|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2012 8:53:31 GMT 9
Ký Giả Nằm Vùng Tạ Quang Khôi Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen. 1. Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ. Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát thanh Saigon. Tôi liền nói: - Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay. Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao? Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ông không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng ở báo nào. Một hôm, ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được dấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975. Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon. Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ông phải viết cho báo Tiếp Thị để tạm sống qua ngày. Mỗi lần về Nam Ðịnh thế nào ông cũng ghé thăm ông anh rể và bà chị ruột tôi. Bây giờ thì cả ba người đều không còn nữa. Trong môt bức thư khác ông cho biết vợ ông đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị bỏ rơi. Lương qua đời vì bệnh ung thư. 2. Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy? Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xuất bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 13, 2012 3:53:27 GMT 9
Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990tranquangcohội nghị thành đô năm 1990Chu Tich Giang Trạch Dân giơ tay nắm lấy cánh tay của TBT An Nam Nguyễn Văn Linh lôi đi sềnh sệch như con diều hâu tha con gà con chó, rất đúng với hoàn cảnh khom lưng quỳ gối của bọn CSAn Nam tay sai bán nước, hèn mạt với kẻ thù, ác với dân. Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta. Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy. Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị. Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào. Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt. Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc. Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài. Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân. Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc. Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy. Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen! Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới! Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990. ——————————————————- Phụ lục Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990 Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011 “…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”… … … Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam. … … …Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên). … … …Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được… … … …Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”… … … …Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “ vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm…. … … …Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết) Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề … … …Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả” …Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào? (1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm. Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên, Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc”(Hồi ký Trần Quang Cơ) Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ … Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa. (2)Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất khuất, không sợ địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta. Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong lai…. … …” Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012 Nguồn: Nguyễn Trung (Viet-studies)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2012 8:39:02 GMT 9
Chủ tịch " vo cung kinh yeu" Tôn Đức Thắng “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc : Nói láo và làm bậy. Hễ họ nói là nói láo, hễ làm là làm bậy. Xin độc giả nhớ dùm cho như vậy“.(10) (10)Xuân Vũ Ông Tôn Đức Thắng (1888-1980) vốn là một công nhân- một người cộng sản đúng nghĩa. Ông tốt nghiệp trường École des mécaniciens asiatiques de Sai Gòn. Tên Việt Nam gọi là trường bá nghệ. Sau khi tốt nghiệp, ông được nhận vào làm công nhân xưởng Ba Son, nhà máy sửa chữa tàu thủy của người Pháp. Năm 1912, ông có tham gia bãi công và sau đó được gửi sang Pháp làm ở Toulon, miền Nam nước Pháp. So với các nhà lãnh đạo cộng sản khác như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Ông Tôn Đức Thăng chỉ là môt người thợ tầm thường, gia đình điên chủ miệt vườn, trong khi những nhà lãnh đạo khác, họ đều thuộc loại “con nhà, trí thức”, có uy tín chính trị và được nhiều người biết tới. Còn đối với các người lãnh đạo cộng sản trong Nam Bộ sống đồng thời với ông, ông cũng hầu như không được nhắc nhở tới, nhất là thời kỳ Mặt trận Bình dân ở Pháp, 1936-1937. Lý do bởi vì tài liệu chính thức hiện nay cho thấy, ông không có tham gia vào các hoạt động của đảng Cộng sản ở Sài Gòn trong những giai đoạn biến động nhất như sẽ trình bày sau đây. Người ta nói nhiều tới các người trí thức như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Tạo, Phạm Ngọc Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Trịnh Đình Thảo, Lê Quang Liêm, Nguyễn Văn Tân. Nhưng đọc nhiều tài liệu thời bấy giờ, không cho phép ta biết gì nhiều về ông. Hầu như không có mấy tài liệu nhắc tới. Nhưng ông lại có hai cái lợi thế trong cuộc đời làm chính trị của ông sau này. Lợi thế thứ nhất, ông sống cùng thời với ông Hồ nên sau này đã có “Bác” Hồ ở ngoài Bắc thì có thêm ” bác” Tôn ở trong Nam cho cân xứng!! Cái lợi thế thứ hai, ông vốn gốc gác miền Nam, dân thợ chính gốc, hẳn cũng là duyên cớ không nhỏ để sau này người ta cố tình đánh bóng ông có thể cả “ngoài ý muốn “của ông nữa! Trường hợp của ông nhắc nhở đến câu truyện Phan Thanh Giản dưới thời Nguyễn- P.T.G là người miền Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ ở miền đất mới. Nhưng nếu Phan Thanh Giản đem lại một uy tín về mặt văn học cho miền Nam thì Tôn Đức Thắng thuộc vấn đề uy tín chính trị. Và sau đây là thực trạng hiếm hoi nhân tài của miền đất mới trong việc thi cử: “Tỉ lệ thi đỗ ra làm quan ở đất Nam Kỳ chỉ chưa tới 2% so với toàn quốc. Trong số các tỉnh phía Nam, Gia Định và Biên Hòa có số người đỗ cao nhất. Vậy mà so với cả nước, số thí sinh thi đỗ của tỉnh Gia Định thường là cầm cờ đỏ. Tỉ dụ trong khoa Giáp Tý, Tự Đức thứ 17, 1864, Thừa Thiên đỗ 28 người, Nghệ An 19, Hà Nội 24, Nam Định 21, An Giang 10 người. Cắt nghĩa về điều này thì một phần miền đất miền Nam là miền đất mới, vừa chơi, vừa làm cũng đủ ăn do thiên nhiên ưu đãi .. Những người đi khẩn hoang thường chữ nghĩa không đầy một cái lá me (chữ dùng của Sơn Nam) thường không rành cách ngôn Thánh hiền. Vì vậy chuyện thi cử bị coi là nhẹ. Trường hợp cụ Phan Thanh Giản đồ tiến sĩ là món quà Huế tặng cho nhân dân miền Nam để khuyến khích họ. Vì vậy, biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái của kết quả thi cử, nhưng cũng thừa nhận rằng: có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh không qua con đường cử nghiệp. Giữa một điền chủ và một ông quan Huyện, người dân miền Nam đã hẳn biết chọn tương lai của mình về phía người nào” .(1) (1)Lịch sử còn đó, Nguyễn Văn Luc., Một góc nhìn mới về thi cử ở nước ta, trang 23-24. Phan Thanh Giản (1796-1867), tổ tiên gốc người Tàu, kỳ thi Hội, năm 1826, lấy đỗ 10 tiến sĩ trên tổng số 200 thí sinh 7 Bắc Kỳ, 2 Trung Kỳ, 1 Nam Kỳ. Cuối đời, sau một số ngày nhịn đói, ông tự tử bằng thuốc độc. Lúc đó, ông thọ 71 tuổi(2) (2)Thơ văn Phan Thanh Giản, Phan thị Minh Lê, Chương Thâu. Sau này một người kể như đồng thời với ông Tôn Đức Thắng cũng than vãn về sự hiếm hoi nhân tài ấy trong bài Văn Miếu ở Nam Kỳ: “Dưới triều Nguyễn, ở Nam Kỳ có đỗ đạt lưa thưa vài bốn ông tiến sĩ ( không có vài bốn ông) mà Phan Thanh Giản là được sự nghiệp hiển hách hơn cả … Rồi trường Cao Đẳng, rồi trường cao học, rồi trường đại học, lần hồi thiết lập, đều ở cả Hà Thành. Người đỗ đạt cao ở bên Pháp về như các ông Ngụy Như Kontoum, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Nguyên, Ngô Đình Nhu dều cũng là ở Trung, hoặc ở Bắc .. Cho đến văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ sau buổi ra tường cao tiểu học hoặc trung học, cũng không phải ở Nam Kỳ mà có. Vô duyên thay xứ Nam Kỳ. Tôi muốn nói vô duyên với sự học thời kim như thời cổ”.(3) (3) Tạp chí Tri Tân, số 144, ngày 01-05-1944 Cho nên phải chăng chữ Bác dành cho ông Tôn Đức Thắng là môt sự cân bằng tính toán chính trị mà không biết ai đã nghĩ ra được.. Thôi thì xin bái phục Đảng!! Bối cảnh chính trị, xã hội những năm 1925 và 1936- thời Tôn Đức Thắng Ông Tôn Đức Thẳng thuở thiếu thời đã có ” may mắn” sống một thời kỳ chính trị xôi động nhất từ những năm 1925- và kết thúc vào năm 1930 với việc kết tử hình Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí. Thời kỳ này tổng cộng có đến 6897 vụ án tù chính trị , trong đó có 164 án tử hình phần lớn các vụ hành quyết này xảy ra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Không biết bao nhiêu án tù khổ sai hoặc cấm cố có kỳ hạn, không biết nao nhiêu người đã nằm xuống. Những người này hy sinh chống Pháp này đa số là những người yêu nước không đảng phái, trừ trường hợp Nguyễn Thái Học. Trong số cả gần 10 ngàn tù chính trị bi bắt giam cầm, có bao nhiêu người tù là cộng sản? Trong số hàng trăm án tử hình cho những người dám tranh đấu chống chế độ thực dân Pháp, có bao nhiêu người cộng sản bị tử hình trong số đó? Hay vẫn chỉ có Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi? Đặc biệt có trường hợp Lý Tự Trọng, bị chém ở Sài Gòn ngày 20–11-1931. Đã có người nào trong số họ được vinh danh, được có tên trên đương phố Sài Gòn hay Hà Nội. bên cạnh đường Trương Chinh, Tôn Đức Thắng? Lịch sữ vẫn còn đó … Những giai đoạn tranh đấu sôi động này, danh tánh những người đi làm cách mạng này hầu hết hiện nay bị rơi vào quên lãng .. Đó là thiệt thòi mà chúng ta có bổn phận phải viết lại lịch sử của môt thời- mà trong đó đảng cộng sản chỉ giữ vai trò nhỏ nhoi. Trong giai đoạn này, tôi hỏi mãi, tìm tài liêu xục khắp nơi, tôi tự hỏi ông Tôn Đức Thắng làm được điều gì? Hay lặng lẽ ẩn dật trong vai trò một công nhân nhà máy xưởng Ba Son? Giai đoạn cực kỳ xôi động 1936-40 mà những biến động đều phần lớn xảy trong khuôn khổ pháp luật, tranh đấu hợp pháp bằng báo chí, bằng đình công, bãi thị thì rất tiếc ông Tôn Đức Thắng bị ngồi tù Côn Đảo. Trong lúc cao trào chống thực dân Pháp nổ ra sớm dưới nhiều hình thức như đình công, bãi thi, lãn công vv.. Vậy mà trong bối cảnh xã hội chính trị thời ấy, 1925 ông Tôn Đức Thắng chỉ là một đại diện thành viên của Thanh niên Cách mệnh Đồng Minh hội chịu sự chỉ huy trực tiếp từ Quảng Châu do sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh ( đồng chí Vang) và Lâm Đức Thụ. Vì thế, những biến động ấy xảy ra ở ngoài tầm tay của đảng cộng sản cũng như ông Tôn Đức Thắng. Những cuộc bãi công do sự phẫn nộ và tầm ý thức về sự “bóc lột” của thực dân Pháp càng ngày càng nhiều, nổ ra ở nhiều nơi làm thực dân Pháp lo ngại. “Ngày 19/8, 320 phu đồn điên Michelin ở DầuTiếng đình công, tên cai vũ phu bị đuổi. Rồi tiếp theo phu đồn điền cao su ở Quảng Lợi. Tại Bến Củi môt công nhân bỏ trốn, bị bắt lại, bị còng chân, sau đó, anh đã tự tử. Tên giám thị sát nhân Somitz bị kết án ba tháng tù .. 13/11, 400 cu ly làm ở sở Tân Mai, họ đã bãi cồng và chiếm xưởng. Đến tháng 11 và tháng chạp, thợ cưa ở Hóc Môn rồi thợ Tân An cũng đấu tranh đòi tăng lương. Trong cái tinh thần đòi hỏi ấy, các hãng xưởng nhỏ như xưởng mộc, lò gạch, xưởng xà phòng cũng rục rịch bắt chước làm theo .. Tại miền Bắc, vào tháng 11 năm 1936, 20.000 công nhân thợ mỏ Hòn Gay ngưng việc đòi bọn cai không được đấm đá, đánh đập bằng gậy gộc, bằng roi gân bò và đòi tăng lương từ 18 xu đến 35 xu. Nhà máy xi măng Hải Phòng cũng đình công với những yêu sách tương tự“.(5) (5)Ngô Văn, Việt Nam1920-1945, 324 Tất cả các cuộc đình công này đều nổ ra một cách “tự phát” và không do sự hướng dẫn nào của các đảng cộng sản. Mặc dầu ngay từ năm 1925 đã có cuộc đình cộng tại xưởng Ba Son với sự có mặt của ông Tôn Đức Thăng. Nhưng càng ngày các cuộc đình công càng được mở rộng với những yêu sách chính đáng đã gây những lo ngại cho chính quyền thực dân và họ không thể dùng phương tiện đàn áp như trước đây nữa. “Hàng ngàn công nhân đường sắt, thợ máy, lái tàu, trưởng toa và phu phen tại các trạm ở Sài Gòn và Dĩ An ngưng làm việc. Không có một chuyến tàu nào chạy, kể từ ngày 15. Ngày 18, sau khi kỹ sư trưởng Gôdforoy thỏa thuận ít nhiều trong 8 yêu sách, họ mới đi làm trở lạl. Tới ngày 7,tới phiên các lái xe điên và ôt tô bãi công, số người tham gia nhanh chóng lên tới 493 người Cuộc bãi công này kéo dài tới năm 1937, được anh em sở Ba-Son ủng hộ . Kết quả 485 công nhân bị đuổi việc năm 1937, sở xe điện chỉ thu lại 148, lương tăng thêm vài xu “.(6) (6) Ngô Van, Ibid, trang 324-325 Vì thế nếu có những biến động chính trị, những phong trào Hành Động nổi lên là do hai yếu tố: Sự ra đời của chính phủ bình dân bên Pháp và sự nhập cuộc, sự trở về từ bên Pháp của nhóm đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Phan Văn Hùm vv..Ở đây chỉ xin giới hạn giới thiệu vài dòng về Mặt trận Bình dân mà thôi. Mặt trận Bình dân ở Pháp Phải nhìn nhận Mặt trận Bình Dân ở Pháp năm 1936-1937có một tầm ảnh hưởng quan trọng đến tình hình chính trị ở Nam Bộ, nhất là cùng lúc có sự trỗi dạy của Đảng cộng sản. Trước hết, xin nhắc lại một chút lịch sử nước Pháp. Vào ngày 3 tháng năm, năm 1936, trong cuộc tuyển cử lập pháp ba đảng Liên minh chiếm đại đa số. Đảng xã hội 147 đại biểu, cấp tiến 116, cộng sản 72 và các nhóm xã hội cộng hòa 41, tổng công 376 đại biểu. Trong khi các đảng phái ” Quốc Gia” chỉ có 220 đại biểu. Tình hình kinh tế nước Pháp nguy ngập với hàng triệu người thất nghiệp, vì thế mà các đảng Liên minh xã hôi đã thắng cử với Léon Blum làm thủ tướng thay thế Albert Sarraut .(7) (7) Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, trang 313 .. Và việc làm đầu tiên của Tổng Bí thư của đảng cộng sản Pháp Thorez, có sự hỗ trợ của Stalin là đã đặc biệt hỗ trợ Đảng cộng sản Đông Dương cùng với Doriot. Cả hai đã tìm cách “hồi sinh” cho đảng cộng sản Đông Dương bằng cách là yêu cầu Léon Blum : Ân xá cho tù chính trị ở Đông Dương. (8) (8)Đảng cộng sản Việt Nam, Cao Thế Dung, trang 414 Việc ân xá này đã mở ra một cơ hội lớn cho đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều lãnh đạo chính trị đã được thả ra trong dịp này và sau này là những nhân tố quyết định cho sự thành công của đảng cộng sản. Chính phủ Bình Dân Pháp đã thổi một luồng gió mới đầy hy vọng vào các thuộc địa, trong đó có Nam Bộ ..Tân Tổng trưởng thuộc địa thuộc đảng Xã hội đã đưa ra chính sách rộng rãi và khoan hồng, trong đó có thả tù binh chính trị.Chính phủ của Mặt trận Bình Dân của Pháp đặc biệt còn tuyên bố thả các tù chính trị tại thuộc địa. Đây là cơ hội ” bằng vàng” cho các người tranh đấu chống lại thực dân Pháp. Đây cũng là cơ hội may mắn cho đảng cộng sản Việt Nam vì trong số người được thả có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng.- những người lãnh đạo hàng đầu của đảng cộng sản Việt Nam sau này. Ông Trường Chinh là một chính trị phạm mới đầu bị giam ở Hỏa Lò, sau đó ông bị kết án 12 năm khổ sai đầy đi Sơn La. Ông chưa ở hết hạn tù 12 năm thì được thả về vào năm 1936 theo chính sách ” cởi mở” của chính phủ Bình dân bên Pháp ..Ông Phạm Văn Đồng bị giam mười năm tù vì dính dáng trong vụ án giết người tại đường Barbier. Các tù chính trị đều được thả hết. Nhờ vào cơ hội này, họ có cơ hội tiếp tục tranh đấu chống thực dân Pháp. Tuy nhiên trừ một người không được cái may mắn như thế. Đó là trường hợp ông Tôn Đức Thắng như sẽ trình bày ở phần sau. Phần ở Nam Bộ, các nhóm Hành Đông lợi dụng tình thế mới, cởi mở hơn đã xuất hiện nhiều nhóm Hành Động trong đó có nhóm Đệ Tam và Đệ Tứ. Nhóm đệ tam do Trần Văn Giàu trong dịp này đã lần lượt hạ sát các người của cộng sản đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Quang An, Huỳnh Văn Phươngvv..Đã không biết bao nhiêu người đã bị chết oan. Trần Văn Giàu được coi là người lãnh đạo gây ra các cuộc sát hại này cùng với ông Nguyễn Văn Trấn ( tác giả viết cho Mẹ và Quốc Hôi, 1995) gây ra những tai tiếng nhất là thời kỳ kháng chiến Nam Bộ- Cộng với những tai tiếng cá nhân như là tay chân làm việc cho Pháp cũng như giết hại đồng chí đệ tứ đã không bao giờ được minh bạc hóa. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu, trong Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp, nhân dịp Trần Văn Giàu sang Paris tháng 10/1989 đã được ghi lại như sau:” Trong cuộc gặp gỡ được thâu băng ở Paris ngày 17-10- 1989, hiện con lưu giữ, Trần Văn Giàu đã bị chất vấn về việc Tạ Thu Thâu đã bị xử tử và gán cho tội” Việt gian phá hoại”, do một tên Huyện Ủy tiểu tốt tên Tữ Ty ở Nghĩa Hành, Quảng Ngãi. Trần Văn Giàu đã cao hứng long trọng hứa ” Tôi sẽ rửa tiếng cho Tạ Thu Thâu, nếu đảng cộng sản không chịu rửa tiếng”. Nhưng từ ngày hứa đó cho đến nay, chưa hề thấy Giàu chánh thức nói lên một tiếng gì cả “.(9) (9) Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, trang 380-381. Trong thời gian hai nhóm đệ tam, đệ tứ thanh toán nhau thì ông Tông Đức Thắng vẫn còn tiếp tục lãnh án tù 20 năm ở Côn Đảo. Phần tìm hiểu chủ tịch Tôn Đức Thắng, hiện nay có thể chia ra hai nguồn dư luận khác nhau về cuộc đời chính trị của ông. Sự phân chia như thế cho thấy việc tìm hiểu con người và hoạt đông chính trị của ông thêm phần khó khăn vì có nhiêu điều được che dấu và nhiều điêu bịa đặt đến vô căn cứ. Có thể chính ông Tôn Đức Thắng trở thành nạn nhân của những điều tôn xưng không cần thiết ấy. Ông trở thành cái điều mà nhà văn Xuân Vũ- một cựu cán bộ cộng sản mới hiểu rõ cộng sản là cái gì- Xuân Vũ cay nghiệt đưa ra một nhấn xét kết thúc trong một cuốn sách của ông: “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc : Nói láo và làm bậy. Hễ họ nói là nói láo, hễ làm là làm bậy. Xin độc giả nhớ dùm cho như vậy“.(10) (10)Xuân Vũ, SĐD trang 335 Ở trong nước thì đã có khá nhiều cuốn sách, nhất là các bài báo viết về cuộc đời của ông Tôn Đức Thắng như : Đồng chí Tôn Đức Thắng, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, (NXB Sự Thật, 1982) và cuốn: Người thủy phản chiến ở Biển đen, (NXB Thông tin, lý luận, 1988). Ngoài ra còn có nhiều bài báo đủ loại khác viết về ông. Một số tài liệu ở hải ngoại thu tập được mà quan trong nhất là Hồi ký 1925-1945 của Nam Đình, Duy Văn Sử quan của Mạc Đình Hoàng Văn Chí, Đảng cộng sản Việt Nam của Cao Thế Dung, Viết cho mẹ va Quốc Hội, Nguyễn Văn Trấn, Việt Nam 1920-1945 của Ngô Văn.v.v. Tài liệu ngoại quốc quan trọng nhất là của chuyên gia viết sử về ông Tôn Đức Thắng, ông Christoph Giebel , một luận án tiến sĩ về ông Tôn Đức Thắng . ** Về việc đi tù của ông Tôn Đức Thắng Theo tài liệu trong nước qua hồi kýcủa ông Nguyễn Văn Ngự (Chín Phước), nguyên Phó ban Kinh Tài Trung ương Cục miền Nam, kể lại chuyện về người đã chịu án tử hình của thực dân Pháp thay đồng chí Tôn Đức Thắng trong vụ án tại đường Barbier, Sài Gòn năm 1929. Đó là ông Trần Văn Trương cùng với hai người anh là ông Thinh và ông Thêm. Trong hồi ký, ông Ngự cũng tiết lộ chuyến vượt ngục Côn Đảo thành công của ông hồi cuối những năm 1930, ban đầu dự kiến có đồng chí Tôn Đức Thắng nhưng rất tiếc, đến phút chót đồng chí Tôn đã không kịp có mặt trên chiếc bè vượt biển đầy sóng gió. Năm 1929, cơ quan Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội họp tại Sài Gòn, biểu quyết phải giết tên Phát, một tay sai đắc lực của Pháp. Ông Trần Văn Trương không tán thành nhưng vì đa số đã quyết nghị nên ông phải chấp hành. Vụ ám sát bị lộ, các đồng chí Tôn Đức Thắng, Trần Văn Trương, ông Thinh, ông Thêm và một số đồng chí khác tại cơ quan Kỳ bộ đều bị bắt. Vào bót Pôlô ở Chợ Lớn, địch cố tra tấn và gán cho đồng chí Tôn Đức Thắng tội chủ mưu giết người để có cớ giết vị lãnh đạo Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam Kỳ. Ông Trần Văn Trương lúc ấy mới ngoài 20. Ông nghĩ rằng mình chưa có vợ con nếu chịu chết thay đồng chí Tôn Đức Thắng thì không có gì vướng víu. Vả lại đồng chí Tôn Đức Thắng sống sẽ phục vụ cho cách mạng được nhiều hơn mình. Do đó, ông Trương khai nhận mình là chủ mưu. Đúng như ông Trần Văn Trương nói, ông nhận tội để sau này Bác Tôn đã cống hiến nhiều hơn cho cách mạng. Ảnh tư liệu. Ở bên ngoài, bà Trần Thị Cừu – cô ông Trần Văn Trương cũng là cô ruột Giáo sư-nhạc sĩ Trần Văn Khê, cùng Đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh Đình Thảo… vận động và biện hộ nên đồng chí Tôn Đức Thắng không bị án tử hình mà chỉ án chung thân khổ sai đày đi Côn Đảo.(11) (11) Hồi ký NguyễnVăn Ngự. Nhưng một tài liệu khác lại đưa ra một version khác hẳn, phơi bày sự thật bên trong nội vụ bản án của vụ Tôn Đức Thắng. Tài liệu cho hay ông Tôn Đức Thắng đã phạm tội hình sự vì đã giết một đồng chí khác chỉ vì ghen tương ngay tại Nam Kỳ bộ của Đông Dương cộng sản ở dường Barbier, Saigon. Sau này, người ta quen gọi là vụ án giết người đường Barbier. Tài liệu viết như sau: “Năm 1937 (chính ra là 1936), Mặt trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, nên chính sách của Pháp ở Việt Nam có đôi phần cởi mở. Pháp thả hết tù chính trị, trong số có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên có một số đảng viên cộng sản không được tha vì trước kia bị kêt’ án về tội giết người. Trong số những người này có Tôn Đức Thắng, bị đày ra Côn Đảo về tội giết đồng chí, ngay tại trụ sở Nam Kỳ bộ của Đông Dương cộng sản Đảng ở đường Barbier, Sài Gòn. Tại nơi này có một nữ đồng chí và hai nam đồng chí, một là Tôn Đức Thắng. Ghen nhau, Tôn Đức Thắng giết tình địch, đốt cháy mặt mũi và mười đầu ngón tay, nhưng mật thám Pháp cũng điều tra ra và vì vậy nên Tôn Đức Thắng bị coi là ” thường phạm”, không được Pháp tha về cùng với những ” chính trị phạm” như Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Mãi đến năm 1945, mới được chính phủ Trần Trọng Kim tha về, và năm 1969 lên làm ” chủ tịch bù nhìn”, kế vị Hồ Chím Minh”.(12) (12) Mạc Định Hoàng Văn Chí, Duy Văn Sử quan, trang 166, sách xuất bản sau khi tác giả đã qua đời do tiến sĩ Hoàng Việt Dũng, con trai của học giả Hoàng Văn Chí tổng tập và duyệt bản. Nhưng tài liệu được trích dẫn sau đây được coi là khách quan và chi tiết nhất về vụ án đường Barbier liên quan đến ông Tôn Đức Thắng và Phạm Văn Đồng. Tài liêu này dựa trên các tin tức đăng tải trên các báo thời kỳ đó như Écho Annamite, La Dépêche d’Indochine. Đọc tài liệu này rồi thì đọc Hồi ký Nguyễn Văn Ngự được trích dẫn chỉ cho thấy tác giả đã che dấu, đánh lạc hướng tính chất tội phạm của nạn nhân: như vu cáo cho Phát là tay sai cho Pháp mà không trưng ra được bất cứ bằng cờ nào. Một sư bịa đặt đến hèn hạ, giết oan một thanh niên. Sự bịa đặt câu truyện một tù nhân khác tên Trương nhận là chính phạm để chết thay cho ông Tôn Đức Thắng là một sự dựng đứng thô bỉ cùng cực. Mong là ông tác giả Nguyễn Văn Ngự ở trong nước đọc được toàn thể bản văn trích dẫn dưới đây để ông suy nghĩ lại về việc cầm bút của ông. Điều này cũng cho phép người viết trong những điều kiện có thể trong tương lai phanh phui ra những mặt tối, mặt dấu kín của các nhân vật lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Lê Duẩn cho đến những Nguyễn Văn Linh, Đồ Mười, Trần Văn Dầu, Đào Duy Anh …vvv Một công việc cực kỳ khó khăn, mười phần không chắc nói ra được một phần. Và mong nhận được những thông tin từ những người có trách nhiệm trong nước để bổ xung thêm tai liệu. Vụ án mạng đường Barbiê, Sài Gon: “Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo đã diễn ra trong giữa phân bộ Thanh niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở Nam Kỳ. Lê Văn Phát bí danh Mỹ, Lang) bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội, theo điều lệ của Đảng, vì anh ta “ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt”. Tội của Phát là “không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng^.. Ba người trong số các đồng chí trẻ nhất của Phát ( 23, 24, 26 tuổi) phải thi hành án quyết đã được tòa án cách mạng chuẩn y. Tôn Đức Thắng chủ trì tòa án, lúc đó 40 tuổi, đứng đầu kỳ bộ. Vì đâu (vì tự ái ghen tương?) án quyết thủ tiêu một đồng chí không tương xứng với ” lỗi lầm” bí mật ấy vẫn âm u trong bóng tối? Một vụ sát nhân chính thức, ba nạn nhân cùng một lúc đáp lại vụ ám sát trên: Tòa Đại hình Sài Gòn ngày 15/7//1930 kết án tử hình ba người thi hành án quyết trên kia. Tòa chỉ tuyên phạt Tôn Đức Thắng, người sau này kế vị chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1969) 20 năm khổ sai, và Phạm Văn Đồng(về sau là thủ tướng của chính phủ Hồ Chí Minh) 10 năm tù cấm cố Hai mươi ba người khác trong phân bộ phải chịu án tù tổng cộng 100 năm. Phân bộ Nam Kỳ hoàn toàn tan vỡ. Hai năm, năm tháng sau vụ ám sát, bọn cầm quyền chuẩn bị hành quyết những người bị kết án tử trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 5, năm 1931. Máy chém dựng đồ sộ trước cổng Khám lớn Sài Gòn, lính cảnh sát xếp hàng dầy đặc ngăn đón các con đưỡng, chánh sở mật thám có mặt tại đó tay lăm lăm khẩu súng lục. Vào lúc bốn giờ sáng, ba cái đầu người trẻ tuổi rơi xuống sau tiếng hô cuối cùng” Đả đảo đế quốc Pháp”. Sử chính thức cùng truyện ký về lãnh tụ không bao giờ nhắc lại vụ sát nhân thô bỉ này. Nó có thể làm lu mờ hình ảnh của “người anh hùng Hắc Hải” Tôn Đức Thắng được phong danh hiệu như vậy để kỷ niệm cuộc nổi dậy tháng 4 năm 1919 trên chiến hạm Pháp mà người dân thuộc địa là Tôn ĐứcThắng được đội thủy thủ Pháp chỉ địn kéo lá cờ đỏ thượng lên . Nếu ai muốn biết rõ hơn, thì đây: Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1928, mật thám phát hiện trong sân đằng sau căn phố số 5 đường Barbier, Sài Gòn, một xác người đàn ông đã bị biến dạng, mặt và tóc cháy xém, tay bị trói quặt sau lưng, họng bị cắt, ngực bị đâm hai chỗ. Sau này, người ta được biết, người bị ám sát là Lê Văn Phát đã từng là đại biểu đi dự Đại Hội lâm thời của Thanh Niên ở Hương Căng…Phát bị tòa án cách mạng do Tôn Đức Thắng chủ trì, xét xử bí mật và kết án tử hình vắng mặt. Người ta kết tội Phát “lạm dụng quyền hành do chức vụ đảng do thám để hãm hiếp một đồng chí ” do Quảng Châu đặt ra .. Kỳ bộ thành lập một tòa án vào đêm 29 tháng 11 gồm các ủy viên của Kỳ bộ Nam Kỳ và Tỉnh Bến Tre tại nhà Bùi Văn Thêm, số 72 phố Polo Bơlănsy. Trong số các thẩm phát đột xuất này có ba người là Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm đã từng là thợ trong xưởng Kropff, nơi mà Tôn Đức Thắng làm cặp rằng; Trần Trương và Nguyễn Trung Nguyệt là bà con họ hàng với vợ Tôn Đức Thắng. Do đó, uy tín của Thắng không phải chỉ vì có tuổi. Trước tiên ba thẩm phán trong phiên tòa đó bỏ phiếu chống tử hình. Nhưng áp lực của đa số là 5 thẩm phán kia làm xiêu lòng ba người, họ tự lấn áp” tình cảm cá nhân” của mình đúng theo giáo lý (Le catéchisme) do Quảng Châu đặt ra. Trong số các đồng chí của Phát, ai sẽ là người thi hành án ? Với nhiệm vụ khủng khiếp này, ba đồng chí trẻ tuổi nhất rút trúng thăm. Đó là Ngô Thiêm, bí thư kỳ bộ, người Nghệ An, Nguyễn Văn Thinh, bí thư của Lê Văn Phát và là chủ bút của tờ Công Nông Binh, sinh ở Gò Công; và Trần Trương, người Mỹ Tho. Họ còn phải đốt mặt Phát làm biến dạng xác chết theo sáng kiến của Thắng. Sau này, theo tờ Annam Hướng truyền ( Écho Annamite), Tôn Đức Thắng tuyên bố như sau: “Ngô Thiêm đã dẫn dắt tôi vào hoạt động Cách Mạng. Tôi gia nhập Hội Thanh Niên Cách Mạng năm 1927. Tôi là đại diện của Tổng bộ Quảng Châu ở Kỳ bộ Nam Kỳ …Những mưu toan của Lang đối với em gái chúng tôi là Thị Nhứt khiến tôi lên án kẻ phạm tội đó. Tôi không hề đứng về phía tán thành cái hình phạt quyết liệt đó. Dù sao tôi cũng vì kỷ luật buộc phải tuân theo đa số. Chính tôi đã ra lệnh cho Thinh làm biến dạng bộ mặt của xác chết”. Kết quả, ngày 18 tháng 7 năm 1930, vào lúc 20 giờ, chủ tiuch. phiên tòa hạ lệnh giải tỏa phòng xử án, còng tay các tù nhân ngay sau khi tuyên án và dẫn chúng đi ngay, từng nhóm nhỏ. Án quyết như sau: Tử hình 3 người là Trần Trương, Ngô Thiêm và Nguyễn Văn Thinh. Tôn Đức Thắng, 20 năm khổ sai. Đặng Văn Sâm và Bùi Văn Thêm 10 năm khổ sai . Nguyễn Trung Nguyệt 8 năm khổ sai. Cấm cố 23 đảng viên, trong đó có Phạm Văn Đồng, tổng cộng hơn- 100 năm tù”.(13) (13)Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, trang 126-130. Trích các báo AOM 7F55; Écho Annamite, La Dépêche d’Indochine, L’impartial, ngày 17, 18 và 19 tháng 7 năm 1930. Trong lời khai của ông Tôn Đức Thắng có bốn điều cần ghi nhận: - Kết án tử hình tên Phát chỉ do động lực chính là tư thù cá nhân. - Điều thứ hai quan trọng hơn, ông chỉ chính thức gia nhập và sinh hoạt đảng cộng sản từ năm 1927. Vậy thì câu chuyện người anh hùng Hắc Hải như sẽ trình bày sau này phải chăng chỉ là chuyện hoàn toàn hư cấu và bịa đặt? - Điều thứ ba cũng không kém quan trọng cho hay ông thuộc Tổng bộ Quảng Châu ở kỳ bộ Nam Kỳ. Điều tiết lộ cho thấy ông gia nhập cộng sản rất trễ khi đã 40 tuổi với tư cách đại diên Nam Kỳ bộ của Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội do Hồ Chí Minh lập ra vào năm 1925 tại số nhà 13 đường Wang Ming Quảng Châu bên Trung Quốc. Do sự tài trợ tiền bạc của cộng sản Liên Xô do Borodin cầm đầu, ông Hồ Chí Minh đã mở các lớp huấn luyện thanh niên từ trong nước gửi sang- một cách chuẩn bị tương lai cho xứ An Nam. Các người phụ trách huấn luyện là ông Vương ( Hồ Chí Minh), Lê Đức Thụ, Lê Hồng Sơn, Qui… Họ được nghe giảng về các chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, chủ nghĩa cộng sản của Các Mác, phân tích các cuộc đấu tranh dành độc lập, học tập các cách thức tổ chức nghiệp đoàn, cách tổ chức các cuộc bãi công đòi tăng lương, đòi giảm sưu thuế, địa tô, làm thế nào để tham nhập vào lính tập .. Việc học tập kéo dai trong ba tháng và lễ kết nạp với những lời tuyên thệ như: nếu phản lại đảng sẽ chịu hình phạt của đảng và tuyên thệ “hy sinh cho đảng về cả ý nghĩ quyền lợi và đời sống của mình”.. Tóm tắt lại, no như một thứ Hội kín . Và phải chăng bản án đường Barbier cũng theo những kỷ luật đảng được giảng dạy từ Quảng Châu? – Điều thứ tư, sau vụ án đường Barbier với việc bắt giữ nhiều người phải đi tù, Nam Kỳ bộ của Thanh niên cách mạng do Tôn Đức Thắng làm đại diện đã bị tan rã sau đó . ** Về trách nhiệm chính phủ Trần Trọng Kim- Phan Huy Quát trong việc thả tù chính trị năm 1945 Trong các tài liệu chính thức của Đảng cộng sản, họ đã mập mờ, che đậy và đã không minh bạch về việc thả tù chính trị Côn Đảo vào năm 1945. Họ không nhắc nhở gì về quyết định thả tù chính trị cộng sản lại do quyết định của chính phủ Trần Trọng Kim, sắc lệnh ký ngày 02-05-1945. Việc này cần được minh xác một lần nữa theo như trong Hồi ký, tập 2 của ông Huỳnh Văn Lang. Ông Huỳnh Văn Lang đã nói rõ và chi tiết hơn dồng thời lên án nặng nề chính phủ Trần Trọng Kim về vấn đề thả tù binh này. “Ai đã soạn thảo nếu không nói là tác giả sắc lệnh Quốc Trưởng Bảo Đại ký ngày 02-05-1945 phóng thích toàn bộ chính trị phạm do chính quyền thực dân Pháp giam giữ từ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do cộng sản phát động năm 1929,30,31? Đây là một sai lầm ghê gớm của chính phủ Trần Trọng Kim với một đổng lý văn phòng có tên là Phan Huy Quát và một Bí thư có tên là Bùi Diễm, cháu vợ thủ tướng “. “Đáng lý ra chánh phủ phải ý thức đối tượng chánh trị thuộc những thành phần chính trị khác nhau làm sao. Thật ra nếu biết chọn lọc thì chính trị ở miền Nam sẽ khác từ lúc đầu. Ví như để cho cho chính phủ Việt Minh của HCM phóng thích cán bộ của họ là 5 tháng sau (tháng 9/1945) thì họ làm gì có đủ thì giờ và cơ hội thuận lợi nhứt để đặt nền móng hạ tầng cơ sở nhân sự để lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh Pháp từ đầu cho đến Hiệp Định Genève(20/7/54) và còn bám chặt sau đó để tổ chức và lãnh đạo MT-GPMN cho đến tháng tư đen 1975. (Pháp trở lại trong Nam cuối tháng 9/1945). Lê Duẩn và đồng bọn ở trong Nam để lãnh đạo Kháng chiến đánh Pháp, cho đến 59, 60 mới về Bắc..(…) Để rồi, trừ 123 chính trị phạm Quốc Gia trong đó có Phan Khắc Sửu, Trần Quốc Bửu. phải đợi ba tháng sau mới có tàu quân Nhật rước về đất liền, đang khi từ tháng 6 các cán bộ cộng sản đã được các đoàn thể Cứu Quốc Nam bộ thuê tàu hàng dân sự nô nức rước về từng loạt 500 một ngàn. Trong số 1000 cán bộ CS ở Côn Đảo đầu tiên được rước về Sóc Trăng có tên Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương .. và cậu Sáu Lẹ của người viết “.(14) (14) Ký ức 2 Huỳnh Văng Lang, trích đăng trên Khởi Hành, 10/2012 Vê việc đưn đón các đồng chí bị tù ở Côn Đảo về, Hồi ký Trần Văn Giàu cũng đã kể lại rành mạch cũng như nỗi oan của ông như sau đây: “Ngày 25 kết thúc với cuộc hội nghị liên tịch giữa Uỷ ban và Xứ uỷ, trong đó bọn tôi kiểm điểm cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và đặt ra những nhiệm vụ trước mắt. Nhiều vấn đề được đặt ra, được giải quyết, sau khi ta đã nắm chính quyền. Có một vấn đề mà tôi nhớ mãi, không phải chỉ vì nó đặc biệt quan trọng, mà vì nó đã làm cho tôi khốn khổ một thời gian dài. Ấy là quyết định đi rước tù Côn Đảo. Đi rước tù Côn Đảo thì tốt quá chớ “khốn khổ” gì? Ậy! Vậy mà sanh chuyện khá lớn và kéo dài mới lạ cho chớ! Thành ngữ Việt Nam nói “đất bằng dậy sóng”! Có thật như vậy chớ không phải người xưa bày vẽ hình tượng văn chương để mà chơi. Trong cuộc hội nghị chiều tối ngày 25, tôi có nói với các đồng chí trong Xứ uỷ: Khôi phục lại hệ thống Đảng ở Nam Bộ sau khởi nghĩa Nam Kỳ là công đầu của những anh em vượt ngục Tà Lài hợp sức với một số rất ít những anh em sống sót, ẩn náu sau 1940; xây dựng lực lượng để đi tới khởi nghĩa tháng 8, công đầu của các anh em trên hợp sức với anh em, chị em Bà Rá thoát khỏi căng với số anh em đã ẩn náu khác, đã trở lại công tác sau đảo chánh 9 tháng 3. Bây giờ khởi nghĩa thắng lợi chính quyền về ta, công việc nhiều mà khó khăn mười lần, trăm lần hơn trước. Lênin bảo: giữ chính quyền khó hơn cướp chính quyền; không có anh em ở Côn Lôn về thì không xong. Vả lại, nhiệm vụ của cách mạng là phải giải phóng tất cả tù chính trị mà chính phủ Trần Trọng Kim chưa chịu thả. Phải đưa anh em về ngay, cộng sản lẫn quốc dân đảng, bằng tất cả các phương tiện ta có, với bất cứ giá nào. Đừng chậm trễ, chậm trễ có thể sinh điều bất trắc (ví dụ như hải quân Pháp cản trở). Chắc nội đêm nay anh em ta ở Côn Lôn biết tin Sài Gòn khởi nghĩa cướp chính quyền rồi, họ nóng ruột lắm. Đừng để các đồng chí chờ đợi lâu. Tất cả anh em đều đồng ý, và do tôi đề nghị, chúng tôi cử Đào Duy Kỳ hợp sức với Nguyễn Công Trung thay mặt Xứ uỷ làm việc gấp rút này. Kỳ có ở Côn Đảo, là nguyên Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ. Kỳ đã liền đó đi tìm sự cộng tác của Ngô Văn Chương – một ông đồng chí cộng sản giàu có nhiều khả năng thuê tàu, thuê ghe, kiếm tiền – và sự cộng tác của hai anh em Lý Văn Sâm, Lý Văn Chương; Sâm là kỹ sư giám đốc thương cảng. Tôi ký tên ngay cho Đào Duy Kỳ, Lý Văn Chương, em Lý Văn Sâm, trưng dụng tàu nhỏ đi biển, trưng dụng ghe biển miệt Vàm Láng. Xứ uỷ còn chỉ thị cho các tỉnh uỷ Trà Vinh, Sóc Trăng tiếp tay vào việc rước tù Côn Lôn. Công việc tiến hành có trắc trở ít nhiều, chậm trễ hơi lâu. Nhưng rồi tất cả đồng chí ở Côn Lôn được rước về, trong đó có cụ Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng v.v… Anh em về đến miền Tây Nam Bộ thì cuộc kháng chiến đã bắt đầu. Anh em liền bắt tay vào kháng chiến. Cụ Tôn năm lần bảy lượt đi qua gần nhà mà không ghé nghỉ; việc dân cần kíp hơn; cụ ông xa cụ bà đã mười bảy năm trường! Chuyện vua Vũ đi trị thuỷ, qua nhà ba lần không vào, so với chuyện cụ Tôn chưa thấm vào đâu! Bọn tôi lo đón tù chính trị Côn Lôn về như vậy, đó là Nghị quyết đầu tiên của bọn tôi, là Nghị quyết đầu tiên tôi ký tên dưới danh nghĩa Chủ tịch sau khi giành chính quyền. Vậy mà một hôm, sau 1954, trên bục trường Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, một lãnh tụ nhóm “Giải Phóng” trước kia, đã công khai tố cáo việc mà lâu nay họ xầm xì truyền miệng nhằm đả phá tôi, Trần Văn Giàu, đả phá “Xứ uỷ Tiền Phong” và “chính quyền Tiền Phong”! Đồng chí ấy nói trước non già một ngàn học viên mà hầu hết là những người có trình độ Tỉnh uỷ, Quận uỷ, Huyện uỷ, rằng: Chính quyền của anh Giàu, Xứ uỷ phe Tiền Phong không chịu rước tù Côn Lôn về, không chịu rước đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng về! Sở dĩ không cho đi rước vì phe Giàu sợ rằng hễ anh em ở Côn Lôn về thì anh em đó sẽ chiếm mất quyền của phe Giàu, lại có thể là Giàu có ý để cho Pháp có đủ thời giờ quay trở lại giữ các đồng chí kia ở Côn Lôn. May nhờ tự lo lấy cho nên các đồng chí ở Côn Lôn mới về được mà tham gia kháng chiến! Hãy tưởng tượng cái phản ứng tự nhiên của hội trường. Người ta hét lên những câu gì? Không nói ra cũng có thể biết. Nếu Trần Văn Giàu có mặt ở đó thì có lẽ đã bị đánh chết ngay rồi! Nhưng, may quá, tôi ở 20 Phan Huy Chú, làm giáo sư dạy ở trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, không phải đi học trường Nguyễn Ái Quốc. Và may hơn nữa là, hôm đó, trong số học viên có Đào Duy Kỳ, người đã lãnh trách nhiệm của Xứ uỷ và của Lâm uỷ hành chánh chiều ngày 25 tháng 8 về cái vấn đề số 1 của buổi họp, vấn đề đưa tàu, ghe đi rước anh em ở Côn Lôn về. Anh Đào Duy Kỳ cãi lại ngay hôm đó, Kỳ nói: “Chính tôi là người được lệnh của Xứ uỷ và Uỷ ban đi rước anh em kia mà! Và hiện nay, ở Hà Nội còn có ba đồng chí cùng tôi làm việc này, là Lý Văn Sâm, Lý Văn Chương – em của Sâm – và Ngô Văn Chương thuộc Uỷ ban hành chánh Sài Gòn- Chợ Lớn”.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2012 8:41:39 GMT 9
Nỗi công phẫn mấy phút trước nảy lên dữ, bây giờ, sau lời cãi lại của Kỳ nó xuống cũng mau. Người nghe không hiểu tại sao có sự vu cáo kỳ cục và nguy hiểm như vậy? Hôm sau, Đào Duy Kỳ về Viện Bảo tàng Cách mạng mà Kỳ là Chủ tịch Hội đồng Khoa học, mời các anh Lý Văn Sâm, Lý Văn Chương và Ngô Văn Chương tới phát biểu có ghi âm về việc họ được lệnh và đi rước tù ở Côn Lôn như thế nào. Theo Kỳ nói lại với tôi thì băng ghi âm đó, Viện bảo tàng cách mạng còn giữ. Tôi không được nghe, nhưng tôi được biết là có thật buổi ghi âm đó; Sâm, Chương đều là bạn thân của tôi từ trước những ngày vinh quang tháng 8 ở Sài Gòn. Vu cáo lớn và hết sức ác này, kể theo thời gian là vu cáo lớn thứ tư. Cái vu cáo này có dịp bùng lên giữa hội trường Đảng nên nó bị nổ tung như cái bong bóng. Nhưng than ôi! Còn tiếng xầm xì, xậm xịt lâu nay thì ai đính chính cho tôi? Không có kiểm điểm sự vu cáo. Ai vu cáo cứ vu cáo; còn ai bị vu cáo cứ phải ráng mà chịu dù sự thật của chúng rõ như ban ngày(15) (15) Hồi ký Trần Văn Giàu, Viet-studies .. ** về câu chuyện Đồng chí Tôn Đức Thắng, người kéo cờ ở biển Hắc Hải. Theo các tài liệu của các tác giả trong nước Việt Nam cho hay ông Tôn Đức Thắng có mặt trên một chiếc tàu hàng trên đường đến Hắc Hải. Tại nơi đây, một số thủy thủ đã nổi loạn và không chịu tham gia vào sự can thiệp quân sự của các thế lực phương Tây. Phần ông Tôn Đức Thắng thì đã treo cờ trên tàu. Xin đọc tài liệu ghi như sau từ trong nước chẳng khác gì một câu truyện tiểu thuyết: “Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) bùng nổ, nhiều người Việt Nam phải vào phục vụ quân đội Pháp. Là người thợ máy giỏi, ngày 9/10/1916, đồng chí Tôn Đức Thắng nhận lệnh xuống phục vụ tại chiến hạm France và là người Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó. Đến ngày 16/4/1919, mặc dù chiến tranh thế giới đã kết thúc, chính phủ Pháp điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm (trong đó có chiến hạm France) vào Hắc Hải để cùng với các đế quốc khác chống lại nước Nga Xô Viết trẻ tuổi. Các chiến hạm được lệnh vượt qua eo biển Đác-đa-nen tiến vào biển Đen và bắn phá hải cảng Xê-vat-tô-pôn. Anh em binh lính trên hạm đội bất bình vì phải tiếp tục đổ máu, dù chiến tranh đã kết thúc. Biết được âm mưu ấy, thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng anh em binh lính Pháp quyết định phản chiến. 8 giờ sáng ngày 20/4/1919, cuộc binh biến nổ ra trên chiến hạm France và Jean Bart. Lá cờ đỏ được kéo lên trên chiến hạm France trước cửa thành Xê-vat-tô-pôn, do đồng chí Tôn Đức Thắng thực hiện, đã được anh em binh lính, công nhân trên tàu chuẩn bị trước. Bằng hành động đó, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghị Việt – Xô, đồng thời biểu thị tình cảm của nhân dân Việt Nam lúc đó còn là thuộc địa của Pháp, chào mừng nhà nước Công nông đầu tiên trên thế giới.(16) (16)Nguồn: Lịch Sử Việt Nam Cứ như câu truyên vừa được kể lại ở trên thì ông Tôn Đức Thắng, còn có mặt ở Liên Xô trước ông Hồ khoảng 4 năm, đồng thời biểu thị tình cảm của Nhân dân Việt Nam lúc đó!!! Nhưng nhân dịp sinh nhật thứ 115 của ông Tôn Đức Thắng, tiến sĩ Christoph Giebel, giáo sư sử học đại học Washington, Hoa Kỳ, một chuyên gia nghiên cứu về Tôn Đức Thắng đã phản bác một số những thông tin tuyên truyền rất sai lạc về cuộc đời hoạt động của ông Tôn Đức Thắng- một lối viết sử vẫn chịu những sự kiểm soát, ràng buộc không mang tính học thuật. (15) (15)Christoph Giebel, với luận án tiến sĩ: Imagined Ancestries of Vietnamese Communist. Ton Đuc Thang and the politics of history and memory. Ông Christoph Giebel đã trả lời phỏng vấn của đài BBC nhân dịp sinh nhật 115 ngày 5/9/2003 của ông Tôn Đức Thắng. Có hai sự việc nổi bật là: cuộc nổi loạn nổi tiếng của các thủy thủ trên một chiếc tàu Pháp và việc ông Tôn Đức Thắng đã cắm cờ trên chiếc tàu thủy này ở cảng Hắc Hải và cuộc đình công ở xưởng Ba Son. Theo sử gia Christoph Giebel dựa trên tài liệu mà ông có được cho hay không có bằng chứng nào cho thấy ông Tôn Đức Thắng hoạt động Cách mạng ở Nga. Và ông không thể có mặt trên bất cứ con tàu nào của Pháp liên quan đến vụ binh biến ở Hắc Hải. Ông Tôn Đức Thắng cũng đã không bao giờ kể những chi tiết về cuộc biến động ở Hắc Hải. Đọc những tài liệu về phía Việt Nam thì chỉ đưa ra những chi tiết rất là sơ sài. Trong khi đó thực sự ông Tôn Đức Thắng có mặt ở cảng Toulon, miền Nam nước Pháp như người thợ sủa tàu. Ông Christoph Giebel nói: “Tôi tin là vào thời điểm đó, ông Tôn Đức Thắng đang ở Toulon, cảng miền nam nước Pháp. Lúc đó ông ấy chứng kiến những diễn biến cách mạng của giới lao động và thủy thủ Pháp. Và khi về Việt Nam, ông mô tả những kinh nghiệm của mình tại Toulon như là nó đã diễn ra ở Hắc Hải. Ở đây có sự thay đổi thú vị các sự kiện lịch sử. Ông Tôn Đức Thắng quay về Sài Gòn năm 1920. Và không lâu sau đó, ông kể lại cho các đồng chí trẻ tuổi về sự kiện ở Hắc Hải. Tôi cho là lúc đó ông Tôn dùng Hắc Hải chỉ nhằm để tăng thêm uy tín trước các công nhân trẻ, những người mà ông Tôn đang muốn quy tụ – mặc dù toàn bộ những kinh nghiệm ông Tôn có được chỉ là thông qua giai đoạn ở cảng Toulon miền nam nước Pháp. Ông đã thấy những biến động cách mạng ở miền nam nước Pháp, nhưng ông làm cho chúng trở nên quan trọng hơn bằng cách nói là ông đã đến Hắc Hải”.(16) (16) Christoph trả lời phỏng vấn đài BBc, ngày 5/9/2003 Và nhận xét tiếp của giáo sư Christoph Giebel cho thấy” sự hớ hênh” của ông Tôn Đức Thăng cho rằng ” ông không nhớ: “Vấn đề xảy ra cho ông Tôn Đức Thắng là vào giữa thập niên 1950, bộ máy tuyên truyền không chỉ nói ông Tôn đã là người tham gia tích cực mà còn nói là chính ông Tôn đã cắm cờ trên một trong những con tàu ở Hắc Hải. Đó là lúc câu chuyện trở nên xáo trộn. Bởi vì dĩ nhiên lúc này ông Tôn chẳng thể nào cung cấp thêm những chi tiết, ký ức cụ thể cho các diễn biến mới này. Trước đây, ông Tôn chỉ nói tôi đã tham gia và tôi là một trong những người Marxist. Nhưng bây giờ bộ máy lại miêu tả ông đã là một thành viên lãnh đạo trong cuộc binh biến Hắc Hải. Khi đó, ông Tôn rút ra khỏi câu chuyện, ông không đưa ra thêm chi tiết nào. Mặc dù nhiều lần các phóng viên của Liên Xô ép ông kể thêm chi tiết, nhưng ông Tôn chỉ nói: Tôi không nhớ. Nên tôi mới nói có một diễn biến thay đổi thú vị trong câu chuyện này”(17) (17) Christoph Giebel, Ibid . Để củng cố thêm lập luận của ông Christoph Giebel, bà Sophie Quinn-Judge, tác giả cuốn Ho Chi Minh, The missing years cũng đưa ra một nhận xét: “Ông Tôn Đức Thăng làm việc ở xưởng đóng tàu Ba Son, sau đó được gửi sang Pháp, nơi đó, ông làm thợ sửa chữa tàu ở cảng Toulon. Có thể, ông đã không có mặt trong đoàn tàu thủy di chuyến đi đến Hắc Hải và sau đó có cuộc nổi loạn của thủy thủ năm 1919 như dư luận thường đồn thổi, nhưng chắc chắn là ông đã tham dự trong các phong trào thợ thuyền đang nổi lên ở bên Pháp “(18) (18) Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh, The missing years, trang 342. Một giải thích chót của ông Hoàng Văn Chí đưa ra một nhận xét hơi khác một chút về vấn đề này: “Tôn Đức Thắng nguyên là lính thủy (?, nghi vấn của người viết bài này) trên chiếc tàu Aurore của Pháp. Năm 1921 (?), tàu Aurore chở khí giới sang Nga tiếp tế cho nhóm Bạch Nga, đang chiến,đấu chống Hồng quân của cộng sản. Khi tàu cập bến Odessa, trong Hắc Hải, đoàn thủy thủ bị cán bộ Bolchevik tuyên truyền. Một viên đại úy tên là André Marty ngả theo cộng sản và khởi loạn, bắt giam thuyền trưởng, và bắt tàu quay về Pháp, không giao khí giới cho nhóm Bạch Nga chống Cộng. Vì hành động táo bạo ấy, cộng sản đề cao André Marty là ” anh hùng Hắc Hải”. Về tới Pháp, Tôn Đức Thắng cùng nhiều thủy thủ khác của tàu Aurore gia nhập đảng cộng sản Pháp. Vì vậy nên, sau Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng là người có nhiều tuổi đảng nhất; Mặc dầu thiếu học và có tiếng là “dê cụ”, nhưng vì là người Nam và có nhiều tuổi-đảng Tôn Đức Thắng được đưa lên làm chủ tịch, kế vị họ Hồ“.(19) (19) Mạc Đinh Hoàng Văn Chí, Ibid, trang 166 ** Về cuộc đình công ở Ba Son Trước hết, xin được trích dẫn tài liệu chính thức ở trong nước: “Vào năm 1925, trước tình hình đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc đang sôi sục ở Quảng Châu, các nước đế quốc phương Tây rắp tăm can thiệp bằng cách đưa lực lượng hải quân đến trấn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc ở những vùng tô giới. Lực lượng hải quân Pháp tham gia chiến dịch này với một hạm đội gồm 3 chiến hạm: Jules Ferny, Le Maine, Jules Michelet. Hạm đội này do chiếc tàu tuần dương thiết giáp Jules Michelet chỉ hy. Trên đường đi, tàu Michelet đã có hiện tượng hư hỏng, bọn chỉ huy quân Pháp gấp rút đưa đi sửa để kịp sang Trung Quốc. Nắm được nguồn tin quan trọng này, Tôn Đức Thắng lập tức thông báo cho các hội viên công hội và bàn biện pháp đấu tranh. Lúc này, Ba Son là xưởng duy nhất ở Đông Dương mà công nhân được hưởng quy chế ngày làm 8 giờ, lương tháng, lương ngày đều cao hơn các nơi khác, cho nên vận động bãi công ở đây rất nguy hiểm, lại rất khó. Nhưng ngoài cách bãi công thì không còn cách nào giam chân đội tàu chiến Pháp. Như vậy, cuộc đấu tranh về cơ bản có tính chất chính trị, nhưng khẩu hiệu chính trị không được nêu lên, chỉ nêu lên những yêu sách kinh tế, làm như vậy mới tập hợp được toàn thể công nhân viên chức tham gia. Ban lãnh đạo đình công đưa kiến nghị lên giám đốc đòi giải quyết các yêu sách: - Tăng lương cho tất cả công nhân lên 20%. - Phải gọi lại số thợ bị đuổi việc trong các cuộc đình công trước đây làm việc lại. - Ngày lĩnh lương phải cho nghỉ trước nửa giờ như thường lệ. Mặc dù giám đốc Courthial, Thống đốc Nam Kỳ hăm dọa, rồi dụ dỗ, mua chuộc, nhưng anh em công nhân không hề nao núng vẫn tiếp tục đình công. Để ủng hộ cuộc đấu tranh, hàng vạn công nhân, viên chức Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đã quyên góp gạo, tiền giúp đỡ cuộc đình công. Một phần là cần phải sửa chữa chiến hạm cho sớm để kịp chiến dịch, một phần bị cấp trên quở trách, ban giám đốc xưởng Ba Son buộc phải nhượng bộ và điều đình với ban lãnh đạo cuộc đình công, chấp nhận tăng 10% lương cho công nhân và bỏ lệnh cắt 15 phút làm bù ngày lãnh lương. Cuộc bãi công chấm dứt thắng lợi, anh em công nhân chuyển sang hình thức bãi công, kéo dài thời gian sửa chữa chiến hạm. Mãi đến ngày 28/11/1925, chiến hạm Michelet mới ra khỏi xưởng Ba Son sau khi bị giam ở đây ba tháng rưỡi. Cuộc đấu tranh với mục đích chính trị rõ rệt nhưng diễn ra một cách khôn khéo dưới khẩu hiệu khác. Tiếng vang của cuộc đấu tranh này đã vượt ra ngoài phạm vi quốc qua đến với phong trào cách mạng vô sản và công nhân thế giới.(20) (20) Nguồn Lịch sử Việt Nam Về sau đây là ý kiến của giáo sư Christoph Giebel như sau: “Chắc chắn đã có một cuộc đình công ở Ba Son năm 1925. Ông Trần Văn Giàu, với sự giúp đỡ của ông Tôn, đã mô tả cuộc đình công khởi đầu từ sự có mặt tại cảng Ba Son của một chiến hạm Pháp mà đang trên đường tới Trung Quốc, nơi các thế lực phương Tây đang đối đầu với phong trào chống đế quốc. Chuyện kể rằng khi chiến hạm Pháp dừng lại ở cảng Ba Son để sửa chữa, ông Tôn Đức Thắng và các đồng chí đã từ chối sửa tàu và như thế đã giam chân chiến hạm. Ông Trần Văn Giàu và ông Tôn Đức Thắng nói cuộc đình công đã thành công, rằng sau một vài tuần, giới chủ phải nhượng bộ, đáp ứng một số đòi hỏi. Và mặc dù mọi người quay lại làm việc, nhưng họ vẫn thực hiện một hình thức lãn công và kéo dài việc giam chân chiếm hạm Pháp thêm ba tháng nữa. Chắc chắn đã có cuộc đình công, nhưng nó không diễn ra theo cách mà văn bản chính thức tại Việt Nam mô tả. Nghiên cứu của tôi – dựa trên tài liệu lưu trữ và việc đọc báo chí thời đó – cho thấy vốn đã có những sự bất mãn tại cảng Ba Son vì sự quản lý yếu kém của giới chủ. Ngay cả trước khi chiến hạm Pháp xuất hiện, ngay cả trước khi những người công nhân biết sẽ có tàu Pháp đến, họ đã nói với giới chủ là mình có thể đình công nếu những đòi hỏi không được đáp ứng. Giới chủ không nhượng bộ. Vì thế, là một sự trùng hợp khi vào ngày giới công nhân quyết định đình công, con tàu Pháp cũng cập cảng. Lý do là vì vào lúc đó, con tàu không tiến vào xưởng đóng tàu Ba Son. Nếu những gì ông Trần Văn Giàu và ông Tôn Đức Thắng kể lại là đúng, thì lẽ ra hẳn lúc đó họ đã chờ đợi cho đến khi con tàu đã vào xưởng đóng tàu. Thực tế, con tàu có ba đầu máy, và chỉ có một đầu máy bị hư hỏng. Nên trong thời gian đó, con tàu thực ra vẫn di chuyển. Và như trong tài liệu của Pháp cho thấy, người Pháp lúc đó nghĩ có thể họ đưa con tàu sang Hồng Kông để sửa chữa. Có một chi tiết khác, có lẽ còn quan trọng hơn, đó là cuộc đình công đã không thành công. Thực tế, nó bị thất bại vì giới chủ đã đóng cửa nhà máy để gây áp lực với công nhân. Việc đóng cửa này hoàn toàn bị bỏ qua trong các văn bản sau này. Khi nói cuộc biểu tình thất bại, nó không giảm nhẹ tinh thần anh dũng của những người công nhân dám chống lại giới chủ người Pháp. Nhưng chắc chắn đó không phải là một cuộc đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, mà nó mang tính chất nội bộ, với những bất mãn đã có tại xưởng Ba Son“. (21) (21 ) Christoph Giebel, Ibid Tiếp nối ý kiến của giáo sư Christoph Giebel, tác giả Ngô Văn, một người cộng sản thuộc đệ tứ cho thây rằng đã không chỉ có một cuộc đình công xảy ra ở Ba Son mà còn có nhiều cuộc đình công khác nổ ra ngay tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tính chất của các cuộc đình công bãi thị này chủ yếu là kinh tế, đòi tăng lương và đòi được đối xử tử tế, không bị các bọn cai đánh đập dã man giới công nhân bằng roi .. Sự gán ghép vội vã cho các cuộc đình công này mang tính chất chính trị là không đúng, là sai sự thật. Và ngay tại xưởng Ba Son, một lần nữa lại xảy ra một cuộc đình công lớn vào năm 1937 mà không có dấu hiệu gì cho phép người ta nghĩ đến có sự nhúng tay của đảng cộng sản đệ tam tham dự mà còn có cả đệ tứ nữa tham dự. Đồng ý là ông Tôn Đức Thắng đang ngồi tù, nhưng còn các đồng chí khác của ông .. Nhìn lại mục đích chính của cuộc đình công lần này chủ yếu vẫn là đòi tăng lương mà mục đích chính trị xem như không được đặt ra một cách chính thức: “Ngày 15 tháng 4 năm 1937, 15 công nhân nồi hơi được giao nhiệm vụ sửa chữa khẩn những nồi hơi chiến hạm Savotnhăn đo Bơraza, đứng ra đòi tăng lương 15% và đòi tăng 50% số tiền lương giờ làm thêm ban ngày, 100% cho giờ làm thêm ban đêm . 5 người bị đuổi việc. Ngày hôm sau, 850 trong số 1280 công nhân ngưng làm việc và đưa yêu sách cho Thanh tra lao động, đồng như những yêu sách của anh thợ nồi hơi , và đòi thêm sở phải thu nhận lại những anh em bị sa thải . Họ thành lập một ủy ban bãi công gồm ba người theo phái Stalin và ba người theo xu hướng Strotski”.(22) (22), Ngô Bắc Ibid, trang 229 Kết quả cuối cùng là cuộc đình công này gặp thất bại sau 37 ngày cầm cự chống đối chủ nhân . Chỉ tăng được 25 xu cho kíp thợ ban ngày và 50 xu cho kíp thợ ban đêm . Vai trò bù nhìn của ông Tôn Đức Thắng. Nhìn lại cuộc đời của chủ tịch Tôn Đức Thắng, cái thành tích vẻ vang nhất làm nên thân phận ông có lẽ là 20 năm tù Côn Đảo. Ngày ông trở về cùng với những Lê Duẩn và gần 2000 tù chính trị khác như một vinh quang trở về của những chiến sĩ Cách mạng. Nhưng qua những trình bày ở trên cho thấy thực chất đó chỉ là một bản án tù hình sự- một bản án xứng đáng cho việc giết một người “vô tội” chỉ vì những lý do cá nhân. Cái vinh quang nếu có thì tự nó đã hoen ố mà một người còn chút tự trọng phải lấy làm hổ thẹn .. Có thể ông cũng nhận thức điều đó chứ không phải không . Tuy nhiên, có những kẻ vô xỉ vẫn nhắm mắt ca tụng ông, tô son điểm phấn cho cuộc đời ” cách mạng” của ông. Họ đã vinh danh , họ đã ca tụng bao nhiêu người mà lúc còn sống những người ấy bị trù dập, bi ruồng bỏ ? Đó là những Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường và hăng trăm, hằng ngàn người khác. Tôn Đức Thắng không rơi vào những bi kịch hay số phận bất hạnh như những người trên! Nhưng nói cho cùng, ông là một thứ bù nhìn không hơn, không kém- một thứ cây cảnh được trồng trong Xã Hội chủ nghĩa!! Dĩ nhiên hơn ai hết, ông biết thân phận của mình là thế nào!! Cái vai trò bù nhìn này là có thật được chính ông Tôn Đức Thắng nhìn nhận theo cái cung cách nói của người miền Nam: “Với đám con cháu cụ Tôn bảo: Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chứ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm một việc nào khác ngoài một việc là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay, buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. (…) . Một người bạn tôi quen thân với cụ, cha anh trước kia là đàn em cụ, vào thời gian nghị quyết 9.. cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: ” mày có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy? ” Anh ngạc nhiên quá . Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: ” Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao .Trong nhà tao nè, lính kín không có thiếu “. (23) (23) Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày” Con người của Tôn Đức Thắng một lần nữa được Ông già chợ Đệm, tức Nguyễn Văn Trấn mô tả rất trung thực: “Có lần anh chị em Nam Bộ” đại biểu” biểu tôi đến gặp ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho cải cách ruộng đất giết người như vậy ?” Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi. liền đứng dạy bước ra khỏi ghế;, vừa đi vừa nói: - Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, mày biểu tao còn dám nói cái gì ?”. (24) (24) Nguyễn Văn Trấn, Viết gửi Mẹ và Quốc Hội, trang 266-267 Cuốn sách của Nguyễn Văn Trấn đã bị chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sài gòn Trương Tấn Sang, ký mật lệnh, ngày 22-11-1995 cấm lưu hành. Trong sô hàng trăm tác giả viêt phê phán chế độ cộng sản Hà Nội, tôi xếp Xuân Vũ, Nguyễn Văn Trấn, Mạc Định Hoàng Văn Chí, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Minh Võ vào hàng những người viết kiệt xuất..tiếp theo những Bùi Tín, Phùng Cung, Phan Khôi vv… Khi viết bài này trong bụng tôi không có ý dè bỉu ông chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Xem cách ông sống thanh bạch, không màng danh lợi, ăn nói bộc trực rất”miền Nam” .. Tôi nghĩ nếu người ta không đôn ông lên làm chủ tịch nước, nếu người ta không màu mè ca tụng ông khi ông đã nằm xuống. Nghĩa là người ta để ông yên ..Ông sẽ là một người bình thường, nhưng với môt nhân cách cao hơn nhiều người .. Đó là điều duy nhất người ta cần hiểu ông và từ đó trân trọng ông .. Rất tiếc, người ta đã không làm ..Người ta đã nói và làm về những điều ông không có thì có khác gì chửi ông. Ông trước hết và sau cùng vẫn là một ông già miền Nam đúng nghĩa của nó- chơn chớt-có sao nói dzậy trước khi là một người cộng sản!! Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 5:27:54 GMT 9
