|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 2:59:00 GMT 9
Sự thật về tung hô tôn sùng lãnh tụ Sông Lô Những chân dung Hồ Chí Minh luôn sạch bụi, trang trọng nằm giữa bàn thờ tổ tiên trong nhiều gia đình truyền thống Việt Nam từ nông thôn đến thành thị là một thực tế không thể chối cãi. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh là cá nhân Việt Nam rõ nét nhất của thế kỉ hai mươi có ảnh được đặt vào ngôi đền anh hùng dân tộc cùng các tên tuổi chống ngoại xâm thành công suốt chiều dài lịch sử như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Đó là chủ tố quan trọng đắp đổi thêm cùng huyền thoại, chính thống hóa quyền lực lúc sinh thời của ông và dọn cho ông một chỗ đứng trong kí ức dân tộc sau khi ông qua đời. Dù kẻ muốn người không, Hồ Chí Minh vẫn là một nhân vật không thể thiếu trong các tài liệu lịch sử Việt Nam. Việc góp phần tự tạo dựng huyền thoại về mình của Hồ Chí Minh càng chứng tỏ ông rất am tường quá khứ dân tộc, cũng như con người và xã hội Việt Nam trong thế kỉ hai mươi. Điểm hơn người của ông ở đấy, và muốn luận được mất của ông chuẩn xác nhất cũng phải bắt đầu từ đấy. Đoạn kết bài viết “Chuỗi luận lịch sử trong huyền thoại Hồ Chí Minh” này của tác giả Trương Thái Du đã ít nhiều cảnh báo chúng ta về một thực tế khách quan trong mối quan hệ tình cảm “ngộ nhận” của nhiều gia đình truyền thống Việt Nam từ nông thôn đến thành thị đối với ông Hồ. Cần kiềm chế mọi dị ứng quá đà, mọi định kiến không mấy khách quan cũng như những miệt thị vung vít nặng tính thóa mạ để thỏa mãn cảm tính nhất thời không cần thiết khi có những tranh cãi về nhân vật lịch sử chỉ “một không hai” này, nhất là đối với những ai biết tôn trọng sự thật và muốn nói lên sự thật. Lại càng cần thiết cho những ai có tâm thức với quê hương cho dù ở hải ngoại hay quốc nội đang miệt mài đóng góp tâm sức trong công cuộc vận động dư luận quần chúng đấu tranh cho một tiến tình dân chủ hoá đất nước với một nền kinh tế thị trường ổn định, phát triển, công bằng, bền vững và lành mạnh. Loại trừ, hóa giải những ngộ nhận đáng tiếc của đa số quần chúng trong nước phải là một bắt buộc. Muốn vấn đề nhạy cảm này đạt được kết quả chúng ta cần kiên trì từng bước tháo gở những xảo trá chằng chịt, vạch trần những bịp bợm tung hứng, những thật giả đan xen nhau về mọi mặt của đảng cầm quyền CSVN trong mưu đồ tôn vinh xưng tụng ông Hồ trước công luận trong cũng như ngoài nước. - Bằng những lý luận, những phân tích có hệ thống, ôn tồn, nhẹ nhàng, hòa nhã, giải thích vấn đề hợp lý, có dẫn chứng, đáng tin cậy và có sức thuyết phục với tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử. - Tế nhị nắm bắt tâm lý sinh họat đơn giản, thực tế của đại đa số quần chúng ngõ hầu tranh thủ nhân tâm mà đánh đổ từng mảng tư tưởng cũng như thần tượng “hữu danh vô thực” mà chủ nghĩa độc tài toàn trị này tung hê để bám vào với mục đích sống còn. Ở phần 1 của bài viết “Từ Trong Cõi đến Chuyện Ở Sân Sau” đã minh chứng đầy đủ cái gốc họ Hồ của ông Hồ mà bấy lâu nay đảng CSVN cứ khăng khăng bưng bít. Với phần 1 này, mục đích của người viết chỉ cần có vậy, việc nói tốt hay nói không tốt về ông Hồ bởi những phần dẫn chứng mà người viết đã trích dẫn từ những nguồn khác nhau cũng không ngoài tham vọng làm giàu thêm sức thuyết phục của bài viết. Có điều người viết luôn tâm niệm là tôn trọng tính khách quan và sự thật để chia sẻ cùng độc giả phải là một bắt buộc. Tung hô tôn sùng lãnh tụ Hoan hô ông Tạ Đình Đề Trước làm gián điệp sau về với ta Hoan hô anh Lê Quảng Ba Trước là thổ phỉ sau ra hàng mình Đây là 4 câu thơ dân gian được trích từ bài thơ châm biếm truyền miệng thuộc dạng Bút Tre, Tạ Đình Đề (bên phải) và Thượng tướng Hoàng Minh Thảo ở quê nhà Thanh Oai, Hà Tây Nguồn: thanhnien.com.vn/Ảnh tư liệu gia đình Tạ Đình Đề -------------------------------------------------------------------------------- Hoan hô ông Tạ Đình Đề Trước làm gián điệp sau về với ta Hoan hô anh Lê Quảng Ba Trước là thổ phỉ sau ra hàng mình Hoan hô đồng chí Trường Chinh Trước thân Trung Quốc sau hình như không Hoan hô bác Phạm Văn Đồng Lâu năm thủ tướng nhưng không làm gì Việt Nam ta nhỏ tí ti So với thế giới cái gì cũng hơn. Ở hai câu đầu của bài thơ châm biếm trên có đề cập đến nhân vật Tạ Đình Đề, ông này định ám sát ông Hồ, nhưng đã không thực hiện được ý định. Là người quyền biến tài trí ông Hồ chẳng những đã không bị ám sát mà ngược lại đã thu phục được nhân tâm Tạ Đình Đề. Chuyện truyền miệng trong dân gian như sau: Ông Tạ Đình Đề được địch giao nhiệm vụ phải ám sát Bác. Để thực hiện âm mưu đen tối này, Tạ Đình Đề đã lẻn vào phòng bác ngủ và rình núp trên trần nhà, chờ đêm tối Bác vào là ra tay. Nhưng Tạ Đình Đề đã phải ngỡ ngàng vì Bác là người tài trí, mọi sự Bác đều có linh cảm trước nên vừa bước chân vào phòng ngủ Bác đã hỏi ngay “Chú Đề, chú làm gì mà trốn trên ấy, có xuống không thì bảo?”. Tạ Đình Đề xanh mặt vội xuống mà qui phục Bác. Người viết nắm bắt được câu chuyện vỏn vẹn chỉ có vậy và vì muốn tìm hiểu thêm về nhân vật Tạ Đình Đề này để bổ sung cho phần “tung hô tôn sùng lãnh tụ”, người viết đã cầu cứu đến tác giả ”Đêm Giữa Ban Ngày”, anh Vũ Thư Hiên và đã được anh Vũ Thư Hiên hoan hỉ thỏa mãn ngay, chẳng những qua email mà còn gọi điện thoại trực tiếp đến người viết. Cảm ơn anh Vũ Thư Hiên nhiều, tiện đây người viết cũng đính kèm email trao đổi giữa người viết với tác giả ”Đêm Giữa Ban Ngày”, xem như một kỷ niệm “đấu tranh” và cũng chắc rằng người viết nào đang lúc viết mà ít nhiều không gặp phải những khó khăn này, cũng mong độc giả thông cảm. Subject: Nhờ anh Vũ Thư Hiên giải thích hộ Anh Vũ Thư Hiên thân mến, SôngLô đang viết dở dang một bài về ông Hồ, viết đến phần “tôn sùng lãnh tụ“ trong đó có một đoạn liên quan đến ông Tạ Đình Đề cũng như ông Lê Quảng Ba thì lơ tơ mơ, không nắm rõ cho lắm về cuộc đời của hai nhân vật này. Nếu được mong anh giải thích cặn kẽ công việc làm, chức vụ cũng như nội dung câu chuyện về 2 nhân vật này giúp SôngLô anh nhé. Cảm ơn anh trước. SôngLô TB. Trong dân gian có thơ như sau: Hoan hô ông Tạ Đình Đề Trước làm gián điệp sau về với ta Hoan hô anh Lê Quảng Ba Trước là thổ phỉ sau ra hàng mình Email trả lời của tác giả “Đêm Giữa Ban Ngày”: Chào Sông Lô, Nhân vật Tạ Đình Đề có thật, không phải là huyền thoại. Nhưng có nhiều chuyện thêu dệt về nhân vật này. Trước hết là huyền thoại về tài bắn súng (ngoài trăm bước bắn trúng ngọn nến“ là không có. Tạ Đình Đề bắn súng lục cũng như các loại súng khác không tồi cũng không xuất sắc, Đối với tôi, anh là bạn vong niên. Hơn tôi cả chục tuổi nhưng Tạ Đình Đề chơi với tôi như bạn chứ không như đàn anh. Sau khi tôi ra tù (năm 1976) chúng tôi còn nhiều lần chè chén với nhau. Anh Đề là một người ít học, tính tình hào sảng, khí phách ngang tàng (loại người “giữa đường thấy sự bất bình mà tha?“), có tinh thần đồng đội cao, trung thành với bằng hữu. Thời kỳ trước 1945, anh Đề có qua Trung Quốc rồi được Quốc dân đảng Trung Hoa đào tạo nghề tình báo (đúng hơn là nghề trinh sát) sau đó phụ trách đội biệt động thành Hà Nội trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Vì lối sống không chịu luồn cúi, TĐĐ không được lòng “bề trên“. Người ta đưa anh ra khỏi lực lượng vũ trang, cho làm cán bộ ở Tồng cục Đường sắt. Ở đây TĐĐ được cử làm giám đốc một xưởng sản xuất vợt bóng bàn (ping-pong) bằng cao su. Rồi anh bị vu cáo và bị đưa ra toà trong một vụ án nổi tiếng gọi là vụ Tạ Đình Đề. Quần chúng vây quanh toà án để theo dõi và biểu thị sự ủng hộ anh. Anh được trắng án, nhưng không được tiếp tục làm giám đốc, mà ngồi chơi xơi nước cho đến tuổi về hưu. Tôi có nhiều kỷ niệm với anh ấy. Về Lê Quảng Ba thì tôi không biết. Chuyện trước kia LQB là thổ phỉ, Lê Trọng Tấn là lính khố đỏ…, sau theo cách mạng, ai cũng biết cả, nhưng tôi không rõ Lê Quảng Ba làm thổ phỉ ở vùng nào – khu vực rừng núi Quảng Yên, Hòn Gai hay Cao Bằng, Lạng Sơn. Đáng tiếc là ở ngoài này cũng chẳng ai biết về Lê Quảng Ba. Không biết ở trong nước có cuốn hồi ký nào về cuộc đời Lê Quảng Ba không? Ông này ở trong số các tướng ít học, không dính vào các “vấn đề“, sống an toàn cho đến khi chìm vào quên lãng. Thân Vũ Thư Hiên Ngoài ra anh Vũ Thư Hiên còn nhiệt tình bổ túc thêm và đề nghị trao đổi bằng điện thoại “Chuyện Tạ Đình Đề ám sát ông HCM là chuyện bịa đặt hoàn toàn, do ngành tuyên truyền tạo ra. Một số huyền thoại, thí dụ tài bắn súng là do anh em biệt động đội thêu dệt để tăng uy tín cho đội công tác thành Hà Nội. Thân, Vũ Thư Hiên TB. Còn thức không? cho số điện thoại, mình sẽ gọi lại nói chuyện với SôngLô. Già rồi, viết chậm và lười nữa. Cùng trong mục đích thần tượng hóa ông Hồ, ngoài những câu chuyện đại loại như trên đã nêu, trong dân gian còn biết bao nhiêu câu chuyện nói tốt về “Bác“ đựợc truyền miệng: - Rằng, Bác là người yêu nước thương dân nên không màn đến hạnh phúc riêng tư, sống đời độc thân để dễ dàng phục vụ cho dân cho nước. - Rằng, Bác vẫn thường nói, bác có hai cái xấu là hút thuốc và không lấy vợ (cần chú ý ở 2 điểm này, ngay cách hút hai loại thuốc cũng là một trò mỵ dân và không lấy vợ cũng vậy) - Rằng, Bác là tiêu biểu cho đạo đức, cho trí tuệ, cho lương tâm của loài người - Rằng, Bác là người không bao giờ sai - Rằng, Bác nói đựợc nhiều thứ tiếng mà nói sõi ít nhất là 7 thứ tiếng. - Rằng, Bác là nhân vật có tầm vóc quốc tế, ai cũng kính trọng và nể phục v.v...& v.v... Xem như tất tần tật bác là số một (I) La Mã. Tinh vi hơn, việc tôn sùng lãnh tụ còn được biệt phái sang lãnh vực thi ca và trao cho thi ca phải xuất sắc làm tròn cái thiên chức được giao phó này. Bài thơ “Đêm Nay Bác Không Ngủ” sau đây là một điển hình. Anh đội viên thức dậy Thấy trời khuya lắm rồi Mà sao Bác vẫn ngồi Đêm nay Bác không ngủ Lặng yên như bếp lửa Vẻ mặt Bác trầm ngâm Ngoài trời mưa lâm râm Mái lều gianh xơ xác Anh đội viên nhìn Bác Càng nhìn lại càng thương Người cha mái tóc bạc Đốt lửa cho anh nằm Rồi Bác đi đắp chăn Từng người, từng người một Sợ cháu mình giật thột Bác nhón chân nhẹ nhàng Anh đội viên mơ màng Như nằm trong giấc mộng Bóng Bác cao lồng lộng Ấm hơn ngọn lửa hồng Thổn thức cả nỗi lòng Thầm thì anh hỏi nhỏ -Bác ơi Bác chưa ngủ Bác có lạnh lắm không? -Chú cứ việc ngủ ngon Ngày mai đi đánh giặc... Vâng lời anh nhắm mắt Nhưng bụng vẫn bồn chồn Không biết nói gì hơn Anh nằm lo Bác ốm Lòng anh cứ bề bộn Vì Bác vẫn thức hòai Chiến dịch hãy còn dài Rừng lắm dốc lắm u Đêm nay Bác không ngủ Lấy sức đâu mà đi ...Lần thứ ba thức dậy Anh hốt hoảng giật mình Bác vẫn ngồi đinh ninh Chòm râu im phăng phắc Anh vội vàng nằng nặc -Mời Bác ngủ bác ơi Trời sắp sáng mất rồi Bác ơi, mời bác ngủ. -Chú cứ việc ngủ ngon Ngày mai đi đánh giặc Bác thức thì mặc Bác Bác ngủ không an lòng Bác thương đoàn dân công Đêm nay ngủ ngòai rừng Rải lá cây làm chiếu Manh áo phủ làm chăn. Trời thì mưa lăn thăn Làm sao cho khỏi ướt Càng thương càng nóng ruột Mong trời sáng mau mau Anh dội viên nhìn Bác Bác nhìn ngọn lửa hồng Lòng vui sướng mênh mông Anh thức luôn cùng Bác Đêm nay Bác ngồi đó Đêm nay Bác không ngủ Vì một lẽ thường tình Bác là Hồ Chí Minh Đêm nay Bác không ngủ(?) Tranh bột màu của Nguyễn Đức Hạnh Thoạt đầu mới nghe, bài thơ gây được cảm giác xúc động bởi những từ ngữ mộc mạc dân dã có tính toán cùng nội dung câu chuyện cũng không mấy khó khăn nếu gieo vào lòng người bình dân dễ tính. Nhưng nếu tinh tế phân tích tính hợp lý của nó người đọc sẽ không mấy ngạc nhiên khi bài thơ ca tụng Bác nổi tiếng một thời này chẳng những đã bị thiên hạ dèm pha, thậm chí còn bị châm biếm nhại lại theo kiểu Bút tre, Anh đội viên thức dậy Thấy ba lô mất rồi Đôi dép râu ngược đời Nằm trong ngoài mỗi chiếc Anh đội viên nhìn Bác Bác nhìn ngọn lữa hồng Mặt Bác lạnh như đồng Làm sao không nghi được Hay Đêm qua Bác không ngủ Sáng nay bác ngủ bù v.v... Vì bài thơ không thật ngay từ những câu đầu, Người cha mái tóc bạc Đốt lửa cho anh nằm Rồi Bác đi đắp chăn Từng người, từng người một Sợ cháu mình giật thột Bác nhón chân nhẹ nhàng Và chính những cái không thật của những câu đầu trên của bài thơ đã kéo theo hàng loạt cái không thật của những câu sau mà chỉ tổ phơi bày cái nhược điểm của nó là tâng bốc quá lộ liễu. Nó chẳng khác nào bài thơ “Đời đời nhớ ông” của Tố Hữu được sáng tác sau đó vài năm khóc thương Stalin khi ông này qua đời, Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Stalin … Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương ông thương mười Chắc rằng mấy ông quan văn nghệ hậu duệ của Tố Hữu đã cảm nhận được điều này nên hai bài thơ trên đã ít khi được nhắc đến, còn nếu có, thì chỉ trong giới văn thơ, nghệ sĩ với không ngoài dụng ý là châm chích để cùng được cười vui với nhau. Cũng cùng một thái độ, ngay sau khi ông Hồ mất Tố Hữu vội sáng tác bài thơ khóc ông Hồ, Bác ơi Tố Hữu (06/09/1969) Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi Nǎm canh bớt nặng nỗi thương đời Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông, mọi kiếp người … Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau Nỗi đau dân nước, nỗi nǎm châu Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ Cho hôm nay và cho mai sau... Cũng vậy, sau đây là những trích đoạn trong hàng loạt các bài thơ ca tụng ông Hồ được xếp vào danh sách những bài thơ hay, viết về Bác. Mời độc giả cùng bước vào thế giới của cảm xúc với muôn hồng nghìn tía mà cũng đầy ảo tưởng. Gửi lòng con đến cùng Cha Thu Bồn (tháng 9-1969) … Hàng cây Bác đã xanh rì Bóng râm tỏa mát đường đi loài người Bác gieo giống bốn phương trời Một ngòi bút cũng sáng ngời lưỡi lê Bác nằm lòng trải ven đê Quả tim khuya sớm đi về miền Nam … Quê Bác Nguyễn Trọng Oánh (1959) … Tôi như chim nhỏ giữa rừng Bác như nắng đẹp sưởi hồng ban mai Lời đâu mà nói hết lời Mái tranh còn mãi dấu Người thân yêu Ra về bãi mía nhìn theo Thuyền ai lên Rộ nước triều dâng dâng Đất vui đất có anh hùng Ta vui ta sống giữa lòng quê hương. … Giếng nước Bác Hồ Phan Thị Thanh Nhàn (Quảng An, 9-1969) … Cả làng đau mắt xưa nay Bác về, như có bàn tay diệu kỳ Tình thương lòng Bác chở che Giếng sâu trong vắt bốn bề khơi lên Bác cho con gái mắt huyền Cụ già mắt sáng trẻ em mắt tròn Tin đâu sét đánh làng con Bác không còn? Bác không còn! Bác ơi! …
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 2:59:36 GMT 9
Những trích đoạn trên trong những bài thơ được gọi là những bài thơ hay viết về Bác đã được sáng tác bằng lý lẽ của những trái tim nóng bỏng, bằng xúc cảm của những tấm lòng thành, điều này không một khả năng phủ nhận nào có thể thuyết phục tuy biết tỏng tòng tong rằng thực chất tác giả của những bài thơ này chỉ là nạn nhân của một trò bịp tinh vi. Đã vậy, các bậc thi bá đắc thời, những cây đa cây đề vang bóng của thi ca đang là những ông quan văn nghệ đương đại cũng tranh nhau uốn cong ngòi bút với những thi tập tung hê lãnh tụ được tung ra như là một chuẩn mực cho đám hậu duệ noi theo, nào là: “Sáng tháng năm” (Tố Hữu). “Khóc trước lăng người” (Chế lan Viên), “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” (Thơ - Nhiều tác giả) v.v...
Chẳng riêng ở lãnh vực thi ca, ở lãnh vực âm nhạc cũng không chịu nhường một tấc đất nào cho công cuộc xưng tụng ông Hồ dưới cây gậy chỉ huy tuyệt đối của ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương. Những nhạc phẩm như:
- Bác đang cùng chúng cháu hành quân “Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận. Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của bác, nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên người...” -Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người -Ai yêu Bác Hồ Chí Minh như chúng em nhi đồng -Bác Hồ - Người cho em tất cả (Tập nhạc - nhiều tác giả) v.v... & v.v...
Đã một thời không ai là không thuộc, cho dù không muốn thuộc cũng phải thuộc vì nó cứ ra rả bên tai hàng giờ, hàng ngày.
Trong văn học cũng vậy, cuốn Hồ Chí Minh toàn tập, Bác Hồ (Hồi ký Nhiều tác giả), Ca ngợi Hồ Chí Minh (Hồi ký Nhiều tác giả), Chúng ta có Bác Hồ (tập I và tập II nhiều tác giả) cũng v.v...& v.v... thôi thì không biết bao nhiêu mà kể. Giả dụ như ông Hồ còn sống và để cho ông cầm bút viết lại tất cả những gì mà người ta tung hê ông, người viết chắc rằng sống với trăm tuổi và bắt đầu là từ 1 tuổi chưa hẳn ông chép được hoàn tất.
Lại nữa, nhận định về thơ “Nhật ký trong tù” của ông Hồ, sách giáo khoa của nhà nước CHXHCNVN viết: Thơ “Nhật ký trong tù“ có bài hồn hậu như thơ dân gian, lại cũng có bài trang trọng, bát ngát như thơ Đường, thơ Tống. Giữ cốt cách Á Đông mà thơ vẫn rất hiện đại. Giản dị, phong phú mà vẫn có phong cách riêng. “Nhật ký trong tù“ là một tập thơ có nghệ thuật đặc sắc.
Sinh thời, Hồ Chủ Tịch chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà văn, nhà thơ. Chưa bao giờ người nghĩ chuyện làm văn, làm thơ theo nghĩa thuần túy của những từ này. Khi được hỏi về tập thơ “Nhật ký trong tù“ của mình. Hồ Chủ Tịch đã nói: „Các chú không nhắc, thì Bác cũng không nhớ nữa. Bác không phải là người hay thơ, mà thơ của Bác cũng không hay. Mười mấy tháng bị nhốt trong cái phòng u ám và quạnh hiu, một mình một bóng, không được nói chuyện với ai, không có việc gì làm. Muốn du lịch thì chỉ đi dọc chỉ năm bước, đi ngang chỉ bốn bước. Để tiêu khiển ngày giờ, chỉ có cách nghêu ngao vắn tắt ghi lại sinh họat của người tù cho khuây khỏa thế thôi, phải thơ phú gì đâu.”
Đối với Bác thì chỉ như vậy, còn với chúng ta “Ngục trung nhật ký” không những là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là một tác phẩm văn học lớn, có tác dụng giáo dục sâu sắc phẩm chất, đạo đức cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay.
Theo những nhà nhà nghiên cứu và phê bình văn học cuốn “Ngục trung nhật ký” còn gọi là “Nhật ký trong tù của ông Hồ có nhiều điểm nghi ngờ về thi phong cũng như bút pháp để đưa đến kết luận ở một khả năng tác giả tập thơ ấy là của một người khác, cũng hoạt động chính trị bị sa cơ ở cùng tù với ông. Trước khi mất, muốn gửi gắm lại tâm sự của mình nên đã nhờ ông cất giữ.
Theo lời của học giả Lê Hữu Mục, tiến sĩ Văn chương, nguyên giáo sư Đại học Văn khoa và Sư phạm Sài Gòn, nhà biên khảo, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu triết học và tôn giáo có thuật lại:
“Ngay giáo sư Đặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về soạn niên cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh; Hỏi ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932-1933, đây là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước? Hồ Chí Minh không trả lời. Sau này bí thế quá, Viện Văn Học trả lời vắn tắt rằng: Đề năm 1932-33 là sai, phải là năm 1942-43 mới đúng. Cách trả lời rất vắn tắt, không có lời giải thích minh bạch, thỏa đáng.”
Trong bài viết “Về Huyền Thọai Hồ chí Minh” của mình học giả Lê Hữu Mục đã nhận xét về nguồn gốc của “Ngục Trung Nhật Ký” như sau:
“Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc. Họ bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những luận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau gì cũng giấu đầu hở đuôi.
“Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
“Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký” . Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời đao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã “cường điệu”, mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
“Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942-1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất. “Ngục trung nhật ký” thực sự là của ai, viết trong hoàn cảnh nào, cơ hội nào ông Hồ có được, những đoạn nào có thể chứng minh một cách thuyết phục là tập thơ này không do chính ông Hồ sáng tác?
Có một điều khó hiểu cần phải nói ra là trên cả trăm bài thơ trong thi tập do ông sáng tác không có một bài thơ nào đề cập đến thực dân Pháp đang đô hộ đất nước Việt Nam hay nhân dân Việt Nam đang khốn khổ sống trong gông xiềng của thực dân cũng như trên cả trăm bài thơ đó không một bài thơ nào đề cập đến quê hương đất nước Việt Nam”.
Trong khi đó lại có bài thơ tác giả tỏ ra uất ức vì không được cùng chung vui với nhân dân Trung Hoa nhân ngày Quốc Khánh.
Có một vài bài tác giả lại đề cao nhân dân Trung Hoa nổi dậy kháng chiến chống Nhật thì lại càng khó hiểu hơn nữa.
Trong bài viết “Ngục Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh?” tác giả Tâm Việt đã có những phân tích, nhận xét và dẫn chứng phủ nhận “Ngục Trung Nhật Ký” là của ông Hồ Chí Minh
Tập thơ hồi ký giãi bày lòng yêu nước và ước mơ tươi đẹp cho tổ quốc .... 中華
Tổ quốc nào và lòng yêu nước của tác giả để ở đâu?
Qua bài viết về chiếc gậy, (Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích (Stick)/ Lính ngục đánh cắp chiếc gậy), chúng ta biết được độ tuổi và địa vị của tác giả.
Chiếc gậy đã là bạn đồng hành của tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương) , mà chiếc gậy này chắc chắn không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của nó đi với uy thế của tác giả - đó là sự chính trực và kiên cường của vị quan thanh liêm (Nhất sinh chính trực hựu kiên cương) . Cộng thêm bài viết than già nhận mình là lão tóc bạc và răng rụng (Lạc liễu nhất chích nha) , chúng ta có thể đoán được tác giả phải vào tuổi lục tuần (55 tuổi trở đi).
Qua bạn bè và liên hệ quyền thế, chúng ta có thể biết địa vị chức vụ của tác giả.
Tác giả là một vị quan của Quốc Dân đảng nên trong thời gian bị nghi ngờ vẫn được quyền lợi hơn hẳn những người tù bình thường (bài “Mông ưu đãi” ), ông cũng ca ngợi đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam, Chiết Giang, Miến Điện đến Vân Nam của tướng bạn và vui mừng khi bạn được thăng chức, tướng Liang Huasheng (bài “Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhậm phó tư lệnh” ). Khi ở tù, ông cũng được các viên chức đến thăm viếng (bài “Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên” ).
Với sự quen biết thân thiết với tướng Liang Huasheng, ông đã có giọng văn kẻ cả với đàn em đệ tử của vị tướng này (bài “Tặng Tiểu Hầu (Hải)” ) trong câu “Vô phụ Lương công giáo dục tình” . Thêm nữa qua câu “Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân” , chúng ta biết tác giả đảng viên đã sống theo câu nói này mà truyền lại cho người nghe là Tiểu Hầu.
Ngoài ra tác giả còn đề cập đến thống tướng lãnh tụ đảng Tưởng Giới Thạch, tác giả ghi nhận sự cô đơn khó nhọc mồ côi cha của Tưởng giới Thạch và nể phục sự cố gắng của vị lãnh tụ này, bài Độc Tưởng công huấn từ. Trong bài này, Đỗ văn Hỷ dịch sai “Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên” không phải là “Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên. Cô thần nghiệt tử, có ý là đứa con không may mắn sống cô độc, nên lý đương nhiên là phải cố gắng. Thân thế của tác giả cũng được biểu lộ, là người có đủ kiến thức về luật pháp để viết các đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn để tra cứu... “Phụng thử” , “đẳng nhân”, “kim thủy học” (bài “Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo” ).
Vì là bạn thân lâu đời của tướng Lương Hoa Thịnh nên tác giả được cung cấp mọi nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết nhau đã lâu nên các chiến công đánh Nam dẹp Bắc của tướng Liang Huasheng đều được tác giả ghi nhận và ca ngợi”.
Sự thật “Ngục Trung Nhật Ký” là của ai, thiết nghĩ ít nhiều đã sáng tỏ. Nếu độc giả nào muốn tìm hiểu thêm, người viết giới thiệu 2 link tại đây và tại đây có khả năng giải đáp một cách thuyết phục rằng “Ngục Trung Nhật Ký” không phải là của ông Hồ
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 3:01:38 GMT 9
Hội Văn Hóa Việt Phỏng Vấn GS. Lê Hữu Mục về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh Tinh Vệ (D.T.) Nhân chuyến Nam Du hay Hoa Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình phát thanh của Hội Văn Hóa Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, tiểu bang California. Bài phỏng vấn này do giáo sư Trần Công Thiện, đồng nghiệp của giáo sư Lê Hữu Mục tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, và luật sư Đỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8 tháng 6 năm 2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên mạn lưới toàn cầu với website của Đài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục, sắp xếp lại, bàn thêm, viết thành bài này.
Học giả Lê Hữu Mục là giáo sư Đại học Văn khoa và Sư phạm, ông đậu đầu kỳ thi Tiến sĩ Văn chương Việt Nam dành cho các giáo sư đại học năm 1970. Ông còn là nhà biên khảo, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu triết học và tôn giáo và là nhạc sĩ nữa. Ngoài khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn quan trọng, bài viết đăng báo, ông viết cuốn “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký” gây nhức nhối cho cộng sản Việt Nam. Cuốn sách này ông ra sức, tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại “Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh Hồ Chí Minh. Đây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới nên nhắc lại chuyện cái phao xẹp “Tư tưởng Hồ Chí Minh” mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn dân hại nước.
Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng: Hồ Chí Minh là kẻ đạo văn. Chúng ta đã biết người cộng sản dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm anh hùng Văn Hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học dựa trên sự mạo nhận của Hồ Chí Minh, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn.
Mở đầu cuộc phỏng vấn ông Mục cho biết sau ngày 30 tháng Tư, 1975 ông tìm đường đào thoát mấy lần nhưng đều thất bại. Trong những giáo sư ĐH Sư Phạm bị kẹt lại có ông Khoa trưởng Trần Văn Tấn, GS Trần Kim Nở… Những người chủ mới của Trường Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu: đoàn kết, xóa bỏ hận thù, hòa giải Bắc Nam, nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị ở Bộ Chính Trị, họ xa cách, lạnh lùng với các GS còn kẹt lại. Các giáo sư ngơ ngác, đúng cảnh “ hàng thần lơ láo…” của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc phải thua cuộc.
Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve vãn, mời mọc, nhưng “nói vậy nhưng không phải vậy”. Các GS miền Nam đúng ngồi không yên, không biết phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang, chán nản. Điều xúc phạm đầu tiên là cách xưng hô “anh chị” kỳ cục. Trước kia có tôn ti trật tự, là thày là giáo sư, là ông, bà. Giờ đây là anh chị cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói “trường sở vốn là của mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu ở đâu?”
Hà Nội lộ mặt thật qua vụ ông Lê Trí Viễn vào Nam “lên lớp” các thày miền Nam. Ông cán bộ giáo dục này tấn công nền sư phạm miền Nam nặng nề. Ông ta chê là miền Nam không có một giáo trình quy củ, đàng hòang, không có cuốn sách nào là sách giáo khoa chính thức, không có một tác phẩm nào tiêu biểu cho sư phạm của một nền đại học. (Ông Lê Trí Viễn đã dùng nền giáo dục một chiều, chật chội của chế độ, để so sánh với chủ trương nền dục khai phóng ở miền Nam). Ông ta dùng những lời đả kích mạnh mẽ, vì ông ta ở thế thượng phong, thế của kẻ thắng. GS Mục là Trưởng Ban Việt-Hán đại diện cho nhóm sư phạm kẻ bại trận (trong nhóm có GS Trương Văn Chình là GS ngôn ngữ học nổi tiếng).
Mở đầu ông Mục cũng nói vài lời khiêm tốn, nhưng càng về sau, càng bị bực bội, nên hơi mất bình tĩnh, tấn công trở lại nhóm GS miền Bắc. Ông cho biết ông đã đọc hết tài liệu giảng dạy dành cho giáo sinh miền Bắc và đánh giá rằng những tài liệu đó cũng không có giá trị cao, chỉ đáng quay ronéo phát cho giáo sinh làm tài liệu nội bộ thôi. Ông cũng phản pháo lại, cho biết là ngoài ấy cũng không có tác phẩm giáo khoa nào xứng đáng.
Một chuyện khác diễn ra để chúng ta thấy cái máy móc, một chiều của Hà Nội. Ông Hoàng Xuân Nhị được coi là một giáo sư gạo cội, từng đi du học bên Pháp và Liên Xô, vào Sài Gòn thuyết trình về thơ của Hồ Chí Minh. Ông ta nói dài dòng về cuốn Ngục Trung Nhật ký trước cử tọa cũng coi như các học viên, là các giáo sư đại học, trong đó có GS Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần… Sau bài thuyết trình, họ buộc các giáo sư phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi người ngỡ ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ kiện để thảo luận, thu hoạch? Các giáo sư bán cái, đùn đẩy cho ông Mục “vì ông rành chữ Hán” lên tiếng.
Ông Mục tuy chỉ là lần đầu tiên nghe nói về Ngục Trung Nhật ký, nhưng với phản ứng mau lẹ và với kinh nghiệm giảng dạy văn chương lâu năm, ông bắt ngay được những khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết cuốn thơ đó có bốn khuyết điểm (Vì không đủ thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ nêu lên hai khuyết điểm). Thứ nhất thể thơ trong đó phần lớn là thơ bảy chữ bốn câu, thất ngôn tứ tuyệt. Thơ bảy chữ là thơ trang trọng, nghiêm túc, còn thơ lục bát là thơ dân tộc, bình dân, nhưng dịch thất ngôn sang lục bát dễ bị loãng, câu thừa, câu thiếu, tại sao lại dịch như thế? Diễn giả họ Hoàng ngẫm nghĩ rồi trả lời: “Để thỉnh thị ý kiến ở “trên” sẽ trả lời sau”. Thấy cái lúng túng, e ngại, tránh né của diễn giả là các GS miền Nam hiểu ngay được số kiếp văn nô miền Bắc đồng thời hiểu được tương lai của mình.
