|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:21:32 GMT 9
Lê Duẩn và "Làm chủ tập thể"... - Cuộc trò chuyện với ông Lê Kiên Thành về quan điểm "làm chủ tập thể" của cố TBT Lê Duẩn. Kỷ niệm 20 năm ngày mất của ba mình ông Thành nói: Tôi luôn nhớ lời cha tôi thường nói với đồng chí của Người và các con: "Là người cộng sản, mỗi ngày hãy tự kết nạp lại mình vào Đảng".1. Trò chuyện với con trai cố TBT Lê Duẩn 2. Ông có hiểu cha mình không? 3. Cố TBT Lê Duẩn và đêm trước đổi mới Cố TBT Lê Duẩn và các con trai năm 1983. Anh Lê Kiên Thành đứng thứ 2 từ phải sang. Ảnh tư liệu gia đình. Anh có muốn tránh xa khỏi con đường chính trị không? Không, làm sao tránh được. Trong gia đình tôi, bất kể làm gì thì khi gặp nhau thì chỉ nói chuyện chính trị thôi, như lẽ sống vậy. Lần đầu tiên nhận được thư của ba tôi, trong đó có một câu khiến tôi nhớ mãi: Ba cũng rất muốn sau này con đi theo con đường của ba... Thế rồi, vì sao anh và những người trong gia đình không ai đi theo con đường chính trị của cha? Tôi không biết rõ lắm nhưng hình như sau đó, cha tôi lại muốn con cái nên tránh xa "vùng ảnh hưởng" của mình ra. Hoặc là nhiều người không tạo điều kiện để con cái lãnh đạo có thể tiếp cận với con đường chính trị. Tôi nhớ anh cả mình từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, khi quân đội bắt đầu phong quân hàm thì anh ấy đã là đại úy. Thời điểm đó họ lại chọn một số con cái cán bộ có trí thức đi học một số ngành đặc biệt và họ chọn anh ấy học ngành kỹ thuật hàng không. Trong quân đội, nếu đi theo các ngành kỹ thuật thì khó thăng tiến nhất. Cá nhân tôi cũng ở không quân, kỹ sư hàng không - thiên về kỹ thuật nên sau này đi làm cũng không gần với chính trị được. Với tôi, cái danh lớn nhất là "con trai ông Duẩn" Với tất cả những phát ngôn trên báo chí như thế này, anh có bị những bạn bè, đồng chí cũ của cha mình nhắc nhở gì không? Thực ra bạn bè, đồng chí của cha tôi cũng không còn bao nhiêu. Trước đó, tôi cũng từng tâm sự với các cụ nhiều lần về những ý kiến tâm huyết của mình với đất nước. Có người nói rằng, sau một thời gian làm doanh nhân, có của ăn, của để, anh bắt đầu quan tâm đến việc lập danh. Đã có bao giờ anh "nhắm" đến một vị trí nào đó trong hệ thống không? Cũng đã có người băn khoăn về việc lẽ ra tôi có thể có một chỗ đứng nào đấy. Tôi nói: Cháu nói thật với chú, đối với cháu không có cái danh nào cao hơn cháu là con của ba cháu. Cháu mà làm đến thứ trưởng, bộ trưởng chẳng hạn thì đến khi cháu chết đi, người ta cũng chỉ nói là "con ông Duẩn" thôi chứ không nhắc đến tên cháu đâu. Vừa rồi, trong chuyến sang Hàn Quốc theo lời mời của một ĐBQH nước đó, tôi lại thêm một lần nữa chứng thực chuyện này. Người ta đã rất trọng thị tôi vì là "con trai ông Lê Duẩn". Tôi hiểu, cái danh mà cha tôi để lại là quá lớn, và tôi cũng không định và không thể thoát ra khỏi cái bóng đó. Tất nhiên, ngay tại thời điểm này, ngẫm lại, tôi vẫn khao khát làm điều gì đó cho đất nước, dù có thể chỉ là việc nhỏ nhoi. Và việc mà tôi đang làm đây, đối diện với những câu chất vấn của bạn - cũng là một việc có ích cho đất nước. Cha tôi không chỉ là người sinh thành ra chúng tôi mà lớn hơn hết - ông là một nhân vật có ảnh hưởng tới chính trường Việt Nam trong một thời gian dài. Những gì mà hôm qua cha tôi từng tâm đắc như "xây dựng cấp huyện" và "tinh thần làm chủ tập thể" mà hôm nay không ai nhắc lại, đối với chúng tôi, đó là niềm tự hào bởi vì lịch sử mãi mãi sẽ nói rằng đó là ý kiến riêng của cha tôi. Nhưng mặt khác, tôi không muốn những tư tưởng của ông bị lớp trẻ hôm nay nhìn lại một cách không công bằng. "…Cổ phần hóa là làm chủ tập thể" Vâng, "Làm chủ tập thể" - một cụm từ quen thuộc một thời sau này đã bị nhiều người cho rằng nó đã thủ tiêu tinh thần trách nhiệm cá nhân của mỗi người trước tập thể. Nói tóm lại, không ít người nói rằng Tổng bí thư Lê Duẩn đã duy ý chí khi kêu gọi tinh thần "Làm chủ tập thể"? Lòng yêu nước là gì? Lòng yêu nước không duy ý chí à? Tại sao một người ở Lạng Sơn có thể thanh thản hi sinh ở tận Cà Mau, Củ Chi. Họ đâu có chờ đợi để được chia cho họ một mảnh đất ở trong đó. Họ hiểu rằng cả đất nước này là của chung và khi có giặc là phải chết, chết chung với nhau, sống chung với nhau. Bản chất của lòng yêu nước đã là làm chủ tập thể rồi. Và khái niệm làm chủ tập thể có thể áp dụng trên mọi phương diện chứ không chỉ trên lòng yêu nước. Trong một quan hệ về mặt tư liệu sản xuất, về quản lý văn hóa… có khái niệm làm chủ tập thể. Nhiều người cứ nói rằng chuyện đó như là cái gì ảo tưởng, cái gì đó hơi duy ý chí. Không, tôi hiểu rằng cha tôi đã nhìn thấy đó là phương cách để chúng ta thực hiện một xã hội dân chủ kiểu mới. Khi là một doanh nhân rồi, anh có nói với những công nhân mình về tinh thần "làm chủ tập thể" và anh hi vọng quản lý tốt doanh nghiệp của mình chỉ với việc kêu gọi tinh thần làm chủ tập thể không? Không phải là kêu gọi mà là phải tạo ra thể chế để mọi người có cơ hội làm chủ tập thể. Cổ phần hóa thực chất là đang làm chủ tập thể. Bình thường không thể giáo dục người công nhân được rằng anh là chủ cái nhà máy đó nhưng khi chia cổ phần thì từng người công nhân hiểu rằng họ sẽ cùng những người khác làm chủ nhà máy đó. Có nhiều người Nhật khi gặp cha tôi đã nói với ông là "trong tất cả luận thuyết XHCN chúng tôi phục nhất cái ý kiến của đồng chí là làm chủ tập thể". Tôi còn nhớ một ông tỷ phú người Nhật nói một trong bí quyết làm giàu của mình là nhờ đọc Mác và khắc phục toàn bộ những điểm yếu của chủ nghĩa tư bản mà Mác chỉ ra. Họ nói ở nước Nhật bây giờ không có khái niệm đình công nữa vì công nhân đã tìm thấy lợi ích của mình trong những công ty, nhà máy được cổ phần hóa.. Khái niệm làm chủ tập thể thông qua việc bán cổ phần, cổ phiếu đã được họ thực hiện từ rất lâu rồi. Khi ở giai đoạn đất nước rất sơ khai, chúng ta đã tìm ra được khái niệm "làm chủ tập thể" để khắc phục việc xung đột lợi ích. Có một số người nói với tôi rằng: Anh đã thần tượng cha mình như thần thánh. Với lại, con không thể nói khác đi về những gì cha mình đã làm. Có lúc nào anh có ý nghĩ rằng mình luôn nhìn cha bằng đôi mắt của con trẻ kể cả khi đã lớn, nhất là đối với chuyện "làm chủ tập thể" này? Không! Có rất nhiều điều cha tôi nói nhưng đến khi ông qua đời, và tôi đã trải qua nhiều năm tháng sống, tôi mới thấu hiểu và chia sẻ được. Ví dụ, cha tôi có nói một câu nói mà hồi còn nhỏ tôi giật mình vì khác với những điều mình học: "Ba không thích dùng chữ chuyên chính vô sản vì chuyên chính vô sản bản chất chỉ là thay áp bức này bằng áp bức khác. Làm chủ tập thể là không phân biệt giai cấp, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt gì cả. Đó là một khái niệm văn minh". Và ông nói chuyên chính vô sản là công cụ trong một giai đoạn thôi, chưa bao giờ là mục đích của cách mạng, còn làm chủ tập thể vừa là công cụ, vừa là mục đích. Anh dùng nó để vận động xã hội thì đó là công cụ, đến khi anh hướng về nó, hoàn thiện nó thì đó là mục đích. Nhưng, ở thời điểm đó, khi đã học quá nhiều thuyết lý, nghe vậy, tôi đã hoang mang. Đến bây giờ, khi đã có dịp kiểm nghiệm, tôi rất tự hào là mình có người cha đã nhìn ra điều đó. Hạnh phúc ư - có lẽ cha tôi là người khác thường Lê Duẩn và gia đình (hàng sau từ trái sang: con trai Lê Kiên Thành, con gái Lê Tuyết Hồng, con dâu Tú Khanh và cháu nội (bên phải) cháu ngoại (bên trái). Ảnh tư liệuSống bên cạnh một người cha mà "mỗi ngày, mở mắt ra đã nhìn thấy đất nước, nhắm mắt lại cũng nhìn thấy đất nước", anh có cảm thấy cô đơn không? Cô đơn. Vâng! Vâng, tôi từng đối diện với cảm giác đó khi còn rất nhỏ. Khi còn ở bộ đội, trong một bức thư gửi cho ba, tôi đã viết: "Có lẽ con là người ít cảm nhận được tình cảm gia đình nhất…" Mẹ trở lại miền Nam năm 1964 khi tôi mới 9 tuổi. Ba thì luôn luôn nghĩ về việc lớn, thỉnh thoảng lại giật mình, hỏi: "Con học lớp mấy rồi". Ba tôi có đặc điểm là coi con như bạn, như đồng chí, không có xoa đầu... ngay từ khi con còn nhỏ cũng chỉ nói chuyện chính trị với con thôi. Tôi nhớ là không bao giờ ông đùa với trẻ con trong nhà. Sự quan tâm hỏi han của ông cũng chỉ là: Trong lớp con có bạn nào nghèo không?... Có khi nào anh đặt câu hỏi: với vị trí của mình, tại sao cha anh lại đành để mẹ anh phải vào Nam chiến đấu, trong khi ba con nhỏ dại? Lớn hơn tất cả là niềm tự hào vô cùng của chúng tôi đối với người cha với tất cả những gì ông đã làm cho đất nước này. Và sự thấu hiểu, thông cảm sâu sắc về đời sống riêng tư của gia đình. Số phận của gia đình tôi nằm trong số phận của đất nước trong thời kỳ đó. Nếu không phải là con của hai người cộng sản chân chính, có lẽ tôi đã không thể có niềm tin tuyệt đối như thế khi mà hàng ngày, trong công việc của mình là một doanh nhân, tôi đã phải đối diện với bao nhiêu chuyện chướng tai gai mắt… Khi đọc xong bài viết trên Tiền phong về "Người vợ miền Nam của cố Tổng bí thư Lê Duẩn", tôi thấy cha anh có cuộc đời riêng đầy trắc ẩn…Có phải vậy không? Cũng như những người cộng sản chân chính khác, cha tôi coi hạnh phúc của mình hòa trong hạnh phúc chung của dân tộc. Còn nếu khi xảy ra sự không đồng thuận nào đó thì một lãnh tụ như cha tôi phải đặt quyền lợi đất nước lên trên hết. Hơn nữa, cha tôi là một người đặc biệt. Có thể, ông hiểu được nhu cầu hạnh phúc của nhân dân và cả đời nỗ lực vì điều đó nhưng cá nhân ông cũng không cắt nghĩa nổi thế nào là hạnh phúc. Ông loay hoay với nó và nhiều khi ông cứ hỏi chúng tôi là: "Khi ba đang ở tù, bị đánh đập nhưng ba nghĩ đang tham gia vào một việc lớn của đất nước, ba thấy hạnh phúc tràn ngập, không thấy tù đày là tù đày nữa. Thế nhưng khi ở cương vị Tổng Bí thư, ngồi trên xe hơi, thấy ông già kéo xe đi qua, ba thấy vô cùng đau khổ". Cho nên hạnh phúc là gì, đau khổ là gì khó mà cắt nghĩa nổi một cách rạch ròi. Hạnh phúc có phải là vật chất người ta đang có, có phải là quyền lực người ta muốn có? Có phải tất cả những điều đó mang đến cho người ta hạnh phúc không? Hạnh phúc thật sự của mỗi con người là khi người ta dung hòa được giữa mong muốn cá nhân và hiện thực xã hội… Anh có "nối" định nghĩa về hạnh phúc của cha mình với cuộc sống hôm nay không? Tôi muốn nói về hạnh phúc của cả dân tộc. Mỗi dân tộc phải tìm con đường hạnh phúc riêng của mình. Không thể có mô hình hạnh phúc chung cho số đông. Nếu bây giờ chúng ta quay lại CNTB có nghĩa là chấp nhận mãi mãi đi sau thế giới còn nếu tìm được một con đường riêng thì có thể đến được một cái đích hạnh phúc theo cách của mình. Có thể lúc đó, có thể nói rằng chúng ta chỉ có 1000 đô la/ đầu người thôi nhưng mà cuộc sống của người VN tràn ngập hạnh phúc. Có thể anh lại duy ý chí khi "khuyên" mọi người chấp nhận cuộc sống tạm đủ? Ông cha ta từng nói: "Đuôi tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon". Nhìn ở một góc độ nào đó, ông cha ta đã ca ngợi cách tổ chức tổ chức cuộc sống tốt trong điều kiện có thể . Tôi hiểu rằng chỉ có thể cảm nhận được cốt lõi của hai chữ hạnh phúc nếu cân bằng được nhu cầu vật chất với giá trị tinh thần và hướng đến những giá trị thực của cuộc sống. Ví dụ ngay trong gia đình, trước đây chỉ có 2 chiếc xe đạp nhưng hai vợ chồng cảm thấy hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn. Còn có thể khi đã cố gắng để có xe máy, rồi xe hơi nhưng con bị nghiện, vợ chồng hục hặc. Như vậy người khi chỉ có 2 chiếc xe đạp kia không phải tự huyễn hoặc mà họ có hạnh phúc thật sự. Nếu người ta cố quá sức mình, cố bằng bất cứ gía nào cho bằng người khác, thì cũng là đồng nghĩa với bất hạnh. Hai mươi năm ngày mất của cố Tổng bí thư Lê Duẩn, anh nhớ điều gì nhất ở cha mình? Cha tôi là một người cộng sản. 20 năm đã qua, cuộc sống có nhiều điều tốt đẹp hơn nhưng cũng có quá nhiều giá trị "cộng sản" bị phai nhòa. Nhưng tôi luôn tin ở chân lý và lý tưởng mà hàng triệu người như cha tôi đã vì nó mà sống và chết. Để vượt qua những khó khăn, cám dỗ trong cuộc sống hiện tại, tôi luôn nhớ lời cha tôi thường nói với đồng chí của Người và các con: "Là người cộng sản, mỗi ngày hãy tự kết nạp lại mình vào Đảng". Lương Bích Ngọc
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:24:40 GMT 9
Cố TBT Lê Duẩn và “Đêm trước đổi mới” … – “Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới” - trao đổi đầu tiên của GS, nguyên Phó Thủ tướng Trần Phương về cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. Kỷ niệm về anh Ba Duẩn … Có lẽ đây là lần đầu tiên, nguyên Phó Thủ tướng, giáo sư kinh tế Trần Phương bộc bạch tâm sự về cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, người mà ông có nhiều năm gần gũi và rất mực khâm phục, kính trọng. Giữa những người có tư duy đổi mới kinh tế từ rất sớm thì ông là một trong số ít người có đủ bản lĩnh, thẳng thắn và hiểu biết để trao đổi, tranh luận về những vấn đề kinh tế nổi cộm của đất nước lúc đó. GS Trần Phương cũng là người mà chúng tôi tìm đến gần đây nhất trong lộ trình tìm hiểu về những “Điều chưa biết rõ” về “anh Ba Duẩn”. Cố TBT Lê Duẩn thăm NM Dệt 8/3, HN, 7/1971. (Ảnh tư liệu) “ Hãy đọc bài viết này” … Con đường dẫn Trần Phương đến gần Lê Duẩn lại bắt đầu từ bản tính “nói thẳng điều mình nghĩ” dù đó là điều đi ngược lại với suy nghĩ của đám đông. Ông kể… Năm 1965, Liên Xô gửi sang một báo cáo về đổi mới kinh tế do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của họ chấp bút để Bộ chính trị ta tham khảo. Tôi nghe nói trong một cuộc thảo luận ở TƯ, đã có nhiều người nghi ngờ báo cáo này thể hiện tư tưởng xét lại. Lý do chính yếu khiến người ta phản bác là vì: Bản báo cáo này đề cao tính phân quyền, giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp (trong lúc đó tư tưởng của Việt Nam lúc đó vẫn đề cao tính kế hoạch hoá tập trung); thứ hai là thúc đẩy quyền lợi vật chất cho người lao động (trong lúc mô hình kinh tế của chúng ta không kích thích tính tư lợi…). Trước những ý kiến phản đối gay gắt , anh Ba chỉ im lặng. Sau đó, anh triệu tập cuộc trao đổi về báo cáo này tại 60 Nguyễn Cảnh Chân với sự tham gia của một số trí thức cao cấp. Cũng chỉ có một số rất ít người ủng hộ một cách rụt rè tinh thần của bản báo cáo đổi mới kinh tế; còn đa số thì phản đối. Họ khẳng định: “Phải củng cố quan điểm trung ương tập quyền, với người lao động chỉ có thể kích thích bằng tư tưởng, vẫn nên xoá bỏ tư lợi… “Tưởng nhớ đồng chí Lê Duẩn, chúng ta tưởng nhớ đến một nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc, một tư duy sáng tạo lớn của Cách mạng Việt Nam” - Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Lúc đó, tôi đứng lên nói rõ quan điểm của mình: Liên Xô đến lúc này không thích hợp với mô hình quản lý tập trung nữa. Một đất nước có đến 4 vạn xí nghiệp lớn, 4 vạn công trường xây dựng thì không thể quản lý theo kiểu kế hoạch hoá nữa. Và ý kiến của anh Ba ngay sau đó đã khiến tôi giật mình: “ Khuynh hướng của Trần Phương là hợp thời”. Từ đó anh Ba chọn tôi làm người giúp việc và thường xuyên trao đổi những ý tưởng quan trọng về kinh tế. Vào năm 1966, tôi có triển khai một bài viết theo ý tưởng mà tôi đã nói trong hội nghị năm 1965, bàn về các bước đi trong công nghiệp hoá đăng trên tạp chí nghiên cứu kinh tế. Sau đó, anh Ba đã nói với 200 người toàn là Uỷ viên TƯ Đảng tại một hội nghị: “Hãy đọc bài viết này đi!”. Điều rõ nhất mà tôi nhìn thấy ở anh Ba Duẩn trong vai trò một Tổng bí thư của thời bình là luôn trân trọng cái mới, luôn đòi hỏi sự sáng tạo. “Nếu ta kiếm được nguồn vốn nước ngoài thì sao?” Hồi những năm 70, có một lần bỗng dưng anh Ba tôi gọi đến hỏi: Năm, bảy năm nữa, ta giải phóng xong, vốn ở đâu để công nghiệp hoá? Tôi trả lời: Lấy nội lực từ nền nông nghiệp, tập trung thúc đẩy cho nông nghiệp có năng suất cao lên. “Lịch sử mãi mãi khẳng định công lao to lớn và những cống hiến của anh” – Đỗ Mười, nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam. Bây giờ nghe thì chẳng có gì mới mẻ cả nhưng ở thời điểm đó nếu nói lấy nông nghiệp làm then chốt là đi ngược lại với xu hướng dùng công nghiệp nặng đẻ ra tư liệu sản xuất và làm nền tảng cho cả nền kinh tế. Đó mô hình kinh tế của Liên Xô lúc đó mà ta hoàn toàn “áp” theo mặc dù sau này ai cũng biết là không hợp lý vì mỗi nước có một đặc thù riêng… Tôi đang đợi sự phản bác thì bất ngờ anh Ba lại hỏi tôi: “Nếu ta kiếm được nguồn vốn nước ngoài thì sao?”. Tôi ngớ người ra. “Thưa anh, tôi chưa nhìn thấy nguồn nào ở nước ngoài cả”…. Tôi không ngờ sau năm 1975, trong những chuyến đi làm việc với các nước XHCN, Bộ chính trị đã được người ta hứa cho vay 4 tỷ rúp. Điều mà 10 năm trước tôi không hề nghĩ tới. 4 tỷ rúp là một con số quá lớn so với giấc mơ của chúng ta sau chiến tranh. Với Lâm Ngọc Thiềm, sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (ĐHTHHN) 1972. (Ảnh tư liệu) Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần! Năm 1981, với vai trò Bộ trưởng nội thương, trong một cuộc họp, tôi đưa ra ý kiến đề nghị cải cách chuyển sang cơ chế quản lý thương mại theo cơ chế tự do. Rất nhiều ý kiến phản đối. Họ nói: Tiền đâu mà in đủ để trả lương, để mua lương thực thực phẩm? Làm sao cân đối đựoc ngân sách? Tôi nói: Phải tôn trọng quy luật cung cầu. Cuối cùng, anh Ba “tóm lại” là đồng ý với tôi về tư tưởng. Nhưng anh nói: Tôn trọng quy luật cung cầu nhưng căn cứ vào thực tế thì chưa thể bỏ hết kế hoạch hoá mà phải có lộ trình. Cụ thể là từ việc Nhà nước khống chế 42 mặt hàng thì giảm xuống còn 8. Tiếp theo đó, trong Hội nghị TƯ 6 (của Đại hội V), anh Ba đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan ra lệnh bãi bỏ ngăn sông cấm chợ; ban hành chỉ thị khoán 100 cuả Ban bí thư, chỉ thị ba kế hoạch trong công nghiệp (phía trên áp giá, giao đầu ra, giao chí phí sản xuất. Nhưng vượt chỉ tiêu thì công ty và công nhân được hưởng, được bán ra ngoài). Những bước cởi trói đầu tiên này đã tạo tiền đề cho đổi mới, và đem tới luồng sinh khí mới cho trung tâm kinh tế của cả nước là TP. HCM. Năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ chính trị: “Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI ĐỔI MỚI. Những con chữ phải đổi bằng bao nhiêu trăn trở, vật vã của anh Ba. Chính anh là người soạn thảo đề cương cho những văn bản nghị quyết của ĐH VI. Tôi có đọc trong một tài liệu nói rằng: Chính cố TBT Lê Duẩn là người ủng hộ những nhân tố đổi mới nhưng ông đã không thể bảo vệ được một cách kiên quyết và Kim Ngọc là một ví dụ?Tôi hỏi ông Phương. Tôi nhớ một lần, sáng ra, anh Ba “quẳng” xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: “Đọc đi!”. Trông nét mặt anh bộc lộ một cảm xúc khó tả, nhưng rõ ràng nhất là không thể nào chấp nhận được những gì người ta đã viết trong đó… Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài viết dài phê phán ông Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ. Tôi từng hỏi anh: “Tại sao anh không thẳng thắn, công khai phản bác lại những quan điểm bảo thủ…”.Anh nói: “Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng…” Rất nhiều thư bạn đọc nói rằng thời kỳ cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam là sai lầm của cố tổng bí thư Lê Duẩn. Quan điểm của ông thế nào? Tôi nghĩ những người thực hiện đã chưa hiểu được tư tưởng chỉ đạo của anh Ba lúc đó là muốn sắp xếp lại thị trường, để chống độc quyền... Tôi vừa đọc bài viết của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt về anh Ba. Về ứng xử của anh Ba trong giai đoạn mà ta gọi là “Đêm trước đổi mới”, tôi cho là nhận định của anh Kiệt là rất vừa phải và công bằng. “…Phải lo đủ cho người dân mỗi năm một bộ quần áo mới” Nhắc tới cố Tổng bí thư Lê Duẩn, chúng tôi và nguyên phó thủ tướng Trần Phương đều nhắc những năm tháng khốn khó của thời “Đêm trước đổi mới”. Đúc kết của ông về “anh Ba Duẩn” là những lời gan ruột: “Những năm tháng cuối đời, anh Ba luôn bứt rứt vì cuộc sống của người dân, cố chòi đạp mà không thể nào thoát ra nổi vòng kim cô của một mô hình kinh tế đã lỗi thời. Đó sự ấn định của thời cuộc mà không một cá nhân nào tài giỏi đến đâu có thể thoát ra nổi”. Ông kể… Năm 1979, tôi là phó chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Lúc đó Trung Quốc không bán bông cho chúng ta nữa, Liên Xô thì không có để bán. Tôi đến báo cáo với anh Ba: “ Chúng ta chỉ đủ cho người dân hai năm một bộ quần áo…”. .“…Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi đã được nghe anh Ba phát biểu về một số vấn đề kinh tế rất gần so với những chính sách trong Đổi Mới. Anh nói tới sự cần thiết phải duy trì nhiều thành phần kinh tế ở miền Nam, không thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp như miền Bắc, coi trọng vai trò của trung nông. Trong thời kỳ cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, tôi cũng không thấy anh thúc giục mà rất quan tâm đến đời sống của những người làm ăn buôn bán nhỏ…” “…Phải chăng điều đáng tiếc là khi đó không có cơ quan hay nhà khoa học, chuyên gia kinh tế tổ chức nghiên cứu đào sâu những ý kiến của anh Ba” “… Tuy nhiên, tôi tự nhủ rằng: Đặt vào thời điểm lúc bấy giờ thì cũng khó đòi hỏi gì ở anh Ba hay nhiều đồng chí chủ chốt khác”. (Võ Văn Kiệt, nguyên thủ tướng Chính phủ) Anh đỏ bừng mặt và quăng cây bút chì vào mặt tôi - một việc mà ông chưa từng làm - : “Chúng ta nắm quyền cai trị mà không nổi cho dân một bộ quần áo là không thể được. Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo”. Sáu tháng sau, tôi lại nói: “Tôi không lo nổi anh ạ”. Anh ngồi im. Đó là thời kỳ mỗi người dân Việt Nam hưởng tiêu chuẩn hai năm một bộ quần áo… (Đó là những năm tháng mà trong cuốn nhật ký của bà Lê Thuỵ Nga ghi rằng: “…..Anh nghĩ nhiều, viết nhiều, hình như trong anh đang có điều gì nung nấu ghê lắm…”). Tôi vẫn nhớ từ những năm 60, trong nhiều cuộc họp ở Đồ Sơn, rất nhiều lần ông nổi nóng với Chính phủ: “Chúng ta điều hành mà không lo nổi cho dân rau muống ăn, nước lã…”. Cả cuộc đời, nhất là những năm tháng cuối, anh Ba đã lo nghĩ quá nhiều về miếng cơm manh áo cho người dân… Nhưng tại sao, ở vị trí đứng đầu đất nước thời điểm đó, nếu là một người thực sự tài giỏi, ông sẽ có được những quyết sách để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế một cách nhanh chóng mà phải đợi đến năm 1985? Ông Trần Phương trầm ngâm. Thế hệ của anh Ba - những nhà cách mạng Việt Nam- khi bắt đầu trưởng thành đã được chứng kiến câu chuyện Liên xô chiến thắng chủ nghĩa phát xít một cách oai hùng như thế nào. Một đất nước nghèo khổ như Liên xô sau chiến tranh đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, làm thay đổi hẳn đất nước, đem đến cho người dân phác hoạ tốt đẹp về mô hình XHCN đã trở thành thần tượng duy nhất cho nhiều nhà cách mạng vô sản lúc đó. Theo tôi, Lê Duẩn cũng không thể là một ngoại lệ. Trong bối cảnh chính trị lúc đó, nhiều nhà cộng sản xuất sắc của thế giới cũng đã không thoát ra khỏi sự áp đặt của mô hình kinh tế của Liên Xô. Lê cũng chỉ có thể sửa đổi những điều nhỏ của một tư duy lỗi thời về mặt kinh tế mà không thể nào đưa đất nước đi ra khỏi những vạch chỉ sẵn của lịch sử và thời thế. Cuộc trao đổi về cố tổng bí thư Lê Duẩn của nguyên phó thủ tướng Trần Phương kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Có những điều ông nói chỉ để làm tâm sự chứ không phù hợp với tư liệu của một bài báo. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Tổng bí thư Lê Duẩn, ông có thể chia sẻ với chúng tôi những lời gan ruột nhất của ông về nhân vật này? Đó là một con người có đầu óc luôn sáng tạo và một trái tim nhân hậu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ nếu không có Lê Duẩn không biết có thắng lợi như thế này không? Có kết thúc như thế này không? Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh: Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho Dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không… Lương Thị Bích Ngọc Một chủ đề thường được đề cập đến nhiều lần trong cuốn sổ ghi chép của cố TBT Lê Duẩn là hạnh phúc. Có trang, ông viết chữ Hạnh phúc thật to khoanh trong xong chấm hỏi, rồi hình vuông hình tròn. Con trai ông, ông Lê Kiên Thành nhớ lại "mình hiểu rằng trong thời điểm đó ông đang suy nghĩ rất ghê gớm về khái niệm hạnh phúc. Ông là người ở vị trí mang hạnh phúc cho nhân dân, mà ông không cắt nghĩa nổi thế nào là hạnh phúc. Tại sao khi ông ở trong tù, bị đánh đập tra tấn ông lại tràn trề hạnh phúc. Tại sao khi là TBT ngồi trên xe thấy người già kéo xe bò thì ông thấy đau khổ. Thế thì khái niệm đau khổ là gì, khái niệm hạnh phúc là gì? Nếu chúng ta cắt nghĩa ra được thì mang đến cho người hạnh phúc, hạnh phúc có phải là vật chất không? có phải là quyền lực không hay hạnh phúc là cái mà con người ta hướng đến ở góc độ khác. Ông có một điều muốn con cái hiểu là, muốn hiểu được một sự việc thì anh phải trừu tượng nó đến tận cùng rồi phải cụ thể nó đến tận cùng. Trong khái niệm hạnh phúc ông muốn trừu tượng hóa nó, muốn đưa nó về một khái niệm chân lý nào đó rồi lại đưa về khái niệm cụ thể, nên sau này ông cứ loay hoay mãi về bữa ăn, giấc ngủ của người dân. Trong bữa ăn đấy có cái gì, con cá ra làm sao, bìa đậu như thế nào? Một người ở vị trí như thế mà nghĩ đến phân chia bữa ăn như vậy thì là một người tỉ mỉ". Ở một trang khác, ông viết: "Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vị trí lịch sử và là địa dư của Việt Nam. Không thể khác được". Đó như lời tự nhắn nhủ với chính mình của nhà lãnh đạo hiểu rằng mình đang nắm giữ trọng trách phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Phải coi trọng cá nhân con người Phạm trù "làm chủ tập thể" cũng là chủ đề chiếm nhiều mối quan tâm của cố TBT Lê Duẩn. Thế nhưng, chính người đề xướng quan điểm "làm chủ tập thể" cũng lại là con người rất coi trọng vai trò của cá nhân. Khi khái quát về những tính chất của con người Việt Nam, ông có nhấn mạnh một phẩm chất: "thương mình, thương người, yêu nước và yêu quê hương". Trong một hoàn cảnh lịch sử khi cái cá nhân, cái riêng bị lu mờ, bị nén xuống để đề cao cái chung, người ta thường nhấn vào cái "thương người, yêu nước, yêu quê hương" chứ không mấy ai dám thừa nhận "thương mình". Nhưng nhà lãnh đạo Lê Duẩn đã đặt nhân tố "thương mình", cái cá nhân lên đầu tiên. Và còn nhiều những dòng viết khác cho thấy những suy tư lô gíc, biện chứng của ông. Giáo sư Tương Lai, trong một bài viết có kể rằng, trong những năm của nửa đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, lúc mà cuộc chiến đấu chống Mỹ đang đi vào thời kỳ đòi hỏi sự động viên tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình quyết liệt nhất, thì người nhấn mạnh phải coi trọng cá nhân con người chính là Lê Duẩn. Trong bài nói chuyện với sinh viên và thầy giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1962, ông nhắc nhở :”Đã là một người thì phải có cái riêng của con người, không thể có một con người siêu hình, không thể phá đơn vị con người. Không có cái riêng của con người nữa thì xã hội sẽ mất hết ý nghĩa, mất cơ sở” . Ngoài những dòng ghi chép rất mạch lạc nhưng cũng có dòng Tổng Bí thư Lê Duẩn như vẽ hình tròn, hình vuông. Ông Lê Kiên Thành kể:"Ông Nguyễn Văn Ích, trước đây từng là thứ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư, đã cùng với cha tôi đi dự những cuộc đàm phán rất quan trọng với cả Liên Xô, Trung Quốc thì chú có nói rằng: "Ông già mày lạ, ở bên kia người ta chuẩn bị giấy tờ người ta đọc, người ta nói, tao nhìn liếc sang thấy ông già cứ vẽ con hươu con voi. Sau khi người ta nói xong, ông nói lại cho đến khi hết giờ thì thôi, tất cả không nằm trên giấy tờ mà nó nằm trong đầu ông". Gia đình cố TBT Lê Duẩn dự định sẽ công bố những tư liệu này trong một cuốn sách sắp xuất bản. Như vậy, độc giả sẽ có cơ hội hiểu thêm về những góc riêng của một nhà lãnh đạo đã từng ghi dấu ấn đậm nét trong một giai đoạn lịch sử đặc thù của Việt Nam. T.L
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:28:32 GMT 9
Trường Chinh - Tổng Bí thư của đổi mới(VieNamNet) - Ba lần làm Tổng Bí thư Đảng, từng đứng ra nhận kỷ luật trước Đảng vì chỉ đạo cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh trong ký ức của nhiều người vẫn được coi là nhà lãnh đạo "hết sức cứng" như nhận xét của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nhưng chính ông lại là chủ biên của Đổi Mới, người đã "chú ý nghe từ nhiều phía, và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình". Nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh. Có thể nói, Trường Chinh đã để lại dấu ấn quan trọng trong sự trưởng thành của Đảng. TS xin giới thiệu bài viết của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong tài liệu kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố TBT Trường Chinh. Những kỷ niệm thuở ban đầu Thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, tôi hoạt động ở miền Nam. Khi đó, chúng tôi chỉ biết tên các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và thường hình dung diện mạo, phong thái qua cương vị công tác của từng đồng chí. Tới cuối năm 1950, ra chiến khu Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần II, tôi mới được gặp các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Tôi còn nhớ, ấn tượng đầu tiên của tôi là thấy đồng chí Trường Chinh và đồng chí Võ Nguyên Giáp có gương mặt hao hao giống nhau. Trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ khá thú vị: Trong số 3 người học trò yêu của Bác Hồ, ba trụ cột về Đảng, Chính phủ, Quân đội thì dường như đồng chí phụ trách công tác Đảng và đồng chí quân sự là một cặp. Hồi đó, anh em trong đoàn đại biểu Nam bộ chúng tôi thường hay “làm nũng” Bác Tôn và đôi khi cả Bác Hồ để vòi vĩnh bánh kẹo, thuốc lá. Riêng với đồng chí Trường Chinh, chúng tôi không dám vì thấy đồng chí luôn nghiêm nghị. Từ đồng chí toát ra cái gì đó vượt lên trên đời thường, người thường và mang phong thái của một lãnh tụ. Đứng trước đồng chí, tôi có cảm giác mình thật nhỏ bé và dường như những hiểu biết, suy nghĩ đều bị đọc ra cả. Sau Đại hội Đảng lần thứ II, tôi được học lớp “Hoa Nam” ở trường Nguyễn Ái Quốc III, khoá 6 tháng, trước khi đi đường bộ vào lại chiến trường Nam bộ. Một lần, trường tổ chức liên hoan văn nghệ, tôi tham gia tiết mục đóng kịch, vào vai một địa chủ. Khi biết có đồng chí Trường Chinh tới dự, coi biểu diễn, mặc dù được liệt vào loại “gan to”, nhưng tôi cũng thấy “ớn”. Trước khi bắt đầu, tôi phải xung phong làm một màn múa lân cho nóng người để lấy can đảm. Hết vở kịch, các đồng chí là khách mời đều khen, động viên. Đồng chí Trường Chinh bắt tay tôi: “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đây là địa chủ Nam bộ, chứ không giống địa chủ Bắc bộ”. Mãi tới lúc này, tôi vẫn thấm thía lời nhận xét vừa mang tính khích lệ, vừa mang tính nhắc nhở: Làm bất cứ việc gì cũng phải nghiên cứu, đào sâu suy nghĩ. Một điều đặc biệt là, dù tiếp xúc với đồng chí Trường Chinh ít so với các đồng chí lãnh đạo cao cấp khác, nhưng trong thời gian ở chiến khu Việt Bắc cũng như trong suốt kháng chiến chống Pháp, tôi thường nhớ tới đồng chí với tất cả sự kính trọng và lòng tin vững chắc. Hồi đó, sách vở hiếm lắm. Tôi có cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh và coi đó là cuốn sách gối đầu. Mỗi khi đọc tôi lại thấy hiện lên hình ảnh đồng chí Tổng Bí thư nghiêm trang, trí tuệ. Người Tổng Bí thư nhận kỷ luật trước Đảng Tôi được nghe kể về Vua Quang Trung và rất ấn tượng với hình ảnh “Sĩ phu Bắc Hà”. Tôi có cảm giác đồng chí Trường Chinh như một sự hoà quyện giữa tính cách của một sĩ phu với phẩm chất của người cách mạng. Từ phải sang trái: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Tổng Bí thư Trường Chinh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Việt Bắc Càng về sau này, tôi càng thấy cảm nhận đó của mình không sai và thấy ở được những đặc trưng đáng kính của một nhà Nho “tu thân, tề gia, trị quốc...”. Đồng chí Trường Chinh tự nghiêm khắc với mình từ cử chỉ, lời nói trong giao tiếp hàng ngày cũng như trên các diễn đàn, hội nghị. Chính sự nghiêm khắc ấy truyền cho mọi người không khí nghiêm trang, sự đòi hỏi trách nhiệm và tôn trọng người khác. Ngay trong các buổi họp Bộ Chính trị, tôi chú ý thấy các đồng chí lãnh đạo cao cấp khác có thể nói đùa với nhau nhưng khi nói với đồng chí Trường Chinh thì luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh. Tôi cho rằng sự nghiêm nghị, mực thước của đồng chí Trường Chinh đã góp phần giữ gìn kỷ cương trong Đảng. Điều này, rất cần thiết vì cũng có một số đồng chí lãnh đạo có thói quen xuề xoà, gia đình. Lúc ngoài Bắc làm cải cách ruộng đất, tôi chỉ được nghe tình hình do một số đồng chí có dịp ra công tác nói lại trong nội bộ. Hồi đó, đồng chí Lê Duẩn mới từ miền Bắc trở vào, nói với chúng tôi: Cải cách ruộng đất có gì đó không ổn. Ở nhiều vùng, trước đó cơ quan tỉnh, huyện đóng tại nhà dân. Tới cải cách, vẫn những đồng chí đó không ai dám nhận người đã cho mình chung sống dưới một mái nhà như người trong gia đình. Thậm chí các cháu nhỏ hết sức vô tư, theo thói quen chạy lại vồ vập chào hỏi thì quay mặt đi, coi như không quen biết. Chua xót quá! Việc đồng chí Tổng Bí thư đứng ra nhận khuyết điểm, nhận kỷ luật trước Đảng về chỉ đạo cải cách ruộng đất giúp tôi nhận thức sâu sắc thêm về nguyên tắc Đảng. Là người Đảng viên, dù ở cương vị nào cũng luôn nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật Đảng. Sau này khi ra Trung ương công tác, có dịp được trực tiếp chứng kiến sự cộng tác trên tinh thần đồng chí, rất mực tôn trọng nhau giữa đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Trường Chinh, tôi càng kính trọng đồng chí và tự nhủ: đồng chí thực sự là tấm gương mẫu mực về tính nguyên tắc và nghị lực cộng sản. Hết sức “cứng”, nhưng có công lớn trong việc khởi xướng Đổi Mới Sau giải phóng, tôi làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Khó khăn chồng chất, vướng mắc đủ bề, chúng tôi ngược xuôi mò mẫm đủ cách để tháo gỡ khó khăn. Đồng chí Phạm Văn Đồng hay gọi đùa tôi là “Chủ tịch gạo, chủ tịch heo”. Có đồng chí gán cho tôi cái tên “Tướng vượt rào”. Mỗi năm vài lần tôi ra Hà Nội báo cáo công việc. Trong những cuộc hội nghị như vậy, không ít đồng chí không đồng tình với những giải pháp do Thành phố đề xuất. Đồng chí Trường Chinh thường lắng nghe rất chăm chú. Những câu hỏi, ánh mắt của đồng chí mách bảo tôi rằng, đồng chí ý thức được có nhiều vấn đề mới mà thực tiễn đang đặt ra, dù có điều trái ngược với những gì vẫn được coi là đúng và chính thống từ trước tới nay. Đối với chủ trương cải cách công thương nghiệp miền Nam, đồng chí Trường Chinh cũng không bộc lộ thái độ quyết liệt như một số đồng chí khác. Thái độ của đồng chí Trường Chinh khi đó động viên, khích lệ tôi rất nhiều vì tôi hiểu rằng đồng chí vốn là cây “lý luận” và là người hết sức chặt chẽ, nghiêm khắc (ngay với vấn đề khoán nông nghiệp, dù đã quyết như đa số, đồng chí vẫn bảo lưu ý kiến không đồng tình của mình). Lần nào vào Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí cũng hỏi thăm, tìm hiểu những cơ sở đi đầu trong tháo gỡ khó khăn. Một kỳ hè, đồng chí tới Đà Lạt và cho tìm lãnh đạo các điển hình dệt, bột giặt, thuốc lá… của thành phố đến trình bày kỹ tình hình. Khi đó, tôi cảm nhận là đồng chí đã bắt trúng mạch, bước đầu dò ra con bệnh và đang suy ngẫm tìm thuốc trị. Cũng từ đó, dù đồng chí vẫn luôn nguyên tắc, nghiêm khắc như vậy, nhưng dường như tôi thấy đồng chí gần gũi hơn. Năm 1982, tôi ra Hà Nội phụ trách Uỷ ban Kế hoạch nhà nước. Những lần Bộ Chính trị họp bàn về kinh tế, đồng chí Trường Chinh thường khuyến khích tôi phát biểu, và tôi thấy càng về sau, đồng chí càng quan tâm tới những ý kiến khác nhau. Đồng chí Lê Duẩn qua đời, đồng chí Trường Chinh được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư và bắt tay chuẩn bị Đại hội VI. Phải nói rằng, vào thời điểm đó, chỉ có đồng chí Trường Chinh với hiểu biết sâu sắc về lý luận và hình ảnh một đồng chí hết sức nguyên tắc, có phần cứng theo kiểu chính thống mới có thể chỉ đạo thành công Đại hội VI - Đại hội của Đổi Mới. Điều tôi thấy hết sức thú vị là “tác giả” - nói chính xác hơn là chủ biên của Đổi Mới lại là một người được coi là hết sức “cứng” như đồng chí Trường Chinh. Tôi hiểu rằng, đồng chí đã chú ý nghe từ nhiều phía, và đặc biệt là đã coi trọng ý kiến của những cán bộ có tư duy, dám nói thật, nói rõ quan điểm của mình. Đồng chí là người rất kiên trì đấu tranh với mọi ý tưởng, mọi sự việc và theo đồng chí là không đúng và cũng rất quyết đoán đối với những điều mà đồng chí cho là đúng đắn, đủ cơ sở. Đóng góp lớn cho việc gìn giữ kỷ cương trong Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh. Tôi cũng có điều kiện tham gia ở mức nhất định vào quá trình chuẩn bị văn kiện Đại hội VI. Đồng chí Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, và đích thân sửa chữa từng câu, chữ trong dự thảo văn kiện. Qua thực tiễn công việc sau này, tôi càng thấy chi tiết có vẻ mang tính kỹ thuật đó rất quan trọng, cần thiết. Đối với những tài liệu liên quan tới các chủ trương lớn, nếu người lãnh đạo không trực tiếp cho định hướng rõ ràng mà “giao khoán” cho anh em biên tập, thì sau này dù có sửa đi, sửa lại cũng khó đạt đúng tầm cần thiết, mong muốn. Cuối giai đoạn chuẩn bị, cần dành thời gian xem xét tỉ mỉ tới từng câu chữ để bảo đảm mọi ý tứ đều được thể hiện. Trong số các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, đồng chí Trường Chinh nổi tiếng là người rất kỹ tính trong việc sử dụng câu chữ. Tôi có một kỷ niệm khó quên, quãng đầu năm 1976, trong một buổi họp với lãnh đạo Thành phố, đồng chí Trường Chinh nói riêng với tôi cần lưu ý tới một nhân vật đang sống ở Thành phố. Tôi giở sổ ghi tên nhân vật này. Do thói quen, tôi ghi nhân vật này thành “Nguyển” thay vì “Nguyễn”. Ngồi cạnh tôi, đồng chí Trường Chinh nói qua và bảo: "Đồng chí viết lộn rồi, dẫu ngã chứ không phải dấu hỏi". Không chỉ riêng tôi, nhiều đồng chí lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh cũng ớn sự chặt chẽ, nguyên tắc của đồng chí Trường Chinh. Ngay sau ngày giải phóng miền Nam, trên thực tế, kể cả trong bài hát, tác phẩm văn thơ, mọi người đã gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Nhân dân Thành phố coi đó là niềm tự hào lớn. Năm 1976, trước khi Quốc hội “Cả nước thống nhất” họp, Thành uỷ báo cáo xin ý kiến của đồng chí lãnh đạo chủ chốt phương án đề nghị Quốc hội công nhận tên gọi của Thành phố là Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều đồng chí tỏ thái độ chấp thuận phương án này. Riêng đồng chí Trường Chinh không đồng ý. Đồng chí nói, lịch sử phải thành văn. Chưa có văn bản có giá trị pháp lý nào đặt tên mới cho Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, Quốc hội phải quyết định đặt tên mới cho thành phố chứ không chỉ công nhận tên gọi đó. Vấn đề càng lớn càng phải làm đúng hiến pháp, pháp luật. Đồng chí Trường Chinh không trực tiếp có mặt ở chiến trường miền Nam như các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ… Nếp sinh hoạt, phong cách của đồng chí cũng có phần khác so với các đồng chí đó. Vì vậy, một thực tế là có một số đồng chí Nam Bộ dù kính trọng nhưng ít gần gũi, thân mật đối với đồng chí. Tuy nhiên, với những gì đồng chí đã làm để đưa Đảng ta, đất nước ta bước vào công cuộc Đổi Mới, tất cả đều rất mực quý mến và tin tưởng đồng chí. Tôi được biết, trong thời gian chuẩn bị nhân sự Đại hội VI, một số đồng chí lặn lội từ miền Nam ra, tới xin gặp đồng chí Trường Chinh để “năn nỉ” đồng chí tiếp tục làm Tổng Bí thư thêm một nhiệm kỳ nữa. Điều đó thật không ai có thể hình dung được trước đó. Trong ký ức tôi, đồng chí Trường Chinh luôn là một nhà lãnh đạo uyên thâm, đáng kính. Đồng chí là tấm gương lớn về nghị lực, nguyên tắc. Đồng chí chẳng những là người có công lớn trong việc khởi xướng Đổi Mới mà còn đóng góp lớn cho việc gìn giữ kỷ cương trong Đảng. Những cống hiến to lớn của đồng chí cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc mãi được trân trọng và những bài học quý báu đồng chí để lại cho chúng ta vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là vào thời điểm toàn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là chỉnh đốn, xây dựng Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới. Võ Văn Kiệt
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:30:46 GMT 9
Nghị quyết T.Ư về giải phóng miền Nam ra đời như thế nào?
Năm 1957, cách đây đúng nửa thế kỷ, hai ông Hoàng Tùng và Trần Quang Huy được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao trọng trách chấp bút bản Dự thảo Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Nhà cách mạng lão thành Hoàng Tùng trả lời phỏng vấn của nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh (tháng 1/2007) Sinh năm 1919 tại Nam Định, nhà giáo Hoàng Tùng hoạt động cách mạng từ 1937 và bị tù tại Sơn La, Nam Định và Hỏa Lò (Hà Nội). Ông đã từng giữ các trọng trách: Bí thư Trung ương Đảng,Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam. Năm 1957, cách đây đúng nửa thế kỷ, hai ông Hoàng Tùng và Trần Quang Huy được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao trọng trách chấp bút bản Dự thảo Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chiều 18 /1/ 2007, tại nhà riêng ông Hoàng Tùng ở Hà Nội, nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh được ông Hoàng Tùng kể lại sự kiện đặc biệt quan trọng nói trên.
Ngay sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (tháng 5 /1954) chấn động toàn cầu, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về căn cứ địa Việt Bắc báo cáo chiến công với Bác Hồ và Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Bác Hồ đã nói một câu có tầm nhìn xa và tầm chiến lược: NHÂN DÂN TA CÒN PHẢI TIẾP TỤC CHỐNG MỸ.
Cũng dịp đó, trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp và hết sức bất lợi đối với ta, mặc dầu phải chịu sức ép rất nặng nề từ nhiều phía, Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh cùng tất cả các thành viên khác trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tức Bộ Chính trị) đã hết sức sáng suốt, kịp thời và chủ động chấp nhận việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ với điều kiện vô cùng khắc nghiệt: tạm thời chia cắt nước ta làm đôi, ranh giới là vĩ tuyến 17.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7/1954) được ký kết, trong các hội nghị Trung ương và các cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh Ý CHÍ VÀ THIỆN CHÍ hòa BÌNH CỦA TOÀN THỂ DÂN TỘC VIỆT NAM.
Từ năm 1950, đế quốc Mỹ bắt đầu can thiệp và can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Việt Nam. Ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ càng can thiệp vào Việt Nam mạnh hơn nữa và bắt đầu từng bước tiến hành một cuộc chiến tranh đơn phương ở miền Nam nước ta. Từ 1957 đến 1958, 1959, Mỹ – Diệm công khai dùng máy chém và súng đạn liên tiếp giết hại dã man nhiều người kháng chiến còn ở lại miền Nam không tập kết ra Bắc. Vì vậy, một bộ phận nhân dân miền Nam buộc phải nổi dậy chống Mỹ – Diệm ngay từ những tháng năm đau thương ấy.
Trong vấn đề này, có công lao to lớn của các tổ chức Đảng ở miền Nam và của anh Lê Duẩn, người lãnh đạo cao nhất ở Nam Bộ thời kỳ đó.
Với Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ, cuộc kháng chiến chống Pháp giành được thắng lợi vĩ đại, Hà Nội và nửa phía Bắc của Tổ quốc được hoàn toàn giải phóng.
Mặc dầu khi ấy khó khăn chồng chất khó khăn, Thủ đô Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung vẫn nhanh chóng trở thành căn cứ địa toàn diện và hùng mạnh của toàn bộ cuộc chống Mỹ cứu nước. Hà Nội và miền Bắc giành hết sức người, sức của, trí tuệ và vũ khí, thuốc men, lương thực… vào miền Nam cùng nhân dân miền Nam đấu tranh giải phóng miền Nam – thống nhất nước nhà.
Vẫn trong một bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp và hết sức bất lợi cho ta như tôi đã nói ở trên, từ rừng núi Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội sau 9 năm kháng chiến cực kỳ gian khổ và anh dũng, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ phải giải quyết vô số vấn đề trọng yếu. Khó khăn càng tăng khi cải cách ruộng đất phạm sai lầm nghiêm trọng, Tổng Bí thư Trường Chinh phải từ chức.
Giữa tình hình trong nước rối bời như vậy, Bác Hồ tạm thời giữ chức Tổng Bí thư. Hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Duy Trinh được Bộ Chính trị trao trách nhiệm giúp Tổng Bí thư Hồ Chí Minh giải quyết công tác hàng ngày.
Tháng 5/1955, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đường giải phóng mới đi một nửa, toàn dân Việt Nam ai nấy đều mong muốn giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước. Nhưng giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước theo đường lối nào và bằng phương pháp nào, đó là cả một vấn đề trọng đại và vô cùng phức tạp mà thực tế lịch sử đặt ra cho dân tộc Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, phải có trí tuệ tập thể, phải bàn luận thật kỹ lưỡng và thật thận trọng.
Vì vậy, khoảng đầu năm 1957, Bộ Chính trị, đứng đầu là Bác Hồ, quyết định chuẩn bị hai việc lớn:
Một: Triệu tập Hội nghị Trung ương 15 (Khóa hai) mở rộng để bàn luận và quyết định đường lối và phương pháp cách mạng giải phóng miền Nam.
Hai: Triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng để bàn luận và quyết định đường lối xây dựng và phát triển miền Bắc làm cơ sở cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.
Việc chỉ đạo chấp bút bản dự thảo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 (Khóa hai) được Bộ Chính trị giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Hai người giúp anh Võ Nguyên Giáp chấp bút bản dự thảo đó, cũng do Bộ Chính trị chỉ định, gồm Trần Quang Huy (lúc ấy là Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Phó ban thường trực Ban Tuyên huấn Trung ương) và tôi (tức Hoàng Tùng, lúc ấy là Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Phó ban Ban Tuyên huấn Trung ương).
Mùa hè 1957, từ Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tôi cùng Trần Quang Huy xuống Đồ Sơn (Hải Phòng), làm việc trong khu nghỉ mát Pa-gốt-đông nổi tiếng. Tại đây, chúng tôi làm việc mấy đợt, mỗi đợt gồm nhiều buổi.
Mở đầu buổi làm việc đầu tiên, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đặc biệt nhắc nhở Trần Quang Huy và tôi phải thấm nhuần ý tưởng NHÂN DÂN TA CÒN PHẢI TIẾP TỤC CHỐNG MỸ và ý tưởng TRANH THỦ MỌI THỜI CƠ ĐỂ Hòa BÌNH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ của Bác Hồ. Đó chính là ánh sáng chỉ đạo toàn bộ quá trình chấp bút bản dự thảo. Anh Võ Nguyên Giáp nhắc chúng tôi như vậy.
Do phong cách làm việc dân chủ vốn có, anh Võ Nguyên Giáp thường chủ động mời hai chúng tôi phát biểu trước, rồi sau đó, anh mới trình bày ý kiến của mình. Chính vì vậy, tại Đồ Sơn, trong quá trình soạn thảo, khi hai chúng tôi được anh hỏi ý kiến thì tôi đã nêu lên hai vấn đề cơ bản của Dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai).
Thứ nhất: Sử dụng phương pháp đấu tranh vũ trang, đấu tranh bằng bạo lực cách mạng. Chúng ta buộc phải sử dụng phương pháp này bởi vì Mỹ _ Diệm ngày càng tăng cường lùng sục và giết hại những người kháng chiến cũ ở miền Nam và luôn miệng hô hào “Bắc tiến”.
Về vấn đề thứ nhất, Trần Quang Huy cũng suy nghĩ như tôi.
Thứ hai: Tập hợp sức mạnh toàn thể dân tộc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Về vấn đề thứ hai, tôi trình bày với Đại tướng như sau: Ở Việt Nam, cần phải tập trung thực hiện nhiệm vụ thống nhất toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn thể dân tộc hơn là thực hiện một cuộc đấu tranh giai cấp. Muốn giải phóng miền Nam, ngoài việc thực hiện phương pháp đấu tranh vũ trang, phải thống nhất toàn thể dân tộc, tập hợp toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn thể dân tộc theo đúng tư tưởng Bác Hồ.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp hoàn toàn nhất trí với hai vấn đề cơ bản nêu ở trên.