Một bài học: BS Dương Quỳnh Hoa
Một bước đi sai, nghìn bước hận Lỗi Người (?) hay bỏi phận mình oái oăm! Tố Hữu Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một trong những thành viên sáng lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, vừa qua đời hôm 25-2 -2006 ở TP. HCM, hưởng thọ 76 tuổi. Đàn Chim Việt: Những bản tin được đăng trên báo chí tại Việt Nam chỉ nhắc đến bà như một trong những nạn nhân chất độc da cam đầu tiên đệ đơn kiện ở tòa án Hoa Kỳ. Nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến thời gian bà hoạt động trong ĐCSVN. Đàn Chim Việt xin đăng lại bài “Tiếc cho một người lầm lỡ đã nằm xuống: BS Dương Quỳnh Hoa” của Ts. Mai Thanh Truyết “như là một lời chia tay” với một trong những người được coi là sáng lập “Mặt trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam”. ——————————————————– Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2. Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trải và chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại. Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam BS. DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ. Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957(?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước. Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận. Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó. Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như ông chồng là GS HVN cũng được nâng đỡ theo. Vào đầu thập niên 70, ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa. Nhưng chính nhờ uy tín của bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối. Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, ông bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: “Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada. Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á. Vào khoảng cuối thập niên 70, bà đã trao đổi cùng ông Nguyễn Hữu Thọ:”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm. Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: “Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân”. Và bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành. Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì… nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: “Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”. Vào năm 1989, bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng bà không luyến tiếc vì bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam. Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”. BS DQH và Vụ kiện Da Cam Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai. Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm: - Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự; - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch; - GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch; - Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký. Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi. Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau: - Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam; - Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội; - Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989); - Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và - Những người cùng cảnh ngộ. Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang. Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của Đại học Columbia, New York. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ. Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé(?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?). Năm 1970, bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi. Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ Năm 1972, bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 bà bị ung thư vú và đã được giải phẫu. Năm 1999, bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức). Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam. Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên bà trong vụ kiện ở Brooklyn? Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli). “Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra. Bà còn thêm rằng: “Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).” Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện. Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York. Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời bà. Những bước đầu đời của bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và bà đã đứng về phía người Cộng sản. Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bịvỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho bà là bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu bà. Hôm nay, chúng ta có thể tiếc thương cho bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả. Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền. Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại. Ghi chú: Ngày 03/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đấu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay. Mong tất cả trí thức Việt Nam, đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa. Mai Thanh Truyết
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 12, 2013 10:43:35 GMT 9
Phản bác báo An ninh Thế giới của cộng sản về những hung thần của Huế-Mậu thân 1968Trong tháng 1 vừa qua, báo An Ninh Thế Giới của CSVN đã đăng liên tiếp ba bài: Sự thật về 3 nhân vật bị kẻ thù gọi là “đồ tể khát máu”: Sự vu khống tráo trở… để chối bỏ tội ác thảm sát hơn 7.000 đồng bào Huế trong biến cố Mậu Thân 1968 của các “HUNG THẦN MÁU LẠNH” của Cố Đô Huế. Hiện nay đài truyền hình VTV1 thuộc hệ thống tryền hình quốc gia của CSVN lại đang phát hành bộ phim “GIẢI MÃ MẬU THÂN 1968” để bóp méo lịch sử và che đậy tội ác của cộng sản Việt Nam trong vụ thảm sát hơn 7.000 đồng bào tại Huế và gây đau thương tang tóc cho hàng trăm ngàn gia đình khác trên khắp các đô thị của Miền Nam vào mùa Xuân Mậu Thân của 45 năm trước. Nghĩa là đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục dối trá, tiếp tục che đậy tội ác để hòng tiếp tục gây tội ác với đồng bào. Đối với người dân Huế nói riêng và đối với đại đa số người Việt Nam nói chung thì chẳng ai còn xa lạ gì với những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan hay Nguyễn Đắc Xuân, không phải vì đó là những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi hay nhà Huế học đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu về Huế mà bởi đó là những đồ tể khát máu, những hung thần máu lạnh đã xuống tay tàn sát hơn 7.600 đồng bào Huế trong biến cố tết Mậu Thân 1968. Đã 45 năm trôi qua kể từ cái tết đau thương của dân tộc và quá bi thảm cho các nạn nhân ở Huế, là một khoảng thời gian quá nửa đời người để cho đã có ít nhất là hai thế hệ được sinh ra và trưởng thành sau biến cố đó, đó là hai thế hệ người Việt có thể không biết, hoặc biết rất mơ hồ về vụ thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế do chính những người con dân của xứ Huế gây ra cho chính đồng bào của mình, cho chính đồng môn của mình và cho chính cả những vị ân sư của mình nữa. Đó là tội ác, tội ác trời không dung, đất không tha những đứa con lầm lạc của đất Thần Kinh mang danh là những trí thức là những con dòng cháu giống mà đã quá ngu tối, quá xuẩn động đi theo cộng phỉ để rồi mang giáo gươm, bom đạn về tàn sát dân lành vào những ngày xuân về tết đến. Nhắc nhớ lại những tang thương này của dân tộc không phải để khơi lại nỗi đau thương của đồng bào Huế, mà để thế hệ của những người đã từng trải qua những tháng ngày buồn đau và kinh hoàng vào những ngày Xuân của 45 năm trước sẽ không bao giờ quên tội ác của cộng sản, của những tên đao phủ khát máu của chốn Cố Đô Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đắc Xuân cũng như để cho những thế hệ sinh ra và trưởng thành sau cái biến cố tang thương đó của dân tộc sẽ không bị lừa bịp, mà nhận diện đúng mặt những kẻ tội đồ, nhưng hung thần đã xuống tay thảm sát ngần ấy sinh mạng đồng bào, bởi chỉ trong những ngày đầu của tháng 01 năm 2013 này liên tiếp có đến 3 bài báo lề đảng đã vinh danh những tội đồ như những anh hùng dân tộc và cũng đã hết lời bao biện cho những tội đồ này rằng chúng không giết ai cả mà hơn 7.600 người dân Huế đó là do mỹ Ngụy giết rồi đỏ vấy cho “cách mạng” theo chính sách của “thực dân mới”! Người Việt Quốc Gia đã biết quá rõ cái tồi, cái hèn của chế độ cộng sản, của Hồ Chí Minh về những hành động ném đá giấu tay trong quá khứ. Chẳng ai còn lạ gì cái thói làm điều khuất tất rồi chối bỏ trách nhiệm của lãnh tụ tối cao của cộng sản Việt Nam như vụ bán đứng cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp để nhận tiền thưởng, như vụ thanh trừng các đồng chí cộng sản khác như Tạ Thu Thâu, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự để thâu tóm quyền lực, như vụ thanh trừng lãnh tụ của các đảng phái yêu nước khác như Trương Tử Anh, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi hay như vụ thủ tiêu Đệ Nhất Phu Nhân Nông Thị Xuân để bảo vệ danh giá của “cha già dân tộc, cả đời không vợ không con, để hy sinh cho dân, cho nước” và cả vụ án Cải Cách Ruộng Đất nữa: Hành quyết hàng chục ngàn nông dân một cách hết sức oan khiên, mang đến cảnh chết chóc ly loạn cho hơn 350 ngàn nông dân miền Bắc, khiến cho nông thôn miền Bắc trở nên điêu tàn, xác xơ, nhân tâm ly loạn, đạo đức xã hội suy đồi và đảo điên, nhưng rồi Hồ Chí Minh cũng chỉ rơi vài giọt nước mắt cá sấu, rồi chối bay chối biến cả… Cho nên chẳng ai thấy lạ khi nghe Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân cũng nhiều lần chối bỏ hành động thảm sát đồng bào Huế của chúng trong biến cố Mậu Thân 1968. Nhưng công luận trong và ngoài nước không khỏi phẫn nộ khi báo An Ninh Thế Giới của ngành công an cộng sản Việt Nam đăng tải liên tiếp 3 bài ca ngời công đức của những tên hung thần khát máu đó như là những bậc khai quốc công thần của dân tộc Việt Nam. Bởi dẫu rằng với đảng cộng sản thì những hung thần đó là công thần, nhưng đối với người dân Huế, với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam thì Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân là những đại tội đồ. Chúng tôi xin trích dẫn dưới đây lời mở đầu của những bao biện đó trên báo của An Ninh cộng sản: “Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, có rất nhiều nguồn thông tin từ sách, báo của những kẻ chống Cộng cực đoan cho rằng: Những nhân vật nòng cốt của phong trào đấu tranh đô thị ở Huế như Nguyễn Đắc Xuân – Hoàng Phủ Ngọc Tường – Hoàng Phủ Ngọc Phan, sau một thời gian thoát ly theo cách mạng ở chiến khu đã trở lại Huế để chỉ huy lực lượng giải phóng bắn giết rất nhiều người ở Huế và những nguồn thông tin cực đoan này đã không ngần ngại khi gọi các anh Tường – Xuân – Phan là những “tên đồ tể khát máu”, là “linh hồn của chiến cuộc Mậu Thân…” Đã có khá nhiều tài liệu viết về 3 hung thần này của Mậu Thân Huế, nên trong bài này, chúng tôi chỉ nêu lên một số bằng chứng để phản bác lại luận điệu bao biện của những văn nô bồi bút cộng sản đã viết bài tung hê các hung thần như những công thần đăng trên báo vẹm về 3 tên đồ tể này: Trước hết là chúng ta hãy lưu nghe lại mẫu đối thoại giữa Hoàng Phủ Ngọc Phan và cha đẻ của y: “Phan kể rằng, có lần cụ thân sinh ra ông nghiêm nghị hỏi rằng: “Người ta nói Tết Mậu Thân con với thằng Tường về Huế giết rất nhiều người, có thật như vậy không?”. Tôi đã trả lời với cha tôi rất rõ ràng rằng: “Đó là luận điệu tuyên truyền vu khống của kẻ địch. Nếp nhà ta xưa nay vẫn coi trọng những điều Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa. Dòng họ ta một số ở miền Bắc, một số ở miền Nam. Nhưng dù sống dưới chế độ nào cũng đều là công dân lương thiện – không hề nảy sinh hạng tham quan ô lại, cường hào ác bá, lưu manh đê tiện. Xin ba yên tâm.” Và đây là lời chối tội của Hoàng Phủ Ngọc Phan cho bản thân và cho người anh ruột cũng là một đồ tể máu lạnh: “TÔI KHÔNG HỀ GIẾT AI: Sau chiến dịch Mậu Thân báo chí ở Sài gòn thường nhắc đến anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai tên đồ tể khát máu, giết người không gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra. Tánh anh Tường rất hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi. Cơ quan cấp cho anh một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới đến nỗi súng han rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác. Người này làm mất súng khiến anh Tường bị phê bình –đúng ra đây là một khuyết điểm đáng phải bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức được điều đó. Anh cứ cãi khơi khơi là tại cơ quan giao súng cho anh chứ anh đâu có yêu cầu. Công tác của anh chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà có thể giết ai được?Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ: -Giết người không phải là chuyện nhỏ, không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền đó.- Giết người không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng có bản lĩnh đó. Mặc dầu trong chiến tranh, trên chiến trường và ngay bây giờ vẫn không thiếu gì những kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi một kẻ đáng tội nào đó bảo tôi giết thì nói thật… không dám đâu. Chúng tôi theo cách mạng trước tiên là vì không thể sống chung với cái ác. Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy vào các binh chủng rằn ri của Thiệu – Kỳ hay đầu quân dưới trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?”. Trước hết, về sự bao biện và dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Phan đã bị tố cáo bởi chính Hoàng Phủ Ngọc Tường khi trả lời phỏng vấn phóng viên Burchett và đoàn làm phim Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình năm 1982 tại Huế, chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình có mặt tại mặt trận Huế như là một nhân chứng của vụ tổng công kích và nổi dậy tại Huế như sau: Video: Hung Thần HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Dối Trá Về Vụ Thảm Sát Huế Mậu Thân 1968 “Hỏi: Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biệt liên quan đến vụ thảm sát. Ở đây. Xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra bấy giờ ở Huế, có những vụ trả thù, đàn áp? Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ông muốn nói đến vụ thảm sát Mậu thân ở Huế? Đó là một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế. Nhưng nhân dân Huế đã phải trả một giá đắt cho chiến thắng này. Đó là là một sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế đã phải trả giá đắt nhất so với các thành phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế. Sự trả đũa đã vô cùng khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi là một người đã từng sống qua các thời kỳ chiến đấu chống lại người Pháp và thời chiến tranh chống lại người Mỹ, Tôi nghĩ rằng bọn chủ nghĩa thực dân mới thì khôn hơn bọn thuộc địa cũ. Bọn thuộc địa cũ nó chơi franc jeu hơn là thực dân mới. Nói cách khác, bọn chủ nghĩa thực dân mới thường bạo tàn hơn thực dân cũ. Và điều đó là chắc chắn đúng như vậy trong suốt cuộc tổng công kích tết Mậu Thân vừa qua. Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thể thế giới bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ việc chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Paris. Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là một chứng nhân. Tôi sẽ nói cho ông mọi sự cho ông một cách khách quan nhất. Thứ nhất riêng những người bị giết, có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi hành bản án tử hình. Bởi vì khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi làm bị thương khi chúng tôi kêu gọi họ đầu hàng.Vì thế những người này đã bị chúng tôi bắn chết tại chỗ. Trong đám những người này có tên phó tỉnh trưởng, lúc đó hắn đang sống ở Huế. Trong một ít trường hợp, một số bị giết vì đã từng tra tấn các cư dân, gây cho toàn thể gia đình phải tù tội và đầy ra Côn Đảo. Chính nhân dân căm thù quá lâu, họ bị tra tấn, gia đình họ phải trả thù. Vì thế, khi cách mạng bùng lên và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên đi lục soát tìm cho ra những tên bạo ngược này để trừ khử chúng như trừ khử những con rắn độc mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh. Mặc dầu chính sách của chúng tôi chỉ là nhằm cải tạo và không bao giờ giết bất cứ ai đã đầu hàng chúng tôi, song khi dân của thành phố đã nắm công lý trong tay của chính họ, thì các cấp lãnh đạo cách mạng của chúng tôi không còn có thể kiểm soát dân chúng trong suốt thời kỳ đang diễn ra. Nhưng tôi phải nói cho ông biết rằng mỗi một tên bị giết thì chúng đã giết ít nhất mười người khác trong các gia đình bị nạn. Chúng giết mười người bây giờ giết một người bọn chúng, cái giá đó là rất nhẹ. Giết một người là công bằng. Nợ máu đó, căm thù và thi hành bản án như vậy là rất là nhẹ và công bằng.” Theo tôi nghĩ, bất cứ ai từng theo dõi hoàn cảnh chiến tranh, sự thể có thể chỉ là một sự trả thù nhỏ nhoi. Sự căm thù và sự thi hành bản án như vậy là nhẹ. Và theo tôi, mọi cuộc cách mạng đều giống nhau. Bởi vì đó là một cuộc chiến tranh mà sức mạnh quân sự và trang bị cực kỳ chênh lệch. Nhân dân chúng tôi không sở hữu được những thứ vũ khí như đế quốc Mỹ có. Song điều ấy cũng chẳng sao cả. Còn đa số đã đầu hàng do chúng tôi giữ lại thì được đưa lên rừng ở trại cải tạo. Hầu hết đã được trở về. Vài người tôi biết chịu đựng không nổi vì khí hậu. Nhưng họ đã trở về với gia đình cả. Nhưng có một số bị giết.Thật không đáng kể, còn lại sau ngày giải phóng đã được trở về. Phần lớn sự chết chóc đã xảy ra. Một khối lớn những xác chết đó là ai? Chính nhân dân bị bọn Mỹ làm chết không biết bao nhiêu trong các đợt phản kích này. Những người này bị giết và được chôn trong thành phố rồi sau đó được khai quật bởi Mỹ và quay phim tuyên truyền cho Mỹ. Chẳng hạn, nó đã bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ, gần chợ Đông Ba. Nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn. Lý do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người này theo lực lượng cách mạng, vào rừng sau cuộc tấn công tết Mậu Thân. Và khi kẻ thù trở về vào thành phố, chúng đã giết những người thân của các gia đình này rồi đem chôn trong các hầm tập thể. Những xác chết của lính giải phóng, những người mà chúng tôi không thể thu nhặt được xác cũng bị chúng đem bỏ vào những hố chôn tập thể. Cộng thêm vào những tù nhân đi theo chúng tôi vào rừng cũng bị giết hại bởi máy bay Mỹ chết chung với các đồng chí của chúng tôi. Máy bay Mỹ cũng tập kích và giết chết các đồng chí của chúng tôi. Những giải phóng quân của chúng tôi cũng bị hy sinh. Trong những năm 1975 đến 1977, trong khi đào các đường mương và kênh dẫn thủy, chúng tôi khám phá ra được rất nhiều hố chôn tập thể, cái được gọi là nạn nhân bị thảm sát thì chỉ toàn là những người mang đồng phục quân Giải phóng và nón tai bèo của lực lượng giải phóng. Điều này nói lên mưu mô quanh co, xảo quyệt của bọn tân thực dân. Cuộc chiến này là ranh mãnh của chủ nghĩa thực dân mới. Chúng bắn một mũi tên mà trúng hai mục tiêu. Trước hết là vì chúng muốn tìm cách che dấu tội ác của chúng. Hơn nữa là chúng muốn đổ lên đầu bộ đội cách mạng những tội ác của chúng. Đây là điều mà tôi đã chứng kiến. Và một sử gia người Mỹ sau đó viếng thăm Huế đã nói cách công khai rằng đây là kế hoạch tuyên truyền vĩ đại của Mỹ, một chiến dịch tuyên truyền chiến thuật đã làm hao tổn tiền bạc của Hoa Kỳ cho cân xứng với cái giá về tiền bạc mà tên Kissinger nhằm bôi nhọ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam về tết Mậu thân. Tôi muốn nhấn mạnh là cả một bộ máy tuyên truyền của Mỹ với thế giới đã cố dùng tất cả bộ máy tuyên truyền để đổi trắng thành đen để lừa bịp nhân loại. Sự thực là có một số xác chết nạn nhân bị giết là do sự giận dữ của dân chúng. Những con số này quá nhỏ so với con số quá lớn kẻ thù còn sống sót và chúng nó đã chạy ra nước ngoài, chúng tiếp tục nói xấu Việt Nam. Giờ đây họ đã vu khống có tổ chức nhằm chống lại cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, ông phải nhìn nhận rằng mặc dù chúng tôi được sự ủng hộ của khắp thế giới khi chúng tôi chiến đấu chống lại kẻ thù của chúng tôi, mà chỉ có dân chúng tôi bị bịt mồm và chịu đổ máu trước họng súng của kẻ thù. Chúng tôi đã phải đổi máu của chúng tôi một cách đơn độc. Trong suốt cuộc chiến đấu, chúng tôi đã phải đem lại công lý chống lại kẻ thù không đội trời chung của nhân dân – những kẻ mà thế giới đã nhìn nhận như những tội phạm chiến tranh. Dân chúng thế giới đã có một phiên tòa của Bertrand Russell là một thí dụ cho rằng nếu đã có tòa án kiểu Nuremberg, thì đã có hàng ngàn người đã được tha chết trong trận Tết Mậu Thân là những kẻ đáng bị treo cổ sau khi chiến tranh chấm dứt. Theo như Bertrand Russsell đã dẫn chứng, công lý chẳng bao giờ được thi hành. Vì vậy mà một sĩ quan Mỹ như trung úy William Calley đã giết nhiều người ở Sơn Mỹ mà nó không bị lên án treo cổ. Và để nhằm mục đích gây chú ý trong trường hợp tội phạm này, chúng đã ngụy tạo một cuộc thảm sát tết Mậu Thân để bôi bẩn cách mạng. Điều này chứng tỏ Mỹ không quan tâm đến vấn đề danh dự của nước lớn đi đánh một nước nhỏ bé. Chính quyền Mỹ đã nói láo về trận tấn công Tết Mậu thân.” Không cần bàn đến sự trí trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong phần trả lời phỏng vấn này khi hắn đổ vấy tội ác thảm sát đồng báo Huế Mậu Thân 1968 cho “Mỹ Ngụy” hay do nhân dân trừng trị bọn ác ôn bởi mọi việc đã rõ như ban ngày. Điều cần lưu ý ở đây là chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận sự có mặt của y tại Huế, khi y đi “đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rôi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn.”. Như vậy Hoàng Phủ Ngọc Phan còn gì để bao biện nữa không? Việc Tường và Phan có mặt tại Huế và đã ra tay thảm sát đồng bào Huế như thế nào sẽ có nhiều nhân chứng mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần sau. Trở lại với phần trả lời phỏng vấn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua tâm lý ngôn ngữ, người nghe, người đọc đều dễ dàng nhận ra rằng thực ra Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải hiền từ như lời bao biện của Hoàng Phủ Ngọc Phan. Từ ngôn từ cho đến ngôn điệu, thanh điệu và dáng điệu cùng hình thức biểu thái và biểu cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều thể hiện một cách quá rõ ràng rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là một con người gian ác mà là một kẻ đại gian ác, đại xảo ngôn, với ngôn ngữ và thái độ không chỉ biểu tỏ lòng hận thù sâu cay với chính quyền miền Nam Việt Nam và với những đồng bào Huế đã bị thảm sát, mà còn lộ ra quá rõ cái hả hê, mãn nguyện của Hoàng Phủ Ngọc Tường trước cái chết của gần một vạn đồng bào: “Thứ nhất riêng những người bị giết, có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi hành bản án tử hình. Bởi vì khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi làm bị thương khi chúng tôi kêu gọi họ đầu hàng.Vì thế những người này đã bị chúng tôi bắn chết tại chỗ. Trong đám những người này có tên phó tỉnh trưởng, lúc đó hắn đang sống ở Huế.”. Nhưng khốn nạn hơn cả là việc Hoàng Phủ Ngọc Tường gieo tiếng ác cho người dân Huế khi cho rằng: “Vì thế, khi cách mạng bùng lên và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên đi lục soát tìm cho ra những tên bạo ngược này để trừ khử chúng như trừ khử những con rắn độc mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh”… Tất cả những điều này không chỉ tố cáo về sự có mặt của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong những ngày quân đội cộng sản tàn sát dân Huế trong biến cố Mậu Thân 1968, mà loại ngôn ngữ Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng cũng như thái độ của y cũng cho thấy rõ Hoàng Phủ Ngọc Tường đích thị là một hung thần máu lạnh đã xuống tay thảm sát hàng ngàn đồng bào Huế mà trong số đó không ít là bè bạn đồng môn hay thậm chí là cả những học trò cũ của Tường. Còn lời chứng của nạn nhân, của người nhà nạn nhân thì quá nhiều và quá rõ: Hàng trăm thân nhân những nạn nhân bị bắt giam và đưa ra “Tòa án cách mạng” xét xử tại trường Trung Học Gia Hội đều nói rõ họ là họ có mặt trong phiên toà tại đó. Tất cả những người chứng kiên đều xác nhận người ngồi xử tội thân nhân họ là ông giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhân vật mà người Huế ai cũng biết tên, biết mặt trong thời gian Phật giáo tranh đấu ở Huế năm 1966… Trong số đó có cả một quả phụ, vợ của một Chuẩn úy thuộc Sư Ðoàn I Bộ Binh, bà quả phụ kể rằng kể khi bà đem thức ăn và áo quần đến cho chồng, ông nói với bà: “Em đừng sợ, người ngồi xử là ông thầy cũ của anh, thầy Tường dạy anh ở trường Quốc Học.” Hoàng Phủ Ngọc Tường còn gì để nói nữa không? Riêng Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân là những người chỉ huy trực tiếp của cuộc công kích thanh phố Huế, nên không cần phải bàn cãi về sự hiện diện của họ hay không tại thành phố Huế trong suốt 26 ngày đêm cộng sản chiếm đóng tại thành phố này. Điều cần làm rõ ở đây là việc cả hai hung thần đều chối bỏ hành động sát nhân, rằng “TÔI KHÔNG GIẾT AI CẢ”. Và đây, lời tường thuật của một người còn sống sót sau khi cả gia đình đều lần lượt bị Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân bắn chết, “Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết Mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người thân yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát. Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết. Tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh sát hại: Tên ông nội: Nguyễn Tín, 70 tuổi. Ba người anh: Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942. Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946 Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949 Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi. ” Chính Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, giáo sư Hoàng Văn Giàu, giáo sư Nguyễn Đóa, Nguyễn Thiết, Nguyễn Thị Đoan Trinh chỉ huy các toán quân ở vùng Tả Ngạn tại Quận 1, nơi mà Nguyễn Đắc Xuân đã đích thân xử bắn một bạn học cũ là sinh viên Trần Mậu Tý vào sáng Mùng 2 Tết, mặc dù giây phút trước khi bị xử bắn, Trần Mậu Tý đã hết lời khẩn khoản van xin: “Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm.Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn học cũ.” Cùng lúc đó, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm và giáo sư Hoàng Văn Giàu xử bắn tiếp 5 thương gia khác cùng địa điểm trên trước khi họ hành quân về khu Hữu ngạn bao gồm Quận 3, Vỹ Dạ và các xã Thủy An, Thủy Trường, Thủy Xuân, Thủy Bằng, Thủy Phương, Thủy Dương của Quận Hương Thủy, nơi chúng đã phối hợp với cánh quân của bác sỹ Phạm Thị Xuân Quế bắt tất cả những người dân đang ẩn náu trong các nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế trên đường Nguyễn Huệ và trong nhà thờ Phủ Cam ở Xã Thủy Trường đưa lên Khe Đá Mài hành quyết. Cũng cần nêu thêm một chi tiết quan trọng ở đây là trong số những người bị bắt đi và chôn sống này, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã chôn sống luôn cả một bạn thân của mình là Nguyễn Cửu Bính cùng các giáo sư đã dạy dỗ cho Phan tại Đại Học Y Khoa Huế là giáo sư bác sĩ người Tây Đức Slois Alterkoster, Bác sỹ Raimund Discher và Bác sỹ Hort Gunther Kranick cùng vợ cũng là giáo sư từng dạy Hoàng Phủ Ngọc Phan. \ Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đổ vấy vụ thảm sát Huế – Mậu Thân 1968 cho quân đội “Mỹ-Ngụy” hay cho rằng nhân dân Huế đã thực hiện những vụ hành quyết đó vì lòng căm thù của nhân dân đối với các nạn nhân chỉ là một kiểu ngậm máu phun người theo kiểu cách của cộng sản. Việc Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân chối bỏ hành động thảm sát đồng bào Huế cũng chỉ là kiểu cách phủi bỏ trách nhiệm mà Hồ Chí Minh đã làm sau cuộc cải cách ruộng đất ở Miền Bắc từ 195 đến 1956 mà thôi. Điều đáng lấy làm xấu hổ là cho đến ngày nay, đã sau 45 năm kể từ ngày bàn tay của các sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Thiết, Tôn Thất Dương Tiềm… và những tên Việt cộng nằm vùng thuộc cấp của chúng nhuốm đẫm máu của đồng bào Huế mà báo chí của đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp bao biện, tiếp tục che giấu tội ác của những kẻ sát nhân máu lạnh đó, thì làm sao chúng có cơ hội để nhìn nhận sự thật mà cúi đầu ăn năn trước những oan hồn mà chúng đã ra tay sát hại cũng như trước đồng bào Huế. Và điều đáng lấy làm xấu hổ là đến nay vẫn chưa có bất cứ một lời xin lỗi nào từ phía nhà cầm quyền cộng sản về hành vi diệt chủng này, bởi chưa biết ăn năn hối lỗi là chưa biết hành thiện mà vẫn sẽ tiếp tục làm điều ác. Thật là kém phúc cho dân tộc Việt Nam và cũng quá vô phúc cho nghiệp nhà của những kẻ lưu manh nhân danh trí thức. Ngày 02 tháng 02 năm 2013 Nguyễn Thu Trâm
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 3, 2013 9:41:02 GMT 9
Thâm cung bí sử trong ‘Bên Thắng Cuộc’?
Vũ Ánh
Ðời tư của những lãnh tụ chính trị thuộc đảng Cộng Sản Việt Nam được người dân thường xem là những thâm cung bí sử. Mà đã gọi là thâm cung bí sử thì chắc chắn nó được che giấu rất kỹ và những gì mà người ta biết đến hay nói đến thường không được căn cứ vào tin mà vào lời đồn đại.
Tác giả của “Bên Thắng Cuộc” cho biết ngay từ đầu tác phẩm rằng anh không viết chuyện thâm cung bí sử mà chỉ ghi chép những chuyện xảy ra trong đảng Cộng Sản Việt Nam theo thứ tự của từng vấn đề. Nhưng khi nói đến cuộc đời của Lê Duẩn, tác giả đã không thể bỏ qua được một phần nhỏ những riêng tư của ông ta trong lãnh vực tình yêu, gia đình và hôn nhân. Tuy chỉ chiếm khoảng 9 trang trong tác phẩm dầy đến 680 trang, tiểu đề “Lê Duẩn và Mối Tình Miền Nam” là một trong hàng trăm câu chuyện về đời tư của nhân vật này được nhiều người coi là “khá hấp dẫn chẳng khác gì những chuyện thâm cung bí sử”.
Theo lời tác giả “Bên Thắng Cuộc”, Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong thuộc tỉnh Quảng Trị trong một gia đình thợ nghèo. Ông ta chỉ học đến lớp 4 rồi tự ý bỏ học. Nhưng lớp 4 ở nhà quê vào thời kỳ đó vẫn được người trong làng coi là “hay chữ”, nên dân làng thường gọi Lê Duẩn là “cậu thông Nhuận”. Tham gia hoạt động từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của đảng Cộng Sản Ðông Dương. Tuy nhiên, ngày nay một câu hỏi được đặt ra là: “Với trình độ học lớp 4 như vậy mà làm sao họ Lê có thể thành công trong những hoạt động dẫn dắt cả một Xứ bộ ở miền Nam Việt Nam?” Thực ra, có nhiều sử gia cố tìm cách giải thích sự kiện này, nhưng họ đều không tìm ra câu trả lời, ngoại trừ một vài tác giả thời còn trẻ vốn là chuyên viên tình báo thuộc phái bộ MAC-V, trong đó có Harry D. Felt viết trong một phúc trình gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ từ Sài Gòn vào cuối năm 1962: “...Họ (VC) được huấn luyện ngay tại chỗ thành thử họ quen chịu đựng khó khăn, khổ sở. Những thắng lợi gần đây cho thấy, Việt Cộng đã vượt qua được những thử thách do kế hoạch Ấp Chiến Lược tạo ra và đây là điều chúng ta (Mỹ) cần lưu tâm...” (The Pentagon Papers, Beacon Press-Boston)
Năm 2002, khi trở về Mỹ sau chuyến đi dài ngày ở Việt Nam để thu thập tài liệu viết cho xong tác phẩm “Bare Feet, Iron Will-Conversation With The Enemy” (tạm dịch: Chân đất, Ý chí sắt thép-Ðối thoại với kẻ thù), Luật Sư James G. Zumwalt, cháu nội của Ðô Ðốc Zumwalt, tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, đồng thời là một cựu hải quân đại tá trong Hải Quân Hoa Kỳ đã đưa cho tôi bản thảo gần như toàn phần của tác phẩm này, chỉ còn một phần rất nhỏ không quan trọng lắm ông viết chưa xong. Ông yêu cầu tôi dịch tác phẩm này ra tiếng Việt để ông có thể xuất bản cùng một lúc với phần Anh ngữ. Hai ngày sau khi đọc xong, tôi gặp tác giả và nói rằng loại tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam như “Bare Feet, Iron Will” tôi dịch khá nhanh chỉ mất khoảng 3 tháng. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh nội cái tựa không thôi, James Zumwalt cũng đã phải đi dưới hai lằn đạn tại một cộng đồng Việt Nam còn rất nhạy cảm khi nói đến cuộc chiến kết thúc ngày 30 Tháng Tư 1975. Hơn nữa, trong tác phẩm, một vài cuộc phỏng vấn một số sĩ quan và tướng lãnh trong quân đội Cộng Sản Việt Nam có nội dung cho thấy họ tỏ ra hãnh diện đã có thể dùng gạo rang, muối và nước lã chống Mỹ trường kỳ và họ đã thắng. Hợp đồng dịch thuật không thành đạt được và tôi mất liên lạc với ông đã lâu rồi nên cũng không biết “Bare feet, Iron will” đã xuất bản hay chưa. Tuy nhiên, tác phẩm này cũng cho tôi thấy một cách nhìn khác riêng biệt của giới quân sự Mỹ giải thích một phần nào lý do thắng trận của người Cộng Sản, nhưng đã không thể thắng được trong việc quản lý đất nước và phát triển kinh tế chỉ vì trình độ học vấn thấp thời làm “cách mạng” không đáp ứng được những yêu cầu về quản lý và làm ăn kinh tế ở “thời bình”.
Ðiều này thực cũng chẳng khác gì trong cuộc chiến bí mật ở miền Nam Việt Nam, Lê Duẩn với tư cách bí thư Xứ Ủy Nam Bộ sau khi từ Côn Ðảo trở về sau Cách Mạng Tháng Tám đã nhiều lần thoát hiểm mật thám Tây và lực lượng an ninh của chế độ Ngô Ðình Diệm nhiều lần, nhưng lại không thể thoát ra khỏi được mắt lưới tình ái. Khi Lê Duẩn qua đời vài năm sau 30 Tháng Tư 1975, dư luận bàn tán rất nhiều về những người vợ của một trong những tổng bí thư khét tiếng nhất trong đảng CSVN. Nhưng sự thực ông có bao nhiêu vợ thì chưa có một tài liệu nào khả dĩ rõ ràng như được trình bày trong tiểu đề “Lê Duẩn và Mối Tình Miền Nam” trong “Bên Thắng Cuộc”. Theo tác giả của “Bên Thắng Cuộc”, dựa theo cuộc phỏng vấn bà Lê Thị Muội con gái của Lê Duẩn với bà vợ đầu ở quê tên là Lê Thị Sương và cuộc phỏng vấn ông Lê Kiên Thành, con trai của ông Duẩn với bà vợ thứ hai là bà Nguyễn Thụy Nga, người ta mới được biết một cách chính thức là Lê Duẩn ít nhất cũng có hai vợ chính thức và bà Nga, người vợ lẻ, chính là người mà tác giả gọi là kết quả “mối tình miền Nam” của họ Lê.
Tác giả “Bên Thắng Cuộc” gọi việc ông Lê Duẩn bí thư Xứ Ủy Nam Bộ lấy bà Nguyễn Thụy Nga là kết quả của một tình yêu cho nó nhẹ đi thôi vì trong thế giới Cộng Sản, nói đến chuyện công khai cũng đã khó rồi huống chi đây lại là chuyện “không nên nói ra” mà vẫn cứ phải nói ra. Nó cũng bàng bạc một màu giống như câu chuyện được Trần Mạnh Hảo trình bày trong “Ly thân”: Ðảng bảo bỏ là phải bỏ, đảng bắt lấy là phải lấy! Bà Nguyễn Thụy Nga là con gái người chủ bút một tờ báo viết bằng tiếng Pháp tên là “La Tribune Indigène”. Năm 14 tuổi cô bé Nga đã theo “mấy chú” đi hoạt động “cách mạng” và trót yêu “một đồng chí đã có gia đình”, đó là Nguyễn Văn Trấn, một trong những người Cộng Sản lãnh đạo cuộc cướp chính quyền Sài Gòn năm 1945 từ tay người Pháp. Năm 1948, mối quan hệ tình ái của hai người bị lộ và bị tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nguyễn Thụy Nga bị buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác để cắt lìa hai người, một kiểu ép buộc mà người Cộng Sản hay làm. Vẫn theo tác giả “Bên Thắng Cuộc”, bà Nga lúc ấy đang là nữ đoàn trưởng Phụ Nữ Cứu Quốc và Lê Duẩn gặp bà Nga vào dịp họp tỉnh ủy nghe được câu chuyện có hỏi bà Nga thì được trả lời:
“Lên Sài Gòn đối với tôi là một công tác rất mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì, nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu (Nguyễn Văn Trấn) thì khó mà làm được. Xa nhau cũng được, nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc”.
Tư chất của người phụ nữ này lẽ ra phải được tôn trọng. Tuy nhiên theo tác giả Huy Ðức thì Lê Duẩn tuy không phát biểu gì vào lúc đó, nhưng khi trở về Xứ ủy gặp Lê Ðức Thọ thì ông ta lại nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi cưới người có tính chung thủy như chị Nga”. Ít lâu sau Lê Ðức Thọ tìm xuống Cần Thơ để thực hiện “lệnh” của sếp và ông ta nói thẳng: “Anh Ba (Lê Duẩn) muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi... Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khỏe làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ... sự sáng suốt của anh ấy có lợi cho cách mạng...” Rõ ràng, đây không phải là cách thuyết phục của một “ông mai” mà là ép duyên chỉ vì “đồng chí” Lê Duẩn muốn và ý muốn thiếu trong sạch này được che lấp bằng quyền lợi của đảng. Tỉnh ủy Cần Thơ ép Nguyễn Thụy Nga bỏ Nguyễn Văn Trấn, một người có gia đình, nhưng lại ép cô gái này lấy một cán bộ Cộng Sản “gộc” cũng đã có gia đình. Theo tôi, không còn gì thô lậu và “thiếu đạo đức cách mạng” bằng trò ép duyên này! Nhưng chưa hết. Theo lời bà Nga, có lần bà hỏi thẳng Lê Duẩn rằng nếu ông ta lấy vợ rồi, sau này về gặp gia đình thì phải giải quyết sao đây? Họ Lê nói tỉnh bơ:
“Anh cưới vợ trước đây là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà sau đó có đưa ra Hà Nội ở một thời gian, nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp gì được cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong kiến, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình có đi hoạt động cách mạng, có gần nhau gũi nhau, chắc không có gì khó khăn lắm”.
Ðó là thứ hôn nhân ba vạ của một trong những lãnh tụ lớn của đảng Cộng Sản Việt Nam, một người đời tư đã có nhiều bùn nhưng lại chỉ coi đời tư người khác mới có vết hoen ố? Năm ấy Lê Duẩn đã 41 tuổi còn tuổi thực của bà Nga chỉ bằng một nửa số tuổi của ông ta, nhưng cuộc hôn nhân này đã mang lại cho bà Nguyễn Thụy Nga nhiều rắc rối và đau đớn nhất. Chính bà Nga đã thừa nhận trong cuộc hôn nhân hơn ba thập niên của bà chỉ có 3 năm là sống hạnh phúc. Tất cả còn lại đều là một cuộc sống bé mọn của người phụ nữ bị đảng ép buộc bỏ mối liên hệ tình ái mà đảng cho là thiếu đạo đức với một đảng viên Cộng Sản nhưng lại buộc phải chấp nhận mối liên hệ tình cảm hoàn toàn phi đạo đức với một đảng viên lớn tuổi, lớn cấp khác. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra một so sánh nhẹ nhàng và khéo léo, nhưng nó như một vết chém hằn sâu trang sử hôn nhân và tình ái mờ ám của các lãnh tụ đảng, từ Hồ Chí Minh cho tới một số thuộc hạ thân cận của ông ta:
“Lê Duẩn chọn vợ vì ông ta chứng kiến đức thủy chung mà bà Nga dành cho người khác, còn bà Nga thì thừa nhận là đã chọn Lê Duẩn qua đạo đức và tình cảm lớn lao mà ông dành cho đồng chí, đồng bào”.
Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ so sánh này thì đây chính là một lời ám chỉ nặng nề về cái gọi là “đạo đức cách mạng” mà những người Cộng Sản thường rêu rao. Thực ra, thứ đạo đức này chỉ là một bức bình phong che đậy những chuyện phi đạo đức trong đảng mà thôi. Năm 1955, bà Nguyễn Thụy Nga nghe lời chồng mang con tập kết ra Bắc và việc đầu tiên mà bà phải đối phó là giải quyết sự liên lạc êm ấm với gia đình nhà chồng và bà vợ cả của Lê Duẩn là bà Lê Thị Sương. Chuyện này đáng lẽ có thể đã ổn thỏa, nếu không có sự can thiệp của các “đồng chí lớn” của Lê Duẩn. Bà Nga kể lại trong cuộc phỏng vấn: “...Anh Phạm Hùng và chị Nguyễn Thị Thập nói với tôi, trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ cũng vì sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tròn nhiệm vụ”. Khi ấy Quốc Hội vừa có luật Hôn Nhân và Gia Ðình qui định chế độ “một vợ, một chồng”.
Khi Lê Duẩn được lệnh trở ra Bắc, ông ta vui mừng được gặp lại người vợ trẻ miền Nam, nhưng ngay lập tức lại phải đương đầu với áp lực phải bỏ bà Nga. Họ Lê tức quá nói với vợ: “Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, bây giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau. Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong lòng anh không bao giờ yên ổn. Người Cộng Sản thì phải có thủy có chung, có tình, có nghĩa” (?)Lê Duẩn ném cái boomerang đi qua vụ gạt bỏ tình nghĩa với người vợ cả là bà Sương, nay cái thanh gỗ thường được thổ dân Úc dùng làm vũ khí săn thú đã quay ngược lại chính ông ta. Lê Duẩn dẫn bà Nga sang Hội Phụ Nữ để trình bày, nhưng trong hồi ký, bà Nga cho biết hội phản đối kịch liệt và bà trở thành đối tượng bị hội ghét bỏ, bị cắt tất cả chế độ phúc lợi y tế (trong đó có chế độ được nằm bệnh viện Việt-Xô, một bệnh viện tối tân nhất vào thời bấy giờ). Huy Ðức nhấn mạnh thêm về những hậu quả ê chề khác mà bà Nguyễn Thụy Nga phải nhận chịu giống hệt như những phụ nữ thời phong kiến:
“Những đồng chí của ông Lê Duẩn như Lê Ðức Thọ người đã mai mối bà Nga cho ông Duẩn giờ đây cũng câm lặng. Bà Mai Khanh vợ ông Hai Hùng (Phạm Hùng), người chủ hôn thì cùng với cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động các gia đình chống lại bà Nga... Khi ông Lê Duẩn trở ra Bắc, cũng chỉ thỉnh thoảng bà Nga mới được về căn nhà riêng dành cho ông ở số 6 đường Hoàng Diệu, Hà Nội để thăm chồng. Hơn nữa, bà Nga lại còn phải đối phó với cô Hồng con gái của ông Duẩn với bà vợ trước lúc đó đã là sinh viên. Theo cách kể lại của bà Nga, cô sinh viên này không hề có một chút thông cảm nào để bố mình giải quyết gia đình vợ nọ, con kia. Cuối năm 1957, Lê Duẩn đành phải thu xếp cho bà Nga đi công tác ở Bắc Kinh, vừa nuôi 3 đứa con, vừa đi học. Năm 1962, bà Nga được trở lại Hà Nội nhưng sau đó bị điều sang làm việc tại báo Hải Phòng, thỉnh thoảng mới có dịp lên Hà Nội thăm chồng và vẫn bị cô Hồng khinh miệt và làm tình làm tội. Bà Nga kể lại: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 đường Hoàng Diệu. Nhưng còn anh (Lê Duẩn) còn mấy đứa con tôi sẽ ra sao. Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Vì đảng, vì tình thương mà tôi đã vượt qua”.
Trong một chế độ thiếu tự do và con người bị câu thúc, mức độ hoài nghi lan tràn như Việt Nam, khó lòng mà biết được thực sự người ta nghĩ gì và suy nghĩ ấy có giống như khi người ta nói hay viết không? Nhưng rõ ràng những người như Lê Duẩn, Lê Thị Sương, Nguyễn Thụy Nga, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ... cũng vẫn chỉ là những con người bị mắc vào cái cạm bẫy vĩ đại của chủ nghĩa Cộng Sản hoang tưởng. Trong chốn tù đày của cạm bẫy ấy, đàn áp không những đã trở thành một công cụ để người Cộng Sản tước đoạt mọi thứ quyền của con người mà còn là một công cụ chuyên chính ngay với cả tình cảm con người, tình yêu và hôn nhân.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 3, 2013 9:43:35 GMT 9
Chế độ lý lịch, tình yêu và hôn nhân trong ‘Bên Thắng Cuộc’
Vũ Ánh
Những ai đã từng có cơ hội đọc bản dịch tiếng Anh tác phẩm “Mein Keimf” (My Struggle hay My Battle) từ nguyên tác tiếng Ðức của Adolf Hitler nhà độc tài khét tiếng của Ðức Quốc Xã hồi Ðệ Nhị Thế Chiến hẳn sẽ thấy ở Chương 11 khi nói về “Quốc Gia và Chủng Tộc,” nhà độc tài này đã có những suy nghĩ vừa hoang tưởng, vừa điên loạn về một giống người Ðức da trắng tóc vàng, có bộ não siêu việt, chỉ số IQ lớn hơn bất cứ một giống dân nào khác trên thế giới mà những nhà khoa học Ðức Quốc Xã gọi đó là người da trắng thuần chủng nhất: người Aryan!
Nhưng các dân tộc ở Âu Châu đều hiểu rằng quan điểm mà người ta cho là hoang tưởng của ông ta thực ra bắt nguồn từ lòng thù hận một chủ ngân hàng người Do Thái ở Berlin. Adolf Hitler đã dùng quan điểm chủng tộc này để gọi người Do Thái là một sắc dân “bủn xỉn, keo bẩn, sống ở xã hội nào thì tìm cách lũng đoạn xã hội ấy” và ông ta cho rằng “người Do Thái không đáng sống trên cõi đời này.” Kết quả khi Hitler chiếm gần hết Âu Châu, 6 triệu người Do Thái bị loại ra khỏi thế giới trong những phòng hơi ngạt và lò thiêu và người Ðức bị cấm kết hôn với các chủng tộc khác vì Hitler sợ họ bị lai giống. Sau khi Ðức Quốc Xã tan rã nước Ðức đã mất nhiều công của để sửa chữa lại những trang sử chủng tộc do Hitler tưởng tượng ra, tuy nhiên công việc này ngày nay vẫn chưa hoàn tất được.
Giữa lúc chuyện kỳ thị chủng tộc chỉ còn là một đống tro tàn thì khoảng thập niên 50, một loại kỳ thị khác lại xuất hiện ở Việt Nam: kỳ thị của người cộng sản đối với người Việt không cộng sản. Tác phẩm “Ly Thân” của Trần Mạnh Hảo xuất hiện đã trở thành một trái bom dư luận ngay trong văn đàn được gọi là “văn học cách mạng” tại Việt Nam thời đảng Cộng sản Việt Nam đang “đổi mới tư duy.” Trần Mạnh Hảo đã trình bày trong truyện của ông những bi kịch khi Ðảng buộc đảng viên phải bỏ vợ hay bỏ chồng để lấy người do đảng chọn cho. Những bi kịch ấy là những điều mà đảng viên đảng CSVN và người dân Miền Bắc đều biết, nhưng không ai dám viết ra cho đến khi cuốn “Ly Thân” ra đời. Tiếp theo đó, là câu chuyện đầy nước mắt do Thế Giang viết về cuộc đời của ông Ðặng Ðình Hưng, bố của nhạc sĩ dương cầm Ðặng Thái Sơn. Bà vợ ông cũng là một dương cầm thủ đã bị đảng ngầm áp lực phải ly thân với ông Hưng chỉ vì chồng bà dính dấp vào vụ án Nhân Văn và Giai Phẩm.
Cái oái oăm nhất của lịch sử chính là chiến thắng năm 1975 của Cộng sản miền Bắc mang đến cơ hội tốt cho chủ nghĩa lý lịch lại bùng lên, lan tràn hơn trong một giai đoạn khá dài. Người bạn tù vong niên của tôi ở trại Hàm Tân Z-30C là một bác sĩ quân y mà tôi không tiện nêu tên đã có một cô con gái lớn khi ông phải đi cải tạo sau 30 tháng 4, 1975 vì cấp bậc của ông lúc bấy giờ đã là thiếu tá. Sau đó, con gái ông gặp và yêu một bác sĩ từ Hà Nội chuyển vào làm việc cho một bệnh viện lớn ở Saigon, nơi cô đang công tác. Họ kết hôn và trong chuyến thăm nuôi trước khi ông bị chuyển trại, vợ ông báo có cả con rể đi theo. Nghe đến con rể là ông nhất định không ra thăm gặp. Bạn bè trong tù khuyên ông bề nào thì tình yêu cũng không có biên giới mà con tim bao giờ mà chẳng mù lòa. Vả lại các con ông có đời sống và suy nghĩ riêng của chúng về tình yêu, về hạnh phúc, có nghĩa là “các con ta không phải là ta, nhưng vẫn là con ta.” Mười bốn năm sau khi được thả về, tình cờ gặp lại ông tại một bệnh viện đa khoa ở Chợ Lớn, nơi ông đang phục vụ sau khi được tha vào năm 1982, tôi có gợi lại chuyện cũ thì ông nói, “Ổn thỏa rồi. Các cậu nói đúng, con ta đếch phải là ta. Chúng nó có hai con rồi và tôi cũng yên phận ở đây để hành nghề cũ.” Bạn tù của tôi không đi Mỹ theo diện H.O, ông chọn ở lại vì nghĩ rằng ở đâu thì cũng phục vụ bệnh nhân. Khi chuyển sang các trại khác trong suốt những năm lưu đày, tôi cũng đã biết thêm nhiều bi kịch của chủ nghĩa lý lịch trong tình yêu và hôn nhân, nhưng tôi thấy cuối cùng thì mọi chuyện cũng “ổn thỏa” cả nếu những người trong cuộc kiên quyết bảo vệ tình yêu và hạnh phúc của mình.
Tuy nhiên, khi còn bị tù trong trại lao cải Hàm Tân Z-30C, bi kịch đau lòng nhất lại không phải là tình duyên ngang trái của con cái chúng tôi vì chế độ lý lịch mà là chuyện liên quan đến nghĩa vụ với nước non của chúng khi trưởng thành trong khi chúng tôi vẫn ngồi tù. Ðầu tháng 8 năm 1978, một bạn tù khác của tôi, Ðại úy NTÐ một hôm được gọi ra thăm nuôi đặc biệt. Một giờ đồng hồ sau, anh bước vào phòng giam sau giờ cơm trưa, quăng giỏ quà xuống nằm vật ra khóc như một đứa trẻ. Anh em an ủi thì Ð. đưa ra một tờ giấy cho chúng tôi xem: đó là giấy vinh danh liệt sĩ cấp cho gia đình anh vì cậu con trai cả là Thanh Niên Xung Phong (TNXP) đã hy sinh trên chiến trường Campuchia. Ðại úy Ð. lúc đó đã là bố liệt sĩ tiếp tục cải tạo cho đến 1982 mới được thả về. Một năm sau, anh cùng đứa con trai thứ hai vượt biển, nhưng cho đến trước năm tôi đi định cư tại Hoa Kỳ 1992 gia đình anh vẫn không nhận được tin tức gì về hai bố con anh. Có lẽ họ đã mất tích trên biển Ðông!
Phản ứng của những bạn tù của tôi nhất định không phải sự kỳ thị, bởi họ đều ở trong phe bại trận, hiểu được cái thân phận mong manh và bất trắc của mình trong tình thế vào lúc đó. Chẳng qua đó chỉ là phản giận dữ và cay đắng nhất thời của những người vừa mới đầu hàng tưởng như mọi hy vọng bản thân và gia đình mình đều đã tắt ngấm. Nhưng ngược lại sự kỳ thị của những người vừa thắng trận không phải chỉ là một phản ứng tự nhiên. Nó được đóng khung bởi một chính sách hẳn hòi. Nếu đối với những cựu sĩ quan và cựu công chức cao cấp, chính quyền Cộng sản muốn giam giữ họ bằng án tập trung vô hạn định để qua những năm tháng tù đày với chính sách hà khắc, phản ứng chống đối của họ sẽ nhạt đi và có khi họ còn không bảo toàn được nhân phẩm. Họ được thả ra với một ý thức rõ rệt là mình sống mà như đã chết. Những cựu sĩ quan trẻ hơn, về sớm hơn đều bị đẩy lên vùng kinh tế mới cũng nằm trong ý đồ rất tinh vi của nhà cầm quyền Cộng sản.
Những chuyện như thế, tôi nghĩ xảy ra nhiều trong những năm sau ngày 30 tháng 4, 1975 về phía bên thua cuộc, nhưng nó đã không được viết ra trên giấy vì nhiều lý do mà lý do chính là không ý thức được rằng đến một ngày nào đó sẽ có những người phải nói ra và những người ấy có khi không ở phe mình mà lại ở phe chiến thắng, điều mà nhiều người Việt Nam ở hải ngoại vẫn cho rằng đã là Việt Cộng thì khi viết về những điều nhạy cảm cũng chỉ là ca ngợi Việt Cộng, là nhận lệnh, là bào chữa cho độc tài hay những sai lầm của chế độ. Từ trước đến nay chúng ta, những người thua cuộc chạy được sang đây vẫn dùng một hình ảnh rất bóng bẩy để mô tả Việt Nam là một nhà tù vĩ đại, nhưng ít chi tiết ở bên trong, hay có thì cũng chỉ là vài tảng mầu đen đúa dành cho số phận của những người bên thua trận. Còn những người bên thắng trận, họ giữ những vai trò gì trong những việc tưởng như có thể thay đổi được con người, làm cho con người sống tốt đẹp hơn cái xã hội mà họ nghĩ là xấu xa, thì kể từ thời “đổi mới tư duy” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, nó mới được hé mở cho thấy một góc hậu trường chính trị của những người Cộng sản mà thôi.
Kịp cho đến khi Huy Ðức một nhà báo, một blogger xuất thân từ xã hội Cộng sản, từng sống thời niên thiếu, lớn lên và vào đời trong cái xã hội nghèo đói và nhốn nháo quyền lực, chúng ta có thêm những chi tiết trong bức tranh toàn cảnh của một bi kịch mà đất nước Việt Nam đã và đang trải qua. Cách riêng, trong tuần này, tôi viết ra những suy nghĩ của tôi về điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” gọi là “cánh cửa” Thanh Niên Xung Phong khi ông Võ Văn Kiệt giao cho thành đoàn tổ chức nhắm đoàn ngũ hóa một lực lượng thanh niên để đi khai khẩn đất hoang. Thực ra thì trong bài diễn văn ngày 28 tháng 3, 1976, tại sân vận động Thống Nhất (sân vận động Cộng Hòa thời VNCH) dù ông Võ Văn Kiệt có nói những điều gì tốt đẹp khi phát động phong trào này đi nữa, người ta vẫn có thể nhìn ra một điều: nhà cầm quyền quân quản vẫn thấy mối nguy hiểm tiềm ẩn trong giới thanh niên đô thị thời bấy giờ. Rút kinh nghiệm khi Cộng sản tiếp thu miền Bắc, nhà cầm quyền Cộng sản miền Nam nghĩ ngay đến nguồn gốc của chống đối và họ ngăn chặn bằng cách đoàn ngũ hóa khối thanh niên này gồm đủ thành phần như Huy Ðức mô tả: con em các gia đình “có công với cách mạng,” thành phần lính VNCH (lúc đó thường bị gọi là lính “Ngụy”), có cả thành phần xì ke, ma túy, mãi dâm. (tác giả dùng ngoặc kép trong những từ ngữ như Ngụy, đĩ điếm và đã giải thích lý do tại sao anh sử dụng cách này để tránh ngộ nhận trên Facebook). Khối người này không phải nhỏ mà có đến hơn 60,000 người bị đẩy một cách khéo léo ra khỏi các thành phố để về những vùng rừng núi hay các vùng kinh rạch ở biên giới và giao cho vài trò khẩn hoang.