Câu hỏi và là thắc mắc thứ hai: Trong bài thơ Thụy bất trước có câu: “Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh” (Không ngủ được, nên dịch là Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh), tại sao lại dịch là: Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh? Kể ra ông Mục đã uống thuốc liều, đã dám mó vào dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là Hòang Xuân Nhị phải vội vàng tránh né ngay, nói như vẹt là “sẽ trả lời sau khi thỉnh thị ý kiến ở trên. Đám văn nô, văn thi sĩ cung đình biết là dịch gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng là Bác tuy bị tù nhưng lúc nào cũng nghĩ đến non sông đất nước. Đó là do câu thành ngữ Trung Quốc “ngũ tinh liên châu” hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước, chuyện xum họp vui vẻ giữa vợ chồng.
Đáp câu hỏi, giới văn học giáo dục có thường gặp giới giáo dục, văn học ngoài đó không, GS Mục cho biết phần nhiều là “họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ”. Trong số đó có nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Đổng Chi, Trần văn Giàu. Riêng ông Nguyễn Công Bình nhiều lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với giáo sư Nguyễn Đổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi nhớ nhất. Ông Nguyễn Đổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn “Cổ Văn Học sử”, đã từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội.
Ông Chi mời ông Mục đến nói chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành riêng cho giáo sư. Sau nửa giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông Mục hơi ngạc nhiên thấy ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa khóc vừa bảo bạn:
- Anh Mục ơi, anh nên đi đi. Người ta không dùng anh đâu. Nên đi ra nước ngoài đi.
- Nếu không anh cũng sẽ phải đóng kịch với họ như tôi thôi. Trong bao nhiêu năm nay, tôi đã phải đóng kịch với họ mãi rồi!
Còn gì đau khổ cho bằng một trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với người, luôn luôn phải giả dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay ông đã bị nhúng chàm, ông lỡ phải theo lao luôn.
Ông Mục cũng gặp nhà thơ Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu:
- Ngày xưa anh rất thành công, chúng tôi qúy mến anh lắm. Nhiều nữ sinh chép thơ của anh học thuộc lòng. Chúng tôi trong này dạy thơ Xuân Diệu ở Đại học Văn khoa. Còn bây giờ anh sáng tác ra sao?
Xuân Diệu lừng khừng đáp:
- Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa.
- Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!
- Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ.
Họ có trình độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi được.
- Vây anh có tin những gì anh viết cho họ không?
Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói:
- Việc gì phải tin. Cần gì phải tin.
Qua cách trả lời của Xuân Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủa xa xưa, đồng thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của chế độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ được đảng đối xử ra sao?
Ông Mục cũng tiếp Trần Văn Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dỗ. Sau cơn địa chấn 30 - 4, ông Mục cũng như các GS đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng cho các giáo sư đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động. Không hiểu lấy tin tức ra sao ông Giàu lò mò kiếm được nhà. Ông vừa đến trước cửa nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60, còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nói ngay:
- Tôi biết ông sắp đi Ca-na-đa. Tôi đến mời ông ở lại cộng tác với chúng tôi.
- Tại sao cụ lại để ý đến tôi thế? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như mọi người khác thôi.
- Tôi đã đọc sách của ông. Ông viết rất đạt. Ông khác người ta chứ, ông có đủ ba điều kiện để làm một nhà nghiên cứu, giảng dạy. Một là phải thông hiểu Hán và Nôm, mới đi vào văn hóa Việt Nam được, ưu điểm hai là biết hai sinh ngữ Pháp, Anh để hiểu phương pháp luận và nghiên cứu rộng rãi hơn. Ba là phải có tài viết văn. Nhiều người nói và dạy học thì được, nhưng không viết được.
- Tôi sang Ca-na-đa vì được gia đình bảo lãnh qua. Rất tiếc tôi không ở lại làm việc chung với cụ và các ông được. Tôi thấy có giáo sư Nguyễn Văn Trung và giáo sư linh mục Thanh Lãng dạy học rất giỏi.
Ông Trần Văn Giàu lắc đầu:
- Ông Trung chưa phải là nhà nghiên cứu văn học, ông ấy chỉ là một ký giả khá thôi. Còn ông Thanh Lãng thì chỉ nên giảng đạo trong nhà thờ hơn là giảng ở trường đại học.
Sau đó ít lâu họ có mời giáo sư Thanh Lãng tiếp tục giảng dạy. Ông Mục nói: “Nghĩ cũng tức cười, một người thì giục đi đi, một người thì kèo nài nên ở lại”. Sau đó ông có dịp đọc những tài liệu do ông Thanh Lãng viết, giảng, nói chuyện sau này và nói: “Tôi thấy tội nghiệp, ái ngại cho ông ta quá. Ông Thanh Lãng đã phải nói, phải viết những gì về tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông viết”. Nghe nói sau này khi tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ đánh thuốc độc chết.
Để trả lời câu hỏi của giáo sư Trần Công Thiện là do động cơ nào thúc đẩy mà giáo sư Lê Hữu Mục đã viết cuốn “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật ký”, tác giả cho biết:
“Chính là do bài thuyết trình của ông Hòang Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến cuốn thơ nhật ký đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà là tôi đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân chúng và nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Đúng như nhà thơ, nhà văn Vi Khuê ở Washington DC đã nhận xét: “Chẳng có giá trị gì để chúng ta phải chú ý tới nó’.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 3:02:05 GMT 9
“Sau nữa là khi tôi bị tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký đó, tôi mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc) đọc xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ này là của người Tàu, không phải lối viết, lối nói của người Việt, chúng tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ ràng trong sách có tên ông già Lý người Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch này mới là tác giả đích thực của tập thơ?
“Kịp đến khi tôi sang đến Gia nã đại, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở hải ngoại. Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm, có nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, có nhà văn Trà Lũ, tức giáo sư Trần Trung Lương đồng nghiệp với tôi… Anh em giục giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn chương và tư tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận vơ, chuyện Hồ Chí Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa lớn quốc tế do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào “No HO” nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này đăng trên tạp chí Làng Văn của nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà báo Nguyên Hương.
“Tôi viết chưa xong thì ông giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông bay qua Montréal gặp tôi ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy một phần rồi cùng với bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ Văn Ái dịch sang Pháp văn. Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO ở Âu Châu nên tranh đấu rất thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì Hồ Chí Minh không biết làm thơ, cũng chẳng phải là nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông ta chỉ là kẻ ăn cắp thơ.
“Cũng chuyện ma giáo, lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo luật sư Trường thì Hồ Chí Minh mánh khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó những nhà cách mạng miền Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất Pháp, đều ký bút hiệu là Nguyễn Ái Quấc, đánh vần theo miền Nam. Đó là một bút hiệu chung của nhiều tác giả các bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có giá trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. Còn bài dở thì ông ta sẽ cãi là tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu!
“Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc. Họ bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những luận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau gì cũng giấu đầu hở đuôi.
“Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
“Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký”. Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã “cường điệu”, mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
“Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942-1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất.
“Ngay giáo sư Đặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về sọan niên cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh; Hỏi ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932-1933, đây là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước? Hồ Chí Minh không trả lời. Sau này bí thế quá, Viện Văn Học trả lời vắn tắt rằng: Đề năm 1932-33 là sai, phải là năm 1942-43 mới đúng. Cách trả lời rất vắn tắt, không có lời giải thích minh bạch, thỏa đáng.
“Nói chung tập “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật ký” có đến sáu phần mười đồng ý với tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm, chỉ có ý xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó trả lời trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi: Sao nghe nói thơ đó không phải là thơ của bác?
“Cũng nhờ vậy, sau vụ tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng thơ thẩn của Hồ Chí Minh nữa”
Họ ở thế bị động, phải đấu dịu với GS Lê Hữu Mục. Ông nói: “Tôi thuộc lòng câu kết tập sách dày cộm của họ: Người ta nói: Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phao lồ khi cầm gươm là kẻ thù của Thiên chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên chúa giáo. Tác phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi không biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì hơn”. GS Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng một câu đủ gói ghém câu chuyện khi được hỏi là: Ông nghĩ gì về cái gọi là Tư tưởng Hồ Chí Minh, họ thường rêu rao?
- “Tôi không thể nào cho rằng Hồ Chí Minh có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết, sát triết thuyết đó. Hồ Chí Minh không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là tư tưởng được. Chính Hồ Chí Minh không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có làm được nhiều thơ thế đâu!”
Thực đúng như nhiều người đã khẳng định: Hồ Chí Minh không có tư tưởng, chỉ có khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu đó ai cũng có thể nói được, chế ra được: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết; Không có gì qúy hơn độc lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua thì đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. Hồ Chí Minh còn “đỡ nhẹ” câu “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” của Tầu ngày xưa.
Như thế hiển nhiên là không thể khoác cho Hồ Chí Minh chiếc áo huyền thoại được, chỉ đáng gọi là Huyễn thoại Hồ Chí Minh thôi.
Tinh Vệ (D.T.)
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 3:03:02 GMT 9
Ngục Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh? Tâm Việt Hồ Chí Minh có nhiều thủ đoạn gian xảo như ông ta lấy tên khác để tự ca tụng mình cho nó có vẻ khách quan. Bây gìơ còn ai không biết hai tác gỉa Trần Dân Tiên và T.Lan cũng chỉ là chính ông Hồ. Tỉnh bơ, coi như trên đời này không ai biết gì hết, thật chỉ có "Bác" Hồ. Nhưng chưa hết, "Bác" Hồ nhà ta lại thoải mái "chôm" luôn tập thơ "Ngục trung nhật ký" của người khác và nói là của mình. Hiện tập thơ này đang đăng tại website vnthuquan.net dưới tên tác gỉa Hồ Chí Minh. "Ngục trung nhật ký" thực sự là của ai, viết trong hoàn cảnh nào, tại sao ông Hồ có cơ hội để "cầm nhầm" như thế, những đoạn nào chứng minh một cách rõ rệt nhất là tập thơ này không do chính ông Hồ viết ra, ...? Chúng tôi biết là bạn Tâm Việt đã có nói qua về vấn đề này, nên chúng tôi lại cảm phiền bạn, nếu bạn có gìơ, xin vui lòng viết lại các bài mà bạn đã phổ biến. Xin cám ơn. xtt 3/7/2007 -------------------------------------------------------------------------------- NGỤC TRUNG NHẬT KÝ. Tập thơ hồi ký giãi bày lòng yêu nước và ước mơ tươi đẹp cho tổ quốc .... 中華 Tổ quốc nào và lòng yêu nước của tác giả để ở đâu ? Thân thế của tác giả. Qua bài viết về chiếc gậy, (Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích (Stick)/ Lính ngục đánh cắp chiếc gậy), chúng ta biết được độ tuổi và địa vị của tác giả. Chiếc gậy đã là bạn đồng hành của tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương), mà chiếc gậy này chắc chắn không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của nó đi với uy thế của tác giả - đó là sự chính trực và kiên cường của vị quan thanh liêm. (Nhất sinh chính trực hựu kiên cương). Cộng thêm bài viết than già nhận mình là lão tóc bạc và răng rụng (Lạc liễu nhất chích nha), chúng ta có thể đoán được tác giả phải vào tuổi lục tuần (55 tuổi trở đi). Qua bạn bè và liên hệ quyền thế, chúng ta có thể biết địa vị chức vụ của tác giả. Tác giả là một vị quan của Quốc Dân đảng nên trong thời gian bị nghi ngờ vẫn được quyền lợi hơn hẳn những người tù bình thường, bài (Mông ưu đãi). Ông cũng ca ngợi đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam, Chiết Giang, Miến Điện đến Vân Nam của tướng bạn và vui mừng khi bạn được thăng chức, tướng Liang Huasheng, bài (Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhậm phó tư lệnh). Khi ở tù, ông cũng được các viên chức đến thăm viếng, bài (Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên). Với sự quen biết thân thiết với tướng Liang Huasheng, ông đã có giọng văn kẻ cả với đàn em đệ tử của vị tướng này, bài (Tặng Tiểu Hầu (Hải)) trong câu "Vô phụ Lương công giáo dục tình". Thêm nữa qua câu "Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân", chúng ta biết tác giả đảng viên đã sống theo câu nói này mà truyền lại cho người nghe là Tiểu Hầu. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến thống tướng lãnh tụ đảng Tưởng giới Thạch, tác giả ghi nhận sự cô đơn khó nhọc mồ côi cha của Tưởng giới Thạch và nể phục sự cố gắng của vị lãnh tụ này, bài Độc Tưởng công huấn từ. Trong bài này, Đỗ văn Hỷ dịch sai "Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên" không phải là "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên". Cô thần nghiệt tử, có ý là đứa con không may mắn sống cô độc, nên lý đương nhiên là phải cố gắng. Thân thế của tác giả cũng được biểu lộ, là người có đủ kiến thức về luật pháp để viết các đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn để tra cứu... "Phụng thử", "đẳng nhân" "kim thủy học", bài (Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo). Vì là bạn thân lâu đời của tướng Lương Hoa Thịnh nên tác giả được cung cấp mọi nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết nhau đã lâu nên các chiến công đánh Nam dẹp Bắc của tướng Liang Huasheng đều được tác giả ghi nhận và ca ngợi. (*) Mông ưu đãi Ngật câu phạn thái, thuỵ câu chiên Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn Dịch Được ưu đãi (Người dịch: Huệ Chi) Ăn có cơm rau, ngủ có mền Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhậm phó tư lệnh (*) Tích nhật huy quân Tương, Chiết địa, Kim niên, kháng địch Miến, Điền biên; Hiển hách, uy danh hàn địch đởm, Vị công dự tụng khải toàn thiên. Dịch Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh (Người dịch: Trần Đắc Thọ) Đốc quân ngày trước vùng Tương, Chiết, Chống giặc năm nay mạn Miến, Điền; Lừng lẫy uy danh, thù mất mật, Khải hoàn mừng trước, xướng thành thiên. Tác giả biết quá khứ thời niên thiếu của lãnh tụ Tưởng Giới Thạch. Trong khi đó ông Hồ và người dịch không biết nên dịch sai câu "Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên" thành "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên". 辜臣孽子: Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên là đứa bé tội nghiệp sinh ra không may mắn nên lẽ đương nhiên phải cố gắng tự thân kiếm sống mà thành công. Không có chữ gia, chữ quốc, chữ thù, mà lại dịch là thù nhà nợ nước là thế nào ?? Độc Tưởng công huấn từ Bách chiết bất hồi, hướng tiền tiến, Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên; Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán, Tự hữu thành công đích nhất thiên. Dịch Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng (Người dịch: Đỗ Văn Hỷ) Gian khó không lùi, vẫn tiến lên, Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên; Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị, Nhất định thành công sẽ có phen. Bởi thế, ông Hồ không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký (*) Tâm tư của tác giả Tâm tình của tác giả biểu lộ sự hãnh diện về tổ quốc, đau đớn khi bị ngoại xâm nay vui mừng vì đã dành lại độc lập nhưng nhắn với đồng bào của ông phải đề cao cảnh giác. Song thập nhất (11-11) Trung Hoa kháng chiến tương lục tải, Liệt liệt oanh oanh cử thế tri; Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác, Nhưng tu nỗ lực phản công thì. Ông đau khổ vì các cố gắng đóng góp vào tổ quốc lại bị nghi là Hán gian, "Trung thành ngã bản vô tâm cứu, khước bị hiềm nghi tố Hán gian." và tủi phận vào ngày Quốc khánh Dân quốc. Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo Gia gia kết thái dữ trương đăng Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng Ngã khước kim thiên bị bang giải Nghịch phong hữu ý trở phi bằng. Dịch Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo (Người dịch: Nam Trân) Nhà nhà hoa kết với đèn giăng, Quốc khánh reo vui cả nước mừng; Lại đúng hôm nay ta bị giải, Oái oăm giá cản cánh chim bằng. Trong bài Thụy bất trước, câu "Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh",người dịch là Nam Trân đã cố ý gắn biểu tượng cộng sản sao vàng vào bài này. Thực ra, ý của tác giả là bày tỏ giấc mơ may mắn cho mình và thịnh vượng cho tổ quốc mình. Trong Sấm Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu : Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng - Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh. Biểu tượng ngũ tinh là điềm may mắn mưa thuận gió hòa, nhân tình yên ổn. Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh 夢魂環繞五尖星 The dream-soul surrounds with five sharp stars Thuỵ bất trước Nhất canh ... nhị canh... hựu tam canh, Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành; Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn, Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh. Dịch Không ngủ được (Người dịch: Nam Trân) Một canh... hai canh... lại ba canh, Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành; Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt, Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Trong bài Thế lộ nan, tác giả có đề cập đến từ Việt. Đối với người Quảng: Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Châu... Tiếng của họ được gọi là Việt ngữ và đất của họ được gọi là Việt địa, Yue. Việt cũng là đất của Việt Vương Câu Tiễn, Việt địa cựu sơn hà. Tại Trung Quốc, tiếng Quảng Đông còn được gọi là "Việt ngữ" (粵語) vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nguyên trước là đất của dân tộc Bách Việt (百粵), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt. vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Qu%E1%BA%A3ng_%C4%90%C3%B4ngvi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc_Vi%E1%BB%87t_%28Trung_Qu%E1%BB%91c%29度 Việt ④ Nước Việt, đất Việt. ⑤ Giống Việt, ngày xưa các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt đều là nói của giống Việt ở gọi là Bách Việt 百越. Như giống Âu Việt 甌越 thì ở Chiết Giang 浙江, Mân Việt 閩越 thì ở Phúc Kiến 福建, Dương Việt 陽越 thì ở Giang Tây 江西, Nam Việt 南越 thì ở Quảng Đông 廣東, Lạc Việt 駱越 thì ở nước ta, đều là Bách Việt cả, có khi viết là 粵. Trích Thiều Chửu Trong bài "Bệnh trọng", tác giả đã ví thân thể mình như là nơi của cuộc chiến như tại đất Việt xưa, nơi Ngô Việt giao tranh. Thường thường, bị bệnh vì khi bên trong tâm sinh lý không vững chãi thì một cơn gió lạnh hoặc một trận nóng ngắn cũng làm dao động cơ thể thành bệnh nặng. Nột thương ngoại cảm là danh tứ thường được dùng để chỉ bệnh chứng như thế nào. Nội thương có thể là nhớ nhà, uất hận, buồn chán, tâm bệnh như tương tư hoặc ăn uống thiếu thốn nên cơ thể suy nhược - còn ngoại cảm là bị thời tiết, nơi ở, môi trường chung quanh ảnh hưởng. Người dịch Nam Trân đã cố ý dịch sai là "Nội thương" đất Việt cảnh lầm than" để đem Việt Nam, vùng Đông Dương ra khích động cảm xúc thù hận chiến đấu. Nội thương Việt địa cựu sơn hà, theo nghĩa đen là trong lòng nhớ thương đất Việt núi sông xưa. Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt, nghĩa là còn bây giờ là Trung Hoa với cái cảm lạnh của khí trời mà thành bệnh. Ông so sánh quá khứ đất cũ là Việt địa và bây giờ là đất Trung Hoa. Bệnh trọng Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt, Nội thương Việt địa cựu sơn hà; Ngục trung hại bệnh chân tân khổ, Bản ưng thống khốc khước cuồng ca. Dịch Ốm nặng (Người dịch: Nam Trân) "Ngoại cảm" trời Hoa cơn nóng lạnh, "Nội thương" đất Việt cảnh lầm than; Ở tù mắc bệnh càng cay đắng, Đáng khóc mà ta cứ hát tràn! Kết luận. Việt nữ kiếm 越女劍, Sword of the Yue Maiden, là một câu chuyện của Kim Dung do một người Trung Hoa viết; nếu không hiểu đầu đuôi mọi người Việt Nam cũng tưởng là câu chuyện nói về các anh thư Việt Nam. Hoặc nói về Tây thi gái nước Việt 西施, một người kiếm củi họ Thi, dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm, thuộc nước Việt cổ - chúng ta lại gom vào mà nhận Tây Thi là gái Việt Nam thì thật là ngu ngơ, đáng chê trách. Hay Huệ năng, sinh quán Quảng Đông cũng được một số người Việt gốc Hoa nói ngài là người Việt, thì phải hiểu rõ là Việt Quảng Đông. Một lần nữa Việt địa cựu sơn hà hay Việt cổ đều cùng nghĩa. Vì thế tác giả Ngục Trung Nhật ký là người Trung Hoa, chứ không phải là người Việt Nam thời Pháp thuộc. vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y_Thivnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3nqn31n343tq83a3q3m3237nvnĐây là hai website của bản Ngục Trung Nhật Ký www.ttvnol.com/tacphamvanhoc/336140.ttvnvnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nnn1ntn31n343tq83a3q3m3237ntn Tâm Việt Khai Trí Minh Tâm, Dân Khôn Nước Thịnh (*) Bổ túc ngày 6/7/2007 DCVOnline, 4/7/2007 Trích từ: www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3546 -------------------------------------------------------------------------------- Phần sau được tác gỉa Tâm Việt viết thêm ngày 22/9/2007 trong phần Ý kiến bạn đọc của bài Sự thật về tung hô tôn sùng lãnh tụ (Sông Lô, 21/09/2007, DCVOnline). www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3931xtt -------------------------------------------------------------------------------- Ngục Trung Nhật Ký. Tác giả viết cho ai ? Chắc chắn là không viết cho dân tộc Việt Nam đọc, mà viết cho dân Trung Hoa, chẳng hạn như bài cổ động kháng chiến chống Nhật, ca ngợi Thống tướng đảng trưởng Tưởng Giới Thạch hay bài khen con gà trống cạnh nhà tù ( thính kê minh) nhờ tiếng gáy của nó đánh thức dân Tàu dậy mà thực hiện lòng ái quốc. Địa vị ông thế nào ? Đã có danh vọng sợ mất tiếng tốt sẵn có của mình. "Bả nhân danh dự bạch hy sinh" nghĩa là Cho người vô cớ mất thanh danh. "Gián điệp hiềm nghi không niết tạo" nghĩa là Bịa chuyện tình nghi là gián điệp. Tuổi tác chừng bao nhiêu ? Đã lên tuổi lão phải chống gậy, răng rụng tóc bạc. Tâm trạng ra thế nào ? Tức giận vì bị hàm oan, kiêu hãnh vì sự hiểu biết và quá khứ của mình. "Thí vấn dư sở phạm hà tội ? Tội tại vị dân tộc tận trung !" nghĩa là Thử hỏi chính ta phạm tội gì ? Có phải tội vì tận trung với dân tộc Trung Hoa của mình hay sao ! Bài "Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo", làm đơn kiện cho bạn tù. Thân nhân bạn bè là ai ? Các tướng lãnh trong quân đội Trung Hoa dân Quốc. Bài "Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên" và bài "Hoàng khoa viên lai thám", bạn bè viếng thăm. Quan niệm chính trị thế nào ? Cần kiệm liêm chính, trước trung với đảng, tổ quốc rồi mới đến nhân dân. Tác giả yêu nước nào ? Trung Hoa Dân Quốc. Quê hương ông ở đâu ? Túc Vinh, là nơi bị bắt khi ra phố chơi; thuộc huyện Thiên Bảo, Tỉnh Quảng Tây. Niềm tin tôn giáo nào ? Thờ Quan Công. "Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm" nghĩa là Mặt trời đỏ sáng mãi như tâm của Quan Công. Đa số người Quảng thờ Quan Công. Biết ngoại ngữ nào ? Tiếng Anh. Sức chịu đựng khó nhọc ? Rất yếu vì tuổi cao, than vẫn khi bị rụng răng mất gậy. Vì bị oan nên tinh thần buồn chán nhưng sau đó nhờ có vốn học vấn nên giải khuây bằng việc ngâm thơ, để sau đó gặp bạn hữu là tướng Lương Hoa Thịnh và Tiểu Hầu thiếu tướng giúp đỡ tiền bạc mua giấy mực bút lông mà viết, kể cả làm đơn khiếu nại cho bạn tù.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 14, 2010 7:06:43 GMT 9