Tuy nhiên, cũng cần nói rõ: trước khi được biết ý kiến nói trên của tôi, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong những cuộc họp Trung ương hoặc Bộ Chính trị hoặc trong những cuộc trò chuyện với nhiều Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng vào những năm 1955 _ 1956 và đầu năm 1957 cũng đã từng khẳng định ý nguyện hoà bình của toàn dân, toàn Đảng, đồng thời căn cứ vào thực tiễn Việt Nam và thực tiễn quốc tế, kiên trì và chủ động đưa ra giải pháp đấu tranh vũ trang và giải pháp đoàn kết toàn thể dân tộc, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự chỉ đạo của anh Võ Nguyên Giáp, tôi và Trần Quang Huy chấp bút thuận lợi bản Dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) vì cả ba chúng tôi, nhất là đại tướng Võ Nguyên Giáp, đều hiểu thấu ý tưởng tranh thủ mọi thời cơ để hoà bình thống nhất đất nước, ý tưởng đấu tranh vũ trang và ý tưởng đoàn kết toàn dân, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao của Bác Hồ.
Tuy nhiên, việc chấp bút không phải không có khó khăn. Trong quá trình nhiều lần chấp bút, khó khăn lớn nhất chính là ở chỗ: phải viết như thế nào, phải phân tích như thế nào, phải lý giải như thế nào, phải chứng minh như thế nào để khẳng định rằng:
1. Mặc dầu sức ép từ nhiều phía đối với Việt Nam hết sức nặng nề, tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, nội bộ phe xã hội chủ nghĩa bất hòa ngày càng nghiêm trọng, Đảng ta vẫn phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập và tự chủ, giữ vững vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước;
2. Mặc dầu toàn dân và toàn Đảng luôn luôn tranh thủ các cơ hội hòa bình, nhưng trong tình hình thực tiễn nước sôi lửa bỏng của miền Nam lúc đó, để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Đảng ta buộc lòng phải sử dụng phương pháp đấu tranh vũ trang, đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, đoàn kết toàn dân trong một cuộc cách mạng lâu dài và gian khổ.
Chính vì vậy, tôi và Trần Quang Huy phải viết đi viết lại bản dự thảo nhiều lần. Lần nào, bản dự thảo, sau khi sửa chữa xong, cũng được sao thành nhiều bản gửi lên Bác Hồ và từng Ủy viên Bộ Chính trị để xin ý kiến. Lần nào cũng vậy, Bác Hồ và các thành viên khác của Bộ Chính trị cũng đều góp ý kiến chu đáo. Bác Hồ luôn luôn góp cho bản dự thảo ý tưởng hòa bình thống nhất nước nhà và ý tưởng đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, chỉ vũ trang đấu tranh khi tình thế bắt buộc.
Tiếp nhận nghiêm túc ý kiến của Bác Hồ và của các Ủy viên Bộ Chính trị, càng về sau, bản dự thảo càng trở nên đầy đủ hơn; càng biểu hiện được rõ ràng hơn hai vấn đề cơ bản đấu tranh vũ trang và đoàn kết toàn dân, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao như trên đã nói.
Khoảng cuối 1958, bản dự thảo cuối cùng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút được hoàn thành.
Như những lần trước, lần này, Văn phòng Trung ương Đảng tiếp tục sao thành nhiều bản trình lên xin ý kiến Bác Hồ và từng Ủy viên Bộ Chính trị. Sau đó, được tiếp tục sao gửi đến từng Ủy viên Trung ương.
Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam.
Lúc này, từ miền Nam, anh Lê Duẩn đã ra tới Hà Nội. Sau một thời gian nghỉ ngơi, tìm hiểu tình hình thực tiễn miền Bắc và quốc tế, đồng chí Lê Duẩn được Bác Hồ cùng Bộ Chính trị trao cho cương vị tương đương Quyền Tổng Bí thư.
Khi bản dự thảo cuối cùng nói trên được chuyển lên xin ý kiến Bác Hồ, Bác xem và cơ bản tán thành. Sau đó, Người chỉ thị: chuyển chú Ba xem. (Ba là tên gọi thân mật của anh Lê Duẩn).
Chấp hành chỉ thị của Bác Hồ, đồng chí Lê Duẩn xem và cơ bản nhất trí. Sau đó, anh Lê Duẩn gọi tôi và Trần Quang Huy đến giúp anh viết một số ý kiến bổ sung vào bản dự thảo cuối cùng Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) nói trên. Trong quá trình bổ sung một số ý kiến vào bản dự thảo cuối cùng này, đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy làm việc nhiều lần ở Hà Nội, Đồ Sơn và lần cuối cùng ở Bãi Cháy (Quảng Ninh).
Nhân đây, tôi cũng muốn nhấn mạnh: trong quá trình chấp bút dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa Hai), cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều hoàn toàn chưa được biết là tại cơ quan Xứ ủy Nam Bộ (số 290 Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn), từ khoảng cuối mùa khô 1955 đến tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã chủ động viết và cơ bản hoàn thành bản Đề cương cách mạng miền Nam.
Chúng tôi cũng không được biết tháng 12/1956 và mấy tháng đầu năm 1957, tại Nông Pênh, bản Đề cương cách mạng miền Nam được thảo luận kỹ (nhưng chưa được chính thức thông qua) trong Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng. Do đó, cả anh Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều chưa được đọc bản Đề cương ấy.
Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam.
Như vậy, giữa Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn và dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút có sự trùng hợp cơ bản về ý tưởng dùng bạo lực cách mạng và ý tưởng tập hợp toàn thể dân tộc để giải phóng miền Nam. Sự khác nhau giữa hai bản thuộc về lời văn và một vài vấn đề cụ thể.
Như trên tôi đã nói, từ miền Nam ra Hà Nội, sau một thời gian tìm hiểu tình hình hết sức phức tạp của miền Bắc và tình hình quốc tế cũng hết sức phức tạp thời đó, đồng chí Lê Duẩn được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao cho cương vị tương đương Quyền Tổng bí thư.
Từ đó, cho đến khoảng đầu năm 1959 trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai), tinh thần cơ bản của Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn đã lần lượt được chuyển, dưới nhiều hình thức, đến các Ủy viên Bộ Chính trị cùng nhiều Ủy viên Trung ương và phát huy tác dụng tích cực của nó.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) mở rộng năm 1959, họp hai đợt tại Hà Nội vào mùa xuân và mùa hè, có tầm quan trọng đặc biệt đối với vận mệnh của toàn thể dân tộc. Với tinh thần trách nhiệm rất cao trước lịch sử, hội nghị tập trung thảo luận và tranh luận công khai, thẳng thắn, dân chủ, không hạn chế thời gian và cuối cùng, ra Nghị quyết về vấn đề trọng đại giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Là một trong những hội nghị lớn nhất của Trung ương từ ngày thành lập Đảng tới nay (2007), Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) mở rộng nhằm góp phần chuẩn bị trực tiếp cho Đại hội toàn quốc lần thứ ba (sẽ họp vào tháng 9 /1960).
Bác Hồ khai mạc và tổng kết hội nghị. Người cũng trực tiếp chủ toạ hội nghị suốt hai đợt họp.
Tại hội nghị, Người đề nghị các đại biểu thẳng thắn nêu rõ ý kiến của mình và thực hiện tranh luận dân chủ để đi tới sự nhất trí cuối cùng. Người khẳng định: Hòa bình thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết của toàn dân, vì vậy, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất đất nước một cách hoà bình. Vũ trang đấu tranh, theo lời Người, là điều mà toàn dân ta buộc phải thực hiện một khi không có con đường nào khác.
Người nhắc nhở hội nghị cần nhận rõ quan điểm xây dựng và phát triển miền Bắc làm cơ sở cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước. Người cũng yêu cầu hội nghị phải hết sức chú trọng các quan điểm đoàn kết, thực tiễn, độc lập, tự chủ, sáng tạo, kiên định, dân chủ và dân tộc.
Trong hội nghị, Người căn dặn Ban chấp hành Trung ương phải có một đối sách đặc biệt tế nhị, khéo léo và mềm mỏng trước mọi sức ép rất nặng nề từ nhiều phía trên thế giới đối với Đảng ta lúc đó.
Là đại biểu chính thức, tôi dự hội nghị suốt từ đầu đến cuối, không sót buổi nào.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) mở rộng, trước một phiên họp toàn thể, đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc bản dự thảo cuối cùng (đã được đồng chí Lê Duẩn bổ sung một số ý kiến như trên đã nói). Bản dự thảo này hiện vẫn được lưu giữ tại cơ quan lưu trữ Trung ương.
Dưới sự chủ tọa từ lúc khai mạc đến lúc bế mạc của Bác Hồ, bản dự thảo cuối cùng nói trên đã được hội nghị thảo luận dân chủ và tranh luận kỹ lưỡng, đồng thời bổ sung cẩn thận. Dưới sự chủ toạ của Bác Hồ, hội nghị còn lắng nghe các báo cáo thực tế của các đại biểu Nam Bộ, Trung Bộ và Nam Trung Bộ.
Từ miền Nam ra Hà Nội, hai anh Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô thay mặt Xứ Ủy Nam Bộ báo cáo trước toàn thể hội nghị về tình hình Nam Bộ từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đến cuối 1958. Bác Hồ khóc mấy lần khi hai anh kể lại sự đàn áp khốc liệt của Mỹ – Diệm đối với đồng bào và cán bộ, chiến sĩ miền Nam.
Sau khi nghe hai anh Lê Duẩn và Trường Chinh lần lượt trình bày ý kiến và quan điểm của mỗi người, Bác Hồ trực tiếp chỉ định Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu.
Trong bài phát biểu của mình, đồng chí Võ Nguyên Giáp khẳng định ý chí và thiện chí hoà bình của toàn thể dân tộc Việt Nam, của Bác Hồ và toàn Đảng. Sau đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn miền Nam, miền Bắc và quốc tế, anh phân tích nhiều vấn đề trong đó có hai vấn đề lớn. Một: Đường lối vũ trang. Theo đồngchí Võ Nguyên Giáp, đường lối vũ trang là cơ bản nhất. Hai: miền Bắc. Theo đồngchí Võ Nguyên Giáp, Miền Bắc phải xây dựng và phát triển thật sự vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam – hoà bình thống nhất nước nhà.
Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) mở rộng, về tầm quan trọng của các bài phát biểu thì sau các diễn văn khai mạc và bế mạc có vai trò chỉ đạo mọi mặt của Bác Hồ, ba bài phát biểu của các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp là ba bài quan trọng nhất.
Không ít lần trong quá trình hội nghị thảo luận và tranh luận, Bác Hồ đã nói: vấn đề càng ngày càng sáng.
Cuối đợt hai của hội nghị, Bác Hồ sáng suốt dự đoán: Giai đoạn đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước sớm muộn cũng sẽ căn bản chấm dứt, giai đoạn toàn dân buộc phải cầm súng và toàn quân buộc phải trực tiếp tham gia cuộc cách mạng giải phóng miền Nam chắc chắn sẽ bắt đầu.
Người yêu cầu toàn Đảng phải tiếp tục tay siết chặt tay, đoàn kết thành một khối thống nhất để chuẩn bị lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến lần thứ hai thể nào cũng bùng nổ: cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Dưới sự điều hành điêu luyện, dân chủ và mẫu mực của người thầy Hồ Chí Minh, cuối đợt hai của Hội nghị Trung ương 15 (Khóa hai) mở rộng, bản dự thảo cuối cùng do đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc trước hội trường đã được toàn thể hội nghị bổ sung hết sức kỹ lưỡng và thận trọng, thể hiện được ý nguyện của toàn dân, trở thành thành quả lớn của trí tuệ tập thể.
Nói một cách khác, rõ hơn, dưới sự điều khiển điêu luyện, dân chủ và mẫu mực của người thầy Hồ Chí Minh, kết thúc hội nghị, một thành quả lớn của trí tuệ tập thể mang tính đoàn kết, tính hoà bình, tính thực tiễn, tính độc lập, tính tự chủ, tính chiến đấu, tính khoa học, tính sáng tạo, tính kiên định, tính dân chủ và tính dân tộc đã ra đời.
Đó chính là Nghị quyết Trung ương 15 (Khoá hai) mở rộng về ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC và PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước.
Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa hai) mở rộng lập tức thật sự trở thành ngọn đèn pha soi đường cho cách mạng giải phóng miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt từ đó (mùa hè 1959) đến 30/4/1975, ngày toàn thắng.
Sau khi Bác Hồ qua đời, Bộ Thống soái Tối cao đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đứng đầu là đồng chí Võ Nguyên Giáp tiếp tục kiên định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 6 năm nữa và ngày 30/4/1975, đưa được lá cờ giải phóng dân tộc tới đích cuối cùng.
Theo đề nghị của đồng chí Lê Duẩn, Bộ Chính trị nhất trí cử đồng chí Lê Duẩn thay mặt toàn Đảng và đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt toàn quân ngày mùng 8/ 5/1975 vào thành phố Sài Gòn để chúc mừng đồng bào và chiến sĩ miền Nam ngay sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Hình ảnh Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ngày mùng 8/5/1975 từ chuyên cơ bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất trước sự đón tiếp nồng nhiệt của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng và các anh Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng là hình ảnh tiêu biểu cho sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với quân đội và sự trung thành của quân đội đối với Đảng. Hình ảnh đó nói lên vị trí quan trọng bậc nhất của hai anh Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp trong 6 năm cuối cùng của cuộc chống Mỹ cứu nước sau khi Bác Hồ qua đời.
* *
* * * *
Đúng 19 giờ. Trời đổ tối. Nhà cách mạng 88 tuổi Hoàng Tùng ngừng lời.
Dáng gầy yếu nhưng gương mặt vẫn tươi tỉnh, trong gió đông khá lạnh, ông tiễn tôi ra cửa phòng và siết chặt tay tôi ...
Hà Nội, 18 tháng Giêng 2007
Hoàng Tùng kể Nhật Hoa Khanh ghi
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:32:24 GMT 9
Với Các Mác, cuộc sống là dòng chảy luôn vận độngChúng ta kỷ niệm 188 năm ngày sinh của Các Mác vào lúc mà Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”. TS giới thiệu bài viết của GS Tương Lai. Trong bối cảnh thời đại thế kỷ XXI, được mệnh danh là “thời đại của bộ não”, chúng ta suy nghĩ về Các Mác,“bộ não”vĩ đại của thế kỷ XIX, để hiểu rõ tầm vóc tư duy của bộ não lớn ấy của loài người nhằm hiểu sâu hơn những tác động ảnh hưởng của những tư tưởng lý luận của C.Mác đến thời đại của kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu. Cho đến nay, theo chỗ tôi biết, thì vẫn chưa có được một tầm vóc khoa học nào vượt được thiên tài Các Mác. Chẳng thế mà có nhà khoa học không phải là cộng sản, với 30 năm nghiên cứu về C.Mác đã cho rằng “cả loài người hiện nay sống trong mặc cảm Mác, không thoát khỏi mặc cảm Mác”. Còn Jacques Derrida, tác giả của cuốn sách “Những bóng ma của Mác” (Spectres de Marx) thì tuyên bố cần phải trở về với Mác vì “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có di sản của Mác”. Vấn đề là nhìn nhận di sản ấy như thế nào. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề lý luận, mặc dầu đối với lý luận của chúng ta, hiểu thấu đáo di sản của C.Mác có ý nghĩa hết sức lớn lao. Đây còn là vấn đề của thực tiễn. Mà thực tiễn thì cao hơn nhận thức lý luận vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp. Đối với chúng ta hiện nay, cần phải trang bị một nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống. Khi Báo cáo Chính trị tại Đại hội X nhận định :”Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chậm làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách , chỉ đạo, điều hành” thì rõ ràng ở đây là mối liên hệ biện chứng giưã lý luận và thực tiễn. Vì thế, “công tác tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đối mới” cũng là hệ quả của vấn đề trên. Cho nên, chỉ ra việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”, Báo cáo Chính trị xác định rõ “Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng”. Để có thể “vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng” những tư tưởng lý luận của C.Mác, nhân kỷ niệm 188 năm ngày sinh của Người, mong rằng việc ôn lại đôi nét về di sản của Các Mác là một đóng góp nhỏ vào công việc lớn lao đó. Nghị Quyết Đại Hội IX từng chỉ ra: “nhận thức trong chúng ta về chủ nghĩa xã hội tuy đã rõ hơn một bước so với mười năm trước, song chưa thật cụ thể, chưa phản ảnh đầy đủ những biến đổi của thực tiễn. Còn nhiều câu hỏi đặt ra mà công tác lý luận chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nhận thức của nhiều cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn”. Nhận thức còn giản đơn có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân mà đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ ra :“nếu định hướng chung không đủ rõ ràng và bản lĩnh cá nhân không vững chắc thì cũng dễ du nhập từ nước ngoài cả những điều sai lầm thậm chí là độc hại”(1). Một trong những sai lầm thậm chí là độc hại đó chính là ”chủ nghĩa giáo điều phản Mác”. Chủ nghĩa giáo điều ấy khi du nhập vào một quốc gia qua một lớp người gọi là có học vấn, có “lý luận”, sẽ lan ra, chi phối từ người có chức, có quyền các cấp đến số đông dân cư. Thế rồi, từ tư duy, dần dần thấm vào tình cảm, tâm lý, thói quen và hành động ứng xử mọi mặt, có khi trở thành “tư duy chính thống quốc gia”, “tình cảm, tâm lý dân tộc”. Thế là, từ một học thuyết khoa học, chủ nghĩa Mác bị xuyên tạc, được dàn dựng như một thứ giáo điều, một thứ “bái vật giáo” và áp đặt một hệ tư duy sai lầm, thô thiển gây ngộ nhận cực kỳ tai hại. Thứ “chủ nghĩa giáo điều phản Mác “ ấy không hiểu được trong điều kiện lịch sử nào mà Ph.Angghen đưa ra khái niệm về “Chủ nghĩa Mác”, còn chính bản thân C. Mác, lúc sinh thời, không bao giờ tự cho rằng mình là người sáng lập ra một học thuyết là “chủ nghĩa Mác”, thậm chí ông nói rằng “ông không phải là người Mác xít”! Sự vĩ đại của nhà khoa học và là nhà cách mạng C.Mác thể hiện rõ ở điều ấy. * Về sau này, do nhu cầu của cách mạng mà những đồng chí của C.Mác, trước hết là Ph.Angghen mới nói đến “Chủ nghĩa Mác” với tính cách là một học thuyết nhằm dẫn dắt sự nghiệp cách mạng. Khái niệm “chủ nghĩa Mác” ra đời là một đòi hỏi của lịch sử phong trào công nhân thế giới, trước hết là Châu Âu. Chính vì vậy, để ôn lại đôi nét về di sản của Các Mác, cần nhắc lại đôi điều về tấm gương chói ngời trong nghiên cứu khoa học của Các Mác, về bản lĩnh trong nghiên cứu của một người khổng lồ của khoa học. Với con người khổng lồ đó, người ta hiểu ra rằng, C.Mác là con người mà sự sửa chữa đến nhanh hơn sự hình thành. Chưa kịp hình thành đã sửa chữa, bổ sung. Nếu theo dõi những điều C. Mác viết thì thấy rất rõ điều đó: luôn luôn trăn trở để nâng cao thêm , hoàn chỉnh thêm lý luận về học thuyết , không bao giờ tự cho rằng đã đạt tới mức tuyệt đỉnh tư duy lý luận của mình. Sự vĩ đại của nhà khoa học C.Mác trước hết là ở chỗ đó... Đừng quên rằng ,bộ não thiên tài ấy phải tư duy và hoạt động trong một hoàn cảnh túng thiếu thường xuyên, mà chính sự túng thiếu đó đã làm mòn mỏi sức khỏe của C.Mác để cuối cùng quật ngã ông , khiến cho dự định của ông về một loạt những tác phẩm vẫn còn dở dang. Trong những dự định đó, có hai tác phẩm lớn mà những nhà nghiên cứu sau này hết sức tiếc là C.Mác đã không hoàn thành được. Đó là tác phẩm về “Biện chứng”. Tiếp nữa là tác phẩm về “Nhà nước”... Đến giai đoạn “chín” nhất trong tư duy lý luận của mình, C.Mác đã nhiều lần viết cho Ph.Angghen dự định hoàn thành công trình lý luận của mình sẽ gồm 6 bộ phận : - Một là bộ “Tư bản”, -Hai là “Đất đai và sở hữu đất đai”-Ba là “Lao động làm thuê”-Bốn là “Nhà nước”-Năm là “Thương mại quốc tế” . Sáu là “Thị trường toàn cầu”. Riêng về bộ “Tư bản” sẽ gồm 3 cuốn và cuốn thứ tư là về “Giá trị thặng dư”. Nhưng sinh thời C.Mác, ông chỉ bằng lòng cho xuất bản cuốn I mà thôi. Cuốn thứ II và thứ III thì ông vẫn còn tiếp tục suy nghĩ, sửa chữa trong cả gần 17 năm, trước khi mất vẫn không chịu cho xuất bản vì cảm thấy vẫn còn phải hoàn chỉnh, bổ sung. Những người nghiên cứu về C.Mác sau này cho rằng, do diễn biến của cuộc sống, có những nhân tố mới, cuối đời C.Mác đã thấy, nhưng không kịp đi sâu nghiên cứu để từ đó rút ra chất lý luận mới, nhất là đã phát hiện ra những vấn đề về Mỹ, về Phương Đông, những vấn đề đó mở ra một chân trời lý luận mới nhưng ông chưa nghiên cứu được bao nhiêu vì không còn đủ thời gian. Cuối đời, C.Mác cũng đã nhận ra được ý nghĩa cực kỳ to lớn của khoa học và công nghệ nhưng chưa kịp đủ điều kiện nghiên cứu để có thể chắt lọc từ đó hàm lượng lý luận cần thiết bổ sung cho công trình đã viết của mình. Điều quan trọng hơn cả là với C.Mác, bản chất của lý luận không bao giờ là hoàn chỉnh trọn vẹn cả. Tự cho mình đã đứng ở đỉnh cao của lý luận là tự giết chết tác phẩm khoa học. Nhắc đến những điều trên nhằm nhấn mạnh rằng, khi nằm xuống, C.Mác vẫn chưa hoàn thành được dự định của mình, sự nghiệp khoa học của C.Mác còn dở dang , đòi hỏi nhũng người kế tục sự nghiệp của ông phải biết chiếm lĩnh, kế thừa và phát triển. Một điều cần phải suy ngẫm là, sinh thời, dòng tư duy của C.Mác luôn luôn vận động, luôn luôn đổi mới, phải tìm thấy sự vận động và đổi mới đó mới hiểu được vì sao C.Mác không ngần ngại sửa đổi những điều không còn phù hợp với điều kiện mới của cuộc sống. Xin nêu 3 ví du: Một là : “Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản”. Những nhà nghiên cứu về C.Mác có nhận xét rằng, trong các tác phẩm của C.Mác, chỉ có một tác phẩm là dễ hiểu và được phổ cập rộng rãi vì tính dễ hiểu ấy là “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng, đứng về mặt lý luận thì “Tuyên Ngôn” chưa đạt được độ “chín” về tư tưởng lý luận của C.Mác, đó chưa phải là đỉnh cao tư duy lý luận của ông. Qua sơ thảo đề cương của chương ba còn giữ được cho thấy C.Mác không ngừng hoàn thiện kết cấu của “Tuyên ngôn”, cứ mỗi biến thể mới thì lại đòi hỏi đạt tới một sự cân đối hoàn chỉnh hơn. Và cũng cần lưu ý rằng, sinh thời C.Mác, “Tuyên ngôn” chỉ chính thức xuất bản không nhiều. Sau này, khi C.Mác đã mất, “Tuyên ngôn” mới được in hàng chục triệu cuốn, vì như Ph.Angghen tuyên bố ”trên một mức độ nào đó, lịch sử “Tuyên ngôn” phản ánh lịch sử của phong trào công nhân hiện đại từ năm 1848 đến nay (tức là năm 1890 )”, đến năm 1893, V.I Lênin đã dịch “Tuyên ngôn” ra tiếng Nga. Lần xuất bản năm 1872, trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức, Mác và Angghen đã lưu ý :”Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã từng có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm qua ...”(2). Bộ óc vĩ đại ấy vẫn không ngừng trăn trở để bổ sung và nâng cao chất lượng khoa học và không câu nệ khi cần phải sửa đổi. Thứ hai : về khái niệm “chuyên chính vô sản”. Dưới ngòi bút của C.Mác, kể cả trong bản nháp, bản thảo viết tay và trong các tài liệu nội bộ không nhằm công bố ra, trong các bức thư viết cho anh em, bè bạn hoặc thư góp ý cho đồng chí của mình hiện còn lưu giữ được, thì tần số xuất hiện của thuật ngữ chuyên chính vô sản không đến mười lần. Vì theo C.Mác, “bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không giai cấp”.”(3) Bối cảnh ra đời của khái niệm này là giữa cuộc cách mạng Tháng 2 năm 1848 đến tháng 6.1848 thì bị phản cách mạng bóp chết, hoạt động cách mạng ở vào tình thế ẩn náu đợi chờ cao trào, mãi cho đến bốn năm sau mới kết luận được rằng tình thế cách mạng đã hết, chế độ tư bản đã bước qua giai đoạn khủng hoảng chu kỳ và lại bắt đầu giai đoạn phồn thịnh của nó. Từ đó, C.Mác và Ph. Angghen trong suốt hai mươi năm tiếp theo không dùng thuật ngữ chuyên chính vô sản nữa. Nội dung của chuyên chính vô sản vào lúc mà C.Mác sử dụng lần đầu tiên làmột chiến lược cách mạng gồm 2 bước : một là chuyển từ chuyên chính của kẻ thù sang chuyên chính của đồng minh bao gồm giai cấp nông dân và “giai cấp trung đẳng”, thuật ngữ của C.Mác trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, làm thành chuyên chính của đồng minh chiến lược. Khi đã làm được cuộc chuyển đổi liên minh ấy rồi, trở thành đa số rồi, thì sẽ sang bước thứ hai là dùng con đường dân chủ, tự do đầu phiếu, lập ra chính phủ cách mạng và chế độ cách mạng.Và chiến lược đó đã không thực hiện được! Lần thứ hai thuật ngữ “chuyên chính vô sản” được dùng là sau thất bại của Công xã Paris. Từ tổng kết sự thất bại đó, C.Mác nêu lên những bài học về vấn đề hình thành nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, không giống với bất kỳ một hình thức nhà nước nào đã có trước đó, một hình thức nhà nước báo hiệu sự tiêu vong của nhà nước. Cần nhớ rằng “Công xã” tồn tại chỉ có 72 ngày. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ “Nội chiến ở Pháp” thì sẽ hiểu rõ chuyên chính vô sản theo quan niệm của C.Mác là một hình thức nhà nước cách mạng đã không còn thuần túy là nhà nước nữa mà đã nằm trong cái lôgich của nhà nước dần dần tự tiêu vong. Như vậy có thể nói rằng khái niệm “chuyên chính vô sản” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chuyển đổi và mở rộng nội dung của nó ra với thời gian và diễn biến rất phức tạp mà việc nhận cho ra đâu là tư tưởng lý luận của chính C.Mác là điều có ý nghĩa thực tiễn lớn lao**. Ví dụ thứ ba : vào gần cuối đời C.Mác, “Lời nói đầu viết cho bản cương lĩnh của Đảng Công nhân Pháp”viết vào đầu tháng 5 năm 1880 mà sau này những người nghiên cứu về C.Mác cho rằng đó là “Di chúc chính trị “ của ông, C.Mác không chỉ dùng thuật ngữ giai cấp vô sản mà còn dùng thuật ngữ “giai cấp những người sản xuất” trong câu “Xét thấy rằng giải phóng giai cấp những người sản xuất là giải phóng toàn thế giới...”.(4) Ba mươi năm trước, trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp. 1848-1850” viết năm 1850 C.Mác từng khẳng định rằng, chỉ bằng cuộc chiến đấu với kẻ địch đó mà đảng chủ trương lật đổ mới có thể trở thành một đảng thực sự cách mạng được.”...”Bất cứ một cuộc cách mạng nào cũng cần đến vấn đề tiệc tùng. Chế độ phổ thông đầu phiếu là vấn đề tiệc tùng của cuộc cách mạng mới...”.(5) Thế nhưng, sự vận động của thực tiễn đã khiến ông không ngần ngại vứt bỏ quan niệm cũ không còn phù hợp để viết rằng “do kết quả hành động cách mạng của giai cấp những người sản xuất – hay giai cấp vô sản- được tổ chức thành một chính đảng độc lập;...cần phải cố gắng để đạt được một tổ chức như vậy bằng mọi phương tiện mà giai cấp vô sản có được trong tay, kể cả quyền phổ thông đầu phiếu và như vậy là biến quyền này từ một công cụ lừa phỉnh như nó xưa nay vẫn thế thành một công cụ để giải phóng.”(6) Nếu lại đối chiếu với luận điểm cho rằng : những cuộc bầu cử của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ để ba năm một lần người dân được quyền bỏ phiếu cử ra những kẻ “ăn trên ngồi trốc” để thống trị mình thì mới thấy rõ cái ý của C.Mác : không, ở đây có thể biến cái phương tiện lừa bịp ấy của dân chủ tư sản để chuyển nó thành ra phương tiện giải phóng đích thực của “giai cấp sản xuất”. Và vì vậy mà “những người công nhân xã hội chủ nghĩa Pháp...đã quyết định việc tham gia bầu cử với cương lĩnh tối thiểu sau đây, coi đó là công cụ để tổ chức đấu tranh.” Người ta gọi tác phẩm này là “Di chúc chính trị” của C.Mác chính là vì lẽ đó. Tư tưởng chính trị ấy của C.Mác về sau này trở thành nền tảng của của tất cả các cương lĩnh của các đảng Xã hội Dân chủ Quốc tế II. Dẫn ra ba ví dụ trên, để chỉ muốn nói lên dòng tư duy liên tục của bộ óc vĩ đại ấy. C.Mác không bao giờ tự cho phép mình dừng lại ở những kết luận khi mà dòng chảy của cuộc sống luôn luôn vận động. Nói “chưa kịp hoàn thành đã sửa chữa” là trên ý nghĩa ấy. Chính trên tinh thần đó mà chúng ta nghiên cứu , kế thừa một cách sáng tạo những thành tựu trí tuệ của C.Mác. Từ năm 1927 đến năm 1935 ở Liên Xô xuất bản được 7 tập của C. Mác, mỗi tập 1000 trang , 1 tập riêng của Ph.Angghen và 4 tập thư từ trao đổi giữa C.Mác và Ph.Angghen, tổng cộng lại là 12 tập và gọi bộ xuất bản ấy là bộ “Mêga”. Sau khi J.Stalin mất,từ năm 1956 đến năm 1968, Viện Mác-Lênin Liên Xô và Viện Mác-Lênin Đông Đức xuất bản toàn tập Mác-Angghen gồm 39 tập và 2 tập phụ lục, nhưng thế vẫn chỉ là tuyển tập chứ chưa thể là toàn tập được vì còn thiếu rất nhiều. Rồi bắt đầu từ 1975, Viện Mác-Lênin Liên Xô và Viện Mác-Lênin Đông Đức phối hợp xuất bản toàn tập Mac-Angghen với dự định khoảng 100 tập gọi là bộ “Mêga” mới, nhưng chỉ mới đến tập thứ 50 thì LiênXô sụp đổ và việc xuất bản Toàn Tập Mac-Angghen phải dừng lại đấy. Ở những nước tư bản thì toàn tập Mác-Angghen bằng tiếng Anh đã xuất bản 51 tập, ở Ý cũng dự định làm bộ “Mêga” mới, họ đang dịch và khi phát hành đầy đủ thì sẽ được một nửa trong dự định 100 tập, ở Pháp đã xuất bản 63 tập của C. Mác song cũng chưa phải là toàn tập C.Mác . Như thế có nghĩa là , cho đến hiện nay chưa có toàn tập C.Mác theo đúng nghĩa của nó. Hiện nay trên thế giới ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về C.Mác, không chỉ của những người cộng sản, mà còn của rất nhiều những nhà khoa học không phải là cộng sản. Cần nhắc lại ở đây một câu nói của một nhà khoa học Mỹ, người đã được giải thưởng Nobel về kinh tế đại ý là “C.Mác là một nhân vật quá lớn khiến chúng tôi ở phương Tây không thể để dành riêng ông ấy cho những người cộng sản. Ông ấy không phải là của riêng những người cộng sản đâu vì ông ấy là một người khổng lồ của khoa học”. Rõ ràng là, bản chất lý luận của C.Mác không phải là một hệ thống lý luận đóng kín, bất di, bất dịch, mà là một hệ thống mở, cần phải được phát triển. Muốn thật sự trung thành với học thuyết C.Mác thì phải có sáng tạo và biết vận dụng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Chủ nghĩa Mác không phải là một tôn giáo để cho các tín đồ tụng niệm hàng ngày nhằm cầu mong sự cứu rỗi, mà là một học thuyết khoa học đòi hỏi phải luôn luôn bám sát lấy cụôc sống, tìm nhựa sống từ trong cuộc sống thường xuyên vận động, thường xuyên đổi mới. Di sản của C.Mác thật khổng lồ, và có thể nói cho đến hiện nay vẫn chưa khai thác hết . Vấn đề là, không phải mọi điều C.Mác viết ra cách đây gần hai thế kỷ đều đúng cả. Vậy đâu là tiêu chuẩn để nhìn nhận cần tiếp thu một cách sáng tạo cái gì, và cần phải bổ sung phát triển tư tưởng lý luận của C.Mác như thế nào? Về điều này chúng ta đã có hai tấm gương tuyệt vời : V.I Lênin và Hồ Chí Minh! Ai cũng biết rằng V.ILênin ít ra cũng đã hai lần không làm theo chỉ dẫn của C.Mác, một là không đợi cho điều kiện chín muồi của cách mạng vô sản trên nhiều nước công nghiệp phát triển cao với sự trưởng thành của phong trào công nhân quốc tế, mà tiến hành Cách Mạng Tháng 10 năm 1917 ở Nga, khâu yếu nhất trong mắt xích của hệ thống tư bản chủ nghĩa lúc ấy, có nghĩa là cách mạng chỉ nổ ra trong một nước. Hai là, thực hành chính sách kinh tế mới, làm sống lại kinh tế` thị trường với chế độ đa sở hữu, kể cả phú nông và tư sản thành thị. Mà kết quả thì như chúng ta đã biết. Người ta cũng đã từng tranh luận, như vậy thì V.I Lênin phản lại C.Mác hay trung thành với Mác? Và thực tiễn đã đưa ra lời giải đáp. Với Hồ Chí Minh, một ví dụ thật sống động mà những người có hiểu biết chút ít về lịch sử cách mạng Việt Nam đều có thể hiểu rõ. Chính ở đây chúng ta cảm nhận được tầm mắt và bản lĩnh của Hồ Chí Minh. Từ những năm 1924, Người đã biết “tùy theo hoàn cảnh lịch sử” để vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng lý luận của C.Mác trong điều kiện của nước mình, nơi mà “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây. Vì thế Nguời cho rằng :”Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không có được “. Người lập luận : “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử , nhưng lịch sử nào ? Lịch sử châu Âu . Mà châu Âu là gì ? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại .” Vì thế , Người đòi hỏi phải biết” xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông “(7) Chính với tầm mắt và bản lĩnh ấy mà Nguyễn Ái Quốc đã trở thành Hồ Chí Minh !*** Trong thời đại của chúng ta đang sống “những tư liệu mà Mác ở thời mình không có được” đang tuôn trào như suối, thậm chí đang biến đổi với một tốc độ không lường trước được. Chúng ta hiểu vì sao mà C.Mác đòi hỏi thế hệ đi sau phải “đứng trên vai” chứ không phải “quỳ dưới chân” những người đi trước để tầm mắt có thể phóng xa hơn, trí tuệ có thể trải rộng hơn trong một thời đại mà biến đổi là hằng số của cuộc sống. Cách đây 10 năm, nhân đến dự một Hội thảo khoa học tại ĐH Trier, thành phố quê hương của C.Mác, tôi có may mắn đến thăm nhà bảo tàng C.Mác nằm bên bờ sông Mosel. Đứng lặng bên những trang bản thảo chi chít những dòng chữ ghi chú, thêm bớt hoặc gạch bỏ, tôi xúc động nghĩ đến sức nặng của những dòng chữ ấy trong hành trình của con người đi tìm chân lý. Cảm xúc ấy vẫn nguyên vẹn khi tôi viết những dòng này. Trí tuệ của C.Mác đang chắp cánh cho chúng ta. GS Tương Lai Chú thích: 1. Phạm Văn Đồng. “Văn hoá và Đổi mới”. NXBCTQG. 1974, tr.36 2. C.Mác & Ph,Angghen Toàn tập . Tập 28, NXBCTQG tr 661,662 3. C.Mác & Ph,Angghen Toàn tập . Tập 19. NXBCTQG tr.353 4. C.Mác & Ph,Angghen Toàn tập . Tập 17. NXBCTQG tr. 454, 455 5. C.Mác & Ph,Angghen Toàn tập . Tập 7. NXBCTQG tr.132 6. C.Mác & Ph,Angghen Toàn tập . Tập 19. NXBCTQG tr. 353 7. Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập I. NXBCTQG.1995, tr.465 Xem .Tương Lai. Tạp Chí Cộng Sản. Số 16 tháng 8 .2001, tr. 21 ** Xem Tương Lai. “Từ chuyên chính vô sản…“NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN”18.1.2006 *** Xem Tương Lai. “Nghĩ về tư tưởng Hồ chí minh” “NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN” ngày 3.2.2006
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:34:16 GMT 9
Đến bây giờ, ý tưởng này vẫn là điều tôi suy tư và trăn trở nhiều nhất khi lật lại vấn đề mà mình chưa thể thực hiện được, điều mà đồng chí Lê Duẩn đã có lần đòi hỏi. Tôi chỉ dám đề cập đến “một nét suy tư sáng tạo” trong tư duy của bộ óc lớn đó vì điều kiện tiếp cận của tôi là hết sức hạn chế, ngoài một số lần được tham gia vào buổi làm việc của đồng chí Lê Duẩn với nhiều đồng chí khác trong tổ lý luận, dạo đó do anh Hoàng Tùng phụ trách, tôi chỉ có hai lần được trực tiếp tiếp nhận những ý kiến của ông trao đổi riêng, yêu cầu suy nghĩ và thể hiện. Chưa thực hiện được trọn vẹn yêu cầu đó vì nhiều lý do, trong đó chủ yếu là do trình độ yếu kém của chính mình, vẫn là điều day dứt trong tôi suốt nhiều năm. Nhân kỷ niệm 100 năm sinh con người có bộ óc sáng tạo lớn đó, tôi chỉ mong tạ lỗi với ông về một mối ưu tư. Bằng sự trải nghiệm của một người làm công tác nghiên cứu, tìm hiểu những chặng đường lịch sử đất nước và suy ngẫm về thời cuộc, tôi cảm nhận được sức nặng trong lời căn dặn của ông : “Các anh cần nhớ kỹ một điều, chỉ lúc nào chúng ta độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn của đất nước, từ lợi ích của dân tộc, lúc ấy chúng ta mới thắng lợi; lúc nào chúng ta lệ thuộc, giáo điều sao chép của người ta, lúc ấy cách mạng phải trả giá nặng nề. Chúng ta không được quên điều đó, những người làm công tác lý luận càng không được quên điều đó, vì lý luận rất dễ giáo điều, sao chép”. Tôi nghĩ, có lẽ một biểu hiện của tư duy độc lập và sáng tạo, không sao chép, lệ thuộc và giáo điều ấy thể hiện trong việc suy ngẫm về phạm trù “làm chủ tập thể” của Lê Duẩn. Thật ra, còn nhiều điều cần được nghiên cứu nghiêm túc, cặn kẽ và triệt để về vấn đề lý luận gây nhiều tranh cãi này, nhất là sự vận dụng một cách thô thiển một vấn đề lý luận đang trong quá trình hình thành, bởi hiểu triệt để và hoàn chỉnh dần những vấn đề như thế là điều không đơn giản chút nào. Tôi nhớ đến một khuyến cáo của Các Mác: “Triệt để có nghĩa là hiểu sự vật đến tận gốc rễ của nó. Nhưng gốc rễ của con người chính là bản thân con người” (1). Hôm ấy, từ rất sớm, tôi nhận được điện thoại của anh Đống Ngạc "Tương Lai ơi, có việc đột xuất, mười phút nữa mình sẽ đến đón cậu”. Ngồi trên xe rồi, tôi hỏi “có việc gì mà gấp gáp thế”. Anh Đống Ngạc cười: “Cũng chẳng hiểu nữa, nhưng chắc vẫn như mọi hôm thôi. “Ổng” lại nghĩ ra điều gì đấy và điện cho mình gọi cậu lên, chắc Ổng muốn nói ngay với cậu để cho kịp với dòng suy nghĩ của Ổng, mà lịch làm việc ngày hôm nay thì kín cả rồi, để đến mai chắc là Ổng không muốn, sợ có điểm bị quên lãng đi”. Xe đỗ sát vào bậc thềm ngôi nhà trong khu Hồ Tây. Tôi bước vào đã thấy đồng chí Lê Duẩn đang từ trên cầu thang đi xuống. Ông có vẻ không được khỏe vì đang thời kỳ dưỡng bệnh sau một ca phẫu thuật nhẹ. Đứng ngay ở lưng chừng cầu thang, một tay nắm chắc vào thanh vịn, ông cười và nói: “Chắc là anh chưa kịp ăn sáng, thôi nói xong rồi ta ăn một thể. Tôi muốn nói ngay những điều tôi vừa suy nghĩ tối hôm qua, vấn đề thuộc lĩnh vực của anh đấy. Vấn đề văn hóa, sức mạnh của văn hóa đối với kinh tế và sự nghiệp của chúng ta. Một trong những điều mà tôi nói mãi các anh vẫn chưa thể hiện được, vấn đề làm chủ tập thể. Hướng đi của anh đúng, phải đặt nó trong việc nghiên cứu về con người , về văn hóa , về triết lý của sự phát triển. Đây là một phạm trù triết học, không phải chỉ là chuyện tổ chức thực hiện ngay được đâu ”. Và rồi cứ thế, ông nói một mạch những điều ông vừa suy nghĩ. Tôi cũng không kịp ghi ở trong tư thế đứng ở lưng chừng cầu thang như vậy. Và dường như ông cũng không kịp nhớ hoặc không cần biết là mình đang đứng ở đâu. Mạch ý tưởng tuôn trào trong dòng tư duy của ông. Và rồi sau đó, ông cũng quên mất chuyện “rồi ta ăn sáng một thể”, khi tôi theo ông vào phòng khách, ông lại tiếp tục nói thêm, bổ sung những điều mà ông lưu ý: “Đang còn lộn xộn lắm, tôi nghĩ sao nói vậy, nhưng mà nghĩ kỹ, nghĩ lâu rồi đấy. Tối qua mới khái quát lại thôi, cho nên anh phải sắp xếp, lược bỏ giúp chứ không thì rồi tôi quên mất. Mà các anh phải làm thôi, tôi chỉ nghĩ và nói như thế, việc còn lại là của các anh. Thôi nhé, Đống Ngạc, ta đi thôi, đến giờ rồi”. Tôi hiểu việc của mình thế là đã xong. Bắt tay ông xin phép về, ông cười “cố gắng nhé”. Tôi cũng không biết là sau khi tiễn tôi, anh Đống Ngạc có kịp nhắc bữa ăn sáng cho ông không. Nhưng “câu chuyện giữa cầu thang” hôm ấy cứ luôn trĩu nặng trong tôi. Những vấn đề tôi được lĩnh hội hôm đó, về sau chỉ thể hiện được vài ý trong cuốn sách, không hiểu có phải là cuốn sách cuối cùng của đồng chí Lê Duẩn không: “Nắm vững quy luật Đổi mới quản lý kinh tế”, ở chương 5 , nói về văn hóa. Nhưng tôi nghĩ, ở đây cũng chỉ là nói thêm một vài điều trong tư tưởng của đồng chí Lê Duẩn mà ở Nghị quyết Đại hội V đã viết “Nền văn hóa mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hóa khoa học hiện đại”. Những vấn đề lớn khác vẫn chưa được trình bày. Mà thật ra, cũng khó lột tả được những vấn đề mà Lê Duẩn đang nung nấu, suy ngẫm. Tôi muốn nói là đang. Vì phạm trù “làm chủ tập thể” mà Lê Duẩn hay nói đến vẫn hoàn chỉnh dần trong dòng tư duy về một nguyên lý , mà theo ông , tất yếu sẽ đến trong sự vận động đi lên của cuộc sống. Ở đây, tôi thấy cần phải nói ra một điều mà trong sách báo dạo ấy cũng như sau này ít nói đến. Đó là, chính người đề xướng quan điểm “làm chủ tập thể” cũng lại là con người rất coi trọng vai trò của cá nhân. Nếu tôi không nhầm thì trong những năm của nửa đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, lúc mà cuộc chiến đấu chống Mỹ đang đi vào thời kỳ đòi hỏi sự động viên tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình quyết liệt nhất, thì người nhấn mạnh phải coi trọng cá nhân con người chính là Lê Duẩn. Trong bài nói chuyện với sinh viên và thầy giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1962, đồng chí nhắc nhở :”Đã là một người thì phải có cái riêng của con người, không thể có một con người siêu hình, không thể phá đơn vị con người. Không có cái riêng của con người nữa thì xã hội sẽ mất hết ý nghĩa, mất cơ sở” (2) . Nhắc đến điều này để nói đến một trong những nội dung sâu xa của quan điểm “làm chủ tập thể”. Trong “câu chuyện giữa cầu thang” hôm ấy, tôi rất chú ý đến một vấn đề. Đó là điều Lê Duẩn đề cập đến những suy nghĩ của ông về cái đúng và chưa đúng của “nhà nước toàn dân”, một vấn đề lý luận mà các nhà lãnh đạo Liên Xô bấy giờ đang tìm cách vận dụng vào quá trình tìm tòi, thay thế cho “nhà nước chuyên chính vô sản” trên đất nước Xô Viết. Tôi gợi lại đây những điều còn nhớ được, trên đại thể, về những vấn đề Lê Duẩn trăn trở và nói ra : “tôi tranh cãi với ông Brêgiơnép về chuyện này, “các Anh” nóng vội và không biện chứng. Mác có nói: giai cấp vô sản phải tự xóa bỏ mình, vậy thực hiện điều đó như thế nào? Loài người đi lên bằng sự phủ định biện chứng, chế độ nô lệ tự phủ định mình để cho chế độ phong kiến ra đời, trong đó cả nô lệ và chủ nô đều bị phủ định. Chế độ phong kiến cũng vậy, cả nông dân lẫn địa chủ đều bị phủ định để cho chế độ tư bản ra đời. Và tư bản với vô sản đều là sản phẩm của nhau, cái này dựa vào cái kia để mà tồn tại. Không có vô sản thì làm sao có tư sản và ngược lại. Cách mạng vô sản giành thắng lợi để thực hiện khẩu hiệu của Mác “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Và như thế là cũng để giai cấp vô sản tự phủ định mình, chứ không phải để giai cấp vô sản ngồi lên ghế thống trị. Các Anh nói là thực hiện Nhà nước toàn dân tức là thực hiện chuyên chính vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa Cộng sản đã bước đầu được thực hiện, là không đúng”. Ông nhắc đến những câu của C.Mác bằng tiếng Pháp mà khi về nhà, lục lọi trong trí nhớ để rồi lật sách ra xem lại, tôi mới đọc thấy câu ấy trong “Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”: "Triết học không thể trở thành hiện thực nếu không xóa bỏ giai cấp vô sản; giai cấp vô sản không thể xóa bỏ được bản thân mình nếu không làm cho triết học biến thành hiện thực”(3). Đây là những dòng kết luận khi C.Mác bàn về nước Đức để chỉ ra rằng “chúng ta (nước Đức) là những người cùng thời về mặt triết học của thế kỷ hiện nay, chứ không phải là những người cùng thời về mặt lịch sử của thế kỷ hiện nay” (4) . Thật ra, đối với ông, những trích dẫn chính xác không phải là điều ông quan tâm, tôi nghĩ như vậy. Ông là người không câu nệ, ông suy nghĩ với chính bộ óc của mình, và không ngần ngại nói ra những ý nghĩ của mình để mọi người cùng suy nghĩ, bổ sung, phê phán. Tôi nhớ, trong những buổi trao đổi và lắng nghe, ông tranh luận thoải mái, cũng có lúc rất quyết liệt. Với riêng tôi, người ít tuổi nhất, ít kinh nghiệm nhất và “chức vụ” cũng thấp nhất trong nhóm thường được ông gọi đến làm việc, cũng vậy thôi. Trong một lần , ông gọi tôi đến để hỏi xem tôi đã suy nghĩ được đến đâu những vấn đề mà ông đã nói, “câu chuyện bên cầu thang”, tôi có nói lại về ý tưởng của C.Mác mà ông đã nhắc lại, theo tôi, đó là C.Mác nói về triết học Đức, rất xa với ý tưởng về “nhà nước toàn dân” cùng với sự phê phán và lập luận của ông. Ông trầm ngâm rồi sau đó sôi nổi nói tiếp : “thế là anh chưa đồng ý với lập luận của tôi chứ gì? Thì anh thử nêu lên những lập luận của anh về vấn đề này xem sao”. Tôi không muốn “mạo hiểm” nên trả lời là xin hãy cho tôi suy nghĩ thêm. Ông cười, “thật ra, chuyên chính vô sản cũng chỉ cần thiết trong một giai đoạn nào đó mà thôi. Họ nêu “nhà nước toàn dân” có cái lý của họ. Chỉ có điều, đứng về triết học thì không biện chứng. Khi cách mạng vô sản thành công rồi, có nghĩa là tư sản và vô sản đều đã bị phủ định, nói là xóa bỏ như Mác đã dùng trong đoạn mà anh trích đó cũng được, là lấy cái ý thôi, điều quan trọng là một thực thể mới phải ra đời. Tên gọi của thực thể mới đó là gì, cũng không quan trọng, cái chính phải dứt khoát trong tư duy lý luận là nó không còn như cũ nữa.” Tôi thưa với ông là trong tác phẩm “ Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác cũng có nói : “Chúng ta hãy cho rằng, lịch sử hiện thực, lịch sử theo thứ tự thời gian, là trật tự lịch sử theo đó những ý niệm, những phạm trù, những nguyên lý đã hiện ra. Mỗi nguyên lý đã từng có thế kỷ của nó, để biểu hiện ra. Mỗi nguyên lý đã từng có thế kỷ của nó, để biểu hiện ra ở đó: nguyên lý quyền uy chẳng hạn thì có thế kỷ XI, cũng như nguyên lý chủ nghĩa cá nhân có thế kỷ XVIII. Suy từ kết quả này sang kết quả khác, chúng ta phải nói rằng chính thế kỷ thuộc về nguyên lý chứ không phải nguyên lý thuộc về thế kỷ. (5) Chính vì thế mà C.Mác đã cho rằng “Tư tưởng cố sức biến thành hiện thực vẫn chưa đủ; bản thân hiện thực cũng phải cố sức hướng tới tư tưởng” (6). Ông trầm ngâm, “hiểu cho thấu được những diễn đạt của Mác không dễ đâu. Anh em ta nhiều khi vội vã và sơ lược quá. Làm cho dễ hiểu những tư tưởng triết học của Mác nhiều khi lại dung tục hóa lý luận của Mác. Phải làm sao hiểu cho được thực chất điều Mác định nói, hiểu được dòng tư duy của nhà triết học ấy, rồi gắn với hiện thực của nước mình, suy nghĩ về hiện thực của mình, vận dụng vào thực tiễn đất nước, biến lý luận cách mạng thành sức mạnh vật chất. Tôi nghĩ, tôi nói, là nghĩ và nói với các anh những cái mà tôi thường xuyên lật đi, lật lại trong óc mình cái lý cần phải hướng tới. Tôi nói về “tình thương” và “ lẽ phải” cũng là trên tinh thần đó. Cái “lẽ phải” lớn nhất là giải phóng dân tộc, là làm cho đất nước ta, dân tộc Viêt Nam ta phải bứt lên không thua kém với bất cứ nước nào. Bây giờ ta đã có cả đất nước trong tay, không làm cho dân ta đỡ nghèo, đỡ khổ là ta có tội với tổ tiên, với xương máu của biết bao nhiêu người đã đổ ra. Tôi lạ là nhiều anh bây giờ kể công ghê lắm, cứ nghĩ mọi việc có được ngày nay là do mình. Quy công vào mình là có tội với đất nước đấy. Công là công của cả dân tộc, của nhân dân, ai có tư tưởng công thần là không xứng đáng đứng trong hàng ngũ của chúng ta. Tôi nghĩ đến “làm chủ tập thể”, là nghĩ đến cái biện chứng mà Mác đã vận dụng để trình bày con đường phát triển của lịch sử. “Làm chủ tập thể” là mục tiêu phấn đấu của chúng ta trong cuộc cách mạng này. Nó khác hoàn toàn với những gì đã có. Một thực thể mới mà. Không phải là phong kiến và tư bản thì rõ ràng rồi. Nhưng nó cũng không phải là nông dân và công nhân. Vì tiêu diệt phong kiến rồi thì mặt đối lập của nó là nông dân cũng bị phủ định chứ. Vô sản cũng vậy thôi. Cho nên cứ nói “chuyên chính vô sản” mãi, khi mà nhân dân đã làm chủ đất nước, làm chủ vân mệnh của mình rồi thì không hợp nữa. Vô sản lại chuyên chính với nhân dân à. Đâu có. Phải cùng làm chủ cả thôi. Cái lý là như vậy, cái “lẽ phải” là như vậy. Nhưng làm được đến đâu thì còn phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, sức mạnh văn hóa mà chúng ta đang gắng công xây dựng. Nhất là xây dựng con người.. Xây dựng con người làm chủ tập thể là vô cùng khó. Vì anh nông dân, anh tiểu tư sản, cả anh công nhân của ta nữa, cũng là sản phẩm của một xã hội tiểu nông, tủn mủn, hạn hẹp, còn khát khao tư hữu lắm. Mà chưa thể xóa bỏ tư hữu trong lòng họ được đâu. Đây là một cuộc cách mạng trường kỳ, cuộc cách mạng về tư tưởng văn hóa. Cuộc cách mạng này làm động lực cho kinh tế. Mà kinh tế không lên thì chỉ nói tư tưởng suông là không xong. Phải làm cho kinh tế mạnh lên, đồng thời làm cho văn hóa cao lên, tư tưởng cao lên thì rồi mới có độc lập vững bền được. Đó là hướng tới “làm chủ tập thể” đấy . Cuộc cách mạng này khó khăn lắm, sâu sắc lắm, nhiều người chưa thấy hết đâu. Rồi thêm anh có quyền trong tay lại cũng dễ thoái hóa, hư hỏng. Xây dựng khó hơn phá bỏ nhiều lắm. Về chuyện này thì chúng ta đang làm rất dở, dở lắm mà không chiu học. Vì dở như vậy cho nên chưa thực hiện được “làm chủ tập thể” như điều mà tôi nói đâu. Nhưng rồi phải như vậy thôi, không khác được. Nếu không, ta làm cách mang, hy sinh xương máu của bao nhiêu thế hệ để làm gì? Là để ta xây dựng một xã hội khác hẳn với những xã hội trước đây, xã hội không có ngưới áp bức nguời, người thống trị người. Một xã hội trong đó mọi người đều làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân như Mác và Angghen đã từng mơ ước, đã từng nói đến. Nói ở trong tác phẩm nào, anh có nhớ không? Tôi bị bất ngờ, lúng túng trả lời: “Dạ, hình như trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khi Mác và Angghen nói rằng “tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp” để dẫn đến ý tưởng “sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”, và hình như cả trong cuốn “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học” , đoạn Angghen phân tích về “bước nhảy của con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc của tự do”. Nhưng mà còn lâu lắm mới có được bước nhảy ấy và có lẽ bây giờ cũng không hình dung nổi loài người sẽ thực hiện bước nhảy đó như thế nào đâu ạ”. Tôi cứ nói liều suy nghĩ của mình, cũng là để gỡ cái thế bí , vì tôi không nhớ được thật chính xác ý tưởng của Angghen mà hình như người hỏi tôi lại muốn nghe điều ấy. Có lẽ vì chính ông muốn kiểm nghiệm lại dòng suy tưởng của mình. Ông cười, rồi cũng không quan tâm đến việc tôi có nhớ hay không nhớ điều ông hỏi. Vì với ông, ông không câu nệ về câu chữ, lại càng không nô lệ vào những trích dẫn, ông chỉ nói: "Lâu, lâu lắm, nhưng nếu ngại lâu mà bây giờ không bắt đầu thì không bao giờ đến được cái đích mà chúng ta mong muốn. Anh còn trẻ không hiểu được rằng những ngày chúng tôi ngồi trong nhà tù Côn Đảo, chúng tôi đã nghĩ về cái đích ấy. Chính vì thế mà chúng tôi đủ sức mạnh và nghị lực chiến thắng cái chết, chiến thắng kẻ thù. Chính tôi cũng không nghĩ là tôi còn sống để thấy được đất nước mình giải phóng, được độc lập thống nhất. Nhưng dù mình không còn sống thì sự nghiệp của mình sẽ vẫn được thực hiện. Mà bây giờ thế là ta đã có cả, nhưng lúc này có cả rồi thì lại lắm hư hỏng. Nhưng mà rồi chúng ta phải đấu tranh để cho cái xã hội tốt đẹp đó được thực hiện. Từng bước thôi. Đừng nóng vội.” Tuy ông nói vậy, nhưng tôi thầm nghĩ, chính ông đang nóng vội, song không dám nói điều ấy ra. Nhưng rồi tôi cũng hiểu được lý do sự nóng vội đó khi biết ra rằng, lần nói chuyện hôm ấy là lần cuối cùng tôi được làm việc với ông. Khi nghe tin ông mất, tôi lẩn thẩn ngồi lật lại trang sách của cuốn “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học” mà khi ông hỏi tôi không nhớ ra. Tôi thẫn thờ trước ý tưởng “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hôi của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do” (6). Để rồi lẩn thẩn trong suy tư: “từ không tưởng đến khoa học” quả là không hề có một bức “vạn lý trường thành“ nào ngăn cách cả. Những dự phóng “khoa học”, cho dù là thiên tài, liệu rồi có rơi vào một “không tưởng“ khác không? Vì phải chăng, không có trí tưởng tượng phong phú, khó mà có được tìm tòi, sáng tạo trong khoa học. Nhưng, ranh giới giữa trí tưởng tượng chắp cánh cho tư duy với những thoáng không tưởng trong suy tư quả là quá mong manh. Hình như, C.Mác đã từng viết trong thư gửi An-nen-cốp: "tôi đã bị nhiều người căm thù vì tôi diễu cợt cái chủ nghĩa xã hội đa cảm, không tưởng và ngu ngốc" đấy ư? Và cũng chính C.Mác đòi hỏi phải làm cho “con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người suy nghĩ, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình với tư cách là con người thoát khỏi ảo tưởng, trở nên có lý tính; để con người xoay quanh bản thân mình và cái mặt trời thật sự của mình” (7) đấy sao? Viết như vậy, nghĩ như vậy, nhưng có lẽ nếu giờ đây mà còn có điều kiện nhìn lại những dòng ý tưởng của mình, chắc C.Mác sẽ mỉm cười mà nói rằng: thoát khỏi ảo tưởng quả là quá khó. Sự nghiệp vĩ đại của C.Mác là một sự nghiệp đang dang dở, cực kỳ dang dở. Ngay cả bộ “Tư bản” mà C.Mác đã dành phần lớn thời gian của đời mình nghiên cứu và viết ra, sinh thời, C.Mác cũng chỉ bằng lòng cho xuất bản cuốn I mà thôi. Cuốn thứ II và thứ III thì ông vẫn còn tiếp tục suy nghĩ, sửa chữa trong cả gần 17 năm, trước khi mất vẫn không chịu cho xuất bản vì cảm thấy vẫn còn phải hoàn chỉnh, bổ sung. Với tác phẩm ấy, như người ta nhận xét, C.Mác đã đặt một miếng sắt nung đỏ vào chính giữa mặt chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX . Từ sự phê phán quyết liệt ấy mà hé lộ ra những dự phóng về xã hội mới sẽ ra đời. Nhưng nghĩ cho kỹ thì thật ra, C.Mác không hề tưởng tượng ra hoàn toàn một xã hội “mới” nào cả. Còn Ph Angghen khi nói về “xã hội mới” đó thì chỉ rõ rằng nó “sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên... Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào”(8). Ở đây có một vấn đề đặc biệt cần lưu ý: vấn đề nhà nước. Cả C.Mác, Ph.Aêngghen cũng như V.I Lênin, mặc dù đã có nhiều trang viết, nhiều tác phẩm về nhà nước cách mạng, về nhà nước vô sản, nhà nước công nông, nhưng cho đến nay, lý luận về nhà nước mà học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen với sự bổ sung của V.I Lênin muốn có, thì vẫn đang là một câu hỏi nhiều hơn là một câu trả lời. Ngay như tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” của V.I Lênin đã một thời làm sách gối đầu giường của nhiều nhà hoạt động cách mạng giành chính quyền và xây dựng chính quyền. Thế nhưng, với sự kiểm nghiệm của thời gian, người ta thấy rằng, trong đó những tư tưởng lý luận về nhà nước khi đi vào thực tế, đã gặp quá nhiều trở ngại đến mức trở thành ảo tưởng không thể thực hiện được. Và, cuối cùng để lại, lại là nỗi day dứt, lo lắng của V.I Lênin ngày càng tăng về tính chất quan liêu và sự tha hoá của bộ máy nhà nước. Cho đến khi V.I.Lênin mất vẫn chưa có lý luận về nhà nước, về cơ cấu và cơ chế hoạt động của nhà nước kiểu mới. Hệ luỵ của điều này thì quá lớn. Phải chăng đây chính là điều mà Lê Duẩn trăn trở, tìm tòi. Là người gánh vác trọng trách Tổng bí thư của Đảng lâu nhất trong lịch sử Đảng, Lê Duẩn là người hết sức quan tâm tạo điều kiện để Nhà nước thực thi chức trách quản lý của mình. Ông thường nhắc nhở Đảng lãnh đạo thế nào để Nhà nước quản lý tốt nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cũng chính ông là người đề xướng cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Ý tưởng “làm sao bảo đảm đầy đủ dân chủ trong điều kiện một Đảng lãnh đạo. Vấn đề mà Đại hội VII đặt ra, Đại hội X nhắc lại, vốn đã từng là vấn đề mà nhà chính trị, nhà lý luận Lê Duẩn trăn trở, tìm tòi. Bộ óc lớn ấy không ngừng vận động, luôn luôn bứt phá, mà một trong những tìm tòi suy nghĩ tập trung nhất cũng là vấn đề ấy. Bởi lẽ, chính trị không gì khác, là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch ra hướng đi cho nhà nước đó, là việc xác định những hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước như V.I Lênin từng viết. Nói đến chính trị thì trước tiên là nhà nước thuộc về ai, cũng tức là quyền lực nhà nước và tất cả những mối mối tương tác của quyền lực do ai quyết định. Làm thế nào để “quyền lực là của nhân dân và chỉ ở nhân dân mà thôi”. Làm thế nào để nhân dân giao quyền mà không mất quyền và các thực thể quyền lực được giao quyền mà không tiếm quyền của nhân dân. Đấy là vấn đề quyết định nhất và cũng là cam go nhất trong việc xây dựng Nhà nước từ trước đến nay. Và đấy cũng là vấn đề lý luận và thực tiễn lớn nhất đặt ra cho nhà lý luận Lê Duẩn. Đó là cội nguồn của sự tìm tòi về một phương thức lãnh đạo, một hình thức nhà nước nhằm thực thi quyền lực của nhân dân, người chủ của xã hội mới. Và chính đó cũng là cội nguồn của sự hình thành trong tư duy Lê Duẩn phạm trù “làm chủ tập thể”. Từ những đường nét phác thảo trong tư duy lý luận đến sự vận dụng vào thực tế, được sự khảo nghiệm của cuộc sống là cả một hành trình hết sức phức tạp. Số phận của những tư tưởng lý luận được quyết định không phải bởi nhận thức, mặc dù ngay ở khâu nhận thức cũng đòi hỏi một trình độ hiểu biết và phương pháp tiếp thu, mà quyết định là ở thực tiễn với ưu thế của nó không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp. Sự khảo nghiệm đúng sai là ở tính hiện thực trực tiếp này. Nhưng cũng chính ở đây, trình độ nhận thức của người vận dụng lý luận vừa có thể phát huy và nâng cao tác dụng của nó, nhưng cũng có thể làm sai lệch, thậm chí xuyên tạc nó bằng sự dung tục và thiển cận. Vì thế, hoàn toàn dễ hiểu về những hạn chế, thậm chí những sai lầm, những tác hại do cách vận dụng một tư tưởng lý luận chưa được định hình một cách thật sáng tỏ. Phạm trù làm chủ tập thể hình thành trong suy tư về vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. Phải biết tước bỏ những cách hiểu dung tục, thô thiển để nhìn vào chiều sâu triết lý về sự vận động của lịch sử hướng tới một hình thái xã hội mới ra đời ngay trong lòng xã hội hiện tồn. Đó là khi bằng cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân trong một nhà nước dân chủ, thì không thể áp dụng hình thức “nhà nước chuyên chính vô sản” được nữa. Tôi hiểu hạt nhân của triết lý làm chủ tập thể chính là sự khẳng định “quyền hành và lực lượng đều nơi dân”, và đấy cũng là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà cũng chính Hồ Chí Minh là người đầu tiên nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Trong bài “Đạo đức công dân” đăng trên báo “Nhân Dân” ngày 15.1.1955, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”. Vì vậy, có thể nói, thực chất của sự hình thành luận điểm “làm chủ tập thể” của Lê Duẩn là nhằm thay thế cho lý luận về “Chuyên chính vô sản” mà với cương vị là người có trách nhiệm lớn nhất với đất nước, với dân tộc, ông không đồng tình. Nếu phạm trù làm chủ tập thể được nhận thức một cách thô thiển và giản đơn, nhất là khi cố làm cho một phạm trù triết học được diễn đạt một cách “dễ hiểu” dẫn đến việc vận dụng một cách máy móc thì không sao tránh khỏi những những lệch lạc tai hại. Đặc biệt khi sự vận dụng và tụng ca một chiều , đẩy tới sự cực đoan do sự chi phối của chủ nghĩa cơ hội với những động cơ không trong sáng, sẽ làm trầm trọng thêm những lệch lạc không đáng có. Đương nhiên , tác giả của quan điểm đó, với cương vị của một người lãnh đạo cao nhất chứ không phải chỉ là một nhà lý luận luôn trăn trở với những suy tư triết học, không thể không chịu trách nhiệm về sự vận dụng lệch lạc đó. Khi nói đến điều này, tôi không quên lời nhắc nhở của Ph.Angghen về việc đánh giá nhân vật lịch sử căn cứ vào những gì họ đã làm được cho lịch sử, những cái chưa làm được lại thuộc vào điều kiện lịch sử. Điều mà tôi muốn nói chính là những trăn trở về những vấn đề lý luận có tầm khái quát cao của bộ óc luôn luôn làm việc, không chịu bằng lòng một cách dễ dãi với những lối mòn quen thuộc ấy. Hình như những nhà tư tưởng khi để cho dòng tư duy của mình truy đuổi theo những khát khao phát hiện và khám phá đều không thoát khỏi một chút lãng mạn không tưởng nào đó mà tôi đã có gợi lên ở trên. Vừa rồi đây, trong trả lời nhà báo, anh Việt Phương, người có 53 năm gắn bó với nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng có nhận xét rằng: “Đồng chí Phạm Văn Đồng là một người rất lãng mạn…Đồng chí ấy rất thích một câu đầy chủ nghĩa lãng mạn, mà chủ nghĩa lãng mạn của thế kỷ XVII-XIX cơ. Đó là câu nói của Victor Hugo: "Trước trí tuệ siêu việt thì ta cúi đầu bái phục, trước lòng tốt cao cả thì ta quỳ gối tôn thờ” (9). Phải chăng một tư tưởng luôn luôn là là sát mặt đất với những toan tính cụ thể hằng ngày, không chịu và không dám cất cánh mạo hiểm bay lên không trung có phần choáng ngợp và khó lường những hiểm nguy có thể xảy ra, sẽ không bao giờ bị nhuốm màu lãng mạn, không tưởng. Tôi nghiệm ra như thế và cũng có thể là tôi sai, nhưng xin cứ được mạnh dạn nêu lên, cũng là một cách thực hiện cái quyền được suy nghĩ. Và tôi suy nghĩ về một con người có cái đầu luôn luôn tìm tòi, suy ngẫm. Con người ấy luôn bắt bộ óc mình phải làm việc, dòng tư duy không hề ngưng nghỉ đó luôn được khởi động bởi sức mạnh của một “tình thương và lẽ phải” mà ông theo đuổi. Con người ấy đúng là một nhà lý luận theo cách hiểu của tôi, một người làm công tác nghiên cứu đã có may mắn trong một thời gian rất ngắn được tiếp xúc với ông. Do đặc thù của công tác nghiên cứu, có chút ít thể nghiệm trong tìm tòi suy ngẫm, tôi hiểu được “con đường khổ ải” của một nhà lý luận có tư duy độc lập và sáng tạo. Phải chăng Lê Duẩn là người đã từng trải qua “con đường khổ ải” đó? Ông phàn nàn, ông phê phán những tư tưởng hạn hẹp chỉ bó gọn tầm mắt và mối quan hệ trong COMECOM, ông nghĩ đến việc phải học hỏi thêm những thành tựu kinh tế và mở rộng quan hệ với Châu Âu, với Nhật, với Mỹ. Ông cho rằng đó không chỉ là chuyện chính sách và chiến thuật, mà phải ở tầm đường lối cơ bản. Trong hồi tưởng đăng trên “TS” ngày 4. 4.2007, đồng chí Võ Văn Sung đã kể lại: “Những lần có dịp đi nghỉ hay đi công tác tại Liên Xô và các nước Đông Aâu, Anh Ba đều gọi tôi lúc đó làm Đại sứ ở Pháp sang với Anh và mỗi dịp tôi về nước họp hoặc làm việc, anh đều gọi tôi đến gặp để hỏi và trao đổi những vấn đề kinh tế khoa học kỹ thuật và hợp tác kinh tế với các nước phương Tây, tình hình phát triển ở các nước đó và khả năng quan hệ của ta với họ… Anh đặc biệt quan tâm hỏi về lĩnh vực điện tử các ngành điện gia dụng, chỗ mạnh của các nước phương Tây và chính sách khoa học kỹ thuật của họ. Đối với Việt kiều, anh cũng hay hỏi tôi về khả năng huy động họ vào việc xây dựng đất nước”. Ông hay nhắc đi, nhắc lại: “Nói gì thì nói, làm gì thì làm, cuối cùng là nhịp độ và trình độ phát triển kinh tế để nâng cao các mặt đời sống nhân dân. Không làm được như vậy thì nói làm chủ tập thể chỉ là nói suông, thậm chí là nói dối”. Vì thế, ông cũng đã từng nói đến kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân chứ không phải ông chỉ nhấn mạnh quốc doanh là ưu việt nhất một cách tràn lan mọi ngành, mọi lúc. Trong tâm tưởng của ông, ông vẫn dành cảm tình cho vấn đề “khoán hộ” của đồng chí Kim Ngọc ở Vĩnh Phú, mặc dầu lúc ấy đã có kết luận chính thức về vấn đề này, song ông vẫn động viên cần tiếp tục tìm tòi cái mới trong quản lý sản xuất nông nghiệp. Đôi lần ông phê phán những khuyết tật cơ bản của kế hoạch hóa tập trung quan liêu, và trong việc tìm cơ chế mới, ông thấy vai trò của giá, của tài chính tiền tệ, điều mà bây giờ đây chúng ta hiểu rõ đó là cơ chế, là công cụ và đòn bẩy chính của kinh tế thị trường. Từ rất sớm, bộ óc lớn ấy đã từng bung phá và lóe sáng những suy tư về đổi mới mà sau này càng thấy rõ ý nghĩa khai phá của những suy tư Lê Duẩn. Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, trong bài trả lời phỏng vấn TS ngày 5.4. 2007 cho biết “năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế` nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới… Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không”. Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc của tư tưởng giáo điều “tả” khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để vượt ra khỏi những áp đặt. Mười năm xây dựng đất nước trong hoà bình sau 1975 với những sai lầm đáng tiếc của mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, cái mô hình mà ông từng bước cố tháo gỡ vì đã phần nào nhận ra được sự bất cập của nó, nhưng vẫn không thoát ra khỏi được, làm chậm sự phát triển của đất nước. Hoặc cũng có thể nói, theo suy nghĩ của riêng tôi, tuy thấy được những nguy hại của chủ nghĩa giáo điều, “tả” khuynh, nhưng hình như vẫn chưa thấy được thật rõ, mức độ thấy cũng chưa tới được cái ngưỡng để thắng hẳn cái cũ, tạo ra cái mới. Đó chính là “con đường khổ ải“ mà tôi nói ở trên. Là người luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi và bứt phá với một tư duy độc lập, sáng tạo, song Lê Duẩn không vượt qua nổi những điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, nói như Gs Trần Phương, “trong bối cảnh chính trị lúc đó, nhiều người cộng sản xuất sắc của thế giới cũng đã không thoát ra khỏi sự áp đặt của mô hình kinh tế của Liên Xô”. Phải chăng, bi kịch của những nhân vật lịch sử lại cũng thường rơi vào những điều kiện ràng buộc và áp đặt, khiến cho tư tưởng tuy muốn thoát ra khỏi những ràng buộc và áp đặt đó mà vẫn không được, vì còn có nhiều nguyên nhân phức tạp khác. Thậm chí có lúc gần như ra khỏi được rồi nhưng lại phải quay vào, muốn là “ta” mà vẫn cứ vướng vào “người”, muốn “sáng tạo” nhưng rồi không thực thi được sự sáng tạo đó để rơi vào những bất cập. Trong những bất cập ấy, có trách nhiệm không thể thoái thác của một số người mà ông sở cậy, tin tưởng trao đổi những ý tưởng loé sáng trong ông và yêu cầu họ cùng ông thể hiện ra, làm sáng tỏ, tranh luận để bổ sung hoặc bác bỏ, nhằm làm cho những loé sáng trong bộ óc luôn luôn suy nghĩ, luôn luôn tìm tòi đó có được hình hài nghiêm chỉnh và bài bản. Tôi nhớ như in câu ông hay nói :“tôi nghĩ như vậy, còn lại là các anh phải viết ra, phải làm cho hoàn chỉnh”! Nhưng rồi ai làm? Có ai làm không? Liệu những sự “vùng vẫy, bứt phá” của Lê Duẩn có góp phần cho những người đi sau tiến được một số bước xa hơn không?
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:35:00 GMT 9
Quả thật, theo sự hiểu biết còn hạn hẹp của tôi, tôi nghĩ rằng giới lý luận ở ta chưa góp phần đẩy những bứt phá của bộ óc năng động và sáng tạo đó đi đến những quyết định cụ thể được vận dụng vào thực tiễn. Cũng chưa có được những công trình nghiên cứu nghiêm túc về tư tưởng Lê Duẩn, về những di sản lý luận của ông, nhằm tìm ra trong đó những “hạt ngọc”, những đóng góp của Lê Duẩn về tư duy lý luận, thay vì tiếp tục những “tụng ca” vô lối, hoặc những sự phủ định thiển cận và xu thời. Có một thực tế đáng buồn là người “ăn theo, nói leo” thì “hơi bị nhiều”, người “lựa gió xoay chiều” thì lại không ít, còn người nghiêm túc đeo đuổi một sự nghiệp lý luận nghiêm chỉnh và dũng cảm trong tư duy, mạnh dạn trong tranh luận thì còn quá hiếm.
Khi kết thúc bài viết ngắn nhân kỷ niêm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Duẩn, cảm nhận đậm nét trong tôi về ông vẫn là ấn tượng về một nhà tư tưởng, một nhà lý luận, mặc dầu tôi hiểu rõ rằng, con người ấy, bộ óc ấy có sự đóng góp quyết định vào việc hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Bao nhiêu năm đã trôi qua, “câu chuyện bên cầu thang” dạo nào như sống dậy trong tôi, khơi động một kỷ niệm thật đẹp về một con người.
Đến bao giờ thì lịch sử lại sản sinh ra những con người như vậy? Bao giờ?
Tương Lai
Chú thích : 1 . C.Mác & Ph Angghen Toàn Tập. Tâp I. NXBCTQG .Hà Nội .1995 .tr.580 2 . Lê Duẩn. “Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” . NXB Sự Thật. Hànôi 1976 . tr 153 3. C.Mác & Ph.Angghen toàn tập. Tâp I. NXBCTQG .Hà Nội .1995 tr 590 4. C.Mác & Ph.Angghen toàn tập. Tâp I. NXBCTQG .Hà Nội .1995 tr 577 5. C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập Tập 4. NXBCTQG. Hanoi. 1995.tr 193 6. C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập Tập 19.NXBCTQG. Hanoi. 1995 tr. 330, 7. C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập Tập 1. NXBCTQG.Hanoi 1994. tr 570 8. C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập Tập 21. NXBCTQG.Hanoi 1995 tr.128 9. Báo “An ninh Thế giới cuối tháng”. Tháng 6.2006, tr.9
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 4:36:07 GMT 9
Ông Hoàng Minh Chính xuyên tạc Chủ nghĩa Mác như thế nào?
Nhà nước ta với chính sách nhân đạo của mình đã cho ông Hoàng Minh Chính đi Mỹ để chữa bệnh. Tuy nhiên, vừa sang đến Mỹ, ông ta lập tức nhảy lên đăng đàn diễn thuyết để lăng mạ chủ nghĩa Mác, nói xấu Đảng và Nhà nước Việt Nam, bịa đặt, xuyên tạc tình hình đất nước Việt Nam với thái độ bực tức, hằn học...
Riêng về chủ nghĩa Mác thử xem ông ta xuyên tạc và phủ nhận như thế nào?
Trong báo cáo tại Đại học Havard (Mỹ) với tiêu đề "Chủ nghĩa Marx và hệ lụy" ông ta công khai phê phán, xuyên tạc Mác và chủ nghĩa Mác - chủ nghĩa mà trước đây ông đã từng đi tuyên truyền, giảng dạy, tin tưởng, ca tụng thì giờ đây ông trở cờ, ông sám hối.
Khi nói về tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" do C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết, tuy phải thừa nhận "nó có tác dụng rất to lớn trong việc hình thành các Đảng Cộng sản và công nhân, tập hợp phong trào cộng sản thành Quốc tế cộng sản và ảnh hưởng rất rộng lớn tới xã hội loài người trong một thế kỷ rưỡi qua", song ông lại nói "Tuy nhiên tác phẩm đó đã mắc những sai sót cơ bản" (!).
Phần sau chúng tôi sẽ xem xét cái mà ông Chính gọi là "những sai sót cơ bản" của Mác là gì, có phải thật sự là "sai sót cơ bản" của Mác không, hay chính là sai sót cơ bản, sai lầm nghiêm trọng của ông Chính.
Để phê phán chủ nghĩa Mác, ông Chính viện dẫn ra những lý lẽ cũ rích của các nhà tư tưởng chống cộng trước đây xoay quanh 2 vấn đề "đấu tranh giai cấp" và "chuyên chính vô sản" với những câu trích dẫn xuyên tạc.
Ông nói: "Marx và Engels tuyên bố rằng "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" và ông coi "luận điểm này đi ngược lại lịch sử phát triển khách quan của xã hội loài người", bởi vì "sản xuất và thương mại, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển là cơ sở vật chất và nền tảng của xã hội. Trên nền tảng cơ bản đó được xây dựng thượng tầng kiến trúc là thể chế chính trị, giai cấp, nhà nước, pháp luật, văn hóa".
Hóa ra, ở đây ông Chính đã sử dụng một luận điểm duy vật lịch sử của Mác về sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, về vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng để phản bác lại luận điểm mác-xít về đấu tranh giai cấp mà ông tưởng tượng ra là đi ngược lại lịch sử phát triển khách quan của xã hội.
Chính Mác xuất phát từ cơ sở kinh tế, từ phương thức sản xuất để giải thích đấu tranh chứ không phải ngược lại. Do đó, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883 Ph. Ăng -ghen viết: "Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của "Tuyên ngôn" là: Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp..." (1).
Qua đó thấy rõ ông Chính đã trích dẫn một cách cắt xén câu trong "Tuyên ngôn", lờ đi sự bổ sung của Ph. Ăng-ghen trong Lời tựa và cố tình xuyên tạc tư tưởng của Mác về đấu tranh giai cấp.
Trong "Tuyên ngôn", Mác và Ăng-ghen không hề cường điệu vấn đề đấu tranh giai cấp. Khi nói rằng toàn bộ lịch sử thành văn là lịch sử đấu tranh giai cấp thì không có nghĩa là các ông chỉ biết có đấu tranh giai cấp mà quên các mặt khác của đời sống xã hội.
Trái lại, các ông muốn nhấn mạnh rằng đấu tranh giai cấp là quy luật khách quan tồn tại trong xã hội có giai cấp, đó là cuộc "đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ" (2) (chứ không thể có đấu tranh giai cấp chỉ một phía).
Cuộc đấu tranh giai cấp gắn với những điều kiện lịch sử nhất định, do đó khi điều kiện lịch sử thay đổi thì đấu tranh giai cấp cũng thay đổi hoặc mất đi. Vì vậy, lý tưởng của người cộng sản không phải là đấu tranh giai cấp muôn năm mà là giải phóng giai cấp công nhân, đồng thời giải phóng vĩnh viễn toàn xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Những tư tưởng trên đây của Mác trong "Tuyên ngôn" thật là sáng rõ nếu người ta không cố tình nhắm mắt, xuyên tạc nó như ông Hoàng Minh Chính đã làm. Để hiểu đúng quan điểm đấu tranh giai cấp của Mác cũng như các quan điểm khác trong chủ nghĩa Mác, cần phải đặt nó trong hệ thống của chủ nghĩa Mác, trong mối liên hệ với các luận điểm khác cũng như trong sự phát triển lịch sử của nó.
Mác không phải là người phát hiện ra sự tồn tại của giai cấp và đấu tranh giai cấp, công lao đó thuộc các nhà sử học tư sản Pháp như Chi-e-ri, Mi-nhê, Ghi-dô... Mác khẳng định: "Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; 2. Đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn tới chuyên chính vô sản, bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không giai cấp" (3).
Như vậy, Mác coi chuyên chính vô sản chỉ là phương tiện để đi tới một xã hội không giai cấp, là phương tiện để giải phóng giai cấp công nhân và toàn xã hội khỏi áp bức và bóc lột, chứ không phải là mục đích.
Vì vậy ông Chính hoàn toàn xuyên tạc khi nói rằng "các đảng cộng sản cầm quyền coi chuyên chính vô sản là bửu bối tuyệt hảo, là vũ khí chuyên chính tuyệt đối, đắc dụng, mạnh mẽ nhất...", hoặc "các đảng cộng sản cầm quyền tùy nghi, duy ý chí sáng tạo ra xã hội chủ nghĩa bằng chuyên chính vô sản cực đoan, hà khắc nhất, phi pháp nhất trong lịch sử nhân loại".
Chúng ta không phủ nhận việc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở nước này nước kia, lúc này, lúc khác đã phạm phải những sai lầm đáng tiếc trong việc sử dụng bạo lực trấn áp.
Tuy nhiên, sai lầm đó không phải bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác, ông Chính không có quyền gán cho chủ nghĩa Mác. Ông Chính bịa đặt ra con số hàng chục triệu người chết ở Liên Xô, trong khi đó ông lờ đi những tội ác tày trời mà chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít do chủ nghĩa tư bản sinh ra đã gây ra cho toàn nhân loại và các dân tộc trong đó có dân tộc Việt Nam.
Ông Chính thật hồ đồ khi nói rằng "Englels đã từng hết lời ca ngợi rằng "chuyên chính vô sản là sáng tạo vĩ đại nhất của Marx"; rằng "ngoài nguyên tắc duy nhất và trần trụi đó, Marx không nói gì được thêm nữa" (!).
Ông dựa vào đâu mà nói xằng bậy như vậy?
Ông Chính là người đã được nghiên cứu có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin ở Liên Xô trước đây, đã từng nhiều năm nghiên cứu Triết học mác- xít. Vậy há ông không biết rằng chủ nghĩa Mác là một hệ thống chỉnh thể gồm có 3 bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học; là một hệ thống các quy luật và phạm trù phản ánh một cách sâu sắc và phong phú thế giới khách quan?
Ông cũng há không biết rằng trong Điếu văn đọc trước mộ Mác, Ph.Ăng- ghen đã đánh giá rằng Mác có 2 phát minh vĩ đại là 1) quan niệm duy vật về lịch sử và 2) học thuyết giá trị thặng dư.
Nhờ 2 phát minh vĩ đại đó, Mác đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học. Đồng thời khi nói rằng “ngoài nguyên tắc duy nhất và trần trụi đó, Marx không nói gì được thêm nữa” thì chính ông đã tự mâu thuẫn với mình khi ở phần đầu báo cáo ông phải thừa nhận rằng “nhà bác học tài ba Karl Marx...đã thành công trong việc phê phán mặt trái của công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là với tác phẩm đồ sộ mang tên “Tư bản” của ông”.
Chỉ riêng với thành công như vậy, theo như ông Chính thừa nhận, thì cũng là quá tài giỏi rồi, huống hồ Mác lại là nhà bác học thiên tài đã cống hiến cho nhân loại một học thuyết vĩ đại, mang tính nhân văn sâu sắc mang tên ông – CHỦ NGHĨA MÁC.
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên gần đây, chương trình “Thời đại chúng ta” trên sóng phát thanh Radio 4 tại Anh đã tổ chức cuộc thăm dò xã hội bình chọn triết gia vĩ đại nhất của nhân loại; và trong số 20 triết gia vĩ đại được giới thiệu, Mác được bình chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước đến nay, bởi những cống hiến khoa học xuất sắc của ông, trong đó có trước tác vĩ đại, bộ “Tư bản” và “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (viết cùng Ph.Ăng ghen).
Nhận xét về kết quả bình chọn trên, giáo sư An-đờ-riu Chít-ty thuộc trường đại học Tổng hợp Xa-xếch (University of Sussex) ở Anh, một chuyên gia hàng đầu nghiên cứu học thuyết Mác, cho rằng, xã hội hiện đại vẫn cần tiếp tục đánh giá chủ nghĩa Mác như một hệ thống triết học nghiêm túc nhất của loài người.
Hoặc bạn đọc ở Việt Nam đều đã biết, nhà triết học nổi tiếng Pháp J.Đê-ri-đa trong tác phẩm “Những bóng ma của Mác” đã khẳng định rằng, Mác không chỉ là nhà tư tuởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI, rằng nhân loại không thể thiếu Mác.
Mới chỉ kể như vậy thôi cũng đã thấy rằng những ý kiến của ông Hoàng Minh Chính đánh giá về Mác thật lạc lõng biết bao! Ông dùng đủ mọi từ xấu xa, tệ hại để gán cho học thuyết Mác.
Ông nói: “Học thuyết tư biện của Marx mang tính phản lịch sử, phản khoa học, duy ý chí, cực đoan cực tả nhưng lại phù hợp với giai cấp vô sản các nước đang cơn thất vọng”.
Một học thuyết “phản lịch sử, phản khoa học” như vậy mà tại sao lại được thế giới đánh giá cao, lại “có tác dụng rất to lớn trong việc hình thành trong các Đảng cộng sản và công nhân, tập hợp phong trào cộng sản thành Quốc tế cộng sản và ảnh hưởng rất rộng lớn tới xã hội loài người trong một thế kỷ rưỡi qua” như chính ông đã thừa nhận thì ông Chính lại không thể nào giải thích nổi.
Ông Chính chắc đã đọc nhiều sách của Mác , Ăng –ghen, Lê-nin, song ông vẫn cố tình không hiểu. Ông nói “chuyên chính vô sản không là cái gì khác ngoài bạo lực”, “Marx đã đặt công khai niềm tin tuyệt đối vào bạo lực”.
Trên thực tế Mác không bao giờ sùng bái bạo lực; đối với Mác bạo lực không phải là cứu cánh, là mục đích, bạo lực chỉ là phương tiện, là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng.
Người cộng sản chỉ dùng bạo lực khi cần thiết để đáp trả lại bạo lực phản cách mạng. Lê-nin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà chủ yếu là tổ chức xây dựng, là đưa ra một kiểu tổ chức xã hội của lao động mới cao hơn, là chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp, của chuyên chính vô sản theo quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam không phải là trấn áp, bạo lực mà là tổ chức xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam “nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. (4)
Với nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp được quan niệm như vậy thì chắc là mọi người dân Việt Nam yêu nước đều đồng tình chứ nó không phải là “con ngáo ộp” mà ông Chính muốn đem ra để hù dọa những người yếu bóng vía.
Khi trích dẫn lời của Mác trong “Tuyên ngôn” về “xóa bỏ chế độ tư hữu” ông Chính lại xuyên tạc thành “Marx đã chủ trương xóa bỏ các hình thái kinh tế - xã hội hiện hữu để trên mảnh đất sạch sẽ đó mà xây dựng chủ nghĩa cộng sản”.
Ở đây ông Chính muốn biến Mác thành nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, người theo chủ nghĩa hư vô. Là nhà duy vật biện chứng vĩ đại nên “Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó. (5)
Đối với Mác “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo” mà là “một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra. (6)
Mác phân tích hết sức khoa học sự phát triển của xã hội mới, dự báo một cách thiên tài 2 giai đoạn lớn của xã hội cộng sản. Nhiệm vụ khoa học của Mác không phải vạch ra mô hình của xã hội mới với mọi chi tiết của nó. Lê-nin cho rằng: “Trong tài liệu của Mác người ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được”. (7)
Mác đã vạch ra mối liên hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội ra đời từ chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản, kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản (cả về kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục- đào tạo, văn hóa, pháp quyền v.v..), phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Về sau này, trong những năm 20 của thế kỷ XX, vận dụng tư tưởng biện chứng của Mác về mối liên hệ biện chứng giữa xã hội tư bản và xã hội xã hội chủ nghĩa, Lê-nin nêu lên một công thức về kế thừa xã hội tư bản như sau: Dùng cả 2 tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết + Trật tự đường sắt Phổ + Kỹ thuật, cách tổ chức các tờ-rớt Mỹ + Ngành giáo dục Quốc dân Mỹ, v.v... = tổng số, tổng kết lại = chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù trong thời đại của mình, Mác chưa được chứng kiến chủ nghĩa xã hội hiện thực, song không vì thế mà khẳng định Mác "không thành công trong việc sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản", như ông Chính cao giọng đăng đàn ở Mỹ...
Trích bài viết của tác giả Lê Hồng đăng trên tạp chí cộng sản số 21/2005
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập, NXB Sự thật, HN, 1995, T 12, tr. 509.
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: SĐD, tr. 509
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: SĐD, T 28, tr. 662
(4) Văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2001, tr. 86
(5) V.I. Lê-nin toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, T 33, tr. 104
(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: SĐD, T 3, tr. 51
(7) V.I. Lê-nin SĐD T 33, tr. 104
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 7, 2011 6:09:07 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 7, 2011 6:17:19 GMT 9
Cộng Sản là chùm khế độc , nhân dân bị giết dài dài, Cộng Sản là con đò xác , không còn có đất chôn thân , Cộng Sản nếu ai không nhớ , sẽ không sống nỗi làm người .
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 7, 2011 6:37:11 GMT 9
Cộng sản An Nam Hồ chí Minh và Trung Quốc là một .
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 8:46:42 GMT 9
Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nguyễn Văn Lục “Không hiểu sao đến giờ vẫn có kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào vụ Mậu Thân Huế. Đúng, Mậu Thân Huế đã trở thành một bi kịch đời tôi. Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu thế thôi.”Hoàng Phủ Ngọc Tường, (Trích trả lời phỏng vấn với Thụy Khuê) Mậu Thân Huế trở thành bi kịch đời Hoàng Phủ Ngọc Tường? Hay ngược lại, Mậu Thân Huế là bi kịch của những gia đình có anh em, chồng con, cha mẹ đã bị thảm sát trong dịp ấy? Bài viết sau đây – dựa trên những gì Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời trong một cuộc phỏng vấn “Interview with Vietnamese Museum Guide 1981”. WGBH, Open Vault – 1982 cho thấy ai là nạn nhân của ai? Trước tiên, nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được sang Pháp vào tháng 7, 1997, phóng viên Thụy Khuê đài RFI đã dành cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một cơ hội để trình bày quan điểm liên quan đến tết Mậu Thân và nhất là để biện minh cho việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có mặt ở Huế. Đồng thời, ông Tường cho hay những người tố cáo “ông là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế.” “Điều quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng.” Được hỏi về những lời tuyên bố trên truyền hình Mỹ, Hoàng Phủ Ngọc Tường chối, “Hồi đó, ông Burchett và đoàn làm phim Lịch sử Truyền hình tới Huế, chọn tôi để chất vấn về chuyện tang tóc ở đây. Lâu rồi, trả lời ứng khẩu thôi. Tôi không nhớ thật cụ thể những điều đã nói và càng không có dịp xem lại chuyện phim như nó được chiếu ở ngoại quốc.” (Trích Thụy Khuê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố mậu thân ở Huế”, RFI, 12 tháng 7, 1997.) Giọng điệu năm 1997 của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi được chị Thụy Khuê phỏng vấn thật khác xa với giọng điệu “khát máu” trong con người Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1982. Điều này tạo thành một vấn nạn, có ai tin được những điều Hoàng Phủ Ngọc Tường nói không? Nếu quả thực Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quên thì đây là dịp để ông nhớ lại từng câu, từng chữ một qua cuộc phỏng vấn của Burchett. Lên tiếng kết án nặng nề nhất Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể là tác giả Liên Thành. Bên cạnh đó, còn có những người cảm tình viên như Đặng Tiến, Tiêu Dao Bảo Cự, Ngô Minh tìm cách lái câu chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường sang chuyện văn học và đặt nhẹ vấn đề trách nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong vụ thảm sát dân Huế dịp tết Mậu Thân. Nhưng mọi chuyện bao che, dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành sự trơ trẽn đáng xấu hổ khi chúng ta cùng nhau nghe lại cuộc phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bộ phim tài liệu 13 tập nhan đề “Viet Nam: A television History”. (Published as a companion volume to “Vietnam: A Television History.” a 13–part documentary film series for the PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production). Trong bộ film này, Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một tên đao phủ sắt máu, ngôn ngữ hận thù, thái độ của một người cộng sản chính hiệu, hơn cả người cộng sản có thẻ đảng. Hoàng Phủ Ngọc Tường lộ nguyên hình là một kẻ dối trá khi kể rằng chính anh ta chứng kiến cảnh dội bom của Mỹ vào một bệnh viện gần chợ Đông Ba làm chết và bị thương 200 người mà đêm tối anh ta đã dẫm lên đám đất bùn hòa lẫn máu người chết. Hoàng Phủ Ngọc Tường lộ nguyên hình đương nhiên xác nhận ông có mặt ở Huế. Như một nhân chứng? Thế là đủ rồi. Còn có mặt ở Huế để làm gì lại là chuyện khác. Nhưng vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân cũng như bà bác sĩ Phạm thị Xuân Quế (xem thêm phần trích dẫn tóm tắt hoạt động của bà bác sĩ Quế) phải chăng là dẫn đường và làm điểm chỉ viên trong việc giết hại những giáo sư đại học, tu sĩ, sĩ quan, sinh viên và công chức VNCH? Ai đã cung cấp danh sách những nạn nhân có thể bị giết hại như trong nhận xét của John Prados sau đây? Nguyễn Đắc Xuân (t) và Hoàng Phủ Ngọc Tường (p) Nguồn: OntheNet “At Hue, too, the uprising failed, the populace horrified by the massacre of betwen 2,500 and 3500 persons, mostly civilian or families of Saigon government officials. The VPA and its NLF cadrers systematicallly took away people named on lists that had been prepared by local networks. (Both sides could play at that game: The CIA's chief for Hue escaped with a radioman, exphiltrating through ennemy lines in James Bond style, dressed in black and carrying exotic gear. He went immediately the the command post of the Marine general leading the response force and handed him a list that, according to a witness, contained thousands of names of NLF sympathizers in the Hue area.)” (Trích John Prados, Viet Nam, The History of an Unwinnable war, 19445–1975, trang 240. Đoạn văn này một cách công bằng bắt buộc phải xếp Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phạm Thị Xuân Quế vào những thành phần tay sai chỉ điểm cho cộng sản Bắc Việt xâm nhập vào Huế dễ dàng. Chú Thích: Khi nghe lại đoạn băng phỏng vấn, có thể có một đôi chỗ, người viết bài này nghe không rõ, ghi không kịp, mặc dầu phải ghi đi ghi lại nhiều lần. Người viết cũng không thể căn cứ trên bản dịch tiếng Anh của Ngô Vĩnh Long vì ngôn ngữ tiếng Anh không tương đồng với nọi dung tiếng Việt. Xin ghi lại chính những điều mà Hoàng Phủ Ngọc Tường trực tiếp trả lời phỏng vấn. Vì thế, có thể có đôi chỗ có ghi thiếu sót nhỏ nhặt, xin độc giả hiểu cho. Hỏi: Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biệt liên quan đến vụ thảm sát. Ở đây. Xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra bấy giờ ở Huế, có những vụ trả thù, đàn áp? Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ông muốn nói đến vụ thảm sát Mâu thân ở Huế? Đó là một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế. Nhưng nhân dân Huế đã phải trả một giá đắt đắt cho chiến thắng này. Đó là là một sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế đã phải trả giá đắt nhất so với các thành phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế. Sự trả đũa đã vô cùng khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi là một người đã từng sống qua các thời kỳ chiến đấu chống lại người Pháp và thời chiến tranh chống lại người Mỹ, Tôi nghĩ rằng bọn chủ nghĩa thực dân mới thì khôn hơn bọn thuộc địa cũ. Bọn thuộc địa cũ nó chơi franc jeu hơn là thực dân mới. Nói cách khác, bọn chủ nghĩa thực dân mới thường bạo tàn hơn thực dân cũ. Và điều đó là chắc chắn đúng như vậy trong suốt cuộc tổng công kích tết MậuThân vừa qua. Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thể thế giới bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ việc chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Pari. Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là một chứng nhân. Tôi sẽ nói cho ông mọi sự cho ông một cách khách quan nhất. Thứ nhất riêng những người bị giết, có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi hành bản án tử hình. Bởi vì khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi làm bị thương khi chúng tôi kêu gọi họ đầu hàng.Vì thế những người này đã bị chúng tôi bắn chết tại chỗ. Trong đám những người này có tên phó tỉnh trưởng, lúc đó hắn đang sống ở Huế. Trong một ít trường hợp, một số bị giết vì đã từng tra tấn các cư dân, gây cho toàn thể gia đình phải tù tội và đầy ra Côn Đảo. Chính nhân dân căm thù quá lâu, họ bị tra tấn, gia đình họ phải trả thù. Vì thế, khi cách mạng bùng lên và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên đi lục soát tìm cho ra những tên bạo ngược này để trừ khử chúng như trừ khử những con rắn độc mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1982) Nguồn: WGBH Mặc dầu chính sách của chúng tôi chỉ là nhằm cải tạo và không bao giờ giết bất cứ ai đã đầu hàng chúng tôi, song khi dân của thành phố đã nắm công lý trong tay của chính họ, thì các cấp lãnh đạo cách mạng của chúng tôi không còn có thể kiểm soát dân chúng trong suốt thời kỳ đang diễn ra. Nhưng tôi phải nói cho ông biết rằng mỗi một tên bị giết thì chúng đã giết ít nhất mười người khác trong các gia đình bị nạn. Chúng giết mười người bây giờ giết một người bọn chúng, cái giá đó là rất nhẹ. Giết một người là công bằng. Nợ máu đó, căm thù và thi hành bản án như vậy là rất là nhẹ và công bằng. Theo tôi nghĩ, bất cứ ai từng theo dõi hoàn cảnh chiến tranh, sự thể có thể chỉ là một sự trả thù nhỏ nhoi. Sự căm thù và sự thi hành bản án như vậy là nhẹ. Và theo tôi, mọi cuộc cách mạng đều giống nhau. Bởi vì đó là một cuộc chiến tranh mà sức mạnh quân sự và trang bị cực kỳ chênh lệch. Nhân dân chúng tôi không sở hữu được những thứ vũ khí như đế quốc Mỹ có. Song điều ấy cũng chẳng sao cả. Còn đa số đã đầu hàng do chúng tôi giữ lại thì được đưa lên rừng ở trại cải tạo. Hầu hết đã được trở về. Vài người tôi biết chịu đựng không nổi vì khí hậu. Nhưng họ đã trở về với gia đình cả. Nhưng có một số bị giết.Thật không đáng kể, còn lại sau ngày giải phóng đã được trở về. Phần lớn sự chết chóc đã xảy ra. Một khối lớn những xác chết đó là ai? Chính nhân dân bị bọn Mỹ làm chết không biết bao nhiêu trong các đợt phản kích này. Những người này bị giết và được chôn trong thành phố rồi sau đó được khai quật bởi Mỹ và quay phim tuyên truyền cho Mỹ. Chẳng hạn, nó đã bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ, gần chợ Đông Ba. Nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rôi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn. Lý do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người này theo lực lượng cách mạng, vào rừng sau cuộc tấn công tết ậu Thân. Và khi kẻ thù trở về vào thành phố, chúng đã giết những người thân của các gia đình này rồi đem chôn trong các hầm tập thể. Những xác chết của lính giải phóng, những người mà chúng tôi không thể thu nhặt được xác cũng bị chúng đem bỏ vào những hố chôn tập thể. Cộng thêm vào những tù nhân đi theo chúng tôi vào rừng cũng bị giết hại bởi máy bay Mỹ chết chung với các đồng chí của chúng tôi. Máy bay Mỹ cũng tập kích và giết chết các đồng chí của chúng tôi. Những giải phóng quân của chúng tôi cũng bị hy sinh. Trong những năm 1975 đến 1977, trong khi đào các đường mương và kênh dẫn thủy, chúng tôi khám phá ra ra được rất nhiều hố chôn tập thể, cái được gọi là nạn nhân bị thảm sát thì chỉ toàn là những người mang đồng phục quân Giải phóng và nón tai bèo của lực lượng giải phóng. Điều này nói lên mưu mô quanh co, sảo quyệt của bọn tân thực dân. Cuộc chiến này là ranh mãnh của chủ nghĩa thực dân mới. Chúng giết hai con chim bằng một hòn đá. Trước hết là vì chúng muốn tìm cách che dấu tội ác của chúng. Hơn nữa là chúng muốn đổ lên đâu bộ đội cách mạng những tội ác của chúng. Đây là điều mà tôi đã chứng kiến. Và một sử gia người Mỹ sau đó viếng thăm Huế đã nói cách công khai rằng đây là kế hoạch tuyên truyền vĩ đại của Mỹ, một chiến dịch tuyên truyền chiến thuật đã làm hao tổn tiền bạc của Hoa Kỳ cho cân xứng với cái giá về tiền bạc mà tên Kissinger nhằm bôi nhọ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam về tết Mậu thân. Tôi muốn nhấn mạnh là cả một bộ máy tuyên truyền của Mỹ với thế giới đã cố dùng tất cả bộ máy tuyên truyền để đổi trắng thành đen để lừa bịp nhân loại. Sự thực là có một số xác chết nạn nhân bị giết là do sự giận dữ của dân chúng. Những con số này quá nhỏ so với con số quá lớn kẻ thù còn sống sót và chúng nó đã chạy ra nước ngoài, chúng tiếp tục nói xấu Việt Nam. Giờ đây họ đã vu khống có tổ chức nhằm chống lại cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, ông phải nhìn nhận rằng mặc dù chúng tôi được sự ủng hộ của khắp thế giới khi chúng tôi chiến đấu chống lại kẻ thù của chúng tôi, mà chỉ có dân chúng tôi bị bịt mồm và chịu đổ máu trước họng súng của kẻ thù. Chúng tôi đã phải đổi máu của chúng tôi một cách đơn độc. Trong suốt cuộc chiến đấu, chúng tôi đã phải đem lại công lý chống lại kẻ thù không đội trời chung của nhân dân – những kẻ mà thế giới đã nhìn nhận như những tội phạm chiến tranh. Dân chúng thế giới đã có một phiên tòa của Bertrand Russell là một thí dụ cho rằng nếu đã có tòa án kiểu Nuremberg, thì đã có hàng ngàn người đã được tha chết trong trận Tết Mậu Thân là những kẻ đáng bị treo cổ sau khi chiến tranh chấm dứt. Theo như Bertrand Russsell đã dẫn chứng, công lý chẳng bao giờ được thi hành. Vì vậy mà một sĩ quan Mỹ như trung úy William Calley đã giết nhiều người ở Sơn Mai mà nó không bị lên án treo cổ. Và để nhằm mục đích gây chú ý trong trường hợp tội phạnm này, chúng đã ngụy tạo một cuộc thảm sát tết Mậu Thân để bôi bẩn cách mạng. Điều này chứng tỏ Mỹ không quan tâm đến vấn đề danh dự của nước lớn đi đánh một nước nhỏ bé. Chính quyền Mỹ đã nói láo về trận tấn công Tết Mậu thân. Tiếp tục phỏng vấn liên quan đến ông Ngô Đình Diệm Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ngô Đình Diệm là một tên Phát Xít rất đúng nghĩa. Tôi sống ở đấy dưới thời Ngô Đình Diệm. Tôi đã thấy được Diệm muốn trở thành một ông vua. Trước đó Diệm đã là một ông quan lớn. Thí dụ về gia đình của Diệm sống gần cầu Phủ Cam ở Huế, nó đã bắt ép các nhà trí thức, các công chức, giáo sư đại học ăn bận theo kiểu xưa để đến quỳ trước sân nhà Ngô Đình Diệm và tung hô chúc tụng Diệm và cả gia đình trường thọ vào mỗi năm nhân dịp tết đến. Diệm ngồi trên ngai vàng (golden throne) để quan sát buổi lễ. Chỉ chuyện này thôi cho ông thấy chế độ dân chủ của Diệm là gì. Thực sự mà nói, dân chủ thì không có những điều như thế. Đấy là một tổng thống phát xít và phong kiến. Đấy là gia đình của Diệm. Và chính sách của Diệm, nó muốn triệt tiêu mọi tự do dân chủ của người dân bình thường. Thí dụ như ông ta đã đã ban hành một đạo luật gọi là ... Mục đích của Diệm là triệt hạ hết người cộng sản. Và đấy là những gì người Mỹ muốn ông ta làm. Vì thế nó đã diệt trừ mọi ảnh hưởng của cách mạng tháng tám trong thành phố này, một thành phố đã lật đổ chế độ vua chúa và trương ngọn cờ cách mạng tháng 8. Trên hết tất cả, các gia đình có con em tập kết ra Bắc, sau hiệp ước Giơ neo, từng người một bị tù, lưu đầy và tra tấn cho đến bao giờ họ quên được đứa con và họ phải tố cáo người thân của mình. Có rất nhiều gia đình cố gắng che dấu tung tích là họ có con em và người thân tập kết ra Bắc. Đấy là thứ chống Cộng áp bức người dân quên đi hẳn màu cờ của cách mạng tháng 8. Và thế rồi sự đàn áp gia tăng với bất cứ phương cách nào có thể áp dụng được. Một trong những biện pháp là dùng các gia đình lao động có chồng tập kết ra Bắc đang có bầu, dẫm lên bụng cho đến lúc cái thai phải vọt văng ra ngoài, vì chúng nói rằng dù chỉ một giọt máu cộng sản cũng không thể để lại trong bụng những phụ nữ miền Nam. Mọi phương tiện khác được thực thi đã làm tràn lan như vậy với cái luật tên là đạo luật 10/59 mà Diệm đã ban bố. Ở Huế trong thời gian này là một nơi thật bỉ ổi giam cầm người dân gọi là “Chín hầm”. Nó đã nhốt những người yêu nước giam giữ ở đó. Khi chế độ Diệm bị lật đổ, chúng tôi đến coi những tù nhân bị nhốt trong các hầm đó và thấy họ như những người rừng rú. Tóc và râu họ mọc dài chỉ còn xương với da. Những tù nhân này bị bắt đứng suốt khi những nước mưa nhỏ xuống khe hở thì chân của họ ngập trong nước năm này qua nằm khác. Phần hậu môn, đàng lưng hoàn toàn bị nhiễm trùng. Họ không còn là con người và họ bị giam giữ cho tới khi chết. “Chín Hầm” là phương tiện đàn áp bỉ ổi chưa từng có được áp dụng cho những người bị coi là cộng sản. Không biết chế độ Hít Le tàn bạo như thế nào, nhưng tôi có thể nói chắc rằng chưa có một tội ác chống nhân loại nào mà có thể so sánh với chế độ Diệm sau thời Hít Le. Càng lúc, sự tự do tôn giáo càng được quan tâm, Ngô Đình Thục, anh của Diệm và là Tổng giám mục ở vùng này đã bắt tất cả các phật tử và không tôn giáo phải xử sự và sống như người công giáo. Họ phải thờ tự như người công giáo. Vào dịp lễ Phật Đản chúng quyết phải hạ cờ quạt, biểu ngữ Phật giáo xuống. Điều đó dẫn tới sự nổi dậy của Phật tử và sự chống đối khắp các thành phố dẫn tới sự sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Phần phụ thêm chứng từ trả lời phỏng vấn của bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế Rất ít người được biết bà Phạm Thị Xuân Quế là ai? Tôi được biết bà Quế và một số nhân vật nằm vùng khác qua Thái Thị Kim Lan. Bà Quế sống ẩn tích từ trước 1975 và cả sau 1975. Hiện nay bà Quế làm công tác từ thiện trông nom các người già yếu. Nhưng đọc những lời bà trả lời phỏng vấn trong “Interview with Viet Nam Museum Guide”, 1981, WGBH, Open Vault thì thật sự ngỡ ngàng đến không hiểu được. Bà có thể viết bịa đặt nhiều điều như thế về chế độ Đệ nhất Cộng hòa được chăng? 40 phụ nữ có chồng tập kết bị Diệm cho vào rọ, rồi thả trôi sông? Ai cho phép lương tri của một phụ nữ viết về thân phận những người đàn bà có chồng đi tập kết bị phóng chiếu, cường điệu một cách tàn bạo như vậy? Kỹ thuật cho vào rọ, rồi thả trôi sông là kỹ thuật sáng chế “độc quyền từ thời Cách mạng tháng 8”; ông Diệm e rằng học chưa tới kỹ thuật đó! Tuy nhiên qua bà Quế, người ta có thể hiểu được phần nào những hoạt động của những người nằm vùng, của một sinh viên, trí thức Huế. Những kẻ được goị là Huế giết Huế. Nay chạy tội và sẵn sàng nói rằng trong vụ Tết Mâu Thân, 99% các nạn nhân đều do bom đạn Mỹ. Căn cứ vào đâu, bà Phạm Thị Xuân Quế có thể xác quyết như thế? Nếu tin rằng có oan hồn, có kiếp sau, có nhân quả, Bà bác sĩ Quế sẽ ăn nói làm sao với các vong linh những người đã chết? Những lời vu cáo trắng trợn và ác độc như thế thì có làm bao nhiêu công đức, có ăn chay nằm đất, có không quan hệ tình dục cũng không cứu vãn nổi. Hóa cho nên cả bọn chỉ học được một sách của cộng sản là: Sẵn sàng nói láo, sẵn sàng vu cáo, dối trá bất kể sự thật ra sao. Trong khi đó có những chuyện bịa đặt trắng trợn của những người “đồng chí” của bà thì bà lại che dấu? Bà đã nợ tôi, ngươi viết, một món nợ khi tôi hỏi về câu chuyện phái đoàn sinh viên Huế vào thăm dinh “ngụy” sau 1963, có thấy phòng bà Ngô Đình Nhu kế cận phòng ông Diệm không, có thấy bốn bức tường phòng bà Nhu đều gắn gương soi không, có thấy cái “ghế khoái lạc” của bà Nhu thường nằm không? Bà và người bạn gái của bà đã thử nằm chưa và cảm giác thế nào? như Nguyễn Đắc Xuân mô tả không? Cả hai chị em, Thái Thị Kim Lan và Phạm Thị Xuân Quế đều đồng loạt tránh né, bao che cho Nguyễn Đắc Xuân nói không nhớ gì cả. Thật chán cho các bà. Phạm Thị Xuân Quế Nguồn: WGBH Trong bài viết này, chỉ xin tóm lược vài ý nghĩ rời về những điều bà đã trả lời phỏng vấn trên. – Bọn chó săn, mật vụ nó bắt đổ bàn thờ và đi theo họ. Nó tra tấn dã man. Nó bắt con phải tố giác cha mẹ. – Nhất là các chị có chồng đi bộ đội. Nó đánh đập, tra tấn, bắt ly dị chồng, xúc phạm đến nhân phẩm phụ nữ. Nó bắt phải lấy bọn chó săn, bọn mật vụ. Tôi cho là vô nhân đạo. Điển hình là ở Quảng Nam, những người phụ nữ có chồng đi tập kết. Nó lấy bao bố, cột lại, thả xuống sông. Chúng cột 40 người, rồi trôi sông ở đập Vĩnh Trinh. – Và chính mắt tôi trông thấy. Về tết Mậu thân, bà cho biết: – 1960, phong trào bắt đầu gây dựng, phát triển năm 1963. 1968, phong trào rất phát triển rất mạnh. 90% thành viên của phong trào hướng về cách mạng. (Huế tang tóc vì những tổ chức và những thành phần nội tuyến như bà Quế này.) – Được tin ở trên cho biết sẽ tấn công ở Huế. Mạng lưới nội thành – mạng lưới của chúng tôi – đã bí mật hoạt động hợp pháp từ 1961. Có rất nhiều cơ sở. – Từ 23 tháng 12 đến 29/1968 các cơ sở đã đi ra ngoài vùng và gánh vũ khi dấu trong những gánh rau. Do địch chủ quan, chị em qua mặt chúng và đã đưa được vũ khí vào thành phố. (Ở Sàigon, Việt Cộng tổ chức nhiều đám ma, trong quan tài chứa vũ khí - NVL). – Phần tôi đang ở trường trung cấp y tá, đã in một số truyền đơn. Nội dung đưa ra chính sách khoan hồng đối xử thế nào với địch. – Mặt khác lo chuẩn bị bánh tét cho thật nhiều. Chuẩn bị cứu thương. Và may rất nhiều cờ. Trong số cán bộ 1/3 vẫn không ra mặt, tôi ở trong số đó nên chúng không biết tôi là Việt Cộng. – Không khí những ngày đầu tết Mậu thân: Dân chúng có bàng hoàng. Nhưng không thiếu niềm vui phấn khởi, họ đóng góp nào bánh chưng, bánh tét, yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Tôi đi xem văn nghệ. – Đặc điểm là bộ đội giải phóng dễ thương quá, thân tình khác hẳn thái độ hách dịch của lính ngụy. – Đến ngày mồng 7, một số đông ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Nhờ các anh bộ đội đã đào hộ các hầm trú ẩn nên ngụy bắn đại bác, dội bom đã có chỗ núp. – Tôi cũng lo bảo vệ các giáo sư ngoại quốc người Đức, đang ở số 2 Lê Lợi. Nhờ đó, bộ chỉ huy đã mời các ông ấy đến ở chỗ quân đội trú đóng để bảo vệ họ. Nhưng địch đã dội bom làm chết các giáo sư ấy cũng như cả bộ đội. Địch phản tuyên truyền, bao nhiêu người chết đều là do Việt cộng tàn sát. Nhưng có thể nói 99% là do bom đạn Mỹ sát hại.Xin hết ý. Hãy đọc để nhận dạng Hoàng Phủ Ngọc Tường là ai.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 10:27:57 GMT 9
