấu hiệu tổn thương nào trên Não Sọ thì Y khoa ngày nay thường nghĩ ngay đến “NGUYÊN NHÂN NÃO BỘ” và nhất là nghĩ ngay đến “TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO” (Cerebro-Vascular Accident , gọi tắt là CVA) , còn được gọi là “BỆNH ĐỘT QỤY” (Stroke) . Hàng năm tại Hoa Kỳ có 730.000 trường hợp mới về “Tai Biến Mạch Máu Não” .
Một LOC đột ngột thường do các nguyên nhân về Não Bộ như sau :
- 5% là do U Bướu (Tumor) trên Não với các triệu chứng thần kinh suy sụp CHẬM RÃI (Progressive Neurologic Deficit) trong 68% các cas , và cũng có yếu liệt về thần kinh vận động (Motor Weakness) trong 45% các cas và có Nhức Đầu (Headache) trong 54% các cas , Động Kinh (26% các cas) .
- 95% là do các MẠCH MÁU TRÊN NÃO bị nghẽn hoặc bị vỡ gây ra xuất huyết , chia ra như sau :
- 80% là do NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemic Stroke , Arterial Occlusion) : vì Máu Đông Tại Chỗ (Thrombotic Stroke) trong 50% các cas và do Cục Máu (Embolic Stroke) trong 30% các cas . Phân tách thêm , người ta thấy có 41% các cas Nghẽn Mạch không biết lý do , 21% các cas ở các động mạch nhỏ , 11% các cas ở các động mạch lớn và 16% do Cục Máu từ Tim đến (Cardiogenic Embolie) như trong bệnh “Nhồi Máu Cơ Tim” (M.I. Myocardial Infarction) hay trong “Chứng Hẹp Lỗ Van Hai Lá” (Mitral Stenosis) hay trong “Chứng Loạn Nhịp” (Arrythmia) .
- 20% là do XUẤT HUYẾT TRONG NÃO :
- 14% là do “Xuất Huyết trong Não Bộ” (IntraCerebral Hemorrhage , viết tắt là ICH) - 6% là do Xuất Huyết Dưới Màn Nhện (Sub-Arachnoid Hemorrhage , viết tắt là SAH) .
-A/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemia Stroke) thường bị “HÔN MÊ SÂU ĐẬM” và thường xẫy ra cho người LỚN TUỔI , trên 50 tuổi . . Triệu chứng khởi đầu cũng có thể thình lình nhưng “KHÔNG CÓ ĐAU ĐẦU” , không bị sốt . Bị yếu dần về thần kinh bắt đầu từ tay rồi lan ra các vùng khác , TĂNG LẦN từ từ từng bước một , từ vài giờ cho đến vài ngày (24 giờ-72 giờ) và thường về một phía . Tay chân có thể bị yếu dần và bị Liệt Tay Liệt Chân ở phía đối diện (Controlateral Hemiplegia) và cả tê tay tê chân . Thường là do “Nghẹt Đông Mạch Não Giữa (Middle Cerebral Artery) .
-B/ XUẤT HUYẾT TRONG NÃO BỘ (Intracerebral Hemorrhage = ICH) : 14% các cas bị HÔN MÊ BẤT TỈNH (LOC) và thường được gọi là “Apoplexy” mà không có tổn thương do Va Đập nào trước đó . Bệnh nầy thường do “VỠ ĐỘNG MẠCH” trong khối chính của Não tạo thành “Cục Máu” còn gọi là “Khối tụ máu” (Hematoma) đè ép lên trên Não Bộ và gây nên các triệu chứng về Thần kinh Não bộ .
Bệnh nầy thường xẫy ra ở người CAO TUỔI , phần lớn là đàn ông trên 55 tuổi và phần lớn do CAO HUYẾT ÁP (Hypertension) . Càng lớn tuổi càng dễ bị bệnh nầy . Có thể do sự “Vận động Sức Lực Quá Trớn” (Onset during Activity or Exertion) như khi đi đại tiện bị bón hay khi đang chơi thể thao như Tennis chẳng hạn . Bệnh nhân thường “BẤT TỈNH HOÀN TOÀN” (Coma) . Triệu chứng Thần Kinh Hỗn Loạn trong “Xuât Huyết Não” thường xẫy ra TỐI ĐA NGAY LẬP TỨC (Maximal at Onset) chứ không diễn tiến từ từ như trong bệnh “Nghẽn Mạch Máu Não”. Nếu tỉnh dậy cũng sẽ có Đau Đầu , Ói Mửa , Chóng Mặt , Bị Liệt chân tay và Suy sụp thần kinh từ từ (Neuro Deficit Progressive) và có thể bị Cấm Khẩu không nói được , bị bệnh Liệt Mặt (liệt Dây thần kinh số 7) , v.v..
-C/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN (Subarachnoid Hemorrhage = SAH) Đa số các “Xuất Huyết dưới màng nhện” (SAH) là do chấn thương trên Đầu . Số các cas “SAH” còn lại , không có dấu hiệu chấn thương trên Đầu , là do chứng “Tự Vỡ Mạch” (Spontaneous SAH) . 80% các cas nầy là do Vỡ Mạch Phình (Spontaneous Rupture of Aneurysm) và 5% là do Vỡ Mạch Máu Dị Dạng Bẩm Sinh (Congenital Arteriovenous Malformation) .
Bệnh Xuất Huyết dưới Màng Nhện do “Tự Vỡ Mạch” thường xẫy ra ở “NGƯỜI TRẺ KHOẢNG 40 TUỔI” (20% các cas từ 15-45 tuổi) và xẫy ra “BẤT THÌNH LÌNH” (Sudden Onset) (30% các cas lúc đang ngủ) với các triệu chứng sau : 1/ “ĐAU ĐẦU ĐỘT NGỘT DỮ DỘI” (Severe Headache) (30% bị Đau Đầu về phía mạch máu bị vỡ) , 2/ “BẤT TỈNH” ngay sau khi đau đầu đột ngột dữ dội . Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại 3/ ÓI MỬA (Nausea and Vomiting) , 4/ CHÓNG MẶT (Dizziness) , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG (Vertigo) . 5/ CỔ CỨNG (Nuchal Rigidity hay Neck Stiffness) 6/ TÊ NỬA NGƯỜI (Hemiparesis) 7/ LIỆT NỬA NGƯỜI , còn gọi là “Bán Thân Bất Toại” (Hemiplegia) . Ngoài ra cũng có thể còn có : 8/ LIỆT NỬA MẶT (Facial Palsy) do liệt dây thần kinh Não số 7 (Facial Nerve) một bên 9/ Bệnh SONG THỊ (Diplopia) do liệt dây thần kinh Não số 3 và “CHỨNG SỢ ÁNH SÁNG” (Photophobia) 10/ Hỗn Loạn về chúc năng “NUỐT” do hỗn loạn của các dây thần kinh Não số 9 và số 10 .
Thống kê ngày nay còn cho biết thêm các chi tiết sau : 50% các cas về “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” đã có triệu chứng báo hiệu (Warning Symptoms) , thường là từ 6 đến 20 ngày trước đó . Tra cứu các tư liệu Sử học còn lưu lại , chúng tôi cũng không thể xác định được trước đó Vua Quang Trung có cảm thấy triệu chứng gì báo trước của bạo bệnh hay không , ví dụ như Đau Đầu , Đau Mặt , Chóng Mặt hay Tê tay Tê chân , Yếu tay Yếu chân hay Mắt Mờ chẳng hạn .
IV/ CHẨN ĐOÁN CĂN BỆNH VUA QUANG TRUNG (CLINICAL DIAGNOSIS) :
Và như vậy , xuyên qua triệu chứng của các bệnh Xuất Huyết Mạch Máu Não trong trường hợp bị “BẤT TỈNH ĐỘT NGỘT , KHÔNG CÓ CHẤN THƯƠNG” và so sánh với các triệu chứng khởi đầu của căn bệnh của Vua Quang Trung qua các tư liệu đã nêu ra , chúng ta thấy căn bệnh lúc ban đầu của Vua Quang Trung trong quá khứ , rất có thể là :
“BỆNH XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” (Subarachnoid Hemorrhage)
DO CHỨNG “TỰ VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Aneurysm Rupture)
V/ DIỄN TIẾN BỆNH TRẠNG (PROGRESS NOTES) :
Căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” nầy của Nhà Vua , ngoài những triệu chứng chính ban đầu mà ta đã suy diễn ra được qua những tư liệu đã dẫn chứng , liệu còn có các triệu chứng phụ nào trên người Vua phù hợp với sự tiến triển của bệnh lý theo y khoa ngày nay hay không ? Chúng ta thử đi tìm thêm các triệu chứng đó và cũng sẽ dùng các tư liệu sử học để chứng minh bằng cách theo dõi diễn tiến của căn bệnh ban đầu cho đến ngày Vua qua đời .
A/ Bài “Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân Công Chúa làm vào lúc Nhà Vua qua đời đã cho ta thêm đôi chút ánh sáng về bệnh tật của Vua trong thời gian nầy :
“TỪ NẮNG HẠ MƯA THU TRÁI TIẾT , XÓT MÌNH RỒNG MỎI MỆT CHẲNG YÊN Xiết bao kinh sợ lo phiền , Miếu thần đã thỉnh , thuốc tiên lại cầu . Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước , Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Qua bài “Ai Tư Vãn” nầy , ta có thể rút ra thêm được các kết luận sau đây liên quan đến bệnh trạng của Nhà Vua :
1/“Từ nắng hạ mưa thu trái tiết” : Vua đau từ mùa hạ đến mùa thu mới mất . Khoảng thời gian có lẽ là TRÊN HAI THÁNG từ lúc phát bệnh đến giờ lâm chung .
2/“Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên” : Vua day trở trên giường bệnh . Y Khoa ngày nay gọi là “CHỨNG BỒN CHỒN” (Restless) , không thể nằm yên mà phải nhúc nhích qua lại . Đó là chưa nói đến những dư chứng thông thường của bệnh “Xuất Huyết Não” với những cơn ĐỘNG KINH (Seizures) , CO GIẬT (Convulsions) cũng như những CỬ ĐỘNG RUNG CƠ (Tremblements) , không kiểm soát được của tay chân . Tất cả đều khiến cho “Mình Rồng mỏi mệt chẳng yên” tức là di chứng “Bồn chồn” (RESTLESS) do suy yếu thần kinh của căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện”
Câu hỏi được nêu tiếp theo là những “dư chứng” nào khác còn hiện diện trên cơ thể con người của Nhà Vua sau cơn bạo bệnh?
B/ “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” cho ta biết qua tình hình chung sau khi Vua ngã bệnh : “…Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mới tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ . NHÂN ĐÓ ỐM KHÔNG DẬY ĐƯỢC, dặn con là Quang Toản …” .
Qua câu nầy của “Đại Nam Thực Lục Chính biên” thì sau khi bị cơn bệnh thình lình , Vua đã “KHÔNG THỂ NÀO ĐỨNG DẬY ĐƯỢC” . Nhà Vua đứng dậy không được có thể là do bệnh Liệt Bại Tay Chân , tức là bệnh “BÁN THÂN BẤT TOẠI” (Hemiplegia) hay bị bệnh “CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” (Vertigo) , và cũng có thể do cả hai bệnh chứng đó cùng xảy ra một lúc và đã làm cho Nhà Vua không thể nào đứng lên và bước đi ra ngoài được mà phải nằm suốt trên giường bệnh .
-1/ “BÁN THÂN BẤT TOẠI” tức Liệt Tay Chân về một phía (Hemiplegia hay Hemiparalysis) và cả “KHÔNG CẢM GIÁC VỀ MỘT BÊN THÂN” (Hemiparesis) đều là những di chứng thường tình của Bệnh Xuất Huyết Trong Não Bộ (Intracerebral Hemorrhage) do rối loạn hệ thần kinh vận động và cảm giác .
-2/ “XÂY XẨM MẶT MÀY” , “ĐỨNG LÊN BỔ XUỐNG” , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” đều là những di chứng thường đi theo với căn bệnh “Xuất Huyết Trong Não” hay “Xuất Huyết dưới Mà Nhện” . “Xây Xẩm Mặt Mày” (Dizziness) nhẹ hơn “Chóng Mặt Quay Cuồng” (Vertigo) . Chính cái “Chóng Mặt Quay Cuồng” “Vertigo” nầy mà người xưa khi nói về căn bệnh của Vua Quang Trung cũng đã nhắc nhở đến và đã gọi đó là “bênh Huyết vựng” hay “Huyễn vựng” hay “Huyết vận” như tác giả Hoa Bằng đã có ghi ra . Trong bệnh “Vertigo” , người bệnh thấy nhà cửa quay cuồng , bàn ghế quay cuồng , đứng không thể nào vững và thường ngã xuống và đầu có thể va đập vào bàn ghế gây thêm tổn thương Não .
- 3/“ÓI MỬA” : Bệnh “Chóng mặt” hay “Huyễn Vựng” nầy thông thường “đi đôi sát nút” với triệu chứng “Ói Mửa” , thứ “Ói Mửa” mà người Huế gọi là “nhào đựng nhào đột” , hay thứ “Mửa ra mật xanh mật vàng” mà từ ngữ Y khoa ngày nay gọi là “Vomiting” . Nhẹ nhất là “Buồn nôn” , “Buồn Ói” hay “Muốn Mửa” , từ ngữ Y khoa gọi là “Nausea” . Nặng nhất là “Mửa” (Vomiting) . Mỗi khi mửa , “ăn bao nhiêu ra bấy nhiêu” . Hễ mỗi khi có sự chuyển động của đầu hay thân hình là có “Nausea” hay “Vomiting” ngay lập tức . Thông thường trong căn bệnh “Xuất huyết Não , Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” thường có “Nausea” và “Vomiting” đi song đôi với nhau . Hễ đứng lên ngồi xuống là sinh ra “chóng mặt quay cuồng” ngay và sẽ “ói mửa lộn nhào” , không thể nào đứng dậy hay ngồi dậy để làm việc gì được . Vua Quang Trung có thể đã phải chịu đựng những cơn hành hạ của “Chóng Mặt , Ói Mửa” như đã trình bày ở đây và vì vậy mà Ngọc Hân Công Chuá đã phải chạy khắp nơi để tìm Thầy chạy thuốc chữa bệnh cho Vua
- 4/“NHỨC ĐẦU NHƯ BÚA BỔ” : Triệu chứng nhức đầu cấp tính khi xẫy ra Tai Biến Mạch Máu Não của Vua Quang Trung đã xẫy ra “THÌNH LÌNH” đúng như sách vở ngày nay đã ghi nhận . Vua Quang trung đã bị đau đầu dữ dội, “như có ai lấy gậy sắt đập vào đầu” . Sau khi tỉnh lại , các bệnh nhân của “Xuất Huyết Não” và nhất là “Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” như Vua cũng vẫn thường vẫn bị những cơn đau đầu ghê gớm hành hạ do sự đè nén (Mass Effect) của khối máu đọng trên Não Bộ . Khi lên cơn đau đầu đó , có người đã phải ôm đầu mà rên la . Và đó cũng là một di chứng của căn bệnh xuất huyết Não của Nhà Vua .
-5/ “NUỐT KHÓ” : Nếu bệnh nhân đã bị hư một bán cầu Não thì rất có thể bệnh nhân đã có triệu chứng “NUỐT KHÓ” , “NUỐT SẶC” do triệu hỗn loạn về “Chức Năng Nuốt” . Đồ ăn sở dĩ nuốt được là nhờ hoạt động của các cơ co bóp của Thực quản dưới sự tác dụng của các dây Thần Kinh Não Bộ số 9 và số 10 . Khi Não Bộ một phía bị hư thì hoạt động của các dây thần kinh của chức năng Nuốt về phía đó cũng sẽ bị tê liệt và vì vậy sẽ phát sinh các rối loạn về Nuốt . Bệnh nhân sẽ bị “Khó Nuốt” và thường bị “Nuốt Sặc” do đồ ăn đi “lạc đường” (“Fausse Route”) vào khí quản , gây nên phản ứng Sặc là phản ứng tự vệ thông thường . Nếu rối loạn Nuốt khá nặng thì bệnh nhân có thể nuốt hít đồ ăn vào trong “cuống phổi” tức vào trong Khí Quản , và sẽ gây nên “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) , nguy hại đến tính mạng .
Nói tóm lại , theo dõi bệnh tật của Vua , chúng ta có thể nhận thấy những dư chứng của căn bệnh của Vua trong những ngày trước khi lâm chung có thể là :
- 1/ BẠI LIỆT NỬA NGƯỜI (Hemiplegia) - 2/ ÓI MỬA (Nausea , Vomiting) - 3/ CHÓNG MẶT (Dizziness , Vertigo) - 4/ ĐAU ĐẦU (Headache) - 5/ CỨNG CỔ , ĐAU CỔ (Meningismus) - 6/ ĐỘNG KINH (Seizures) - 7/ CO GIẬT (Convulsions) - 8/ CHỨNG BỒN CHỒN (Restlessness) - 9/ NUỐT KHÓ , NUỐT SẶC (Swallowing Problems) - 10/ THỊ TRƯỜNG KHIẾM KHUYẾT (Visual Defect) (Có thể)
VI/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT PLAN) :
Trong bài “AI TƯ VÃN” , Ngọc Hân Công Chúa đã viết :
“Xiết bao kinh sợ lo phiền , MIẾU THẦN ĐÃ ĐẢO , THUỐC TIÊN LẠI CẦU . KHẮP MỌI CHỐN ĐÂU ĐÂU TÌM RƯỚC , PHƯƠNG PHÁP NÀO ĐỔI ĐƯỢC CÙNG CHĂNG ?”
