|
Post by Huu Le on Oct 13, 2007 16:16:42 GMT 9
Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng sau 1979
Balazs Szalontai
Tháng Bảy 1979, ông Hoàng Văn Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc, bỏ trốn theo Trung Quốc.
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân TQ bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức. Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các phần tử “thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở VN.
Vai trò cá nhân
Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc. Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng. Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở TQ.Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất. Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh chấp Liên Xô – TQ.
Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội. Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung. Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ.
Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia. Năm 1974, Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để �chữa bệnh�, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.Tình hữu nghị giữa hai nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc đổ vỡ năm 1979Sự khác biệt giữa TQ và VN về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.Sau Chiến tranh Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng Bảy, ông quyết định đào tẩu. Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn. Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia. Nhưng mặt khác, Hoan và nhà bảo trợ TQ dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết. Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố �những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu�.Mặc dù VN nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ. Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào �Vùng Kinh tế Mới�, nhiều người VN đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo. Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.
Khủng hoảng xã hội
Quyết loại bỏ những thành phần �bội phản�, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh. Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Tàu, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt – Trung.
Trước hết, các vụ tảo thanh trong hàng ngũ đảng đã bắt đầu từ những năm trước. Giai đoạn 1970 – 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt – Trung. Việc trục xuất các cá nhân thân TQ đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%).
Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn. Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả. Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành �quân dự bị gồm những kẻ tội phạm�. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã “hết hạn sử dụng” đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Về tác giả: Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
************************************************************************** Nguyễn Mạnh Tường Con đường đi tới một chân lý càng khó thì khi đi tới chân lý đó, người ta càng tin tưởng Lời toà soạn (tạp chí Xưa & Nay): Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội, qua đời ngày 13-6-1997. Cách đây 75 năm (1932) Nguyễn Mạnh Tường đã nổi tiếng cả ở Việt Nam và Pháp với việc bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ luật học với đề tài: “Cá nhân trong xã hội cổ nước Nam, tổng luận về Luật nhà Lê” khi ông mới 23 tuổi. Và chỉ hai tháng sau, ông bảo vệ thành công tiếp luận án tiến sĩ thứ hai về văn chương với đề tài “Luận về giá trị trình diễn và kịch bản của Alfred Musset”.
Cho đến nay, ngay tại nước Pháp chưa xuất hiện lần thứ hai một thanh niên 23 tuổi hoàn thành 2 luận án tiến sĩ trong vòng 1 năm. Nhưng điều đáng nói là với danh vọng đã đạt được khi còn rất trẻ, Nguyễn Mạnh Tường chỉ hành nghề luật sư nhằm bảo vệ cho các thân chủ của mình và khi Tổ quốc cần ông tham gia vào những cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý bảo vệ lợi ích của quốc gia và dân tộc. Năm 1946, ông được tham dự cuộc Hội nghị Đà Lạt đấu tranh bảo vệ chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam trước mưu đồ trở lại xâm lăng của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Những năm về sau cho đến cuối đời ông tham gia giảng dạy đại học, là Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, tham dự nhiều hội nghị quốc tế và là tác giả của nhiều cuốn sách khảo cứu về văn hoá phương Tây và nền giáo dục dân tộc. Cho dù phải trải qua nhiều thử thách thăng trầm với thời cuộc, nhưng trọn vẹn cuộc đời Nguyễn Mạnh Tường vẫn là “một trí thức yêu nước đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và góp phần xây dựng nền giáo dục của Việt Nam” như lời đánh giá của Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Tạp chí Xưa & Nay xin giới thiệu với bạn đọc một đoạn trích dịch trong di cảo hồi ức viết bằng tiếng Pháp của luật sư do gia đình cung cấp, với bản dịch của Nguyễn Bá Bảo, học sinh của thầy Tường và nguyên là Đại sứ Việt Nam tại Australia và New Zealand.
Đoạn trích này viết về cuộc gặp và trao đổi của tác giả với Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua họp ở Việt Bắc mùa Xuân 1952. Nội dung cuộc trao đổi về những vấn đề của đất nước cách đây đã 55 năm nhưng vẫn chứa đựng những nội dung mang tính thời sự và tấm gương ứng xử giữa một trí thức chân thành và thẳng thắn với một nhà lãnh đạo luôn “giữ được sự tự chủ một cách tuyệt vời và có một bản lĩnh hoàn hảo”. “Hồ Chủ tịch hỏi tôi, Đại hội đã gây cho tôi cảm tưởng gì?”. Tôi đã trả lời Người:
“Thưa Chủ tịch, một cảm tưởng mà tôi buộc phải coi là cực kỳ đặc biệt. Làm sao tôi có thể tưởng tượng cây Người có thể sản sinh ra những bông hoa tuyệt mĩ như vậy, làm sao con người bằng xương bằng thịt có thể đạt tới đỉnh cao như vậy của chủ nghĩa anh hùng và lòng cao thượng? Và khi trong mạch máu của họ chảy cùng một dòng máu đang chảy trong mạch máu của tôi, làm sao tôi có thể cưỡng lại niềm hào hứng và tự kiêu dồn dập trào tới tràn ngập lòng tôi, làm tôi ngạt thở, hoà loãng tâm hồn tôi trong một cơn say mà tôi chưa hề biết tới như vậy.
Thời thơ ấu, tôi đã đọc trong sách lịch sử chuyện những chiến thắng của các anh hùng dân tộc ta đã giành được trong sự nghiệp chống xâm lược ngoại bang. Những trang sử đó, tôi đọc đi đọc lại và mỗi lần đều thấy một niềm say sưa mới. Lớn lên tôi học lịch sử Hy Lạp cổ đại, tôi rất chú ý tới những tên Marathon và Salamine mà thế giới văn minh không ngớt ca tụng sự vinh quang. Dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng niềm vinh dự đó. Nhưng trước kia tôi tưởng thời oanh liệt đã qua rồi, và cho rằng Việt Nam bị nô dịch đã hơn một thế kỷ, chờ đợi mãi mà cũng chẳng có kết quả gì, việc tái sinh những anh hùng huyền thoại thời xưa sẽ chiến đấu mang lại tự do và độc lập cho đất nước.
Thế mà, những anh hùng đó đã đến: Tôi trông thấy họ xung quanh tôi, tôi chú ý nghe chiến công của họ với bao niềm vui và cảm phục. Nếu trước kia, trước khi rời đi chiến khu, tôi đã hiến tất cả tài sản cho nhân dân, tôi mang theo trong lòng một sự thoả mãn đã hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc, nhưng tôi không hề thấy loé ra trong tôi một chút hy vọng nào là sẽ chiến thắng trở về từ một cuộc chiến tranh mà tôi cho rằng sẽ thua ngay từ đầu. Bây giờ, trái lại, những nam nữ anh hùng mà tôi nuốt trôi từng lời nói, đã nhóm lên trong tôi ngọn lửa của miền tin vào chiến thắng trong tương lai.”
Hồ Chủ tịch nghe tôi nói, con mắt mơ màng phóng ra đằng xa, rồi Người nhìn thẳng vào tôi với khoé nhìn lóng lánh niềm vui, và tay vuốt bộ râu cằm, Người hỏi tôi một câu:
“Con đường mà chú đã trải qua để đi tới kết luận như hiện nay quả là khó khăn và tôi ca ngợi sự thành thật của chú. Con đường đi tới một chân lý càng khó thì khi đi tới chân lý đó, người ta càng tin tưởng. Đối với những anh hùng mà chú ngưỡng mộ, và là người đã thổi vào tâm trí chú niềm tin vào chiến thắng cuối cùng, chú có thấy gì đặc biệt ở họ?”
“Thưa Chủ tịch, đó là nguồn gốc nông thôn của họ. Từ trước cho tới cuộc kháng chiến này, tôi đã sống ở các chốn thị thành, và giờ tôi thấy xấu hổ và thừa nhận rằng tôi chẳng biết tí gì về vùng nông thôn và về người nông dân. Chút hiểu biết gì về nông thôn và nông dân tôi đã thu nhận được chỉ là sách vở và méo mó. Chính ở chiến khu, hành nghề luật sư và đi khắp các tỉnh miền Bắc và miền Trung, tôi đã được sống trong môi trường nông thôn, được tiếp xúc với người nông dân và được hiểu biết họ, bù đắp lại những chỗ hổng, sửa chữa những sai lầm và thành kiến của tôi, và đưa lại cho bản thân tôi một hình ảnh trực diện, đầy đủ và đúng đắn về dân tộc mà tôi tự hào là thành viên thuộc dân tộc đó. Mới gần đây thôi, hình ảnh nhân dân mà các tình huống trong cuộc sống đặt ra trước mắt tôi đã bị cắt xén, gây tổn thương, què quặt, tầm nhìn của giai cấp tiểu tư sản hạn chế con mắt tôi, che mắt tôi không thấy rõ sức mạnh vô biên của quần chúng nông dân. Bây giờ cái nhìn của tôi về Tổ quốc mình và những người con của Tổ quốc đó, đã được hoàn toàn thiết lập lại trong thực tế đầy đủ của nó. Một sự cân đối đã được hình thành trong tâm trí tôi và đem lại cho tôi những thú vui mới, chưa hề biết tới và vô giá.
Nhưng thưa Chủ tịch, tôi phải thú nhận với Chủ tịch rằng những người nông dân này mà tôi quý mến đức độ và bỏ qua những thiếu sót, tôi không thể tưởng tượng sao họ có thể nâng cao khả năng đến mức thực hiện được những chiến công như chúng ta đã biết. Vậy mà những hiện tượng phi thường đó đã diễn ra và tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Tôi xin gửi đến Chủ tịch và Đảng của Người lòng tôn kính đã có khả năng nhóm lên ngọn lửa yêu nước của nông dân mà cả nước đang chờ mong những kết quả kỳ diệu.”
“Tôi sung sướng được nghe ý kiến của chú. Bây giờ, theo chúng ta nên hướng chính sách của ta như thế nào?”
“Đó là một vấn đề cực kỳ tế nhị, tôi sẽ chỉ dám đề cập đến vấn đề đó, nếu được Chủ tịch cho được hoàn toàn tự do tư tưởng. Về nội dung, tôi có nhiều ý kiến theo hướng của Chủ tịch, nhưng có những điểm quan trọng tôi cầu mong Người có những suy nghĩ mới.
Chúng ta cùng một điểm xuất phát: quần chúng lao động bao gồm nông dân, công nhân, trí thức, cấu thành hầu hết dân số nước ta. Tất cả mọi chính sách không tính đến sự thật quá rõ ràng đó, chắc chắn sẽ thất bại ngay từ đầu. Lợi ích của nhân dân lao động phải là mối quan tâm thường xuyên của chúng ta. Mà họ không đòi hỏi cái không hề có, họ chỉ mong muốn được thỏa mãn ở mức tối thiểu những nhu cầu của một con người văn minh, nhu cầu về cơ thể, về trái tim, về khối óc, và tất nhiên nhờ lao động chân tay hay trí óc của họ. Họ chỉ chờ đợi ở công quyền được phép sống một cuộc sống của con người.
Việc làm để họ có phương tiện sống một cuộc sống của con người, phải được đề cập tới trên hai phương diện. Việc làm đó phải là việc làm tự do, không cưỡng bức, chỉ có việc làm tự do mới đem lại hiệu quả cho người lao động và cho xã hội. Ngoài ra, con người lao động không phải để chơi, mà phải có lợi. Lợi đó là phải được hưởng thụ thành quả lao động của mình. Trước mắt là để chi tiêu về ăn uống, may mặc, nhà ở, học hành, văn hoá. Về tương lai là để đề phòng mọi rủi ro trong cuộc sống mà đáng lo ngại nhất là thất nghiệp, bệnh tật và tuổi già. Nhưng cũng để đảm bảo cho con cháu, trong chừng mực có thể, những điều kiện thuận lợi để có khởi đầu tốt đẹp bước vào đời. Tiền tiết kiệm dành ra được từ kết quả lao động không những kích thích sự hoạt động cần cù của con người, mà còn dạy cho người ta ý thức dự phòng, tôn trọng tiền bạc kiếm ra một cách lương thiện, và tốt nhất là tăng cường và phát triển sự đoàn kết gia đình, tình yêu sáng suốt của bố mẹ với con cái.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 13, 2007 16:18:37 GMT 9
Quyền tự do lao động, quyền sở hữu cá nhân về tài sản do lao động kiếm ra một cách hợp pháp, đó là hai nguyên tắc người lao động rất quan tâm.
Trong lĩnh vực công cộng, cơ chế Nhà nước phải tôn trọng những nguyên tắc khác để bảo đảm việc thực thi tốt chức năng của Nhà nước. Nguyên tắc thứ nhất là tôn trọng luật pháp. Một sự lẫn lộn tai hại đang diễn ra giữa quyền lực và quyền. Tất cả các cơ quan từ cấp phường xã đến cấp trung ương đều tưởng mình có quyền làm tất cả, nhất là xâm phạm quyền tự do của công dân, và có quyền sử dụng những khoản tiền khổng lồ của công quỹ. Tôi không nói những vi phạm luật pháp khác mà tính chất phạm pháp rất rõ nét, ở đó những sự phản kháng là vô tội không được chú ý nghe như trong các trường hợp ranh giới giữa quyền lực và quyền không rõ ràng. Vì vậy nguyên tắc chung cần phải công bố là tất cả mọi người, kể cả những người có một chút quyền lực, đều phải tuân theo pháp luật, đó là ý nguyện của nhân dân và là công cụ giữ gìn trật tự công cộng.
Nguyên tắc đó bao giờ cũng phải kèm theo hậu quả tất yếu của nó là: Tất cả mọi vi phạm pháp luật phải dẫn tới trách nhiệm không chỉ chính trị (khai trừ khỏi Đảng), hành chính (cắt chức, hạ chức, cho về hưu), mà còn cả hình sự (tịch thu, tiền phạt, án tù). Phải quyết định trách nhiệm bao giờ cũng là cá nhân, vì trách nhiệm tập thể là vô nghĩa. Mọi quyết định đều mang một chữ ký, người ký tên chính là người sẽ phải đưa ra xét xử.
Để kết tội những người chịu trách nhiệm và áp dụng luật hình sự đối với họ, nhất thiết cơ chế quan toà phải được toàn quyền tự do và độc lập đối với cấp trên trong hệ thống quan toà và trong Đảng.
Nguyên tắc lớn thứ hai là nguyên tắc tách biệt Đảng và Nhà nước. Nói là Đảng lãnh đạo Nhà nước, điều đó không ai có ý kiến gì khác. Nhưng hai hoạt động phải tách riêng nhau, và sự tách rời đó phải thực hiện triệt để suốt dọc đường ranh giới. Trong điều kiện đó không nhất thiết và cũng không nên cử vào những vị trí trách nhiệm và chỉ huy những đảng viên mà đáng buồn là không phải bao giờ cũng có đủ trình độ văn hoá và năng lực. Tiêu chí cần ứng dụng trong việc tuyển chọn cán bộ không phải kể đến khả năng trí tuệ và nghề nghiệp của ứng viên. Guồng máy Nhà nước không những chạy tốt hơn mà còn tránh được những sự bất hoà giữa Đảng viên và người ngoài Đảng, giữa Đảng và nhân dân. Cho đến nay Đảng bao trùm lên trên và nuốt chửng Nhà nước và không ít người nghĩ rằng Đảng lãnh đạo và cai trị vì lợi ích của Đảng hơn là vì lợi ích của nhân dân. Rất khó kiêm nhiệm cả hai chức năng lãnh đạo và Chính phủ, cách nhìn rối mù, phân định sai các vấn đề và bất tiện lớn, bây giờ chưa xảy ra, nhưng có thể xảy ra, là Đảng phải chịu trách nhiệm về những lầm lỗi của Nhà nước, mà nhẽ ra Đảng phải như vợ của Cesar đứng trên mọi nghi ngờ, được hoàn toàn tin cậy và có một uy tín bất khả chê trách.
Cuối cùng, một nguyên tắc chót tôi mạn phép được lưu ý Chủ tịch, đó là nguyên tắc phải có ý thức rất rõ về Đảng, về những khả năng của Đảng. Đảng độc quyền nắm chính quyền. Có lẽ đó là một sự cần thiết trong thời chiến, nhưng tôi mong rằng Đảng, với sự khôn ngoan của mình, suy nghĩ về những trở ngại của việc nắm quyền chuyên chế và về những nguy cơ sẽ gặp phải khi không được một nền tri thức rộng rãi hỗ trợ. Sự độc quyền tuyệt đối về quyền lực tự nó một mình không thể thực thi được nếu không có sự góp sức của cả một đội quân trợ lý và người thừa hành, mà giá trị tài năng thường đáng xem xét, dễ mắc sai lầm đủ kiểu, thường khi không chủ tâm, nhưng rất hiếm vô tư. Đội quân đó lại kèm thêm một đội quân khác quan trọng hơn gấp hai lần, bao gồm những kẻ tay sai, xu nịnh hèn hạ thèm khát bổng lộc, tiền bạc, danh vọng, chỗ làm lương cao làm ít.
Bị giam hãm trong những thành người như vậy, làm sao chế độ độc quyền quyền lực có thể thực thi và đề ra được những quyết định sáng suốt, thích hợp, có hiệu quả? Và còn trong trạng thái bị mê hoặc vì tự mãn, say sưa về sức mạnh, thiếu chinh phục được tri thức rộng rãi, không có được một sự tiếp cận thích hợp, khách quan về thực tế, chế độ chuyên quyền tha hồ chủ quan, tự do duy ý chí và làm luật lệ lung tung, trái khoa học, trái lẽ phải, tác động tai hại đến uy tín của chính quyền và đến hạnh phúc của quần chúng rất bất bình với biết bao hành động thiếu đạo đức và ngu dốt. Giải pháp duy nhất của sự khôn ngoan là mở rộng tai nghe, mở rộng cửa cho người thứ ba, cho tiếng nói từ ngoài vào hoặc từ nhân dân đưa lên.
Thưa Chủ tịch, tôi xin lỗi đã lạm dụng sự kiên nhẫn của Người. Nhưng tôi đã được Chủ tịch cho phép. Vì tôi thiết nghĩ sẽ không còn bao giờ tôi có dịp được nói chuyện với Chủ tịch về những vấn đề mà tôi cũng như Chủ tịch đều quan tâm vì nó liên quan đến hạnh phúc và số phận tương lai của nhân dân và vì thời gian nói chuyện với Chủ tịch không bị hạn chế, tôi tranh thủ được có vinh dự này để trình bày với Người một số ý kiến xuất phát từ đầu óc một người trí thức yêu nước và chăm chú theo dõi quá trình những biến đổi đang diễn ra trong đất nước ta. Như Chủ tịch đã nhận thấy những suy nghĩ của tôi không phải bắt nguồn từ một học thuyết có giá trị và nổi tiếng như thế nào. Tôi không bị giam mình trong một đảng phái chính trị nào, không bị gò bó trong một giáo lý cứng nhắc nào, tôi có thể giữ được tính độc lập suy nghĩ của mình và để tâm nghiên cứu tình hình hiện nay, để rút ra những chỗ không hay cần kịp thời sửa chữa trước khi nó có thể gây tác hại xấu và dẫn tới hành động phá hoại. Với tất cả tấm lòng chân thành và thiện ý, tôi đã đề nghị một số biện pháp điều trị về chính trị và xã hội. Những biện pháp đó không mang dấu ấn lý thuyết chính thống hiện nay và có thể làm cho không ít những người đang nắm quyền lực bị sốc và bực dọc. Mặc kệ, thưa Chủ tịch, dù là phượng hoàng bay lượn trên trời cao, hay con giun bò trên mặt đất, tất cả đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước lịch sử.”
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:42:20 GMT 9
Quan điểm cuộc sống - Nguyễn Hộ-------------------------------------------------------------------------------- Triết học - tư tưởng - tôn giáo Văn học - Nghệ thuật Ngược dòng lịch sử Xin giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách của người cộng sản già Nguyễn Hộ, với những suy nghĩ và trăn trở khi nhìn lại những gì mình đã làm trước đây: Quan điểm cuộc sống - Nguyễn Hộ Một số trích đoạn đáng chú ý từ cuốn sách: Trích: Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có 2 liệt sĩ: Nguyễn Văn Đảo (anh ruột) - Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09/01/66 trong trận ném bom tấn công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Cũ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng Nha Cảnh Sát hồi tết Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục. Trích: E. Chủ Nghĩa Xã Hội Hay Là Chủ Nghĩa Tư Bản? Khôn Ngoan Và Trung Thực Trung Quốc và VN - hai nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Á- đã có nhận thức sớm là phải cải cách, đổi mới kinh tế, vì nếu cứ làm ăn theo lối cũ mãi thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội - một xã hội phồn vinh, giầu có, ấm no hạnh phúc. Cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở VN nói chung có nhiều điểm giống nhau: phục hồi kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân (tư bản trong nước) thậm chí mở cửa cho phép các nhà tư bản nước ngoài đầu tư, khai thác, kinh doanh tại nước mình tuy vẫn duy trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (sơ hữu toàn dân, tập thể- xí nghiệp quốc doanh, nông trang tập thể); thực hiện một nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, có lợi nhuận, có cạnh tranh. Điều có ý nghĩa quan trọng là kinh tế cá thể, tư nhân (tư bản trong nước) được phục hồi cùng với những hoạt động, kinh doanh của các công ty tư bản nước ngoài thì nền kinh tế ở mỗi nước (Trung Quốc, Việt Nam) trở nên sôi động với nhịp độ phát triển nhanh và cao, có một bộ mặt mới hẳn về kinh tế và đời sống, được dư luận rộng rãi trên thế giới hoan nghinh- điều mà trước đây chưa hề xảy ra. Từ thực tiễn đó đã bắt đầu có ý kiến trong cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc rằng: "có thể sử dụng những yết tố, hình thức, khía cạnh của chủ nghĩa tư bản để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội" và đến năm 1992 nhà lãnh đạo kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình lại nhấn mạnh: "Trung Quốc cần học tập chủ nghĩa tư bản, làm theo mô hình tư bản chủ nghĩa", "không nên câu nệ mèo đen hay mèo trắng miễn là nó bắt được chuột". Tuyên bố này được phổ biến rộng rãi khi Tổng bí thư Giang Trạch Dân phát biểu ý kiến với sinh viên Bắc Kinh giữa năm 1992. Lời tuyên bố ấy của ông Đặng Tiểu Bình có ý nghĩa rất quan trọng ở chỗ là từ trước tới nay, trong phong trào cộng sản quốc tế chưa hề có những ý kiến phát biểu như vậy, vì nó trái hẳn với chủ nghĩa Mác Lenin và tất nhiên nó sẽ được coi là "hành vi phản bội" chủ nghĩa Mác Lenin. Bởi lẽ, theo tư tưởng Mác Xít, Lê-Nin-Nit, chủ nghĩa xã hội có thể tồn tại trên cơ sở phải tiêu diệt chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu cá thể, tư nhân) - môi trường sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, ra giai cấp người bóc lột người, để thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, tập thể)- "nền tảng vững chắc của chủ nghĩa xã hội". Cho nên sự tồn tại và phát triển của kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa với lợi nhuận, cạnh tranh và giai cấp người bóc lột người - đối kháng của chủ nghĩa xã hội thì không thể gọi là chủ nghĩa xã hội được. Sở dĩ Trung Quốc đạt được thành quả lớn lao về kinh tế như ngày nay sau 14 năm cải cách và mở cửa là nhờ có trên 80 tỉ đôla đồng vốn của tư bản nước ngoài đổ vào Trung Quốc và hàng năm (1991-1992) Trung Quốc có được số vốn nước ngoài 10 tỉ đôla - điều mà trước đây đảng cộng sản Trung Quốc nằm mơ cũng không hề có. Thị trường chứng khoán cổ máy cái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - được mở ra và phát triển mạnh mẽ ở Thẩm Quyến rồi lần lượt ở nhiều nơi khác của Trung Quốc; những đặc khu kinh tế được xây dựng ở Quảng Đông, các vùng ven biển càng làm cho nền kinh tế Trung Quốc mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản. "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" là "chủ nghĩa xã hội" không theo tư tưởng Mác Lenin, đảo ngược hoàn toàn chủ nghĩa Mác Lenin. "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" là chủ nghĩa tư bản đích thực ở Trung Quốc. Như vậy chủ nghĩa tư bản được xây dựng ở Trung Quốc chính là thông qua sự lãnh đạo vòng vèo đầy mưu lược của đảng cộng sản Trung Quốc - đảng của chủ nghĩa Mác Lenin(?). Phải chăng đây là nghịch lý, ngược đời? Trích: A.- Dân Chủ Tự Do Là Thước Đo Chính Xác Về Lòng Trung Thành Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối Với Dân Tộc Mình Xã hội văn minh là xã hội dân chủ tự do. Ngược lại chính dân chủ tự do càng thúc đẩy nền văn minh phát triển. Vì vậy dân chủ tự do trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là yêu cầu không thể thiếu được của xã hội loài người. Do đó, đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, dân chủ tự do càng cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết. Dân chủ tự do là một trong những yếu tố căn bản nhất tạo nên định hướng chiến lược của Việt Nam. Vậy vấn đề dân chủ tự do từ trước tới nay ở Việt Nam ra sao? Từ khi ra đời năm 1930 đến năm 1945 (cách mạng tháng 8), Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp mặc dù trong hoàn cảnh thời gian nào đó, có một bộ phận của Đảng hoạt động công khai, bán công khai. Nhưng có điều xuyên suốt trong quá trình dài đó, Đảng cộng sản Việt Nam - người biết rõ khát vọng lớn lao về độc lập và dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam trên một thế kỷ làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) - đã luôn luôn phát động phong trào đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đòi dân chủ tự do gắn liền với cuộc đấu tranh đòi và bảo vệ lợi ích của quần chúng; cụ thể là đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội, lập nghiệp đoàn, tự do đi lại, xuất dương (ra nước ngoài), tự do kết hôn, nam nữ bình đẳng, tự do biểu tình, tự do đình công... coi dân chủ tự do là vũ khí sắc bén để bảo vệ lợi ích quần chúng; đồng thời là động lực phát triển phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng chống áp bức bóc lột, bất công. Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ (1955-1975), ở các cùng tạm chiếm (địch hậu) như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng v.v.., Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phát động quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, áp bức, đòi dân chủ, dân sinh kết hợp với đấu tranh võ trang cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Tại Sài Gòn - trung tâm đầu não của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây - bất chấp khủng bố, đàn áp dã man, quần chúng nhân dân thành phố liên tục vùng lên đấu tranh chống các chính quyền độc tài, phát xít, tay sai của đế quốc, đòi dân chủ tự do bằng hội thảo, báo chí bán công khai, bằng mít tinh biểu tình, đình công thậm chí bằng tự thiêu (của tín đồ Phật giáo). Do đó, đối với nhân dân Việt Nam nói chung đặc biệt với nhân dân Miền Nam (bao gồm thanh niên, phụ nữ, sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân lao động, nông dân, tín đồ Phật giáo, Công giáo và các từng lớp khác) nói riêng, vấn đề tự do dân chủ không phải là điều gì xa lạ đối với họ; mà ngược lại chính dân chủ tự do đã thấm vào xương, vào máu của nhân dân Việt Nam, đã trở thành giá trị thực sự được tạo ra bằng sự hy sinh lớn lao, dai dẳng thông qua thực tiễn đấu tranh ngoan cường, mặt giáp mặt với quân thù của dân tộc Việt Nam suốt 45 năm chiến đấu cách mạng. Đó là cái giá rất đắt phải trả cho một giá trị - giá trị dân chủ tự do. Điều đó có nghĩa là giá trị ấy tuyệt đối không thể biến thành đặc ân của bất cứ ai. Thế nhưng, từ sau thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam đi vào con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì bốn chữ: Dân chủ-Tự do và cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do dần dần bị lu mờ và tắt lịm; vì lúc bấy giờ, mọi người đều được giáo dục rằng: trong chủ nghĩa xã hội, mọi vấn đề đều có sự lãnh đạo của Đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ - xã hội thuộc địa. Trong chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân là một; giữa Đảng và nhân dân không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó, trong chủ nghĩa xã hội không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do vì chế độ xã hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là chế độ "dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản " (?) Trích: B.- Chủ Nghĩa Xã Hội Không Thể Công Nhận Có Đấu Tranh Của Quần Chúng Song, thực tiễn thì rất phức tạp, luôn luôn vận động theo qui luật và không hề diễn biến theo xét đoán chủ quan của con người. Vả lại, trong chủ nghĩa xã hội, thực tế thì có biết bao nhiêu vấn đề không tốt, không kém gì những vấn đề không tốt trong xã hội thực dân, đế quốc trước đây. thậm chí có những mặt còn nghiêm trọng, tồi tệ hơn nhiều; cụ thể là trong chủ nghĩa xã hội vẫn có những kẻ dựa vào địa vị, quyền lực mà áp bức, bóc lột quần chúng,cướp đất, cướp nhà, trấn áp, uy hiếp, trù dập quần chúng, bắt bớ giam cầm họ một cách phi pháp; xã hội dẫy đầy bất công tham nhũng, ăn hối lộ "tràn đồng"; thất nghiệp, ăn mày, làm đĩ nhan nhãn; giết người cướp của lộng hành; đồng lương chết đói kéo dài 15-20 năm không được cải thiện trong khi giá cả cứ tăng vùn vụt 10 lần, 20 lần...(năm 1975: 1 tô phở chỉ có 5 đồng nhưng đến năm 91-92 là 2000 đồng trở lên và mọi thứ hàng hóa khác đều tăng giá giống như vậy). Do chính sách độc tài, do bị kiềm kẹp nặng nề và sợ bị "chụp mũ", bị trấn áp nên quần chúng nhân dân ngán ngại đấu tranh đòi và bảo vệ quyền lợi bức bách của mình như vấn đề tiền lương, giá cả, thuế khoá, nhà ở, ruộng đất, sa thải, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ, bắt bớ giam cầm trái phép, v.v... và đành phải im hơi lặng tiếng, cam chịu lầm than cơ cực, sống cuộc đời nô lệ như xưa kia mặc dù vẫn mang danh là công dân của nước Việt Nam "xã hội chủ nghĩa". Rõ ràng ở Việt Nam - đất nước của một dân tộc anh hùng - chỉ có độc lập (không còn bị nước ngoài thống trị), chớ không hề có dân chủ tự do, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, mặc dù nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh hàng triệu người cho cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân tộc, vì dân chủ tự do và vì ấm no hạnh phúc (tuy về kinh tế với chính sách đổi mới gần đây, người nông dân được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và người sản xuất kinh doanh được tự do hoạt động theo ngành nghề của họ). Trích: C.- Hậu Quả Gì Khi Các Quyền Dân Chủ Tự Do Của Nhân Dân Bị Tước Đoạt Ai cũng biết rằng độc lập dân tộc, dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc là những nội dung, yêu cầu rất quan trọng mang tính chất chiến lược tuy nó có khác nhau nhưng lại quyện chặt vào nhau trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt nam - cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ và toàn thắng. Chính vì lẽ đó mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lời giáo huấn sâu sắc là:" Không có gì quí hơn độc lập tự do", có độc lập mà không có tự do ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa. Nhưng điều khó hiểu là những người kế tục sự nghiệp cao cả của cụ Hồ, một mặt luôn luôn đề cao tư tưởng Hồ Chí minh, mặt khác thì lại vô hiệu hóa lời dạy ấy của Cụ, đã tách dân chủ tự do khỏi nội dung độc lập dân tộc. Cho nên ở Việt Nam, như đã nói trên chỉ có độc lập dân tộc chứ không có dân chủ tự do là như thế đó. Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt - thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm bất cứ trong hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù binh của Đảng cộng sản Việt Nam. Trên khắp thế giới sau thắng lợi của cách mạng và khi đã cầm quyền rồi, các Đảng cộng sản (Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Đông Ấu cũ, Cuba,...) đều trở thành các đảng độc tài, chuyên chế, phản dân chủ. Cho nên, các Đảng nói trên rất sợ dân chủ tự do, sợ nói đến dân chủ, sợ đối thoại với quần chúng và luôn luôn sẵn sàng đàn áp những quan điểm tư tưởng trái với mình, đàn áp những yêu sách về dân chủ của quần chúng mặc dù hằng ngày trên miệng của người lãnh đạo đảng luôn nói về "quyền làm chủ của nhân dân", trong khi trên thực tế, các quyền dân chủ tự do của công dân như hiến pháp qui định đã bị chà đạp trắng trợn thì lấy gì để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với đất nước xã hội (làm chủ khác hẳn với làm theo lịnh của cấp trên). Khi nói đến nhân dân quần chúng là phải nói đến vấn đề dân chủ. Chỉ có thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của nhân dân thì người lãnh đạo mới thiết lập được mối liên hệ chân chính giữa mình với nhân dân quần chúng. Nhân dân bị kiềm kẹp, không được quyền tự do bộc lộ ý kiến tư tưởng, quan điểm, tâm tư nguyện vọng của mình mặc dù có thể nó không phù hợp với quan điểm của lãnh đạo thì làm sao giải thích được rằng đất nước này đã có dân chủ tự do? Trích: D.