Nhikita Khơrútsốp VỀ TỆ SÙNG BÁI CÁ NHÂN VÀ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ Báo cáo mật tại phiên họp kín (ngày 25-2-1956) của Đại hội lần thứ XX đảng Cộng sản (bôn-se-vích) Liên Xô TỦ SÁCH NGHIÊN CỨU 1997 Nhikita Khơrútsốp VỀ TỆ SÙNG BÁI CÁ NHÂN VÀ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ Đỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp (có đối chiếu, sửa chữa và chỉnh lý theo bản tiếng Hung) Tái bản lần thứ hai, có sửa chữa và chỉnh lý Tủ sách Nghiên cứu giữ bản quyền ấn bản Việt ngữ Vietnamese translation © Tủ sách Nghiên cứu, 1997 Địa chỉ liên lạc: Tủ sách Nghiên cứu Boite Postale 246 75224 Paris Cedex 11 France 3 LỜI GIỚI THIỆU (Cho lần tái bản thứ nhất) 1956! Ba năm sau khi Xtalin [Staline] chết, đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội lần thứ XX, nhằm mục đích thay đổi chính sách, sửa đổi sai lầm, cải tổ đảng và cải tổ chế độ. Ngày bế mạc Đại hội, giữa lúc các đại biểu lục tục kéo nhau ra về, tổng bí thư đảng Khơrútsốp [Khrouchtchev] triệu tập một cuộc họp bất thường gồm riêng các đại biểu Liên Xô, không có mặt các đại biểu các đảng anh em. Trước cuộc họp, Khơrútsốp đã đọc một bản báo cáo, đúng hơn là một bản án, vạch trần những sai lầm và những tội ác của Xtalin. Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với cái tên Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin1. Gọi là ‘‘mật’’, nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bàn báo cáo của Khơrútsốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng Cộng sản. Đây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa xta-lin-nít cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu như ta đã thấy. Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Ở Việt Nam, tại miền Bắc, nhóm Nhân văn Giai phẩm có gián tiếp nói tới. Tại miền Nam, các báo chí nói tới nó rất nhiều. Nhưng theo chỗ chúng tôi biết, chưa có ai và chưa có nơi nào dịch nguyên bản ra tiếng Việt. Phải đợi tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - mới dịch và in ra toàn bộ, từ bản tiếng Pháp. Hai ngàn số đã được phát hành, phần lớn ở Pháp và các nước Tây Âu, một phần nhỏ gửi về Việt Nam. Hiện nay chúng tôi không còn số nào cả, ngoài một hai số giữ làm lưu chiếu. Hơn lúc nào hết, chúng tôi nhận thấy cần phải tái bản cuốn sách này. Không những vì tầm quan trọng lịch sử mà còn vì tác động chính trị của nó đối với các đảng Cộng sản xta-lin-nít, trong đó có đảng Cộng sản Việt Nam. Không phải tình cờ mà đảng này, cho tới ngay, vẫn giấu giếm và ngăn cấm Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin đối với nhân dân trong nước. Cũng không phải tình cờ mà đảng này vẫn cấm ngặt không cho ai được nói tới Xtalin. Vì nói tới Xtalin là phải nói đến những sai lầm và tội ác của Xtalin; phải nói tới đường lối chính trị của đảng trong nhiều năm đã học đòi Xtalin, coi Xtalin là thần tượng và gương mẫu; phải nói tới phương pháp mà đảng đã áp dụng trong việc thủ tiêu các thành phần và các tổ chức đối lập với đảng, trong đảng cũng như ngoài đảng. Tái bản cuốn sách này, chúng tôi giữ lại nguyên văn bản dịch của dịch giả Đỗ Tịnh, không sửa chữa. Bạn đọc sẽ thấy bài diễn văn của Khơrútsốp là văn nói, mộc mạc và ít chú trọng tới văn phong. Chúng tôi cũng in lại nguyên văn bài Mấy lời nói đầu của Hà Cương Nghị. Viết từ hơn mười năm nay, bài này vẫn còn thích hợp với thời cuộc. Hà Cương Nghị đã đề cập một số vấn đề - hồi ấy ít ai lưu ý - hiện nay trở thành đề tài và đối tượng của các phong trào đòi dân chủ đa nguyên, đa đảng, đối lập với lập trường của đảng Cộng sản. Ấy là các vấn đề: đảng và nhà nước, độc tài một đảng, chuyên chính vô sản, tập trung dân chủ v.v... Cũng trong bài Mấy lời nói đầu, tác giả nêu lên hai nhận định, hồi ấy ít ai quan tâm. Một, những sai lầm và tội ác của Xtalin mà Khơrútsốp vạch ra, vẫn còn thiếu sót một phần lớn. Khơrútsốp chỉ nói tới giai đoạn cuối đời Xtalin từ năm 1937, nhưng ‘‘bỏ quên’’ những giai đoạn trước đó, khi 90% đồng chí thân cận của Lênin [Lénine] bị giết hại. Vì thế, những người này chưa được phục hồi danh dự. Hai, sự ‘‘cải tổ’’ do ban lãnh đạo đảng Cộng sản Liên Xô đứng ra chủ trương, thực ra chỉ là một biện pháp tự bảo vệ của giới quan liêu để tồn tại. Nó không thể dẫn tới dân chủ, càng không thể dẫn tới sự tái thiết nền dân chủ Xô-viết mà chỉ có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chính quyền quan liêu mới thực hiện nổi. Mỗi bước ‘‘cải tổ’’ sẽ tạo ra những điều kiện dẫn tới sự sụp đổ của chế độ. Sáu năm trôi quan. Nhận định thứ nhất đã được thời cuộc gần đây chứng minh: năm 1988, ba năm sau khi lên chính quyền, Goócbatrốp [Gorbatchev] đã bắt buộc phải trở lại vấn đề những tội ác của Xtalin. Dưới áp lực của dư luận, Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Liên Xô đã phải tuyên bố xóa án cho Dinôviép [Zinoviev], Bukharin [Boukharine] và hầu hết những đồng chí kỳ cựu của Lênin. Trừ một nạn nhân quan trọng nhất, gần gũi nhất của Lênin về mặt tư tưởng là Lép Trốtxki [Léon Trotsky]! Vì sao? Vì Trốtxki không những là người đối lập quả quyết nhất với Xtalin mà còn là người đối lập không khoan nhượng với toàn thể đẳng cấp quan liêu đang nắm giữ chính quyền ở điện Cơremlanh. Quan liêu chấp thuận ‘‘cải tổ’’, nhưng họ không chấp nhận sự đầu hàng! Nhận định thứ hai cũng đã được thực tế kiểm chứng: chính sách ‘‘cải tổ’’ của Góocbatrốp không những đã thất bại như Khơrútsốp thời kỳ 1956 mà nó còn kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và tất cả các nước ‘‘xã hội chủ nghĩa hiện thực’’ ở Đông Âu. Sự sụp đổ này không những làm thượng tầng kiến trúc sụp đổ mà còn kéo theo sự sụp đổ của hạ tầng cơ sở do cách mạng tháng Mười dựng nên; giờ đây, khẩu hiệu của giới quan liêu là Trở về với chế độ tư bản! Vì không có một cuộc cách mạng chính trị do quần chúng lao động đứng lên lật đổ quan liêu, lập lại nền dân chủ Xô-viết của cách mạng tháng Mười, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã mang hình thức một cuộc 1- Tựa dề nguyên thủy của bản báo cáo là Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó. ‘‘sụp đổ nội tại’’ (implosion) tự trong lòng chế độ quan liêu. Hàng ngũ quan liêu bị phân tán, nhưng một bộ phận quan liêu vẫn nắm giữ được chính quyền, mặc dầu chính quyền này lệ thuộc phần nào vào lá phiếu của dân chúng. Đứng về phương diện chính trị, dầu sao đây cũng là một bước tiến bộ. Nhân dân Liên Xô từ nay thoát khỏi chế độ độc tài đẫm máu do Xtalin dựng nên. Bây giờ, họ có cơ hội để nhận xét, lựa chọn, thử nghiệm: chế độ nào thích hợp với quyền lợi và nguyện vọng của họ! Đứng về phương diện lịch sử, đây là một hiện tượng hoàn toàn mới lạ, chưa từng có. Một chuyển biến ngược chiều. Mọi sự hầu như đều trở về điểm xuất phát. Tương lai nước Nga và các nước Đông Âu sẽ ra sao? Chưa ai có thể quyết đoán. Một điều chắc chắn là sự chuyển hóa các nước này thành các chế độ tư bản và dân chủ như các xứ Tây phương không phải là điều dễ dàng như nhiều người tưởng. Nhiều triệu chứng cho thấy sự thiết lập một nền dân chủ - dầu là dân chủ tư sản - ở những xứ này vẫn còn bấp bênh. Chưa có dấu hiệu gì bảo đảm cho sự thành công của nó. Tái bản cuốn sách này, chúng tôi mong cống hiến các đảng viên chân chính của đảng Cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Xtalin và chủ nghĩa xta-lin-nít, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu: vì đâu Liên Xô và các xứ Đông Âu đã sụp đổ như ngày nay? Chúng tôi mong cống hiến các độc giả một tài liệu để nhận xét sự quái đản của hiện tượng Xtalin, là hiện tượng tiêu biểu cho tư duy và quyền lợi của đám quan liêu. Nó không dính líu gì tới chủ nghĩa mác-xít, là chủ nghĩa nhân bản, nhằm mục tiêu giải phóng lao động và các tầng lớp nhân dân bị áp bức và bóc lột. Ước mong cuốn sách này sẽ tới tay mọi người, nhất là tới tay đông u273 ðảo đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, gia nhập đảng vì muốn đấu tranh cho một lý tưởng cao đẹp! Nguyễn Tiến Cơ Paris, ngày 10 tháng Giêng 1994 5 MẤY LỜI NÓI ĐẦU (Cho lần xuất bản thứ nhất) Dưới sức nặng những tội ác của y, Xtalin sẽ biến mất trên sân khấu với tư cách kẻ đào mồ chôn vùi cách mạng và có bộ mặt ghê tởm nhất trong lịch sử. Lép Trốtxki (1937) Cách đây 26 năm, vào cuối tháng 2-1956, có một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đã xảy ra ở Liên Xô và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là bản Báo cáo mật của Khơrútsốp - Bí thư thứ nhất Ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô - đọc trong dịp Đại hội lần thứ XX của đảng. Bản báo cáo này gọi là ‘‘mật’’ vì nó được đọc trong phòng kín. Ngoài các đại biểu Liên Xô, không ai được có mặt, kể cả các đại biểu những đảng Cộng sản ‘‘anh em’’. Khơrútsốp nói: ‘‘Việc gì cũng có giới hạn của nó’’, ‘‘không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù.’’ Tuy nhiên, bản báo cáo này đã được phát riêng cho trưởng đoàn các phái đoàn anh em1. Các lãnh tụ cộng sản như Tôliati [Togliatti] (Ý), Thorez (Pháp), Chu Đức (Trung Hoa), Trường Chinh (Việt Nam), v.v... đều được biết. Những người này khi trở về nước, có người chối cãi sự thật như Thorez, có người công nhận sự thật như Tôliati; nhưng không ai can đảm đem sự thật ra thông báo trước các đảng viên của đảng. Riêng có một nhà lãnh đạo Ba Lan2 đã ngầm đem phát hành trong nội bộ đảng Cộng sản Ba Lan, gây ra một cuộc thảo luận sôi nổi trong hàng ngũ đảng này. Một bản của báo cáo đó lọt vào tay cục tình báo C.I.A. Mỹ ở Ba Lan. Tờ New York Times (Mỹ) nhận được và dịch đăng trên số báo ra ngày 16-3-1956. Tiếp sau là tờ Le Monde ở Pháp. Và chỉ trong vòng hai tháng, các báo chí tư sản toàn thế giới đều đăng tin. Ở Pháp hồi đó, tờ Tiếng thợ do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp chủ trương có trích dịch và viết bài bình luận. Bản báo cáo của Khơrútsốp là một văn kiện có một không hai trong lịch sử phong trào lao động. Nó là bản cáo trạng buộc tội Xtalin, người đã cầm đầu Liên Xô và được phong trào lao động thế giới tôn sùng trong ba chục năm ròng. Nó không những chỉ vạch ra những sai lầm về chính trị; điều quan trọng nhất là nó đã tố giác Xtalin về tội bạo ngược, giết hại hàng vạn, hàng triệu3 người vô tội, trong đó một số đông là cộng sản. Lịch sử từ thời đại Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, chưa từng có vụ thảm sát nào đại quy mô và được che đậy hàng chục năm như thế. Ngay như vụ Hítle [Hitler] thủ tiêu dân tộc Do Thái cũng chưa tới mức độ trầm trọng như Xtalin. Mà sự tàn ác của Hítle là thế nào thì dư luận đều đã biết ngay trong thời Hítle còn sống. Những ai được biết tiểu sử của Xtalin do các đảng Cộng sản thế giới tuyên truyền hàng chục năm sẽ thấy đây là một bản cáo trạng phá bỏ mọi truyền thuyết mà người ta đã dựng nên xung quanh con người Xtalin. Mặc dầu vậy, theo nhận xét của chúng tôi, cáo trạng này vẫn còn nhiều chỗ thiếu sót, phiến diện, hoặc cố tình thiếu sót. Trốtxki và phong trào Đệ tứ Quốc tế - trong ba mươi năm chính quyền Xtalin - đã từng vạch ra những điều mà ngày nay Khơrútsốp đưa ra ánh sáng. Bạn đọc chỉ cần coi những cuốn Xtalin, Những tội ác của Xtalin (Les Crimes de Staline), v.v... của Trốtxki hay những sách của Víchto Xécgiơ [Victor Serge] viết về Xtalin, sẽ thấy rõ. Nhưng dư luận thường chỉ coi đó là ‘‘sự tranh chấp đảng phái’’. Ngày nay, chính Khơrútsốp, người thân cận Xtalin trong hàng chục năm, chính Khơrútsốp, người kế nghiệp Xtalin, lại đứng ra buộc tội Xtalin. Dầu Khơrútsốp chỉ mới vạch ra một phần sự thực - người ta không thể đòi hỏi nhiều hơn ở một người đã từng là cộng sự gần gũi của Xtalin - nhưng một phần sự thật này cũng đủ chứng tỏ vai trò tiêu cực và tội ác của Xtalin mà Trốtxki và phong trào Đệ tứ đã nói đến. Trái với truyền thuyết hàng mấy chục năm, trình bày Xtalin như một lãnh tụ ‘‘đại tài’’, một chính trị gia và lý thuyết gia ‘‘lỗi lạc’’, một chiến lược gia ‘‘siêu phàm’’, ‘‘kiệt xuất’’, v.v..., Xtalin, thực ra, đã phạm vô số sai lầm chính trị nghiêm trọng, ‘‘gây rất nhiều tổn thất’’ cho đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô. Một trong những sai lầm hết sức to lớn là Xtalin đã coi thường họa phát-xít Đức, khiến quân đội Hítle đã tiến sâu vào nội địa Liên Xô một cách nhanh chóng. ‘‘Thử hỏi tại sao? Vì Xtalin, mặc dầu sự việc đã rành rành, vẫn tưởng chiến tranh chưa xảy ra.’’ Mặc dầu có nhiều mật tin báo cho biết Hítle sắp đem quân tràn qua biên giới, Xtalin vẫn tưởng ‘‘tất cả những điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị binh lính vô kỷ luật trong quân đội Đức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ là cái cớ cho người Đức làm bùng nổ cuộc chiến’’. Ngoài ra, trước ngày chiến tranh diễn ra, Xtalin đã ‘‘thủ tiêu nhiều người trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941. Trong 1- Đại diện các đoàn đại biểu cộng sản được triệu tập đến điện Cơremlanh, mỗi người được phát một bản sao văn kiện, nhưng sau khi đọc xong phải trả lại cho Ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô. Ngay ngày hôm sau, nhiều báo chí các nước không cộng sản đã đăng tải và bình luận những nhận định chính của bản báo cáo ‘‘mật’’ này. (Xin xem cuốn Tiểu sử chính trị của Khơrútsốp của sử gia Liên Xô Rôi Métveđép [Roj Medvedev]) 2- Theo lời Khơrútsốp viết trong Hồi ký, một thành viên ban lãnh đạo Ba Lan tên là Dambơrốpxki [Zambrowski] đã tiết lộ bản báo cáo trong đảng Cộng sản Ba Lan. 3- Nhiều sử gia đứng đắn ước lượng số nạn nhân của Xtalin lên đến mười triệu trong vòng ba mươi năm.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 14, 2010 7:08:58 GMT 9
MẤY LỜI NÓI ĐẦU 6 những năm đó, các cuộc đàn áp đã triệt hạ những tầng lớp cán bộ quân sự nhất định: hầu như từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất. Trong thời kỳ đó, các nhà lãnh đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha và Viễn Đông - đã bị thủ tiêu gần hết.’’ Những sai lầm nói trên đã dẫn tới ‘‘kết quả là ngay trong những ngày giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác’’ của Liên Xô. Cạnh đó, ‘‘chúng đã sát hại một phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự’’ Xô-viết. Trái với truyền thuyết ghi trong Tiểu sử của Xtalin, cho rằng ‘‘thiên tài lỗi lạc’’ của Xtalin đã tạo ra các chiến thắng về quân sự, cho rằng ‘‘đồng chí Xtalin đã thảo ra luận đề về những yếu tố thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh’’, ‘‘đã nhận biết và làm thất bại những kế hoạch của địch’’, v.v..., Khơrútsốp nói: ‘‘Xtalin hoàn toàn không hiểu những sự kiện diễn ra ở trận tuyến’’, nhiều lần ‘‘đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình thực tế của trận tuyến, đưa lại rất nhiều tổn thất không tránh thể khỏi cho quân đội ta’’; đáng lẽ phải biết nhận xét tình hình quân sự trên một bản đồ quân sự, ‘‘Xtalin bày kế hoạch hành binh trên bề mặt một quả địa cầu dùng cho học trò’’. Sau khi nhiều tỉnh lỵ thất thủ, Xtalin trở nên hoang mang dao động và ‘‘mất lòng tin’’; ‘‘trong một thời gian dài, trong thực tế Xtalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì cả’’. Sau này, nhờ ‘‘các đại tướng [...] biến đổi tình hình’’, các mặt trận được củng cố và mở cuộc phản công, lúc ấy, Xtalin mới trở lại lãnh đạo theo lời yêu cầu của Bộ Chính trị. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, Xtalin đã ‘‘đặt dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù1; đồng chí ấy không thể chấp nhận việc những công lao ở mặt trận lại có thể do người khác làm nên’’. Một sai lầm khác nữa của Xtalin được vạch rõ trong bản báo cáo với nhiều dẫn chứng, là vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Liên Xô chậm tiến vì mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng. Người phải chịu trách nhiệm là Xtalin, vì ‘‘Xtalin chẳng hiểu gì về thực trạng ở nông thôn’’. ‘‘Xtalin chỉ biết đất nước và nền nông nghiệp qua phim ảnh. Nhưng những bộ phim này đã tô điểm sự thực trong địa hạt nông nghiệp. Thậm chí, nhiều bộ phim còn miêu tả đời sống các nông trang tập thể dường như thịt gà thịt ngỗng đầy rẫy trên các bàn ăn sắp làm chân bàn đổ sụp’’. Khi đặt chương trình kế hoạch, ‘‘Xtalin không cần chú trọng đến những sự kiện và con số. Một khi Xtalin đã nói một điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ Xtalin là bậc ‘thiên tài’ và một thiên tài không cần tính toán, chỉ liếc mắt nhìn qua là đã có thể luận ra cách giải quyết mọi việc’’. Một lỗi lầm nữa chẳng kém phần quan trọng là vấn đề xung đột với Nam Tư. Trong vấn đề này, ‘‘Xtalin đã đóng một vai trò vô lý’’: ‘‘Không có một nguyên cớ đáng kể nào khiến ‘vụ’ này phát triển: hoàn toàn có thể tránh sự đoạn tuyệt với Nam Tư’’. Nhưng Xtalin đã tin là ‘‘chỉ cần lắc ngón tay út là Titô không còn nữa. Hắn sẽ đổ!’’ Liên Xô đã trả một giá đắt cho việc ‘‘lắc ngón tay út’’ của Xtalin. Xtalin đã quen ‘‘lắc ngón tay út’’ là mọi người đều phải đổ hoặc bị thủ tiêu. Nhưng ‘‘mặc dầu Xtalin ra sức lắc - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể lay chuyển khác -, Titô [Tito] vẫn không đổ’’. ‘‘Vì sao? Bởi lẽ ở trường hợp xung đột xảy ra với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Titô có cả một nhà nước và một dân tộc đã trải qua trường học gian khổ của cuộc chiến đấu cho tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của họ’’. Trái với truyền thuyết trình bày Xtalin như một vị lãnh tụ hiền hậu, nhân ái, thương yêu cụ già, em trẻ, thương yêu nhân loại, v.v... 2, Khơrútsốp cho ta thấy Xtalin thực ra là một kẻ tàn ác, hai bàn tay đẫm máu; không những đẫm máu những người đối lập như Trốtxki, Bukharin, Dinôviép, v.v..., nhưng còn đẫm máu những bạn đồng hành của mình. Đây là một điều mà Khơrútsốp không thể chấp nhận được. Khơrútsốp nói: ‘‘Cuộc điều tra đã cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban Trung ương do Đại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa là 70 %, đã bị bắt bớ và bị xử bắn (phần đông vào những năm 1937- 38).’’ ‘‘Trong số 1956 đại biểu đại biểu chính thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là đại đa số đại biểu Đại hội) bị bắt và bị kết án phản cách mạng.’’ Mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nói đến những vụ diệt trừ trước năm 1937-1938; mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nhắc lại vụ án Mạc Tư Khoa năm 1936, vụ án quan trọng nhất, trong đó 90% đồng chí lão thành thân cận nhất của Lênin (như Dinôviép, Camênhép [Kamenev], Bukharin, v.v...) bị giết hại cùng hàng ngàn, hàng vạn cán bộ và đảng viên đối lập; mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nêu ra vụ ám sát Trốtxki ở Mêhicô [Mexico] năm 1940 và các vụ giết hại những người trốt-kít trên khắp thế giới do chính sách xta-lin-nít - dù thế, những con số Khơrútsốp đưa ra cũng đủ chứng tỏ khủng bố đã lớn đến mức độ nào. Những nạn nhân đều ‘‘thú nhận những tội không bao giờ họ vi phạm’’, ‘‘buộc tội chính mình và những người khác’’, ‘‘tự gán cho mình những tội tày đình và vô lý nhất’’. Vì sao? Vì họ ‘‘không chịu nổi những đòn tra tấn dã man’’. Phương pháp lấy khẩu cung là ‘‘đánh, đánh và đánh thêm nữa’’: ‘‘Người ta đã tạo ra những lời ‘thú tội’ như thế đó’’. Ở đây, Khơrútsốp đã giúp lịch sử giải luận vấn đề ‘‘thú tội’’ dưới thời Xtalin mà các sử gia và các nhà tâm lý như Cốtxle [Koestler]3 chỉ phóng đoán nhưng chưa tìm ra manh mối. Dưới thời Xtalin, nhiều vụ án giả tạo đã được dựng lên, như ‘‘vụ án Lêningơrát [Léningrad]’’, ‘‘vụ án Grudia [Grudia]’’, ‘‘vụ ám sát Kirốp [Kirov]’’, vụ bắt giam các bác sĩ ‘‘âm mưu đầu độc Xtalin’’, v.v... Đó là ‘‘những vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người, những vụ hành quyết không đem ra xét xử tại tòa án và không qua thẩm xét thông thường’’. Ai đã âm mưu ám sát Kirốp, một thành viên cao cấp của Bộ Chính trị? Thủ phạm chẳng ai xa lạ mà chính là 1- Ý Khơrútsốp muốn nói đại tướng Giucốp đã bị truất chức. 2- Xin xem bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu trong phần Phụ lục. 3- Coi cuốn Le Zéro et L’ Infini (nguyên bản Anh ngữ: Darkness at Noon) của văn hào Áctu Cốtxlơ [Arthur Koestler]. MẤY LỜI NÓI ĐẦU 7 Xtalin, với mục đích diệt trừ một đối thủ lợi hại và đồng thời mượn cớ vu khống để diệt trừ những người đối lập mình1. Ở đây, chúng ta thấy phương pháp không khác Hítle đốt cháy tòa nhà Quốc hội Đức rồi mượn cớ đổ tội cho cộng sản. Nhưng Hítle nhân danh phát-xít diệt trừ cộng sản, còn Xtalin nhân danh cộng sản diệt trừ những người cộng sản. Vụ bắt bớ các bác sĩ ‘‘âm mưu đầu độc Xtalin’’ cũng không ngoài ý nghĩa vụ ám sát Kirốp. Thông qua vụ này, Xtalin muốn mượn cớ ‘‘thanh toán tất cả các thành viên cũ của Bộ Chính trị’’. Khơrútsốp nói: ‘‘Không loại trừ khả năng nếu Xtalin còn nắm chính quyền thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Môlôtốp [Molotov] và Micôian [Mikoian] không thể đọc tham luận ở Đại hội2 hôm nay’’. Đó là ‘‘một vụ ngụy tạo từ đầu chí cuối’’. Cũng may Xtalin chết sớm, ‘‘không có đủ thì giờ để đi tới đích’’ và nhờ đó ‘‘các bác sĩ mới còn sống sót’’. Xtalin đã tạo ra khái niệm ‘‘kẻ thù của nhân dân’’, một quan niệm được sử dụng một cách tinh vi. Dựa trên quan niệm này, người ta không cần dẫn chứng những sai lầm về tư tưởng của cá nhân hay đoàn thể; chỉ cần gán cho đối thủ nhãn hiệu ‘‘kẻ thù của nhân dân’’ là đủ. ‘‘Tự bản thân quan niệm ‘kẻ thù của nhân dân’, trong thực tế, đã loại bỏ khả năng mở ra bất kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng nào, hoặc ngăn cản người khác không được phát biểu ý kiến về một vấn đề nhất định, ngay cả khi vấn đề ấy là thực tiễn, chứ không mang tính lý luận’’. Khơrútsốp nói: ‘‘Sự thật, khủng bố không nhắm mục đích loại trừ những tàn tích của giai cấp bóc lột đã thất bại, nó chỉ chống lại những viên chức trung thực của đảng và nhà nước Xô-viết. Đối với họ, người ta đã ngụy tạo ra những lời buộc tội vu khống và phi lý như bảo họ là ‘giả dối’, ‘gián điệp’, ‘phá hoại’, ‘chuẩn bị những cuộc mưu sát’ giả định với những phương tiện bất hợp pháp v.v...’’ Trái với truyền thuyết cho rằng Xtalin là người mác-xít, am hiểu về vấn đề dân tộc, biết giải quyết vấn đề này trên cơ bản tự quyết bình đẳng bình quyền của các dân tộc, Khơrútsốp cho ta biết vào năm 1943, Xtalin đã đưa ra một quyết định ‘‘nhằm đày ải dân tộc Karatchai khỏi những mảnh đất họ đang cư trú’’. Cùng năm đó, ‘‘tất cả dân chúng nước Cộng hòa Tự trị Canmúc [Kalmouks] cũng chịu chung một số phận’’. Năm 1944, ‘‘tất cả dân Balkare bị đuổi khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Tự trị Kabardo-Balkare đến các vùng khác’’3. Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội phản bội cho cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người cộng sản, đoàn viên Cômxômôn [Komsomol], v.v...; làm sao có thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả đũa với cả một dân tộc - khiến họ phải đau khổ và chịu đựng - vì những hành vi của một số người hay một số tập đoàn chống lại ta?’’ Trái với những truyền thống trình bày Xtalin như người kế nghiệp xứng đáng của Lênin, Khơrútsốp vạch rõ sự khác biệt giữa Lênin và Xtalin: khác biệt về nhân cách, về phương pháp hoạt động, về chính trị. Để chứng thực, Khơrútsốp cho phát trong phòng họp Đại hội 16 tài liệu, trong đó có tờ Di chúc chính trị của Lênin mà Xtalin đã giấu kín đối với đảng trong vòng ba chục năm. Những tài liệu đó vạch rõ sự bất đồng chính kiến giữa Lênin và Xtalin. Đặc biệt, về vấn đề dân tộc Grudia, Lênin trách cứ Xtalin đã thi hành một chính sách quốc gia ‘‘Đại Nga’’. Trong một tài liệu4 đề ngày 5-3-1923, Lênin yêu cầu Trốtxki thay mình bảo vệ trước Ban Trung ương lập trường đối lập với Xtalin và Décginxki [Dzerjinski] vì hai người này có thái độ ‘‘ngược đãi’’ dân tộc Grudia. Trong tờ Di chúc chính trị của Lênin, đoạn bổ sung đề ngày 4-1-1923 là tư liệu quan trọng nhất. Trong đó, Lênin đề nghị Ban Trung ương ‘‘chuyển Xtalin khỏi trọng trách’’ tổng bí thư đảng và ‘‘đề cử vào vị trí của Xtalin một đồng chí khác, có bản tính tốt hơn so với Xtalin’’. Hai tháng sau, ngày 5-3-1923, Lênin viết cho Xtalin một bức thư đoạn tuyện: ‘‘Tôi yêu cầu đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ’’. Sự thậtc lịch sử là như thế. Nhưng sau này, Xtalin đã mạo nhận là người tiếp nối sự nghiệp của Lênin. Trong cuốn Tóm lược tiểu sử của mình, Xtalin đã tự tay viết ra những câu: ‘‘Xtalin là người kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lênin, hoặc - như người ta thường nói trong đảng -, Xtalin là Lênin của thời đại ngày nay.’’ Cũng trong cuốn sách này, Xtalin còn tự bổ sung: ‘‘Đồng chí [Xtalin] không hề cho phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình’’. Ngoài những giả dối đó, Xtalin còn có những hành vi khác ‘‘không thể chấp nhận được’’, như phao tin đồn nói xấu nguyên soái Giucốp [Joukov], hay đặt ở nhà nguyên soái Vôrôsilốp [Vorochilov] ‘‘một dụng cụ đặc biệt, có thể ghi âm tất cả các cuộc nói chuyện’’. Giả dối, xuyên tạc, vu khống, man trá, mạo nhận, đó là những đặc tính của Xtalin mà Khơrútsốp đã lần lượt vạch rõ trong bản Báo cáo mật. Khơrútsốp nói: ‘‘Như mọi người đều biết, cuốn ‘Tóm tắt lịch sử đảng Cộng sản (bônse- vích) Liên Xô’ đã được một ủy ban của Ban Trung ương thảo ra’’. Thế mà, Xtalin đã ký tên mình: trong bản in năm 1938, người ta thấy mấy chữ ‘‘do đồng chí Xtalin viết’’ trên bìa sách. Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Một biến đổi tuyệt vời đã khiến một công trình tập thể thành cuốn sách do Xtalin viết?’’ Trái với truyền thống của các đảng Cộng sản trên thế giới coi cuốn Yếu lược lịch sử đảng Cộng sản (bôn-sevích) Liên Xô là cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên và cán bộ5, Khơrútsốp nói nó chứa đựng nhiều sai lầm và xuyên tạc, cần phải viết lại6. Trong cuốn sách này, Xtalin đã ‘‘biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau cách mạng tháng 1- Theo báo cáo của Khơrútsốp thì Kirốp bị Xtalin thủ tiêu, nhưng theo những tiết lộ mới nhất rút ra từ thư khố của K.G.B thì trường hợp này dường như không phải vậy; Kirốp thiệt mạng trong một vụ xung đột tình ái. Tuy nhiên, ý muốn thường xuyên loại trừ các đối thủ là rõ ràng trong suốt cuộc đời Xtalin. 2- Tức Đại hội lần thứ XX của đảng Cộng sản (bôn-se-vích) Liên Xô. 3- Ba mươi năm sau, ở Campuchia, Pôn Pót [Pol Pot] đã theo gương Xtalin thực hiện chính sách cưỡng bức di chuyển dân sự và diệt chủng. 4- Xin xem bản dịch nguyên văn tài liệu này ở phần Phụ lục. 5- Trong cuốn Những chặng đường lịch sử, đại tướng Võ Nguyên Giáp coi đây là tài liệu cơ bản huyến luyện của đảng Cộng sản Việt Nam. 6- Cuốn sách này đã được viết lại, nhưng vẫn còn nhiều đoạn sai lầm và xuyên tạc. Xin xem tạp chí Nghiên cứu số 6, tháng 6-1981 do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp xuất bản. MẤY LỜI NÓI ĐẦU 8 Mười của đảng Cộng sản vinh quang’’, đã ‘‘tỏ ra thiếu kính trọng đối với kỷ niệm về Lênin’’. Cuốn sách ‘‘chủ yếu chỉ nói về Xtalin, về những bài diễn văn, những bản báo cáo của đồng chí ấy’’ và ‘‘không hề có một ngoại lệ, dù nhỏ mọn nhất: mọi sự việc đều gắn liền với tên tuổi Xtalin’’. ‘‘Mọi biến cố đều được trình bày như thể Lênin chỉ đóng vai trò thứ yếu, ngay cả trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười’’. Sự thực, ‘‘các đồng chí có mặt ở đây, ít ai nghe và biết đến Xtalin trước năm 1924’’. Ở đây, Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nói thêm, trong cuộc cách mạng tháng Mười, người ta chỉ thấy cụm từ luôn đi liền nhau là ‘‘Lênin và Trốtxki’’1. Xtalin đã chiếm đoại vai trò của Trốtxki trong việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang và sáng lập Hồng quân Liên Xô. Sự biến đổi công trình một người khác thành công trình của mình còn biểu hiện trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Khơrútsốp nói: ‘‘Khi xem các tiểu thuyết, phim ảnh và những công trình ‘khoa học’ về lịch sử của chúng ta, ta thấy Xtalin có vai trò hầu như không thể tưởng tượng nổi trong cuộc chiến tranh vệ quốc’’. ‘‘Xtalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can đảm và thiên tài lỗi lạc của Xtalin’’. Sự thực, ‘‘những chiến thắng ấy là kết quả sự cố gắng vô biên và công tác của ______toàn thể nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải thành quả lãnh đạo của Xtalin như người ta từng khẳng định trong thời kỳ sùng bái cá nhân’’. Dưới thời Xtalin, sự sùng bái cá nhân đã ‘‘đạt đến mức khốc hại’’, ngoài sức tưởng tượng. Người ta đã tán dương Xtalin bằng đủ mọi cách và chính Xtalin cũng tự viết ra những câu tán tụng mình. Khơrútsốp nói: ‘‘Cuốn ‘Tóm lược tiểu sử Xtalin’ ấn hành vào năm 1948 [...] là thứ xu nịnh ghê tởm nhất, là điển hình cho việc làm thế nào để biến một người - Xtalin - thành một vị thánh sống, một hiền nhân không thể sai nhầm, một ‘lãnh tụ vĩ đại nhất’, một ‘chiến lược gia đại tài của mọi thời đại và mọi dân tộc’. Cuối cùng, người ta không tìm nổi từ ngữ để tâng bốc Xtalin lên tận chân mây’’. Trong những vần thơ của bản quốc thiều, ‘‘toàn thể sự nghiệp của đảng lê-nin-nít trên các lĩnh vực giáo dục, chỉ đạo và động viên đều thuộc về Xtalin’’. Khơrútsốp tuyên bố cần phải viết lại lời cho bản quốc thiều Liên Xô. Xtalin còn ‘‘đặc biệt hào phóng khi tự tặng cho mình những lời khen ngợi về thiên tài quân sự, về tài năng cầm quân’’. ‘‘Xtalin thích coi bộ phim ‘Năm 1919 bất diệt’, trong đó ta thấy Xtalin đứng trên bực chiếc tàu hỏa bọc thép2 và đánh tan quân thù với thanh đoản kiếm của mình’’. ‘‘Nói đến những sự kiện của cuộc cách mạng tháng Mười và thời nội chiến, người ta tạo ta cảm tưởng dường như Xtalin đóng vai trò chính yếu, dường như bất kể lúc nào và ở đâu, Xtalin luôn luôn nhắc nhở Lênin phải làm gì và làm bằng cách nào. Thật là một sự mạ lị Lênin’’. Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Đã ở đâu và khi nào, người ta thấy một lãnh tụ tự tán tụng mình như thế chưa?’’ Khơrútsốp ‘‘quên’’ không đặt câu hỏi: tại sao ban lãnh đạo đảng Liên Xô - trong số đó có cả Khơrútsốp - và tại sao các lãnh tụ Cộng sản trên thế giới đã xướng họa trong việc này? Không những đã xướng họa, họ còn thi nhau đưa Xtalin lên đình cao của vinh dự! Chỉ cần đọc những tài liệu bằng tiếng Pháp của Maurice Thorez, Jacques Duclos, hay tiếng Việt của các ông Trường Chính, Tố Hữu, v.v...3 trong thời Xtalin cũng đủ biết tệ sùng bái Xtalin đã tiến tới bực nào. Hiện tượng sùng bái cá nhân không những chỉ xảy ra ở Liên Xô mà còn phát triển mạnh mẽ trong hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới. Sùng bái cá nhân đã tạo ra ‘‘lũ người vu khống và mưu lợi thuộc đủ mọi hạng’’. Nó cũng tạo ra những Bêria [Beria] lớn nhỏ ‘‘đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính quyền’’. Sùng bái cá nhân Xtalin đã tạo ra nỗi khiếp sợ, kinh hoàng. Xtalin ‘‘chỉ cần lắc ngón tay út’’ là đối thủ không còn trên trần gian nữa. Người ta sợ Xtalin đến nỗi một hôm, Bunganhin [Boulganine] bảo Khơrútsốp: ‘‘Đôi khi, ai đó được Xtalin mời đến gặp mặt như một người bạn. Nhưng lúc đối diện với Xtalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi đâu: về nhà mình hay vào nhà tù’’. Một sự khiếp đảm như thế đã khiến ‘‘các ủy viên Bộ Chính trị ở trong tình thế rất khó khăn’’. Sự sùng bái cá nhân đã ‘‘tạo ra tổ chức hành chính tê liệt, dẫn đến những đường lối lệch lạc đủ thứ: che dấu thiếu sót, tô son điểm phấn sự thực. Trong dân chúng, có đầy rẫy những kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chuyên nghề lừa phỉnh và đánh lạc hướng’’. Trong đảng có ‘‘nhiều đảng viên dè dặt trong công việc, trở nên quá thận trọng trong lời nói và việc làm, sợ mọi thứ đổi mới. Họ sợ ngay cả cái bóng của mình và kém hẳn sáng kiến trong công tác’’. ‘‘Ngay cả trong những cuộc hội thảo nhỏ, các cán bộ đảng cũng đọc những bài diễn văn viết sẵn’’, kết quả ‘‘đem lại hiểm họa: công tác đảng và Xô-viết trở nên hình thức, toàn thể bộ máy tổ chức bị quan chế hóa’’. Tới đây, ta thấy bản cáo trạng của Khơrútsốp không những vạch rõ vai trò tiêu cực và tội ác của Xtalin, nó còn nêu ra thực trạng của xã hội Liên Xô. Ấy là sự quan chế hóa toàn thể bộ máy đảng và nhà nước. Vô tình, Khơrútsốp đã đánh một đòn mạnh vào hệ thống quan liêu, xây dựng trên căn bản ‘‘một đảng và đảng một khối’’, xây dựng trên quan niệm ‘‘chuyên chính một đảng’’ thay cho ‘‘chuyên chính vô sản’’, ‘‘tập trung quan liêu’’ thay cho ‘‘tập trung dân chủ’’. Vô tình, Khơrútsốp làm đảo lộn tất cả những truyền thống của các đảng Cộng sản đã thấm nhuần chủ nghĩa xtalin- nít trong ba mươi năm. Hình như cũng hiểu rõ tầm quan trọng và tác động tai hại của bán báo cáo, Khơrútsốp cố ý bào chữa cho Xtalin bằng lập luận sau: ‘‘Trong mọi hành động, Xtalin tuân thủ bởi lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích của người lao động và của thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta không thể nói những hành động của Xtalin là hành động của một kẻ chuyên quyền điên rồ. Xtalin tin chắc đó là việc làm cần thiết cho quyền lợi của đảng, của quần chúng cần lao, để bảo vệ những thành quả của cách mạng. Thảm trạng chính là ở chỗ đó!’’
