|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:29:13 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ của Kiều Phong hung-viet.org/p34/ho-chi-minh“Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng đầu lòng, con gọi Stalin” (Tố Hữu) “Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi! Hỡi ơi, ông mất! Đất trời còn không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương ông thương mười! (Tố Hữu) Chu tich Ho chi Minh vi dai thatNông Đức Mạnh kính cẩn trình lên triều đình Bắc Kinh rằng: “Đảng, nhà nước, và nhân dân Việt Nam trước sau như nột, luôn coi trọng và sẽ làm hết sức mình để giữ gìn và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước.” tặng Lôi Tam và anh em Nhân Văn Phần 1 Sau 10 năm qui ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết chuyện tình: mối tình lớn nhất của bác Hồ. Bác Hồ đã say mê... chính mình, mê như điếu đổ. Như một anh si tình khờ khạo, bác Hồ làm nhiều trò quái đản để biểu lộ tình yêu. Chúng ta đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh, phải tìm ở các nước Cộng sản, muốn thấy một lực lượng nâng bi khỏe nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới, phải hướng về Hà Nội, thủ đô của đỉnh cao điếu đóm. Quanh bác Hồ, các chuyên viên thổi ống đu đủ đông như kiến, tên nào cũng có những ngón nghề ác liệt, thế mà bác không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một công việc vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là "Những mẩu chuyện..."). Sau đó, bác chế thêm bút hiệu Th.Lan, cũng với mục đích cao cả là viết bài tự khen nức nở. Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe bác Hồ và chú... Trần Dân Tiên. Các chú khác như Th.Lan tạm thời được bỏ qua, nhưng sẽ có ngày Kiều Phong gom chung lại dẫn ra kho đồ nghề, dụng cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần cả, đừng sốt ruột. Mặt Nạ Rớt Đều Đều Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều đáng khuyến khích. Chỉ kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi đọc, vớ được câu văn lời hay ý đẹp, người bèn mắt la mày lét, nhìn trước ngó sau không thấy có ai canh chừng là ra tay chôm liền. Mấy đứa ăn cắp xe hơi mang "hàng" về còn chịu khó sơn phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các đồng chí thì hành nghề chôm danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều. Văn chương, lời nói của người xưa, bác không chịu sửa đổi, cứ để nguyên nước sơn láng coóng trình làng, lái chạy khơi khơi. Thế nên người ta mới bắt quả tang những câu bác Hồ nói giống hệt câu nói của các danh nhân, hoặc lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại thì đã cũ hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào đời từ xưa rồi. Các đồng chí cháu bác Hồ có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích một cách rất "lô-gích" xã hội chủ nghĩa rằng: "Đây chỉ là trường hợp chí lớn gặp nhau". Chí lớn của bác chúng tôi có hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn hơi trễ. Người Việt nam mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm nhò gì mà quí thầy di tản cứ cười đểu hoài. Nhưng đó là chuyện sẽ được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong có thì giờ nhìn lại toàn bộ tác phẩm lớn bé của bác Hồ. Đây chỉ sơ sơ vài đường để đọc giả làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi. Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công bằng mà nói, bác Hồ đưa ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu không bị cái tật chôm chĩa nó hại, phải tự túc tự cường thì bác cũng dựng cờ, gióng trống dựng lên được một trường phái không giống ai: Trường phái văn chương mặc áo thụng tự vái mình. Cuốn "Những mẩu chuyện ..." được in tới, in lui cho toàn dân học tập. Mới đây, Hà nội mới chính thức công bố Trần Dân Tiên, Th. Lan chính là bác Hồ. Thật ra, chả cần Hà Nội chính thức xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản buồn biết ngay tên thực của tác giả. Xin mời quí vị đọc trang đầu cuốn "Những mẩu chuyện ...": “Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này: "Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến Ký tên: Hồ Chí Minh". Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn...” (trang 5). Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp biết Trần Dân Tiên chính là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố bịch của bác, đã bắt quả tang bác đang len lén đeo mặt nạ ngồi hồ hởi viết văn bốc thơm chính mình. Chứng cớ thứ nhất: câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh. “Nhiều nhà văn nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công”. Chữ "thành công" ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách không thành công? Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in trong một nước đầy nhóc văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị thế mà cóc anh văn nô nào dám phê bình, sửa chữa. Văn nô chỉ có cái tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức lực vào sự nghiệp nâng bi nên người ngợm, văn chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi tàn. Nhưng khả năng sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều thuộc loại khá cả, không mấy khi phạm những lỗi "chưa sạch nước cản". Giả thử Trần Dân Tiên đúng là một văn nô trẻ tuổi mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu ngay. Ðàn anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn chưa vững như Trần Dân Tiên gia nhập đội ngũ. Văn chương Trần Dân Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn bác. Nhưng văn tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác. Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nạ Trần Dân Tiên, phơi mặt bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria: “Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ chủ tich. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời ...” (trang 5). Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho Chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời: "Hệ thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận". Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện nhà nước xã hội chủ nghĩa vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời! Giả thử rằng bưu điện nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép lạ thì cái sự chú Tiên nhận được thư hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi chiều cùng ngày cũng có nhiều chỗ tức cười. Coi bộ bác không có việc gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư của một khách mộ điệu là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số người hơi đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất lâu bằng một bệnh nhân trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác chụp giựt vồ vập ác liệt cỡ đó. Cảnh bác Hồ vồ chú Tiên làm Kiều Phong liên tưởng tới cảnh chị em ta đang ế khứa lại thấy anh khách sộp Thúc Sinh tà tà đến nạp mạng. Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa: lỗi chẳng phải ở chú Trần Dân Tiên viết nhảm, không phải vì bưu điện nhà nước ta năm 1945 làm phép lạ, mà vì bác gửi thư cho chính mình nên thư qua từ lại cứ nhanh như chớp. Chưa viết được một trang, bác đã đãng trí quên bẵng mất rằng mình đang giả làm Trần Dân Tiên để nâng bi chính mình. Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử tệ, bỏ quên thê thảm. Cái thư của bác, được chú in lại từng chữ, đóng ngoặc kép cẩn thận, lại chỉ vỏn vẹn có vài dòng: “Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên: Hồ chí Minh”. Người gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ nhận thì không được bác nhắc tới họ tên, dù chỉ là cái tên trần xì như "chú Tiên" chẳng hạn. Bác Không Muốn Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen. Bác Hồ hơn đời nhiều, chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra một câu hẹn: “Ngày mai mời chú đến”, hoàn toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu, vậy mà bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm rằng: “Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn...”. Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có nhiều triệu người đáng được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha căng chú kiết nào mà chẳng "nội dung giản đơn...". Không những thế, giấy hẹn của thiên hạ còn đầy đủ, lịch sự hơn vì có ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của bác, xét kỹ lại thấy thiếu đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay được gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới trình diện bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên! Thư hẹn thiếu sót, vớ vẩn đến thế mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt nạ Trần Dân Tiên vào rồi hả hê thò tay xuống tìm... bi. Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay. Bác có thể chiến đấu trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong chiến tranh... không sốt ruột. Nhưng có cơ hội được khen thì nhất định bác chẳng chịu chờ. Xin đọc lại câu văn của bác: “Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng HOAN HÔ NHIỆT LIỆT, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập ...”. Người bình tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là: “... đứng trước quần chúng, Hồ chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập và được hoan hô nhiệt liệt”. Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ tịch đọc xong người ta sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn ào, lộn xộn. Nhưng bác Hồ cứ thấy "quần chúng" là cầm lòng không đậu, gặp quần chúng là bác bắt họ hoan hô nhiệt liệt ngay tức khắc. Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm coi là nhỏ và tật xấu chưa trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết trang đầu bác đã để lộ cái tính xạo ke ra. Bác viết: “Chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế mình”. Không muốn nhắc lại thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách bốc thơm mình, bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa, "không muốn" kiểu này hơi lạ! Câu ấy, đáng lẽ phải được viết như thế này: "Chủ tịch Hồ chí Minh không muốn... đứa khác viết về thân thế của người. Chính người phải tự viết lấy, tự ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới cảm thấy đã đời"! Bác Đẹp Trai Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp: “Sáng 4-9, 7 giờ 25, tôi đến dinh Chủ tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi: "Hồ chủ tịch đợi anh ở phòng làm việc". Phòng làm việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa sổ lớn. Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là tất cả những đồ trong phòng làm việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ tịch thường mặc bộ quần áo kaki, đi giầy vải đen.” (trang 6) Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4 trang đầu dành cho nhan sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa đến một trang rưỡi, ta đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ Trần Dân Tiên lần thứ ba. Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy bác Hồ là ngày 2 tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết “Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC ...”. Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt "thân thế" chú Tiên là người xa lạ, mới gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này, thường đi giầy kia, thông thạo cứ như... chính bác vậy. Đầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy loạn lên, trông không ra làm sao cả. Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết: “Tóc người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng ...”. Gớm! Bác thấy bác bảnh trai đến thế thì bác si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải tả tới màu da, bác hơi kẹt vì da bác "ngăm ngăm đen...". Phịa là nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu quá, sợ các cháu cười, bác đành phải nhận là mình đen. Nhưng lại e nhận như thế nó hơi xí giai đi, bác vội vã thêm: “Da ngăm ngăm đen khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích...” (trang 6). Nhờ bác Hồ tí! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng "trong rừng sâu" thì lại chỉ xanh mướt hoặc vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du kích lại càng xa sự đen đủi nữa vì đánh du kích là chuyện của những kẻ theo bác, còn chính bác quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương trong những cái hang kiểu như hang Pắc Bó vậy thôi. Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để điều khiển cuộc chiến, nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám nắng của các chiến sĩ gió sương thì... tham lam quá. Cái phần "trán cao, mũi thẳng, mắt sáng ngời..." bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em thực sự làm du kích có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng chôm luôn. Đã tham lam, bác còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình bảnh trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng sự viên đắc lực, những chú em đồng chí hơi xấu trai: thí dụ như chú Đồng vều. Trong khi bác "mũi thẳng, mắt sáng" thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp giai thì chú Đồng vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách mạng đâu có cần bề ngoài hoa lá cành như mấy anh đóng tuồng cải lương. Làm chi mà huênh hoang dữ thần vậy cho lũ đàn em nó thêm đau đớn phận nghèo! Bác Khiêm Tốn Nhường Ấy Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh lại và nhớ ra trò chơi phân thân của mình. Bác mô tả tiếp: “Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: "Tôi có thể giúp chú việc gì nào?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, người cười và đáp: "Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã!” (trang 6) Mặt nạ Trần Dân Tiên lại rớt cái kịch. Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần Dân Tiên thật mà tên ấy mới gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu sử ca tụng người thì làm sao nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn nô chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng lớp lớp đón cậu Trần Dân Tiên ở cổng dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu cả gan tính tranh "gióp" của chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu, chúng đã thành văn nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng cụ hành nghề là những cái ống đu đủ rất to. Ðứa nào cũng chấp chới mong ngóng có ngày được vinh dự kê ống của mình vào rốn bác mà thổi, nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp những văn nô nhà nghề, văn nô có chức sắc, để dành cái rốn của bác thì đâu có thể để cho nó sống sót được. Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo: "Đồng bào đang đói khổ, có nhiều việc cần kíp phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại, v.v...". Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần Dân Tiên dưới đất lên, đeo vào, nâng bi tiếp: “Một người như Hồ chủ tịch của chúng ta, với ĐỨC KHIÊM TỐN NHƯỜNG ẤY và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được”. Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách "Những mẩu chuyện ..." không bao giờ được viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các cháu khiêng bác ra quảng trường Ba Ðình, có lúc nào hết cảnh "rất nhiều đồng bào đang đói khổ" hay có khi nào bác hết "những công việc cần kíp" đâu. Kiên cường rước cho được chủ nghĩa Cộng sản về chụp lên đầu dân tộc, hô hào một nửa nước đem súng ống đi tàn sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách... những công trình ấy đâu có lúc nào cho phép bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có "đức khiêm tốn nhường ấy" nghĩa là rất thẹn khi phải tự đề cao mình... bác sẽ không chịu kể tiểu sử cho ai, nói chi đến việc tự viết ra. May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của dân tộc, bác đối xử với những lời nói của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định, hòa ước, lệnh ngưng bắn Tết Mậu Thân mà bác đã ký kết, hứa hẹn... nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa ráo mực. Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ lúc đang... viết ra! Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca tụng đã như một bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác có nhiều việc cần kíp, bác khiêm tốn, bác bận lo cho đồng bào đói khổ không có thì giờ khoe tiểu sử, v.v... Tự mình cầm bút khoe tiểu sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc lại nức nở ca ngợi rằng mình là người quá khiêm tốn, quá bận lo cho dân đói không muốn bỏ thì giờ vào việc kể tiểu sử... cổ kim, đông tây khó kiếm được anh chàng nào ăn gian nói dối, lố bịch đến thế. Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành rành trước mắt chân dung một con người thèm thuồng lời ca tụng, không chịu thỏa mãn với các kỹ thuật nâng bi tối tân của một đội ngũ văn nô nâng khỏe nhất thế giới, một con người dám làm cả những trò tiếu lâm, cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát khao được xưng tụng, một người hoàn toàn vì mình mà quên... dân, vì trong khi dân chúng chết đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết sách tự ca tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao. Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả ngần ấy đức tính cao cả của bác, phải công nhận là văn chương bác Hồ cũng phong phú lắm chớ bộ... Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là chân lý, hành động của bác không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng thành công, v.v... Thế nhưng khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu sử này chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với tinh thần thiếu tự tin. Bác cảm thấy mình chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào chữa dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết: “Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của Hồ chủ tịch, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài Hồ chủ tịch, thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó.” Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần được sửa lại cho đàng hoàng, đứng đắn như sau: "Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của tôi, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài tôi ra thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó." Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái được nâng bi gây ra. Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ tin ở tài tự ca ngợi. Nhưng mới viết vài trang, bác teo. Bác sợ mình sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải thòng câu đó để nhắn nhe đồng bào, độc giả rằng: "Cuốn sách này ca tụng bác chưa đủ đâu nhé, bác Hồ còn nhiều cái hay ho tài ba, ly kỳ bí mật khác chưa được kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng... cao hơn nhiều, v.v... ". Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ còn yếu kém, làm chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô lại xem chỗ yếu kém hiếm hoi đó là cái gì thì hóa ra bác khiêm tốn thú nhận rằng: tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi là con người vĩ đại vượt ra khỏi tầm nâng bi, ca ngợi của chính tôi! Từ thuở vua Hùng dựng nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta chưa từng gặp một con người "Khiêm Tốn Nhường Ấy"!
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:34:54 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ của Kiều Phong tặng Lôi Tam và anh em Nhân Vãn Phần 2 Về gốc gác, gia tộc của bác Hồ, chú Trần Dân Tiên viết: “Hồ chủ tịch sinh năm 1980. Quê người ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (Trung bộ). Phụ thân người là một cụ Phó bảng, nhưng gia đình người là một gia đình nông dân” (trang 8). Tại sao bác phải "nhưng gia đình người là một gia đình nông dân" thì ai cũng biết, bởi vì lũ dân con của bác, bác truy đến ba đời nhà chúng nó để hành tội, chả lẽ ông chủ tịch lại là con của một tay phong kiến hạng nặng. Thế nhưng tại sao ông già bác là Phó bảng mà gia đình bác vẫn cứ là nông dân thì bác không chịu nói, không giảng giải một lời. Chỗ này chú Trần Dân Tiên gặp chuyện khó ăn, khó nói chăng? Sau khi viết một câu ngắn, rất bí hiểm về ông bố, về gia đình mình, bác bắt đầu lờ tịt đi. Bác xoay qua nói chuyện ông... Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám, hai người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Người đọc, thoạt đầu, không dám nghĩ là bác lạc đề. Vừa nghe bác nhắc đến ông già lại thấy bác kể liền tới chuyện Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, người đọc chờ đợi bác đưa ra sự liên hệ giữa ông bố và hai nhân vật anh hùng này. Hèn ra thì cũng có một màn ông Phó bảng đi theo phò tá người làm việc lớn. Tóm tắt là ông Phó bảng có đóng góp tí ti cho phong trào chống Tây. Nhưng không! Càng đọc thì càng thấy ông Phó bảng bị quên luôn. Ông ấy chẳng dính dáng tí ti nào đến những chuyện nước non. Thành tích của thân phụ bác chỉ là cụ Phó bảng. Hết! Ông Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám và các người Việt yêu nước khác muốn xả thân chống Tây thế nào cũng được, cụ Phó bảng vẫn bình chân như vại đứng bên lề. Trong đoàn quân kháng chiến không hề có bóng dáng cụ. Bác Hồ viết: “Cụ (Phan Đình Phùng) tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung bộ, lãnh đạo họ đấu tranh gian khổ chống bọn xâm lược... Bọn Pháp bắt nông dân từ mười tám đến năm mươi phải đi phu... Năm 1907, lần đầu tiên nông dân ở các tỉnh Trung bộ nổi dậy chống thuế”. Ngần ấy chuyện, có biết bao nhiêu cơ hội cho cụ Phó bảng đóng góp. Thế mà cụ chẳng có mặt trong đoàn quân của cụ Phan (dù cụ Phó bảng vừa là trí thức vừa là nông dân). Trong đám người nổi dậy chống thuế không có cụ, mà cho đến cái việc bị Tây bắt đi phu cụ cũng lọt sổ luôn. Thế thì khoe khoang chuyện Phó bảng ra làm gì? Thà cứ viết: bác sinh ngày: ..., tên bố bác: ... , tên mẹ bác: ..., lại đỡ ngớ ngẩn và không làm người đọc chờ đợi mất công. Cách hành văn khoe khoang vớ vẩn của bác lại có vẻ như ngầm sỉ vả ông bố về tội chẳng đóng góp được cái tích sự gì. Càng kể thành tích chiến đấu anh dũng của người khác, bác càng làm nổi bật sự trống rỗng, vô ích, thừa thãi của cuộc đời cụ Phó bảng nông dân. Phải chăng cái ý tưởng đấu tố cha mẹ đã nhen nhúm trong đầu vị chủ tịch nước từ ngày ấy? Suốt hai trang sách, bác viết về thành tích của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám rồi Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Bác quên mình để ca tụng người khác rồi chăng? Không đâu. Đến ông già bác mà còn bị cho de vì không đóng góp gì cho sự vẻ vang của bác, các vị Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đâu có thể được ca tụng khơi khơi, vô vị lợi như thế được. Bác chịu kể thành tích của họ chẳng qua chỉ để làm mình nổi bật thêm. Đến trang 10, bác oang oang khoe rằng mình khôn ngoan, sáng suốt hơn cả bốn vị, hơn từ lúc bác mới mười lăm tuổi! Bác viết: “Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Chủ tịch Hồ chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì: - Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, anh nhận điều đó sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. - Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". - Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” ( trang 10) Cậu Nguyễn Tất Thành lúc 15 tuổi thông minh tài giỏi cỡ nào rồi ta sẽ nói vì trong sách có ghi lại nhiều bằng cớ. Nhưng bác xấc láo với tiền nhân đến độ khoe mình sáng suốt hơn họ từ lúc còn niên thiếu thì bác ngu và phét lác quá. Hai chữ "phong kiến" bác mới học được sau này, sau khi được bọn cộng sản Nga Tầu dạy dỗ. Mới nứt mắt ra thì chữ nghĩa kiến thức đâu mà chê bai các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, lại còn hồ đồ chê cụ Hoàng "theo lời người ta kể"! Già như bác ngày gần chầu tổ mà thở ra cái giọng ấy cũng đã can tội hỗn láo rồi. Chê cụ Phan Chu Trinh sai lầm trong cách xử sự với Pháp nhưng bản thân bác lại từng năn nỉ Pháp và bị lừa xiểng liểng nhiều phen. Chê cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp là "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" nhưng chính bác thì lại còng lưng cõng rắn Nga, Tầu và một chủ nghĩa cộng sản gớm ghiếc về nhà, thành ra bác "đuổi hổ cửa trước, rước hàng tá hùm beo, rắn rết cửa sau". Thế mà bác lại ngồi viết sách chê tiền nhân là kém sáng suốt, lại còn chê bằng lời nhô con Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi, ra cái điều là ngay lúc hỉ mũi chưa sạch, bác đã sáng láng hơn các bậc tiền bối rồi! Cậu Bé Siêu Phàm Sau khi cho cậu bé 15 tuổi chê bai tiền nhân xong, bác bèn mô tả rất kỹ tầm kiến thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm của cậu. Bác viết: “Một trí thức ở Sài Gòn kể lại cho tôi: Trong khi còn học ở trường Chasseloup-Laubat, tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà-phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy. Một hôm, tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên, anh mới nếm mùi kem...” (trang 11) “Tàu điện đối với anh Ba (cậu Nguyễn Tất Thành 15 tuổi lúc đó và bác Hồ sau này) là một chuyện kỳ lạ. Lần đầu tiên anh ta trông thấy những "cái nhà biết chạy" ấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả.” (trang 15) “Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa...” (trang 14) Cái vụ thộn mặt ra khi được ăn cà rem hay thấy xe điện thì kêu thảng thốt: “Ô! Cái nhà biết chạy!” không đáng trách. Cậu bé Nguyễn Tất Thành ở quê từ nhỏ, chưa theo kịp nếp sống văn minh, chả sao. Nhưng cậu lại dùng nĩa để ăn xúp thì... tối dạ không chịu được. Dù cậu Thành chưa từng được trông thấy cái thìa, cái muỗng thì ở nhà quê dân ta đã có những dụng cụ để múc cháo và các chất lỏng khác giúp trí khôn cho cậu. Vậy mà cầm tô xúp trên tay cậu ta lại cứ dùng nĩa mà... múc lấy múc để thì đầu óc có hơn gì đứa trẻ lên ba. Quê mùa và tối dạ chưa hẳn đã là người bỏ đi. Cậu nhóc Nguyễn Tất Thành khờ khạo, dại dột, chưa từng thấy que cà rem hay cái tầu điện, nhưng có thiên tài về chính trị, hiểu biết rộng rãi về nhân văn, địa lý thì sao? Hãy cho cậu một cơ hội để khoe tài. Và đây là những phát biểu của cậu Nguyễn Tất Thành về những địa hạt ấy: Nói về nước Pháp, ở trang 14 và 15, có tới hai lần cậu biểu lộ sự ngạc nhiên. Chuyện gì ở Pháp làm cậu bỡ ngỡ, bàng hoàng đến thế? Một lần cậu há hốc mồm kêu: “Ô! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta” (trang 15). Ngoài vụ kinh ngạc vì nước Pháp "cũng có người nghèo" cậu còn một phen kinh ngạc nữa vì nước Pháp có... người tốt. Bác viết: “Anh (Hồ Chí Minh) nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: Anh Mai, cũng có những người Pháp tốt anh ạ”. (trang 14, 15) Ông nhóc con cầm nĩa múc... xúp, ngạc nhiên rằng nước Pháp có người nghèo, không biết rằng dân tộc Pháp cũng có người tốt, v.v... lại oang oang lên tiếng chê bai các nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại! Con dại cái mang. Hành vi ngôn ngữ của cậu bé vị thành niên Nguyễn Tất Thành, cụ Phó bảng phải chịu một phần trách nhiệm. Phép nhà của cụ lỏng lẻo, cụ không dậy con tử tế chăng? Hay cậu Nguyễn Tất Thành có được dậy, nhưng quên bén mất lời cha? Kẻ hậu sinh không dám chê cụ Phó bảng đã khiếm khuyết trong việc giáo huấn. Đành ngờ rằng cậu bé hỗn xược Nguyễn Tất Thành bỏ nhà giang hồ vặt từ nhỏ, nên sớm đánh rớt mất những lời dạy dỗ của cha ông. Cậu Nguyễn Tất Thành tìm cách xuất ngoại để học hỏi. Cậu ra đi "bí mật" bằng cách lêu bêu ở bến tàu, năn nỉ hơi ồn ào để xin việc. Có kẻ thương hại, cho cậu chân phụ bếp trên chuyến tàu đi Pháp. Đây là vài thành tích lớn của cậu bé đã từng chê tuốt luốt các nhà Cách mạng lão thành. Ngoài việc khoe những cái ngu nho nhỏ như dùng nĩa để múc xúp, bác còn khoe ra một quả tối dạ vĩ đại: tối dạ đến độ suýt mất mạng! Bác Hồ viết : “Một lần, dọc đường anh Ba (tên của bác Hồ lúc đó) suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.” (trang 14). Dây Xích Oan Nghiệt Tàu đang gặp bão. Mọi người say sóng ngất ngư cả. Các ông bà chủ của bác cũng như hành khách trên tàu đều nằm bẹp, đâu có muốn ăn uống gì. Thế mà "anh Ba" cứ nhất định sợ chủ đói bụng, cứ liều chết để chu toàn vai trò khuân vác. Khôn ngoan một tí, anh Ba chỉ việc đau ốm như mọi người, hoặc ít nhất thì cũng chờ cho tàu ra khỏi vùng giông bão, rồi hãy phục vụ chủ cũng còn kịp chán. Nếu không có cột buồm và sợi dây xích giữ lại, thì bác Hồ đã hi sinh tính mạng, đã đi đoong và lịch sử ngành bồi bếp sẽ có một gương danh nhân: anh phụ bếp bỏ mạng sa trường vì quyết tâm phục vụ những cái bụng chủ nhân... không đói. Ôi, sợi dây xích oan nghiệt nào đã giữ cậu phụ bếp Nguyễn Tất Thành lại ngày hôm đó, không cho cậu đi chơi với hà bá? Nếu không có nó thì lòng biển đã có thêm bộ xương khô của một anh bồi có tinh thần bồi bếp nặng và hơn nửa thế kỷ sau hàng trăm ngàn người dân Việt đã không chết thảm trên biển Đông. Chê bác Hồ tối dạ có thể là chê oan. Nên tìm một cách giải thích khác cho hành động "liều mình cứu cái dạ dày chủ" của bác. Bác đã suýt chết chẳng vì khờ khạo mà vì có tinh thần bồi bếp quá cao, sẵn sàng phục vụ các ông bà chủ đến độ quên cả bản thân mình. Lời giải thích này có vẽ hợp lý và đỡ tai hại cho nhân vị của bác. Cái tinh thần vì chủ mà hầu hạ tận tụy chết bỏ, bác giữ suốt đời. Sau này, khi có cơ hội tiến thân trong sự nghiệp tôi tớ, bác được dịp phục vụ những ông chủ to hơn: hai ông chủ Nga, Tàu. Cũng với tinh thần liều mình trong giông bão, bác biểu diễn một tác phong tôi đòi vô cùng ác liệt. Bác hy sinh cả đất nước, cả sinh mạng của hàng triệu người dân Việt để cho các quan thầy hài lòng. Tinh hoa bồi bếp đã phát tiết ra ngoài từ lúc bác còn vị thành niên. Từ trang 15, bác Hồ kể chuyện ở Pháp. Tàu cặp bến Mac-xây. Các nhân viên Việt Nam được lãnh lương hèn nhất là một trăm quan lại thêm vô số tiền thưởng của hành khách. Riêng bác Hồ, kẻ liều mình trong giông bão, suýt chết mất xác vì quá hăng say phục vụ, lại chỉ được phát đúng... mười quan! Bác bị bốc lột thê thảm! Để tự an ủi, bác viết: “Anh ta (bác Hồ) được ít lương, nhưng anh học được nhiều chuyện mới lạ”. Và một trong những điều mới lạ bác học được trong chuyến này là “Ồ! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta!”. Hóa ra, khi chưa được "học" cậu Nguyễn Tất Thành cứ đinh ninh rằng nước Pháp là thiên đường, là nơi chỉ có toàn người giàu! Người Pháp Tốt “Ông Mai, người giúp đỡ bác Hồ ở Mac-xây kể rằng: Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta (bác Hồ) mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở đường Ca-nô-bia. Không cần phải nói, Đây là lần đầu tiên anh ta vô tiệm cà phê, và cũng là lần đầu tiên được người Pháp gọi bằng 'ông' ”. (trang 16). Được gọi bằng 'ông', bác sướng mê tơi, sướng đến độ mấy ngày sau, được hỏi cảm tưởng, bác khen Pháp rối rít: “Sau những ngày đầu tiên ở Mac-xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ: Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương” (trang 16) Được gọi bằng 'ông' một cái là đã sướng run người, vơ đũa cả nắm khen "người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép ...". Mới gặp vài anh Pháp bồi bàn đã vội kết luận về toàn thể dân Pháp, đã đưa ra nhận xét về tất cả người Pháp ở Đông dương! Cậu Nguyễn Tất Thành tỏ ra vừa hấp tấp vừa ngu. Bởi vì những tên Pháp thực dân chúa, chủ trương đánh chiếm và cai trị Đông dương, bày ra những mưu sâu kế độc... chính là những người Pháp ở Pháp chứ bọn Pháp chân tay ở Đông dương đâu có "tốt" được đến thế. Đang say sưa kể chuyện bác, đến khúc này, chú Trần Dân Tiên chợt ngưng lại. Chắc là đọc xong những trang đã viết, chú khoái tỉ lắm, tự phục mình lắm. Thế nên, theo đúng gương sáng của bác, chú Trần Dân Tiên tạm dẹp bác qua một bên để tự... nâng bi. Chú viết những dòng tự khen như sau: “Cho đến nay, cách của tôi - cách làm tập thể - hình như được việc. Những người cộng tác đầu tiên và tôi chỉ cứ nhẫn nại theo đường dây, ghi chép cẩn thận những mẩu chuyện giữ nguyên như thế. Và đây là một tiểu sử trung thành, đứng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt”. (trang 16) Hai chữ "trung thành" bác dùng sai, đáng lẽ phải viết là "trung thực". Còn cái khoản "không thêu dệt, không bày đặt" thì sau này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội nói tới. Bác Học Văn Chương Ta hãy tiếp tục đọc hồi ký để xem thành tích của bác hồi ở Mac-xây. Bác viết: “Theo địa chỉ ông Mai mách, anh Trần, người cộng tác trẻ tuổi của tôi, đến gặp ông Dân ở Nha Trang. Đây là những điều anh Trần ghi chép: Ông Dân sáu mươi hai tuổi, chủ một cửa hàng nhỏ sạch sẽ và đông khách, nhà đông con. Ông ta tiếp tôi niềm nở và kể chuyện: "Tôi có hai con trai đi Vệ quốc quân và một con gái đi cứu thương. Nhà tôi còn ba con nữa: hai mươi hai, hai mươi và mười sáu tuổi, đều là đoàn viên của đoàn Thanh niên cứu quốc... Ông Dân có tài nói. Ông bắt chuyện này sang chuyện khác rất thần tình. Kéo ông về câu chuyện mà tôi đặc biệt chú ý không phải là dễ. Nhưng sau tôi đã thành công. - Có chứ, tôi còn nhớ anh Ba ấy. Chắc chắn tôi còn nhớ anh ta mặc dầu cách đây đã ba mươi năm. Tôi ở với ông chủ của tôi ở Xanh Addơ-rét (Saint-Adresse), một ngoại ô của Ha-vơ-rơ, một hôm, ông chủ già dẫn về một người trẻ tuổi, gầy yếu, quần áo lôi thôi nhưng có vẻ lanh lợi. Tên anh ta là Ba. Ở nước ngoài mà gặp được một người đồng hương, thì lập tức người ta dễ trở thành bạn thân. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi ở một biệt thự có vườn hoa. Ông chủ già khi rảnh việc thì ở câu lạc bộ thành phố. Bà chủ thường đến nhà người con gái, vợ một nhân viên của công ty. Một người nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon, nhưng khi bà ta cáu thì như một mụ yêu tinh. Một cô sen xinh xinh hay làm dáng, có một "bà mẹ hay ốm". "Bà mẹ ốm" chính là một chàng thủy thủ. Để đi gặp tình nhân, chị ta lừa dối chúng tôi luôn, và nói là đi thăm mẹ ốm. Trong nhà tất cả là sáu người. Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ, bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều "con" hai điều "con". Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm. Chị ta muốn cho chóng xong để đi gặp "bà mẹ ốm". Vì vậy chúng tôi có rất nhiều thì giờ rảnh. Anh Ba dùng thì giờ, chăm bón hoa với người làm vườn hoặc giở những tờ báo có ảnh trong tủ sách ra xem. Sau khi đến được ba ngày, anh hỏi tôi: "Anh Dân, anh có biết viết chữ quốc ngữ không?". Tôi hơi thẹn nhưng trả lời thành thật: "Không, tôi không biết". Anh Ba liền giảng giải và khuyến khích tôi học. Tôi làm theo lời anh. Anh Ba cũng thế, anh học tiếng Pháp với cô sen.” (trang 16, 17, 18). Cả đoạn văn này làm nổi bật hai chuyện : 1/ Bác khôn vặt và cũng ưa bốc lột, lợi dụng sức lao động của kẻ đồng cảnh ngộ, cùng thân phận như mình. 2/ Bác học văn chương chữ nghĩa Pháp từ một sến nương. Về sự khôn vặt và tài bốc lột của bác thì ta thấy lúc làm bồi tàu, là chân phụ bếp hạng bét, bác đành lao động chết bỏ. Thế mà lúc ở Mac-xây, gặp chị sen tốt bụng, bác bốc lột sức lao động của chị ngay. Biết chị này đang bị ái tình vật, chỉ mong cho sớm xong việc để đi với kép, bác trút hết cả công việc lên đầu chị, "phần lớn công việc do cô Sen làm". Gặp một đồng nghiệp khôn vặt và chơi bẩn như thế, sến nương không hề giận, lại vẫn ra công dạy tiếng Pháp cho bác. Chẳng hiểu bác Hồ khoe cái thành tích vừa hèn vừa vô ơn này ra để nêu gương gì cho các đồng chí cháu ngoan của bác. Về nguồn gốc tài viết văn tiếng Pháp của bác như thế là chúng ta đã rõ, bác thụ giáo từ một. sến nương. Còn văn chương Việt thì sao? Mầm non văn nghệ bác Hồ có được một chị sen nào dẫn dắt lúc đầu đời không mà viết tiếng Việt lủng củng chịu không nổi. Quí vị đọc lại những câu này: “Một bà nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon”. “Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều "con" hai điều "con". Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm”. Ngôn ngữ nhân vật cũng như văn chương của bác cứ như ông Tây nói tiếng Việt. Trang 19, bác ghi lời một người kể chuyện: “Anh ta làm việc như một con bò”. Chẳng biết lối so sánh ấy có Tây lắm không nhưng chắc chắn rất khác Ta. Người Việt ta thì hay nói: "làm việc như trâu" mà ngu thì mới "như bò". Suốt cuốn sách, có khá nhiều câu văn lủng củng, lai căng như văn dịch của một anh chàng đang tập viết. Tới đây, ta ngưng một chút để xét lại lời tự khen của chú Trần Dân Tiên "không thêu dệt, không bày đặt". Để thực hiện cuốn hồi ký, chú Tiên lần lượt đi tìm (hoặc nhờ phụ tá), phỏng vấn những người này: Một trí thức ở Sài gòn (được gọi là anh Lê) kể chuyện bác đến rủ đi làm bồi tàu để xuất ngoại. Anh ta không đi theo nên không biết sau đó, bác Hồ đi ngoại quốc bằng cách nào. Anh Lê nói: “Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ chủ tịch của chúng ta ngày nay.” Kẻ thứ hai được phỏng vấn là ông Mai, người cùng làm việc trên tầu với bác. Ông Mai đã cứu bác nhiều lần, dậy bác gọt khoai, gọt măng tây (có lần ông Mai phải ném xuống biển tất cả đống măng tây bác gọt tầm bậy để xóa tội, giữ job cho bác). Ông Mai cũng là người dạy bác bài học của lớp mẫu giáo: không nên dùng nĩa để múc xúp, v.v. Cuối cuộc phỏng vấn ông Mai kể rằng ông và bác chia tay nhau ở Pháp. Ông theo tàu trở về Đông dương, bác muốn ở lại nên được chủ tàu đem về nhà nuôi, cho làm một chân phụ tá của sến nương nhà ông. Ông Mai kết luận: “Từ đấy, tôi không được tin tức gì của anh Ba nữa.” Sau khi anh Ba biến đi một cách "bí mật" như thế thì cũng chính ông Mai là người mách cho chú Trần Dân Tiên cái địa chỉ của ông Dân ở Nha Trang. Bởi vì ông Mai biết rõ là ông Dân đã sống cùng với bác suốt thời gian bác ở đợ cho ông Tây chủ tàu. Ông Mai "không được tin tức gì về anh Ba" nhưng lại là người liên lạc thường xuyên, biết rõ địa chỉ hiện tại của người đã sống với anh Ba. Ly kỳ thật! Nhưng đến phiên ông Dân ra tuồng thì tình thế còn ly kỳ hơn. Sau khi kể ra những thành tích đẹp đẽ của bác Hồ trong thời ở đợ, ông Dân bèn ngạc nhiên khi được cho biết anh Ba chính là Hồ chủ tịch bây giờ. Ông diễn xuất rằng ông không biết tí gì về quảng đời sau của anh Ba. Nhưng cũng lại chính ông Dân là người "biết chắc chắn" về ông Bốn, kẻ đã đi cùng với Bác sang Phi châu. Được phỏng vấn, sau khi chu toàn nhiệm vụ nâng bi anh Ba, ông Bốn lại giới thiệu ông Nam là người đã sống cùng với bác ở Luân đôn. “-Ông có biết ông Nam không? -Có, hầu hết chúng tôi biết nhau, vì chúng tôi đều ở cả trong tổ chức.” (trang 22). Những người đã sống cùng với bác một thời hoặc là cùng ở trong tổ chức, hoặc là thường xuyên liên lạc đến nỗi biết cả địa chỉ hiện tại của nhau lại cứ nhất định không chịu chia xẻ những tin tức về anh Ba, để cho anh ấy tha hồ bí mật! Các ông Mai, ông Bốn, ông Nam đều biết anh Ba là bác Hồ. Cả đến một vị trí thức ở Sàigòn (anh Lê), người gặp bác sớm nhất, lúc bác còn là một học sinh, cũng biết anh Ba là Hồ Chí Minh. Chỉ có một mình ông Dân là cóc biết! Tách riêng ông Dân ra như thế, bác có lý do. Bác muốn bắt ông ta diễn tuồng sửng sốt. Bác Hồ viết: “Để kết luận cuộc phỏng vấn của tôi, tôi hỏi ông Dân: - Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không? - Không, tôi rất tiếc là không biết. - Ông có muốn tôi nói cho ông biết không? - Còn gì bằng nữa . - Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa. Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến. Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và ông bật lên như một cái lò xo, và kêu: "Hồ chủ tịch! Hồ chủ tịch của chúng ta! A di đà Phật! Nhưng làm sao anh biết? Anh nói thật đấy chứ? Ồ, lạ quá nhỉ! Hồ chủ tịch là anh Ba ấy ngày xưa. Hay quá nhỉ! Tôi sẽ kể điều đó cho bà nhà tôi nghe, cho các cháu nghe. Chúng nó sẽ mừng biết mấy! Cha của chúng nó được quen biết cụ Hồ ngày xưa.” (trang 19, 20). Rõ ràng là giữa một chuỗi những người đã từng sống với bác, biết tiểu sử của bác, vẫn giữ liên lạc với nhau, ông Dân bị bác tách ra, bắt đóng vai ngớ ngẩn để có cớ reo lên: "Hồ chủ tịch là anh Ba ngày xưa! Hay quá nhỉ!", cho bác được dịp sướng tê mê, cho tác phẩm của bác có một cú bất ngờ rẻ tiền. Đây là một trong những đoạn văn tiêu biểu nhất cho tinh thần "không thêu dệt, không bày đặt" của bác. Kiều Phong sợ mình kết luận quá vội vàng mà ngờ oan cho bác nên đọc lại khá kỹ đoạn văn tả ông Dân "bật lên như một cái lò xo". Đọc kỹ, thấy một chi tiết có thể giải oan cho bác. Không chừng bác chỉ là nạn nhân. Cái ông Dân này mới chính là kẻ bày đặt, thuê dệt, vờ vịt "không biết anh Ba hiện nay như thế nào" để diễn tuồng sửng sốt, phỉnh bác chơi. Nguyên văn đoạn tả phản ứng của ông Dân khi được biết anh Ba chính là bác Hồ: "Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, hà miệng, gãi tai. Và ông bật lên như cái lò xo và kêu...". Chính hành động "gãi tai" đã tố cáo sự vờ vịt của ông Dân. "Quay đầu, mở mắt, há miệng, bật lên như cáo lò xo" đều được, người ngạc nhiên, sửng sốt đến độ bật lên như lò xo không có giây phút nào dành cho việc gãi tai. "Gãi tai" là hành động của kẻ băn khoăn, suy tính hay đang áy náy một điều gì. Gặp chuyện kinh hãi người ta giật mình, gặp chuyện ngạc nhiên người ta nhảy dựng, phản ứng ấy tự nhiên như khi chạm nước nóng thì rụt tay lại, bị đau thì hét lên, không có thì giờ nào để băn khoăn, suy tính, càng không có đủ thì giờ để có hành động thể hiện sự băn khoăn, suy tính. Trước khi bật lên như một cái lò xo, ông Dân gãi tai suy tính. Ông suy tính gì? Có lẽ ông sợ cái tuồng ngạc nhiên ông sắp diễn chuế quá, lộ liễu quá. Tất cả những người đã quen biết bác Hồ thủa hàn vi đều biết anh Ba ngày nay là ai, chỉ có một mình ông giả bộ không biết, lỡ bác sùng lên ghép cho cái tội "khi quân" thì bỏ mạng. Nhưng trong lúc gãi tai, suy tính, ông lại trông thấy hình bác Hồ để trên bàn thờ nhà mình, không ai có thể ngờ là ông coi rẻ bác được, thế nên ông quyết định diễn xuất tiếp. Và ông bật lên như lò xo, v.v… Kết quả rực rỡ. Bác Hồ sướng mê tơi vì tấn tuồng kinh ngạc của ông Dân, bác trịnh trọng viết vào sách. Bác Thương Người Sau ông Dân, tới phiên ông Bốn ca tụng bác. Theo lời ông Bốn, bác là người rất nhân từ: “Đến Đa-ca, bể nổi sóng rất dữ. Tầu không thể vào bờ. Cũng không thể thả ca nô xuống vì sóng rất to. Ðể liên lạc với tầu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tầu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”. “Cảnh tượng ấy, mọi Người coi là thường. Nhưng điều đó làm cho anh Ba hết sức cảm động, anh khóc. Ngạc nhiên tôi hỏi tại sao.” (trang 21) Nhờ ông Bốn "ngạc nhiên hỏi", bác Hồ có dịp chửi thực dân là lũ hung ác, vô nhân đạo. Cảnh tượng làm bác khóc thì "mọi người" coi là thường. Coi bộ ông Bốn đã hy sinh chính bản thân mình để ca tụng bác. Bởi vì trong số "mọi người coi là thường" có cả ông Bốn. Ông này có là thực dân đâu mà cũng hung ác, vô nhân đạo như thế? Thực ra, chắc ông Bốn đâu là kẻ xấu xa bất nhân. Chẳng qua là vì trong cái nước "Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc" do bác thành lập, những món quí hóa như "sáng suốt, tốt bụng, nhân đạo" đều phải dâng cho lãnh tụ cả. Cũng con người biết cảm động, khóc thương cho những người da đen bị sóng cuốn đi ấy chỉ mấy chục năm sau không hề nhỏ một giọt nước mắt cho hàng triệu người dân Việt bị ném và lò lửa chiến tranh. Chế độ thực dân biến đổi những người Pháp tốt bụng thành những kẻ hung ác, vô nhân đạo, đứng trên bờ biển Đa-ca hôm ấy. Chế độ Cộng sản cũng biến anh thanh niên Việt "thương người" trên bờ biển Đa ca hôm ấy thành một anh già tàn nhẫn, độc ác ngồi trong Bắc bộ phủ sau này. Cảm ơn ông Bốn. Nhờ câu chuyện ông kể về anh Ba mà từ nay người Việt sẽ bớt băn khoăn áy náy. Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam đã nẩy sinh ra một kẻ lòng dạ độc ác ngay từ tấm bé. Hóa ra không, cậu bé Nguyễn Tất Thành cho đến lúc này vẫn là một cậu bé Việt Nam tử tế. Chính chủ nghĩa Cộng sản sau đó giết cậu và ném trả về cho dân Việt một anh già tai ác, quái đản.