- Ai Khác Ý Kiến Quan Điểm Thì Bị Qui Chụp Trấn Áp. Phải chăng Việt Nam đã có "dân chủ tự do" khi mà một uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (khoá 6) Trần Xuân Bách chỉ vì phát biểu ý kiến về vấn đề đa nguyên chính trị (dân chủ-công khai-đa đảng) thì lập tức bị lên án, bị cách chức ngay? hay như ông Bùi Tín - Phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan trung ương của ĐCSVN) phải tìm cách ra nước ngoài để được tự do phát biểu ý kiến của mình về chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với nhân dân cả nước và thế giới? Phải chăng đó là dân chủ tự do khi nữ văn sĩ Dương Thu Hương phát biểu ý kiến phản đối chuyên chính vô sản, độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, đòi thi hành dân chủ tự do thì bị qui là "phản động" và bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt, bị giam (sau một thời gian thì được trả tự do nhờ có sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế) ? hoặc như Ông Nguyễn Thành Thơ ( Mười Thơ) - nguyên chủ tịch hội nông dân tập thể Việt Nam - bị quản thúc mấy năm liền chỉ vì Ông quyết tâm đấu tranh đòi Đảng và nhà nước trả lại ruộng đất (đã hợp tác hóa) cho người nông dân để họ được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và được cơm no áo ấm ? Phải chăng đó là dân chủ tự do khi Đảng cộng sản Việt Nam làm áp lực buộc hai Đảng Dân Chủ và Xã Hội - bạn đường kháng chiến mấy mươi năm của mình phải tuyên bố tự giải tán "vì đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" trong lúc nhân dân khắp thế giới đang vùng lên đấu tranh phá tan các chuyên chế độc tài và thành lập nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng ? hay như trường hợp của Ông Bảy Triển - Phó giám đốc đài truyền hình Cần Thơ - bị cách chức và cho nghỉ hưu chỉ vì ông đã làm tốt chức năng thông tin của mình, tường thuật đầy đủ trong 7 đêm liền diễn biến của phiên toà xét xử Dương văn Ba (cán bộ kinh tế của tỉnh) tại tỉnh Minh Hải (đầu năm 1990) và phiên toà được lãnh đạo đánh giá là "xét xử đúng đắn"? (vì lãnh đạo chỉ cho phép đưa tin về kết qủa xét xử, tuyên án chớ không cho phép tường thuật toàn bộ diễn biến của phiên toà. Vả lại, đông đảo nhân dân và cán bộ nghỉ hưu Đồng bằng Cửu Long phản đối phiên tòa và đã có đơn tập thể khiếu nại, đòi xét xử lại). Phải chăng đó là dân chủ tự do khi những người kháng chiến thời kỳ ở Sài Gòn không được quyền lập Hội những người kháng chiến mà chỉ được phép lập Câu lạc bộ thôi, không được quyền hội thảo chống tiêu cực, không được quyền làm mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống (Nam Bộ kháng chiến), báo "Truyền thống kháng chiến" bị tịch thu và bị đình bản, Câu lạc bộ những người kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh bị cấm hoạt động và cuối cùng nhiều cán bộ của Câu lạc bộ những người kháng chiến TP kể cả chủ nhiệm bị bắt, bị giam, bị quản thúc (từ đầu năm 1990) thậm chí nhiều người có quan hệ tốt với CLB những người kháng chiến thành phố (đọc báo "truyền thống kháng chiến", dự hội thảo...) ở các tỉnh Sông Bé, Tiền Giang, Cửu Long, Hậu Giang,...cũng bị khủng bố, đàn áp? Trích: G.- Đa Nguyên: Biểu Tượng Muôn Màu Muôn Vẻ Của Mọi Sự Vật. Chúng ta biết rằng tạo hóa, thiên nhiên vạn vật, xã hội loài người, tất cả điều là biểu tượng của đa nguyên - tổng hợp những cái khác nhau của mọi sự vật và thúc đẩy sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng. Khi nói đến vũ trụ, người ta nghĩ trong đó không những có mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao hỏa, sao kim mà còn có hàng triệu, hàng tỷ thiên hà và mỗi thiên hà có hàng triệu hàng tỷ vì sao (hành tinh) mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy rõ. Còn nói đến sự vận động của trái đất, nó không những tạo ra ban ngày ban đêm, mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm sáng trăng, đêm tối như mực, bốn muà: xuân, hạ, thu, đông; mưa nắng mà cả bão lụt dông tố, hạn hán, động đất, hoạt động của núi lửa, dòng chảy dữ dội và tàn phá của dung nham; những cơn lốc rất tai hại; những đợt nước biển dâng cao kéo theo nhiều thảm họa, đất sụp, núi sụp... Rừng không những ở núi cao mà còn có rừng ở thung lũng, đồng bằng và dưới nước (rừng sát). Điều chắc chắn là sự cấu tạo của rừng sát hoàn toàn khác với rừng trên núi cao. Rừng không những có nhiều loại cây rất phong phú mà còn có nhiều loại thú, loài chim khác nhau thậm chí có những loại hoa hương sắc kỳ diệu và các loại cây thuốc trị bịnh quí giá. Có vườn hoa nào mà chỉ có một loại hoa, ít nhất phải có hàng chục, thậm chí hàng trăm loại với hàng trăm màu sắc lộng lẫy và hương thơm đậm đà quyến rũ. Trong văn học nghệ thuật, tự do cá nhân của con người được nẫy nở bao nhiêu thì văn học nghệ thuật được nẫy nở bấy nhiêu. Chính sự nẫy nở tự do ấy tạo nên sự khác nhau - muôn màu, muôn vẻ - trong văn học nghệ thuật mà người ta thường gọi đó là sự sáng tạo đầy cá tính. Có vậy, văn học nghệ thuật mới có ý nghĩa lớn lao và không ngừng phát triển. Nếu ca hát giống nhau, âm nhạc giống nhau, viết văn giống nhau thì văn học nghệ thuật còn có ý nghĩa gì? Nói "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là thừa nhận tính chất đa nguyên của mọi sự vật, của mọi lãnh vực. Trong xã hội loài người gồm nhiều màu da, sắc tộc ở nhiều nước khác nhau trên nhiều Châu và đại dương khác nhau (Châu Á, Châu Ấu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc; Thái bình dương, Đại tây dương, Ần độ dương, Bắc băng dương); và trong một nước cũng có nhiều dân tộc, sắc tộc, nhiều tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán khác nhau: nhiều giai cấp, giai tầng, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và nhiều Đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau. Vậy tại sao ở Việt Nam cũng có nhiều dân tộc, nhiều giai cấp, giai tầng, nhiều tín ngưỡng tôn giáo, nhiều trình độ học vấn và môi trường đào tạo khác nhau,...lại chỉ được quyền tồn tại một quan điểm, một tư tưởng, một Đảng thôi? Trong khi đó ở khắp thế giới - 5 châu, 4 biển - đâu đâu cũng thấy có sự tồn tại và phát triển của nền chính trị đa nguyên, dân chủ đa đảng (ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada, Ần độ, Ang-giê-ri, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Nam Phi, các nước Bắc Ấu, Châu Mỹ la-tinh,...), đặc biệt ở Cam-pu-chia - nước láng giềng mà Việt Nam với tinh thần "quốc tế vô sản" đã hy sinh biết bao xương máu tại đây để giúp bạn "bảo vệ độc lập" và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" - vào cuối năm 1991 đã tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội, từ bỏ chủ nghĩa độc nguyên - độc quyền lãnh đạo của Đảng - biến Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (tức đảng cộng sản) thành đảng của nhân dân Cam-pu-chia; chủ trương thi hành chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà bình, thi hành chính sách dân chủ - đa nguyên, đa đảng và xây dựng một nền kinh tế thị trường sống động (kinh tế tư bản) ở Cam-pu-chia.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:43:49 GMT 9
Chia tay ý thức hệ - Hà Sĩ Phu-------------------------------------------------------------------------------- Triết học - tư tưởng - tôn giáo Bình luận: Đây là một bài viết rất hay của ông Hà Sĩ Phu phân tích những sai lầm trong học thuyết Mác - Lênin, chứng minh học thuyết này chỉ là biến tướng của chế độ phong kiến. Bài viết này đã được gửi tới các trung tâm nghiên cứu Triết học Mác - Lênin từ năm 1995, nhưng không được bàn đến hoặc đăng tải. Tác giả bài viết này hiện đang bị quản thúc tại Đà Lạt. Các bác có thể tải xuống toàn văn bài viết ở đây: CHIA TAY Ý THỨC HỆ - HÀ SĨ PHU Dưới đây là bài giới thiệu do Nguyễn Thanh Giang viết: “Chia tay ý thức hệ" để "dắt nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ” Nguyễn Thanh Giang Đấy là lời kêu gọi thiết tha của tiến sỹ sinh vật học Hà Sỹ Phu - nhà trí thức uyên thâm, nồng nàn yêu nước. Hà Sĩ Phu tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh ngày 22-4-1940 tại thôn Lạc thổ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình nhà nho nghèo. Cha dạy chữ nho, bốc thuốc, làm ruộng, có khoảng mười năm làm hàng mã ở Lạng Sơn. Mẹ buôn bán nhỏ, khi Bắc Ninh - Lạng sơn, lúc Kiến An - Hải Phòng - Hà Nội. Năm tuổi bắt đầu học chữ nho. Bảy tuổi đi học quốc ngữ ở trường tiểu học Lạc Thổ. Học thành trung (đệ thất đến đệ tứ) tại trường Ngô Quyền (Hải Phòng) và Nguyễn Trãi (Hà Nội), tức là trong vùng Pháp chiếm đóng. Sau 1954, dưới chính quyền mới, tiếp tục học cấp 3 (tú tài) tại trường cấp 3 Trần Phú, Vĩnh Phúc. Giai đoạn này Xuân Tụ ở với gia đình người anh cả. Do anh cả lương thấp lại đông con, ngay trong những ngày còn học cấp 3 Xuân Tụ đã rủ một bạn cùng lớp mở một cửa hiệu kẻ biển, vẽ quảng cáo để có tiền mua sách vở. Tốt nghiệp phổ thông, xin làm giáo viên cấp 2 hai năm rồi tiếp tục đi học đại học. Chàng sinh viên nhỏ nhắn, tài hoa vừa học vừa nhận vẽ tranh cho nhà trường. Năm 1965 tốt nghiệp khoa Sinh học tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Quãng đời học sinh-sinh viên của anh là một quãng đời oanh liệt. Học giỏi cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, năm nào cũng đứng nhất nhì lớp. Bài làm văn của anh thường được thầy đem đọc cho các lớp khác nghe. Ban nhạc, ban kịch, ban báo của lớp không thể thiếu mặt anh. Hiền lành, yêu thầy mến bạn và được bạn mến thầy yêu là những ký ức về anh ở trường. Tốt nghiệp đại học, Nguyễn Xuân Tụ làm giảng viên Đại học Dược khoa Hà Nội, rồi làm cán bộ nghiên cứu ở Viện Dược liệu Trung ương. Với tư chất trác tuyệt, anh được cử đi làm nghiên cứu sinh ở Viện Hàn lâm Khoa học Tiệp Khắc (1978-1982) về ngành Nuôi cấy mô và tế bào. Nguyễn Xuân Tụ là người đầu tiên đưa cây Tam thất của Việt Nam vào quy trình nghiên cứu nuôi cấy in-vitro tức nuôi cấy trong ống nghiệm (1977) để thu sinh khối và nhân giống. Về nước với văn bằng Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) ông được giao phụ trách nhóm Nuôi cấy mô những cây thuốc quý tại Viện Khoa học Việt Nam rồi được đề bạt phó giám đốc Phân viện Sinh học Đà Lạt. Năm 1993, do kiên quyết đấu tranh và phản đối những việc làm phi lý, hại cho khoa học, ông nghỉ hưu khi mới 53 tuổi. Một số bạn bè khoa học ở Tiệp Khắc kể rằng, suốt bốn năm làm nghiên cứu sinh, ông say mê miệt mài đèn sách, không hề biết đến vui chơi, giải trí. Ông tâm sự rằng lúc ấy tâm trí bị lôi cuốn hết vào một ước mơ, khi về nước sẽ phát triển ngành Nuôi cấy Mô và Tế bào mà ông là một trong hai phó tiến sĩ đầu tiên của đất nước về chuyên ngành mới mẻ này. Nhưng, khi về nước ông thấy xã hội đã đổi khác, không còn là cái xã hội đầy lý tưởng và trong sáng như lúc ra đi. Thế là, ôm trùm lên cái hoài bão nuôi cấy mô và tế bào sinh học là nỗi trở trăn da diết ngày đêm về sự phát triển dị dạng đau lòng của cơ thể xã hội Việt Nam. Và, ông quyết tâm đi tìm cái nguồn cội sâu xa của tội trạng đó. Cơ duyên của Hà Sĩ Phu với lý luận xã hội học thực ra nẩy sinh đã từ lâu. Ông nói với bạn bè: học bạ của tôi ở Đại học Tổng hợp các môn học đều đạt điểm tối ưu, riêng triết học chỉ đạt điểm trung bình. Ngay khi học triết học mác-xít ở Đại học tôi đã thấy nó vương vướng thế nào ấy. Nó chống lại những tư duy khoa học tự nhiên mà tôi tiếp nhận được, nhất là chống lại Tiến hóa luận rất khoa học của Darwin. Khi con đường nghiên cứu sinh học bị tắc nghẽn thì cái bào thai lý luận xã hội học đã nảy mầm từ những năm trai trẻ ấy cứ hấp thu sinh khí của cuộc sống mà lớn dần lên. Và, đến ngày tháng nó phải đạp thủng mọi chướng ngại để ra đời. Năm 1988, cách đây 14 năm, bài “Dắt tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí tuệ” xuất hiện. Bài viết chỉ vỏn vẹn mười trang. Năm năm sau, Hà Sĩ Phu bồi thêm hai bài nữa, dài hàng trăm trang, toàn diện hơn, sâu sắc hơn, quyết liệt hơn, giàu tính học thuật hơn. Đó là các tác phẩm: “Đôi điều suy nghĩ của một công dân” và “Chia tay Ý thức hệ”. Ba bài lý luận cơ bản đó thể hiện quá trình diễn giải và quy nạp xã hội học một cách khoa học và hệ thống của nhà trí thức tài năng và can trường này. Đã từng miệt mài trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, Hà Sĩ Phu hiểu khoa học ứng dụng chỉ có thể xuất hiện và phát triển trên nền tảng của khoa học cơ bản. Ông cho rằng trong khoa học xã hội cũng vậy, muốn xử lý những vấn đề của con người và xã hội trước hết phải hiểu đúng bản chất con người, bản chất xã hội cùng những quy luật cơ bản chi phối hoạt động và sự tiến triển của con người và xã hội. Vì thế, Hà Sĩ Phu không dành tâm lực bàn về những vấn đề chính trị và xã hội của Việt Nam hiện nay, mà quyết định trước hết phải cày xới lại những nhận thức cơ bản kia, những nhận thức mà ngày nay người thì cho là không cần bàn tới, người thì cho rằng những nhận thức ấy đã được nhân loại giải quyết xong từ lâu, hoặc cho đó là những vấn đề viển vông, hoặc cho rằng trong chủ thuyết Mác-Lê thì những vấn đề cơ bản ấy đã được nhận thức đúng, nếu có điều gì chưa đúng thì chỉ thuộc những phần vận dụng thôi. Hà Sĩ Phu cho rằng nguyên nhân dẫn dến những trục trặc khi vận dụng nằm ngay trong điểm xuất phát, từ những nhận thức cơ bản, từ trong nguyên lý thiết kế, nên đã kiên nhẫn lục soát lại từ gốc, đặc biệt là phần Duy vật lịch sử - phần triết lý về xã hội của Mác. Cứ thế, lần lượt từng công đoạn ông đã chỉ ra cho công chúng những lỗ hổng, những sai lạc, những ngộ nhận, những vết kém phẩm chất ngay tại những hòn đá tảng dùng để thiết kế nên cái đại công trình nhân loại có tên là Chủ nghĩa Xã hội. Trong đó, quan trọng hơn cả là ba luận điểm cơ bản sau đây: I) Trí tuệ là yếu tố quyết định sự tiến hóa của xã hội: Theo Hà Sĩ Phu thì toàn bộ vũ trụ, cả thế giới vô sinh và hữu sinh, trong đó bao hàm cả hai mặt vật chất và tinh thần không thể tách rời, đều tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp lên cao. Về quy luật tiến hóa của giới sinh vật thì khoa học tự nhiên đã khảo sát rất kỹ. Trong thế giới sinh vật, loài người là dạng cao nhất nhưng cũng không vượt ra ngoài những quy luật tiến hóa của sinh giới nói chung như học thuyết Darwin đã tổng kết. Tuy nhiên, ở loài người xuất hiện bước tiến nhảy vọt mang tính đặc thù là trí tuệ. Trí tuệ được lưu truyền và tích lũy trong ngôn ngữ, văn tự cũng như trong công cụ sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Vì thế trí tuệ là dãy số cộng dương cứ tăng liên tục, khiến cho xã hội sau nhất định tiến hóa cao hơn xã hội trước. Các tập đoàn người khác nhau có thể dùng trí tuệ để tiêu diệt nhau nhưng chính trí tuệ thì không bị tiêu diệt; chẳng những thế, không lùi mà chỉ gia tăng. Chính dòng gia tăng không ngừng của trí tuệ mới thực sự là "cái lõi bên trong của dòng tiến hóa. Sự đấu tranh nói chung (trong đó có đấu tranh giai cấp) chỉ là cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng kèm theo của sự tiến hóa, chứ không phải động lực của sự tiến hóa như học thuyết Mác-Lê đã lầm tưởng và khẳng định". Học thuyết mác-xít nói đến tiến hóa của loài người mà không thừa nhận những quy luật tiến hóa của Darwin (trước hết là quy luật đấu tranh sinh tồn) là một sai lầm tai hại. Không thấy rõ hạt nhân của tiến hóa là trí tuệ, quy cho hạt nhân tiến hoá xã hội là đấu tranh giai cấp, học thuyết Mác chẳng những đã coi nhẹ vai trò hợp tác toàn cầu của trí tuệ mà còn dẫn dắt toàn cầu vào trận chiến đấu tranh giai cấp một mất một còn triền miên. Cho nên, dù muốn hay không, ở đây cũng biểu hiện tính phi nhân bản của chủ nghĩa Mác. Hà Sĩ Phu còn vạch rõ rằng ngay cả khi phân tích về sự bóc lột giá trị thặng dư, Mác cũng bộc lộ sự coi nhẹ vai trò của trí tuệ. Đây cũng lại là lỗ hổng rất lớn của học thuyết kinh tế mác-xít. Đưa trí tuệ thành hạt nhân, thành động lực tiến hóa thay thế cho đấu tranh giai cấp có thể được coi là hòn đá tảng trong nhận thức tiến hóa của Hà Sĩ Phu, đối chọi quyết liệt với hòn đá tảng của học thuyết mác- xít. Vì thế không có gì lạ khi bài Dắt tay nhau, đi dưới những tấm biển chỉ đường của Trí tuệ (1988) vừa ra đời đã bị các nhà lý luận mác-xít tập trung phê phán quyết liệt trên các báo và tạp chí lý luận. Người ta công kích rằng: học thuyết Mác đã là kết tinh cao nhất của trí tuệ rồi, theo chủ nghĩa Mác là đủ, nhấn mạnh trí tuệ nữa là thừa! Tuy nhiên, phê phán Hà Sĩ Phu thì cứ phê phán nhưng Đại hội Đảng lần thứ 7 cũng đã lần đầu tiên phải đưa trí tuệ thành một tiêu chí của Đại hội ! Đến nay, các nhà lý luận mác-xít ngày càng ít nói tới đấu tranh giai cấp, trong khi đó, những khái niệm kỷ nguyên văn minh tin học, toàn cầu hóa, kinh tế tri thức đang tràn ngập xã hội. Phải chăng luận điểm của Hà Sĩ Phu về trí tuệ trong tiến hóa mặc nhiên đã được chứng minh ?. II) Xã hội là một hệ thống phân cực: Từ sự tiến hóa của tất cả tất cả các loài động vật có đời sống xã hội mà đỉnh cao là xã hội loài người, Hà Sĩ Phu khái quát rằng thuộc tính tất yếu của đời sống xã hội là tính có tổ chức, trong đó tất yếu hình thành hai cực thống trị và bị trị (hoặc lãnh đạo và bị lãnh đạo). Đó cũng là thực chất của sự phân chia giai cấp. Nhưng, đối lập với học thuyết đấu tranh giai cấp mác-xít, Hà Sĩ Phu không cho rằng hai giai cấp thống trị và bị trị là đối kháng một mất một còn, mà có quan hệ vừa tương sinh vừa tương khắc, vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, không thể tách rời nhau; vừa đấu tranh với nhau vừa là tiền đề của nhau, nương tựa vào nhau mà phát triển. Thế mới là biện chứng. Coi giai cấp thống trị là kẻ thù một mất một còn của giai cấp bị trị và chủ trương xóa bỏ giai cấp, để cho giai cấp bị trị tự quản như chủ nghĩa Mác-Lê là hoàn toàn phi thực tế, phi khoa học. Bởi vì, chính từ chỗ tự quản này sẽ lại hình thành sự phân cực mới, lại hình thành giai cấp bị trị và thống trị mới. Nó cũng giống như khi chặt bớt một cực của thanh nam châm thì chính tại chỗ chặt sẽ hình thành cực khác vì các thanh nam châm bao giờ cũng có hai đầu. Thực tiễn dường như đã chứng thực luận điểm này của Hà Sĩ Phu. Tuy nhiên, hệ quả của luận điểm cơ bản này mới đáng quan tâm hơn. Thừa nhận tính phân cực là tất yếu thì sự đấu tranh để phát triển không dẫn tới sự loại trừ nhau, mà dẫn tới một tương quan hợp lý hơn trong đó có quyền lợi hợp lý của cả hai bên. Từ đó bảo đảm sự phát triển bền vững hơn của toàn xã hội. Theo ông, sự thừa nhận lẫn nhau này chính là cội nguồn của dân chủ. Đây là một trong những luận cứ quan trọng để Hà Sĩ Phu kết luận chủ nghĩa Mác đã giải sai bài toán của nhân loại. Đây cũng đồng thời là một luận điểm quan trọng để Hà Sĩ Phu nói rằng, trong triết học mác-xít thì phần Duy vật lịch sử đã chống lại phần Duy vật biện chứng vì đã đưa ra những giải pháp ảo tưởng cực đoan phi biện chứng. Nhận thức như Hà Sĩ Phu thì dân chủ không chỉ là một phong trào, không chỉ là xu hướng của tổ chúc này hay tầng lớp nọ, không chỉ là con đường của quốc gia này hay dân tộc kia, mà dân chủ là con đường tiến hóa tất yếu, là đáp án không thể khác để giải bài toán khó nhất về tổ chức xã hội của loài người đối với quan hệ giữa hai cực lãnh đạo và bị lãnh đạo. Từ đây thấy rằng, lấy tính đặc thù của quốc gia để ngăn chặn sự phổ cập của dân chủ chỉ là sự ngụy biện mờ ám. Hà Sĩ Phu không hề phủ nhận đấu tranh giai cấp mà còn coi sự đấu tranh giữa hai giai cấp đối lập là tất yếu và luôn luôn cần thiết. Nhưng chủ trương đấu tranh giai cấp một mất một còn để xây dựng một xã hội mới không còn giai cấp thì chỉ là ảo tưởng về mục đích và quá tả về biện pháp. Mặt khác, khi kiềm chế sự tranh đấu của giới bị trị (vì cho rằng không còn giai cấp đối kháng) thì tức là lại chuyển sang quá hữu vì nó triệt tiêu lực thúc đẩy từ tầng lớp bị trị. Hà Sĩ Phu kết luận: về mặt đấu tranh giai cấp thì Chủ nghĩa Mác phạm cả hai sự thiên lệch cực đoan: vừa tả khuynh vừa hữu khuynh ! III) Chuyên chính vô sản là biến tướng của nền đức trị phong kiến: Hà Sĩ Phu cho rằng các nền chính trị xưa nay chung quy đều thuộc về một trong hai hệ: Đức trị và Pháp trị. Bắt cả xã hội phải quy về một mối dưới sự hướng đạo của một cái thiện độc tôn, đó là đức trị. Đức trị không thừa nhận sự đa dạng của xã hội, không thừa nhận đối lập chính trị. Trong nhiều thế kỷ, người ta cho rằng ép xã hội vào cái khuôn thiện như thế là đạo đức. Dần dần con người mới nhận ra tư duy này thật là ấu trĩ. Điều nghịch lý đã hiện hữu trong nhiều triều đại: đức trị thường dẫn đến cực đoan, tàn bạo và chống lại quyền con người. Không chấp nhận có cái thiện độc tôn, mà thừa nhận tính đa dạng của xã hội, trong đó tất yếu có đối lập; từ đấy chủ trương xã hội phải được điều hành bằng một khế ước xã hội do cả cộng đồng đa dạng và đối lập tạo nên. Đấy là cơ sở hình thành pháp trị. Nền chính trị pháp trị là bước tiến nhảy vọt của nhận thức xã hội. Nó phù hợp với thực tế khách quan và mở đường cho sự phát triển như vũ bão của trí tuệ, của nhân quyền và văn minh nói chung. Pháp trị chính là sự triển khai về chính trị của quy luật dân chủ hóa như cách phân tích ở trên. Nó là hệ quả tất yếu của tính phân cực. Do vậy dân chủ tất yếu phải đa nguyên. Điều này đối lập hoàn toàn với tất cả các nền đức trị, luôn chủ trương nhất nguyên, hoặc ở dạng này hoặc dạng khác. Theo Hà Sĩ Phu, nền đức trị đạt đến cực thịnh ở chế độ phong kiến và, chuyên chính vô sản là một biến tướng của đức trị ở thời điểm mà chế độ phong kiến đã cáo chung nhưng nền pháp trị mới hãy còn manh nha. Ông gọi chuyên chính vô sản là triều đại phong kiến cuối cùng, là phép thử cuối cùng của triết lý đức trị trước khi tắt hẳn. Khái niệm Đức trị và Pháp trị được Hà Sĩ Phu dùng với một nội hàm triết học như đã trình bày. Không thể hiểu chung chung rằng một xã hội có pháp luật hay đề cao pháp luật là một xã hội pháp trị. Nếu pháp luật xây dựng từ một quyền lực độc tôn, dựa trên một ý thức hệ độc tôn, với những đặc trưng cơ bản của triết lý đức trị thì xã hội đó không thể là xã hội pháp trị, nhà nước đó không thể là nhà nước pháp quyền. Do vậy, một khi đã chủ trương chuyên chính vô sản thì không thể nói đến nhà nước pháp quyền theo nghĩa chân chính đích thực của từ này. Và, khi không xây dựng một nhà nước pháp quyền chân chính vững mạnh thì không thể có khả năng quản trị một xã hội hiện đại với văn minh tin học, thị trường toàn cầu, pháp lý toàn cầu, cạnh tranh khốc liệt và đòi hỏi nhân quyền cao như hiện nay. Đó là ý nghĩa thực tiễn trong quan điểm lý luận này của Hà Sĩ Phu. Thêm một điều tầm bậy với ông Sáu Dân-------------------------------------------------------------------------------- Cuộc đời và sự nghiệp Trương Duy Nhất 06.10.2009 Thứ nhất, cái tên đại lộ Đông Tây hay hơn nhiều so với Võ Văn Kiệt. Thứ hai, thêm một lần nữa, người ta lại làm trái ý ông, không đếm xỉa đến lời van xin trước lúc qua đời của ông Kiệt: "Tôi chỉ có một yêu cầu: không đặt tên đường, không nhà lưu niệm (như dạng đền thờ)”. Khi tỉnh Quảng Ngãi đặt tên Võ Văn Kiệt cho một con đường tại khu nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất, tôi đã can bằng bài viết “Đặt tên đường- tha cho ông Kiệt”. Tất nhiên chẳng ai tha, không thấy ai phản ứng gì. Bà Cầm, vợ ông Kiệt cũng có mặt trong buổi lễ đặt tên đường. Sau đó đúng ngày giỗ đầu của ông, tỉnh Vĩnh Long quê ông quyết định xây nhà thờ Võ Văn Kiệt. Một khu “đền thờ” được xây dựng trên khuôn viên rộng 1,7 ha, với tổng kinh phí không dưới 34 tỷ đồng. Một lần nữa, tôi viết thêm một bài can “Tên đường & đền thờ Võ Văn Kiệt?”. Tất nhiên cũng chẳng ai thèm nghe. Cái đền thờ ấy vẫn được xây. Và chắc chắn tiền xây đền sẽ không bao giờ dừng lại ở con số 34 tỷ. Và đến nay, cái tên đường Võ Văn Kiệt lại chuẩn bị xuất hiện ở TP HCM. Tất cả đều lý giải rằng để tỏ lòng tri ân. Tôi nghĩ ngược lại: đó là những việc làm trái ý với người đã khuất, là tầm bậy, báng bổ với vong linh ông Sáu Dân. Rất khó hiểu khi không nghe được lời phản ứng nào từ phía thân nhân của ông Võ Văn Kiệt.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:54:05 GMT 9
Cuộc đời Stalin qua bộ phim "Staline tyran rouge"-------------------------------------------------------------------------------- Cuộc đời và sự nghiệp Ngược dòng lịch sử Ý kiến độc giả Nhìn ra thế giới saubook Đây là một bài viết của mình khi xem xong bộ phim tài liệu - "Staline tyran rouge" Một bộ phim tài liệu đáng xem. Nó giúp chúng ta có cái nhìn đa dạng, nhiều góc độ về con người Stalin, một thời đã là người Cha - người dẫn lối soi đường cho dân tộc Nga và cả người Việt Nam nữa. Tố Hữu với những bài thơ hết lời ca ngợi con người vĩ đại này, bao nhiêu gia đình treo ảnh một người đàn ông nước ngoài có ria mép rậm rạp trên bàn thờ. Đâu chỉ người Việt Nam mà rất nhiều người Cộng sản trên toàn thế giới ngưỡng mộ con người này. Vậy thì ngoài chân dung « vĩ đại » được vẽ lên bởi những tham vọng, âm mưu chính trị của Stalin, bởi những thước phim tuyên truyền thì ta sẽ thấy gì sau tấm màn nhung? Bộ phim này sẽ đem lại một cái nhìn khác về Stalin, bạn có thể tin hay ko thì tuỳ. Nhưng nó cũng sẽ khiến bạn phải trăn trở và suy nghĩ nhiều. Trong cuộc đời này, có cái gì là « trắng » hay « đen » hoàn toàn đâu. Nếu cái gì mà trắng quá hay đen quá thì khiến con người ta nghi ngờ. Sự giản dị như vậy thôi nhưng nó đâu có tồn tại ở nước độc tài, nơi mà người ta vẽ lên chỉ một màu hồng, người ta tuyên truyền những điều tốt đẹp mà không có thực. Tóm tắt về Stalin qua phim như thế này: 1. Sinh năm 1878, chết năm 1953, thọ 75 tuổi. Lên nắm quyền lực tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1928, 2 năm sau cái chết của Lê Nin. Như vậy là ông ta cầm quyền tuyệt đối lãnh đạo Liên Xô trong 25 năm trời. Một khoảng thời gian dài trong tăm tối, với những sự kiện lịch sử nổi bật của thế giới như chiến tranh thế giới thứ 2 từ 1939 đến 1945. 2. Hoàn cảnh gia đình: sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bố nghiện rượu. Ông không phải người Nga mà là người gốc Gruzia. Từ bé đến lớn và cả trong 25 năm lãnh đạo không rời chân khỏi nước Nga vì sợ đi máy bay. Thực ra thì có ra nước ngoài, cụ thể là Berlin khi mà Liên Xô tiến đánh Berlin và đánh bại Hitle năm 1945. Nhưng ông đi bằng tàu hoả được bảo vệ cẩn thận từ Mát-cơ-va đến Berlin. Không bước chân ra khỏi đất nước, không thèm nhìn thiên hạ thế nào, không thèm giao du với các nước có ý thức hệ khác. Đó là Stalin, và đó cũng là hình ảnh của Mao Trạch Đông bên Trung Quốc. Cả đời không ra khỏi đất nước, coi mình là cái rốn của vũ trụ và những kẻ khác là đồ vứt đi hết. 3. Staline là tên sát nhân nổi tiếng nhất, và đứng vị trí số một trong thế kỉ 20 và cũng là trong lịch sử. Ông đã có "công" giết chết 20 triệu người với những tội danh: chống cách mạng, chống lại tổ quốc, những người có tư tưởng khác, rồi tội danh dám « chết đói », dám « lan truyền bệnh tật », rồi gánh những tội danh «làm nền kinh tế kiệt quê », v.v... Nói chung là chả có cái gì là không thành tội được cả. Với một phương châm giản dị « cái chết sẽ giải quyết được hết vấn đề ». Ta sẽ thấy thật man rợ với những chiến dịch thanh chừng tố cáo, với chiến dịch bắt đi trại tập trung, trại cải tạo. « Con người cải tạo con người », đó là phương châm để tống những kẻ không cùng tư tưởng và những kẻ chống đối mình vào trại cải tạo. Man rợ, nhân danh ai mà đi cải tạo kẻ khác vì nó không giống mình. 4. Những hình ảnh trái ngược trong phim sẽ cho thấy bức tranh rõ ràng của « sự tuyên truyền », của propagande nó nguy hiểm thế nào. Trong khi người dân thì chết đói đầy đường, trên cánh đồng cằn cỗi, bao nhiêu người phải lao động trong trại cải tạo, lao động trong những công trường nguy hiểm thì trên tivi, trước mặt các khách tham quan vẫn là những hình ảnh chàng trai cô gái trẻ trung vừa lao động vừa ca hát, những điệu múa ballet cho Staline, những cảnh ấm lo hạnh phúc của người dân. Cái sự tuyên truyền là vũ khí cực kì lợi hại của những tên độc tài, nó được dùng vô cùng hiệu quả với phương châm « nói một lần anh là con lợn, anh sẽ ko tin. Bảo anh 10 lần anh là con lợn, anh cũng chả tin. Nhưng nếu bảo anh 100 lần anh là con lợn thì nó sẽ tự nhiên vào đầu anh và anh là con lợn thật ». Trong phim này, ta thấy những kỹ thuật chiêu thức tuyên truyền được dùng: (1) Bộ mặt thật của Staline thì xần xùi, lở loét (do một chứng bệnh ngày bé để lại di chứng), nhưng khi nên tivi và báo chí thì bộ mặt này được tẩy sửa trông rất đẹp. (2) Để xoá sổ một người thân cận, có chụp trong một số bức ảnh công bố trước đó, có gì khó khăn đâu: chỉ việc dùng kĩ thuật tẩy xoá hình ảnh của kẻ đó trong bức ảnh, còn giữa nguyên các nhân vật còn lại. (3) Có thể dùng người đóng thế vai Stalin trong những dịp ở nước ngoài, ví dụ ở Berlin. (4) Tổ chức những chuyến viếng thăm đất nước cho du khách nước ngoài, nhưng có lên lịch trình cụ thể, cho người ra đóng vai dân thường, sống cuộc sống no đủ hạnh phúc. Cách thức này đâu đã hết hiệu lực. Mianma và Bắc Hàn cũng đang sử dụng chiến thuật này. Tuy nhiên, con người bây giờ khôn hơn trước rồi, họ nhìn thấy thế nhưng chả còn ai tin vào nó như trước nữa. (5) Bịa ra số liệu để chứng minh cho sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế. Rồi chỉ vì hoàn thành kế hoạch được giao mà không kể đến tính hiệu quả của công việc. (6) Tạo ra những người anh hùng dân tộc, anh hùng lao động, anh hùng đào than, anh hùng lái máy bay, v.v... Nikolai Yezhov đã từng là cố vấn tin cậy của Stalin. Nhưng khi anh ta trở thành kẻ thù của Stalin, hình ảnh của anh ta bị loại bỏ khỏi các bản tin công. Những tấm hình này là một phần của 'Những câu chuyện từ nước Nga,' một triển lãm về các bức ảnh sai lệch tại Triển lãm Những Nhà Nhiếp Ảnh tại London. 5. Cái chuyện tố cáo mới thấy dã man làm sao. Một đứa bé khoảng 7-8 tuổi đứng ra tố cáo bố mình là «chống lại cách mạng». Bé thế thì biết thế chó gì là cách mạng, là chống cách mạng cơ chứ? Thế mà họ cũng tin và đem bố nó đi xử. Thực ra, phải nhìn cái quota số lượng người phải giết, phải bị bắt, phải bị tố cáo mới thật sự rùng mình. Không đủ số lượng người bị tố cáo thì phải cố mà tìm, mà moi móc ra ai đó để hoàn thành nhiệm vụ. 6. Gia đình riêng của Stalin như thế nào? Ông có một người vợ, 3 con (2 trai, 1 gái). Nhưng mà cũng giống như bất cứ người Cộng sản chân chính nào, ông phải hi sinh cuộc sống gia đình, hi sinh người thân vì nghĩa lớn. Mỉa mai làm sao, nghĩa lớn là gì? Lý tưởng là gì nếu như ta sống mà không có cuộc sống riêng. Vợ ông ko chịu đựng được người chồng dã man đã tự sát bằng một phát súng vào tim. Nhưng mà bà đâu có được yên thân. Ai dám thông báo rằng vợ của Stalin tự tử cơ chứ, thế là họ nghĩ ra lý do rằng bà bị bệnh tim rồi chết. Đã thế, người bạn thân của bà được « thuê » đến để « trách móc » bà rằng: bà ra đi bỏ lại Stalin bơ vơ một mình, bà có tội khi không ở cạnh « người cha của dân tộc ». May mắn là sau đó thì bà cũng được thanh thản và mọi người mới biết sự thật về cái chết của bà. Đứa con trai thứ nhất thì bị quân Đức bắt trong chiến tranh thế giới thứ 2. Hitle muốn trao đổi tù binh: trao đổi đứa con này để đổi lấy tự do của tướng Paulus (bị quân Liên Xô bắt trước đó). Nhưng Staline không chịu, ông quyết hi sinh đứa con trai của mình. Đứa con gái khi yêu một chàng trai Do Thái thì bị Stalin phản đối mãnh liệt. Bản thân quân đội Liên Xô mang danh không phân biệt chủng tộc nhưng Stalin thì vẫn ghét người Do Thái. Sau này, cô đã phải chạy sang Mỹ để sống. Cậu con trai cuối cùng thì nghiện ngập. 7. Trong mấy ngày cuối đời, khi Staline bị bệnh. Không một bác sỹ nào dám kê đơn thuốc cho ông, chỉ đơn giản vì sợ: nếu như kê thuốc ko khỏi bệnh thì cả gia đình sẽ bị trục xuất, và đưa vào trại cải tạo. Một kết cuộc bi đát cho một kẻ độc tài, và một kẻ « giết người nhiều nhất trong lịch sử ». Hai năm sau (1960), người kế nhiệm của Stalin đã xác nhận những tội ác dã man mà Stalin gây ra. Năm 1970 thì ở Pháp cũng xác nhận những tội ác này. Lưới trời lồng lộng, có tội thì sẽ bị vạch trần, ko sớm thì muộn. Nhưng tiếc rằng, đương thời thì ai làm gì được nhau, và các tội ác của Stalin đâu chỉ giới hạn trong mỗi liên bang Xô Viết, nó đã lan sang các nước Cộng sản anh em như Việt Nam và Trung Quốc.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:54:59 GMT 9