Chúng ta không nên vội vã phê phán khối thanh niên ở Saigon vào những tháng sau 30 tháng 4, 1975 là dễ bị lôi kéo hay bị bịt mắt. Ðây không phải là lần đầu tiên, người dân miền Nam chứng kiến và trải qua những kế hoạch đoàn ngũ hóa thanh niên, sinh viên học sinh của các chính quyền VNCH trước 30 tháng 4, 1975. Tất cả, từ công tác thành lập Tổng Ðoàn Thanh Niên Cộng Hòa thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cho đến việc thành lập Tổng Ðoàn Thanh Niên Trừ Gian thời nội các chiến tranh, việc đoàn ngũ hóa thanh niên các thành phố thành Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của cộng sản, đều thất bại. Lực lượng đoàn ngũ hóa thanh niên dưới hình thức những Ðoàn 59 người của Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn là có những thành công đáng kể trong công tác bình định và xây dựng. Ðây là lực lượng đoàn ngũ hóa thanh niên được huấn luyện kỹ nhất về tư tưởng qua tín niệm: “Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, đi dân nhớ, ở dân thương” tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vũng Tầu thời Ðại Tá Nguyễn Bé. Quả thật qua những dự án dân sinh và sống sát sườn vối dân chúng nông thôn, những người cán bộ áo đen này đã được dân nhớ khi đi và dân thương khi ở! Chỉ tiếc một điều những nhà lãnh đạo VNCH không được trang bị khả năng nhìn xa và quá tin vào quyền năng của cây súng cho nên đã để cho một lực lượng dầy dạn kinh nghiệm chính trị mai một và dẫn tới hậu quả là họ đã vào tù hết, tù rất nặng sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Hoàn cảnh của khối thanh niên tại Saigon cũng như tại những đô thị lớn ở miền Nam sau 30 tháng 4, 1975 là một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ là những thanh niên mới lớn, phần lớn là con cháu của những người lính VNCH, những thành phần “cách mạng 30-4,” thành phần du thủ du thực và mãi dâm như Huy Ðức mô tả. Trong đó, tất cũng có một số thuộc thành phần gia đình có công với cách mạng nhưng xã hội mới không đủ công ăn việc làm cho họ. Sau khi khoảng một trăm ngàn sĩ quan quân đội và viên chức chính phủ VNCH bị đẩy lên những xe bít bùng rời Saigon vào ban đêm để đến hàng trăm trại cải tạo ở miền Nam cũng như miền Bắc, khối thanh niên nói trên trở nên rất hoang mang. Họ có cảm tưởng như mình là những cây còn non, bị nhổ khỏi đất không biết người ta sẽ đem trồng ở đâu. Từ tình trạng lêu bêu, không công ăn việc làm, không thể tự nguyện lên sống ở những vùng kinh tế mới, con đường đi đến cổng nhà tù hay bị gạt ra khỏi guồng máy chỉ còn là một con đường ngắn. Giữa lúc như thế, kế hoạch của ông Võ Văn Kiệt giao cho thành đoàn tổ chức lực lượng Thanh Niên Xung Phong trở thành một kế hoạch “cứu tinh” đối với khối thanh niên này. Nhân chứng Trần Ngọc Châu một giáo sư Anh Văn tại Saigon vào thời đó cho biết nhiều thanh niên gia nhập lực lượng TNXP cũng chỉ vì hy vọng rằng họ sẽ tránh được đòn kỳ thị. Ông nói:
“Nhiều người chỉ vì thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi (TNXP).”
Sau một thời gian đi vận động người khác, chính ông Châu cũng nhận ra con đường tốt để trụ lại trong chế độ mới là “chọn cánh của TNXP.” Theo Huy Ðức, giữa rừng U Minh, giữa chiến khu Dương Minh Châu... mùa mưa thì nước ngập mênh mang, mùa khô thì phải chia nhau từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá cây duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên,” thế mà họ sống với nhau không câu nệ quá khứ. Tuy nhiên, những nhân chứng như Trần Ngọc Châu hay Nguyễn Nhật Ánh lại phải trải qua những điều lo sợ khác. Những lời lẽ tốt đẹp của ông Kiệt trong lễ xuất phát TNXP năm 1976 dường như khác với thực tế của đêm 26 tháng 3, 1978, tức là đêm thành đoàn tổ chức lễ gia nhập Ðoàn cho thanh niên xung phong, trong đó Trần Ngọc Châu (lý lịch trắng) thì được gia nhập nhưng Nguyễn Nhật Ánh thì bị từ chối. Nhân chứng Trần Ngọc Châu mô tả:
“Ông Võ Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo đứng lên đánh trống. Hình ảnh ông Kiệt sừng sững...”
Nhân chứng Trần Ngọc Châu còn nói rằng vào Ðoàn khi ấy là thiêng thiêng lắm. Nhưng tác giả “Bên Thắng Cuộc” lại nhận định với một cái nhìn khác:
“Vào đoàn là thiêng liêng lắm, nhưng ‘ánh đuốc’ đêm ấy không thể roi sáng đến tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim cuốc đá ong đào kênh cho đến khi tay tóe máu vẫn không được vào đoàn chỉ vì có cha là ‘Ngụy.’ (Ngôn ngữ mà những người bên thắng cuộc dùng để gọi các sĩ quan, viên chức chính phủ VNCH. Viết chữ hoa, dùng đóng, mở ngoặc kép là một cách phủ nhận việc gán ghép này. Thân sinh của Nguyễn Nhật Ánh vốn là trưởng ty Chiêu Hồi tỉnh Quảng Trị). Cánh cửa thanh niên xung phong mà ông Kiệt thiết lập không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.”
Nhưng theo Huy Ðức, trên đây không phải là hình thức kỳ thị duy nhất chỉ về phương diện gia nhập đoàn, đảng. Những hình thức kỳ thị khác còn được thể hiện trong cả tình yêu và hôn nhân, một kiểu kỳ thị môn đăng hộ đối thời phong kiến. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra một loạt những nhân chứng điển hình trong hàng ngũ Thanh Niên Xung Phong từng trải qua tình yêu và hôn nhân phải “xin, cho”: Nguyễn Nhật Ánh và Trần Thị Tiếng Thu, Nguyễn Thế Dũng con trai một Ðại tá Việt Cộng Nguyễn Thế Truyện Sư Ðoàn 9 và Lê Bích Thúy con trai Trung tá Quân đội VNCH Lê Văn Ðương đang bị cải tạo, cô Võ Thị Bạch Tuyết giám đốc Nông Trường Ðỗ Hòa và Ðại úy Quân Y/VNCH, Bác Sĩ Thiều Huỳnh Chí sau khi ông đi tù cải tạo về năm 1978. Kết quả cuối cùng họ đều trở thành vợ chồng nhờ vào tinh thần tranh đấu kiên quyết của và “sự can thiệp của ông Sáu Dân (bí danh của ông Kiệt)” theo lời kể của nhân chứng Võ Viết Thanh.
Năm 1978, Việt Nam đưa quân sang Cambodia để tiêu diệt chế độ Pol Pot. Lực lượng thanh niên xung phong được đẩy sang phục vụ chiến trường này, được gọi là chiến trường K. Ngoài nhân chứng Võ Viết Thanh, không phải nhà lãnh đạo nào của lực lượng thanh niên xung phong cũng có “một ngày sống với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Ông Trần Ngọc Châu cho biết thêm:
“Công việc làm đường, tải thương và tiếp tế đạn đôi khi còn nguy hiểm hơn cả những người tác chiến. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có đến 30 người chết.”
Ðó là chưa kể đến những trung đội khác. Nhiều nữ thanh niên xung phong bị tử thương, bị thương, bị bắt và bị hãm hiếp trước khi bị giết. Nhân chứng Võ Viết Thanh còn nhấn mạnh thêm một yếu tố khá quan trọng: nếu không có sự kiên quyết của ông Võ Văn Kiệt, các đơn thanh niên xung phong còn không được cấp vũ khí. Họ vẫn sợ giao súng cho TNXP và ông Võ Viết Thanh tỏ ra không hiểu vì sao lại như vậy, nhưng nếu có ai đọc lại lịch sử của những đơn vị tác chiến trên bộ hay trên không của người Mỹ Da Ðen thời Ðệ Nhị Thế Chiến thường được gọi bằng từ ngữ Turkegee (tên của một thành phố da đen ở Alabama) bị giới hạn phục vụ Quốc Gia Hoa Kỳ bởi bị ảnh hưởng những đạo luật phân biệt chủng tộc Jim Crow Laws thì sẽ có thể hiểu được lý do tại sao những chàng thanh niên, thanh nữ Việt miền Nam trang phục quần áo xanh lá cây, nón tai bèo lại “mờ mắt” đến như vậy. Tôi cho rằng không nên vội vã kết luận mà nên tìm hiểu để tạm so sánh tại sao những chàng phi công da đen của Mỹ được gọi là Turkegee Airmen tranh đấu cho bằng được “quyền quyết tử” để bay ra chiến trường chống lại Không Quân Ðức Quốc Xã. Họ đã làm nên lịch sử cho người Mỹ gốc Phi Châu, cho Hiệp Chúng Quốc và đồng thời là một phương pháp chống lại sự kỳ thị vô lý của những đạo luật vô lý trói chân họ trong việc phục vụ đất nước Hoa Kỳ.
Cho nên, theo tôi, có thể có nhiều cách nhìn khác nhau về lượng thanh niên xung phong dưới chế độ Cộng sản và với những quan điểm chính trị khác nhau. Nhưng phải hiểu rằng họ là những thanh niên chưa gắn bó nhiều với cuộc chiến ý thức hệ, có cách nhìn và chọn đường đi của mình sao cho họ không bị gạt ra ngoài xã hội miền Nam Việt Nam như những người thua cuộc. Số phận của chế độ cũ đã an bài trong khi số phận của họ tùy thuộc vào tương lai chế độ chính trị mới ở miền Nam. Vì thế cho nên, năm 1982, khi tờ “Tuyến Ðầu” của lực lượng Thanh Niên Xung Phong bị giải tán, Nguyễn Nhật Ánh, Ðỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Ðông Thức trở về. Theo Huy Ðức, bộ đồng phục xanh lá cây đã làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm mồ hôi và cả máu. Huy Ðức nhấn mạnh về lý do tại sao những thanh niên xung phong lại chịu nhận những điều kiện khắt khe ấy:
“Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hãnh cho những người có nó. Chế độ mới đã coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn (60,000) giáo sư, bác sĩ, sinh viên thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời mình để cống hiến cho xã hội những gì họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ đã phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn thì mai một.”
Liệu đây có phải là lời cáo buộc thầm kín nhưng rất thấm thay cho những lời lên án cuồng nộ đối với chế độ hiện nay tại Việt Nam trong những thập niên gần đây và sau này không? (VA)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 3, 2013 9:45:31 GMT 9
Hồ Chí Minh và tập đoàn nhúng tay vào máu vì áp lực viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô!
Vũ Ánh
Ðây không phải là một câu chuyện mới mẻ gì. Nó chỉ là câu chuyện cũ về điều mà nhiều người dân miền Bắc cho tới nay vẫn tin là “bác bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước.”
Nhưng nếu họ được phép “thong thả” đọc cuốn biên niên thời sự “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức thì họ sẽ thấy từ trang 255 cho đến trang 265, những người phụ tá thân cận của ông Hồ tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn của tác giả hay trong những tài liệu mà không phải ai cũng tiếp cận được sẽ thấy nó chứa đựng nhiều điều khác hẳn với suy nghĩ của họ. Nội dung của những lời lẽ của những nhân chứng nói trên đã phơi bầy ra một thực tế mà từ trước đến nay không ai trong số những tác giả ở Việt Nam dám đề cập tới: đó là việc ông Hồ không tìm ra ra được con một con đường nào để cứu nước cả. Áp lực rất nặng nề về viện trợ của Bắc Kinh và Liên Xô khiến ông ta chỉ còn cách nhắm mắt bước vào một ngõ cụt là thực hiện những gì mà các “đàn anh, đàn thầy” mình áp đặt. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” trích dẫn lời của Hoàng Tùng, chánh văn phòng Trung ương để chứng minh con hẻm đó như thế nào, xin trích:
“Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Ðại Hội II diễn ra vào năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh (Ðặng Xuân Khu) đã đưa ra thuyết 'ba giai đoạn' theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo lời ông Hoàng Tùng: thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra tại Ðại Hội II là có ý kiến của ông Hồ, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, khi họp Xứ ủy, tôi đã được nghe ông (Trường Chinh) nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn. Nhưng sau Ðại Hội, theo ông Hoàng Tùng, Mao và Stalin đã gọi ông Hồ sang nhất định bắt phải làm (theo đường lối của họ). Mao Trạch Ðông nói thẳng: nếu các đồng chí (họ Hồ) không cải cách ruộng đất, chúng tôi sẽ không viện trợ nữa. Ðể có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Ðông phương, điều mà trước đó ông đã từng cho là không thích hợp.”
Những điều mà ông Hoàng Tùng nói ra từ trước đến nay vẫn được coi là “tuyệt mật.” Thời kỳ “đổi mới” của ông Nguyễn Văn Linh, một vài viên chức cấp trung và thấp có nói mé trên một vài tờ Tin Sáng cuối cùng trước khi tờ báo này bị đóng cửa về điều gọi là “sức ép của các đàn anh” sau khi một phần của những số báo này lọt được vào trong tù qua những lần các bạn tù của tôi được thăm nuôi. Người nhà họ khéo léo ngụy trang những bài báo nói trên trong những bao bì gói quà tiếp tế. Theo Huy Ðức, chính vì Stalin và Mao quá giáo điều cho nên ông Hồ phản ứng mạnh đối với kế hoạch cải cách ruộng đất theo kiểu của họ mà thôi, chứ thực tế thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh đã thể hiện một cách rõ ràng bước đi của một nhà nước công nông đúng theo như các lãnh đạo đệ tam quốc tế chủ trương. Cũng vẫn theo tác giả, sau khi chính phủ Ðoàn kết Dân tộc tan vỡ và nhất là thời kỳ chính phủ Việt Minh rời bỏ Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang mầu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành.
Ðây chính là thời điểm bố tôi cùng nhiều người bạn của ông phải “dinh tê” có nghĩa là phải bỏ kháng chiến để trở về vùng “tề” hay còn có một từ ngữ khác là “về thành.” Huy Ðức trích dẫn một trong những sắc lệnh của Hồ Chí Minh đầu tiên về cải cách ruộng đất:
“Ngày 14 tháng 7, 1949, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh buộc các chủ điền phải giảm tô cho các tá điền từ 25 đến 35%, lấy ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian để chia cho nông dân. Ngày 22 tháng 5, 1950, ông ta lại ký sắc lệnh khác xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước năm 1945, nếu là món nợ sau năm 1945 thì chỉ trả vốn mà không phải trả lãi. Ngày 20 tháng 4, 1953 ông Hồ lại ký sắc lệnh “Giảm tô” bằng cách giảm thêm giá thuê đất 25% để tổng số tổn phí của tá điền không quá 1/3 hoa lợi.”
Thế nhưng xương sống của những sắc lệnh của ông Hồ từ 1949 đến 1953 là bạo lực chính trị để bắt buộc người dân miền Bắc phải theo chính là chính sách đấu tố ruộng đất. Ðể thăm dò phản ứng và để thị uy, ông Hồ ra lệnh cho ông Trường Chinh thực hiện với 6 xã thí điểm ở huyện Ðại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên và sau đó chính thức thực hiện vào năm 1953. Về tổng quát, những điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra không phải là những điều mới mẻ, nhưng một vài chi tiết là những bằng chứng mới cho thấy ông Hồ và những phụ tá thân cận của ông biết rằng những áp lực của Bắc Kinh và Ðiện Kremlin ép họ phải thực hiện ngay chính sách cải cách ruộng đất bằng đấu tố sẽ gây ra những hậu quả tai hại, điều mà ông Hồ vẫn cho rằng “đó là điều không phải.” Tại Hội nghị Trung Ương 5 họp từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 11, 1953, Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn, trong đó ông nhấn mạnh: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất” và “để đẩy mạnh kháng chiến (chống Pháp), chúng ta phải ra sức thực hiện cải cách ruộng đất.”
Lời lẽ của Hồ Chí Minh mặc nhiên là một lời xác nhận và là một lệnh cho những cấp dưới của ông phải tiến hành ngay việc đấu tố ruộng đất làm như đó là một quyết định của chính ông ta chứ không phải là quyết định từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Và để che giấu sự việc ông và tập đoàn lãnh đạo Việt Minh bị ngoại bang dùng viện trợ (để kháng chiến) để buộc mình phải làm, ông Hồ còn tự phê, xin trích:
“Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất. Nông dân ta chiếm 95% dân số mà chỉ có 3/10 ruộng đất, quanh năm khó nhọc và suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó.”
Ông Hồ nói tới mục đích của cải cách ruộng đất, đó là “tiêu diệt chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.” Phương châm mà ông ta đưa ra là: “Làm cho nông dân tự giác, tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân,” với phương thức để thực hiện: “phóng tay phát động quần chúng nông dân và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện.” Cái lối kể chuyện lại, trích dẫn nhưng câu chữ của họ Hồ, nghe qua có thể làm cho độc giả chán nản, bảo: “Ồ, câu chuyện này ai mà chẳng biết.” Nhưng với những người cần tìm ra những bằng chứng để thiết lập một cáo trạng đối với mặt trận Việt Minh trong việc lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam, lợi dụng kháng chiến để áp đặt lên đầu lên cổ dân chúng cái ách Cộng sản thì những câu chữ của ông ta là những thông tin cần thiết.
Thế giới cộng sản là thế giới còn có rất nhiều khoảng tối chưa được soi sáng. Những người ở ngoài thế giới u minh này chỉ hiểu được một phần rất nhỏ những khoảng tối ấy. Cho nên họ rất cần những người từng ở trong cái chăn của chế độ còn giữ được lương tri viết lên một phần sự thật về những con rận vẫn còn ẩn núp trong bóng tối. Từ 38 năm qua, trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là trong những cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, người ta hay có thói quen tự cô lập mình và tự tạo ra những điều cấm kỵ đối với quê hương cũ của mình. Cho nên, nhiều người vẫn mù mờ đối những vấn đề tại Việt Nam, ngay cả vấn đề lịch sử của cuộc chiến quốc cộng trước đây. Từ chỗ đặt ra những điều cấm kỵ, những nhà lãnh đạo và những chính trị gia cộng đồng tiến tới việc “phịa” ra những nguyên tắc đi ngược lại tự do tư tưởng: viết phải có lập trường, nghiên cứu cũng phải có lập trường chống Cộng, thậm chí họ tiến tới việc vi phạm vào nhân quyền khi đặt vấn đề tư cách chính trị của nhiều tác giả. Cầm tới một cuốn sách, không cần biết những dữ kiện trong phần nội dung có khả tín hay không mà chỉ cần hỏi: “Ông này là ai, từ đâu đến, VNCH hay Việt Cộng?” Ðó là lý do người ta hiểu tại sao trong gần 4 thập niên, các tác phẩm nào gây được tiếng vang trong cộng đồng người Việt là một con số nhỏ nhoi vì những tác giả “phe ta” chỉ viết cho phe ta đọc. Do chỉ viết cho “phe ta” đọc cho nên nhiều tác giả phải tránh những cái hố cấm kỵ và không tác giả nào lại dại dột phơi bầy ra những mảng tối chưa được soi sáng của phe mình !
Tôi nêu ra những yếu tố trên chỉ là có lý do để đưa ra một lời cảnh giác với tư cách của một người thích đọc sách mà thôi: đừng có quá đơn giản khi phủ nhận một tác phẩm nghiên cứu chỉ vì xuất xứ của tác giả. Hãy chú ý đến những thông tin và mức khả tín của chúng trong tác phẩm để giúp cho những nhận định riêng và độc lập của mình. Chẳng hạn như ở trang 262 trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả đưa ra một loạt những phương thức thực hiện trong chính sách đấu tố ruộng đất vốn là những điều mà tác giả từ phía người quốc gia đã nhắc tới nhiều, nhưng phần lớn đó là những kinh nghiệm cá nhân. Huy Ðức thuộc thế hệ của những thanh niên miền Bắc mới lớn sau chiến tranh Quốc Cộng đã có một cái nhìn tổng quát hơn về hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất. Trong vụ này, người ta mới chỉ thấy ông Trường Chinh chính thức lên tiếng nhận sai lầm trong các hoạt động cải cách ruộng đất khiến chúng biến thành các cuộc hành hình mang tính giai cấp để chữa cháy cho ông Hồ. Cho tới nay, con số thực của những người chết vì đấu tố vẫn chưa được cấp cao nhất trong đảng Cộng sản chính thức xác nhận. Tuy nhiên, dường như tác giả “Bên Thắng Cuộc” đã có thể rút ra những con số thiệt hại từ Nội San Cải Cách Ruộng Ðất ngày 25 tháng 2, 1956, một nội san phổ biến hạn chế trong số những viên chức, cán bộ Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất để đưa ra thông tin, xin trích:
“Số người bị qui oan lên tới 123,266 chủ yếu vì các biện pháp truy bức để 'đôn' tỷ lệ địa chủ lên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì ‘phóng tay phát động’, ở dưới những ‘đoàn’, những ‘đội’ cải cách tha hồ lộng quyền, ‘nhất đội, nhì giời’. Một quốc gia nghèo như Việt Nam mà các đội đã đưa được 'định mức địa chủ' lên tới 5.68% dân số các địa phương tham gia.”
Tác giả không đưa ra ý kiến của mình về tỷ lệ 5.68% địa chủ trong một quốc gia nông nghiệp nghèo đói như Việt Nam vào thập niên 40, 50. Nhưng độc giả chắc chắn sẽ có những so sánh và người ta sẽ lạnh xương sống khi nghĩ đến việc giết người có định mức mà tập đoàn Hồ Chí Minh chủ trương và thực hiện. Cá nhân, những thông tin này giúp tôi hiểu lý do tại sao làng tôi chỉ là một làng rất nghèo cách thành phố Hải Phòng không xa lắm, bà nội tôi chỉ có 10 mẫu ruộng mà cũng bị đấu tố chết trong đợt phóng tay phát động cuối cùng mà Huy Ðức đề cập tới trong “Bên Thắng Cuộc.” Nhưng ngày nay chuyện bà nội tôi chết oan không còn là vấn đề cá nhân gia đình tôi nữa mà là vấn đề của lịch sử đất nước. Lịch sử cần có thêm những người viết lại, viết thêm về thảm kịch này, không phải là để chửi rủa thù oán, mà là để cho những thế hệ mai sau và trước mắt thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể rút ra được những bài học.
Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Những thuộc hạ của ông ta đã xây một lăng tẩm rất lớn tại quảng trường Ba Ðình. Thời kỳ Việt Nam còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, những khách ngoại quốc hay trong nước thăm Hà Nội thường được yêu cầu vào viếng xác ướp của “Bác.” Khách được chụp hình đăng trên báo Nhân Dân để làm bằng chứng về nghi thức ngoại giao. Nhưng từ năm 2000 đến nay, cảnh này không còn diễn ra nữa, một phần cũng vì Hà Nội hiểu rằng hợp đồng kinh tế và những dự án viện trợ, vay nợ, việc chia chác quyền lực, đàn áp những nhà bất đồng chính kiến, cấu véo công quĩ làm của riêng ngày nay quan trọng hơn việc dẫn khách viếng thăm xác ướp của họ Hồ. Ngay cả đối với dân chúng miền Bắc, ngày nay ông Hồ cũng không còn là hình ảnh thiêng liêng như trước đây dù lệnh bất khả xâm phạm đối với cái tên của ông ta vẫn còn trên cửa miệng những người cầm quyền. Một phụ tá rất quan trọng của ông Hồ là ông Hoàng Tùng cũng tiết lộ những chi tiết về người “boss” của mình đã giúp cho những người thích lên án có thể cáo buộc ông Hồ tội nhúng tay vào máu của ngay cả những người ân của mình. Ở các trang 263 và 264, Huy Ðức đã chọc vào đúng “ổ kiến lửa” ở Hà Nội, xin trích:
“Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: ‘Mình nói để mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách ruộng đất theo cách của Việt Nam, nhưng mà (họ) cứ ép cho bằng được. Biết bao trí thức địa chủ đã theo Việt Minh, đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây bị ‘hai ông anh lớn’ (Nga và Trung Cộng) phải chấn chỉnh lại, không địa chủ, người có gốc ‘Tây’ đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 50, 'địa chủ không kháng chiến' thì đã 'dinh tê'. Cải cách đấu tố, theo ông Hoàng Tùng ‘coi như đánh vào lực lượng mình.’ Ông Hoàng Tùng còn kể lể thêm: 'Khi ấy tôi thường họp Bộ Chính Trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách (ruộng đất) chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có con trai là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ cấp bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính Trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953, bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ Nữ. Trong 'tuần lễ vàng', gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Vẫn theo ông Hoàng Tùng ‘các anh Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính Trị ‘Bác’ nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà và người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.’ Nhưng sau đó cố vấn Trung Quốc Lã Quí Ba đề nghị mãi, ông Hồ nói: ‘Thôi tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải.’ Ông Hoàng Tùng nói: ‘Hồ Chí Minh bị nó (Trung Cộng) coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ.’ Ðể có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng ‘Mỗi ngày đội cải cách thường phải tìm cho ra một người đến bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7.5 mẫu ruộng.' Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính Trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để qui sai địa chủ, nhưng việc chấn chỉnh chỉ dừng lại ở những lời răn dạy.”
Vào tháng 10 năm 1956, Bộ Chính Trị thừa nhận:
“Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc đoán trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch, đánh cả vào hàng ngũ của ta, qui bức nhục hình phổ biến. Coi tổ chức của đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và của quần chúng là do địch lũng đoạn nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man, dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ... sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc vi phạm những quyền tự do cá nhân của công dân. Trong số 8,829 đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7,000 thuộc thành phần nông dân lao động và các thành phần lao động khác.”
Cải cách ruộng đất là một đống bùn trộn lẫn với máu của nhiều nông dân hiền lành, những người đã đóng góp xương máu để bảo vệ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ấy vậy mà chỉ vì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đòi hỏi mà từ Hồ Chí Minh cho đến những tay chân thân cận nhất của ông đành lòng nhắm mắt ra lệnh tắm máu họ bằng một cuộc tàn sát dã man nhất trong lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp mà đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương. Huy Ðức cho công bố những điểm gây ngạc nhiên được ông Hoàng Tùng tiết lộ trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tác giả, xin trích (trang 264):
“Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các ‘đồng chí Trung Quốc’ là NÓ, (nói) tiếp: ‘Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa đều bị nó phá sạch. Ðền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì mặc cảm vì nhà cũng có 7 mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cấy rẽ lấy tô, rất dễ bị 'quy' (cáo buộc, gán tội). Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được 20 mẫu ruộng, cũng bị đội (cải cách) đem ra đấu. Khi ông Hương nghe được tin chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Các mạng thì cũng phải có đạo đức chứ ! Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm từng đỗ Ðệ Nhị Giáp Tiến Sĩ. Tây đưa lên hàng thượng thư (bộ trưởng). Thời kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có gởi thư vận động ông Niêm. Khi có cải cách ruộng đất, bị bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết. Mình (đảng Cộng sản) không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Ðầu tiên là họ sửa quân đội nên lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người (ảnh hưởng) bao trùm lên Tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Võ Nguyên Giáp, một vị tướng xuất thân từ giới trí thức và mới chỉ tham gia đảng Cộng sản năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi (Hoàng Tùng) ngờ là Lý Ban, người phó của Văn Tiến Dũng đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho ông Hồ. Bác (lời ông Tùng) bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ.”
Tóm lại, trong chính sách đấu tố ruộng đất, có tới gần 72% phú nông bị “quy” sai là địa chủ. Cho nên, theo ông Hoàng Tùng, “Pháp Mỹ chỉ chịu một phần. Chính cải cách ruộng đất, và việc đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản là nguyên nhân chính khiến hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam.” Nhưng hậu quả quan trọng trong chính sách nhuốm máu nông dân nói trên không phải là chuyện di cư hay không di cư mà quan trọng chính là: trong phong trào được gọi là cải cách ruộng đất mà sao có quá nhiều máu đổ và người chết như vậy? Hồ Chí Minh là người như thế nào khi ông ta biết rằng việc bắn bà Cát Hanh Long, một ân nhân của cách mạng là sai mà ông ta không vẫn cứ cúi đầu trước cố vấn Trung Cộng và tập đoàn đồ tể dưới quyền ông?
Hiển nhiên, “Bên Thắng Cuộc” mới chỉ đưa ra một phần, tuy là khá quan trọng liên quan đến chiến dịch tắm máu nông dân miền Bắc, nhưng vẫn còn cần phải mở lại những trang kế tiếp về phía những hậu duệ của những nạn nhân trong cuộc đấu tố ruộng đất từ 1950 cho đến hết năm 1956. Khi các cuộc nghiên cứu này có đầy đủ tiếng nói ôn tồn mang tính cương quyết của sử học, bản cáo trạng đối với ông Hồ và tập đoàn của ông mới được kể như tạm hoàn tất. Tôi tin rằng, một bản cáo trạng có nghiên cứu, không mang lời lẽ cuồng nộ, lên án nặng nề, nhưng vô tư và công bằng sẽ hữu hiệu trong việc đánh đổ “thần tượng Hồ Chí Minh” nơi những người Việt Nam còn tin vào ông ta hơn là chỉ đả đảo, đạp mặt và giẫm lên cờ đỏ sao vàng một cách an toàn và dễ dãi ở Hoa Kỳ.
Tuy muộn nhưng đã đến lúc người quốc gia chống Cộng hiện nay ở hải ngoại nên thay đổi sách lược đấu tranh và cần các cuộc nghiên cứu mang tính khoa học và sử học về cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc thay vì chỉ trang bị cho mình biểu ngữ, loa điện, vỗ ngực xưng tên và la hét những khẩu hiệu trên đường phố đã bắt đầu bị dư luận hoài nghi.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 7:10:46 GMT 9
Nguyễn Thanh Giang - Lại nói về nguy cơ Lê Chiêu Thống hiện đại - Kính gửi Hội nghị Trung ương 7 ĐCSVN - Tiến sỹ Trần Nhơn – nguyên thứ trưởng Bộ Thủy Lợi lại vừa công bố một bài thơ chính luận dài 1020 câu mang tiêu đề “Nghĩ về Quốc hội, Đảng và ... thời cuộc” mà ông gọi là trường ca. Tôi thì gọi đây là bản “Diễn ca Việt Nam đương đại”. Bố cục không được chặt lắm song sức khái quát của bản diễn ca thật lớn. Hãy nghe ông triết lý: Trời đất không hài hòa âm dương, Thế giới thiếu hội nhập đa phương, Hành tinh mất cân bằng sinh thái, Ắt là hậu quả sẽ khôn lường! Thật là hàm súc. Chỉ với 4 câu văn vần, ông vừa trình bày được vũ trụ quan, nhân sinh quan, vừa lý giải, vừa cảnh tỉnh … (Cho nên tôi đã từng khẳng định Trần Nhơn là nhà thơ chính luận số một của Việt Nam). Từ triết luận đó, ông soi xét vấn đề chính trị: Sự tồn tại thế lực đối lập Giúp hệ thống chính trị cân bằng; Tự vận động phát triển bền vững, Thuận mệnh trời, hòa hợp nhân văn. Một cách tài tình, ông hình tượng hóa “Hệ thống chính trị vắng đối lập” bằng một hình ảnh thật gớm ghiếc: Hệ thống chính trị vắng đối lập Như hình nhân tập tễnh chân què, Trong khi báo, đài cứ xa xả nén vào óc người ta những điều dối trá: “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay” thì Trần Nhơn nói lên sự thật: Đất nước một trăm năm nhìn lại, Bao giờ khốn khổ thế này chăng? Loạn xã hội, ngoại xâm, nội gián, Từ cội nguồn “đảng chủ” lai căng! Cái nguyên do “Đảng chủ” không những làm cho đất nước tụt hậu so với thế giới mà còn ngày càng suy nhược so với chính thời đại cha ông mình: Ngàn năm minh triết vị nhân dân, Khoan dung, bất khuất Lý, Lê, Trần... Từ ngày “đảng chủ” thay quân chủ, Mở kỷ nguyên quốc nhược dân bần! Ông Hồ Chí Minh nhắc nhở bàn dân với giọng tự hào: “Các Vua Hùng đã có công giữ nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Thực ra lịch sử cho thấy, chỉ ngày xưa: Quân chủ giữ vẹn toàn đất nước, Không nhường một tấc đất cho Tàu. Còn ngày nay thì: “Đảng chủ” đuổi sói ra cổng trước, Rước voi giày mả tổ vườn sau! Những người lãnh đạo ĐCSVN ra sức níu kéo Điều 4 để duy trì thời đại “Đảng chủ” trong khi Trần Nhơn cho rằng: Người cộng sản tâm tài trí dũng, Coi Điều Bốn là sỉ nhục mình. Đi đầu trong phong trào quần chúng, Sao phải bám vào “phao cứu sinh”! Chính Điều Bốn đang hủy hoại Đảng, Chưa có nó Đảng đã hư rồi. Quyết giữ nó sẽ là quốc nạn, Đảng càng nhanh mục nát mà thôi! Ông kêu gọi đương kim Tổng Bí thư: Ông Trọng cần để lại dấu ấn, Phế bỏ “đảng chủ” lập quyền dân. Song, kêu gọi chỉ để mà kêu gọi, trông mong gì được ở cái con người Chưa vượt chính mình – còn lú lẫn, Lạc vào mê hồn trận “ngu quân”. Chẳng những thế con người ấy còn tỏ ra rất non kém. Vì non kém, ông ta chỉ có thể thuyết giáo chung chung. Hoặc nói những điều vô thưởng vô phạt. Hoặc nói những điều cũ mèm lạc lõng, lạc hậu đến mức như là phản động. Việc làm thì chẳng đâu vào đâu. Hồi làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, Thủ đô rất trì trệ. Kém hẳn so với Đà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Đã thế còn tiếp tay cho Siputra lậu thuế một ngàn sáu trăm tỷ đồng để được hưởng một biệt thư trị giá một triệu đôla. Hành động quyết liệt nhất trong đời Nguyễn Phú Trọng, sau này kể lại, chỉ có thể là hành động đã được ông biểu diễn trong Hội nghị Trung ương 4 vừa rồi. Thế mà, kết quả hành động này đã không chỉ mang lại thất bại cho cá nhân ông mà còn bôi nhọ cả “triều đình” ĐCSVN. Sau Hội nghị TW4, người ta rất dễ liên tưởng cái thiên triều trên tivi trong vở hài Táo quân Báo cáo vào dịp Tết năm nay với “triều đình” CSVN thời Nguyễn Phú Trọng. “Thường vụ Bộ Chính trị Thiên triều” gồm Ngọc hoàng, Bắc Đẩu, Nam Tào, Thiên Lôi mà có khác nào bầy thảo khấu. “Nội các thiên triều” thì bát nháo như một cái chợ trâu bò. Những gì diễn ra trong Hội nghị TW4 không dấu nổi âm mưu sát phạt nhau giữa Nguyễn Phú Trọng với Nguyễn Tấn Dũng: Cùng là thành viên Bộ Chính trị, Ông rình lật cánh đánh phủ đầu! …… Ông nghĩ mang Ba Dũng “tế thần” Để Đảng tiếp tục đè đầu dân, Là tính toán sai lầm chiến lược, Nước cờ tàn “đảng chủ” di căn? Nếu biện giải rằng hành động đó không do kèn cựa, không phải là xấu bụng mà chỉ xuất phát từ động cơ “vì Đảng” thì cái sự “vì Đảng” đó cũng thật là dại dột, dốt nát: Tập trung chống tham nhũng? - Lạc hướng! Dồn sức “đánh” Thủ tướng? - Lạc đề! Căn nguyên: ý thức hệ tư tưởng, Phải đâu vì Tư S, Ba D? “Thanh toán” vài cán bộ ăn bẩn, Đảng sẽ trong sạch và mạnh lên? Hay mượn cớ tiêu diệt đối thủ, Tổng Bí thư thâu tóm độc quyền? Đó chính là cách làm thiển cận, Đã và đang “chuốc oán gây thù”. Cựu đại sứ Nguyễn Trung – nguyên cố vấn thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng có chung nhận định. Trong “Thư ngỏ gửi Quốc hội, Đảng CS và Nhà nước Việt Nam”, Nguyễn Trung viết: “Hội nghị Trung ương 5 và 6 lấy chống tham nhũng là mặt trận chính. Quyết định này sai lầm ở chỗ: (a) chủ yếu nhằm vào xử lý vụ việc, chứ không phải nhằm vào sửa lỗi hệ thống là chính, (b) đặt vấn đề chống tham nhũng lên trên mọi vấn đề cấp bách khác quan trọng hơn nhiều, nghĩa là rất cảm tính và thiên lệch … Với 2 sai lầm lớn như vậy trong việc đặt ra vấn đề chống tham nhũng, lại thực hiện trong tình trạng Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị có quá nhiều tiêu cực và yếu kém, nên đến nay kết quả thực hiện các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6 liên quan đến chủ đề này có nhiều biến tướng rất đáng lo ngại, đến nay có thể nói là thất bại. Chính đồng chí Tổng bí thư không dưới một lần gián tiếp nhưng đã phải công khai thừa nhận như vậy. Hơn nữa, trong khi tập trung mũi nhọn vào chống tham nhũng một cách phiến diện như vậy, đã xảy ra một số sự việc, một số phát ngôn rất thiếu cân nhắc, thiếu trách nhiệm (đôi khi có cả thứ ngôn ngữ mang đặc tính “anh chị”) của một số người có trọng trách… Những hiện tượng này hình như cho thấy câu chuyện đang diễn ra không phải chỉ có việc chống tham nhũng, mà còn là biểu hiện bên trong của những động cơ, những hiện tượng “đánh nhau”, “đối phó với nhau”… không thèm đếm xỉa đến tác động như thế nào đối với kỷ cương, sự uy nghiêm và mối an/nguy của quốc gia. Những hiện tượng này hoàn toàn không được phép xảy ra với những chính khách chân chính! Qua các Hội nghi Trung ương 4, 5 và 6, quyền lực của Đảng đang tự mình tiếp tục làm mất thêm uy tín của Đảng và gây thêm nhiều khó khăn nguy hiểm cho đất nước. Đơn giản bởi lẽ “nhóm” nào thắng thì đất nước cũng thua; vì hệ thống chính trị có quá nhiều sai lầm và quyền lực của nó vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, thậm chí đang được “xiết” thêm”. Nguy hiểm hơn triệu lần động cơ kèn cựạ cá nhân hay nhận thức phiến diện của bản thân ông Nguyễn Phú Trọng là điều nghi vấn: phải chăng Nguyễn Phú Trọng, đang thực hiện sự chỉ đạo của “quan thầy” ngoại bang? “Quan thầy” chỉ đao thế nào? Hình như mật lệnh đã ban: Một mặt, phải tuyên bố trước Quốc hội “Biển Đông không có gì mới. Chỉ có mấy hòn đảo thôi mà” (thật là … hết chỗ nói). Một mặt, phải sắn tay lên đánh nhau để toàn Đảng toàn dân chú tâm vào đó, đặng “quan thầy” rảnh tay xây thành đắp lũy ở Hoàng Sa, truy diệt những người Việt Nam nào dám đánh cá, dám tìm kiếm thăm dò tài nguyên trên Biển Đông. Trong bài thơ dài của tiến sỹ Trần Nhơn tôi rất quan tâm đến khổ thơ này: Đóng cửa, hiệp thương với “Cướp ngày”, Giữa kỷ nguyên hội nhập Đông Tây. Phải chăng hồn ma Lê Chiêu Thống Nhập vào Nguyễn Phú Trọng hôm nay?! Nhận mật lệnh, cái hồn ma kia đã chỉ đạo mọi cơ quan thông tấn báo chí phải dốc sức ca ngợi hết trận đánh B52 “Điện Biên phủ trên không” đến Cuộc Tấn công Tết Mậu Thân … ròng rã hàng tháng trời. Khích lệ bắn B52 bây giờ để làm gì! Trong khi TBT Nguyễn Phú Trọng nhiệt liệt biểu dương thành tích đợt tuyên truyền bắn B52 thì thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lý hơn khi ông đến úy lạo Đoàn 681 Hải Quân với Tổ hợp tên lửa bờ biển Bastion có khả năng tấn công mục tiêu xa đến 300 km và bảo vệ một tuyến bờ biển chống tác chiến đổ bộ của đối phương lên đến 600 km. Ít ra là phải thế chứ! Gợi nhớ Mậu Thân để làm gì? Để biểu dương hàng ngàn chiến sỹ ta bị hạ sát hay để hoan hô hàng ngàn đồng bào ta bị chính chiến sỹ ta tàn sát! Trong khi chỉ đạo khơi sâu Mậu Thân thì ông ta lú lẫn tảng lờ như không hề có chuyện hàng vạn chiến sỹ ta hy sinh, hàng vạn đồng bào ta bị Trung Quốc chặt đầu, mổ bụng, moi gan nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”. Tồi tệ hơn, khi các chí sỹ khả kính như Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Trung, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A …. cùng một số anh em trẻ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trên đường Bắc Sơn để tưởng niệm ngày 17 tháng 02 năm 1979 cũng bị ngăn trở! Giỗ trận Đống Đa năm nay không thấy vị lãnh đạo nào hiện diện! Rõ ràng người ta không chỉ “hèn với giặc, ác với dân” mà đang thực hiện mệnh lệnh “quan thầy” đẩy xa Hoa Kỳ để ấn cổ đất nước lèn sâu vào thòng lọng Trung Quốc! Ai cử Trần Đăng Thanh và ra lệnh triệu tập các thầy cô ở các trường đại học đến nghe ông này thuyết giảng phải tiếp tục coi Hoa Kỳ là kẻ thù, Trung Quốc là ân nhân. (Cái anh chàng Phó Giáo sư – Tiến sỹ này mạt hạng đến mức dám trâng tráo dọa nạt các thầy cô phải trung với Đảng … nếu không muốn mất sổ hưu!) Thật rất đáng ngờ. Thật là thậm nguy. Nhà thơ chính luận Trần Nhơn thì nhắc nhở Nguyễn Phú Trọng: Ông có nghĩ phải sống giằn vặt Những tháng năm khi đã về vườn. Những giáo điều, sai lầm, tội ác, Trước khi tìm đến gặp Diêm vương? Song, chỉ lo trước khi ông ấy “tìm đến gặp Diêm vương” thì ách đô hộ toàn phần của Trung Quốc đã được đặt xong (bây giờ đã bán phần). Cho nên phải khẩn trương Tìm bọn “cõng rắn cắn gà nhà”, Đưa chúng ra xét xử tại tòa. Người viết bài này khẩn thiết kính mong Hội nghị Trung ương 7 nhóm họp vào tháng 5 này hãy sáng suốt đuổi ngay tên Lê Chiêu Thống hiện đại ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo để cứu lấy đất nước. Hà Nội 20 tháng 4 năm 2013 Nguyễn Thanh Giang
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 11:09:25 GMT 9
Vũ Ngự Chiêu: Những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (I)Nguyễn Vĩnh Châu & Vũ Ngự Chiêu HCM và Ðảng CSVN, thoát khỏi “ách thực dân Trung Cổ Pháp” để bị trói buộc vào “ách thực dân mới Hán Cộng.” Khó thể gọi là “giải phóng VN khỏi ách thực dân”. DCVOnline: Tuy đã có rất nhiều bài và sách viết về ông Hồ Chí Minh, DCVOnline xin giới thiệu đến bạn đọc bài phỏng vấn của tác giả Nguyễn Vĩnh Châu (NVC) với ông Vũ Ngự Chiêu (VNC) đã đăng trên Hợp Lưu số 106, 2009, và trên mạng hopluu.net ngày 5 tháng 11, năm 2010. Ông Vũ Ngự Chiêu đã đề cập và đánh giá một số tư liệu lịch sử liên hệ đến nhân thân và di sản cũng như những sự kiện chung quanh ông Hồ. Tác giả Nguyễn Vĩnh Châu là cựu phóng viên đài V.O.A. Ông Vũ Ngự Chiêu là một cựu sĩ quan thuộc nhiều binh chủng thuộc quân lực VNCH và viết văn với bút hiệu Nguyên Vũ. Sau 1975, ông Vũ Ngự Chiêu đi học lại và tốt nghiệp tiến sĩ ngành Sử học năm 1984 tại Ðại Học Wisconsin-Madison và tốt nghiệp Luật năm 1999 tại Đại học Houston năm 1999. Vũ Ngự Chiêu dùng tên thật hay bút danh Chính Đạo cho những bài biên khảo lịch sử. NVC: Thưa ông, theo tài liệu của CSVN thì ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của ông Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc, đã từ quan vì chống đối triều đình. Sự kiện này có đúng không? Nguyễn Sinh Huy. Nguồn: OntheNet VNC: Cha ông HCM là Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy, gốc làng Sen (Kim Liên), huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An. (Sắc chỉ là tên gọi ngoài đời.) Ðậu Phó Bảng năm 1901, ông Huy không theo học trường Hậu Bổ mà từng làm việc với Bùi Quang Chiêu, rồi bổ làm Thừa Biện Bộ Lại. Sau cuộc nổi dậy mùa Xuân 1908 của dân miền Trung, thăng bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Ðịnh). Theo tài liệu Pháp, tháng 1/1910, Tri huyện Huy bị ngưng chức vì “nghiện rượu và tàn ác với dân chúng” (đánh chết một nông dân trong cơn say). Ngày 19/5/1910, bị chính thức tống giam vì tội danh trên. Qua tháng 8/1910, được miễn tội, chỉ bị cách chức. NVC: Theo sự nghiên cứu và những sử liệu mà ông có, xin ông vui lòng trình bày sự nghi vấn về tên thật và ngày sinh của ông Hồ Chí Minh. VNC: Theo tài liệu Pháp và Việt (như thư xác nhận Côn được nhận vào trường Quốc Học (Huế) ngày 8/7/1908, và bản án tử hình khiếm diện năm 1929 của tỉnh Vinh, bằng Hán ngữ pha chữ Nôm), tên thực Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Côn, với những bí danh như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Xin (?), Nguyễn Ái Quốc, v.v. Hồ Chí Minh. Nguồn: OntheNet Một số tác giả trong nước tự động sửa thành Nguyễn Sinh Cung [chỉ dựa theo lập luận rằng vì anh là Khiêm]. Năm 1911, trong hai lá thư xin vào trường Ecole Coloniale (Paris) viết từ Marseille, Nguyễn Sinh Côn tự xưng là Nguyễn Tất Thành. Trong những thư từ, từ 1912 tới 1914, còn có tên “Paul Thành.” Từ năm 1919, đổi thành Nguyễn Ái Quấc hay Quốc. Theo học giả Nga Anatoli Sokolov, HCM có tất cả trên 150 bí danh khác nhau. Ngày và năm sinh của HCM cũng có nhiều vấn đề. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (HCM) tự khai sinh năm 1892. Ngày 17/5/1945, báo chí VNDCCH công bố ngày sinh nhật 19/5/1890 của HCM và yêu cầu dân chúng treo cờ làm lễ mừng trong 3 ngày. (Cứu Quốc [Hà Nội], 17/5/1945). Sử gia Huỳnh Kim Khánh cho rằng HCM chọn ngày này để ghi nhớ ngày thành lập Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh tức Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941). Nếu thế, ngày 19/5 cũng có thể để kỷ niệm ngày 19/5/1910, khi cha HCM bị cầm tù, cách chức, khiến HCM phải rời trường Quốc Học ra đi, và khởi đầu sự nghiệp chính trị. Có dư luận cho rằng HCM đã ngụy tạo ngày sinh 19/5/1890 để bắt dân chúng Hà Nội treo cờ đón tiếp Cao ủy d’Argenlieu sẽ đến thăm chính thức Hà Nội vào ngày hôm sau, 18/5/1945, để bàn thảo về chuyến đi Pháp sắp tới của Hồ. Ðồng thời, cũng để chứng tỏ sự yểm trợ của dân chúng với Hồ và chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Việc này có thể xảy ra, vì HCM là loại người sử dụng mọi phương tiện để đạt mục đích. NVC: Thưa ông, được biết, ông đã khám phá một sự kiện rất quan trọng là việc ông Hồ Chí Minh nộp đơn xin học trường thuộc địa của Pháp. Xin ông cho biết diễn tiến sự việc này ra sao và ảnh hưởng của công trình khám phá này như thế nào? Đơn xin học của Nguyễn Tất Thành – Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Ngự Chiêu VNC: Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.v., tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v.v.) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v…). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau. Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ý viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ biến các tài liệu trên tờ Ðường Mới, nhưng ông Anh không phải là người phát hiện những tài liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở Aix-en Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này từ trước. Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu trên trước chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền hình chiến tranh VN cũng sử dụng tài liệu trên. Một số học giả Mỹ cho rằng khi công bố tư liệu trên, tôi đã có ý muốn discredit [hạ giá] HCM. Nhưng sự thực lịch sử chỉ là sự thực lịch sử. Ðáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). Vì tư tâm hay một lý do nào đó, họ đã gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên tả] của họ. Ðiều này ảnh hưởng không ít đến công trình nghiên cứu của tôi. Tôi đã không nhận chỗ dạy học tại Ðại học Georgetown, Oat-shinh-tân, (Washington – DCVOnline) vì mất đi lòng trọng vọng một số trong những “học giả”. Thật khó tin, nhưng có thực, là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn còn ghi HCM đã rời nuớc năm 1912 để tìm đường cứu nước. Có người còn tuyên bố chẳng cần tìm hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về Ðảng CSVN. “As far as the Americans are concerned,” người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đã quá đủ. “Life goes on!” NVC: Như ông biết, CSVN cho rằng HCM là nhà tư tưởng vĩ đại, lỗi lạc. Theo sự nghiên cứu của ông sự thật như thế nào? VNC: Tôi nghĩ HCM là người của hành động hơn tư tưởng. Tư tưởng chỉ đạo của HCM chỉ là “luật kẻ yếu.” Một ấn bản mới của Câu Tiễn tân thời giữa thế kỷ XX. HCM rất lưu loát và rộng rãi trong việc ca tụng người có thể giúp đỡ mình, và không tiếc lời đả kích những đối thủ. Các nhà cung văn không tiếc lời ví HCM như thánh, thần, Phật, Chúa, v.v. Nhưng đọc kỹ những gì Hồ đã viết hay tuyên bố, chỉ có 2 điểm đáng ghi nhận: Thứ nhất, cho tới thuở trung niên, tức vào khoảng năm 1919-1920, Hồ vẫn tin tưởng ở nhân và dân quyền. Trong 8 điểm đệ trình cho Hội nghị Versailles mùa Hè 1919, HCM tỏ vẻ rất tin tưởng ở những quyền tự do cá nhân, như tự do hội họp, tư tưởng, báo chí, v.v. Trong các thư từ gửi đi từ Hà Nội năm 1945-1946, Hồ vẫn ca ngợi nhân quyền cùng nguyên tắc cao cả của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, v.v. như ánh sáng chỉ đạo. Thứ hai, từ năm 1922-1923, HCM bắt đầu nói về cách mạng, theo mẫu Marxist-Leninist. Hồ kêu gọi đoàn kết vô sản thế giới, lập liên minh công-nông chống lại liên minh tư bản thực dân-Ki-tô giáo. Tháng 10/1923, tại Ðại Hội Nông dân quốc tế, Hồ đã tố cáo thực dân và nhà Chung cấu kết với nhau để “câu rút giới nông dân nghèo khổ. “Khoảng ba năm sau, trong những bài giảng cho đoàn viên Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội ở Canton (Quảng Châu), HCM hô hào phải làm Kách Mệnh. [Xem Ðường Kách Mệnh, in lại trong Văn Kiện Ðảng Toàn Tập [VKDTT], I:1924-1930, 2002:13-82]; David G. Marr, [On Trail, 1981:131n, 374-376] Theo Hồ, “Văn chương và hy vọng” trong tập sách gối đầu giường của cán bộ Thanh Niên chỉ ở trong hai chữ “kách mệnh, kách mệnh, kách mệnh.” [The literary value and hope of this book are confined in two words: Kach menh, Kach menh, Kach menh [“Revolution, Revolution, Revolution.”] Rồi Hồ trích dẫn Lenin: “Không kó lý luận kách mệnh, thì không kó kách mệnh vận động. … Chỉ kó theo lý luận kách mệnh tiền fong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền fong.”[ 25] Trong 23 điều nói về tư cách người làm kách mệnh, 16 điều chẳng có liên hệ gì đến duy vật biện chứng. Không thấy nguyên tắc thực tập liên lũy [praxis] của Marx, tức ý muốn làm thử, rồi rút ra kinh nghiệm cho những hành động tương lai [that is the will to act in order to test belief and obtain the additional grounds for further action. (Marr, On Trail, 1981:378)]Hành động với HCM chỉ là thực hiện chủ thuyết Marxist-Leninist hơn là giải quyết những vấn đề theo công tâm “Muốn làm kách mệnh thì phải biết: Tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy văn hóa và tôn giáo làm cho dân ngu. Nó làm cho dân chúng nghe thấy cách mạng thì sợ rùng mình. Vậy kách mệnh trước hết phải làm cho dân “giác ngộ.” [23] Tóm lại, tư tưởng HCM chỉ có việc sao chép tư tưởng Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông. HCM thiên về hoạt động hơn tư tưởng.Việc cơ quan tuyên truyền CSVN đề cao tư tưởng HCM có lý do riêng. Nhưng ít khi thực sự vì chính Hồ. Mà vì những mục tiêu giai đoạn của người cầm quyền. Hãy lấy một thí dụ. Năm 1969, Lê Duẩn đã công bố ngày chết của HCM chậm 1 ngày (từ 2/9 tới 3/9), hay sửa lại, cắt xén di chúc của HCM. Một nguyện vọng nhỏ nhoi của HCM là được hỏa táng để phát động phong tục hỏa táng trong nước bị tảng lờ. Nói theo Brocheux, HCM đang bị “cầm tù” trong Lăng Ba Ðình. Thực ra, chẳng có dấu hiệu tôn trọng tư tưởng Hồ nào thiết thực hơn là giúp mang xác ướp của Hồ ra khỏi Lăng Ba Ðình, và hỏa táng. NVC: Ông có thể cho biết, lý do tại sao ngày nay đảng CSVN lại tung ra chiến dịch học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh? VNC: Lãnh đạo CSVN có lý do riêng của họ, khó đoán biết. Nhưng một cách tổng quát, có thể nghĩ rằng tinh thần “hủ Marxist-Leninist” khiến cán bộ tuyên giáo đang muốn phỏng theo gương Trung Nam Hải bắt dân Trung Hoa “học tập” kinh nghiệm Hán hóa thuyết Marist-Leninism.” Người ta chỉ đổi đi năm chữ “tư tưởng Mao Trạch Ðông” bằng “tư tưởng Hồ Chí Minh.” NVC: Theo ông tại sao HCM lại có thể tự viết sách đề cao mình, tự gán cho mình là “Cha già dân tộc” vô cùng lố lăng như trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” với bút danh “Trần Dân Tiên”? Sách của Hồ Chí Minh (bút danh Traadn Dân Tiên). Nguồn: OntheNet VNC: HCM là một người hành động, một cán bộ cách mạng chuyên nghiệp [agitprop]. Việc HCM tự viết sách đề cao mình hay sai người ca tụng mình là việc phụ. Mục đích chính cần thực hiện là ca ngợi một nhân vật HCM chí thiện, chí thần, chí thánh. HCM rất ít khi quan tâm đến những khuôn thước giá trị tư bản, thực dân hay phong kiến mà HCM quyết tâm hủy diệt. Cũng nên thêm là “tư cách” hay “đạo đức” của người Cộng Sản, theo HCM, không giống quan điểm “phong kiến, thực dân” [Tệ đoan cung văn này, dĩ nhiên, không do cơ quan tuyên giáo Cộng Sản độc quyền. Tại miền Nam, từng có huyền thoại về “điều trần” Nguyễn Trường Tộ, “nhà ngôn ngữ học” Trương Vĩnh Ký, hay “đầy vua không Khả, đào mả không Bài” – Khả, tức Ngô Ðình Khả, cha ruột Tổng thống Ngô Ðình Diệm (1897-1963), xuất thân thông ngôn cho Tây, tích cực trong việc đánh dẹp phong trào Cần vương do Phan Ðình Phùng lãnh đạo, và rồi được Pháp ủy thác giám hộ vua Thành Thái, với chức vụ Ðề đốc kinh thành. Bài là Nguyễn Hữu Bài, cha đỡ đầu Diệm, từng được Pháp cử làm Tổng lý triều Nguyễn từ 1925 tới 1932, trong thời gian ấu vương Bảo Ðại du học ở Pháp. Bàn tay Bài và quan lại Việt từng đẫm máu dân chúng miền Trung trong giai đoạn 1926-1932. Sau này, vào tháng 8/1944, Giám mục Ngô Ðình Thục viết thư cho Toàn Quyền Jean Decoux khoe kể công lao hãn mã của họ Ngô với Bảo hộ Pháp. Năm 1982, tôi nhờ Linh Mục Cao Văn Luận gửi một bản sao thư trên cho cựu Tổng Giám Mục Thục, yêu cầu cho biết ý kiến. Không thấy hồi âm; ít lâu sau nghe tin ông Thục đã chết vì điên loạn ở Mỹ. Thư Giám mục Ngô Đình Thục gởi Toàn quyền Jean Decoux Thư ông GM Ngô Đình Thục gởi Toàn quyền Jean Decoux. Kết quả nghiên cứu của VNC. Nhưng khi tôi cho công bố tài liệu trên năm 1989, có người cho rằng đó là “tài liệu giả” – hiểu theo nghĩa sau đó có người in trộm tài liệu trên từ báo Lên Ðường (Houston) vào sách họ, nhưng đã cố ý tẩy xóa một vài chi tiết trong thư.] NVC: Nhiều tác giả ngoại quốc vẫn nhận xét HCM là một người có tinh thần quốc gia, chỉ dùng chủ nghĩa CS để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ. Theo sự tìm hiểu của ông thì sự thật như thế nào? VNC: Tôi nghĩ cách diễn tả “tinh thần quốc gia” quá trừu tượng, chứng tỏ sự thiếu hiểu biết, đưa đến sự đánh giá sai lầm HCM. Trên cơ bản, HCM là người nuôi tham tâm giành đoạt chính quyền bằng mọi giá và giữ vững độc quyền cai trị. Cũng cần lưu ý là HCM, theo tôi, không là một cán bộ Cộng Sản thuần thành. Liên hệ giữa Hồ và Quốc Tế Cộng Sản có nhiều vấn đề. Từ năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã bị QTCS khai tử. Từ 1933-1938: NAQ phải sống với bí danh mới “Lin” hay “Linov,” không được giao công tác gì. Năm 1935, chỉ được Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập cho 1 ghế dự khuyết trong Ban Trung Ương Chấp Ủy, lo việc phiên dịch các tài liệu của Ðảng CSVN gửi Phòng Ðông Dương của QTCS. Năm 1938, vội vã rời Mat-scơ-va sang Diên An (Trung Hoa) để tránh bị Stalin thanh trừng. Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi từ năm 1943-1944, HCM đã tìm cách móc nối cơ quan tình báo Mỹ. Từ sau chiến dịch Meigo của Nhật–tức cuộc bắt giữ hầu như toàn bộ chính phủ bảo hộ Pháp tại Ðông Dương trong hai ngày 9-10/3/1945–HCM bắt đầu chính thức hợp tác với Phi Ðoàn Cọp Bay 14 của Chennault tại Vân Nam. Và rồi, cơ quan OSS [Tình báo chiến lược] Mỹ từ tháng 3 đến tháng 8/1945 (Frank Tan, thuộc GBT, và rồi Deer Team, OSS, ở Kim Lộng, Tuyên Quang). Sau ngày 19/8/1945, viên chức Mỹ đóng vai đường giây ngoại giao của HCM, giúp chính phủ Hồ tồn tại qua cuộc chiếm đóng của Trung Hoa, và phần nào giúp Hồ thành lập chính phủ liên hiệp với Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, tổ chức bầu cử Quốc Hội, chính thống hóa chế độ VNDCCH hầu ký Tạm ước 6/3/1946 tại Hà Nội, và rồi Modus vivendi ngày 14/9/1946 tại Paris. Nói cách khác, yếu tố ngoại cường thống trị và ảnh hưởng sự thăng tiến của HCM. Chiêu bài “quốc gia” – HCM tự nhận nhiều lần chỉ thuộc Ðảng Quốc Gia, và từng giải tán Ðảng CSÐD ngày 11/11/1945 – chỉ quan trọng trong nội địa Việt Nam. NVC: Theo sự nghiên cứu của ông thì ông HCM có trách nhiệm gì trong việc đảng CSVN sát hại các đảng viên những đoàn thể quốc gia trong thời gian những năm 45-46? VNC: Dù có trực tiếp cho lệnh hay không, HCM phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Mặc dù Võ Giáp cùng Bộ Nội Vụ ra tay tàn sát các đảng phái chống Cộng khi HCM đang ở Pháp, HCM được báo cáo tuờng tận chi tiết những vụ án ngụy tạo xét xử cán bộ Việt Quốc, hay cuộc tàn sát VNQDÐ tại Hà Nội với lý do “bắt tay Pháp làm đảo chính nhân dịp Quốc Khánh 14/7 của Pháp.” Dĩ nhiên, nên lưu ý rằng, năm 1945-1946, HCM chưa hoàn toàn kiểm soát được guồng máy chính quyền. Trong nội bộ Ðảng, HCM cũng không hoàn toàn kiểm soát được phe cực đoan như Trường Chinh Ðặng Xuân Khu và Hạ Bá Cang (Cung?) tức Hoàng Quốc Việt, v.v. Ðó là chưa kể tinh thần địa phương Nam-Trung-Bắc. Nhưng những lời tuyên bố của HCM tại phiên họp kỳ II của Quốc Hội, từ 28/10 tới 9/11/1946, chứng tỏ HCM phê chuẩn việc làm của Giáp cũng như công an Việt Minh. NVC: Là một nhà sử học, ông nghĩ gì về lập luận cho rằng dù ông HCM có nhiều lỗi lầm nhưng vẫn có công giải phóng VN khỏi ách thực dân? Hồ Chí Minh và Trần Canh (1950). Nguồn: Truyen-thong.org. VNC: Với những tài liệu đã giải mật (tháng 11/2008), không ai phủ nhận được tài năng của HCM trong việc lãnh đạo Ðảng CSVN tới chiến thắng cuối cùng của Ðảng này. Nhưng cách diễn tả “giải phóng VN khỏi ách thực dân” cần xét lại. Sau Thế Chiến Thứ Hai, phong trào giải thực – hiểu theo nghĩa thực dân Trung Cổ – xuất hiện ngay trong tâm ý dân chúng các cường quốc thuộc địa. Thực dân Pháp bị thất bại ở Việt Nam cơ bản là do quốc dân Pháp và Việt đều muốn chấm dứt nó. Thế giới cũng chuyển biến sang một hình thức “trật tự mới” – tức vùng ảnh hưởng của các siêu cường – đặc biệt là Liên Sô Nga và Liên Bang Mỹ, hai “siêu cường” lãnh đạo hai khối vô sản và tư bản. Sự nghiệp chính trị của HCM cho tới khoảng năm 1968-1969 phải được đánh giá trong hệ thống chính trị thế giơi chiến tranh lạnh “lưỡng cực” này. Và, rồi sự chia rẽ giữa Bắc Kinh và Mat-scơ-va [Москва, Moscow - DCVOnline] từ năm 1958, dẫn tới chính sách hòa hoãn đa cực (bao gồm thế tay ba Mỹ-Nga-Trung Cộng tại Ðông Nam Á). Nên ghi nhớ là ngay đến Ngô Ðình Diệm, năm 1954-1955, cũng khua chiêng, gõ trống cho thành tích “bài phong, đả thực” – nhờ phép lạ Mỹ. Trường hợp HCM và Ðảng CSVN, thoát khỏi “ách thực dân Trung Cổ Pháp” để bị trói buộc vào “ách thực dân mới Hán Cộng.” Khó thể gọi là “giải phóng VN khỏi ách thực dân.”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 11:13:51 GMT 9