Chính Ngọc Hân Công Chúa , vợ Vua Quang Trung , đã cho chúng ta biết là ngoài chuyện cầu khấn các đấng Thần Linh ở các Am Miếu linh thiêng để cầu nguyện cho Nhà Vua , Bà cũng đã phải bôn ba mời Thầy tìm thuốc khắp nơi để chữa cho Vua trong ngay sau cơn bạo bệnh hòng mong bệnh tình Nhà Vua thay đổi , trở lại lành mạnh như cũ .
Trong vấn đề chữa trị cho Nhà Vua , chúng tôi nghĩ là chứng bại liệt nửa thân khó lòng chữa chạy , bất cứ thầy thuốc nào , Đông hay Tây , cũng đều biết thế . Nếu có thể dùng thuốc để chữa chạy cho Nhà Vua là chữa chạy các chứng như : Ói Mửa , Chóng Mặt , Đau Đầu và Chứng động Kinh , Co Giật chẳng hạn . Ngay chuyện đút cho Vua ăn chắc các gia nhân lúc đó cũng đã phải rất cẩn thận , phải đút chậm chậm từ từ để khỏi gây ra “Chứng Sặc” . “Sặc” là một phản xạ tự nhiên của con người để tống bỏ ra ngoài các thức ăn đi lạc vào cuống phổi , không cho đồ ăn có thể vào phổi và gây ra “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) . Ngay trong Y khoa ngày nay , khi nuôi bệnh và cho bệnh nhân ăn sau khi bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” cũng phải đút đồ ăn cho bệnh nhân một cách từ từ vì sợ bệnh nhân bị “Viêm phổi Hít” . “Viêm phổi Hít” khi đã để xẩy ra sẽ là một vấn đề trầm trọng , cho dù có áp dụng các phương tiện tân tiến của thời nay như làm Nội Soi Khí Quản để hút đồ ăn đi lạc vào , xịt nước rửa khí quản để làm vệ sinh khí quản (Bronchial Toilette) cũng như dùng những Kháng Sinh đúng và mạnh để chận đứng nạn Nhiễm Trùng đáng sợ ở trên cơ thể những con người đang kiệt quệ sức khoẻ với hệ thống miễn dịch yếu kém .
VII/ TIÊN LƯỢNG BỆNH TRẠNG (PROGNOSIS) :
“Đại Nam Thực Lục Chính Biên” và “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” còn cho ta biết là sau khi bị bạo bệnh , Nhà Vua đã TRỐI TRĂN dặn dò Thái tử Quang Toản về đường hướng phải làm trong tương lai . Vua cũng cho vời Trung Thư Trần Văn Kỷ và cả Trấn Thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về Phú Xuân để bàn bạc chuyện dời đô ra Nghệ An . Vua Quang Trung còn trối trăn căn dặn kỹ càng Trần Quang Diệu và triều đình : “Sau khi ta mất , phải trong một tháng lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi . Các ngươi phải phò Thái tử sớm ra Nghệ An để khống chế thiên hạ . Nếu không , bị quân Gia Định kéo ra , các ngươi không còn chỗ chôn đấy” . Trong “Lê Qúy Dật Sử” mà nhiều người cho là của Bùi Dương Lịch viết vào thời Tây Sơn , còn cho thêm chi tiết khác “Tuân di lệnh của Vua cha , để tang ngắn ngày, ba tháng là thôi mặc áo tang , sai sứ sang báo tang với nhà Thanh” .
Như vậy ta có thể suy ra hai điều về tình trạng của hệ thống thần kinh của Vua mà Y khoa Pháp gọi là “Bilan Neurologique” và Y khoa Mỹ gọi là “Neurological Status” như sau :
1/ Nhà Vua còn đủ óc phê phán , suy tính đường lợi hại , trí thông minh của Vua vẫn còn tồn tại . Trung Tâm của thông minh , của Suy Nghĩ và Lý Luận là ở Vùng Trán . Như vậy Não Bộ Vùng Trán của Vua vẫn còn hoạt động .
2/ Nhà Vua vẫn còn năng khiếu Ngôn Ngữ (Speech . Language) để trối trăn , nói chuyện và bàn luận với quần thần . Như vậy , Trung Tâm về Ngôn Ngữ của Vua vẫn còn hoạt động . Trung tâm về Ngôn Ngữ thường ở bên phiá TRÁI của người thuận dùng tay phải (95%) và như vậy ta có thể PHỎNG ĐOÁN phía Não bên TRÁI của Nhà Vua vẫn hoạt động bình thường .
3/ Và vì vậy , chúng ta có thể suy ra , phía bên chảy máu Não của Vua Quang Trung là phía PHẢI và tử đó , có thể suy ra thêm là Vua bị bệnh BÁN THÂN BẤT TOẠI BÊN TRÁI và tay chân phía bên PHẢI có thể đang hoạt động bình thường . Lý do là vì các dây thần kinh vận động tay chân từ Não Bộ bên TRÁI còn tốt phải chạy TRÉO QUA phía bên PHẢI khi chạy xuống phía dưới Tủy Sống . Nếu Nhà Vua muốn cầm tay các cận thần mà dặn dò trối trăn thì có thể Nhà Vua vào hồi đó đã phải dùng tay PHẢI để cầm tay của kẻ cận thần đó .
Cũng cần biết , theo thống kê ngày nay , thì TIÊN LƯỢNG về bệnh “Xuất Huyết Não dưới Màng Nhện” đã được đánh giá như sau : 30% chết ngay trong 30 ngày đầu , 30% các cas sẽ hồi phục với di chứng tàn tật nặng nhẹ khác nhau và và 50% các cas sẽ chết (vì trận xuất huyết lần đầu hay do xuất huyết tái phát) .
VIII/ CHỮA TRỊ BỆNH “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” TRONG Y KHOA NGÀY NAY (TREATMENT PLAN OF SUBARACHNOID HEMORRHAGE IN MODERN MEDICINE) :
Ngày nay , một khi đã định bệnh ra là bệnh nhân bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” , hoặc nói chung là khi đã nghi ngờ bệnh nhân bị Tai Biến Mạch Máu Não thì người ta thường làm các “THỬ NGHIỆM” cần thiết để chứng minh bệnh trạng và để ĐIỀU TRỊ cho chắc chắn .
A/ THỬ NGHIỆM (CLINICAL TESTS) : Trong “Tai biến Mạch Máu Não” , ngày nay người ta thường dùng các thử nghiệm sau :
-1/ CT Scan để biết Tai Biến Mạch Máu Não do Nghẽn Mạch hay Xuất Huyết (thường được dùng nhất trong Xuất Huyết Dưới Màng Nhện) -2/ Chọc Hút Dịch Não Tủy (để tìm máu trong dịch não) -3/ X-Quang Mạch Máu (để ìm vị trí mạch máu vỡ , sau khi chích chất cản quang vào dòng tuần hoàn) -4/ MRI gíúp xác định chính xác vị trí hư hại trong Não . Hình rất nhạy nên thường dùng trong bệnh Xuất Huyết Não do các mạch máu nhỏ . -5/ MRA (Magnetic Resonance Angiography) -6/ Transcranial Doppler -7/ Xenon CT Scanning : dùng để đo lưu lượng Máu trong Não . -8/ Carotid Duplex Scanning : dùng Siêu Âm để xác định xem động mạch cổ có bị nghẽn không -9/ Radionuclide SPECT Scanning : dùng chất phóng xạ để đo lưu lượng máu trong Não -10/ PET Scanning dùng để xác định sự biến dưỡng của các vùng trong Não -11/ Hình chụp mạch máu Não (Cerebral Angiography) để thấy tình trạng các mạch máu Não .
B/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT) : Điều trị cấp cứu của bệnh Tai Biến Mạch Máu Não cần phải nhanh chóng vì những hư hại của Não sẽ xẫy ra trong vòng vài giờ sau khi bị tai biến . Ngoài cách sử dụng thuốc ra , trong vài trường hợp , ngày nay người ta phải dùng đến PHẪU THUẬT , chẳng hạn như trong :
1/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN : (Subarachnoid Hemorrgage) : Người ta làm Vi phẫu “Động Mạch Phình” hoặc Vi phẫu “Dị Tật mạch máu bẩm sinh” (Microsurgery for Aneurysm or Arterioveinous Malformation) và dùng kỹ thuật “Kẹp Mạch” (Clipping) . Kỹ thuật “Clipping” là “Tiêu Chuẩn Vàng” (Gold Standard) trong phép điều trị bằng phẫu thuật của bệnh “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” .
2/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH CỔ : Người ta làm Phẫu thuật trên Động Mạch Cổ , cắt bỏ lớp bên trong của động mạch nầy (Carotid Endarterectomy) để loại bõ nguyên nhân nghẽn tắt nhẽn . Người ta còn có thể làm phẫu thuật để “Tái tạo thông máu” và tái lập lưu lượng trong mạch máu , người ta làm “Phẫu thuật bắt cầu” (Shunt) .
IX/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG (CAUSE OF DEATH) CỦA VUA QUANG TRUNG :
Vua Quang Trung đã mất khoảng 2 tháng sau ngày bị “bạo bệnh” mặc dầu đã được triều thần hết sức chữa chạy . Vua đã mất ngày 16 tháng 9 năm 1792 (tức ngày 29 tháng 7 âm lịch) . Vua đã bị chứng bệnh gì để đưa đến tử vong ? Nói một cách khác , chứng bệnh tử vong của Vua có thể là những chứng bệnh gì ?
A/ BỆNH TÁI PHÁT (RECURRENCES) : Chứng “Xuất Huyết Dưới màng Nhện” (Subarachnoid Hemorrhage) cũng như mọi chứng ”Xuất Huyết Trong Não” đều có thể tái phát . Thông thường các trường hợp tái phát thường dữ dội hơn , có thể đưa đến tử vong rất dễ dàng . Tuy nhiên , trong bệnh “Xuất Huyết Màng Nhện” thì bệnh tái phát tức “chảy máu lại” thường trong vòng một vài tuần sau đó . Theo thống kê , 15% đến 20% bị tái lại trong 2 tuần sau . Ở đây , Nhà Vua đã qua được đến gần hai tháng nên nguyên nhân tử vong khó có thể là trường hợp tái phát xuất huyết của bệnh .
B/ VIÊM PHỔI HÍT (VIÊM PHỔI SẶC) (ASPIRATION PNEUMONIA) : Một bệnh nhân khi bị tê liệt nửa người do bệnh “Xuất Huyết Não” hay “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” thường có kèm theo những triệu chứng rối loạn thần kinh của các chức năng NUỐT , hay chức năng THỞ v.v.. . Rối loạn của chức năng ““NUỐT” thường dễ đưa đến “Sặc” và khi bị Sặc , thức ăn thường có thể “chạy lộn đường” (“Fausse Route”) vào Khí Quản . Do đó , hệ quả sẽ có thể là :
1/ TẮC NGHẼN PHẾ QUẢN (Obstruction of Bronchioles) với hậu quả tạo nên “Chứng Xẹp Phổi” (Pulmonary Atelectasis) , làm giảm lượng Oxygen trong Phổi và Máu . Ngoài ra , bệnh nhân bị Liệt Nửa Người thường nằm một bên , vị trí ít thay 13
đổi , ít di chuyển thân hình qua lại đều đều bên nầy và bên kia nên các “Cục Đờm” (Mucus Plugs) dễ bị ứ đọng trong các phế quản gây nên “Tắc nghẽn Phế quản” với hậu quả là “Chứng Phổi Xẹp” như đã nói ở trên .
2/ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG PHỔI , đưa đến “CHỨNG VIÊM HÍT” còn gọi là “VIÊM PHỔI SẶC” (Aspiration Pneumonia) . Sở dĩ có “Viêm Phổi Hít” là vì các mảnh thức ăn hít vào trong khí quản sẽ tác dụng như là Vật Lạ trong Khí quản (Bronchial Foreign Bodies) và sẽ là mầm mống sinh ra Nhiễm Trùng . Hệ thống Miễn Nhiễm trong cơ thể các bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường bị suy yếu nên vì thế sức đề kháng chống lại vi trùng cũng đã giảm thiểu rất nhiều . Vì vậy , “Viêm Phổi Hít” thường rất dễ dẫn đến “Tử Vong” (Death) .
Về Triệu chứng của Viêm Phổi Hít , lúc đầu thường là Ho ra đờm xanh , Khó thở , Thở Khò Khè , có thể bị Sốt , Ớn Lạnh , Đau Ngực v.v..
Về Chữa Trị của “Viêm Phổi Hít” , trong Y khoa ngày nay như đã trình bày ở trên , người ta phải dùng Kỹ Thuật Nội Soi Khí Quản (Bronchial Endoscopy) để lấy “Vật Lạ” trong khí quản ra , phải Rửa Khí Quản (Bronchial Toilette) và chữa trị mạnh tay với các KHÁNG SINH phù hợp và với liều lượng đúng mức . Ngoài ra , phải cho bệnh nhân thay đổi vị trí nằm thường xuyên , phải hút đờm nhiều lần bằng ống hút mềm xuyên qua mũi . Khi cho bệnh nhân uống nước hay khi đút cho bệnh nhân ăn thường phải rất cẩn thận , đừng để bệnh nhân sặc và nên dùng các thức ăn mềm đã xay nhuyễn . Tốt hơn ết là làm lổ thông Dạ Dày với ngoài da (Gastrostomy) để có thể nuôi dưỡng bệnh nhân đúng mức và lâu ngày mà không gây nên chứng “Viêm Phổi Sặc” hay “Viêm Phổi Hít” nầy .
Bệnh “Viêm Phổi Hít” thường khởi đầu bằng “Viêm Màng Phổi” rồi tiến dần đến “Tràn Dịch Màng Phổi” với Dịch bao quanh phổi , đưa đến “Mủ Màng Phổi” với Mủ bao quanh phổi và cuối cùng là tử vong do “CHỨNG SUY HÔ HẤP” (RESPIRATORY DISTRESS) và Chức năng Hô Hấp hoàn toàn bị suy sụp . Bệnh nhân sẽ không thở được nữa và Oxygen sẽ không còn vào Não Bộ .
Con đường cuối cùng đưa đến Tử Vong (Road Map to The End) của những bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường là thế . Và vì vậy , theo chúng tôi , SAU KHI bị bệnh “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” suốt hai tháng trời , RẤT CÓ THỂ :VUA QUANG TRUNG ĐÃ QUA ĐỜI VÌ BỆNH VIÊM PHỔI HÍT (ASPIRATION PHEUMONIA) dẫn đến tình trạng :TRỤY HÔ HẤP(Respiratory Distress)
X/ KẾT LUẬN (CONCLUSIONS) :
Và như thế , dựa vào các hiểu biết của Y Khoa ngày nay phối hợp với các Tư liệu Sử Học có giá trị còn lưu lại , chúng tôi hy vọng là chúng ta đã có thể đi đến kết luận “KHÃ DĨ” cuối cùng để có thể TRẢ LỜI HAI CÂU HỎI mà hằng bao thế hệ người Việt Nam đã đặt ra về “Cái Chết của Vua Quang Trung” :
“NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” :
1/ CĂN BỆNH CỦA VUA QUANG TRUNG : XUẤT HUYẾT NÃO , DƯỚI MÀNG NHỆN (SubArachnoid Hemorrhage) do “VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Rupture of Aneurysm)
2/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG CỦA VUA QUANG TRUNG :
VIÊM PHỔI HÍT (Aspiration Pneumonia) dãn đến TRỤY HÔ HẤP (Respiratory Distress)
Theo chúng tôi , hai câu trả lời trên là hai câu trả lời “KHẢ DĨ NHẤT” và “CÓ ĐỘ CAO TIN CẬY NHẤT” mà chúng ta ngày nay có thể suy diễn được từ các tư liệu Sử Học còn lưu lại và qua các hiểu biết của Y Khoa ngày nay (2008) về Căn bệnh và về nguyên nhân Tử Vong của Vua Quang Trung hơn 200 năm trước đây .
