|
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 17:27:07 GMT 9
Chánh phạm giết Nguyễn Thị Xuân là ai?
Vĩnh Phúc Vụ thảm sát cô Nguyễn Thị Xuân: chánh phạm là ai? Cách đây khoảng hơn một tuần lễ, tác giả Bùi Tín đã viết trên Đàn Chim Việt, đặt vấn đề về sự bất công kéo dài đã 51 năm đối với người con rơi Nguyễn Tất Trung mà ông Hồ Chí Minh đã có với người phụ nữ dân tộc Tày tên là Nguyễn Thị Xuân (tức Nông Thị Xuân). tác giả Bùi Tín đã nhắc lại vụ thảm sát cô Xuân ở Hà Nội vào đầu năm 1957, do tên Trần Quốc Hoàn chủ mưu, mà trực tiếp thực hiện là hai tên Ninh xồm và Tạ Quang Chiến, bảo vệ và lái xe cho ông Hồ. Ngược giòng thời gian, được biết rằng sau hiệp định Geneva 1954, khi ông Hồ đã về ở trong Bắc Bộ Phủ, theo ý kiến của Ban Lãnh Đạo đảng (?), cái-gọi-là Ủy Ban Bảo Vệ Sức Khỏe trung ương – mà nôm na là toán ma-cô chuyên đi tìm gái về để thỏa mãn dục vọng của bọn lãnh tụ cao cấp trong đảng cộng sản – được lệnh tìm một cô gái đẹp về để cho ông Hồ hành lạc. Sự thật bỉ ổi này được che phủ bằng lớp sơn hào nhoáng lý luận là “Bác cần phải giải quyết sinh lý điều hòa để tốt cho sức khỏe và công việc hoạt động của Bác được hiệu quả”. Thoạt đầu một phụ nữ nhan sắc mặn mà tên là Nguyễn Thị Phương Mai, được đưa từ Thanh Hóa về Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Cô này là Ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa. Nhưng cô đòi rằng phải tổ chức hôn nhân hẳn hòi. Dĩ nhiên, làm sao ông Hồ có thể chấp nhận chuyện ông công khai lấy vợ được, vì như thế thì còn chi là hình ảnh linh thiêng của vị lãnh tụ thần thánh suốt đời chỉ biết sả thân hy sinh phục vụ nhân dân, không phút nào nghĩ tới cá nhân mình! Chính ông lập luận rằng nếu ông không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị của ông hơn. “Bác và các anh (ý nói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị hơn” (Trần Danh Tuyên, Bí thư Thành ủy Hà Nội nói với Nguyễn Minh Cần. Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh TP Hà Nội – Xem Công Lý Đòi Hỏi, Tg Nguyễn Minh Cần, Văn Nghệ xb 1997, tr. 321 ). Đây là một lập luận hoàn toàn sai lầm và đầy tính chất đạo đức giả. Thế cho nên chuyện tiến cử cô Nguyễn Thị Phương Mai đã không thành. Trần Quốc Hoàn, quê ở xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; tên thật: Nguyễn Trọng Cảnh (1916 - 1986) Nguồn: nghean.gov.vn -------------------------------------------------------------------------------- Đầu năm 1955, tên Trần Đăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần tìm được cô Nguyễn Thị Xuân (còn tên là Nông Thị Xuân) mới ngoài 20 tuổi, đang làm hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Ninh đưa cô Xuân về Hà Nội để phục vụ ông Hồ. Có lẽ vì là người miền núi vốn thực thà chân chất, không khôn lanh được như cô Nguyễn Thị Phương Mai, nên cô Xuân tin là được về làm vợ ông Hồ, ông Chủ tịch nước, thì còn gì danh giá và hân hạnh cho bằng (dù năm đó ông Hồ đã 65 tuổi, tức là hơn cô Xuân trên 40 tuổi – nếu lấy vợ sớm, ông Hồ có thể có cháu nội lớn bằng cô Xuân). Cô Xuân còn xin cho hai cô em họ là cô Nguyễn Thị Vàng và cô Nguyệt về ở cùng cho vui. Họ được bố trí cho ở trên lầu căn nhà số 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm Hà Nội. Nhà này thuộc Bộ Công An, và Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được ông Hồ giao cho nhiệm vụ quản lý cô Xuân và hai cô em họ kia. Mỗi tuần lễ, tên Trần Quốc Hoàn cho xe đến chở cô Xuân vào Phủ Chủ tịch, có lần ở lại qua đêm, có lần ở lại hai – ba ngày. Và ông Hồ tỏ ra hài lòng về cô lắm. Đến cuối năm 1956, cô Xuân sinh cho ông Hồ được một bé trai và ông đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Như đã nói ở trên, cô Xuân vốn ngây thơ, dễ tin người, nên cứ tưởng rằng cô được ông Hồ coi là vợ chính thức. Bởi vậy sau khi sinh con trai rồi, một hôm cô nói với ông Hồ đại khái là “nay đã có con trai rồi, xin cho ra công khai” — nghĩa là cô đinh ninh tin rằng mình đã có công sinh cho ông Hồ một mụn con trai để “nối ngôi” thì hẳn công trạng của cô phải lớn lắm, và ông Hồ vui lắm. Nhưng cô có ngờ đâu rằng lời xin “được ra công khai”, tức là xin ông Hồ chính thức hóa chuyện hôn nhân với cô, công khai nhận cô là vợ, và nhận cậu con trai mà cô mới sinh, là một hành động vô cùng nguy hiểm: chính là cô vừa mới dại dột xin chịu bản án tử hình! Nghe cô Xuân xin như vậy, ông Hồ đã ngọt ngào trả lời: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó, cô đành phải chờ một thời gian nữa.” (Trích lá thư tố cáo của anh thương binh chồng chưa cưới của cô Vàng, đề ngày 24/07/1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Quốc Hội -- Sách Công Lý Đòi Hỏi, Văn Nghệ xb 1997, Nguyễn Minh Cần). Sau đó, vẫn theo lời tố cáo của lá thư viết bằng máu hòa nước mắt 25 năm sau, tên Trần Quốc Hoàn đã cưỡng hiếp cô Xuân ở ngay số 66 Hàng Bông Nhuộm. Rồi tối 11/02/1957, tên Ninh xồm, bảo vệ của ông Hồ, cùng tên Tạ Quang Chiến, lái xe cho ông Hồ, đem xe đến chở cô Xuân, bảo là lên gặp ông Hồ. Sáng hôm sau, 12 / 2 / 1957, người ta phát giác xác cô Xuân bị xe cán ở dốc Cổ Ngư lên Chèm Công an báo cáo là nạn nhân đã chết trước khi bị xe cán . Nói khác đi, đây là vụ ngụy tạo ra một tai nạn xe hơi. Bác sĩ khám nghiệm tử thi xác nhận nạn nhân bị chùm chăn và đập vỡ sọ bằng búa. Nhưng Trần Quốc Hoàn ra lệnh đem chôn gấp, không cho mổ tử thi giảo nghiệm. Vẫn theo báo cáo của công an, chiếc xe gây tai nạn chạy từ Phủ Chủ tịch ra Và sau đó vụ án mạng man rợ này đã được cho “chìm xuồng” , không ai dám nhắc nhở đến nữa! Tất nhiên dân chúng không ai biết, vì báo chí có được phép loan tin đâu. Chỉ có một vài cán bộ cao cấp thuộc hàng trung ương mới biết, nhưng cũng chỉ dám xì xào trong chỗ rất riêng tư thôi. Không ai dám hé răng vì nếu lỡ biết mà không kín miệng thì dễ mất mạng lắm. Theo lá thư tố cáo của anh thương binh chồng chưa cưới của cô Vàng, sau đó cả cô Vàng, cô Nguyệt và những người họ hàng, bạn bè các cô biết được chuyện rùng rợn này nhưng không kín miệng, đều bị giết chết hết, bằng cách này hay cách khác. Tại sao tên Trần Quốc Hoàn dám làm một việc táo tợn ngoài sức tưởng tượng của mọi người, là cưỡng hiếp vợ (cứ tạm gọi như vậy) của Chủ tịch nước, người quyền uy tối thượng lúc bấy giờ? Tại sao hai tên Ninh xồm và Tạ Quang Chiến là bảo vệ và lái xe – tức là người rất thân tín của ông Hồ – lại dám ra tay giết vợ của chủ mình? Và, điều vô cùng quan trọng là: Ông Hồ có biết vụ thảm sát man rợ này không? Tại sao không thấy ông ra lệnh điều tra vụ án? Chẳng cần phải có tài điều tra như thám tử lừng danh Sherlock Holmes hay những nhân viên thượng thặng của FBI, người ta cũng thấy ngay những sự kiện rành rành trước mắt để cho một người với một trí thông minh trung bình có thể đi đến kết luận về những kẻ tòng phạm và chánh phạm trong vụ án mạng này. Trước hết là thái độ thờ ơ, ù lỳ, lãnh đạm của ông Hồ sau cái chết thê thảm của cô Xuân, một người mà ông đã từng ăn nằm với người ta trong hai năm trời, với kết quả là một đứa con trai ra đời. Khi một người bình thường thấy bỗng nhiên một vật mình thường dùng bị mất – một chiếc khăn lau mặt một đôi vớ… chẳng hạn – thì cũng phải thắc mắc là “tại sao không thấy nó?” Huống hồ đây là một cô gái đẹp mà ông từng ôm ấp trong 2 năm và đã có con với ông. Vậy mà khi cô Xuân biến mất, ông Hồ không thắc mắc? Nếu ông có thắc mắc thì ông đã làm gì? Có ra lệnh điều tra không? Và kết quả điều tra ra sao? Chỉ biết rằng tên Trần Quốc Hoàn vẫn làm Bộ trưởng Công an và có chân trong Trung ương đảng, tên Tạ Quang Chiến về sau lên tới chức Tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao. Có thể có người nêu giả thuyết “Hay là hồi đó ông Hồ cũng phải kiêng dè tụi nó? Ông ở thế yếu nên đành phải im miệng?” Điều này hoàn toàn không đúng. Vì vào khoảng thời gian những năm 1955 – 56 – 57 uy quyền của ông Hồ còn rất lớn. Sau vụ cải cách ruộng đất làm cho bao nhiêu ngàn dân vô tội mất mạng và mất nhà mất cửa do lỗi của chính ông Hồ (xin đọc Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Văn Nghệ xb, tr. 222), rồi ông đưa Trường Chinh ra làm con dê tế thần để nhận tội thay cho ông. Thời gian này phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ vẫn chưa cấu kết được với nhau và chưa có quyền. Ngày 30/10/1956 báo Nhân Dân loan tin tại hội nghị đảng lần thứ X (tháng 9/1956) Hồ Chí Minh quyết định cất chức Tổng bí thư của Đặng Xuân Khu rồi tự kiêm nhiệm luôn chức vụ này. Những tay chân thân tín của Khu như Lê Văn Lương, và Hồ Viết Thắng cũng bị hạ bệ. Thắng bị ra khỏi BCHTU, và Lương chỉ còn chân dự khuyết. Lương còn phải từ bỏ chức vụ Thứ trưởng Nội vụ và Phó Chủ nhiệm Phòng Nội chính Phủ Thủ tướng. Đồng thời, Lê Duẩn, Bí thư Đảng bộ Miền Nam, được đưa ra Hà Nội vào năm 1957 để chuẩn bị thay thế Khu (Xem: VN Niên Biểu Nhân Vật Chí, Văn Hóa xb, tr.166, Chánh Đạo). Như thế, cái lý do mà ông Hồ đưa ra “… phải được Bộ chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý thì mới được “ để không chịu cho mẹ con cô Xuân ra công khai và bảo cô “đành phải chờ một thời gian nữa…” là không hợp lý, không đúng sự thật. Chẳng qua, ông Hồ chỉ coi cô Xuân như một thứ đồ chơi, để cho ông thỏa mãn lòng dâm dục mà thôi. Phần cô Xuân thì quá dại, quá ngây thơ, cứ tưởng rằng cô được làm vợ ông Hồ thật. Cho nên khi bị tên Trần Quốc Hoàn giở trò sàm sỡ dâm ô, cô đã mắng hắn: “Không được hỗn! Tôi là vợ ông Chủ tịch nước!”. Bị cảnh cáo như vậy, tên Hoàn chẳng những không tỏ ra sợ, trái lại còn cười vào mặt cô Xuân và nói mỉa: “Tôi biết bà to lắm! Nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi”. Rồi hắn ngang nhiên cưỡng hiếp cô. (Công Lý Đòi Hỏi, Văn Nghệ xb, tr.322, Nguyễn Minh Cần). Tại sao tên Trần Quốc Hoàn dám lộng hành như vậy? Hiếp vợ Chủ tịch nước đầy uy quyền, trước đó còn nói mỉa mai và cho biết “tính mạng bà nằm trong tay tôi.” Tại sao hai tên Ninh xồm và Tạ Quang Chiến dám giết vợ Chú tịch nước ? Ông Hồ có thuộc hạng người nhẹ dạ, cả tin, để sử dụng những quân phản phúc làm cận vệ, giao sinh mạng mình cho chúng? Vậy thì câu trả lời là: ba tên này dám lộng hành như vậy, mà còn tỏ ra tự tin khi ra tay hành động, chẳng hạn như lời lẽ của tên Hoàn, và sự kiện chúng không cần che dấu hành tung mà ngang nhiên dùng xe của Phủ Chủ tịch đem vứt xác cô Xuân để cho người ta trông thấy. Như thế rõ ràng chúng đã nhận được tín hiệu từ chủ nhân của chúng, để mà hành động. Dĩ nhiên một người thủ đoạn, khôn ngoan, thâm hiểm như ông Hồ, ông không dại gì mà ra lệnh – dù là khẩu lệnh – cho chúng. Nhưng ông thiếu gì cách? Chỉ cần một vài thái độ, một vài lời nói, cũng đủ cho lũ côn đồ này hiểu là chủ của chúng đã “bật đèn xanh” rồi, chủ của chúng muốn chúng làm gì, nên chúng thản nhiên hành động mà không sợ bị trừng trị. Ông Hồ không chỉ tàn nhẫn bất nhân đối với cô Xuân, một phụ nữ ngây thơ hết lòng tôn thờ phục vụ ông. Ông tàn nhẫn, vô lương tâm đối với cả đứa con nhỏ của ông. Cô Xuân bị giết một cách man rợ, ông lờ đi không cần biết, coi như không có chuyện gì xảy ra cả. Ông còn lờ luôn giọt máu của ông. Nguyễn Tất Trung sau khi ra đời được mấy tháng thì mất mẹ. Cha là ông Chủ tịch nước đầy quyền uy – một ông vua đang trên ngôi – còn sờ sờ ra đấy, nhưng không hề hỏi han tới. Mãi ít lâu sau mới có một tên công an đến đem đứa bé giao cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi. Vài tháng sau cậu bé lại được chuyển cho vợ chồng tướng Chu Văn Tấn nuôi mấy năm trên Thái Nguyên. Rồi sau đó các bà trong hội Phụ nữ cứu quốc trung ương đưa Trung vào trại mồ côi của hội, rồi vào trường Nguyễn Văn Trỗi dành cho con liệt sĩ. Và sau khi ông Hồ chết (1969) thì Trung được ông Vũ Kỳ, cựu thư ký riêng của ông Hồ, đem về nuôi và đặt tên là Vũ Trung (xem bài Không Thể Bất Công Kéo Dài Đến Vậy, Bùi Tín, Đàn Chim Việt Online). Nếu ông Hồ còn một chút lương tâm tối thiểu, còn nghĩ tới giọt máu rơi, hoặc ít nhất còn biết rủ lòng thương đối với một đứa trẻ thơ mất mẹ trong hoàn cảnh thật thê thảm, thì ông chỉ cần ra một lệnh, tất nhiên cậu Trung đã được nuôi nấng rất đàng hoàng. Nếu ông chỉ cần làm một chuyện nhỏ đó, Nguyễn Tất Trung hẳn đã được học hành nên người, chứ đâu có phải sống lây lất, khốn khổ, nay ở với người này, mai ở với người khác, rồi vào viện mồ côi, không được học hành đến nơi đến chốn. Nếu ông còn có tình thương cha con mà nhìn nhận Trung – dù là ngấm ngầm – thì đâu đến nỗi khi trưởng thành Trung phải làm công việc coi kho để kiếm sống? Ở đời này, may mắn là không có nhiều người cha tàn nhẫn như vậy. Một con người vô lương tâm, tàn nhẫn đối với người mình đã từng ôm ấp, người đã từng tôn thờ phục vụ mình, tàn nhẫn với cả đứa trẻ thơ vô tội mồ côi mẹ lại là con của mình – một người lòng dạ như vậy mà vẫn vỗ ngực tự nhận là đạo đức, nhân ái, thương người … thì liệu có thể tin được không?
|
|
|
Post by Can Tho on May 18, 2011 3:34:57 GMT 9
Phụ Lục (by Lê Tùng Châu) ĐƠN XIN VÀO HỌC TRƯỜNG THUỘC ĐỊA PHÁP năm 1911 của Hồ Chỉ một bằng chứng này cũng đủ cho bao suy luận hợp lý hầu sáng mắt trí tuệ cho biết bao người trước âm mưu nham hiểm của Tập đoàn Bắc Bộ phủ đem Hồ ra làm bình phong và chiêu bài lừa dân hại nước. Tuy nhiên chuyện đời thường có cái logic thực tế sinh động của nó bất chấp mọi vọng tâm, dã tâm của con người -ở đây là người cộng sản, và những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản- bởi sau 1975, những bằng chứng về hành động, tư cách và trình độ....(tóm lại là những gì khả dĩ tái hiện bộ mặt thực) của Hồ không chỉ có thế mà còn liên tiếp lộ diện. Mời bạn bình tâm coi tiếp những đề mục tiếp theo về cùng chủ đề này : Cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh của Lữ Phương LTC TRƯỚC KHI ĐỌC LỮ PHƯƠNG : Lữ Phương Trả lời phỏng vấn của Đài RFI Người phỏng vấn: Ánh Nguyệt “Một thanh niên miền Nam lớn lên được hun đúc bằng lòng yêu nước và lý tưởng đã quyết định dấn thân vào cuộc phản kháng chống lại cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vấn đề không bình yên về tinh thần mà anh nhận ra qua cuộc dấn thân ấy là sự sai biệt giữa lý tưởng và thực tế. Anh vẫn giữ nguyên ý nghĩa sự chọn lựa ban đầu của mình là không chấp nhận sự can thiệp tàn bạo của Mỹ vào đất nước và điều đó khiến anh vẫn còn là bạn đường của những người cộng sản, nhưng trong những năm tháng sống với họ qua cuộc chiến đấu chung ấy trong chiến khu, mặc dù đã vào Đảng rồi anh vẫn thấy lạc lõng trong cái không khí ý thức hệ và văn hoá do Đảng tạo ra, những điều đó là xa lạ với tính cách của anh, có phần đi ngược lại với cả cái lý tưởng mà anh ấp ủ. Sự rạn nứt đó đã giằng xé tâm thức và trở thành cái chủ đề của bút kí “Những chuyến ra đi”. Một bút kí thể hiện sự khắc khoải của một con người đi vào máu lửa để tìm kiếm một thứ ý nghĩa chung cuộc cho đời sống. Các sự kiện lịch sử được kể ra ở đây chỉ là những chất liệu qua đó tác giả bộc lộ những suy nghiệm về bản thân trong quá trình dấn thân tìm hiểu đời sống trong cái hiện thực sần sùi khốc liệt của nó. Một sự bộc lộ tiêu biểu cho thái độ của một số trí thức “khuynh tả” xuất hiện ở miền Nam sau 1954”. (Trích từ một email gửi tác giả “Những Chuyến Ra Đi”).” *Xin hỏi anh câu hỏi đầu tiên: tại sao Những chuyến ra đi (NCRĐ) viết từ năm 1999 mà mãi đến 2008 mới được công bố dưới hình thức một “Bản thảo chuyền tay” lưu hành trong nước, tại sao không dưới một hình thức phổ biến rộng rãi hơn? Thật sự tôi viết NCRĐ là do lời khuyên của chị Dương Quỳnh Hoa, lúc chị còn khoẻ mạnh, nay đã mất rồi. Tuy thế viết xong, vì ngại nói đến cái “tôi” của mình, nên không đưa chị ấy xem và cũng chẳng đưa cho ai xem cả. Nhưng gần đây khi quen anh Trần Hữu Dũng, có lần qua email không hiểu sao anh ấy lại nẩy ra ý định “xúi” tôi viết hồi ký, tôi mới sực nhớ ra, lục lại gửi đến anh ấy nhờ đọc giùm thôi, chưa có ý định công bố gì cả. Nhưng sau khi được anh ấy cho biết hồi ký có nhiều sự kiện trung thực, nhiều đoạn xúc động, và một lần nữa, anh lại “xúi” tôi công bố, nên tôi mới có ý định cho xuất hiện hồi ký ấy, lần đầu tiên là trên viet-studies, website do anh ấy phụ trách. Đó cũng là cái duyên lạ kỳ: nếu không có anh Dũng thì có thể NCRĐ mãi mãi nằm trong quên lãng. Bản in photo mà tôi biếu chị là ấn bản chuyền tay xuất hiện sau đó như một lưu niệm gửi một số bạn bè thân thiết trong nước. *Đọc NCRĐ tôi thấy bàng bạc khắp nơi một cảm giác về sự “giằng xé” giữa lý tưởng và hiện thực của một thanh niên ở miền Nam đi vào chiến khu sau sự biến Mậu Thân 1968. Anh có thể nói rõ hơn về những tác nhân cụ thể gây nên sự “giằng xé” ấy? Để trả lời câu hỏi này tôi xin khẳng định với chị rằng suốt trong thời gian ở trong chiến khu và cả cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ ân hận về những ngày “ra đi” ấy cả. Tôi không bao giờ có thể coi là “đồng minh” hay “ân nhân” sự kiện người Mỹ hồi đó đã đem nửa triệu quân cùng với bộ máy chiến tranh khổng lồ vào tàn phá đất nước chúng ta. Đó là lý do tại sao cho đến nay tôi vẫn không thể quay lại phủ định sự chọn lựa lúc đó để đồng ý với những người kêu gọi tôi phải “phản tỉnh” coi Đảng cộng sản Việt Nam là thù địch với dân tộc. Với tôi, trong suốt thể kỷ 20 đã qua, cộng sản là một lực lượng chống thực dân và đế quốc cực kỳ quan trọng. Điều rạn nứt với tôi là tính chất văn hoá mà chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã bộc lộ ngay trong quá trình lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ mà tôi có trực tiếp tham gia: đó là tính chất độc tôn, hẹp hòi của cái ý thức hệ mệnh danh là mácxít mà sau này tôi mới dần dần nhận ra thực chất của nó là stalinít và maoít. *Trong những người trí thức trong Liên Minh Các Lực Lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình mà anh quen biết, có ai chia sẻ những cảm nghĩ ấy của anh? Có một số ít thôi. Hầu hết những người cùng lứa tuổi với tôi thì họ cố phấn đấu để vào Đảng, hoặc tìm sự tin tưởng của Đảng nhiều hơn. Còn những vị lớn tuổi thì phần đông chẳng có ý kiến gì mặc dù đã biết mọi thứ đều do Đảng sắp xếp, đối với những vị này Đảng cộng sản lúc bấy giờ vẫn tiêu biểu cho chính nghĩa chống xâm lược cần phải hợp tác để tạo ra sức mạnh sớm chấm dứt sự can thiệp bằng chiến tranh của Mỹ vào Việt Nam. Nói như Nguyễn Ngọc Lan khi còn là linh mục thì họ là những người đã “chống Mỹ như người Việt cộng sản”, cách diễn đạt đầy ý nghĩa mà tôi hay nhắc lại. Điều đó tôi thấy rất tiêu biểu nơi thái độ của ông Nguyễn Văn Kiết là thầy dạy tôi hồi ở Đại học sư phạm Sài gòn khi vào khu. Nếu có một sự phản ứng đáng kể đối với sự o ép quá đáng của Đảng vào lúc bấy giờ trong vấn đề lãnh đạo thì điều đó chỉ có thể xảy ra trong hàng ngũ cán bộ Đảng (thí dụ trường hợp ông Trần Bửu Kiếm) chứ không phải trong hàng ngũ các vị trong Liên Minh. Trong Liên Minh cũng có người bất mãn nhưng đã thể hiện điều đó bằng cách đi chiêu hồi. *Trong phần cuối của NCRĐ anh viết vào lúc bấy giờ, “tư tưởng vẫn là một vùng trời có nhiều sương khói”, và “trong chính trị không thể có một chọn lựa tuyệt đối nào để ta phải hy sinh suốt đời cho nó, các học thuyết này học thuyết nọ chỉ là những nỗ lực đi tìm, không học thuyết nào mang lại được lời giải đáp một lần cho xong ý nghĩa cuối cùng cho đời sống một con người”. Phải chăng điều đó đã bày tỏ sự “vỡ mộng” của anh và báo hiệu cho thái độ phê phán mạnh mẽ của anh sau 30-4-1975? Không quá rõ rệt như vậy đâu, thưa chị! Nhiều lắm cũng chỉ là những cảm nhận thôi. Duy có một điều đã hiển nhiên với tôi vào lúc bấy giờ là sự từ chối coi cuộc “đánh Mỹ là niềm vui lớn” và không chấp nhận sự lãnh đạo hẹp hòi, giáo điều, biệt phái về mặt tư tưởng, văn hoá. Nói là “vỡ mộng”cũng không đúng hẳn. Gọi là khởi đầu cho một thái độ “nhìn lại” thì có lẽ phù hợp hơn. Nhưng cũng phải có thời gian và có những điều kiện thực tế để việc “nhìn lại” ấy phát triển và lớn lên. Và điều đó có diễn ra thì cũng không hề đồng nghĩa với một sự phủ định mang tính chất hư vô xuất phát từ những uất ức riêng tư, những hận thù hoặc một niềm tuyệt vọng nào đó, rất dễ tìm thấy nơi một số người tôi biết về sau này. Với tôi tư tưởng, bản thân nó là một sự tìm kiếm khó khăn, đòi hỏi thật nhiều sự nghiêm chỉnh và ý thức trách nhiệm, không chấp nhận mọi dễ dãi, hời hợt lẫn cực đoan, mù quáng. Những gì tôi phê phán sau ngày 30-4-1975, tuy mạnh mẽ và gay gắt, nhưng vẫn là sự phát triển nhất quán thái độ trước sau như một về mặt tinh thần: giữ cho được sự trung thực và trung thành với nhân cách của mình trước bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào mà mình phải đối mặt trong đời sống. *Xin hỏi anh một câu cuối (câu này chỉ vì tò mò thôi, anh không trả lời cũng được): trong NCRĐ anh có viết một ý cho rằng anh không đi tìm một vòng hoa và cũng chẳng ai cho những người như anh một vòng hoa, thưa anh, từ bao giờ anh nghĩ như vậy, và tại sao lại nghĩ như vậy? Đó là một câu hỏi thật thú vị, và xin trả lời chị như thế này: tôi thuộc một lớp người những năm 60 của thế kỷ trước ở các thành thị miền Nam, một lớp người thường được gọi là “phản chứng”, không chịu nổi các định chế quan liêu hiện tồn, lúc nào cũng cựa quậy tìm kiếm lung tung nhưng lại không bao giờ muốn làm một thứ anh hùng tử đạo cho một thế lực chính trị nào cả; với những người mà như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, đi đâu cũng “lộn xộn”, ở đâu cũng không thoả hiệp như vậy thì, thưa chị, ai có thể cho họ một vòng hoa, mà phần họ thì họ màng gì đến một vòng hoa! *Xin cám ơn anh Lữ Phương! **************** Lính Mỹ Dạy Việt Minh 1945: Ông Hồ Tặng Gái, Thuốc Sex; Báo New York Times Tiết Lộ Bí Mật Của Những Người CS Dùng Người (04/30/2013) WASHINGTON (VB) -- Ông Hồ Chí Minh đã từng đề nghị cung ứng đàn bà đẹp Việt Nam và thuốc kích dâm cho các lính Mỹ trong đơn vị gián điệp đang huấn luyện các đơn vị quân sự Việt Minh đầu tiên. Bản tin này đăng trên báo New York Times ngày 24-4-2013 ở trang A-17 với tưạ đề “Henry Prunier, 91, Dies; Was Part of U.S. Mission To Train the Viet Minh” (Henry Prunier, 91 tuổi, Chết; Đã Tham Dự Nhóm Công Tác Mỹ Huấn Luyện Việt Minh). Henry Prunier đã dạy cho Tướng Võ Nguey6n Giáp cac1h ném lựu đạn. Lúc đó là tháng 7-1945, sau khi Prunier và 6 lính Mỹ khác nhảy dù xuống một ngôi làng cac1h Hà Nội 75 dặm phía Tây Bắc trong công tác bí mật để huấn luyện một lực lượng thiện chiến gồm 200 du kích Việt Nam về cách sử dụng vũ khí Mỹ để chống lại quân Nhật, lúc đó Nhật đang chiếm Đông Dương. Các lính Mỹ này là thành viên của Office of Strategic Services (OSS), Sở Tình Báo Mỹ thời Thế Chiến 2, muốn nhờ du kích giúp chống lại Nhật. Prunier sinh ở Worcester ngày 9 tháng 10-1921, học ở Đại Học Assumption College nơi hầu hết các lớp dạy bằng Pháp ngữ, nhưng sau 3 năm thì đăng lính vào Bộ Binh. Thấy giỏi ngoaị ngữ, Bộ Binh đưa Prunier vào học tiếng việt ở UC Berkeley, nơi đây Sở OSS tới mời ông và 2 bạn học tham dự chiến dịch nhaỷ toán Đông Dương, nói thẳng với rủi ro 50% là sẽ chết; tất cả đều từ chối. Prunier được gửi tới trường mật mã và dự kiến vào một sư đoàn Bộ Binh để sang Pháp chiến đấu. Nhưng đêm trước khi xuống tàu sang Pháp, ông được lệnh về Washington để vào toán OSS cho công tác đặc biệt, tên mật mã của nhóm là Deer Team (Toán Con Nai). Năm 1995, Prunier có tới thăm Hà Nội, họp mặt với các chiến binh Việt Minh ông từng giúp. Nhận ra ông, Tướng Võ Nguyên Giáp cầm một trái cam và ra vẻ như ném lưụ đạn theo kỹ thuật Prunier đã dạy cho ông. Tướng Giáp nói, “Đúng, đúng thế.” Đặc biệt, Prunier kể lại, rằng trong khi nhóm lính Mỹ huấn luyện Việt Minh, ông Hồ Chí Minh đề nghị cung ứng đàn bà đẹp Việt Nam và thuốc kích dục Đông y, nhưng nhóm lính OSS từ chối vì quân lệnh cấm. Tuy nhiên, Prunier chấp nhận quà tặng từ ông Hồ là một tấm thảm dệt và sau đó ông đưa về treo ở tường nhà. vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2013/05/den_cu_tran_dinh.pdf
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:52:02 GMT 9
Đinh Từ Thức Từ sinh nhật giả tới di chúc giả và đạo đức giả Từ 61 năm qua, ngày 19 tháng 5 đã được cộng sản Việt Nam coi là ngày sinh nhật chính thức của Hồ Chí Minh. Như nhiều người đã biết từ lâu, đây không chắc là ngày sinh nhật thật, mà có thể chỉ là một ngày được coi là sinh nhật của Hồ Chí Minh, để dùng cho một mục tiêu khác: lấy cớ mừng sinh nhật, để huy động dân chúng cắm cờ, đón đoàn quân Pháp trở lại Hà Nội vào tháng 5.1946. Dù ngày 19 tháng 5 là sinh nhật giả, cũng là chuyện dễ hiểu. Sống trong một xã hội mà mọi người đã quen với giả nhiều hơn thật: Độc lập giả, tự do giả, hạnh phúc giả, dân chủ giả, bầu cử giả, bằng giả, hàng giả, thành tích giả, đạo đức giả, sư giả, linh mục giả, v.v... Nên nếu cả nước có mừng một ngày sinh nhật giả, cũng chẳng sao! Nhưng, nếu sinh nhật của Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 5 thật hay giả, là điều còn bàn cãi, thì di chúc của Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản công bố năm 1969 chắc chắn là giả. Hiện nay, trên báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam có cả hai bản di chúc của Hồ Chí Minh, một giả, một thật. Bản di chúc được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam công bố vào năm 1969, sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đề ngày viết là 10 tháng 5 năm 1965, là bản di chúc giả. [1] Bản di chúc đề ngày viết là 15 tháng 5 năm 1965, được cho lên báo điện tử của Đảng Cộng sản ngày 9 tháng 7 năm 2005, là di chúc thật. [2] Người ta có thể nói rằng cả hai bản di chúc, dù khác nhau, đều là thật, vì bất cứ ai cũng có thể sửa lại, hay viết lại di chúc của mình nhiều lần. Nhưng ta có thể chắc, bản di chúc được công bố năm 1969, đề ngày 10 tháng 5 năm 1965 là giả, vì chẳng những khác về nội dung với di chúc sau này, mà còn một sơ sót tuy nhỏ nhưng chủ yếu, mà Bộ Chính trị đã không nhận ra. Chỉ riêng sơ sót nhỏ này đã đủ để chứng tỏ di chúc thứ nhất công bố năm 1969 không do Hồ Chí Minh viết năm 1965, mà do Bộ Chính trị viết năm 1969, khi Hồ Chí Minh qua đời. Điều sơ sót chủ yếu trong di chúc thứ nhất để phân biệt thật giả chỉ gồm có 6 chữ, là: “Năm nay, tôi vừa 79 tuổi”. Di chúc này đề ngày viết là 10 tháng 5 năm 1965. Năm sinh chính thức của Hồ Chí Minh là 1890. Vậy, nếu vào năm 1965 Hồ Chí Minh đã 79 tuổi, thì năm sinh phải là 1886, không thể là 1890. Hơn nữa, Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, thọ 79 tuổi. Thành ra, di chúc thứ nhất viết “tôi vừa 79 tuổi”, là viết vào năm 1969, rồi đề cả ngày, tháng, và năm giả, là 10 tháng 5 năm 1965. Di chúc thứ nhì là thật, Hồ Chí Minh đề ngày 15 tháng 5 năm 1965, nói rõ viết vào dịp mừng sinh nhật thứ 75, có Lê Duẩn chứng kiến, và 6 chữ chủ yếu là: “Năm nay, tôi đã 75 tuổi”. Năm 1965 đã 75 tuổi, tức là sinh vào năm 1890, hợp với năm sinh chính thức. Di chúc giả do Bộ Chính trị viết, và di chúc thật do Hồ Chí Minh viết có phần giữa giống nhau, nhưng phần đầu và phần cuối khác hẳn nhau. Phần đầu, di chúc giả viết: “… Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta…” Bộ Chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam, chẳng những đã viết ra một di chúc giả mạo, còn đặt vào miệng Hồ Chí Minh những lời lẽ khá nực cười. Bởi vì, trong di chúc, không bao giờ, và không ai viết tôi sẽ đi thăm nơi này nơi kia, hay sẽ gặp người này người khác, vì một lẽ giản dị là đã chết rồi, làm sao có thể đi đâu, hay gặp ai được nữa. Trong di chúc thật, không có phần đầu nực cười vừa rồi, mà có phần cuối nói về việc riêng, khá chi tiết, nguyên văn như sau: “… Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hoả táng". Tôi mong rằng cách "hoả táng" dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì "điện táng" càng tốt hơn. Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.” Ngày 7 tháng 11 năm 2006, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ký Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. [3] Cuộc vận động này bắt đầu từ ngày 03-02-2007 và tổng kết vào ngày 03-02-2011, có sơ kết hàng năm vào dịp sinh nhật “Bác” (19-5). Tư tưởng chớ nên tổ chức đám táng linh đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân, là tư tưởng hay, tuy chẳng mới mẻ gì. Muốn đốt xác thay vì chôn, cũng là theo ý hướng tốt. Bộ Chính trị mở cuộc vận động học tập và làm theo gương Hồ Chí Minh, nhưng đã viết di chúc giả, và làm ngược hẳn với di chúc thật của Hồ Chí Minh. Bằng chứng hiển nhiên là thay vì đốt xác theo di chúc, đã bắt chước Liên Xô, ướp xác “Bác” rồi trưng bày trong lăng miếu đồ sộ, khiến nhân dân không những lãng phí thì giờ và tiền bạc một lần cho đám táng linh đình, mà đã lãng phí thì giờ thăm viếng, và tiền bảo trì lăng cũng như bảo trì xác từ gần 40 năm qua. Bộ Chính trị đã vận động nhân dân theo gương Hồ Chí Minh, trong khi hành động trái ngược hẳn với ý muốn tốt của Hồ Chí Minh. Và mỉa mai thay, cùng lúc ấy, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hình như cũng không hề biết ngượng mồm, khi tuyên bố với cả nước rằng ông yêu nhất sự thật, và ghét nhất sự giả dối. © 2007 talawas [1]Đọc di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (công bố năm 1969): cpv.org.vn/details.asp?id=BT530749814 Di chúc thứ nhất, khi tác giả viết bài này, ghi năm 1965, nhưng đến khi hoàn thành bài viết thì năm ghi đã thay đổi thành 1969; Bạn đọc có thể tìm thấy bản di chúc có mâu thuẫn trong website của Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh: www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/web/tintuc/default.aspx?cat_id=614 [2]Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bút tích các bản thảo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1965-1969): cpv.org.vn/details.asp?id=BT97055044. [3]Đọc chỉ thị số 06CT/TW: cpv.org.vn/details.asp?id=BT254076790
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:53:55 GMT 9
Hồng Vân Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít? Năm 1956, lợi dụng lúc Đảng ta phát hiện một số sai lầm trong công tác, một số phần tử cơ hội chủ nghĩa vội vàng níu lấy “dịp may hiếm có” ấy để tung ra đủ thứ luận điệu, tấn công điên cuồng vào sự lãnh đạo của Đảng ta trên nhiều mặt đặc biệt là trên mặt văn nghệ. Bọn họ tưởng có thể há mồm thổi ra những luồng gió độc đủ làm khô héo hết cả vườn cây văn nghệ trẻ tuổi mà Đảng và nhân dân ta đã cố công vun trồng. Họ tưởng tung ra cái gậy tà thuật “tự do vô chính phủ” thì có thể đẩy giới văn nghệ ít nhiều được cách mạng rèn luyện sẵn sàng đi vào con đường đối lập với Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Và nhất là họ tưởng với áp lực của những luận điệu cơ hội Tơ-rốt-skít và cái công ty lừa bịp “ai viết nấy chịu trách nhiệm” là Đảng ta sẽ phải thay đổi đường lối văn nghệ, xa rời những nguyên tắc văn nghệ của Lê-nin, tự rút lui cương vị lãnh đạo của mình trên mặt trận văn nghệ nhường chỗ cho giai cấp tư sản và những đầy tớ tinh thần của chúng tha hồ hoành hoành phá phách. Nhưng bọn họ đã thất bại một cách nhục nhã. Như uống phải thuốc hùng hoàng, những tư tưởng “mác xít” giả hiệu của họ đã hiện nguyên hình là những tư tưởng chống Đảng chống chế độ, những tư tưởng rắn độc nguy hiểm. Có điều đáng lẽ phải từ bỏ những tư tưởng phản động nói trên, công khai thừa nhận sai lầm của mình, thì những phần tử đó trước sau vẫn kiên trì những tư tưởng và hoạt động của họ được Mỹ - Diệm ở miền Nam hết lời khen ngợi và khuyến khích. Còn một ngày nào, những tư tưởng phản động chưa chịu hạ khí giới đầu hàng, chúng ta còn phải tiếp tục đấu tranh vạch trần những tư tưởng phản động đó, nâng cao cảnh giác cách mạng và ý chí phấn đấu cho đường lối văn nghệ của Đảng và của giai cấp công nhân hoàn toàn thắng lợi. Trong số những người khoác áo Lê-nin-nít để xuyên tạc Lê-nin, phản lại Lê-nin, tuyên bố chịu sự lãnh đạo của Đảng để chống Đảng này, tôi muốn nói đến Trương Tửu. (Cố nhiên trong khi viết tôi sẽ vạch luôn chân tướng tư tưởng nhiều phần tử khác nữa chẳng hạn Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang v.v… cũng ở cái trong cái công ty “mác xít” giả hiệu kẻ hô người ứng, kẻ hát người vỗ tay này). Trương Tửu từ trước đến nay vẫn vỗ ngực tự nhận là một nhà “lý luận văn học mác xít”, (và sau này khi Cách mạng thành công thì nhận thêm là nhà “mác xít lê-nin-nít”). Không kể những bài, những sách viết trước cách mạng sặc sụa những lý luận phản mác xít những lý luận kiểu Tơ-rốt-skít, sau Cách mạng tháng Tám Trương Tửu có viết một quyển Tương lai văn Nghệ Việt Nam (Hàn Thuyên xuất bản) và gần đây một số bài viết trong “Giai phẩm” mùa thu mùa đông (Minh Đức xuất bản) đề cập đến những vấn đề về đường lối văn nghệ, quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Cả hai bài này tuy thời gian viết cách nhau hàng mười mấy năm, và cố nhiên có những chỗ khác nhau về chi tiết, căn bản là với dụng ý thần thánh hóa văn nghệ, đem văn nghệ đối lập với chính trị với sự lãnh đạo của Đảng đòi trả chuyên môn về cho chuyên môn đòi cho văn nghệ có quyền phát hiện những “sự thực toàn diện” (!) giúp cho giai cấp tư sản tấn công vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bộc lộ trắng trợn nhất là trong những bài báo gần đây, Trương Tửu lại nấp sau nhiều câu trích dẫn của Lê-nin và tự chứng minh đường lối của Trương Tửu là đường lối lê-nin-nít còn Đảng ta, Đảng lãnh đạo văn nghệ trong bao nhiêu năm nay là “đã không thực hiện đúng tinh thần của lý thuyết Lê-nin về quan hệ giữa văn nghệ và chính trị”. Vậy Trương Tửu là gì? Lê-nin hay phản Lê-nin? Lê-nin-nít hay thực chất là Tơ-rốt-skít? Bài viết này của tôi chỉ nhằm giải quyết vấn đề đó. Cũng chỉ vì nhằm giải quyết vấn đề này, cố nhiên tôi chưa phê phán hết mọi quan điểm lớn nhỏ của Trương Tửu, chỉ tập trung vào những điểm mà Trương Tửu cố tình xuyên tạc Lê-nin và nhai lại hoặc chế biến những luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít trong hoàn cảnh mới mà thôi. I. Hoàn cảnh Liên Xô trong những năm khôi phục kinh tế và tiến lên xã hội chủ nghĩa Tại sao tôi chưa đi thẳng ngay vào những “luận điểm” của Trương Tửu mà còn dài dòng nói đến những hoàn cảnh chính trị và đấu tranh tư tưởng trong văn học Liên Xô? Chính là vì, trong bài viết của mình, dưới đề mục “Tự do tư tưởng của người văn nghệ và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bôn-sê-vích” Trương Tửu cố chứng minh rằng chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích trong thời kỳ Lê-nin mới xác lập được quan hệ đúng đắn giữa văn nghệ và chính trị. Còn những Đảng khác cụ thể là Đảng lao động Việt Nam thì tinh thần lý thuyết của Lê-nin không được thực hiện đúng đắn. Dụng ý thật là thâm độc! Nhưng thâm độc hơn, Trương Tửu ngay khi đưa ra một cái mẫu về “quan hệ giữa chính trị và văn nghệ” kiểu Lê-nin (!) đã cố trình bày một cách xuyên tạc những ý kiến của Lê-nin và những quyết nghị của Đảng Bôn-sê-vích thành ra một thứ lý thuyết cơ hội chủ nghĩa, đồng lõa với luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít. Vạch toang cái màn dụng tâm đen tối đó ra, sẽ thấy rõ Trương Tửu là ai? Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít? Tôi muốn đi ngay vào hoàn cảnh Liên Xô trong những năm khôi phục kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế mới. Cố nhiên vào khoảng trước Cách mạng tháng Mười, trong những năm 1905-1907 Lê-nin đã phải đấu tranh chống những khuynh hướng tự do vô chính phủ, những khuynh hướng tự do tư sản, vạch mặt những nhà “mác xít hợp pháp” kiểu Strouvé, những nhà "mác xít" nói thay cho giai cấp tư sản, nói những điều mà giai cấp thống trị muốn nói. Giới thiệu được thời kỳ này cũng rất hay vì nó sẽ giúp cho các bạn đọc liên hệ được với các nhà "mác xít hợp pháp" ở nước ta kiểu nhóm Hàn Thuyên trong thời kỳ Pháp Nhật. Nhưng phạm vi bài này không cho phép. Tôi cũng không nói đến hoàn cảnh thời kỳ Nội chiến ở Liên Xô mà một số nhà văn “có tự do nội tâm” “có lương tâm nghệ thuật” đã khom lưng cúi cổ làm tay sai cho bọn Bạch vệ và bọn đế quốc bên ngoài. Giới thiệu thời kỳ này không phải không giúp cho bạn đọc thấy rõ chân tướng của bọn “làm văn” thực chất là những tên “mật thám cầm bút” chuyên nghề tác động tinh thần nhưng lại luôn mồm nói đến “nhân phẩm” và ngang nhiên chửi các nhà văn kháng chiến là “hèn” là “nô lệ cho chính trị.”… Và thường là bọn dưới bọn trên và những thứ “lương tâm nghệ thuật” cặn bã, những “điệu tâm hồn” phản phúc lại tìm gặp đến nhau: ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Nhưng tôi muốn phân tích hoàn cảnh Liên Xô trong những năm trước sau thời kỳ khôi phục kinh tế và cuộc đấu tranh văn nghệ phức tạp gay go trong thời kỳ này, vì trong những bài viết của họ, Trương Tửu và Nguyễn Hữu Đang khi nói đến những ý kiến của Lê-nin khi nhắc đến nghị quyết của Đảng về thời kỳ đó thường cố giải thích như Lê-nin và Đảng chỉ chống giáo điều máy móc và để cho văn nghệ “tự do không giới hạn” [1] , tha hồ tự phát theo con đường nào thì theo. Họ không hề nhắc đến một chữ cuộc đấu tranh gay go chống những khuynh hướng đối lập với Đảng và Chính quyền Xô-viết của những phần tử văn nghệ sĩ tư sản và nhất là của bè lũ Tơ-rốt-skít. Vậy hoàn cảnh Liên Xô trong những năm sau Cách mạng tháng Mười qua thời kỳ “chính sách cộng sản thời chiến” Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) đề ra chính sách kinh tế mới (NEP) một chính sách nhằm xây dựng nền kinh tế mới của đất nước Xô-viết nhằm củng cố khối liên minh kinh tế giữa công nhân và nông dân, nhưng đồng thời có buông lỏng một phần cho sự kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Một “giai cấp tư bản mới” phát sinh. Lê-nin chỉ ra rằng lúc đầu sự tự do thương mại sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản phục hồi một phần nào ở trong nước. Nhưng sự phục hồi nhanh chóng của công nghiệp nhà nước sẽ đấu tranh loại trừ dần những vết tích của chủ nghĩa tư bản trong nước. Vì thế xây dựng “Tân kinh tế” là một cuộc đấu tranh giai cấp sống còn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. “Ai sẽ thắng ai?” Đó là câu hỏi đặt ra. Bọn tả khuynh cho rằng thực hiện chính sách Tân kinh tế là bỏ rơi những thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, trở lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chính quyền Xô-viết chết. Bọn hoàn toàn đầu hàng như Tơ-rốt-sky, Di-nô-vi-ép thì không tin ở khả năng phát triển xã hội chủ nghĩa trong một nước, họ “quỳ gối” trước uy lực của chủ nghĩa tư bản và vì muốn làm vững vị trí của chủ nghĩa tư bản trong nước Xô-viết, họ đòi phải có những nhượng bộ quan trọng đối với tư bản tư nhân trong nước cũng như ở ngoài nước. Cả hai bọn cũng đều đi ngược với chủ nghĩa Lê-nin. Đó là về mặt kinh tế. Về chính trị, mặc dầu bọn Men-sê-vích và bè lũ Tơ-rốt-sky, đã thất thế, Đảng cộng sản (b) Liên Xô đã nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, nhưng những hoạt động đối lập với chính quyền Xô-viết với Lê-nin và Đảng vẫn còn tồn tại. Các nhóm đối lập vẫn còn nằm trong Đảng, chia rẽ phá hoại Đảng. Trong những ngày Lê-nin lâm bệnh nhất là sau khi Lê-nin mất, bọn Tơ-rốt-sky càng hoạt động già. “Trước nhất bọn Tơ-rốt-sky công kích bộ máy của Đảng. Chúng hiểu rằng thiếu một bộ máy rường cột vững vàng thì Đảng không thể tồn tại, không thể làm việc được. Phái đối lập tìm cách lay chuyển phá hoại bộ máy ấy làm cho đảng viên chống lại bộ máy của Đảng, khích cán bộ mới chống cán bộ cũ của Đảng. Trong thư, Tơ-rốt-sky nhằm vào thanh niên học sinh, nhằm vào các Đảng viên trẻ tuổi trong Đảng, vì hai hạng này không biết lịch sử đấu tranh chống chủ nghĩa Tơ-rốt-sky như thế nào. Muốn thu phục thanh niên học sinh, Tơ-rốt-sky phỉnh nịnh họ, gọi họ là cái “phong vũ biểu chắc chắn nhất của Đảng” đồng thời Tơ-rốt-sky tuyên bố rằng đội tiên phong cũ của chủ nghĩa Lê nin đã thoái hóa rồi” [2] . Ta có thể chia ra mấy luồng chính [3] : 1. Lý luận của Pơ-rô-lê-kun. Pơ-rơ-lê-kun là Hội văn hóa vô sản thành lập từ trước Cách mạng tháng Mười. Họ gồm nhiều nhóm khác nhau và ý kiến cũng có những điểm khác nhau. Họ ít nhiều có công trong việc đấu tranh cho nền văn hóa vô sản. Nhưng vì máy móc hẹp hòi họ rơi vào những lý luận sai lầm, thí dụ: họ cho rằng nền văn hóa tư bản là thối nát cực độ không có giá trị gì, và xây dựng văn hóa vô sản là phải cắt đứt với văn hóa cũ. Họ lẫn lộn văn nghệ và chính trị coi chủ nghĩa duy vật biện chứng với phương pháp sáng tác là một, họ đả kích kịch liệt nhóm “bạn đường” là nhóm mang nặng tư tưởng nghệ thuật tư sản nhưng một bộ phận lớn có khả năng đi với vô sản. Cuối cùng vì một bộ phận trong họ như Bogdanov v.v… là những phần tử trí thức tư sản cho nên họ cũng rơi dần vào lý luận nghệ thuật tư sản, thậm chí họ chủ trương tổ chức văn hóa vô sản độc lập với Đảng và chính quyền Xô-viết. Họ quan niệm rằng: “Hội văn hóa vô sản là tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản về văn hóa cũng như Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp về chính trị”. Một số trong bọn họ trở thành những phần tử Tơ-rốt-skít. Tên tơ-rốt-skít A-véc-bát và công ty sau này lại lũng loạn Hội R A P P (Hội nhà văn vô sản Liên Xô) đẩy Hội này đi vào con đường “tả” khuynh trở lại con đường của Pơ-rô-lê-kun thủa trước khiến Đảng phải ra nghị quyết cải tổ tổ chức của Hội đó [4] . 2. Lý luận của bè lũ Tơ-rốt-sky: Bị thất thế về chính trị, bọn Tơ-rốt-sky vội vàng tìm cách gây ảnh hưởng của chúng trước tiên trên lĩnh vực văn hóa. Chúng hoạt động rất mạnh. Tơ-rốt-sky viết khá nhiều về lý luận. Quyển Văn học và cách mạng của hắn có một ảnh hưởng nhất định trong đám văn nghệ sĩ tư sản. Hắn còn đọc nhiều diễn văn và “tham luận” trong các hội nghị văn nghệ. Ngoài lý luận ra, bọn Tơ-rốt-sky còn hoạt động bằng sáng tác, nhưng nguy hiểm nhất là chúng đã hoạt động chia rẽ, bè phái, đả kích vu khống các nhà văn xuất sắc của nền văn học vô sản. Luận điểm chính của bọn này là phủ nhận việc xây dựng một nền văn hóa vô sản vì chúng quả quyết không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước được. Chúng chủ trương chỉ có việc “đồng hóa” với văn hóa tư sản. Chúng đối lập văn nghệ với sự lãnh đạo của Đảng, “đòi tự do tuyệt đối” cho văn nghệ. Chúng đả kích việc Đảng dựa vào những nhà văn trung thành với giai cấp vô sản và đòi hỏi phải đoàn kết không điều kiện với nhóm “bạn đường” coi nhóm này như “trung tâm của văn học”. Bọn chúng chẳng “sáng tạo” được tác phẩm gì ra trò ngoài sự vu khống và kêu rên giả tạo, và cuối cùng cái thuyết “cách mạng thường trực” của chúng chỉ còn để bênh vực cho những hành động “thường trực phản cách mạng” mà thôi. 3. Lý luận của Lê-nin và những nghị quyết của Đảng Lê-nin-nít. – Trước hết ta phải nói đến bài “Tổ chức Đảng và văn học Đảng” của Lê-nin viết năm 1905. Sau này những ý kiến của Lê-nin và các nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô đều dựa trên cơ sở của bài diễn văn này. Nội dung của tất cả những văn kiện kể trên đều là đấu tranh bảo vệ những nguyên tắc văn nghệ của Đảng, giữ vững sự liên hệ giữa văn nghệ và chính trị, văn nghệ phải là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản do Đảng lãnh đạo, đặt vấn đề đảng tính của văn nghệ đồng thời cũng đề cập đến đặc điểm văn nghệ và phải dành phạm vi rộng rãi cho việc sáng tác văn nghệ, tính chủ động tích cực của người sáng tác văn nghệ. Các văn kiện đó đều mang một tính chất chiến đấu rõ rệt. Nó đấu tranh trên hai mặt: chống giáo điều máy móc và chống chủ nghĩa hữu khuynh cơ hội, và những quan điểm nghệ thuật tư sản và chủ nghĩa tự do vô chính phủ. Trong từng thời kỳ, vấn đề đặt ra có khác nhau, nhưng nội dung cơ bản đều nhất trí [5] . Cả ba luồng lý luận đó đã đấu tranh nhau sôi nổi, gay gắn, đúng như điều thứ 4 trong nghị quyết 1-7-1925 của Trung ương Đảng Cộng sản Nga: Chính như cuộc đấu tranh giai cấp trong nước ta còn chưa chấm dứt, cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ cũng còn chưa chấm dứt. Trong xã hội có giai cấp, không có mà cũng không thể có nghệ thuật trung lập tuy rằng giai cấp tính của nghệ thuật nói chung nhất là giai cấp tính của văn học, về hình thức biểu hiện so với chính trị càng nhiều màu nhiều vẻ hơn”. Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu trong khi trích dẫn Nghị quyết này đều đã không dám nhìn nhận một sự thực hiển nhiên đó mà nghị quyết đã vạch. II. Lý luận và hoạt động của bè lũ Tơ-rốt-sky về văn nghệ Trong phạm vi bài này, tôi không trở về phân tích những khuynh hướng sai lầm của Proletkult mà nhiều người đã biết. Tôi sẽ nói nhiều đến lý luận và hoạt động của bè lũ Tơ-rốt-sky mà Trương Tửu và công ty đã chế biến, nhai lại và coi như một “bửu bối” để tấn công vào đường lối văn nghệ của ta, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng. Tôi sẽ không trình bày ra đây toàn bộ lý luận của bè lũ Tơ-rốt-skít và chỉ tập trung vào những luận điểm chính. Trong các thứ “chủ nghĩa xét lại” về văn nghệ có thể nói những luận điểm của bè lũ Tơ-rốt-skít là trắng trợn nhất vì nó phủ nhận hoàn toàn việc xây dựng “một nền văn hóa vô sản”. Chúng lợi dụng lúc phê bình sự hẹp hòi máy móc của Pơ-rô-lê-kun và cắt đứt với di sản văn hóa cũ, “xây dựng một nền văn hóa vô sản mới tự trên giời rơi xuống” như Lê-nin đã nói để đưa ra cái lý luận cơ hội chủ nghĩa của chúng ra. Trong quyển Văn học và cách mạng (Trang 9) Tơ-rốt-sky đã viết: “Chỗ khác nhau căn bản giữa giai cấp vô sản và chủ nô, quí tộc phong kiến cho đến giai cấp tư sản là ở một điểm: giai cấp vô sản coi thời kỳ chuyên chính của mình là một thời kỳ quá độ rất ngắn. Giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ ngắn ngủi đó có thể sáng tạo ra một nền văn hóa mới không? Đề xuất nghi vấn này có lý do của nó. Vì rằng thời kỳ cách mạng xã hội là một thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, trong đó phá hoại chiếm một địa vị nhiều hơn là xây dựng mới… Vì rằng lúc đó, giai cấp vô sản cố nhiên ở trong một sự khẩn trương cao độ cho đến giai cấp tính toát ra một cách đầy đủ, tất nhiên tính khả năng xây dựng về văn hóa có kế hoạch không thể không bị giới hạn trong một phạm vi hết sức chật hẹp. Cho nên, trong thời kỳ chuyên chính, chúng ta tuyệt nhiên không bàn đến sáng tạo văn hóa mới, tức là cơ hội xây dựng những giá trị lịch sử lớn nhất mà chỉ đến lúc không còn ở trong bộ máy bằng sắt mà gọi là chuyên chính thì lúc ấy mới có thể xây dựng được một nền văn hóa xưa nay chưa từng có mà lại là nền văn hóa không có giai cấp tính. Do sự thực đó mà không thể không đi đến kết luận rằng: Văn hóa vô sản không những bây giờ không có mà tương lai cũng không thể có được”. Đó là một thứ lý luận cơ hội chủ nghĩa hết sức nguy hiểm. Ai cũng biết rằng từ cái thuyết “cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành công trong một nước” đi đến “cách mạng thường trực” “bộ máy bằng sắt gọi là chuyên chính” tất nhiên bè lũ Tơ-rốt-sky phải phủ nhận việc xây dựng văn hóa vô sản. Những lý do mà Tơ-rốt-sky nêu ra nào là “đấu tranh giai cấp quá khẩn trương không có thì giờ nghỉ ngơi” nào là “phá hoại chiếm địa vị nhiều hơn xây dựng v.v…” không đủ để bênh vực cho luận điệu cơ hội chủ nghĩa của hắn. Cũng trong quyển sách ấy hắn viết: “Những danh từ như: Văn học vô sản, và văn hóa vô sản thật là nguy hiểm bởi vì những danh từ ấy hạn chế văn hóa của tương lai trong khuôn khổ của hiện tại”. Tại sao Tơ-rốt-sky kiên quyết chống xây dựng văn hóa vô sản như vậy? Chính đúng như trong Đại hội các nhà văn vô sản toàn Liên Xô (1-1925) đã vạch: “Tơ-rốt-sky đưa ra cái lý do chúng ta đang hướng về xã hội vô sản, phủ nhận khả năng nghệ thuật và văn học của giai cấp vô sản, nhưng cũng cùng với lý do này chủ nghĩa Men-sê-vích phủ nhận sự tất yếu của chuyên chính giai cấp, nhà nước giai cấp, và cũng cùng với lý do này, chủ nghĩa vô Chính phủ phủ nhận sự tất yếu của Đảng và Nhà nước…”. Vì thế thực chất của lý luận không thể xây dựng văn hóa vô sản là muốn phủ nhận vô sản chuyên chính, hay ít nhất cũng là muốn tách rời thậm chí đối lập việc xây dựng chính quyền vô sản và văn hóa vô sản. Không xây dựng văn hóa vô sản thì xây dựng gì? Đó là chỗ bí của bè lũ Tơ-rốt-sky nhưng cũng là dụng ý của chúng. Tơ-rốt-sky cho rằng giai cấp vô sản chỉ cần “đồng hóa với văn hóa tư sản” nghĩa là đi theo con đường văn hóa tư sản. Mao Trạch Đông trong bài nói chuyện về văn nghệ ở Diên An đã nói, đó là thứ nhị nguyên luận của Tơ-rốt-sky “về chính trị theo chủ nghĩa Mác, về nghệ thuật theo giai cấp tư sản”. Từ lý luận hoàn toàn phản bội Lê-nin này Tơ-rốt-sky và bè lũ cho rằng Đảng có thể “can thiệp” vào văn nghệ, nhưng chỉ “lãnh đạo phương hướng” còn để cho văn nghệ được “tự do tuyệt đối”. Bọn chúng phản đối việc xây dựng đội ngũ văn học của giai cấp vô sản, đả kích những nhà văn phục vụ tích cực cho chính quyền Xô-viết và coi nhóm “bạn đường” như “trung tâm của văn học”, trong khi Đảng chủ trương: “Việc lãnh đạo vể phương diện văn học ngay cả những phương tiện tư tưởng và vật chất tất cả đều thuộc về giai cấp công nhân. Quyền lãnh đạo của các nhà văn vô sản hiện nay còn chưa có, Đảng phải giúp cho các nhà văn đó tự mình nắm được cái quyền lợi lịch sử là quyền lãnh đạo này.” (điều 9 của nghị quyết 1-7-1925). “Về quan hệ với nhóm “bạn đường” phải chú ý: a) sự phân hóa của họ, b) tính chất trọng yếu của những “chuyên gia” lành nghề về kỹ thuật văn học của nhiều người trong bọn họ, c) tình hình dao động của một số nhà văn đó. Ở đây phương châm chung là đặt quan hệ chiến thuật thận trọng đối đãi với họ tức là bằng cách nào cho họ mau chóng chuyển biến đến tư tưởng chủ nghĩa cộng sản. Trong lúc Đảng bài trừ những phần tử phản cách mạng và phản vô sản (hiện nay ít đến nỗi không cần nói nữa), trong khi Đảng đấu tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản mới hình thành trong hàng ngũ những người “bạn đường” thuộc bộ phận “Đổi tiêu” [6] Đảng cần có thái độ kiên nhẫn đối đãi với hình thái tư tưởng trung gian, phải nhẫn nại giúp đỡ cho rất nhiều hình thái tư tưởng tất nhiên đó, mất dần trong quá trình công tác chặt chẽ với lực lượng văn hóa cộng sản chủ nghĩa” (điều 10 của nghị quyết trên). Tất nhiên là khi trích dẫn nghị quyết này, Trương Tửu đã không trích dẫn điều 9 nói trên, vì Trương Tửu cũng “lý luận” như Tơ-rốt-sky là Đảng không lãnh đạo “bằng tổ chức” và để cho văn nghệ sĩ “hoàn toàn tự do sáng tác”. Đối với điểm nghị quyết sau thì Trương Tửu cũng không dám “phát hiện sự thực toàn diện” nốt; Trương Tửu cắt béng đi ngay cái khúc giữa nói về việc Đảng bài trừ những phần tử phản cách mạng và phản vô sản, đấu tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản mới hình thành và thay bằng ba cái chấm (…) vì thực tế Trương Tửu cùng một nhận định với Tơ-rốt-sky về nhóm “bạn đường” cùng khẳng định văn nghệ = sự thực, văn nghệ sĩ = phát ngôn nhân của “sự thực toàn diện”, làm gì có hạng văn nghệ phản cách mạng, phản vô sản, làm gì có tư tưởng tư sản trong văn nghệ sĩ. Chỉ có tư tưởng phi vô sản trong Đảng mà thôi! Chỗ gặp gỡ thiêng liêng nhất giữa Tơ-rốt-sky và Trương Tửu là ở đó. Chẳng thế mà Trương Tửu đã cắt xén, xuyên tạc hẳn điều 12 trong nghị quyết nhấn mạnh về nhiệm vụ phê bình của Đảng như sau: “Phê bình, một công cụ giáo dục chủ yếu mà Đảng nắm trong tay, nhiệm vụ nói chung là do tình hình trên quyết định. Phê bình cộng sản chủ nghĩa phải là một phút cũng không bỏ rơi lập trường cộng sản, mảy may cũng không vi phản tư tưởng vô sản. Phải vạch trần ý nghĩa giai cấp khách quan của các tác phẩm văn học, đấu tranh không nhân nhượng với hiện tượng phản cách mạng trong văn học, bóc trần thứ chủ nghĩa tự do của nhóm “Đổi tiêu” v.v… Nhưng đồng thời đối với tất cả các nhóm văn học có thể và chắc chắn đi theo giai cấp vô sản thì phải tỏ ra hết sức chu đáo, thận trọng và nhẫn nại…” Cái điểm nghị quyết quan trọng này chỉ được Trương Tửu trích từ đoạn “Nhưng đồng thời…”. Còn phần trên Trương Tửu phớt đi không hề nhắc đến. Vì nếu Tơ-rốt-sky đã đề cao nhóm “bạn đường” là “trung tâm của văn học”, không vạch rõ tư tưởng tư sản trong bọn họ và Trương Tửu đã “trót” đề cao văn nghệ sĩ là siêu nhân là “vô sản” nhất về tư tưởng “yêu sự thực hơn Đảng” thì làm gì còn dám nói phê bình văn học là một công cụ của đấu tranh giai cấp? Đấu tranh không nhân nhượng với hiện tượng phản cách mạng trong văn học? Một điểm đặc biệt của lý luận Tơ-rốt-skít về văn học trong thời kỳ cách mạng chủ nghĩa là xóa mờ tính chất giai cấp của văn học, đề cao hết sức đặc tính của văn nghệ, và bản chất tiến bộ của văn nghệ sĩ, hạ thấp đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng về văn nghệ hoặc cho nó một vài cái danh không có thực. Các nhà lý luận kiểu đó từ Vo-rôn-sky đến Var-đin, từ Bu-kha-rin đến A-véc-bat lúc đầu tuy cũng có công kích Tơ-rốt-sky điểm này hay điểm nọ, nhưng cuối cùng cũng đều “nối gót dũng cảm” của nhau đứng về một trận tuyến: phản bội nguyên tắc văn học của Lê-nin, đồng lõa với bè lũ Tơ-rốt-sky phá hoại sự lãnh đạo về văn nghệ của Đảng và cuối cùng là phản cách mạng. Bọn chúng đưa ra đủ các thứ lý luận duy tâm về văn nghệ, dựa vào các tờ báo như Đất đỏ chưa khai hoang và Xuất bản và cách mạng, các tổ chức như “Đường núi” “Xây dựng”, len lỏi vào các nhà xuất bản, các quỹ văn học, để cố đẩy cái “Văn học chống cách mạng” của chúng ra. Bè lũ Tơ-rốt-skít ra sức đả kích Gor-ki mà chúng gọi là nhà văn tiểu tư sản, mạt sát Mai-a-kốp-ski mà chúng gọi là nhà thơ “cổ động” nghĩa là phục vụ kịp thời chính trị của Đảng. Chúng cho rằng chính vì Mai-a-kốp-ski thiết tha phục vụ cho đường lối chính trị của Đảng nên trong tác phẩm, nghệ thuật tính càng nghèo nàn đi [7] , Nhưng chính Mai-a-kốp-ski, thì lại phê phán chúng: “Trong văn học, thiếu mục đích rõ ràng, thiếu khuynh hướng giai cấp, không đem thơ ca làm võ khí đấu tranh đó là đặc trưng của chủ nghĩa “xây dựng” (contructivisme) [8] . Bọn Tơ-rốt-skít lợi dụng những tác phẩm hoàn toàn vu khống xã hội Xô-viết của Za-mi-a-tin, Pê-ri-loóc, v.v… mà Mai-a-kốp-ski gọi là những tác phẩm “có thể tăng thêm kho thuốc nổ cho quân thù” “Giữa cái ngày hôm nay mây đen còn bao phủ thì đó cũng ngang như sự phản bội ngay giữa mặt trận” [9] . Chúng dùng những tác phẩm kiểu ấy vào mục đích bôi nhọ Đảng và chính quyền Xô-viết để góp sức vào tiếng hô lừa bịp của chúng: “Đảng đã thoái hóa rồi!. Sự xung đột giữa công nhân và nông dân tất sẽ xảy ra, chính quyền Xô-viết sẽ tan vỡ và chế độ xã hội chủ nghĩa không thể đứng vững được!”. Chúng hô như vậy và chúng hành động cho đạt được âm mưu như vậy. Cuối cùng Tơ-rốt-sky và bè lũ chỉ còn là một bọn phản cách mạng ti tiện nữa mà thôi. Cái “công ty chuyên nghề khiêu khích” có âm mưu phá hoại ở Việt Nam cũng đang học mót những thủ đoạn tốt đẹp này. Chẳng thế mà Đảng Cộng sản Liên Xô phục hồi cho một số đồng chí bị xử trí oan thì cái công ty đó vội truyền ra cái tin bịa đặt: “Tơ-rốt-sky được phục hồi rồi!”. Thậm chí có phần tử vỗ ngực la ầm lên rằng: “Tơ-rốt-skít ở đây chứ ở đâu!”. Thật thảm hại cho cái hy vọng mong manh của những phần tử cơ hội của phường phản bội.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:54:38 GMT 9
III. Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít?
Giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin và luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít là một cái hố hoàn toàn cách biệt nhau như nước với lửa, như nóng với lạnh. Những kẻ muốn đem dung hòa hai lý luận đó đều bị thất bại thảm hại. Những kẻ muốn đem cái chiêu bài chủ nghĩa Mác – Lê-nin để che đậy cho những lý luận cơ hội chủ nghĩa Tơ-rốt-skít lại càng thất bại nhục nhã. Vì để bên cạnh những ý kiến của Mác – Lê-nin, các quan điểm của Tơ-rốt-skít càng lộ nguyên hình như những hình thù xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng.
Bọn Tơ-rốt-skít trên thế giới cuối cùng đều tự lột trần cái chân tướng phản bội của chúng và con đường dắt chúng đi đều là con đường khuất phục trước thế lực tư bản, chống cách mạng điên cuồng. Ở nước ta, bọn Tơ-rốt-skít cũng không thoát ra ngoài cái quy luật nghiệt ngã đó. Hãy lấy ngay bọn Tơ-rốt-skít trong nhóm Hàn Thuyên (Cố nhiên những người cộng tác trong nhóm Hàn Thuyên không phải đều là Tơ-rốt-skít cả, và có những người hiện nay rất tiến bộ). Bọn này chỉ “mác xít” khi nào được đế quốc cho phép. Chủ nghĩa “mác xít” đầu miệng của chúng hoàn toàn khác xa cái chủ nghĩa mác xít của những người cách mạng bị giam cầm và cấm đoán. Mỗi một bước ngoặt quan trọng của lịch sử, bọn chúng lại tự bóc trần ra cái chân tướng phản cách mạng, phản lại chủ nghĩa Mác. Trong những ngày trước khởi nghĩa 1945 bọn Tơ-rốt-skít Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế Mỹ đã trở thành những tên phản cách mạng hèn mạt. Ngày nay, trong giai đoạn đất nước còn chia cắt, bọn Tơ-rốt-skít Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu công khai chửi chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, chửi thuyết đấu tranh giai cấp, khom lưng quỳ gối ca ngợi, sùng bái chủ nghĩa “cần lao nhân vị” của bè lũ Mỹ - Diệm ở miền Nam. Bộ mặt thực “mác xít” đẹp đẽ của chúng là như vậy!
Trương Tửu sau bao năm ở ngoài vùng kháng chiến, vẫn chưa từ bỏ được quan điểm Tơ-rốt-skít cũ của mình, gần đây lại trở về đường cũ, khoác một chiếc áo mới: chủ nghĩa Lê-nin. Không thể nhầm lẫn được! Rút đi tất cả những ý kiến của Lê-nin mà Trương Tửu trích dẫn trình bày một cách xuyên tạc cắt xén ta sẽ tìm thấy bản chất tư tưởng của Trương Tửu tư tưởng Tơ-rốt-skít.
Cách mạng thường trực – Sự phản kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại – Chỉnh lý quan hệ sản xuất mới.
Chúng ta không lạ gì cái luận điểm căn bản của chủ nghĩa Tơ-rốt-sky về cách mạng là “Cách mạng thường trực”. Theo Tơ-rốt-sky thì xã hội chủ nghĩa không thể thành công trong một nước; giai cấp vô sản sau khi làm cách mạng thành công trong một nước, phải tiến lên làm cách mạng thế giới ngay thì mới đánh đổ được giai cấp tư bản. Vì thế giai cấp vô sản phải ở trong tình trạng “cách mạng thường trực”. Luận điểm này bị Lê-nin hoàn toàn đập gãy bị cái thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lật nhào ngay từ khi nó mới ra đời. Và từ đó “Cách mạng thường trực” đối với bè lũ Tơ-rốt-sky chỉ còn có nghĩa là tấn công thường xuyên vào Đảng Bôn-sê-vích và nhà nước xã hội chủ nghĩa, chỉ còn là thường trực chống lại chế độ xã hội, thực tế xã hội do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mà nghĩa là “thường trực phản cách mạng” thôi.
Trương Tửu từ lâu bị tiêm nhiễm nọc độc của lý luận này, nhất là luận điệu của tên văn sĩ phản động André Gide [10] : “gieo rắc vào tâm trí mọi người chất men phản kháng bất phục tòng”. Trương Tửu đề cao André Gide lên hàng văn nghệ sĩ “chân chính” và coi lời y như một phương châm văn nghệ cách mạng. Trong quyển Tương lai văn nghệ Việt Nam xuất bản sau khi chính quyền dân chủ nhân dân đã thành lập, Trương Tửu định nghĩa về văn nghệ: “Văn nghệ là gì nếu không phải là sự phản kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại” và lớn tiếng kêu gọi: “Trong lúc này, một nền văn nghệ xứng với tên của nó, phải xô đẩy người đương thời đến một thái độ “chống hiện tại” “phá đổ hiện tại”. Cái “hiện tại” trước mắt mà Trương Tửu đòi phá đổ lại chính là cái hiện tại chúng ta đang cần xây dựng. Nhiệm vụ của văn nghệ cố nhiên là phải chống với chế độ áp bức bóc lột, chống với mọi bất công tàn ác. Nhưng nó không phải chỉ là chống đối để mà chống đối. Nó biết chống đối cái gì, úng hộ cái gì, nó phải đứng về đâu để chống đối đồng thời để mà xây dựng. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội nhất định, là một võ khí của đấu tranh giai cấp. Vậy thì sao ngay sau khi chính quyền dân chủ nhân dân đã thành lập, Đảng của giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, Trương Tửu lại ném ra cái luận điệu “chống hiện tại” “phá đổ hiện tại”. Dù Trương Tửu có “nói theo lối của văn nghệ” đi nữa (chứ không phải là “lối của người hành động” như Trương Tửu đã viết) thì người ta cũng biết “sự phản kháng thường xuyên đối với hiện tại” nói theo lối văn nghệ của Trương Tửu cũng đồng một nghĩa với “cách mạng thường trực” nói theo lối chính trị, nói theo lối hành động của Tơ-rốt-sky.
Cái điểm lý luận này hầu như đã trở thành nền tảng cho tư tưởng, thái độ của Trương Tửu đối với thực tế chế độ, thực tế xã hội của chúng ta. Sự phân biệt xã hội ta hiện nay với xã hội thực dân, phong kiến đối với Trương Tửu chỉ còn là hình thức. Trương Tửu nhìn sai lầm của ta cũng như những tội ác của giai cấp bóc lột, nhìn bộ máy lãnh đạo của ta cũng như bộ máy thống trị của chúng. “Cách mạng thường trực” “sự phản kháng thường xuyên đối với hiện tại” “chỉ chống sùng bái cá nhân trong lãnh đạo” “chỉnh lý quan hệ sản xuất mới”, bấy nhiêu danh từ tuy có khác nhau, nhưng căn bản vẫn là một: chĩa mũi nhọn đả kích vào cơ sở chế độ của chúng ta, bộ máy lãnh đạo của chúng ta mà tấn công kịch liệt. Dưới chiêu bài phát hiện sự thực, giúp Đảng sửa chữa sai lầm Trương Tửu bịa đặt ra cái “mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất dân tộc và quan hệ sản xuất mới” “tự do văn nghệ sĩ mâu thuẫn với lãnh đạo của Đảng” hòng làm lạc mất cái hướng mâu thuẫn chủ yếu giữa “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa” giữa “tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng tư sản” mà thực tế xã hội miền Bắc chúng ta đang đặt ra một cách gay gắt [11] .
Cùng một luận điểm này, Nguyễn Hữu Đang chưa bao giờ là “người làm văn nghệ” bỗng nhảy ra trở thành “một thứ trùm” cho nhóm văn nghệ sĩ cơ hội chủ nghĩa hay nói đúng hơn một “tên trùm khiêu khích gian hiểm”, dõng dạc “tham luận” (!): “Bất cứ phát hiện sự việc gì, hoặc tìm cách giải quyết vấn đề gì, Tổ chúng tôi đều thấy cái nút cuối cùng ở chỗ lãnh đạo!”
Thế là cùng xướng cùng họa, nối gót nhau, bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn khiêu khích hèn mạt trút tất cả mọi lời vu khống vào Đảng ta và chế độ chúng ta. Họ không từ một lời nói hiểm độc, một thủ đoạn hèn hạ nào để có thể hạ sự lãnh đạo của Đảng ta xuống, để “phá đổ cái hiện tại mà chúng ta đang xây dựng, để “gieo vào tâm trí quần chúng chất men phản kháng và bất phục tòng”. Trương Tửu cố phân tích một cách khôn khéo và thâm độc cho mọi người có thể hiểu Đảng ta là một “chính đảng đã mất tính chất giai cấp vô sản, không đại diện cho giai cấp vô sản nữa, phản bội Mác Lê-nin, phản bội tinh thần cộng sản chủ nghĩa”, cố chứng minh những cán bộ của Đảng chỉ là những phần tử quan liêu mệnh lệnh y hệt như luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít đã từng vu khống Đảng Bôn-sê-vích: “Đội tiền phong cũ của chủ nghĩa Lê-nin đã thoái hóa rồi”.
Istvan Kovacs ở Hung-ga-ri khi phê phán tư tưởng và hoạt động của bọn văn sĩ chống Đảng ở đây cũng đã viết trong bài “Phấn đấu cho một nền văn học có đảng tính”:
“Chúng ta không lạ gì điều đó, Tơ-rốt-sky và bè lũ Tơ-rốt-skít cũng đã từng gọi Đảng và Ban chấp hành trung ương là “Phòng giấy” và những chiến sĩ của Đảng là “thư lại quan liêu”… Lập trường vô chính phủ, chống Đảng của Tibor Dery thể hiện rõ trong tất cả tác phẩm của Dery bắt đầu từ việc phiên dịch quyển sách chống Liên Xô của tên Tơ-rốt-skít André Gide cho đến những hoạt động hiện hành của hắn”.
Các thứ luận điệu Tơ-rốt-skít của Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang dù có trá hình xảo quyệt, dù có nấp sau các ý kiến của Lê-nin vẫn không lừa dối được ai. Thứ luận điệu đó mở rộng ra và hình tượng hóa thì nó sẽ thành “bất mãn” của Sĩ Ngọc, “không bằng lòng hiện trạng”, “Hãy đi mãi” của Trần Dần “dấn vào kho thuốc nổ của đời sống” của Lê Đạt, “người khổng lồ không tim” của Trần Duy”. “Nội dung xã hội và hình thức tự do” của Trần Đức Thảo, “con lợn” “con rùa” của Phan Khôi… và các thứ luận điệu thành văn hay bằng miệng vu khống chế độ và Đảng của chúng ta. Dù nhóm Nhân văn – Giai phẩm có man trá đặt vấn đề “Ai viết người nấy chịu trách nhiệm” chúng ta cũng thừa biết trừ một số ít người cộng tác chưa có ý thức rõ rệt, còn hầu hết là cùng hội cùng thuyền, một đồng một cốt quá khứ và hiện tại thối nát giống nhau, “lương tâm” phản phúc và “điệu tâm hồn” độc địa giống nhau, cùng cấu kết chặt chẽ với nhau, chung một âm mưu thâm độc với nhau, cùng theo một tư tưởng chính trị thống nhất do bọn “trùm” vạch ra: chống Đảng ta, chống chế độ ta, bằng những luận điệu và phương pháp hoạt động mà bè lũ Tơ-rốt-skít xưa nay vẫn quen dùng. Những luận điệu Tơ-rốt-skít đó trước tiên là ở Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo nhưng nó dần dần là luận điệu chung của cả công ty.
Một công thức bịp bợm và phản động về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ
Đối với Trương Tửu, tất cả những gì có thể gò vào “công thức” là y như họ Trương không ngần ngại vồ lấy cắt đầu cắt đuôi, xén chân xén tay để nhét cho vừa cái khuôn “công thức” đã định sẵn. Ta đã biết và đã nói nhiều đến cái công thức “văn nghệ hướng dẫn chính trị” của Trương Tửu. Muốn chứng minh cho cái công thức này, Trương Tửu đã viện đến các quan điểm duy tâm nhất, thần bí nhất về nghệ thuật. Những nào là “lương tâm nghệ thuật” “tự do nội tâm ” những nào là các văn nghệ sĩ cố điển “hoàn toàn theo sự suy nghĩ riêng, sở nguyện riêng, lương tâm riêng của bản thân họ. Họ hoàn toàn độc lập tác chiến, độc lập tư tưởng, độc lập sáng tác” v.v… dù chế độ thống trị có đàn áp bóp nghẹt tư tưởng đi bao nhiêu nữa, “họ vẫn hoàn toàn tự do tư tưởng”, v.v… Trương Tửu càng cố thần thánh hóa văn nghệ sĩ, đưa họ lên mây bao nhiêu, càng lộ rõ chân tướng phản bội chủ nghĩa Mác, càng tự khắc lên trán mình cái nhãn hiệu duy tâm thần bí đến cực độ bấy nhiêu. Trong bài này tôi không muốn đi sâu vào những vấn đề đó. Tôi muốn nói cái công thức thứ hai, cái công thức mà có thể nói Trương Tửu dồn vào đấy nhiều tâm huyết, nhiều dã tâm nhất đó chính là vấn đề “tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích” hay cũng có thể nói “quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, giữa Đảng và văn nghệ sĩ”. Thực ra thì tất cả những cái tiền đề trên kia, những lý luận dài dòng trên kia cuối cùng chỉ là để chứng minh cho cái vấn đề quan trọng đặt ra dưới này. Ta hãy tìm hiểu cái công thức của Trương Tửu, phân tích xem nó là cái nguyên lý của Lê-nin hay công thức bịp bợm của Tơ-rốt-skít?
Cái công thức của Trương Tửu có thể xếp như sau: “Yêu cầu cơ bản của giai cấp vô sản cách mạng hoàn toàn thống nhất với yêu cầu cơ bản của tư tưởng nghệ thuật” tức là “nhận thức đúng về sự thật toàn diện của xã hội của con người”. “Không phải một chính đảng cứ tự mệnh là tham mưu của giai cấp vô sản thì tự nhiên nó mang tính chất vô sản trong mọi chủ trương, chính sách, tác phong lãnh đạo”. “Nhưng “tinh túy của nghệ thuật là sự thực”. “Văn nghệ sĩ có nhiệm vụ phát hiện sự thực trăm màu nghìn vẻ của con người của xã hội để giúp Đảng nhìn đúng thực tế khách quan. Họ phát hiện những vấn đề do sự thực nêu ra để làm cơ sở cho Đảng vạch chủ trương chính sách. Họ vào thực tế nhìn sự thật để kiểm tra chủ trương chính sách của Đảng”.
Vì vậy, “một Đảng cộng sản chân chính phải tạo đầy đủ điều kiện cho văn nghệ sĩ làm tròn nhiệm vụ phát hiện sự thật sâu sắc của cuộc sống” “tuyệt đối không ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thực một cách hoàn toàn tự do”.
Nếu như “sợ sự thực, ngăn cấm nói sự thực, không căn cứ sự thực toàn diện (mà văn nghệ sĩ kiểu nhóm Nhân văn phát hiện) để vạch đường lối chủ trương chính sách…” thì Đảng “đã mất tính chất giai cấp vô sản, không đại diện cho giai cấp vô sản nữa, phản bội Mác Lê-nin, phản bội tinh thần cộng sản chủ nghĩa”.
Và cuối cùng, nếu không được hoàn toàn tự do sự thực toàn diện (kiểu Trương Tửu) thì văn nghệ “nó cũng tự tạo cho nó điều kiện đó”, vì “văn nghệ sĩ yêu Đảng nhưng họ còn yêu sự thực hơn Đảng”, và Trương Tửu dọa dẫm rằng: “Đảng đừng để văn nghệ sĩ vì sự thực mà đối kháng lại Đảng”. Trương Tửu cho đó là cái công thức đúng đắn nhất về “quan hệ giữa văn nghệ và Đảng” “mà các vị lãnh tụ cộng sản vĩ đại đều hiểu như vậy”.
Không bịp được đâu hỡi nhà “lý luận” phản động Trương Tửu. Các vị lãnh tụ “cộng sản” (!) mà Trương Tửu nói đây chẳng phải ai xa lạ mà chính là các vị lãnh tụ Tơ-rốt-skít mà Trương Tửu hết lòng sùng bái. Cái công thức mà Trương Tửu dày công bịa đặt ra kia chính là một cái công thức rất bịp bợm và phản động nó chứng mminh rằng: chính trị phụ thuộc vào văn nghệ (như ốc-xy-gien phụ thuộc vào không khí), chính trị phải phục tùng văn nghệ, Đảng phải tuân theo sự hướng dẫn của văn nghệ sĩ và nếu như có sự đối lập thì đó là vì Đảng chứ không phải vì văn nghệ sĩ.
Để cho cái công thức phản động kia có thể lừa dối được những người ngây thơ, non nớt, có thể che đậy được cái dã tâm đẩy văn nghệ sĩ đi vào sự đối lập với Đảng, Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang và công ty cũng như bè lũ Tơ-rốt-skít trước kia đã thổi phồng cái gọi là “bản chất tiến bộ của văn nghệ và trí tuệ”, “lương tâm nghệ thuật” coi như văn nghệ tự thân là cách mạng tiến bộ, là sự thực, “văn nghệ sĩ cứ tự nhiên hứng về chân thiện mỹ” còn Đảng thì trái lại rất có thể “mất tính chất vô sản”.
Bọn họ cố tình không nhìn nhận văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội, tước bỏ tính chất giai cấp của văn nghệ. Họ cố tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa văn nghệ cách mạng và văn nghệ phản cách mạng hoặc xa rời cách mạng. Họ cố tình không phân biệt những văn nghệ sĩ cách mạng tận tụy vì cách mạng, đem ngòi bút phục vụ cách mạng, đi vào cách mạng mà vẫn vui lòng, chịu sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân mà vẫn thấy tự do tư tưởng với thứ văn nghệ sĩ nhục nhã quỳ gối trước thế lực đồng tiền bán rẻ “lương tâm nghệ thuật” cho bọn đầu cơ văn hóa, thứ văn nghệ sĩ thực tế chỉ là những tên mật thám cầm bút, những tên tác động tinh thần chính cống. Thứ văn nghệ sĩ này cố nhiên chỉ “phát hiện được những sự thực toàn diện” mà bọn thù địch mong muốn nhưng lại bị quần chúng lao động khinh bỉ, lên án. Thứ văn nghệ sĩ này tất nhiên là sẽ thấy “lương tâm nghệ thuật” cặn bã của mình đối lập với cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng cách mạng.
Văn nghệ cách mạng về bản chất thống nhất với chính trị cách mạng, văn nghệ sĩ cách mạng về bản chất thống nhất với sự lãnh đạo của Đảng cách mạng. Nhưng cái quan hệ chính xác nhất vẫn là chính trị lãnh đạo văn nghệ, Đảng lãnh đạo văn nghệ dù rằng do đặc điểm của văn nghệ, sự lãnh đạo ở khu vực này không thể rập khuôn với các công tác cách mạng khác mà phải dành nhiều phạm vi rộng rãi cho sự sáng tác, tôn trọng tính chủ động sáng tạo của người văn nghệ sĩ.
Muốn giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và văn nghệ sĩ không phải như Trương Tửu đã nói là Đảng phải để cho văn nghệ sĩ “tự do phát hiện sự thực toàn diện” mà trước tiên Đảng phải giúp đỡ văn nghệ sĩ nhận thức được sự nghiệp văn nghệ phải là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng nói chung, giúp cho văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Mác Lê-nin và hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ đi vào thực tế đấu tranh của cách mạng, hướng dẫn họ nhìn nhận thực tế và biểu hiện thực tế một cách đúng đắn. Trong đời sống xã hội của chúng ta căn bản là tốt tất nhiên cũng có những mặt chưa tốt, những mặt xấu, các chủ trương chính sách của Đảng căn bản là đúng nhưng không phải là không có những điểm thiếu sót thậm chí sai lầm. Đảng lãnh đạo tốt văn nghệ sĩ là làm cho văn nghệ sĩ nắm bắt được tất cả những thực tế phức tạp và biểu hiện lên một cách đúng đắn. Đảng lãnh đạo tốt là khuyến khích những sáng tác biểu hiện trung thực cuộc sống, phê phán những tác phẩm có nội dung sai lầm, thậm chí ngăn chặn lại các tác phẩm có dã tâm bôi nhọ chế độ, có tư tưởng phản cách mạng. Đó chính là yêu cầu cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng về văn nghệ và đó cũng chính là yêu cầu cơ bản về tự do tư tưởng của người văn nghệ sĩ chân chính cách mạng nếu như hiểu tự do là nhận thức về quy luật tất yếu của sự vật.
Đâu có phải lãnh đạo tốt là chỉ lãnh đạo cái “hướng” còn để cho văn nghệ sĩ hoàn toàn có quyền tự do tung ra đủ thứ hoa thơm hoa thối, hoa lành hoa độc, tự do viết những bài chống lại Đảng, chống lại chế độ, phát hiện những sự thực toàn diện kiểu đó mà không có quyền phê phán hay ngăn cấm. Đâu có phải lãnh đạo tốt là phải tuân theo những “sự thực phát hiện” của văn nghệ sĩ (cách mạng và phản cách mạng) để vạch ra chủ trương chính sách! Có đâu lãnh đạo tốt là “trả chuyên môn về cho chuyên môn” như Trương Tửu và nhóm Nhân văn – Giai phẩm luôn mồm kêu gào. Cái lối lãnh đạo bằng “hướng” còn để cho văn nghệ sĩ “hoàn toàn tự do” “tự do tuyệt đối” theo kiểu Tơ-rốt-skít này thực chất là hạ thấp đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, “Chịu sự lãnh đạo” chỉ còn là một danh từ trống rỗng, hữu danh vô thực. Cái công thức bịp bợm về “Đảng lãnh đạo” văn nghệ của Trương Tửu chẳng có gì khác hơn là Đảng hoàn toàn khoanh tay trước sự tấn công của mọi thứ văn nghệ tư sản, văn nghệ phản động, ngay cả trước sự tấn công của các thứ văn nghệ gián điệp, văn nghệ tác động tinh thần.
Nhưng đó chỉ là ảo tưởng của Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang và công ty. Đảng ta, trung thành với chủ nghĩa Lê-nin không thể thừa nhận “sự lãnh đạo” kiểu cơ hội chủ nghĩa đó. Những người văn nghệ sĩ chân chính vì sự nghiệp cách mạng, vì văn nghệ cách mạng cũng không bao giờ thừa nhận cái “công thức” lừa bịp của họ: “nếu không cho, nó cũng tự tạo điều kiện cho nó” bằng cách ra lập “của hàng” làm thuốc độc tinh thần riêng, lập công ty buôn lậu văn hóa riêng thậm chí cúi đầu ngả tay xin phương tiện của giai cấp bóc lột, của bọn thù địch để đối lập với cách mạng để chống Đảng, chống chế độ như kiểu Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Dần, Lê Đạt, Trần Đức Thảo và cả nhóm.
IV. Giữ vững nguyên lý văn nghệ của Lê-nin – Đập tan luận điệu cơ hội Tơ-rốt-skít
Những luận điệu của Trương Tửu và công ty đưa ra dù khéo thêu thùa tô vẽ dưới nhiều màu sắc, dù khoác nhiều thứ áo lòe loẹt tự xưng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn không thể làm cho người ta nhầm lẫn. Đó là thứ chủ nghĩa Tơ-rốt-skít đã quá lỗi thời. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin ngày nay đã thắng lợi vẻ vang, đã trở thành một chân lý quần chúng. Chính vì vậy mà bọn bịp không thể vàng thau lẫn lộn, mướp đắng mạt cưa. Thí dụ khi bọn “bịp lý luận” Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu nêu lên không thể “phục vụ kịp thời” thì quần chúng ngược lại, lại thấy tại sao những người sáng tác của Nhân văn – Giai phẩm đã viết ra những tác phẩm chống Đảng, chống chế độ “kịp thời” đến thế? À, thì ra “không kịp thời” đây có nghĩa là không được “kịp thời phục vụ cách mạng”.
Khi bọn “bịp lý luận” nêu ra là trên tờ báo phải “trăm hoa đua nở” “nhiều ý kiến khác nhau” “ai nấy viết chịu trách nhiệm”, thì ngược lại quần chúng thấy trên Nhân văn – Giai phẩm không hề có một ý kiến nào khác, các quan điểm chống Đảng hoàn toàn nhất trí, và bấy nhiêu “hoa” (!) cũng chỉ được tiết ra một chất độc: hướng chống Đảng, chống chế độ. Ai cũng biết rằng khi những phần tử Nhân văn – Giai phẩm phản đối lập trường tư tưởng thì họ viết ra lại rất có lập trường: lập trường tư sản phản động. Khi bọn họ gào thét “phải giải thể lãnh đạo đi” thì chính là lúc bọn họ tập hợp lực lượng rất nhanh, chiêu binh mãi mã lập bè phái rất nhanh đòi bầu lại “ban trù bị Đại hội văn nghệ” để cướp lấy quyền lãnh đạo về tay những phần tử phản bội lý tưởng cách mạng của nhân dân ta. Khi họ đòi “trả chuyên môn về cho chuyên môn” thì chính là họ muốn giao quyền điều khiển cho những phần tử không biết gì về chuyên môn như Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy… nhưng lại rất phản động về ý thức chính trị.
Vì thế cho nên có thể nói phản động và bịp bợm là “loại biệt tính” của lý luận Nhân văn lý luận Tơ-rốt-skít. Chúng ta kiên quyết đập tan thứ luận điệu cơ hội đó, giữ vững nguyên lý văn nghệ của Lê-nin là nguyên lý đúng đắn nhất mà Đảng ta từ mười mấy năm nay vẫn trung thành thực hiện. Lê-nin đã chỉ cho chúng ta biết rằng: Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy xã hội chủ nghĩa do đội tiên phong hoàn toàn giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân mở máy. Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận khăng khít của công tác Đảng xã hội dân chủ thống nhất có kế hoạch có tổ chức”.
Điều đó đặt cho Đảng vấn đề không thể coi nhẹ lãnh đạo văn nghệ, không thể tách rời thậm chí đối lập sự nghiệp văn học với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo được. Đảng ta không thể “trả chuyên môn” về cho ai hết. Vì “chuyên môn” và chính trị là hai bộ phận khăng khít trong sự nghiệp cách mạng nói chung, không thể Đảng ta chỉ lãnh đạo về chính trị còn lãnh đạo về văn nghệ thì trả về cho những nhà chuyên môn (!) của giai cấp tư sản kiểu Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu… được! Cố nhiên do đặc điểm của nó, bộ phận văn nghệ không thể rập khuôn với các bộ phận khác trong sự nghiệp cách mạng, và Đảng ta trong khi lãnh đạo văn nghệ bao giờ cũng dành một phạm vi rộng rãi cho sự sáng tạo nghệ thuật cho tính chủ động của văn nghệ sĩ.
Trương Tửu nhắc đến câu này của Lê-nin và đưa lên thành một câu tiêu đề để chứng minh cho quan điểm cơ hội chủ nghĩa của Trương Tửu: Không thể chối cãi được rằng sự nghiệp văn học ít nhân nhượng hơn cả với sự bình quân máy móc, đối với việc san bằng, đối với việc số đông thống trị số ít. Không thể chối cãi được rằng trong sự nghiệp đó, phải đảm bảo phạm vi rộng rãi bao la cho sáng kiến cá nhân, cho chiều hướng cá nhân, đảm bảo phạm vi rộng rãi bao la cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”.
Nhưng Trương Tửu lại không dám trích dẫn câu Lê-nin tiếp sau đó đã nhấn trở lại “Tất cả những điều đó cũng không lật đổ cái nguyên tắc mà giai cấp tư sản và phái dân chủ của giai cấp tư sản cho là lạ lùng kỳ quái. Sự nghiệp văn học nhất định phải là một bộ phận công tác của Đảng xã hội dân chủ gắn liền chặt chẽ với các bộ phận khác.”
Chúng ta phải phê phán chủ nghĩa giáo điều máy móc vì chủ nghĩa giáo điều không bao giờ đẩy mạnh được sự nghiệp văn học nghệ thuật, phát triển được sức sáng tạo phong phú của người văn nghệ sĩ thiết tha phục vụ cách mạng, nhưng hy vọng rằng phê phán khuynh hướng giáo điều là Đảng ta mở rộng tay đón lấy chủ nghĩa xét lại, ngồi nhìn các thứ “chủ nghĩa phản bội” kiểu chủ nghĩa Tơ-rốt-skít tự do hoành hoàng, dương oai tác quái thì hy vọng đó chỉ là ngông cuồng ảo tưởng. Chúng ta nhất định phải đập tan như cám.
Chúng ta – như Lê-nin đã nói – không thể đứng khoanh tay mà để cho hỗn loạn phát triển nơi nào cũng mặc. Chúng ta phải lãnh đạo quá trình đó một cách hoàn toàn có kế hoạch và tạo nên những thành quả của nó.
Quá trình đấu tranh cho nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trước mắt chúng ta, đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay go và quyết liệt. Khuynh hướng tư tưởng Nhân văn – Giai phẩm không ngừng tấn công vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Chỉ có kiên quyết đứng về phía Đảng, bảo vệ những nguyên lý văn nghệ của Lê-nin, đập tan mọi luận điệu cơ hội chủ nghĩa Tơ-rốt-skít, vô chính phủ, mọi thứ chủ nghĩa xét lại, “chủ nghĩa phản bội” mới có thể xây dựng được một nền văn nghệ cách mạng chân chính. Chỉ sau khi quét sạch mọi thứ tư tưởng phản động nói trên, lật mặt nạ khiêu khích, chia rẽ, bè phái của những phần tử, của tập đoàn âm mưu phá hoại, chúng ta mới có thể nói đến việc thảo luận một cách tự do và rộng rãi các vấn đề văn học, nghệ thuật, đẩy cho văn nghệ phát triển tốt tươi lành mạnh lên được. Nếu không, các cuộc thảo luận, các hoạt động văn nghệ sẽ chỉ là những cơ hội để cho những tư tưởng phản động những phần tử khiêu khích lợi dụng làm cho lạc hướng, thậm chí lái vào con đường đen tối chống Đảng chống chế độ mà thôi. Những cuốc đấu tranh tư tưởng vừa qua đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm mà kinh nghiệm lớn nhất là chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, tư tưởng phản động không một lúc dễ dàng hạ khí giới và mỗi lần có cơ hội nó lại ngóc đầu dậy, tấn công khôn khéo hơn xảo quyệt hơn.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, chúng ta hãy rút lấy bài học kinh nghiệm vừa qua phất cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác Lê-nin đoàn kết nhất trí đấu tranh kiên quyết, triệt để, cho đến lúc hoàn toàn thắng lợi.