Vũ Ngự Chiêu: Những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (Kết)Nguyễn Vĩnh Châu & Vũ Ngự Chiêu Bắc Kinh và Hà Nội thường nói về tình “môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ không kèm móc câu hay thòng lọng.” Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và thòng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng. Tiếp theo phần I NVC: Theo ông thì trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không? Cải cách ruộng đất: đấu tố. Nguồn: Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS VNC: Trước khi nói đến trách nhiệm của HCM hay Ðảng CSVN, cần tìm hiểu rõ ràng về vai trò cải cách ruộng đât trong các xã hội nông nghiệp, rồi đến trường hợp cá biệt Việt Nam. A. Cải cách ruộng đất [CCRÐ] – tức làm sao có sự phân phối ruộng đất hợp lý để nông dân có đất cày cấy – là điều quan tâm hàng đầu của những nhà cai trị các xã hội nông nghiệp muốn dân giàu, nước mạnh. Trong Ðường Kách Mệnh, HCM từng viết: 2. Tây đồn điền choán ruộng cách nào? Nhiều cách. Phần thì Tây đồn điền cướp, phần thì các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo chờ năm nào mất mùa, đem tiền cho dân cày vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm cho nó và ăn lời thật nặng. Vì lời nặng quá, đến mùa sau không trả nổi, thì các cố xiết ruộng ấy đem làm ruộng nhà thờ.”[ 73] 3. Chính phủ Pháp đãi dân cày An Nam thế nào? Tư bản Tây và nhà thờ đã choán gần hết đất ruộng, còn giữ được miếng nào thì chính phủ lại đánh thuế thật nặng, mỗi năm mỗi tăng.[ 73] 10 phần lấy mất một.[ p.73] Mua rẻ nhân dịp dân phải đóng thuế; xuất cảng. Nó chở đi chừng nào, thì dân ta chết đói nhiều chừng ấy. 4. Bây giờ nên làm thế nào? phải tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng.[ 74] 5. Cách tổ chức dân cày thế nào?[ 74] Bất kỳ tiểu điền chủ trở xuống đều được vào; (trừ đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê rượu chè, cờ bạc và a phiến)[74] Nông hội chống rượu chè, a-phiến khiến mất giống nòi. Biết kách mệnh tinh thần, kách mệnh kinh tế, thì kách mệnh chính trị cũng không xa.Từ đầu thập niên 1930, cải cách ruộng đất, hay cách mạng thổ địa, là một chiêu bài của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Những khẩu hiệu như “Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” được nêu ra từ cuộc nổi dạy 1930-1931 tại Nghệ-Tĩnh và Nam Kỳ, và thống trị các tài liệu tuyên truyền của Ðảng CSÐD cho tới năm 1935-1936. Lý luận Marxist-Leninist phía sau chiêu bài sắt máu này là cuộc đấu tranh giai cấp giữa liên minh nông-công chống lại và tiêu diệt giai tầng địa chủ phong kiến, nhằm thủ tiêu hệ thống sản xuất cổ truyền, tiến tới việc xây dựng một xã hội công bằng mà ai nấy đều được hưởng tương ứng với những gì mình sản xuất, trên đường tiến đến xã hội Cộng Sản, ở đó ai nấy đều làm theo khả năng, được hưởng theo nhu cầu. Vì mục tiêu cuối cùng – tức xã hội cộng sản, nơi nhà nước bị thăng hoa, chỉ có những người lao động sản xuất tự quản lý công hữu–chưa đủ điều kiện chào đời, Ðảng Cộng Sản và liên minh công-nông tiếp tục duy trì nhà nước chuyên chính vô sản, hay “dân chủ tập trung,” thẳng tay tiêu diệt giai cấp địa chủ phong kiến, lấy đất chia cho người nghèo, để họ tự làm chủ. Những nhà tiểu tư sản mới này sẽ giúp tăng gia sản xuất lương thực, tạo nên thặng dư để góp vốn vào việc công nghệ hóa nền kinh tế. Sự phát triển đồng thuận và song hành này sẽ giúp đất nước sớm hiện đại hóa, nâng cao đời sống công nông, phát triển nền văn hóa lành mạnh. B. Ðấu tranh Giảm Tức, Giảm Tô CCRĐ: đấu tố. Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS Từ năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] đã bắt đầu phát động chính sách đòi hỏi giảm tô (tức giảm tiền thuê ruộng đất) và giảm tức (giảm tiền vay lãi), nhưng có nơi thi hành, nơi không. Một trong những lý do chính là giai đoạn 1945-1946 còn có những nhu cầu và khó khăn, phức tạp cần giải quyết, liên hệ đến chính sự sinh tồn của chế độ. Từ đầu năm 1947 tới năm 1949, chính sách nông thôn của Hồ chưa có thay đổi đáng kể, ngoại trừ những biện pháp tận thu, giảm chi, trên nguyên tắc “chớ nên mị dân.” Tuy nhiên, chiến thắng của Mao Trạch Ðông ở Hoa lục (1949) và sự thành hình của “giải pháp Bảo Ðại” (1948-1949) khiến Hồ chẳng còn lựa chọn nào khác hơn trở lại với khối tân Quốc tế Cộng Sản (Cominform), do Liên Sô Nga lãnh đạo. Bên cạnh những chuẩn bị tái lập Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (dưới tên mới Ðảng Lao Ðộng Việt Nam từ năm 1949-1951), và do nhu cầu tăng gia thu nhập cũng như củng cố sự yểm trợ của giới nông dân (bần cố nông và bần nông), từ đầu năm 1949, BTV/TW Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mã Khắc Tư ra Chỉ thị ngày 3/1/1949 cho các Khu ủy về sách lược vận động tranh đấu bắt các địa chủ giảm tô 25% như chính phủ qui định. Mục tiêu lần này được mở rộng tới các địa chủ “công giáo, và chỉ thị trên còn qui định việc giảm tiền xin lễ, nhưng tránh không chạm đến tín ngưỡng.” (VKÐTT, 10, 2001:176-177) Ðầu tháng 6/1949, BTV/TW lại gửi điện ngày 1/6/1949 cho Liên khu [LK] IV về phong trào khuyến khích địa chủ hiến đất. (VKÐTT, 10, 2001:241) Ngày 14/7/1949, HCM ký Sắc Lệnh Giảm Tô. Ngày 14/10/1949, BTV/TW ra chỉ thị tạm cấp ruộng đất của Việt Gian cho người nghèo. (VKÐTT, 10, 2001:299-303) Ngày 22/10/1949, BTV/TW chỉ thị LK IV vận động giảm tô 25%. (VKÐTT, 10, 2001:307-308) Ngày 18/11/1949, BTV/TW ra Thông tri về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân: Khéo léo đưa địa chủ ra khỏi Hội Nông Dân Cứu Quốc bằng cách tổ chức vào những hội khác (Phụ lão, Liên Việt) Thành phần BCH HNDCQ phải có bần cố nông, có người trẻ. Không nên có phú nông; nếu có chỉ để làm vì. Ra sức tổ chức Hội nông dân trong vùng Công Giáo. [Lê Văn Lương]. (VKÐTT, 10, 2001:314-315) Ngày 5/7/1950,Trường Chinh đọc báo cáo về chính sách nông thôn tại phiên họp mở rộng của Ban Kinh tế TW [5 tới 7/7/1950]. (VKÐTT, 11, 2001:591- 626) Ngày 17/7/1950: Ban Thường vụ TW chỉ thị “hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức.” Tại Ðại hội tái lập Ðảng CS [Lao Ðộng] vào tháng 2/1951, Tổng Bí thư Trường Chinh nhấn mạnh là CCRÐ chỉ nhắm vào giảm tô, giảm tức. Ðịa chủ hiến đất đai. Kháng chiến thắng lợi sẽ CCRÐ. [Ngày 16/4/1951 Hồ Viết Thắng được cử làm trưởng Tiểu ban Nông vận (còn có Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Ðức Thịnh, Ca, Nông, Di, Ðào). (VKÐTT, 12, 2001:526- 527)] Ngày 22/4/1952, Hội nghị TW lần thứ ba của ÐLÐVN [22 tới 28/4/1952] vẫn còn ra nghị quyết: “Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.” (VKÐTT, 13, 2001:65- 75) Về chính sách ruộng đất sẽ tập trung vào giảm tô, giảm tức, lôi kéo địa chủ; tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo. Chưa thủ tiêu bóc lột phong kiến. ( VKÐTT)13, 2001:118- 128). C. Chính thức phát động CCRÐ Năm 1952, Mao Trạch Ðông mời Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng đất. Ðồng thời thực hiện chỉnh quân, chỉnh huấn. (Hoan, 1987:359-367). Ngày 15/8/1952, Ban Bí thư [BBT] Ðảng LÐVN ra chỉ thị bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất: Từ nay “Dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên minh với phú nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ, đánh đuổi đế quốc và đại địa chủ phong kiến phản động.”(VKÐTT, 13, 2001:239) Ngày 25/11/1952, BBT ra thông tri về việc điều tra nông thôn. (VKÐTT, 13, 2001:347- 360) CCRĐ: đấu tố. Nguồn: Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS Ðầu năm 1953, Trung Cộng cử Kiều Hiểu Quang, Phó Bí thư Quảng Tây, phụ trách đoàn cố vấn cải cách ruộng đất. (Theo Hoàng Tùng, La Quí Ba cũng ép Hồ phải đấu tố Nguyễn Thị Năm, tức Cát Thành [Hanh] Long. “Mấy ngàn người bị xử tử.” (Tài liệu truyền tay ký tên Hoàng Tùng. Hoàng Tùng phục vụ trong Ban Tuyên huấn của Trường Chinh, nên có những thông tin đặc biệt. Theo tài liệu đã dẫn, HCM rất bất mãn về áp lực của Bắc Kinh, nhưng không dám chống đối. Xem thêm infra.) 16/4/1951: Nghị quyết ngày 16/4/1951 của BCH/TW về việc thành lập các ban và tiểu ban giúp việc:Ban Tuyên huấn: Trường Chinh, Phạm Tô, Tố Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng, Xuân Thủy, Lê Quang Ðạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn, Minh Tranh. Ban Mặt Trận: Hoàng Quốc Việt, Thoại Sơn, Hồ Viết Thắng, Xuân Thủy, Trần Cung, Lê Thành Lập, Dương Bạch Mai. Ban Kinh tế-Tài chính: Phạm Tô, Cù Vân, Trần Ðăng Ninh, Hồ Viết Thắng, Lê Văn Hiến, Ðặng Việt Châu, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Ðức Thụ.Tiểu ban Nông vận: Hồ Viết Thắng, Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Ðức Thịnh, Ca, Nông, Di, Ðào. (VKÐTT, 12, 2001:526- 527) Cũng có nhân chứng cho rằng cuối tháng 3/1950, khi từ Bắc Kinh trở lại Tuyên Quang, Hồ tuyên bố với Ban Thường vụ Trung ương Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư (tức Ðảng CSÐD, đã được bí mật tái khai sinh từ năm 1948-1949) là Stalin muốn làm cách mạng thổ địa, và Hồ muốn làm cách mạng thổ địa với sự tiếp tay của TC. (Võ Nguyên Giáp, CÐTVV, 2001:349-350) Một tài liệu TC ghi ngày 5/3/1953, khi cùng HCM [dưỡng bệnh ở TH] rời Bắc Kinh về VN, Vi Quốc Thanh được HCM kể lại những chi tiết về chuyến qua Mat-scơ-va cuối năm 1952, và ý định thực hiện CMTÐ, theo lệnh Stalin. “Không thể đứng giữa một ngọn đòn sóc. (Vu Hóa Thẩm [Vương Chấn Hoa], “Vi Quốc Thanh,” (Vu Hóa Thẩm, LQB, 2008:59) D. Hội nghị kỳ 4 Ðảng LÐVN (25-30/1/1953) Theo tài liệu chính thức của Ðảng Cộng Sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư Trung ương Ðảng LÐVN (25-30/1/1953) đã quyết định tiến hành cải cách ruộng đất, tức phong trào đấu tố (rập khuôn Trung Cộng). Ngày 25/1/1953, HCM đọc báo cáo về tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRÐ. Triệt để giảm tô, tiến tới CCRÐ. Theo Hồ, từ 1945, đã thực hiện giảm tô, nhưng tới nay chưa đúng mức: có nơi giảm, nơi chưa giảm. Nay phải triệt để thực hiện giảm tô. Phải phát động quần chúng nông dân tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô giảm tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Ðảng và chính phủ phải lãnh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau đó sẽ cải cách ruộng đất. Nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc, và cũng là nền tảng của cách mạng dân chủ chống phong kiến, chống đế quốc. Muốn kháng chiến thắng lợi phải nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, chia ruộng đất cho nông dân. CCRÐ sẽ giúp Ðảng LÐ Việt Nam giải quyết nhiều vấn đề: Về quân sự: Nông dân hăng hái tham gia bộ đội; đồng thời làm tan rã ngụy quân. Về kinh tế-tài chính: nông dân đủ ăn đủ mặc, sẽ giúp phát triển công thương nghiệp, hăng hái đóng thuế nông nghiệp. Về chính trị: Nông dân nắm ưu thế trong làng xã, “nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn.” Về văn hóa: “có thực mới vực được đạo.” Nông dân no đủ sẽ phát triển văn hóa. Những vấn đề như thương binh, công an nhân dân dễ giải quyết. Về Mặt Trận Liên Việt: Nông dân sẽ chiếm đa số, cơ sở công nông liên minh vững chắc hơn. Ðấu tranh triệt để giảm tô giảm tức làm đà cho CCRÐ. E. Hồ nêu lên kinh nghiệm CCRÐ ở Trung Hoa CCRĐ, đấu tố, bên Trung Hoa. Nguồn: OntheNet Tới cuối năm 1952, đã hoàn thành CCRÐ, chia đất cho nông dân. Hơn 500,000,000 nông dân được chia hơn 700 triệu mẫu ruộng. Nông dân giữ lại được hơn 30 triệu tấn thóc địa tô. Hăng hái tăng gia sản xuất: Năm 1950 lương thực tăng 20% so với năm 1949; năm 1952 tăng 40%. Thành phần xã hội thay đổi rất nhiều: trung nông tăng từ 20% tới 80%; bần nông giảm từ 70% xuống còn 10-20%. Về chính trị, chỉ tại bốn khu Hoa Trung, Trung Nam, Tây Nam và Tây Bắc nông hội đã có hơn 88 triệu hội viên, trong đó hơn 30% là phụ nữ; 60% đến 80% nông dân tổ chức thành những đội đổi công, hợp tác xã. Nông dân trở thành trụ cột của chính quyền ở nông thôn; nhân dân dân chủ chuyên chính và công nông liên minh trở nên vững chắc. Công nghệ và thương nghiệp mau phát triển; văn hóa cũng lên vùn vụt. Hơn 49 triệu trẻ em nông dân được đi học. Vì trình độ giác ngộ lên cao, phong trào chống tham ô lãng phí, quan liêu và chống Mỹ, giúp Triều nông dân hăng hái tham gia. (HCMTT, 7:1953-1955, 1996:8-9. Thực ra HCM không hoặc không muốn nói đến thực trạng sắt máu của bài học CCRÐ Trung Hoa. Từ ngày 1/10/1949 tới cuối tháng 8/1951, có tới 28,000 bị hành quyết tại Quảng Ðông. Trong nửa năm đầu 1951, khoảng 800,000 phiên tòa xét xử phản cách mạng, và 135,000 người bị tử hình. Từ 1949 tới 1952, khoảng 2 triệu người bị hành quyết. Hơn 2 triệu người khác bị gửi vào các trại cải tạo. ( Maurice Meisner, Mao’s China, 1977:81). Năm 1952, Mao và Ðảng CSTH đã khiến giai cấp đại địa chủ ngừng hiện hữu, nhưng cả Mao lẫn Hồ, đều hiểu rằng CCRÐ chưa phải là cách mạng XHCN. Theo lý luận Marxist-Leninism, đây mới chỉ là giai đoạn “tư sản” [bourgeoisie] của cách mạng, hay cái gọi là “Tân Dân Chủ” của Mao. Nói theo Marx, “chế độ Bonaparte [Pháp] là triều đại của nông dân.” Mục tiêu chính của Mao chỉ là: mở rộng cơ sở ủng hộ; kiểm soát hành chính xuống các xã thôn; làm gia tăng mức sản xuất nông phẩm. Bài diễn văn ngày 14/6/1950 của Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] hầu như đã được phỏng dịch lại trong bản báo cáo của HCM: thực hiện CCRÐ từng bước với sự thận trọng và biệt phân, trong khi lượng sản xuất nông phẩm gia tăng; phải dựa vào bần và cố nông, liên minh với trung nông, và vô hiệu hóa phú nôngHồ cũng không nhắc gì đến những con sóng bạo lực và sự phẫn nộ của 20 triệu người Hoa bị “vạch thành phần” là địa chủ, sự chống đối của họ [107- 108]. Bi thảm hơn nữa là dù CCRÐ đã hoàn tất, tình trạng nghèo khổ của nông dân TH không thay đổi. Chỉ có Ðảng CSTH đại thắng khi thay thế những kỳ hào cũ của các thôn xã bằng những người trẻ trung hơn, giúp đẩy mạnh việc trung ương tập quyền cho Ðảng và Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc. Ðồng thời chuẩn bị cho bước tái tổ chức kế tiếp, tức tập trung sản xuất [collectivation].Trường Chinh báo cáo về mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương pháp và kế hoạch thực hiện CCRÐ. (VKÐTT, 14:30- 83. Ngày 30/1/1953, ra Nghị Quyết “Thẳng tay phát động triệt để giảm tô.” (VKÐTT, 14:128- 132) F. Ngày 5/2/1953, Trường Chinh ra chỉ thị về cách phổ biến Nghị Quyết của Hội nghị lần thứ tư BCHTW (khóa II) Chỉ phổ biến CCRÐ tới cấp khu ủy và đại đoàn ủy, nhưng tạm thời giữ bí mật thời điểm thực hiện. Cấp tỉnh ủy và trung đoàn ủy chỉ nói giảm tô, tiến tới CCRÐ. Cấp dưới, không nói đến CCRÐ, chỉ nói đến 5 công tác trong năm 1953. (VKÐTT, 14:136-137). Trong khi đó, Hồ liên tục xuất hiện phát động các kế hoạch rập khuôn Trung Cộng khác: Ngày 5/2/1953, HCM nói chuyện trước Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc. Hôm sau, 6/2/1953, HCM nói chuyện trước lớp chỉnh huấn cán bộ Ðảng, Dân, Chính ở cơ quan TW. Hồ nhắc nhủ các cán bộ: “Ngồi giữa hai ghế thì nhất định sẽ ngã.” Ngày 22/4/1953, Ban Bí thư ra chỉ thị v/v 10 điều kỷ luật của cán bộ khi thi hành CCRÐ. Ngày 24/4/1953, Ban CHTW ra Chỉ thị v/v phát động quần chúng trong năm 1953. Chỉ thị của BCT ngày 4/5/1953 v/v Mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng trong năm 1953 phản ảnh khía cạnh sắt máu của kế hoạch CCRÐ: Trừng trị địa chủ phản động và gian ác Mức thoái tô, dây dưa tiền công Tước vũ khí của địa chủ [vụ đồn điền Vũ Ngọc Hoành] Yêu cầu về trình độ tổ chức trong cuộc phát động quần chúng Chỉ thị số 43/CT/TW của BCT ngày 10/6/1953 v/v Hướng dẫn công tác phát động quần chúng. (VKÐTT, 14:223- 234. Theo tin quân sự Pháp, thời gian này tại miền Bắc, Pháp chỉ kiểm soát được 1,129 làng (trên tổng số 7,000 làng). (10H 282). Phản ứng của dân chúng, và nhất là cán bộ cực kỳ xúc động. Ngày 29/6/1953, Thông Tri của Ban Bí thư về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng. ghi nhận “Ngay đến một số cán bộ lãnh đạo chưa thấm nhuần đường lối của CP. Nhiều nơi, địa chủ và ngay cả phú nông, trung nông tự tử.”( VKÐTT, 14: [tr. 246]) Ngày 3/7/1953, để trả lời những thắc mắc như “có CCRÐ trong kháng chiến hay không?,” BCT khẳng định Hội nghị TW lần thứ 4 (1/1953) đã quyết định CCRÐ trong kháng chiến. G. Luật CCRÐ 19/12/1953 Trung tuần tháng 11/1953, tại Hội nghị lần thứ 5 BCH/TW Ðảng LÐVN và Hội nghị Toàn quốc lần thứ nhất Ðảng LÐVN (14-23/11/1953), kế hoạch CCRÐ được chính thức công bố. Bước kế tiếp chỉ còn là việc của Quốc Hội. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953, Quốc Hội VNDCCH họp khóa thứ ba [tới 4/12/1953]. HCM tham dự. Ðọc báo cáo về tình hình thế giới, kháng chiến và CCRÐ. Trên mặt trận tuyên truyền, người ta chỉ được giải thích là lấy ruộng đất của “địa chủ phong kiến, Việt Gian ác ôn” chia cho người nghèo, với khẩu hiệu người cày có ruộng. Trên thực tế, để tiêu diệt cái gọi là chế độ sản xuất phong kiến, chính phủ Hồ áp dụng “công lý bần nông,” tức các phiên tòa đấu tố, bắt ép những người bị qui [vạch] vào thành phần địa chủ, cường hào, ác ôn hay Việt Gian phải nhận cả những tội lỗi họ chưa bao giờ vi phạm; rồi sau đó xử tử hình, hạ tầng công tác hay tập trung cải tạo. Ðợt thí nghiệm ở Thái Nguyên (dân số 10,781 người) từ tháng 12/1953 tới tháng 3/1954. Tịch thu, trưng thu, trưng mua 2,609 mẫu cho 6,089 nông dân. (VKÐTT, 15:1954, p. 201). Số nạn nhân của kế sách CCRÐ được ước lượng từ 15,000 tới 50,000 người. (Catton, 2002; Brocheux, 2003:225). Cần nhấn mạnh, mục tiêu chiến lược của CCRÐ vào thời gian này: bên cạnh quyết tâm “tiêu hủy giai cấp địa chủ phong kiến,” nhắm mở rộng sự kiểm soát các làng xã, tiêu diệt khả năng chống đối của địa chủ, gia tăng thu nhập lương thực và thuế, gia tăng số người nhập ngũ và “dân công” phục vụ nhu cầu chiến trường (lên tới hơn 100,000 trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ). Mãi tới sau đợt cải cách ruộng đất thứ 5 vào mùa Xuân-Hè 1956–trong không khí chống đối, bất mãn khắp nơi, kể cả biến cố nông dân Quỳnh Lưu nổi dạy, Võ Giáp phải mang quân lính đến đánh dẹp–Hồ mới họp Hội nghị TWÐ lần thứ 10 (khóa II, 8-10/1956), nhìn nhận khuyết điểm, tự chỉ trích và phê bình; rồi tự mình thay Trường Chinh làm Tổng Bí thư, và trừng phạt chiếu lệ những cán bộ điều khiển chính sách cải cách ruộng đất. (TTLTQG 3 (Hà Nội) có một số tư liệu của Kho Quốc Hội đã giải mật. Bộ Văn Kiện Ðảng Toàn Tập cũng in lại khá đầy đủ những nghị quyết và chỉ thị cơ bản về chính sách CCRÐ của Ðảng Cộng Sản từ năm 1949 tới 1957. Xem, Chính Ðạo, “Mặt Trận Nông Thôn: Từ Cải Cách Ruộng Ðất tới Ấp Chiến Lược;” Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, tập II (Houston: Văn Hóa, đang in). HCM đã chịu áp lực của Bắc Kinh để thực hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản dân chúng này. nhưng qui trách cho sai lầm của Trường Chinh, không phải do các cố vấn TQ. (Hoan, 1987:366-367) Kết luận sơ khởi của chúng tôi là cuộc cách mạng thổ địa vừa từ trên xuống (theo nghĩa do đảng LÐVN lãnh đạo, phát động, tổ chức và kiểm soát) vừa từ dưới lên (bạo lực tự phát của giới nông dân nghèo khổ, ao ước được chia đều phương tiện sản xuất, kể cả đất đai) chỉ mới thành công về chính trị và quân sự hơn kinh tế và xã hội hay văn hóa. NVC: Trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm”, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không? VNC: Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm là hậu quả đương nhiên của quyết định độc quyền cai trị bằng họng súng của Ðảng CSVN. Là Chủ tịch Ðảng và Nhà Nước, HCM chịu trách nhiệm. Riêng với HCM, đó còn là sự phản bội chính những đòi hỏi thuở trung niên của Hồ. NVC: Còn về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, ông Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm gì không? VNC: Thời điểm này, HCM hầu như không còn thực quyền. Lê Duẩn-Lê Ðức Thọ đã nắm hết quyền lực. Vấn đề đặt ra là liệu những viên chức địa phương đã vượt qua chỉ thị vào tháng 1/1968 của Lê Duẩn? (Phá cho tan hậu cứ VNCH, tức các đô thị). NVC: Hiện tại, nhiều đồng bào trong nước cũng như hải ngoại rất quan tâm và bất bình về vấn đề mất đất, mất các quần đảo do Trung Cộng chiếm đoạt. Vậy, theo ông thì ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không? VNC: Dĩ nhiên là có. HCM là người cầm đầu Ðảng và Nhà Nước. Thư ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai – tự nguyện nhìn nhận biên giới do Trung Cộng tự vẽ, với những dấu chấm ở vùng lãnh hải phía Nam – phải được sự phê chuẩn của HCM và Bộ Chính Trị Ðảng Lao Ðộng Việt Nam như Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Thọ, v.v. Bắc Kinh và Hà Nội thường nói về tình “môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ không kèm móc câu hay thòng lọng.” Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và thòng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng. NVC: Qua những điều đã trình bày thì theo ông, Hồ Chí Minh đã để lại di sản gì cho Dân Tộc Việt Nam? VNC: Một di sản buồn. Ba mươi năm chiến tranh, hàng triệu người chết và thương tật, sự tàn phá của làng mạc, ruộng vườn, đất đai. Và mối hận thù khó nguôi của các giai tầng xã hội. Một tương lai, mù sương, trong cuộc hành trình vô định, đầy thử thách từ một xã hội nông nghiệp, nửa thực dân nửa phong kiến đã chết, tới một thể chế chưa đủ khả năng chào đời. Từ năm 1991 bắt đầu nhập cảng thứ lý thuyết Marxist bị Hán hóa từ phương Bắc, và thay thế bảng hiệu “tư tưởng Mao Trạch Ðông, lý luận Ðặng Tiểu Bình” bằng “tư tưởng Hồ Chí Minh.” NVC: Nói tóm lại, theo ông thì Hồ Chí Minh có công hay có tội đối với dân tộc Việt Nam? VNC: Có lẽ còn quá sớm để đánh giá HCM. Vấn đề tùy thuộc ở những gì những người kế vị HCM sẽ thực hiện trong tương lai. Houston, 1/2009
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 11:17:35 GMT 9
8 sự thật về Hồ Chí MinhTrịnh Hữu Long Hôm nay nhân vụ Phương Uyên, nghĩ lại thấy Hồ Chí Minh thật tội nghiệp! Kẻ thì dùng mỹ từ tôn ông lên làm thánh, kẻ thì xúc phạm nặng nề và vẽ ông thành quỷ. Việc làm của bọn họ tuy có vẻ trái ngược nhau, nhưng đều đưa đến một hậu quả to tổ bố, đó là bóp méo Hồ Chí Minh. Sau đây là một vài chi tiết sưu tầm được về cuộc đời Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian, cũng như diễn đạt theo ngôn ngữ bình thường (không lăng xê cũng không lăng mạ), hầu bạn đọc: Chân dung Hồ Chí Minh vào khoảng năm 1946. Đây là món quà mà ông tặng cho Raymond Aubrac, nhà ngoại giao người Pháp có con gái sinh năm 1946 mà ông nhận làm cha đỡ đầu. Nội dung dòng chữ trên bức ảnh (bằng tiếng Pháp): “Gửi một cái hôn lớn cho con gái đỡ đầu bé nhỏ Babette. Cha đỡ đầu của con. Hồ”. Nguồn: Wikipedia.org 1. Hồ Chí Minh thuộc thế hệ 9x. Ông sinh năm 1890. 2. Hồ Chí Minh từng bị đuổi học vì đi biểu tình. Khi phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ nổ ra vào năm 1908, Hồ Chí Minh (khi đó có tên là Nguyễn Tất Thành) đang học trường Quốc học Huế, cùng bạn bè tham gia biểu tình và bị chính quyền đàn áp, về sau bị đuổi học. Cha ông bị triều đình khiển trách nặng nề vì hành vi của con trai, anh trai ông cũng bị giám sát chặt chẽ. 3. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nổi tiếng nhất thế giới. Mới 21 tuổi, ông đã theo tàu Pháp bôn ba khắp năm châu làm phụ bếp, sau đó là xúc tuyết, quét than và làm nhiều công việc cực nhọc khác để kiếm sống. 4. Hồ Chí Minh đã nhận tiền của nước ngoài để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhiều tài liệu giải mật cho thấy ông đã nhận lương, phụ cấp và nhiều khoản tài trợ khác từ Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản để hoạt động từ những năm 1920. Nhờ vậy, ông có thể di chuyển, sinh sống và mở các lớp huấn luyện ở Trung Quốc và Thái Lan. 5. Hồ Chí Minh đã khôn khéo lợi dụng các quyền tự do dân chủ của phương Tây để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông tham gia ký “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, mở báo “Người cùng khổ” (Le Paria) năm 1922 nhằm tố cáo các tội ác của chính quyền thuộc địa, cũng như viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 tại Paris. 6. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập một số đảng phái, tổ chức chính trị ở hải ngoại. Năm 1920, ông là đồng sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1925 lập ra “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” ở Quảng Châu – Trung Quốc nhằm huấn luyện chính trị và cách thức đấu tranh giành chính quyền (không nhất thiết là “bất bạo động”) cho các nhà hoạt động trong nước. Đặc biệt, khi còn ở hải ngoại (Hong Kong), ông đã là người sáng lập ra một đảng phái chính trị có tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, nhằm mục đích lật đổ chính quyền ở trong nước. 7. Hồ Chí Minh đã viết nhiều tài liệu chống chính quyền mà nổi tiếng nhất là tác phẩm “Đường kách mệnh”, xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu – Trung Quốc. 8. Hồ Chí Minh đã tham gia nhiều khóa học về bạo động lật đổ chính quyền ở nước ngoài, đặc biệt là ở Đại học Phương Đông (Liên Xô) trong những năm 1930. Hồ Chí Minh (áo trắng) và bên trái là người Tàu chỉ huy trận Hoàng Sa 1974. Nguồn: OntheNet ************** Y Kien Nguyễn Tiến sĩ • Một bài viết ngắn nhưng châm biếm, hóm hĩnh ,đả lồng con ngáo ộp HCM ,bất khả xâm phạm , vào cuộc đấu tranh của lớp trí thức trong nước chống lại bọn nhà nước độc tài đãng trị : 1/ Hồ Chí Minh thuộc thế hệ 9x. Ông sinh năm 1890. Đây là một sự xúc phạm nặng nề "chủ tịch" HCM : thế hệ 9X là để chỉ những cô cậu sinh trong thập niên 1990 tức là năm nay có độ tuổi từ 14 đến 23 . Thế còn Kụ Hồ thì năm nay đả 123 xuân . 2/ Hồ Chí Minh từng bị đuổi học vì đi biểu tình Hồ Chí Minh là người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nổi tiếng nhất thế giới. Báo chí CS nói là HCM đả ý thức cách mạng ,tham gia chống thực dân Pháp chứ không nói là bị đuổi học vì đi biễu tình : đây lại là một sự bôi bác "Bác" Bác đi tìm đường cứu nước thì lại dám nói là "đi xuất khẫu lao động" 3/ Những câu sau đây: Hồ Chí Minh đã nhận tiền của nước ngoài. Hồ Chí Minh đã khôn khéo lợi dụng các quyền tự do dân chủ của phương Tây. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập một số đảng phái, tổ chức chính trị ở hải ngoại. Hồ Chí Minh đã viết nhiều tài liệu chống chính quyền . Hồ Chí Minh đã tham gia nhiều khóa học về bạo động lật đổ chính quyền ở nước ngoài, Gợi cho ta những cáo buộc của nhà nước CS đối với những nhà hoạt động chống chính quyền , ví dụ như Trần huỳnh Duy Thức ,Nguyễn tiến Trung , Lê công Định ... Đem HCM ra để chế diễu và làm bình phong cho "bọn phãn cách mạng" ,quả thật tác giả Trịnh hữu Long gan cùng mình .Nhưng cũng xin hoan nghênh tác giả . ********** Lê Văn Theo sách giáo khoa - tiểu sử của HCM - của nhà nước làm ra thì thủa nhỏ cậu theo học gia sư ở nhà quê nhiều năm, chủ yếu học chữ Hán. Chiếu theo trình độ chữ Hán của ông Hồ sau này - nét chữ đẹp, thơ chữ Hán cũng rất vững - thì thời gian cậu Thành học chữ Nho tối thiểu phải là 7,8 năm, có khi đến 10 năm. Cũng theo sách "giáo khoa" của nhà nưóc, mãi đến 1906 cậu Thành - lúc đó 16 tuổi, theo năm sinh chính thức sau này là 1890 - mới ra Huế học . Ở Huế, cậu vào học trường Tiểu Học Pháp-Việt Đông Ba - tuy không nói rõ là vào từ lớp Một hay nhẩy ngày lên lới Hai hay Ba... Sách "giáo khoa" cũng nói sau đó cậu Thành thi đậu vào trường Quốc Học, chỉ có thể là năm 1907, vì năm sau, 1908, cậu đã bị đuổi học "vì chống Pháp". Như anh Zulu cho biết, trường Quốc Học lúc đầu chỉ là trường Cao đẳng Tiểu học (École Primaire Supérieur) - từ 1915 mới trở thành bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp (lấy bằng Brevet). Tóm lại, cậu Thành chỉ học tối đa tới lớp Năm (lớp Nhất, theo cách gọi ngày xưa). Nhưng có lẽ đến chỉ lớp Hai hay lớp Ba... Điều này cũng chứng minh rõ rệt "văn chương" tiếng Việt của "cụ" Hồ sau này - nhất là những bài thơ tiếng Việt, cứ như là "thơ con cóc" của mấy bác nhà quê ít học. Vì thời gian học chương trình Pháp qua ngắn ngủi - ngược lại học đạo Khổng lâu hơn nhiều - nên sau này ông Hồ phát ngôn ra thường giống như "Khổng Tử viết"... mà không giống J.J.Rousseau tí nào... (Sách "giáo khoa" nhà nước còn ghi cẩn thận, rằng cậu Thành lần đầu tiên nghe nói đến khẩu hiễu "tư do - công bình - bác ái" là năm 1905, tức lúc 16 tuổi). ********* Minh Đức • Bài này kể ra các việc làm của ông Hồ chí Minh được đảng CSVN xem như là thành tích hoạt động. Những người tranh đấu cho dân chủ ngày nay cũng làm những việc tương tự như ông Hồ lại bị đảng CSVN xem là có tội. Đó là vì lối của CS lấy lợi ích của đảng CS làm tiêu chuẩn đánh giá các hành động. Cái gì có lợi cho đảng CS thì tốt, cái gì có hại cho đảng CS thì xấu. Đảng CS ca ngợi các vụ nông dân nổi dậy trong lịch sử nhưng lại không chấp nhận nông dân nổi dậy dưới chế độ CS. Cách đánh giá sự việc như vậy khác với Nho Giáo. Nho Giáo không tán thành việc dân nổi lên dùng bạo lực thì các vụ nổi dậy đều bị xem là làm loạn, làm giặc. Cái lý do khiến dân làm loạn có thể được xét tới để thông cảm dân làm loạn nhưng việc làm loạn thì không phải là chủ trương của Nho Giáo. Đó là vì Nho Giáo chủ trương "khoan nhu dĩ giáo", xử sự mềm mỏng, khoan dung, dùng giáo dục để dạy dân . Không phải là cách xúi dân dùng bạo lực khi có lợi cho mình, khi dân dùng bạo lực không có lợi cho mình thì lên án. ********** Uncle Fox Nguyễn Sinh Sắc say riệu, nhỡ tay đánh chết phạm nhân nên bị cách chức và bị liêu đày biệt xứ . Làm đ... gì có truyện Kụ Kố NSS bị khiển trách vì hành vi của Kụ Káo HCM? Nghĩ cũng buồn cười, ngày xưa Kụ Káo HCM biểu tình chống thực dân Pháp chỉ bị đuổi học . Ngày nay cô bé Phương Uyên biểu tình chống Trung Quốc thì bị ngồi tù . xét ra bọn thực dân xưa cũng chửa tàn ác bằng bọn Việt Gian Cộng Sản bi chừ
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2013 9:51:43 GMT 9
Chuyện Gia đình Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng... (Thợ cạo tập hơp tin ảnh, không có gì mới, bạn nào chưa biết tham khảo) GIA ĐÌNH THỦ TƯỚNG Gia đình thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. ảnh: phuonganhrg/blog/ (ảnh Anhbadung) Con trai đầu Nguyễn Thanh Nghị Sinh năm 1976, từng là sinh viên trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2001 và 2002 ông từng là 'giám đốc quan hệ khách hàng (PR) và cũng đóng vai trò “quản lý dự án” cho tập đoàn Bitexco. Năm 2006, sau khi học trong Tiến sĩ ngành Kỹ sư công chính tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ, ông trở về trường để thực hiện công tác giảng dạy. Năm 2008, ông được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng trường Đại học Kiến trúc TpHCM. Tháng 1 năm 2011, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, tuy không được đại hội đảng cơ sở đề cử lên, song Nguyễn Thanh Nghị vẫn được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương, từ danh sách do chính Đại hội toàn quốc đang họp đề cử. Ngày 11 tháng 11 năm 2011, bằng quyết định số 2011/QĐ-TTg, do phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Xây dựng. Ông Nghị đã có gia đình, vợ là người gốc Hà Nội, cũng từng là lưu học sinh tại ĐH George Washington Mỹ. (Wikipedia) Ở tuổi 35 và cũng là một trong hai Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng trẻ nhất được bầu tại Đại hội Đảng XI, là thứ trưởng đương nhiệm trẻ nhất Việt Nam. (ngwòi thứ 2 là Nguyễn Xuân Anh con của nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi) Tham khảo thêm: con đường quan lộ của Nguyễn Thanh Nghị Tấm ảnh này trông rất phản cảm, thấy còn đăng ở Tinmoi.vn Con gái kế Nguyễn Thanh Phượng Sinh năm 1980, Tốt nghiệp Cử nhân ngành Tài chính – Ngân hàng ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) và hoàn tất chương trình Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị tài chính của Trường Đại học Quốc tế tại Geneva, Thụy Sĩ, bà giữ chức vụ Giám đốc đầu tư của Quỹ Vietnam Holding, một quỹ đầu tư niêm yết trên Thị trường chứng khoán London. Ngoài ra, bà Phượng từng giữ vị trí Phó Giám đốc tài chính của Công ty Liên doanh Holcim (Việt Nam), một tập đoàn đa quốc gia Thụy Sĩ. Bà là một trong những sáng lập viên và là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Chứng khoán Bản Việt (VCSC), Công ty Quản lý Quỹ Bản Việt (VCAM). Hiện tại, bà đang nắm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt. (WIkipedia) (thứ 2 từ trái qua). Con trai út Nguyễn Minh Triết, học A level tại trường St. Michael College(Mỹ). Triết về Việt Nam sau khi du học bảy năm, chủ yếu tại Đại học Queen Mary, London, chuyên ngành Kỹ thuật Hàng không và Chế tạo máy. Anh nhận bằng thạc sỹ với đề tài Kỹ thuật động cơ siêu thanh; và đã có sáu tháng thực tập tại công ty danh tiếng Rolls Royce. Từ tháng 11/2011, Nguyễn Minh Triết đã tham gia phong trào đưa cán bộ trẻ về xã trong vị trí cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản cấp cơ sở. (BBC) Tháng 12/2012, Triết được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đoàn TNCS HCM. Vneconomy - 09/02/2007 (trích) PV: Thưa Thủ tướng, có tờ báo đưa tin Ngài có 2 con đi học ở Mỹ và con gái Ngài có chồng Việt kiều. Điều đó có làm ảnh hưởng đến Ngài không? (Nguyen Chi Hieu - Tp.HCM) TT: Như trên vừa nói, tôi chỉ có một con đi học tại Mỹ. Cháu đã học và nghiên cứu, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học chuyên ngành xây dựng dân dụng. Cháu đã trở về và đang phụ trách đào tạo sinh viên sau đại học tại Đại học Kiến trúc Tp.HCM. Còn con gái tôi không đi học tại Mỹ. Và cháu cũng chưa có gia đình. Thông tin trên là không đúng. ____ Khác với công điện của Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn: Wikileaks tiết lộ về Con cái ông Dũng là Nguyễn Thanh Phượng và Nguyễn Minh Triết đã học ở nước ngoài, trước đó và Đại sứ Anh viết NMT đã đến Anh Quốc từ năm 2004. (Vietnamnet đã rút bài). Phải chăng Thủ tướng đã nói dối? Về "bệ phóng" các con ông Dũng, dựa vào thông tin được cho là từ Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại TP HCM, tham khảo: www.cablegatesearch.net/cable.php?id=06HOCHIMINHCITY1492 Bà Trần Thanh Kiệm, phu nhân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Hàn Quốc (AP Photo) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phu nhân Trần Thanh Kiệm vẫy tay chào sau khi tới sân bay quốc tế Phnom Penh. Ảnh: AFP (Có một bài báo viết bà Trần Thanh Kiệm nguyên là cô giáo.) TT Nguyễn Tấn Dũng và phu nhân đã dâng hương lễ Phật tại chùa Vĩnh Nghiêm sau khi tái đắc cử Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam (Chuaphuclam) Henry Nguyễn "yêu đất nước và yêu luôn cả con gái Thủ tướng" Đám cưới của họ được SGTT đăng một bản tin ngắn, không hình: Con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên xe hoa - "...Lễ tổ chức đám cưới được cho biết là tổ chức giản dị tại khách sạn Caravelle, TP.HCM tối chủ nhật, 16.11, với hơn 200 khách mời là những người thân của hai gia đình cô dâu và chú rể." Điều lạ là vài trang đăng lại nhưng sau đó tất cả đã rút bài (các báo lớn không đăng tin này). Con rể Henry Nguyen (Nguyễn Hoàng Bảo) - chồng của Nguyễn Thanh Phượng: sinh năm 1974, gia đình rời Sài Gòn năm 1975 di cư sang Mỹ và định cư tại ngoại ô Washington thuộc bang Virginia. Hiện là Tổng Giám đốc điều hành Quỹ Đầu tư IDG Ventures Việt Nam "Xuất xứ của ông đem lại cho ông một cái nhìn có một không hai. Năm 1975, vào thời điểm chấm dứt Cuộc chiến Việt Nam khi ông mới lên hai, ông được gia đình đưa đi trốn chạy trước cuộc xâm lăng của quân cộng sản (Communist invasion) vào Nam Việt Nam. Henry Nguyễn "yêu đất nước và yêu luôn cả con gái Thủ tướng" Ông sống bảy tháng trong một trại tị nạn ở Philippines trước khi chuyển đến Virginia, Hoa Kỳ, nơi ông lớn lên với rất ít quan tâm ở quê hương cũ của mình, trả lời cha mẹ Việt của mình bằng tiếng Anh và đi vào học tại Đại học Harvard. Ông chỉ trở lại vào giữa năm 1990, miễn cưỡng, như là một nhà văn viết về du lịch cho loạt bài do sinh viên Harvard tổ chức mang tên Let's Go. "Tôi cảm thấy yêu nơi này," ông nói. (BBC) Ông Đặng Thành Tâm, ông Henry Bảo Hoàng và phu nhân Nguyễn Thanh Phượng, ông Đinh Bá Thành và ông Don Lam. (Vnexpress) NGUỒN GỐC & NGƯỜI THÂN Theo tiểu sử chính thức: Họ và tên khai sinh: NGUYỄN TẤN DŨNG. Họ và tên thường gọi : Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949. Thành phần gia đình : Cán bộ kháng chiến. Quê quán : Thành phố Cà Mau, Tỉnh Cà Mau. Nơi ở hiện nay : Số 55 Phan Đình Phùng, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Dân tộc: Kinh . Tôn giáo: không. Trình độ học vấn : Đại học. Trình độ chuyên môn : Cử nhân Luật . Lý luận chính trị Cao cấp. Nghề nghiệp, chức vụ : Thủ tướng Chính phủ - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ. Nơi làm việc : Văn phòng Chính phủ. Ngày vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 10/6/1967; ngày chính thức : 10/3/1968. Tình trạng sức khoẻ : Bình thường; có 4 lần bị thương, Thương binh hạng 2/4. Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng I. 02 Huân chương Chiến công hạng III . 06 danh hiệu Dũng sỹ . Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng I, II, III . Huân chương Hữu nghị hạng Đặc biệt của Nhà nước - Hoàng gia Cam-pu-chia . Huân chương ISALA và Huân chương Vàng quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Kỷ luật : Không Đại biểu Quốc hội khóa : X, XI, XII, XIII. Ủy viên Trung ương Đảng khóa : VI, VII, VIII, IX, X, XI. Ủy viên Bộ Chính trị khóa : VIII, IX, X, XI. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC - Từ tháng 11/1961 đến tháng 9/1981: Tham gia Quân đội, làm văn thư, liên lạc, cứu thương, Y tá, Y sỹ và Bổ túc chương trình Phẫu thuật ngoại khoa của Bác sỹ Quân y . Đã qua các cấp bậc và chức vụ : Tiểu đội bậc trưởng ; Trung đội bậc trưởng ; Đại đội bậc phó và Đại đội bậc trưởng - Đội trưởng Đội phẫu thuật ; Đại đội trưởng và Chính trị viên trưởng Đại đội Quân y (Bí thư Chi bộ Đảng) thuộc Tỉnh đội Rạch Giá . Học khóa Sỹ quan chỉ huy cấp Tiểu đoàn - Trung đoàn và đảm nhiệm các nhiệm vụ : Thượng úy - Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 207 (Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn) ; Đại úy - Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn Bộ binh 152 (Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn) chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp bạn Cam-pu-chia ; Thiếu tá - Trưởng Ban cán bộ (Phó Bí thư Đảng ủy Phòng Chính trị) thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang. - Từ tháng 10/1981 đến tháng 12/1994 : Học Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (Hà Nội) . Tỉnh ủy viên - Phó Trưởng ban Ban Tổ chức Tỉnh ủy Kiên Giang . Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang - Bí thư Huyện ủy Hà Tiên . Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Kiên Giang . Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang; Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh . Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang - Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 9. .... BBC: Chân dung thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Theo lời ông Dũng kể: cha ông là Nguyễn Tấn Thử - Chính trị viên Tỉnh đội Rạch Giá, hy sinh năm tại căn cứ U Minh Thượng, năm 1969...nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã công tác, chiến đấu, hoạt động ở vùng đất này, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt. Phù hợp với tiết lộ được cho là Công điện của Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Sài Gòn, qua đây hiểu thêm về cá tính và vì sao từ một người ít học như ông Dũng mà sự nhiệp lại hanh thông: Ông Dũng ra đời tháng 11 năm 1949 ở tỉnh Cà Mau và sau đó theo gia đình dọn hẳn về Kiên Giang...cha của ông Dũng là một lãnh đạo cao cấp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam...cha của ông tử nạn vì bị Hoa Kỳ hay quân đội VNCH tấn công ngay giữa lúc đang họp với hai lãnh đạo của lực lượng nổi dậy lúc đó là Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt...cả Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt tin rằng họ nợ Dũng một món ‘ân oán’, và có bổn phận phải đền bù cho Dũng...Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là người có sự nghiệp chính trị rất thuận buồm xuôi gió, vì được sự hậu thuẫn của cả Lê Ðức Anh, cựu chủ tịch nước, thuộc thành phần bảo thủ, và Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng. Tham khảo: Wikileaks: Ai đưa Nguyễn Tấn Dũng lên đỉnh quyền lực? (Nguyễn Tấn Thử tức Mười Minh) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ôn lại câu chuyện Tư Kiên tải thương bằng cối giã gạo cứu mình. Phan Văn Toàn - Thiếu úy Trợ lý Tham mưu tác chiến viết: Đầu năm 1978, khi ấy ông Nguyễn Tấn Dũng Thượng úy Chính trị viên Tiểu đoàn 207- Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang, luôn được anh em gần gũi và kính trọng. Điều ấn tượng với anh em chiến sĩ là nụ cười hiền của anh Ba Dũng khi nói chuyện với mọi người. Một ấn tượng nữa không thể nào quên là những lần vào trận hoặc lúc đưa cán bộ đại đội và phân đội trinh sát chuẩn bị trận đánh, anh Ba Dũng thường vận chiếc quần xà lỏn (quần cộc), mang khẩu súng AK báng gấp với tác phong nhanh nhẹn, dứt khoát và bình tĩnh khiến chúng tôi rất yên tâm trong quá trình tiếp cận mục tiêu thực hiện nhiệm vụ. Lá thư hơn 30 năm trước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi tác giả. Hành quân lên biên giới Nhà báo Minh Diện kể Tháng 8/1978 tình cờ gặp ông khi ấy là Đại úy, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 152 (Bộ đội địa phương Kiên Giang) - Hơn ba chục năm đã qua chưa một lần tôi gặp lại ông Nguyễn Tấn Dũng, nhưng tôi không quên hình ảnh người đại úy trẻ khóc khi kể về những người đồng bào của mình bị sát hại và nhảy xuống cõng nhà báo lão thành qua đầm lầy lên mặt trân biên giới năm ấy. Tôi nghĩ, ông Nguyễn Tấn Dũng là một người được sinh ra giữa đồng đất Nam Bộ phì nhiêu , giữa những người dân trọng nghĩa hiệp , phóng khoáng, là người từ gian khổ hy sinh mà trưởng thành. Một con người biết khóc trước nỗi đau của dân, biết tôn trọng một nhà báo lão thành, biết tìm về tận quê người bạn chiến đấu là anh Phan Trung Kiên để trả ơn,...Chắc Thủ tướng chưa quên những năm tháng lăn lộn, sống chết vì nhan dân và chiến sĩ... Có người trên mạng nói: Ông Dũng là con thứ hai trong gia đình, có chị ruột và người em trai út. Theo nhà báo Huy Đức chị ruột của ông Dũng là bà Hai Tâm có 185 ha cao su trong vụ tranh chấp đất ờ Bình Dương; bài báo đã rút xuống còn lưu ở Đây. Có còm sĩ cho răng bà Hai Tâm nhà ở Kiên Giang nhưng có đất ở Bình Dương, Khánh Hòa và có quan hệ làm ăn lớn với bà Tư Hường (Hoàn Cầu), Bình Định (Thông tin chưa có nguồn chính thống xác nhận). Trên mạng cho rằng em ông Dũng là Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng), có nhiều phi vụ làm ăn ở Kiên Giang, phải chăng là người em út nói trên?. (Thông tin chưa có nguồn chính thống xác nhận). Ngọc Niên - xác nhận Tư thắng là em trai út ông Dũng đang sống tại số nhà 1108 đường Nuyễn Trung Trực ở Rạch Giá KG Phuongquy - 13/12/2009, Thân mẫu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng- Bà Nguyễn Thị Hường, trong khi đi lấy thuốc nam ở Tây Ninh đã ghé thăm và tặng quà cho Trại dưỡng lão Trường Tây (nằm trong khu vực Đền thờ Phật Mẫu Trường Tây) huyện Hòa Thành. Năm nay đã 84 tuổi, nhưng dì Mười Hường còn khá khỏe mạnh, minh mẫn. Thăm cụ Ngọc Hương 98 tuổi Nhà báo chụp ké "mai mốt ra Hà Nội con khoe với anh Dũng" Đây là hình ảnh đầu tiên được cho là Nhà thờ họ của Thủ tướng NTD (đăng từ 01/2009: blog Trandongchan đã xóa ảnh, bài còn ở đây) Ảnh Nhà Thờ họ Nguyễn Tấn, ở Rạch Giá bởi Che Trung Hieu: Panoramio.com/photo PHÍA BÊN VỢ 15/10/2011, bà Trần Thanh Kiệm, phu nhân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng ông Trần Quốc Liêm - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh - Bộ Công an đã đến thăm tu viện Khánh An, Q.12. (Giacngo.vn) Ông Trần Quốc Liêm - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo - Bộ Công an Được cho là em vợ của Thủ tướng (chưa có nguồn chính thống xác nhận). Qua hình gần gũi bà Kiệm ở trên trong dịp viếng chùa, có lẽ là đúng. Ông Trần Minh Chí có phải là em trai bà Kiệm? (chưa có nguồn chính thống xác nhận) - Xem thêm: Tập đoàn Trần Thái là ai ? - Chỉ riêng ở tỉnh Kiên Giang đã tóm 7 dự án. Thông tin tham khảo thêm (không có nguồn chính thống xác nhận): Chuyện gia đình phò mã và sui gia TT "Ông Nguyễn Bang cha của Henry Nguyen, nguyên là 1 thứ trưởng của chính quyền Sài Gòn trước 1975. Cả gia đình Nguyễn Bang đã lên đường rời VN chỉ vài ngày trước 30/4/75 và định cư ở Mỹ ngay sau đó ở bang Chicago..." (Bài được cho là của Trần Huỳnh Duy Thức đang bị tù 16 năm về tội lật đổ chính quyền) (Theo Th09 tìm hiểu thì ông Bang không phải là thứ tưởng, mà có thể là viên chức chính quyền VNCH) Theo: Saohomsaomai thì Henry Hoàng, con trai đầu của Nguyễn bá Ban - Kỷ sư Công chánh Phú thọ Saigon 1965 , phục vụ tại Ty Phát triễn đô thị Đà Nẳng cho tới 1975 . Định cư tị nạn tại Fairfax , Virginia Hoa kỳ từ 75 đến nay. Hiếm khi thấy Thủ tướng Dũng và phu nhân (bên phải) xuất hiện cùng con cái trước công chúng. (BBC) Điều này cũng bình thường thôi vì ở Việt Nam theo luật bất thành văn, chuyện gia đình lãnh đạo thuộc phạm vi "bí mật quốc gia".