B.S. Bùi Minh Đức
7/5/2008
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2008 1:40:19 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:44:24 GMT 9
Về cơ sở khoa học của một công trình Vietsciences-Trần Viết Điền 13/05/2010 Báo GIA LAI Xuân Canh Dần 2010 có bài phỏng vấn do nhà báo Thanh Vân thực hiện, trang 82, đã đặt vấn đề nghiêm túc khi phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về việc đi tìm vị trí lăng mộ vua Quang Trung. Từ khi công bố công trình Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung (ký hiệu [1]) vào năm 2007 cho đến nay, nhà nghiên cứu không công bố thêm những phát hiện mới, và càng ngày ông càng tin vào kết quả nghiên cứu của mình. Trả lời phỏng vấn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân khẳng định: “Công trình nghiên cứu của tôi giải mã được bí ẩn khu vực có Lăng mộ Vua Quang Trung…”. Ông gạt bỏ những ý kiến phản biện khi cho rằng: “…đã có hằng trăm người tham gia ý kiến, trong đó có một số ý kiến phản biện. Nhưng tất cả những phản biện ấy đều thiếu cơ sở khoa học nên không giúp được gì cho tôi. Trái lại, sau các phản biện ấy tôi càng tin công trình của tôi hơn. Theo tôi, sự thực chỉ có một, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm được sự thực ấy nên không nghĩ đến bất cứ một hướng tìm tòi nào khác nữa.”. Như thế nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân mặc nhiên khẳng định công trình của mình là có cơ sở khoa học (?). Năm 2007, chúng tôi từng phản biện công trình [1] với 13 điểm, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân những ý kiến phản biện ấy là thiếu cơ sở khoa học. Điều đáng tiếc là tác giả của [1] chưa chỉ ra những chỗ thiếu sót của những ý kiến phản biện đối với [1] về mặt khoa học. Nếu vì khoa học thực sự, nhà nghiên cứu đã trả lời hay thảo luận một vài vấn đề có phản biện, để làm sáng tỏ, nhờ thế độ tin của công trình [1] mới tăng lên. Dẫu sao tác giả của [1] đã nêu 8 câu hỏi dành cho một số nhà nghiên cứu, vốn không đồng tình giả thuyết trong [1], như Hồ Tấn Phan, Lê Nguyễn Lưu, Trần Đại Vinh và chúng tôi. Chúng tôi đã trả lời 8 câu hỏi ấy. Chúng tôi chờ tác giả công trình [1] thảo luận một cách minh bạch, chỉ ra cái sai, cái thiếu cơ sở khoa học của những phản biện, nhưng điều đáng tiếc là tác giả [1] đã trao đổi với chúng tôi bằng ngôn từ, thái độ ngoài khuôn khổ khoa học. Công trình [1] dày 416 trang, nhưng thực chất chỉ có khoảng 160 trang là trình bày những giả thuyết công tác. Phần còn lại, chiếm 255 trang, có giá trị về mặt phổ biến kiến thức, mang tính cổ súy công việc nghiên cứu… chứ không chứa đựng cơ sở khoa học của công trình nghiên cứu xác định lăng mộ vua Quang Trung. Phần lớn những dẫn liệu, mà nhà nghiên cứu làm cơ sở của giả thuyết công tác, là ít nhất có hai cách kiến giải khác nhau. Tác giả công trình chưa chỉ ra cái sai của kiến giải khác mình, tức là chứng minh kiến giải mình đúng khi gặp phản biện. Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập năm vấn đề, góp phần chứng minh cơ sở giả thuyết công tác trong [1] thiếu sức thuyết phục, thậm chí bị sai lệch với sự thực lịch sử. Vấn đề I Ngọc Hân từng ở và sáng tác Ai Tư Vãn tại chùa Kim Tiên không? 1. Về danh xưng Cầu Tiên. 2. Có thật chùa Kim Tiên bị bỏ phế vì Ngọc Hân từng ở chùa ấy? 3. Ai Tư Vãn cho biết Ngọc Hân không ở chùa Kim Tiên. 4. Không ở chùa Kim Tiên vẫn được tôn xưng “Bà Chúa Tiên”. Vấn đề II Triều Tây Sơn có tôn tạo phủ Dương Xuân thành cung điện Đan Dương để vua Quang Trung ở và làm việc không? 1. Đan Dương cung điện là sơn lăng… 2. “Tiểu giám hộ lăng thường đến hầu rượu”. 3. Có thật triều Nguyễn cố ý giấu phủ Dương Xuân không? Vấn đề III Dấu tích thành lũy do vua Quang Trung đắp thêm quanh dinh ngài ở đâu ? 1. Hướng A, dinh Quang Trung ở gần chùa Thiền Lâm, kỳ thú nhưng thiếu thuyết phục. 2. Hướng B với cách tiếp cận thành Phú Xuân xưa và dấu tích thành lũy do vua Quang Trung cho đắp thêm. a. Về một cách định vị trung tâm và bình đồ thành Phú Xuân thời Tây Sơn. b. Dấu tích chiến lũy do vua Quang Trung đắp ở khu vực cầu Lạc Nô. Vấn đề IV Dấu tích phủ Dương Xuân ở đâu sao cho phù hợp những ghi chép trong thư tịch cổ? 1. Giả thuyết mới về phủ Dương Xuân ở Bàu Vá, Dương Xuân. 2. Tư liệu Nguyễn Sinh Duy về phủ Dương Xuân. 3. Kiểm chứng giả thuyết mới có phù hợp với tư liệu Nguyễn Sinh Duy không? 4. Giả thuyết về phủ Dương Xuân trong [1] quá bất cập. Vấn đề V Những di vật gạch đá được giới thiệu trong [1] chưa được giám định mà tác giả [1] đã khẳng định là của Đan Dương lăng. 1. Về viên gạch bìa Tây Sơn. a) Việc tìm kiếm gạch bìa Tây Sơn ở công trình kiến trúc Tây Sơn ở Huế b) Không tìm thấy loại gạch bìa nói ở a) tại lăng mộ của chúa Nguyễn. c) Sự hiện diện của loại gạch bìa 2 cm x12 cm x24cm của Tây Sơn ở các công trình của chúa Nguyễn nhưng Tây Sơn đã tôn tạo, cơi nới để sử dụng. d) Công trình [1] không chỉ ra được gach nào của thời Tây Sơn, gạch nào của thời chúa Nguyễn. 2. Hiện vật đá: a) Đá kê cột, đá lát…: b) Bia “Cổ kính trùng viên thuyết” ở chùa Diệu Đức. c) Về tấm đá ở chùa Vạn Phước. Vấn đề I NGỌC HÂN TỪNG Ở VÀ SÁNG TÁC AI TƯ VÃN TẠI CHÙA KIM TIÊN KHÔNG? Trên báo THẾ GIỚI MỚI số 26/1992 nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân công bố bài “Công chúa Ngọc Hân sáng tác bài Ai Tư Vãn ở chùa Kim Tiên?”, sau đó tác giả in lại trong phần phụ lục của công trình [1]. Qua bài viết tác giả đã xây dựng một giả thuyết công tác hấp dẫn. Tuy nhiên, giả thuyết chưa dựa trên một tư liệu chính sử hoặc dã sử nào đáng tin cậy. Tự tác giả cũng thấy điều ấy khi kết luận: “Mặc dù tài liệu lịch sử, văn thư, văn học dân gian và thực tế ở địa phương có nhiều điểm trùng khớp có thể tin được. Nhưng dù sao bài viết nhỏ này cũng chỉ là một kiến giải ban đầu. Để được xác nhận chính thức, chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu.”. Thế nhưng, gần đây trên Giác Ngộ online có bài “Thăm chùa Kim Tiên: Qua Ai Tư Vãn của Công chúa Ngọc Hân” của tác giả Không Lực. Tác giả không dẫn cứ liệu lịch sử nào ngoài Ai Tư Vãn để chứng minh Tây Sơn trưng dụng chùa Thiền lâm để Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân ở thì chắc chắn dựa vào “gợi ý” của [1] rồi. Bài viết của tác giả Không Lực khiến độc giả tưởng chừng như giả thuyết công tác của [1] đã được kiểm chứng, giới nghiên cứu đã công nhận và phổ biến một sự kiện không có trong lịch sử: Tây Sơn chiếm chùa Kim Tiên, ngôi chùa tráng lệ bậc nhất ở Phú Xuân, làm cung điện của Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân. Một công chúa được giáo dưỡng đầy đủ như Ngọc Hân không thể chấp nhận việc chiếm chùa thờ Phật Thánh để ở. Tại sao? Chỉ vỏn vẹn một danh xưng “CẦU TIÊN”, tác giả Ai Tư Vãn dùng như “điển cố, điển tích” để chỉ lăng vua Quang Trung, trong hai câu “Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non/ Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu”, mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từng đưa giả thuyết táo bạo: Tây Sơn từng trưng dụng chùa Kim Tiên để Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân ở, nhằm gần vua Quang Trung đang sống và làm việc ở cung điện Đan Dương trên gò nhỏ xứ Lâm Lộc. Cung điện này được dựng trên nền móng cũ của phủ Dương Xuân thời chúa Nguyễn, gần chùa Thiền Lâm. Khi vua Quang Trung mất, bà đã sáng tác Ai Tư Vãn tại chùa Kim Tiên (?). Với giả thuyết này thì đô thành của Tây Sơn là ở vùng rừng núi, phía nam sông Hương, vây quanh là chùa chiền, mộ địa ư? Có thực như thế không? Chúng tôi quyết tâm rà soát cơ sở khoa học của giả thuyết táo bạo nói trên. 1. Về danh xưng Cầu Tiên: Nhà nghiên cứu Hoàng Thúc Trâm trong sách Quốc văn đời Tây Sơn, từng chú thích hai chữ CẦU TIÊN của Ai Tư Vãn: “Mộ giả của vua Quang Trung ở Linh Đường (gần Cầu Tiên) giáp làng Đại Từ thuộc Thanh Trì, Hà Đông. Ý nói: khi thương nhớ buông mắt xa trông mộ giả của vùng Cầu Tiên chỉ thấy mịt mờ khói tỏa, nào đâu bóng người thân yêu? Còn hai chữ “đỉnh non” chừng như tác giả phóng bút thêm vào cho có văn vẻ” (tr.83). Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân dẫn chú thích trên và bình luận: “Tác giả Hoàng Thúc Trâm là một nhà nghiên cứu uyên thâm, nhưng đọc cái chú thích trên của ông tôi ngờ ngợ. Tôi không rõ ở Linh Đường có cây Cầu Tiên thật hay không, trong tâm trí tôi ẩn hiện một điều: “Ngọc Hân rất yêu quý vua Quang Trung, tại sao trong phòng tiêu vắng vẻ, Ngọc Hân không nhớ cái mộ thật mà Bà đang có trách nhiệm hương khói hàng ngày tại phía nam sông Hương (Mộ Huệ táng vu Hương Giang chi nam-Đại Nam thực lục, “Ngụy Tây”) mà lại đi nhớ cái mộ giả do triều Quang Toản đã bày đặt ra để đánh lừa các sứ thần nhà Thanh ở Linh Đường thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội?”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đặt vấn đề Ngọc Hân nhớ mộ thật chứ không nhớ mộ giả là đúng đắn. Như thế chú thích của Hoàng Thúc Trâm là chưa ổn. Tuy nhiên, Hoàng Thúc Trâm cho biết Cầu Tiên gần Linh Đường, giáp làng Đại Từ là có thật. Và mộ giả của vua Quang Trung ở Linh Đường cũng có thật, bị kẻ gian đào năm 1989 và sau đó nhóm khảo cổ, TS Nguyễn Mạnh Cường chủ trì, đã khai quật để giám định chủ nhân thật ở mộ giả của vua Quang Trung. Trên baodatviet.vn có bài Đại Từ - làng truyền thống nhận con nuôi, có nói về Cầu Tiên. Xin trích một đoạn: Hình 1: Cổng làng Đại Từ (baodatviet.vn) Đại Từ nằm gần đầm Đại nên còn được gọi là làng Đầm. Theo gia phả các dòng họ thì làng Đại Từ hình thành từ đầu thế kỷ 17. Lúc đầu, có một số người từ xứ Đông đến mở đất dựng nhà bên bờ sông Tô Lịch. Sau, để tiện việc sinh hoạt, họ đến định cư ở bờ tây đầm Linh Đường (Linh Đàm), cách vị trí cũ không xa. Hơn một thế kỷ sau, người đông đúc, xóm ngõ hình thành và bộ phận cư dân này trở thành một thôn của xã Linh Đường, huyện Thanh Trì. Từ sau hòa bình, Đại Từ hợp với các làng Kim Lũ, Kim Giang, Kim Văn thành xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai. Có người cho rằng, cái tên “Đại Từ” có nghĩa là đại từ bi, theo tinh thần bác ái của đạo Phật, đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành truyền thống kính già yêu trẻ, nuôi trẻ mát tay, hay ăn chóng lớn, béo khoẻ. Còn theo cụ Phạm Đăng Sáng, Chi hội trưởng chi hội người cao tuổi làng Đại Từ, truyền thuyết kể rằng, xưa các cô tiên hay xuống chơi ở đầu làng, rồi có cô đã để “quên” hai bầu vú ở Cầu Tiên. Vì là vú tiên nên dân làng không dám lạm dụng, họ nghĩ đến việc chia một nửa cho thiên hạ. Từ đó, người làng có tục nhận con nuôi. Đứa trẻ nào đến tay bà mẹ Đại Từ đều được chăm sóc, cái nghĩa “quý con người hơn con mình” của các bà làm cả Thăng Long sôi động, nhà vua đã ban khen “Đại Từ nghĩa dân”. Hình 2: Ảnh chụp vệ tinh vùng Linh Đàm, có Cầu Tiên và mộ giả của vua Quang Trung Qua bài viết trên đủ thấy Cầu Tiên ở gần mộ giả Quang Trung là có thật trên 200 năm. Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân viết Ai Tư Vãn trong tình hình triều Tây Sơn ở Phú Xuân đang bí mật chôn cất tiên đế Quang Trung ở kinh đô Phú Xuân, cử sứ bộ Ngô Thì Nhậm sang báo tang và cho triều Thanh biết triều Tây Sơn, theo lời dặn của tiên đế, táng vua Quang Trung ở Linh Đường Thăng Long. Vua Càn Long cảm kích, cử sứ giả Tề Bồ Sâm sang phúng tế, tặng một bài thơ của Càn Long và triều Tây Sơn cho khắc bia đá, dựng ở mộ giả Linh Đường. Thế thì trong tình hình triều Tây Sơn an táng bí mật vua Quang Trung, Ngọc Hân nhắc Cầu Tiên, như một “điển cố”, để người đọc liên tưởng lăng Quang Trung khi viết Ai Tư Vãn, hoặc như một hình thức “đánh tiếng” để góp phần giữ “bí mật quốc gia” vậy. Thế thì giải thích danh xưng “Cầu Tiên” của Hoàng Thúc Trâm không chừng trúng ý của người xưa. Nếu Ngọc Hân viết về Cầu Tiên ở Phú Xuân khi sáng tác Ai Tư Vãn, theo kiến giải của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, thì hóa ra Bà để lộ bí mật quốc gia rồi. Ngoài ra, khi một danh xưng trong một tác phẩm viết bằng thơ có dị bản, chưa xử lý về mặt văn bản học, mà vội làm cơ sở cho một giả thuyết khoa học lớn thì e rằng tác giả công trình [1] quá chủ quan. Thật vậy, gần đây tác giả Mai Đôn khi viết bài “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”, đăng trên Bee.net.vn, ngày 3-4-2010, có nói về dị bản của Ai Tư Vãn trong đoạn: “Trong bài thơ Sóc vọng thị tấu nhạc Thái Tổ miếu cung ký, ông có viết: "Nhất tự Kiều Sơn mật bát âm/Kim liên ngự chúc tuyết hoa trầm" (Từ thuở Kiều Sơn bặt tám âm/Đài sen nến ngự tuyết hoa trầm - Ngô Linh Ngọc dịch)… Địa danh Kiều Sơn - núi Kiều còn được Lê Ngọc Hân đề cập đến trong bài Ai tư vãn: "Kiều Sơn khói toả đỉnh non/Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu”. (1). Và Mai Đôn chú thích: “Chú thích: (1) - Bài Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân có nhiều dị bản. Câu này có bản ghi: Cầu Tiên khói toả đỉnh non, không hợp lý lắm. Đã là "cầu" sao lại có "khói toả đỉnh non"?”