Kết quả điều tra mới: Lenin chết vì bệnh giang mai-------------------------------------------------------------------------------- Cuộc đời và sự nghiệp Nick Britten, The Telegraph Diên Vỹ, X-Cafe chuyển ngữ 22.10.2009 Xác ướp của Lenin Vladimir Lenin, nhà cách mạng người Nga và kiến trúc sư của Liên bang Xô Viết, đã chết vì bệnh giang mai do một gái mãi dâm từ Paris chứ không phải là do đột quị như mọi người hằng tin, một cuộc điều tra mới đây cho biết. Helen Rappaport, một nhà sử học và tác giả có tiếng đã nói rằng sách vở, tài liệu và nhật ký về Lenin được phát hiện từ năm ngoái đã cho thấy rằng ông bị vướng bệnh hoa liễu và đấy chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông. Bà nói rằng Lenin đã có nhiều triệu chứng của bệnh giang mai và nhiều người trong tầng lớp lãnh đạo Xô Viết cũng tin rằng ông đã mắc bệnh này. Tuy nhiên họ đã bị nghiêm cấm và doạ tử hình nếu công bố tin này vì ảnh hưởng tai tiếng mà nó sẽ gây ra. Thay vì thế, tài liệu chính thức cho thấy rằng nguyên nhân cái chết của ông là sự suy giảm sức khoẻ sau ba lần đột quị và một lần bị ám sát hụt năm 1918. Trọng tâm cuộc điều tra của bà Rappaport là bản báo cáo của Ivan Pavlov - người nổi tiếng nhờ phương pháp thí nghiệm về phản xạ Chó Pavlov - trong đấy đã viết rằng "cuộc cách mạng đã do một kẻ điên với mầm giang mai trong não." Trong khi những chỉ trích đối với Lenin bị cấm đoán và những ai mắc tội này thường bị tử hình thì Pavlov đã được tự do để mạnh mẽ lên án như thế vì Lenin đã đặc cách bãi miễn ông vì những đóng góp to lớn của Pavlov trong cộng đồng khoa học thế giới. Lenin, người lãnh đạo Bolsheviks, người tiên phong của chủ nghĩa cộng sản, đã lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Mười 1917, một bộ phận của cách mạng Nga đã lật đổ chính quyền và thành lập nhà nước Xô Viết. Ông đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Liên bang Xô Viết và là một trong những người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trong Thế kỷ 20. Ông qua đời vào tháng Giêng 1924 ở tuổi 53, sau khi trải qua ba lần đột quị trong hai năm trước đấy. Vào lúc cuối đời, ông đã bị liệt và ngớ ngẩn. Dùng những cơn đột quị làm nguyên nhân cái chết của Lenin, chính quyền Xô Viết đã cố gắng rất nhiều trong việc che đậy nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện điên loạn bất thường, những cơn giận dữ và cái chết quá sớm của ông. Bà Rappaport, một chuyên gia về lịch sử Nga và thành viên của một số hội nghiên cứu, bao gồm Hội Văn Bút và Nhóm Tác giả Oxford, đã nói rằng có bằng chứng về việc Lenin có thể đã mắc bệnh giang mai từ một gái điếm ở Paris vào khoảng năm 1902. Bà đề cập đến chi tiết này trong cuốn sách mới "Kẻ lập mưu: Lenin sống lưu vong". Bà nói:"Có một sự tin tưởng bất thành văn trong giới bác sĩ và khoa học gia nổi tiếng ở Kremlin rằng Lenin đã chết vì chứng giang mai, nhưng họ phải thông đồng im lặng hàng mấy thập niên vì áp lực của chính quyền. "Nhưng không ai đã lớn tiếng khi khẳng định việc này bằng Giáo sư Pavlov." Bà Rappaport nói rằng bằng chứng của những khẳng định của Pavlov được tìm thấy trong một cuộc trao đổi được ghi lại, hiện được giữ tại Đại học Columbia, New York, trong đó ông đã nói chuyện với một đồng nghiệp, bác sĩ Mikhail Zernov tại Paris vào năm 1928. Bà nói: "Pavlov cho Zernov biết rằng Lenin đã bị mắc chứng giang mai và trong thời gian làm lãnh đạo nhà nước Xô Viết, ông đã có những biểu biện thường thấy của một người bị bại liệt ngày càng nặng do chứng giang mai gây nên. Pavlov biết rằng những nhà khoa học tài ba đã được triệu đến để giám định não của Lenin sau khi ông chết vào năm 1924 và họ đều củng cố chẩn đoán trên. Đấy là một bí mật được lan truyền giữa những người này, nhưng dĩ nhiên chẳng ai tuyên bố công khai và cũng chẳng có tài liệu Xô Viết chính thức nào ghi lại việc này." Lenin không phải là nhà lãnh đạo đầu tiên bị dính chứng giang mai. Những trường hợp khác có tài liệu ghi lại gồm có vua Henry Đệ VII, Ivan Bạo Chúa, Adolf Hitler và Naopleon Bonaparte.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 5:10:13 GMT 9
TÊN ĐƯỜNG & ĐỀN THỜ VÕ VĂN KIỆT?truongduynhat | 31 May, 2009 Tên đường & đền thờ: Hai điều lo sợ nhất mà ông Kiệt yêu cầu như thể van xin đừng làm sau khi ông chết đã xảy ra. Hôm nay, tròn một năm ngày mất Võ Văn Kiệt. Hai điều ông lo nhất về mình sau khi chết rồi cũng không tránh được. Đó là chuyện đặt tên đường và xây đền thờ. Trước khi mất, lường đoán được việc này, ông Sáu Dân đã để lại di bút rằng "Tôi chỉ có một yêu cầu: không đặt tên đường, không nhà lưu niệm (như dạng đền thờ). (báo Pháp luật TP HCM và một số báo khác đã đăng tin này). Ông ra đi vài tháng. Mộ ông nằm cỏ chưa kịp xanh thì tỉnh Quảng Ngãi đã lấy tên Võ Văn Kiệt đặt cho một con đường mới mở trong khu lọc dầu Dung Quất. Khi đó, tôi đã viết một bài “Đặt tên đường- tha cho ông Kiệt”. Người ta lý giải rằng đó là cách tỏ lòng tri ân của nhân dân Quảng Ngãi đối với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt- người có công lớn trong quyết định chọn Dung Quất làm khu kinh tế và khu lọc hóa dầu đầu tiên của Việt Nam. Chẳng thấy ai phản ứng gì. Bà Cầm, vợ ông Kiệt cũng có mặt trong buổi lễ đặt tên đường. Hôm nay, tròn một năm ngày ông mất. Báo Tuổi Trẻ chạy trên trang nhất bài “Chờ một con đường mang tên ông”, với lời kêu gọi đặt tên đường Võ Văn Kiệt tại TP Hồ Chí Minh. Cũng hôm nay, báo Thanh Niên đưa tin Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long chủ trương xây dựng một khu lưu niệm Võ Văn Kiệt ngay trên quê hương ông- huyện Vũng Liêm. Khu lưu niệm Võ Văn Kiệt (gồm nhà làm việc, nhà nghỉ và… nhà thờ!) sẽ được xây dựng trên khuôn viên rộng 1,7 ha, với tổng kinh phí khoảng 34 tỷ đồng. Tất cả đều lý giải rằng để tỏ lòng tri ân. Có phải vậy không? Có phải cứ đặt tên đường, xây đền thờ mới là tri ân? Ngày giỗ đầu của ông, người ta tri ân bằng cách làm những điều mà ông không muốn làm. Tên đường, đền thờ: Hai điều lo sợ nhất mà ông yêu cầu như thể van xin ấy, rồi cũng xảy ra. Có cần một tên đường và đền thờ Võ Văn Kiệt? Không phải là con cháu ông, nhưng tôi muốn có một nén nhang thành tâm trong ngày giỗ đầu của ông rằng: Hãy tha cho ông Kiệt! Mặc dù tôi biết chắc rằng chẳng bao giờ họ tha ông. Di bút Võ Văn Kiệt gửi Thường vụ và Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Vĩnh Long yêu cầu không đặt tên đường và không xây nhà lưu niệm (như dạng đền thờ) Ông Tố Hữu-------------------------------------------------------------------------------- Cuộc đời và sự nghiệp BS Hồ Hải 04.10.2009 Tố HữuHôm qua, người ta làm khánh thành nhà lưu niệm ông Tố Hữu tại tư gia của ông. Người đã có công rất lớn trong việc định hướng tư tưởng và văn hóa nước nhà. Những việc ông làm không chỉ có thơ. Việc lớn nhất ông làm cho tổ quốc và dân tộc Việt là ông đã đưa được việc định hướng tư tưởng các thế hệ Việt Nam ở miền Bắc sau 1954 và cả nước sau 1975 là: tất cả mọi lĩnh vực ngành nghề trong cuộc sống phải có chính trị và tính chiến đấu phục vụ cho công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước mà không được phép xao lãng một phút giây. Việc ông làm lớn như Maxim Gorki bên Nga, và có thể còn lớn hơn khi hôm nay trong tất cả các trang sách học trò, báo chí và các phương tiện truyền thông khác đều vẫn còn tăm tắp vâng theo. Quả là một con người vượt tầm thời đại, đáng kính nể và đáng để được suy tôn cả hai nghĩa đúng và sai, vì cho tới hôm nay ảnh hưởng tư tưởng của ông không phải không còn ở hầu hết các lĩnh vực. Xét về mặt giải phóng và thống nhất đất nước, ông Tố Hữu đã có công rất lớn, không ai chối cãi được. Trong đó công lớn nhất đến nay vẫn còn tranh cãi là ông dẹp được Phong trào nhân văn giai phẩm. Và định hướng trong giáo dục phải đưa chính trị vào mà nó còn ảnh hưởng cho đến hôm nay. Xét về mặt ảnh hưởng của ông cho những khủng hoảng kinh tế thời ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (mà ngày nay tương đương chức Phó Thủ tướng Thường trực) thì cũng không nhỏ hơn. Nhưng chính nhờ ông đóng góp phần lớn vào việc khủng hoảng kinh tế đất nước cuối thập niên 1980 với chính sách "Giá-Lương-Tiền" mà đảng Cộng sản Việt Nam đã biết cởi trói ra khỏi kinh tế bao cấp và áp dụng kinh tế thị trường của miền Nam do Việt Nam Cộng hòa để lại. Nên đất nước có cơm ăn một chút ngày hôm nay. Nếu không có ông thì không thể thấy cái thành công cởi trói của ông Võ Văn Kiệt. Suy cho cùng ông cũng có chút công để "Cùng tất biến" như trong kinh Dịch mà người ta vẫn thường hay nói. Xét về mặt tư tưởng, nếu nước nhà không có ông thì sẽ khó lòng có bao thế hệ đổ máu vì sự nghiệp độc lập dân tộc. Ngoài ra, khi người ta quan niệm giáo dục là cung cấp cho các thế hệ bằng một tư duy độc lập, sự trung thực và một kiến thức tổng quát để chọn một hướng đi đúng cho từng đối tượng cụ thể, thì ông làm ngược lại. Nếu không có ông thì giáo dục nước nhà không có khủng hỏang như ngày nay, vì khi các thế hệ lãnh đạo kế tiếp ông có đủ trí và có đủ tầm thì sẽ thay đổi định hướng tư tưởng và văn hóa của ông thì đâu đến nỗi giáo dục xấu đi như vậy? Suy cho cùng thế hệ sau ông chưa có ai bằng ông. Nếu họ bằng ông thì họ đã thay đổi tư duy giáo dục của ông cho đúng thời hòa bình, chứ không giữ nguyên xi phiên bản mà ông Tố Hữu đã copy và paste về Việt Nam của ông Stalin mà bài bản đó đã được Mao cụ thể hóa cho các nước đi theo Cộng sản của châu Á noi theo. Ít ra thì họ cũng không làm được cái công việc copy và paste mà là copy và paste cái đúng với thời đại của họ, như ông đã làm. Trên bình diện quốc gia ông đáng để được làm nhà lưu niệm cho các thế hệ sau nhìn ông mà học cái hay lẫn cái dở để còn lo cho nước, cho dân. Đáng lắm thay. Riêng tôi, tôi nhớ đến ông là tôi nhớ đến những vần thơ rất bình dân, nhưng rất bác học của ông. Trong đó bài tôi nhớ nhất là bài: "Đời đời nhớ ông" khi ông Tố Hữu làm để ca ngợi ông Stalin vào tháng 3 năm 1953 trong tập thơ Việt Bắc. Trong bài thơ này 2 câu thơ mà tôi thán phục ông nhất khi ông đạt đến đỉnh cao thời đại khi ca ngợi 1 con người: "Yêu biết mấy, nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!" . Nhớ ông Tố Hữu rất, lắm, quá.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 11:03:07 GMT 9
CỤ VŨ ĐÌNH HÒE - CỰU BỘ TRƯỞNG TƯ PHÁP KỂ CHUYỆN VỀ LUẬT SƯ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÔNG CỐ VẤN VĨNH THỤY Bài và ảnh: Kiều Mai Sơn Cựu Bộ trưởng Vũ Đình Hòe, chiều ngày 21/8/2009 Chiều ngày 21/8/2009, bà Vũ Bảo Tuyên con gái của cụ Vũ Đình Hòe nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục trong Chính phủ Lâm thời tháng 8 năm 1945, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp (từ tháng 3 năm 1946 đến năm 1960 khi Bộ Tư pháp giải thể) dẫn tôi đến nơi hai cụ đang cư trú thuộc phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Bậc công huân của đất nước vịn ghế bước ra, phong thái quắc thước, mái tóc bạc phơ phơ rung rung theo, thần thái tinh anh. Tôi tới xin cụ kể cho một số kỷ niệm với GS.TS Luật sư Nguyễn Mạnh Tường nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh (16/9/1909 – 16/9/2009) người trí thức nổi danh trong nền giáo dục hai nước Việt – Pháp từ những năm ba mươi của thế kỷ XX. Là hàng cháu chắt, tôi giữ mãi ấn tượng về nụ cười hiền, tiếng nói vang và ấm của cụ Vũ Đình Hòe trong suốt câu chuyện: - Về luật sư Nguyễn Mạnh Tường, à hà. Bây giờ cũng lâu năm lắm rồi, quên hết rồi. Ông Nguyễn Mạnh Tường là người trí thức cao cấp, được cấp học bổng của Chính phủ Pháp, học giỏi, đỗ 2 bằng Tiến sĩ Quốc gia nước Pháp về Văn, về Luật. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 và trong kháng chiến tôi có tiếp xúc với ông rồi cũng có gặp nhau ở Mặt trận Tổ quốc. Đi theo kháng chiến cũng rất vất vả và ông Nguyễn Mạnh Tường làm được việc quý hóa đó là luật sư tích cực đi cãi cho người nghèo. Ở Tòa án, các vụ hình sự thường có luật sư giúp đỡ. Cãi trước tòa án quân sự, thứ nhất là những vụ về chính trị, thứ hai là những vụ phá rối là điều bắt buộc. Người Pháp thì vẫn cứ muốn lôi kéo ông Nguyễn Mạnh Tường về thành. Kéo không được thì họ làm trở ngại công việc của ông. - Có lần cụ từng kể, luật sư Nguyễn Mạnh Tường từng bào chữa cho ông Cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ tại Tòa án Quân sự. Sự việc này cụ thể ra sao ạ? - Ông Vĩnh Thụy được Chính phủ, được Cụ Hồ giao công tác tham gia đoàn đi sang Trung Quốc để gặp Trung ương Đảng Quốc Dân Trung Hoa -Tưởng Giới Thạch. Lúc bấy giờ cách mạng Trung Quốc chưa thành công, hãy còn đánh nhau giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng Sản. Mãi đến năm 1949 Đảng Cộng Sản mới đánh thắng được Tưởng Giới Thạch. Trước đó, Tưởng Giới Thạch có cộng tác đánh Nhật với Đảng Cộng Sản, hai lần hợp tác mà rồi nó lại giở chứng ra, thế là lủng củng hai phe, rồi mâu thuẫn, rồi đánh nhau bằng quân sự. Tôi không được đọc báo cáo của ông Vĩnh Thụy, chỉ có nghe nói chuyện lại lõm bõm thôi. Nửa đường ông Vĩnh Thụy lợi dụng cơ hội tìm cách đi Hồng Kông, nửa đường không về nước, từ đấy liên hệ với phái viên của Pháp. Dần già ông ấy chịu để Pháp lôi kéo đi ngược với đường lối đánh Pháp của dân ta, Chính phủ ta và Cụ Hồ. Việc đưa ông Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy ra xét xử trước Tòa án, Chính phủ ta phải cân nhắc nhiều. Tôi lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Tư pháp nên cũng được họp trong phiên Chính phủ họp bàn về xử vụ ông Vĩnh Thụy đào nhiệm. Đó là vào hồi năm 1950 - 1951. Cụ Hồ không muốn truy tố. Cụ tin là nếu mà mình khéo quan hệ thì vẫn có thể đưa ông ấy về lại với chính nghĩa được. Nhưng anh em khác thưa với Cụ Hồ là phong trào cách mạng trong nước yêu cầu phải truy tố. Bởi vì ông ấy là người của Chính phủ, làm Cố vấn tối cao, được cử đi làm công tác ngoại giao mà ông ấy lại đào nhiệm không quay về báo cáo với Chính phủ, với Hồ Chủ tịch, tự ý đi Hồng Kông… Để hợp thủ tục dân chủ, Hồ Chủ tịch đề nghị giơ tay biểu quyết. Tất cả thành viên Chính phủ đều giơ tay lên, trừ cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Cụ nói đồng ý là ông Vĩnh Thụy phạm tội nặng đối với Tổ quốc, nhưng cụ không nỡ giơ tay biểu quyết. Mọi người nhớ xưa cụ đã một thời giữ chức Thượng thư trong triều đình Bảo Đại. Cuối cùng Chính phủ quyết định giao cho Tòa án xét xử theo đúng pháp luật, phải làm đàng hoàng đầy đủ thủ tục, có luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt. Mấy tháng sau, Toà án quân khu III được thành lập do ông Lê Văn Chất làm Chánh án, ông Bùi Lâm làm Công cáo uỷ viên, một Hội thẩm chính trị là đại biểu quân đội, một Hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đình Trúc - Thẩm phán do Giám đốc Tư pháp khu III phái sang. Hai luật sư cùng bênh vực cho bị cáo Vĩnh Thụy là ông Đỗ Xuân Sảng và ông Nguyễn Mạnh Tường. Bản cáo trạng buộc tội ông Vĩnh Thuỵ rất đanh thép. Sau khi đã thực thi đủ thủ tục pháp lý và bàn luận kỹ càng, Hội đồng xét xử đã ra phán quyết vắng mặt bị cáo: Tử hình đối với Nguyễn Vĩnh Thuỵ về tội phản quốc. - Thưa cụ, tư liệu về phiên tòa xét xử ông Vĩnh Thụy ngày nay liệu có còn không ạ? - Có lẽ vẫn còn trong các Trung tâm lưu trữ Quốc gia của Trung ương Đảng. Xử xong anh em có báo cáo lên Chính phủ và Bộ Tư pháp. Tôi chỉ biết đến thế thôi. Nội dung lời biện hộ của ông Nguyễn Mạnh Tường rất tiếc là tôi không được trực tiếp nghe và cũng không được đọc bản án. Chuyện xảy ra đã lâu, tôi chỉ còn cảm tưởng: Nói chung là ông Nguyễn Mạnh Tường đã làm đúng nhiệm vụ của người luật sư. Pháp luật của mình lúc ấy, cũng chưa được hoàn chỉnh. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đề nghị ghi vào bản án xử theo điều luật của nhiều nước trên thế giới là: Tử hình vắng mặt, khi nào bắt lại được can phạm thì sẽ mở lại phiên toà chứ không được thi hành cái án đã tuyên trước đó. Tòa án cũng đồng ý. Vụ án ông Vĩnh Thụy được xét xử thận trọng, nghiêm minh, được dư luận dân chúng, nhất là anh em trí thức hoan nghênh, ủng hộ. *** Câu chuyện tạm thời bị gián đoạn vì căn bệnh giãn phế nang kinh niên trong cơ thể cụ. Cụ Vũ Đình Hòe là hậu duệ trực hệ của cụ Nghè làng Tự Tháp, Tiến sĩ Vũ Tông Phan triều Nguyễn, một danh sĩ ưu dân ái quốc, người đã cùng cụ Nguyễn Siêu và các danh sĩ Bắc Hà dựng lên quần thể kiến trúc quanh hồ Hoàn Kiếm với Đài Nghiên – Tháp Bút – Cầu Thê Húc – Đền Ngọc Sơn. Vào thành phố Hồ Chí Minh từ mấy năm nay để đảm bảo sức khỏe, cụ tiếp tục hoàn thành công trình nghiên cứu đang dang dở: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Sống ở đô thị phương Nam từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” nhưng cụ vẫn không nguôi nhớ về Hà Nội – Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi cụ đã sinh ra và thừa kế lớp sĩ phu yêu nước. Từ phòng tiếp khách trên tầng hai này nhìn ra ban công, khóm trúc trước cổng ngọn nhọn thẳng như Tháp Bút vươn cao như muốn làm dịu đi sự trần trụi của những khối bê tông cao tầng kiên cố xung quanh. Bên cạnh khóm trúc là cây lộc vừng chỉ thiếu một hồ nước để từng chùm hoa soi bóng lên mặt gương lung linh. Những chậu cảnh dọc hành lang, đĩa chuối đã đến đoạn “trứng cuốc” làm tôi nhớ nao lòng Hà Nội đã vào thu, cốm làng Vòng lúc này đã được các bà, các cô tung tẩy bán khắp phố phường quanh co dọc Bờ Hồ. Cũng chính tại ven Hồ Gươm năm trước, mùa thu 2008 cụ Vũ Đình Hòe ra Hà Nội, ông con trưởng của cụ - nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi đẩy xe đưa cụ thăm lại “lối xưa”. Đến trước gần đền Ngọc Sơn, cụ chỉ sang cửa hàng bán đồ lưu niệm nằm đối diện phía bên kia con phố, kể chuyện cho “thầy Khôi” và các cán bộ Văn hóa Thủ đô Hà Nội đi bên cạnh cùng nghe: “Đây là nơi ông nội anh (chỉ nhà giáo Vũ Thế Khôi) tiếp Cụ Hồ, vốn là đàn giảng kinh của cụ Lương Văn Can, cụ Nguyễn Thượng Hiền tham gia lập đấy. Ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập là Cụ Hồ đi thăm lại nhà cụ Lương Văn Can, rồi thăm bản điện Ngọc Sơn”. Cụ Xuân Tăng – Vũ Bội Hoàn, thân sinh ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe, là chủ bản điện đền Ngọc Sơn đã mười năm, từ năm 1936, thấy Cụ Hồ đến, cụ mừng quá chạy ra đón. Hồ Chủ tịch thân mật: “Thưa, cụ năm nay thọ bao nhiêu tuổi?”. Thưa cụ Chủ tịch, tôi tuổi Mậu Dần (1878). Thế là cụ hơn tôi hẳn một giáp. Xin rước cụ ngồi trước - Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp từ. Mặt nước Hồ Gươm xanh trong như thấu tận đáy. Ánh nắng lấp lóa làm tỏa rạng thêm khuôn mặt các cố lão ba mươi sáu phố phường. “Các cụ cao niên mà còn giảng thiện cho con cháu là quý lắm. Tôi xin được góp thêm một ý kiến: Xin các cụ giảng thêm cho điều thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ”. Có lẽ nên gắn biển di tích lịch sử Cụ Hồ từng đến nơi đây - Tiếng cụ Vũ Đình Hòe hòa trong gió thu. Như con tằm rút ruột nhả tơ, đi trọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đến nay tuổi đời đã ngót một thế kỷ, cụ Vũ Đình Hòe vẫn không nguôi nhớ bạn đồng nghiệp trong ngành giáo dục và luật học. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, cụ Nguyễn Mạnh Tường dạy trường Bưởi (nay là trường Trung học Quốc gia Chu Văn An) thì cụ Vũ Đình Hòe dạy trường tư thục Gia Long và tư thục Thăng Long. Khi cụ Vũ Đình Hòe tốt nghiệp khoa Luật khóa 2 của Đại học Đông Dương cũng là giai đoạn cụ Nguyễn Mạnh Tường mở Văn phòng Luật sư tại 77 Gambetta (nay là đường Trần Hưng Đạo – Hà Nội). Tháng 10 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe và luật sư Nguyễn Mạnh Tường lại cùng đứng chung bục giảng tại Ban Văn khoa trường Đại học Đông Dương. Cuối cùng cụ Vũ Đình Hòe hỏi tôi: - Không biết bà Tường cao tuổi lắm rồi đấy nhỉ. Bà có được khỏe không? - Thưa, cụ bà Nguyễn Mạnh Tường hai năm về trước bị ngã gãy chân và hoại tử chân, bà con gái Nguyễn Dung Nghi và ông con trưởng Nguyễn Tường Hưng phải mời thầy đến bó thuốc lá, nay cụ bà đã khỏi nhưng vì tuổi cụ đã cao nên không đi ra ngoài được ạ. - Ớ! Thế bây giờ bà ấy ở đâu? - Dạ thưa, cụ bà vẫn ở 34 Tăng Bạt Hổ – quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. - Tăng Bạt Hổ, vẫn cái nhà có vườn? Đấy là nhà của gia đình. Bà ấy là con cụ Tống Nguyên Lễ, tên bà là Tống Lệ Dung, cùng ở trong tổ Phụ nữ nội trợ trí thức của Trung ương Hội Phụ nữ. Bà xã nhà tôi lại là Tổ trưởng tổ ấy thành ra cũng đi lại khá thân. Nhưng mà có một dạo ít đi lại thăm nhau, bây giờ tôi nghĩ lại cũng cứ ân hận. Vừa lúc đó, bà Vũ Bảo Tuyên bước đến sau lưng tôi. Tôi nhìn đồng hồ, đã được bà “đặc cách” cho hầu chuyện cụ tới 30 phút. Tôi vội đứng dậy xin phép cụ ra về… TP. hcm ngày 23/8/2009
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 25, 2010 5:12:32 GMT 9
Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa
Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống - Mai Thanh Truyết
Thân tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương.
Bà Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) nằm xuống ngày thứ Bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ Ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2. Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trải và chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tai.
Ông HVN, Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y Tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ. Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước. Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu – Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận. Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó. Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như ông chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần "thông thoáng dân tộc", cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bo? không tiếp tục theo học trường nầy nữa. Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ bộ trưởng Kinh Tế nhưng ông từ chối. Ông HVN, bà DQH và Đảng Cộng sản VN Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính Phủ Cách mạng Lâm Thời Miền Nam, Ông Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần ông HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: ”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư Văn Khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (Tổng Thư Ký Viện Đại Học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng Không Dân Sự), và một người nữa người viết không nhớ tên, không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada. Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ tổng trưởng Y Tế, Xã Hội Và Thương Binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể Chính phủ Lâm Thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm. Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: ”Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân”. Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành. Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: ”Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp SG cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%. Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú nhận là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam. Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: ”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: ”Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”. BS DQH và Vụ kiện Da Cam Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng Thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất Độc Màu Da Cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) trong tương lai. Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội Vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do nhà nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm: - Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó chủ tịch nước làm chủ tịch danh dự; - Thượng Tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị QĐND làm chủ tịch; - GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên bộ trưởng Y Tế, chủ tịch Hội Hồng Thập Tự Việt Nam làm phó chủ tịch; - Ô Trần Văn Thụ làm thư ký. Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng: ”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da Cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân phục hồi hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội Nghị Quốc Tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi. Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho Tòa Đại Sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau: - Hội Nạn Nhân Chất Da Cam/Dioxin Việt Nam; - Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư đại học Hà Nội; - Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989); - Bà Dương Quỳnh Hoa, bác sĩ, nguyên bộ trưởng Y Tế Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và - Những người cùng cảnh ngộ. Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang. Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y Khoa thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác Sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại Học Texas, và Tiến Sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại Học Columbia, New York. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ. Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?). Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi. Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức). Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam. Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn? Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli)". Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra. Bà còn thêm rằng:” Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).” Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông Chánh Án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York. Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản. Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối lập như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà. Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã tỉnh ngộ, có phản ứng ngược lại thì bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả. Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo quyết định của thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng đoạt quyền hành. Tổ quốc là đất nước chung - Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân Y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay. Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 5:09:33 GMT 9
Chủ nghĩa cộng sản chưa hề và không thể có ở xã hội Việt Nam
Tác giả: talawas blog Trong “Tuần ký số 15”, nhạc sĩ Tô Hải đặt một loạt câu hỏi, “Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản do 2 ông Mác, Lê nguỵ tạo ra một cách điên khùng đã làm đảo lộn thế giới loài người gần 1 thế kỉ qua, làm chết cả trăm triệu con người nhân danh đấu tranh giai cấp… Chẳng lẽ các ông không biết? Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản bị toàn thế giới loài người lên án. Sang Tây, sang Mĩ, ở đâu cũng thấy những đài tưởng niệm, những nạn nhân và lên án những kẻ giết người. Gần đây nhất là sự thú nhận tội lỗi của ông cha mình gây ra vụ thảm sát hơn 20. 000 sĩ quan Ba Lan tại rừng Katyn bởi chính tổng thống Medvedev nước Nga đến dự lễ tưởng niệm phải liều mạng vượt dưới làn bụi tro khiến mọi vận chuyển hàng không phải đình chỉ… Chẳng lẽ các ông cũng không biết?… Cộng sản gì mà lại có hàng tỉ đô la, có hàng vạn công nhân, có máy bay riêng, có du thuyền riêng, có thể tung ra hàng tỉ đồng để mua vui khen thưởng trong một kì thi hoa hậu, một trận bóng đá! Đây là chủ nghĩa cộng sản kiểu gì? Chẳng lẽ các ông không biết? Chủ nghĩa cộng sản gì mà ruộng đất của nông dân trở thành của các tập đoàn tư nhân nước ngoài, nhà cửa đất đai của cá nhân kể cả các cựu chiến binh, của các bà mẹ anh hùng đều bị dỡ bỏ để cho họ hàng anh em các vị lãnh đạo thực hiện “dự án”, xây nơi ăn chơi nghỉ dưỡng, sân golf… Uất ức đi khiếu kiện hăng quá có khi vào tù! Chẳng lẽ các ông cũng không biết?…” Ông khẳng định, “Chủ nghĩa cộng sản với cái Đảng của nó chưa hề và không thể có ở xã hội Việt Nam” và đề nghị, “Xin vái các ông mớ bái, mong các ông ghi vào văn kiện: Giã từ chủ nghĩa Mác Lê Nin, vĩnh biệt chủ nghĩa cộng sản cho toàn dân nhờ!” Trưng bày hơn 200 kỷ vật về Tổng bí thư Trường ChinhKỷ niệm 110 năm ngày sinh cố Tổng bí thư Trường Chinh (1907-2017), Văn phòng Trung ương Đảng và Bộ Văn hóa tổ chức triển lãm "Tổng bí thư Trường Chinh - Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Người nắm giữ 'chìa khoá' Đổi mới Hơn 200 bức ảnh, tài liệu, hiện vật giới thiệu về cuộc đời hoạt động của Tổng bí thư Trường Chinh được sắp xếp theo chủ đề, thời gian... thu hút khách tham quan. Triển lãm mở cửa đến tháng 3/2017 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh (Ngọc Hà, Ba Đình). Ngôi nhà của gia đình Tổng bí thư Trường Chinh ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng (Xuân Trường, Nam Định). Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh trong gia đình trí thức yêu nước. Ông nội là cụ Đặng Xuân Bảng, một tiến sĩ học rộng tài cao, nổi tiếng thanh liêm, làm Tuần phủ Hải Dương rồi Đốc học Nam Định. Cha ông là Đặng Xuân Viện, một nhà nho uyên bác. Thuở thiếu thời, cậu bé Khu được đọc nhiều sách Đông Tây kim cổ, thừa hưởng tư tưởng tiến bộ, yêu nước của cha ông. Trường Chinh (thứ hai, từ trái sang) thời niên thiếu cùng các bạn Nguyễn Phúc, Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Tiệm Quỳ (đứng sau) khi còn học ở trường Thành Chung Nam Định (nay là THPT chuyên Lê Hồng Phong) khóa 1923-1926. Năm 1925, cậu học sinh 18 tuổi tham gia cuộc bãi khóa của toàn trường, đòi trả tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu. Một năm sau, ông cùng với Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Lương Bằng lãnh đạo phong trào thanh niên, học sinh truy điệu và để tang cụ Phan Châu Trinh. Bị đuổi học, ông chuyển lên Hà Nội rồi học tiếp ở trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đông Dương Đại học đến cuối năm 1929. Trưởng thành khi phong trào giải phóng dân tộc đang lên cao, Trường Chinh sớm gia nhập các tổ chức yêu nước như Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên; vào Ban tuyên truyền của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 11/1930, ông bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), kết án 12 năm tù rồi đày đi Sơn La. Tháng 10/1936, ông được trả tự do, tiếp tục dấn thân vào phong trào cách mạng sôi nổi. Ảnh Trường Chinh lưu trong hồ sơ của mật thám Pháp. Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương lần 8 diễn ra tại Pác Pó, Cao Bằng, Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư. Tại lán Khuổi Nậm, lần đầu tiên ông được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau này, Trường Chinh trở thành cộng sự, người học trò gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đầu Xuân Đinh Hợi (1947), Trường Chinh đã viết một loạt bài dưới tiêu đề "Kháng chiến nhất định thắng lợi" đăng nhiều kỳ trên báo Sự thật từ ngày 4/3/1947 đến 1/8/1947, giải thích rõ chủ trương trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta, thấy rõ tại sao dân tộc Việt Nam sẽ thắng và thắng bằng cách nào? Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng bí thư Trường Chinh phát triển có hệ thống lý luận về chiến lược kháng chiến toàn dân, toàn diện, về ba giai đoạn của cuộc kháng chiến trường kỳ và một số vấn đề về chiến thuật chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Từ 7-15/7/1960, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II diễn ra tại Hà Nội, Trường Chinh (thứ nhất, từ trái sang) được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giữ chức vụ này thời kỳ 1960-1975. Ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị đất nước, như hai lần trở thành Tổng bí thư giai đoạn 1941-1956 và thời kỳ 1986; Chủ tịch Quốc hội các khóa V, VI; Chủ tịch Hội đồng Nhà nước thời kỳ 1981-1987. Với bút danh Sóng Hồng, Tổng bí thư Trường Chinh là một nhà thơ cách mạng với những bài thơ thể hiện sức chiến đấu cao và lòng nhân ái sâu sắc. Tuyên ngôn của ông được thể hiện qua hai câu thơ: "Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ. Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền!". Sau ngày thống nhất, đại diện hai miền Nam – Bắc tổ chức Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước tại Sài Gòn từ ngày 15-21/11/1975. Trong ảnh, trưởng đoàn đại biểu miền Bắc Trường Chinh và trưởng đoàn đại biểu miền Nam Phạm Hùng tại lễ ký kết văn kiện chính thức. Từ đây, "Bắc Nam sum họp một nhà", cả nước bước vào thời kỳ xây dựng XHCN, khắc phục hậu quả chiến tranh. Trước khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 1979-1986, Tổng bí thư Trường Chinh đã thâm nhập thực tế, tổng kết kinh nghiệm, tập hợp sáng kiến của nhân dân tìm tòi lý luận và đề nghị với Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới. Ngày 14/7/1986, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp phiên đặc biệt, bầu ông Trường Chinh làm Tổng bí thư. Lúc này chỉ còn 5 tháng nữa là đến Đại hội VI, trong quỹ thời gian eo hẹp, Tổng bí thư Trường Chinh đã tổ chức làm việc chặt chẽ, bảo đảm mở Đại hội đúng lộ trình. Đặc biệt, lúc này báo cáo chính trị đã sẵn sàng để trình Đại hội VI, nhưng khi xem xét thấy dự thảo còn xa mới thể hiện và nắm bắt được nội dung các quan điểm đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, ông đã cho viết lại báo cáo chính trị. Trường Chinh được nhiều nhà nghiên cứu nhận định là người nắm giữ chìa khóa của công cuộc Đổi mới đất nước cách đây hơn 30 năm. Mùa đông năm 1986, từ diễn đàn Đại hội VI, Tổng bí thư Trường Chinh ra lời hiệu triệu "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật". Sau Đại hội, Trường Chinh rời cương vị Tổng bí thư, trở thành cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và giữ vai trò này cho đến khi qua đời năm 1988. Ảnh ông chụp cùng đại gia đình trong một dịp sinh nhật. Nhiều năm giữ cương vị lãnh đạo đất nước, bận công tác, Tổng bí thư Trường Chinh ít có dịp về thăm quê. Trong một lần về thăm làng Hành Thiện, ông viết: "Tôi không năng về quê vì bận lo việc chung của cả nước. Tuy vậy, lòng tôi luôn bên cạnh bà con và dõi theo từng bước tiến của quê hương".