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 25, 2013 7:05:21 GMT 9
Việt Nam sẽ ra sao sau bài Diễn văn Shangri-LaGS Lê Xuân Khoa 18-06-2013 Trên những vấn đề bức thiết của xã hội Việt Nam hiện nay, nguyên tắc mà BVN vẫn tuân thủ, là trong khi đăng các bài luận bàn, không bao giờ để xen vào những khen chê tư cách cá nhân các nhân vật đang giữ các vị trí then chốt trong bộ máy quyền lực, mà chỉ giới hạn ở những việc làm hoặc phát ngôn cụ thể của họ, dưới góc nhìn lợi hay hại, ngắn hạn hay dài hạn đối với đất nước. Bài viết sau đây của GS Lê Xuân Khoa – một học giả và chính khách nổi tiếng, hiện ngụ cư tại Hoa Kỳ, từng nhiều lần về Việt Nam gặp gỡ trí thức trong nước và cả các vị nguyên thủ như Thủ tướng Võ Văn Kiệt – tuy có đề cập đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhưng thông qua việc đánh giá lời phát biểu của ông Dũng tại Diễn đàn Shangri-La, nên theo chúng tôi, đây là cách tác giả đặt một vấn đề chung về con đường tối cần thiết cho lợi ích lâu dài của Tổ quốc Việt Nam, tất nhiên là từ quan điểm riêng của người viết. GS Lê Xuân Khoa gặp gỡ các GS Hoàng Ngọc Hiến, Phan Đình Diệu và Nguyễn Huệ Chi ngày 12-1-2005 tại Hà Nội nhân chuyến ông về Việt Nam thăm TT Võ Văn Kiệt Xin trân trọng đăng lên để bạn đọc rộng đường tham khảo. Nguyễn Huệ Chi Ngày 31 tháng Năm, 2013, tại kỳ họp thượng đỉnh về an ninh thứ 12 của “Đối Thoại Shangri-La,” Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã được mời làm diễn giả chính. Đề tài diễn văn là “Xây dựng Lòng tin Chiến lược vì Hoà bình, Hợp tác và Thịnh vượng trong Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương” . Đây là lần đầu tiên Việt Nam đưa ra một quan điểm chiến lược nhằm giải quyết toàn bộ cuộc khủng hoảng chính trị có nguy cơ đưa đến chiến tranh giữa Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực. Quan điểm này được xây dựng trên một ý niệm then chốt là “lòng tin chiến lược” (strategic trust), một thuật ngữ được sử dụng trong những cuộc đối thoại nhằm tiến đến hợp tác về kinh doanh hay chính trị để phân biệt với lòng tin đạo lý (moralistic trust) hay lòng tin cậy đơn thuần (trust) giữa những người thân tín trong cùng một gia đình hay tổ chức. Gần đây nhất, trong lần thăm Hoa Kỳ năm 2012 khi còn là Phó Chủ tịch Trung Quốc, ông Tập Cận Bình cũng đã nhắc đến “lòng tin chiến lược” như một nền tảng cho sự hợp tác có lợi cho cả hai nước. Tại Đối thoại Shangri-La lần này, Lòng tin Chiến lược đã được Thủ tướng Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh và quảng diễn như một điều kiện sine qua non (không có không được) trong quan hệ hợp tác giữa các nước liên quan nhằm đem lại lợi ích cho tất cả mỗi bên và đảm bảo hòa bình lâu dài trong khu vực. Nhà báo Marites D. Vitug đã đếm được 40 lần ông Nguyễn Tấn Dũng nói đến lòng tin chiến lược. Tiến sĩ John Chipman, người tổ chức Đối thoại Shangri-La, phát biểu trong phiên bế mạc rằng “Lòng tin Chiến lược” đã trở thành chủ đề của kỳ Đối thoại này. Riêng trong vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Việt Nam đã dựa vào Lòng tin Chiến lược để gửi ra ba thông điệp chính trị: 1. Với Trung Quốc: tuy không nêu đích danh, ông Dũng đã rõ ràng chĩa mũi dùi vào Trung Quốc khi ông liệt kê một chuỗi lý do đã gây nên tình trạng báo động về an ninh khu vực: “đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”. Ông Dũng thúc giục Trung Quốc hãy cùng với ASEAN “đề cao trách nhiệm và lòng tin chiến lược” để sớm hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) “phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982 (UNCLOS)”. 2. Với các nước ASEAN: ông Dũng nhấn mạnh vào sự cần thiết của “một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương”. Ông gián tiếp chỉ trích Campuchia đi theo Trung Quốc “vì lợi ích của riêng mình” khiến cho hội nghị ASEAN tại Phnom Penh năm 2012 do Campuchia làm Chủ tịch đã không thể ra được bản Tuyên bố chung. Ông Dũng tin rằng, nhờ tình đoàn kết, ASEAN sẽ có thể cùng các nước đối tác “xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực và tạo điều kiện giải quyết các tranh chấp”. 3. Với Hoa Kỳ: Khi xác nhận Hoa Kỳ là “một cường quốc Thái Bình Dương”, ông Dũng cho thấy Hoa Kỳ, dù không phải là thành viên của ASEAN, cũng đương nhiên có vai trò chiến lược trong khu vực. Khi nhấn mạnh Hoa Kỳ và Trung Quốc là “hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất đối với cả khu vực và thế giới” , ông Dũng làm nổi bật hình ảnh tương phản giữa hai nước lớn này trong trách nhiệm “tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền độc lập của các quốc gia… đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung”. Tóm lại, qua bài diễn văn then chốt tại Đối thoại Shangri-La, Thủ tướng Việt Nam đã cho thấy một bước ngoặt quan trọng về chính sách đối ngoại của Hà Nội: tìm cách thoát khỏi sự khống chế của Bắc Kinh và gia tăng hợp tác với Hoa Thịnh Đốn. Có thể nói đây là chính sách “xoay trục sang Hoa Kỳ” (pivot to the U.S.) của chính quyền Việt Nam. Điều này không có nghĩa là Việt Nam muốn tìm một đồng minh quân sự để chống lại Trung Quốc mà chỉ là một quyết định khôn ngoan để bảo vệ độc lập và chủ quyền của mình. Trong phần cuối bài diễn văn, ông Dũng đã khẳng định là “Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác”. Điều này hé mở khuynh hướng về quy chế trung lập có thể sẽ được các nước ASEAN chấp thuận như một chọn lựa thích hợp với “vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương”. Sự can dự chiến lược của Hoa Kỳ Hẳn không hoàn toàn vì tình cờ mà Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel, cũng tại diễn đàn Shangri-La, đã xác nhận không thể rõ ràng hơn sự can dự chiến lược của Hoa Kỳ ở Châu Á-Thái Bình Dương nhằm “tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng” như đã được Thủ tướng Việt Nam trông đợi. Ông Hagel nói đến những đầu tư cụ thể vào các chương trình trợ giúp nhân đạo và phát triển, đặc biệt là chương trình hợp tác thưong mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang thành lập và “Sáng kiến cho khu vực Hạ lưu sông Mekong” (Lower Mekong Initiative) đã khởi sự từ 2009. Cũng như ông Dũng, ông Hagel mong đợi sớm có Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông và một môi trường hợp tác có lợi ích cho tất cả các bên, tạo điều kiện giải quyết các tranh chấp không dùng đến sức mạnh. Bộ trưởng Hagel cũng kêu gọi Trung Quốc hãy cùng với Hoa Kỳ và ASEAN thiết lập một cấu trúc về an ninh làm cơ sở chung cho việc giải quyết những điểm khác biệt một cách có hiệu quả. Ông Hagel phê phán những ai nghi ngờ khả năng can dự lâu dài của Hoa kỳ ở Châu Á-Thái Bình Dương là “thiếu khôn ngoan và thiển cận”. Ông nhấn mạnh rằng ngay cả trong trường hợp ngân sách quốc phòng bị xuống thấp nhất, chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ vẫn ở mức xấp xỉ 40 phần trăm tổng số chi tiêu quốc phòng của toàn thế giới. Ngoài việc chuyển 60 phần trăm lực lượng hải quân sang Thái Bình Dương, Hoa Kỳ còn chuyển thêm 60 phần trăm lực lượng không quân tới các căn cứ đã có sẵn trong khu vực. Thêm vào đó, các kỹ thuật tân kỳ đang phát triển sẽ giúp cho khả năng di chuyển và tấn công của Mỹ được mau chóng và hiệu quả hơn nữa. Những thông tin này cho thấy việc thiết lâp căn cứ quân sự của Mỹ ở Việt Nam không còn cần thiết, nhất là khi các chiến hạm Mỹ đã trở thành những căn cứ lưu động, thỉnh thoảng lại ghé thăm những địa điểm chiến lược trong khu vực. Đây là những bảo đảm có sức thuyết phục nhất đối với sự xoay chuyển chính sách đối ngoại của Việt Nam. Quả thật ông Nguyễn Tấn Dũng đã có một quyết định khôn ngoan và đúng lúc. Tiện đây cũng cần phải nhắc đến mối quan tâm sâu sắc của Trung Quốc đối với chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương, như thiếu tướng Diêu Vân Trúc đã phát biểu trong phần hỏi đáp sau bài diễn văn của Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Vị nữ tướng Giám đốc Trung tâm Quan hệ Quốc phòng Trung-Mỹ đã nói thẳng với ông Hagel là bà không tin những hoạt động tái cân bằng của Mỹ, với 60% lực lượng hải quân và 60% lực lượng không quân dàn trải trong khu vực, lại không nhằm chống Trung Quốc như Mỹ từng giải thích. Ông Hagel trả lời là trong vị thế một “cường quốc Thái Bình Dương đã hơn 200 năm”, hoạt động tái cân bằng của Mỷ là bình thường, không phải chuyện mới, chẳng khác gì những hoạt động của Trung Quốc và Nga và các nước khác ở những miền có lợi ích. Điều quan trọng mà ông muốn nhấn mạnh trong nỗ lực duy trì hòa bình là Hoa Kỳ và Trung Quốc mở rộng những quan hệ hợp tác và chia sẻ thông tin trực tiếp giữa quân đội của hai nước. Như vậy sẽ tránh được những ngộ nhận và tính toán sai lầm. Trở lại chuyện Việt Nam, vấn đề thực tế là Việt Nam sẽ phải làm những gì để được Hoa Kỳ gia tăng những chương trình giúp đỡ cụ thể, được ASEAN đồng lòng đoàn kết, và quốc tế hỗ trợ trong những cuộc đối thoại với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng và đôi bên cùng có lợi? Câu hỏi này sẽ được trả lời trong những cuộc hội đàm Mỹ-Việt, những hội nghị thượng đỉnh và hội nghị chuyên biệt, cục bộ hay mở rộng, của các nước trong và ngoài khu vực, sẽ liên tiếp diễn ra trong những tháng ngày sắp tới. Cần xoay trục trong chính sách đối nội Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là làm sao thuyết phục được Trung Quốc chấp thuận tôn trọng luật pháp quốc tế, từ bỏ “chính trị cường quyền” để sẵn sàng giải quyết vấn đề Biển Đông trên cơ sở hòa bình, hợp tác và phát triển. Sự hỗ trợ của Hoa Kỳ là điều kiện cần nhưng không đủ, vì riêng Hoa Kỳ sẽ chẳng giúp được gì nếu Việt Nam không thật sự tự giải thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc và hội nhập vào thế giới dân chủ. Thực tế là Việt Nam đã tự đặt mình vào vòng lệ thuộc Trung Quốc từ năm 1990 khi Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười bí mật gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, và ký bản Kỷ yếu Hội nghị tái lập quan hệ bình thường giữa hai nước. Nội dung Hội nghị Thành Đô và bản mật ước cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ vì có nhiều khoản cam kết và nhượng bộ bất lợi cho Việt Nam. Suốt 23 năm qua, Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng “quyền lực mềm” để từng bước tước đoạt chủ quyền và thực hiện âm mưu Hán hóa dân tộc Việt. Chính quyền đang đứng trước những nguy cơ đáng lo ngại về sự suy sụp nền kinh tế và sự sút giảm lòng tin đáng báo động trong nhân dân. Thêm vào đó, những cuộc tranh giành quyền lực gay gắt chưa từng thấy trong nội bộ lãnh đạo đã hiện ra công khai, không còn che giấu được nữa. Trước tình thế nguy nan ấy, ông Nguyễn Tấn Dũng đã lấy một quyết định đột phá về ngoại giao nhằm phục hồi chính nghĩa cho Việt Nam và cứu lấy uy tín cá nhân đang xuống dốc. Qua bài diễn văn về Lòng tin Chiến lược, ông đã gây được tiếng vang thuận lợi trong dư luận quốc tế. Người Việt Nam ở trong và ngoài nước, nói chung, cũng dành cho bài diễn văn của ông những phản ứng tích cực vì ông đã phê phán chính trị cường quyền của Trung Quốc và tỏ lòng tin cậy tinh thần trách nhiệm và đóng góp xây dựng của Hoa Kỳ. Một số ý kiến chỉ trích ông Dũng vì cho rằng ông đã không dám trực tiếp chống tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và mưu đồ thôn tính Việt Nam của nước này. Chỉ trích này có cơ sở nhưng không thích hợp với ngôn ngữ ngoại giao và mục đích xây dựng của diễn đàn Đối thoại Shangri-La. Như Roy Metcalf thuộc viện nghiên cứu chiến lựợc Brookings ở thủ đô Washington đã xác nhận, diễn đàn này có “những tiêu chuẩn cao về phép lịch sự và nghi thức thân thiện theo phong cách Á Đông” (high standards of civility and friendly Asian-style protocol). Tất nhiên là ông Dũng sẽ được điểm cao hơn nếu, vẫn bằng ngôn ngữ ngoại giao, ông có thể nhắc đến những hành động tấn công và đối xử tàn ác của Trung Quốc với những ngư dân Việt Nam nghèo và vô tội trên Biển Đông. Vấn đề quan trọng cần được đặt ra với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là, ngoài bước đột phá về chính sách đối ngoại, ông có dự liệu những thay đổi gì trong chính sách đối nội hay không. Như đã nói ở trên, Hoa Kỳ không thể giúp cho Việt Nam được ổn định và phát triển nếu chính quyền cứ tiếp tục chế độ độc tài toàn trị và gia tăng đàn áp những tiếng nói yêu nước, những đòi hỏi ôn hòa về thực thi dân chủ và nhân quyền, bài trừ tham nhũng và bất công xã hội. Tại diễn đàn Shangri-La, ông Dũng kêu gọi các nước xây dựng lòng tin chiến lược để thực hiện hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực. Ông nhấn mạnh đến tinh thần trách nhiệm, tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật lệ quốc tế. Như vậy ông sẽ mắc tội lừa dối nếu ông đi ngược lại những quy tắc đạo đức và pháp lý tối thượng đó đối với chính đồng bào của ông ở trong nước. Mở đầu bài diễn văn Shangri-La, ông Dũng đã dẫn câu thành ngữ Việt Nam “mất lòng tin là mất tất cả”. Trước nguy cơ bị lật đổ bởi các đối thủ ngoan cố, giáo điều trong hàng ngũ lãnh đạo theo Trung Quốc để duy trì quyền lực và quyền lợi, ông Dũng cần phải lấy được niềm tin đã mất trong nhân dân và ngay cả trong hàng ngũ các đảng viên yêu nước. Diễn đàn Shangri-La không chỉ là cơ hội cho ông xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác quốc tế mà cũng là cơ hội để ông được nhân dân, kể cả những người từng mạnh mẽ chống đối ông, bỏ qua mọi chuyện trong quá khứ và sẵn sàng ủng hộ ông. Để được như vậy, ông Nguyễn Tấn Dũng cần phải có một hành động đột phá thứ nhì, xoay chuyển chính sách đối nội từ độc tài sang dân chủ. Trong diễn văn Shangrila-La, dù nói về đối ngoại, thủ tướng Dũng cũng đề cập trường hợp Myanmar như “một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Myanmar mà cho cả khu vực chúng ta”. Đối thoại Myanmar chủ yếu là giữa chính phủ và đảng đối lập với kết quả là sự thỏa thuận về tiến trình dân chủ hóa. Cơ sở đối thoại là lòng tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Lợi ích của đối thoại là tương lai tươi sáng không chỉ cho Myanmar mà toàn thể khu vực. Chỉ trong một câu, ông Dũng đã chứng minh thật rành mạch sự cần thiết và lợi ích cụ thể của đối thoại dựa trẻn lòng tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Dù vô tình hay hữu ý, ông Dũng đã đem lại cho mọi người một cảm tưởng rõ rệt là ông sẽ thay đổi chính sách đối nội và, cũng như Myanmar, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những người tranh đấu ôn hòa và mở cuộc đối thoại với những người bất đồng chính kiến về một tiến trình dân chủ hóa. Mọi người Việt Nam và các nhà quan sát quốc tế đều chờ đợi trong hy vọng. Bi quan hay Lạc quan? Gần ba tuần đã trôi qua sau bài diễn văn Shangri-La, nhưng tuyệt nhiên chưa thấy có một dấu hiệu nào về sự thay đổi chính sách đối nội theo hình mẫu Myanmar. Trái lại, chỉ thấy chính quyền bắt giữ thêm những người vận động cho dân chủ, nhân quyền, và tiếp tục làm ngơ trước những lời kêu gọi từ trong nước và quốc tế về việc huỷ bỏ những bản án phi lý quá nặng nề, hay ít nhất cũng cải thiện chế độ đối xử với những người tù lương tâm còn bị giam giữ. Đành rằng bản chất chính trị của lãnh đạo cộng sản là “nói một đàng, làm một nẻo” nhưng bước đột phá về đối ngoại của ông Nguyễn Tấn Dũng trước một diễn đàn quốc tế là một sự kiện cần được xem xét kỹ. Vấn đề là giữa lúc cuộc tranh giành quyền lực và mâu thuẫn chính sách trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam đang diễn ra gay gắt, sự xoay chuyển chính sách đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ có phải là lập trường thống nhất của Bộ Chính trị hay không? Nếu sự thật là không thì ông Dũng đã không thể không tiên liệu những phản ứng chống đối mãnh liệt dù kín đáo của các đối thủ và giới lãnh đạo Bắc Kinh. Ông cũng đã phải có sẵn kế hoạch hóa giải những phản ứng tiêu cực đó. Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi bên đểu cần có thời gian hành động. Tình hình Việt Nam quá phức tạp, không ai có thể đoán biết được các toan tính của ông Dũng, của phe đối thủ và của Trung Quốc như thế nào. Điều chắc chắn là thông tin nội bộ sẽ được bảo mật chặt chẽ hơn bao giờ hết. Có thể vì thế mà một số nhà báo có khả năng tiếp cận với những nguồn tin nội bộ đã bị cơ quan an ninh bắt khẩn cấp để bịt miệng và răn đe những người khác. Thời gian chờ đợi kết quả thắng hay bại của ông Dũng có thể kéo dài. Nếu phe bảo thủ thắng thì số phận nước Việt Nam sẽ hoàn toàn mất vào tay Trung Quốc. Nếu ông Dũng thắng thì Việt Nam sẽ có cơ may thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc và mau chóng bắt kịp được Hàn Quốc hay Đài Loan. Trong khi chờ đợi, trí thức và nhân dân vẫn phải tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch chống Trung Quốc xâm lược, gia tăng công cuộc vận động cho dân chủ và nhân quyền. Những nỗ lực tranh đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc càng cần thiết ngay cả khi ông Dũng đã vô hiệu hóa được các đối thủ của ông. Rút kinh nghiệm đối với các lãnh đạo độc tài trên thế giới, có gì đảm bảo là ông Dũng sẽ không trở lại chế độ độc tài sau khi đã củng cố được quyền lực? Không ai mong muốn điều bất hạnh cho dân tộc nhưng đề phòng tai họa vẫn luôn luôn cần thiết. Bây giờ thì hãy cầu Trời khấn Phật cho ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev Việt Nam. California, 18 tháng Sáu, 2013 L.X.K.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 3, 2013 4:05:31 GMT 9
Đọc Hồi ký Trần Văn Giàu
Trịnh Văn Thảo
Vài hàng thanh minh :
Mục tiêu của tác giả không phải là viết tự sử ghi lại chính biến cố hay thử thách đã trải qua trong đời lúc hoàng hôn bóng xế để lại cho hậu duệ hay cả sử gia làm tài liệu, nhưng cũng xen lẫn với lịch sử. Dĩ nhiên phân biện hai loại hình rất tế nhị và rất tương đối.
Thực chất của Hồi ký Trần Văn Giàu (HKTVG) được kết cấu như hồ sơ chính trị đầy uẩn khúc về tranh chấp giữa hai nhân vật quan trọng (Trần Văn Giàu và Hoàng Quốc Việt) và hai tổ chức CS trong miền Nam từ 1940 đến 1945 (Xứ Ủy Nam Kỳ (XUNK) và Đại Diện Tổng Ủy (TU))
Kết cục cho thấy cách xử lý « úp úp mở mở » của ĐCS trước đòi hỏi sự thật của người đương cuộc. Đặt trước trách nhiệm phải xét xử tranh chấp chức phận, quyền lực và chính trị giữa hai cơ quan – một tự động tự phát với danh nghĩa Tiên Phong (sau khi XU Nam kỳ bị tiêu diệt trong cuộc bạo động NAM KỲ KHỞI NGHĨA), một là hiện thân của Đại diện chính thức của Tổng Ủy khi quan hệ Nam Bắc được bình thường trở lại (1944, 1945).
Nguyện vọng được phục hồi danh dự trong Đảng, Nhà nước và trước lịch sử của tác giả không được thực hiện trước khi các diễn viên chính của Bộ chính trị (Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng…) lần lượt « theo Bác » qua bên kia thế giới, lịch sử ĐCS VN vẫn còn phải thỏa mãn với tình trạng « tranh tối tranh sáng » đầy dẫy những « phân nửa của sự thật » quá quen thuộc trong truyền thống CS !
Tác giả không được phục hồi chính trị (vai trò và trách nhiệm chính trị trong suốt thời gian lãnh đạo XU Nam Kỳ) mà cũng không phải chịu kỹ luật về những lỗi lầm đã phạm phải, đúng theo thông lệ « nhận chìm xuồng » vô thưởng vô phạt của những chế độ xem nhẹ quyền con người và chính quyền pháp lý… trước khi chính bản thân họ trở thành nạn nhân.
Tuy nhiên, dù hiện tài liệu được công bố hải ngoại – như thời Alexandre Soljenitsyne cho xuất bản L’archipel du Goulag – còn nhiều thiếu sót và nhầm lẫn (tên tuổi nhân vật không có phụ trang, chức phận, học hàm, địa điểm, thời gian…) không thể tránh, nhất là phần dẫn chứng tài liệu khai thác, người đọc vẫn có thể xem nó như một trong một nguồn tài liệu quý báu soi sáng một thời điểm lịch sử ít người biết, mở đường cho những chứng nhân cá nhân hay tập thể có dịp phản hồi và đóng góp vào nền sử học hiện đại. Cảm ơn Ngyễn Ngọc Giao và Diễn Đàn (Paris) đã đảm nhận công việc nầy !
Cốt cấu của Hồi ký Hồi ký TVG chia năm phần kể từ khi tác giả du học bên Pháp bị trục xuất về nước cho đến lúc ông cùng với Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ra Bắc, chấm dứt vai trò lãnh đạo kháng chiến chống quận đội Pháp.
Phần đầu kể lại theo thứ tự thời gian có lúc bị đứt quãng, từ khi tác giả bị trục xuất về nước (1930) và sau một thời gian học tập (không rõ khóa nào ?) cùng một số đồng chí khác tai Trường Đại học Đông Phương (Moskva) – lúc bấy giờ nằm dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đệ Tam Quốc tế và Stalin – và những thử thách đầu tiên với tư cách một nhà “ cách mạng chuyên nghiệp ” cao cấp trong XUNK cũ (Khám Lớn, Tà Lài) . Phần hai nói đến những công tác chính trị trong quá trình liên lạc, móc nối và xây dựng lại Xứ Ủy Nam Kỳ sau khi cuộc khởi nghĩa bị chính quyền thuộc địa tiêu diệt và một phần lớn lãnh tụ trong Tổng Bộ ĐCS (Lê Hồng Phong, Nguyễn Thi Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần…) bị hy sinh : Đà Lạt, Phú Lạc (Chợ Lớn) và U Minh (Long An). Phần ba phân tích tình hình trong và ngoài nước, xác định đường lối cách mạng trước tình thế mới và phác họa chiến lược cách mạng của XU trên sự kiện (de facto) ngoài hệ thống kiểm soát và quyết định của TU ngoài Bắc (?). Phần bốn thuật lại những cố găng của XU mới trong công cuộc tồ chức và chuẩn bị giành chính quyền trước viễn ảnh thua trận của Nhật Bản và âm mưu tái lập thuộc địa của De Gaulle. Phân năm dài nhất (gần 140 trang) trình bày cặn kẽ bối cảnh lịch sử, suy tư, động cơ giải thích những biện pháp mà tác giả, nhân danh XU NK cùng các bộ phận chính quyền trực thuộc, đã thực hiện đề đối phó với tình thế sau khi Tổng khởi nghĩa thành công.
Phân tích của người đọc Tuy nhiên, ta vẫn có thể chia mục lục của HK thành 3 phần chính :
Phần đầu là sản phẩm của truyền thống hay tiền lệ viết tự sử chính trị theo một khuôn mẫu viết sẵn (formatée), giữa hư và thực, để đầy khoảng trống, ghi nhanh hoạt động của tác giả từ khi vào tù Khám Lớn đến lúc vượt tù Tà Lài,
Phần giữa đề cập đến giai đoạn xây dựng XUNK và chuẩn bị giành chinh quyền; theo tôi là thời chiến thắng của Lý trí và của thực tiễn “ phân tích cụ thể tình hình cụ thể ” của Lenin.
phần cuối soi sáng cái tôi gọi là những “ cạm bẫy đam mê của ý thức hệ ” tạo điều kiện chủ quan, và khách quan, khiến cho cuộc đấu tranh giành độc lập trong nước thành một bộ phận hữu cơ của phong trào cách mạng thế giới. Tác giả bài tiểu luận này không có ý định phê bình toàn bộ HK TVG, một phần vì nội dung phong phú và phức tạp của nó, một phần khác vì hình thức xen lẫn nhiều loại hình : hồi ký không ghi chép và xác định những tài liệu lưu trữ mà dựa vào trí nhớ của người trong cuộc (ít nhất cũng ngoài tuổi thất hay bát tuần), vừa biện minh cho chính mình (plaidoyer pro domo) vừa là một bản cáo trạng (acte d’accusation)… Ý thức giới hạn của mình, chúng tôi cố tìm hiểu con người trí thức đàng sau nhà lý thuyết gia mác xít và nhà cách mang “ chuyên nghiệp ” như ông tự giới thiệu hay một sử gia có ảnh hưởng lớn trong ngành sử học cận đại i.
HK phần đầu sơ họa khung cảnh xã hội và chính trị của nhân vật chính – thân thế và tiểu sử cá nhân phác họa sơ sài, tối thiểu (gia đình nông nghiệp trung lưu, học trình nhà trường Pháp Việt không quá cấp trung học, cán bộ Cộng sản xuất thân Trường Đại học Đông Phương sau khi bí mật gia nhập ĐCS Pháp hồi còn đi học tại Toulouse, về nước làm cán bộ giảng dạy và tuyên truyền cho Đảng cho đến lúc thời thế đưa đẩy lên làm lãnh tụ XU…) ii– sau khi thoát căng Tà Lài. Được thoát ngục tù Thực dân trong khi đa số các cán bộ cao cấp của XU bị giết hại, ngồi tù hay bị truy nã, tác giả cùng một ít đồng chí còn sống sót triệt để lợi dụng những sơ hở của một chính quyền bắt đầu rung chuyển từ khi “ mẫu quốc ” bại trận phải chia sẻ với quân đội Nhật chủ quyền cai trị Đông Dương… để làm lại XU Nam Kỳ mới không còn liên hệ hữu cơ với TU nữa. Muốn làm lại ĐCS NK, ông chỉ biết dựa vào chân lý mác xít, theo tư tưởng, lý thuyết và thực tiễn cách mang của Lenin (bạo lực cách mạng, dân chủ tập trung, kỹ luật quân đội để cướp chính quyền) và niềm tin sắt đá vào định mệnh của Liên Xô, Đệ tam Quốc tế và Stalin. Trong hầu hết những quyết định quan trọng trước tình thế khẩn trương, ông luôn luôn dẫn chứng và biện minh theo khuôn mẫu suy tư và hành động của hai nhân vật trên (Làm gì ?, Luận cương tháng Tư, kinh nghiệm cướp chính quyền tại Pétrograd, Nguyên tắc của chủ nghĩa Lenin,…)iii.
Nhưng ta không nên xem thường yếu tố thời cơ quyết định trong giai đoạn chuyển tiếp từ 1940 đến 1945, sụp đổ và khủng hoảng của chính quyền thuộc địa, hiện diện của quân đội chiếm đóng Nhật Bản, tương quan lực lượng quân sự giữa phe Trục và Đồng minh (trước và sau chiến thắng Stalingrad). Cũng như không thể nắm rõ ý nghĩa lịch sử của ĐCS và XU Nam kỳ phục hồi, sự thành công nhanh chóng và bất ngờ trong một thời gian cực ngắn và đồng thời mầm mống khủng hoảng sau này nếu không phối hợp hai yếu tố con người (chủ quan) và hoàn cảnh (khách quan). Khác với những hồi ký các nhân vật lịch sử đương đại, tác giả vừa nhấn mạnh vừa biện minh vai trò cá nhân, suy luận và hành động của mình như một sản phẩm tiêu biểu của thế hệ những người “ cách mạng chuyên nghiệp ” được đào tạo tại Liên Xô lúc phong trào CS quốc tế đang nằm dưới quyền chỉ đạo của Stalin. Cũng như Trần Độc Tú, Vương Minh, Lý Lập Tam… bên Trung quốc iv, ông là một cán bộ trung kiên của chủ nghĩa Mác Lê : vận dụng một “ đạo quân chính trị ” kiên cương bám chặt vào bộ máy chỉ huy trí thức (thầy thợ) và công nghiệp (thợ thuyền) tập trung ở các trung tâm đô thị để tiến đến “ tổng khởi nghĩa ” lúc thời cơ thuận lợi, áp dụng chiến lược “ bôn sơ vích ” nghĩa là phối hợp vận động chính trị với quân sự chứ không phải theo đường lối chiến tranh du kích, dùng nông dân làm chủ lực để bao vây thành thị theo kiểu Mao Chu. HK TVG chứng minh một cách linh động và cụ thể khả năng hướng dẫn một tổ chức cách mạng lên cướp chính quyền của một thủ lĩnh thông minh, gan dạ, thời cơ và có tham vọng chính trị tầm thước ông Giàu nhưng nó không bảo đảm rằng chinh quyền mới đó sẽ đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho toàn dân mà khởi sự là cho chính bản thân của họ v.
Phần hai thuật lại những công tác “ bán công khai ” từ ngày nước Pháp bại trận bên Âu châu và một mảng lớn của bộ máy đàn áp của chính quyền thuộc địa bị trung lập hóa để chuẩn bị tiến tới “ tổng khởi nghĩa ”. So với thời hoạt động bí mật trước, tuy gặp nhiều bất lợi (liên lạc với TU và các tổ chức của Quốc Tế CS) nhưng tác giả được “ rảnh tay ” hành động, tổ chức liên lạc, tuyên truyền, vận chuyển trong những điều kiện thuận tiện. Uy tín và vai trò cá nhân của ông trong sự điểu khiển XUNK biện minh cho câu châm ngôn : Thời thế tạo anh hùng !
Đọc HK cho ta cái cảm giác là ngoài một số nhỏ người thân cận như Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, các ông Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Trân… không ai trong XU có thể đấu trí và đấu sức với Trần Văn Giàu (về sau ông sẽ trả giá đắc tác phong “ minh chủ ” rất gần với chủ nghĩa “ thờ phụng cá nhân ” này). Do đó mà phần hai mang lại một số sự kiện lịch sử có thể bổ sung và đính chánh những quan điểm chính thức nhưng không xác thực, đóng góp vào lịch sử của ĐCSVN. Sử gia trong nước và ngoài từ đây khó làm ngơ trước những quả quyết, chứng từ và đôi khi tài liệu chính thức (kèm theo sách) mà tác giả viện dẫn một cách thuyết phục. Qua các cuộc vận động tuyên truyền chống huyền thoại “ Đông Dương Mới ” của chính quyền Decoux và chủ nghĩa “ Đại Đông Á ” của Nhật Bản, XU NK mới không theo đúng đường lối vạch ra của TU. Tuy ông không muốn nói tách bạch ra, so sánh tài liệu được công bố giữa TU và XUNK cho người đọc nhận định nhiều cách biệt nếu không nói là mâu thuẩn giữa hai tổ chức CS :
về nhận định tình thế trong nước và quốc tế dưới ánh sáng của chiến tranh thế giới (tinh hình VN có mang đặc tính “ tình huống cách mạng ” không ?)
xác định vị trí và ưu tiên trong chiến lược đấu tranh đối với các nước ngoài như Nga xô, Đồng minh và quân đội Nhật (làm gì đối với các đám quân Đồng minh sẽ sang Đông Dương để giải giáp Nhật ?)
và từ đó dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt và tranh thủ bạn thù trong nước…
Một ví dụ cụ thể cho phép đo lường sự cách biệt giữa khẩu hiệu “ Tất cả cho Mặt trận Việt Minh ” đặt mục tiêu giải phóng dân tộc và độc lập quốc gia trước cách mạng xã hội chủ nghĩa trong khi chủ trương “ đảo chính ” cùa XU miền Nam lại theo sơ đồ cướp chính quyền kiểu Petrograd của Lê nin ; áp dụng chiến lươc VM nhằm đặt trọng tâm vào mục tiêu giành độc lập và mở rộng hàng ngũ Mặt trận dân tộc (nếu cần, tạm thời giải tán ĐCS hay biến nó thành cơ quan nghiên cứu mac xít) và bắt tay với quân đội Đồng minh, xem Nhật là đối thủ chính trong khi XUNK tìm cách trung lập hóa nếu không nói là thỏa thuận với người Nhật + dè dặt với quân đội Anh Ấn sang giải giáp Nhật Bản + và đồng thời trấn áp những lực lượng quốc gia không CS (giáo phái, nhóm Đệ tứ, các đảng thân Nhật), tóm lại chấp nhận viễn ảnh “ nội chiến ” như một sự kiện không thể tránh của TKN (tổng khởi nghĩa).
Sự khác biệt trong nhận định tình thế và chủ trương chiến lược phản ánh những điều kiện địa lý chánh trị địa phương vi, điều đó hiển nhiên rồi, nhưng đồng thời nó cũng đánh dấu những dị biệt nội bộ của ĐCS VN vẫn còn manh nha và không hoàn toàn khắc phục sau khủng hoảng những năm 1930, 1940…
Một ví dụ khác cho thấy rõ tính tự chủ của XUNK mới đối với TU Đảng bộ về việc lựa chọn căn cứ chỉ huy cách mạng. Thay vì chọn vùng biên giới Việt Trung (Tân Trào) để sau này tiến về Hà Nội, ông Giàu đê nghị lấy “ vòng đai đỏ ” chung quanh Sài Gòn Chợ Lớn làm nơi nương tựa của ĐCS, chọn quận Gò Vấp mà ông gọi là “ Saint-Denis của Paris ”vii vì Gò Vấp “ là một quận ngoại ô kế cận của Sài Gòn. Trong ý thức của tôi, Gò Vấp của Sài Gòn là Saint-Denis của Paris ; sát với Paris, thị xã Saint-Denis nổi tiếng là thị xã “đỏ”, ở đây Đảng Cộng sản luôn luôn toàn thắng trong các lần bầu cử hội đồng thị xã. Đa số nhân dân Gò Vấp có cảm tình với Đảng Cộng sản Đông Dương, không phải mới đây thôi mà từ 1930 kìa. Những năm 1933, 1934, 1935, khi Xứ uỷ Nam Kỳ lập lại và hoạt động, thì vùng Xóm Thuốc – Bàu Lăng – Hàng Điệp từng là căn cứ, là một nơi an toàn của Xứ uỷ chúng tôi. Năm 1942, khi tôi từ Đà Lạt về Phú Lạc, tôi đã nhờ Bảy Trân lên Gò Vấp, lại nhà Sáu Sáng để xem nơi đó còn là nơi an toàn không ? Kỳ này về Sài Gòn, định “ cắm sào ” hơi lâu, thì ngoài Phú Lạc, tôi chọn Gò Vấp làm một nơi căn cứ, căn cứ thứ hai, căn cứ thứ ba sẽ là Chợ Đệm sau khi tôi gặp Bảy Trân.
Xóm Thuốc, Bàu Lăng, Hàng Điệp là một vùng tiểu công nghiệp : nhuộm vải, sắc thuốc. Đa số dân làm nghề nhuộm, sắc thuốc. Ở đây gần con sông thường được gọi là sông “ Miếu nổi ” (có một cù lao trên đó dựng lên một cái miễu không biết từ bao giờ, tiếng đồn linh thiêng lắm), dưới sông này có một thứ bùn gì mà, hễ vải dệt xong, đem chôn dưới bùn đó một thời gian, vải trắng trở thành vải đen, đem vải phơi ở miếng đất trống xung quanh cái đồn Tây bỏ hoang gần đó khô rồi cuốn lại thành cây vải, đem về đập nện mấy ngày thì vải trở nên láng lẫy. Tiếng vồ đập vải cộp cộp cả ngày đêm, tháng này qua tháng nọ. Vùng này lại là vùng trồng thứ thuốc lá ngon nhất Nam Kỳ, thuốc Gò Vấp, hút say mê tơi ; tới mùa thì cây thuốc đầy đồng bao nhiêu chục, có khi cả trăm mẫu, cao lút đầu người. Họp hội nghị trong đám ruộng thuốc lá thì có trời mới phát hiện nổi và có trời mới vây bắt được. Dân chúng ở cái vùng ngoại ô này làm nghề nhuộm, nghề sản xuất thuốc lá, rồi cả ngàn người làm thợ, làm thầy trong thành phố, chiều năm giờ, sáu giờ thì cỡi xe đạp về nhà để sáng sớm lại vào thành. Các tiểu chủ xe thổ mộ, những người trồng, sắc thuốc, dệt nhuộm và công nhân lao động của vùng này đã từng đi biểu tình vào Sài Gòn nhiều lần từ những năm 1936-1937, từng tham gia tổng bãi công để ủng hộ Tạo, Ninh, Thâu khi các anh này bị Thống đốc Nam Kỳ bắt giam hồi thời Mặt trận Bình dân. »
Đây không chỉ là một căn cứ quân sự có sẵn từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, văn hóa, chính trị và tâm lý không những đối với người CS (kỷ niệm thời Hội kín Nguyễn An Ninh, La Lutte, Nam Kỳ khởi nghĩa và đấu tranh của nhân dân Hóc Môn, Bà Điểm… còn đó) mà còn là cơ sở cách mạng trọng yếu trong lược đồ Pétrograd giành chính quyền bằng cách đánh thẳng vào đầu não và xâm chiếm bộ máy chỉ huy nhà nước. Quan niệm cá nước của Chu Mao như vậy đã di chuyển từ nông thôn đến vành đai « đỏ » trước khi tiến công vảo sào huyệt của quân thù viii. Nó là điều kiện không gian đề khai triển chiến dịch vận động cách mạng như thông tin tuyên truyền (in phát báo Tiền phong), sách động quần chúng, động viên và huấn luyện cán bộ. Thêm vào đó, cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 chấm dứt tình trang « một cổ hai tròng », làm xáo trộn bộ máy hành chính và đàn áp thuộc địa và tạo một vận hội mới cho tất cả những lực lượng yêu nước hai mươi năm sau phong trào đô thị 1925-26, mở đầu một cuộc « tranh chấp chính quyền » (David Marr) quốc cộng và 30 năm máu lửa !
« Tiến tới Tổng khởi nghĩa » cho người đọc cảm giác đang đứng trước một nhân vật đầy thông minh, giàu nghị lực và nhiều thủ đoạn, một đệ tử xứng đáng của Lenin và Stalin nếu ta không nghĩ đến nhà tư tưởng Ý đại lợi thời Phục Hưng Machiavel cũng nuôi hoài vọng của TVG thống nhất một nước Ý độc lập và hùng mạnh. Với bộ óc minh mẫn, trí nhớ tuyệt vời, hành văn giản dị, tác giả tường thuật tỉ mỉ những bước đầu xây dựng lực lượng CM đặt biệt tại thành phố SGCL và các tỉnh lân cận như Tân An, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một… Trong cuộc chạy đua tranh thủ quần chúng với các đảng phái không cộng sản (các đảng Quốc Gia, mác xít đối lập, các giáo phái có liên hệ ít nhiều với Nhật, vv ), so với các lý thuyết gia CS khác, ông có những luận điêm rất thiết thực và « biện chứng » trước các phong trào dân tộc « đột phát » như nấm mọc sau cơn mưa rào khi tuyên bố rằng « Đảng không thể kiểm soát tiên đoán các phong trào « đột phát » nhưng có lỗi lớn nếu không biến những phong trào tự phát thành phong trào tự giác ! » (t. 128)
Nhờ ông mà trong một khoảng thời gian rất ngắn, XU NK đã tranh thủ thắng lợi trong các thành phần thầy thợ, thanh niên và trí thức tập trung chung quanh vùng SG CL và các tỉnh lớn ở miền Nam đề có thể tuyên bố rằng ĐCS nắm ưu thế ngày càng thấy rõ từ sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 cho đến khi nước Nhật cũng bại trận, đầu hàng và giải giáp. Ngược lại, tác phong hào phóng, cởi mở không tiên kiến đối với những đòan thể sinh viên và trí thức miền Nam ix giải thích vai trò độc đáo của những người bạn đồng hành của XU trong phong trào Thanh Niên Tiền Phong (TNTP) như Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng… trong chiến dịch đảo chính ngày 24 và 25 tháng 8.
Nếu HK trong hiện tại chưa phải là một công trình nghiên cứu sử học hiện đại nghiêm chỉnh (vì con nhiều khuyết điểm cần được sửa sai và thanh minh nói trên), ít nhất nó là một chứng từ quý báu mang lại cho độc giả ngày nay, nhất là cho lớp người Việt sinh sau sau chiến tranh, một bức tranh xã hội “ nghìn năm một thuở ” của những năm 45-50, làm sống lại từng hồi từng lúc cái cảnh tương hào hùng, náo nức, bồng bột của cả một thế hệ thanh niên đang lao đầu vào cuộc “ kháng chiến thần thánh ”(Trường Chinh) của dân tộc tựa hồ như suốt một thế kỷ bị Pháp đô hộ họ chỉ chờ đợi giờ phút lịch sử này. Trong một lúc, bộ phận cấp tiến của thanh niên đất nước chấp nhận từ bỏ tất cả – mái trường, sự nghiệp, chức phận – để đáp lời sông núi, thoát ly gia đình (Nguyễn An Ninh) hay đúng hơn “ trở về với giá trị dân tộc ” (theo yêu cầu của sinh viên Mai Văn Bộ). Thay vì để chính quyền Pháp Nhật đầu độc lôi cuốn họ vào các quỹ đạo tuyên truyền của thực dận và đê quốc, thanh niên VN nhanh chóng chuyển hướng và trưởng thành. Từ 1942 đến 1945 qua phong trào ca nhạc yêu nước (Hoàng Mai Lưu), cuộc “ Nam tiến ” của Tổng hội sinh viên năm 1942, buổi thuyết trình của Nguyễn Ngọc Minh và Trần Văn Khê tại Nhà Hát Lớn, triển lãm tranh phẩm của Vương Quang Lễ được dân chúng khuyến khích nồng nhiệt. Nó sẽ tái diễn thành công hơn vào Hè năm sau với ba vở kịch của Huỳnh Văn Tiểng khêu gợi lòng yêu nước. Sinh hoạt thanh niên học sinh dưới mọi hình thức như Hướng đạo, du lịch cấm trại (Đoàn Hùng, Suối Lồ Ồ tại Thủ Đức), và nhất là phong trào bỏ học tập thể của sinh viện miền Nam của trường Đại học Hà Nội đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong quá trình dấn thân của thanh niên trí thức. Cùng Phan Anh ngoài Trung, Tạ Quang Bửu và Ngụy Như Kontum ngoài Bắc x, Trần Văn Giàu là một vài đảng viên Cộng sản thời đó ý thức được sức mạnh của tình tự dân tộc trong vận động cách mạng. Tác giả đã chính kiến màn cuối của vở kịch “ Đêm Lam Sơn ” của Huỳnh Văn Tiểng lúc khán giả tự động đứng lên hát đi hát lại bài “ Tiếng gọi sinh viên ” của Lưu Hữu Phước – đoạn này làm ta nghĩ đến xen đầu phim “ Senso ” của Luchino Visconti – và thốt ra một chân lý lịch sử :
“ Chủ nghĩa yêu nước truyền thống rõ ràng có tác dụng kích thích rất cao ở Nam Kỳ ”
Bí quyết thành công của XUNK mà ông lãnh đạo từ 1940 đến 1945 chất chứa trong câu nói đó !
Qua HK, độc giả có thể hồi tưởng quang cảnh cắm trại của thanh thiếu niên miền Nam bên bờ suối Lồ Ồ có cái tên thật thú vị và “ dân tộc ” thuộc quận Thủ Đức cách Sài Gòn không ngoài mười cây số ngàn dưới sự dìu dắt của anh thủ trưởng trang lứa tuổi hai mươi còn đang soạn luận án tốt nghiêp trường Y khoa Hà Nội. Nhưng điểm cao nhất là phong trào “ Xếp bút nghiên ” (XBN) của sinh viên miền Nam trở về quê “ lên đường tranh đấu ” trong đó không ít người đã lên năm thứ hai, ba Đại học như Huỳnh Văn Bá, Lưu Hữu Phước (sinh viên năm cuối Trường Nha khoa). Theo HK, hàng trăm sinh viên Hà Nội tiễn đưa các bạn XBN của họ bằng xe đạp. Tới Hà Nam, một số người bị bắt xi đày lên Sông Đà, số còn lại vừa về tới Sài Gòn đã bắt tay vào việc : truyền bá Quốc ngữ, làm báo Thanh Niên (Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Hải Trừng), học tập chính trị và kết luận : “ Thật là một lớp thanh niên đẹp, đẹp lắm ! ” (t.138)
Sau khi “ gieo hạt giống cho tương lai ”, tác giả trở về với thực tại đấu tranh chính trị và quân sự, ông thú nhận “ chủ yếu hướng về Petrograd chứ không hướng về Diên An bao nhiêu ! ” xii. Hai người thanh niên sẽ đóng góp rất nhiều trong hoạt động quân sự của XUNK Huỳnh Văn Nghệ và Tô Ký xiii.
Chúng ta tạm lướt nhanh chính sách của XU đối với chính quyền thuộc địa (và các nhóm người Pháp theo Tướng De Gaulle) và để phần tìm hiểu và giải lý các biến cố chung quanh cuộc Đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 1945 mở màn một thời kỳ chính trị hết sức phức tạp trong chính trường đất nước, mâu thuẫn trong nội bộ ĐCS giữa XU Tiền Phong của TVG và XU Việt Minh mới xuất đầu lộ diện… cho các nhà chuyên môn ! xiv
Danh sách các vấn đề lịch sử còn bỏ ngỏ rất nhiều : Tại sao sự ra đời của Mặt trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đào sâu mâu thuẫn nội bộ trong hàng ngũ lãnh đạo CS miền Nam ? Vi lý do gì mà HK lên án nghiêm khắc các đồng chí XU khác là “ thủ tiệu (liquidationniste) xv ” (sic) vì họ (TU) đã tự ý thủ tiêu danh nghĩa CS và mục tiêu đấu tranh của mình rồi sao ? xvi Có hai giả thuyết : hoặc TG lên án Tổng Bộ đã lạc hướng cơ hội, hoặc ông lật tẩy thủ đoạn chiến lược của TB ? Tại sao Tổng Bộ qua người đại diện cao cấp nhất trong Nam Hoàng Quốc Việt luôn luôn giữ một thái độ mập mờ không ủng hộ (ngược lại là khác) cũng không phủ nhận việc làm của XU từ nửa tháng tám cho đến cuối 1945 ? Chứng từ của Ông Giàu đặt vấn đề mâu thuẫn phức tạp giữa XU NK và TBTU đòi hỏi giải đối chứng của hai diễn viên bị khiếm diện (Trần Văn Giàu versus Hoàng Quốc Việt), một thứ tòa án vinh dự (Tribunal d’honneur) bất cứ xứ văn minh nào cũng có ! Nói theo các cụ nhà ta : hãy đợi hồi sau phân giải !
Tiếp theo chiến dịch Thanh vận, chúng tôi xin mạn phép trở về công tác Trí vận của XU trong phong trào Thanh Niên Tiền phong. Giàu xem sự gặp gỡ với Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch như một cái “ duyên kỳ ngộ ”, trong hoàn cảnh “ buồn ngủ gặp chiếu manh ” vì nhân vật này hội tụ đủ điều kiện để giữ một vai trò lịch sử trọng yếu thời đó : một bác sĩ chuyên trị bệnh phổi có uy tín nghề nghiệp cũng như tiếng tăm xã hội, kế nghiệp một dòng dõi quyền quý “ cháu ngoại hoàng tộc ” xvii, đứng đầu đồn điền trồng trọt thịnh vượng. BS Thạch quả là một gương mặt điển hình và tượng trưng của người trí thức Tây học dấn thân trong thời chuyển tiếp, thích hoạt động xông xáo, có bản lĩnh. Ông Giàu tuyên bố nắm rõ con người trước khi biến nhân vật giàu nhiệt huyết và không kém thủ đoạn, cơ hội (t. 255, 340 …) thành một đồng đội tin cẩn. Như vậy là ông cũng nắm rõ những ưu và khuyết điểm của một thanh niên đã từng gia nhập vào quỹ đạo CS hồi còn đang du học bên Pháp. Khai thác vốn cảm tình có sẵn của người dân một xã hội trọng văn, dư luận quần chúng, sự giao thiệp tốt cả Pháp lẫn Nhật, PNT quả là hạt nhân liên kết hữu cơ các lực lượng thanh niên, trí thức với phong trào giải phóng. Trong chiến dịch trí vận, ông là nhân vật chính mang lại cho XU NK một “ đạo quân chính trị ” mà Lenin – Tràn Văn Giàu mong đợi… xviii
Nhận xét này không có nghĩa là đánh giá thấp vai trò chỉ đạo của ông Giàu và khả năng phối hợp chiến lược và tổ chức chính trị, mục tiêu và phương tiện. Chọn sơ đồ Petrograd giành chính quyền trong lòng địch tại các đô thị và đầu não bộ máy chỉ huy bắt buộc phải đầu tư vào các thành phần thầy thợ, công nhân và trí thức đủ loại. Ông Giàu có một lý luận rất độc đáo và hợp lý về quan hệ giai cấp giữa trí thức “ bự ” miền Nam với thực dân, địa chủ, tư sản. Ông không rơi vào các loại hình trừu tượng của chủ nghĩa mao-ít của những Trần Phú, Trường Chinh… Ông chỉ lưu ý hơn các lý thuyết gia khác những thực tại cụ thể như
– không phải trí thức nào cũng phải liệt vào hạng “ giàu ” (xem hoàn cảnh các ông giáo viên của ta thời kinh tế lạm phát !)
– truyền thống “ trọng nghĩa khinh tài ” trong một xã hội Nho giáo
– khả năng giác ngộ của trí thức nhất là khi họ ý thức “ về lẽ tất yếu của lịch sử ”
Thời ấy ít người mác xít như ông dám thản nhiên quả quyết rằng : “ Trí thức Việt Nam chân chính là một miếng đất dễ thấm tư tưởng Cách mạng của Đảng ” (t.208)
XU NK thực hiện sự kết hợp hai thành phần trong ban chấp hành TNTP đưa nhóm nhân sĩ với các giáo sư Lê Văn Huấn (giáo sư), kỹ sư Kha Vạn Cân, nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, luật sư Thái Văn Lung, sinh viên Xếp bút nghiên Tạ Bá Tòng, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát vào cộng tác với ban thư ký tụ hợp chung quanh Phạm Ngọc Thạch với Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng và Nguyễn Văn Thủ. Như vậy, trái với quan niệm chính thống của TB, chính XUNK lấy quyết định đưa trí thức vào các tổ chức quần chúng dưới hai hình thức : Hội Truyền Bá Quốc Ngữ do học sinh và sinh viên đảm nhận trong khi Phong Trào Thanh Niên Tiền phong đặt dưới hướng dẫn của các trí thức “ bự ” với ban chỉ đạo gồm sáu giáo sư trung học, mười bảy đại diện các ngành y dược nha, chín kỹ sư, bảy luật sư và mười một nghệ sĩ.
Dĩ nhiên có ẩn ý chính trị nấp sau quan điểm lý thuyết :
“ Ở Nam Kỳ mà không làm như vậy thì cô độc, không tranh nổi với các đảng quốc gia và giáo phái, tức là không có cách mạng thắng lợi. Cái điều đang lo nhất, cần phải tránh nhất là sự khiêu khích của cực tả, đặc biệt là của đám trốt kít nhiều âm mưu nham hiểm ” (t.188)
Quan niệm bạn (XU và các tổ chức tùy thuộc) và thù (các chính đảng quốc gia, giáo phái và trốt kít không theo CS) được sơ lược hóa nói trên luôn luôn ám ảnh XUNK trong suốt thời kỳ cướp chính quyền cho đến ngày toàn quốc kháng chiến. Nó tóm tắt con người, nhân sinh quan cũng như đường lối đâu tranh cách mạng của XU hay đúng hơn của nhân vật chính của XU xix.
Phần Ba (phần V theo bản Diễn Đàn)
Tinh hình quốc tế từ đầu năm 1945 đánh dấu giai đoạn cuối cùng của thế giới chiến thứ hai, viễn ảnh sụp đỗ của Đức Ý ở Âu châu và sự sa lầy của người Nhật trên mặt trận Thái Bình Dương. Không đầy 3 tháng cách, phe Trục đầu hàng vô điều kiện. Tại Đông Dương, quân đội Tưởng Giới Thạch được phái sang giải giới Nhật ở miền Bắc, quân Anh Ân – và các đơn vị tiền phong của quân viễn chinh Pháp – đổ bộ trong Nam dưới vĩ tuyến thứ 16. TVG công nhận thực tế một XUNK còn gián đoạn với TB trong nước cũng như QTCS ngoài nước.
Trong bối cảnh một một tổ chức quốc tế đã biến thể thành dụng cụ thống trị chính trị và tư tưởng của Stalin, hoàn cảnh cô lập này có khi lại làm nảy sinh nhiều đột phát sáng tạo bất ngờ phía cách mạng. HKTVG, nhất là trong phần này (dài 140 trang), nhắc lại truyền thống bình luận thời sự “ nóng ” và thực tiễn “ phân tích cụ thể tình huống cụ thể ” của Lenin. Sau này, sử gia chuyên nghiệp sẽ có dịp khai thác một cách khoa học và nghiêm chỉnh những tiết lộ của nhân vật chính trong giai đoạn này.
Độc giả dễ nhận chân tính nhậy cảm “ thông minh trong hành động ” và khả năng lý luận chính trị của ông Bí thư XU NK. Dĩ nhiên trong lúc hào hứng say chiến thắng của Hồng quân, ông hơi quá đáng khi so sánh hoàn cảnh Hitler bị Hồng Quân vây cứng tại Berlin sẽ tìm mọi cách chia rẽ Đồng minh cũng ngày xưa như vua Frederic II đã làm trước Liên quân Nga Áo hồi thế kỷ XVIII. Sự thật, chính chính sách thủ đoạn tráo trở của ông Vua Phổ mới đưa ông ta trước vực thẳm và hiểm họa bị tiêu diệt giữa thủ đô Berlin đang bị quân thù bao chặt… nếu Nữ hoàng Elizabeth nước Nga không may bị bạo bệnh chết !
HK tường thuật tỉ mỉ chuyển biến không kém sinh động, hào hùng và hấp dẫn như quyển Mười ngày làm rung động thế giới của John Reed (t.230-346) từ lúc thành lập Ủy ban khởi nghĩa, tổ chức Hội nghị XUNK tại Chợ Đệm lần thứ nhất (16/17.08) và, trước sự phản công bất ngờ của vài cán bộ cao cấp đại diện TB, triệu tập trong một bầu không khí khủng hoảng và căng thẳng HN Chợ Đệm lần hai và lần ba để tiến tới quyết định tổng khởi nghĩa vài ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Mặt Trận Việt Minh công bố chấm dứt chế độ thuộc đia và sự ra đời của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày 25 tháng 8 đến lượt ông Bí Thư XU tận hưởng cái vinh quang của một người thắng cuộc :
“ Từ bao lơn dinh Đốc lý thành phố, danh sách Ủy Ban Nam Bộ được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch công bố trong sự hoan hô như sấm dậy của hàng vạn đồng bào ”
Tuy nhiên có lẽ trong giờ phút lịch sử này, người lãnh đạo ĐCS không khỏi không nghĩ đến Petrograd, Lenin, cuộc Cách mạng tháng 10, đến 1917 và cảnh tượng các cường quốc Tây Âu đang vây quần Liên xô, cấu kết với các phe đối lập trong nước để lật đổ chính quyền CS …
Sài Gòn - Tân An - Gò Vấp của TVG làm liên tưởng đến Moscou-Petrograd-Smolny của Lenin, các giáo phái của Mặt trận Quốc gia, các nhóm trí thức của La Lutte… nhắc nhở những cuộc đấu tranh triền miên của Lenin chống Kolchak, Kerenski, hay của Stalin thanh trừng không thương tiếc những người đồng đội hôm qua như Boukharine, Zinoniev, Kamenev, Trotski… Trong một chừng mực nào đó, có thể đọc HKTVG như Karl Marx diễn tả cuộc Đảo chính ngày 18 Sươnng mù của Louis Bonaparte : một trò nhại lại lich sử (mimétisme historique) vô tận… cho lúc Trí nhớ đi lệch hướng, biến cố lịch sử mất hẳn ý nghĩa ban đầu của nó.
TVG không là người duy nhất có xu hướng quá thiên về chủ nghĩa lịch sử, ưa dẫn chứng lịch sử để trấn áp đôi phương (như khi ông lên án Trốt kít mắc bệnh thiên tả “ ấu trĩ ” hay mắc bẫy thuyết “ cách mạng thường trực ” lúc họ đòi “ võ trang nhân dân ” theo truyền thống 1793 của Pháp…) cũng như khi ông quy các ông Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Nguyễn và Nguyễn Văn Tạo (Chợ Điệm I,II và III) vào nhóm chủ bại, “ mệt mỏi ” như Kamenev, Zinoviev… ngày trước, chia Hội nghị XUNK làm 3 phe “ Đồng ”, “ Núi ” và “ Bưng ” (sic), gọi Tổng hành dinh của XUNK Đường Colombert là một Smolny lô canh… ! Vô tình hay hữu ý, trong suốt thời gian đảm nhận trách nhiệm Ủy viên quân sự, ông “ chơi ” vai Trốt ki lúc ông này sáng lập và chỉ huy Hồng Quân, áp dụng kỷ luật sắt để cứu vãn tình thế. Tất cả cho cách mạng kể cả những thủ đoạn (?) khủng bố như trong việc ông ký lệnh bắt lãnh tụ Cao Đài Dương Văn Giáo “ vì tội phản quốc ” (t.293), dựng đứng âm mưu lật đổ chính quyền cách mang trong vụ “ Minh thệ ” (t. 316-320) để loại những phần tử không CS ra khỏi vòng chiến ? Ai chịu trách nhiệm trong vụ thảm sát Cité Heyraud ?
HKTVG cho thấy trách nhiệm chính trị của XU trong vụ thảm sát các lãnh tụ quốc gia dù ông Bí thư vẫn không tiết lộ danh sách các nhân vật mang trách nhiệm hành sự. Tại sao ông đẩy Bác sĩ Hồ Tá Khanh vào hội đồng chính phủ Trần Trọng Kim trong khi ông không bỏ một cơ hội nào để mạt sát chinh quyền “ bù nhìn ” này ? Ông Giàu có lý và có chính nghĩa khi ông yêu cầu pháp luật nhà nước xét xử công minh và phục hồi danh dự bị bôi nhọ của nạn nhân của cách mạng (mà cách mạng nào không phạm lỗi ?). Nhưng lúc nắm chính quyền cách mạng thử hỏi ông có giữ thái độ công minh và chính nghĩa đối với những người đối lập không ? Cuối cùng về tranh chấp giữa XUNK và Đại Diện Tổng Bộ, chưa chắc Hoàng Quốc Việt sẽ bị khiển trách khi ông này chỉ áp dụng nghiêm chỉnh chỉ thị của TU Đảng Bộ vể MTVM, về chính quyền Nhật Bản, bảo vệ các giáo phái miền Nam và ngăn chận hành động đơn phương khi XU ra lệnh kháng chiến trước khi nhận chỉ thị của TU (Hội nghị Đường Cây Mai).
Phải chăng dưới áp lực quốc tế, các nhà lãnh đạo trí thức bên nay cũng như bên kia chiến tuyến để xu hướng duy sử dần dần đồng hóa thực tại cụ thể với những phạm trù ý thức hệ vay mượn bên ngoài, biến cuộc đấu trang dân tộc thành bộ phận tranh chấp bá quyền giữa hai khối Tư bản và Cộng sản, biến kẻ thù bên ngoài thành người trong nước, chiến tranh giải phóng giành độc lập thành nội chiến huynh đệ !
HKTVG để lại cho người đọc ngày hôm nay một ấn tượng phức tạp vượt qua con người tác giả. Cảm giác đang sống lại một cơn ác mộng khi Lý trí nhường bước cho đam mê ý thức hệ.
Kỷ niệm thời Giao ước (Convention) bên Pháp hay thời Nội chiến bên Nga đã ám ảnh nặng nề tâm trí các nhà cách mạng Việt Nam khi họ để Trí nhớ và thế giới tượng trưng ngự trị ngôn ngữ, tư tưởng và hành động, đánh mất ý nghĩa cuộc đấu tranh của cha ông từ ngày đất nước bị ngoại bang xâm chiếm !
VN không phải là một ngoại lệ trong lịch sử chủ nghĩa Cộng sản. Các triết gia như Maurice Merleau Ponty trong Những phiêu lưu của Biện chứng (Les mésaventures de la Dialectique, 1955) hay Joseph Gabel (học trò của Georg Lukacs) trong Ý thức sai lầm (La fausse conscience) hay gần đây Giáo sư Pierre Kaufman trong L’inconscient du politique (Vô thức trong thực tiễn chính trị) đã phân tích hiện tượng mê sảng tinh thần tương tự như thời “ Thờ phụng Stalin ” thông qua các “ Vụ án Moskva ” trước Thế giới chiến thứ 2, Cách Mạng Văn hóa hay chế độ Pol Pot bên Campuchia!
Như vậy, HKTVG cũng là một cơ hội tốt đế ta suy nghĩ đến cái mà nhà văn Marcel Proust chỉ định như Trí Nhớ vô tình (la mémoire involontaire) : Cái số phận hẩm hiu của TVG làm cho ta nghĩ đến cái hẩm hiu cùa bao nhiêu nạn nhân lịch sử khác !