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:36:23 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ của Kiều Phong tặng Lôi Tam và anh em Nhân Vãn Phần 3 Giã từ ông Bốn và nghề bồi tầu, bác Hồ đi Anh, nói là để học tiếng Anh. Người kể chuyện về cuộc đời bác khúc này là ông Nam. Ở Anh, việc đầu tiên của bác là đi cào tuyết cho trường học. Làm đúng được một ngày thì mệt bá thở, phải quịt. Sau đó, xin được một chân đốt lò. Nhưng nghề này cũng không khá. Bác than: “Ở đây thật đáng sợ, luôn luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng... Trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và không có đủ quần áo, tôi bị cảm...” (trang 25) Vì bị cảm, bác nằm phè luôn hai tuần. Lúc ăn gần cạn láng, bác xin được một chân rửa bát kiêm đổ rác. Ông Nam kể rằng trong lúc hành nghề đổ rác, bác biểu diễn được một trò ngoạn mục: Thấy những phần ăn thừa bị vứt đi phí quá bác "giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp". Người đầu bếp Ét-cốp-phi-e bèn cảm khái và cho bác lên chức làm bánh. Công việc nhẹ nhàng hơn rửa bát mà lương cao hơn. Đi Xem Chiến Tranh “Ông Nam kể tiếp: Thế giới đại chiến bùng nổ... Anh ba đến nói với tôi: 'Xin từ biệt anh Nam.' - Anh đi đâu? - Tôi đi Pháp. - Không nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh đến Pháp làm gì? - Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh. Anh Ba bắt tay tôi, chúng tôi hôn nhau. Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. (trang 27). Bác Hồ đòi "đi xem chiến tranh!" Các cụ ta dạy rằng: "Ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi". Dân tộc các nước khác dù không từng nghe kinh nghiệm khôn ngoan của các cụ ta, cũng chỉ xem chiến tranh trên màn ảnh, trong rạp hát, trong sách vở... Lạng quạng vào vùng chinh chiến để chết mất xác à? Bác Hồ từ đầu sách tới giờ vẫn đưa ra những lý do khôn ngoan để giải thích cho việc xuất ngoại của mình: đi Phi châu để xem các nước, đi Pháp để học hỏi, đi Anh để học tiếng Anh, v.v... Bây giờ, bác hùng dũng tuyên bố: đi Pháp để xem chiến tranh! Chắc bác cũng không tối tăm đến thế, đây chỉ là một quả phét lác để loè ông Nam đấy thôi. Ông Nam mô tả cuộc ra đi của bác Hồ với vẻ khâm phục: “Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. Mẹ kiếp! Đi xem chiến tranh dĩ nhiên phải đi chân tay không chứ bê theo hành lý, va ly cồng kềnh thì... chạy lẹ thế nào được! Đến Đây Là Hết Viết đến khúc này tiểu thuyết gia Hồ Chí Minh bút hiệu Trần Dân Tiên lại đột nhiên lên cơn sảng. Không biết bom đạn ở Pháp có làm kẻ "đi xem" là anh Ba mát dây chăng? Sau khi lảm nhảm ít dòng mô tả tình trạng chiến tranh, nhắc lại nội dung lá thư của anh Ba khoe rằng đã được gặp nhà ái quốc Phan Chu Trinh v.v... chú Trần Dân Tiên viết: “Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết, và cũng từ đó bắt đầu khó khăn cho chúng tôi. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không biết sau này anh Ba làm gì.” (trang 28). Thế là hết chuyện, thế là cuốn sách ngưng lại ở giữa trang 28 chăng? Cuộc phỏng vấn hết. Hết người để hỏi. Không biết gì thêm về anh Ba. Cuốn sách được thực hiện dựa trên lời kể đi đến chỗ hoàn toàn bế tắc. Chú Trần Dân Tiên tịt ngóp, buông bút và độc giả có thể buông cuốn sách rồi chăng? Chưa đâu, 28 trang văn chương ca tụng đâu có làm bác thoả mãn được. Thế nên ngay sau khi kêu mình lâm vào chỗ bế tắc, bác lại viết tiếp, tỉnh bơ. Ðây là một vài đoạn văn xuất hiện ngay sau khi chú Trần Dân Tiên bế tắc: “Đức bị đánh bại. Chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na uy, và ở đây vua làm nghề xẻ gỗ. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích và Lê Nin đã lãnh đạo công nông Nga nổi dậy. Cách mạng tháng Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước thắng trận và các nước bại trận đến Véc-xây họp Hội nghị hoà bình. Bên cạnh những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức. Họ tới là vì nghe có 14 điểm của tổng thống Mỹ Uynsơn (Wilson). Có cả người Ái nhĩ lan, người Ấn độ, người Triều tiên, người Ả Rập v.v... Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó người ta thấy có ông Nguyẽn Ái Quốc (tức là anh Ba). Ông Nguyễn liên lạc với các đoàn đại biểu Triều tiên, Ái nhĩ lan và các đoàn đại biểu khác. Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt nam yêu nước ở Pa-ri và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã những yêu cầu ra trước hội nghị Véc xây. Yêu cầu gồm có 8 khoản. Những khoản chính là: - Việt nam tự trị - Tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại, đại xá tù chính tri.. - Quyền lợi bình đẳng giữa người Pháp và người Việt Nam. - Bãi bỏ việc bắt ép dân mua rượu và thuốc phiện, bãi bỏ thuế đinh (người), thuế muối và sưu dịch. Những yêu cầu ấy gửi đến cho các đoàn đại biểu đồng minh và tất cả nghị viên của Quốc hội Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan chu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là ‘trẻ con’ ” (trang 29). “... Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết.” (trang 30). Cả đoạn văn hoàn toàn là lời tự thuật của bác. Bác làm gì, nghĩ gì, bác cứ vanh vách kể ra. Học khôn được gì trong lúc ấy, bác cũng khai luôn (“Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng...”). Cái trò viết tiểu sử dựa trên các cuộc phỏng vấn, dựa trên lời kể của các ông Bốn, ông Dân, ông Nam v.v... đến đây bị dẹp đi cái rụp. Cả đến những lời huyênh hoang tự nâng bi: Bác bận không viết tiểu sử, bác khiêm tốn không muốn ai viết tiểu sử... ở đầu sách, lúc này cũng bị bác quên tiệt. Tưởng như, đêm hôm trước, bác đeo mặt nạ Trần Dân Tiên ngồi viết thật khuya, mệt quá, trí tưởng tượng cạn, phịa ra đến ông Nam là hết vốn sáng tác, Trần Dân Tiên phóng đại xuống giấy mấy dòng: “Cuộc phỏng vấn đến đây là hết” rồi buông bút lăn quay ra ngủ. Hôm sau, bác bừng mắt dậy, hốt hoảng nhảy lên bàn viết tiếp sự nghiệp nâng bi, bác quên mất tiêu chú Trần dân Tiên, cũng chẳng nhớ chú ấy đã bày ra trò gì, viết cái gì. Bác phom phom kể tiếp thành tích, bất cần lời rên xiết của chú Tiên: “Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không ai biết sau này anh Ba làm gì?” Bảo rằng vì quên mà bác hành động kỳ quái như thế thì cũng không đúng. Chữ nghĩa bác viết ra còn lù lù trên giấy, văn chương bác lại được in tới in lui. "Văn mình" đã là một món hấp dẫn, hay ho. "Văn mình" tự ca tụng thì còn hay biết mấy, chắc bác phải đọc lại cả ngàn lần, đọc thủng giấy luôn, quên sao được. Không kém trí nhớ, không đần độn, mà nhất định không thấy một đoạn sách lố bịch như thế... chắc chắn bác Hồ kính yêu của chúng nó khi đọc đến đoạn ấy lại lên cơn mê. Văn tự nâng bi của bác đã tác dụng vào tâm trí bác như ma túy làm đê mê, đờ đẫn như những anh ghiền. Cũng trong đoạn văn lạc bầy vô duyên này, bác Hồ tặng cho độc giả nhiều chi tiết hay ho. Xin quí vị độc giả coi lại đoạn văn được trích dẫn ở trên nói về bản yêu cầu tám khoản của bác và lời chê của quí ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Hai vị chê nhóm của bác Hồ là... trẻ con. Bị chê bác có vẻ hậm hực lắm, bác nhắc lại vụ này bằng giọng cay cú ra mặt. Nhưng lại chính bác là người chứng minh lời chê của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường là đúng. Bởi vì sau đó: “Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như của các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết” và “Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.” Tám Khoản Yêu Cầu Lại xem tám khoản yêu cầu nhóm của bác đưa ra trước hội nghị Véc-xây thì thấy "nhóm thanh niên" không những trẻ con mà còn khờ khạo tức cười. Bản yêu cầu gồm 8 khoản thì đã có tới 7 khoản dư thừa. Đòi "Việt Nam được tự trị" là đủ rồi, còn đòi thêm: bãi bỏ việc ép dân mua rượu, bãi bỏ thuế muối, đòi tự do hội họp, tự do tín ngưỡng v.v... chi nữa. Làm thế có khác gì một anh viết giấy đòi nhà, đòi lại quyền làm chủ căn nhà, xong rồi lại thêm những khoản: tôi phải được tự do nấu nướng trong bếp căn nhà đó, tôi phải được tự do sử dụng cầu tiêu căn nhà đó v.v... Việt nam được tự trị rồi, mình được làm chủ mình, được tổ chức đất nước mình rồi thì Pháp nó đứng ở đâu để bãi bỏ dùm mình việc ép dân mua rượu và thuốc phiện? Ngố can không nổi! Tự nhiên nhảy chồm vào khơi khơi viết một đoạn (từ trong 28 đến giữa trang 31) rồi thình lình, không báo hiệu trước, không giải thích, bác rút lui tỉnh bơ, trao lại công tác cho chú Trần Dân Tiên. Sau ba cái hoa thị ngăn cách "cụm" văn chương lạc loài của bác, chú Trần Dân Tiên viết tiếp: “Một người quen ông Nguyễn ở Pa-ri đã cho chúng tôi nhiều tài liệu rất quí báu.” (trang 31) Đến phiên chú Trần Dân Tiên lên cơn mê sảng. Tất nhiên, trong tình trạng "tuy hai mà một" chú Tiên, bác Hồ làm gì cũng có đôi, có cặp, bác đã sảng thì chú phải mê. Nhưng cơn mê này kéo hơi dài. Mới câu trước chú Tiên khẳng định: “Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. KHÔNG AI BIẾT sau này anh Ba làm gì.” Ngay câu sau bác đã viết tỉnh bơ: “Một người quen ông Nguyễn... cho chúng tôi nhiều tài liệu quí báu”. Hai câu văn lăng mạ ông thân sinh của nhau thậm tệ như thế chắc chắn đội ngũ văn nô Hà nội phải thấy. Nhưng không anh nào dám hó hé phê bình, dám đề nghị cắt bỏ. Bác Hồ thì mê sảng mà các cháu thì rét! Càng Lớn Càng Dốt Người quen ông Nguyễn ở Pa-ri quả thực đã cho chú Trần Dân Tiên và độc giả nhiều tài liệu rất quí báu. Ông ta tiết lộ về khả năng, kiến thức thực sự của bác Hồ lúc đó. Trần Dân Tiên viết: “Ông này nói với chúng tôi như sau: ‘Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả cho Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó RẤT ÍT HIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, KHÔNG BIẾT THẾ NÀO LÀ CÔNG HỘI, thế nào là BÃI CÔNG và thế nào là CHÍNH ĐẢNG.‘ ” (trang 31) Lúc đó, "ông Nguyễn" đã hết tuổi vị thành niên, đã đến Pháp, đã đi qua các xứ Phi châu, đã đến nước Anh v.v... nghĩa là đã học hỏi được nhhiều rồi thế mà vẫn mù tịt, không viết thế nào là bãi công, là công đoàn, là chính đảng, vẫn "rất ít hiểu về chính trị". Hẳn quí vị độc giả còn nhớ. Ở những trang đầu sách, lúc Nguyễn tất Thành mới là một cậu bé 15 tuổi, chưa ra khỏi nước, thì lại được Trần Dân Tiên tâng bốc là một cậu bé sáng suốt về chính trị, cậu chê bai khắp lượt các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... rồi chê cụ Hoàng Hoa Thám là phong kiến. Lúc nhỏ sáng suốt thế, đến tuổi trưởng thành, bôn ba hải ngoại, học hỏi trau giồi kiến thức hàng ngày lại hoá ra "rất ít hiểu về chính trị" nghĩa là càng lớn càng ngu dốt đi. Phải chăng vì bác Hồ tự thương mình quá, tự phục mình quá nên hay sốt ruột, bốc nhằng. Vừa thấy cậu bé Nguyễn Tất Thành ra tuồng là bác phải ca tụng ngay, cầm lòng không đậu, chờ không nổi. Thế nên chính những lời ca tụng vội vàng của bác làm cho bác hoá ra kẻ tiến bộ giật lùi. Lúc nhỏ khôn, lúc lớn dại. Mười lằm tuổi thì sáng mà lúc hai mươi đầu óc lại tối hù? Đọc đi đọc lại đoạn văn này, Kiều Phong đâm ra hồ nghi: Phải chăng kỹ thuật tự nâng bi của bác có chỗ trục trặc đã tạo ra tình cảnh nghịch thường, hay sự thật đúng như thế? Sự thật đúng là bác Hồ càng lớn càng tối tăm đi. Bởi vì cứ nhìn vào phần đất nước Việt nam được bác hướng dẫn thì cũng thấy một tình trạng giật lùi tương tự. Dưới sự lãnh đạo anh minh của Bác, cả miền Bắc hùng hục chạy ngược chiều tiến của nhân loại. Bác Hồ càng lớn càng tối tăm, ác độc. Nhân dân được bác lãnh đạo càng lúc càng đổ dốc ào ào "từ người xuống vượn" mất có mấy năm! (thơ Nguyễn Chí Thiện). Đỡ Đầu Văn Học Từ trang 31, bác Hồ viết về thời kỳ bác học làm báo, viết văn. Cũng chính trong thời kỳ này, con cáo già Cộng sản đã nhìn thấy ở Nguyễn Tất Thành một đệ tử sáng giá, một tên tay sai đắc lực. Nó ra tay ve vuốt, nuôi nấng, dạy dỗ cậu: “Trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ "Dân chúng", cơ quan của Đảng Xã hội Pháp là đã in những lời yêu cầu của Việt nam. Ông Nguyễn đến toà báo. Chủ nhiệm báo, ông Sạc-Lông-ghê (Charles Longuer), cháu ngoại Các Mác và nghị viên của Quốc hội Pháp, đã tiếp ông. Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được ai đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là đồng chí thân ái. Ông nói cho ông Nguyễn rõ tất cả cảm tình của ông đối với nhân dân Việt nam. Ông khuyến khích ông Nguyễn viết bài và ông sẽ đăng lên tờ báo "Dân chúng" để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt nam. Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn. Nó cũng làm cho ông Nguyễn hiểu rõ nhân dân Pháp. Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo. Nhược điểm về trí thức làm cho ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo. Thường lui tới toà báo "Dân chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình còn kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại; có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài: năm, sáu dòng cũng được. Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam ông Nguyễn không thiếu, ông thiếu nhất là văn Pháp ...” (trang 31-32) Đoạn văn này cho độc giả thấy hai điều: 1- Những người như ông Phan Văn Trường đối xử với cậu Nguyễn Tất Thành rất tử tế, bao dung. Tuy chê nhóm của Hồ là "trẻ con", không tán thành đường lối hoạt động của Hồ, nhưng thấy Hồ dốt Pháp văn, viết không được, ông Phan Văn Trường vẫn ra tay viết giúp, rồi cho Hồ ký tên. Trong tập hồi ký này Hồ kêu ca rằng: "Ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói". Nghĩa là Hồ muốn nói nhiều, có "ý kiến" này nọ ghê lắm nhưng ông Trường cứ dẹp đi, cất bớt đi. Nghe Hồ rên xiết, ta có cảm tưởng là ông Trường đã ếm tài của mầm non chính trị Nguyễn Tất Thành, đã cắt bỏ của cậu những ý kiến, lời lẽ hay ho, xuất xắc lắm. Nhưng ông Trường đã chịu khó viết bài dùm cậu, cho cậu ký tên, để thổi cậu lên, tất nhiên ông cũng mong cậu có những ý kiến hay ho để ông đỡ vất vả. Còn ém tài cậu làm gì. Vậy tại sao ông cứ không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói"? Ta đã có câu trả lời nằm trong đoạn trước "ông Nguyễn" đã trổ tài nói ở hội nghị Véc-xây. Ông đòi hỏi rằng nước Pháp phải để "Việt Nam tự trị". Và đó mới là một khoản. Sau khi Việt Nam tự trị rồi ông còn đòi thêm tới bẩy khoản nữa: Pháp không được ép dân Việt mua rượu và thuốc phiện, phải bỏ thuế dinh, thuế muối và sưu dịch v.v.. "Ông Nguyễn" nói như thế thì chắc đoàn đại biểu đồng minh ở hội nghị đã được một phen cười vỡ bụng. Ông Phan Văn Trường chắc phải dẹp bớt những lời lẽ lèm bèm của "ông Nguyễn" đi vì đâu có chủ đích giúp "ông Nguyễn" viết văn khôi hài. 2- Bác Hồ lúc về già thèm khát lời xưng tụng mà lúc trẻ thì cứ chết lịm người đi vì những câu vuốt ve. Cả hai nỗi thèm khát này đều làm cho bác u mê, đờ đẫn. Khi được cháu ngoại Các Mác xoa đầu, bác hả hê ghi lại: “Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là "đồng chí thân ái" ” và bác reo lên: “Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn.” Lúc mới tới Pháp, đi uống cà phê, lần đầu tiên được một anh bồi gọi là ông, bác đã sướng mê tơi và vội vã kết luận: “Người Pháp ở Pháp rất tốt”. Bây giờ được một anh Cộng sản gộc gọi là "đồng chí thân ái" thì tất nhiên "ông Nguyễn" phải thấy ngay: Cộng sản là một chế độ dễ thương nhất thế giới. Nhờ anh chủ bút một tờ báo Cộng sản hướng dẫn, bác Hồ dần dần viết được những mẩu tin ngắn. Ðây là đoạn mô tả thời kỳ bác học làm báo: “... Khi thấy viết đã bớt sai lầm ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tí, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo: "Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." ” “Ông Nguyễn thấy rằng phải rút ngắn cũng khó như trước kia phải kéo dài. Nhưng cũng hết sức cố gắng. Và ông thành công. Ông bắt đầu vào làng báo từ đó.” (trang 32-33). Tài nghệ mới viết được một cột báo đã bị chủ bút bảo phải viết... ngắn lại. Thế mà mầm non báo chí Nguyễn Ái Quốc đã khoe ngắng lên là mình "vào làng báo" rồi! Nếu ở miền Nam trước năm 1975, với văn tài "bảy tám dòng" như thế, ký giả Nguyễn Ái Quốc may phước lắm thì xin được làm đàn em của ông Văn Đô chuyên trị đi nhặt tin xe cán chó. Những bài học về báo chí của bác cũng chẳng giống ai. Trong khi một ký giả phải học cách săn tin, viết tin, điều tra, phỏng vấn v.v... thì bài học mà anh chủ bút cộng sản dạy bác quanh đi quẩn lại vẫn là: "Viết năm, sáu dòng". "Bây giờ, phải viết dài một tí độ bảy tám dòng". "Bây giờ, phải viết ngắn lại". Khi viết hồi ký khoe mình "vào làng báo" tất nhiên bác phải trình làng tất cả những bài học hay ho sáng giá nhất, những câu đối thoại sâu sắc nhất giữ thày trò bác. Cái sâu sắc nhất ấy chỉ là chuyện viết ngắn, viết dài! Nhưng báo chí không phải là nạn nhân duy nhất. Sau khi hành hạ làng báo, bác quay qua tra tấn, đấu tố làng văn.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:37:10 GMT 9
Trần Dân Tiên kể tiếp: “Về văn học, ông Nguyễn thích đọc Sếch-Pia (Shakespeare) và Đích-ken (thingyens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy-gô (Hugo), Dô-la (Zola) bằng tiếng Pháp. A-na-ton Phơ-răng-sơ (Anatole France) và Lê-Ông Tôn-stoi (Leon Tolstoi) có thể nói là những người đỡ đầu văn học cho ông Nguyễn. Đọc những truyện ngắn của A-na-tôn Phơ-răng-Xơ và của Lê-ông Tôn-stôi, ông Nguyễn thấy hứng thú về văn chương giản đơn và tự nhủ: "Người ta chỉ cần viết điều gì người ta thấy và cảm, bằng cách nắm lấy màu sắc và hoạt động của sự vật, như thế thì viết cũng không khó lắm.” (trang 33). Riêng lời tự nhủ của bác đã là một câu nhận định về văn chương lảm nhảm, lủng củng và có thể khiến các ông Antole France và Leon Tolstoi khóc thét. Viết điều gì "người ta thấy và cảm" thì được rồi, nhưng lại "bằng cách nắm lấy (?) màu sắc và hoạt động của sự vật" thì là nghĩa thế nào? Lê-ông Tôn-stôi và A-na-tôn Phơ-rang-Xơ là 2 nhà văn xấu số nhất. Họ là thủ phạm gợi hứng cho bác Hồ lăn xả vào làng văn, gây cho bác cảm tưởng "viết cũng không khó lắm". Nhưng cái tội lớn nhất của họ là "đỡ đầu văn học" cho Hồ chí Minh. Đỡ đầu bằng cách nào. Đọc văn Hồ? Sửa văn Hồ? Khuyến khích Hồ viết? Giới thiệu tác phẩm của Hồ? Chỉ cho Hồ những sách cần đọc? Những chuyện cần học? Thư từ qua lại bàn chuyện văn chương với Hồ? Hướng dẫn Hồ vào làng văn? May phước cho ông văn sĩ Nga và ông văn sĩ Pháp này: Cả hai đều không sống đồng thời với Hồ. Cả hai chỉ có một hành động liên hệ với Hồ duy nhất là họ viết sách để lại cho đời, và Hồ đọc được, hứng thú về "văn chương giản đơn" của họ, thế thôi. Cái việc Hồ mừng rỡ reo lên: hai ông ấy đỡ đầu văn học cho tôi, hoàn toàn ngoài dự tưởng của họ, ngoài trí tưởng tượng của người bình thường. Đọc sách của người xưa, cảm hứng vì sách rồi cầm bút viết văn, làm thơ... chuyện ấy xảy tới cho nhiều người. Nhưng nhận vơ tác giả cuốn sách là người "đỡ đầu văn học" cho mình thì cổ kim, đông tây chỉ có mầm non văn nghệ Hồ chí Minh dám làm cái công việc nhận quơ, nhận quàng trơ trẽn đến thế. Trong tất cả những trường hợp "thấy kẻ sang bắt quàng làm họ" của dân Việt, cũng chưa từng có vụ nhận quàng nào khôi hài hơn. Theo gương bác, những anh văn công chuyên làm vè có thể hô hoán "Nguyễn Du đã đỡ đầu văn học cho tôi" bởi vì các anh ấy đã đọc và thích truyện Kiều. Các thi hào, thi bá Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị v.v... sẽ can tội "đỡ đầu văn học" cho một ông chuyên làm thơ quảng cáo thuốc ho bà lang trọc vì ông này cũng mê đọc Đường thi dữ lắm . Bác Sáng Tạo Dù sao, nếu Hồ trở thành một văn thi sĩ lỗi lạc thì vụ nhận vơ này cũng không làm đau lòng quí ông Anatole France và Leon Tolstoi. Ta hãy xem thành tích của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc: Bác có viết một số truyện ngắn, được tờ "Nhân Đạo" đăng tải. Nhân đạo không phải là một tờ báo văn chương. Nó là tờ truyền đơn quảng cáo chế độ Cộng sản. Truyện ngắn được đăng trên "Nhân Đạo" không chứng tỏ văn tài, chỉ thể hiện khả năng làm đầy tớ Cộng sản. Về tác phẩm lớn của Hồ thì: “Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án kết tội chế độ thực dân Pháp" quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở Thư viện Quốc gia” (trang 34) Tài sáng tác của bác đã yếu kém mà đến khả năng viết sách kể tội thực dân của bác cũng không khá. Công tác cực nhọc nhất của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc là chạy vào thư viện cóp nhặt những trang sách của các tác giả Pháp, gom lại, làm một cuốn sách của mình, mà lại là "QUYỂN SÁCH DUY NHẤT". Ở đoạn trên, chú Trần Dân Tiên đương huyênh hoang rằng bác “không có một phút nào quên Tổ quốc mình bị giày xéo và đồng bào mình bị áp bức.” (trang 34). Nhưng tổ quốc bị giày xéo, đồng bào bị áp bức thế nào bác không viết (hay không viết nổi) thành sách. Việc ấy đâu có đòi hỏi ở bác một khả năng sáng tác, tưởng tượng. Chỉ cần ghi lại vụng về những chuyện đang xảy ra ở Việt Nam là bác có một cuốn sách dày. Nhưng người được Leon Tolstoi và Anatole France "đỡ đầu văn học" chỉ làm nổi một việc là đi chép những trang sách trong thư viện, sắp xếp lại rồi hùng dũng ký tên! Tội nghiệp hai ông Leon Tolstoi và Anatole France! Chỉ vì viết văn "giản đơn" được bác thích mà mang cái họ "đỡ đầu văn học" cho một cây bút quá tồi. Về công trình sáng tác của bác, Trần Dân Tiên bốc: “Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả một vở kịch Rồng Tre”. (trang 34) Đáng lẽ chú Tiên phải viết: "Ông Nguyễn viết vở kịch Rồng Tre" hoặc "Ông Nguyễn viết một vở kịch nhan đề là Rồng Tre". Nhưng thôi, chuyện văn chương bác lủng củng thì nói sao cho hết. (Vả lại, trễ rồi. Nếu bác còn sống, "Nếu có bác trong ngày vui di tản" thì ta đã gửi bác đến Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng tu nghiệp là mọi chuyện em thắm ngay, khỏi mất công chê bai) Xin quí vị độc giả chú ý đến chữ "cả" trong câu văn của Trần Dân Tiên. Chữ "cả" làm cho câu văn như reo lên một cách lãng xẹt. “...ông Nguyễn viết CẢ một vở kịch” . "CẢ" không hàm ý tất cả (có ai viết nửa vở kịch rồi ngưng đâu). Viết cả một vở kịch thì có gì là ghê gớm, phi thường? Trần Dân Tiên reo hò thán phục với ngụ ý rằng: ngoài cuốn sách cóp nhặt, bác còn viết được một vở kịch nữa đấy. Ôi chao! Chỉ cần giở bất cứ một đặc san, bích báo nào của trẻ em trung học miền Nam, chúng ta cũng gặp những siêu nhân ngang tài với bác "viết cả một vở kịch". Có em viết cả hai ba vở kịch lận. Vở kịch Rồng Tre hay ho cỡ nào? Trần Dân Tiên viết: “Đại ý vở kịch như thế này: Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng. Tuy vậy chỉ là một quái vật vô dụng.” (trang 34) Tre, trúc là giống mọc thẳng. Tây con có thể không biết, chứ người gốc Mít như bác Hồ phải biết. Một cây tre mọc cong queo là đã là hiếm, ở đây bác Hồ bảo: “Có những cây tre thân hình quằn quẹo” nghĩa là nhiều. Như lời Án Tữ xưa nói: "Cây quít mọc ở phía Nam sông Hoài thì ngọt, mọc ở phía Bắc sông Hoài thì chua, là vì thủy thổ khác nhau". Vậy nay, những cây tre mọc ở ngoài đời thì thẳng mà mọc trong lòng bác lại quằn quẹo chẳng là vì tâm địa bác cong queo khác thường chăng? Tre cong queo đã hiếm, mà cong queo đến độ như con rắn, con rồng uốn khúc thì đúng là kim cổ kỳ quan. Trên thế gian những giống cây cong queo đâu có thiếu gì. Bác lại chọn đúng loài cây mọc thẳng nhất, bắt nó cong để viết kịch thì đúng là đã "vận dụng hết óc sáng tạo", hết tiệt luôn. Đấy là cái khoản chọn vật, bây giờ hãy xét cách chọn người của kịch tác gia Hồ. Người chơi đồ cổ là người chuyên sưu tầm và có thể buôn bán đồ cổ. Một cây tre cong queo đâu có phải là một món đồ cổ đáng để họ sưu tầm. Nhà chơi đồ cổ đi kiếm cây tre cong đã lạ, cái việc đẽo gọt nó thành con rồng càng lạ hơn. Việc chơi đồ cổ không cho họ có bàn tay tài hoa của một nhà điêu khắc. Viết như thế thì cũng không khác gì kể chuyện rằng ở bên đường có một khúc gỗ, có mấy anh chuyên gia thiến heo đem khúc gỗ về đẽo gọt nó thành một... cây đờn! Muốn đẽo gọt cây tre cong queo thành con rồng, nhân vật kịch của bác phải là một nhà điêu khắc, hay hèn nhất thì cũng là một ông thợ mộc khéo tay. Nhưng kịch của bác nhất định bắt mấy tay chơi đồ cổ hì hục gọt cây tre thành con rồng, coi bộ họ cũng gian khổ ác liệt như nhân dân bị bác bắt biến sỏi đá thành... cơm vậy! Anh nào lọt vào tay bác cũng hốc hác! Vở kịch được bác gán cho một ý nghĩa cao siêu: “Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng”. Mới nghe tưởng ghê, tưởng sáng kiến mới lạ. Nhưng ý kiến này, tiếc thay, bác Hồ lại thuổng của tiền nhân. Bài thơ "Tiến sĩ giấy" của cổ nhân thâm trầm, sâu sắc biết bao nhiêu. Cái anh chàng thuổng lại, đem về viết kịch, làm thành chuyện rồng, huyện rắn vừa ngô nghê vừa ngớ ngẩn chẳng ra làm sao cả. Xưa nay, trong hồi ký, bút ký, những truyện tức cười, những hành động lố bịch, những sáng tác vụng dại, non kém được kể lại không phải là hiếm. Nhưng khi kể những chuyện ấy, tác giả chỉ cốt dựng lại một thuở xa xưa, một thời non trẻ lúc mà tác giả chưa trưởng thành, chưa làm ra cái gì nên hồn. Chỉ những thiên tài, thần đồng mới có những thành tích lớn lao đáng khoe khoang từ lúc còn rất trẻ. Ngoài ra người ta kể lại chuyện cũ để cười, để giễu cợt chút đỉnh... kiểu như một người nhắc lại cái bệnh tè dầm của mình thời bé dại, vậy thôi. Bác không phải là thiên tài, thần đồng. Nền văn chương, kịch cợm của bác dù được tới hai văn hào Nga và Pháp "đỡ đầu văn học" vẫn chỉ là một cuốn sách cóp nhặt, một vở kịch lèm bèm, dở ẹc. Thế mà bác long trọng ghi lại tất cả một cách nghiêm trang, như ghi lại một đoạn đời thành công lớn lao, với những thành tích to lớn! Tình yêu quả thực đã làm người ta mù quáng. Bác si mê bác quá nên không bao giờ thấy nổi sự lố bịch của người yêu. Nghề Nghiệp và Hoạt Động Sau khi khoe bác viết kịch được các nhà phê bình văn nghệ khen hay, bác học tập nghề làm báo rất gian khổ và được vào làng báo Tây v.v... chú Trần Dân Tiên kể tiếp: “Trong thời gian ở Paris, ông Nguyễn sống rất cực khổ...” (trang 34). Ô hay! Đã vào làng báo Tây là ngon rồi, khỏe rồi sao còn "rất cực khổ". Tây vốn trọng nhà văn, nhà báo. Ông nhà văn, kịch tác gia kiêm ký giả Nguyễn Ái Quốc sao lại thảm vậy? Hãy nghe chú Trần Dân Tiên kể tiếp: “Để kiếm tiền, ông Nguyễn làm nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. Chính cụ Phan Chu Trinh đã dạy cho ông Nguyễn nghề này”. (trang 34). (Ở đây chúng ta lại có dịp thấy tấm lòng bao dung của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Gặp một kẻ lấc cấc, bắng nhắng như Hồ, ông vẫn không giận, không ghét, vẫn dạy nghề cho). Con người đói nhất của làng báo Tây, ngoài nghề rửa ảnh, còn có một cái "gióp" cao quí hơn: “Ông làm cả nghề sơn vẽ đồ cổ. Ở Paris có nhiều nhà làm giả đồ cổ Trung quốc; họ làm đồ gỗ, bình phong và những vật khác bắt chước theo kiểu Trung quốc. Họ sơn bằng sơn Nhật và vẽ hoặc viết những chữ ngoằn ngoèo giả chữ Trung Quốc. Những bà quí tộc giả, những trọc phú rất ham những vậy ấy, không biết là đồ giả và mua rất đắt. Công việc sơn vẽ giả đồ cổ Trung quốc rất dễ cho ông Nguyễn, không may đấy chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng.” (trang 34-35) Ối trời! Hóa ra bác Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng của chúng nó đi làm cái nghề chế tạo đồ cổ giả để lừa bịp mấy bà già! Tưởng tượng ra cái mặt bác nghệt, cái lưỡi bác thè, cái tay bác cặm cụi viết những chữ "ngoằn ngoèo" giả làm chữ Trung Quốc, thấy "anh minh" không thể tả được, chỉ hơi kém lương thiện tí thôi. Đọc đến chỗ này, ta thấy một nghi vấn văn học đã được giải toả, đã có lời giải thích. Quí vị còn nhớ: khi viết vở kịch Rồng Tre, bác "sáng tạo" rằng: “Những người chơi đồ cổ đem khúc tre cong quẹo về đẽo gọt thành con rồng v.v..”. Thật ra có lẽ bác định viết: "những người LÀM ĐỒ CỔ đem khúc tre về đẽo gọt..." Làm đồ cổ? Ở trên đời đâu có loại người tài ba đến thế. Món đồ được coi là cổ, phải có bàn tay của thời gian xiá vô. Kẻ làm cái đĩa thời Khang Hy cũng chỉ là một anh thợ đồ gốm chuyên làm đĩa làm chén. Trăm năm, ngàn năm sau, một món đồ tầm thường hóa ra đồ cổ. Đâu có ai làm ra một món gì rồi lập tức biến nó già đi vài trăm năm thành đồ cổ. Đồ cổ không ai làm được trừ phi nó là đồ... giả. Và đó là nghề của chàng. Bác ngồi làm đồ cổ giả hung hãng quá nên nó nhập tâm, hóa ra nó méo mó nghề nghiệp, khi viết kịch cũng đưa đại cái nghề bất lương đó vô tác phẩm và khán giả mới có dịp thấy "người chơi đồ cổ" lại có khả năng đẽo rồng, gọt phượng! Ôi chao! Nếu trời không xui, đất không khiến cho bác tự khoe ra thì bố ai mà biết được bác lại có lúc chơi những trò gian vặt, bất hân, đi lừa lọc mấy bà già khờ khạo như thế! Cũng ở chỗ này, thêm một lần nữa ta biết Trần Dân Tiên chính là bác. Nếu đứa khác viết hồi ký giùm bác mà lại phang ra cái nghề lừa bịp bà già của bác thủa thiếu thời, khiến bác nom buồn cười quá như thế thì đội ngũ văn nô sẽ xúm lại khiền nó thấy mẹ. Bác có hai nghề độ thân. Cái nghề cụ Phan Chu Trinh dạy cho (rửa ảnh, phóng đại ảnh) thì oai hùng, lương thiện mà cái nghề bác tự kiếm lấy lại bất lương quá đi thôi. Sao không noi gương những lão ông di tản rực rỡ tên vàng, thường cày hai “gióp” phom phom mà “gióp” nào cũng đàng hoàng cả. Lúc ấy còn trẻ túng đói, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc bấn quá phải sinh nhai bằng cái nghề lừa bịp. Thôi thì cũng thông cảm, bỏ qua. Nhưng khi viết hồi ký, bác đã già đầu rồi, đã biết suy nghĩ, đắn đo rồi, thế mà còn lên giọng tiếc hùi hụi: “KHÔNG MAY, đây chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng” Bác không may một, thì nhân dân Việt Nam không may mười. Giả thử rằng cái trò sơn đồ cổ bịp bà đầm già của bác lúc đó mà phồn thịnh, bác may mắn hơn, kiếm ăn khá hơn, bận rộn suốt bốn mùa thì có lẽ bác đã thành một tay sơn đồ cổ giả chuyên nghiệp và, với sự chịu khó, tài láu cá vặt, bác sẽ thành công. Nước Pháp có thêm một thằng bịp nhưng nước Việt thoát được một kẻ hại nước, tàn dân. Không may thật. Uổng thật. Kiều Phong cũng tiếc hùi hụi.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:37:53 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ của Kiều Phong tặng Lôi Tam và anh em Nhân Vãn Phần 4 Đó là chuyện nghề ngỗng, bây giờ đến cái khoản ăn ngủ và hoạt động của bác. Về khoản ăn, theo lời Trần Dân Tiên, bác thuộc loại dễ nuôi: “Mỗi buổi mai, ông Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên một ngọn đèn dầu. Với một con cá mắm hoặc một tí thịt. Ông ăn một nửa và để dành một nửa đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả ngày” (trang 35) Về ở, bác lại vận dụng trí sáng tạo đưa ra một kiểu chống lạnh rất ly kỳ: “Ông trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác. Về muà đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét.” (trang 36) Nếu đây chỉ là lời bịa đặt thuần tuý, để tự đề cao, để cho đời thấy bác đã có thuở thiếu thời vô cùng rét mướt, vv... ta nên bỏ qua vì trí sáng tạo của bác chỉ có vậy. Nhưng nếu thật sự bác đã từng chống rét bằng cái kiểu gói viên gạch vào những tờ báo cũ thì lúc đó bác còn tối tăm lắm, không hơn gì cái thuở ăn xúp bằng nĩa. Không ai gói giữ nhiệt độ bằng giấy báo cũ. Khách sạn bác trọ không có máy sưởi ở các phòng, mùa đông Paris sẽ lạnh tàn nhẫn vô nhân đạo. Lò bếp khách sạn đâu có ở cạnh phòng bác. Cục gạch lấy từ bếp ra, gói vào giấy báo thì chỉ một lúc sau, bác về tới phòng là nó lạnh như cục nước đá rồi. Để cục nước đá ấy xuống nệm mà nằm cho nó oặt xương sống ra à! Yêu cầu các cháu văn nô của bác trong kỳ tái bản tới sửa lại khúc này là: bác bọc cục gạch nóng vào mớ giẻ rách. May ra đỡ lạnh hơn và nằm chắc chắn êm hơn, xương sống được an toàn. Có Vẻ Dễ Yêu Về sinh hoạt thường ngày của bác, chú Trần Dân Tiên kể: “Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến ông đi dự mít tinh ở Paris... Hầu hết trong những buổi mít tinh này, ông đều phát biểu ý kiến” (trang 36) Vừa kể đến đó, bác cầm lòng không đậu, lại tự khen ngay một phát ra gì: “Vì ông là người ngoại quốc độc nhất trong những nơi này và vì ông có vẻ dễ mến cho nên thính giả thích nghe ông. Ông Nguyễn khéo lái những vấn đề thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặt biệt là vấn đề Việt nam” (trang 36) Mới có mấy dòng kể chuyện đi mít tinh bác đã nhồi nhét vô được ba bốn lời tung hô vạn tuế: nào là bác "khéo lái", bác được thính giả thích nghe, bác có vẻ dễ yêu mến. Nhưng ở đoạn này, bác muốn "nói có sách, mách có chứng" đàng hoàng, bác đưa ra ví dụ về chuyện "khéo lái" rồi chuyện "dễ yêu". Bác kể: “Có một lần bác sĩ Cu-ê (Coué) nói về thuật thôi miên. Nhiều người phát biểu ý kiến, người đồng ý, người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên. Đến lượt ông Nguyễn, ông kịch liệt phản đối thuật thôi miên. Lý do của ông: Thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi” (trang 36) Ông Nguyễn phát biểu ý kiến kiểu đó thì thính giả thích nghe ông thật. Người ta vẫn khoái nghe lời nói giễu, khoái coi vẻ mặt ngô nghê, hành động lố bịch tức cười của những thằng hề. Các cụ hãy tưởng tượng phong cảnh một phòng họp: Các chuyên gia đang hăng say thảo luận về thuật thôi miên, đề tài tranh cãi là có nên dùng thôi miên trong y khoa không. Đột nhiên có một anh Mít nhẩy lên diễn đàn, phản đối thuật thôi miên ầm ĩ, kêu la rằng chính thực dân đã... thôi miên dân tộc của anh ấy! Thực dân nào dùng thuật thôi miên? Chúng nó đem vũ khí tối tân, quân đội hùng hậu, sách lược thâm độc đến Việt nam để đàn áp bóc lột chứ thôi miên làm gì cho thêm rắc rối. Có bao giờ ta thấy một anh thực dân đứng đưa cái quả lắc trước mặt anh Mít ngơ nghệch và dụ khị "Ngủ đi! Ngủ đi! ..." để rồi sau đó mới bóc lột, đàn áp! Bác "khéo lái" thế thì khán giả đến cười lăn ra mà chết. Sự ngô nghê của bác có khả năng chọc cười, làm khán giả bị bất ngờ. Lời nói càng ngu, mặt mũi càng nghiêm chỉnh thì người ta càng buồn cười, càng thấy bác "có vẻ dễ yêu". Khi kể chuyện lên diễn đàn chống thuật thôi miên, bác không nhắc đến phản ứng của khán giả. Nhưng ở một dịp phát biểu ý kiến khác, bác mô tả rõ hành động của mọi người sau khi nghe bác nói: Họ cười lăn ra! Bác kể: “Một hôm, ông Nguyễn đứng lên phát biểu: "Các bạn thân mến! Các bạn đều là những người xã hội, rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân. Vậy như thế dù đệ nhị, đệ nhị rưỡi hay đệ tam quốc tế phải chăng cũng thế cả. Những Quốc tế ấy đều không là cách mạng cả sao? Những Quốc tế ấy đều không đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc tế nọ, các bạn cũng phải đoàn kết, nhất trí. Tại sao tranh luận nhiều thế. Trong khi các bạn tranh luận ở đây thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt nam". Mọi người cười .” (trang 44) Bác làm thiên hạ phá lên cười. Nhưng nghe bà con cười, bác lại hiểu rằng: "Mọi người cười, nhưng không là mỉa mai, mà là cười cảm tình với một đồng chí non, chưa hiểu được vấn đề". Có thể họ không cười mỉa mai thật. Nhưng cười cảm tình thì chưa chắc. Đó là những tiếng cười dành cho một anh lấc cấc, lố bịch, rất hề. Từ trang 38 đến trang 46 bác Hồ kể lại những chuyện du lịch, thời gian làm tờ báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" và vụ gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Về tờ báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" thì “ông Nguyễn được mọi người cử ra để làm tờ báo chạy. Vì vậy ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc.” Tờ báo do một ông tài nghệ mới mấp mé tới mức ký giả săn tin xe cán chó chủ trương kiêm nhiều chức vụ như thế nên “lúc đầu ông Nguyễn gửi bán tại những cửa hàng nhỏ. Nhưng bán không chạy lắm”. Nghĩa là không khá, báo ế. Ông Nguyễn giải thích cái sự báo ế này bằng lý do “vì ở Paris có vô số báo, người ta không thể đọc và mua tất cả.” (trang 41). Bác nói phét, làm như người ta không mua báo bác là tại thị trường nhiều báo quá chứ không phải tại báo bác dở ẹc. Về vụ vào Đảng Xã hội, bác than thở là người ta thảo luận nhiều quá và thú thực rằng bác chẳng hiểu mẹ gì: “Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng không tưởng, khoa học, Xi mông, Phu-ri-ê, Mác (Saint Simon, Fourrier, Marx) chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, phản luận đề... Ngoài những ý kiến trên, còn có những lời giải thích và những lời tranh luận khác. Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu” (trang 43). Riêng vụ du lịch, bác có vẻ rành, nên bác ba hoa: “Sau mỗi chuyến đi, ông Nguyễn kể cho chúng tôi nghe cảm tưởng của ông. Thường thường ông nói nửa đùa nửa thật. Trong những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thời giờ ở bải bể để nhìn người đàn bà đi tắm, mà nên du lịch, học hỏi được nhiều” (trang 38). “Không phải chỉ vì thích đi du lịch mà ông nhịn ăn, nhịn tiêu. Ðiều đó cũng có, nhưng nhất là ông muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào” (trang 40) Khoe là đi các nước để xem người ta tổ chức và cai trị như thế nào, nhưng những đoạn văn đưa ra nhận xét của bác về các quốc gia thì toàn là văn tả cảnh hoặc mô tả sinh hoạt một cách mơ hồ và lèm bèm kiểu như: “Va-ti-căng có nhiều lâu đài vĩ đạị Nhà thờ thánh Pi-e (Pierre) là một kỳ công kiến trúc. Viện bảo tàng Va-ti-căng là một cuốn sách sống về lịch sử tôn giáọ. Ngoài những vật quí khác, người ta còn thấy cả những bánh xe thời Trung cổ. Khi nào nông dân không nộp thuế cho nhà chung, ngươì ta buộc chân tay người nông dân vào bánh xe vừa đánh, vừa quay” (trang 38) “Phụ nữ Ý hát rất hay. Tiếng hát trong như tiếng chuông. Theo ông Nguyễn thì nước Thụy Sĩ xinh hơn hết. Bá linh so với Pa ri và La mã giống như một miếng bánh mì so với bánh ga tô. So sánh như vậy cũng không đúng lắm vì Bá linh cũng như tất cả nước Ðức đang khốn khổ vì nạn đói. Nạn lạm phát ghê gớm. Một chút gì cũng trả mấy ngàn Mác (đồng tiền Đức)” (trang 40). Có thấy "cách tổ chức và cai trị" của nước nào đâu, chỉ nghe lời kể lảm nhảm, nhạt nhẽo của một nhà du lịch kiến thức nghèo nàn. Lời kể cũng đầu Ngô mình Sở, lộn xộn không đáng viết thành sách. Sau những thảo luận kịch liệt "làm ông Nguyễn nhức đầu lên" vì khó hiểu, Đảng Xã hội Pháp chia ra làm hai: Phần lớn thành đảng Cộng Sản Pháp. Bác Hồ đi theo nhóm đa số và được đưa qua Nga học tập, bắt đầu dợt nghề làm tay sai cho điện Cẩm Linh. Ra Đi Bí Mật Sau đây là cảnh bác Hồ rời khỏi Paris, văn sĩ Trần Dân Tiên dàn văn, xếp ý, gò khúc này dữ lắm để cho cảnh biến mất của bác hết sức đột ngột, ly kỳ và cải lương ra rít. Cũng phải nói thêm: trong cảnh biệt ly ảo não này có mấy nhân vật như cô bé Alice và cậu bé Paul đột ngột xuất hiện đóng tuồng. Trước đó, không ai hề được nhắc tới. Bà B., Alice, Paul ra đời chỉ vì nhu cầu "lâm li" của đoạn văn mà thôi. “Theo lệ thường, chiều thứ bẩy, những đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma rốc, An-giê-ri, Man-gát, vv .. vv đến toà báo Người Cùng Khổ để thảo luận về những bài viết cho số báo sau. Ngày hôm ấy họ thấy toà báo đóng cửa. Họ gõ cửa. Không thấy trả lời. Người ta bắt đầu ngạc nhiên và bàn bạc. - Có lẽ ông Nguyễn ốm chăng? - Không, nếu ốm thì ông đã báo cho chúng ta biết. - Hoặc bị bắt chăng? - Không thể. Chúng nó không dám làm như thế ở Pa-ri. - Có lẽ ông bận đi việc gì. - Ông Nguyễn sẽ để lại cho chúng ta một chữ. Ông Nguyễn thường làm như thế. - Như vậy chúng ta đợi một lát. - Không cần. Chúng ta đến nhà ông B..., chúng ta sẽ trở lại sau. Ông B... là một luật sư người Ăngri. Ông Nguyễn thường đến nhà ông. Bà vợ ông coi ông Nguyễn như anh em. Ông Nguyễn rất yêu hai đứa con ông, một cháu gái tám tuổi và một cháu trai bốn tuổi, và cũng được chúng rất mến. Những người bạn gặp ông B... trong phòng khách cùng vợ và hai con. Hai vợ chồng có vẻ buồn. Hai đứa trẻ khóc. - Gì thế? Những người bạn hỏi ông B. Bà B... gạt nước mắt chỉ mảnh giấy gấp để trên bàn và nói: - Các bạn đọc đi sẽ biết… (Sau đây là đoạn chót lá thư của "ông Nguyễn") "Tôi sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không giám hứa với các bạn, vì không phải dễ viết thư khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho các bạn hay không, các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta. Bây giờ một vài lời với cháu trai và cháu gái. Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu? Chú sẽ nói với những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không thấy được chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu thường làm. Và cũng rất lâu chú sẽ không thấy cô A-lít-sơ (Alice) và cậu Pôn (Paul) của chú. Khi chú cháu mình gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu lớn bằng ba và má. Ðiều đó không ngại gì. Chú sẽ luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé A-lít-sơ và cậu bé Pôn thân yêu của chú. Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha me. Ðừng đánh con chó nhỏ Ma-ri-uýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ đấu tranh cho tổ quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những chú khác. Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ chú. Chú Nguyễn" Bác sĩ R... ngừng đọc. Mọi người nhìn nhau không nói. Cậu bé Pôn phá tan cảnh im lặng hỏi mẹ: - Chú Nguyễn đâu hở mẹ? - Khi nào thì chú ấy trở lại hở mẹ? Cô bé A-lít-sơ hỏi theo. - Chú ấy sẽ trở lại khi nào nước chú độc lập. Bà B... trả lời và ôm chặt lấy hai con.” (trang 47-50) Các đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, Man-gát vv... cùng chung một lý tưởng, hoạt động "bí mật" cùng với bác, làm báo "Người Cùng Khổ" với bác. Tóm tắt, họ chia xẻ với bác những chuyện sinh tử lớn lao. Thế mà lúc bỏ Pháp qua Nga bác không báo trước cho anh nào một lời . Ðến nỗi cả lũ đồng chí phải lốc nhốc kéo nhau đến nhà ông bà B... Mà bác có ra đi bí mật hoàn toàn không? Ðâu có, bác gửi lại những dòng thư tâm tình tha thiết, cảm động mê tơi cho hai "đồng chí" Alice và Paul (một cháu tám tuổi và một cháu mới bốn tuổi). Với cậu bé bốn tuổi bác đem cả chuyện đấu tranh cho tổ quốc ra dặn dò, nhưng với các đồng chí lớn, bác hoàn toàn bí mật. Cho cả lũ tha hồ xớn xác tìm bác. Ôi chao! Các đồng chí nước bạn Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-grê-ri, vv... cũng chả nên buồn vì lối cư xử ngớ ngẩn, nhảm nhí của bác. Chẳng qua là tại bác mê cải lương quá đỗi. Và trong cảnh ly biệt rất cải lương này, các đồng chí không có vai trò nào gây cảm động bằng hai đứa bé con. Thế nên các đồng chí mới bị bác tỉnh bơ dẹp qua một bên.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:38:33 GMT 9
Nghệ Thuật Vẽ Rồng
Viết xong khúc này, chú Tiên, bác Hồ có vẻ đắc trí, hả hê lắm. Bác lại long trọng hạ hai câu:
“Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích. Một lần nữa chúng tôi mất khâu chuyền” (trang 51)
Bây giờ thì độc giả biết tỏng ra rồi. Lời đe doạ của bác hết thiêng. Dù bác biệt tích, dù chú la lối mất khâu chuyền thì rồi câu chuyện vẫn tiếp tục như thường. Nhưng tại sao ông Nguyễn lại hay "biệt tích" thế? Sẽ có độc giả đặt câu hỏi như vậy, và đó là mối lo của nhà cầm bút Trần dân Tiên. Cái trò bắt bác khi biến, khi hiện này là một nghệ thuật cao cường của chú. Nếu người đời không thấy được cái chỗ hay ho, tài tình ấy thì uổng lắm, thiệt thòi cho chú lắm. Thế là chú Tiên đành khơi khơi giảng huỵch toẹt cái hay trong nghệ thuật viết văn của mình ra:
“Một câu châm ngôn Trung quốc nói: ‘Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám mây’ ” (trang 51)
(Đáng lẽ chỗ này nên để cho lũ văn nô xúm lại bốc thơm hồi ký của bác, "phát giác" ra, nhưng bác sốt ruột quá, xí luôn công việc ấy. Thành ra bác viết văn tự ca tụng rồi lại viết ca tụng chính cái nghệ thuật tự ca tụng của mình)
Viết xong câu giải thích, ngẫm nghĩ lại bác thấy hình như chú Trần Dân Tiên hơi át giọng bác Hồ kính yêu. Ðộc giả có thể hiểu lầm rằng sở dĩ con rồng đẹp là nhờ nhà hoạ sĩ có tài. Cái kỹ thuật tài tình dùng mây che bớt rồng làm cho con rồng nổi bật, chứ sự thật, rồng có thể xấu xí hơn rồng trong tranh. Thế là, bác vội đè cổ chú Tiên xuống bắt viết những lời khiêm tốn.
