|
Post by Can Tho on Dec 2, 2011 11:19:51 GMT 9
Trong 2 Ngày, 2 Tàu Cá VN Bị 2 Tàu ‘Lạ’ Đụng Thủng (12/02/2011) SAIGON -- Thêm một taà cá Việt Nam bị taù lạ đâm thủng. Bản tin báo Thanh Niên kể rằng một tàu cá VN bị taù lạ đâm thủng, nhưng 9 ngư dân được cứu sống vào sáng sớm Thứ Năm 1-12-2011. Bản tin báo Thanh Niên kể: “Khoảng 5 giờ 30 phút sáng 1.12, tàu cá PY-90965 TS do ông Trần Văn Đông (SN 1972 ở P.6, TP.Tuy Hòa, Phú Yên) làm thuyền trưởng cùng 8 ngư dân đang hành nghề trên biển tại 9 độ 47 phút độ vĩ bắc, 109 độ 43 phút độ kinh đông (cách đảo Phú Quý, Bình Thuận khoảng 70 hải lý về hướng đông) đã bị một tàu vận tải không rõ đặc điểm đâm thủng. Nhận được tin báo, qua bộ đàm, Bộ đội biên phòng Phú Yên đã liên lạc, kêu gọi các phương tiện hành nghề gần đó đến ứng cứu tàu gặp nạn. Nhận được tín hiệu, tàu cá PY-90019 TS do ông Võ Đường (cùng ở P.6, TP.Tuy Hòa) làm thuyền trưởng đã chạy đến ứng cứu, đưa được 9 thuyền viên tàu PY-90965 TS lên tàu của ông Đường an toàn. Đồng thời, thuyền trưởng Đường cho tàu của mình tiếp cận tàu bị nạn, tổ chức khắc phục lỗ thủng; lai dắt tàu PY-90965 TS về đảo Phú Quý để sửa chữa.” Cũng nên nhắc rằng, một ngày trước đó, vào trưa Thứ Tư, một tàu cá VN cũng bị một taù lạ đụng chìm, nhưng 11 ngư dân được cứu trong khi tàu cá bị chìm luôn.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2011 12:09:27 GMT 9
Ðòi hỏi quá găng, Việt Nam lỡ nhiều dịp bang giao với Mỹ Cựu đại sứ Việt Nam Lê Văn Bàng thú nhận HÀ NỘI (NV) - Nhất định buộc Mỹ phải bồi thường chiến tranh rồi mới chịu thiết lập bang giao. Mỹ không chịu. Tới khi muốn quá, nài nỉ xin được bang giao vô điều kiện thì bị lờ đi vì nước Mỹ có những tính toán khác. Cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Ðốn Lê Văn Bàng. (Hình: Tuần Việt Nam) Ðây là những điều được ông Lê Văn Bàng, cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Ðốn sau lên làm thứ trưởng Ngoại Giao, nghỉ hưu năm 2010, kể lại qua cuộc phỏng vấn của ký giả Huỳnh Phan trên báo điện tử Tuần Việt Nam. Lỡ quá nhiều dịp vì các tính toán sai lầm của đám lãnh tụ Hà Nội cộng với hoàn cảnh của một nước nhỏ trên bàn cờ quốc tế, bởi vậy, đàm phát từ sau khi chiến tranh chấm dứt, mãi 20 năm sau Việt Nam mới thiết lập được bang giao với Mỹ. Cuộc phỏng vấn ông Bàng được Tuần Việt Nam phổ biến trong hai ngày 6 và 7 tháng 12, 2011. Ông là một nhà ngoại giao có cơ hội tham dự từ đầu các cuộc đàm phán cho tới khi trở thành đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Hoa Thịnh Ðốn. Bắt đầu đàm phán bang giao từ năm 1977 dưới thời Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter, Lê Duẩn là tổng bí thư đảng CSVN, ông Lê Văn Bàng nhìn nhận việc Việt Nam nhất định đòi Mỹ $3.25 tỉ USD viện trợ không hoàn lại trong 5 năm và khoảng $1 tỉ USD đến $1.5 tỉ USD viện trợ lương thực và hàng hóa “không ngờ đó lại là chỗ nghẽn trong đàm phán bình thường hóa giữa Việt Nam và Mỹ.” Phía Hà Nội “kiên quyết đòi” khi viện dẫn điều 21 của bản Hiệp Ðịnh Paris và cả công hàm Tổng Thống Nixon gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng năm 1973 đề cập đến viện trợ. Nhưng không ngờ lại bị ông Nixon “gài” ngược bằng lời rào đón trong công hàm là viện trợ “theo những quy định của hiến pháp” của mình. Tổng Thống