Mặt Thật của Thích Trí Quang và nhóm Ấn Quang Tác Giả: TT. Thích Tâm Châu Thứ Bảy, 09 Tháng 7 Năm 2011 21:01 TT. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN QUANG? TT. Thích Trí Quang Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có Thích Trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ”PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT” là một ổ cán bộ CS nằm vùng trước mũi của chính quyền. Vì giới quân nhân cầm quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này, khiến cho miền Nam bị rữa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng. Theo tôi biết, hiện nay ở hải ngoại, nhóm sư tăng đệ tử của Trí Quang, đa số là người miền Trung, trà trộn trong cộng đồng người VN tị nạn rất đông, cấu kết rất chặt chẽ, tạo thành một lực lượng, nếu mai sau thời cơ đến sẽ xử dụng. Tuy mang danh nghĩa tu hành, nhưng nhóm tăng sĩ Ấn Quang ở khắp nơi hải ngoại chỉ chuyên tâm nô nức ganh đua xây chùa bằng tiền cúng dường, vay mượn không lãi dài hạn của bá tánh. Có nơi con số lên tới hàng chục triệu, và thường xảy ra những cuộc tranh chấp, chửi bới nhau chí chóe... Đây là một hiện tượng đáng để các giới đồng bào khắp nơi hải ngoại phải đặc biệt quan tâm, cảnh giác đối với các tu sĩ đó trước khi quá muộn, như trường hợp Trí Quang. Bởi chính đức Phật đã dạy trong tạng luật ”MAHÃVIBHANGA”, đoạn Một: Có 5 hạng cướp thì hạng Tỳ Khưu không lo tu hành chân chính, chỉ ăn ngon mặc đẹp, chuyên lo xây chùa chiền, tu viện cho nguy nga đồ sộ bằng tiền của bá tánh là một hạng cướp nguy hiểm nhất. Vì tên tướng cướp thường còn bị pháp luật xét xử. Trong khi đó tên cướp mặc áo cà sa vẫn được tự do, đi đến đâu vẫn được bá tánh cúng dường vật thực ngon lành, tinh khiết, y phục, chỗ ở tốt đẹp, và xưng hô cực kỳ cung kính... (theo TÌM HIỂU PHẬT GIÁO, chương 14, Phật giáo với hàng tăng lữ của soạn giả Maha Thong Kham Medhivongs, Phật giáo nguyên thủy). Như trên tôi đã nói: TT Trí Quang là một cán bộ CSBV nằm vùng, đã chụp được thời cơ thuận lợi nhất là vụ treo cờ Phật Giáo, để nổi lên đánh phá miền Nam . Thực ra chẳng phải đến bây giờ dân chúng miền Nam mới biết tông tích của TT Thích Trí Quang, một cán bộ CSBV đội lốt tu hành, đã phát động cuộc đấu tranh năm 1963, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô. Tông tích và đường lối mượn danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống độc tài gia đình trị họ Ngô, mở đường cho sự rối loạn và sụp đổ của miền Nam vào tay CSBV năm 1975 của TT Trí Quang đã được một số người biết từ lâu. Nhưng hoàn cảnh chánh trị ở VN, từ năm 1963 cho đến 1975, đã không cho phép một ai có đủ can đảm để nói lên sự bí mật này. Nguyên do chẳng phải bản tánh cầu an, khiếp nhược của con người, mà còn bởi nhiều yếu tố khác nữa. Những người am tường thời cuộc đều nhận thấy rằng, vào khoảng thời gian ấy, trong không khí chánh trị hỗn độn như thế, giới Phật giáo đấu tranh miền Trung đã trở nên một lực lượng chánh trị vô địch, các tu sĩ miền Trung đã trở thành những kiêu tăng, dám giết người nhân danh ”đạo pháp”, chẳng khác gì các kiêu binh kiêu tướng, và tệ nạn tham nhũng, hối lộ bành trướng khắp các giai tầng chế độ, thì việc phanh phui bí mật cuộc đời của TT Trí Quang ra trước công luận lúc bấy giờ chỉ là một việc làm vô hiệu quả, đồng thời còn là một hành động tự sát một cách ngu đần. Hơn thế nữa, bạn đồng minh Mỹ đến VN với danh nghĩa giúp chúng ta “ngăn làn sóng đỏ”, nhưng tiếc thay, họ lại chỉ là một anh chàng khổng lồ mù lòa, với võ khí là cơ quan CIA trong tay nhưng chẳng khác nào khẩu súng nước trẻ con chơi. Những người khôn ngoan chẳng ai dám tin vào họ! Bạn đọc hãy tưởng tượng, ngay cả đến Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một cao tăng đã có một địa vị vững chắc trong khối Phật Giáo VN và cả trên trường quốc tế, thế mà trong thời gian còn ở VN vẫn phải làm thinh “mũ ni che tai”, tránh voi không xấu mặt nào. Sau năm 1975, khi ra hải ngoại sống cuộc đời lưu vong, Hòa Thượng Thích Tâm Châu vẫn tiếp tục “thủ khẩu như bình”, mãi cho đến năm 1994, Hòa Thượng mới công bố quyển “BẠCH THƯ”, trong đó có kể lại đôi điều liên quan đến TT Thích Trí Quang và phái Phật Giáo đấu tranh miền Trung, sau hiệp thành tổ chức gọi là: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO V.N. THỐNG NHẤT”, trụ sở đóng tại chùa Ấn Quang, nên còn gọi là phe “PHẬT GIÁO ẤN QUANG”. Phe nhóm này chủ trương đấu tranh bạo động, gây rối loạn không ngừng ở khắp miền Nam , theo sách lược của CSBV. Đối với HT Tâm Châu, mặc dù là đồng đạo, nhưng phe Phật Giáo Ấn Quang vẫn dùng thủ đoạn khủng bố để uy hiếp tinh thần. Nơi trang 24, của Bạch Thư, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau: ”Tôi về tới VN Quốc Tự (VNQT), bước chân vào cửa văn phòng viện trưởng Viện Hóa Đạo (VHĐ) của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: ”YÊU CẦU CÁC THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU”. Tôi định lên chánh điện VNQT lễ Phật, tại đây có mấy vị tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện VNQT và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của họ. Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA. Và người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có sư cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.” Trang 25, HT Tâm Châu viết tiếp: ”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời... TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật Tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của quân đội chính phủ, cho các cán bộ CS nằm vùng trà trộn tẩu thoát... Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa. Đem Phật ra đường rồi, TT Trí Quang vào tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau chính phủ đưa TT Trí Quang vào Sài Gòn, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tài (* Đến đây, tôi xin mở dấu ngoặc để nói thêm về dưỡng đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, để bạn đọc hiểu rõ hơn. Tôi quen với vợ chồng bác sĩ Tài từ năm 1965, khi tôi với Hồ Ngọc Cứ và Nguyễn Duy Tài cùng ra tranh cử Hội Đồng Đô Thành. Tôi biết cả nguyên nhân tiền bạc, do đâu mà vợ chồng BS tài đã có để lập nên nhà bảo sanh này. Nhưng đó là chuyện riêng của bà tài, đã xả thân để gầy vốn cho chồng làm ăn, nên tôi không đề cập vào đây làm chi. Tôi chỉ đề cập đến BS Tài. Vì hành động của ông ta liên quan đến chánh trị và gắn bó với Trí Quang. Đó là một nhà bảo sanh tư, nằm trên đường Duy Tân, nổi tiếng chuyên môn các dịch vụ phá thai bất hợp pháp, với giá cắt cổ. Những sản phụ nào gần chết mà không đủ tiền cũng đừng hòng được nhận bệnh. Một hôm, thảm cảnh thương tâm sau đây đã xảy ra: một trung sĩ ở trong xóm nhà thờ Tân Định, sau đường Hiền Vương, góc ngã ba Duy Tân, có vợ sanh khó, mất máu quá nhiều đến ngất xỉu mê man rồi. Người chồng đem vợ đến dưỡng đường Duy Tân của BS Tài gần đó xin cứu cấp. Bác Sĩ Tài đòi phải đóng tiền trước đủ 18.000 đồng mới cho nhập viện. Viên hạ sĩ quan nghèo, không đủ tiền, lạy lục xin cho đóng trước vài ngàn, còn lại sẽ trả sau. Bác sĩ Tài trả lời lạnh lùng: ”Không có tiền thì đem đi nhà thương thí, chớ đem đến đây làm gì?!” Và nhất định không nhận bệnh. Sản phụ đó chết. Người chồng đau đớn quá, mỗi chiều chiều, dắt bầy con thơ nheo nhóc đến trước dưỡng đường BS Tài ngồi khóc kể, réo đích danh Nguyễn Duy Tài chửi bới thậm tệ. Chuyện này đã kéo dài cả tháng trời. Những ai có dịp qua lại đường Duy Tân, ngang dưỡng đường Nguyễn Duy Tài thời đó đều không khỏi chạnh lòng khi chứng kiến cảnh thương tâm đó. Vậy, chuyện Nguyễn Duy Tài chứa chấp, nuôi dưỡng, săn sóc Thích Trí Quang trong bảo sanh viện Duy Tân chẳng qua chỉ là một hành vi ”mậu dịch tình cảm” giữa bọn người quyền thế, giàu có, bất lương với nhau. Quả nhiên, ít lâu sau, Nguyễn Duy Tài đã được khối Phật Giáo Ấn Quang cài vào một danh sách tranh cử Thượng Viện, rồi trở nên nghĩ sĩ, đại diện cho phe nhóm Phật Giáo Ấn Quang. Sau ngày 30. 4. 75, ra hải ngoại, tôi không lấy gì làm lạ khi thấy vợ chồng BS Nguyễn Duy Tài, ở Paris, liên hệ chặt chẽ với TT Thích Minh Tâm, thuộc nhóm ”Phật Giáo Thống Nhất” miền Trung!). TT vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức) cho đến khi chánh phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4.66, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3.9.66... Tại miền Trung, TT Trí Quang cho tuyên truyền rằng: ”Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ Kim và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao kỳ, đem quân đội ra tàn sát Phật Tử miền Trung... tại Sài Gòn TT Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ Kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ Kim. Thực ra, tôi chưa được một đô la của Mỹ, chứ nói chi đến vạn đến triệu...” Về chuyện Phật giáo Ấn Quang đem người và khí giới đến đánh chiếm và đốt phá VNQT, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau: ”Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng như Kiều Mộng Thu v.v... đột nhập vào VNQT bắt TT Viện trưởng VHĐ Thích Thiện Tường cùng với rất đông chư tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang. Ngày hôm sau Nha Tuyên Úy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VNQT... Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VNQT một lần nữa. Lần này họ bắt hết tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VNQT, và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự...” (trang 28) Về hành động của phe Ấn Quang đánh phá, đốt chùa, bắt nhốt tăng chúng, HT Tâm Châu viết: ”Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VNQT chia rẽ giáo hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn GHPGVNTH. Thực như câu phương ngôn của VN thường nói: ”Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng“. Cậy đông lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả ra chi cả! Cho đến nỗi những vị tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng giáo hội, cũng như các vị tăng ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay... Về vấn đề này, chính HT Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: ”CS từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng“... Khi quân CS từ rừng về Sài Gòn đã có gần 500 tăng ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón...” (trang 29). ...”Ngày 19.5.75, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.” (trang 30). Nói về tinh thần đấu tranh của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 22: ”Trong lúc xáo trộn, TT Trí Quang kéo thầy Quảng Độ (biết tiếng Anh), sư Bửu Phương (biết tiếng Miên) chạy xuống Tân Châu và đang định chạy sang Kamphuchia, thì Sài Gòn trở lại yên ổn, các vị lại trở về.”... Nhận xét về hành vi trốn chạy của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 34, đoạn 3, nguyên văn như sau: ”Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà thượng tọa cư ngụ tại đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau TT cùng hai vị tùy tùng trở về Sài Gòn thì ai cũng biết. Để xác tín việc này, ĐĐ Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho TT Trí Quang ngày 31. 12. 73 như sau: ”Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chánh phủ Nguyễn Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình hình biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các thượng tọa khác... Gần cuối lá thơ, ĐĐ Thích Quảng Thành với tính tình trung trực đã viết: ”Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa (Thích Trí Quang) với nhân vật “NHẠC BẤT QUẦN“, trong tiểu thuyết nổi danh của Kim Dung. Nhạc Bất Quần là chưởng môn của một võ phái nổi tiếng và được giới giang hồ xưng tụng là “Quân Tử Kiếm“, vì lối đánh và đường kiếm của ông rất quân tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một “ngụy quân tử“, với những mưu mô và thủ đoạn cực ác và cực nham hiểm”... (trang 35). NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH CỦA TRÍ QUANG Nhân Bạch Thư này, tôi xin giới thiệu thêm về lai lịch, nguồn gốc của Trí Quang, một tên CS nằm vùng hạng gộc, đã tạo nên bao nhiêu biến cố bi thương cho đất nước suốt từ 1963 đến 1975. TT Trí Quang sanh năm 1922, năm nay đã 75 tuổi, tại làng Diêm Điền (còn gọi là Nại Hiên hay Kẻ Nại), thị xã Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo khổ nổi tiếng ở miền Trung. Hầu hết dân làng đều làm nghề nông, thợ mộc, hay làm thuê làm mướn, để kiếm sống qua ngàỵ Vì phong thổ, dân làng Diêm Điền có tật nói ngọng, như dân làng Thổ Ngọa, nên đi đến đâu mở miệng ra cũng khó lẫn. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính bảo thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích. Trong quá khứ, khi phong trào Văn Thân nổi lên, năm 1885, dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau đến đốt nhà thờ Sáo Bùn, nằm về phía Nam Đồng Hới, của Thiên Chúa Giáo, tạo nên một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu sống mấy trăm giáo dân trong đó. Sau trận đốt phá, giết chóc tàn bạo này của dân làng Diêm Điền, số giáo dân còn sống sót, đã phải chạy lên phía Bắc Đồng Hới lập nên một giáo xứ mới, gọi là Tam Tòa. Khi phong trào Việt Minh nổi lên, làng Diêm Điền đã dễ dàng trở thành “CÁI NÔI” của Cộng Sản, và dân làng này đều trở thành những tay Cộng Sản rất quá khích và khát máu. Đến năm 1947, khi quân Pháp đã tái chiếm Đồng Hới, vãn hồi an ninh, trật tự, và thiết lập đồn bót canh gác khắp tỉnh Quảng Bình, nhưng từ khoảng thời gian 1947 đến 1954, vẫn không một ai dám bén mảng đến làng Diêm Điền. Vì kẻ nào đã lạc bước đến làng đó đều kể như bị thủ tiêu luôn. Trong hoàn cảnh bần cùng ấy của làng Diêm Điền, TT Trí Quang đã xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là người anh cả của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha mẹ đặt tên cho là Phạm Văn Bồng. Ba người em của ông cũng đã được cha mẹ đặt tên cho. Nhưng vì gia cảnh quá túng quẫn, cha mẹ không nuôi nổi các con, nên người con trai lớn tên Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em lớn nhà họ Phạm đã xuất gia, qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình, cũng thuộc thị trấn Đồng Hới. Bởi nhân duyên ấy, nên về sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được HòaThượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang, Minh, Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại. Nhờ nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang và Phạm Minh đã được học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu cảnh hất học. VỢ PHẠM CHÁNH LÀM NỘI ỨNG ĐÁNH ĐỒN Đến năm 1945, khi phong trào Việt Minh nổi lên trên toàn quốc, Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu hành, tham gia kháng chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa, nên Phạm Minh đã được phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã, tại địa phương. Còn hai người em, tên Phạm Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Đội. Chẳng bao lâu sau, Phạm Chánh được kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du Kích. Nhưng đến ngày 4. 6. 47, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, thuộc phía Tây thành phố Đồng Hớị Lúc bấy giờ Phạm Chánh mới 21 tuổi. Còn người em út, tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội CSBV vẫn còn sống cho đến năm 1954, khi chia cắt đất nước. Sau khi Phạm Chánh đã bị Tây bắn chết, người vợ của Phạm Chánh cũng là một kháng chiến quân, đã từ chiến khu quay trở về làng Diêm Điền, xin phép được hồi cư, với lý do được gần gũi phụng dưỡng cha mẹ chồng. Điều nên biết là vợ của Phạm Chánh lúc bấy giờ còn rất trẻ, và là một thiếu phụ nhan sắc mặn mòi. Vợ Phạm Chánh cầm đơn xin giấy phép hồi cư, lên Đồng Hới, gặp thiếu úy Huỳnh Công Tịnh. Lúc bấy giờ TU Huỳnh Công Tịnh đang giữ nhiệm vụ trưởng Phòng Nhì của Trung Đoàn Nguyễn Huệ, bộ chỉ huy đóng ở Đồng Hới, đã nhận đơn và bắt cô ta phải làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa. Vợ Phạm Chánh tuân thủ, cam kết đủ mọi điều. Nhưng TU Huỳnh Công Tịnh vẫn còn nghi ngờ, nên ngầm ra lịnh cho thượng sĩ Phạm Phòng phải theo dõi sát hành tung của đương sự. Đồng thời TU Huỳnh Công Tịnh cũng ra lịnh cho trưởng đồn Diêm Điền biết sự hồi cư rất khả nghi của vợ Phạm Chánh, để đề phòng chu đáo. Quả nhiên, chỉ vài tuần lễ sau khi mới hồi cư, vợ của Phạm Chánh đã tìm cách lân la đến đồn Diêm Điền, làm quen với các binh sĩ trong đồn. Nhiều khi cô nàng còn đùa cợt lả lơi, ra chiều khêu gợi tình tứ với anh em binh sĩ. Không bao lâu sau, cô nàng tiến gần đến mục tiêu hơn. Vợ Phạm Chánh đem thân xác trẻ đẹp, còn hấp dẫn của mình ra để thực hiện Mỹ Nhân Kế, suồng sã bắt nhân tình với viên trưởng đồn. Trong những lần gần gũi thân mật, viên trưởng đồn nhận thấy cô nàng đã để lộ nhiều hành vi khả nghi như hay hỏi han về tình trạng binh sĩ trú đóng trong đồn, chú ý theo dõi các cuộc hành quân, và nhất là cô nàng đặc biệt quan sát các vị trí phòng ngự chung quanh đồn, các công sự chiến đấu trong đồn v.v... Vì thế viên trưởng đồn đã ngầm báo cáo cho TU Huỳnh Công Tịnh biết, để phác họa sẵn một chương trình “tương kế tựu kế”. Về mặt địa thế, đồn Diêm Điền nằm về phía Tây, cách thành phố Đồng Hới khoảng một cây số, và là một trong những đồn vòng đai bảo vệ thành phố. Khi đã nắm vững được tin tình báo, quân Cộng Sản Việt Minh sẽ kéo tới tấn công đồn Diêm Điền, lập tức trung đoàn Nguyễn Huệ liền âm thầm mở cuộc bủa vây, bố trí các địa điểm phục kích chung quanh đồn, đồng thời trí các loại súng phóng tạc đạn, súng cối, và các loại trọng pháo đều nhắm vào đồn.Tối hôm đó, như thường lệ, vợ của Phạm Chánh lại vào đồn ngủ với viên trưởng đồn. Khoảng 2 giờ sáng, khi đặc công đã thi hành xong kế hoạch cắt hàng rào kẽm gai, gỡ xong một số mìn chung quanh đồn, vợ Phạm Chánh liền dùng lửa làm ám hiệu, để cho đặc công ở ngoài bò vào trong đồn. Khi biết chắc đặc công CS đã bò vào sát đồn, viên trưởng đồn mới vùng dậy phóng ám hiệu cho các đơn vị phục kích đồng loạt khai hỏa phản công. Đến lúc bấy giờ, vợ của Phạm Chánh mới biết được kế hoạch của mình đã bại lộ, liền nhảy vào ôm ghì lấy viên đội trưởng. Giữa tiếng súng nổ ròn tứ phía như pháo ran, và tiếng súng cối nổ ì ầm chung quanh đồn, lúc bấy giờ hai người hãy còn trần truồng như nhọng, ôm nhau vật lộn xà ngầu. Cuối cùng viên trưởng đồn đã vớ được khẩu súng lục giấu sẵn dưới giường, bắn chết vợ của Phạm Chánh. Sáng hôm sau, dư luận cả thành phố Đồng Hới đều xôn xao bàn tán về vụ quân CS Việt Minh đã tấn công hụt đồn Diêm Điền. Người ta cũng thì thào bàn tán không ngớt về chuyện vợ của Phạm Chánh, đã dùng Mỹ Nhân Kế, làm nội gián trong vụ tấn công đồn Diêm Điền, nhưng mưu sự bất thành, và người góa phụ, em dâu của TT Trí Quang, đã bị bắn chết tại trận trong lúc thân xác còn lõa lồ. Vài ngày sau, bà mẹ của Thích Trí Quang đã bị cơ quan an ninh địa phương bắt giam mấy tuần lễ liền, để tra vấn về vụ người con dâu làm nội ứng trong vụ đánh đồn Diêm Điền. Nói về Phạm Minh, người em kế của Trí Quang, đã đi theo Việt Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Theo ký giả Robert Shaplen, đã viết trong quyển “The Lost Revolution” (Nhà x.b. Harper and Row, 1965), có đoạn kể rằng: Khoảng tháng 5, 1964, sau khi nhà Ngô sụp đổ, người em trai kế của Trí Quang, tên Phạm Minh, vốn là một ủy viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo, đội tên “Thích Diệu Minh” đã cùng với một cán bộ của MTGPMN lén vào chùa Từ Đàm thăm Trí Quang... TRÍ QUANG BỊ BẮT Để giúp đồng bào nắm vững được các hoạt động chánh trị thiên Cộng liên tục của Trí Quang, khởi từ thập niên 30 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay CSBV, tôi thiết tưởng cần phải mời bạn đọc theo tôi lùi về dĩ vãng, từ khi Trí Quang còn là một tu sĩ trẻ tuổi. Tuy khởi đầu, cậu bé Phạm Quang nghèo khổ đã được HT Phổ Minh cho nương nhờ cửa Phật, để có chỗ ăn học. Ở Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết HT Phổ Minh là một vị cao tăng, đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tu. Nhưng ngài chỉ thông thạo Hán Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây học. Dù vậy, đến năm 1945, HT Phổ Minh lại không theo CSVM. Ngài đã ở lại vùng Pháp chiếm đóng, trong khi nhiều tăng sĩ Phật Giáo đã đi theo kháng chiến. Trong thời gian này, khoảng năm 1934, bác sĩ Lê Đình Thám (thân phụ của ông Lê Đình Duyên, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, cựu giáo sư trung học, cựu đổng lý Bộ Thông Tin, thời Nguyễn Khánh làm thủ tướng, cựu dân biểu thời đệ nhị Cộng Hòa), đã cùng với Thượng Tọa Thích Mật Thể lập ra trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào tạo tăng sĩ. Năm 1942, lúc đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi, đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, giám đốc trường. Năm sau, 1943, Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp. Nên biết HT Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc đảng này còn hoạt động trong bóng tối. Đến năm 1945, sau khi VM cướp chánh quyền, HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS, trong đó có Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...Về phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc kháng chiến”, và ra lịnh cho quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn v.v..., thì vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang trở về nơi sinh quán, làng Diêm Điền. Một thời gian ngắn sau, Trí Quang lại theo chân TT Thích Mật Thể ra Vinh. Nhưng Trí Quang chỉ ở Vinh có vài tháng, rồi lại quay trở về Diêm Điền, để giữ chức chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Bình. Đến năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Đồng Hới, Trí Quang rời làng Diêm Điền, đến cư ngụ tại làng Trung Nghĩa, vì Diêm Điền nằm quá gần thành phố, nên rất khó khăn thực hiện công tác bí mật. Trong thời gian này, Trí Quang hoạt động cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo và Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí Quang và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòa. Tuy bị trói giật cánh khủyu, nhưng không hiểu làm cách nào nửa đêm Nguyễn Tịch đã tự cởi trói và trốn thoát mất dạng. Ít lâu sau Trí Quang cũng đã được Pháp trả tự do. Riêng tên Toại Béo, vì trong thời gian hoạt động cho VMCS, đã chỉ điểm cho CSVM giết hại nhiều anh em hoạt động chánh trị quốc gia, chống CS, nên khi bị bắt, Toại Béo đã phải trả nợ máu. Quân Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn, rồi chặt đầu, đem bêu ở chân Cầu Dài, phía Nam thành phố Đồng Hới. Về sau, Pháp còn đem chiếc đầu lâu của Toại Béo về bêu ở cổng Quảng Bình Quan, nằm về phía Tây thành phố. Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang lại bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí mật và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh. Lần này Trí Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa. Sau lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang nhận thấy quê hương Đồng Hới không còn là nơi dung thân với những hoạt động bí mật được nữa, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ đó, bề ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng ngấm ngầm bên trong ông vẫn tiếp tục hoạt động cho CSVM. TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNH Khoảng năm 1953, CSVM khởi sự chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Một mặt vẫn đánh nhau kịch liệt với Tây, mặt khác CSVM mở chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải ngoại, để áp lực Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình được CS lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạo. Ở miền Nam, Trí Quang đã hoạt động tích cực để ủng hộ ủy ban này. Đến năm 1954, sau Hiệp Định Genève, luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa Bình” để yểm trợ cho đường lối chánh trị của CSBV. Ở Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế, do Trí Quang thành lập, ngay từ giây phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có sự tham gia của một số trí thức miền Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v... Lúc này ông Diệm đã về nước chấp chánh. Ngày 29. 8. 54, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2 điểm: yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam , và phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève. Gần một tháng sau, ngày 21. 9. 54, Phong Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc. Trước tình thế đó, bắt buộc chánh phủ Ngô Đình Diệm phải tỏ thái độ. Ngày 7.11. 54, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào này. Ở Sài Gòn, LS Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị bắt. Ở Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng lưới an ninh. Nhưng, ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn lại muốn nhân dịp này noi gương Gia Cát Lựơng, trổ tài “thất túng, thất cầm” Mạnh Hoạch. Ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Cẩn tin chắc rằng: với những tài liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữa. Đến ngày 9. 2. 55, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ra lịnh tống xuất 26 nhân vật đầu xỏ của PTHB ra Hải Phòng, trao cho CSBV. Nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến và Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Văn Đẳng... Như thế, ta không lấy làm lạ chẳng bao lâu sau, Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà Ngô trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh viện trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công ty bào chế thuốc tây OPV, tiền bạc vô như nước lụt! Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi giữ chức tỉnh trưởng. Từ năm 1955 đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế. Riêng Trí Quang thì được Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho thêm phần khang trang, mỹ lệ. Nên biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “Ấn Tôn Tự” bị coi như phạm húy). Vì là một ngôi cổ tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ, nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã bắt đầu bị hư mục. Bởi thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung, nhất là dân Huế, không còn ai lấy làm lạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẫn đã đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với TT Trí Quang. Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm thêm hào quang và làm tăng thêm uy tín cho Trí Quang. Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng Nhì Pháp trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã nắm gọn được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai lầm hoàn toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn. Ông đã chơi trò chánh trị, muốn bắt chước Gia Cát Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, nhưng rất tiếc, tài trí của ông Cẩn không sánh được với Khổng Minh. Còn Trí Quang lại là một tay cán bộ CS thâm căn cố đế, thì không bao giờ có thể trở thành Mạnh Hoạch được. Như vậy, nói theo kiểu người Tây phương, ông Cẩn đã “đùa với lửa”, còn nói theo kiểu VN ta thì ông Cẩn đã chơi trò “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, chẳng trước thì sau anh em nhà ông Cẩn cũng sẽ bị Trí Quang tiêu diệt, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 10:29:25 GMT 9
TRÍ QUANG VÀ CHẾ ĐỘ DIỆM Cho đến nay ai cũng biết chế độ Ngô Đình Diệm đã bị quân đội, theo lệnh của Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, gỉa thiết, nếu bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ Diệm thì dù cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc thêm ba đầu sáu tay cũng không làm nên chuyện. Nhưng trên thực tế, ta phải nhìn nhận rằng, lúc khởi đầu Trí Quang và Thiện Minh đã chủ động trong việc phản đối lệnh giới hạn việc treo cờ Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản năm 1963. Chẳng bao lâu sau cuộc phản đối này đã được sự hộ trợ tích cực của tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở Huế và một số tỉnh ở miền Trung, biến thành cuộc đấu tranh chánh trị, núp dưới danh nghĩa Phật Giáọ Đặc biệt nhất là sự yểm trợ của một số cán bộ cao cấp CS nằm vùng gồm: Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hồ Cầm... Trong thời gian Trí Quang dùng Phật Giáo để đấu tranh, dân xứ Huế ai cũng thấy Võ Đình Cường, Nguyễn Trực, và Tống Hồ Cầm đều là những cánh tay mặt và tay trái của Trí Quang. Nhưng trên thực tế, các cán bộ CS cao cấp ấy đều là “cố vấn trực tiếp chỉ đạo” của Trí Quang. Vì thực chất Trí Quang chỉ là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học, với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình độ Hán học của một nhà Nho, và cũng không có chút hiểu biết gì về Tây học. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm thông dịch viên. Với căn bản đó, nên tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn hẹp, nhất là trên bình diện chánh trị quốc tế. Theo hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng viên CS thâm niên. Cường đã được kết nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Viện đại học này tọa lạc ở gần đầu cầu Trương Minh giảng. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác tuyên vận trong giới Phật Giáo miền Trung. Suốt trong thời gian từ 1947 cho đến 1965, Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần, nhưng đều được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự dọ Kể từ cuối năm 1963, tựa vào thế lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình Cường đã ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh của chế độ đệ nhị CH miền Nam. Sau năm 1975, Võ Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của khối PG thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, tp Sài Gòn. Về phần Thích Nhật Thiện, bí thư của Trí Quang, tuy là tay chân thân tín của Trí Quang, nhưng sau ngày 30.4.75, cũng đã bị CSBV bắt giam để điều tra, vì bị tình nghi đã hoạt động gián điệp cho CIA Mỹ. CSBV đã căn cứ trên sự kiện, đêm ngày 22. 8. 63, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Công An Cảnh Sát vây bắt tất cả sư sãi trong các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... không một ai thoát được, duy chỉ có Trí Quang, đã nhờ Thích Nhật Thiện đem đi trốn trong cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ. (Trong tác phẩm VNNC của Trần Văn Đôn cũng có ghi điều này). Vậy, phải chăng Thích Nhật Thiện đã có móc ngoặc với CIA Mỹ? Còn Trí Quang thì sao? Đó là những vấn nạn trầm trọng cho cả hai thấy trò Trí Quang và Nhật Thiện! Ngoài ra, tôi còn được biết thêm Thích Nhật Thiện, tên thật là Lê Mậu Chí, còn gọi là Hàm, sanh quán tại Thừa Thiên. Trước di cư năm 1954, Lê Mậu Chí đã làm công an thuộc ty CA Đồng Hới, rồi chuyển vào ty CA Khánh Hòa. Tại đây, vì gian díu tình ái lăng nhăng, Lê Mậu Chí đã bị đổi ra chi CA Sông Cầu. Không bao lâu sau, năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải luôn khỏi ngành CA. Mất việc, Lê Mậu Chí mò vào Sài Gòn, xin xuất gia đầu Phật, và học thêm Anh Văn. Khoảng các năm 1963 đến 65, Thích Nhật Thiện trụ trì tại một ngôi chùa thuộc quận Nhì, gần khu chợ Cầu Muốị Trong thời gian này, khi ra tranh cử ở quận Nhì, tôi và Hồ Ngọc Cứ thường gặp Thích Nhật Thiện. Theo dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ khởi đầu, lúc tháng 5. 1963 cho đến ngày miền Nam mất vào tay CSBV, người ta nhận ra các phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng Sản đã được Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng triệt để. Cao điểm của cuộc đấu tranh Phật giáo miền Trung đã đạt được là đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC” sặc mùi Cộng Sản, và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, do toàn cán bộ CS nằm vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến, chủ tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao Huy Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đang ở Pháp)... Vì cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc sụa mùi CS, và lộ liễu quá, nên khó thu hút được các thành phần khác, nên chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như đảng CSVN cải danh thành đảng Lao Động vậy! Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của HĐNDCQ, ra đời với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm mục tiêu thừa thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình trị áp bức nổi dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu mục tiêu lớn, toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa hiệp với một số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ TRỊ”, làm cho chế độ miền Nam bị tê liệt. Trong thời gian, kể từ sau ngày 1.11.63 trở đi Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một lãnh chúa quyền khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể mặt. Điều này ai cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Dương Văn Minh, một cán bộ CS nằm vùng ở trong Nam giống hệt như Trí Quang nằm vùng ở miền Trung, đến giờ phút cuối cùng, ngày 30.4.75, vẫn còn phải “nhất bộ tam bái” đến “HOÀNG CUNG ẤN QUANG” chầu chực Trí Quang cả ngày lẫn đêm, để lãnh chỉ thị! Căn cứ trên các sự kiện kể trên, ta mới có thể hiểu được cách chính xác, vì sao sau ngày chế độ nhà Ngô sụp đổ, các tay chân thân cận của gia đình họ Ngô như: BS Lê Khắc Quyến đã không bị kết tội “DƯ ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ”, Nguyễn Cao Thăng, đã kinh tài cho Ngô Đình Cẩn và đảng Cần Lao mà không bị rụng sợi lông chân nào, lại còn được hưởng trọn gia tài OPV của Cẩn để lại. Riêng vụ nổ trước đài Phát Thanh Huế, chỉ riêng một mình thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng Nội An, cấp thừa hành của tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, bị đưa ra tòa truy tố và bị tù khổ sai chung thân. Trong khi đó, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, kiêm thị trưởng thành phố Huế, người chịu trách nhiệm toàn bộ hành chánh và an ninh tại địa phương lại được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, rồi về sau lại còn được chuyển về bộ Quốc Phòng giữ chức Công Cán Ủy Viên, thời tướng Đôn làm tổng trưởng. Bạn đọc có biết tại sao không? Vì Đẳng vốn là tay chân bộ hạ thân tín từ lâu của Trí Quang trong các Phong Trào Hòa Bình đấy! CẤU KẾT GIỮA TRÍ QUANG VÀ LÊ KHẮC QUYẾN Trong phong trào Phật Giáo đấu tranh miền Trung năm 1963, do Trí Quang và một số tăng ni nằm vùng và toàn thể cán bộ CS trong chi bộ Thuận Hóa của Lê Khắc Quyến tích cực yểm trợ. Bọn CS nằm vùng này biết rõ hơn ai hết, các thầy trong chùa Từ Đàm chỉ có một số PT giới hạn, nhưng không có cán bộ xách động đấu tranh chuyên nghiệp. Bọn CS có cán bộ thành thạo việc xách động quần chúng, biết cách tổ chức đấu tranh có qui củ. Trong khi đó quần chúng VN đại đa số đều nghèo khổ, không có địa vị, nên thường dễ dàng nghe theo lời tuyên truyền rỉ tai, và dụ dỗ của CS nằm vùng. Nếu có kẻ nào cứng đầu, không nghe, bọn CS nằm vùng không ngần ngại gì áp dụng ngay biện pháp hù dọạ Có khi chúng dùng chính bàn tay của cơ quan an ninh và chánh quyền địa phương mù quáng, để thực thi những lời hăm dọa của chúng, khiến cho người dân thấp cổ bé họng chẳng còn biết nương tựa vào ai, phải khiếp sợ ngấm ngầm CS. Ngay trong giai đoạn đầu, bọn cán bộ CS nằm vùng kể trên đã xuất hiện với lý do chính đáng là ủng hộ triệt để yêu sách của Phật Giáo, nguyện hy sinh tranh đấu cùng các tăng ni, Phật tử, rồi lại còn hô hào vận động thêm quần chúng tham gia đông đảo hơn nữạ Sau đó các thầy được đề cao lên đến tận chín tầng mây xanh, tưởng chừng như đức Phật Thích Ca sống lại cũng không bằng. Trong trường hợp này, dĩ nhiên các thầy đều không khỏi sướng rên lên. Vì các thầy đâu đã thành Phật hay Bồ Tát gì. Trong bụng ông thầy tu nào cũng vẫn có một phần cơm và một phần cứt như mọi chúng sinh thôi! Từ đó các thầy chẳng khác nào những con cá đã ngậm phải lưỡi câu vô hình của bọn CS nằm vùng. Khi chợt biết ra, các thầy muốn nhả lưỡi câu trong họng cũng không còn kịp nữa. Vả lại, một khi đã được "thần thánh hoá" rồi còn ai dại gì muốn quay đầu trở lại, hiện nguyên hình làm một tên phàm phu tục tử nữả! Aáy là chưa kể đến yếu tố TT Trí Quang chính là một cán bộ CS gộc. Điều này, tôi sẽ chứng minh trong một đoạn tớị Sau hơn 20 năm lưu vong, đồng bào tị nạn ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã biết hết cả rồi. Trong đoạn này, tôi cần phải chứng minh cho mọi người thấy rõ cuộc đấu tranh của PG miền trung đã bị CS nằm vùng thao túng và lộng hành từ đầu đến cuối, như đang giữa thủ đô cờ đỏ sao vàng Hà Nộị Các sư Trí Quang, Thiện Minh chỉ là những kẻ cho mượn danh nghĩa, các chùa Từ Đàm, Diệu Đế chỉ là diễn trường của những vở bi hài kịch, và lá cờ PG chỉ là một cái vỏ bọc ngoài của một cái nhọt chánh trị đã tới hồi cương mủ, phải được xì ra. Nếu bạn đọc là những người từng theo dõi thời cuộc nước nhà trong những tháng từ 5 đến 11, năm 1963, chắc hẳn chưa quên tờ báo "LẬP TRƯỜNG", với nhóm cán bộ CS nằm vùng đứng đầu là BS Lê Khắc Quyến. Ngay từ lúc này, chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh em nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đã đào tẩu thiên đàng CS, chạy qua Paris rồi!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình Cường, cư sĩ PG, tác gỉa cuốn "ÁNH ĐẠO VÀNG"... đã nhập cuộc. Hiện nay Lê Khắc Quyến đã chết rồi, nhưng các đồng chí của ông ta vẫn còn sống và đang hoạt động cho CS. Bây giờ Võ Đình Cường đang phụ trách báo "GIÁC NGỘ", ở đường Nguyễn Đình Chiểu, (tên cũ Phan Đình Phùng) là một tờ báo của tổ chức PG quốc doanh Hơn thế nữa, nhóm CS nằm vùng này lại còn lập ra một tổ chức nhân dân hoàn toàn rập khuôn theo kiểu CS, với cái danh xưng cũng nồng nặc mùi CS là: "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC". Chính Lê Khắc Quyến đã đứng tên chủ tịch của Hội Đồng. Nhóm ấy đã núp dưới danh nghĩa PG đấu tranh, lợi dụng tình thế rối loạn ở miền Trung, ngày 21. 9. 1964 đã tụ tập và kéo nhau đến đánh chiếm đài phát thanh Huế, đốt phá nhiều cơ sở chánh quyền ở Huế và Qui Nhơn... Đêm 23.1.65, bọn "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC" của Lê Khắc Quyến còn kéo nhau đến phòng thông tin Mỹ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ, gây thiệt hại trên 5000 quyển sách. Khi đó, ông phó lãnh sự Mỹ hay tin, đến nơi lo chữa cháy để cứu sách trong thư viện cũng đã bị bọn tay chân bộ hạ của Lê Khắc Quyến chọi đá vào ông ta, khiến ông ta đã bị thương trầm trọng, phải đưa vào nhà thương cấp cứụ Hành động lợi dụng danh nghĩa PG đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bọn Lê Khắc Quyến và HĐNDCQ của hắn đã phá rối nền trị an ở Huế đến cùng cực. Những ai đã từng ở Huế trong thời gian này đều không khỏi ngao ngán, tưởng chừng như là một nơi "VÔ CHÁNH PHỦ" hay CSBV sắp vào tiếp thu đến nơi rồi! Mặc dù Lê Khác Quyến và đồng bọn đã hành động phản bội quân dân miền Nam cách trắng trợn và công khai như thế - chỉ còn thiếu việc kéo cờ đỏ sao vàng lên Ngọ Môn Quan nữa mà thôi! - nhưng hắn vẫn không bị điều tra, và chẳng gặp chút khó khăn nào trước chánh quyền và luật pháp. Ngược lại, bọn độc tài quân phiệt Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu... vẫn còn trọng dụng và ưu đãi hắn. Ngày 8. 9. 1964, Lê Khắc Quyến và Tôn Thất Hanh đã được bổ nhiệm vào cái gọi là: "THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUỐC GIA". Sau đó Lê Khắc Quyến lại còn được đổi vào Sài Gòn cho làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính, trong Chợ Lớn. Vây, Lê Khắc Quyến là aỉ Nhân dân cố đô Huế không ai lạ gì ông bác sĩ đã được hưởng nhiều ơn mưa móc nhất của gia đình nhà họ Ngô trong suốt 9 năm trờị Đồng thời người dân xứ Huế cũng thừa biết ông ta là người "thân với bên kia"! LÊ KHẮC QUYẾN LÀ AI. Ngay từ khi ông Diệm chưa về nước chấp chánh, năm 1952, BS Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà họ Ngô mời làm y sĩ riêng cho thân mẫu của ông Diệm. Đến khi ông Diệm về nước, làm thủ tướng, rồi làm tổng thống, quyền uy lừng lẫy một thời, ở ngoài Trung, ông LK Quyến ra vào dinh Phủ Cam hàng ngày như ra vào nhà của ông. Ngoài những ưu đãi về vật chất và thế lực chánh trị, LK Quyến còn được ông Diệm tặng riêng cho một chiếc xe du lịch hiệu Mercedes, trị gía khoảng 200.000 đồng. Thời kỳ 1955-56, loại xe này được qui định là xa xỉ phẩm, cấm nhập cảng cho quần chúng xử dụng. Xe đó thuộc chế độ ưu tiên nhập cảng, chỉ dành riêng cho chánh phủ và một số dân biểu gia nô trong quốc hội đệ nhất Cộng Hòạ Tưởng cũng nên nhắc lại một chút dữ kiện để bạn đọc trẻ tuởi ở hải ngoại dễ hình dung trị gía của số tiền 200.000 đồng VN thời 1955-56. Lúc ấy, người công chức chỉ được lãnh mỗi tháng khoảng 1.800 đồng. Với số lương đó, người ta có thể nuôi được vợ và một đứa con! Nhờ dựa vào thế lực nhà Ngô, LK Quyến còn được dạy học tại đại học Y Khoa Huế, và sau đó kiêm luôn chức khoa trưởng Y Khoa, thuộc viện đại học Huế. Trong thời kỳ này chi bộ Thuận Hoá, dưới quyền chỉ huy của cán bộ LK Quyến vẫn âm thầm hoạt động, thật kín đáo, để không bị lộ tung tích. Dù bận rộn một lúc nhiều chức vụ, nhiều công việc quan trọng, như: y sĩ riêng cho bà thân mẫu TT Diệm, giáo sư, khoa trưởng phân khoa y học, bác sĩ LK Quyến vẫn cố gắng duy trì phòng mạch của ông, đã mở từ trước năm 1952, tại gần cửa Thượng Tứ, Huế. Vì chính nơi đây là trạm giao liên, đồng thời còn là trạm cứu thương, đặc biệt dành cho các cán bộ CS cao cấp thường lén về nằm điều trị. Phòng mạch của LK Quyến đã được trang bị chẳng khác nào như một bệnh xá, có nhiều giường điều trị, với đầy đủ tiện nghi tối tân cấp cứu và giải phẫu ngoại khoa. Bệnh nhân, nếu là thường dân, muốn đến phòng mạch của BS Quyến để khám bệnh phải xin thẻ trước, lấy số trước, hoặc phải lấy ngày, giờ hẹn trước. Nhưng các cán bộ CS, đồng chí của BS thì được ưu tiên nhận bệnh và ưu tiên điều trị, không cần phải có một thủ tục nàọ Bởi các bệnh nhân đặc biệt ấy đã được thông báo trước bằng giao liên, hay bằng mật mã, ám hiệu, hoặc bằng khẩu hiệu đặc biệt của cơ sở, trong trường hợp nghiêm trọng và cấp bách. Tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình, cụ thể, mà tôi đã biết được. Dĩ nhiên, còn vô số trường hợp khác nữa, mà tôi không biết hết. Vào khoảng mùa Hè, năm 1952, một cán bộ CS hạng gộc, tên Oanh, thuộc xã Hương Bình, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, con ông Viên Tứ, khá nổi tiếng ở Huế, đã bị “cảm sốt cấp tính” rất nặng, có thể nguy đến tính mệnh, đã được BS Quyến đặc cách nhận bệnh, và chữa trị trong phòng riêng của phòng mạch, không ghi vào sổ nhận bệnh hay danh sách bệnh nhân. Tóm lại không để lại một dấu vết nào của tên Oanh trong hồ sơ. Nhân viên trong phòng mạch của BS Quyến đều là cán bộ giao liên của CS. Ngoài một người y tá đàn ông, tên Nuôi, còn có một nữ y tá tên Thảo, người ở thôn Vỹ Dạ, Phú Vang, đã có chồng đi tập kết. Đến sau năm 1954, nữ y tá Thảo của BS Quyến cũng bỗng nhiên biến mất khỏi phòng mạch, không ai biết đi đâu, và cũng chẳng ai tìm ra tông tích. Về sau, trong thời kỳï Tết Mậu Thân, người dân đất Thần Kinh mới đột nhiên hoảng vía khi thấy vợ chồng nữ y tá Thảo thình lình xuất hiện. Theo tôi, người biết rõ tông tích của BS Lê Khác Quyến nhất, hiện nay còn đang sống ở Pháp, là ông Võ Như Nguyện, người đã từng giữ chức giám đốc Công An Trung Phần từ trước năm 1954. Còn thiếu tướng Đỗ Mậu, tuy đã từng nắm chức vụ giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một thời gian khá lâu dài, dưới thời đệ nhất CH, nhưng cũng đã tỏ ra không biết gì nhiều về mặt trái của LK Quyến. Có thể TT Đỗ Mậu đã e ngại tư thế của LK Quyến, y sĩ điều trị riêng cho thân mẫu của tổng thống Diệm, và là người đã được ông Cẩn rất trọng nể, nên không dám sờ đến. Trong quyển hồi ký VNMLQHT, khi đề cập đến những biến động dữ dội tại miền Trung, dưới thời kỳ tướng râu dê Nguyễn Khánh cầm quyền, tác gỉa cũng chỉ nhận xét về BS Lê Khắc Quyến bằng một câu đơn giản như sau: "Trong hàng ngũ đấu tranh Phật Giáo, trước hết có các ông Lê Khắc Quyến, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một phần tử thân kháng chiến mà nhiều người ở Huế biết rõ." (trang 912).Về mặt nổi LK Quyến làm chủ tịch HĐNDCQ, nhưng về mặt chìm, LK Quyến còn là chi bộ trưởng của chi bộ Thuận Hoá của CSBV. Thành phần cán bộ đảng viên gồm những người có tên sau đây: Tướng Lê Văn Nghiêm, trước năm 1954, khi quân Pháp vừa thất trận Điện Biên Phủ, đồng thời cũng là lúc mặt trận chánh trị Quốc-Cộng ở VN đang sôi động nhất, đã vội vã đem dâng toàn bộ bản đồ hành quân, có chấm tọa độ sẵn, trao cho người thân tín đem ra khu cho CS. Người đó là thầu khoán Nguyễn Ngọc Bang, một đồng chí của Lê Khắc Quyến và Lê Văn Nghiêm. Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiêm đang mang lon trung tá. Ông ta vốn xuất thân lính khố xanh. Nhờ đã lập được nhiều công trạng hữu ích cho cách mạng từ nhiều năm qua, nên sau năm 1975, cựu tướng Lê Văn Nghiêm đã không bị quân CSBV bắt đi học tập cải tạo như hàng trăm ngàn sĩ quan khác trong quân đội Ngụy quyền miền Nam . Ông ta đã được CSBV ưu đãi cho ở nhà hú hí với vợ con, tại đường Lý Thường Kiệt, ở Huế, cho đến khi chết. Lê Văn Nghiêm vốn là bạn thân với BS Lê Khắc Quyến, Nguyễn Ngọc Bang và Thân Nguyễn Ngọc Bang vốn làm nghề thầu khoán xây cất, khá nổi¼Trọng Phước tiếng ở miền Trung. Vào khoảng năm 1984, Nguyễn Ngọc Bang đã được sang Mỹ tị nạn theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng ông ta đã qua đời khoảng năm 1991. Một cán bộ CS khác tên Trí, làm nghề thợ mộc, có xưởng mộc tại đường Nguyễn Hoàng (tên cũ) ở Huế. Trong vụ tàn sát ở Huế dịp tết Mậu Thân, tên Trí đã lập thành tích lớn, một tay đã giết khá nhiều người.Theo hồi ký của tướng CS Lê Minh (nay đã chết) có đoạn ghi nguyên văn như sau: ”Riêng chuẩn bị cho Mậu Thân chúng tôi đã đưa 200 khẩu súng với chất nổ C4 vào bên trong nhà anh Lê Hữu Trí, Minh-Cận đều chứa vũ khí ”.Ngoài ra, tôi còn được biết thêm: Tên Trí đã hoạt động cho CS từ thời Pháp còn ở VN, rồi đến đệ nhất và đệ nhị CH không hề bị khó dễ. Tôi càng ngạc nhiên khi thấy các cơ quan an ninh dân sự lẫn quân sự đều làm lơ trước những hành động phi pháp của hắn. Tôi thấy, trước khi vụ tết Mậu Thân diễn ra, nếu chính quyền VNCH ở địa phương bắt tên Trí và đồng bọn, thì hàng vạn đồng bào ở cố đô Huế đâu đã bị chết thảm trong bàn tay tàn ác của quân CSBV! (Vậy mà tướng Trưởng, lúc bấy giờ là người có trách nhiệm bảo vệ Huế, còn dám trơ trẽn chạy tội, tuyên bố với báo chí là ông ta đã áp dụng chiến thuật... ” dụ địch”! Tội ấy với lời nói ngu xuẩn này thực đáng đem ra xử bắn tại chỗ theo quân pháp ).Sau ngày 30.4. 75, người dân xứ Huế đã thấy tên thợ mộc Trí, một đồng chí trong chi bộ Thuận Hóa của BS Quyến, đã xuất hiện hoạt động công khai cho chánh quyền CS tại địa phương. Ngoài ra, chi bộ Thuận Hoá của BS Quyến còn có 2 vợ chồng tên Hiển, làm nghề bào chế thuốc tây (préparateur en pharmacie). Vào khoảng năm 1950-51, tên Hiển đã bị Tây hành quân, phục kích bắn chết trong một đêm kia tại bến đò "BA BẾN", nằm về phía quận Hương Thủỵ Còn người vợ của Hiển, sau đó cũng đã bị khai trừ ra khỏi đảng, không hiểu vì lý do gì. Hiện nay người đàn bà này đang sống tị nạn tại Canada, gần chỗ tị nạn của mấy người con của BS Quyến, và mấy người con của tướng Lê Văn Nghiêm.Nếu bạn đọc còn chưa hài lòng về những thành tích nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma CS của bác sĩ Lê Khắc Quyến, thì đây, tôi xin kể tiếp một bằng chứng nữa:Chuyện không may này bất ngờ đã xảy ra vào khoảng cuối năm 1962. Hôm ấy, ty Công An tỉnh Thừa Thiên đã trình sang tòa hành chánh tỉnh một công văn "MẬT" có liên quan đến BS Quyến. Người tiếp phát công văn "MẬT" ấy là Công Tằng Tôn Nữ Như, một nữ tu xuất, em của ông Bửu Đồng (ở Đức*) và là chị của ông Bửu Sao (ở Orlando, Mỹ), con ông Ưng Trạo, có trách nhiệm trước tiên vô sổ công văn, ghi trích yếu, rồi mới phân phối ra, đệ trình lên cấp thẩm quyền giải quyết. vì công văn "MẬT" này có tầm mức quan trọng đặc biệt, nên giới chức trong tòa tỉnh đã phải cấp tốc trình thẳng lên ngay cho ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng duyệt xét. Nội dung công văn MẬT ấy như sau: -"Một xe chở đầy thuốc tây đã bị lật trên lộ trình Cầu Hai - Lăng Cô, quốc lộ 1, thuộc địa phận quận Phú Lộc. Người phụ trách chuyến xe chở thuốc tây này tên là Phạm Văn Nhân, nhân viên tùng sự tại bệnh viện Huế. Trong cuộc thẩm vấn sơ khởi của công an, Phạm Văn Nhân khai là chở thuốc tây cung cấp cho chi y tế quận Phú lộc, theo lệnh của BS Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện..."Theo tường trình của công an tỉnh thì lời khai của Phạm Văn Nhân hoàn toàn sai sự thật. Vì 2 lẽ sau đây:- Vấn đề giao thuốc tây cho các Chi Y Tế thuộc phần việc và trách nhiệm của Ty Y Tế tỉnh, tuyệt nhiên không liên quan gì đến bệnh viện Huế, dưới quyền điều khiển của BS Quyến. - Chi Y Tế Phú Lộc nằm tại Truồi, quận lỵ, chứ không phải Cầu Hai - Lăng Cô. Nên biết rằng từ Lăng Cô đến đèo Hải Vân không xa mấỵ Nơi đây vốn là địa điểm giao liên quan trọng của Cộng Sản suốt trong thời kỳ chiến tranh.Theo tường trình của công an tỉnh thì đây là vụ tiếp tế thuốc tây cho CS, và bởi thế nên công an đề nghị nên cần phải thẩm vấn BS Quyến, rồi lập các thủ tục cần thiết chiếu theo luật định.Vì công văn này chỉ là bản sơ trình, nên cần phải được cấp trên cho phép tiến hành thủ tục thẩm vấn, nhiên hậu mới có thể thiết lập hồ sơ theo luật định. Sau khi hồ sơ đã hoàn tất mới tái trình lên tòa tỉnh và các cơ quan thẩm quyền liên hệ, để thực hiện giai đoạn chót của thủ tục là truy tố can nhân và tòng phạm ra tòa án. Nhưng công văn MẬT này của Ty Công An tỉnh đã bị một bàn tay cao cấp nào đó trong guồng máy chánh quyền thủ tiêu luôn. Thế là nội vụ bị xử chìm xuồng, và tội tiếp tế thuốc tây cho CS của BS Quyến cũng được ếm nhẹm luôn. Điều đáng nói thêm ở đây, nhân viên có trách nhiệm tải thuốc tây cho CS tên Phạm Văn Nhân lại chính là cháu ruột của Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ đang làm thủ tướng chánh phủ CSBV, anh em với giáo sư Việt Văn Phạm Văn Diêu, ở Sài Gòn. Anh Phạm Văn Diêu lớn hơn tôi vài tuổi và đã dạy chung với tôi trong nhiều trường tư thục ở Sài Gòn. Dịch vụ tiếp tế thuốc tây cho CS ở miền Nam, trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhất là dưới thời các tẩu tướng tham nhũng, thối nát cầm quyền, đã trở thành gần như "CÔNG KHAI PHỔ BIẾN". Chẳng tin, xin cứ hỏi các ông bà chủ các viện bào chế như: Trang Hai, La Thành Nghệ, Nguyễn Cao Thăng, Trương Văn Chôm, và các dược sĩ như: Ngô Khắc Tĩnh, Trần Văn Lắm, cựu chủ nhân nhà thuốc tây Cường Lắm, ở góc đường Thủ Khoa Huân và Lê Thánh Tôn, gần tiệm vàng con cọp Nguyễn Thế Tài...thì rõ! Để có một cái nhìn chính xác về biến động miền Trung, tôi nhận thấy cá nhân ông Diệm là người có tư cách đạo đức hơn hẳn nhiều người khác mà tôi đã có dịp biết. Ông Ngô Đình Nhu xứng đáng là người trí thức, có mưu lược, tư tưởng phóng khoáng, quan niệm về tôn giáo và chánh trị rất dứt khoát. Hai ông ấy không cuồng tín và chủ trương kỳ thị tôn giáo như ông Ngô Đình Thục. Nên nhớ là vào khoảng năm 1956-57, tổng thống Ngô Đình Diệm đã duyệt y việc thành lập Phật giáo thống nhất, cho phép các khuôn hội, Niệm Phật Đường mở cửa tự do, và các Phật tử trên toàn quốc dược tự do đi lại hành lễ, không có ai cản trở hay làm khó dễ điều gì. Như thế chắc chắn lệnh cấm treo cờ trong dịp lể Phất Đản năm Qúi Mão là do sự đốc thúc của ông Thục. Ông Thục muốn phục vụ đắc lực "nước Chúa" của ông, nhưng không ngờ lại di hại cho toàn thể các em trong gia đình ông, khiến những người này đều bị chết thảm! Riêng ông Thục đã may mắn thoát thân, khỏi bị nhân dân đòi nợ máu, ngay trong khi biến cố trọng đại của đất nước còn đang diễn tiến. Ngày xưa, nếu nhà vua mù quáng mà có được bầy tôi trung thành, nghĩa khí, như Biển Thước dám mắng tận mặt vua Tần Vũ Vương, thì dù cho ông vua có hôn mê, đần độn đến đâu cũng phải tỉnh ngộ, và đất nước lo gì không có ngày hưng thịnh. Ngược lại, ngay từ đầu, triều đình nhà Ngô đã bị bao vây bởi một số linh mục di cư chỉ biết có quyền lợi trước mắt. Đến khoảng cuối thập niên 50 sang đầu thập niên 60, triều đình này lại bị bao vây bởi một lũ văn quan, võ tướng bất tài, nhưng lại đặc biệt giỏi về tài nịnh hót, bợ đỡ. Đứng đầu sổ gia nô là các ông: Trương Vĩnh Lễ, cựu chủ tịch quốc hội bù nhìn, Nguyễn Phương Thiệp, tổng thơ ký quốc hội, Bùi Văn Lương, nguyên tổng ủy trưởng Dinh Điền, sau làm bộ trưởng Nội Vụ, thay thế thẩm phán Lâm Lễ Trinh. Về phía quân đội thì có Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao, Trần Thiện Khiêm... đã từng được coi như con nuôi của ông Diệm. Riêng Trí Quang và Lê Khắc Quyến cũng là những kẻ đã được hưởng ơn mưa móc rất dồi dào của chế độ. Nhưng về sau chính những kẻ thọ ơn ấy đã âm mưu giết chủ của họ. Lòng dạ con người thật là phản trắc vô thường. Đáng ghê sợ thật! TRÍ QUANG CHO MINH CỒ LEO CÂY THA MỠ BÒ! Từ lâu Dương Văn Minh đã đặt hết kỳ vọng vào TT Trí Quang, coi Trí Quang như một cố vấn chỉ đạo đặc biệt, một trung gian thế lực, để thiết lập mọi thương thảo với quân CSBV.Mặt nạ “NẰM VÙNG” và “THAM VỌNG CÁ NHÂN” của Dương Văn Minh và Trí Quang mãi đến phút chót của Sài Gòn mới được hai người ấy tự tay gỡ xuống. Theo lời của tướng Nguyễn Hữu Có, lúc ấy đang đóng vai phụ tá cho ông Minh, kể lại nguyên văn như sau: -"Ngày 29.4.75, là ngày tôi vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên Ấn Quang. Lệnh thầy (Trí Quang) bảo đến lúc nào là đi lúc đó. Tội nghiệp cho Minh Cồ làm tổng thống nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh miệng của tiểu đoàn trưởng thôị Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh Cồ làm tổng thống hay Thích Trí Quang đâỷ...Tôi nhớ có một lần họp tại Ấn Quang do Thích Trí Quang chủ tọa cùng một vài thầy chùa khác, tôi không biết mặt và tên. Phía bên này có Minh Cồ, ông Mẫu, Lý Chánh Trung. Tôi ngồi sau lưng Minh Cồ (gần như cố vấn quân sự của Minh Cồ). Thích Trí Quang nhìn tôi với cặp mắt nhỏ, sâu, đầy nham hiểm, lườm một cái để chuyển sang hướng khác. Mình cũng biết chứ, “thầy” có ưa gì mình đâu vì vụ “bàn thờ Phật“ xuống đường 1966 và vụ biến động lớn miền Trung đâu có thể xóa đi trong đầu óc Trí Quang với ba tên “Thiệu-Kỳ-Có”. Rõ ràng với tôi, Trí Quang không bao giờ ưa và tôi nghĩ rằng nếu ”thầy“ có dịp là trả thù. Tuy biết phận mình, nhưng Minh Cồ đâu còn ai bên cạnh trong việc đánh đấm? Hơn nữa, lúc đó có lẽ Minh Cồ cũng hiểu rằng chỉ có tôi mới thực sự vì ông ta, vì chính cái thành công của ông ta là cái thành công của tôị Ở đời ai cũng có tham vọng lớn cả và luôn luôn nghĩ rằng mình sẽ đạt được. Cũng chính vì thế mà đã lắm chuyện. Thực sự hôm nay ở trong tù tôi nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả năng quá hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện... Ngày lịch sử trong đời làm chánh trị của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là ngày 29.4.75, vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi phải đến "HOÀNG CUNG ẤN QUANG" 5 lần và lần nào cũng với nội dung là "THẦY" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn thảo việc thành lập Chánh Phủ Liên Hiệp... Sở dĩ đêm 29.4.75 có chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của Thích Trí Quang nàỵ Sau lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang về dinh Độc Lập chờ ý “thầy”. Mệt mỏi thật, Minh Cồ ngồi nơi bàn tổng thống bên cạnh một dàn điện thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất dễ nhận ra là cái dành riêng cho “thầy“. Đường dây cho “thầy“ không phải là ưu tiên Một mà ưu tiên “super“, có thể nói đối với Minh Cồ là “over super“. Chúng tôi mỗi người một chỗ ngồi nghỉ hoặc ngả lưng trên sofa chờ tin tức (phái đoàn bên kia tới để họp bàn). Rõ ràng lời “thầy“ vừa mới nói: ”Tổng thống cũng như quí ngài đây yên chí, tôi đã cho người liên lạc được với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và họ đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn đang trên đường đến đây, vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ và khi họ đến là tôi điện thoại ngay...” Ra về, tôi thấy nét mặt của Minh Cồ còn hy vọng nhiều, ông Mẫu thì thinh thinh ít nóịLý Chánh Trung đến giờ phút ấy vẫn hớn hở, riêng cá nhân tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn tại nội thành Sài Gòn đã đến lúc phải nổ tung và không thể tránh khỏi... 4 giờ 30 sáng 30.4.75, Minh Cồ sốt ruột không thể chờ thêm được nữa phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy” trong khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một. Minh Cồ càng quýnh hơn: -”Thưa thầy, tôi tổng thống Dương Văn Minh, muốn biết ý kiến thầy, sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng tôi đang có mặt hết tại đây, tình hình hiện tại quá lộn xộn, xin thầy quyết định thế nào chớ, tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không thể nói gì với bên kia được...” Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại: -”Thưa tổng thống, cũng như tổng thống là tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật của ổng hay nói dối) và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chánh trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là tổng thống, hơn nữa là một đại tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của đại tướng, chứ giải pháp chánh trị của tôi coi như chấm dứt, và nếu từ giờ phút này nếu có chuyện gì xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do tổng thống, à quên đại tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này đại tướng rất rành giỏi hơn tôị Xin chào tổng thống...”Minh Cồ chỉ trả lời gọn một câu:”Thầy giết tôi rồi!” và cúp máỵ Lúc đó là 5 giờ kém 15 sáng 30.4.75 “... (trích trong bài "TÂM TÌNH TƯỚNG CÓ TRONG NHÀ TÙ HÀ TÂY" của nhà báo CS Hồ Văn Quang ghi lại). TRÍ QUANG DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN Hiện nay Thích Trí Quang hãy còn sống ở Việt Nam . Nhưng từ 1975 cho đến bây giờ, đã 23 năm qua, không ai nghe nói đến một hoạt động nào, hay một lời tuyên bố nào của người tu sĩ này. Ngay cả những vụ chống đối CSVN về việc thành lập tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh của các tăng sĩ chính thống, người dân VN trong và ngoài nước chẳng ai thấy tên Trí Quang tham dự. Cụ thể hơn nữa, trong đơn “XIN CỨU XÉT NHIỀU VIỆC”, đề ngày 25. 6. 92, của Hòa Thượng Huyền Quang gửi cho nhà cầm quyền CSVN, đã được phổ biến rộng rãi khắp trong nước và hải ngoại và đã gây nên một làn sóng dư luận chống đối CS mãnh liệt, ta cũng không thấy HT Huyền Quang nhắc nhở gì đến Trí Quang. Vậy Trí Quang đã và hiện đang làm gì ở VN? Dư luận về Trí Quang ở hải ngoại cũng rất vụn vặt và mâu thuẫn. Người thì cho là Trí Quang đã lui về tu hành chân chính, không tranh đấu nữa, đã tịnh khẩu... Có người còn suy đoán có lẽ Trí Quang đã bị CS giam lỏng, quản chế... Dĩ nhiên trong vụ này, tôi cũng như các bạn đều không ai biết gì chính xác về thân phận của Trí Quang trong thời gian sống dưới chế độ CS. Nhưng căn cứ trên một số tài liệu tiết lộ từ trong nước, chúng ta có thể tìm hiểu được phần nào. Vậy xin cống hiến bạn đọc để cùng nhau suy ngẫm. Theo bài báo “CON ĐƯỜNG KHÚC KHỈU” của Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp đặc trách Ban Tôn Giáo Vận đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kể lại những thành tích của ông ta trong thời gian còn hoạt động bí mật thì sau ngày 30. 4. 75, Trí Quang đã bị CSVN liệt vào thành phần “CIA CHIẾN LƯỢC”. Đỗ Trung Hiếu đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1956, và là mộ cán bộ nằm vùng, hoạt động trong khối Phật Giáo ở miền Nam, đặc trách theo dõi các cuộc đấu tranh của Phật Giáo từ năm 1963. Vì thế Hiếu đã quen biết rất nhiều tăng sĩ thế lực thuộc cả hai phe Ấn Quang của Thích Trí Quang và Việt Nam Quốc Tự của HT Thích Tâm Châu. Đỗ Trung Hiếu kể, khi được lịnh vận động khối Phật Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), (tức tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh), ông ta đã trình bày vai trò quan trọng không thể thiếu của Trí Quang với các thượng cấp chỉ huy trực tiếp làTrần Bạch Đằng và Xuân Thủy. Lúc bấy giờ Xuân Thủy đang giữ chức Bí Thư Trung Ương Đảng, kiêm trưởng ban Dân Vận Trung Ương, còn Trần Bạch Đằng làm Phó Trưởng Ban. Khi nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần thiết của Trí Quang trong tổ chức GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và không đồng ý cho Trí Quang tham dự vào tổ chức này. Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc loại “CIA CHIẾN LƯỢC”, không thể nào dùng được. Ít lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, cũng hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người không thể xài được.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 10:31:47 GMT 9
Kết quả, ngày 4. 11. 1981, đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN (quốc doanh) gồm có sự tham gia của phe Ấn Quang, tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, đã bầu ra một Hội Đồng Trị Sự như sau: chủ tịch HT Thích Trí Thủ, phó chủ tịch HT Thích Trí Tịnh, còn HT Thích Đôn Hậu làm phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của Hội Đồng Chứng Minh...Như vậy, bạn đọc đã thấy rõ, trong suốt cuộc chiến Quốc - Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên được rất nhiều công trạng lớn với CSVN, nhưng chỉ vì một chút nghi vấn không biện minh được của cái đêm 22. 8. 63 oan nghiệt, cuộc đời của Trí Quang đã bị các đồng chí của ông ta đem chôn vùi âm thầm vào trong bóng tối. Vậy cái đêm 22. 8. 63 là cái đêm gì? Đêm 22. 8. 63 là đêm mà Công An, Cảnh Sát, và Mật Vụ nhà Ngô đã ập vào các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... để hốt hết các tăng ni, duy chỉ sót có một mình... Trí Quang! Về sau bí mật mới được tiết lộ là: trong đêm ấy, bí thư Thích Nhật Thiện đã đem Trí Quang chạy trốn vào cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ, và được đại sứ Cabot Lodge che chở... Chính vì thế sau ngày 30.4.75, CSBV đã bắt giam ngay Thích Nhật Thiện để điều tra, vì CS nghi Thích Nhật Thiện đã làm tay sai cho Mỹ. Kể từ khi Thích Nhật Thiện bị bắt, Trí Quang không khỏi lo sợ cho thân phận mình, chẳng khác nào con cá nằm trên thớt, nên phải giả vờ suốt ngày ngồi Thiền, và tịnh khẩu...Nếu bạn đã đọc đoạn “HT Thích Tâm Châu nói về TT Trí Quang” ở trên rồi, hẳn bạn sẽ nhận ra đây chỉ là một phản ứng kiểu con Đà Điểu, theo thói quen của Trí Quang mỗi khi gặp cảnh nguy nan, sợ hãi mà thôi!...
Thich Tam Chau
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 10, 2011 8:51:27 GMT 9
PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP PHẢN CÔNG CHỐNG « TÀI LIỆU NỘI BỘ ĐẢNG CSVN » Ts Hồng Lĩnh Lời Mở Đầu
Tài liệu có tựa đề :
«Tài Liệu Nội Bộ ĐCSVN : Làm Sao Để Tránh Dân Chủ Và Giữ Quyền Lợi Cho Đảng Mãi Mãi »
do một độc giả từ quốc nội chuyển ra cho NVHN và yêu cầu NVHN nghiên cứu, hầu tìm ra các biện pháp giúp dân ta trong nước đối đầu với CSVN.
Một tài liệu nhắm mục đích tạo một môi trường trong đó CSVN có thể tồn tại. Vì CSVN không thể sống trong bất cừ môi trường nào khác, nhất là môi trường đạo lý, nhân bản và dân chủ tự do mà nhân loại tìm kiếm cũng như cũng cố.
Ngọn nguồn của tài liệu cũng như mục tiêu cho tiết lộ tài liệu nầy khó biết được. Nên một số giả thuyết chính, giữa muôn vàn giả thuyết phụ khác, được nêu ra như sau :
1.- Có thể đây là một qủa bong bóng do CSVN tung ra để thăm dò phản ứng của những kẻ chống cộng. Hay là CSVN cố cho tài liệu nầy ra đời, như một biểu dương hệ thống đàn áp, để làm nản lòng những kẻ còn nặng lòng với tiền đồ dân tộc.
2.- Hay đây chỉ là một tài liệu gỉa, thuộc loại tình báo, để che dấu một tài liệu thật rất khác tài liệu nầy. Có thể CSVN đã có một tài liệu tháo chạy, nhưng vẫn cố làm gân. Nói chung tài liệu nầy, nhắm đầu độc hay thăm dò, được phát xuất từ đảng CSVN.
3.- Có thể đây là tài liệu thật của CSVN. Nhưng một đảng viên phản tỉnh nào đó, có thể còn ở quốc nội hay đã ra hải ngoại, tìm cách tiết lộ, mong giúp các nhà tranh đấu tìm ra biện pháp để bẻ gãy.
4.- Có thể đây là một tóm tắt sách lược của CSVN, do một nhà dân chủ trong nước soạn thảo. Nhà dân chủ nầy muốn gửi tới NVHN một báo động và một lời yêu cầu cần một kế hoạch phản công giúp quốc nội. Vì thế, tài liệu nầy không phải do CSVN soạn thảo, nhưng là một tài liệu không xa xa các mục tiêu tạo một môi trướng cho đảng CSVN tồn tại thêm một thời gian nữa.
Nhưng căn cứ vào thực tại cũng như các sự kiện đã xảy ra tại quốc nội và tại hải ngoại, nhà quan sát thấy thực tại cũng như các sự kiện xảy ra xem ra trùng hợp với các mục tiêu và các kế họach được ghi chép trong tài liệu nội bộ đảng CSVN.
Sự trùng hợp ấy cảnh báo không nên chủ quan kinh địch và đòi hỏi một chú ý đặc biệt của các nhà tranh đấu. Vì không thể nào có khói mà không có lửa. Khói là thực tại và cách thức đàn áp của CSVN tại quốc nội, lửa là ý chí cũng như các mục tiêu và một vài biện pháp đàn áp, được ghi trong tài liệu.
Vì lý do ấy, một phân tích cần phải có và một số biện pháp cần được đem ra, hầu giúp quốc nội chận đứng các mưu kế mà CSVN đang áp dụng, không xa các điểm đã được ghi chép trong tài liệu. Phân Tích Cái Khó Khăn Gặp Phải Tài liệu nội bộ đảng CSVN đính kèm, trên phương diện trình bày, thiếu các tiểu đề và thiếu ngăn nắp, để chận các diện tử tự do, chạy từ mục nầy qua mục khác. Các đìện tử ấy tạo cảnh lặp lại nhiều lần, làm rối loạn con mắt người đọc, hầu có thể biết ngay được đâu là chính và đâu là phụ, đâu là mục tiêu nhắm vào quốc nội và đâu là chiến thuật dành cho NVHN, đâu là chiến thuật áp dụng khủng bố tinh thần, dâu là chiến thuật nhắm dùng vũ lực trần truồng, tuy có đánh số cho từng từng điểm một. Nói chung tài liệu nầy chỉ ghi chép các mục tiêu mà CSVN muốn đạt được, chứ không trình bày các phương thức để đạt các mục tiêu nêu ra. Tài liệu có vẻ tránh né nhắc nhở tới những mưu ma chước quỷ cũng như việc sử dụng vũ lực trần trồng, thói quen của CSVN. Cách dùng chữ của tài liệu không cho phép kết luận rằng, tài liệu nầy đã đựơc trình bày trong một đại hội cao cấp của đảng, hay do ban Tư Tưởng của đàng soạn thảo. Nhưng có thể do một tay đảng viên, đã ở trong Bộ Chính Trị, viết ra và trao đổi với bạn bè, gợi ý cho đảng một lối thoát theo lối suy nghĩ của ông ta. Vì dọng văn không có lối chỉ đạo, thường thấy trong các văn thư chỉ đạo của đảng CSVN. Nhưng trong hàng ngũ của bọn CSVN, thỉnh thoảng và trước một tình thế khó khăn, hay có hiện tượng nầy. Hiện tượng cho tiết lộ những sơ đồ. Hiện tượng giúp đảng hay hiện tượng mở xu páp cho đảng. Gót Chân Achille Của Tài Liệu Nội Bộ Đảng CSVN Trên phương diện chiến lược, tài liệu nầy ghi rõ các mục tiêu và sơ sài một vài biện pháp chiến thuật để níu kéo sự cai trị của đảng CSVN, tài liệu ghi các mục tiêu, chỉ có giá trị cho thời gian 20 năm tới. Sau 20 măm tới, chính ngay tác gỉa cũng chẳng biết hay phỏng đoán được cái gì sẽ xảy ra, bao gồm luôn việc đảng CSVN có thể bị toàn dân tiêu diệt. Một tài liệu kết liễu hay ném vào thùng rác lịch sử các hô hóan của cuồng vọng từ rừng thoát ra: « Đảng CSVN muôn năm ». Về điểm nầy tác gỉa không sai. Vì một chiến lược thường chỉ có gía trị cho một khoảng thời gian từ 10 tới 20 năm và kết qủa không tới tức thì. Tuy Nã Phá Luân, theo kinh nghiệm chính trường và trận mạc, đã ghi trong di chúc của ông ta: « Sau Mỗi Mười Năm, Muốn Giữ Được Ưu Thế, Phải Thay Đổi Toàn Diện Từ Chiến Lược Tới Chiến Thuật ». Theo lời trăn trối ấy, tác gỉa của tài liệu nội bộ đàng CSVN xem ra chủ quan về thời gian gía trị của một chiến lược và không đặt vấn đề, tới từ bên ngoài, nhất là các can thiệp của quốc tế, có thể làm đổ dễ dàng một chế độ độc tài như tại Libye của Kadafi hay giải phóng một dân tộc tại Kozova hay sự sập đổ của hệ thống kinh tế tại quốc nội, kiểu Hy Lạp làm cho quốc gia nầy sập tiệm và hỗn loạn. Có thể, vào một hoàn cảnh nào đó và vì một quyền lợi nào đó, quốc tế đặt vấn đề quyền con người trên quyền lãnh thổ và tự cho quyền can thiệp vào nội bộ để cứu con người. Họ tự cho phép, qua Liên Hiệp Quốc, dùng tất cả các biện pháp, gồm biện pháp quân sự như tại Kozova và Libye, để can thiệp. Vì nhân loại đang trên đường đào thải các thể chế độc tài đảng trị hay cá nhân trị, hiện còn tồn tại một vài nơi trên thế giới. Hơn nữa tài liệu là một độc thoại theo thói quen của bọn CSVN : tự xem là vô địch nên không có dự liệu đường tháo lui trong tài liệu. Nếu chiến lược tạo môi trường sống cho đảng CSVN bị gãy vở trong tiến trình từ đây tới 20 năm nữa. Mục Tiêu Ghi Trong Tài Liệu Ý chí của bọn CSVN tất cả đã rõ, nay chúng đặt mục tiêu cho 20 năm tới : « Tồn tại và phát triển, giữ vai trò duy nhất lãnh đạo đất nước ». Nhưng cái bi đát của tài liệu là không làm sao tìm ra câu trả lời cho câu hỏi độc nhất cũng như không cần biết câu hỏi : CSVN sẽ để lại một đất nước ra sao cho hậu thế, trên phương diện đạo lý, con người và cấu trúc xã hội cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, sau 20 năm với các chiến mục tiêu cũng như chiến thuật tồi tàn và bất nhân, ghi chép trong tài liệu, được dùng trong tiêu chuẩn : Cứu cánh biện mình cho phương tiện, nhất là đối với một cứu cánh tồi tàn (tiếp tục độc tài đảng trị), Vì CSVN chỉ nhắm mục đích phải tồn tại cho 20 năm nữa thôi và bất chấp tất cả hệ qủa tang thương tàn phá một dân tộc và không xem dân tộc ấy là của chúng ! Một thể chế chỉ có thể tồn tại lâu dài, nếu tạo được ổn định chính trị với những gía trị cao cả và phát triển kinh tế chỉ có thể được, nếu chính trị ổn định. Theo tài liệu nầy, CSVN không đặt vấn đề ổn định chính trị. Trái lại dùng các biện pháp tồi tàn hầu kéo dài cai trị. Như thế nên hiểu rằng CSVN đã trờ thành một đảng cướp thuộc loại Mafia, đang ở trên một núi lửa hay trên lưng cọp. Một vắng bóng đầy tử huyệt của một chiến lược, có mục tiêu bảo vệ chế độ! Liên Quan Tới Các Chiến Thuật Hay Tà Mưu Tuy Tôn Tử phương Tây, Von Clausewitz, đã nhắc nhỡ : « Một tổng hợp của ưu thế chiến thuật có thể dùng để bù trừ cho khiếm khuyết chiến lược ». Cần nhắc lại, Von Clausewitz đặt đều kiện là phải có một chiến lược, tuy chiến lược ấy chứa đựng một số khiếm khuyết. Chứ không đặt vấn đề vắng bóng của chiến lược có gía trị. CSVN đã lầm tại điểm nầy và cố liều cũng như cố tướt áp dụng, vô tình hay hữu ý, lời khuyên của Von Clausewitz. Trong chủ trương chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, CSVN cỗ võ nghiên cứu các mặt trái của các tác giả :Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư, Mao Trạch Đông, nhất là Machiavelli – tác giả cuốn gối đầu dường « Le Prince'. Như thế chúng ta đã có một khái niệm về hướng mục tiêu và chiến thuật của CSVN. Nói chung chúng triệt để khai thác tư tưởng tà gian của Machiavelli và tìm cách áp dụng cho một đảng hơn là một cá nhân muốn nắm quyền cai trị. Nhưng quanh đi quẩn lại, chỉ là số mánh khoé ăn cắp từ khối Đệ III Quốc Tế CS, trong việc chiếm chính quyền chuyên nghề đàn áp và mánh khoẻ của Machiavelli xa xưa. CSVN Cần Một Môi Trường Đặc Biệt Để Tồn Tại CSVN đi vào Việt Nam là do một tình cờ của lịch sử. Sự hiện diện, xem như một tình cờ của « Gia Vị Và Linh Hồn », của thực dân, tạo ra chiêu bài giải phóng của Lénine đem vào sách lược. Nếu không có chiến thắng tình cờ của Mao Trạch Đông tại Hoa lục, thời CSVN đã bị thực dân Pháp đánh bại. Sau nầy nếu không có lỗi lầm đảo chánh, một tình cờ thắng cử của Kennedy, do Mỹ chủ trương, thời CSVN không thể cộng sản hóa được toàn đất nước như ngày nay. Ngoài các tình cờ ấy, CSVN là một quái thai tất nhiên của Marx. Bắt nguồn từ giải phóng và chiếm đoạt quyền hành bằng bạo lực, nay chỉ thấy làm tôi cho thực dân Trung Cộng và trở thành tư bản đỏ, không những chủ trương bóc lột qua gía trị thặng dư mà còn trở thành một thứ Mafia có quyền lực và sức mạnh quân đội và bọn chó săn công an gỉa dạng côn đồ, tự gọi là quần chúng tự phát. Chính vì những đặc trưng ấy, nên quái thai CSVN phải có một môi trường rất đặc biệt để tổn tại. Vì môi trường nhân bản và dân chủ tự do sẽ không có chổ sống cho CSVN. Các Đặc Trưng Của Môi Trường Ghi Trong Tài Liệu Mà CSVN Muốn Tạo Ra Phạm Trù Vi Mô Cá Nhân Trong Cộng Đồng Dân Tộc 1.- Về phương diện vi mô nền móng của cộng dồng dân tộc, CSVN duy trì nỗi sợ hãi ại cho mỗi cá nhân tại quốc nội và hải ngoại. Tại quốc nội nỗi sợ hại cho tính mạng cá nhân cũng như nghề nhiệp và hệ lụy tới bà con thân thích. Tại hải ngoại, sợ không có visa về, sợ CSVN tìm ra cớ, hay sẽ bị làm khó dễ cho bà con thân thích còn kẹt lại. Vấn đề duy trì mối sợ hại được lặp đi và lặp lại nhiều lần trong tài liệu. 2.- Ngoài cái sợ hại chung. Nhưng đối với thành phần trẻ . đang trên đường tìm cuộc sống, CSVN lái thành phần nầy vào cuộc mạo hiểm tìm khao khát tiền bạc và công danh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng và chủ nghiã tiêu thụ, tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bảo cải tiến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng như dân chủ nhân quyền và tự do. Tuổi trẻ và thành phần chủ lực kinh tế bị dẫn vào lối mòn tìm kiếm giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân. Đặc biệt xa lánh hoài bảo thay đổi chế độ. CSVN đem vào tuổi trẻ cá tính thực dụng, tinh thần chụp giật, sự khao khát ngông cuồng về tiển bạc, công danh và hưởng thụ. 3.- Về hành động tàn bạo, tại quốc nội, CSVN chủ trương tìm mọi thủ đoạn từ tà dan tới vũ lực trần truồng, nhắm tiêu diệt, trong thế bẻ đụa từng chiếc, những cá nhân, dân sự hay tôn giáo, tiên phong, có khả năng dẫn tới các hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi. Chúng tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được quần chúng tham gia. Tại hải ngoại, CSVN nhắm vào bôi nhọ cũng như cô đơn hóa những con người còn nặng lòng với quê hương và còn muốn đứng ra làm đại sự. Nói chung là tại hải ngoại, không sao tìm ra các nhà lãnh đạo quần chúng, hầu như không bao giờ có một bộ phận lãnh đạo hay cá nhân lãnh đạo có tổ chức và có chương trình hành động liên tục, nên bị rơi vào thế chơi trò Domino với CSVN và con cờ đầu do CSVN đem ra. 4.- Riêng đối với cá nhân trí thức, CSVN không đặt nặng vấn đề như đối với sinh viên và tuổi trẻ. Vì chúng biết các đặc trưng sau đây của giới trí thức Việt Nam : hèn nhát, háo danh, kiến thức chắp vá, nếu ai không qúa ngu dốt, thời hay đi vào con đường cô đơn . Cho nên CSVN đã dùng hai phương pháp đặc biệt cho giới nầy : Trấn áp hay vuốt ve. 5.- CSVN cho các thành phần đấu tranh, tại quốc nội, thấy cái viễn ành : Vào tù ra khám, mất tuổi trẻ và sức khỏe, rồi trờ thành phế nhân bất khả dụng cho cá nhân và cho tổ chức, để tạo nãn lòng. 6.- Cuối cùng, CSVN chủ trương phải thanh trừng một vài cá nhân trong hàng ngũ của chúng làm dê tế thần. Hầu giảm áp xuất bất mãn. Lối vắp chanh bỏ vỏ ngay trong hàng ngũ. Dân Trí Và Xã Hội Dân Sự Của CSVN 1.- CSVN chủ trương phải có một dân trí nào đó. Nhưng cái dân trí, bằng giáo dục và đào tạo, chỉ là cái bàn đạp cho phát triển kinh tế về chuyên môn, kỷ thuật và hướng thục dụng. Chứ không đặt vấn đề ai có trách nhiệm tạo cái khung chính trị trong đó kinh tế phát triển. Nghĩa là một phát triển máy móc không có ý thức dân chủ. 2.- Về xã hội dân sự, đà phát triển kinh tế sẽ tạo ra một từng lớp trung lưu lớn mạnh. Từng lớp nầy sẽ có những tổ chức lớn nhỏ. Giữa đảng CSVN và các tổ chức ấy có loại trung gian là các tổ chức ngaọi biên của CSVN như mặt trận tô quốc và v..v. CSVN chủ tương gai cấp lớn dẩn nầy phải thuần phục và phải gài chân rết của chúng vào. Nghiã là một xã hội dân sự theo hướng kiểm soát của chúng. 3.- Tạo một tinh thần thực dụng và chủ nghiã mánh mung chụp giật để tinh thần nầy sẽ trờ thành bản tính của dân tộc, rã rời về ý chí, tan vở về niểm tin, chán ngán các tư tưởng nhân bản. Ước Muốn Của CSVN Đối Với Các Phong Trào Dân Chủ H óa VN 1.- CSVN dồn nổ lực giữ phong trào dân chủ trong thế không trở thành một phong trào đúng nghiã của nó, không thể bén rễ và lan rộng. 2.- Đẩy phong trào vào các hoạt động rời rạc, lãng mãn, hời hợt, vô tổ chức cũng như vô thực lực. 3.- Tạo hiện tượng lạm phát lãnh tụ hay chỉ huy trong thế tướng không quân. 4.- Xâm nhập vào bộ chỉ huy của phong trào và cổ võ các hành động cực đoan tại quốc nội, hầu gây phảm cảm trong quần chúng. Tại hải ngoại, tạo quay lưng hay thờ ơ với cuộc đấu tranh dân chủ hóa VN hay đánh vào hình nộm tố cọng vu vơ.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 10, 2011 8:52:35 GMT 9
Tài Liệu Nội Bộ Vén Màn
Các Mặt Trái Của Tấm Huy Chương
CSVN Thú Nhận Các Con Dao Hai Lưỡi
1.- Muốn phát triển kinh tế, CSVN cần nâng cao một ít hiểu biết về khoa học ấy cho một số chuyên viên. Sự hiểu biết ấy được bọn CSVN gọi là dân trí. CSVN rất biết phát triển kinh tế sẽ làm phát sinh ra một số yếu tố, có thể gián tiếp hay trực tiếp, nguy hiểm cho chế độ. Nhưng nay chúng túng qúa và phải dùng miếng mồi nhử kinh tế.
Một đường, CSVN muốn nâng cao sự hiểu biết ấy. Đường kia chúng không muốn cái dân trì ấy dẫn tới ý thức cao về tự do và dân chủ. CSVN đang mơ với con dao hai lưỡi ầy.
2.- Về giáo dục tại Đại Học, một đường CSVN muốn đào tạo về thực dụng. Đường khác CSVN ước mơ sự thực dụng ấy phải tránh xa âm mưu thay đổi chế độ hay tránh ý thức công dân.
3.- CSVN thú nhận tại Đại Học, sinh viên phải học thuyết Marx đã bị lịch sử vất vào sọt rác. Cái cù lần ấy không nhắm đào tạo ý thức CS. Nhưng chỉ để cho sinh ngán ngẫm các ý thức hệ khác. Như vậy CS đã chứng minh cho sinh viên biết là chúng chẳng có ý thức nào cả. Chẳng còn lý thuyết để cai trị, ngoài cái củ mèn làm giận và tạo nhạo báng của sinh viên. Con dao hai lưỡi của Marx.
CSVN Bắt Chước Nói Ngược Đời
1.- Để đối đầu với các khái niệm Nhân Quyền Dân Chủ, đa nguyên, đa đảng, pháp trị và khai phóng, CSVN hô hoán khẩu hiệu : « Ổn định xã hội, tăng trường kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
2.- CSVN khai thác vài tài liệu của tác gỉa Tây phương như Daron Acemoglu hay Bruce de Mesquita để rêu rao : Phát triển kinh tế không cần dân chủ hóa.
Tài Liệu Bật Bí Các Sợ Hãi Của CSVN
1.- CSVN sợ dân chúng bất mãn cực độ. Sự bất mãn cực độ có thể dẫn tới những hành động tuyệt vọng. Có nghiã là bọn là bọn CSVN sợ những hành động cảm tử của dân chúng.
2.- CSVN sợ tinh thần dân tộc tiềm ẩn trong giới sinh viên cũng như ý thức dân chủ do phát triển kinh tế tạo ra.
3.- CSVN sợ trấn áp dân chủ qúa độ sẽ làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang tốt đẹp với Hoa Kỳ và phương Tây. Tuy biết họ là kẻ đạo đức gỉa
với lá cờ nhân quyền mang theo vào VN giữa bao lá cờ khác.
4.- Chúng rất sợ một Mini Thiên An Môn. Nghĩa là chúng sợ quần chúng liều chết.
5.- Chúng sợ bất cứ một phong trào có tổ chức hẵn hoi.
6.- CSVN không đề cập tới tôn giáo và cũng không đề cập tới vấn đề đảng lãnh đạo quần chúng gíao dân qua hành lãnh đạo tôn giáo. Có lẽ tôn giáo đang đang đặt chúng trước một vấn đề nan giải. Nếu quần chúng giáo dân kêu gọi được sự thức tĩnh của hàng lãnh đạo đã bị chúng thuẩn thục hóa.
7. CSVN sợ không kiểm soát được giai cấp trung lưu đang lên.
8.- CSVN chưa tìm giải pháp giảm thiểu sự bất mãn và xung đột giữa nhà nước và dân chúng.
Tài Liệu Ghi Chép Một Số Phương Thức
Mà CSVN Đã Hay Sẽ Dùng
Suốt cả chiếu dài của tài liệu, chỉ thấy ghị chép các mục tiêu. Nhưng rất ít phương thức được dùng để thục tiển hóa các mục tiêu. Tuy thế, có lỗ diện một vài điểm cần ghi ra :
1.- Chúng cương quyết tiêu diệt các lãnh tụ hay đầu tàu có khả năng lôi kéo. Chúng dự định dùng tù ngục từ 3 tới 7 năm.
2.- Đối với trí thức, CSVN dùng hai phương cách : Trấn áp hay vuốt ve.
3.- CSVN sẽ có một số dê tế thần ngay trong đảng.
4.- CSVN cố tạo bộ mặt dân chủ cá đối bằng đầu trong đảng và bảo đó là dân chủ.
5.- CSVN tìm cách tháo gỡ các ngòi nổ do phát triển kinh tế tạo ra.
6.- CSVN chủ trương một đàn áp có chọn lọc.
7.- Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch.
8.- Tạo một đàn đàn áp có chọn lọc trong hô hào phát triển kinh tế.
Qua Tài Liệu Nội Bộ Đảng CSVN,
Chúng Biết Thú Nhận Giờ Cáo Chung Đã Điểm
CSVN bắt đầu chấm dứt các khẩu hiệu : » Hồ Chủ Tịch sống mãi trong lòng dân » hay «Đảng CSVN muôn năm ».
Nay chúng lấy ước mơ làm sự thật. Một sự thật trong tuyệt vọng với giờ cáo chung đã điểm : « Với những phân tích như trên tôi (tác gỉa tài liệu nội bộ đàng CSVN) cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn ».
Đề Nghị Một Số Phương Thức
Nhắm Làm Tan Nát Các Mục Tiêu Của CSVN
Sau khi đã phân tách đầy đủ các điểm của tài liệu nội bộ đảng CSVN. Một đề nghị các phương thức phản công xem ra không khó. Các phương thức phản công gồm ba hướng tạo thế gọng kềm hội tụ:
Hướng Số I
Nhắm Vào Các Con Dao Hai Lưỡi mà CSVN Dùng
1.- Bằng mọi phương tiện đề cao ý thức Dân Chủ, Tự Do trong giới sinh sinh viên tại quốc nội. Vận động và giúp phương tiện cho các thủ lãnh có dịp tham quan tại hải ngoại với các chiêu bài học hỏi và xã hội.
2.- Phát triển ý thức công dân và bày kế thay đổi chế độ.
3.- Tải các tài liệu tóm lược về Marx và các biện chứng chống Marx về các sinh viên. Làm sao để khi vào thi. Tuy chẳng học hành gì về Marx, nhưng cũng viết lách ra phết. Với tán gẫu các tài liệu do NVHN chuyển về.
Huớng Số II
Nhắm Khai Thác Các Sợ Hãi Của CSVN
1.- Hãy tỏ cho CSVN biết sẽ có những hành động thuộc loại tuyệt vọng và đối tượng là bọn đầu sọ của đảng CSVN.
2.- Khai thác các vấn đề nhượng biển và nhượng đất để làm sống lại tinh thần dân tộc do CSVN làm mờ đi. Tìm mọi cách thực tiển hóa mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và ý thức dân chủ phải có và cần cho phát triển kinh tế.
3.- NVHN phải chấm dứt tình trạng hội đoàn vô tổ chức. Phải thống nhất các hội đoàn dân chủ hóa VN để có một bộ chỉ huy tỗng quát. Hầu có thể tạo mối liên hòan : Trong đánh ngoài la, trong là ngoài đánh trong các vận động với các dân chủ, nhất là Hoa Kỳ mà CSVN đang sợ.
4.- Nên tìm cách tập trung, cầu nguyện hay gì đó, và cho CSVN biết : « Một đại Thiên An Môn còn đủ sức, huống hồ một Mini Thiên An Môn khi nào chẳng có ». Hãy tìm cách tiến về hướng khủng bố tinh thần chúng. Xem mèo nào sẽ cắn cồ mèo nào trong cái Thiên An Môn ?
5.- Giáo dân VN trong và ngoài nước phải sớm chấm dứt tình trạng : « Một chốn đôi quê của HĐGMVN » để sớm cáo chung « Đảng nắm quần chúng qua hàng giáo phẩm ».
6.- Phải đi vào lớp trung lưu và vận động họ phải đòi hỏi thất nhiều hay đứng lên đòi cải tổ và vào chính quyền.
7.- Tạo một số xúc tác cho phản ứng : « Bất mãn của quần chúng đối với đảng CSVN ăn cắp của dân ».
Hướng Số III
Phản Ứng Chống Các Biện Pháp Của CSVN
1.- Hiện có vấn đề làm sao có thể bảo vệ các nhà dân chủ trong nước có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng trước ván bài thí của của CSVN ! Một vấn đề dòi hỏi một nghiên cứu hợp đồng giữa các tổ chức của NVHN và các nhà dân chủ ấy. Nhưng nếu NVHN có một tổ chức tỗng quát tập trung vào các vận động thường trực bó buộc CSVN phải trả tự do cho họ. Nhất là không bao giờ quên họ. Ngoài ra NVHN phải tìm đủ mọi cách yểm trợ dưới nhiều hình thức các thân nhân của các kẻ bị tù tội.
2.- Làm sao giải quyết được vấn đề trí thức bị trấn áp hay được vuốt ve.
3.- Phải làm sao khai thác được vấn đề dê tế thần của CSVN ?
4.- Tìm cách tạo ngòi nổ do phát triển kinh tế tạo ra! Một chương trình phải do một tổ chức quy của và có chương trình hành động mà CSVN không chun vào được : Một Khối Ngô Đình Diệm Thế Giới ra đời ?
5.- Phải có chương trình yểm trợ sinh viên quốc nội đã có hàng ngũ tương đối. Đừng để các trí thức phản kháng lẻ loi.
Kết Luận
Qua tài liệu nội bộ của CSVN, một vén màn các nhược điểm của CSVN đã rõ. Chúng đi vào tuyệt vọng trong vấn đề kéo dài chế độ. Ước mong của chúng võn vẽn trong ván bài tạo môi trường cho sự hiện diện không qúa 20 năm nữa.
Vấn đề nay nằm tại các nhà đấu tránh, phải nhìn nhận đang thiếu tổ chức và lãnh đạo.
Nên cần có một tổ chức với hành động thực tiển và liên tục. Mục tiêu giảm ngắn sự kéo dài cai trị mà CSVN uớc mong dài 20 năm nữa.
« Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước ». Lật ng ược cán dao do tài liệu chế ra.
Tham Chiếu
TAI LIEU NOI BO ĐCS:
LAM SAO DE TRANH DAN CHU VA GIU QUYEN LƠI CHO ĐANG MAI MAI
Thưa các đồng chí,
Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò (là đảng tiên phong và) duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:
1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.Nếu không thể làm cho người dân yêu mến – điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận – thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.
2. Phải giữ cho cái gọi là 'phong trào dân chủ đối lập' không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng. Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều 'lãnh tụ' mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều 'nhân sĩ trí thức' mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị –chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động 'chống cộng cực đoan' có tính chất phá hoại từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ…
Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là 'đấu tranh dân chủ'. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày..
3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'.
Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần'entrepreneurship' – khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ – nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.
4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là 'co-optation' )…Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng…(làm ra sao ?)
Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.
Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi –dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.
Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.
Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.
Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc – vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ýthức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.
Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quầnchúng tham gia.
Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn T ử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang 'The Prince' nổi tiếng ở phươngTây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo Chavez thời nay.Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.
Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo 'dân chủ tự do' cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.
Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.
Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin ) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả… và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.
Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông,thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp.
Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu 'không thành công cũng thành nhân' – tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.
Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như'dân chủ', 'nhân quyền', 'tự do' … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như 'ổn định xã hội', 'tăng trưởng kinh tế', 'xóa đói giảm nghèo'
Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như 'đa nguyên', 'đa đảng', 'pháp trị', 'khai phóng'… thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản – cũng như đề cao những 'giá trị Á châu' một cách khéo léo.
Phát Huy dân chủ cơ sở - tập trung
Chúng ta cũng phải phát huy 'dân chủ cơ sở', 'dân chủ tập trung', 'dân chủ trong đảng'… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.
Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.
Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của 'dân chủ' theo cách có lợi cho chúng ta: 'dânchủ' nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.
Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như 'nhân quyền', 'dân chủ'… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.
Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa 'thể chế chính trị' và 'phát triển kinh tế'.
Hai phạm trù 'dân chủ' và 'phát triển' có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải 'dân chủ hóa'.
Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng 'tháo ngòi nổ' của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ.
Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về 'nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ'. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore,điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt.
Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là 'coordination goods', tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật 'đàn áp có chọn lọc' mà tôi đã có dịp phân tích.
Giới trẻ và sinh viên học sinh
Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong ước.
Thành công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bịnh ồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có,trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.
Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói 'tinh thần dân tộc' vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.
Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểuThiên An Môn ở Ba Đình.
Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khảnăng tổ chức và phối hợp.
Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như 'dân oan biểu tình', 'công nhân đình công'… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.
Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.
Trí thức
* Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp 'vừa trấn áp vừa vuốt ve' từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá,hổ lốn, lỗi thời.
* Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần 'phò chính thống' của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời mộtvực.
* Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ than phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.
* Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
* Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.
* Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.
Thử tưởng tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?
Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.
Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc.
Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh – yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.
Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.
Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: 'khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng'.