“Chúng tôi không phải là những nhà họa sĩ có tài. Chúng tôi không để những đám mây trong tiểu sử của Hồ chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật rằng đã mất mối câu chuyện.” (trang 51)
Nghĩa là bức tranh đẹp không nhờ tài họa sĩ mà nhờ chính con rồng. Con rồng, khi đứng chụp hình, đã biết lấy mây che bớt vài khúc cho mình thêm mờ ảo tranh đẹp vì Rồng Hồ khéo dàn cảnh, không vì họa sĩ Tiên khéo vẽ.
Tất cả những trò ly kỳ rùng rợn như "bác biệt tích", "chú Tiên mất khâu chuyền" được giải quyết dễ dàng bằng hai chữ "May thay...". Từ nay thì độc giả có thể yên tâm, trong sách còn nhiều "may thay!" nữa.
“May thay lần nầy, khâu chuyền thiếu không lâu. Chỉ trong thời gian ngắn một người bạn Pháp đã kể cho chúng tôi nghe như sau: Tuyết xuống nhiều, phủ một lớp dầy trên chiếc tầu Xô viết tên là X... Chiếc tầu vừa thả neo trước cửa bể Lê-nin-gờ-rát. Vị thuyền trưởng đưa cho một người Á đông trẻ tuổi một bộ áo quần lông và vừa nói vừa cười: "Anh tạm dùng, sẽ trả lại tôi khi nào anh không cần đến nữa". Người Á đông trẻ tuổi cảm ơn, mặc áo quần ấm và đợi. Hai người thủy thủ trẻ tiến đến và nói với người Á Đông: "Nếu anh cho phép, chúng tôi đưa anh đến trụ sở".
Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp, mời ngồi, mời một điếu thuốc lá Nga, dài bằng hai ngón tay, và hỏi: - Xin đồng chí cho biết tên. - Tôi là Nguyễn. - Đồng chí muốn đi đâu? - Tôi muốn đến đây, đến Nga. - Đến có việc gì, đồng chí vui lòng cho biết? - Để gặp đồng chí Lê-nin. - Rất đáng tiếc, không thể gặp đồng chí Lê-nin, vì Người vừa mới mất hôm kia - Người cán bộ vừa nói vừa lau nước mắt. - Trời ơi! Đồng chí Lê nin mất rồi sao? Ông Nguyễn sửng sốt và vô cùng cảm động. Người cán bộ hỏi tiếp: - Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tầu... không có giấy phép? - Đúng, tôi bí mật.” (trang 52)
Đến đây, độc giả thấy rằng ngoài cái tật mê những cảnh cải lương, bác còn khoái truyện gián điệp rẻ tiền, hơi một tí là kêu nhắng lên: "bí mật!". Ở đây bác lên chiếc tàu Nga, "bí mật" thế nào mà đến cả ông thuyền trưởng cũng biết, được ông tặng bộ quần áo lông. Cả cán bộ và thủy thủ đoàn trên tàu đều biết bác. Rời tàu, bác phải đi bắt tay từng người, lại được cán bộ hướng dẩn đến tận trụ sở. Ông thuyền trưởng thì khai vanh vách về tình trạng của bác với cán bộ địa phương. Thế mà khi công an hỏi, bác cứ nghiêm nghị đáp tỉnh bơ: Đúng, tôi bí mật! "May thay" cho tên cán bộ Nga lúc đó, nhờ chế độ Cộng sản kìm kẹp, nó hết biết cười. Nếu không thì đến đứt ruột mà chết.
Trò bí mật bác khoái từ hồi nhỏ. Quí vị độc giả còn nhớ: Ở đầu sách, cậu bé Nguyễn Tất Thành khi rủ một cậu bé khác ở Sàigòn đi ra nước ngoài cũng bắt cậu kia phải giữ "bí mật". Vì lý do gì? Vì cậu Thành được gởi ra nước ngoài bằng đường dây cách mạng? Vì cậu sẽ lên đường trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng, không để ai phát giác được hành tung? Không có. Cậu xuất ngoại bằng cách giữa thanh thiên bạch nhật đàng hoàng đến bến tàu xin việc. Xin hết tàu nầy đến tàu kia mới gặp một kẻ thương tình cho chân phụ bếp. Thế mà cũng cứ nhất định khăng khăng giữ... bí mật!
Bốc Thơm Quan Thầy
Con người đến Nga "một cách bí mật" ấy đã bị cán bộ Nga đón tiếp một cách không bí mật tí nào cả. Sau màn phỏng vấn, biết gặp được một tên tay sai đầy triển vọng, cán bộ Nga cho Hồ đến ở khách sạn quốc doanh và nuôi nấng cẩn thận, chỉ cấm không cho ra ngoài. Thế cho nên mấy hôm sau, được hỏi nhận xét, cảm tưởng về nước Nga, bác phang ra một câu xanh rờn: “Tôi thấy rất rét”. Nguyên văn đoạn đối thoại:
“- Anh đấy ư? Paul hỏi. - Vâng tôi đây, ông Nguyễn trả lời. - Anh làm thế nào mà đến đây được? - Như lệ thường thôi, bằng cách bí mật. - Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lê nin vĩ đại vừa mới mất. Hai người bạn lặng yên một lát, buồn rầu. Rồi Pôn nói tiếp: - Anh thấy xứ này thế nào? - Tôi thấy rất rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ là không ra khỏi khách sạn.” (trang 54)
Coi bộ tình cảnh bác tới Nga lần đầu thảm hơn lần tới Pháp. Đến Pháp, bác còn được tà ta ra tiệm cà phê, được bồi gọi là Ông nên bác có nhận xét rất rộng ra rãi: "Người Pháp ở Pháp tốt và lịch sự v.v...". Đến Nga, bị cán bộ cấm ra khỏi phòng bác sầu đời, phang ra một quả nhận xét cộc lốc: "Tôi thấy rất rét". Nghe tuy quê mùa nhưng cũng khá dũng cảm.
Nhưng sự hậm hực chê bai nước Nga chỉ có thế. Sau đó là tràng giang đại hải những lời ca ngợi, kiểu như:
“Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội nước Nga. Ở đây, mọi người ra sức học tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đở khuyến khích nhân dân học tập. Ở đâu cũng thấy trường học...” (trang 56)
Điều này bác ca ngợi đúng. Nga mở ra nhiều trường lắm. Tây bá lợi á cũng đầy trường. Chính phủ không những khuyến khích mà còn còng dân, dí súng vào lưng dân đẩy đến trường học tập.
“Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường triệu phú. Những nông trường nầy có trường học sơ cấp và trung cấp, thư viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà thương, phòng nghiên cứu nông nghiệp, nơi chứa máy móc, vân vân...” (trang 56).
Trích dẫn nhiều chỉ làm nhàm tai độc giả. Hàng triệu cuốn sách, bài báo tuyên truyền của Cộng sản đều có những lời tương tự.
Bác cũng còn dành một trang để ca tụng Nga là thiên đường của con nít (trong khi chờ đợi thành thiên đường của người lớn.) Những điều ca tụng của bác, nữa thế kỷ sau nước Nga vẫn... chưa thực hiện được.
Đặc biệt ở những trang ca tụng nước quan thầy này, bác viết như chép từ những tài liệu tuyên truyền hoặc nghe lại lời ba hoa của một cán bộ tuyên truyền. Bác không kể nổi tên một người, một địa danh nào đặc biệt. Có lẽ tụi Nga chỉ cho bác đi vài vòng ngắm cảnh rồi giam bác ở khách sạn cho học tập tối ngày. Cái khúc con rồng hiện ra ở nước Nga này hơi thảm. Giá bác cứ cho nó "biệt tích" luôn thì lại đỡ hơn.
Từ trang 62, bác kể lại thời gian hoạt động ở Tầu, ở Xiêm (Thái Lan).
Được quan thầy Nga huấn luyện, dậy dỗ, bác tiến bộ thấy rõ. Tài chôm chỉa của bác nhuyễn lắm rồi. Các sáng kiến, công lao của người khác, ở mọi địa hạt, nếu vừa mắt, hạp ý, bác vồ gọn. Thí dụ ở trang 62, bác kể:
“Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên là: - Dân tộc độc lập. - Dân quyền tự do. - Dân sinh hạnh phúc.”
Quí vị có thấy cái gì quen quen không? Vâng, mấy khẩu hiệu ấy, bác thuổng hết, xài suốt đời, thành ra ta cứ đọc thấy những câu dài dòng: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc" được gắn nguyên con cho miền Bắc.
Về vụ dựa hơi hại nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, bác kể:
“...Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu tha cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậỵ Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước” (trang 63).
“Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp trở về Việt Nam. Về được một năm thì cụ mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước của ông Nguyễn...” (trang 64)
Bác Tự Cứu Đói
Nhưng lý thú nhất là vụ bác ăn cướp cơm chim, nghĩa đen.
Nguyên là hồi bôn ba ở Thái Lan, bác thất nghiệp nặng. Lúc ở Tầu, bác sinh sống bằng nghề thông dịch. Ở Nga, bác được nuôi. Ở Anh thì có nghề rửa chén. Thời gian ở Pháp huy hoàng hơn cả, bác cầy hai "dóp": một là rửa và phóng đại hình, hai là ngồi sơn vẽ đồ cổ giả để bịp mấy bà già. Riêng thời ở Thái, bác khai nghề nghiệp rất mơ hồ: "Cuốc đất, đi buôn". Chắc là đói, bác bèn kể lại một mưu mẹo thần sầu để cứu đói cho chính mình và đồng bọn. Bác kể:
“Người Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu ở chùa mấy tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sư. Sư rất được nhân dân kính trọng. Và được nhân dân nuôi. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào mười giờ sáng. Chị em mang cơm đến chùa. Sư cứ việc ăn không cảm ơn ai. Họ chỉ cảm ơn Phật tổ. Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách qua đường có thể ăn. Những người đưa cơm đều rất sung sướng được dịp bố thí. Nhờ thế mà ông Nguyễn và những người bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm. Nếu không gặp những người khách đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn.” (trang 66)
Tội nghiệp những con chim bị những người khách đói "ăn chặn". Trước khi có "ông Nguyễn và đồng bọn" xuất hiện, chim Thái Lan sống rất phủ phê. Cơm thừa của các nhà sư bao giờ cũng dư giả. Bây giờ thì "những người khách đói" vét sạch bách. Nguồn gốc của từ ngữ "ăn cướp cơm chim" chắc là đây. Nghĩ kỹ ra thì những con chim Thái Lan thửa ấy vẫn còn may mắn lắm. Ngày đó có bác đi nhẹ vào đời chim, chim phải một phen bữa đói bữa no, nhưng còn tự do đậu trên cành hót chửi bác và tự do bay đi. Còn dân Việt Nam bị bác đi nhẹ vào đời thì đói kinh niên, mất tự do thê thảm cho tới chết.
Bạn Đọc Hồi Hộp
Khi rời nước Tầu, đến Thái Lan hoạt động bác lại biểu diển tuồng "biến mất" thêm một phát nữa:
“Một lần nữa ông lại mất tích. Ông Nguyễn đi đâu. Không ai biết. Những đồng chí của ông cũng bị nghi ngờ và bị Quốc dân đảng bắt bỏ tù. Chúng tôi lại mất mối thêm một lần nữa...” (trang 65)
Trong trò "biến mất", "mất mối" kỳ này, chú Trần Dân Tiên và vai trò của chú lại bị bác quên mất tiêu. Hai chữ "may thay" bác cũng quên luôn. Sau khi than bác mất tích, chúng tôi "mất mối" bác viết tỉnh bơ, không cần ai kể, không cần "may thay có người biết..." như thường lệ. Cả ở những việc không đáng gì bác cũng cứ nhơn nhơn, trắng trợn phơi sự láo khoét của mình ra như thế! Quái đản thật. Rồi đến cuối trang 85, thình lình bác Hồ lại la hoảng:
“Ông Nguyễn lại mất tích!”
Và lần này coi bộ bác sốt ruột lắm rồi, chịu không nổi, bác nói thẳng với độc giả:
“Các bạn thân mến, chắc các bạn cũng hồi hộp khi đọc chuyện của một người khi xuất hiện khi mất tích, lại xuất hiện, lại mất tích luôn luôn và đột ngột như thế”.
Hóa ra bác Hồ thèm thuồng sự vinh quang của mấy tay viết truyện trinh thám, gián điệp rẻ tiền. Bác xào đi xào lại cái trò "ông Nguyễn mất tích" để bắt bà con "hồi hộp" đấy. Nhưng hồi hộp thế quái nào được. Kết cuộc câu chuyện của bác đã được phơi ra từ những trang đầu. Độc giả biết tỏng rằng "ông Nguyễn" dù có biến, hiện loạn xị thì cuối cùng cũng về ngồi lù lù ở Bắc bộ phủ. Vả lại, cứ theo tình tiết câu chuyện thì thường mỗi lần gặp thế nguy, bác lại biến mất tiêu. Bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa muốn hãm hại, bác biến. Bị thực dân giăng bẫy bắt, bác "mất tích". An toàn khỏe ru như thế, hồi hộp vào cái khổ nào.
Đầu tiên, bác biểu diễn kỹ thuật viết: cho nhân vật lâu lâu biến một lần. Rồi bác giải thích cái hay của kỹ thuật ấy bằng thí dụ ông họa sĩ vẽ rồng để nhắc khéo độc giả rằng bác viết tài tình lắm đó. Sau chót, chả cần giữ ý tứ gì, bác huỵch toẹt hỏi thẳng độc giả: Tôi viết có hay không? Có khéo không? Chắc là tôi làm quí ngài hồi hộp phải biết! Loại văn sĩ nghĩ văn mình là nhất không hiếm trên đời, nhưng vừa viết văn vừa tự khen, cưỡng bách độc giả phải khen ngay tại trận thì chỉ có mình bác. Tình cảnh ấy thảm thương như một anh hề vừa giễu xong vội giải thích tất cả kỹ thuật giễu của mình rồi chất vấn khán giả: chắc là "các bạn thân mến" đang buồn cười lắm vì tài giễu của tôi!
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:39:15 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ Phần 5
Những anh thân cộng thường nhận định: Hồ là một người quốc gia, mãi sau mới thành cộng sản. Những ông quốc gia ngây thơ cũng phụ họa: Hồ khéo giấu cái đuôi cộng sản trong suốt thời gian kháng chiến, sau này mới lộ ra. Nhưng theo chính lời bác thì cờ liềm búa, bản chất tay sai đắc lực của Nga đã được bác trương lên ngay từ những ngày đầu. Trang 76 bác kể:
“Trong thời kỳ đầu, phong trào lan rộng và ăn sâu... Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền Xô Viết. Họ tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên”.
Như thế, vừa chiếm được vài nơi, bác đã áp dụng ngay cách cai trị, tổ chức kiểu Liên Xô, nghĩa là đúng sách vở của quan thầy. Bao nhiêu bài bản học được từ Nga (trong những khoảng thời gian "biến mất" , "mất tích" v.v...) được đem ra dùng cả.
Ấy thế nhưng khi bọn đế quốc kết tội những con người chủ trương "lập chính quyền Xô Viết" ở Nghệ Tĩnh ấy là cộng sản, là đàn em Nga thì bác lại không chịu. Ngay ở trang sau (trang 77) bác hậm hực viết:
“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ tam quốc tế, của Liên xô... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên xô.”
Hai chữ "bịa đặt" ở đây bật lên cái ý phủ nhận một điều xấu xa người ta gán cho mình. Thế mới lạ. Mặc dầu bác giẫy nẩy lên, chối cho bằng được cái mác Cộng sản, cái tội làm đầy tớ Nga, chính phủ Anh vẫn biết rõ hành tung và chủ trương của bác. Thế là "ông Nguyễn" bị phú lít Anh tóm cổ nhốt ở Hương Cảng.
Chưa Bao Giờ Sướng Thế
Từ trang 77 đến trang 84, bác Hồ mô tả những chuyện bị giam giữ, bị đưa ra tòa xử rồi được tha. Và, ngộ nghĩnh vô cùng, cả đoạn văn ấy là một bài dài ca ngợi nền tư pháp của đế quốc Anh. Lúc bị giam ở xà lim (được coi là thời kỳ tù đày ghê gớm nhất) bác bị ăn uống khổ sở như sau:
“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo xấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang!” (trang 78)
Gạo xấy, mắm thối nhà tù bình thường nào cũng có. Chỉ dưới chế độ Cộng sản thì sinh viên các trường cải tạo mới có nhiều ngày ngồi mơ ước được chút mắm thối, chút gạo xấy mà cũng... không có, phải nhai đỡ bo bo. Thế nhưng xà lim bác ở cứ một tuần hai lần thực đơn lại có khoản "cơm trắng với thịt bò". Đem chuyện ấy ra kể khổ, bác không sợ nhân dân miền Bắc sinh ra mơ ước được làm tù nhân ở Hương cảng sao?
Đấy là vụ ăn uống, giờ đến vụ hỏi cung.
Xưa này, chuyện tra vấn, hỏi cung vẫn là chuyện đáng sợ đối với tất cả tù nhân. Người ta truyền tụng những hình thức tra tấn dã man của thực dân: đi tầu bay, tầu ngầm, quay điện, kìm kẹp v.v... thế mà bác Hồ lại khoái được đi hỏi cung mới lạ. Bác là người gan dạ phi thường, mình đồng da sắt, coi thường mọi trò tra tấn, khinh bỉ những cực hình chăng? Hãy nghe bác giải thích:
“Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra khỏi xà lim một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh” (trang 79)
Hóa ra nhà cách mạng vô sản không bị đánh đấm gì, lại còn được phì phèo thuốc lá thơm, nên thích bị hỏi cung quá xá. Nhưng "đi hỏi cung" cũng chưa sướng bằng đau ốm. Khi tù nhân Nguyễn Ái Quốc ể mình, tụi cai tù đế quốc Ăng lê thực dân thâm độc lập tức cho đi nằm bệnh viện. Và ông Nguyễn lại khoe nhắng lên:
“Ông có được cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói: "Cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này" ” (trang 82)
Thú thật một lời khoe phản động đầy tính cách tuyên truyền chống phá cách mạng vô sản, sỉ nhục nặng nề đàn anh Liên xô. Cho đến lúc này thì đời ông Nguyễn đã dài rồi, đã năm lần bảy lượt ông đến nước quan thầy để chầu chực hoặc học tập. Liên xô nuôi nấng, chiêu đãi ông dữ lắm. Vậy mà, chưa có khi nào đồng chí "Nguyễn" được "ăn uống sung sướng" bằng lúc là một tù nhân của Ăng lê. Xã hội gương mẫu, thiên đường Liên xô đãi khách không tử tế hậu hĩnh bằng chế độ thực dân cư sử với... tù. Nếu chính bác chẳng khai ra thì mấy ai biết được cái chỗ hay ho ấy .
Lòng tốt của thực dân Anh chưa ngừng ở đây. Họ còn cử một luật sư tài ba là Loseby ra cãi cho bác. Và vì Ăng lê không có cái món tòa án nhân dân nên dù bác Hồ là một tên Cộng sản chính hiệu, một tên tay sai trung thành của Nga, bác vẫn được xử là... vô tội. Ông chánh án chỉ yêu cầu phạm nhân phải rời khỏi Hương cảng. Luật sư Loseby vẫn không chịu, cãi cho bác trắng án rồi ông ta còn muốn bác không bị đuổi khỏi Hương cảng. Ông chống án lên tới tòa án của Hoàng đế Anh ở Luân đôn. Và cuối cùng ông ta thành công, bác Hồ reo lên: “Thế là ông Nguyễn thắng lợi” (trang 84)
Bác đã có công trạng gì trong vụ "thắng lợi" này? Cơm trắng thịt bò hai tuần một lần là công của nhà tù Anh. Bác được nằm nhà thương, được ăn những bữa "sướng nhất đời" là nhờ ông luật sư người Anh, nhờ chế độ đối xử với tù nhân của Anh. Bác được tha bổng là nhờ tòa án Ăng lê không giống tòa án nhân dân, nhờ ông luật sư người Anh lỗi lạc. Bác chỉ có công may mắn được ở tù dưới chế độ thực dân Anh! Thế thôi. Hàng triệu tù nhân của những nhà tù do chính bác dựng nên sau này không có anh nào may mắn, tốt phước như thế. Nhiều kẻ chắc đã sống sót, sống dai hơn nếu gặp lũ cai tù tử tế bằng một phần trăm, một phần ngàn cai tù Ăng lê thực dân, đế quốc.
Cũng trong đoạn hồi ký về những ngày lêu bêu ở Tầu, ta hay gặp những câu văn mô tả thừa thãi, vô duyên. Một thí dụ nằm ở trang 84: “Ông Nguyễn trốn đi, đóng vai một nhà buôn to Trung quốc. Từ Hương cảng đến nhà một người bạn thân của ông Lô-đơ-bai ở một thành phố khác. Ở đây ông Nguyễn sống như một nhà giầu đi nghỉ. Ông đi dạo trong rừng, đi thăm các chùa. Ông làm quen với các người văn nghệ. Ông viết bài cho những tờ báo địa phương, bằng tiếng Anh và tiếng Trung quốc, ký tên khác nhau. Ông thường tập thể dục để lấy lại sức.”
Câu cuối vừa lạc lõng vừa dài dòng. Vẽ ra hình ảnh một ông Nguyễn cải trang, hành tung bí mật, mô tả ông đi dạo, thăm chùa, làm quen với văn nghệ sĩ, viết báo... là đủ rồi, chuyện tập thể thao thì cũng như vụ ăn uống, tắm giặt, đi cầu . Độc giả đâu cần những chi tiết ấy. Chuyện kể vô duyên mà lời kể thì thừa. Mục đích của tập thể dục đâu có bí hiểm gì mà phải giải thích. Nói ông thường tập thể dục là đủ, cần gì phải "để cho nó khoẻ" hay "để lấy lại sức". Cứ cái đà lèm bèm ấy, tinh thần mô tả ấy, bác phải viết thêm: hàng tuần ông tắm vài lần cho nó sạch, mỗi sáng ông đi cầu để tránh bệnh táo bón, khi đi tè ông vẩy rất kỷ để khỏi ướt quần v.v... Đã thế, cái việc bỗng dưng kể là bác thường tập thể dục vào thời kỳ đặc biệt này khiến người đọc đâm ngờ: chắc trước đó bác lười, chả tập tành gì, giờ mới thể thao chút đỉnh, phải vội khoe .
Từ trang 87, bác mô tả tình hình Việt Nam, những hoạt động của đảng Cộng sản sau khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ. Bác nhận trọng trách sang Tầu cầu viện. Vì:
“Đến lúc cần tranh thủ thêm sự giúp đỡ của Đồng minh. Đồng minh gần nhất và có quan hệ nhất đến việc chống Nhật ở Việt Nam là Trung quốc. Vì vậy, phải tìm đến Trung quốc. Trong những người cách mạng Việt Nam, ông Nguyễn là người hiểu biết Trung quốc và người Trung quốc hơn hết. Vì vậy mọi người đồng thanh cử ông Nguyễn đi Trung quốc. Đi bộ đến Trùng Khánh không phải là một việc dễ dàng. Nhưng ông Nguyễn nhận lời ra đi” (trang 90)
Chà! Khúc này ly kỳ rùng rợn đây. Không cần bị bác hối thúc, độc giả vẫn bắt đầu cảm thấy hồi hộp. Bác là tay "bí mật" có hạng. Hồi còn vị thành niên, chỉ mới sửa soạn đi làm bồi tầu, bác đã bí mật. Khi lên tầu sang Nga, cả ông thuyền trưởng lẫn thủy thủ đoàn đều biết, bác vẫn cương quyết "bí mật". Phen này, nhận công tác xuất ngoại cầu viện, cứu nước, bác bí mật phải biết.
Quả nhiên, trước khi lên đường, bác ra chiêu, trổ tài gián điệp, qua mặt phe địch vù vù: “Để đánh lạc hướng bọn mật thám ông Nguyễn lấy tên là Hồ Chí Minh.” (trang 90)
Độc giả chưng hửng. Có vậy thôi sao? Từ chuyện gián điệp nghiêm chỉnh trong binh thư Đông Tây đến những cuốn tiểu thuyết James Bond, người ta ít gặp một phương pháp "đánh lạc hướng" nào giản dị như vậy: đổi tên. Kẻ chưa từng bị nghi ngờ, theo dõi có thể làm trò ấy được. Bác thì ngụy trang, thay hình đổi dạng, vẻ mặt bôi râu... chưa chắc đã lừa được bọn mật thám. Vả lại chúng nó chỉ theo dõi bác thôi chứ có chận bác lại để hỏi tên đâu mà hòng đem tên mới ra "đánh lạc hướng". Vì khả năng "bí mật" chỉ là những trò vớ vẩn như thế nên: “Đi liền mười đêm và năm ngày, cụ Hồ đến một thị trấn Trung quốc, chưa kịp nghỉ chân thì ngày hôm đó cụ bị bắt.” (trang 90)
Chắc tụi tình báo Tầu, khả năng tình báo kém, chưa biết ông Nguyễn đã có tên mới, nên không bị "lạc hướng" cứ vồ đại. Và cụ Hồ bị tóm cổ hơi sớm.
Ôi! Đức Phật Tổ!
Lúc mới bị cùm, bác cũng quậy dữ lắm: “Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao C.H.S. hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân. Cụ quen huyện trưởng, trước kia đã gặp nhau ở Q.L. nhưng huyện trưởng từ chối không gặp cụ . Cụ gửi điện cho những nhà cầm quyền cao cấp, không thấy trả lời” (trang 90)
Hóa ra cái anh đồng minh mà bác đang hí hửng tính cầu viện lại chơi bác một vố nặng. Còn chế độ tù đầy của Trung quốc thì khỏi nói, vồ được cụ Hồ là nó cho cụ "ngày mang gông, đêm cùm chân" liền một khi, đâu có như tụi thực dân Anh, cử cả một luật sư lỗi lạc ra cãi cho cụ, lúc cụ ốm lại cho đi nằm nhà thương ăn những bữa ngon nhớ đời v.v...
Bác rên rỉ về những chuyện cực khổ trong tù như sau: “Cái làm cho cụ khổ nhất là ghẻ và rận. Cụ bị ghẻ khắp người, đầy cả cánh tay và bàn tay. Không phải là một thứ mà là hai thứ ghẻ: ghẻ ruồi ngứa và lở, còn rận thì vô số. Không có cách gì trừ tiệt được rận. Ở đâu cũng có: trong quần áo, trong chăn chiếu, trong ván nằm. Rận và rệp tranh nhau hành hạ những người tù. Đêm đến họ bị một kẻ thù đáng sợ nữa là muỗi.” (trang 92)
Tưởng gì. Ở tù mà chỉ có vụ ghẻ lở, muỗi, rệp, nằm gần cầu tiêu... thì thường thôi. Bác rên xiết quá có thể làm cho những ông tù cải tạo cười vỡ bụng. Học viên cải tạo của bác đâu có sung sướng thế. Họ còn bị bắt buộc lao động cật lực trong khi bụng đói kinh niên. Nhà tù của bác có nhiều món ăn chơi độc địa hơn nhiều.
Khi bị giải đến Liễu Châu, bác được đối xử tử tế hơn: “Từ Quế Lâm người ta giải cụ đi Liễu Châu, giam vào nhà giam quân sự. Ở đây cụ được hưởng "chế độ chính trị". Có đủ cơm ăn, mười lăm phút buổi sáng để đi ỉa, có người gác. Không bị gông, không bị xích. Thỉnh thoảng Cụ có thể đọc một tờ báo hoặc một quyển sách. Một hôm Cục trưởng Cục chính trị đến bắt cóc ở trong phòng người khác. Ông này hạ lệnh người gác cho phép cụ đi dạo nửa giờ trong sân nhỏ, cắt tóc cho cụ và cho cụ tắm nước nóng.” (trang 93)
Đến đây, bác cảm khái quá, sướng quá, bác đột ngột reo lên: “Đức Phật tổ đại từ đại bi, tốt biết bao! Mấy hôm sau ghẻ lặn gần một nửa!” (trang 93)
Được tắm nước nóng một phát, bác sướng thấy... Đức Phật tổ, nên lại quên béng mất chú Trần Dân Tiên. Mặt nạ Trần Dân Tiên rớt mất tiêu hồi nào bác không hay. Độc giả đảng trí nhất, ít chịu suy nghĩ nhất, đến lúc này cũng thấy ngay Trần Dân Tiên chính là bác. Văn nô nào kể chuyện bác mà lại dám tự tiện hô hoán một câu lạng quạng như thế! Được anh cai tù cho tắm nước nóng một phát kêu rầm “đại từ bi, tốt biết bao”. Nhét vào miệng bác một lời rên sướng tỉ như thế để chọc quê, để làm giảm uy tín của bác à?
Cái anh đã cho bác tắm nước nóng một phát để đời này mới là quân độc địa. Cùm kẹp, tù đầy khiến bác bị ghẻ lở, đói rét chỉ tăng uy tín bác. Làm cho bác, hàng chục năm sau, còn phải thảng thốt la lên trong sách “đại từ bi, tốt biết bao” mới thật là hại đời tư của bác. Nó tố cáo rằng nhà cách mạng vô sản, con người được nhiều kẻ tôn xưng là vĩ nhân ấy cũng khốn đốn vì cái xác phàm.
Bác có một bộ thần kinh bằng thép, một ý chí sắt đá, luôn luôn bình thản coi thường cái đau của thể xác, nhưng là nỗi đau thể xác của... những đứa khác thôi. Con dân bác bị tù đầy, đấu tố; đàn bà, trẻ nít tan xương nát thịt vì không thích Cộng sản, bác tỉnh bơ. Hết thế hệ này đến thế hệ kia cháy ngùn ngụt trong lò chiến tranh, bác tỉnh bơ. Nhưng khi thân xác bác thèm thuốc, bác ngồi thắc thỏm cầu nguyện được "bị thẩm vấn" đều đều (để được hút thuốc thơm Ăng lê), không lý gì tới mối nguy sơ sẩy tiết lộ những điều có hại cho các đồng chí. Khi thân xác bác thèm tắm mà bỗng được cho tắm, thì dù kẻ cho chính là cai tù, bác vẫn kêu tới cả "Đức Phật tổ" để ca ngợi sự tốt bụng của nó! Thân xác vừa được vuốt ve là ý chí lạng quạng, phát ngôn bừa bãi, mê sảng ngay, chẳng còn ra cái thể thống gì.
Từ trang 110, bác Hồ kể chuyện thời làm chủ tịch. Sau một thời gian dài chiến đấu gian khổ, bác rời hang Pắc Bó về Hà Nội hưởng thành quả chiến thắng, trổ tài cai trị dân. Đến đây thì cái máy "tự ca tụng" của bác đã chạy đều, dù là "người vô cùng khiêm tốn" bác cũng cứ đành phải nhũn nhặn công nhận rằng mình đúng là vị thánh, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong lúc bịa ra vài mẩu chuyện để tự nâng bi, nhà sáng tạo Hồ chí Minh lại sản xuất được những lời phét lác rất tiếu lâm.
Bác Hồ Cho Áo
Nguyên văn lời bác kể:
“Ngày 2-9-1945. Ngày chính phủ Hồ chí Minh ra mắt nhân dân. Hồ chủ tịch sửa soạn đi dự lễ. Cụ Hồ chợt thấy mình không có quần áo. Về việc quần áo có hai chuyện đáng kể: Vừa mới ở rừng về đến Hà Nội, một võ quan ngoại quốc đến chào Hồ chủ tịch, võ quan này bận quần ka-ki và áo bằng vải dù. Võ quan thú thật là không có áo nào khác. Lập tức chủ tịch cởi áo khoác ngoài và biếu người võ quan ấy. Thấy người này cảm động và băn khoăn không muốn nhận chiếc áo. Chủ tịch cười nói: "Chúng ta quen biết nhau không nên khách khí. Anh nhận đi. Tôi còn một cái áo nữa", và người võ quan ra đi với bộ quần áo đầy đủ, còn chủ tịch thì suốt ngày mặc áo sơ-mi . Trong rừng, Hồ chủ tịch cũng như các chiến sĩ du kích, ai cũng quen bận quần đùi và ở trần. Về đến Hà Nội, Hồ chủ tịch cũng giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng.” (trang 111)
Bộ quần áo của bác khi ở trong rừng là bộ nào, gồm những món gì, không thấy nói . Độc giả chỉ có một cách hiểu là bác "như các chiến sĩ du kích" cũng: "bận quần đùi và ở trần".
Về Hà Nội, Hồ chủ tịch "giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng" nghĩa là chủ tịch vẫn chơi một quả quần đùi và ở trần. Thế nhưng ông Chủ tịch chỉ có mỗi cái quần đùi trên người lại biểu diễn được một màn từ thiện, nhường cơm xẻ áo rất ảo thuật. Thấy ông võ quan ngoại quốc nghèo khổ rách rưới quá, chỉ có cái áo bằng vải dù, Chủ tịch thương lắm. Và ông chủ tịch giầu lòng nhân, dù đang cởi trần vần cứ... cởi áo khoác ngoài ra biếu ông võ quan như thường! Đang ở trần trùng trục mà lại cởi được áo khoác ngoài đã siêu. Nhưng bác Hồ còn siêu hơn, cho áo khoác ngoài đi rồi, bác không trở lại tình cảnh ở trần mà lại "suốt ngày mặc áo sơ-mi".
Thương thay! Câu chuyện cho áo của bác mới chào đời ở cuối trang 110 thì vừa đến giữa trang 111 đã bị tác giả giết chết thẳng cẳng, hưởng dương được đúng 21 dòng.
Chuyện cho áo có thể thật vì mấy anh cộng sản rất ưa nặng phần trình diễn những trò như thế. Nhưng khi được kể lại nó hóa ra chuyện tiếu lâm, chỉ vì bác tham quá. Bác muốn được tiếng có lòng nhân đồng thời lại muốn mọi người tin là bác đã chịu đựng gian khổ, nghèo đói như mấy anh du kích: Ở rừng chuyên trị quần đùi mà về tới Hà Nội rồi vẫn không khác lúc ở rừng. Tham thì thâm! Vì mải mê vồ tất cả những cái tốt đẹp về mình, bác tự du mình vào hoàn cảnh ngặt nghèo: Đang ở trần mà vẫn cứ phải cởi áo khoác ngoài cho bằng được!
Nhà Báo Nâng Bi
Về ngày ra mắt đồng bào, bác Hồ tự nâng bi như sau:
“Một vị Chủ tịch đã trăm lần thay đổi tên, làm mười hai nghề khác nhau, bị tù nhiều lần, một lần bị kết án tử hình, một lần có tin là chết - nhân dân chờ đợi được thấy, không những là vị Chủ tịch đầu tiên của nước Cộng Hòa mới, mà còn là vị Chủ tịch khác thường.” (trang 111)
Bác đã là vị chủ tịch đầu tiên thì lấy đâu ra các chủ tịch khác để so sánh xem bác là loại thường hay khác thường. Hay bác tính tự ca mình là Chủ tịch "phi thường" nhưng chọn lộn chữ? Những thành tích của Chủ tịch như "bị kết án tử hình, bị tù nhiều lần" đáng khoe ra. Nhưng cái màn đổi tên, làm nhiều nghề thì có gì ghê gớm, phi thường đâu. Bọn trộm cướp, tà gian đổi tên như máy, đổi nhiều hơn bác. Bác lưu lạc năm bảy nước mà làm có 12 nghề là yếu. Kiều Phong bôn ba có mỗi nước Mỹ mà đã quất đủ 14 nghề rồi, so với đồng bào tị nạn thì con số 14 cũng xoàng. Việc đổi tên đổi nghề xoành xoạch đâu có phải là những thành tích phi thường, làm cho ngài chủ tịch thêm vĩ đại.
Tuy nhiên, tự nâng bi đến khúc này, bác có vẻ hả hê. Lần đầu tiên, bác cho phép một văn nô xiá vào nâng bi tiếp. Thật là một biến cố trọng đại, một vinh dự lớn cho anh văn nô. Con người có may mắn kỳ diệu, được chia xẻ công tác nâng bi với bác là ai? Độc giả không được biết. Bác đâu có thèm nêu tên hắn ra. Bác chỉ viết:
“Đây là một nhà báo kể lại cảm tưởng của mình sau buổi mít tinh.” (trang 111)
"Nhà báo" này được bác chọn là phải vì "cảm tưởng" của anh ta quanh quẩn hơi nhiều ở những lời tâng bốc bác lên tới mây xanh. Nhưng đặc biệt, anh nhà báo này có một lối nâng bi khá giống bác. Căn cứ trên những sự kiện vớ vẩn, anh ta hô lên những lời "hót" rất bất ngờ:
“Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ chí Minh. Chủ tịch đội mũ vải đã ngả mầu vàng vì mưa gió, đi một đôi dép cao su, mặc một bộ quần áo ka-ki. Khi chủ tịch bắt đầu đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, giọng sang sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến tranh du kích. Đọc một đoạn và giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt. Chủ tịch nói: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?" Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những cái gì còn xa cách giữa Chủ tịch và nhân dân, và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng. Với câu hỏi lạ lùng này không một ai ngờ Chủ tịch Hồ chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ tiết tất cả hình thức. Chủ tịch trở thành "Cha Hồ" của dân tộc Việt Nam . "Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?", tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha, của chủ tịch Hồ chí Minh đối với quần chúng, với nhân dân.” (trang 113-114)
Trước hết hãy bàn về câu hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Anh "nhà báo" kêu rằng "câu hỏi lạ lùng, không một ai ngờ". Lạ lùng, không ai ngờ được thật, vì một diễn giả thường chỉ đặt câu hỏi như thế khi thấy mặt khán giả nghệt ra, không hiểu, không nghe rõ mình nói gì. Còn bác Hồ thì hỏi câu ấy "giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt". Bác đọc xong một đoạn, khán giả phải hiểu, phải chịu lắm mới vỗ tay, hoan hô. Được mọi người hoan hô mà lại gân cổ hỏi: “Nghe tôi có rõ không” thì ngu quá. Hỏi thế có khác gì chửi khán giả hoan hô, vỗ tay một cách mù quáng, không nghe không hiểu mẹ gì cũng cứ vỗ tay bừa. Bác đặt câu hỏi đã vô duyên, không đúng chỗ mà anh nhà báo diễn lời bác để tâng bốc còn lãng nhách, vô duyên hơn.
Chỉ hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” mà “làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng”... trở thành "cha Hồ" của dân tộc Việt Nam... làm cho “tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu ...”. Mẹ kiếp! Thế thì những cán bộ hạng bét, những ca sĩ mầm non, những anh bán thuốc ê giữa chợ, và hàng triệu diễn giả tầm thường trên đời đều có thể trở thành "cha già dân tộc, thương yêu quần chúng sâu sắc" nếu họ lên diễn đàn với một cái micro tồi. Máy khuếch âm rè rè, tiếng nói lúc có lúc không... cam đoan anh diễn giả sẽ lớn tiếng hỏi một câu giống hệt như bác, dù chẳng hề "thương dân sâu sắc". Bác chỉ xì ra một câu hỏi tầm thường mà anh nhà báo đã suýt xoa, ca tụng bằng đủ lời dị hợm, lố lăng. Xem cách nâng bi của anh này sao mà giống bác quá. Hay là anh nhà báo kia chẳng phải xa lạ mà chính là chú... Trần Dân Tiên?
Sáu Vấn Đề Cấp Bách
Ngày 3 tháng 9, Hồ chí Minh họp hội đồng chính phủ lần đầu tiên. Tường thuật về buổi họp, Trần Dân Tiên cho thấy chỉ có một mình bác nói, đưa ra kế hoạch, hội đồng có thảo luận hăng say cũng chỉ là để hoàn toàn đồng ý với Chủ tịch. Các bộ trưởng tán thành vội vàng quá nên ý kiến của bác được giữ nguyên con, tha hồ lộn xộn, lảm nhảm. Bác nêu ra các vấn đề "cấp bách" đánh số cẩn thận từ 1 tới 6.
Vấn đề thứ sáu (Tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết) đáng lẽ phải nằm trong vấn đề thứ ba (Thực hiện dân chủ) thì bác tách ra làm hai. Vấn đề thứ tư, thứ năm thì hoàn toàn lộn xộn, bát nháo. Nguyên văn:
“Vấn đề thứ tư: Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bác là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm liêm, chính.
Vấn đề thứ năm: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò là một lối bóc lột vô nhân đạo. Tôi đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện” (trang 116).
Chuyện cấm hút thuốc phiện phải nằm trong "vấn đề thứ tư", ngay sau khi bác tố thực dân đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Vấn đề thứ năm đang nói chuyện thuế, tự nhiên lại phang ngay ra cái khoản cấm thuốc phiện, lộn xộn quá. Lúc đó bác chưa dùng những chữ "tàn tích do thực dân để lại" nhưng tinh thần đỗ thừa đã cao. Bác bảo thực dân hủ hóa làm cho dân ta "gian giảo". Nhưng trong số những người Việt gian giảo, bác và cán bộ Vẹm của bác tài nghệ ở mức thượng thừa, gian khiếp lắm. Cũng bị thực dân hủ hóa chăng?
Bác muốn mở chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân, nhưng đòi dạy dân phải cần, kiệm, liêm, chính. Dân đang đói nhăn răng, chả cần ai dạy cũng cần kiệm. Bác muốn dạy dân hai đức tính ấy, thôi thì cũng được đi. Những cái khoản liêm chính thì phải dân cho các quan lớn, quan bé cán bộ của bác chứ. Dân chúng có quyền hành chức tước gì mà sợ họ không liêm không chính.
Cái khoản "vấn đề thứ năm" mới khiếp: Bác ban lệnh miễn thuế. Thực dân bày ra không biết bao nhiêu thứ thuế độc ác, bác lại chỉ bỏ có ba: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò. Có nhân dân nào chết vì thuế chợ thuế đò đâu. Bác thực tình không biết đến những "lối bóc lột vô nhân đạo" khác của thực dân? Hay bác biết, nhưng kín đáo giữ lại, chỉ tha cho nhân dân vài món thuế vớ vẩn, có số thâu yếu kém nhất để làm cảnh.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:39:58 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ của Kiều Phong
Phần 6 Con người độc tài, độc tôn hết cỡ này lại còn ham được tiếng là có tinh thần... dân chủ. Bác nhất định tổ chức tổng tuyển cử. Trò chơi ấy nhân dân chết vô số, bác vẫn cứ làm. Bác mô tả:
“Ở miền Nam Trung bộ, cuộc tuyển cử tiến hành dưới bom đạn của Pháp. Chiến sĩ du kích một tay cầm súng một tay cầm lá phiếu. Ở Saigon và Chợ Lớn và các vùng tạm bị chiếm, cuộc tuyển cử tiến hành bí mật. Ban đêm những thanh niên nam nữ xung phong đi bí mật từ nhà này sang nhà khác, giấu kín thùng phiếu dưới áo. Tám mươi hai phần trăm cử tri ở Saigon và Chợ Lớn đã bỏ phiếu. Nhưng bốn mươi nhăm thanh niên xung phong đã bị địch bắt và bắt chết. Thật là một cuộc tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng” (trang 123).
Chính nhân dân và cán bộ đã làm hư bác. Bác nói cái gì nhân dân cũng hoan hô nhiệt liệt. Bác đưa ra kế hoạch nào Hội đồng chính phủ cũng "hoàn toàn đồng ý", riết rồi bác nói phét càng ngày càng tồi, kể cho độc giản nghe những câu chuyện rất rác tai. Cái thùng phiếu to bằng cỡ nào mà thanh niên nam nữ xung phong đòi "dấu kín dưới áo"? Nó bằng cái hộp quẹt chắc? Có lẽ một số thanh niên xung phong bị bắn chết thật vì họ bị thực dân tưởng lầm là bọn... ăn trộm. Ban đêm, thấy có kẻ ôm trước bụng một vật lù lù, lấm lét, trốn tránh trong các góc phố tối, thực dân tưởng gặp bọn đạo chích phải vồ. Với cái trò ôm thùng phiếu, đợi đêm tối mới bí mật di chuyển từ nhà nọ sang nhà kia thì các cô các cậu đi được mấy nhà?
Thế mà bác khoe “tám mươi hai phần trăm cử tri ở Saigon và Chợ Lớn đã bỏ phiếu” Nhân dân ngoài việc liều chết bỏ phiếu, còn được bác khen là sáng suốt, "rất thông minh". Bác kể:
“Bản dự án hiến pháp được thảo ra cẩn thận và phát rộng rãi để nhân dân có thể nghiên cứu phê bình và góp ý kiến. Ở trong thành phố và nông thôn tổ chức những cuộc hội họp để giải thích cho nhân dân chọn người ứng cử và tổ chức bầu cử như thế nào? Trước tuyển cử có người nghi ngờ, họ nói "Nhân dân còn dốt, chưa biết dùng quyền dân chủ. Bọn đầu cơ sẽ lợi dụng. Cuộc tuyển cử sẽ thất bại" Có một lòng tin tưởng vô hạn ở nhân dân, Hồ chủ tịch nói: "Nhân dân rất thông minh. Họ sẽ biết dùng lá phiếu của họ, tổng tuyển cử sẽ thành công!" Kết quả đã chứng minh lời Hồ chủ tịch là đúng.” (trang 122)
Kết quả ra sao? Nhân dân đã làm gì, đạt được thành tích hay ho nào để chứng tỏ xứng đáng với lời bác khen là thông minh, sáng suốt? Đây là câu trả lời:
“Nhiều địa phương yêu cầu Hồ chủ tịch ra ứng cử ở địa phương mình. Nhiều địa phương khác yêu cầu Hồ chủ tịch có quyền là nghị viên không cần tham gia ứng cử” (trang 122)
Những nhân dân coi bác như thánh như thần, đòi cho bác khỏi ứng cử cũng trúng, có được bác khen "sáng suốt, thông minh" cũng là phải quá.