[1]Trong bài “Lột mặt nạ khiêu khích của Nguyễn Hữu Đang” trong số sau tôi sẽ nói về điểm này. H. V. [2] Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Sự thật xuất bản trang 116. [3]Muốn hiểu rõ tình hình này hơn nên xem quyển Giới thiệu văn học Xô-viết Nhà xuất bản Văn hóa xuất bản. [4]Xem bài “Xung quanh nhóm Proletkult và nghị quyết về văn học của Đảng” của Hồng Vân trên tuần báo Văn nghệ năm 1956. [5]Về nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin về văn nghệ. Ở đây tôi chỉ tóm tắt, tôi sẽ nói trong phần cuối cùng. [6]Nhóm “Đổi tiêu” là một phái chính trị tư sản đẻ ra trong số những người tư sản Nga lưu vong ngoại quốc năm 1921. Họ ra tờ tạp chí lấy tên là “Đổi tiêu”. Họ phản ánh quan điểm trí thức tư sản mong muốn chính quyền Xô-viết sẽ thoái hóa và đi vào con đường tư sản. [7]Việc Mai-a-kốp-ski bị thành kiến đả kích là do bè lũ Tơ-rốt-skít và Bu-kha-rin-nít và đả kích chủ yếu của chúng là vì Mai-a-kốp-ski đã thiết tha phục vụ Đảng chứ không phải vì Mai-a táo bạo, nói mặt xấu của đời sống Xô-viết mà bị công kích như bài tự của Lê Đạt đã nói: H. V. [8]Toàn tập Maiakovsky quyển 10 trang 360. [9]Toàn tập Maiakovsky quyển 10 trang 318. [10]André Gide (1869-1951) nhà văn Pháp, lúc đầu tiến bộ, sau chuyển biến rất nhanh thành một tên phản bội chống Liên Xô và sau thì hợp tác với phát xít Đức. [11]Về điểm lý luận này trong bài của Hồng Chương “Kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ” Văn nghệ số 10 đã nói kỹ. Đây chỉ nói qua. H. V. Nguồn: Tạp chí Văn nghệ, số 11, tháng 4 năm 1958 – Số đặc biệt chống tư tưởng phản động của Nhân văn –Giai phẩm, trang 26-43. Bản điện tử do talawas thực hiện.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 7:06:10 GMT 9
Nguyễn Quang Duy Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc Việt Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau nhiều năm bị che đậy, các tài liệu, các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm văn học... được phổ biến trong thời gian gần đây giúp chúng ta biết thêm sự thật về cuộc cải cách ruộng đất này. Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông. Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357). Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của ĐCS Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra. Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn. Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm xong lục địa, cửa hậu cần mới được khai thông. Việt Minh nhận được những viện trợ dồi dào từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945. Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ. Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357). Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo. Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ. Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh". Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin. Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!" Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm". Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Thành Tín viết tiếp: "Thế nhưng không có gì động theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: "Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao". Thành Tín nhận xét: "Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình". Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân." Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: "Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc". Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!". Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn" . Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí". Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ". Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ. Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 7:06:57 GMT 9
Địa chủ ác ghê Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ: Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã: Giết chết 14 nông dân. Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật. Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người. Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang. Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng. Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào! Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ: Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột. Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra. Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên. Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt. Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến. Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là: Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng, Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể! (21-7-1953) Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng? Nhà báo Thành tín cũng viết: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nhóm từ "mấy tên lâu la" được dùng trong bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà. Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp. Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ têntác giả các bài viết trong đó là C.B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C.B. Không thấy bài viết này được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’." Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc. Khi đọc bản thảo bài viết này, ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và các cán bộ CCRĐ. Ông Hoàng Văn Chí có viết trong khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von: "đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ phải phá cho kỳ hết bụi rậm." (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chương 12, trang 90). Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: "bà đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chuẩn y". Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ: Thứ nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần, trang 3), là một đại địa chủ. Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ... Thứ ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố "toàn dân kháng chiến", địa chủ đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo, đóng góp, tham gia kháng chiến. Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng kháng chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã có Quốc tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu "toàn dân kháng chiến" không còn cần thiết nữa. Thứ tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có ruộng đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng Lao động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng cho chính quyền kháng chiến. Thứ năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị. Thứ sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân thực thi sách lược "chia để trị". Thứ bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao quyền lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: "Các đoàn CCRĐ đã rút kinh nghiệm về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la to Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm" (Nguyễn Văn Trấn, trang 270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: "Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản bội, Hồ Chí Minh muôn năm!" (Vũ Thư Hiên, chương 1). Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh mới đích thân viết bài trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm. Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358). Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596). Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, người cày có ruộng... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam. CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác. Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải. Tài liệu tham khảo C.B., Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân, 1955 Đoàn Duy Thành, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ, Điện thơ Câu lạc bộ Dân Chủ Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964 Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự Thật, 1955 Thành Tín, Mặt thật Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Văn Nghệ California, USA, 1997 Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! ... Nửa thế kỷ trước Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995 Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989 Phụ lục Ảnh chụp bài viết “Địa chủ ác ghê” từ nguồn: C.B., Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, báo Nhân Dân, 1955 20/1/2007, Canberra, Úc Đại Lợi
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 7:12:20 GMT 9
Đinh Từ Thức Ai phá hoại hiệp định Genève? Bây giờ còn đặt câu hỏi trên, giống như người vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài nửa thế kỷ. Nhưng chuyện cũ vẫn phải nhắc lại, khi nó chưa thể hoàn toàn đi vào quên lãng. Trong bài “Đối thoại dân chủ hay vận động chiêu hồi?” trên talawas ngày 24-8-2006, tác giả Trần Văn Trạng viết: Cho đến bây giờ, sau bao nhiêu năm tháng, chúng tôi vẫn không thể nào từ bỏ được ý tưởng cho rằng những chính quyền ấy, không có cái nào ra hồn cả. Có nhiều vị động lòng khi nghe có người nói các chính quyền ấy là “sản phẩm của Mỹ”. Không đúng sao? Không có Mỹ đứng sau lưng, yểm trợ về mọi thứ (tiền bạc, súng đạn, chính trị…) thì làm sao các chính quyền ấy ra đời và tồn tại được (từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu)! Các học giả khắp nơi dựa vào chứng cớ đàng hoàng đã chứng minh rằng chính Mỹ đã phá hoại Hiệp nghị Genève (quy định sự chia cắt đất nước tạm thời) để biến miền Nam thành một “quốc gia” riêng biệt, như vậy từ đầu cái chế độ gọi là “Việt Nam Cộng hoà” đâu có tư thế của một chính nghĩa đại biểu cho “dân tộc”. Người viết đã tô đậm câu trên đây để dễ thấy. Tác giả Trần Văn Trạng tự nhận là một “cựu chiến binh cộng sản”, và đã theo cộng sản “hoàn toàn không phải do ngu si, ngây thơ để bị lợi dụng, lừa dối”, đã theo “các học giả khắp nơi dựa vào chứng cớ đàng hoàng” để nói quyết rằng chính Mỹ đã phá hiệp định Genève. Ông Dương Phẩm, qua ý kiến ngắn trên talawas ngày 25-8-2006, khuyên ông Trạng “có thể tìm đọc những hồ sơ, tài liệu liên quan đến cuộc chiến tranh vừa qua do các tác giả có quan điểm trung dung (chứ không thiên hữu hay thiên tả), may ra ông sẽ hiểu "trò chơi" chính trị hơn. Nói đến chính trị là nói đến âm mưu và thủ đoạn, trong khi ông lại phán đoán vấn đề hết sức đơn giản, chỉ căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài mà không lưu ý đến thủ đoạn và ý đồ thực sự che giấu ở bên trong”. Thật ra, trước đây, để che mắt dư luận thế giới, cộng sản Việt Nam đã tạo ra huyền thoại là chính nhân dân miền Nam Việt Nam tự động nổi dậy chống chính quyền Sài Gòn. Họ đã thành công về điều này, nên mới có “các học giả khắp nơi dựa vào chứng cớ đàng hoàng...” Những “chứng cớ đàng hoàng” ở đây rất phù hợp với tài liệu tuyên truyền của Hà Nội một thời. Nhưng từ sau khi làm chủ cả nước, cộng sản Việt Nam chẳng những không cần che giấu ở bên trong ý đồ thực sự của mình, mà còn khoe những điều từng che giấu như một thành tích vĩ đại đáng đề cao. Vậy, để cập nhật những chứng cớ đàng hoàng, chẳng cần tìm đâu xa, cứ dựa ngay vào tài liệu của cộng sản mới đây, cho tiện. Trên báo Nhân Dân ngày 16-8-2006, nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm ngày Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt viết trong bài “Nhớ đồng chí Lê Duẩn”: Năm mươi năm nhìn lại và suy ngẫm, càng thấu hiểu ý nghĩa lớn lao và phẩm cách cao cả của nhà yêu nước và nhà hoạt động cách mạng Lê Duẩn với quyết định xin ở lại miền Nam sau khi đã hoàn thành những nhiệm vụ mà Bác Hồ và Trung ương giao cho sau Hiệp định Geneva. Chiếc tàu áp chót neo đậu ở thị trấn Sông Đốc, Cà Mau. Anh Ba lên tàu như người đi tập kết để che mắt kẻ thù, đến nửa đêm Anh bí mật rời tàu, quay trở lại. Người viết tô đậm câu chót trên đây để nhấn mạnh. Hiệp định Genève đã quy định: Những người theo phe quốc gia Việt Nam (do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu) tới địa điểm chót là Hải Phòng để được di chuyển vào sinh sống ở phía Nam vĩ tuyến 17; Những người theo phe Việt Nam Dân chủ Cộng oàhoà (Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu) tập trung tại địa điểm chót ở Cà Mâu để được chở ra sinh sống tại phía Bắc vĩ tuyến 17. “Anh Ba”, một cán bộ cao cấp của cộng sản, đã lên tàu, theo đúng Hiệp định Genève, nhưng chỉ theo đến đây thôi. Với sự đồng ý của “Bác Hồ”, “Anh” đã vi phạm Hiệp định, khi trốn ở lại vào nửa đêm. Lê Duẩn không lén ở lại miền Nam vì mê gái, hay để rong chơi ngày tháng, mà ở lại với một sứ mạng. Không cần gán ghép hay suy đoán, vì ông Võ Văn Kiệt đã nói rõ trong bài báo thượng dẫn: "Đề cương Cách mạng miền Nam" được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1, Sài Gòn, nay là TP Hồ Chí Minh. Và như để người đọc khỏi thắc mắc tại sao Anh Ba lén xuống tầu từ 1955 mà mãi hơn một năm sau mới hoàn thành kế hoạch chiếm miền Nam, ông Kiệt đã nói rõ hơn: Cũng phải nói thêm rằng, tuy "Đề cương" hoàn thành vào tháng 8 năm 1956, nhưng nó được hình thành dần trong tập kết chuyển quân và nhất là sau khi kết thúc chuyển quân từ mùa khô 1955. Như vậy, không phải đợi đến 1956, vì không có bầu cử nên Bắc Việt mới quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực, mà kế hoạch đã định ngay khi Hiệp định Genève chưa ráo mực, lúc đang chuyển quân tập kết. Vẫn theo ông Võ Văn Kiệt, chính “Đề cương” của Lê Duẩn đã là cái sườn cho quyết định của Đảng Cộng sản tiến chiếm miền Nam. Ngoài ra, ông Kiệt cũng chẳng cần che đậy sự thật là cộng sản Việt Nam đã sử dụng đất Căm Bốt để xâm chiếm Nam Việt Nam. Đề cương được thảo luận kỹ trong Hội nghị Xứ ủy mở rộng tháng 12 năm 1956 và mấy tháng đầu năm 1957 ở Phnôm Pênh, là một điểm tựa cơ bản, trở thành cái khung để hình thành Nghị quyết T.Ư lần thứ 15. [1] Ông Trần Văn Trạng cho rằng Việt Nam Cộng Hhoà vì là “sản phẩm của Mỹ” nên thiếu chính nghĩa, không đủ tư cách đại diện dân tộc của một quốc gia. Rất tiếc, là người theo cộng sản mà ông không biết, vào đầu năm 1957, chính Liên Xô đã từng đề nghị cả VNCH và VNDCCH cùng vào Liên Hiệp Quốc như là hai quốc gia hội viên riêng biệt. [2] Mỹ đã sai lầm quan trọng khi chống lại đề nghị này, vì không muốn thừa nhận chế độ cộng sản Bắc Việt, cũng như hồi đó chưa thừa nhận Trung Cộng. Đầu năm nay, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Dennis Hastert thăm Hà Nội, Quốc hội Việt Nam đã tặng ông bản điện văn Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman ngày 28-2-1946, cầu cứu Mỹ giúp để đối phó với Pháp. Mỹ không giúp vì ông Hồ là cộng sản. Năm 1954 Tổng thống Eisenhower giúp ông Diệm, vì biết ông chống cộng, cũng như Mỹ đã giúp ông Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee) cầm quyền tại Nam Hàn năm 1948. Ông Lý cũng là “sản phẩm của Mỹ” như ông Diệm, và Nam Hàn cũng từng trải qua biểu tình và đảo chánh như VNCH. Ngày nay không ai có thể bảo Nam Hàn không có chính , và không đủ tư cách một quốc gia. Ông Trạng viết thêm: Không có chính nghĩa dân tộc, các chính quyền ấy cũng chẳng có gì gọi được là hoà bình, dân chủ, tự do cả. Nói đó chỉ là do tuyên truyền “chiến tranh tâm lý” dựng nên tôi thấy chẳng có gì là sai. Hồi nhỏ học ở Sài Gòn, tôi hay ê a mấy câu “kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát, ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác, chiếu đồng quê bao khúc ca tuyệt vời!” nhưng khi về quê thăm nhà mới thấy ở đây không lúc nào ngớt diễn ra những cuộc hành quân, hết chống phe này đến phái nọ (“bài phong, đả thực”), ồn ào khốc liệt nhất là những chiến dịch trả thù cộng sản rất dữ dội (“chống cộng”)… Cuộc sống thanh bình từ thành thị tới nông thôn tại Nam Việt Nam đã là điều có thật, nhưng chỉ được vài năm. Điều này dễ hiểu, vì hình ảnh êm đềm như trong tiếng hát ông vẫn ê a không phù hợp với “Đề cương” của Anh Ba. Lê Duẩn và các đồng chí của ông, những người trốn ở lại và những người lén trở về, bắt đầu quấy phá tại nông thôn để gây tiếng vang, tạo tình trạng bất ổn. Kích đồn, ngăn chợ, phá trường, khủng bố hương chức hương sư..., là bước đầu của “cách mạng giải phóng”. Vào đầu thập niên 60, người viết đã từng đi theo phái đoàn của Tổng Liên đoàn Giáo giới Quốc tế, do giáo sư Shri Natarajan người Ấn Độ cầm đầu, với sự phụ tá của giáo sư người Đại Hàn Tai Si Chung, tới các quận Thới Bình (Cà Mâu), và Giồng Riềng (Kiên Giang) – hình như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bây giờ, hồi ấy đang làm giao liên tại vùng này – để tìm hiểu về các trường hợp giáo chức bị du kích sát hại. Thân nhân các giáo viên xấu số này cho biết: Khởi đầu, du kích ra lệnh đóng cửa trường, không được dạy. Nhưng là thành phần ăn lương nhà nước, giáo chức không thể nghe lời du kích, thế là bị giết. Có đánh phá, giết người, tất nhiên phải có hành quân bình định. Nếu cho đó là “những chiến dịch trả thù cộng sản”, thì cũng là một cách nói không xa sự thực. Không hiểu ông Trần Văn Trạng đang sống ở đâu, và cái chính quyền đang chi phối cuộc đời ông có ra hồn không. Dầu sao, tôi cũng có thể đồng ý với ông là mấy cái chính quyền VNCH, “chẳng có cái nào ra hồn cả”. Bằng chứng hiển nhiên là chính quyền ông Diệm, thay vì bắt Lê Duẩn và các đồng chí của ông ấy hội họp tại đường Huỳnh Khương Ninh, ngay giữa Sài Gòn để thảo “Đề cương”, thì đi bắt các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Văn..., và tệ hơn nữa, thủ tiêu các ông Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Tam Anh, Tạ Chí Diệp... Còn chính quyền ông Thiệu thì ra luật bóp nghẹt báo chí để đề phòng cộng sản trà trộn, trong khi nhà báo cộng sản nằm vùng Huỳnh Bá Thành vẫn làm báo khơi khơi, và mấy tay tình báo Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ được mời vào Dinh Độc Lập làm cố vấn. Ngay cả chính quyền Mỹ, một nước đang đóng vai vô địch thế giới về nhiều mặt, cũng đâu có ra hồn. Những quyết định liên can tới vụ đảo chánh ông Diệm, chuyện mang quân vào Việt Nam, rồi “bỏ danh dự chạy lấy người”, là bằng chứng cụ thể. Cả những kẻ kiêu ngạo như giới truyền thông Mỹ cũng đâu có ra hồn. Họ lớn tiếng chỉ trích VNCH lấy tiền viện trợ do dân Mỹ đóng góp mà không chống cộng hữu hiệu, trong khi họ mướn và tin cẩn điệp viên cộng sản tay tổ Phạm Xuân Ẩn hàng chục năm mà không hề nghi ngờ. Hầu như chẳng có chính quyền nào hoàn toàn ra hồn. Những người sống tại miền Nam trước 1975 đã phải chọn cái không ra hồn tương đối dễ thở hơn, thế thôi. Có lẽ ông Trần Văn Trạng cho rằng, vì ông Diệm không chịu tổ chức bầu cử năm 1956, và vì Mỹ ủng hộ quyết định này, nên đó là bằng chứng đàng hoàng Mỹ đã phá Hiệp định Genève. Năm nay là kỷ niệm 50 năm cuộc bầu cử không thành, nên cũng cần tìm hiểu thêm. Từ trước tới nay, nhiều người thường nói tới “Hiệp định Genève” như là một thoả ước, trong đó quy định mọi vấn đề, từ ngừng bắn, chuyển quân, di dân, cho tới tái thống nhất bằng bầu cử. Thật ra, “Hiệp định Genève” gồm tới 10 văn kiện: Sáu tuyên bố đơn phương; Ba thoả hiệp ngừng bắn song phương, có hiệu lực thi hành đối với các bên ký kết; Một tuyên bố không có chữ ký, dự trù thống nhất bằng bầu cử. Chỉ có bốn trong chín nước tham dự Hội nghị can dự vào bản tuyên bố này. Cả Hoa Kỳ, Bắc và Nam Việt đều không can dự. Văn kiện này không có giá trị pháp lý buộc phải thi hành. [3] Như vậy, việc thống nhất bằng bầu cử dự trù vào tháng Bảy năm 1956 không phải là một thoả hiệp đã đạt được tại Hội nghị Genève, mà mới chỉ là ước vọng của bốn trong chín nước tham dự. Một ước vọng không bó buộc ai phải thi hành. Giống như trường hợp có mấy người họ hàng tự ý bầy tỏ nguyện vọng đôi trẻ sẽ thành hôn trong hai năm. Đến ngày đến tháng, một hay cả hai đương sự không muốn tiến tới hôn nhân, vì nghi ngờ lẫn nhau. Không thể kết tội ai đã bội ước, vì chưa hề có giao ước. Ngoài ra, vào tháng 4 năm 1956, dịp phái đoàn Khrushchev và Bulganin viếng Luân Đôn, Lord Reading đại diện Anh và Gromyko đại diện Liên Xô, hai nước bảo trợ Hội nghị Genève 1954 đã ra tuyên bố đồng ý rằng cuộc tổng tuyển cử dự liệu không thể thực hiện được trong những điều kiện hiện tại, nên sẽ không được tổ chức. Tin tức về vụ này bị chìm vì những “xì căng đan” lớn quanh chuyến đi của Khrushchev. Chuyện nổ lớn hơn cả là một sĩ quan người nhái thuộc tổ chức tình báo quân sự Anh (M16) tên là Lionel Crabb bị mất tích gần chiến hạm Ordzhonikidze, chiếc tầu chở Khrushchev và Bulganin đậu tại Cảng Portsmouth. Vụ này vô cùng sôi nổi, và bí mật còn bao trùm tới ngày nay. Phải đợi tới năm 2057 hồ sơ nội vụ mới được giải mật. Qua hồi ký In The Midst Of Wars (Harper & Row, 1972), tướng Edward Lansdale, người đã giúp ông Diệm ổn định chế độ lúc đầu, kể rằng: Vào đầu năm 1956, ông về Washington gặp anh em ông Dulles, một người là Ngoại trưởng, một người là Giám đốc CIA, yêu cầu cho ông được về Mỹ, coi như đã hoàn tất nhiệm vụ tại Việt Nam. Anh em ông Dulles đã yêu cầu ông Lansdale lưu lại Việt Nam cho đến hết năm 1956, để giúp về tổng tuyển cử. Tướng Lansdale đã trả lời anh em ông Dulles là theo ông, sẽ không có tổng tuyển cử, vì trong khi uy tín ông Diệm lên cao nhất vào lúc đó ở miền Nam (nền Cộng hoà mới ra đời, dẹp xong các phe phái chống đối, ổn định xong gần một triệu dân di cư...), theo tin tức từ những người mới vượt tuyến, miền Bắc đang gặp nhiều khó khăn, vì Việt Minh thạo đánh nhau hơn là cai trị (dân thiếu thực phẩm, phẫn uất về chiến dịch đấu tố Cải cách Ruộng đất, vụ nổi dậy ở Quỳnh Lưu, nghệ sĩ bất mãn vụ Nhân văn-Giai phẩm, sinh viên đại học Hà Nội đòi rút bớt mức độ huấn luyện chính trị, đảng viên giao động sau Đại hội 20 tại Liên Xô...) Nếu có bầu cử thực sự tự do, miền Bắc sẽ thua. Ông Lansdale viết: “Vì những lý do ấy, tôi cảm thấy rằng các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội có thể đã kín đáo thông báo cho Liên Xô bớt hối thúc việc tổ chức tổng tuyển cử trong các cuộc gặp gỡ với Anh quốc”. Ông Lansdale đã tiên đoán như trên bốn tháng trước khi Anh và Liên Xô đồng ý không có bầu cử. Tin tức về thoả thuận này bị chìm, nhưng dư luận vẫn nhớ những gì được loan báo về tổng tuyển cử vào năm trước: Nhân tuần lễ kỷ niệm một năm Hiệp định Genève, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố vào ngày 16-7-1955, “Việt Nam không ký Hiệp định Genève, nên không bị ràng buộc, song vẫn trung thành với chính sách hoà bình, và sẵn sàng tổ chức tổng tuyển cử, nếu có thể bầu được tự do”. Từ miền Bắc, ngày 10-8-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi hiệp thương và hứa tự do tổng tuyển cử. Nhưng ngày 12-12-1955 tại Hoa Kỳ, Đại sứ VNCH Trần Văn Chương tuyên bố: “Sẽ không có tổng tuyển cử năm 1956 ở Việt Nam. Hiệp định Genève không bắt buộc”. Ông Diệm hứa sẽ tổ chức tổng tuyển cử, nếu có điều kiện bầu cử tự do, khi ông còn đang làm Thủ tướng. Sau khi truất phế Bảo Đại và làm Tổng thống, Đại sứ của ông tuyên bố sẽ không có bầu cử vì không bắt buộc. Quả thật địa vị có làm thay đổi con người. Ông Hồ hứa tự do tổng tuyển cử. Lịch sử còn ghi nhiều lời hứa của ông, nhưng có mấy điều đã thành sự thật? Ngày nay, nửa thế kỷ sau, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn bỏ tù những ai đòi bầu cử tự do, làm sao có tổng tuyển cử tự do vào năm 1956? Ông Diệm đã chứng tỏ kém ông Hồ về phương diện vận động dư luận. Nếu ông cứ gặp ông Hồ, thảo luận tích cực về việc tổ chức tổng tuyển cử, đòi hỏi bằng được những điều kiện bảo đảm một cuộc bầu cử thực sự tự do và công bằng, rồi cuộc thảo luận có tan vỡ, không đưa đến bầu cử, dư luận cũng không thể kết tội riêng bên nào. Vì không làm như thế, ông Diệm đã bị mang tiếng sợ thua, vi phạm Hiệp định Genève vì đã từ chối tổng tuyển cử. Hà Nội còn có cớ nói rằng: Vì miền Nam không chịu thống nhất đất nước bằng bầu cử, miền Bắc mới phải làm việc này bằng chiến tranh. Sự vụng về của ông Diệm, được Mỹ ủng hộ, đã trở thành “chứng cớ đàng hoàng” của “các học giả khắp nơi”, biến kẻ cố tình vi phạm Hiệp định Genève từ lúc đầu, thành kẻ có chính nghĩa. © 2006 talawas [1]“Hội nghị lần thứ 15 của BCH TƯ khoá II đã phải tiến hành hai đợt. Đợt 1, từ ngày 12 đến 22 tháng 1 năm 1959. Đợt 2, từ ngày 10 đến 15 tháng 7 cùng năm ấy”. Võ Văn Kiệt, “Nhớ đồng chí Lê Duẩn, Nhân Dân. 16-8-06. [2]Stanley Karnow, Vietnam A History, nxb Viking – 1983, tr. 224 [3]“Văn bản của Tuyên cáo Genève về bầu cử không có giá trị pháp lí buộc Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam phải thi hành. Chín nước gặp nhau tại hội nghị đã sản xuất ra sáu tuyên bố đơn phương, ba thoả thuận ngừng bắn song phương, và một tuyên bố không có chữ ký. Chỉ riêng các thoả hiệp ngừng bắn có hiệu lực thi hành đối với các bên ký tên; dự trù liên hệ tới thống nhất bằng bầu cử xuất hiện trong tuyên bố riêng sau cùng. Chỉ bốn trong chín nước có mặt can dự vào nội dung tuyên bố. Hoa Kỳ đã không tham dự. Nam Việt Nam, không hiện diện ngay cả ở Genève, giữ lại quyền tự do hành động của mình bằng cách chính thức lên tiếng phủ nhận bản tuyên bố. Bắc Việt cũng không liên hệ tới bản tuyên bố. Rất giản dị, vì nó không có giá trị pháp lý”. No More Vietnams, Richard Nixon, Avon Books 1985, bìa giấy tr. 41
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 7, 2011 3:56:49 GMT 9
TẠ ĐÌNH ĐỀ
LÊ XUÂN NHUẬN CÓ thể nói: không có cán-bộ, đảng-viên, bộ-đội, hay thường-dân nào sống dưới chế-độ Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa (cộng-sản Bắc-Việt) mà không nghe tên của Tạ Đình Đề, một nhân-vật phi-thường của cộng-sản Việt-Nam. Họ Tạ phi-thường ở điểm không ai biết gã-ta là đảng-viên cấp nào mà ngay đến uy-quyền của đại-tướng Võ Nguyên Giáp cũng còn bị gã-ta coi khinh; phi-thường ở điểm gã-ta đã đi vào truyền-thuyết, huyền-thoại "nhân dân" (theo huyền-thoại ấy thì gã-ta là một con người đại-tài, chỉ thua Hồ Chí Minh một bậc mà thôi!); và phi-thường ở điểm gã-ta đã được "toàn đảng, toàn quân, toàn dân" (ngoại-trừ một ít phần-tử lãnh đạo Trung-Ương Đảng, sau khi Hồ Chí Minh chết rồi) yêu thương, kính trọng, và bênh-vực tận-tình... Không ai biết, và cũng không ai nghĩ đến việc tìm hiểu xem, Tạ Đình Đề là con-cái nhà ai, quê-quán ở đâu, thuở nhỏ như thế nào, hiện có vợ+con thân-thích gì không. Tạ Đình Đề là một con người không có quá-khứ rõ-ràng. Sự xuất-hiện và hiện-hữu của gã-ta chỉ thình-lình khởi đầu bằng một cuộc đấu-trí công-khai-mà-bí-mật giữa hai nhân-vật nửa-hiện-thực nửa-hư-cấu của cộng-sản Việt-Nam: Hồ Chí Minh và Tạ Đình Đề. * Dạo ấy, sau Hiệp Định Genève 1954, tình-hình Việt-Nam đổi khác rõ-ràng. Sông Bến-Hai ở vĩ-tuyến thứ 17 trở thành giới-tuyến ngăn đôi hai Miền: ở Miền Bắc thì cộng-sản dời Trung-Ương Đảng và bộ máy Nhà-Nước từ rừng sâu về Hà-Nội, trong khi ở Miền Nam thì phe Quốc-Gia đặt thủ-đô tại Sài-Gòn. Hồ Chí Minh, vừa là Chủ-Tịch Đảng, vừa là Chủ-Tịch Nước, chiếm-ngụ Phủ Chủ-Tịch là việc đương-nhiên. Và lẽ dĩ-nhiên chỗ làm việc và chỗ ở của Hồ Chí Minh được nhiều cán-bộ an-ninh bảo-vệ từ lớp trong ra lớp ngoài . Cộng-sản Việt-Nam có một thành-phố lớn, cố-đô Thăng-Long, để làm thủ-đô, hầu hãnh-diện với hoàn-cầu. Thành-quả ấy không phải chỉ là do công của cộng-sản Việt-Nam (do chúng bịp-bợm cướp quyền lãnh-đạo đồng-bào yêu nước), mà còn là của cả khối cộng-sản quốc-tế, chủ chốt là Liên-Bang Xô-Viết và cộng-sản Trung-Hoa . Nhìn qua Thế-Giới Tự-Do, cộng-sản thấy rõ vai trò của Pháp đã được Hoa-Kỳ thay thế; nhưng chúng cố ý bưng-bít không cho dân-nhân hiểu được sự khác-biệt giữa Pháp và Hoa-Kỳ. Pháp thì vẫn còn nuôi mộng tái-lập nền đô-hộ tại cựu thuộc-địa Việt-Nam, trong lúc Hoa-Kỳ giúp cho mọi nước nhược-tiểu trong đó có Việt-Nam thoát ra khỏi ách nô-lệ của cả đế-quốc tư-bản lẫn Liên-Xô . Cộng-sản lợi-dụng tinh-thần ái-quốc của toàn-dân vốn căm-thù ngoại-nhân xâm-lăng, để lèo-lái mọi người tiếp-tục bước vào cuộc "Kháng-Chiến 2" (chống Mỹ). Và chúng cũng thừa biết rõ khả-năng to lớn của Hoa-Kỳ, đặc-biệt về mặt tình-báo, mà cơ-quan được xem là chủ-mưu mọi cuộc chính-biến khắp nơi trên thế-giới, là CIA, thì từ người già cho đến trẻ con đều được cộng-sản Việt-Nam tuyên-truyền huấn-luyện để đề-phòng, khám-phá, và triệt-tiêu . Chính từ bối-cảnh lịch-sử đó mà nhân-vật Tạ Đình Đề xuất-hiện (hay được cấu-thành?). * VÀO một buổi trưa đẹp trời kia, không nắng rát nóng bức, cũng không bão táp lạnh cóng như khí-hậu tại Miền Bắc vẫn thường thay đổi luôn, Hồ Chí Minh gặp được một hôm ít việc, rời phòng-giấy về phòng-ăn sớm hơn mọi ngày . Một trong bốn tay hầu-cận mà "Bác" đặt tên cho là Kháng, Chiến, Thành, Công, vội-vàng chạy lên, chạy xuống, bưng dọn và chầu chực cho "Bác" dùng cơm trưa . Thình-lình Hồ Chí Minh hất hàm: -- Cho Bác xin thêm một cái bát và một đôi đũa nữa! Thỉnh-thoảng Hồ Chí Minh có đãi cơm người-này kẻ-kia, nhưng thường thì "Bác" có báo cho các cần-vụ biết trước để tiện chuẩn-bị sẵn-sàng. Lần này thì tay hầu-cận ngạc-nhiên: -- Thưa Bác, hôm nay Bác có khách à? Hồ Chí Minh gật gật đầu, ra vẻ khoái chí: -- Có chứ! Tay hầu-cận cảm thấy có cái gì khác thường. Nếu "Bác" không dặn ở nhà, dù quên hay cố-ý, thì các đồng-chí ở trên văn-phòng cũng vẫn báo tin cho dưới bếp biết, mỗi khi thấy có khách nào từ xa đến thăm mà chuyện-trò mãi đến gần giờ tạm nghỉ trưa, để họ chuẩn-bị làm tốt nhiệm-vụ nếu "Bác" bất-thần mời khách ăn cơm. Vốn "Bác" thường nói chuyện-này chuyện-nọ với các tay hầu-cận trong lúc chỉ có riêng "Bác" với bọn họ mà thôi, nên bọn họ đã có thói quen, trong "tình đồng-chí bác+cháu" với nhau, đề-cập với "Bác" bất-cứ vấn đề gì . Tay hầu-cận đem bát+đũa lên, hỏi thêm: -- Thưa Bác, khách hôm nay là ai, sao chưa tới nơi ? Hồ Chí Minh nhìn thẳng vào mắt tay hầu-cận, tủm-tỉm cười: -- Khách đã đến từ llâu rồi mà các chú không biết nên không đón tiếp mời vào đấy thôi! Gã cán-bộ thân-tín ngơ-ngác nhìn "Bác", chưa hiểu ý "Bác" nói gì. Hồ Chí Minh cũng thường nói đùa với các đồng-chí xung quanh, nhưng lần này thì đã bảo đem thêm bát+đũa lên, và "Bác" vẫn chưa bắt đầu ăn, thì rõ-ràng là "Bác" còn đợi người khách ấy mà. Nhưng tay hầu-cận thì đã chạy-ra chạy-vào, dòm-trước ngó-sau, dụi mắt nhiều lần, song có thấy ai đâu mà "Bác" bảo là khách đã đến từ lâu rồi! Hiểu rõ ý-nghĩ và tâm-trạng của gã "đồng-chí" phục-vụ mình, Hồ Chí Minh quay đầu hướng mắt về phía buồng ngủ, nói lớn tiếng: -- Xin mời anh Tạ Đình #272;ề vào ăn cơm trưa với tôi! Tay hầu-cận ngạc-nhiên vô cùng. Cái tên mới nghe lần đầu, mà theo hướng nhìn của Hồ Chí Minh thì người ấy đang có mặt ở phía buồng ngủ của "Bác", song không phải ở trong phòng, mà là... ở trên mái nhà. Tay hầu-cận trực phiên hôm ấy, dù là Kháng, là Chiến, là Thành, hay là Công, cũng bỗng cảm thấy lạnh toát cả người . Hầu-cận là lo cho "Bác" mọi mặt về cá-nhân "Bác", nhất là an-ninh, tức là mạng sống của "Bác". Cứ như thái-độ, cử-chỉ và lời nói của Hồ Chí Minh vừa rồi thì quả thật có một tên Tạ Đình Đề nào đó đã lọt vào được bên trong khu-vực cấm-địa này rồi . Nhìn thấy viên hầu-cận tái nét mặt và bắt đầu run sợ vì đã không chu-toàn trách-nhiệm của mình, "Bác" nhỏ-nhẹ nói: -- Người này tài tình lắm, các chú không đối-phó nổi đâu . Để Bác lo cho! Xong, Hồ Chí Minh quay đầu và hướng mắt về phía nhà bếp, phía trên mái bếp, nói lớn tiếng: -- Tôi mời anh vào phòng ăn, sao anh lại chuyền sang nóc nhà bếp? Giọng nói của "Bác" đầy trách-móc, nhưng thân-mật, vừa kẻ-cả vừa tha-thứ. "Bác" vẫn ngồi yên bên bàn-ăn, trong phòng-ăn. Dù phòng-ăn có hai cửa ra vào và hai cửa sổ, nhưng trần phòng và các bức tường che khuất các phòng khác, làm sao mà "Bác" thấy được người nào ở trên nóc bếp, mái nhà ? Tay hầu-cận ý-thức rõ nhiệm-vụ của mình, theo phản-xạ tự-nhiên, vừa rút súng-lục ra khỏi bao, vừa chạy đến cầm ống-nghe của máy điện-thoại định gọi báo động, thì Hồ Chí Minh đã ra hiệu gác máy, cất súng. Tay hầu-cận tuân theo, nhưng vẫn ở trong tư-thế sẵn-sàng ra tay . Gã-ta vừa vểnh tai lắng nghe động-tĩnh bên ngoài, vừa chú mục nhìn "Bác". Hồ Chí Minh vẫn bình-tĩnh ngồi yên trên ghế, và từ-từ xoay nửa người cùng hướng mắt về phía phòng-khách, vừa nhìn xuyên qua mái-đúc vách-xây, vừa dõng-dạc nói: -- Đấy, anh lại phi-thân đến bên trên phòng khách rồi . Tôi thành thật khen anh đại-tài! Trung-tâm sinh-hoạt của tôi được canh gác kỹ- lưỡng; trụ-sở gồm nhiều khu, dãy, tầng, phòng; thế mà anh đã lọt vào được rồi, ngay giữa ban ngày, và mãi cho đến phút này vẫn chưa bị lộ... Nhưng anh không qua mặt tôi được đâu; tôi đã thấy hết hành tung của anh rồi! Tay hầu-cận càng cảm thấy ớn lạnh khắp người. Gã-ta tuy là cần-vụ, nhưng mà là cần-vụ ngoại-hạng, vì phục-vụ "Bác" là một nấc thang cao nhất trong giới cần-vụ, có dịp gần-gũi, nghe biết nhiều điều bí-mật về Đảng và "Bác". Gã-ta đã nghe được chuyện một số văn-nghệ-sĩ có khuynh-hướng thân nhóm Nhân-Văn Giai-Phẩm phê-bình Đông Ky-Sốt (Don Quichotte, nhân-vật chính trong tác-phẩm nổi tiếng của Cervantès) - khuôn-mẫu của "AQ chính-truyện" và "Chí Phèo" -- là một loại anh-hùng "rơm" điển-hình của thế-giới loài người, mà "Bác" thì trong những lúc nói chuyện cũng như trong cuốn tiểu-sử mà "Bác" tự viết để tự đề-cao mình thì lại tôn-vinh Đông Ky-Sốt là hiệp-sĩ ! Tay hầu-cận bỗng thoáng có một ý nghĩ bất-thường: Phải chăng lâu nay "Bác" vẫn có mặc-cảm còn thua kém "hiệp-sĩ" Đông Ky-Sốt ở mặt nào đó, dồn nén và căng thẳng mãi, nên đến hôm nay thì đã lên cơn? Hoặc là "Bác" tưởng-tượng ra một nhân-vật xuất-quỷ nhập-thần để đấu tài với "Bác" và để "Bác" tự cho mình thắng, cũng như "hiệp-sĩ" của "Bác" cứ mỗi lần bị người-ta nện cho một trận nhừ-tử thì lại triết-lý trong óc rằng "mày đánh tao tức là mày đánh cha mày đấy!" rồi tự thỏa-mãn với cái ý nghĩ đinh-ninh rằng cha của kẻ thù đã bị đánh nhừ đòn rồi! Hoặc là "Bác" đã gây nên quá nhiều chết-chóc oan-khiên cho người vô-tội, nên vong-hồn của kẻ bạc-mệnh nào đó đã hiện-hình thành ma-quỷ, hôm nay bắt đầu xâm-nhập quấy rối thần-kinh não-bộ của con cáo hồ-ly-tinh này chăng! Nghĩ đến đó, nước mắt tự-nhiên ứa trào ra hai khóe mắt của tay hầu-cận. Gã-ta thương "Bác" thì nhiều, nhưng cái thương ấy chỉ là thương-hại mà thôi, còn thì gã-ta tự thương thân mình nhiều hơn, vì "Bác" mà điên thì rất có thể là "Bác" sẽ giết chết gã-ta trong nháy mắt, tất-nhiên là do ma-lực xui khiến của yêu-quỷ mà thôi; và như thế thì thật là oan-uổng vô cùng cho một kiếp người tận-tụy hy-sinh vì "Bác", vì Đảng, từ bao lâu nay ... Thế nhưng, ơ kìa, một gã tráng-niên khỏe mạnh nhanh-nhẹn đã bỗng nhảy xoẹt một cái từ trên mái lầu xuống sân, rồi lẹ-làng phóng ngay vào trong phòng-khách, xông tuốt vào trong phòng-ăn, đứng ngay trước mặt Chủ-Tịch Hồ Chí Minh. Hành động của vị khách lạ thoăn-thoắt như máy, tay hầu-cận chỉ có đứng sững mà nhìn chứ không còn biết phản-ứng ra sao . Hồ Chí Minh và vị khách trẻ yên lặng nhìn nhau, vừa nhận-diện vừa quan-sát đánh giá bản-lĩnh của nhau . Già Hồ lên tiếng trước: -- Chào anh Tạ Đình Đ𓎵! Trông anh già-dặn hơn trước nhiều, song có phần gầy+đen hơn lúc mới ra trường! Vị khách, trong bộ đồng-phục phổ-quát của một đảng-viên đảng cộng-sản Việt-Nam, nghiêng đầu chào "Bác" và bắt đầu bằng một câu hỏi: -- Chủ-tịch Hồ Chí Minh có nghĩ rằng, nếu tôi muốn, thì dù Chủ-Tịch có báo-động và huy-động toàn-lực bảo-vệ để truy bắt tôi, tôi vẫn có thể thoát khỏi nơi đây và lẩn vào bí-mật lại như thường được không ? Hồ Chí Minh không trả lời thẳng vào câu hỏi ấy, mà lại đặt lại một câu hỏi khác: -- Anh Đề có nghĩ rằng, tuy anh đứng trước mặt tôi, nhưng anh có muốn thì anh cũng không thể nào động vào người tôi được không? Hai người không ai trả lời ai; rồi Hồ Chí Minh đứng dậy; rồi cả hai bước đến gần nhau, ôm nhau hôn, hôn bên này, hôn bên kia, theo kiểu cộng-sản. Họ rời nhau ra, nhìn nhau, cười với nhau thật tươi. Hồ Chí Minh chỉ ghế, mời Tạ Đình Đề ngồi xuống, bên bàn-ăn. Tạ Đình Đề không ngồi liền, đứng thẳng người, chắp hai tay trước bụng, lễ-phép nói: -- Thưa Bác, trước hết tôi xin bày tỏ lòng khâm phục của tôi đối với Bác. Tôi xin nói ngay là kể từ phút đầu tiên mà Bác phát hiện ra tôi, tôi đã thấy ngay là Bác cao tài hơn tôi; đến khi vào đây đứng trước mặt Bác, tự nhiên tôi thấy có một sức mạnh vô hình nào đó tự đáy lòng mình thúc đẩy tôi phải đổi hẳn từ thế thù nghịch sang niềm kính yêu . Vậy tôi quyết định chấm dứt công tác của địch giao cho, và xin đặt mình dưới quyền sử dụng của Bác, kể từ hôm nay . Hồ Chí Minh gật đầu, vỗ vai Tạ Đình Đề, ấn gã-ta ngồi xuống ghế: -- Tôi hiểu, tôi tin anh, và tôi nh&ận anh là đồng-chí của tôi! Tạ Đình Đề rút trong người ra một khẩu súng lục tí-hon có gắn một ống hãm-thanh, tháo những viên đạn có đầu sơn đỏ ra, cùng với một ống nhòm, một bản đồ Dinh Chủ-Tịch, một cục thạch-anh (để dùng với máy vô-tuyến truyền-tin), một số giấy-tờ tùy-thân của cán-bộ cao-cấp, một số bạc giấy, v.v... trao cho viên hầu-cận. Xong, gã-ta thò tay vào miệng, móc từ trong kẽ răng ra một viên thuốc độc, đặt lên thành mâm, trước mặt Hồ Chí Minh. "Bác" nói: -- Thôi, bây giờ chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện. * * * SAU đây là tóm-lược đại-ý nội-dung câu chuyện của Tạ Đình Đề: Tạ Đình Đề được cơ-quan Tình-Báo Trung-Ương của Hoa-Kỳ (CIA) tuyển-mộ sau nhiều giai-đoạn điều-tra thử-thách cam-go . CIA đưa Tạ Đình Đề đến thụ-huấn tại một trung-tâm đào-tạo điệp-viên tại một nơi bí-mật thuộc lĩnh-thổ Hoa-Kỳ. Chương-trình học-tập bao gồm những gì mà những ai có đọc truyện trinh-thám gián-điệp đều đã biết được hoặc có thể tưởng-tượng thêm. Điều đáng nói là khóa huấn-luyện của Tạ Đình Đề chỉ dành riêng cho bốn người mà CIA cho là xuất-sắc nhất, gồm có: Tạ Đình Đề của Việt-Nam, Giang Thanh của Trung-Hoa (là người sau này làm vợ bé của Mao Trạch Đông, và là Ủy-Viên Trung-Ương của Đảng Cộng-Sản Trung-Hoa), và hai người khác mà Tạ Đình Đề nói là không thể biết tên cũng như không thể mô-tả hình dáng, chỉ trừ khi nào gặp lại thì chắc-chắn gã-ta sẽ nhận ra ngay . Điều quan-trọng hơn hết là hai người kia thì Tạ Đình Đề tin chắc, do khả-năng tìm hiểu cũng như giác-quan thứ sáu của mình, là cũng được CIA giao-phó nhiệm-vụ đặc-biệt nhắm vào Việt-Nam: hoặc là sát-hại Hồ Chí Minh, hoặc là trường-kỳ mai-phục lèo-lái ngầm trong nội-bộ Đảng để thay đổi hẳn đường-lối chính-sách của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam sau này. Mỗi người hoạt-động theo một đường dây riêng. Tạ Đình Đề kết-luận là gã-ta đã lợi-dụng những tài-liệu học-tập và nghiên-cứu tham-khảo dồi-dào, không bị cắt xén của cơ-quan CIA, kể cả một số báo-cáo của các điệp-viên khác liên-quan đến con người của Hồ Chí Minh, để phác-họa ra trong óc một Hồ Chí Minh khác hẳn với con người mà phe chống Cộng nhận định. Do đó, gã-ta đã chọn cho mình một giải-pháp dứt-khoát: đợi cho đến khi giáp mặt Hồ Chí Minh, gã-ta sẽ đích-thân trực-tiếp đánh giá con người thật của họ Hồ, và sẽ... hoặc là ra tay trừ-khử, hoặc là... Tạ Đình Đề quay lại nhìn tay hầu-cận: -- Không phải "bị" trừ-khử đâu! -- Mà là tham gia cùng tôi để trừ khử những kẻ thù của nhân dân tiến bộ! -- Vâng, Bác quả thật là một lãnh-tụ đại-tài, xứng đáng là cấp lãnh đạo của tôi từ nay cho đến trọn đời. * Từ đó, Tạ Đình Đề nghiễm-nhiên trở thành vệ-sĩ kiêm cố-vấn cho Hồ Chí Minh, ít nhất thì cũng là trong lĩnh-vực phản-gián, đối-phó với các âm-mưu kế-hoạch của Hoa-Kỳ qua các hoạt động của cơ-quan tình-báo CIA . Tạ Đình Đề không ngừng chứng-tỏ cho mọi cán-bộ Trung-Ương Đảng thấy rõ tài-năng xuất-chúng của mình. Tạ Đình Đề bắn súng đại-tài. Riêng về biệt-tài này, có một lần ngay trong buổi họp của Bộ Chính-Trị Trung-Ương Đảng, gã-ta đã chớp-nhoáng rút súng bắn tắt đóm lửa ở đầu điếu thuốc mà Võ Nguyên Giáp ngồi ở dãy bàn bên kia đang ngậm hút trên môi . Thường thì mỗi khi có ai làm gì sai+trái, dù là nhỏ-nhặt, Hồ Chí Minh cũng quở trách; nhưng với việc làm lộng-hành này của Tạ Đình Đề thì Hồ Chí Minh chỉ cười xòa, lại còn khen là giỏi, khiến không khỏi gây bất-mãn trong lòng một số người . Có một lần khác, "Bác" và các tay đầu-não của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam đang dự xem một cuộc trình diễn trên sân khấu. Dở chừng, có một nữ diễn-viên vừa mới bước ra, chưa kịp nói xong câu nói đầu tiên của vai trò mình, thì Tạ Đình Đề đã đứng vụt dậy, rút súng bắn một phát; người nữ-nghệ-sĩ chết ngay tức-thì. Tạ Đình Đề liền dẫn Hồ Chí Minh, có các Bí-Thư Trung-Ương Đảng cùng theo, bước lên sân khấu . Tạ Đình Đề khám xét trong người tử-thi, lấy ra một khẩu súng lục tí-hon và một cục thạch-anh giấu trong nịt vú, đưa ra cho "Bác" xem. Tiếp theo, Tạ Đình Đề cởi tuột quần của người xấu số, kéo dang hai chân ra, chỉ cho "Bác" thấy một cái vết chàm trên háng cô-ta . Rồi gã-ta lấy trong túi ra một con dao nhỏ, cạo một mảng tóc trên đầu nạn-nhân, để lộ ra và chỉ cho Hồ Chí Minh nhìn thấy mấy nét xăm da mà chính Tạ Đình Đề cũng không biết là hình gì, chữ gì . Hồ Chí Minh siết chặt tay Tạ Đình Đề, rồi ôm chầm lấy gã-ta mà hôn, hôn bên này, hôn bên kia, theo kiểu cộng-sản, xong nói lớn với mọi người có mặt xung quanh: -- Tạ Đình Đề đã cứu sống Bác! Lời "Bác" là chân-lý, mọi người đều tin theo. Tuy-nhiên, "Bác" hiểu tâm-lý mọi người, muốn biết rõ hơn, nên Hồ Chí Minh giải-thích: -- Anh Đề đã có báo-cáo cho Bác biết trước; báo-cáo hiện lưu trong hồ-sơ mật trong phòng làm việc của Bác. Để Bác tóm-tắt câu chuyện như sau: Vì cùng học chung một khóa, cùng sinh-hoạt chung, gồm cả bơi-lội, và vì đàn-bà con-gái phải mặc đồ tắm theo lối Âu-Mỹ, nên anh Đề đã nhìn thấy vết chàm trên háng người nữ điệp-viên CIA này. Đồng-thời, vì phải thực-tập quan-sát, nhận-xét tỉ-mỉ, nên anh Đề đã để ý nhận thấy có cả một tuần cô-ta tắm mà không để ướt đầu, có khi ngứa không chịu nổi đành phải đưa tay lên gãi, nên anh Đề biết là có một sự rách tấy trên lớp da đầu; đến khi học về phương-thức thông-tin, thị-hiệu, gồm có cả những dấu-hiệu kín đáo tạo ra ngay trên cơ-thể của mình, thì anh Đề mới tin chắc là cô-ta đã xăm da . Đối-phương thay tên, đổi tuổi, ngụy-tạo lý-lịch, ngoại-hình, nên anh Đề không biết trước kẻ thù là ai, làm gì, ở đâu . Nhưng nhờ đã có ở chung với nhau nhiều năm trong trường huấn-luyện, và nhờ kiến-thức, kinh-nghiệm, cũng như linh-tính, nhất là nhờ lòng yêu nước, nhờ tình đồng-chí, anh Đề đã nhận ra được kẻ thù ngay khi cô-ta vừa mới xuất-hiện trên sân-khấu . Nếu không, thì với vũ-khí ấy, với tài bắn súng của một điệp-viên CIA, kẻ thù chắc hẳn đã hại được Bác rồi! Tất cả đều tranh nhau ôm hôn Hồ Chí Minh để mừng "Bác" thoát chết, rồi ôm hôn Tạ Đình Đề để cám ơn vị cứu-tinh đã cứu mạng cho "lãnh-tụ vô vàn kính yêu" của mình. * Thế là Tạ Đình Đề đã trở thành anh-hùng cứu "Bác"; mà cứu "Bác" thì tức là cứu Đảng, cứu Nước. Thủ-tướng Phạm Văn Đồng đã nhân danh Nhà-Nước trao tặng Tạ Đình Đề một chiếc xe mô-tô. Thuở ấy, chỉ có được một chiếc xe-đạp đã là dấu-hiệu của sự cao sang, ăn-nên làm-ra . Xe mô-tô rất hiếm-có ở Hà-Nội; vả lại các người có nó cũng ít khi dùng, vì phải tiết-kiệm xăng dầu, và để tỏ ra là mình bình dân, không dùng xe sang. Đến khi đã có xe mô-tô rồi thì Tạ Đình Đề, là một nhân-vật ngoại-hạng, đã sử-dụng nó khá thường-xuyên, đến nỗi hễ thấy có người cỡi xe mô-tô, thậm-chí chỉ mới nghe tiếng máy xe mô-tô, là người dân ở Hà-Nội đã đinh-ninh rằng đó là Tạ Đình Đề. Một hôm nọ, Tạ Đình Đề cỡi xe mô-tô chạy trên một con đường hẹp, có trồng cây cao bóng rợp che mát mái nhà hai bên. Thường thì đồng-bào nghe tiếng máy xe mô-tô hoặc xe ô-tô là ai nấy đều tránh sát bên lề, nên Tạ Đình Đề chạy xe khá nhanh, hướng phía đường lớn phóng ra . Rủi thay, lần ấy ngẫu-nhiên có một chiếc xe ô-tô bộ đội chạy từ đường lớn rẽ vào, mà cũng chạy nhanh, nên vừa vào xong thì hai xe ấy gặp nhau . Tiếng thắng rít lên, và tiếng kim-loại đâm sầm vào nhau, khiến mọi người ở gần đấy đều thất-thanh kêu lên: "Trời! Anh Đề!" Đồng-bào từ hai bên đường ào ra, ai nấy đều lo cho tính-mệnh của gã-ta . Nhưng chiếc xe mô-tô thì bị ô-tô cán dẹp, mà Tạ Đình Đề thì không thấy đâu . Đợi cho dân-chúng dòm dưới gầm xe ô-tô, nhớn-nhác nhìn quanh một lát xong, Tạ Đình Đề mới cười to và từ trên một nhánh cây nhảy xuống, hoàn-toàn bình-yên. Gã-ta liền được mọi người ôm hôn, vừa mừng thoát nạn, vừa khen không tiếc lời . * Ngày 02 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh "về với cụ Các Mác và bác Lê Nin". Tạ Đình Đề mất chỗ dựa, bèn được bố-trí cho làm Cục-Phó Cục Đường-Sắt, đặc-trách Thể-Dục Thể-Thao . Trong nhiệm-vụ và quyền-hạn của mình, Tạ Đình Đề thu nạp một số thanh-niên vào làm nhân-viên Đường-Sắt, mà thực-tế là để tăng-cường cầu-thủ và nâng cao tài-nghệ của Đội Bóng Đá Trung-Ương: chiếm nhiều giải-nhất, được xếp vào hàng Đội A toàn-quốc, chứ không phục-vụ công-tác chuyên-môn của ngành Hỏa-Xa. Xen lẫn trong số cầu-thủ ấy có một số có lý-lịch lem-nhem, nên Tạ Đình Đề bị phê-bình nhiều lần. * Năm 1972, tình-hình có thay đổi lớn. Biến-cố quan-trọng hàng đầu là Tổng-Thống Hoa-Kỳ Richard Nixon qua Bắc Kinh thăm Mao Trạch Đông, mở đầu một giai đoạn mới trong bang-giao Mỹ--Hoa . Hoa-Cộng đã xáp đến gần Hoa-Kỳ! Mỹ--Hoa có nhiều chương-trình kế-hoạch; ngoài những vấn-đề công-khai, hẳn còn có những bí-mật: hai bên hợp-tác với nhau, rõ-ràng có hại cho Cộng-Sản Việt-Nam. Bên Hoa-lục đã có điêp-viên CIA Giang Thanh cầm nắm họ Mao, còn tại Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa thì sao ...? Thế là, chiếu theo kiến-nghị của "nhân dân", cán-bộ, công-nhân viên-chức, và bộ-đội, Tạ Đình Đề bị đưa ra trước Tòa-Án Nhân Dân, vì phạm các tội sau đây: - Phá-hoại tài-sản nhân dân, không chịu bảo-quản tài-sản công-cộng, làm hỏng chiếc xe mô-tô của Nhà-Nước và Nhân Dân; - Xúc-phạm danh dự, uy-tín c#7911;a các Ủy-viên lãnh đạo Đảng cấp Trung-Ương; - Lạm dụng chức quy𓎵n; dung-nạp các phần-tử bất-hảo thuộc thành-phần có thân-nhân di-cư vào Nam, có liên-hệ với một số công-chức, sĩ-quan cao-cấp tại Miền Nam, có người thân can tội bao che cho Biệt-Kích "Ngụy" và giặc lái Mỹ bị "Ta" bắn rơi; - Làm gián điệp cho CIA mà khônng khai-báo đầy đủ với cơ-quan chuyên-trách hữu-quan. Bằng-chứng là, về mặt đối-nội, trước khi giả-vờ khuất-phục và cộng-tác với Hồ Chí Minh, Tạ Đình Đề đã gây ra vô-vàn tội ác đối với Đảng, phá-hoại cơ-sở, sát-hại đảng-viên, trong một thời-gian khá lâu, từ vùng biên-giới đến vùng ven đô Hà-Nội; về mặt đối-ngoại, đã lợi dụng vai trò gọi là "trung-lập" của Hồ Chí Minh giữa hai thế-lực Hoa-Cộng và Liên-Xô để thu-thập tin-tức về nội-bộ của hai Đảng cộng-sản "anh+em" ấy hầu cung-cấp cho CIA ... Buổi sáng hôm đó, thay vì tuân-hành mật-lệnh của các cấp Ủy, đến dự phiên tòa để phát-biểu và hô khẩu-hiệu đòi-hỏi nghiêm-trị Tạ Đình Đề -- tối đa là án tử-hình -- thì đám đông người thuộc các tầng-lớp dân-chúng thủ đô Hà-Nội và từ các Tỉnh lân-cận kéo về, đã đến tụ-tập đầy nghẹt từ trong tòa-án ra các ngã đường xung quanh, từ khi trời chưa rạng sáng, với bộ mặt u sầu như khi đi dự đám tang. Mặc kệ, cơ-quan tư-pháp vẫn mở phiên tòa. Đồng-bào có mặt lúc đầu xôn-xao bàn-tán từng nhóm, từng nơi; về sau đồng loạt công-khai chỉ-trích, lớn tiếng phản đối những lời buộc tội của cán-bộ Công-Tố được máy phóng-thanh phát ra khắp các phố phường, bất-chấp mọi sự hù dọa của Công-An sát-khí đằng đằng. Đến khi Tạ Đình Đề được phép lên tiếng trước tòa, mọi người không ai rủ ai đều lặng im hồi-hộp lắng nghe . -- Nếu Hồ Chủ Tịch vô vàn kính yêu của chúng ta mà vẫn còn sống, thì hẳn là tôi không bị đem ra hành tội nhục nhã như thế này! Đó là câu nói duy-nhất của Tạ Đình Đề trong phiên tòa ấy, mà giọng nói của gã-ta thì hầu như số đông đã quen thuộc nên nhận ra ngay; không những nhận ra tiếng nói mà còn nhận ra con người, một nhân-vật vừa "dân-tộc, khoa-học, đại-chúng", vừa cổ-tích dân-gian, một hình-ảnh gợi nhớ đến Hồ Chí Minh mà hồi đó đa-số người dân ở Miền Bắc còn bị bưng-bít nên xem như thần-thánh, thân-thương như cha già. Tự-nhiên, tưởng như do một mệnh-lệnh và một quyền-lực thiêng-liêng sai-khiến, mọi người có mặt đều khóc òa lên, rồi cùng nhau hô to khẩu-hiệu đả đảo tòa-án, la hét vang trời, đẩy nhau xông vào trụ-sở pháp đình. Những người đã vào sẵn trong đó rồi thì vội nhảy đến công-kênh Tạ Đình Đề lên vai, đập phá bàn ghế, tấn-công các thẩm-phán hữu-quan, khiến các tên này phải lủi ngã sau . Cuối cùng, Công-An dùng loa phóng-thanh tuyên-bố tòa đã đình xử, và giải-tán đồng-bào . Sau đó, không còn nghe ai đả động gì nữa đến việc xử tội Tạ Đình Đề ... * TÔI đã nghe được nhiều lần, cả cán-bộ cộng-sản tại-chức lẫn bị bắt vì tội phản động, kinh-tế, tham-ô, cũng như thường-dân bị bắt vì xâm-phạm tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, hối-lộ, vượt biển, v.v... bị giam chung buồng với tôi, tại Thanh-Liệt (Hà-Nội), Kho Đạn (Chợ-Cồn, Đà-Nẵng), Hội-An, An-Điềm, Đồng-Mộ, Tiên-Lãnh, Hòa-Sơn (Quảng-Nam), v.v... kể về Tạ Đình Đề. Chuyện của mỗi người có những chi-tiết khác nhau, nhưng tựu-trung các điểm chính-yếu đều y như trên. Có lần, tại trại Hòa Sơn -- một trại quy-mô mới lập ở gần Đà-Nẵng -- tôi nghe một số cựu cán-bộ Việt-Cộng tranh-luận với nhau về câu chuyện này . Một gã cao-niên nói rằng hồi xưa quả có một người tên Tạ Đình Đề, đã được Hồ Chí Minh nhờ cơ-quan OSS (Tiền-thân của cơ-quan CIA) huấn-luyện giùm về tình-báo; nhưng về sau chỉ hoạt-động trong khuôn-phép chứ không ngang-tàng như trên. Có người hỏi lại về người vừa mới phát-biểu thì biết gã-ấy đã rời hàng-ngũ Việt-Minh từ trước 1954, không biết những gì xảy ra về sau . Lại cũng có người nói là có biết một bảo-vệ-viên thân-tín của Hồ Chí Minh, về sau là Tổng-Cục-Phó Tổng-Cục Thể-Dục Thể-Thao, có những đặc-tính giông-giống nhân-vật mà người ta truyền-tụng, nhưng tên là Tạ Quang Chiến (liên-can trong vụ thủ-tiêu Nguyễn Thị Xuân, vợ hờ của Hồ Chí Minh) chứ không phải là Tạ Đình Đề. Phải chăng ngoài bọn Kháng+Chiến+Thành+Công còn có thêm một tay hầu-cận khác, ngoài Tạ Đình Đề; hay là Chiến cũng là Đề? Sau nhiều ngày bàn-cãi, cả bọn đồng-ý với nhau rằng sự-tích Tạ Đình Đề có ngụ-ý là, với truyền-thống ấy, các lớp đàn-em của họ Tạ, tức CIA sau này, dù có tài-giỏi bao nhiêu đi nữa thì rồi cũng phải quy-phục các thế-hệ con+cháu của họ Hồ mà thôi ! Tuy nhiên, sau đó có một kẻ trong bọn đã nói riêng vào tai tôi: Nếu tính đơn-giản thì Tổng-Thống Mỹ là cấp một, Hội Đồng An-Ninh Tình-Báo Quốc-Gia là cấp hai, Giám Đốc CIA là cấp ba, Trưởng Vụ Điệp-Báo hoặc Trưởng Vùng Tình-Báo Đông-Nam-Á là cấp bốn, Trưởng Lưới của Tạ Đình Đề là cấp năm; vậy thì Đề có cao lắm cũng chỉ là cấp sáu mà thôi . Thế mà phải cần đến Hồ Chí Minh là cấp một của Việt-Nam mới đối-phó nổi với một phần-tử cấp sáu của Hoa-Kỳ, trong lúc Việt-Nam thì không có ai "tài-cán" bằng Hồ Chí Minh, và CIA thì lớn mạnh hơn, cầm nắm tình-hình thế-giới ngày càng chặt-chẽ hơn ! Tôi phải giữ kẽ nên chỉ giả-vờ tò-mò hỏi xem hiện nay Tạ Đình Đề ở đâu, làm gì, ra sao, v.v... thì có vài người, tất-nhiên thuộc giới cộng-sản thâm-niên, nói là nghe đâu gã-ta đã được đưa qua Liên-Xô sau cuộc xử án bất-thành. Lâu lâu các cán-bộ Việt-Cộng bị "cải-tạo" nói trên lại suy-đoán với nhau về những nhân-vật có một cuộc đời hai mặt, tỷ như: đại-tá Lê Minh Quốc, đã chết mất xác trên chiến-trường Miền Nam mà rồi sau đó lại trở thành một trung-tướng Không-Quân Liên Xô trong phái đoàn Liên Xô đến Hà Nội đầu năm 1982; đại-tá Nguyễn Quốc Chí đã là liệt-sĩ mà rồi sau đó lại trở thành chính-ủy Hoa-Cộng giật dây Hoàng Văn Hoan trong cái gọi là "Đảng Cộng-Sản Hồ Chí Minh" và "Chính-Phủ Lâm-Thời Dân-Tộc Liên-Hiệp Việt-Nam" Lưu-Vong tại Bắc-Kinh sau biến cố 1979... RIÊNG tôi nhận ra một điều vô cùng quan-trọng và đầy phấn-khởi trong câu chuyện Tạ Đình Đề: Họ Tạ, do chính Hồ Chí Minh và các Ủy-Viên Trung-Ương Đảng kể lại, có tiết-lộ là CIA đã đào-tạo được, trong khóa ấy, cả thảy bốn điệp-viên. Trừ Giang-Thanh của Trung-Hoa ra, còn lại ba người, đều được giao-phó nhiệm-vụ nhắm vào Việt-Nam. Cô nữ diễn-viên sân khấu đã bị Tạ Đình Đề bắn hạ rồi; Tạ Đình Đề thì hiện đã qua Liên-Xô. Vậy người thứ ba, điệp-viên CIA, mà Tạ Đình Đề nói là có nhiệm-vụ mai-phục trường-kỳ -- ở lâu, đi sâu, trèo cao -- trong Trung-Ương Đ𓉡ng, hẳn là tài giỏi hơn Tạ Đình Đề -- vì mãi đến nay vẫn chưa bại-lộ -- hiện đang làm gì, ở cương-vị nào; và đến bao giờ thì chúng ta mới biết được những thành-quả của sứ-mệnh bí-mật của tay gián-điệp kỳ-tài kia ?