Báo cáo trong cuộc họp mặt kiều vận.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 3:54:18 GMT 9
1968: Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Hùng, Trần Nghị, Xuân ThủyCWIHP 19-06-1968 Mô tả: Chu Ân Lai bàn về vai trò của Trung Quốc và Việt Nam trong cuộc cách mạng Campuchia.Chu Ân Lai: Tôi muốn nói rằng, tôi không biết làm thế nào những người Cộng sản Khmer giải quyết mâu thuẫn giai cấp giữa họ và các lực lượng phản động tại Campuchia. Đảng Cộng sản Khmer tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang tại khu vực giáp biên giới với Việt Nam. Chính quyền Khmer đàn áp họ và cũng không muốn cung cấp gạo cho các lực lượng cách mạng Việt Nam đi qua ngả Campuchia. Vì vậy, các đồng chí Việt Nam phải đối mặt với khó khăn. Người ta nói rằng vũ khí mà Trung Quốc gửi cho các đồng chí Việt Nam đã có lần rơi vào tay Cộng sản Khmer và Sihanouk không hài lòng về điều này. Chuyện đó có thực sự xảy ra, hay những người cộng sản Khmer đã tịch thu vũ khí của Trung Quốc mà lực lượng vũ trang của chính phủ Khmer đã sở hữu? Tài liệu cũ. Ảnh minh họa Các ông có gặp những người cộng sản Khmer khi các ông đi ngang qua Campuchia? Đồng chí Sơn Ngọc Minh (2) không có bất kỳ mối liên lạc nào với các đồng chí của ông ấy ở trong nước Campuchia phải không? Chúng tôi không muốn Đại sứ quán Trung Quốc tại Campuchia có bất kỳ mối quan hệ nào với Đảng Cộng sản Khmer vì vấn đề này quá phức tạp. Gần đây, đại sứ quán của chúng tôi ở Campuchia báo cáo, Đảng Cộng sản Khmer phàn nàn rằng các đồng chí Việt Nam không cung cấp vũ khí cho họ khi cơ hội đấu tranh vũ trang chín muồi. Sẽ tốt nếu thời cơ đến. Nhưng nếu thời cơ chưa tới và một cuộc đấu tranh vũ trang bắt đầu bằng cách nào đó, thì sẽ không tốt. Chúng tôi đã nói với đồng chí Phạm Văn Đồng và sau đó với Hồ Chủ tịch rằng, chúng tôi không có các mối quan hệ trực tiếp với các đồng chí Khmer. Sẽ dễ dàng hơn nếu các đồng chí Việt Nam có thể trực tiếp trao đổi ý kiến với họ. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói rằng, chúng ta không nên can thiệp vào công việc nội bộ của Đảng Cộng sản Khmer. Tuy nhiên, tôi nghe họ phàn nàn rằng các đồng chí Việt Nam có thái độ Sô-vanh, không muốn giúp đỡ, thảo luận với họ, hoặc cung cấp vũ khí cho họ. Vấn đề này rất phức tạp. Ngay cả khi các ông có vũ khí, vẫn khó để cung cấp cho họ. Có phải là do các cán bộ Việt Nam ở cấp thấp hơn? Họ có thái độ không thích hợp trong việc đối phó với các đồng chí Khmer, nên gây hiểu lầm? Có lẽ các ông nên dạy cho quân lính Việt Nam đi ngang qua Campuchia cần chú ý nhiều hơn về vấn đề quan hệ với Đảng Cộng sản Khmer. Dĩ nhiên không phải tất cả các quân lính liên quan đến các mối liên hệ này. Nhưng các ông nên để cho các viên chức phụ trách các vấn đề chính trị ở vài cấp biết về vấn đề này và yêu cầu họ thể hiện thái độ bình đẳng, và giải thích rõ chính sách của Đảng [CS] Việt Nam. Các ông nên làm cho họ hiểu được toàn bộ bối cảnh, nhận thức được nhiệm vụ lớn hơn là đánh bại Mỹ. Đánh bại Mỹ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng Campuchia. Tóm lại, các ông nên làm cho họ hiểu được cách tiếp cận quốc tế và hiểu rằng một nước không thể chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc. Tôi đề nghị các ông báo cho Hồ Chủ tịch và BCH Trung ương, và xin phép [họ] thông báo cho một số cán bộ phụ trách chính trị của vấn đề này để tránh gặp rắc rối. Chúng tôi phải đối mặt với một tình huống mà người dân Campuchia có thể xin vũ khí khi quân Việt Nam hành quân qua Campuchia. Các ông sẽ cung cấp vũ khí cho họ? Nếu các ông cung cấp, Sihanouk sẽ không hài lòng. Nếu các ông không cung cấp, những người làm cách mạng ở Campuchia sẽ nghĩ gì? Vấn đề thật là phức tạp. Các đồng chí Campuchia muốn phát triển đấu tranh vũ trang. Sihanouk sẽ đàn áp họ, và các ông không thể đi qua Campuchia. Và nếu Sihanouk đàn áp những người Cộng sản Campuchia, Trung Quốc không thể cung cấp vũ khí cho Campuchia. Nếu toàn bộ Đông Dương tham gia các nỗ lực để đẩy Mỹ ra khỏi Việt Nam, lúc đó cách mạng Lào và Campuchia sẽ thành công, mặc dù không nhanh như mong đợi. Cán bộ của chúng tôi tại Đại sứ quán [Trung Quốc] ở Campuchia không có chức vụ cao, chúng tôi không muốn họ liên lạc với những người Cộng sản Campuchia. Vì vậy, tôi đề nghị các ông nên xem xét tình hình và nếu phù hợp, các ông nên mời các đồng chí Campuchia đến Tây Ninh hoặc Tây Nguyên [cao nguyên trung phần] để thảo luận cách tham gia chống lại người Mỹ trước, và sau đó chống lại các lực lượng phản động ở Campuchia. Các ông cũng nên xem, liệu điều này có lợi hơn hoặc sẽ tốt hơn nếu mỗi bên tiến hành cuộc đấu tranh theo cách riêng của mình. Tôi nghe từ đồng chí Phạm Văn Đồng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Khmer hiện tại tốt nghiệp tại Pháp và và thường đến Hà Nội. ————————————————- Ghi chú: 1. Phái đoàn Việt Nam gồm có Phạm Hùng, Ba Long, Ngô Minh Loan, và Trần Văn Quang. Phạm Hùng (1912-1988), ủy viên bộ chính trị Đảng Lao Động Việt Nam từ năm 1957, từ năm 1967 chỉ huy cuộc chiến ở miền Nam, là Bí thư Trung ương Cục miền Nam (COSVN) và là Chính ủy Các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (PLAF). Phó Thủ tướng từ năm 1976 và Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam từ tháng 6 năm 1987 cho đến khi chết vào năm 1988. Ba Long: bí danh Lê Trọng Tấn, Lê Trọng Đê (Để, Đề?) được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc và Liên Xô, và là chỉ huy sư đoàn QĐND Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương. Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân năm 1954-1960, Phó Tham mưu trưởng 1961-62. Vào miền Nam phục vụ với chức Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam 1964-1969 và đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong các chiến dịch miền Trung, miền Nam Việt Nam và Lào 1970-1975, đáng chú ý nhất là chức Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh hồi tháng 4 năm 1975. Ba Long kế nhiệm Văn Tiến Dũng làm Tham mưu trưởng QĐND VN, sau này trở thành Bộ trưởng 1978-1980. Trần Văn Quang: bí danh Trần Thúc Kinh (1917-), cựu chiến binh cuộc cách mạng năm 1945 ở phía Bắc Trung phần Việt Nam, ủy viên BCH TW Đảng Lao Động VN 1960-1976. Phó Tổng Tham mưu QĐND VN năm 1959-1961, đóng một vai trò quan trọng ở Trung ương Cục miền Nam trong nửa đầu thập niên 1960. Sau giữ các chức vụ quan trọng ở miền Trung Việt Nam trong khi là ủy viên Quân ủy Trung ương ở Hà Nội. Trở lại làm Phó Tổng tham mưu trưởng năm 1974-1977, và chỉ huy các lực lượng Việt Nam ở Lào năm 1978-1981. Năm 1992 được bầu làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. 2. Sơn Ngọc Minh: lãnh đạo Cộng sản Campuchia, nhiều năm sống lưu vong ở Hà Nội. Ông đã mất liên lạc với đảng ở Campuchia khi Pol Pot lên cầm quyền Đảng Cộng sản Campuchia thời gian từ năm 1960-1963.Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Trần Nghị và Xuân Thủy 07-05-1968 (*) Mô tả: Chu Ân Lai dựa vào sự khác biệt giữa chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam, là cách cho thấy tầm quan trọng của chiến thuật đàm phán mạnh mẽ ở Việt Nam. Ông ta cũng yêu cầu Xuân Thủy giữ các cuộc đàm phán bí mật với Liên Xô. Chu Ân Lai: Tình hình đàm phán về vấn đề Triều Tiên khác với tình hình của các ông. Lúc đó, [vấn đề Triều Tiên] liên quan đến một nửa Triều Tiên, nhưng tình hình mà các ông đang phải đối mặt hiện nay liên quan đến sự thống nhất Việt Nam. Phân nửa Việt Nam là vấn đề [chúng ta đã đối mặt] mười bốn năm trước đây. Khi đồng chí Mao Trạch Đông gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh lần cuối (2) ông ấy nói rằng có thể việc ký Hiệp định Geneva [1954] của chúng tôi là một sai lầm. Sau khi chúng tôi ký hiệp định, nhiều người lính miền Nam Việt Nam rút về miền Bắc. Hoa Kỳ từ chối ký vào hiệp định. Nếu chúng tôi cũng từ chối ký hiệp định, chúng tôi có lý do để làm như vậy. Nhưng Hồ Chủ tịch nói rằng có quyền lợi liên quan đến việc [ký hiệp định]. Làm như thế, sau thời kỳ khó khăn, thời kỳ Ngô Đình Diệm bắt bớ, giam giữ, và đàn áp, gây ra cái chết của hơn 200.000 người dân miền Nam Việt Nam, với kinh nghiệm đau thương này, đã đánh thức để làm cuộc cách mạng, dẫn với tình hình hiện nay. Do đó, tình hình các cuộc đàm phán Triều Tiên khá giống với tình hình quanh Hội nghị Geneva năm 1954. Các cuộc đàm phán Triều Tiên được tiến hành trên chiến trường. Cuộc chiến kéo dài gần ba năm và các cuộc đàm phán kéo dài hai năm. Nhưng khi vấn đề Triều Tiên đã được thảo luận tại Hội nghị Geneva năm 1954, chiến tranh đã chấm dứt, và lúc đó rất khó để giải quyết vấn đề thông qua đàm phán. Bất cứ điều gì chúng tôi nói, họ sẽ không đồng ý. Do đó, các cuộc đàm phán Triều Tiên chỉ dẫn đến đình chiến, và không có thoả thuận chính trị nào khác đạt được. Về vấn đề rút quân [nước ngoài] khỏi Triều Tiên, họ đã từ chối thảo luận. Chúng tôi đã rút quân [khỏi Triều Tiên] năm 1958, nhưng họ không chịu rút quân của họ. Tình huống mà các ông đang đối mặt lần này thì khác. Các ông đang đàm phán với Mỹ từng bước một. Điều này có thể tốt. Bước một bước và các ông có thể quan sát bước kế tiếp. Nhưng vấn đề cơ bản là, điều mà các ông không thể có được trên chiến trường, cho dù các ông có cố gắng thế nào đi nữa, các ông sẽ không nhận được tại bàn đàm phán. Điện Biên Phủ dựng lên vĩ tuyến 17, do đó Hội nghị Geneva có thể đạt được thỏa thuận. Có lẽ đồng chí Phạm Văn Đồng đã truyền đạt thái độ của chúng tôi sau khi trở về Việt Nam. Ý kiến của chúng tôi là, các ông đồng ý [thương lượng] quá nhanh và quá vội vàng, có thể gây cho người Mỹ một ấn tượng rằng các ông sẵn sàng thương lượng. Đồng chí Mao Trạch Đông đã nói với đồng chí Phạm Văn Đồng rằng, có thể chấp nhận đàm phán, nhưng [trước tiên] các ông phải duy trì một lập trường trên cao. Thứ hai, những người Mỹ, những nước lệ thuộc, và những tên bù nhìn có một lực lượng quân sự hơn 1.000.000, và trước khi họ bị gãy xương sống, hoặc trước khi năm, sáu ngón tay của họ bị gãy, họ sẽ không chấp nhận thất bại, và họ sẽ không rời bỏ. … Trần Nghị: Các ông không cần phải thông báo cho Liên Xô về tiến triển trong các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ bởi vì họ có thể thông báo cho Hoa Kỳ. Chu Ân Lai: Các ông không cần phải thông báo cho họ điều mà các ông dự định làm vì có những trường hợp những người xét lại công bố bí mật quân sự và ngoại giao. Các ông nên thật thận trọng. —————————————— Ghi chú: 1. Xuân Thủy (1912-1985), lúc đầu là một nhà báo và là quan chức cấp cao cửa các tổ chức mặt trận cộng sản trong chiến tranh Đông Dương. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1962-1965, bộ trưởng nội các và là người đứng đầu phái đoàn Bắc Việt trong các cuộc đàm phán bốn bên tại Paris 1968-1973. 2. Không rõ lúc nào, nhưng có thể vào mùa Đông – Xuân năm 1968, khi ông Hồ được báo cáo đã ở Bắc Kinh để chữa bệnh. Chúng tôi cám ơn ông William Duiker giúp làm rõ điểm này. (*) Một tài liệu khác ghi cuộc thảo luận này bắt đầu lúc 9:45 tối ngày 7 tháng 5 năm 1968, tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCF3-96B6-175C-99A9847E3B931464&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29————————————————- CWIHP Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh 07-02-1968 Mô tả: Chu Ân Lai đề nghị Việt Nam tổ chức các quân đoàn bổ sung để thực hiện các công tác hoạt động ở các căn cứ xa nhà. Chu Ân Lai: Từ khi chiến tranh Việt Nam đã đạt đến giai đoạn hiện tại (1), [các đồng chí Việt Nam] có thể xem xét việc tổ chức một, hai, hoặc ba quân đoàn được hay không? Mỗi quân đoàn gồm 30.000-40.000 binh sĩ, và mỗi hoạt động chiến đấu phải nhằm mục đích loại bỏ 4,000-5,000 quân địch trong toàn đơn vị. Các quân đoàn này có thể thực hiện các nhiệm vụ hoạt động ở xa căn cứ của họ, và có thể tham gia vào các hoạt động trong khu vực chiến tranh này, hoặc khu vực khác. Khi họ tấn công các lực lượng đối phương riêng lẻ, họ có thể làm theo chiến lược tiếp cận kẻ thù bằng các đường hầm dưới lòng đất. Họ cũng có thể theo chiến lược chiến đấu ban đêm và chiến đấu tầm ngắn, để máy bay ném bom của địch và pháo binh sẽ không được ở vị trí quan trọng. Trong khi đó, các ông có thể xây dựng các đường hầm ở dưới lòng đất, khác với các đường hầm đơn giản dưới lòng đất, ba hoặc bốn hướng [xung quanh kẻ thù], và sử dụng chúng để chuyển quân và vận chuyển đạn dược. Các ông cũng cần để dành một số đơn vị để đối phó với quân tiếp viện của địch. ——————————————- Ghi chú 1. Cuộc đàm thoại này được tổ chức trong bối cảnh trận chiến Khe Sanh, bắt đầu ngày 21 tháng 1, và cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, bắt đầu vào ngày 31 tháng 1. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCA4-96B6-175C-9CB9353E8C7FFFEC&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:08:33 GMT 9
29-04-1968: Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Khang Sinh và Phạm Văn ĐồngCWIHP Mô tả: Thảo luận về phong trào cộng sản quốc tế và các nguyên nhân có thể có thể mang lại sụp đổ.Chu Ân Lai: Trong thời gian dài, Hoa Kỳ nửa bao vây Trung Quốc. Bây giờ Liên Xô cũng bao vây Trung Quốc. Sự bao vây đang tiến tới toàn diện, ngoại trừ [phần] Việt Nam. Phạm Văn Đồng: Tất cả chúng ta quyết tâm hơn để đánh bại đế quốc Mỹ trong lãnh thổ Việt Nam. Chu Ân Lai: Đó là lý do tại sao chúng tôi hỗ trợ các ông. Phạm Văn Đồng: Chiến thắng của chúng tôi sẽ có tác động tích cực ở châu Á. Chiến thắng của chúng tôi sẽ mang lại những kết quả không lường trước được. Chu Ân Lai: Các ông nên nghĩ theo cách đó. Phạm Văn Đồng: Các đồng chí Liên Xô đã lắng nghe chúng tôi với lòng nhiệt huyết. Họ muốn biết tình hình cũng như kinh nghiệm của chúng tôi. Lúc đó, đồng chí Nguyễn Đôn (2) thông báo cho đồng chí [Ngoại trưởng Liên Xô, Andrei] Gromyko về một số vấn đề quốc phòng. Các đồng chí Liên Xô hết lòng ủng hộ chúng tôi và họ cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với thắng lợi hoàn toàn của chúng tôi. Tuy nhiên, họ đã nói rằng sẽ có hy sinh nhiều hơn kể từ khi những trận đánh quy mô lớn xảy ra. Chúng tôi trả lời rằng sẽ không thể tránh khỏi khó khăn. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ chuẩn bị nhiều hơn cho các trận chiến quy mô lớn lẫn khó khăn. Chắc chắn chúng tôi sẽ giành chiến thắng. Khang Sinh: Đại Cách mạng Văn hóa bắt nguồn từ ý tưởng đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ý tưởng này vừa là lý thuyết lẫn thực tiễn. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, ngay cả ở Liên bang Xô Viết – quê hương của Lenin – Đảng Bolshevik đã theo chủ nghĩa xét lại. Kinh nghiệm của chúng tôi hơn 20 năm qua trong việc xây dựng một chế độ độc tài vô sản, và đặc biệt là các sự cố gần đây ở Đông Âu, nơi chủ nghĩa tự do tư sản và chủ nghĩa tư bản được phục hồi (3) cũng đặt câu hỏi về cách thức tiến hành một cuộc cách mạng trong bối cảnh chế độ độc tài vô sản và trong điều kiện xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết vấn đề này, Mao Chủ tịch khởi xướng Đại Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Mao Chủ tịch đưa ra một kế hoạch ba năm, bắt đầu từ tháng 6 năm 1966. Nhiệm vụ của năm đầu là huy động nhân dân, [của] năm thứ hai là giành chiến thắng quan trọng và [của] năm cuối cùng là kết luận về cuộc cách mạng. Về một cuộc cách mạng lớn như thế này, ba năm không phải là thời gian dài. Hơn nữa, theo Mao Chủ tịch, Đại Cách mạng không chỉ bao gồm một hoặc hai cuộc cách mạng nhỏ hơn. Bây giờ tôi nói về giai đoạn chuẩn bị từ tháng 12 năm 1965 đến tháng 6 năm 1966. [Giai đoạn này bao gồm] việc chuẩn bị sẵn sàng về quan điểm và suy nghĩ. Trong giai đoạn này, chúng tôi vạch trần Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn (4). Cũng trong giai đoạn này, chúng tôi phát hành hai tài liệu quan trọng: quyết định tháng 2 năm 1966 của đồng chí Lâm Bưu trao quyền cho đồng chí Giang Thanh triệu tập hội nghị Hoạt động Văn hóa của Lực lượng Vũ trang và tuyên bố ngày 16 tháng 5 về cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng. Tài liệu sau (tức tuyên bố ngày 16 tháng 5) có ý nghĩa lịch sử to lớn, đặt nền tảng lý thuyết cho cuộc cách mạng bắt đầu. Hồ Chủ tịch có một bản sao của bản tuyên bố trước khi nó được công bố. Để tôi nói về tội phản động của Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn. Một lần, khi Bành Chân bị bắt, ông ta thú nhận với Tưởng Giới Thạch. Không những ông ta một kẻ phản bội, mà ông ta còn tiếp tục quan hệ với các đặc vụ của Tưởng. Cha vợ của ông ta là một kẻ đại phản bội. Lời thú tội của Bành Chân dẫn đến việc bắt giữ nhiều đảng viên ĐCS Trung Quốc. Ông ta đã lợi dụng tình hình bí mật để che giấu tội ác của mình. La Thụy Khanh là một đảng viên ĐCSTQ giả, như ông ta đã tự thú nhận sau này, rằng ông ta chưa bao giờ được nhận vào đảng. Ông ta cũng thú nhận rằng, ông ta ở Vũ Hán, học tại một trường quân sự, nhưng ông ta đã không tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Năm 1929, ông ta ở Thượng Hải, tự xưng là đảng viên ĐCSTQ. Hồ sơ quá khứ của ông ta được tiết lộ trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Chúng tôi cũng biết rằng, khi ông ta đang làm việc tại Bộ Nội vụ, ông ta đã sử dụng công tác phản gián để ăn cắp tài liệu bí mật quốc gia và gửi cho kẻ thù. Tôi chỉ đưa ra hai trường hợp: ông ta báo cáo với kẻ thù về chuyến tham quan của Mao Chủ tịch tới Liên Xô năm 1949-1950 và một trong những chuyến viếng thăm của đồng chí Phạm Văn Đồng đến Trung Quốc. Lục Định Nhất tham gia cuộc cách mạng với thái độ tiêu cực và các động cơ mánh khóe gian lận. Năm 1930, ông ta trở lại Trung Quốc, khôi phục các mối quan hệ với bạn bè cũ của mình trong Quốc Dân đảng. Trong thời kỳ hợp tác giữa ĐCSTQ và Quốc Dân đảng chống lại Nhật năm 1937, ông ta làm việc tại văn phòng ĐCS Trung Quốc tại Nam Ninh và bảo vệ quyền lợi của gia đình ông ta, có nguồn gốc phong kiến và tư bản. Hồng vệ binh khám xét nhà của ông ta và tìm thấy tài liệu về những hành động này. Vì vậy, ông ta không thể không thú nhận rằng, ông ta là chỉ điểm của Quốc Dân đảng từ năm 1930. Dương Thượng Côn đã gửi nhiều tài liệu cho những người xét lại ở Liên Xô. Trong giai đoạn chuẩn bị, ngoài việc vạch trần những người này, chúng tôi cũng có những người về mặt tâm lý sẵn sàng và đặt cơ sở lý thuyết cho Đại Cách mạng Văn hóa bắt đầu. Chu Ân Lai: Trong Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5 năm 1966, đồng chí Lâm Bưu đã đọc một báo cáo xuất sắc, phân tích các đặc điểm của thời kỳ Mao Trạch Đông và tập trung vào quan điểm sau đây: tất cả các cuộc đấu tranh nhằm mục đích cướp chính quyền và củng cố quyền lực. Báo cáo này không chỉ vạch trần bốn người kia mà còn ngụ ý chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ, chưa từng công bố tư tưởng Mao Trạch Đông. Tôi đã gửi báo cáo của đồng chí Lâm Bưu cho các đồng chí Việt Nam. Khang Sinh: Ngày 16 tháng 5 năm 1966, Mao Chủ tịch nhấn mạnh: những kẻ xét lại, những kẻ phản động, và những kẻ phản bội đang lẫn trốn trong chúng ta và đang có được lòng tin của bạn bè chúng ta. Lúc đó, nhiều cán bộ không hiểu điều mà Mao Chủ tịch nói thực sự có nghĩa là gì, nghĩ rằng sự ám chỉ đó là La [Thụy Khanh] và Bành [Chân]. Nhưng thực ra, Bành Chân đã bị vạch trần. Không ai dám nghĩ những kẻ phản bội là những người trong chúng ta. Chu Ân Lai: Tuy nhiên, đồng chí Mao đã nghĩ điều này. Khang Sinh: Trong báo cáo của mình, đồng chí Lâm Bưu có một câu nói nổi tiếng: “Cả nước sẽ đứng lên để đối đầu với bất kỳ ai chống lại Mao Chủ tịch và chính sách của chế độ độc tài vô sản“. Trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1966 và tháng 1 năm 1967, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đã bị vạch trần như là [thành phần] chủ nghĩa tư bản và phản động. Ngày 1 tháng 6 năm 1966, Chủ tịch Mao quyết định xuất bản báo tường của Đại học Bắc Kinh trên cả nước, đốt lên ngọn đuốc cho Đại Cách mạng Văn hóa. Sau đó ông gửi một lá thư hỗ trợ Hồng Vệ binh, do đó giúp phong trào Hồng vệ binh phát triển trên cả nước. Sau ngày 13 tháng 8, Chủ tịch Mao tiếp đón đại diện của Hồng Vệ binh 8 lần. Sau đó, Hội nghị lần thứ 11 đã chỉ trích chính sách phản động của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] và thông qua bản tuyên ngôn 16 điểm về Đại Cách mạng Văn hóa và phát hành một tuyên bố của Hội nghị này. Mao Chủ tịch đã viết một bài báo có tựa đề “Nã pháo vào bộ tư lệnh”. Tháng 11 năm 1966, một hội nghị khác được Uỷ ban Trung ương triệu tập tiếp tục chỉ trích Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] và mở rộng cuộc vận động chống Khrushchev tại Trung Quốc. Lúc đó, chính sách cách mạng của Mao Chủ tịch đã thành công và những gương mặt phản cách mạng ẩn giấu một thời gian dài của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình] đã bị vạch trần. Hồng vệ binh xem xét các tài liệu của Pháp và Quốc Dân đảng và phát hiện ra rằng, năm 1925, Lưu [Thiếu Kỳ] đã đầu hàng kẻ thù. Năm 1927, Lưu [Thiếu Kỳ] đã ra lệnh cho các công nhân Vũ Hán buông vũ khí đầu hàng chính phủ Quốc Dân đảng. Theo các tài liệu Nhật, Lưu [Thiếu Kỳ] đầu hàng Nhật năm 1929 ở Mãn Châu và như tài liệu ngân hàng cho thấy, từ năm 1936, Lưu đã nhận tiền của Quốc Dân đảng. Còn có một điểm khác mà chúng tôi muốn đưa ra: vợ của Lưu Thiếu Kỳ – Vương Quang Mỹ – là một đặc vụ của tình báo Mỹ. Tôi còn nhớ vụ chỉ trích La Thụy Khanh, nói rằng kẻ thù, vì chúng ta thiếu cảnh giác, có thể gửi xe tăng vào giường của chúng ta – xe tăng là tiếng lóng chỉ người vợ. Lý do tôi nói thế là vì, cuộc hôn nhân của La [Thụy Khanh] với đặc vụ Nhật Bản, lúc cô ta bị phơi bày đã phải bỏ chạy. Lúc đó xe tăng của La còn nhỏ. Bây giờ trên giường của Lưu Thiếu Kỳ có một xe tăng Trung Quốc lớn và tinh vi do Mỹ gửi tới. Về phần mình, rõ ràng Đặng Tiểu Bình là một người đào ngũ trong cuộc nội chiến. Ông ta cũng phản đối những tư tưởng của Mao Trạch Đông một cách nhất quán. Ông ta đã cố cản trở Mao Chủ tịch và gửi các thành viên của gia đình ông ta cũng như các thành phần xấu tới Đảng. Chúng tôi đã phát hiện ra các Khrushchev của Trung Quốc đã ẩn nấp trong chúng ta. Trường Đảng và các chi nhánh ở cấp huyện và tỉnh đã có trong 18 năm qua, đại diện cho một pháo đài ngoan cố chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông. Lưu Thiếu Kỳ kiểm soát trường Đảng từ năm 1948 cho đến Cách mạng Văn hóa, sử dụng trường học để trao đổi tài liệu tình báo với Liên Xô. Chu Ân Lai: Trong thời gian từ tháng 9 năm 1967 đến nay, Mao Chủ tịch nói rằng một chiến thắng toàn diện đã đạt được. Trong thời kỳ này, chúng tôi đã đấu tranh với ai? Những kẻ phản động còn lại trong hàng ngũ của chúng tôi. Nhưng nói chung, chính sách cách mạng của Mao Chủ tịch đã giành được thắng lợi to lớn và các chính sách phản động đã bị sụp đổ. Ủy ban cách mạng đã được thành lập ở tất cả mọi nơi, ngoại trừ 8 tỉnh. Thực tế đã chứng minh sự thành công trong chính sách của Mao Chủ tịch. Những kẻ phản bội, những kẻ đào ngũ trong đảng, đã bị phơi bày, trình độ giáo dục của người dân và cán bộ đã được nâng lên, và các đảng viên đã được tinh lọc và hiện nay tương đối tinh khiết. Tại Đại hội Đảng lần thứ 7, Lưu Thiếu Kỳ đọc một báo cáo về tình trạng của đảng, trong đó có một phần dành cho tư tưởng của Mao Trạch Đông. Thực ra, có người đã viết phần này cho ông ta và ông ta đã sử dụng phần này để đánh lừa các đảng viên ĐCSTQ và Trung ương để chiếm được lòng tin của đảng. Sau Đại hội, ông Lưu không bao giờ đề cập đến tư tưởng của Mao Trạch Đông nữa, và ông ta đã không sử dụng tư tưởng Mao Trạch Đông để chỉ trích cuốn sách “Về sự tiến bộ của đảng viên“. Ngược lại, ông sử dụng cuốn sách đó để chống lại tư tưởng Mao Trạch Đông. Đồng chí Lâm Bưu đã viết nhiều công trình ủng hộ tư tưởng Mao Trạch Đông. Nhưng là một người khiêm tốn, ông ấy không công bố công khai. Đồng chí Lâm Bưu đã trải qua các thử nghiệm về cuộc đấu tranh kéo dài. 40 năm đã trôi qua kể từ cuộc họp đầu tiên của ông (Lâm Bưu) với Chủ tịch Mao. Ông ấy đã chứng tỏ mình là một đồng chí trong tay của Mao Chủ tịch. Khang Sinh: Sau khi giải phóng dân tộc, Lưu Thiếu Kỳ đã đi đến Thiên Tân và đọc một bài phát biểu, nói rằng nền tảng công nghệ Trung Quốc thì yếu kém, thậm chí không bằng thời Sa hoàng. Thậm chí ông ta còn nói rằng, khai thác tư bản chẳng những không sai, mà còn có ích. Về mặt lý thuyết, Lưu là hậu duệ của Bernstein, Kautsky, Bukharin và Khrushchev. Ở Trung Quốc, chúng tôi có những người giống như vậy, cụ thể là Cù Thu Bạch, Trần Độc Tú, Lý Lập Tam, Vương Minh, Trương Quốc Đào, và Lưu Thiếu Kỳ. Lý thuyết của họ rất có hại cho phong trào cộng sản quốc tế. —————————————— Ghi chú: 1. Phái đoàn của đảng và nhà nước Việt Nam đã đến Bắc Kinh sau chuyến thăm Liên Xô.
Trung tướng Nguyễn Đôn 2. Nguyễn (Văn) Đôn (1918- ) là người miền Nam (sinh tại Quảng Ngãi). Ông là chỉ huy và cán bộ chính trị Liên khu V (phía Nam miền Trung Việt Nam) cho đến năm 1967, và sau đó đóng vai trò quan trọng ở Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tham mưu trưởng. Dường như bị mất ảnh hưởng vào năm 1976. 3. Có thể ám chỉ đến các phong trào cải cách ở Tiệp Khắc (Mùa Xuân Praha – “Prague Spring”) và có thể Ba Lan, nơi chính quyền gần đây đã bắt đầu một cuộc đàn áp những người bất đồng chính kiến. 4. Trước khi bị thanh trừng cuối năm 1965, Dương Thượng Côn là ủy viên dự khuyết Ban Bí thư Trung ương ĐCSTQ và là Giám đốc Phòng Hành chính Trung ương của Trung ương ĐCSTQ. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?******************** 17-04-1968: Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng CWIHP Phạm Văn Đồng Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 17-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai nhấn mạnh đến chiến thắng vĩ đại, nói với Phạm Văn Đồng rằng ông ta phải sẵn sàng chiến đấu trong ba năm tới. Chu Ân Lai: Các ông phải chuẩn bị chiến đấu trong hai hay ba năm tới, cụ thể là những năm 1968, 1969 và 1970. Đồng chí Mao nói rằng vấn đề không phải là thành công hay thất bại, cũng không phải là thành công lớn hay nhỏ, mà vấn đề là làm cách nào để các ông giành được chiến thắng vĩ đại. Đây là thời điểm chín mùi cho các ông giành thắng lợi hoàn toàn. Nhiệm vụ đó là nguyên nhân về sự cần thiết của các trận đánh quy mô lớn. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCC4-96B6-175C-9E7935247F02CC38&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29—— CWIHP Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 19-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai phê phán gay gắt Việt Nam về việc dường như là quá hòa giải trong các cuộc đàm phán và để mất cơ hội có thể có được lập trường mạnh mẽ hơn chống lại Hoa Kỳ. Chu Ân Lai: Theo chúng tôi, hiện nay các ông chấp nhận đề nghị của Johnson về việc Mỹ ngưng ném bom có giới hạn ở miền Bắc, không tốt về thời gian và không thuận lợi. Chúng tôi khẳng định cách nhìn này. Về Johnson, hiện tại là câu hỏi làm thế nào để tồn tại trong năm bầu cử, làm thế nào để tránh trách nhiệm về cuộc chiến thất bại. Ông ta cũng muốn được xem như là một người của “hòa bình” cũng như muốn vượt qua những khó khăn hiện tại, bên trong lẫn bên ngoài. Đây là những mục tiêu của ông ta và những tính toán của ông ta không [thích hợp] cho bất kỳ kết quả cụ thể nào cho cuộc họp. Tuyên bố của đồng chí Nguyễn Duy Trinh ngày 28 tháng 1 năm ngoái (1967), có một số ảnh hưởng trên trường quốc tế. Không những ở các nước châu Phi và châu Á, mà còn ở một số nước phương Tây và Bắc Âu. Các nước này hiểu rằng, ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc là điều kiện tiên quyết cho đàm phán. Như vậy, tuyên bố được hỗ trợ không những của người dân trên thế giới, mà còn của một số chính phủ phương Tây, gồm cả chính phủ De Gaulle. Vì vậy, khi Johnson đã phải đối mặt với thời điểm khó khăn nhất – tôi đã không đề cập đến phong trào bùng nổ của người Mỹ da đen – các ông đã chấp nhận đề nghị của ông ta. Hành động này làm nhân dân thế giới thất vọng. Các nhóm ủng hộ Mỹ rất vui mừng. Các nước châu Phi và châu Á, vốn hỗ trợ yêu cầu của các ông về việc chấm dứt ném bom hoàn toàn, thì ngạc nhiên. Một số nước phương Tây cũng ngạc nhiên, trong đó có Pháp. Các ông đã chấp nhận ngừng ném bom một phần, và sau đó chấp nhận nơi đàm phán không phải là Phnom Penh. Do đó, các ông đã thỏa hiệp hai lần. Các ông không chủ động, mà ngược lại, các ông đang đánh mất thế chủ động. Các ông đã nhanh chóng chấp nhận Warsaw là nơi hội họp, và làm như vậy, các ông đã không tạo thêm khó khăn cho Johnson, mà thực ra, các ông đã giúp ông ta. Cho nên bây giờ Johnson đòi hỏi thêm: ông ta đề nghị một danh sách 15 địa điểm họp. Rusk cũng đã đề cập đến danh sách này, mà không đề cập đến bất kỳ nơi nào ở Đông Âu hay Phnom Penh. Tôi không muốn nói rằng Phnom Penh nhất thiết là nơi thích hợp, nhưng một khi các ông đề cập đến Phnom Penh, các ông phải khăng khăng đòi nó. Bởi vì các ông đã thỏa hiệp từ lập trường [ngưng ném bom] hoàn toàn cho đến một phần, bây giờ các ông phải giữ Phnom Penh [là nơi họp mặt]. Đánh giá của chúng tôi rằng, hai thỏa hiệp này đã giảm sự cứng rắn của tuyên bố ngày 28 tháng 1. Từ kinh nghiệm của chúng tôi, chúng tôi thấy rằng các cuộc đàm phán phải bắt đầu khi chúng ta có lập trường mạnh mẽ hơn, không phải một lập trường yếu. Johnson không xem xét các cuộc đàm phán, các cuộc họp, hoặc mối liên hệ sẽ mang lại kết quả nào. Đối với ông ta, hiện nay, mở ra các mối liên hệ là đại diện cho vốn quý. Hoặc các ông có kế hoạch cản trở cuộc họp khi nó được triệu tập hay không? Nếu vậy, tại sao các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần? Nếu họ không có kế hoạch cản trở cuộc họp thì sao? Chúng tôi không hiểu toàn bộ kế hoạch của các ông. Chúng tôi cũng không tin các kế hoạch khác đã được báo chí phương Tây đề cập. Đáng lý, có một kế hoạch khả thi. Phạm Văn Đồng: Kế hoạch gì? Chu Ân Lai: Như tôi đã nói, các ông phải yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn thì mới bắt đầu liên lạc. Nhưng bây giờ, liên lạc sẽ bắt đầu khi chấm dứt [ném bom] một phần. Trước đây, Hoa Kỳ nói rằng họ sẽ đến bất cứ nơi đâu để gặp các ông. Nhưng khi các ông đề nghị Phnom Penh, thì họ đã không chấp nhận. Sau đó, các ông đề nghị Warsaw. Tôi đoán rằng Hoa Kỳ sẽ chọn Warsaw, nhưng họ dùng kế hoãn binh, đề nghị 15 địa điểm khác, đợi cho các ông đề nghị một nơi khác thì cuối cùng chấp nhận Warsaw. Khi gặp các ông ở Warsaw, họ có thể đề nghị để đổi lấy việc Mỹ ngưng ném bom hoàn toàn, các ông phải ngưng giúp đỡ miền Nam, điều này dĩ nhiên các ông sẽ không chấp nhận. Sau đó có thể họ đề cập đến việc hỗ trợ gián tiếp từ miền Bắc. Một ngày nọ, đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói [miền Bắc] sẽ gửi vũ khí và ngưng gửi người vào Nam. Phạm Văn Đồng: Không, tôi chưa bao giờ nói thế, chưa bao giờ, chưa bao giờ. (Hai bên tranh luận về điểm này và cuối cùng là Chu Ân Lai đồng ý rằng sự hiểu lầm là do dịch sai). Phạm Văn Đồng: Tôi muốn nói thêm một điểm: đó là chúng tôi gửi người dân và quân đội vào miền Nam, cho thấy toàn bộ đất nước chúng tôi sẽ chống lại Hoa Kỳ. Ý chí này của chúng tôi giống như sắt, đá, không thể lay chuyển được. Chúng tôi đã phải đối mặt với một số thời điểm vô cùng khó khăn và các ông cũng đã quan ngại cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiến lên phía trước, không bao giờ cho phép rút lui. Toàn bộ đất nước chúng tôi đang chiến đấu chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng. Toàn bộ 31 triệu người Việt Nam đang đấu tranh để giành chiến thắng cuối cùng. Bởi vì các ông nghe nhầm, chúng tôi phải nói với các ông một lần nữa. Chu Ân Lai: Đối với miền Bắc, Mỹ ném bom và phong toả là hành vi xâm lược. Có lẽ vì thông dịch tệ, có một điều tôi vẫn chưa rõ: Hoa Kỳ yêu cầu chấm dứt hỗ trợ gián tiếp [miền Nam] và các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần [miền Bắc]. Đó có phải là cách thừa nhận rằng các ông đang hỗ trợ miền Nam một cách gián tiếp? Khang Sinh: Điều này đã được lặp đi lặp lại trong các tuyên bố ngày 1 tháng 1, ngày 8 và ngày 12 tháng 12. Phạm Văn Đồng: Tôi không biết ông muốn nói gì khi nhắc tới sự giúp đỡ gián tiếp miền Nam? (Hai bên lại tranh luận về điểm này và phía Trung Quốc đưa ra cụm từ giảm leo thang). Phạm Văn Đồng: Có phải ông muốn nói tới việc giảm leo thang trong việc hỗ trợ miền Nam? Chu Ân Lai: Đúng vậy. Phạm Văn Đồng: Tôi muốn nói cho các ông biết chiến lược lớn của chúng tôi áp dụng trong cuộc chiến chống Mỹ. Chúng tôi đã nói với các ông về điều đó từ cuối năm 1966. Chiến lược này được thể hiện trong khẩu hiệu sau đây: bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam … Chúng tôi chia nó thành hai khía cạnh, hoặc hai bước, hai giai đoạn, nhằm từng bước đánh bại Mỹ. Chúng tôi vẫn theo chiến lược này …. Bây giờ, tôi trở lại câu hỏi của các ông, về việc liệu chúng tôi có đang giảm leo thang. Nếu giảm leo thang được hiểu là bớt chiến đấu, câu trả lời tuyệt đối là không. Nếu giảm leo thang được hiểu là thỏa hiệp, câu trả lời là không, chúng tôi không suy nghĩ và hành động theo cách đó. Ngược lại, tất cả chúng tôi tấn công nhiều hơn, sử dụng các chiến thuật ngoại giao, dồn họ vào góc tường, vận động dư luận thế giới chống lại kẻ thù. Bây giờ là lúc chúng tôi leo thang và thắng kẻ thù, không phải lúc giảm leo thang. Chu Ân Lai: Trong phạm vi miền Nam, từ chiến đấu quy mô nhỏ hiện nay, các ông tiến hành chiến đấu quy mô lớn, có nghĩa là các ông leo thang. Nhưng đối với miền Bắc, từ yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn, đến chấp nhận việc chấm dứt một phần, các ông có thể xem đó là sự leo thang như thế nào? (Phạm Văn Đồng mỉm cười.) Chu Ân Lai: Ngày nọ, các ông chấp nhận đánh giá của chúng tôi rằng Hoa Kỳ sẽ tập trung lực lượng ném bom khu vực giữa vĩ tuyến 17 và 20, do đó gây khó khăn cho chúng ta. Hơn nữa họ có thể tiếp tục ném bom bất kỳ lúc nào họ muốn, ngay cả khi họ đã liên lạc với các ông. Bất cứ khi nào các ông không trả lời [các yêu cầu của họ], họ sẽ tiếp tục ném bom. Tuy nhiên, ý kiến trên thế giới đã hỗ trợ yêu cầu của các ông về việc chấm dứt ném bom hoàn toàn. Tóm lại, chúng tôi vẫn cho rằng tuyên bố của các ông đã giúp Johnson. Chúng tôi đang nói chuyện với các ông về vấn đề này một cách thẳng thắn. … Các đồng chí Việt Nam nói rằng, chính sách của các ông là dồn lực lượng Hoa Kỳ vào một góc. Nếu các ông muốn làm như vậy, các ông nên yêu cầu chấm dứt ném bom hoàn toàn khi họ đề nghị ngừng ném bom một phần …. Các ông chấp nhận ngừng ném bom một phần và sau đó chấp nhận họp, có nghĩa là một sự thỏa hiệp so với lập trường trước đó. Ý kiến của công luận thế giới cũng nhận ra điều đó. Hay các ông vẫn đòi hoặc là Warsaw hay Phnom Penh sẽ là nơi họp và sau đó trở nên bế tắc nếu họ không đáp ứng? Vậy mục đích của các ông trong việc chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ là gì? Đối với Mỹ, họ tính toán rằng họ sẽ cố gắng kéo dài quá trình đàm phán một khi bắt đầu. Chúng tôi đưa ra giả thuyết tình hình như sau: các ông sẽ đòi chấm dứt ném bom hoàn toàn, giữ vừng lập trường 4 hoặc 5 điểm, sau đó Harriman sẽ không phản đối hoàn toàn, kéo dài thời gian và đưa thêm một số điều kiện. Khi các ông từ chối, quá trình sẽ được kéo dài. Khi các ông gây cản trở cuộc họp, họ sẽ không [gây trở ngại]. Họ kéo dài, do đó đạt được mục tiêu giải quyết những khó khăn của họ trong cuộc bầu cử năm nay. Vì vậy, các ông giúp họ rất nhiều. Tình hình sắp tới sẽ chứng minh sự phán đoán này. Chúng tôi tin sự phán đoán của chúng tôi, đó không phải sự phán đoán của cá nhân tôi, mà là sự phán đoán của Trung ương [Đảng] của chúng tôi. Các ông nói rằng các ông không có bất kỳ ảo tưởng nào. Đối với dư luận thế giới, các ông đã thỏa hiệp. Về đấu tranh ngoại giao của các ông, các ông có lập trường thụ động. Các ông có thể nghi ngờ đánh giá của chúng tôi, nhưng các ông sẽ thấy rõ ràng khi các cuộc đàm phán bắt đầu. … Tuy nhiên, yếu tố quan trọng là chính cuộc chiến tranh. Chiến thắng được quyết định bởi chiến tranh. Nhưng trong phạm vi đàm phán, chúng tôi vẫn giữ quan điểm của chúng tôi, đó là các ông mất thế chủ động và rơi vào thế thụ động. Các ông đã khẳng định trong tuyên bố ngày 28 tháng 1, chúng ta sẽ dồn họ vào một góc, Johnson sẽ đối mặt với nhiều khó khăn hơn, cả trong lẫn ngoài. Johnson đã ở trong góc tường, thậm chí không có tuyên bố ngày 3 tháng 4. Bây giờ các ông nên phân tích hậu quả của các mối liên lạc. Tôi nghĩ rằng, chắc chắn họ sẽ chấp nhận Warsaw hay Phnom Penh, nhưng với một số điều kiện. Họ cố ý đề cập đến 15 địa điểm khác. Nhưng đó chỉ là chiến thuật của họ trước khi nhận [một trong những đề nghị về địa điểm họp của các ông]. Tóm lại, tuyên bố của các ông là một thỏa hiệp. Nếu các ông không thể nhìn thấy hậu quả bây giờ, các ông sẽ nhìn thấy sau này. Phạm Văn Đồng: Ông đã nêu ý kiến một cách xây dựng, và chúng tôi nên chú ý đến ý kiến đó nhiều hơn. Bởi vì, cuối cùng tất cả chúng tôi là những người chiến đấu chống Mỹ và đánh bại họ. Chúng tôi phải chịu trách nhiệm cho hai hoạt động quân sự và ngoại giao. Cảm ơn ý kiến của các ông rất nhiều. Chúng tôi sẽ xem xét nó để thực hiện tốt hơn cho chiến thắng chống Mỹ của chúng tôi. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034CCD3-96B6-175C-9ADB6C82F64A30AD&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29****************** Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng CWIHP 13-04-1968 Mô tả: Chu Ân Lai thảo luận với Phạm Văn Đồng về việc Việt Nam nên hành động như thế nào khi đối mặt với bất ổn của Mỹ ở trong nước Mỹ và các cuộc đàm phán ở Việt Nam. Chu Ân Lai: … Theo lập trường trước đó của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt), nếu Mỹ không ngừng ném bom hoàn toàn và vô điều kiện, không thể có bất kỳ cuộc nói chuyện nào (1). Nhưng tuyên bố ngày 3 tháng 4 của Chính phủ Bắc Việt là một bất ngờ không chỉ cho người dân thế giới, mà còn bất ngờ ngay cả với các đối thủ của Johnson. Tuy nhiên, trong tuyên bố của các ông, các ông chỉ sử dụng từ “liên hệ”. Các ông đã có các mối liên hệ bí mật trước khi hạn chế ném bom. Bây giờ với tuyên bố này, các ông đã công khai các mối liên hệ kia. Và, đối với nhân dân thế giới, đó là sự thỏa hiệp của các ông phần nào, và giúp Mỹ giải quyết các khó khăn của họ. Bộ Chính Trị (Khóa III) quyết định mở chiến dịch tết Mậu Thân. Ảnh minh họa từ Việt Báo Sau các cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ đã cố gắng che giấu những khó khăn của họ. Sau khi [tướng Earle] Wheeler đến thăm Sài Gòn, ông ta trở về Washington và nói chuyện với Tổng thống Johnson và [tướng William] Westmoreland. Họ đã phải thừa nhận những khó khăn… Westmoreland lúc đó xin thêm 200.000 quân nhưng Quốc hội Hoa Kỳ và chính phủ từ chối … Các cuộc bầu cử sơ sơ bộ ở một số tiểu bang cho thấy, số phiếu dành cho Johnson đã giảm chỉ còn 38%. Điều đó đã chứng minh rằng chính sách xâm lược của Johnson là thất bại. Khắp thế giới, mọi người yêu cầu Johnson ngừng đánh bom. Tất cả chúng ta đều biết điều này, ngay cả De Gaulle cũng đã thừa nhận. Và cuộc khủng hoảng đồng đô la cũng đã xảy ra vào thời điểm đó. Chỉ có một điều chúng ta đã không đoán trước, đó là vụ giết [lãnh đạo dân quyền Martin] Luther King ngày 4 tháng 4, một ngày sau khi các ông đưa ra tuyên bố. Nếu tuyên bố của các ông đưa ra một hoặc hai ngày sau, vụ giết người có thể đã bị dừng lại. Cũng giống như Gandhi của Ấn Độ, Luther King chủ trương chính sách bất bạo động. Ngay cả một người như ông ta còn bị giết chết, nói gì đến những người da đen khác. Điều này giải thích sự phát triển của phong trào người Mỹ da đen, lan rộng đến hơn 100 thành phố. Do đó, Johnson đã phải hủy bỏ chuyến đi đến Honolulu cũng như hoãn việc triển khai thêm 10.000 quân ở miền Nam [Việt Nam] … Trong tình hình quốc tế này, cuộc khủng hoảng tiền tệ trở nên tồi tệ hơn, dẫn đến bế tắt. Hồi cuối tháng 3 năm 1968, Mỹ tổ chức cuộc họp ANZUS ở Wellington, [Tân Tây Lan]. Johnson đã dự định đến đó, nhưng ông ta đã không thể đến. Rusk đã đi thế [ông ta]. Ở đó, Mỹ yêu cầu các đồng minh gửi thêm quân đến Việt Nam nhưng đã không giành được sự hỗ trợ của họ. Thậm chí Mỹ còn yêu cầu Tưởng Giới Thạch rút 7 sư đoàn của ông ta từ Jinmen-Mazu [Quemoy-Matsu], và gửi ít nhất 2 sư đoàn đến Việt Nam. Tưởng không chấp nhận và yêu cầu đại sứ của ông ta ở Washington trì hoãn việc thể hiện lập trường. Các đề nghị tăng thêm quân, tăng thuế, và tăng chi tiêu cho cuộc chiến Việt Nam đã không được Quốc hội Hoa Kỳ chấp nhận. Trong hoàn cảnh này, Johnson buộc phải đưa ra tuyên bố ngày 31 tháng 3. Đó là một âm mưu độc ác và dối trá. Thực ra, ông ta không muốn từ bỏ cuộc chiến. Tuyên bố chỉ là một phương tiện để họ vượt qua thời điểm khó khăn này. Và Johnson thậm chí còn tuyên bố rằng ông ta không nên tái tranh cử. Đó cũng là cách thức quen thuộc được sử dụng trong lịch sử chiến dịch tranh cử của tổng thống Mỹ … Nhưng hóa ra tuyên bố ngày 3 tháng 4 của các ông giúp giải quyết khó khăn của ông ta. Tình hình đã được thay đổi. Tác động của nó có thể là tạm thời, nhưng bất lợi. Khang Sinh: Số phiếu dự đoán bầu cho Johnson tăng từ 38% lên 57%. Chu Ân Lai: (tiếp tục) Vì vậy, nhiều người không hiểu tại sao các đồng chí Việt Nam đã quá vội vã trong việc đưa ra tuyên bố này … Đó là ý kiến của người dân trên thế giới. Trong mắt của người dân thế giới, các ông đã thỏa hiệp hai lần. Trong tuyên bố của mình, Johnson sử dụng từ “cuộc họp” nhẹ hơn từ “liên hệ”. Ông ta cũng nói rằng, Hoa Kỳ có thể đi đến bất kỳ nơi nào để họp. Ông ta đã chỉ định [Averell] Harriman làm việc này… Sau đó, các ông đề nghị ở Phnom Penh. Đó là một chiến thuật tốt vì các ông có thể giành được cảm tình của Sihanouk và đặt Hoa Kỳ vào tình thế khó khăn. Khi Hoa Kỳ từ chối, một lần nữa các ông thỏa hiệp mà không tranh luận. Dĩ nhiên, rất đúng khi các ông từ chối năm địa điểm ở châu Á mà Hoa Kỳ đề nghị. Sau đó, các ông đề nghị Warsaw. Chúng tôi hiểu rằng đề nghị của các ông dựa trên thực tế các cuộc đàm phán Trung – Mỹ cũng đã được tổ chức ở đó. Các ông đã bổ nhiệm đồng chí Hà Văn Lâu (2) tham dự cuộc họp nhưng một lần nữa Hoa Kỳ lại bác bỏ đề nghị này. Tình hình cho thấy các đồng chí Việt Nam dễ dàng thỏa hiệp. Không thể ngăn nhân dân thế giới nghĩ rằng các ông đang phải đối mặt với một số khó khăn trong công cuộc đấu tranh của các ông. Các ông đã thay đổi lập trường, đã làm tăng số phiếu dự định bầu cho Johnson, tăng giá cổ phiếu ở New York, và giảm giá vàng ở thị trường tự do … Vì vậy, bây giờ các ông đã tạo điều kiện cho họ sử dụng chính sách hai mang. Trong hoàn cảnh này, họ không bỏ bom toàn bộ lãnh thổ Bắc Việt, nhưng vẫn tiếp tục ném bom phía Bắc (sic: rõ ràng phải là miền Nam) của vĩ tuyến 20 và cùng lúc kéo dài các cuộc đàm phán. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào kinh nghiệm chiến đấu của các ông. Nhưng ở một mức độ nào đó, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm hơn các ông khi tiến hành các cuộc đàm phán với Mỹ. Tôi đã nói nhiều lần hồi năm ngoái và cách đây hai năm, rằng các cuộc đàm phán có thể diễn ra trong chiến tranh. Tại một thời điểm nhất định, các cuộc đàm phán có thể bắt đầu. Đồng chí Mao Trạch Đông cũng nhắc nhở đồng chí Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng về đàm phán, nhưng với một lập trường mạnh mẽ hơn. Nhưng với tuyên bố của các ông, cho thấy rằng lập trường của các ông bây giờ yếu hơn, không phải mạnh hơn. Vì lợi ích mối quan hệ của hai đảng mà chúng tôi sử dụng mọi cơ hội để nhắc nhở các ông về vấn đề này. Và khi chúng tôi nói với các ông điều này, chúng tôi nói cho các ông biết tất cả những điều mà chúng tôi nghĩ. ————————————————— Ghi chú: 1. Ngày 31 tháng 3, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt một phần ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam và ý định của ông sẽ không tái tranh cử. Bắc Việt đã trả lời vào ngày 3 tháng 4, tuyên bố sẵn sàng mở các mối liên lạc với Mỹ. 2. Hà Văn Lâu: đại tá QĐND Việt Nam, thành viên của phái đoàn Việt Nam đến Hội nghị Geneva năm 1954. Dẫn đầu phái đoàn Liên lạc QĐND VN đến Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám sát ở Việt Nam 1954-1973. Đại diện Bắc Việt tại Tòa án tội phạm chiến tranh quốc tế Russell ở Copenhagen năm 1967 và là thành viên của phái đoàn Bắc Việt tại các cuộc đàm phán hòa bình Paris 1968-1970. Sau tiếp tục phục vụ như đại sứ ở Cuba, Liên Hiệp Quốc, Pháp, và như Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:10:09 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Trần Nghị, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