. Sách “Bí ẩn của phong thủy”, tác giả Vương Ngọc Đức, dịch giả Trần Đình Hiến, NXB VH-TT, 1995, có đoạn: “Lăng Hoàng đế ở bắc huyện thành Hoàng lăng, Thiểm tây. Hoàng đế, hiệu Hữu Hùng, truyền rằng ngài công lao to lớn, rất nhiều phát minh. Lăng Hoàng đế xây trên đỉnh Kiều Sơn - Kiều Sơn có hình dạng như cây cầu, nên có tên Kiều Sơn (núi cầu). Sông Cù Chảy xuyên trong lòng núi, quặt sang hướng đông rồi chảy đi. Lăng cao 3,6 mét, chu vi 48 mét. Dưới chân Kiều Sơn có miếu Hoàng đế, tùng bách vây quanh, cây cao nhất 19 mét, bảy người ôm” (sđd, tr. 467). Như thế bản gốc Ai Tư Vãn viết Cầu Tiên hay viết Kiều Sơn thì chưa xác nhận được. Nhưng dễ thấy Cầu Tiên hay Kiều Sơn là cụm từ như một “điển cố” nhằm chỉ lăng vua, chứ tác giả Ai Tư Vãn không có ý chỉ một chiếc cầu nào đó ở Phú Xuân. Vậy tính đến nay không có sử liệu nào làm bằng cớ triều Tây sơn trưng dụng chùa Kim Tiên để Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân ở. 2. Có thật chùa Kim Tiên bị bỏ phế vì Ngọc Hân từng ở chùa ấy ? Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nêu quyết tâm tìm “Cầu Tiên ở Phú Xuân”. Chưa có một thư tịch cổ nào ghi chép về một chiếc cầu ở Phú Xuân mang tên “Cầu Tiên”. Có cầu Thanh Tiên ở Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, nhưng dân gian không gọi Cầu Tiên. Chẳng hạn cầu xe lửa Tiên An có thể gọi là Cầu Tiên ư? Còn chiếc cầu bắc qua khe gần chùa Kim Tiên, Vạn Phước dân gian không gọi là Cầu Tiên, mà thường gọi là “Cầu Ván Dương Xuân Hạ” và Đại Nam nhất thống chí cũng chép như dân gian gọi. Cứ cho là chiếc cầu bắc qua khe gần chùa Kim Tiên nên có tên Cầu Kim Tiên, thì cũng chưa phải là Cầu Tiên. Thật không ổn khi bỏ bớt chữ Kim để gán ghép Cầu Kim Tiên là Cầu Tiên! Nhắc đến cầu Kim Tiên, khi sáng tác Ai Tư Vãn, là chỉ lăng vua Quang Trung, chứ không thông báo sự kiện Ngọc Hân ở gần cầu Kim Tiên. Thật táo bạo hơn nữa khi cho rằng Bắc cung hoàng hậu ở chùa Kim Tiên, để gần cung điện Đan Dương (nơi vua Quang Trung ngự). Cơ sở của giả thuyết “Ngọc Hân ở chùa Kim Tên” chỉ là câu trả lời chung chung của sư trụ trì chùa: “Trước đây có quân chi đó đến ở, sau đó có quân chi chi đó đến đánh phá. Người dân trong ấp nhớ thương người cũ đã than rằng: Vì ai nên nỗi sầu này Chùa Tiên vắng khách, tớ thầy xa nhau”(NĐX, báo TGM, 26/1992) Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi [1799], quân Tây Sơn còn đóng ở chùa Kim Tiên cho đến 1801 ư? Năm Tân Dậu [1801], đạo quân phòng thủ Tây sơn ở Qui Sơn gần cửa Ô Long (Tư Hiền), do phò mã Trị của Tây Sơn chỉ huy, bị quân Nguyễn Vương đánh bại. Vua tôi Cảnh Thịnh đang mang quân về phía phá Tam Giang để tiếp ứng, nghe tin mặt trận Ô Long-Qui Sơn bị vỡ, liền bỏ chạy ra bắc, đâu có đánh nhau giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Vương ở khu vực gò có chùa Kim Tiên, chùa Thiền Lâm. Công trình [1] cho rằng có đánh lớn ở khu vực chùa Kim Tiên vào năm 1801 là không đúng với lịch sử! Hình 3: Ảnh chụp vệ tinh vùng bờ biển, đầm phá từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền, nơi quân Cảnh Thịnh chống giữ và tháo chạy vào tháng 5 Tân Dậu [1801], khu vực này có giao tranh đẫm máu, làm gì có đánh lớn ở gò đồi vùng Lâm Lộc (có chùa Thiền Lâm, Kim Tiên). Gặp một đoạn ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí về chùa Kim Tiên, chưa xử lý nghiêm túc, rồi suy diễn “quân Tây sơn đánh nhau với quân Nguyễn Ánh” (ở gò xứ Lâm Lộc (Bình An)) thì chủ quan lắm. Xin trích lại tư liệu mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từng dẫn để thảo luận: “Ở ấp Bình An, tương truyền chùa này do Hòa thượng Bích Phong làm ra, đời vua Thế tôn (Nguyễn Phúc Khoát) bản triều trùng tu sơn thiếp vàng xanh rực rỡ, trước dựng lầu vọng tiên, quy chế tráng lệ. Sau gặp binh hỏa bỏ hoang phế, nay (tức thời Thành Thái – Duy Tân) [NĐX chú] người trong ấp ấy nhân theo nền cũ làm lại. Trước chùa có giếng xưa, sâu hơn 30 thước, nước mát trong sạch (nay vẫn còn). Tương truyền xưa có tiên nữ tắm ở giếng ấy, nên cũng có tên là giếng Tiên”. Nhà nghiên cứu bình luận “ Sau chiến tranh với Tây Sơn, vua Gia Long triệt hạ hết những gì có liên quan đến Tây Sơn (tức “Loạn”)…” và “Nhưng khi vua Gia Long cầm quyền ở Huế, tất cả các chùa khác dù lớn dù nhỏ đều được nhà nước hoặc các bà hậu, các bà chúa bỏ tiền trùng tu, riêng chùa Kim Tiên mãi đến thế kỷ XX dân trong ấp mới được làm lại một cách khiêm tốn”. Từ suy diễn ấy, nhà nghiên cứu đặt vấn đề hấp dẫn “Phải chăng bà Bắc cung Hoàng hậu Ngọc Hân đã ở chùa Kim Tiên?”. Thế thì chùa Kim Tiên đã bị triệt hạ và bỏ hoang phế trên dưới 100 năm (từ 1801 đến thời Thành Thái – Duy Tân) ư? Phật tử ở ấp Bình An không dám trùng tu, không dám đến lễ Phật ở ngôi chùa “dính líu Tây Sơn” thì thử hỏi có vị sư nào dám tiếp tục trụ trì ở một phế tích bị triều Nguyễn triệt hạ và cấm lai vãng như chùa Kim Tiên không ? Tại sao “Sau binh hỏa” được viết trong Đại Nam nhất thống chí lại hiểu là “Sau chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn” mà thôi?
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:52:50 GMT 9
Sự thật trong vụ Pháp giúp Nguyễn Ánh khôi phục miền Nam
Võ Thu Tịnh
Bối cảnh lịch sử
Ở Tây Sơn, miền Trung, năm 1771, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ nổi dậy, chiếm được Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận ở phía nam và Quảng Nghĩa phía bắc. Trịnh Sâm liền sai Hoàng Ngũ Phúc (tước Việp quận công, tức quận Việp) đem quân vào Nam lấy danh nghĩa trừ quyền thần Trương Phúc Loan và diệt loạn Tây Sơn. Thấy thế quân Trịnh quá mạnh, chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (23 tuổi) bắt Trương Phúc Loan đem nạp, xin hàng.
Quân Trịnh chiếm Phú Xuân. Yếu thế, Nguyễn Nhạc sai người đem thư và vàng lụa đến quận Việp xin hàng, xin nộp đất Quảng Nghĩa, Qui Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi truy đánh Chúa Nguyễn. Tháng 4/ 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, nhưng lại sai sứ ra xin chúa Trịnh cho trấn thủ Quảng Nam. Chúa Trịnh chấp thuận. Để gây cảm tình với Chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho Thế tử. (Chúa Định không có con trai, nên lấy cháu là Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung Thế tư)Ư.
Ủng hộ Chúa Nguyễn, Hoa kiều là Lý Tài đem quân đón Thế tử trốn về Gia Định, tôn làm Tân Chính Vương, và tôn Định vương làm Thái Thượng Hoàng, giữ đất đai phì nhiêu trong Nam để lo việc phục quốc.
Nhạc bèn sai Lữ và Huệ vào đánh Gia Định. Tháng 4 năm 1775, Gia Định bị thất thủ, Định vương và Nguyễn AÔnh chạy về Biên Hòa, Tây Ninh, Châu Đốc rồi tối Hà Tiên. Tại đó, gặp Đức cha Bá Đa Lộc vào khoảng tháng 4 hay tháng 5 năm 1776. Nguyễn Huệ bắt được Thái Thượng Hoàng Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương đem giết. Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.
John Barrow trong ỏVoyage en Cochinchineõ kể lại rằng: ị Bấy giờ (tháng 10-1777) hoàng tử trẻ tuổi (Nguyễn Ánh), vợ hoàng tử, và con trai hoàng tử còn thơ ấu và một em gái của hoàng tử đã trốn thoát do sự giúp đỡ của Đức cha Bá Đa Lộc. Nhờ có đêm tối, họ chạy được ra rất xa kinh thành (thị trấn Long Xuyên) và trú ẩn trong một khu rừng. Nơi đó trong nhiều tháng họ sống dưới những tùm lá ... Đức cha sai linh mục Paul Hồ Văn Nghị, không quản nguy hiểm tới tính mạng, hàng ngày đem lương thực đến tiếp tếỂ. Sau đo,Ô Nguyễn AÔnh và gia quyến chạy ra Phú Quốc, rồi đến trú ẩn tại đảo Thổ Châu (Poulo Panjiang).
Vậy Đức cha Bá Đa Lộc là ai ?
Bá Đa Lộc là Pierre Pigneaux de Béhaine, Evêque dõAdran, sinh năm 1741 tại Origny-Sainte-Benoite ở Thiérarche, tỉnh Aisne (02). Họ ôngỳ là Pigneaux, tên thánh là Pierre, mà sử ta gọỳi là Bá Đa Lộc (do chữ Pierre của Pháp, tức là chữ Pedro của Bồ Đào Nha, người Tàu phiên âm là Pe-To-Lu, viết ra chữ Tàu mà đọc theo giọng Hán Việt là Bách Đa Lộc, rồi Bá Đa Lộc). Sau ông tự thêm vào tên họ mình hai chữ ỏde Béhaineõ. Còn chức ỏEvêque dõAdranõ (Giám mục Adran là một giáo xứ ở Trung Đông đã bị người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm từ lâu) được Giáo hội Pháp phong cho ông năm 1770, để có đủ tư cách lãnh chức vụ Đại Lý tòa Thánh cho ba nước Cochinchine (Xứ Đàng Trong), Cao Miên và Chiêm Thành (để tránh sự chống đối của Giáo hội Bồ Đào Nha, vì lúc bấy giờ tại Viễn Đông, có hai Giáo hội thuộc Thiên Chúa giáo Vatican là Giáo hội Bồ Đào Nha và Giáo hội Pháp đang cạnh tranh nhau trong việc truyền giáo).
Giáo xứ của ông đặt tại Chantaburi (thờợi ấy thuộc Cao Miên, nay thuộc Thái Lan) rồi vì loạn lạc nên dời về Hòn Đất, rồi Cần Cao thuộc Hà Tiên. Tổng trấn Hà Tiên, Mạc Thiên Tích, người Tàu lai Việt (Minh Hương) là một trung thần của các chúa Nguyễn, đã giúp Đức cha Bá Đa Lộc tập họp được chừng 500 giáo dân tại Cần cao.
Nguyễn AÔnh hưng binh
Mùa xuân 1778, Nguyễn AÔnh rời cù lao Thổ Châu về đất liền, được nhóm Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn và Võ Tánh (là những tướng lĩnh tài ba) ủng hộ đánh lấy lại từ Hà Tiên ra đến Nha Trang. Năm 1780 Nguyễn AÔnh xưng vương, (song vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê Hiển Tông ở Đông kinh tức Hà Nội ngày nay), có 80 chiến thuyền, tập họp chừng 30. 000 quân, phong Đỗ Thanh Nhơn làm Ngoại hữu Phụ chính, Thượng tướng công.
Tu viện của Đức Giám mục Bá Đa Lộc ở Hà Tiên bị giặc Cao Miên cướp phá, phải dời về gần Biên Hòa. Ông giới thiệu với Nguyễn vương Ánh 4 người tư nhân ngoại quốc : hai thủy thủ người Pháp tên Joang và Manuel (ta gọi là Mạn Hòe) người nầy được chỉ huy một chiếc tàu bọc đồng với chức Khâm sai Chưởng cơ ; hai người Tây Ban Nha là Jannario và Manoe.
Năm 1781, Nguyễn AÔnh thấy Đỗ Thanh Nhơn cậy công lộng quyền, bèn lập mưu mời đến dự tiệc rồi cho đao phủ xông ra giết. Vì thế nhóm Đông Sơn bỏ đi và đánh lại Nguyễn vương. Có tướng bỏ theo Tây Sơn như Đỗ Nhàn Trập. Riêng Võ Tánh, 7 năm sau (1788) mới quay lại với Nguyễn Vương chống Tây Sơn.
Nguyễn AÔnh bại trận liên tiếp
Năm sau, tháng 3 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem 100 chiến thuyền vào đánh Gia Định, Chiến thuyền bọc đồng do Manuel điều khiển bị đốt cháy, Manuel tử trận. Vì thiếu tướng lãnh tài giỏi, Nguyễn AÔnh đại bại, 30.000 quân tan vỡ hết. Nguyễn vương AÔnh phải chạy về Ba Giồng rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.
Sau khi thắng trận, Nguyễn Nhạc rút quân về Qui Nhơn, đặt hàng tương Đỗ Nhàn Trập làm trấn thủ Sài Côn. Đầu tháng 10 năm 1782, có Châu Văn Tiếp, một cựu tướÔng của Định vương Nguyễn Phúc Thuần, tụ tập được một số quân giữ núi Trà Lang thuộc tỉnh Phú Yên, đi đường bể tới CÔần Giờ, hợp với quân các đạo đánh đuổi quân Tây Sơn, rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn AÔnh về. Bá Đa Lộc cũng trở về Nam Việt khoảng cuối tháng 10 năm 1782, ngụ tại Mặc Bắc, Trà Vinh, để trấn an tinh thần giáo dân, nhưng vẫn chuẩn bị để sẵn sàng chạy nữa.
Rồi không bao lâu, được tin quân Tây Sơn sắp trở lại, vào cuối tháng ba năm 1783, Bá Đa Lộc bỏ trốn, dọc đường được tin Nguyễn vương lại bị đại bại, mất gần hết đoàn chiến thuyền còn lại, nên ông chạy thẳng sang Chanthaburi ngày 21-8-1783. Còn Nguyễn AÔnh lại chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ đuổi theo đến Phú Quốc, Nguyễn AÔnh chạy sang đảo Côn Nôn (cù lao Koh Rong ở vịnh Xiêm La), Huệ đem thuyền vây Côn Nôn ba vòng. Nguyễn vương và gia đình cùng tướng sĩ phải nhịn đói nhiều ngày, hái rau, đào củ chuối để ăn. May có trận bão lớn mùa hè nổi lên, làm đắm nhiều thuyền của Tây Sơn, AÔnh thưà dịp xuống thuyền chạy sang cù lao Cô Cốt, rồi về lại Phú Quốc. Huệ đặt phò mã Trương Văn Đa, con rể Nhạc, trấạn thủ Gia Định, rồi rút quân về Qui Nhơn. Lần nầy, Nguyễn AÔnh phải trú ẩn tại Phú Quốc (lần thứ ba) hơn một năm trời từ khoảng tháng 8 năm 1783 đến tháng 9 năm 1784.
Nguyễn AÔnh cầu cứu ngoại bang
Ở vào thế cùng, đất liền bị Tây Sơn chiếm hết, quân sĩ tiêu tan, chiến thuyền cháy sạch, nên Nguyễn AÔnh nghĩ đến chuyện cầu cứu ngoại bang. Mà cầu cứu nước nào ?
-Tây Ban Nha : Mùa thu 1783, Nguyễn AÔnh sai Joang (người Pháp) và Manoe (người Tây Ban Nha) đi thuyền sang Lữ Tông (Manille) thủ đô Phi Luật Tân, lúc đó thuộc địa của Tây Ban Nha để cầu cứu với nước này. Chẳng may, dọc đường bị Tây Sơn bắt giết. Sau chiến hạm Tây Ban Nha được tin, đi tìm Nguyễn vương, hỏi Ba Đa Lộc không chỉ, nên không gặp được.
-Anh quốc : Theo tài liệu của Bá Đa Lộc, năm 1779, hai chiến hạm Anh quốc cũng đi tìm giúp Nguyễn AÔnh, để dọn đường thiết lập bang giao thương mãi tại Xứ Miền Trong sau nầy, nhưng không gặp được, nên việc không thành.
-Xiêm La (Thái Lan) : Nguyên tháng 11 năm 1781, vua Xiêm là Trình Quốc Anh (gốc Tàu, sử Tây phương gọi là Taksim) sai hai tướng là hai anh em Chất Tri (Chakkri) và Sô Si đem quân sang đánh Cao Miên. Nguyễn AÔnh sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Thoại (Thoại Ngọc hầu) đem 3.000 sang cứu vua Cao Miên. Bỗng ở Vọng Các (Bangkok) bị biến loạn, vua Xiêm bắt giam cả vợ và con của hai anh em Chất Tri, Sô Si. Hai tướng Xiêm liền xin hưu chiến, giao kết với Nguyễn Hữu Thoại, thề sẽ cứu nhau khi hoạn nạn. Rồi kéo quân về giết vua Trình Quốc Anh, xong, Chất Tri tự lập làm vua xưng là Rama I (Phật vương), Sô Si làm phó vương và dòng Chakkri làm vua Xiêm cho đến bây giơ.