Bầu Cử Dân Chủ
Có một chi tiết khá vui trong trò chơi bầu cử của bác: Vì nổi sùng với đảng phái của các ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, bác vô tình tự tố cáo mình là tổ chức bầu cử gian. Bác kể:
“Bọn phản động như đảng phái Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Quốc Dân Đảng Trung Quốc giúp đỡ, âm mưu phá hoại tổng tuyển cử. ... Hồ chủ tịch đã tìm ra một giải pháp: nhường cho Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam bảy mươi ghế” (trang 120)
Tổ chức bầu cử, thể hiện dân chủ mà lại biết chắc tất cả các ghế trong quốc hội là của mình, muốn nhường bao nhiêu ghế cho phe nào cũng được! Kết quả bầu cử đã được xếp đặt, tính toán trước. Những ghế trong quốc hội do bác phân phát, những tên tuổi đắc cử do bác định đoạt, chọn sẵn cả... thế thì bày đặt ra cái vụ bỏ phiếu làm gì cho mấy cô cậu thanh niên xung phong dại dột chết oan. Tuồng dân chủ bác giả vờ làm. Nhân dân sáng suốt thì bị chết thật. Cuối cùng họ chỉ được nghe bác bốc nhẳng một câu: “Thật là một cuộc tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng”
Thấy máu xương nhân dân đổ ra cho một trò bịp của mình, con người "thương dân sâu sắc" ấy không hề có một lời ân hận, xót xa! Đâu phải sau này Hồ mới trở nên độc địa. Lúc mới nắm quyền cai trị, con người ấy đã sẵn sàng vì cái danh hão mà nhẫn tâm đẩy dân chúng vào chỗ chết.
Càng đến cuối sách thì bác càng mở máy tự tâng bốc, vội vàng, cuống quít như đứa trẻ thổi bong bóng, sợ mình ngưng lại thì bóng xẹp. Đây là những dòng nâng bi đưa bác lên đỉnh cao:
“Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị cha già Hồ chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu: Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng yêu nước yêu nhân dân của Hồ chủ tịch.” (trang 138)
“...Chủ tịch đã từng chịu đựng khổ sở vất vả không thể tưởng tượng được trong suốt thời kỳ hoạt động bí mật. Chủ tịch đã bị đủ mọi thứ dụ dỗ. Nhưng chủ tịch đã dũng cảm và kiêu quyến vượt qua mọi khó khăn” (trang 139)
“...Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ chủ tịch. Không có gì so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ chí Minh.” (trang 138)
“...Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của người. Đúng như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học Trung quốc đời xưa: Nếu có lợi cho thiên hạ thì mình bị mài mòn từ gót đến đầu cũng vui lòng” (trang 139-140)
“...Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân.” (trang 140)
“...Chính sách của Hồ chủ tịch và của chính phủ rất giản đơn và rõ ràng. Hồ chủ tịch nói với nhân dân: "Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa. Kháng chiến đến cùng. Kháng chiến cho đến khi nước Việt Nam giành được thống nhất và độc lập!” (trang 138)
“Đối với nhi đồng tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn” (trang 141)
“Một vài chuyện nhỏ kể dưới đây cũng đã tỏ lòng kính mến của nhân dân Việt Nam đối với bác Hồ. Một bức ảnh nhỏ của Người ở Hà Nội có đồng bào mua tới giá một trăm ba mươi vạn đồng. Ở Nam bộ một chiến sĩ du kích họa sĩ bị thương ở chiến trường, trong khi chờ đợi cứu thương đến, đã lấy máu mình vẽ lên áo ảnh Hồ chủ tịch. ...Những chuyện như trên còn nhiều, kể không hết được. Thanh niên, nhi đồng các nước bạn cũng thường gửi thư thăm hỏi bác Hồ. Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc.” (trang 142)
Hoàn Toàn Tin Tưởng
Trước hết, hãy xét về những điểm vui vui trong bài ca tự hót của bác.
Bác khoe cái khẩu hiệu: “Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa...” là giản đơn và rõ ràng. Rõ ràng thì tạm được. Nhưng giản đơn ở chỗ nào? Nó rườm rà như lời một người mắc bệnh nói lắp đãng trí. Đã "kháng chiến tới cùng" thì cần phải "kháng chiến trường kỳ". Đã "kháng chiến cho đến khi nước Việt Nam giành được thống nhất và độc lập" là đủ quá rồi, là tốp được rồi, sao lại phải "kháng chiến nữa". Cái khẩu hiệu có mấy dòng mà lủng củng, lảng cảng những chữ, những ý lập đi lập lại... Thế mà lại cứ say sưa tự khen là "giản đơn".
Nhưng văn chương chữ nghĩa của bác, ta đã thưởng thức rồi. Tinh thần khoái những màn cải lương, gián điệp rẻ tiền của bác, ta cũng đã biết rồi. Hãy nói về những chuyện quan trọng, nghiêm chỉnh hơn. Nghiêm chỉnh mà xét thì thấy bác là anh chàng phét lác bị tổ trác hơi nhiều. Bác tự tố cáo, tự lột mặt nạ đều đều suốt chiều dài cuốn sách. Có thật là: "Nhân dân Việt Nam muôn người như một... HOÀN TOÀN TIN TƯỞNG ở Hồ chủ tịch, HOÀN TOÀN KÍNH YÊU Hồ chủ tịch" hay chăng?
Không cần tra cứu sách vở, tìm nhân chứng, cứ đọc chính những dòng bác viết ra sẽ biết sự thật về lời huyênh hoang ấy. Trang 126, Hồ kể về vụ ký hiệp định 6 tháng 3 và phản ứng của nhân dân.
Nội dung cái hiệp định mà Chủ tịch long trọng ký kết với Sainteny, đại diện Pháp, gồm có những điều khoản hay ho như sau: Việt Nam thừa nhận những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam (toàn những đặc quyền, đặc lợi rất thực dân) - Việt Nam cho phép mười lăm nghìn lính Pháp đổ bộ ở Bắc bộ và Trung bộ để thay thế quân của Tưởng Giới Thạch - Đặc biệt là Việt Nam thừa nhận ở trong khối liên hiệp Pháp!
Nhân dân nghĩ sao về việc làm của bác? Hãy nghe chính lời bác mô tả:
“Đây là một lúc khá khó khăn cho Hồ chủ tịch. Báo chí của Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần công kích Chủ tịch kịch liệt, vu cáo Chủ tịch đã để cho Pháp mua chuộc” (trang 126)
Còn "vu cáo" vào cái khổ nào nữa: Nếu không bị mua chuộc thì chắc chắn bác đã bị Pháp lừa.
(Qua những lời hậm hực cay cú của bác, chúng ta lại thấy rõ một điều: Các nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam là những người sáng suốt. Họ trông thấy tất cả những âm mưu sâu độc của thực dân, họ thấy người lãnh đạo Hồ chí Minh đang đi lạc đường)
Đâu phải chỉ có nhóm ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam sáng suốt, công kích chủ tịch kịch liệt. Dân chúng cũng phản đối ào ào. Bác viết: “Nhân dân không bằng lòng...” nhưng lại giải thích ngay “...vì họ căm thù sâu sắc bọn Pháp thực dân”
Nhân dân nào "muôn người như một, hoàn toàn tin tưởng ở Hồ chủ tịch"? Còn nhân dân nào thì "không bằng lòng" vì việc ký kết bậy bạ của bác? Hay nước Việt có tới hai cái "toàn thể nhân dân"
Báo chí của các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần công kích bác thế nào, bác không nói rõ chi tiết, chỉ kêu là "kịch liệt". Nhân dân biểu lộ sự "không bằng lòng" bằng cách nào, bằng lời lẽ chê bác ra sao, bác cũng lờ đi Nhưng xem lời biện minh của bác, ta có thể đoán được một phần. Ít nhất, trong những lời chê bai, nhân dân đã phang cho bác một cái tội rất nặng: QUÂN BÁN NƯỚC!
Không Bao Giờ Bán Nước
Chắc vừa đau vừa teo, bác phải trần tình:
“Trước mặt đông đảo quần chúng, Hồ chủ tịch giải thích những nguyên nhân trong nước và ngoài nước bắt buộc phải ký hiệp định. Cuối cùng, Chủ tịch kết thúc bằng những lời cảm động: "Hồ chí Minh không và sẽ không bao giờ là một người bán nước” (trang 126)
Bác tự khen câu biện bạch của mình là những "lời cảm động". Nhưng nó không cảm động mấy, chỉ như là một lời chối tội mơ hồ. Kẻ vừa bị bắt quả tang ăn cắp, cũng có thể có những lời cảm động tương tự: "Tôi không và sẽ không bao giờ là một tên ăn cắp."
Kể ra nhân dân "HOÀN TOÀN KÍNH YÊU BÁC" cũng hơi nặng lời khi chửi bác là "quân bán nước". Nhưng họ phẫn nộ đúng vì sự nhầm lẫn của bác đã đưa họ vào chỗ chết, trong khi bác cứ hớn hở vì những trò vuốt ve của Pháp, cứ sướng mê tơi vì những vinh dự hão huyền Pháp ban cho. Những trò lật lọng phản trắc hiểm độc của thực dân, các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần cùng nhân dân Việt Nam nhìn thấy trước thì bác phải đợi khá lâu sau khi ký hiệp ước mồng 6 tháng 3 mới thấy. Phải đợi thực dân tàn phá giết chóc dân ta tơi bời rồi bác mới chịu mở mắt ra. Bác kể:
“Quả thật, Cao uỷ Pháp đã không từ một hành động nào để phá hoại hiệp định mồng 6 tháng 3. Những hành động khiêu khích không những không đình chỉ mà còn tăng thêm. Và quân đội Pháp đổ bộ ở Trung bộ và Bắc bộ luôn kiếm cách gây những sự xung đột chống lại người Việt Nam. Những cuộc xung đột đổ máu đã xảy ra ngay ở Hà Nội. Về mặt kinh tế, đô đốc Đắc-giăng-li-ơ đã dùng thủ đoạn xảo quyệt. Y ra lệnh bỏ giấy bạc năm trăm đồng. Đây là một mánh khóe thực dân xảo trá đã làm cho hàng chục vạn gia đình Việt Nam và ngoại kiều bị phá sản.” (trang 127)
“...Một ngày sau khi chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp, đô đốc Đác giăng li ơ, cao ủy Pháp tổ chức chính phủ bù nhìn Nam Kỳ và tuyên bố "Nam kỳ tự trị". Vì chính sách gian dối ấy làm cho nhân dân phẫn uất, cho nên chiến tranh càng kịch liệt hơn ở Nam bộ và miền Nam Trung bộ. Máy bay Pháp bắn cháy nhiều làng mạc và bắn giết nhiều dân chúng. Khủng bố diễn ra khắp trong vùng quân đội Pháp chiếm đóng...” (trang 128)
Đi Tầu Chiến, Nghe Đại Bác
Vì bác thò tay vào ký hiệp định 6-3 mà nhân dân Việt Nam lâm cảnh khốn khổ như vậy, còn riêng phần bác thì được gì? Nhiều lắm. Toàn những trò đón rước long trọng làm bác phổng mũi, sướng tê người. Bác hớn hở khoe:
“Rồi cuộc gặp gỡ giữa Hồ chủ tịch và đô đốc Đắc-giăng-li-ơ tại vịnh Hạ Long với rất nhiều nghi thức long trọng, 21 phát đại bác chào khi Hồ chủ tịch đi, hạm đội Pháp duyệt binh v.v...” (trang 127)
Với nhân dân Việt, Thực dân Pháp làm cho "hàng chục vạn gia đình bị phá sản", "bắn cháy nhiều làng mạc, bắn giết nhiều dân chúng, khủng bố diễn ra khắp nơi"... Nhưng riêng bác chúng đưa ra vịnh Hạ Long, thụt cho nghe 21 phát đại bác, tổ chức diễn binh kèn trống um xùm, thế là bác chịu lắm, khoái tỉ lắm, khoái đến độ lúc viết hồi ký còn đem ra khoe.
Thực dân còn tặng bác những cú vuốt ve tối tân, ác liệt hơn. Chúng mời bác sang Pháp để vuốt tiếp. Và bác lại hớn hở khoe chuyến đi Pháp đầy vinh dự như sau:
“Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ chủ tịch cùng phái đoàn Việt Nam lên đường sang Paris. Phái đoàn này đáng lẽ do Nguyễn Tường Tam, bấy giờ là Bộ trưởng Ngoại giao lãnh đạo. Nhưng ngay hôm trước khi đi, Bộ trưởng Tam đã bỏ trốn...” (Nhờ ơn bác viết lại mà chúng ta lại được thấy nhà văn, nhà cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một người sáng suốt, nhìn xa thấy rộng. Biết kẻ thù xảo trá và thâm độc thấy lãnh tụ u mê, chui đầu vào bẫy, ông can ngăn không được thì chức Bộ Trưởng Ngoại giao ông cũng không màng)
Đem được bác qua Pháp rồi, ở Việt Nam thực dân bắt đầu khủng bố, bắn giết. Trong khi ấy “Hồ chủ tịch đã đi thăm miền Nam và miền Bắc nước Pháp... Chủ tịch đã gặp nhiều người: chính trị, nhà trí thức, lãnh tụ kinh tế, lãnh tụ thợ thuyền, đại biểu phụ nữ, lãnh tụ thanh niên.” (trang 129)
Tóm tắt, nó cho bác đi ngược đi xuôi, lông bông từ Bắc chí Nam, gặp hết người này người nọ để câu giờ. Thê thảm nhất là cái khúc bác khoe được Pháp cho về nước bằng tầu chiến. Bác vênh váo kể:
“Phái đoàn Việt Nam về trước vài ngày, Chủ tịch về sau trên một chiếc tàu chiến Đuy-mông Đuyêc-vin (Dumont Durville) của Pháp. Cách đây trên ba mươi năm, Chủ tịch đi Pháp, làm phụ bếp trên một chiếc tàu buôn. Ngày nay chủ tịch đi trên một chiếc tàu chiến, là thượng khách của nước Pháp... Về đến Cam-ranh, đô đốc Đắc-giăng-li-ơ đón Hồ chủ tịch trên một chiếc tàu chiến khác. Cuộc gặp gỡ rất long trọng.” (trang 129)
Rõ ràng là bọn thực dân rất quỷ quái. Nó biết bác khoái những trò đón rước linh đình nên trình diễn toàn những thứ ác liệt cả. Bác sướng mê man cả người. Sợ dân Việt ngờ bác "tham vàng bỏ ngãi", bác vội trấn an:
“Tuy hoàn cảnh khác nhau nhưng chủ tịch vẫn luôn luôn là người cách mạng trong sạch và hăng háị.Thái độ đối xử thành thật với mọi người và lòng yêu nhân loại vẫn không thay đổi.” (trang 129)
Bác làm như cái quả "đi tàu chiến" có thể làm thay đổi bác, biến bác thành một kẻ hết cách mạng, hết trong sạch, hết thành thật mà lại hết cả... yêu nhân loại nữa. Vì bác nhắc chuyện 30 năm trước, khoe rằng bây giờ mình vẫn thế, Kiều Phong đành phải vạch ra một chỗ khác nhau khá quan trọng: Ba mươi năm trước, cậu Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho một chiếc tàu buôn, cậu còn trong sạch và vô tội.
Những lỗi lầm của cậu lúc ấy chẳng qua chỉ cỡ vụ gọt măng tây láo lếu, làm thiệt hại nhà bếp. Bây giờ, lầm lỗi của bác gây đại họa cho cả dân tộc. Được ngồi trên tàu chiến long trọng quá, oai quá, bác quên bẵng mất số phận của nhân dân. Và lầm lỗi của bác lúc này đưa đến “hàng vạn người bị phá sản, nhiều người bị tàn sát, nhiều làng bị đốt phá”. Khác nhau ghê lắm.
Cái quả được đi tàu chiến, được thực dân thụt 21 phát đại bác làm ngài Chủ tịch ngất ngư hơi lâu, khoái tỉ đến mụ mẫm cả người hơi lâu. Cho nên, trong khi Pháp:
“...Cao ủy Pháp hứa hẹn sẽ thành thật chấp hành bản tạm ước. Nhưng trong khi đó y bí mật ra lệnh cho hải quân Pháp phong tỏa cửa bể Hải Phòng... Y ra lệnh bắn vào quần chúng ở Nha Trang trong cuộc mít tinh mừng ngày thi hành bản tạm ước. Y sửa soạn kế hoạch tấn công Hải Phòng và Lạng Sơn.” (trang 130)
Thì bác vẫn cứ đớ đẫn, ngơ ngẩn:
“Mặc dầu những hành động đối địch về phía Pháp, Hồ chủ tịch vẫn cương quyết giữ gìn hòa bình.” (trang 130)
Cho đến lúc:
“Nhưng thình lình thành phố Hải Phòng bị quân đội Pháp tấn công. Đấy là ngày 20-11-1946. Ngày hôm sau thực dân Pháp lại tấn công Lạng Sơn. Hải quân, không quân, lục quân Pháp đồng thời tàn sát ngót vạn đồng bào ở Hải Phòng. Đã mấy lần, chủ tịch gửi những bức điện văn cấp bách cho chính phủ, quốc hội và nhân dân Pháp, yêu cầu chấm dứt chiến tranh, song chính phủ Pháp không trả lời những lời kêu gọi của Hồ chủ tịch. (chỗ này không còn thấy Chủ tịch nhắc gì đến nhận xét của nhi đồng Nguyễn Tất Thành: người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương). Trái lại, chính phủ Pháp gửi thêm viện binh. Nhiều quân đội nhảy dù và đội quân lê dương đổ bộ ở Hải Phòng, Đà Nẳng và Hà Nội.”
“...Hàng ngày, máy bay Pháp thị uy trên không phận Hà Nội, thậm chí lượn qua cả dinh Hồ chủ tịch. Binh lính Pháp tăng thêm khiêu khích. Ngày 17 tháng Chạp, lính Pháp dùng võ lực đòi chiếm trụ sở của Bộ tài chánh.” (trang 130 và 131)
Thư bác viết, Pháp không thèm trả lời. Hàng vạn đồng bào của bác bị quân Pháp tàn sát! Bác đau xót chưa? Bác nổi giận chưa? Chưa. Bác vẫn khăng khăng:
“Mặc dầu tất cả những việc đó, Hồ chủ tịch vẫn cố dàn xếp mọi việc một cách hòa bình.” (trang 131)
Làm chủ tịch nước mà mù quáng không thấy nổi sự thâm độc của kẻ thù, u mê vì mấy trò vuốt ve, vì những tuồng đón tiếp long trọng, nhưng bác vẫn tự thấy mình anh minh! Một tấc đất quê hương, tính mạng một người dân đáng lẽ nhà lãnh đạo phải tiếc, phải xót. Ở đây, quê hương bị tàn phá, hàng vạn người bị tàn sát, Chủ tịch vần chưa chịu mở mắt ra, còn khăng khăng tin tưởng vào lòng tốt của kẻ thù! Lúc ngồi ở vịnh Hạ Long, được kẻ thù thụt cho nghe 21 phát đại bác, sướng tê mê đến quên trời quên đất, dù sao cũng còn tha thứ được vì bác chưa biết tới cái vụ dân chúng bị tàn sát sau lưng mình. Nhưng bây giờ ngồi viết hồi ký, một đầu óc tăm tối nhất cũng thấy được sự việc thực dân cho bác đi tầu chiến, vuốt ve tâng bốc bác gắn liền với những chiến dịch đốt nhà, ném bom, tàn sát hàng vạn người Việt. Thế mà chủ tịch Hồ nhắc lại những trò "long trọng đón tiếp" của thực dân với tất cả nỗi hãnh diện hân hoan của một kẻ nghèo hèn đột ngột được phong quan tước. Tội nghiệp những người dân Việt thời đó. Nơi trang 130 bác khoe rằng:
“Trước khi đi Pháp, Hồ chủ tịch nhận được hàng vạn lá thứ khuyên chủ tịch đừng đi máy bay. Những bức thư này là của các hạng người đủ các tầng lớp, đủ các lứa tuổi”.
Vậy thì ít nhất đã có hàng vạn người Việt thuộc đủ các tầng lớp sáng suốt, biết rõ sự thâm độc của thực dân, lo âu cho tính mạng của bác. Nhưng tính mạng của họ thì chẳng được ai lo, họ không nhận được một lời khuyên nào về cách đối phó với súng đạn thực dân. Nhà họ cứ bị đốt, làng họ cứ bị tàn phá, họ cứ bị bắn giết trong khi Chủ tịch bận nghe 21 phát đại bác, bận đi tàu chiến Tây và bận "dàn xếp mọi việc một cách hòa bình".
“Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân”. Hãy bỏ qua những câu chuyện dại dột, lố bịch kể trên... chỉ cần nhìn lại chính cái giây phút bác ngồi nắn nót viết câu đó là thấy bác man trá chừng nào. Đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói, chiến tranh còn khốc liệt... con người "chỉ nghĩ đến nhân dân" ấy lại còn tranh nghề của bọn văn nô, bỏ hết thời giờ tâm trí vào việc ngồi viết văn tự tâng bốc. Vào lúc người dân Việt đang thi đua gục ngã ở chiến trường theo sự hướng dẫn của chủ tịch thì vị "cha già dân tộc" cứ say sưa bận rộn với sự nghiệp tự nâng bi.
Có ông cha già nào trên đời lại nhố nhăng, vị kỷ và bất nhân đến thế!
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:40:49 GMT 9
Chân Dung “Bác” Hồ Phần 7 Phần 7 Truyền thống Việt bảo "nghĩa tử là nghĩa tận", nhưng vẫn chấp nhận rằng những con người độc địa thâm hiểm có thể bị cuốc mả, đào mồ. Kẻ đốt sách chôn học trò, dù chết đã nghìn năm vẫn không thoát bị nguyền rủa là bạo chúa. Vả lại, bác đâu có chịu chết. Trong khi ngồi hì hục viết sách tự tâng bốc, bác đã mưu toan muốn sống vinh quang đời đời. Và tinh thần bác còn đang sống hùng sống mạnh nơi đám thừa kế để tiếp tục dẫn dắt quê hương đất nước xuống vực thẳm. Chuyện tự tâng bốc của bác chỉ là một trò lố lăng vô hại chăng? Trò ấy quả có vẻ vô hại, nhưng con người ở vị thế lãnh đạo mà tự say mê đến thế thì cực kỳ nguy hiểm cho dân tộc. Kẻ tự kính phục thường ít khi thấy mình không sáng suốt và chẳng bao giờ chịu là mình cũng có thể sai lầm. Bác Hồ đủ tài để lôi cuốn xô đẩy một nửa dân Việt vào con đường chém giết nửa kia, nhưng bác lại không đủ khôn ngoan để tìm ra một con đường đúng. Nước Nga sau hơn nửa thế kỷ cách mạng vẫn chưa dám để người dân sống cho ra con người, bác Hồ cứ khăng khăng chọn nó làm mẫu mực. Con đường đẫm máu dẫn tới bờ vực, bác Hồ cứ phăng phăng dẫn các cháu đi. Có người nhấn mạnh đến những thành tích của Hồ để làm lễ tôn bác làm vĩ nhân: nào là bác có ý chí thống nhất đất nước, bác vận dụng được sức mạnh của hàng triệu người, bác được nhiều kẻ theo, tôn sùng như thần thánh, bác có tài lãnh đạo v.v... Ôi chao! Mí mắt nhân loại cũng nặng lắm, nhiều khi phải tốn hàng triệu mạng người mới hé mở được những đôi mắt đang nhắm nghiền. Bác Hồ được nhiều người theo ư? Quỉ Sa Tăng cũng có đủ tín đồ để tạo thành sức mạnh gây khốn đốn cho các vị thánh. Bác lôi cuốn ư? Sự lôi cuốn của bác đâu qua mặt nổi Hitler, con người vận dụng được toàn thể sức mạnh dân Đức để làm điên đảo thế giới. Cứ gọi những kẻ ấy là các nhà lãnh đạo có tài, không sao, nhưng cái chỗ mà họ dẫn con người tới làm cho họ giống những tên điên, không dính dáng tí gì đến tước hiệu vĩ nhân cả. Bác có ý chí thống nhất đất nước ư? Quỷ Sa Tăng cũng rất quyết tâm thống nhất toàn thể thế giới trong lò lửa địa ngục vậy. Bác Hồ Yêu Nhi Đồng Lời tự tâng bốc nghe rác tai nhất của bác là mấy câu khoe: nhi đồng Việt Nam yêu bác Hồ mà bác Hồ cũng thương nhi đồng lắm lắm “Đối với nhi đồng tên bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn”. (Khoe như thế, bác tỏ ra chẳng hiểu mẹ gì về tâm lý nhi đồng, nhất là nhi đồng Việt Nam. Một ông nhóc đang giở chứng mà nghe nhắc tên mẹ hiền, tên bà nội, nó sẽ làm dữ hơn. Dọa trẻ, người ta nhắc tên "ông kẹ", ông "ngáo ộp". Nếu các bậc phụ huynh đã dùng tên bác thay thế cho những ông kẹ, ông ngáo ộp thì nhi đồng chỉ teo vì bác chứ yêu thương gì!) Trong câu khoe ngắn ngủi ấy, người đọc lại bắt gặp thói huênh hoang, lòng tham vô độ của bác: Đã đòi làm "cha già dân tộc" bây giờ bác lại muốn là "bà mẹ hiền của nhi đồng" rồi kiêm luôn vai trò nhà giáo dục siêu đẳng, chỉ xòe cái tên ra là trẻ hóa ngoan! Thôi thì cũng không nên chơi khó bác quá, cứ giả vờ công nhận rằng nhi đồng yêu bác thật, nhưng còn phần bác đối với nhi đồng thì sao? Hãy bỏ qua những em bé bị hỏa tiễn của bác giết trong sân trường Cai Lậy ... Ta chỉ nói về thân phận những em bé được bác âu yếm xoa đầu, được bác cẩn thận định trước cho một tương lai, được bác săn cóc kỹ lưỡng bằng cả một kế hoạch qui mô. Hãy nhớ lại câu chuyện hơn 20 năm trước. Năm Mậu Thân, Hồ mở cuộc tổng tấn công miền Nam. Dĩ nhiên miền Nam bị tàn phá, thiệt hại nhiều nhưng đoàn quân nằm vùng của bác cũng bị tiêu diệt gần hết. Không thắng nổi sau cuộc "xả láng" bác bắt đầu chịu nói chuyện hòa bình, hội nghị. Nghe tin miền Bắc bỗng dưng "yêu hòa bình" không riêng gì người Việt, cả thế giới tự do đều mừng húm. Làm sao không vui cho được khi cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam có hy vọng sẽ chấm dứt. Hồ chí Minh yêu hòa bình thật chăng? Cảnh người Việt chém giết người Việt dai dẳng suốt mấy thập niên đã làm bác mềm lòng, thương sót rồi chăng? Không có đâu. Trong Bắc bộ phủ, cái đầu óc "khôn ngoan, thiên tài" ấy lại sáng tạo ra một kế hoạch tài tình để sẵn sàng cho một cuộc chém giết mới, trong tương lai, khi tấn tuồng yêu hòa bình bác thủ diễn đã ru được thế giới ngủ ngon lành, bác Hồ lại ra tay. Kế hoạch khôn ngoan của bác, kỳ này, nhằm khai thác tận tình sức lực và tính mạng của hàng trăm ngàn đứa trẻ con. Bác cho cán bộ bắt cóc trẻ em ở miền Nam, đưa ra Bắc huấn luyện, dạy dỗ, biến chúng thành những người lính cộng sản. Khi học tập xong, tốt nghiệp, các cháu chắc chắn sẽ được bác gửi trở lại miền Nam để bắn giết, trong khi đó, trước mắt thế giới, bác vẫn là người đang nỗ lực, tha thiết tìm hòa bình cho Việt Nam. Bài "Bắt Trẻ Đồng Xanh" của nhà văn Võ Phiến mô tả rất rõ về kế hoạch này: "Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?" Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hoi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy. Cuộc bắn giết sắp tới giữa miền Nam và miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo hiệp định Geneve. Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh thổ miền Nam ngày 22-12- 61. Người của luật pháp, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động đã đẻ ra Mặt trận này . Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ cho họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng. Khi họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy nửa nước, thì họ đã đặt ra ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch "giải quyết" cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958. Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào. Lúc ấy, chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh lương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v... Cùng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang: - Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở miền Nam; - Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời co, có hạng đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v... Địa chủ phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phân không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ. - Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thẻ lám việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mọi gia đình đều có kẻ đi người ở. - Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho háng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm. Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v... là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng. Ngay từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một khối người dần dà sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai thác, một vào sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xẩy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, bù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất cả phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn vào hàng ngũ của họ. Chính vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên. Gây được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận giải phóng ra đời. Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia. Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng. Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954. Dân chúng miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộng ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắn đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ túi bụi đến chừng ấy. Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường. Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản nhằm làm nhẹ gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng kinh tế hoặc xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái. Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản nhằm giúp tổng trưởng giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này. Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công ngàn việc, nếu chuyện bắt trẻ miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng Hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mâu, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp. Họ bổ xung quân số đó chăng? Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ xung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy. Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết: - Họ sẽ bỏ lại miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật, v.v... Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lý trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế miền Nam; - Lúc cuộc "chiến tranh chính trị" mà các nhà lãnh đạo miền Nam vẫn nói được bắt đầu, thì bao nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn, chống đối, v.v... Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập, mang theo thư từ của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v... Cán binh gốc người miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phải trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lý bất lợi: họ lại được mong chờ đón đợi ở miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế miền Nam. Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước ngừng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về "vấn đề gửi các cháu ra miền Bắc" đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc dục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến tranh để đi tới điều đình. Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế này, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. "Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?". Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v... Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sư... Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi. Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hàng ngày đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành. Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ ước cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy trang. Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta . lực lượng nằm ngay trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta mà hoạt đô.ng. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia, v.v... hạng thực sự nhiệt thành vì lý tưởng được bao nhiêu ? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng thiết tha đối với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia? Dù chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ, nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu. Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2008 8:41:24 GMT 9
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất ban đồng dạ sắt. Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dầy mày dạn, tán tận lương tâm. Thì Hồ Chí Minh đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã v.v...
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa thành chính trị gia khôn ngoan, thành "cha già dân tộc" dưới mắt nhiều người, trong khi ở các xứ khác cũng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải quyết tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến tàn sát nọ, không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.
Người như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.
Những lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mắt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã.
Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc?
Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Mà dù cho ông ta có không nghĩ như thế, cho rằng Tiệp Khắc sung sướng và tự do hơn Thụy Điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đầy vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.
Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường?
Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót thương đến thế ? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, hăm ba năm rồi, ông dai dẳng quá.
Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Lời nói dù nhã hay bất nhã rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp đó sẽ bất đồng cãi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong này âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào cuộc chiến, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v... khiến dân chúng nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v...
Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở Thụy Điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble, v.v... trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi lên án, kết tội, v.v... Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những đằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau, hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì; cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt một kế hoạch khác. Như vậy không biết đến bao giờ.
Còn ba mươi năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu . Đó chưa hẳn là cực lạc. nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ, đâu như thể cá vượt Vũ môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI . Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, đề nghị cách cứu em, thì cũng đã muộn. Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngay ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối . Đó là số phận những em bé được cái đầu óc lắm mưu nhiều kế của bác chiếu cố, được bàn tay đẫm máu của bác vuốt tóc, xoa đầu. Muốn biết nỗi đau đớn của những người bị mất con, muốn đo lường mức tàn nhẫn độc ác của bác, hãy đi hỏi những bậc cha mẹ có con bị bắt cóc hay mất tích.
Tội nghiệp những em bé chín mười tuổi ở miền Nam, những bóng dáng xinh đẹp Thượng Đế sinh ra để tung tăng trên những cánh đồng xanh thơm ngát và an bình. Bé gái đang chiều chiều phụ mẹ nấu bếp, chăn đàn gà, nuôi con heo. Bé trai đang vác cần câu, xách giỏ hớn hở theo cha vào sông lạch tìm con tôm, con cá. Đột nhiên chúng biến mất. Vào lúc cha mẹ chúng nhếch nhác khóc lóc chạy khắp làng trên, xóm dưới tìm con thì chúng bước thấp bước cao chập chờn trong rừng sâu, trên đường ra Bắc. Rồi chúng biến thành công cụ gây chiến của bác.
Ít năm sau, bác trả về cho những ông cha bà mẹ khốn khổ ấy một thanh, thiếu niên bị quỷ ám, trong cái linh hồn vô tội lúc bị bắt cóc giờ chỉ đầy ắp những căm thù, những khao khát muốn chém, muốn giết. Cha mẹ nào nỡ tố cáo con dù biết trong cái xác do mình đẻ ra kia đã chứa một linh hồn quỷ. Và những đứa trẻ ấy, theo đúng lời bác dậy, cứ nỗ lực phá cho tan nát vùng đất tự do cuối cùng của cha mẹ ông bà, xóm giềng.
Lũ trẻ đồng xanh miền Bắc đâu có may mắn gì hơn. Không cần một kế hoạch qui mô, quỉ quái, từ Bắc bộ phủ, bác chỉ quơ nhẹ tay là tóm cổ được hết. Chỉ khác, khi đi ngược chiều với lũ trẻ miền Nam trên đường mòn cũng mang tên bác, trẻ đồng xanh miền Bắc nay đã cứng cáp, vững vàng, đã biết bắn giết chẳng ghê tay.
Trên cổ đám trẻ đồng xanh của cả hai miền, bác đóng cho những cái gông giống hệt nhau. Gông nào gông nấy to tổ chảng, nặng chình chịch, nhưng lại có những tên hoa lá cành: giải phóng đất nước, chống Mỹ diệt Ngụy, trường kỳ kháng chiến cứu nước v.v... Và dù đi xuôi hay đi ngược phần lớn các em cùng gặp gỡ ở một tương lai: phơi thây chiến địa để lót đường cho một anh già độc ác, mù quáng, tự ái lẩm cẩm ở Bắc bộ phủ có thể đặt bàn thờ Lê Nin trên khắp hai miền đất nước.
"Tương lai trẻ em", "Tương lai dân tộc" thường là những món hay được các nhà cách mạng nhân danh để nêu cao chính nghĩa. Người ta chịu gian khổ, chiến đầu, hy sinh chỉ vì muốn các thế hệ sau khá hơn, xã hội tương lai sáng sủa hơn. Nhưng bác Hồ càng chiến đấu hung hãn càng đưa đất nước vào con đường mạt rệp. Những em bé chết trong sân trường Cai Lậy trước 75 đã muôn phần hạnh phúc hơn những đứa bé tắt thở trên vỉa hè Sài Gòn, dưới mái lều vùng kinh tế mới hiện giờ... Bởi vì khi nhắm mắt lìa đời, chúng không bị bỏ đói.
Hàng vạn đồng bào Việt Nam bị phá sản hoặc bị thực dân tàn sát (trong khi bác ngồi khoái tỉ trên tàu chiến Tây, hay đê mê nghe thụt hai mươi mốt phát đại bác ở vịnh Hạ Long) sẵn sàng tha thứ cho bác, hàng trăm ngàn người chết thảm trong kỳ cải cách ruộng đất sẵn sàng tha thứ cho bác, những trẻ đồng xanh của hai miền Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho bác, cả quê hương Việt Nam sẵn sàng chịu tàn phá điêu linh vài thập niên v.v... nếu cái chỗ bác muốn đưa đất nước đến là một chỗ khấm khá, nếu bác tạo cho trẻ thơ Việt Nam một cuộc đời no đủ, tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Nhưng quê hương đất nước, trẻ em Việt Nam giờ này ra sao thì cả thế giới biết rồi. Chế độ cộng sản, cái chế độ mà bác đã trả giá bằng núi xương sông máu để rước về cho dân tộc hay ho cỡ nào thì cả thế giới cũng biết rồi. Nhân dân ngày đêm cầu nguyện, mơ ước được sống trong cái thế giới mà bác đã bắt họ căm thù, xua họ đi đập phá trước đây. Trong những dinh thự dành cho giai cấp vua quan mới chỉ thấy những khuôn mặt già nua, mù quáng, cuồng tín, bất tài trong việc mưu cầu phúc lợi, nhưng nham hiểm, độc ác trong việc cùm đầu, xiết cổ nhân dân. Hết thập niên này qua thập niên khác, các đấng cộng sản chúa, cộng sản theo đuôi đua nhau ba hoa, khoác lác đủ điều ... cuối cùng tất cả chỉ nói được một câu thực có ý nghĩa, thực đúng là: "Chúng tớ đã sai lầm!".
Sai lầm rồi sao? Lầm đến độ tiêu tùng hàng triệu mạng, tan nát cả quê hương, kẻ lầm lẫn có liêm sỉ chắc phải tự treo cổ, hèn nhất thì cũng rời khỏi vai trò lãnh đạo. Nhưng chế độ cộng sản, những anh tự xưng là "cha già dân tộc" cứ tha hồ lầm, tha hồ sai trật... và rồi bình thản tiếp tục ngồi trên đầu trên cổ dân tộc, tiếp tục lãnh đạo. Mảnh giang sơn gấm vóc tiền nhân để lại, cuộc đời của hàng triệu con người rút cục giống như những con chuột, con ếch trong phòng thí nghiệm, bị dùng để thử thuốc cai trị mới của bác, của đảng.
Những em bé đói cơm, thiếu sữa ngồi khóc sụt sùi trong những gia đình tóc tang, chia lìa trên một quê hương nghèo đói, điêu tàn là tác phẩm của bác, là sự nghiệp của bác. Sự nghiệp ấy được hoàn thành nhờ sinh mạng của hàng triệu người, nhờ biết bao trẻ đồng xanh chết bụi, chết bờ. Muốn biết bác đã làm hại quê hương, dân tộc đến cỡ nào hãy so sánh những đứa trẻ ở miền tự do với những đứa trẻ đang nằm trong vòng tay nuôi dưỡng của vị "cha già dân tộc" và bè lũ.
Dưới chế độ ù lì, thiếu sinh khí hơn cả cái xác ướp của bác, những trẻ em Việt Nam vốn tốt tươi, sáng láng đang bị bỏ đói, từ thân xác đến trí tuệ đều èo uột, thiếu dinh dưỡng. Có những em bé vốn dĩ thông minh, chỉ vì ăn không đủ no mặc không đủ ấm, phải tự phát triển khả năng xảo quyệt, gian trá để sống còn và trở thành những đứa bé tục tằn, độc ác. Trong khi đó, những em bé thoát được đến vùng đất tự do bên ngoài quê hương đang đứng ngang hàng cùng trẻ em khắp thế giới. Các em khỏe mạnh, đẹp đẽ và thông minh, hiên ngang đóng góp cho sự tiến bộ, sự phồn thịnh, và cho hạnh phúc của loài người. Cỏ cây không mọc được trên vùng đất gốc nguồn. Mầm xanh của dân tộc chỉ mạnh mẽ, tốt tươi, vươn mình lớn dậy ở những nơi... bên ngoài quê hương!
Thành tích của bác Hồ đâu phải chỉ là một triệu mạng người trong quá khứ. Bàn tay tàn sát của bác thật sự đã vươn tới những thế hệ mai sau, gây thương tổn cho dân tộc không biết tới bao giờ! Mai đây, có thể lũ hậu duệ của bác sẽ noi gương quan thầy, sẽ vẽ lại chân dung thực của bác với đầy đủ sừng, mỏ nanh vuốt. Như Stalin rớt từ ngôi vị cha già dân tộc xuống vị trí một tên cuồng sát. Như Mao Trạch Đông hết là ông thánh toàn hảo mà đã hiện nguyên hình là một lãnh tụ đầy lỗi lầm. Những mặt nạ thánh thiện lần lượt được lột khỏi mặt mấy xác chết của những đại đồng chí khát máu, độc tài. Có thể Hà Nội sẽ cất bác đi cho đỡ xấu hổ.
Trong trường hợp ấy, cuốn sách tự nâng bi với mặt nạ Trần Dân Tiên cần được lưu trữ song song với cuốn sách này. Sách bác Hồ và sách Kiều Phong phải đi đủ cặp, phải trường tồn như nhau. Thứ nhất là để mua vui và cho bác tí công lao. Sau hơn một phần tư thế kỷ gieo rắc tiếng khóc than trên khắp đất nước, ít nhất cũng có lúc bác làm được một cử chỉ đẹp: viết sách tặng cho chúng ta một trận cười Thứ nhì là để gửi lại cho những thế hệ sau một vài kinh nghiệm: trong hàng ngũ quỷ xanh, quỷ đỏ vây quanh loài người, nguy hiểm độc hại nhất vẫn là những con quỷ tưởng mình đang làm công việc của Thiên thần.
Bác Cũng Có Công
Từ đầu tới cuối sách chỉ toàn vạch ra những chỗ nhố nhăng lố bịch của bác, thế nào Kiều Phong cũng bị bọn văn nô nhâu nhâu chê là thiếu vô tư, công bằng. Để tỏ rõ phong thái đường hoàng, đại lượng của một người Quốc Gia chân chính, Kiều Phong công khai dõng dạc xác nhận rằng bác Hồ có tới hai công trình, sự nghiệp rất ích lợi và xây dựng. Vâng, xét lại toàn bộ sự nghiệp bác, Kiều Phong hoan hỉ thấy rằng có tới hai lần bác đã làm được những việc thực sự có ích cho đời:
Vụ thứ nhất là vào một ngày mưa gió bão bùng, sợ chủ đói, bác kéo lê những rổ rau trên sàn tàu, tự du mình vào cái thế suýt bị sóng cuốn chết mất xác. Dù rằng vì vận nước Việt không khá, bác sống sót. Nhưng cái công bác xém trừ khử được một tên quốc tặc, cũng đáng được ghi nhận.
Vụ thứ hai là bác ngồi hì hục viết cuốn hồi ký tự nâng bi này, trình làng một bản tự khai, tự thú đầy đủ chi tiết để Kiều Phong có dịp lập bản án, thẳng cánh tống giam kẻ hại nước, tàn dân vào vĩnh cửu.
San Diego, 2-1989 Kiều Phong
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2009 3:49:43 GMT 9
"Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" - Cuốn sách hoang tưởng gây nhiễu loạn -------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Bùi Tín 08.03.2009 Một nhà "nghiên cứu lịch sử" tên là Hồ Tuấn Hùng người Trung Quốc sống ở Đài Loan, tháng 11-2008, cho ra cuốn "Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" (Nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh), dày 342 trang, chữ Hán, đưa ra nhận định giật gân, độc đáo là: ông Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước năm 1941 lập Việt Minh, rồi lãnh đạo Cách mạng tháng 8-1945, trở thành chủ tịch nước VNDCCH, chết năm 1969, không phải là ông Nguyễn Tất Thành ở Việt nam hồi nhỏ, rời VN năm 1911, không phải là ông Nguyễn Ái Quốc ở Moscow năm 1924-1925, sau đó về Hoa Nam hoạt động ở Quảng Châu - Hồng Kông. Ông này đã chết vì bệnh ho lao từ năm 1932. Tác giả chứng minh rằng ông Hồ Chí Minh sau đó là một người khác, gốc Trung Quốc 100%, người dân tộc Miêu Lật ở đảo Đài Loan, tên là Hồ Tập Chương, đã đóng giả Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc rất khôn khéo, trọn vẹn, đội danh Hồ Chí Minh cho đến khi chết ngày 2 tháng 9 năm 1969 ở Hà Nội. Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả. Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội tháng 8-1945, bà Thanh chị ruột ông Hồ ra gặp ông, 2 người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống. Bà Thanh còn nhìn tai, mũi và cằm ông, nói: "đúng là 2 tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ". Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé. Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy? Xin giáo sư Hồ Tuấn Hùng lý giải cho tôi được thông suốt. Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài Loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh(!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài Loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương (là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung hoa, Việt Nam trong nhiều năm trời... Họ làm như thế để làm gì Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để - trong một tương lai gần hay xa, Việt Nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung Quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung Quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu(!) Trên đời vẫn thường có kẻ nửa khùng nữa điên, kỳ quặc như thế. Đây là sự xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam không ra gì, nhưng nhóm lãnh đạo ở Hà Nội cắn răng chịu đựng, không thấy me - sừ Lê Dũng mở mồm. Chỉ khôn nhà dại chợ! Còn chuyện Hồ Chí Minh là người dân chủ - cộng hoà (Democrat - Republican) chứ không phải người cộng sản? Cũng chỉ là đảo ngược sự thật! Trong cuộc hội thảo tại Hà nội từ 5 đến 7 tháng 12-2008 mang tên "Việt Nam - Hội nhập và phát triển", một "học giả" Nhật bản làm một cuộc khảo cứu để đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh về cơ bản là người yêu nước chứ về cơ bản không phải là người Cộng sản(!), rằng ông Hồ là người theo chủ nghĩa cộng hòa hơn là theo chủ nghĩa cộng sản. Không có gì sai lầm hơn! Không có gì trái với sự thật hơn! Đó là sự lầm lẫn bản chất với hiện tượng, lấy mặt nạ làm mặt thật, lấy mặt thật làm mặt nạ. Trước khi từ Anh sang Pháp vào khoảng 1918, Nguyễn Tất Thành còn có thể là người theo chủ nghĩa dân tộc. Sau khi gia nhập đảng Xã hội năm 1920, rồi đảng Công sản Pháp, ông là người cộng sản. Từ khi sang Nga - 1924 - ông được huấn luyện, đào tạo có hệ thống thành một cán bộ cộng sản nòng cốt, từ đó ăn lương của Đệ Tam Quốc tế cộng sản. Ông sùng bái Staline, sùng bái Mao Trạch Đông sâu đậm, cho cả đến khi tệ sùng bái Staline bị Đại hội đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 lên án năm 1956, xác Staline bị đưa ra khỏi lăng ở quảng trường Đỏ, cả sau khi Mao dựng lên cuộc cách mạng văn hóa vô sản điên loạn hồi 1964 - 1967... Người ta dễ nhầm lẫn vì bản chất ông Hồ rất khôn ngoan đến mức có thể gọi là "xảo trá ", khi chủ trương "lạt mềm buộc chặt ", chiến thuật rất mềm dẻo, nhưng lập trường cộng sản rất kiên định - mù quáng, dễ đánh lừa thiên hạ. Nhà triết học và nghiên cứu chính trị Pháp Jean François Revel từng viết bài "Hồ Chí Minh - sự tước đoạt lòng yêu nước" (HCM - le Détournement du Patriotisme) chứng minh rằng Hồ Chí Minh đã lợi dụng lòng yêu nước của dân Việt làm công cụ phục vụ cho mục tiêu cộng sản của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản. Điều này rất rõ, trước khi chết, trong di chúc ông đắn đo kỹ, và mong sẽ được về theo cụ Mác cụ Lénine của ông ta, chứ không về theo cụ Lê Lợi hay Trần Hưng Đạo, hay là Nguyễn Trãi. Xin mời các bạn nghe lời giải thích về lời trứ danh nhất của ông Hồ "Không có gì quý hơn đôc lập tự do" của Học viện Nguyễn Ái Quốc - nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - rằng: "ý Hồ Chí Minh khi nói tự do là tự do cho dân tộc, chứ không phải tự do cá nhân tư sản đồi truỵ". Cho nên ông Hồ không chút quan tâm đến tự do của người công dân cá thể, cho nên dân quyền và nhân quyền bị chà đạp là quốc sách của đảng cộng sản; tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do kinh doanh tệ hơn thời phong kiến, thực dân; không một người dân nào có hộ chiếu xuất cảnh, đảng Cộng sản một mình một chiếu, độc quyền ngự trị xã hội không có ai kiểm soát. Ông là ông trùm thủ tiêu tự do. Sự lạc hậu, lỗ hổng tệ hại về tự do, về quyền sống công dân kéo dài, đày đoạ xã hội ta hơn nửa thế kỷ, cho đến tận hôm nay, là một đặc điểm "đặc sắc" bi thảm nhất của thời đại Hồ Chí Minh, khi đảng Cộng sản lộng hành với đường lối toàn trị dai dẳng. Phải chăng trước sự phá sản của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và đặc biệt là ở gốc gác Liên Xô, phải chăng khi chủ nghĩa Cộng sản bị cả liên minh Châu Âu lên án nặng nề không kém gì chủ nghĩa phát xít, khi một nước cộng sản cũ như Ba Lan công khai đặt chủ nghĩa Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, nhóm lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vội vã nghĩ đến chuyện gỡ tội, chạy tội cho lãnh tụ của họ, và cho chính bản thân họ? Rằng họ chỉ là những người yêu nước, dân chủ, cộng hoà? Chậm quá rồi, các người ạ !