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 5:12:56 GMT 9
Thêm một số thông tin về bà Nguyễn Thị Năm và tỉ lệ địa chủ trong Cải cách Ruộng đất
Tác giả: Nguyễn Văn Kiến Chuyên mục: Hồ sơ Cải cách Ruộng đất Thẻ: Bà Nguyễn Thị Năm Bà Nguyễn Thị Năm bị đấu tố và xử bắn lúc nào?1. Theo cuốn Trần Huy Liệu – Cõi đời của Trần Chiến, Nhà xuất bản Kim Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó là uỷ viên Thường trực Quốc hội, thanh tra Cải cách Ruộng đất tại hai xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Thái Nguyên). Ông dự cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và bà Nguyễn Thị Năm (22-5-1953). Số người tới dự độ 1 vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên… Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa! Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống. Rút kinh nghiệm lần trước, chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò. Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói xấu cán bộ. Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ thuật khác hôm đấu Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không còn nữa. Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm động. Còn anh Cò, một người thiểu số đã bị Hoàng Công, con Thị Năm, bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước cuộc Cách mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận. Bằng một giọng chân thành đến ngây ngô, anh đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời. … Cũng có không ít những người nói không đạt ý, không rõ việc. Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu? Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm. Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì. … Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”. Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên. 2. Ông Vũ Hưng, năm nay 77 tuổi, năm 1953 là công nhân quốc phòng ở gần Đồng Bẩm, là đại diện công nhân trong “Công Nông Binh” dự cả hai lần đấu tố bà Năm cho biết: bà bị đấu tố hai lần. Lần đầu có cả chồng là Nguyễn Sơn Hà, và hai con trai. Bài ông Liệu tả chắc là lần thứ hai, vì không thấy nói đến chồng Nguyễn Sơn Hà. Sau đó vài tháng là xử tử bà. 3. Ông Đức Phú, con bà Năm sống ở Hải Phòng như ông nói là người cho bố mẹ tôi thuê nhà ở Hải Phòng từ 1947. Ông ít tuổi hơn bố tôi, và tôi sinh ra tại căn nhà đó, nghe nói ông cũng hay bế tôi. Tôi có tấm hình ông Đức Phú chụp với anh trai thứ hai của tôi. Bố tôi rất quý chú Đức Phú, nhưng ông chưa hề hé răng cho chúng tôi biết thân phận của bà Năm. Tôi biết được chú Đức Phú là con bà Năm cũng chỉ hơn một năm nay thôi, do anh cả tôi (75 tuổi) tình cờ kể lại. Gia đình nhà tôi cũng gặp chuyện không may trong Cải cách Ruộng đất nên bố tôi không muốn cho chúng tôi biết về những gì đã xảy ra thời đó, chắc để tránh cho chúng tôi “nhìn lệch”, ảnh hưởng tới việc học hành. Tiếc là bố tôi qua đời, không thì tôi sẽ biết thêm nhiều về chuyện này, vì anh cả tôi cho biết chú Đức có đưa hai em gái về Hải Phòng nuôi dịp 1953, rồi chú đi vào Nam trước khi Hiệp định Genève ký kết, chắc chú ấy cũng linh cảm trước những gì sẽ xảy ra. Anh trai của tác giả khi còn nhỏ chụp chung với chú Đức Phú, con trai bà Nguyễn Thị Năm (Ảnh do tác giả cung cấp)4. Cách đây vài năm, gia đình bà Năm nhận “Tổ quốc ghi công” tặng bà danh hiệu liệt sĩ “hy sinh vì sự nghiệp quốc tế”. Hôm nào rảnh tôi sẽ tới gặp gia đình bà. Nghe nói một trong hai người con của bà bị đấu tố năm 1953, sau được phục hồi, về hưu với chức đại tá quân đội nhân dân, hiện còn sống ở phố Hàng Bạc, Hà Nội. 5. 5% số hộ hay số dân là địa chủ? Theo ông Hoàng Nhật Tân (sinh 1928, con trai ông Hoàng Văn Hoan) lúc đó là phó ban Cải cách Ruộng đất ở Thái Nguyên (Hoàng Quốc Việt là trưởng ban) thì: “Từ Uỷ ban cải cách trung ương truyền xuống một quy định miệng là mỗi xã phải có từ 3 đến 5 phần trăm số hộ là địa chủ thì mới tránh khỏi lọt lưới”. (trích Cái quan định luận, hồi ký của Hoàng Nhật Tân) Năm 1981 tôi được ông Vũ Đình Địch (em ruột ông Vũ Hoàng Chương), người tham gia Cải cách Ruộng đất cũng cho biết là theo “kinh nghiệm của cố vấn Trung Quốc thì trong làng có 5% số hộ là địa chủ”. Làng quê tôi sát Hải Phòng, là một làng nghèo, thế mà cũng phải đủ 5% số hộ là địa chủ, tìm ra được chừng 40 địa chủ. Nếu là 5% số dân là địa chủ thì còn nhiều gấp bội, phải tới con số hàng vài trăm. Ngay cả 40 địa chủ cũng đã nhiều rồi, nên những người đủ ăn, có ruộng đất cũng bị quy vào địa chủ cho đủ 5%, chứ 5% dân số trong làng là địa chủ thì có khi cả bần nông cũng bị quy thành địa chủ. Trong 40 chục địa chủ trên, có cả ông nội tôi, và đầu 1956 xử bắn 4 người cùng một lúc, trong đó có hai bố con. Ông bố là anh ruột mẹ tôi. Mẹ tôi phải đau lòng chứng kiến từ những ngày họ bị giam cho đến lúc xử tử. Hiện bà chị dâu, vợ của người con ông bác tôi vẫn còn sống, gần 90 tuổi. © 2010 Nguyễn Văn Kiến
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2010 7:49:55 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2010 7:51:43 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2010 7:52:45 GMT 9
SỰ THẬT VỀ TƯỚNG GIÁP: ĐỪNG BỐC PHÉT NỮA!Tôi là một gã Bắc Kỳ . Từ lớp vỡ lòng đến đại học tôi được học dưới cái gọi là « mái trường XHCN » . Anh tôi là một bộ đội phục viên . Cháu ruột là Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn Bộ Binh đang tại chức . Tôi đi nghĩa vụ quân sự 3 năm , mang quân hàm Trung Uý , chức Đại Đội Phó , có tham gia một vài trận đánh ở chiến trường Campuchia . Dài dòng một chút để các bạn hiểu : tôi không liên hệ gì đến Việt Nam Cộng Hoà . Tôi không hận thù , không chống cộng . Tôi chỉ muốn được chia sẻ chút suy nghĩ của mình trước những thậm từ mà thiên hạ đang sử dụng để tung hô Tướng Giáp : « mãi mãi là một biểu tượng sống động của trí tuệ » ; « Thiên tài quân sự » ; « Đại trí , đại nhân , đại dũng » ; « Vị Tướng huyền thoại » ; « Nhà quân sự lỗi lạc nhất của mọi thời đại » ; « Một nhân cách lớn » . Có thiệt vậy không ? * * * Những Điều Tận Mắt Khoảng đầu năm 1983 , ông Giáp đến thăm một trường đại học . Khi đó ông đã thôi chức Bộ Trưởng Quốc Phòng , đang là Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch . Tôi thấy ông vẫn mặc quân phục , mang quân hàm Đại Tướng . Bọn sinh viên chúng tôi đang ở tuổi trên dưới 20 , rất ngưỡng mộ ông , kéo đến nghe ông nói chuyện . Không ngờ những bài phát biểu của ông rất nhạt , chung chung , vô thưởng vô phạt , với những sáo ngữ mòn cũ , giáo điều thường thấy trong các nghị quyết của chi bộ , chi đoàn như là Đảng ta , nhân dân ta anh hùng , quân đội ta anh dũng , thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ , quyết tâm , vượt mức , lập thành tích , quán triệt , phát huy … Không có gì sắc sảo , mới lạ . Màng nhĩ của tụi tôi bấy giờ đã khá quen với những ý tưởng và ngôn từ của các giáo sư đại học thời Tây còn lại , hoặc những vị cỡ như Bùi Tín nói về thời sự quốc tế , Trần Quốc Vượng nói về Hà Nội học , hay Xuân Diệu bình thơ . Vì thế nghe Tướng Giáp nói xong chúng tôi thất vọng quá . Sau này tôi lại thấy mỗi khi đi thăm các cơ sở , ông Giáp đều bắt đầu lời phát biểu kiểu như : Thay mặt đ/c Lê Duẩn uỷ viên BCT Tổng Bí Thư … đ/c Trường Chinh uỷ viên BCT Chủ Tịch hội đồng nhà nước … đ/c Phạm Văn Đồng uỷ viên BCT , Chủ Tịch hội đồng chính phủ , và các đ/c khác trong trung ương … tôi xin gởi lời thăm đến các đồng chí … Thì ra ở đâu ông cũng ăn nói na ná như nhau Ngày 30 /04/1995 , kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam . Năm chẵn , nên tổ chức rất hoành tráng ở thành Hồ . Truyền hình Mỹ chiếu trực tiếp lễ duyệt binh , có phần phỏng vấn Tướng Giáp và Tướng Westmoreland . Ý họ là để cho hai vị tướng đã từng đối đầu ở chiến trường có dịp trò chuyện với nhau . Sau lời phát biểu khá khiêm tốn của Tướng Westmoreland , đến lượt Tướng Giáp – ông nói đại ý rằng chúng tôi vô cùng tự hào vì Việt Nam là một thuộc địa nhỏ bé nhưng đã đánh thắng được hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ . Một thiên tài quân sự , một chính khách lỗi lạc , một nhà ngoại giao tài ba, mà lại phát biểu như vậy sao . Tôi tự hỏi . Từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò Ngày 22/11/1944 , ông Giáp cùng với 34 chiến sĩ đã qua một cơn chuyển dạ đớn đau , rồi sinh hạ QĐNDVN duới gốc đa Tân Trào , tỉnh Tuyên Quang . Đến tháng 05/1948 , tức 3 năm rưỡi sau , ông Giáp được ông Hồ Chí Minh phong cho chức Đại Tướng . Khi ấy ông Giáp mới 37 tuổi . Riêng điều này thì « huyền thoại » thiệt . Cả thế giới đến nay mới xuất hiện hai Đại Tướng được phong vượt 17 cấp bậc như thế ! Ông Giáp ở Bắc Việt Nam , và Kim Jong-un ở Bắc Triều Tiên ! Từ đó người ta gọi ông Giáp là « Tướng Giáp » . Ông giữ những chức vụ : Uỷ viên Bộ Chính trị , Bí thư Quân uỷ Trung ương , Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng , Tổng Tư Lệnh QĐNDVN cho đến năm 1982 . Vào cuối thâp kỷ 60 , trước và sau khi ông Hồ chết , nội bộ ĐCSVN xảy ra « Vụ Án Xét Lại Chống Đảng » do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phát động . Ông Giáp trở thành đích ngắm của vụ án , nhưng ông lại không bị đánh trực tiếp , mà đòn hiểm lại nhằm vào những người đồng chí trung thành của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ : Thượng Tướng Chu Văn Tấn tư lệnh Quân Khu Việt Bắc , Thiếu Tướng Đặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần , Tướng Lê Liêm một uỷ viên đảng uỷ , Trung Tướng Trần Độ chỉ huy đại đoàn 312 , mũi tấn công chính vào sở chỉ huy Pháp , và là người tiếp nhận sự đầu hàng của Tướng De Castries , Đại Tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến , Đại Tá Phạm Quế Dương , ông Hoàng Minh Chính , và nhiều người khác nữa . Tất cả bị vu cáo cùng một tội « chống đảng , xét lại , làm gián điệp cho nước ngoài » . Điều trớ trêu là Tướng Giáp biết rõ là nguỵ tạo , nhưng ông không bao giờ mở miệng , hoặc có một động thái nào để bảo vệ , hay giúp đỡ những người bạn cũ đang bị đối xử rất tàn ác . Đại hội Đảng V – 1982 , ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị , mất chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng , và được « phân công » về làm trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch . Thực chất đây là một vụ cách chức , hay nói trắng ra là ông Lê Đức Thọ đã hạ nhục ông Giáp một cách không thương tiếc . Ông Giáp vẫn không có một hành động gì dù nhỏ nhất như là từ chức , xin về hưu để tỏ thái độ , và giữ gìn khí tiết của một người làm Tướng . Ông tỏ ra như một đứa con ngoan vâng lời cha mẹ . Dân Bắc Kỳ phải ngán ngẩm mà than rằng : « Xưa làm Bộ Trưởng Quốc Phòng Nay làm Bộ Trưởng đặt vòng tránh thai » Hay : « Bác Hồ nằm ở trong lăng , Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng , giật mình Rằng giờ chúng nó linh tinh Tuổi tên của mình chúng ném xuống ao Ao nào thì có ra ao Cái tròn cái méo , cái nào cũng sâu Hỏi rằng Tướng Giáp đi đâu Dạ thưa Tướng Giáp … lo khâu đặt vòng » . Một bài vè khác thì chẳng còn úp mở gì : « Ngày xưa Đại Tướng cầm quân Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em Ngày xưa Đại Tướng công đồn Ngày nay Đại Tướng công l … chị em » . Khi hai ông Duẩn – Thọ về thăm Bác , tưởng rằng vòng kim cô trên đầu Tướng Giáp sẽ được gỡ ra . Nhưng không , nó còn bị siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới : Đỗ Mười – Lê Đức Anh ( được biết đến là MA , viết tắt từ Mười – Anh ) . MA đã giáng một đòn trực tiếp vào ông Giáp với một bản cáo trạng gồm 8 tội danh : 1 . Ông Giáp từng là con nuôi của chánh sở mật thám Đông Dương , Louis Marty . 2 . Ông Giáp cầm đầu vụ án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958 . 3 . Ông Giáp bán bí mật quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov . 4 . Trong chiến dịch Điện Biên Phủ , ông Giáp hèn nhát , sợ chết quanh quẩn trong hầm , không dám ra ngoài . Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch . 5 . Ông Giáp nhận định tình hình kém , vội vàng giải tán 80 000 quân , để khi Pháp – Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ . 6 . Tết Mậu Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội , nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn . 7 . Ông Giáp hèn nhát , sợ B-52 của Mỹ rải thảm , nên không đi B ( chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường miền Nam trước 1975 ) . 8 . Ông Giáp đã có vợ , nhưng lại ăn nằm với một phụ nữ đã có chồng . Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy đàn piano . Đỗ Mười kết luận phải khai trừ ông Giáp ra khỏi ĐCSVN . Lê Đức Anh nương tay hơn , chỉ gạt ông Giáp ra khỏi ghế « uỷ viên trung ương » – một vị trí an ủi mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn còn bố thí cho ông . Người ta ví von rằng trận đòn mà MA đánh ông Giáp cũng giống như trận đòn mà Đặng Trần Thường đánh Ngô Thì Nhậm ở Quốc Tử Giám cách đây 200 năm . MA đánh Giáp bằng những tội danh rất hiểm . Thường đánh Nhậm bằng roi tẩm thuốc độc . Nhậm đau lắm nhưng vẫn đối đáp khí khái , ăn miếng trả miếng , bảo vệ được thanh danh , để lại tiếng thơm cho đời sau . Còn Tướng Giáp thì vẫn nhũn như con chi chi , nhịn nhục , không dám nói năng gì . Có phải lòng kiêu hãnh của một vị Đại Tướng đã thành gỗ đá , không bao giờ bị thương tổn ? Có người lại bảo ông Giáp phục kích , chờ cơ hội . Đúng , ông Giáp đã chờ cho đến khi cả hai ông MA đã vào tuổi 90 , sức khoẻ cạn , quyền lực hết , không còn ảnh hưởng nhiều đến phong cảnh chính trị Việt Nam thì ông Giáp mới dám mở miệng để đòi lại danh dự . Tiếc thay , Tướng Giáp chỉ đòi công lý cho cá nhân ông , còn những đồng đội trung thành của ông ở Điện Biên Phủ ông chẳng hề bận tâm . Dân Hà Nội thì đàm tiếu rằng con đường tòng chính của Tướng Giáp đầy gian nan vất vả , ông đã hành quân qua một chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò . Cây Đa Nhà Bò là một trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc , Hà Nội , dành cho những phụ nữ thuộc giới bình dân , chuyên đỡ đẻ , nạo phá thai , khám phụ khoa , thông vòi trứng , hút điều hoà kinh nguyệt , điều trị rong kinh huyết trắng ( Ngẫm ra , dân Hà Thành thâm thiệt ! ) . Viết về Tướng Giáp mà không phân tích một trận đánh do ông chỉ huy , thì rất là thiếu sót . Tôi quyết định chọn trận đánh cuối cùng trong cuộc đời cầm quân của ông . Đó là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu giữa hai người anh em cùng ý thức hệ Cộng Sản : Quân Đội Nhân Dân Việt Nam ( QĐND ) do Tướng Giáp chỉ huy và Hồng Quân Trung Hoa ( HQTH ) do Tướng Dương Đắc Chí là tư lệnh . Cuộc chiến Việt-Trung tháng 02/1979 QĐND hoàn toàn bị bất ngờ Để trừng phạt Việt Nam , HQTH đã sử dụng 10 quân đoàn chủ lực và một số Sư Đoàn độc lập , bao gồm 300 000 binh sĩ , 550 xe tăng , 480 khẩu pháo , 1 260 súng cối , hoả tiễn , chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1 700 máy bay phía sau . Các nguồn tin phương Tây nhận định rằng HQTH đã mất từ 60 đến 90 ngày để đưa quân vào các vị trí tập kết sẵn sàng cho các mũi tấn công . Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp Trung Đoàn , hay các tổ trinh sát đặc biệt cũng nhận ra được ý đồ , và ngày giờ khai hoả của đối phương , nói gì đến tình báo chiến lược . Mờ sáng ngày 17/02/1979 , HQTH tấn công trên toàn tuyến biên giới dài 1 400 KM , trải rộng trong một khoảng không gian gồm 7 tỉnh Điện Biên , Lai Châu , Lào Cai , Hà Giang , Cao Bằng , Lạng Sơn và Quảng Ninh . Việt Nam hoàn toàn không hay biết gì . Khi HQTH tràn qua biên giới , thì thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Văn Tiến Dũng , tổng tham mưu trưởng , đang thăm viếng xứ Cao Miên . Dân chúng không được thông báo trước , trẻ em , người già , và phụ nữ có thai , không kịp di tản ra khỏi vùng chiến địa . HQTH đã tạo ra được một yếu tố bất ngờ đến ngoạn mục . Không hiểu Tướng Giáp biện minh thế nào cho việc không hay biết gì về giờ nổ súng của đối phương . Thất bại về tình báo và nhận định tình hình Tháng 11/1978 , Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan , Malaysia và Singapore. Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Tàu Cộng sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia . Đặng đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông , phải dạy cho chúng một bài học . Có lẽ vì lời của Đặng quá khiếm nhã , báo chí Tàu Cộng chỉ dùng nửa sau của câu nói . Ngày 28/01/1979 , Đặng thăm Mỹ , và tuyên bố « Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi » , « Tàu Cộng kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt Nam » . Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ . Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì thì một cuộc chiến giữa hai nước Cộng Sản sẽ nổ ra . Sau 3 ngày thăm Mỹ , Đặng đến Nhật . Tại đây , Đặng vẫn giọng điệu hung hăng « để trừng phạt Việt Nam , dù có gặp những nguy hiểm cũng phải hành động » ; « không trừng phạt kẻ xâm lược , sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền » , « Đối phó với loại người vô ơn như thế , không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả » . Các nhà ngoại giao Nhật ngạc nhiên vì lời lẽ và thái độ phi ngoại giao của Đặng . Cũng khoảng thời gian này , TASS – hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa tin một lực lượng rất lớn quân đội Tàu Cộng đang áp sát biên giới Việt–Trung . Từ Nhật về , Đặng chỉ thị tấn công Việt Nam vào ngày 17/02 . Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc chiến một tháng với Ấn Độ ( 1962 ) ; không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế , trong phạm vi trên duới 50 cây số từ biên giới . Bằng chứng Đặng sẽ trừng phạt Việt Nam đã rõ như ban ngày , nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam tin rằng Tàu Cộng là một nước XHCN anh em , và nhân dân Tàu Cộng yêu chuộng hoà bình , sẽ không ủng hộ chiến tranh . Tàu Cộng sẽ không tấn công , hoặc nếu có thì chỉ từ cấp Sư Đoàn đổ lại . Thiếu tin tình báo , nhận định và phân tích tình hình sai , không nắm được thời điểm nổ súng , thời gian , không gian , và quy mô chiến dịch của đối phương , đã dẫn đến việc Tướng Giáp không hề bố trí những quân đoàn chủ lực dọc biên giới . Tất cả phó thác cho dân quân tự vệ , bộ đội địa phương , và một vài Trung Đoàn độc lập . Một thất bại về chiến thuật Kế hoạch hành quân của Tàu Cộng chia làm 3 giai đoạn . Giai đoạn 1 : từ 17/02 đến 25/02 , phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam , làm chủ thị xã Cao Bằng , Lào Cai , và hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng , để mở đường cho cuộc tấn công vào Lạng Sơn . Giai đoạn 2 : từ 26/02 đến 05/03 , chiếm được thành phố Lạng Sơn , và hai thị trấn Sa Pa va Phong Thổ . Giai đoạn 3 : từ 05/03 đến 16/03 , bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới , trước khi rút về . Ngày 21/02 , khi chiến dịch đang diễn ra rất ác liệt , tuần dương hạm Sverdlov và khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã tiến về bờ biển Việt Nam . Cầu hàng không của Liên Xô giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc . Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria đã chở vũ khí tới Hà Nội . Trước tình hình đó ngày 23/02/1979 , Đặng sợ Liên Xô nhúng tay , nên lên tiếng về « cuộc chiến sẽ giới hạn trong vòng 50 KM , và sẽ rút quân trong 10 ngày tới . Rõ ràng Tàu Cộng không có ý định tấn công vào Hà Nội . Họ chỉ ba hoa rằng « ăn sáng ở Lạng Sơn và ăn tối ở Hà Nội » . Việt Nam lại tin rằng cuộc chiến sẽ kéo dài , và Hà Nội sẽ bị tấn công . Từ nhận định sai lầm này mà dẫn đến việc dồn hết công sức , và tâm trí vào việc xây dựng « Phòng Tuyến Sông Cầu » , để cố thủ Hà Nội . 7 tỉnh biên giới gần như bị bỏ ngỏ , phải tự chiến đấu trong tuyệt vọng , tự gánh vác lấy sức nặng của cuộc chiến , không được chi viện . Trận chiến tại Đồng Đăng là một thí dụ : Đồng Đăng là một thị xã nằm sát biên giới Việt-Trung , cách thành phố Lạng Sơn 14 KM về phía Đông Nam . Trận đánh bắt đầu sáng 17-2 và là trận ác liệt nhất . Đây là trận địa phòng thủ của Trung Đoàn 12 Tây Sơn , thuộc Sư Đoàn Sao Vàng , QĐND . Phía Tàu Cộng dùng 2 Sư Đoàn Bộ Binh , 1 Trung Đoàn xe tăng , và chi viện của 6 Trung Đoàn pháo binh , ( Tương quan lực lượng là khoảng 10 đánh 1 ) . Pháo đài Đồng Đăng tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã , ( Pháo đài này được Pháp xây dựng rất kiên cố , vì ở đây đã diễn ra khá nhiều va chạm đẫm máu giữa Pháp và nhà Thanh trước đây ) . Việt Nam chỉ có 2 Tiểu Đoàn trấn giữ , bị Tàu Cộng bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp Sư Đoàn . Lực lượng phòng thủ không hề được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng , trụ được 22 ngày đêm . Cuối cùng HQTH cũng đã làm chủ được khu vực bên ngoài Pháo Đài , nhưng Tàu Cộng không gọi được đối phương cố thủ bên trong ra đầu hàng . Tàu Cộng chở bộc phá tới đánh sập cửa chính , dùng súng phun lửa , thả lựu đạn , phun chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn . Khi chiếm được Pháo Đài Đồng Đăng , HQTH đã dùng 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống cố thủ này . Việt Nam lúc đó đã có ít nhất 5 Sư Đoàn đang ở miền Bắc , trong đó có sư 308 – là một Sư Đoàn thiện chiến đã từng đánh ở Điện Biên Phủ và Khe Sanh . Nếu 5 Sư Đoàn này được tham chiến vào buổi bình minh của cuộc chiến thì tình thế sẽ hoàn toàn có lợi cho phía QĐND . HQTH không thể tiến sâu vào lãnh thổ VN , không thể làm chủ được thời gian , không thể đạt được những những mục tiêu như họ muốn , và họ sẽ không có lý do gì để tuyên bố là « Chiến Thắng » . Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật mà Tướng Giáp và bộ Tổng Tham Mưu của QĐND phải chịu trách nhiệm . Một kết thúc mập mờ dẫn đến một sai lầm chiến lược Sau những ngày chiến đấu ngoan cường nhưng đơn độc của Sư Đoàn Sao Vàng trước một đối phương áp đảo về số lượng và hoả lực , ngày 04/03/1979 , Lạng Sơn thất thủ . Sáng 05/03 , Tàu Cộng tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của cuộc trừng phạt , chiến thắng vẻ vang , và quyết định rút quân . Cùng ngày 05/03 , Việt Nam phát lệnh « Tổng Động Viên » . Những quân đoàn chủ lực của QĐND có xe tăng , pháo binh , và không quân từ chiến trường Campuchia trở về , cùng với một địa hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng miền Bắc , Việt Nam đã vào vị trí vây hãm HQTH . Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc phản kích , mà phần thắng sẽ thuộc về tay QĐND . Nhưng tiếc thay , Việt Nam lại tuyên bố « Thiện Chí Hoà Bình » , rằng truyền thống ông cha ta … rằng lòng cao thượng … rằng lòng nhân đạo của dân tộc ta … Việt Nam sẽ để cho HQTH rút quân an toàn . Sự thực trên đường rút quân , HQTH vẫn chém giết , vơ vét , và phá hoại . Vụ thảm sát ngày 09/03 tại Đổng Chú , huyện Hoà An , Cao Bằng là một thí dụ . HQTH đã dùng búa , dao giết 43 người , gồm 21 phụ nữ trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai , 20 trẻ em , và 2 người đàn ông , rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối . HQTH có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở , chiếm giữ những điểm cao quan trọng , và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên đường rút lui . QĐND đã không tổ chức những trận đánh cấp tập , vu hồi , tạt sườn trên đường rút quân của HQTH . Kết thúc cuộc chiến một cách mập mờ , nửa vời , đánh rắn giữa khúc , nửa nạc nửa mỡ . HQTH coi thường ý chí và kinh nghiệm chiến đấu của QĐND , và còn mỉa mai rằng chưa được « vuốt râu cọp » . Họ không tôn trọng danh tiếng của một đạo quân thiện chiến . Quyết định « Thiện Chí Hoà Bình » của Việt Nam hình như là một thái độ thủ hoà , nhưng hoà vào một thế vô cùng bất lợi . Từ đó , trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới , Tàu Cộng luôn ở thế kẻ cả , áp đảo , và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ . Đây là hệ luỵ từ sai lầm mang tính chiến lược do Tướng Giáp và Bộ Tổng Tham Mưu gây ra . « Anh Đặng » Đặng Tiểu Bình là người đã phát động cuộc chiến đẫm máu , man rợ , gây ra bao nhiêu đau thương và dẫn đến những hệ luỵ cho đất nước Việt Nam nhiều năm sau đó . Đặng đã từng gọi lãnh đạo của Việt Nam là « những thằng du côn của phương Đông » , « lũ tiểu bá » , « đám vô ơn , bội bạc » . Thế mà 10 năm sau , khi những vết thương trên thân mình Tổ Quốc vẫn còn đang chảy máu , ngày 3-9-1990 , ba ông Nguyễn Văn Linh , Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng bí mật đến Thành Đô , tỉnh Tứ Xuyên , hy vọng được yết kiến Đặng Tiểu Bình . Đặng không gặp , để cho hai đàn em Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp . Cả ba ông Linh , Mười , Đồng rất tiếc vì đã không gặp được « anh Đặng » . Ông Võ Văn Kiệt ở nhà cũng tiếc hùi hụi , phàn nàn rằng « nếu có anh Đặng , thì anh Tô ( Đồng ) mới nên đi » . Kẻ tử thù của của nhân dân Việt Nam , nay được các nhà lãnh đạo Việt Nam gọi bằng « Anh » thân thiết quá . Cũng khoảng thời gian đó , Tướng Giáp đến thăm Tàu Cộng , và xin được gặp Tướng Dương Đắc Chí – Tổng Tư Lệnh trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam năm 1979 . Nhưng Dương Tướng quân từ chối , nói : « Đời nào tôi lại gặp ông ta . Mộ của các cán bộ chiến sĩ vẫn còn chưa xanh cỏ ! » . Chỉ vài thông tin để các bạn thấy được cái gọi là « Đại trí , Đại nhân , Đại dũng » của những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam , trong đó có Đại Tướng Võ Nguyên Giáp . ( Trong bài này tôi có tham khảo tài liệu của các tác giả Bùi Tín , Trần Quang Cơ , Trần Vũ , và Bharat Raksha và trang mạng Talawas . Tôi cảm ơn các tác giả kể trên ) . Trần Hồng Tâm (2-2013)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 15:24:34 GMT 9
NỖI LÒNG HUỲNH TẤN PHÁT
BS Trần Nguơn Phiêu Kể từ những ngày khởi đầu kháng chiến chống Pháp cho đến ngày quân Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong các nhân vật liên quan đến việc đấu tranh ở Nam bộ, Huỳnh Tấn Phát phải được coi là có vai trò sáng giá nhất. Những gương mặt nổi bật lúc ban đầu khi Việt Minh đoạt chánh quyền ở Nam bộ như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Trấn... sau đó đã “được” mời ra Bắc hoạt động. Riêng những người như Huỳnh Tấn Phát, Trần Bạch Đằng... là những người gắn bó nhất với miền Nam, đã bám trụ từ đầu cho đến cuối. Huỳnh Tấn Phát đã được biết tiếng vì các hoạt động trong giới sinh viên khi đang theo học kiến trúc ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội vào các năm 1936-1938. Anh tham gia phong trào Đông Dương Đại Hội, tổ chức phái đoàn sinh viên, học sinh lên gặp phái đoàn Godart của Chánh phủ Mặt trận Bình dân Pháp để trình “Thư Thỉnh Nguyện”. Năm 1938, Phát đã tốt nghiệp thủ khoa khi ra trường. Trở về sinh sống ở Sài Gòn, sau một thời gian tập sự với kiến trúc sư Pháp tên Chauchon, Phát mở văn phòng riêng tại 68-70 đường Mayer (Hiền Vương thời VNCH). Năm 1941 Toàn quyền Decoux tổ chức Hội chợ Triển lãm Đông Dương ở Vườn Ông Thượng ( Tao Đàn). Huỳnh Tấn Phát đã đoạt giải nhất cuộc thiết kế và xây dựng Hội chợ. Nhưng việc nổi bật nhất vào thời bấy giờ là việc đứng ra làm Chủ nhiệm tuần báo Thanh Niên vào năm 1944. Phát đã mua lại “manchette” tờ báo công khai Thanh Niên để làm báo hằng tuần với nhóm sinh viên từ Hà Nội trở về Nam như Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước... Tuần báo được sử dụng để tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước, kín đáo lên tiếng gọi đàn, cổ động phát triển Hội Truyền bá Quốc ngữ. Ngày 30-9-1944, Chánh quyền thực dâân Pháp ra lịnh đóng cửa tờ báo. Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, nhằm mục đích huy động thanh niêân , lãnh sự Nhật Iito khuyến khích Hồ Văn Ngà , Phạm Ngọc Thạch thành lập Thanh Niên Tiền Phong. Huỳnh Tấn Phát đã tích cực tham gia phong trào này với trách nhiệm trưởng ban tổ chức. Thanh niên Tiền Phong là một phong trào đã phát triển mạnh mẽ ở miền Nam trong thời khoảng năm 1945. Những người nắm vai trò thủ lãnh là Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Kỹ sư Kha vang Cân, Luật sư Thái Văn Lung, Nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, nhưng Huỳnh Văn Tiểng, Huỳnh Tấn Phát là những người thật sự đã góp công xây dựng phong trào. Trần Văn Giàu trong bóng tối, thấy Huỳnh Tấn Phát và Huỳnh Văn Tiểng có tờ báo công khai đã tìm cách liên lạc. Thông qua Phát và Tiểng, Trần Văn Giàu đã lợi dụng nắm lấy Thanh niên Tiền phong, dùng phong trào để đoạt chánh quyền cho Việt Minh. Nguyễn Văn Nguyễn, Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ được gài ở chung nhà của Huỳnh Tấn Phát ở 68 đường Mayer để “hợp tác” làm báo với Phát. Khi các sinh viên miền Nam “xếp bút nghiên” từ Bắc trở về vì phi cơ Đồng Minh đã bắt đầu tấn công vào Đông Dương, họ đã gây được một phong trào văn nghệ và thanh niên để đánh thức lòng yêu nước của dân chúng miền Nam. Những buổi trình diễn rất thành công các bản nhạc yêu nước của Lưu Hữu Phước ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn, các kịch lịch sử như Đêm Mê Linh, các trại hè như Trại Suối Lồ Ồ đã được Xứ Ủy Đảng Cộng sản Nam Kỳ chú ý và Trần Văn Giàu đã bắt liên lạc để tổ chức các lớp huấn luyện chánh trị cho các sinh viên trẻ đầy nhiệt huyết này để hướng dẫn họ theo đường lối Đảng Cộng sản. Lúc ấy, phần đông các sinh viên này, kể cảû Huỳnh Tấn Phát đều thuộc đảng Tân Dân Chủ (sau sẽ đổi tên thành Đảng Dân Chủû). Nhà và Văn phòng của Huỳnh Tấn Phát ở 68-70 đường Mayer là trụ sở lớp học chính thời bấy giờ cho các học viên trí thức như Huỳnh Văn Tiểng (Trưởng lớp), Mai Văn Bộ, Vương Văn Lễ, Nguyễn Việt Nam, Trần Bửu Kiếm, Trương Công Cán, Huỳnh Tấn Phát ...Những lớp học khác cho công nhân, viên chức của thành bộ Đảng được tổ chức ở các nơi khác. Huỳnh Tấn Phát được Trần Văn Giàu chú ý và bí mật kết nạp Phát vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5 tháng 3 năm 1945, trong khi ngoài mặt thì Huỳnh Tấn Phát vẫn là đảng viên đảng Tân Dân Chủ . Khi tổ chức cướp chánh quyền ngày 25 tháng 8-1945, trong Hội nghị Xứ ủy mở rộng kỳ thứ ba ở Chợ Đệm (Tân An) ngày 23-8-1945, Huỳnh Tấn Phát được chỉ định làm Ủy viên Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ. Phát đã từ chối và xin nhường cho Huỳnh Văn Tiểng thay thế. Huỳnh Tấn Phát với tư cách kiến trúc sư đã là người dựng lên kỳ đài sơn đỏ, cao 15 thước ở ngã tư Charner-Bonard trong đêm 24 rạng 25-8-1945, ghi danh tánh 11 ủy viên Ủy ban Hành chánh Nam Bộ. Trước đó, trong thời gian cầm quyền của chánh phủ Trần Trọng Kim, để chuẩn bị đấu tranh, Huỳnh Tấn Phát đã đưa Huỳnh Văn Tiểng đến gặp chú của Phát là luật sư Huỳnh Văn Phương, người đang đảm trách Cơ sở Mật thám Catinat. Ông Phương đã nói với Phát và Tiểng: “Vì lúc này Việt Minh chưa thể ra được. Tụi bây nói với các anh trên việc này. Các anh có cần gì, cho tao hay,tao sẽ tìm cách đáp ứng”. Phát và Tiểng đã báo cáo với lãnh đạo (tức Trần Văn Giàu?) và được trả lời:”Ai làm gì cho đất nước có lợi trong lúc này thì cứ làm”. Đồng thời “ cấp trêân” của Tiểng xin Huỳnh Văn Phương giúp ngay các việc gấp: Cấp cho súng và thay đổi nhân viên bộ máy công an của Pháp để lại. Huỳnh Văn Phương đã đồng ý và đã tặng cho 50 súng ngắn mới toanh. Chính tay Tiểng và Phát đã đem xe vào bót Catinat để lãnh số súng này. Ngoài ra ông Huỳnh Văn Phương còn tìm đào được súng của Pháp chôn dấu trong Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn để giao lại cho Phát cất ở nhà 68-70 đường Mayer và trụ sở hướng đạo của Nguyễn Việt Nam ở Ngã Ba Cây Điệp (Trích bài: “Mùa Thu Khởi Nghĩa” của Huỳnh Văn Tiểng trong sách “Làm Đẹp Cuộc Đời”, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia). Ông Phương còn để cho bộ phận võ trang của Thanh niên Tiền phong xửû dụng sân tập bắn của sở cảnh sát Chợ Quán . Những người tù chánh trị bị Pháp bắt cũng đã được Huỳnh Van Phương trả tự do, trong đó có tướng Trần Văn Trà sau này, lúc đó lấy tên là Thắng. Cũng vào thời này, Huỳnh Văn Phương đã khám phá ra được tài liệu Mật của Sở Mật thám Catinat về việc liên lạc giữa Trần Văn Giàu và những nhân vật mật thám Pháp “mới”, trong đó có Duchêne, thanh tra chánh trị bót Catinat (Nguyễn Văn Trấn trong “ Viết cho Mẹ và Quốc hội”, trang 106, có đề cập đến việc gặp Duchêne). Huỳnh Văn Phương đã sao tài liệu làm 3 bản, để giao lại cho Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và luật sư Dương Văn Giáo, mỗi người một bản. Huỳnh Văn Phương cũng giữ riêng một bản. Việc này đã được Dương Văn Giáo trưng ra trong một buổi hội ở nhà Luật sư Hồ Vĩnh Ký cho lối hơn mười người xem. Trần Văn Giàu rất thù hận cay cú việc này nên ngay sau ngày quân Pháp tái chiếm Sài Gòn ngày 23 tháng 9-1945, Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn đã bắt và xử bắn Huỳnh Văn Phương ở Tân An ngay sau khi họ rút ra khỏi Sài Gòn để lui vềà Chợ Đệm, mặc dầu Huỳnh Văn Phương là người đã từng giúp phương tiện cho họ trong những ngày dự bị khởi nghĩa. (Việc này đã được tác giảû đề cập chi tiết hơn trong bài “Những Nhân chứng Cuối cùng”được đăng trong Thế Kỷ 21,số 121,tháng5-1999). Huỳnh Văn Phương là một trong số 19 sinh viên bị Pháp trục xuất về Việt Nam vì tham dự vào cuộc biểu tình trước Điện Élysée (dinh Tổng Thốâng Pháp) ngày 22-5-1930, chống việc kết án tử hình Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa ởû Yên Bái. Tạ Thu Thâu, Trần Văn Giàu, Hồ Văn Ngà...đều đi chung trong chuyến tàu Athos II, từ bến Marseille chở họ về Việt Nam ngày 24-6-1930. Huỳnh Tấn Phát gọi Huỳnh Văn Phương là “ chú Một” vì Phương thứ Mười Một trong gia đình. Sau khi bị trục xuất về Việt Nam một thời gian, Huỳnh Văn Phương tiếp tục học Luật ở Hà Nội. Trong thời gian này, Huỳnh Tấn Phát cũng ra Hà Nội học nghề Kiến trúc. Bà Đặng Hưng Thọ, hoa khôi khu Hoàn Kiếm thời bấy giờ, vợ của Huỳnh Văn Phương đã kể lại các việc “chú Một” từng giúp đỡ cháu Huỳnh Tấn Phát như cấp cho áo lạnh, giày mới thay thế những đôi giày “há mồm” v...v. Huỳnh Tấn Phát vì hảo tâm với các bạn đồng song nghèo đã tặng cho bạn giày hay cho mượn áo lạnh đem đi cầm để có tiền sinh sống. Việc người chú ruột thân thương, một chánh khách yêu nước, bị giết trong những ngày đầu cuộc chiến chắc hẳn đã gieo trong tâm tư Huỳnh Tấn Phát nhiều ray rức. Khi Pháp chiếm lại Sài Gòn ngày 23 tháng 9-1945, Huỳnh Tấn Phát bị bắt nhưng sau 3 ngày đã được thả vì Huỳnh Tấn Phát là một kiến trúc sư đã có danh tiếng và vì Pháp muốn lấy lòng dân trí thức. Huỳnh Tấn Phát lo tản cư vợ mới cưới là Bùi Thị Nga về Quán Tre, xong tiếp tục gia nhập kháng chiến chống Pháp. Cuộc chiến lan rộng Bùi Thị Nga đã phải dời liên tiếp về Thủ Thừa, Phú An Hòa, Bến Tre và cuối cùng trở về Sài Gòn ở nhà cha mẹ chồng ở 99 đường Faucault, Tân Định. Trong khi đó Huỳnh Tấn Phát được cử làm Trưởng đoàn Đại biểu Thanh niên Nam bộä được chọn ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên Toàn quốc. Đây là thời kỳ Hoàng Quốc Việt thay mặt Tổng bộ Việt Minh, được Hồ Chí Minh gởi từ Bắc vào để “chỉnh lại”cuộc đoạt chính quyền của Trần Văn Giàu. Thanh niên Tiền phong phải “ đồng thanh nhận” đổi tên thành Thanh niên Cứu quốc. Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch được quyết định của Trung ương ra Bắc “nhận nhiệm vụ mới”. Hơn 100 đại biểu thanh niên Nam bộ, khi đến Bình Dương thì Hoàng Quốc Việt quyết định chỉ cử 6 đại biểu. Sau thời gian dự hội nghị, đoàn của Huỳnh Tấn Phát trở lại về Nam. Huỳnh Tấn Phát được Bộ Quốc Phòng tín nhiệm giao một số tiền lớn đem về cho Tướng Nguyễn Bình ở miền Đông Nam Bộ. Về Sài Gòn, Huỳnh Tấn Phát nhận chỉ thị của Nguyễn Bình, thành lậäp ở vùng Minh Phụïng , Câây Gõ một cơ quan Tuyên truyền Xung phong in truyền đơn, cờ, báo để phân phát trong Đô thành. Liên tiếp sau đó Cơ quan này được dời sâu vào Đô thành như ở nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, trước thành Ô-ma hoặc nhà em bác sĩ Nguyễn Thị Lợi (vợ bác sĩ Lương Phán) ở đường Boudonnet gần chợ Sài Gòn. Lúc ban Tuyên truyền Xung phong này dời về căn nhà lầu ở 160 đường Lagrandière thì bị lộ và bị bắt, gồm cả vợ chồng Huỳnh Tấn Phát. Mẹ và vợ Huỳnh Tấn Phát được trả tự do sớm vì chỉ bị bắt khi đến thăm Phát lần đầu tiên ở trụ sở 160 đường Lagrandière. Sau một thời gian ở bót Catinat, Phát được đưa về Khám Lớn Sài Gòn. Tại đây vào tháng 10-1947 Huỳnh Tấn Phát tham gia lãnh đạo tổ chức cuộc tuyệt thực 3 ngày. Do đó chế độ nhà tù ở Khám Lớn được cải thiện. Những người cùng bị bắt với Phát bị xử 4 tháng tù vì tội phá rối trị an. Riêng Huỳnh Tấn Phát vì bị gán thêm tội liên hệ với Tướng Nguyễn Bình nên phải ra tòa án binh, bị xử hai năm tù và đến tháng 11 năm 1947 mới được thả. Trong lúc Huỳnh Tấn Phát bị bắt ở Catinat thì Bùi Thị Nga cho chồàng hay là đang mang thai lần đầu. Bác sĩ Hồ Văn Nhựt , bác sĩ sản khoa đã tận tình giúp bà Nga sanh đẻ miễn phí con trai đầu lòng Huỳnh Thiện Hùng, ngày 2-12-1946, trong lúc Phát còn trong tù.Bà Nga đã chọn luật sư Moréteau để lo biện hộ cho chồng. Luật sư Moréteau đã quen biết trước và có cảm tình với Phát nên đã nhận bào chữa nhưng không tính thù lao. Huỳnh Tấn Pháùt có người cô ruột gọi là Cô Tám, cư ngụ ở Bình Phước. Cha củûa Huỳnh Tấn Phát thỉnh thoảng lên thăm Cô Tám, ở chơi vài tuần. Giữa năm 1947 cha của Huỳnh Tấn Phát lên Bình Phước thăm Cô Tám và bị Việt Minh bắt ! Khi bà Nga báo hung tin này cho Huỳnh Tấn Phát thì Phát đã hốt hoảng dặn ngay vợ: “Em đến luật sư Moréteau nhắn mai anh cần gặp ổng. Rồi em đón ổng lấy cái thơ anh viết bảo lãnh cho ba. Thơ này em tìm cách trao tận tay các anh lãnh đạo ở Bình Phước”.(Trích bài “ Phối hợp Đấu tranh, Trong và Ngoài Khám Lớn” của Bùi Thị Nga trong “ Làm Đẹïp Cuộc Đời”, sđd ) Bà Nga đã làm y lời chồng căn dặn nhưng không có kết quả gì. Cha của Huỳnh Tấn Phát đã bị giết. Tiếp đó em của cha HTP là Cô Tám nóng lòng đi tìm cũng bị sát hại, giống như chú Một Huỳnh Văn Phương đã bị xử bắn năm 1945 ở Tân An vì liên hệ đến nhóm Đệ Tứ. Được tin động trời này, Huỳnh Tấn Phát đã nói với vợ: “Anh biết tánh Ba, chút rượu vào, nhớ chú Một, giận chưởi đổng ít câu vậy thôi, quyết không có vấn đề chánh trị đâu”. Cha, chú rồi cô đều bị giết vì tình nghi dính líu với Đệ Tứ, tâm tư Huỳnh Tấn Phát hẳn không bao giờ quên được việc ấy! Để giúp biện hộ cho Huỳnh Tấn Phát, luật sư Moréteau đã yêu cầu bà Nga mời thêm luật sư danh tiếng thời bấy giờ là luật sư Bazé tiếp sức. Thời gian này nhằm lúc thi hành Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 nên không khí chánh trị Sài Gòn có những trạng thái đặc biệt. Tết năm 1947, chị em phụ nữ đảng Dân chủ ( Huỳnh Tấn Phát là Ủy viên Kỳ bộ Đảng Dân Chủ ở Nam kỳ) tổ chức thăm nuôi tù nhân Khám Lớn đã nhận được báo và tập san của anh em tù nhân bí mật phát hành. Các tác phẩm được Bùi Thị Nga gom góp và tổ chức triển lãm gây quỷ ở nhà của Thái Thị Liên, mẹ của nhạc sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn sau này. Đến tham dự cuộc họp có đệm nhạc này ở nhà kỹ sư Thái Văn Lân (cha của Thái Thị Liên) có các trí thức như Bác sĩ Phạm Kim Lương, Dược sĩ Trần Kim Quan, Kỷ sư Nguyễn Xuân Quyến, Trần Văn Khê đàn tranh, Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương... Hôm đó, Thái Thị Liên đệm dương cầm và kết thúc bằng tự hát bản “Quốc tế ca”làm mọi người phải sửng sốt. Thái Thị Liên lúc ấy cũng phụ trách thăm nuôi hai nhà trí thức Pháp là Giáo sư Tiến sĩ Chesneau của Đại học Sorbonne và Pételot. Hai vị này bị nhốt ở Khám Lớn vì vào khu kháng chiến với danh nghĩa nhà báo. Cũng vào thời buổi này, xảy ra việc Dương Bạch Mai bị bắt. Để biện hộ cho Dương Bạch Mai, đảng Cộng sản Pháp đã gởi qua Sài Gòn nữ luật sư Marie Louise Cachin, con gái của lãnh tụ nỗi tiếng Marcel Cachin, người đã từng giữ chức Bí thư Đảng Cộng sản Pháp. Dương Bạch Mai được trắng án và Thái Thị Liên đã tham dự tổ chức buổi ăn mừng và tiễn đưa đồng chí Marie Louise Cachin về Pháp. Trong buổi tối tiệc tiễn đưa ấy, Thái Thị Liên đã mặc áo dài đỏû lộng lẩy, bên ngực cài mộät bông hoa vàng rực rỡ, biểu hiệu cho cờ đỏ sao vàng! Ra tù, Huỳnh Tấn Phát liên hệ ngay với Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) và chuyên phụ trách công tác trí vận vùng Sài Gòn Chợ Lớn vì anh quen biết nhiều trong giới này. Vợ Phát, Bùi Thị Nga, tháng 5-1948 được luật sư Hoàng Quốc Tân kết nạp vào Đảng Cộng sản. Hoàng Quốc Tân (cháu nội của Hoàng Cao Khải, Khâm sai Đại thần Triều đình Huế), đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, có vợ người Pháp, được về Nam phụ trách phong trào Trí vận. Bùi Thị Nga được Hoàng Quốc Tân phân công làm Đảng đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động trong giới trí thức. Như thế là kể từ đấy, hai vợ chồng Huỳnh Tấn Phát trong bí mật là đảng viên Cộng sản nhưng đã được Đảng bố trí ở Đảng Dân Chủ để dễ bề kết nạp trí thức miền Nam!