Nay nhắc lại lời thề ấy, Nguyễn Ánh xin vua Xiêm cứu viện. Năm 1784, Rama I cho mời Nguyễn vương từ Thổ Châu sang Vọng Các, tiếp đãi rất hậu, rồi cho 20.000 quân cùng 300 chiếạn thuyền sang giúp để chiếm lại Gia Định. Năm sau (1785), đạo quân Xiêm bị Nguyễn Huệ đánh bại tan tành. Hai vạn quân Xiêm bị chết, chỉ còn vài ba nghìn sống sót lên bộ chạy về nước. Nguyễn AÔnh và gia quyến, quần thần được vua Xiêm cho cư ngụ và cấp cho ở riêng một vùng đất tại ngoại ô Vọng Các. Nhưng khi 2 vạn quân Xiêm sang giúp ta, đã ỷ thế, cướp hiếp tàn ác, lòng dân oán giận, Nguyễn vương không còn tính chuyện nhờ quân Xiêm nữa. Các tướng sĩ lục tục kéo sang, riêng Lê Văn Câu đem 600 nghĩa quân đến giúp, người thì làm ruộng nuôi quân, người thì ra các đảo đóng chiến thuyền, người thì lẻn về Gia Định mộ quân đợi ngày khôi phục.
Lúc bấy giờ có quân Miến Điện sang đánh Xiêm La, các tướng của Nguyễn vương, như Nguyễn văn Thành, Lê Văn Câu đem quân bản bộ đánh đuổi được. Quân ta lại có công tiễu trừ giậc Mã Lai quấy nhiễu vùng ven biển. Nên vua Xiêm càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn, nhưng không tính chuyện đưa quân giúp Nguyễn vương vì tự xét không đủ sức chống lại Nguyễn Huệ, chỉ muốn giữ vua quan ta ở lại Xiêm để nhờ thôi.
- Bồ Đào Nha - Không ngờ, ngày 23 tháng 10 năm 1786, Nữ hoàng Bồ Đào Nha (Portugal) gửi quốc thư đến vua Xiêm, với tặng vật 20 khẩu súng, 100 cây vải tốt, nói rằng đáp lời yêu cầu của hoàng tử Cảnh, xin phép đến đón Nguyễn vương đi khôi phục lãnh thổ, đã có 56 chiến thuyền đang đợi tại Goa. Vua Xiêm rất không bằng lòng, Nguyễn vương thấy thế, không dám nhận, viết thư từ chối và tạ ơn Nữ hoàng.
Cuối cùng Nguyễn AÔnh cầu viện Pháp
Nguyên trong lúc còn ở Xiêm, thấy vua Xiêm không muốn giúp quân cho mình nữa, Nguyễn AÔnh nhớ đến Bá Đa Lộc là người đã cứu giúp mình tận tình, nên hai lần cho đi mời nhờ giúp. Bá Đa Lộc nói phải đem hoàng tử Cảnh theo, làm tin, cho dễ bề thương thuyết.
Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh (sinh 1780 : lúc đó 5 tuổi), bái biệt Nguyễn vương, ngày 25 tháng 11-1784, rời cù lao Thổ Châu tức Poulo Panjang (là một trong 3 điểm liên lạc giao hẹn sau nầạy giữa Nguyễn AÔnh và Bá Đa Lộc : Poulo Panjiang, Poulo Way, Chanthabouri), mang theo ấn tín, cùng một số tùy tùng văn võ. Phái đoàn ghé bán đảo Malacca, ở lại đó một tháng rưởi, vì việc riêng của Bá Đa Lộc.
Rồi tháng 3 -1785 đến Pondichéry, một đô thành của Aãn Độ thuộc Pháp, và bị kẹt lại đó gần một năm rưởi (từ tháng 3-1785 đến giữa năm 1786) vì Bá Đa Lộc phải vận động gay go với nhà cầm quyền Pháp ở đấy xin cứu viện cho Nguyễn vương. Tổng trấn Pondichéry là Coutenceau des Elgrains phản đối, cho rằng một ông vua đánh với giặc suốt 8 năm (từ 1777 đến 1784) mà không thắng được thì lý do phải là không có tài năng, hoặc không được lòng dân. Đem lính Pháp đến đánh ở một nơi xa xôi phải tốn kém rất nhiều mà cũng không ích lợi gì.
Bá Đa Lộc gửi thư cho Thượng thư Bộ Hải quân Pháp ở Paris bày tỏ ý kiến về việc xin cứu viện, rồi nằm ỏ Pondichéry chờ trả lời. Lúc đó kênh Suez chưa khai thông, thuyền đi Pháp phải vòng quanh Phi Châu, nên thư từ rất chậm trễ.
Thấy nhà cầm quyền Pháp tại Pondichéry chống lại việc cứu viện Nguyễn vương một cách quyết liệt, trong hoàn cảnh bơ vơ với một cậu bé trong tay, mà Paris cũng chưa chắc tán thành, Hội thánh Thiên Chúa giáo cũng không bằng lòng hành động của mình, Bá Đa Lộc bị chán nản.
Ông không biết phải làm sao nếu Triều đình Pháp nghe theo lời tổng trấn Pondichéry từ chối không nhận giúp. Có lẽ đã nhớ lại một việc xảy ra trước đó 5 năm, Bá Đa Lộc liền viết một bức thư, đề ngày 8 tháng 7-1785 (ba tháng sau khi bị tổng trấn Pondichéry phản đối), cho Thượng Nghị Viện Macao (thị trấn Trung Hoa thuộc Bồ Đào Nha) đại khái như sau : ị Tháng tư năm 1780, tôi có nhận được một bức thư của ông M.O. Franc.-Xavier de Castro, tổng trấn đương thời của Macao, nhờ tôi can thiệp với vua Xứ Đàng Trong (Cochinchine) cấp giấy cho tổng trấn Goa (một đô thị Aãn thuộc Bồ Đào Nha lúc đó) để thành Goa hưởng những điều kiện thuận lợi về thương mãi, thì đáp lại, tổng trấn Goa sẽ cung cấp cho vua Xứ Đàng Trong những viện trợ cần thiết để khôi phục đất nước. Nhưng lúc nhận được thư ấy, tôi đang chạy loạn, tỵ nạn tại Cambodge, cho nên không thể nào thỏa mãn lời yêu cầu của ông ta [...] Gần đây, lúc sắp sửa xuống tàu qua vịnh Xiêm-la, tôi gặp lại vua Xứ Đàng Trong đang chạy loạn, Người nhờ tôi giúp tìm cứu viện. Tôi đề nghị với Chúa Nguyễn gửi cho tôi con trai duy nhất của Người để làm tin. Và hiện Hoàng tử ấy đang ở với tôi [...] Lúc đó, ngoài Pondichéry ra, tôi không thể đi đâu được, cho nên thoạt tiên tôi đến nhờ người Pháp ở đấy, song thấy họ ra mặt không thích tôn giáo, mà tôi lại chỉ muốn tìm nhờ một nước theo đạo Công giáo thôi, nên tôi quyết định trước Chúa là sẽ nhờ nước Bồ Đào Nha. Người Anh, năm ngoái có đến tìm Hoàng tử để giúp [...] và năm nay, họ nhiều lần thương luợng với tôi giao Hoàng tử cho họ. Chắc ôạng hiểu rõ vì sao tôi không thể thỏa mãn họ được. Chỉ cóÔ lý do tôn giáo, mới có thể tha thứ cho tôi, trước Chúa và trước mọi người, vì đáng lẽ chọn nước của mình, tôi lại chọn một nước khác để nhờ. Vì lẽ ấy, tôi đề nghị trao lại cho quí ông việc cứu viện nầy, sự hiện diện của nhà vua Xứ Đàng Trong, của con trai nhà vua, cùng bảy, tám vị đại thần, là những điều kiện để thực hiện dễ dàng việc khôi phục đất nước, và không những để có thể đền bù các phí tổn của công việc nầy, mà còn để thiết lập ở Xứ Đàng Trong một cơ sở thương mãi làm vinh danh nước Bồ Đào Nha cũng như làm lợi cho thành Goa nữa Ể. (L. Cadière, Nguyễn AÔnh et la Mission- Documents inédits des Missions Etrangères de Paris, trong Bulletin des Amis du vieux Huế, trang 27, 28, chú thích số 53).
Nhưng đến năm 1786, tổng trấn mới của Pondichéry là David Charpentier de Cossigny tuy không hoàn toàn đồng ý với Bá Đa Lộc, nhưng cũng cho rằng việc cứu viện Xứ Đàng Trong là đáng xét đến. Nên cho phép Bá Đa Lộc, hoàng tử Cảnh, một hoàng thân, và 3 thị vệ đi không tiền trên tàu buôn Malabar đến tháng 7 năm 1786 sang Pháp, để trình việc nầy lên Pháp hoàng Louis XVI (1754- 1793).
Tổng trấn de Cossigny cũng thương lượng với Tổng tư lệnh Hải quân Pháp tại Đông Aãn Độ là Chevalier dõEntrecasteaux, phái thuyền trưởng tàu Le Marquis de Castries là De Richery và phụ tá là De Berneron, đại úy Régiment de lõIsle de France, đi đến Xứ Đàng Trong cứu xét tình hình để có thể chấp nhận dự án của Bá Đa Lộc, và nếu cần thì liên lạc vối Nguyễn AÔnh, đón về Pondichéry tổ chức cứu viện. Đồng thời cũng cho phép các nhân viên phái đoàn còn lại, đáp tàu Le Marquis de Castries trở về đảo Thổ Châu.
Bá Đa Lộc viết một bức thư nhờ De Richery và De Berneron chuyển lại cho Nguyễn vương hiện đang ở tại Chanthabouri, hẹn sẽ có người đón đưa tới Pondichéry.
Ngày 1-9-1786, hai vị sĩ quan nầy trao thư ấy cho Paul Hồ Văn Nghị và đưa linh mục nầy đến Thổ Châu cùng 12 người tùy tùng, để lại một số lương thực đủ dùng ba tháng, rồi chạy thuyền sang Manille, hẹn cuối tháng 12-1786 sẽ quay lại đón Nguyễn AÔnh tại Thổ Châu đưa đến Pondichéry. Linh mục Paul Nghị cùng tùy tùng, đóng tại chỗ một chiếc thuyền để đi sang đảo Poulo Way là nơi liên lạc thứ hai giữa Nguyễn AÔnh và Đức cha Bá Đa Lộc. Nhưng tại đấy không gặp ai cả, lại xuống thuyền đến điểm hẹn thứ ba là tư thất của nhà Truyền giáo Pháp M. Liot, Giám đốc Chủng viện tại Chantaburi (Xiêm). Paul Nghị không dám đi vào Bangkok, vì sợ bị vua Xiêm biết, nên nhờ Bảo Ngọc hầu (theo L. Cadière, tức là Phạm Văn Nhơn, hay Nguyễn Văn Liêm) đem thư của Bá Đa Lộc đến cho Nguyễn AÔnh đúng vào ngày 21-10 -1786, tức là 2 ngày trước quốc thư của Nữ hoàng Bồ Đào Nha gửi đến vua Xiêm xin đón Nguyễn AÔnh đi Macao, như ta vừa thấy trên đây. Nguyễn AÔnh từ chối không nhận lời giúp của Nữ hoàng Bồ Đào Nha, bề ngoài sợ mếch lòng vua Xiêm, nhưng thâm tâm là muốn đợi cơ hội trốn đi Pondichéry nhờ Pháp là quốc gia mà hoàng tử Cảnh đang đến cầu viện, và Bá Đa Lộc, vị ân nhân cố cựu đang tận lực vận động giúp mình.
Kế hoạch đưa Nguyễn AÔnh đến Pondichéry đã gặp nhiều chống đối trong giới người Pháp tại Pondichéry. Tử tước (vicomte) de Souillac, năm 1785, thay thế một thời gian Coutenceau des Algrains trong chức tổng trấn Pondichéry, ngày 31-8-1786 đã phúc trình cho Tổng trưởng Hải quân (Paris) rằng ị nếu vua Xứ Đàng Trong mà đáp chiến thuyền nầy và đến Pondichéry, thì chúng ta bắt buộc phải đài thọ sinh sống cho vua và gia đình và các chi phí tranh đấu khôi phục đất đai Ể.
Vào khoảng cuối tháng 12-1786, theo lời hẹn của De Richery, Nguyễn AÔnh đem gia đình xuống bờ biển Chanthabouri đợi thuyền đến đón mà không thấy. De Richery đi Manille, rồi mãi lo việc buôn gạo, nên thay vì vào tháng 12-1786, thì mãi đến 21-2-1787 (tức là hai tháng sau) mới đến Poulo Panjang đón Nguyễn AÔnh. Đến đó tất nhiên không gặp Nguyễn AÔnh. Kế hoạch đón Nguyễn vương đi Pondichéry không thành tựu được, vì De Richery chểng mảng, hay vì sĩ quan nầy cũng không tán thành kế hoạch đón Nguyễn AÔnh đến Pondichéry như De Souillac trên đây ?
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:53:51 GMT 9
Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh đến Pháp tháng 2- 1787, cập bến Lorient trên bờ biển Đại Tây dương. Phái đoàn cầu viện ở lại 10 tháng tại Pháp, từ tháng 2 đến tháng 12 năm 1787.
Ngày 5- 5- 1787, giám mục Bá Đa Lộc được vào triều kiến Pháp hoàng Louis XVI, trước sự hiện diện của Bộ trưởng Ngoại giao là bá tước De Montmorin và Bộ trưởng Hải quân là nguyên soái De Castries. Ông trình nhà vua lý do nên cứu viện Nguyễn vương AÔnh tóm tắt như sau :
-Nguyễn Ánh là vua chính thống nước Cochinchine, được đa số nhân dân ủng hộ,
-Cuộc hành quân khôi phục đất đai chỉ cần một số quân lực vừa phải,
-Một căn cứ Pháp tại Cochinchine là một phương tiện chắc chắn để ngăn chận ảnh hưởng của nước Anh tại Aãn Độ, để bành trướng ảnh hưởng của Pháp tại các biển Trung Hoa, và làm bá chủ về thương mãi trong vùng nầy.
Trước đó, năm 1785 bộ Hải quân có nhận thư của Bá Đa Lộc, đầu năm 1786 có sai ông Sominihac de Lamothe, một kỹ sư đã ở lâu bên Viễn Đông, cứu xét. Viên kỹ sư phúc trình tán thành việc cứu viện Nguyễn vương. Lại thêm cậu bé Hoàng tử Cảnh (8 tuổi) diện mạo khả ái, khiến hoàng hậu Marie Antoinette cảm mến tình cảnh đáng thương, có ý muốn giúp đỡ.
Nhưng trong triều một số đại thần e ngại :
-Hành quân tốn kém quá, Pháp vừa thất bại ở Hòa Lan, tài chánh thiếu hụt không kham nổi.
-Cochinchine cách xa căn cứ quân sự ở đảo France của Pháp (đảo Maurice, nay thuộc Anh), khi chiến tranh, nếu Anh đóng eo bể Malacca, Hòa Lan đóng eo bể La Sonde, Pháp sẽ bị cô lập tại Cochinchine.
Bàn luận mãi suốt nửa năm, cuối cùng ỏphe của Hoàng hậuõ thắng. Bộ trưởng De Montmorin đại diện cho Pháp, và giám mục Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh ký bản hiệp ước tương trợ Pháp Việt tại điện Versailles ngày 28 - 11- 1787. Và Bá Đa Lộc được Pháp cử làm ỏỦy Viên của Hoàng đế Pháp tại xứ Đàng Trongõ.
Hiệp ước gồm có 10 điều, tóm tắt như sau :
- Pháp sẽ giúp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến, 1.200 người, 200 pháo binh, 250 lính Phi Châu thuộc địa của Pháp và đạn dược đầy đủ, pháo binh tinh nhuệ.
- Khi nước ta loạn lạc, Pháp sẽ giúp đỡ xứng với sự cần dùng mỗi lúc, nhưng không quá số đã định trong hiệp ước nầy.
- Ta nhường cho Pháp hải cảng Đà Nẳng và đảo Côn Lôn
- Pháp được tự do đi lại, tự do buôn bán, trả thuế xuất nhập cảng theo giá như người bản xứ. Tàu binh, tàu buôn ngoại quốc muốn đến nước ta phải treo cờ Pháp và có giấy thông hành Pháp cấp.
- Pháp có thể lập trên lục địa nhà cửa, cơ cở mà họ xét cần dùng cho việc tàu bè giao thông, buôn bán, cho việc sửa chữa, làm ra tàu bè. Về việc cảnh sát ở hải cảng sẽ có tờ giao ước riêng định.