CWIHP 12-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai bàn về đấu tranh giai cấp hiện tại ở Trung Quốc. Chu Ân Lai (1898- 1976). Ảnh On the net Chu Ân Lai: … Trong mười năm qua, chúng tôi đã tiến hành một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến không đổ máu: đấu tranh giai cấp. Nhưng thực tế là, trong số các tướng tá của chúng tôi, có một số người, [mặc dù] không phải tất cả, biết rất rõ làm thế nào để tiến hành một cuộc chiến tranh đẫm máu, [nhưng] bây giờ không biết làm cách nào để tiến hành một cuộc chiến không đổ máu. Thậm chí họ coi thường quần chúng. Một ngày nọ, khi chúng tôi đang ở trên máy bay, tôi đã nói với ông rằng, cách mạng văn hóa của chúng tôi lần này là nhằm lật đổ một nhóm người cầm quyền trong đảng, những người muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Các mạng văn hóa cũng nhằm tiêu diệt các lực lượng cũ, văn hóa cũ, hệ tư tưởng cũ, phong tục tạp quán cũ, đã không còn phù hợp với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong một bài phát biểu hồi năm ngoái, đồng chí Lâm Bưu nói: Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tiêu diệt “quyền sở hữu tư nhân” của giai cấp tư sản, xây dựng “quyền sở hữu công cộng” của giai cấp vô sản. Vì vậy, để giới thiệu về hệ thống “sở hữu công cộng”, các ông dựa vào ai? Dựa vào kinh nghiệm 17 năm sau giải phóng, đồng chí Mao Trạch Đông cho rằng, sau khi cướp chính quyền, giai cấp vô sản sẽ loại bỏ các “quyền sở hữu tư nhân” của giai cấp tư sản. Nhưng quá trình này sẽ bị bỏ dở nửa chừng nếu dựa vào phương thức lãnh đạo “từ trên xuống”. Như tôi đã nói với các ông, trong xã hội chúng tôi, “sở hữu tư nhân” vẫn còn tồn tại. Nó tồn tại không chỉ do ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản quốc tế, mà còn do thực tế là trong nước có những tàn tích của giai cấp tư sản, của chế độ phong kiến, và các nhà tư bản mới nổi lên, những tay đầu cơ, những kẻ tham ô… Một nhân tố lớn hơn là ở nông thôn, có một số lớn nông dân thuộc giai cấu tiểu tư sản. Họ là tiểu tư sản không những trong suy nghĩ, mà còn qua hành động của họ. Và vẫn còn tồn tại quyền sở hữu tư nhân, đất đai do tư nhân làm chủ, thị trường tự do, tự do buôn bán. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản có thể tái phát bất cứ lúc nào. Hơn nữa, ở Trung Quốc các tàn dư và ảnh hưởng hàng ngàn năm của chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản có mặt khắp mọi nơi. Như đồng chí Mao đã nói, nếu cây chổi không tốt, bụi bậm không bị quét sạch, và ngay cả khi nó bị quét, thì cũng sẽ có bụi mới. Tất cả các yếu tố nói trên là mảnh đất màu mỡ cho sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản và sự xuất hiện của chủ nghĩa xét lại. Trong 17 năm qua, chúng tôi đã đấu tranh chống lại “ba chống” (chống đảng, chống dân, chống CNXH: ND), và bây giờ có ba chống mới. Chúng tôi đã cải tạo các nhà tư bản, nhưng bây giờ trong đảng của chúng tôi, có những nhà tư bản mới. Chúng tôi đã chỉ trích những người cánh hữu, nhưng bây giờ có những người cánh hữu mới trong đảng của chúng tôi. Những người cầm quyền trong đảng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đã bị truất phế. Hiện có các phần tử mới trong số cầm quyền, một lần nữa đi theo con đường tư bản. Chúng tôi định đi thăm Sashi. Nhưng vì thời tiết xấu, chúng tôi đã phải hủy bỏ chuyến đi. Bây giờ, cũng tốt nếu ông có thể đi thăm Đại Trại. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, đồng chí Trần Vĩnh Quý (1) đứng vững lập trường vì ông ấy luôn tôn trọng “quyền sở hữu công cộng”. Đó là một trong những đặc điểm của Đại Trại. Đại Trại không phát triển về công nghệ, nhưng phát triển các hoạt động chính trị. Đội ngũ sản xuất do đồng chí Trần Vĩnh Quý dẫn đầu trong 14 năm qua chỉ vay tiền nhà nước một lần vào năm 1953. Nhưng đã trả lại tiền vay ngay trong năm sau. Đại Trại đã không xin cứu trợ thiên tai từ nhà nước mặc dù bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thiên tai. Nhóm sản xuất không quá 400 người. Các điều kiện tự nhiên ở đó không tốt. Nhưng mỗi năm, Đại Trại đóng góp từ 100 đến 150 tấn lương thực cho nhà nước. Nếu hình mẫu này nhân lên toàn quốc, hàng năm nhà nước sẽ có khoảng 4 tỷ tấn lương thực. Điểm đặc trưng nhất của Đại Trại đó là, nó đã phá hủy các khái niệm về chủ nghĩa tư nhân và duy trì chủ nghĩa công xã theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Đây là một ví dụ. Đồng chí Mao hỏi tôi liệu thật như vậy không. Tôi trả lời có. Sau đó đồng chí Mao đến thăm Đại Trại và thừa nhận những gì Đại Trại đã làm. Trong một đơn vị sản xuất như Đại Trại, có từ 300 đến 1000 lao động, vấn đề quyền sở hữu tư nhân và công cộng vẫn còn tồn tại và đặt ra những vấn đề phức tạp. Vì vậy, ông có thể hình dung phạm vi của vấn đề trên toàn quốc, có khoảng 800.000 – 900.000 đơn vị sản xuất. Có khoảng 200 hộ gia đình trong mỗi đơn vị sản xuất, và khoảng 160 triệu hộ gia đình trên cả nước. Cũng có một số lớn nhà máy ở các thành phố. Vì vậy, nếu không có một phong trào quần chúng, trong đó có người dân tham gia, không có cách nào để xác định ai là người chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa, ai là nhà tư bản. Chúng ta phải dựa vào các lực lượng nào để huy động nông dân và công nhân? Nếu chúng ta dựa vào các thành viên của Đảng và Liên đoàn Thanh niên, họ sẽ sử dụng các cơ chế của hệ thống thứ bậc. Và làm như vậy, các quan chức có thể che giấu những việc làm sai trái của nhau, do đó các mục tiêu chỉ đạt được một nửa. Trần Nghị: Và nếu các quan chức xấu này không bị phát hiện và bị lật đổ, họ sẽ hình thành một tập đoàn những con người xấu xa mới. ……. Chu Ân Lai: Vì vậy, chúng ta giải quyết vấn đề bằng cách huy động sinh viên và thanh niên. Họ năng nổ và dễ tiếp thu các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ngày 1 tháng 6 năm 1966, đồng chí Mao cho phát hành bài viết của ông trên báo chữ to, thuộc Đại học Bắc Kinh, nên đã huy động học sinh và thanh thiếu niên cả nước. Sáng kiến này của đồng chí Mao đã được sự chấp thuận của Ủy ban Trung ương. Nhưng đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình vẫn duy trì cách làm việc cũ. Họ đã gửi các đơn vị công tác xuống các tỉnh. Kết quả là gì? Tại những nơi mà các lãnh đạo đã bị nhân dân sa thải, các đơn vị làm việc nắm quyền kiểm soát tất cả mọi thứ, mà không biết ai là người tốt, ai là người xấu trong số các quan chức bị sa thải. Hơn nữa, các đơn vị làm việc lặp đi lặp lại một cách làm việc cũ, chẳng hạn như từ chối dựa vào nhân dân. Người dân không đồng ý, nhưng bị các đơn vị làm việc áp bức, những người này nói rằng, chống lại họ là chống lại Ủy ban Trung ương và Mao Chủ tịch. Vì vậy, phản đối càng gia tăng quyết liệt hơn. Do đó, tình hình là quần chúng – nghe theo lời kêu gọi của Mao Chủ tịch– đã đứng lên, nhưng cùng lúc, lãnh đạo mới, thay thế chính đảng, đã đàn áp họ. Ở cấp trung ương, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm. Họ đàn áp dân chúng, chia dân thành ba loại: tả khuynh, trung dung và hữu khuynh. Bất cứ ai phê bình các đơn vị làm việc đều thuộc nhóm hữu khuynh, nghĩa là, phản động, do đó bị sách nhiễu, thậm chí bị bỏ tù. Chưa đầy hai tuần sau khi áp dụng phương pháp của các đơn vị làm việc, trên cả nước xuất hiện một phong trào phản đối những điều đồng chí Mao đề xuất ban đầu. Trong tháng 6 và tháng 7, chưa đầy 50 ngày, đã có đàn áp ở tất cả các trường học và trường đại học, chống lại những người chỉ trích lãnh đạo. Tình trạng này xác nhận điều mà Mao Chủ tịch đã nói những năm trước: những sai lầm của ai đó ở cấp Trung ương mắc phải, có thể trở thành sai lầm của cả nước do cơ chế phân cấp cho phép sự phục tùng mù quáng. Điều này cũng giúp giải thích tại sao Khrushchev có thể nắm chính quyền ở Liên Xô. Khi đồng chí Mao biết được tình hình này, ngay lập tức ông trở về Bắc Kinh. Và sau khi điều tra cho thấy những gì đang diễn ra một cách rõ ràng, ông đã quyết định rút các đơn vị làm việc và khởi động một cuộc cách mạng văn hóa từ dưới lên trên để cho quần chúng tự giải phóng chính họ. Ông triệu tập Hội nghị lần thứ 11 với sự tham dự của tất cả những người đứng đầu tỉnh ủy. Hội nghị này đã chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình về những sai lầm của họ. Liên quan đến Hội nghị này, đồng chí Mao đã cho phát hành một bài viết báo chữ to, và đồng chí Trần Bá Đạt (2) đọc báo cáo, Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị được mở rộng. Không có biện pháp nào khác được thực hiện. Quyết định 16 điểm và một tuyên bố về Hội nghị sau đó đã được ban hành. Ngày 18 tháng 8 năm 1966 đồng chí Mao đón tiếp các đại diện của Hồng vệ binh. Sau những sự kiện này, phong trào Hồng vệ binh phát triển trên cả nước, đầu tiên trong các trường học và các trường đại học, sau đó lan ra trên toàn xã hội. Lúc đó, lãnh đạo các cấp thụ động. Hầu hết các Bí thư Đảng ủy trong tất cả 28 tỉnh, thành phố thường tham gia vào các cuộc cách mạng và chiến tranh. Họ thường dựa vào dân. Nhưng sau khi hòa bình lập lại, sau khi họ lên nắm quyền, họ e ngại người dân. Trần Nghị: Khi người dân chỉ trích họ, họ đàn áp nhân dân. Chu Ân Lai: Khi chưa nắm quyền thì họ dựa vào nhân dân. Nhưng khi họ lên nắm quyền, họ biến thành quyền của riêng họ và họ sợ bị chỉ trích, bị mất quyền. Trong tháng 8 và tháng 9, Đảng ủy thuộc các cấp tỉnh, thành phố đã bị Hồng vệ binh tấn công. Tổng Bí thư ở các cấp, ở mức độ khác nhau, đều rất sợ. Vi Quốc Thanh (3): Tất cả đều sợ hãi. Chu Ân Lai: Điều này cho thấy, họ cảm thấy cách mạng hóa cuộc sống của người khác thì dễ dàng, nhưng khó hủy bỏ tư nhân hóa các đặc quyền của họ. Tháng 10 năm 1966, Ủy ban Trung ương đã triệu tập một cuộc họp khác. Câu hỏi bây giờ đã rõ ràng dựa trên các vấn đề lý thuyết. Cuộc họp toàn thể trước đó chỉ đề cập đến một cuộc đấu tranh giữa hai phe. Nhưng tại cuộc họp này, hai phe đã được xác định, một bên là phe cách mạng và vô sản và phe kia là phản động và tư bản. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các phe phái khác nhau, dù là tư sản hay vô sản, vẫn có thể có đế quốc là kẻ thù chung. Nhưng hiện nay, trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, các phe khác nhau, thiếu vắng một kẻ thù chung, một cách tự nhiên trở thành đối kháng. Hồng vệ binh cảm thấy dễ dàng hấp thụ tư tưởng của Mao Trạch Đông và phe cách mạng – vô sản, nên họ chỉ trích phe phản động – tư bản. Trong khi đó, một nhóm nhỏ các nhà lãnh đạo ở cấp bộ và tỉnh, tổ chức các lực lượng riêng để tự bảo vệ. Các đơn vị này là đơn vị bán quân sự (nửa quân sự) giữa các nhóm công nhân và bảo thủ trong số các sinh viên. Đồng chí Mao đã đề cập đến họ. Các nhà lãnh đạo này phải sử dụng đến chủ nghĩa vật chất, mua người khác bằng tiền và cùng lúc tạo ra những khó khăn về kinh tế, kịch liệt phản đối phe cách mạng vô sản. Hồng vệ binh bảo vệ các phe đúng đắn một cách mạnh mẽ, giới thiệu phong trào của họ tới toàn xã hội, đặc biệt tới các văn phòng chính phủ và tới các vùng nông thôn và họ nhận được sự ủng hộ của dân chúng. Như đồng chí Mao Trạch Đông đã đề cập, các lực lượng cách mạng ở Thượng Hải phát triển từ năm 2000 [người] thành một triệu. Họ sau đó chuyển sang giai đoạn thứ hai: cướp chính quyền. Phong trào càng đi sâu hơn, thì càng có nhiều các nhà lãnh đạo tư bản bị cô lập. Từ đầu năm nay, mục tiêu của cuộc đấu tranh là cướp chính quyền, bằng cách kết hợp các lực lượng nhân dân cách mạng, cán bộ cách mạng, và đại diện các lực lượng vũ trang. Họ tố cáo bất kỳ mối quan hệ nào với các nhà lãnh đạo tư bản chủ nghĩa, thành lập các ủy ban cách mạng, các chính phủ lâm thời, trong các văn phòng chính phủ và các nhà máy. Vùng nông thôn đang bận rộn với sản xuất nông nghiệp, do đó, việc cướp chính quyền chưa bắt đầu. Đồng chí Mao, các đồng chí khác, và tôi tin rằng, Đại Cách mạng Văn hóa trước tiên phải dựa vào quần chúng, vì sau 17 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, họ đã được giáo dục, trình độ kiến thức đã được nâng cao và tuyệt đại đa số chấp nhận con đường chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chúng tôi tin rằng Quân Giải phóng [Nhân dân] sẽ hỗ trợ chúng ta, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng vì họ là con cái của người dân và họ được giáo dục bằng tư tưởng Mao Trạch Đông. Chúng tôi cũng tin rằng đa số các cán bộ của chúng tôi tương đối tốt. Cuối cùng, chúng tôi sẽ có thể đoàn kết hơn 95% cán bộ và nhân dân chúng tôi. Dĩ nhiên, cần thời gian để tiêu diệt “chủ nghĩa cá nhân” và thiết lập “chủ nghĩa công xã” và tạo ra đại đoàn kết. Điều này cũng phải được thực hiện nhiều lần và không chắc là thuận buồm xuôi gió. Đó là lý do tại sao đồng chí Mao tiên đoán rằng xu hướng chính của phong trào sẽ rõ ràng giữa tháng 2 và tháng 5 trong năm nay và kết quả của phong trào sẽ được nhìn thấy giữa tháng 2 và tháng 4 năm tới. Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng một khi quần chúng được giáo dục và giác ngộ, một khi họ được trang bị những tư tưởng của Mao Trạch Đông, sức mạnh của họ là vô hạn. Chỉ riêng năm ngoái, sản lượng sản xuất rất cao, vượt quá định mức tiêu chuẩn, đặc biệt trong nông nghiệp, công nghiệp và giao thông vận tải. Các hoạt động trong năm nay tập trung vào việc nắm quyền và tình hình sẽ phức tạp hơn. Một mặt, chủ nghĩa bè phái có thể thấy trong các tổ chức quần chúng, do đó khó khăn hơn để đạt được sự thống nhất cao. Và mặt khác, các cán bộ cách mạng, những người bị lên án thuộc tư bản chủ nghĩa và đứng về phía người dân, giờ muốn quay trở lại chức vụ của họ trước đây. Chúng tôi không thể khôi phục các chức vụ của họ, bởi vì nếu chúng tôi làm như vậy, thực tế là chúng tôi khôi phục lại hệ thống cũ. Do đó chúng tôi phải đấu tranh với cả hai xu hướng. Võ Nguyên Giáp: Hai xu hướng đó là gì? Li Fuxian: Một là xác nhận hoàn toàn và hai là từ chối hoàn toàn. Chu Ân Lai: Một xu hướng trong quần chúng là tán thành việc từ chối hoàn toàn. Họ cho rằng tất cả mọi thứ thuộc hệ thống cũ cần bị phá bỏ. Và xu hướng khác trong các cán bộ là ủng hộ xác nhận hoàn toàn, phục hồi toàn bộ, và liên minh tất cả. Còn có một vấn đề quan trọng, cụ thể là vai trò của các lực lượng vũ trang. Các lực lượng vũ trang phải giúp đỡ người dân trong sản xuất và cách mạng, giúp họ giành chính quyền. Thêm vào đó, các lực lượng vũ trang phải cung cấp huấn luyện quân sự trong các trường học, văn phòng, và các nhà máy. Do đó, nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang rất nặng nề. Đã có các cuộc họp của các lực lượng vũ trang, và một số cuộc họp đang diễn ra để thảo luận về những nhiệm vụ đó. Chúng tôi thấy có nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tin rằng những khó khăn này có thể được khắc phục bằng cách vận động nhân dân. Trọng tâm của công tác vận động là tuyên truyền sự khác nhau giữa hai phe, cụ thể là phe cách mạng vô sản và phe tư bản phản động. Để tuyên truyền, chúng ta phải nêu gương. Kể từ khi chúng tôi nói chuyện với Hồ Chủ tịch ở Hàng Châu hồi tháng 5 và tháng 6 năm ngoái (1966) và đặc biệt là sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 hồi tháng 8 năm ngoái, tình hình đã thay đổi nhiều, với những diễn biến lớn. Phong trào này đã phát triển theo chiều sâu, công chúng đã được huy động, một số điển hình đã được nghiên cứu, và bản chất của các vấn đề đã được giải quyết. Chúng tôi đã đưa ra trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, đặc biệt là các hồ sơ về những sai lầm của Lưu Thiếu Kỳ trong quá khứ, để công chúng chú ý. Trong 20 năm qua, những suy nghĩ của Lưu Thiếu Kỳ đã trở thành phản động. Các công trình mà ông ta đã viết, những tài liệu mà ông ta khởi xướng, tất cả đều cho thấy ông ta phản đối đường lối của Đảng và chống lại tư tưởng của Mao Trạch Đông. Tôi đã nói với các ông một số vấn đề này trên máy bay. Lưu [Thiếu Kỳ] cũng phạm phải những sai lầm trong quan hệ quốc tế. Thực tế, ông ta đã tiến hành chính sách một quốc gia lớn, một đảng lớn, mặc dù qua lời nói, ông ta giả vờ chống đối chính sách này. Các ông có thể cảm nhận và phát hiện sai lầm này trong chuyến thăm Việt Nam của ông ta hồi năm 1963. Dưới sự lãnh đạo của Lưu [Thiếu Kỳ], Bành Chân và Đặng Tiểu Bình cũng có hành vi này, và họ không tôn trọng sự bình đẳng giữa các đảng anh em. Chúng tôi chưa tìm thấy hết tất cả các lỗi lầm cụ thể của họ. Nhưng những sai lầm của Lưu [Thiếu Kỳ] hiện nay đã rõ. Ông ta đang thực hiện chủ nghĩa Sô Vanh trong quan hệ với các đảng anh em và chủ nghĩa bại trận trong quan hệ với Sukarno. Các ví dụ về những sai lầm loại này rất nhiều. Vấn đề là: những sai lầm này sẽ ảnh hưởng đến uy tín và sự lãnh đạo của đảng chúng tôi? Câu trả lời của chúng tôi là không. Phát hiện những sai lầm và loại bỏ chúng sẽ làm cho đảng mạnh hơn. Và chúng tôi thấy rõ hơn rằng người dân đại diện cho một lực lượng sáng tạo. Chúng tôi muốn nói với các ông một vấn đề khác mà chúng tôi hiện đang đối mặt. Trước khi lên nắm quyền, đảng của chúng tôi đã hoạt động trong các môi trường khác nhau và các đảng viên đã được tuyển dụng từ các nguồn khác nhau. Do đó, khó phát hiện những kẻ phản bội trong nội bộ đảng. Sau khi chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Lưu [Thiếu Kỳ] và Đặng [Tiểu Bình], các cơ quan tổ chức đảng còn e ngại sàng lọc các cán bộ của chúng tôi. Bây giờ, khi các Hồng vệ binh đã được huy động, nhiều tài liệu đã được tìm thấy, liên quan đến hành vi của nhiều cán bộ trong quá khứ. Một số nhà lãnh đạo phải được thay thế bởi vì các lỗi lầm trong quá khứ của họ. Một câu hỏi được đặt ra: kiểm tra quá khứ sẽ cản trở sự phát triển của đảng? Câu trả lời của chúng tôi là không, cho thấy, đảng có một chính sách đúng để vận động nhân dân. Như ông đã biết, một khi người dân tham gia chiến tranh nhân dân, sẽ tiến hành cuộc cách mạng, quét đi tàn dư của hệ thống cũ, ngăn chặn chủ nghĩa xét lại ra đời và ngăn chặn chủ nghĩa tư bản hồi phục. Lịch sử ĐCS Trung Quốc đã chứng minh điều này. Các nhà lãnh đạo hư hỏng của ĐCS Trung Quốc trước đây đã không ngăn được sự thành công của Cách mạng Trung Quốc. Người sáng lập ĐCSTQ, ông Trần Độc Tú (4), sau này trở thành một người theo phái Troskist và là kẻ phản bội. Sau đó, Cù Thu Bạch (5) rời khỏi đảng khi ông ta bị bắt và bị giam ở Giang Tây. Hướng Thiên Phát (Xiang Zhongfa) (6) và Lý Lập Tam (7) cũng mắc sai lầm: người đầu (Hướng Thiên Phát) đã phản bội đảng, nhưng cuối cùng đã bị kẻ thù giết chết, và người sau (Lý Lập Tam) vẫn giữ quan điểm không đúng đắn. Vương Minh (8) là tệ nhất. Ông ta hiện đang cư trú tại Moscow và được Liên Xô sử dụng tấn công Trung Quốc. Trước khi đào ngũ, Vương Minh đã viết các bài báo chống ĐCS Trung Quốc dưới một bút danh. Trương Văn Điền (Zhang Wentian) (9) cũng là một trường hợp có liên quan: sau Hội nghị Tuân Nghĩa (ngày 15-18 tháng 1 năm 1935], đồng chí Mao nên được bầu vào chức vụ chủ tịch ĐCSTQ. Nhưng là một người khiêm tốn, đồng chí Mao đề nghị Trương vào chức chủ tịch. Trương đã nắm giữ chức vụ này trong 10 năm cho đến Quốc hội lần thứ 7, bầu đồng chí Mao vào chức vụ đó. Năm 1959, Trương tham gia vào nhóm chống Đảng, gồm Bành Đức Hoài và Hoàng Khắc Thành (10). Ba mươi hai năm trong lịch sử 45 năm của ĐCS Trung Quốc, tức là trước hội nghị Tuân Nghĩa, ĐCSTQ đã bị các nhà lãnh đạo sai lầm dẫn dắt. Tuy nhiên, Cách mạng Trung Quốc đã thành công. Tình hình đã khác dưới sự lãnh đạo của đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Lâm Bưu là người kế nhiệm. Trong một bối cảnh lớn hơn, phong trào Cộng sản quốc tế kể từ khi Marx, Engels, và Lenin cũng đã bị các nhà lãnh đạo sai lầm dẫn dắt. Tuy nhiên, thực tế này đã không ngăn các đảng cách mạng phát triển. Do đó, yếu tố quyết định là chính sách đúng đắn của mỗi bên, như trong chiến tranh nhân dân của các ông. Cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng tôi được thực hiện trong trường hợp không đổ máu, cũng đã chứng minh điều này. ———————————————– Ghi chú:
1. Trần Vĩnh Quý: là một nông dân từ Đại Trại, một ngôi làng miền núi cằn cỗi và nghèo nàn ở tỉnh Sơn Tây. Trong thập niên 1960, Đại Trại và Trần Vĩnh Quý trở thành mô hình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Trung Quốc ở nông thôn. Sau này ông Trần trở thành ủy viên Bộ Chính trị ĐCSTQ và là Phó Thủ tướng Trung Quốc. 2. Trần Bá Đạt: là người đứng đầu “Nhóm Cách mạng văn hóa”, và là ủy viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị ĐCSTQ. 3. Vi Quốc Thanh: lúc đó là người đứng đầu Ủy ban Cách mạng Trung Quốc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới Việt Nam. Đầu thập niên 1950, ông đứng đầu nhóm quân đội Trung Quốc cố vấn cho Việt Nam. 4. Trần Độc Tú: là một trong những người sáng lập đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng sau đó bị trục xuất khỏi đảng vì “những sai lầm hữu khuynh” của ông. 5. Cù Thu Bạch: là lãnh đạo ĐCSTQ cuối thập niên 1920, đã phạm “những sai lầm tả khuynh”. 6. Hướng Thiên Phát: được bầu làm Tổng Bí thư ĐCSTQ năm 1928 phần lớn là nhờ lý lịch công nhân của ông. Sau bị Quốc Dân đảng bắt và xử tử. 7. Lý Lập Tam: là một lãnh đạo ĐCSTQ đã phạm “những sai lầm tả khuynh” đầu thập niên 1930. 8. Vương Minh: còn gọi là Trần Thiệu Vũ, là lãnh đạo ĐCSTQ, từng lãnh đạo Đảng sau khi trở về từ Moscow vào đầu thập niên 1930. Theo lịch sử chính thức của ĐCSTQ, ông đã phạm cả hai đều sai lầm “tả khuynh” và “hữu khuynh”. 9. Trương Văn Điền: là một cựu lãnh đạo ĐCSTQ đã bị thanh trừng cùng với Bành Hoài Đức năm 1959. 10. Hoàng Khắc Thành: là Tham Mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc trước khi bị thanh trừng cùng với Bành Hoài Đức vào năm 1959.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:12:50 GMT 9
Thảo luận giữa Mao Trạch Đông, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp
Võ Nguyên Giáp CWIHP 11-04-1967 Mô tả: Mao Trạch Đông khuyến khích Phạm Văn Đồng tiếp tục chiến đấu và ca ngợi Việt Nam về khả năng phục hồi, không những trong cuộc chiến chống lại người Mỹ, mà còn chống Pháp và Nhật. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi rất vui khi thấy Mao Chủ tịch khỏe mạnh. ************************** Mao Trạch Đông: Chỉ bình thường, không khỏe lắm … Trong tất cả các ông ở đây, có ai từ miền Nam không? Võ Nguyên Giáp: Đồng chí Phạm Văn Đồng là người miền Nam. Phạm Văn Đồng: Quê tôi ở tỉnh Quảng Ngãi [miền Trung Việt Nam], nơi mà mọi người đang chiến đấu dữ dội chống lại kẻ thù. Võ Nguyên Giáp: Chỉ trong một năm, người dân Quảng Ngãi bắn rơi gần 100 máy bay trực thăng. Họ đang chiến đấu rất ác liệt để chống lại quân đội bù nhìn, quân Mỹ và Nam Hàn. Mao Trạch Đông: Khi các ông chiến đấu, các ông có được kinh nghiệm, các ông hiểu được quy luật. Nếu các ông không chiến đấu các ông sẽ không có được kinh nghiệm, sẽ không biết được quy luật … Nhiều hay ít, nó tương tự như kháng chiến chống Pháp của các ông. Phạm Văn Đồng: Hiện tại, chúng tôi chiến đấu tốt hơn và trận chiến hiện nay thì khốc liệt hơn. Mao Trạch Đông: Vì vậy, tôi mới nói bây giờ các ông biết quy luật. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi mới bắt đầu có được như vậy. Mao Trạch Đông: Vấn đề dĩ nhiên là trong quá trình tiến triển, những thay đổi có thể xảy ra. Những năm khó khăn nhất là 1956-1959 … Năm 1960 có một số thay đổi thuận lợi. Từ 1960-1961, các lực lượng vũ trang vẫn còn nhỏ. Nhưng trong năm 1963 và 1964, tình hình đã thay đổi. Và bây giờ, năm 1965 và 1966, các ông đã hiểu rõ quy luật hơn, dựa trên kinh nghiệm chiến đấu chống Pháp, Nhật, và hiện nay là quân đội Mỹ. Các ông cũng đã chiến đấu chống Nhật, phải không? Võ Nguyên Giáp: Có, chúng tôi đã chống Nhật nhưng không nhiều, chỉ trong một cuộc chiến tranh du kích với quy mô nhỏ. Trong cuộc chiến của chúng tôi chống lại người Mỹ, chúng tôi luôn nhớ lời của các ông: cố gắng bảo tồn và phát triển lực lượng, vững chắc tiến về phía trước. Mao Trạch Đông: Chúng tôi có một câu châm ngôn: “nếu bạn giữ cho núi được xanh, bạn sẽ không bao giờ phải lo thiếu củi“, Hoa Kỳ sợ chiến thuật của các ông. Họ mong các ông sẽ đưa các lực lượng bình thường ra chiến đấu, để họ có thể tiêu diệt các lực lượng chính của các ông. Nhưng các ông đã không bị lừa. Chiến đấu một cuộc chiến tranh tiêu hao giống như đang ăn: [cách tốt nhất] là không cắn một miếng quá lớn. Chiến đấu với quân đội Hoa Kỳ, các ông có thể cắn một miếng cỡ như một trung đội, một đại đội, hoặc một tiểu đoàn. Đối với quân đội chế độ bù nhìn, các ông có thể cắn cỡ một trung đoàn. Nghĩa là chiến đấu tương tự như đang ăn, các ông nên cắn một miếng sau một miếng khác. Sau cùng, chiến đấu không phải là một nhiệm vụ quá khó. Cách tiến hành cũng tương tự như cách các ông ăn. … Người ta nói với tôi rằng các ông muốn xây một đường sắt 100 km mới, các đối tác Trung Quốc của chúng tôi đồng ý giúp các ông? Chu Ân Lai: Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề này. Một số người sẽ được gửi [tới Việt Nam] để thực hiện một nghiên cứu khả thi. Mao Trạch Đông: Không quá dài, ngắn hơn khoảng cách từ Bắc Kinh tới Thiên Tân. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi sẽ thực hiện các nghiên cứu khả thi cùng với các đồng chí Trung Quốc. Mao Trạch Đông: Được rồi, vì lợi ích chiến tranh. Còn vấn đề cung cấp lương thực thì sao? Chu Ân Lai: Chúng tôi đã trao đổi với đồng chí Lý Tiên Niệm (1). Chúng tôi sẽ cung cấp 100.000 tấn gạo, 50.000 tấn ngô. Phạm Văn Đồng: Nên chỉ trong năm nay, Trung Quốc đã giúp Việt Nam khoảng 500.000 tấn lương thực. Sự giúp đỡ này là rất lớn. Mao Trạch Đông: Chúng tôi có thể giúp các ông. Năm ngoái chúng tôi được mùa. Phạm Văn Đồng: Cảm ơn Mao Chủ tịch. Mao Trạch Đông: Nếu ông muốn nói lời cảm ơn, ông nên nói với nông dân chúng tôi … Sau này, khi ông ăn tối với đồng chí Chu, ông có thể hỏi đồng chí Vĩ Quốc Thanh về việc đồng chí ấy đã bị Hồng Vệ binh chỉ trích như thế nào. Tôi biết đồng chí Vĩ vì đồng chí ấy thường xuyên thăm và báo cáo cho tôi khi đồng chí ấy trở lại từ các chuyến làm việc ở Việt Nam. Ai hiện là đại sứ mới của Việt Nam [tại Bắc Kinh]? Chu Ân Lai: Đồng chí Ngô Minh Loan (2). Mao Trạch Đông: [Loan] thuộc nhân vật [Trung Quốc] nào? Chu Duy Quần: Giống chim Phượng Hoàng. Mao Trạch Đông: loại chim này rất mạnh. Phạm Văn Đồng: Đồng chí Loan sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục công việc của đồng chí Trần Tử Bình (3), nghĩa là, tăng cường tình hữu nghị giữa hai nước. Mao Trạch Đông: Tôi lấy làm tiếc vì đồng chí Trần Tử Bình qua đời. Phạm Văn Đồng: Chúng tôi cũng rất đau buồn về chuyện này. Mao Trạch Đông: Ông ấy bị bệnh gì vậy? Phạm Văn Đồng: Cùng loại bệnh mà ông ấy bị trước và sau khi trở về nhà, ổng quá bận rộn. Võ Nguyên Giáp: Ông ấy qua đời sau khi bị cảm nặng. Ổng ở cùng bệnh viện với Đại sứ Chu Kỳ Vân. Chu Duy Quần: Bệnh viện Hữu nghị. Tôi cũng bị cao huyết áp. Phạm Văn Đồng: Hôm nay, chúng tôi thực hiện chuyến viếng thăm đáp lễ với các ông, Mao Chủ tịch, Phó Chủ tịch Lâm [Bưu] và các đồng chí khác. Một lần nữa, cảm ơn các ông rất nhiều. … Mao Trạch Đông: Các ông đã dũng cảm chiến đấu ở cả hai miền Nam Bắc. Phạm Văn Đồng: Đó là vì chúng tôi đang học tư duy quân sự của Mao Chủ tịch. Mao Trạch Đông: Không nhất thiết như vậy. Không có nó, các ông vẫn có thể giành được chiến thắng. Trong quá khứ, các ông chiến đấu chống Nhật, Pháp. Bây giờ các ông đang chiến đấu chống Mỹ. Phạm Văn Đồng: Cám ơn chính sách quân sự của Đảng chúng ta và cũng cám ơn tư duy quân sự của Mao Trạch Đông. … Võ Nguyên Giáp: Tôi còn nhớ, một thời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng chí Chu đã gửi Hồ Chủ tịch một bức điện như thế này: “Bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để có một giải pháp hòa bình. Ông nên tiếp tục chiến đấu”. [Ghi chú: ông Giáp đề cập đến cuối năm 1949 hoặc tháng 1 năm 1950]. Chu Ân Lai: Vào thời điểm đó, Pháp sắp công nhận chúng tôi. Nhưng vì chúng tôi công nhận Việt Nam, họ đã phớt lờ chúng tôi. Như Lênin đã dạy, các nước lớn có trách nhiệm khuyến khích cuộc cách mạng thế giới. Lúc đó cuộc cách mạng thắng lợi tại Nga, nên Lênin nghĩ tới Trung Quốc và Ấn Độ. Bây giờ, mong muốn của Lênin đã có được phân nửa: cuộc cách mạng Trung Quốc đã thành công. Tuy nhiên, thực tế chưa phát triển theo cách mà mọi người muốn. Một số nước nhỏ hơn đã có được chiến thắng trước đó. Chiến thắng tại Triều Tiên có được theo sau chiến thắng ở Việt Nam. —————————————— Ghi chú: 1. Lý Tiên Niệm là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính của Trung Quốc. 2. Ngô Minh Loan là Ủy viên dự khuyết Đảng Lao Đông Việt Nam từ năm 1960-1976, và là Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1967-1969. Đã từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Công Cghiệp nhẹ từ năm 1959-1967. Năm 1968, viếng thăm Pakistan như là “đặc phái viên” và đã hội đàm với Tổng thống Ayub Khan. Từ năm 1969-1971 Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm, giữ chức Bộ trưởng đến năm 1976. 3. Trần Tử Bình (bí danh Phạm Văn Phu) (1907-1967), thành viên lâu đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, Tổng Thanh tra Quân đội Nhân dân Việt Nam trong ba năm thời Chiến tranh Đông Dương. Trần Tử Bình kế nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại sứ Bắc Việt tại Trung Quốc từ năm 1957 và phục vụ cho đến khi mất năm 1967; Ngô Minh Loan thay thế. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C9C6-96B6-175C-96D86CF8502CADDD&sort=Collection&item=The%20Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29———————————————————– CWIHP Chu Ân Lai nói chuyện với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp 11-04-1967 Trung Quốc có một câu châm ngôn nổi tiếng: chỗ đánh dấu 90 dặm là nửa chặng đường của cuộc hành trình dài 100 dặm. Có nghĩa là du khách đã đi được 90 dặm và còn 10 dặm nữa là xong. Nhưng 10 dặm còn lại là chặng đường khó khăn nhất cho người lữ hành. Leo núi cũng tương tự như vậy. Ví dụ như leo núi Hy Mã Lạp Sơn, đoạn cuối cùng là khó khăn nhất. Chúng tôi tin rằng, chắc chắn các ông sẽ giành thắng lợi cuối cùng. Chúng tôi sẽ vận động nhân dân cả thế giới hỗ trợ các ông giành chiến thắng. Tuy nhiên, Liên Xô chắc chắn muốn các ông dừng lại nửa chừng. Họ đã làm như vậy dưới thời Stalin. Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, Hoa Kỳ hỗ trợ Tưởng Giới Thạch. Lúc đó, Liên Xô chịu tổn thất lớn trong chiến tranh. Họ đã ký kết thỏa thuận Yalta, chia khu vực ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Thoả thuận Yalta là sai. Về chiến thuật, thỏa thuận này hợp lý, nhưng về chính sách, thì không đúng. Việc cho nổ hai quả bom nguyên tử đặc biệt đã gây sốc cho Liên Xô. Liên Xô đã sẵn sàng ký một thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch, công nhận thực tế rằng Hoa Kỳ có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc. Ngược lại, Liên bang Xô viết muốn duy trì lợi ích đặc biệt của Nga ở vùng Đông Bắc và Tân Cương và bảo vệ nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ. Lúc đó, Stalin đánh điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, nói rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc nên hợp tác với Quốc Dân đảng thay vì bắt đầu một cuộc nội chiến và rằng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động nội chiến, đất nước Trung Quốc sẽ bị hủy hoại. Rõ ràng là Liên Xô đã bị bom nguyên tử đe dọa. Chúng tôi nói rằng Stalin vẫn còn xứng đáng là một người Marxist-Leninist, vì ông ta có khả năng nhận ra lỗi lầm của mình. Sau khi giải phóng Thượng Hải, Lưu Thiếu Kỳ đến Moscow, nơi Stalin đã tự phê bình một cách âm thầm. Ông ta hỏi liệu bức điện tín ông gửi đến đồng chí Mao Trạch Đông hồi tháng 8 năm 1945 có làm suy yếu tiến trình chiến tranh giải phóng của Trung Quốc hay không. Lưu Thiếu Kỳ trả lời là không. Chắc chắn là không. Một lần, trong một bữa tiệc, Stalin đã nâng cốc, tuyên bố rằng ông ta đã già và rất sợ, sau khi chết những người đồng chí này (nói với Voroshilov, Molotov, Khrushchev và những người đang có mặt) sẽ sợ chủ nghĩa đế quốc. Bây giờ chúng ta có thể thấy rằng những tiên đoán của Stalin đã chứng minh đúng sự thật. ******************** Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Lê Duẩn, P.V Đồng, V.N.Giáp, Mao Hai vị lãnh tụ CWIHP 23-03-1966 Mô tả: Chu Ân Lai cảnh báo Lê Duẩn, chống lại sự giúp đỡ của Liên Xô. Chu Ân Lai: Hiện nay, người dân Việt Nam đang đi đầu trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Máu của nhân dân Việt Nam đã đổ ra cho cách mạng Việt Nam cũng như cho công cuộc cách mạng thế giới. Việt Nam là nước đi đầu, đại diện cho công cuộc cách mạng của nhân dân trên thế giới. … Chu Ân Lai: Đã có một số thay đổi đáng kể từ năm ngoái khi miền Bắc Việt Nam bắt đầu các cuộc đàm phán với Mỹ. Chúng tôi nên nói thẳng cho ông biết rằng những thay đổi bắt đầu từ khi lãnh đạo mới của Xô Viết lên nắm quyền, đặc biệt là sau chuyến thăm của Kosygin tới Vietnam (2). Sau khi Kosygin từ Hà Nội trở về, Liên Xô sử dụng viện trợ của họ cho Việt Nam để lấy lòng tin của các ông một cách gian dối. Mục đích của họ là làm cho mối quan hệ Việt – Trung gặp trở ngại, để chia rẽ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhằm tiếp tục kiểm soát Việt Nam để cải thiện mối quan hệ của họ với Mỹ và cản trở cuộc đấu tranh và công cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam. Chu Ân Lai: Có nhiều tranh cãi liên quan đến các yêu cầu của Việt Nam về các phi công tình nguyện viên từ các nước xã hội chủ nghĩa. Các ông sẽ gặp rắc rối. Liên Xô có thể tiết lộ bí mật cho kẻ thù. Do đó chúng tôi nghĩ rằng các hoạt động chung giữa những người tình nguyện là không thể được. Hơn nữa, ngay cả khi những người tình nguyện này chịu nghe theo lệnh của các ông, những người Xô-viết sẽ luôn có ý kiến trái ngược nhau. Cái lợi mà các ông nhận được từ các phi công Liên Xô không đủ đền bù thiệt hại do họ gây ra. Chu Ân Lai: Liên quan đến việc thành lập mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, chúng tôi muốn các mối liên hệ song phương hoặc đa phương. Điều đó tốt bởi vì chúng ta có thể thảo luận chi tiết. Chúng tôi cho rằng việc phản đối Mỹ nhất thiết phải đi đôi với việc chống chủ nghĩa xét lại. Hai điều này không thể tách rời nhau. Nếu không, không thể giáo dục mọi người. ———————————————— Ghi chú: 1. Phái đoàn Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu, viếng thăm Trung Quốc từ ngày 22 đến ngày 25 tháng 3 năm 1966. 2. Thủ tướng Liên xô, Aleksei Kosygin, viếng thăm Việt Nam từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 2 năm 1965. Ngọc Thu dịch từ: wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C8BC-96B6-175C-9C840B7B07032AC8&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29——————————————————– Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 07-04-1967 Mô tả: Đề nghị của Liên Xô gia tăng viện trợ cho Việt Nam, qua ngả Trung Quốc. Phạm Văn Đồng: Các đề nghị của [Liên Xô] là: (1) Trung Quốc tăng hạn ngạch cho các lô hàng viện trợ của Liên Xô giúp [Việt Nam] qua ngả Trung Quốc từ 10.000-30.000 tấn một tháng. Nếu cần, Liên Xô sẽ gửi một số đầu máy xe lửa tới Trung Quốc. (2) Trung Quốc dành riêng 2 hoặc 3 cảng ở miền Nam để giao hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Nếu cần nhiều thiết bị hơn cho các cảng này, Liên Xô sẽ trả tất cả chi phí (*). (*) Chu Ân Lai có trả lời vấn đề này trong buổi thảo luận ngày 10-04-1967. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C90B-96B6-175C-99AC279EB3E972CE&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29————————————————————— Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (1) 07-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai nhận xét về tính cách quân sự của Mỹ. Chu Ân Lai: Kinh nghiệm và truyền thống Mỹ dựa trên cuộc chiến giành độc lập, mà họ đã chiến đấu 190 năm trước. Cũng có cuộc nội chiến cách nay gần 100 năm. Suốt thời Đệ nhất và Đệ nhị Thế chiến, họ đạt nhiều [chiến thắng] ở giai đoạn cuối. Trong Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ đã đổ bộ [vào châu Âu] vào lúc Hitler đã suy yếu đáng kể. Họ sử dụng nhiều pháo binh, như thể họ đang tiến hành tập trận. Người chỉ huy ở mặt trận phía Tây lúc đó là Eisenhower, và tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ là [tướng George C.] Marshall. Marshall rất tự hào về kế hoạch đổ bộ dài hàng trăm trang. Có lần tôi hỏi ông ta đã đọc bản kế hoạch đó chưa. Ông ta nói rằng ông ta chỉ đọc đề cương. Mỗi phần [đề cương], ông ta chỉ đọc phần có liên quan đến ông ta. ——————————————— Ghi chú: 1. Võ Nguyên Giáp (1912 -) là người thành lập đơn vị đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào năm 1944 và giữ chức Tổng Tư lệnh trong suốt chiến tranh Đông Dương. Suốt thập niên 1960 và gần suốt thập niên 1970 ông là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng được cho là đã thay thế ông làm Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng Tư lệnh vào năm 1980, nhưng theo từ điển quân đội, xuất bản năm 1996 tại Hà Nội nói rằng, ông Dũng đã thay thế [ông Giáp] từ đầu năm 1978. Nếu điều này chính xác, thì ông Giáp không chịu trách nhiệm về quyết định xâm chiếm Campuchia, hoặc bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979. Ông Giáp vẫn còn trong Bộ Chính trị Đảng CSVN cho đến năm 1982 và còn chức ủy viên Trung ương Đảng cho đến năm 1991. 2. Đây là cuộc họp thứ ba giữa phái đoàn Trung Quốc và Việt Nam, trong cuộc họp này, Võ Nguyên Giáp đã mô tả tình hình quân sự ở Việt Nam và mục tiêu chiến lược của Mỹ. Hai cuộc họp đầu tiên được tổ chức từ 11:30 sáng (không rõ kết thúc lúc mấy giờ) và từ 3:30-06:30 chiều ngày 29 tháng 3 năm 1967. Phái đoàn Việt Nam đã đi thăm Liên Xô và sau đó trở về Bắc Kinh. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C8FB-96B6-175C-951A62A3007D715E&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29—————————————————- Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (2) 07-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai củng cố cam kết của ông ta và của Trung Quốc đối với cuộc chiến tại Việt Nam, mặc dù ông ta gần bảy mươi tuổi. Phạm Văn Đồng: Một số chiến lược chúng tôi đang áp dụng ở chiến trường miền Nam Việt Nam là làm theo những điều các ông đề nghị với chúng tôi trong quá khứ. Điều này cho thấy chiến lược quân sự của chúng tôi, cũng như của các ông, là đúng đắn, và cũng có những diễn biến mới. Chu Ân Lai: Không chỉ có các chiến lược của các ông có những diễn biến mới, mà còn có những sáng tạo mới. Những người đến muộn trở thành người tới trước. Đây là điều Chủ tịch đã nói. Tôi viết cho các ông vài lời: những người đến muộn trở thành người đến đầu tiên. … Chúng tôi đã không đánh một cuộc chiến nào trong suốt 14 năm. Cả ba chúng tôi đã già rồi. Tôi gần bảy mươi tuổi rồi. Đồng chí Diệp Kiếm Anh (2) bảy mươi tuổi rồi. Đồng chí Trần Nghị thì sáu mươi bảy tuổi. Chúng tôi vẫn muốn đánh, nhưng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Diệp Kiếm Anh: Đó là quy luật của tự nhiên. Chu Ân Lai: Mặc dù tôi đã già, nhưng tham vọng của tôi vẫn còn đó. Nếu cuộc chiến ở miền Nam không kết thúc trong năm tới, tôi sẽ đến thăm các ông và quan sát xung quanh. Diệp Kiếm Anh: Con ngựa già ở trong chuồng vẫn mơ đến những thành tích anh hùng; trái tim của một người anh hùng lúc tuổi già của ông ấy kiên cường hơn bao giờ hết. Chu Ân Lai: Chủ tịch Mao đã trích dẫn những [lời này] từ một bài thơ của Tào Tháo (3) trong một bức thư gửi cho đồng chí Vương Quan Lan (4). Một nhân vật lịch sử trong thời kỳ phong kiến vẫn có khát vọng của mình, còn chúng ta, những người vô sản, thì sao? ————————————————- Ghi chú: 1. Đây là cuộc họp thứ tư giữa phái đoàn Trung Quốc và Việt Nam. Võ Nguyên Giáp bắt đầu cuộc họp bằng cách tiếp tục giới thiệu về tình hình quân sự ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam và chiến lược của Việt Nam. 2. Diệp Kiếm Anh: là phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương ĐCS Trung Quốc và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSTQ. 3. Tào Tháo: là một chính trị gia và là lãnh chúa thời Tam quốc của Trung Quốc (thế kỷ thứ 2-3). 4. Vương Quan Lan: là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phó GĐ Sở Nông thôn? (deputy head of the Rural Affairs Department) thuộc Trung ương ĐCS TQ. Ông bị bệnh tật kinh niên hồi thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, và Mao đã viết một lá thư khuyên ông ta nên kiên nhẫn trong việc đối phó với bệnh tật của mình. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C91A-96B6-175C-97ED4A394C2DB247&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29——————————————————————- Thảo luận giữa Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 10-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông giải quyết vấn đề khó khăn của Trung Quốc – Hồng vệ binh. Chu Ân Lai: Đa số Hồng vệ binh Trung Quốc đã vượt biên giới vào Việt Nam, là tốt. Họ đã đến Việt Nam bởi vì họ muốn chiến đấu chống Mỹ. Nhưng họ đã không tôn trọng các quy tắc của hai nước chúng ta, nên gây một số chuyện phức tạp. Chúng tôi xin lỗi các ông về vấn đề này. Mao Trạch Đông: Một số Hồng vệ binh không biết biên giới quốc gia có nghĩa là gì. Trong số những người đến Việt Nam, hầu hết đến từ Giang Tây, một số người đến từ Vân Nam. Các ông không cần phải đề phòng họ. Chỉ cần giải thích với họ và sau đó giao họ lại cho chúng tôi. www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C997-96B6-175C-9BA29FE67E819753&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29————————————————– Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng 10-04-1967 Mô tả: Chu Ân Lai thảo luận việc mở rộng chiến tranh Việt Nam, cũng như phát triển mặt trận mới ở Campuchia; cũng có một cuộc thảo luận về Hoàng thân Sihanouk và Lon Nol. Chu Ân Lai: … Về việc vận chuyển hàng quá cảnh, thỏa thuận hạn ngạch là 10.000 tấn một tháng. Bây giờ, họ muốn tăng lên 30 ngàn. Tuy nhiên, họ không đề cập đến mặt hàng cụ thể nào, nên chúng tôi không muốn trả lời đề nghị một cách rõ ràng… Về các mặt hàng quân sự của Liên Xô, Liên Xô nên thông báo trước cho Việt Nam, và Việt Nam sẽ xem xét liệu lợi ích có phù hợp và hiệu quả hay không. Có nghĩa là các ông sẽ không lấy hết tất cả mọi thứ. Lúc đó, các ông sẽ thông báo cho chúng tôi [số lượng]. Cuối cùng, chúng tôi sẽ phải kiểm tra. Nếu đúng, chúng tôi sẽ tăng hạn ngạch. Hiện cảng Hải Phòng không bị phong tỏa. Do đó, việc sử dụng các cảng của Trung Quốc chưa được xét đến. Liên Xô đã từng nói rằng, Hoa Kỳ sẽ không tấn công tàu của Liên Xô. Tất nhiên, trong trường hợp cảng Hải Phòng bị phong tỏa, và không còn có cảng nào khác có thể cập bến ở Việt Nam, các chuyến hàng nước ngoài đến Việt Nam sẽ phải được vận chuyển qua các cảng của Trung Quốc. Chúng tôi có một thỏa thuận cho dự phòng này. Về ích lợi của các cảng Trung Quốc đối với hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam, chúng tôi sẽ cân nhắc tình hình và hoàn cảnh thực tế và sau đó thương lượng một thỏa thuận khác. Liên Xô muốn vào các cảng của Trung Quốc không chỉ vì các lô hàng viện trợ cho Việt Nam, mà còn có các động cơ khác sau này. …… Chu Ân Lai: Có một mặt trận khác là Campuchia. Campuchia thì gắn liền với nước Pháp như Lào và miền Nam Việt Nam gắn với Mỹ. Pháp đã xác định không bỏ mặc Campuchia. Đôi khi Sihanouk chửi chúng tôi vì bực tức, điều đó dễ hiểu. Chúng tôi phải giành cho được sự cảm thông của ông ta, nhưng cùng lúc, chúng ta phải hiểu bản chất của ông ta. Mối liên hệ như thế này: bởi vì Pháp sẽ không bỏ mặc Campuchia, thì Campuchia cũng sẽ không bỏ mặc chúng ta. Nếu Campuchia làm như thế, sẽ mâu thuẫn với chính phủ liên minh ở miền Nam Việt Nam, trong đó phe thân Pháp sẽ được mời dự phần. Và nếu quan hệ Campuchia với Trung Quốc xấu đi, ảnh hưởng của Pháp ở vùng Viễn Đông sẽ tiếp tục giảm, do đó vị thế của Pháp trong quan hệ với Mỹ bị suy yếu. Khả năng để Mỹ để mở một mặt trận khác ở Campuchia là không lớn. Vì vậy, gây áp lực lên Campuchia có thể làm cho họ đồng ý với các chính sách của chúng ta. Gần đây, Thủ tướng Úc, [Harold Holt], thăm Campuchia. Ông ấy hỏi Sihanouk rằng Campuchia có giúp Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam hay không. Sihanouk không hoàn toàn phủ nhận điều [này], nói rằng ông ấy giúp một chút trong vấn đề vận chuyển. Tôi biết Sihanouk hơn 10 năm nay và thấy rằng ông ta khôn hơn Sukarno (1). Có lẽ Sukarno sợ phong trào nhân dân, nhưng Sihanouk thì không sợ. Khả năng giành được sự cảm thông của Sihanouk thì rất tốt. Tuy nhiên, cùng lúc chúng ta phải cân nhắc khả năng phong tỏa. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng việc vận chuyển trang thiết bị trong mùa mưa này không chỉ cho năm nay, mà nên vận chuyển cho nhu cầu năm tới. Chúng tôi luôn luôn khai thác các cơ hội khi có sẵn. Võ Nguyên Giáp: Hiện Mỹ muốn sử dụng phe thân Mỹ tại Campuchia để tiến hành phá hoại và đảo chánh. Ông có ý kiến gì về vấn đề này? Chu Ân Lai: Chúng ta không loại trừ khả năng đảo chính. Sihanouk cũng giống như Sukarno đến mức ông ta trấn áp tất cả các mâu thuẫn để nắm giữ quyền lực. Tuy nhiên, ông ta không giống Ne Win (2) người kiểm soát các lực lượng vũ trang. Cùng lúc, Ne Win ngày càng quan trọng đối với các phe phái ở Miến Điện, và vì thế càng không được lòng dân. Tôi đã nói chuyện với ông ta nhiều lần về chiến lược cầm quyền, khuyên ông ấy giới hạn số đối thủ. Những gì tôi biết về ông ta qua U Thant (3) đó là ông ta dễ lĩnh hội từ người Mỹ, nhưng người Anh và người Pháp thì ở một mức độ thấp hơn. Ông ấy cũng duy trì quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô. Phạm Văn Đồng: Còn tình trạng nội chiến ở Miến Điện? Chu Ân Lai: Các phong trào cách mạng ở đó không phát triển nhanh và có một số thay đổi trong chính sách của Đảng. Điều kiện và tình hình ở đó thì tốt, nhưng tôi không hiểu tại sao cuộc cách mạng đã không phát triển. Phạm Văn Đồng: Ông nghĩ sao về Lon Nol? (4) Chu Ân Lai: Ông ta không đáng tin cậy. Phạm Văn Đồng: Ông ta đã dùng những lời lẽ tốt đẹp để nói về Trung Quốc với chúng tôi. Chu Ân Lai: Ông ta cũng đã nói như thế với chúng tôi. Ông ta cũng nói rằng ông ta có mang dòng máu Trung Quốc. Phoumi Nousavan (5) cũng nói rằng ông ta có dòng máu Trung Quốc. Nhưng máu của họ là máu phong kiến, tư bản. Trần Nghị: Lon Nol là người ủng hộ Mỹ. Sihanouk cũng biết điều này. Chu Ân Lai: Một lần, Lon Nol đến thăm Trung Quốc và ông ta để lại một số ấn tượng. Nếu chúng ta chi tiền cho ông ta, ông ta có thể bị lợi dụng một thời gian. Mẹ của Sihanouk cũng đang làm chính trị, cái cách mà một số hoàng hậu Trung Quốc đã làm. Hai mẹ con đối nghịch với nhau. Nhưng họ cũng lợi dụng lẫn nhau. Bất lợi của Sihanouk đó là, không giống như Ne Win, ông ta không kiểm soát các lực lượng vũ trang. … Chu Ân Lai: Theo như đánh giá của chúng tôi về triển vọng của cuộc chiến, chúng tôi thực sự cần xem xét hai hoặc ba khả năng. Trước tiên, cuộc chiến tranh có thể tiếp tục và thậm chí có thể mở rộng hơn nữa. Nguyên tắc của chiến tranh không thể quyết định bởi lòng người, không phải bởi kẻ thù, cũng không phải bởi chúng ta. Chiến tranh có nguyên tắc riêng của nó. Ngay cả khi kẻ thù muốn dừng lại, cũng rất khó để cho họ dừng. Vì vậy, khi chúng tôi đánh giá triển vọng của cuộc chiến, chúng ta nên chuẩn bị cho việc tiếp tục và mở rộng hơn nữa. Một khả năng khác là kẻ thù có thể phong tỏa bờ biển. Nếu ông ta bắt đầu phong tỏa toàn bộ, có nghĩa là đang chuẩn bị cho việc mở rộng chiến tranh, một cuộc chiến toàn diện. Nhưng nếu kẻ thù sử dụng một cuộc phong tỏa để buộc các ông phải thỏa hiệp và nếu các ông từ chối thỏa hiệp, thi ông ta sẽ làm gì? Ông ta phải làm một cái gì đó như là bám sát. Không đơn giản cho ông ta tiến hành phong tỏa toàn bộ dọc bờ biển, bởi điều này cần triển khai nhiều tàu. Hành động này rất lớn, và sẽ gây nhiều căng thẳng trong quan hệ của ông ta với các nước khác. Khả năng thứ ba, như hai ông đã đề cập, đó là mùa khô năm tới sẽ là thời điểm quan trọng, và có thể đánh bại đối phương, buộc ông ta phải nhận lấy sự thất bại của mình và rút khỏi Việt Nam. Có thể nào cuộc chiến sẽ không kết thúc, cũng không mở rộng, mà sẽ tiếp tục như hiện nay? Điều này không thể. Sớm hay muộn, cuộc chiến tranh sẽ kết thúc, chỉ là vấn đề thời gian. Không thể nào cuộc chiến tranh sẽ được kéo dài như thế này, không thắng cũng không bại (nguyên văn: không chết cũng không sống). Đối với câu hỏi về đấu tranh chính trị, không có gì nghi ngờ về đấu tranh chính trị nên tiếp tục trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chiến tranh là sự tiếp tục về chính trị dưới hình thức cao nhất, do vậy, không thể tiến hành cuộc chiến tranh mà không tiến hành đấu tranh chính trị. Để tăng cường tuyên truyền quốc tế, để chiến thắng sự cảm thông, để làm suy yếu và chia rẽ kẻ thù, và để tận dụng sự sa sút của kẻ thù, là tất cả các hình thức khác nhau về đấu tranh chính trị. Các ông đã làm điều này trong quá khứ. Các ông nên tiếp tục làm điều này trong tương lai. ——————————————– Ghi chú: 1. Sukarno: (1901-1970) Chủ tịch nước Cộng hòa Indonesia 1945-1967. Bị mất quyền vào tay Tổng Suharto trong một cuộc đảo chính quân sự hồi tháng 10 năm 1965. 2. Ne Win: (1911-2002) tướng Miến Điện, người đứng đầu nước Miến Điện (Myanmar) từ năm 1962-1981. 3. U Thant: (1909-1974) Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc năm 1962-1971. 4. Lon Nol: (1913-1985) Tướng trong Quân đội Campuchia, Thủ tướng từ năm 1966 đến tháng 4 năm 1967. Trở lại nắm quyền trong chính phủ hồi tháng 4 năm 1968, đầu tiên là Bộ trưởng Quốc phòng và sau đó là quyền Thủ tướng. Bổ nhiệm làm thủ tướng vào tháng 8 năm 1969. Nắm quyền trong một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng 3 năm 1970, trong khi Sihanouk ở nước ngoài. Lon Nol là Tổng thống Cộng hòa Khmer 1972-1975. 5. Phoumi Nousavan: tướng Lào, một người mạnh mẽ, thuộc cánh hữu trong chính phủ từ 1960-1965. Ngọc Thu dịch từ: www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=va2.document&identifier=5034C9A7-96B6-175C-9171AB983FB3D783&sort=Collection&item=Vietnam%20%28Indochina%29%20War%28s%29———————– CWIHP Chu Ân Lai của Nói chuyện với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp 10-04-1967 Khi xem xét viễn cảnh cuộc chiến, chúng ta nên có hai hoặc ba khả năng. Một khả năng là cuộc chiến sẽ tiếp tục và mở rộng. Luật của chiến tranh thường không do ý muốn của người dân quyết định, không phải do ý muốn chúng ta, cũng không theo ý muốn của kẻ thù. Chiến tranh có luật lệ riêng của nó. Ngay cả khi kẻ thù muốn chấm dứt chiến tranh cũng không thể được. Do đó, vì lợi ích tương lai, chúng ta phải chuẩn bị tiếp tục cuộc chiến và chuẩn bị mở rộng chiến tranh. Một khả năng khác là kẻ thù sẽ phong tỏa bờ biển. Nếu kẻ thù tiến hành phong tỏa toàn bộ, thì rất có thể họ có ý định mở rộng chiến sự vào một cuộc chiến tranh tổng lực. Nếu kẻ thù chỉ muốn buộc các ông thỏa hiệp bằng cách phong tỏa bờ biển của các ông và nếu các ông từ chối thỏa hiệp, thì kẻ thù sẽ làm gì? Kẻ thù phải có một kế hoạch tiếp theo. Việc phong tỏa toàn bộ bờ biển sẽ không là một vấn đề đơn giản. Sẽ liên quan đến việc triển khai nhiều hạm đội. Sẽ là một hoạt động lớn. Sẽ gây căng thẳng đến mối quan hệ của kẻ thù với các nước khác. Khả năng thứ ba là điều mà hai ông vừa đề cập đến: thời điểm quan trọng sẽ là mùa khô năm tới. Các ông có thể đánh bại kẻ thù, buộc họ phải thừa nhận sự thất bại và rút khỏi Việt Nam. Về khả năng chiến tranh không kết thúc nhưng cũng không mở rộng mà chỉ đơn giản là tiếp diễn, điều đó không thể xảy ra được. Cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ kết thúc và vấn đề là khi nào. Cuộc chiến không thể nào cứ tiếp diễn mãi mãi mà không có kết quả. Liên quan đến vấn đề đấu tranh chính trị, rõ ràng là đấu tranh chính trị nên được thực hiện bất cứ lúc nào. Chiến tranh là hình thức cao nhất của sự phát triển đấu tranh chính trị. Không thể có chiến tranh mà không liên quan đến đấu tranh chính trị. Những việc như tăng cường tuyên truyền quốc tế, chiến thắng sự cảm thông, làm suy yếu và chia rẽ kẻ thù và khai thác các mâu thuẫn giữa kẻ thù, tất cả thuộc loại đấu tranh chính trị. Các ông đã làm được những điều này trong quá khứ và các ông phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Ngọc Thu dịch