Trịnh Văn Thảo Aix en Provence
Mùa Xuân ướt át năm 2011
i Xem Trịnh Văn Thảo, Les compagnons de route de Ho Chi Minh. Histoire d’un engagement intellectuel, Paris, Karthala, 2004 ii Đối tượng HK loại ra ngoài thời gian ông hoạt động ngoài Bắc nhất là công việc giảng dạy và viết sách lịch sử iii Kể cả chuyện Stalin ký thỏa hiệp với Hitler trước vài đồng chi còn ngây thơ như Hà Huy Tâp cũng như những người Tả phái đối lập ! iv Đối thủ và nạn nhân của Mao Trạch Đông v Một vài đoạn, không nhiều, về gia thế, quan hệ với gia đình tại Long An, người bạn đời phát biểu kín đáo một người bình dị và tình cảm. vi Tổng Bộ miền Bắc bị ám ảnh bởi hiểm họa Trung Quốc, miền Nam trước các giáo phái và thái độ đối lập không nhân nhượng của trí thức đệ tứ. Cách giải quyết mâu thuẩn nội của TB và XU NK không thể không nhắc lại quan hệ giữ Stalin và Tito bên Đông Âu ! vii So sánh Gò Vấp với Belleville và các quận 19, 20 … sào huyệt của giai cấp thợ thuyền nửa sau thế kỷ XIX đúng hơn tỉnh Seine Saint Denis ngày nay ! viii TVG và các đồng chí của ông đã biến vùng ngoại ô Đông Bắc Sài Gòn làm tiền đồn của Địa đạo Củ Chi sau này ix Xem Hồi ký của Tô Hoài về gốc gác và tác phong khá phóng túng các trí thức miền Nam tập kết ra Bắc trong Chiều chiều, Hà Nội, NXB Hội nhà văn, 1999, t.195-197 x Trịnh Văn Thảo, Những ngươi đồng hành với Hồ chí Minh, Paris, Karthala, 2004 xi Theo Vũ Đình Hòe (Thanh Nghị Hồi ký, Hà Nội, NXB Văn học, 1997) trong đó có Đặng Ngọc Tốt, giáo sư Y khoa xii Sự lựa chọn của người cầm đầu XUNK giải thích một phần nào khi bị ra Bắc ông bị H. Q. Việt “ hỏi cung ” giữa ban đêm (như A. London trong L’Aveu của Costa-Gavras) với sự hiện diện của các đồng chí TQ trẻ bân ! Một cách trả thù nham hiểm của đảng bạn hay là thái độ khá nhún mình của đảng ta ? Ngôn từ chất vấn của Việt bộc lộ trắng trợn thái độ rẻ rúng ra mặt người miền Nam, dám ăn dám nói (sic) dù đúng dù sai (bản tính “ anh chị bự ” mà !) ; thật ra không ít đồng chí miền Bắc phác họa chân dung ông Bí thư XU mang đậm nét “ người Nam Kỳ ”: bộp chộp, lửa rơm, ngạo mạn, anh hùng cá nhân… (chưa hết). Ôi xứ nào cũng vậy thôi : thử nghe các ông mac-xây-de nghĩ gi về đồng hương …pari-sien của họ ! xiii Cả hai kết thúc cuộc chiến 30 năm với quân hàm thiếu tướng ! xiv Tường thuật biến cố này hinh như TG nhầm lẫn tr. 149 “ Cầu Hang ” (Gò Vấp) với “ Cầu Bông ” (vùng Da-Kao-Tân Định) từ Đinh Tiên Hoàng (Albert 1 cũ) về Bà Chiểu (Bình Thạnh) xv Xem G. Labica, Từ điển phê bình Mac xit, Paris, NXB Presses universitaires de France, 1982 xvi Dưới thời Stalin mà mang cái tội này thì khó tồn tại lâu dài đó ! xvii Ông không đá động đến việc Án sát Phạm Ngọc Quát (ông nội) là người với Bố chính Mại, mang trách nhiệm hành hình Tiến sĩ Trần Quý Cáp ! Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân, t.334. xviii Có lẽ nó cũng là sự kiện giải thích vai trò sau này của ông lúc TVG bị thất sủng ! xix Mặc dù XU đã nhận chỉ thị của TU về Mặt trận Việt Minh yêu cầu mở rộng hàng ngũ với các lực lượng khác, lãnh đạo MT VM vẫn từ chối trên thực tế chấp nhận sự gia nhập của Mặt trận Quốc gia (t. 253) cũng như TVG chơi cờ hai nước với chính phủ Trần Trọng Kim (xem Hồ Tá Khanh).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 23, 2013 18:00:22 GMT 9
Phạm Ngọc ThảoGia thế Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ”, đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” đi tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến? Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch Pháp nên sang Pháp du học, đều trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”, dù có cuộc sống giàu sang nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất nước, đều khát khao giành độc lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch từ năm 1943, sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một người anh khác, ông Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Phạm Ngọc Thảo - Oanh liệt trong thầm lặng: Gia thế Phạm Ngọc Thảo trên tạp chí Life Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14.2.1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông không sang Pháp mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Theo chân người anh, ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lên đường cầm súng đi kháng chiến. Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ” (theo nhiều tài liệu thì gia đình Phạm Ngọc Thảo có tới hơn 4.000 mẫu đất và hàng ngàn bất động sản ở Nam bộ), đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến? Sự “đồng loạt” hiếm có đó là từ chính nghĩa của cách mạng, là từ truyền thống yêu nước của gia đình, xuất phát từ người ông của Phạm Ngọc Thảo. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là cụ Phạm Ngọc Lành (cụ Lành có thể có nhiều tên khác), là một thương gia lớn ở Nam bộ thời Pháp thuộc. Sau này cho con cháu gia nhập quốc tịch Pháp để “tự vệ”, song cụ Lành sinh thời không những không dính dáng gì với người Pháp mà còn tích cực ủng hộ, hậu thuẫn cho các phong trào yêu nước chống Pháp từ trước khi có cách mạng. Ngay cả phong trào Cần Vương ở tận miền Trung cũng được cụ Lành gửi tiền của hậu thuẫn. Nhiều bậc tiền bối của cách mạng ở Nam bộ đã dựa vào gia đình này để nhen nhóm phong trào và khi cách mạng nổ ra, gia đình này đã nhẹ nhàng đem hết gia sản và con cái ra cống hiến. Thực ra, khi đất nước bị chia cắt thì một gia đình bị phân hóa cũng là bình thường, mặt khác, sau này anh em ông Ngô Đình Diệm đã trọng dụng Phạm Ngọc Thảo, không chỉ vì ông Thảo có tài năng, có tư cách. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến chắc chắn không “mù”, họ biết rất rõ những người anh của Phạm Ngọc Thảo đang ở “phía bên kia”. Sau khi lên cầm quyền ở miền Nam, Ngô Đình Diệm thực hiện khẩu hiệu “phản đế, bài phong” để xây dựng chế độ quốc gia “cạnh tranh” với những người cộng sản, nhưng điều mỉa mai là hầu hết các tướng lãnh, sĩ quan và quan chức cao cấp chính quyền của họ đều là sản phẩm do người Pháp để lại. Anh em họ Ngô rất cần có những trí thức từng tham gia chống Pháp ở bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn của những gia đình có truyền thống yêu nước như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp trên của ông không bao giờ đánh giá thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp đối phương thì không thể có được “ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã biết. Nhưng đó là chuyện sau này. Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng). Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em gái Giáo sư Phạm Thiều lúc đó là Giám đốc Nha Giáo dục phổ thông Nam bộ, sau khi tập kết ra Bắc làm Đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại một số nước Đông Âu). Năm 1946 cũng là năm ông Lê Duẩn được Trung ương cử vào Nam làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào miền Nam, giữa sự vây ráp ráo riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực tiếp hộ vệ đưa ông Lê Duẩn từ Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến miền Nam Việt Nam về chiến trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến. Bản lĩnh, tài năng, mưu trí và phẩm chất của Phạm Ngọc Thảo trên chiến trường đã chinh phục niềm tin của vị Bí thư Xứ ủy. Cuộc hạnh ngộ này ảnh hưởng quyết định đến sứ mệnh sau này của ông. Dùng một trí thức con nhà Công giáo đại địa chủ làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, thậm chí làm tướng cũng không có vấn đề gì, nhưng làm Trưởng phòng Mật vụ của cả Nam bộ kháng chiến thì, trừ ông Lê Duẩn, không ai dám và điều này thì quả thật, ông Lê Duẩn có con mắt anh hùng đoán giữa trần ai. Trong những lúc nói chuyện với chúng tôi, ông Võ Văn Kiệt trước sau đều khâm phục tầm nhìn chiến lược và sự trông xa thấy rộng của ông Lê Duẩn và ông cũng nhớ lại: “Không ít anh em cũng lo ngại về cách dùng người như vậy của anh Ba”. Điều đáng chú ý là những nhân vật như Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim… cũng có vào chiến khu tham gia kháng chiến trong thời gian đầu và họ đều được Phạm Ngọc Thảo huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng họ đã quay lưng theo Pháp và trở thành những tướng lãnh quân đội Sài Gòn. “Những người quen cũ” đó sau này vừa nể phục Phạm Ngọc Thảo vừa coi ông là một đối thủ đáng gờm. Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”. Ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với ông Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy (sau này là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Hai người khác trong Ban cùng có mặt là ông Mười Hương và ông Cao Đăng Chiếm (sau này là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ). Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng ông Mai Chí Thọ là người lừng lẫy nên có quá nhiều người biết, ông Cao Đăng Chiếm cũng vậy, Đảng không cho phép vào sống ở Sài Gòn, chỉ có ông Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, ông Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về đường hướng, phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó ông Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế. Những giọt nước mắt của Mười Hương 20/12/2012 “Trong lịch sử tình báo cs, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo cs Việt Nam” (Lời tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền) Tấm hình đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội VNCH lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết. Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn - nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván bài lật ngửa vốn là một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh. Mãi đến ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa bao giờ được công bố chính thức. Sau năm 1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt cộng mới chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm? Phạm Ngọc Thảo - Oanh liệt trong thầm lặng Đại tá Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đo Nguyễn Khánh - Ảnh: Chin Kah Chong Không thể đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng” nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay của ta, mà do may mắn. Sinh thời cựu Thủ tướng cs Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Việt cộng Phạm Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào hàng ngũ cao cấp của Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất đất nước Việt cộng. Đối với Võ Văn Kiệt,Việt cộng Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo Việt cộng kiệt xuất, là người Việt cộng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách. Còn Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ Việt cộng và phong anh hùng Việt cộng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Việt cộng Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Việt cộng Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ T.Ư - TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, t thong Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ. Sự lo xa của Việt cộng Mười Hương là tình nghĩa rất trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công khai. Quốc gia không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì cái tình mà có quốc gia Việt cộng đại sự. Trước khi viết loạt bài này, ngoài việc nghiên cứu những tài liệu ghi chép từ các nhà tình báo lão thành hoạt động trong mạng lưới tình báo Miền, chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với ông Mười Hương (Trần Quốc Hương), nguyên Bí thư T.Ư Đảng, người trực tiếp tổ chức hoạt động cho những nhà tình báo lừng danh Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ… sau Hiệp định Genève, trao đổi với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với ông Sáu Trí, ông Mười Nho (người phụ trách công tác tình báo đặc khu Sài Gòn - Gia Định đầu những năm 1960), chúng tôi còn gặp 1 trong 2 nhân vật được Tỉnh ủy Bến Tre giao nhiệm vụ ám sát Phạm Ngọc Thảo. Chúng tôi cũng đã có dịp nói chuyện với cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ Nguyễn Cao Kỳ, người lên chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp T.Ư (Thủ tướng) ngay sau khi cuộc đảo chính năm 1965 thất bại. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến ông Thảo trên báo chí Sài Gòn trước năm 1975.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 23, 2013 18:14:11 GMT 9
Phạm Ngọc ThảoLật ngửa bài để tàng hình Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình. “Phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước” là làm nhiệm vụ cụ thể gì, không ai rõ chi tiết. Ông Mai Chí Thọ xác nhận việc ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo cho ông để bố trí ở lại miền Nam hoạt động, nhưng ông bảo ông chỉ nhận được chỉ thị về nhiệm vụ của ông đối với Phạm Ngọc Thảo thôi, còn ông Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo làm những việc gì thì ông không được thông báo. Theo ông Mười Hương, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám “ngửa bài” Còn ông Võ Văn Kiệt, ban đầu không liên quan đến Phạm Ngọc Thảo, ông chỉ biết ông Lê Duẩn đã trọng dụng ông Thảo như thế nào mà thôi. Nhưng sau Hiệp định Genève, có một thời gian ông Lê Duẩn vào sống ngay trong thành phố Sài Gòn, ông Kiệt có nhiệm vụ tổ chức nơi ăn ở và bảo vệ an toàn, ông dần dần hiểu được những việc mà ông Lê Duẩn giao cho Phạm Ngọc Thảo. Khi làm Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định, ông Võ Văn Kiệt mới “liên quan” đến Phạm Ngọc Thảo. Ban đầu ông định cử ông Mười Nho, Trưởng ban Đặc tình Đặc khu ủy, liên lạc với Phạm Ngọc Thảo, nhưng xét thấy ông Mười Nho đã từng bị lộ tung tích, nên kế hoạch bị hủy bỏ. Ông Kiệt gặp ông Thảo nhiều lần, từ sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đến sau cuộc đảo chính 19.2.1965. Theo ông Võ Văn Kiệt, nhiệm vụ mà ông Lê Duẩn giao cho ông Thảo là tìm cách thâm nhập càng sâu càng tốt vào bộ máy chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến; ông Thảo không phải là một điệp viên, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai, khi có việc cần thiết có thể trao đổi với người lãnh đạo nào mà ông Thảo thấy đủ tin tưởng, nếu không thấy cần thiết thì không trao đổi. Ông Thảo hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào. Việc ông Kiệt gặp ông Thảo là do chính ông Thảo chủ động cho người thân liên lạc để bàn bạc giải pháp, ông Kiệt không có “chỉ thị” ông Thảo phải gặp ông. Sau khi thống nhất đường hướng, phương thức hoạt động với ông Mười Hương, Phạm Ngọc Thảo vào Sài Gòn, bắt đầu tàng hình bằng một “ván bài lật ngửa”. Theo ông Mười Hương, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám “ngửa bài”. Ông Mười Hương cho rằng, thực tế Ngô Đình Diệm luôn mơ ước có những trí thức yêu nước có tầm cỡ bên cạnh mình, như cụ Hồ có những người như ông Hoàng Minh Giám bên cạnh. Cần biết Ngô Đình Diệm nổi tiếng chống cộng, nhưng Ngô Đình Diệm trong thâm tâm bao giờ cũng nể phục cụ Hồ và chưa bao giờ dám xúc phạm đến cụ Hồ. Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình. Ngược lại, ông không những chủ động công khai cái lý lịch kháng chiến đó mà còn công khai tự hào về quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Để tiếp cận với gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức Công giáo đã đành là một lợi thế, nhưng chưa đủ. Ông đã khôn ngoan biến cái lý lịch kháng chiến thành một lợi thế thứ hai, lợi hại hơn. Khi về Sài Gòn, sau khi thu xếp nơi ăn chốn ở cho gia đình, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà ung dung đi dạy học. Vợ ông cũng vậy. Nhưng Sài Gòn lúc đó rất rối ren. Chính quyền một mặt phải đối phó với lực lượng của các giáo phái và các lực lượng thân Pháp, một mặt ráo riết lùng bắt những cán bộ Việt Minh không đi tập kết nhưng không “hồi chánh” để trừ hậu họa. Phạm Ngọc Thảo không “hồi chánh” nên tất nhiên không có giấy tờ “hồi chánh”, ông bị an ninh quân đội nhiều lần truy bắt, phải rất khôn ngoan ông mới trốn thoát. Phạm Ngọc Thảo nói chuyện với các chức sắc Cao Đài - Ảnh: LIFE Không thể ung dung ở Sài Gòn được nữa, ông về Vĩnh Long theo dự định ban đầu. Theo kế hoạch, việc đầu tiên ông làm là đến thăm Giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Đức cha Thục rất thân thiết với gia đình Phạm Ngọc Thảo, từng là người làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Đức cha vào chiến khu để thông qua vị giám mục này mà tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Lần này Phạm Ngọc Thảo đến thăm với sự lễ phép của một tín đồ ngoan đạo khiến vị giám mục vô cùng cảm động. Ngô Đình Thục đã bảo lãnh cho Phạm Ngọc Thảo vào dạy tại một trường trung học. Sau đó cũng từ sự giới thiệu của Đức cha Thục, Phạm Ngọc Thảo quay lại Sài Gòn làm việc tại Viện Hối đoái do ông Huỳnh Văn Lang, một học trò cũ của Đức cha Thục, làm Giám đốc. Trở lại Sài Gòn lần này ông hoàn toàn không bị an ninh quân đội làm khó dễ, vì ai mà dám động đến người của Đức cha! Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống, Giám mục Ngô Đình Thục liền tiến cử ông Thảo với Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, bảo đây là một nhân tài cần được trọng dụng. Gia đình họ Ngô anh nói em nghe, rất có khuôn phép, nên đương nhiên Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận sự tiến cử này. Tuy nhiên, do chưa thấy ông Thảo có tài năng gì đặc biệt, nên họ cũng chỉ bố trí cho ông những chức vụ khiêm tốn: đại úy đồng hóa, Tỉnh đoàn trưởng Bảo an… Mối quan hệ với Huỳnh Văn Lang tạo thêm cho Phạm Ngọc Thảo một lợi thế: viết báo để thể hiện mình. Năm 1957, ông Huỳnh Văn Lang khi ấy là Giám đốc Viện Hối đoái và là Bí thư liên kỳ Nam Bắc Việt Nam của Đảng Cần Lao, đã cho xuất bản Tạp chí Bách Khoa. Phạm Ngọc Thảo được mời làm một thành viên sáng lập và tham gia Ban Biên tập tạp chí. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975. Phạm Ngọc Thảo có mặt từ số báo đầu tiên và chỉ tính riêng trong năm 1957-1958, ông đã cho đăng liên tục và dồn dập hàng loạt bài trên tạp chí này, tập trung đề tài về quân sự: “Thế nào là một quân đội mạnh?” (BK số 1-1957); “Đánh giặc mà không giết người” (BK số 2); “Góp ý kiến về thiên Mưu công trong binh pháp Tôn Tử” (BK số 3); “Một số ý kiến về lãnh đạo tinh thần một đơn vị quân đội” (BK số 4); “Vấn đề kinh tế tự túc trong quân đội” (BK số 5-6)…; “Lực lượng quân sự cơ động và lực lượng địa phương” (BK số 13); “Quân đội và nhân dân” (BK số 14); “Quân đội bình định đem lại bình an hay oán hận” (BK số 16); “Quan niệm về quân sự hiện đại” (BK số 17)... Những bài báo đó thể hiện tác giả của chúng có kiến thức uyên bác của một nhà chiến lược quân sự và thực tiễn sinh động của một nhà cầm quân, nhưng lại gây sốc: công khai ca ngợi chiến công chống ngoại xâm và hành động vì dân vì nước của quân đội nhân dân VN trong kháng chiến chống Pháp, lên án những hành vi phi nghĩa của quân đội phản nhân dân . Phạm Ngọc Thảo Bị VC ám sát Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ... Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này, khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn Chúng tôi đã gặp một trong hai người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn Thiều đã qua đời. Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã. Ông Sáu Tuấn kể: “Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì cái cặp da có dấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi giam chung mới thống nhất lại”. Phạm Ngọc Thảo lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa - Ảnh: LIFE Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa. Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: “Tụi tôi không phải là Việt cộng, nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia”. Hai ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18 tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: “18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam cộng hòa xử 13 tuổi”. Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng. Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về. Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: “Có phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?”. Trả lời: “Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi nổ”. Hỏi: “Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?”. Trả lời: “Mãi sau này mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”. Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: “Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”. Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe đâu ở An Giang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 23, 2013 18:21:59 GMT 9
Phạm Ngọc Thảo Luận về quân tử - tiểu nhân Những bài báo “gây sốc” của Phạm Ngọc Thảo đã tạo một tiếng vang lớn. Chúng được giới quân sự, chính trị ở Sài Gòn cũng như các chuyên gia CIA và tình báo nước ngoài rất quan tâm. Họ “soi” rất kỹ để biết Phạm Ngọc Thảo là ai. Ngay cả cấp trên của ông Thảo cũng hồi hộp lo lắng về nước cờ cao nhưng liều lĩnh của ông. Phạm Ngọc Thảo (phải) lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa - Ảnh: LIFE Nước cờ cao này sẽ khiến cho những kẻ chống cộng tầm thường nghĩ ông là cộng sản nằm vùng, dù bọn họ là số đông, nhưng ông không quan tâm, họ không phải là đối tượng để ông gửi thông điệp. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo muốn gửi tới là Ngô Đình Nhu và bộ tham mưu cao cờ của ông Nhu, đặc biệt là Trần Kim Tuyến. Quả nhiên những bài báo đó không lọt khỏi “mắt xanh” của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Đây chính là thứ mà họ Ngô cần. Muốn xây dựng một quân đội thực sự là “quân đội quốc gia” thì không thể không dựa trên lý luận quân sự được trình bày trong những bài báo của Phạm Ngọc Thảo. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo gửi tới phù hợp với đường lối chiến lược của anh em họ Ngô: Muốn chiến thắng cộng sản, muốn xây dựng một quân đội, một chế độ độc lập thì phải làm theo cách của Việt Minh. Lịch sử “Đệ nhất cộng hòa” sau này cho thấy, họ Ngô tuy nhận viện trợ của Mỹ nhưng không nghe lời Mỹ, không để người Mỹ can thiệp quá sâu vào chế độ, vì vậy mà bị Mỹ đạo diễn lật đổ. Nếu tôi chỉ cho chính quyền bắt những đồng đội cũ của tôi, thì tôi là kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ. Liệu những người quân tử như tổng thống và anh Nhu có thể trọng dụng được kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ như vậy không? Lời Phạm Ngọc Thảo nói với Ngô Đình Nhu Và Phạm Ngọc Thảo bắt đầu được trọng dụng. Ông gia nhập đảng Cần Lao và được đưa vào Ban Tuyên huấn đảng này, được thăng quân hàm thiếu tá, rút về làm việc tại Sở Nghiên cứu chính trị - xã hội (cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống) do Trần Kim Tuyến làm giám đốc, văn phòng ông nằm ở cánh trái Phủ Tổng thống, bên cạnh Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu. Việc Phạm Ngọc Thảo được trọng dụng khiến cho không ít nhân vật cao cấp trong chính quyền tức tối. Tướng Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh quân đội, không những nghi ngờ mà còn quả quyết cho rằng Phạm Ngọc Thảo chính là cộng sản, rằng “cộng sản đang lũng đoạn Phủ Tổng thống”. Sau này ông ta nói với các thuộc cấp: “Mỗi lần vào Dinh Độc lập, tôi thấy cánh trái của dinh ửng lên đỏ loét”. Những báo cáo về Phạm Ngọc Thảo của các cơ quan an ninh, cảnh sát đều bị bỏ ngoài tai. Ông Diệm, ông Nhu có cái lý của mình, hạng như Mai Hữu Xuân thì biết gì! Tuy nhiên, trong khi Ngô Đình Diệm hoàn toàn tin tưởng Phạm Ngọc Thảo, thì Ngô Đình Nhu vốn là một con cáo già về chính trị, nên dù trọng dụng ông song chưa phải là hoàn toàn tin tưởng. Một lần, ông Nhu rủ ông Thảo đi chơi bằng ca nô trên sông Cửu Long, ông Nhu đột ngột hỏi: “Nhiều cán bộ Việt Minh sau Hiệp định Genève về làm việc cho quốc gia, họ chỉ cho quốc gia bắt được nhiều cán bộ cộng sản nằm vùng quan trọng. Anh Thảo về làm việc cho quốc gia được một thời gian rồi, sao chưa thấy anh Thảo chỉ bắt được ai?”. Câu hỏi thật hắc búa, nhưng Phạm Ngọc Thảo không hề lúng túng. Ông bình thản nói: “Trước đây đi kháng chiến tôi hợp tác với người cộng sản dưới ngọn cờ Việt Minh đánh Tây để giải phóng Tổ quốc. Nay đất nước chia đôi, miền Bắc giao cho cộng sản, miền Nam giao cho quốc gia. Tổng thống và anh Nhu là người quốc gia yêu nước, muốn kiến thiết lại xứ sở sau bao nhiêu năm bị chiến tranh tàn phá, nên tôi đem hết sức lực làm việc cho tổng thống. Tôi nghĩ tổng thống và anh Nhu là những người quân tử, dùng người theo cách của người quân tử. Nếu tôi chỉ cho chính quyền bắt những đồng đội cũ của tôi, thì tôi là kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ. Liệu những người quân tử như tổng thống và anh có thể trọng dụng được kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ như vậy không?”. Ngô Đình Nhu đuối lý nhưng rất thích câu trả lời đó, bảo chỉ hỏi đùa vậy thôi và xin lỗi ông Thảo. Tại các cuộc họp của đảng Cần Lao, trong khi những người khác chỉ nói theo, không ai dám làm trái ý Ngô Đình Nhu thì Phạm Ngọc Thảo lại rất thẳng thắn. Sự thẳng thắn đó làm Ngô Đình Nhu rất hài lòng. Một lần ra hành lang cuộc họp, Ngô Đình Nhu nói với những người thân cận về Phạm Ngọc Thảo: “Thằng này đúng là thằng dân tộc chủ nghĩa đậm chất Nam bộ”, lời nhận xét đó được một cơ sở của ta nghe được và nói lại với ông Mười Hương. Phạm Ngọc Thảo còn phản đối những hành vi vô nhân đạo trong chính sách tố cộng của Ngô Đình Diệm. Họ Ngô đề cao chính sách thân dân mà hành xử thì lê máy chém sát hại người yêu nước. Ông nói với Đức cha Thục rằng việc chống cộng kiểu này là thua cộng sản, rằng chống cộng càng tàn bạo bao nhiêu càng khiến cho dân chúng thấy Việt Minh nhân ái hơn bấy nhiêu. Ngô Đình Thục tán đồng ý kiến này và thuật lại với Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm thấy có lý. Đó là một trong những lý do Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) vào đầu năm 1961, nơi đang diễn ra cuộc Đồng khởi lịch sử. Lúc này ông được thăng hàm trung tá. Nhiều người cho rằng vì họ Ngô còn nghi kỵ Phạm Ngọc Thảo nên mới đưa ông đến Kiến Hòa là để thử thách lòng trung thành, nhưng theo chúng tôi thì không thể như vậy, không người cầm quyền nào đem sự thành bại của chế độ ra mà thử thách thuộc hạ. Ngô Đình Diệm muốn Phạm Ngọc Thảo áp dụng chính sách “thân dân” của ông ngay trong vùng nước sôi lửa bỏng. Về làm tỉnh trưởng một thời gian, ông Thảo thả hơn 2.000 tù chính trị, trong đó có ông Võ Viết Thanh (sau này là Chủ tịch UBND TP.HCM), nói là thực hiện chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, bất chấp những lời tố cáo ông liên tục gửi về Sài Gòn. Theo tài liệu ghi chép lại của ông Sáu Trí, Trưởng ty Công an Kiến Hòa lúc đó đã báo cáo với thiếu tướng Nguyễn Văn Là, Tổng giám đốc Công an cảnh sát như sau: “Ông tỉnh trưởng này khả nghi quá. Những cuộc hành quân bố ráp của ngành an ninh trong vùng cộng sản mới chiếm đã bắt nhiều người đem về để rà soát tìm những tên đầu sỏ nhằm tiêu diệt lực lượng cộng sản từ cơ sở, nhưng chúng tôi chưa kịp thẩm vấn ai, chưa kịp làm gì thì ổng cho thả gần như 99%. Không cơ quan an ninh nào muốn làm việc nữa. Nếu hành quân đem về buổi chiều, ổng bảo đem số người bị bắt vào dinh ổng nghỉ tạm, mấy bà già và phụ nữ lớn tuổi ổng đem lên lầu ở, số còn lại ở bên dưới. Ban đêm nấu cháo gà đãi, sáng ra ông cho tập hợp lại, đến nói chuyện chính trị, tuyên truyền chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, xong rồi cho thả về hết, có người còn được cấp tiền xe…”. Thiếu tướng Là cắt ngang, ngao ngán: “Tổng thống khen Phạm Ngọc Thảo hết lời, bảo tỉnh trưởng các tỉnh toàn quốc đến Kiến Hòa học cách làm của trung tá Thảo”. Suýt làm Thủ tướng Việt Nam cộng hòa “Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi” - lời ông Nguyễn Cao Kỳ nói với Thanh Niên. Năm 1962, sau khi thôi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa, sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Thời gian này mối quan hệ giữa ông với ông Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang càng thân thiết. Với sức thuyết phục mạnh mẽ của một nhà quân sự vừa có trình độ, vừa chân thành vốn có, ông được nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc ngưỡng mộ. Phạm Ngọc Thảo (giữa) chỉ huy đảo chính - Ảnh: LIFE Trong những năm 1962 - 1963, giữa lúc phong trào Đồng khởi lan rộng ở nông thôn, chính trường miền Nam Việt Nam trở nên rối ren. Gia đình họ Ngô vừa cai trị độc tài, vừa muốn thoát khỏi sự can thiệp của người Mỹ, tình hình này khiến cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở đô thị dâng cao. Người Mỹ thì muốn gạt bỏ gia đình họ Ngô để thay vào đó giới lãnh đạo thân Mỹ nhằm biến miền Nam thực sự là một tiền đồn chống cộng. Biết trước sau gì gia đình họ Ngô cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin ông Thảo phản bội, thứ hai là ông Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó ông Thảo đã được nhiều sĩ quan chỉ huy ở Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, một số đơn vị biệt động quân, bảo an hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được. Và như chúng ta đã biết, ngày 1.11.1963, một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh, đã tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh em ông Diệm, ông Nhu bị chết thảm. “Hội đồng quân nhân cách mạng” (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này, vẫn được HĐQNCM cử làm tùy viên báo chí, sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. HĐQNCM cầm quyền được 2 tháng, đã bị tướng Nguyễn Khánh và tướng Trần Thiện Khiêm 2 lần “chỉnh lý”, thâu tóm mọi quyền lực. Lên cầm quyền, Nguyễn Khánh rút Phạm Ngọc Thảo về nước, cử làm giám đốc báo chí, phát ngôn viên chính phủ, lúc này ông đã được thăng đại tá. Mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh trong giới cầm quyền ngày càng gay gắt, Nguyễn Khánh tiếp tục loại Trần Thiện Khiêm, đưa ông tướng này đi làm đại sứ tại Mỹ. Phạm Ngọc Thảo cũng được đưa sang Mỹ làm tùy viên văn hóa, quân sự vào đầu tháng 10.1964. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy nhiên, sau đó do nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo, nên cuối năm 1964, Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát. Có mặt ở Sài Gòn, ông bí mật móc nối tổ chức lực lượng, kéo tướng Lâm Văn Phát và hàng chục sĩ quan khác tiến hành cuộc đảo chính ngày 19.2.1965. Điều kỳ lạ là lúc đó Phạm Ngọc Thảo, tuy là đại tá nhưng không cầm quân và đang bị Nguyễn Khánh truy bắt, lại có thể tổ chức và chỉ huy một lực lượng không dưới một sư đoàn làm binh biến (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh). Cuộc binh biến do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu về danh nghĩa, còn thực tế do Phạm Ngọc Thảo tổ chức và chỉ huy, sau này người ta gọi ông là “Tư lệnh hành quân 19.2”. Chỉ trong 1 ngày, lực lượng đảo chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng tiếc là do một số sơ sót trong hợp đồng tác chiến, Nguyễn Khánh đã được Tư lệnh Không quân lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát. Chúng tôi có dịp gặp ông Nguyễn Cao Kỳ năm 2008. Hỏi về sự kiện này, ông Nguyễn Cao Kỳ nói: “Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi”. Ngẫm nghĩ một hồi, ông Kỳ nhớ lại: “Cuộc đảo chính diễn ra bất ngờ đến mức tôi không kịp mặc áo, chỉ mặc may ô chui hàng rào thép gai ra lấy máy bay chạy về Biên Hòa. Sau đó ông Thảo lên Biên Hòa gặp tôi, cùng đi có một đại tá Mỹ. Ổng thuyết phục tôi ủng hộ quân đảo chính. Nói thật là tôi không ưa gì Nguyễn Khánh, nhưng quân đội đánh nhau tôi không đồng ý. Tôi bảo các anh phải cho quân về ngay doanh trại, đến 5 giờ chiều mà không rút quân tôi sẽ cho máy bay ném bom”. Đó là lý do khiến cuộc đảo chính thất bại. Tuy nhiên, Nguyễn Khánh cũng bị loại. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã lựa gió phất cờ, họp Hội đồng tướng lãnh buộc Nguyễn Khánh từ chức và trục xuất ông này ra nước ngoài với danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính, ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát cùng 13 sĩ quan “đầu sỏ” tham gia đảo chính trong vòng 24 giờ phải ra trình diện. Phạm Ngọc Thảo, tướng Lâm Văn Phát, trung tá Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn. Tháng 6.1965, Hội đồng tướng lĩnh giải tán chính phủ dân sự của Phan Huy Quát, đưa tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng). Chính quyền Thiệu - Kỳ lập tòa án quân sự để xử những người tham gia đảo chính. Phạm Ngọc Thảo bị kết án tử hình vắng mặt, chúng treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được ông. Lúc này tuy ông phải lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông liên lạc với ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt gặp ông và gợi ý ông ra chiến khu cho an toàn, có thể dẫn theo tiểu đoàn này với danh nghĩa binh biến ly khai. Tuy nhiên, ông cho biết ông vẫn còn có khả năng tổ chức đảo chính để ngăn chặn chính quyền quân phiệt rước quân viễn chinh Mỹ vào gây tội ác. Ông Võ Văn Kiệt đồng ý. Phạm Ngọc Thảo tiếp tục hoạt động bí mật ở Sài Gòn, cho xuất bản tờ “Việt Tiến” để tập hợp lực lượng. Ông được các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài quân đội giúp đỡ, bảo vệ. Còn Nguyễn Văn Thiệu, sau khi lên nắm chính quyền, thấy rõ Phạm Ngọc Thảo là mối đe dọa nguy hiểm đến vị trí quyền lực của mình, nên quyết tìm mọi cách tiêu diệt ông để trừ hậu họa. Cái chết bi thảm“Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo” - linh mục Nguyễn Quang Lãm. Chúng tôi hỏi ông Nguyễn Cao Kỳ: “Ai đã giết Phạm Ngọc Thảo?”. Ông Kỳ: “Sau lần tiếp xúc ở Biên Hòa, tôi không gặp Phạm Ngọc Thảo nữa và không quan tâm đến chuyện của ông ấy”. Hỏi: “Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Ông Kỳ: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”. Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo. Sự hoàn hảo không phải trên vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che giấu, ở cuộc sống chính trực và tấm lòng chân thành “Mọi quyết định đều do ông Thiệu”, ông Kỳ nói đúng. Nhưng ông Kỳ nói ông không quan tâm đến ông Thảo thì chưa chắc đúng. Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ bút Báo Xây Dựng, là người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo. Ông không những che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo mọi lúc mọi nơi, mà còn đăng công khai trên báo chí những điều tốt đẹp nhất về Phạm Ngọc Thảo, dù ai có nói ông Thảo là cộng sản ông cũng mặc kệ. Sau khi ông Thảo bị giết hại, Báo Xây Dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo. Theo cha Lãm thì: “Đại tá Phạm Ngọc Thảo là người can đảm, một kẻ dám làm một cái gì, một người có những tư tưởng lạ, những tư tưởng lớn về chuyện Đất Nước”. Ông nghĩ vậy và ông nghĩ rằng ông Nguyễn Cao Kỳ cũng có thể nghĩ như ông, vì ông biết ông Kỳ rất muốn gặp Phạm Ngọc Thảo sau cuộc đảo chính. Cha Lãm muốn đưa ông Thảo đến trại Phi Long (căn cứ không quân) gặp Nguyễn Cao Kỳ, nhưng vì mỗi lần gặp ông Kỳ cứ nhắc đi nhắc lại “Anh ta đâu?” một cách sốt sắng, nên vị linh mục đâm ra cảnh giác: “Nhỡ ra tướng Kỳ nổi hứng hay nổi đóa giữ Phạm Ngọc Thảo lại nộp cho cơ quan an ninh thì sao?”. Vì vậy, thay vì đưa ông Thảo đến, cha Lãm đến gặp ông Kỳ đề nghị đưa ông Kỳ đến gặp ông Thảo tại một địa điểm bí mật với điều kiện: đi một mình, không cho cận vệ đi kèm, không dắt súng lục, không nhấc điện thoại gọi về nhà dù chỉ bảo “Hôm nay không về ăn cơm nhà”. Hôm đó ông Kỳ “OK” nhưng bảo “đang bận hôm nay không đi được”. Cha Lãm thuật lại chuyện này với Phạm Ngọc Thảo, nhưng ông Thảo bảo cha không cần thận trọng như thế, rằng ông có thể đến trại Phi Long gặp ông Kỳ được, rằng “mời ông ta ra chỉ cho thấy mình yếu bóng vía và không tin cậy ông ta”. Hai hôm sau, cha Lãm tới nơi ông Thảo lánh nạn (tại một cao ốc trên đường Ngô Đức Kế) để đưa ông Thảo vào trại Phi Long thì ông Thảo đã rời khỏi chỗ này rồi, do bị lộ, an ninh đến lục xét. Một tuần sau, cha Lãm mới hết lo lắng khi ông Thảo nhắn cha lên Biên Hòa và cho biết mình đang ở chỗ xứ cha Cường. Vị linh mục kể lại chuyện này kèm theo những lời trìu mến: “Chỉ tội ở đó không có điện thoại để con người làm cách mạng đó móc nối liên lạc với các đồng chí và lúc buồn buồn có thể nói được dăm ba câu với một vài người đẹp”. Nhưng 3 tuần sau, ngày 17.7.1965, cha Lãm nhận được điện thoại của một ký giả làm cho một hãng thông tấn ngoại quốc báo tin ông Thảo đã bị giết rồi. Tài liệu chính thức của ta hiện nay đều nói về cái chết của Phạm Ngọc Thảo: Ông bị an ninh chính quyền Sài Gòn bắt đem đi thủ tiêu vào ngày 15.7 nhưng ông chỉ bị thương nặng, được các linh mục và nữ tu đem về một tu viện chăm sóc, sau đó nhà cầm quyền truy lùng tung tích và bắt ông đưa về cơ quan an ninh quân đội vào ngày 16.7. Tại đây, Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ đã tra tấn và bóp hạ bộ ông cho đến chết ngay trong đêm hôm đó. Báo chí và dư luận ở Sài Gòn trước giải phóng cũng nói như vậy. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, thậm chí ông ta còn nói mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Vị linh mục nói ông đã đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”. Phạm Ngọc Thảo bị sát hại - Ảnh: Tư Liệu Cha Lãm còn cho hay, Phạm Ngọc Thảo thường thay đổi chỗ ở với những hành tung lạ lùng, có khi ông ở ngay gần bót cảnh sát, ở chỗ nào ông cũng cho cha Lãm biết. Cuối cùng, khi những nơi khác không an toàn, ông về xứ Đa Minh của cha Cường ở Thủ Đức, rồi đến trú tại tu viện Phước Sơn. Tại đây, cha Lãm cũng làm hết sức mình để ông được an toàn nhất. Ông được các linh mục hết lòng bảo vệ, tuy nhiên, theo cha Lãm thì chính lòng tốt và sự thiệt thà của các linh mục bảo vệ ông đã khiến ông bị lộ. Khi ông bị thủ tiêu không chết, được các linh mục đưa về giáo xứ Đa Minh cứu chữa, bọn chúng cũng lần theo các linh mục để truy tìm ông. Cha Lãm cho biết thêm, khi bọn chúng cấp tốc đưa Phạm Ngọc Thảo về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 trong tình trạng bị thương rất nặng, một chiếc trực thăng H-34 chở ông thẳng về Bộ Tổng tham mưu, tại đây người của Nguyễn Ngọc Loan đã chờ sẵn, lúc đó là 7 giờ tối 16.7. Trên quốc lộ 4, những người thân của Phạm Ngọc Thảo cũng rú ga xe chạy đến Mỹ Tho và Cần Thơ gặp 2 vị giám mục, đã có những cú điện thoại gọi về trong đêm cho trung tướng Thiệu, nhưng ngay trong đêm ông Thảo đã chết rồi. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”. Điều chắc chắn là Nguyễn Văn Thiệu không tin ông Thảo là cộng sản, ông ta biết các vị chức sắc Công giáo cùng nhiều sĩ quan thuộc quyền ông ta cũng không tin ông Thảo là cộng sản. Bởi vậy mà Phạm Ngọc Thảo phải chết, vì ông là một đối thủ đáng gờm của người cầm quyền. Một người được giới chức sắc Công giáo hậu thuẫn, được giới quân sự nể phục, một người tay không mà tổ chức một cuộc binh biến khiến cho Nguyễn Khánh đang nắm trong tay cả một quân đội phải chạy tóe khói, người ấy không đáng gờm sao được! Nếu Nguyễn Văn Thiệu, nếu các vị giám mục, linh mục tin Phạm Ngọc Thảo là cộng sản thì chưa chắc ông đã bị thủ tiêu. Những nhà tình báo lừng lẫy như Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Tài… cũng như nhiều cán bộ cách mạng cấp cao bị bắt, giới cầm quyền biết chắc các vị là cộng sản, các vị bị đày ra Côn Đảo, nhưng các vị có bị thủ tiêu đâu. Phạm Ngọc Thảo chết khi mới 43 tuổi. Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo. Sự hoàn hảo không phải trên vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che giấu, ở cuộc sống chính trực và tấm lòng chân thành. Cho đến bây giờ, khi biết ông là người của cách mạng, những bạn bè và những người quen biết ông từng ở phía bên kia vẫn yêu mến, vẫn ngưỡng mộ ông. Hoàng Hải Vân
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2013 4:25:50 GMT 9
Đọc “Kẻ bị khai trừ” của Nguyễn Mạnh Tường Trịnh Bình An kbkt-tqhNguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. DCVOnline: Xin giới thiệu lại với bạn đọc một bài viết đã đăng tháng 2, 2012, trong mục “Tác phẩm và tác giả”; bài viết sau đây của tác giả Trịnh Bình An có 173 ý kiến của bạn đọc và là một trong những bài đã có nhiều lượt đọc nhất trong tháng; những bài khác được đọc nhiều trong tháng 2, 2012 là “Ngọn lửa Việt Khang” (Duy Anh), “Sự kiện Ngọc Quang” (DCVOnline), “Trí thức, phản biện, và Ngô Bảo Châu” (Phan Bạch Quán) tất cả đều có trên 3.000 lượt đọc. Nguyễn Mạnh Tường là một người nổi tiếng trong giới luật sư nói riêng, giới trí thức Việt Nam nói chung; nhưng vẫn có rất nhiều người không biết đến ông, trong đó có tôi. Và tôi đang có trong tay quyển sách “Kẻ bị khai trừ”(i) của Nguyễn Mạnh Tường do Tủ Sách Tiếng Quê Hương mới xuất bản, vậy mà tôi thấy mình rất ngần ngừ, rất ì ạch, không muốn giở ra đọc. Tôi không muốn mình phải đau lòng và bực tức thêm vì thấy một người học vị đầy mình lại đi theo cộng sản để rồi bị chính cộng sản đầy đọa. Thế nhưng tay tôi vẫn lật qua mấy trang. Và một dòng chữ ập vào mắt tôi, đó là lời giới thiệu của chính Nguyễn Mạnh Tường, “Bản thảo của cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình thế lén lút và bị cô lập…” Một cuốn sách của một luật sư nổi tiếng bậc thầy, được viết trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, vậy mà tôi, tôi chỉ bỏ ra ít thì giờ nhàn nhã để đọc, thế mà đã nhăn nhó hay sao? Vâng tôi sẽ đọc, và tôi sẽ hỏi ông Tường cho ra ngô ra khoai, rằng tại sao ông là người giỏi giang cỡ ấy lại cắm đầu chui vào cái rọ Cộng Sản để bị chúng lợi dụng chán chê mê mỏi rồi vứt vào xọt rác không thương tiếc. Mấy năm trước, Đảng còn bày đặt mừng sinh nhật 100 tuổi (!) của ông nhưng thực chất chỉ muốn ra cái điều Đảng cũng biết sửa sai (1). Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó du học tại Đại Học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa và Tiến sĩ Quốc gia Văn chương (ii). Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở trường Trung học Bảo hộ. Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, ông làm luật sư, dạy học tại Thanh Hóa. Ông tham gia phái đoàn chính phủ dự Hội nghị Trừ bị Đà Lạt năm 1946, dự các Hội Nghị Hòa Bình Thế Giới ở Bắc Kinh và Wien năm 1952. Sau năm 1954, ông từng giữ những chức vụ quan trọng như trưởng khoa Đại Học Luật Hà Nội, phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, chủ tịch Đoàn Luật Sư, phó trưởng khoa Đại Học Sư Phạm Hà Nội, thành viên Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, và sáng lập viên Câu Lạc Bộ Đoàn Kết. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong vụ “Cải Cách Ruộng Đất” và đề ra phương hướng để tránh mắc lại. Sau phát biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp. Sau đó, ông và gia đình bị cô lập với xã hội chung quanh, bản thân ông không được làm bất cứ nghề gì để kiếm tiền. Gia đình ông đã sống lây lất trong nghèo đói trong nhiều năm dài nhờ vào tiền bán dần mọi thứ trong nhà và nhờ sự giúp đỡ dấu diếm của bạn bè, thân hữu. Nguyễn Mạnh Tường mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi. “Kẻ bị khai trừ” được viết bằng tiếng Pháp – Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel – do Nguyễn Quốc Vĩ dịch sang tiếng Việt, tựa là “Kẻ Bị Rút Phép Thông Công”. Thuật ngữ “rút phép thông công” hay “vạ tuyệt thông” nói tới một kỷ luật nặng nề nhất trong Giáo hội Thiên Chúa Giáo khi một người bị cho là đã phạm trọng tội nên sẽ bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Giáo hội. Hiểu như thế thì ta sẽ thấy Nguyễn Mạnh Tường tự ví mình là một kẻ mắc tội trọng với Đảng Cộng Sản vì thế mà bị khai trừ vĩnh viễn khỏi xã hội. Bìa Hồi Ký của Nguyễn Mạnh Tường. Nguồn ảnh: OntheNet “Kẻ bị khai trừ” gồm có ba chương: 1– Đến đỉnh vinh quang. 2 – Mỏm đá Tarpeinne. 3 – Hành trình đi vào sa mạc. Ba chương này tương ứng với 3 đoạn đời của Nguyễn Mạnh Tường: 1 – Được cưng chiều (và bị lợi dụng). 2 – Phản kháng và bị “đấu tố”. 3 – Bị cô lập và đày đọa. Một trong những điểm đặc biệt của “văn” Nguyễn Mạnh Tường là mang nhiều điển tích Tây phương. Nếu đọc truyện Kiều mà không biết các điển tích Trung Hoa, ta sẽ rất khó hiểu hết ý nghĩa gởi gắm trong câu thơ; với Kẻ Bị Khai Trừ cũng thế, nếu một người không biết các điển tích cổ của phương Tây thì sẽ khó hiểu được trọn vẹn ý tác giả. Như chữ “Mỏm đá Tarpeinne”. Roche Tarpéienne – tiếng Pháp, hay, Tarpeian Rock – tiếng Anh, là một vực núi đá vách dựng đứng tại nước Ý. Thời cổ La Mã, những ai bị kết án giết người, phản bội, làm chứng dối, và những nô lệ phạm tội ăn cắp, sẽ bị xử tử bằng cách ném từ trên mỏm Tarpéienne xuống vực sâu. Đây là một hình phạt nặng nề hơn bị treo cổ hay đốt trên dàn lửa vì kẻ bị ném xuống vực – và gia đình họ – đã bị coi là những kẻ đồi bại, đáng nguyền rủa nhất trong xã hội. Khi hiểu được ý nghĩa của “Mỏm đá Tarpeinne” ta mới phần nào hình dung được cái bản án Đảng dành cho luật sư Nguyễn Mạnh Tường – người dám nghi ngờ sự lãnh đạo “anh minh” của Đảng. Thật ra Đảng đã sai lầm ngay từ đầu khi tưởng rằng có thể mua chuộc được Nguyễn Mạnh Tường bằng những thủ đoạn mua chuộc vuốt ve từng tỏ ra rất thành công với nhiều người khác. Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập đại hội tại thủ đô Bruxelles của Bỉ, nhà cầm quyền Bắc Việt tổ chức một đoàn đại diện đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường được giao làm trưởng đoàn với nhiệm vụ là làm sao được hội nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ dân tôc, quyền đấu tranh thống nhất đất nước. Luật sư Tường đã đọc một bản tham luận sắc bén, cháy bỏng lòng yêu nước và đã thuyết phục được hội nghị, đạt được thành quả mỹ mãn. Thế nhưng cố gắng của Nguyễn Mạnh Tường không hề để phục vụ cho Đảng, ông chỉ làm vì lòng yêu nước, vì muốn đất nước được thống nhất để tránh một cuộc chiến nồi da xáo thịt. Còn mỗi khi có dịp, ông sẵn sàng phân tích những sự thật rung rợn về chế độ Cộng Sản. Như khi ghé thủ đô Prague, gặp các luật gia Tiệp Khắc, ông mô tả bản chất của chế độ này trong một câu ngắn nhưng trọn vẹn: “Đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không có bất cứ ngành nghề nào là nghề tự do.” Nguyễn Mạnh Tường còn cảnh báo các đồng nghiệp biết rằng, trong các ngành nghề, Đảng ghét nhất là giới luật gia: “Nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới luật gia, trước hết vì họ là người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì luật gia là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái miệng để nói, hai thuộc tính gây ác cảm nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của họ. Hơn nữa, trong hàng ngũ trí thức, giới luật gia càng nổi trội với kiến thức về Luật, thông thạo, thường nắm vững các hội nghị, các cuộc phê bình, và hơn nữa, họ còn có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt vào thế tương phản với con người máy khúm núm nịnh bợ những kẻ chuyên quyền.” Điều Nguyễn Mạnh Tường nói quả không sai. Gần đây, giới luật sư là những người lên tiếng phản kháng mạnh mẽ nhất để chống lại những hành vi sai trái của Đảng. Các luật sự này được đào tạo dưới mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa và không hề dính dáng tới chế độ “ngụy”, vậy mà họ vẫn ương ngạnh làm “phức tạp và xáo trộn” những kế hoạch do Đảng đề ra; đó là những Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Lê Công Định, Trần Quốc Hiền,… Rồi tới khi ghé qua Liên Xô, cái nôi của chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Mạnh Tường cũng gặp gỡ và trò chuyện với các luật gia nước này. Ông bảo thẳng với bạn rằng Đảng CS sẽ tự chuốc lấy kết quả bi thảm: “Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối, nghĩ rằng mình có thể đưa ra nhừng đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa đất nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi pháp luật, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân.” Điều Nguyễn Mạnh Tường nói cũng đã thành sự thật, chế độ Cộng Sản đã đưa mọi quốc gia đến chỗ tận cùng lụn bại, để rồi Nga và các nước Đông Âu đã tìm mọi cách gỡ bỏ cái chủ nghĩa ma quái ấy để tự cứu lấy chính mình. Nếu như Nguyễn Mạnh Tường không kể lại những điều trên thì tới ngày nay người ta vẫn tưởng rằng ông Tường đã bị mờ mắt, bùi tai vì những chức tước và lời ca tụng của “Bác và Đảng” đã dành cho ông. Đảng nhìn lầm ông Tường chỉ vì họ tưởng ông cũng là loại như họ. Sự thật, Nguyễn Mạnh Tường là một người khác hẳn với họ, ông là người có học, có trí tuệ, và nhất là, có trái tim; vì thế ông không thể im lặng khi thấy đồng bào ông quằn quại dưới những nhát chém đẫm máu của cái-gọi-là Cải Cách Ruộng Đất. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường tại một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội đã đọc bài diễn văn có tựa đề “Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây dựng quan điểm lãnh đạo”. Bìa Kẻ bị khai trừ Nguồn ảnh: TQH Trong đó, Nguyễn Mạnh Tường chỉ rõ mọi tầng lớp nông dân, công nhân, tiểu thương, kể cả các cán bộ, đều phải chịu đau đớn cơ cực vì các cuộc đấu tố, xử giảo man rợ trong Cải Cách Ruộng Đất. Ông tin rằng pháp luật chân chính là phải theo nguyên tắc: “Thà 10 địch sót còn hơn 1 người bị kết án oan”. Cuối cùng, ông đề nghị phải xây dựng một chế độ pháp trị chân chính, thực sự dân chủ trong đó các cán bộ Đảng phải chiu trách nhiệm với việc mình làm, và mọi người dân được quyền lên tiếng. Hẳn không quá khó cho chúng ta biết Đảng đã làm gì với những đề nghị ấy. Cho tới tận ngày nay, Đảng vẫn ôm quan điểm “Thà chết 10 người oan còn hơn để sót 1 địch” vì đó là sức mạnh cốt lõi của chế độ. Kết quả, Đảng ném những đề nghị của ông Tường vào sọt rác và ném cái người dám nói những lời lẽ “phản động” ấy xuống vực Tarpéienne bằng cách đưa Nguyễn Mạnh Tường ra kiểm điểm công khai hòng bêu xấu ông, hạ gục ông trước mặt mọi người. Nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, đám đông đứng nghe như nuốt từng lời của vị lưỡng quốc luật sư tài giỏi và can trường. Đó là điều cực kỳ nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ. Cuối cùng, để trả thù nhưng không muốn đánh động dư luận, Đảng thi hành cái kế hèn hạ nhất, độc địa nhất mà chỉ có họ mới đủ ác để nghĩ ra: cho Nguyễn Mạnh Tường và gia đình được sống, nhưng đó là cái sống tệ hơn cái chết gấp trăm lần, cái sống mà không ai dám đến gần như thể họ là những kẻ cùi hủi, cái sống mà thân xác lúc nào cũng quằn quại đớn đau vì… đói. Tới đây, hẳn có người sẽ bảo ông Tường biết Cộng Sản nó gian nó ác, nó ngu dốt, nó cứng đầu mà còn muốn sửa sai nó, thế thì tự chuốc họa vào thân là đúng rồi. Tôi cũng đã từng nghĩ như thế, nhưng sau khi đọc những điều ông viết tôi chợt nhận ra rằng Nguyễn Mạnh Tường là một người có những khả năng kỳ lạ, một trong những khả năng ấy là ông có thể tự tách mình ra khỏi chính mình để quay lại nhìn mình. Trong ông là 2 con người: một người bình thường biết sợ, biết đau, biết đói, nhưng người kia lại rất bình thản, ung dung để có thể ngắm nghía và ghi nhận mọi sự kiện, ngay cả nỗi đau đớn của chính mình. Ta hãy xem thái độ của Nguyễn Mạnh Tường trước một buổi “kiểm điểm – xử án” mà ông gọi là màn “đấu bò” mà ông là chính con bò bị đẩy ra giữa đấu trường: “Cho đến hôm nay tôi đã phải trải qua những thử thách không ai có thể nghĩ tới. Trong tình thế đó, tôi có thể lượng sức chịu đựng của mịnh và sự tò mò đã giúp tôi vượt qua nỗi ức chế. Bất chấp các “đồng sự” đang lay động tấm vải đỏ trước mắt, chính tôi là kẻ tấn công!” Chính nhờ khả năng “tách mình làm đôi” ấy nên trong những lúc cùng quẫn nhất, ông vẫn tìm ra lối thoát cho mình; dù phải một mình đối đầu với kẻ địch to lớn nhất, ông vẫn giữ vẹn con người của mình. “Và ngày nay, đối diện với người Cộng Sản, người ta phải sống với thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình? Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm, bày biện và vui với nó. Phải tách góc nhà đó (nội tâm) khỏi cộng đồng vợ chồng, kể cả con cái, kể cả người dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy mình, chúng ta có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để rồi tự đánh giá và điều chỉnh bản thân.” Cái mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là “sự tò mò” phải chăng là cái cốt lõi nhất của một người làm khoa học, đó là lòng muốn biết, biết tới cái tận cùng của sự việc. Sự hiểu biết của nhà khoa học còn phải được chứng thực bằng thử nghiệm, do đó, nếu Nguyễn Mạnh Tường không thử hết các cách có thể làm được thì hẳn ông sẽ không thể cam lòng. Vì thế dù biết Đảng ghét và sợ bị phê bình và sẵn sàng khủng bố kẻ nào dám phê bình thì Nguyễn Mạnh Tường cũng vẫn phải thử. Nhiều người sống dưới chế độ Cộng Sản không dám thử kiểu ông Tường nên họ được sống yên tới già tới chết theo cái kiểu của Nguyễn Tuân “Tôi tồn tại được vì tôi biết sợ”. Nhưng, nghĩ lại mà coi, Nguyễn Mạnh Tường vẫn “tồn tại” tới cái tuổi cổ lai hy đó thôi. Cuối cùng, Đảng chẳng giết nổi ông. Nguyễn Mạnh Tường vẫn sống nhờ có sự giúp đỡ của những người chung quanh. “Và khi chúng tôi cạn kiệt tiền bạc thì tấm lòng hào hiệp của các người bạn ở trong nước hay ở nước ngoài ném cho những chiếc phao cứu hộ giúp chúng tôi nổi trên mặt nước thay vì phải chìm đến tận đáy sâu của hư không (…) Họ là những kẻ không tên, không biết mặt nhưng không thiếu thận trọng đã sáng tạo ra nhiều phương cách tài tình chế nhạo những kẻ cầm quyền trên thế giới, bất kể cái hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã chung tay làm nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của lòng trắc ẩn và sự tử tế, đưa bàn tay cứu giúp đến các nạn nhân của độc tài khát máu.” Hoặc nhờ những tấm lòng của người chung quanh, hoặc vì chính tấm lòng của Nguyễn Mạnh Tường quá lớn, hoặc vì cả hai, nên dù phải chịu sự tra tấn ác độc của kẻ thù, ông vẫn không hề đem lòng oán hận. “Tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ tôi trút cơn giận điên người lên chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho tôi: tôi chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu biết đòi hỏi mình phải tìm hiểu dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu và mặt khuyết, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ dẫn đến sự công bằng, và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.” Tất cả những điều Nguyễn Mạnh Tường viết về chủ nghĩa Cộng Sản, về Đảng Cộng Sản không là sự trả thù, đó chỉ là sự chiến đấu của một trí thức chống lại cái ngu, cái ác. “Cuộc chiến đấu của trí thức chống lại thứ độc tài mù quáng và vô nhân đạo bởi kẻ độc tài đã ra tay đày đọa người trí thức. Một trí thức, với cái liêm chính của con người và cái minh mẫn của tinh thần, là người lính chống lại kẻ áp chế chuyên lặp đi lặp lại các lời hứa hão huyền và sự bất lực đã phải cầu cứu đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng.” Cái đày đọa Nguyễn Mạnh Tường nhất, thật ra, không phải là cái khổ, cái đói, mà là ông không còn cơ hội truyền đạt kiến thức của mình cho các thế hệ đàn em. Đảng không chỉ tước đoạt quyền làm người, Đảng còn xé nát cả mơ ước được xây dựng đất nước của một người. Nhưng Đảng không toàn thắng như Đảng thường rêu rao, Đảng thua vì Nguyễn Mạnh Tường không chịu thua. Hơn 20 năm bị cô lập trong đói khổ, Nguyễn Mạnh Tường không ngừng viết. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm như một hiến dâng cho đất nước và dân tộc.(2) Vậy là, qua từng trang giấy, lần lượt Nguyễn Mạnh Tường đã trả lời đầy đủ cho tôi mọi câu hỏi. Nguyễn Mạnh Tường không ngu, cũng không dại, ông biết kẻ thù là ai, ông cũng biết số phận của mình rồi sẽ như thế nào. Sở dĩ Nguyễn Mạnh Tường làm những điều ông đã làm vì Nguyễn Mạnh Tường thà chọn cái khổ, cái chết hơn cái nhục, và cái nhục ở đây không là do kẻ khác gán lên mình, cái nhục nhã nhất là làm trái với lương tâm và rồi mình sẽ phải tự khinh bỉ chính mình. Nguyễn Mạnh Tường thà làm kẻ bị Đảng khai trừ nhưng không thể làm kẻ bị lương tâm nguyền rủa. Có thể xem “Kẻ bị khai trừ” là một tự truyện đau đớn và bi thảm của một con người yêu nước, tài hoa, nhưng bất hạnh; nhưng cũng có thể xem “Kẻ bị khai trừ” là một trường ca hào hùng của con người không khuất phục trước cái Ác, để rồi trong tận cùng đau khổ, người đó đã tìm ra chân lý đích thực cho chính mình. “Từ 1958 tới nay, gần bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách tồi tệ nhất mà người ta có thể gán cho một trí thức, một con người. Đó lại là những năm tuyệt vời mà tôi biết được. Tôi như được thăng hoa, sung sướng là đã thắng mọi nghịch cảnh mà người ta đưa ra để chặn đường sống của tôi, đã thể hiện cách sinh hoạt của mình hướng theo sở thích, theo chọn lựa và cống hiến khả năng khiêm nhường cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng tâm địa độc ác, đồi bại của những kẻ thề hạ gục tôi. Nhưng tôi vẫn tha thứ cho họ bằng cách lặp lại câu nói bất hủ: “Chúng không biết chúng đang làm gì!”. Người ta sẽ quên đi Cinna, và sẽ nhớ mãi August với lòng khoan dung quảng đại” (3) © DCVOnline DCVOnline (i) Bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Quốc Vĩ cuốn Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel của Nguyễn Mạnh Tường đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thông Luận với tựa đề Kẻ bị rút phép thông công. Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức Lời người dịch Cuốn tự truyện Kẻ bị rút phép thông công được cụ Nguyễn Mạnh Tường hoàn tất năm 1991 viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Anh năm 2008(*). […] Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009 © Thông Luận 2009 (*) Bản dịch tiếng Anh của Gs. Phó Bá Long hoàn tất năm 2008, nhưng hiện chưa ấn hành và phổ biến rộng. (ii) – Nguyen Manh Tuong, L’Annam dans la littérature française. Jules Boissière (1863-1897). Thèse complémentaire pour le doctorat ès lettres. Université de Montpellier. Faculté des lettres. Impr. de Mari Lavit, 1932 – 226 pages.- Nguyen Manh Tuong, L’Individu dans la vieille cité Annamite. Thèse pour le doctorat en droit. Université de Montpellier. [The Individual in the Old Annamese Society. (Trad. RAF.)] Édition: Montpellier: Impr. de la Presse, 1932 – 411 pages.(iii) Nguồn của tất cả các trích dẫn về/của Nguyễn Mạnh Tường (trong block quote) trong bài đều trong cuốn Kẻ bị khai trừ. (Tiếng Quê Hương, 2011). Chú thích của tác giả (1). Như trong bài “Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường” của Nguyễn Văn Hoàn (2009) nhân sinh nhật 100 năm (!?) của Nguyễn Mạnh Tường, đã cố tình lờ đi nhừng cuộc luân phiên đấu tố và những năm tháng bị bỏ đói mà ông đã phải chịu đựng, thay vào đó chỉ là câu trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Tường “Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa.” (2). Nguyễn Mạnh Tường để lại khoảng hơn 20 tác phẩm như: Nền tảng Pháp, Kinh nghiệm Địa Trung Hải, Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ, Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, Eschyle và bi kich của Hy Lạp, Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu, Virgile và sử thi Hy Lạp, Tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản, Bi kịch di dân, Tiểu thuyết về Việt Nam 1950-1990, v.v. Một số viết bằng tiếng Pháp chưa được dịch và in ra tiếng Việt. (3). – Câu “Chúng không biết chúng đang làm gì!” là viết tắt của câu “Lạy Cha, xin tha tội cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, là lời khấn nguyện của Đức Jesus khi Người đang chịu nạn trên thập giá (Phúc âm Lu-ca 23: 34). - Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la Clémence d’Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời người yêu là Émilie nên rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 7:14:09 GMT 9
Nói về khái niệm “vong thân” trong học thuyết MácHọc thuyết Mác, ít ra là thời trẻ hay trong giai đoạn đầu vẫn thường hay nói đến khái niệm sự vong thân. Nên nói cách khác, hai cái cốt lõi tạo nên hệ thống lý thuyết của Mác là ý niệm vong thân và ý niệm xã hội cộng sản không giai cấp.Điều này đúng ra cả những người cộng sản và những người phản đối cộng sản tức phản đối mác xít ngày nay phải cần nên biết. Bởi vì có hiểu sâu về hai phần này mới thật sự hiểu rõ về Mác, và ý nghĩa cộng sản mới trở nên tự giác mà không phải mơ hồ, cũng như ý nghĩa không thích cộng sản mới trở nên có cơ sở mà không phải chỉ mù quáng hoặc hoàn toàn cảm tính. Tất nhiên nói như vậy là nói đối với những người có lý tưởng theo đuổi hay có tinh thần vì xã hội thật sự mà không phải chỉ vì các thị hiếu nhất thời hay các quyền lợi riêng nhỏ hẹp hay cá nhân của mình. Vậy ý nghĩa của khái niệm sự vong thân là gì ? Ý niệm sự vong thân (alienation) khởi thủy xuất phát từ nhà triết học Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 –1831), là nhà triết học duy tâm người Đức nổi danh và đã được Karl Heinrich Marx (1818 –1883), tức Mác, nhà tư tưởng duy vật lấy lại. Hegel cho khởi thủy của tồn tại vũ trụ là Tinh thần như một thực thể ngầm ẩn, vô hình, nhưng mang tính siêu nhiên tuyệt đối. Khi thực thể Tinh thần đó tự phóng mình ra bên ngoài nó để trở thành tồn tại vũ trụ và thế giới cụ thể, đó chính là sự vong thân của nó. Vong thân có nghĩa là tự đánh mất bản thân của mình để trở thành cái gì đó trái lại, hay khác hẳn với mình. Mác đã lấy lại ý tưởng cơ bản này của Hegel, nhưng ông là nhà duy vật, nên đã chủ trương lật ngược Hegel lại như ông vẫn nói, và khái niệm vong thân được dùng hoàn toàn trong ý nghĩa con người nơi xã hội. Mác cho rằng xã hội tư bản chủ nghĩa là xã hội vong thân, giai cấp tư bản vong thân và giai cấp công nhân cũng vong thân. Giai cấp tư bản vong thân vì chỉ biết chạy theo lợi nhuận, lấy đồng tiền làm mục đích mà đánh mất bản thân con người tự nhiên của mình. Giới công nhân cũng vong thân, vì sản phẩm kinh tế mình làm ra không phải của mình mà là sở hữu của người khác, tức là giới tư bản, coi như vong thân trong cuộc sống nghèo khổ và trong lao động không nhằm cho chính mục đích riêng. Mác lấy ví dụ công nhân xây nhà nhưng nhà đó là của người khác, không phải sở hữu của mình. Từ trên cơ sở đó, Mác cho rằng nguồn gốc của vong thân nơi con người và xã hội chính là quyền tư hữu. Bởi vậy để chống lại vong thân, hay xóa bỏ vong thân và cứu vớt xã hội, cứu vớt con người, trả lại bản thân tự có cho con người, thì nhất thiết phải tiêu diệt quyền tư hữu, tiến tới xã hội cộng sản trong tương lai không còn giai cấp, không còn sự vong thân. Bài toán giải quyết về mặt kinh tế xã hội của Mác chính là sự làm ăn tập thể, theo kế hoạch hóa của toàn xã hội mà không theo nguyên tắc tự đầu tư kinh doanh của giai cấp tư bản làm ăn cá thể và riêng lẻ nữa. Đây cũng là chính sách kinh tế tập thể thời Lênin, thời công nông trường ở Trung Quốc thời Mao Trạch Đông, hay giai đoạn kinh tế bao cấp và làm chủ tập thể hợp tác xã thời kỳ Lê Duẩn ở Việt Nam. Nhưng kinh nghiệm thực tế cho thấy việc làm ăn tập thể hay sự hợp tác hóa sản xuất theo mô hình công nông trường đã hoàn toàn thất bại từ cả thời Lênin, đến cả thời Mao Trạch Đông và thời của Lê Duẩn. Các chính sách đổi mới của Liên Xô, của Trung Quốc, và sau này của Việt Nam đều đã cho thấy điều đó. Có nghĩa lý luận kinh tế xã hội của Mác đã không dựa trên thực chất tâm lý khách quan, tự nhiên của cá nhân con người mà chỉ suy đoán kiểu trừu tượng, tưởng tượng, tư biện thuần túy nên thực tế đã xa rời thực tại và bị thất bại. Nhưng ở đây không cần mở rộng ra thêm mà chỉ quy lại ý nghĩa của khái niệm vong thân. Nói khác Mác cho rằng trong xã hội tư bản hay tư sản, con người vong thân về mặt kinh tế, mặt xã hội, mặt tinh thần, hay nói chung là cả mặt đời sống và mặt văn hóa. Mác cho rằng xã hội tư bản là xã hội suy đồi về văn hóa, nên phải giải phóng nó để tạo nên xã hội vô sản cũng là nhằm chấm dứt mọi sự vong thân. Tuy nhiên, thực tế, khi Lênin lần đầu tiên thiết lập nền chuyên chính vô sản, thì hầu mọi cá nhân đều phải tuân thủ một cách triệt để máy móc theo lệnh lạc của nhà nước, mà đỉnh cao nhất là xã hội chuyên đoán toàn diện thời Stalin, cũng có nghĩa mọi sự vong thân của cá nhân và xã hội đều đã đạt đến đỉnh điểm cao nhất. Dưới thời của Mao Trạch Đông và thời kỳ ang ca của khmer đỏ đều không khác gì điều ấy. Nguyên [cả] xã hội đánh mất bản thân chính mình, thành tuyệt đối giả đối, thành ra bản thân khác, con người khác với điều tự có ban đầu trước đó của mình. Khái niệm chống vong thân của Mác đã trở thành như cái bumêriêng của thổ dân Úc châu khi ném đi lại quay về chính chỗ khởi điểm của nó. Có nghĩa mọi sự vong thân của cá nhân và xã hội con người trong các chế độ toàn trị đều thật sự hết sức nặng nề, không bất kỳ cá nhân nào thoát ra khỏi được, và nó thành xã hội vong thân toàn diện nhất, còn hơn cả trong chế độ tư bản mà Mác đã từng lên án. Bởi vì khi mọi người không còn có quyền phê phán, không có quyền ngôn luận đúng nghĩa, luôn luôn phải đánh mất bản thân mình vì sợ hãi sự nguy hiểm do người khác mang lại, thì quả cá nhân đó cũng tự đánh mất chính bản thân hay toàn thể xã hội không còn tự chủ, không còn khách quan, tự nhiên nữa, thì đó nếu không phải là sự vong thân thì gọi là gì tất mọi người cũng đều thấy. Thời kỳ miền Nam cũ trước đây, các Giáo sư triết học như Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung v.v… ở Đại học Huế và Đại học Sài gòn đều hay thích nói đến Mác và đến ý nghĩa vong thân của con người và xã hội mà chính Mác đề ra và nhấn mạnh. Nhưng thật sự, từ sau năm 75 trở lại đây không còn nghe trong xã hội có ai còn nhắc đến khái niệm vong thân của Mác nữa. Hầu như người ta đã quá quen với sự vong thân nên coi nó như không còn nữa hay cũng không còn gì để nói khi hoàn cảnh xã hội đã hoàn toàn biến chuyển và đổi khác. Thế nhưng nếu theo ý nghĩa sự vong thân của Mác, thì mọi sự biến đổi con người xa rời với chính bản thân mình chính là sự vong thân thực chất hay thực tế nhất. Chẳng hạn trong giáo dục nếu chỉ theo một chiều, trong truyền thông đại chúng nếu mọi nguồn thông tin đều không khách quan hay có sự định hướng hoặc hạn chế, làm cho cá nhân và xã hội đi xa trong cự ly đối với sự thật vốn có về nhiều phương diện hay về mọi mặt, thì đó nếu không phải tạo nên chính các cá nhân hay toàn xã hội vong thân thì gọi là gì. Có nghĩa chính những điều ban đầu do Mác hăng hái và lý tưởng hô hào cũng như chủ trương, cuối cùng chỉ đi ngược lại với chính ý nguyện ngay tình của Mác nơi xuất phát điểm của Mác, có phải chăng là chuyện gậy ông đập lưng ông khiến cho bao người buộc phải suy nghĩ. Nên nói chung lại, cả về mặt kinh tế xã hội chính trị lẫn quan điểm nhân bản, hầu như mọi lý tưởng ban đầu của Mác thực sự trong thực tế đều bị phản lại. Kiểu như trường hợp Tố Hữu đã từng làm thơ khóc Stalin một cách trình diễn và giả dối, đó quả là sự vong thân thượng đẳng nhất. Đó chính là sự tự đánh mất bản thân mình vì người khác, và cũng khiến cho nhiều người khác phải vong thân theo nhất là giới học sinh đọc các tác phẩm thi ca của Tố Hữu, thật quả là hệ thống vong thân dây chuyền mà có lẽ chính bản thân Mác ban đầu cũng không hề tiên liệu hay không hề ngờ tới. Vậy kết luận lại, Mác ngay từ đầu đã tự mình vong thân, hay ông chỉ khiến cho người khác vong thân, hoặc chính những người theo ông chỉ nhân danh ông để phản lại ông, và khiến cho ông đã trở thành chính tác giả đầu tiên cho sự vong thân toàn diện và đại trà nhất trong một giai đoạn đã vốn kéo dài rất lâu của toàn thể lịch sử xã hội loài người mà trước đó có thể chưa hề bao giờ có. (18/8/2013) Võ Hưng Thanh ******************************* Nguyễn Kiến Giang Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam(Lữ Phương sưu tầm, hiệu đính, giới thiệu)Diễn Đàn : Nhân ngày giỗ tướng Trần Độ cách đây không lâu, tiếp theo đó lại có những đề xuất chính trị của Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận; một cuộc thảo luận về dân chủ đa nguyên đang dấy lên. Chúng tôi vừa được nhà nghiên cứu Lữ Phương gửi đến hai tài liệu : "một của Trần Độ đã mất và một của Nguyễn Kiến Giang đang xoay xở khó khăn trên giường bệnh." như sự góp lời đối thoại trước thời gian, trên những nền gốc tinh thần... Cùng với tài liệu này chúng tôi cũng phát hành "Thư gửi anh Lữ Phương" của Trần Độ.