- Ta sẽ bảo hộ sự tự do, sự an toàn thân thể và đồ đạt cho người Pháp. Khi có sự tranh tụng, phải xử đoán mau lẹ và công bình.
Điều 10 cuối cùng: ỏHiệp ước nầy sẽ được vua hai nước phê chuẩn, trong hạn một năm, hoặc sớm hơn nếu có thể.õ (Chú ý : không thấy hiệp ước bàn đến tự do truyền giáo đạo Thiên Chúa ở Xứ Đàng Trong).
Triều đình Pháp lại đổi ý, không muốn thi hành hiệp ước - Nhưng sau đó, vào ngày 2-12-1787, tức là 5 ngày sau, triều đình Pháp lại đổi ý, không muốn thi hành hiệp ước. Bộ ngoại giao gửi mật lệnh cho công tước De Conway, Toàn quyền các thuộc địa Pháp ở Ấn Độ nên tùy nghi định đoạt hoặc trì hoãn việc giúp Nguyễn AÔnh, hoặc bỏ hẳn việc ấy đi. Lại cẩn thận chỉ thị phải giữ kín đừng cho Bá Đa Lộc biết.
Triều đình Pháp đã chịu ảnh hưởng của phe đối lập, nhất là của tình hình tài chánh thiếu hụt. Chính De Conway tại Pondichéry cũng phải đi vay tiền để trả lương binh sĩ.
Ngày 8- 12- 1787, Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh được vào triều kiến từ giã Pháp hoàng và sau đó đáp chiếc tàu buồm Dryade về nước. Đi theo có tàu La Méduse chở theo một số lính để tăng cường ngạch pháo binh đảo France, và thành Pondichéry. Còn có hai chiến tàu khác chở lương thực và tiền bạc dùng cho cuộc viễn chinh. Khi thuyền ghé đảo Bourbon (Réunion), đảo France (Maurice), cũng như khi đến Pondichéry, Bá Đa Lộc gặp nhiều nhà buôn Pháp kinh doanh tại các nơi ấy và cho họ biết nội dung bản hiệp ước có khoản ỏtự do buôn bánõ, ỏđộc quyền buôn bánõ, và ỏan toàn cá nhânõ tại Xứ Đàng Trong, nên nhiều nhà buôn ham lợi đã giúp tiền cho Đức cha để ỏgiành chỗõ trước.
Tại Pondichéry, Toàn quyền De Conway tỏ ra dè dặt và lúng túng vì tuân theo mật lệnh, mà không được phép cho Đức cha Bá Đa Lộc hay. Để trì hoãn, ông lấy cớ tàu chở lương thực và tiền bạc viện trợ chưa đến, thật ra hai chiếc tàu ấy chẳng bao giờ đến. Hai người cãi vã, tranh đấu, thư từ, qua lại phản đối và cả hai đều gửi nhiều khiếu nại, báo cáo về Triều đình. Tại Paris, Hội đồng Hoàng gia Pháp họp ngày 4-10-1788 chuẩn y đề nghị của De Conway, nghĩa là vua Louis XVI không phê chuẩn hiệp định Versailles trong thời hạn 1 năm nói ở điều 10. Bản văn nầy chỉ đến tay Nguyễn AÔnh vào tháng 6 năm 1789.
Nhưng vì các thương gia Pháp ở các đảo Bourbon, France và ở thành Pondichéry tỏ ra bất bình, các báo chí địa phương cũng hùa theo để chỉ trích, nên De Conway sai De Kersaint đem hai chiếc Dryade và Bengale đến Xứ Đàng Trong xem xét tình hình. Bá Đa Lộc xin đi theo để đón Nguyễn sang Pondichéry, De Conway không cho, chỉ cho phép De Kersaint chở giùm 1.000 khẩu súng mà Nguyễn vương đã bỏ tiền ra nhờ Đức cha mua hộ.
Phái đoàn De Kersaint khởi hành đi Cochinchine ngày 18- 5- 1788, đã trao cho Nguyễn vương 1.000 khẩạu súng, đến 13-3-1789 trở về Pondichéry, mang theo những bản địa đồ và tin tức khá mơ hồ về giá trị Xứ Đàng Trong. Như thế là vì phái đoàn đến gặp lúc Nguyễn AÔnh đang đánh nhau với Nguyễn Lữ (Tây Sơn), khi được, khi thua, đến tháng 9 năm 1788 mới vào chiếm được Gia Định, nhưng tướng Tây Sơn Phạm Văn Tham còn giữ đất Ba Thắt, mãi đến tháng 2 năm 1789 mới chịu đầu hàng ; và vì loạn lạc, đồng ruộng lúc ấy còn bị bỏ hoang. De Kersaint đã gặp Nguyễn AÔnh trong tình trạng quân sự bất ổn và kinh tế suy kém ấy. De Conway căn cứ vào nhận xét của De Kersaint, nên cho rằng cuộc viễn chinh bất lợi, rồi ngày 15- 3-1789, gửi phúc trình về Paris rằng ị dự tính của giám mục Ba Đa Lộc là những giấc mơ của một đầu não bồng bột Ể, vậy nên bãi bỏ việc cứu trợ.
Nhưng đồng thời, nhân viên tàu Dryade lại cho Bá Đa Lộc biết rằng Nguyễn vương đã lấy lại được 5 tỉnh cựỳc Nam xứ Gia Định. Bá Đa Lộc liền vội vàng biên thư cho Toàn quyền De Conway khẩn cầu xin cho ỏmột đạo quân nào đóõ (một cách tượng trưng) đi Xứ Đàng Trong phụ với Nguyễn vương để hoàn tất cuộc chiến thắng ; và hứa rằng sẽ quên hết những gay cấn vừa qua giữa hai người. Nhưng De Conway từ chối.
Bá Đa Lộc quyết định tự lực tổ chức cuộc cứu viện, nghĩa là không cần đến quân lực, tài chính của Pháp nữa. Giám mục đang có trong tay : tiền của gia đình ông cho riêng (15.000 quan Pháp), và các số tiền của nhóm thương gia Pháp ở đẩo France, Bourbon và thành Pondichéry giúp, cùng tiền và hóa vật của Nguyễn vương trao cho từ trước để mua súng nay còn dư lại. Oạng dùng tiền ấy mua một chiếc tàu buồm và súng đạn.
Rồi lấy tư cách là ỏỦƯy viên của Pháp hoàng tại Xứ Đàng Trongõ chính thức yêu cầu De Conway cấp phương tiện chuyên chở Hoàng tử Xứ Đàng Trong về nước. Viên Toàn quyền phải cho Ủy viên giám mục và Hoàng tử cùng phái đoàn lên chiếc tàu chiến La Méduse về Gia Định.
Nhưng Đức cha đã âm thầm dụ được một số sĩ quan và thủy binh Pháp phiêu lưu theo ông đến Xứ Đàng Trong tham chiến và làm giàu. Nhóm binh sĩ nầy kín đáo đi đáp chiếc tàu buồm riêng mà giám mục đã mua, rồi theo tàu chiến La Méduse nhổ neo rời Pondichéry đi Gia Định ngày 15-6-1789.
Báo La Gazette de Pondichéry ra ngày 15-6-1789 đã tường thuật như sau : ị Triều đình tuyệt đối từ bỏ cuộc dự định Cochinchine và cấm chỉ ông De Conway thi hành. Song không bao giờ tình hình lại tốt đẹp hơn để hoàn tất cuộc trung hưng ông vua bị phế, khi ông ấy đã tái chiếm được 5 tỉnh cực nam quốc gia đó. Chúng ta đã bỏ lỡ, trong dịp nầy, việc đặt chưn vững chãi và quý báu lên một vương quốc mà chỉ trong vòng bốn, năm năm sẽ đem cho nước ta một nền thương mãi độc quyền hơn hai triệu quan, và đặc biệt là những phương tiện để buôn bán với Trung Hoa mà khỏi phải qua thành Canton để chịu nhiều phiền phức. [...] AÔc cảm của ông ta đối với giám mục DõAdran và đối với các đồng bào ông trong thị thành nầy, là những lý do thúc đẩy ông đến việc ác độc ấy. Chẳng sớm thì chầy, ông sẽ được hưởng đền bồi, song cái tai hại mà ông gây cho quốc gia Pháp sẽ không sao sửa chữa nổi Ể.(P. Heduy, Histoire de lõIndochine, trg 37)
Hai chiếc tàu của phái đoàn Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh cập bến Gia Định ngày 24 tháng 9 năm 1789. Cuộc ra đi cầu viện nước Pháp đã kéo dài 4 năm 7 tháng (25-11-1784 đến 24-9-1789) không kết quả.
Như vậy triều đình Pháp, hay quân đội Pháp đã không giúp gì cho Nguyễn Ánh trong việc tái chiếm vùng Gia Định cũng như trong việc hoàn thành chiến thắng, thống nhất đất nước.
Những binh sĩ Pháp tình nguyện tháp tùng Bá Đa Lộc có tất cả 14 sĩ quan và 80 thủy binh. Một số người về sau vì lương ít, hay vì bị các quan Nam đố kỵ, nên bỏ đi cầu may nơi khác.
Số còn lại, với tư cách cá nhân, chỉ giúp Nguyễn vương trong ngành công binh, huấn luyện binh sĩ, chứ không trực tiếp tham chiến như luận bàn tham mưu chiến lược, hay chỉ huy hành quân.
Người đáng ghi nhớ là Đức cha Bá Đa Lộc : ngoài việc trông coi Giáo xứ, ông còn lo việc dạy dỗ Hoàng tử Cảnh, dịch ra Hán văn cho Nguyễn AÔnh những sách về chiến lược Tây phương. Bá Đa Lộc cũng bị các quan Việt nghi kỵ và gièm pha không ít, vì các đại thần sợ Đông cung theo Công giáo. Chính Đức cha Bá Đa Lộc trong một bức thư ngày 30-1-1895 cho Hội Truyền giáo Quốc ngoại đã kể lại như sau : ị Năm nay tôi gặp phải một vụ rất tế nhị. Có tới 19 vị đại thần trong vương quốc nầy lo lắng cho nền tôn giáo quốc gia, đã họp nhau lại, trình vua rằng nên cẩn thận, không nên để cho tôi tiếp tục việc giáo huấn Thái tử lâu thêm nữa (trong một cuộc thảo luận riêng vói nhau, họ quyết định rằng nếu nhà vua không nghe thì họ sẽ diệt trừ tôi). Đức vua nổi giận, liệng xuống đất những biểu can gián của họ. Rồi Ngài nhắc lại tất ca Ưnhững công trạng của tôi phục vụ quốc gia, nhất là phục vụ vua, mẹ vua, vợ vua, con trai vua, và tất cả hoàng gia. Ngài dọa ra tay làm gương bằng cách trừng phạt nặng nề những kẻ cầm đầu cuộc âm mưu nầy. [...] Đứng vào địa vị họ (các đại thần Việt) và theo tôn chỉ của họ, tôi cũng phải đồng ý rằng họ hành động cẩn thận. Nếu ở bên Pháp các vị đại thần thấy một ngoại nhân đạo Hồi Hồi hay Tả đạo được ủy nhiệm giáo dục Thái tử và được lòng tin của vua, thì họ sẽ nói gì ? Họ sẽ có làm động trời động đất để xua đuổi người ấy không ? [...] Tôi chỉ có cách hay nhất là ra đi khỏi hẳn nước nầy. Nhà Vua và Thái tử sẽ tự do hơn, và có thể bảo vệ các giáo dân mà không làm phiền lòng ai. Đại đa số đàn bà (ám chỉ chế độ đa thê) và nhất là việc thờ cúng tổ tiên, mà Triều đình ở La Mã đã cấm đoán quá mức, sẽ luôn luôn là những trở ngại rất khó vượt qua Ể. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, trg 912, trích Philippe Heguy và Guy-Marie Oury)
Bá Đa Lộc qua đời vì bệnh lỵ tại Thị Nại, giữa một trận chiến ngày 9-10-1799, thọ 58 tuổi.
Đến 1802, ở Việt Nam, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước, lên ngôi, vương hiệu Gia Long, thì bên Pháp, vua Louis XVI bị Cách mạng lật đổ năm 1792, Đệ nhất Cọng hòa Pháp thành lập từ 1792 đến 1804, rồi chuyển sang Đệ nhất Đế quốc với Napoléon đệ nhất (1804-1814). Khi Napoléon thất thế, dòng dõi nhà vua cũ trung hưng, chiến tranh đã yên, dưới thời Louis XVIII (1814-1824), tháng sáu năm 1817, có tàu binh Pháp Cybèle đến cửa Đà Nẳng, thuyền trưởng là bá tước De Kergarion, thông báo với triều đình ta rằng Pháp hoàng sai sang đòi thi hành những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẳng và đảo Côn Lôn.
Gia Long sai quan trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành, thì nay bỏ không nói đến nữa. ?