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2009 4:18:48 GMT 9
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2008, một tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Hoa mang tên “HỒ CHÍ MINH SANH BÌNH KHẢO” (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do tác giả Giáo sư Hồ Tuấn Hùng (Ðài Loan) được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Ðài Loan (mã số ISBN: 9789866820779). (ISBN: International Standard Book Number). Tác phẩm được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc bởi những nét đặc trưng như sau:
1)- Tác giả Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 là người gốc sắc tộc Khách Gia ở Ðài Loan, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Ðại Học Quốc Lập Ðài Loan, có kinh nghiệm giáo chức 30 năm đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Cuộc đời và sự nghiệp hoàn toàn không có quan hệ gì đến cuộc chiến Việt Nam. Tác phẩm chính là hoài vọng của tác giả mong mỏi đem lại một sự thật lịch sử rằng Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, thuộc cho dòng giống Khách Gia (Hakka) tại Ðài Loan. Tác phẩm không mang tính phê bình hay ủng hộ cá nhân Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông còn là tác giả của những tác phẩm như Dịch Kinh Tân Thuyên, Dịch Kinh Ðại Diễn Chiêm Phệ, Dương Trạch Phong Thủy, Trạch Nhật Bảo Ðiển, Lưỡng Hán Mệnh Lý Tư Tưởng Giản Giới.
2)- Tác phẩm: Là một công trình nghiên cứu nghiêm túc trong nhiều năm, với phần tham khảo, trưng dẫn tài liệu bằng Hoa, Anh, Pháp, Nhật, Việt kể cả hình ảnh của Hồ Chí Minh và Hồ Tập Chương qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tập sách dày 342 trang, xuất bản lần thứ nhất bằng tiếng Hoa, đến thời điểm bài viết này chưa có bản dịch chính thức tiếng Việt hay tiếng nước ngoài nào khác.
3)- Nội dung: Theo phần trích và điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính trong bài viết “Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”.
Nội dung Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo chia làm 6 thiên [không kể lời nói đầu và một số thư giới thiệu]:
Thiên thứ nhất: Màn kịch thay long đổi phượng (Thâu Long Chuyển Phượng đích hí khúc) Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Ái Quốc tử vong đích chân tướng) Nguyên ủy của việc Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại (Nguyễn Ái Quốc tử nhi phục sinh đích hí mã)
Thiên thứ hai: Việc thật giả của kế Kim Thiền Thoát Xác (Kim Thiền Thoát Xác chân giả nhân sinh)
Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt) Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc (Hán Văn “Ngục Trung Nhật Ký” dữ di chúc)
Thiên thứ sáu: Lời kết hạ màn (Lạc Mạc Cảm Ngôn)
Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương, một người Ðài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa gọi là “thâu long chuyển phượng” và “kim thiền thoát xác”.
Cũng nên nói thêm, Hồ Tập Chương, người đóng vai ông Hồ Chí Minh sau này kém Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi [theo năm sinh 1890 mà người ta ghi trên tiểu sử, mặc dù tuổi thật theo một số nguồn có thể còn cao hơn] và đây cũng là một điểm ông Hồ Tuấn Hùng dùng để chứng minh ông Hồ Chí Minh là giả hiệu mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau.
1. Lý giải thứ nhất: Ông Nguyễn Ái Quốc [thật] dốt chữ Hoa, Hồ Chí Minh [giả] phải là người Trung Hoa mới có thể làm thơ được.
Theo lối tính của tác giả Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Hồ Chí Minh cho đến năm 21 tuổi không thể được học Hán văn quá 3 năm, còn tiếng Việt và tiếng Pháp không thể quá 4 năm rồi kết luận (tr. 258):
2. Lý giải thứ hai: Hồ Chí Minh trẻ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi, không thể già như người ta nói
Ðể chứng minh tuổi “thật” của ông “Hồ Chí Minh” giả kia phải thấp hơn năm sinh 1890, Hồ Tuấn Hùng căn cứ vào câu sau đây trong bản di chúc ông Hồ viết năm 1969 để giải thích: “Ông Ðỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung quốc, đời nhà Ðường có câu rằng nhân sinh thất thập cổ lai hy nghĩa là người thọ 70 xưa nay hiếm!”.
“Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây ...”
Từ câu này, Hồ Tuấn Hùng lý luận:
Theo đoạn di chúc này, bút giả [tức Hồ Tuấn Hùng] nhận định rằng [câu này] phải là “nay tôi vừa sáu mươi chín tuổi” và đã bị sửa thành “nay tôi vừa bảy mươi chín tuổi”, vết sửa còn ngấn rõ ràng. Câu di chúc đó phải hiểu như sau:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi, năm nay, tôi vừa đến tuổi sáu mươi chín, đã vào hạng người xưa nay hiếm rồi. Có như thế thì văn mới thông? ... Không lẽ ông Hồ Chí Minh là người thông hiểu Hán văn lại viết một câu mâu thuẫn kém ngữ pháp như thế?
Tiếp theo, Hồ Tuấn Hùng cho rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương] khi đó mới 69 tuổi [sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901] nên việc ông Hồ so sánh tuổi 79 với câu “nhân sinh thất thập cổ lai hy” là không phù hợp [mà chỉ 69 mới thích đáng] (tr. 313-4).
3. Lý giải thứ ba: Hồ Chí Minh [giả] rất “kém” tiếng Việt, dịch một câu ngắn cũng không thông [vì là người Hoa mới học].
Ðể chứng minh rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương giả dạng] không rành tiếng Việt khi viết những bài xã luận đăng trên Cứu Vong Nhật Báo [năm 1940], Hồ Tuấn Hùng đưa ra một bài viết nhan đề Thiên Thượng Cố Muội có chú thích ngay bên cạnh bằng quốc ngữ “Ông Trời Có Mắt” [để trong ngoặc đơn].
Theo ông, nếu hiểu nghĩa câu “ông trời có mắt” một cách rành mạch thì phải dịch ra chữ Hán tương đương là Hoàng Thiên Hữu Nhãn mới phải. Từ so sánh này, Hồ Tuấn Hùng cho rằng khi đó vì mới học tiếng Việt nên ông Hồ Chí Minh [Hồ Tập Chương] đã hiểu sai một “cụm từ” rất thông thường (tr. 190-1).
Luận cứ Hồ Tuấn Hùng để nhiều trang chứng minh rằng phải người Trung Hoa được học từ nhỏ là thư pháp [phép viết chữ Hán]. Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ tài đề chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là “người học thuần thục tiếng mẹ đẻ mới làm nổi” đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc (tr. 305). (1) (hết trích)
Bài viết điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính có phần nghiêm túc thế nhưng phần phản biện đã không đưa ra được một tài liệu, hay một chứng cứ nào có thể lật đổ luận chứng của tác giả Hồ Tuấn Hùng, mà lại vội vàng kết luận phủ định sạch trơn (như sau) e rằng có điều gì đó chưa ổn(?)
Hơn thế nữa, vào thời kỳ 1930, Nguyễn Ái Quốc [sau này là Hồ Chí Minh] chỉ mới là một cán bộ cỡ trung, so với nhiều người khác ngay trong các cán bộ thuộc Á Ðông Vụ ông cũng chưa phải là con bài sáng giá thì hà cớ gì đảng cộng sản Trung Hoa phải mất công dàn dựng cho người đóng giả?
Chẳng ai lại rỗi hơi “buôn” một ông vua trong khi chính những đầu não của Trung Hoa thời đó như Mao Trạch Ðông, Chu Ðức, Chu Ân Lai ... còn long đong, luân lạc, sống nay chết mai.
Tác giả cũng không cho biết một chi tiết cụ thể nào chứng minh những điều ông nghe được quả thực xảy ra, chưa kể nguồn tin vốn từ những người hoàn toàn không có thẩm quyền hay vai trò quan trọng. Ông “bán thịt lợn” hay thương gia Ðài Loan đều vô danh, không ai biết tung tích ra thế nào.
Viết sử nếu chỉ dựa trên những “tin đồn” hay “nguồn tin riêng trong gia tộc” thì ít khi được công nhận một cách chính thức. Nghi án Hồ Chí Minh trong 37 năm sau cùng là một người Trung Hoa giả dạng thật không có gì đáng cho chúng ta tin. (1)
Bài viết này, không nhằm bình phẩm sách “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo” bởi lý do người viết chưa có cơ hội đọc được bản chính tác phẩm nói trên. Thế nhưng nhân cơ hội này người viết có thể đặt vấn đề như sau: “Ông Hồ Chí Minh là người Hoa có thật hay không?”
Ðây là một vấn đề nghiêm túc cần được sự lý giải rõ ràng bởi lý do:
1)- Liên quan đến sự sinh tồn của đảng cọng sản Việt Nam, nếu thật sự đi tôn thờ thần tượng của mình chính là một người Hoa
2)- Ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cận đại vừa qua và sắp đến.
Tác giả Hồ Tuấn Hùng có động cơ trong sáng và chính đáng trong công việc đi tìm sự thật cho một người trong thân tộc đó là ông Hồ Tập Chương. Nói đúng hơn đứng về phía gia tộc của ông Hồ Tuấn Hùng, nếu Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh thì đó là một sự vinh hạnh thành công của gia tộc họ Hồ. Thế nhưng đứng về phía Việt Nam, nếu đây là sự thật , thì dù là người Việt trong hay ngoài nước cũng không khỏi thắt ruột đau lòng cho một giai đoạn lịch sử dân tộc bị đánh tráo bịp bợm.
Có hai giả thiết để trả lời câu hỏi nêu trên:
1)- Hồ Chí Minh không phải là người Hoa: Ðây chính là công việc của đảng csvn và những ai từng tôn thờ và binh vực cho ông Hồ Chí Minh phải làm bằng những công trình nghiên cứu phản biện có chứng cứ, tài liệu mang tính thuyết phục chứ không phải là những bài báo hàm hồ phản bác qua loa không thể nào đánh tan được nguồn dư luận này. Rất tiếc cho đến nay đảng csvn chưa hề lên tiếng hay phản biện chính thức về vấn đề này. Chúng ta đành chờ đợi vậy.
2)- Hồ Chí Minh là người Hoa thật sự theo như luận cứ của ông Hồ Tuấn Hùng.
Ðọc lại tác phẩm Trần Dân Tiên cũng như xét lại hành động của Hồ Chí Minh khi còn sống đã tự xưng là cha già dân tộc Việt nam, cũng từng kiêu hãnh so sánh công lao của mình là một người Hoa ngang hàng với vua tổ Hùng Vương, Trần Hưng Ðạo.
Ngày 18/9/1954, trước Ðền Hạ thuộc Ðền Hùng, Phú Thọ, ông Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn quân Tiền Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Bác căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”! (2)
Ðây là một quốc nhục cho tất cả những ai mang dòng máu Việt Nam kể cả trong và ngoài nước Cộng Sản hay không Cộng Sản. Ðảng csvn phải là người chịu trách nhiệm chính đã gây ra mối quốc nhục này.
Ðể tìm hiểu sự thật, không gì hơn lấy mốc thời gian từ giai đoạn Nguyễn Ái Quốc xuất dương đến lúc ở tù từ 1931 - 1933 so sánh với con người Hồ Chí Minh xuất hiện trở lại sau năm 1934 có phải là một người hay không?
Trong trường hợp, Hồ Chí Minh đóng được vai Nguyễn Ái Quốc, phải là một điệp viên quốc tế siêu hạng đã đánh lừa được cả thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ qua.
Trình độ tình báo quốc tế vào thập niên 40s có thể huấn luyện con người có tác phong giọng nói của hai người giống nhau, cũng như giải phẫu chỉnh hình theo một đối tượng nào đó thật dễ dàng. Nhưng không có khả năng tái tạo hay nhân bản vô tính (Cloning) hai con người khác nhau như hiện nay. Vì thế, nếu nhân vật Hồ Chí Minh đóng vai Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể thực hiện được về mặt hình thức và sinh hoạt thường ngày mà thôi, không thể nào có sự giống nhau trong các lãnh vực vượt quá khả năng tác động của con người. Ðó là:
- Hồ sơ bịnh lý - Khả năng tiếng Hoa - Tình cảm gia đình - Ức chế tình cảm cuối đời
Do vậy mời bạn đọc cùng chúng tôi so chiếu lại con người thực tế của hai nhân vật này có phải là một hay không. Nếu có sự khác biệt thì câu hỏi ai là tác giả của vụ án buôn vua này cũng cần phải giải mã vậy. (còn tiếp)
(1) “Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” tác giả Nguyễn Duy Chính. (2) Báo Tuổi Trẻ
Nguồn: Ðối Thoại
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2009 4:22:27 GMT 9
I/- Hồ sơ bịnh lý: 1)- Nguyễn Ái Quốc Trong sách Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo, tác giả Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng. Vấn đề chết của Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều nguồn tin phản biện cho là tin giả tạo. Thế nhưng Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao nặng là sự thật đã được kiểm chứng qua nhiều nguồn tin. Trong cuốn The missing years, tác giả Sophie Quinn Judge ghi rõ: Ðến cuối năm 1931, Hồ Chí Minh được chuyển vào bịnh viện có gác. Vào tháng 12 Hoàng Thân Cường Ðể gửi thư cho ông khi nghe tin ông bị bịnh nặng. Hoàng thân đã gởi 300 Yên để trả viện phí cho ông (1) Ðiều đáng chú ý, đây không phải lần đầu tiên Hồ Chí Minh bị bịnh lao, mà là lần thứ tư bị tái phát như sau: Lần 1: Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4 / 1927, ông qua Thượng Hải và Vladivostok để đến Moscow. Tại Moscow, như ta đã thấy, ông đã tìm kiếm hậu thuẫn để đến cơ sở mới tại Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đã bắt đầu tại Quảng Châu. Một phần của mùa hè năm ấy ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. (2) Lần 2: Hồi ký của Ðặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đã học được nghề thuốc Ðông y để giúp chữa bệnh cho dân địa phương ]. (Có lẽ ông đã tìm cách chữa chạy chứng lao phổi của mình, vì sau này ông (HCM) có kể với một đồng nghiệp người Việt tại Hồng Kông là ông đã bị bệnh hơn một năm ở Thái Lan, (Khoảng thời gian từ tháng 7/ 1928 - 11/1929) (3) Lần 3: Trong số này, chỉ có bức thư ngày 2 tháng 9 năm 1930 là nằm trong văn khố của QTCS.Trong thư ông đã giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 năm 1930 ông đã bị một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật là đau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏi. (4) Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao nghiêm trọng có thể chưa chết tại nhà lao. Sau đó Nguyễn Ái Quốc đã rời Hồng Kông trên chiếc thuyền Dân sự An Huy ngày 22/1/1933 tại cảng Hồng Kông (5) Hồ Chí Minh đã không về đến Mosow, theo lời của ông là mãi cho đến tháng 7 1934. Không có thông tin gì về việc ông đã sống như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu 1933 cho đến những tháng đầu của năm 1934. (6) 2)- Hồ Chí Minh Từ năm 1934 Nguyễn Ái Quốc sau này đổi tên là Hồ Chí Minh xuất hiện trở lại, ông tự khai trong bản câu hỏi tiểu sử của mình rằng ông đã trải qua vài tháng phục hồi căn bệnh của mình tại vùng Crimea trong năm 1934, sau đó theo học tại đại học Lenin vào tháng 10. Vào lúc ấy ông là người Ðông Dương duy nhất ghi danh tại trường này. (7) Từ bản khai này cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không bị bịnh lao phổi bởi lý do: Hồ Chí Minh chưa từng trải qua bịnh lao phổi nên không thể biết rằng bịnh lao phổi không thể nào chữa trị phục hồi trong vài tháng được, nhất là trong trường hợp bịnh đã có di căn, tái phát nhiều lần. Theo y học cổ truyền đông phương ghi nhận bịnh lao phổi là một trong tứ chứng nan y, vào thời điểm này chưa có thuốc chữa. Thuốc đặc trị lao phổi Streptomycin được sáng chế từ năm 1943, thuốc para aminosalicylic sáng chế từ năm 1946. Với hai loại thuốc đặc chế này muốn chữa trị bịnh lao thì cũng cần một thời gian tối thiểu là từ 6 tháng đến 2 năm tùy trường hợp. Và với nền y học tiến bộ hiện nay, và nhiều loại thuốc mới được sáng chế ra cũng cần thời gian chữa trị bịnh lao không thể nào rút ngắn hơn 6 tháng. Do vậy Hồ Chí Minh khai báo đã chữa trị bịnh lao trong vài tháng là khai láo hay là không hề bị bịnh nên không có kiến thức về bịnh lao. Bịnh lao là một loại bịnh không thể tự chữa trị mà không qua sự theo dõi của bác sĩ hay bịnh viện, thế mà hiện nay các nhà viết sử cũng không hề tìm thấy nào dấu tích nào về hồ sơ chữa bịnh lao của Hồ Chí Minh tại vùng Crimea (vào thời điểm 1934 chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ, chưa phát triển phía nam Ukraine trực thuộc Liên Bang Xô Viết, thiếu thốn mọi phương tiện, lại có thể chữa trị thành công về bịnh lao ho ra máu tái phát nhiều lần mà không cần thuốc đặc trị trong vài tháng?). Hồ Chí Minh là người hút thuốc lá nặng, bị tù lần thứ hai từ năm 1942 di chuyển qua 30 trại tù rất khổ cực, thể xác và tinh thần bị suy nhược, và cả thời gian kháng chiến vùng Việt Bắc cũng không tái phát bịnh lao? Cuối cùng Hồ Chí Minh chết vì bịnh tim ngày 3/9/1969 lúc 9g43 Theo hồ sơ chính thức của đảng csvn II/- Trình độ tiếng Hoa và khả năng làm thơ: 1)- Nguyễn Ái Quốc Sinh năm 1890 tại làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Ðàn, Nghệ An. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Ðông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 .. (8) Năm 1911 xuống tàu đi ra nước ngoài với công việc phụ đốt lò than. Như vậy Nguyễn Ái Quốc chỉ có trình độ học vấn tiểu học, có thể nói khả năng ngoại ngữ như Hoa văn, Pháp văn nếu có vẫn thuộc loại sơ đẳng không thể có khả năng làm thơ, viết văn, và nhất là thư pháp. Ðiểm đáng chú ý ông Nguyễn Ái Quốc bị tù một thời gian dài tại Hồng Kông từ ngày 8/6/1931 đến ngày 22/01/1933, trong nổi nhớ vợ mới cưới, nhớ cha bị bịnh vừa liên lạc (sẽ trình bày sau), nhớ quê hương mà lại không làm nổi một vần thơ chữ Việt hay chữ Hán (?) Trong khi bị điều tra Hồ Chí Minh tỏ ra hòa nhã và dễ mến. Hồ nói tiếng Anh, chứ không nói tiếng Quảng Ðông. Hồ học tiếng Tàu tương đối chậm, vào năm 1925 khi nói chuyện với một hội nghị Quốc Dân Giảng thì ông dùng tiếng Pháp. Những người thẩm vấn không ngạc nhiên khi thấy Hồ còn yếu tiếng Quảng Ðông vì họ biết Hồ là người Việt Nam. (9) 2)- Hồ Chí Minh: Xuất hiện sau một thời gian vắng bóng đã tự viết cuốn tiểu sử đầu tiên cho cá nhân mình dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, xuất bản năm 1947 bằng tiếng Trung Quốc, sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”. (10) Với tác phẩm đầu tay này của Hồ Chí Minh, tự thân của nó đã phát sinh ra nhiều nghi vấn: Ông Hồ Chí Minh có tất cả 3 bí thư riêng vào thời đó là Hoàng Tùng, Vũ Kỳ, và Vũ Ðình Huỳnh, cả ba người này không hề tiết lộ rằng đã giúp ông Hồ Chí Minh viết tác phẩm nói trên. Ðiều này chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh với bút hiệu Trần Dân Tiên đã tự mình hoàn thành tác phẩm này bằng chữ Hoa. Như vậy vấn đề đặt ra là trong vùng kháng chiến, rừng núi Việt Bắc, tại sao ông Hồ viết tiểu sử bằng tiếng Hoa cho người Tàu đọc từ năm 1948 sau đó dịch ra tiếng Pháp. Và bản tiếng Việt chỉ là bản dịch từ nguyên tác này. Phải chăng chủ đích cuốn sách nhằm vào đối tượng người Tàu chứ không phải là người Việt Nam? Hay là Hồ Chí Minh không có khả năng viết sách tiếng Việt? Ngoài ra còn những nghi vấn khác theo tác giả Minh Võ trong tác phẩm Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp. Thứ nhất, là chủ tịch nước, chủ tịch đảng giữa lúc chiến tranh khốc liệt, sao Hồ Chí Minh lại dành thời giờ làm một việc mà nhiều người, trong số có Vũ Thư Hiên cho là ngớ ngẩn và thừa? có thật thừa không? Thứ hai Hồ Chí Minh muốn phổ biến cuốn sách một cách khẩn cấp (ngay sau khi vừa viết xong, có thể là cuối năm 1947) (bằng tiếng Hoa tại Trung Quốc năm 1948?) và rộng rãi ra khắp thế giới sau đó mới đến Việt Nam ? Tại sao? (11) Ngục Trung Nhật Ký là một tập thơ được viết trong thời gian Hồ Chí Minh bị bắt từ 29/8/1942 đến 10/9/1943 đã trải qua 30 nhà tù. Tập thơ gây nhiều tranh cãi và ngộ nhận. Xét về nội dung: Người viết hoàn toàn đồng ý với tác giả Hồ Tuấn Hùng, Giáo sư Lê Hữu Mục, Ðổ Thông Minh và các tác giả khác đã từng chứng minh tác giả Ngục Trung Nhật Ký không phải là người Việt mà là một người Hoa. Ở đây người viết xin miễn nhắc lại e quá dài dòng. Xét về hình thức và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này cho thấy Hồ Chí Minh cho dù là người Hoa thật sự cũng chưa bao giờ là tác giả của tập thơ này, mà chỉ là kẽ chiếm đoạt mà thôi. Trong tác phẩm “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo” có một điều sai lầm rất cơ bản, làm cho tác phẩm mất đi một phần giá trị. Ðó là giáo sư Hồ Tuần Hùng đã sử dụng tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký như là một chứng cứ căn bản để xác nhận rằng Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương. Ðây là một sai lầm nghiêm trọng. Dùng một tác phẩm ăn cắp để chứng minh nhân thân một người không phải là tác giả thì đó là một nghịch lý khó có thể tiếp nhận. Thật vậy, hãy đọc kỹ lời tự khai của Hồ Chí Minh trong cuốn : "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" có đoạn kể về thời gian ở tù từ năm 1942 như sau: Quốc dân Ðảng giam Cụ vào nhà lao C.H.S hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân. ... Một tháng rưỡi sau, người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho Cụ biết đi đâu. ...... Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, có sáu người lính mang súng giải đi, Cụ Hồ Chí Minh đi mãi, đi mãi nhưng vẫn không biết đi đâu. Dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua truông. ..... Cụ Hồ tiếp tục đi, bị trói và bị xích như thế trong hơn tám mươi ngày. Cụ đã trải qua gần ba mươi nhà tù xã và huyện. ....... Từ Quế Lâm người ta giải Cụ đi Liễu Châu, giam vào nhà giam quân sự. Ở đây Cụ được hưởng “Chế độ chính trị”. Có đủ cơm ăn, mười lăm phút buổi sáng và mười lăm phút buổi chiều để đi vệ sinh, có người gác. Không bị gông, không bị xích. Thỉnh thoảng Cụ có thể đọc một tờ báo hoặc một quyển sách. (12) Tổng cộng thời gian tù đày gian khổ này là: hơn hai tuần + Một tháng rưởi sau + hơn tám mươi ngày = trên bốn tháng gần năm tháng. Hồ Chí Minh đến được Liễu Châu là nhà giam quân sự mới hưởng được quy chế tù nhân chính trị, được tự do thoải mải, được cung cấp giấy bút và sách báo. Như vậy thời gian trước khi đến Liễu Châu hoàn toàn bị còng tay cấm cố dưới sự giám sát đặc biệt, di chuyển đường dài trải qua hơn 30 nhà tù, Hồ Chí Minh không thể nào có cơ hội viết nhật ký được kể cả làm thơ được viết ra giấy. Theo hồi ký Nguyễn Ðăng Mạnh: So sánh hoàn cảnh này với bài thơ Bốn tháng rồi có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của Ông Hồ - “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tụy còn hơn mười năm trời“ Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Ðiều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn tháng rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện (13) Ðây là một nghịch lý, tác giả Nguyễn Ðăng Mạnh chỉ đặt chấm hỏi Vì sao ? nhưng chưa giải thích rõ ràng. Ðến đây có thể có người giải thích là Hồ Chí Minh đã làm thơ trong thời gian này, và viết lại trong thời gian ở Liễu Châu. chăng? Như vậy, ở Liễu Châu Hồ Chí Minh có hoàn cảnh thuận lợi, tự do, được cấp giấy bút, có thì giờ thong thả chép lại những bài thơ đã làm. Giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã chứng minh: Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ tài đề chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là “người học thuần thục tiếng mẹ đẻ mới làm nổi” đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc. (14) Một người luyện tập được thư pháp tiếng Hoa có thể đem chuông đi đánh xứ người, biểu diễn trước mặt quan khách quốc tế, thì không thể nào không trình bày được thư pháp của mình trên trang bìa Ngục Trung Nhật Ký, bạn đọc hãy xem những nét bút còn non nớt trong bản chính Ngục Trung Nhật Ký gồm trang bìa và trang trong, để có thể tự bình phẩm nét chữ này có phải là của một người giỏi thư pháp tiếng Tàu hay không? (15) (16) Nét chữ trong hình trên chỉ có thể đánh giá là một nét bút tầm thường chứ không phải do một người giỏi thư pháp nắn nót trình bày ra, nhất là trên tác phẩm thơ văn của chính mình. Ðây cũng là một lý do giải thích vì sao đảng csvn không bao giờ công bố toàn bộ bản gốc Ngục Trung Nhật Ký. Bởi vì khi công bố sẽ lộ ra chứng tích giả mạo do nét chữ của Hồ Chí Minh ghi chép lặt vặt ở những trang cuối cùng hoàn toàn khác hẳn với nét bút đề thơ ở phần trước cuốn nhật ký. Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, một người Việt đã khổ công luyện được thư pháp tiếng Hoa, tất yếu chữ viết tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ sử dụng hằng ngày phải điêu luyện và cũng có khả năng trình bày thư pháp tiếng Việt, tệ lắm cũng trình bày được bản văn của mình cho đẹp đẽ. Vậy thử nhìn vào bản di chúc viết tay của Hồ Chí Minh để bạn đọc đánh giá và kết luận. Ðây có phải là một người Việt giỏi thư pháp hay là người Hoa giỏi thư pháp tiếng Hoa, viết tiếng Việt? (17) Tác giả thật của Ngục Trung Nhật Ký trong bốn tháng đầu ngồi tù lao khổ có thể làm được 103 bài thơ thì phải là một nhà thơ chính hiệu, có tinh thần thơ ca cao độ, có khả năng sáng tác nhanh, xuất khẩu thành thơ ở bất cứ hoàn cảnh nào. Thế mà trong 10 tháng ở tù còn lại Hồ Chí Minh chỉ có thể làm thêm khoảng 30 bài nhập chung với số bài bốn tháng cấm cố lao tù là 133 bài. Nếu đem số bài thơ này so sánh với tổng số bài thơ Hồ Chí Minh làm được trong suốt cuộc đời (kể cả thơ của Nguyễn Ái Quốc) theo sưu tập được của trang web thivien.net có được là: 53 bài thơ + 22 bài thơ chúc tết chưa đầy 80 bài tính từ khi mẹ mất năm 1901 mới bắt đầu đi học cho đến lúc chết là 1969. Tổng kết cả cuộc đời Hồ Chí Minh làm thơ trên dưới 70 năm không bằng số thơ làm được trong bốn tháng tù đày lao khổ là một nghịch lý khó thể chấp nhận được. Hồ Chí Minh có tâm hồn thi ca hay không? Ðể có thể viết ra Ngục Trung Nhật Ký trong hoàn cảnh đặc biệt như đã trình bày trên. Hãy nghe lời tự biện của Hồ Chí Minh: Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi. (18) Hồ Chí Minh qua bút hiệu T.Lan tự thuật qua tác phẩm "Vừa đi vừa kể chuyện" Biết bao nhiêu là kế hoạch chủ quan, mình tự đặt ra, rồi mình lại thảo luận, bàn cãi với mình. Nếu người ngoài nhìn thấy vậy có thể cho Bác là đãng trí, lẩm cẩm.... Còn một cách tiêu khiển nữa là gây chiến tranh với rệp, hoặc là xem kinh thánh Cơ đốc. Kinh thánh Cơ đốc là một thứ sách được khuyến khích xem trong nhà tù. ... “Thưa Bác, lúc đang bị giam, Bác có làm nhiều thơ. Nếu Bác cho đăng lên báo, chắc cán bộ và đồng bào sẽ hoan nghênh lắm” Bác cười và trả lời: “Các cháu không nhắc thì Bác cũng không nhớ đến nữa. Bác không phải là người hay thơ, mà thơ của Bác cũng không hay. Mười mấy tháng bị nhốt trong một cái phòng u ám và quạnh hiu, một mình một bóng, không được nói chuyện với ai, không có việc gì làm. Muốn 'du lịch' thì đi dọc chỉ 5 bước, đi ngang 4 bước. Ðể 'tiêu khiển' ngày giờ, chỉ có cách nghêu ngao, vắt tắt ghi lại mấy nét sinh hoạt của người ở tù, cho khuây khỏa thế thôi, phải thơ phú gì đâu. (19) Ngục Trung Nhật Ký là một đứa con tinh thần, đầy tâm huyết được sáng tác trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, tại sao Hồ Chí Minh lại có thể bỏ quên đến hơn 10 năm mới cho xuất bản. Qua những lời tự khai trên cho thấy Hồ Chí Minh chỉ làm thơ khi nào nhàn nhã không có việc làm gì khác, sự ưu tiên làm thơ còn đứng sau việc đọc kinh, bắt rệp, hay đếm ngói lành hay bể. Như vậy trong bốn tháng tù, với tình trạng còng hai tay, dẫn đi qua 30 nhà tù, tâm trí luôn luôn phải thích ứng và đối phó với hoàn cảnh đổi thay mới, Hồ Chí Minh không thể nào có hứng khởi để làm thơ, thậm chí làm thơ với tốc độ nhanh và nhiều đến 103 bài thơ được. Tóm lại qua trình bày trình trên đã cho thấy một nghịch lý khó giãi bày là từ Nguyễn Ái Quốc với vốn liếng tiếng Hoa ở bậc tiểu học, lại trở thành Hồ Chí Minh giỏi tiếng Hoa có thể viết sách, làm thơ kể cả viết thư pháp là một môn công phu phải luyện tập từ thủa nhỏ mới thành đạt. Ðến đây có thể có người cho rằng Nguyễn Tất Thành đã khổ luyện tiếng Hoa trong thời gian vắng bóng chăng (từ 1933 đến 1942) ? Vậy chúng ta hãy tìm hiểu công việc của Nguyễn Ái Quốc (hay Hồ Chí Minh?) trong thời gian này qua thông tin chính thức của viện bảo tàng Hồ Chí Minh: Từ 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva. Tháng 10 năm 1938 Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Ðảng chuẩn bị về nước.Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.Tháng 5-1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Tháng 8-1942, lấy tên Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do. (20) Theo trang web Wikipedia: Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Ðại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương “liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ”, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản]. Từ năm 1938 đến đầu năm 1941 Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Ðảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938. (21) Ðiểm chú ý trong khoảng thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao, tinh thần xuống thấp, tương lai và cuộc sống chưa ổn định thì làm sao còn tâm trí thư thả học tiếng Hoa, tập luyện thư pháp để xử dụng sau này. (còn tiếp) Ghi chú: (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), The missing years, tác giả Sophie Quinn Judge (tr.162, tr.105, tr.114, tr.149, tr.163, tr.167, tr.168). (8) Wikipedia (9) Bí ẩn tù tội của Hồ Chí Minh ở Hồng Kông (1931-1932) Trần Viết Ðại Hưng (10) The missing years tr.20 (11) Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp, tác giả Minh Vỏ tr.176 (12) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch tác giả Trần Dân Tiên (13) Hồi Ký Nguyễn Ðăng Mạnh tr.123 (14) Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo tác giả Hồ Tuấn Hùng tr. 305 (15) Tác giả Ngục Trung Nhật Ký là ai? Ðỗ Thông Minh (16) BBC (17) Ðối thoại (18) Hồi ký Nguyễn Ðăng Mạnh tr.128 (19) Vừa đi đường vừa kể chuyện tác giả T.Lan (20) Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh (21) Wikipedia Nguồn: Ðối Thoại
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2009 4:28:55 GMT 9
III/- Tình cảm gia đình: 1)- Nguyễn Ái Quốc: Ðể tìm hiểu tình cảm trung thực của Nguyễn Ái Quốc đối với gia đình như thế nào, không gì hơn là đọc lại những dòng sử liệu của tác giả trong nước. Trong tác phẩm “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” (Sự hình thành một chọn lựa) của Lữ Phương có đoạn: Chúng ta đã biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm lợi cho đồng bào mình. Ðiều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành đã theo tàu trở về Việt Nam qua hành trình Marseille-Sài Gòn-Hải Phòng-Sài Gòn-Marseille-Le Havre& Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Ðạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với cách thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Ðông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được . Suốt thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có ý xin chính quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài Gòn ngày 21-9-1922 có nói đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu Latouche-Tréville (ông nói đã quên tên) như sau: “Anh đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông nghiệp dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về việc ông vừa mới bị bãi chức. Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do-huu-Chan (?)đang công tác tại Marseille, với tư cách là người giúp việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó” . Ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm xứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau: “Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao! Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai” (1) Ðọc: Thư của Nguyễn Ái Quốc gởi Tăng Tuyết Minh Nguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả. Khi ở Thái Lan, ông đã viết một lá thư bằng chữ Hán với nội dung như sau: Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thụy. Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy”. Bản dịch của N.H.Thành: Cùng em xa cách, Ðã hơn một năm, Thương nhớ tình thâm, Không nói cũng rõ. Cánh hồng thuận gió, Vắn tắt vài dòng, Ðể em an lòng, Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc, Nhạc mẫu vạn phúc. Anh ngu vụng: Thụy Bức thư này bị mật thám Ðông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d'Outre-Mer _Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence. Ðầu tháng 5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại viết một lá thư nữa từ Thượng Hải hẹn Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để gặp nhau. Tiếc thay lá thư này cũng không đến được tay Tăng Tuyết Minh do cô đã rời địa chỉ ghi trong thư là trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu và người ta đã xem trộm rồi đốt đi. Mãi nửa năm sau Tăng Tuyết Minh mới biết chuyện. (2) Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên lạc với thân phụ của ông trong những năm 1928 và 1929 qua sự môi giới của người vợ góa của Lương Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom Penh và làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người Việt quốc gia. (3) Có thể tóm tắt, ở bất cứ hoàn cảnh nào, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn thể hiện là một người nặng tình cảm gia đình với cha, với anh trai và cả người vợ mới cưới của mình. 2)- Hồ Chí Minh Sau cách mạng tháng 8/1945 Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước đã đối xử với người thân như thế nào qua những tài liệu sau: Theo nhật ký Hoàng Tùng Hồi đó còn chuyện này nữa. Chuyện này chắc ông Vũ Kỳ biết hơn tôi. Khoảng tháng 10 năm 1945, khi bà Bạch Liên, chị ruột của Bác, biết em mình trở về, đã ra Hà Nội muốn gặp. Gặp Bác, bà nắm tai Bác kéo lên và kêu: Ðúng nó đây rồi! Bà nhận ra vì Bác có cái sẹo nhỏ ở tai, khi còn bé ở nhà câu cá, giựt câu bị lỡi câu mắc vào tai. Ðể bà ở Bắc bộ phủ thì không tiện, Bác nói tôi đưa bà về nhà tôi ở. Bà ăn trưa, ngủ đêm ở nhà tôi, còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi. Sau chuyến này tôi không biết bà có ra thăm Bác lần nào nữa không. Lúc đó tôi ở 23 Hàng Nón. Bà ra có mang theo biếu Bác hai chục trứng gà. Bác bảo đem luôn về nhà tôi. (4) Ngày chủ nhật (27-10-1946), Nguyễn Thị Thanh đã ra tận Hà Nội để gặp gỡ, thăm hỏi em trai mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh.Một tuần lễ sau, khi Nguyễn Thị Thanh trở về Kim Liên, thì ngày chủ nhật (03-11-1946) Nguyễn Sinh Khiêm lại ra Hà Nội gặp em trai mình.... Bác nói: “Anh mới ra, anh khỏe không? Quý hóa quá, chị Thanh về trong đó có khỏe không anh? Hôm chị ra đây có hai cháu này cùng đến với em, nhưng em quá bận không tiếp được nhiều. Em có mời chị và hai cháu ở chơi đến chiều, nhưng chị về”. Bác Khiêm trả lời: “Chị Thanh về có nói chuyện lại bảo chú gầy lắm, công việc bận rộn suốt ngày, bà con ai cũng đến hỏi thăm và lấy làm sung sướng”. Bác Khiêm nói: “Hôm nay ông cháu đến thăm chú, tôi mang biếu chú ít quả cam Xã Ðoài”. Bác Khiêm bảo anh Thọ xách gói cam để lên bàn. Nhân đang vui vẻ, bác Khiêm có hỏi Bác Hồ: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?” Bác Hồ thong thả trả lời: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi”. Bác cười vui vẻ nói: “Mình không phải là người tu hành nhưng vì việc nước phải quên việc nhà”. Bác Khiêm biết ý không hỏi thêm nữa và nói tiếp: “Chú có ý định lúc nào về thăm quê?”. Bác Hồ thong thả trả lời: “Về đến đây cũng là về đến nhà rồi, tình hình là công việc thế này chưa cho phép nghĩ tới, chắc việc đó còn lâu”. (5) Mãi 11 năm sau, cũng là ngày chủ nhật (16-5-1957) ông Hồ mới trở về thăm quê lần đầu tiên. Tại sao lại lạt lẽo và xa lạ với quê hương như vậy? Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm "Ma đầu Hồ Chí Minh" cho biết: Hồ Chí Minh “lạnh lùng tàn nhẫn” khi được báo tin đồng bào miền Nam đã an táng thân phụ của ông ta năm xưa (tr.12) . Ðến việc viện cớ “vì công việc quốc gia quá bận rộn, tôi không thể về để nhìn mặt anh (Nguyễn Sinh Khiêm) lần cuối” rồi so sánh với việc Hồ sốt sắng đến thăm vợ bác sĩ Tôn Thất Tùng, khi nghe tin bà này đẻ và kết luận rằng “Ðó! Không có thì giờ về đưa ma anh ruột, mà lại có thì giờ đi thăm gái đẻ”. (6) Qua những nguồn sử liệu trên cho thấy một điều không ổn không thể không nói ra: Tại sao sau mấy chục năm xa cách, anh chị là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn thị Thanh đã cất công đường xa khó khăn đến thăm Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh lại không mời ở lại ăn một bữa cơm để hàn huyên chuyện gia đình, còn tệ bạc đến nỗi một gói quà quê hương của chị nghèo khổ đem từ quê nhà đến biếu, Hồ Chí Minh cũng từ chối khéo qua hình thức bảo Hoàng Tùng lấy đi luôn, ngay trước mặt chị ruột của mình. Tại sao? Sau đây tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên. Khi Bác đi Liễu Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà chị Bác (bà Bạch Liên) qua đời. Lúc đó Bác cùng Bộ Chính trị đóng tại xã Kim Quan, huyện Yên sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nhận được điện báo từ khu Bốn đánh ra, tôi báo cáo anh Trường Chinh, anh Trường Chinh ngậm ngùi nhưng không nói phải làm gì. Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi tôi: “Thế các chú có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình và địa phương là Bác bận việc không về được không? Tôi trả lời: “Thưa Bác, không ạ”. Bác nói: “Các chú ngốc quá”. (7) Tại sao nghe tin chị chết mà lại không có một phản ứng tình cảm yêu thương nào nhỉ? Cũng không có một cữ chỉ sốt sắng nào để đi thắp một nén nhang cho người chị dù là muộn màng? Trái lại, lại trách nhân viên sao không nói láo giùm cho ông Hồ. Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh lúc làm chủ tịch nước, không hề tổ chức một buổi sinh hoạt họp mặt gia đình hay gia tộc dù là trong ngày tết hay ngày kỵ giỗ của cha mẹ, tại sao? Nghĩa tử là nghĩa tận, anh ruột Nguyễn Sinh Sắc trong suốt thời gian đau ốm, và chết cũng không được Hồ Chí Minh thăm hỏi hay thắp nén nhang đưa tiễn. Tại sao? Trong khi lại sốt sắng viết thư an ủi với người bạn khi nghe tin người con chết, như sau: Nhớ năm 1947, khi nghe người con trai của bác sĩ Vũ Ðình Tụng hy sinh trong chiến đấu. Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sĩ Vũ Ðình Tụng với những lời chia buồn thống thiết: “ Tôi được báo cáo rằng con ngài đã oanh liệt hy sinh cho tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì như tôi đứt một đoạn ruột” (8) Ở đây có một nghi vấn đặt ra, tại sao Hồ Chí Minh cố tình xa lạ và tách biệt hẳn những người quen thân của Nguyễn Ái Quốc như gia đình, dòng họ, bạn bè đồng hương cùng lứa tuổi , và cả người vợ Tăng Tuyết Minh? Chỉ có thể trả lời rằng Hồ Chí Minh không mang dòng máu của Nguyễn Ái Quốc, nên không thể nào có những cảm xúc thân tình đối với những người kể trên được. Hồ Chí Minh rất sợ bị lật tẩy vai trò giả dối của mình khi phải đối diện với họ. Hồ Chí Minh có thể được huấn luyện để đóng vai diễn Nguyễn Ái Quốc thành công ở giai đoạn trưởng thành, thế nhưng Hồ Chí Minh không thể nào biết được quá khứ tuổi thơ của cậu bé “Sinh Coong” giả dụ như là những kỷ niệm “đái dầm” hay tắm “truồng” với bạn bè đồng trang lứa, những lúc “hái rau mò ốc” của những chuỗi ngày hai anh em theo mẹ cùng nhau tha hương cầu thực. Làm sao biết những ký ức của tháng ngày bụng đói nằm đếm sao trời ở làng Chùa, làng Sen để mơ ước tương lai có một bữa cơm “không độn rau khoai”. Hồ Chí Minh cũng không thể nào biết những kỷ niệm “buồng the” hay “trăng thề hứa hẹn” thì làm sao dám tìm gặp lại Tăng Tuyết Minh mà không bị phát hiện giả mạo. Vì thế, sau khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước cho đến ngày chết không hề có một động thái nào tìm lại người vợ Tăng Tuyết Minh cả. Cho dù Hồ Chí Minh đã có nhiều dịp đến Trung Quốc trong thời gian làm chủ tịch cũng như lúc cuối đời. Trong Tâm tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh tác giả Bùi Tín ghi lại: Có nhà nghiên cứu nói đến trái tim thép lạnh tanh của ông khi bà vợ cũ có hôn thú Tăng Tuyết Minh dò hỏi về ông suốt từ 1945 đến 1964, ông vẫn làm ngơ, cho đến khi đảng CS Trung quốc khuyên bà nên quên chuyện này đi, và bà vẫn ở vậy cho đến chết vào tháng 11 năm 1991, thọ 86 tuổi. Cũng có người nói thái độ không bình thường của ông đối với người anh cả Nguyễn Tất Khiêm và với bà Thanh chị ruột ông, cũng như với làng quê Kim Liên, khi ông về Hà Nội từ năm 1945 mà đến tận năm 1957 mới về thăm quê lần đầu! (9) IV/- Tâm lý chân thật của con người cuối đời: Thông thường khi một người già về cuối cuộc đời có khuynh hướng sống thật với nội tâm cội nguồn của mình như gia đình, vợ con, ông bà, tổ tiên, quê hương và tổ quốc. Vậy cuối cuộc đời của Hồ Chí Minh như thế nào? Những tháng cuối cùng của năm 1969, túc trực bên giường bệnh của ông Hồ là đoàn bác sĩ Trung Quốc, cùng bác sĩ Việt Nam. Theo sách của Hoàng Tranh, một buổi chiều cuối tháng Tám, khi tỉnh lại, Hồ Chí Minh nói với các bác sĩ Trung Quốc: “Mong nghe ai hát một bài ca Trung Quốc.” Một y tá của bệnh viện Bắc Kinh hát, Hồ Chủ tịch nghe xong, mỉm cười, và “đấy là nụ cười chót” của ông trước khi hôn mê mải cho đến lúc qua đời. (10) Trong tác phẩm Hồ Chí Minh, a life tác giả William J. Duiker đã kể về đời tư Hồ Chí Minh với một loạt người tình và vợ Nguyễn Thị Minh Khai , Tăng Tuyết Minh... và cả chuyện Hồ Chí Minh vào lúc cuối cuộc đời đã nhờ một cán bộ cao cấp Trung Cộng giới thiệu cho một cô gái trẻ để dưỡng già (11). Tại sao Hồ Chí Minh một người Việt Nam (?) cuối cuộc đời lại thèm nghe nhạc Tàu, được sống với vợ Tàu, trong khi không hề nhắc đến Tăng Tuyết Minh người vợ Tàu đã cưới hỏi đầy đủ một lần nào? Tâm lý này còn thể hiện qua bản di chúc viết tay. Hồ Chí Minh là một người viết sách báo lưu loát, nhiều năm kinh nghiệm, thế mà cuối cuộc đời không thể viết một bản di chúc hoàn chỉnh. Hồ Chí Minh từng tự hào trong tác phẩm Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh: “Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghỉ tới tổ quốc và suốt đem mơ đến tổ quốc” (12). Người xưa theo quan niệm duy tâm, cho rằng “Sinh ký tử quy” con người sinh ra chỉ là ký gởi mà thôi, khi chết luôn luôn trở về cội nguồn . Hồ Chí Minh cũng là con người duy tâm, tin rằng con người có linh hồn, khi chết, ao ước được ghi rõ ràng trên di chúc là đi thăm cụ Mác, cụ Lê. Sao Hồ Chí Minh không mong muốn về với tổ tiên vua Hùng dựng nước mà đã nhiều lần ông từng kiêu hãnh so sánh công lao gìn giữ đất nước. Sao đành quên đi người mẹ, từng cực khổ đùm bọc ông từ quê nhà vào Huế ăn học để rồi chết chôn thây ở xứ người. Sao nỡ quên người cha chết tha phương ở vùng đất Cao Lãnh hoang lạnh, mà Nguyễn Ái Quốc đã từng nhọc công thăm hỏi từ vùng rừng núi Xiêm La, thế nhưng khi trở thành Hồ Chí Minh chủ tịch nước lại hững hờ lạnh lùng khi nghe tin đồng bào miền Nam đã cưu mang đùm bọc xây dựng bảo trì an táng cha ruột của mình. Sao không mong về gặp lại người anh, để tỏ một lời tạ tội vì lở quên thăm viếng lúc đau ốm cũng như quên thắp một nén nhang đưa tiễn?.. Sao đành quay lưng với người chị ruột nghèo khổ đã cưu mang gói quà nghĩa tình đường xa thăm viếng? Phải chăng Hồ Chí Minh không mua nổi một bó bông để tiễn đưa người chị một chặng đường cuối? Ðến đây có thể tổng lược lại những nét đặc trưng hai nhân vật trên như sau: Nguyễn Ái Quốc, với trình độ tiểu học, vốn chữ hán rất tầm thường, chưa hề thể hiện tài năng chữ Hoa qua văn chương, thi ca hay thư pháp, mang bịnh lao kinh niên ở thời kỳ ho ra máu. Là một người nặng tình cảm gia đình đã nhiều lần liên lạc với anh trai, giúp đỡ tiền bạc và hỏi thăm cha dù đang ở hoàn cảnh khó khăn chiến tranh xa cách, phải nhờ người trung gian chuyển nhắn giùm. Ðã có vợ Tăng Tuyết Minh, yêu thương từng diễn tả qua bút tích để lại. Trái lại Hồ Chí Minh, mạnh khỏe không có dấu hiệu tật bệnh gì cho đến tuổi già 79 tuổi, chết vì bịnh tim. Hút thuốc nặng, ở tù cực khổ, kháng chiến ở rừng sâu nước độc cũng không hề nhiễm bịnh lao. Giỏi tiếng Hoa có thể viết sách, thơ ca và có khả ngăn trổ tài thư pháp. Hoàn toàn không nhớ hay không hề nhắc đến người vợ Tăng Tuyết Minh cho dù đã từng qua Trung Quốc công du hay chữa bịnh thời gian dài. Ðối với với gia đình xem như là người xa lạ và tuyệt tình. Thậm chí một hành vi “nghĩa tử nghĩa tận” đối với cái chết của anh và chị ruột, Hồ Chí Minh cũng không làm. Trong suốt thời gian làm chủ tịch, Hồ Chí Minh không bao giờ tổ chức được một buổi ăn sum họp gia đình hay kỵ giỗ cha mẹ, ông bà tổ tiên. Cuối cuộc đời chỉ mong có vợ tàu săn sóc và nghe nhạc Tàu. Lúc chết mong về tổ quốc Mác chứ không phải tổ tiên , ông bà xứ Nghệ. Qua toàn bộ phần trình bày trên có thể kết luận rằng: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không thể là một người. Vậy Hồ Chí Minh là ai? là người Hoa? Là Hồ Tập Chương? Hay ai đó sẽ còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi, cho đến khi nào Liên Xô chính thức bạch hóa hồ sơ Cọng Sản Ðệ Tam Quốc tế hay là đảng csvn chấp nhận công khai, chính thức làm một cuộc thử nghiệm DNA giữa Hồ Chí Minh với gia tộc họ Hồ, cùng với gia tộc họ Hồ Tập Chương. Mọi sự thật lịch sử sẽ được sáng tỏ. Phần kết: Vụ án buôn vua cần lý giải Nếu Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc sẽ nảy sinh là một câu hỏi: Ai là người chủ mưu trong vụ án buôn vua này? nhằm mục đích gì? Có 3 giả thuyết được hình thành để thỏa mãn câu hỏi này: * Giả thuyết 1: Tác giả vụ buôn vua này là cọng sản Trung Quốc. Giả thuyết này khó đứng vững bởi lý do vào thời điểm 1931 - 1933 Nguyễn Ái Quốc ở tù chưa chết, Trung Quốc không thể nào có thời gian đào tạo huấn luyện một người khả dĩ có thể thay thế. Hơn nữa vào thời điểm này cọng sản Trung Quốc cũng còn gặp nhiều khó khăn trong công cuộc chiến đấu, chưa biết tương lai thành quả chính trị ra sao, thì khó có thể đầu tư công sức và tiền của để làm một công việc buôn vua lâu dài được. Ngoài ra còn một yếu tố nữa, sự giả mạo khó mà qua mặt được tình báo Liên Xô. * Giả thuyết 2: Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính là thủ phạm lại càng không đứng vững bởi lý do trong bối cảnh lịch sử đảng csvn ở giai đoạn thanh trừng nội bộ, Nguyễn Ái Quốc bị tố giác chịu trách nhiệm về việc nhiều thanh niên bị bắt ở Hồng Kông. Cả ba tổng bí thư đầu tiên của đảng cọng sản Việt Nam là Trần Phú, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đều muốn loại trừ Hồ Chí Minh qua những cáo giác và buộc tội rất nặng nề. Do vậy đảng csvn không cần thiết và không có nhu cầu để đào tạo một Hồ Chí Minh giả thay thế Nguyễn Ái Quốc. * Giả thuyết 3: Còn lại một người có khả năng thực hiện việc buôn vua nói trên đó là: Cộng Sản Liên Xô ( hay Cọng Sản Ðệ Tam quốc tế). Trở lại lịch sử để biết rõ vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ở thập niên 30s ra sao? Sau Ðại Hội 5 QTCS (1924), Nguyễn Ái Quốc còn tham gia vào Ðại Hội 3 Công Ðoàn Quốc Tế Ðỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi là Profintern, thành lập năm 1921). (13) Thời gian này uy tín và ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc lên cao, sau đó vì một số lý do nào đó Hồ đã không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp. Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. (14). Ðiều quan trọng mà ta nên lưu ý là Ðại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn còn lênh đênh trên biển. Có thể ông đã không biết đến những tin tức chi tiết về kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng có được, dường như ông đã đi châu Á với hành trang không có gì ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1 mình. (15) Tại Ðại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công bố vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội bộ của ÐCS Liên Xô, ông còn tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng cộng sản nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ. (16) Vì cuối tháng 2 1930 ông đã viết thư cho đại diện QTCS để tìm hiểu rõ ràng hơn nhiệm vụ của mình: “Hiện nay tôi không biết được chính xác vị thế của mình là gì... tôi là đảng viên của ÐCS Pháp hay ÐCS Việt Nam? Ông còn hỏi: “Nhiệm vụ mà QTCS đã giao cho tôi đã bị hủy bỏ rồi chăng? Nếu không thì tôi có phải là nhân viên của Phân Bộ Viễn Ðông hay không?” Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định về việc này. (17) Theo quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mất đoàn kết trong đảng. (18) Hội Nghị ÐCS Ðông Dương từ ngày 27-31 tháng 3 tại Macao đã bầu ra một Ủy Ban Trung Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ÐCS Ðông Dương trong thời gian Lê Hồng Phong vắng mặt... Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ 13 như là một thành viên dự bị Ðến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập trong bức thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp đã kết tội phản bội của Hồ Chí Minh những lý do như sau: (a) Quốc đã biết rằng Lâm Ðức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ông ta; (b) Quốc đã phạm sai lầm khi đòi hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội ngoại và ông bà cố... (c) trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được; (d) những bức ảnh do Quốc và Lâm đòi hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh sát; (e) dần dần khi đường lối của đảng đã trở nên rõ ràng hơn đối với đảng viên và quần chúng, họ đã phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Ðồng Chí Quốc theo đuổi. Tổng bí thư của ÐCS Xiêm, từng là người học trò thuần thành của Quốc, là một trong những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không phải là một người cộng sản!!! (19) Một nguồn tin được biết nhiều năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc Ủy Ban Trung Ương Sô viết là Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đã bị điều tra bởi bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin này, Mauilsky đã giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn Hồ bị xử tử hình. Vasilieva được cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của ông về những biện pháp an ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm]. Vào năm 1935 có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng hơn là tử hình, nếu ông tin rằng Hồ đã có một phần lỗi trong những bắt bớ vào năm 1931. Nhưng vì không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất có thể vẫn còn được giấu kín trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể biết được những tố giác của Hà Huy Tập đã được xử lý nghiêm trọng đến mức độ nào. (20) Trong giai đoạn giao thời giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã xuất hiện hai nghịch lý như sau: - Nguyễn Ái Quốc là bị bịnh lao tái phát lần thứ tư ho ra máu, có thể nào được quan tâm chữa trị đầy đủ để sống còn qua thời kỳ bị theo dõi giám sát như là một tội đồ bội phản, ở Liên Xô hay không? - Nguyễn Ái Quốc bị cáo giác phản bội bởi chính những tổng bí thư đảng csvn (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập), người chịu trách nhiệm về vụ bắt bớ thanh niên năm 1931. Cũng là người không hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cọng sản. Tại sao không chịu hình phạt nào như khai trừ, kỷ luật hay hạ tầng công tác, an trí mà trái lại còn được nuôi dưỡng chữa bịnh, cho đi học đại học (một hình thức tái huấn luyện) để trở lại lãnh đạo đảng csvn, được xóa trắng tội lỗi năm xưa? Hoàn toàn đi ngược lại truyền thống “Thà giết lầm hơn bỏ sót” của cộng sản. Phải chăng nghi vấn Nguyễn Ái Quốc trong thời gian thất sủng này phải nhận lãnh cuộc sống trong tăm tối, khó khăn cùng với căn bịnh lao kinh niên cho đến chết ở một vùng đất hẻo lánh nào đó là sự thật? Vào thời điểm này QTCS rất cần một cán bộ đủ tin cậy để thực hiện tham vọng thống nhất tất cả các đảng thành một đảng Cọng Sản Ðông Dương, biến Liên Bang Ðông Dương trực thuộc Liên Bang Xô Viết. (Tham vọng Liên Bang Ðông Dương Cọng Sản này được Lê Duẩn tiếp nối thực hiện bằng cách đem quân xâm chiếm Campuchia vào cuối thập niên 70s). Nguyễn Ái Quốc đã từng thất bại trong nhiệm vụ này trước năm 1930, thế nhưng thực tế vai trò của họ Hồ vẫn cần thiết để tập hợp lại các đảng phái khác nhau. Thế nhưng tình hình sức khỏe của Hồ Chí Minh không thể nào tiếp tục công cuộc chiến đấu gian khổ và lâu dài này được. Vì thế QTCS đã sử dụng kế “Kim Thiền Thoát Xác” như giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã trình bày trong tác phản “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo”. Như vậy, Liên Xô thực hiện kịch bản “buôn vua” nhằm thôn tính và thống nhất Liên Bang Ðông Dương bằng mọi giá, trên căn bản quyền lợi của Liên Xô chứ không phải là quyền lợi của Việt Nam. Chẳng may, kẻ buôn vua “Liên Xô” đã chết tức tưởi vào thập niên 80s kéo theo sự phá sản của dự án Liên Bang Ðông Dương. Phải chăng nhân cơ hội này, tình báo Trung Quốc đã “chôm?” được bí mật hồ sơ buôn vua Hồ Chí Minh của Liên Xô để từ đó làm con bài tẩy khống chế đảng Cọng Sản Việt Nam? Một câu hỏi được đặt ra ở đây là đảng csvn có biết vụ án buôn vua này hay không? Và biết từ thời gian nào? Câu trả lời: Biết được ở thời gian nào rất khó khẳng định. Nhưng với khả năng tình báo của csvn, cho thấy không thể không biết mà biết rất rõ. Thế nhưng vì nhiều lý do nhạy cảm, đảng csvn phải câm miệng, ngậm bồ hòn làm ngọt, cam phận làm kẻ đồng lõa qua động thái tiếp tục thần thánh hóa Hồ Chí Minh. Vì nếu câu chuyện được tiết lộ sẽ làm sụp đổ tất cả từ thần tượng, chế độ đến sự nghiệp chính trị của đảng csvn cũng tiêu tan, kéo theo nhiều tình huống bi thảm ngoài dự kiến của người trong cuộc. Ðây là một trong những lý do để đảng csvn trở nên hèn hạ, cam tâm làm nô lệ cho Trung Quốc qua hành động bán đất cắt biển. Ngày 22-12, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức lễ cắm cột mốc số 1116, một trong những cột mốc cuối cùng trên tuyến biên giới đất liền giữa hai nước Việt - Trung. (22) Thời gian tới sẽ hoàn tất việc phân định ranh giới lãnh hải. Hoàng, Trường Sa phải biến mất trên bản đồ Việt Nam (?). Kỷ niệm 1000 năm Hoàng Thành Thăng Long là một dấu mốc vinh quang cho một quá trình dựng nước và giữ nước. Phải chăng đây cũng là dấu mốc đầu tiên của chuỗi ngày tủi nhục của lịch sử Việt Nam mất đất, mất biển do hệ quả của vụ án buôn vua này? Cho dù bào chữa bằng lý do nào chăng nữa, trách nhiệm không ai khác ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam. Ghi chú: (1) “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” (Sự hình thành một chọn lựa) của Lữ Phương. (2) Wikipedia (3) The missing years Tr.115. (4) Nhật ký Hoàng Tùng (5) Trần Minh Siêu Nhà xuất bản Nghệ An - năm 2003 (6) Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm Ma đầu Hồ Chí Minh. Tr. 16 (7) Nhật ký Hoàng Tùng (8) Phùng Thế Tài và Bác Hồ, những Kỷ niệm không quên Tr. 179 (9) danchimviet.com(10) BBC (11) Hồ chi Minh nhận định tổng hợp - Minh Võ tr. 619 (12) Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh” tr.53. (13)(14)(15),(16),(17),(18),(19),(20): Missing years, tr.66, tr.71, tr.108, tr.112, tr.134, tr.168, tr.171, tr.172) (21) Ðàn Chim Việt (22) Báo Hà Nội Mới Nguồn: Ðối Thoại
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2009 4:31:44 GMT 9
CÁI CHẾT CỦA HỒ CHÍ MINH LIÊN QUAN ĐẾN LÊ DUẨN, KGB, CHẤT ĐỘC RICIN. PHÁT HIỆN NHÂN NGÀY SINH CỦA HỒ 19-5.
Phát hiện qua 1 người thân của Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của Hồ , cơ sở của chúng tôi vừa phát hiện 1 bí mật được dấu kín về cái chết không phải vì trụy tim của Hồ Chí Minh năm 1969 .
Sự thực được phơi bày có liên quan đến các tài liệu dường như đã bị hủy tai Nga . Thập niên 60 có nhiều quan điểm , sự chia rẻ sâu sắc của cộng đồng cai trị cộng sản , nhất là giữa Nga, Trung cộng và Đông Âu. Sau năm 1968 , sau thất bại thảm hại của quân Băc Việt tại miền Nam Việt Nam liên quan đến sự hở cơ sở tình báo mà lỗi chính là do Hồ tiết lộ với các đồng minh Đồng Âu , cộng tư tưởng có hướng xét lại , theo Trung cộng bấy giờ và nhất là câu tuyên bố của Hồ khi tiếp đòan cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc giữa năm 1968 “nếu thống nhất được miền Nam , ta nên để miền Nam hưởng chế độ tư trị như Hong Kong cuối thế kỷ này.” làm Liên Xô vô cùng lo ngại .
Theo nguồn tin thì tháng 1 năm 1969 , Bộ sâu Duẩn , Thọ đã bí mật yêu cầu KGB đầu độc Hồ càng sớm càng tốt . Chất độc mà KGB sử dụng là lọai biệt dược tân tiến nhất thời bấy giờ , đó là chất Ricin , nó giết người do gây những cơn đột biến co thắt tim hay chặn lưu thông máu bằng cách tạo ra những cục máu đông nghẽn ở hệ thần kinh .
Để che dấu sự thực này bị phái đoàn y tế Trung cộng phát hiện . KGB đã mua chuộc ít nhất 2 chuyên gia trong phái đoàn y tế Bắc Kinh từ lúc họ còn ở Trung Quốc , sau đó pha theo tỷ lệ ít và cho ngấm từ từ vào cơ thể Hồ . 6 tháng sau khi trúng độc , Hồ từ trần vào đúng ngày 2 tháng 9 năm 1969 .
Như vậy , Hồ có thể sống lâu hơn , nhưng Hồ phải chết vì chính nền giáo dục mà ông ta hấp thụ . Sự tiếm quyền bằng dối trá và trả giá khi dối trá đó lên cực điểm thì lưỡi dao mà ông ta sử dụng quay lại tiêu diệt chính ông ta .
Hồ không hề là người có xu hướng quốc gia , Hồ chỉ chết do hiểu vấn đề theo nguồn giáo dục gốc của Pháp đào tạo , còn học trò hay phản phé của Hồ thì không .
Độc sử dụng mà không có thuốc giải hay đi đêm có ngày gặp Ma đã gây ra sự hủy diệt như vậy .
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 18, 2009 16:35:41 GMT 9
Thơ Bút Tre là một loại thơ lục bát gồm có hai câu của Ðặng văn Ðáng. Ông sinh ngày 23-8-1911, quê quán tại xã Ðồng Lương, huyện Sông Thao tỉnh Vĩnh Phú. Ðặng văn Ðáng đã từng giữ chức Bí Thư Bộ Ngoại Giao CS năm 1956. Năm 1960, Ðáng giữ chức Trưởng Phòng Thông Tin Văn Hóa tỉnh Phú Thọ, ông mất ngày 18-5-1987. Thơ Bút Tre của Ðáng đã được loan truyền rộng rãi khắp nơi vì tính chất ngô nghê, ngớ ngẩn khiến người đọc muốn hiểu sao thì hiểu. Ra tới hải ngoại Thơ Bút Tre đã được nhiều cây viết hưởng ứng nồng nhiệt để đả phá các lãnh tụ CSVN và bè lũ tay sai của chúng. Chúng tôi xin sao lục lại nơi đây để chúng ta cùng đọc. Có gì thiếu sót xin quý vị và các tác giả bổ xung cho. Không đi không biết Tam Ðao Ði thì không biết nơi nào mà ngu. Bác Hồ có một con chim Bác nhờ chị Ðịnh đi tìm cái lông.Trung ương chỉ thị ba cùng Ðảng viên phải bám quần chùng nhân dân. Vì Ðảng xây dựng trong quần Chúng nên Ðảng được nhân dân thương yều Ðảng ta đã có truyền thông Sống và chiến đấu ở trong quần chùng Bác Hồ là lão già dê Lấy Minh Khai, vợ của Lê Hồng PhòngBác Hồ lấy vợ của đồng Chí Lê Hồng Phòng là chị Minh KhaiTin đâu như sét đánh ngang Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trầnTin đâu như sét đánh gần Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sangBác Hồ thuở học chữ Nho Cùng đèn cùng sách cùng lò Bác TônBác Hồ thuở nhỏ bồi Tây Ðến già bác lại đu giây Nga Tàu.Cuộc đời cách mạng Bác Hồ Nâng bi cụ Mác bưng bô cụ MàoViệt kiều ai thấy có kinh Nghiệm về xây dựng nước mình thành rông Ðảng viên nhiệm vụ được giao Hợp với cán bộ đi đào xác My Bác Hồ nằm giữa hòm kinh Nguyệt soi chẳng thấy tức mình chùi ra.Ngoài quần chúng ngỡ là ma Cô đi dắt mối hóa ra Bác Hồ Ðảo kinh là cái đỉnh cao Trí tuệ nên đảng hô hào văn minh Ðảng viên cán bộ thất kinh Văn minh cho lắm vẫn mình cán ngô Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp ta thắng trận Ðiện Biên lẫy lừng. Hoan hô đồng chí Sít Ta Lin Ða hở rốn hóa ra Trang Ðài Anh đi công tác Pờ Lây Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra Thương thay thủ tướng Võ Văn Kiệt sức, kiệt lực chết lăn giữa giường! Chị em du kích giỏi thay Bắn máy bay Mỹ rớt ngay cửa mình Rằng nghe một chuyện đứng tim Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm chim thằng Tầu Tin buồn noan báo trên đài Xe tăng bác nái nật hai ba nần! Tin thua như sét đánh ngang Làm Bác chết cứng, lúc đang cởi quầnHôm qua còn sống sờ sờ Mà nay bác đã cứng đơ cái mìnhHôm nay vui sướng làm sao Anh Ga Ga Rỉn bay vào vũ tru Mừng ngày mùng sáu tháng ba Chị em phụ nữ chúng ta vung lền! Chị Bình đón Bác dưới mưa Chị thấy Bác ướt bèn đưa cái nòn!Vào thăm lăng Bác âm u Các chị bộ đội ngả mu ra chào!Ngồi câu chẳng thấy cá ăn Buồn tình nhổ ít lông măng Bác HồKhôn hồn thả cải tạo ra Kẻo Ngụy trở lại chết cha Ðỗ Mười Tổ cha cái bọn đười ươi Ðỗ Tám, Ðỗ Chín, Ðỗ Mười ăn... "biu" Hoan hô đồng chí Goóc Ba| Chớp được chị vợ đàn bà Liên xô Trạch Dân có họ Giang mai Này dân Trung Quốc đói dài vì ông Ðỗ Mười sang lạy Trung Hoa Kính dâng quần đao Trường Sa cho Tầu Nghe tin đồng chí Võ Văn Kiệt quệ cổ võ xin ăn láng giềng. Ðồng chí tham quan Tân Gia Ba chân kiềng gẫy, ối Nga, ối Tầu! Ðỗ Mười ở lại càu nhàu, Kiềng ba chân gẫy, ối Tầu, ối Nga! Giỏi a! Ðồng chí Ðỗ Mười Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư. Anh mò địa đạo Củ Chi Củ chi là cái củ gì? Củ anh?! Thương nhớ bác Hồ Chí Minh Dán hình bác trước cửa mình... khỏi quên!Bác Hồ sống rất thanh đàm Heo gà dâng đến bác làm sạch trơn! Chị Ðịnh khen bác khiêm tồn, Bác Hồ cảm động rờ ... chị ÐinhMỗi khi muốn hút thuốc ngon Bác kêu chị Ðịnh giở nòn chị ra.Mỗi khi buồn bực trong lòng Bác kêu chị Ðịnh chổng mông bác nhìn!Bác Hồ làm sổng con chim Chị Bình hộc tốc đưa chim của mìnhBác Hồ có một con cu Ðứa nào động đến đi tù mọt gôngTrên đường kháng chiến gian khồ Có con cu của bác Hồ cũng vuiNửa đêm trăn trở nửa đêm Bác lần ra cửa mò chim chị BìnhỞ trong địa đạo âm u Bác mò mẫm kiếm cái mu chị SàuMáy bay bom thả ù ù Bác đút đầu bác vào mu chị Sàu!Vừa chui ra khỏi địa đào Bác Hồ liền giúp chị Sàu mặc quânThấy chị Sáu đứng ngờ ngờ Giữa trưa nắng cực... bác rờ cái cây!Bác khiêm tốn nhất trần gian Nếu không cứ hỏi Trần Dân Tiên còiMỗi khi đi ỉa ngoài đồng Sẵn hột giống, bác liền trồng vào ngay.Thú vui của bác tầm thường Thích nhìn sơn nữ trần truồng tắm suôiHoảng hồn chủ tịch Goóc Ba Chớp ngay đồng chí Rai-sà phu nhân Ðỗ Mười đấm ngực kêu trời Lênin ngã xuống không lời trối trăn. Nếu theo chân bốn con rồng Ðảng ta phải dẹp hai ông Mác Lề Ðảng thờ Lê, Mác quang vinh Ðẩy cho Tổ Quốc xuống sình cũng vui. Hoan hô đồng chí Goóc Ba Chớp chơi dữ, đảng tan ra tức thì Hạ cờ máu ở Mút Cu Lộn liềm, rớt búa, sao lu hết trờn Mác Lê, Nga đã phóng uê Việt cộng đớp lấy nhất tề vùng lên Ðầu cộng đã ngỏm cù ti Cái đuôi còn vẫn ngu si làm càn Ðuôi cộng rồi cũng sẽ tan Việt, Cu Ba, Tẫu, Bắc Hàn đi đoong! Liên Bang Sô Viết vỡ rồi Văng Linh, văng Kiệt... Ðỗ Mười văng luôn Bốn anh nghèo xác, nghèo xơ Khấu đầu van lạy ăn nhơ Hoa Kỳ Lãnh tụ học hết lớp ba Ðỉnh cao trí tuệ đảng ta thiệt giòi! Cái tình hữu nghị Việt Trung Bền chặt như sợi giây thung cột quần Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc Ðẻ con rắn mắt tên là Sinh Cung Bác Hồ thuở nhỏ chăn trâu Lớn lên chơi dại bị Tầu bắt giamBác Hồ khoe bác có kinh Nghiệm trong sử sách có mình bác thôi!Tổ sư là bác Lê Nin Cũng là sư tổ linh tinh hại đời Trách ai sinh thứ họ Hồ Ðể cho cả nước như đồ vất điChị Bình với lại chị Ðinh Hai chị đều khoái bác Hình Chí MôNước ta bầu cử tự do Lọc qua, lừa lại toàn lò Mác Lê Ðảng ta chọn tướng họ Lê Ðức Anh thất đức nên bê lên ngồi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tầu Hẩu lớ! Ðồng chí Phạm văn Ðồng lòng cùng bác bán phăng cõi bờ "Dọn đường về nước" ai ơi Nhớ vác máy "fax" thư rơi đều đều! Bác đi công tác Ban Mê Thuột xong một cái lại về hang ngay... Ho Chu Tich kinh yeu
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:34:10 GMT 9
90 năm lời chủ tịch Hồ Chí Minh
-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Người Buôn Gió 21.09.2009
Nhà tù nhiều hơn trường học và lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người nào có tư tưởng về chế độ khác đều bị bắt mà không cần xét xử. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Việc những tờ báo hoặc tạp chí có tư tưởng tiến bộ được coi là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng với báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho công cuộc làm ngu dân của chính phủ. Nhà tù làm nốt phần còn lại…
Đối ngoại chúng cúi đầu uốn gối, cam chịu cắt đất đai của đất nước, ngậm hơi nuốt nhục dâng quyền lợi của nhân dân cho ngoại bang…
Chúng vụng về trong việc phát triển kinh tế đất nước , nhưng chúng lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra lòng trung thành bắt buộc. Nếu các ông Ganh Di, de Valera sinh ra ở đây có lẽ đã bị chúng cho lên thiên đàng từ lâu rồi. Bị tất cả những thủ đoạn thâm hiểm của tòa án vây quanh, một chiến sĩ ở bản xứ khó lòng tiến hành giáo dục cho đồng bào mình hiểu bị áp bức, bóc lột thế nào mà không bị sa vào nanh vuốt của chúng…..
Yêu cầu Ân xá toàn thể chính trị phạm ở Việt Nam Tự do báo chí và tự do tư tưởng Tự do lập hội và tự do hội họp Thay đổi sắc lệnh bằng đạo luật. Đoạn văn trên trích từ cuốn Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân, xuất bản năm 1959 tác giả Nguyễn Ái Quốc. Cuốn Vì Độc Lập Tự Do, Vì Chủ Nghĩa Xã Hội xuất bản năm 1970 của Hồ Chí Minh. Hai cuốn đều do nhà xuất bản Sự Thật phát hành.
Trong những ngày ở trại giam can tội có dấu hiệu lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích nhà nước. Hàng ngày nghe đài tiếng nói Việt Nam và đọc báo Nhân Dân do trại giam cấp. Gần ngày 2-9 là ngày kỷ niệm quốc khánh và 40 năm thực hiện di chúc Hồ Chí Minh đài báo liên tục đưa những tấm gương sáng đã phấn đấu học tập di chúc của vị lãnh tụ vĩ đại này. Trở về nhà đi mua hết những cuốn sách liên quan đến chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm hiểu và học tập.
Trong quá trình tìm hiểu và học tập tấm gương chủ tịch Hồ Chí Minh thấy có những điều sau:
90 năm đã qua từ khi Nguyễn Ái Quốc đọc lời lên án chế độ thực dân Pháp, 40 năm từ giã đồng bào để lại bản di chúc cho đời, lãnh tụ Hồ Chí Minh anh linh, sáng suốt giờ ở đâu xin chứng kiến những ước mong của mình đã thành hiện thực.
Đất nước ta ngày nay đang có những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật. Chúng ta đã sản xuất gần như hoàn toàn được một cái xe đạp và đang nỗ lực 40% hàng Việt Nam sản xuất trong một chiếc xe máy hoàn chỉnh. Về điện cơ đã hoàn thành tự túc % làm được chiếc quạt điện.
Chúng ta có thêm nhiều trường học đồng thời cũng có thêm nhiều nhà tù. 90 năm trước ở Hà Nội chỉ có duy nhất một nhà tù Hỏa Lò chật hẹp, thiếu thốn thì đến nay chúng ta đã có trại giam Cầu Diễn rộng lớn, khang trang rộng gấp 10 lần trại giam của bọn thực dân Pháp, có thêm trại giam không khí trong lành ở ngoại ô và nhiều trại lẻ tẻ như Văn Hòa, Thịnh Liệt, Mễ Trì…ở Hà Nội. Đặc biệt như lời của chủ tịch đương nhiệm Nguyễn Minh Triết thì Việt Nam ta không có tù nhân chính trị, mà chỉ có những người vi phạm pháp luật hình sự. Năm vừa qua riêng đặc xá đã tha 5000 phạm nhân, đủ biết số phạm nhân còn lại là bao nhiêu.
Về tự do báo chí, tư tưởng ,chúng ta hiện nay có hơn 700 tờ báo, tạp chí các loại. Dưới sự quản lý của bộ TT-TT và những nghị định ban hành. 700 tờ báo và nhiều đài truyền hình này tha hồ tự do thoải mái ca ngợi công lao của Đảng và nhà nước trên mọi lĩnh vực. Ngoài một số báo phổ biến kiến thức khoa học còn rất nhiều báo có nhiều món ăn tinh thần bổ ích cho đời sống văn hóa như phim Trung Quốc, thi hoa hậu, các ngón ăn chơi, hưởng thụ xa hoa... hay những tin hấp dẫn như giết người, cướp của, hiếp dâm… tất cả những đề tài, nội dung như trên đều được khai thác tự do tối đa mà không bị sự kiểm soát nào .
Hiện nay rượu cồn không còn được dùng nữa vì đời sống nhân dân đã lên cao, rượu ngoại tràn ngập thị trường từ Mac ten, XO, Henessy, Camus… trong hàng nhà hàng, quán bar đầy ắp người uống. Bét nhất thì bia hơi Hà Nội phố nào cũng có dăm quán đông nghẹt người.
Thuốc phiện thì đã đi vào dĩ vãng vì cách dùng lôi thôi, phức tạp mất thời gian. Ngày nay người ta dùng dùng heroin, thuốc lắc. Chưa cần biết số lượng người dùng là bao nhiêu những nhìn vào con số mà công an bắt được hàng trăm bánh heroin mỗi năm, hàng chục kg thuốc lắc có thể dễ dàng hình dung sức tiêu thụ của thị trường để so sánh với thời thực dân Pháp.
Đất nước ta đã có quyền cho người dân tự do hội họp các loại hội như hội Dancing, hội yêu xe véc- pa, hội ‘’phượt’’ , hội hâm mộ Mai Cơn Giăc Sơn, Đan Trường, Lam Trường, Đàm Vĩnh Hưng, hội đồng hương, đồng môn, hội độc thân, hội các ông bố và bà mẹ đã ly dị..nói chung bất cứ hội nào mà không bàn đến chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước đều tự do thoải mái mà lập.
Về luật pháp thì tuyệt nhiên đã không còn sắc lệnh nữa. Giờ chỉ có nghị định, nghị quyết, văn bản hướng dẫn, chế tài, thông tư… giúp điều chỉnh kịp thời diễn biến của xã hội mà luật pháp chưa theo kịp để xử lý.
Trong đối ngoại chúng ta không phải ươn hèn dâng đất và quyền lợi đất nước nhân dân như cách đây 90 năm. Mà chúng ta đàng hoàng chủ trương đối thoại hòa bình, vận dụng ngoại giao khéo léo để đàm phán về chủ quyền và quyền lợi đất nước. Trên tinh thần hữu nghị hai bên tôn trọng nhau, chúng ta sẵn sàng bày tỏ thiện chí một cách công khai cho nước bạn thấy. Những vấn đề về biên giới, hải đảo hay khai thác tài nguyên, đấu thầu đều được minh bạch và được sự đồng thuận cao của một số người.
90 năm đã qua đi, lời lên án của chủ tịch Hồ Chí Minh về chế độ tàn bạo, thủ đoạn nham hiểm của bọn thực dân đã khiến người dân Việt Nam sục sôi, dẫn tới tinh thần cách mạng 2-9-1945 toàn dân đứng lên lật đổ bọn chính quyền độc tài, bán nước, hại dân, bọn tay sai của đế quốc. Để dành lại quyền độc lập cho đất nước, toàn vẹn lãnh thổ, quyền lợi cho dân tộc và những phát triển vượt bậc như ngày nay. Điều ấy hiển nhiên là sự thật không có kẻ nào, thế lực nào có thể xuyên tạc được những nhân tố rõ ràng và thành quả tất yếu ấy.
Những lời phát biểu, những tham luận của cố chủ tịch Hồ Chí Minh thật là những bài học quý báu, hữu ích. Càng đọc và càng liên hệ mới thấy sự anh minh , tầm nhận thức sâu rộng của cố chủ tịch vĩ đại. Qua đó mới thấy sự ưu việt của chế độ hiện nay, một nhà nước, một chế độ do dân, vì dân, vì đất nước. Nguồn: Người Buôn Gió's Blog
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:37:18 GMT 9
Chế độ gia đình trị của Cộng sản
-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Nguyễn Hưng Quốc, VOA
Nói đến chế độ gia đình trị ở Việt Nam, hầu như ai cũng nghĩ ngay đến chế độ Ngô Đình Diệm: Ngô Đình Diệm là Tổng thống, một người anh của ông là vị lãnh đạo tôn giáo (Giám mục Ngô Đình Thục), một người em là cố vấn chính trị (Ngô Đình Nhu), một người em khác tuy không có chức vụ gì cụ thể nhưng lại nắm quyền sinh sát gần như toàn bộ mấy tỉnh miền Trung (Ngô Đình Cẩn); và một người em dâu đầy quyền lực, được xem là lãnh tụ của nữ giới (Trần Lệ Xuân).
Tuy nhiên, theo tôi, bản chất của chế độ cộng sản là một chế độ gia đình trị. Tính chất gia đình trị ấy không nằm ở chỗ cha truyền con nối hay chia ghế chia quyền cho anh em, bà con ruột thịt. Hiện tượng ấy, dưới chế độ cộng sản, có; nhưng nó không quá nổi bật và cũng không quá lộ liễu.
Khi nói chế độ cộng sản là một chế độ gia đình trị, tôi nghĩ đến một khía cạnh khác, theo tôi, sâu hơn và thâm độc hơn, đó là: ngay lúc mới giành được chính quyền, cộng sản đã có âm mưu biến cả nước thành một gia đình để dễ cai trị.
Âm mưu gia đình hóa xã hội ấy có thể được nhìn thấy dễ dàng qua cách xưng hô.
Ai cũng biết, trong tiếng Việt, các đại từ nhân xưng mang tính chính trị rất rõ.
Với nhiều ngôn ngữ khác, bao gồm hầu hết các ngôn ngữ Tây phương, nói, trước hết, là xác định tư thế hành ngôn: người nói (ngôi thứ nhất), người nghe (ngôi thứ hai) và người được đề cập đến (ngôn thứ ba). Hết. Bất cứ ai nói, từ Tổng thống đến dân quèn, bất kể địa vị sang hèn hay tình cảm yêu ghét, đều xưng giống nhau (ví dụ trong tiếng Anh là “I”, tiếng Pháp là “Je”). Người nghe cũng thế: Ai cũng là “you” hay “tu” hoặc “vous”.
Tiếng Việt thì khác.
Xưng hô, với người Việt Nam, thật ra, là diễn xuất, ở đó, người ta đóng một vai nhất định trong màn kịch xã hội.
Có những vai được chỉ định, gắn liền với những quan hệ cố định (ví dụ: con cái nói chuyện với bố thì bao giờ cũng gọi là “bố”/ “cha”/ “ba”/ “tía”, v.v... và xưng “con”; nói chuyện với mẹ thì gọi là “mẹ” / “má”, v.v... và cũng xưng “con”. Sự thay đổi trong một số từ vựng ở đây là do phương ngữ, chứ không do sở thích).
Ngược lại cũng có những vai được lựa chọn, gắn liền với một ý đồ nào đó (Ví dụ khi muốn khẳng định quyền lực với ai thì xưng “tôi” oặc “ông” / “bà”; khi muốn nịnh bợ ai thì xưng “em” / “con” / “cháu”, v.v...).
Nếu loại vai chỉ định chỉ gắn liền với thân tộc, một yếu tố nền tảng trong xã hội và văn hoá Việt Nam thì loại vai được lựa chọn lại có tính chính trị rõ rệt. Nói, ở đây, không phải chỉ là thông tin suông mà còn là khẳng định một mối quan hệ; không phải chỉ là quan hệ cá nhân mà còn là quan hệ quyền lực gắn liền với vị thế xã hội mang tính đẳng cấp.
Ví dụ: Thử đọc một đoạn đối thoại trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan:
Vừa bước xuống xe, quan đã cau có hỏi lý trưởng:
- Thiếu bao nhiêu?
- Lạy quan lớn, chín mươi bảy đồng.
Quan gắt:
- Chúng mày trễ nãi công việc, liệu không ông cách cổ hết. Bảo tuần vào từng nhà bắt trâu bò giải ra đình cho tao.
Cả tụi hương lý, ai cũng có trâu, nên sợ hãi, đưa mắt cho lý trưởng. Lý trưởng xun xoe thưa:
- Bẩm trâu bây giờ không còn con nào ở nhà, làm ngoài đồng cả từ sáng.
Chánh hội tâng công:
- Lạy quan lớn, để con bảo khán thủ đánh mõ gọi về.
Quan thì xưng “ông” và gọi những người đối thoại là “mày” hoặc chỉ nói trống không; còn các hương lý thì cứ khúm núm “lạy quan lớn” và xưng “con”.
Nhưng dường như trong lịch sử Việt Nam, không ai sử dụng hệ thống đại từ nhân xưng như một hành vi chính trị một cách tự giác cho bằng đảng Cộng sản. Dưới chế độ của họ, mọi kẻ thù đều là “thằng” hay “con”, từ “thằng” Ngô Đình Diệm đến “con” Ngô Đình Nhu, từ “thằng” Trần Dần đến “con mụ” Thuỵ An. Với chữ “thằng” hay “con” ấy, người ta xếp đối thủ vào những thành phần hạ cấp và chưa trưởng thành trong xã hội; nói cách khác, họ kết án tử hình nhân cách và nhân vị của đối thủ.
Đó là với kẻ thù.
Với phe ta thì khác. Nếu với đối thủ, người ta loại trừ thì với người cùng phe, người ta nối kết lại. Có hai cách nối kết. Một, ở phạm vi lý tường, mọi người được xem là “đồng chí” của nhau. Hai, ở phạm vi tình cảm, cách tốt nhất là biến mọi người thành những thành viên trong gia đình.
Ở phạm vi thứ hai, ông Hồ Chí Minh đi tiên phong, đóng vai “Bác”.
Thật ra, hình như mất mấy năm sau 1945 ông Minh mới nhận ra cai vai trò mới này. Thoạt đầu, lúc mới lên nắm chính quyền, ông chỉ đóng vai “Cụ”.
Trong bài “Tâm tình về cụ Hồ” đăng trên tạp chí Xưa và Nay (6/2003), Trần Văn Giàu kể, vào cuối năm 1945, lúc ông được triệu tập ra Hà Nội:
“Nhớ đời, phút đầu tiên, gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (hôm đi Bắc bộ phủ), tôi được Cụ ‘chỉnh’» cho một trận. Chủ tịch bắt tay tôi. Tôi nhanh miệng nói ‘Chào anh, anh mạnh giỏi’ thì Chủ tịch vừa siết chặt tay tôi, vừa đưa một ngón tay lên môi, mỉm cười nói : ‘Nên nói chào Cụ nghe, đừng nói chào anh, có biết tại sao không?’ Tôi hiểu ngay; ở đây đông khách, xưng hô theo lối đồng chí trong nội bộ với nhau, là bất lịch sự.”
Sau khi trích dẫn đoạn văn trên của Trần Văn Giàu, Bùi Trọng Liễu nhận định thói quen gọi Hồ Chí Mính là “Bác” chỉ bắt đầu từ sau năm 1950.
“Hình như sau 1950, cách xưng hô bằng ‘Bác’ mới phổ biến. Cũng có thể là mấy năm kháng chiến gần gụi với những người cộng tác, cách xưng hô ‘gia đình’ dần dần cũng trở thành thói quen chăng (?). Rồi chữ ‘Bác’ trở thành ‘Bác’ viết hoa. Ông Cù Huy Cận trong bài trả lời phỏng vấn về cái vụ ‘ấn kiếm’ hồi vua Bảo Đại thoái vị 1945 (nay tôi không nhớ xuất xứ) cũng kể rằng bắt đầu 1950 mới gọi Cụ bằng Bác.”
Tôi không tin chuyện xưng “Bác” chỉ xuất phát từ thói quen “gần gụi” trong mấy năm kháng chiến. Tôi nghĩ đó là biểu hiện của một chiến lược mới trong việc xây dựng hình ảnh Hồ Chí Minh trong lòng quần chúng. Có lẽ một lúc nào đó Hồ Chí Minh nhận thấy chữ “Cụ” không đủ mạnh: Nó chỉ dựa chủ yếu trên tuổi tác, nhưng nó lại mắc khuyết điểm là gợi nhớ đến giới quan lại cách đó chỉ mới có mấy năm, với những “cụ Thượng” (thư), “cụ Tổng Đốc”, v.v... đầy dẫy.
Chắc chắn là Hồ Chí Minh không muốn đứng ngang hàng với các “Cụ” quan lại dưới triều nhà Nguyễn. Ông có tham vọng lớn hơn nhiều. Ông chỉ muốn làm Cha của cả nước. Trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch năm 1949, Hồ Chí Minh (dưới bút hiệu Trần Dân Tiên) tự nói về mình trong ngày tuyên bố Độc lập vào đầu tháng 9 năm 1945:
“Trong buổi lễ trang nghiêm này, người người chờ đợi một vị Chủ tịch, một lãnh tụ. Người ta nghĩ rằng: Người mà chúng ta chờ đợi nhất định không phải như một hoàng đế ngày xưa mặc áo hoàng bào, thắt đai khảm ngọc, nhưng nhất định là một vị lãnh tụ nước nhà ăn mặc chỉnh tề, một người đi đứng đường hoàng, ăn nói trang trọng, nói tóm lại là một nhân vật rất nhiều điều đặc biệt.
Với sự tưởng tượng như thế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân sớm biết mình là bị lầm. Trông thấy Chủ tịch đến, nhân dân nhận thấy Hồ Chủ tịch giản dị, thân mật như một người cha hiền về với đám con.”
Rồi ông kể tiếp:
“Khi Chủ tịch bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn độc lập giọng sang sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến tranh du kích. Đọc xong một đoạn và giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt, Chủ tịch nói:
"Tôi nói đồng bào nghe rõ không?".
Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những gì còn xa cách giữa Chủ tịch và nhân dân, và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng.
Với câu hỏi lạ lùng nay, không một ai ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ tiết, tất cả hình thức, Chủ tịch trở thành "Cha Hồ" của dân tộc Việt Nam.
"Tôi nói đồng bào nghe rõ không?", tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quần chúng, với nhân dân.
Rồi ông lại viết tiếp:
“Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam, thì rất dễ hiểu.”
Cuối cuốn sách, Hồ Chí Minh kết luận:
“Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.”
Rõ ràng, không phải một lần mà là rất nhiều lần, trong cuốn sách, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hình ảnh “Cha già”. Đó là một hình ảnh trung tâm, mang tính chiến lược mà ông muốn sử dụng để đi vào quần chúng và để còn lại trong lịch sử.
Muốn đóng vai “Cha già” của dân tộc, nhưng chữ “cha già” lại không thể dùng để xưng hô được. Hồ Chí Minh chọn chữ “Bác”. “Bác” lớn hơn “cha” nhưng lại gần gũi thân mật chứ không xa cách như là “Ông”.
Giải quyết chuyện mình xong, Hồ Chí Minh giải quyết cách xưng hô của đám đàn em: Tất cả đều là anh chị hết. Thoạt đầu, những cán bộ chung quanh Hồ Chí Minh đều được gọi bằng bí danh: anh Văn (Võ Nguyên Giáp), anh Tô (Phạm Văn Đồng), anh Thận (Trường Chinh), anh Lành (Tố Hữu); sau phần lớn theo số thứ tự trong gia đình như anh Ba (Lê Duẩn), anh Sáu (Lê Đức Thọ), anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt), anh Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), v.v... (Xin lưu ý: Cách gọi tên theo thứ tự trong gia đình này xuất hiện khá muộn và gắn liền với các cán bộ gốc miền Nam hoặc hoạt động lâu năm ở miền Nam. Có lẽ đó là do ảnh hưởng của Lê Duẩn?)
Với hệ thống xưng hô như vậy, giới lãnh đạo cộng sản xuất hiện trước quần chúng như những người trong nhà. Người này là “Bác”, người kia là “anh”, người nọ là “chị”, còn những người khác là “chú”, là “cô”, v.v...
Ngày xưa, các triều đình phong kiến sử dụng hệ thống xưng hô để giai cấp hoá xã hội: Vua chúa có kiểu xưng hô khác; quan lại có kiểu xưng hô khác; và dân chúng có kiểu xưng hô khác. Tuyệt đối không có sự nhập nhằng.
Cộng sản đi ngược lại khuynh hướng giai cấp hoá ấy. Họ gia đình hoá toàn bộ cơ chế chính trị của cả nước. Tất cả đường như là anh em một nhà (trừ kẻ thù, những kẻ bị xem là “thằng” / “con”, dĩ nhiên!).
Với chiến lược gia đình hoá chính trị ấy, Cộng sản tận dụng được hầu hết các truyền thống văn hoá của người Việt Nam: truyền thống coi trọng gia đình và huyết thống, truyền thống coi trọng người lớn tuổi trong dòng họ, truyền thống đề cao chữ hiếu, coi trọng sự hoà thuận. Họ cũng tận dụng được những ảnh hưởng của Nho giáo vốn lúc nào cũng đề cao lòng trung hiếu.
Chiến lược ấy không những giúp họ dễ dàng đi vào quần chúng mà còn giúp họ triệt tiêu được những mầm mống phản kháng và bất phục tùng từ dân chúng. Chống lại Hồ Chí Minh hay bất cứ một lãnh tụ nào khác, do đó, không phải là bất trung (chống lại lãnh tụ) mà còn bị xem là bất hiếu (chống lại Bác hay Cha) và bất nghĩa (chống lại người trong gia đình).