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 14, 2010 7:09:30 GMT 9
1- Khi viết về cách mạng tháng Mười Nga, nhiều sử gia đứng đắn đều coi Lênin và Trốtxki là hai nhà lãnh đạo quan trọng nhất. 2- Chíếc xe lửa này là một sự kiện lịch sử. Nhưng người ở trên xe không phải là Xtalin mà là Trốtxki và Bộ Tham mưu Hồng quân trong cuộc nội chiến. 3- Về sự tán dương Xtalin, nhà thơ Nêruđa [Neruda] đã tự phê bình. Nhưng các thi sĩ khác như Aragông [Aragon] và Tố Hữu, cho tới nay vẫn chưa tự chỉ trích. MẤY LỜI NÓI ĐẦU 9 Những lời báo chữa nói trên có chỗ khó hiểu là Xtalin đã bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản bằng phương pháp đày ải và giết hại người lao động, bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bằng phương pháp đày ải và giết hại những người cộng sản. Và Xtalin đã áp dụng những biện pháp tàn ác ấy - không phải chỉ một vài trường hợp lẻ loi mà trên một quy mô vĩ đại, chưa từng thấy trong lịch sử - đối với hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người vô tội. Nói như Khơrútsốp, người ta có thể bảo vua chúa thời xưa giết hại nhân dân vì quyền lợi nhân dân, Hítle giết hại người Do Thái vì quyền lợi người Do Thái. Và Hítle không phải kẻ ‘‘chuyên quyền điên rồ’’ vì khi chết, buông hai bàn tay, cũng như Xtalin, Hítle có gia tài quyền lợi riêng biệt gì của mình đâu? Một sự giải thích như thế hoàn toàn ngược với học thuyết mác-xít. Vì trong lịch sử xã hội, chưa có một lãnh tụ hay một tổ chức nào đấu tranh bảo vệ một giai cấp bằng cách chống lại giai cấp đó. Sự thực, Xtalin không bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản và cũng không bảo vệ quyền lợi chủ nghĩa cộng sản như Khơrútsốp nói. Xtalin là sản phẩm của chế độ chính trị quan liêu, Xtalin chỉ bảo vệ quyền lợi một tầng lớp nhất định: tầng lớp quan liêu. Nhưng ta không thể đòi hỏi ở Khơrútsốp một sự diễn giải mác-xít như thế, vì Khơrútsốp là một thành viên trong đám quan liêu. Mặc dầu những lời báo chữa ấy của Khơrútsốp cho Xtalin, các lãnh tụ cộng sản các nước - khi được biết bản Báo cáo mật - nhận thấy đó là một biến cố quan trọng, có thể sẽ gây ra tai họa khôn lường. Họ hoang mang, hoảng hốt, tìm cách hạn chế mối họa, nhưng mỗi người hành động khác nhau. Có lãnh tụ như Tôliati của đảng Cộng sản Ý, sau mấy ngày do dự, tuyên bố bản báo cáo có thực. Nhưng ông ta phê bình lời giải thích của Khơrútsốp, dựa trên nguyên nhân sùng bái cá nhân không phải là một sự ‘‘giải thích mác-xít’’. Trong bài phỏng vấn đăng trên tờ báo Nouavi Argomenti, Tôliati nêu ra câu hỏi về ‘‘sự suy đồi của giới quan liêu ở Liên Xô’’. Hai đảng Cộng sản Anh và Mỹ công nhận sự tồn tại của bản báo cáo, nhưng yêu cầu một sự giải thích đầy đủ hơn. Tờ Daily Worker của đảng Cộng sản Mỹ ngày 6-6-1956 đã trích đăng nhiều đoạn của bản báo cáo và phê bình ban lãnh đạo Liên Xô ‘‘mắc sai lầm’’ là không đem ra phát hành công khai. Thêm nữa, họ phê bình Khơrútsốp đã ‘‘quên không nhắc tới những tội ác của Xtalin về việc thủ tiêu những người Do Thái ở Liên Xô.’’ Ngày 18-6-1956, Eugène Denis, tổng bí thư đảng, đặt câu hỏi về ‘‘trách nhiệm chung của các nhà lãnh đạo ở Liên Xô’’ trong thời kỳ sùng bái cá nhân. Tại Pháp, tổng bí thư đảng Cộng sản Maurice Thorez chối cãi sự thực bằng mấy danh từ khôn khéo: ‘‘Bản báo cáo mà người ta bảo là của Khơrútsốp’’1. Nhưng dần dần, năm này qua năm khác, hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới, trực tiếp hoặc gián tiếp, tiếp tục nhau công nhận sự tồn tại của bản báo cáo. Nhưng chưa một đảng nào đem ra ấn hành, phân phát cho đảng viên và mở cuộc thảo luật trong nội bộ. Mấy năm gần đây, nhiều sử gia và lãnh tụ cộng sản Pháp ‘‘tự phê bình’’ đảng mình đã không công nhận sớm bản báo cáo này, ‘‘gây nhiều tai hại cho sự phát triển của đảng’’. Hiện nay, chỉ còn mấy đảng như đảng Cộng sản Albanie, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên là còn tiếp tục khước từ sự thực. Bởi lẽ rút dây động rừng, họ sợ hậu quả sẽ gây ra những tai họa như ở các xứ dân chủ nhân dân Đông Âu. Mặc dầu bản Báo cáo mật của Khơrútsốp chỉ nói về các vấn đề nội bộ Liên Xô; mặc dù nó không nói tới phong trào cộng sản các nước, không nói tới những sai lầm và tội ác của Xtalin trong việc lãnh đạo Đệ tam Quốc tế trong vòng hai mươi năm; mặc dù nó không nói tới những nguyên nhân thất bại của các cuộc cách mạng Trung Hoa 1925-1927, cách mạng Tây Ban Nha 1936, v.v... và các cuộc thanh trừng đẫm máu trong các đảng Cộng sản do Xtalin và các bộ hạ gây ra - dầu thế, bản báo cáo này đã có một tác động mạnh mẽ, gây ra một loạt các biến động quan trọng mà chính Khơrútsốp cũng không ngờ tới. Năm 1956, khi bản báo cáo bị tiết lộ, dân chúng các nước Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc - trong đó có nhiều đảng viên cộng sản - kéo nhau xuống đường, đập phá các tượng đài, chân dung Xtalin, đòi thả các lãnh tụ và đảng viên cộng sản cùng các chính trị phạm bị bắt giam, đòi rửa án cho những người vô tội. Nhờ thế, các lãnh tụ bị giết oan như Roicơ Látxlô [Rajk László], Cốtxtốp [Kostov], Clêmăngti [Clémentis], v.v... được phục hồi danh dự. Những lãnh tụ khác bị tù oan như Gômunca [Gomulka], Áctu Lônđôn [Arthur London]2, v.v... được thả tự do. Cho tới nay, tác động của bản báo cáo Khơrútsốp vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Tiệp Khắc (năm 1968) và Ba Lan (từ năm 1981 cho đến nay) không phải là điều tình cờ: nó bắt nguồn từ bản cáo trạng Xtalin năm 1956. Một câu hỏi được đặt ra: một nước được coi là có cuộc cách mạng vô sản, giai cấp tư sản không còn nữa, giới lao động đã nắm chính quyền, làm sao có thể xảy ra những vụ tàn sát khổng lồ như thế? Làm sao lại có những vụ vu oan giá họa, ăn gian nói dối, che giấu sự thực, thay đổi lịch sử như thế? Làm sao chính quyền lại lọt vào tay một cá nhân duy nhất và cá nhân này lại dựng nên một chế độ độc tài đẫm máu khủng khiếp như thế? Câu trả lời đã được phong trào Đệ tứ Quốc tế đưa ra trong vòng ba chục năm nay. Trái với các báo chí tư sản đổ tội cho chủ nghĩa cộng sản, Đệ tứ Quốc tế khẳng định: chính vì Liên Xô không theo chủ nghĩa cộng sản của MácĂngghen [Marx-Engels] nên mới xảy ra tình trạng như thế. Những ai tôn trọng sự thậtc đều phải công nhận Xtalin không phải là người cộng sản, chủ nghĩa xta-lin-nít không phải là chủ nghĩa cộng sản. Những điều đã xảy ra ở Liên Xô đều ngược hẳn với mục đích nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản. Sự đối lập của Trốtxki chống Xtalin - trong vòng hai mươi năm, trên mọi lĩnh vực lý thuyết, chính trị, phương pháp hoạt động - đã đặt ra các vấn đề căn bản về tổ chức đảng, nhà nước, bài trừ nạn quan liêu, kiến thiết kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tệ sùng bái cá nhân chỉ là hậu quả chứ không phải nguyên nhân của một chế độ chính trị. Nguyên nhân phải tìm ở thực trạng xã hội Liên Xô. Ở Liên Xô, cuộc cách mạng vô sản tháng Mười đã bị biến chất do những điều kiện khách quan và chủ quan, quốc gia và quốc tế. Một tầng lớp quan liêu trong giai cấp vô sản, lợi dụng thoái trào của vô sản Liên Xô và vô sản thế giới, đã nhảy ra cướp đoạt chính quyền từ tay lao động. Tầng lớp này nhân danh giai cấp vô sản, kỳ thực, quyền lợi, địa vị, sinh hoạt của họ khác với giai cấp vô sản. Họ chiếm giữ những đặc quyền chính trị và kinh tế trong các bộ máy đảng 1- Le rapport attribué à Krouchtchev. 2- Xin xem cuốn L’ Aveu của Áctu Lônđôn [Arthur London]. MẤY LỜI NÓI ĐẦU 10 và nhà máy. Muốn bảo vệ những đặc quyền này, họ cần một chế độ quan liêu cảnh sát và cần tạo ra một vị chúa tể như Xtalin, để rồi nấp bóng, ngăn cản các cuộc đấu '74ranh đòi dân chủ và quyền lợi của nhân dân và tiêu diệt các cuộc nổi dậy của giới lao động. Hàng vạn những bọn quan liêu lớn nhỏ đã tạo ra Xtalin chứ không phải Xtalin tự mình có thể tạo ra mình. Bêria, người thừa hành của Xtalin không phải là ‘‘gián điệp của ngoại quốc’’1 như Khơrútsốp nói, mà là sản phẩm của chế độ, cũng như Xtalin. Ngoài Bêria, còn có hàng trăm, hàng ngàn Bêria lớn nhỏ ủng hộ Xtalin, tiếp tay cho Xtalin; nhờ thế, Xtalin mới tạo lập được một chế độ chính trị quan liêu, độc tài, dã man như thế. Trong điều kiện đó, giai cấp vô sản ở Liên Xô, từ vai trò người chủ đã trở thành kẻ bị thống trị. Nhưng tại sao Khơrútsốp, một tay quan liêu trong đám quan liêu, lại đứng ra hạ bệ Xtalin? Muốn trả lời, chúng ta cần hiểu mâu thuẫn trong đám quan liêu. Quan liêu là một tầng lớp, mặc dầu có chính quyền, nhưng không có một cơ sở xã hội, nghĩa là cơ sở giai cấp vững chắc và độc lập (ví dụ như giai cấp tư sản trong bộ máy sản xuất tư bản chẳng hạn). Đời sống của họ bấp bênh. Họ như một cây tầm gửi ăn bám vào giai cấp vô sản vì họ không có vị trí độc lập và vai trò lịch sử độc lập. Hôm nay họ giữ địa vị quan trọng, ngày mai có thể mất hết, nếu không bị thủ tiêu hoặc bị tù đày. Họ ước ao có một sự quân bình xã hội để hưởng thụ đặc quyền của họ. Nhưng, chế độ chính trị do họ dựng lên - chế độ quan liêu - đồng thời đem lại đặc quyền đặc lợi cho họ, đồng thời luôn luôn đe dọa an ninh của họ. Họ đã tốn công vun xới cho sự sùng bái cá nhân Xtalin. Nhưng ngược lại, càng được sùng bái, Xtalin càng lộng quyền và dần dần vượt ngoài những giới hạn mà họ mong muốn. Khơrútsốp nói: ‘‘Khi Xtalin bảo phải bắt người này hay kẻ nọ, ai nấy đều phải công nhận người đó là ‘kẻ thù của nhân dân’ bởi vì không thể phản đối’’ Một chính sách độc đoán như thế - độc đoán không những với nhân dân và giai cấp vô sản mà độc đoán cả với tầng lớp quan liêu - đã tạo ra hiện trạng ‘‘xã hội bị tê liệt’’. Sự phát triển của mọi ngành hoạt động văn nghệ, kinh tế, xã hội, chính trị, v.v... bị cản trở nghiêm trọng, mặc dầu hạ tầng kiến trúc của Liên Xô có cơ sở để tạo lập chủ nghĩa xã hội. Khơrútsốp nói: ‘‘Hệ thống lãnh đạo được áp dụng trong những năm cuối đời Xtalin đã thành một trở ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển của xã hội Liên Xô’’. Khơrútsốp cố ý dùng mấy chữ ‘‘trong những năm cuối đời Xtalin’’; đúng hơn, phải nói như Trốtxki: ‘‘Trong những năm dưới chính quyền Xtalin...’’ Tới một giai đoạn, đối với đẳng cấp quan liêu, việc hạ bệ Xtalin là một điều cần thiết. Không phải một mình Khơrútsốp mà đa số ủy viên Bộ Chính trị đã quyết định sự hạ bệ này. Nhưng khi mở nồi ‘‘xúp de’’, hơi lại phát ra quá mạnh, gây ra nhiều tai hại trên mọi lĩnh vực, quốc gia cũng như quốc tế. Cho nên, ban lãnh đạo quan liêu Liên Xô cũng như các lãnh tụ các đảng Cộng sản khác trên thế giới phải vội vàng đóng hơi lại. Ở Liên Xô, người ta loại bỏ Khơrútsốp, đưa Brêgiơnhép [Brejnev] - một tay quan liêu vô danh cho tới lúc đó - ra thay. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông vội vàng đình chỉ chính sách ‘‘trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng’’ và tống giam những người đã ủng hộ chính sách này. Ở Việt Nam, sau khi phát động ‘‘sửa sai’’, đảng Cộng sản mở cuộc truy nã những văn nghệ sĩ của nhóm Nhân văn Giai phẩm đòi tự do dân chủ và đòi đảng ‘‘sửa sai’’ thêm nữa. Nhiều người trong nhóm này bị ngồi tù; số khác, dưới áp lực của đảng, đứng ra ‘‘tự lừa dối mình và tố cáo những kẻ khác’’. Vấn đề cần đặt ra là chế độ chính trị quan liêu có thể tự nó cải tổ thành dân chủ vô sản thực sự được không? Kinh nghiệm cho thấy, nếu có sự cải tổ, chỉ là những cải tổ nhất thời, rồi đâu lại vào đấy. Bằng chứng là sau khi Khơrútsốp bị hạ bệ, ở Liên Xô người ta không nói gì về cải tổ nữa. Mặc dầu những cuộc tàn sát đẫm máu, đại quy mô như thời Xtalin không còn nữa, mặc dầu những bất đồng chính kiến trong đảng không kết liễu bằng những vụ xử bắn như thời Xtalin và những nhà lãnh đạo như Khơrútsốp, Malencốp [Malenkov], Môlôtốp, v.v..., tuy bị truất quyền, vẫn được sống hưởng tuổi già - nhưng, chế độ về cơ bản vẫn giữ tính chất quan liêu, độc đoán như cũ. Những trại cấm cố được thay bằng bệnh viện tâm thần, chuyên giam hãm những người đối lập tư tưởng. Tin tức trong và ngoài nước vẫn bị kiểm soát, xuyên tạc, che giấu hoặc bịa đặt, khiến người dân Nga ít ham muốn nghe tin tức và đọc báo chí của đảng và chính phủ. Hiện tượng này cũng giống như ở các xứ dân chủ nhân dân. Đặc biệt là ở Ba Lan, dầu chính phủ và đảng có nói sự thực thì dân chúng cũng không nghe nữa vì họ bị mắc lừa quá nhiều lần, do đó đã mất hẳn lòng tin. Các quyền tự do dân chủ vẫn bị cắt xén, chà đạp. Thậm chí, các văn nghệ sĩ mặc dầu không làm chính trị cũng bị cấm đoán, không được sáng tác theo cảm hứng của họ. Nạn sùng bái cá nhân không lộ liễu như trước, nhưng vẫn thịnh hành. Brêgiơnhép - tổng bí thư đảng - không phải nhà binh cũng chẳng phải nhà văn, thế mà được phong làm nguyên soái và được tặng giải thưởng văn nghệ hạng nhất2. Tóm lại, mặc dầu người ta đã đem xác ướp của Xtalin từ lăng tẩm trên Hồng trường ra chôn bên chân tường điện Cơremlanh [Kremli] để không ai thấy nữa, nhưng chủ nghĩa xta-lin-nít vẫn tồn tại trong đầu óc các nhà lãnh đạo Liên Xô. Muốn có cải đổi thực sự ở Liên Xô cũng như ở nhiều nước do đảng Cộng sản nắm giữ chính quyền, chỉ bài trừ nạn sùng bái cá nhân - như Khơrútsốp nói - không đủ. Sự cải đổi thực sự là phải đập tan bộ máy chính trị quan liêu từ trên xuống dưới. Vấn đề là phải có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chế độ chính trị độc tài quan liêu, lật đổ chế độ ‘‘một đảng và đảng một khối’’, lật đổ các tổ chức bù nhìn, tái lập chính quyền dân chủ Xô-viết như thời Lênin trên căn bản tự do lao động, tự do có khuynh hướng chính trị, tự do lập đảng và nghiệp đoàn độc lập với chính quyền. Vấn đề là phải giành lại chính quyền từ tay đám quan liêu, giao phó cho các tổ chức dân chủ của giai cấp vô sản và quần chúng, từ dưới lên trên, bằng những cuộc bầu cử tự do, không phân biệt khuynh hướng, tổ chức, đảng phái, miễn là những khuynh hướng, tổ chức, đảng phái này tôn trọng hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Một thay đổi như thế, ta có thể tin và chờ đợi ở các ban lãnh đạo hiện hữu của các đảng Cộng sản được không? Dĩ nhiên là không! Chỉ cần nhìn thái độ của họ đối với các vụ biến động ở Hung, ở Tiệp và hiện nay ở Ba Lan là đủ. Đứng trước những yêu sách đòi ‘‘dân chủ’’ và ‘‘tự quản’’ của giai cấp vô sản, họ đã làm gì? Họ đã theo gương Xtalin 1- Khơrútsốp đã dùng phương pháp vu cáo như Xtalin để loại trừ Bêria. 2- Brêgiơnhép 4 (bốn!) lần được tấn phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô, tất cả đều trong thời bình! Ngoài ra, Brêgiơnhép còn được Giải thưởng Lênin cho mấy cuốn sách mang tính bịa đặt lịch sử, dĩ nhiên không do ông ta viết. MẤY LỜI NÓI ĐẦU 11 xuyên tạc sự thực, che giấu sự thực, tuyên truyền dối trá. Đối với những vụ nổi dậy của nhân dân ở Hung, ở Tiệp đòi tự do, độc lập, họ vu là ‘‘tư bản âm mưu phá hoại’’, ‘‘chủ trương lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa’’. Đối với mười triệu lao động Ba Lan trong Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) đòi quyền tự do nghiệp đoàn, tự quyền quản lý, họ không ngần ngại mở cuộc đảo chính quân bị, ngăn cấm, bắt bớ, cầm tù và bắn giết nhân dân và những người lãnh đạo nghiệp đoàn do giới lao động bầu ra. Hơn thế nữa, họ đã phản bội chữ ký của họ trong bản Giao kết Gdansk ký với Công đoàn Đoàn kết. Ở Ba Lan, sự thực đã rành rành. Trong một nước có 12 triệu lao động thì mười triệu đứng trong Công đoàn Đoàn kết, thử hỏi đảng Cộng sản đại diện cho ai? Cho nhân dân lao động hay cho tầng lớp quan liêu cướp đoạt chính quyền trên lưng nhân dân lao động? Trong ba mươi năm, đẳng cấp quan liêu ở Liên Xô và các đảng Cộng sản thế giới đã triệt để ủng hộ Xtalin. Các đảng Cộng sản các nước đã noi gương ____Xtalin thực hiện tại xứ cua minh .
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:40:21 GMT 9
Tuổi thọ của vua chúa Việt Nam
Vietsciences- Nguyễn Văn Tuấn Mấy tháng nay thấy bạn bè lần lượt ra đi về cõi vĩnh hằng làm tôi suy nghĩ về tuổi thọ. Lí do đơn giản là mấy người bạn này ra đi trong tuổi 60s, tức còn khá trẻ so với tuổi thọ trung bình ngày nay. Cũng có thể dân làm khoa học thường chết sớm, vì đầu tư nhiều thì giờ cho suy nghĩ quá nên bị căng thẳng và dẫn đến cái chết. Nhưng chúng ta chưa có bằng chứng để kết luận vấn đề này. Bấy lâu này tôi tự hỏi vua chúa Việt Nam ta thời xưa sống bao lâu. Tìm số liệu này cũng không khó, nhưng đòi hỏi thời gian. May mắn thay, trong chuyến công tác ở VN vừa qua tôi vớ được một số sách tương đối “cổ” ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, và qua các sách này tôi có thể thu thập khá đầy đủ số liệu về tuổi thọ, thời gian trị vì của các vua chúa (thật ra thì phần lớn là vua) qua các triều đại. Tôi bèn làm ngay một bảng thống kê để phân tích cho biết. Thời gian trị vì Tính từ thời Âu Lạc đến thời nhà Nguyễn, nước ta trải qua 20 triều đại như sau: Thục & Âu Lạc, Triệu, Sau Công Nguyên (Giao chỉ, Tây Hán, Đông Hán, Hai Bà Trưng, Đông Ngô, Bà Triệu), Lý và Vạn Xuân, Tùy Đường, Ngô, Hậu Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần, Lê Sơ, Mạc, Hậu Lê, Tây Sơn, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, và triều Nguyễn. Tính trung bình, thời gian trị vì của các vua chỉ có 17 năm. Khoảng 47% các vua có thời gian “tại chức” dưới 10 năm, ~25% có thời gian trị vì từ 11 đền 20 năm, và chỉ có 13% vua ngồi ở ngai vàng trên 30 năm. Các vua chúa có thời gian trị vì lâu năm là Triệu Vương (70 năm), Lý Nhân Tông (55 năm), Trịnh Tùng (53 năm), Lê Hiển Tông (46 năm). Ngay cả Tự Đức mà ngồi ngai vàng đến 35 năm. Có 2 vua chỉ ngồi ngai vàng dưới 1 năm là Dục Đức và Hiệp Hòa (cả hai thuộc triều Nguyễn). Phân tích theo triều đại thì thấy triều nhà Lý có thời gian trị vì trung bình cao nhất (23.6 năm), kế đến là Chúa Trịnh (21.9 năm), Chúa Nguyễn (19.8 năm), Triệu (19.2 năm), Lý Vạn Xuân (19 năm). Triều đại có thời gian trung bình trị vì ngắn nhất là Hậu Trần (3 năm), nhà Hồ (3.5 năm), và Ngô Quyền (5 năm). Tuổi thọ Số liệu tuổi thọ chỉ có cho 90 vua chúa. Tính trung bình, tuổi thọ của 90 vua chúa này là 44.2 năm. Khoảng 39% (n = 35) có tuổi thọ thấp hơn 40 tuổi, và chỉ có 12% (n = 10) thọ trên 60 tuổi. Vua có tuổi thọ cao nhất là Trịnh Tùng (74 năm), Lê Hiển Tông (70 năm), chúa Nguyễn Phúc Tần (68 năm), Lý Nhân Tông (63 năm). Vua có tuổi thọ thấp nhất là Nguyễn Kiến Phúc (15 tuổi), Lê Gia Tông (15), Lê Túc Tông (17) và Lê Nhân Tông (19). Phân tích theo triều đại cho thấy triều Chúa Trịnh có tuổi thọ trung bình khá cao (59 tuổi), kế đến là Chúa Nguyễn (55 tuổi). Triều đại có vua thọ thấp nhất là Tây Sơn (30 tuổi), Lê Sơ (30 tuổi), Tiền Lê (37). Còn các triệu đại lâu đời và danh tiếng như Lý (46 tuổi), Trần (45 tuổi), và Nguyễn (47 tuổi) chỉ trên dưới trung bình. Câu hỏi quan trọng là có “secular trend” về tuổi thọ của các vua chúa Việt Nam không? Câu trả lời là – ngạc nhiên thay – không. Biểu đồ dưới đây cho thấy điều này: Biểu đồ tuổi thọ của vua chúa Việt Nam qua các thế kỉ. "Period" bằng 1 có nghĩa là thế kỉ 10, 2 là thế kỉ 11, 3 là thế kỉ 12, v.v.. Sau đây là bảng thống kê cho thấy trung bình và độ lệch chuẩn của tuổi thọ của các vua chúa qua từng thế kỉ: Thế kỉ Tuổi thọ trung bình và độ lệch chuẩn <1000 44.1 (16.1) 1000 – 1099 57.3 (24.1) 1100 – 1199 45.0 (17.2) 1200 – 1299 51.3 (10.0) 1300 – 1399 39.6 (19.6) 1400 – 1499 37.6 (17.1) 1500 – 1599 34.5 (18.4) 1600 – 1699 53.6 (23.4) 1700 – 1799 42.2 (13.5) 1800 – 1899 44.9 (18.7) Có mối tương quan nào giữa thời gian trị vì và tuổi thọ của nhà vua không? Câu trả lời có lẽ không ngạc nhiên mấy là có. Hệ số tương quan giữa tuổi thọ và thời gian trị vì là 0.52. Nói cách khác, những vua có thời gian “tại chức” càng lâu cũng là những vua có tuổi thọ càng cao (xem biểu đồ dưới đây). Biểu đồ về mối liên hệ giữa thời gian trị vì và tuổi thọ của vua chúa Việt Nam So với văn thi sĩ Tuổi thọ của vua so với các văn thi sĩ Việt Nam thì ra sao? Tôi thu thập số liệu của 188 tác gia Việt Nam từ cuốn Từ điển Văn học Việt Nam của Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường. Các tác gia này tính từ thời cổ đến thế kỉ 19, tức là cùng khoản thời gian của số liệu tuổi thọ nhà vua, để dễ so sánh. Tính trung bình, tuổi thọ trung bình của 188 tác gia này là 62 tuổi. Khoảng 25% tác gia có tuổi thọ dưới 50 tuổi, và 25% tác gia thọ trên 72 tuổi. Người có tuổi thọ ngắn nhất là Ngô Thì Ức, sinh năm 1709 và mất năm 1736, tức chỉ thọ 27 tuổi. Người có tuổi thọ cao nhất là Huỳnh Quỳ, sinh năm 1828 và mất năm 1926, tức thọ 98 tuổi. Như vậy, văn sĩ có tuổi thọ cao hơn vua chúa. So với thế giới So với tuổi thọ trung bình của dân số thời đó thì ra sao? Trang wikipedia có một thống kê về tuổi thọ trung bình trên thế giới từ thời tiền sử đến nay như sau: Thế kỉ Tuổi thọ trung bình Neanderthal (350 đến 500 ngàn năm trước) 20 Upper Paleolithic (10 đến 40 ngàn năm trước) 33 Neolithic (8500 năm trước CN) 20 Bronze Age (3000 năm trước CN) 18 Classical Greece Thế kỉ 4 và 5) 20-30 Classical Rome (Thế kỉ 5 ?) 20-30 Pre-Columbian North America 25-35 Medieval Britain (Thế kỉ 5-6) 20-30 Early 20th century 30-40 Current world average 66.12 (2008 est.) Như vậy, nói chung, tuổi thọ các vua chúa ta ngày xưa có vẻ trên trung bình so với tuổi thọ dân số thế giới. Nhưng có lẽ so sánh như thế thiếu tính khách quan, bởi vì vua chúa ở một giai cấp khác, họ được cung phụng, ăn trên, ngồi trước thiên hạ nên tuổi thọ của họ cao hơn trung bình là có thể hiểu được. Cần phải so sánh tuổi thọ vua chúa VN và vua chúa các nước khác thì có lẽ công bằng hơn. Tôi thấy trên một tập san khoa học vào năm 1999, tuổi thọ trung bình của các vua chúa Anh tính từ 1000 đến 1600 là 48 tuổi. Một anh bạn bên Nhật cho biết rằng tuổi thọ trung bình của vua Trung Quốc tính từ thời Tần Thủy Hoàng là dưới 40 tuổi. Ở Trung Quốc, Hán Vũ Đế, Càn Long, v.v… là những ông vua sống lâu. Càn Long sống đến 90 tuổi, vì sách nói rằng ông ấy "xa hậu cung gần võ tướng" và "nữ sắc có mức độ". Trong thời gian này, tuổi thọ trung bình của các vua chúa Việt Nam là 44.6 tuổi. Như vậy tuổi thọ của vua chúa ta không thấp chút nào so với thế giới.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:03:12 GMT 9
Sử dụng Văn Kiện Đảng để hiểu chiến lược cách mạng của Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, 1954-1975 (bài 3) 03/11/2010 Tác giả: Pierre Asselin
Bùi Xuân Bách dịch
Việc tìm hiểu quá trình hoạch định chính sách của Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ được gọi là Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) có thể đưa ta đến chỗ thất vọng kinh khủng. Rất ít chi tiết được biết về cách thức làm việc của Đảng Lao động Việt Nam trong thời kỳ này. Sự thực là cho đến nay, nhiều học giả vẫn còn phân vân, ai là người đã đặt ra đường lối ở Hà Nội và những thế lực nào đã thúc đẩy việc hình thành những chính sách này. Liệu có phải là Hồ Chí Minh đã quyết định những chính sách của Đảng và Chính phủ trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến khi ông mất năm 1969? Có đúng là Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo những nỗ lực quân sự trong thời kỳ chống Mỹ, như ông đã từng làm trong Kháng chiến chống Pháp? Hay là những nhân vật khác ẩn khuất hơn nhưng gần gũi hơn trong việc hình thành và thực hiện chiến lược của Việt Nam? Phải chăng chủ nghĩa dân tộc và ước vọng “giải phóng đất nước” là những động lực duy nhất của giới lãnh đạo Hà Nội, hay những yếu tố khác, như ý thức hệ chẳng hạn, cũng quan trọng như thế hoặc hơn trong việc hình thành các đường nét trong nỗ lực cách mạng của họ?
Khó khăn trong việc giải đáp những câu hỏi như vậy chủ yếu là do những cố gắng của chính quyền Việt Nam nhằm kiểm soát việc “thời chống Mỹ” được ghi nhớ như thế nào ở Việt Nam và những nơi khác sau 1975, và ngăn chặn các học giả điều tra quá trình hình thành quyết định của Đảng Lao động Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu ấy, chính quyền đã quản lý và kiểm soát chặt chẽ những sản phẩm và ấn phẩm về lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và khước từ phần lớn các học giả – Việt Nam và nước ngoài – việc tiếp cận những kho lưu trữ liên quan (chẳng hạn các kho lưu trữ của Đảng cũng như của Bộ Ngoại giao và Quốc phòng). Thật mỉa mai thay, sự kết thúc cuộc chiến tranh lạnh hai thập kỷ trước cũng chỉ làm thay đổi chuyện này rất ít. Trong khi Bắc Kinh, từ lúc đó, đã hoan nghênh các học giả đến nghiên cứu tại các Trung tâm lưu trữ của Đảng và nhà nước họ, cho phép công bố những bí mật – và chắc chắn không phương hại về mặt chính trị – về lịch sử hình thành những quyết định trong thời Mao cho đến 1965, Hà Nội lại lựa chọn con đường tiếp tục duy trì tấm màn bí mật, che đậy cả những quyết định chủ chốt lẫn những quyết định không lấy gì làm quan trọng của nhiều thập kỷ trước, cứ như thể là hôm nay các chính phủ và nhân dân thế giới, chứ không phải chỉ một số nhỏ nghiên cứu sinh và các học giả, đang thực sự quan tâm một cách nghiêm chỉnh đến những quyết định đó.
Đã biết như thế về cách hành xử xưa nay của chính quyền Việt Nam trên phương diện đó, những sinh viên nghiên cứu cuộc chiến ở Việt Nam, trong đó có tôi, đã vui mừng, ngạc nhiên khi biết rằng vào đầu những năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam (kế tục Đảng Lao động Việt Nam thời chiến) đã bắt đầu xuất bản một tuyển tập tài liệu tương đối hoàn chỉnh về những văn kiện của Đảng, ngược lui cho đến tận những năm 1920, và bao trùm cả hai cuộc chiến Đông Dương: loạt sách Văn Kiện Đảng. Tài liệu sưu tập [trong bộ sách này] đã từng xuất hiện ở Việt Nam, nhưng chỉ là những mảnh vụn rải rác và không phải luôn luôn có những tài liệu thực sự đi kèm. (Thật ra, thuật ngữ trong tiếng Việt tương đương với “document” (tài liệu) và “primary source” (nguồn chính) thường được dùng tương đối tự do ở Việt Nam, ngay cả trong giới nghiên cứu. Sự bất nhất này có thể gây ra khó chịu cho những người nước ngoài, những người phải trông cậy vào các mối quen biết ở địa phương để tìm ra các tài liệu đầu tay này). Thú thật, loạt sách Văn Kiện Đảng cũng có vấn đề. Những tài liệu mà nó đưa ra chỉ là một phần (có nghĩa là không đầy đủ). Hơn nữa, các bạn đồng sự ở Việt Nam đã nói với tôi rằng, bởi vì từng tài liệu đã được những người biên tập kiểm duyệt kỹ càng, nên một phần của những tài liệu được tuyển chọn đã bị thiếu và một số thông tin có thể thậm chí bị sửa đổi hay lược bỏ để bảo vệ bất kể những gì mà Đảng muốn giấu. Dẫu sao đi nữa, loạt sách này cũng có những giá trị riêng.
Lần đầu tiên tôi tới Việt Nam vào năm 1996 để làm nghiên cứu, với tư cách là một nghiên cứu sinh đi tìm tài liệu cho luận án của mình với đề tài về sự hình thành Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Tôi tìm thấy những thông tin quý giá trong Thư viện Quốc gia ở Hà Nội cũng như tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III. Từ đó tôi thường xuyên đến Trung tâm này. Mặc dù không bao giờ tôi bị từ chối chuyện vào đây, nhưng để xin được phép thì luôn luôn phải mất từ ba đến bốn tuần. Thêm vào đó, tôi thu thập được một số thông tin có ích và rất thú vị từ những tài liệu tôi được phép đọc, và rất hiếm khi, được sao chụp. Một số trong những tài liệu đó do chính Đảng ban hành. Nhờ vậy, từ đó tôi đã có thể lờ mờ hiểu những lập luận đằng sau các chính sách của Đảng trong thời kỳ 1954-1975.
Đó là lý do tại sao tôi lại đánh giá cao và cho là Văn Kiện Đảng có giá trị. Mặc dù còn nhiều thiếu sót, bộ Văn Kiện Đảng dễ kiếm và đưa ra một số tài liệu có thể giúp ta tìm hiểu những mối quan tâm của lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam trong khi hoạch định đường lối. Những tài liệu này có thể có vấn đề nếu người nghiên cứu chỉ dựa riêng vào chúng để tìm hiểu quá trình ra quyết định của Đảng, nhưng chúng lại có thể giúp ta soi sáng quá trình này nếu sử dụng kết hợp với những tài liệu khác. Chẳng hạn tôi thường dùng chúng cùng với những tài liệu của Chính phủ, nguồn lịch sử chính thức, và các nguồn tài liệu Tây phương, gốc hoặc thứ cấp. Mặc dù nghiên cứu của tôi có những khiếm khuyết của riêng nó, tôi muốn nghĩ rằng ít nhất thì nó cũng có đóng góp chút ít cho sự hiểu biết của phương Tây về “phía bên kia” trong thời chiến tranh Việt Nam. Vì thiếu những bằng cớ “chắc chắn” (có nghĩa là toàn bộ những tài liệu của Đảng), việc tốt nhất chúng ta có thể làm là suy luận trên cơ sở những bằng chứng, tuy chỉ có một phần nhưng đáng tin cậy, về quá trình hình thành những quyết định ở Hà Nội.
Mục đích nghiên cứu hiện thời của tôi bao gồm cả việc tìm dấu vết quá trình tiến triển của chiến lược cách mạng cộng sản ở Việt Nam sau 1954, nhưng chú trọng đến mặt ngoại giao trong chiến lược này. Tài liệu Văn Kiện Đảng đặc biệt hữu ích, giúp tôi đánh giá lại những giai đoạn quan trọng trong tiến triển đó và đưa ra những nhận xét đánh giá lại, khác với những định kiến đã có ảnh hưởng quá nhiều trong giới sử học nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Ví dụ trong một tiểu luận sắp in, tôi đưa ra nhận định – dựa trên cơ sở những tài liệu Văn Kiện Đảng và những nguồn khác – rằng vào năm 1954, Đảng Lao động Việt Nam chấp nhận đàm phán và một giải pháp ngoại giao cho cuộc Kháng chiến chống Pháp, bởi vì điều này phục vụ cho một số những quyền lợi cốt yếu của họ và đáp ứng được với những khả năng có thể xảy ra theo họ phán đoán lúc đó[1]. Một tài liệu tôi tìm thấy trong Văn Kiện Đảng đặc biệt cho thấy rõ điều đó là việc đánh giá tình hình trong nước và trên thế giới, do Bí thư thứ nhất Trường Chinh soạn thảo giữa tháng 7 năm 1954, khi Hội nghị Giơ ne vơ đã bước vào giai đoạn quyết liệt[2]. “Ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng yếu” Trường Chinh nhận định. Không may là, ông tiếp tục, khả năng can thiệp của Mỹ hiện nay cao hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh đe dọa đó, việc đạt được một thỏa thuận trên bàn đàm phán với những điều kiện tuy không hoàn hảo nhưng hợp lý thì cũng chính là một “cơ hội tốt” để chặn đứng những tham vọng của Mỹ ở Đông Dương. “Tuy còn nhiều khó khăn trước mắt”, ông kết luận, “hòa bình sẽ mang lại nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho chúng ta” để “hoàn thành những nhiệm vụ còn dang dở” và “giành thắng lợi mới”. Chắc chắn, khi chấp nhận Hiệp định Giơ ne vơ ban, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam đã đáp ứng tích cực với những quan tâm và áp lực từ các đồng minh xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc, về một số vấn đề. Nhưng họ đã không, như một số học giả phương Tây vẫn khăng khăng, đi ngược lại những yêu cầu chiến lược của chính họ trong khi họ hiểu rõ những yêu cầu đó. Trên thực tế, đã không có những xung đột quan trọng, mà thay vào đó, là một sự phù hợp ở mức độ đáng kể giữa những quyền lợi của Việt Nam về một phía, và quyền lợi của Trung Quốc với Liên Xô về phía kia, như tài liệu trên đã chỉ ra.