Võ Thu Tịnh
Paris, hè 2001
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 1, 2018 10:46:38 GMT 9
Về trường hợp hy sinh của nữ tướng Bùi Thị XuânTôn Thất Thọ Đền thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân ở Tây Sơn, Bình Định Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Nữ tướng Bùi Thị Xuân là một Đô đốc của nhà Tây Sơn. Trong tập sách Danh tướng Việ Nam T3, tác giả Nguyễn Khắc Thuần đã viết về bà như sau: "Trong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và trong lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một hiện tượng rất đặc biệt. Cùng với chồng và hàng vạn các nghĩa sĩ Tây Sơn, bà đã đi suốt cả một cuộc trường chinh ba chục năm trời, anh dũng chống cả thù trong lẫn giặc ngoài, một lòng một dạ vì sự nghiệp cứu dân cứu nước. Từ một phụ nữ bình thường, Bùi Thị Xuân đã trở thành một danh tướng được đời đời kính trọng.."(Danh tướng VN, T3, sđd, tr.291). Đề cập đếntrường hợp hy sinh của Bùi Thị Xuân, đầu tiên phải kể đến nội dung trong tập Ký sự của giáo sĩ Bissachère (đến Bắc Hà truyền đạo năm 1790) ghi chép; những nội dung này được sử gia người Pháp Charles B. Maybon trình bày, viết lời giới thiệu và chú thích để in trong cuốn sách có tựalà La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của de La Bissachère- gọi tắt là Ký sự). Sách do nhà xuất bản Champion, Paris ấn hành lần thứ 3 năm 1920. Trong tập sách này này có đoạn ghi lại chi tiết cảnh hành hình vua tướng nhà Tây Sơn và nữ tướng Bùi Thị Xuân; mặc dù không tận mắt chứng kiến mà chỉ nghe kể để viết lại theo lời kể của một "con chiên" của ông. Người đó đã nói với Bissachère rằng chính mình đã được chứng kiến tận mắt cuộc hành hình đó ! Sau khi sách của Charles B. Maybon phát hành lần thứ nhất (1810), và nhất là sau năm 1920, rất nhiều nhà nghiên cứu sử học đã căn cứ vào đó khi thuật lại cảnh nữ tướng bị hành hình. Dưới đây là trích đoạn tả lại sự việc đó ở trang 117-118; "Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s'y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s'occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j'avais envoyé à la cour, pour m'obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l'éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu'à la fin. A son retour il m'en a fait le récit, je ne puis m'en rappeler aujourd'hui toutes les circonstances qui d'ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m'a frappé le plus du récit qui m'en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine..." (sđd, t. 117-118). Đoạn này được tác giả Lê Đình Chân lược dịch trong cuốn Cuộc đời oanh liệt của Tả Quân Lê Văn Duyệt như sau : " Vua Gia Long về kinh đô Phú Xuân nghỉ ngơi 2 tháng, rồi mới nghĩ đến việc hành hình vua tôi nhà Tây Sơn. Sở dĩ tôi (La Bissachère) biết rõ việc này là vì một con chiên (chỉ người theo đạo) được mục kích sự hành hình, kể lại rõ ràng cho tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh rất kinh khiếp này, tôi chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà sau này mọi người trong nước Nam đều biết... " ( Cuộc đời ..., sđd, tr. 44) Ký sự của La Bisachère (1920) và trang sách nói về hành hình nữ tướng Bùi Thị Xuân Sau đó, Bissachère " mô tả " chi tiết buổi hành hình như sau : " Đối với vua Tây Sơn là Quang Toản, thoạt tiên người ta cho y xem thi thể của bố mẹ mới khai quật lên. Người ta xếp lại cẩn thận bộ xương vua Quang Trung và Hoàng hậu. Người ta bỏ xương cốt đó vào một cái thúng mây lớn rồi cho quân lính lần lượt đi tiểu vào. Đoạn đem giã thành bột. Rồi cho vào một cái thúng, đưa cho Quang Toản nhìn, để cho mà đau khổ. Đoạn người ta dọn cho vua Tây Sơn một bữa cơm thịnh soạn, bày trên một cái kỹ sơn son thếp vàng, có chạm ấn triện của nhà vua (Gia Long). Đó là một thông lệ của xứ này đối với những kẻ sắp phải xử tử. Em vua Tây Sơn thấy anh ngồi ăn, trách rằng : "Nhà ta thiếu gì kỹ, tại sao lại ăn trên kỹ của người ngoài ? ". Ăn xong người ta cho bịt mồm vua Tây Sơn lại, sợ rằng trong lúc phẫn nộ, có thể chửi rủa vua mới (Gia Long). Đoạn buộc chân và tay vua Tây Sơn vào 4 con voi, để cho voi xé. Bị một con voi đã giựt gần đứt cái đùi mà vua Tây Sơn vẫn còn ngước mắt nhìn vào cá thùng đựng hài cốt của cha mẹ. Đoạn bọn đao phủ cầm dao cắt xác vua Tây Sơn ra làm 4 phần. Với cái đùi đã đứt, thế là có 5 phần tất cả, đem phân chia bêu tại 5 chợ đông người qua lại nhất. Mỗi phần xác đặt trên một cột gỗ, có lính gác đêm ngày và ra hình rất nặng đối với kẻ nào trộm xác. Ý triều đình mới là để cho thịt thối tha và làm mồi cho quạ và diều hâu ! Gia hình vua Tây Sơn xong, đến lượt Thiếu phó Trần Quang Diệu, một danh tướng Tây Sơn, ai ai cũng mến phục, cả các tướng sĩ của Gia Long (Diệu tha hết quân Nguyễn khi lấy lại được Bình Định). Trước ngày hành hình, Diệu làm sớ xin Gia Long tha chết cho mẹ già đã 80 tuổi, lấy cớ rằng một bà cụ già yếu như vậy thì không thể là một nỗi lo cho triều mới. Gia Long chuẩn. Diệu chỉ bị lột da (thời đó cho là nhẹ hơn tội phanh thây). Con gái Diệu, một thiếu nữ mới chừng 15 tuổi, rất nhan sắc, khi thấy con voi lừ đừ tiến đến để quật mình, bèn quay lại mẹ kêu lên thất thanh lớn : - Mẹ ơi cứu con với ! Bùi Thị Xuân (vợ Diệu, một nữ tướng can đảm, đã cầm quân chống lại quân Nguyễn tại lũy Trấn Ninh) trả lời con : - Ta cứu con lúc này sao được, chân tay ta cũng bị trói buộc cả. Thôi con ạ, thà chết cùng cha mẹ còn hơn là sống với bọn này. Nhiều người đứng xem, động lòng ý muốn cứu nhưng đành phải nhắm mắt quay mặt đi. Con voi giơ vòi, quặp lên người con gái, tung lên trên không, và giơ đôi ngà ghê gớm lên đón, khi cái xác vô hồn đó rơi xuống. Như thế 2 lần. Bùi Thị Xuân mặt không đổi sắc, tiến lên trước một con voi, như để chọc tức nó. Đao phủ thét bảo Thị Xuân phải quỳ xuống để cho con voi dễ quật. Thị Xuân không quỳ vẫn xăm xăm tiến lại con voi. Voi lùi, đao phủ phải cầm giáo chọc con voi cho nó tức. Bấy giờ nó mới quặp lấy Thị Xuân và tung lên trời. Trước ngày chịu hình, người đàn bà can đảm này đã cho đem vào nhà giam mấy tấm lụa, dùng để quấn chặt chung quanh thân, đùi và bụng, dưới quần áo ngoài. Ý muốn tránh cho thi thể sau này khỏi bị lõa lồ. Bọn đao phủ muốn được can trường như Thị Xuân, bèn lấy dao cắt tim, gan, thịt ở cánh tay mà ăn sống ( !). Viên trấn thủ Nghệ An bị chặt vụn như cám. Chính viên quan này đã lùng bắt tôi (thầy tu La Bisachère) trong suốt 7 năm, vì y biết tôi giảng đạo ở trong tỉnh y cai trị " ( Cuộc đời oanh liêt...sđd, tr.45) Ghê rợn hơn, tác giả Quách Giao khi viết cuốn Nhà Tây Sơn (hoàn thành 1984) trong đó, một phần dựa vào ký sự này, phần khác thì viết là Bùi Thị Xuân đã bị đích danh Gia Long ra lệnh cho thiêu sống trước mặt ông (!) sau một hồi đối đáp tay đôi, và con cái bà bị bỏ vào bao bố đánh nát thây ! Đoạn văn đó như sau : "Nguyễn Ánh tức giận, truyền bắt mấy người con của Nữ kiệt đem ra giết trước mặt Nữ kiệt. Mấy người con nhỏ thì sai lực sĩ bỏ vào bao vải, đánh nát thây. Còn người con gái lớn thì cho voi xé xác. Thấy voi đến, người con gái hoảng sợ kêu lên: "Mẹ ơi cứu con". Nữ kiệt hét lớn "Con nhà tướng không được khiếp nhược". Người con gái liền nhắm mắt thọ hình, không một tiếng rên rĩ..." "Đến lượt Nữ kiệt, Nguyễn Phúc Ánh sai dùng hình phạt "điểm thiên đăng". Chúng lấy vải nhúng sáp nóng đem quấn khắp mình nữ kiệt, rồi đem cột nữ kiệt nơi trụ sắt dựng giữa trời. Đoạn châm lửa đốt. Nữ kiệt bình tĩnh, nét mặt không chút thay đổi. Lửa cháy phừng phực từ dưới len trên. Sáng chói thấu mây. Ai nấy đều xúc động. Riêng Nguyễn Ánh tỏ vẽ hân hoan..." (Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 193-194) Ngoài ra tác giả còn cho biết là để nhổ cỏ cho sạch gốc, Gia Long đã sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những tướng tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã để tận diệt... *** Khi tìm hiểu sự thật khách quan về những chi tiết mà ông giáo sĩ thuật trong sách Ký sự nói trên, cũng như những điều ông Quách Giao ghi chép, chúng tôi thấy có những điều không thật sáng rõ: 1- Về trường hợp nữ tướng Bùi Thị Xuân, trong sách Đại Nam thực lục (Thực lục) do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, ta thấy tên vị nữ tướng này được ghi chép lần cuối cùng là trong cuộc giao chiến ở cửa biển Nhật Lệ vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1802) với quân của Nguyễn Ánh, đoạn đó như sau : " Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu phạm lũy Trấn Ninh, tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực (không rõ họ) kết với hơn trăm thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi bày thủy trận ở ngoài cửa biển Nhật Lệ. Vua Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thủy binh ra biển ngăn ngừa, Pham Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem bộ binh chia đường chống đánh. Giặc đến sát lũy Trấn Ninh. Vua sai quân Túc trực ra ụ bắn ở cửa, bắn giết được hơn một nghìn quân giặc. Giặc đem hết quân đến sát núi Đâu Mâu, bám vào như kiến mà bò lên. Quân ta từ trên núi thả đá xuống, quân giặc bị đè chết rất nhiều. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cưỡi voi thúc quân liều chết đánh từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Vừa gặp thủy binh của Nguyễn Văn Trương, nhân được gió đông bắc đánh phá quân giặc ở ngoài biển, cướp được 20 chiếc thuyền. Bộ binh giặc nghe tin thủy binh thua, sợ mà tan vỡ. Quang Toản chạy về Đông Cao. Nguyễn Văn Kiên đem quân ra hàng..." (ĐNTL, sđd, tr. 479). Như thế là sau khi giao chiến với quân của Nguyễn Ánh ở lũy Trấn Ninh, quân Tây Sơn do Bùi Thị Xuân chỉ huy đã bị thất trận và tháo chạy. Từ trận đó về sau, không thấy sử nhà Nguyễn nhắc tới tên của bà nữa . Về việc Nguyễn Ánh xét xử vua quan nhà Tây Sơn. Sách Thực lục chép : . " Nhâm tuất (1802 tháng 11 ): "Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác. " ...Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài. "...Ngày mồng 6 tháng này, tế cáo Trời Đất, ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dúng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ; Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng..." (ĐNTL T1, sđd, tr. 531-532). Qua đó ta thấy trong lễ Hiến phù, bốn người có tội nặng nhất là bốn con vua Quang Trung bị voi xé xác. Còn các tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng... cùng với một số võ quan khác đều bị chém. Riêng nữ tướng Bùi Thị Xuân, không thấy sách Thực lục ghi tên bà trong số những vị tướng bị bắt;cũng không thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành hình. Tại sao như vậy ? Tìm hiểu thêm về vấn đề này, ta thấy trong Đại Nam liệt truyện có đoạn ; "Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đã phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống" (Liệt truyện T2, t. 570). Ở đây ta có thể suy luận rằng, sách Đại Nam liệt truyện vì muốn thuật lại sự kiện bằng một câu chuyện nhưng do dữ liệu không rõ ràng nên người viết đã "suy diễn ra" việc Bùi Thị Xuân bị bắt cùng với Trần Quang Diệu. Nếu đọc kỹ Thực Lục và Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu, ta thấy ông đã cầm quân từ Qui Nhơn về, lội đèo vượt suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích mọi ngả; khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức không còn chống nổi nữa. Như vậy thì khó có thể ông gặp được vợ, cũng như Bùi Thị Xuân có muốn đi tìm chồng trong hoàn cảnh thất trận đó cũng khó xảy ra Đại Nam thực lục là sách sử biên niên do Quốc Sử Quán biên soạn, chuyên chép những sự kiện diễn ra từng ngày. Sách đã không ghi chép gì về việc Bùi Thị Xuân bị bắt, trong khi họ ghi rất rõ về các tướng khác. Hơn nữa, trong danh sách công khai việc xét xử vua tướng Tây Sơn cũng không thấy ghi tên bà; do đó các tài liệu cho rằng bà bị bắt, cũng như kể lại chuyện bà bị hành hình sau khi Tây Sơn thất trận vẫn phải được coi như là một nghi vấn lịch sử. Một điểm cần lưu ý là trong đoạn trích trong Thực lục nói trên, ta thấy sách chép là Bùi Thị Xuân đã liều chết để chiến đấu trong trận chiến ở lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) mà kết quả sau trận đó, quân Tây Sơn thua phải tháo chạy, như thế phải chăng Bùi Thị Xuân đã hy sinh trong trận này ? 2- Về việc khai quật hài cốt của vua Quang Trung mà sách Ký sự đã viết. Ở đây ta thấy có sự mâu thuẩn, sách Hoàng Việt Long hưng chí của Ngô Giáp Đậu viết vào những năm cuối thế kỷ IXX đã ghi như sau: "Thế Tổ (tức Gia Long) vẫn tức giận vì việc Nguyễn Huệ làm tổn phạm lăng mộ các Tiên vương; sau khi thu phục kinh đô Phú Xuân bèn ra lệnh đào mộ Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, vứt hài cốt ra ngoài đồng, còn đầu lâu thì giam vào trong ngục tối..." (HVLHC, sđd, tr. 291). Sự việc này được Thực Lục ghi xảy ra vào tháng 11 năm Tân dậu (tháng 12-1801). (Tân dậu 1801...Tháng 11 ) : " Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng phơi thây bêu đầu ở chợ ... " (ĐNTL, sđd, tr.473) Tính từ thời điểm đó, một năm sau, Gia Long mới tổ chức lê Hiến phù vào ngày Giáp Tuất, tháng 11, năm Nhâm tuất (tức 6-12-1802). Sau lễ Hiến phù, Gia Long sai mang sọ của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (đã giam trước đó) và sọ Quang Toản cùng với bài vị của vợ chồng Nguyễn Huệ giam ở ngoài cửa Nhà Đồ. Do đó ta thấy các chi tiết được vị giáo sĩ ghi lại trong tập Ký sự của ông như trong lễ Hiến phù, Gia Long lệnh khai quật hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và vợ để " cho quân sĩ lần lượt đi tiểu vào hài cốt..., giã thành bột để Quang Toản nhìn..." liệu có đáng tin ?; trong khi việc khai quật hài cốt xảy ra vào tháng 11-1801, hơn một năm sau mới làm lễ Hiến phù, như thế thì còn đâu xác nữa mà quật lên trước mắt anh em Quang Toản, như Bissachère đã thuật lại ?! Tất cả những điều đó cho chúng ta nhận định là giáo sĩ Bissachère chỉ là một nhà truyền đạo bình thường, không có vai trò gì với Gia Long, do đó ông đã không hiểu nghi lễ của triều đình, hoặc cố tình viết loè với người Pháp rằng triều đình Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Ông có "thế lực" đến độ có quyền đưa người của mình vào cung. Ông không biết rằng theo điển chế, sứ thần các cường quốc Anh, Pháp dù đến xin yết kiến cũng không được nhà vua tiếp. Ngoài ra, như Thực lục đã ghi về địa điểm hành hình, việc xử tử không xảy ra ở trong cung như con chiên của ông giáo sĩ kể lại, mà đã được thực hiện ở một địa điểm ở ngoại ô thành phố. Tư liệu lịch sử là cơ sở để nghiên cứu lịch sử, thế nhưng nếu chỉ sử dụng tư liệu từ một nguồn duy nhất mà không chú ý các nguồn khác, điều đó rất dễ dẫn đến nhận định sai lầm. Lịch sử phê phán nặng nề việc Nguyễn Ánh đối xử với vua tướng nhà Tây Sơn, nhưng lịch sử không thể vin vào những điều thiếu căn cứ để cho rằng đó là sự thật... ---------------------------------------- Tài liệu tham khảo: - Danh tướng Việt Nam T3, Nguyễn Khắc Thuần, Nxb Giáo Dục, 1998. - Đại Nam thực lục T1, QSQTN, Nxb Giáo Dục, 2007. - Đại Nam liệt truyện T2, QSQTN, Nxb Thuận Hóa, 1993. - La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, Paris, 1920. - Cuộc đời oanh liệt của Tả quân Lê Văn Duyệt, Lê Đình Chân, Nxb Phổ Thông SG, 1956. - Nhà Tây Sơn, Quách Tấn- Quách Giao, Nxb Trẻ, 2000. - Hoàng Việt Long hưng chí, Ngô Giáp Đậu, Nxb Văn Học, 1993. ------ Tác giả : Tôn Thất Thọ (VN) SĐT : 0908 344929 Những Vấn Đề Không Cần Bàn Cãi