Chiến lược ấy giúp đảng Cộng sản nắm và duy trì quyền lực. Nhưng lại là một trở ngại lớn trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, đó là một đề tài khác. Từ từ sẽ bàn sau. Nguồn: VOA ******************************** Xương Môn tức sự Trương Kế
Canh phu triệu mộ trục lâu thuyền, Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền. Thí thướng Ngô Môn khuy quận quách, Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên ? --Bản dịch của Tương Như-- Nhà nông bị bắt xuống thuyền binh, Ruộng đất bao la cỏ mượt xanh. Lên gác Ngô Môn nhìn khắp quận, Lơ thơ khói mới tiết thanh minh. --Bản dịch của Phụng Hà-- Bài 1: Bắt lính nông dân, thuyền chở đầy, Đồng xuân bát ngát rậm cỏ lau. Lên cửa Ngô Môn trông thành ngoại, Khói mới thanh minh lác đác bay. Bài 2: Nông dân phải lính khắp làng, Ruộng xuân muôn khoảnh cỏ hoang mượt mà. Lên thành thử đứng trông ra, Tiết thanh minh, được mấy nhà khói bay? =============== Tân An lại Đổ phủ Khách hành Tân An đạo Huyện hô ao điểm binh Tá vấn Tân An lại Huyện tiểu cánh vô đinh Phủ thiếp tạc dạ há Thứ tuyển trung nam hành Trung nam tuyệt đoản tiểu Hà dĩ thủ vương thành ? Phì nam hữu mẫu tống Sấu nam độc linh bình Bạch thủy mộ đông lưu Thanh sơn do khốc thanh Mạc tự sử nhãn khô Thu nhữ lệ tung hoành Nhãn khô tức kiến cốt Thiên địa chung vô tình! Ngã quân thủ Tương Châu Nhật tịch vọng kỳ bình Khởi ý tặc nan liệu Qui quân tinh tản doanh Tựu lương cận cố lũy Luyện tốt y cựu kinh Quật hào bất đáo thủy Mục mã dịch diệc khinh Huống nãi vương sư thuận Phủ dưỡng thậm phân minh Tống hành vật khấp huyết, Bộc dịch như phụ huynh!
--Bản dịch của Nam Trân -- Khách qua đường Tân An Nhộn nhịp nghe điểm binh Hỏi thăm, thầy thông bảo: “Huyện nhỏ không còn đinh ! Hôm qua trát phủ xuống, “Sung số tuyển cho nhanh!” Số tuyển thấp bé quá, Giữ sao nổi đô thành ? Anh béo, mẹ đưa chân, Anh gầy nhìn loanh quanh. Nước bạc chiều chảy xuôi, Tiếng khóc vang non xanh ! Khóc chi cho hốc mắt ? Nín đi thôi các anh! Dẫu cho khóc rũ xương, Trời đất vẫn vô tình! Quân ta lấy Tương Châu, Hôm sớm mong thanh bình! Lính chạy, trại tan vỡ, Liệu giặc, ai người tinh! Vận lương tới trước trận, Rèn lính ngay miền Kinh, Đào hào chưa tới nước, Chăn ngựa việc cũng lành. Quân ta đương thắng thế, Nuôi nấng rất phân minh. Quan tướng như mẹ, cha, Khóc chi khi tiễn hành ? Ghi chú: (1) Một huyện thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. (2) Hạng thanh niên từ 18 đến 22 tuổi. (3) Tức Nghiệp Thành. (4) Trận địa cũ. (5) Chỉ thành Lạc Dương. (6) Chức quan ngang hang tể tướng, đây chỉ Quách Tử Nghi, khi ấy lui về đóng ở thành Lạc Dương, cầm cự với quân An Lộc Sơn. -- Bản dịch của NguyễnTâmHàn -- Khách đi đường lối Tân An Nghe đồn bắt lính khắp làng gần xa Hỏi han viên lại biết ra Huyện này trai hết hôm qua phủ đòi Tuổi trung nam phải đi thôi Làm sao đám trẻ nhỏ nhoi giữ thành Đứa giầu có mẹ dỗ dành Lũ nhỏ gầy guộc một mình lẻ loi Chiều về nước vẫn trôi xuôi Vọng từ chân núi tiếng người nỉ non Khóc khô mắt được gì hơn Thôi đừng để suối lệ buồn tuôn rơi Mắt khô nào khác xương người Khóc than ai kẻ được trời giúp đâu Khi vừa lấy lại Tương châu Nghĩ rằng bờ cõi sẽ mau yên bình Nào ngờ thế chuyển thình lình Quân ta thua lớn phải nhanh rút về Nơi lũy cũ cho tiện bề Vận lương, rèn lính lối kề kinh xưa Đào hào thì cũng sâu vừa Trông coi chiến mã xem ra nhẹ nhàng Lại là lính thuộc quân vương Thường công, chăm sóc tỏ tường lo chi Thôi… tiễn đưa khóc làm gì Bộc quan thương lính như bề cha anh
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 17:54:58 GMT 9
Trường Lam – Tản mạn về những người trong gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh 27/10/2009 | 1:00 chiều | Chưa có phản hồi.
Tác giả: Trường Lam
Chuyên mục: Lịch sử Thẻ: Gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh
talawas - Tác giả Trường Lam Hồ Sĩ Sênh từng công bố bài viết “Chuyện ở sân sau: Về ông nội và cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh” trên talawas ngày 23/8/2007 và bài “Về bài ký ‘Chuyện ở sân sau’” ngày 29/3/2008. Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu bài viết mới của ông về những người trong gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh.
____________
Cha ông ta có câu: “Con chim có tổ, con người có tông…” Nên chi, ngày tung cánh dọc ngang trên bầu trời cao rộng nhưng chập tối, con chim nào cũng tìm về tổ ấm. Người ta ở đời cũng vậy. Thời trẻ, nghĩa vụ đối với nước cũng như công cuộc mưu sinh đầy gian lao vất vả, phải bươn chải, phải vật lộn để kiếm sống, có mấy ai được xuôi chèo mát mái. Nên con người tạm chưa để ý đến gốc rễ của mình: Cái cây nhờ đâu mà xanh tốt? Bản thân từ đâu mà sinh ra? Phần lớn, khi đã trải hết quãng đời sóng gió người ta mới có dịp ngồi nhớ lại hoặc giả đôi người thành đạt có nghĩ về công đức tổ tiên. Vậy là phải tìm tông.
Cụ Phó bảng Sắc là một người trong số đó. Từ bài kí “Chuyện ở sân sau” tôi có kể rằng: Năm Tân Sửu (1901) cụ Phó bảng vinh qui. Làng Sen giành lấy vinh dự được đón rước. Thật ra, theo các cụ họ Hà, làng Sen và làng Trù suýt chém nhau vì chuyện này. Bọn chức sắc Lâm Thịnh đã xử cho làng Sen thắng cuộc và phải cấp đất, làm cho cụ một căn nhà nhỏ năm gian lợp lá mía… Song cụ Sắc ở đó rất ít, bởi nếu ở thì cái gì cũng không có. Trước hết là lấy tiền gạo đâu mà sống. Cảnh gà trống nuôi con, không có người nội trợ, cái gì cũng không có, cũng phải nhờ vào bà mẹ vợ! Lại còn trách nhiệm đối với mẹ vợ và cũng là mẹ nuôi. Cái nghĩa cương thường to lớn lắm!
Năm 1902 ba cha con cụ Phó bảng lên ở nhà thờ họ Lê. Cụ Phó bảng mở lớp dạy học và dạy cả hai con (Nhà thờ họ Lê nay vẫn nguyên vẹn bên tả ngạn sông Lam cạnh chân cầu Rộ). Năm 1903 ba cha con chuyển qua nhà Phó Bột bên hữu ngạn, ngay chợ Rộ, sau chuyển vào nhà cụ Hàn Kháng họ Phan và tìm tới cụ Hồ Sĩ Tạo (ở làng Lai Nhã, xã Thái Nhã cùng trong tổ Võ Liệt).
Tại sao cụ Phó bảng lại phải lên mãi Thanh Chương để dạy học? Thanh Chương cũng không ít thầy giỏi và Nam Đàn đâu có thiếu học trò?
Đó là cụ Phó bảng đi tìm cha.
Ngày bé, tôi là một đứa trẻ hiếu động, thường xa xẩn để được nghe ông bà, chú bác trò chuyện, đâu có lạ điều này. Sau Cải cách Ruộng đất, vì khiếp sợ, ông bác đã khuyên chúng tôi không nhắc lại nữa!
Mới đây, cụ Phan Tố Đức, cán bộ lão thành cách mạng, ngót trăm tuổi, vẫn minh mẫn khỏe mạnh ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương đã xác minh lại lí do này lần nữa (lời kể của cụ Phan Tố Đức trong năm 2008 được ông Hồ Xuân Nhu, nguyên giáo viên trung học phổ thông, ghi âm đầy đủ).
Vậy cụ Phó bảng có mang họ Hồ lần nào không?
Không thấy!
Chỉ thấy trong bức thư đề ngày 1/6/1994 của cụ Võ Thiện Giá gửi Bảo tàng Cao Lãnh. Trong thư cụ kể: Năm 1914, lúc đó cụ khoảng tám chín tuổi, cụ Phó bảng Sắc và con trai có tìm về ở tại nhà cụ thân sinh. Cụ Giá gọi cụ Phó bảng là Hồ Tiến Sắc, gọi ông cả Khiêm là Hồ Thiện Khiêm. (Cụ Võ Thiện Giá là cán bộ lão thành cách mạng, nguyên thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An từ năm 1935, là em ruột ông Võ Nguyên Hiến, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư xứ ủy Trung Kỳ. Cụ Giá mới qua đời cách đây chưa lâu, thọ 102 tuổi.) Không rõ có phải lần nào đó ở nhà cụ Võ, cụ Phó bảng đã nhận mình là họ Hồ chăng? Cụ Võ Thiện Giá đã nói chuyện này với Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong lần ba cha con ra thăm Hà Nội. Ảnh chụp chung ba cha con với Thủ tướng nay vẫn còn.
Có điểm sau cũng cần được lưu ý: Các sách báo hiện nay đều nói cụ Phó bảng rời quê hương từ năm 1905 và đi luôn không có lần nào về lại quê hương. Ở đây cụ Võ Thiện Giá lại nói: Cụ Sắc đã về tại nhà cụ Giá ở Diễn Châu vào năm 1914. Vậy bên nào mới chính xác? Có lẽ cụ Võ Thiện Giá đã nhớ nhầm chăng?
Căn nhà lợp lá ở làng Sen liệu tồn tại được bao lâu?
Ngót ba năm trời cụ Phó bảng lo dạy học nuôi thân và nuôi con ở mãi Thanh Chương, rỗi rãi còn đi chơi bạn bè khoa bảng. Có lần ra tới nhà thờ tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Căn nhà lá không người ở, mốc meo. Thực tế của cha ông ta: nhà lợp rạ hoặc lá mía chỉ ba đến năm năm là nát toang toàng. Ông thầy ngày đó kiếm ăn vừa đủ sống, chưa dám ăn no, mọi chi phí tùy lòng hảo tâm của các bậc phụ huynh, làm gì có lương và làm gì có khoản này, khoản nọ như bây giờ!
Năm 1904 bà Đồ An ốm nặng, ba cha con ông Phó bảng trở về chăm nuôi. Bà ngoại qua đời. Ông Phó bảng được triệu vào Kinh.
Căn nhà tranh ấy người ta đã bán lấy tiền. Sau này có những bài viết về cảnh sống gia đình ấm cúng trong ngôi nhà này. Đó chỉ là tưởng tượng mà có được. Tôi nhớ dạo đầu đánh Mỹ, khi qua đó còn thấy trong nhà bày khung cửi, vong lác. Tiếc thay bà Loan đã mất ở Huế đâu 1901, trước khi có ngôi nhà là lộc của chồng.
Mới đây (14/6/2008) trên Internet, bạn Tháp Bút đã cho rằng: Gọi là Phó bảng Sắc bởi Thanh Chương có Phó bảng Tài, như Kiểu Nhữ Công Chân Khách Khí nói: “Nhất môn hữu hoàng giáp” và được Hồ Sĩ Thích đối: “Toàn gia vô bạch đinh”. Đó là sự ganh đua lành mạnh. Nghe ra cũng có lí.
Chuyện này trước kia tôi có nghe chú Phạm Đức Dục (nguyên chủ nhiệm Khoa Sinh vật, Bí thư Đảng ủy Trường CĐSP Hà Nội) kể và sau đó là chú Phạm Đức Huân (bố bạn Tháp Bút), chú cháu chúng tôi tranh cãi chưa ngã ngũ thì 8/10/2004 chú mất. (Mùng 6/10 tôi xuống Vinh ra thăm, ngồi ăn cơm với nhau chú còn đưa tôi xem mấy trang cuối của “Truyện Kiều, hướng về nguyên tác”. Chú nói đại ý là như vậy. Tam sao thất bản, bản gốc đã không còn, chúng ta có làm gì cũng hướng về nguyên tác mà thôi! Tôi đọc mấy trang bản thảo chữ rất đẹp. Ngày 8/10 mợ điện cho biết chú đã qua đời. Sáng 9/10 tôi đón ở Nam Đàn để cùng đưa linh cữu về quê.) Vậy là điều tranh cãi vẫn còn bỏ dở. Thật ra, nếu có sự trùng hợp như vậy là điều lí thú.
Cuộc tình duyên giữa ông Nguyên Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy, bố danh nghĩa và mẹ đẻ của cụ Phó bảng thật ra là như thế nào? Những điều tôi viết ở trong “Chuyện ở sân sau” cũng chỉ là được nghe kể từ ngày bé, chuyện đã gần như huyền thoại và đang chìm dần vào quên lãng.
Cụ Hồ Sĩ Tạo dạy học trong nhà ông Hà Văn Cẩn. Tuổi cụ Tạo và bà Hy xấp xỉ nhau. Nếu đúng cụ Tạo sinh năm 1834 (như bà Từ con út cụ nói) thì đến năm bà Hi 30 tuổi (1863) được gán cho ông Nhậm, Lúc đó ông Tạo 29 tuổi ( tính cả tuổi mụ cũng là 30). Họ cùng trang lứa với nhau.
Còn ông Nguyễn Sinh Nhậm là bạn ông Hà Văn Cẩn. Có người nói ông Nhậm nhiều tuổi hơn cả ông Cẩn. Nhưng đã là bạn với nhau, ta coi họ ngay tuổi hoặc ông Nhậm ít hơn một vài tuổi cũng chẳng sao. Ông Nhậm chết sau ngày cưới bà Hy được 3 năm. Một năm sau bà Hy cũng ra đi. Bấy giờ ông Cẩn còn khỏe mạnh, đã mang cháu về nuôi khoảng 4 năm nữa. Cậu Sắc 8 tuổi, ông Cẩn mới giã biệt cõi đời.
Ông Cẩn gán con gái cho bạn, một là để tránh tai tiếng, nếu làng có hương ước không chừng ông còn bị phạt vạ nữa. Hai là để ông Nhậm, mồ côi vợ đã lâu, có người nâng giấc. Mối tình gượng gạo của một già một trẻ gàn như là bố con, ta vẽ thêm làm gì? Tán bậy ra lại càng không phải đạo.
Trong cuốn Kể chuyện về gia thế Chủ tịch Hồ Chí Minh (NXB Thuận Hóa) của nhà giáo Chu Trọng Huyến, nguyên giảng viên trường Đại học Vinh, tác giả đã khéo léo dựng lên một cái khung gồm những cứ liệu làm mốc. Giữa những khoảng trống của chiếc khung, tác giả gán thêm những bức tranh do mình tự vẽ. Ví như chuyện tình yêu lứa đôi của bà Hy và ông Nhậm. Nào là “Bà dồn tất cả tình thương cho chồng và con trai”. Nào là “Nhậm cũng đón được từ trái tim người vợ kế một tình yêu vô cùng tròn đầy và nồng thắm”. Chuyện nghe ra buồn cười và lạc lõng. Ai biết tròn méo ra sao, tô son trát phấn mà làm gì?
Trong sách đó tác giả Chu Trọng Huyến còn nói ông Nhậm chết sau bà Hy một năm. Vậy sao có chiếc lều ở rìa làng và xác bà Hy thì con trai làng Sài cùng ông Tạo phải sang chôn cất?
Mới đây, cụ Nguyễn Văn Do, phụ trách câu lạc bộ người cao tuổi thành phố Việt Trì có điện hỏi tôi về phần mộ bà Hà Thị Hy. Điều bất ngờ này khiến tôi giật mình: ba mươi mấy năm làm con rể làng Sen tôi chưa một lần tìm hiểu vấn đề này. Mộ bà Hy được con trai làng Sài mai táng ở đâu? Mất hay còn? Nấm mồ mới xây kia là thật hay là giả? (Tôi nói vậy bởi vì ngay mộ bà Hoàng Thị Loan có người còn mách với tôi: Mộ thật nằm trên ngôi mộ đã xây một quãng. Cụ cả Khiêm ngày ấy điểm 9 huyệt, vùi vào trong 9 quả trứng, mấy ngày sau 8 quả bị thối, còn một quả nguyên lành và cụ táng mộ mẹ vào huyệt ấy. Cả 9 huyệt đều được đắp thành nấm, chẳng ai rõ mộ thật là cái nào.)
Vậy là tôi phải lo sửa chữa thiếu sót. Sửa làm sao để nắm trọn toàn bộ sự thật. May mắn thay, mọi điều tôi được toại nguyện: Ông bà Hung Khầm, nguyên trung tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, bạn học của vợ tôi ngày ở trường phổ thông, cùng một số cụ hậu duệ họ Hà làng Sài cho tôi biết những điều cần tìm hiểu:
Mộ bà Hà Thị Hy không có trong khu mộ Nguyễn Sinh, bởi bà không được họ thừa nhận, mà nằm trong phần khu mộ của họ Hà. Hơn 130 năm qua, người họ Nguyễn Sinh không hay biết gì về phần mộ này. Khu bảo tàng Kim Liên hình thành và phát triển, người họ Hà đã vài ba lần liên hệ để thông báo những đều bị bỏ qua. Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, người của Sở Văn hóa cũng đôi lần về tìm hiểu, nhưng không mặn mà lắm nên con cháu họ Hà cũng không chỉ cụ thể.
Mãi năm 2002, do yêu cầu của đông đảo khách về thăm quan khu di tích, đòi được viếng mộ bà Hà Thị Hy, con cháu họ Hà quyết định cải táng mộ bà vào vị trí hiện nay, gần với mộ bà Hoàng Thị Loan. Mộ bốc xong, con cháu họ Nguyễn Sinh mới biết và họ đã bỏ tiền ra chung tay xây lại đàng hoàng (có người nói tiền xây mộ bà Hy là của ông Nguyễn Sinh Hùng). Trước đây, phía mộ bà Hy là lối xuống từ mộ bà Loan, nay đã được thay đổi ngược lại. Việc làm của con cháu họ Nguyễn Sinh tuy muộn song đã giúp sửa chữa chút ít thiếu sót của người xưa, đó là điều đáng quý.
Đầu Xuân Mậu Tí (2008) con cháu họ Hồ ở Vinh tổ chức giao lưu. Rằm tháng 1 âm lịch, họ Hà làm lễ khánh thành nhà thờ Tổ. Con cháu hai họ về dự đông vui và lại được nghe những bậc cao tuổi kể về mối tình giữa cậu giáo Hồ Sĩ Tạo với cô con gái rượu của ông Cẩn. Kết quả là bé Sắc chào đời. Cha ông họ từ xưa truyền miệng lại như vậy.
Nhà thờ họ Hà nhỏ cũ nát, Tổng Giám đốc Tập đoàn Mai Linh đã tài trợ tôn tạo và xây mới đàng hoàng để thờ phụng tiên linh, có người đã sinh ra bà mẹ bất tử Hà Thị Hy.
Còn việc ông Nguyễn Sinh Sắc thành thân với bà Hoàng Thị Loan tôi cũng được nghe kể hơi khác với tác giả Chu Trọng Huyến đã viết. Buổi đầu, khi ông Cẩn mất, bé Sắc phải về chăn trâu cho anh cả, cụ Hoàng Xuân Đường hiểu đây là con ai và đã nhận làm nghĩa tử. Hai con gái của cụ Đường coi Sắc là anh cả. Về sau, vợ cụ Đường không sinh thêm đứa con nào nữa. Nhà thiếu con trai. Quan niệm phong kiến xưa: Không con trai là đại bất hiếu. Vì vậy cụ Đường thay đổi ý định và tác thành đôi lứa cho hai con Sắc và Loan. Chẳng có thành viên nào khác xâm nhập được vào gia đình. Dầu sao, kẻ thờ phụng mình sau này mang 50% dòng máu họ Hoàng vẫn hơn. Bà Loan ngỡ ngàng và không đồng ý với cha. Cụ Hoàng Xuân Đường đã phải vận dụng đến tiếng nói của ông ngoại các con, là cụ Tú điệp Nguyễn Văn Giáp, người Kẻ Sía, bàn bạc khuyên giải, bà Loan mới xiêu lòng.
Trong “Chuyện ở sân sau” về việc tại sao Bác lấy họ Hồ làm họ của mình, tôi nói: Điều đó có lẽ chúng ta đã vĩnh viễn không còn được biết! Chẳng rõ có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng khi cha con còn sống bên nhau không? Chỉ biết theo tài liệu về cụ Phan Chu Trinh, kí tên Lưu Cao, M. Slotjom, 15/1 số 272: Mật báo của Edouard lên thượng cấp đề ngày 17/11/1919. Trong đó y viết: “tôi đã dặn Nguyễn Ái Quốc tối qua. Anh ta giả danh là Hồ Ba nhưng tôi nhận ra đúng là Nguyễn Ái Quốc. Sáng nay anh ta và tôi đã gặp nhau ở phòng đợi của Bộ. Anh ta nói đã gặp ông Pasquier… Anh ta nói rời Đông Dương năm 1914. Nói được tiếng Anh, tiếng Tàu tốt, biết ít tiếng Đức.” Edouard là một mật thám chuyên theo dõi những hoạt động của Bác ở Pháp vào những năm đầu thế kỉ 20. Pasquier là Bộ trưởng Thuộc địa. Như vậy là Bác đã mang họ Hồ từ trước tháng 11/1919. Lúc đó Bác biết bốn ngoại ngữ: Pháp, Anh, Hán, Đức.
Năm 1938–1940 Bác lấy họ là Hồ Quang. Ông Lăng Tuấn (Trung Quốc) đã viết: Hồ Quang là ai? Cuối năm 1938 tại “Phòng cứu nguy dân tộc” thuộc văn phòng đại diện Bát lộ Quân ở Quế Lâm, Trung Quốc, người ta thấy xuất hiện một nhân viên tên là Hồ Quang. Ban đầu, ngoài ông Lí Khắc Nông, chủ nhiệm văn phòng Bát lộ Quân ra, không ai biết lai lịch của người mới tới này. Về sau, dần dần người ta mới vỡ lẽ rằng Hồ Quang chính là Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Lúc bấy giờ Bác mang lon thiếu tá trong đạo quân thứ tám chống Nhật.
Tháng 2/1942 Bác lấy tên là Hồ Chí Minh. Trước tôi chỉ căn cứ vào bài “Kết luận” trong Ngục trung nhật kí rằng Bác đội ơn sâu của ông Hầu Chí Minh, để lấy tên mình là Chí Minh… Nhưng có lẽ tôi đã nhầm to! Mới đây, được đọc bài của Lăng Tuấn, đặc biệt là bài của Hoàng Tranh, Phó Giáo sư, Phó Viện trưởng Khoa học Xã hội Quảng Tây, Trung Quốc, các ông ấy đều kể: Tháng 12/1942 Bác vượt biên giới vào Tĩnh Tây, Trung Quốc, cùng ông Lê Quảng Ba, với tấm bưu thiếp đã chuẩn bị sẵn mang tên Hồ Chí Minh bằng chữ Hán. Vậy là tên Hồ Chí Minh đã có trước cả Ngục trung nhật kí. Thời gian này ông Lê Quảng Ba bị đau chân phải nằm lại Tĩnh Tây. Tháng 8/1942 Bác cùng Dương Đào, một đồng chí Trung Quốc rời Tĩnh Tây đi Điền Đông, đến Bản Túc Vinh thì bị bọn lính canh trụ sở thôn của Quốc dân Đảng bắt giữ. Bác bị giải đi qua nhiều nhà ngục ở Quảng Tây và bấy giờ Ngục trung nhật kí mới ra đời. Tháng 9/1943 Bác được thả ra và bắt liên lạc với các đồng chí đang hoạt động trong nước.
Chúng ta biết, suốt cuộc đời Bác Hồ có rất nhiều tên khác nhau, nhưng gắn với họ Hồ chỉ có vậy!
Việc Bác đội ơn sâu ông Hầu Chí Minh có lẽ là nhầm chăng? Việc Bác được thả ra có công sức của rất nhiều người. Tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh được tin Bác bị bắt liền can thiệp với bên Quốc dân Đảng. Đồng chí Chu Ân Lai tự tìm đến Phùng Ngọc Tường, một viên tướng Quốc dân Đảng yêu nước ở Trùng Khánh nhờ giúp đỡ. Tường nhận lời. Sau đó ông ta gặp cố vấn Liên Xô, xin chỉ vẽ. Xong Tường đến gặp Lí Tôn Nhân, rủ Nhân cùng đến gặp Tưởng Giới Thạch. Phùng chất vấn Tưởng mấy điểm sau:
1.Hồ Chí Minh có phải là Đảng viên Đảng Cộng sản hay không tạm chưa bàn, mà dù có thì đó phải là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cần thiết và có quyền bắt giam người của Đảng Cộng sản ngoại quốc hay không? Thành viên đoàn cố vấn Liên Xô chẳng phải là đảng viên cộng sản đây sao? Tại sao ta không bắt giữ họ? 2.Việt Nam ủng hộ cuộc kháng chiến của chúng ta, nên coi Hồ Chí Minh là bạn chứ sao lại coi là tội phạm? 3.Nếu coi bạn quốc tế tán thành cuộc kháng chiến của chúng ta là tội phạm, thế chẳng hóa ra cuộc kháng chiến của chúng ta là giả dối? Như thế sẽ mất hết sự đồng tình và ủng hộ trên quốc tế. 4.Rốt cục cuộc kháng chiến của chúng ta là thật hay là giả? Lí Tôn Nhân cũng nói luôn: “Về lí ông Phùng đã nói rồi. Tôi xin hỏi ngài, tại sao lại bắt Hồ Chí Minh ở Quảng Tây? Như thế chẳng phải đổ vạ cho Quảng Tây hay sao? Việc ấy do ý cấp dưới hay lệnh của ngài?” Tưởng Giới Thạch chẳng còn lí do gì để chối cãi.
Cơ quân Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương cũng triển khai kế hoạch cứu Bác, với danh nghĩa “Phân hội Việt Nam – Hiệp hội chống xâm lược quốc tế” cũng gửi điện tới Trùng Khánh cho Tôn Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Quốc dân Đảng, yêu cầu thả Hồ Chí Minh. Tôn Khoa liền đệ trình lên Ngô Thiết Thành, chánh thư kí Trung ương Quốc dân Đảng. Thành điện cho chính quyền Quảng Tây yêu cầu “điều tra rõ để thả”. Đồng thời Phân hội cũng gửi cho Thông tấn xã TASS đóng ở Trùng Khánh để đánh thức công luận.
Cuối cùng Tưởng Giới Thạch phải kí lệnh thả cụ Hồ Chí Minh. Hầu Chí Minh chỉ là người nhận lệnh, mang về thi hành mà thôi!
Người Nghệ nói chung thường hay chữ, hay nghĩa. Chơi chữ và nói lái là một thú vui tao nhã, có khi nói lái để che khuất những điều trần tục tầm thường. Ví dụ như trong thơ Hồ Xuân Hương, câu “Vì gió nên chi phải lộn lèo” hay “Tràng hạt vơi dần đếm lại đeo” là chơi chữ kiểu nói lái của dân địa phương.
Cụ Hồ Doãn Văn, nguyên chánh Sở Dây thép Phủ Quỳ nói, “Chí Minh” là “chính mi”, ý nói lái chính Bác là họ Hồ. Đây có lẽ chỉ là một cách suy diễn, nhưng biết đâu lại là chuyện có thật?
Xứ Nghệ nhiều vùng có tiếng địa phương rất riêng và số ít nay vẫn còn. Tiếng “công” người vùng Kim Liên gọi trại đi thành “côông”. Cũng như tiếng “ông” gọi là “ôông”, ra đồng gọi là “ra đôồng”… Vì vậy cái tên Công hay Côông cũng chỉ là một mà thôi, dù âm tiết có khác. Cái tên “Khơm Công” nói lái thành “Không Cơm” cũng có thể là “Khơm Côông” là “ Khôông Cơm”, ý nói nhà rất nghèo chẳng có gì!
Bạn Tháp Bút kể: Mới nhìn bức ký họa đơn sơ về Bác Hồ, Thị Lang Phạm Hoàn đã nhận ra đó là con ông Phó bảng Sắc. Kể cũng kì tài. Tôi cũng đã được nghe bố bạn Tháp Bút kể chuyện này. Có những người am hiểu môn hình tướng học, chỉ thoáng qua họ có thể nói người này giống ai hoặc con ai. Chả thế mà cha ông ta có câu: “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”. Huống nữa từ bé cụ Hoàn đã là học trò cụ Phó bảng cùng với cậu Khơm, cậu Công tại nhà thờ họ Lê. Và có lẽ nay nhìn bức ảnh Bác mới ra tù, đầu trọc, ta lại thấy khá giống Thượng tọa Thích Chân Quang.
Ngày nay, các sách đều nói Bác rời quê hương từ năm 1905, mãi đến tháng 6/1957 mới trở về thăm quê. Theo cụ Thái Kim Đỉnh, một nhà nghiên cứu uy tín của Nghệ Tĩnh: “Sau cuộc xin sưu năm 1908, Nguyễn Tất Thành có về Nghệ một thời gian, sau đó mới trở lại Huế”. Anh Trần Lê Hiến, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tĩnh kể lại chuyến đi của cha Trần Hữu Đoài với cậu Thành, con trai cụ Phó bảng Sắc từ Huế ra Nghệ Tĩnh để tránh bị bắt bớ vào năm 1908: “Đến Kì Anh, họ vào quán ăn cơm vừa hay tin quan Tây đang đi bắt người làm loạn trốn về. Cậu Đoài vội hướng dẫn cho cậu Thành tìm đường lặn qua thôn xóm, về quê.”
Lại có người nói năm 1929 Bác Hồ từ Thái Lan đã bí mật qua Lào về Nghệ An và từ Nghệ An Bác đã bắt liên lạc với tổ chức để đi ra nước ngoài.
Bà Thanh ở lại quê nhà, ruộng nương phát canh thu tô trang trải việc gia đình: giỗ chạp, sửa sang nhà cửa bên ngoại, đảm đang tháo vát có thừa. Khi ông Cử Vương Thúc Quý mất, ông Khiêm rời Huế, về chịu tang thầy và ở lại quê nhà. Hai chị em đều tham gia hội kín Việt Nam Quang phục của ông Phan Bội Châu nhằm đánh đổ Đại Pháp và lật đổ Nam Triều. Bà Thanh bị Pháp bắt và bị án tù khổ sai chín năm. Ra tù bà vẫn không được tự do mà chịu án quản thúc suốt đời. Dù ở Huế hay về Nghệ đều phải thường xuyên đến trình diện quan sở tại.
25
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 17:55:39 GMT 9
Thời gian quản thúc ở Huế, bà Thanh đã tranh thủ mang hài cốt mẹ là bà Hoàng Thị Loan về quê chôn cất trong mảnh vườn tại làng Sen, đó là vào năm 1926.
Trước Tổng Khởi nghĩa tháng Tám, bà Thanh bị quản thúc tại Nam Đàn và đã chứng kiến cảnh dân chúng quê nhà nổi dậy cướp chính quyền. Bà thực sự mừng vui khi chính quyền về tay Việt Minh, về tay nhân dân trên toàn đất nước Việt Nam. Bà xuống Vinh gặp bạn bè thời Duy Tân. Nhà ai cũng mở tiệc ăn mừng nước mình độc lập. Bà Hàn Bình (mẹ của Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Thị Minh Thái), bạn hoạt động của bà Thanh vừa mừng vừa băn khoăn: “Cụ Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, dân chúng đến đông như nước lũ để nghênh đón cụ Hồ và chính phủ mới do cụ Hồ đứng đầu. Anh Võ Nguyên Giáp của chúng tôi cũng tham gia chính phủ cụ Hồ, o Thanh ạ! (Chị Thái là vợ tướng Giáp, đã hi sinh ở trong tù). Rất tiếc không biết ông Nguyễn Ái Quốc bây giờ ở đâu?”
Bà Thanh không được nhà cách mạng nào cho biết tin tức của em trai mình! (Ngôi nhà bà Hàn Bình, mẹ của hai liệt sĩ Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Minh Thái, mẹ vợ của Lê Hồng Phong và Võ Nguyên Giáp, bạn hoạt động thời Duy Tân của bà Thanh, ông Khiêm, một địa chỉ xứng đáng có trong khu lưu niệm, nay vẫn chưa được xác định.)
Rồi một ngày, cậu Vương Thúc Oánh (con trai cụ Vương Thúc Quý, rể cụ Phan Bội Châu) mang ảnh cụ Hồ tới khoe với bà Thanh: “Ảnh cậu Thành! Cậu Thành của chúng ta là cụ Hồ chị ơi!”
Bà Thanh cầm tờ báo, run run cố nhìn thật kĩ: “Ồ! Cụ Hồ… Cậu Thành? Tất Thành ư?”
Nước mắt chảy tràn xuống gò má nhăn nheo khiến bà nhìn không rõ. Cậu Oánh khẳng định: “Em đã dự lớp huấn luyện do ông Nguyễn Ái Quốc phụ trách ở Quảng Châu. Bấy giờ là Lí Thụy, nhưng em vẫn nhận ra cậu Nguyễn Sinh Công… Cậu Tất Thành. Bây giờ em vẫn nhớ như in mà!”
Bà Thanh tần ngần trước tấm ảnh và chỉ thấy giống em trai bởi đôi mắt long lanh sáng và hai cái tai, còn khuôn mặt ở đây gầy gò, hốc hác với bộ râu lưa thưa nom lạ quá! Đúng là vẫn nửa tin nửa ngờ…
Để cho chắc chắn, năm 1946, là công dân của nước tự do, bà đã ra Hà Nội, gặp Cụ Hồ cho rõ đầu đuôi. Quà quê mang theo chỉ là mấy con vịt tự tay nuôi lấy, mấy cân nếp nhà cấy hái trên mảnh đất từng gieo vãi để nuôi Chủ tịch lớn lên. Chị em gặp nhau, bà kéo tai Bác xuống nhìn rồi nói: “Đúng rồi! Cái sẹo ở tai còn đây, lạc vào đâu được!” Đó là cái sẹo ngày bé câu cá với bạn Phương bị lưỡi câu móc vào. Lần về quê thứ nhất, bạn già gặp gỡ Bác còn vạch tai mình nói với ông Phương: “Cậu giật lưỡi câu móc vào tai mình. Cái sẹo còn đây!”
Bà Thanh ở vậy không lấy chồng. Ngày trẻ có anh Nho Bảy, con ông Cửu Ne, dưới Hưng Nguyên có ý định chọn bà Thanh làm vợ. Một lần anh lên chơi và bị mật thám bắt đem về giam ở Vinh. Ông Cửu Ne ở nhà lâm bệnh mà chết. Cô Thanh hay tin liền xuống gặp Tổng đốc Nghệ An, xin được ở tù thay. Quan Tổng đốc hỏi: “Bảy là chồng mày hay sao mà đòi ngồi tù thay nó?”
“Không! Người nhà quan bắt oan anh ta. Anh ấy chỉ lỡ độ đường ghé vào. Giờ các ông bắt khiến bố người ta ở nhà đổ bệnh mà chết. Tôi vô tình mang vạ. Anh ấy phải về chịu tang cha. Anh ấy và tôi đều vô tội. Các ông giam tôi hay anh Bảy thì có khác gì nhau?”
Nghe những lời nghĩa khí, Tổng đốc đuối lí, không lâu sau đành ra lệnh tha anh Bảy.
Bà Thanh là người ủng hộ tích cực đội Quyên, đội Phấn đánh Pháp. Khi làm chủ hiệu thuốc ở Vinh, bà tổ chức trộm súng giặc giúp nghĩa quân. Việc bại lộ, bọn mật thám ập đến khám xét thấy trong người bà còn giấu qui lát súng, chúng liền tống giam. Tổng đốc Tôn Thất Trạm giận dữ quát: “Đàn bà người ta chửa đẻ ra con, còn mày thì chửa đẻ ra súng”.
Phiên tòa ngày 4/6/1918 chúng xử bà 9 năm tù khổ sai và phạt đánh 100 roi. Thời gian ngồi tù bà chữa khỏi bệnh cho vợ Án sát Quảng Ngãi nên tù được nới lỏng, bà được lui tới nhà quan án. Thời gian này bà chữa bệnh cho nhiều người. Năm 1922 chúng đưa bà về an trí tại Huế. Năm 1944 lại chuyển về Nghệ An.
Theo một số cụ già thì tô, tức của bà Thanh là rất nghiêm ngặt. Người cày ruộng rẻ hay nợ nần cứ nhất nhất thỏa thuận trước với nhau mà nộp đủ. Việc được miễn giảm là rất ít. Bà Thanh sinh năm 1884, năm ấy Triều đình Huế bán đứt nước ta cho giặc. Tên hiệu của bà là Bạch Liên. Bà mất năm 1954, cuối năm 1954 đầu năm 1955 là cuộc Cải cách Ruộng đất với nhiều đau thương tang tóc, nếu bà còn sống chắc gì đã thoát khỏi đấu tố nhục hình…
Khí phách của bà Thanh còn lưu lại tại bản báo cáo đề ngày 8/3/1911 do Bộ Lại thảo trình về “Tri huyện Nguyễn Sinh Huy” đã viết: “Con gái ông ta đang ở Nghệ An, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn. Cô ta là bạn thân của bon cướp và thường cho chúng ở lại trong nhà. Bọn này đến đây nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động, nhất là các tên đội Quyên và Ấm Võ… Ấm Võ đã ca ngợi nó bằng một câu: Các quan lại ở Nghệ An đã biết rõ về cô gái này nhưng họ không dám bắt.”
Bố vợ tôi người làng Sen. Mẹ vợ họ Nguyễn Sinh. Nhà ông bà chỉ cách nhà cụ Phó bảng ở làng Sen chừng 300 mét. Lúc sinh thời cụ kể với tôi rằng: “Ông Khiêm tuy là con thứ hai nhưng vẫn được gọi là cậu cả, thuở bé thông minh, được người làng coi là “Không học cũng biết”.
Cậu Khiêm (hay Khơm) hiệu là Tất Đạt theo cha vào Huế cho đến khi ông Cử Vương mất, cậu về chịu tang thầy rồi ở lại quê nhà, cũng có thời gian ở Huế sinh sống tự lao động nuôi thân. Nhưng rồi vì tham gia phong trào chống thuế nên lại phải trở về quê để tránh khủng bố.
Cậu Khiêm cũng mang đầy đủ tính cách của một ông Đồ Nghệ. Nghĩa là cũng có tính gàn. Thời gian giúp sưu tầm văn hóa dân gian cho Ôgiê, chánh văn phòng tòa sứ Nghệ An, cậu chỉ cung cấp cho y những câu mình cho là có thể. Ôgiê, người đã tốt nghiệp Khoa Đông phương học tại trường thuộc địa Pari, quở trách cậu vẫn không nghe, ông ta co chân đá nhưng bị cậu nhanh nhẹn tóm lấy, giúi cho suýt ngã. Ôgiê làm lành nhưng cậu Khiêm nhất quyết bỏ về, không thèm lấy tiền công.
Cậu Khiêm bị bắt cùng chị gái khi giúp đỡ Đông Du, giúp Quang phục Hội, che chở cho những người thuộc phe Ám xã. Chúng phỉnh phờ, cho cậu một số tiền và được thả về, song ông lại gửi số tiền ấy cho ông đội Quyên để đánh Pháp. Bực tức vì bị mắc lừa ngày 1/4/1914 chúng ra lệnh bắt cậu Khiêm. Phiên tòa xét xử mở ngày 25/9 năm đó, kết tội cậu liên lạc với đội Quyên, đồng mưu với bọn phản bội và kết án 3 năm tù khổ sai, trong tù cậu Khiêm cùng giáo Chức, cũng người làng Sen, tổ chức vượt ngục. Việc bại lộ, ngày 6/1/1915 chúng xử tăng án lên thành 9 năm. Ngày 31/7/1920 chúng đổi án, đưa về quản thúc tại Huế. Bố vợ tôi kể rằng ở Huế cậu Khiêm có mở lớp dạy trẻ trong làng, cả chữ Nho, Quốc ngữ và tiếng Tây. Quãng 1929, khi ở làng Phù Lễ (Huế) cậu cũng đã xây dựng gia đình. Sau vài lần sinh nở không thành, gia đình tan vỡ theo. Từ đó cậu Khiêm mượn rượu giải buồn, không thiết tha mấy đến tiền đồ sự nghiệp. Ngoài ngũ tuần, mức độ nghiện rượu của cậu Khiêm khá nặng. Sonhi, chánh mật thám Trung kỳ trong bức điện số 289 đã trình lên cấp trên rằng: “Nguyễn Tất Đạt quê Kim Liên, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn (Nghệ An), anh ruột của Nguyễn Ái Quốc, là người nghiện rượu nặng, trí não suy nhược nên không nguy hiểm nữa.” Khâm sứ Trung kỳ muốn vô hiệu hóa hoàn toàn cậu Khiêm nên thỉnh thoảng lại sai người đến biếu rượu. Ngày 6/2/1940 cậu Khiêm được chúng thả cho trở về quê nhà.
Bố vợ tôi kể: “Thuở ấy làng quê còn nghèo khổ lắm. Làng Kim Liên còn được gọi là làng “đai khố” (không có khố, chỉ có cái đai). Cậu Khiêm trở về mở lớp dạy võ, dạy chữ Quốc ngữ cho thanh thiếu niên, tổ chức diễn tuồng nhằm tập hợp những người chung chí hướng. Tính cậu Khiêm hơi tàng tàng nhưng rất giản dị, đi đâu cũng mang bầu rượu đi theo, gặp bữa ai mời gì, bất kể khoai sắn hay rau cháo cậu đều vui vẻ ngồi rót rượu mời và ăn uống ngon lành, không phân biệt sang hèn giàu nghèo. Nghề chính của cậu bấy giờ là làm thầy địa lí, chuyên lấy hướng nhà cửa, kiến trúc, chọn hướng mồ mả, cổng ngõ… lấy chén rượu làm vui. Gặp đau ốm cậu có thể bắt mạch, kê đơn giúp đỡ mọi người. Tính tàng tàng của cậu, bố vợ tôi bảo rằng tại viên Khâm sứ sai biếu rượu đã cho thuốc độc vào để làm hại hệ thần kinh nhằm phục vụ cho mưu đồ của chúng.
Cũng thời gian này cậu còn bị mật thám b
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:02:23 GMT 9
Cũng thời gian này cậu còn bị mật thám bắt lần nữa. Ngày 20/8/1940 chúng phạt cậu hai tháng tù và 20 đồng bạc.
Nói tóm lại, tính tình của cậu Khiêm mang nét đặc trưng của một ông đồ Nghệ, hơi gàn nhưng rất tài hoa, thông thạo nho, lí, số, sống rộng rãi, bao dung, rất gần gũi với người dân bình thường.
Người quê tôi kể rằng: “Cậu Khiêm cùng với người giúp việc là ông Cú Đẹn đã lang thang tìm kiếm huyệt đất vừa ý để táng mộ mẹ, cuối cùng dừng lại ở Động Tranh, một thế đất đẹp trên dãy Đại Huệ. Và năm 1942 cậu đã lần nữa dời mộ mẹ trong vườn quê lên táng ở Động Tranh, vị trí được xây dựng đẹp của ngày nay. (Nên nhớ rằng mộ tổ của vua Quang Trung cũng táng cuối núi Đại Huệ. Theo một số cụ truyền lại: Phần mộ vua Quang Trung cũng có thể đã được bí mật mang về mai táng ở đây. Vua quan nhà Nguyễn đã tốn nhiều công sức đào bới nhưng không tìm thấy.)
Giống như bà Thanh, ông cả Khiêm cũng được hưởng trọn niềm vui của ngày nước nhà độc lập. Ngày ấy ông như trẻ lại hàng chục tuổi, đội ca lô, vác dáo dài theo đoàn người đi cướp chính quyền ở Nam Đàn, tưng bừng và phấn chấn.
Năm 1946 ông Khiêm cũng ra Hà Nội gặp em trai, mục đích của chuyến đi là trước là thăm em, vì đã quá lâu anh em không gặp nhau, sau là để nói với em về những gia đình trong hàng ngũ quan lại nhà mình từng chịu ơn sâu nặng. Hồi tưởng lại chuyện này, giáo sư Phan Ngọc viết: “Bác Nguyễn Sinh Khiêm, anh ruột Bác Hồ có đến nhà và bảo bố tôi: Tôi phải gặp anh thì có chết mới nhắm được mắt. Tình hình hiện nay không khỏi những xáo trộn. Tôi đã ra Hà Nội bảo chú Công: ông Phan Võ là ân nhân gia đình ta. Phải chú ý đừng để gia đình ông ta quá thiệt thòi…”. Ông Phan Võ đậu Giải nguyên năm 20 tuổi, đậu Phó bảng năm 21 tuổi, làm quan vói cụ Nguyễn Sinh Sắc. Số sách thuốc cụ Sắc hành nghề là của cụ Phan Võ trao cho.
Ông Nguyễn Sinh Khiêm tự Tất Đạt sinh năm 1888 mất năm 1950. Khi ông mất, Bác Hồ gửi điện về: “Nghe tin anh cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường xá xa cách mà lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Tôi xin chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hi sinh tình nhà và phải lo việc nước.” (Điện số 1229 ngày 9/11/1950).
Người có cuộc đời ngắn ngủi nhất trong gia đình Bác là bé Nguyễn Sinh Xin. Theo tài liệu của mật thám Pháp ghi lại lời bà Thanh có đoạn nói rõ: “Sau khi chấm thi cuối cùng (thi Hương ở Thanh Hóa) ông (Nguyễn Sinh Huy) lợi dụng chuyển qua ngang Vinh, về làng quê ở Kim Liên để lo cất bốc mộ họ. Trong khi ông ở đó ba tháng thì được tin vợ ông từ trần ở Huế ngày 19 tháng Chạp năm Thành Thái thứ 12” (7/2/1901). Cũng theo lời bà Thanh thì cậu Xin sinh khoảng cuối 1900, “chỉ sống một tháng rưỡi thôi”. Như vậy cậu Xin mất sau mẹ chả mấy ngày. Hai cái tang trút cả lên đầu cậu bé 11 tuổi Nguyễn Tất Thành. Chi tiết này đã được ông Nguyễn Đắc Xuân thẩm định qua việc tìm gặp cụ Lê Xuyến (cháu Lễ Bộ Thượng thư Lê Trinh) và con gái cụ Viễn Diệu, là những người chứng kiến sự việc xảy ra: Vợ một vị khoa bảng từ trần: “Không để lại cho con một bát gạo, một đồng tiền nào! Xóm giềng đang chuẩn bị cúng đưa ông táo, gặp vận bĩ của gia đình cậu Cung, họ cúng ít lại, để dành một phần quà bánh, thức ăn chuyển qua giúp cậu cúng lễ mẹ.” Gia cảnh như thế làm sao bé Xin sống nổi? Và nếu như bây giờ, người ta sẽ xét trách nhiệm cụ Phó bảng đối với gia đinh ở mức độ nào?
Tác giả Chu Trọng Huyến viết rằng: bé Xin được đưa về Nghệ rồi mới mất. Điều đó nghe thật hoang tưởng. Đường bộ từ Huế ra Nghệ mịt mù xa tít, làm sao bế được đứa bé tháng tuổi, mất mẹ, đi cho nổi?
Cuối cùng nhìn lại, chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhất vẫn là phụ nữ, đặc biệt là hai bà mẹ trong gia đình: Bà Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan. Họ đều mất ở tuổi 33, 34. Xin những người cầm bút hãy để sự thật được nguyên vẹn, chớ có tô hồng lên mà làm gì!
Cuối chạp năm Mậu Tí, Nam Nghĩa, Nam Đàn, Nghệ An
2009 Trường Lam Hồ Sĩ Sênh
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:05:19 GMT 9
Hồ Sĩ Sênh Về bài kí “Chuyện sân sau” Bài kí “Chuyện ở sân sau: Về người cha và ông nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của ông Trường Lam Hồ Sĩ Sênh được talawas chọn đăng, sau khi toà soạn được biết rõ bối cảnh của bài viết và tác giả. Chúng tôi đánh giá bài kí này là một nỗ lực nghiêm túc và chân thành nhằm tìm hiểu thêm về những chi tiết có thể còn chưa sáng tỏ trong tiểu sử của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam mà thân thế còn những mảng chưa được chính thức công khai trước công luận. Về một số phản hồi sau bài kí này, chúng tôi xin giới thiệu sau đây ý kiến của ông Trường Lam Hồ Sĩ Sênh. talawas Nam Đàn, 01/ 11/ 2007
Thân ái cùng độc giả talawas,
Bài kí “Chuyện ở sân sau: Về người cha và ông nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh” được giới thiệu trên talawas chưa lâu thì tôi đã nhận được nhiều cú điện thoại của bạn bè gần xa nhắn về. Qua điện thoại, tôi thấy có một số bạn đọc qua loa nên hiểu sai vấn đề.
Vì vậy tôi xin trình bày lại một số ý sau:
1.
Tôi là con cháu họ Hồ, từ bé đã được nghe kể khá nhiều chuyện của họ tộc và một số nhân vật liên quan, nhưng khi tất cả đang chìm vào dĩ vãng, không còn được ai nhắc đến thì thượng toạ Thích Chân Quang tìm về... Những gì tôi viết hoàn toàn nghiêm túc và đúng đắn.
2.
Có người hỏi căn cứ vào đâu mà nói ông Nguyễn Sinh Sắc là con ông Hồ Sĩ Tạo? Thưa, thượng toạ Thích Chân Quang đã ghi vào sổ vàng lưu niệm tại nhà thờ đại tộc Hồ ở Quỳnh Đôi: Ông là con cụ Hồ Chí Nghĩa, cháu nội cụ Nguyễn Sinh Sắc, chắt cụ Hồ Sĩ Tạo... Bút tích này đã có ở thị trường băng đĩa và nội san họ Hồ in ở Vinh đã chụp lại rõ ràng.
Đầu tháng Bảy Đinh Hợi này, thượng toạ lại ghi vào sổ vàng lưu niệm tại nhà thờ họ Hồ Thanh Khê, nhà thờ cụ Hồ Sĩ Tạo lần nữa... Trước tôi chỉ nghe kể nên không thể viết, nhà văn Sơn Tùng cũng dừng lại... không thể viết ra cụ thể.
Nay tôi ghi lại thì có gì là quan trọng?
3.
Tôi là con rể làng Sen, bà mẹ vợ người họ Nguyễn Sinh. Ông bà sinh sau thời điểm Bác rời Bến Nhà Rồng, chỉ cách nhà Bác 300m, và đã qua đời. Nhưng mấy chục năm qua không phải không được nghe kể đôi điều về gia đình Bác, huống nữa nhà văn Sơn Tùng đã viết nhiều trong Búp sen xanh.
4.
Có người nói tôi nói xấu Bác Hồ? Thưa rằng: Bác là vĩ nhân, là cha già dân tộc, người sáng lập Đảng, mặt trận, nhà nước, quân đội, là người cầm lái xuất sắc nhất con thuyền cách mạng Việt Nam. Kẻ thù trước đây cũng không nói xấu được, huống chi tôi? Trước Bác tôi đâu dám nhận quàng làm người họ tộc? Mà chỉ nêu hai điểm:
Về họ: Tôi nói điều này đã vĩnh viễn không còn được biết, chẳng có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng. Về tên: Tôi đoán mò rằng Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình ra khỏi nhà tù... để làm kỉ niệm và chỉ có vậy thôi! 5.
Về thượng toạ Thích Chân Quang: ông là nhà sư đức cao vọng trọng, là người truyền giảng đạo Phật trên nhiều vùng đất nước, luôn gắn đạo với đời và mong cuộc đời ngày một tốt hơn. Người như vậy làm sao có sự khuất tất? Thanh Khê chúng tôi là vùng nghèo, miền núi đi lại khó khăn vậy mà thượng toạ vẫn tìm về dâng hương ở nhà thờ họ và nhà thờ cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo. Con cháu trong họ rất trân trọng và quý mến cái tâm của thượng toạ.
6.
Kí của tôi là dã sử, nó có chỗ khác với chính sử. Dã sử chỉ để tham khảo mà thôi!
7.
Những bạn đọc góp ý, khen ngợi, bổ sung... tôi xin trân trọng ghi nhận. Tôi là một “phó thường dân”, ai gọi tôi bằng gì cũng được, tôi không hề nhận một xu nào của ai... Nhưng những kẻ gọi vị giáo sư sử học tên tuổi, đáng kính là “thằng này, thằng nọ, đồ này đồ nọ”... “nhận đôla rồi bịa đặt...” thì tôi coi là thiếu giáo dục, là vô học và xin được miễn tranh cãi và trả lời.
8.
Bài kí của tôi chỉ giới thiệu duy nhất trên talawas. Những báo và những ai không có sự đồng ý của tôi đã trích đăng, nhào nặn, bóp méo, thêm thắt... kí tên tôi để phục vụ cho những mưu đồ đen tối và mục đích chính trị bẩn thỉu, tôi cực lực phản đối.
Tôi viết sự thật không chứa đựng một ý đồ nào. Vì uy tín của tờ báo, tôi kính đề nghị talawas phát biểu chính kiến của mình.
Lần nữa xin chân thành. Cảm ơn bạn đọc
Trường Lam Hồ Sĩ Sênh
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:06:37 GMT 9
Trường Lam Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh Năm 1993, trong tập Trong cõi [1] xuất bản tại Hoa Kì, Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934-2005), một trong những sử gia nổi tiếng nhất tại Việt Nam, đã công bố ghi chép của mình từ "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia!", trong đó phần liên quan đến dòng dõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây nhiều dư luận. Theo đó, tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thêm một phần không được nhắc đến trong sử sách chính thống: Thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là con đẻ nhưng không được thừa nhận của ông cử Hồ Sĩ Tạo, thuộc dòng họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Nghệ An. Hồ Chủ tịch, nổi tiếng với tên gọi Nguyễn Ái Quốc trong thời kì hoạt động tại nước ngoài, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung [2] , tự là Nguyễn Tất Thành, song từ năm 1945 cho đến khi qua đời năm 1969 lại được người Việt Nam và toàn thế giới biết đến với tên là Hồ Chí Minh.
Mới đây, một nhà thơ xứ Nghệ đã nhiệt tình dẫn một cộng tác viên talawas từ Vinh về vùng sơn cước, đến xóm Nghĩa Thái, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn để tìm gặp ông Hồ Sĩ Sênh (bút hiệu Trường Lam, hội viên Hội Văn nghệ Nghệ An), một người cháu mà theo gia phả họ Hồ, gọi cụ Hồ bằng bác. Khi nghe khách bày tỏ nguyện vọng, ông đến tủ sách, lục đưa cho khách xem bản phô-tô bài bút ký viết tay của ông, nhan đề “Chuyện ở sân sau”, kể về sự thật cuộc đời của ông Hồ Sĩ Tạo, ông Nguyễn Sinh Sắc và hậu duệ. Bài ký này được viết ở Trại viết văn của Hội Văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Ông Trường Lam cho biết, trong buổi tổng kết trại viết, người ta đã đánh giá rất tốt bài ký này, đã đọc bài ký cho các trại viên nghe. Nhưng là chuyện “huý kỵ”, nên không có báo nào trong nước dám in. Ông Trường Lam đã đồng ý cho chúng tôi công bố nguyên văn bài ký trên talawas. Chúng tôi chân thành cảm ơn ông Trường Lam và hân hạnh giới thiệu cùng độc giả.
talawas Mọi điều tưởng như đã vĩnh viễn chìm vào bóng đêm của quá khứ mông lung, huyền ảo, có hồn ma bóng quỷ, có những hình nhân vật vờ, thấp thoáng, bỗng rơi vào quên lãng, lặng im…
Người ta thở dài, tiếc những sự thật, hoặc giả là những lời đồn đại không thể xác minh, sẽ mãi mãi chôn vùi… Đột nhiên, một ngọn đèn le lói thắp lên, xua đi bao điều huyễn hoặc, mơ hồ.
Đầu tháng Bảy nhuận (Bính Tuất), quê tôi trời bỗng ào ạt tuôn mưa. Những tưởng mùa thu này rồi vẫn vời vợi cao xanh, nắng đẹp cứ dịu dàng trôi, ai ngờ lại có tuần mưa gió sụt sùi! Giữa ngày mưa như vậy, tôi nhận được tin: Có một vị sư đạo cao đức trọng từ miền Nam ra, đã tìm đến và thắp hương viếng mộ cụ Cố chúng tôi, một Giải nguyên xứ Nghệ. Cụ là người đầu tiên giành được thứ hạng này ở tổng Võ Liệt (Thanh Chương). Thật là may, ngôi mộ mới được xây lại cách đây chưa lâu. Ông bác của chúng tôi, nguyên Giám đốc Học viện An ninh Khu vực II, sau khi nghỉ hưu đã tìm về lo lắng, sửa sang. (Bác là Hồ Nhã Chương, khi làng quê không tồn tại [3] đã đổi tên là Hồ Thanh Chương, cháu nội cụ Hồ Sĩ Tạo, bắt đầu từ bà thứ tư ở Quảng Trạch, Quảng Bình, hiện trú tại 257A, đường Nguyễn Trãi, phường Cư Trinh, TP Hồ Chí Minh).
Vị sư đó là Thượng toạ Thích Chân Quang, sư trụ trì chùa Phật Quang, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông xưng danh là Hồ Chí Việt, chắt nội của cụ Giải nguyên, một đứa con lạc loài, nay tìm về với tổ tông. Đội mưa gió, theo sau xe Thượng toạ là bảy xe chở Phật tử, trong đó có hai xe ca… Chuyện đó thật không ngờ!
Mãi sau ít lâu tôi mới được biết Thượng toạ cũng đã về thăm nhà bia tưởng niệm Đức nguyên tổ Hồ Hưng Dật tại Quỳnh Lâm, thăm nhà thơ họ Hồ tại Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Ghi vào sổ vàng lưu niệm của dòng họ, Thượng toạ đã nói rõ mình là: “đứa con lạc loài” nay mới tìm về với gia tộc… Ngoài ra Thượng toạ còn thắp hương viếng mộ cụ Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan…
Những điều đột ngột diễn ra khiến tôi không khỏi suy nghĩ về những mối quan hệ huyết thống, dòng tộc đang bền bỉ, âm thầm bén rễ sâu trong tiềm thức con người. Và những kỷ niêm tuổi ấu thơ đã xa lắc xa lơ, đang chìm dần vào bóng tối bỗng nhiên chậm chạp hiện về, hệt như những cuốn phim quay chậm, có quãng mơ hồ, quãng lại hiện rõ như in.
*
Làng Lai Nhã quê tôi nay đã không còn tên trên bản đồ hành chính. Nó bị xoá sổ từ năm 1978 khi người ta tiến hành cuộc cách mệnh “thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn”. Ngót ba mươi năm trôi qua bóng dáng làng xưa đâu có dấu ấn gì với thế hệ con cháu bây giờ! Nhưng đối với chúng tôi, những ông già cổ hủ, đêm nó vẫn hiện về trong mơ. Và riêng tôi: một làng Lai Nhã cổ truyền tươi xanh, vẫn nguyên lành bóng dáng êm đềm, hiện hữu đời đời…
Từ nửa cuối Hậu Lê, một nhánh họ Hồ Quỳnh Lưu lập làng ở vùng Cương Gián (Nghi Xuân) cảm thấy thiên nhiên quá khốc liệt, đe doạ cuộc sống, phải bỏ đất tìm nơi khác định cư. Một gia đình họ Hồ như vậy theo ông Đậu Quận Công đến vùng Lòi Nhã, xã Thất Thôn dựng nhà sửa cửa, khai phá đất đai, lập thành một trong bảy thôn của Đậu Quận Công (vùng đất ngày trước đã có người thiểu số sinh sống. Bà nội tôi gọi họ là người Mường. Những địa danh còn lại như Bến Mường, Động Mường… nói lên điều đó. Khi người Kinh tiến vào, họ lập tức rút lui đi.)
Thế hệ sau, họ có con cháu là cụ Hồ Yên Định, làm quan đến hàm tứ phẩm (không qua thi cử) mới đổi thôn thành Lai Nhã, xã Thất Thôn thành Thái Nhã. Con cháu li tổ phải lấy chữ Nhã đệm vào để luôn nhắc nhớ tới quê hương. Khi vua Quang Trung ra Bắc diệt quân Thanh, họ có cụ Hồ Hữu Tiềm đầu quân giết giặc và hi sinh tại Thăng Long (mùng 5 tháng Giêng âm lịch là ngày giỗ). Nhà thờ họ Hồ được cất lên thời đó. Khi giác móng và lấy hướng, ông thầy địa lý người Tàu phán rằng: “Thuỷ đáo từ đường. Hồ gia vi vương”. Ông ta bảo đây là thế đất “Phượng Hoàng ẩm thuỷ”. Thời bấy giờ sông Rộ còn ngoằn nghèo chảy bên phía núi xa, cách nhà thờ chừng non cây số. Biết khi nào nước sông chảy đến cho chim Phượng Hoàng uống?
Trước Cách mạng tháng Tám, họ Hồ Lai Nhã cũng mới chỉ vài chục gia đình nhưng đã có bốn cử nhân và khá nhiều tú tài. Có người khá nổi tiếng như cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo.
Làng Lai Nhã với con sông Rộ chảy vòng ôm lấy những vườn cây quả mướt xanh như một nét chấm phá thật thơ mộng và dịu dàng. Tôi có ông chú, con cô của bố tôi, làm chủ nhiệm Khoa Sinh vật, kiêm Bí thư Đảng uỷ Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (chú là Phạm Đức Dục, quê xã Thanh Long, Thanh Chương, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Hạp, gọi Thị lang Phạm Hoàn là bác). Chú bị bệnh tâm thần phân liệt, vợ con nhốt vào một xó… Vậy mà khi tôi tới thăm, ông vẫn còn ước ao được về làng Lai Nhã để đi câu cá. Ông kể chuyện cụ Phủ Tạo và ông ngoại là cử nhân Hồ Sĩ Hạp, nhưng lẫn lộn lung tung… (Về làng Lai Nhã, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Hữu Dụng, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Huấn cũng có ấn tượng rất đẹp.)
Làng tôi có những khu vườn um tùm, rập rạp với vòng ngoài chen đặc song mây, tre nứa và cây cọ cùng những cái tên đặc trưng như: Vườn Cụ Phủ, Cụ Huyện, Cụ Cử, ông Tú, ông đồ… đầy cây ăn quả và bốn mừa líu ríu tiếng chim. Cụ Tạo về hưu đã trồng bốn cây đa ngoài cổng đoài của làng. Có hai cây sau này thành tam quan nhờ một rễ phụ căng ngang, nom rất kỳ thú. Đây là nơi ông Tạo mắc võng nằm vào những trưa hè.
Sau này tôi mới biết, nhờ những khu vườn này mà các bậc cha chú có tiền trọ học thành tài, bởi ruộng đất ở đây rất xấu, chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lụt, có thu hoạch được là bao!
Ôi, những khu vườn trong mơ và làng xưa cũng chỉ còn lại trong mơ, nơi đã bay bỗng tuổi thơ tôi, nơi chúng tôi tha hồ quậy phá: trèo bắt tổ chim, tìm hái những chùm quả chín và cắp sách tới trường…
Khoảng mấy năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nước sông Rộ vòng về, xói lở một góc vườn nhà thờ và nhà thờ họ Hồ Lai Nhã thấp thoáng soi bóng xuống mặt nước sông trong. Chim Phượng Hoàng ơi! Hãy uống nước đi…
*
Cụ Hồ Sĩ Tạo tự Tiểu Khê, sinh năm 1834 (Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19 nói cụ Tạo sinh năm 1831. Cụ Cao Xuân Dục, học trò ông Tạo, trong sách Nghệ An khoa bảng nói ông Tạo sinh năm 1841. Chúng tôi theo người già trong họ nói ông Tạo thọ 73 tuổi và bà Hồ Thị Từ, con út ông Tạo nói bà ra đời lúc cha đã 70 tuổi, lên 3 thì cha mất…, mà suy ra), mất năm 1907, là người tài hoa nổi tiếng cả vùng. Theo gia phả nói thì cụ thuộc phe chủ chiến, chủ trương đánh Pháp tới cùng, nên bị vua Tự Đức đánh hỏng (?).
Trong cuộc đời làm quan, dạy học, giao du với bạn bè khắp vùng, ông Tạo đã có quan hệ gắn bó với năm người phụ nữ. Theo các cụ trong họ (trong đó có cụ Hồ Sĩ Huề) từng kể với cháu con thì:
Người phụ nữ thứ nhất chính là người vợ cả của cụ được gia đình cưới cho ngày còn trẻ. Bà người họ Phan ở xã Xuân Trường (Thanh Chương) và đã cho ông Tạo hai người con trai trưởng thành.
Người phụ nữ thứ hai là bà Hà Thị Hy, còn gọi là cô Đèn, quê ở làng Sài, Nam Đàn. Ông Tạo nổi tiếng khẩu khí, đam mê hát phường vải, ứng đối nhanh và giỏi. Bà Hy là người hát hay, giọng tốt và rất đỗi xinh đẹp. Tài tử gặp giai nhân cũng ví như cá gặp nước, rồng gặp mây. Khi họ quen biết nhau, tuy ông Tạo ít tuổi hơn nhưng đã có vợ và đang dạy học trong nhà họ Hà. Vì quá tài hoa nên mãi năm cô Đèn ba mươi vẫn chưa có đám nào lọt vào mắt xanh… Trai làng không với tới nên họ phong toả, hình thành thế bao vây, không cho con trai nơi khác đến. (Theo bác Hồ Thanh Chương, ông Tạo yêu cô Đèn trước khi có vợ. Bà Hy có thai, ông Tạo về xin cha mẹ được cưới, nhưng gia đình không đồng ý vì đã dạm hỏi đám khác. Cụ Hà Văn Cẩn đành ngậm ngùi gả bà Hy cho ông Nhậm, một ông già lụ khụ.)
Vậy là cái gì phải tới đã tới. Cô Đèn mang thai và ông Nguyễn Sinh Nhậm mồ côi vợ, cheo cô về làm mọn. Năm 1863, bà Hy sinh con trai. Cậu con ông Hồ Sĩ Tạo mang họ Nguyễn Sinh được ông Nhậm đặt tên là Sắc. Nguyễn Sinh Sắc lên 3 tuổi thì ông Nhậm chết. Bà Hy vốn bị người nhà họ Nguyễn Sinh coi là dân “xướng ca vô loài”, nên họ buộc hai mẹ con phải ra sống trong một căn lều ngoài đồng khoai, cạnh làng. Chỉ hơn một năm sau, bà Hy cũng bỏ cậu Sắc mà ra đi. Bà chết trong khổ cực âm thầm và trong sự hắt hủi của gia đình nhà chồng! Con trai làng Sài hối hận, thương người con gái mệnh bạc, đã kéo sang làng Sen làm lễ chôn cất. Chính ông Tạo là người đọc điếu văn.
Cậu Sắc đành phải về dựa vào anh cả để khỏi chết đói. Và dần dà, lên thêm một tí cũng được anh cả cho một buổi chăn trâu, một cuổi cắp sách tới trường. Việc cậu Sắc được đi học cũng nhờ phần lớn ở thầy Tú Vương. Thầy xin anh Thuyết cho Sắc đến lớp mà không phải chịu khoản phí nào. Thầy Vương đã xem tướng tay, xem chữ viết và tấm tắc khen là con nhà nòi: “Nòi xướng ca và nòi nhả ngọc phun châu cô Đèn thầy Tạo… Con hãy cố lên, tài hoa lắm, thầy sẽ giúp…”
Rồi một hôm ông họ Hoàng bên làng Chùa sang làng Sen thăm thầy Tú Vương. Học trò được ra chơi. Đôi bạn trò chuyện với nhau rất lâu. Ngoài chuyện thơ phú, văn chương, thi cử… còn có chuyện cậu bé Sắc. Họ bàn với nhau những gì không rõ. Chỉ biết rằng ít lâu sau, ông Tú Hoàng Đường đến nhà Nguyễn Sinh Thuyết xin được nhận chăm nuôi cậu bé Sắc. Vợ chồng Thuyết mừng rơn. Thuyết còn chút tình người, song vợ Thyết từ lâu hậm hực, căm ghét, sợ phải chia gia tài, phải nuôi tốn kém… nên đã đồng ý liền, coi như trút được hết gánh nặng tội nợ… Ông Hoàng Đường vội mang cậu bé Sắc về ngay.
Ngày xưa, người hiểu biết cũng thường quan tâm tới nòi giống. Ngày nay lại nói tới nguồn gien và tin theo thuyết di truyền. Nguồn gien quý thường được nuôi dưỡng, giữ gìn. Thấy lúa tốt phải hỏi giống gì, thấy con tốt phải xem cha mẹ chúng…
Từ ngày ông Tú Hoàng Đường mang Sắc về, ông trở thành cha nuôi và là thầy giáo của cậu bé. Năm Sắc mười tám tuổi, cậu được ông Đường gả con gái đầu lòng của mình là bà Hoàng Thị Loan, mươì ba tuổi, cho. Ba năm sau bà Loan sinh cô Thanh, bốn năm tiếp sinh cậu Khơm (Khiêm) và vài năm sau nữa lại sinh cậu Côông (Công)…
Người phụ nữ thứ ba (của ông Hồ Sĩ Tạo) là bà vợ kế ở quê nhà. Khi bà cả qua đời, gia đình không người chăm lo, ông Tạo đã cưới người vợ thứ. Bà sinh hạ cho ông một con trai rất thông minh, học giỏi, nhưng chỉ đi thi hộ người khác lấy tiền cờ bạc rượu chè, không màng tới tiến thân.
Người phụ nữ thứ tư là cô gái quê ở Quảng Trạch, Quảng Bình. Ông nói dối là ông không còn vợ để được cưới bà. Bà con nhà gia thế, nên về sau, khi chuyện vở lỡ, gia đình đã kiện quan về chuyện này. Bà sinh hạ được hai người con trai. Thời gian sau đó, ông Tạo cáo quan về nhà dạy học.
Người phụ nữ thứ năm là một cô gái nghèo ở thôn Nam Lĩnh, cùng xã, nơi ông Tạo dạy học những ngày cuối đời. Hàng ngày cô vẫn thường đi bán chổi đong gạo. Khi có một con gái với ông Tạo, người ta gọi là cô Chổi. Lúc này ông Tạo đã bảy mươi tuổi. Ba năm sau, ông Tạo qua đời. Nhà cũng chẳng có gì, con trai cờ bạc, rượu chè phá phách hết, ông chỉ để lại cho con gái một chiếc áo bông cũ, đắp lấy hơi cha!
Người con gái út này của ông Tạo là bà Hồ Thị Từ (tên khai sanh là Thuyến). Hoà bình lần thứ nhất, bà vẫn sống khoẻ mạnh. Bà lấy chồng họ Tôn. Ông là bác ruột của giáo sư Tôn Tích Thạch. Và vì không có con trai nên đã coi Thạch là con, cho tới 1955, Thạch qua Lien Xô du học. Hơn 7 năm sau trở về thì ông bà đã qua đời. Ông Tôn Quang Phiệt cũng họ này.
Tôi còn nhớ như in mỗi lần bà về quê là đi khắp bà con xóm làng, ăn trầu luôn miệng và nói cười ha hả, rất vui. Bà kể biết bao nhiêu là chuyện, trong đó có chuyện cái huyệt mộ ông Tạo được cải táng. Ông Tạo bị cảm bệnh tại thôn Nam Lĩnh trong xã, con cháu đưa về nhà thì ông qua đời. Ông chết trong lặng lẽ, giữa ngày thời tiết không thuận nên chỉ có xóm giềng biết với nhau. Chỉ khi cải táng (1911) học trò mới làm lễ lớn. Cái huyệt mộ cải táng là do ông Tạo chọn cho mình ngày còn dạy học ở quê vợ, xã Xuân Trường.
Theo bà Từ: Mộ được táng dưới một khối đá ngầm, phải đào hố sâu bên cạnh, khoét ngang rồi đun tiểu sành đựng hài cốt vào, nén đất lại, trên dựng một mộ chí đơn sơ. Bà bảo đó là cái hàm dưới của Miệng Rồng (Chuyện này, khi xây dựng đường điện siêu cao thứ nhất, bác Hồ Nhã Đỉnh, ở Viện Năng lượng, về vùng Nam Đàn giám sát, bác cháu gặp nhau, trò chuyện, bác còn nhắc lại cho nghe lần nữa). Nay bia mộ ông Tạo chỉ là một mảnh đá nhỏ. Phía trên bị đập vỡ chỉ còn lại một chữ thiếu nét và một chữ “Nhã”. Đọc bên phải: “Mậu Thìn Giải nguyên” (ông Hồ Sĩ Tạo đậu Giải nguyên triều Nguyễn, Huế, khoa Mậu Thìn (1868), cùng khoa thi này Hoàng Cao Khải đậu cuối bảng. Theo cụ Hồ Sĩ Huề kể: Có lần ông Tạo ra Hà Nội. Hoàng Cao Khải đã tự tay bưng nước đến để ông Tạo rửa mặt mũi, tay chân. Có lẽ ngoài việc trong vọng, đây còn nhằm mực đích mua chuộc sĩ phu…). Dọc bên trái bia mộ: “Tri phủ Quảng Trạch”. Chính giữa phía dưới: “Hồ Tiểu Khê chi mộ”. Việc cải táng hoàn toàn do học trò ông Tạo tuân theo di huấn của thấy mà làm, rất long trọng, có nhiều vị khoa bảng của hai huyện Thanh Chương, Nam Đàn tới dự (nhưng chắc chắn là không có ông Nguyễn Sinh Sắc. Bởi ông đã vào Kinh nhậm chức theo lệnh vua).
Năm người đàn bà gắn bó với một người đàn ông, chuyện thật khó tin. Chắc ông Tạo tài hoa lắm và cũng đa tình lắm mới cuốn hút được như vậy.
Sách vở ông Tạo để lại đã bị đốt hết trong Cải cách Ruộng đất. Còn sót một tập thơ nhỏ ở nhà cụ Hồ Sĩ Huề, phó giáo sư Ninh Viết Giao đã mượn, nay chắc còn chỗ ông ấy!
*
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:08:10 GMT 9
Cụ Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân khoa thi Hương năm Ngọ (1894) tại Trường Nghệ, nhưng trượt khoa thi Hội tiếp theo. Để chuẩn bị cho Sắc vào tiếp khoa thi năm Tuất (1898), ông Tạo suy nghĩ rất nhiều. Các con trong giá thú ở quê chẳng đứa nào nối được chí cha. Thông minh thì cũng có đủ, nhưng lười học, chỉ thích cờ bạc, rượu chè. Duy chỉ có đứa con ngoài giá thú là Nguyễn Sinh Sắc lưu tâm tới việc học hành, không thể để nó bỏ dở sự nghiệp và phụ lòng mong mỏi của bao người. Nghĩ tới đây, ông sai người mài mực, lấy giấy bút viết thư. Ông nhớ tới ông Thượng thư họ Hồ ở An Truyền đã nhận đồng tông với mình. Nhớ tới ông Cao Xuân Dục, một học trò, đang là quan to của triều đình. Đằng nào cũng phải nhờ họ giúp. Xưa nay mình đã nhờ vả họ gì đâu!
Vậy là nhờ có bức thư ấy, mà các vị đại thần họ Hồ, họ Cao ra tay giúp đơc để ông Sắc được vào học Trường Quốc Tử Giám. Đó là việc rất dễ nhận biết: Trường Giám là trường của Hoàng gia, quý tộc, con dân làm sao mà vào nổi?
Ông Sắc vào Trường Quốc Tử Giám mang cả gia đình đi theo, chỉ trừ cô Thanh ở nhà với bà ngoại, làm phận sự thay cho bố mẹ. Vào Huế, ông đổi tên là Nguyễn Sinh Huy. được sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của các vị đại thần quen biết ông Tạo, cùng các quan khác người Nghệ Tĩnh. Bà Loan dệt vải nuôi con. Ở chốn Kinh thành, cuộc sống có dễ dàng gì đâu!
Khoa thi Mậu Tuất, ông Sắc lại rớt. Bà Loan sinh thêm cậu Xin. Và vì quá kham khổ, lao động quá sức, bà lâm bệnh và qua đời cuối năm Canh Tý (1900). Chỉ ít lâu sau, cậu Xin cũng quy tiên theo mẹ. Ba cha con ông Sắc lại dắt díu nhau về Nghệ.
Khoa thi năm Tân Sửu (1901) ông Sắc trúng Phó bảng nhưng không ra làm quan mà xin ở nhà nuôi mẹ già yếu. Thời kỳ này ông lên dạy học ở Thanh Chương. Ông nghĩ mình trước hết phải trọn đạo hiếu với cha mẹ. Nếu không, sao đáng làm người. Giai đoạn đầu ông Sắc dạy học ở nhà thờ họ Lê ở Nguyệt Bổng (nhà thờ này nay vẫn còn ở chân cầu Rộ), sau chuyển sang nhà ông Hàn Kháng, họ Phan ở Võ Liệt - là một họ khoa cử, có người nổi tiếng như tiến sĩ Phan Sĩ Thực - Ngôi nhà này đã bị tịch thu chia cho nông dân trong Cải cách Ruộng đất). Chỗ ở này cách nhà ông Tạo có con sông Rộ nhỏ thó, xắn quần là có thể lội qua. Như các cụ trong dòng họ kể lại thì ông Sắc đã dẫn cậu Công qua chơi với ý định nhận cha, nhưng việc đó chưa kịp làm thì năm 1904 bà đồ An qua đời. Đầu năm 1905, ông Sắc được triệu vào kinh nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ do cụ Phan Chu Trinh giao lại. (Việc chưa nhận cha còn có thể do quy ước khắt khe của dòng họ – Ví như cụ Hồ Sĩ Tôn, 2 lần đậu đầu khoa: “Thiên hạ sĩ vọng vã”, “Thiên hạ cống sĩ”, là bố ông nghè Hồ Sĩ Tân. Thời trẻ dạy học ở Hưng Nguyên, có một con trai với cô con dâu nhà ho Bùi. Về sau anh này cùng con mình đều đậu tiến sĩ. Hai cha con về Quỳnh Đôi nhận họ, nhưng vì quy định đó mà không thành. Hai cha con đành đứng ngoài cổng nhà thờ họ, vái lạy rồi quay về. Nên đến nay con cháu vẫn mang họ Bùi…)
Cuộc đời làm quan và phiêu bạt của ông Sắc tính từ đây. Năm 1907, ông Sắc được bổ Tri huyện Bình Khê và chỉ bốn năm sau đã vướng vào trọng tội…
… Bữa đó, ông Sắc đang ngồi tự lự, mượn chén rượu giải sầu, lòng tràn nỗi niềm thương cảm đối với vợ con. Ông tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo khổ, mái tranh, vách đất, chẳng chút tài sản nào dư dả để nuôi con… Bỗng có lính bẩm báo:
“Thưa quan, mấy gã chống thuế hôm qua lại đến.”
Ông lập tức truyền cả bọn vào và giữa lúc ngà ngà say, ông bảo:
“Bọn bây phải biết rằng, chỉ có vua mới miễn được thuế. Còn ta chỉ có đồng lương ít ỏi phải bù cho số thuế thiếu kia. Ta đã cho người dò la kỹ rồi: Nhà tụi bây còn giàu hơn cả quan đây. Làm ruộng thì phải đóng thuế, chống lại là cớ làm sao?”
Cả đám lập tức nhao nhao nói hỗn, chửi bới, chỉ trích quan tham nhũng, ông Sắc nổi cáu, truyền:
“Lôi ra ngoài đánh bọn chúng cho ta.”
Bọn lính lôi cả đám ra ngoài đánh đập thỏa sức. Bất đồ một người trong bọn trúng chỗ hiểm, lăn ra chết… Lệnh ông ban quên không hạn chế mấy roi, nên bọn lính đã quá tay. Triều đình triệu ông về Kinh chịu tội. Vua phê: “Trảm!”. May nhờ có các ông Thượng thư họ Hồ, họ Cao và Đào Tấn cùng rập đầu xin vua tha chết. Cả ba ông đều tâu vua: “Nguyễn Sinh Huy làm quan thanh liêm, xử án công minh, bốc thuốc chữa bệnh người rất tận tâm… Việc xảy ra chỉ là do sơ suất và bọn lính đã quá tay…”
Vua cũng biết Nguyễn Sinh Huy là quan thanh liêm, không hề có tư túi gì, nên sau một lúc suy nghĩ đành giảm xuống “Trảm giam hậu!” (giam chờ chém sau) và phạt đánh 100 roi. May nhờ có Thượng thư Bộ binh Đào Tấn lo lót cho bọn lính nên được nhẹ đòn và ông Huy thoát chết. “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”. Nhân buổi lộn xộn chưa quyết, nhờ có người ngầm giúp, ông Huy chuồn thẳng! Các cụ già quê tôi, người thì bảo ông cải trang làm phu xe theo đoàn khách thương chở hàng vô Nam, kẻ lại bảo ông xuống một thuyền buôn dông thẳng vào Gia Định. Mỗi người một phách, nhưng cũng chẳng sao. Điều cơ bản là ông Huy đã thoát khỏi cái lưỡi dao thái thịt người đang lơ lửng trên đầu và có thể hạ xuống bất ký lúc nào…
*
Cậu Công gặp lại cha ở một địa điểm kín ở Gia Định, trong một buổi, trước khi cậu xuống tàu đi xa. Dặn dò con xong ông Huy lặn sâu vào giữa vùng Đồng Tháp Mười, chẳng để lại dấu vết nào với người đời, rằng mình đã từng là một Phó bảng thứ thiệt, là ông Huyện Bình Khê…
Ngày ấy Đồng Tháp Mười còn rậm rì năn lác, đường bộ chưa có là bao. Giao thông chủ yếu là nhờ vào những chiếc xuồng tam bản tự tạo của đồng bào sống ở miệt sình lầy. Ông Nguyễn Sinh Huy lặn lội đến vùng Cao Lãnh ngày nay thì dừng lại, ở nhờ một ngôi chùa. Nơi đây ông giấu biệt tông tích của mình, tự xưng là Cụ Vương, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh.
Nhà Phật vốn chủ trương “cứu nhân độ thế”, các sư cũng luôn làm nhiệm vụ bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Bấy giờ làm gì có bệnh viện hay hiệu thuốc ở những vùng sâu, xa như thế. Thấy Cụ Vương giỏi y thuật, lại sống độc thân nên các sư rất mừng, lưu cụ ở luôn tại chùa để giúp đỡ bao nông dân nghèo khó đang hàng ngày vất vả kiếm sống và cũng vất vả chống lại tật bệnh, ốm đau. Phong trào chống thuế ở miền Trung đang nổi lên rần rần, nên nhà vua cũng làm ngơ luôn cái án của ông Tri huyện Bình Khê. Vậy là ông Nguyễn Sinh Huy được triều đình “bỏ quên”.
Chẳng bao lâu, cái tiếng của vị thầy thuốc giỏi, lại nhân từ, sẵn sàng chữa bệnh không công cho người nghèo, theo những chiếc xuồng nhỏ, len lỏi trên sông nước, trên kênh rạch lan truyền đi khắp vùng. Người ở xa chở con bệnh tới để chữa trị hoặc mua thuốc mang về. Người gần mời cụ ngồi xuồng tới nhà bắt mạch điều trị. Nhà nghèo cụ miễn luôn mọi khoản. Đức độ của cụ hoà vào nước Đồng Tháp Mười, thấm sâu vào đất đai, tạo nên vựa lúa bạt ngàn hôm nay…
Có lần chữa trị dài dài, cứu được mấy mạng người trong một gia đình, giúp họ thoát khỏi dịch bệnh, ông già Mai Nhuận trả ơn bằng cách gả cô con gái út của mình cho ông Vương.
“Không dám…”, Ông Vương cười. Chữa bệnh cứu người là công việc hàng ngày, tôi đã nguyện theo đuổi suốt đời, đâu dám mong có ân huệ đền đáp. Cô nhà đây còn nhỏ tuổi hơn cả con trai út của tôi. Nhận lời cụ chẳng hoá ra tôi là thằng khốn nạn hay sao?
“Chúng tôi không quan tâm tới việc thiên hạ dư luận, chỉ cần cụ nhận lời và nuôi cháu là nhất định gia đình sẽ có ngày mở mày mở mặt. Nó đến với cụ cũng đã sung sướng cho bản thân nó. Công việc nấu nướng, chợ búa… giúp cụ chuẩn bị thuốc men, so với việc đồng áng khác nhau một trời một vực, việc gì nó chẳng làm được. Cụ đừng lo…”
Năm ấy, ông Sắc đã ngoại lục tuần. Cô gái họ Mai mới ngoài hai mươi, nhỏ hơn cậu Công.
Ít lâu sau cuộc tình duyên muộn mằn ấy, cậu Vương Chí Nghĩa chào đời (1927). Ông Vương Chí Nghĩa là bố của Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt cùng năm người con gái khác. Theo Thượng toạ Thích Chân Quang, khai sinh lấy họ Vương, nhưng trong tiềm thức, trong gia phả là họ Hồ. Cụ Vương dặn như vậy. Lấy họ Vương là để che mắt kẻ thù. Việc rời Đồng Tháp lên Tây Nguyên cũng là vậy. Phải tránh sự khủng bố, truy bắt, bảo vệ mình và mở ra con đường kiếm sống lâu dài. Thượng toạ Thích Chân Quang sinh ở Tây Nguyên tháng 12.1959. Tốt nghiệp đại học Khoa tiếng Anh, xuất gia năm 1980 cùng chị gái là Hồ Thị Minh Nguyệt, hơn ông hai tuổi.
(Ngày làm lễ Nhập hồn Tượng cho vua Hồ Quý Ly và nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi, Thượng toạ Thích Chân Quang cười nói với tôi: “Em viết việc tìm họ của anh đơn giản và dễ dàng quá! Thật ra là bọn anh phải dằn vặt, đau khổ, đi xác minh cẩn thận, có thu âm, ghi hình đầy đủ, người ta mới công nhận. Những người trông coi Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp cứ một mực bảo ông Sắc không có vợ lẽ ở đây! Anh sẽ ghi lại cụ thể chuyện này gửi em sau. Báo để em biết, anh đã đến thăm chú Hồ Thanh Chương, tình cảm của chú cháu là vô cùng nồng ấm.” Thượng toạ đã đối chiếu gia phả và gọi tôi là em, mặc dù tôi nhiều tuổi hơn.)
*
Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy họ Hồ làm họ mới của mình có gì giống với con cháu cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp nhận mình là dòng dõi họ Hồ không? Điều đó chắc chắn chúng ta đã vĩnh viễn không còn được biết. Trong mịt mờ quá khứ xa xăm, trăm ngàn mối quan hệ chằng chịt, đan xen, không ghi âm, chụp ảnh, không quay phim, ghi chép… làm sao lần mò ra được?
Cuốn Ngục trung nhật ký của Bác với 132 bài thơ (từ số 1 đến 133, nhưng bài số 100 chỉ có tên bài đề “Liễu Châu ngục” mà không có thơ), mở đầu bằng bài “Khai quyển”, kết thúc là bài “Kết luận” (Nay sách in mới, bài “Kết luận” được thay bằng bài “Mới ra tù tập leo núi”, một bài Bác ghi bên lề tờ Nhật báo Quảng Tây, không phải làm ở trong tù). Bài “Kết luận”, Bác viết:
Hạnh ngộ anh minh hầu chủ nhiệm Như kim hựu thị tự do nhân “Ngục trung nhật ký” tòng kim chí Thâm tạ hầu công tái tạ ân.
(Tạm dịch: May mắn được gặp Chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt. Mà nay tôi lại là người tự do, “Ngục trung nhật ký” từ nay chấm dứt. Cảm tạ sâu sắc ơn tái tạo của ông Hầu.)
Hầu công mà Bác nhắc ở đây là ông Hầu Chí Minh, thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Hoa Nam của Quốc dân Đảng, người rất mực mến phục Bác, đã can thiệp tích cực để Bác thả ra, trở về lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh rằng, nơi nào trên trái đất này cũng có người tốt!
Cái tên mới của Bác, ta có thể đoán mò một cách không chắc chắn rằng, Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình để làm kỷ niệm. Tên ông là “Sáng Suốt” và việc làm của ông dành cho Bác cũng rất sáng suốt. Còn cái họ thì xin chịu. Liệu có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng từ một ngày rất xa, khi hai cha con còn sống bên nhau không?
Bác đi bôn ba thế giới “tìm đường cứu nước”, trải qua một vòng trái đất và mãi hơn 50 năm sau mới về lại quê nhà. Ý định nhận cha, nhận họ của cụ Phó bảng ngày dạy học ở nhà ông Hàn Kháng… cũng chưa thực hiện được. Vào Huế làm quan rồi trốn mãi vào miệt sình lầy Đồng Tháp, cụ không có điều kiện trở về. Ông Hồ Chí Nghĩa cũng vậy, không thể về bởi binh lửa liên miên và đất nước chia cắt. Chỉ mãi hôm nay Thượng toạ Thích Chân Quang mới hoàn thành việc đó.
Từ ngày cụ Phó bảng đi làm quan đến ngày Thượng toạ Thích Chân Quang tìm về, thời gian dài hơn thế kỷ. Chúng tôi lấy làm tiếc, nhà thờ họ Hồ Lai Nhã đâu còn ở chốn xưa! Ngày di dân, lòng tôi như vừa chịu một trận động đất mạnh 9 độ rich-te. Dân quân cả huyện ào ào đến dỡ làng kéo đi, hệt như chạy loạn. Hàng chục chiếc máy ủi màu đỏ son gầm gừ húc cây cối đổ ngổn ngang, san phẳng mọi vườn tược mà không có pháp luật nào giải thích, không một xu đền bù giải toả!... Cha con, anh em, họ hàng phải chia lìa nhau. Người bốc được thăm ở cuối rừng, kẻ bốc được thăm nằm đầu xã, cách nhau ba bốn cây số là chuyện bình thường. Mối quan hệ tộc họ từ ngàn xưa bị rạn vỡ. Nhà thờ họ vốn có vườn riêng đầy cây trái, nay đột nhiên không có đất đứng, phải hốt vào trong hẻm núi sâu, nơi bác tộc trưởng bắt được thăm, phong cảnh thật u ám, thê lương. Thật tiếc, trong thời khắc bối rối ấy, con cháu ở quê cũng không dám đấu tranh đòi cho nhà thờ họ một chỗ xứng đáng! Con cháu đi xa muốn tranh thủ về thăm quê cũng khó khăn. Vùng chân Trường Sơn mưa nhiều hơn nơi khác, đường sá không một tấc nhựa, lầy lội, nhớp nháp bởi thứ đất mến người, lại trèo đèo lội suối quanh co, khúc khuỷu. Anh em bà con nghèo túng hơn, về vài ngày là không thể đi thăm hết được, mà có về cũng vất vả lắm! Thôi đánh chịu lỗi với Tổ Tiên!
Thượng toạ Thích Chân Quang về đúng những ngày mưa tháng bảy. Sau khi dâng hương viếng mộ cụ Hồ Sĩ Tạo xong, mấy chú cháu trong họ, những người đi đón bàn nhau: Xin Thượng toạ hoãn việc về thăm nhà thơ họ Hồ Thanh Khê lại, vì đường quá xấu, xe không vào được. Nếu đi lỡ gặp tai nạn, thật là không nên… Và Thượng toạ đã đồng ý.
Chúng tôi chép toàn là chuyện ở sân sau. Người ta nói: Đời là một sân khấu lớn với hàng ngàn vở diễn, bi có, hài có… ồn ào và sôi động trải ra. Đó là ở sân trước. Sân sau khác hơn. Nó âm thầm, lặng lẽ… Nhưng có lẽ xin được dừng lại ở đây. Dã sử vốn có chỗ dị đồng với chính sử là thế! Cũng với khoảng thời gian chưa xa, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có buổi trò chuyện thân mật với một số con cháu họ Hồ. Chắc rằng mọi chuyện vẫn chưa phải đã hết. Còn có những điều sâu kín, dài dài, chưa thể nói ra, nhưng cũng rất con người, đang ở sân sau…
Mong ông bà, chú bác, anh em… cùng hương hồn Liệt Tổ Liệt Tông tha thứ cho.
Mùa xuân Đinh Hợi (2007)
(Địa chỉ: Hồ Sĩ Sênh, xóm Nghĩa Thai, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn, Nghệ An. ĐT: 0383 785248)
2007 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Trăm Hoa xuất bản, California 1993, 288 trang (các chú thích trong bài đều của talawas) [2]Các cách ghi âm khác: Nguyễn Sinh Côông, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Công [3]Do dời làng lên núi để làm kinh tế
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:11:16 GMT 9
Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh Hình chụp một trang của cuốn Ngục Trung Nhật Ký Một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, đã qua đời, thọ 71 tuổi. Tin từ Việt Nam cho biết giáo sư Trần Quốc Vượng đã nằm viện một tháng nay vì căn bệnh ung thư thực quản. Ông qua đời vào lúc 2h55 sáng nay. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng 12-8 ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Là tác giả của hàng chục đầu sách và nhiều bài viết, từ nhiều thập niên qua, ông được xem là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu. Nghe phỏng vấn với giáo sư Trần Quốc Vượng năm 2003 Một trong những bài viết gần đây của ông, ''Hà Nam quê tôi'', có thể đọc bằng cách bấm vào link bên phải. Một bài viết khác liên quan chủ đề lịch sử khi ra đời năm 1993 đã gây ý kiến trái chiều. Đó là "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", in trong quyển Trong Cõi (NXB Trăm Hoa, California, 1993). Đây là tập hợp một số tiểu luận của giáo sư Trần Quốc Vượng sau chuyến đi công tác ở Hoa Kỳ. Chủ đề chính của bài là thông qua những kinh nghiệm hỏi chuyện dân gian, người ta có thể biết những điều mà sách vở không nhắc đến. Theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử." "Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là Thật mà không chắc là Thực." Dưới đây là trích đoạn phần cuối của tiểu luận của Trần Quốc Vượng: Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cu. Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia". Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này. Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo. Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào". Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính... Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng". Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế. Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863). Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ". Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này. May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng. Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại. Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt. Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt. Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út. Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng. Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo. Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa. Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng. Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ. Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình? Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh. Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969. Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified). Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ. Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này. Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm. Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội". Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn? Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". Trần Quốc Vượng
|
|