Trong một bài trước đây, dựa gần như hoàn toàn vào tài liệu trong Văn Kiện Đảng, tôi đã lập luận rằng Hà Nội chấp nhận Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 và đã hành động đúng theo những tính toán dự phòng của họ, vì họ tin chắc rằng việc thực thi Hiệp định sẽ đem lại hòa bình thống nhất đất nước và phù hợp với lợi ích của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam[3]. Một tài liệu, tôi đã dùng để chứng minh cho phát biểu của mình, là chỉ thị lưu hành nội bộ Đảng ngày 27 tháng 7-1954 có nói rằng “cuộc đấu tranh ái quốc của ta chuyển sang giai đoạn mới” và “đã chuyển sang hình thức đấu tranh chính trị để củng cố hòa bình”. Để thực hiện những mục tiêu này trong hoàn cảnh mới, Đảng ta sẽ tranh đấu “theo đường lối hòa bình”. Trong thời gian này, chỉ thị nói rõ, nhiệm vụ nặng nề của các cán bộ Đảng là “giải thích… rõ tình hình mới” cho toàn thể đảng viên và quần chúng, nhắc nhở họ tầm quan trọng của việc phải tránh những hành động bạo lực và chống lại những khiêu khích của kẻ thù. “Nhân dân ta còn phải tiếp tục đấu tranh lâu dài và gian khổ bằng phương pháp hòa bình,” chỉ thị nhấn mạnh, “để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”[4]. Sai lầm trong việc tôn trọng văn bản và tinh thần của Hiệp định Giơ ne vơ, một chỉ thị khác được in trong Văn Kiện Đảng nói, sẽ cung cấp cho Mỹ và các đồng minh của chúng, Pháp và Nam Việt Nam, một cái cớ chống lại việc thi hành Hiệp định[5].
Ở những chỗ khác, tôi dùng loạt sách Văn Kiện Đảng để tìm hiểu quá trình hình thành chiến lược cách mạng của Hà Nội trong khoảng thời gian từ giữa phiên họp toàn thể của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng giêng 1959 đến thời điểm tan vỡ của Hiệp định Giơ ne vơ về Lào vào năm 1962[6]. Tài liệu trong Văn Kiện Đảng cũng nhấn mạnh rằng trong thời kỳ quan trọng này, Hà Nội đã đi những bước hết sức thận trọng bên dưới vĩ tuyến 17, bởi vì họ tìm cách cân bằng những áp lực dị biệt với những nhu cầu khác nhau. Những nhà cách mạng trong Nam thì muốn Hà Nội phê chuẩn đấu tranh võ trang, trong khi Liên Xô và, có một thời gian, cả Trung Quốc đều muốn Hà Nội tập trung vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong khi những sự khác biệt này ngày một gia tăng, Sài Gòn và Washington lại mở rộng “cuộc chiến tranh xâm lược” của họ sang Lào và Căm Bốt, là những khu vực mà ít nhất là trong lúc này Hà Nội muốn giữ thái độ trung lập. Sự tiến thoái lưỡng nan mà Hà Nội gặp phải, những tài liệu tiết lộ, là hoặc đáp ứng phù hợp với hoàn cảnh của những đảng viên trong Nam và có cơ nguy xa rời hai cường quốc cộng sản, hoặc cố trì hoãn để tránh cơ nguy này cho dù phong trào cách mạng trong Nam có thể có những tổn thất.
Trong một tiểu luận khác, tôi sử dụng tài liệu trong Văn Kiện Đảng, để chứng minh rằng, mùa xuân năm 1965, Hà Nội đã miễn cưỡng đưa miền Bắc vào một cuộc chiến rộng lớn hơn với Mỹ.[7] Tuy nhiên, sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bắt đầu thì họ không dừng bước trước bất kể chướng ngại nào để đảm bảo thắng lợi cuối cùng cho những cố gắng của họ. Hiện nay tôi đang nghiên cứu về chiến lược ngoại giao của Hà Nội giữa 1965 và 1973. Tài liệu từ Văn Kiện Đảng và những nguồn khác chỉ ra rằng khi nào những nhân vật quốc tế chính trong cuộc Chiến tranh lạnh sử dụng ngoại giao để ngăn chặn bạo lực, thì những người lập chính sách của Đảng Lao động Việt Nam lại coi ngoại giao như một chức năng của cuộc đấu tranh cách mạng, một vũ khí chiến tranh về thực chất.
Những người quan tâm đến thời kỳ 1965-1975 sẽ tìm thấy những viên ngọc thực sự trong Văn Kiện Đảng. Nó bao gồm cả nghị quyết của Ủy ban Trung ương vào tháng giêng năm 1968, về vấn đề thực hiện và dự đoán kết quả của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân; bức điện của Bộ Chính trị vào tháng 3-1972, gửi các lãnh đạo cách mạng trong Nam nói về những quan tâm của Hà Nội và chiến lược đánh bại chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon; một bức điện khác của Tổng bí thư Lê Duẩn, tháng 9-1972, gửi Trung ương cục miền Nam, cơ quan chỉ đạo cao nhất của Đảng trong Nam, thông báo về việc sắp sửa ký hiệp định lập lại hòa bình với Mỹ và những nét đại cương về trách nhiệm của Trung ương Cục sau khi ký hiệp định; và một loạt những bức điện của Bộ Chính trị gửi các chỉ huy quân sự trong Nam, tháng 3 và 4-1975, nêu những nét chính trong chiến lược của Đảng để hoàn thành công cuộc “giải phóng” miền Nam.
Dù cho có những khiếm khuyết, loạt sách Văn Kiện Đảng là vô giá, đặc biệt trong hoàn cảnh khan hiếm những tài liệu lưu trữ từ phía Việt Nam, và khi tính đến quãng đường mà các nghiên cứu sinh và học giả phải trải qua để có được thậm chí chỉ một chút xíu những tài liệu chứng cứ ở đất nước này.
_______
Pierre Asselin là Phó Giáo sư Lịch sử tại Viện đại học Hawaii Thái bình dương. Ông là tác giả cuốn sách: Một nền hòa bình cay đắng: Washington, Hà Nội và việc ký kết Hiệp định Paris (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2002). Hiện ông đang đang viết cuốn sách sắp tới về chiến lược cách mạng của Hà Nội trong giai đoạn 1954 đến 1965.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Summer 2010, vol. 5, no. 2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Bùi Xuân Bách
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Pierre Asselin, “Việt nam Dân chủ Cộng hòa và Hội nghị Giơ ne vơ 1954: một cách nhìn lại” trong Lịch sử Chiến tranh lạnh, sắp ra.
[2] Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập – tập 15: 1954 (dưới đây viết tắt Văn Kiện Đảng: 1954) (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2001), 179–222.
[3] Pierre Asselin, “Chọn lựa hòa bình: Hà Nội và Hiệp định Giơ ne vơ về Việt Nam, 1954–1955,” Tạp chí Nghiên cứu Chiến tranh lạnh 9, số 2 (Xuân 2007): 95–126.
[4] “Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày 27 tháng 7 năm 1954: Tuyên truyền về những Hiệp định của Hội nghị Giơnevơ—Tình hình và nhiệm vụ mới”, Văn Kiện Đảng: 1954, 238–241.
[5] “Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày 30 tháng 7 năm 1954: Về việc chấp hành lệnh đình chiến”, Văn Kiện Đảng: 1954, 248–250.
[6] Pierre Asselin, “Hà Nội giữa hai Hội nghị Giơ ne vơ: Sự tiến triển của chiến lược cách mạng Việt Nam, 1959-1962,” trong Hòa bình không đến, Đông dương giữa hai Hội nghị Giơ ne vơ, 1954-1962, do Christopher Goscha và Karine Laplante biên tập (Paris: Les Indes Savantes, 2010).
[7] Pierre Asselin, “Hà Nội và việc Mỹ hóa cuộc chiến ở Việt Nam: Bằng chứng mới từ Việt Nam,” Tạp chí lịch sử Thái Bình Dương 74, số 3 (tháng 8-2005): 427–431.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:05:33 GMT 9
Văn kiện Đảng Toàn tập: Ván bài của chế độ và món hời của các nhà nghiên cứu (bài 1) Tác giả: Vũ Tường
Nguyên Trường dịch
Văn kiện Đảng Toàn tập (sau đây gọi là Toàn tập) là tuyển tập tài liệu đồ sộ nhất và mới nhất, được thu thập chủ yếu từ văn khố của Đảng Cộng sản Việt Nam.[1] Được xuất bản trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2007, gồm 45 tập, gần 40 ngàn trang, bao quát cả giai đoạn từ năm 1924 đến năm 1995[2]. Trên diễn đàn này, các nhà nghiên cứu đã từng sử dụng Toàn tập sẽ thảo luận giá trị và những hạn chế của nó, như một phương tiện trong việc nghiên cứu lịch sử và văn hoá chính trị của Việt Nam. Trong bài dẫn nhập này, tôi khẳng định rằng quyết định cho công bố bộ Toàn tập là chưa từng có tiền lệ, và quyết định này phản ánh những nỗi sợ hãi và lo lắng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm 1990. Tôi cũng thảo luận những đóng góp cho học thuật của Toàn tập và dẫn ra những ví dụ từ một số văn kiện nhằm chứng minh rằng mặc dù có những hạn chế, Toàn tập có nhiều ưu điểm hơn những tài liệu được biên soạn, trên cơ sở văn kiện được lưu trữ, trước đây.
Sợ hãi và lo lắng
Ken MacLean khẳng định trong bài viết rất sâu sắc của ông rằng mỗi khi lãnh đạo Đảng cho phép công bố tài liệu lưu trữ, họ công bố rất hạn chế, và tài liệu được chọn lọc rất kỹ nhằm để phục vụ một ý đồ tuyên truyền nào đó[3]. Vì vậy mà người ta có lí do để hỏi rằng vì sao dự án xuất bản bộ Toàn tập dày cộp này lại được khởi động vào năm 1995. Vì thực ra trước đây Đảng đã cho xuất bản những bộ mỏng hơn rất nhiều và hướng vào những đề tài cụ thể hơn. Đa số được Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng xuất bản và sau đó được các trường và các viện nghiên tái bản dưới dạng rút gọn để phục vụ mục đích giảng dạy và nghiên cứu. Hầu hết các tập đã xuất bản trước đây đều được đóng dấu “mật” hoặc “lưu hành nội bộ”. Trước khi bộ Toàn tập mới này được xuất bản, chúng ta chưa bao giờ thấy Đảng có nỗ lực nhằm công bố quá khứ của mình một cách rộng rãi và hệ thống đến như thế. Đâu là nguyên nhân làm cho Đảng Cộng sản từ bỏ cách làm quen thuộc khi công bố tài liệu lưu trữ?
[Có người cho rằng] thời điểm đưa ra quyết định xuất bản Toàn tập vào năm 1995 trùng hợp với sự phục hồi niềm tin của ban lãnh đạo Đảng sau khi họ vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế hồi thập niên 1980 và chấm dứt giai đoạn cô lập với thế giới (qua việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ, Liên hiệp châu Âu và ASEAN vào năm 1995). Nhưng xin chúng ta đừng quên rằng lãnh đạo Đảng còn tự tin hơn nhiều vào năm 1954 và 1975 sau khi thắng Pháp và Mĩ, nhưng lúc đó họ đã không cho công bố tài liệu mật nào. Tôi khẳng định rằng chính nỗi sợ hãi và lo lắng về những đe doạ đối với tính chính danh của chế độ cộng sản, chứ không phải sự tự tin, đã dẫn đến quyết định xuất bản Toàn tập. Trong những năm đầu 1990, Đảng Cộng sản đã phải đối mặt với một loạt thách thức xuất phát từ nhiều hướng. Sự sụp đổ của khối Xô Viết và sau đó, việc chủ nghĩa cộng sản mất tính chính danh trên toàn thế giới, chẳng khác gì một trận động đất đối với chế độ chính trị ở Việt Nam. Tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam phần nào dựa trên lời hứa hẹn đưa dân chúng tới chủ nghĩa xã hội. Khi các nước cộng sản ở Đông Âu sụp đổ và xe tăng được điều đến để đàn áp sinh viên Trung Quốc chống đối trên quảng trường Thiên An Môn, các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tính chính danh cực kì nghiêm trọng.
Những người đối lập trong nước là mối đe doạ thứ hai. Phong trào đối lập bắt đầu vào cuối những năm 1980, khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh khuyến khích nói thẳng nói thật. Năm 1990 chứng kiến việc đại tá Bùi Tín – một quan chức chính trị cao cấp, trực ngôn, có nhiều năm hoạt động trong ngành báo chí và thông thạo ngoại ngữ – đào thoát sang phương Tây. Ở nước ngoài, Bùi Tín xuất bản một loạt hồi kí gây dư luận lớn, phơi bày nhiều sai lầm và thất bại của Đảng[4]. Mà không chỉ có Bùi Tín. Một làn sóng bất đồng rộng rãi hơn đã xuất hiện, có thể đây là lần đầu tiên kể từ sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm hồi giữa những năm 1950. Những người bất đồng chính kiến mới – trong đó có Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Văn Trấn, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Kiến Giang, Trần Độ, Vũ Thư Hiên – đều có thành tích yêu nước. Những bài viết của họ kết hợp những phân tích sâu sắc với những điều mắt thấy tai nghe về áp bức và tham nhũng ở miền Bắc Việt Nam không phải mới đây mà từ hồi những năm 1950[5]. Những bài viết này đã hạ thấp tính chính danh của Đảng và uy tín của Hồ Chí Minh – người sáng lập Đảng.
Một mối đe doạ nữa đối với tính chính danh của Đảng xuất phát từ Trung Quốc –đàn anh của Hà Nội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng lại trở thành kẻ thù ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Từ giữa những năm 1980, Trung Quốc đã công bố hàng loạt tài liệu và hồi kí về quan hệ Trung-Việt. Những tập tài liệu chính thức của chính phủ Trung Quốc làm người ta nghi ngờ thành tích anh hùng mà Đảng Cộng sản Việt Nam thường khoe khoang, thí dụ như chiến thắng Điện Biên Phủ[6]. Từ những tài liệu của Trung Quốc, người ta mới biết rằng hoá ra Đảng Cộng sản Việt Nam lệ thuộc ngoại bang nhiều hơn là họ từng công nhận.
Trên đây là những lí do quan trọng khiến Đảng quyết định xuất bản Toàn tập. Sự kiện này có thể được coi là một ván bài chính trị mà động cơ của nó chính là nỗi sợ hãi và lo lắng, cùng với mục đích là phục hồi tính chính danh đã bị tổn hại. Động cơ này thể hiện rõ trong Quyết định ngày 3 tháng 2 năm 1997 của Bộ Chính trị phê chuẩn dự án xuất bản bộ Toàn tập. Theo quyết định này, dự án nhằm vào 5 mục tiêu sau đây:
1. “Sưu tầm, xác minh và xuất bản tương đối đầy đủToàn tập Văn kiện Đảng, phản ánh khách quan quá trình hình thành, phát triển của Đảng và tiến trình cách mạng do Đảng lãnh đạo, làm rõ bản chất cách mạng, sáng tạo của Đảng ta, vai trò công lao to lớn của Đảng trong lịch sử cách mạng dân tộc, những bài học kinh nghiệm có thể rút ra qua những thành tựu, thắng lợi và cả sai lầm vấp váp của Đảng qua các chặng đường lịch sử cách mạng.”
2. “Giúp lãnh đạo Đảng đúc rút kinh nghiệm, bài học kế thừa, bổ sung và phát triển đường lối của Đảngphù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.”
3. Cung cấp những tư liệu lịch sử xác thực và có hệ thống cho công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng, tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc.”
4. Góp phần cung cấp chứng cứ tin cậy để thông tin chân thực trong Đảng và trong nhân dân về các sự kiện lịch sử, bác bỏ các thông tin không đúng, sai trái, đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc lịch sử,vu khống Đảng.”
5. “Cung cấp tư liệu lịch sử Đảng dùng cho việc giới thiệu với bạn bè quốc tế về lịch sử vẻ vang và những bài học kinh nghiệm của Đảng”[7].
Những từ và câu được tôi nhấn mạnh bên trên cho thấy sự khác biệt giữa những động cơ của lần xuất bản Toàn tập này so với những lần xuất bản trước. Động cơ của lần xuất bản này cho thấy rõ tâm trạng lo lắng và bất an của thế hệ lãnh đạo mới của Đảng, tức là thế hệ những người nắm được quyền lực vào đầu những năm 1990. Thí dụ, mục tiêu thứ hai bên trên làm cho người ta hiểu rằng vì sự sụp đổ của khối Xô Viết mà những người lãnh đạo cộng sản thấy bài học của quá khứ ngày càng có giá trị hơn.
Việc Đảng chịu thừa nhận các sai lầm trong quá khứ còn chứng tỏ sự lo lắng và bất an của họ đối với việc đánh mất tính chính danh. Lời giới thiệu cho những lần xuất bản trước chỉ ca ngợi sự lãnh đạo của Đảng chứ không bao giờ nói đến thất bại. Thí dụ, lời nói đầu cho tuyển tập văn kiện nói về cuộc kháng chiến chống Pháp, xuất bản năm 1986, bắt đầu như sau: “Đây là bộ sách quý trong kho tàng văn kiện lịch sử vô giá thể hiện trí tuệ tập thể của Đảng, giúp ta hiểu được ý nghĩa và cội nguồn thắng lợi trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp và củng cố lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng”[8]. Sự khác biệt giữa ngôn từ được sử dụng trong các bộ trước và bộ mới này thật đáng kinh ngạc. Việc nhấn mạnh “thông tin một cách trung thực trong nội bộ đảng và trong nhân dân” cho chúng ta thấy rằng các nhà lãnh đạo Đảng đã nhận thức được sự suy giảm niềm tin vào chế độ. Không thể cứ nói mãi về thắng lợi được nữa, tối thiểu cần phải thừa nhận là đã có một số sai lầm để khôi phục lại niềm tin.
Mục tiêu thứ tư cho thấy mối quan tâm đặc biệt của Đảng đối với những thiệt hại mà những người bất đồng gây ra đối với uy tín và tính chính danh của chế độ. Những tác phẩm báng bổ của những người đối lập đe dọa xói mòn niềm tin trong “nhân dân” cũng như đảng viên. Uy tín của những người đối lập, nhiều người trong số họ đã từng giữ chức vụ khá cao trong Đảng, làm cho Đảng sợ rằng sẽ có thêm nhiều người bỏ Đảng. Mục tiêu thứ ba nhắc đến thế hệ trẻ cho thấy các nhà lãnh đạo lo lắng đến mức nào về việc mất liên hệ chính trị với quần chúng thanh niên. Việc nhắc đến “bạn bè quốc tế” cho thấy Đảng đã sửa đổi cách làm cũ, tức là chỉ xuất bản cho người trong nước đọc; rất có thể đây là một cố gắng nhằm giảm bớt ảnh hưởng của những tài liệu mới được công bố ở Trung Quốc.
Món hời của các nhà nghiên cứu
Ken MacLean đã chỉ rõ những hạn chế quan trọng của Toàn tập, đồng thời cũng khẳng định giá trị học thuật to lớn của nó, nhất là khi được sử dụng cùng với báo, tạp chí, các công trình chuyên khảo và hồi kí cũng như tài liệu do các quan chức nhà nước viết. Trong quá trình nghiên cứu của mình, tôi nhận thấy Toàn tập có giá trị, ít nhất là ở hai khía cạnh sau đây. Thứ nhất, do bao trùm được một giai đoạn rất dài, Toàn tập giúp các nhà nghiên cứu theo dõi được tiến trình phát triển tư duy cũng như chính sách của lãnh đạo Đảng trong suốt giai đoạn đó. Pierre Asselin chứng minh rằng bộ Toàn tập mới đã giúp ông nghiên cứu sự phát triển của chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt mấy thập niên. Nhờ các báo cáo và nghị quyết các kì hội nghị và đại hội Đảng, tôi có thể theo dõi được sự thay đổi thế giới quan của những người lãnh đạo Đảng từ những năm 1930 đến hết những năm 1960[9]. Các văn kiện này đã giúp tôi hiểu được cách thức mà các nhà chiến lược của Đảng, dựa vào những khái niệm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, mường tượng và phân tích nền chính trị thế giới. Phương pháp phân tích của họ không thay đổi trong một thời gian dài, chứng tỏ rằng họ có niềm tin rất vững chắc vào những khái niệm này dù bầu không khí chính trị trong nước và trên toàn thế giới liên tục thay đổi.
Toàn tập không chỉ cho thấy thế giới quan của những người lãnh đạo Đảng mà còn làm sáng tỏ sự phát triển về mặt tổ chức của Đảng, cả ở tầm quốc gia, địa phương và khu vực. Thí dụ, chính sách về thành phần đảng viên đã chuyển từ tương đối cởi mở trong những năm 1940 sang chính sách hạn chế, dựa trên thành phần giai cấp, trong những năm 1960[10]. Toàn tập cho thấy sự thay đổi đáng kể trong chính sách về tổ chức và mô hình phát triển Đảng ở tầm khu vực và tỉnh. Hơn nữa, Toàn tập còn giúp tìm hiểu các cuộc vận động chính trị đặc biệt, thí dụ như “cải cách ruộng đất” và “chỉnh đốn tổ chức Đảng”. Chúng tôi cho in trong số tạp chí này bản dịch một văn kiện trong tập 14, nói rằng Đảng đã ấn định chỉ tiêu xử tử địa chủ trong cải cách ruộng đất là 1/1000 dân ở vùng tự do. Số lượng lớn tài liệu về cuộc cải cách ruộng đất cho phép chúng ta xác định một cách chính xác quyết định thanh trừng đảng viên vì thành phần giai cấp “xấu” trong những năm 1953-1956 được đưa ra và rút lại khi nào và ở cấp lãnh đạo nào.
Giá trị thứ hai của Toàn tập nằm ở chỗ nó bao gồm rất nhiều loại văn kiện khác nhau. Một số loại văn kiện, như chỉ thị về công tác tuyên truyền hay thi hành chính sách là những tiết lộ đặc biệt có giá trị. Trong một số trường hợp, hiện nay có thể chứng minh được mối liên hệ giữa những đòn “tung hỏa mù” của Đảng (cố tình truyền bá những tin tức sai lạc) và những quan điểm sai lạc của các học giả nước ngoài. Thí dụ, hiện nay chúng ta biết rằng đầu năm 1950 Hồ Chí Minh đã bí mật đi Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để yêu cầu công nhận về mặt ngoại giao (Mao và Stalin đồng ý) và xin được kí hiệp ước phòng thủ chung với Liên Xô (Stalin không chấp thuận). Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã cẩn thận đạo diễn việc Trung Quốc và Liên Xô công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để người ta cảm thấy dường như Mao và Stalin tự ý công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau khi Hồ Chí Minh kêu gọi tất cả các nước công nhận Việt Nam[11]. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo ra ấn tượng rằng Việt Nam không tìm cách gia nhập khối Xô Viết, với mục đích cuối cùng là tránh không để Mĩ can thiệp vào Đông Dương. Chiến thuật này, như Toàn tập hé lộ ra, đã không lừa được Mĩ và đồng minh của họ: các nước này đã phản ứng ngay lập tức bằng cách công nhận chính phủ Bảo Đại vào tháng 2 năm 1950. Nhưng đòn tung hỏa mù của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn lừa được nhiều nhà phân tích chính trị Đông Dương có tên tuổi trong hàng chục năm liền[12].
Một thí dụ khác cho thấy làm thế nào mà bộ máy tuyên truyền của Đảng có thể gạt các học giả là trường hợp di cư của gần một triệu người vào Nam sau Hiệp định Giơ-neo. Theo bài của Alec Holcombe trong số tạp chí này, các văn kiện trong Toàn tập cho thấy Đảng đã dàn dựng các sự kiện để lừa những quan sát viên ngoại quốc rằng trong những năm 1954-1955 chính quyền không ngăn cản người miền Bắc di cư vào Nam, dẫn đến nhiều học giả ngoại quốc đã tin đấy là sự thật.
Bộ Toàn tập mới có lợi không chỉ vì nó chứa nhiều văn kiện hơn, mà còn vì nó công bố những phiên bản văn kiện đầy đủ hơn so với những phiên bản đã bị biên tập quá kĩ lưỡng trước đây. Tôi đã lựa chọn một vài văn kiện được xuất bản trước đây và trong tập này và so sánh từng từ một để thấy cách trình bày (lèo lái) các tài liệu lưu trữ trong những tập này khác nhau như thế nào. Có hai khác biệt đáng chú ý. Thứ nhất, các biên tập viên bộ Toàn tập này tuân thủ ngôn ngữ tài liệu gốc chặt chẽ hơn. Trong những tuyển tập được xuất bản hồi những năm 1970, “Trung Quốc” được dùng để chỉ Trung Hoa cộng sản, trong khi “Tầu Tưởng” được dùng để chỉ chính phủ của Tưởng Giới Thạch. Bộ Toàn tập mới sử dụng từ “Tàu” (một từ bình dân để chỉ “Trung Quốc” hay “người Trung Quốc”) cho cả hai và không tìm cách phân biệt giữa hai chính phủ Trung Quốc. Tuy vậy chúng ta có thể suy luận từ ngữ cảnh của văn bản để hiểu văn kiện đang nói đến nước Trung Quốc nào. “Tàu” chắc chắn là từ được dùng trong văn bản gốc, nhưng nó đã bị sửa thành “Trung Quốc” hoặc “Tàu Tưởng” trong những tuyển tập được xuất bản trước đây. Có thể có hai lí do. Những người biên tập có thể sợ rằng độc giả bị lầm lẫn giữa Trung Quốc “tốt” và Trung Quốc “xấu”. Để truyền đạt nghĩa Trung Quốc tốt và xấu, người ta dùng từ trang trọng và kính cẩn hơn là Trung Quốc, đối lập với từ “Tàu Tưởng”, tức là gắn từ “Tàu” có tính cách bình dân với từ “Tưởng” (họ của người lãnh đạo chính phủ này) – mặc dù cho đến năm 1949 Tưởng Giới Thạch vẫn là lãnh tụ của cả nước Trung Quốc.
Cách làm tương tự cũng được sử dụng cho từ “Nga” và “Liên Xô”. Cả hai từ “Nga” và “Liên Xô” cùng có mặt trong bộ Toàn tập mới (“Nga” xuất hiện nhiều hơn), nhưng trong những lần xuất bản trước chỉ có từ “Liên Xô” mà thôi. Hơn nữa, trong các văn kiện vừa được xuất bản còn có nhiều chữ viết tắt, như “C.S.” (Cộng Sản), “UBND” (Ủy ban nhân dân), và “VM” (Việt Minh). Trong những phiên bản trước đây những chữ này đều được viết đầy đủ, có thể các biên tập viên không muốn cho người ta hiểu sai.
Thứ hai, các các văn kiện trong Toàn tập chứa nhiều câu, thậm chí nhiều đoạn cực kì quan trọng mà những phiên bản trước đã lược bỏ. Thí dụ, trong mục nói về việc vận động các dân tộc thiểu số trong phiên bản mới của “Nghị quyết Hội nghị cán bộ trung ương, ngày 1 tháng 8 năm 1946”, Đảng chỉ thị cho cán bộ “đánh vào lòng mê tín của họ, cấp cho họ bằng sắc chức tước” để họ đi theo Đảng[13]. Phiên bản cũ, xuất bản năm 1978, đã bỏ câu này, có thể là vì đấy thể hiện sự coi thường của Đảng đối với các dân tộc thiểu số, mặt khác cũng cho thấy Đảng quá thủ đoạn[14].
Một khác biệt nữa được tìm thấy trong hai phiên bản văn kiện “Thông cáo của Thường vụ T.Ư. [về] triển vọng của tình hình chính trị Pháp và công tác tuyên truyền và ngoại giao”, ban hành vào ngày 12 tháng 12 năm 1947. Phiên bản trước, xuất bản cuối những năm 1970, viết: “Nếu Mỹ can thiệp vào tình hình Việt Nam thì mặt trận chống phản động Mỹ và Tưởng của nhân dân Trung Quốc, và mặt trận chống Pháp, Mỹ của nhân dân Việt Nam sẽ hoà làm một. Do đó, một thắng lợi của nhân dân Trung Quốc là một thắng lợi của nhân dân Việt Nam, và trái lại, một thắng lợi của ta cũng ảnh hưởng tốt cho Trung Quốc”[15]. Trong phiên bản mới, đoạn này còn có thêm một câu như sau: “Gần đây, những thắng lợi của Quân giải phóng Tàu, và phong trào địa phương khởi nghĩa lan đến Hoa Nam là những điều kiện rất lợi cho ta”[16]. Câu này bóng gió đến hi vọng của Đảng về sự giúp đỡ trực tiếp về mặt quân sự của các đồng chí Trung Quốc – sự kiện cần che giấu sau khi quan hệ Việt-Trung trở nên căng thẳng vào cuối những năm 1970. Tuy nhiên, Trung Quốc đã chuyển từ “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm” của Việt Nam trong những năm 1980 thành “đối tác chiến lược” và “đồng chí xã hội chủ nghĩa” trong những năm 1990, việc đưa trở lại câu này vào tài liệu chính thức có thể là để phục vụ cho việc nhen nhóm lại những kỉ niệm về một giai đoạn khi Việt Nam và Trung Quốc còn thân thiết.
Động cơ chính trị tương tự cũng là nguyên nhân của sự khác biệt giữa hai phiên bản của văn kiện “Nghị quyết của Thường vụ Trung ương”, ban hành ngày 9 tháng 2 năm 1950. Phiên bản mới nói rằng sau khi được các nước trong khối Xô Viết công nhận về mặt ngoại giao thì một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng là “tìm hiểu rõ khả năng giúp đỡ của các bạn bên ngoài để sẵn sàng đón tiếp. Đề ra với Đảng [cộng sản] Trung Hoa vấn đề một chiến lược chính trị và quân sự chung ở Đông Nam Á. Đề ra vấn đề phối hợp hành động với Đảng cộng sản Pháp ”[17]. Phiên bản trước, công bố hồi cuối những năm 1970, chỉ có câu cuối cùng về việc phối hợp với những người cộng sản Pháp mà thôi[18]. Một lần nữa, có vẻ như những người biên tập phiên bản cũ muốn che giấu mối liên hệ gần gũi một thời giữa Việt Nam và Trung Quốc, trong khi những người biên tập phiên bản mới không có mối lo ngại như thế, thậm chí họ còn muốn bộc lộ những mối liên hệ như thế nữa kia.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể tìm được động cơ chính trị trong việc loại bỏ đoạn văn này hay đoạn văn kia. Phiên bản mới của “Thông cáo của Thường vụ T.Ư. …”, ban hành vào ngày 12 tháng 12 năm 1947, đã nói tới bên trên, trong phần nói về công tác tuyên truyền có dẫn một câu mà phiên bản cũ đã lược bỏ như sau: “[Trong công tác tuyên truyền chúng ta phải] vạch rõ tham vọng của Mỹ và nguy cơ. [Chúng ta phải] chống xu hướng thân Mỹ và sợ Mỹ”[19]. Không rõ vì sao phiên bản cũ không có mà phiên bản mới lại đưa câu này vào. Tuy nhiên, trong trường hợp này người ta có thể khẳng định rằng việc đưa câu này vào phiên bản mới là chỉ dấu cho thấy trong những năm cuối 1990 – thời gian công bố phiên bản mới – quan hệ Việt Mĩ phát triển rất chậm. Mặc dù Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Mĩ vào năm 1995, quan hệ giữa hai bên nói chung là lạnh nhạt và lúc đó đang khá căng thẳng vì Việt Nam sợ “âm mưu diễn biến hoà bình” của Mĩ.
Cuối cùng, trong khi các văn kiện được đưa vào bộ Toàn tập mới nói chung là đầy đủ hơn phiên bản cũ, nhưng không phải lúc nào cũng như thế. Phiên bản cũ “Chỉ thị của Ban chấp hành trung ương về kháng chiến kiến quốc”, ban hành ngày 25 tháng 11 năm 1945, tuyên bố rằng nhiệm vụ trước mắt của Đảng liên quan đến chính sách đối nội là “một mặt xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định hiến pháp,bầu chính phủ chính thức, [và mặt khác] xử trí cho xongvới bọn đối lập (Đại Việt, Việt Nam quốc dân đảng, Nguyễn Hải Thần), để thủ tiêu phong trào phân liệt và thống nhất chính quyền nhân dân (chú ý: có thể chia rẽ bọn họ, mua chuộc một bộ phận để ly gián họ, đàn áp những phần tử phản quốc trong hàng ngũ họ”[20]. Phiên bản mới có nhắc tới việc thành lập Quốc hội nhưng lược bỏ đoạn nói về chiến thuật nhằm loại bỏ phe đối lập[21]. Chiến thuật này cho thấy Đảng có nhiều thủ đoạn, nhưng thí dụ bên trên về dân tộc thiểu số chứng tỏ rằng những người biên tập phiên bản mới không quan tâm về việc để lộ bộ mặt thủ đoạn của Đảng. Nhiều khả năng là những người biên tập sợ rằng kẻ thù của Đảng có thể sử dụng chi tiết này cáo buộc Đảng đã dùng bạo lực thủ tiêu đối lập.
Kết luận
Tất cả các tác giả đóng góp bài trong diễn đàn này đều nhận thấy bản chất tuyên truyền của bộ Toàn tập văn kiện vừa được xuất bản. Tuy nhiên, họ cũng đồng ý rằng Toàn tập là công cụ có ích lợi trong việc nghiên cứu lịch sử chính trị và văn hoá chính trị của Việt Nam. Động cơ xuất bản bộ sách này là nỗi sợ hãi và lo lắng sâu sắc về tương lai của Đảng. Như tôi đã khẳng định bên trên, nỗi sợ hãi này đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Đảng đánh một ván bài nhằm giảm bớt những mối đe doạ đối với tính chính danh của mình bằng cách công khai hoá một phần tư liệu trong văn khố của Đảng. Hành động này rất khác với thói quen bí mật cố hữu của họ. Cái rủi ro trong ván bài này là việc bộ Toàn tập tiết lộ không chỉ những việc làm tốt của Đảng mà còn cả những thủ đoạn và chiến thuật ám muội. Đây đúng là một hành động chỉ được tiến hành khi Đảng cảm thấy đang bị đe doạ nghiêm trọng.