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 15:26:13 GMT 9
Huỳnh Tấn Phát cộng táùc với Mai Văn Bộ, Nguyễn Văn Hiếu trong việc xuất bản loại báo Nguyên tử, mua lại manchette báo dở chết, bất thình lình ra số ủng hộ kháng chiến, bán vội ở các sạp trước khi kiểm duyệt hay tin. Việc trí vận ở Sài Gòn vẫn tiếp tục với sự trợ giúp của các nhân vật mới như Bác sĩ Trần Cửu Kiến, Bí thư Tỉnh ủy Đảng Dân chủ tỉnh Sa Đéc được Phát điều động từ Cao Lãnh lên...
Trước Tết 1949, Huỳnh Tấn Phát được gọi ra khu, được cử làm ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ. Đồng thời Phát kiêm chức Giám đốc Sở Thông tin Nam bộ khi giáo sư Phạm Thiều được chuyển về Khu Chín. Bùi Thị Nga được ra ở cùng chồng trên bờ kinh Dương Văn Dương, Đồng Tháp đến tháng Giêng 1950 thì trở lại Sài Gòn. Huỳnh Tấn Phát phụ trách đài Tiếng nói Nam bộ nhưng đến năm 1950, đài này trở về lại Khu 9 . Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn được thành lập và Huỳnh Tấn Phát đã đôn đốc Đặng Trung Hiếu ( Giám đốc Đài Truyền hình Sài Gòn sau 30-4-1975) thiết kế thành lập đài Tiếng nói Sài Gòn- Chợ Lớn Tự do ở Chiến khu Đ.
Năm 1954 sau Hiệp định Genève, Huỳnh Tấn Phát được chỉ định trở về Sài Gòn và làm việc tại văn phòng Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc thi thiết kế khu Văn Hóa để xóa bỏ khu di tích Khám Lớn Sài Gòn. Văn phòng Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện chiếm được giải nhì (không có giải nhất), giải thưởng một trăm ngàn đồng. Đây là công trình của Huỳnh Tấn Phát và nét vẽ phối cảnh của Phát được ban giám khảo nhận ra. Kiến trúc sư Thiện chia cho Huỳnh Tấn Phát ba mươi ngàn. Vì dư luận Sài Gòn bàn tán đến tai cơ quan an ninh khiến một hôm văn phòng Kiến trúc sư Thiện bị bao vây nhưng vì Phát đang ở công trường xây cất nên không bị bắt. Từ đó Huỳnh Tấn Phát , biệt danh là Tám Chí và Bùi Thị Nga lui trở lại trong vòng bí mật, luôn luôn di chuyển.
Tuy nhiên trong thời gian đó Huỳnh Tấn Phát vẫn tìm cách hành nghề như phác thảo biệt thự của giáo sư Dương Minh Thới để văn phòng Kiếân trúc sư Thiện thực hiện. Biệt thự này, đối diện với Bộ Y Tế đường Hồng Thập Tự là nhà của bác sĩ Dương Huỳnh Hoa hiện nay. Huỳnh Tấn Phát cũng đã nhận thiết kế Viện sản xuất dược phẩm Trang Hai ở số 5, Ngô Thời Nhiệm vì Dược sĩ Nguyễn Thị Hai là bạn học của Bùi Thị Nga, vợ Huỳnh Tấn Phát. Sau vài lần gặp gỡ Phát đãõ nhận lời vẽõ vì cho làø công trình sẽõ tạo công ăn việc làm cho lao động. Dược sĩ Trang đã đứng ra xây dựng cơ sở này. Năm 1993 Dược sĩ Hai đã trở về thăm cơ sở và Bùi Thị Nga nhưng Huỳnh Tấn Phát thì đã mất tháng 9 năm 1989.
Huỳnh Tấn Phát được bổ sung vào Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban Trí vận cho đến năm 1959. Sau đó, Phát được cử làm Khu ủy viên chính thức Đặc khu Sài Gòn-Gia Định và ra ở vùng Tam Giác Sắt.
Lúc còn hoạt động ở Sài Gòn, năm 1956, Phát đã nhờ giáo sư Lê Văn Huấn, em của cựu Thủ tướng Lê Văn Hoạch để bắt liên lạc với Pauline Trần Thị Mỹ đang hoạt động trong Nghiệp đoàn Giáo giới Tư thục. Trần Thị Mỹ là em gái của Kỹ sư Trần Lê Quang, tốt nghiệp kỹ sư Trường Cầu cống Ponts & Chaussées danh tiếng của Pháp. Kỹ sư Quang về nước năm 1951, làm Giám đốc Đường sắt Đông Dương và được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử làm Bộ trưởng Giao thông Công chánh. Phát bố trí cho Trần Thị Mỹ thực hành công tác tế nhị là xuyên qua anh là Trần Lê Quang để biết được tình hình nội bộ của từng bộ trưởng trong Chánh phủ Ngô Đình Diệm cũng như các hành động của Chánh phủ. Có lần Trần Thị Mỹ, bí danh Mười Lêâ, đã xin anh đồng ý cho Huỳnh Tấn Phát mượn nhà để họp với Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh).Phương cách làm việc này đã được Huỳnh Tấn Phát sử dụng lại nhiều lần trong công tác trí vận đối với một vài nhân vật trong các chánh phủ thời Việt Nam Cộng Hòa. Trường hợp của Dược sĩ Phạm Thị Yên có thể là một việc tiêu biểu. Dược sĩ Phạm Thị Yên, vợ của một nhân vật quan trọng trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam là Trần Bửu Kiếm, có nhà thuốc đông khách ở cuối đường Đồng Khánh, Chợ Lớn. Dược sĩ Yên, có tên là Chị Bảy Yên, đã được bầu làm trưởng Ban Trí vận và cũng đồng thời là bí thơ chi bộ trí thức Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn trong một buổi hội ở Long Hải. Buổi hội được tổ chức ở một biệt thự nghỉ mát của Dược sĩ Trần Văn Tánh, chủ nhân Viện Bào chế TVT. Năm 1960, Ban Cán sự Trí vận của Phạm Thị Yên bị bắt trọn bộ. Phạm Thị Yên sau đó bị đày Côn Đảo. Cuối năm 1968, Thủ tướng Trần Văn Hương trước kia từng có thời phụ giúp nhà thuốc của Dược sĩ Trần Kim Quan đã ra quyết định âân xá cho Dược sĩ Yên. Ra được Bắc, Dược sĩ Yên đã được phân công đi tố cáo “Mỹ, Ngụy”ở một số nước Bắc Âu.
Bác sĩ Dương Quang Trung, tốt nghiệp ở Bordeaux (Pháp) trở về Hà Nội đã được đưa vào Nam tăng cường cho Ban Trí vận Mặt trận T4 với bí danh Hai Ngọï. Vì là cán bộ mới, chưa bị lộ nên Huỳnh Tấn Phát đã đưa vào nội thành hoạt động. Sau 30-4-75, Hai Ngọ được cử làm Giám đốc Sở Y tế Thành phố Sài Gòn. Công tác trí vận của Hai Ngọ chưa thành công lúc vào nội thành vì gặp phải đối tượng có cảnh giác?
Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được tuyên bố thành lập. Huỳnh Tấn Phát cùng Vỏ Chí Công, Phùng Văn Cung đứng đầu Ủy ban Trung ương Lâm thời Mặt trận. Huỳnh Tấn Phát đã có dịp thi thố tài năng Kiến trúc sư khi tổ chức Đại hội MTDTGP Đặc khu Sài Gòn Gia Định vào dịp Tết Nhâm Dần (1962). Đại hội tổ chức ở An Thành, nằm sâu trong rừng bên kia Lộ 14. Hội trường tổ chức khá mỹ thuật để đập vào mắt các nhân sĩ trí thức, văn nhgệ sĩ, tư sản được mời từ thành phố vào khu. Mỗi người được chỉ định ngồi riêng từng người trong ô ngăn cách căng ny long ba phía, phía trước che màn tuyn. Khách có thể nhìn lên chủ tọa đoàn và hội trường nhưng không biết mặt các khách tham dự khác.
Rút kinh nghiệm tổ chức ở Đặc khu Sài Gòn, Huỳnh Tấn Phát lên R chuẩn bị cho Đại hội Mặt trận toàn Miền Nam ở Lò Gò. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bố trí giải thoát khỏi Tuy Hòa để về dự và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận GPMN. Huỳnh Tấn Phát và Bác sĩ Phùng Văn Cung làm Phó Chủ tịch.
Sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963, Trung ương Cục Miền Nam điều Huỳnh Tấn Phát về công tác ở R. Thường vụ Khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn có cuộc kiểm thảo Phát trước khi nhận nhiệm vụ mới, bí thư Vỏ văn Kiệt tức Chín Dũng (bí danh được biết khác là Sáu Dân) ngồi ghế chủ tọa. Trong thời gian này, vợ của Phát đã bị lộ và bị bắt từ 5-5-1960. Sau gần năm năm tù, Bùi Thị Nga được thả ngày 3-10-1964 từ khám Chí Hòa.
Tháng 3 năm 1965, theo lời mời của Hoàng thân Sihanook, Huỳnh Tấn Phát hướng dẫn một phái đoàn Mặt trận GPMN đi Phnom Penh. Đây là lần đầu tiên HTP xuất ngoại qua xứ láng giềng.
Năm 1967, trong trận Cedar Falls ( Trận “ Lột vỏ đất” theo danh từ trong khu) tấn công vào Củ Chi và Tam giác sắt, Huỳnh Tấn Phát đã phải gian nan 18 ngày trong vòng vây vì địa đạo bị đánh phá, chỉ thoát được với 2 bảo vệ. Sau Tết Mậu Thân 1968 Huỳnh Tấn Phát và Ban Trí vận Mặt trận Khu Sài Gòn-Gia Định vận động một số nhân sĩ trí thức ra khu thành lập Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Miền Nam. Luật sư Trịnh Đình Thảo được chọn làm Chủû tịch Liên minh. Đây là một tổ chức thứ hai bên cạnh Mặt trận GPMN để thu hút vài thành phần nhân sĩ trí thức khác ở miền Nam.
Ngày 6-6-1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân Miền Nam bầu Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam. Từ ngày này cho đến thời kỳ Hòa đàm Paris và 30 tháng Tư, 1975 có thể xem là thời kỳ đắc ý nhất của Huỳnh Tấn Phát vì từ lâu anh vẫn thường tìm cách lôi kéo nhân sĩ trí thức miền Nam là anh tranh đấu cho miền Nam có một chế độ Cộng Hòa khác biệt với miền Bắc trong khi chờ đợi việc thống nhứt trong tương lai. Năm 1972 Chánh phủ của Phát đã ban hành nhiều sắc luật, đã thông báo Mười chánh sách đối với các “ vùng giải phóng” và Mười điều Kỷ luật cho cán bộ. Trong thời kỳ Hội đàm Paris và cả những ngày đầu sau ngày 30-4-1975, báo Đoàn Kết ở Pháp cổ động trong giới hải ngoại về thể chế chính trị miền Nam, cam kết sẽ tôn trọng quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh v...v. Bên trong thật sự ai cũng biết là các sắc luật của Chánh phủ của Phát tất nhiên đều phải được Hà Nội đồng ý chấp thuận.
Sau 30-4-1975, nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh ...đã kiêu hãnh qua mặt Chánh phủ của Phát, chủ trương phải thống nhất ngay và Chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, Mặt trận Giải phóng, Liên Minh v..v, không kèøn không trống đã bị giải tán hồi nào không ai biết!
Để xoa dịu phần nào phản ứng dân kháng chiến miền Nam, năm 1976 Huỳnh Tấn Phát được cử làm Phó Thủ tướng Chánh phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN, lo việc quy hoạch đô thị, thiết kế xây dựng thủ đô Hà Nội v...v! Năm 1977, Huỳnh Tấn Phát được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc và đến năm 1983 được lên chức làm Chủ tịch Đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc, toàn những chức vụ không quyền lực!
* * *
Trong suốt thời gian chiến đấu, từ 1945 cho đến ngày từ trần, với bao nhiêu công trận nguy hiểm vào sanh ra tử, Huỳnh Tấn Phát chưa bao giờ được mời đặt chân vào cơ quan chánh trị đầu não của Đảng Bộ ở Hà Nội. Sau Hiệp định Genève 1954, cơ quan quyền lực này đã khép kín chia chác quyền hành ở miền Bắc tương đối thanh bình so với phần máu lửa ở miền Nam.
Sau 30-4-1975, bao nhiêu cán bộ từ Bắc vào, từ tay không đã trở nên giàu có tột bực trong một thời gian ngắn. Trong lúc đó, vợ của Huỳnh Tấn Phát đã viết: “...Tôi nhớ đến ước mơ của anh, lúc gần cuối đời, anh ao ước có một chiếc Honda, để khi về hưu chở vợ hay cháu nội cháu ngoại đi chơi...” (Trích bài “Đám cưới giữa Mùa thu Khởi nghĩa” của Bùi Thị Nga, trong “Làm Đẹp Cuộc Đời” sđd) . Sợ Phát ở lại miền Nam, gần gũi Nhóm Câu Lạc Bộ Kháng Chiến, Huỳnh Tấn Phát được Hà Nội mời ra Bắc tiếp tục tham gia chánh phủ. Huỳnh Tấn Phát được cấp một nhà khiêm tốn so với chức vụ ở số 9, đường Ngô Thời Nhiệm. Mùa Thu 1988, Huỳnh Tấn Phát đột ngột trở bịnh vàø được đưa điều trị ởû Bịnh viện 108. Pháùt từ chối không muốn ra nước ngoàøi chữa trị. Khi thuyên giảm được phần nào, Phát quyết định trở về Nam. Tờ lịch trong phòng Huỳnh Tấn Phát vẫn dừng giữa ngày 27-11-1988, ngày Phát rời Hà Nội. Ngôi nhà chức vụï ởû số 9 Ngôâ Thời Nhiệm vẫn chờ Phát trở lại, nhưng Phát đã vĩnh viễn ra đi ngày 30 tháng 9 năm 1989.
Huỳnh Tấn Phát, Kiến trúc sư có tiếng tăm trong giới chuyên nghiệp, đã thiết trí bao nhiêu đồ án công cũng như tư, cho đến ngày chết vẫn chưa có cơ hội tự xâây được một mái nhà theo ý muốn cho gia đình trú ngụ, không có được một chiếc xe riêng để chở vợï con !
Phạm Thiều, một giáo sư khả kính, người gốc Nghệ Tỉnh, dạy chữ Nho và Toán tại Trường Trung học Pétrus Ký đã ra khu kháng chiến từ 9-1945, tập kết ra Bắc, trở về Nam sau 30-4-1975. Ông được bầu làm Đại biểu Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Không hiểu có phải vì ông đã chán ngán cái cảnh thoái hóa, tham nhũng của cán bộ Cộng sản sau 1975 hay vì ông đãõ nhận thức được các sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng sản củûa Stalin khiến làm sụp đổ các nước Xã hội chủ nghĩa ở Trung Âu, nêân ông đã ân hận và treo cổ tự tử ! Trước khi tự kết liễu đời mình, ông đã nhờ Đại tá hồi hưu Xuân Diệu ( không phải thi sĩ Xuân Diệu) nhắn giùm ông trước Đại hội Đảng Q3, Thành phố Hồ Chí Minh:
“Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại,
Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối,
Dốt, Dại, Dối,
Đóù là ba điều làm cho các nước Xã hội Chủ nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác”(Trích thư của đảng viên kỳ cựu La Văn Lâm, tức cựu trùm Công an La Văn Liếm gởi Tổng Bí thư Đổ Mười ngày 30-4-1994). Tướng Trần Văn Trà, tướng trách nhiệm quân sự miền Nam, đã viết Hồi ký gián tiếp “chỉnh” các khoe khoang của Văn Tiến Dũng trong quyển : “Đại thắng Mùa Xuân”. Hồi ký của Tướng Tràø vừa mới xuất bản lại có lịnh phải tịch thâu ngay. Trần Văn Trà sau đóù có một lúc liên hệ với Câu lạc bộ Kháng chiến Miền Nam và đã được mời ra Bắc ởû cho đến khi chết. Trần Văn Trà đã viết về Huỳnh Tấn Phát: “Có một điều cần nói. Anh Phát không thuộc một gia đình “trơn tru”, anh vẫn có tâm tư riêng”.
Trần Bạch Đằèng, người Cộng sản kỳ cựu ở miền Nam từ 1945 đến 1975, có viết về Huỳnh Tấn Phát: “Anh không cầm súng, chưa bao giờ là chỉ huy quân sự, song lại cáng đáng một trận địa mà có lẽ không dễ có người thay: huy động lực lượng trí thức vào hàng ngũ đấu tranh...Càng biết nhiều khía cạnh riêng của anh Phát càng khâm phục anh-những mất mát của anh về những người thân (cha, chú, cô) là quá lớn...”Được Trần Văn Giàu kết nạp vào Đảng Cộäâng sản từ ngày 5-3-1945, Huỳnh Tấn Phát đã được bố trí tiếp tục hoạt động cho đảng Dân Chủ ở miền Nam. Để chiêu dụ những nhân sĩ và trí thức miền Nam tham gia tranh đấu, Huỳnh Tấn Phát đã cổ võ cho một chiêu bài hòa hợp, một thái độ cách mạng kiểu đảng Dân Chủ . Khi Hà Nội chủ trương vội vã thống nhất sau ngày 30-4-1975, giải tán Chánh phủ Lâm thời Cộng Hòa miền Nam, lừa gạt đưa quân nhân, công chức, văn nghệ sĩ miền Nam vào các trại lao tù, giải tán đảng Dân chủ và đảng Xã hội, thiêu đốt cáùc táùc phẩm văn hóa, sách vở dân chúng miền Nam vân...v. Huỳnh Tấn Phát đã được nhiều nhân sĩ trí thức cho là Huỳnh Tấn Phát đã mang tội thất tín với dân chúng miền Nam.
Người viết bài có một cộng sự viên đã ở lại trong xứ sau ngày 30-4-1975 và đã có cơ hội biết Huỳnh Tấn Phát trong những ngày nằm bịnh viện Thống Nhứt vàø bịnh viện Chợ Rẫy. Anh ấy đã cho biết: “ Ở Chợ Rẩy, Huỳnh Tấn Phát trong những ngày bịnh, không nói năng gì, chỉ mỉm miệng cười cho đến khi chết”.Những ai có dịp sống gần Huỳnh Tấn Phát đều biết anh là người rất tốt về mọi mặt, có cái đặc biệt là miệng lúc nào cũng nở nụ cười rạng rỡ .
Không ai biết được nỗi lòng Huỳnh Tấn Phát ra sao trong những ngày sắp đi sang thế giới khác. Không biết Huỳnh Tấn Phát đã mỉm cười trước khi chết vì cảm thấy đã làm tròn những ước vọng của đời mình trước khi ra đi, hay cái cười im lặng của Anh là một cách cười chua chát?
Ngày 30 tháng Tư năm 2001
B.S. Trần Nguơn Phiêu
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 25, 2010 4:35:33 GMT 9
Trình Ánh Hồng Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kì hậu Stalin Thư của tác giả Trình Ánh Hồng (Yinghong Cheng) gửi độc giả Việt Nam (2006) Tôi rất cảm kích công sức mà ông Lê Quỳnh đã dành cho bản dịch này. Kể từ đầu năm 2006, chúng tôi đã liên lạc thường xuyên với nhau để chia sẻ ý kiến và thông tin về Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt từ cái nhìn lịch sử. Tôi cũng học được nhiều từ thân mẫu của dịch giả về kiến thức lịch sử và vấn đề dịch thuật Trung - Việt.
Tôi muốn bổ sung một vài ghi chú quan trọng cho tiểu luận mà nay được dịch sang tiếng Việt. Tiểu luận của tôi viết trong giai đoạn 2002-2003, nhưng kể từ đó, tôi đã phát hiện thêm nhiều và đi đến một số kết luận quan trọng. Một bài viết khác của tôi sẽ được in trong Modern China Studies (một tạp chí học thuật Hoa ngữ đặt ở Mỹ, số mùa Xuân 2007) – bài này dựa một phần từ tiểu luận tiếng Anh đầu tiên, nhưng các phân tích và kết luận về Việt Nam được làm rõ hơn.
Nói chung, tôi cho rằng từ 1955 đến 1957, những sự kiện ở Trung Quốc và Việt Nam là phản ứng thách thức học thuyết và những hành động Mao-it, nhiều hơn là một sự giải ảo Stalin. Khi tôi được đọc nhiều hơn những tư liệu về sự phản kháng của trí thức Việt Nam, tôi đi đến kết luận rằng họ trực tiếp chống đối một biến thể của chủ nghĩa Mao ở Việt Nam, chứ không phải là biến thể của chủ nghĩa Stalin (về mặt lịch sử, áp dụng đúng hơn cho Đông Âu.) Biến thể Mao-it này chủ yếu gồm ba khía cạnh: cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, và các chính sách và thể chế nhằm kiểm soát và lung lạc nghệ sĩ, nhà văn nhằm mục đích ý thức hệ và chính trị. Cả ba yếu tố này, trong chừng mực phát triển ở Việt Nam, hầu như không tìm thấy trong chủ nghĩa Stalin hay hiện thực ở Liên Xô thập niên 1950, nhưng chúng đã hiện diện ở Trung Quốc của Mao từ thập niên 1940. Trung Quốc của Mao, hay cụ thể hơn là cách tiếp cận Mao-it về một chính thể độc đảng và về sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần được xem là đã chịu trách nhiệm cho nhiều thảm trạng ở Việt Nam thập niên 1950. Tôi chỉ muốn dùng một ví dụ về cải cách ruộng đất. Theo các nguồn gần đây của Trung Quốc, người cộng sản Trung Quốc bắt đầu thúc các đồng chí Việt Nam thực thi cải cách ruộng đất (xúi giục đấu tranh giai cấp, loại bỏ địa chủ và trừng phạt những ai có cảm tình với họ, chia lại ruộng đất, và thậm chí để những tay du thủ du thực quá khích ở làng nắm quyền sinh sát) ngay từ mùa Hè 1949, khi Lưu Thiếu Kỳ bí mật gặp Hồ Chí Minh ở Moskva. Ông Hồ đã ngần ngừ, vì ông cho rằng Bắc Việt đang trong giai đoạn cách mạng dân tộc (tức là chống Pháp) vì vậy tầng lớp tinh hoa nông thôn cần được đưa vào mặt trận dân tộc. Lưu Thiếu Kỳ kể lại cho Stalin về thái độ của Hồ và Stalin đã khiển trách Hồ. Vì chuyện này, các lãnh đạo Trung Quốc đã quy cho ông Hồ là “kẻ cơ hội cánh hữu lạc hậu”. Chính Lưu Thiếu Kỳ đã tiết lộ tình tiết này trong một cuộc gặp năm 1962.