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 6:04:53 GMT 9
Về “Mười nỗi đau của Bác Hồ” (I)
Nguyễn Văn Lục Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lãnh đạo chính trị cận đại của Việt Nam được báo chí, sách vở trong nước cũng như ngoại quốc đề cập tới nhiều nhất. Có thể đối với một số tác giả ông còn vượt cả Mao Trạch Đông, tác giả Mao tuyển hay Ngữ Lục của Trung Quốc. Mao Trạch Đông được coi là một nhân vật “vĩ đại” về viễn kiến chính trị, về tư tưởng của ông, và cũng là tác giả của cuộc Đại cách mạng văn hóa hay tác giả “Bài nói chuyện ở Diên An”. Ông “vĩ đại” vì khối óc “sáng tạo” với những ý tưởng để đời như lời tuyên bố viễn kiến vào ngày 1 tháng 10 1949 , “Dân tộc Trung Hoa đã đứng lên, không có bất cứ ai còn có thể làm nhục họ được nữa.” Tuy nhiên cái vĩ đại ấy đã được thổi phồng đến độ kinh hoàng, không nói là điên rồ của một thứ vô thức tập thể. Trong cuốn Mao Trạch Đông, ngàn năm công tội(1), có một đoạn viết như sau, “Trong tiềm thức, đông đảo cán bộ, đảng viên quần chúng cảm thấy có tín ngưỡng vô hạn, sùng bái vô hạn Mao Trạch Đông, thì mới có an toàn chính trị cho bản thân và gia đình. Một cao trào sùng bái cá nhân mang tính chất toàn dân vừa bị ép buộc, vừa tự nguyện như một dòng thác lũ tràn ngập đất Trung Hoa.” Người viết đọc đoạn văn trích dẫn trên mà không khỏi rùng mình và tự hỏi phải chăng đối với Hồ Chí Minh, người ta cũng thần thánh hóa bằng một thứ bạo lực “êm dịu”, “thúc bách vô thức tập thể”như thế? Nhưng về mặt con người thì lãnh tụ Mao Trạch Đông được mô tả là người “bình thường”. Ông nổi tiếng ham mê sắc dục không dấu diếm, nổi tiếng ở bẩn như không hề đánh răng, không hề tắm, hay ngay cả cái tài ăn ớt của ông. Người ta viết về ông với đầy đủ cái vĩ đại đến cái xấu cũng như những thất bại của ông. Trong khi đó, hình ảnh Hồ Chí Minh khác hẳn họ Mao. Nếu Mao vĩ đại, họ Hồ bí mật. Mao sống thực, họ Hồ sống giả. Mao sống như thể “vô đạo đức”, giết người không gớm tay, họ Hồ sống như bậc triết nhân, “đạo hạnh”, lúc nào cũng như thể lo cho dân. Câu hỏi là có thực sự là như thế không? Hình ảnh Hồ Chí Minh bao trùm một bí mật với nhiều huyện thoại “tuyệt vời” đến người ngoại quốc cũng nghi ngại không biết đâu là thật, là giả. Một số không nhỏ các tác giả người Pháp cũng như sau này người Mỹ đã bị mê hoặc về tính chất huyền bí trong nhân dạng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định chính cái bí mật làm nên con người Hồ Chí Minh. Như Wiilliam J. Duiker nhận xét trong phần mở đầu cuốn sách đồ sộ của ông về Hồ Chí Minh, “There is an element of mystery in all great men. And few enjoyed the mystery more than Ho Chi Minh himself.” Và chính Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận về điều này khi trả lời một cuộc phỏng vấn của Bernard Fall vào năm 1962, “An old man likes to have a little air of mystery about himself. I like to hold on to my little mysteries. I’m sure you will understand that.” (Trích Ho Chi Minh, a Life, William J. Duiker, trang 7.) Bí ẩn Việt Nam Nguồn: History Channel Khởi đầu là các bí mật về tên tuổi, dòng họ gia đình,cuộc đời hoạt động “ra đi tìm đường cứu nước”, hoạt động bí mật bên Pháp, bên Trung Quốc, bên Liên Xô, v.v... Khi về nước đột nhiên xuất hiện một “huyền thoại” chung quanh ông như “cha già dân tộc” dù mới ở tuổi trên 50. Hình ảnh ấy xem ra dị hợm và lố bịch quá nên sau đó được đổi ra là “Bác Hồ”. Chữ Bác Hồ từ đó gắn liền với cuộc đời Hồ Chí Minh cho đến khi chết. Nhưng giữa những bí mật, những huyền thoại được bôi vẽ hay đóng kịch có nhiều phần nguy cơ trở thành thứ lừa bịp chăng? Từ những chuyện rất nhỏ như huyền thoại đôi dép râu đi đến mòn mà vẫn đi, chuyện huyền thoại được Trần Dân Tiên bôi vẽ trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch cho thấy chỉ là câu chuyện vẽ rồng thay vì vẽ rắn. Hình ảnh ông xuất hiện dưới nhiều lăng kính khác nhau như đạo sĩ, cha già dân tộc, Bác Hồ, ôm hôn các cháu ngoan Bác Hồ, lãnh tụ quốc tế, v.v... Và Hà Huy Giáp đã không ngần ngại tạc tượng. Và nay người ta còn tạc tượng để thờ ở những nơi tôn nghiêm như một ông thánh. Khi được tin người ta tạc tượng ông, ông đã khiển trách: “Ai cho phép các chú làm? Đồng để dùng vào việc quân, không phải để tạc tượng.” Mắng thì mắng, nhưng tượng đã tạc xong nên mắng như thế là lối tuyên truyền tuyệt vời rồi! Phải nói Hồ Chí Minh là muôn mặt. Như vậy, nói về Hồ Chí Minh trong thời đại bây giờ thì công việc thiết yếu phải chăng là giải trừ những huyền thoại, những bí mật chung quanh con người ấy? Có lẽ vì vậy mà trong truyện Sinh ra để chết của Tạ Duy Anh, ông mượn lời một thằng bé để tố cáo gián tiếp sự lừa phỉnh của lãnh tụ như sau: “Ối dào, mình là cái thá gì cơ chứ. Biết bao kẻ đánh lừa cả một dân tộc, một quốc gia, thậm chí cả nhân loại mà hắn cứ phây phây sống khi sống, long trọng chết khi chết và được thờ cúng, phết tên tuổi vào bia đá bảng đồng. Kẻ nào ngu lại cả tin thì mặc mẹ chúng nó.” Trích tiểu thuyết Sinh ra để chết, Tạ Duy Anh, trang 23, nxb Tiếng Quê Hương. Hoàng Hữu Quýnh trong Tôi bỏ Đảng, tập 1, cũng viết, “Nghĩ đến đó, tôi bỗng giật mình, sợ bác (Hồ) như sợ ma. Tôi không tin ở bác. Hình như bác có cái gì như bí ẩn giấu giếm. Vẻ mặt bác gian ác, con người bác nhiều thủ đoạn. Tôi lạnh toát mồ hôi.” (Trích Tôi bỏ đảng, tập 1, Hoàng Hữu Quýnh, trnag 130, xuất bản năm 1989.) Tuy nhiên một trong những “bí mật” của bí mật của Hồ Chí Minh có thể lần đầu tiên được tiết lộ là “Những nỗi Đau” của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có thể có những nỗi đau bí mật mà không ai biết? Thật vậy, theo ông Hoàng Tùng, Hồ Chí Minh có những nỗi đau mà chưa hề có một tác giả trong nước cũng như ngoại quốc nào nói tới? Phải chăng đây là những nỗi đau liên quan đến số phận dân tộc, đất nước mà ông đã giữ kín ngay cả lúc đã chết? Và nếu có thì là những nỗi đau gì? Với tư cách gì, dù là một người thân cận với Hồ Chí Minh có thể nhận ra được những nôI đau thầm kín trong tâm tư Hồ Chí Minh? Nó cùng một cung cách như khi viết về tâm tư TT. Nguyễn Văn Thiệu? Bài viết Mười nỗi đau của “bác Hồ” của Hoàng Tùng thật ra có nhan đề là: Những kỷ niệm về “Bác Hồ”. Nhưng ngay cả tựa đề Những kỷ niệm về “Bác Hồ” thì thật ra cũng chỉ là trích đoạn rút ra trong tập tài liệu toàn tập của ông Hoàng Tùng có nhan đề là: Hồ Chí Minh, Trung Quốc và Liên Xô. Ông Hoàng Tùng là Tổng biên tập báo Nhân Dân, nguyên ủy viên Ban Bí Thư Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là bài ghi lại một trong các buổi nói chuyện của ông về chủ tịch Hồ Chí Minh được đưa lên Blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Ông Hoàng Tùng, tác giả 10 nỗi đau của Bác Hồ tên thật là Trần Khánh Thọ, sinh năm 1920 mới qua đời ngày 19 tháng sáu 2010 vừa qua, thọ 90 tuổi. Hoàng Tùng (Trần Khánh Thọ) Nguồn: hanoimoi.com.vn Ông Hoàng Tùng cho biết, trong khoảng thời gian 25 năm làm việc gần Bác đã cho phép ông có được cái tư thế đặc biệt để viết về ông Hồ Chí Minh. Và phải nói ông là một trong vài người thân cận sát cánh với ông Hồ từ cách mạng tháng 8, lúc ông mới 15 tuổi cùng với các ông Phùng Thế Tài (cận vệ, 1940-1945, tác giả cuốn Hồi Ức, Những kỷ niệm không quên), Vũ Kỳ còn có tên là Nguyễn Chuẩn (bí thư riêng của Hồ Chí Minh, tác giả bài viết rất quan trọng: “Bác Hồ vui tết Mậu Thân năm ấy”). Theo ông Hoàng Tùng, phần lớn những sự việc ông viết lại về ông Hồ chỉ liên quan trực tiếp đến vấn đề giao thiệp với Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt những thúc ép của phía Liên Xô và Trung Quốc về vấn đế “thực hiện chủ nghĩa xã hội” hay Cải cách ruộng đất , v.v... Cho nên hậu quả của những chính sách sai lầm ấy đều do Liên Xô hoặc do Trung Quốc ép buộc cả. Đây là một cách thức “chạy tội” cho Hồ Chí Minh của một thuộc hạ trung thành với chủ. Giá trị lịch sử và trách nhiệm của một người lãnh đạo coi như được xóa trắng chăng? Đọc văn bản của Hoàng Tùng chạy tội cho Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất thấy không đủ thuyết phục. Nhưng trước hết xin được tóm tắt 8 nỗi đau của ông Hồ như sau: 1. Nỗi đau gia đình tan nát: Mẹ và người em út mất sớm vì nhà nghèo. Người anh cũng cũng bị tù đầy và mất sớm. Bố bị hàm oan, bị đầy đi biệt xứ. 2. Nỗi đau thứ hai Bác không được quốc tế cộng sản công nhận. 3. Nỗi đau thứ ba là Bác bị bắt cầm tù trong lúc Cách mạng đang cần người. 4. Nỗi đau thứ tư, sau 1945, Liên Xô và Trung Quốc không công nhận đảng ta, đảng cộng sản Pháp cũng nghi ngờ. 5. Nỗi đau thứ năm là là 1950-1952, Mao Trạch Đông và Stalin “gọi” Bác sang (chữ gọi do chính Hoàng Tùng dùng) buộc ta phải thay đổi đường lối dẫn đến sai lầm trong cải cách ruộng đất. 6. Nỗi đau thứ sáu là sự xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô. Hai “Mặt trời” không ai chịu ai. 7. Nỗi đau thứ bảy là sự bất hòa giữa mấy người lãnh đạo của ta. Nói chung là sự tranh chấp trong nội bộ đảng. Bác chủ trương, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. 8. Nỗi đau thứ 8, Bác không muốn có chiến tranh và cuộc kháng chiến kéo dài. Bác rất đau lòng. Sau đó, ông Hoàng Tùng kết luận, Tất cả những nỗi đau kể trên, Bác không thể thổ lộ với ai, kể cả các anh Trường Chinh, Lê Duẩn. Muốn hiểu Bác, không thể nào không tìm hiểu những nỗi đau của Bác để thấy con người bác chín chắn, sự đứng đắn của Bác trong đường lối chính trị. Phải chăng khi nói đến nỗi đau của ông Hồ là một cách gián tiếp nói tới những thất bại của ông Hồ Chí Minh? Phải chăng đây là một điểm son của tác giả dám nói lên một số sự thật về sự thất bại của Hồ Chí Minh? Thực sự không hẳn vậy, trình bày những nồi đau, những thất bại những bất như ý của ông Hồ thật ra ông Hoàng Tùng gián tiếp biện hộ cho ông Hồ, coi ông Hồ không trách nhiệm gì về những đường lối chính sách ấy. Đọc toàn văn nội dung bài viết bàng bạc một lối biện hộ, chia xẻ cái khó của ông Hồ, muốn mà không làm được, không muốn mà vẫn cứ phải làm. Người ta đặc biệt không thể tìm thấy bất cứ trách nhiệm nào có thể gán cho ông Hồ. Ông là người của tình thế trong suốt quãng đời làm chính trị, trong những quyết định sinh tử liên quan đến chuyện đất nước và trong 4 thắng lợi lớn thường được rêu rao là: Một là Tổng khởi nghĩa thắng lợi, hai là kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ba là kháng chiến chống Mỹ thắng lợi và cuối cùng là công cuộc đổi mới thắng lợi. Còn về những thất bại? Dưới mắt ông Hoàng Tùng, Bác Hồ là con người vô can, con người có lòng, có đạo nghĩa mà bất lực. Tâm tình và những cảm nghiệm cũng như suy nghĩ của ông Hoàng Tùng cũng một phần nào được chia sẻ ngay cả đối với những người đã ra khỏi đảng, chống lại đường lối của đảng, hoặc được hiểu là những kẻ bị khai trừ. Chỉ cần kể một số tên tuổi như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Văn Hoan, nhạc sĩ Tô Hải ngay cả Vũ Thư Hiên, Bùi Tín và một phần Dương Thu Hương cho thấy người ta nhìn ông Hồ như thế nào. Người ta có thể chống đảng, nhưng e dè trước bóng dáng Hồ Chí Minh. Không còn sự biện hộ nào khéo léo và kín đáo hơn cách bào chữa của ông Hoàng Tùng. Phần người viết bài này, xin được góp một số ý kiến như sau về 10 nỗi đau của Bác 1. Nỗi đau cá nhân vì gia đình tan nát Để chứng tỏ Bác là người có nhân nghĩa, trọng chữ hiếu, có tình nghĩa với gia đình, dòng họ. Ông Hoàng Tùng nói đến sự mất mát ngoài ý muốn của Bác đã chịu thiệt thòi vì gia đình phải chia lìa. Mẹ và em út mất sớm vì nghèo. Bố bị đi tù vì tính ngay thẳng. Người anh cũng đi tù và mất sớm. Tuy nhiên ông không đưa ra bất cứ chi tiết cụ thể nào về tình trạng gia đình Hồ Chí Minh. Gia đình có bao nhiêu anh em, ai bị giết, ai bị tù, ai còn, ai sống, tan nát vì lý do gì? Ông cũng không cho biết, ông Hồ có chia sẻ tâm sự về nỗi đau mất mát này trong một trường hợp duy nhất nào chăng? Ông chỉ vỏn vẹn kể câu chuyện bà Bạch Liên, chị ruột ông Hồ Chí Minh ra Bắc vào tháng 10 năm 1945 ở Hà Nội gặp em “Gặp Bác, bà nắm tai Bác kéo lên và kêu: ‘Đúng nó đây rồi’. Bà nhận ra vì bác có cái sẹo nhỏ ở tai, khi còn bé ở nhà câu cá, giựt câu bị lưỡi câu mắc vào tai. Để bà ở Bắc bộ phủ thì không tiện, Bác đưa bà về nhà tôi ở. Bà ăn trưa, ngủ đêm ở nhà tôi, còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi. Sau chuyến này, tôi không biết bà có ra thăm Bác lần nào nữa không. Lúc đó tôi ở 23 Hàng Nón. Bà ra có mang theo ra biếu Bác hai chục trứng gà. Bác bảo đem luôn về nhà tôi.” Chị em xa cách khoảng hai chục năm làm gì đến nỗi không nhận ra nhau đến nỗi phải nắm tai em kéo lên như con nít? Không có một dòng nào về sự hàn huyên giữa hai chị em sau bao nhiêu năm xa cách? Ngày ngày đưa bà đi chơi thay vì đưa bà đến gặp Hồ Chí Minh để chị em tâm sự hay ăn một bữa cơm. Một bữa cơm chung giữa hai người chắc cũng không có. Đọc thấy có điều chi không ổn? Giả tạo và ngượng ngập? Phần bác đau nỗi đau gia đình thất tán như thế nào coi mơ hồ quá? Có bao giờ bác tâm sự về cảnh gia đình tan nát không? Toàn câu chuyện có vẻ như viết lấp liếm cho có. Và kể từ lần đó, không bao giờ ông Hồ có dịp gặp lại bà chị cả. Ông Hoàng Tùng kể ra với vẻ “ngậm ngùi” và thú nhận không bao giờ quên được tấm lòng của Bác khi đi Liễu Châu gặp Chu Ân Lai về thì được biết bà chị Bạch Liên đã qua đời. Nhận được điện báo từ khu bốn, anh Trường Chinh “ngậm ngùi”, nhưng không nói phải làm gì. Khi về, tôi bá cáo lại Bác hỏi tôi: “Thế các chú có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình và địa phương là Bác bận việc không về được không?” Tôi trả lời: “Thưa Bác không ạ.” Bác nói, “các chú ngốc quá.” Một vài dẫn chứng như thế không đủ thuyết phục được ai. Nếu quả thực bác có lòng với chị thì dù có trễ mấy đi nữa vẫn có thể tự tay viết vài dòng về thăm hỏi gia đình. Thật quý hóa biết bao nếu gia đình nhận được vài chữ chia buồn từ tay Bác! Việc dễ như thế bác cũng không làm còn trách ai nữa. Nhưng điều tối quan trọng là việc đời tư của Bác, ông Hoàng Tùng cố lờ đi tất cả những mối tình vụng trộm của ông Hồ có quan hệ với nhiều phụ nữ khác nhau. Đây là tảng lờ cố ý, bất chính và thiếu lương thiện. Ông không nói tới thì sự việc cũng có người khác nói tới. Nói tới đầy đủ, chi tiết và có bằng cớ hẳn hoi. Mà nay người ta lôi ra ánh sáng cho thấy cuộc đời ông Hồ đầy những chuyện bất nhân, bất nghĩa, tàn bạo đến vô đạo đức. Càng che dấu thì cái tội của ông Hồ càng trở nên đáng nguyền rủa. 2. Nỗi đau lớn nhất của ông Hồ đối với các nước XHCN Ông đã là bị bè bạn các nước như Trung Quốc, Liên Xô bỏ rơi, coi thường? Hoàng Tùng viết: “Về quan hệ của Bác với bên ngoài. Vì quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta khi được thành lập hai nước đều không công nhận. Trung Quốc thì quan hệ không chính thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa phương thôi. Đó là Chu Nam và Trang Điện. Một người là chính ủy, một người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiêu phỉ ở Thập Vạn Đại Sơn. Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết, nhất là Stalin coi Bác là một người dân tộc chủ nghĩa cải lương từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt ở Hồng Kông rồi lại được tha khiến Liên Xô nghi ngờ. Bác đến Liên Xô năm 1934-1938 chỉ làm công tác ở ban Thuộc Địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời. Người xin về nước.Tại Đại Hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự thính.” Nhận xét về điều này, thiết tưởng không thể gọi là nỗi đau của Bác Hồ, mà phải nói là nỗi nhục của Bác.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 6:53:13 GMT 9
Về “Mười nỗi đau của Bác Hồ” (Kết)Nguyễn Văn Lục Nhận xét thứ hai là “Bác” chỉ mong được làm tay sai cho cộng sản Liên Xô và Trung Quốc mà không xong. Hoàng Tùng nói rõ thêm, “Sang Trung Quốc, Mao đưa”Bác”vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa “Bác” vào quỹ đạo Liên Xô. Chuyến đi của”Bác”năm 1950 sang Trung Quốc và Liên Xô là chuyến đi gian khổ.” Cũng theo Hoàng Tùng, cả hai bên Trung Quốc đều muốn lôi kéo Bác.”Bác”bị giằng xé trong suốt những năm của cuộc đời. Nếu quả đúng như lời nhận xét của Hoàng Tùng thì cũng tội nghiệp cho ông Hồ Chí Minh thật. Nguyễn Văn Trấn Nguồn: OntheNet Như lời Nguyễn Văn Trấn viết trong Viết cho mẹ và Quốc Hội, “Ông Hồ chung thủy với Liên Xô mà đồng thuận với chiến lược hòa bình. Nhưng ông không đồng thuận được với Đảng. Nó đem ông ra mà làm tình làm tội. Cái đó ít ai biết. Tôi biết, tôi sẽ nói đây.” (Trích Viết cho mẹ và Quốc Hội, Nguyễn Văn Trấn, trang 325.) Điều đó cho thấy “Bác” như con cờ, một thứ tay sai của hai nước đàn anh. Nó cũng chứng tỏ rằng vai trò của”Bác”trong guồng máy Quốc Tế cộng sản không quá quan trọng như sự tuyên truyền của bộ máy Đảng nhà nước kể từ năm 1928 đến 1938. Nhưng mục đích của Hoàng Tùng trong bài viết này là cố gắng làm nhẹ vai trò của ông Hồ nhằm biện hộ cho những sai lầm của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất, đồng thời coi ông Hồ như một người Mác xít không giáo điều, nhưng là một người Mác xít theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Mục đích bài viết của Hoàng Tùng nhằm biện hộ cho những sai lầm của Hồ Chí Minh đã không đủ thuyết phục. Chẳng những thế nó có tác dụng ngược chiều. Ông Hoàng Tùng xem ra càng bảo vệ cho uy tín ông Hồ thì càng lật tẩy cái mặt trái của ông Hồ. Cái được gọi là nỗi đau của ông Hồ vì không được Quốc tế cộng sản trong thập niên 1928-1938 nhìn nhận thật ra chỉ là nỗi nhục chẳng những cho riêng cá nhân ông Hồ mà cho cả cái Đảng cộng sản Việt Nam. Mặc dầu vậy, có một chỗ nhận xét của Hoàng Tùng không kém phần lý thú và kể như lần đầu tiên được tiết lộ công khai. Đó là chỗ ông Hoàng Tùng cho rằng, “Khi đánh công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả hơn một triệu người di cư vào Nam.” Ít ra thì nhận xét này cũng phản ánh một phần sự thật. Dù chỉ là một sự thật rất nhỏ trong việc đồng bào di cư miền Bắc chạy trốn vào miền Nam. Tuy nhiên, người viết nghĩ rằng có lẽ điều tốt hơn hết cho ông Hồ Chí Minh là không có những bài viết biện hộ kiểu Hoàng Tùng! 3. Nỗi đau quan trọng thứ ba là nội bộ trong đảng chia rẽ nhau Theo Hoàng Tùng, nỗi đau thứ bảy là nỗi đau về sự chia rẽ trong nhóm lãnh đạo Đảng. Hoàng Tùng kể, “Tôi biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bảy,”Bác”lại cho làm cơm và nói: “Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra. Không nên để bụng”. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư ký cho những buổi đó cho đến khi anh vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết điều này thì không thể hiểu hết tại sao trong di chúc của”Bác”lại phải dặn đoàn kết đảng, từ trung ương đến địa phương.” Thật ra, sự chia rẽ trong nội bộ Đảng xảy ra ngay từ những ngày Đảng còn trong trứng nước. Từ Đại Hội I ở Ma Cao, Hà Huy Tập đã phê phán Hồ Chí Minh theo như luận điệu của Quốc Tế cộng sản và đã phê phán ông Hồ Chí Minh trong một nghị quyết “Phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn Ái Quốc, (tức Hồ Chí Minh). Ở khu bốn, có những thành phần bất mãn như Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Dực, Trần Ngọc Danh, Lê Hy, Nguyễn Chương. Nhất là Nguyễn Sơn luôn luôn chỉ trích và “coi thường” Võ Nguyên Giáp. Hoàng Tùng viết: “Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất, Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng sai lầm thì phê bình chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác. Lúc đó, tôi hỏi anh Võ Nguyên Giáp, anh ta hay hục hặc như thế để anh ta làm phó cho anh anh có được không, Võ Nguyên Giáp nói làm thế nào được. Anh ta suốt ngày chửi tôi, anh ta còn phê bình trường Nguyễn Ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng nên mời chú đi.” Trong khi đó Phi Vân, Trần Văn Giàu, những người xuất thân từ Liên Xô, một cách nào đó coi thường ông Hồ vì trình độ lý luận Mác xít không chính quy và bài bản như họ. Chính Hoàng Tùng viết, “Khoảng năm 1935, ở tù cùng Phi Vân, tôi hỏi Phi Vân nhận xét về Nguyễn Ái Quốc, Phi Vân nói: ‘Ông này không có gì đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém.’” Trần Văn Giàu vốn là nhân vật chính trị nổi bật ở miền Nam. Ông là Bí thư xứ ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Đã có thời một đảng viên vào khoảng năm 1941-1942 bị thẩm vấn hỏi ai là người đứng đầu đảng cộng sản. Đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu. Nay ông đã 100 tuổi sống khuất bóng. Khi ra Bắc dự Hội Nghị Tân Trào cùng với Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Thị Thập, Trần Văn Giàu đã không được thừa nhận. Chính phủ Lâm thời lúc đó có tên những người như Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, v.v... Thế của Trần Văn Giàu yếu đi và cứ thế bị bỏ rơi vào quên lãng. Bị điều đi Xiêm sau rốt làm một giáo sư sử học và ngồi dịch thuật. Nghề dịch thuật là thứ nghề giam lỏng, ngồi chơi sơi nước. Sách của Trần Văn Giàu Nguồn: phomuaban.com Trần Văn Giàu có viết một cuốn Hồi ký, Hồi ký 1940-1945 kể lại cái thời ký huy hoàng nhất của một thanh niên trí thức đi học Liên Xô về, làm cách mạng chống Pháp ở trong Nam. Tuy vậy, cuốn Hồi ký đã không được chính thức xuất bản. Mà chỉ được in và phổ biến dưới dạng Photocopy mà thôi. Hy vọng đến một lúc nào đó, người ta sẽ được đọc những màn tranh chấp, hạ bệ và thanh trừng trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam mà tiêu biểu là số phận đã được dành cho Trần Văn Giàu trong suốt 75 năm. Được biết Trần Văn Giàu có viết một cuốn Hồi Ký khác đợi khi chết mới tung ra, người viết vẫn trông chờ một thứ Hồi ký Tô Hải cao cấp, nói đến những tranh chấp, thanh lý nội bộ nơi những đảng viên lão thành cỡ Hoàng Văn Giàu viết để lại cho thế hệ mai sau. Người mà có lúc đã gọi Hồ Chí Minh là anh thay vì chữ “bác” kính cẩn như thiên hạ quen dùng. Nếu ngoài Bắc có những kẻ bị thất sủng như Trần Đức Thảo thì trong Nam tiêu biểu có Trần Văn Giàu. Trường hợp Hoàng Văn Hoan là đồng chí thân cận của Hồ Chí Minh bị Hoàng Tùng coi là loại người nổi tiếng “nhiều chuyện”, kèn cựa ngay từ đầu. Năm 1979, Hoàng Văn Hoan trốn sang Tầu để khỏi bị Lê Duẩn thanh trừng và năm 1988, ông viết hồi ký Giọt nước trong biển cả. Đây là một cuốn Hồi ký rất quan trọng vì nó nói lên tính chất cục bộ chia rẽ trong nội bộ Đảng chỉ vì theo Tàu hay theo Liên Xô. Tính chất chia rẽ trong đảng trở thành tính “thường trực”, “tính đảng” bao lâu còn nằm dưới ảnh hưởng của Liên Xô hoặc Trung Quốc. Việc tranh chấp và thanh trừng Hoàng Văn Hoan của tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ nêu rõ tính chất xung đột phe phái (factionalism) mà cho đến nay vẫn còn tồn tại. Tính chất này cũng đã được Vũ Thư Hiên dành phần cuối cuốn sách Đêm giữa ban ngày của ông về trường hợp phe Lê Đức Thọ-Lê Duẩn đối xử tàn tệ với Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp cũng như nhóm “Xét lại Chống Đảng” như thế nào. Sự thanh trừng trong nội bộ Đảng là tàn bạo và khủng khiếp mà theo Vũ Thư Hiên, “Ông Hồ cũng chẳng phải vô can.” Những việc tranh chấp trong nội bộ Đảng không ai viết tách bạch, thẳng thừng, hay và lý thú và bạo trợn hơn Nguyễn Văn Trấn. Từng trang, từng đoạn như sau. “Mà trời ơi dưới triều đại Hồ Chí Minh, ai được Lê Đức Thọ để ý có cảm tình là má thằng đó đẻ nó đêm rằm tháng bảy. Tao nói cho mày nghe nha, Bùi Công Trừng nói tiếp, về chuyện lão Hồ Chí Minh, tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên viên ngiên cứu lý luận Mác Lê-nin. Chuyện nước giao Nguyễn Chí Thanh. Việc đảng, statu-quo Lê Duẩn. Cái thằng tự nhiên muốn làm Khổng Tử này, khó lật nó lắm. Vì nó công trạng ở Nam Bộ, và mấy bà má ôm nó chum chủm trong lòng. Mày coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta bận đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà quay mặt ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi chướng tai quá quay vô, đưa tay, để nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc-Hà: “Bác hãy để cho anh em người ta nói đã nàọ”Tao đếm lão Hồ đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn.” (Trích Viết cho mẹ và quốc hội, Nguyễn Văn Trấn, trang 328). Nhưng nếu nhận diện cho kỹ thì sự xung đột phe phái có nguồn gốc nằm trong chính bản chất chế độ ấy. Các cá nhân, những thành phần nằm trong chế độ ấy trước sau gì cũng phải có việc thanh lý nội bộ vì một lẽ giản dị nó là một tổ chức độc tài, thiếu dân chủ. Độc tài đẻ ra tranh chấp xung đột, thanh trừng và phe phái. Cho dù Hồ Chí Minh có thật sự đau xót hay “giả vờ đau xót”về sự chia rẽ trong Đảng thì điều đó chứng tỏ rằng, ông đã thật sự mê muội vì nguồn gốc tranh chấp nằm ngay trong bản chất của Đảng cộng sản rồi. Không có Lê Duẩn-Lê Đức Thọ này thì sẽ có Lê Duẩn khác như nhận xét của Vũ Thư Hiên trong Đêm giữa ban ngày. Bởi vì tranh chấp, bè phái là lẽ sống còn, là sức mạnh của đảng để có thể tồn tại nhờ bạo lực trấn áp. Sở dĩ cho đến ngày hôm nay, đảng ấy đã vấp phạm không biết bao nhiêu sai lầm, cán bộ đảng viên phần đông hủ hóa, mất bản chất mà nó vẫn đứng được chỉ nhờ vào tính chất bạo lực, trấn áp ấy! Cho nên, nói tới bất cứ hình thức dân chủ nào trong đảng thì đều là thứ dân chủ giả hiệu như hiện nay đang có xu hướng như thế. Cái dân chủ ấy không phải thực chất dân chủ mà là “trò chơi dân chủ”. Mọi chuyện sẽ y nguyên như cũ Như mới đây việc bầu đảng bộ Đà Nẵng mà tỉ lệ phiếu thuận đạt 99,99%. Đảng tồn tại là nhờ bạo lực. Chỉ có bạo lực là cứu cánh cho “sinh mệnh”của đảng. Kẻ vào đảng là tự bán mình, là một vong thân chính trị như một thứ nô lệ tự nguyện. 4. Về hai Nỗi đau của ông Hồ không được nhắc tới Khi được tin ông Hoàng Tùng mất vào tháng 6 vừa qua, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã đưa bài Mười nỗi đau của Bác Hồ lên mạng như một “tưởng niệm Hoàng Tùng” với một vài ghi chú về xuất xứ của bài viết. Theo ông Nguyễn Trọng Tạo, ông Hoàng Văn Dzư đã cho nhà thơ NTT một bản chép tay với đầy đủ chữ ký của tác giả là ông Hoàng Tùng. Tuy vậy bài ghi lại này không đầy đủ. Thay vì Mười nỗi đau của”Bác”Hồ thì trong tập tài liệu chỉ ghi có 8 nỗi đau. Để giải thích về việc thiếu hai nỗi đau này, ông Nguyễn Trọng Tạo có gi chú ở cuối bài viết là: “Sau đó chỉ kể ra tám nỗi đau, không rõ người kể đếm nhầm, hoặc không kể, hoặc có thể người ghi chép thiếu.Chúng tôi không nghĩ rằng bản này (được chuyền tay trong giới cán bộ đã bị kiểm duyệt). Đây cũng không phải là sự bất nhất duy nhất trong hồi ký này, nhưng vẫn cho rằng tính trung thực của bài thì không có gì đáng ngờ.” Trong cuốn sách Hồ Chí Minh, Nhận định Tổng Hợp của tác giả Minh Võ, một cuốn sách không thể thiếu được khi muốn tìm hiểu về con người Hồ Chí Minh. Tác giả Minh Võ cũng dành chương 35, trang 407 với bài viết của Hoàng Tùng: Hồ Chí Minh, Trung Quốc Và Liên Xô. Trong đó vấn đề 10 cái đau của “Bác” được nhắc lại sơ lược như sau: “Hoàng Tùng kết thúc câu chuyện bằng việc kể ra 8 điều khiến Hồ Chí Minh đau khổ trong số ‘10 cái đau của bác’”. Người viết cũng đã qua điện thoại hỏi tác giả Minh Võ cho biết rõ thêm về chi tiết hai nồi đau còn lại của Hồ Chí Minh là điều gì? Tác giả Minh Võ cho biết cũng không biết hai nỗi đau còn lại của Hồ Chí Minh. Vấn đề đặt ra ở đây là chính Hoàng Tùng tự ý chỉ giới hạn vào 8 nỗi đau. Vậy tại sao ông ta lại nói tới 10 nỗi đau và dấu hai nỗi đau để làm gì? Hai nỗi đau không được nói tới trở thành nỗi thắc mắc không có lời giải đáp vĩnh viễn vì lý do giản dị là ông Hoàng Tùng đã không còn nữa? Không bằng lòng với chỉ có 8 nỗi đau của Hồ Chí Minh và trong nhu cầu tìm hiểu hai nỗi đau kia, người viết đã nhờ bạn bè quen biết với ông Nguyễn Trọng Tạo và qua thư từ điện tử, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo ở trong nước đã công khai gửi cho người viết hai nỗi đau còn lại của Hồ Chí Minh. Và đây là nội dung lá thư của ông Nguyễn Trọng Tạo gửi ngày 12 tháng 9, 2010 từ trong nước gửi cho người bạn và đồng thời cho tác giả bài này. Nguyễn Trọng Tạo Nguồn: bee.net.vn Anh L. yêu quý, Trước đây, nhà nghiên cứu Hoàng Văn Dzư có cho Tạo biết là ông Hoàng Tùng nói có 10 nỗi đau của”Bác”Hồ, nhưng chỉ công bố có 8. Còn 2 nỗi đau nữa là: - Cuộc kháng chiến thắng lợi. Nhưng chết quá nhiều người. - Bộ chính trị chưa thật đoàn kết. Tạo chỉ nhớ đại ý vậy. Vì ông Hoàng Tùng không công bố mà chỉ nói riêng với một số người. Nếu tin tưởng vào lời xác nhận của ông Nguyễn Trọng Tạo thì nỗi đau thứ 9 cho thấy, một cách gián tiếp và vô tình phủ nhận giá trị của cuộc kháng chiến. Phải chăng, người ta đã trả giá quá đắt cho cuộc kháng chiến ấy! Và vì thế, không ai dám nói thẳng và minh bạch về thành tựu của kháng chiến chống Pháp? Và rồi chống Mỹ? Không một ai cho phép đưa ra một con số, dù là “phỏng chừng” vì sự thiệt hại về nhân mạng trong hai cuộc chiến này? Phía bên này thì cho rằng một người lính Mỹ chết đổi lấy 10 người bên phía cộng sản. Có cuốn sách viết mỉa mai: Un million de dollars, un Viet Cong. U.S. Department of Commerce, Bureau of the Census, "Vietnam Conflict—U.S. Military Forces in Vietnam and Casualties Incurred: 1965 to 1972," table 428, Nguồn: Statistical Abstract of the United States, 1973 (Washington, D.C.: U.S. Department of Commerce, Social and Economic Statistics Administration, Bureau of the Census, 1973), 267. Kháng chiến chống Pháp đã trả một giá không nhỏ. Nhưng trong công cuộc “chống Mỹ cứu nước” thì hậu quả hầu như không lường được là bao nhiêu? Cho đến nay, mặc dầu hai cuộc chiến đã qua trên dưới nửa thế kỷ, nhưng chưa bao giờ đảng Cộng sản Việt Nam dám công bố con số đầy đủ về con số thương vong của binh lính cũng như của thường dân. NLF (Viet Cong) casualties Nguồn: knowledgerush.com Họ huyênh hoang về chiến thắng thần thánh, nhưng lại quên đến số phận những người lính đã chết trận trong hai cuộc chiến đó! Phải chăng đó là điều mà ông Hoàng Tùng không bao giờ dám công khai tiết lộ nỗi đau thứ 9 cũng như thứ 10 của “Bác” Hồ?
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 8:02:04 GMT 9
Chu Thich Them: - theo Tâm Việt : Cách mạng Tân Hợi 10- 10-1911, chủng Hán dành lại được độc lập. Ngày Quốc Khánh Dân Quốc bắt đầu từ đó. Tác giả Ngục Trung Nhật Ký có để lại một bài thơ để than cho cảnh bị mất tự do vào chính ngày nhân dân Trung Hoa dành lại được tự do độc lập cho đất nước của họ. Đối với đảng cộng sản và những kẻ hâm mộ ông Hồ đều đoan quyết Ngục Trung Nhật Ký là tập thơ biểu lộ tâm tư yêu nước của ông Hồ, người đẻ tại Việt Nam, Đông Dương thuộc Pháp. 雙十日解往天保 Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo 家家結綵與張燈 國慶歡聲舉國騰 我却今天被绑解 逆風有意阻飛鵬 Gia gia kết thái dữ trương đăng Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng Ngã khước kim thiên bị bang giải Nghịch phong hữu ý trở phi bằng. Bản dịch của Nam Trân: Nhà nhà hoa kết với đèn giăng, Quốc khánh reo vui cả nước mừng; Lại đúng hôm nay ta bị giải, Oái oăm giá cản cánh chim bằng. Triều đại nhà Thanh (1644–1911) được thành lập sau khi đánh đổ nhà Minh, triều đại cuối cùng của chủng Hán Một cuộc nổi dậy của quân đội bắt đầu vào ngày 1o tháng 10 năm 1911 tại Hồ Nam. Chính quyền lâm thời của Trung Hoa Cộng Hòa được thành lập tại Nam Kinh vào ngày 12 tháng 3, năm 1912 với Tôn Dật Tiên là Tổng Thống, như họ Tôn bị bắt buộc phải trao quyền cho Viên Thế Khải, là tư lệnh của lực lượng quân sự mới và cùn là tể tướng dưới thời nhà Thanh, như là sự thỏa thuận để cho vị vua cuối cùng nhà Thanh thoái vị. Sau khi Trung Hoa Cộng Sản Đảng chiến thắng Trung Hoa Quốc Dân Đảng, họ thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và lấy ngày 1 tháng 10 1949 là ngày khai sinh ra chế độ. Và từ đó quốc khánh của Cộng Hòa Nhân Dân Trung quốc là ngày 1 tháng 10 và của Trung Hoa Cộng Hòa ( Taiwan) vẫn giữ ngày 10 tháng 10 là Quốc Khánh. Góp ý này lẽ ra dành cho bài Hội chứng Một Ngàn, của tác giả Võ Thị Hảo nhưng nói về NỖI ĐAU CỦA ÔNG HỒ nên xin được viết ở đây Đó là nỗi đau không được cùng "đồng bào" nhân dân Trung Hoa "của ông" ăn mừng Quốc Khánh. **************** Mười đau của Bác Hồ (TTLan Paris 05/10/10) Một đau tan nát gia đình, Mất Cha, bỏ Mẹ, tự sinh ra đời, Đổi tên, đội lốt nhiều người Nhưng không dấu được con người hiểm gian, Hai đau theo bám ngoại bang, Vuốt Nga, Tàu cộng phũ phàng gia nô... Thế mà chúng chẳng cho vô Vào trong Quốc tế Đại nô Cộng tà, Tay sai vâng dạ thế mà Tại sao chúng chẳng cho là Anh Em?!? Ba đau bị gọi là Hèn Trong khi Cách mạng Bác bèn "đi chui" Gọi là "giam ngục" cho mùi, Có ai tin được, có đui, có đần? Bốn đau Đảng Bác chần rần, Mà sao các khối Cộng Bần vẫn nghi? Dù là để họ chỉ huy, Bảo gì làm nấy, không thì "gọi lên" Chỉnh cho đầy tớ, hai bên Nga, Tàu mặc sức bề trên phán điều, Năm đau nghe lệnh đã nhiều... Ruộng nương Cải cách là điều lệnh tuân! Không cần sợ khổ cho dân? Làm theo Mao, Mác một chân lý đuờng! Dù là khốn nạn bất lương, Giết người, cướp của, thảm thương dân nghèo! Lệnh ra Đảng Bác phải theo, Đến khi Hai Khối bạc bèo cãi nhau... Trung thành như chó, Sáu đau, Các thầy cãi vã biết tâu bên nào? Thôi thì bắt chước vậy sao, Nội cung Bác cũng biết bao thành phần!! Bắt đầu chủ nghĩa cá nhân.. Bẩy đau, tranh chấp bất cần chủ trương Nâng cao đạo đức giả trường, Thằng nào trong Đảng cũng lường gạt dân! Kẻ khôn lên cổ vắt chân Di cư từ Bắc tránh thân phận tàn... Triệu dân Bắc bỏ xóm làng Vào Nam chạy chốn Bác càng thêm đau! Thế là từ đấy đánh nhau Chiến tranh Nam Bắc thật lâu kéo dài... Đánh vào Nam lỗi tại ai? Tám đau,vì biết trần ai vì mình!! Nhưng vì giả dối phân minh: Ngoại xâm, Thống Nhất, chiên chinh đến cùng!! Trong khi bom đạn tưng bừng, Giải buồn Bác cũng cầm chừng mấy Cô, Xài xong Bác đẩy xuống bồ, Để nguyên vẹn giữ Bác Hồ trắng trong!!! Chín đau, lọt phải họ Nông, Giờ ai cũng biết Bác không sạch gì!! Bỏ con, giết vợ như ri Người nhà còn giết huống chi đồng bào? Ngẫm xem, bao vạn "công lao", "Công trình" như Thánh(*) tại sao dân hờn? Tâi sao dân đếch biết ơn? Đàn em chúng lại lộng hơn chính mình? Mười đau mình chỉ bù nhìn, Có thần tượng hoá cũng hình ảo vong, Chúng cho Bác ở ngoài vòng Chầu rìa, khi chúng hoành tung nước nhà! Đến khi thấy tuổi đã già Biết mình gần đất sắp xa nước trời, Mới nên thú tội dối lời, Mười đau tiếc chỉ một đời dối gian! Mang đau khổ đến thế gian, Về cùng sâu bọ có oan chút nào? Một tay giết triệu đồng bào, Ngoại bang có mấy "anh hào" ác ôn? Âu thì Bác dại hơn khôn, Không thương dân tộc, chỉ tôn thờ Tàu! Thì nay về với bọ sâu, Tội tình đã thú, ngàn sau còn thù... Kẻ trên trăm tênHồ Chí Minh. Ảnh Google Người xưa thường có tên húy do cha mẹ đặt, tên tục, tên thường dùng, tên thụy (sau khi chết). Nhiều người có thêm tên tự (tên chữ), tên hiệu, biệt hiệu. Ngày nay, các văn nghệ sĩ có bút danh, nghệ danh, biệt hiệu, nhà buôn có thương hiệu, tu sĩ có pháp danh (Phật giáo), tên thánh (Ky-Tô giáo), hướng đạo sinh có tên rừng … Trong ngành tình báo, kể cả trong tiểu thuyết gián điệp, các điệp viên thường có nhiều tên hoặc bí danh, bí số khi hoạt động để tự giấu mình và đánh lừa kẻ khác. Ngoài ra, còn có nhiều người thay tên đổi họ để lừa bịp, lừa tiền hoặc lừa tình. KẺ TRÊN TRĂM TÊN Dầu là ngày xưa hay ngày nay, dầu thực tế hay tiểu thuyết, dầu là giới tình báo hay những kẻ lừa bịp, trên cõi đời nầy, có lẽ không ai có nhiều tên bằng Hồ Chí Minh (HCM), chủ tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước năm 1975. Theo thống kê chính thức của nhà cầm quyền cộng sản hiện nay ở trong nước, trong sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội, thì HCM có tất cả 169 bí danh, mà CS gọi là bút hiệu, bút danh, vừa để hoạt động, vừa để viết báo. Sách nầy còn ghi thêm một số bí danh nghi ngờ là của HCM mà người CS còn đang tìm hiểu thêm. Hồ Chí Minh sống khoảng 80 tuổi. Từ khi sinh ra cho đến khi chết, HCM dùng 169 bí danh, tính trung bình mỗi năm HCM có hai bí danh. Cũng theo thống kê trên đây, trong 169 bí danh nầy, từ khi sinh ra cho đến năm 1954 (64 năm), HCM dùng 133 bí danh, nghĩa là trung bình một năm cũng hai bí danh. Từ 1954, làm chủ tịch Bắc Việt Nam cho đến khi chết năm 1969 (15 năm), HCM có 36 bí danh. Vậy trung bình một năm, HCM dùng hơn hai bí danh. Trong bài nầy, chúng ta không nhắc lại tất cả những tên và bí danh của HCM, chỉ xin nói đến một vài cái tên và bí danh đặc biệt mà thôi. NGUYỄN TẤT THÀNH, HY VỌNG THÀNH ĐẠT Đầu tiên, tên khai sinh của HCM là Nguyễn Sinh Cung. Giọng địa phương nguyên quán Nghệ An của Nguyễn Sinh Cung, phát âm chữ Cung là Côông. Vì vậy có tài liệu ghi tên cúng cơm của HCM là Nguyễn Sinh Côn. (Ví dụ: Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, bài “Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)”.) Điều đặc biệt là anh của Nguyễn Sinh Côn tên là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950). Giọng địa phương phát âm chữ “Khiêm” là “Khơm”. Như thế, một người tên Khơm, một người tên Côn. Tên hai anh em ghép lại đọc chung là “Khơm Côn”. Đọc ngược hai chữ “Khơm Côn” nầy lại (nói lái) là “Khôn Cơm”. Giọng địa phương (từ Nghệ An vào Thừa Thiên) “khôn” còn có nghĩa là “không”. “Khôn cơm” nghĩa là không có cơm mà ăn. Có người lý giải rằng vì tên của hai anh em nhà nầy “khôn cơm”, nên phụ thân là Nguyễn Sinh Sắc (sau đổi tên là Nguyễn Sinh Huy) nghèo mãi. Người ta nói vì vậy mà ông Sắc đổi tên hai con. Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt. Còn Nguyễn Sinh Cung (hay Nguyễn Sinh Côn) thành Nguyễn Tất Thành, hy vọng về sau gia đình sẽ thành đạt, giàu có. NGUYỄN ÁI QUỐC: CHÔM TÊN CỦA NHIỀU NGƯỜI Cái tên thứ hai đáng nói của HCM là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911. Nguyễn Tất Thành làm đơn xin tổng thống Pháp được đặc ân vào học Trường Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, nhưng không được chấp thuận, nên Thành đành tiếp tục theo tàu hành nghề. Sau thế chiến thứ nhứt (1914-1918), Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp giữa năm 1919. (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘Indochine au Vietnam, Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tr. 42.) Tại đây Nguyễn Tất Thành gặp Phan Châu Trinh, đậu phó bảng tại Thừa Thiên (Huế) năm 1901, cùng khóa với Nguyễn Sinh Huy, phụ thân của Nguyễn Tất Thành. Nhờ sự giới thiệu của Phan Châu Trinh, Thành quen với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Qua ba người nầy, Thành bắt đầu tiếp xúc với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp. Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc (Daniel Hémery, sđd. tt. 44-45), đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường soạn, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles tại Paris sau thế chiến thứ nhứt, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L’Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919. Trong bốn người cùng dùng chung bút hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt; Nguyễn Thế Truyền là sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để học ngành hóa học, nên không thể công khai chống Pháp; chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám Pháp chú ý. Nguyễn Tất Thành thường đại diện cả nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Dần dần Nguyễn Tất Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình. Từ nay, Nguyễn Tất Thành được gọi là Nguyễn Ái Quốc. HỒ CHÍ MINH: TIẾM DANH HAY TRỞ LẠI HỌ CŨ Cái tên thứ ba đáng nói nữa là Hồ Chí Minh. Cũng như tên Nguyễn Ái Quốc, tên Hồ Chí Minh không phải do Nguyễn Sinh Cung chọn, mà Cung cũng tiếm danh của người khác. Nguyên hai nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa là Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, được sự giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh tại Nam Kinh vào tháng 1-1936. Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, các hội viên nòng cốt khác là Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng Văn Hoan [bí danh là Lý Quang Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam và Quý Châu (Guizhou) của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).] Năm 1937, Hồ Học Lãm đến hoạt động ở tỉnh Hồ Nam, và lấy tên là Hồ Chí Minh. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 168.) Cũng trong năm nầy, trước hiểm họa xâm lăng của Nhật Bản, hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa liên minh lần thứ hai ngày 22-9-1937. Do sự liên minh nầy, chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa cho phép đảng CS hoạt động công khai trở lại. Vì vậy, vào mùa thu năm 1938, đảng Cộng Sản Liên Xô, qua danh nghĩa Đệ tam Quốc tế Cộng sản, gởi Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô qua Trung Hoa hoạt động trở lại với tên mới là Hồ Quang. Hồ Quang liền liên lạc và điều động nhóm đảng viên thuộc cơ sở hải ngoại đảng CSĐD. Nhờ sự giới thiệu của Hồ Học Lãm, vào gần cuối năm 1940, một số đảng viên CSĐD, dưới vỏ bọc là thành viên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm (Guilin / Kweilin tỉnh Quảng Tây) gặp Lâm Uất, phó chủ nhiệm hành dinh tây nam của Tưởng Giới Thạch. Lâm Uất đưa nhóm nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế Thâm. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký. Portland, Oregon: Nhóm tìm hiểu lịch sử, 1991, tr. 134.) Do tin cậy Hồ Học Lãm, cả Lâm Uất lẫn Lý Tế Thâm đã giúp đỡ họ, và không biết nhóm nầy là những đảng viên CSĐD. Từ đó, những đảng viên CSĐD hoạt động ở Trung Hoa cũng như ở trong nước, đều sử dụng danh xưng Việt Minh, hay nói cách khác, đảng CSĐD đã chiếm dụng danh xưng tổ chức Việt Minh của Hồ Học Lãm, làm tên mặt trận chính trị của đảng CSĐD. Trong khi đó, từ cuối năm 1940, Hồ Quang (Nguyễn Tất Thành) sử dụng thông hành khác mang tên là Hồ Chí Minh. Tên nầy vốn là bí danh của Hồ Học Lãm. Hồ Chí Minh mới (Hồ Quang, Nguyễn tất Thành) ngụy trang là ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, sđd. tr. 161.) Với bí danh khác là Già Thu, Hồ Chí Minh (HCM) trở về Việt Nam ngày 28-1-1941, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng), lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Tại đây, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Già Thu tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ ngày 10-5 đến ngày 19-5-1941 tại Pắc Bó. Sau đó, Già Thu tiếp tục qua Trung Hoa hoạt động khoảng từ tháng 8-1942, lấy luôn bí danh của Hồ Học Lãm là HCM, làm tên mới của mình. Hồ Chí Minh bị bắt tại trấn Thiên Bảo (Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập 2, sđd. tt. 278, 283.) Từ đây, HCM trở thành tên chính thức của Nguyễn Sinh Cung, kể cả khi lên làm chủ tịch Bắc Việt Nam năm 1954, cho đến cuối đời. Trần Quốc Vượng, một sử gia cộng sản ở trong nước, giải thích như sau về hiện tượng trên: “Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm.” (Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258.) Trước sau vụ việc theo lời kể của Trần Quốc Vượng là như sau: Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) là con của Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy). Nguyễn Sinh Sắc là con của Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của Nguyễn Sinh Sắc mà thôi, còn người cha thực sự của Nguyễn Sinh Sắc là Hồ Sĩ Tạo, tức Hồ Sĩ Tạo là ông nội thực sự của Nguyễn Sinh Cung. Vì vậy, Nguyễn Sinh Cung rất bằng lòng với danh xưng Hồ Chí Minh, là họ của ông nội ruột của ông. Câu chuyện nầy, ngày nay ở quê của HCM, tức huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ai cũng biết và ai cũng đều xác nhận là đúng sự thật. C.B. LÀ “CỦA BÁC”, CHỨ CỦA AI VÔ ĐÓ Ngày 20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất (CCRĐ) đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái Nguyên. Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Cát Hanh Long bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953. Bà Cát Hanh Long (bà Năm) là một quả phụ, nổi tiếng là nhà kinh doanh tài ba, hào hiệp, giúp đỡ nhiều người. Từ 1945 đến 1951, bà Cát Hanh Long đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp, nghỉ ngơi, che giấu, ăn ở, nuôi dưỡng cán bộ CS, trong đó có những nhân vật cao cấp như Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Tùng… Bà còn đóng góp nhiều tiền bạc cho VMCS, nên việc đấu tố và xử tử bà Cát Hanh Long gây nhiều dư luận bất bình. Vì vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả C.B. nhằm trấn an dư luận. Bài báo lên án nặng nề địa chủ Cát Hanh Long (Nguyễn Thị Năm) cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột, dã man. Bài báo còn tố cáo gia đình bà Cát Hanh Long vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người. (Xin xem bài báo nầy ở phía dưới.) Theo hồi ký của Hoàng Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu cầu xử tử bà Cát Hanh Long, có người báo tin cho HCM biết. Họp Bộ chính trị đảng CS, HCM nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa.” (Internet: Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.) Hoàng Tùng còn cho biết rằng khi cố vấn Trung Quốc nhiều lần đề nghị, HCM nói rằng: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cho là không phải.” Theo một tài liệu mới xuất bản vào giữa năm 2014, tác giả là một người đã từng là ký giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Cát Hanh Long, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. 3) Sau khi bà Năm bị giết, cán bộ mua một cái hòm thật rẻ tiền để chôn địa chủ “gian ác”. Vì rẻ tiền nên hòm nhỏ quá, bỏ xác người chết vào không lọt. Cán bộ CS kết án bà Năm thêm lần nữa, là chết rồi mà còn phản động, không chịu chui vào hòm. Cán bộ CS liền đứng lên đạp xác bà Năm xuống; xương gãy kêu răng rắc rất rợn người. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.) Sự hiện diện của HCM và Trường Chinh trong phiên tòa đấu tố nầy chứng tỏ tầm mức quan trọng của cuộc đấu tố bà Cát Hanh Long và cũng chứng tỏ cả hai đều quyết tâm giết bà Cát Hanh Long ngay khi mở đầu cuộc CCRĐ năm 1953. Lúc đó, chỉ có giới cán bộ cao cấp và một số người trong báo Nhân Dân (trong đó có Trần Đĩnh) mới biết được C.B. đích thị là ai? Còn đại đa số dân chúng, trong thời gian dài, không biết C.B. là ai? Gần đây, trên Internet, có tài liệu phát hiện C.B. là bút hiệu của HCM dùng trên 147 bài đăng trên nhật báo Nhân Dân từ tháng 3-1951 đến tháng 3-1957. Những người làm việc trong báo Nhân Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó nữa. Ngày nay, bộ Hồ Chí Minh toàn tập đã được phổ biến rộng rãi. Mọi người có thể vào từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài viết HCM ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220… (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.) Hồ Chí Minh lên tiếng có thể nhắm cho đảng viên biết rằng vụ xử tử bà Cát Hanh Long là chủ trương của đảng để chấm dứt chuyện bàn tán, phê bình. Như vậy có nghĩa là bên ngoài thì HCM tỏ ra rất đạo đức, thương tiếc nạn nhân, nhưng bên trong, chính HCM là người quyết định cái chết của ân nhân Nguyễn Thị Năm. Đúng là “khẩu Phật tâm xà”, một kẻ đạo đức giả gian ác, nham hiểm như Nguyễn Du đã mô tả: “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.” (Truyện Kiều câu 1815-1816.) TRẦN DÂN TIÊN, T. LAN: THỔI ỐNG ĐU ĐỦ Thổi ống đu đủ là trò chơi của trẻ con Việt Nam, dùng cọng lá đu đủ làm ống, chấm nước xà phòng rồi thổi thành bong bóng bay lên trời. Trong văn học, có hai tác giả chuyên thổi ông đu đủ hết sức tài ba là Trần Dân Tiên và T. Lan. Trần Dân Tiên là tác giả sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, và T. Lan là tác giả sách Vừa đi đường vừa kể chuyện. Quyển sách thứ nhứt xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc năm 1948, sau đó ấn hành ở Paris năm 1949. Sau năm 1954, Nx, Văn Nghệ Hà Nội tái bản năm 1955, rồi Nxb. Sự Thật tái bản nhiều lần, và sau năm 1975, Nxb. Trẻ tái bản ở Sài Gòn. Sách Vừa đi đường vưa kể chuyện được đăng lần đầu trên báo Nhân Dân năm 1961 và sau đó Nxb. Sự Thật tái bản nhiều lần. Những tái bản sau cùng do Nxb. Trẻ ở Sài Gòn đảm trách. Lúc đầu, người ta không biết hai tác giả Trần Dân Tiên và T. Lan là ai? Người ta cũng không tìm ra hai người nầy ở đâu, vì chẳng ai có đứng ra nhận mình là Trần Dân Tiên hay T. Lan. Tuy nhiên dần dần người ta cũng tìm được hai bút danh nầy đều là của HCM. Trước hết, các phiếu sách trong thư viện nhà nước đề là: “Trần Dân Tiên, T. Lan: tìm HCM”. Điều nầy cho người đọc tự động hiểu rằng Trần Dân Tiên và T. Lan chính là HCM. Tuy nhà cầm quyền CS không chính thức xác nhận điều nầy, nhưng những nhà nghiên cứu trong nước hầu như đồng thừa nhận Trần Dân Tiên và T. Lan là HCM. Có tài liệu cho biết bản gốc sách của T. Lan hiện còn được cất giữ ở Phủ chủ tịch Hà Nội. Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên đã viết trong phần đầu sách: “Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 9.) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể, tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp kẻ đó vào loại người gì đây? Trong sách nầy, chẳng những HCM tự đề cao mình mà còn chê bai những anh hùng dân tộc như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, hoặc đả kích các nhà đấu tranh khác như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, hoặc triệt hạ tổ chức hay đảng phái khác Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên viết: “Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.” (Trần Dân Tiên, sđd. tr. 149.) Lời nầy cho thấy HCM muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ “bác”. Ở đây lại thấy HCM thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự. Sách Vừa đi đường vưa kể chuyện do HCM tự kể tự viết, nhưng dùng một cái tên khác là T. Lan, một cán bộ đi theo HCM trên bước đường công tác. Câu chuyện bắt đầu từ khi HCM hoạt động ở Pháp từ năm 1919, rồi những năm hoạt động ở Nga, Trung Hoa, cho đến khi về nước và chiến dịch 1950. Dĩ nhiên luôn luôn xen kẻ những lời xưng tụng HCM là người yêu nước, đầy sáng kiến, tài ba, khoan dung… Hồ Chí Minh sáng tạo ra hai con rối Trần Dân Tiên và T. Lan trong hai quyển sách do HCM viết ra trên đây, nhắm thổi ồng đù đủ để ca tụng chính mình, tự quảng cáo mình, huyền thoại hóa tên mình, mà một người tự trọng bình thường không bao giờ làm thế. Những người không biết Trần Dân Tiên và T. Lan là ai, nhất là các trẻ em ngây thơ, được học hai quyển sách nầy trong nhà trường, nên một thời lầm lẫn tôn sùng thần tượng HCM. Tuy nhiên khi lớn lên, biết được sự thật là Trần Dân Tiên và T. Lan chỉ là HCM trá hình, thì chẳng những sẽ thất vọng mà còn khinh bỉ. Thì ra HCM cũng có ngón nghề thổi ống đu đủ, tự bơm, tự nổ. Khổ một điều, ai phát hiện kẻ đạo diễn của hai tên thổi ông đù đủ nầy, thì ngậm mà nghe chứ không dám nói ra, vì nói ra sẽ bị báo cáo và bị CS bắt bỏ tù. TRÊN TRĂM TÊN ĐỂ LÀM GÌ? Hồ Chí Minh có 169 tên, không ai có thể nhớ hết được. Ngay cả HCM có thể cũng không nhớ hết được. Một câu hỏi đặt ra là HCM dùng nhiều tên, nhiều bí danh để làm gì? Thông thường, một người không dùng tên mình, mà dùng một tên khác trong công việc, vì sợ lộ bí mật, muốn giấu mặt, giấu lý lịch, nhất là trong những hành vi thiếu trong sáng, phi pháp, bất chính. Càng nhiều tên càng muốn giấu mặt thật kỹ. Ngay cả vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) cho đến tháng 8-1945 không biết HCM là ai? (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 188.) Hồ Chí Minh hầu như muốn “chôn” luôn tên do cha mẹ đặt ra tức tên Nguyễn Sinh Cung, dùng trên một trăm tên khác nhau tùy vào giai đoạn hoạt động trong cuộc đời của HCM: Từ nhỏ cho đến khi đến Pháp năm 1919: 11 tên Từ 1920 đến khi về nước năm 1941: 73 tên Từ 1941 đến 1945 (cướp chính quyền): 13 tên Từ 1946 đến 1954 (thời chiến tranh): 36 tên Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch nước) 36 tên Cộng: 169 tên Nhìn vào bảng thống kê trên đây, từ khi còn nhỏ cho đến năm 1919 (khoảng 30 năm), HCM có 11 tên, tuy là ít so với tổng số tên trong toàn cuộc đời HCM, nhưng có thể nói là đã nhiều so với cả đời người bình thường. Lý do có thể là ngay từ khi vừa mới lớn, HCM mặc cảm hay xấu hổ về nguồn gốc gia đình mình, vì vậy tránh dùng tên do gia đình đặt. Nguyên do là khi mới lớn ở nguyên quán (Nam Đàn, Nghệ An), chắc chắn HCM nghe được dân làng truyền miệng về nguồn gốc của cha mình. Đó là Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là cha hờ của Nguyễn Sinh Sắc (Huy), tức ông nội hờ của HCM, còn Hồ Sĩ Tạo mới là cha thật của Nguyễn Sinh Huy (Sắc) tức ông nội thật của HCM. Đây là một điều rất xấu hổ trong xã hội nề nếp Việt Nam ngày xưa, nhất là ở nông thôn, nơi mà người người biết nhau, nhà nhà biết nhau. Điều nầy có thể ám ảnh Nguyễn Sinh Cung và tạo ra tâm lý bất thường nơi người thanh niên từ khi mới lớn cho đến cuối đời, sợ người ta phát hiện cha mình là đứa con hoang. Hơn nữa, HCM lớn lên trong thời đại khoa bảng Hán học. Con ông phó bảng, nghĩa là cũng con nhà có học, mà thanh niên nầy lại không có học vị, chẳng có bằng cấp gì, vì nếu có học vị, có bằng cấp giấy tờ, thì HCM không thay đổi tên tuổi vì thay đổi thì văn bằng hết giá trị. Vì những mặc cảm trên đây, HCM thay đổi tên họ nhiều lần ngay cả trước khi hoạt động chính trị và gián điệp. Từ năm 1920 cho đến năm 1954, tức từ khi tham gia hoạt động chính trị ở Pháp, rồi gia nhập đảng CS Pháp, qua Nga (Liên Xô), qua Trung Hoa, về Việt Nam, đến khi lên làm chủ tịch Bắc Việt Nam, HCM có 122 tên. Cần chú ý là từ năm 1920 trở đi, xảy ra một khúc quanh quan trọng trong đời HCM. Đó là HCM gia nhập đảng Xã Hội Pháp, rồi đảng Cộng Sản Pháp. Vì vậy, HCM được Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) chọn qua Liên Xô để huấn luyện năm 1923, Tuy nhiên HCM không đủ trình độ văn hóa, nhất là ngôn ngữ và toán học để học chủ nghĩa Mác-xít, vì HCM chỉ mới học tới lớp 6 ở trường Quốc Học Huế, lại chưa biết tiếng Nga. Do đó, tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Moscow, HCM chỉ học cấp tốc về nghề gián điệp, làm nhân viên tình báo cho ĐTQTCS để mưu sinh. Nghề nầy phù hợp với khả năng ứng xử linh động mau lẹ của một người giảo quyệt như HCM, vốn là một kẻ giang hồ, lăn lóc trên các bến tàu trong các chuyến hải hành quốc tế. Vì là một gián điệp chuyên nghiệp, được đào tạo chính quy tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Moscow, HCM có thói quen thay họ đổi tên của một gián điệp, thường dùng tên giả để hoạt động. Hơn nữa, những hoạt động của HCM là hoạt động chính trị tả phái khuynh đảo, phá hoại nên phải luôn luôn thay đổi tên họ để tránh bị theo dõi và bắt giam. Trong thời gian hoạt động tranh đấu cướp chính quyền, cần phải ẩn trốn, cần phải tránh né, HCM dùng nhiều bí danh, có thể cho là bình thường, Tuy nhiên, điều đặc biệt là trong giai đoạn từ 1955 đến khi chết (1969), tức thời kỳ làm chủ tịch nước, quyền uy tột đỉnh, không còn phải sợ ai cả, HCM vẫn sử dụng 36 tên giả trên báo chí, không đề tên thật. Đường đường là chủ tịch một nước độc tài toàn trị, chẳng còn sợ ai, tại sao lại phải dùng nhiều tên giả để viết báo? Như thế phải có âm mưu gì? Nếu những âm mưu nầy không gian trá, không bất chính, thì tại sao HCM phải giấu tên? Điều nầy cho thấy HCM là một người bản chất xảo quyệt, mang não trạng bệnh hoạn của một tên đại bịp, chuyên lừa đảo người khác, ném đá giấu tay. Hơn nữa, HCM là con người hết sức tham vọng, chủ trương thổi tên HCM thành một huyền thoại cao quý, để cho dân chúng ngưỡng mộ HCM, không muốn ai nghĩ xấu về HCM, nên HCM đặt tên HCM riêng ra một bên. Trong lúc đó, khi có nhu cầu tự ca tụng mình, hay tấn công người khác, ném đá giấu tay, thì HCM dùng đến bí danh, chứ không dùng tên mình, dù đang là chủ tịch nước, nhằm bảo vệ thanh danh riêng của HCM. Đây là tâm lý của một người sùng bái cá nhân trong các chế độ độc tài. KẾT LUẬN Tóm lại, HCM có 169 cái tên, bí danh, bút danh, bút hiệu, vừa trong thời gian hành nghề gián điệp, hoạt động bí mật, và cả trong thời kỳ cầm quyền, làm chủ tịch nước. Dầu chế độ CSVN có ca tụng gì đi nữa, có tung hê HCM đến đâu đi nữa, HCM dùng 169 tên để giấu mặt, là bằng chứng rõ ràng HCM là một kẻ xảo quyệt, gian trá, tráo trở, đạo đức giả, chuyên ném đá giấu tay, chứ chẳng hay ho gì việc ẩn danh đánh phá kẻ khác. Hồ Chí Minh không phải chỉ là “một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại” như Bernard Fall viết trong Les deux Viet-Nam (Nxb. Payot, Paris, 1967, tr. 102), mà HCM còn là tên lừa đảo muôn mặt, bịp bợm nhất trong lịch sử Việt Nam. (Trích: Một thế kỷ lừa đảo, sẽ xuất bản.) TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, Canada)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:23:40 GMT 9