Diễn đàn này hi vọng gợi ý cho các nhà nghiên cứu cách thức sử dụng hữu hiệu bộ Toàn tập này, đồng thời đưa ra hai cảnh báo quan trọng. Thứ nhất, Toàn tập phải được sử dụng cùng với những nguồn thông tin khác. Nếu không, những văn kiện này có thể làm người ta rối trí, thậm chí lầm lẫn nữa. Thứ hai, những người đóng góp bài cho diễn đàn này chủ yếu nghiên cứu giai đoạn từ những năm 1940 đến hết những năm 1960. Trong những thí dụ được đưa ra, các tác giả đã không sử dụng những tập tư liệu của những năm 1930 cũng như những tập tư liệu của những năm sau 1970. Có lí do để tin rằng văn kiện trong các tập về hai giai đoạn này có ít giá trị hơn. Đối với thập niên 1930, văn khố của Pháp và Nga có thể chứa nhiều tài liệu hơn chính văn khố của Đảng. Đối với những thập kỉ gần đây, có thể có quá nhiều vấn đề nhạy cảm, cho nên khó hi vọng là những văn kiện mới được công bố có thể “tương đối đầy đủ”[22]. Đối với những thập kỉ này, có lẽ chúng ta phải đợi đến lúc Đảng quyết định đánh một ván bài mới.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol.5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Nguyên Trường
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Bản dịch đã được tác giả hiệu đính.
[2] Tôi xin cám ơn Peter Zinoman vì ông đã đề nghị tôi tham gia diễn đàn và viết bài tiểu luận này. Tôi cũng xin cám ơn David Marr, người đã gợi ý tôi so sánh bộ Toàn tập này với những bộ đã xuất bản trước đây, cám ơn Trang Cao và Ken MacLean vì đã góp ý cho bài viết.
[3] Tôi đã tham khảo ít nhất là một tập từ những bộ sau đây: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng, 8 tập (1930–1935, 1935–1939, 1939–1945, 1945–1946, 1946–1948, 1948–1950, 1951–1953, 1953–1954) (Hà Nội: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương [1962–1964, ba tập đầu], 1978–1979); Viện Mác-Lê Nin, Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, 2 vols. (Hà Nội: Sự Thật, 1986–1988); Văn kiện quân sự Đảng (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1969); và Đảng Cộng Sản Đông Dương, Văn Kiện Toàn quốc Đại biểu Đại hội lần thức hai của Đảng, tháng hai năm 1951 (Hà Nội, 1965). [4] Bùi Tín, Hoa Xuyên Tuyết (Irvine, CA: Nhân Quyền, 1991).
[5] Xem, thí dụ, Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1996); Hà Sỹ Phu, Tuyển Tập (Irvine, CA: Nhân Quyền, 1996); Nguyễn Kiến Giang, Tuyển Tập (Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993); Trần Độ, Đổi Mới, niềm vui chưa trọn (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1999); Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày: Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997). Một số tác phẩm này đã được chuyền tay lưu hành ở Việt Nam trước khi được người Việt ở hải ngoại xuất bản.
[6] Thí dụ bao gồm Chen Geng [Trần Canh], Nhật ký Chen Geng, tập 2 (Bắc Kinh:Nhà xuất bản Quân giải phóng Nhân dân, 1984); Luo Guibo [La Quý Ba], “Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ đã gửi tôi tới Việt Nam” trong Tưởng niệm Lưu Thiếu Kỳ, do He Jinxiu chủ biên (Bắc Kinh: Nhà xuất bản tài liệu lịch sử trung ương, 1988); và Nhóm biên tập bộ lịch sử các cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam, [Báo cáo của nhóm cố vấn quân sự trong cuộc đấu tranh giúp Việt Nam chống Pháp] (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Quân giải phóng, 1990). Trần Canh là cố vấn của Võ Nguyên Giáp trong những năm 1950-1954, còn La Quý Ba là đại sứ Trung Quốc đầu tiên ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Toàn bộ nguồn Trung Quốc, xin đọc Chen Jian, “Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, 1950–1954,” China Quarterly 133 (March 1993): 2–3.
[7] Quyết định của Bộ Chính Trị về việc xuất bản Văn Kiện Đảng Toàn Tập No. 25/QĐ/TƯ, tháng 2 năm 1997, được in lại trong Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia: 60 năm xây dựng và và phát triển, 1945–2005 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 200). 246-250.
[8] Viện Mác-Lê Nin, Văn Kiện Đảng Về Kháng Chiến, 1:1.
[9] Xem bài của tôi “From Cheering to Volunteering: Vietnamese Communists and the Arrival of the Cold War 1940–1951,” trong Connecting Histories: The Cold War and Decolonization in Asia (1945–1962), do Christopher Goscha và Christian Ostermann chủ biên (Stanford: Stanford University Press, 2009), 172–204; và “To Be Patriotic Is to Build Socialism: Communist Ideology during Vietnam’s Civil War,” trong Dynamics of the Cold War in Asia: Ideology, Identity, and Culture, do Tuong Vu và Wasana Wongsurawat chủ biên (New York: Palgrave Macmillan, 2010), 33–52.
[10] Xem Tuong Vu, Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (New York: Cambridge University Press, 2010), chapter 6.
[11] Xem “Quyết nghị của Ban Thường vụ Trung ương”, ngày 15-16 tháng 1 năm 1950, Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 11:11.
[12] Gần 40 năm sau, George Kahin còn khẳng định rằng “chưa được bất kì nước nào công nhận về mặt ngoại giao, những người lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cảm thấy cần phải lập tức thoát ra khỏi tình trạng cô lập và ngày 14 tháng 1 năm 1950 họ đã kêu gọi tất cả các nước trên thế giới công nhận về mặt ngoại giao. Bốn ngày sau, sau khi Hà Nội công nhận chính phủ của Mao (ngày 15), Bắc Kinh đáp lại bằng hành động tương tự. Và ngày 30 tháng 1, đến lượt Liên Xô”. Xem, George Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Knopf, 1986), 35. Bài viết của Kahin đóng góp vào luận điểm cho rằng do hoàn cảnh bắt buộc nên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới tham gia vào khối Xô Viết. Tôi đã phê phán luận điểm này trong bài “From Cheering to Volunteering” (note
[13] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 8:107.
[14] . Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 1:78.
[15] Như trên, 2:1, 155.
[16] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 8:338.
[17] Như trên, 11:223.
[18] Viện Mác-Lê Nin, Văn Kiện Đảng về Kháng Chiến, 1:369.
[19] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 8:339 [trong nguyên bản tiếng Anh ghi sai là tập 11].
[20] Như trên, 28.
[21] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 8:27.
[22] Chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm 1979-1989 là một ví dụ. Trong những văn kiện của những năm 1980 được xuất bản trong Toàn tập, tất cả những lời ám chỉ Trung Quốc là kẻ thù của Việt Nam đều đã bị lược bỏ toàn bộ.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:07:29 GMT 9
Văn kiện Đảng: Những khả năng và giới hạn trong thể hiện chính thức của một chính đảng đương quyền (bài 2) 03/11/2010 Tác giả: Ken MacLean
Hoài Phi dịchTiểu luận này đặt câu hỏi về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc xem xét ấn phẩm từ cơ quan lưu trữ của đảng. Mặc dù những câu hỏi đặt ra chỉ mang tính chất thăm dò, chúng vẫn giúp nhấn mạnh một tình trạng kỳ lạ. Bất chấp việc có cả kho tài liệu hiện đang tồn tại về Đảng Cộng sản Việt Nam, lại có rất ít thông tin về việc những văn bản này đã được thu thập, hệ thống hóa trong các phòng lưu trữ như thế nào, và sau đó được chọn lọc để công bố trước công chúng qua sách vở, tạp chí, website chính thống ra sao, v.v… Vì những ấn bản này ưu tiên việc tạo lập một số “sự thật” bằng cách hy sinh một số sự thật khác, chúng định hình cho việc những câu hỏi có thể được đặt ra về đảng – không chỉ như một thiết chế mà còn như một tiến trình tư tưởng và thực hành của bộ máy hành chính, quy định việc người Việt cai trị bản thân họ và những người khác như thế nào.[1] Điều này không có nghĩa rằng một số xác nhận [về đảng] không có nguyên nhân, đặc biệt là những khẳng định nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội Việt Nam; ngược lại là đằng khác, như bất kỳ người nào từng bị “đường lối” của đảng trong một lĩnh vực nhất định nào đó ảnh hưởng tới cuộc sống của mình, đều có thể chứng thực điều này. Nhưng ở đây, tôi muốn lập luận là việc chú ý chi tiết tới hình thức cụ thể của những ấn phẩm này, thêm vào đó là những thay đổi trong nội dung, có thể giúp chúng ta hiểu được nhiều vấn đề trước đó ít được chú ý – chẳng hạn như cách thể hiện chính thống về một chính quyền hiện tồn và về những thay đổi cách thể hiện chính quyền ấy qua thời gian; đây là trọng tâm vấn đề mà tôi chú ý. Ví dụ, Văn Kiện Đảng Toàn Tập từ lâu đã được coi là một nguồn quan trọng đối với những người quan tâm đến những “sự thật” như thế. Giai đoạn đầu tiên của dự án này, do Bộ Chính trị khởi xướng vào buổi đầu thời kỳ đổi mới, đòi hỏi hơn mười hai năm mới hoàn thành xong. Được in từ năm 1998 đến năm 2007, thành quả của dự án này gồm năm mươi bốn tập, chứa đựng khoảng bốn ngàn văn kiện được ban hành trong khoảng thời gian từ năm 1924 đến năm 1995.[2] Gộp lại, nội dung được sắp xếp theo trình tự thời gian trong bộ Văn Kiện Đảng cung cấp cho người đọc một hồ sơ vô cùng hữu ích về các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, nghị định, hướng dẫn… mà nhà cầm quyền ở cấp trung ương đã ban hành trong khoảng thời gian mà bộ văn kiện bao hàm. Nhưng lướt qua mục lục cuối mỗi tập văn kiện, người đọc biết rằng chỉ có một phần của tổng số văn kiện ban hành hàng năm được xuất bản. Do vậy, việc bạch hóa từng phần ở đây trở thành một quy tắc, chứ không phải là ngoại lệ, đặc biệt là khi không có một chuẩn mực và quy trình rõ ràng nào được áp dụng để quyết định tài liệu nào cần được công bố và tài liệu nào không được đưa in.[3] Việc bỏ thiếu một số văn kiện này gây ra một số vấn đề cho những nhà nghiên cứu thường sử dụng chúng để đưa ra những lập luận hoặc củng cố hoặc bác bỏ tường thuật chính thức [của đảng] về quá khứ. Loại sức nặng chứng cứ nào có thể được đặt ra với những tài liệu xuất hiện trong những tập văn kiện mà về bản chất là chọn lọc thay vì trọn vẹn? Chúng ta có thể xây dựng câu chuyện mình kể như thế nào với khoảng trống giữa những gì đã và chưa được công bố trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập, nhưng chúng ta biết về sự tồn tại của chúng ở đâu đó, thường là dưới hình thức lưu trữ.[4] Và khi nào thì những chỗ thiếu này báo hiệu cho chúng ta biết việc giới thiệu “sự im lặng” trong hồ sơ lịch sử là có chủ ý thay vì tình cờ?[5] Nỗ lực “đọc ngược dòng với văn bản” và qua đó trả lời cho những câu hỏi này còn trở nên phức tạp hơn do một vài yếu tố. Việc tiếp cận với kho lưu trữ, dù đã tiến bộ nhiều, vẫn còn bị hạn chế và kiểm soát chặt chẽ.[6] Hơn nữa, còn rất nhiều nhân vật, sự kiện và quyết định tiếp tục bị giới hạn đối với các học giả nghiên cứu vì bị coi là gây tranh cãi, hoặc quá gần đây. Tuy vậy, chúng ta không thể quy tất cả những hạn chế đó cho việc kiểm duyệt có tính toán hoặc/và các trở ngại mang tính chất quan liêu, mặc dù cả hai điều này đều có xảy ra. Điều này là bởi vì những gì bị bỏ thiếu, những khoảng cách và những im lặng cũng phản ánh di sản của quá trình đã hình thành không chỉ việc tạo ra phòng lưu trữ tài liệu của đảng/nhà nước, mà cả về hình thức và nội dung của các văn kiện được đưa vào công bố trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập.[7] Phần tiếp theo sẽ cung cấp tổng quan tóm lược về một số tiến trình này, sau đó tôi sẽ đưa ra ba ví dụ ngắn để minh họa việc chúng đã ảnh hưởng tới cách thể hiện chính thống về một chính quyền hiện tồn như thế nào. Quá trình hình thành lưu trữ Chính phủ lâm thời, hành động theo khuyến cáo của Bộ Giáo dục, ban hành nghị định cho phép thành lập cơ quan lưu trữ quốc gia chỉ một vài ngày sau khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày mùng 2 tháng Chín năm 1945.[8] Nhưng cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ nhất (1946-1954) đã làm gián đoạn kế hoạch này. Do bản chất bất đối xứng của xung đột, ủy ban kháng chiến ở từng vùng và đôi khi ở từng tỉnh đã phát triển hệ thống của riêng họ để điều hành những địa hạt thường xuyên thay đổi trong vùng họ kiểm soát hoặc có ảnh hưởng. Mặc dù chính sách yêu cầu việc sao chép lại văn kiện mà các ủy ban này ban hành và chuyển tới khu giải phóng Việt Bắc, nơi Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến đóng trong suốt hầu hết cuộc chiến, nhưng rất nhiều văn kiện đã không được gửi đi hoặc thất lạc không đến nơi.[9] Vì vậy những văn kiện được đưa về Hà Nội sau khi Chiến tranh Đông Dương thứ nhất kết thúc và sau đó được xếp vào các kho đặc biệt xây để bảo quản chỉ bao gồm một phần nhỏ những văn kiện và tài liệu thực sự được ban hành trong cuộc chiến.[10] Thực vậy, hồ sơ lưu trữ hết sức rời rạc và lộn xộn trong suốt thập niên tiếp theo đó. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên cả, nếu tính đến quy mô của những vấn đề mà đảng/nhà nước mới thành lập đang phải đối mặt sau khi giành được độc lập, bao gồm cả những vấn đề do chính đảng/nhà nước này gây ra, chẳng hạn như cải cách ruộng đất.[11] Vì những lý do đó, cố gắng lớn đầu tiên trong việc hệ thống hóa, in ấn và lưu hành số thư từ và văn kiện chính thức mãi cho đến tháng Mười Một năm 1957 mới thực sự được bắt đầu, khi chiến dịch Sửa sai đã được áp dụng rộng rãi. Điều thú vị là nghị định này không đổ lỗi tính thiếu hệ thống cho việc thanh trừng hàng loạt diễn ra trong thời cải cách ruộng đất, chỉnh đốn hàng vạn cán bộ thuộc các tổ chức quần chúng và cơ quan hành chính khác nhau dựa trên nền tảng được cho là ý thức hệ.[12] Thay vì vậy, nghị định phê phán cá nhân ở mọi cấp đảng/nhà nước về khuyết điểm lâu dài của họ trong việc hoàn thành các báo cáo được yêu cầu và/hoặc kịp thời nộp báo cáo cho cấp trên. Để cải thiện hiệu suất cả hai lĩnh vực này, nghị định thiết lập hướng dẫn rõ ràng, trong đó quy định cụ thể loại tài liệu nào – tất thảy gồm mười chín thể loại – cần được hoàn thành, và phải được sao chép rồi nộp cho cơ quan hữu quan, kể từ thời điểm đó trở đi.[13] Nghị định này không chấm dứt được những khuyết điểm nói trên, một phần vì nhiều cán bộ “mới” được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo địa phương sau cải cách ruộng đất đều ít học hoặc không trải qua trường lớp và vì vậy, thường hầu như mù chữ. Nhưng nghị định đánh dấu khởi đầu trong nỗ lực của đảng/nhà nước nhằm biến cuộc sống ở những vùng nông thôn trở thành “dễ đọc” hơn và do đó dễ uốn theo các hình thức kế hoạch tập trung, qua việc sử dụng các mẫu được chuẩn hóa, các chỉ số thống kê và các lịch báo cáo.[14] Những thử nghiệm này tiếp tục mãi đến tận thập niên 1960 và có ảnh hưởng rất lớn, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với khả năng “điều hành từ xa” của lãnh đạo tại Hà Nội, có nghĩa là từ thủ đô giám sát các công việc hành chính ở nông thôn trong những thập niên tiếp theo.[15] Mặc dầu vậy, vào thời điểm đó, ước vọng lưu trữ của giới lãnh đạo chỉ tập trung vào việc củng cố quá khứ thay vì lưu tài liệu về hiện tại.[16] Năm 1958, đại diện chính phủ yêu cầu và sau đó nhận được tài liệu từ Pháp liên quan đến Hồ Chí Minh và các nhân vật quan trọng khác trong phong trào chống thực dân của thập niên 1920 và 1930 – một số sau đó được in trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập. Năm sau đó, ban Bí thư đảng ban hành Thông tư số 529, một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu cán bộ ở tất cả các cấp hoàn thành báo cáo đúng cách; thông tư này cũng yêu cầu họ thu thập và gửi về Hà Nội toàn bộ tài liệu ban hành trong cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ Nhất còn tồn tại để chúng được phân loại, liệt kê và đưa vào lưu giữ tại một địa điểm tập trung.[17] Đầu năm 1958, đảng tìm kiếm và nhận được trợ giúp kỹ thuật từ các nước xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là Liên Xô, để hoàn thành nhiệm vụ lưu trữ. Trong thời kỳ hình thành này, Alexandrov Emelin tới Hà Nội và cố vấn cho Văn phòng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tổ chức lưu trữ như thế nào. Sau đó, văn phòng này gửi năm cán bộ đến Moscow, nơi họ được đào tạo cấp tốc tại Viện Lịch sử và Lưu trữ Nhà nước – trong số này có ba cán bộ người miền Nam được dự định gửi vào Nam để lưu trữ những văn kiện do Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành về sau.[18] [Liên Xô] cũng dịch hướng dẫn lưu trữ và các sưu tập đặc biệt sang tiếng Việt, tổ chức các hội thảo tập huấn, giúp nâng số cán bộ cho các cơ quan cấp trung ương lên 179 người và thêm 101 người khác được bổ nhiệm về các ủy ban hành chính cấp tỉnh trên toàn quốc vào cuối năm 1963.[19] Sự phát triển nhanh chóng về chuyên gia lưu trữ khiến đảng khơi lại nỗ lực củng cố lịch sử của mình giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình này được bắt đầu thực sự vào năm 1962, do Trần Văn Nguyên, Đào An Thái và Vũ Dương Hoan dẫn đầu.[20] Nhưng do căng thẳng vùng miền gia tăng và các quan ngại về xung đột có vũ trang sắp tái diễn, chỉ hai năm sau đó, thủ tướng ban hành chỉ thị ra lệnh sơ tán toàn bộ các tài liệu quan trọng.[21] Điều này bao gồm việc chuyển toàn bộ các văn kiện do Ủy ban Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước và các tổ chức quần chúng cấp trung ương cũng như của Ủy ban Hành chính Hà Nội về Việt Bắc, nơi một số lượng tài liệu lớn trước đó đã được lưu trữ trong các hang đá và trong kho thời Chiến tranh Đông Dương thứ Nhất. Nhưng lần này, tài liệu được đưa vào những công trình được thiết kế đặc biệt cho mục đích lưu trữ – một kho rộng ba ngàn mét vuông xây bằng xi măng tại một địa điểm bí mật vào cuối năm 1964 dưới sự giám sát trực tiếp của Nguyễn Lương Bằng.[22] Hiện chúng ta không biết nhiều về bản chất và quy mô tiến trình lưu trữ trong Chiến tranh Đông Dương thứ hai. Tuy vậy, các nguồn chính thức cho thấy việc phân loại và liệt kê các tài liệu hồ sơ xưa cũ nhất của đảng (từ năm 1925-1945) được tiếp tục tại kho lưu trữ ở Việt Bắc trong thời gian chiến tranh, và cũng có nỗ lực lưu trữ tài liệu ở ngoài Việt Bắc về các khía cạnh khác nhau của cuộc chiến khi chúng đang diễn ra.[23] Điều thú vị là quy định và thủ tục được đặt ra trước cuộc chiến phần lớn vẫn không thay đổi gì cho đến mãi sau khi chiến tranh kết thúc. Nhưng hoàn cảnh thay đổi lớn lao trong thập niên 1990, khi một số bộ phận khác nhau của đảng/nhà nước trong vòng một thập niên ban hành hàng loạt nghị định, nghị quyết, thông tư, v.v… có ảnh hưởng tới gần như toàn bộ mọi mặt của thực hành lưu trữ khi đó.[24] Ủy ban Xuất bản Văn Kiện Đảng Toàn tập, đứng đầu là Ủy viên Bộ Chính trị Trương Tấn Sang, bắt đầu công việc này trước đổi mới một vài năm, vì vậy ít khả năng là các thay đổi có ảnh hưởng lớn tới quyết định chọn đưa tài liệu nào vào tập văn kiện. Tuy nhiên, tiến trình hình thành cơ cấu tổ chức lưu trữ tài liệu đảng/nhà nước trước thời điểm này có ảnh hưởng tới việc họ có thể sử dụng “sự thật” nào. Tác động Trong nhiều thập niên, các quyết định được đưa ra trong môi trường thông tin nghèo nàn do thiếu nhân lực, cơ sở giao liên hạ tầng hạn chế, việc thường xuyên cải tổ bộ máy hành chính đang phát triển nhanh rộng của đảng/nhà nước, và do xung đột vũ trang. Điều kiện khó khăn này đồng nghĩa với việc lãnh đạo ở các cấp thường phải ra quyết định mà không có đủ thông tin họ cần cũng như về các chính sách mới nhất, và trong nhiều trường hợp thì họ thiếu cả hai. Mặc dù tình trạng này đã được cải thiện nhiều trong những thập niên gần đây, nhưng những yếu tố đó đã định hình cách thể hiện chính thức về chính phủ đương quyền – như cách nó xuất hiện trong Văn kiện Đảng Toàn tập – trong nhiều mặt, nhưng điều này không mấy được để ý. Sau đây là ba ví dụ ngắn. Một, việc kiểm soát thông tin chặt chẽ, một điều kiện cần thiết trong cuộc đấu tranh chống thực dân, sau này được thiết chế hóa thành một phần của nỗ lực “xây dựng” nền kinh tế tập trung. Vì quyền lực trong bối cảnh như vậy dựa vào khả năng của bộ máy hành chính trong việc độc quyền tài nguyên mà sau này có thể được tái phân phối, thông tin có xu hướng được chuyển theo trục dọc giữa các cơ quan nhà nước và hiếm khi được chuyển tải giữa các cơ quan với nhau.[25] Về mặt lý thuyết, điều này có nghĩa là lãnh đạo cấp cao tiếp cận được nhiều thông tin hơn cấp dưới. Tuy nhiên, trên thực tế, khác biệt này thường chỉ là ảo tưởng, vì quan chức mọi cấp nhanh chóng học được việc cần thiết phải giấu cấp trên dữ liệu vào một số thời điểm và phóng đại chúng vào một số thời điểm khác nếu như họ muốn đạt chỉ tiêu, thêm nhân sự, ngân sách lớn hơn và được thăng tiến.[26] Vì vậy, khi báo cáo tổng kết tới được các nhà hoạch định chính sách tại Hà Nội thì thông tin trong đó thường đã lỗi thời, không đầy đủ, và/hoặc không hoàn toàn chính xác. Không có gì lạ, điều này dẫn đến hiện tượng là các chính sách hình thành ở thủ đô dựa trên cơ sở các báo cáo này thường ít hoặc không có quan hệ gì với thực hành ở nông thôn, như ta đã rõ trong Đợt Bốn và Đợt Năm của cải cách ruộng đất. Sự cách biệt này tồn tại trong nhiều thập kỷ và tạo ra một diễn ngôn đổ lỗi bao quát hơn; diễn ngôn này vạch rõ nguồn gốc những vấn đề đặc trưng cho cuộc sống đời thường trong thời kỳ thực hiện cũng như xóa bỏ chủ nghĩa xã hội nhà nước nằm ngoài tiến trình hoạch định chính sách. Vì vậy, chính sách ở cấp trung ương, một khi đã thiết lập, thường không được phép chỉ trích công khai. Nhưng việc thực thi sau đó thì không phải như vậy. Điều này giúp giải thích tại sao rất nhiều tài liệu, đặc biệt những văn kiện được ban hành trước khi nổ ra cuộc Chiến tranh Đông Dương thứ Hai, lại đổ “khuyết điểm”, “sai lệch” và “lỗi lầm” xảy ra trong quá khứ gần đó cho cán bộ cấp dưới. Tuy nhiên, phần nào do thứ ngôn ngữ hô hào được sử dụng, các văn kiện này thất bại trong việc cung cấp đủ chi tiết hoặc chỉ dẫn cụ thể để tránh việc cả ba vấn đề đó tái diễn trong tương lai gần.[27] Thứ hai, những vấn đề này, như tôi đã chỉ ra trước đó, khiến các nhà làm kế hoạch muốn biến nông thôn trở thành “dễ đọc” hơn và do đó dễ uốn theo “chỉ đạo chính phủ từ xa” qua các mẫu được chuẩn hóa, qua việc áp dụng chỉ số thống kê thống nhất, kế hoạch báo cáo cố định, v.v… kể từ cuối thập niên 1950 trở đi. Điều này giúp các nhà hoạch định “thấy” được vấn đề theo nghĩa mà James Scott phát triển, nhưng nó cũng có nghĩa là các khía cạnh xã hội, kinh tế và hành chính khác trong cuộc sống vuột khỏi tầm nhìn hẹp của đảng/nhà nước.[28] Điều này cho phép một số thực hành bất hợp pháp được nở rộ – bao gồm cả những thử nghiệm không được phép, chẳng hạn như việc giao khoán của hợp tác xã nông nghiệp đã điều chỉnh chính sách hiện hành để đáp ứng nhu cầu địa phương.[29] Để đối lại, các nhà hoạch định chính sách giới thiệu một cơ chế kiểm tra mới, nhưng chúng chỉ giúp tinh luyện các thực hành này thay vì xóa bỏ chúng; điều này dẫn đến việc ngày càng nhiều đội kiểm tra từ bên ngoài được sử dụng nhằm xác minh dữ liệu mà cán bộ cấp dưới nộp lên cấp trên, đánh giá xem chúng có phù hợp với chính sách hiện hành hay không.[30] Thứ ba, những chuyến đi kiểm tra này về bản chất không nhằm mục đích trừng phạt; chúng cũng không bắt đầu với sự nổi lên của nền kinh tế tập trung, mặc dù chúng trở nên thường xuyên hơn kể từ thời điểm này. Nhiều chuyến đi có nhiệm vụ nghiên cứu, và kết quả thu được, thường có ảnh hưởng đáng kể tới chính quyền hiện hành. Chẳng hạn, các đội kiểm tra được gửi về các vùng giải phóng ở tỉnh Nghệ An tiến hành điều tra kinh tế xã hội mở rộng trong năm 1951 và 1952. Dữ liệu thực địa thu được từ những địa điểm này được sử dụng để xây dựng chính sách đồng nhất về thuế nông nghiệp, tiêu chuẩn để phân biệt các giai cấp khác nhau, và các thủ tục cần thiết khác để tiến hành cải cách ruộng đất, bắt đầu vào năm sau đó.[31] Mặc dù mô hình áp dụng “kiểu mẫu” địa phương lên toàn quốc để các nơi khác bắt chước như một phần của phong trào quần chúng vẫn còn hiển lộ cho đến tận hôm nay, nhưng các tuyên bố về chính sách hiếm khi thừa nhận tiến trình này thực sự đòi hỏi những gì.[32] Việc bỏ sót đó một mặt giúp củng cố các tự sự mô tả đảng như nhân tố chính cho đoàn kết và tiến bộ trong xã hội Việt Nam, mặt khác lại nhấn mạnh sự chi phối của chính trị đời thường trong việc chuyển đổi chính sách.[33] Nhưng, như những nhận xét của tôi ở phần trên đã gợi ý, cả hai cách hiểu này không nhất thiết loại trừ nhau. Điều này có nghĩa là cách lập luận từ lâu nay về vấn đề này và những giả định đưa đến những lập luận đó cần bị từ bỏ để nhường chỗ cho những nghiên cứu tinh tế hơn, xem xét phê bình việc vì sao có nhiều tường thuật về “điều xảy ra” và những tường thuật đó được kể như thế nào, cũng như những tường thuật “kể điều người ta nói lại là đã xảy ra” hội tụ trong một số trường hợp và khác biệt trong những trường hợp khác.[34] Để kết luận, những thay đổi lớn về chính sách đã từng và vẫn còn là qui tắc, phần nào là vì những thay đổi này cho phép đảng/nhà nước thể hiện nó như một thế lực rõ ràng trong đời sống “tư” cũng như “công”.[35] Vì lý do này, ta không nên xem các văn kiện liên quan đến chính sách được xuất bản trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập như những nguồn độc lập có thể hiểu riêng rẽ theo chính chúng. Thay vì vậy, chúng ta nên xem các văn kiện này như can thiệp thời hiệu vào các tranh luận đang diễn ra cả bên trong lẫn bên ngoài đảng/nhà nước về chỉ đạo đúng đắn.[36] Do đó, các văn kiện trong tuyển tập được xuất bản này, cũng như các phòng lưu trữ mà từ đó chúng được rút ra, đã thiết lập những vị thế đặc quyền, nơi “sự thực” liên quan đến chính quyền hiện hành không chỉ đơn giản được tìm thấy, mà còn được chế tạo ra.[37] __________ Ken MacLean là Assistant Professor tại Viện Phát triển Quốc tế và Thay đổi Xã hội tại Đại học Clark. Ông là tác giả của “In Search of Kilometer Zero: Digital Archives, Technological Revisionism, and the Sino-Vietnamese Border,” được in trong Comparative Studies in Society and History 50, số 4 (208): 862-894. Hiện ông đang hoàn thành cuốn sách nghiên cứu về những đề tài được đề cập tới trong tiểu luận này. Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol.5, no.2, Summer 2010. Bản tiếng Việt © 2010 Hoài Phi Bản tiếng Việt © 2010 talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1] Cũng có thể đưa ra lập luận tương tự về “nhà nước”. Chẳng hạn, xem Michel-Rolph Trouillot, “Anthropology of the State in the Age of Globalization: Close Encounters of the Deceptive Kind,” Current Anthropology 42, no.1 (2001): 125-138; James Ferguson & Akhil Gupta, “Spatializing States: Toward an Ethnography of Neoliberal Governmentality,” American Ethnologist 29, no.4 (2002): 981-1002; Timothy Mitchell, “Society, Economy, and the State Effect,” trong State/Culture: State-Fomation after the Cultural Turn, ed. George Steinmetz (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1999), 76-97. Giá trị của cách tiếp cận như vậy trong bối cảnh Việt Nam vượt ngoài phạm vi tiểu luận này, nhưng để biết về thảo luận liên quan, xem Nguyễn-võ Thu-hương, The Ironies of Freedom: Sex, Culture, and Neoliberal Governance in Vietnam (Seatle: University of Washington Press, 2008): 65-93. [2] Phỏng vấn vô danh với Trương Tấn Sang, “Toàn Tập Văn Kiện Đảng là bộ sách vô cùng quý giá”, Vietnam Net, 31 tháng 10, 2007. vietnamnet.vn/chinhtri/2007/10/752233/ (truy cập ngày 18 tháng Hai, 2010); Hương Giang, “Ra mắt Văn Kiện Đảng Toàn Tập”, Việt Báo 27 tháng Chín, 2007. vietbao.vn/Xa-hoi/Ra-mat-Van-kien-Dang-toan-tap/45255892/157/ (truy cập 18 tháng Hai, 2010). [3] Cũng có thể nói như vậy với nội dung được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Ví dụ, các tập tài liệu về địa chủ từ mười ba tỉnh khác nhau, là mục tiêu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn 1955-1956 sau này được chuyển về Hà Nội, nhưng lại được bảo quản tại các phòng lưu trữ ở thành phố tách biệt với các tài liệu khác về cải cách ruộng đất của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Xem Hồ Văn Quýnh, Phòng lưu trữ ủy ban hành chính thành phố Hà Nội (1954-1975): Nguồn lịch sử liệu chữ viết nghiên cứu lịch sử thủ đô. (Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học, Hà Nội, 1995), 33-49. [4] Trước năm 2006, các nhà nghiên cứu muốn được xem tài liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III phụ thuộc vào may mắn, vào sự hợp tác của nhân viên lưư trữ, và vào một danh sách mà Ben Kerkvliet đã tạo ra và cập nhật trong nhiều năm, trong đó bao gồm mục lục và các phông mà các nhà nghiên cứu khác đã được phép tiếp cận. Nhưng thiếu một chỉ dẫn chính thức, rất khó xác định xem tài liệu nào thực sự tồn tại, và việc đoán được nên yêu cầu tài liệu nào lại còn khó hơn. Việc ấn hành chỉ dẫn vào năm 2006 đã cải thiện tình hình này rất nhiều. Xem Sách chỉ dẫn các phông lưu trữ bảo quản tại trung tâm lưu trữ quốc gia III. Hà Nội: École française d’Extremê-Orient và Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, 2006). [5] Michel-Rolph Trouillot, Silencing the Past: Power and the Production of History (Boston: Beacon Press, 1995), 26; Về thảo luận liên quan, xem Ann Stoler, Along the Archival Grain: Epistemic Anxieties and Colonial Common Sense (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2009); Sherry Ortner, “Resistance and the Problem of Ethnographic Refusal” trong The Historic Turn in the Social Sciences, ed.Terence McDonald (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1996), 281-304. [6] Việc tiếp cận ở các nước (từng là) xã hội chủ nghĩa dễ hơn nhiều, kể cả ở Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Xem Beatrice Barlett, “A World-Class Archival Achievement: the People’s Republic of China Archivists’ Success in Opening the Ming-Qing Central-Government Archives, 1949-1998,” Archival Science 7, no.4 (2007): 369-390; William Kirby, “Archives and Histories in Twentieth Century China,” trong Archives, Documentation and Institution of Social Memory, eds. Francis X. Blouin, Jr., & William G. Rosenberg (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2006), 436-489. [7] Cả “đảng” lẫn “nhà nước” đều không thể được hiểu một cách chính xác như những thực thể mạch lạc có suy nghĩ và hành động như người. Tuy nhiên, tôi vẫn sử dụng thuật ngữ này ở đây, bao gồm cả hình thức kết hợp phi chính thống (đảng/nhà nước) như một bản chất luận mang tính chiến thuật nhằm báo hiệu những trường hợp mà sự thống nhất thể chế của chúng được giả định là tồn tại trên bình diện tu từ. Xem Ken Maclean, “The Arts of Disclosure: Peasant-Bureaucrats, Historiography, and State Socialism in Viet Nam” (Luận án Tiến sĩ, Đại học Michigan, Ann Arbor, 2005), xv-xx. [8] Để biết về tổng thể, xem Nguyễn Văn Thâm và Nghiêm Kỳ Hồng, Những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn soạn thảo văn bản và công tác văn thư – lưu trữ. (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001), 7-9. [9] Tổng cục Thống kê, Lịch sử ngành thống kê Việt Nam (1946-2006). (Hà Nội: Thống kê, 2006), 250. [10] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác lưu trữ từ năm 1945 đến năm 2000” (Luận án Tiến sĩ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2004), 40; Dương Văn Khảm, “Lưu trữ Việt Nam: Một thời kỳ đáng nhớ” trong blog cá nhân Lưu trữ, Lịch sử, 13 tháng Tư năm 2009. my.opera.com/duongvankham/blog/show.dml/3146312 (truy cập 15 tháng Hai, 2010). [11] Chẳng hạn, xem Florence Yvon, “The Construction of Socialism in North Vietnam: Reconsidering the Domestic Grain Economy, 1954-1960,” Southeast Asia Research 16, no.1 (2008): 43-84; Balazs Szalontai, “Political and Economic Crisis in North Vietnam, 1955-1956,” Cold War History 5, no.4 (2005): 395-426; Edwin Moise, Land Reform in China and North Vietnam (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1983). [12] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, 167-176; Maclean, “The Arts of Disclosure,” 76-186. [13] “Nghị định số 527-TTG ngày 2 tháng 11 năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bản Điều lệ Quy định chế độ chung về công văn giấy tờ ở các cơ quan” www.archives.gov.vn/content/law/Lists/Document%20Law/Attachments/461/ND527TTg.pdf (truy cập 12 tháng Hai, 2010). [14] James Scott, Seeing Like a State: How Certain Conditions to Improve the Human Condition Have Failed (New Haven: CT: Yale University Press, 1998), 3, 15. [15] Nikolas Rose & Peter Miller, “Political Power beyond the States: Problematics of Government,” British Journal of Sociology 43, no.2 (1992): 173-205. Về tổng quan những thay đổi này, xem MacLean, “The Arts of Disclosure,” 199-204. [16] Patricia Pelley, Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past (Durham, NC: Duke University Press, 2002), 17-69. [17] “Thông tư số 259-TT/TƯ ngày 8 tháng 9 năm 1959 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hướng dẫn một số điểm về công tác lưu trữ công văn, tài liệu đã nhấn mạnh”, Trung tâm Lưu trữ Thành phố Hải Phòng. luutruhaiphong.ath.cx/trangchu/upload/thongtri.pdf (truy cập 16 tháng Hai, 2010). Cũng xem Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 28. [18] Ý nghĩa và tác dụng của công tác văn thư – lưu trữ. (Hà Nội: Phòng Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, 1961), 6. [19] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 37. [20] Dương Văn Khảm, “Lưu trữ Việt Nam,” 1. Tiến trình này trùng hợp với nghị quyết của Bộ Chính trị thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử dưới sự chỉ đạo của Trường Chinh. Xem “Nghị quyết số 41 NQ-TƯ ngày 21 tháng 1 năm 1962 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về Ban Nghiên cứu Lịch sử”. Để biết chi tiết, xem Patricia Pelley, “Writing Revolution: The New History in Post-colonical Viet Nam” (Luận án Tiến sĩ, Đại học Cornell, 1993). [21] “Chỉ thị 24-TTg ngày 2 tháng 4 năm 1964 của Thủ tướng Chính phủ”, được trích dẫn trong Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 52. [22] Nghiêm Kỳ Hồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam,” 41. Nguyễn Lương Bằng có các hoạt động liên quan đến đảng từ thời Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1925); ông tiếp tục giữ một số chức vụ quan trọng trong đời chức nghiệp của mình, như làm đại sứ ở Liên Xô (1952-1956), tổng thanh tra chính phủ (1956), bộ trưởng tài chính, tổng giám đốc ngân hàng quốc gia, và phó chủ tịch nước (1969-1979). [23] Nghiêm Kỳ Hồng (2004), 43; Nguyễn Lệ Nhung, “Tài liệu lưu trữ Đảng và công tác nghiên cứu: Biên soạn lịch sử” trêm blog cá nhân Lịch sử và Sử liệu học, ngày 8 tháng Mười năm 2007, my.opera.com/tieuboingoan/blog/show.dml/1394194 (truy cập ngày 18 tháng Hai, 2010). Để biết thêm chi tiết về việc này cũng như những nỗ lực khác, xem Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam; ra đời năm 1969, tạp chí này vẫn là một trong những diễn đàn chủ chốt cho những thảo luận như vậy. [24] Chẳng hạn, xem Nguyễn Văn Thâm và Nghiêm Kỳ Hồng, Những văn bản chỉ đạo, 604-610. [25] Katherine Verdery, National Ideology under Socialism: Identity and Cultural Politics in Ceausescu’s Romania (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1991), 74-97. [26] Trong các cuộc phỏng vấn, những người cung cấp thông tin cho tôi đề cập tới các thực hành này là “chạy theo thành tích”. [27] Để biết về các thảo luận liên quan, xem Alexei Yurchak, “Soviet Hegemony of Form: Everything Was Forever, Until It Was No More,” Comparative Studies in Society and History 45, no.3 (2003): 480-510. Trong khi Yurchak nhấn mạnh vai trò mà những thực hành này đã đóng trong sự sụp đổ bất ngờ của chủ nghĩa xã hội nhà nước ở Liên Xô, tôi lại muốn lưu ý đến sự nổi lên của chúng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. [28] Scott, Seeing Like a State. [29] Benedict Kerkvliet, The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants Transformed National Policy (Ithaca, NY: Cornell University Press, 2006). [30] MacLean, “The Arts of Disclosure,” 240-332. Những thực hành như vậy khá phổ biến tại các nhà nước xã hội chủ nghĩa khác. Chẳng hạn, xem Andrew Kipnis, “Audit Cultures: Neoliberal Governmentality, Socialist Legacy, or Technologies of Governing?” American Ethnologist 35, no. 2 (2008): 275-289. [31] Tổng cục Thống kê, Lịch sử ngành Thống kê Việt Nam, 56-57. [32] MacLean, “The Arts of Disclosure,” 359-376. [33] Benedict Kerkvliet, “Rural Society and State Relations” trong Vietnam’s Rural Transformation, eds Benedict J. Tria Kerkvliet & Douglas J. Porter (Bolder: Westview Press, 1995), 65-96. [34] Trouillot, Silencing the Past, 2. [35] Ann Anagnost, “The Politics of Ritual Displacement” trong Asian Visions of Authority: Religion and the Modern States of East and Southeast Asia, do Charles Keyes, Lauren Kendall & Helen Hardacre biên tập (Honolulu: University of Hawai’i Press, 1994), 222-223. [36] Ken MacLean, “Manifest Socialism: The Labor of Representation in the Democratic Republic of Vietnam (1956-1959),” Journal of Vietnamese Studies 2, no.1 (winter 2007): 27-79. [37] Ann Stoler, “Colonial Archives and the Arts of Governance,” Archival Science 2, số 1-2: 87.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:09:36 GMT 9
Văn kiện Đảng toàn tập: Lắng nghe tiếng nói nội bộ chính thức của Đảng (bài cuối) 03/11/2010
Tác giả: Alec Holcombe
Hoài Phi dịch
Văn kiện Đảng toàn tập là món quà quý giá cho các học giả nghiên cứu về lịch sử Việt Nam hiện đại. Với giá tiền khoảng 2 đô la Mỹ (35 ngàn đồng Việt Nam) một tập, chỉ cần bỏ ra một số tiền khiêm tốn 50 đô la là có thể có hàng trăm văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác phẩm của những người sáng lập ra nhà nước mà chín mươi triệu dân Việt đang sống dưới quyền ngày hôm nay: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, và những người khác. Phải cần làm việc nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, thì một học giả mới có thể thu thập được khối tài liệu khổng lồ này tại các trung tâm lưu trữ ở Việt Nam. Từ khía cạnh nghiên cứu, điều gây hứng thú nhất về Văn kiện Đảng là vô vàn các chỉ thị, thông tri, điện, thông cáo, cương lĩnh, bài nói và diễn văn được đưa vào toàn tập. Cách tốt nhất để diễn tả về những tài liệu trước đây chưa được công bố này là chúng phản ánh tiếng nói “nội bộ chính thức” của đảng. Tài liệu thuộc loại “nội bộ” vì giới lãnh đạo đảng nói chung thường viết chúng cho lãnh đạo cấp trung và cấp cao, chứ không phải cho công chúng rộng hơn. Điều này có nghĩa là nhu cầu tuyên truyền chi phối văn kiện ít hơn nhiều so với các thông báo về chính sách được đăng trên báo chí của đảng. Văn kiện mang tính “chính thức” vì tác giả của chúng đã bỏ công phân tích sự kiện, khái niệm hóa vấn đề, và giải thích chính sách theo cách vừa khẳng định ý thức hệ Marxist-Leninist lẫn quan niệm của họ rằng đảng là đại diện chân chính duy nhất cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nhưng không hẳn lúc nào những người như Hồ Chí Minh và Trường Chinh cũng trình bày vấn đề với các đảng viên như cách họ sử dụng khi họp kín với nhau. Lãnh đạo đảng có thể thực dụng và thực tế hơn so với cách họ đôi khi xuất hiện trong Văn kiện Đảng.