Bài viết sắp tới của tôi bằng tiếng Hoa là một ghi chép và phân tích chi tiết về việc làm thế nào ba yếu tố Mao-it kể trên (cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng và các chính sách với trí thức) đã được phản ánh ở Bắc Việt từ cuối thập niên 1940 và sau đó bị trí thức Việt Nam chống đối từ năm 1955 (các hoạt động do Trần Dần dẫn đầu) đến mùa hè 1957. Còn bài tiểu luận dưới đây về căn bản thể hiện suy nghĩ của tôi vào năm 2003. [1] * Năm 1956 và 1957 đánh dấu cuộc khủng hoảng trầm trọng đầu tiên trong khối cộng sản toàn cầu thời Chiến tranh Lạnh với nhiều sự kiện quan trọng. Bài nói chuyện mật của Nikita Khrushchev tại Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô tháng Hai 1956 tiết lộ những tội ác của Stalin đã gây sốc cho thế giới cộng sản và châm ngòi cho giai đoạn hạ bệ Stalin, mà không lâu sau đó đã tạo nên những thách thức cho chính hệ thống cộng sản, qua những cuộc nổi loạn ở Ba Lan và Hungary tháng 10 và tháng 11 năm 1956. Tại các nơi khác ở Đông Âu, mặc dù nhìn chung không nổ ra các phản kháng chính trị quyết liệt, nhưng những tranh luận trong nội bộ Đảng và bất bình của trí thức diễn ra phổ biến, đi kèm là những cuộc biểu tình và bãi khoá lẻ tẻ của công nhân và sinh viên. Ở các nước cộng sản châu Á, sự bất bình trong giới trí thức và phê phán Đảng trở nên dễ thấy ở Trung Quốc, đặc biệt vào mùa xuân 1957, khi có phong trào Trăm hoa Đua nở và thời kì Chỉnh huấn, kèm theo là một số vụ đình công của công nhân và bãi khoá của sinh viên. Ở miền Bắc Việt Nam, người trí thức đã trực tiếp thách thức Đảng trong phong trào gọi là Nhân văn - Giai phẩm (tên của hai ấn phẩm chỉ trích Đảng) trong giai đoạn mùa Thu 1956, gắn liền với biến cố nông dân nổi loạn ở tỉnh Nghệ An và bất ổn tại các đô thị. Cách mạng Hungary bị đàn áp tháng 11-1956, và môi trường ở Liên Xô và Đông Âu trải qua những thay đổi đầy kịch tính. Tuy nhiên, vì các trí thức Trung Quốc vẫn còn được khuyến khích chỉ trích Đảng vào mùa Xuân 1957, trí thức ở Việt Nam lại một lần nữa mở cuộc chỉ trích chính quyền. Nhưng vào tháng Sáu 1957, Trung Quốc mở chiến dịch chống quan điểm hữu khuynh và chấm dứt thời kì “giải phóng”, và Việt Nam cũng làm như vậy khi bước vào năm 1958. Và như thế cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản được giải quyết xong. Khi kể lại và phân tích các sự kiện trên, các sử gia đã chủ yếu dựa vào một sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm. Đa số các nhà sử học lấy Moskva – đặc biệt là Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô – làm trung tâm của thay đổi chính trị trong khi đặt các nước cộng sản khác ở đường biên. Những nhà nước ở ngoại vi này ban đầu có phản ứng bị sốc và lúng túng trước Moskva, nhưng rồi nhiều nước đã nhanh chóng sử dụng cơ hội để khẳng định tư tưởng cải tổ của họ, tư tưởng mà bình thường sẽ khó mà biện hộ được. Cái sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm này nhìn chung phản ánh sự thật lịch sử vì ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong cộng đồng cộng sản thời kì ấy và còn vì thứ tự thời gian căn bản của các sự kiện. Nhưng khi áp dụng một khung diễn giải bao quát cho lịch sử, ta cần cảnh giác trước những nhược điểm của nó. Nhược điểm chính của các diễn giải lấy Moskva làm trung tâm là khuynh hướng bỏ qua và đánh giá thấp những điểm gốc tạo nên thay đổi chính trị ngoài những điểm gốc ở Moskva cùng những liên hệ và sự tương tác không nhất thiết tập trung ở Moskva. Trong một số trường hợp, điều này đưa đến sự giản lược hoá một hoàn cảnh lịch sử phức tạp và diễn giải sai lầm những liên hệ và sự tương tác giữa các nước cộng sản. Bài viết này xem xét tiến trình phê phán Stalin, hay còn hiểu là giải phóng, từ góc nhìn dựa vào sự liên hệ với Trung Quốc tại Đông Âu và Việt Nam – một góc nhìn đã hoặc bị đánh giá thấp hoặc bị bỏ qua trong những phân tích lấy Moskva làm chính [2] . Thuật ngữ “sự liên hệ với Trung Quốc” có ý nghĩa là một ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc hoặc những diễn biến song song giữa các nước này và Trung Quốc. Bài viết này giới thiệu và liên hệ hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là ảnh hưởng của Trung Quốc tại một số nước Đông Âu, và thậm chỉ cả ở Liên Xô, từ 1955 đến 1958. Thứ hai là sự thách thức chính quyền của các trí thức Việt Nam và phản ứng của chính quyền, cả hai cho thấy những sự tương tự thú vị giữa hai quốc gia. Sự liên hệ với Trung Quốc ở cả trường hợp Đông Âu và Việt Nam cho thấy rõ là có một nguồn gốc khác góp phần vào quá trình hạ bệ Stalin và thậm chí gợi ý về một khung thời gian mở rộng của các biến cố ngay từ đầu năm 1955 (tức là trước “Báo cáo mật” của Khrushchev) đến tận cuối 1958 (một năm sau khi Liên Xô dập tắt cuộc nổi dậy ở Hungary), và như thế giúp làm giàu thêm hiểu biết của chúng ta về cuộc khủng hoảng cộng sản toàn cầu nhờ các nguồn rộng hơn và khung thời gian dài hơn. Trường hợp Đông Âu Đối với đa số các sử gia, ảnh hưởng quan trọng của Trung Quốc tại Đông Âu sau cái chết của Stalin bắt đầu với vai trò của nước này trong việc giải quyết khủng hoảng chính trị ở đó vào tháng 10 và 11 năm 1956 [3] . Nói ngắn gọn, khi Moskva quyết định dùng vũ lực dập tắt cuộc nổi dậy của công nhân Ba Lan vào giữa tháng 10-1956, Bắc Kinh đã phản đối quyết định này với lý do là vấn đề Ba Lan xảy ra không phải vì âm mưu chống chủ nghĩa xã hội của phương Tây mà chủ yếu là do “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” (ám chỉ sự kiêu ngạo và can thiệp của Moskva vào công việc nội bộ của các nước). Ngược lại, khi Moskva còn nhùng nhằng giữa việc dùng vũ lực hay để yên trước cuộc khủng hoảng Hungary vào cuối tháng 10, Bắc Kinh đã thúc giục Moskva gửi quân vào Budapest. Theo một số nguồn tư liệu Trung Quốc được công bố vào cuối thập niên 1990, từ ngày 19 đến 31 tháng Mười 1956, thời điểm khi cuộc khủng hoảng Ba Lan – Hungary lên đến cao trào, liên lạc và thảo luận giữa Moskva và Bắc Kinh cũng liên tục và dồn dập đến bất thường. Ngày 19-10, sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan chọn Wladislaw Gomulka, người mà Kremlin xem là có thái độ đáng ngờ với Moskva, làm lãnh đạo mới, thì Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc, đã thông báo cho Bắc Kinh về tình hình gay go ở Warszawa, ám chỉ khả năng quân đội Liên Xô sẽ can thiệp ở Ba Lan. Mao Trạch Đông tức khắc mở cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng và quyết định không đồng ý với sự can thiệp quân sự do Moskva dẫn dắt. Ngày hôm sau, Mao gặp Yudin và yêu cầu ông thông báo cho Moskva về quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay tức thì và “đúng từng chữ”. Ngày 21-10, Mao lại triệu đại sứ Liên Xô đến, một lần nữa bày tỏ lo ngại, và cũng cho biết sự không hài lòng trước việc Khrushchev công kích Stalin, điều mà phía Trung Quốc cho là đã tạo nên khủng hoảng. Cùng lúc đó, tình hình ở Hungary trở nên căng thẳng hơn và Moskva không còn nghĩ rằng kênh đại sứ là đủ hiệu lực. Vì thế, theo yêu cầu của Moskva, một phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình dẫn đầu đã đến Moskva ngày 23-10 và ở lại đó đến 31-10, khi mà xe tăng Nga tiến vào Budapest. Trong thời gian ở lại, phái đoàn Trung Quốc được thông báo về diễn biến ở Hungary và mỗi ngày đều nhận được sự tham vấn từ Khrushchev và các lãnh đạo khác của Liên Xô. Các thành viên trong đoàn thậm chí đã tham dự các cuộc họp khẩn của đoàn chủ tịch Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24 và 26-10. Những khoảnh khắc quan trọng nhất xảy ra vào ngày 29 và 30-10. Vào chiều 29-10, Khrushchev và các lãnh đạo Liên Xô khác gặp phía Trung Quốc tại nơi phái đoàn ở và cho biết cả Ba Lan và Hungary đang yêu cầu Moskva rút quân khỏi hai nước. Mặc dù vẫn đòi Moskva thay đổi thái độ “sôvanh nước lớn” đối với các nước cộng sản khác, nhưng ông Lưu Thiếu Kỳ nói trong hoàn cảnh hiện tại, tốt hơn là quân đội Liên Xô hãy ở lại và đối đầu với những phần tử phản cách mạng. Trong lúc đang nói chuyện, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện thoại của Mao, người có đề nghị khác với Lưu. Mao nói đã đến lúc Moskva phải rút quân ra khỏi cả hai nước và để họ được độc lập. Lưu chấp nhận ý kiến của Mao và chuyển lại thông điệp cho Khrushchev. Nhưng ngày hôm sau, phái đoán Trung Quốc nhận được báo cáo tình hình từ phía ban lãnh đạo Liên Xô. Báo cáo được viết bởi Anastas Mikoyan, phó thủ tướng thứ nhất và là người liên lạc khéo léo giữa Moskva và các nước cộng sản khác, người đã được gửi đến Hungary trước khi phái đoàn Trung Quốc đến Moskva. Báo cáo nói rằng từ hôm 29-10, sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Budapest và giải tán lực lượng an ninh Hungary, thủ đô và nhiều nơi khác của Hungary đã rơi vào hỗn loạn và các phần tử phản cách mạng đang tàn sát những người cộng sản. Phái đoàn Trung Quốc bị ngạc nhiên. Sau một ngày thảo luận, họ kết luận rằng tính chất của sự kiện ở Hungary khác với ở Ba Lan, vì thế quân đội Liên Xô cần quay lại thủ đô và đè bẹp bọn phản cách mạng. Sau đó vào buổi chiều, Lưu Thiếu Kỳ gọi cho Mao. Mao thay đổi quan điểm ban đầu rằng phía Nga cần rút quân, và nay đồng ý với kết luận của phái đoàn vì ngoài báo cáo của Lưu, Mao còn nhận được báo cáo hàng ngày từ Hungary của Hồ Đức Khánh, đại sứ Trung Quốc, và Hồ Quý Bang, phóng viên của Nhân dân Nhật báo ở Budapest. Nhưng Mao nói nếu phía Nga chờ lâu một chút để có thêm các phần tử phản cách mạng lộ diện thì sẽ tốt hơn – một chiến thuật đặc Mao mà sau này được dùng để phát hiện phe hữu khuynh ở Trung Quốc. Sau khi gọi cho Mao, phía Trung Quốc yêu cầu có cuộc họp khẩn với người Nga. Tại cuộc họp, Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mạnh mẽ đề nghị Khrushchev không “bỏ cuộc” ở Hungary mà hãy nỗ lực hơn để cứu vãn tình thế, trong khi Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai thúc giục quân đội Nga quay lại thủ đô và nắm chính quyền. Nhưng Khrushchev ngần ngừ. Ông nói với phía Trung Quốc rằng vì tình hình đã thay đổi khá nhiều ở Hungary, nên sự trở lại của quân Nga sẽ đồng nghĩa với sự chiếm đóng đất nước và người Nga sẽ bị xem là kẻ chiếm đóng. Vì thế ban lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev thông báo cho phía Trung Quốc, đã quyết định không đưa quân quay lại. Vì phía Nga đã quyết định như vậy, Trung Quốc không dấn thêm nữa. Thay vào đó, Lưu nói đùa với phía Nga rằng hôm qua chúng tôi thuyết phục các đồng chí rút quân nhưng các đồng chí không chịu; hôm nay các đồng chí đến đây và tìm cách thuyết phục chúng tôi đồng ý với quyết định rút quân. Mọi người có mặt ở buổi họp bật cười. Lưu lại nói phái đoàn Trung Quốc sẽ trở về Bắc Kinh chiều hôm sau. Nhưng vào chiều hôm sau, 31-10, phái đoàn Trung Quốc nhận được điện từ Kremlin ngay trước lúc họ ra sân bay. Các lãnh đạo Nga yêu cầu phía Trung Quốc đến phi trường sớm hơn một tiếng để dự cuộc họp khẩn. Tại phi trường, đoàn Trung Quốc gặp Khrushchev và các lãnh đạo khác của Nga. Khrushchev nói ban lãnh đạo Nga đã thay đổi ý kiến trong đêm và quyết định đưa quân quay lại Budapest. Tỏ rõ phấn khởi, Lưu Thiếu Kỳ nói Trung Quốc vui mừng rằng ban lãnh đạo Nga đã đứng ra bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Thực tế, trước cuộc họp ở sân bay, quân đội Nga đã di chuyển quay lại thủ đô Hungary [4] . Sự do dự của Moskva khi giải quyết cuộc khủng hoảng Hungary, được phản ánh qua ghi chép của Trung Quốc, có thể được xác nhận bằng chính lời của Khrushchev: “Không biết đã bao nhiêu lần chúng tôi thay đổi ý kiến về việc rút khỏi Hungary hay ‘đè bẹp cuộc nổi loạn’” [5] . Khó xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với Moskva trong các quyết định, nhưng như ta thấy qua ghi chép trên của Trung Quốc, phía Trung Quốc quả thực đóng một phần vai trò trong tiến trình và phía Nga quả thực xem trọng thái độ của Trung Quốc. Ngày 3-11-1956, ba ngày sau khi xe tăng Nga tiến vào Budapest, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc là một trong các tờ báo cộng sản đầu tiên ca ngợi Liên Xô đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary. Trung Quốc còn ủng hộ thay đổi chính trị ở Hungary bằng việc gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đến Budapest giữa tháng Giêng 1957 khi tình hình còn bất ổn, và xe tăng Liên Xô đã phải canh gác chỗ ở của ông Chu, mặc dù ông chỉ ở lại đây một ngày. Trong lịch sử ngoại giao Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc trong khủng hoảng Ba Lan – Hungary đánh dấu lần đầu tiên Trung Quốc bày tỏ quyền lực của họ tại châu Âu, “một diễn biến mà Liên Xô sau này sẽ ân hận”, như lời của Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson [6] . Mặc dù các chi tiết về quan điểm cứng rắn của Trung Quốc trong khủng hoảng Hungary không được biết tới cho mãi đến cuối thập niên 1990, nhưng sự ủng hộ công khai trước việc đè bẹp cuộc nổi dậy ở Hungary – thể hiện qua sự có mặt của phái đoàn Trung Quốc ở Moskva vào thời điểm xảy ra, các tuyên bố chính thức nhanh chóng, và chuyến thăm của Chu Ân Lai đến Budapest – thường được xem là chỉ dấu về thái độ của Trung Quốc đối với cuộc khủng hoảng trong bốn thập niên kế tiếp. Nhưng thái độ của Trung Quốc đối với khủng hoảng Hungary, dù có cứng rắn và ấn tượng đến đâu, thì cũng chỉ là một khía cạnh trong chính sách và ảnh hưởng của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin hay còn gọi là giải phóng. Sự chỉ trích “chủ nghĩa sôvanh nước lớn” của Nga, quyết định bác bỏ sự can thiệp của Nga trong khủng hoảng Ba Lan, và ý kiến của Mao rằng quân đội Nga nên rút khỏi Ba Lan và Hungary trước khi tình hình trở nên xấu đi, cho thấy một thái độ phức tạp hơn của Trung Quốc. Nếu chúng ta mở rộng cái nhìn ra toàn bộ giai đoạn phê phán Stalin và xem xét lại một số dữ kiện ít được quan tâm trước và sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy một Trung Quốc khác. Một Trung Quốc mà thái độ mang tính cởi mở (nếu xét từ góc nhìn thuần tuý Stalin và bất kể mưu tính đằng sau thái độ ấy là gì) cũng xuất hiện giữa những người cải cách hoặc chống Stalin ở Đông Âu ngay từ năm 1955 và kéo dài cho đến mùa hè 1957, hơn nửa năm sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt. Có bằng chứng rằng Trung Quốc bắt đầu thu hút chú ý từ một số nước Đông Âu trong thời gian khi, ngay sau cái chết của Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô bắt đầu chứng tỏ họ sẵn lòng cho phép các thay đổi chính sách, có tên “Đường lối Mới”. Đường lối này do Georgi Malenkov, người kế vị gần nhất của Stalin mà sau đó bị Khrushchev thay thế, khởi xướng (ngay từ mùa xuân 1953, cùng sự hỗ trợ của Lavrentiy Beria, theo nghiên cứu của Geoffrey và Nigel Swain.) [7] Ở trong nước, Đường lối Mới bao gồm việc bớt nhấn mạnh đến công nghiệp nặng vốn được Stalin ưa thích, và thay vào đó, chú ý hơn đến nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thông qua việc bớt kiểm soát giá thực phẩm và quần áo, và giảm bớt đàn áp chính trị. Trên trường quốc tế, Đường lối Mới bao gồm việc phục hồi cho Tito của Nam Tư – người đã bị Stalin trục xuất khỏi thế giới cộng sản năm 1948 – sau chuyến thăm bất ngờ của Khrushchev đến Belgrade tháng Năm 1955. So với cơn bão mà Đại hội 20 sau đó tạo nên, thì Đường lối Mới này có vẻ chỉ là cơn gió thoảng, nhưng quả thực nó “làm tan băng” mảnh đất đã bị đông cứng trong chính thể Stalin cứng nhắc. Các đảng Đông Âu đã phản ứng theo Moskva – phần nào được Kremlin khuyến khích – bằng việc đưa ra những thay đổi tương tự trong lĩnh vực đảng, kinh tế, xã hội. Để có thêm tự chủ trước Moskva, một số nước Đông Âu quay sang Bắc Kinh tìm cảm hứng với cái cớ rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển đổi chủ nghĩa xã hội (từ “Dân chủ Mới” sang chủ nghĩa xã hội) tương tự như Đông Âu, trong khi Liên Xô đã tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội cao hơn. Ví dụ, ở Đông Đức, nước đầu tiên ở Đông Âu thực thi một số chính sách Đường lối Mới ngay từ 1953, Hội nghị lần thứ 25 của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức thông qua nghị quyết ngày 1-11-1955, chuẩn thuận phương pháp của Trung Quốc trong vấn đề quốc hữu hoá các doanh nghiệp lớn của tư nhân còn lại bằng cách đề nghị bồi thường 50% cho những người chủ cũ [8] . Việc mua, thay vì tịch thu, phương tiện sản xuất và cho phép chủ cũ tham gia quản lý là chính sách của Mao nhằm làm cuộc chuyển đổi diễn ra êm thắm; nó rất khác với mô hình quốc hữu hoá chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Đông Đức quan tâm đến phương thức quốc hữu hoá ôn hoà hơn của Trung Quốc, và mối quan tâm này tiếp tục tăng trong năm 1956 và được phản ánh trong các bài báo, phúc trình trên báo và tạp chí của Đảng. Neue Zeit, một báo của Đảng, ngày 13-6-1956 đã in lại một bài nhan đề “Vì sao các nhà tư bản của chúng ta hoan nghênh chủ nghĩa xã hội”, do chủ tịch Hội Nông Thương Trung Quốc viết và đăng lần đầu trên People’s China, một tờ báo tuyên truyền đối ngoại, để trả lời cho câu hỏi của các chủ doanh nghiệp tư nhân ở Đông Đức. Trong ấn bản tháng Chín, tờ báo lý luận Einheit có đăng bài báo Trung Quốc nhan đề “Giai đoạn mới của sự chuyển hoá công nghiệp và thương mại tư bản ở Trung Quốc.” Khi Walter Ulbricht, Tổng Bí thư của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất của Đông Đức, báo cáo cho Đảng về chuyến đi thăm Bắc Kinh dự Đại hội Tám của Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng Chín 1956, ông nhấn mạnh đến liên minh giữa người cộng sản Trung Quốc với cái gọi là “tư sản dân tộc.” [9] Ở Hungary, ảnh hưởng Trung Quốc được phản ánh trong ý thức hệ của những người cộng sản dân tộc mới nổi lên của Hungary, đặc biệt thể hiện qua việc Imre Nagy ngưỡng mộ “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc. Nagy, người được đưa lên làm Thủ tướng từ cuối 1953 đến 1955, đề đạt đường lối cải cách bao gồm việc giảm nhẹ nhịp độ công nghiệp hoá, cho phép nông dân rời bỏ nông trường tập thể và giảm bớt sự khắc nghiệt của công an. Vì lẽ này ông bị những người thân Stalin do Mátyás Rakosi dẫn đầu loại bỏ vào tháng Ba 1955. Nhưng sau khi bị buộc về hưu non, Nagy cảm nhận trận bão chính trị đang tới và viết một luận đề dài nhan đề “Bảo vệ Con đường Mới” vào cuối năm 1955 và đầu 1956. Bài này được in thành sách ở phương Tây với nhan đề Về chủ nghĩa cộng sản, trong đó bốn vấn đề lớn được đề cập: công nghiệp, nông nghiệp, đàn áp chính trị và chính sách ngoại giao. Trong chương về chính sách ngoại giao, “Năm nguyên tắc cùng chung sống” của Trung Quốc trở thành nền tảng lý thuyết cho Nagy khi ông bảo vệ chủ quyền của Hungary và độc lập trước Liên Xô. “Năm nguyên tắc cùng chung sống” bao gồm tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm lấn, không can thiệp chuyện nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi, và chung sống hoà bình [10] . Trung Quốc lần đầu tiên nêu các nguyên tắc này trong một tuyên bố chung với Ấn Độ năm 1954. Rồi vào năm 1955, tại Hội nghị Bandung của các nước Á và Phi, Chu Ân Lai chính thức đề đạt chúng với các nước như nguyên tắc bang giao quốc tế đối lập với chủ nghĩa thực dân. Các tuyên bố chính thức của Trung Quốc liên quan năm nguyên tắc này thường thòng thêm một cụm từ hạn chế, “giữa các nước có hệ thống xã hội khác nhau”, nhằm giảm nhẹ lo ngại của các nước phi cộng sản châu Á về xuất khẩu cách mạng của Trung Quốc, nhưng không nói rõ liệu chúng có áp dụng cho “các nước có cùng chế độ xã hội” hay không. Nhan đề của chương đối ngoại trong bài của Nagy là “Năm nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế và câu hỏi về chính sách đối ngoại của chúng ta”. Tác giả không chỉ dùng “Năm nguyên tắc” làm luận đề chính mà còn tuyên bố chúng phải “mở rộng cho quan hệ giữa các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và dân chủ”. [11] Bài của Nagy được phổ biến trong những người cộng sản phản kháng, và vào mùa Xuân 1956, Nagy chuyển một bản cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và một bản cho Yuri Vladimirovich Andropov, đại sứ Nga ở Budapest [12] . Quả là một trớ trêu bi thương khi chưa đầy một năm sau đó, mộng tưởng của Nagy về việc áp dụng “Năm nguyên tắc” cho quan hệ Hung – Nga và ảo tưởng về cảm tình của Trung Quốc với Hungary đã vỡ tan, khi Bắc Kinh thúc giục Moskva can thiệp và Nhật báo Nhân dân là tờ báo đầu tiên ca ngợi cuộc đàn áp [13] .
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 25, 2010 4:39:38 GMT 9
Nhận thức đầy đủ về sự hấp dẫn của các chính sách của mình và căng thẳng giữa Đông Âu và Liên Xô, Trung Quốc rất quan tâm đến những khó khăn của lãnh đạo Liên Xô ở Đông Âu và trong một số trường hợp còn giữ liên lạc với những nhân vật cải tổ mới nổi. Ví dụ, theo Janos Radvanyi, một viên chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao Hungary phụ trách châu Á và có quan hệ thân cận với đại sứ Trung Quốc ở Budapest, sứ quán Trung Quốc đã thiết lập một mạng lưới thông tin hiệu quả bên trong chính phủ và Đảng Cộng sản Hungary. Sứ quán thậm chí có tiếng là “địa điểm ngoại giao hiểu biết nhất” ở thủ đô. Thông qua mạng lưới này, vị đại sứ Trung Quốc, Hác Đức Thanh, biết Nagy đang viết bài, và khi bài này được gửi cho Ban Chấp hành Trung ương, thì ông Hao có được một bản nhờ một người bạn Hungary làm trong ban thư ký tại trụ sở Đảng. Trong khi sứ quán Liên Xô hay mời những công dân gương mẫu, thì ông Hao thích tiếp đãi các nhà văn, nghệ sĩ, kinh tế gia và phóng viên Hungary – một số trong đó không được chính quyền tin tưởng. Vị đại sứ cũng đi lại khắp nơi trong nước và có thông tin từ cán bộ địa phương về không khí thay đổi sau cái chết của Stalin. Tuỳ viên văn hoá của Trung Quốc, nói giỏi tiếng Hungary, cũng duy trì liên hệ thân mật với các trí thức Hungary, trong khi các phóng viên của Tân Hoa xã và du học sinh Trung Quốc báo cáo cho sứ quán về hoạt động của Câu lạc bộ Petofi, một trung tâm tập hợp những người phản kháng.
Sau Đại hội 20 của Liên Xô, việc phê phán chính sách của Stalin được hé lộ, và Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn ở Đông Âu, và các hoạt động truyền bá ảnh hưởng của Trung Quốc tại đó trở nên mạnh bạo hơn. Với việc công bố diễn văn của Lục Định Nhất, Trưởng ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mang tên “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, vào tháng Năm 1956 và đăng trên Nhân dân Nhật báo ngày 13-6, Trung Quốc mở đầu sự giải phóng cho trí thức với mục đích giải toả sức ép trong nước về ngắn hạn, và với mục tiêu dài hạn là cho phép một chút cởi mở và phê phán bên trong chính quyền để giành ủng hộ và phát hiện sai lầm. Chính sách Trăm hoa nhanh chóng trở thành trọng tâm thu hút tại Đông Âu. Vào tháng Chín, Đại hội Tám ở Trung Quốc khai mạc, và toàn bộ các đảng cộng sản ở Đông Âu gửi đại biểu tới Bắc Kinh. Sự kiện này được Bắc Kinh sử dụng vào đúng khoảnh khắc quan trọng ấy để giới thiệu con đường riêng tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng quan hệ với thế hệ hậu Stalin trong các lãnh đạo Đông Âu. Ví dụ, Janos Kadar, trưởng phái đoàn Hungary, người từng bị Stalin hạ bệ nhưng được phục hồi năm 1954, rất được ưa thích trong Đảng ở Hungary vì quan điểm chống Stalin. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm tới vị lãnh đạo mới nổi này, và Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, tất cả đều có cuộc trò chuyện dài với ông. Vào ngày 1-10, Kadar một lần nữa đại diện cho Hungary tại lễ ăn mừng Quốc khánh Trung Quốc tại Bắc Kinh [14] .
Một điểm về Chính sách Trăm hoa chưa được chú ý đầy đủ là sự thể hiện ngôn từ (trực tiếp của Mao và rất tiêu biểu cho phong cách của ông) đã tạo nên ấn tượng sai lầm rằng có sự dung dưỡng cho nhiều, tuy chưa phải tất cả, ý kiến khác biệt; ấn tượng này đặc biệt có ở những ai không hiểu về quá khứ đàn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như cuộc chỉnh huấn Diên An thập niên 1940 và chiến dịch cải tạo tư tưởng đầu thập niên 1950. Ấn tượng này đã xảy ra khi Chính sách Trăm hoa khơi dậy cảm tình với Trung Quốc ở Đông Âu, nơi con người phấn khích trước khẩu hiệu nhưng không biết nhiều về lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc và không có dịp xem kỹ nội dung của những tư liệu giới thiệu chính sách mới của Trung Quốc. Tại Hungary, đại sứ Trung Quốc chộp cơ hội củng cố tình cảm ủng hộ Trung Quốc bằng việc cung cấp thêm thông tin cho trí thức và sinh viên Hungary, và thậm chí ông còn quảng bá về Đại hội Tám thông qua cung cấp thông tin cho báo chí và đài phát thanh Hungary. Kết quả là truyền thông Hungary dành nhiều chỗ cho Đại hội Tám, lại càng củng cố thêm cảm tình dành cho Trung Quốc. Nhiều trí thức cấp tiến Hungary tin rằng chính sách này đích thực phản ánh ý định của những người cộng sản Trung Quốc. Trong lúc đó, với việc phục hồi và đưa Nagy lên làm Thủ tướng, “Năm nguyên tắc” của Trung Quốc được dùng để chống lại “chủ nghĩa nước lớn” của Liên Xô – một cụm từ cũng do Trung Quốc nặn ra. Ảo tưởng của Hungary về Trung Quốc kéo dài đến phút cuối cùng, khi tờ báo của các nhà văn cách mạng, Irodalmi Ujsag, tuyên bố ngày 2-11 (hai ngày sau khi Trung Quốc thúc giục Khrushchev đè bẹp cuộc nổi dậy Hungary) rằng “Phương Tây và phương Đông sát cánh với chúng ta. Mỹ đã tuyên bố niềm tin vào chính nghĩa của chúng ta cũng rõ ràng như các quốc gia hùng mạnh như Trung Quốc và Ấn Độ.” [15]
Đáng chú ý là sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị dập tắt, vai trò giảm kiểm soát và dung thứ cho phản kháng của Trung Quốc lại càng trở nên nổi bật trong những nhà cải cách Đông Âu. Trái với không khí chung ở Liên Xô và Đông Âu sau sự biến Hungary, Trung Quốc vẫn tiếp tục đường hướng khai phóng mà họ khởi sự từ tháng Năm 1956. Chính sách Trăm hoa không bị ngưng, và vào tháng Hai 1957, Mao còn bổ sung thêm với bài diển văn nổi tiếng “Bàn về mâu thuẫn”, thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn trong các nước xã hội chủ nghĩa và như vậy tức là đã chấp nhận một mức độ bất bình nhất định, hay thậm chí một sự đối lập ôn hoà trước các chính sách của chính phủ. Vào tháng Tư, Trung Quốc đẩy mạnh nỗ lực thu hút sự phê phán thông qua chiến dịch “chỉnh huấn”, kéo dài cho đến đầu mùa hè, khi Trung Quốc mở cuộc phản kích chống lại các trí thức phê phán thông qua chiến dịch chống hữu khuynh. Hiện vẫn chưa rõ khi nào thì Mao quyết định dùng chiến dịch Trăm hoa và Chỉnh huấn để “dụ rắn ra khỏi hang”, tuy một số người cho rằng đó có thể là ngay sau cuộc khủng hoảng Hungary [16] . Dù ý định thực của Mao là gì, thì đối với các trí thức Đông Âu đã chịu cảnh lạnh giá sau khi cuộc nổi dậy Hungary bị đàn áp, việc Trung Quốc duy trì giai đoạn mở rộng tự do cũng là ngọn đèn trong đêm đen và là hy vọng duy nhất để níu giữ sự tự do họ có được sau Đại hội 20 của Liên Xô. Họ vui mừng với quan niệm của Mao về Trăm hoa Đua nở và mâu thuẫn ôn hoà, bởi vì các quan niệm này hàm ý phê phán việc gán cho mọi sự phê phán cái mác “tư sản”, “tư bản”, hay “đế quốc” và vì thế, chúng không chỉ đặt nghi ngờ về việc chặn họng các tiếng nói chống đối mà còn hàm ý là những khủng hoảng trong nước có thể là do các chính sách của chính quyền và sự can thiệp của ngoại quốc. Người Đông Âu không phải là hoàn toàn hiểu nhầm thông điệp của Trung Quốc. Trung Quốc xem khủng hoảng Ba Lan – Hungary chính là ví dụ điển hình của các vấn đề mà sự đàn áp các tiếng nói đối kháng đã tạo ra, đặc biệt trong nửa đầu năm 1957, khi Trung Quốc hoàn toàn tin vào sự ủng hộ mà dân chúng dành cho chính thể [17] .
Chính trong bối cảnh này, nhiều nhân vật chống Stalin ở Đông Âu “muốn nhìn thấy ở Bắc Kinh một thánh địa của chủ nghĩa xét lại” (nghĩa là chống lại Stalin) [18] . Tại Đông Đức, những người cộng sản cải cách, được dẫn dắt bởi những người như Karl Schirdewan, Paul Wandel, và Jürgen Kuczynski, đã ca ngợi Trung Quốc vì đã phân biệt mâu thuẫn “thù địch” và mâu thuẫn “ôn hoà”, nghĩa là khuyến khích sự phê bình. Schirdewan nói, Trung Quốc biết dùng Đại hội 20 theo cách “sáng tạo”. Kuczynski công khai cổ võ cho Chính sách Trăm hoa: “Hãy để hoa nở: mỗi loại hoa lại có kiểu riêng biệt – mọi loại hoa đều tô điểm cho thế giới bằng muôn ngàn sắc màu, hương thơm, hình dáng. Đó chính là thái độ tiến bộ đích thực đối với khoa học gia, nhà văn và nghệ sĩ.” [19] Các hoạt động và diễn văn của họ buộc phe bảo thủ của Ulbricht (tuy ông này từng có lúc tỏ ra quan tâm đến việc quốc hữu hoá ôn hoà của Trung Quốc) phải tham gia tranh luận nhiều tháng trong năm 1957. Một trả lời của Ulbricht là “vấn đề chính của chúng ta không phải là ‘kêu gọi mọi loại hoa cùng nở rộ’ mà là phải tìm cho ra đúng loại hoa phù hợp, chỉ trồng những gì mới và hữu ích, chứ không được dung dưỡng hạt giống độc hại chỉ vì chúng cũng là hoa.” [20]
Tại Ba Lan, W. Gomulka, bí thư thứ nhất của Đảng, người tìm cách duy trì quan điểm trung dung giữa phe thân Stalin và phe cải cách, nói rằng Đảng của ông quan sát Trung Quốc “với sự cảm thông sâu sắc.” [21] Ông ca ngợi Trung Quốc vì “sự táo bạo” đóng góp vào “việc dạy sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin” nhờ việc giới thiệu “các phương pháp mới để giải quyết mâu thuẫn ôn hoà” và xu hướng “Trăm hoa Đua nở” mà “trước đây chưa từng biết tới trong công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội ở các nước khác.” Bình luận thân Trung Quốc của Gomulka là vào ngày 15-5, khi ông phát biểu tại phiên họp toàn thể lần thứ chín của Đảng. Một tuần trước đó, một tạp chí Ba Lan đăng một bài báo, viết rằng “Mâu thuẫn trong con người – bất chấp khác biệt giữa các quốc gia – cũng xuất hiện ở nước ta. Vượt qua mâu thuẫn thông qua thuyết phục và thảo luận thì đòi hỏi một cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, cải thiện bộ máy nhà nước và một chính sách mềm dẻo với các đồng minh chính trị và giai cấp.” Bài báo cũng kêu gọi đem trồng “những bông hoa Trung Quốc.” [22]
Những kêu gọi tương tự cũng được nghe ở các nước Đông Âu khác vào cuối mùa Xuân 1957, khi chiến dịch “chỉnh huấn” đạt cao trào ở Trung Quốc. Đáp lại lời kêu gọi này, một tạp chí của Hungary cảnh báo ngày 26-5:
“Trong số các phong trào Trung Quốc lan toả trong địa hạt văn chương, nghệ thuật, khoa học… thì ‘Trăm hoa Đua nở’ lan toả mạnh nhất ở Hungary… Trong giai đoạn đầu tiên nó bị công kích vì đưa tới sự giải phóng đời sống trí thức và giảm sự hà khắc của chủ nghĩa Marx… Đồng chí Mao Trạch Đông, người quen thuộc với trí thức Trung Quốc và biết đa số họ trung thành với chủ nghĩa xã hội, đã bảo vệ khẩu hiệu ‘Trăm hoa”… sau kinh nghiệm buồn của quá khứ có lẽ chúng ta cần thận trọng trước ý tưởng thực thi các biện pháp của Trung Quốc ở Hungary.” [23]
Ngay từ khi Trung Quốc mới bắt đầu dung dưỡng cho nhiều loại “hoa”, Moskva đã quan sát với sự nghi ngại, không đồng tình và thậm chí lo lắng, đặc biệt sau cuộc nổi dậy Hungary. Theo các nguồn Trung Quốc gần đây mới công bố, khi Trung Quốc quyết định loan báo Chính sách Trăm hoa, họ gửi Lục Định Nhất, người đầu tiên nói về chính sách, đến thông báo cho Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Việc này là cách hành xử thông thường, tức là Moskva và Bắc Kinh cần thông báo cho nhau trước về các thay đổi chính sách quan trọng – mặc dù Moskva đã không làm thế trong trường hợp “Báo cáo mật” của Khrushchev, làm Bắc Kinh giận dữ. Sau khi Lục Định Nhất giải thích cho Yudin, đại sứ Liên Xô đưa cho ông Lục một bài báo của Lenin liên quan đến chủ đề này nhưng chống lại sự dung thứ. Trên đường từ sứ quán về nhà, Lục thở dài với Yu Guangyuan, thư ký riêng, rằng “Sự giáo điều của người Nga thật quá sâu!” [24] Sau khủng hoảng Ba Lan – Hungary, việc Trung Quốc vẫn đi theo xu hướng mở rộng tự do làm Moskva càng thêm bất an. Vào tháng Tư 1957, Yefremovich Voroshilov, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tối cao Liên Xô, thăm Trung Quốc. Theo Li Yueran, người phiên dịch tiếng Nga cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ 1949 đến 1964, Voroshilov bày tỏ lo ngại về Chính sách Trăm hoa với Mao ít nhất hai lần. Voroshilov nói ông không hiểu vì sao các ý kiến chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội lại được phép đăng lên báo. Ông cảnh báo Mao về nguy cơ của sự nới rộng, và lấy Hungary làm ví dụ. Mao trấn an rằng Trung Quốc không phải là Hungary và người cộng sản Trung Quốc không muốn “hoa và cỏ mọc chung trong nhà”. Ông nói, ông tự tin là nếu kẻ thù muốn lợi dụng để lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng sẽ chỉ “để lộ mình mà thôi”. [25]
Thái độ điển hình của Liên Xô trước các chính sách cởi trói của Trung Quốc, và đặc biệt trước sự rùm beng trên báo chí Trung Quốc về chính sách Trăm hoa, được thể hiện qua lời nói của Khrushchev. Khrushchev rất khó chịu trước việc người Trung Quốc “giỏi tìm ra những cụm từ hấp dẫn” và rằng họ “biết cách đưa ra khẩu hiệu thích hợp vào lúc thích hợp”. [26] Nhớ lại sự bối rối gây nên bởi khẩu hiệu của Trung Quốc ở Liên Xô, ông nói:
“Các vị tuyên huấn của chúng tôi hỏi tôi cách thức phản ứng. ‘Nhân dân ta đọc báo về chiến dịch mới này ở Trung Quốc’, họ bảo. ‘Cái trò Trăm hoa này đang len lỏi vào xã hội Liên Xô’. Chúng tôi hướng dẫn cho các tổng biên tập bỏ đi chủ đề Trăm hoa, không đụng đến nữa. Quan điểm của chúng tôi là Trăm hoa là khẩu hiệu để tiêu thụ trong Trung Quốc thôi, và nó không áp dụng ở Liên Xô. Chúng tôi tránh phê phán trực diện chiến dịch nhưng cũng không cổ vũ... Bất kì người nông dân nào cũng biết có những khóm hoa có thể hái, nhưng có những cái phải bỏ. Một số cây ra quả đắng chát, có hại cho sức khoẻ, và có những cây mọc loạn lên và bóp nghẹt đời sống các hạt mầm quanh chúng.” [27]
Khrushchev đã từng gặp rắc rối vì chiến dịch chống Stalin, vì thế ông không thể cho phép có thêm chiến dịch cởi trói, mặc dù ông hiểu là Mao “muốn kích thích nhân dân bày tỏ tư tưởng” để phát hiện những người ông xem là “có hại”.
Khrushchev cũng bác bỏ luận điểm của Mao về mâu thuẫn trong nhân dân ở các nước xã hội chủ nghĩa, một luận điểm được tán thưởng ở Đông Âu. Ngày 2-6-1957, trong cao trào chiến dịch chỉnh huấn và ngay trước chiến dịch chống phái hữu, Khrushchev trả lời phỏng vấn của đài Mỹ CBS tại Moskva. Khi được hỏi về thái độ đối với tuyên ngôn gần đây của Bắc Kinh rằng tại các nước xã hội chủ nghĩa “có thể tồn tại mâu thuẫn giữa quần chúng và lãnh đạo”, Khrushchev trả lời nhát gừng: “Chúng tôi tin rằng chúng tôi không có thứ mâu thuẫn như thế.” [28]
Toàn bộ các chương hồi này chứng tỏ một ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc ở Đông Âu và ngay cả ở Liên Xô trong năm 1957. Sự bất đồng và cảnh báo của Moskva và nỗ lực ngăn trở sự cởi trói ở Đông Âu và Liên Xô cho thấy hai lo lắng lớn. Thứ nhất là sự lo ngại về ổn định chính trị ở các nước vệ tinh của Liên Xô; thứ hai là sự cảnh giác của Liên Xô trước thách thức của Trung Quốc đối với vai trò lãnh đạo trong khối cộng sản, đặc biệt khi mà vị trí của Moskva đã bị suy yếu sau quá trình giải ảo Stalin và khủng hoảng Ba Lan – Hungary.