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:17:18 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh, Lê Duẩn và Nguyễn Duy TrinhCWIHP 13-04-1966 Mô tả: Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam, trong khi chỉ ra [những điểm] có vẻ ngờ vực từ phía Việt Nam; Việt Nam dựa vào sự hỗ trợ của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình và Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu từ Google Đặng Tiểu Bình: Các ông đã nói về sự thật cũng như đề cập đến sự công bằng. Vậy các ông vẫn còn sợ cái gì? Tại sao các ông lại sợ không làm vừa lòng Liên Xô, vậy còn Trung Quốc thì sao? Tôi muốn nói thẳng với các ông những điều hiện tại tôi cảm nhận: các đồng chí Việt Nam có những suy nghĩ khác về phương pháp giúp đỡ của chúng tôi, nhưng mà các ông chưa nói với chúng tôi. Tôi nhớ đồng chí Mao phê bình chúng tôi, các viên chức Trung Quốc tham dự buổi nói chuyện giữa đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Lê Duẩn tại Beidaihe (2) – về việc “quá nhiệt tình” đối với đòi hỏi của Việt Nam. Bây giờ chúng tôi thấy đồng chí Mao nhìn xa trông rộng. Lê Duẩn: Bây giờ, khi các ông nói lại điều này lần nữa, chúng tôi đã rõ. Tại thời điểm đó tôi không hiểu những gì đồng chí Mao nói bởi vì thông dịch quá tệ. Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi hiểu rằng đồng chí Mao phê bình chúng tôi, đó là đồng chí Chu Ân Lai, tôi và những người khác. Dĩ nhiên, không có nghĩa là đồng chí Mao không làm hết sức mình để giúp đỡ Việt Nam. Với các ông đã quá rõ là chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các ông bởi vì nằm trong khả năng của chúng tôi. Bây giờ, có vẻ như đồng chí Mao Trạch Đông nhìn xa trông rộng trong vấn đề này. Trong những năm gần đây, chúng tôi có kinh nghiệm trong các mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Sự thật là sự quá nhiệt tình của chúng tôi đã gây nghi ngờ cho các đồng chí Việt Nam? Hiện chúng tôi có 130.000 người đang ở nước các ông. Việc xây dựng [căn cứ] quân sự ở Đông Bắc cũng như xây dựng tuyến đường sắt là các dự án mà chúng tôi đề xuất, và hơn nữa, chúng tôi đã gửi hàng chục ngàn quân lính tới biên giới. Chúng tôi cũng đã thảo luận khả năng chiến đấu chung bất cứ khi nào cuộc chiến bùng nổ. Các ông có nghi ngờ chúng tôi vì chúng tôi quá nhiệt tình hay không? Người Trung Quốc có muốn kiểm soát Việt Nam hay không? Chúng tôi muốn nói thẳng cho các ông biết rằng chúng tôi không hề có ý định đó. Ở đây, chúng tôi không cần bất kỳ cuộc đàm phán ngoại giao nào. Nếu chúng tôi mắc phải sai lầm đã làm cho các ông nghi ngờ, có nghĩa là đồng chí Mao thật sự nhìn xa trông rộng. Hơn nữa, hiện nay nhiều người làm cho Trung Quốc bị mang tiếng: Khrushchev (*) là người theo chủ nghĩa xét lại, và Trung Quốc thì theo chủ nghĩa giáo điều và mạo hiểm. Vì vậy, chúng tôi hy vọng trong vấn đề này, nếu các ông có bất kỳ vấn đề gì, làm ơn nói thẳng cho chúng tôi biết. Thái độ của chúng tôi cho đến nay và từ bây giờ sẽ là: các ông đang ở tiền tuyến còn chúng tôi đang ở hậu phương. Chúng tôi đáp ứng mọi yêu cầu của các ông trong khả năng của chúng tôi. Nhưng chúng ta không nên có quá nhiều nhiệt tình. Việc xây dựng các đảo phía Đông Bắc đã hoàn thành. Hai bên đã thảo luận việc xây dựng dọc bờ biển sẽ do những người lính trong quân đội của chúng tôi thực hiện. Gần đây, đồng chí Văn Tiến Dũng (3) đề nghị sau khi hoàn thành việc xây dựng ở phía Đông Bắc, binh lính của chúng tôi sẽ giúp các ông xây dựng các địa điểm pháo binh ở vùng trung tâm đồng bằng. Chúng tôi vẫn chưa trả lời. Bây giờ tôi đặt một câu hỏi để các ông cân nhắc: các ông có cần những người lính trong quân đội chúng tôi làm điều đó hay không? Chu Ân Lai: [Đề nghị về] việc xây dựng 45 địa điểm pháo binh gần các vị trí tên lửa của Liên Xô. Đặng Tiểu Bình: Chúng tôi không biết liệu có tốt cho mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước hay không khi chúng tôi đã gửi 100.000 quân đến Việt Nam. Cá nhân, tôi nghĩ sẽ tốt hơn cho những người lính trong quân đội của chúng tôi trở về nhà ngay sau khi họ hoàn thành công việc. Về vấn đề này, chúng tôi không có bất kỳ ý định xấu nào, nhưng kết quả không phải là điều mà cả hai nước muốn. Cách đây không lâu, có một chuyện đã xảy ra mà chúng tôi nghĩ không phải là ngẫu nhiên: Trên đường đến Hòn Gai để lấy than đá, một con tàu Trung Quốc đã không được phép cập cảng. Nó đã ở ngoài khơi 4 ngày. Yêu cầu để gọi vào bờ bị từ chối. Con tàu này đang thi hành nhiệm vụ theo một thỏa thuận thương mại, không phải là một tàu chiến. Lê Duẩn: Chúng tôi không biết điều này. Đặng Tiểu Bình: Bộ ngoại giao của chúng tôi đã gửi một thư báo cho các ông, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa trả lời. Những chuyện như thế này chưa từng xảy ra trong 10 năm qua. Chu Ân Lai: Ngay cả tàu Trung Quốc yêu cầu được vào cảng Việt Nam trốn máy bay Mỹ, để được cung cấp nước ngọt và gọi điện thoại cũng bị từ chối. Một trong những cán bộ của chúng tôi, người phụ trách việc mua bán với nước ngoài, sau đó đã thảo luận với các nhà chức trách ở cảng nhiều lần, và sau đó con tàu mới có thể vào cảng của các ông. Các đồng chí phụ trách cảng Cẩm Phả thậm chí nói: đây là chủ quyền của chúng tôi, các ông chỉ có thể vào khi được phép. Khi đó, chúng tôi nói rằng tất cả các tàu và máy bay của Việt Nam có thể vào các cảng và sân bay của Trung Quốc bất cứ lúc nào nếu bị máy bay Mỹ truy đuổi. Đặng Tiểu Bình: Bây giờ, tôi muốn nói về một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước. Trong số 100.000 lính Trung Quốc, những người hiện đang ở nước các ông, có thể có người nào đó làm sai. Và về phía các ông, cũng có thể có những người muốn sử dụng những sự cố này để gây chia rẽ giữa hai đảng và hai nước. Chúng ta nên thẳng thắn nói về vấn đề này bây giờ bởi vì điều này không chỉ là mảng tối, mà còn gây thiệt hại cho quan hệ của chúng ta. Nó không chỉ là những vấn đề liên quan đến sự đánh giá của chúng tôi về sự trợ giúp của Liên Xô. Các ông có nghi ngờ Trung Quốc giúp Việt Nam vì mục đích riêng? Chúng tôi hy vọng rằng các ông có thể nói trực tiếp cho chúng tôi biết nếu các ông muốn chúng tôi giúp đỡ. Vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng. Chúng tôi sẽ rút quân ngay lập tức. Chúng tôi có rất nhiều điều cần làm ở Trung Quốc. Và những người lính trong quân đội đóng quân dọc theo biên giới sẽ được lệnh quay trở về đại lục (4). Lê Duẩn: Tôi xin trình bày một số ý. Khó khăn là sự phán đoán của chúng ta khác nhau. Theo kinh nghiệm trong Đảng của chúng tôi cho thấy, cần có thời gian để làm cho các ý kiến khác nhau đi đến sự đồng thuận. Chúng ta không nói chuyện công khai về các ý kiến khác nhau giữa chúng ta. Chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam một phần là chân thành, cho nên chúng tôi không hỏi liệu Liên Xô sẽ bán đứng Việt Nam, cũng như chúng tôi không nói Liên Xô vu cáo Trung Quốc trong vấn đề vận chuyển viện trợ của Liên Xô. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi nói điều này, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn. Đó là do hoàn cảnh của chúng tôi. Vấn đề chính là đánh giá Liên Xô như thế nào. Các ông đang nói Liên Xô đang bán đứng Việt Nam, nhưng chúng tôi không nghĩ như vậy. Tất cả các vấn đề khác bắt nguồn từ sự phán đoán này. Liên quan đến sự trợ giúp của Trung Quốc cho Việt Nam, chúng tôi hiểu rất rõ và chúng tôi không có bất kỳ mối quan ngại về điều đó. Bây giờ đang có hơn 100.000 quân lính của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào có chuyện nghiêm trọng xảy ra, có thể cần hơn 500.000 lính. Đây là sự hỗ trợ từ một đất nước anh em. Chúng tôi nghĩ rằng là một đất nước xã hội chủ nghĩa anh em, các ông có thể làm điều đó, các ông có thể giúp chúng tôi như thế. Tôi đã có một cuộc tranh cãi với Khrushchev về một vấn đề tương tự. Khrushchev nói rằng người Việt Nam ủng hộ Trung Quốc sở hữu bom nguyên tử để Trung Quốc có thể tấn công Liên Xô. Tôi nói rằng điều đó không đúng sự thật, Trung Quốc sẽ không bao giờ tấn công Liên Xô. Hôm nay, tôi nói rằng sự đánh giá của một đất nước xã hội chủ nghĩa đối với một đất nước xã hội chủ nghĩa khác phải dựa trên chủ nghĩa quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chúng tôi, [nếu] cuộc cách mạng Trung Quốc không thành công, thì cách mạng Việt Nam khó có thể thành công. Chúng tôi cần sự hỗ trợ từ tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng tôi chắc rằng sự hỗ trợ của Trung Quốc là trực tiếp và rộng rãi nhất. Như các ông đã nói, mỗi quốc gia nên tự bảo vệ mình nhưng họ cũng nên dựa vào sự trợ giúp quốc tế. Vì vậy, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng sự nhiệt tình của các ông có thể gây nguy hại trong bất kỳ tình huống nào. Ngược lại, các ông càng nhiệt tình sẽ càng có lợi cho chúng tôi. Sự giúp đỡ nhiệt tình của các ông có thể giúp chúng tôi đỡ hy sinh 2-3 triệu người. Đây là một vấn đề quan trọng. Chúng tôi đánh giá cao sự nhiệt tình của các ông. Một đất nước nhỏ như Việt Nam rất cần sự trợ giúp quốc tế. Sự trợ giúp này tiết kiệm cho chúng tôi rất nhiều xương máu. Sách "sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" do NXV Sự thật phát hành năm 1979. Hình chụp lại từ blog Đinh Tấn Lực". Các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tồn tại không chỉ trong cuộc chiến tranh chống Mỹ mà còn trong tương lai lâu dài ở phía trước. Ngay cả khi Trung Quốc không giúp chúng tôi nhiều, chúng tôi vẫn muốn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, vì điều này bảo đảm cho sự sống còn của đất nước chúng tôi. Đối với Liên Xô, chúng tôi vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Nhưng chúng tôi cũng chỉ trích Liên Xô nếu họ tiếp nhận những lời chỉ trích của chúng tôi. Trong quan hệ giữa hai đảng chúng ta, chúng tôi cảm thấy tốt hơn khi có nhiều sự đồng thuận và chúng tôi lo ngại nhiều hơn khi có ít sự đồng thuận. Chúng tôi quan tâm không chỉ về sự trợ giúp của các ông mà còn quan tâm đến một vấn đề quan trọng hơn, đó là quan hệ giữa hai nước. Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng của chúng tôi luôn luôn nghĩ đến việc làm thế nào để tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai đảng và hai nước. Về sự cố tàu Trung Quốc gặp khó khăn khi vào cảng Việt Nam, tôi không biết vấn đề này. Chúng tôi không quan tâm đến 130.000 quân lính của các ông ở đất nước chúng tôi, thì tại sao chúng tôi lại quan tâm đến một con tàu? Nếu đó là sai lầm của người phụ trách cảng, người này cũng có thể là một viên chức tiêu cực cố gây kích động. Hoặc sai lầm của người này có thể được những kẻ khiêu khích khác sử dụng. Đó là một sai lầm cá nhân. Điều chúng tôi nghĩ về Trung Quốc không bao giờ thay đổi. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi cần phải có một nghĩa vụ đối với các ông và đối với phong trào Cộng sản quốc tế. Chúng tôi tiếp tục đấu tranh chống Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng. Chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản. Vì lợi ích của phong trào cộng sản quốc tế và tinh thần quốc tế, chẳng có vấn đề gì nếu quá trình phát triển xã hội chủ nghĩa ở miền Nam Việt Nam kéo dài trong 30-40 năm. Tôi muốn nói thêm một số ý kiến riêng của tôi. Hiện nay, có một phong trào cải cách tương đối mạnh mẽ trên thế giới, không chỉ ở Tây Âu mà còn ở Đông Âu và Liên Xô. Nhiều quốc gia áp dụng một trong hai con đường: chủ nghĩa cải cách hay chủ nghĩa phát xít, là những nước bị giai cấp tư sản cai trị. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nên có một số nước cách mạng như Trung Quốc để đối phó với các nước cải cách, chỉ trích họ, và đồng thời hợp tác với họ, để đưa họ vào con đường cách mạng. Họ là những nhà cải cách, do đó một mặt, họ phản cách mạng, đó là lý do tại sao chúng ta nên phê bình họ. Nhưng mặt khác, họ chống đế quốc, đó là lý do tại sao chúng ta có thể hợp tác với họ. Trong lịch sử cách mạng Trung Quốc, các ông đã làm điều tương tự. Đồng chí Mao Trạch Đông đã cùng với Tưởng Giới Thạch thành lập Mặt trận Thống nhất chống Nhật. Vì vậy, ý kiến cá nhân tôi là, Trung Quốc, trong khi giữ nguyên các biểu ngữ cách mạng, nên hợp tác với các quốc gia cải cách để giúp họ thực hiện cuộc cách mạng. Đây là phán đoán cũng như chính sách của chúng tôi. Điều này không nhất thiết đúng, nhưng đó là cam kết chân thành của chúng tôi với cách mạng. Dĩ nhiên, vấn đề này rất phức tạp. Như các ông đã nói rằng, ngay cả trong một đảng cũng có ba thành phần: hữu khuynh, trung dung và tả khuynh, nên tình hình nằm trong một phong trào cộng sản lớn. Sự khác biệt trong phán đoán mang lại những khó khăn, cần có thời gian để giải quyết. Cần có thêm nhiều mối liên hệ để đạt được sự đồng thuận về nhận thức. Mối quan tâm của chúng tôi không phải là Trung Quốc đang cố gắng kiểm soát Việt Nam. Nếu Trung Quốc không phải là một đất nước xã hội chủ nghĩa thì chúng tôi thực sự quan ngại. [Chúng tôi tin rằng] các đồng chí Trung Quốc đến để giúp chúng tôi là vì chủ nghĩa quốc tế vô sản. ………. Đặng Tiểu Bình: Câu hỏi về “sự nhiệt tình”, làm ơn hiểu thêm yêu cầu của Mao Chủ tịch muốn nói đến thực tế mối quan hệ giữa hai nước và hai đảng không đơn giản. Mối quan hệ giữa các đồng chí cũng không đơn giản. —————————————————- Ghi chú: 1. Khang Sinh: lúc đó là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và là Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu Cách mạng Văn hóa, ông ta sớm trở thành Ủy viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và là cố vấn cho “Nhóm Cách mạng Văn hóa,” cơ quan hàng đầu trong cuộc Cách mạng Văn hóa. 2. Beidaihe: là một nơi tham quan ven biển phía Đông Bắc của Bắc Kinh, nơi các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thường xuyên nghỉ mát và có các cuộc họp quan trọng trong mùa hè. 3. Văn Tiến Dũng (1917 -) (**) là nhân vật lãnh đạo thứ hai trong quân đội Bắc Việt, sau tướng Võ Nguyên Giáp. Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1953-1978, chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1974-1975. Ông còn là ủy viên Bộ chính trị từ năm 1972-86, Phó Bộ trưởng cho đến khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam từ năm 1978-1980. Nghỉ hưu năm 1986. 4. Trong một cuộc trò chuyện riêng cùng ngày, Chu Ân Lai nói: “Sau khi Kosygin (***) đến thăm Việt Nam và hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam, chúng tôi có những bất đồng mới với Liên Xô về yêu cầu của họ sử dụng hai sân bay của chúng tôi và đề nghị của họ vận chuyển vũ khí tới Việt Nam. Các ông ca ngợi Liên Xô giúp viện trợ rất nhiều cho các ông thì được. Nhưng mà các ông đề cập điều đó cùng với viện trợ của Trung Quốc là một sự xúc phạm đến chúng tôi”. Đặng Tiểu Bình nói thêm, “Vì vậy, từ bây giờ, các ông không nên nhắc đến sự viện trợ của Trung Quốc chung với sự viện trợ của Liên Xô”. —————————————————– Phụ chú: (*) Khrushchev: tức Nikita Sergeyevich Khrushchyov, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, kế vị Stalin sau khi Stalin mất năm 1953. Khrushchev cũng giữ chức thủ tướng cùng với chức TBT từ năm 1958-1964. Đến năm 1964 Khrushchev bị chính những người đồng chí của mình hạ bệ, kể từ đó cho đến những năm còn lại của cuộc đời, Khrushchev luôn bị cơ quan tình báo KGB giám sát chặt chẽ. (**) Bài nói chuyện này có từ năm 1966, lúc đó Văn Tiến Dũng còn sống, do đó người ghi chú bản chính không ghi năm mất của Văn Tiến Dũng là 2002. (***) Kosygin: tức Aleksei Nikolayevich Kosygin là Thủ tướng Liên Xô từ năm 1964-1980, dưới thời Tổng bí thư Leonid Brezhnev. Bản Anh ngữ: www.wilsoncenter.org Ngọc Thu (Bản tiếng Việt)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:27:18 GMT 9
Thảo luận giữa Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng và Hoàng Tùng CWIHP Mô tả: Chu Ân Lai đề nghị gửi thêm quân nhân vào Việt Nam, ông ta cũng chỉ trích báo chí Việt Nam viết về các cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc trong lịch sử. Chu Ân Lai: Còn về vấn đề thực tế báo chí Việt Nam thời gian gần đây đã đưa một số tài liệu về các cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc chống lại Việt Nam thì sao? Hoàng Tùng (1920-2010) Hoàng Tùng: Không có tài liệu báo chí nào như thế. Tuy nhiên, một số viện nghiên cứu đang làm nghiên cứu về chủ đề lịch sử đó. Chu Ân Lai: Nhưng các ông đang nghiên cứu vấn đề này trong khi các ông đang tranh đấu chống lại Hoa Kỳ. [Các ông muốn] ám chỉ cái gì? … Chu Ân Lai: Chúng ta nên tận dụng con đường bộ cũng như tuyến đường biển qua ngả Campuchia. Tuy nhiên, tốt nhất là đường mòn Hồ Chí Minh, con đường chạy qua Lào vào miền Nam Việt Nam. Và chúng ta cũng nên tìm những con đường khác. Chúng tôi đồng ý điều mà các ông yêu cầu [liên quan tới] quân tiếp viện của chúng tôi về phòng không, để bảo vệ đường sắt, đường bộ của chúng tôi, và sự giúp đỡ của chúng tôi để xây dựng các con đường giao thông. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng có những hạn chế về điều đó. Lực lượng này không phải là quân tình nguyện chiến đấu của chúng tôi. Họ là lực lượng hậu cần. Do đó, chúng ta có thể từ chối yêu cầu của một số nước gửi quân tình nguyện đến Việt Nam, [nói] rằng các tình nguyện Trung Quốc đã có mặt ở Việt Nam. Nếu nói rằng đã có quân tình nguyện Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam, thì Cuba, Algeria, và Liên Xô, vv…có thể yêu cầu phải có quân tình nguyện của họ tại Việt Nam. Chu Ân Lai: … chiến lược đã được xác định: tiến hành một cuộc chiến kéo dài ở miền Nam, ngăn chặn các cuộc chiến mở rộng ra miền Bắc và sang Trung Quốc … ý kiến cơ bản của tôi là chúng ta nên kiên nhẫn. Kiên nhẫn đồng nghĩa với chiến thắng. Kiên nhẫn có thể gây nhiều khó khăn hơn, đau khổ hơn cho các ông. Tuy nhiên, trời, đất sẽ không sụp đổ và con người không thể bị tận diệt hoàn toàn. Vì vậy, kiên nhẫn có thể được đền bù bằng chiến thắng, làm thay đổi lịch sử, khuyến khích các nước châu Á, châu Phi, và châu Mỹ Latinh, và làm giảm tầm quan trọng của đế quốc Mỹ. Chúng tôi đề nghị gửi một số nhân viên quân sự Trung Quốc phục vụ trong đội ngũ cán bộ chỉ huy, hậu cần, hóa học, kỹ thuật, các lực lượng huấn luyện chính trị, tổng số sẽ là 100 người, được tổ chức thành 4 hoặc 5 nhóm, đến miền Nam Việt Nam. Họ có thể đi xa tới tỉnh [Bình] Trị Thiên, Tây Nguyên, các vùng ngoại ô Sài Gòn, hoặc tới trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long. ————————————————- Ghi chú: 1. Hoàng Tùng (1920-2010), Giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Là Tổng Biên tập báo Nhân Dân (People’s Daily) từ năm 1951-1982 (có nguồn ghi từ năm 1954-1982: ND), từ năm 1960 là Phó và sau này là Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Đảng Lao Động VN. Nghỉ hưu vào cuối thập niên 1980. ****************** Tiếp tục các thảo luận giữa Lưu Thiếu Kỳ, Lê Duẩn, Mao và Hoàng Văn Hoan Lời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. ———————————————————- CWIHP Lê Duẩn (1907- 1986) 1- Thảo luận giữa Lưu Thiếu Kỳ và Lê Duẩn 08-04-1965 Mô tả: Trung Quốc cung cấp dịch vụ quân sự cho Việt Nam với điều kiện Việt Nam mời họ trước. Việt Nam chấp nhận. Lê Duẩn: Chúng tôi muốn có một số phi công tình nguyện, lính tình nguyện… và các tình nguyện viên khác, gồm cả các đơn vị kỹ thuật cầu đường. Lưu Thiếu Kỳ: Chính sách của chúng tôi là, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để hỗ trợ các ông. Chúng tôi sẽ cung cấp bất cứ điều gì các ông cần và chúng tôi đang ở trong vị thế cung cấp … Nếu các ông không mời chúng tôi, chúng tôi sẽ không đến, và nếu các ông mời một đơn vị quân đội của chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi đơn vị đó tới các ông. Thế chủ động sẽ hoàn toàn thuộc về các ông. Lê Duẩn: Chúng tôi muốn các phi công tình nguyện Trung Quốc giữ vai trò ở bốn khía cạnh: (1) hạn chế các vụ đánh bom của Mỹ vào các khu vực phía Nam vĩ tuyến 19 hoặc 20; (2) bảo vệ sự an toàn cho Hà Nội, (3) bảo vệ một số đường giao thông chính, và (4) nâng cao tinh thần nhân dân Việt Nam. —————————————— Ghi chú: 1. Cùng ngày, Bắc Việt ban hành thể thức bốn điểm hòa bình để đáp lại tuyên bố của Tổng thống Johnson sẵn sàng cho “các cuộc thảo luận vô điều kiện”. Bản tiếng Anh: www.wilsoncenter.org——————————– 2- Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Hoàng Văn Hoan 16-07-1965 Mô tả: Mao Trạch Đông khuyên Hoàng Văn Hoan leo thang [chiến tranh] mà không cần do dự, khi chiến tranh đã bắt đầu như thế. Mao Trạch Đông: … Tất cả chúng ta đều tin tưởng vào Hiệp Định Genève, nhưng kẻ thù đã không tôn trọng. Sau khi các ông tập hợp quân đội, họ bắt đầu giết người. Họ giết người ở miền Nam để dạy cho những người này một bài học. Lúc đầu, phương châm của chúng ta chủ yếu là đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự chỉ là thứ yếu. Sau đó, đấu tranh chính trị và quân sự như nhau. Và sau này là đấu tranh quân sự sẽ là chính, đấu tranh chính trị sẽ hỗ trợ cho đấu tranh quân sự. Do vậy, chúng ta cũng leo thang từng bước. Lúc đầu, chúng ta tiêu diệt một trung đội và sau đó một đại đội. Sau đó chúng ta tiêu diệt một tiểu đoàn và một hoặc hai trung đoàn. Bằng cách đó, chúng ta có thể tiêu diệt 4-5 tiểu đoàn trong mỗi chiến dịch. Chúng ta nên leo thang và chúng ta nên biết leo thang từng bước bằng cách nào. ————————————————- Ghi chú: 1. Hoàng Văn Hoan đứng đầu đoàn đại biểu Quốc hội Bắc Việt tới Trung Quốc. Bản Anh ngữ: www.wilsoncenter.orgNgọc Thu (Bản tiếng Việt)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:30:20 GMT 9
Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Phạm Văn Đồng “Cold War International History Project” – CWIHP Mô tả: Mao Trạch Đông tư vấn cho Phạm Văn Đồng về cách xử lý cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam và bảo vệ miền Bắc Việt Nam. Mao Trạch Đông (1893-1976) Mao Trạch Đông và Phạm Văn Đồng (1), Hoàng Văn Hoan (2) Bắc Kinh, 05 tháng 10 năm 1964, từ 7-7:50 (chiều?) Mao Trạch Đông: Theo đồng chí Lê Duẩn (3), các ông đã có kế hoạch điều động một sư đoàn [vào Nam]. Có lẽ các ông chưa gửi sư đoàn đó đi (4). Thời điểm nào các ông nên gửi đi thì rất quan trọng. Liệu Hoa Kỳ sẽ tấn công miền Bắc hay không, họ vẫn chưa đưa ra quyết định. Bây giờ, ngay cả Hoa Kỳ vẫn chưa có quan điểm trong việc giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam. Nếu họ tấn công miền Bắc, [có thể họ cần phải] đánh trong một trăm năm, và họ sẽ bị mắc kẹt ở đó. Vì vậy, cần phải xem xét cẩn thận. Người Mỹ đã đưa ra các tuyên bố đáng sợ. Họ tuyên bố rằng họ sẽ chạy theo [các ông], và sẽ đuổi đất nước các ông, và họ sẽ tấn công lực lượng không quân của chúng tôi. Theo tôi, những lời lẽ này có nghĩa là họ không muốn chúng tôi đánh cuộc chiến lớn, và rằng [họ không muốn] lực lượng không quân của chúng tôi tấn công các tàu chiến của họ. Nếu [chúng ta] không tấn công tàu chiến của họ, họ sẽ không chạy theo các ông. Có phải đó là những điều họ muốn nói? Người Mỹ đang che giấu điều gì đó. Phạm Văn Đồng: Đây cũng là suy nghĩ của chúng tôi. Hoa Kỳ đang đối mặt với nhiều khó khăn, và không phải dễ dàng để họ mở rộng chiến tranh. Vì vậy, điều mà chúng tôi cân nhắc đó là chúng ta nên cố gắng hạn chế cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam trong phạm vi chiến tranh đặc biệt, và phải cố gắng để đánh bại kẻ thù trong phạm vi chiến tranh đặc biệt. Chúng ta nên cố gắng hết sức không để cho đế quốc Mỹ biến cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam thành cuộc chiến giới hạn, và cố gắng hết sức không để cho cuộc chiến mở rộng ra miền Bắc Việt Nam. Chúng ta phải chấp nhận một chiến lược rất khéo léo, và không nên kích động họ (Hoa Kỳ). Bộ Chính trị của chúng tôi đã ra quyết định về vấn đề này, và hôm nay tôi xin báo cáo với Mao Chủ tịch. Chúng tôi tin rằng điều này là hoàn toàn khả thi. Mao Trạch Đông: Vâng. Phạm Văn Đồng: Nếu Hoa Kỳ dám bắt đầu một cuộc chiến tranh giới hạn, chúng tôi sẽ đánh lại và sẽ giành chiến thắng. Mao Trạch Đông: Vâng, các ông có thể giành chiến thắng (5). Chế độ bù nhìn miền Nam Việt Nam có vài trăm ngàn quân. Các ông có thể chiến đấu chống lại họ, các ông có thể loại bỏ một nửa, và các ông có thể loại bỏ tất cả. [Các ông] dư sức thực hiện nhiệm vụ này. Hoa Kỳ không thể gửi nhiều quân đến miền Nam Việt Nam. Mỹ có tổng cộng 18 sư đoàn. Họ phải giữ một nửa, tức là chín sư đoàn ở nhà, và có thể gửi ra nước ngoài chín sư đoàn. Trong các sư đoàn này, một nửa ở châu Âu, và một nửa ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và họ có nhiều đơn vị đóng quân ở châu Á [hơn những nơi khác trong khu vực], cụ thể là ba sư đoàn. Một ở Nam Hàn, một ở Hawaii, và sư đoàn thứ ba thì ở nơi nào không rõ ràng. Họ cũng chưa có tới một sư đoàn thủy quân lục chiến ở Okinawa, Nhật Bản. Hiện tất cả lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam thuộc về hải quân, và họ là đơn vị thuộc hệ thống hải quân. Theo hải quân Hoa Kỳ, họ đã đưa thêm tàu vào Tây Thái Bình Dương nhiều hơn ở châu Âu. Ở Địa Trung Hải, có Đệ lục Hạm đội, ở đây (Thái Bình Dương) có Đệ thất Hạm đội. Họ đã triển khai bốn tàu sân bay gần các ông, nhưng họ đã bị các ông xua đuổi. …. Mao Trạch Đông: Nếu người Mỹ dám chấp nhận rủi ro để đưa chiến tranh vào miền Bắc, cuộc xâm lược này cần được xử lý như thế nào? Tôi đã thảo luận vấn đề này với đồng chí Lê Duẩn. Dĩ nhiên, [trước tiên] cần xây dựng các công trình phòng thủ dọc theo bờ biển. Cách tốt nhất là xây dựng các công trình phòng thủ như những công trình mà [chúng tôi đã xây dựng] trong cuộc chiến Triều Tiên, để các ông có thể ngăn chặn kẻ thù xâm nhập vào bên trong đất liền. Tuy nhiên, thứ hai, nếu Mỹ quyết tâm xâm chiếm đất liền, các ông có thể để cho họ làm chuyện đó. Các ông nên chú ý đến chiến lược của mình. Các ông không nên để lực lượng chính tham gia một cuộc đối đầu với họ, và phải duy trì lực lượng chính của các ông. Ý kiến của tôi là, nếu núi xanh còn đó, các ông lo gì chuyện thiếu củi? Phạm Văn Đồng: Đồng chí Lê Duẩn đã báo cáo ý kiến của Mao Chủ tịch với Uỷ viên [BCH] Trung ương của chúng tôi. Chúng tôi tiến hành đánh giá tổng thể tình hình ở miền Nam và miền Bắc, và ý kiến của chúng tôi giống như ý kiến của Mao Chủ tịch. Ở miền Nam Việt Nam, chúng tôi nên tích cực đấu tranh chống lại [kẻ thù], và ở Bắc Việt Nam, chúng tôi nên chuẩn bị [cho kẻ thù leo thang chiến tranh]. Nhưng chúng tôi cũng nên thận trọng. Mao Trạch Đông: ý kiến của chúng tôi cũng giống vậy. Một số người khác nói rằng chúng ta đang tham chiến. Thực tế là, chúng tôi đang thận trọng. Nhưng có thể nói [rằng chúng ta đang tham chiến]. …. Mao Trạch Đông: Các ông càng đánh bại họ một cách triệt để, họ càng cảm thấy thoải mái hơn. Ví dụ như, các ông đánh bại người Pháp, và họ sẵn sàng đàm phán với các ông. Người Algérie đánh bại người Pháp, và Pháp sẵn sàng đi đến hòa bình với Algeria. [Thực tế] chứng minh rằng, các ông càng đánh bại họ, thì họ càng cảm thấy thoải mái hơn. …. Mao Trạch Đông: Có đúng là ông được mời tham dự các cuộc họp ở Hội đồng Bảo an [LHQ]? Chu Ân Lai: Điều này vẫn còn bí mật. Lời mời đã được U Thant (6) thực hiện. Mao Trạch Đông: Và U Thant đã mời qua ai? Chu Ân Lai: Liên Xô. Mao Trạch Đông: Vậy Liên Xô là trung gian. Phạm Văn Đồng: Theo Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam, một mặt, họ đã gặp U Thant, và mặt khác họ đã gặp [Ngoại trưởng Mỹ Dean] Rusk. Mao Trạch Đông: Không hẳn là một điều tệ hại để thương lượng. Ông có đủ khả năng để đàm phán. Một vấn đề khác là liệu việc đàm phán sẽ thành công hay không. Chúng ta cũng có đủ trình độ để thương lượng [với người Mỹ]. Chúng ta đang đàm phán với Mỹ về vấn đề Đài Loan, và các cuộc đàm phán Trung – Mỹ cấp đại sứ hiện đang chuẩn bị ở Warsaw. Các cuộc đàm phán đã kéo dài hơn chín năm. Chu Ân Lai: Hơn 120 cuộc họp đã được tổ chức. Mao Trạch Đông: Các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục. Một lần, trong một cuộc họp tại Geneva, họ không muốn tiếp tục đàm phán. Họ rút những người đại diện, chỉ để lại một người ở đó phụ trách vấn đề truyền thông và liên lạc. Chúng tôi đã cho họ một đòn bằng cách gửi họ một lá thư, ra thời hạn cho họ gửi đại diện trở lại. Họ đã quay trở lại đàm phán sau đó, nhưng họ đã không trở lại đúng hạn chúng tôi đưa ra, họ đã trở lại trễ vài ngày. Họ nói rằng đó là tối hậu thư của chúng ta. Vào thời gian đó, một số người của chúng ta tin rằng, chúng ta không nên ra thời hạn cho họ, cũng không nên đưa ra tuyên bố gay gắt, và rằng làm như vậy đã trở thành tối hậu thư. Nhưng chúng ta đã làm, và người Mỹ đã [trở lại đàm phán]. ———————————————— Ghi chú: 1. Phạm Văn Đồng (1906 – 2000), thành viên lâu năm của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP), làm việc gần gũi với Hồ Chí Minh và là Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) cho đến năm 1980 (từ năm 1976, trở thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). 2. Hoàng Văn Hoan (1905-1991), thành viên lâu năm của ĐCS Đông Dương và là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao Động VN từ năm 1960-1976. Hoan là cầu nối quan trọng giữa Bắc Việt và Trung Quốc, đại sứ Bắc Kinh năm 1950-1957; dẫn đầu nhiều đoàn đại biểu đến Trung Quốc như Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Bắc Việt vào thập niên 1960. Bị mất ảnh hưởng sau cái chết của Hồ Chí Minh vào tháng 9 năm 1969. Năm 1973, một lần nữa Hoan đến Trung Quốc sắp xếp cho chuyến thăm [Trung Quốc] của Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng. Ông đã đào thoát sang Trung Quốc hồi tháng 7 năm 1979. Năm 1986, ông xuất bản cuốn hồi ký của mình (Giọt nước trong biển cả), đã đưa ra một cái nhìn thoáng qua, hiếm hoi về cuộc sống bên trong của các ủy viên ĐCS Đông Dương/ Đảng Lao Động Việt Nam. 3. Lê Duẩn (1908-1986): Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (khu vực phía Nam), sau đó là Trung ương Cục miền Nam thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Gửi thư cho các lãnh đạo đảng phản đối Hiệp định Geneve năm 1954. Từ 1956, quyền Tổng Bí thư Đảng Lao Động Việt Nam. (Hồ Chí Minh chính thức làm Tổng Bí thư). Từ năm 1957-1959, là người cho trở lại các cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Từ năm 1960 đến khi mất năm 1986, Lê Duẩn là Tổng Bí thư Đảng Lao Động Việt Nam (năm 1976 đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam). 4. Ngay sau sự cố Vịnh Bắc Bộ, Lê Duẩn đến thăm Bắc Kinh và gặp Mao vào ngày 13 tháng 8 năm 1964. Hai lãnh đạo trao đổi các báo cáo tình báo về hai sự kiện. Lê Duẩn xác nhận với Mao rằng sự cố đầu tiên (ngày 2 tháng 8) là kết quả của các quyết định do người chỉ huy Việt Nam thực hiện tại hiện trường, và Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn rằng, theo thông tin tình báo Bắc Kinh đã nhận được, sự cố thứ hai vào ngày 4 tháng 8 “không phải là một cuộc tấn công có chủ ý của người Mỹ”, nhưng gây ra bởi “phán đoán sai lầm của người Mỹ, dựa trên thông tin sai”. Có cảm giác triển vọng về cuộc chiến sẽ được mở rộng vào miền Bắc Việt Nam, Mao nghĩ rằng “có vẻ như người Mỹ không muốn chiến tranh, các ông không muốn chiến tranh, và chúng tôi không nhất thiết muốn chiến tranh”, và rằng “vì không ai muốn có một cuộc chiến, chiến tranh sẽ không xảy ra”. Lê Duẩn đã nói với Mao rằng “sự hỗ trợ từ Trung Quốc là không thể thiếu, nó thực sự có liên quan đến số phận của quê hương của chúng tôi… Những người theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô muốn làm cho chúng ta mặc cả, điều này đã rõ ràng”. Ghi chú của người biên tập: Trong một số chú thích cuối trang chúng tôi có thêm thông tin bổ sung từ các nguồn tài liệu giống như các tài liệu của họ. 5. Ngày 22 tháng 1, năm 1965, Chu Ân Lai nói với một phái đoàn quân sự Việt Nam: “Theo như cuộc chiến tranh ở Việt Nam, chúng ta nên liên tục loại bỏ các lực lượng chính của kẻ thù khi họ ra ngoài để tiến hành các hoạt động càn quét, do đó khả năng chiến đấu của lực lượng kẻ thù sẽ bị suy yếu, trong khi quân đội của chúng ta sẽ được củng cố. Chúng ta nên cố gắng tiêu diệt hầu hết các chiến lược ấp của kẻ thù vào cuối năm nay. Nếu điều này được thực hiện, ngoài sự phá sản chính trị của kẻ thù, có khả năng chiến thắng sẽ đến sớm hơn mong đợi ban đầu của chúng ta”. 6. U Thant (1909-1974): Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1962-1971. Dịch từ: www.wilsoncenter.org Ngọc Thu (Bản tiếng Việt) ******************** Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng Lời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. —————————————————- “Cold War International History Project” – CWIHP 09-10-1965 Mô tả: Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng không hỗ trợ ý kiến về các tình nguyện viên Liên Xô đến Việt Nam và thảo luận về sự tham gia của Campuchia trong chiến tranh. Chu Ân Lai: … Trong thời kỳ Khrushchev nắm quyền, Liên Xô không thể chia rẽ chúng ta vì Khrushchev đã không giúp các ông nhiều. Bây giờ Liên Xô đang giúp các ông. Nhưng sự giúp đỡ của họ không phải thật lòng. Mỹ rất thích điều này. Tôi muốn nói cho ông biết ý kiến của tôi. Tốt hơn là không cần sự trợ giúp của Liên Xô. Đây có thể là ý kiến của những người cánh tả quá khích. Tuy nhiên, đó là ý của tôi, không phải của Trung ương Đảng CSTQ. Phạm Văn Đồng (1906-2000) … Bây giờ, vấn đề các tình nguyện viên quốc tế đến Việt Nam sẽ rất phức tạp. Nhưng như ông đã đề cập đến vấn đề này, chúng ta sẽ thảo luận và lúc đó ông có thể đưa ra quyết định của mình. Như ông hỏi ý kiến của tôi, tôi muốn nói với ông một điều sau đây: Tôi không ủng hộ ý kiến về các tình nguyện viên của Liên Xô đến Việt Nam, tôi cũng không [hỗ trợ] sự viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Tôi nghĩ không có viện trợ thì tốt hơn. Đó là ý kiến của riêng tôi, không phải ý kiến của Trung ương Đảng. Đồng chí Peng Zhen và La Ruiqing (2) có mặt ở đây hôm nay cũng đồng ý với tôi. [Đối với] Việt Nam, chúng tôi luôn muốn giúp đỡ. Trong tâm trí của chúng tôi, suy nghĩ của chúng tôi, chúng tôi không bao giờ nghĩ đến việc bán đứng Việt Nam. Nhưng chúng tôi luôn sợ những người theo chủ nghĩa xét lại đứng giữa chúng ta (3). Chu Ân Lai: … chiến tranh đã mở rộng ra ở miền Bắc Việt Nam. Do đó, Lào và Campuchia không thể không tham gia. Sihanouk hiểu điều đó. Khi chúng tôi đang đi tham quan ở Dương Tử, tôi hỏi ông ấy, làm thế nào đối phó với tình trạng này và liệu ông ấy có cần vũ khí hay không. Hiện nay, Trung Quốc đã cung cấp cho Campuchia 28.000 khẩu vũ khí. Sihanouk nói với tôi rằng số lượng này đủ để trang bị cho các lực lượng thường xuyên và cấp tỉnh của Campuchia và rằng tất cả vũ khí của Mỹ đã được thay thế. Tôi cũng hỏi ông ta xem liệu ông ta có cần thêm vũ khí không. Sihanouk trả lời rằng, bởi vì ông ấy không có đủ khả năng để gia tăng quân số, các loại vũ khí này đã đủ. Ông ấy chỉ yêu cầu máy bay chống pháo và vũ khí chống tăng. Đó là những gì ông ấy trả lời câu hỏi của tôi về vũ khí. Ông ấy cũng nói thêm rằng nếu chiến tranh bùng nổ, ông ấy sẽ rời khỏi Phnom Penh, đến các vùng nông thôn, nơi ông ấy đã xây dựng các căn cứ. Năm ngoái, Chủ tịch Lưu [Thiếu Kỳ] nói với Sihanouk: “đánh nhau quy mô lớn ở nước ông không bằng [đánh nhau] ở biên giới của chúng tôi”. Nếu Hoa Kỳ tấn công dọc biên giới Trung Quốc, Trung Quốc sẽ đưa các lực lượng tới đó, do vậy, làm giảm gánh nặng cho Campuchia. Bây giờ Sihanouk đã hiểu và chuẩn bị để về nông thôn và để lấy lại các vùng thành thị khi có điều kiện thuận lợi. Đó là những gì ông ấy nghĩ. Tuy nhiên, liệu các cán bộ của ông ta có thể thực hiện chính sách này hay không, lại là chuyện khác. Những thay đổi về tình hình này cho thấy, rằng Sihanouk đã chuẩn bị để hành động trong trường hợp có một cuộc xâm lược của Mỹ. Hiện nay, Sihanouk hỗ trợ mạnh mẽ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bởi vì ông ta biết rằng các ông càng chiến đấu chống Mỹ thì dân Campuchia càng bớt gặp khó khăn hơn. Hơn nữa, Sihanouk hiểu rằng ông ta cần Trung Quốc. Nhưng cùng lúc, Sihanouk không muốn đứng về phía bên nào, bởi vì ông ta sợ mất sự hỗ trợ của Pháp, làm mất vị trí trung lập của ông ta. Ít ra, những gì ông ta nói cho thấy, ông ta có vẻ suy nghĩ và hiểu được tính logic của chiến tranh: nếu Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh tới Bắc Việt, thì Hoa Kỳ sẽ mở rộng khắp nơi Đông Dương (4). —————————————– Ghi chú: 1. Phạm Văn Đồng nói chuyện với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh trước khi ông ta đi thăm Moscow. Đây là cuộc họp thứ ba của phái đoàn Việt Nam tại Bắc Kinh. 2. Luo Ruiqing là Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng và là Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cho đến khi bị thanh trừng vào tháng 12 năm 1965. 3. Trong cuộc hội đàm tổ chức tại Quảng Đông, ngày 8 tháng 11 năm 1965, Chu Ân Lai nói với Hồ Chí Minh rằng, “Mục đích của Liên Xô viện trợ cho Việt Nam là: (a) để cô lập Trung Quốc (b) cải thiện quan hệ Xô-Mỹ, (c) tiến hành các hoạt động lật đổ cũng như hành vi phá hoại, gây khó khăn cho Trung Quốc, và cũng có thể cho Việt Nam”. 4. Buổi nói chuyện này được xem như mối quan hệ tam giác giữa ĐCS Trung Quốc, Việt Nam, và Campuchia. Pol Pot (1923-1998) trở thành Tổng Bí thư Đảng Lao động Campuchia hồi năm 1963 (sau đó đổi tên thành Đảng Cộng sản Campuchia, và nói chung được gọi là Khơ-me đỏ), đã đến Hà Nội vào tháng 6 năm 1965 và đi đến Bắc Kinh vào cuối năm 1965. Ông ta đã gặp các nhà lãnh đạo đảng lỗi lạc của hai nước. Các bất đồng nghiêm trọng đã nảy sinh giữa ông ta và Lê Duẩn ở Hà Nội: Xem thên Thomas Engelbert và Christopher E. Goscha, “Falling Out Of Touch: Một nghiên cứu chính sách Cộng sản Việt Nam về một phong trào Cộng sản Campuchia đang trỗi dậy, 1930-1975” (Clayton, Victoria, Australia: Đại học Monash , 1995); và David Chandler, “Brother Number One: Tiểu sử chính trị của Pol Pot” (Boulder, CO: Westview, 1992), trang 73-77. Trong giai đoạn này, Pol Pot muốn đấu tranh vũ trang ở Campuchia, nhưng tại thời điểm này cả Việt Nam và Trung Quốc luôn muốn tránh bất kỳ cuộc đấu tranh nào chống lại Sihanouk. Họ muốn thấy Sihanouk tiếp tục chính sách trung lập của ông ta hơn, và nếu Hoa Kỳ can thiệp vào Campuchia, họ hy vọng rằng Sihanouk và những người cộng sản Campuchia sẽ tham gia lực lượng. Nguồn: www.wilsoncenter.org*************** Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh Lời người dịch: Các tài liệu này, có khi dài 1 trang, cũng có khi dài gần 20 trang. Nhưng các thông tin trong đó đều có liên quan với nhau và liên quan tới vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong cuộc chiến VN, cũng như VN “đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”. Tất cả các bài này có liên quan đến âm mưu của TQ thôn tính VN, khi Mao Trạch Đông tuyên bố hồi tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương ĐCS Trung Quốc: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Theo ông Ilya Guiduk, nhà sử học người Nga, cho biết, số tài liệu này xuất phát từ cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên Xô. Khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học tiếp xúc các tài liệu này. Trung tâm lưu trữ hồ sơ hiện hành (tên sau khi Liên Xô sụp đổ) đã ký thoả thuận với Trung tâm Wilson (và Viện hàn lâm khoa học Nga), cho phép các cơ quan này tiếp cận các tài liệu. Họ đã phân loại số tài liệu này và dịch ra tiếng Anh. ——————————————————- “Cold War International History Project” – CWIHP Mô tả: Hồ Chí Minh yêu cầu Mao Trạch Đông giúp đỡ xây dựng các tuyến đường dọc biên giới miền Nam Việt Nam; Mao đồng ý. Chủ tịch Hồ: Chúng tôi phải cố gắng xây dựng đường giao thông mới. Chúng tôi đã thảo luận với đồng chí Tao Zhu (1) về vấn đề này. Nếu Trung Quốc có thể giúp chúng tôi xây dựng một số tuyến đường ở miền Bắc, gần biên giới với Trung Quốc, chúng tôi sẽ gửi các lực lượng để dành cho công việc này ở miền Nam. Mao Trạch Đông: Đó là một chính sách hay. Tao Zhu: Tôi đã báo cáo điều đó qua điện thoại với đồng chí Chu Ân Lai. Ông ấy nói: Trung Quốc có thể làm điều đó. Hồ Chủ tịch: Trước hết, chúng tôi cần Trung Quốc giúp chúng tôi xây dựng 6 tuyến đường từ các khu vực biên giới. Những con đường này chạy về phía Nam, đi qua phía sau của chúng tôi. Và trong tương lai nó sẽ được kết nối với phía trước. Hiện tại, chúng tôi có 30 ngàn người xây dựng các tuyến đường này. Nếu Trung Quốc giúp chúng tôi, những người này sẽ được gửi vào Nam. Đồng thời chúng tôi phải giúp đỡ các đồng chí Lào để xây dựng các tuyến đường từ đường Samneua đến Xiengkhoang và từ Xiengkhoang đến Hạ Lào, và đến miền Nam Việt Nam. Mao Trạch Đông: Vì chúng tôi sẽ đánh những trận đánh quy mô lớn trong tương lai, sẽ rất tốt nếu chúng tôi xây dựng các tuyến đường tới Thái Lan … Hồ Chủ tịch: Nếu Mao Chủ tịch đồng ý, Trung Quốc sẽ giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi người của chúng tôi vào Nam. Mao Trạch Đông: Chúng tôi đồng ý theo yêu cầu của ông. Chúng tôi sẽ làm điều đó. Không có vấn đề gì (2). ——————————————- Ghi chú: 1. Tao Zhu là Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Thứ nhất Trung ương ĐCS Trung Hoa – Cục Hoa Nam. Sau này, ông ta bị thanh lọc trong cuộc Cách mạng Văn hóa. 2. Tại Hà Nội vào ngày 13, Tao Zhu đã nói với ông Hồ rằng “Trung ương Đảng và Chủ tịch Mao đã đưa bốn tỉnh biên giới của chúng tôi chịu trách nhiệm làm hậu phương trực tiếp cho Việt Nam. Dĩ nhiên, toàn bộ Trung Quốc là hậu phương của Việt Nam. Nhưng bốn tỉnh này đại diện trực tiếp”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 12, 2012 4:34:37 GMT 9
Thảo luận giữa Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Ngoại giao TQ và Đại sứ VN Ngô Minh Loan
Cold War International History Project”- CWIHP Ngày 05-13-1967
Bác Hồ và bác Mao đặt nền tảng cho mối quan hệ Việt- Trung. Ảnh tư liệu Mô tả: Kiều Quán Hoa không đồng ý về kế hoạch chuyển máy bay của Liên Xô qua Việt Nam bằng đường hàng không thay vì bằng đường xe lửa. Kiều Quán Hoa: Tôi có một vấn đề cần thảo luận với đồng chí đại sứ. Đây là một vấn đề cụ thể liên quan đến viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Ngày 6 tháng 5 năm 1967, chúng tôi được đồng chí Thứ trưởng Nghiêm Bá Đức (1) và đồng chí Phạm Thanh Hà (2) thông báo ở Hà Nội và Bắc Kinh rằng, tháng 5 và tháng 6 năm 1967, Liên Xô sẽ cung cấp cho Việt Nam 24 máy bay Mig-17 và Mig-21 (12 máy bay mỗi loại) và chúng tôi cũng được yêu cầu giúp vận chuyển những máy bay này đi qua ngõ Trung Quốc. Ngày 9 tháng 5 năm 1967, đồng chí Phạm Thanh Hà chính thức thông báo với Ủy ban Kinh tế Đối ngoại của chúng tôi là, 24 máy bay này sẽ được vận chuyển bằng đường xe lửa. Sẽ có hai chuyến hàng, mỗi chuyến có thể chở 12 máy bay. Tuy nhiên, cùng vấn đề này, phía Liên Xô thông báo cho chúng tôi khác đi: ngày 8 tháng 5, họ yêu cầu máy bay AN-12 của họ chở 24 máy bay này đi qua vùng trời của Trung Quốc trong khoảng thời gian 10 ngày, từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 24 tháng 5 năm 1967. Ngày 9 tháng 5 năm 1967, đồng chí Nghiêm Bá Đức tại Hà Nội đề xuất kế hoạch vận chuyển bằng đường hàng không. Lãnh đạo của chúng tôi đặt nặng vấn đề này trong chương trình nghị sự. Chúng tôi đã nghiên cứu yêu cầu của cả hai phía Việt Nam và Liên Xô rất cẩn thận. Thay mặt chính phủ Trung Quốc, tôi muốn thông báo cho đồng chí đại sứ, rằng chúng tôi đồng ý với kế hoạch đề xuất của đồng chí Phạm Thanh Hà về việc vận chuyển 24 máy bay bằng đường xe lửa, chứ không phải bằng kế hoạch vận chuyển bằng đường hàng không. Việc vận chuyển bằng đường hàng không 24 máy bay này là một vấn đề quan trọng. Như đồng chí Đại sứ đã biết, ý kiến của chúng tôi từ lâu khác với ý kiến của phía Liên Xô. Từ đầu năm 1965, khi viện trợ của Liên Xô bắt đầu đến Việt Nam, nhiều lần Liên Xô đề nghị chuyển hàng đến Việt Nam bằng đường hàng không, qua vùng trời của Trung Quốc. Nói chung, chúng tôi không đồng ý với ý kiến đó. Trước đây, Việt Nam cũng không đồng ý vận chuyển bằng đường hàng không, bởi vì các ông hiểu lập trường của chúng tôi [về vấn đề này]. Lần này, tôi muốn nói rõ ràng hơn với các đồng chí Việt Nam về lý do tại sao Liên Xô muốn vận chuyển hàng viện trợ cho Việt Nam bằng phương pháp này. Trong vài năm qua, bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng của mình, Liên Xô đã và đang cố gắng công bố công khai số hàng viện trợ với quy mô lớn cho Việt Nam. Chúng tôi cho rằng Liên Xô cố ý làm như vậy để cho Hoa Kỳ biết về khoản viện trợ quy mô lớn của Liên Xô cho Việt Nam và làm như vậy, Liên Xô tiết lộ một số bí mật cho phía Mỹ. Trong vài năm qua, chúng tôi giúp Việt Nam vận chuyển hàng viện trợ bằng tàu hỏa, rất an toàn và kịp thời. Phía Việt Nam cũng đã rất hài lòng. Vậy tại sao lần này Liên Xô đòi vận chuyển bằng đường hàng không? Nếu Liên Xô phải sử dụng đến việc vận chuyển bằng đường hàng không với quy mô lớn, máy bay do thám Mỹ – vốn luôn bay trên bầu trời Trung Quốc – sẽ phát hiện ra ngay, sau khi máy bay của Liên Xô cất cánh khỏi Irkutsk. Lập trường của chúng tôi về vấn đề này rõ ràng đối với Việt Nam: làm như vậy, Liên Xô muốn khoe khoang với Hoa Kỳ [về khoản viện trợ cho Việt Nam], công khai tiết lộ bí mật quân sự cho kẻ thù. Họ cũng sử dụng viện trợ cho Việt Nam để kiểm soát tình hình và hợp tác với Mỹ, để buộc Việt Nam phải chấp nhận đàm phán hòa bình. Báo chí phương Tây thậm chí còn nói rằng Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam để tạo ra tình trạng đối đầu trực tiếp giữa Liên Xô – Mỹ, điều này sẽ dọn đường cho thỏa hiệp. Tôi đưa nhận xét của chúng tôi về vấn đề này để cho các ông hiểu rõ lập trường của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý định áp đặt nó lên các ông. Tóm lại, chúng tôi cho rằng: (1) đề nghị của Liên Xô về vận chuyển bằng đường hàng không là có ý xấu và là một âm mưu, (2) việc vận chuyển những chiếc máy bay này là một hành động quân sự lớn, nhưng Liên Xô đã không tham khảo ý kiến với chúng tôi và buộc chúng tôi phải chấp nhận. Điều này không có gì khác hơn là thái độ của người theo chủ nghĩa Sô vanh. Nguồn: wilsoncenter.org Ngọc Thu (Bản tiếng Việt) ————————————————– Ghi chú: 1. Nghiêm Bá Đức, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương VN Dân chủ Cộng hòa từ năm 1954, thành viên của đoàn đại biểu kinh tế đến Liên Xô và Đông Âu giữa năm 1965 và 1975. Sau đó làm cố vấn kinh tế tại Lào. 2. Phạm Thanh Hà là sĩ quan hậu cần quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là người dẫn đầu phái đoàn viện trợ quân sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh từ năm 1965-1973. ********************
|
|