Vì tài liệu này quá dài, chúng tôi chỉ đăng bản giới thiệu của Lữ Phương dưới dạng bài theo chuẩn báo mạng. Toàn bộ tài liệu được đính kèm dưới dạng PDF, xin bạn đọc bấm vào dòng cuối trang này để đọc trực tuyến hoặc hạ tải về máy mình.Trả lời một cuộc phỏng vấn của BBC, Nguyễn Kiến Giang cho biết bài viết này của ông đã được trình bày tại một cuộc hội thảo ở Việt Nam vào năm 1995 (trước Đại hội Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam một năm), điều này cho chúng ta biết điều quan trọng sau đây: vào lúc bấy giờ, trong bản thân tầng lớp giới lãnh đạo của chế độ cộng sản Việt Nam đã có những chao đảo khiến những cấm kỵ về mặt ý thức hệ và hành chính mà chế độ từng đưa ra để ràng buộc, o ép giới trí thức và nghiên cứu từ lâu, nay đã không còn tác dụng trói buộc những dòng suy tưởng nằm ngay trong vòng kiểm soát của nó nữa. Ý thức hệ chính thống của chế độ, mệnh danh là “chủ nghĩa Mác-Lênin” đã bị cuộc sống đẩy vào một cơn khủng hoảng chưa từng gặp, điều mà những ai đã sống qua cái đời sống tư tưởng của Việt Nam những năm 1986 đến 1991 đều không thể nào quên, do những tác động ghê gớm của perestroika cùng với sự sụp đổ sau đó của Đông Âu và Liên Xô: sau những nỗ lực “vận dụng” lại chủ nghĩa Mác-Lênin để tạo lại sức sống cho một mô hình chủ nghĩa xã hội bị xơ cứng, sai lầm, chính trong hàng ngũ những người cộng sản mà tác giả gọi là “lành mạnh” đã xuất hiện xu hướng muốn nhìn lại ngay sự tồn tại của bản thân cái học thuyết chính thống mệnh danh là “Mác-Lênin” ấy. Những phát biểu của Nguyễn Kiến Giang trong bài viết này đã đi theo xu hướng “nhìn lại” một cách tổng hợp vai trò lịch sử của cái ý thức hệ đó đối với xã hội Việt Nam suốt một thế kỷ đã qua. Hàng loạt những vấn đề học thuật căn bản đã được đặt lại với những lý giải mới (phi chính thống) dựa vào một số tài liệu mới của giới nghiên cứu (như phương pháp tiếp cận, bối cảnh lịch sử, các hình thức du nhập…) nhưng điều quan trọng nhất được tác giả trình bày tập trung ở đây chính là cái học thuyết “Mác-Lênin” đặc biệt mang nội dung stalinít và maoít được Đảng Cộng sản chọn lựa, căn cứ vào đó phấn đấu kiến tạo nên một nước Việt Nam mới trong tương lai. Phân biệt giai đoạn chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập với giai đoạn xây dựng hoà bình là điều mấu chốt để tác giả nhìn xét các sự việc đã qua. Phản bác những ý kiến chỉ nhìn thấy những sai lầm và tai hại toàn diện, trước sau như một của ý thức hệ Mác-Lênin với đất nước, tác giả đã phân tích những nhu cầu lịch sử đặc biệt của Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ trước dưới sự thống trị của thực dân để thuyết minh cho tính chính đáng của sự lựa chọn cộng sản (mà Hồ Chí Minh là đại biểu) đối với việc giải quyết điều mà tác giả gọi là “hệ vấn đề” của đất nước vào lúc bấy giờ, tức là một loạt những vấn đề mà tác giả cho rằng dù có khác nhau về quan điểm, tất cả các phong trào yêu nước đều có thể chia sẻ là độc lập dân tộc và canh tân xã hội. Ý thức hệ cộng sản theo mô thức stalinít được Đảng Cộng sản chọn lựa để giải quyết “hệ vấn đề” nói trên, tuy mang trong bản thân những “căn tính” nguy hiểm, nhưng do phải tập trung vào nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ giành độc lập là chống sự đô hộ của thực dân nên chưa có điều kiện để bộc lộ, trái lại, theo tác giả, đã chứa đựng nhiều điều tích cực trong động lực lẫn phương pháp tranh đấu. Tác giả đã dành nhiều đoạn trình bày luận cứ này: tiếp thêm sức mạnh cho chủ nghĩa yêu nước nội tại một lý tưởng mới về công bằng xã hội, tìm chỗ dựa có thể tin cậy ở bên ngoài để hỗ trợ cuộc tranh đấu bên trong, khai thác được lực lượng quần chúng đông đảo bên dưới làm chỗ dựa, tập trung được sức mạnh vào bộ tham mưu chỉ huy để giành chiến thắng v.v… Bên cạnh những mặt tích cực ấy, tác giả cũng đã nói nhiều đến những tiêu cực của ý thức hệ Mác-Lênin nói trên. Nhưng theo ông thì những sai lầm ấy chỉ bộc lộ rõ rệt, ngày càng hiển nhiên, trong thời kỳ hoà bình, đặc biệt vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước khi chế độ rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn diện. Những gì tạo ra những cái gọi là “ưu thế” trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, mang vào xây dựng, đã có tác dụng rất tệ hại: gò ép cuộc sống theo cái sơ đồ tương lai không tưởng, sùng bái các từng lớp bên dưới, xem thường trí thức bên trên, đồng hoá sự chọn lựa của Đảng với sự chọn lựa của nhân dân, độc tôn chân lý và quyền lực, bắt con người thường xuyên hy sinh cho tập thể, kinh tế không hiệu quả, mức sống người dân sa sút, bất mãn, mất lòng tin v.v… Qua những gì đã phân tích, tác giả đã đi đến kết luận hết sức quan trọng sau đây: “Cuộc sống đã chứng minh khá đầy đủ rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã thuộc về quá khứ (một quá khứ thật oanh liệt, đầy những hào hùng và những bi kịch), mà không thuộc về hiện tại, lại càng không thuộc về tương lai. Ở một mức độ nào đó, “số phận” của nó cũng giống như “số phận” của Nho giáo ngày xưa”. Tác giả cho rằng cuộc sống hiện nay đang phát triển theo một chiều hướng khác hoàn toàn với cái ý thức hệ Mác-Lênin ấy, cho nên ông đã đề nghị Đảng Cộng sản nên ý thức rõ điều đó để lãnh đạo dân tộc đi tìm con đường phát triển mới cho đất nước, trong đó điều đầu tiên được ông khẩn thiết kêu gọi là “không nên biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một vật phân chia xã hội về mặt tinh thần và tư tưởng để loại bỏ nhau”. Giới thiệu một số nét chủ yếu trong bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong tình hình hiện nay, tôi đề nghị độc giả chú ý một số điểm sau đây: Bài viết này của tác giả là một bài phát biểu trước một hội thảo do chế độ đương quyền tổ chức và kiểm soát. Việc đánh giá các mặt tích cực lẫn tiêu cực của tác giả với cái ý thức hệ chính thống của chế độ đã giữ được sự ôn tồn, khách quan để thuyết phục nhưng cũng không vì thế mà kém quyết liệt, triệt để. Với tư cách là một nhà nghiên cứu, những vấn đề ông đặt ra là hoàn toàn mang tính chất học thuật nghiêm chỉnh. Điều này cho chúng ta biết cách đây đã rất lâu rồi, Nguyễn Kiến Giang là một trong những người đã tạo ra xu hướng nghiên cứu đứng từ phía bên trong, trực diện yêu cầu Đảng Cộng sản xem xét lại tính chính đáng của học thuyết mệnh danh “Mác-Lênin” trước tình hình mới của đất nước và thế giới. Kết luận cuối cùng của tác giả về sự lỗi thời bất lực của ý thức hệ chính thống của chế độ mà chúng ta đã biết, đối với riêng ông, là một kết luận không dễ dàng: trả lời BBC, ông cho biết kết luận ấy đã được tìm ra sau một quá trình nhiều bước khó khăn, đau đớn, dằn vặt. Vì vậy có thể xem bài viết của ông là một bản kiểm nghiệm trung thực, can đảm với bản thân nhưng lại tỏ ra bao dung, thanh thản trước cái chế độ mà mình hiến dâng cả đời cho nó và cũng vì nó mà gặp phải nhiều lao đao. Với những người đã chọn lựa một thái độ trí thức như ông thì những kết án mệnh danh là “phản bội” đến từ phía bên này hoặc những yêu cầu đòi phải “sám hối” nhiều hơn đến từ phía bên kia, là hoàn toàn vô nghĩa. Trong khi kêu gọi Đảng Cộng sản chủ động từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin lỗi thời, tác giả không hề đặt quá nhiều ảo tưởng vào đề nghị ấy. “Có sự từ bỏ ngày càng triệt để. Có sự từ bỏ ngập ngừng. Có sự từ bỏ theo lối sách lược. Và cũng có cả sự không chịu từ bỏ. Bằng con mắt bình tĩnh, không khó gì mà không nhận ra tình trạng giằng co hiện nay xung quanh chủ nghĩa Mác-Lênin” – nhận xét này tác giả đã đưa ra cách đây hơn 10 năm, đến nay vẫn còn ý nghĩa. Chủ trương “đổi mới” mà Đảng Cộng sản Việt Nam buộc phải nương theo cuộc sống để thực hiện, từ đó đến nay, vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lùng nhùng về ý thức hệ như tác giả đã nói, cũng vì thế, bên cạnh những chuyển biến tích cực thì về nhiều mặt (như chính trị, văn hoá) lại ngày càng đẩy đất nước vào những khủng hoảng trầm trọng hơn. Việc “biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một vật phân chia xã hội về mặt tinh thần và tư tưởng để loại bỏ nhau” do những chiếc lưỡi gỗ của Đảng chủ xướng vẫn không hề giảm bớt. Cuộc đấu tranh thanh toán “chủ nghĩa Mác-Lênin” có nội dung stalinít và maoít mà tác giả trình bày vì vậy vẫn chưa thể chấm dứt. Chúng ta không quên rằng bài phát biểu này của tác giả đã đã diễn ra cách đây hơn 10 năm rồi. Nếu ngày nay viết lại, chắc chắn nó sẽ được tác giả bổ sung về mặt tư liệu lẫn nhận định để làm cho lập luận được đầy đủ, chặt chẽ hơn. Đặc biệt không thể triển hạn việc cần thiết phải nhìn lại hệ thống tư tưởng của Marx, Engels, căn cứ vào đó làm rõ hơn những sai lầm trong nội dung của cái học thuyết gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” mà ông đề cập. Không làm sáng tỏ được điều này, chúng ta không thể nào nhìn ra được cái ảo tưởng cội nguồn của cuộc cách mạng mácxít trong cả một thời kỳ, vì đó sẽ không thể chấm dứt được những toan tính tiếp tục “vận dụng” chủ nghĩa Marx để biện minh cho những thể chế toàn trị, từ đó sinh ra những mưu toan ngược lại, muốn triệt hạ nó bằng cách đồng hoá nó với những thể chế toàn trị ấy. Về mặt lý luận, chúng ta đều biết rằng bản thân chủ nghĩa Marx là một vấn đề triết học phức tạp, không thể “bảo vệ” hoặc “phủ nhận” bằng những thủ đoạn chính trị nhất thời, thực dụng và thô bạo. Sài Gòn, 1-4-2005 Lữ Phương ******************* Họa Nguyễn ThânTrong các loại tai họa, không có tai họa nào lớn bằng tai họa mất nước. Chống giặc khó một thì chống phản quốc, tay sai khó 10. Giặc gây tội ác 1, tay sai gây 10.Trong một stt trước tôi có nhắc đến một viên tay sai khét tiếng là Nguyễn Thân, tội ác hắn gây ra cho dân tộc thì không bút nào tả xiết. Phương pháp gây tội ác của hắn là làm theo ý giặc, khủng bố nghĩa sĩ. Tôi thấy, ngày nay tình hình cũng tương tự, có một bộ phận làm theo ý giặc, ngăn cản chuyện tưởng niệm anh hùng tử sĩ đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa tổ quốc. Theo kế hoạch, sáng 19.1.2014, tôi có tham gia một số hoạt động cổ súy chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. Tuy nhiên, mới sáng tinh mơ, tôi đã bị một nhóm đông đảo công an gõ cửa phòng yêu cầu làm việc về trộm cắp (tôi sẽ viết stt cập nhật chuyện này). Chuyện là phòng bên có khách thuê trọ báo mất đồ. Phải mất khá lâu, với lời lẽ kiên quyết, tôi với người bạn Nguyễn Duy Quang (tối qua Nguyễn Duy Quang đến phòng tôi ngủ lại) mới đi được. Có một chiếc xe CSGT đỗ cách chỗ tôi ở tầm 300m, họ chạy theo và vượt tôi một đoạn, rồi họ dừng lại. Quan sát thấy, tôi nghĩ họ có thể chặn tôi để sách nhiễu giấy tờ nên tôi quay xe lại. Quan sát qua gương chiếu hậu, tôi thấy xe này cũng quay theo. Tuy nhiên vì đi xe máy cơ động nên tôi dễ dàng “cắt đuôi” để đi đến quán cafe như đã hẹn. Tại quán cafe, tôi gặp nhiều gương mặt nhân viên công quyền tôi quen biết, họ từng làm việc với tôi trước đây. Tôi có lên tiếng chào một anh làm bên tuyên giáo nhưng anh bẽn lẽn đi mà không đáp. Chúng tôi ngồi uống cafe tầm 15 phút thì chủ quán đề nghị chúng tôi đi ra. Hỏi lý do thì chủ quán cho biết là quán có người bao cả quán trước. Chúng tôi có ngồi thêm một lát thì chủ quán ra làm căng nên chúng tôi quyết định đi đến quán khác. Quan sát thì thấy quán còn nhiều ghế trống. Ra ngoài lấy xe, tôi thấy có nhân viên bảo vệ khu phố mặc sắc phục và nhiều người lạ đeo khẩu trang lảng vảng. Chúng tôi đến một quán khác cách đó tầm 500m, giây lát cũng có nhiều người lạ đến. Một số kéo ghế ngồi quanh bàn chúng tôi. Một vị đến nói chuyện gì đó với chủ quán. Không khí có vẻ cũng không được thoải mái lắm. Sau một thời gian cafe, nói chuyện, trao đổi về câu chuyện chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa và ý tưởng công trình gây quỹ Hoàng Sa-Trường Sa, chúng tôi dự định mặc chiếc áo có in logo ý tưởng để chụp hình thì có một nhân viên quán đến ngăn lại. Họ bảo quán chỉ phục vụ khách uống cafe, không cho phép chụp hình. Dù chúng tôi có thuyết phục nhưng không được. Cuối cùng chỉ có thể chụp được duy nhất một bước ảnh tôi và một số người bạn cầm chiếc áo trước ngực tượng trưng. Thật sự, hôm nay trời Đà Nẵng rất đẹp, bạn bè đến dự buổi cafe cũng đông, toàn bạn bè thân quen nhưng trong lòng ai nấy cũng nặng trĩu nỗi buồn. Tôi chợt nghĩ đến những người con của đất mẹ VN, 40 năm trước đây họ đã ngã xuống, dùng máu xương để bảo vệ cho được lãnh hải của tổ quốc. Họ nằm giữa biển khơi chắc là lạnh lẽo lắm. Giữa chốn Đà thành phồn hoa đô thị mà một ly cafe không bình yên thì HOÀNG SA SAO BÌNH YÊN? Bài học lịch sử cho thấy họa mất nước được nối giáo bởi những kẻ như Nguyễn Thân. Tôi có một nỗi lo lắng làm sao để nhiều người Việt Nam thấy được mối họa này? Nguyễn Văn Thạnh ************************************** Nhà nước VN ngầm công nhận “đường lưỡi bò”?Sáng nay, vào đọc các báo mạng lề phải (mà không phải), lề trái (mà không trái) đều thấy in bài của Thông tấn xã Việt Nam nhan đề: “Việt Nam và Trung Quốc cần tăng cường sự tin cậy” nói về cuộc gặp gỡ giữa chủ tịch nước Trương Tấn Sang và chủ tịch nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa kiêm chủ tịch -tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại diễn đàn APEC 20 Vladivostok ( Nga). Riêng báo Tuổi Trẻ đặt lại “tít-đầu đề”: “Không để biển đông ảnh hưởng đến quan hệ Việt Trung’ đúng nhất với tinh thần nội dung thảo luận của hai vị chủ tịch hai nước: NƯỚC MÔI và NƯỚC RĂNG, xin trích: “Thứ Bảy, 08/09/2012, 08:12 (GMT+7) Không để biển Đông ảnh hưởng quan hệ Việt – Trung TT – Ngày 7-9 tại Vladivostok (Nga), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gặp Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nhân Hội nghị cấp cao APEC 20 -Ảnh: Giản Thanh Sơn Tại cuộc gặp, hai nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng trong tình hình hiện nay, việc không ngừng tăng cường sự tin cậy về chính trị, làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hai nhà lãnh đạo cũng nhất trí về nhiều phương hướng lớn thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới như duy trì, tăng cường các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai nước; thúc đẩy hợp tác thực chất cùng có lợi trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế – thương mại; tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, nhất là giữa thế hệ trẻ hai nước; tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước; phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực và quốc tế. Về vấn đề trên biển, hai bên cần kiên trì thông qua đàm phán, đối thoại giải quyết thỏa đáng vấn đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình, không để vấn đề biển Đông ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của quan hệ hai nước.”(hết trích) Khi hai vị đứng đầu nhà nước đã bỏ ĐƯỜNG LƯỠI BÒ là phần đường ranh biển Đông do Trung Quốc đã vẽ tấm bản đồ xâm lược cướp hết biển Đông của Việt Nam ra ngoài nghị sự, ra ngoài các cuộc đàm phán song phương, thì thôi rồi Lượm ơi, chủ tịch Trương Tấn Sang coi như đã công nhận ĐƯỜNG LƯỠI BÒ ăn cướp hết biển Việt Nam của Trung Quốc là biển của Trung Quốc rồi … Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa và mấy đảo Trường sa, lại đưa 23.000 tàu vũ trang treo lưới đánh cá tràn ngập hai quần đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam như cơm bữa, cướp tàu cướp cá, cướp hết ngư trường của dân Việt Nam trên chính biển của Việt Nam mà quan hệ hai nước vẫn tốt đẹp à? Đã thế, Trung Quốc sẽ nâng mối quan hệ hai nước tốt đẹp lên bội phần là sau đại hội đảng cộng sản Trung Quốc tháng 11 này, Trung Quốc sẽ cho biển người, biển tàu, biển hạm đội tràn ngập chiếm hết quần đảo Trường Sa của Việt Nam; vì theo thỏa thuận này, Việt Nam vẫn sẽ vui vẻ phấn khởi vỗ tay hoan hô 4 tốt và 16 chữ vàng (khè), vẫn ngồi im xem NƯỚC RĂNG CHIẾM HẾT BIỂN NƯỚC MÔI sao mà nhanh rứa (không phải Tô Huy…)? Dù Trung Quốc có chiếm hết biển Đông thì mối quan hệ hai nước vẫn tốt đẹp, đúng như thỏa thuận của ông Trương Tấn Sang và ông hồ Cẩm Đào tại Vladivostok hôm qua : bỏ vấn đề BIỂN ĐÔNG ra ngoài cac cuốc đàm phán giữa hai nước: KHÔNG ĐỂ BIỂN ĐÔNG LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ HAI NƯỚC. Đến đây thì nhà bình luận quốc tế bất đắc dĩ là Trần Mạnh Hảo cũng phải thốt lên rằng: Chính quyền của đảng cộng sản đang cai trị Việt Nam đã ngầm công nhận ĐƯỜNG LƯỠI BÒ ĂN CƯỚP NGOÀI BIỂN ĐÔNG LÀ CHÍNH THỨC CỦA TRUNG QUỐC rồi! Than ôi, thời oanh liệt (Ngô Lý Trần Lê Nguyễn (Tây Sơn) nay còn đâu …? Người viết bài này hồi còn bé đã được Đảng dạy cho bài hát đến giờ còn thuộc: “ Việt Nam Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông chung một biển đông mối tình hữu nghị sáng như rạng đông…”…Hóa ra, vấn đề lưỡi bò hôm nay hai đảng anh em Trung Việt đã thỏa thuận từ xưa: BIỂN ĐÔNG LÀ CỦA CHUNG HAI NƯỚC: nước tôi lớn tôi lấy phần biển lớn, đồng chí nước bé lấy phần biển bé…trước sau rồi mục tiếu xã hội chủ nghĩa cũng phải đến là xóa bỏ biên giới Việt Trung … Mới thấy lời lên án bọn “CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ” của chủ tịch nước Trương Tấn Sang hôm kỷ niệm quốc khánh 2-9-2012 vừa qua là chuyện thật như đùa hay chuyện đùa như thật? Do đó, ông Trương Tấn Sang mới thấy mình và các đồng chí của ông lấy làm “HỔ THẸN VỚI TIỀN NHÂN” lắm lắm… Sài Gòn 08-9-2012 Trần Mạnh Hảo ***************** Chủ tịch Huyện đảo Hoàng Sa! Thôi đi! Đừng bày trò!Đặng Công Ngữ Đôi lời dẫn: Những lời tuyên truyền dối trá, người nghe biết là dối trá, nhưng được cơ quan tuyên truyền nhại đi nhại lại, chúng sẽ thấm nhập vào tim óc người nghe và rồi không ít người tin là thật! Thế thì tại sao chúng ta không thể nhắc đi nhắc lại nhiều lần những điều có thật bị bưng bít? Sự thật phải được sáng tỏ! Do đó, nếu phải nói, phải viết, nói đi, viết lại để phanh phui những sự thật bị ém nhẹm, che giấu, thiết tưởng chẳng có gì là quá đáng cả. Đó là lý do chúng tôi làm sống lại ở đây sự việc đã từng một thời ôn ào trên báo chí lề đảng ở Việt Nam. Mong quý độc giả đón nhận, góp thêm tiếng nói cùng tư liệu để tiếp tục vạch mặt bọn bán nước hại dân núp dưới chiêu bài “nhân dân”. “Đem một thước sông, một tấc đất… làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di!” (lời Vua Lê Thánh Tôn) Cách đây 3 năm, báo chí luồng đảng trong nước ầm ĩ chuyện UBND TP Đà Nẵng ngày 25/4/2009 công bố quyết định thành lập “huyện đảo Hoàng Sa” và bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ giữ chức Chủ tịch UBND huyện này với nhiệm kỳ 5 năm (2009-2014), bên cạnh đó người ta còn “đề xuất” mở môn lịch sử về Hoàng Sa làm “thí điểm” cho học sinh Thành phố Đà Nẵng, dọn đường để môn sử ấy trở thành môn học chính khóa cho sinh viên học sinh cả nước. Báo chí luồng đảng gọi hai sự kiện ấy là hai “điểm son” của chế độ. Bấy giờ chúng tôi lập tức có bài viết “Ai phản quốc? Ai bán nước?” vạch trần bề trái của hai “điểm son” ấy. Trong bài viết ấy, chúng tôi trưng dẫn nhiều tài liệu minh chứng hành vi bán nước của tập đoàn CSVN, một hành vi mang tính liên tục và tính kế thừa từ lớp quan chức này tới lớp quan chức khác suốt chiều dài lịch sử từ đầu thập niên 1950 đến nay. Bức tranh rách cũ! Ở bài viết trên, chúng tôi quả quyết sự kiện “thành lập Huyện đảo Hoàng Sa” và việc “bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ giữ chức Chủ tịch Huyện đảo” Hoàng Sa chỉ là một kịch bản tuồng hề mà Đặng Công Ngữ được giao thủ vai kép hề để diễn tuồng một cách vụng về vô duyên kệch cỡm. Cái “UBND huyện đảo” Hoàng Sa cũng chỉ là sản phẩm của bộ óc lừa đảo đẳng cấp quốc tế! CSVN vẽ lên giấy những màn tuồng kịch ấy không ngoài mục đích lừa phỉnh những người dân chất phác trong nước không có điều kiện kiểm chứng lịch sử. Cái gọi là sáng kiến môn “lịch sử về Hoàng Sa” cho sinh viên học sinh cũng là đại bịp. Bởi lẽ, nhà cầm quyền CSVN sẽ giảng giải thế nào trong giáo trình môn sử Hoàng Sa ý nghĩa và tác động của công hàm 1958 do Phạm Văn Đồng ký tên đóng dấu? Giải thích thế nào về những cam kết của Ung Văn Khiêm, đại diện đảng và Nhà nước Cộng sản Hà Nội với Trung Cộng về Hoàng Sa và Trường Sa? Có biện bạch phân bua được không sự im lặng của nhà cầm quyền Hà Nội biểu thị đồng tình với Trung Cộng trong việc chúng đánh cướp Hoàng Sa năm 1974? Mới đây nhất, dưới nhan đề “Giảng dạy chủ quyền biển đảo trong năm học mới”, báo Đất Việt của lề đảng trong nước ngày 01/9/2012 lại có bản tin: “Tại TP. Nha Trang (Khánh Hòa), hơn 120 giáo viên, cán bộ chủ chốt của các trường trung học phổ thông, các phòng giáo dục, trung tâm giáo dục thường xuyên trên toàn tỉnh đã tham gia tập huấn chuyên đề “Chủ quyền biển đảo” do Sở GD&ĐT tổ chức.” Bài báo nêu rõ: “Đây là hoạt động tiền đề nhằm triển khai việc giảng dạy chủ quyền biển đảo đến các em học sinh trong năm học 2012- 2013. Các giáo viên được tập huấn 4 nội dung: khái quát về biển đảo nước ta, tình hình biển đảo hiện nay, quan điểm của Đảng về chủ quyền biển đảo; lịch sử chủ quyền của nước ta – phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; giới thiệu Trường Sa hôm nay và trách nhiệm bảo vệ biển đảo quê hương của thế hệ trẻ Khánh Hòa.” Về hướng dạy và học sử, tờ Đất Việt cho biết; “Khối tiểu học chỉ truyền đạt nội dung giới thiệu về Trường Sa hôm nay, khối trung học cơ sở thêm phần lịch sử chủ quyền…” Có phải vì Huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng, và Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa mà Đà Nẵng và Khánh Hòa có quyền làm chương trình môn sử riêng Hoàng Sa cho học sinh Đà Nẵng và Trường Sa cho học sinh Khánh Hòa không? Tại sao nó không là Chương trình từ Bộ Giáo dục? Công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng đóng dấu ký tên năm 1958 và hành động phản quốc của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa “gật đầu tán đồng” cho Trung Cộng cưỡng đoạt Hoàng Sa bằng vũ khí, bạo lực và sát nhân năm 1974 phải chăng là hai trở lực chính ngăn cản tập đoàn CSVN tránh né lịch sử? Trong bài viết “Ai phản quốc? Ai bán nước?” chúng tôi đã chứng minh tính bất khả thi của “sáng kiến” kiểu thùng rỗng kêu to nêu trên như sau đây: Chương trình chính khóa môn lịch sử Hoàng Sa Trong bài báo “Dạy và Học lịch sử Hoàng Sa” (Lao Động số 93 Ngày 28/04/2009), ông Hà Văn Thịnh ghi nhận: “Ông GĐ Sở GDĐT Đà Nẵng Huỳnh Văn Hoa cho biết, kể từ năm học 2009-2010, lịch sử Hoàng Sa sẽ được giảng dạy trong chương trình chính khóa của các cấp học ở Đà Nẵng!” Ông Thịnh tung hô “Đà Nẵng lại đi đầu cả nước trong cách nghĩ, cách đặt và giải quyết vấn đề.” Và ông làm ra vẻ hoảng hốt la lên: “Chúng ta bỗng giật mình vì tại sao đến bây giờ con cháu mình không hề được học, được hiểu về lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa…?” Ông Hà Văn Thịnh còn hỏi: “Tại sao chỉ có Đà Nẵng dạy cho học sinh học, còn học sinh cả nước thì chưa? Tại sao Bộ GDĐT lại chậm trễ đến như thế trong cách giáo dục lòng yêu nước và tinh thần dân tộc?” Bộ GDĐT của CSVN không “chậm trễ” đâu, mà chính là vì Bộ này không thể qua mặt cái Bộ khác tuy là thứ Bộ không Bộ nào, nhưng lại cái Bộ cao chót vót đầy quyền lực đứng trên mọi thứ Bộ của nhà nước và cả Nhà nước. Nó cực kỳ to lớn, cực kỳ oai phong lẫm liệt. Quyền uy của nó là tột đỉnh. Tên nó là Bộ Chính Trị Đảng CSVN. Nó đóng vai trò đại chủ nhân, bao trùm, thống lãnh và “định hướng” mọi việc của đất nước, thậm chí tùy tiện định đoạt cả họa phúc (họa nhiều hơn phúc gấp bội) của toàn dân và của đất nước. Đến nỗi, một bản án dành cho một người dân về tội chính trị… không phải do Tòa Án hay một bộ phận nào của Cơ quan Tư pháp định đoạt, mà do Đảng áp đặt trước khi Tòa diễn tuồng xét xử. Vụ bauxite Tây Nguyên là một trong vô số điển hình cho thấy quyền quyết định là ở Bộ Chính Trị Đảng CS, chứ không phải ở Quốc Hội hay Chính phủ. Chính phủ là nô bộc, Quốc hội là bù nhìn và “nhân dân” là rác rưởi, ngoài lề. Bộ Chính Trị là Thượng Đế! Trong bài viết hồi năm 2009, chúng tôi đã khẳng định: Còn lâu Bộ Chính Trị mới để cho Bộ Giáo Dục & Đào Tạo mở chương trình chính khóa dạy lịch sử đảo Hoàng Sa cho học sinh cả nước. Việc dạy lịch sử đảo Hoàng Sa cho học sinh cả nước sẽ bắt buộc đụng chạm tới Đảng CSVN, đụng chạm tới quá trình phản quốc của đám cầm đầu Đảng và Nhà nước CSVN từ trước tới nay! Việc dạy lịch sử Hoàng Sa có nguy cơ đẩy Đảng tới chỗ tiêu vong khi mà chương trình dạy và học lịch sử ấy xuất hiện nơi học đường với những dữ kiện lịch sử đúng đắn trung thực. Bởi nó sẽ trở thành “gậy ông đập lưng ông” đánh vào Đảng CSVN và các cơ chế của đảng này! Vì vậy, dạy và học lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa là chuyện viển vông đối với chế độ CS. Chủ tịch Huyện đảo Hoàng Sa đâu rồi? Ngoài ra, trong bài viết năm 2009, chúng tôi cũng đã mạnh mẽ thách thức ông Đặng Công Ngữ và “Ủy Ban” của ông (UBND/Huyện đảo Hoàng Sa) hãy có những động thái tích cực để chứng tỏ tính “nhân dân” hàm chứa trong “trọng trách chủ tịch Huyện” của ông lẫn các thành viên trong cái UBND của ông là bởi dân, vì dân, với dân, cho dân. Chúng tôi cũng thách thức cả những quan chức bên trên ông (Thành phố Đà Nẵng, Chính quyền Trung Ương, Bộ Chính Trị Đảng) dám ra tay cứu ngư dân và mạnh tay giành lại Hoàng Sa về cho chủ nhân đích thực của nó: Việt Nam. Suốt 3 năm trường từ đó đến nay (2009-2012), “Chủ tịch” Đặng Công Ngữ lặn đâu mất. Cái UBND “huyện đảo” Hoàng Sa cũng chẳng được nhắc đến một lần nào trên các cơ quan truyền thông “luồng đảng”! Hay là Đặng Công Ngữ đã rinh cả cái UBND bề thế của ông “tập kết” ở một nơi bí mật nào đó trên quần đảo Hoàng Sa, mở căn cứ (mật khu) nằm vùng chống Tàu cứu nước? Nhưng chúng ta không nên ảo tưởng về một cuộc “trường kỳ kháng chiến” của ông Ngữ. Bởi vì: Ông Đặng Công Ngữ trong tư cách Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa đã bày tỏ thái độ gì chưa trước sự kiện cái website www.vietnamchina.gov.vn là của chính phủ do Bộ Công Thương phụ trách đã để cho Trung Cộng thao túng ngang nhiên đăng tải những bài viết bằng tiếng Việt hay dịch sang tiếng Việt những nội dung ngợi ca những “thành tựu” của Trung Quốc cùng quảng bá chủ nghĩa bá quyền bành trướng của họ trên Biển Đông? Cụ thể là lời tuyên bố của bà Khương Du, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Cộng, được trình bày nguyên văn tiếng Việt trên trang www.vietnamchina.gov.vn ngày 29/4/2009 rằng: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] cùng vùng biển xung quanh. Trung Quốc và Việt Nam không tồn tại tranh luận đối với quần đảo Tây Sa.” Trang web của Bộ Công Thương Việt Nam còn quảng bá lời tuyên bố của mụ Phương Du: “Cách làm kể trên của phía Việt Nam [tức là cách dựng nên UBND huyện đảo Hoàng Sa mà ông Ngữ được ủy thác làm chủ tịch] là trái phép và vô hiệu”? Một quan chức Nhà nước CSVN (trong Bộ Công Thương) dõng dạc tuyên bố: “Trang web là của ta, nhưng Trung Quốc phụ trách.” Nói như vậy khác nào nói “Đất đảo là của ta, nhưng Trung Quốc sử dụng!” Ông Đặng Công Ngữ có hành xử nhiệm vụ chủ tịch của ông chưa để điều tra “tàu vận tải nước ngoài” là tàu nào, của ai ngày 19/5/2009 đã đâm chìm một tàu đánh cá của ngư dân xã Bình Chánh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (tin từ báo Lao Động số 110 ngày 21/5/2009), tại khu vực đảo Hoàng Sa tức là vùng lãnh hải do ông Ngữ trách nhiệm “trấn thủ?” Ông Ngữ có dám làm gì không trước việc Trung Quốc vừa ra lệnh nghiêm cấm các tàu nước khác “xâm phạm” vùng lãnh hải mà họ nói là thuộc chủ quyền của họ đồng thời ngăm đe “trừng phạt” tàu nước khác vi phạm lệnh cấm, khiến hàng trăm tàu thuyền lớn nhỏ của ngư dân Việt Nam phải nằm phơi tại các bến đỗ, và bản thân ngư dân cùng gia đình chờ chết đói? (Tuổi Trẻ & VietnamNet ngày 02/6/2009). Trên thực tế, “nhiều vùng nằm trong khu vực cấm này thuộc lãnh hải Việt Nam và ngư phủ Việt Nam đã nhiều đời khai thác hải sản tại đây.” Trong khi đó, phía CSVN chỉ phát biểu lập lờ kiểu nước đôi mà Trung Quốc đã quen thuộc và chắc chắn là hài lòng! CSVN chỉ sợ tổn hại đến tình hữu nghị của hai đảng anh em, chứ đâu quan tâm gì tới chủ quyền VN trên các vùng lãnh hải và hải đảo ấy hay tới sự an nguy của ngư dân Việt Nam!. Những điểm nêu trên đều xảy ra sau khi ông Ngữ nhận chức Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Ông câm như hến. Người dân có quyền nghi ngờ rằng cái chức chủ tịch của ông chỉ là chức giả, một thứ bánh vẽ dành cho bản thân ông và thành phố Đà Nẵng và thậm chí chỉ là trò bịp đối với nhân dân cả nước. Đồng thời, người dân cũng có quyền nghi ngờ về tính khả thi của lời ông Ngữ long trọng thề nguyền nhân lễ ‘nhậm chức’ của ông: “Với cương vị Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa tôi thấy rõ trách nhiệm của mình nặng nề hơn trước nhân dân. Đây là mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc, là máu thịt của tôi, của dân tộc và của tổ quốc mình. Nhiệm vụ trước mắt của chúng tôi là sẽ tiếp tục đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biển đảo Việt Nam. Hoàng Sa là của Việt Nam.” Từ cái ngày “lịch sử” điểm son của chế độ Từ cái ngày “lịch sử” 25/4/2009, ngày báo chí luồng đảng đánh trống khua chiêng tung hô “sáng kiến” thành lập “Huyện đảo Hoàng Sa” và hết lời ca ngợi Đặng Công Ngữ “nhà lãnh đạo đầy năng lực của Huyện đảo Hoàng Sa tân lập…” đến nay đã hơn 3 năm, người dân chẳng hề nghe thấy Đặng Công Ngữ làm gì cho “huyện đảo” ông đang nắm quyền cai trị. Trong khi đó Hoàng Sa của Việt Nam lại bị bọn Hán tộc bắc phương biến thành đặc khu quân sự của chúng! Ngày 19/7/2012, Quân ủy Trung ương Trung Cộng lại chính thức thành lập “Cơ quan chỉ huy quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chỉ hai ngày sau, ngày 21/7/2012, Trung Quốc lại tổ chức bầu cử “đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I của thành phố Tam Sa”. Chúng trịch thượng và hung hăng ra lệnh cấm cản, xua đuổi không cho Việt Nam khai thác dầu khí trong khu vực, để chúng ngang ngược độc quyền trải đầy dàn khoan làm thu đoạt tài nguyên dầu khí vốn là tài sản của Việt Nam. Chưa hết! Hàng ngàn, hàng vạn tàu đánh cá Trung Cộng ồ ạt tiến ra Biển Đông, dày đặc trong khu vực Hoàng Sa và Trường Sa, độc chiếm quyền vơ vét hải sản. Từ ngày 25/4/2009 đến nay, biết bao tai họa dồn dập giáng xuống đầu ngư dân Việt Nam và gia đình họ. Thuyền bè của ngư dân Việt Nam kiếm sống trong hải phận Việt Nam không ngừng bị Trung Cộng xua đuổi, bắt bớ, bắn đắm… Quân Trung Cộng liên tục leo thang khiêu khích, xâm chiếm trái phép, cướp đoạt trắng trợn. Người dân cả nước ngóng trông “Chủ tịch” họ Đặng cùng cái “Ủy ban” của đương sự cũng như trông chờ vào đám cầm đầu thượng tầng từ thành phố Đà Nẵng (mà Huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc) tới Trung ương Đảng và Chính phủ.. Nhưng tất cả đều có vẻ như lặn sâu dưới đáy đại dương mênh mông. Chủ tịch Huyện đảo Hoàng Sa! Thôi đi! Đừng bày trò! Thử tìm tung tích thế lực thù địch Vì những mắc mướu với “đàn anh vĩ đại Trung Quốc”, nhà cầm quyền CSVN không thể nào “đồng lòng”, “đồng tâm”, “đồng thuận” với dân nước trong ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của quốc gia dân tộc. Đã vậy, họ còn quy chụp các cuộc xuống đường biểu tình của người dân bày tỏ lòng yêu nước chống quân xâm lược… là phản động, là chống phá, là thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Họ không còn chút “sĩ diện quốc gia”, quyết tiêu diệt tinh thần yêu nước của người dân! Họ ra sức truy bắt, đánh đập, tù đày bất kỳ ai tham gia hay cổ vũ biểu tình yêu nước! Sử dụng “bạo lực cách mạng” (Công an và Quân đội) không hiệu quả và có thể bị quốc tế lên án, CSVN huy động côn đồ du đãng! Thậm chí lùa Công an và Quân đội ra đóng vai “quần chúng tự phát”… theo khung “xã hội đen”! Trong khi đó, với bọn ngoại xâm đích thị là kẻ thù của dân tộc, đích thị là thế lực thù địch đang sờ sờ tác oai tác quái trên quê hương từ biển đảo tới biên giới lẫn nội địa thì vẫn cứ “thắm thiết tình hữu nghị đời đời bất diệt”, vẫn “mãi mãi không quên ơn các đồng chí anh em luôn kề vai sát cánh”! Trong bài viết “Công hàm 1958 Phạm Văn Đồng theo ‘lý giải’ của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam”, chúng tôi có trích dẫn lời trách cứ của Dương Danh Huy rằng: “Điều đáng buồn là thay vì nghiên cứu nghiêm túc nó có hiệu lực gì và tìm lý lẽ phản biện nó thì có khi người ta lại đem nó ra để phê phán nhau, v.v….” Ông Huy cảnh báo “người Việt không nên góp phần làm tăng giá trị tuyên truyền cho Trung Quốc.” Chúng tôi xác nhận một lần nữa: TÁC NHÂN “làm tăng giá trị tuyên truyền” cho Trung Quốc chính là Công hàm 1958 và các tác giả của nó chứ không ai khác hay cái gì khác. Mỗi lần Biển Đông dậy sóng là mỗi lần Trung Cộng mang cái Công hàm ấy ra làm chứng cớ. Có nhục không? Có đau không? Kết luận: Như vậy, nói tới Công hàm 1958, chúng tôi không “nối giáo cho giặc” Trung Cộng, không tạo cho TC cái cớ để Trung Cộng xâm chiếm đất nước Việt Nam! Chính cái Công hàm ấy cùng các các giả của nó cũng như các văn kiện cắt đất nhượng biển khác cho quân xâm lược phương bắc mới là thủ phạm chính danh “nối giáo cho giặc”! Nhà cầm quyền CSVN muốn giảm thiểu hay triệt tiêu giá trị của Công hàm ấy thì cứ tranh biện hơn thua với Trung Quốc đi! Còn chúng tôi, người dân Việt, trong tư cách là thành phần của dân tộc và Tổ quốc Việt Nam, chúng tôi có quyền và có bổn phận phải vạch mặt chỉ tên kẻ phản quốc và hành vi bán nước của họ. Với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, kẻ nào táng tận lương tâm đánh mất một phần chủ quyền lãnh hải hay lãnh thổ của đất nước, kẻ ấy phải chịu tội trước quốc gia và dân tộc! Tội ấy không nhỏ như vua Lê Thánh Tôn đã truyền: “Đem một thước sông, một tấc đất… làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di!” Cả Vua Trần Nhân Tôn cũng đã từng nêu rõ: “… Cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải… Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.” Nguồn: Dân Làm Báo ************************************** Một chuyện bỏ đảng Vũ Thư Hiên Nhân chuyện ông Lê Hiếu Đằng nằm trên giường bệnh còn hô hào các đồng chí bỏ đảng (cộng sản), tôi xin hầu các bạn một chuyện bỏ đảng (tất nhiên ở nước ta là đảng cộng sản, đảng duy nhất, khỏi nhắc lại mà rườm) theo cách hi hữu, riêng tôi chưa từng gặp. Chuyện bỏ đảng thông thường diễn ra theo cách êm – ấy là khi chuyển công tác, hay chuyển chỗ ở (các quan hay chữ gọi là chuyển địa bàn cư trú), đảng viên được cấp một tấm giấy gọi là giấy chuyển sinh hoạt đảng, để đảng viên tiếp tục họp chi bộ ở nơi mới chuyển đến. Không trình giấy ấy, bỏ bê không liên hệ với tổ chức đảng trong một thời gian nhất định, sẽ bị cắt sinh hoạt đảng (tức là không còn được coi là đảng viên nữa). Nhưng ra khỏi đảng cách ấy khác xa với việc bị đảng khai trừ. Người bị khai trừ coi như có dấu nung đóng lên mặt, đi đâu cũng gặp lắm chuyện lôi thôi, nhất là với các ông bà cán bộ tổ chức, với công an, khi anh còn trong tuổi làm việc. Ra sao cho êm có nghĩa là như thế. Chứ mà làm đơn xin ra đảng thì rách việc lắm lắm – hành động đó được đảng, và cả thiên hạ nữa, đánh giá như sự bôi gio trát trấu vào mặt đảng, rằng đảng chẳng ra cái chó gì, tôi không thích ở với các người nữa, tôi chán lắm rồi, tôi cút. Cái đó sẽ làm cho đảng cáu. Đảng toàn năng mà đã cáu thì hậu quả là khôn lường, người xin ra đảng sẽ lãnh đủ, đủ cái gì thì chẳng cần nhiều trí tưởng tượng cũng đoán ra. Tôi có anh bạn là đảng viên cộng sản, anh này thấy người ta bày ra các trò gọi là đảng lãnh đạo toàn diện như buộc đảng viên phải thi hành mọi nghị quyết trên ban xuống, cấm ho he, chỉ một mực nhắm mắt chấp hành, như cái cách cơ cấu các cấp uỷ đảng (là sắp đặt trước ấy mà) trước các cuộc bầu bán trong nội bộ đảng, hoặc như trong các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân hay Quốc Hội thì cho người dặn trước cử tri nhớ gạch tên cái thằng số 8, con mẹ số 9…, những chuyện như thế với người khác coi như không sao, xưa nay vẫn thế, nhưng anh thì lại bực mình. Mới quyết định ra khỏi đảng. Anh không viết đơn, mà gửi cho chi bộ của anh một tuyên bố . Anh viết thế này: “… Trước nay, trong mọi việc tôi làm, trong mọi hành xử liên quan tới tư cách đảng viên. tôi thường tự vấn: tôi có xứng đáng với đảng không? Chưa bao giờ câu hỏi ngược được đặt ra: trong mọi việc đảng làm, đảng có xứng đáng với tôi không? Nay thì câu hỏi ấy đã được đặt ra, và câu trả lời là: đảng không xứng đáng với tôi. Nên tôi ra.” Tôi ra! Nguồn: OntheNet Anh cho tôi xem lá đơn, à quên, bản tuyên bố ấy, trước khi gửi đi. Tôi băn khoăn, nói: “Thế này có căng quá không?” Anh đáp: “Chuyện nó là thế thì mình viết đúng thế, có gì mà quá!” Vào những năm 60 thế kỷ trước, cái cách bỏ đảng như thế là chuyện động trời. Tôi hồi hộp theo dõi hậu quả việc làm không giống ai của bạn mình. Tôi lo cho anh lắm. May, rồi anh không bị làm sao hết. Người ta nói: đó là trường hợp đặc biệt – thời đảng còn trong bí mật mẹ anh từng che giấu, nuôi nấng rất nhiều các vị sau này làm to, từ chủ tịch nước trở xuống, nên người ta không nỡ xuống tay với anh. Phải người khác ấy à, có mà toi cả họ.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 16:57:36 GMT 9
Ông Việt cộng Nguyễn Mạnh TườngTrần Văn Tích, BS May 11, 20130 Cộng sản tàn ác, thâm hiểm, đểu cáng. Vì vậy phải chống nó. Chừng nào còn cộng sản thì còn phải chống. Chống một cách tự nhiên. Không thể bảo rằng cải cách ruộng đất, thảm sát Mậu thân, tù đày khổ sai, đánh tư sản mại bản v.v..đã thuộc về quá khứ; giờ chẳng cần nhắc nhở nữa. Và nên để cho những con người lịch sử dính dáng đến các tội phạm lịch sử ngủ yên với lịch sử. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường và bà Tống Lệ Dung năm 1937 Suy nghĩ như thế tỏ ra nông cạn, hời hợt; nếu không là thiên cộng, theo cộng. Biết bao nhiêu trí thức đã tiếp tay cho tội ác các đảng cộng sản. Lẽ ra, sau khi chế độ cộng sản cáo chung ở châu Âu, phải không còn đầu óc bình thường nào thuộc cộng đồng người Việt lưu vong đi theo cộng sản nữa, một khi đã học được bài học lịch sử nhãn tiền. Nhưng thực tế trái ngược hẳn. Có kẻ đào tẩu trối chết tháng tư 75 sang được Mỹ bây giờ quay trở lại Hànội cùng bầy cộng nô hát bài hát của Phạm Tuyên. Có kẻ no cơm rững mỡ trên đất Hoa Kỳ bỗng dưng cho đăng bài báo tán dương cộng phỉ, mạ lỵ chế độ quốc gia, bêu riếu Quân lực Việt Nam Cộng Hoà để rồi có người hết sức vận dụng kiến thức luật học nhằm bênh vực cho hành động đốn mạt đó. Các thành phần dân tộc vừa kể đang sống đoạn đời chống đối, phá hoại ngày nào của những Jane Fonda, Simone de Beauvoir. Nhưng nếu Jane Fonda đã tự thú trong My life so far (2003): All of us were deceived; nhưng nếu Simone de Beauvoir đã cảm thán trong Mémoires d’une jeune fille rangée (1958): J’ai été flouée thì có một số những kẻ gọi là có học (có thể là trí thức) người Việt vẫn đang dốc lòng dốc sức làm lợi cho Việt cộng. Họ chưa sống đến thời điểm để mà nhìn trở lại và thấy là mình deceived, mình floué. Họ rất cần một bài học. Bài học đó, nhân vật lịch sử Nguyễn Mạnh Tường có thể cung cấp miễn phí cho họ. Xã hội lạc hậu và bán khai Việt Nam những năm đầu thập niên 30 thế kỷ trước đã vô hình trung tạo nên một vầng hào quang giả tạo xung quanh tên họ Nguyễn Mạnh Tường. Ai đi học thì cũng lên lớp, ai lên lớp thì cũng đi thi, ai đi thi thì cũng có bằng. Ông Nguyễn Mạnh Tường học tiếng Pháp từ thuở ấu thơ, hết trường Paul Bert đến trường Albert Sarraut. Ông đỗ Tú tài Pháp. Ông tiếp tục sang Pháp học Đại học. Theo đuổi đủ học trình, ông tốt nghiệp. Tập quán Đại học đòi hỏi ông phải trình thèse. Ông trình luận án về luật Hồng Đức để lấy tiến sĩ luật. Ông trình luận án về nước Annam trong văn chương Pháp để lấy tiến sĩ văn chương(1). Đầu đề (hay các đầu đề) luận án tiến sĩ văn chương của ông Tường không gây được ấn tượng mới lạ, bổ ích khi đọc chúng. Nhưng đầu đề luận án tiến sĩ luật khoa L’individu dans la vieille cité annamite. Essai de synthèse sur le Code des Lê thì lại khiến tôi thắc mắc, ngạc nhiên. Tôi không tìm được tài liệu hay nhân chứng nào xác quyết rằng người thanh niên 23 tuổi Nguyễn Mạnh Tường là một bậc thâm nho.(2) Tuy nhiên không phải cứ giỏi chữ Hán là hiểu thấu đáo các danh từ chuyên môn luật học, khoa học để có thể chuyển dịch chúng sang các ngôn ngữ khác một cách chính xác.(3) Đó là về phía thí sinh. Về phía giám khảo thì chẳng lẽ hội đồng giám khảo xét duyệt luận án Nguyễn Mạnh Tường qui tụ toàn những nhà Hán học cự phách người Pháp vào tầm cỡ Paul Démiéville, Étiemble, Paul Schneider? (chư vị này không hề là nhân viên giảng huấn đại học). Trò không biết chữ Hán, thầy không biết chữ Hán mà lại có một công trình học thuật trình bày trước hội đồng khoa học luật học dựa vào một bộ luật chữ Hán để được công nhận học vị tiến sĩ!! Lạ một điều là chẳng ai để ý đến khía cạnh này cả. Trái lại một số người cứ hùa theo nhau mà khen lấy khen để, coi như đây là một kỳ tích, một vĩ nghiệp. Phần tôi thì không rơi vào cái khối người lên đồng tập thể đó. Tôi chỉ chấp nhận rằng đây là một bí mật của Trường Đại học Luật khoa Montpellier!! Trong số những người ngưỡng mộ ông Nguyễn Mạnh Tường qua tư cách “lưỡng khoa tiến sĩ“, không hề có bất cứ ai nêu ra được một hoặc vài khía cạnh độc đáo, mới lạ, có giá trị, sensationnels của hai/ba luận án mà ông là chủ nhân. Vọng ngoại, mặc cảm khiến người ta không còn ý thức trong nhận thức. Người ta khen theo phản xạ dây chuyền. Trong khi đó thì công trình nhằm đạt học vị cao nhất ở bậc đại học của ông Nguyễn Mạnh Tường liên quan đến văn học “An nam“ từng khiến thầy trò Dương Quảng Hàm-Nguyễn Hiến Lê phải nhỏ lệ và ông “nghè“ họ Nguyễn đã bị Nguyễn Hiến Lê cùng nhóm bạn đồng học “ghét lây“ (4). Có thể nói mà không sợ sai là cả hai/ba luận án Nguyễn Mạnh Tường hầu như không hề bước ra khỏi tủ sách thư viện hai trường đại học luật khoa và văn khoa Montpellier(5). Đỗ đạt xong ông Nguyễn Mạnh Tường về nước. Nhưng rồi ông lại ra đi. Ông sang châu Âu những năm từ 1932 đến 1936 để du lịch và nghiên cứu. Ông ngừng chân ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập. Dẫu vậy ông Tường không hề biết đến. 1) chuyến đi Liên Xô của Gide năm 1936 với hai tác phẩm Retour de l’URSS và Retouches à mon Retour de l’URSS; 2) năm 1933 André Breton bị khai trừ khỏi đảng cộng sản Pháp và bị tống xuất ra khỏi AEAR (Association des Écrivains et Artistes Révolutionnaires), một công cụ ngoại vi của đảng cộng sản Pháp; 3) Paul Éluard vào đảng cộng sản Pháp năm 1927 để bỏ đảng năm 1933, 4) Arthur Koestler vào đảng cộng sản Đức năm 1932 để bỏ đảng năm 1938; 5) tham gia Đại hội Văn học ở Mạc Tư Khoa mùa hè 1934, André Malraux đập thẳng thừng nhà văn Nga Nikoulin vì chủ trương quản lý tư tưởng của tên bồi bút cộng sản. Ngoài ra, trước đó không lâu, Mayakovski tự tử bằng một phát súng lục bắn thẳng vào tim năm 1930. Không biết đến loi de vérité của Gide, không biết đến amour de la vérité của Malraux nên lưỡng khoa tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường cúc cung tận tụy phục vụ chế độ tàn bạo cộng sản Bắc Việt qua hành động và ngôn ngữ dẫm nát chân lý, xuyên tạc sự thực nhằm vu cáo chế độ Việt Nam Cộng Hoà tại Hội nghị Luật gia Dân chủ ở Bruxelles tháng 5 năm 1956. Trong cuốn tự truyện viết bằng tiếng Pháp Un Excommunié, Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel (Kẻ bị mất phép thông công, Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức), do Quê Mẹ xuất bản năm 1992 tại Paris, và căn cứ vào bản dịch của Nguyễn Quốc Vĩ, chúng ta được biết luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã lợi dụng diễn đàn của Hội Luật gia Dân chủ ở Bỉ để một mặt xấc xược lăng mạ chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, mặt khác, trắng trợn vu khống chế độ quốc gia. Ông Tường cho rằng chính Miền Nam đã gây ra cảnh chia đôi đất nước, tạo nên nỗi đau đứt ruột cho nhiều gia đình bị phân ly. Ông kết án chế độ quốc gia đã cho tàu tuần cao tốc bắn chết những người yêu chuộng tự do tìm cách vượt sông Bến Hải để sang bên kia bờ vỹ tuyến 17 nhằm đặt chân vào thiên đường xã hội chủ nghĩa của ông. Ông tố cáo nền công lý tự do dân chủ đã sử dụng máy chém hành hình hàng loạt những công dân vô tội đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Và ông vận dụng tài năng hùng biện để công khai cổ xúy chiến tranh Nam-Bắc, ông sử dụng xàm ngôn xảo ngữ để hô hào xâm lược Việt Nam Cộng Hoà. Tri thức của ông Tường nghèo nàn đến nỗi ông không biết là ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã không chịu ký vào mớ giấy lộn mệnh danh là Hiệp định Genève, thính giác ông hạn chế đến nỗi ông không hề nghe vang vọng tiếng sáo Võ Thành Minh bên bờ hồ Léman. Nhãn quan ông thiển cận đến nỗi ông không hiểu được điều sơ đẳng mà một em bé học trò tiểu học cũng biết : không hề có một người dân Tây Đức nào liều chết vượt tường sang Đông Đức, chẳng làm gì có một công dân Nam Hàn nào thí mạng vượt vùng phi quân sự để lọt vào lãnh thổ Bắc Hàn. Mà chỉ có ngược lại, chỉ có ngược lại, chỉ có ngược lại mà thôi. Nạn nhân trên sóng nước Bến Hải là nhà thơ nhà văn Vũ Anh Khanh, tác giả Tha la xóm đạo, bị những tên đồng loã khốn nạn của ông Nguyễn Mạnh Tường tàn sát trên đường vuợt tuyến. Cái máy chém của ông Nguyễn Mạnh Tường quả có một nạn nhân, đó là Ba Cụt, nhưng nạn nhân này không hề chết vì đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Ăn nói hàm hồ, lập luận xảo trá, ông Nguyễn Mạnh Tường vì quá sợ không biết “phải ăn nói ra sao với lãnh đạo đây?“(sic!) nên đã tự bán đứng nhân cách. Hơn nữa, qua những lời hoa ngôn điêu ngữ gian dối hô hào chiến tranh Nam-Bắc, ông đã góp phần trực tiếp vào những vụ tận diệt lương dân Tết Mậu Thân, thảm sát trẻ thơ ở Cai Lậy và ngay cả vụ Mỹ Lai nữa. Riêng đối với vợ con, ông Nguyễn Mạnh Tường, qua cung cách ứng xử của bản thân, đã mang tội lớn gây cho họ cảnh sống dở chết dở khiến tiểu gia đình của ông mất hết khả năng chống đối, chỉ còn sức tàn chống đói. Người ta phục ông Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường nói tiếng Pháp cừ khôi, diễn thuyết không cần giấy tờ ghi chép, cứ hai tay đút túi quần thao thao bất tuyệt trong khi Tây Đầm cắm cúi ghi. Ngày nay biết bao nhiêu người Việt Nam có thể nói tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức v.v..”