J. Carter thuộc đảng Dân Chủ nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ, muốn thiết lập bang giao với Việt Nam nhưng “ông ta vấp phải một thách thức rất lớn từ phái Cộng Hòa trong Quốc Hội,” ông Bàng nói. “Từ đầu tháng 5, 1977, khi Mỹ và Việt Nam bắt đầu đàm phán bình thường hóa ở Paris, Hạ Viện Mỹ đã bỏ phiếu cấm bất kỳ viện trợ nào cho Việt Nam,” ông nói. Sau đó, tình hình khu vực biến chuyển nhanh chóng và dồn dập. “...nhất là sự căng thẳng với Trung Quốc, với việc cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước, và Campuchia, khi chính quyền Khmer Ðỏ đã có các cuộc xâm phạm biên giới phía Tây Nam, lên tiếng đòi xem lại vấn đề phân định lãnh thổ giữa hai nước, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao”, ông nói. Cũng thời gian này, Việt Nam quyết định bám vào Nga hoàn toàn “chuẩn bị ký hiệp ước liên minh với Nga, cho phép hải quân của họ sử dụng Cam Ranh. Ðổi lại Liên Xô tăng viện trợ cho Việt Nam.” Ông nói Việt Nam chuyển hướng chiến lược nên nhu cầu đòi tái thiết từ viện trợ Mỹ “không còn quan trọng như trước nữa.” Trước sức ép quá nóng từ phương Bắc, Hà Nội cử một phái đoàn đi Hoa Thịnh Ðốn vì “nếu không có luồng gió ôn hòa từ phía Tây thì căng lắm.” Ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc này là thứ trưởng Ngoại Giao, được cử đi “sang đàm phán kín với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Holbrooke, chấp nhận bình thường hóa vô điều kiện.” Tuy nhiên, đạt được thỏa thuận với ông Holbrooke rồi, “ông Thạch chờ suốt mà không có câu trả lời từ Bộ Ngoại Giao Mỹ.” Ông Bàng kể lại rằng: “Sự nhượng bộ của Việt Nam đã quá muộn, bởi, trong thời gian đó, đã có những biến chuyển mạnh mẽ của tình hình thế giới, và Mỹ không thể ứng xử như cũ. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc lúc đó là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.” Ông Bàng xác nhận phía Việt Nam quá thèm bang giao với Mỹ đến độ cử vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ thời đó là Trần Quang Cơ sang New York từ tháng 9, 1978 và “cố chờ” câu trả lời nên ở đó đợi đến tháng 1, 1979 (gần tới lúc Việt Nam bị Trung Quốc đánh dọc 6 tỉnh biên giới), hy vọng Mỹ thỏa thuận xong với Trung Quốc thì sẽ tính tới chuyện bang giao với Việt Nam nhưng vẫn không thấy gì. Ông Bàng cho biết phía Việt Nam đã chuẩn bị người để mở đại sứ quán “đâu vào đấy” để mở sứ quán ngay sau khi ký kết bình thường hóa. Theo ông Bàng, Mỹ tập trung vào “con bài” Trung Quốc, “dựa trên cơ sở sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Quốc, nhằm thay đổi cán cân quyền lực trên thế giới giữa Mỹ và Liên Xô.” Bởi vậy, “đến thời điểm lãnh đạo Việt Nam thực sự mong muốn bình thường hóa ngay với Mỹ, phía Mỹ lại chưa muốn. Bởi, như vậy, họ khó thúc đẩy bình thường hóa và cải thiện quan hệ với Trung Quốc được.” Ông Bàng cho rằng, trong nỗ lực thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ, “Việt Nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đã cản trở. Việt Nam đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị ‘dập’ bất cứ lúc nào.” Rồi đến cuối năm 1978 Việt Nam tấn công chiếm đóng Campuchia, thì “mọi mối tiếp xúc (đàm phán bang giao) hầu như bị cắt đứt,” ông nói. Nước Mỹ tức giận nên “ngay cả vấn đề MIA/POW, một