Huyền thoại và sự thực: Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đấtĐể tiến hành sửa sai Cải cách Ruộng đất (CCRĐ), Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Hồ Chí Minh đề nghị phương châm: “phải bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”. (HCMBNTS, tập 6, trang 334) Theo lời đề nghị của ông, Hội nghị quyết định: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Chi tiết về Hội nghị này vẫn còn trong bí mật. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất một Hội nghị Trung ương ĐCS đã không đưa ra được nghị quyết tổng kết. Nguyên Đại sứ tại Trung Quốc, ông Hoàng Văn Hoan cho biết: “Hội nghị Trung ương đáng lẽ ra phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về CCRĐ, nhưng Trường Chinh, vừa là Tổng Bí thư, lại vừa là Trưởng ban CCRĐ, vì tư tưởng chưa thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không đựơc Hội nghị Trung ương chấp thuận.” Về người chịu trách nhiệm chính, ông Vũ Đình Huỳnh cho biết: “khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh , chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ”. Vậy mà sau hơn 60 năm, trách nhiệm của Hồ Chí Minh vẫn còn được bao phủ bằng nhiều huyền thoại, che lấp nhiều sự thật khủng khiếp đã xẩy ra trong cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam (1949-56). Huyền thoại và sự thực “ Của Bác ” Gần đây người viết đã phát hiện bài Địa chủ ác ghê trên báo Nhân Dân ra ngày 21 tháng 7 năm 1953 đã được in lại trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C. B. cũng do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955. C. B. là một trong hằng trăm bút danh của Hồ Chí Minh với hằng trăm bài trên báo Nhân Dân viết trong khỏang thời gian 1952 đến 1956. Bài Địa chủ ác ghê lên án bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm là địa chủ phản động cường hào ác bá. Bà và hai con theo Pháp theo Nhật bắt bớ cán bộ cộng sản và đã giết ngót 260 nông dân. (xin xem bài Vai Trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất hay bài Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh để biết chi tiết) Một bạn đọc cùng quê Hồ Chí Minh góp ý rằng C. B. là viết tắt của “Của Bác”. Bài báo “Của Bác” đã được phổ biến rất rộng rãi để lý giải việc xử bắn bà Năm là một việc làm chính đáng. Bài được đăng lại trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953) hay trong Nội san Cải cách Ruộng đất. Ông Bùi Tín cho biết bà Năm bị xử bắn vì “các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi”. Phóng viên báo chí đây lại chính là “Của Bác” thì làm sao bà Năm tránh khỏi án tử hình. Thế mà tới đầu thế kỷ thứ 21, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hoàng Tùng vẫn tiếp tục thêu dệt huyền thoại: “chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước, là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.’ Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘ Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.’ Và họ cứ thế làm”. HCM gặp bà con nông dân tỉnh Tuyên Quang trong CCRĐ. Ảnh On the netBài “Địa chủ ác ghê” được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953. Lúc ấy Hoàng Tùng là phó Tổng Biên tập. Đến năm 1955 khi bài báo được đăng trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất thì Hoàng Tùng đã lên Tổng Biên tập. Ông chắc chắn phải biết bài viết “Của Bác” và hậu quả của bài viết này. Nhà báo Bùi Tín lại cho biết: “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: ‘Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.’ Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này”. Hoàng Quốc Việt làm gì không biết chuyện Bộ Chính trị, trong đó có cả Hoàng Quốc Việt và Hồ Chí Minh, đã biểu quyết việc xử bắn bà Nguyễn Thị Năm. Hồi ký của ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng CHXHCN Việt Nam, viết rất rõ: “Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: ‘Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: ‘Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!’. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!” Rõ ràng huyền thoại này chỉ được thêu dệt sau khi sửa sai và được chính thức phổ biến từ nhiều cán bộ cao cấp. Ba dẫn chứng trên cho thấy cả một guồng máy tuyên truyền đã không ngừng loan tải huyền thoại “Của Bác” để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo”. Hoàng Tùng và Hoàng Quốc Việt xác nhận đây là một câu chuyện do chính ông Hồ dựng lên. Câu chuyện được các cán bộ cộng sản cao cấp như Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng thêu dệt để trở thành huyền thoại. Huyền thoại lại được những người như Bùi Tín kể lại, nếu không có những bằng chứng cụ thể khó mà phá vỡ được. Điều đáng nói là huyền thoại do Bùi Tín kể lại đã đề cập đến việc “sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này“. Như vậy quả là đúng Trường Chinh đã là con dê được Hồ Chí Minh mang ra tế thần. Nói cách khác Hồ Chí Minh đã trút tất cả trách nhiệm vụ xử bắn bà Năm lên đầu Trường Chinh nhằm chạy tội và duy trì quyền lực. Cũng do guồng máy tuyên truyền này, càng ngày càng nhiều người biết đến bà Năm. Bà đã trở thành một con người của lịch sử. Một lịch sử bị che đậy đầy huyền thoại dối trá đang cần từng bước đưa ra sự thật. Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm Đến nay thông tin về điền chủ Nguyễn Thị Năm còn hết sức giới hạn. Chỉ biết trong thời gian đấu giảm tô để tiến đến CCRĐ, sáu xã huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một đại điền chủ có tới 2,789 mẫu đất thuộc hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long hay Cát Thanh Long. Khi ĐCS còn hoạt động bí mật, bà che giấu và nuôi dưỡng nhiều lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… Trong “Tuần lễ vàng” bà đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng vàng. Theo tin của nhà báo Bùi Tín: “Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến”. Nói cách khác bà Năm không phải là địa chủ phản động cường hào ác bá như trong bài Địa Chủ Ác Ghê đã viết. Ông Nguyễn Minh Cần thì cho rằng “Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương duyệt y và Bộ Chính trị Đảng Lao độngt Việt Nam cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!” Qua điện thơ, một bạn đọc từ Việt Nam cho biết: “Bà Nguyễn Thị Năm, có cửa hàng bán đồ cơ khí (sắt) tại đường Cầu Đất, một phố trung tâm của Hải Phòng. Cửa hàng của bà gọi tên là Cát Thanh Long, bây giờ là số nhà 87 Cầu Đất (cạnh Hiệu sách ” NHÂN DÂN “, nay là hiệu sách quốc doanh). Cửa hàng của bà có mặt ngoài làm bằng đá granito màu huyết dụ đầu tiên ở thành phố Hải Phòng . Con trai cả của bà, tên là Nguyễn Đức Phú, cũng có một cửa hàng nhỏ hơn (tên ĐỨC PHÚ), nằm ở phố Nguyễn Đức Cảnh, đầu ngõ Hàng Gà, đối diện với cầu Caron (nay cầu này không còn nữa) vừa là nhà ở, vừa là nơi sản xuất đồ cơ khí của ông.” Hai người con trai kế của bà là ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin. Bạn đọc nói trên cho biết bà Năm còn có hai người con gái nhỏ. Cuối tháng 10-1953 được thả và về đến Sài Gòn, ông Đoàn Duy Thành đã được một người tên Nam kể lại rằng bà Năm đã bị xử bắn. Như vậy có thể bà đã bị xử bắn trong khoảng thời gian bài “Của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953 đến giữa tháng 10-1953. Còn việc ông Bùi Tín đề cập đến: “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này (xử tử bà Năm) với ông Hồ Chí Minh…” là thiếu chính xác vì mãi đến cuối năm 1954 Hồ Chí Minh mới về lại Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Năm, nạn nhân đầu tiên? Một sự thực khác là bà Nguyễn Thị Năm không phải là nạn nhân đầu tiên. Có thể vì bà quá nổi tiếng nên là người đầu tiên và duy nhất buộc Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương phải thảo luận và biểu quyết. Theo ông Hoàng Minh Chính, trong vụ đấu chính trị xảy ra trước đó vào đầu năm tháng 1 và 2-1953 thì “trung bình mỗi xã có từ ba đến 5 người bị đánh chết, họặc vì uất ức phải tự tử, trong số đó có một bộ trưởng chính phủ là ông Đặng Văn Hướng”. Ông Đặng Văn Hướng là thân sinh đại tá Việt Minh Đặng Quốc Việt, một thời vang danh “anh hùng đường số 4”. Ông Nguyễn Minh Cần góp ý với người viết rằng có thể ông Hoàng Minh Chính nhớ không đúng. Theo ông Cần, ông Đặng Văn Hướng đã bị đấu trong thời đấu CCRĐ sau này. Tháng 11-1953, ngay khi về lại miền Bắc, ông Đoàn Duy Thành đã nghe ”Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách Ruộng đất, có nơi như thôn Lan, Kim Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?)”. Ông Thành dùng dấu chấm hỏi trong ngọăc kép (?) để hỏi có phải đúng 3 người này là địa chủ cường hào hay không ? Đây là cách suy nghĩ của người cộng sản. Cho đến nay vẫn còn nhiều gia đình cho là bị oan nghĩa vì họ không phải là phản động cường hào ác bá. Hiến pháp 1946, cũng được xem là Hiến pháp “Của Bác”, là một Hiến pháp cộng hoà và dân chủ. Theo Hiến pháp 1946 thì mọi công dân đều bình đẳng. Trong khi Hiến pháp này vẫn còn đó thì ông Hồ lại muốn xây dựng một thể chế cộng sản lấy đấu tranh giai cấp làm nền tảng. Sự thật là trong Hiến pháp này, không phải mọi người đều bình đẳng. Có một điều ngoại lệ là Chủ tịch Hồ Chí Minh vì là lãnh tụ nên theo điều thứ 50: “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc”. Vì thế Hồ Chí Minh đã không phải chịu trách nhiệm dù đã tiêu diệt một giai cấp. Một giai cấp mà theo Hồ Chí Minh ước tính là chiếm “không đầy 5 phần trăm dân số” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Số nạn nhân CCRĐ Không biết Hồ Chí Minh đã lấy từ đâu ra con số tỷ lệ địa chủ 5% dân số. Có điều trong quyển Vấn đề dân cày do Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp viết vào năm 1937-1938 thì con số đó nhỏ hơn nhiều. Theo hai ông “Ở Trung kỳ và Bắc kỳ có hạng tiểu địa chủ, chỉ có mươi, mười lăm mẫu ruộng cho cấy rẽ, ngồi không mà hưởng địa tô. Lại có nhiều làng không có địa chủ, chỉ có từ phú nông trở xuống. Trái lại bần cố nông chiếm đa số… Nếu ta tin ở thống kê của ông I-vơ Hăng- ri (Yves Henri) thì ta thấy: ở Bắc kỳ dân số hơn 8 triệu người mà số dân quê có trên một mẫu là 970.379 người, nghĩa là một phần hai mươi trong nhân dân” (VĐDC, trang 24-25) Con số hoặc tỷ lệ ước tính trong phần trích dẫn bên trên là sai. Nếu con số 970.379 người là đúng, giả sử mỗi gia đình nông dân có sáu người thì đại đa số dân quê đều là tiểu nông. Còn nếu tỷ lệ là đúng thì tỷ lệ dân quê có trên một mẫu ruộng là 5% dân số. Và như thế CCRĐ đã đấu tất cả những người có trên một mẫu ruộng. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp còn viết rất rõ: “Trong 18 tỉnh (ở Bắc Kỳ ), người ta tính được 12.005 địa chủ sống về cách cho cấy rẽ” (VĐDC, trang 97). Trung bình một gia đình điền chủ là 6 người thì tỷ lệ chưa đến 1% dân số. Vì chiến tranh, nhiều điền chủ đã mất đất hay rời bỏ thôn quê lên thành thị. Nhiều điền chủ biết không thể sống với cộng sản nên di cư vào Nam tìm tự do. Do đó con số điền chủ trong những năm 1955 và 1956 có thể nhỏ hơn nhiều. Như vậy “Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số” theo ước tính “Của Bác” có thể đã được phóng đại cả chục lần nhiều hơn con số thực. Có người cho rằng con số 5 % dân số là do cố vấn Trung Quốc dựa trên thực tế cuộc CCRĐ tại Trung Hoa. Điều này có thể không đúng. Ở Trung Hoa, với một mức độ tập trung ruộng đất rất cao nên đa số điền chủ là các đại điền chủ. Vì thế tỷ lệ điền chủ trên dân số ít hơn nhiều. Cuộc cải cách ruộng đất ở Trung Hoa cũng “long trời lở đất” nhưng không thể so với những chuyện đã xảy ra tại miền Bắc Việt Nam. Ngày nay đa số tài liệu về cuộc CCRĐ tại Trung Hoa đều đã được công khai phổ biến. Ông Hoàng Văn Hoan lại đưa ra những tin tức hoàn toàn khác: “Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như đưa thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc”. Mặc dù Hoàng Văn Hoan là một người thân Trung Quốc, nhưng ai đúng ai sai chỉ biết được khi nào các tài liệu liên quan đến sự việc được công khai phổ biến. Ông Hoàng Minh Chính có thể là người đầu tiên đã sử dụng con số 5% để ước tính số nạn nhân của cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam. Theo đó, con số này đã lên đến 500.000 người. Một con số trong một thời gian dài bị cho là phóng đại. Có điều những người không đồng ý với ông thường không cho biết xuất xứ con số hay cũng chỉ dựa trên những huyền thoại hay con số tuyên truyền do cộng sản đưa ra. Gần đây sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, Tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 tiết lộ trong cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) đã có 172.008 người bị quy là địa chủ hay phú nông. Trong đó có 123.266 người (72%) bị quy sai thành phần. Chính cương ĐCS đề ra việc “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Theo đó giai cấp địa chủ là kẻ thù của Đảng, của nhân dân, phải bị tiêu diệt. Vì thế trong CCRĐ địa chủ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà tù. Do đó khi bị quy là địa chủ nhiều người đã tự tử vì uất ức hay để tránh những nhục hình. Cũng theo tập tài liệu này, chỉ riêng đợt 5 CCRĐ, được thực hiện ở 3.563 xã với khoảng 10 triệu dân và tỷ lệ đã được quy định trước là 5 % thuộc thành phần địa chủ. Để vượt chỉ tiêu do “Bác và Đảng” đề ra, các đội cải cách đã đôn tỷ lệ lên đến 5,68%. Như vậy con số nạn nhân đã lên đến 568.000 người. Con số này bao gồm thân nhân, gia đình của những người bị quy là địa chủ. Khi bị quy là thành phần địa chủ họ cũng bị cô lập đối xử phân biệt và bị cướp hết tài sản. Nhiều người chết vì đói, vì bị ức hiếp hay bị hãm hiếp. Chưa kể bất cứ ai nếu không chấp nhận cuộc đấu chính trị, đấu giảm tô hay đấu CCRĐ đều có thể trở thành nạn nhân của cuộc đấu tiêu diệt giai cấp địa chủ này. Một sự thực khác là cuộc CCRĐ (1949-56) không phải chỉ “đào tận gốc, trốc tận rễ” giai cấp địa chủ, mà “trí, phú và hào” tại nông thôn cũng không thóat khỏi cuộc đấu “long trời lở đất” này. Theo báo cáo của Bộ Chính trị tháng 10 năm 1956 thì chỉ riêng tổng số đảng viên bị “xử trí” đã lên tới 84.000 người. Cũng cần nói, trước đó trong cuộc đấu chính trị và đấu giảm tô, số nạn nhân đã lên đến hằng vạn người. Như thế con số người bị giết trong CCRĐ và chỉnh huấn có thể lên đến vài trăm ngàn người không phải là con số đựơc phóng đại. Với Hồ Chí Minh và ĐCSVN đây là một thành quả vĩ đại vì đã tiêu diệt được giai cấp địa chủ. Nhưng sự thực đây lại là cuộc diệt chủng khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh khóc trong sửa sai? Nhà báo Nguyễn Minh Cần hiện sinh sống tại Nga. Sự thực về việc ông Hồ đã khóc khi đọc quyết định sửa sai và xin đồng bào tha lỗi được ông Nguyễn Minh Cần cho biết như sau “Ngày 29-10-1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: ‘Bác đến không tiện’, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra ‘chịu trận’ thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.” Tài liệu của Cục Lưu trữ Quốc gia Nga về CCRĐ Gần đây có hai bức thư của Hồ Chí Minh gởi Stalin, xin được xem xét và cấp chỉ dẫn cho Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, được phát hiện lưu trữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia Nga. Bức thư thứ nhất Đồng chí Stalin kính mến: Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới. Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này. …. Hồ Chí Minh 30-10-1952 Bức thư thứ hai Đồng chí Stalin kính mến: Xin gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San. Đề nghị đồng chí xem xét và cho chỉ dẫn. Gửi lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh 31-10-1952 Đối chiếu với Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử thì trong tháng 9 và 10 năm 1952 ông Hồ đang ở trong nước. Nhưng theo hồi ký của Vu Hoá Thẩm thì hạ tuần 9-1952, Hồ Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc, sau đó sang Liên Xô dự Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Sô. Chuyến đi còn để báo cáo và xin phép Liên Sô và Trung Quốc chấp nhận Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình này do chính ông Hồ và hai đồng chí Trung Quốc Lưu Shao Shi và Văn Sha San đồng soạn. Cả hai bức thư đều viết bằng tiếng Nga. Trong bức thư thứ nhất Hồ Chí Minh viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Trung Hoa. Trong bức thư thứ hai ông viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Việt. Ông Nguyễn Minh Cần cho biết nét chữ Nga trong hai bức thơ là nét chữ của một phụ nữ. Chương trình CCRĐ “Của Bác” chắc vẫn còn được lưu trữ trong Cục Lưu trữ Quốc gia Nga và một ngày sẽ được phát hiện. Biết đâu con số 5% dân số là thành phần địa chủ đã được đề xướng từ Chương trình CCRĐ “Của Bác”. Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù Linh mục Lê Đức Trong tham dự họp đấu địa chủ đã kể lại: “Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: ‘Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…’ Người ngồi sau run sợ ! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta’. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi! Sợ sệt và sợ sệt…!” Sau ba đợt đấu: đấu chính trị, đấu giảm tô vầ đấu cải cách ruộng đất, miền Bắc phủ một màu tang trắng. Sự kinh hoàng sợ hãi của cái chết bao trùm khắp nơi. Cuộc sửa sai gia tăng sự sợ hãi vì người tham gia cải cách nay sợ bị trả thù. Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù là căn bản để ĐCS dựa vào đó xây dựng một nền chuyên chính vô sản, một thể chế công an trị còn tồn tại đến ngày nay. Cũng cần nói CCRĐ đã phá tan nền tảng văn hoá nhân bản của dân tộc, phá tan phong tục cổ truyền và nếp sống làng thôn Việt Nam, để từ đó ĐCS dễ dàng áp đặt tư tưởng Nga Sô-viết và Trung Quốc của Mao vào cuộc sống của mọi tầng lớp dân chúng tại miền Bắc Việt Nam. Cuối đời Hồ Chí Minh Câu chuyện bà Năm bị xử bắn do cố vấn Trung Quốc và do Trường Chinh quyết định chỉ là một trong rất nhiều huyền thoại do chính ông Hồ dựng nên. Huyền thoại có thể dối gạt dân chúng. Nhưng sự thực mới có thể thuyết phục được nội bộ giới cầm quyền cộng sản Việt Nam đương thời. Nhiều bằng chứng cho thấy sau sửa sai, uy tín và quyền lực của Hồ Chí Minh đã mất dần và sau đó lọt vào tay Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Nghiên cứu về lịch sử cận đại Việt Nam mà thiếu tìm hiểu cặn kẽ vai trò của Hồ Chí Minh là một thiếu sót lớn. Thế nhưng tài liệu về Hồ Chí Minh lại thiếu, không có, hay lại đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá. Bài viết trước người viết đã cho thấy việc ông Hồ ra lệnh bắn bà Năm nhằm xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam (xin xem bài Vai Trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất hay bài Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh để biết chi tiết). Bài viết này làm rõ thêm việc Hồ Chí Minh tạo ra những những huyền thoại chỉ để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”, trong khi CCRĐ đã giết hàng trăm ngàn dân vô tội. Không riêng gì trong CCRĐ, cuộc đời Hồ Chí Minh đã gắn liền với đam mê quyền lực. Ngày 2/9/1945 là ngày mà ông Hồ đạt được tột đỉnh quyền lực, được đa số dân Việt ủng hộ. Ngày 2/9/1969 Hồ Chí Minh trút hơi thở cuối cùng, một trùng hợp ngẫu nhiên hay một hành động kết liễu một đời người? Càng ngày càng nhiều chỉ dấu cho thấy vào cuối đời Hồ Chí Minh trong tay không còn chút quyền lực hay chỉ là một người tù trong một nhà tù do chính ông dựng lên. Hiểu rõ sự thực cuộc đời của Hồ Chí Minh chẳng những giúp chúng ta hiểu thêm về con người thật của ông mà còn giúp chúng ta viết lại một lịch sử cận đại Việt Nam. Một lịch sử đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá chỉ nhằm để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”. 31/8/2010 ————————————————— Tài liệu tham khảo Đoàn Duy Thành, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964 Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, talawas Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989 Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự Thật, 1955 Thành Tín, Mặt thật. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp: Vấn đề dân cày, Xuất bản lần thứ hai, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội. Phao Lồ Lê Đắc Trọng, Chứng từ của một giám mục: Những câu chuyện về một thời, Diễn Đàn Giáo Dân tái bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:26:40 GMT 9
Bí mật Hồ Chí MinhHoàng Tùng Tiểu sử: Ông Hoàng Tùng (tức Trần Khánh Thọ), sinh năm 1920, quê quán xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, tham gia cách mạng khi mới 15 tuổi. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông lần lượt giữ nhiều trọng trách quan trọng của Đảng, như: bí thư Thành ủy Hà Nội, bí thư Thành ủy Hải Phòng, ủy viên Xứ ủy Bắc kỳ, phó bí thư Chiến khu tả ngạn sông Hồng, phó trưởng Ban Tổ chức trung ương, phó trưởng Ban Thi đua trung ương, tổng biên tập báo Sự Thật, tổng biên tập báo Nhân Dân, phụ trách Văn phòng Tổng bí thư, chánh Văn phòng Trung ương, trưởng Ban Tuyên huấn trung ương, bí thư Trung ương Đảng. 1945 đến 1969 (năm chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần), ngoài 3 năm ”công tác ở xứ, khu và tỉnh”, ông Hoàng Tùng ”liên tục công tác ở Trung ương” ở các chức vụ : phó ban tổ chức (dưới quyền các ông Lê Đức Thọ, rồi Lê Văn Lương), chánh văn phòng Tổng bí thư (Trường Chinh), rồi phụ trách tuyên huấn, báo chí, ”có may mắn được dự hầu hết các phiên họp Bộ chính trị hay Ban bí thư“. Tác giả đã nhấn mạnh ”đây là chứng từ của một người trong cuộc, cấp cao, bước vào tuổi gần đất xa trời, muốn chia sẻ một số thông tin hay suy nghĩ không nằm trong những văn kiện chính thức, về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc”. Những kỷ niệm về Bác Hồ Ông Hoàng Tùng (thứ 3 từ trái qua) cùng các cán bộ đón Bác Hồ đến thăm và làm việc với Báo Nhân dân. Vì quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta được thành lập thì hai nước đều không công nhận. Trung Quốc thì quan hệ không chính thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa phương thôi, đó là Chu Nam và Trang Điền. Một người là chính uỷ, một người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiễu phỉ ở Thập Đại Vạn Sơn. Sau đó ta có cử một trung đoàn do Lê Quảng Ba phụ trách sang Trung Quốc. Các đồng chí Việt Nam ở Diên An và Trung Quốc sau khi thấy cách mạng Việt Nam thắng lợi thì xin về. Lúc đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Lý Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. Sau đó không hiểu vì sao được thả. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí được về nước cùng với một số người nói ở trên. Cao Tử Kiến công tác ở Yên Bái trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Sau khởi nghĩa ta mở một lớp huấn luyện ở Vạn Phúc cho cán bộ học. Nghe anh Lê Đức Thọ nói lại là đó là Hồng Lĩnh, tức Nguyễn Khánh Toàn, nói chẳng ai hiểu gì cả. Sau tôi nghe mấy người khác nói ông ta là một giáo sư giỏi lắm. Cả Bùi Công Trừng đi học ở Liên Xô về nói cũng thế cả. Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết Liên Xô, nhất là Stalin coi Bác là một người dân tộc chủ nghĩa cải lương từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt ở Hồng Kông rồi lại được thả, khiến Liên Xô nghi ngờ. Stalin không hiểu được lại có những người như Loseby. Lại thêm việc Hà Huy Tập báo cáo. Anh Lê Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế về việc mật thám đưa bà Thanh đi Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn Ái Quốc. Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời. Người xin về nước. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa. Họ không thấy Đảng Cộng sản đâu, và vì sao Đảng Cộng sản giải tán. Năm 1948, cả hai nước đều tìm hiểu xem Việt Nam là gì. Đảng ta cử Nguyễn Chương (cùng ở Xứ uỷ với tôi) làm phó cho Lê Đức Thọ sang Xiêm tổ chức lại tổ chức của ta ở đó. Trong khu uỷ của khu bốn, mọi người mâu thuẫn với nhau, mà toàn những lão thành cả như Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Dực. Ông Hoàng Văn Hoan thì nổi tiếng về những chuyện kèn cựa ngay từ đầu. Ta cử Hoàng Văn Hoan bàn với Nguyễn Chương (có thể là do gợi ý của Trung Quốc) là cử Nguyễn Chương sang Trung Quốc để nghiên cứu. Nhưng thực tế Trung Quốc muốn qua Nguyễn Chương để tìm hiểu tình hình Việt Nam. Nguyễn Chương đến Trung Quốc báo cáo tình hình. Phương hướng báo cáo cũng hữu khuynh đúng như họ đánh giá, nói là ta dân tộc chủ nghĩa, đề cao địa chủ quan lại, không nêu cao vai trò của Đảng và liên minh công nông. Đại diện của Liên Xô ở Praha gặp hai đại diện của ta là Trần Văn Danh và Lê Hy hỏi tình hình. Hai người này nói cũng khớp với Nguyễn Chương nói. Nói khớp như nhau bởi vì chúng tôi lúc đầu nghiên cứu theo cương lĩnh của đồng chí Trần Phú, nghĩa là cương lĩnh thứ hai của Quốc tế Cộng sản, tức là làm cách mạng tư sản dân quyền, lấy công nông làm trụ cột, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lập chính quyền xô viết… Chỉ đến khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Bác trực tiếp sang mới trình bày rõ vấn đề. Việc này tôi không được nghe trực tiếp, nghe anh Lê Văn Lương nói lại. Khi gặp Bác, Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng : các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi, vì chúng tôi hiểu rằng các đồng chí giải tán Đảng thật. Còn địch nó thừa hiểu các đồng chí không giải tán Đảng. Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi không được dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định này của Bác thật là táo bạo. Lúc đó không làm thế cũng nguy, vì âm mưu của Tưởng là đánh đổ Cộng sản. Với bọn Lư Hán, Tiêu Văn, Đảng Cộng sản tồn tại là nó chết, vì sẽ bị Tưởng trị. Nên ta mới lập mẹo tuyên bố giải tán Đảng, chỉ tuyên bố về danh nghĩa mà thôi, còn trên thực tế Đảng vẫn tồn tại. Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán Đảng ở Thường vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh. Sau Tưởng không có lí do gì thúc ép khi Đảng đã tuyên bố giải tán. Sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin. Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là Quốc tế cộng sản đã phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào ý kiến ấy, sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu ta. Tôi cho rằng vì lý do đó như thế mà mấy lần Bác từ chối làm Tổng bí thư. Ngoài việc Ban chấp hành Trung ương trong nước chỉ định đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, có lẽ Bác cho rằng nếu Bác nhận làm Tổng bí thư thì Liên xô sẽ gây chuyện. Từ Đại hội Đảng ta lần thứ nhất ở Macao, Hà Huy Tập đã phê phán Bác như Quốc tế cộng sản đã phê. Bác không nhận là chủ tịch nước cũng là thật lòng chứ không khách khí. Sau này anh Lê Đức Thọ nói với tôi rằng khi đề nghị Bác làm chủ tịch nước Bác từ chối mãi, Bác nói mình là chủ tịch nước à ? mình chỉ đứng đằng sau thôi, còn tìm người khác làm. Người còn nói nếu tìm khó quá cứ đưa Bảo Đại ra làm rồi mình thu xếp. Bác thực sự vì cách mạng chứ không vì mình. ************************************ Phải chăng Nguyễn Ái Quốc muốn làm rể hùm thiêng Yên ThếMột số nhà sử học cho rằng, bà Thế từng đóng phim và có nhiều người cầu hôn Bà Thế từng đóng phim và có nhiều người cầu hôn Ngày 30-7-1909, Pháp cử Lê Hoan, tổng đốc Hải Dương, cầm quân Việt cùng quân Pháp tấn công căn cứ của Đề Thám tức Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Yên Thế nằm ở tây-bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay. Lê Hoan ngăn chận những nguồn tiếp liệu của Đề Thám, trừng phạt thật nặng những làng nào tình nghi chứa chấp hay yểm trợ cho Đề Thám, nên dần dần dân chúng giảm việc giúp đỡ Đề Thám. Đề Thám rút lên gần Tam Đảo giữa Vĩnh Yên và Thái Nguyên. Một trận đụng độ lớn xảy ra ngày 5-10-1909 tại núi Lang, gần Tam Đảo. Quân Pháp chết 7 người, bị thương 21 người. Quân Lê Hoan thiệt mạng 9 người, bị thương 10 người. Đề Thám chỉ còn khoảng 20 quân. Cả Rinh và Đội Sơn, hai thủ hạ thân cận của Đề Thám đầu hàng Lê Hoan. Tối 30-11 rạng sáng 1-12-1909, bà Ba Nhu, tức bà vợ thứ ba của Đề Thám, cùng con gái là Hoàng Thị Thế, bị bắt. Quân Pháp tiếp tục đeo bám Đề Thám hết sức gắt gao, nhưng vẫn không bắt được Hùm Thiêng Yên Thế. Ông ẩn hiện khắp nơi vùng Yên Thế thượng và Yên Thế hạ, giữa Thái Nguyên, Nhã Nam và Phủ Lạng Thương. Pháp không biết cách nào bắt cho được Đề Thám, liền nhờ đến Lương Tam Kỳ Lương Tam Kỳ là một dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa, tràn sang nước ta làm thổ phỉ. Sau hòa ước Thiên Tân lần thứ hai ngày 9-6-1885 giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Việt Nam, quân Trung Hoa rút về nước, Lương Tam Kỳ ở lại hoạt động vùng Chợ Chu (bắc Thái Nguyên), xuống tới Tam Đảo (giữa Thái Nguyên và Phúc Yên). Năm 1889, Pháp đem quân tấn công. Lương Tam Kỳ xin hàng với điều kiện được chia đất cai trị và được trả lương. Phủ toàn quyền Pháp đồng ý, giao cho Lương Tam Kỳ cai quản 4 tổng gần Chợ Chu và 42,000 đồng Đông Dương một năm. Lương Tam Kỳ ở yên trong 4 tổng đó và quân Pháp cũng không được vào 4 tổng đó. Lương Tam Kỳ giữ đúng lời hứa cho đến khi chết già. Được Pháp thuyết phục, Lương Tam Kỳ gởi ba “khách trú” (chỉ người Trung Hoa), giả làm người của tướng Liên bên Quảng Tây (Trung Hoa), đến liên lạc với Đề Thám ở Yên Thế thượng vào ngày 10-1-1913. Tuy đang cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng Đề Thám cũng rất cẩn thận đề phòng, nên mãi đến một tháng sau, ngày 9-2-1913, ba người nầy mới ra tay, hạ thủ được Đề Thám trong lúc ông đang ngủ. (Paul Chack, Hoang-Tham Pirate, Paris: Les Éditions de France, 1933, tt. 261-263.) Lúc đó, Đề Thám 52 tuổi (tuổi ta). Thế là Hùm Thiêng Yên Thế bị sa cơ, chấm dứt một cuộc đời oanh liệt, và chấm dứt luôn cuộc kháng chiến chống Pháp dai dẳng nhất từ khi Pháp chiếm nước ta năm 1884. Về phần bà Ba Nhu, trước đây, các tài liệu đều ghi rằng bà tên là Đặng Thị Nhu, vợ thứ ba của Hoàng Hoa Thám và là một tướng lãnh giỏi của nghĩa quân Yên Thế, giúp chồng rất đắc lực. Theo tài liệu của một ký giả đã lên Yên Thế, và gặp cháu của Hoàng Hoa Thám là bà Hoàng Thị Hải, con của ông Cả Phồn, thì bà Ba Nhu có tên là Nguyễn Thị Nho, còn được gọi là bà Ba Cẩn. (Lê Xuân Sơn, “Con gái ông Đề Thám”, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 50-94, TpHCM: ngày 18-12-1994.) Sau khi bị bắt, bà Ba Nhu bị giam ở Hỏa Lò, Hà Nội và bị kết án đày đi Guyanne thuộc Pháp ở Trung Mỹ. Trên đường đi, bà nhảy xuống biển tự tử ngày 25-12-1910. Con gái của bà Ba Nhu với Hoàng Hoa Thám là Hoàng Thị Thế, được người Pháp gởi qua Pháp nuôi ăn học. Bà Thế trở về Việt Nam năm 1923, và qua Pháp trở lại vào đầu năm 1927. (Charles P. Keith, “The Curious Case of Hoàng Thị Thế”, đăng trên tập san Journal of the Vietnamese Studies, số 8, hè 2013, University of California, Berkeley, tr. 91.) Theo bài báo nầy, vào đầu năm 1929, khi làm giấy tờ xin đi Việt Nam, bà Hoàng Thị Thế khai với nhân viên phụ trách rằng vào tháng 3-1928, Nguyễn Ái Quốc gởi một phái viên đến gặp bà ta và thuyết phục bà ta thành hôn với Nguyễn Ái Quốc. Bà Thế cũng cho biết rằng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã cưới một phụ nữ Nga và Quốc đã đến thành phố Lille trong hai năm 1927 và 1928. Từ đó Quốc thường đến Lille bằng một bí danh. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 99.) Lille là một thành phố kỹ nghệ nằm ở phía bắc nước Pháp, gần sát biên giới với nước Bỉ (Belgium) Bà Thế còn thêm rằng đây không phải là lần đầu tiên bà là mục tiêu bị Nguyễn Ái Quốc theo dõi. Bà nói rằng khi còn ở Đông Dương, năm 1927 “bốn người bản xứ đến tìm bà ở Sài Gòn để ép bà đừng lên tàu thủy. Họ sẽ đưa bà qua Xiêm La [Thái Lan] bằng xe hơi và kết hôn với Nguyễn Ái Quốc…” (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 100.) Trong thời gian nầy, Nguyễn Ái Quốc, ủy viên Đông phương bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), qua Trung Hoa tháng 10-1924, hoạt động tình báo cho Liên Xô với bí danh mới là Lý Thụy. Tại Quảng Châu, Lý Thụy hợp tác với Lâm Đức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi Phan Bội Châu từ Hàng Châu đến ga Thượng Hải ngày 1-7-1925. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, nguyên bản bằng tiếng Anh (From colonianism to communism), Mạc Định dịch, Paris, 1962, tr. 38. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Đài Bắc: Nxb. Truyện Ký Văn Học, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.) Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu nhắm mục đích vừa để lãnh thưởng, vừa để loại bỏ nhà lãnh đạo cách mạng dân tộc uy tín nhất ở hải ngoại và giành lấy tổ chức của ông. Sau vụ nầy, có thể nhờ có tiền lãnh thưởng, Lý Thụy tức Nguyễn Ái Quốc tổ chức lễ kết hôn với một nữ đảng viên cộng sản Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh (1905-1991) vào tháng 10-1926. Lễ kết hôn diễn ra tại nhà hàng Thái Bình, thành phố Quảng Châu, có mặt các bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ Châu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sướng. Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng Trung Hoa bùng nổ ngày 12-4-1927. (Hoàng Tranh (Huang Zheng), “Hồ Chí Minh với bà vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành tháng 11-2001. Báo Diễn Đàn, Paris, số 121, tháng 9-2002 dịch đăng lại, tt. 17-20.) Lúc đó, Tưởng Giới Thạch (Quốc Dân Đảng Trung Hoa) chẳng những tấn công đảng Cộng Sản Trung Hoa, mà cả những nhóm cộng sản các nước khác. Nguyễn Ái Quốc bỏ trốn đi Vũ Hán, đến Thượng Hải, theo đường biển lên Vladivostok, qua Moscow khoảng giữa tháng 6 năm 1927. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại 1892-1924, tập 2: 1825-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 85.) Tháng 11-1927, Nguyễn Ái Quốc được ĐTQTCS gởi từ Moscow qua Berlin (Đức), và xâm nhập Pháp. Theo tin tình báo Pháp, Quốc rời Paris ngày 15-12-1927, qua Berlin, rồi qua Bruxelles (Bỉ) đầu năm 1928, tham dự Hội nghị Quốc tế Liên đoàn chống đế quốc. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc qua Đức, chờ quyết định của ĐTQTCS. Cuối tháng 5-1928, ông đến Ý, và xuống tàu Nhật ở hải cảng Naples, qua Viễn Đông (Chính Đạo, sđd. tt. 93-94.) Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm La tháng 8-1928, lập tỉnh uỷ U-đon, thống nhất việc lãnh đạo Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên Hội ở Xiêm La. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, Portland, OR, U.S.A.: Nhóm Tìm Hiểu Lịch Sử, 1991, tr. 43.) So sánh lời khai của bà Hoàng Thị Thế với lịch sinh hoạt của Nguyễn Ái Quốc hay Lý Thụy trong thời gian nầy, hai bên có nhiều điểm gần nhau tuy không khít khao với nhau. Lúc đó, nhân viên C.A.I. (Contrat d’acceuil et d’intégration) không mấy tin vào lời khai nầy, và cả tiến sĩ Charles P. Keith, giáo sư Sử học tại Michigan State University trích dẫn nguồn tin trên đây trong bài báo đã dẫn, cũng cho rằng lời khai của bà Thế thiếu xác thực. Lời khai của bà Thế với nhà chức trách Pháp được lưu trữ theo hồ sơ C.A.I. về Hoàng Thị Thế, thuộc L’Office français de l’immigration et de l’intégration (OFII), là cơ quan đảm trách việc di dân mới đến đất Pháp cần được hướng dẫn về đời sống tại Pháp. Dầu nhà chức trách Pháp lúc đó và cả giáo sư Charles P. Keith đều nghi ngờ mức xác tín trong lời khai của bà Hoàng Thị Thế, nhưng có vài câu hỏi cần được đặt ra là: Tại sao lúc đó bà Thế biết được, dầu không chính xác, hành trình sinh hoạt của Nguyễn Ái Quốc? Ví dụ bà Thế nói rằng vào đầu năm1927, trước khi bà xuống tàu thủy rời Sài Gòn đi Pháp, thì có bốn người đến gặp bà và yêu cầu bà bỏ chuyến đi Pháp để họ đưa bà sang Xiêm La và kết hôn với Nguyễn Ái Quốc. Thực tế cho thấy sau khi cưới bà Tăng Tuyết Minh tháng 10-1926, Nguyễn Ái Quốc còn ở lại Trung Hoa cho đến tháng 6-1927 mới bị truy nã và bỏ trốn qua Liên Xô, tức trong thời gian đầu năm 1927, Quốc có mặt ở Trung Hoa và có thể liên lạc với Việt Nam. Bà Hoàng Thị Thế từng đóng phim La Donna Bianca (1930)và Le secret de l Emeraude (1935) Bà Thế cũng nói rằng tháng 3-1928 Nguyễn Ái Quốc gởi người đến gặp bà tại Pháp và lăp lại lời cầu hôn. Thực tế cho thấy sau khi Nguyễn Ái Quốc trốn từ Trung Hoa qua Liên Xô tháng 6-1927, thì Quốc được ĐTQTCS gởi qua Đức, rồi qua Pháp tháng 11-1927. Sau đó, Quốc qua Bỉ (Belgium) tham dự Hội nghị Quốc tế Liên đoàn chống đế quốc. Nước Bỉ nằm ở vùng biên giới phía bắc nước Pháp. Chắc chắn Quốc đi lại hoạt động ở vùng giáp ranh Pháp-Bỉ vào đầu năm 1928, giữa Paris (thủ đô Pháp) và Bruxelles (thủ đô Bỉ) cho đến khi qua Ý và xuống tàu thủy từ thành phố Naples (Ý) vào cuối tháng 5-1928 qua Viễn đông. Bà Thế còn nói rằng Nguyễn Ái Quốc đã đến thành phố Lille trong hai năm 1927 và 1928. Từ đó Quốc thường đến Lille bằng một bí danh. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 99.) Lille là một thành phố kỹ nghệ nằm ở phía bắc nước Pháp, gần sát biên giới với nước Bỉ, giữa vùng Paris và Bruxelles. Như thế phải chăng lúc đó nếu Nguyễn Ái Quốc không gởi người tới đề nghị cưới bà Hoàng Thị Thế, thì bà Thế cũng có một mối liên lạc nào đó với Nguyễn Ái Quốc mới biết được hành trình của Nguyễn Ái Quốc? Câu hỏi thứ hai là tại sao bà Hoàng Thị Thế không khai cho người khác đã theo dõi và xin kết hôn với bà, mà lại khai cho Nguyễn Ái Quốc? Tại Việt Nam và trên thế giới, có biết bao nhiêu là đàn ông, kể cả những đàn ông nổi tiếng mà bà Thế không khai, lại đi khi cho Nguyễn Ái Quốc, lúc đó đang là đối tượng truy nã của mật thám Pháp, trong khi bà Thế muốn xin đi Việt Nam. Bà khai như vậy thì có lợi gì cho bà? Vậy phải chăng giữa Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh tương lai) thực sự có mối liên hệ gì chăng? Phải chăng để thu hút quần chúng, Nguyễn Ái Quốc muốn kết hôn với bà Hoàng Thị Thế nhằm giúp Nguyễn Ái Quốc thêm uy tín từ ảnh hưởng của Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Đó là câu hỏi xin đặt ra để những nhà nghiên cứu lưu tâm tìm hiểu thêm. Ở trong nước hiện nay cũng có báo đề cập đến mối liên lạc giữa bà Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc, nhưng không đề cập gì đến chuyện Nguyễn Ái Quốc xin kết hôn với bà Hoàng Thị Thế. Ví dụ bài “Gặp con gái cụ Đề Thám ở Hà Nội” của Phạm Quang Đẩu đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân, đưa lên Internet ngày Thứ Bảy 26-01-2013. Khi nhà báo đặt câu hỏi là bà Thế đã gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc lần nào chưa, thì theo bài báo nầy bà Thế trả lời như sau: “Có một lần đến giờ bà vẫn chưa quên- bà Thế nói. Đó là vào mùa xuân năm 1920. Bà lúc đó chưa đến hai mươi, vừa đóng được một bộ phim ở Pháp, vai phụ thôi…” Bài báo không nói gì đến chuyện Nguyễn Ái Quốc xin cưới bà Hoàng Thị Thế, nhưng cũng xác nhận là bà Hoàng Thị Thế đã gặp Nguyễn Ái Quốc, đồng thời có một điểm sai căn bản. Đó là bà Thế đóng phim lần đầu vào năm 1930 là phim La lettre chứ không phải năm 1920. Tài liệu về phim nầy hiện còn ở Pháp và niên đại ghi rõ ràng là 1930. Như thế có thể xảy ra hai trường hợp: 1) Hoặc bà Thế nhớ lầm từ 1930 thành 1920. 2) Hoặc chính cán bộ Phạm Quang Đẩu cố tình đổi từ 1930 thành 1920 cho phù hợp với tuyên truyền của cộng sản về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Paris. Sửa đổi lịch sử cho phù hợp với đường lối của đảng Cộng Sản là việc làm bình thường của cán bộ cộng sản từ trước cho đến nay. Vào năm 1920, Nguyễn Tất Thành đang ở Paris, cộng tác với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘ Indochine au Vietnam, Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45), đồng ký tên vào bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường viết (Trần Dân Tiên [tức Hồ Chí Minh], Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1976, tr. 32). Bản thỉnh nguyện thư nầy gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L’Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919. Về sau, Nguyễn Tất Thành chiếm dụng danh xưng Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của Nguyễn Tất Thành. Hồ Chí Minh (tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc…) và những người cộng sản luôn luôn đề cao rằng Hồ Chí Minh suốt đời sống độc thân, không lập gia đình để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Vì vậy báo chí trong nước tránh né không bao giờ nói đến chuyện phụ nữ trong đời sống của Hồ Chí Minh, nên không đả động gì đến mối liên lạc tình cảm giữa bà Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó, dù Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh, đi đâu, ở nơi nào, đều có bóng dáng một người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông. Đây là chuyện bình thường của một người đàn ông, nhưng Hồ Chí Minh và cộng sản luôn luôn che giấu. Vì vậy, chuyện bà Hoàng Thị Thế kể về việc Nguyễn Ái Quốc xin kết hôn với bà cũng có thể xảy ra, nhưng cộng sản cố tình dập bỏ đi. Riêng bà Hoàng Thị Thế, tại Pháp, bà trở thành diễn viên điện ảnh và có mặt trong ba phim là La lettre (1930), La donna Bianca (1931) và Le secret de l’éméraude (1935). Vào đầu thập niên 30 thế kỷ trước, nền điện ảnh Pháp bắt đầu chuyển từ phim câm qua phim có tiếng nói, và lúc đó chính phủ Pháp muốn tuyên truyền về sự thành công của Pháp ở các nước thuộc địa Pháp. Vì vậy người ta mời những người bản xứ đóng phim, trình chiếu quang cảnh thuộc địa cho dân chúng Pháp xem. Phim La lettre do Mercanton thực hiện, phỏng theo phim The Letter của Hoa Kỳ dựa trên câu chuyện của Somerset Maugham (1874-1965) viết về một đồn điền cao su ở Mã Lai Á. Sau phim đầu tiên năm 1930 (La lettre), bà Thế kết hôn vào mùa hè năm 1931 với Robert Bourgès, con môt gia đình sản xuất rượu vang giàu có ở Bordeaux. Năm 1935, bà sinh một con trai, đặt tên là Jean-Marie Albert Arthur Bourgès. Năm sau (1936), do những bất đồng với bà mẹ chồng về việc chăm sóc đứa con, bà Thế ly dị Robert Bourgès, nhưng không được quyền nuôi con. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 107.) Khi Việt Nam bị chia hai sau năm 1954, cả hai chế độ hai miền Bắc và Nam Việt Nam đều mời bà Thế về nước năm 1959. Về phần Việt Nam Cộng Hòa, nhân một chuyến công du sang Pháp năm 1959, bà Ngô Đình Nhu được tổng thống Ngô Đình Diệm uỷ nhiệm mời bà Thế hồi hương. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 107.) Cuối cùng, bà Hoàng Thị Thế chọn lựa trở về Bắc Việt Nam năm 1961 vì bà muốn về sống tại vùng kỷ niệm của song thân ở Yên Thế. Lúc đầu, bà ở Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc). Tại đây, năm 1963 bà hoàn tất tập hồi ký bằng tiếng Pháp. Năm 1974, bà Thế 74 tuổi, chuyển về Hà Nội, sống ở Khu tập thể ngõ Văn Chương, quận Đống Đa. Cuối cùng bà từ trần ngày 9-12-1988, thọ 88 tuổi, an táng tại Yên Thế, Bắc Giang. Tập hồi ký của bà Hoàng Thị Thế được Lê Kỳ Anh dịch qua tiếng Việt, nhan đề là Kỷ niệm thời thơ ấu, Nxb. Hà Bắc ấn hành năm 1975. Lúc đó bà Thế đã lớn tuổi và đã rời Hà Bắc về Hà Nội. Lê Kỳ Anh tức thi sĩ Hoàng Cầm, vì lúc đó Hoàng Cầm bị treo bút, không được ghi tên tác giả những sáng tác bằng bút danh chính của mình. Không có nguyên bản Pháp văn để so sánh bản dịch của Lê Kỳ Anh, nhưng dù dịch giả cố gắng dịch đúng theo nguyên bản của tác giả, nhưng chưa chắc bản dịch được trung thực theo ý tác giả và dịch giả vì còn phải qua cửa ải kiểm duyệt của nhà xuất bản nhà nước cộng sản. Ai cũng biết tất cả những nhà xuất bản cộng sản đều chỉ được ấn hành những sách theo đúng chủ trương chính sách đường lối chính trị của đảng Cộng sản mà thôi. Hiện nay không ai biết số phận nguyên bản cũng như nội dung tập hồi ký bằng chữ Pháp của bà Hoàng Thị Thế như thế nào, nằm trong tay ai hay đã bị đốt cháy? Phải chăng tập hồi ký nầy có liên hệ đến việc Nguyễn Ái Quốc muốn xin kết hôn với bà Hoàng Thị Thế, nghĩa là xin làm rể Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám, nên đã bị cộng sản thủ tiêu mất tích? Nhân tài còn bị cộng sản giết hàng loạt, thì cộng sản sá gì tập hồi ký của một phụ nữ, chỉ nổi danh vì là con của Hùm Thiêng Yên Thế và bà Ba Nhu bất khuất.. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 1-2-2014)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 4, 2012 2:05:54 GMT 9
Báo TQ Kể Mối Tình HCM Với Lâm Y Lan; Lê Duẫn Tố Ông Hồ Phản Bội Lời Hứa Không Lấy Vợ, Làm Đảng CSVN Mất Hết Danh Tiếng Tục ngữ Việt có câu “Cây kim trong túi lâu ngày cũng lòi ra.” Quả không sai. Công lao mấy chục năm nay, Đảng CSVN cố gắng xây dựng hình tượng ông Hồ như bậc thánh đã thành công cóc, vì người “láng giềng tốt” CS Trung Quốc bất ngờ công khai loan tin về 1 người vợ Trung Quốc Lâm Y Lan của ông Hồ trên báo Dương Thành Văn vào ngày 12 tháng 11 năm 2011, theo trang mạng Anh Ba Sàm hay vietsuky.wordpress cho biết trong một bản tin hôm Thứ Ba, 31-1-2012, dịch từ bản tin của báo Tàu. Để cống hiến cho độc giả về tin hấp dẫn này, Việt Báo xin đăng nguyên văn bản tin từ trang mạng Anh Ba Sầm trích từ trang mạng vietsuky.wordpress.com/2012/01/31/63-mot-nguoi-vo-trung-quoc-khac-cua-ho-chi-minh/, như sau: Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh Dương Thành Vãn Báo (Báo Vãn Thành buổi chiều) 12-11-2011 Tác giả: Đinh Đông Văn Trần Hiểu Nông ghi lại lời của cha là Trần Bá Đạt[1]: “Thời trẻ Hồ Chí Minh đã từng kết hôn. Vợ ông ta là một người Hạ Môn, nhưng đã mất rất sớm. Sau đó ông ta sống độc thân một thời gian rất dài. Sau khi cách mạng Việt Nam thắng lợi, ông muốn cưới một người Phúc Kiến làm vợ, nhưng Trung ương Đảng Việt Nam không đồng ý, ông không thể không phục tùng quyết định của Trung ương Đảng Việt Nam, vì vậy ông không bao giờ tái hôn nữa”. Thực ra, người phụ nữ thứ nhất phải là Tăng Tuyết Minh. Người phụ nữ thứ hai là Lâm Y Lan. Năm 1930, Hồ Chí Minh bị truy bắt ở Việt Nam, không chốn dung thân, thông qua liên lạc viên cầu sự trợ giúp từ Tỉnh ủy Quảng Đông Đảng Cộng sản Trung Quốc đang còn trong vòng bí mật. Đào Chú[2] bố trí cho nữ đảng viên Đảng cộng sản (Trung Quốc) Lâm Y Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh, đồng thời dặn dò nhất thiết phải đảm bảo an toàn cho Hồ Chí Minh. Lúc đó Hồ Chí Minh 40 tuổi, ông cảm thấy Lâm Y Lan đặc biệt giống người yêu Nguyễn Thanh Linh đã hi sinh, ông viết trong nhật ký: “Cô ta giống hệt Nguyễn Thanh Linh cả về lời nói cử chỉ lẫn tính cách sở thích. Ánh mắt vừa chạm nhau, tôi đã tự thấy mình sẽ không còn là một kẻ vô thần thuần túy nữa. Tôi cho đây tất cả đều là ý trời”. Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt, trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật ký của mình giao cho Lâm Y Lan và nói: “Anh để trái tim mình lại bên em, hãy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được giải cứu. Ông hỏi Lâm Y Lan: “Đọc xong nhật ký của anh rồi chứ gì! Anh tin rằng đóa hoa lan trong trái tim anh sẽ không bao giờ khô héo”. Lâm Y Lan không ngăn được tình cảm nhào vào lòng Hồ Chí Minh. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Lâm Y Lan đã là cán bộ cao cấp, nhưng vẫn ở một mình. Khi Đào Chú quan tâm đến chuyện hôn nhân của bà, bà mới nói vẫn còn yêu Hồ Chí Minh. Đào Chú hỏi: “Ông ta có yêu bà không?” Đáp: “Ông ấy bảo tôi đợi ông”. Hồ Chí Minh sang thăm Trung Quốc vào những năm 50, yêu cầu gặp lại người bạn cũ Lâm Y Lan. Mao Trạch Đông lập tức cho gọi Đào Chú và Lâm Y Lan lên Bắc Kinh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, Lâm Y Lan chạy đến bên ông, hai đôi bàn tay nắm chặt lấy nhau. Trước khi máy bay cất cánh, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật ký trả lại cho Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh nhẹ nhàng đẩy lại và nói: “Bên mình anh không có em, rất lâu rồi anh không còn viết nhật ký nữa, cứ để nó lưu lại nơi em làm kỷ niệm!”. Năm 1958, Hồ Chí Minh 68 tuổi, có mời Đào Chú sang thăm cùng đi câu. Ông nói: “Tôi và Lâm Y Lan yêu nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng mà đã lỡ tuổi thanh xuân. Bây giờ tuổi đã cao, muốn nhanh chóng được đoàn tụ với Y Lan. Mong anh khi về nước thử thăm dò thái độ của Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai xem sao, nếu họ tán thành, tôi muốn đưa Y Lan đến Hà Nội cử hành hôn lễ bí mật để thỏa nỗi mong muốn đã ấp ủ từ nhiều năm”. Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta khuyến khích tự do yêu đương, tự chủ hôn nhân. Thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, không thể khinh suất được”. Còn khi Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam họp để thảo luận về việc này, số ý kiến phản đối đã vượt quá số ý kiến tán thành. Hồ Chí Minh không biết làm thế nào đành viết thư cho Lâm Y Lan: “Y Lan thân yêu, chúng ta không có duyên tái hợp. Em đã nghe kể về tình yêu tinh thần của Plato chưa? Hãy để cho tâm hồn của hai chúng mình mãi mãi hòa làm một!” Lâm Y Lan trả lời: Nếu là trên trời xin làm đôi chim liền cánh, nếu là dưới đất xin làm đôi cây giao cành. Trời dài đất rộng có lúc tận, còn mối tình này không bao giờ cạn. Năm 1968, Lâm Y Lan lâm bệnh mất. Trước lúc lâm chung, bà nhờ người gửi trả cuốn nhật ký cho Hồ Chí Minh. Một năm sau, Hồ Chí Minh cũng qua đời, trong lúc hấp hối vẫn còn gọi tên Lâm Y Lan. (Trích từ “Tham khố văn sử” số 17 năm 2011) [1] Trần Bá Đạt (1904 – 20.9.1989, [2] Đào Chú Trong khi đó một bản tin khác trên trang mạng baike.baidu.com cũng đăng tin về người vợ Trung Quốc Lâm Y Lan của ông Hồ. Bản tin trong trang mạng này cũng thuật lại cuộc tình của HCM và bà Lâm Y Lan như bản tin kể trên, nhưng có thêm một số chi tiết khá đặc biệt. Việt Báo xin trích vài đoạn để độc giả thưởng lãm như sau: Sau khi Trung Quốc mới được thành lập, Hồ Chí Minh về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng còn chưa hoàn thành. Sau khi xa cách Lâm Y Lan, nỗi nhớ của Hồ Chí Minh ngày càng nặng thêm. Khi được mời đến thăm Trung Quốc, ông xin Mao Trạch Đông bố trí cho gặp lại bạn cũ ở Quảng Đông để ôn lại tình xưa. Mao Trạch Đông lập tức gọi điện cho Tỉnh ủy Quảng Đông, Đào Chú và Lâm Y Lan… đến Bắc Kinh gặp mặt Hồ Chí Minh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, ông thấy Lâm Y Lan chạy về phía mình. Hai người đắm đuối nhìn nhau rất lâu và đều không ngăn được những dòng lệ. Năm 1958, Hồ Chí Minh trịnh trọng nói với Đào Chú nguyện vọng muốn đón Lâm Y Lan đến Hà Nội để cử hành hôn lễ bí mật. Sau khi về đến Bắc Kinh, Đào Chú chuyển ý của Hồ Chí Minh lên Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch. Mao Chủ tịch trầm ngân giây lát rồi nói: “Cá nhân tôi ủng hộ lời yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế nhưng việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, nên không thể khinh suất được”. Chu Ân Lai cũng nói: “Nên bàn bạc với các đồng chí bên Đảng Cộng Sản Việt Nam một chút, nếu như họ đồng ý, thì chúng ta quyết không làm hòn đá cản đường”. Thế nhưng, trong phòng họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Bắc Việt, một vị lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam (Lê Duẩn) đã điềm tĩnh nói với Hồ Chí Minh: “Anh đã từng nói rằng Việt Nam còn chưa giải phóng thì anh sẽ suốt đời không lấy vợ, câu nói này có ảnh hưởng rất lớn, một khi Bác đã phản bội lại lời hứa đó, thì có nghĩa là chúng ta đã từ bỏ sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Miền Nam, điều này không chỉ làm tổn hại đến hình tượng Cha già dân tộc của anh, mà ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ vì thế mà mất hết sạch danh tiếng. Cho nên, tôi thà bị anh trách móc, thù ghét, chứ không thể để cho dân chúng Việt Nam chửi mắng chúng ta là kẻ tội nhân ngàn đời”. Nghe xong, Hồ Chí Minh vô cùng nản lòng, cười một cách đau khổ, bỏ chỗ ngồi đi ra… Lâm Y Lan lúc này đang nằm trong bệnh viện thành phố của Quảng Châu mỏi mắt trông chờ, rồi điều bà trông đợi lại là một mẩu thư ngắn của Hồ Chí Minh: “Y Lan thân yêu, chúng mình không có duyên tái hợp. Em đã nghe tình yêu tinh thần của Plato chưa? Xin hãy để linh hồn của hai đứa chúng ta mãi mãi hòa làm một!” Y Lan đặt lá thư lên bậu cửa sổ, để cho gió lành cuốn nó đi. Bà nhìn theo lá thư bay lượn trong gió, lặng khóc thầm. Mối tình giữa Hồ Chí Minh và Y Lan đã đánh một cú quá lớn vào tinh thần Y Lan, bệnh tình của bà bắt đầu trở nên xấu đinăm 1968, Lâm Y Lan mất, trước lúc lâm chung, bà còn không quên nhờ người giao trả lại cuốn “Nhật ký tình yêu” mà Hồ Chí Minh đã tặng cho mình, đồng thời dặn lại ông hãy ghìm nén nỗi đau. Hồ Chí Minh đã sốc khi nhận được tin người yêu mất, đau đớn chẳng muốn sống, nước mắt giàn giụa… Sau đó một năm, cũng chính là vào sáng sớm ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh cũng đã qua đời. Trong lúc hấp hối, ông còn đã gọi tên Lâm Y Lan… (Trung Quốc) Bách Độ Bách Khoa Khi Lenin qua đời, Hồ chí Minh viết trên tờ báo Pravda ngày 27/1/1924 của Liên Xô:“Khi còn sống, Người là cha, là thày, là đồng chí và cố vấn của chúng ta ” . Khi Stalin qua đời, phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng sản Tố Hữu làm thơ : Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi! Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương Ông thương mười Hồ chí Minh :”Ai có thể sai chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao trạch Đông không thể sai” Hồ chí Minh viết cho Lê Nin: “Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó, hay là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi một việc làm gì mà theo đồng chí cho là có ích?” (Thư đề ngày 06-6-1938) . Trong năm 1952, theo Hoàng Tùng – nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân – thuật lại : “Mùa hè năm 1952 , Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện Cải Cách Ruộng Đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…Sau khi đi Trung quốc và Liên xô về, Bác chuẩn bị cho hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định CCRĐ “. “Mao chủ tịch đánh giá việc Việt Minh đã từng muốn dùng tiếng Trung Quốc thay cho chữ quốc ngữ Việt Nam là một hành động cho thấy trước sau gì Việt Nam sẽ thuộc về chúng ta, ít nhất là về văn hóa”. (“Mao Chủ Tịch Của Tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc ) . Tổng bí thư đảng CSVN Lê Duẩn : “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa” .