à la Nguyễn Mạnh Tường”! Tôi cũng có thể nói cho công chúng Đức nghe, tôi cũng có thể giảng cho bác sĩ Đức hiểu theo cung cách Nguyễn Mạnh Tường. Bởi vì vốn dĩ thần tượng giảng huấn của tôi là nhị vị giáo sư Paul Hagenmuller và Nguyễn Hữu. Mà chắc ông Tường không phụ trách trình bày về đông y bằng Đức ngữ như tôi! Sau cải cách ruộng đất, ông Nguyễn Mạnh Tường vì lên tiếng về luật lệ nên bị thất sủng và bị đoạ đày. Người ta bảo ông đã đánh vào xương tủy của chế độ độc tài đảng trị. Sau 1975, tôi cũng từng đập thẳng vào hệ thống lý luận khoa học của miền Bắc qua cuốn Đông y xybécnêtíc do Trương Thìn in (và Trương Thìn cũng biết là tôi đập!). Tôi từng phang túi bụi học thuyết Pavlov, tôi từng hết tay đả phá lý luận Lyssenko, tôi từng thẳng thừng vạch rõ Kim Bong Han là bịp bợm và tôi làm những việc này một cách công khai, trước mặt Ban Tuyến huấn Thành ủy Sàigòn. Đến nỗi giới chức lãnh đạo thành Hồ phải mời tiến sĩ Phan Phải từ Hà nội vào giải thích cho họ về học thuyết di truyền hiện đại, đồng thời đưa ông tiến sĩ tốt nghiệp ở Liên Xô lên cả tivi nói chuyện cùng quần chúng6. Thế nhưng tôi đâu có bị cộng sản trù dập; trái lại, vào một ngày đẹp trời, cộng sản để cho tôi cùng gia đình năm người thơ thới lên máy bay rời nước. Ông Nguyễn Mạnh Tường kể xấu, kể tội cộng sản. Đó có thể xem là việc của riêng ông. Ân thì đền, oán thì trả. Người quốc gia chân chính có trình độ cần/nên nhìn ông một cách chín chắn. Mực thước khen ngợi Ông trong một số vấn đề nhưng không nhẹ dạ khen ngợi những điều chẳng có gì đáng để khen ngợi. Khi ông Nguyễn Mạnh Tường lên tiếng sau cải cách ruộng đất thì chúng ta ghi nhận lòng can đảm của ông. Khi ông tường thuật những hành động tàn nhẫn của cộng sản đối với bản thân ông và gia đình, chúng ta hoan nghênh ông. Nhưng khi ông hồ đồ buộc tội chính quyền quốc gia thì chúng ta phải chỉ ra rằng ông sai trái. Trong vấn đề này người cộng sản tỏ ra sắc sảo, nhạy bén, lợi hại – và thủ đoạn – hơn hẳn người quốc gia khi cái quan định luận về Nguyễn Mạnh Tường (7). Trên Wikipedia phần tiếng Việt – rõ ràng là do những người cộng sản trình bày – chỉ thấy ghi nhận rằng ông Nguyễn Mạnh Tường đã hai lần tham dự các hội nghị quốc tế vào năm 1952; lần thứ nhất ở Bắc Kinh (Hội nghị Bảo vệ Hoà bình Châu Á-Thái Bình Dương) và lần thứ hai, ba tháng sau, ở Vienne (Đại hội Hoà bình Thế giới). Kẻ thù của chúng ta đã thấy rõ tội ác mà ông Nguyễn Mạnh Tường từng trót phạm đối với tổ quốc dân tộc tại Hội nghị Luật gia Dân chủ Bruxelles năm 1956 và chúng đã bắt đầu tẩy xoá những bằng chứng tội phạm; song song với vô số biện pháp khác cùng chiều hướng và mục đích như áp lực bắt đục bỏ bia tỵ nạn ở một số nước Đông Nam Á, lưu manh xuyên tạc vụ thảm sát Mậu Thân v.v.. Đoàn đại biểu CS Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa bình ở Vienne (1952). Người đứng giữa ôm cặp tài liệu là Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Trên thế giới có rất nhiều người đã từng hăng hái thu thập những kiến thức về chủ nghĩa xã hội, đã từng đam mê nghiên cứu học thuyết Marx-Lénine, đã từng đề cao, tán dương, tin tưởng thiên đường cộng sản. Nhưng độc lập trong đường hướng và phương pháp tư duy, không mảy may lệ thuộc vào hành trang tri thức đã gom góp; họ, những người đáng kính đó, ở một khúc ngoặt của cuộc đời trí thức, đã can đảm đoạn tuyệt với đảng cộng sản, đã hạ bệ không thương tiếc thần tượng cũ. Và tích cực hơn nữa, họ dấn thân bênh vực các nạn nhân của độc tài đảng trị, họ đả kích kịch liệt chủ nghĩa Satan-Mephisto. Qua tư cách là những người có văn hoá, có dũng khí, có trí tuệ; họ đã sáng tác những áng văn chương sau khi phản tỉnh đáng được xem là những tác phẩm văn học lớn. Họ là André Gide, George Orwell, Vladimir Vladimirovitsh Mayakovski, Jean Paul Sartre, Roger Vailland, Roger Garaudy, André Breton, Marguerite Duras, Arthur Koestler, Paul Éluard, Gy’rgy Lukács, André Malraux, Henri Miller, Cesare Pavese, Charles Péguy, Theodor Plievier, Francis Ponge, John Steinback, Vercors v.v.. Ông Nguyễn Mạnh Tường không thuộc hàng ngũ của những nhân vật lịch sử vừa kể. Khác với họ, hoàn toàn khác với họ, ông chỉ có cái tiểu thông minh tầm thường để thung dung trót lọt học và thi nhưng không hề có cái đại trí tuệ xuất chúng của trí thức, của thiên sứ. Trong chế độ quốc xã có những bác sĩ trở thành tội đồ của nhân loại vì tiến hành các thử nghiệm phi nhân trên thân thể những người chế độ không ưa, nhất là trên cơ thể người Do thái. Trong chế độ cộng sản Đông Đức cũ, có những bác sĩ IM (inoffizieller Mitarbeiter) cộng tác viên của cơ quan Mật vụ Stasi, chuyên nghề rình mò theo dõi người khác để báo cáo cho công an. Đối với những hạng người này – những hạng người đem kiến thức chuyên môn phục vụ ác quỷ ngạ quỷ – các cơ quan truyền thông báo chí Đức ngữ thường xuyên phổ biến tài liệu về chúng, mặc dầu nước Đức thống nhất đang hưởng qui chế dân chủ tự do; khác với Việt nam, đang có một cộng đồng hải ngoại một sống một chết với cộng sản và một tập thể đồng bào đang ngắc ngoải vật vờ dưới chế độ cộng sản. Do đó không thể không nhắc đến những con người, những hành động phải nhắc đến. Riêng cá nhân tôi thì chỉ đơn giản xem Luật sư Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường là một ông Việt cộng. 1. Về đầu đề của luận án văn khoa do ông Nguyễn Mạnh Tường đệ trình, có tài liệu ghi là L’Annam dans la littérature française, Jules Boisières (sic) nhưng cũng có tài liệu ghi là Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred de Musset. Jules Boissière (1863-1897) là nhà thơ nhà báo Pháp từng sinh sống ở Bắc Việt thời Pháp thuộc, từng giữ chức phó công sứ, từ trần ở Hà nội; tác giả Fumeurs d’Opium. 2. Nữ sĩ Thụy Khuê – theo Wikipedia tiếng Việt – cho biết ông Tường “học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt“nhưng chỉ sau khi ông đã đỗ tiến sĩ. Không rõ xuất xứ và mức chính xác của nguồn thông tin này. 3. Các tăng sĩ Phật giáo thường giàu vốn liếng Nho học. Thượng toạ Thích Tâm Ấn cũng vậy. Nhưng trong tập sách Châm cứu của mình, Thượng toạ dịch hai chữ thống kinh là chứng đau các kinh mạch. Thực ra thống kinh là phụ nữ hành kinh đau đớn. Bản dịch Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của Đình Thụ Hoàng Văn Hoè có nhiều chỗ sai lầm, thiếu sót. Nơi tập Ma Chẩn Chuẩn Thằng, dịch giả chuyển hai chữ tòng trị thành “lựa theo mà chữa“. Dịch như thế tỏ ra dịch giả thiếu căn bản về lý luận đông y. Lựa theo cái gì mà chữa? Phép tòng trị của đông y là một trong bốn phép trị liệu căn bản (phản, chính, nghịch, tòng). Tòng trị là bệnh ở gốc thì chữa theo gốc (trị bản), bệnh ở ngọn thì chữa theo ngọn (trị tiêu). Tôi chỉ nêu ra hai ví dụ mà thôi. 4. Nguyễn Hiến Lê.- Thầy học tôi : Cụ Dương Quảng Hàm. Tạp chí Bách Khoa số 1.11.1966. (dẫn theo Ngô Lâm và Quế Kế. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Sự nghiệp, Hình ảnh, Bút tích. Sinnamon Park, Qld 4073, Australia, 2006, tr.121-129). 5. Quốc triều hình luật đã được Raymond Deloustal chuyển dịch sang Pháp ngữ và cho đăng tải trên Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient (B.E.F.E.O.).Hanoi. Tomes 8 (1908), 9 (1909), 10 (1910), 11 (1911), 12 (1912), 13 (1913), 19 (1919), 22 (1922) dưới nhan đề La Justice dans l’Ancien Annam, Traduction et Commentaire du Code des Lê. Năm 1956, dưới sự bảo trợ của Trường Đại học Luật khoa Sàigòn, dịch giả Cao Nãi Quang dịch Quốc triều hình luật sang Việt ngữ. 6. Bên cạnh huyền thoại Nguyễn Mạnh Tường, người cộng sản xây dựng lên nhiều huyền thoại khác trong y học, sinh học. Nhằm chứng tỏ tính ưu việt của nền y khoa xã hội chủ nghĩa, các thầy giáo Đại học Y khoa Hà nội trình bày học thuyết phản xạ của Pavlov theo một nội dung rất độc đáo. Họ chỉ nói vừa phải về phản xạ có điều kiện nhưng họ mở rất rộng học thuyết Pavlov vào lĩnh vực mệnh danh là “thần kinh cao cấp“ qua đó, tạo nên một nhân vật huyền thoại là Bác sĩ Nguyễn Thiện Thành, người tiếp thu Bệnh viện Vì Dân Sàigòn sau 1975, được đổi tên thành Bệnh viện Thống Nhất, chỉ nhận chữa các cán bộ cao cấp trong chế độ cộng sản. Hồi chánh viên Kim Nhật, trong Về “R“ viết như sau về Nguyễn Thiện Thành : “Bác sĩ Nguyễn Minh Nhân, nguyên trong chín năm kháng chiến chống Pháp là bác sĩ Nguyễn Thiện Thành, Quân y viện trưởng Khu 9, rồi Phân Liên khu Miền Tây. Năm 1954 tập kết ra Bắc được đi học Tiến sĩ Y khoa ở Mát-scơ-va chuyên về Thần kinh cao cấp. Nguyễn Minh Nhân đã đỗ thủ khoa, dẫn đầu mấy trăm y khoa tiến sĩ cùng khoá. Sau đó đi Bình Nhưỡng tham quan và nghiên cứu về khoa châm cứu do Bác sĩ Viện trưởng Viện Châm cứu Bắc Triều Tiên – Kim Bong Han hướng dẫn. Về Hà nội, Nhân được cử giữ nhiệm vụ Chủ nhiệm Khoa Nội, Bệnh viện Quân sự 103 và chuyên gia thần kinh cao cấp ở Trường Đại học Y khoa và Quân sự cao cấp của Viện Nghiên cứu Y học Quân sự Hà nội. Mặt khác, Thành còn là bác sĩ trong Ủy ban Bảo vệ Sức khoẻ Trung Ương Đảng, phục vụ bảo vệ sức khoẻ lãnh tụ. Năm 1963 đổi tên Nguyễn Thiện Thành ra Nguyễn Minh Nhân, đi tàu biển trở về Nam, đổ bộ lên mũi Cà mau rồi theo đường dây về R, đảm nhận chức vụ Phó Phòng Quân y R kiêm nhiệm chuyên gia nội khoa, cố vấn của Bệnh viện 320 – bệnh viện lớn nhất ở Miền Nam – và giảng viên thần kinh cao cấp của Trường Quân y Trung Cao R.“ (Kim Nhật. Về “R“ (Toàn bộ). Không để tên nhà xuất bản và năm xuất bản. tr. 488-490). Sau 1975, ngấm ngầm chống dốt chống ngu để chống cộng, tôi yêu cầu Ban Giám hiệu Trường Trung học Y tế Trung ương số 3, cơ quan tôi làm việc (cùng với Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khen) thuyết trình đặc biệt cho anh chị em bác sĩ “ngụy“ chúng tôi về học thuyết Pavlov vì chúng tôi không được học về học thuyết này tại Trường Y khoa Sàigòn. Chư vị trong Ban Giám hiệu giẫy nẩy lên và bảo : “Đâu được, tụi tôi đâu có giảng cho mấy anh chị được, để tụi tôi nhờ anh Nguyễn Thiện Thành“. Nhưng rồi không thấy tổ chức cho vị thánh sống về thần kinh cao cấp đến Trường thuyết trình trong khi các bác sĩ “ngụy“ cứ phải luân phiên “báo cáo chuyên môn“ đều đều, tôi nhắc lại lời yêu cầu mời Giáo sư Tiến sĩ Viện trưởng Nguyễn Thiện Thành đến “lên lớp“ cho anh chị em chúng tôi. Ban Giám hiệu kẹt cứng vì tôi nêu lý do là tôi được giao phụ trách giảng về thần kinh cao cấp cho sinh viên, học viên mà qua suốt quá trình học ở Trường Y khoa, tôi không hề được trang bị các kiến thức liên hệ. Mặc kệ, tôi nói gì thì nói, Ban Giám hiệu cứ hẹn rày hẹn mai. Ngược laị, trong một buổi chấm thi tuyển sinh, nhân dịp ngồi nói chuyện với bà vợ ông Nguyễn Thiện Thành – bà này cũng người Nam như chồng, nhũ danh Dương thị Minh, xuất thân y tá chiến khu, nhưng “phấn đấu“ theo học hệ chuyên tu để trở thành…bác sĩ làm việc ở Chợ Rẫy – tôi nhắc đến học thuyết Pavlov thì bả xì một tiếng rồi bảo tôi : “Thôi anh ơi, tui hỏi anh, khi bệnh nhân không ngủ được thì anh biểu tui cho Valium hay cho Pavlov?“. Tất nhiên bả thoải mái nói thế vì biết tỏng tôi là “ngụy“ và vì chỉ có một mình tôi nghe bả nói câu đó. Vào một dịp khác, Vụ Đào tạo Hậu Đại học Bộ Y Tế tổ chức “bồi dưỡng chuyên môn“ cho các bác sĩ giảng dạy tại các trường Trung học Y tế Phía Nam về giải phẫu sinh lý. Anh Nguyễn Quang Quyền, cùng khoá với anh Bùi Duy Tâm nhưng ở lại không di cư, được chỉ định phụ trách phần giải phẫu, còn tôi phụ trách phần sinh lý. Khoá học do OMS tài trợ phương tiện trợ huấn cụ. Tôi nhận giảng về sinh lý nhưng từ chối không chịu giảng về học thuyết Pavlov, viện lẽ không đủ trình độ; yêu cầu Bộ giao cho Viện trưởng Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiện Thành. Làm khó nhau thế nhưng tôi vẫn thất bại, chẳng thấy đại chuyên gia thần kinh cao cấp xuất hiện, mà phần gọi là “sinh lý học thần kinh cao cấp“ được giao cho Bác sĩ Đặng Ngọc Tốt, thuộc bộ môn sinh lý Trường Y Thành Hồ, phụ trách phổ biến. Nếu biết rằng học thuyết về thần kinh cao cấp là một học thuyết lếu láo, nếu biết rằng Kim Bong Han – âm Hán Việt là Kim Phượng Hán – của Bắc Triều Tiên là một gã đại bịp, thì mới thấy kinh tởm : tất cả huyền thoại xung quanh Nguyễn Thiện Thành chỉ xây dựng trên lừa đảo, dối trá trong y học! Huyền thoại học cộng sản xây dựng nên nhân vật Nguyễn Thiện Thành trên cơ sở lường gạt, bịp bợm vẫn cứ được không ít người tin theo – trong số có hồi chánh viên Kim Nhật – y như những lý thuyết bệnh hoạn điên rồ “xã hội xã hội chủ nghĩa không còn cảnh người bóc lột người, trong xã hội đó của cải vật chất dư thừa, mọi người làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu“ đã từng và vẫn còn là bùa mê thuốc lú đối với hàng triệu hàng tỉ con người. Con trai Nguyễn Thiện Thành là Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiện Nhân, đương kim Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo Việt cộng. Người chính thức tiếp thu Trường Đại học Y khoa Sàigòn sau 1975 và làm Khoa trưởng Trường là Giáo sư Bác sĩ Trương Công Trung. Đây cũng lại là một nhân vật ít nhiều huyền hoặc. Xin tiếp tục đọc Kim Nhật : “Hoàng Minh Thọ tức Trương Công Trung, nguyên Quân y viện phó Khu 9, cùng với Nguyễn Thiện Thành là cặp bài trùng y khoa nổi danh ở miền Tây trong thời kháng chiến chống Pháp. Nếu Nguyễn Thiện Thành chẩn đoán nội khoa “bá phát bá trúng“, điều trị cừ, sáng chế ra dược liệu Filatov ở miền Nam đầu tiên thì Trương Công Trung dù chỉ xuất thân là sinh viên y khoa năm thứ tư (?,TVT), chiến trường Khu 9 đã tạo cho Trung trở thành một bác sĩ ngoại khoa lỗi lạc, mổ nhanh như gió, giải quyết mọi ca hóc hiểm nhất của chiến trường miền Tây. Năm 1954 tập kết ra Hà nội, Trung được đưa sang Liên xô làm nghiên cứu sinh ngoại khoa chuyên về bụng và ngực, giật mảnh bằng tiến sĩ y khoa của Viện Hàn lâm Y học Liên xô. Về Hà nội, Trương Công Trung làm chủ nhiệm khoa ngoại Bệnh viện quân sự 103 và là chuyên gia ngoại, giảng ở Trường Đại học Y khoa và Trường Quân y Cao cấp của Viện Nghiên cứu Y học Quân sự Hà nội. Cùng lúc với Thành, Trung cũng vào Nam cuối năm 1963, đi bằng tàu xung kích đổ bộ ở bờ biển Ba tri (Bến tre). Từ Bến tre, Trung được đưa một mạch về R giữ nhiệm vụ Phó Trưởng phòng Quân y R kiêm Hiệu trưởng Trường Quân y Trung Cao R và là chuyên gia ngoại khoa của bệnh viện 320. Từ đó, tên được cải đổi là Hoàng Minh Thọ. Cả hai đều mang cấp bậc Thượng tá Quân y, hai trong bốn Phó Phòng Quân y R. Về quân y ở miền Nam, hai nhân vật đó được xem là hai “sư tổ“, “oai danh trùm thiên hạ“ chưa một nhân vật nào có thể được xếp ngang hàng dù rằng cũng được học ở Liên xô, Đông Đức trở về.“ (Kim Nhật, tlđd). Cá nhân tôi chưa hề được gặp ông Trương Công Trung này nhưng chắc nhiều đồng nghiệp Miền Nam bị kẹt lại sau 1975 biết ông ta. Nhà sinh học xã hội chủ nghĩa Trofim Denissovitch Lyssenko (1898-1976) phủ nhận sự hiện hữu và/hoặc vai trò của gen. Học thuyết Lyssenko xem công trình của Mendel trong di truyền học chỉ có giá trị thống kê học mà không đạt được trình độ học thuyết sinh vật học. Theo Lyssenko, học thuyết Mendel không vạch rõ các qui luật thật của tính di truyền mà chỉ mượn những phương pháp toán học hình thức thay thế cho việc nghiên cứu các hiện tượng về mặt sinh vật học. Cùng với những nhà khoa học của nền sinh học duy vật chủ nghĩa khác, Lyssenko khẳng định rằng việc nhận thức các qui luật phát triển của cơ thể tất yếu sẽ giúp cho việc chỉ đạo sự hình thành và phát triển các tính cách của đời sau được luôn luôn tốt hơn – tốt hơn hàm nghĩa phù hợp với nhu cầu uốn nắn, đào tạo, quản lý, cải tạo xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu tối hậu không nói ra ai cũng biết, là hình thành con người mới, con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lyssenko tiến hành thí nghiệm tác dụng của độ lạnh trên nhiều loại lúa mì rồi tuyên bố rằng qua một tiến trình chọn lọc kỹ lưỡng các loại thực vật để tạp giao và trong những điều kiện trồng trọt hợp với bản tính của giống lai, người ta có thể gây được một chủng loại hậu duệ hoàn toàn đồng thể. Trong tác phẩm Nông nghiệp sinh vật học phát hành năm 1952, Lyssenko đã viện dẫn nhiều tài liệu thực nghiệm nhằm hoàn toàn bác bỏ học thuyết Mendel cùng các định luật bị xem là giả dối của Mendel. Lyssenko tuyên bố tính di truyền sẽ xuất hiện trở lại trong quá trình phát triển của một cá thể thuộc một chủng loại động vật/thực vật nhất định nếu có những điều kiện bên ngoài thuận lợi. Bằng không thì cơ thể sẽ thay đổi và tính di truyền, về phương diện nó là đặc tính của sinh vật, cũng sẽ thay đổi nốt. Nếu có đủ các điều kiện cần thiết thì những thay đổi đó sẽ trở thành cố định và sẽ đi vào phát dục hệ thống. Mao Trạch Đông hết lòng ủng hộ Lyssenko. Tuy nhiên tại Cộng hoà Dân chủ Đức, giới khoa học không theo Lyssenko, do thái độ sáng suốt của Hans Stubbe, nhờ thế nền kinh tế nông nghiệp Đông Đức không bị ảnh hưởng tai hại. Kim Bong Han/Kim Phượng Hán là cha đẻ hệ Kim Phương Hán (Bong Han system). Theo họ Kim, trong cơ thể con người có một hệ thống dẫn truyền bên cạnh hệ thần kinh và hệ huyết mạch. Hệ này gồm những ống dẫn, những tiểu thể mà Kim Phượng Hán báo cáo là đã quan sát được, đã nhuộm sắc được. Đó là hệ thống ống dẫn Kim Phượng Hán (Bong Han duct), tiểu thể Kim Phượng Hán (Bong Han corpuscule), vận chuyển chất dịch Kim Phượng Hán (Bong Han liquor ). Hệ Kim Phượng Hán nuôi tham vọng giải thích một cách duy vật cung cách tác động của khoa châm cứu cổ truyền; theo đó, luồng kích thích từ các kim châm khởi xuất, truyền đi theo các ống dẫn Kim Phượng Hán đến các tiểu thể Kim Phượng Hán. Nói cách khác, Kim Phượng Hán đã phát hiện ra cơ sở cơ thể học của khoa châm cứu. Tuy nhiên học thuyết Kim Phượng Hán gây rất nhiều tranh cãi và nhiều người bày tỏ sự nghi ngờ, kể cả những đồng nghiệp đồng chí của họ Kim ở Roumanie, Albanie. Pavlov, Lyssenko, Kim Bong Han mỗi người một vẻ, dốc tâm phụng sự chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa xã hội. Áp dụng hoạt động thần kinh cao cấp theo Pavlov (?) có thể “cải tạo“ con người; biến đổi chức năng di truyền theo Lyssenko có thể đào tạo những chủng loại người mới, ứng dụng hệ Kim Bong Han có thể vật chất hoá hệ thống kinh mạch của khoa châm cứu! . 7. Cái quan định luận : khi nắp quan tài đã đậy lại rồi thì xã hội có quyền bàn luận về công, tội của một người. BS.Trần Văn Tích Sinh năm 1932 tại làng Quảng Lượng, Quảng Trị. Bác sĩ Y khoa, hiện định cư tại Đức,Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2013 4:15:55 GMT 9
Phá xiềng
Hồ Ngọc Nhuận
Tôi kêu gọi các bạn đảng viên cộng sản thật sự yêu nước, từng cả đời dấn thân đấu tranh vì lý tưởng độc lập Tổ Quốc, tự do dân chủ và nhân đạo, nhưng ngày càng nhận thấy đã bị đảng mình phản bội, … hãy mạnh dạn dứt khoát đứng vào hàng ngũ Đảng Dân Chủ Xã Hội mới.
DCVOnline: Trang “Chuyển hóa” vừa cho đăng tải một bài viết của Hồ Ngọc Nhuận (nhận qua email email …@rocketmail.com ngày Wednesday, August 14, 2013 6:31 PM]. DCVOnline dè dặt giới thiệu đến bạn đọc trong khi chờ đợi sự xác định hay phủ nhận của ông Hồ Ngọc Nhuận.
Vận hội mới cho nước nhà đã đến…
Một chính Đảng mới đang hình thành, với tên gọi tạm là Đảng Dân Chủ Xã Hội, do ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên cộng sản với 45 tuổi đảng, khởi xướng. Với hằng trăm, và rồi đây với hằng ngàn đảng viên cộng sản đồng loạt khước từ độc tài toàn trị thành lập để đấu tranh công khai với Đảng cộng sản cầm quyền.
Đảng mới Dân Chủ Xã Hội là một đột phá khẩu lịch sử, cho nước tràn bờ, cho muôn người Việt Nam đứng dậy phá xiềng, vươn vai thành Phù Đổng, chống lại nội tặc, ngoại thù, cứu nước cứu dân và cứu cả chính mình.
Đảng mới Dân Chủ Xã Hội chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ thật, một đời sống tự do thật, một xã hội công bằng thật, đối lập với đảng cộng sản chuyên quyền chủ trương xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa muôn vạn lần dân chủ láo, trên nền móng cướp đoạt mọi quyền cơ bản của người dân.
Tổ tiên nòi giống đang ủng hộ, cỗ võ sự ra đời của Đảng Dân Chủ Xã Hội mới. Các đảng chánh trị yêu nước, với các chiến sĩ đã hy sinh hay còn sống, bị bức tử gần đây hay từ trước, để đảng cộng sản có điều kiện độc tôn độc quyền cai trị đất nước trong nhiều chục năm qua, đang ủng hộ các bạn. Các tiền bối yêu nước thương dân của mọi thời kỳ, cả các đảng viên cộng sản lão thành đã hy sinh hay đang uất nghẹn trước sự phản bội của một phường tham nhũng trục lợi, đang ủng hộ các bạn. Vong linh hằng vạn thanh niên nam nữ tuổi hai mươi, không phân biệt giới tuyến, nguồn gốc xuất thân, trong mọi thời kỳ tình huống quốc biến đã ngả xuống để toàn dân đứng thẳng làm người tự do độc lập, đang ủng hộ các bạn. Hằng vạn gia đình nạn nhân các đợt cải cách, cải tạo đang ủng hộ các bạn. Hằng vạn gia đình nạn nhân chết tức chết tưởi, trên biển trên bờ, khổ nhục ê chề hơn cả cái chết trên đường vượt biên … đang ủng hô các bạn. Toàn thể nông dân đang ủng hộ các bạn. Và các thế hệ con cháu nông dân bị cắt đứt quá khứ vì bị cướp quyền thừa kế ruộng đất, bị căt đứt tương lai vì bị tước quyền sở hữu trên mảnh đất ông cha nhiều đời gầy dựng để lại,đang thúc giục các bạn. Lực lương các anh chị em công nhân bị buộc vào các “công đoàn vàng”, tối mặt làm công rẻ mạt cho các tập đoàn nhà nước câu kết với các tập đoàn nước ngoài mà không được có tiếng nói, đang ủng hộ các bạn. Các ngư dân và gia đình các ngư dân nước ta bị bọn phỉ Bắc Kinh rượt đuổi, bắt bớ, làm nhục ở Biển Đông đang giục gĩa các bạn. Hàng hàng lớp lớp học sinh sinh viên mong muốn được thật sự “mở mang dân trí để chấn hưng dân khí”, thay cho một hệ thống giáo dục ngu dân, đang khẩn thiết kêu gọi các bạn. Các nhà kinh doanh, những người dân làm ănlương thiện, hàng ngũ trí thức, nghệ nhân, văn nghệ sĩ, báo chí trên cả nước khát khao tư dotư tưởng, sáng tác, tự do kinh doanh, tự do làm báo, tự do bày tỏ ý kiến, đang hối thúc các bạn. Các chức sắc và nam nữ tín đồ các tôn giáo đang khao khát tự do hành đạo cứu thế độ người đang mong chờ các bạn…
Toàn thể đồng bào bị lấy mất mọi thứ tự do, dù là cơ bản nhất, trên một đất nước người người bị rình rập như trong một trại cải tạo khổng lồ, đang thúc bách các bạn.
Tôi kêu gọi các bạn đảng viên cộng sản thật sự yêu nước, từng cả đời dấn thân đấu tranh vì lý tưởng độc lập Tổ Quốc, tự do dân chủ và nhân đạo, nhưng ngày càng nhận thấy đã bị đảng mình phản bội, mà số nầy là rất đông, hãy mạnh dạn dứt khoát đứng vào hàng ngũ Đảng Dân Chủ Xã Hội mới. Đặc biệt các đảng viên trẻ và giới trẻ nói chung hãy nắm lấy cơ hội làm nên lịch sử. Vì đất nước thời nào cũng vậy, đặc biệt những lúc lâm nguy, là luôn thuộc về tuổi trẻ, là của tuổi trẻ.
Đứng vào hàng ngũ Đảng mới để tính toán nợ nần với quá khứ lịch sử, với dòng tộc, với chính mính; giũ sổ với đảngcầm quyền toàn trị; mở một trang mới cho tương lai dân tộc.
Đứng vào hàng ngũ Đảng Dân Chủ Xã Hội mới ngày nay là yêu nước. Không chần chờ, đắn đo, hay e sợ bị bắt bớ, trù úm. Một ông chủ đảng Cộng sản ở cấp cao, vừa là Chủ tịch Nước, đã từng nói: “ Người ta có thể trù úm một người, một nhóm người, nhưng không thể trù úm một dân tộc”…
Mà làm sao trù úm, bắt bớ cả dân tộc, nếu không là tự làm đắm chiếc tàu họ đang ngồi trên đó?
Còn trù úm bắt bớ một người hay một nhóm người thì sao?
Trù úm bắt bớ một người là tự đục một lổ thủng trên đáy tàu; trù úm băt bớ một nhóm người công khai tranh đấu bất bạo động cho chánh nghĩa dân tộc, cho nhân quyền, dân quyền… là tự phá hỏng từng mảng lớn trên mạn tàu để mau giúp nó tự chìm dần.
Tôi, và nhiều bạn như tôi, tuy không còn sức trẻ, nhưng cũng nguyện đi theo các bạn, sẵn sàng đón những cú đá sau lưng các bạn.
Từ đảng mới nầy, và từ hành động của đảng đó, tôi tin sẽ xuất hiện những nhà lãnh đạo trẻ, mới, những nhà quản lý mới, trẻ, giỏi để cứu nước, cứu dân, ngăn ngừa họa ngoại xâm, và làm giàu cho dân cho nước.
Lòng dân đang dậy sóng. Cả nước đang mong chờ Đảng mới phất cờ hành động để cứu nước.
Đảng Dân Chủ Xã Hội Việt Nam mới nhất định thắng lợi.
Dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi.
Đất nước Việt Nam nhất định tự do, dân chủ thật sự và giàu mạnh.
Sài Gòn, ngày 15 tháng 8 năm 2013.
Hồ ngọc Nhuận Nguyên Giám đốc chánh trị chủ bút nhật báo Tin Sáng Phó chủ tịch UBMTTQVN/TP Hồ chí Minh (14.8.2013 )
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 15, 2013 8:46:28 GMT 9
Đọc “Bên Thắng Cuộc”, nghĩ về những người CSTrong một lần gặp gỡ chuyện trò với chúng tôi – những người hoạt động ủng hộ tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam – ông Mirek Chojecki, một người hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan (C Đ Đ K – SOLIDARNOSC) trước đây đã nói: ”Những người cộng sản là những người không bình thường. Những người đấu tranh cho tự do dân chủ của Ba Lan chúng tôi đã phải mất gần nửa thế kỷ để đấu tranh, thuyết phục họ từ bỏ chế độ độc tài cộng sản. Nhưng chỉ đến khi họ đã đưa Ba Lan đến thảm kịch về kinh tế và chính trị, với sức ép của C Đ Đ K, họ mới chịu ngồi vào bàn thương lượng”. Câu nói của ông đã gây một ấn tượng rất mạnh đối với chúng tôi, nhất là một vài người đã từng là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đ C S V N), sau thức tỉnh đã dời bỏ đảng. „Những người cộng sản là những người không bình thường”. Liệu những người cộng sản Việt Nam có là những người không bình thường? Câu hỏi này cứ đeo đẳng, ám ảnh tôi . Tôi chưa tìm được câu trả lời , chưa tìm ra những minh chứng rõ ràng. Cho đến khi tôi đọc „Bên Thắng Cuộc”( BTC) của nhà báo Huy Đức. Hai tập sách là một kho tư liệu khá đầy đủ, tin cậy về những hoạt động chính trị, quân sự, về cuộc sống riêng tư, về quan hệ đồng chí… của những người cộng sản Việt Nam. Nó đã giải đáp cho tôi, nó như lời khẳng định, rằng „Những người cộng sản Việt Nam là những người không bình thường”. Chúng ta thường nghe những người cộng sản ca ngợi về tình đồng chí của họ. Theo họ, chỉ những người cộng sản mới có tình đồng chí thiêng liêng cao cả. Trong hoạt động cách mạng, trong chiến đấu, họ sẵn sàng hy sinh thân mình để cứu đồng chí, trong đời thường, họ yêu thương nhau hết mực, sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo. Những người cộng sản giữ các chức vụ càng cao, thì tình đồng chí của họ càng trong sáng, tin cậy, đầy tình nghĩa, là mẫu mực về quan hệ giữa người với người. BTC đã cho chúng ta biết khá đầy đủ về mối quan hệ giữa hai người lãnh đạo quan trọng của ĐCSVN : Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Cả hai đã cùng „nằm gai, nếm mật”trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ ở miền Nam. Sau khi „thắng cuộc” cùng trở về Sài Gòn nắm các chức vụ quan trọng. Ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh kể :”Vừa nghe ông Linh nói chọn ông Mười tôi thắc mắc ngay sao không chọn ông Kiệt. Ông Linh kể một loạt cái xấu của ông Kiệt rồi nói: Khi tôi mất bộ chính trị, về Sài Gòn, Sáu Dân không bao giờ gặp tôi”. Còn nhiều những nhân chứng gần gũi với cả Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt kể về quan hệ giữa hai người, nhưng đây có lẽ là lời kể lột tả đầy đủ mối quan hệ giữa họ. „Từ khi tôi mất bộ chính trị, về Sài Gòn, Sáu Dân không bao giờ gặp tôi”, nghĩa là Sáu Dân chỉ gặp Mười Cúc khi Mười Cúc còn là ủy viên bộ chính trị, còn là cấp cao hơn và còn giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp chính trị tiếp theo của mình. Chắc lúc đó, Sáu Dân đã không nghĩ rằng, sau này Mười Cúc không những quay lại bộ chính trị, mà còn trở thành tổng bí thư, quyết định con đường thăng tiến của mình. Nếu dự đoán được, chắc ông đã đến thăm và an ủi Mười Cúc dài dài! Chúng ta thật kinh ngac về những lý do Nguyễn Văn Linh đưa ra tại sao lại chọn Đỗ Mười làm thủ tướng. Chắc chắn Nguyền Văn Linh đã biết quá rõ về Đỗ Mười qua cuộc đánh tư sản tại Sài Gòn sau 30-04-1975, lúc đó ông là bí thư thành ủy . Đó là một con người kém hiểu biết về mọi mặt, giáo điều và có triệu chứng bệnh thần kinh như ông đã từng thừa nhận. Xuất thân từ một người không được học hành, ông không có khả năng tiếp thu những kiến thức về xã hội, về kinh tế, về chính trị. „Thành tích” nổi bật nhất của Đỗ Mười là „phá”và „đánh”. Sau năm 1954, ông đã phá tan các cơ sở sản xuất, thương mại tư nhân trong cuộc cải tạo tư sản ở miền Bắc bằng các chính sách trưng thu (tịch thu), trưng mua (mua chịu không bao giờ trả), công tư hợp doanh. Ông đã đánh các tư sản miền Nam không còn „mảnh áo”, đưa kinh tế miền Nam „tiến kịp” miền Bắc sau năm 1975, cùng nhau ăn bo bo thay gạo. Anh bạn tôi, một kỹ sư đã làm việc tại Công Ty Điện Lực Miền Nam kể lại, thời ông Đỗ Mười làm thủ tướng, trong một lần vào miền Nam công tác, lúc đó điện đang là vấn đề „nước xôi, lửa bỏng”, cắt điện trở thành „quốc sách”. Cũng là nhân dịp cuối năm âm lịch, một cuộc họp mặt của các cán bộ chủ chốt của công ty với thủ tướng được tổ chức. Diễn giả – thủ tướng – nói không ngừng nghỉ. Một tiếng, hai tiếng…bốn tiếng…Giờ làm việc buổi chiều đã hết, mọi người đang rất bận rộn vì chỉ còn mấy ngày nữa là tết âm lịch, trong hội trường đã nhiều người ngủ gật, nhiều người ngồi ở cuối hội trường đã lẳng lặng bỏ về, trên hàng ghế đầu, các cán bộ lãnh đạo công ty cũng ngán ngẩm nhưng vẫn phải yên vị. Sau hơn 4 tiếng đồng hồ „hùng biện”, chắc người đứng đầu chính phủ cũng mệt, buổi gặp gỡ đã kết thúc. Hàng trăm cán bộ, kỹ sư bỏ làm việc để nghe một bài nói chuyện nhạt nhẽo, lộn xộn , chẳng giúp gì cho những khó khăn của ngành điện đang gặp phải, thật là uổng phí! Chỉ có một ông thủ tướng không bình thường mới nói dông dài như vậy. Trở lại lý do mà Nguyễn Văn Linh chọn Đỗ Mười vào chức thủ tướng. Vẫn ông Bùi Văn Giao kể: „Sau khi ông Phạm Hùng chết, anh Linh lên Hồ Tây họp bàn trước với hai ông cố vấn Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Họp xong, ông Linh kêu tôi qua nói: Giao à, bọn tôi bàn để Đỗ Mười thay Phạm Hùng. Tôi kêu lên: Trời ơi, sao lại Đỗ Mười. Ông Linh: Tôi biết, nhưng từ khi làm tổng bí thư tôi nói Đỗ Mười nghe rồi” . Thật là ngoài sức tưởng tượng, Chọn một người đứng đầu một chính phủ, nắm vận mệnh của một quốc gia với 80 triệu dân, đâu phải chọn một người giúp việc trong nhà mà chỉ cần người biết nghe lời. Cũng qua đây, chúng ta hiểu được, vì sao ĐCSVN lại có những tổng bí thư chỉ có trình độ cấp huyện như Nông Đức Mạnh, đi về tỉnh nào cũng chỉ biết „giao giảng”: „ Nuôi con gì, trồng cây gì?”. Nhưng câu hỏi được đặt ra, tại sao Nguyễn Văn Linh lại không chọn Võ Văn Kiệt làm thủ tướng. Những lý do ông đưa ra đều là sự ngụy biện. Ông biết rất rõ là Võ Văn Kiệt làm thủ tướng sẽ hơn hẳn Đỗ Mười. Nếu ông nghĩ đến lợi ích của đất nước, đến những đòi hỏi của tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam lúc đó, thì lựa chọn Võ Văn Kiệt như là việc đương nhiên. Với các nhà chính trị bình thường ở mọi quốc gia, việc lựa chọn người vào các vị trí trong bộ máy nhà nước phải dựa trên tiêu chuẩn cơ bản là năng lực làm viêc. Nguyễn Văn Linh đã chọn Đỗ Mười vì hiềm khích cá nhân với Võ Văn Kiệt. Đây là con người thực của Nguyên Văn Linh, với bản tính chấp nhặt, thiển cận, thiếu hiểu biết, giáo điều, không có tầm nhìn của một người lãnh đạo, đã mang họa đến cho đất nước. Lịch sử sẽ ghi lại tội lỗi đối với đất nườc, đối với dân tộc của Nguyễn Văn Linh qua Hội nghị Thành Đô ngày 02-09-1991. Vì muốn „cứu CNXH”, mà thực chất là muốn cứu Đảng, Nguyễn Văn Linh đã chấp nhận mọi yêu sách của chính quyền Bắc Kinh, mở đầu thời kỳ đen tối của dân tộc Việt Nam trong quan hệ với người láng giềng phương bắc. Từ đây, những chính quyền „hèn với giặc, ác với dân” kế tiếp nhau nhượng đất, nhượng biển, ra tay đàn áp những người yêu nước, những người dám đứng lên phản đối các hành động xâm lược của những kẻ theo chủ nghĩa „Đại Hán”. Viết đến đây tôi lại nhớ đến câu chuyện của nhà văn Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày: „Người đầu tiên muốn thức tỉnh tôi là cô ruột tôi lấy chồng ở phủ Xuân Trường. Chồng bà, một ông chưởng bạ, là một người yêu nước không cộng sản. Ông ủng hộ cách mạng từ hồi bí mật, tham gia tổng khởi nghĩa. Trong kháng chiến chống Pháp vừa làm trong ban hội tề để giữ thế công khai vừa làm chủ nhiệm Việt Minh xã. Trong Cải cách ruộng đất, ông bị đưa ra đấu, bị vu là phản động, nhà cửa bị tịch thu, gia đình bị khủng bố. Đến khi Đảng sửa sai, ông chỉ còn kịp lết về đến nhà để tắt thở trong vòng tay vợ con. Những việc xẩy ra với cô tôi tôi không biết. Tôi đang học ở Liên Xô. Trở về Việt Nam, năm 1957, làm phim Ánh Sáng Tháng Mười nhân dịp kỷ niệm 40 năm cách mạng Nga, tôi mới gặp cô. Cô tôi khuyên tôi : – Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế, phải biết chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp!”. Lời khuyên nhủ thốt ra từ tâm can của người phụ nữ nông dân chân thật, là lời cảnh tỉnh đối với những trí thức, những người tử tế đi theo cộng sản. Nó cũng là lời kết tội xác thực nhất đối với những người cộng sản Việt Nam. Trong BTC, chúng ta còn gặp nhiều những hành động bất nhân của những người cộng sản. Bà Nguyễn Thị Năm là người trước cách mạng tháng 8 đã che giấu, nuôi dưỡng các cán bộ chủ chốt của Đảng trong nhà như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng…. Trong tuần lễ vàng ủng hộ chính phủ Việt Nam mới thành lập sau Cách mạng 08-1945, gia đình bà đã ủng hộ 100 lạng vàng. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con là trung đoàn trưởng. Nhưng trong cải cách ruộng đất, bà đã bị quy là địa chủ cường hào gian ác, bị đoàn cải cách kết án tử hình. Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất đã bắn vào đầu người phụ nữ yêu nước. Một người Việt Nam bình thường, đều cư xử theo lời dậy của ông cha ta „uống nước nhớ nguồn”, không bao giờ đối xử tệ bạc với những người đã giúp đỡ, cưu mang mình. Nhưng những người cộng sản kể trên, trong đó có Trường Chinh, lúc đó là trưởng ban chỉ đạo cải cách ruộng đất , người đã phê duyệt bản án bà Nguyễn Thị Năm, như những đứa con bất hiếu, đã giết người phụ nữ lương thiện, người mẹ đã yêu thương và hết lòng vì mình. Những người cộng sản không chỉ đối xử bất nhân với những người ngoài đảng, với những đống chí của họ, họ cũng đối xử tệ bạc. Ông Trần Xuân Bách là ủy viên bộ chính trị. Nhiều năm hoạt động trong đảng ông đã thấy rõ vai trò lịch sử của đảng cộng sản đã đến giai đoạn cuối. Nếu đảng không muốn sụp đổ, nếu đảng còn mong muốn mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đảng phải thay đổi. Phải chấp nhân thể chế tự do dân chủ, chấp nhận đa nguyên, đa đảng . Ông đã công khai phát biểu quan điểm của mình, ông đã bị đảng tước hết mọi chức vụ. Bà Trần Thị Đức Thịnh, vợ ông kể lại: „Năm ngày sau Hội nghị trung ương 8, tiêu chuẩn sữa tươi cho ủy viên bộ chính trị 2 lít/ngày, mà Ban Tài chính Quản trị Trung ương vẫn cung cấp cho ông bị cắt. Tôi không để anh ấy biết, tôi không muốn anh ấy bị hẫng. Tôi tự đi mua sữa tươi, vẫn ngày 2 lít. Anh tưởng tôi vẫn lấy sữa của Trung ương, kiên quyết bảo tôi phải từ chối. Suốt 3 năm người ta không trả lương cho anh, còn tôi thì cả năm không được giao việc”. Trung tướng, nhà văn Trần Độ là một trong những lão tướng của quân đội Việt Nam, ông đã cống hiến gần như trọn cuộc đời cho ĐCSVN. Bạn bè, đồng chí, những người đã cùng làm việc với ông đều thừa nhận, rằng ông là một trong những người lãnh đạo hiếm hoi, vừa có tài, vừa là người đức độ. Cuối đời, ông đã nhận ra những sai lầm, những suy thoái của cái Đảng mà ông đã phụng sự. Ông đã viết, đã cảnh báo các đồng chí của mình, với mong muốn họ thay đổi, tỉnh ngộ để tránh mang đến những tai họa cho đất nước. Các đồng chí của ông đã bỏ ngoài tai. Họ cho người theo dõi, quấy nhiễu ông, chặn đường, cướp các bản thảo, các tài liệu của ông. Đám tang của ông, họ bắt những người đến viếng phải bỏ các dòng chữ „Vô cùng thương tiếc”và „trung tướng” trên vòng hoa, họ còn kể tội ông trong điếu văn. Đây là cách cư xử „cạn tầu giáo máng”, bất chấp đạo lý „nghĩa tử là nghĩa tận” mà bất cứ người Việt Nam bình thường nào cũng không hành xử như vậy. Những người cộng sản thuộc thế hệ lão thành là những người không có khả năng và không muốn tiếp thu những cái mới. Bản thân họ là những người cứng rắn, tuy có lòng yêu nước nhưng do tiếp thu một học thuyết sai lệch Mark-Lenin, học thuyết lấy đấu tranh giai cấp, lấy bạo lực, lấy chiến tranh làm phương tiện để giải quyết mọi mâu thuẫn . Chủ nghĩa tôn thờ bạo lực, cùng những năm tháng chiến tranh đã biến họ thành những những con người kiêu ngạo, công thần, chủ quan, độc quyền, duy ý chí và cạn kiệt lòng nhân đạo. Họ tin tưởng không có cơ sở rằng,”cách mạng thành công hết khổ, hết nghèo”. Nhưng xã hội dưới quyền cai trị của họ, được xây dựng trái với quy luật phát triển tự nhiên. Nền kinh tế tập trung bao cấp giống như chiếc thuyền buồm không có gió, chính trị thì bị cả thế giới xa lánh, cô lập, họ buộc phải „đổi mới”. Các thế hệ đảng viên kế tiếp thế hệ lão thành họ vào Đảng không phải vì lý tưởng cộng sản, họ vào Đảng vì mục đích riêng, để được thăng quan, tiến chức. Họ biết rất rõ sẽ chẳng có tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ chẳng có CNXH, sẽ chẳng có kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, chỉ có chế độ đảng trị với kinh tế tư bản rừng rú giúp họ vơ vét tài nguyên đất nước, trở thành các tư bản đỏ. Đọc BTC, chúng ta không thể bỏ qua những bi hài kịch về sức khỏe của các quan chức cộng sản trên sân khấu chính trị trước mỗi kỳ đại hội. Với tất cả những người bình thường, sức khỏe là yếu tố quan trọng hàng đầu để tồn tại, sống, học hành, làm việc, hoạt động văn hóa, khoa học,chính trị…. Bệnh tật, ốm đau cũng có thể đến với bất cứ ai, bất kể tuổi tác, nghề nghiệp, chức vụ, nơi cư trú…Vì vậy khám, chữa bệnh là việc thường xuyên, công khai của mỗi con người. Nhưng đối với những người cộng sản, quan trọng nhất đối với họ là quyền lực và địa vị. Họ giấu giếm tình trạng sức khỏe của mình, trước hết vì đó là những lý do dễ bị những cán bộ tổ chức gạt họ ra khỏi danh sách dự kiến, cơ cấu cho mỗi kỳ đại hội, mỗi đợt quy hoạch, đề bạt cán bộ. Lý do thứ hai họ phải giấu giếm vì các đối thủ của họ luôn nhăm nhe tìm các điểm yếu của họ để loại họ, dành lấy cái địa vị mà họ đang theo đuổi, đang mơ ước. Trong „ Sức khỏe Trung ương”, tác giả thuật lại: ”Từ trước Đại hội VIII, khi công việc cơ cấu nhân sự bắt đầu, theo ông Nguyễn Văn An, người có trách nhiệm nắm các hồ sơ các nhà lãnh đạo, cả hồ sơ về sức khỏe, trong bộ chính trị xuất hiện một số „ông giấu bệnh”. Ông Lê Xuân Tùng, sau khi bị tai biến, một chân gần như bị liệt vẫn khẳng định là đang rất khỏe. Ông Lê Minh Hương giấu bệnh tiểu đừờng nặng. Ông Đoàn Khuê giấu ung thư hạch. Ông Đào Duy Tùng bị ung thư nhưng vẫn Bám giữ chức Trưởng Ban Văn kiện của đại hội”. „Ứng cử viên Tổng bí thư” Đào Duy Tung , ngồi nghe dự thảo báo cáo đại hội, mắt lim dim chẳng hiểu gì, lẽ ra phải đi chữa bệnh, vẫn xuống Hải Phòng dự đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố, đang phát biểu thì đột quỵ, hôn mê cho đến lúc qua đời. Không biết sang thế giới bên kia ông có thực hiện được mơ ước làm tổng bí thư (!) Ông Nguyễn Văn An kể: „ Khi chuẩn bị nhân sự chủ chốt, Ông Lê Đức Anh vẫn giới thiệu Đoàn Khuê làm chủ tịch nước và Thường vụ không ai phản đối. Tôi gặp anh Đỗ Mười nói Đoàn Khuê bị ung thư đấy, anh Mưới nói : Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo : thưa anh, theo chuyên môn thì đó là khối u nó chạy chứ không phải nó tan đâu ạ.” Giáo sư Vũ Bằng Đình, viện trưởng Quân y viện 108 kiêm phó chủ tịch Hội đồng Bảo vệ sức khỏe Trung ương kể : „Chúng tôi phát hiện Đoàn Khuê bị ung thư hạch rất sớm. Sau khi bí mật hội chẩn trên các mẫu xét nghiệm mà không cho biết là của ai, tất cả các chuyên gia trong nước đều khẳng định đấy là ung thư hạch, tôi đích thân trên dưới mười lần đến nằn nỉ ông vào bệnh viện. Biết khi ấy ông Lê Đức Anh đang giới thiệu Đoàn Khuê kế vị, tôi trấn an ông : nếu anh đồng ý để chúng tôi chữa trị kịp thời thì anh không những có thể sống thêm một thời gian dài mà còn có sức khỏe để đảm đương những nhiệm vụ quan trọng hơn. Nhưng ông Đoàn Khuê vẫn phủ nhận kết quả hội chẩn và chỉ thị cho tôi phải báo cáo Hội đồng bảo vệ sức khỏe trung ương là ông chỉ bị viêm hạch”. Bác sỹ Đình và các đồng nghiệp Nguyễn Thế Khánh đã phải bí mật báo cao lên Bộ Chính trị. Ông Nguyễn Văn An kể: „Sau khi anh em đưa bệnh án của Đoàn Khuê: ung thư gan giai đoạn 3, chỉ kéo dài được cuộc sống không quá một năm, họp thường vụ bộ chính trị, tôi đưa vấn đề sức khỏe ra, ông Đoàn Khuê vẫn cãi. Tôi phải công bố bệnh án. Đoàn Khuê đập bàn tuyên bố: „ Tôi là người khỏe mạnh, chúng nó phá. Tôi sẽ cho hai thằng đó nghỉ”. Đại tá Vũ Bằng Đình nhớ lại: „ Cả tôi và anh Lê Thi, bí thư Đảng ủy Viện 108, nhận quyết định nghỉ ngay lập tức”. Không chỉ „lỡ cơ hội”trở thành nguyên thủ quốc gia, bệnh tình Đoàn Khuê tiến triển xấu từng ngày. Cuộc sống của ông chỉ còn sáu tháng thay vì một năm như dự đoán, Ngày 16-01-1998, tướng Đoàn Khuê chết. Những câu truyện kể trên giống như đã xẩy ra trong triều đại phong kiến nào đó, cách đây nhiều thế kỷ. Đức vua thì bạc nhược, bất tài, không cai quản nổi triều chính. Trong triều đình, các quan tham, quan gian mặc sức lộng hành, dối trá, lừa gạt nhau, bức hại cả những ngự y , những bầy tôi trung thành, coi xóc sức khỏe cho mình. Xã hội tại Việt Nam hôm nay là một xã hội không bình thường: -Đạo đức xã hội suy đồi. Một xã hội vô cảm, cái ác, cái giả dối xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc. Văn hóa, giáo dục, y tế…đều xuống cấp nghiêm trọng. Khoảng cách giầu nghèo trong xã hội ngày càng xa, ”kẻ ăn không hết, người lần không ra”. -Nền kinh tế „đầu Ngô mình Sở”, kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực chất là nền kinh tế tư bản rừng rú, bóc lột nhân công, khai thác tối đa tài nguyên, phá hủy môi trường. -Những người dân yêu nước thì bị đàn áp, bị tù đầy. Kẻ xâm lược thì được vinh danh bằng „bốn tốt” và „mười sáu chữ vàng”. -Quan chức với những kẻ „cùng hội, cùng thuyền” tham nhũng, vơ vét, chiếm dụng tài sản quốc gia, trở thành những tư bản đỏ. -Luật đất đai quy định đất đai là sở hữu toàn dân, đã tiếp tay cho những quan chức bất lương cướp đất, cướp nhà của người dân lương thiện. -Những người đấu tranh ôn hòa cho tự do dân chủ, bảo vệ quyền con người bị đàn áp, bị nền luật pháp vô liêm sỉ bỏ tù với những bản án mà thế giới văn minh phải ghê tởm. -….. Ai chịu trách nhiêm về một xã hội Việt Nam không bình thừơng kể trên? Câu trả lời thật rõ ràng: những người cộng sản – những người không bình thường – đã cai quản xã hội hơn nửa thế kỷ nay. Để có một xã hội bình thường như xã hội của hầu hết các quốc gia hiện nay trên thế giới, phải thay những người quản lý xã hội hiện tại bằng những người bình thường do người dân lựa chọn. Những người cộng sản muốn được người dân lựa chọn, họ phải trở lại làm con người bình thường. Nếu những người cộng sản không còn khả năng để thức tỉnh, trở về làm một con người bình thường, chẳng sớm thì muộn, xã hội sẽ đào thải họ khỏi những cương vị hiện nay họ đang nắm giữ. Ngày ấy, chắc chắn sẽ đến! Warszawa 09-2013
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 17, 2013 16:47:02 GMT 9
Võ Nguyên Giáp: Tên đồ tể khát máu của quê hươnghoiquanphidung.com/archive/index.php/t-3125.htmlLời Giới Thiệu: Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền là Giáo sư về khoa Giải phẫu Tiểu Nhi(Pediatric Surgery) tại đại học noi tieng McGill, Montreal, Canada. Tuy là môt chuyên gia bận rộn, nhưng ông là một trong số những ít bác sĩ quan tâm và viết đến những vấn đề đất nước.BS Duyen Lang Ha Thuong Nhat Nguyen Tien Canh hoc cung lop Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài khốn nạn của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi. Vâng, Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. “Huyền thoại Võ Nguyên Giáp” đã hết còn là một huyền thoại.Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên. Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung. Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ).. Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài. Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội. Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù. Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện. Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này. Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương. Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh… Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ Từ năm 1945 cho đến năm 1991( năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau: - Ủy Viên Bộ Chánh trị - Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng - Tổng Tư lệnh Quân Đội - Phó Thủ Tướng - Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước. - Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980. Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai: Ngày xưa Đại tướng cầm quân Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại. Một số sách viết về Giáp như: - General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O’Neil (Australia) - Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British ) - Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA) Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi. Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 ) được giải mật khiến ta thấy rằng “thiên tài Võ Nguyên Giáp” đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng…..trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai. Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các “đức tính” đó. Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69) Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp. Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam. Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l’Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này. Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950. Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này. Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ lả hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí. Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này. Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành. Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán…bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình. Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống. Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout). Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000. Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho. Chiến dịch biên giới năm 1950. Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam. Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho. Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số….. Chiến dịch Tây Bắc 1952 Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp. Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận. Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào. Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch: 1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng 2- Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam 3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động. Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương. Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu. Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre. Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra. Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals). Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975. Thay lời kết: Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng. Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển. Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy: Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản. Bs. Nguyễn Lương Tuyền
|
|