Cuối cùng và cũng trớ trêu, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng được phản ánh từ phía ngược lại. Khi Mao ra dấu về chiến dịch chống phái hữu đầu tháng Sáu 1957, những người bảo thủ ở Đông Âu cảm thấy nhẹ nhõm. Một số người có phản ứng nhanh chóng, thậm chí có hành động tương tự. Ví dụ, ở Đông Âu phóng viên báo Đảng Neues Deutschland tường thuật từ Bắc Kinh ngày 12-7: “Trọng tâm chính hiện nay là nhắm vào ‘phái hữu’… Nay những người cổ vũ cho ‘phái hữu’ đang bị lột trần”. [29] Vài tháng sau, đầu năm 1958, Ulbricht mở chiến dịch chống “xét lại” trong Đảng với việc loại bỏ Karl Schirdewan (thành viên Bộ Chính trị), Fred Oelßner (thành viên Bộ Chính trị và nhà tư tưởng lâu năm của Đảng), Ernst Wollweber (Thứ trưởng An ninh), và Paul Wandel (một kinh tế gia Marxist có ảnh hưởng). Họ đều từng có thiện cảm và muốn áp dụng các chính sách của Trung Quốc, đặc biệt là Chính sách Trăm hoa. Chiến dịch ở Đông Đức cũng trừng phạt nhiều trí thức đọc nhầm thông điệp từ Trung Quốc và đã để lộ mình, giống như những nhân vật phái hữu ở Trung Quốc bị sập bẫy của Mao.
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Ghi chú của talawas: Do sự chậm trễ từ phía chúng tôi, bản dịch của Lê Quỳnh đã được hoàn thành từ lâu, nay mới có thể công bố trên talawas. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả và dịch giả. [2]Ví dụ, các sách tiếng Anh The Rise and Fall of Communism (tác giả Richard H. Hudelson, New York: Westview, 1993), The Communist Movement Since 1945 (Willie Thompson, Oxford: Blackwell, 1998), Eastern Europe Since 1945 (Geoffrey Swain và Nigel Swain, New York: St. Martin's, 1998) và The Rise and Fall of Communism in Eastern Europe (Ben Fowkes, New York: St. Martin's, 1993) không nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ Stalin và giải quyết khủng hoảng Ba Lan – Hungary trong khi vẫn bám vào cách diễn giải nhấn mạnh đến Moskva. Việt Nam lại càng không nằm trong khuôn khổ phân tích lấy Moskva làm chính, và nhiều sử gia cộng sản thậm chí không biết tới trường hợp Việt Nam trong giai đoạn hạ bệ Stalin. Một tác giả viết rằng “Rõ ràng không đảng nào ở Nam Á hay Đông Nam Á bị rối loạn vì sự kiện hạ bệ Stalin, có lẽ vì cách nhìn của họ, vì là các tổ chức chủ yếu dựa vào nông dân và không dính đến Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế, ít gắn bó hơn với thái độ của Liên Xô hoặc sự quan trọng của ký ức về Stalin so với các đảng Đông Âu…” Phát ngôn này rõ ràng tách Việt Nam khỏi cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản năm 1956-1957 chỉ vì cách mạng Việt Nam dựa vào nông dân và ít chịu ảnh hưởng hơn từ Moskva. Willie Thompson, The Communist Movement Since 1945, trang 77. [3]Một ví dụ trong các tác phẩm ban đầu mang quan điểm này là “China and the Communist 'Thaw” của G. F. Hudson. Đây là lời bạt cho quyển The Hundred Flowers Campaign and the Chinese Intellectuals của Roderick Macfarquhar (New York: Praeger, 1960), trang 299. Một ví dụ gần đây của quan điểm này là quyển Mao's China and the Cold War của Jian Chen (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), trang 145. [4]Phần trên chủ yếu dựa vào bài “Sự biến Ba Lan / Hungary và chuyến đi của Lưu Thiếu Kỳ đến Liên Xô” của Shi Zhe, Bai Nian Chao 2 (1997): 11-17. Shi Zhe là thư ký và phiên dịch tiếng Nga cho Mao vào cuối thập niên 1940 và 1950. Ông làm phiên dịch cho phái đoàn Trung Quốc đến Moskva hồi tháng 10-1956. Xem thêm cuốn Mao's China and the Cold War của Jian Chen để có ghi chép chi tiết hơn về chủ đề. [5]N. S. Khrushchev, hồi ký Khrushchev Remembers (Boston: 1970), trang 418 [6]Joseph L. Nogee và Robert H. Donaldson, Soviet Foreign Policy Since World War II (New York: Pergamon Press, 1984), trang 219 [7]Geoffrey Swain và Nigel Swain, Eastern Europe Since 1945, trang 71–72 [8]William E. Griffith, chủ biên, Communism in Europe: Continuity, Change, and the Sino-Soviet Dispute, vol. 2 (Boston: MIT Press, 1966), trang 101 [9]Như trên [10]Robert V. Daniels, chủ biên, A Documentary History of Communism (New York: Random House, 1960), trang 346–349 [11]Imre Nagy, On Communism (New York: Praeger, 1957), trang 23 [12]Janos Radvanyi, "The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution", trong quyển Hungary and Superpowers (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1972), trang 23. Bài viết này ban đầu in trong tạp chí China Quarterly 43 (tháng Bảy – Chín 1970): 121-129, dưới nhan đề "The Hungarian Revolution and the Hundred Flowers Campaign", nhưng trước khi đưa vào sách, tác giả có bổ sung và sửa chữa. Tác giả là một viên chức ngoại giao cao cấp tại Bộ Ngoại giao Hungary giữa thập niên 1950 và trưởng phân ban châu Á của bộ này trong các năm 1958-1959. [13]Ngày 1-11-1956, bình luận trên Nhân dân Nhật báo nói quan hệ giữa các nước XHCN cần được thiết lập trên nền tảng của “Năm nguyên tắc”. Nhưng ba ngày sau, tờ báo này lại ca ngợi việc Liên Xô dập tắt cuộc nổi loạn của Hungary. [14]Janos Radvanyi, "The Hundred Flowers Movement and the Hungarian Revolution", trang 23–24 [15]Griffith, chủ biên, Communism in Europe, 1: 242 [16]Li Shenzi, “Chủ tịch Mao quyết định dụ rắn ra khỏi hang lúc nào?”, Yenhuang chunqiu, tháng Giêng 1999, trang 5-14. Li là cố vấn về quan hệ quốc tế cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thập niên 1950 và 1960, và cuối thập niên 1990 trở thành nhân vật hàng đầu trong giới trí thức cởi mở của Trung Quốc. Quan điểm của ông về quyết định của Mao trong chiến dịch chống phái hữu rất có ảnh hưởng. [17]Ví dụ, trong một cuộc họp với các bí thư tỉnh ủy ngày 27-1, Mao nói các chính sách đàn áp của Rákosi (như không cho biểu tình, không nộp đơn thỉnh nguyện, không chỉ trích…) đã gây ra khủng hoảng ở Hungary. Mao Trạch Đông, Tuyển tập (Beijing: People's Publisher, 1980), 5: 354. Hai tháng sau, trong hội thảo của cục tuyên huấn, cục trưởng Lục Định Nhất, nhắc tên của Gero, Tổng Bí thư đảng của Hungary năm 1956, như ví dụ của tình hình đất nước nguy ngập vì đàn áp ý kiến khác biệt. Lục Định Nhất, Tuyển tập Lục Định Nhất (Beijing: People's Publisher, 1992), trang 556. [18]Griffith, Communism in Europe, 1: 103 [19]Như trên, 1: 104 [20]Như trên [21]Quyển The Warsaw Heresy của S. L. Shneiderman (New York: Horizon Press, 1959) là một mô tả minh hoạ về chính sách thận trọng của Gomulka sau cuộc khủng hoảng tháng 10 ở Ba Lan – Hungary. [22]G. F. Hudson, "China and the Communist 'Thaw'", trang 30 [23]Như trên, trang 104 [24]Chen Qingquan, "Làm sao Lục Định Nhất lại cổ vũ chính sách ‘Trăm hoa’?”, Yenhuang chunqiu, tháng Chín 2000, trang 6 [25]Li Yueran, The Leaders of the New China on the Stage of Foreign Affairs (Beijing: People's Liberation Army Press, 1990), trang 127–128 [26]Nikita Khrushchev, Khrushchev Remembers (Boston: Little, Brown, 1974), trang 275 [27]Như trên, trang 271 [28]Hudson, "China and the Communist 'Thaw,'" trang 307 [29]Griffith, Communism in Europe, 1: 78–79, 105 Nguồn: Yinghong Cheng, "Beyond Moskva-Centric Interpretation: An Examination of the China Connection in Eastern Europe and North Vietnam during the Era of De-Stalinization", Journal of World History, tháng 12-2004
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 25, 2010 4:59:50 GMT 9
Trường hợp Việt Nam
Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt Nam cần được xem xét theo một ánh sáng hoàn toàn khác. Nếu ảnh hưởng Trung Quốc ở Đông Âu đến muộn (sau khi Stalin chết) và chỉ ở mức hạn chế so với ảnh hưởng của Liên Xô tại khu vực, thì mối quan hệ thân cận – được thúc đẩy nhờ liên hệ truyền thống và văn hoá giữa hai nước – giữa những người cộng sản Việt–Trung sâu sắc hơn và có từ thập niên 1920. Nhiều người cộng sản Việt Nam, gồm cả Hồ Chí Minh, từng tham gia phong trào cộng sản Trung Quốc và ẩn náu ở Trung Quốc trong thập niên 1930 và đầu 1940. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 không chỉ đẩy mạnh hỗ trợ bằng hình thức cố vấn và vật chất cho cách mạng Việt Nam, mà còn cung cấp một mô hình cạnh tranh. Tháng Ba 1951, tại Đại hội Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Mao được đặt chung với chủ nghĩa Marx–Lenin làm kim chỉ nam cho cương lĩnh mới của Đảng. Hình của Mao được treo ngang hàng với hình của Marx, Engels, Lenin và Stalin. [1]
Trong khung cảnh lịch sử này, những phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn hậu Stalin có nhiều liên hệ với Trung Quốc hơn là với Liên Xô. Với các nước Đông Âu, các vấn đề lớn nhất của họ lúc này xuất phát từ việc thực thi mô hình Stalin như quá nhấn vào công nghiệp nặng, thiếu các vật phẩm căn bản hàng ngày, sự phẫn uất vì các đợt thanh trừng, sự tàn nhẫn của công an, và lại thêm cả kiểm soát chính trị từ Moskva. Khác với Đông Âu, những vấn đề khó khăn nhất của Bắc Việt là do bắt chước mô hình Trung Quốc. Trong số các hành động mượn của Trung Quốc, có ba cái đặc biệt gây bức bối. Thứ nhất là cải cách ruộng đất: bất kì một nông dân giàu có nào cũng có thể bị gán là “địa chủ”, bị đưa ra “toà án nhân dân” và bị hành quyết mà không cần tiến trình pháp lý nào, và những ai thông cảm thì có thể bị phạt nặng. Thứ hai là cải tạo tư tưởng: các trí thức, ngay cả những vị đã đồng lòng tham gia cách mạng, bị bắt tham dự các trường, lớp học đặc biệt để cải tạo và bị buộc thú tội. Thứ ba là kiểm soát trí thức bằng một chính thể quân sự. Điều này là vì cho đến tháng Hai 1955, Bắc Việt không có Bộ Văn hoá, và đa số trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp – đặc biệt là văn nghệ sĩ – đều nhập ngũ và chịu kiểm soát của Tổng cục Chính trị, một cơ quan hình thành theo mẫu của Liên Xô, và trực tiếp hơn, của Trung Quốc. Nhiều chính trị viên đã học ở Trung Quốc và chỉnh huấn hoạt động của trí thức thông qua kỷ luật quân đội: ví dụ, khi họ muốn ra khỏi doanh trại thì cũng phải có thẻ, giống như những người lính.
Sau cái chết của Stalin, giống như các nước khác trong thế giới cộng sản, các tiếng nói chống đối cũng xuất hiện trong giới trí thức Bắc Việt ngay từ năm 1955. Vào tháng Hai, khoảng 30 nhà văn, hoạ sĩ trong quân đội viết “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, bao gồm ba đòi hỏi: 1) trao lại sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ; 2) thành lập một hội văn nghệ bên trong cơ cấu quân đội; 3) bãi bỏ cơ chế quân sự kiểm soát văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội. [2] Nhân vật hàng đầu trong nhóm phản kháng này là Trần Dần. Cùng tháng ấy, Trần Dần dẫn đầu khoảng 20 nhà văn, hoạ sĩ đến nói chuyện với tướng Nguyễn Chí Thanh, người đứng đầu Tổng cục Chính trị. Họ đề đạt ba yêu cầu tập trung vào tự do sáng tạo cho nhà văn và nghệ sĩ. Thỉnh cầu chính trị này bị viên tướng từ chối và ông lên án các trí thức bộ đội, rằng hành động của họ “chứng tỏ ý thức hệ tư bản đã bắt đầu tấn công các đồng chí”. [3] Thất bại của thỉnh nguyện này làm các trí thức bực bội, những người ngây thơ tin rằng sự đóng góp của họ cho cách mạng đã chiếm được niềm tin của Đảng, và điều này chuẩn bị cơ sở cho thách thức quyết liệt hơn của giới trí thức vào năm sau.
Đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, Trần Dần và nhóm của ông góp một phần vào phong trào “Tan băng” trong thế giới cộng sản hồi giữa thập niên 1950, do các nhà văn, nghệ sĩ thúc đẩy và nhắm vào học thuyết “hiện thực xã hội chủ nghĩa” của Stalin và sự kiểm soát của Đảng đối với trí thức. [4] Nhưng trường hợp Trần Dần cũng thể hiện một liên hệ với Trung Quốc. Ông có mặt ở Trung Quốc năm 1954, khi vụ Hồ Phong xảy ra. Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm, gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Bảy 1954, chỉ trích sự thống trị của các cai tổng văn nghệ, rằng việc ép buộc xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa đã không để cho sáng tạo có tự do, và thái độ quan cách của các lãnh đạo văn nghệ càng làm cho nhà văn và trí thức bực bội. Mặc dù ông không có ý định thách thức quyền uy của Đảng, nhưng hành động của Hồ Phong phản ánh sự bực bội trong nhiều trí thức, nghệ sĩ và được xem là bằng chứng sớm nhất của sự phân rẽ giữa Đảng và trí thức sau ngày thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng đến cuối năm 1954, cánh văn nghệ của Đảng mở cuộc phản kích và buộc Hồ Phong làm tự kiểm, và đến tháng Năm 1955, chiến dịch chống Hồ Phong đã trở thành rầm rộ. Ông bị bắt tháng Sáu 1955 và bị giam cho đến cuối kỳ Cách mạng Văn hoá.
Chắc chắn Trần Dần có biết những tư liệu liên quan đến lá thư của Hồ Phong: ông đang ở Trung Quốc vào lúc lá thư tạo ra chấn động và thảo luận trong giới trí thức Trung Quốc. Cũng chắc chắn Trần Dần có cảm tình với Hồ Phong, vì bản thân ông gặp xung khắc với chính dạng lãnh đạo văn nghệ mà Hồ Phong chỉ trích. Trần Dần được cho đi Trung Quốc để hoàn tất kịch bản bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ. Theo thông lệ, đi cùng ông là một chính trị viên mà sau đó ông có mâu thuẫn vì người kia xen vào công việc sáng tạo của ông. Trần Dần cũng ghét sự áp dụng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, giống như Hồ Phong. Cùng thời điểm ông mở tranh luận với tướng Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần cũng đăng bài phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tố Hữu có chân trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động trí thức và văn nghệ, và tập thơ của ông được xem là ví dụ mẫu mực khi mô tả các anh hùng. Công kích thứ văn chương “hiện thực xã hội chủ nghĩa” kiểu Tố Hữu, Trần Dần nhấn mạnh: “Realism encourages a hundred schools to thrive both in substance and in form”. Điều này khiến Boudarel đặt giả thiết là “ngay từ tháng Hai 1955, một chiến dịch Trăm hoa Đua nở đã hình thành trong Ban Văn nghệ của quân đội Bắc Việt. Nó xảy ra một năm trước khi một phong trào có tên như thế bắt đầu ở Trung Quốc, và gần hai năm trước khi chính sách này có hiệu lực.” [5] Tuy nhiên, cụm từ “bách gia” thực sự đã có từ thời cổ sử Trung Hoa, chỉ không khí tranh đua triết lý và tư tưởng trong giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc (thế kỷ tám đến thế kỷ ba trước Công nguyên). Khi đã biết ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam, sẽ không phải vô lý khi giả định rằng Trần Dần đã dùng cụm từ này mà không nhận biết về nguồn gốc của nó. Ngoài ra, lần đầu tiên cụm từ “bách hoa tề phóng” có mặt trong đời sống văn hoá Trung Quốc là năm 1951, khi Mai Lan Phương, nam diễn viên nhạc kịch nổi danh nhất Trung Quốc, nhờ Mao ra chỉ thị cho Học viện Nhạc kịch Truyền thống Trung Quốc vừa mới thành lập. Mao bảo: “Hãy để trăm hoa đua nở, để thể loại mới thay thế cái cũ.” [6] Còn về cụm từ “bách gia tranh minh”, thì đó là câu trả lời của Mao cho cuộc tranh luận giữa Quách Mạt Nhược và Phạm Văn Lan, hai sử gia có tiếng, về cách làm thế nào áp dụng lý thuyết của Marx vào việc nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc. Chính trong bối cảnh này Trần Bá Đạt, thư ký riêng và là trưởng ban nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, đã yêu cầu Mao đưa ra chỉ thị [7] . Như vậy, cả “trăm hoa” và “trăm nhà” đều đã được dùng ở Trung Quốc từ 1953 cho công tác học thuật và sân khấu, mặc dù chúng được đề đạt riêng rẽ, lan toả trong từng giới, và chưa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc cho đến giai đoạn hạ bệ Stalin mùa Xuân 1956.
Theo Kim N. B. Ninh, sự bất mãn của trí thức Việt Nam với chính quyền không phải bắt đầu từ cuộc xung khắc giữa Trần Dần với Đảng mà đã có từ cuối thập niên 1940 [8] . Vì thế liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Trần Dần có thể được xem là cảm hứng khiến ông bày tỏ (cùng nhiều người khác) những bức bối đã có từ trước. Sau này các bạn của Trần Dần thừa nhận liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần trong bức tranh biếm hoạ đăng trên Nhân văn, tờ báo phản kháng có ảnh hưởng nhất, trong số ra ngày 30-9. Đảng thậm chí nhận ra sự liên hệ này, và ta không ngạc nhiên là khi Trần Dần bị bắt tháng Hai 1956 – sáu tháng sau khi Hồ Phong bị giam – thì một số cán bộ nói lý do của việc bắt giữ là “Trung Quốc có Hồ Phong, có lẽ chúng ta cũng có một Hồ Phong.” [9] Như tác giả Kim N. B. Ninh chỉ ra, “Có vẻ chiến dịch chống Hồ Phong dữ dội ở Trung Quốc đã làm tăng sự cảnh giác ở Việt Nam” và kết quả là Trần Dần trở thành nạn nhân của sự cảnh giác đó [10] .
Tuy nhiên, ngay sau khi Trần Dần bị bắt, bối cảnh quốc tế lại trở nên có lợi cho giới trí thức. Liên Xô tổ chức Đại hội 20 vào tháng Hai và Trung Quốc loan báo Chính sách Trăm hoa vào tháng Hai, cả hai sự kiện ngay lập tức có tác động tới quan hệ giữa trí thức Việt Nam và Đảng. Để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô, Anastas Mikoyan, phó Thủ tướng thứ nhất của Liên Xô, đến Bắc Kinh và Hà Nội trong tháng Tư. Cùng tháng ấy, Trần Dần được thả, chủ yếu vì việc bắt giữ ông diễn ra mà không có sự chuẩn y của ban lãnh đạo cao cấp nhất trong Đảng, nhưng sự thay đổi trong không khí quốc tế rõ ràng đóng một phần vai trò trong việc thả Trần Dần. Diễn văn của Lục Định Nhất vào cuối tháng Năm cổ vũ Chính sách Trăm hoa nhanh chóng được các trí thức Việt Nam hăm hở đọc. Triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, trưởng Khoa Sử của Đại học Sư phạm Hà Nội mới thành lập cùng năm ấy, nhanh chóng tìm người dịch nó trong tháng Bảy [11] .
Theo Bernard B. Fall, ban đầu Bắc Việt cố không chú ý tới sự cởi mở bất ngờ ở Trung Quốc, nhưng sự bỏ qua không thể tồn tại được lâu vì nhiều nhà văn có tiếng ở miền Bắc nắm bắt ngay khẩu hiệu của Trung Quốc. Với họ, khẩu hiệu Trung Quốc có cùng âm vọng như nền giáo dục cởi mở của Pháp mà họ từng thụ hưởng nhiều năm trước [12] . Hai cuộc họp quan trọng trong mùa Hè trở thành điểm tập hợp cho ý kiến phản kháng. Một là Hội nghị của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối tháng Bảy đến đầu tháng Tám, và tại đó các đại biểu phê phán nặng nề nhiều chính sách của Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hai là hội nghị của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật miền Bắc (1-18 tháng Tám) với chừng ba trăm đại biểu, nhằm học tập Đại hội 20 của Liên Xô và chính sách văn hoá mới của Trung Quốc. Cuộc họp đưa ra năm đòi hỏi, trong đó có việc đòi dịch và công bố Chính sách Trăm hoa của Mao [13] .
Bị thúc ép trước các diễn biến này, và rộng lớn hơn là vì không khí hạ bệ Stalin và cởi mở trong thế giới cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chính sách mới với trí thức vào tháng Tám, nhấn mạnh đoàn kết, tin tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến cải tổ [14] . Vẫn theo thói tục học tập kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam gửi đại diện sang Trung Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa [15] . Vào tháng Mười, khi khủng hoảng Ba Lan – Hungary đang lên cao trào, sự xét lại chính sách của Bắc Việt chuyển sang giai đoạn mới mang tính chính trị hơn. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ đầu tháng Chín và kéo dài đến cuối tháng Mười, rõ ràng là vì sức nặng của các vấn đề được thảo luận và chia rẽ trong Đảng. Cuối cùng, hôm 29-10, Đảng ra tuyên bố công khai thừa nhận các sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất và một số lĩnh vực khác. Trường Chinh, người giữ chức Tổng Bí thư suốt từ 1941 và đứng số hai sau Hồ Chí Minh, nhận trách nhiệm và từ chức, cùng với Thứ trưởng Nông lâm (Hồ Viết Thắng). Một chiến dịch sửa sai sau đó được tiến hành nhằm giảm bớt các đau khổ của người nông dân trong cải cách ruộng đất [16] . Đài phát thanh Hà Nội hôm 30-10 tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ hoá và cải thiện đời sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng, trong khi việc thống nhất đất nước, vốn vẫn là ưu tiên số một, thì chuyển xuống số ba [17] .
Những thay đổi lớn này tại Việt Nam và không khí chung ở Trung Quốc và Đông Âu cho phép các trí thức Việt Nam tận hưởng giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm, một thời đoạn độc đáo của quá trình giải phóng trí thức từ tháng Tám đến tháng Mười Một năm 1956. Sự giải phóng được thể hiện bằng sự xuất hiện đột ngột tại các quầy báo nhiều ấn phẩm của tư nhân tập hợp các trí thức phản kháng. Trong số đó có hai ấn phẩm nhiều ảnh hưởng nhất mà tên được đặt cho giai đoạn này. Thứ nhất là Giai phẩm mùa Xuân và Giai phẩm mùa Thu, giới thiệu các văn phẩm mang nội dung chính trị. Thứ hai là Nhân văn, một tuần báo công khai nói chuyện chính trị. Trong văn cảnh Việt Nam, hai chữ Nhân văn còn phản ánh ý niệm Nho giáo về việc trở thành một người văn minh nhờ vào việc học văn chương và triết lý. Các thảo luận chính trị mà các ấn phẩm này khơi dậy bao quát nhiều chủ đề, từ các chính sách trí thức và văn hoá của Đảng cho đến cải cách ruộng đất, tệ quan liêu, tham nhũng, bất tài, và sự chính danh của “chính thể đảng trị”, như cách gọi của sinh viên [18] . Các thảo luận không giới hạn trong các bài báo và thư độc giả, mà còn lan ra đại học, trường học và thậm chí các buổi họp của Hội đồng Nhân dân Hà Nội và Mặt trận Tổ Quốc [19] .
Rõ ràng ta thấy có ảnh hưởng của Trung Quốc trong quá trình nới rộng tự do ở Việt Nam. Tất cả các ấn phẩm phản kháng đều hướng tới Trung Quốc như niềm cảm hứng. Như Kim Ninh chỉ ra, “Thực sự, Nhân văn theo sát các sự kiện ở Trung Quốc và Đông Âu, ủng hộ Chiến dịch Trăm hoa và xu hướng cởi mở ở Ba Lan và Hungary… Các cây bút của Nhân văn cảm thấy rõ rệt là họ đang tham gia một phong trào quốc tế rộng hơn…” [20] Ngoài ra, tên của một số tờ báo phản ánh sự liên hệ trực tiếp với Trung Quốc. Ví dụ ta có tạp chí Trăm hoa, trong khi cái tên Đất mới (một tạp chí của sinh viên đại học đã dùng từ “chính thể đảng trị” để chỉ chính phủ) ám chỉ vùng đất màu mỡ cho các loại hoa mới sinh sôi.
Các liên hệ cá nhân giữa các trí thức phản kháng với Trung Quốc cũng dễ thấy. Ví dụ, vào cao trào giải phóng, Phan Khôi, chủ biên của Nhân văn và là nhân vật nổi tiếng nhất của phong trào, có mặt ở Trung Quốc đại diện cho trí thức Việt Nam tại buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn [21] . Việc chọn Phan Khôi làm đại diện cho Việt Nam khó có thể nói là ngẫu nhiên, vì sự kiện kỷ niệm nhằm tôn vinh một trí thức nổi tiếng vì sự độc lập tư tưởng và Phan Khôi lại có tiếng là nhà bình luận độc lập. Có một chi tiết khiến sự đại diện của Phan Khôi ở Trung Quốc lại có thêm ý nghĩa. Một năm trước đó, khi chính phủ yêu cầu Phan Khôi phát biểu về cùng đề tài Lỗ Tấn nhân kỷ niệm ngày mất của nhà văn Trung Quốc, ông đã phải nộp bản thảo cho Hội Văn nghệ và sửa chữa bài viết dựa trên các nhận xét. Một năm sau, gần như cùng lúc khi ông sang Trung Quốc dự sự kiện quan trọng hơn về Lỗ Tấn, Phan Khôi viết bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” trên Nhân văn [22] than phiền về thiếu tự do sáng tạo ở Bắc Việt, nhắc lại câu chuyện một năm trước cùng nhiều ví dụ tương tự về sự can thiệp của chính quyền, và đặt câu hỏi, “Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!” [23]
Nhưng liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Việt Nam còn có thể được khảo sát từ một góc nhìn khác, dựa trên sự riêng biệt của quá trình nói rộng tự do ở Việt Nam. Sự nới rộng tự do ở Việt Nam có khác biệt bởi vì con đường của nó nhiều va vấp và ở một số chặng thì tương ứng với hoàn cảnh ở Trung Quốc. Để hiểu điều này, tôi cần tóm tắt quá trình mở rộng tự do ở Việt Nam.
Từ tháng Tám đến tháng 11-1956, phong trào trải qua thời điểm vàng son, giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm. Rồi ngay sau khi Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy ở Hungary, chính phủ Liên Xô bắt đầu đánh lại trí thức bằng việc in các bình luận, xã luận và thậm chí “thư độc giả” lên án các phần tử chống chủ nghĩa xã hội. Như một xã luận của báo Nhân dân ở Việt Nam, xuất hiện năm ngày sau cuộc đàn áp, viết rằng: “Chúng ta không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận để tách rời nhân dân khỏi Đảng.” [24] Sau hơn một tháng chuẩn bị tuyên truyền như vậy, vào ngày 18-12, sau một nghị định của Chủ tịch nước, Ủy ban Hành chính Hà Nội cho ngưng phát hành Nhân văn và Giai phẩm; đóng cửa nhà xuất bản Minh Đức; tịch thu các số báo cũ; và cảnh cáo những ai còn sở hữu và phân phối báo. Một chiến dịch báo chí nhanh chóng diễn ra để hạ uy tín hai ấn phẩm và người viết.