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2012 9:22:56 GMT 9
Ông Hồ Xài Thêm Bút Hiệu CB Để Tự Tung Hô, Đoạt Kỷ Lục03/23/2012 HANOI - Người ta vừa khám phá ra rằng ông Hồ Chí Minh có một nghệ thuật tuyệt vời, cũng là thiết lập một kỷ lục: có nhiều bút hiệu để viết bài tự khen mình.Trước giờ dân Việt Nam chỉ biết rằng ông Hồ Chí Minh lấy bút hiệu Trần Dân Tiên để viết sách Những mẩu chuyện vể đời hoạt động của Hồ chủ tịch”, in năm 1948, trong đó ông tự phong mình là cha già dân tộc – khi ông mới 58 tuổi; và lấy bút hiệu T. Lan để viết cuốn sách “Vừa đi đường vừa kể chuyện» cũng nhằm tự tung hô ông Hồ. Trong bài viết hôm 21-3-2012, nhà văn Người Buôn Gió trên blog riêng đã viết bài “Hãy khen, và tự khen mình (học tập đạo đức Hồ Chí Minh)” trong đó đưa ra một khám phá rằng ông Hồ còn dùng bút danh CB để tự khen. Nhà văn đang cư ngụ ở Hà Nội này viết về cách ông Hồ dùng bút hiệu CB để tự tung hô, trích: “Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc sinh thời có rất nhiều bút danh, bác có một bút danh hay dùng ở báo Nhân Dân là C B. Trong cuốn sách này cũng có nhiều bài viết của bác ký tên CB. Một cán bộ từng công tác lâu năm tai báo Nhân Dân hồi đó, năm nay đã ngoài 80 nói rằng ý của từ CB là để cho các cán bộ, viên chức tòa soạn biết là Của Bác. Chúng ta hãy đọc những dòng chữ mà CB khen ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh như dù bận trăm công nghìn việc vẫn dành thời gian đọc báo Đảng hoặc về đức tính khiêm tốn như ''cụ Hồ là chủ tịch cả nước, lại có tuổi thế mà cụ luôn nói các cụ, các ngài..''...” (hết trích) Như thế, ông Hồ đã lập một kỷ lục thế giới: ít nhất là đã dùng 3 bút hiệu để tự tung hô, và để tự phong vai bác đối với cả nước. Mot but hieu khac Chien Thang cua " cha gia dan toc " : Luu y , ta nen them vao chu Trung Quoc , sau chu " nhan dan " thi cau van se dung va chinh xac . Neu khong co chu TQ theo sau , thi ta phai hieu nghia nguoc lai . ... Muốn cho dân "TQ" yêu, muốn được lòng dân " TQ", việc gì có lợi cho dân "TQ" phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân "TQ" phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân "TQ" . Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân "TQ" mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân "TQ". Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân "TQ" phải được ta đặc biệt chú ý. … Nói tóm lại, muốn được dân "TQ" yêu, muốn được lòng dân "TQ", trước hết phải yêu dân "TQ", phải đặt quyền lợi của dân "TQ" trên hết thẩy, phải có một tinh thần chí công vô tư. Chiến Thắng Báo Cứu quốc 12/10/1945
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 27, 2012 0:30:05 GMT 9
Câu chuyện “người dám vuốt râu Ông Cụ”Suu Tamlời tâm huyết của Cụ Diệm rằng, -- Khi Mỹ dô, sẽ làm mất chánh nghĩa của VNCH; -- Mỹ dô, làm cho kinh tế VN không phát triển và phải nô lệ cho kinh tế Mỹ – Quân Mỹ dô, thế nào cũng…giải trí, sẽ làm cho nền tảng đạo đức VN bị hoen ố, suy đồi. HCM noi voi Mao Chu Tich : " chung toi danh My cho TQ " . Ông Hồ Chí Minh sinh ra đã được tròn 122 năm, ngày 19 tháng 5 năm 1890. Vừa rồi một blogger trẻ ở Sài Gòn gửi «meo» cho tôi hỏi rằng tôi đánh giá về ông Hồ ra sao? Rằng năm nay, gần đến ngày 19 tháng 5, ông tuyên giáo thành ủy Sài Gòn vẫn còn kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh, nghe sao lạc lõng quá. Tôi liền nghĩ đến câu chuyện cách đây đúng 20 năm, về một bài báo tôi còn nhớ mãi, coi là một tuyệt tác của nền văn học – thông tin báo chí thời hiện đại. Đó là bài báo xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ, cơ quan của Hội Nhà Văn Việt Nam, số 27, ra ngày 4 tháng 7 năm 1992. Số báo này được nghiêm lệnh «tuyệt mật» của Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương đảng CS hồi đó «triệt để thu hồi» ngày 8 tháng 7, sau khi ra được 4 ngày. Các bạn trẻ ngày nay chắc chưa biết gì về hiện tượng văn hóa – chính trị lý thú này. Đó là bài Linh Nghiệm, rất ngắn, chỉ chừng 2 ngàn chữ, hơn một trang báo khổ nhỏ. Bài báo nói về một con người, về tham vọng và “học thuyết” của con người ấy, về quần chúng bị con người ấy mê hoặc, và về sự kết thúc là công toi, là trắng tay, nhưng vẫn còn nhiều người bị cám dỗ đi theo hoài. Tác giả là nhà văn Trần Huy Quang, trong tòa soạn báo Văn nghệ, lúc ấy ở tuổi 49, tuổi vận hạn. Anh bị đuổi khỏi báo, bị treo bút 3 năm. Nhà văn Hữu Thỉnh, chủ bút báo bị khiển trách. Bài báo vừa kín đáo như đánh đố bạn đọc, vừa gợi mở, với giọng điệu diễu cợt hóm hỉnh, lại vừa nghiêm trang triết lý, nói về cuộc đời của một anh thanh niên gốc nông dân lại không muốn tu tỉnh học hành. Anh ta chỉ muốn xuất dương tìm một nguồn học thuyết thần bí để tiến thân thành lãnh tụ. Do thủ thuật tinh ma, anh ta mê hoặc và lôi kéo vô vàn con người, lũ lượt theo chân mình để đi tìm “cái ấy”, nhưng không bao giờ tìm thấy Vườn hoa Mùa Xuân – Thiên đường trên trái đất. Anh ta là ai vậy? Ngay chữ đầu tiên của bài báo đã nêu rõ tên anh ta, vậy mà rất ít người nhận ra. Nhà văn Trần Huy Quang thật khôn khéo, có thể nói vui là tinh ranh. H…INH là tên. H rồi 3 chấm, rồi INH, ai cũng đọc là Hinh, nhưng không phải, đó là tên “Hồ Chí Minh» được cô gọn lại. Kín mà hở, hở mà vẫn kín, vì thời trẻ ông Hồ mang tên Nguyễn Sinh Coong, rồi Nguyễn Tất Thành. Chả thế mà qua mắt được 2 người duyệt, có chữ ký duyệt của thủ trưởng ban biên tập và của thư ký tòa soạn trước khi đưa in. Không ai nghĩ H…INH là Hồ Chí Minh cả. Và lọt lưới suốt 4 ngày, rồi cả Ban Tư tưởng – Văn hóa mới giật bắn mình, thốt lên: Thằng này láo quá, dám vuốt râu cụ Hồ, tội đáng chết, đáng xử trảm. Nhưng chậm quá rồi. Lệnh thu hồi, phá hủy không mấy có hiệu quả. Không thể ra lệnh công khai, càng kích thích tò mò và gây chú ý, sẽ bất lợi to. Cho nên quả sơ xuất này cay, cay hơn ớt chỉ thiên. Ngày 19-5 năm nay, nhân dịp trong nước Ban Tuyên huấn của đảng CS lại kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh tôi xin có vài lời nhắc đến bài báo Linh nghiệm vừa đúng 20 năm trước,để các bạn trẻ biết. Từ những năm 1980 Trần Huy Quang đã có những phóng sự Ông Vua Lốp, Lời khai của bị can, Người làm chứng, Chiếc áo màu lửa rất được chú ý, vì luôn bênh vực những người bị cường quyền áp bức.. Được biết sau Linh nghiệm anh được bạn bè gọi yêu là «Người dám vuốt râu Ông Cụ”. Blog Bùi Tín (VOA) —————————————————– Linh nghiệm H…INH là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi. Hằng ngày Hinh sống như người nuốt phải quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu thư khuê các. Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn ! Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái đầu mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh. Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói :”Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con…Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người…” Thế rồi, như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí linh. Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm, toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng. - Kính thưa…Hinh bàng hoàng thốt lên. - Không phải! – cô gái mỉm cười độ lượng – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm không? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu. - Kính thưa, tôi là người của xứ Nhọc nhằn tăm tối… - Thôi, anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm được chân lý. Vị sứ giả trao cho Hinh Đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc: “Hãy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó ; đừng nhìn vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi :”Có đi không ?” thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp, sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm bước từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để “tìm cái này”. Cứ thế…chỉ cần một lúc sau,anh sẽ có được thiên hạ.” Hinh ấp cuốn Đạo thư vào ngực tức tưởi : “Trời ơi,bảo bối, bảo bối…”. Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. “Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi…” Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất ,mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô gái điếm vật vờ. - Có đi không? Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống ; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật ; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách? Đi tiếp gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa Xuân. Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại…”Tìm cái này” là tìm cái gì , anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất… Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ gíáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm rãi. Những người đang qua đường lấy làm lạ. Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp được. - Anh ơi, anh tìm cái gì đấy? Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời: - Tìm cái này. Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm. Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm thì sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm…đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi: - Tìm cái gì đấy? Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả lời: - Tìm cái này! Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường. Rồi tiếp đến… Bây giờ là dân xích-lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến. - Tìm cái gì đấy? - Tìm cái này. Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả , bắt nộp phạt, chúng mày! Cứ thế… Và số người hy vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như đàn kiến. Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng nhìn họ. Hoá ra thiên hạ đang bu lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về. Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. “Tìm cái này” là cái gì thì không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn lắm, để họ trở thành một dòng nước. Trưa. Rồi chiều. Và… vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân. Trần Huy Quang – Báo Văn Nghệ ngày 4-7-1992.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 7, 2012 8:54:43 GMT 9
suu tamSơn Tùng: Hồ Chí Minh Liệu có phải Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ra lệnh thả ông Ngô Đình Diệm khi ông ta chưa là Tổng thống VNCH ? Có phải ông Phạm Hùng đã từng bí mật gặp ông Ngô Đình Nhu trong một kế hoạch hòa giải giữa hai miền ? Ai “chủ chiến”, ai “chủ hòa” bên trong chính quyền hai miền thời chiến tranh Việt Nam ? … Rất nhiều câu hỏi mà có thể phải tới thế hệ con cháu các nhà sử học Việt Nam ngày nay mới mong lục bới lại tư liệu ít ỏi và phiến diện để tìm câu trả lời.
Thế nhưng, cũng có những người không phải trong giới sử học, lại đã làm những việc mà giới sử phải đáng nể. Một trong số họ là nhà văn Sơn Tùng, tác giả cuốn “Búp Sen Xanh” viết về thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có lẽ ông cũng là một trong vài người hiếm hoi hiện còn sống nắm được nhiều tư liệu (chưa được công bố) về Hồ Chí Minh nhất.
Dưới đây là một trong nhiều tài liệu được cho là từ những bài nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng quanh tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là từ những tìm tòi của ông, cho tới cuốn truyện “Búp sen xanh” đều không được sự “ủng hộ chính thức” của các cơ quan chức năng, thậm chí còn gặp phải những phiền toái. Ngược lại, vẫn có những ủng hộ “không chính thức” từ nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam. Như Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, khi còn là Trưởng ban Dân vận Trung ương, đã từng có nhận xét thân mật ” Đối với tôi, anh Sơn Tùng là đại sư phụ”.
Từ hoàn cảnh đó, không thể tránh khỏi tình trạng những thông tin mà nhà văn đưa ra có thể không chính xác, hoặc chưa được kiểm chứng khoa học, những nhận định có thể chủ quan, suy diễn. Song để góp phần đi tìm những tư liệu lịch sử quý giá, tránh những đồn đoán, xuyên tạc, bóp méo lịch sử mà cho tới nay, sau hơn 30 năm chiến tranh vẫn không thay đổi mấy, xin được đăng một phần trong những bài nói chuyện này với sự thận trọng nhất định.
Bài nói của Nhà văn Sơn Tùng * Ở trường Cơ khí Chí Linh (thuộc Bộ Năng Lượng) Tháng 11 – 1990 Trung ương chúng ta đang chuẩn bị họp 3 ngày để bàn với nhau, tìm thấy rõ hướng đi chưa? Tuy ổn định được mặt này, ổn định được mặt khác, nhưng vẫn chưa vững, nội bộ có nhiều vấn đề nhất là bung ra vấn đề tham nhũng. Trong lịch sử nước ta đây là lần bộc lộ lớn nhất, trên bình diện rộng, cao và sâu trong toàn quốc. Trong nội các của ta có 3-4 đồng chí không dính đến, trong bộ chính trị của chúng ta, Đảng đếm trên đầu ngón tay chỉ được 3-4 đồng chí. Ở dưới có nặng nề, nhưng chỉ là con chuột nhắt. Còn tham nhũng này từ những con hổ trở lên, làm suy vong cả một nền chính trị, bởi vì trước đây người cộng sản yêu đến thế, ngày nay người cộng sản có chức phá một lúc 2-3 tỷ đồng, ông chủ nhiệm tham ô một tấn thóc là to lắm. Chúng ta chuẩn bị kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ cũng nằm trong bi kịch này. Bác Hồ rất khổ, khổ từ tấm bé, mẹ chết năm lên 10 tuổi, năm cuối cùng thế kỉ thứ 19, ngày đầu tiên của thế kỉ thứ 20. Đây là thế kỉ khẳng định Hồ Chí Minh là danh nhân văn hoá của thế giới và trong lúc phe XHCN bị đổ vỡ, ta mất uy tín lớn trên thế giới. Vì vậy xét Bác Hồ rất khó khi đưa ra hội đồng UNESCO của liên hợp quốc. Phần quốc tế đánh giá Bác, xét danh nhân như thế nào? Ở ta xuyên tạc Bác như thế nào? Đây là hai phần chính nhất. Để từ đó biểu hiện nay chúng ta đổi mới đi theo con đường Bác Hồ là nói thật hay là mượn? Mượn Bác Hồ để đục khoét nhân dân. Đây là cuộc đấu tranh gay gắt, vào Đại hội tới đây vấn đề này cần đặt ra. Hội nghị trung ương 10 cũng bàn về vấn đề này. Đây là con số kết luận: Đội ngũ cán bộ từ cao cấp đến sơ cấp có phẩm chất tốt chỉ 5% (đúng nhân cách, không dính đến đồng tiền, bát gạo của nhân dân ) còn làm sai là chuyện khác, như thế là gay quá. Từ 20-10 đến ngày 30-11- 1989, Đại hội đồng UNESSCO họp phiên khoá 24, để xét các danh nhân, kỉ niệm vào những năm chẵn, trong 3 năm 1988, 1989, 1990, xét những danh nhân vào tuổi 100 để tổ chức kỉ niệm, mức độ khác nhau. Danh nhân nào là danh nhân văn hoá, hay những nhà hoạt động kiệt xuất, nhà thơ vĩ đại…được toàn thế giới kỉ niệm. Bác Hồ ra đời vào năm 1890 tròn 100 năm, cụ Nêru, Ấn Độ ( năm 1989), Mekarencô, nhà sư phạm vĩ đại (Liên Xô) và Pastecnéc là nhà thơ được giải Nôben, nhưng bị khai trừ ra khỏi Đảng Hội nhà văn Liên Xô năm 1958, vì ông có cuốn tiểu thuyết vạch trần bất công trong xã hội Xô Viết dưới thời Sta–Lin, khi trao giải Noben thì ông từ chối. Hội nhà văn Liên Xô khai trừ vì tội đưa bản thảo chưa in trong nước ra nước ngoài tặng một người bạn. Khi khai trừ, hội nhà văn bỏ phiếu, một phiếu chống, ông không đáng phải khai trừ, đây là cả một vấn đề oan khốc. Tôi tin rằng hai thập kỉ nữa phải khôi phục cho ông. Đến bây giờ đã trả lại. Khi xét năm 1989, được cụ Nêru xong (đoạn này nghe không rõ) Đại biểu của 3 quốc gia đề nghị kỳ họp Đại hội đồng UNESCO năm nay chỉ xét danh nhân có năm chẵn là năm 1989 để kỉ niệm còn danh nhân sinh vào năm 1890 hoãn lại để bàn lại tiêu chuẩn vĩ nhân. Vì lâu nay chúng ta xét vĩ nhân còn một số điều hở, chưa chặt chẽ. Cho nên chỉ xét đến năm 1989, số còn lại hoãn 10 năm sau, năm đầu tiên của thế kỉ 21 hãy xét. Như vậy Bác Hồ rơi vào năm 1990, mà đời người chỉ có một lần kỉ niệm 100 năm. Nếu vừa rồi quốc tế không xét Bác Hồ thì trong nước không thiếu gì kẻ phá Bác Hồ, xuyên tạc Bác Hồ. Nhưng các Đại biểu phản ứng mạnh mẽ, cho rằng thiếu tiêu chuẩn thì bổ sung, vì năm 1990, Bác Hồ là ngọn cờ đầu giải phóng dân tộc, không xét là không công bằng, cuối cùng biểu quyết, vì đây không phải khóa chấp hành nên không lấy theo đa số, nguyên tắc bầu là lấy 100% số phiếu, có 159 quốc gia, phe XHCN có 8 thành viên. Năm đó ta đang gay go, đi ra nước ngoài nhiều, con em nhà lành cũng có, nhưng ở các thành phố có tiền, họ bỏ tiền ra mua mấy ông tuyển chọn, có cả người có án, sang đó đi buôn, do đó xét đến Bác Hồ không thể không nhìn điều đó. Đồng thời nhìn cả Đông Âu đang đổ ầm ầm, cái đó hết sức khó khăn cho Bác. Khi phiên họp xét Bác Hồ bà Thái Lan làm chủ tọa phiên họp, lúc đó ta và Thái Lan chưa có quan hệ như bây giờ. Đồng chí Nguyễn Di Niên rất lo. Nhưng bà ta có tham luận nói về Bác rất hay. Trong cuộc họp có đơn của người Việt nam di tản tên là Dũng ở Hà Nội gửi UNESCO đề nghị không được xét Bác Hồ là danh nhân thế giới, đơn có 79 chứ ký, tiêu biểu cho tuổi 79 khi Bác qua đời. Trong đơn có ghi : “chúng tôi là người tị nạn Việt Nam thấy cá nhân ông không xứng đáng. Vì chính quyền kế tục sự nghiệp của ông là cực kỳ thối nát, làm cho dân chúng tôi ở không yên phải ra đi. Đề nghị Đại hội đồng xét lại. Nếu xét thì xét ông Nguyễn Ái Quốc, đừng xét ông Hồ Chí Minh”. Đáng thương cho Bác Hồ là chỗ đó, đến ngày giỗ mình, thế giới đang chọn mình thì con cháu mình lại đi kiện. Có 79 chữ ký không có gì là đại học, không có ai là nhà khoa học, không có ai đại diện tiêu biểu gì. Nếu có nhà khoa học thì có vấn đề. Người ta photocopi gửi về cho viện bảo tàng Hồ Chí Minh và uỷ ban UNESCO của Việt Nam. Xét ông Nêru thuận lợi hơn Bác Hồ, vì Ấn Độ là một nước lớn, trung lập, ổn định về kinh tế, xét ông Nêru ở mức cao “nhà quán quân của phong trào giải phóng dân tộc”. Nhưng không phải là người tiêu biểu số 1 của phong trào giải phóng dân tộc. Xét ông Nêru trong vòng 45 phút là xong. Bác Hồ phải xét trong 7 tiếng. Vì xét ở mức cao hơn, và là danh nhân văn hoá, tiêu biểu cho nền văn hoá nhân dân, không phảỉ văn hoá nghệ thuật. Người không tha hoá về vật chất, không mang tiếng về đời tư, tiêu biểu cho thế kỉ 21. Thế giới đang đứng trước một thảm hoạ tha hoá về văn minh vật chất, con người đang bị đẩy dần vào việc đòi hỏi sống tiện nghi tối đa, xa dần cuộc sống thiên nhiên, xa dần cuộc sống giữa người với người, không cần sống có đạo lý. Thập kỉ 90, liên hiệp quốc đề ra các nước trên thế giới phải xoá được nạn mù chữ. Liên hợp quốc thấy được Hồ Chí Minh đã đặt ra xoá nạn mù chữ đầu tiên vào năm 1945, trong lúc đó Liên hợp quốc và Liên Xô chưa có chủ trương. Đây là một nguyên thủ của nước nhỏ, có tầm nhìn dự báo chiến lược, đã thấy được, còn dân đói, dân dốt thì nguy cơ mất nước còn bị đe doạ. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề ra tết trồng cây cách đây 30 năm để bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái. Liên hợp quốc thấy được Hồ Chí Minh là nhà văn hoá ở chỗ đó. Vấn đề nữa là thế giới ngày nay là thế giới đối thoại. Đây không phải là sự sáng tạo của các nguyên thủ quốc gia ngày hôm nay, đối thoại chính là Hồ Chí Minh có từ năm 1945. Khi giành được chính quyền Hồ Chí Minh cố tránh cuộc chiến tranh Pháp – Việt, mà phải thoả thuận với Tưởng. Tuần lễ vàng năm 1945 của ta thu được 3 tạ 75 kg, riêng đúc một người vàng nặng 54 kg và gả một cô gái còn trinh tiết cho tướng Di Ô Văng (1 trong 3 tướng lúc đó) chưa kể đút lót cho các tướng khác. Để nó rút quân Tưởng, vì Tưởng có 20 vạn quân trên đất Bắc. Nhưng tìm con gái ai bây giờ? Lúc đó có một cô gái của một chiến sĩ cách mạng người Thái Bình xung phong. Trước khi làm lễ đính hôn, nó cử bác sĩ đến khám có còn trinh tiết hay không? Những năm tháng đó, Bác Hồ của chúng ta phải chịu một khổ nhục kế, để tránh hiểm hoạ cho nhân dân. Khi Tưởng rút, Bác sang Pháp 4 Tháng để đối thoại từ 30-5 đến 20-10-1945 thì về đến Hải Phòng, Liên hợp quốc cho Bác là người đề ra đầu tiên đối thoại và tiến hành đối thoại. Liên hợp quốc còn xét Bác Hồ về mặt đạo đức, 24 năm Bác Hồ làm nguyên thủ quốc gia không tha hoá. Tất cả tổng thống, thủ tướng TBCN, kể cả XHCN, sau một nhiệm kỳ, ngành toà án lại truy tố vụ này, vụ kia. Hồ Chí Minh là nhân cách của người cầm quyền kiểu mới. Khi người nằm xuống ngoài nhà sàn, không có một gì khác cho riêng mình. Hồ Chí Minh là người cộng sản, học thuyết Mác là phương tiện, còn mục đích là dân phải được no ấm nhà nước phải được độc lập. Dân tộc ta phảỉ được bình đẳng với các dân tộc khác. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (3-2-1930) là cương lĩnh cộng sản nhân đạo. Hồ Chí Minh là người hội tụ cả đông- tây về thuật học, nho học… Khi chưa có chính quyền, người sống với dân, yêu dân, mến dân. Khi có chính quyền, người quay lại phục vụ nhân dân. Đề cương kỷ niệm Hồ Chí Minh của các quốc gia là 84 trang, còn ở ta chuẩn bị 25 trang, ta là nước đề nghị muộn nhất kỷ niệm Bác. Tôi có hỏi uỷ ban UNESCO của Việt nam, các đ/c trả lời ta đề nghị muộn, vì ta ngại sợ không được. Tôi thấy ngại vì đánh giá Bác không đúng, nhất là khi thấy các nước Đông Âu đổ vỡ và CNXH, CNCS sẽ bị phá sản. Bác Hồ là người thứ 21 là danh nhân văn hoá thế giới, riêng Bác Hồ còn có cái thứ hai là anh hùng giải phóng dân tộc. Họ ghi là “Bác Hồ là danh nhân văn hoá kiệt xuất thế giới và là anh hùng dân tộc”, còn ta thì ghi ” Bác Hồ là anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hoá lớn”. Pari là thủ đô của nước bại trận đối với ta, nhưng họ công bằng với mình. Tôi nghiên cứu vấn đề này thấy uy tín của Bác Hồ đối với thế giới rất lớn trước khi nước Pháp kỉ niệm 200 năm ngày thành lập, Pháp lập 1 bảo tàng Môngtơroi để kỉ niệm và lưu giữ những gì có liên quan đến cách mạng Pháp, trong bảo tàng dành một khu kỷ niệm về Bác. Một nhà điện ảnh Liên Xô là Raxinôp, khi gặp tôi nói: “Được giao nhiệm vụ hợp tác với Việt nam làm bộ phim kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác, kịch bản của Trần Kim Thành đã gửi sang, qua kịch bản này, chỉ Hồ Chí Minh chính trị, chưa phải Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá của thời đại. Hiện nay (1989) những gương mặt tiêu biểu đang sụp đổ, còn gương mặt Hồ Chí Minh diện mạo thật sự, tiêu biểu chính cho thời đại, mà dựng cuốn phim chính trị chay, thì không thể giải thích cho thế giới nào là một danh nhân văn hoá, 45 nước đã đăng kí mua phim, nếu làm theo kịch bản của Việt nam thì vẫn là phim thời sự, tài liệu, không ra diện mạo Việt nam. Khi gặp các đồng chí được gần Bác Hồ như đồng chí Vũ Kỳ để tìm hiểu thì vẫn thấy Bác chỉ là nhà chính trị. Do đó không thể làm được phim, làm phim cho ra phim, không được thì thôi”. Về hội thảo khoa học quốc tế về Bác tại Ba Đình, bao gồm các đại biểu đại diện cho tổ chức, hoặc cá nhân. Mỹ có 3 đoàn. Mỗi đại biểu khám phá Bác Hồ một khía cạnh riêng. Công bằng mà nói, họ hiểu Bác hơn các nhà khoa học Việt Nam, không phải ta thấp hơn họ về trình độ, hoặc không yêu mến Bác Hồ bằng họ. Vì điều kiện làm việc của chúng ta, các nước họ tài trợ một khoản tiền để đi ra nước ngoài sưu tập những tư liệu về Bác. Còn ta thì thông qua báo chí, và tìm tư liệu trong nước hoặc có dịp đi công tác nước ngoài thì kết hợp sưu tầm. Chỉ có anh Hồng Hà (Văn phòng Trung ương) trước đây anh có điều kiện hơn, khi đi dự hội nghị Pari về Việt Nam, anh ở Pari mấy năm, lúc đó anh được giao thêm nhiệm vụ khai thác tư liệu về Bác, anh Hồng Hà là người duy nhất được đi nghiên cứu Bác Hồ bằng tư liệu gốc trên đất Pháp. Còn các nhà khoa học của ta đi ít lắm. Ba đại biểu Mỹ vào dự hội thảo nêu mấy vấn đề. Một người Mỹ tên là Mide Holen nói: ” Hồ Chí Minh là ai? Tôi là nhà khoa học Mỹ, tuy là Hạ nghị sĩ, nhưng không đại diện cho ai, mà đại diện cho tiếng nói của lương tâm. Xin trả lời: Hồ Chí Minh là sản phẩm của những nghịch lý. Xin dẫn chứng một nhân chứng, nguyên thiếu tá tình báo Pát-ti ở Côn Minh, Bác Hồ gặp năm 1944, sau đó Bác đón về ở Tân Trào, khi cướp chính quyền, Bác tiếp ông ta ở 48 Hàng Ngang, Hà Nội (1945). Từ đó giữa Bác và ông ta có mối liên lạc, và tìm ra con đường tranh thủ sự đồng tình của Mỹ lúc đó. Bác quý ông ta, ông ta cũng quý Bác. Bây giờ ông ta là đại tá, bạn cố tri của Bác. Đây, là nhân chứng lịch sử của mối quan hệ giữa Bác (đại diện cho Việt Nam) và Pát-ti (đại diện cho Mỹ) để nói lên sự nghịch lí. Bà ta còn nói cách đây 45 năm, tại đây cả thế giới thuộc địa nằm trong đêm dài nô lệ, chưa có nước nào dành được độc lập. Việt nam là nước đương đầu với một nước có nhiều thuộc địa. Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập có trích hai bản tuyên ngôn của Mỹ (1776) và Pháp (1789). Cuộc cánh mạng Việt nam kế tục từ cuộc cách mạng năm 1776, năm 1789, cho đến cuộc cách mạng tháng 10-1917 và đến cách mạng tháng 8-1945. Nhưng xu thế thực dân lúc đó chưa thể chấp nhận đựơc tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho nên nghịch lý là Hồ Chí Minh nêu ra không một quốc gia nào ủng hộ. Nhưng bây giờ một nước tuyên bố độc lập, có hàng chục nước ủng hộ ngay. Khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, lúc này không có các nước thế giới thứ ba, chỉ có Liên Xô, một số nước XHCN Đông Âu và phe TBCN, cả hai không công nhận chính quyền Hồ Chí Minh thì ông là nghịch lý của lịch sử. Chính Pát-ti về nói với tổng thống Truman là Hồ Chí Minh là một người cộng sản và là một nhà yêu nước vĩ đại, có uy tín tuyệt đối, là một vĩ nhân. Đề nghị nước Mỹ nên công nhận. Ông Truman nói rằng là cộng sản thì không bao giờ hợp tác với nhau được. Truman có tư tưởng đi với Phương Tây để chống lại phong trào độc lập, không công nhận Hồ Chí Minh nên Hồ Chí Minh trở thành nghịch lý. Còn Liên Xô nói Hồ Chí Minh là cộng sản nhưng là dân tộc, cả quốc tế cộng sản nghi ngờ Hồ Chí Minh là con người mượn CNCS để xây dựng độc lập dân tộc của mình. Cho nên chưa tin tưởng Hồ Chí Minh là người bạn thật trung thành. Cho nên Liên Xô không công nhận, các nước Đông Âu cũng không công nhận, cho nên Hồ Chí Minh là người nghịch lý. Ngày nay, chúng ta nói bi kịch Hồ Chí Minh, là con người nêu lên được tư tưởng đúng mà lịch sử lúc đó không công nhận cho nên Hồ Chí Minh phải chiến đấu thêm 5 năm nữa, đến năm 1950 các nước XHCN mới công nhận về mặt ngoại giao. Bà ta còn nêu có một nước công nhận Việt nam sớm nhất (1945) nhưng lại là xét lại, đó là Nam Tư. Nhưng Hồ Chí Minh không dám tuyên bố, vì tuyên bố lúc đó thì cả Đông Âu đi theo khuynh hướng này thì không thể thừa nhận Việt nam. Đến năm 1949 cách mạng Trung Quốc thành công, năm 1950 ta mở chiến dịch biên giới, lúc bấy giờ các nước Đông Âu và Trung Quốc thừa nhận. Đi tiếp 5 năm nữa, có thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, thì Angiêri đứng dậy đi tiếp con đường cầm súng của Việt nam, bấy giờ Hồ Chí Minh không còn là nghịch lý nữa, mà là dòng thế giới [thứ] ba. Việt nam khai sinh ra dòng thác thứ ba. Bà ta còn nói, Hồ Chí Minh là người có những tư tưởng đúng, của những thời điểm lịch sử sai. Thể hiện ở tư tưởng độc lập dân tộc, trong bối cảnh năm 1945 lịch sử chưa thừa nhận. Độc lập dân tộc chỉ là khát vọng. Ấn Độ chưa có, Trung Quốc chưa có độc lập. Thời điểm sai ở chỗ tư tưởng Hồ Chí Minh đặt ra sớm như bình dân học vụ. Bây giờ UNESCO đặt ra sự tài trợ, khuyến khích tổ chức dạy học. Tư tưởng đúng, nhưng các nước chưa ủng hộ. Thời điểm lịch sử sai, bây giờ thì đúng. Việc trồng cây Hồ Chí Minh đặt ra cách đây 30 năm, nhưng ngày nay UNESCO mới đặt ra chương trình bảo vệ cân bằng sinh thái. Năm 1930, Hồ Chí Minh thành lập đảng cộng sản Viện Nam là tư tưởng đúng, nhưng thời điểm sai là quốc tế cộng sản không công nhận, bắt đổi tên là đảng cộng sản Đông Dương. Hồ Chí Minh Minh gửi thư cho quốc tế cộng sản và giải thích lại việc liên lạc giữa 3 nước trên bán đảo Đông Dương chung một kẻ thù là Pháp. Nhưng sự phát triển của 3 nước không đồng đều, Việt nam là nước đông dân, có lực lượng công nhân, có đảng trực tiếp chiến đấu chống Pháp, đó là điều kiện lịch sử của Việt nam. Nước Lào, Miên chưa có điều kiện để thành lập Đảng của mình, việc lấy tên Đảng cộng sản Đông Dương là lấy nước lớn đặt lên hai nước nhỏ là không đúng. Vì vậy chỉ đặt là đảng cộng sản Vịêt nam, đảng cộng sản Việt nam hoạt dộng trong phạm vi quốc gia của Việt nam. Khi nào các nước Đông Đông Dương phát triển thành đảng, thì đảng cộng sản Việt nam đoàn kết với các đảng trên bán đảo Đông Dương cùng nhau chiến đấu chống kẻ thù chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh lúc đó là đúng, nhưng sai ở chỗ lúc bấy giờ người ta muốn áp đặt nứớc lớn lên nước nhỏ. Vì vậy Hồ Chí Minh đưa ra cương lĩnh của Đảng ngày 3-2-1930, thì hội nghị trung ương tháng 10 tại Hương Cảng ra quyết định phủ định cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh ngày nay) đặt lại tên là Đảng cộng sản Đông Dương. Thời điểm sai, nhưng tư tưởng đúng là tư tưởng dân tộc, tôn trọng quyền các dân tộc. Đến hôm nay ở các nước, dân tộc này chống dân tộc kia cũng là vấn đề dân tộc.Vấn đề này người nước ngoài nhìn sâu, các nhà khoa học Việt nam thấy rằng lâu nay mình nghiên cứu Bác Hồ vẫn là nhìn ở phần ngọn, còn cái gốc chưa đi sâu. Một người Mỹ khác là Ytenson lên nói: “xin phép cho tôi được mặc chiếc áo dài của người mẹ Việt nam. Người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại, chống ngoại xâm để bảo vệ tổ quốc mình, và ngày nay chỉ có một bà mẹ đẻ ra thiên tài Hồ Chí Minh, mặc tà áo này, hôm nay tôi mặc tà áo này, không phải mượn cái sang của Việt nam cho mình, mà đây là ngưỡng mộ một sắc phục dân tộc, chưa có một sắc phục phụ nữ nào trên thế giới lại đẹp, có văn hoá về bề dày truyền thống, mà thanh lịch như áo dài Việt nam này”. Bà ta còn nói đi từ Mỹ sang Thái Lan, rồi vào thành phố Hồ Chí Minh thấy ngỡ ngàng, thấy nữ sinh trong trường đi ra, mặc tà áo dài, nghiêng cái nón đẹp, tôi ngẩn ngơ người ra. Trong khi đó lại thấy nhiều chị em mặc những bộ đồ mà người phụ nữ Mỹ ném đi từ thập kỉ 60, sang thập kỷ 70 không dám mặc, xấu hổ. Nhưng bộ đồ đó lại thấy hiện ra ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Bà ta tự an ủi mình rằng: vì đây là thành phố mới được giải phóng 15 năm, trải qua mấy chục năm chiến tranh, ăn mặc như thế nào cũng dễ hiểu. Khi ra Hà Nội , hiểu rõ được bề dày của nền văn minh sông Hồng, nhưng lại thấy đại lộn xộn. Tà áo dài thấy ít hơn ở thành phố Hồ Chí Minh, họ mặc những bộ đồ giống như ở Băng – Cốc, Philippin. Khi nói về chủ tịch Hồ Chí Minh, bà ta chỉ nói một điểm: Hồ Chí Minh là người mà tôi giành nhiều thời gian nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của tôi để tìm hiểu, tôi là tuổi con cháu của Bác Hồ. Cho phép tôi được ca ngợi lời ca muộn mằn của một người hậu thế. Không phải tôi ca ngợi Hồ Chí Minh về Việt Nam chiến thắng đế quốc bên ngoài. Tôi ca ngợi Hồ Chí Minh trong tình hình mà Việt nam mất uy tín quốc tế. Trên thế giới người ta nói Việt nam là vương quốc chuột nhắt, tức là đi ăn cắp vặt không có nước nào nhiều như vậy. Bà tự bỏ 10.000 đô la đi từ Mỹ sang Pháp để tìm một văn bản gốc về chủ tịch Hồ Chí Minh, bà sang cả Liên Xô nghiên cứu, bà còn đến New York, đến đảo lửa vùng đông bắc của Mỹ, mà Hồ Chí Minh đi tàu xuyên đại dương đến đó. Bà ta còn kể lại câu chuyện là phải tìm cho ra lai lịch văn hoá của Hồ Chí Minh, mà ngày nay người ta thừa nhận là danh nhân văn hoá. Bà nói: Lâu nay Việt nam mới cung cấp cho chúng tôi lai lịch chính trị Hồ Chí Minh. Bà ta xin lỗi khi nói một điều là: Không hiểu tại sao Việt nam tuyên truyền Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nghèo, đã nghèo làm sao học được. Đây cũng là nghịch lý như bà Mile Hơlen đã nói. Ngoài ra còn tuyên truyền Bác là phu khuân vác nhà Rồng, bồi bàn dưới tầu, bồi bếp ở khách sạn Luôn Đôn, là anh nhiếp ảnh…toàn chê Bác, không thấy trí tuệ của Bác ở chỗ nào. Cho nên, khi nói danh nhân văn hoá người ta ngỡ ngàng. Bà nói: Cái này chúng ta có lỗi trong việc tuyên truyền méo mó về vĩ nhân, mà do đầu óc thành phần chủ nghĩa mà hạ thấp tầm vóc của vĩ nhân. Chừng nào hạ thấp vĩ nhân về mặt trí tuệ, thì chừng đó chính sách còn rất coi nhẹ và khinh miệt về chất xám. Một quốc gia coi thường chất xám thì sụp đổ. Cho nên tiếng nói của bà hôm đó là tiếng chuông cảnh tỉnh. Như vậy người ta nhìn Bác Hồ về nhiều chiều, tìm trí tuệ con người làm nên sự nghiệp hàng đầu ở thế kỉ 20 này. Ta lâu nay bị cái cụ thể, bị cái thực dụng đẩy vào cái cụ thể, người ta quên mất đi. Hai là sợ nói đến tri thức của Bác thì ảnh hưởng, cho là thành phần lớp trên. Cái đó là sự phiến diện trong nghiên cứu vĩ nhân. Nhưng qua nghiên cứu, bà ta thấy rằng việc Bác chọn việc bồi bàn trên tàu là để có được điều kiện đi được nhiều nước, chọn khách sạn là nơi có điều kiện tiếp xúc với nhiều chính khánh. Lâu nay, chúng ta lại coi đó là Bác làm nghề kiếm sống. Không thấy Bác Hồ mượn nơi đó là nơi hội tụ của chính khách thế giới hoặc để làm phương tiện đi xa. Qua nghiên cứu, bà còn phát hiện thấy: Nguyễn Ái Quốc chơi rất thân với các nhà đại văn hào danh tiếng trên thế giới như hề Sáclô, mà lâu nay Việt nam của các bạn coi nhẹ mặt này. Bà ta kết luận: “tôi xin ca lời ca về người, bởi lẽ tôi đi lại những nơi có dấu chân của người, gặp lại những người đã biết Người, thấy Hồ Chí Minh lúc trẻ là một người rất đẹp trai, cho nên tôi bây giờ là một người con gái vẫn cứ mơ màng. Nếu tôi cùng thời với người, người không chấp nhận thì tôi cũng theo đuổi bằng được. Vì vậy hôm nay tôi ngưỡng mộ Người bằng cả đầu óc khoa học. Đồng thời với cả tấm lòng của một người hậu thế. Khi tôi đã yêu người và tôn vinh người ở một góc độ khoa học, thì tôi thấy quê hương tôi có tượng thần tự do nước Mỹ. Tôi là nhà sử học, đều lập ra những trang ghi của những nhà chính khánh mỗi khi đến tham quan, chiêm ngưỡng thần tượng Tự do, rồi nghi vào cuốn sổ ca ngợi thần Tự do. Nguyễn Ái Quốc cũng đến New York, đến thần tượng Tự do, cũng ghi vào sổ lưu niệm. Nguyễn Tất Thành cũng khác các nhà chính khách. Bà nói ” trong cuốn sổ đó, chính khách nào cũng chiêm ngưỡng ngôi sao toả sáng trên vương miện thần Tự do, cho đó là ánh sáng tự do, ca ngợi hết lời, duy nhất Nguyễn Ái Quốc đến tượng thần Tự do và nhìn xuống chân thần Tự do, Người ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do toả sáng trên bầu trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do này thì người da đen bị chà đạp, số phận người phụ nữ đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng, bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc, bao giờ người phụ nữ bình đẳng với người nam giới”. Duy nhất có Nguyễn Ái Quốc nhìn xuống chân tượng thần Tự do, nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang trên tượng thần Tự do. Chính vì thế tôi tìm ra con người này xem nói và làm có tương tế không? Hồ Chí Minh quả thật nói và làm đi đôi. Tôi đã đến nhà của Người. Lục tất cả của riêng Người, Người không có của riêng. Rất làm lạ, chính khách nào lên cầm quyền đều ra sắc lệnh bảo vệ quyền bình đẳng cho phụ nữ, nhưng khi sắc lệnh ký xong thì ban đêm đi nhà thổ. Thậm chí Tổng thống có 3-4 nhân tình. Thành ra người ta nói một đằng làm một nẻo. Duy nhất có Hồ Chí Minh đứng trước thần Tự do ghi điều đó khi mình còn lầm than. Khi mình làm chủ tịch nước và khi Người qua đời trên giường Người vẫn vắng hơi ấm đàn bà”. Bà ta xúc động quá nói: Con người khi lên làm chủ tịch nước 24 năm và đến phút qua đời trên giường không có hơi ấm bạn bè, và con người này khi nói lấy dân làm gốc, vì dân, đọc từ buổi ban đầu văn bản người để lại, cho đến khi giành được chính quyền năm 1945, Người sống quan liêu thế nào? Sống tham ô thế nào? Những bộ mặt cuả ông quan chưa gì vừa lấy được chính quyền hôm nay đã xe ông đi trước, xe bà đi sau. Như vậy, hai cái chống quan liêu, tham nhũng từ thủa ấy, chống sự tha hoá sau giải phóng là những ông quan cách mạng.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 7, 2012 8:56:39 GMT 9
Tháng 3 năm 1946, trong văn bản của người có viết “Người cộng sản biểu hiện trong sự gương mẫu ăn ở, làm việc. Không phải viết hai chữ cộng sản lên trán mà người yêu đâu”, Người viết như vậy để sống ngay thẳng như người mong muốn, không phải người mượn từ hoa mỹ để người sống sa hoa.
Bà lại nói: “Tôi nói như vậy, nhưng tôi lại thấy thế này, đi lục tư liệu của Người, hóa ra Người có nhiều người yêu lắm. Bà Larod theo đuổi Nguyễn Ái Quốc trong những đêm đi họp chi bộ về, hai người đi trên bờ sông Xen và bà phải viết vào tập nhật ký của bà để lại, khi bà qua đời, con còn giữ tập nhật ký của mẹ yêu Nguyễn Ái Quốc thế nào ? Đi bên bờ sông Xen đã gạ gẫm mà Nguyễn Ái Quốc không nản lòng. Như vậy người ta đi tìm kỹ lưỡng như thế, để tìm nhân cách thời đại. Nên người ta nói thêm nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách của thời đại, không phải tự nhiên họ tô vẽ.
Đối với thế giới họ công bằng, họ tìm đến nơi đến chốn. Bà ấy nói và chính khi tôi đến khách sạn Bostơn ở đông bắc nước Mỹ, nơi mà Nguyễn Tất Thành ở đó, làm thợ nặn bánh mỳ gần 1 năm trời và sau này, chính mấy nhà đại văn hào Châu Âu qua Mỹ đều nghỉ ở khách sạn này, khách sạn này người ta ghi lại tất cả những chính khách đến ở. Trong đó có một người con gái tên là Tôlét quốc tịch Mỹ nhưng là người Pháp. Cô này là ca sĩ, tự nhiên yêu Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Tất Thành rất thích hát và xem kịch, nhất là kịch cổ điển. Bà này mô tả và muốn lôi kéo Nguyễn Tất Thành đi vào nghệ thuật. Bác Hồ của chúng ta yêu nghệ thuật và có tâm hồn nghệ thuật . Nhưng Nguyễn Tất Thành đi không phải đi hoạt động chính khách, mà người đi tìm hướng để cứu nước. Bà Tôlét lúc đó rủ đi và đảm bảo hoàn toàn, bà muốn lấy Nguyễn Tất Thành. Sau này bà Tôlét trở thành đại văn hào, Nguyễn Tất Thành nói nếu tôi có văn bằng thì tôi đã thi năm 1904, ở trong nước. Nếu tôi muốn có gia đình thì tôi lấy vợ, vì tôi có một người con gái ở quê nhà, yêu, mà đành phải bỏ lại trên bến cảng để ra đi.
Vừa rồi tạp chí lịch sử quân sự của Viện quân sự, Trung Tướng Hoàng Phương làm Viện trưởng, viết hồi ký về mấy ông Mỹ sang giúp ta, quân đồng Minh ở Cao Bằng, có viết : “Tôi sống bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu tiên khởi nghĩa. Chúng tôi có nói tại sao chủ tịch không lấy vợ? Không lập gia đình? Thì chủ tịch nói khi còn trẻ thì phải đi hoạt động. Khi giành được độc lập thì đã già không dám tính đến chuyện đó. Trước khi đi tôi có yêu một người con gái, người con gái rất yêu tôi. Nhưng mà tôi không thể dừng lại ở chuyện yêu đương nữa và sau này đi nhiều năm mất liên lạc, tôi không biết người con gái đó ở đâu nữa tức là Út Huệ”. Nói như thế để thấy vấn đề Bác Hồ ở lẫn trong cuộc sống của xã hội, tìm ra ở con người đó có những nét giống như mọi người, cũng muốn đầm ấm trong gia đình , muốn khát vọng trong tình yêu, khát vọng con cái, chứ không phải không có khát vọng. nhưng lâu nay ta cứ chê, ta cho đó là cái nhỏ bé của con người. Nhưng chính cái đó lớn.
Các đồng chí biết khi tác phẩm “Búp Sen Xanh” của tôi ra đời, đưa bà Huệ ra thì đánh ngay trên báo nhân dân và 5 tờ trong toàn quốc: Sông Hương, Tạp chí lịch sử, Tạp chí triết học, Báo Sài Gòn phê phán, cho tôi là thoá mạ Bác Hồ. Tại sao đưa Bác Hồ vào lĩnh vực tình yêu: Hoá ra bây giờ chúng ta có tội cả, vì có vợ, có con.
Vừa qua bà Ytensơn khui ra một bà khác yêu Bác, một bà ở Boston, một bà ở Nga và một bà ở Quảng Châu phải đành bỏ lại. Một người đẹp như vậy đi đâu lại không có người yêu. Nhưng phải đành bỏ lại. Nói như vậy để nói lên Bác Hồ của chúng ta đấu tranh gian khổ vô cùng, thắng được cái này là gian khổ lắm, không đơn giản đâu.
Bà ở Quảng Châu coi như gia đình anh em mình. Xin nói cho các anh, các chị biết : Ngày 19-9 vừa rồi chủ tịch [?] Phạm Văn Đồng có mời tôi lên, biết là bà người Mỹ này cũng tìm ra một bà ở Quảng Châu yêu Nguyễn Ái Quốc như thế nào. Mà đến khi cụ Đồng cũng đã gặp cuộc sống giữa Nguyễn Ái Quốc với cô này. Khi anh Đồng sang học trường Thanh niên cách mạng đồng chí hội tại số nhà 13 đường Văn Minh, Quảng Châu. Cụ Đồng có đưa cho tôi một tập bản thảo mới viết tay xong “Hồ Chí Minh quá khứ, hiện tại, tương lai” đây là một công trình lớn, đọc xong giống như thể loại “Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại”.Trong cuốn này có chương “về đời sống riêng” của Bác Hồ. Cụ công bố: năm 1927, cụ sang học bên Quảng Châu thấy Bác Hồ lúc đó là Nguyễn Ái Quốc có một gia đình riêng, có một người vợ sống êm ấm. Nhưng có lẽ sau này do hoạt động Bác đi nhiều nơi và sự xa cách đó, gia đình đó đã tan nát hay là không liên hệ được. Tôi viết thơ cho cụ nói đáng lẽ Bác nhờ tôi đọc bản thảo thì tôi góp ý kiến ngay. Nhưng có những vấn đề tôi cần gặp để nói riêng với Bác.
Ngày 19-9 bác mời tôi lên, lần này tôi đưa cả nhà tôi lên để có nhân chứng lịch sử. Tôi đề nghị lần này gặp bác xin được chụp ảnh, cụ đồng ý. Khi lên gặp, tôi nói thật với cụ, nói như thế để được gần bác, nhưng không phải tất cả cái gần nào cũng hiểu biết, việc đó lại khác, hiểu việc đó lại khác. Biết là biết sự việc, nhưng đằng sau sự việc đó là cái gì. Được nói chuyện với cụ gần hai tiếng đồng hồ. Tôi nói bác tháng 3 sang năm tròn 85 tuổi, tuổi tây, nếu tính tuổi ta thì năm nay là 84, cháu năm nay mới 63, bước sang 64. Tôi nói: Cháu nói thật với Bác, đọc bản thảo của Bác, có những vấn đề hôm nay phải nói thật với tấm lòng của người nghiên cứu Bác Hồ. Bác là người học trò trung thành và xuất sắc. Bây giờ nhiều người mạo một ai là học trò xuất sắc của Bác Hồ, người ta làm bao nhiêu chuyện đổ vỡ thế này mà cứ nói là học trò xuất sắc của Bác Hồ, không phải. Bác là người học trò xuất sắc thật. Vì vậy cháu không giấu, có hai vấn đề cháu nắm chưa chắc trong tác phẩm này. Một là lai lịch văn hoá Bác Hồ chưa rõ, mới có lai lịch chính trị. Hai là đời riêng của Bác Hồ mà Bác miêu tả, nếu Bác công bố vấn đề này ra thì gây một xúc động trong dân. Xúc động đó là tại sao lại có chuyện này, chuyện Bác Hồ có vợ ở Trung Quốc mà lâu nay lại nói Bác Hồ không có gì. Cái thật ở đâu? Cái không thật ở đâu? Bác Hồ có gia đình là tuyệt vời, nếu có. Ai cũng muốn cái đó.
Như vậy bà Ytensơn cũng đi tìm thấy Bác Hồ trên đất Pháp cũng có bà, người con gái, cho đến Boston đông bắc nước Mỹ cũng có người con gái yêu. Đến Liên Xô, cũng có bà Liên Xô, đúng bà đó yêu, bà không lấy chồng, khi bà chết toàn bộ gia tài của bà vẫn được chính phủ Liên Xô dưới thời Bregiơnep cất giữ tất cả, bí mật trong đó không ai biết. Năm 1955, tôi đến nhà có gặp bà Liên Xô này, bà đó cũng hé ra vậy thôi. Bà nói là hai người yêu nhau nhưng lấy không dám lấy. Nguyễn Ái Quốc tuyên bố lấy vợ thì phải để lại địa chỉ, phải có con, phải có trách nhiệm làm chồng, và làm cha. Vậy phải neo lại đó, không hoạt động cho sự nghiệp độc lập dân tộc, hai là đã có địa chỉ thì thường lui tới, thế nào đi nữa thì mật thám cũng sẽ phát hiện ra. Cho nên không lấy. Bà đó cũng không lấy ở vậy khi về già. Toàn bộ nhà khi qua đời, thì an ninh quốc gia giữ gìn.
Đến bà Lý Phương Liên ở Quảng Châu là vợ cả của Bác Hồ, lúc này bà này là phiên dịch tiếng Quảng Đông cho Bôrơđin còn Bác Hồ là cục trưởng Phương Nam, thường trực Đông Phương bộ Đảng cộng sản quốc tế đi trong phái bộ của Bôrơđin nhưng đứng danh nghĩa là phiên dịch cho Bôrơđin chính Lý Phương Liên là người phiên dịch cho Bôrơđin, Bác Hồ giấu vai trò lãnh tụ của Phương Nam quốc tế cộng sản. Lúc đó Bác Hồ biết 28 thứ tiếng, sành sỏi nhất là 12 thứ tiếng.
Bác về Quảng Châu và đón người trong nước sang học. Đồng thời lúc đó đang chuẩn bị thành lập Đảng, tiếp xúc với các giới cách mạng trong nước đang hoạt động, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền. Cháu cụ Nguyễn Thượng Hiền hoạt động trong cách mạng, tức tay sai cho Pháp. Mà sau này nó đã phát hiện được. Chính tay này nó báo cho Pháp bắt cụ Phan Bội Châu ở Quảng Châu Trung Quốc: Do đó Nguyễn Ái Quốc về đó đóng vai phiên dịch, nhưng bên trong là lãnh đạo, cho nên cô Lý Phương Liên thư ký của Đông Phương bộ. Cục Phương Nam đóng là vợ của Nguyễn Ái Quốc vợ Lý Thuỵ. Các đồng chí trong nước sang học, trong đó cụ Phạm Văn Đồng. Lúc đó bí mật, không ai dám hỏi. Nhiều anh em sang thấy Nguyễn Ái Quốc ăn ở, đồng chí Lý Thuỵ có gia đình như vậy, và che mắt ở phố Văn Minh, cả hai vợ chồng. Cho nên cụ Đồng cũng tưởng là hai vợ chồng thật. Hôm đó, tôi đưa Bác cả tư liệu, đây là cụ Vương Thúc Oánh, con cụ Vương Thúc Quý (thày học của Bác Hồ), Vương Thúc Oánh lấy con gái Phan Bội Châu là Phan Thị E (Vương Thúc Oánh là một trong người thành lập Việt nam Thanh niên Đồng chí Hội) là Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh…
Vương Thúc Oánh kể lại với cụ Nguyễn Sinh Khiêm tại làng Sen, cụ Oánh ký, cụ Khiêm ký vào đây là chuyện khi ở bên đó nhiều người tưởng rằng Bác Hồ, Nguyễn Ái Quốc có vợ. Ông Khiêm nói: Hôm nay anh nói về cậu Thành của tôi cũng mang tiếng có vợ, thì tôi đây đã tưởng mang tiếng có vợ. Năm tôi ra tù bị quản thúc ở Kim Long (Huế) một gia đình có con dâu, vừa đẻ cháu trai thì chồng chết, cô này ốm nặng, thầy lang chịu không chữa được , bỏ hết. Gia đình có treo giải ai chữa được người con dâu đó thì sẽ hiến cả gia đình, hiến cả cô gái này. Dù người thày lang đó có bao nhiêu vợ, mặc kệ. Tôi đã đến chữa khỏi, và ở nhà ông đó ăn, uống rượu bốn tháng cho nó đã. Thế là người ta tưởng tôi lấy bà đó, thực ra tôi có lấy đâu. Sau này, người ta tưởng tôi cũng có vợ ở đó thực ra tôi có vợ, có con rồi.
Nói như vậy để thấy rằng người nước ngoài nghiên cứu rất kỹ về Bác Hồ của chúng ta như bà Ytensơn đi tất cả những nơi, để tìm hiểu cho ra vấn đề. Còn ta đến nay mới nêu được Bác, vì đi tìm hiểu tận cội nguồn thì rất tốn kém. Cán bộ nghiên cứu khoa học của chúng ta không có điều kiện đi. Tôi có may mắn, có điều kiện hơn, mặt khác tôi không có động cơ mưu lợi gì cả, cho nên người ta tiếp tục đưa tư liệu đến cho tôi.
Vừa rồi cháu của vua Hàm Nghi là ông Tôn Thất Hào, đưa cho tôi tư liệu, có liên quan đến gia đình Bác Hồ, ông Hải Âu đã từng bị Tây giam bên An-giê-ri, ở với vua Hàm Nghi và chôn cất vua Hàm Nghi năm 1903.
Hiện nay nhà cụ Hải Âu ở số 2 Nam Ngư. Cụ đọc tác phẩm “Bông Sen Vàng” của tôi, cụ thấy chi tiết vua Hàm Nghi mang cái áo đẫm máu, khi Tôn Thất Thiệp là người bảo vệ vua đã bị một cái lao vào ngực, khi thằng Ngọc nó vào bắt vua, ông ta vào chém tên Ngọc. Con trai Tôn Thât Thuyết năm đó 16 tuổi đã rút được mũi lao ra thì máu của Tôn Thất Thiệp phun vào áo của vua Hàm Nghi trong đêm 1-11-1888 tại Miền Tây Quảng Bình. Ông ấy đã ôm vua Hàm Nghi, quỳ xuống nói được một câu: Thần nhận tội đã không bảo vệ được Hoàng Thượng. Bấy giờ vua Hàm Nghi mới cúi xuống bế anh đó lên đặt vào giường của mình và lấy áo bào đắp lên, ông mang luôn áo mặc ở trong là áo sồi, đẫm máu Tôn Thất Thiệp.
Ông Hải Âu chôn vua Hàm Nghi năm 1903. Trước khi vua chết trao cho ông cái áo thấm máu, khi đi đày ông mang theo, không thể bỏ cái áo mà người bảo vệ mình, vì mình mà hy sinh. Ông Hải Âu ở số 2 Nam Ngư đã giữ cái áo và thanh gươm và một số kỷ vật nữa của vua Hàm Nghi trao cho, trước khi ông chết, ông này đang giữ ở thành phố Angiêri (Angiêri).
Năm 1946, phái đoàn của Bác Hồ sang, ông Hải Âu được Bác Hồ xin cho về nước, ông có tham gia chiến đấu và tham gia chiến dịch Điên Biên Phủ, ông là hội viên hội sân khấu Việt Nam, năm nay cụ 77 tuổi ta 78 tuổi tây, ông có bà vợ bên đó, nhưng ông nói tránh là có người bạn chí thân. Sau này, mới bết có vợ, có con. Tất cả những kỷ vật đó vẫn để vợ con giữ. Ở bên này cụ có vợ, có con, vừa rồi, cụ hỏi tôi tại sao anh biết chi tiết vua Hàm Nghi thấm máu của Tôn Thất Thiệp trên cái áo? Tôi là hậu thế, nhưng mà cụ Nguyễn Sinh Khiêm ở … ( đoạn này nghe không rõ) … 1895 với cha, hai anh em Bác Hồ được biết tất cả chuyện này kể lại với tôi. Cho nên tôi mới viết vào “Bông Sen Vàng”. Ông ta nói nhờ tôi viết thư đề nghị với cụ Đồng cho sang lại Angiêri, ở bên đó còn giữ cả kịch “Con rồng tre” của Bác Hồ mà vua Hàm Nghi rất thích cuốn này.
Hồi đó Bác viết “Con rồng tre” là đả kẻ địch, cho nên Hàm Nghi đọc tác phẩm này rất tâm đắc là Khải Định không đủ đại diện cho đất Việt nam này, vừa rồi tôi có thông báo cho cụ Đồng, cụ Đồng gặp cụ Hải Âu, để bố trí cho cụ đi thăm Angiêri tìm lại những kỉ vật.
Đi tìm tư liệu Bác Hồ còn rất nhiều năm tháng, phải có nhiều cách, nhiều người ở nhiều địa hạt thời mới tìm ra được. Trong hội thảo, bà Ytensơn đi tìm công phu hơn cả. Bà đến tận nơi, bà có tiền, bà bỏ ra hàng vạn đô la để đi. Bà mới 37 tuổi, bà rất công phu, tìm rất kỹ lưỡng. Bà còn nói vần đề thứ hai là cái bi kịch. Còn bà Milehơnlan mới nói mặt Bác Hồ là nghịch lý và sự ngộ nhận hay là tư tưởng đúng của những thời điểm sai, nói trên những cái mang tính tưởng tượng. Còn bà Yetensơn nói Hồ Chí Minh là bi kịch , cái đó trùng với cụ Đào Phan (em nhà văn hoá Đào Duy Anh) cũng nghiên cứu bi kịch anh hùng ca là Hồ Chí Minh. Nói như vậy để thấy Bác Hồ của chúng ta mang bi kịch thời đại. Ta nói bi kịch ở đây không phải là buồn nhỏ nhặt, nói bi kịch CNXH 70 năm nó là bi kịch thời đại. Mà cái đó này trong quá trình xây dựng CNXH nhất định phải có sai lầm.
Qua nghiên cứu thấy CNXH không thể thất bại, chủ nghĩa cộng sản là mơ ước nhất định phải đi tới. Ngày hôm này nó đổ. Ai chịu trách nhiệm? Lịch sử phải phán xét? Nhưng phải thấy không cải tổ, không đổi mới cũng chết. Nhưng phải thấy đổi mới, cải tổ đánh vào quá khứ, xoá cha ông đi thì không thể được. Tôi thấy tổng kết lịch sử thì lại đánh vào quá khứ. Mà trong quá khứ, có cái đúng, cái sai. Ai lại biến Stalin cũng như Hitler. Thảm hoạ năm 1945, nếu không có Liên Xô thì làm sao cứu được nhân loại.
Như vậy người ta biến Stalin như Hitler. Người Liên Xô viết như thế thì chết. Nó ảnh hưởng sang ta cũng thế. Người ta đào quá khứ, chửi cả Quang Trung, người anh húng đánh 20 vạn quân Thanh. Đụng đến biểu tượng đó là đánh vào niềm tin của cả dân tộc, là không được. Hay là để đến Nguyễn Du là còn lai của một nền nho học, không được. Một con người vĩ đại đến đâu cũng có mặt khuyết trong quá trình chiến đấu.
Phải nhìn ông cha công bằng. Xét cha ông mà lấy cái hôm nay làm chuẩn thì không hiểu được cha ông. Vậy bi kịch Hồ Chí Minh là ở chỗ nào? Cũng do tầm nhận thức của những người gần gũi Bác Hồ, học trò Bác Hồ khoảng cách xa quá. Nói bi kịch là nói trên nghĩa đó tức là Bác Hồ vĩ đại, lớn, lớn đến mức vượt ra ngoài tầm tổng Bí thư đầu tiên, cho đến tổng bí thư ngày hôm nay là khoảng cách xa quá. Mà nước ta có vị trí đứng đầu Đông Nam Á. Nước nhỏ, đứng đối mặt với Tây Á, có vị trí chiến lược. Vì vậy, giờ đây người ta mới ngộ nhận tại nước ta, ông cha mình có Bác Hồ đánh lâu dài quá, nên thua chị kém em, thua các con rồng Châu Á.
Khi bà Ytensơn đến nói có con rồng vàng Nam Triều Tiên, có con rồng xanh của Việt Nam, có con rồng Băng Cốc là nhờ có Việt Nam. Vì năm 1953, quân Mỹ sang đánh Việt Nam, Mỹ không thể chở hàng chiến tranh từ Mỹ sang được, phải đặt hàng ở các nước này. Vì vậy các nước xung quanh đều làm hàng chiến tranh tâm lý, mà phát triển trong mấy năm qua, không phải bỗng dưng họ trở thành con rồng vàng, rồng xanh.
Các nước đều tham gia chiến tranh Việt Nam, những dàn pháo Tân Tây Lan, hai sư đoàn của Nam Triều Tiên chốt ở nam trung bộ đánh ra đến Bình Định, đánh vào đến Biên Hoà. Đất nước chúng ta chịu đau, với thế lực đế quốc chưa chịu nhả thuộc địa thì ta lại phải đương đầu. Bác Hồ chúng ta đi hàng đầu trong giải phóng dân tộc, con cháu phải đứng trụ trên mảnh đất để chiến đấu giữ độc lập. Đến bây giờ các nước phát triển.
Sau chiến tranh, những người kế tục sự nghiệp của Bác sai lầm về đường lối kinh tế, dẫn dắt đất nước chúng ta đi vào ngõ cụt. Đại hội VI đã nhìn ra ngõ cụt đó, nhưng trong đó cũng có những đồng chí cho rằng 15 năm tới, chậm nhất 20 năm phải vượt qua các nước tiên tiến. Trong 5 năm tới tuyệt đại dân có ti vi, tủ lạnh. Có ảo tưởng đó là do chấn thương thần kinh. Sau khi đại thắng mừng quá, mất phương hướng, lúc đó nhìn Bác Hồ cũ kỹ mất rồi, mất lòng tin từ các đồng chí có trách nhiệm.
Thanh niên thấy sự đổ vỡ, thấy ông cha mình 30 năm đi dép cao su, thì bây giờ mình đi tìm cái khác, mình trách thanh niên không nên. Hồi đó có đồng chí trung ương nói Bác Hồ cũ rồi, Bác bị Nho giáo khép kín lại. Bác là anh hùng giải phóng dân tộc tuyệt vời, nhưng Bác không phải là nhà tư tưởng, Bác chỉ có tác phong đạo đức, nhưng người ra không thấy rằng điều lệ hợp tác xã Bác có viết một câu mà người ta không để ý, bỏ đi đó là “việc xây dựng hợp tác xã hết sức tự nguyện, không ép người ta”. Nhưng lâu nay người ta ép dân, Bác Hồ nói tại Nam Định: “Làm kinh tế thì phải khoán, khoán là ích chung và lợi riêng đó mới là kích thích sản xuất”. Ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú nghe được về thực hiện ở Vĩnh Phú thì bị đánh chết ngay. Sau này mới tháo gỡ ra. Nói đến bi kịch của Bác Hồ không phải chỉ có lịch sử, mà bi kịch ngay trên đường lối.
Bài ca do Bác chọn, để hô hào đi đánh giặc. Bây giờ xây dựng CNXH bỏ bài Quốc ca đó, bỏ mười mấy triệu đồng, đi thi chọn bài quốc ca. Nhưng không chọn được bài nào. Bỏ quốc ca là phạm quy, bỏ một niềm tin mặt khác bỏ đại tướng tổng tư lệnh Bác Hồ chọn. Do đó thanh niên nghĩ ngay như ông Võ Nguyên Giáp cũng vứt xó và giao làm Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch thì như mình ăn thua gì?
Vì Võ Nguyên Giáp là một trong hai học trò giỏi. Thời đó ai học giỏi thì được học bổng của Pháp. Đến Đại hội V, có đồng chí đưa ra ý kiến xem lại Võ Nguyên Giáp có ăn học bổng của Tây như vậy có làm gì cho Tây không? Thằng chánh mật thám phải phục khả năng của ông Giáp nên viết thư hỏi thăm ông Đặng Thai Mai. Đây muốn nói bi kịch Bác Hồ, muốn nói bi kịch thời đại sau chiến thắng. Người là lãnh tụ soi sáng đó bị tầm nhìn thấp làm đảo đi. Sau chiến thắng người dân chờ đợi làm lễ tế vong giải oan cho người đã chết. Ta không làm lễ hạ cờ mặt trận hai màu để đưa vào Bảo tàng. Chiến thắng xong rồi xẹp, tất cả cái gì thiêng liêng nhất, trở thành tầm thường nhất thì nguy rồi. Một người tổng tư lệnh, đồng thời tư lệnh các mặt trận biên giới, mặt trận Hà Nam Ninh, đến tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ.
Năm 1954, kỉ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, một số nước Châu Phi cử đoàn sang, thế giới chuẩn bị tổ chức chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong nước tổ chức kỉ niệm, lúc đó có một kẻ nêu mưu đặt ra cho Hội đồng bộ trưởng, giao chức trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch cho ông Giáp, ông Tổng tư lệnh ngày xưa, nay làm Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch giữa lúc kỉ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ thì chết rồi. Anh Giáp không nhận là vô nguyên tắc vô tổ chức, là con người này cũng thích địa vị. Nếu nhận thì cũng rất gay. Người nào mà tức khí thì tức ngực mà chết. Việc sinh đẻ có kế hoạch là việc nhân đạo, nhưng đây không phải là việc dính đến mình, nhưng giao cho anh, giữa lúc kỉ niệm chiến thắng lớn, mà sỉ nhục, mà ức, mà có tthể bị tâm thần, ông Giáp đứng trước cái đó phải nhận. Hàng tháng phải đến báo cáo với Bộ trưởng Bộ y tế tỉnh này sinh đẻ thế nào? Tỉnh kia sinh đẻ thế nào?
Hà nội có câu: Lập nghiệp cây đa Tân Trào, nay sụt nghiệp ở cây đa nhà Bò (nơi sinh đẻ ở quận Hai Bà Trưng) thanh niên Hà Nội lúc đó bàng hoàng. Từ báo ảnh kỉ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ phỏng vấn Đại tướng, đăng ảnh Võ Nguyên Giáp ở đầu góc trang nhất. Hồi đó bộ chính trị bắt duyệt, cái gì dính đến Võ Nguyên Giáp phải đưa ra Bộ chính trị. Đưa sang anh Thọ góp ý, anh …(nghe không rõ) góp ý thế này, đến anh …(nghe không rõ) gạt bỏ ảnh. Hôm tôi nói chuyện với các giáo sư của Bộ giáo dục, học sinh mất lòng tin. Không phải tin từ đây. Tại sao bà Vương Thị Oai mua công trái nhiều nhất Hà Nội được đưa ảnh lên trang một báo nhân dân, tại sao Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh địch giỏi nhất thì lại xoá ảnh: Vậy ai có tiền mua nhiều công trái hơn những bà mẹ có 3 con hy sinh ngoài mặt trận. Lịch sử công bằng ở chỗ nào? Sao lại đổ cho thanh niên. Như vậy bi kịch ở chỗ nào? Nhà khai phá là Hồ Chí Minh lập ra cái gì ban đầu thì hôm nay ta bắt đầu xoá.
Đừng bỏ xong từng ấy (?) bỏ Việt Nam dân chủ cộng hoà, bỏ Đảng lao động thành Đảng cộng sản, bỏ quốc ca, bỏ Tổng tư lệnh xong, chuẩn bị bỏ Thủ đô Hà Nội . Mà thủ đô Hà Nội có cả bề dầy sông Hồng, Bắc bộ này. Hôm nào các anh lên, tôi chìa văn bản chính thức cho xem. Vu cáo là: Nước Việt – nam ta rồi đây sẽ tiến lên CNXH “là trung tâm của Đông Nam Á, thì thủ đô Hà Nội hẹp, do đó phải đưa thủ đô nước Việt Nam vào Tây Nguyên. Sau Đại hội V chuẩn bị đưa vào Đắc Lắc làm trung tâm của Châu Á và cả Đông Dương.
Chúng ta phải nhìn lại, bây giờ đã thấy được rồi. Đảng ta bắt đầu khôi phục lại con đường Bác Hồ. Phải nhìn lại, để thấy chúng ta đi qua một giai đoạn khủng hoảng, mà xem xét lại nhiều vấn đề lịch sử. Khi đã xét lại vấn đề lịch sử thì nó đổ vỡ lòng tin. Cho nên mới sinh ra nhà văn này, nhà văn kia định đánh vào cha ông sau 6 tháng kỉ niệm Quang Trung mới làm xong cái tượng Quang Trung, nứt nẻ rồi. Nước ta nhiều đá hoa cương, nhiều đồng nhưng tượng Quang Trung được làm bằng si măng.
Tháng 2 năm 1984, hội đồng khoa học hàn lâm Hoàng gia Anh chọn được 90 vị tướng để xét danh nhân thế giới. Hội đồng các nhà khoa học này đã mời các nhà khoa học thế giới đến, xét 90 vị tướng này, để lấy 10 vị tướng. Việt Nam được hai người, (một người chết, một người sống). Người chết là Trần Quốc Tuấn Hưng Đạo Vương. Người sống là ông Giáp. Xét danh nhân thế giới ở tầm vóc kháng chiến có ý nghĩa quốc tế. Ông Trần Hưng Đạo đánh 3 lần thắng quân Nguyên, vì quân Nguyên là nguy cơ đối với thế giới. Họ bỏ phiếu 100%. Ông Võ Nguyên Giáp đánh Nhật phát xít, thắng Pháp, thắng Mỹ, Võ Nguyên Giáp cũng 100% số phiếu.
Trong 10 danh tướng từ cổ đại đến hiện đại, các ông chết hết, duy nhất và danh dự cho Việt Nam, một tướng còn sống. Nhưng ta không dám đưa tin. Giới trí thức ra nước ngoài đọc báo thấy được, ta bịt thế nào đựơc. Đưa tin là khích lệ tinh thần dân tộc của mình, người ta thấy hả dạ là tiễn con em mình ra trận làm lính của ông tướng này đã đánh thắng quân xâm lược. Đây là niềm an ủi, xúc phạm đến ông đó là xúc phạm đến vong linh con tôi và xúc phạm đến cả tôi. Vì tôi giao con cho ông tướng đó. Ông tướng đó hôm nay được giao việc cầm quần cho đàn bà là tôi không chịu. Xúc phạm đến cái đó không phải là xúc phạm cá nhân. Người ta dẫn con ra trận 3 lần. Bản thân người ra đi dưới cờ của vị tướng này, sao hôm nay vị tướng đó bị xoá thì nó mất lòng tin vào hiện tại, không phải mất lòng tin đối với người đó.
Chúng ta phải nhìn thấy hết cặn bã trong thời gian qua, để đi đến Đại hội VI. Củng cố lòng tin từ Đại hội VI. Nếu không có Đại hội VI mở ra thì chúng ta đổ. Cho nên phải củng cố lại, đi trở lại con đường mà Bác Hồ đã chọn. Nhưng đã thật hay chưa? Việc anh Giáp vừa rồi, giáo sư Nguyễn Huệ Chi gặp tôi nói ” Làm sao đưa tin về anh Giáp ngày hôm nay chậm thế này” tôi nói là tôi là nhà văn khác, còn anh là giáo sư, không làm rõ thì anh phải chịu trách nhiệm.
Anh Huệ Chi viết một bài nghiên cứu văn học đời nhà Trần, đăng trên tạp chí văn học. Trong đó bàn đến Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo vừa được viện hàn lâm Hoàng Gia Anh bầu là một trong những danh tướng thế giới. Viện Hoàng Gia Anh còn bầu một đồng chí nữa là danh tướng. Sau đó anh Nông Quốc Chấn viết lên báo quân đội một bài thơ ca ngợi anh bộ đội cụ Hồ. Anh bộ đội cụ Hồ đó có một danh tướng trong 10 danh tướng của thế giới. Dưới chú thích danh tướng đó là Võ Nguyên Giáp. Ông nhà thơ dân tộc nói ra như vậy, còn tôi đi nói và chỉ được nói trong nội bộ cơ quan thôi, nếu vì cá nhân mình thì tôi nói cách khác để được lòng người này người kia. Mình nói về lịch sử thì phải nói cho đúng lịch sử. Nhưng nó chạm đến người này, người kia.
Chúng ta theo dõi, đây là công dân, ta lĩnh hội (?). Đây là sự tồn tại của cả dân tộc, cũng là sự tồn tại của ta và con em ta. Phải theo dõi từ nay đến Đại hội VII có thật sự Đảng ta đi theo con đường Bác Hồ hay không? Vì đến nay, cả nhân loại thừa nhận Bác Hồ. Đến bây giờ Bác Hồ có thể có khuyết điểm, có thiếu sót, trong khi làm việc, trong quá trình người thành nhân, thành nghiệp. Trong quá trình này không thể không có thiếu sót khuyết điểm. Nhưng thiếu sót khuyết điểm là cả cuộc đời người chiến đấu cho đại nghĩa. Không phải vì cá nhân, vì hạnh phúc của riêng mình. Chúng ta phải nhìn vĩ nhân bằng thái độ và tình cảm. Từ đó nhìn Đảng ta có thật sự đi theo con đường của Bác hay không? Thể hiện có thực sự trị bọn tham nhũng hôm nay không?
Đánh tham nhũng không chỉ đánh Thân Chung Hiếu. Đây mới là con nhép con, chưa phải đánh đến át chủ bài, karô…vì theo những nguy hiểm vô cùng lấy 10 phá 100. Còn việc con ốm đau, người vi phạm đến đồng tiền thì cũng thông cảm. Có người có hàng trăm, hàng nghìn cây vàng mà lấy của nhà nước, lấy của tập thể hàng tỷ thì phải trị. Có người sắp chết, không đi chữa bệnh ở các nước XHCN mà đi sang Phương Tây. Không phải sang đó tìm danh y đâu. Là sang đó để chuyển khoản quyền sở hữu tiền ngoại quốc của mình cho con, để về nhắm mắt mới yên. Đảng ta có những người thế này trong giới lãnh đạo. Mà dân có mắt, nhìn thấy tất cả.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 7, 2012 8:58:28 GMT 9
Tiep theoLịch sử bây giờ cũng xuyên tạc, mỗi người lớn lên cũng thêm thắt tất cả lịch sử của mình. Là xuyên tạc lịch sử một người, người này qua người kia, thì nó ảnh hưởng đến cấu trúc, đến sự hình thành lịch sử một dân tộc trong từng giai đoạn. Rồi đây do đấu tranh phải sửa. Đồng chí Lê Duẩn lúc sinh thời là thanh niên yêu nước vĩ đại. Người ta đáng kính, khi ở trong Nam chiến đấu cũng đáng kính. Nhưng sau khi giải phóng miền Nam, đám thầy dùi tự nhiên lại mạ ngọc, mạ vàng lên lịch sử không đúng. Đưa ra chuyện sở dĩ có chiến thắng miền Nam là nhờ có nghị quyết 15. Có nghị quyết 15 là do anh Ba Duẩn từ trong Nam ra, triệu tập hội nghị Trung ương chỉ ra đường lối kháng chiến miền Nam lúc đó. Tại sao Bác Hồ còn sống lại nói như thế được? Chúng tôi là những người nghiên cứu không chấp nhận. Nhưng chính thống viết lên thì làm thế nào. Báo Nhân Dân đăng, tạp chí lịch sử đăng, các đồng chí tìm số 4 tháng 4-1990, tạp chí lịch sử Đảng đăng rõ tác giả nghị quyết 15 là Võ Nguyên Giáp, trong đó diễn giải rõ ràng: Khi đánh thắng Pháp ở Điện Biên Phủ thì bên ngoài phải chuẩn bị hội nghị Giơnevơ. Khi đưa đồng chí Phạm Văn Đồng đi thì thì Bác Hồ triệu tập Trung ương nhận định tình hình. Tình hình như vậy có thể có hiệp định hai miền (một miền được giải phóng, một miền có chiến tranh), hai miền còn khác nhau, cuộc đấu tranh còn gay go. Đây là văn bản về ngoại giao mà đấu tranh về pháp lý. Chúng ta vẫn phải xây dựng thực lực. Giải phóng miền Nam, không thể chờ đợi văn bản này, sau đó Đảng cộng sản Trung Quốc mời Đảng ta sang. Bác Hồ đi với đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Văn Quang (phó tổng tham mưu trưởng, cục trưởng cục tác chiến) sang gặp Chu Ân Lai. Chu Ân Lai muốn ép Đảng ta: Miền Nam là việc của miền Nam, chổi cán ngắn không tốt, không làm được. Miền Bắc cứ làm ở miền Bắc, đừng có chi viện cho miền Nam. Khi nào có điều kiện thì làm miền Nam, đừng có xây dựng lực lượng. Bác Hồ không tán Thành, trên đường về với Bác, anh Giáp suy nghĩ phải chuẩn bị lực lượng đối phó với tình hình miền Nam không đơn giản. Khi về đến nhà, báo cáo tình hình với Trung ương, Trung ương lúc đó ít, chất lượng. Trung ương ta bây giờ đông lắm, nhiều ông lèm nhèm lắm. Không phải tiêu biểu trí tuệ, có ông tiêu biểu, có ông không tiêu biểu. Phải nói sòng phẳng như vậy. Bác họp Trung ương lại nhận định, lúc đó đồng chí Lê Duẩn mới ở trong Nam ra. Trong tạp chí ghi rõ: Thường vụ Trung ương tức Bộ chính trị, giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp đi xuống Đồ Sơn khởi thảo ra nghị quyết 15. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được lấy hai người để chuẩn bị văn bản đó là Hoàng Tùng và Trần Quang Huy. Các anh xuống Đồ Sơn 15 ngày viết và trở về trao cho Bác. Bác đọc xong và triệu tập Bộ chính trị, anh Trường Chinh, anh Lê Duẩn góp một số ý kiến. Sau đó đưa ra Trung ương thành nghị quyết 15. Vậy tác giả của nghị quyết 15 là Võ Nguyên Giáp. Nhưng lâu nay hiểu nghị quyết 15 của anh Ba. Không có cái này anh Ba vẫn là anh Ba, thêm cái đó không phải là lịch sử. Tự nhiên làm cho con cháu hôm nay, nghi ngờ chuyện khác. Nguy hiểm ở chỗ không trung thực 1 điểm, làm cho người ta nghi ngờ nhiều chuyện khác. Sau khi công bố di chúc của Bác lên báo, văn bản của Bác chỉ có chữ chứng kiến, dưới ký Lê Duẩn. Nhưng không đề ngày tháng. Viết lần thứ nhất, ý kiến anh Vũ Kỳ không có nói Bác viết đến đoạn đó có Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đến ký vào văn bản của Bác. Đã gọi là tuyệt đối bí mật, sao lại đưa cho người khác ngay lúc Bác còn sống là thế nào? Để chứng kiến như vậy hoá ra Bác Hồ bị ông Lê Duẩn khống chế bên cạnh, viết đến đâu ông chứng kiến đến đó, thì còn gì là di chúc. Đưa lên báo đã thế rồi, đến tái bản lần thứ 2, ông đó đưa vào, lần thứ nhất không có, lần thứ hai đưa vào chữ “Bác Hồ vừa viết thêm 1 chữ này thì đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn sang và đã ký chứng kiến vào văn bản đó”. Khi in ra, tôi viết thư cho anh Vũ Kỳ nói rằng các anh còn sống, để người ta áp đặt chữ nghĩa lên văn bản thiêng liêng của Bác Hồ, văn bản cuối cùng. Bây giờ các anh không làm rõ vấn đề này thì sau này các anh nhắm mắt, hậu thế sẽ không tha thứ các anh. Thế thì vừa rồi lại in, ông…(nghe không rõ) và viết lên lá thư là “điều anh kiên quyết đấu tranh, thì hôm nay chúng tôi đấu tranh đã thắng”. Tái bản thứ 3 đã bỏ dùng “chứng kiến” đó. Văn bản Di chúc của Bác Hồ như vậy mà người ta còn áp đặt. Trong tay tôi có hai quyển, có ghi cả người viết hồi ký là đồng chí đại tá Ngô Thế Kỷ, viết cho anh Vũ Kỳ, đấu tranh từng bước để trả lại giá trị thật những con đường của Bác Hồ, chứ không thì người ta mượn Bác Hồ, nói Bác Hồ, nhưng bên trong làm việc khác. Bác Hồ thật sự của dân, ai cũng nói dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. Nghe vấn đề này thấy không có nước nào dân chủ bằng nước ta. Không có người nào việc gì dân cũng biết làm, dân bàn, dân kiểm tra. Kiểm tra thế nào được. Bây giờ tôi chỉ mong làm cho đúng pháp luật, không phải cái gì dân cũng phải biết. Có vấn đề tuyệt mật dân mà biết, thì kẻ thù cũng biết thì làm sao được. Vấn đề là anh thay mặt cho dân, làm đúng nguyện vọng của dân. Không phải làm việc gì cũng phải đưa cho dân biết bàn. Việc đại sự quốc gia, đưa ra dân bàn thì bên kia họ biết thì gay. Làm quân sự, bí mật về quân sự, làm kinh tế bí mật về kinh tế. Dân biết ở đây phải hiểu theo nghĩa pháp luật. Làm cái gì để đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho người dân. Pháp luật trị người dân, mở cửa cho anh khác có quyền, có chức tha hồ muốn làm gì thì làm. Chúng ta đang đi vào cuộc đấu tranh, để đi vào cương lĩnh mới. Cương lĩnh Đại hội VII, lấy con đường Bác Hồ làm chuẩn. Anh em tôi thường nói với nhau là cuộc đấu tranh này phải xét lại từ gốc. Tôi viết tiểu thuyết, viết dưới dạng loại hình nghệ thuật cho người đọc, đảm bảo tính sự kiện, tính chân thực của lịch sử, được hư cấu, làm cho phong phú về nhân vật, về vấn đề. Mặt khác giới nghiên cứu có đồng chí đang nghiên cứu vấn đề mà Bác Hồ chúng ta bị xuyên tạc từ năm 1930. Khoảng 1 tháng nữa, tôi gửi văn bản đã in xuống cho các anh, các chị đọc. Để các anh, các chị thấy xuyên tạc Bác Hồ từ tháng 10 -1930. Bác Hồ viết luận cương đầu tiên và điều lệ Đảng hoàn toàn phù hợp với tình hình thế giới ngày nay. Chính vì vậy, thế giới nhìn Bác Hồ từ gốc. Thấy Bác Hồ đi từ gốc đến ngọn nhất quán. Con người hoàn toàn vì dân, vì nước mình. Đấu tranh tôn trọng nước mình, thì cũng tôn trọng nước họ. Con người không có riêng tư, huống hồ có tàn bạo trong cai trị như các nhà chính khách khác khi cầm quyền. Năm cải cách ruộng đất là ngoài ý muốn của Bác. Luận cương đầu tiên, Bác đề ra “Đoàn kết các giai tầng xã hội Việt Nam, chống đế quốc làm cách mạng dân tộc và đi lên cách mạng tư sản dân quyền rồi làm cách mạng thế giới tức XHCN”. Nhưng đến luận cương của đồng chí Trần Phú thì bỏ cái đó. Lúc đó chỉ thị của đệ tam quốc tế cho rằng : Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là mơ hồ, là cải lương. Ban chấp hành Trung ương ta làm văn bản báo cáo đệ tam quốc tế rằng chính Nguyễn Ái Quốc gây ra sự mơ hồ, là cải lương cho các chiến sĩ Đông Dương. Vì đoàn kết với cả địa chủ. Hồi đó luận cương của Bác là đại địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ, nhưng địa chủ nào cũng có tinh thần yêu nước mức độ khác nhau. Vì vậy chúng ta tranh thủ các tiểu địa chủ, trung địa chủ và lôi kéo cả những địa chủ và tư sản yêu nước để chống đế quốc”. Ban chấp hành Trung ương kết tội Nguyễn Ái Quốc là mơ hồ, cải lương. Như vậy Bác Hồ định quan điểm hồi đó không nhận được cái lớn, mà Bác Hồ nhìn cả chiều dài gọi là tầm tư tưởng chiến lược. Suốt cả thời gian như vậy, sau đó Bác Hồ bị giam lỏng ở Matxcơva. Cho nên bác làm luận án tiến sĩ “vấn đề ruộng đất ở Châu Á” ở Viện các vấn đề dân tộc. Bấy giờ mới đưa ra bảo vệ, phong giáo sư cho Bác, nhưng Bác không nhận. Chúng ta nhìn ra điều Bác Hồ là người duy nhất, đầu tiên của dân tộc thuộc địa, đi vào đấu tranh để giải phóng dân tộc, sáng chói trang đệ tam quốc tế, nhưng không bao giờ Bác được bầu vào đệ tam quốc tế. Đại hội V quốc tế cộng sản (1924) cho Bác dự, Đại hội VI (1928) không cho Bác dự, cho rằng có quan điểm dân tộc, không có quan điểm quốc tế. Đến Đại hội VII (1935) cho Bác dự với tư cách là tư vấn, tức là nghe, không được biểu quyết. Trong khi đó đồng chí Lê Hồng Phong vào Uỷ viên chấp hành quốc tế cộng sản. Đến bây giờ thấy Bác hoàn toàn đúng. Ngày càng thấy luận điểm Hồ Chí Minh, từ buổi đầu cho đến hôm nay là đúng. Đảng ta hôm nay khẳng định con đường của Bác là mừng. Còn khẳng định như thế nào, thì chờ quá trình từ nay đến Đại hội VII, và sau Đại hội VII xây dựng đất nước chúng ta như thế nào. Tôi nói đây với tư cách nghiên cứu để các anh, các chị nhìn lại cả chiều dài lịch sử của Bác, của Đảng ta, phát triển trong một tình hình thế giới từ khi có CNXH đến bây giờ. Hiện nay CNXH đang đứng trước thử thách của thời đại là chuyển giai đoạn từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21, có khủng hoảng này, đổ vỡ gì thì đổ vỡ, nhưng CNXH vẫn tồn tại. Một nhà chiêm tinh học tiên đoán thế kỷ 21 người Liên Xô sẽ thắng, người Nga sẽ thắng. Từ nghiên cứu của tôi, hôm nay tôi nói với anh em, để chúng ta vững tin và đấu tranh với những cái gì không phải, để bảo vệ cái đúng và xây dựng miếng đất của mình đang sống, chúc các anh chị mạnh khoẻ. – “Đối lập với báo chí tự do là báo chí bị kiểm duyệt. Báo chí bị kiểm duyệt là “con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa“. Karl Marx “Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo nào cả. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở Châu Âu và các nước Châu Á khác chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập…” – Nguyễn Ái Quốc “Dân chủ là để cho dân mở mồm ra nói. Dân chủ là đừng bịt miệng dân”. – Hồ Chí Minh ”Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước“. – Nguyễn Tấn Dũng * Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước, bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 13, 2012 4:19:56 GMT 9
Trường Lam – Bác Hồ của chúng ta
Nguồn: talawas
24.03.2010
Lời tác giả: Trước khi cầm bút viết về Bác Hồ, tôi xin nói đôi chút về mình và vì sao mà tôi viết: Sinh ra trong một gia đình có nghiệp nho gia nhưng bố tôi mất sớm. Năm ấy mẹ mới 24 tuổi, tôi lên 4. Mẹ ở vậy nuôi tôi và em trai (ra đời sau cha mất 16 ngày). Hôm nay tôi đã là người “cổ lai hy” và mẹ tôi tròn 90 tuổi…
Chi họ nhà tôi có thể coi là chi có truyền thống học hành. Định cư ở Thanh Khê (Thanh Chương, Nghệ An) từ nửa cuối thời Hậu Lê, đến triều Nguyễn mới chỉ có vài chục gia đình nhưng đã có 5 ông cử nhân, khá nhiều tú tài… Trước đó, có cụ không qua thi cử vẫn được vua mời ra làm quan đến hàng tứ phẩm hoặc được phong tước Hầu…
Ngày bé tôi ốm yếu, chỉ thích luẩn quẩn nghe mọi người nói chuyện đông tây, kim cổ. Đặc biệt là nghe chú Hồ Sĩ Thanh và bác Hồ Sĩ Huề ngồi dịch gia phả của cụ Hồ Sĩ Tạo soạn bằng chữ Hán ra Quốc ngữ, trò chuyện với nhau. Đầu óc non nớt của tôi không hiểu nhưng tôi nhớ như in. Sau này tôi mới nghiệm ra, nói: “Thủy đáo từ đường, Hồ gia vi vương” hay “Bò đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” là nói chuyện gì. Chuyện cha con ông Phó bảng qua thăm cụ Phủ là nói về những ai… Biết tôi hay hóng chuyện, mẹ dặn: “Nghe là nghe vậy thôi. Biết đâu để đấy kẻo vạ vào thân con nhé!” (Mẹ tôi người họ Phan, một dòng họ khoa bảng ở xã Võ Liệt). Lời mẹ dặn tôi nhớ không quên.
Đến nay, ở cái tuổi “xưa nay hiếm” tôi thấy khó mà giữ được như lời mẹ. Tôi muốn thổ lộ những gì nghe được, biết được, thấy được, đọc được… với mọi người để cùng suy ngẫm về sự đúng sai. Vậy là tôi cầm bút.
*
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh năm 1891 ở làng Chùa, tên chữ là Hoàng Trù. Đó là một làng quê thuần phác Việt Nam. Nhà thờ họ Hoàng ở Hoàng Trù còn lưu đôi câu đối:
Hoàng Vân chính khí truyền thiên cổ Chung Tự hùng thanh chấn ức niên
Có nghĩa là: Chính khí của Hoàng Trù và Vân Hội truyền từ ngàn xưa. Tiếng vang của Chung Sơn và Tự Thủy động đến ức năm (Hoàng Trù và Vân Hội là 2 làng có đông con cháu họ Hoàng sinh sống. Chung Sơn là ngọn núi có 3 đỉnh, Tự Thủy là đầm nước cạnh làng). Nói về Chung Sơn, danh sĩ Nguyễn Thiếp có câu:
Chung Sơn tam đỉnh hình vương tự Kế thế anh hùng vượng tử tôn
Vậy có thể nói rằng Hoàng Trù là đất thiêng, là “địa linh” ắt sẽ sinh “nhân kiệt”.
Ông Hoàng Đường là một tú tài, song gia đình vẫn gắn chặt với ruộng đồng. Làng Hoàng Trù xưa êm đềm và tĩnh lặng. Sau lũy tre, lũ trẻ theo đòi nghiệp bút nghiên cất giọng ê a. Đường làng quanh co với những bờ tre rì rào gió thổi, những lối nhỏ hai bên mềm mượt cỏ xanh, ngoằn ngoèo bò ra cánh đồng… Những thửa ruộng sâu đầy ắp nước, lúa tốt bời bời, rền rĩ tiếng ếch nhái. Từng đàn cá rô, cá diếc lượn lờ, thỉnh thoảng lại bắt gặp một đầu cá quả nhô lên, đen trĩu, lặng lẽ giương mắt nhìn. Ngày ấy cậu bé Công lăn lê, bò toài bên vệ cỏ, rình chộp những chú cào cào để anh trai và các bạn câu cá rô ron. Tiếng cười reo như pháo ran khi cánh diều ai đó vút bay hay một chú cá được giật lên. Có một lần chú cá tuột xuống, lưỡi câu nhọn sắc của anh Phương móc vào tai bé Công. Lưỡi câu có ngạnh, cả tốp mầy mò mãi mới gỡ được, máu chảy tóe loe khiến bọn nhỏ sợ xanh mang. Anh Khơm vò nát nắm lá phân xanh đắp vào tai cho cầm máu và dỗ em nín lặng kẻo bố mẹ mắng…
Chẳng ai ngờ vết sẹo ở tai lại thành một kỷ niệm tuổi thơ theo Bác đi khắp thế gian. Năm 1945, nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh là cậu Công ngày nào, bà Thanh nhìn ảnh nửa tin nửa ngờ. Năm 1946 bà ra Hà Nội thăm cho rõ thực hư. Bà sờ tai cụ Chủ tịch rồi cười: “Đúng thật rồi! Vết sẹo ngày bé còn đây lạc vào đâu được!”
Ngày 16/6-1957 về thăm quê, bạn già gặp gỡ, Bác sờ tai mình nói với ông Phương: “Cậu giật câu móc vào tai mình, cái sẹo còn đây. Nhớ không?” Và cả hai cùng cười.
Thế đấy! Có những kỷ niệm tuổi thơ mãi mãi đồng hành cùng ta cho đến hết cuộc đời.
Làng Hoàng Trù thơ mộng và thanh bình xưa còn không? Đâu những con đường xóm nhỏ mến yêu? Đâu gốc đa cổ thụ trước cổng nhà rì rào gió thổi và xanh ngời bóng lá? Gốc đa đó ngày xưa Bác từng bám lấy những rễ dài, đu mình vào không gian hoặc chơi trò trốn tìm quanh những hốc mấu xù xì. Ôi! Đời người và tuổi thơ êm đềm đâu phải ai cũng may mắn có được?…
Hoàng Trù xưa đầm ấm và thơ mộng nay đang dần biến mất. Đáng lẽ phải bảo tồn nguyên dáng vẻ xưa (như xây chợ Đồng Xuân hiện đại mà vẫn giữ nguyên vẻ mặt bên ngoài). Ở đây, người ta biến cổng nhà ngoại của Bác thành một cái chợ cùng những công trình bê tông che lấy tất cả.
Bảo tồn đâu chả thấy, chỉ thấy mất đi. Thật đáng buồn!
*
Vậy là Bác Hồ “chôn nhau, cắt rốn” ở làng Chùa chứ không phải ở làng Sen như lâu nay một số người ngộ nhận. Lớn lên cũng vậy! Vẫn gắn bó với làng Chùa.
Biết bao nhiêu lời thơ, câu hát, đoạn văn đã ca ngợi làng Sen, quê hương Bác Hồ? Làm vậy khiến tôi lại nhớ ngày cụ Phó bảng vinh qui, hai làng suýt chém nhau để giành quyền đón rước (ông Phó bảng đâu thiết tha gì với làng Sen?). Bọn chức sắc tổng Lâm Thịnh xử cho làng Sen thắng cuộc và buộc làng phải mua cho quan tân khoa một ngôi nhà, cấp ruộng đất để cột chân ông lại…
Trước đây tôi nói gia đình cụ Phó bảng không ở làng Sen là vậy. Một nho sĩ là gà trống nuôi con, cái gì chả phải nhờ bên ngoại, ở làm sao được?
Năm 1902 ba cha con sống ở nhà thờ họ Lê (bên chân cầu Rộ thuộc Thanh Chương). Năm 1903 chuyển qua chợ Rộ rồi lại chuyển tiếp vào nhà ông Hàn Kháng (họ Phan). Nhà cụ Hàn nay là vị trí nhà bia tưởng niệm liệt sĩ xã Võ Liệt. Qua năm 1904 ít lâu, bà đồ An ốm nặng, ba cha con phải về chăm nuôi. Bà đồ mất… Thì giờ đâu mà ở làng Sen? Và căn nhà lợp rạ sau ba năm cũng đã dột nát. Đầu 1905 cụ Phó bảng vào Kinh, mang hai con trai đi theo.
Hai lần về thăm quê (lần đầu từ 14 đến 16 tháng 6-1957. Lần hai từ 8 đến 10/12-1961) tại làng Sen, Bác cũng chỉ thoáng qua, hệt như ngày bé đã từng qua lại… Và đúng ra, khu Di tích Kim Liên phần chính phải ở làng Chùa. Làng Sen chỉ là một kỷ niệm buồn!
Việc ba cha con cụ Phó bảng ở Thanh Chương mới đây đã được cụ Phan Tố Đức, cán bộ lão thành cách mạng, từng đi tù với cụ Hồ Tùng Mậu, viết gửi nội san họ Hồ Nghệ An. Tôi đâu dám đơn sai.
Ba mươi mấy năm làm rể làng Sen, tôi để ý hỏi kĩ bao điều. Mẹ vợ tôi, bà Nguyễn Thị Thiu (em ruột cụ Nguyễn Sinh Chiểu, lão thành cách mạng, chị ruột cụ Nguyễn Sinh Hiểu, nguyên là giám đốc quốc doanh chiếu bóng Nghệ An. Cả ba cụ đều đã qui tiên) cũng kể cho tôi đôi điều bà biết được. Còn thì gặp ai già cả quanh vùng tôi đều gợi ý, tìm hiểu, thu thập thông tin để biết được càng nhiều càng tốt.
Làng Sen cũng hệt như làng Chùa: Các công trình bê tông đã che lấp gần hết dáng vẻ xưa. Trước đây hình như Bác từng nói: Bác đâu phải địa chủ mà chiếm nhiều đất… vậy mà bây giờ xem ra lại nghiệm!
*
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con yêu của giống nòi, là anh hùng dân tộc, là thiên tài, là vĩ nhân…
Có biết bao sách báo đã và đang viết về Bác Hồ và có lẽ rất lâu nữa người ta vẫn còn phải trở trăn tìm hiểu. Không nói tới những bài viết của kẻ xấu, của thù địch với dụng ý bôi nhọ, những người sinh sau đẻ muộn cần tin vào những đâu?
Tất nhiên là tin vào sự thật. Những bài viết như chắt ra từ máu của những người đạo đức trong sáng, sống mẫu mực, dũng cảm và ngay thẳng thì cái họ viết ra chắc chắn là thật. Ta có thể hoàn toàn tin tưởng họ.
Cụ Hoàng Tùng, cụ Sơn Tùng, cụ Vũ Kỳ… thì nói dối để làm gì? Họ đâu mưu cầu lợi ích riêng hay thăng quan tiến chức như kẻ khác? Những kẻ có cả đống đô la giấu diếm ở ngân hàng nước ngoài hoặc đùn cho con cháu đầu tư vào nhà hàng, khách sạn, sàn nhảy, sân gôn… để hốt bạc cùng những kẻ ăn theo, bản thân họ cũng không tin ở chế độ mình, ta không thể coi họ là thật thà và lời họ nói lại càng phải cân nhắc kĩ. Quan điểm cá nhân tôi là vậy.
*
Những ngày xa xưa trên con đường thiên lý Bắc Nam, cứ khoảng năm dặm có một đoản đình, mười dặm có một trường đình, khách bộ hành lê đôi chân mệt nhoài vào những quán đó nghỉ ngơi, ăn uống rồi tiếp tục đi. Quan lại hay kẻ giàu sang ngồi cáng có phu khiêng. Cái cảnh “cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” của cụ Nguyễn Du miêu tả chắc cũng từ những chuyến đi như thế. Ta không thể quên bài thơ: “Qua đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan trên con đường đó:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái da da Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta
Với đôi chân leo dốc mệt nhoài mà thi sĩ vẫn viết nên bài thơ xứng đáng để đời. Giữa trời, non và nước bao la, cảnh vật đơn sơ, đượm buồn cùng nỗi lòng bồi hồi, cảm khái được nhà thơ ghi lại thật tài tình. Và ta lại nhớ tới vợ chồng cụ Sắc cùng hai con trai lần đầu đi bộ vào Kinh để cụ Nguyễn theo học trường Quốc Tử Giám (1895).
Cũng tại con đèo này, cậu Khiêm ngồi ôm đôi chân phồng rộp cùng đôi dép mo cau đã mòn vẹt qua mấy buổi đi bộ. Cậu Công lên 5, nhong nhong trên lưng cha, bởi còn quá bé, đã xuất thần đọc nên hai bài thơ khẩu khí, một bài ngắm núi, một bài ngắm biển, dấu hiệu của một nhà thơ lớn sau này:
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo con Núi nằm ì một chỗ Cha đi cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn hòn núi Con đường lười hơn con
Và:
Biển là ao lớn Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn
(Theo cụ Sơn Tùng, trích trong Tất Đạt tự ngôn)
Lớn lên, Bác đi khắp bốn phương trời, làm báo, viết kịch, viết văn, làm thơ… tự tìm đường cứu nước, hoàn thiện dần văn hóa ứng xử, văn hoá giao tiếp. Tập Ngục trung nhật ký chứng minh Bác là một nhà thơ lớn, cùng với thơ làm trong kháng chiến chống Pháp, thơ Xuân mỗi khi Tết đến Xuân về trong những ngày đánh Mỹ, thành kim chỉ nam cho toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta hăng hái xốc tới… đã thể hiện đầy đủ tầm vóc của một nhà văn hoá lớn.
*
Ngày còn học phổ thông, thầy Đào Tưởng Lục, giáo viên dạy sử nổi tiếng của chúng tôi dạy rằng: Chính sử được viết ra theo ý chí của nhà cầm quyền và phục vụ cho mục đích thống trị của họ. Dã sử mới thể hiện cách nhìn của đa số nhân dân lao động. Nó được viết ra bởi người lao động hoặc những trí thức sống gần dân…
Tôi nhớ mãi lời thầy và càng ngày càng nghiệm thấy đúng. Ngày 3-2-1930 (bà Vera ở Nga nói là ngày 6/1) Bác Hồ triệu tập các nhóm cộng sản ở trong nước bí mật tới Hồng Kông thống nhất lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam, cử ông Trịnh Đình Cửu làm Tổng Bí thư và viết chính cương đầu tiên: Đoàn kết các giai tầng xã hội Việt Nam chống đế quốc, sau mới làm cách mạng thế giới…
Tháng 10-1930 ông Trần Phú từ Liên Xô về, gạt Bác Hồ và ông Trịnh Đình Cửu ra, phủ định chính cương 3-2 của Bác, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương với “Luận cương chính trị” do Stalin sai Paven Alếch Xanđrovích Míp vẽ ra, bầu Ban Chấp hành mới không có Bác Hồ tham gia.
Tôi không được học và cũng không được đọc hai bản “Luận cương”, nhưng theo cụ Sơn Tùng: Chính cương 3-2-1930 của Bác Hồ đến nay vẫn nguyên giá trị. Ngày ấy Quốc tế Cộng sản đòi phải thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, Bác Hồ cho rằng: sự phát triển của ba nước không đồng đều, Việt Nam đông dân, có giai cấp công nhân, có thể thành lập đảng để lãnh đạo nhân dân đánh Pháp. Đó là điều kiện lịch sử của Việt Nam. Lào, Miên chưa có điều kiện thành lập đảng, lấy tên Đảng Cộng sản Đông Dương là lấy nước lớn áp đặt lên nước nhỏ, vậy là không đúng…
Bản “Luận cương” của ông Trần Phú gọi cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn An Ninh là “bọn” này “bọn” nọ lôi kéo thanh niên… Viết như vậy không chỉ xúc phạm đến các cụ, những nhà yêu nước chân chính mà còn xúc phạm đến cả đồng bào ta.
Bác của chúng ta đã sớm bộc lộ một tài năng chính trị sáng suốt vậy đấy!
*
Bác Hồ thật sự là nhân cách của người cầm quyền kiểu mới, suốt 24 năm làm nguyên thủ quốc gia mà không tha hóa. Khi chết đi, ngoài ngôi nhà sàn, Bác không có gì khác cho riêng mình. Tình cảm của Bác đối với mọi tầng lớp đồng bào là vô cùng sâu nặng, đặc biệt là đối với cụ già và trẻ em.
Chắc rằng những ngày cuối cùng của thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã để lại trong lòng Bác một vết thương đau chẳng thể mờ phai: Bố đi coi thi ở Thanh Hóa, anh trai đi theo, xong tạt về quê bốc mộ họ suốt ba tháng trời. Ở Huế, mẹ sinh em, đau ốm, chết không để lại một bát gạo hay một cắc bạc nào. Bác Hồ bấy giờ mới 10 tuổi, bế em đi xin sữa và em cũng héo khô trên tay mình. Hai cái tang đổ xuống đầu một đứa bé 10 tuổi. Đời người có nỗi đau nào hơn thế? Vậy nên Bác dành nhiều tình thương yêu cho cụ già và em nhỏ cũng chẳng có gì là lạ?
*
Quan hệ của Bác với ông Trần Phú như đã trình bày ở trên, còn quan hệ với Tổng Bí thư thứ hai là Hà Huy Tập cũng không tốt đẹp hơn. Năm 1935 Hà Huy Tập làm văn bản báo cáo với Đệ tam Quốc tế rằng chính Nguyễn Ái Quốc đã gây ra sự mơ hồ về giai cấp cho các chiến sĩ cách mạng Đông Dương. Bởi vì hồi đó “Chính cương” của Bác đề ra: Đảng phải tranh thủ cả tiểu, trung và đại địa chủ cùng thanh niên trí thức, tư sản yêu nước để chống đế quốc… Ban Chấp hành Trung ương kết tội Bác là mơ hồ, cải lương…
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản chỉ có một mình Nguyễn Văn Tạo là người Việt Nam nhưng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp là đại biểu chính thức tham dự. Trước đó, tại Đại hội V, Bác được Manuisky đề xuất đặc cách làm đại biểu chính thức. Ban Bí thư Chấp nhận nhưng Bác từ chối vì mình không phải là đại biểu được Đảng Cộng sản Pháp bầu. Bác chỉ đến để đóng góp vào báo cáo về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Đại hội mà thôi…
Tiếng bom Phạm Hồng Thái nổ ở Sa Diện, Quảng Châu làm chấn động cả nước Pháp, Bác Hồ đề đạt với Ban Bí thư Quốc tế cộng sản và Bộ Phương Đông xin được về Quảng Châu hoạt động. Cả hai nói đồng ý nhưng Bác vẫn phải chờ đợi trong im lặng. Đảng Cộng sản Pháp cũng chẳng hồi âm nên Bác đành phải loanh quanh ở Moskva… Về sau Nguyễn Ái Quốc được bổ sung vào Bộ Phương Đông và về Trung Quốc hoạt động, mọi chi phí do Bộ Phương Đông chu cấp. Tháng 9-1924 Bác đi Quảng Châu và cho đến 1927 cũng không được đồng tiền nào của Bộ Phương Đông chu cấp! Sau đó bác sang Thái Lan…
Sau Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, quan điểm dân tộc và thuộc địa của Bác Hồ bị phê phán dữ dội. Stalin tỏ vẻ khó chịu nhất là vấn đề này. Ông ta cũng coi Bác là một người dân tộc chủ nghĩa cải lương. Việc Bác bị bắt ở Hương Cảng rồi nhờ ông Loseby mà được xử trắng án, được thả ra cũng khiến Liên Xô nghi ngờ là Bác hoạt động hai mang! Stalin không hiểu được là tại sao lại có những người như Loseby?
Bác ở lại Liên Xô, công tác ở Ban Thuộc địa của Quốc tế Cộng sản nhưng không được giao nhiệm vụ cụ thể nào mà chỉ được nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Công việc nghiên cứu xong đâu vào đấy cả Bác xin được bảo vệ thì lại không được trả lời. Năm 1938 Bác xin về nước.
Đại hội Quốc tế Cộng sản lần VII, Bác không có tên trong danh sách đoàn đại biểu Đảng ta mà chỉ là dự thính. Ông Lê Hồng Phong và bà Nguyễn Thị Minh Khai là đại biểu chính thức.
*
Tôi không được rõ mối quan hệ giữa Bác với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Chỉ thấy nói năm 1938 Bác từ Liên Xô về qua Trung Quốc. Cuối 1938, Bác công tác tại phòng “Cứu nguy Dân tộc” thuộc văn phòng đại diện Bát lộ Quân ở Quế Lâm (Trung Quốc) với tên là Hồ Quang, hàm thiếu tá. Năm 1939 Bác về Côn Minh để tìm cách nối lại liên lạc với các đồng chí trong nước.
Quan hệ giữa Bác và ông Trường Chinh có vẻ “êm đềm” hơn, mặc dù ông Trường Chinh không tán thành việc Bác tuyên bố “giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương”. Đây là việc làm trên danh nghĩa để tránh mũi nhọn của bọn Lư Hán, Tiêu Văn sang ta là để tiêu diệt Đảng Cộng sản. Nếu không làm được thì bọn họ sẽ bị Tưởng Giới Thạch tiêu diệt!
Năm 1952, Mao và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải cải cách ruộng đất. Bác chủ trương hãy làm giảm tô, giảm tức trước. Cải cách uộng đất để sau. Bác nói: mình đã nói để kháng chiến xong đã mới tiến hành cải cách ruộng đất. Họ cứ ép mãi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách của ta, chứ không theo họ…
Đoàn cố vấn Trung Quốc trong cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang làm trưởng đoàn, họ muốn qua cải cách để “sửa” lại Đảng ta. Ông Trường Chinh đồng ý làm cải cách ruộng đất. Làm thí điểm, trước hết họ chỉ đạo đánh vào bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Thành Long). Gia đình bà Năm có con trai làm trung đoàn trưởng dưới trướng tướng Văn Tiến Dũng. Trong tuần lễ vàng kháng chiến, bà đã hiến cho cách mạng 100 lạng vàng. Bà từng nuôi các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt… trong những năm tháng bí mật. Bản thân bà Năm công tác trong Hội Liên hiệp Phụ nữ từ 1945 cho tới 1953. Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy cũng giúp đỡ cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cánh hoa”. Người ta phớt lờ ý kiến Bác và cứ thế họ làm…
Ai phải chịu trách nhiệm trước những sai lầm này? Rồi còn chiến dịch đánh Nhân văn Giai phẩm nữa… Lịch sử sau này chắc cũng còn nhiều việc phải xem xét. Rất may là Đảng đã phát hiện sớm những sai lầm này và cho cuộc cải cách ruộng đất sớm dừng lại. Nếu không, đất nước ta chắc đã tan hoang như bãi chiến trường và dân tộc ta phải gánh chịu một nỗi đau không đáng có!
*
Thời kỳ ông Lê Duẩn làm Tổng Bí thư là thời kỳ đất nước ta phải vượt qua nhiều biến cố to lớn nhất. Trước hết là công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và nông thôn. Vấn đề thành lập các hợp tác xã nông nghiệp. Bác nói: “Việc xây dựng hợp tác xã phải hết sức tự nguyện, không ép người ta”. Đằng này họ lùa dân vào các hợp tác xã tất, ai không vào sẽ bị phân biệt đối xử, con cái học hành khó khăn, không cho lý lịch để thoát ly… Dân vào hợp tác xã gần như vào trại lính, đi làm theo hiệu kẻng, không biết sáng tạo là gì. Các vị chủ nhiệm thuộc bần cố nông, chả biết gì là khoa học kỹ thuật, lo cho họ chưa xong thì lo được cho ai? Kết quả nền nông nghiệp nước nhà tụt hậu hàng chục năm vậy mà đi đâu cũng hô hào làm ăn lớn, làm chủ tập thể!
Ông Hoàng Tùng xếp nỗi đau thứ 7 của Bác Hồ chính là vào thời kỳ này. Ông Lê Duẩn muốn qua mặt Bác nhưng Bác không quan tâm. Người trọn đời vì dân vì nước ai thèm kèn cựa địa vị mà làm gì?
Tết Mậu Thân (1968) tổng tấn công và nổi dậy trên toàn miền Nam, Bác và tướng Giáp không tán thành nhưng bị thiểu số. Bác và tướng Giáp chủ trương tập kích rồi rút nhanh để bảo tồn lực lượng. Ông Duẩn và đa số quyết tâm tổng tấn công. Để tránh tổn thất cho lực lượng ta, Bác hỏi tướng Giáp xem phải làm thế nào? Tướng Giáp nói: Chỉ còn cách đánh mạnh ở giới tuyến để kéo bớt địch ra. Chuẩn bị vào trận, họ cho tướng Giáp đi chữa bệnh ở Hungari, Bác Hồ đi chữa bệnh ở Trung Quốc. Kết quả địch phải mang ra giới tuyến 4 sư đoàn. Johnson tuyên bố phải tử thủ Khe Sanh. Ông Lê Duẩn đã đề nghị Bác cho đánh trận này, nếu không thắng ông ta sẽ từ chức, nếu thắng Bác phải cách chức tướng Giáp. Kết quả cả ba đợt tổng tiến công và nổi dậy đều không đạt được mục tiêu đề ra… Nhưng ông Duẩn im lặng.
Tấn công đợt 1 không bắt được Martin và Thiệu ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng! Đợt 2 cũng không kết quả, đợt 3 đã bị kẻ địch phản công cho tơi tả. Bộ đội tinh nhuệ của ta hy sinh biết bao nhiêu? Những hố chôn tập thể đã khui lên ở Quảng Ngãi, ở Bình Định cùng nhiều nơi nữa nói lên điều đó. Và còn bao nhiêu xác chiến sĩ ta bị kẻ địch vùi lấp chưa tìm thấy?
Ông Lê Duẩn phớt lờ lời hứa của mình còn Bác Hồ thấy đất nước đang trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng nên cũng để yên…
Ngày ấy, giáp Tết, Bác đang điều trị ở Trung Quốc, Bộ Chính trị mời về để thông qua việc tổng tiến công và nổi dậy 1968. Máy bay về sân bay Gia Lâm được thông báo hạ cánh theo phương vĩ lệch 15o. Nếu xuống ắt sẽ tan xác. Ông Vũ Kỳ đồng ý cho người lái hạ cánh theo trí nhớ và máy bay đáp xuống an toàn. Ông Kỳ thở phào nhẹ nhõm. Mọi người yên vị trong máy bay và Bác vẫn ung dung hút thuốc.
Lát sau mới thấy ông Duẩn, ông Lê Đức Thọ rồi ông Đồng tới đón! Chắc là họ định đón Bác ở một địa điểm khác.
Những tì vết của ông Duẩn và một số ông lớn khác thì còn nhiều. Ông Duẩn “lúc sinh thời là một thanh niên yêu nước. Người ta kính mến, khi ở trong Nam chiến đấu cũng đáng kính. Nhưng sau khi giải phóng miền Nam, đám thầy dùi tự nhiên lại mạ ngọc mạ vàng lên lịch sử cá nhân ông là không đúng. Họ bịa chuyện sở dĩ có chiến thắng miền Nam là nhờ có nghị quyết 15: Có nghị quyết 15 do anh Ba Duẩn từ trong Nam ra, triệu tập Hội nghị Trung ương chỉ ra đường lối kháng chiến miền Nam lúc đó”.
Bác Hồ đang sống mà họ dám nói thế. Mà chính ông Duẩn cũng muốn thế!
Tạp chí Lịch sử Đảng số 4-1990 ghi rõ: Tác giả Nghị quyết 15 là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp… Dù cho có người viết sách ca ngợi họ đến đâu rồi cũng có ngày được lịch sử phán xét. Có thế mới giúp những người đang sống hiểu rõ vàng, thau. Giúp những thế hệ mai sau không bị nhầm lẫn… Tôi chỉ ghi ít chuyện giữa ông Duẩn và Bác Hồ mà thôi. Những việc của ông làm sau khi Bác mất thì mọi người đã rõ và những giọt nước mắt ông khóc ngày lễ tang Bác là thật hay giả đây?
*
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ luôn cao hơn các vị Tổng Bí thư mấy cái đầu và mặc dù họ cư xử với Bác thế nào Bác vẫn luôn đặt quyền lợi của Đảng của dân tộc lên trên hết… Sự kiện lịch sử càng đứng xa càng thấy rõ: Cái đúng, cái ưu, cái sắc bén luôn luôn thuộc về Bác Hồ.
- Căn cứ vào đâu mà từ 1941, Bác nói năm 1945 cách mạng Việt Nam hoàn thành?
- Căn cứ vào đâu mà giữa lúc khói lửa của cuộc đại chiến đang mù mịt, Bác nói năm 1945 Chiến tranh Thế giới kết thúc? Trong khi Bác chỉ có chiếc radio ọp ẹp bên hông còn Stalin, Churchill, Roosevelt… có đầy đủ mọi nguồn thông tin, các cố vấn đông đảo… họ lại nói năm 1946 Chiến tranh Thế giới mới kết thúc?
- Căn cứ vào đâu mà từ 1950, Bác nói năm 1954 ta chiến thắng giặc Pháp?
- Căn cứ vào đâu mà 24/4-1957 Bác nói tại Nam Định: “Làm kinh tế thì phải khoán, khoán là ích chung lợi riêng, thì mới kích thích được sản xuất”? (Sau đó ông Kim Ngọc, bí thư Vĩnh Phúc làm theo lời Bác thì bị tiêu diệt.)
- Căn cứ vào đâu mà từ 1960, Bác ghi: “15 năm nữa thì sự nghiệp thống nhất nước nhà hoàn thành”?
- Căn cứ vào đâu mà trong Di chúc, Bác viết: Chiến tranh chống Mỹ còn kéo dài mấy năm nữa… còn Bộ Chính trị lại gạch bỏ cụm từ “mấy năm nữa” và cho là còn kéo dài? Vậy mà ông Lê Duẩn còn dám đến ký chứng kiến vào Di chúc, thực tế là giám sát Bác. Những ngày cuối đời Bác còn bị một thứ “thần trùng” bên cạnh khống chế. Họ gạch bỏ mấy vấn đề liền trong Di chúc, sửa lại ngày Bác ra đi…
Ngày nay Liên Hợp Quốc còn coi Bác Hồ là người đầu tiên mở đường đối thoại và tiến hành đối thoại tìm kiếm hòa bình (Đối xử với bọn Tiêu Văn và ký Hiệp định Sơ bộ 6/3-1946 với Pháp).
Khi cách mạng mới thành công, Bác đã kêu gọi diệt giặc đói, diệt giặc dốt thì bây giờ UNESCO mới đặt ra chương trình cứu đói, tổ chức xóa nạn mù chữ.
Bác Hồ phát động trồng cây gây rừng từ 1960, ngày nay UNESCO mới đặt ra chương trình cân bằng sinh thái, trồng cây gây rừng.
Với Bác Hồ của chúng ta chỉ có một chữ “thiên tài” mới nói lên được tất cả. Bác của chúng ta thông hiểu học thuyết Mác-Lênin (nhưng học thuyết Mác là từ thực tiễn Châu Âu. Châu Âu chưa phải là cả thế giới, Châu Á và nước ta có đặc điểm riêng). Bên cạnh đó Bác còn là người của Phật học, của Nho học, của Lão học, của học thuyết Tôn Trung Sơn… Kết hợp chặt chẽ với truyền thống dân tộc và văn hoá Việt Nam. Thông hiểu ngần ấy thứ mới tạo nên một tầm vóc Bác Hồ và điều đó đâu phải là đơn giản.
*
Những năm gần đây có nhiều người nói hoặc viết rằng Bác Hồ có con… Đối với cá nhân tôi và có lẽ là của đông đảo người dân Việt Nam ta, đó là điều đáng mừng. Một con người kiệt xuất mà từ giã cõi đời không để lại cho hậu thế tí di duệ nào khiến ai chẳng cảm thấy đau lòng? Chúng ta không nên thần thánh hóa Bác Hồ. Hãy để Bác mãi mãi vĩ đại mà giản dị giữa lòng dân tộc, giữa những tâm hồn Việt Nam, trong sự kính yêu của những người dân Việt Nam. Bác Hồ là lãnh tụ là nhà văn hoá lớn song Bác cũng là một con người với những tình cảm riêng tư bình thường mà giản dị.
Ngày Bác qua đời, Mao “bạo chúa” còn ngự trị trên đất nước Trung Hoa. Cả hơn một tỉ dân Trung Quốc phải cúi đầu phủ phục trước ông ta… vậy mà cụ Quách Mạt Nhược dám gửi đôi câu đối viếng, đặt Bác Hồ lên trên tất cả, trên cả ông Mao. Đó là một hành động dũng cảm (Trước đây khi Lev Landau bị vu là gián điệp Đức, viện sĩ Kapitsa cũng đến trước Stalin đòi phải thả ngay, nếu không ông sẽ bỏ Viện) Các nhà khoa học thường trung thực và dũng cảm vậy đó. Xin phiên âm đôi câu đối của cụ Quách Mạt Nhược: “Chí khí tráng sơn hà, Ái Quốc, anh hùng duy hữu nhất minh tinh quang vũ trụ, Á Âu, hào kiệt thị vô song”. Đây là đôi câu đối ca ngợi Bác Hồ chính xác, đầy đủ và khó có ai có thể viết được hay hơn.
*
Tôi là người sinh sau đẻ muộn lại sống ở nông thôn, giữa vùng đồi núi, mọi nguồn thông tin đều thiếu thốn, muốn tìm tòi nghiên cứu cũng chẳng biết tìm đâu, chỉ đọc và nghiền ngẫm những bài nói, bài viết của lớp người đi trước, tin tưởng hoàn toàn ở họ bởi mục đích của họ là tốt đẹp là trong sáng mà thu thập, gạn chắt lấy đôi chút cho mình…
Tôi viết ngắn gọn vậy thôi, có gì không đạt cũng mong được mọi người tha thứ. Cuối cùng, xin mượn lời cám ơn nhà văn Sơn Tùng của Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục – ngành Giáo dục Đào tạo ngày 11/4-2001 thay cho lời kết:
“Đã đến lúc sự thật phải trả về cho sự thật, lịch sử phải trả về cho lịch sử với giá trị nguyên bản đích thực của nó, dầu biết rằng sự thật nói ra có cực kỳ gai góc, nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều so với lời nói, nhận định sai lạc, giả dối, giá lạnh, không có hồn… nhưng sự thật đó quang minh chính đại phù hợp với lý tưởng của con người và đặc biệt sự thật đó phù hợp với lương tâm của chúng ta.”
Những ngày đầu xuân Canh Dần
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 15, 2013 6:57:23 GMT 9
Tôi thưa Bác Hồ Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945.Cuốn sách đồ sộ của nhà báo Huy Đức dài hàng nghìn trang Bên Thắng Cuộc đang được bàn luận sôi nổi. Người khen cũng nhiều, người chê cũng lắm. Điều bổ ích là nó giúp cho xã hội nhìn lại cuộc chiến. Có thiếu sót là tác giả không đề cập đến nhân vật Hồ Chí Minh, một nhân vật trung tâm của cuộc chiến. Nhân dịp này, tôi muốn chia sẻ vài ý kiến riêng do nghiên cứu thời gian qua.Rất cần nhận định, đánh giá, không định kiến, không theo đường mòn nhân vật lịch sử này, cũng không chửi rủa thô tục, phủ định sạch trơn cho hả giận. Hai năm trước tôi đã có bài trả lời lập luận của giáo sư Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu khi ông khẳng định về bản chất Hồ Chí Minh là “một người dân chủ theo chế độ cộng hòa ,” chứ không phải là người Cộng sản. Khi tôi còn trong nước, tệ sùng bái ông Hồ lên đến cực điểm. Ông là nhà chính trị kiệt xuất, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà báo tuyệt vời, nhà thơ thượng thặng, nhà đạo đức khuôn mẫu, nhà trí thức siêu đẳng, nhà dự đoán tài ba, nhà ngôn ngữ uyên bác, gỉ gì gi nữa…HCM là số một hết. Hai mươi năm nay, trong tôi những giá trị nặng về ảo ấy lần lượt rơi rụng lả tả. Chỉ cần khách quan, tỉnh táo, công bằng. Tôi lấy làm lạ có một nhân vật sống ở miền Nam, trong quân ngũ VN Cộng hòa, sỹ quan, trí thức có học hàm, lại ca ngợi tâng bốc ông Hồ đến mức sùng bái, vái lạy “cha già dân tộc”, rồi tự hào cho thế mới là thái độ trí thức dám tìm ra và nói lên sự thật. Đó là ông “tiến sỹ” Trần Chung Ngọc, thường viết trên mạng Giao Điểm. Ông sùng bái ông Hồ hơn ai hết, với những luận văn dài, toàn trích dẫn các học giả phương Tây. Sự kiện kỳ lạ này thúc đẩy tôi tìm hiểu sâu thêm. Tất cả tài liệu Mỹ, Pháp, Anh, Tàu…ông Ngọc trưng ra, trích dẫn tôi chăm chú đọc. Tôi còn gặp trao đổi lâu với ông William Duiker, bà Sophie Quinn-Judge ở Mỹ, các bạn tôi Pierre Brocheux, Jean Lacouture, Olivier Todd, Alain Russio… ở Pháp về nhân vật HCM. Nhiều lần tôi sang Texas, Hoa Kỳ, ghé xuống Lubbock nơi có Trung tâm tài liệu về chiến tranh VN cực kỳ phong phú, cũng như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, là thư viện đầy đủ nhất thế giới, cũng để nghiên cứu tiếp về HCM. Tôi xem 6 lá thư ông Hồ gửi cho Tổng thống Harry Truman, những nhận định sắc sảo, tỉnh táo, cụ thể về ông Hồ của CIA, các cựu ngoại trưởng Mỹ James Byrnes, George Marshall và John Foster Dulles, đối chiếu với những nhận định của Phòng Nhì tình báo Pháp, của những Georges Bidault, Charles de Gaulle, Georges Catroux, Georges Thierry d’Argenlieu, Maurice Thorez, Jean Duclos…về ông Hồ. Tôi tóm tắt kết quả tìm tòi, đối chiếu của tôi hơn 12 năm qua là: ông Hồ khi nhỏ học chữ nho ở quê có tiếp thu môi trường chống Pháp của sỹ phu yêu nước vùng Nghệ Tĩnh, do đó khi học trường Quốc học Huế có tham gia phong trào chống thuế. Khi cha ông bị án phạm tội giết người, bị mất chức tri huyện, loại khỏi ngạch quan lại, vì sỹ diện và sinh kế, 2 cha con phiêu dạt vào Nam, cha làm thầy thuốc vùng Sa đéc, con xin dạy môn phụ ở trường Dục Thanh, Phan Thiết. Khi xuất dương anh Thành chưa có ý thức cứu nước rõ rệt. Cho đến khi sang Pháp, anh mới có ý thức làm chính trị từ khoảng 1918 đến 1922 hoạt động trong Đảng Xã hội (sau đổi tên là Đảng Cộng sản Pháp). Có thể nói lúc đó anh có lập trường yêu nước, chống thực dân Pháp, tinh thần dân tộc. Với báo Paria anh có tinh thần đoàn kết quốc tế với các dân tộc thuộc địa. Nhưng từ khi sang Nga năm 1923, 1924, anh bắt đầu gắn bó với Đệ tam Quốc tế Cộng sản, học và nhận việc ở Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản, về sau nhận công việc trợ lý cho Michael Borodin một chuyên gia CS lão luyện. Cả thời gian ấy là thời hoàng kim của Stalin, triệt hạ mọi kẻ đối lập bằng bàn tay sắt. Ảnh hưởng thời gian này khá sâu đậm khi anh Thành đã đủ chín chắn, trên 34 tuổi, để sau này anh chửi rủa “bọn Menchevik” phản bội, gọi những người trốt-kít là chó săn cho đế quốc , gọi Quốc dân đảng, Đại Việt là Việt gian. Trong Hồ Chí Minh đã sớm định hình một nếp nghĩ kiểu Stalin là không là ta ắt là kẻ thù, là việt gian, phải trừ khử không chút thương tiếc. Anh được rèn, đúc, tôi luyện trong khuôn Stalin và Béria. Ông Hồ thông minh thật, nhưng với nghĩa khôn ngoan, mưu mẹo chứ không mưu lược, không phải là nhà tư tưởng, nhà lý luận. Văn ông giản dị, bình dân, đến độ tầm thường. Ông không lập luận được dài, sâu. Tinh khôn theo nghĩa tinh ranh, mưu kế, khôn vặt thì không thiếu. Ông Hồ khi về nước hiểu rất rõ chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) không được hầu như toàn thế giới chấp nhận, còn bị xa lánh, ghê tởm, e sợ, nên ông cố che dấu kỹ bản chất Cộng sản. Ông cũng biết ở VN Cộng sản bị ngay dân Nghệ Tĩnh kinh sợ qua Xô Viết Nghệ Tĩnh với chủ trương tả khuynh diệt trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ. Đưa ra Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh), với các Hội thanh niên, phụ nữ, nông dân, công nhân, học sinh Cứu quốc, rồi Đảng Lao động VN, Mặt trận Liên Việt… đều là hỏa mù, bình phong che dấu thật kỹ bản chất Cộng sản đậm đặc trong con người ông. Ông có cái mặc cảm tự cho là ở phía xấu, nhưng không có bản lĩnh thoát ra. Tôi đã trao đổi với William Colby, giám đốc CIA, về HCM nhân cuộc họp năm 1966 ở Chicago; ông Colby cho biết Stalin cũng bị ám ảnh bởi cái mặc cảm Cộng sản là xấu xa bị dân chúng ghét bỏ, nên đã cùng Djanov và Dimitrov bày trò giả vờ giải thể Đệ tam Quốc tế, lập ra Comintern – Cục thông tin quốc tế. Sau này ông Hồ cũng bày trò “giải thể Đảng Cộng sản Đông Dương” tháng 11/1945. Stalin và Djanov còn nghĩ ra cái tên chế độ “Dân chủ nhân dân”chung cho mọi nước Cộng sản, cũng là màn khói che thương hiệu CNCS rất khó bán mà thôi. Người ta hay viện ra Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 với trích dẫn ngay từ đầu Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp để biện minh cho tư tưởng dân chủ của ông Hồ. Tôi đã trao đổi lý thú với ông Archimed Patti của OSS tháng 9/1990 ở Hà Nội nhân dịp kỷ niệm thứ 100 ngày sinh của ông Hồ. Ông Patti từng giúp ông Hồ trích dẫn chính xác Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Nếu chân thành là nhà dân chủ thứ thiệt, làm chủ tịch nước 24 năm, sao ông không cho dân được hưởng chút tự do báo chí, tự do kinh doanh nào? Sao ông đóng cửa trường luật? Sao ông dửng dưng trước thân phận bà Năm, ông Huỳnh, ông Việt Phương, ông Đang…? Sao ông chịu để Tàu chia cắt nước ta? Sao lại lấy tên Trần Dân Tiên Tự để tự vỗ ngực? Người cộng hòa, người dân chủ không bao giờ cư xử như thế. Những tài liệu ở Lubbock và Thư viện Quốc hội Mỹ cho tôi thấy tại hội nghị Yalta (2/45) và Postdam (7/45) đã manh nha cuộc đối đầu cực kỳ quyết liệt giữa Dân chủ và Cộng sản tranh dành từng vùng, từng nước, từng nửa nước một. Suýt nữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ bị Stalin lấy. Theo dõi chặt chẽ tình hình qua một cái đài nhỏ nhưng mạnh của ông Patti cho, ông Hồ hiểu rõ rằng nước VN độc lập non trẻ mà bị coi là đối tượng của Mặt trận Dân chủ thì sẽ khốn nạn, cả châu Á chưa có nước CS nào, Liên Xô thì quá xa. Ve vãn Pháp, Mỹ bằng mọi thủ đoạn để tránh bị bóp chết, nhưng không đủ bản lĩnh để từ bỏ CNCS là bi kịch lớn nhất trong tư duy chính trị của ông Hồ, cũng là thảm kịch ông gây ra cho dân ta. Nếu như ông Hồ trở về chủ nghĩa dân tộc như Gandhi, Nehru, Sukarno, U nu… thì may cho dân ta biết bao. Có thể thoát chiến tranh, vẫn có độc lập, dân chủ, phát triển, nhân dân hạnh phúc. Nói trắng ra HCM là một nhân vật tiêu cực là chính, tích cực không nhiều, xét về toàn cục và về lịch sử của đất nước, lợi ích của nhân dân. Thế là ông Hồ dùng bộ mặt nạ giả dân chủ làm chiến thuật, làm chiếc khiên đỡ bên tay trái, phòng thủ chặt để tự bảo vệ mình, nhằm thực thi chiến lược CS, lập trường CS, sứ mạng CS như một thanh bảo kiếm trong tay phải tấn công dũng mãnh diệt mọi kẻ thù theo chỉ thị của quốc tế CS. Từ năm 1924 ông Hồ là đại diện đảng CS Đông Dương, rồi 1945 là lãnh tụ CS cao nhất, ông tự tin tự hào mang sứ mạng thiêng liêng nhuộm đỏ toàn liên bang Đông Dương, cả Đông Nam Á và toàn thế giới. Đó là thực chất HCM. Hoàn toàn rõ ràng là tình báo Pháp, Anh, Đức, CIA Hoa Kỳ, các hội đồng an ninh quốc gia Mỹ và Pháp không bị lừa, vì họ theo dõi kỹ tung tích, hồ sơ, hoạt động và đánh giá rất rành mạch nhân vật này. Rất nhiều người khuyên tôi đừng có dại mà đụng đến ông Hồ. Vì ông còn được đông đảo nhân dân ngưỡng mộ. Cả dân tộc mình có được một vị “anh hùng” được thế giới ngưỡng mộ, sao lại đi phủ định. Tôi nghĩ khác. Không có gì cao hơn sự thật. Không có gì thấp hơn sự dối trá. Nếu nói tôi vô lễ hỗn xược với bác Hồ mà tôi từng khâm phục, ngợi ca, hãy cho tôi thắp một thẻ hương và thưa với Bác rằng : “Thưa Bác, theo nghiên cứu kỹ lưỡng công bằng thì Bác đã sai lầm, dẫn dân tộc đi sai đường lạc lối rõ ràng về chính trị, con đường Cộng sản Mác – Lênin chuyên chính vô sản độc đảng đã bế tắc hoàn toàn. Nếu quả Bác có tinh thần tự phê bình, Bác đã dễ dàng nhận ra điều đáng tiếc ấy. Bác hãy phù hộ cho nhóm lãnh đạo CS hiện nay thành khẩn nhận ra sai lầm, cùng toàn dân chuyển sang Kỷ nguyên Dân chủ đa nguyên đa đảng trong trật tự và luật pháp, cùng toàn dân xây dựng Hiến pháp dân chủ 2013 , bước vào thời kỳ phát triển mới mà thành quả toàn dân sẽ được chung hưởng. BÙI TÍN (nguồn VOA)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 21, 2013 9:11:08 GMT 9
Vài chuyện đã rõ về ông Hồ (Thư ngỏ gửi anh Phương Nam – Đỗ Nam Hải) Tôi vừa nhận đựơc bức thư ngỏ của anh về ý kiến của nhà sử học Dương Trung Quốc đối với cuốn sách nhỏ “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Tôi hơi sửng sốt khi được tin này. Vì tôi quen anh Quốc, lại vừa có dịp gặp anh Quốc ở California, Hoa Kỳ 2 năm trước. Có người mới đây phàn nàn là anh Quốc đã đồng lõa với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, “kẻ tung người hứng” nhịp nhàng như để mớm lời cho ông Dũng có dịp thanh minh trước Quốc hội rằng ông luôn tuân theo ý Đảng, không bao giờ xin xỏ điều gì, nay Đảng không thi hành kỷ luật ông thì ông phải phục tùng thôi. Tôi không nghĩ trong vụ này nhà sử học họ Dương, một kẻ sỹ Bắc Hà chính cống, lại tệ đến thế. Tôi còn ngầm khen anh Quốc đã mạnh dạn đặt một câu hỏi hóc búa, có tính chất móc máy nữa, khi gợi ý về nền văn hóa từ chức vốn bình thường trong một xã hội văn minh. Cứ nhìn sắc mặt tái, thái độ lúng túng của ông Dũng khi ấp úng trả lời là có thể hiểu như thế. Đến chuyện mới xảy ra, tôi thật sử sửng sốt. Vì chuyện Trần Dân Tiên đích thị là Hồ Chí Minh đã rành rõ như 1+1 là 2. Từ năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh ông Hồ, báo Nhân Dân đã có bài tư liệu thống kê hơn 30 tên và bí danh của ông, trong đó có tên Trần Dân tiên, coi như tài liệu gốc cho dịp này. Nhà chính trị Nguyễn Khánh Toàn, vốn là giáo sư đỏ ở Nga, có bài viết trên báo Nhân Dân cũng nói rõ như thế. Nhà sử học Hà Minh Đức cũng có bài trên báo Văn Nghệ nói rõ chuyện này, cho biết không chỉ Trần Dân Tiên, mà T. Lan viết cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện” cũng là ông Hồ. Tôi không thể hiểu nổi tại sao nhà sử học họ Dương lại có lỗ hổng kỳ lạ trong trí nhớ đến vậy. Hay là ông cố tình kể lại chuyện thuần túy của ngày xưa khi còn đi học, còn thơ và ngây. Nay chuyện Trần Dân Tiên đích danh là ông Hồ không nên bàn thêm thực hư nữa, vì đã rõ quá đi rồi. Còn chuyện ông Hồ có được UNESCO tuyên dương là Anh hùng dân tộc, nhà Văn hóa kiệt xuất của thế giới và được UNESCO long trọng kỷ niệm năm 1990 hay không? Hình như tôi đã có trả lời ngắn gọn vấn đề này khi anh Phương Nam – Đỗ Nam Hải còn ở bên Úc. Tôi có dịp ghé qua trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, rồi đến trụ sở UNESCO bên bờ trái sông Seine, giữa Paris, chỉ để tìm cho ra lẽ vấn đề này. Tóm tắt lại, có thể nói UNESCO có hoan nghênh và ủng hộ việc này, qua lá thư của Bộ trưởng Võ Đông Giang thông báo cho LHQ là Việt Nam sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của “Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc của VN và Danh nhân văn hóa thế giới “. Tổng thư ký UNESCO ghi nhận thông báo đó của phía VN, cho ghi vào tập văn kiện lưu trữ của UNESCO . Không hề có một nghị quyết nào riêng của LHQ về vấn đề này. Ngoài ông Hồ còn có kỷ niệm ông Mahatma Gandhi và một số nhà chính trị, nhà kiến trúc khác. Thế nhưng trong thực tế, việc hoan nghênh và ủng hộ của LHQ không hề được thực hiện, còn bị chính UNESCO thu hẹp và cấm đoán. Lý do là có sự chống đối mạnh mẽ của một bộ phận cộng đồng người Việt ở Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc, của một số người Pháp mà người thân bị mất tích trong chiến tranh, của Hội cựu chiến binh Pháp đang đòi chính phủ Hà Nội phải trả lời về số phận hơn 2.000 quân sỹ Pháp bị mất tích sau khi bị bắt. Bà Catherine giữ tài liệu ở UNESCO cho tôi biết hồi ấy hồ sơ về ca ngợi ông Hồ hầu như không có, trái lại hồ sơ về tội của ông thì khá nhiều, có cả những gia đình kháng chiến có người thân bị chôn sống trong Cải cách ruộng đất và nhiều thư tố cáo các hố chôn sống người ở Huế trong biến cố Tết Mậu thân 1968. Do những sự việc trên nên Tổng Thư ký UNESCO đích thân quyết định không có một hình thức kỷ niệm gì ở trụ sở chính UNESCO tại Paris, cũng không cử đại diện nào đi dự lễ chính thức ở Hà Nội. Xin nhớ lúc ấy là sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Liên Xô bị tụt giảm thanh thế, Việt Nam và ông Hồ cũng bị tụt giảm theo. Để vớt vát, sứ quán Việt Nam ở Pháp thuê một phòng nhỏ trong trụ sở UNESCO để tổ chức, chỉ có người của sứ quán, người thân sứ quán và một số cán bộ của đảng CS Pháp tham gia. Không một viên chức nào của UNESCO tham dự tuy được khẩn khoản mời. Chính quyền Pháp và chính quyền Paris cũng không có một đại diện nào đến. Người cai quản trụ sở này còn giao hẹn trước không được cắm cờ, treo ảnh ở ngay trong phòng họp, ngoài hành lang không được triển lãm sách báo tranh ảnh. Họ còn quy định rõ không được dùng từ “danh nhân văn hóa” nơi công cộng và giấy mời không được ghi là kỷ niệm ai, chỉ được ghi là buổi “sinh hoạt văn nghệ”, với một cuộc trình diễn cải lương. Đấy là tất cả sự thật về chuyện Bác Hồ được suy tôn là Danh nhân văn hóa thế giới, cay đắng mỉa mai lắm. Bộ ngoại giao ở Hà Nội biết quá rõ, nhưng họ vẫn làm như không có gì trở ngại. Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của anh Phương Nam băn khoăn hoài nghi về tập thơ Ngục trung nhật ký, cứ như của người Tàu, phong cảnh Tàu, cảm khái Tàu, lịch sử Tàu, hồi tưởng Tàu, hình ảnh Tàu. Không một tên làng, tên huyện, tên tỉnh VN, không tên tuổi một anh hùng, di tích lịch sử VN, không một con sông ngọn núi VN. Chưa có nhà phê bình văn học thơ ca nào nghiên cứu kỹ về điểm này. Nhưng về ông Hồ điều đáng trách nhất là không chỉ ra cho đất nước cần xây dựng theo mô hình nào. Điều này anh Đặng Quốc Bảo đã kể với Đại tá Quách Hải Lượng rằng đã trao đổi vấn đề này với ông Hồ; ông Hồ công nhận rằng “thành công của Bác là giành lại độc lập cho dân tộc, mà thất bại của Bác cũng là về dân tộc, Bác không tìm ra, chỉ ra được xây dựng đất nước ra sao” ( mở mạng Google, tìm “Đặng Quốc Bảo”). Theo tôi, ông Hồ có mang về mô hình “chiếc gông chuyên chính vô sản” đấy chứ. Hai nhà sử học William Duiker và Sophie Quinn-Judge đều nói với tôi Hồ Chí Minh là con người rất nhiều vẻ mặt, mang nhiều màu sắc khác nhau ( versatile , un camélion, mille faces) đóng kịch giỏi – do ông phải khôn ranh trốn lủi mật vụ đủ loại, rất khó nắm bắt thực chất. Trong đó còn có hàm ý là xảo trá, giỏi đánh lừa. Dễ khóc, dễ cười, khóc nhiều kiểu, mà cười cũng nhiều ý. Một giáo sư người Nhật, ông Tsuboi Yoshiharu, đã cất công nghiên cứu chuyên sâu về ông Hồ để đi đến kết luận rằng bản chất ông Hồ là một người cộng hòa, một nhà dân chủ hơn là một người Cộng sản. Tôi không đồng ý với lập luận đó. Nếu ông Hồ mê say chế độ dân chủ kiểu Mỹ và của Pháp thật lòng để trích dẫn ra, ngay khi mở đầu Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 , hai bản Tuyên ngôn lịch sử của Mỹ và của Pháp, thì trong đúng 24 năm làm chủ tịch đảng và chủ tịch nước, ông đã có dịp làm bao nhiêu việc ích quốc lợi dân theo hướng dân chủ và cộng hòa! Ngược lại, ông thực hiện chuyên chính vô sản, chuyên chính độc đảng, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội do ông lập ra chỉ làm trang sức cho đảng CS; ông thủ tiêu triệt để tự do báo chí, ông đóng cửa trường Luật. Báo chí và tòa án kém xa thời thuộc địa. Thế thì ông là người dân chủ hay người thủ tiêu quyền dân chủ? Tự do, bình đẳng của công dân không có trong tư duy của ông chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng hòa. Công dân thường không ai có hộ chiếu xuất ngoại. Tự do kinh doanh bị hủy bỏ triệt để, cho quốc doanh hoành hành. Ông mặc cho bà Năm bị bắn, cho ông Vũ Đình Huỳnh thân tín vào tù rồi chết thê thảm, mặc cho ông Nguyễn Hữu Đang bị đọa đầy, cho chừng 20 ngàn trung nông yêu nước giỏi kinh doanh nghề nông bị quy oan là địa chủ để bị bắn và chôn sống. Tôi đã nói về chuyện này trong bài viết trên VOA mới đây ( bài “Tôi thưa Bác Hồ” ). Việc đánh giá ông HCM là rất cần thiết, không nên e ngại, tránh né. Có thể đi cả vào đời tư lắm bi kịch, nhưng cái chính là đường lối chính trị, mô hình xây dựng đất nước dân chủ bình đẳng và phồn vinh cho mọi người chung hưởng. Ông Hồ đã bỏ lỡ thời cơ ngàn năm một thủa. Một điều cuối cùng có thể châm chước cho ông là ông không cố tình phá hại đất nước. Do văn hóa thấp, mới học hết bậc tiểu học, lại còn quá trẻ nên khi đọc bài của Lenin về giải phóng dân tộc, ông đã nhẹ dạ theo ngay Mác, Lenin , rồi Stalin, rồi Mao cho đến suốt đời, cả sau khi chết. Có thể đến khi chết ông vẫn đinh ninh là con đường mình đi nhìn chung là đúng, tuy có lúc ông công nhận rằng ông thất bại trong xây dựng đất nước. Đến khi chết ông vẫn hài lòng nghĩ mình là một lãnh tụ yêu nước và cứu nước. Theo tôi một nhà lãnh đạo dân tộc mà yêu nước kiểu như vậy thì bằng mười làm hại đất nước, dân tộc, thà ông không yêu nước thì có khi lại là may cho nhân dân. Hiện ta thua xa Thái Lan, Inđonesia, Singapore, Malaysia… là vì vậy. Tôi đã để hơn 20 năm nghiền ngẫm, đắn đo, suy nghĩ đánh giá cẩn trọng về nhân vật Hồ Chí Minh. Có khi khó khăn, dằn vật, buồn tiếc, thương cho dân mình, nhất là từng lớp trẻ. Nhưng cuối cùng nhẹ nhõm khi tiếp cận được chân lý. Cần có dũng khí làm người. Dám suy tư độc lập, bằng chính bộ óc tỉnh táo của chính mình. Không sợ nói trái ý đa số còn bị mê hoặc. Còn về thi hài ông Hồ, tôi thấy cần vận động nhân dân tán đồng đưa đi an táng vì nhiều lẽ chính đáng về đạo lý, khoa học và môi trường. Không có gì tệ hơn là độc đoán bác bỏ yêu cầu cuối cùng thiêng liêng ghi trong di chúc của ông Hồ là hỏa thiêu. Cũng không có gì xúc phạm ông hơn là chia cắt nát thi thể ông ra không còn nguyên vẹn suốt hơn 40 năm ròng, nay vẫn chưa được nhập trọn vẹn vào đất nước quê hương. Điều này quá độc ác, và tệ bạc. Có một nét nhỏ, ngoài lề, vui vui, đó là chuyện anh bạn nhà báo người Nga tên A.V. từng làm việc ở Hà Nội tôi gặp lại ở Paris, bảo tôi : “Lăng Hồ Chí Minh tớ quan sát kỹ thì cái mái cao của nó giống như chiếc mũ dạ của các chiến sỹ Cossack hay đội mùa đông. Đứng xa càng thấy giống…” Tôi bảo các nhà kiến trúc Việt Nam tự hào là nó theo dáng của đình chùa Việt Nam đấy chứ. Anh Phương Nam thấy thế nào? Thư đã dài. Cám ơn anh Phương Nam – Đỗ Nam Hải và nhà báo tài năng Huy Đức cho tôi có dịp nói lên vài sự thật về một nhân vật trung tâm của chiến cuộc trên đất nước đau thương đang thức tỉnh này. Bùi Tín
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 24, 2013 9:53:37 GMT 9
Hồ Chí Minh và tập đoàn nhúng tay vào máu vì áp lực viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô! Friday, February 22, 2013 Sổ Tay
Vũ Ánh
Ðây không phải là một câu chuyện mới mẻ gì. Nó chỉ là câu chuyện cũ về điều mà nhiều người dân miền Bắc cho tới nay vẫn tin là “bác bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước.”
Nhưng nếu họ được phép “thong thả” đọc cuốn biên niên thời sự “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức thì họ sẽ thấy từ trang 255 cho đến trang 265, những người phụ tá thân cận của ông Hồ tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn của tác giả hay trong những tài liệu mà không phải ai cũng tiếp cận được sẽ thấy nó chứa đựng nhiều điều khác hẳn với suy nghĩ của họ. Nội dung của những lời lẽ của những nhân chứng nói trên đã phơi bầy ra một thực tế mà từ trước đến nay không ai trong số những tác giả ở Việt Nam dám đề cập tới: đó là việc ông Hồ không tìm ra ra được con một con đường nào để cứu nước cả. Áp lực rất nặng nề về viện trợ của Bắc Kinh và Liên Xô khiến ông ta chỉ còn cách nhắm mắt bước vào một ngõ cụt là thực hiện những gì mà các “đàn anh, đàn thầy” mình áp đặt. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” trích dẫn lời của Hoàng Tùng, chánh văn phòng Trung ương để chứng minh con hẻm đó như thế nào, xin trích:
“Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Ðại Hội II diễn ra vào năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh (Ðặng Xuân Khu) đã đưa ra thuyết 'ba giai đoạn' theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo lời ông Hoàng Tùng: thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra tại Ðại Hội II là có ý kiến của ông Hồ, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, khi họp Xứ ủy, tôi đã được nghe ông (Trường Chinh) nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn. Nhưng sau Ðại Hội, theo ông Hoàng Tùng, Mao và Stalin đã gọi ông Hồ sang nhất định bắt phải làm (theo đường lối của họ). Mao Trạch Ðông nói thẳng: nếu các đồng chí (họ Hồ) không cải cách ruộng đất, chúng tôi sẽ không viện trợ nữa. Ðể có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Ðông phương, điều mà trước đó ông đã từng cho là không thích hợp.”
Những điều mà ông Hoàng Tùng nói ra từ trước đến nay vẫn được coi là “tuyệt mật.” Thời kỳ “đổi mới” của ông Nguyễn Văn Linh, một vài viên chức cấp trung và thấp có nói mé trên một vài tờ Tin Sáng cuối cùng trước khi tờ báo này bị đóng cửa về điều gọi là “sức ép của các đàn anh” sau khi một phần của những số báo này lọt được vào trong tù qua những lần các bạn tù của tôi được thăm nuôi. Người nhà họ khéo léo ngụy trang những bài báo nói trên trong những bao bì gói quà tiếp tế. Theo Huy Ðức, chính vì Stalin và Mao quá giáo điều cho nên ông Hồ phản ứng mạnh đối với kế hoạch cải cách ruộng đất theo kiểu của họ mà thôi, chứ thực tế thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh đã thể hiện một cách rõ ràng bước đi của một nhà nước công nông đúng theo như các lãnh đạo đệ tam quốc tế chủ trương. Cũng vẫn theo tác giả, sau khi chính phủ Ðoàn kết Dân tộc tan vỡ và nhất là thời kỳ chính phủ Việt Minh rời bỏ Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang mầu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành.
Ðây chính là thời điểm bố tôi cùng nhiều người bạn của ông phải “dinh tê” có nghĩa là phải bỏ kháng chiến để trở về vùng “tề” hay còn có một từ ngữ khác là “về thành.” Huy Ðức trích dẫn một trong những sắc lệnh của Hồ Chí Minh đầu tiên về cải cách ruộng đất:
“Ngày 14 tháng 7, 1949, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh buộc các chủ điền phải giảm tô cho các tá điền từ 25 đến 35%, lấy ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian để chia cho nông dân. Ngày 22 tháng 5, 1950, ông ta lại ký sắc lệnh khác xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước năm 1945, nếu là món nợ sau năm 1945 thì chỉ trả vốn mà không phải trả lãi. Ngày 20 tháng 4, 1953 ông Hồ lại ký sắc lệnh “Giảm tô” bằng cách giảm thêm giá thuê đất 25% để tổng số tổn phí của tá điền không quá 1/3 hoa lợi.”
Thế nhưng xương sống của những sắc lệnh của ông Hồ từ 1949 đến 1953 là bạo lực chính trị để bắt buộc người dân miền Bắc phải theo chính là chính sách đấu tố ruộng đất. Ðể thăm dò phản ứng và để thị uy, ông Hồ ra lệnh cho ông Trường Chinh thực hiện với 6 xã thí điểm ở huyện Ðại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên và sau đó chính thức thực hiện vào năm 1953. Về tổng quát, những điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra không phải là những điều mới mẻ, nhưng một vài chi tiết là những bằng chứng mới cho thấy ông Hồ và những phụ tá thân cận của ông biết rằng những áp lực của Bắc Kinh và Ðiện Kremlin ép họ phải thực hiện ngay chính sách cải cách ruộng đất bằng đấu tố sẽ gây ra những hậu quả tai hại, điều mà ông Hồ vẫn cho rằng “đó là điều không phải.” Tại Hội nghị Trung Ương 5 họp từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 11, 1953, Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn, trong đó ông nhấn mạnh: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất” và “để đẩy mạnh kháng chiến (chống Pháp), chúng ta phải ra sức thực hiện cải cách ruộng đất.”
Lời lẽ của Hồ Chí Minh mặc nhiên là một lời xác nhận và là một lệnh cho những cấp dưới của ông phải tiến hành ngay việc đấu tố ruộng đất làm như đó là một quyết định của chính ông ta chứ không phải là quyết định từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Và để che giấu sự việc ông và tập đoàn lãnh đạo Việt Minh bị ngoại bang dùng viện trợ (để kháng chiến) để buộc mình phải làm, ông Hồ còn tự phê, xin trích:
“Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất. Nông dân ta chiếm 95% dân số mà chỉ có 3/10 ruộng đất, quanh năm khó nhọc và suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó.”
Ông Hồ nói tới mục đích của cải cách ruộng đất, đó là “tiêu diệt chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.” Phương châm mà ông ta đưa ra là: “Làm cho nông dân tự giác, tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân,” với phương thức để thực hiện: “phóng tay phát động quần chúng nông dân và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện.” Cái lối kể chuyện lại, trích dẫn nhưng câu chữ của họ Hồ, nghe qua có thể làm cho độc giả chán nản, bảo: “Ồ, câu chuyện này ai mà chẳng biết.” Nhưng với những người cần tìm ra những bằng chứng để thiết lập một cáo trạng đối với mặt trận Việt Minh trong việc lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam, lợi dụng kháng chiến để áp đặt lên đầu lên cổ dân chúng cái ách Cộng sản thì những câu chữ của ông ta là những thông tin cần thiết.
Thế giới cộng sản là thế giới còn có rất nhiều khoảng tối chưa được soi sáng. Những người ở ngoài thế giới u minh này chỉ hiểu được một phần rất nhỏ những khoảng tối ấy. Cho nên họ rất cần những người từng ở trong cái chăn của chế độ còn giữ được lương tri viết lên một phần sự thật về những con rận vẫn còn ẩn núp trong bóng tối. Từ 38 năm qua, trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là trong những cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, người ta hay có thói quen tự cô lập mình và tự tạo ra những điều cấm kỵ đối với quê hương cũ của mình. Cho nên, nhiều người vẫn mù mờ đối những vấn đề tại Việt Nam, ngay cả vấn đề lịch sử của cuộc chiến quốc cộng trước đây. Từ chỗ đặt ra những điều cấm kỵ, những nhà lãnh đạo và những chính trị gia cộng đồng tiến tới việc “phịa” ra những nguyên tắc đi ngược lại tự do tư tưởng: viết phải có lập trường, nghiên cứu cũng phải có lập trường chống Cộng, thậm chí họ tiến tới việc vi phạm vào nhân quyền khi đặt vấn đề tư cách chính trị của nhiều tác giả. Cầm tới một cuốn sách, không cần biết những dữ kiện trong phần nội dung có khả tín hay không mà chỉ cần hỏi: “Ông này là ai, từ đâu đến, VNCH hay Việt Cộng?” Ðó là lý do người ta hiểu tại sao trong gần 4 thập niên, các tác phẩm nào gây được tiếng vang trong cộng đồng người Việt là một con số nhỏ nhoi vì những tác giả “phe ta” chỉ viết cho phe ta đọc. Do chỉ viết cho “phe ta” đọc cho nên nhiều tác giả phải tránh những cái hố cấm kỵ và không tác giả nào lại dại dột phơi bầy ra những mảng tối chưa được soi sáng của phe mình !
Tôi nêu ra những yếu tố trên chỉ là có lý do để đưa ra một lời cảnh giác với tư cách của một người thích đọc sách mà thôi: đừng có quá đơn giản khi phủ nhận một tác phẩm nghiên cứu chỉ vì xuất xứ của tác giả. Hãy chú ý đến những thông tin và mức khả tín của chúng trong tác phẩm để giúp cho những nhận định riêng và độc lập của mình. Chẳng hạn như ở trang 262 trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả đưa ra một loạt những phương thức thực hiện trong chính sách đấu tố ruộng đất vốn là những điều mà tác giả từ phía người quốc gia đã nhắc tới nhiều, nhưng phần lớn đó là những kinh nghiệm cá nhân. Huy Ðức thuộc thế hệ của những thanh niên miền Bắc mới lớn sau chiến tranh Quốc Cộng đã có một cái nhìn tổng quát hơn về hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất. Trong vụ này, người ta mới chỉ thấy ông Trường Chinh chính thức lên tiếng nhận sai lầm trong các hoạt động cải cách ruộng đất khiến chúng biến thành các cuộc hành hình mang tính giai cấp để chữa cháy cho ông Hồ. Cho tới nay, con số thực của những người chết vì đấu tố vẫn chưa được cấp cao nhất trong đảng Cộng sản chính thức xác nhận. Tuy nhiên, dường như tác giả “Bên Thắng Cuộc” đã có thể rút ra những con số thiệt hại từ Nội San Cải Cách Ruộng Ðất ngày 25 tháng 2, 1956, một nội san phổ biến hạn chế trong số những viên chức, cán bộ Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất để đưa ra thông tin, xin trích:
“Số người bị qui oan lên tới 123,266 chủ yếu vì các biện pháp truy bức để 'đôn' tỷ lệ địa chủ lên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì ‘phóng tay phát động’, ở dưới những ‘đoàn’, những ‘đội’ cải cách tha hồ lộng quyền, ‘nhất đội, nhì giời’. Một quốc gia nghèo như Việt Nam mà các đội đã đưa được 'định mức địa chủ' lên tới 5.68% dân số các địa phương tham gia.”
Tác giả không đưa ra ý kiến của mình về tỷ lệ 5.68% địa chủ trong một quốc gia nông nghiệp nghèo đói như Việt Nam vào thập niên 40, 50. Nhưng độc giả chắc chắn sẽ có những so sánh và người ta sẽ lạnh xương sống khi nghĩ đến việc giết người có định mức mà tập đoàn Hồ Chí Minh chủ trương và thực hiện. Cá nhân, những thông tin này giúp tôi hiểu lý do tại sao làng tôi chỉ là một làng rất nghèo cách thành phố Hải Phòng không xa lắm, bà nội tôi chỉ có 10 mẫu ruộng mà cũng bị đấu tố chết trong đợt phóng tay phát động cuối cùng mà Huy Ðức đề cập tới trong “Bên Thắng Cuộc.” Nhưng ngày nay chuyện bà nội tôi chết oan không còn là vấn đề cá nhân gia đình tôi nữa mà là vấn đề của lịch sử đất nước. Lịch sử cần có thêm những người viết lại, viết thêm về thảm kịch này, không phải là để chửi rủa thù oán, mà là để cho những thế hệ mai sau và trước mắt thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể rút ra được những bài học.
Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Những thuộc hạ của ông ta đã xây một lăng tẩm rất lớn tại quảng trường Ba Ðình. Thời kỳ Việt Nam còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, những khách ngoại quốc hay trong nước thăm Hà Nội thường được yêu cầu vào viếng xác ướp của “Bác.” Khách được chụp hình đăng trên báo Nhân Dân để làm bằng chứng về nghi thức ngoại giao. Nhưng từ năm 2000 đến nay, cảnh này không còn diễn ra nữa, một phần cũng vì Hà Nội hiểu rằng hợp đồng kinh tế và những dự án viện trợ, vay nợ, việc chia chác quyền lực, đàn áp những nhà bất đồng chính kiến, cấu véo công quĩ làm của riêng ngày nay quan trọng hơn việc dẫn khách viếng thăm xác ướp của họ Hồ. Ngay cả đối với dân chúng miền Bắc, ngày nay ông Hồ cũng không còn là hình ảnh thiêng liêng như trước đây dù lệnh bất khả xâm phạm đối với cái tên của ông ta vẫn còn trên cửa miệng những người cầm quyền. Một phụ tá rất quan trọng của ông Hồ là ông Hoàng Tùng cũng tiết lộ những chi tiết về người “boss” của mình đã giúp cho những người thích lên án có thể cáo buộc ông Hồ tội nhúng tay vào máu của ngay cả những người ân của mình. Ở các trang 263 và 264, Huy Ðức đã chọc vào đúng “ổ kiến lửa” ở Hà Nội, xin trích:
“Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: ‘Mình nói để mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách ruộng đất theo cách của Việt Nam, nhưng mà (họ) cứ ép cho bằng được. Biết bao trí thức địa chủ đã theo Việt Minh, đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây bị ‘hai ông anh lớn’ (Nga và Trung Cộng) phải chấn chỉnh lại, không địa chủ, người có gốc ‘Tây’ đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 50, 'địa chủ không kháng chiến' thì đã 'dinh tê'. Cải cách đấu tố, theo ông Hoàng Tùng ‘coi như đánh vào lực lượng mình.’ Ông Hoàng Tùng còn kể lể thêm: 'Khi ấy tôi thường họp Bộ Chính Trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách (ruộng đất) chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có con trai là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ cấp bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính Trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953, bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ Nữ. Trong 'tuần lễ vàng', gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Vẫn theo ông Hoàng Tùng ‘các anh Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính Trị ‘Bác’ nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà và người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.’ Nhưng sau đó cố vấn Trung Quốc Lã Quí Ba đề nghị mãi, ông Hồ nói: ‘Thôi tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải.’ Ông Hoàng Tùng nói: ‘Hồ Chí Minh bị nó (Trung Cộng) coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ.’ Ðể có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng ‘Mỗi ngày đội cải cách thường phải tìm cho ra một người đến bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7.5 mẫu ruộng.' Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính Trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để qui sai địa chủ, nhưng việc chấn chỉnh chỉ dừng lại ở những lời răn dạy.”
Vào tháng 10 năm 1956, Bộ Chính Trị thừa nhận:
“Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc đoán trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch, đánh cả vào hàng ngũ của ta, qui bức nhục hình phổ biến. Coi tổ chức của đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và của quần chúng là do địch lũng đoạn nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man, dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ... sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc vi phạm những quyền tự do cá nhân của công dân. Trong số 8,829 đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7,000 thuộc thành phần nông dân lao động và các thành phần lao động khác.”
Cải cách ruộng đất là một đống bùn trộn lẫn với máu của nhiều nông dân hiền lành, những người đã đóng góp xương máu để bảo vệ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ấy vậy mà chỉ vì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đòi hỏi mà từ Hồ Chí Minh cho đến những tay chân thân cận nhất của ông đành lòng nhắm mắt ra lệnh tắm máu họ bằng một cuộc tàn sát dã man nhất trong lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp mà đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương. Huy Ðức cho công bố những điểm gây ngạc nhiên được ông Hoàng Tùng tiết lộ trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tác giả, xin trích (trang 264):
“Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các ‘đồng chí Trung Quốc’ là NÓ, (nói) tiếp: ‘Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa đều bị nó phá sạch. Ðền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì mặc cảm vì nhà cũng có 7 mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cấy rẽ lấy tô, rất dễ bị 'quy' (cáo buộc, gán tội). Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được 20 mẫu ruộng, cũng bị đội (cải cách) đem ra đấu. Khi ông Hương nghe được tin chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Các mạng thì cũng phải có đạo đức chứ ! Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm từng đỗ Ðệ Nhị Giáp Tiến Sĩ. Tây đưa lên hàng thượng thư (bộ trưởng). Thời kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có gởi thư vận động ông Niêm. Khi có cải cách ruộng đất, bị bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết. Mình (đảng Cộng sản) không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Ðầu tiên là họ sửa quân đội nên lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người (ảnh hưởng) bao trùm lên Tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Võ Nguyên Giáp, một vị tướng xuất thân từ giới trí thức và mới chỉ tham gia đảng Cộng sản năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi (Hoàng Tùng) ngờ là Lý Ban, người phó của Văn Tiến Dũng đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho ông Hồ. Bác (lời ông Tùng) bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ.”
Tóm lại, trong chính sách đấu tố ruộng đất, có tới gần 72% phú nông bị “quy” sai là địa chủ. Cho nên, theo ông Hoàng Tùng, “Pháp Mỹ chỉ chịu một phần. Chính cải cách ruộng đất, và việc đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản là nguyên nhân chính khiến hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam.” Nhưng hậu quả quan trọng trong chính sách nhuốm máu nông dân nói trên không phải là chuyện di cư hay không di cư mà quan trọng chính là: trong phong trào được gọi là cải cách ruộng đất mà sao có quá nhiều máu đổ và người chết như vậy? Hồ Chí Minh là người như thế nào khi ông ta biết rằng việc bắn bà Cát Hanh Long, một ân nhân của cách mạng là sai mà ông ta không vẫn cứ cúi đầu trước cố vấn Trung Cộng và tập đoàn đồ tể dưới quyền ông?
Hiển nhiên, “Bên Thắng Cuộc” mới chỉ đưa ra một phần, tuy là khá quan trọng liên quan đến chiến dịch tắm máu nông dân miền Bắc, nhưng vẫn còn cần phải mở lại những trang kế tiếp về phía những hậu duệ của những nạn nhân trong cuộc đấu tố ruộng đất từ 1950 cho đến hết năm 1956. Khi các cuộc nghiên cứu này có đầy đủ tiếng nói ôn tồn mang tính cương quyết của sử học, bản cáo trạng đối với ông Hồ và tập đoàn của ông mới được kể như tạm hoàn tất. Tôi tin rằng, một bản cáo trạng có nghiên cứu, không mang lời lẽ cuồng nộ, lên án nặng nề, nhưng vô tư và công bằng sẽ hữu hiệu trong việc đánh đổ “thần tượng Hồ Chí Minh” nơi những người Việt Nam còn tin vào ông ta hơn là chỉ đả đảo, đạp mặt và giẫm lên cờ đỏ sao vàng một cách an toàn và dễ dãi ở Hoa Kỳ.
Tuy muộn nhưng đã đến lúc người quốc gia chống Cộng hiện nay ở hải ngoại nên thay đổi sách lược đấu tranh và cần các cuộc nghiên cứu mang tính khoa học và sử học về cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc thay vì chỉ trang bị cho mình biểu ngữ, loa điện, vỗ ngực xưng tên và la hét những khẩu hiệu trên đường phố đã bắt đầu bị dư luận hoài nghi.
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 26, 2013 10:31:21 GMT 9
8 sự thật về Hồ Chí MinhTrịnh Hữu Long Hôm nay nhân vụ Phương Uyên, nghĩ lại thấy Hồ Chí Minh thật tội nghiệp! Kẻ thì dùng mỹ từ tôn ông lên làm thánh, kẻ thì xúc phạm nặng nề và vẽ ông thành quỷ. Việc làm của bọn họ tuy có vẻ trái ngược nhau, nhưng đều đưa đến một hậu quả to tổ bố, đó là bóp méo Hồ Chí Minh. Sau đây là một vài chi tiết sưu tầm được về cuộc đời Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian, cũng như diễn đạt theo ngôn ngữ bình thường (không lăng xê cũng không lăng mạ), hầu bạn đọc: Chân dung Hồ Chí Minh vào khoảng năm 1946. Đây là món quà mà ông tặng cho Raymond Aubrac, nhà ngoại giao người Pháp có con gái sinh năm 1946 mà ông nhận làm cha đỡ đầu. Nội dung dòng chữ trên bức ảnh (bằng tiếng Pháp): “Gửi một cái hôn lớn cho con gái đỡ đầu bé nhỏ Babette. Cha đỡ đầu của con. Hồ”. Nguồn: Wikipedia.org 1. Hồ Chí Minh thuộc thế hệ 9x. Ông sinh năm 1890. 2. Hồ Chí Minh từng bị đuổi học vì đi biểu tình. Khi phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ nổ ra vào năm 1908, Hồ Chí Minh (khi đó có tên là Nguyễn Tất Thành) đang học trường Quốc học Huế, cùng bạn bè tham gia biểu tình và bị chính quyền đàn áp, về sau bị đuổi học. Cha ông bị triều đình khiển trách nặng nề vì hành vi của con trai, anh trai ông cũng bị giám sát chặt chẽ. 3. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nổi tiếng nhất thế giới. Mới 21 tuổi, ông đã theo tàu Pháp bôn ba khắp năm châu làm phụ bếp, sau đó là xúc tuyết, quét than và làm nhiều công việc cực nhọc khác để kiếm sống. 4. Hồ Chí Minh đã nhận tiền của nước ngoài để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhiều tài liệu giải mật cho thấy ông đã nhận lương, phụ cấp và nhiều khoản tài trợ khác từ Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản để hoạt động từ những năm 1920. Nhờ vậy, ông có thể di chuyển, sinh sống và mở các lớp huấn luyện ở Trung Quốc và Thái Lan. 5. Hồ Chí Minh đã khôn khéo lợi dụng các quyền tự do dân chủ của phương Tây để chống chính quyền trong các thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông tham gia ký “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, mở báo “Người cùng khổ” (Le Paria) năm 1922 nhằm tố cáo các tội ác của chính quyền thuộc địa, cũng như viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 tại Paris. 6. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập một số đảng phái, tổ chức chính trị ở hải ngoại. Năm 1920, ông là đồng sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1925 lập ra “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” ở Quảng Châu – Trung Quốc nhằm huấn luyện chính trị và cách thức đấu tranh giành chính quyền (không nhất thiết là “bất bạo động”) cho các nhà hoạt động trong nước. Đặc biệt, khi còn ở hải ngoại (Hong Kong), ông đã là người sáng lập ra một đảng phái chính trị có tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, nhằm mục đích lật đổ chính quyền ở trong nước. 7. Hồ Chí Minh đã viết nhiều tài liệu chống chính quyền mà nổi tiếng nhất là tác phẩm “Đường kách mệnh”, xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu – Trung Quốc. 8. Hồ Chí Minh đã tham gia nhiều khóa học về bạo động lật đổ chính quyền ở nước ngoài, đặc biệt là ở Đại học Phương Đông (Liên Xô) trong những năm 1930. Hồ Chí Minh (áo trắng) và bên trái là người Tàu chỉ huy trận Hoàng Sa 1974
|
|