NhiềuTạ Chí Đại Trường Sự tranh chấp giữa hai nhà họ Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu hẳn không gây thành một vấn đề lịch sử gay gắt nếu nó xuất hiện vào thời xa xưa, không được nối kết với thời hiện đại đầy mâu thuẫn, nhiều chữ-nghĩa và trở thành toàn cầu như ngày nay. Nhà Hồ chịu tiếng soán đoạt Trần trong suốt sáu thế kỷ - dù rằng Trần cũng cướp ngôi Lý như ai. Nhà Mạc cũng chịu chung số phận gần năm thế kỷ vì cướp ngôi Lê. Chỉ có Tây Sơn mới có hơn một thế kỷ đã được phục hồi thành một triều đại ngang ngửa trong lịch sử Việt Nam nhờ tình hình thế giới hóa qua một dấu vết đau thương là Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp khiến quan niệm chính thống về vương quyền phải suy tàn theo thế nước. Chính ông giáo Tây học Trần Trọng Kim là người đã đem Tây Sơn thoát vòng “ngụy” để làm đà cho những bước vinh quang tiếp theo. Chiến tranh tuy bị thù ghét bởi những người nằm trong biến cố nhưng vẫn có hấp lực để người ta vẽ ra những hình ảnh chiến thắng huy hoàng mà người cầm đầu, trong trường hợp này là nhân vật nổi bật của Tây Sơn, Quang Trung Nguyễn Huệ, được hưởng không biết bao nhiêu lời ca tụng từ mọi phe phía, dẫn đến sự thần thánh hóa cả phong trào nhằm mục đích tuyên dương công tích người cầm quyền hiện đại. Điều này thì lại đến với một chính quyền trong thời đại giải thực sau Thế chiến thứ hai của Việt Nam, đi theo một chủ nghĩa xã hội mang tính cách tranh đấu giai cấp tuy cũng bắt đầu ở trời Tây nhưng đã được Đông phương hóa, xuôi chiều Bắc Nam, lặp lại thế tương tranh vương hóa như ngày xưa theo thời đại mới. Thế là tình hình đảo ngược hẳn dưới mắt người viết sử mới. Theo họ, “phong trào nông dân thế kỷ XVIII rất mạnh, rất oanh liệt, rất sáng tạo: vị lãnh tụ nông dân 'áo vải cờ đào' Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc vĩ đại.” “Nhưng, cuộc nổi dậy vô cùng oanh liệt của nhân dân cuối cùng đã thất bại. Một chế độ phong kiến cực kỳ phản động - triều Nguyễn, phục hồi với sự giúp đỡ của tư bản Pháp. Tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn là thủ phạm dẫn đường cho chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược đất nước.” Có thể tìm thấy không biết bao nhiêu ý kiến ca tụng Tây Sơn, mạt sát nhà Nguyễn (khởi đầu với Gia Long Nguyễn Ánh) như thế trong quyển sử chính thức của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, quyển Lịch Sử Việt Nam tập I, năm 1971. Lịch sử được hướng dẫn như thế đã được giảng dạy trong nhà trường, tuyên truyền trong quần chúng, và lan khắp cả nước sau chiến thắng 1975. Sự kiện lịch sử trở thành phương tiện đưa đẩy chủ thuyết không những chỉ phủ dụ được quần chúng cả tin, làm căn cứ lý luận cho sử gia sử thần mới mà còn ảnh hưởng đến một vài học giả ngoại quốc nữa. Tất nhiên là với thời gian sẽ có sự điều chỉnh, nhưng với thói quen sợ mất mặt quyền bính, các ý tưởng quá khích sẽ được lờ đi, không được nhắc tới mà để cho trôi vào quên lãng, trong lúc các phản biện thập thò xuất hiện, không đủ sức khuynh đảo thành kiến đã được định hình. Một trong những luận cứ ngang ngược nhất - bởi vì vô lý nhất mà được sử dụng cả quyền bính để bênh vực trong một thời gian dài, là chính Tây Sơn Nguyễn Huệ chứ không phải Gia Long Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. Áp lực trên phe phản bác không được quyết liệt vì không với tới thân xác kẻ đối nghịch như sau 1975, nhưng cũng đã gay gắt với sự tham gia của Tổng bí thư Trường Chinh vào lúc khởi đầu trong vụ tranh cãi đấm-gió hồi thập niên 60 giữa ông Cách Mạng Tây Sơn (tên quyển sách) Văn Tân và ông giáo sư Đại học Huế, ông bảo hoàng Nguyễn Phương, người, trong riêng tư, ghét Tây Sơn không để đâu cho hết. Ngay sự tham gia của quyền lực đã chứng tỏ được sự yếu thế của luận cứ. Phe cho rằng Tây Sơn, cụ thể riêng biệt là Nguyễn Huệ, đã thống nhất đất nước thì căn cứ vào các trận chiến thắng từ Nam ra Bắc, đậm nét ưa thích của thời đại là các trận chống quân ngoại quốc (Rạch Gầm, Đống Đa). Căn cứ của luận điểm này phát xuất từ trong tinh thần kháng chiến chống Pháp của dân chúng, và được chính quyền VNDCCH khai thác làm đà cho cuộc chiến “chống Mỹ” tiếp theo mà các sử gia mới phụ họa một cách nồng nhiệt trong các biên khảo chồng chất. Sự việc rõ rệt khiến học giả ngoại quốc vẫn nhận ra. (Xem Patricia Pelley, “The History of Resistance and the Resistance to History in Post-Colonial Construction of the Past” trong Essays into Vietnamese Past, K. W. Taylor and J.K. Whitmore, eds, Cornell University, 1995, 222-245.) Tuy nhiên việc “thống nhất” của Tây Sơn đó không xảy ra cùng một thời điểm để có thể gọi là “gồm một trong tay.” Thắng trận Rạch Gầm Xoài Mút, đuổi Nguyễn Ánh chạy sang Bangkok thì vẫn còn chính quyên Lê Trịnh ngoài Bắc. Ra Bắc dẹp Trịnh chỉ với nghĩa tôn phù nhà Lê, thì còn Lê: Ý nghĩa thống nhất lúc này chỉ có giá trị với Lê thần, được biểu hiện trong đề mục Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì. Dẹp Trịnh trở về thì Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc, và sau đó Nguyễn Ánh lần về Gia Định, đuổi Nguyễn Lữ chạy dài, không cần đến tiếp viện của Bá Đa Lộc. Chỉ có thống nhất đất nước thực thụ là ngày 20-7-1802, khi quân Nguyễn chiếm thành Thăng Long, sau một tháng Nguyễn Ánh trở thành Gia Long ở kinh đô thời phân tranh cũ. Điều đó là sự thật giản dị tưởng như không cần tranh cãi nếu không có ý thích riêng tư của quyền lực về sau chen vào. Còn nói rằng chính Tây Sơn đã phá vỡ phân tranh để mở đường thống nhất thì chỉ là nói gượng, vì về mặt sự kiện đơn lẻ khởi đầu, chính quân Trịnh đã tràn qua sông Gianh phá vỡ thế phân tranh trước. Và phá vỡ phân tranh không hẳn phải đi đến thống nhất. Chứng cớ nơi Trịnh co cụm ở Phú Xuân và có sự phân tranh tiếp theo của anh em Tây Sơn vào hồi còn chính quyền Lê ngoài Bắc. Một vấn đề giả định như thế đương nhiên không phải là vấn đề sử học. Sự phủ nhận vai trò thống nhất của Nguyễn Ánh thật ra cũng nằm trong ác cảm đối với ông về việc người Pháp xâm lăng Việt Nam, làm hạ giá trị của ông trước lịch sử. Câu trích dẫn trên trong quyển Lịch sử Việt Nam I chứng tỏ điều đó. Và điều này thì cũng là lỗi đầu tiên của người Pháp. Chiếm được Việt Nam bằng quân sự tuy đã thành công nhưng họ cũng tìm cách biện minh rằng có sự liên hệ mật thiết từ lâu của nước họ và nước Việt thông qua những giao kết trên tầng cấp cao, những giúp đỡ của các cá nhân, phe nhóm xây dựng nên sự thành công của triều đại Việt. Hiệp ước Versailles 1787 được lôi ra, ông Hoàng tử Cảnh bé nhỏ ở kinh đô Pháp như một dấu hiệu tội nghiệp dễ thương, ông Bá Đa Lộc cương quyết được nhắc nhở, đặt tên đường, tên trường... Rồi tiếp theo sau hồi gãy đổ, để vùi lấp sự chiếm đóng là “quan ba tàu bay Đỗ Hữu Vị” của Thế chiến I, là sự so sánh bà Thánh Jeanne d'Arc với Hai Bà Trưng... Sự viện dẫn lịch sử có dụng ý làm họ không nhắc những điều bất lợi: bản hiệp ước Versailles không thi hành được vì vua Pháp mắc nạn Cách Mạng, ông Giám mục cầu viện cay đắng hục hặc với đại diện chính quyền Pháp ở Ấn Độ, trở về Vũng Tàu, bước lên bờ chỉ được một mớ thuốc súng của ông chủ tàu tặng Hoàng tử Cảnh để cho cậu bé “không có dáng trở về tay không và để làm vui lòng Giám mục đã tỏ vẻ ước muốn chúng lắm.” Vậy thì hiệp ước không thi hành được. Chỉ còn kết tội về ý tưởng cầu viện ngoại quốc. Nhưng hãy xét về phía đối nghịch mà người ta muốn phong thần. Tây Sơn cũng có cầu viện ngoại quốc mà không thành công. Nguyễn Nhạc cầu cạnh phái viên Chapman của người Anh, hứa đổi một thương điếm để họ đến buôn bán, một linh mục Tây Ban Nha được Nguyễn Nhạc cấp giấy phép truyền đạo vì hứa cuội sẽ mang súng đạn viện trợ. Và điều đó không phải chỉ xảy ra lúc khởi đầu, hay ở trong vùng của ông “vua già cầu yên tạm bợ” Nguyễn Nhạc. Trong vùng thuộc quyền Nguyễn Huệ, người ta cũng nài nỉ phái đoàn Macartney (1792) giúp thuốc đạn súng ống. Ngày trước, trong thời phân tranh, Trịnh Nguyễn từng cầu viện Hòa Lan, Bồ Đào Nha để có khả năng hay lực lượng chống đánh phe địch mà “thống nhất” đất nước. Vấn đề không nằm ở “tội” của phe nào mà chỉ là sự lượng giá từ người đương quyền về tình hình thực tiễn của thời đại mà thôi. Giá người đời nay chê trách người xưa mà không dùng đến kế sách ấy mới là phải lẽ vậy. Sự tiếp thu được nhân lực, kỹ thuật của Tây phương dẫn đến sự thành công của Nguyễn Ánh là do nhiều yếu tố, trong đó không phải là không có nhược điểm của phía Tây Sơn. Và bàn về điều này thì e phải viết một quyển sách nữa, quyển sách tuy vẫn chưa hoàn hảo nhưng cũng loại bỏ được tính cách sử thần nơi các sử gia thời mới. Và lại còn chuyện trả thù. Thắng trận, Nguyễn Ánh cho xử hình vua tướng Tây Sơn theo một cung cách kinh khiếp đối với người thời nay mà chúng ta còn biết được nhờ giáo sĩ de La Bissachère hỏi dò và ghi lại. Dù là cố giữ tinh thần không phe phía, người ta vẫn thấy xúc động với cảnh cô bé hoảng hốt kêu khi thấy con voi cuốn vòi xông tới: “Mẹ ơi cứu con!” để viên nữ tướng ngậm ngùi: “Đến thân mẹ còn không giữ nổi, làm sao cứu con?” Chi tiết để cho lịch sử không chỉ là những dòng chữ ghi chép khô khan, lạnh lùng như thế, có được là nhờ ông giáo sĩ tò mò chuyện đời-thường, nhưng chúng ta cũng biết được thêm rằng đến 20 năm sau (1831), con cháu Nguyễn Nhạc trốn trên vùng người Thượng mới bị bắt đem về xử hình, tuyệt dòng Tây Sơn. Còn chuyện đào mả ba anh em Tây Sơn, lấy sọ xiềng trong ngục thì lưu lại ở Kinh đô Huế với cái Ngục Ông Sọ chỉ mất tên trong biến loạn Thất thủ kinh thành trong tay người Pháp. Cứ nghĩ một trong ba cái sọ nằm lăn lóc trên nền đất tối tăm lạnh lẽo đó, một thời đính theo thân một người từng tung hoành giữa ba quân khiến Xiêm “sợ Tây Sơn như sợ cọp,” khiến vùng biên giới về phía Trung quốc vắng bóng người sau trận Đống Đa! Nhà Nguyễn không giấu chuyện tàn sát kẻ “ngụy,” coi đó là lẽ đương nhiên tự quyền uy mà có, do tính cách chính thống mang tự bản thân dòng họ, được củng cố bằng chiến thắng sau bao nhiêu năm gian khổ phục hồi. Nhưng với thời mới, khi thay chữ “chính thống” bằng “chính nghĩa” theo sự sắp xếp bậc thang giá trị mới thì người ta lại coi hành vi trả thù kia là thấp kém, hèn hạ. Thêm một vấn đề đáng lý không phải tranh cãi. Xét theo sự tranh chấp riêng tư thì dòng chính chúa Nguyễn đã từng bị tuyệt diệt, chỉ còn sót một cậu bé trốn chui nhủi, chịu tủi nhục để may ra được trả thù sau này. Về việc đào mả thì Nguyễn Huệ cũng từng làm đối với dòng họ Nguyễn. Trần Văn Kỉ còn đó để sau này theo về Nguyễn Ánh thuật lại tâng công. Vấn đề gợi nên ở đây đòi hỏi một tinh thần sử học tinh tế hơn tuy nhiên vẫn không có gì phải cực nhọc trí óc lắm. Lý lẽ rất là giản dị mà người ta cứ hay quên, hay cố tình quên. Khoa địa lý phong thủy nay lan qua tận xứ Mỹ, đã dạy rằng khi sống nên tìm lấy một miếng đất sao cho sau khi chết chôn đi thì con cháu sẽ phát vương phát tướng, hay ít ra là phát tài phát lộc, đừng phải đi ăn mày ăn xin khắp bàn dân thiên hạ. Ông Tả Ao nổi tiếng về khoa để mả cho người, chắc cũng nhắm sẵn cho mình một chỗ nhưng không dám nói với ai vì sợ tranh mất, đến khi sắp chết, bảo con cháu khiêng đi chôn, thấy không kịp liền chỉ một miếng đất bên đường có cơ hưởng được cúng tế của làng, có còn hơn không! Vậy thì anh em Tây Sơn chắc không phải để cho ai muốn chôn mình ở đâu thì chôn. Đám cận thần tha hồ trổ tài nhắm vào các huyệt đạo phát tích đế vương. Thế thì Nguyễn Ánh có chịu để mấy cái xác nằm đó chờ đợi ngày kết phát không? Ngược lại, Nguyễn Huệ truy bức dòng chúa cũ, có không nghe lời cận thần xin đào mả các chúa trước để triệt đường thành công mà dấu hiệu là một tên đang nổi lên ở phương Nam đe dọa cơ nghiệp mình hay không? Vấn đề giản dị như thế, người bình thường hay quên không nói làm gì, đến các nhà nghiên cứu sử học mà vẫn mù mờ thì thật là khó hiểu. Các vấn đề tranh cãi đặt ra nguyên nhân chỉ vì lấy tâm tình hiện đại xét người xưa rồi muốn quá khứ phải theo ý riêng của mình. Người xưa sống trong hiện tại của họ, có cách khu xử của tâm tình đương thời, của tình thế họ phải ứng phó mong đạt đến mức tối ưu nếu đó là trường hợp của các tay lãnh đạo. Quá khứ là điều không thể cải sửa, lại không thể dựng lại y nguyên nhưng có thể trình bày như cũ trong mức khả năng tối đa của người sau. Ở Gia Định, Nguyễn Ánh không bắt tội Võ Văn Lượng ngang tàng kiểu Nam Kỳ: “Ai lại làm tướng mà đi lạy đàn bà (vợ Nguyễn Ánh).” Hay giấu tên người tâu xin giết Bá Đa Lộc: “Bây giờ đang lúc cần người.” Có một viên tướng địch về hàng, sau khi thử thách liền phong ngay chức Bình tây Tướng quân trong một chiến dịch quan trọng. Triều Gia Long nhốn nháo người trung thành kiểu “tòng vong Vọng Các” thời ba đào gian truân, với các quan Lê Trịnh đầu hàng lâu hay mới theo khi quân đến, với tướng Tây Sơn trong chiến tranh chạy qua chạy lại... Và im lìm phục vụ, như Hồ Công Diệu của Nguyễn Huệ, Trần Văn Trạc của Nguyễn Nhạc, hay nổi bật như Phan Huy Ích viết Chiếu tuyên cáo quốc hiệu cho Gia Long. Tuy vậy không phải là đã được yên thân. Danh sĩ Bắc Hà Nguyễn Viên dâng sớ từ chức vì không chịu ngồi chung với bọn người chạy qua chạy lại mất phẩm chất. Đặng Trần Thường chê bai lệnh nguyên súy: “(Lê) Chất mà 'bình Tây' thì ai bình Chất?” Nhưng rốt lại vì tình hình thực tế mà chính ông danh sĩ Bắc hà theo quân từ hồi chúa còn lận đận đã phải tội chết, ít nhiều gì cũng bởi quyền uy của tên ngụy mới về hàng. Đọc sách với một tinh thần bình thản chút xíu thì thấy ngay việc đời, lịch sử không thể lược giản trong một vài câu khẩu hiệu ngắn ngủn được. Những vấn đề không đáng nêu ra để tranh luận kia thật ra không phải là vấn đề sử học. Sự tranh luận có gốc gác nằm trong thói quen luận cổ suy kim vướng víu của quá khứ, chưa kể đến tính chất phe phía bình thường. Thế mà những vấn đề nêu trên lại trở thành vấn đề sử học chỉ vì như chúng ta đã nói, thời đại mới vừa đưa đến một lớp sử gia nặng tính chất phe phía, vừa bởi có sự khích động của thời đại, vừa được hướng dẫn bởi chủ thuyết có sự hiện diện của một quyền bính lôi sử gia về thời sử thần ngày xưa. Áp lực đối với sử gia hiện đại còn nặng nề hơn với sử thần xưa nữa. Vì thật ra tuy sử quan Nguyễn tuân theo khuôn khổ trung quân, đã đặt Tây Sơn vào vai trò “ngụy” trong một “quyển” 30 riêng biệt của Chính biên liệt truyện, và cũng từng nặng nề với các tên “đầu sỏ” nhưng họ không bỏ qua những ưu điểm của kẻ địch, không dìm những lời tán tụng của người cùng phe trong các trường hợp nhận xét về phe ngụy. Họ nhận xét Nguyễn Huệ “tiếng nói như chuông lớn, mắt sáng như chớp... ai cũng sợ cả”! Và họ cũng không ngần ngại ghi lời thuộc hạ can gián Nguyễn Ánh ngay trong lúc đang tranh chiến, nghĩa là lúc thù hằn lên tột đỉnh, lúc dễ ngăn chặn những lời “làm lợi cho địch” như người đời bây giờ có thể viện dẫn ra: “Kẻ kia Nhạc Huệ, anh em từ dân áo vải, không đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng người theo có cả vạn, không đầy năm, sáu năm có được đất nước...” Ít ra thì trong trường hợp này ta cũng có bằng cớ để nói về ưu điểm của sử quan xưa, so với người thời bây giờ, hoặc bởi dua nịnh thời thế, hoặc do sự bất lực của chính mình, đã gán cho các nhân vật lịch sử những tội trạng, những thói hư tật xấu họ không hề có, hay vốn chỉ là chuyện bình thường của đương thời, của quá khứ mà người nay không hiểu ra trong lúc cứ muốn đóng vai trò phẩm bình Xuân Thu với những kẻ không trả lời được. New Year 2002
|
|