trong những lời hứa của ông Jimmy Carter với hiệp hội những gia đình có người Mỹ mất tích trong chiến tranh khi tranh cử, Mỹ cũng chẳng quan tâm nữa.” Mãi tới khi kiệt quệ kinh tế, năm 1985 lạm phát lên tới 430% (theo tài liệu Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), chế độ Hà Nội thấy không còn con đường nào khác ngoài việc “đổi mới” kinh tế để tự cứu mình khỏi thế bị bao vây, cô lập,” Mỹ mới có ý đối thoại trở lại. Năm 1986, lạm phát Việt Nam là 453.5%, cuối năm, hai Nghị Sĩ Gary Hart và Richard Lugar đến Hà Nội, gặp ông Nguyễn Cơ Thạch. “Hai điều kiện họ đưa ra để nối lại đàm phán bình thường hóa là giải quyết vấn đề POW/MIA và Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia.” Ông Bàng kể. Việt Nam vội vàng đồng ý nhưng “cho dù Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân vào tháng 9, 1989, đến tận năm 1991, phía Mỹ vẫn chưa tin. Họ bảo rằng biết đâu Việt Nam rút ở đầu này, nhưng lại vào Campuchia ở đầu khác.” Nhiều nghị sĩ Mỹ cũng không tin phía Việt Nam thành thật trong việc hợp tác tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA). Thậm chí phải đưa một phái đoàn Mỹ tới một nhà tù ở Thanh Hóa bị nghi là còn giữ tù binh Mỹ để kiểm soát. Tới thời TT Clinton, khi Mỹ đồng ý bỏ cấm vận Việt Nam năm 1993, lại “rộ lên chuyện tài liệu Nga.” Thời gian này, vì có tin tung ra từ Nga là tù binh Mỹ được CSVN gửi sang Nga, lại còn được đại tá tình báo Nga Kalugin xác nhận. Hà Nội phải giải thích, chứng minh vất vả mãi đến năm 1994, Mỹ bỏ cấm vận hoàn toàn thì năm sau mới thiết lập được bang giao. Bây giờ, sau những bước đi chậm chạm, Việt Nam đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa gỡ bỏ cấm vận bán võ khí sát thương cho Việt Nam. Khi gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh bên lề cuộc họp Liên Hiệp Quốc ngày 26 tháng 9, 2011, bà ngoại trưởng Mỹ vẫn đòi hỏi Hà Nội phải cải thiện nhân quyền để hai nước có thể tiến xa hơn nữa trong mối bang giao nhiều mặt. (TN)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 6:08:56 GMT 9
Nạn 'bắt cóc Nhà Nước'?
Bùi Tín Ngày 4/12/2011 vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc họp được các báo chính thức mô tả là rất quan trọng của một tổ chức mang tên là Ban Chỉ đạo Trung ương Cải cách Tư pháp (CDTUCCTP). Đây là cuộc họp thứ 2 của Ban này, do ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước kiêm Trưởng ban chủ tọa.Tham dự cuộc họp có Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Trương Hòa Bình - một viên tướng mặc áo quan tòa - và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình. Cuộc họp bàn về việc triển khai cuộc cải cách nền tư pháp, xác định chương trình cải cách tư pháp trong 5 năm tới 2011-2016, cải cách các chính sách về luật pháp và nền nếp tố tụng cũng như việc đào tạo cán bộ chuyên ngành tư pháp. Tại cuộc họp đã giới thiệu Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm phó ban CDTUCCTP. Ai quan tâm đến nền tư pháp của nước nhà cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi được tin này. Vì ai tôn trọng sự thật cũng có thể thấy tư pháp là lĩnh vực yếu kém rõ rệt nhất trong chế độ độc đảng, cần được cải cách tận gốc để xây dựng một chế độ pháp quyền chân chính. Không có gì phi lý và phi pháp hơn là một chế độ bