|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 9:53:46 GMT 9
Tôi hiểu phần trình bày của tôi đến đây đã quá đủ, và Thiếu Tướng Tư lệnh cũng cần bàn bạc riêng với phái đoàn, nên tôi xin phép Thiếu tướng Tư lệnh ra ngoài. Hiểu ý tôi, ông gật đầu. Rời phòng khách danh dự, đứng ngay cửa dành cho hành khách ra phi cơ, tôi ngước nhìn trời xanh, mây trắng, lòng thấy thanh thản, nhẹ nhàng như trút đi được bao nhọc nhằn căng thẳng đã gần cả tuần nay, khi đối đầu với vụ chùa Trà Am, và bây giờ với phái đoàn điều tra hỗn hợp: BTL/Cảnh Sát, Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình Báo, Cục An Ninh Quân Đội. Tôi tự hỏi: Chẳng lẽ vụ này đụng chạm quá lớn, chính phủ phải cử phái đoàn điều tra hư thực? Chẳng lẽ mình hành động sai? Tôi không chủ quan, nhưng không tìm thấy chỗ nào sai. Bắt một kẻ đội lốt tu hành hoạt động cho Việt Cộng, một nữ cán bộ an ninh Thành Ủy Huế và 5 cơ sở của y thị, cùng tài liệu và chất nổ, lục soát một nơi có chỉ dấu Việt Cộng đặt điện đài ngay tại chùa Trà Am, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế đã phá vỡ kế hoạch của bọn chúng đang mưu toan đặt chất nổ vào các cơ sở của chính quyền, và gài chất nổ giết hại dân chúng trong hai rạp chiếu bóng tại thành phố Huế. Chúng tôi, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế đã làm đủ, và đúng trong trách nhiệm mà chính phủ giao phó: - Duy trì luật pháp Quốc Gia, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào. Vậy sai ở chỗ nào, ở điểm nào? Mà nếu đã không sai, thì sao lại có phái đoàn điều tra? Tôi tự hỏi mà vẫn không tìm ra đáp số đúng. Mãi suy nghĩ, thì ông chuyên viên thâu băng ra gặp tôi:
- Đại úy, Thiếu Tướng gặp anh, và ông ta tự giới thiệu:
- Tôi, Thiếu tá C. . . khối CSĐB/BTL. Đại úy Ân khá không?
Có lẽ ông Thiếu tá này muốn nói cho tôi biết ông ta là cấp trên của Ân trong khối CSĐB/BTL. Nhìn dáng dấp và hành động vụng về của hắn khi thâu băng lén trong phòng họp, tôi thật tình không có cảm tình:
- Hân hạnh gặp Thiếu tá, Trương Công Ân là một nhân tài, một chuyên viên tình báo lỗi lạc, trong Khối CSĐB/BTL khó có người so sánh với Trương Công Ân.
Hắn không đến nỗi tối dạ không hiểu tôi đang nói móc hắn, hắn lảng sang chuyện khác:
- Mình vào kẻo Thiếu Tướng đợi.
Không khí trong phòng khách danh dự bây giờ có vẻ nhẹ nhàng hơn, không như lúc đầu. Vừa thấy tôi Thiếu Tướng Tư lệnh nói ngay:
- Liên Thành, Thiếu Tướng và phái đoàn phải trở vào Saigòn bây giờ. Vụ Trà Am, Thiếu tướng và phái đoàn đã hiểu rõ.
Tôi đưa Thiếu Tướng và phái đoàn ra phi cơ, trước khi bước lên phi cơ Thiếu tướng Tư lệnh nói với tôi:
- Huế khó lắm, em chu toàn công việc như vậy là tốt lắm rồi, gắng lên. Về ông Như Ý cũng nên nhẹ tay cho ông ta một phần nào.
Mọi người lần lượt bắt tay tôi bước lên máy bay, Đại Tá Nguyễn Khắc Bình siết mạnh tay tôi. Tôi hiểu đó là cử chỉ biểu lộ sự thông cảm và thấu hiểu mà ông dành cho tôi, tôi nói vừa đủ để ông nghe:
- Cám ơn Đại Tá.
Phi cơ cất cánh, để lại một làn khói trắng phía sau giữa bầu trời trong xanh, và cũng để lại trong lòng tôi những suy tư ưu phiền: "Mình đã hành động đúng hay sai?"Tôi đi vào bên trong, vừa đi vừa suy nghĩ mông lung, mãi không để ý, một thân hình to lớn chấn ngay lối đi của tôi. Nhìn lên, viên Cố vấn CSĐB đã đứng chắn trước mặt tôi từ hồi nào. Một thoáng ngạc nhiên tôi hỏi anh ta:
- Anh đến hồi nào?
- Chỉ sau Đại úy năm, mười phút.
- Làm gì?
- Tôi nhận lệnh xuống đây, tôi tưởng họ đã đem ông theo vào Sàigòn, cũng may họ giữ đúng lời.
- Tại sao?
- Có lẽ còn quá sớm để ông biết rõ chuyện này.
Dân ngoại giao, tình báo thường hay nói nửa vời, hiểu sao thì hiểu, tôi cũng chẳng muốn hỏi thêm.
- Đại úy, tôi biết ông bây giờ vừa đói và mệt, mình vào Câu lạc bộ của Sư Đoàn USMC ăn một tí gì, sau đó tôi dẫn ông đi gặp bác sĩ khám bệnh cho ông.
- Đói và mệt thì có, nhưng bệnh thì không. Như anh biết, vụ Trà Am, năm, sáu ngày nay tôi và một số anh em đã quá mệt.
Rời khỏi Câu lạc bộ của Sư Đoàn USMC tại căn cứ Phú Bài, tôi cùng viên Cố vấn vào bệnh viện dã chiến. Khi tôi tỉnh dậy thấy mình đang ở trong một thế giới xa lạ, tưởng là nằm mơ, chung quanh tôi toàn là thương bệnh binh Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, viên cố vấn CSĐB đã đứng cạnh giường tôi, tôi hỏi hắn:
- Sao tôi lại ở đây, đây là đâu, bao lâu rồi?
- Bệnh viện dã chiến của USMC. Ông đã ở đây gần hai mươi bốn giờ.
Tôi giật mình nói với hắn:
- Thôi chết. Vậy ai lo công việc ở BCH. Anh em họ đâu biết tôi đi đâu.
- Ông khỏi lo, mọi việc tôi đã báo cho Đại úy Ân sau khi ông vào đây. Không có chuyện gì quan trọng xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua.
Tôi thắc mắc hỏi hắn:
- Nhưng tại sao lại bỏ tôi ngủ lâu như vậy?
Vẫn câu trả lời nửa vời:
- Tôi sẽ giải thích với ông sau.
Làm việc chung với những người này, những gì họ không muốn nói có cạy răng họ cũng không nói, thôi đành bỏ qua.
Ngoại trừ Đại úy Ân, chẳng một ai trong BCH biết đuợc tôi đã nằm bệnh viện dã chiến của USMC tại căn cứ Phú Bài gần một ngày một đêm.
Sáu năm sau, 1976 tôi gặp lại viên Cố vấn tại Hoa Kỳ, hỏi lại chuyện xưa thì hắn thong thả kể cho tôi nghe:
- Ngày đó họ có ý định gọi anh về Phú Bài và bắt giữ anh đem vào Sàigòn ngay để điều tra. Một trong bốn sĩ quan của BTL đi theo ông Tướng sẽ thay thế anh. Nhưng sau khi nghe anh thuyết trình, họ thấy không có lý do nào để bắt anh, vì thế mà họ ra về tay không. Người giúp anh hôm đó chính là anh. Chúng tôi rất lo cho anh, nhưng chỉ giúp anh một phần nào thôi. Còn việc anh vào nằm bệnh viện, thứ nhất là để anh phục hồi sức khoẻ, thứ hai là để bảo vệ anh, có vậy thôi.
Tôi tạm dừng ngang đây vì chuyện hắn kể tôi không thể kiễm chứng làm sao biết đúng hay không.
Tôi trở lại tiếp tục lời khai của Hoàng Kim Loan trong đối tượng Phật Giáo tại Huế.
- Thích Thiện Lạc và ngôi Chùa An Lăng.
Hoàng kim Loan khai: Chùa An Lăng là trạm giao liên quan trọng của cơ quan Thành Ủy Huế, và Thích Thiện Lạc trụ trì chùa này là một trong những cơ sở nòng cốt của Hoàng Kim Loan. Thiện Lạc có 12 năm tuổi đảng, do chính hắn kết nạp Thiện Lạc vào Đảng Cộng Sản từ năm 1960. Dân chúng và tín đồ trong vùng An Lăng thường quen miệng gọi ông ta là Thầy Ngoạn.
Ngôi chùa An Lăng này nằm về phía tây nam thành phố Huế, chỉ cách thành phố khoảng hai cây số, đối diện với trụ sở xã Thủy Phước, cách làng Phủ Cam khoảng một cây số và nằm gần lăng Vua Dục Đức và Vua Thành Thái tại làng An Lăng. An Lăng là một xóm nhỏ cạnh núi Ngự Bình, nằm trên trục xâm nhập của cán bộ thành từ vùng Tứ Tây, Ngũ Tây về thành phố Huế.
Lời khai của Hoàng Kim Loan về ngôi chùa và ông thầy Ngoạn, đã phù hợp với tin tức và hành động của chúng tôi vào gần cuối tháng 12/1970.
Vào ngày 17/12/1970, nguồn tin tình báo viên xâm nhập gởi về cho hay Thiếu Tá Việt Cộng Nguyễn Đối, bí danh Thanh Bình, thuộc ban An Ninh Thành ủy Huế và một toán đặc công thành sẽ về ém quân trong ngôi chùa này vào khuya ngày 23/12/1970, để tối hôm sau, vào đêm Noel 24/12/1970 lợi dụng hàng ngàn người đi xem đèn, xem máng cỏ Chúa Hài Đồng tại xóm đạo Phủ Cam, bọn chúng sẽ trà trộn vào đám đông và bất thần tung cuộc đột kích vào trụ sở xã Thủy Phước để tạo tiếng vang.
Tôi họp ban tham mưu soạn thảo kế hoạch hành quân phục kích ngay tại ngôi chùa An Lăng. Ưu tiên một là bắt sống tên Thiếu Tá Việt Cộng An Ninh Thành ủy Huế Nguyễn Đối. Nếu tình huống không thuận tiện thì tiêu diệt toàn bộ bọn chúng.
Cuộc phục kích này sẽ do tôi chỉ huy, với 9 nhân viên CSĐB. Họ là những quân nhân có kinh nghiệm hành quân tác chiến, là những đồng đội của tôi đã theo tôi từ Nam Hoà biệt phái về CSQG từ 1966.
Tôi đích thân chỉ huy cuộc phục kích này vì 3 lý do:
- Đây là cuộc phục kích ngay trong chùa, mà hậu quả có thể đụng chạm lớn đến tôn giáo, và nhất là niềm tin của Phật giáo đồ, hậu quả thật khó lường.
- Tôi là sĩ quan quân đội, đã từng là Đại đội trưởng tác chiến. Ít nhiều thì tôi vẫn có kinh nghiệm về hành quân, phục kích, chạm địch, hơn anh em Sĩ quan Cảnh sát Quốc Gia.
- Đây là một trách nhiệm nặng nề, và có thể đụng chạm đến Phật Giáo. Tôi là cấp chỉ huy, phải nhận lãnh mọi hậu quả về hành động này, tôi không muốn anh em thuộc cấp dính vào.
Đại úy Ân trưởng Phòng CSĐB phái một nữ nhân viên thuộc Biệt Đội Thiên Nga và một nam nhân viên CSĐB, đóng vai cặp tình nhân viếng cảnh chùa. Họ có nhiệm vụ quan sát tỉ mỉ và ghi nhớ về vẽ lại sơ đồ ngôi chùa từng chi tiết một, từ ngôi chánh điện, khu nhà trai, ngõ trước, cửa sau, tóm lại không bỏ sót một điểm nhỏ nào.
Tôi cũng họp với Cố vấn CSĐB, và viên Thiếu Tá Cố Vấn chương trình Phụng Hoàng, báo cho họ biết kế hoạch của tôi và yêu cầu họ nếu có thể được, cung cấp cho tôi một số không ảnh vùng chùa An Lăng, để tiện nghiên cứu, hướng và đường đột nhập vào chùa của tên Thiếu Tá Đối và đám đặc công của hắn, hầu tôi có thể đặt toán phục kích đúng hướng bọn chúng đi vào.
Bốn ngày sau, 21/12/1970, tôi đã có tấm họa đồ với đầy đủ chi tiết do Đại úy Ân cung cấp và 6 tấm không ảnh do cố vấn phòng CSĐB cung cấp. Như vậy đã quá đủ đồ nghề dư sức chơi với đám giặc cỏ.
Sau khi nghiên cứu, tôi quyết định sẽ bố trí toán phục kích nằm về hướng bắc của sân chùa vì huớng nam sân chùa là con đường mòn, nối liền từ cồn mã phía ngoài vào chùa. Bọn Việt cộng sẽ dùng con đường này để đi vào, và như vậy khi toán phục kích của chúng tôi nổ súng thì đạn đạo sẽ đi từ hướng bắc xuyên ngang sân chùa về hướng nam không đụng vào chùa.
Đêm 23/12/1970, 19 giờ 10 lực lượng của chúng tôi đã sẵn sàng, chúng tôi có 3 tổ, mỗi tổ 3 nhân viên, theo kế hoạch bố trí hàng ngang, nằm về phía bắc sân chùa. Tôi ở tổ 1, nằm ở vị trí đầu của toán phục kich. Tất cả được trang bị M16, và không mang theo lựu đạn, vì địa thế hẹp không thể xử dụng, và có thể gây hư hại nặng cho chùa.
Lực lượng trừ bị cho tôi có hai trung đội CSDC, và 20 CSĐB do Đại úy Tý, và Đại úy Ân chỉ huy, trực tại BCH sẵn sàng tiếp ứng khi tôi yêu cầu.
Khoảng gần 20 giờ 15 ngày 23/12/1970, chúng tôi xuất phát từ BCH. Huế vào những ngày gần lễ Giáng Sinh trời thật lạnh. Ai đã từng ở Huế mới thấm được cái lạnh của Huế. Lạnh cắt da, lạnh luồn vào thân thể, mặc bao nhiêu áo cũng không đủ ấm. Đêm nay quá lạnh, lại có từng cơn mưa nhẹ, vì đi phục kích nên chúng tôi không một ai mặc áo mưa.
An Lăng là một xóm nghèo hầu như mọi nhà đều không có đèn điện, chỉ ánh đèn dầu le lói bên trong. Chúng tôi đổ quân cách ngôi chùa khoảng gần một cây số, len lỏi vào bóng đêm vắng lặng, chúng tôi tiến dần đến mục tiêu, thời gian di chuyển chỉ khoảng gần hai mươi phút. Nhìn đồng hồ dạ quang, bây giờ là 21 giờ 20, chúng tôi đã ở sát hông chùa. Ngôi chùa nằm im lìm trong bóng đêm, chỉ có hai ánh đèn nhỏ bên trong khu nhà hậu trai. Từng tổ một, chúng tôi âm thầm tiến vào vị trí phục kích. Tôi khom người nhẹ nhàng đến từng tổ kiểm soát và nhắc lại một lần chót, rất nhỏ:
- Tôi sẽ khai hỏa trước. Địa thế quá chật, cẩn thận kẻo bắn lầm nhau. Không được ho, không được hút thuốc.
Tôi trụ về tổ 1, tổ chúng tôi có bốn người, dưới cơn mưa, lạnh, ngồi sát vào nhau cho ấm và chờ đợi...
Mưa vẫn tiếp tục, thật lạnh, và bóng đêm dày đặc, thỉnh thoảng chúng tôi lại nghe tiếng chó sủa từ thôn xóm xa vọng lại. Im lặng và chờ đợi...
21 giờ 50 phút có tiếng động ở phía nhà hậu trai, cánh cửa bật mở, một người từ trong nhà hậu trai bước ra, tay cầm cây đèn dầu trên tay, ánh đèn dầu soi rõ mặt người đó, tôi giật mình: Ông Thầy Ngoạn ! Thầy Thích Thiện Lạc. Ông ta cầm cây đèn dầu đi một vòng chung quanh chùa rồi trở vào bên trong nhà hậu trai kép cửa lại.
22 giờ 30 phút, cánh cửa nhà hậu trai lại mở, lần này thầy cầm cây đèn đưa cao lên và đi ra sân chùa, tiến về phía bắc sân chùa, chỉ cách chúng tôi một thân cây cổ thụ to lớn. Chúng tôi đang bố trí phía sau thân cây, sát bụi hoa bông cẩn, ông ta dừng lại để cây đèn xuống đất, vén áo cà sa, thoải mái tè vào gốc cây cổ thụ Mộc lan, tè xong ông lại cầm đèn trở lại nhà hậu trai khép cửa. Chúng tôi ngồi cứng người, nín thở chỉ sợ ông ta phát giác, nhưng may ông ta không thấy chúng tôi.
23 giờ 10 phút, lần thứ 3, thầy Ngoạn lại mở cửa cầm đèn đi hai vòng quanh chùa, lại trở vào nhà hậu trai. Có lẽ đây là lần cảnh giới thứ ba của ông ta, và hai lần cầm đèn đi chung quanh chùa là dấu hiệu báo cho Việt Cộng biết tình hình an toàn, bọn chúng có thể vào chùa.
Chúng tôi vẫn ngồi co mình chờ đợi. Tiếng chó bắt đầu sủa dồn cuối xóm An Lăng, từ hướng Nam. Tôi nói nhỏ cho Trung sĩ Ánh sát tôi, chuyền cho các tổ sau chuẩn bị, có thể bọn Việt Cộng sắp xuất hiện.
Khoảng mười phút sau, ba bóng người xuất hiện, ba tên Việt Cộng tổ tiền sát. Bọn chúng mặc quần đùi, tay cầm súng tiểu liên AK di chuyển chậm và nhẹ nhàng không nghe tiếng động. Ba tên túa ra ba góc cuối sân chùa quan sát. Khoảng ba phút sau một tên đi lộn lại về lối đường mòn và biến mất trong bóng đêm.
Với kinh nghiệm trong đời lính tác chiến, chúng tôi hiểu tên đi ngược trở về là để báo cho toán sau biết tình hình, và hướng dẫn, hố tống nhóm chính vào chùa.
Quả đúng như chúng tôi tiên liệu, khoảng 10 phút sau, 7 tên Việt Cộng xuất hiện ngay cuối sân chùa. Rất nhanh, tôi nhẹ nhàng làm thủ lệnh cho Trung sĩ Ánh và tôi tác xạ vào mục tiêu 7 tên Việt Cộng, 2 anh em kia trong toán tác xạ vào 2 tên đang đứng gác cuối sân chùa. Nhẹ nhàng mở khóa an toàn, một ,hai, ba... Bốn loạt đạn M16 nổ chát chúa vào đám Việt Cộng, hai tổ sau cũng rất nhanh đồng loạt khai hoả.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 9:54:46 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Đoạn kết Liên Thành
Tiếng đạn nổ lớn trong sân chùa, 3 trong 7 tên rớt ngay tại chỗ nằm yên không dậỵ Vừa bóp xong băng đầu tiên, chúng tôi đồng loạt lăn người sang chỗ khác. Bọn chúng bắn trả hàng loạt AK về phía chúng tôị Chúng tôi bắn thêm loạt đạn thứ hai, bọn chúng tung lựu đạn về phía chúng tôị Tôi la to:
- Lựu đạn.
Bốn tiếng nổ thật lớn. Sau 4 tiếng nổ, những tên còn lại ù té chạy vào bóng đêm. Tôi không cho lệnh truy kích vì sợ anh em gặp nguy hiểm, và cũng cần phải kiểm soát ngay xem anh em chúng tôi có ai bị thương, hoặc tử thương không. Cũng may chỉ có 2 người ở tổ thứ 3 bị thương ở chân và bắp vế vì bị mảnh lựu đạn, máu ra hơi nhiềụ Chúng tôi cấp thời dùng băng cá nhân băng bó cho cả haị
Hệ thống truyền tin FM1 bắt đầu đầu hoạt động:
- Tangọ . . Tango, ông có sao không? Chúng tôi nghe rõ tiếng súng và 4 tiếng nổ lớn ở hướng ông.
Đó là giọng nói của Ân, rồi đến Tý, Trinh, và phó Vinh. Tôi trả lời họ:
- Chúng tôi đang chạm địch ngay trong sân chùa An Lăng, khoảng một tiểu đội Việt Cô.ng. Hai anh em bị thương nhe.. Hạ được ba tên. Cho xe cứu thương và Bác Sĩ Hồ Đại Đội Phó đến ngay để lo cho hai anh em thị thương.
Tý nói:
- Nhận rõ. Tôi đưa 2 trung đội đến tiếp viện cho thẩm quyền ngaỵ
Trong khi chờ đợi, trung sĩ Ánh và trung sĩ Trọc thay phiên nhau giựt một số hoả châu cầm tay lên trời, ánh sáng hoả châu nhỏ soi sáng đủ cho chúng tôi nhận rõ 3 xác Việt Cộng nằm ngay sân chùạ
Để lại một tổ giữ an ninh phía ngoài, tôi cho hai tổ kia vào chùa lục soát. Không có gì trong chùa, tôi cho lệnh bắt Thích thiện Lạc tức thầy Ngoạn còng tay dẫn ra sân. Hai trung đội CSDC, Tý, Ân, Vinh, Hồ, Trinh và Đại Úy Trịnh công Hà, Quân Trấn Phó, chỉ huy 2 chiếc Commando Car của Quân Trấn Huế cũng đã vừa đến tiếp viện cho tôị Hà là em ruột của nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn. Hai chúng tôi là bạn học thân tình từ thuở nhỏ, và tôi cũng là sư huynh của hắn trong Judo Club Huế, hắn đai nâu, tôi đai đen. Ra đời hai thằng cùng ở lính. Hắn về Quân Trấn, tôi biệt phái Cảnh Sá. Cả hai cùng một nhiệm vụ giữ gìn an ninh thành phố Huế. Ban đêm đang đi tuần tiễu vòng đai thành phố, nghe tôi đụng giặc, hắn đi cứụ Gặp tôi hắn hỏi:
- Liên Thành, có hề hấn gì không?
- Việt Cộng nghe xe tăng của ông đến, chạy hết rồi, có gì thì đã nằm ngay đơ rồi, đâu còn nói chuyện được với ông.
Cả hai đứa cùng cườị Bây giờ thì hắn định cư tại Sacramentọ
Tý rải 2 trung đội CSDC bố trí quanh chùạ Hai Commando car của Đại úy Hà đậu ngay cổng. Mọi người đều đổ dồn đến 3 xác Việt Cộng nằm giữa sân chùạ Tôi nói Đại úy Vinh Chỉ huy phó:
- Vinh, anh liên lạc với cuộc Cảnh sát xã Thủy An và ông xã trưởng đến ngay để lập biên bản. Sau đó anh giao cho xã chôn cất họ cho đàng hoàng, dù sao thì họ cũng đã chết rồị [Tôi còn nhớ ông xã Trưởng Thủy An là Nguyễn Ma.nh. Sau vụ này khoảng 8 tháng sau, ông ta bị Việt Cộng ám sát chết ngay tại cổng nhà của ông tạ Thật tội nghiệp]
Trời sáng dần, cơn mưa nhẹ vẫn chưa dứt và gió thật la.nh. Tôi không đạo đức giả, nhưng nhìn ba xác chết trong lòng chợt buồn, nhưng chợt nghĩ, trước đây vài giờ, nếu mình trúng đạn của họ thì giờ đây mình cũng đã nằm bất động đi vào cõi thiên thu như ba người nàỵ Thôi thì... coi như một lời an ủi cho chính mình, may ra có vơi nhẹ đi nỗi buồn và một thoáng hối hận chợt đến, khi nhìn ba hình hài nằm dài giữa những vũng máụ Trong cảnh máu nhuộm sân chùa vào buổi sáng tinh mơ của những ngày mùa đông xứ Huế, cơn gió lạnh thoảng qua, có chút mùi tanh của máu nguời, tôi nói nhỏ một mình trong nỗi buồn... "cuộc chiến này quả thật tàn bạỏ"
Dân chúng làng An Lăng và Phủ Cam kéo đến xem mỗi lúc mỗi đông, trời đã sáng hẳn. Bất chợt tôi nghe Đại Úy Ân hỏi Thích Thiện Lạc:
- Ông biết ba người này không?
- Tôi biết người nằm giữa là Ông Đối, Nguyễn Đốị
- Còn hai người kiả
- Tôi không rõ.
Ân kề tai tôi nói nhỏ:
- Thiếu Tá Nguyễn Đối bí danh Thanh Bình.
Tôi gật đầụ Chúng tôi rời khỏi chùa vào hồi 7 giờ sáng. Ngày hôm sau không có cuộc biểu tình nào xảy ra để "đả đảo Đại Úy Liên Thành đàn áp Phật Giáo, vô cớ bắt bớ tăng ni".
Nhưng tôi lại gặp một cuộc biểu tình phản đối, mà muôn đời không bao giờ dẹp được, đó là Mẹ tôị Bà là một người mộ đạo, là đệ tử của Thầy Ngoạn. Ngày rằm bà đi chùa của Thầy, anh chị em tôi bà đều đem quy y vào chùa Thầy Ngoạn và ông là người đứng làm lễ quy y cho chúng tôị Anh chị em tôi và ngay cả tôi đều có Pháp danh do Thầy Ngoạn đặt cho, mẹ tôi nghe tôi bắt thầy Ngoạn bà hốt hoảng nhắn với anh tôi:
- ''Nói hắn thả Thầy rạ Đời thủa nhà ai hắn lại đi bắt Thầy đã làm lễ quy y và đặt Pháp danh cho hắn. Thằng con bất hiếụ'' Mẹ tôi cũng như hằng trăm ngàn Phật tử ở Huế, họ đối với quý Thầy một lòng tôn kính, điều thầy nói, việc Thầy làm tất cả đều đúng, tuyệt đối phải nghe lời Thầy dạỵ Tôi bắt nhu +~ng tên Việt Cộng đội lốt thầy tu, thầy tu hoạt động cho Việt Cô.ng. Thầy Ngoạn hoạt động cho Việt Cộng, chứ đâu bắt Thầy Ngoạn đạo đức tu hành như Mẹ tôi và hằng trăm ngàn Phật Tử ở Huế vẫn lầm tưởng.
Đối với Mẹ, tôi là thằng con bất hiếụ Đối với hằng trăm ngàn Phật Tử ở Huế tôi là thằng phản đạo, ''nỗi oan này biết ngỏ cùng ai, thôi đành... kiếp làm thân chịú'.
Sau 30/4/1975 những con quỷ đỏ đó, cởi bỏ áo cà sa, hiện nguyên hình một bầy quỷ dữ, thẳng tay đàn áp, tiêu diệt Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đến nay đã hơn 32 năm vẫn còn tiếp tục.
Từ Huế, nơi xa xôi vạn dặm, nơi ngàn trùng xa cách, ở đây tôi nghe được tiếng vọng những lời hối hận:
- "Tội nghiệp ông Liên Thành. Ngày trước mình chửi ông ta là tên phản đạọ Bây giờ mới thấy có trật ai đâu, bọn chúng đã lộ mặt là Cộng Sản nằm vùng trong Phật giáọ Thật không ngờ".
Vâng, thật không ngờ. Mà quả tình quý Thầy và đồng bào Phật Tử chân chính làm sao ngờ được. Bọn chúng là loại quỷ dữ tu luyện ngàn năm, đã hoá thành tinh, biến thành kiếp người, chỉ có những thầy Pháp cao tay, họa may mới có thể khám phá và trừ khử được bọn chúng, nhưng vận nước và Pháp nạn đã đến, có hối hận cũng bằng không.
Trở lại trường hợp của Thầy Ngoạn. Một tuần sau, hồ sơ thiết lập xong, và chuyển sang Hội Đồng An Ninh Tỉnh. Đại Tá Lê Văn Thân, Tỉnh Trưởng né tránh, vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo, ông đi thanh tra quận. Tôi chức vụ Tổng Thư Ký hội Đồng An Ninh Tỉnh, Đại tá Tỉnh Trưởng chỉ thị tôi thay ông, ngồi nghế Chủ tịch Hội Đồng An Ninh Tỉnh. Trưởng Ty Nội An Tỉnh, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, Trưởng Phòng Hai Tiểu Khu, Trưởng Ty Chiêu Hồi, họ là hội viên.
Trưởng Ty Nội An và Chiêu Hồi đề nghị: ''Sáu tháng tù ở cho Thầy Ngoạn và không tái xét.''
Ty An ninh Quân Đội và Phòng II Tiểu Khu: '' Một năm tù ở không tái xét''
Tôi là người quyết định cuối cùng: '' Hai năm, không tái xét, đưa đi Côn Sơn''.
Ông Trưởng Ty Nội An một công chức lớn tuổi phản đối:
- Quá nặng, "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại", hai năm quá nặng xin hội đồng xét lạị
Tôi lý luận với ông Trưởng Ty Nội An:
- Thưa ông Trưởng Ty, tôi biết ông là một Phật Tử, thờ Phật, kính Thầy, và tôi cũng là một Phật Tử. Nhưng trường hợp ông thầy Ngoạn này xin ông hiểu cho, ông ta không phải là kẻ tu hành, mà là cơ sở của ban An Ninh Thành Ủy Việt Cô.ng. Ông ta và đám Đặc công Thành do Thiếu tá Việt Cộng Thanh Bình chỉ huy, định dùng Chùa An Lăng của ông ta làm nơi xuất phát tấn công trụ sở xã Thủy Phước vào đêm Giáng Sinh. Nếu lực Lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế không phát giác kịp thời, ngăn chặn và phá vỡ âm mưu của bọn chúng, có lẽ một số cán bộ xã Thủy Phước và đồng bào đi dự lễ Giáng Sinh đã bị bọn chúng sát hạị Vì thế hai năm là quá nhe..
Thiếu Tá Truật, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, và Đại úy đại diện phòng II Tiểu Khu, nghe tôi lý luận với ông Trưởng Ty Nội An xong cũng đồng ý 2 năm. Mọi người đều ký vào biên bản.
Ba tuần sau, chúng tôi nhận được báo caó từ tình báo viên xâm nhập gởi về xác nhận: 'Thiếu Tá Nguyễn Đối tự Thanh Bình thuộc Ban An Ninh Thành Ủy Huế và 2 đặc công đã tử trận vì bị phục kích tại chùa An Lăng'.
Lần này Lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế đã kịp thời ngăn chặn cuộc đột kích của Việt Cộng vào Xã Thủy Phước trong làng Phủ Cam vào ngày lễ Giáng Sinh 24/12/1970.
Tôi trở lại tiếp tục lời khai của Hoàng Kim Loan:
- Thích Chơn Thông
Ngôi chùa nhỏ Thiên Ấn tại đường Duy Tân thuộc Quận III thành phố Huế và hầm bí mật dưới chuồng nuôi heo của Chùạ Ngôi chùa nhỏ này là một trạm giao liên bản lề, rất quan trọng của cơ quan thành ủy Huế. Nơi đây là trạm tiền phương, chuyển vận cán bộ nội thành ra vào hoạt động trong thành phố, là trạm giao liên chuyển nhận mọi tin tức quan trọng và khẩn cấp từ nội thành lên khu và ngược lạị
Trạm giao liên này đã được Hoàng Kim Loan thiết lập từ năm 1964, và chính y cũng đã từng trú ngụ nhiều lần tại ngôi chùa này, trước thời gian xảy ra vụ tấn công Huế vào năm Mậu Thân 1968. Trụ trì ngôi chùa nhỏ này là Thích Chơn Thông cơ sở nội thành và được y kết nạp vào đảng từ năm 1961. Đ ây là ngôi chùa độc nhất trong Quận III thành phố Huế, nằm ngay trên đường Duy Tân, cạnh chợ An Cựu và cách quận đường quận III chưa đầy 300 mét.
Tôi còn nhớ trước tháng 3/1971, tôi nhận được bản tin từ cơ sở nội tuyến gởi về báo cho biết một toán đặc công thành, gồm 2 nam và 1 nữ, sẽ đột nhập vào thành phố và sẽ trú trong một hầm bí mật tại ngôi chùa trên. Vũ khí sẽ được chuyển vào cho toán đặc công này là 2 súng AK báng xếp, 1 B40, một số chất nổ và đạn dược. Nhiệm vụ của toán đặc công này là bất thần tấn công quận đường quận IIỊ Ngày giờ tấn công nguồn tin không xác nhận được vì sẽ do trưởng toán Đặc công quyết đi.nh. Kèm theo bản tin là sơ đồ vị trí hầm bí mật tại ngôi chùa trên. Ngày 12/3/1971 nguồn tin xác nhận toán đặc công đã có mặt tại chùa, và bọn chúng đang điều nghiên, quan sát vị trí quận đường Quạân IIỊ Ngay lúc đầu, tôi có ý định đặt một toán theo dõi để khám phá thêm số cơ sở nội thành, mà bọn đặc công này sẽ tiếp xúc để thu lượm tin tức bổ túc cho kế hoạch tấn công quận III của bọn chúng, nhưng nghĩ lại, mình đang dự định chơi một trò chơi nguy hiểm vì: - Ngày giờ tấn công của bọn đặc công mình không nắm vu +~ng, nếu bọn chúng ra tay sớm, sẽ có nhiều mạng sống của nhân viên chính quyền và dân chúng bị hy sinh.
Tôi quyết định ra tay trước bọn chúng, ngăn chặn cuộc tấn công của bọn Đặc công Cộng Sản nhắm vào Quận III thị xã Huế. 15giờ 30 chiều ngày 14/3/1971, hai trung đội CSDC do Đại úy Trần Văn Tý chỉ huy, 20 CSĐB do Đại úy Trương Công Ân chỉ huy, tôi chỉ huy tổng quát đổ quân bao vây chùạ
Dân chúng khu phố An Cựu, đường Duy Tân, đường Nguyễn Huệ, Chợ Cống, Cầu số 7, và ngay trong chợ An Cựu thấy chúng tôi đỗ quân vây chùa ùn ùn kéo đến mỗi lúc mỗi đông. Họ tụ tập bên này lề đường nhìn sang Chùa, và bắt đầu có tiếng chửi rủa la ó: ''đả đảo Liên Thành, đả đảo Cảnh Sát đàn áp Phật Giáo, bắt bớ tăng ní'. Đã lâu lắm rồi, từ bao năm nay, cá nhân tôi và anh em thường bị chửi như vậỵ Chúng tôi cũng đã quen tai nên chỉ cười với nhau và cũng chẳng phiền hà gì chuyện đó.
Ngôi chùa nằm sát lề đường Duy Tân, tôi đứng bên này lề đường nói thật lớn với đám đông dân chúng tụ tập bên kia đường:
- Tôi, Đại úy Liên Thành, Trưởng ty Cảnh sát, yêu cầu đồng bào đứng sang phía bên này, nhân viên công lực chúng tôi đang hành sư.. Chúng tôi đang bao vây 1 toán Việt Cộng hiện đang trú ẩn trong chùạ
Một tên đầu trâu mặt ngựa đứng truớc đám đông la to:
- Đồng bào đừng tin hắn, hắn nói láo đó. Hắn vây chùa bắt quí thầy, yêu cầu đồng bào tràn vào chùa giải thoát quí thầỵ
Đã đến lúc phải làm mạnh với tên này, tôi bước xuống đường, đi về phía hắn. Tôi dí sát mủi súng M18 vào vế hắn:
- Anh đứng yên tại chỗ. Chỉ cần anh bước nửa bước xuống đường, tôi sẽ bắn gãy chân anh ngay, anh nghe rõ chưa ?
Mặt hắn tái xanh, lủi vào đám đông mất da.ng.
Tôi trở lại cổng chùa ngay lề đường đợi Tý bố trí lực lượng bao vây, và gọi máy yêu cầu Chỉ huy trưởng CSQG/Quận 3, Trung úy Phạm Cần chỉ huy một đơn vị Cảnh sát sắc phục đến giữ an ninh, ngăn chặn không để đồng bào tụ tập trước cổng Chùạ
Hai trung đội CSDC đã bao vây kín ngôi chùa nhỏ, và Đại úy Ân cũng đã mời hết mọi người trong chùa ra ra ngoài sân kể cả Thích Chơn Thông, vì sợ họ có thể bị nguy hiểm khi chúng tôi giao tranh với đám đặc công Việt Cô.ng.
Theo họa đồ mà chúng tôi có trong tay, thì vị trí hầm bí mật là chuồng nuôi heo của Chùa, nối liền với khu nhà bếp. Miệng hầm bí mật nằm về phía tay phải của chuồng heo, và lỗ thông hơi là một ống sắt được ngụy trang khéo léo từ ngoài gốc bụi chuối phía sau, sát với chuồng heo vào tận bên trong hầm. Hai yếu tố quan trọng để tránh thiệt hại nhân mạng khi khui hầm bí mật Việt Cộng là phải biết rõ vị trí miệng hầm và lỗ thông hơi, vì bọn Việt Cộng thường dùng hai vị trí này để bắn lên.
Một tiểu đội CSDC và CSĐB đã bố trí gần chuồng heo của chùa đang đợi tôi, Ân và Tý. Tôi nói Tý vị trí này quá chật, chỉ cần tôi, Tý, và ba nhân viên là đủ. Chuồng heo được xây một bức tuờng chung quanh chỉ cao quá đầu gối, không có cửa, đó là trở ngại chính vì trong chuồn có hai chú heo nhỏ, phải hai CSDC lựa thế mới đem được hai chú heo ra khỏi chuồng.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 9:56:04 GMT 9
Chúng tôi tìm ra nắp hầm bí mật không mấy khó khăn, chỉ cần dồn phân heo và rơm rạ từ phía phải trong chuồng sang một bên là đã thấy ngaỵ Tiếng súng AK bắt đầu nổ dòn khi chúng tôi cậy tung nắp hầm, ba loạt AK từ dưới hầm bắn lên, chúng tôi không bắn trả vì muốn bắt sống ba tên đặc công này, nhưng nếu có bắn trả cũng chẳng thấy bọn chúng ở đâu mà bắn vì dưới hầm quá tốị Tôi la to:
- Tý, thẩy lựu đạn cay xuống hầm.
Đại úy Tý và hai CSDC nhanh nhẹn gởi xuống hầm tặng bọn đặc công 6 trái lựu cay, khói cay toả lên miệng hầm mù mịt, có tiếng ho sặc sụa của bọn chúng. Tôi nói lớn:
- Các anh đầu hàng đi, tôi cho 5 phút để đầu hàng, bằng không tôi sẽ thẩy lựu đạn nổ mạnh xuống hầm.
Có tiếng ho, và tiếng đàn bà la lớn dưới hầm:
- Chúng tôi đầu hàng... Chúng tôi đầu hàng... Cho chúng tôi lên, đừng liệng lựu đạn xuống.
- Có bao nhiêu người dưới hầm?
- Chúng tôi có ba ngườị
- Liệng súng lên miệng hầm truớc, người lên saụ Tuần tự từng người một, hai tay đưa lên khỏi đầụ Nếu có vũ khí cầm tay sẽ bị bắn hạ ngaỵ
Tiếng nói dưới hầm vọng lên:
- Chúng tôi nghe rõ.
- Bây giờ bắt đầu, liệng vũ khí lên đị
Hai súng AK 47 và một súng B41 từ dưới hầm chuyển lên. Sau đó từng người một đưa hai tay cao quá đầu chui từ hầm bí mật trồi lên. Người đầu tiên là một phụ nữ khoảng trên hai mươi tuổi, và sau đó là hai người đàn ông chưa đầy ba mươi tuổị Cả ba người vừa lên khỏi hầm bí mật đã ngồi qụy xuống ngay nền chuồng heo đầy phân heo, thở dồn dập. Có lẽ chỉ cần chậm thêm vài phút họ đã ngất xỉu, vì hơi cay và thiếu dưỡng khí trong hầm bí mật. Ba nhân viên CSĐB đã còng tay họ xong, Đaị úy Ân hỏi họ:
- Đạn B41 và chất nổ để ở đâủ
- Còn dưới hầm.
Ân định cho một toán xuống lục soát hầm lấy đạn B41 và chất nổ lên. Tôi cản lại:
- Khoan đã Ân. Coi chừng bọn chúng gài chất nổ chậm dưới hầm. Đem họ đị Tất cả anh em rời khỏi đây ra ngoài sân chùa ngaỵ Coi chừng hầm nổ tung bây giờ, một hai giờ sau xuống lục soát chưa muộn.
Chúng tôi rời chuồng heo dẫn họ ra sân chùạ Bây giờ tôi mới có dịp quan sát kỹ ba tên đặc công: Người đàn bà, nữ đặc công là một thiếu nữ mặt còn rất trẻ, hai người đàn ông kia cũng khoảng dưới ba mươi tuổi, tất cả mặt mày xanh xao, quần xắn cao, phân heo dính đầy người và đặc biệt từ mắt cá chân trở xuống nuớc phân heo đã nhuộm đen đôi bàn chân của ho.. Phải nhìn thấy một sự thật rõ ràng, sức chịu đựng gian khổ của họ đã vượt quá mức. Mọi người có mặt hôm đó thật tình không hiểu nổi làm sao họ có thể đứng nhiều ngày dưới một hầm phân heo ngập quá mắt cá chân. Tôi hỏi người nữ đặc công:
- Chị và hai người kia ở dưới hầm bao lâu rồỉ
- Ba đêm, bốn ngàỵ Ban đêm chúng tôi lên khỏi hầm đi quan sát và điều nghiên mục tiêụ
- Mục tiêu nàỏ
- Quận đường Quận IIỊ
- Khi nào tổ của chị tấn công?
- Tối hôm nay, một giờ sáng.
- Tổ của chị thuộc đơn vị nàỏ
- Đơn vị Đặc công H1 cơ quan Thành ủỵ
Tôi định hỏi tiếp người nữ Đặc công này thì một toán chuyên viên thâu hình của đài truyền hình Huế, một số ký giả và đài phát thanh Huế đã vào sân chùa từ hồi nào và muốn phỏng vấn tôị Tôi từ chối khéo, vì chuyện chúng tôi làm là chuyện tình báo, chuyện kín, chuyện hở, chuyện trên trời dưới đất, làm sao nói đu +ợc. Sẵn có Vinh đứng gần tôi, tôi chuyển qua cho Đại Úy Vinh:
- Tôi quá bận, xin quí vị gặp Đại úy Vinh Chỉ huy phó của tôiÔng ta sẵn sàng tiếp tất cả quí vị, ngoài ra nếu quí vị muốn thâu hình 3 Đặc công Việt Cộng, vũ khí tịch thâu được và hầm bí mật xin cứ tự nhiên.
Tôi thoát nơ.. Bây giờ thì đồng bào đã tràn vào sân chùa, họ đứng xem, xầm xì, bàn tán, tôi nghe có người nói:
- Mình đã nghi oan cho Cảnh Sát. Họ vây chùa khui hầm bí mật bắt Việt Cộng, chứ đâu bắt quí thầỵ
Tôi nghe rõ và trả lời với họ:
- Tôi cám ơn người nào vừa nói câu đó, cám ơn đã trả lại công bằng cho Lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế chúng tôị Cách đây vàì giờ, khi chúng tôi đổ quân vây chùa, đồng bào đã phản đối, cho rằng chúng tôi đàn áp Phật Giáo, vây chùa bắt Tăng, Nị Bây giờ có ai chứng minh được ba tên đang ngồi đó là Tăng, Nị Tôi sẽ mở còng cho họ, và giao lại cho đồng bào rước 'Tăng, Ní, trở lại chùả
Mọi người đều im lặng, bỗng từ trong đám đông, một người đàn bà xông ra, chỉ vào mặt ba tên Đặc công Việt cộng, với một giọng Huế nhưng thuộc Quận Hương Điền rất khó nghe:
- "Ba đứa ni mà Tăng, Ni chi, tụi hắn là Việt Cô.ng. Ông cha mồ tổ bây, Mậu Thân bây bắt chồng tau đem đi chôn dập chôn vùi ở mô mà nấy năm trời ni tau đi cùng vành non nước tìm xác không ra, tổ cha mụ nội bây, đồ Việt Cộng ác ôn".
Vừa la hét, chửi bới, chị ta xông vào định hành hung tên nữ Đặc công. Một CSDC cản lạị Một CSDC đứng gần tôi, nói vớí tôi:
- Chị ta là vợ của một Cảnh Sát Quận III, bị Việt Cộng bắt đi chôn sống năm Mậu Thân, để lại cho chị 8 đứa con dại nheo nhóc. Gia đình chị ta ở gần nhà em, lâu lâu lại sang nhà em mượn gạọ Thật tội nghiệp, thường ngày chị ta hiền lắm.
Vừa nghe nói chị ta là vợ nhân viên Cảnh sát, tôi móc trong túi có được ít tiền dúi vào tay chị ta:
- Thôi được rồi, chị hả giận chưa, đi về mua gạo cho con đị Chị chửi Việt Cộng ác ôn chỉ gãi ngứa cho tụi hắn mà thôi, lần sau có chửi thì phải chửi: "Ông cha mồ tổ thằng Hồ Chí Minh" may ra tụi hắn mới đaụ"
- Thưa Ôn, em còn ức lắm. Cho em nói với ôn Chơn Thông một câu nữa rồi em về.
Miệng nói, chân bước đến ngay trước mặt Thích Chơn Thông đang bị còng tay ngồi cùng với ba tên Đặc công Việt Công:
- Lâu nay trong xóm ai cũng tưởng Ôn là người tu hành, té ra Ôn là Việt Cô.ng. Ôn đào hầm bí mật chứa Việt Cộng trong chùa, đồ Việt Cộng ác ôn...
Nhìn cảnh người đàn bà uất hận chửi bới Việt Cộng, tôi hiểu ngay phải đem 3 tên Đặc công và Thich Chơn Thông rời khỏi chùa càng sớm càng tốt, bằng không sẽ sinh loạn, vì khu vực này năm Mậu Thân 1968, Việt Cộng đã bắt 500 người đem đi chôn sống. 500 gia đình nạn nhân họ kéo đến thì thật đại họạ Tôi gọi Đại Úy Ân:
- Ân, đưa bọn họ về Trung Tâm Thẩm vấn,. Nhiều gia đình có thân nhân đã bị Việt Cộng chôn sống họ kéo đến thì phiền lắm.
Ân cho xe chở 3 Đặc công Việt Cộng và Thích Chơn Thông về Trung Tâm Thẩm vấn. Đại úy Tý cho một toán CSDC xuống lục soát dưới hầm bí mật, tịch thu 3 quả đạn B41, một số chất nổ cùng đạn AK47.
Đồng bào từ từ giải tán, có tiếng la to:
- Đả đảo Việt Cộng ác ôn. Hoan hô Cảnh sát. Hoan hô Đại úy Liên Thành.
Tôi cười, và cũng la to trả lời họ: "Hoan hô đồng bào!"
Từ tháng 10/1966 đến 10/1974 lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế đã khám phá hàng chục hầm bí mật tương tự như tôi vừa kể trên. Nếu viết ra cả hàng trăm trang giấy cũng vẫn chưa hết, đó là một sự thật đáng buồn. Phật Giáo tại Huế từ lâu đã bị Việt Cộng xâm nhập quá sâu, từ hạ, đến thượng tầng cơ sở, những chuyện tương tự còn quá nhiều, xin hẹn một dịp khác.
Tạm Hết
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 19, 2011 7:29:16 GMT 9
LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM 99 và Đôi Lời Tâm sự của HQ Đại Tá Lê Hữu Dõng Phan Lạc Tiếp ghi. Trích Tuyển Tập Hải Sử Trong bài phỏng vấn Đô Đốc Chung Tấn Cang, chúng ta đã thấy được sự khéo léo trong việc đem đoàn tàu ra khơi. Qua đó Đô Đốc Chung Tấn Cang đã nhắc đến vai trò quan trọng của lực lượng Hậu Bị để ngăn bước tiến của địch và giữ an ninh thủy trình. Đó là nhiệm vụ của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, do Hải Quân Đại Tá Lê Hữu Dõng, làm Tư Lệnh. Để có một cái nhìn chính xác về Lực Lượng này, chúng tôi đã tìm gặp Đại Tá Dõng, hiện cư ngụ tại Bakersfield. Qua những lần trò chuiyện mặt đối mặt, qua điện thoại, thư tín, điện thư, cộng với những thăm hỏi, đối chứng và cả rất nhiều tài liệu của đối phương, chúng tôi cô đọng và thực hiện bài viết này. Được hỏi về sự thành lập Lực Lượng này, các đơn vị trực thuộc, nhiệm vụ và vùng hoạt động… Đại Tá Dõng đã trả lời: “…Lúc ấy, tôi đang làm Tư Lệnh Phó Lực Lượng Tuần Thám, phụ tá cho Đô Đôc Nghiêm Văn Phú thì được Đô Đôc Chung Tấn Cang gọi về thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99. Đó là ngày 08 tháng 4 năm 1975. Trong khẩn cấp, các đơn vị sau đây đã được lấy về, gồm Giang Đoàn 42 Ngăn Chận, Giang Đoàn 59 Tuần Thám, Đại Đội Hải Kích, Địa Phương Quân, một số giang đỉnh lấy ra từ những Giang Đoàn Thủy Bộ, Ngăn Chận và Xung Phong. Kể cả 6 chiếc LCM8 của các căn cứ Yễm Trợ Tiếp Vận. Mấy chiếc chiến đỉnh Zippo phun lửa nữa… Nói chung, đây là một đại đơn vị gồm rất nhiều loại tàu bè, tất cả là 62 chiến đỉnh, một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân Miền Nam lúc bấy giờ. Về nhiệm vụ, do khẩu lệnh mà tôi nhận trực tiếp từ Đô Đôc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải Quân thì Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 gồm những trọng trách sau đây: Thứ nhứt, Lực Lượng sẽ là đơn vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính Phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu. Thứ hai là bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào nếu Hạm Đội phải rời Sài Gòn ra biển. Và thứ ba là bảo vệ Bộ Tư Lệnh Hải Quân, nếu có đảo chánh xẩy ra. Do đó vùng hoạt động của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 không nhất định.” Một cách tổng quát, hầu như ai đã có chút quan tâm đến thời cuộc, đều biết rằng ngày 20 tháng 4, mặt trận Xuân Lộc vỡ, Sài Gòn đã thực sự bị đe dọa. Với nhiệm vụ được nêu rõ ở trên, một cách cụ thể, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, đã hoạt động như thế nào. Đã có những đụng độ nào đáng kể. Trước những thắc mắc ấy, Đại Tá Dõng thong thả đáp: “Sài Gòn kể từ ngày đó, quả là những ngày hấp hối. Trong nhiệm vụ của tôi, của Lực Lượng Đặc nhiệm 99, chúng tôi phối hợp với các đơn vị bạn để ngăn chận bước tiến của địch ở mặt Tây Nam Sài Gòn. Cụ thể là bằng mọi giá phải chận đứng bước tiến của các Công trường 9, Cộng trường 7 và Công trường 5 cùng với tiểu đoàn Nhái của địch từ các ngả biên giới Miên tràn xuống. Trở ngại của những cách quân này là 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Mục đích của chúng gồm 2 bước: Thứ nhứt là cắt đứt quốc lộ 4, để Sài Gòn và miền Lục tỉnh, Quân đoàn 4 không thể cứu ứng được cho nhau. Như chúng ta dự trù, khi Quốc lộ 4 bị cắt, chúng ta muốn dời Chính Phủ về miền Tây, sẽ vô cùng khó khăn. Bước thứ hai, nếu chúng vượt qua và khống chế được 2 con sông Vàm Cỏ, thì coi như Sài Gòn đã bị bao vây bốn mặt. Chúng sẽ khóa chặt thủy trình huyềt mạch là sông Lòng Tào và sông Soài Rạp, cửa ngõ yết hầu nối Sài Gòn với cửa biển sẽ bị bít kín. Đa số tàu bè của Hải Quân như những con cá kình mắc cạn, ta sẽ vô phương xoay trở. Nhưng với sự hiện diện của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, ý đồ trên của địch đã thất bại.” Sau này trong cuốn Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng, chính Võ Nguyên Giáp cũng đã xác nhận sự thất bại này, nguyên văn nơi trang 317 như sau: “Đặc biệt ở phía Tây Nam Sài Gòn, nơi có địa hình sình lầy, trống trải, bộ đội và nhân dân đã phải vượt muôn vàn khó khăn, đánh thông hành lang Tây Ninh-Kiến Tường, làm chủ một phần sông Vàm Cỏ Tây, mở ra một vùng giải phóng, lót sẵn lương thực, đạn dược, tạo thế thuận lợi cho một bộ phận đoàn 232 tiến công vào Sài Gòn. Ở hướng tây nam, Bộ Tư lệnh quyết tiến công vào thị trấn Thủ Thừa và thị xã Tân An, không đánh chiếm Mộc Hóa như trong kế hoạch cũ. Trận đánh không thành công vì quân địch đã phòng bị sẵn”. Giáp đã không nói rõ những ‘muôn vàn khó khăn’, ‘địch đã phòng bị sẵn…’ là những khó khăn nào, phòng bị như thế nào, sức đối kháng từ đâu tới và bộ đội của Giáp đã có những thiệt hại gì… Để chứng minh hiệu quả trên, một số những trận chiến ác liệt trong vùng trách nhiệm, đã được Đại Tá Dõng nhớ lại như sau: “Sáng ngày 16 tháng 4, khi đoàn chiến đỉnh của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 trên đường giải tỏa áp lực địch trên kinh Thủ Thừa, chúng tôi thấy ở bên kia bờ rạch Cần Đót, có rất đông người đang tắm. Lấy ống nhòm quan sát, mới hay đó là một đơn vị địch. Tôi cho lệnh đoàn tàu ủi thẳng sang, tấn công. Chúng chấp nhận giao chiến, không chạy. Hai bên cách nhau rất gần, trên dưới 10 thước mà thôi. Sức phản công của chúng rất dữ dội, gồm nhiều loại súng lớn rất ác liệt, như 82 ly không giựt, 12ly8. Phía các chiến đỉnh của chúng ta được một phen đáp ứng ngon lành. Tôi còn nhớ anh Đức, một thủy thủ, bị thương ở mặt và ở đầu, máu tuôn xối xã, nhưng anh Đức chỉ lấy tay vuốt máu trên mặt, đứng thẳng trên nóc chiến đỉnh, ôm khẩu MK19 nã thẳng vào đối phương. Trận chiến kéo dài suốt ngày. Phía ta có các đơn vị Bộ binh và Địa phương quân đến tiếp ứng. Tới 5 giờ chiều địch rút. Trong trận này phía chúng ta thiệt hại nhẹ. Phía địch thiệt hại không dưới một tiểu đoàn. Vũ khí ta thu được gồm 4 khẩu 82ly, 2 khẩu 12ly8, 12 khẩu B40 và rất nhiều súng AK cùng súng trường Nga.” Vẫn theo lời kể của Đại Tá Dõng: “ … Kể cũng thật ghê gớm. Vẫn tại Cần Đót, hôm trước chúng ta giải tỏa, hôm sau địch lại kéo tới, đông hơn. Các chiến đỉnh của ta đụng địch liên tục. Tôi còn nhớ một chiếc Monitor của Giang Đoàn 42 Ngăn Chận bị trúng 82ly không giựt trực xạ, khiến 3 nhân viên và Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ, khóa 12, chỉ huy trưởng, bị thương. Máu đầy mặt, nhưng tất cả vẫn ở trong các ổ súng, tiếp tục bắn. Cứ như thế, ta và địch giằng co, ’gặp nhau’ đều đều. Trong khi đó, pháo 122ly của địch hàng ngày câu hàng trăm trái vào Long An, gây rất nhiều đổ nát, thương vong cho dân chúng. Đạn rơi cả vào nhà thương, khiến những người đã bị thương lại bị thương một lần nữa. Thân nhân của họ vội tản thương khỏi nhà thương. Sư Đoàn 22 Bộ Binh, từ miền Trung di tản về đang được tái trang bị, dưới sự chỉ huy của tướng Phan Đình Niệm, đem một Trung đoàn ra giải tỏa áp lực địch tại Cầu Voi, nhưng áp lực địch vẫn rất nặng nề. Ta và địch giằng co nhau nhưng Cầu Voi vẫn không bị phá, giao thông trên quốc lộ 4 nhiều lúc khó khăn nhưng không hề bị cắt, vì được người Nhái của ta ngày đêm tận tình bảo vệ. Những phen Nhái ta và Nhái địch quần nhau ở chân cầu Long An đầy cam go, hồi họp. Rồi lợi dụng đêm tối, Nhái của chúng lội ra giữa sông, leo lên các chiến đỉnh của người Nhái ta, nhưng chúng ta đã phát giác kịp thời. Tất cả Nhái của địch đều bị Nhái của ta hạ sát khi vừa xuất hiện bên mạn chiến đỉnh, chìm mất xác dưới lòng sông. Cũng chính vì thế các chiến đỉnh không bao giờ được neo ngủ, phải luôn luôn di động và dùng lựu đạn ném quanh tàu. Nhiều chi tiết rất khiếp đảm trong việc chống lại người Nhái địch, nói ra không hết. Một thủy thủ đứng gác trên nóc chiến đỉnh bỗng thấy mặt nước khua động, rồi một cái đầu ló lên, một cách tay bám vào mạn chiến đỉnh, rất nhanh như một phản xạ, một trái lựu đạn được quăng xuống nước, nổ ục, tung một quầng nước lớn đỏ thẫm những máu. Tên Nhái địch buông tay, chìm. Mặt nước lại lững lờ trôi như không có gì xảy ra. Đêm cũng như ngày, có thể nói sự nguy hiểm có mặt ở sát bên mình.” Bằng một giọng nửa đùa cợt, nửa thắc mắc, Ông nói: “Không biết tụi nó tưởng tàu mình bằng giấy bồi, lính của mình là lính gỗ chắc. Hết Nhái của tụi nó bơi ra, lại có cả những ghe gỗ, chở lính, cũng cứ nhào ra, một lúc mấy chiếc. Chúng dùng đủ loại súng bắn vào các chiến đỉnh của ta. Đạn súng nhỏ bắn vào thành chiến đỉnh rào rào như mưa. Chúng ta phản pháo bằng súng thường không xuể. Các ghe chở đầy lính của địch lại túa ra. May mà hai chiếc Zippo vừa nạp đầy nhiên liệu, loại xăng đặc dùng cho bom Napalm, đã sẵn sàng. Hai chiếc Zippo, dưới sự bảo vệ của các chiến đỉnh khác, tiến sát vào bờ, lưỡi lửa phun ra dài cả trăm thước. Trong nháy mắt cả một vùng bờ cây xanh từ gốc tới ngọn cháy rực, gãy đổ, lửa khói bốc cao, khét lẹt. Từng lớp người ở sát bờ sông ngã ra, tràn xuống mặt nước. Các đợt xung phong dại dột của địch khựng lại, phòng tuyến địch rối loạn. Nhưng quân trên bờ của địch, người ở đâu vẫn đen đặc, kêu thét chạy tán loạn, đặc nghịt. Phòng tuyến của chúng vỡ. Ông Tỉnh Trưởng Trần Vĩnh Huyến chứng kiến cảnh này, lắc đầu. Ta không đủ quân để lên bờ thu chiến lợi phẩm. Nhưng thiệt hại của chúng không dưới một tiểu đoàn. Sau trận ‘hỏa công’ này, mặt trận hai con sông Vàm Cỏ trở nên yên tĩnh. Có lẽ nhờ thế chúng đã không thể nào vượt qua 2 con sông Vàm Cỏ, để áp đảo Sài Gòn. Nhìn mấy chiếc ghe cháy xám, trôi lềnh bènh, đúng là những chiếc thuyền ma, lòng vừa giận, vừa thương, vừa hú vía…”. Lau mồ hôi và thở một hơi dài, Đại Tá Dõng lại tiếp: “Mấy ngày sau, mặt sông có những xác người trôi đen đặc. Mùi tử khí bay nồng nặc. Nghĩ lại cuộc chiến thật đau lòng…” Vẫn lời của Đại Tá Dõng: ”Đó là một trong những cuộc tao ngộ chiến, mà sau này đọc tài liệu của họ tôi mới biết. Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đã cản đường tiến của đoàn 232, tương đương với 1 Quân Đoàn, do tướng Lê Đức Anh chỉ huy, nằm ém quân bất động ở ngã ba sông Vàm Cỏ, đợi sẵn khi có thể là vượt sông, tiến vào Sài Gòn. Tại đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 lúc nào cũng có 6 chiến đỉnh hiện diện. Vậy mà chúng nín khe, suốt mười mấy ngày không một tiếng súng bắn ra. Bây giờ cuộc chiến đã tàn. Mọi việc đã nhạt nhòa như không có thực. Nhưng giả thử Cộng quân không bị cản đường, chúng qua được sông Vàm Cỏ, nằm sẵn ở 2 bên sông Lòng Tào và Soài Rạp, khi đoàn tàu thuyền trong đêm 29 rạng 30 tháng 4, chở đầy quân, dân, đàn bà và trẻ con túa ra biển, những điều gì đã phải xẩy ra. Với hỏa lực của mấy sư đoàn địch trên bờ và mấy trăm cổ hải pháo trên các chiến hạm cùng thi nhau nhả đạn, hai con sông Lòng Tào và Soài Rạp chắc chắn sẽ là hai con sông kinh hoàng ngập máu, sẽ tàn khóc và rùng rợn nhiều lần hơn Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa hè Đỏ Lửa 1972”. (Người viết thoát khỏi Sài Gòn trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ502, một con tàu hư hỏng, chỉ còn một máy, do HQ Thiếu tá Nguyễn Văn Tánh làm Hạm Trưởng. Trên tàu chở theo 5000 người. Trong đó có vợ và 4 con của Đại Tá Dõng thoát đi vào phút chót cùng với gia đình Trung Tá Tòng, mà Đại Tá Dõng không hay. Đại Tá Dõng nhiều ngày sau mới gặp lại gia đình tại khu Liều Vải, Orote Point, ở Guam. Khi Cộng sản đã vào Dinh Độc Lập, ông Minh đã tuyên bố đầu hàng, con tàu HQ 502 chết máy, vẫn chưa ra khỏi cửa sông Soài Rạp, và vẫn tiếp tục vớt thêm người từ các ghe dân táp vào tàu.. Có nghĩa là cho đến trưa ngày 30 tháng 4, địch chưa hiện diện trên khúc sông này, sông Soài Rạp vẫn còn an ninh. Được như thế tất nhiên không phải là môt sự tình cờ. Đó là công lao to lớn cụ thể của đơn vị hậu bị, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, và do sự khéo léo dự trù của Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, Bộ Tham Mưu và sự hợp tác của tất cả Thủy Thủ Đoàn mọi cấp bậc. Nếu không, thí dụ chỉ một trái B40 bắn vào HQ502, tàu bốc cháy, 5500 người trên tàu sẽ là nạn nhân trong một lò lửa… Chỉ mới nghĩ thế, tôi đã thấy rùng mình.) Được hỏi “Khi đoàn chiến hạm ra đi, Đại Tá có được thông báo không”. Đại Tá Dõng đáp: “Có chứ. Trước khi hạm đội khởi hành. Đô Đốc Cang có hỏi tôi là an ninh thủy trình sông Lòng Tào và sông Soài Rạp ra sao. Tôi xác nhận là an ninh tốt. Rồi trong đêm 29 tháng 4, Đô Đôc Cang đã 2 lần nhờ Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu, Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Rừng Sát và Trung Tá Dương Hồng Võ tìm tôi, kêu tôi hãy mau rời vùng hoạt động, ra khơi với đoàn tàu.” Một thắc mắc được nêu lên. Đại Tá đã ra đi bằng cách nào. Và Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 vào phút chót ra sao. Và chẳng may ông kẹt lại, ông sẽ nghĩ gì, phản ứng ra sao… Đại Tá Dõng cười và tiếp: “Lúc đoàn tàu ra khơi, tôi còn lênh đênh trên ngã ba sông Vàm Cỏ. Vẫn cố giữ sự hiện diện của mình ở đây để cản đường tiến của địch, như nhiệm vụ đã được thượng cấp giao phó. Nếu chẳng may mà kẹt lại thì cũng đành vậy, rồi liệu sau. Có điều lúc ấy, đâu đã rõ tình hình ra sao. Đại tướng Minh đâu đã đầu hàng. Trên bờ thì khác, chứ trên sông nước, mình vẫn còn bảnh lắm… Rồi như chúng ta đều biết, hôm sau, 30 tháng 4, trước khi ông Minh ra lệnh đầu hàng mấy phút, tôi trở lại Long An, nhà Ba tôi, đón hai đứa con tôi. Cho đến 16 giờ hôm ấy, 30 tháng 4, tất cả chiến đỉnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đều có mặt tại ngã ba sông Soài Rạp. Bên cạnh tôi có Đại úy Hải CHT/GĐ59 Tuần Thám, tôi đích thân ra lệnh giải tán Lực Lượng. Tôi đã nghẹn lời có nói một câu ngắn rằng: ‘Hẹn gặp lại anh em…’ Qua lời kể của Đại Tá Dõng, ta thấy trận chiến kinh khiếp như thế, đạn bắn vào tàu như mưa, là người chỉ huy và trực tiếp xông pha cùng với đoàn viên các cấp, một câu hỏi đùa: “Chắc ông có bùa Miên, nên đạn đã tránh ông”. Đại Tá Dõng cười đáp: “Đâu có. Nhiều lần tôi đã bị thương. Nhưng lần đi trận cuối, và bị thương lần cuối là ngày 17 tháng 4 năm 1975, tại Long An. Nhẹ thôi. Cũng không biết mình bị bắn lúc nào. Một mảnh đạn nhỏ ghim vào ngực bên trái. Hồi 9 giờ 15, hay tin tôi bị thương, Đô Đôc Phú đã phóng PBR lên tại mặt trận thăm tôi, hỏi tôi có chịu đựng được không. Lúc đó vì đang đụng nặng, tôi đã vui vẻ đáp là không có gì, chỉ biết là bị thương ở ngực thôi, và bị rát quá, máu ra chút đỉnh thôi. Khi mặt trận đã vãn, tôi về đến nhà, nên nhớ là nhà tôi ở Long An, Bác sĩ Truyền đã cứu chữa cho tôi ngay, lấy viên đạn ra. May là viên đạn không vào sâu bên trong. Tôi có báo cáo cho Đô Đốc Cang, nhưng Trung tá Vĩnh Giang, bạn cùng khóa nghe tin, liền thông báo cho các bạn là tôi bị thương nặng, sắp chết. Vết thương này, cả tháng sau, khi đã ra khỏi trại Indiantown Gap, mới thực sự bình phục.” Vẫn lời Đại Tá Dõng: “Sau khi giải tán Lực Lượng 99, tôi và Đô Đốc Phú dự định dùng 2 chiếc PCF để ra đi, cuối cùng HQ 402 đi qua. Anh em trên tàu thấy chúng tôi trên LCM8, nên kêu gọi, tôi lên HQ402, sau tôi mời Đô Đốc Phú lên. Trên HQ402, tôi và ông sau 2 ngày nhịn đói, ăn chung một đĩa cơm do Thượng sĩ Võ Văn Hiếu đưa lên. Rồi ông từ giã tôi lên Soái Hạm, ông không nói gì, nhưng ánh mắt ông nhìn tôi như nói lên tất cả. Tánh ông thế. Qua Mỹ, hình như ông không liên lạc với ai. Ông có gọi thăm tôi tất cả 5 lần. Ông buồn, mới mất, chẳng để lại một nhắn gửi gì”. Đại Tá Dõng nói thêm: “Có một chuyện ít ai biết là chiều ngày 29 tháng 4, tôi và Đô Đốc Phú ngồi trên một PBR đậu tại bến đò Long An. Cầu Long An, thị xã Long An chưa lọt vào tay địch. Tại đây chúng tôi đã làm được 2 việc như sau: Thứ nhứt là khi ra lệnh cho Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở Gò Dầu Hạ, Thiếu tá Sơn có hỏi tôi, có ông Quân trưởng Gò Dầu Hạ xin tháp tùng, có cho đi không. Tôi đáp chở hết và đánh đắm tất cả các chiến đỉnh hư hỏng, đi vận tốc tối đa ra sông Soài Rạp. Sơn hỏi ‘Lệnh của ai’. Tôi đáp có ‘một sao’ ngồi đây. Đô Đốc Phú cười. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông cười. Và đoàn giang đỉnh Gò Dầu Hạ đã ra đến Soài Rạp an toàn trưa ngày 30 tháng 4. Nếu Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở Tuyên Nhơn của Thiếu tá Lê Anh Tuấn lên máy liên lạc với tôi, tôi cũng sẽ bảo đi như Gò Dầu Hạ. Tiếc thay! Thứ hai là, cho đến phút chót, chúng tôi vẫn giữ đuợc trật tự, an ninh trên tất cả chiến đỉnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 và cho Đại Đội Tuần Giang và Giang Cảnh Long An tháp tùng ra sông Soài Rạp. Tiếc rằng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Ông Tỉnh trưởng Long An từ chối không ra đi, ở lại. Một điều nữa là cho đến giờ này tôi rất yên lòng là suốt thời gian đụng nhiều trận nặng, trước những đợt tấn công ào ạt biển người của địch, như đã mô tả ở trên, nhưng chỉ có mấy anh em bị thương (khoảng 5 người) mà không mất mát người nào, cho đến khi tôi lên HQ402, giã từ nhiệm vụ Chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 99.” Lên HQ402, một con tàu hư hỏng với trên 2000 người trên tàu. Chính Đại Tá Dõng đã nhọc công lái HQ402 ra biển, chỉ huy con tàu ấy, cho đến khi tất cả số người trên tàu được chuyển sang tàu khác. HQ402 được lệnh đánh chìm. (Hoàn cảnh của HQ402 đã được Bà Diệp Mỹ Linh kể lại rất chi tiết trong cuốn HQVNCH Ra Khơi, nơi trang 261, 262). Một Chút Riêng Tư Hải Quân là một quân chủng, nhưng trên thực tế lúc đông nhất chỉ trên Bốn Chục Ngàn người. Với những sĩ quan cấp tá, thì hầu như ai cũng biết nhau. Biết khá kỹ về khả năng, tính tình của nhau. Ông này điềm tĩnh, uyên thâm, hợp với vai trò tham mưu. Ông kia trầm tĩnh, chịu sóng, thích đi tàu. Ông khác thì ồn ào, xông xáo chỉ thích hợp với các đơn vị trong sông… Nhưng trường hợp của Đại Tá Dõng thì hơi khác. Tuy xuất thân khóa 8, khóa đầu tiên được giảng dạy bằng Việt ngữ của trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, ra trường năm 1960, nhưng ông đã may mắn trải qua những thời gian đi biển, đi sông, đã từng giữ các chức vụ Hạm Trưởng, đã đi du học, đã làm Hạm Trưởng vượt Thái Bình Dương, đem tàu từ Mỹ về nước. Đặc biệt chỉ 4 năm sau khi ra trường, ông đã được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng Hải Đoàn 22 Xung Phong, một đơn vị khét tiếng với những chiến công trong sông. Và cuộc chiến trong sông hầu như rất thích hợp với ông. Ông liên tiếp tạo được nhiều thành tích, khiến ông vừa từ giã Hải Đoàn này, lại tiếp tục Chỉ huy Giang Đoàn khác. Cùng lúc với cuộc chiến bùng lên, Hải Quân bành trướng mau lẹ, ông là vị sĩ quan khóa 8 đeo lon Đại Tá sớm nhất, vượt qua nhiều khóa đàn anh. Chúng tôi có hỏi: “Yếu tố nào đã khiến ông ra gia nhập Hải Quân. Và lúc vào Hải Quân ông có nghĩ rằng, mới ngoài 30 tuổi, ông đã đeo lon tới Quan Năm tàu thủy không… Ông cười và đáp: “Trong một buổi tối, ngồi chơi tại bến Bạch Đằng, nhìn những thủy thủ lên xuống chiến hạm, thấy những con tàu xám uy nghi, tôi xúc động và tìm cách vào Hải Quân qua người bạn thân là Đại Tá Nguyễn Ngọc Rắc. Lúc vào trường còn đội nón như Hạ sĩ quan, vành nón đen bóng, chỉ mong sớm mãn khóa để có cái vành vàng vàng trên nón là thích rồi. Ra trường, đơn vị đầu tiên của tôi là HQ330, Hạm Trưởng là Hải Quân Trung úy Lê Triệu Đẩu, cũng là sĩ quan Đại Đội Trưởng Khóa 8. Lúc ấy lên cấp khó khăn, từ Hạm Trưởng, Hạm Phó, Cơ khí trưởng…ai cũng là Trung Úy cả. Tôi cũng chỉ mong đến lúc có 2 vạch trên vai như mọi người thôi. Ai dè cuộc đời đưa đẩy…” Dù sao cuộc chiến cũ cũng đã nhạt nhòa, có điều gì được coi là vui, là đáng nhắc lại. Đại Tá Dõng đáp: “Quê tôi là Long An, cùng quê với ông Huỳnh Duy Thiệp. Tôi sinh năm 1936. Qua đây thấp thoáng gần 30 năm. Cuộc đời chẳng còn mấy chốc. Tôi cũng mới nghỉ hưu. Tụi nhỏ 6 đứa đều đã nên người, 5 đứa đã có gia đình. Sao mà nhớ lại những ngày tháng cũ, vẫn cứ bồi hồi. Kỷ niệm vui nhất là vào khoảng tháng 4 năm 1964, tôi được ân thưởng một Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng do Đại tướng Lê Văn Tỵ ký. Đó là kết quả sau cuộc hành quân tại Lương Hòa Thượng, sông Vàm Cỏ Đông. Hải Đoàn được tăng phái một Đại Đội Biệt Động Quân. Chỉ huy trưởng Hải đoàn lúc đó là HQ Đại úy Huỳnh Duy Thiệp. Ông đã ủy nhiệm cho tôi ‘làm ăn’, với câu dặn dò: ‘Ê, đ.m. Đây là chuyến thử lửa đầu tiên của mày đó nha mậy’, rồi ông cười hề hề coi như chuyện nhỏ. Tôi cố gắng và thi hành tốt đẹp chuyến hành quân này. Từ đó, ông hoàn toàn tín nhiệm tôi 100%, dù cuộc hành quân trên kết quả rất khiêm nhường: tịch thu 1 CKC và 40 quả lựu đạn. Tôi đi sát ông. Tôi có thể nói rằng cấp bậc Đại Tá mà tôi có được, một phần không ngỏ là do vị CHT Huỳnh Duy Thiệp tạo nên. Do những kinh nghiệm của ông mà tôi tiếp nhận được, cũng như những tư cách chỉ huy, rất bình tĩnh khi đụng trận, nhất là những quyết định bất ngờ, dứt khoát mà chỉ những người có thiên tư về chiến trận mới có được. Những bài học máu xương trong sông tôi đã học được từ ông. Ông đã bắt cái cầu qua sông để tôi tự vạch rừng, làm đường mà tiến. (Phải không anh Thiệp).” Đại TáDõng đã nói rất thiết tha với tất cả sự chân thành. Ngưng một lát rồi ông êm ả nó: “Đối với người trên tôi đã học được là từ anh Thiệp. Nhưng như chúng ta đều biết, ở trong quân trường, có bài học nào dạy chúng ta tác chiến trong sông đâu. Trên thế giới, nói đến Hải Quân là nói đến những con tàu lớn hoạt động trên các đại dương, nói đến trận Eo Đối Mã, trận tấn công Trân Châu Cảng của Hải Quân Nhựt. Nói đén những luồng nước, những tai ương, bấc trắc của thời tiết… Có chiến trường nào đầy sông rạch như châu thổ Cửu Long Giang. Một vựa lúa của miền Nam, một vùng đất sình lầy chằng chịt những kinh rạch như mạng nhện. Chính nơi này, nói không ngoa, là vùng đất mà suốt cuộc chiến ngày đêm, mùa nắng cũng như mùa mưa, những người lính Hải Quân chúng ta lầm lũi, đối đầu với địch. Chúng ta đã có những chiến công hào hùng, nhưng cũng đầy gian lao khốn khổ. Từ U Minh, Đồng Tháp, Gò Quao, Tuyên Nhơn, Năm Căn, Tam Giác Sắt.. khắp vùng sông nước mịt mùng đó, chúng ta đã gian khổ đi qua, và không thiếu bạn bè ta đã nằm xuống. Có người đem được xác về. Có người sau một tiếng mìn bung nước, mất tăm. Những kinh nghiệm máu xương đó, với tôi, tôi đã học được từ những người lính dưới quyền. Nhiều người đã chỉ cho tôi những lắt léo, nguy nan cần phải tránh. Nhiều người mà sự can trường, lòng dũng cảm khiến tôi phải kính cẩn cúi đầu. Cấp bậc của tôi, tôi đã mang trên vai, như một vinh dự, đồng thời còn là một ân nghĩa từ tất cả những ai mà tôi đã có dịp cùng nhau chiến đấu tạo nên. Nhớ lại, viết ra không thể hết. Một số những gương anh dũng tôi đã ghi lại dưới đây. Trong đó không thiếu những điều gần như huyền bí, lạ lùng, không thể nào giải thích, nhưng hoàn toàn có thực. Bây giờ cuộc chiến đã phai tàn. Tôi xin mượn những dòng này để tạ ơn những đóng góp của các chiến hữu một thời xa xưa. Cũng xin thắp một tuần hương gửi tới anh linh những ai đã ngã xuống trên vùng sông nước quê nhà. Cũng xin gởi lời chào thân quý tới tất cả bè bạn áo trắng bốn phương, cũng như còn ở nơi quê cũ. Và nếu những tiết lộ trên đây về cuộc chiến, có lọt tới gia đình nạn nhân ở phía bên kia, tôi cũng cầu xin cho anh linh những người đã chết được êm đềm siêu thoát. Các anh, dưới áp lực này, hay lý do kia mà phải lao đầu vào vùng lửa đạn. Các anh chẳng thể nào lùi. Còn chúng tôi ở miền Nam, chúng tôi cũng đâu có thể làm khác. Định mệnh hay vận nước chẳng may khiến chúng ta gặp nhau nơi trận địa. Chúng ta cùng khốn khổ như nhau. Gần 30 năm đã qua, biết ra thì hầu như đã trễ. Tôi đã ghi lại những điều trung thực, hầu để thế hệ sau có thêm tài liệu để hiểu thêm về nỗi đau đớn của một cuộc tương tàn mà người Việt Nam dù Nam hay Bắc, đã không làm chủ được. Chúng ta đều có nỗi đau chung.” Lê Hữu Dõng, kể Phan Lạc Tiếp, ghi
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 10, 2011 6:37:06 GMT 9
Trận Thường Ðức, cuộc thư hùng Nam-Bắc cuối cùng
Tác giả: Văn Phan 1. Trận Thường Ðức, cuộc thư hùng Nam-Bắc cuối cùng * Dẫn nhập Mặc dù trận đánh tại Thường Ðức (từ ngày 15 Tháng Tám đến ngày 8 Tháng Mười Một năm 1974), cũng như trận Long Khánh hồi Tháng Tư năm 1975, không phải là trận đánh sau hết trong Chiến Tranh Việt Nam, nhưng đây phải được coi là cuộc đọ sức cuối cùng trong số hằng trăm, hằng nghìn trận thư hùng lớn, nhỏ của quân đội hai miền Nam-Bắc, một trận Ðiện Biên Phủ khác trên chiến trường Việt Nam mà kẻ chiến thắng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Có nhiều lý do dẫn tới nhận định trên. Lý do thứ nhất là mức độ dữ dội của trận đánh tại Thường Ðức khi chưa bao giờ có đông đến như thế các lực lượng tham chiến và hỏa lực tập trung của cả hai bên trên một chiến trường nhỏ hẹp chỉ gồm có ngọn Ðồi 1062 và các đồi phụ chung quanh với cao điểm trận đánh kéo dài chưa đầy một tháng. Lý do thứ hai là trận đánh này, dù mức độ ác liệt chỉ thua sút có trận Cổ Thành Quảng Trị và trận An Lộc, lại không được nhiều người biết đến do địa thế hẻo lánh của vùng giao tranh (giáp giới với vùng Hạ Lào) và do tình hình chính trị vào những ngày cuối của cuộc Chiến Tranh Việt Nam quá sôi động khiến báo chí Tây phương, vốn rất ồn ào, không đưa tin đúng mức vì họ không kịp hiểu hết tầm mức quan trọng của trận đánh mang ý nghĩa của một “cuộc thăm dò khả năng chiến đấu một mình” của quân đội miền Nam Việt Nam chống lại các lực lượng Cộng Sản sau khi quân chiến đấu Hoa Kỳ đã rút về nước. Lý do thứ ba là số lượng cao của các lực lượng tinh nhuệ tham chiến: Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt có Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên cùng Sư Ðoàn 324B và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có Sư Ðoàn Nhảy Dù. Lý do thứ tư là cán cân thăng bằng về hỏa lực và nhân sự giữa đôi bên coi như đã được tái lập sau khi sau khi các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ đã thực sự rút lui khỏi chiến trường, đem theo luôn sức yểm trợ mạnh mẽ của máy bay oanh tạc và hải pháo của Không Quân, Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong khi, về mặt súng nặng, quân Bắc Việt đã đưa vào sử dụng một số trọng pháo tân tiến chưa thấy dùng trong Mùa Hè Ðỏ Lửa cách đó hơn hai năm. (Yếu tố này được đề cập tới để các nhà viết quân sử không còn lý do nào để bảo rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có ưu thế về hỏa lực trong mọi trận đánh so với Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt.) Lý do sau cùng là lòng quyết chiến, quyết thắng của cả đôi bên trong trận đánh khi Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, sau khi đã chiếm được quận lỵ Thường Ðức và ngọn Ðồi 1062, một cao điểm chiến lược cực kỳ hung hiểm, chính thức thách đấu vời Sư Ðoàn Nhảy Dù để phân định cao thấp trong một trận đánh mà từ thời điểm cho tới chiến trường đều do họ chọn lựa. Một số tài liệu về trận đánh này cho biết chính Cộng quân đã dùng giàn thun bắn thư rơi khiêu chiến, “thách ‘Ngụy’ Dù lên đánh.” Phải biết rằng phe Cộng Sản vẫn hết sức ấm ức khi đành chấp nhận thảm bại trong trận chiến Cổ Thành Quảng Trị hồi Mùa Hè năm 1972 sau khi bị các lực lượng Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có sự yểm trợ của hỏa lực hùng hậu của Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân Hoa Kỳ, đánh cho tan tác, để rồi các lực lượng “Bộ đội Cụ Hồ” tinh nhuệ dưới quyền Tướng Võ Nguyên Giáp tham chiến đành phải rút lui “không còn manh giáp.” (1) Với các lý do được kể ra ở trên, chiến thắng của các lực lượng Nhảy Dù trước quân Cộng Sản phải được coi là hết sức oanh liệt và dứt khoát. Sau gần ba tháng trời, trận đánh kết thúc với việc các lực lượng Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa -dưới quyền chỉ huy tổng quát của các tướng Ngô Quang Trưởng và Lê Quang Lưỡng-tiêu diệt gần như toàn bộ các lực lượng tham chiến của Cộng Sản Bắc Việt bên trong và chung quanh ngọn đồi chiến lược 1062, khẳng định trước các nhà viết quân sử thế giới tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa so với Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt. (2) Bài viết này được thực hiện, phần lớn, dựa trên tài liệu nhan đề “33 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức” của Ðại Úy Võ Trung Tín và Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên, cả hai đều là sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, và đã được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới điện toán từ Tháng Mười Một năm 2008. * Bối cảnh chiến trận Trong phần nhận định tổng quát về bối cảnh cuộc chiến, các tác giả viết: “Sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào cuối Tháng Giêng, 1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu... Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, [Cộng Sản] Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Ðịnh Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực... Song song với việc Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đồng thời ào ạt di chuyển bộ đội trên Ðường Mòn Hồ Chí Minh vào các Quân Khu 2 và 3, hai Sư Ðoàn 304 và 324B Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở... “Ðịa hình Thường Ðức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Ðông bằng phẳng, từ quận Ðiện Bàn trên giao điểm Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 4 chạy dọc theo Sông Vu Gia dẫn vào Thường Ðức nằm ngay ngã tư Liên Tỉnh Lộ 4 và Quốc Lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con Sông Côn và Sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Ðông. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam...” Nói đến các động lực dẫn đến việc Cộng Sản Bắc Việt xua quân lấn chiếm Chi Khu Thường Ðức và việc Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 Vùng I Chiến Thuật, giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù trọng trách tái chiếm quận này, các tác giả viết: “Về mặt chiến lược, Thường Ðức là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát [của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa], khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Ðông mà Cộng Sản Bắc Việt vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27 Tháng Giêng 1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường mòn Hồ Chí Minh đưa từ A Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên Liên Tỉnh Lộ 4 cách Thường Ðức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trữ quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm. Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Ðức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng viện trợ quân sự cho Sàigòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là các lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù). “Ðối với Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thường Ðức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Ðức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay Cộng Sản sau ngày ngưng bắn. Ðai Lộc và Ðà Nẵng [nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Vùng 1 Chiến Thuật] sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.” Các tác giả liệt kê lực lượng địch và bạn tham chiến như sau: Lực lượng địch tham chiến gồm có: Sư Ðoàn 324B gồm các Trung Ðoàn 29, Trung Ðoàn 6 và Trung Ðoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam; Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, chính ủy là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến, gồm 3 trung đoàn 66, 24 và 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa Tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thường Ðức; Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Ðoàn 2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến; 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Ðà; Một Trung đoàn Pháo và Trung đoàn Chiến Xa... (Các tác giả cũng ghi nhận rằng, về mặt súng nặng, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đã đưa vào sử dụng loại súng cối 160 ly có sức công phá lớn, ngoài các loại vũ khí nặng khác mà họ từng sử dụng trong trận chiến như hỏa tiễn 122 ly, sơn pháo 130 ly, pháo 105 ly, pháo 85 ly, cối 82 ly và cối 61 ly.) Lực lượng bạn: “Tiểu Ðoàn 79 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng; Hai Ðại đội Ðịa Phương Quân; Một Ðại Ðội Cảnh Sát Dã Chiến; Một Trung Ðội Viễn Thám; 16 Trung Ðội Nghĩa Quân; Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh làm Lữ Ðoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1, 8, 9 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù; Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Ðoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2, 3, 6 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù. * Một số diễn tiến đáng chú ý trong trận Thường Ðức Về diễn tiến các cuộc giao tranh vô cùng ác liệt trong trận Thường Ðức, nhất là trận đánh để tái chiếm Ðồi 1062 đã lọt vào tay Cộng Quân sau khi họ tràn ngập Chi Khu Thượng Ðức ngày 7 Tháng Tám năm 1974, xin trích dẫn một đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên: Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062: “Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Ðông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Ðội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Ðội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Ðội của Ðại Ðội 11... Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công... Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.” “Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Ðội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ trôi qua...” “Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo binh [ta] ngưng tác xa, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cành Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy: - Chiếm được đỉnh rồi, đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!” “Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sôn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên trong máy: - Chúng pháo dữ dội quá, đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!” “Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy: - Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!” “Ban đêm tời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được là Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn Claymore... ngay từ lúc đó.” “Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Ðoàn Trưởng) bảo Quý: - Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.” “Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù rỉa bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu Úy Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D... Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh Ðồi 1062. Trung Ðội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sĩ anh dũng hy sinh...” * Mức độ hy sinh không bờ bến của các chiến sĩ Nhảy Dù Về những hy sinh to lớn của các chiến sĩ Nhảy Dù tại mặt trận Thường Ðức như sự hy sinh vừa kể của Thiếu Úy Quang và 15 chiến sĩ thuộc Trung Ðội dưới quyền của vị sĩ quan này, các tác giả viết: “'Cái giá' để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm. Trong phạm vi của bài viết ngày hôm nay, chỉ xin trích dẫn một vài đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả đã được đề cập tới, nói lên những gai lửa của trận chiến cùng những hy sinh, gian khổ không bút mực nào tả xiết mà các chiến sĩ Nhảy Dù đã cống hiến cho dân chúng miền Nam Việt Nam, chỉ với một mục đích không hề lay chuyển của Sư Ðoàn bách chiến, bách thắng này là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của miền Nam tự do trước cuộc tấn công xâm lược điên cuồng của Cộng Sản Bắc Việt, có sự yểm trợ tối đa của Cộng Sản Quốc Tế và sự đồng lõa, cố ý cũng có mà vô tình cũng có, của phần còn lại của thế giới hồi các thập niên 1950, 1960 và 1970 trong thế kỷ trước: “Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phả kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu Úy Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D (đã trích dẫn)... Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Ðoàn Tấn và Chuẩn Úy Ðến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa... Thiếu Tá Vân nghe tiếng Ðại Úy Ðàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Ðại Úy Ðàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung, hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Ðàng nguyên là cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn gọi 3 phi tuần khu trục giội bom napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Ðàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị ghim như lông nhím. Ðàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục... Ðại Ðội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: “Hàng sống, chống chết,” nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304 [Ðiện Biên], địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù như Ðại Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch...” Về con số các chiến sĩ Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến dịch kéo dài gần ba tháng trời tại Thường Ðức, thiết tưởng cũng chỉ cần nêu tên một số các sĩ quan ưu tú Dù đã bỏ mình trong trận chiến này -thêm vào con số hằng trăm, hằng nghìn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc nhiều quân, binh chủng đã bỏ mình trong trận đánh- cũng đủ thấy mức độ hy sinh to lớn của tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do trước đây, theo đúng nghĩa của tinh thần thượng võ và khí phách “chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.” Qua bài viết của hai tác giả “35 Năm Nhớ về Mặt Trận Thường Ðức,” các sĩ quan Nhảy Dù sau đây đã bỏ mình ngay trên chiến trường: Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến, Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành, Chuẩn Úy Tuyến, Thiếu Úy Quang, Trung Úy Bằng, Trung Úy Khánh (Truyền Tin), Thiếu Úy Ðoàn Tấn, Chuẩn Úy Ðến, Trung Úy Vũ Ðức Tiềm, Ðại Úy Ngụy Văn Ðàng, Trung Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị, Chuẩn Úy Bảo, Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Ðại Thanh, Thiếu Úy Lê Hải Bằng... Một số sĩ quan khác có thể cũng đã tử trận trong chiến dịch tái chiếm Thường Ðức, mà vì lý do này hay lý do khác, đã không thấy được kể tên. Dĩ nhiên là con số hạ sĩ quan và binh sĩ Thiên Thần Mũ Ðỏ hy sinh trong trận này còn cao hơn nhiều so với số các sĩ quan tử trận. * Trận Thường Ðức ác liệt không thể tưởng Sau hết, về cường độ các cuộc giao tranh và mức độ ác liệt của trận chiến Thường Ðức, hai tác giả đã đưa ra các nhận định sau đây trong bài viết của họ: “Ðỉnh 1062 là một nấm mồ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch giội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi, giành lại đỉnh 1062 nhiều lần... 'Cái giá' để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm (đã trích dẫn)... Gần một tháng quần thảo, ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng mọi giá... Vào giờ này, lực lượng địch bu quanh 1062 dày đặc như ruồi bu quanh viên kẹo... Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái, và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm. Lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng, lớp lớp Cộng quân rơi rụng...” Theo lời hai tác giả, tổn thất chung cuộc của ta và địch sau ba tháng giao tranh là như sau: “Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Ðức vào ngày 15 Tháng Tám liên tục trong 3 tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực Ðồi 1062, các đơn vị Nhảy D2 đã thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Ðoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 tiểu đoàn trong chiến dịch này, và đến giữa Tháng Mười Một có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Ðồi 1062. Ba trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương... Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu.” (Tài liệu: Col. William E. LeGro trong “Vietnam from Ceasefire to Capitulation”) * Từ trận chiến Thường Ðức đến cuộc Chiến Tranh Việt Nam Trận đánh Thường Ðức, trận đọ sức cuối cùng của quân đội hai miền Nam, Bắc trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua, ngoài việc cho thấy tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt, còn tiêu biểu cho những hy sinh không bờ bến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bất kể họ là Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Không Quân, Hải Quân, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân hoặc Nghĩa Quân, qua cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam trước 1975 trong bối cảnh cuộc chiến đấu cho tự do của nhân loại bị phản bội khi chiếc tiền đồn chống Cộng tại Ðông Nam Á bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Không ai có thể tưởng tượng được rằng, chỉ vì một ngọn đồi khô cằn tại một quận lỵ đèo heo hút gió xa cách những vùng cư dân trù phú dưới miền đồng bằng duyên hải miền Trung, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Vùng I Chiến Thuật, đành phải chấp nhận đưa lá bài chủ lực của mình tại Vùng Hỏa Tuyến, là hai Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Nhảy Dù, vào trận địa để thanh toán mục tiêu, tức là nhổ cho bằng được cái chốt địch đang ngạo nghễ chiếm đóng Ðồi 1062 ngó xuống quận Thường Ðức đặng từ đó đưa pháo tầm xa về khống chế các cơ sở quân sự -trong đó có bản doanh của Quân Ðoàn I- và dân sự cùng phố phường, làng xã của dân chúng tại miền duyên hải Quảng Nam-Ðà Nẵng. Phải biết rằng, trong tình thế lúc bấy giờ, các lực lượng tổng trừ bị trấn đóng tại Quân Ðoàn I, như Sư Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng với các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân thiện chiến, đang bị căng kéo và dàn mỏng đến mức tối đa trên địa hình hiểm trở của Vùng I Chiến Thuật, chiếc ải địa đầu của miền Nam Việt Nam, nơi xuất phát và cũng là nơi đánh dấu biết bao nhiêu trận đánh lớn trong cuộc Chiến Tranh Quốc-Cộng kể từ khi đất nước Việt Nam bị chia đôi bằng con Sông Bến Hải cho tới năm 1975. Ðiều rõ ràng nhất và cũng là điều nổi bật nhất chính là mức độ hy sinh rất cao, cao đến độ không bờ bến, của tất cả các lực lượng tham chiến trong chiến dịch chiếm lại Ðồi 1062 và giành lại quận Thường Ðức khỏi tay Cộng quân, trong đó phải kể tới rất nhiều lần các chiến sĩ Nhảy Dù đã kêu phi pháo dội bão lửa ngay trên đầu mình để thí một mạng của mình đổi lấy bốn, năm mạng của địch quân. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, lại có nhiều sĩ quan ưu tú và binh sĩ kiên cường của Sư Ðoàn Nhảy Dù phải hy sinh tại mặt trận đến thế. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, các lực lượng chính quy Cộng Sản Bắc Việt và du kích địa phương, đặc biệt là Sư Ðoàn 304 Ðiện Biên, đã phải tổn thất nặng nề đến như vậy, mặc dù, giống hệt như quân đội Pháp trong trận Ðiện Biên Phủ 20 năm về trước, chính quân Cộng Sản là kẻ lựa chọn chiến trường và thời điểm giao tranh, tức là đúng vào lúc họ có được ưu thế chiến lược và chiến thuật cao nhất để bảo đảm rằng họ sẽ là kẻ chiến thắng trong trận thư hùng. Những hy sinh vô bờ bến đó của các chiến sĩ Nhảy Dù càng trở nên cay đắng hơn khi, không đầy một năm sau, toàn bộ miền Nam Việt Nam đành rơi vào tay quân Cộng Sản vì lý do không phải quân đội và nhân dân miền Nam tự do yếu hèn mà chính vì sự phản bội trắng trợn của Ðồng Minh Hoa Kỳ và thái độ a dua đến mức trâng tráo của phần còn lại của thế giới vốn đã bị bùa mê, thuốc lú của Cộng Sản Quốc Tế làm cho ngu muội đi tự lúc nào. Những cái chết như thế, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, phải được coi là những thiệt thòi lớn lao nhất trong đời người chiến sĩ và đối với những người thân yêu của họ còn lại trên cõi đời. Những người Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại, mỗi khi đốt một ngọn nến, thắp một nén hương trước bàn thờ tổ quốc và anh linh các anh hùng, liệt nữ cùng các tử sĩ của Việt Nam Cộng Hòa nhân dịp Tết đến, Xuân về, hãy nhớ đến cách riêng những hy sinh to lớn của các chiến sĩ từng tham chiến tại mặt trận Thường Ðức vào những ngày tháng cuối của năm 1974 -y như những hy sinh của các chiến binh đánh trận Xuân Lộc hồi Tháng Tư năm 1975-bởi vì đây là những trận đánh để đời làm vang danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và làm xấu hổ những nhà viết sử đầy thiên vị của cả bạn lẫn thù đã và đang nỗ lực bôi nhọ sức chiến đấu dũng mãnh, tinh thần thượng võ và ý chí quyết chiến, quyết thắng của người chiến binh Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, chỉ với mục đích không mấy lương thiện là chạy tội cho sự lầm mê và phản bội của thế giới khi họ cùng hè nhau bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân Cộng Sản đặng chuốc lấy hư danh rằng chính họ đã giúp “mang lại hòa bình và chấm dứt đổ máu cho dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc.” Chính sự cầu an và lòng thương hại không đúng chỗ đó của thế giới đã đẩy đưa dân tộc Việt Nam đến thảm cảnh ngày nay, khi toàn bộ một dân tộc gồm gần 90 triệu người đang phải sống lầm than cơ cực và thiếu tự do, dân chủ dưới ách cai trị vừa độc tài vừa ngu muội mà cũng vừa khiếp nhược trước ngoại bang của đảng Cộng Sản Việt Nam. Thật chẳng được cái tích sự gì khi con, em những người tị nạn Việt Nam thuộc các thế hệ thứ nhì, thứ ba, thứ tư... phải đọc và phải học về lịch sử cuộc Chiến Tranh Việt Nam do chính các sử gia Hoa Kỳ viết, có sự tham khảo các sách báo tuyên truyền của Cộng Sản Việt Nam, mà trang nào, chương nào cũng chỉ đổ cái lỗi để mất miền Nam Việt Nam vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược hồi Tháng Tư năm 1975 cho dân chúng và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa -đặc biệt là đổ thừa cho chính quyền Ngô Ðình Diệm độc tài, gia đình trị và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng, bất lực cũng như viện lý do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thiếu khả năng chiến đấu- bất chấp các đánh giá trung thực và lương thiện của nhiều danh tướng mang các quốc tịch Mỹ, Pháp, Ðại Hàn, Úc Ðại Lợi, Trung Hoa Dân Quốc, và Israel về quân đội đó. * Lời cuối cho thiên anh hùng ca Ðến đây, thiết tưởng không gì bằng hãy mượn lời thơ sau đây của SVSQ Lê Chiến, Khóa 8/72 SQTB Ðồng Ðế, Nha Trang, viết để tưởng niệm các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tham dự mặt trận Thường Ðức năm 1974: “Giặc qua Sông Côn về Thường Ðức Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn Quân ngược dòng sông đêm thao thức Di binh, chuyển pháo tấn công đồn Anh Biệt Ðộng Quân đêm phòng thủ Nhìn qua ánh sáng lỗ châu mai Thêm một đêm dài không giấc ngủ Khói thuốc cay mờ trong mắt ai Anh lính địa phương trong lô-cốt Tay cầm ống phóng bảy-mươi-hai Bên xóm nhà xa đèn ai đốt Lập lòe ánh lửa bóng liêu trai Anh lính pháo binh ghi tọa độ Sẵn sàng yểm trợ pháo tầm xa Chùi súng, thông nòng lo tu bổ Tay sờ thép lạnh ướt sương pha Anh Thiết Kỵ về đường liên tỉnh Băng ngang Ðại Lộc đến Hà Nha Vó câu dong ruổi như đời lính Từ độ lửa binh chẳng về nhà Anh lính Không Quân từ Ðà Nẵng Phi pháo từng đêm chặn giặc về Có lẽ đêm nay anh thức trắng Ðợi chờ phi vụ đắng cà-phê Anh Nhảy Dù về từ Quảng Trị Ba-lô, súng đạn tới Cầu Chìm Nhận đồ tiếp tế trên chiến lũy Nghe hờn sông núi dậy trong tim Ðại pháo từng đêm trên chiến trận Xe tăng, bộc phá mở hàng rào Anh vẫn hiên ngang làm bổn phận Quê mẹ vỉ ai tẩm máu đào Hơn ba mươi năm ngày lịch sử Thường Ðức quê tôi những ngày buồn Cũng bóng tre xanh người Thượng nữ Vu Gia sông cũ nước xuôi nguồn Tôi nhớ ơn anh, người lính chiến Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi Những kẻ hy sinh trên trận tuyến Ngàn sau còn nhớ mãi không thôi...” Hôm nay đây, 35 năm sau trận đánh Thường Ðức lịch sử, nhân lúc Tết đến, Xuân về, bài này được viết lên như là một nén hương lòng kính dâng đến anh linh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc mọi quân, binh chủng, Cảnh Sát Quốc Gia, các lực lượng đặc biệt và biệt kích, lực lượng Xây Dựng Nông Thôn và các lực lượng bán quân sự... đã đem chính máu đào của mình ra bảo vệ miền Nam tự do chống lại nanh vuốt Cộng Sản xâm lược cho đến hơi thở cuối cùng. Hỡi những người tị nạn Việt Nam đang vui hưởng tự do, dân chủ tại các nước bên ngoài Việt Nam, hãy nhớ lấy cái căn cước tị nạn của mình và chớ quên ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân để cho mình và gia đình mình được sống còn trong thịnh vượng và hạnh phúc cho tới ngày nay! (V.P.) Ghi chú: (1) “Sau đó, Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy Cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối...” (Ðại Úy Võ Trung Tín và Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên, “35 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức”) (2) Trận Thường Ðức cũng còn là trận đánh vẻ vang để đời sau cùng của vị tư lệnh cuối cùng của Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Ông đã áp dụng chiến thuật xa luân chiến để hai Lữ Ðoàn Nhảy Dù thay phiên nhau giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai Sư Ðoàn 304 (Ðiện Biên) và 324B cùng một Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 2 Cộng Sản Bắc Việt và các lực lượng địa phương.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 29, 2012 6:11:27 GMT 9
Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Trương Văn Bền- Nguyễn Đức Hiệp — cập nhật lần cuối 10/05/2010 13:59 Xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” được nhiều người ưa chuộng vì chất lượng tốt và giá phải chăng cho mọi người tiêu dùng. Trên thị trường, xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” đánh bạt xà bông thơm “Mạc Xây” (Marseille) của Pháp nhập từ chính quốc. Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Việt nam Trương Văn Bền (1884-1956) Nguyễn Đức Hiệp Gia đình Trương Văn Bền Tôi sinh ra đúng vào năm ông Trương Văn Bền mất. Khi lớn lên trong tuổi học trò ở trung học, tôi vẫn còn được nghe nhiều người nhắc đến ông và sản phẩm xà bông Việt Nam mà công ty ông sản xuất với niềm tự hào kính phục pha lẫn với một sự nuối tiếc. Ký ức sâu xa từ nhỏ đó, tưởng chừng như mất đi theo thời gian đã trở lại cách đây vài năm khi tôi bắt đầu tìm hiểu và viết về lịch sử người Minh hương ở Nam bộ. Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá, lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội. Vì thế tôi gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Đã có một số bài viết về ông Trương Văn Bền, nhưng hầu hết đều tương tự, có nhiều thông tin được lập lại. Trong lúc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của ông Trương Văn Bền, tôi đã có may mắn là liên lạc được với một người cháu nội của Trương Văn Bền là anh Phillipe Trương, hiện sống ở Pháp. Qua điện thư, anh Phillippe đã cho tôi biết được nhiều thông tin thêm về ông Trương Văn Bền. Một số thông tin mới về ông, tôi cũng tìm được qua các biên bản chính thức của các buổi họp Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương (Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine) mà ông Trương Văn Bền là một thành viên trong nhiều năm. Tổng hợp các tư liệu trên, tôi xin trình bày một vài nét phác họa chính về ông. Theo các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn. Tổ tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế kỷ 17. Được phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch đến vùng nay gọi là Mỹ Tho. Trương Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá. Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam ở tại Chợ Lớn. Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ. Trương Quang Thanh có 8 người con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi, (tháng 12 1884). Thưở thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon). Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học), Trương Văn Bền ghi tên và thi đậu dễ dàng. Ông được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông. Lúc đầu ông bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn. Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn. Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Năm 1918, ông mở thêm một cơ sở sản xuất dầu nữa ở Chợ Lớn. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ. Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau: «... Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp. ...» Từ những thành công ban đầu này, năm 1918, ông bắt đầu tham dự tích cực vào đời sống kinh tế chính trị trong xã hội. Ông được bầu làm một hội viên trong Hội đồng quản hạt Nam kỳ (Conseil Colonial) vào năm 1920, và sau đó năm 1924 là nghị viên Phòng Thương Mại (Chambre de Commerce). Năm 1932, ông là người Việt nam đầu tiên được bầu làm phó chủ tịch Phòng Thương Mại và giữ chức này cho đến năm 1941. Ngoài ra ông còn là nghị viên Phòng Canh Nông (Chambre d’ Agriculture, 1922), thành viên của hội đồng giám đốc quản trị (board of directors) của Thương cảng Saigon (Port Commerce de Saigon) và ứng viên Hội đồng Quản trị Sở Lúa gạo Đông Dương từ năm 1924. Thương cảng Saigon quản lý bởi công ty Messageries maritimes mà trụ sở là Bến Nhà rồng hiện nay. Nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn Trong thập niên 1920, ông nhảy vào lãnh vực canh nông. Lúc đầu ông mua 300 mẫu ruộng ở Mỹ Tho. Vài năm sau đó, năm 1925, ông cùng một số người khác thành lập Công ty canh nông Tháp Mười (Société Rizicolte du Tháp Mười). Công ty có hơn 10 000 mẫu và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn nhân sự ở miền Tây Nam bộ. Ông làm Tổng giám đốc và là thành viên của hội đồng quản trị công ty. Ông giữ chức vị Tổng giám đốc cho đến năm 1931. Vai trò quan trọng của ông trong địa hạt phát triển canh nông, kỹ nghệ, kinh tế tài chính được đánh giá cao trong xã hội. Ông được bầu làm hội viên của Đại hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine) năm 1929. Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương được thành lập năm 1928 để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề, liên quan đến kinh tế và tài chính ở Đông Dương. Các vùng ở Đông Dương như Lào, Cam Bốt, Trung, Bắc và Nam đều có thành viên. Trong Đại hội đồng, ông đã có nhiều đóng góp sửa đổi nhiều chính sách kinh tế bảo vệ quyền lợi người dân bản xứ và người nghèo khó ở Nam bộ. Qua các biên bản báo cáo chi tiết các cuộc họp Đại hội đồng được công bố mỗi năm của chính phủ toàn quyền Đông Dương (4) (5) ta có thể thấy một vài sự kiện thể hiện tinh thần bảo vệ phúc lợi người dân của Trương Văn Bền. Thí dụ trong quyển báo cáo phát hành năm 1939 về các đề tài tranh luận bỏ phiếu ở Đại hội đồng năm 1938, có viết một đoạn như sau (5): «... Ông Trương Văn Bền đọc một đề nghị như sau và đặt ra trước Đại Hội đồng để được biểu quyết với sự đa số tuyệt đối Đại hội đồng Chiếu rằng trong dự án tổng ngân sách năm 1939, chính phủ có nhiệm vụ thi hành những công trình mới (thủy lợi và vét kinh) từ quỹ trương mục Nam kỳ một số tiền là 724000 đồng; Chiếu rằng những công trình này cho tới nay được thực hiện mà không lấy ý kiến từ các thành viên của Nam kỳ được bầu vào Hội đồng; Chiều rằng trong năm 1938, Sở Công chánh chỉ chi tiêu trong các chương trình trên một số tiền 470000 đồng so với ngân sách tiên đoán cho dự án là 745000 đồng; Chiếu rằng làm các kênh đào ở Nam kỳ thường luôn có kết quả tốt trên phương diện thoát nước, cải tiến đất cũng như làm giảm mực nước sông Cửu Long trong mùa lũ; Chiếu rằng các công trình này được trả từ các quỹ đã có; Trên cơ sở tiền thâu được từ thuế (*) trên xuất cảng gạo và dịch vụ liên quan vào khoảng 6000000 đồng; Đề nghị sau đây được đưa ra biểu quyết 1.- Các điều được xóa bỏ là điều 122, điều thứ nhất (các công trình thoát nước và thủy lợi ở Nam kỳ); 2.- Hoàn lại 0$50 trên mỗi đồng tiền thuế xuất cảng gạo và các dịch vụ liên quan thâu được ở Nam kỳ. Tiền hoàn lại sẽ được ghi vào Chương 9, điều 8 Số tiền hoàn là 1500000 x 0.50 = 750000 đồng ((* ) ở toàn Đông Dương, chú thích của tác giả) Đại biểu ông Marinetti chú thích là trong số lượng gạo xuất cảng ở cảng Saigon có 200000 tấn là từ Cam Bốt. Ông Tổng thư ký phủ nhận những phê bình về vấn nạn của Sở thủy lợi mà sự thành lập được đòi hỏi tức thì cách đây không lâu. Trái với những điều mà ông đại biểu Trương Văn Bền nêu lên, phương thức tín dụng mỗi năm được chi tiêu trong giai đoạn thi hành hợp đồng với Công ty Đào vét (Société des Dragages) nói chung phù hợp với số lượng tiền ghi trong ngân sách. Ông tổng thư ký kêu gọi sự chú ý của Đại hội đồng về tính cách đặc biệt của các công trình thủy lợi cần thời gian dài thực hiện và vì thế cần thiết một sự liên tục dựa trên kỹ thuật chuyên biệt. Ông Trương Văn Bền đòi hỏi lần nữa là có sự biểu quyết qua lá phiếu đề nghị của ông, và sự đào kênh lại. Ông Combot ủng hộ đề nghị của ông Trương Văn Bền, và bày tỏ sự ngạc nhiên là các công trình thủy lợi đã được thực hiện mà không có sự đòi hỏi, yêu cầu nào của dân chúng ở các vùng liên hệ. Ông giám đốc tài chánh cho hội đồng biết là sự bỏ phiếu của đề nghị sẽ không có ảnh hưởng đến tài chánh năm 1939. Sau khi đọc, đề nghị của ông Trương Văn Bền được chấp thuận với 25 phiếu thuận và 5 phiếu chống. ...» Một thí dụ khác như trong quyển báo cáo năm 1940 về các đề tài tranh luận bỏ phiếu ở Đại hội đồng năm 1939 có đoạn nói về quản lý tiêu chuẩn dược phẩm. Trong cuộc tranh luận giữa các thành viên về thuốc cổ truyền đông y, ông Trương Văn Bền cũng phát biểu phản đối đạo luật của chính phủ ban hành ngày 24/10/1939 hạn chế và quản lý chặt chẽ sự sử dụng thuốc bắc cổ truyền trong quần chúng. Ông nói lên sự bất bình của đa số quần chúng về đạo luật trên. Ông phàn nàn là Đại hội đồng, các công dân bảo hộ và nhiều nhân vật người An Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau đã không được hỏi ý kiến trước khi có quyết định và đòi hỏi là đạo luật được đình chỉ, chờ sự thành lập một ủy ban để quản lý vấn đề thuốc ta cổ truyền và thuốc tây một cách hợp lý và hài hòa. Đa số người dân không có khả năng mua thuốc tây và do đó họ đều dùng thuốc ta cổ truyền, mặc dầu có sự lạm dụng của một số đông y sĩ. Một số thành viên trong Đại hội đồng như ông Thương Công Thuận, Trần Văn Kha, Tôn Thất Viên Đề ủng hộ ý kiến của ông Trương Văn Bền. Ông Tổng thư ký Đại hội đồng tán thành nhưng cho rằng phải có một sự quản lý nào đó ít nhất để tránh lạm dụng toa thuốc độc hại. Về phương diện thực tiễn thì khó có thể quản lý được vì người chẩn bệnh cũng là người làm và chế thuốc. Ông Phan Văn Giao ủng hộ đạo luật của chính phủ để quản lý thuốc ta. Ông Tôn Thất Viên Đề còn đặt ra câu hỏi là tại sao thuốc Tây lại rất đắt qua đó ông Giao cho là vì những người trung gian đã lợi dụng kiếm lời quá cao nên mới có sự thể như vậy. Ông Baffeleuf, chủ tịch Đại hội đồng nói rõ cho ông Đề là ông (Baffeleuf) cũng là thành viên trong Ủy ban trung ương kiểm soát nên ông bảo đảm với ông Đề là sự tăng giá thuốc chỉ có được phép sau khi có sự điều nghiên kỹ lưỡng. Ông Baffeleuf đồng ý là luật mới đã gặp nhiều phản ứng bất lợi và đưa ra đề nghị của Đại hội đồng là luật mới ra quá sớm và cần có sự nghiên cứu lại kỹ lưỡng trong quản lý để áp dụng từ từ và đúng mức trong giai đoạn chuyển tiếp (4). Đáng để ý là trước đó vào năm 1931, bác sĩ Yersin cũng đã trình bày trước Đại hội đồng về sự cần thiết trồng cây quinine làm thuốc chống sốt rét ở Đông Dương và sự liên hệ hợp tác giữa viện Pasteur Saigon và các cơ quan liên hệ của phòng canh nông ở Đông Dương. Từ năm 1923, bác sĩ Yersin cho biết là ông đã nghiên cứu các mẫu vỏ cây quinine từ các cây được thử trồng sao cho thích hợp với khí hậu ở một số đồn điền ở Đà Rằng (Dran) và Di Linh (Djiring) trên Tây Nguyên với độ cao như các cây quinine trồng thành công ở Java khoảng 1500 m. Trước đó năm 1917, Yersin đã thử ở Hòn Bà gần Nha Trang. Bác sĩ Yersin hy vọng là sẽ thành công phát triển cây quinine và kỹ nghệ chế biến thuốc chống sốt rét cho toàn cõi Đông Dương với sự trợ giúp của Đại hội đồng. Theo quyển « Tự Điển Tác Giả Việt Nam » của ông Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn Hóa, 1999) thì ông Trương Văn Bền cũng có viết 3 tác phẩm: Phương pháp chế tạo xà phòng (1918), Phương pháp cải tạo các giống lúa (1932) và Phương pháp lấy dầu thông (1932) (2). Ở Nam Kỳ, các cơ quan tư vấn tối cao, phụ tá cho Thống đốc như Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, Đại hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, Hội đồng Canh nông, và Phòng thương mại, đều có ông Bền là hội viên. Mặc dầu ở địa vị cao và có thế trong xã hội, ông không bao giờ khoe khoang tự mãn, trái lại ông rất khiêm tốn, tập trung vào công việc phát triển kỹ nghệ, kinh tế, kinh doanh mang đến phúc lợi cho quần chúng. Pont des Malabars et quai (Bến Bình Đông, dọc kênh Tàu Hủ, Chợ Lớn) Nói về kinh nghiệm trong thương trường và bí quyết thành công, ông Trương Văn Bền có cho biết một số ý kiến như sau (trích nguồn (3)) «... Đầu những năm 1930 trong dịp Tết Nguyên đán, các báo Sài Gòn thường đăng phỏng vấn quảng cáo thương mại. Những bài này thường rất ăn khách do người đọc thích tìm hiểu bí quyết thành công của các nhà kinh doanh nổi tiếng. Trong đó có bài phỏng vấn ông Trương Văn Bền đăng trên báo Sài Gòn Xuân 1939 đã thu hút rất nhiều độc giả thời bấy giờ quan tâm. Mặc dù thời đó không có những khái niệm chuyên môn như tiếp thị, đầu tư, thương hiệu... Nhưng nội dung chủ yếu của bài báo lại xoay quanh những vấn đề này. Có thể nói, bài phóng sự đó đã có ý nghĩa cần thiết không những đối với những nhà kinh doanh cùng thời mà còn là con đường sáng cho doanh nhân ngày nay suy ngẫm và so sánh. Trong bài báo phóng viên hỏi tại sao người Việt thường thất bại trong thương mại và kỹ nghệ. Không cần suy nghĩ lâu, ông Trương Văn Bền trả lời: “ Tại người mình ưa bắt cá hai tay, ưa làm nhiều việc quá. Việc này chưa xong, họ đã xoay qua làm việc khác, thành thử không việc nào vẹn toàn. Rốt cuộc hỏng cả ”. ông nói tiếp: “ Lý do thứ nhì là do không thông thạo việc nên thất bại. Bất cứ việc gì, trước khi làm mình phải biết rõ việc ấy. Phải học, phải nghiên cứu kỹ càng mới được. Người Tây trước khi làm việc gì họ cũng học trước cả. Cho đến một việc đứng bán hàng, ta cho là tầm thường và tưởng ai ai cũng có thể làm được. Nhưng đối với họ đó là việc quan trọng cũng có sách có trường dạy hẳn hoi, dạy từ cách tiếp khách, khoe hàng làm sao cho người khách mua rồi thì còn trở lại. Người mình có một cái rất bậy là chỉ thấy cái lợi trước mắt, chỉ cốt làm sao bán được món hàng lúc ấy mà thôi, không chịu hiểu rằng người khách thấy mình bị tiếp đãi không được như ý, hoặc bị lừa gạt mua nhầm hàng xấu, về sau không thèm trở lại nữa, vì vậy mà ế ẩm. Như tôi đây cơ sở đã vững vàng rồi mà ngày nào cũng tìm sách, tìm báo đọc thêm ”. Khi được hỏi về bí quyết thành công, ông Bền nói: “ ở xứ mình, trong giới kỹ nghệ còn trống chỗ nhiều, muốn lập kỹ nghệ nào cũng dễ lắm. Không cần phải có vốn nhiều. Vốn ít, càng tốt hơn. Ban đầu không nên làm rình rang, đã vô ích mà còn có hại, cứ khởi sự nho nhỏ, đi lần lần từng bước. Cần nhất phải có chí nhẫn nại. Như tôi đây bị thất bại đã mấy phen, nhưng có thất bại mới có thêm kinh nghiệm. Thứ nhất là bền chí. Thứ hai là phải có sức khỏe, làm gì thì làm mỗi buổi sáng tôi cũng dậy sớm tập nửa giờ thể dục. Không có sức khỏe, hay đau ốm thì dẫu tài giỏi đến bực nào cũng thành vô dụng. Tóm lại sức khỏe, sự học hỏi, sự bền chí là những điều kiện của sự thành công ”. ...» Trương Văn Bền cũng là hội viên của hội đồng quản trị Sở lúa gạo Đông Dương khi sở này được thành lập năm 1924, chủ tịch Liên hiệp canh nông (Union d’Agriculture), chủ tịch nhà băng Tín dụng Canh nông Chợ Lớn (Caisse de Crédit Agricole du Cholon) năm 1932, phó chủ tịch Phòng Canh nông (Chambre d’ Agriculture) trong thời gian 1932-1941 và là thành viên của Hội đồng sản xuất kỹ nghệ Đông Dương (Conseil de production industriel d’ Indochine) khi được thành lập vào năm 1941. Ông thành lập năm 1941 hai nhà máy xay lúa sản xuất hơn 100 tấn gạo mỗi ngày. Trong bài diễn văn của ông Henri Maspéro (nhà sử học chuyên về Trung Hoa, anh của George Maspero, tác giả sách “Vương quốc Champa”) đọc nhân dịp khai hoạt của Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) ngày 12 tháng 02 năm 1920, nói về ông Trương Văn Bền như sau (2): «... Cuối cùng, ông Bền đủ tất cả điều kiện và khả năng đại diện ở Hội đồng này các kỳ vọng mới của đồng bào ông. Trong thời điểm mà người An Nam không còn nghĩ đến việc đóng vai trò tích cực vào sự phát triển kinh tế ở Nam kỳ, ông đã, bằng phương tiện sức của chính mình, tạo ra một kỹ nghệ mà ông biết rõ, bằng sự bền chí, ý chí, thông minh sáng tạo và làm việc, đã đặt ông vào hàng quan trọng bậc nhất. Những đồng bào của ông khi bầu ông vào đây, đã cho thấy từ đây họ chú ý và tham dự vào đời sống kinh tế của thuộc địa, và sự nhận hiểu mà họ có với các đồng bào của họ, đã mở đường và là một gương mẫu tốt cho họ.” ...» Tuy là trong hội đồng quản hạt Nam Kỳ, ông không hoàn toàn theo Pháp. Ông Ngo Van trong « Vietnam 1920-1940 révolution et contre-révolution sous la domination coloniale » có ghi: « Quelques autres conseillers, dont l’avocat Gallet, défenseur de Nguyên An Ninh, et Truong Van Bên, le (Nguyên Tan Duoc) suivirent dans la voie de la critique » (p.54) (2) (“Những thành viên khác trong hội đồng, trong đó có luật sư Gallet, người bảo vệ Nguyễn An Ninh, và ông Trương Văn Bền đã theo ông Nguyễn Tấn Dược trong đường lối chỉ trích”) Ngày 21 tháng 03 năm 1926, theo lời kêu gọi của ông Dejean de la Bâtie và Nguyễn An Ninh để chống sự trục xuất nhà báo Trương Cao Dong ra Annam ông Trương Văn Bền đã có mặt tại vườn Xoài. Theo bài báo của ông Dejean de la Bâti trong La Cloche Fêlée (23.03.1926) : « Président : M Le Quang Lien dit Bay, constitutionnaliste, assisté de M. Truong Van Ben, conseil colonial constitutionnaliste, et Phan Van Truong, avocat et directeur de La Cloche Fêlée… » (p. 60) (2). Ngoài lúa gạo, ông nhận thấy nhiều tiềm năng cho các sản phẩm canh nông khác ở miền Nam như dừa. Từ năm 1928, khi ông thành lập xưởng chế dầu ở Chợ Lớn sản xuất các loại dầu ăn và dầu công nghiệp và bắt đầu từ năm 1932, ông mở thêm nhà máy làm xà bông từ dầu nông sản. Vào thời gian này và trước đó, hầu hết xà bông dùng trong nước và ở Đông Dương là nhập cảng từ Pháp. Chỉ có một số ít xà bông làm từ các xưởng nhỏ thủ công ở Chợ Lớn với chất lượng kém nên có giới hạn rất nhỏ và càng không thể cạnh tranh và so sánh với xà bông nhập từ Marseille, một thành phố Pháp. Xà bông là sản phẩm mang lại cho ông nhiều tiếng tăm và tiếp cận mọi người nhiều nhất. Tên của Trương Văn Bền gắn liền với xà bông Việt Nam, xà bông “Cô Ba”. Hãng xà bông của ông tọa lạc trên đường Rue de Cambodge (nay là Chợ Kim Biên, quận 5). Công ty của ông gọi là Trương Văn Bền và các con – Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils – Huilerie et Savonnerie Vietnam). Xưởng dầu của ông ở Chợ Lớn mỗi tháng sản xuất khoảng 1500 tấn dầu dừa và hãng xà bông Trương Văn Bền sản xuất khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine trong năm 1943, vào thời kỳ khó khăn ở nhiều nước do chiến tranh đệ nhị thế chiến. Công ty Trương Văn Bền và các con là công ty quan trọng nhất sản xuất dầu và xà bông trên toàn cõi Đông Dương. Xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” được nhiều người ưa chuộng vì chất lượng tốt và giá phải chăng cho mọi người tiêu dùng. Trên thị trường, xà bông Việt Nam và xà bông thơm “Cô Ba” đánh bạt xà bông thơm “Mạc Xây” (Marseille) của Pháp nhập từ chính quốc. Ngoài Việt Nam, xà bông “cô ba” được dùng rộng rãi ở Lào và Cam Bốt, được xuất khẩu qua Hong Kong, Tân Đảo (Nouvelle Caledonie) và một số các nước châu Phi. Sản phẩm xà bông Việt Nam của Trương Văn Bền và các con Trương Văn Bền là một doanh nhân luôn tìm hiểu với tầm nhìn xa và nhạy bén đến những áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất thực tiễn và đầu tư khuếch trương tìm những hướng đi mới. Với đầu óc thoáng và rộng rãi, ông đã thiết lập thành công cơ sở sản xuất và kinh doanh của công ty ông rất hữu hiệu và hiện đại. Ông không tự tìm hiểu và học hỏi để trở thành chuyên viên làm xà bông có chất lượng tốt như nhiều người lầm tưởng. Ban đầu ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Lúc đó đã có hai nhà máy làm xà bông của Pháp ở Saigon do các ông Mazet và Boris làm chủ. Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau (2): «... Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to : “Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới. Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, lấy tên Việt-Nam đặt cho xà-bông, gọi Savon Việt-Nam để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà-bông Việt-Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”. ...» Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của một người phụ nữ “cô Ba” với nét đẹp có duyên Nam bộ, nhưng biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện và quen thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi. Một trong những tin đồn huyền thoại dân gian kể lại thì “Cô Ba “ chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Theo ông Hứa Hoành (1) thì cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý, đưa hình ảnh “Cô Ba”, người đẹp huyền thoại trong dân gian làm nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình bán chạy. Nhưng các giai thoại và tin đồn như trên về “Cô Ba” đều không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền là một. Vả lại, trước kia trong phong làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tương bằng đồng đen hình vợ ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông (2). Với sự ra đời của hãng xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam hãnh diện có được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai. Trong sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng hiện nay như Bill Gates của Microsoft. Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền. Trong các cuộc triển lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sài Gòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết kế ấn tượng nhất với mô hình một cục xà bông khổng lồ gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của ông (3). Sau đây là là vài đoạn trong nhật ký của ông Trương Văn Bền (2): «... Thấy xà-bông bán chạy tôi làm thêm một chảo nữa. Nay nhiều thêm thì phải làm quảng cáo dữ mới bán được. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt-Nam chế tạo về bán, chi trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua. Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà-bông Việt-Nam bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu “ Sao không buôn xà-bông Việt-Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn xà-bông khác nhiều ”. Hết người này tới người khác, thét rồi chủ tiệm cũng phải đẻ ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà-bông Việt-Nam, cho người mua thử về bán. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của Xà-bông Việt Nam, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu Xà-bông Việt Nam. Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên Xà-bông Việt-Nam bán chạy lắm. ...» (Đoạn này cho biết là năm 1922, ông đã dùng quảng cáo để bán hàng) «... Nhờ sức mạnh của quảng cáo, xà-bông Việt-Nam tiến phát mau lắm, chỗ nào cũng buôn xà-bông Việt-Nam, ai nấy chỉ dùng xà-bông Việt-Nam thôi. Thấy mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà-bông để tranh dành, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà-bông « Con Cọp », Balet ra xà-bông « Nam-Kỳ » cũng đầu người đờn bà như Việt-Nam, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông « 3 sao » ở Cần Thơ, v.v. nhưng tranh đua không lại Xà-bông Việt-Nam, đều bị thất bại, bỏ cả. Số sản xuất của Xà-bông Việt-Nam lần lần lên tới 200 tấn, bán cùng Saigon, lục tỉnh, Trung kỳ, Bắc kỳ, Ai lào, Cao miên. ...» «... Năm 1941, tôi chịu cho sở binh lương một ít lợi quyền, nên bán được giá cao, chở đi Madagascar, Réunion, v.v. Mấy xứ thuộc địa Pháp này vẫn mua xà-bông Mạc-Sây, nay chiến tranh giao thương bế tắc nên phải mua của tôi, mà chính là mấy hãng ở Mạc-Sây thiệt thọ mua để bán đi các nơi. ...» Ông cũng cho biết: «... Trong 6 năm thế giới chiến tranh (1939-1945) mấy hãng dầu và xà-bông làm ăn tấn phát lắm, một cơ hội may cho mấy hãng Tây như Borris, Mattrat và Delaunay, vì chiến tranh, việc xuất nhập cảng khó khăn. Trong ủy ban giám đốc hầu hết là người Pháp nhưng tôi là nhân viên Hội đồng quản hạt, hãng xà-bông của tôi lại sản xuất nhiều hơn họ nên họ phải để tôi làm Chủ tịch. ...» Vì thế cũng không lạ gì, tên tuổi và sản phẩm của Trương Văn bền nổi tiếng và là niềm tự hào của nhiều người, nhất là ở trong Nam. Mặc dầu ông mất từ năm 1956 nhưng cho đến đầu thập niên 1970, nhiều người vẫn còn nhắc đến ông với sự kính trọng trong tình đồng bào và tình cảm thân cận gần gũi như trong nhà. Ông đã chỉ ra và làm gương cho nhiều người đi sau để khuếch trương tiềm năng tháo vát sáng tạo và tinh thần của người Việt Nam trong kinh tế và thương mại. Cũng theo ông Hứa Hoành (1) thì trong bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng (trong khi đó, giá vàng khoảng 60 đồng/lượng). Điều này chứng tỏ công ty Trương Văn Bền và các con là một trong những công ty làm ăn rất phát đạt ở Đông Dương tạo ra của cải công ăn việc làm cho bao người và thúc đẩy kinh tế phát triển trong nhiều lãnh vực. Sau năm 1948, Trương Văn Bền rời Việt Nam và sống tại Paris. Ông trở thành hội viên của Phòng thương mại Quốc tế (International Chamber of Commerce) và đi chu du khắp nơi trên thế giới. Ông viết hồi ký ở Paris và khi ông mất, anh Phillipe Trương cho đến nay giữ tập hồi ký này của ông. Ông Trương Văn Bền cũng là bạn ông Hui Bồng Hỏa (chú Hỏa), gia đình hai bên thỉnh thoảng thăm viếng ở Saigon và Nước Ngọt nơi hai ông có cư dinh (2). Ông Bền có nhiều con, trai lẫn gái. Một người con là ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (lập năm 1953) tại Sài gòn và là tổng giám đốc công ty xà-bông Việt Nam từ 1959 đến 1965. Ông Trương Khắc Huệ, sau khi tốt nghiệp trường đại học hóa học tại Marseilles, tham gia vào công ty Trương Văn Bền làm giám đốc kỹ thuật từ năm 1945 đến 1965 và tổng giám đốc từ năm 1965-1970. Ông Huệ cũng là hội trưởng nghiệp đoàn kỹ nghệ dầu và xà-bông miền Nam Việt Nam (1965-1975) và là tổng thư ký Tổng Đoàn Công Ty kỹ nghệ Việt Nam (1969-1975). Trong thời gian này, ông Trương Khắc Huệ là nguời tạo ra những sản phẩm mới như xà-bông hương ngài và nhứt là bột giặt (2). Người con trai út, ông Trương Khắc Cần, quản lý công ty từ năm 1970 đến 1975. Thời kỳ sau khi Trương Văn Bền mất, từ năm 1959 cũng là thời kỳ nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam. Xà bông Việt Nam của Trương Văn Bền vẫn chiếm lĩnh phần lớn thị trường cho đến khoảng giữa thập niên 1960, khi hàng hóa, xà bông, bột giặt Mỹ bắt đầu tràn ngập miền Nam. Các công ty mới ở Việt Nam cũng thành lập sản xuất bột giặt thay thế phần lớn nhu cầu dùng xà bông để giặt giũ. Công ty Trương Văn Bền và các con, lúc đó đã đổi thành Hãng xà bông Việt Nam, vẫn nỗ lực cạnh tranh, sản xuất thêm sản phẩm bột giặt Việt Nam cạnh tranh với các loại bột giăt Mỹ và bột giặt Viso của ông Trương Văn Khôi. Sau năm 1975, nhà nước mới trưng thu một phần cơ sở của Hãng Xà bông Việt nam để trở thành Nhà máy hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh với tập đoàn Proter & Gamble lập một nhà máy mới ở Bình Dương (1). Một thời quá khứ ngang dọc vang danh của nhà kỹ nghệ và doanh nhân nổi tiếng Việt Nam nay chỉ còn là ký ức. Một nghĩa cử tốt đẹp ít nhất chúng ta nên có để nhớ tới một trang lịch sử doanh nghiệp rất đáng tự hào, gương sáng cho tương lai và thế hệ mới ngày nay trong thời đại toàn cầu hóa. Cần ghi lại, phổ biến, khuyến khích học hỏi tinh thần doanh thương, mạo hiểm trên doanh trường nhưng đầy trách nhiệm với xã hội của Trương Văn Bền. Công ty Phương Đông ngày nay cũng nên tự hào ghi vào lịch sử công ty của mình những thành tích đáng khâm phục của người tiên phong mở đường cho công kỹ nghệ doanh thương Việt Nam. Nguyễn Đức Hiệp Tham khảo Hứa Hoành, Những nhà phú hộ và người lừng danh ở Nam kỳ, namkyluctinh.org/a-lichsu/huahoanh/huahoanh-phuho%5B4-kynghe%5D.htmPhillipe Truong, theo thông tin trong các điện thư do Phillipe gởi cho tác giả Khuyết danh, Trương Văn Bền (1883-1956), www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=467:truong-van-ben-1883-1956&catid=88:nhung-nha-kinh-te&Itemid=270Gouvernement general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine, Session ordinaire de 1939, Imprimerie d'extreme-orient, Hanoi, 1940, gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56273414.image.f115.tableDesMatieresGouvernement general de l'Indochine, Recueil des procès-verbaux des séances plénières du Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l'Indochine, Session ordinaire de 1938, Imprimerie d'extreme-orient, Hanoi, 1939, pp. 201-202,
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 7:26:38 GMT 9
Phim Ảnh Sài Gòn Xưa
Sài Gòn vào những thập niên 1950, 1960 và đầu thập niên 1970 đa số các rạp xi-nê đều chiếu phim ngoại quốc nhập từ Pháp. Đó cũng là lý do tại sao phim Mỹ lại nói tiếng Pháp hoặc phim nói tiếng Mỹ và có phụ đề (sous-titre) tiếng Pháp. Tên phim thì đa số bằng tiếng Pháp, dù là phim Mỹ. Phần đông các phim, dù của Pháp hay của Mỹ, đều có phụ đề Việt ngữ để khán giả có thể theo dõi. Ngoài ra, một số phim nói tiếng Pháp lại có phụ đề cả ba thứ tiếng Việt-Hoa-Anh…
Nói đến chuyện phụ đề Việt ngữ, tôi xin ghi lại một chuyện khá tức cười. Trong một phim tôi không nhớ tên, có cảnh người nữ diễn viên bồng đứa con còn ẵm ngửa và bên dưới có phụ đề: “Để em bỏ con vô nồi”. Khán giả cười ồ, dù cảnh trên màn ảnh không có gì để cười. Hóa ra những người làm phụ đề sơ xuất trong việc bỏ dấu: chữ ‘nôi’ bị biến thành ‘nồi’ thay vì “Để em bỏ con vô nôi”!
Theo tôi, phụ đề Việt ngữ là cách hay nhất giúp khán giả tiếp cận với tình tiết trong phim. Tuy nhiên, có nhiều phim vì diễn viên nói vừa nhanh vừa dài nên phụ đề cũng phải chạy chữ cho kịp khiến khán giả đọc ‘hụt hơi’, chưa hết câu này đã xuất hiện câu khác. Khổ nhất là những người đọc chậm theo kiểu… ‘bình dân học vụ’.
… Ngoài phụ đề Việt ngữ, xi-nê Sài Gòn xưa còn dùng hình thức chuyển âm, ngôn ngữ ngày nay gọi là ‘lồng tiếng’. Chuyển âm thường áp dụng cho những phim bình dân như loại phim ca-vũ-nhạc của Ấn Độ, sản xuất từ Bollywood…
… Một trong những phim tôi ‘mê’ nhất là Vertigo với các tài tử Kim Novak, James Stewart. Đạo diễn Alfred Hitchthingy làm phim Vertigo theo tiểu thuyết D’Entre les Morts của tiểu thuyết gia Pháp Boileau-Narcezac, hai ông viết chung, một ông tên là Boileau, ông kia tên là Narcezac. Nhà văn Hoàng Hải Thủy đã dựa theo tiểu thuyết D’Entre les Morts để phóng tác thành truyện Giữa những người đã chết.
Hồi đó, Sài Gòn chiếu rất nhiều phim Hitchthingy cho nên giới ghiền xi-nê gọi chung những phim kinh dị là ‘phim Hitchthingy’ dù phim không thực sự do Hitchthingy đạo diễn.
Trong ngôn ngữ Sài Gòn thời đó, người ta còn dùng từ ‘hít-cốc’ để diễn tả sự căng thẳng, quái đản hay nhuộm màu sắc trinh thám.
Có một loại phim cũng rất ăn khách với những màn nổ súng, ‘bắn chậm thì chết’. Người Sài Gòn gọi nôm na là ‘phim cao-bồi’ (cowboy), ‘phim miền Tây’ (Western Movies) với những cảnh cưỡi ngựa, bắn súng lồng trong cốt truyện ‘thiện thắng ác’, ‘anh hùng thắng gian tà’ hoặc ‘da trắng thắng da đỏ’. Người hùng trong những phim này phải kể đến Gary Cooper, John Wayne, Clint Eastwood, Burt Lancaster, Steve McQueen… trong những bộ phim miền Tây nổi tiếng như Gunfight at the O.K. Corral (với Burt Lancaster, Kirk Douglas) và The magnificient seven (Les sept mercenaires – Bảy tay súng oai hùng với các tài tử Yul Brynner, Steve McQueen).
Sài Gòn đã chiếu quá nhiều phim tuyệt hay mang tính cách kinh điển. Theo tôi, những phim dưới đây được xếp vào hạng ‘kiệt tác’ đối với dân ghiền xi-nê thời đó:
Casablanca: phim tình cảm với một mối tình đẹp giữa Rick (Humphrey Bogart) và Isla (Ingrid Bergman) trong những thời khắc của định mệnh và chiến tranh.
Gone with the wind (Cuốn theo chiều gió) với nàng Scarlet trong bối cảnh nội chiến Nam-Bắc Mỹ đã làm thổn thức bao trái tim vì cuộc tình lãng mạn qua diễn xuất của các tài tử nổi danh Vivian Leigh, Clark Gable.
Roman Holiday (Vacance Romaine – Nghỉ Hè La Mã), nàng công nương Audrey Hepburn và một phóng viên do số phận run rủi đã có những thời khắc đẹp bên nhau. Cảnh thơ mộng nhất phải kể đến là lúc cặp tình nhân chở nhau trên chiếc Vespa đi khắp Florence.
Bác sĩ Zhivago mang chủ đề tình yêu mạnh mẽ và thơ mộng trong những tháng ngày tuyệt vọng của cuộc sống tại Nga, mang dáng dấp bàng bạc của thời điêu linh sau 1975 tại Việt Nam.
City Lights (Ánh đèn đô thị) là một phim câm mang tính kinh điển của thời Charlie Chaplin với vai diễn độc đáo Charlot, một gã lang thang yêu một cô gái bán hoa bị mù hai mắt. Tình yêu khiến anh mạnh mẽ trong cuộc chiến vượt lên sự bần cùng. Phim câm, cười mà rơi lệ!
Love Story (Chuyện tình), phim đã đưa Ali McGraw và Ryan O’ Neal lên hàng các ngôi sao, đồng thời đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện sinh.
Sài Gòn trước 1975 chiếu nhiều loại phim và mỗi tài tử nổi tiếng đều có những fans hâm mộ riêng. Theo tôi, nổi nhất và có nhiều người hâm mộ nhất là cô đào sexy BB. Nữ minh tinh người Pháp Brigitte Bardot, sinh ngày 28/9/1934, nổi tiếng từ năm 1956 qua phim Et Dieu Créa La Femme (And God Created Woman) do Roger Vadim đứng ra đạo diễn và chính ông là chồng của BB.
Trong suốt cuộc hôn nhân với BB (1953-1957) ông đã biến người phụ nữ trẻ con (child-woman) thành một hình tượng quyến rũ của phái đẹp. Những phim tiếp theo như Babette s’en va-t-en guerre (1959), La Verité (1960) đã được trình chiếu tại các rạp xi-nê Sài Gòn và lúc nào cũng đông nghẹt người đến để xem cô đào sexy, tóc vàng, ‘môi cong’.
Không biết tôi có dùng đúng chữ để diễn tả cặp môi BB? Cặp môi đó lúc nào cũng chờ đợi, mời gọi những cái hôn và chính cặp môi đó sau này trên Đà Lạt có một loại hoa hồng mang tên Brigitte Bardot.
Đã có không ít cô gái Việt vào các thập niên 50-60 lấy BB làm khuôn mẫu. Theo tôi, không thể nào có một cặp môi thứ hai, không ai có thể bắt chước được BB với cặp môi… thiên phú! BB cũng là thần tượng của giới học sinh và sinh viên với mái tóc dài buông lơi đến quá lưng rất quyến rũ. Tóc BB lại đánh rối phía trước nên nhiều nữ sinh hồi đó cũng bắt chước kiểu tóc này khiến trường Trưng Vương phải tung ra chiến dịch chấn chỉnh: nữ sinh nào tóc đánh rối quá cao đều được các bà giám thị đưa vào văn phòng, bắt gỡ tóc và chải lại!
‘Quả Bom Sex’ thứ hai là Sophia Loren, cũng sinh năm 1934 như BB, nhưng lại là cô gái Ý, sống cuộc đời nghèo khổ tại Naples. Và cũng như BB, cô lấy ông chồng làm đạo diễn, Carlo Ponti, năm 1957.
Những phim hay nhất của Sophia Loren phải kể đến The Pride and the Passion (1957, đóng chung với Frank Sinatra), It Started in Naples (1960, với Clark Gable) và El Cid (1961, với Charlton Heston). Năm 1961, Sophia Loren đoạt giải Oscar qua phim La Ciociara (Two Women) đến khi về già vẫn còn nhận một giải Oscar vào năm 1991.
Kiều nữ thứ ba được dân ghiền xi-nê ái mộ là Gina Lollobrigida. Phim hay nhất làm tôi mê mẩn là Thằng gù Nhà thờ Đức Bà (Notre Dame de Paris) năm 1956 với Gina trong vai người đẹp Esmeralda và Anthony Quinn trong vai anh gù Quasimodo theo truyện của Victor Hugo.
Đây cũng là phim màu đầu tiên dựa theo tiểu thuyết và sau này tôi mới biết nguyên bản của phim chỉ có 2 nhân vật chính nói tiếng Anh còn những diễn viên người Pháp đều được lồng tiếng Anh. Trong khi đó tại Sài Gòn dù xem phim Mỹ vẫn nghe tiếng Pháp. Thật tréo cẳng ngỗng giữa 3 ngôn ngữ Anh-Pháp-Việt trong thị trường điện ảnh tại Sài Gòn.
Sẽ không công bằng khi bỏ qua các minh tinh miền Nam một thời vang bóng như Kim Cương (trong Lòng nhân đạo, Ngọc bồ đề), Trang Thiên Kim (Mục Liên Thanh Đề, Trương Chi…), Mai Trâm (Chúng tôi muốn sống), Khánh Ngọc (Ràng buộc, Ánh sáng miền Nam…) Những phim khá ăn khách thuộc loại cổ điển còn phải kể tới Lâm Sanh – Xuân Nương, Phạm Công – Cúc Hoa, Lục Vân Tiên, Quan Âm Thị Kính… những phim thuộc loại tình cảm-xã hội như Kiếp hoa, Ảo ảnh, Sóng tình, Hè muộn, Trường tôi, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Loan Mắt nhung,…
ăm 1957 là năm điện ảnh hoạt động mạnh mẽ nhất tại miền Nam, chỉ riêng trong năm này, các hãng phim tư nhân đã sản xuất gần 40 phim. Một số hãng phim đã xuất hiện với các tên như Cosunam, Tân Việt, Việt Thanh, Mỹ Vân, Văn Thế, Trường Sơn, Đông Phương, Liên Hiệp, Viễn Đông, An Pha, Hương Bình… Đã có những triệu phú trong ngành điện ảnh Sài Gòn như Ưng Thi (chủ khách sạn Rex và các rạp Rex, Văn Hoa Đa Kao, Văn Hoa Sài Gòn); Nguyễn Thị Lợi (Giám đốc Cosunam Film), Thái Thúc Nha (Giám đốc Alfa Film) và Trương Vĩ Nhiên (Viễn Đông Film).
Cuối năm 1957, hãng Mỹ Vân tung ra bộ phim Người đẹp Bình Dương được trình chiếu vào dịp Noel và năm mới 1958 với một chiếc lược quảng cáo rầm rộ. Cuốn phim đã thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo khán giả và đồng thời giới thiệu một gương mặt mới của nền điện ảnh miền Nam: Thẩm Thúy Hằng.
Tên thật của Thẩm Thúy Hằng là Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1941, nguyên quán bố mẹ gốc Hải Phòng, và lớn lên tại An Giang. Vào một ngày gần như là định mệnh, Phụng được thấy một trang báo có đăng quảng cáo cuộc thi tuyển diễn viên điện ảnh của hãng phim Mỹ Vân. Giấu cha mẹ, cô nữ sinh Phụng, khi đó mới 16 tuổi, học lớp Đệ Tứ, ghi tên dự tuyển.
Giữa muôn ngàn đóa hoa hương sắc, với những gương mặt sáng ngời của những ngôi sao nổi tiếng thuộc lớp ‘đàn chị’ như Kim Vui, Khánh Ngọc, Kiều Chinh, Trang Thiên Kim… bà chủ hãng phim Mỹ Vân đã tinh ý phát hiện thấy Phụng. Cô nữ sinh Nguyễn Kim Phụng đã vượt qua hơn hai ngàn thí sinh, bước lên đài vinh quang bằng giải nhất của cuộc tuyển lựa bên phía nữ.
Từ vai diễn đầu tiên với vai Tam Nương trong Người Đẹp Bình Dương, đóng cặp với nam diễn viên Nguyễn Đình Dần trong vai Hoàng tử, Thẩm Thúy Hằng bước lên ngôi vị nữ diễn viên khả ái nhất của màn ảnh Sài Gòn vào cuối thập niên 50 đầu thập niên 60.
Biệt danh Người Đẹp Bình Dương xuất hiện từ đó và Thẩm Thúy Hằng đã đóng trên dưới 60 phim nổi tiếng thời đó là: Trà Hoa Nữ, Ngưu Lang-Chức Nữ, Sự Tích Trầu Cau, Bạch Viên Tôn Cát, Sài Gòn Vô Chiến Sự, Nửa Hồn Thương Đau, Đôi Mắt Huyền, Oan Ơi Ông Địa, Dang Dở, Tơ Tình, Nàng, Bóng Người Đi, Ngậm Ngùi, Mười Năm Giông Tố, Sóng Tình, Xin Đừng Bỏ Em…
Phim đầu tay của Thẩm Thúy Hằng, Chiều Kỷ Niệm, với độ dài 1 giờ 45 phút, là phim thuộc thể loại tình cảm xã hội do Lê Mộng Hoàng đạo diễn. Bộ phim đen trắng được tạp chí Màn ảnh Sài Gòn ca tụng:
“Ngay ngày chiếu cho khán giả xem, đồng bào đã chen chúc tới hai rạp Rex và Văn Hoa để giành vé. Chỉ trong ngày đầu công chiếu, rạp Rex đã thu về được hơn một triệu tiền Việt Nam, còn Văn Hoa thu về hơn bảy trăm ngàn đồng. Sau đó, suốt trong một tuần lễ phim chiếu, ngày nào cũng đông như vậy, đến nỗi cuốn phim được chiếu tiếp sang tuần thứ nhì. Điều này, là một hiện tượng hiếm mà khán giả dành cho phim Việt nam”.
Phim cuối cùng của Thẩm Thúy Hằng được quảng cáo chiếu tại các rạp Khải Hoàn, Casino Đakao, Kim Châu và Lux trước ngày Sài Gòn thất thủ là một phim hài mang tên Chàng ngốc gặp hên. Phim này còn có sự hiện diện của La Thoại Tân cùng các danh hài Văn Chung, Thanh Việt và Tùng Lâm.
Chàng ngốc gặp hên được chiếu tại các rạp từ ngày 21/3/1975, chỉ cách ngày các cán binh miền Bắc tràn ngập Sài Gòn đúng 1 tháng 9 ngày. Phải chăng đó cũng là một ‘điềm dữ’ báo trước… các chàng ngốc gặp hên (?!)…
Nguyễn Ngọc Chính (Hồi ức một đời người)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 29, 2017 1:42:42 GMT 9
TỔ CHỨC GIÁO DỤC và THI CỬ dưới THỜI VIỆT NAM CỘNG HOÀ Lê Duy San
Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương và trao trả quyền độc lập cho Việt Nam vào năm 1945, Học Giả Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại triệu vào Huế yết kiến và trao trọng trách thành lập chính phủ.. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Học Giả Trần Trọng Kim đã đệ trình một danh sách cán nhân vật trong nội các của ông trong đó có Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đảm trách chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Nghệ. Mặc dầu thời gian làm Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Nghệ thật ngắn ngủi, từ 17/4/1945 đến 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền của chính phủ Trần trong Kim, nhưng ông cũng đã có công soạn thảo và ban hành một chương trình giáo dục từ bậc tiểu học đến trung học hoàn toàn Việt Nam và đã được áp dụng suốt 30 năm, từ 1945-1975 (1).
I/ Bậc Tiểu Học và Trung Học.
1/ Bậc Mẫu Giáo và Tiểu Học.
a/ Bậc Mẫu Giáo
Bậc Mẫu Giáo dành cho trẻ em đến tuổi đi học tức từ 5 tuổi. Chương trình chỉ có 1 năm. Mục đích của bậc mẫu giáo chỉ cốt là để cho các em làm quen với lớp học và biết đọc, biết viết để sửa soạn vào bậc Tiểu Học.
b/ Bậc Tiểu Học
Bậc Tiểu Học dành cho các trẻ em đã qua bậc Mẫu Giáo và từ 6 tuổi trở lên. Bậc Tiểu học có tất cả 5 lớp: Lớp Năm, Lớp Tư, Lớp Ba, Lớp Nhì và Lớp Nhất, sau này được đổi lại và gọi là Lớp 1, Lớp 2, Lớp 3, Lớp 4 và Lớp 5.
Chương trình Tiểu Học gồm có các môm chính như: Đức dục, Tập làm văn, Học thuộc long, Ngữ vựng, Chánh tả, Văn phạm, Toán, Hình học, Khoa Học thường thức, Sử ký, Địa lý, Vẽ, Viết tập, Thủ công, Thể dục, Hạnh kiểm v.v... Sau khi học xong Lớp Nhất phải thi lấy bằng tốt nghiệp, gọi là bằng Tiểu Học
Mặc dầu chỉ là bằng Tiểu Học, nhưng thi cũng rất khó và không những thi viết mà còn thi cả vấn đáp. Thi viết gồm một bài Chính Tả, một bài Luận và một bài Toán. Nếu đậu sẽ được vào thi vấn đáp. Thi vấn đáp rất dễ, thường thì chỉ phải đọc thuộc lòng một bài thơ hoặc hát một bài hát.
Có bằng Tiểu Học mới được ghi tên dự thi tuyển vào lớp Đệ Thất bậc Trung Học. Bằng Tiểu Học được bãi bỏ vào năm 1955 (?). Người lớn tuổi có bằng Tiểu Học có thể xin làm công chức ngạch Tùy Phái hay Thư Ký đánh máy nếu có thêm bằng đánh máy.
2/ Bậc Trung Học.
Bậc Trung Học được chia ra làm 2: Trung Học Phổ Thông và Tú Tài.
a/ Trung Học Phổ Thông hay Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Bậc Trung Học Phổ Thông gồm 4 lớp học trong 4 năm: Từ Đệ Thất đến Đệ Tứ. Ngoại ngữ Anh, Pháp và Hán Văn cũng bắt đầu được dậy ngay từ lớp Đệ Thất bậc Trung Học Phổ Thông. Sau này Hán Văn được bãi bỏ, chỉ còn Anh văn và Pháp văn. Lúc đầu học sinh phải học cả 2 ngoại ngữ Anh văn và Pháp văn, sau chỉ còn học một ngoại ngữ.
Chương trình học suốt từ năm Đệ Thất đến năm Đệ Tứ gồm có các môn chính như Quốc văn (Việt Văn), Công Dân Giáo Dục, Sử Điạ, Tóan, Lý Hoá, Vạn Vật, Anh Văn, Pháp Văn, Vẽ, Nhạc, Thể dục và Hạnh Kiểm v.v….
Ở bậc phổ thông chưa có chia Ban A (Vạn Vật), B (Toán) hay C (Sinh Ngữ). Sau khi học xong lớp Đệ Tứ, học sinh sẽ thi tốt nghiệp để lấy bằng Trung Học Phổ Thông còn được gọi là Trung Học Đệ Nhất Cấp. Môn thi gồm có Việt Văn, Toán, Lý Hoá, Pháp Văn, Anh Văn. Thí sinh thi đậu viết còn phải thi vấn đáp đủ các môn. Thí sinh thi trượt vấn đáp kỳ 1 được giữ điểm đậu thi viết để thi lại phần vấn đáp trong kỳ 2. Thí sinh có đậu vấn đáp mới được coi là tốt nghiệp. Sau này thi vấn đáp được bãi bỏ, chỉ còn thi viết. Người có bằng Trung Học Phổ Thông có thể xin làm công chức hạng C, ngạch Thư Ký Hành Chánh hoặc thi vào Quốc Gia Sư Phạm, Quốc Gia Thương Mại hoặc ghi tên học các trường Cán Sự như Cán Sự Kiến Trúc, Cán Sự Y Tế, Cán Sự Công Chánh, Điạ Chánh v.v…. hoặc muốn theo đời binh nghiệp thì vào trường Bộ Binh Thủ Đức.
b/ Bậc Tú Tài hay Trung Học Đệ Nhị Cấp.
Bậc Tú Tài phải học 3 lớp trong 3 năm: Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất và được chia Ban A, B hay C ngay từ Đệ Tam và học cả 2 ngoại ngữ Anh và Pháp.
Các môn học cũng giống như ở cấp Phổ Thông gồm có Toán, Lý Hoá, Anh Pháp Văn, Công Dân, Sử Điạ, Vạn Vật, Thể dục và Hạnh kiểm. Việt Văn chỉ dậy ở 2 lớp Đệ Tam, Đệ Nhị,
Lên Đệ Nhất bỏ môn Thể dục và môn Việt văn được thay thế bằng môn Triết học.
Muốn được nhận vào lớp Đệ Tam học sinh phải đủ điểm trung bình qua hai kỳ thi đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt ở lớp Đệ Tứ để lên lớp Đệ Tam, nếu là học sinh trường công. Nếu là học sinh trường tư, phải đậu Trung Học Phổ Thông và phải qua một kỳ thi tuyển vì số chỗ có hạn.
Muốn được vào học lớp Đệ Nhất, học sinh lớp Đệ Nhị phải đậu bằng Tú Tài I. Sau này, bằng Tú Tài I được bãi bỏ thì phải đủ điểm lên lớp qua 2 kỳ thi đệ I và đệ II lục cá nguyệt. Sau khi học xong lớp Đệ Nhất, học sinh phải trải qua một kỳ thi tốt nghiệp để lấy bằng Tú Tài 2 còn gọi là Tú Tài Toàn Phần. Tùy theo Ban mình lưạ chọn khi ghi danh thi bằng tốt nghiệp sẽ được gọi là ban Khoa Học Thực Nghiêm (ban A), ban Khoa Học Toán (ban B) hay ban Văn Chương (ban C).
Thể lệ thi cũng giống như kỳ thi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Riêng sinh ngữ thì phải làm một bài nghị luận luân lý (discertation morale) cho môn sinh ngữ chính thay vì bài dịch như ở kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Ở cấp Tú Tài I, thí sinh nếu có thêm bằng Thể Thao khi thi bằng Tú Tài I sẽ được thêm 1 điểm trong kỳ thi Viết. Kỳ thi Tú Tài I rất khó, nhiều thí sinh thiếu nửa điểm cũng trượt. Nên nếu có Bằng Thể dục để được thêm 1 điểm rất là qúy.
Có bằng Tú Tài Tòan Phần có thể ghi danh các trường Đại Học như Khoa Học, Luật Khoa hay Văn Khoa hoặc các trường Đại Học Y, Nha, Dược, trước năm 1963 (?) hoặc thi vào các trường chuyên nghiệp như Cao Đẳng Sư Phạm, sau này là Đại Học Sư Phạm, Cao Đẳng Công Chánh tức kỹ sư Công Chánh, Cao Đẳng Điện Học tức kỹ sư Điện, Cao Đẳng Hoá Học tức kỹ sư Hoá Học, Cao Đẳng Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh hoặc xin làm công chức hạng B, ngạch Tham sự. Hoặc nếu muốn theo đường binh nghiệp thì có thể thi vào các trường Võ Bị Đà Lạt, Haỉ Quân, Không Quân.
Chương trình giáo dục Trung và Tiểu Học Việt Nam do Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn soạn thảo dựa theo trương trình giáo dục của Pháp, tuy nặng về từ chương, thiếu tính cách thực dụng, nhưng có trình độ khá cao. Bất cứ một học sinh nào, sau khi qua được bậc Tú Tài (Trung Học Đệ Nhị Cấp) đều có đủ trình độ và khả năng để theo bậc đại học không những ở trong nước mà cả ở các nước tiền tiến như Anh, Pháp hoặc Hoa Kỳ, Gia Nã Đại v.v…
II/ Bậc Đại Học
Nếu chương trình Tiểu Học và Trung Học Việt Nam còn gọi là Chương Trình Hoàng Xuân Hãn được áp dụng ngay từ năm 1945 thì mãi tới năm 1955, năm Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được dân miền Nam bầu làm Tổng Thống và nền Đệ Nhất Cộng Hoà được ra đời thì chương trình Đại Học Việt Nam mới bắt đầu được dần dần thay đổi. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử Giáo Sư Nguyễn Quang Trình, Tiến Sĩ Hóa Học tại Paris, thay thế ông De Lassus làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Đại Học Saigon dưới quyền quản trị của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Ngoài Viện Đại Học Saigon, sau còn có Viện Đại Học Huế, Viên Đại Học Đà Lạt và Viện Đại Học Cần Thơ v.v…
A/ Tiền thân của Viện Đại Học Saigon.
Tiền thân của Viện Đại Học Saigon là Viện Đại Học Đông Dương (Université Indochinoise) do chính quyền thuộc địa Pháp thành lập vào năm 1906 (?) và trụ sở đặt tại Hà Nội. Sau đệ nhị thế chiến, Viện Đại Học Đông Dương được đổi thành Viện Đại Học Hà Nôi .. Sau Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, Viện Đại Học Hà Nội di chuyển vào Nam và trở thành Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Vào năm 1957, Viện Đại Học Huế được thành lập, Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam trở thành Viện Đại Học Saigon, trụ sở đặt tại số 3 Công Trường Chiến Sĩ.
Viện Đại Học Saigon có 2 ký túc xá: một là Đại Học Xá Minh Mạng ở Ngã Sáu Chợ Lớn dành chon am sinh viên và một Đaị Học Xá Trần Qúy Cáp ở đường Trần Qúy Cáp, thuộc quận Nhất, dành cho nữ sinh viên.
B/ Các phân khoa thuộc Viện Đại Học Saigon.
Các phân khoa thuộc Viện Đại Học Saigon gồm có:
1/ Đại Học Văn Khoa, trụ sở lúc đầu ỏ đường Nguyễn Trung Trực, quận Nhất, sau di chuyển về đương Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Nhất.
2/ Đại Học Luật Khoa, trụ sở ở đương Duy Tân, quận Nhất.
3/ Đại Học Khoa Học, trụ sở ở đường Cộng Hoà, quận Năm.
4/ Đại Học Sư Phạm, trụ sở đăt tại đường Cộng Hoà, quận Năm.
5/ Đại Học Kiến Trúc, trụ sở tại đường Pasteur, quân Ba.
6/ Đại Học Y Khoa, trụ sở lúc đầu ở đương Trần Qúy Cáp, quân Ba, sau di chuyển về Đại Lộ Hồng Bàng, quân Năm.
7/ Đại Học Dược Khoa, trụ sở lúc đầu ở đường Trần Qúy Cáp , quân Ba, sau di chuyển về đường Công Lý (góc Hiền Vương), quận Ba.
8/ Đại Học Nha Khoa, trụ sở ở đường Nguyễn Trãi, quận Năm.
Lúc đầu trường Đại Học cũng còn tiếp tục giảng dạy bằng tiếng Pháp vì chưa đủ giáo sư người Việt. Cho đến khi số Giáo sư người Việt đầy đủ, tất cả các Giáo sư người Pháp rút lui vào khoảng năm 1964 và cũng kể từ năm này, toàn thể các Giáo sư người Việt lãnh trách nhiệm giảng dạy cho toàn thể các trường Đại Học ở miền Nam Việt Nam.
Ngoài Viện Đại Học Saigon , sau này còn có Viện Đại Học Huế, Viện Đại Học Đà Lạt, Viện Đại Học Cần Thơ v.v… chương trình giảng dậy cũng tương tự, nhưng không đầy đủ các phân khoa như Viện Đại Học Saigon và thành phần giáo sư cũng không được chọn lọc kỹ như Viện Đại Học Saigon.
Viện Đại Học Saigon tuy là là Viện Đại Học của miền Nam Việt Nam, nhưng phải nói là một Viện Đại Học uy tín nhất Việt Nam gồm toàn các giáo sư Thạc Sĩ, Tiến Sĩ phần lớn đều tốt nghiệp ở các trường Đại Học danh tiếng ở ngoại quốc về nước giảng dậy và cũng là nơi đào tạo ra không biết bao nhân tài cho đất nước.
1/ Trường Đại Học Luật Khoa.
Trường Đại Học Luật Khoa được chính quyền bảo hộ Pháp thành lập vào đầu thập niên 1920. Lúc đầu có tên là Trường Cao Đẳng Pháp Chánh Đông Dương (École Supérieure d’ Administration Indochinoise), trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1933 trường được đổi thành trường Cao Đẳng Luật Học (École Supérieure de Droit). Tới năm 1938, trường được nâng lên hàng phân khoa (Faculté) (2)và được gọi là Luật Khoa Đại Học Đường (Faculté de Droit) (3)
Từ năm 1955 trở đi, trường Đại Học Luật Khoa bắt đầu giảng dạy bằng tiếng Việt vì trong giai đoạn này, trường Luật Khoa có rất nhiều Giáo sư Việt Nam với đầy đủ các cấp bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ tốt nghiệp tại Pháp như: Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Giáo sư Vũ Quốc Thông, Giáo sư Nguyễn Cao Hách v.v …
Ngoài trường Đại Học Luật Khoa Saigon, sau này chính quyền Việt Nam Cộng Hoà còn cho mở thêm trường Đại Học Luật Khoa Huế vào năm 1957 và trường Đại Học Luật Khoa Cần Thơ vào năm 1966.
a/ Cấp Cử Nhân.
Trường Đại Học Luật Khoa lúc đầu chỉ có 3 năm giống như chương trình Cử Nhân Luật của Pháp. Vì nước nhà đã độc lập nên chương trình học loại bỏ môn Dân Luật của Pháp và được thay bằng Dân Luật Việt Nam. Thời gian học vẫn là 3 năm. Mỗi năm đều có thi tốt nghiệp và có cấp phát bằng tốt nghiệp gọi là Bằng Cử Nhân I, II hoặc III và văn bằng này được thay thế cho Văn Bằng Cử Nhân Luật Khoa thực sự trong khi chờ đợi Văn Vằng Cử Nhân Luật Khoa thực sự được cấp phát. Việc ghi danh cũng như theo học trường Luật tương đối dễ hơn những trường khác, sinh viên có thể chỉ cần mua sách hoặc những bài in Ronéo của Giáo sư đem về nhà học, nên số sinh viên ghi danh rất đông. Tuy nhiên tỉ số đậu lại rất thấp. Nếu tính tỷ lệ theo số sinh viên ghi danh năm thứ nhất với số sinh viên tốt nghiệp năm cuối cùng thì chỉ khoảng 5%.
Tới đến năm 1963 trường Luật theo học trình của trường Đại Học Khoa Học và Văn Khoa, đổi thời gian học lên đến 4 năm thay vì 3 năm. Sinh viên học năm nào phải thi tốt nghiệp năm ấy. Mỗi năm có 2 kỳ thi vào tháng 6 và tháng 9. Sinh viên năm thứ nhất cuối năm có đậu mới được lên năm thứ hai. Chương trình thi bao gồm hai phần: thi Viết và thi Vấn đáp.
Trước ngày thi, giáo sư bốc thăm 2 môn trong số 7 môn đã học . Hai môn này sẽ được chọn làm đề thi Viết với thời gian 2 giờ. Năm môn còn lại, dành cho thi Vấn đáp. Muốn vào thi Vấn đáp, thí sinh phải đậu phần thi Viết. Nếu rớt Vấn đáp, thí sinh sẽ đuợc giữ điểm thi Viết cho kỳ 2 cùng năm và chỉ thi lại Vấn đáp mà thôi.
Lên năm thứ ba, sinh viên sẽ chọn ngành: Tư Pháp (tốt nghiệp làm Thanh Tra hoặc Luật sư Tập sự), Công Pháp (tốt nghiệp thường làm ở Quốc Hội), Kinh Tế (tốt nghiệp làm ở Ngân Hàng)…và thi tốt nghiệp Cử Nhân Luật của ngành đã chọn vào cuối năm thứ tư.
Chương trình học gồm có hai phần: Phần kiến thức tổng quát và phần chuyên môn.
Phần kiến thức tổng quát gồm có các môn: Kinh tế, Bang Giao quốc tế, Các Tổ Chức Quốc Tế, Các Học Thuyết Chính Trị, Tài Chánh, Pháp Chế Sử, Luật Báo Chí, Phạm Tội Học, Luật Đối Chiếu v.v…
Phần chuyên môn gồm có các môn luật thuần túy như Luật Dân Sự, Dân Sự Tố Tụng, luật Tài Sản, Luật Hình Sự, Hình Sự Tố Tụng, Luật Hiến Pháp, Luật Thương Mại, Luật Hành Chánh, Tố Tụng Hành Chánh, Luật Bảo Hiểm, Luật Lao Động, Luật Ngân Hàng, Luật Hàng Hải, Quốc Tế Công Pháp, Quốc Tế Tư Pháp v.v…
Người có bằng Cử Nhân có thể xin vào làm công chức hạng A tại các bộ hoặc thi vào các ngạch chuyên môn như gạch Thẩm Phán, ngạch Tham Vụ Ngoại Giao, ngạch Thanh Tra Lao Đông, Thanh Tra Ngân Hàng, Thanh Tra Quan Thuế v.v…hoặc xin vào Luật Sư Đoàn tập sự để hành nghề Luật Sư.
b/ Cấp Tiến Sĩ.
Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân, nếu muốn tiếp tục học để lấy bằng Tiến Sĩ Luật, sinh viên phải học thêm 2 năm nữa để lấy thêm hai bằng Cao Học của ngành mình lựa chọn hoặc Công Pháp hoặc Tư Pháp. Chương trình ban Cao Học được chia làm 2 cấp: Cấp I và cấp II. Sau khi đậu cấp I gọi là Cao Học I, sinh viên mới được ghi danh học cấp II. Chương trình mỗi cấp gồm có 2 phần: Phần tổng quát ôn lại và phần thâm cứu những môn chính đã học ở cấp Cử Nhân.
Sau khi có được 2 bằng cao học, sinh viên phải tìm một ông thày đỡ đầu để làm luận án Tiến Sĩ. Thời gian có thể là 1 năm hay nhiều năm, tùy theo ông thày đỡ đầu xét xem luận án có đạt được đầy đủ những tiêu chuẩn mà ông ta mong muốn hay chưa. Vì thế nhiều sinh viên mặc dầu đã có 2 bằng cao học, nhiều khi cả năm bẩy năm sau vẫn chưa được trình luận án để lấy bằng Tiến Sĩ.
2/ Trường Đại Học Văn Khoa.
Tiền thân của Trường Đại học Văn khoa Saigon là Trường Đại học Văn khoa Hà Nội do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát cho thành lập vào năm 1949 thời Quốc gia Việt Nam. Hoạt động của Trường trong những năm kế tiếp bị gián đoạn vì tình hình chính trị. Mãi đến năm 1955, thời Đệ nhất Cộng hòa, Trường Đại học Văn khoa Saigon mới được ưu tiên phát triển. Lúc đầu Trường Đại học Văn khoa cấp bằng cử nhân văn chương Pháp và Anh nhưng và phải đến năm học 1957-1958 thì chương trình cử nhân giáo khoa văn chương Việt Nam mới được hoàn thiện. Cũng năm đó chương trình cử nhân giáo khoa triết học cũng được xây dựng hoàn tất.
Tương tự như trước năm 1954, cách tổ chức và chương trình của trường không có gì thay đổi. Giáo sư phụ trách giảng dạy của trường gồm các giáo sư sau: Giáo sư Nghiêm Toản dạy môn Văn Chương Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Kỹ sư Hóa Học tại Pháp, chuyên về Triết Học Đông Phương, Giáo sư Bùi Xuân Bào, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp, dạy Pháp Văn, Giáo sư Lê Trung Nhiên, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp tại Đại Học Sorbonne, dạy môn Pháp Văn, Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp tại Đại Học Sorbonne, giảng dạy môn Pháp Văn và môn Văn Minh Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, Ph D, dạy môn Anh Văn…
Các Giáo sư phụ trách môn Việt Hán thường là các thầy dạy Việt Văn từ Trung học hoặc là một vài Giáo sư dạy chữ Hán có bằng Cử Nhân hoặc Tiến Sĩ Hán Học. Các vị Giáo sư Việt Văn và Triết Học, Sử Địa thường không có bằng Tiến Sĩ cho nên họ chỉ là Giảng Sư của trường nhưng sau năm 1972 vì công lao to lớn của các vị này đào tạo nhiều Giáo sư Trung Học dạy các môn Việt Văn, Sử Địa v..v…cho nên chính phủ đặc cách một số vị không có bằng Tiến Sĩ, làm Giáo Sư Đại Học. Ta cũng nên kể một vài vị có bằng Tiến Sĩ từ Pháp hay Mỹ giảng dạy nhưng không quá 5 vị trong số này. Trường Văn Khoa cấp phát được một số bằng Cao Học môn Địa Lý và Sử Học, Anh và Pháp nhưng chưa cấp phát được một bằng Tiến Sĩ nào cả.
Ngoại trừ các môn Hán Văn, Anh Văn và Pháp Văn, các môn khác như Việt Văn, Ngôn Ngữ và Văn Chương, Văn Phạm Việt Nam, Sử Ký, Địa Lý Việt Nam và Quốc Tế đều dậy bằng Việt Ngữ.
Cũng như các đại học khác, muốn theo học Đại Học Văn Khoa, sinh viên phải có bằng Tú Tài Toàn Phần.
Trường Đại Học Văn Khoa học theo Chứng Chỉ. Năm đầu, sinh viên chỉ dược học 1 chứng chỉ duy nhất đo là chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa. Chứng chỉ này có nhiều loại khác nhau, tùy sinh viên lựa chọn cho hợp với văn bằng Cử Nhân mà mình lưạ chọn. Sau khi đậu được chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa, mỗi năm sinh viên có thể ghi học 2 chứng chỉ. Nhưng thực tế rất ít sinh viên đậu được 2 chứng chỉ trong một năm.
Ngoài Chứng Chỉ Dự Bị, Sinh viên nào có thêm được 4 chứng chỉ đòi hỏi cho văn bằng Cử Nhân của mình thì được cấp văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa. Còn nếu một trong 4 chứng chỉ đó không đúng thì bằng Cử Nhân đó không được gọi là bằng Cử Nhân Giáo Khoa mà gọi là Cử Nhân Văn Khoa thường thôi. Thí dụ:
- Cử Nhân Giáo Khoa Việt Hán, ngoài chứng chỉ Dự Bị còn phài có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Việt Nam, Ngôn Ngữ và Văn Minh Việt Nam, Hán văn và Chứng chỉ Sử Việt Nam hoặc Địa Lý Điạ Phương.
- Cử Nhân Sử Địa, ngoài chứng chỉ Dự Bị còn phải có 4 chứng chỉ Sử Việt Nam, Sử Thế Giới, Địa lý Điạ Phương và Chứng chỉ Địa Chất Học (Geology).
- Cử Nhân Anh Văn ngoài chứng chỉ Dự Bị (Anh Văn) còn phải có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Việt Nam, Văn Chương Anh, Ngôn Ngữ và Văn Minh Anh và một chứng chỉ nhiệm ý như Pháp văn hoặc, Chứng chỉ Sử (hoặc Địa).
- Cử Nhân Pháp Văn, ngoài chứng chỉ Dự Bị (Pháp Văn) còn phải có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Pháp, Ngôn Ngữ và Văn Minh Pháp, Việt Văn và Chứng Chỉ Anh Văn hoặc, Chứng chỉ Sử (hoặc Địa).
- Cử Nhân Triết Học có 2 loại: Cử Nhân Triết Học Tây Phương và Cử Nhân Triết Học Đông Phương.
Muốn lấy Cử Nhân Triết Học Tây Phương, ngoài chứng chỉ Dự Bị, sinh viên phải có chứng chỉ Tâm Lý, Đạo Đức, Xã Hội, Chứng Chỉ Luận Lý, Chứng Chỉ Siêu Hình và Chứng Chỉ Lịch Sử Triết Tây.
Muốn lấy Cử Nhân Triết Học Đông Phương ngoài chứng chỉ Dự Bị, sinh viên còn phải có chứng chỉ Triết Học Trung Hoa, chứng chỉ Triết Học Á Đông, chứng chỉ Đạo Đức Đông Phương, chứng chỉ Lịch Sử Triết Đông Phương.
Người có bằng Cử Nhân có thể xin tuyển làm giáo sư dậy trung học hoặc thi vào ngạch Tham Vụ Ngoại Giao.
3/ Trường Đại Học Khoa Học.
Tiền thân của trường Đại Học Khoa Học Saigon là trường Đại Học Hà Nội. Năm 1954, Hiệp Định Genève ký kết chia đôi Việt Nam thành hai miền Nam Bắc, trường Đại Học Khoa Học Hà Nội được di chuyển vào Nam và đổi tên là trường Đại Học Khoa Học Saigon.
Lúc đầu chương trình được giảng dậy hoàn toàn bằng tiếng Pháp và có rất nhiều giáo sư người Pháp giảng dậy. Chương trình được Việt hoá dần dần. Tới năm 1970 thì chương trình được giảng dậy hoàn toàn bằng tiếng Việt.
Cho tới năm 1975, trường Đại Học Khoa Học Saigon cũng chỉ mới có cấp Cử Nhân, chưa có cấp Tiến Sĩ. Những sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân, muốn học thêm để lấy bằng Tiến Sĩ phải xin đi du học ở ngoại quốc.
Chương trình học Cử Nhân là 4 năm. Một sinh viên xuất sắc có thể hoàn tất Cử Nhân trong 3 năm. Nhưng nhiều sinh viên phải học tới 5, 6 năm mới hoàn tất.
Năm đầu, sinh viên chỉ có thể học một trong ba chứng chỉ sau:
MG (Mathematics Générale), MPC (Mathematics. Physics, Chemistry). SPCN (Science, Physics, Chemistry, Natural). Sang năm thứ hai, sinh viên có thể học 2 chứng chỉ. Nhưng thường rất ít sinh viên có thể đậu được 2 chứng chỉ trong một năm.
a/ Cử Nhân Khoa Học Toán.
Ngoài chứng chỉ Dự Bị MG, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau:
-Calculus Diffirenciale. -Mechanics Rationale. -Physic Generale.
b/ Cử Nhân Khoa Học Vật Lý.
Ngoài chứng chỉ Dự Bị MPC, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau: -Physic Generale. -Chemistry General. -Mechanics Rationale.
c/ Cử Nhân Khoa Học Tự Nhiên.
Ngoài chứng chỉ Dự Bị SPCN, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau: -Biology Animale. -Physiology Vegetable -Geophysics.
Những sinh viên mặc dù đã có đũ 4 chứng chỉ, nhưng không đúng theo theo luật đòi hỏi thì không được gọi là Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học mà chỉ được gọi là Cử Nhân Khoa Học thôi.
Vì các chứng chỉ trên rất khó, nên số sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân hàng năm rất hiếm, không đử để cung cấp cho nhu cầu nên sau này, nhiều chứng chỉ đã được chia ra làm hai hoặc ba chứng chỉ để sinh viên theo học cho dễ dàng. Thí dụ chứng chỉ Vật Lý Đại Cương (Physic Generale) được chia làm 2 chứng chỉ Quang Học , Điện Học và Nhiệt Học. Vì thế các sinh viên sau này thường phải có tới tám, chín cái chứng chỉ mới hoàn tất xong bằng Cử Nhân Khoa Học.
4/ Đại Học Sư Phạm.
Trường Đại học Sư Phạm Saigon là hậu thân của trường Cao Đẳng Sư Phạm Saigon. Niên khoá 1958-1959 trường Cao Đẳng Sư Phạm Saigon được đổi thành trường Đại Học Sư Phạm Saigon. Thời gian học vẫn giữ nguyên là 3 năm, sau thời gian tăng lên 4 năm và trong thời gian học có học bổng $1500 / một tháng, sau tăng lên $2000 / một tháng. Trường có 2 chương trình. Chương trình 2 năm để đào tạo giáo sư trung học Đệ Nhất Cấp và chương trình 4 năm để đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp.
Muốn được nhận vào học, sinh viên phải có bằng Tú Tài Toàn Phần và phải qua một kỳ thi tuyển. Những sinh viên có chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa được miễn thi và vào học ngay năm thứ 2, nếu muôn học các ban Việt Hán, Sử Địa, Pháp Văn hay Anh Văn. Những sinh viên có chứng chỉ Dự Bị Khoa Học như MG, MPC hay SPCN đựơc miễn thi và vào học ngay năm thứ 2 nếu muốn học các ban Toán, Lý Hoà và Vạn Vật.
Chương trình gồm có hai phần: Phần tổng quát chung cho các Ban và phần chuyên môn riêng cho từng Ban. Phần chuyên môn của các Ban Việt Hán, Sử Địa, Anh Văn và Pháp Văn gần giống như chương trinh Cử Nhân Việt Hán, Cử Nhân Sử Địa, Cử nhân Anh Văn và Cử Nhân Pháp Văn của trường Đại Học Văn Khoa Saigon và phần chuyên môn của các Ban Toán, Lý Hoá, Vạn Vật gần giống như chương trình Cử Nhân Toán, Cử Nhân Lý Hoá và Cử Nhân Vạn Vật của trường Đại Học Khoa Học. Vì thế những sinh viên xuất sắc, sau khi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm cũng tốt nghiệp luôn Cử Nhân Văn Khoa hoặc Cử Nhân Khoa Học.
Suốt 17 năm, từ 1958 đến 1975, trường Đại học Sư Phạm Saigon đã đào tạo hàng ngàn giáo sư trung học đệ nhất và đệ nhị cấp về kiến thức chuyên môn cũng như về tư cách, đạo đức và luân lý chức nghiệp.
Năm 1975 miền Nam Việt nam sụp đổ, với thể chế mới, hầu như mọi thứ đều bị thay đổi từ tên gọi cho đến các cơ cấu tổ chức cũng như chương trình giảng dậy.
5/ Đại Học Kiến Trúc.
Kể từ năm 1954, trưởng Cao Đẳng Kiến Trúc Saigon thuộc Viện Đại Học Saigon được đổi tên thành trường Đại Học Kiến Trúc Saigon. Trường có 2 chương trình: Chương trình 2 năm cho Ban Cán Sự Kiến Trúc và chương trình 6 năm cho ban Kiến Trức Sư.. Tuy nhiên muốn được ra trường, sinh viên phải có một luận án thi tốt nghiệp và luận án này phải được Hội Đồng Thi chấm đậu. Sinh viên muốn vào học Ban Cán Sự phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và muốn vào học bán Kiến Trúc Sư phải có bằng Trung Học Đệ Nhị Cấp tức bằng Tú Tài Toàn Phần.
a/ Ban giảng huấn.
Ban giảng huấn của trường phần lớn là các Kiến Trúc Sư tốt nghiệp Pháp như Trần Văn Tải, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Bùi Quang Hanh, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Phạm Văn Thắng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Louis Pineau, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị, Nguyễn Quang Nhạc, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Tô Công Văn, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Võ Doãn Giáp, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Bá Lãng,Kiến trúc sư DPLG, Paris, Ngô Khắc Trâm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Một số các Kỹ Sư tốt nghiệp tại Pháp hay ngoại quốc cũng được mời làm giảng viên như Trần Văn Bạch, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris, Phan Đính Tăng, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris, Lê Kim Đính, Cử nhân Toán, Chứng chỉ Cao học Thiên văn Thẩm cứu (Certificat d'étude supérieures d'Astronomie approfondie), Nguyễn Đình Hải, Tốt nghiệp Viện Anh ngữ của Đại học Michigan, Hoa Kỳ (English Language Institute, University of Michigan), Lê Văn Hợi, Kỹ sư trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris, Nguyện Văn Kiết, Cử nhân Văn khoa và Văn chương Cao học, Trịnh Hữu Định, Trang trí gia tốt nghiệp Truờng Quốc gia Cao đẳng Trang trí Paris, V õ Đức Diễn, Kỹ sư Trường Bách khoa Montréal, Phạm Minh Cảnh, Kỹ sư tốt nghiệp Viện Kỹ thuật Normandie, Mai Hiệp Thành, Kỹ sư Công chánh.
b/ Chương trình ban Kiến Trúc Sư:
Năm thứ 1. Kiến trúc nhập môn, Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Toán học, Hình học họa hình. Lịch sử tổng quát kiến trúc; Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo. Pháp văn, Anh văn.
Năm thứ 2 Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Toán học đại cương, Hình học họa hình. Lý thuyết Kiến trúc. Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo.
Năm thứ 3 Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Kiến tạo đại cương: Lý thuyết. Vật lý, Địa chất học áp dụng vào khoa Kiến trúc. Phép phối cảnh, Lý thuyết Kiến trúc. Sức chịu đựng của vật liệu.
Năm thứ 4 Kiến trúc sáng tạo học, Kiến tạo đại cương: Lý thuyết và đồ án Bê tông cốt sắt. Ước lượng vật liệu và kiểm điểm. Lịch sử tổng quát Kiến trúc, Lý thuyết Kiến trúc. Luật nhà phố.
Năm thứ 5. Kiến trúc sáng tạo học, Kiến tạo áp dụng Luật nhà phố. Tổ chức nghề nghiệp, Lý thuyết Kiến trúc. Địa thể học áp dụng kiến trúc; Kiến tạo đại cương: Đồ án và kỹ thuật.
Năm thứ 6 Kiến trúc sáng tạo học. Bê tông cốt sắt thực hành. Đồ án trang trí nhà cửa. Luận án thi tốt nghiệp (3 tháng cuối niên học), thường là một dự án vẽ kiểu nhà hoặc cao ốc (Building) rồi phải trình Hội Đồng Giáo Sư để được tốt nghiệp. Khi tốt nghiệp được cấp bằng Kiến Trúc Sư.
6/ Trường Đại Học Y Khoa:
Trường Đại Học Y Khoa Saigon là hậu then của trường Y Dược Khoa Đông Dương thuộc Viện Đại Học Đông Dương (Université de l’Indochine) trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết chia đôi Việt Nam, trường di chuyển vào Nam, trụ sở nằm trên đường Testard sau đổi là đường Trần Qúy Cáp và có tên mới là Đaị Học Y Khoa và Dược Khoa Saigon. Cách tổ chức của trường Y Khoa vẫn tương tự trước năm 1954. Tới năm 1961, trường tách đôi ra thành 2 trường riêng biệt là Đại Học Y Khoa và Đại Học Dược Khoa và cũng trong năm này, các giáo sư người Pháp lần lượt được giải nhiệm và ban giảng huấn Việt Nam được hoàn toàn thay thế. Năm 1966, trường được dọn tới địa điểm mới là Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa vưà hoàn tất năm trên Đại Lộ Hồng Bàng, Chợ Lớn..
Ban giảng huấn gồm có một số giáo sư Thạc Sĩ rất tài giỏi như Giáo sư Nguyễn Hữu, Giáo sư Phạm Biểu Tâm, chuyên về giải phẫu, Giáo sư Trần Ngọc Ninh, chuyên về xương, Giáo sư Ngô Gia Hy, chuyên về nội thương, đặc biệt về thận, Giáo sư Trần Anh, chuyên về giải phẫu, trưởng khu Cơ Thể Học và từng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, v.v… Thời gian học là 7 năm. 5 năm tổng quát và 2 năm nội trú, ngoài ra còn phải trình một luận án mới được cấp bằng Bác Sĩ Y Khoa.
Năm đầu là năm Dự Bị được học bên Đại Học Khoa Học để lấy chứng chỉ PCB (Phisique, Chimie, Biologie). Về sau muốn vào học Y khoa phải qua một kỳ thi tuyển, nhưng vẫn phải sang Đại Học Khoa Học học đê lấy chứng chỉ PCB. Năm thứ nhất có một kỳ thi về Cốt Học (Osteologie) ngay sau 2 tháng nhập học. Sinh viên có qua được kỳ thi này mới được tiếp tục học .
Năm thứ 2 là năm khó nhất. Sinh viên nào có bằng PCB thì được vào học ngay năm thứ hai. Ở năm thứ 2, nếu sinh viên thi 4 lần liên tiếp (mỗi năm 2 kỳ), tức 2 năm liền mà vẫn chưa lên được năm thứ 3 thì bị đuổi ra (sortie laterale). Vì thế có người sau 3 kỳ liên tiếp mà không đậu, không dám thi kỳ thứ tư nữa mà phải để tới năm sau mới dám thi.
Năm thứ ba, ngoài những giờ học lý thuyết ở giảng đường, sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện hoặc chia nhau đi canh gác tại các nhà thương chẳng hạn nhà thương chuyên bênh lao Hồng Bàng...
Đến năm thứ 4, sinh viên có thể dự kỳ thi tuyển nội trú. Sinh viên nào không dự kỳ thi này hoặc không đậu thì đến năm thứ 6 cũng được làm công việc của một nội trú viên tức là cũng được trực bệnh viện như các sinh viên nội trú nhưng mang một bảng tên riêng gọi là “stagiaire interne”. Loại sinh viên này ít quyền hạn và phải phụ thuộc vào sinh viện nội trú thực sư.
Mãi đến sau năm 1970, trường bắt đầu giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt nhưng bắt buộc sinh viên dùng tài liệu Y Khoa bằng tiếng Anh để tham khảo. Nhờ vậy, sau năm 1975, các vị Bác Sĩ này khi di tản sang Hoa Kỳ có đủ khả năng thi lại bằng Bác Sĩ tương đương.
7/ Trường Đại Học Dược Khoa
Trước năm 1961, trường Đại Học Dược Khoa được nhập chung với trường Đại Học Y khoa. Tới ngày 31/8/1961, trường Đại Học Dược Khoa tách ra và được gọi là Dược Khoa Đại Học Đường với vị Khoa Trưởng đầu tiên là GS Thạc Sĩ Dược Khoa Trương Văn Chôm. Trụ sở trường được đặt tại góc đường Cường Để và đại lộ Thống Nhất.
Ban giảng huấn gồm một số giáo sư danh tiếng như: Giáo sư Trương Văn Chôm, Thạc Sĩ Dược Khoa, Giáo sư Đặng Vũ Biền, Tiến Sĩ Dược Khoa tại Đại Học Sorbonne, Giáo sư Tô Đồng, Dược Khoa Tiến Sĩ tại Đại Học Sorbonne, Giáo sư Nguyễn Vĩnh Niên, Tiến Sĩ Dược Khoa tại Pháp, Giáo sư Đặng Vũ Biền v.v…Một số giáo sư tốt nghiệp tại Mỹ về như GS Trần Ngọc Tiếng, Ph.D., GS Thanh Thủy, Ph.D., GS Chu Phạm Ngọc Sơn, Ph.D, GS Lê Phục Thủy, Ph.D. Chương trình học của trường Đại Học Dược Khoa cũng giống như trước năm 1954, phỏng theo chương trình của Pháp và phần lớn các môn đều dậy tuyền bằng tiếng Pháp, cho tới năm 1970 trường mới hoàn toàn dậy bằng tiếng Việt. Thời gian học cũng vẫn là 5 năm. Năm đầu tiên gọi là năm tập sự (stagiaire). Ngoài việc học ở trương còn phải được một Dược Phòng nhận cho tập sự. Cuối mỗi năm đều có kỳ thi lên lớp.
Chương trình theo Pháp nên nặng về Hoá Học, Thực Vật và Dược Liệu Học, nhẹ về Động Dược Học và kỹ nghệ sản xuất thuốc cũng như khiá cạnh thương mại của Dược Khoa.
Thể lệ thi cử cũng khó khăn, nếu có một môn dưới điểm trung bình tức 9/20 là bị loại.
Mỗi kỳ gồm có 3 đợt: thực tập, thi viết và vấn đáp. Đợt 1 không đủ điểm trung bình không được thi đợt 2. Đợt 2 không đủ điểm trung bình không được thi đợt 3. Mỗi năm có 2 kỳ thi. Rớt 4 kỳ liên tiếp là bị đuổi.
Lúc đầu trường chỉ có cấp bằng Dược Sĩ Quốc Gia (Pharmacien d’État), mãi tới năm 1969, trường mới có thêm chương trình đào tạo Tiến Sĩ Dược Khoa Đệ Tam Cấp (Docteur du troisième cycle de Pharmacie), tương đương với bằng Pharmacy Doctor của Mỹ. Dược Sĩ Lý Công Tuấn là Tiến Sĩ Dược Khoa Đệ Tam Cấp đầu tiên được đào tạo tại VN.
8/ Trường Nha Khoa.
Cũng giống như trường Dược Khoa, trường Nha Khoa trước kia cũng chỉ là một ngành của trường Đại Học Y-Dược Hà Nội, sau là Đại Học Y-Dược Saigon. Đến ngày 12/8/1962, ngành Nha Khoa tách khỏi trường Y khoa trở thành Nha Khoa Đại Học Đường Saigon.
Chương trình trường Đại Học Nha Khoa là 5 năm và tốt nghiệp được cấp bằng Nha Sĩ. Ai muốn có bằng Tiến Sĩ Nha Khoa thì phải qua Pháp học. Ban giảng huấn gồm một số các giáo sư tốt nghiệp tại Pháp như: Giáo sư Lê Trọng Phong, Tiến Sĩ Nha Khoa Đại Học Paris, Giáo sư Nguyễn Văn Thơ, Tiến Sĩ Nha Khoa Đại Học Paris….
Cũng như các đại học khác, muốn được nhập học phải có bằng Tú Tài 2 (Toàn Phần), không phân biệt là Tú Tài ban Khoa Học Toán hay ban Khoa Học Thực Nghiệm. Về sau, cũng như trường Y Khoa, phải có chứng chỉ Dự Bị khoa học như PCB hoặc SPCN và còn phải qua một kỳ thi tuyển. Chương trình gồm có nhiều môn và mỗi môn đều có 2 phần: lý thuyết và thực hành. Mỗi phần đều có kỳ thi riêng. Mỗi năm có 2 kỳ thi: đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt. Số điểm của 2 kỳ cộng lại chia 2 thì có kết quả chung cho từng môn vào cuối năm. Dù chỉ một môn không đủ điểm trung bình là phải học đúp lại.
***
Ngoài các Viện Đại Học Saigon, Huế, Đà Lạt, và Cần Thơ còn có những Trung Tâm Giáo Dục và các Học Viện khác như:
-Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ đào tạo các kỹ sư cho 4 ngành Công Chánh, Điện Học, Hoá Học và Công Nghệ,
-Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc để đào tạo Kỹ Sư Nông Nghiệp, Kỹ Sư Thủy Lâm và Kỹ Sư Thú Y,
-Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo Đốc Sự Hành Chánh và Cao Học Hành Chánh và Cao Học Ngoại Giao. v.v…
Chương trình giáo dục và thể lệ thi cử dưới thời Việt Nam Cộng Hoà còn được gọi là chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn phỏng theo chương trình giáo dục của Pháp, tuy không được hoàn hảo nhưng có trình độ và thực chất. Đây là chương trình giáo dục có tính cách dân tộc, nhân bản và khai phóng tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền nhằm phát triển toàn diện con người trong chiều hướng tốt cả về trí dục, đức dục và thể dục. Nền giáo dục thời VNCH không hề áp đặt một học thuyết hay một chủ nghĩa nào nhất là không đưa chính trị vào học đường bắt học sinh phải tuân theo như trong các thể chế độc tài đảng tri như Cộng Sản. Chỉ trong vòng 2 thập niên, nền giáo dục thời VNCH đã đào tạo cả trăm ngàn chuyên viên và cán bộ các cấp có đầy đủ khả năng chuyên môn cũng như khả năng lãnh đạo cho miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng chế độ VNCH đã xụp đổ, không phải vì không có chính nghĩa mà vì sự phản bội của đồng minh khiến nền giáo dục của VNCH cũng bị thay thế bằng một nền giáo dục theo chủ nghĩa Marxist, một chủ nghĩa vô luân, vô đạo, nhằm đào tạo con người trở thành con vật chỉ biết lập lại những gì đã được Đảng dạy bảo và tuân theo một cách tuyệt đối những gì Đảng đã ra lệnh. Kết qủa của chính sách giáo dục này là đã đào tạo nên cả một thế hệ ngu muội, dốt nát, vô đạo đức và hủ hóa.
Chú thích
(1). Ngày 19/12/1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, giáo sư Dương Quảng Hàm tản cư ra hậu phương. Trên đường tản cư, khi qua sông, giáo sư không may bị trúng đạn từ máy bay Pháp bắn chết vào ngày 26/12/46. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng giáo sư đã bị Việt Minh bắn chết trên đường tản cư.
(2). Sau khi Việt Minh cướp chính quyền từ chính phù Trần Trọng Kim, chính phủ Liên Hiệp do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch được thành lập, giáo sư Hoàng Xuân Hãn được thay thế bởi ông Vũ Đình Hòe và chương trình được thay đổi đôi chút cho phù hợp với lý tưởng phục vụ quốc gia và dân tộc. Nhưng chương trình này đã bị Việt Minh bãi bỏ hoàn toàn sau khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào ngày 19/12/46 và chỉ được chính phủ quốc gia sử dụng sau khi được Pháp trao trả độc lập và sau này là chính phủ Việt Nam Cộng Hoà.
(3). Muốn theo học trường này chỉ cần có bằng Diplôme hoặc Brevet Élémentaire tức bằng Cao Đẳng Tiểu Học sau này gọi là bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 1, 2018 9:47:18 GMT 9
Di cư Việt năm 1954Lạp Chúc Nguyễn Huy ChimVietCanhNamSau hiệp định Geneve 1954, sự chia đôi nước Việt thành hai quốc gia đã tạo nên luồng sóng di dân ồ ạt vào miền Nam tự do. Sự chuyên chở người tỵ nạn hầu hết do hải quân Hoa Kỳ và Pháp phụ trách. Với trợ giúp tài chánh của Hoa Kỳ, chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức di cư như sau : - Tại Hà Nội, lập Ủy Ban Di Cư gồm ba người đảm nhiệm (Bác sĩ Hoàng Cơ Bình và ông Trần Trung Dung lo về dân sự và thiếu tướng Nguyễn văn Vận lo chuyển vận quân đội vào Nam) - Tại Sài Gòn Phủ Tổng Ủy Di Cư tỵ Nạn để hoạch định chương trình định cư dân tỵ nạn đặc biệt là các nông dân trên đồng bằng Cửu Long. Từ 1954 đến 1955, hầu hết các tàu chở dân tỵ nạn đều cập bến Sài Gòn. Đến tháng 8 năm 1955, làn sóng di cư vào miền Nam tự do đã lên tới 887 917 người ( Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn, Cuôc di cư lịch sử tai Việt Nam, Sài Gòn 1958, tr.7). Chính phủ tổ chức ủy ban đón tiếp và hướng dẫn dân tỵ nạn đến tạm cư tại các trạm cư trú rải rác tại Sài Gòn và Gia định. Các thành phần tư sản, trí thức, công tư chức và thương gia tự túc định cư tại các thành phố. Riêng các nông dân và ngư dân thì phải trông cậy vào kế hoạch định cư và trợ giúp tài chánh của chính phủ. Do đó, Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn đã hoạch định một chính sách thành lập các khu định cư thường trực, lo chuyên chở nông dân và ngư dân đến định cư, giúp đỡ tiền bạc, thực phẩm và vật liệu xây cất trong thời gian đầu chưa ổn định. Kế hoạch định cưKế hoạch định cư được thực hiện theo ba giai đoạn. Giai đoạn 1 : từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1954 Phủ Tổng Ủy Di Cư cố gắng giải quyết các vấn đề cấp bách trong các trại tạm cư như : - cung cấp lều tạm trú, thực phẩm (gạo, mắm muối, cá khô...), - tìm kiếm đất cho các khu định cư. Trong thời gian này, đời sống của dân tỵ nạn rất là khó khăn : sống chui rúc dưới lều vải, chia nhau từng giọt nước uống cung cấp bởi các «camion citerne», làm bếp dưới nắng cháy da, muỗi, ruồi, bệnh tật quấy nhiễu ngày đêm. Thêm vào khổ ải đó là nhàn rỗi, nhớ thôn xóm xưa, lo lắng đến một tương lai bất định...Vì vậy một số di dân sanh ra bất mãn, phiền trách sự chậm chạp tìm đất định cư cho họ. Giai đoạn 2 : Định cư từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1955 Đây là thời kỳ thành lập các trung tâm định cư. Với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, Phủ Tổng Ủy Di Cư quyết định chọn lựa các khu định cư, hoạch định đồ án xây cất (làm đất, chia lô...), ước tính kinh phí của chính phủ... rồi phổ biến tin tức đó trong các trại tạm cư. Sau đó một đại diện dân chính hoặc cha xứ của khu định cư tương lai sẽ đi quan sát khu định cư để lấy quyết định thay cho di dân. Tiếp theo, chính phủ sẽ lo việc chuyên chở, giúp đỡ tài chánh, thực phẩm, đồ gia dụng thiết yếu như mùng mền, đũa chén... Giai đoạn 3 : Kiện toàn định cư từ tháng 6 năm 1956 Sau khi di dân đã sống trong các khu định cư rồi, Phủ Tổng Ủy Di Cư làm nhiệm vụ cuối cùng là kiểm điểm và hoàn thiện một cách khoa học và hợp lý như tìm địa điểm, tài nguyên thích hợp cho từng nghề nghiệp cho từng loại dân di cư. Thí dụ, trước số di dân quá đông đảo, lại thiếu nhân viên phụ trách, Phủ Tổng Ủy Di Cư phạm một số sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm định cư và phân chia di dân theo nghề nghiệp. Năm 1955, chính phủ thành lập một Ủy Ban Cao Cấp gồm các chuyên viên nha định cư, nha kỹ thuật và phái đoàn viện trợ mỹ. Ủy ban này duyệt xét lại các trung tâm định cư về mặt kỹ thuật và phối trí di dân theo ba nghề (nông, ngư, thủ công) cho phù hợp với mỗi trung tâm. Theo tài liệu năm 1955 củaTổng Ủy Di Cư, số dân tỵ nạn do chính phủ trợ giúp được phân phối theo nghề nghiệp như sau : nông dân chiếm 80% trên tổng số, còn công nghiệp 10% và ngư nghiệp 10% được phân phối trong các trung tâm sau : Tỉnh Trung tâm định cư tỵ nạn công nghệSài Gòn Thủ Trí, Phú Bình Gia Định Xóm Mới, Đông Hòa Xa, Giồng Ông Tố, Suối Lồ Ồ Biên Hòa Hố Nai, Tân mai, Hòa Bình, Thanh Bình Tỉnh duyên hải Trung tâm định cư ngư dân tỵ nạnBên Tre (Kiến Hòa) Cồn Hựu, Khâu Băng, Phước Tuy Phước Tĩnh, Tân Phước, Cù My, Vũng Tàu (Phước Tuy) Thạnh Thới, Rạch Dừa A, Rạch Dừa B Thành quảCuối năm 1955, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã định cư trên đồng bằng Cửu Long 393 354 di dân trên tổng số 508 949 thôn dân di cư (Nguồn : Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn). Số di dân đã định cư được phân phối như sau. Tỉnh Số dân tỵ nạn đã định cư/ Số trung tâm định cưA. Miền Tây phù sa mới 780 / 1 Ba Xuyên 1068 / 3 Phong Dinh 42 145 / 15 Kiên Giang, An Giang 2803 / 6 Vĩnh Long 12 268 / 11 Kiến Hòa ----/ Định tường ---/ Long An ---/ B. Miền Đông đất xám 16 241 / 20 Phước Tuy 24 925 / 12 Sài Gòn 110 339 / 37 Gia Định 107 947 / 56 Biên Hòa 16 353 / 12 Bình Dương 13 726/ 14 Tây Ninh ------- -- Tổng cộng 393 354 / 206Theo bảng phân phối trên, hai phần ba dân tỵ nạn sống tiếp cận Sài Gòn-Gia Định để hành nghề thủ công, dịch vụ...Riêng tỉnh Biên Hòa có 56 trung tâm định cư với 107 947 dân tỵ nạn sống nghề khai thác gỗ rừng và canh tác trên các mảng phù sa cổ. Từ 1955, các trung tâm định cư ở Gia Định và Biên Hòa giữ vai trò điều hòa dân số tỵ nạn như vừa cung cấp di dân cho các khu dinh điền và khu trù mật, vừa là nơi rút lui của những di dân gặp khó khăn về kinh tế cũng như an ninh do cộng sản gây ra. A. Khu định cư Cái Sắn 1Năm 1955, nhằm đi tìm đất định cư dân tỵ nạn, chính phủ thành lập một phái đoàn gồm các chuyên viên hoa kỳ, tây đức và đại diện bộ canh nông và cải cách điền địa. Phái đoàn trình lên chính phủ dự án Cái Sắn tổn phí 228 607 252VN$ (1/4 ngân khoản mỹ viện trợ cho 129 dự án định cư). Dự án Cái Sắn 1(số 15), gồm bốn dự án định cư khoảng 100 000 dân tỵ nạn trên 77 000 ha đất bỏ hoang. Dự án chính là đào kênh và ba dự án phụ là cất nhà, mua nông cụ, thực phẩm và tiền trợ cấp cho di dân trong năm đầu. Thực hiệnTT Diệm ký sự vụ văn thư 133 TTP/KH ngày 17 tháng 1 năm 1956 bổ nhiệm bảy công chức cao cấp trách nhiệm thực hiện dự án Cái Sắn : - Tổng Ủy trưởng Di Cư Tỵ Nạn và đại biểu chính phủ tại Nam Phần theo dõi thi hành huấn lệnh của Tổng Thống; - Tổng giám đốc kế hoạch lo phối trí kế hoạch và thanh toán viên ngân sách; - Đổng lý văn phòng bộ Cải Cách Điền Địa lo việc cày đất và bảo trì nông cụ; - Giám đốc định cư thuộc Tổng Ủy trông nom việc chuyên chở di dân; - Tổng thư ký bộ công chánh phụ trách đào vét kênh ; - Giám đốc nha canh nông phát lúa giống, cày cuốc... Từ tháng 3 năm 1956, bộ Công Chánh đã vét hai kênh đào cũ nối với kênh Rạch Sỏi-Bắc Sắc và kênh Rạch Giá-Long Xuyên và đào 17 kênh mới song song với nhau, cách nhau từ 2 đến 2,5 cây số và thẳng góc với hai kênh trên. Mỗi kênh mới dài 12 cây số, rộng 8m, sâu 1,5 m. Công việc đào kênh kết thúc vào tháng 5 năm 1956. Ngày 14 tháng 1 năm 1956, báo chí loan tin dự án Cái Sắn. Một tuần lễ sau, Tổng Ủy Di Cư nhận được 42 850 đơn xin định cư. Trung tâm Cái Sắn 1 được chính thức thành lập ngày 27 tháng 1 năm 1956 tại xã Thạnh Qưới trên một diện tích 27 153 Ha (16 337 Ha nằm trong địa phận tỉnh An Giang và 10 816 Ha thuộc tỉnh Kiên Giang). Trên lý thuyết, trung tâm Cái Sắn dự liệu định cư 9000 gia đình gồm khoảng 45 000 người trong giai đoạn đầu tiên. Việc thu mua ruộng đất để cấp phát cho di dân thì dưạ vào dụ số 7 và 57 của luật cải cách điền địa : - Dụ số 7 (ngày 5 tháng 2 năm1955) qui định dân tái canh ruộng hoang với tư cách tá điền. Chủ điền khai báo ruộng bỏ hoang và ruộng xin giữ lại, phần còn lại bán cho chính phủ cấp lại cho dân tỵ nạn nhưng việc thi hành dụ số 7 gặp rất nhiều khó khăn. Tổng kết ruộng Cái Sắn cấp phát cho dân qua dụ số 7 là 15 387 Ha. -Dụ số 57 (ngày 22 tháng 10 năm 1956). Chủ điền chỉ giữ laị 100Ha và bán số Ha còn lại cho chính phủ. Tổng cộng 4 845 Ha (qua thỏa ước Việt Pháp) và 6 252 Ha công điền, công thổ đã được cấp phát theo dụ số 57. Đón tiếp di dânKhi tới Cái Sắn, dân di cư tỵ nạn sống tạm dưới lều nhà binh hoặc trong những lán lợp lá dừa nước cất tạm bên lộ đường. Mỗi lán dài 20m và rộng 9m, mỗi gia đình ở một căn (9m2) trong lán. Chính phủ trù liệu ngân khoản 45 360 000$ để giúp đỡ di dân trong những ngày khó khăn đầu tiên trên vùng đất bỏ hoang từ 10 năm nay. Mỗi người di dân trên 18 tuổi nhận được trợ cấp như sau : -244 VN$ để đầu tư lúc đầu vào việc định cư, -lãnh 4 VN$ mỗi ngày trong 9 tháng kể từ ngày định cư, 15 giạ (300 lít) hạt giống lúa, một bao lớn đựng túi hạt giống bắp, đậu, cà chua. Về thực phẩm hàng ngày, di dân được cung cấp gạo, bột bắp, nước mắm, muối, cá khô và thỉnh thoảng có bơ, sữa bột của chương trình viện trợ hoa kỳ dưới nhãn hiệu «Food for freedom». Chính phủ cung cấp cho mỗi gia đình - một chiếc ghe tam bản « dài 2,5 m trên 0,5 m) để di chuyển, - cưa, liềm gặt lúa, dao phát cỏ, cuốc và hai thùng phuy đựng nước uống rất hiếm trong vùng này. Trong chương trình y tế, chính phủ cho xây trường học và bệnh xá, mua 6730 chiếc mùng đơn trị giá 750 000 VN$ và 6 730 mùng đôi phí tổn 740 000 VN$. Thiết kế và quản trịTrung tâm định cư được chia thành lô rộng 30m, dài 1000m, chạy dài theo kênh đào tạo nên hình ảnh cư trú đươc hoạch định gồm những hàng nhà song song dọc theo hai bên bờ kênh và đâu mặt với nhau. Mỗi kênh dài 12Km, ngang 8M, sâu 1,5M gồm hai xứ đạo, mỗi xứ có một giáo đường xây dựng trên 3 hoặc 6 lô đất, ở cây số thứ 3 và 8 để cho tiện giáo dân di chuyển. Sau khi bốc thăm chọn lô đất, mỗi chủ gia đình được phát 800 VN$ để làm nền nhà và một số vật liệu kiến trúc để dân tự cất, mướn, đổi công đắp nền. Ngoài ra chủ gia đình phải tham dự đắp đường làng trải dài theo bờ kênh và vui lòng đóng góp công sức vào việc xây cất giáo đường của xứ. Về việc điều hành hành chánh, các nhà dọc theo kênh tập hợp thành nhiều trại. Mỗi trại có một ban quản trị gồm ba người (chủ tịch do Tổng Ủy bổ, thư ký và ủy viên tài chánh do dân của trại bầu). Tất cả các ủy ban quản trị đặt dưới sự điều hành của ủy ban định cư do tỉnh trưởng làm chủ tịch quản trị nội bộ, thi hành dự án. Về an ninh, 100 nhà cử 20 người vào ban tự vệ do quận trưởng điều động. Trên thực tế, các cha xứ là người nắm giữ nhiều quyền hành, nhất là về ổn định đời sống tinh thần và vật chất của di dân. Khó khănViệc định cư gặp rất nhiều khó khăn trong những năm đầu. Khó khăn thứ nhất là sự bất mãn của 636 điền chủ bị truất hữu hoặc không hưởng được tiền bồi thường vì không cung cấp được cho chính quyền giấy tờ chứng minh sở hữu và thừa kế. Khó khăn tiếp là vấn đề kỹ thuật và tổ chức. Để sửa soạn cho mùa lúa 1956-1957, bộ Canh Nông gởi 200 máy cày, máy ủi và trâu đến cày 12 000 ha. Vì thiếu kinh nghiệm kỹ thuật (ráp nhầm, máy hư, thiếu người lái...) nên chỉ có 63 máy cày hoạt động được. Công việc cày rất là gian khổ vì đất bỏ hoang từ 10 năm nay, đất lún, nhiều mô đất cao, cỏ dại khó ủi mọc lại ngay sau một tháng. Đến tháng 7 chỉ cày được 9126 Ha cho mùa 1956. Đầu tháng 7 năm 1957, chính phủ gởi đến 466 con trâu mua của Thái Lan (dự trù 2400 con mới đủ một con cho bốn gia đình) nhưng trâu này nghịch phá, không thuần như trâu việt. Tiếp theo, chính phủ cung cấp thêm 650 cày tay mua của Đài Loan nhưng cày tay loại này quá yếu ớt nên gãy dễ dàng khi gặp đất thịt cứng. Trong mùa lúa đầu, chính phủ cung cấp cho mỗi gia đình : 15 giạ thóc giống (Một giạ bằng khoảng 20 lít), 1 bao hạt giống (bắp, đậu, bí, cà chua...), cào cỏ, liềm, xẻng, cuốc bản, bình xịt thuốc. Ban quản trị và cha xứ hết sức đôn thúc dân làm tập thể vụ mùa 1956 nhưng vì nạn chuột và cỏ dại nên chỉ thu hoạch được 7 882 tấn lúa. Tiến đến thành côngTrước khi chính thức thành lập khu định cư Cái Sắn, nhờ thông tin của chính phủ cùng với phóng sự báo chí rất là lạc quan về tương lai của miền đất hứa nên rất nhiều đơn xin đi định cư. Sau vài tháng thu hoạch thất bại vụ mùa 1956, dân tỵ nạn mất tin tưởng và ảnh hưởng đến tinh thần định cư tại Cái Sắn. Các ban quản trị và các cha xứ cố gắng đốc súc dân cải thiện điều kiện canh tác cho mùa lúa 1957 như xử dụng máy cày, vét kênh rút nước, san bằng đất gồ ghề, chăm phạt cỏ giết chuột. Kết quả sự thâu hoạch vụ mùa 1957 tăng lên 13 400 tấn lúa. Tương đối tổng số thâu hoạch chưa đủ thỏa mãn nhu cầu thực phẩm của dân chúng nhưng cũng đủ để dân chúng an tâm cho thu hoạch vụ mùa tới nếu chịu cải thiện điều kiện canh tác. Cuối năm 1957, Cái Sắn được địa phương hóa. Tháng 2 năm 1958, Tổng Ủy Dinh Điền loan báo Cái Sắn phải tự túc cho những vụ mùa tới và thu lại đoàn máy cày của Quốc Gia Nông Cụ Cơ Giới Cuộc. Sợ dân bỏ đất hoang vì tiền thuê máy cày và trả công rất cao (550$/Ha), cha xứ kênh D (Linh mục Nguyễn đức Do) được Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay 1 090 000 VN$ mua 4 máy cày Fiat, 350 000 VN$ mua hạt giống, 510 000 VN$ bảo trì máy cày. Nhờ vậy mà dân hăng hái ra đồng làm việc và dân đã bỏ đi thì trở lại. Tới tháng 6, dân đã cày đủ 21 000Ha ruộng. Theo gương đó, kênh G (230 gia đình) cũng góp mua được 2 máy cày. Các kênh khác cũng được Quốc Gia Nông Tín cho vay để mướn cày máy cho kịp vụ mùa. Các biện pháp tự túc trên làm cho khu định cư nhộn nhịp trở lại với đầy tin tưởng vào tương lai. Vụ mùa 1958 đã nâng số sản xuất lên 21 500 tấn lúa, tăng thêm đất canh tác, trồng thêm nhiều loại hoa màu mới (thuốc lá, bắp, rau cải...) và số lượng sản xuất nông phẩm tăng đều mỗi năm. Khu định cư tỵ nạn Cái Sắn (hình Bộ Thông Tin chụp năm 1957) Bản đồ khu định cư Cái Sắn Khu định cư di dân tỵ nạn miền Bắc tại xã Đại Hải tỉnh Ba Xuyên vẫn giữ cách xây cất cổ truyền miền Bắc mái tranh, vách đất (hình Nguyễn Huy chụp năm 1970) B. Khu định cư Xóm MớiKhu định cư Xóm Mới nằm trong địa phận xã An Nhơn, cách Sài Gòn 4 cây số. Xã An Nhơn lập năm 1868 trên một diện tích 5,8 cây số vuông gồm những mảng phù sa cổ cao ráo để dân dựng nhà cửa trồng rẫy và dưới thấp phủ bởi phù sa mới ẩm ướt làm ruộng cấy lúa. Năm 1954, chính phủ cho một số dân tỵ nạn tạm trú trên những mảng phù sa cổ đất cát nghèo nàn bỏ hoang. Đầu năm 1954, dân tỵ nạn gốc Thái Bình, Bắc Ninh và Hà Nội đến tạm trú hai bên hương lộ 12 rồi chiếm dần hai bên tỉnh lộ 16 và hương lộ 11 (ấp 9 và 4). Vào cuối năm 1954, dân tỵ nạn gốc Cao Bằng, Lạng Sơn đến tạm trú phía cuối hương lộ 16 (ấp 10). Tất cả khu này mang tên Xóm Mới gồm 15 trại định cư tổ chức thành những xứ đạo. Năm 1955, dân số tỵ nạn ước lượng 20 000, cư ngụ trên cả ruộng đất hai bên tỉnh lộ 16, hương lộ 11 và 12 lập thành một khu tam giác chia thành 7 ấp.Tại đây dân tỵ nạn sống về công nghiệp như sản xuất pháo tết (Pháo Từ Châu, Việt Quang...), nấu rượu, thương mại như dệt, nhuộm, chăn nuôi heo, gà và đủ thứ dịch vụ cung cấp cho Sài Gòn-Gia Định. Nhờ làm ăn phát đạt, khu định cư Xóm Mới thành thị hóa dần dần, nhà lầu gạch, xi măng thay thế cho nhà tôn vách ván trông như một thị trấn nối liền với thủ đô. Hình thức cư trú Xóm Mới gồm hai khu vực khá rõ rệt : - Khu phố thương mại dọc theo tỉnh lộ 16 và hương lộ 11 và 12 thuộc về thương gia, cơ xưởng công nghiệp, công chức thợ thuyền. Từ năm 1957, Xóm Mới có 15 thánh đường, hai tu viện, trường công lập (2 trung học, 6 tiểu học) và tư thục (4 trung học, 11 tiểu học), 3 hợp tác xã dệt được hưởng tiền bồi thường của Nhật... - Khu ngõ hẻm. Đằng sau các cửa tiệm sầm uất là những hẻm bùn lày, nhà cửa chen chúc sống chui rúc thợ thuyền, lính tráng, dân chăn nuôi heo gà và những người trở về từ những trại định cư gặp khó khăn. Giống như khu định cư Hố Nai (Biên Hòa), Bùi Chu (gia Định), Xóm Mới giữ vai trò quan trọng trong việc điều hòa dân số tỵ nạn bất ổn. Chính các khu định cư này cung cấp dân số cho các trung tâm định cư mới thành lập và đồng thời là nơi trú ẩn khi rút lui khỏi những trung tâm định cư bất ổn. Thí dụ năm 1956-57, khoảng 5000 dân tỵ nạn rời bỏ trại định cư tỵ nạn về trú ẩn ở Xóm Mới để tìm việc ở tỉnh thành. Nhất là sau 1963, tình trạng an ninh nông thôn và cộng sản tấn công nhiều trại tỵ nạn đã làm dân số Xóm Mới tăng lên 55 600 dân. Kết luậnNăm 1957 đánh dấu kết thúc chính sánh định cư dân tỵ nạn di cư vào Nam. Từ đó vì thiếu tài liệu (phúc trình, thống kê chính thức) nên sự nghiên cứu và đánh giá kết quả chính xác của dự án này rất là khó khăn. Tuy nhiên, sau 1970, việc quan sát của tác giả trên một số khu định cư tỵ nạn đã cho những nhận xét sau. Mặc dầu những xáo trộn chính trị xã hội sau hiệp định Genève, thiếu nhân viên kinh nghiệm và tài chánh, chính phủ đã định cư tốt đẹp hơn 300 000 dân tỵ nạn. Kết quả này là nhờ thời kỳ an ninh trên quê hương và các ban quản trị nhất là các vị linh mục ở các xứ đạo. Sau nữa chúng tôi nhận xét thấy những khu định cư phát triển, tồn tại là phần nhiều nhờ vào yếu tố chính sau : - dân tỵ nạn cùng gốc ở một tỉnh hoặc một xứ đạo miền Bắc, - người dân mộ đạo nên rất có kỷ luật nghe lời cha xứ. - đa số dân sống tựa vào khu thành thị thí dụ như Xóm Mới, Hố Nai, Hòa Bình, Bùi Chu... Sau cùng, các khu định cư quá nhỏ bé khiến cho dân bỏ đi vì : -thiếu đất canh tác thí dụ như khu định cư ấp Sơn Lộc (xã Tân Phú Trung, tỉnh Hậu Nghĩa) mỗi gia đình hưởng một lô đất canh tác là 0,3Ha trên đất cát nghèo nàn; -không thích ứng được với dân địa phương vì khác biệt nếp sống, tôn giáo thí dụ như khu định cư ở ấp Sơn Hải (xã Đại Hải, tỉnh Ba Xuyên) thuộc giáo xứ Phụng Hiệp. Lạp Chúc Nguyễn Huy
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 5:06:04 GMT 9
Hãng phim nổi tiếng thế giới MGM Studios từng đặt trụ sở tại Sài GònCó thể ít ai biết được cách đây 60 năm hãng phim nổi tiếng thế giới MGM Studios từng đặt trụ sở tại Sài Gòn, tên đầy đủ của hãng là Metro-Goldwyn-Mayer, vào thời đó MGM cùng với United Artists, và RKO là ba hãng phim từng được coi là hãng phim lớn và nổi tiếng nhứt thế giới. – Chắc ít ai biết những phim về chiến tranh hay thước phim xưa về Sài Gòn trước đây đều do hãng MGM Studios này làm đấy nhé. họ sản xuất cả phim trắng đen và phim màu. – MGM Studios là một hãng phim lớn là một hãng phân phối và sản xuất điện ảnh thực hiện việc phát hành một số lượng đáng kể các phim điện ảnh thường niên và kiểm soát thị phần lớn trong tổng doanh thu phòng vé tại một thị trường xác định, tại Bắc Mỹ, các nước phương Tây và các thị trường khác trên thế giới, các hãng phim lớn thường được coi là sáu tập đoàn truyền thông đa dạng với các công ty con chuyên về phân phối và sản xuất điện ảnh chiếm tới 80 đến 85 phần trăm doanh thu phòng vé của Mỹ và Canada, thuật ngữ này còn được sử dụng trực tiếp cho công ty con kinh doanh phim điện ảnh của từng tập đoàn. Sau này các hãng phim lớn được gọi là “Big Six”, với trụ sở chính được đặt quanh vùng Los Angeles của Hollywood, đều chủ yếu là các hãng phim đã hoạt động từ Kỷ nguyên Vàng của Hollywood trong khoảng những năm 1930 tới 1940, ba hãng phim, 20th Century Fox, Warner Bros. và Paramount, cũng đều là một trong năm “Big Five” của Kỷ nguyên này. Trong khi đó, Columbia và Universal, hai hãng phim lớn tại thời điểm hiện tại, thì trong thời kì đó lại xếp ở hạng thấp hơn, và là một phần của “Little Three”. Walt Disney Studios từng là một công ty sản xuất độc lập trong Kỷ nguyên Vàng, tuy nhiên cách đây hơn 60 năm trước có hãng còn chưa ra đời hoặc chưa nổi tiếng cho tới ngày nay mà các hãng hãng phim lớn đều thuộc về Metro-Goldwyn-Mayer, United Artists, và RKO, đây được coi là ba hãng phim lớn lừng danh trước đây. Sài Gòn Xưa
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 18:11:48 GMT 9
Tiếng lóng Sài Gòn
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”. Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn thời chiến, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn. Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe không muốn nghe thêm nữa.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là “mã tà”, vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Ði chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch”, hách dịch tự cao gọi là “chảnh”.
Tiền bạc gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Ðào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ…Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình”. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe”, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là “tin vơ-đét” vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài”, truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu”, các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải”. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”.
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Ðó là “tịch”, “hai năm mươi”, “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”, “nhị tỳ” thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc”, ai nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng nảy gọi là “Trương Phi”. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, đạo đức giả, gọi là “Ðoàn Chỉnh Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé… Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo” mà ra đời. Thời Mỹ đến thì một tiếng “OK Salem”, mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa”, dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”? Ðó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức “chôm đồ nhà”, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức “Tây ba lô đi xe xích lô”. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc. Ðể tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”…
Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của “không – ai – mời – ai”. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức chanh hỏi – chảnh – (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần!).
________________
Tiếng lóng mới ở Việt Nam. Chảnh: kênh kiệu. Tám: nhiều chuyện. Vô tư (từ ngoài Bắc): nhiều (?), thoải mái (?). VD: Ăn uống vô tư nhé! Huệ (phát âm: "quệ" mới đúng : cải lương, "sến". Vi tính (computer): làm như hay lắm, ra vẻ ta đây. VD: Thằng ấy vi tính lắm cơ , lúc nào cũng đệm tiếng Anh khi nói chuyện. Tinh vi: ra vẻ ta đây. Trắng phớ: nói thẳng ra đi. Không hề: không sợ, không bi. Bập: Bố mày mới bập ( lấy) của ông bà già một con deam( còn gọi là dem). Ứ chịu : không chịu. Cực kỳ: rất đẹp. Rước: Mua Về. Oách: trông. Hơi bị: diễn tả mức độ hơn trung bình và dưới múc quá cỡ 1 chút. VD: Cái này hơi bị khó hiểu à nghen. Xiềng: khi muốn khẳng định một sự việc gì mà người nói tin là chắc chắn 100%. Vd: Mi có chắc là như vậy không? Phơ: phê Bà cố: có nghĩa là nhiều, quá, thí dụ như: con nhỏ đó đẹp bà cố luôn, thằng đó nói chuyện xạo bà cố. Củ chuối: (tiếng bắc) có nghĩa là "đểu" ví dụ: thằng đó củ chuối chết mẹ (tức là thằng đó đểu chết mẹ). NATO = never action talk only. Ví dụ: thằng đó nằm trong khối NATO (chỉ biết nói chứ không biết làm). Chuồn chuồn là chỉ đàn ông, còn bươm bướm là chỉ đàn bà. Giữa giữa là hi-fi /hai-fai/. Lác: ba xạo. Dẹo: có nghĩa là mồi chài ai được món đồ gì đó. Vd: Con nhỏ đó mới dẹo được thằng bồ nó chiếc xe honda. Nhão: ỏng ẹo, điệu đàng, làm dáng, không được tự nhiên. Vd: Nhỏ đó nói chuyện nhão quá trời. Bèo: rẻ mạt, rẻ thí dụ như thằng đó mới mua được cái xe giá thiệt là bèo. Không có cửa: (thường chỉ áp dụng trong tình cảm only) có nghĩa của từ này là không thể nào, thí dụ như thằng đó muốn cua tao hả, không có cửa đâu mày. Rối: no way out, tình cảm của tụi nó dạo này hơi bị rối. MBA = Married but available! Ví dụ: cha nội đó hả, khoái làm MBA! Cháy IC: nghĩa là, chịu không nổi. Ví dụ: thôi hổng dám đâu! đi xa như dzậy "cháy IC sao"?
Lê Văn Sâm 07/23/2012
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 10:24:20 GMT 9
Hội thảo: ‘Nhạc Vàng’, di sản trường tồn của Việt Nam Cộng hòa31/10/2019 www.voatiengviet.com/a/h%E1%BB%99i-th%E1%BA%A3o-nh%E1%BA%A1c-v%C3%A0ng-di-s%E1%BA%A3n-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-t%E1%BB%93n-c%E1%BB%A7a-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-h%C3%B2a/5146061.htmlNgọc Lễ Nhạc Vàng mà sự thịnh hành của nó gắn liền với miền Nam Việt Nam trước 1975 giúp cho khán thính giả ngày nay sống lại thời Việt Nam Cộng hòa và có thể được xem là di sản có sức sống nhất của chế độ đã qua, các nhà nghiên cứu nhận định tại một hội thảo mới đây ở tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ. Nhạc Vàng là tên thường gọi của thể loại nhạc được sáng tác và trình diễn dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Ngoài tên gọi này, một phần của nó còn được gọi là ‘nhạc sến’ hay ‘nhạc boléro’, dựa trên thể điệu và lời ca. U sầu, hoài niệm “Nhạc Vàng là một trong những phương tiện giữ cho ký ức của nền Cộng hòa sống mãi,” ông Vinh Phạm, nghiên cứu sinh Tiến sỹ về Văn học đối chiếu tại Đại học Cornell, nhận định tại hội thảo về nền Cộng hòa và các giá trị Cộng hòa Việt Nam tại Đại học Oregon, Eugene, hôm 15/10. Điều này thấy rõ trong các chương trình ca nhạc và nhạc hội được tổ chức ở hải ngoại để người gốc Việt tôn vinh nền văn hóa của họ vốn thường trình diễn những bài hát có nội dung về Việt Nam Cộng hòa, ông nói. Ông Vinh đưa ra dẫn chứng là có giai thoại về ‘ba thứ không thể thiếu’ trong các gia đình người Việt ở Mỹ, trong đó có những đĩa nhạc của Paris by Night hay Asia, hai nhà sản xuất băng đĩa hàng đầu của người Việt ở hải ngoại, bên cạnh... chai nước mắm và tô phở. “Những bài hát như thế này thường được xem là để gợi nhớ về thời kỳ trước năm 1975,” ông nói. Ông Vinh cho biết thể loại nhạc này thường bị các nhà phê bình ngày nay đóng khung là ‘âu sầu, áo não’ (melancholy). Theo ông Vinh, sự u sầu này có nghĩa là ‘mất đi một thứ gì đó’ và ‘ít nhất trong phạm vi văn học và âm nhạc sự mất mát đó chính là mất mát thật sự nền Việt Nam Cộng hòa’. “Nói cách khác, vật bị mất (gây ra cảm giác u sầu) ở đây không nằm trong phạm vi vô thức mà trái lại được đóng khung và định danh rõ ràng là một đất nước.” Ông dẫn chứng là trong các chương trình ca nhạc của người Việt ở Mỹ, ngày 30/4 năm 1975 được gọi là ‘Ngày Mất nước’. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ và những công dân của quốc gia này sống lưu vong thì âm nhạc của chế độ cũ giúp họ nhận thức rõ về sự mất mát này, ông nói. Trong khi đó, cách mô tả Nhạc Vàng là ‘hoài niệm’ (nostalgic) về thời xa xưa có ý nghĩa là ‘chấp nhận quá khứ là chuyện đã qua và chấp nhận thực tại’, ông nói. “Với những gì mà cộng đồng người Việt ở hải ngoại, vốn tích cực tham gia chính trị, đã phản đối (chính quyền trong nước) lâu nay và cái cách mà Nhạc Vàng được sử dụng để củng cố tinh thần quốc gia của họ thì không thể nói là có bất cứ dấu hiệu gì cho thấy họ chấp nhận quá khứ mà thay vào đó đó là sự phản đối Đảng Cộng sản,” ông nhận định. “Cách dùng những từ như hoài niệm, u sầu lâu nay để phê bình Nhạc Vàng đã bỏ qua mục đích thật sự của những bài nhạc này,” ông nói. Sau khi đất nước thống nhất, chính quyền trong nước có một thời kỳ cấm đoán gắt gao thể loại âm nhạc này vì cho rằng nó ‘quá diễm tình, yếu đuối và thể hiện nền văn hóa yếu ớt của miền Nam’. Thậm chí nó còn được miêu tả là ‘độc hại và phản động’. Có hợp với giới trẻ? Trao đổi với VOA bên lề buổi hội thảo về lý do tại sao Nhạc Vàng có sự trở lại ngoạn mục ở trong nước hiện nay, ông Vinh nêu lên các lý do là ‘làm ra tiền’, ‘dễ tiếp cận hơn trước’, ‘dễ nhớ dễ thuộc’ và ‘kết nối với thế hệ đi trước’. “Anh có thể kiếm tiền bằng Nhạc Vàng dựa trên số lượt người xem hay nghe trên YouTube. Một số kênh về Nhạc Vàng trên YouTube có hàng triệu lượt xem mỗi mục đăng tải,” ông giải thích. “Một lý do nữa là khán giả Việt Nam hiện nay có nhiều cách tiếp cận các sản phẩm văn hóa hơn. Vào những năm 1990, các băng đĩa Nhạc Vàng mà họ có được hoặc là sao chép lậu hoặc do người thân của họ mang từ nước ngoài về,” ông nói thêm. “Giờ đây mọi người chỉ cần rút điện thoại thông minh từ trong túi ra là có thể nghe Nhạc Vàng.” “Mặc dù một số bài hát vẫn bị cấm nhưng khán giả có thể dễ dàng tiếp cận được.” Ngoài ra, tính chất lãng mạn (poetic) của thể loại nhạc này khiến khán giả dễ dàng ghi nhớ và thuộc bài hát. “Có những thanh niên có ông bà cha mẹ vẫn còn nghe Nhạc Vàng cho nên nó là một hình thức để họ kết nối với thế hệ đi trước,” ông Vinh nói thêm. Trả lời câu hỏi liệu Nhạc Vàng có phù hợp với thị hiếu của các khán giả trẻ ở trong nước hiện nay, ông Vinh nói rằng giới trẻ ‘quan tâm đến nhiều thể loại âm nhạc khác nhau chứ họ không quan tâm đến duy nhất một thứ’ cho nên ‘không thể gom các khán giả trẻ thành một khối duy nhất’. Tuy nhiên, theo những gì ông quan sát, ông cho rằng giới trẻ trong nước hiện nay hướng đến âm nhạc Hàn Quốc, Trung Quốc và nhạc Mỹ, trong đó nhạc Hàn rất được giới trẻ ưa chuộng. Về vấn đề liệu sự hồi sinh của Nhạc Vàng có làm sống lại sự quan tâm và tìm hiểu về Việt Nam Cộng hòa và các giá trị của nó hay không, ông Vinh trả lời rằng ‘mặc dù những bài Nhạc Vàng có thể gợi lại những tình cảm thân thiết với Việt Nam Cộng hòa nhưng ở trong nước chúng đã được đưa ra khỏi bối cảnh ban đầu’. “Những người hát Nhạc Vàng vì họ yêu giai điệu bài hát (không phải lời hát). Tôi không cho rằng có sự gắn bó cá nhân rõ ràng (với nội dung các bài hát),” ông nói thêm. “Một số bài hát cơ quan kiểm duyệt còn sửa một số chữ trong lời hát.” Ông cho rằng các khán giả ở Việt Nam khi hát Nhạc Vàng họ ‘ít quan tâm đến chính trị’ và Nhạc Vàng chỉ đơn thuần là ‘một mặt hàng mới’ phục vụ người tiêu dùng. Chính vì những lý do đó mà ông cho rằng Nhạc Vàng hiện nay ‘không còn là mối đe dọa chính trị’ đối với chính quyền trong nước. Ông đưa ra dẫn chứng là có hiện tượng ‘trong nước trình diễn lại màn trình diễn ở nước ngoài’ (performing the performance), tức là tái hiện lại y chang khung cảnh sân khấu của các bài hát dàn dựng ở hải ngoại mặc dù họ đang ở Việt Nam trong khi những bài hát này vì không tiếp cận được bối cảnh ở Việt Nam nên phải dựng cảnh giả. Cách làm đó đã cho thấy khán giả trong nước ‘phi chính trị hóa Nhạc Vàng’ – tức họ là trình diễn âm nhạc chứ ‘không truyền tải thông điệp chính trị’, ông Vinh phân tích. Di sản có sức sống nhất? Trong phần trình bày của mình, ông Jason Gibbs, một nhà nghiên cứu về âm nhạc Việt Nam và hiện đang làm việc cho Thư viện Công tại San Francisco, cho rằng ‘có lẽ di sản về Việt Nam Cộng hòa có sức sống nhất ở Việt Nam ngày nay là âm nhạc’. “Những bài hát vẫn còn sống mãi từ thời điểm đó tập trung vào tình cảm con người và những cảm xúc sâu thẳm trong lòng người,” ông nói. Theo ông Gibbs thì sở dĩ âm nhạc phát triển mạnh mẽ ở miền Nam Việt Nam vì ‘có thị trường’ cho sản phẩm âm nhạc mang tính thương mại mà nhờ vào đó các nhạc sỹ có rất nhiều cơ hội kiếm tiền từ các sáng tác của họ và có được mức sống cao. “Trong một thị trường sơ khai còn hỗn loạn, những nhà sáng tác và khán giả tìm kiếm âm nhạc mới mẻ giàu cảm xúc và phù hợp với giá trị chung của một bộ phận đáng kể dân chúng,” ông nói và cho rằng thị trường âm nhạc miền Nam lúc đó ‘hoàn toàn bản địa’ vì ‘không có hãng đĩa nước ngoài nào tranh thủ được thị trường’. Ông giải thích rằng nhạc thị trường là một ‘điều mới mẻ’ ở miền Nam Việt Nam lúc đó vì nó không tồn tại dưới thời thuộc địa và ở miền Bắc. “Âm nhạc của Việt Nam Cộng hòa hoạt động trong mối quan hệ của ba yếu tố: chính sách của chính quyền, động cơ lợi nhuận và tình cảm chung của người dân,” ông cho biết. Ông nói thêm chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc đó do muốn tách bạch khỏi hệ tư tưởng và cách cai trị ở miền Bắc nên không thể ra lệnh cho các văn nghệ sỹ và người dân tuyệt đối tuân theo lệnh của chính quyền. Tuy nhiên, ‘tâm lý chiến cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình công việc sáng tạo của các nhạc sỹ và có ảnh hưởng lên các tác phẩm âm nhạc được đưa ra thị trường’. Mặc dù vậy, khi nhạc thương mại chiếm lĩnh thị trường, trên sóng phát thanh và sóng truyền hình thì ảnh hưởng của chính quyền trở nên bị giới hạn. Sau năm 1975, Nhạc Vàng mặc dù bị cấm đoán quyết liệt ở miền Bắc nhưng nó vẫn được cộng đồng người Việt ở hải ngoại gìn giữ và ngày nay đã được một bộ phận dân chúng miền Bắc, vốn trước giờ lạ lẫm với dòng nhạc này, chấp nhận, ông Gibbs cho biết. Trả lời câu hỏi của VOA rằng dòng nhạc tâm lý chiến có giống như nhạc tuyên truyền cổ động chiến đấu ở miền Bắc hay không, ông Gibbs nói: “Tôi phải thừa nhận rằng với những gì mà tôi đã nghe thì (nhạc miền Nam) cũng có yếu tố tuyên truyền”. “Ý tưởng tuyên truyền là nhấn mạnh vào hành động xấu xa của đối phương,” ông nói. Cũng theo nhận định của ông, Nhạc Vàng ‘chắc chắn mang tính cổ động quân đội’ vì nó ‘bày tỏ sự cảm thông cho người lính, cho những người dân bị chiến tranh chia cắt’. “Một số bài hát còn hướng đến thu phục những người bên ngoài chế độ (sống ở miền Bắc),” ông nói và cho biết những bài hát này nằm trong chương trình chiêu hồi (open arms) của chính quyền và có thể đi sâu vào phía đối phương. “Tuy nhiên, họ biết rằng họ không thể sáng tác những bài hát mang tính chất quân sự mạnh mẽ bởi vì những bài hát như thế không có sức hút (đối với thị trường),” ông nói thêm.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 10:31:15 GMT 9
Hội thảo: ‘Miền Nam giáo dục cho hòa bình, miền Bắc phục vụ chiến tranh’29/10/2019 Ngọc Lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh vui với trẻ em nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi năm 1969 Nền giáo dục miền Nam trước 1975 có mục tiêu lâu dài là xây dựng thế hệ công dân xây dựng đất nước trong khi miền Bắc tập trung vào mục tiêu trước mắt là đào tạo lớp chiến binh kế cận đi chiến đấu và điều này đã tạo lợi thế lớn cho miền Bắc trong cuộc chiến, các nhà nghiên cứu nhận định tại một hội thảo mới đây tại Eugene, bang Oregon, Hoa Kỳ. Tại phiên thảo luận về giáo dục, nghệ thuật và truyền thông trong khuôn khổ hội thảo về nền Cộng hòa và các giá trị Cộng hòa Việt Nam được tổ chức hôm 15/10 tại Đại học Oregon ở Eugene, các nhà nghiên cứu đã có cái nhìn so sách về tầm nhìn và chiến lược giáo dục của hai miền ở Việt Nam trong cuộc chiến. ‘Kính yêu và thù hận’‘Nền giáo dục miền Bắc có mục tiêu và tầm nhìn rõ ràng,” bà Olga Dror, giáo sư Sử học tại Đại học Texas A&M, nhận định. “Nền giáo dục miền Bắc dựa trên hai điều: yêu và hận’. “Yêu là kính yêu Bác Hồ. Do ở miền Bắc ít người hiểu được chủ nghĩa cộng sản là gì huống gì là trẻ em nên các em được hướng yêu điều gì đó mà các em có thể hiểu,” bà Olga giải thích. “Còn ghét là ghét Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam.” Đối tượng giáo dục mà bà Olga nói đến trong phần trình bày của bà không phải là sinh viên mà là học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 17 và tầm nhìn mà các chế độ ở miền Bắc và miền Nam muốn truyền đạt cho thế hệ trẻ của họ. Trong khi đó, miền Nam không thể giáo dục trẻ em của họ như miền Bắc vì ‘họ không thể nào trở thành một nhà nước chuyên chế như miền Bắc’, bà Olga nói. “Họ không muốn giáo dục con trẻ của họ thành những người tuân theo chế độ chuyên chế. Điều này cho thấy sự đa dạng ở miền Nam mà trong đó mọi người đều có quyền tự do có ý kiến của mình,” bà nói thêm. Bà giải thích rằng do miền Nam có sự đa dạng xã hội với nhiều cộng đồng tôn giáo khác nhau cũng như nhiều nhóm có tư tưởng chính trị khác nhau, từ chống Cộng triệt để cho đến thân Cộng và con cháu của họ có thể đi học chung một trường một lớp cho nên ‘cần có sự chung sống’. Một nguyên nhân nữa mà miền Bắc dễ tiến hành nền giáo dục mang tính tuyên truyền là họ chỉ có một chính phủ thống nhất, trong khi đó điều này khác hoàn toàn ở miền Nam. “Khi Ngô Đình Diệm nắm quyền, mọi người đều ca ngợi ông ấy. Nhưng khi ông ấy bị lật đổ thì ông ấy lại trở thành một kẻ xấu xa nhất,” bà nói. “Do đó trẻ em miền Nam bị rối.” Ngoài ra, do nền kinh tế thị trường ở miền Nam mà không nhà xuất bản nào có thể xuất bản ồ ạt những tác phẩm ca ngợi các tổng thống như Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu như cách làm ở miền Bắc vì ‘sẽ không có ai mua’, cũng theo vị giáo sư Sử học này. Bà Olga đưa ra ví dụ về một bức tranh cổ động ở miền Bắc mà trong đó vẽ một đứa bé còn nhỏ với chiều cao khiêm tốn nhưng lại ước mơ rằng em sẽ chóng cao lớn ‘để đi bộ đội đánh đuổi giặc Mỹ’. Trong khi đó, ở miền Nam, bà Olga kể lại giai thoại rằng khi thầy cô giáo hỏi các em có muốn lớn lên gia nhập quân đội hay không thì các em nói rằng các em muốn đến khi mình 18 tuổi đất nước sẽ không còn chiến tranh nữa. “Miền Bắc nuôi dưỡng con em họ cho chiến tranh, còn miền Nam giáo dục con em họ cho hòa bình,” bà nói. “Điều này (giáo dục cho hòa bình) thật sự tệ hại trong thời điểm chiến tranh,” bà nói thêm. “Miền Bắc đã thành công với chiến lược của họ.” “Tuy nhiên, chiến lược này lại trở nên rất dở sau chiến tranh bởi vì người dân miền Bắc lúc đó không có được sự chuẩn bị để xây dựng đất nước cũng như sống trong xã hội mới. Trong khi đó miền Nam không có được cơ hội thực hiện tầm nhìn của mình,” bà kết luận. Trao đổi với VOA bên lề hội thảo về có khi miền Nam cảm thấy nhu cầu phải làm theo miền Bắc trong điều kiện chiến tranh như vậy hay không, bà Olga nói rằng ‘nếu họ làm như vậy thì không có lý do gì miền Nam tồn tại’ và rằng miền Nam sẽ ‘phải xem xét lại hoàn toàn mô hình Nhà nước mà họ muốn xây dựng’. Mặc dù lựa chọn này khiến miền Nam gặp bất lợi trong cuộc chiến nhưng ‘đó là lựa chọn của họ’. Bà cũng nói thêm rằng do áp lực của Mỹ lúc đó mà miền Nam không thể xây dựng chế độ chuyên chế để phục vụ cho cuộc chiến. “Người Mỹ không muốn ủng hộ thêm một đất nước chuyên chế nữa ở miền Nam Việt Nam sau khi họ đã ủng hộ các chế độ độc tài ở Đài Loan và Hàn Quốc,” bà cho biết. ‘Tầm nhìn dài hạn’Giáo dục Việt Nam Cộng hòa không phục vụ chiến tranh’ EMBED SHARE The code has been copied to your clipboard. <iframe src="https://www.voatiengviet.com/embed/player/0/5136658.html?type=video" frameborder="0" scrolling="no" width="640" height="360" allowfullscreen></iframe> www.voatiengviet.com/a/hội-thảo-miền-nam-giáo-dục-cho-hòa-bình-miền-bắc-phục-vụ-chiến-tranh-/5136658.html No media source currently available Đường dẫn trực tiếp Trong phần trình bày của mình, bà Trương Thùy Dung, nghiên cứu sinh Tiến sỹ chuyên ngành giáo dục tại Đại học Hamburg, Đức, nêu bật ‘tầm nhìn dài hạn’ của nền giáo dục miền Nam. Theo đó, nhiệm vụ của nền giáo dục miền Nam là ‘đào tạo công dân tương lai và xây dựng hình ảnh của Việt Nam Cộng hòa như là một đất nước hiện đại và phát triển’. “Nền Cộng hòa đó cam kết theo đuổi khát vọng của người dân. Nó thừa nhận và chấp nhận các sự tương đồng và khác biệt nội tại với mục đích đạt được sự thống nhất và đa dạng trên con đường phát triển,” bà nói. Trao đổi với VOA bên lề hội thảo, bà Dung nói rằng chương trình giáo dục trong các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa ‘không hề giáo dục công dân của họ để đi chiến đấu với một đối tượng nào đấy’. “Họ chỉ dạy công dân dựa trên nền tảng dân tộc, khoa học, khai phóng, và người công dân đấy có thể phát huy được hết khả năng của mình để phụng sự cho nhiệm vụ xây dựng quốc gia vào thời điểm đấy dựa trên năng lực thực tế của từng cá nhân.” “Nền giáo dục đấy được thiết kế để phát huy thế mạnh của từng cá nhân chứ không phải là để rập khuôn phục vụ cho lý tưởng, mục tiêu của Nhà nước,” bà nói thêm. Trả lời câu hỏi tại sao miền Nam không nhìn vào thực tế cuộc chiến để điều chỉnh nền giáo dục cho phù hợp, bà Dung trả lời rằng ‘do miền Nam hướng đến tương lai xa và không nhìn cuộc chiến là cái gì đó lâu dài vì cuộc chiến nào rồi cũng kết thúc’. “Miền Nam khi đó vừa chịu áp lực cuộc chiến, vừa chịu áp lực của Mỹ nên họ mong muốn xây dựng nội lực mạnh để tự đứng vững từ đó có thể bước qua thời kỳ chiến tranh để xây dựng đất nước trong giai đoạn hậu chiến chứ không phải chỉ xây dựng con người cho cuộc chiến,” bà giải thích. Bà cũng nói rằng không nên lồng ghép chiến tranh vào mục tiêu giáo dục. “Giáo dục là giáo dục. Cần tách biệt với chính trị. Giáo dục hướng tới xây dựng con người nên không thể để bị ảnh hưởng bởi cái khác.” “Có thể tạm gọi đó là mục tiêu viễn vông (đối với Việt Nam Cộng hòa) trong thời điểm đấy nhưng nền giáo dục đó đã thực hiện đúng nhiệm vụ của nó,” bà nói và không đồng ý cho rằng nền giáo dục đã góp phần làm cho Việt Nam Cộng hòa thua trong cuộc chiến. Trả lời câu hỏi nền giáo dục Việt Nam hiện nay có thể rút ra bài học kinh nghiệm gì từ hai nền giáo dục của miền Bắc và miền Nam trước đây, bà Dung nói: “Rõ ràng những di sản của nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa vẫn còn đâu đó trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay, từ những nhân lực được đào tạo trong thời Việt Nam Cộng hòa.” Bà đưa ra một ví dụ cho thấy nền giáo dục Việt Nam hiện nay và của Việt Nam Cộng hòa trước đây đã có điểm gặp nhau là ‘áp dụng mô hình đào tạo theo tín chỉ’ vốn là một mô hình tiến bộ vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. “Nền giáo dục Việt Nam hiện nay và của Việt Nam Cộng hòa đã gặp nhau ở chỗ nhìn ra được cái gì là lựa chọn tốt nhất,” bà nhận định. Về triết lý giáo dục ‘nhân bản, khai phóng, khoa học’ của miền Nam mà bà Dung cho rằng ‘đã được ghi trong Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa’, bà nhận định ‘đó là triết lý tiến bộ cho đến bây giờ’ và rằng ‘các nền giáo dục nên đi theo’. “Mặc dù không thể hiện cụ thể trong các văn bản nhất định, nhưng trong các phát biểu đâu đó của các quan chức giáo dục Việt Nam đã cho thấy rằng nền giáo dục Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu này,” bà cho biết. ‘Thời hoàng kim’Bà Trương Thùy Dung, vốn nghiên cứu sâu về nền giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, nói rằng giao đoạn cuối những năm 1960 và đầu 1970 là ‘thời hoàng kim’ của nền giáo dục đại học ở miền Nam. Bà cho biết trong giai đoạn này các trường đại học ‘được thành lập nhiều nhất trong suốt 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng hòa’ so với chỉ một phân nhánh của trường đại học do Pháp thành lập ở Sài Gòn dưới thời thuộc địa. Bà dẫn ra những ví dụ như ‘đủ nhân lực vận hành’, ‘có thành quả học thuật’, ‘có những diễn đàn để thảo luận các vấn đề khoa học rộng rãi’ và ‘sự phát triển mạnh mẽ của xuất bản’ để chứng minh giáo dục đại học trong giai đoạn này là ‘thời đại hoàng kim’. Bà cũng nhấn mạnh về ‘tính trung thực’ trong giáo dục đại học ở miền Nam trong việc thi cử va đánh giá sinh viên. Theo đó, các giáo sư đánh giá sinh viên ‘một cách công bằng không thiên vị’ để đảm bảo chất lượng đầu ra và để không cho sinh viên nào có năng lực bị mất cơ hội học hành và thành đạt. Theo bà Dung thì do các trường đại học ở miền Nam được tự do thiết kế chương trình học và không bị bắt buộc phải tuân theo tư tưởng của Nhà nước nên họ được dạy ‘tất cả các trào lưu triết học, tư tưởng, kể cả chủ nghĩa Marx’. “Các sinh viên có cơ hội điều chỉnh tư tưởng của mình dựa trên những gì mà họ được nghe các giáo sư giảng dạy và các tài liệu ấn phẩm xuất bản vào thời đó,” bà nói và cho biết rằng chính sự tự do tư tưởng này cũng là một phần nguyên nhân ‘dẫn đến phong trào phản chiến’ vốn phổ biến trong các trường đại học ở miền Nam vào những năm 1960 và 1970.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 17:10:42 GMT 9
Chủ nghĩa cộng sản : mục đích hay phương tiện ?31 Tháng Ba 2017 hung-viet.org/p34a23894/chu-nghia-cong-san-muc-dich-hay-phuong-tien-Nguyễn Thị Từ Huy Ông Bá Ngọc có công bố một tài liệu lịch sử đặc biệt trên Tạp chí XƯA & NAY, số 438, tháng 10.2013, trong bài viết có nhan đề là « Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản ». Tạm để sang một bên lối viết sử kiểu cộng sản chủ nghĩa để tập trung vào một số chi tiết và sự việc được trình bày trong bài này, ta có thể thấy rõ hơn về một vài điểm ở nhân vật Hồ Chí Minh và lịch sử đảng cộng sản Việt Nam. Tài liệu mà Bá Ngọc tìm được trình bày một sự kiện xảy ra với Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ ông đến Liên Xô lần thứ ba trong đời hoạt động của mình, sau khi bị bắt giam ở Hồng Kông, từ 1934 - 1938. Sự kiện đó là Nguyễn Ái Quốc trở thành đối tượng điều tra của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Tháng 2/1936, QTCS thành lập một Ban thẩm tra để xem xét trường hợp Nguyễn Ái Quốc, vì các lý do : -Ban lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) gửi cho QTCS một lá thư viết ngày 20/4/1935 trong đó kết tội Nguyễn Ái Quốc đã phạm những sai lầm trong hoạt động cách mạng (xin xem chi tiết trên báo Diễn Đàn theo đường link: www.diendan.org/tai-lieu/ban-tham-tra-vu-viec-nguyen-ai-quoc-o-quoc-te-cong-san ) -Vì sao Nguyễn Ái Quốc chỉ bị kết án nhẹ nhàng có hai năm tù giam, vì sao sau hạn tù có thể trốn khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng, và bằng cách nào sang được Nga ? Ban thẩm tra đã làm việc và dẫn tới hai kết luận : 1/Nguyễn Ái Quốc đã phạm một số sai lầm trong hoạt động bí mật và cần khắc phục. 2/Không tìm ra chứng cứ về sự thiếu trung thành chính trị ở Nguyễn Ái Quốc. Vì thế hồ sơ Nguyễn Ái Quốc được huỷ bỏ. Ông Bá Ngọc có các phân tích và kết luận của riêng ông, như ông đã trình bày trong bài. Đối với cá nhân tôi, tài liệu này giúp tôi trả lời phần nào một vài trong số rất nhiều câu hỏi về nhân vật được xem là phức tạp vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại : -Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản là một con đường giải phóng dân tộc (nghĩa là một phương tiện giúp giải phóng dân tộc) hay là một mục tiêu tối hậu mà cả dân tộc phải hướng tới ? -Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa yêu nước/ chủ nghĩa dân tộc, hay là một người cộng sản đúng nghĩa, hay là trong Hồ Chí Minh kết hợp cả hai con người đó, và còn kết hợp thêm cả con người nho giáo kiểu Khổng Tử ? Câu hỏi này thoạt nghe có vẻ như thừa, sau tất cả các nghiên cứu đã công bố về Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau vô số công trình của các nhà nghiên cứu quốc tế. Thế nhưng thực tế hiện nay đòi hỏi phải đặt lại câu hỏi đó, bởi vì một bộ phận người Việt dường như chỉ muốn nhìn Hồ Chí Minh như một người cộng sản, và duy nhất ở khía cạnh cộng sản. Ngược lại, không phải là không có người nghĩ rằng Hồ Chí Minh « phi cộng sản », và cho rằng cộng sản, đối với Hồ Chí Minh, chỉ như là cái áo che giấu cái thực chất là cách mạng dân tộc. Lại có những người cho rằng Hồ Chí Minh bất đắc dĩ mà trở thành cộng sản. Mỗi bên đều tìm thấy trong lịch sử những yếu tố làm căn cứ cho suy diễn của mình. Chưa lúc nào mà Hồ Chí Minh và di sản Hồ Chí Minh lại gây tranh cãi như hiện nay. Điều này là bình thường, và có thể nói là đáng mừng. Bởi vì ít ra chúng ta cũng tự cho phép mình không đồng ý với nhau, tức là cho phép tồn tại tình trạng đa nguyên trong suy nghĩ. Chúng ta cũng hiểu rằng không thể tự cho phép mình áp đặt nhận định chủ quan của mình lên người khác, càng không thể bắt người khác phải tin theo mình một cách vô điều kiện. Nhân đây cũng xin một lần giải thích rằng đối với những người làm nghiên cứu như tôi, những người lấy việc tìm hiểu sự thật làm mục đích, lấy sự công bằng làm phương châm trong đánh giá, thì chỉ có sử liệu, sự kiện, căn cứ, bằng chứng, nhân chứng, và phân tích dựa trên các căn cứ và bằng chứng ấy, mới có khả năng thuyết phục. Và sẽ không chấp nhận bị chi phối bởi bất kỳ một áp lực nào (dù là áp lực của bạo lực chính trị hay là áp lực của tin đồn, của dư luận, của bình luận…). Vụ thẩm tra năm 1936 cho phép phần nào nhận diện sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc vào thời điểm ấy, xin nhắc lại, vào thời điểm các thập kỷ 1920 và 1930. Ở đây các phân tích của tôi chỉ dựa vào bản báo cáo của Vera Vasilievna, đoạn trích được dịch ở trong bài, chứ không dựa vào phần phân tích và bình luận của Bá Ngọc. Dưới đây là trích đoạn từ bản giải trình của Vera Vasilievna, theo bản dịch của Bá Ngọc : hochiminh1“ Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người rất có uy tín giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng sản đầu tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc tế Cộng sản, mặc dầu Quốc tế Cộng sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản... Do đó, uy tín của đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội ngũ những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị tháng 10-1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng chí. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban lãnh đạo Đảng phản ánh tâm trạng không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên lạc viên bình thường mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo; đã đưa ra những ý kiến, ghi chú, nhận xét của mình trong các chỉ thị, thông báo của Quốc tế Cộng sản và cản trở những thông tin từ đất nước gửi Quốc tế Cộng sản. “ Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng Công và bị kết án 2 năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vaxiliepna) liên hệ với luật sư bào chữa thông qua Tổ chức cứu trợ những người cộng sản bị nạn của Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức cho Nguyễn trốn thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi chúng tôi. Một thời gian sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết mà được thả tự do và biến mất. “ Vào tháng 7-1934, Nguyễn Ái Quốc đến Matxcơva. Theo lời kể của Nguyễn Ái Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn bản về các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và trở về với chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở về, theo Nguyễn Ái Quốc kể thì do Vaillant-Couturier trong thời gian ở Trung Quốc đã tổ chức giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi học tại Trường Mác - Lênin cho đến ngày nay. Thống nhất với các đồng chí Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, mặc dầu chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn đấu. Nguyễn đã nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng, đặc biệt, rất quan tâm tới các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc họ đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về việc không được tham gia những nhiệm vụ bí mật. Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thứ đó có thể chống lại ý nguyện của mình. Trên đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc khi tự phê bình tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó. Điểm lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định vị trí đại diện trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể tham gia Đại hội (Quốc tế Cộng sản) như một đại biểu chính thức ”. (trích báo cáo của Vaxiliepna) Với câu đầu tiên trong trích đoạn này, Vasilievna khẳng định một điều mà chúng ta đều đã biết : Hồ Chí Minh là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người có uy tín quốc tế và là người đã thành lập những tổ chức cộng sản đầu tiên ở Đông Dương. Tuy nhiên, điều này chưa đủ để thoả mãn những người đặt câu hỏi về việc chủ nghĩa cộng sản đối với Nguyễn Ái Quốc là mục đích hay phương tiện. Trong bản báo cáo, một số chi tiết cho thấy Nguyễn Ái Quốc không hoàn toàn tôn trọng quy định và kỷ luật của QTCS. Chẳng hạn, ông tự nhận mình là đại diện của QTCS trong khi chưa được QTCS uỷ quyền. Điều này cho thấy đối với Hồ Chí Minh, việc thành lập ĐCSVN quan trọng hơn tất cả, và để có thể thực hiện điều đó ông đã nhân danh là đại diện QTCS dù chưa được phép. Và ông cũng không để cho QTCS nắm được hết các hoạt động của mình. Đáng chú ý hơn là nhận định này của Vasilievna : « Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản ». Xét theo các nguyên tắc của QTCS, Nguyễn Ái Quốc đã phạm sai lầm. Nhưng trong thực tế, chính là nhờ « sai lầm » trong việc kết hợp với các tầng lớp địa chủ và tư sản mà ĐCSVN mới có thể thu hút được quần chúng và những người yêu nước, cho dù những người đó thuộc tầng lớp địa chủ hay tư sản. Dĩ nhiên, kết hợp với giai cấp địa chủ và tư sản là đi ngược hoàn toàn với tư tưởng của Lê-nin. Điều mà QTCS (đại diện là Vasilievna) cho là « máy móc », thì chính lại là « sáng tạo » của Nguyễn Ái Quốc, nó cho phép hợp nhất các tổ chức cộng sản manh mún lúc đó để tạo ra một đảng có thực lực lớn hơn, có điều kiện để phát triển mạnh hơn. « Những người muốn giải phóng đất nước, cần phải thành lập một đảng mạnh », câu này chính là bài học mà Phan Bội Châu truyền lại cho Nguyễn Tất Thành từ những ngày đầu tiên đi tìm đường giải phóng quê hương. Một chi tiết cần lưu ý trong tài liệu này là, mặc dầu Nguyễn Ái Quốc là người thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập ĐCSVN, tuy nhiên, ông không giữ chức vụ lãnh đạo trong tổ chức đảng. Nguyễn Ái Quốc không giữ vai trò nào trong cấu trúc quyền lực của ĐCSVN giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1930. Trong danh sách thành viên của Uỷ ban lâm thời không có tên ông, và người được chỉ định giữ chức vụ Tổng bí thư là Trịnh Đình Cửu. Tại sao ? Điều này, trong số các tài liệu mà tôi đã đọc tôi vẫn chưa tìm thấy một lý giải nào thoả đáng, hơn nữa các tài liệu đều không đặt câu hỏi về việc này, trong khi điều đó phản ánh một lô-gic không bình thường đối với người sáng lập đảng. Sau khi đảng đổi tên thành ĐCSĐD, do bị chỉ trích vì các sai lầm, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn giữ vai trò là một liên lạc viên bình thường, đảm nhiệm công viêc liên lạc giữa QTCS và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á. Tài liệu về vụ thẩm tra cho thấy rằng Nguyễn Ái Quốc, vào lúc đó, không lệ thuộc vào các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản kiểu Lê-nin, và đối với ông, đó chỉ là một phương tiện phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc « không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản », bởi vì ông hiểu rằng muốn tạo sức mạnh để giải phóng đất nước cần đoàn kết các giai cấp khác nhau trong xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản được đúc khuôn từ lò Liên-Xô, được đào luyện bài bản trong môi trường Xô-Viết và tuân thủ trung thành tư tưởng Sta-lin. Có thể nhớ lại rằng ở đại hội Tour, 1920, Nguyễn Ái Quốc đã gióng lên tiếng kêu trước đảng Xã hội Pháp: « Camarades, sauvez-nous ! » (Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi !). Tuy nhiên, rất nhanh chóng Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng các đồng chí cánh tả ở Pháp không cứu được Việt Nam thoát khỏi ách thuộc địa, rằng các phong trào chính trị ở Pháp, kể cả đảng cộng sản Pháp, không quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn tham gia đảng cộng sản Pháp, ông đã rời Paris để sang Nga năm 1923, nơi mà theo ông vấn đề thuộc địa được coi là quan trọng. Nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ lưu lại Nga chừng 2 năm, cuối 1924 ông rời Nga sang Trung Quốc. Tại sao ? Tại vì ở Nga, dù đó là cái nôi của chủ nghĩa cộng sản thì ông cũng không thể thành lập các tổ chức chính trị của Việt Nam. Thực tế cho thấy, chỉ mấy tháng sau, vào tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại Quảng Châu, Trung Quốc, tiền thân của ĐCSVN sẽ ra đời 5 năm sau. Những gì mà QTCS vào năm 1936 xem là « sai sót » ở Nguyễn Ái Quốc thì có thể không hẳn như vậy. Đối với QTCS là sai sót, nhưng đối với Nguyễn Ái Quốc đó là những gì cần phải làm. Vasilievna nhận định : « Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ ». Điều này hoàn toàn đúng. Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ là điều mà Nguyễn Ái Quốc lúc đó và Hồ Chí Minh sau này không bao giờ từ bỏ. Nguyễn Ái Quốc không quan tâm nhiều đến vấn đề lý luận, không giành thời gian cho lý luận về chủ nghĩa cộng sản, về cơ bản ông là người hành động. Đấy là lý do khiến Vasilievna nêu nhận xét này : « Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. » Sự yếu kém về lý luận của Nguyễn Ái Quốc là sự thật, chứ không phải do ông giả vờ yếu kém. Có nhiều lý do cho sự yếu kém này, trong đó có một lý do căn bản : ông chọn hoạt động thực tiễn và coi lý luận Marx-Lê nin chỉ là một công cụ, một vũ khí, một con đường để thực hiện giải phóng dân tộc. Ít ra là ở thời điểm 1920-1930 là như vậy. Sự phát triển về sau của chủ nghĩa Marx-Lê nin trong tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, vấn đề này sẽ được đề cập tới một dịp khác. Dù sao, Võ Nguyên Giáp có thuật lại trong cuốn « Đường tới Điện Biên Phủ » lời của Hồ Chí Minh : "Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái gì lợi cho cách mạng thì làm !". Câu này của Hồ Chí Minh cho thấy tính chất « phương tiện » của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong quan niệm của ông. Tuy nhiên, có vô số dẫn chứng khác cho thấy Hồ Chí Minh tôn chủ nghĩa Marx-Lê nin lên thành kinh thánh, thành kim chỉ nam cho hành động. Vấn đề rất phức tạp và không thể đơn giản hoá trong một câu trả lời mang tính chất một chiều. Xin dẫn ra đây thêm một ví dụ về phía những người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản, thậm chí đảng cộng sản, với Hồ Chí Minh, là một phương tiện. Jean Lacouture, trong cuốn sách xuất bản năm 1967 viết về Hồ Chí Minh, khi bình luận về những quyết định của Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951 [thành lập Việt Minh, giải tán ĐCSĐD, thành lập Đảng Lao động Việt Nam – theo Lacouture ĐLĐVN là « thuần tuý Việt Nam » -, thành lập Mặt trận Liên Việt…], đã viết : « Tất cả diễn ra cứ như thể Hồ Chí Minh không xem đảng như là một mục đích, mà như là một phương tiện, như là một công cụ cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ mà chủ nghĩa thực dụng của ông lại xuất hiện một cách can đảm như thế, sống động như thế » (Ho Chi Minh, Jean Lacouture, Seuil, 1967, tr.196). Lacouture không phải là không có lý khi nêu nhận xét này. Cái lý đó là : nếu mục đích của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, thì không có gì khó hiểu khi đảng cộng sản đối với ông chỉ là phương tiện, là công cụ để giúp ông đạt mục đích đó. Cũng đừng quên rằng cho đến khi Hồ Chí Minh chết, đảng vẫn mang tên « Đảng Lao động Việt Nam ». Phải chăng, đối với Hồ Chí Minh, tên gì cũng được, không nhất thiết phải là « đảng cộng sản », miễn là nó phục vụ công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ? Ngoài ra, dưới thời kỳ lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Hiến pháp Việt Nam không có điều khoản quy định sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí cũng không có điều khoản quy định sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN), đảng đang cầm quyền lúc đó. Việc đổi tên đảng thành ĐCSVN, và đưa quyền lãnh đạo của ĐCSVN vào Hiến pháp chỉ xảy ra dưới thời Lê Duẩn toàn quyền. Điều này có ý nghĩa đối với những người đang ra sức « học tập và làm theo lời Bác », nhất là những người phát động phong trào này. Lãnh đạo Việt Nam chỉ phát động phong trào « học tập tư tưởng Hồ Chí Minh », chứ không phát động phong trào « học tập tư tưởng Lê Duẩn ». Vậy ĐCSVN hiện nay đang học tập Hồ Chí Minh, hay đang học tập Lê Duẩn ? Và lãnh đạo đảng cũng không nên tiếp tục lảng tránh và nguỵ biện về việc Lê Duẩn và đảng đã phản bội di chúc của Hồ Chí Minh. Đã đến lúc phải thực hiện di chúc của ông ấy. Làm sao có thể vừa phản bội Hồ Chí Minh vừa học tập Hồ Chí Minh ? Chủ nghĩa cộng sản là mục đích hay phương tiện ? Câu hỏi này, những đảng viên đảng cộng sản ngày nay cần đặt ra cho mình. Vì sao ? Nếu chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện để đạt tới mục đích giải phóng dân tộc, thì sau khi đạt được mục đích, có thể loại bỏ phương tiện, nhất là khi mà phương tiện đó không còn hữu ích nữa. Càng cần phải vứt bỏ phương tiện đó, khi mà ngày nay nó đang trở thành lực cản, cản trở việc thực hiện các mục đích : độc lập dân tộc, sự hùng cường của quốc gia, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Paris, 21/2/2017 Nguyễn Thị Từ Huy Nguồn Blog Nguyễn Thị Từ Huy
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 28, 2022 1:49:08 GMT 9
"NGỤY" ĐÃ TIÊU TIỀN CỦA DÂN NHƯ THẾ NÀO?... "NGỤY" TIÊU TIỀN DÂN THẾ NÀY! Quốc Việt Nguyễn
Năm 1960, phi trường Tân Sơn Nhứt được nâng cấp đường băng hạng A dài 3.000 mét để tiếp nhận phi cơ phản lực. Dự án do Mỹ tài trợ 4,5 triệu đô-la Mỹ (USD), Việt Nam Cộng Hòa bỏ 70 triệu đồng từ ngân sách. Việc bỏ thầu tại Washington. Mỹ đề nghị Việt Nam cử đoàn giám sát. Sau nhiều thảo luận giữa Bộ Công chánh - Giao thông và Nha Hàng không dân sự, cuối cùng chỉ hai người được cử đi là kỹ sư Tạ Huyến và kỹ sư Nguyễn Xuân Hiếu. Cả hai đều học ở Pháp về và tu nghiệp thêm chuyên môn tại Mỹ, trực tiếp tham gia từ giai đoạn nghiên cứu tiền dự án. Thời gian đi 3 tuần, phụ cấp 20 đô-la Mỹ mỗi ngày và 3.000 đô-la Mỹ giao tế phí. Danh sách hai người đi được Tổng trưởng Công chánh - Giao thông và Tổng trưởng Ngoại giao đồng ý, chuyển trình Phủ Tổng thống xem xét. Đích thân ông Ngô Đình Diệm đọc công thư và bút phê ba điểm: - Chỉ cho đi một kỹ sư, bởi việc giám sát không cần phải hai người. Nếu cần thêm gì, thì đại sứ Việt Nam tại Mỹ giúp đỡ. - Chỉ cho đi 2 tuần, không được đi 3 tuần, vì việc bỏ thầu chỉ diễn ra trong vài ngày. - Cắt bỏ hết 3.000 đô-la Mỹ giao tế phí, vì kỹ sư giám sát không cần giao tế gì lớn. Cuối cùng, Tổng thống Ngô Đình Diệm yêu cầu các thiểm bộ liên quan Công chánh, Ngoại giao và Nha Hàng không phải nghiêm khắc rút kinh nghiệm. Tình hình quốc gia đang khó khăn, không được lãng phí tiền đóng thuế của Quốc dân Đồng bào! "Ngụy" đã dùng tiền của dân như thế!
|
|