Việc cấm hai tờ báo và chiến dịch báo chí phê phán chúng là một trở ngại nghiệm trọng cho giới trí thức, nhưng cơn bão chính trị tháng 12-1956 qua đi nhanh đến bất ngờ. Chỉ hai tháng sau, Nhân dân ngừng chiến dịch phê phán Nhân văn - Giai phẩm, và toàn bộ những người bị nhắm đến trong chiến dịch đều an toàn, không ai bị bắt hay mất việc, mà họ chỉ phải tự kiểm thảo và một số bị giáng chức. Như Kim Ninh chỉ ra, các trí thức “tiếp tục giữ chỗ làm nhà nước và, trong một số trường hợp, họ duy trì cả vị trí lãnh đạo trong các nhà xuất bản quốc doanh và thậm chí trong Ban Chấp hành của Hội Văn học Nghệ thuật.” [25] Trong tháng Hai, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần hai được triệu tập, và nghị quyết không nhắc gì tới vụ Nhân văn - Giai phẩm, mặc dù nó ghi nhận sự cần thiết chống lại “các khuynh hướng sai trái”. Đến tháng Năm, một tờ báo mới, tuần báo Văn, ra đời với tư cách là cơ quan chính thức của Hội Nhà văn vừa thành lập. Dưới ngọn cờ của tuần báo Văn, các cây bút của Nhân văn và Giai phẩm nhanh chóng tụ họp lại. Honey chỉ ra, “Dù họ đã phải học tập những gì thì hoá ra tất cả đều vô ích, vì họ nhanh chóng tiếp tục sự công kích Hội Văn học Nghệ thuật, Đảng, chính thể, và mọi mục tiêu trước đó.” [26]
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 25, 2010 5:02:49 GMT 9
Nói cách khác, môi trường văn hoá tại miền Bắc Việt Nam phần lớn năm 1957 ít nhất cũng là nhẹ nhàng và dễ thở. Ngay từ khi ra mắt, báo Văn bị các tờ báo Đảng phê bình vì một số nội dung, nhưng sự chỉ trích chưa khi nào đưa tới một chiến dịch phối hợp lên án của báo chí, hay buộc các nhà văn phải im lặng. Hirohide Kurihara, trong nghiên cứu của ông về chính sách văn hoá Bắc Việt từ 1956 đến 1958, ghi nhận có hai đường lối “linh động” dẫn dắt tình hình trí thức trong năm 1957. Một “ngả về hướng tôn trọng sự chủ động của các nhà văn và trí thức… không có biện pháp cụ thể nào nhằm buộc người cầm bút tham gia học tập chính trị hay các hoạt động sản xuất”; đường lối thứ hai “mang tính ôn hoà nhằm đạt các mục tiêu chính sách, một cách tiếp cận nhấn mạnh vào việc đạt tới sự đồng thuận thông qua thuyết phục và thảo luận kiên nhẫn.” Khi thực hiện chính sách đồng thuận này, “những người nắm chính sách được cảnh báo không được hành động lỗ mãng.” [27] Thời gian cởi trói tiếp theo này kéo dài được khoảng nửa năm và cuối cùng chấm dứt vào đầu 1958. Ngày 6-1, Bộ Chính trị ra “Nghị quyết Bộ Chính trị về công tác văn nghệ”, đòi trục xuất toàn bộ những “phần tử phá hoại” ra khỏi các tổ chức văn nghệ và yêu cầu văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Marx–Lenin và tham gia lao động [28] . Theo sau nghị quyết là việc đình bản tuần báo Văn vô thời hạn và từ đây bắt đầu chiến dịch mạnh và lâu dài nhằm loại bỏ tận gốc mọi tiếng nói và thành phần đối kháng trong giới trí thức. Nhiều trí thức bị bắt và năm người trong số họ, tất cả gắn với vụ Nhân văn - Giai phẩm và do Phan Khôi đại diện, bị đưa ra xử và kết án vì “các hoạt động tâm lý chiến núp dưới bóng Nhân văn - Giai phẩm”. [29] Cùng lúc đó, đa số các trí thức, bất kể hoạt động chính trị của họ là gì trong giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm, đã phải đi cải tạo dưới hình thức học tập chính trị sát sao và lao động nặng nhọc ở nông thôn và nhà máy – một hình thức vay mượn từ Trung Quốc. Như thế, thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam có hai giai đoạn nở rộ: từ tháng Tám đến tháng Mười Một 1956, và từ tháng Năm 1957 đến tháng Giêng 1958. Đối với các sử gia, những câu hỏi tự nhiên là: Tại sao chính phủ Việt Nam không nhân sự biến ở Hungary mà dập tắt các tiếng nói đối kháng trong nước bằng cách đẩy mạnh công cuộc đàn áp đã bắt đầu với việc cấm báo Nhân văn và Giai phẩm hồi tháng 12-1956? Tại sao nhà nước vẫn cho phép giới trí thức tiếp tục sự công kích chính thể vào mùa hè 1957? Điều khiến các câu hỏi này càng thêm kích thích sự tò mò là có một sự kiện đã có thể tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho chính quyền thẳng tay đàn áp trí thức vào thời điểm cấm báo Nhân văn và Giai phẩm. Sự kiện đó là cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Nghệ An chống lại chính sách cải cách ruộng đất. Nỗi bức bối của người nông dân vì cải cách ruộng đất đã chất chồng mấy năm, và việc Đảng công khai thừa nhận các sai lầm trầm trọng trong chiến dịch, được Trường Chinh thông báo (ông này sau đó từ chức Tổng Bí thư để xoa dịu sự bất bình), chỉ cung cấp thêm cho nông dân cơ hội bày tỏ phẫn uất. Cuộc nổi dậy bắt đầu từ ngày 5-11 và có đến hơn 20.000 nông dân tham gia. Nó kéo dài khoảng một tuần và bị một đơn vị đặc biệt của quân đội Bắc Việt dập tắt. Sự kiện này làm lung lay tận gốc sự tự tin của chính thể trong việc cai trị nông thôn – đặc biệt vì tỉnh Nghệ An là quê ông Hồ Chí Minh và căn cứ đầu tiên của cách mạng Việt Nam – và nó là sự biến rất đẫm máu trong thời kì hạ bệ Stalin, có lẽ chỉ kém các cuộc nổi dậy ở Ba Lan và Hungary. Nhưng, thật không may là nó chưa được chú ý đầy đủ trong các nghiên cứu về vấn đề hạ bệ Stalin từ góc nhìn toàn cầu. Cuộc nổi dậy là một đe doạ lớn cho chính thể, và sẽ không ngạc nhiên nếu chính quyền siết chặt các chính sách chung ở trong nước để dập tắt mọi dấu hiệu của xu hướng nổi loạn trong dân sau vụ đàn áp nổi dậy này. Nhưng trên thực tế sự đàn áp trí thức – sau khi cuộc nổi dậy nông dân bị dập tắt – đã diễn ra ngắn ngủi, nhẹ nhàng và thậm chí tiếp theo sau ta thấy quá trình trả lại tự do cho văn nghệ sĩ còn được phục hồi. Mặc dù tôi không tìm cách loại bỏ mọi khả năng giải thích quá trình nới rộng tự do lúc lỏng lúc chặt ở Việt Nam, nhưng việc xem xét mối liên quan Trung Quốc có thể cung cấp ít đầu mối. Do ảnh hưởng nặng của Trung Quốc ở Việt Nam và quan hệ thân mật giữa hai đảng, và do thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam lấy cảm hứng từ mô hình Trung Quốc, sẽ vô lý nếu cho rằng ban lãnh đạo Việt Nam đã tự ý tạm ngừng đàn áp vào đầu năm 1957 mà không theo dõi thái độ của Trung Quốc. Vào mùa Xuân 1957, khi môi trường ở Việt Nam một lần nữa trở nên thuận lợi cho sự mở rộng tự do dân chủ, đó là lúc ban lãnh đạo Trung Quốc mở chiến dịch “chỉnh phong” quy mô cả nước để lấy ý kiến phê bình của trí thức đối với Đảng. Giới trí thức Bắc Việt tái tục sự công kích chính thể vào đầu mùa Hè, chính vào thời điểm phong trào chỉnh huấn ở Trung Quốc đạt cao điểm và đa số những người phái hữu đang để lộ mình khi công khai chỉ trích Đảng và đòi cải cách. Nhưng vào ngày 8-7-1957, chiến dịch chống phái hữu bắt đầu ở Trung Quốc. Cũng chính vào ngày ấy, vô tình hay hữu ý, ông Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh trên đường đi Bắc Hàn, Liên Xô và Đông Âu. Trên đường quay về Việt Nam, vào cuối tháng Tám, ông Hồ một lần nữa ghé thăm Trung Quốc và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với chiến dịch chống phái hữu. Về mặt chính thức, ưu tiên của ông Hồ là được Trung Quốc ủng hộ lời kêu gọi của ông nhằm mở một hội nghị tham vấn về việc thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử tự do [30] . Nhưng đằng sau đó họ còn bàn bạc chuyện gì? Họ có bàn về chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc và những thách thức mà giới trí thức Việt Nam đặt ra cho Đảng của ông Hồ? Mặc dù không có tư liệu nào có thể cung cấp thêm thông tin, nhưng có một điều chắc chắn: ông Hồ hẳn bị ấn tượng mạnh về chiến dịch và ý định thật cũng như chiến lược của Mao nhằm buộc kẻ thù lộ mình. Ông Hồ giỏi tiếng Hoa (ông từng làm thông dịch viên cho các phái viên Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1920), và có thể tự mình đọc báo tiếng Hoa. Các tờ báo Trung Quốc lúc ấy tràn ngập các bài chống phái hữu và các phương pháp dùng để trấn áp, như vậy làm sao tất cả những điều này lại không được ông Hồ chú ý cơ chứ? [31] Một bằng chứng cho ảnh hưởng của Trung Quốc là khoảng hai tuần sau khi trở về nước, ông Hồ, dùng bút danh Trần Lực, đã đăng một bài trên Nhân dân ngày 16-9 với tựa đề “Đập tan tư tưởng hữu khuynh”. Theo Boudarel, bài báo dường như in đậm dấu ấn chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc. Cách ông Hồ tiếp cận vấn đề cũng tương tự như cách nói ẩn dụ của Mao. Ông viết, “Tư tưởng hữu khuynh như cỏ độc. Hãy nhổ cỏ và biến chúng thành phân để làm đồng lúa được màu mỡ.” [32] Điều đáng nói là ít tác giả nào chú ý đầy đủ đến các ảnh hưởng quốc tế đối với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1957-1958, theo nghĩa là liên kết những thay đổi trong nước với những diễn biến cụ thể trong phong trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên có một ngoại lệ là tác giả Kurihara. Kurihara nhấn mạnh những thay đổi tạo ra bởi Hội nghị Moskva của các đảng cộng sản thế giới tháng 11-1957, mà trong đó Trung Quốc đóng vai trò lớn trong việc hợp tác với Liên Xô để lên án “khuynh hướng xét lại”, ám chỉ nguy hiểm từ cánh hữu. Vì thế, đối với Bắc Việt, tình hình quốc tế cuối năm 1957 và đầu 1958 rất khác giai đoạn trước đó. Như Kurihara chỉ ra, “Cả Liên Xô, nước gây cảm hứng cho Nhân văn – Giai phẩm nhờ sự lên án Stalin, và Trung Quốc, nước cũng gây cảm hứng nhờ chính sách ‘Trăm hoa’, đã ký vào Tuyên bố, tức là bày tỏ ủng hộ cho cuộc đấu tranh chống xét lại. Ngoài ra, chính sách ‘Trăm hoa’ đã biến thành chiến dịch chống phái hữu ở Trung Quốc.” [33] Khi Nhân văn và Giai phẩm bị cấm, một vài nhà quan sát phương Tây đặt giả thiết rằng các ấn phẩm là “các quả bóng nhử, được thả với sự ngầm chuẩn thuận của chính phủ” và rằng “thí nghiệm rõ ràng đang đi đến điểm kết thúc.” [34] Nếu nhận xét đó đúng, hẳn Hồ Chí Minh cảm thấy nhẹ nhõm khi ông ở Trung Quốc chứng kiến chiến dịch chống phái hữu quyết liệt và thán phục chiến thuật của Mao. Bốn tháng sau, ông Hồ bắt đầu lại cuộc tấn công giới trí thức bằng cách đi theo mô hình Trung Quốc, một mô hình mà hẳn ông đã cân nhắc trong lúc ở lại Trung Quốc: bóc trần tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, bằng việc đăng những lời “thú tội” của họ trên báo, tổ chức các cuộc họp tập thể mà ở đó những người bị tố cáo phải tự phê hoặc lên án chính mình, sa thải và bỏ tù nhiều người, trục xuất nhiều người khỏi các hội nghề nghiệp, và gửi hàng trăm, hàng ngàn người xuống các vùng nông thôn, nhà máy để cải tạo thông qua lao động nặng nhọc. Toàn bộ những chương và diễn biến song song này, khi đặt chúng cạnh nhau, rõ ràng chứng tỏ ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc trong phong trào nới rộng tự do ở Việt Nam ngay từ năm 1955 cho tới 1958. Giống như tại Đông Âu, sự liên hệ với Trung Quốc đã tạo cảm hứng ban đầu cho giới trí thức, khiến họ duy trì quan điểm ngay cả sau khi Liên Xô đàn áp cách mạng Hungary. Nhưng rốt cuộc sự liên hệ với Trung Quốc trở thành cú đánh cuối cùng, bất ngờ và có lẽ nặng nề nhất cho phong trào nới rộng tự do dân chủ. Kết luận Phong trào hạ bệ Stalin và mở rộng tự do ở giữa thập niên 1950 là một hiện tượng của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu và cần được xem xét từ góc nhìn toàn cầu. Góc nhìn này có thể cho phép ta xem xét nhiều nguồn tư liệu của nhiều nước cộng sản đóng góp vào hiện tượng này và những tương tác phức tạp dính dáng đến các nước liên quan, thay vì chỉ nhìn hiện tượng từ góc nhìn lấy Moskva làm trung tâm. Là một ví dụ của cái nhìn toàn cầu này, những liên hệ với Trung Quốc, thể hiện trong trường hợp Đông Âu và Việt Nam, có thể giúp mở rộng viễn kiến của chúng ta nhờ việc đặt quá trình giải ảo Stalin trong một văn cảnh rộng hơn. Đầu tiên, Trung Quốc đã đóng góp vào thay đổi chính trị với những nỗ lực của riêng mình và hành động như một nguồn độc lập trước Moskva trước Đại hội 20 của Liên Xô, chứ không phải là một nước ở vị trí ngoài rìa và phản ứng thụ động, và Trung Quốc còn tiếp tục xác lập ảnh hưởng cả sau khi cuộc nổi loạn Hungary bị đàn áp, khi mà không khí ở Đông Âu rõ ràng không thuận lợi cho một ảnh hưởng như vậy. Ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ có trong những nhân vật cải tổ Đông Âu, mà còn tạo nên hiệu ứng gây lo ngại ở Moskva, như chính Khrushchev thừa nhận. Thứ hai, khi liên kết trường hợp Việt Nam với Trung Quốc, ta có thể thấy có sự tồn tại của một mô thức phản kháng và phản đối trong thời kì hậu Stalin – một mô thức châu Á, chủ yếu thể hiện qua phản đối bằng ngôn từ của trí thức chứ không phải là những cuộc xuống đường của quần chúng hay thậm chí nổi loạn, mặc dù Việt Nam cũng có một cuộc nổi loạn nông dân ngắn ngủi và Trung Quốc chứng kiến một vài cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân. Mô thức phản kháng và phản đối châu Á có vẻ khác với mô thức Ba Lan – Hungary, mà ở đó sự phản đối của trí thức ban đầu quan trọng nhưng sau đó bị làm lu mờ bởi hành động bạo lực của quần chúng. Thứ ba, mối liên hệ Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc đối với quá trình giải ảo Stalin có tính hai mặt. Một mặt, Trung Quốc tán đồng – dù cố ý hay không - sự giải phóng ở Đông Âu và Việt Nam, và sự tán đồng này là một phần quan trọng trong việc hạ bệ Stalin mà Moskva phát động. Nhưng mặt khác, ngược với niềm tin ngây thơ của nhiều nhân vật cải cách và trí thức Đông Âu và Việt Nam, Mao và ban lãnh đạo Trung Quốc chưa bao giờ thực sự tin vào dân chủ và tự do. Họ không chần chừ bộc lộ phản ứng cứng rắn trước thách thức sự cai trị của Đảng Cộng sản trong trường hợp Hungary, nhưng phải mất một năm trước khi nhiều người ở Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc nhận ra điều này. Dù ý định ban đầu của những người cộng sản Trung Quốc có là gì (khi họ cổ vũ cho Chính sách Trăm hoa và Chỉnh huấn), cuối cùng thì họ chấm dứt phong trào giải phóng từng nảy nở bằng cách dùng biện pháp khác với cách đàn áp cách mạng Hungary của Liên Xô, nhưng có tính toán hơn và có lẽ tiêu cực hơn [35] . Vì thế, nếu Trung Quốc đã đóng góp vào phong trào giải phỏng và tác động đến các nước cộng sản khác theo cách riêng của mình, thì nước này cũng đóng góp vào sự đàn áp phong trào giải phóng theo cách riêng của mình. -------------------------------------------------------------------------------- [1]Hoàng Văn Hoan, My Memoir (Beijing: People's Liberation Army Press, 1987), trang 277 [2]Như Phong, "Intellectuals, Writers and Artists", trong North Vietnam Today, P. J. Honey chủ biên (New York: Praeger, 1962), trang 81 [3]Kim N. B. Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam 1945–1965 (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), trang 130–131 [4]Để đọc một mô tả chi tiết về một trong các ví dụ “tan băng” ở Đông Âu, xem bài "Poland's Literary 'Thaw': Dialectical Phase or Genuine Freedom?" của Magnus J. Krynske, in trong The Polish Review, mùa Thu 1956, trang 8–21. [5]Georges Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” in trong The Vietnam Forum, do O. W. Wolters chủ biên (New Heaven, Conn.: Yale Southeast Asia Studies, 1990), 13: 158 [6]Gong Yuzhi, Mao Zedong’s Reading Life (Shanghai: Shanghai People’s Publisher, 1997), trang 493 [7]Lục Định Nhất, “Cái nhìn lịch sử về ‘Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh,” Guangming Daily, 7-5-1986 [8]Xem Ninh, A World Transformed, chương 4, trang 121–161, nói về sự phản kháng của trí thức. [9]Như trên, trang 140 [10]Như trên. Bài về Nhân văn – Giai phẩm của Boudarel cũng có tư liệu về liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần. [11]Shawn McHale, “Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946–1993”, Journal of Asian Studies 61.1 (2002): 14 [12]Bernard B. Fall, The Two Vietnams - A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1967), trang 188 [13]P. J. Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trong cuốn Vietnam: Anatomy of a Conflict, R. Fishel Wesley chủ biên (Itasca, Ill.: Peathingy Publishers, 1968), trang 160 [14]Các chính sách mới này là: “1) Đoàn kết giới trí thức và động viên toàn bộ lực lượng trí thức cho nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; 2) Sử dụng trí thức theo khả năng và giao cho họ công tác phù hợp trên nguyên tắc chức vụ và quyền lực được phân phối theo khả năng và đạo đức; 3) Bảo đảm cho trí thức có phương tiện cần thiết để làm việc, tặng thưởng cống hiến theo khả năng của đất nước; 4) Giúp các thế hệ trí thức lớn tuổi học tập ý thức hệ cách mạng, đào tạo thế hệ trí thức mới, không ngừng nâng cao hiểu biết của trí thức và mở rộng hàng ngũ.” Robert F. Turner, Vietnamese Communism (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1975), trang 152. [15]Edward Friedman, “The Revolution in Hungary and the Hundred Flowers Period in China”, Journal of Asian Studies, 35.1 (1965): 122 [16]Chiến dịch “sửa sai” cải cách ruộng đất cũng chứng tỏ có ảnh hưởng Trung Quốc. Theo Hoàng Văn Hoan (Hồi ký, bản dịch tiếng Anh, trang 285), Chu Ân Lai rất lo ngại về vai trò của cố vấn Trung Quốc trong cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Sau khi Hoan đi họp ở phiên Toàn thế thứ Mười và quay lại Bắc Kinh, Chu Ân Lai gọi ông ta đến và hỏi rằng cố vấn Trung Quốc chịu bao nhiêu phần trách nhiệm cho những sai lầm trong cải cách ruộng đất của Việt Nam. Hoan trả lời rằng kinh nghiệm Trung Quốc tốt lắm, và mọi biện pháp quá khích đều là do cán bộ Việt Nam quyết định cả - dĩ nhiên nhận xét này không được các sử gia cho là chính xác. [17]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China and the Second Indo - Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 36 [18]Ninh, A World Transformed, trang 146 [19]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 161 [20]Ninh, A World Transformed, trang 144. [21]Uy tín của Phan Khôi một phần là nhờ gốc gác gia đình. Cha của ông là tổng đốc Hà Nội, người đã tự sát khi quân Pháp chiếm đóng năm 1883. Phan Khôi trải qua phong trào chống Pháp của giới sĩ phu năm 1907 và trở thành nhân vật đứng đầu giới trí thức. Ông ủng hộ phong trào cộng sản Việt Nam vì sức hút dân tộc và dân chủ trong cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Con trai ông cũng tham gia cách mạng cộng sản và trở thành biên tập viên của một tờ báo thuộc Mặt trận Tổ quốc, nhưng đã tự sát vào năm 1958, sau khi phong trào nới rộng tự do bị dập tắt và Phan Khôi cũng qua đời. (Ghi chú của talawas: 1. Trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” nêu trên, câu “Tôi còn làm ăn được gì nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi” của Phan Khôi là hướng đến cụ Đồ Chiểu. 2. Phan Khôi là cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu.) [22]Bài viết này của Phan Khôi đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập I (Ghi chú của taalwas) [23]Turner, Vietnamese Communism, trang 153 [24]Như trên, trang 157 [25]Như trên, trang 155 [26]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 163 [27]Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’Party, 1956–1958”, trong cuốn Indochina in the 1940s and 1950s, Takashi Shiraishi và Motoo Furuta chủ biên (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1992), trang 180 [28]Như trên, trang 183 [29]Ghi chú của talawas: Trong phiên toà xử "Vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang và Thuỵ An" ngày 19.1.1960 tại Toà án Nhân dân Hà Nội, năm người bị kết án là Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Lúc này Phan Khôi đã qua đời. [30]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with China, the Second Indo-Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland & Company, 1997), trang 58 [31]Một tình tiết, mặc dù xảy ra sau đó khá lâu, có thể xem là ví dụ chứng tỏ ông Hồ giỏi tiếng Hoa và dùng nó để tìm hiểu chính trị Trung Quốc. Tháng Năm 1966, khi ông Hồ ở Trung Quốc, ông gặp Mao tại Hàng Châu và theo lời khuyên của Mao, đã đến Đại học Triết Giang để đọc các “bích chương đại tự” để biết về Cách mạng Văn hoá đang diễn ra. Dẫn theo Wen Zhuang, “Ba cuộc gặp giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, 1965-1966), Zhong Heng, tháng Tám 2003, trang 12–13. [32]Boudarel, “The Nhan-Van Giai-Pham Affair,” trang 170–171 [33]Kurihara, “Changes in the Literary Policy”, trang 189. [34]“In China’s Shadow: The Ho Chi Minh Way,” The Economist, 5-1-1957, trang 41. Bài báo được viết bởi đặc phái viên của tạp chí. [35]Một ví dụ ở một số nước Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan và Hungary, là ban lãnh đạo thời kì sau 1956 đã có vài nhượng bộ trước đòi hỏi cải tổ kinh tế, và được sự đồng ý của Moskva. Sự đối xử với trí thức nói chung có cải thiện. Nhưng tại Trung Quốc và Việt Nam, cuộc đàn áp 1957-1958 đã loại bỏ thành phần cải tổ và những cải cách kinh tế đã không tái xuất hiện cho mãi tới đầu thập niên 1980, và giới trí thức đã chịu khổ trong Cách mạng Văn hoá còn hơn là thời kì những năm 1950. Nguồn: Yinghong Cheng,
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 2:37:58 GMT 9
Hồi ký tội ác KremlinWednesday, November 03, 2010 Hồ Tùng Nghiệp (Thu gọn hồi ký The Kremlin Wives) Nov. 9, 1932 - Joseph Stalin's wife, Nadya Alilueva, [có nơi viết Nadezhda Alliluyeva] died last night under questionable circumstances. She was 30 years old.” (Tháng 11, ngày 9, 1932 - Nadya Alilueva, vợ Joseph Stalin, từ trần đêm hôm qua trong hoàn cảnh nhiều nghi vấn. Bà mới 30 tuổi.) Nadezhda Alliluyeva và chồng, Joseph Stalin. Vì sao Nadez chết vào năm 30 tuổi, ngay trong Ðiện Kremlin? Ðó là hai câu mở đầu một cái tin ngắn trên báo chí Anh ngữ, được in lại trong Chronicle of the 20th century. Vụ này đã ghi dấu đậm nét trong những chuyện có thể gọi là “thâm cung bí sử của điện Cẩm Linh.” Trong mục này, chúng tôi tóm tắt lại câu chuyện, kể rất kỹ trong cuốn sách nhan đề “Kremlin Wives, The Secrets Lives of the Women Behind the Kremlin Walls - From Lenin to Gorbachev” của Larissa Vasilieva, con gái của viên kỹ sư đã chế ra xe tăng T.34, một cô gái ra vào cung vua như đi chợ, quen biết hầu hết các mệnh phụ phu nhân của Mạc Tư Khoa, và là một trong những người đầu tiên được phép lần giở kho hồ sơ mật trong Thủ Phủ Ðỏ của thế giới. 1. Tìm vợ cho Stalin. Ðầu năm 1918, sau khi vị Sa hoàng cuối cùng bị giết, chính quyền cách mạng sửa soạn dọn nhà, từ Petrograd tới Moscou. Các thủ lãnh sắp làm chủ Ðiện Cẩm Linh gồm có Lenin và Nadezhda Krupskaya; Trostsky và Natalya, Kamenev và Olga, chỉ riêng Joseph Stalin chưa có vợ. Thực ra ông ta góa vợ vào năm 1909, vì bà Ekaterina Svanidze chết vì bệnh lao phổi. Cho nên các đồng chí thấy việc ưu tiên là cần tìm ngay cho cậu Stalin một người vợ cho ra vẻ một phu nhân điện Cẩm Linh. 2. Người đó tiện nhất là Nadezhada Alliluyeva. Sở dĩ như thế là vì trong thời gian ở Petrograd, trước khi “tiến kinh,” Stalin ở nhờ nhà vợ chồng người bạn cách mạng là chàng thợ sửa ống khóa Sergei Alliluyev mà ông ta quen từ 1900. Sergei có người vợ đồng chí từng liên hệ xác thịt ít ra với hai đồng chí khác, trong đó có đồng chí ở chung nhà là Stalin. Một năm sau bà này sinh ra Nadez. Lúc nhỏ khi tới Baku, Nadez suýt chết đuối nếu không có cậu Stalin cứu kịp. Khi cách mạng thành công, Nadez vừa 16 tuổi. Các lãnh tụ cách mạng coi Nadez như con cháu trong nhà, nên việc tác thành vợ chồng Stalin-Nadez nghe ra cũng hợp lý, chỉ bà mẹ Nadez phản đối, nhưng không ăn thua gì. 3. Thật ra ai cũng biết hai người có liên hệ thân mật từ nhỏ, nên tác thành vợ chồng lại là chuyện tốt: hợp thức hóa một tội lỗi mà kẻ phạm tội, liên hệ xác thịt với gái vị thành niên, chắc chắn phải đi tù. Nhưng luật pháp không áp dụng với các ông chủ điện Cẩm Linh, nhất là ai cũng e dè Stalin. Những ngày đầu trong Ðiện Cẩm Linh rất lộn xộn, ai cũng muốn tranh những căn phòng đẹp nhất cho mình. Stalin sai Nadez đánh máy một tờ yết thị, in ra nhiều bản, ký tên Văn Phòng Sắc Tộc, mà ủy viên trưởng ban là Stalin. Theo lệnh Stalin, Nadez đem dán tờ yết thị lên cánh cửa một số phòng, nói là phòng của Ủy Ban Sắc Tộc. Có những căn phòng đã do người khác chiếm, trên cánh cửa có yết thị “Văn Phòng Hội Ðồng Tối Cao Nhà Nước,” Stalin tự tay gỡ bỏ, dán yết thị của mình lên! Nhưng hành động xấc xược này thất bại. 4. Vợ chồng Stalin luôn luôn xung đột. Người ngoài không rõ lắm, nếu cô em gái của Nadez là Anna không nói ra: Stalin đã hiếp dâm Nadez ngay trên tàu hỏa. Anna kể: “Tháng 6, 1918 chúng tôi gồm có Stalin, ông bố Sergei Yakovlevich và chị em tôi, cùng 400 Hồng Quân, đi trên chuyến tàu hỏa từ Moscou đi Tsaritsyn. Tầu chạy rất chậm, phải chờ ở nhiều ga, phải ngủ đêm trên tầu. Một đêm bố tôi nghe tiếng Nadez la hét kinh hoàng. Ông chạy tới thì chị đang khóc. Hỏi tại sao thì chị nói bị cậu Joseph (Stalin) hãm hiếp. Bố tôi rút súng định bắn bỏ Stalin thì cậu quì sụp xuống xin phép cưới Nadezhda làm vợ.” Khi tầu đến Tsaritsyn thì chính thành phố này, nơi giao điểm của sông Volga và sông Don, là nơi Nadez và Stalin hưởng tuần trăng mật. Stalin trấn thủ nơi đây - được gọi là Verdun Ðỏ, dài 35 dặm - với quyền hạn tuyệt đối. Ông ta cách chức toàn bộ bộ chỉ huy của Tsaritsyn và gửi họ xuôi sông Volga trên một chiếc phà. Chiếc phà này sau đó bị chìm, vô số chết đuối. Từ đây người ta sợ sệt khi nhắc tới tên Stalin. 5. Khi trở về Moscou, Stalin và Nadez chính thức thành hôn. Năm tháng sau nàng sinh con trai, đặt tên là Vasily. Có người hỏi vì sao họ không làm đám cưới sớm hơn, thì câu trả lời đến từ một cuốn hồi ký của Anna, cô em gái: “Chị tôi không yêu cậu Stalin, nên không chịu làm đám cưới ngay. Vả lại mẹ tôi không tán thành, dù bà không còn ở với chúng tôi nữa. Ðám cưới là sự miễn cưỡng. Bà bảo Nadez là ;một con khùng’ nên mới thành hôn với Stalin. Một năm sau Nadez sinh thêm con gái, đặt tên là Svetlana. [Svetlana lớn lên được mệnh danh là Công Chúa Ðiện Cẩm Linh, sau này xin tị nạn tại Hoa Kỳ, viết cuốn hồi ký nhan đề là “Only one year.”] Nadez không chịu ở không, mà trở thành thư ký của Lenin, dù bà không được học nhiều. Ở Moscou nàng được Lenin nâng đỡ hết mức, dù nàng đánh máy sai chính tả, Lenin vẫn nói: “Không sao, rồi sẽ quen.” Nhờ Lenin, Nadez thu nhập văn hóa dần dần, rồi trở thành biên tập viên của một vài tờ báo cũng như tham gia các việc bên ngoài điện Cẩm Linh. Có lần Stalin nhờ vợ chuyển một lá thư cho Lenin, Nadez không thèm trình lên! Chuyện này làm Stalin phẫn nộ. Cuộc sống của hai vợ chồng càng ngày càng khó khăn mặc dù Stalin vẫn chiều chuộng vợ, thuê tới hai người làm phụ giúp vợ, nàng muốn gì được nấy. Nhưng nàng ghét Stalin về tật nói dối, lại nói dối những điều không cần thiết. Có lần Molotov gọi điện thoại, Nadez nhấc ống nghe và gọi chồng: “Koba! Molotov!” Koba là tiếng Nadez gọi Stalin, hai vợ chồng đều là người Georgia. Stalin nói: “Bảo hắn anh đang ngủ.” Thư ký riêng của Stalin kể lại lần đó Nadez rất tức giận. Càng ngày Stalin càng tỏ ra ích kỷ, suốt ngày ngậm ống vố lầm lỳ mưu toan, không tiếp chuyện ai, kể cả Molotov. Cho đến một hôm hai vợ chồng đánh lộn. 6. Năm 1924 Lenin từ trần. Cái chết của ông đã thay đổi hướng đi của Liên Bang Xô Viết, và của cô thư ký của ông là Nadez. Cô phải đi kiếm việc khác để làm, nhất là những việc ở ngoài vòng giám sát của chồng. Nadez trở thành biên tập viên báo “Cách Mạng và Văn Hóa.” Thời gian này - theo các hồi ký xuất bản sau này - Nadez Stalin cũng không ngủ cùng giường với chồng nữa. Lúc nào Stalin cũng bận rộn trong căn phòng nhỏ bên cạnh, nơi có một chiếc điện thoại màu đỏ. Chồng cô nhấc điện thoại bất cứ giờ nào, dù là ba giờ sáng, chỉ để ra lệnh một vài câu ngắn ngủi, thường là với Molotov, người lãnh đạo Công An Mật Vụ Cheka. Rất ít khi có người gọi lại, mà nếu có, cũng chỉ dăm ba người. Lenin chết rồi, một số bạn bè xưa trở thành kẻ thù của Stalin: Trotsky, Kamenev, Zinoviev, Bukharin. Ông ta gọi ai là kẻ thù, kẻ đó rồi sẽ bị giết.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 6:52:36 GMT 9
TRẦN VĂN GIÀU (1911 - 2010) Dien DanGs. Trần Văn Giàu tiếp Ngô Vĩnh Long tại nhà riêng, tháng 8.2008 (vựng tập NVL). Giáo sư Trần Văn Giàu, nhà cách mạng lão thành, đã từ trần ngày 16.12.2010, lúc 17g20 (giờ Việt Nam), tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 100 tuổi. Ông sinh ngày 6 tháng 9 năm 1911 tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, Long An trong một gia đình khá giả ở nông thôn. Năm 1926, lên Sài Gòn học trung học, năm 1928 sang Pháp tiếp tục học trung học (ở "Thành phố Hồng" Toulouse, miền tây-nam nước Pháp). Tháng 3.1929 ông gia nhập Đảng cộng sản (đảng bộ Pháp). Tháng 5.1930, ông từ Toulouse lên Paris, tham gia cuộc biểu tình của sinh viên học sinh Việt Nam trước cổng điện Elysée (phủ tổng thống Pháp, phố Faubourg Saint-Honoré, quận 8, Paris). Đây là cuộc biểu tình chính trị đầu tiên của Việt kiều tại Pháp, nhằm mục đích đòi xóa án tử hình 13 liệt sĩ Yên Bái. Những người chủ xướng cuộc biểu tình như Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu... bị bắt giam ở nhà tù La Santé và bị trục xuất ngay về nước. Trần Văn Giàu, lúc đó chưa đầy 21 tuổi (tuổi trưởng thành theo pháp luật lúc đó), bị giam ở khu vị thành niên ở nhà tù La Roquette (dành cho phụ nữ và thiếu niên) rồi bị trục xuất vài tháng sau đó. Về tới Sài Gòn, ông dạy học ở trường tư thục Huỳnh Công Phát và hoạt động trong hàng ngũ Đảng cộng sản Việt Nam, được phân công cùng Hải Triều phụ trách Ban học sinh và Ban phản đế của Xứ ủy Nam Kỳ. Năm 1931, sau cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh, chính quyền thực dân đàn áp mạnh mẽ. Theo lời ông kể lại cho chúng tôi, trong một cuộc phỏng vấn ghi hình năm 1989 tại Paris, một hôm đang đi trên đường phố Sài Gòn, ông được tin mật thám đến lùng bắt ông tại nhà, ông bèn tìm đường xuất dương trở lại Pháp. Tình cờ ông gặp Tạ Thu Thâu, ông Thâu dẫn ông tới nhà bà chị ruột và xin được của bà một cà rá (nhẫn) vàng để ông Giàu độ thân lên đường. Từ Pháp, Trần Văn Giàu sang Liên Xô học Trường đại học Đông Phương. Năm 1933, ông tốt nghiệp với luận văn "Vấn đề ruộng đất ở Đông Dương". Về nước, ông tham gia xây dựng lại xứ ủy Nam Kì và xuất bảo báo Cờ Đỏ. Sau thất bại của Mặt trận Bình dân Pháp, ông bị bắt giam ở Côn Đảo, Tà Lài. Năm 1941, ông vượt ngục Tà Lài. Trần Văn Giàu tại quảng trường La Bastille tháng 7-1989 (ảnh NNG). Năm 1943 ông được cử làm bí thư Xứ ủy Nam Kì. Sự thật phức tạp hơn thế : nội bộ ĐCS ở Nam Kì phân hóa, có hai xứ ủy được thành lập. Xứ ủy kia (của nhóm bà Nguyễn Thị Thập) chủ trương thành lập Thanh niên cứu quốc, theo đúng nguyên xi chủ trương của Trung ương. Bí thư Trần Văn Giàu thì nắm vận hội chính quyền Nhật muốn tổ chức một đoàn thể thanh niên để cạnh tranh với tổ chức của thực dân Pháp do đại tá Ducoroy cầm đầu : ông quyết định để bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (mà ông kết nạp vào ĐCS đầu năm 1945) thành lập Thanh niên Tiền phong. TNTP đã tập hợp đông đảo thanh niên ở nông thôn và thành thị và đóng vai trò quan trọng trong cuộc giành chính quyền cuối tháng 8.1945 ở Sài Gòn và Nam Bộ, và sau đó là hạt nhân cho các lực lượng vũ trang kháng chiến. Cuộc biểu tình nắm chính quyền ở Sài Gòn ngày 25.8.1945 (hơn một lần ông nói với tôi, lẽ ra ông muốn làm ngay từ ngày 21.8) chứng tỏ sự nhạy bén và óc quyết đoán của Trần Văn Giàu. (Sự phân hóa giữa hai "xứ uỷ" còn để lại nhiều vết tích trên "lý lịch" của nhà cách mạng lão thành : theo chúng tôi biết, mãi đến mùa xuân năm 1989, Trần Văn Giàu mới được minh oan hoàn toàn -- tháng 7.1989, ông xuất ngoại lần đầu tiên sau mấy chục năm, sang Pháp dự lễ kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp, theo lời mời của chính quyền Mitterrand). Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Trần Văn Giàu được cử làm chủ tịch Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ, sau ngày 23.9.45 là Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Năm 1949, ông được điều động ra Việt Bắc, làm tổng giám đốc Nha thông tin. Từ năm 1951 trở đi, ông chuyển sang ngành giáo dục. Năm 1954, chủ nhiệm Khoa lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ 1962 đến 1975, công tác tại Viện sử học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Sau thống nhất đất nước, ông trở về Nam Bộ, sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Trần Văn Giàu để lại một sự nghiệp đồ sộ trong "cuộc đời thứ nhì" của ông : đào tạo cả một thế hệ các nhà sử học với những tên tuổi quen biết : Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Đinh Xuân Lâm ; trước tác về nhiều lãnh vực (sử học, triết học, lịch sử tư tưởng). Ông bà Trần Văn Giàu và bốn môn đệ (từ phải sang trái : Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Đinh Xuân Lâm, Trần Quốc Vượng) (nguồn : VNU) Các tác phẩm chính : * Triết học phổ thông * Biện chứng pháp. * Vũ trụ quan. * Duy vật lịch sử. * Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ 19 đến Cách mạng tháng Tám. * Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. * Sự khủng hoảng của chế độ nhà Nguyễn trước 1858. * Lịch sử chống xâm lăng. * Giai cấp công nhân Việt Nam. * Lịch sử cận đại Việt Nam. * Miền Nam giữ vững thành đồng * Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh Tên tuổi Trần Văn Giàu đã chói sáng từ những năm 1930 trong lịch sử chính trị Việt Nam. Nếu công lao đào tạo và trước tác của ông được mọi người thừa nhận, cuộc đời hoạt động chính trị của ông, đặc biệt trong thập niên 1940 (thời gian ông lãnh đạo xứ ủy Nam Kì của ĐCS, lãnh đạo Khởi nghĩa và Kháng chiến) là chủ đề nhiều cuộc tranh luận chưa ngã ngũ, và còn nhiều vùng tối. Tranh luận từ ngay trong nội bộ Đảng cộng sản : như đã nói trên, sự bất đồng giữa hai nhóm lãnh đạo đảng bộ Nam Kì cho đến nay vẫn chưa được công khai kết luận ; thêm vào đó, việc ông cử ông Lê Duẩn đơn thuần làm trưởng phòng du kích Nam Bộ (khi ông Lê Duẩn ở Côn Đảo trở về) dường như đã có ảnh hưởng tới "tiền đồ chính trị" của Trần Văn Giàu, thậm chí đến cả việc ông phải đợi khá lâu mới được trở lại thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975. Một sự kiện khác, quan trọng không kém, là việc năm 1951, ông rời khỏi cương vị lãnh đạo chính trị, chuyển sang giáo dục và nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu nước ngoài (thí dụ như Jean Lacouture) cho rằng Trần Văn Giàu cũng như Trần Huy Liệu, hai người phụ trách công tác thông tin tuyên truyền, đã mắc sai lầm "tả khuynh", kêu gọi "tống tấn công" quá sớm. Năm 2005, chúng tôi có dịp hỏi ông, sau ít phút do dự, ông đưa ra một giải thích khác hẳn. Ông nói từ năm 1950, chủ nghĩa Mao tràn vào Việt Bắc, ông kiên quyết chống lại và phê phán "tư tưởng Mao Trạch Đông", và đó là lí do ông bị/được "chuyển công tác". Rất tiếc rằng lúc ấy ông không cho phép tôi công bố việc này, cũng như theo sự thỏa thuận mùa hè năm 1989, 3 giờ phỏng vấn ông ở Paris không được phổ biến lúc sinh thời. Ông còn dặn kỹ tôi : "Nếu chú viết về việc này, thì tôi sẽ cải chính đấy". Ông bà Trần Văn Giàu và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (1994, ảnh THD). Lời căn dặn của ông cho tôi thêm cơ hội để hỏi ông : anh đã viết xong hồi kí chưa ? và "bảo quản" ra sao ? Ông mỉm cười, cho biết đã xong và đã trao cho vài người gìn giữ, bảo đảm an toàn. Mong rằng cuốn hồi ký Trần Văn Giàu sẽ sớm đến tay bạn đọc -- tốt nhất là trên mạng, để tránh mọi sự hốt cắt đục của bộ 4T. Tên tuổi của ông Trần Văn Giàu còn được nêu lên trên các tài liệu của nhóm trốt-kít. Nhiều người trốt-kít tố cáo trách nhiệm của ông trong cái chết của những nhà cách mạng trốt-kít như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm... Trong cuộc phỏng vấn năm 1989 nói ở trên, tôi đã hỏi thẳng ông. Ông dứt khoát bác bỏ trách nhiệm của mình trong cái chết của ông Tạ Thu Thâu (tháng 9 năm 1945 tại Quảng Ngãi), nhưng ông giữ im lặng, không trả lời câu hỏi của tôi về việc ông Phan Văn Hùm và các đồng chí đã bị thủ tiêu ở Nam Bộ năm 1946. Sự đối lập và thù nghịch giữa hai xu hướng đệ tam và đệ tứ, kể cả (hay nhất là) ở Nam Bộ là nơi họ đã hợp tác với nhau trong thời khì làm báo La Lutte, thì mọi người đều biết. Nhưng căn cứ vào những thông tin mà người ta có được về tình hình các xu hướng cộng sản ở Quảng Ngãi năm 1945 (là nơi, ngoài Tạ Thu Thâu, các ông Ngô Đình Diệm, Lê Văn Hiến (cộng sản) đều bị bắt trên đường vào nam hay ra bắc, ông Diệm được cụ Hồ cứu kịp, ông Lê Văn Hiến thì đã bị dẫn ra trường bắn, thoát chết vào phút chót, nhờ sự tỉnh ngộ của người cán bộ chỉ huy đội xử bắn), căn cứ vào tình hình thông tin khó khăn giữa các nơi (đó là không kể nạn địa phương cát cứ nửa thế kỉ sau vẫn còn tồn tại), tôi tin rằng ông Giàu đã nói thực về ông Tạ Thu Thâu. Chính trong lúc trả lời về ông Thâu mà ông Trần Văn Giàu đã kể cho tôi nghe câu chuyện cái cà rá vàng của bà chị ông Thâu, nhờ đó năm 1931 ông đã trửo lại nước Pháp, tránh được sự lùng bắt của mật thám thực dân. Tôi có thêm lí do để tin lời ông, vì Trần Văn Giàu đã giữ im lặng về cái chết của ông Phan Văn Hùm. Đối với tôi, lúc ấy và bây giờ, sự im lặng ấy mặc nhiên thừa nhận trách nhiệm của mình. Ở mức độ nào, trong hoàn cảnh nào, mong rằng trong hồi kí, ông sẽ nói rõ hơn. Tính theo tuổi ta, Trần Văn Giàu vừa tròn trăm tuổi -- cùng tuổi với đại tướng Võ Nguyên Giáp. Gặp ông lần cuối vào mùa hè năm 2008, tôi đã thấy ông yếu lắm, tuy vẫn tinh anh và sôi nổi trong lúc bàn luận. Cái chết của ông như đã được báo trước, nhưng vẫn đột ngột và tạo ra sự hụt hẫng, thiếu vắng. Ông là một nhân vật lịch sử, đồng thời là nhà sử học uyên bác trong hiểu biết, sắc sảo trong nhận định, trong sáng và dí dỏm trong văn phong. Chiều nay, được tin ông ra đi, xin viết vội mấy dòng tiểu sử, thêm vào đó một vài thông tin được ông cung cấp trong những lần được gặp ông ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Paris. Xin hẹn, một lần sau, vài kỉ niệm với người đã khuất. Nguyễn Ngọc Giao Nguồn: Diễn đàn.org
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 7:06:30 GMT 9
NGUYỄN TRỌNG VĨNH KỂ CHUYỆN LÀM ĐẠI SỨ Ở TRUNG QUỐC Phần Một Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại sứ tại Bắc Kinh.Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi. Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó. Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự. Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?). Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họ, mà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 7:09:56 GMT 9
...Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng - thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!
Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.
Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 7:44:00 GMT 9
Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch - Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình còn lại khá nhiều.
Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần trên).
Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được! Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt Côn Minh - Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng - Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành Đô - Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi, nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô, họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong. Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ. Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói: “Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô - Côn Minh mà Trung Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới Việt Nam qua Côn Minh.
|
|