Mặc dù nhiều tài liệu được viết với mục đích lưu hành nội bộ, toàn tập văn kiện là một loại tuyên truyền của đảng, tương tự như đặc tính cơ bản của nó trong viện bảo tàng, trong sách và giáo trình về lịch sử ở Việt Nam. Các nhà sản xuất bộ Văn kiện Đảng là nhân viên ăn lương của đảng; nhiệm vụ chính của họ là lựa chọn tài liệu nói chung nhằm tán dương và hợp pháp hóa vai trò lãnh đạo của đảng ở Việt Nam. Tuy các tập văn kiện dày dặn và phong phú, tài liệu trong đó chỉ thể hiện một phần khối văn kiện do giới lãnh đạo đảng ban hành hàng năm. Ngoài việc lọc tài liệu nào có thể đưa vào tuyển tập, biên tập viên đôi khi cũng chặt bỏ bớt một số đoạn nhất định trong những văn kiện được chọn, những đoạn mà theo họ chệch quá xa so với mục đích tuyên truyền tổng thể trong toàn tập (việc cắt xén này thường được đánh dấu bằng dấu tỉnh lược). Mặc dầu vậy, cơ hội so sánh một vài tài liệu trong bộ Văn kiện Đảng với bản gốc của chúng trong Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III khiến tôi tin rằng hiếm có trường hợp nào các nhà biên tập viết lại một số đoạn thay vì cắt bỏ. Theo tôi, cách tiếp cận bộ Văn kiện Đảng tốt nhất là nắm chắc về những gì xảy ra trong một giai đoạn nhất định, sau đó sử dụng văn kiện để tìm hiểu xem lãnh đạo đảng thảo luận về những điều xảy ra như thế nào. Đọc Văn kiện Đảng mà hoàn toàn mù tịt về một chủ đề nhất định nào đó, trong khi không có nguồn thông tin nào khác và lại chỉ có ít kinh nghiệm đọc tài liệu do các đảng Marxist-Leninist chế tạo, là một việc đầy nguy hiểm.
Vì nghiên cứu về cải tạo xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi đặc biệt chú ý tới những phần trong Văn kiện Đảng liên quan đến phong trào phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất, được thực thi ở miền Bắc Việt Nam trong thời gian từ năm 1953 đến 1956. Đảng Lao động Việt Nam tiến hành chiến dịch này với một số mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, cơ bản nhất là để chuẩn bị cho nông thôn cuối cùng sẽ chuyển sang tập thể hóa nông nghiệp. Kể từ cuối thập niên 1920, các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã kết luận (như Stalin và Mao từng kết luận) là thay đổi gốc rễ này đòi hỏi việc đánh đổ những người đầu tư nhiều nhất vào trật tự kinh tế cũ – giới tinh hoa nông thôn.[1] Quyền lực chính trị mà đảng tước bỏ từ giới tinh hoa này sẽ được đặt vào tay những người khổ nhất dưới chế độ cũ, và trên lý thuyết, do vậy dễ tiếp nhận nhất sự thay đổi gốc rễ – giai cấp bần cố nông. Để thực hiện điều này, từ năm 1953 đến năm 1956, đảng gửi khoảng 48,007 cán bộ tới các làng xã khắp nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khơi dậy lòng căm thù đối với giới tinh hoa địa phương (gọi là địa chủ).[2] Nhiệm vụ phát động quần chúng của cán bộ là dạy cho đa số nghèo biết cách thể hiện lòng căm thù bằng thuật ngữ Marxist-Leninist và hướng lòng căm thù ấy vào công cuộc lật đổ mạnh mẽ giới tinh hoa địa phương, trong đó có cả nhiều đảng viên địa phương. Như người dân miền bắc còn nhớ rõ, tiến trình khoảng ba tháng này bao gồm việc đưa những người bị cáo buộc là địa chủ ra đấu công khai, xét xử họ tại các tòa án nhân dân đặc biệt, và trong hàng ngàn trường hợp, họ bị xử bắn công khai. Sau các phiên xử này, giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam muốn cán bộ giành được trái tim giai cấp cách mạng nhất ở nông thôn bằng cách chia tài sản và của cải của người bị kết án cho bần cố nông.
Xét việc đây tiếp tục là một đề tài nhạy cảm đối với lãnh đạo Việt Nam hôm nay, việc bộ Văn kiện Đảng cho đăng hơn một ngàn trang tài liệu về phong trào phát động quần chúng quả thực đặc biệt. Đương nhiên là những tài liệu này đã được hiệu đính rất cẩn thận nhằm loại bỏ bất kỳ “thùng thuốc súng” nào có thể giúp các nhà sử học xác định được bao nhiêu người đã bị đảng xử bắn trong chiến dịch này, bao nhiêu người đã tự tử, bao nhiêu người đã chết trong nhà tù tạm bợ, bao nhiêu người đã chết đói tại nhà họ, v.v… Tuy nhiên, tài liệu vẫn còn nhiều giá trị khác cho chúng ta biết về công cuộc phát động quần chúng, giúp giới sử gia nghiên cứu về chiến dịch này ở vào một vị thế thuận lợi hơn rất nhiều so với Edwin Moise khi ông tiến hành nghiên cứu cho cuốn sách đặt dấu mốc mới về đề tài này, Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và ở miền Bắc Việt Nam.[3]
Vì cuốn sách của Moise vẫn tiếp tục là tường thuật chuẩn mực về chiến dịch cải cách ruộng đất, những phần mà Văn kiện Đảng giúp bổ sung hay xét lại tự sự của Moise đáng chú ý hơn rất nhiều so với những lập luận của ông mà bộ sách giúp củng cố. Những phần Văn kiện Đảng giúp củng cố lập luận của Moise bao gồm sức phá hoại nói chung của phong trào phát động quần chúng, kết cấu của các đợt cải cách, cách thức vội vàng mà nó được thực hiện, vấn đề tiền lệ Trung Quốc, v.v… Mặc dù làm việc với nguồn tài liệu hạn chế vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, chính Moise là người có công nhiều nhất trong việc khiến chúng ta chú ý đến những đặc điểm nói trên và các khía cạnh then chốt khác của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Chức năng của báo Đảng
Một vấn đề quan trọng liên quan đến phát động quần chúng là bộ máy tuyên truyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (báo chí, đài và các cuộc mít-tinh quần chúng) đã hoạt động như thế nào trong chiến dịch này. Thiếu điều kiện tiếp cận các chỉ thị cấp cao của đảng như chúng ta thấy trong Văn kiện Đảng hoặc những người từng làm việc cho bộ máy báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ phát động quần chúng, Moise khó có thể làm gì hơn ngoài việc suy luận. Moise hiểu rằng các bài viết về chiến dịch này trên Nhân Dân, tờ báo chính của đảng và là một trong những nguồn tài liệu quan trọng của ông – không phản ánh những gì đang thực sự diễn ra lúc đó.[4] Tương tự, Moise hiểu rằng có sự khác biệt đáng kể giữa chính sách phát động quần chúng của đảng được in trên báo chí với những gì mà cán bộ tham gia cải cách tuân theo.[5] Để giải thích, Moise đưa ra một vài luận thuyết khác nhau. Ở một đoạn trong sách, ông đổ lỗi sự khác biệt này cho yếu tố ngẫu nhiên:
“Hai tờ Nhân Dân và Thời Mới ở Hà Nội là nguồn quan trọng nhất cho việc nghiên cứu cải cách ruộng đất ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai tờ này không tốt như báo chí Trung Quốc trong thời gian giữa năm 1950 và 1953. Việt Nam là một nước nhỏ hơn và có một hệ thống truyền tin kín phát triển hơn; lãnh đạo không bắt buộc phải mô tả chính sách của họ một cách chính xác trên báo chí nhằm truyền đạt ý tưởng tới những người sẽ thực thi chúng. Hơn nữa, trong cải cách ruộng đất, cả lãnh đạo của Đảng lẫn người viết báo đều không thực sự nắm được điều gì đang xảy ra ở nông thôn. Thông tin tốt nhất mà chúng ta có được là những phân tích hồi tưởng của họ, được viết vài tháng sau khi cải cách ruộng đất đã kết thúc.”[6]
Ở đoạn sau trong cuốn sách của mình, Moise đưa ra luận thuyết thứ hai, trong đó ông cho rằng khác biệt này không phải do các yếu tố ngẫu nhiên, mà do nỗ lực có ý thức của đảng nhằm kiểm soát việc bộ máy tuyên truyền mô tả về chiến dịch cải cách như thế nào. Ví dụ, khi bàn về nguyên nhân tại sao báo chí không đưa ra một thống kê nào về số người chết trong cải cách, ông viết, “(M)ột lý do của việc im lặng này có thể do Đảng muốn tránh khơi ngòi cho quá nhiều vụ xử tử [do cán bộ phát động quần chúng gây ra].” Nói cách khác, đảng sử dụng bộ máy tuyên truyền để tác động tới việc thực thi chiến dịch. Trong phần tiếp theo, Moise chỉ ra rằng sau tháng Một năm 1956 (khoảng năm tháng trước khi chiến dịch cải cách kết thúc), Nhân Dân và Thời Mới chấm dứt việc đăng các bài viết có đề cập đến địa chủ bị xử bắn. Để giải thích điều này, Moise giả thuyết là giới lãnh đạo Đảng Lao động hẳn lo ngại bạo lực trong phát động quần chúng có thể đi ngược lại tinh thần chống Stalin tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 (vào 25 tháng Hai năm 1956). Cũng theo Moise, một khả năng khác là “Đảng có thể đã thất bại trong nỗ lực thuyết phục người dân thành thị là cải cách ruộng đất ở nông thôn không dẫn đến sự quá đà quá khích, và vì vậy quyết định ngừng việc công bố ngay cả những trường hợp quá tay lẻ tẻ.”[7] Nói cách khác, đảng sử dụng bộ máy tuyên truyền nhằm điều khiển nhận thức của cả người dân trong nước lẫn nước ngoài về chiến dịch này.
Trong bộ Văn kiện Đảng, có một số tài liệu giúp soi sáng vấn đề quan trọng này. Về tổng thể, các văn kiện có vẻ củng cố cho luận thuyết thứ hai của Moise, nhấn mạnh vai trò tác động của đảng. Ví dụ, thông tri “Về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng”, ban hành ngày 29 tháng Sáu năm 1953, quy định công tác tuyên truyền cho “giảm tô”, giai đoạn ban đầu của phong trào phát động quần chúng, phải như thế nào. Thông tri bắt đầu bằng việc mô tả động lực cho chiến lược tuyên truyền của đảng:
“Căn cứ tình hình các nơi, Trung ương nhận thấy cán bộ và quần chúng bên dưới chưa được tuyên truyền và giải thích kỹ về các sắc lệnh, nghị định ruộng đất và chỉ thị phát động quần chúng của Trung ương. Ngay một số cán bộ lãnh đạo cũng chưa thật thấm nhuần chủ trương, đường lối phát động quần chúng của Đảng và Chính phủ. Vì vậy đã xảy ra nhiều vụ đấu tranh tự động, tự phát. Có nơi đánh đập, tra khảo địa chủ, đấu cả với trung bần nông, viên chức, học sinh, v.v… Ở những nơi đó, luôn luôn xảy ra những vụ địa chủ tự tử, phú nông, trung nông, bần nông cũng có người sợ bị đấu mà tự tử. Đó là hiện tượng loạn đấu, loạn đả, không có trật tự, không có sách lược, không có lãnh đạo, không nhằm đúng mục đích và đối tượng đấu tranh.”
Sau đó, thông tri giải thích rằng tuy một số hiện tượng là “tất nhiên” và khó tránh được trong đấu tranh giai cấp, một chiến dịch tuyên truyền có hiệu quả có thể giảm bớt những vụ việc này. Để làm yên lòng những người đang sợ bị trở thành mục tiêu của chiến dịch, thông tư tuyên bố, “Phải tuyên truyền giải thích chính sách cho cả địa chủ, phú nông, nói rõ cho họ biết rằng: người nào thi hành chính sách thì không có gì phải lo lắng; Chính phủ và nông dân chỉ trừng trị những kẻ nào không chịu tuân theo pháp luật và không chịu hối cải mà thôi.”
Sau khi giải thích động lực cho chiến lược tuyên truyền của đảng, thông tri đặt ra một số nguyên tắc nền tảng cho việc mô tả công cuộc phát động quần chúng. Về “quả thực” của cuộc tranh đấu (của cải lấy được từ những người bị dán nhãn địa chủ), báo chí chỉ được đề cập đến “ruộng đất, trâu bò, thóc lúa tịch thu hay đòi được của địa chủ phản động và gian ác;” và không được đề cập đến “vàng bạc, châu báu, quần áo, v.v…” Về vấn đề then chốt là xử bắn địa chủ như thế nào, thông tư chỉ dẫn, “Chỉ tuyên truyền những vụ xử tử hình những tên đại gian, đại ác cực độ. Những vụ xử tử hình thường không nên tuyên truyền. Chỉ tuyên truyền những vụ xử tử hình trên báo chí hoặc bằng hình thức khác như nói chuyện, v.v… Song đài phát thanh không nên tuyên bố những vụ đó.”
Một đoạn khác trong thông tri cảnh cáo là “Có trường hợp địa chủ đại gian đại ác là đàn bà bị xử tử hình, cũng không nên tuyên truyền, vì cần đề phòng địch có thể lợi dụng phản tuyên truyền ta.” Tuyên truyền về xử tử hình trên báo chí hay tại các buổi mít-tinh “Không nên gây ra sự hoang mang một cách không cần thiết trong xã hội, trái lại phải tranh thủ sự đồng tình của xã hội.” Về thủ tục tuyên truyền xử tử hình, thông tri nêu rõ, “Tóm lại, việc tuyên truyền những vụ xử tử hình nên thận trọng. Các đoàn cần gửi cho Ban Tuyên huấn Trung ương những tài liệu về những vụ đấu lớn và những vụ xử tử hình để Ban Tuyên huấn gửi cho các báo.”[8]
Những trích đoạn trên cho thấy mục đích then chốt của chiến lược tuyên truyền là trấn an nỗi lo sợ của người dân, giảm bớt tỷ lệ “đấu tranh tự phát” và việc chống cự do hoảng sợ. Hơn nữa, rõ ràng lãnh đạo đảng coi báo chí là bộ máy tuyên truyền để sử dụng trong quá trình phát động quần chúng tổng thể, chứ không phải là một tổ chức đứng ngoài. Do vậy, việc những người viết cho tờ Nhân Dân (một trong những nguồn quan trọng nhất của Moise) “có hiểu nhiều về những gì đang diễn ra ở nông thôn” hay không, thật ra không quan trọng. Nhiệm vụ của họ là mô tả theo cách các nhà lãnh đạo đảng nghĩ rằng có thể giúp cho việc thi hành chiến dịch này một cách trôi chảy – chẳng hạn như hứa hẹn với người dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang lo sợ rằng nếu tuân thủ chính sách thì “không có gì phải lo lắng.”
Tuy vậy, nếu giới tinh hoa nông thôn khi đó đọc được chỉ thị của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ban hành vào ngày 4 tháng Năm năm 1953, hẳn họ sẽ cảm thấy có rất nhiều điều khiến họ phải lo lắng, ngược lại với những gì họ được biết qua bộ máy tuyên truyền của chế độ. Chỉ thị này cho biết Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam định mức xử tử hình một phần nghìn trong thời kỳ giảm tô – giai đoạn ôn hòa hơn của cuộc phát động quần chúng.[9] Nói cách khác, giới lãnh đạo đảng đã quyết định khoảng chừng bao nhiêu người cần bị xử tử trong giai đoạn giảm tô, trước khi cán bộ thậm chí về tới làng họ được giao, và trước khi họ có điều kiện xác định xem liệu những người bị gọi là địa chủ có tuân thủ luật pháp, và có “biết hối cải” hay không. Suy từ con số khoảng tám triệu người tham gia chiến dịch giảm tô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỷ lệ xử tử trong chỉ thị ngày 4 tháng Năm năm 1953 cho thấy Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam muốn bộ máy phát động quần chúng xử bắn khoảng tám ngàn người trong giai đoạn đầu tiên của chiến dịch này.[10]
Vì Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ấn định tỷ lệ xử bắn trong giai đoạn giảm tô, và biện minh cho tỷ lệ này trong chỉ thị ngày 4 tháng 5 năm 1953, không có lý do gì để không nghĩ rằng Bộ Chính trị cũng ấn định tỷ lệ xử tử cho giai đoạn cải cách ruộng đất. Và có thể kết luận một cách hợp lý rằng bất kỳ một tỷ lệ xử tử nào cho giai đoạn quyết liệt hơn của chiến dịch, khi giai cấp địa chủ cần phải bị “triệt để đánh đổ”, cũng phải cao hơn nhiều so với tỷ lệ một phần nghìn. Với mười triệu người trải qua cải cách ruộng đất, dù có thay đổi theo thời gian và nơi chốn thì tỷ lệ xử tử và việc Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã ấn định con số này như thế nào, vẫn còn là một trong những bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.
Trong bộ Văn kiện Đảng, có nhiều tài liệu cho thấy việc lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam muốn che giấu quy mô và bản chất cuộc phát động quần chúng với người dân miền bắc, các đảng viên cấp thấp và giới quan sát ngoại quốc. Chẳng hạn, trong diễn văn bế mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa II) và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (từ 14 đến 23 tháng 11, 1953), Hồ Chí Minh căn dặn đại biểu có mặt nhiệm vụ về cải cách ruộng đất sắp tới (đã được thảo luận tại hội nghị):
“Bây giờ về, các chú, các cô, không được nói lung tung vì đây là một bí mật trong chiến lược đánh phong kiến, cải cách ruộng đất. Nếu các chú nói lung tung, mình chưa sắp sửa gì, địch đã sắp sửa rồi, địa chủ đã sắp sửa rồi. Vì vậy, Trung ương sẽ có một chỉ thị về cách tuyên truyền chung cho các vùng và riêng các vùng chưa phát động.”[11]
Trong đoạn sau của diễn văn, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh việc cần thiết phải giữ bí mật,
“Vùng chưa phát động và chung các vùng khác không được nói lung tung, phải giữ bí mật. Các đại biểu về, chỉ báo cáo cho Khu ủy, không được nói ra ngoài. Rồi do khu ủy xem xét kỹ, quy định phổ biến chính sách đến ai, đến chừng nào. Không phải ‘tương’ hết báo cáo này, ‘tương’ hết chính sách này ra. Các chú hiểu chưa, cái này phải nhớ cho sâu.”[12]
Như Hồ Chí Minh đã hứa, mười chín ngày sau đó, vào 12 tháng Mười Hai năm 1953, Ban Bí thư ban hành chỉ thị “Về việc tuyên truyền chính sách cải cách ruộng đất”. Do Trường Chinh thảo, chỉ thị này gồm hai phần chính: phần thứ nhất bàn về “nhiệm vụ và nội dung tuyên truyền cải cách ruộng đất”, và phần thứ hai về “cách thức tiến hành.” Với giai cấp có nhiều cái để mất nhất trong chiến dịch phát động quần chúng này – những người bị gọi là địa chủ, Trường Chinh giải thích rằng tuyên truyền cần “làm cho họ thấy chính sách cải cách ruộng đất là chính nghĩa, là hợp lý, hợp pháp; ruộng đất do nông dân làm ra đương nhiên phải trả về cho nông dân.” Để trấn an những người đang sợ trở thành đối tượng bị đấu tố, Trường Chinh chỉ thị người làm công tác tuyên truyền nhấn mạnh việc “chính phủ đối xử có phân biệt với từng hạng địa chủ tùy theo thái độ của họ đối với kháng chiến, đối với nhân dân, chứ không vơ đũa cả nắm, đặng cô lập bọn địa chủ Việt gian, phản động, cường hào gian ác, ổn định tinh thần những địa chủ kháng chiến và địa chủ thường, và ngăn ngừa những hành động chống chính sách, phá hoại sản xuất của giai cấp địa chủ.[13]
Trong phần chỉ thị việc lãnh đạo đảng muốn phong trào được tuyên truyền như thế nào tại những vùng sắp tiến hành cải cách ruộng đất (đã phát động quần chúng giảm tô), Trường Chinh viết, “Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách cải cách ruộng đất ở những nơi này không cần phải tổ chức học tập chính sách như trước đây thường làm. Khi nào có đội công tác xuống xã phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất, việc tổ chức học tập chính sách cải cách ruộng đất sẽ do các đội phụ trách.”[14] Vì vậy, dường như các làng xã nông thôn được biết những chi tiết quan trọng của chiến dịch cải cách ruộng đất chỉ sau khi đội cải cách đã về làng. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là một trong những nhiệm vụ đầu tiên của đội cải cách khi về đến làng là cho chặn hết mọi ngả đường và canh gác những người bị tình nghi là địa chủ 24/24 giờ.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:10:26 GMT 9
Tài liệu trong Văn Kiện Đảng cho thấy lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có chính sách che giấu những chi tiết quan trọng về chiến dịch cải cách không chỉ với công chúng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn cả với đảng viên cấp thấp. Trong chỉ thị “Về kế hoạch học tập chính sách cải cách ruộng đất”, Ủy viên Bộ Chính trị Lê Duẩn tuyên bố “Để đảm bảo việc thực hiện cải cách ruộng đất thắng lợi, Trung ương quyết định cần tổ chức việc học tập chính sách cải cách ruộng đất cho cán bộ các cấp một cách sâu rộng.” Việc học tập này tập trung vào “ý nghĩa” và “mục đích”, cũng như “tính chất chính nghĩa” và “triệt để” của cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, khi đề cập về nội dung chính sách, Lê Duẩn chỉ thị rằng học tập “cốt nắm những điều chủ yếu, không nên đi vào những điều khoản chi tiết.” Tương tự, Lê Duẩn viết, “Về phương pháp thực hiện cũng không cần thiết học tỉ mỉ quá…” Đối với cán bộ được chọn đi cải cách, Lê Duẩn giải thích rằng việc huấn luyện công việc cụ thể gồm những gì sẽ do đoàn ủy đoàn cải cách phụ trách. Chỉ thị cũng hướng dẫn tỉnh ủy và huyện ủy không tổ chức lớp huấn luyện cho các chi bộ xã, mà “chỉ cần phổ biến [tài liệu] kỹ.”[15] Vậy thì khi nào đảng viên địa phương được huấn luyện chi tiết về chính sách? Lê Duẩn giải thích, “[N]ơi nào tiến hành cải cách ruộng đất sẽ do đội công tác phụ trách hướng dẫn học tập kỹ.”[16]
Ngày 10 tháng Một năm 1955, hai tháng sau khi giới lãnh đạo chóp bu chính thức giành được những vùng ở miền bắc Việt Nam do Pháp kiểm soát cho tới tận khi chiến tranh [Đông Dương lần thứ nhất] kết thúc, ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Duy Trinh ban hành thông tri “Về việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho các công chức, nhân viên mới ở cơ quan, công sở trong các thành thị mới giải phóng.” Theo thông tri này, việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho công chức và nhân viên thành thị đang có thắc mắc có thể dựa trên nội dung cơ bản trong bài nói chuyện của ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt tại Nhà hát Lớn ở Hà Nội hai tuần trước đó. (Lãnh đạo đảng cho in trích đoạn cuộc nói chuyện này với “giới công thương nghiệp, trí thức và viên chức” Hà Nội trên báo Nhân Dân các số ngày 28, 29 và 30 tháng Mười Hai năm 1954.)[17] Như Trường Chinh đã hướng dẫn trong chỉ thị ngày 12 tháng Mười Hai năm 1953, Nguyễn Duy Trinh tuyên bố với đảng viên có nhiệm vụ tuyên truyền về chính sách rằng họ cần giải thích rõ Đảng Lao động “phân biệt đối đãi các hạng địa chủ, phân biệt địa chủ với phú nông.” Về các buổi đấu tố trước quần chúng, thông tri hướng dẫn “[đảng viên] cần nói rõ tính chất hợp lý, hợp tình của các cuộc đấu địa chủ cường hào gian ác đầu sỏ trước đây và chủ trương thành lập tòa án để xét xử bọn đó hiện nay cho họ [công chức và nhân viên mới] hiểu để họ yên tâm.” Sau đó Nguyễn Duy Trinh chỉ thị,
“Đối với những vấn đề mà họ [công chức và nhân viên mới] không cần biết hoặc vì trình độ chính trị của họ còn kém mà không hiểu được hoặc có thể hiểu sai thì không cần đưa ra giải thích. (Ví dụ: về đường lối chính sách chung của Đảng ở nông thôn; vấn đề chỉnh đốn tổ chức, phương pháp phát động tố khổ, v.v…) Đối với những vấn đề thuộc chính sách cụ thể có tính chất hướng dẫn cho các cấp ủy thi hành chính sách như xử trí địa chủ phản động cường hào gian ác đầu sỏ, phân biết xét xử nặng nhẹ thế nào và những vấn đề thuộc cách vận dụng sách lược cụ thể trong khi đấu tranh với địch, v.v… đều không được đem ra giải thích.”[18]
Mười một ngày sau, 21 tháng Một năm 1955, ban bí thư ban hành một chỉ thị khác: “Về việc học tập chính sách cải cách ruộng đất.” Do ủy viên Bộ Chính trị Lê Văn Lương soạn thảo, chỉ thị tuyên bố, “Trung ương nhận thấy cần phải tổ chức cho cán bộ học tập thêm về chính sách cải cách ruộng đất để chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ tích cực tham gia và lãnh đạo cải cách ruộng đất.” Như Lê Duẩn đã hướng dẫn trong chỉ thị ngày 10 tháng Hai năm 1954, Lê Văn Lương tuyên bố, “Việc học tập cần chú trọng nắm được tinh thần chính sách, tránh đi miên man vào các vấn đề quá chi tiết.” Giống như Nguyễn Duy Trinh, Lê Văn Lương gợi ý các buổi học tập nên theo bài nói chuyện trước đó của Hoàng Quốc Việt, đã được báo Nhân Dân đăng cho công chúng tiêu thụ.
Vì vậy, tài liệu trong Văn kiện Đảng cho thấy sự khác biệt giữa hình ảnh phong trào phát động quần chúng được mô tả trên báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những gì đang thực sự diễn ra tại các làng xã miền bắc Việt Nam không bắt nguồn từ việc lãnh đạo đảng hay báo chí thiếu hiểu biết về chiến dịch. Thay vì vậy, khác biệt này là kết quả từ một loạt chính sách cụ thể của giới lãnh đạo đảng nhằm giữ kín quy mô thực sự và bản chất của chiến dịch cải cách. Dường như lãnh đạo đảng hy vọng việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện phát động quần chúng, giảm bớt tỷ lệ “đấu tranh tự phát” và “địa chủ phá hoại”. Trong mắt giới lãnh đạo đảng, hiện tượng địa chủ phá hoại có vẻ bao gồm những việc như phát tán ruộng đất, của cải, bỏ trốn, hoặc thậm chí chọn cách tự tử như giải pháp cuối cùng. Về khác biệt giữa chính sách cải cách ruộng đất được công bố với việc cán bộ thực hành như thế nào, Văn kiện Đảng gợi cho thấy rằng ngay cả điều này cũng có thể là một chính sách có chủ tâm mà đảng sử dụng để giữ bí mật về bản chất của chiến dịch. Giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có vẻ không muốn cán bộ biết rõ nhiệm vụ chi tiết cụ thể của một cán bộ phát động quần chúng là gì cho đến khi họ đã tham gia đội giảm tô hoặc đoàn ủy cải cách – nói cách khác, sau khi họ đã được gửi xuống bộ máy phát động quần chúng, xa cách gia đình, bạn bè và công chúng.
Phát động quần chúng và Hiệp định Geneva
Như nghiên cứu của Pierre Asselin đã chỉ ra, bộ Văn kiện Đảng có nhiều tài liệu thú vị liên quan đến Hiệp định Geneva ký kết vào tháng Bảy năm 1954.[19] Một số văn kiện cung cấp thông tin về việc lãnh đạo đảng đã làm gì để giảm bớt mối đe dọa công cuộc phát động quần chúng do điều 14c và 14d của hiệp định gây ra. Những điều khoản này quy định việc không được trả thù hoặc kỳ thị đối với các đối thủ chính trị trước đây, và cần tôn trọng đi lại tự do giữa miền Bắc và miền Nam giai đoạn 300 ngày (từ tháng Bảy 1954 đến tháng Năm 1955). Điều này có nghĩa là các vụ đấu tố địa chủ trong phong trào phát động quần chúng vi phạm tinh thần điều khoản 14c, điều khoản hiển nhiên được đưa ra nhằm bảo vệ mọi người dân Việt khỏi những bạo lực do nhà nước đỡ đầu, dù ở Sài Gòn hay Hà Nội. Hơn nữa, việc đi lại tự do trong ba trăm ngày có nghĩa là những ai lo sợ trở thành mục tiêu trả thù của một trong hai chế độ có được sự lựa chọn di cư nơi khác. Để bảo đảm việc tuân thủ những điều khoản này, các bên ký kết Hiệp định Geneva đồng ý cho phép Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến bao gồm đại biểu của Canada, Ba Lan và Ấn Độ đi lại tự do khắp nước và tiến hành kiểm tra. Cả hai chế độ ở Hà Nội và Sài Gòn đều cam kết giúp Ủy hội thực hiện nhiệm vụ. Về những vấn đề này, Moise viết,
“Điều đáng ngạc nhiên là các báo cáo của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đưa ra rất ít bằng chứng về sự khủng bố nhằm vào các nhân vật quan trọng từng cộng tác với Pháp. Ủy hội được phép đi lại khá tự do ở miền Bắc –tự do hơn là ở miền Nam – và họ hẳn sẽ thấy được bất kỳ sự vi phạm hiệp định nào trên diện rộng…
… Giới lãnh đạo chóp bu của đảng miễn cưỡng tuân thủ hiệp định và cho phép nông dân ra đi. Họ chịu áp lực của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến; chừng nào còn nuôi hy vọng thống nhất Việt Nam trong hòa bình, chừng đó họ sẽ không thách thức áp lực đó. Nhưng thậm chí ngay cả sau khi Hà Nội có quyết định như vậy, thì nhiều lãnh đạo địa phương từ chối không thi hành. Họ tiếp tục cản trở việc di cư, hoặc vì tin rằng những người muốn vào Nam cần bị trì hoãn trong một thời gian đủ để họ nghĩ lại, hoặc do sự miễn cưỡng theo phản xạ không muốn hợp tác bất cứ cách nào với những người đang bộc lộ tình cảm phản động qua việc muốn rời bỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…
…Một vài tháng sau, tình trạng này chấm dứt, và vào thời hạn 18 tháng Năm năm 1955, phần lớn những người muốn vào Nam đã đi được.”[20]
Trong bộ Văn kiện Đảng, có một số lệnh và chỉ thị của giới lãnh đạo đảng về những vấn đề cụ thể mà Moise đề cập. Về việc nhà cầm quyền tuân thủ điều khoản 14c, cấm trả thù các đối thủ chính trị, nghị quyết của Bộ Chính trị ra ngày 7 tháng Chín năm 1954 có đoạn,
“Cách đấu địa chủ trong phát động quần chúng trước đã quy định, nay có thể đổi là: tăng cường tác dụng của chính quyền và pháp luật, dùng phương thức tòa án để đối phó với sự chống lại của địa chủ. Với điều kiện thỏa mãn được yêu cầu căn bản của nông dân, gây được ưu thế chính trị của nông dân ở nông thôn, thì hành động trực tiếp của nông dân đấu địa chủ cần mềm dẻo hơn trước để tránh đối phương mượn cớ là ta khủng bố những người đã hợp tác với họ, đồng thời cũng để tránh tình trạng những địa chủ bị đấu chạy vào Nam nhiều, có hại đến việc thực hiện thống nhất nước nhà.”[21]
Về vấn đề liên quan đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến có khả năng biết được những điều gì đang xảy ra tại nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ thị của Ban Bí thư ra ngày 26 tháng Chín năm 1954 hướng dẫn việc các đảng viên cần chuẩn bị nếu Ủy hội Quốc tế đến thăm: “Thường thường Ủy ban quốc tế tới địa phương là để điều tra, kiểm soát. Ngoài việc kiểm soát từng vấn đề nhất định, họ sẽ tìm cách thăm dò tình hình mọi mặt của ta. Họ có thể đi đến các nơi, hỏi han dân chúng, v.v… Vì vậy, cần chuẩn bị cho nhân dân biết cách trả lời khéo léo các câu hỏi của Ủy ban quốc tế, không để dân ta nói lung tung.”[22]
Hai tháng sau, vào tháng Mười Một năm 1954, Trường Chinh ra chỉ thị của Bộ Chính trị “Về việc gây một phong trào rộng lớn và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân toàn quốc chống các hành động trắng trợn của đối phương vi phạm Hiệp định Giơnevơ.” Trong phần cuối chỉ thị, Trường Chinh khẳng định rằng “vì ta là chính nghĩa, ta tôn trọng Hiệp định đình chiến, nên dư luận chính đáng ủng hộ ta.”[23]
Một chỉ thị khác của Bộ Chính trị ra ngày 16 tháng Hai năm 1955 (khoảng ba tháng trước khi thời hạn ba trăm ngày kết thúc) cảnh cáo rằng vẫn có một số đông dân chúng chuẩn bị đi Nam. Để đối phó tình thế này, Bộ Chính trị đề xuất những hành động sau:
“- Chọn một vài địa điểm điển hình để tổ chức cho đồng bào đi (khi chọn rồi đề nghị với Trung ương). Nên mời cả Ủy ban quốc tế đến để chứng kiến việc đó. Những nơi này phải là nơi có cơ sở quần chúng của ta, khi tổ chức cho quần chúng đi thì chỉ có số ít xin đi, như thế mới có lợi cho ta. Khi làm việc này phải chuẩn bị chu đáo, giải quyết thật nhanh.
- Phải có kế hoạch trấn áp phản động, tăng cường canh gác, kiểm soát, đề phòng địch lợi dụng dịp này thúc đẩy quần chúng tập trung, gây khó khăn cho ta.”[24]
Một tháng sau, vào ngày 20 tháng Ba năm 1955 (hai tháng trước khi thời hạn di chuyển tự do kết thúc), điện từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi các liên khu ủy đánh giá tình hình như sau:
“Ở trong tổ quốc tế, bọn phản động tích cực hoạt động, hiện nay tổ quốc tế lại cử ba tổ về điều tra ở các tỉnh vùng duyên hải: Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Mục đích của phản động trong tổ quốc tế đi lần này là tìm kiếm sơ hở của ta, lấy chứng cứ để kết luận ta vi phạm hiệp định rồi nhân đó đòi đưa ra 9 nước dự Hội nghị Giơnevơ, trì hoãn việc rút Hải Phòng, kéo dài thời gian di cư, đi đến phá hiệp định và gấp rút tổ chức cưỡng ép đưa quần chúng đi một lúc có quy mô rộng lớn.”[25]
Vào tháng Tư năm 1955, một tháng trước khi biên giới vĩ tuyến đóng cửa, Trường Chinh viết về việc liệu có cho phép những đối tượng bị xếp loại địa chủ đi Nam không:
“Đối với địa chủ nói chung là không cho đi và phải tạo đủ lý do về pháp lý để giữ chúng lại, nhất là giữ bọn gian ác, đợi lúc phát động quần chúng thì xử chí. Gặp trường hợp cá biệt có tổ quốc tế về điều tra mà có địa chủ xin đi thì phải xin chỉ thị của Tỉnh ủy và nếu ở địa phương đang phát động quần chúng thì phải xin chỉ thị của Đoàn ủy, không được tự tiện giải quyết cho đi, làm mất đối tượng đấu tranh của quần chúng nông dân.”[26]
Và cuối cùng, mười bảy ngày trước khi kết thúc giai đoạn đi lại tự do, “Điện của Trung ương” ngày 1 tháng Năm năm 1955 cảnh cáo,
“Qua tình hình của Nam Định và một số tỉnh khác, Trung ương nhận thấy sở dĩ tình hình “di cư” ở một số nơi trở thành nghiêm trọng là do:
- Chỉ đạo của Tỉnh ủy lỏng lẻo.
- Trấn áp phản động quá yếu.
- Một số cán bộ sợ vi phạm hiệp định có tư tưởng mở toang cửa cho dân đi.
Các địa phương cần sửa chữa gấp những khuyết điểm trên.”[27]
Các đoạn trích trên đây từ bộ Văn kiện Đảng chỉ ra rằng giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp dụng những biện pháp cụ thể nhằm cản trở việc Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến phát hiện những gì đang thực sự diễn ra ở nông thôn. Các tài liệu này cũng gợi cho ta thấy động lực ngăn cản người dân di cư chủ yếu xuất phát từ giới lãnh đạo đảng, chứ không phải từ giới cán bộ địa phương (như Moise phỏng đoán). Thực vậy, các nhà lãnh đạo đảng tỏ ra thất vọng vì cán bộ địa phương đã không làm hơn nữa trong việc cản trở người dân ra đi. Và cuối cùng, những tài liệu này làm nảy sinh câu hỏi về cách đánh giá của Moise về việc giai đoạn tự do di cư này đã kết thúc như thế nào. Lúc đầu Moise viết, “Một vài tháng sau, tình trạng này chấm dứt, và vào thời hạn 18 tháng Năm năm 1955, phần lớn những người muốn vào Nam đã đi được.” Chỉ mấy dòng sau đó, ông phần nào điều chỉnh nhận định này và tuyên bố, “[n]hững khối đông dân muốn đi nam duy nhất nhưng không đi được là ở các tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa, Liên khu IV.” Trích dẫn cuối từ Văn kiện Đảng ở phần trên cho thấy rằng giới lãnh đạo, sau khi xem xét tình hình ở Nam Định (một tỉnh phía bắc Thanh Hóa, thuộc Liên khu III) và các tỉnh khác, vẫn coi tình hình di cư là “nghiêm trọng” dù chỉ còn mười bảy ngày trước khi thời hạn tự do thông thương giữa hai miền Bắc Nam chấm dứt.
Kết luận
Mặc dù Văn kiện Đảng có những hạn chế, tôi hy vọng rằng trích dẫn trong bài viết ngắn này cho ta thấy các nhà biên tập bộ sách đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều tài liệu hấp dẫn. Ta cần nhớ rằng họ được đào tạo trong chế độ cộng sản ở Việt Nam và chia sẻ nhiều giá trị với các nhà lãnh đạo đảng, tác giả của những tài liệu trong bộ sách. Những điều mà phần lớn chúng ta hẳn muốn cắt bỏ khỏi hồ sơ của chính chúng ta (chẳng hạn việc hết lời ca tụng Stalin đáng tởm), thì các nhà biên tập bộ sách lại cho rằng hoàn toàn chấp nhận được. Đối với những độc giả mà tiếng Việt không phải là bản ngữ, tài liệu trong Văn kiện Đảng quả thực là một thách thức về ngôn ngữ; nhưng theo kinh nghiệm của tôi, thách thức này không đến nỗi khó nhằn như thoạt đầu mới đọc. Sau khi đánh vật với tập văn kiện thứ nhất, tập thứ hai bớt khó hẳn, và sang đến tập thứ ba, người đọc có thể thấy mình đã thuộc lòng ngôn từ cơ bản của chế độ. Các thuật ngữ và lập luận được lặp đi lặp lại; lãnh đạo đảng áp dụng lăng kính Marxist-Leninist vào hết vấn đề này đến vấn đề khác, khiến các tập Văn kiện Đảng trở nên dễ đọc. Những ý tưởng mới đòi hỏi việc mở rộng kho từ vựng của chế độ và cách sử dụng tiếng Việt phong phú hơn và tinh tế hơn hầu như không xuất hiện trong bộ sách này.
__________
Alec Holcombe là nghiên cứu sinh bậc Tiến sĩ về Lịch sử tại Đại học California, Berkeley. Hiện anh đang viết luận án về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no. 2 (Summer 2010).
Bản tiếng Việt © 2010 Hoài Phi
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1] “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương”, Văn kiện Đảng toàn tập. (Hà Nội:Chính trị Quốc gia, 2001), tập 1: trang 213.
[2] Nguyễn Duy Trinh, “Báo cáo bổ sung của chính phủ về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức (báo cáo đọc trước khóa họp Quốc hội lần thứ 6, ngày 4/1/1957)”, Hà Nội, Sự Thật, 28 tháng Hai năm 1957, 4.
[3] Edwin Moise, Land Reform in China and North Vietnam: Consolidating the Revolution at the Village Level (Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 1983).
[4] Như trên, trang 219.
[5] Như trên, trang 197-198, 213.
[6] Như trên, trang 182.
[7] Như trên, trang 222.
[8] Ban Bí thư, “Thông tri của Ban Bí thư, ngày 29 tháng 6 năm 1953: về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 246-250.
[9] Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, “Chỉ thị của Bộ Chính trị về mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng, 4/5/1953”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 201-206. Xem bản dịch văn kiện này trong Tạp chí Việt học, tập 5, số 2 (mùa Hè 2010): trang 243-247.
[10] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, trang 176. Theo Moise, con số này “vào khoảng 7,800.”
[11] Hồ Chí Minh, “Diễn văn bế mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 23/11/1953”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 504-511.
[12] Như trên.
[13] Trường Chinh, “Chỉ thị của ban bí thư về việc tuyên truyền chính sách cải cách ruộng đất”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 537-549.
[14] Như trên.
[15] Lê Duẩn, “Chỉ thị của ban bí thư, 10/2/1954: Về kế hoạch học tập chính sách cải cách ruộng đất”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 17-20. Lê Duẩn không cung cấp thông tin cụ thể về việc tài liệu học tập được phát cho đảng viên địa phương sẽ gồm những gì; ông chỉ viết, “lấy tài liệu học tập cải cách ruộng đất do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn làm tài liệu chính.”
[16] Như trên.
[17] Hoàng Quốc Việt, “Vì sao nước ta phải cải cách ruộng đất”, Nhân Dân, số 302-304, từ 28 đến 30 tháng Mười Hai, 1954.
[18] Nguyễn Duy Trinh, “Thông tri của Ban bí thư số 2 – TT/TW, 10/1/1955: Về việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho các công chức, nhân viên mới ở cơ quan, công sở trong các thành thị mới giải phóng”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 8-11.
[19] Pierre Asselin, “Choosing Peach: Hanoi and the Geneva Agreement on Vietnam, 1954-1955,” Journal of Cold War Studies 9, no.2 (Spring 2007): trang 95-126.
[20] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, trang 192-195.
[21] Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, “Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 298.
[22] Trường Chinh, “Chỉ thị của ban bí thư 26/9/1954: Về nhiệm vụ của các cấp Đảng ở các địa phương thuộc bắc vĩ tuyến 17 đối với Ủy ban quốc tế”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 318-324.
[23] Trường Chinh, “Chỉ thị của Bộ Chính trị 26/11/1954: Về việc gây một phong trào rộng lớn và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân toàn quốc chống các hành động trắng trợn của đối phương vi phạm Hiệp định Geneva”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 385.
[24] Lê Văn Lương, “Chỉ thị của Bộ Chính trị số 07-CT/TW ngày 16 tháng 2 năm 1955: Đẩy mạnh đấu tranh phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 74.
[25] “Trung ương gửi các liên khu ủy, 20/3/1955”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 232.
[26] Trường Chinh, “Chỉ thị của Ban Bí thư số 16-CT/TW, 21/4/1955: Tăng cường chỉ đạo, tích cực đấu tranh âm mưu địch cưỡng ép và dụ dỗ giáo dân di cư”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 273.
[27] “Điện của Trung ương, 1/5/1955,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 282.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2022 1:41:32 GMT 9
Fidel Castro - 'người không chấp nhận đối lập'26 tháng 11 2016 Lực lượng của Castro tiến vào Havana năm 1959 Fidel Castro lãnh đạo Cuba, quốc gia độc đảng, trong gần nửa thế kỷ. Fidel Castro lên nắm quyền tại Cuba vào ngày 1 tháng Giêng năm 1959 sau một cuộc chiến dài lật đổ Tổng thống Batista. Ông là Thủ tướng cho tới năm 1976 khi ông trở thành nguyên thủ quốc gia và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng. Fidel Castro sinh tại miền Đông Cuba và là con trai của một điền chủ trồng mía giàu có và được giáo dục là một người theo Dòng Tên. Khi là một sinh viên trẻ ông bắt đầu tham gia vào chính trị cách mạng và năm 1953 ông bị bỏ tù vì vai trò của mình trong kế hoạch nhưng không được thực hiện dự định lật đổ chính phủ của Tổng thống Batista. Khi được thả tự do ông sang Mexico và cùng với những người Cuba lưu vong khác bắt đầu một kế hoạch mới. Tháng 12 năm 1956 khoảng một trăm người của nhóm này đổ bộ vào Cuba từ một chiếc tàu cá. Họ đã được chờ sẵn và ngay trong cuộc đụng độ đầu tiên với quân chính phủ tại bãi biển chỉ còn 12 người trong số này sống sót. Họ trốn vào các khu đồi và thành lập các cơ sở hạt nhân của đội quân du kích và lực lượng này đã hoạt động thành công tới mức chỉ trong hai năm Tổng thống Batista đã bỏ chạy khỏi Cuba. Vào ngày mùng 1 Tết năm 1959, Castro chiến thắng tiến vào thủ đô Havana. Năm đó ông 32 tuổi. Trên cương vị Thủ tướng (được giới chức của một Tổng thống mà chính ông dựng lên) ông tiến hành một chương trình cấp tiến về nông nghiệp và các cải tổ khác và kiên trì với nó bất cấp nhưng khó khăn không thể tránh khỏi về tài chính. Thỏa thuận thương mại của ông với Liên bang Xô Viết đã khiến cả chính phủ và các doanh nghiệp lớn của Mỹ bất bình và ông còn làm cho vấn đề tồi tệ hơn khi tước đoạt và bán hàng loạt các tài sản của Mỹ tại Cuba. Ông lặp đi lặp lại cáo buộc là Hoa Kỳ đã nuôi dưỡng phe nổi dậy chống lại chế độ của ông và vào mùa xuân 1961 cuộc xâm nhập Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) từ căn cứ tại Florida của những người Cuba lưu vong sớm thất bại đã được dùng là cớ cho các cáo buộc đó. Ông Castro tuyên bố không chấp nhận đối lập Trong năm 1962, đồ cung ứng và kỹ thuật viên của Liên xô đổ vào Cuba và tới mùa thu người ta biết rằng những vị khách này đang xây dựng một mạng lưới các căn cứ hỏa tiễn mà khi hoàn tất sẽ có thể bắn phá những khu vực xa xôi nhất trên đất Mỹ. Tới tháng 10, Tổng thống Kennedy, với sự hậu thuẫn của Tổ chức Các Tiểu bang Mỹ, đã áp đặt một lệnh phong tỏa một phần đối với Cuba và đưa ra các dấu hiệu có chủ định tiến hành một cuộc tấn công vào hòn đảo này. 'Sự pha trộn' Cuộc khủng hoảng chỉ qua đi khi ông Nikita Khrushchev, sau các trao đổi thư từ với Tổng thống Kennedy, đồng ý vì lợi ích của hòa bình sẽ tháo dỡ các căn cứ này và đem hỏa tiễn về Nga. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cuba vẫn tiếp tục căng thẳng và không được cải thiện do quyết của Castro vào giữa những năm 70 gửi hàng ngàn binh lính Cuba tới châu Phi. Họ tới Angola để giúp phong trào MPLA do Liên Xô hậu thuẫn để giành quyền kiểm soát tại đây khi nhà nước Trung Phi này đạt được độc lập từ Bồ Đào Nha. Cuộc xâm chiếm Afghanistan của Nga vào tháng 12 năm 1979 đã làm cho quan hệ của Cuba với Nga căng thẳng nhưng một năm sau Castro bày tỏ sự ủng hộ hết lòng cho "sự can thiệp" này. Nền kinh tế ngày càng tồi tệ đã khiến nhiều người Cuba bất mãn, những người cảm thấy không bằng lòng về sự hiện diện của quân đội nước họ tại châu Phi. Ước tính con số binh lính Cuba có mặt tại Angola là 36 ngàn quân và ở Ethiopia là 12 ngàn. Những năm qua chính phủ Anh giữ quan hệ khá thận trọng với Castro, không hẳn là thù nghịch; những chỉ trích của Mỹ đã không ngăn các công ty của Anh cung cấp cho Castro xe buýt và những thứ mà đất nước ông cần. Đối với nhiều người tại đây Castro vẫn giữ được không khí lãng mạn về ông. Hình ảnh ông xuất hiện trên truyền hình và tại rạp chiếu phim có lẽ phần nào giúp tạo ra điều đó: cao và râu cao nón, trong bộ trang phục rằn ri dã chiến màu xanh rêu, thường với một khẩu súng lục bên hông và một điếu ci-ga trên tay, ông trông giống như một sự pha trộn giữa một nhà thơ đi tiên phong và một tay cướp biển. Ông thực sự vừa là một người trí thức vừa là người của hành động và suốt nhiều năm ít người trên thế giới có thể là đối thủ của ông như một lãnh tụ cách mạng xuất sắc. Fidel Castro qua đời Tháng Chín năm 1988, Cộng đồng châu Âu tuyên bố thành lập quan hệ ngoại giao với Cuba nhưng sự tan vỡ của Liên Xô và khối Đông Âu đã là một đòn giáng đối với nền kinh tế nước này. 85% thương mại của Cuba, mà chủ yếu là đường, là với Liên Xô và các nước vệ tinh của nước này và Castro phải đối mặt với tình trạng tài chính bị hủy hoại khi giá trị của đồng peso Cuba giảm giá hơn một nửa. Chỉ có chợ đen là phát triển vào khi những người nổi dậy chống chính phủ xuống đường biểu tình tại thủ đô Havana. Tiếp sau đó là vài năm vô cùng khó khăn thiếu thốn trên khắp đất nước Cuba. Fidel Castro khuyến khích du lịch để lấp khoảng trống trong nền kinh tế do khối các nước Liên Xô cũng để lại. Nó giúp giảm thiểu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và quyết định vào cuối những năm 1990 hợp pháp hóa việc sở hữu đồng đôla Mỹ đồng thời cho phép thành lập một số công ty liên doanh và doanh nghiệp tư nhân cũng đã góp phần tương tự. Vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày cách mạng Cuba năm 1999, Castro vẫn rao giảng với người dân của ông về sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Người dân Cuba của ông vẫn đang nhận thẻ chăm sóc y tế miễn phí và một hệ thống giáo dục có tỉ lệ biết chữ rất cao nhưng thái độ bất bình chính trị tiếp tục gia tăng. Thái độ không chấp nhận đối lập của ông cũng có nghĩa là con số tù chính trị tại các nhà tù Cuba có lúc lên tới 80.000 người và năm 2003 trong khi truyền thông tập trung vào cuộc chiến tại Iraq ông đã bỏ tù một số nhà lãnh đạo đối lập nổi tiếng. Fidel Castro nhận quà tặng từ ông Trần Đại Quang và phu nhân, bà Nguyễn Thị Hiền, ở Havana hôm 15/11/2016 Lãnh tụ Cuba Fidel Castro tiếp Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang ở Havana hôm 15/11 nhưng không gặp riêng Thủ tướng Canada Justin Trudeau. Hai ông Quang và Trudeau cùng thăm chính thức Cuba tuần vừa rồi để thúc đẩy quan hệ song phương với hòn đảo Cộng sản vốn đang bắt đầu mở cửa. Lãnh đạo Việt Nam và Canada đã có các cuộc gặp với Chủ tịch Cuba Raul Castro cùng các quan chức Cuba cao cấp khác. Báo chí Cuba đưa tin lãnh tụ cách mạng Fidel Castro, 90 tuổi, đã tiếp Chủ tịch Việt Nam Trần Đại Quang tại nhà riêng ở phía Tây thủ đô Havana. Các báo đăng ảnh ông Quang và phu nhân trao tặng Fidel bức tranh vẽ ông thời còn trẻ. Tuy nhiên ông đã không mời Thủ tướng Canada Justin Trudeau gặp mặt, cho dù có quan hệ thân thiết với cha của ông này là cố Thủ tướng Pierre-Elliott Trudeau. Trong những năm 1970, hai ông Trudeau cha và Fidel có quan hệ khá thân cận. Khi Trudeau qua đời năm 2000, Fidel đã tới Montreal để dự đám tang ông và được chụp hình an ủi vỗ về Justin Trudeau, khi đó còn là một cậu bé. Cả hai phía Canada và Cuba đều không giải thích tại sao Fidel không gặp Trudeau con lần này. Justin Trudeau nói: "Tôi rất muốn ngồi với Fidel - tôi đã có một cuộc gặp tuyệt vời với ông nhiều năm trước tại đám tang của cha tôi - thế nhưng điều đó đã không xảy ra trong chuyến thăm này". Justin Trudeau đã gặp Chủ tịch Raul và ba người con của Fidel Castro Ông Fidel Castro đã rút lui khỏi chính trường từ năm 2006 vì lý do sức khỏe nhưng vẫn được coi là vị lãnh đạo được người dân kính trọng. Em trai ông, Raul Castro, đã kế nhiệm anh. Bù lại, Justin Trudeau đã gặp gỡ ba người con của Fidel và xem ảnh cũng như nghe kể lại về chuyến thăm Havana năm 1976 của Thủ tướng Canada Trudeau lúc đó, vốn đã khiến Hoa Kỳ tức giận. Justin Trudeau cũng đã có bài phát biểu tại Đại học Havana. Ông nói Canada mong muốn tiếp tục quan hệ với Cuba, bất kể thái độ của tổng thống đắc cử của Mỹ, Donald Trump, về Cuba là như thế nào. Từ sau khi bị bệnh nặng năm 2006 Fidel Castro hoàn toàn không xuất hiện trước công chúng trong khoảng thời gian từ tháng 2/2014 tới tháng 4/2015, gây đồn đoán về sức khỏe của ông. Thế nhưng khoảng hơn một năm nay ông bắt đầu quay lại tư gia để đón tiếp các khách quý nước ngoài. Ảnh các cuộc gặp đều do con trai ông là Alex Castro chụp. 'Độc nhất vô nhị' Fidel Castro đã tạo ra nhãn hiệu cộng sản độc nhất vô nhị ở vùng Caribe. Trong những năm cuối đời, ông bị buộc phải thích nghi và từ từ cho phép một vài cải tổ thị trường để cứu vãn tên tuổi của mình. Ngày 31/7/2006, chỉ vài ngày trước sinh nhật 80, Castro tạm thời trao quyền cho em trai Raul, sau khi trải qua phẫu thuật ruột kết. Sức khỏe của ông tiếp tục đi xuống. Đầu năm 2008, Castro thông báo ông sẽ không nhận chức chủ tịch và lãnh đạo quân đội tại cuộc họp của Quốc hội. Nói chung ông ít xuất hiện trước công chúng, chỉ viết các bài báo trên truyền thông nhà nước dưới tiêu đề Suy tưởng của Đồng chí Fidel. Tháng Bảy 2010 ông xuất hiện lần đầu tiên từ khi ốm, chào đón người lao động và lên truyền hình trả lời phỏng vấn, nói về căng thẳng của Mỹ với Iran và Bắc Hàn. Tháng sau đó, Castro lần đầu phát biểu trước Quốc hội sau bốn năm, kêu gọi Mỹ không dùng vũ trang chống Iran hay Bắc Hàn, cảnh báo hủy diệt hạt nhân nếu căng thẳng gia tăng. Tháng 12 năm 2014, loan báo của Tổng thống Mỹ Barack Obama về việc giảm trừng phạt Cuba đã bắt đầu quá trình tan băng giữa hai nước. Castro hoan nghênh bước đi này, nói rằng đây là "bước đi tích cực thiết lập hòa bình trong khu vực" nhưng cũng nói ông không tin chính phủ Mỹ. Mặc dù nhiều người Cuba căm ghét Castro, nhiều người khác cũng thực sự yêu mến ông. Họ xem ông như một anh hùng bé nhỏ David chống lại Goliath khổng lồ, là Mỹ. Với họ, Castro là Cuba và Cuba là Castro. Biểu tượng cách mạng Cuba Fidel Castro qua đời26 tháng 11 2016 Fidel Castro lãnh đạo cách mạng cộng sản Cuba năm 1959 Fidel Castro, cựu chủ tịch Cuba và là biểu tượng cách mạng cộng sản, qua đời ở tuổi 90, truyền hình nhà nước thông báo. Chưa có thông tin chi tiết về nguyên do. Fidel Castro lãnh đạo Cuba, quốc gia độc đảng trong gần nửa thế kỷ trước khi chuyển giao quyền lực cho người em trai Raul năm 2008. Những người ủng hộ ca ngợi ông như người đưa Cuba trở lại cho dân chúng. Nhưng cũng có cáo buộc ông đàn áp tàn bạo phe đối lập. Tháng 4/2016, Fidel Castro có bài phát biểu hiếm hoi trong lễ bế mạc Đại hội Đảng Cộng sản Cuba. Ông thừa nhận mình tuổi đã cao nhưng cho biết lý tưởng cộng sản Cuba vẫn còn giá trị và người dân Cuba "sẽ chiến thắng". "Tôi sắp 90 tuổi", cựu chủ tịch nói thêm rằng đây là "một điều gì đó tôi chưa bao giờ tưởng tượng đến". "Chẳng bao lâu tôi sẽ giống như những người khác, đến một khúc quanh của cuộc đời," Fidel Castro nói. Fidel Castro tiếp chủ tịch Việt Nam 'Lỡ sinh nhật Hồ Chí Minh' ở Cuba Fidel Castro lãnh đạo Cuba trong gần năm thập kỷ Những cột mốc của Fidel Castro 1926: Sinh ra tại tỉnh Oriente, đông nam Cuba 1953: Bị cầm tù sau khi dẫn dắt phong trào chống lại chế độ Batista không thành công 1955: Ra tù do được ân xá 1956: Cùng Che Guevara, tiến hành cuộc chiến tranh du kích chống chính phủ 1959: Đánh bại Batista, tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Cuba 1961: Đánh tan đạo binh người Cuba lưu vong do CIA tài trợ tại Vịnh Con Heo Hai cái nhìn của người Việt về Castro 1962: Khơi mào cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba khi chấp thuận cho Liên Xô triển khai tên lửa hạt nhân ở Cuba 1976: Được Quốc hội Cuba bầu làm Chủ tịch 1992: Đạt thỏa thuận với Mỹ về người tỵ nạn Cuba 2006: Thôi làm chủ tịch Cuba do vấn đề sức khỏe
|
|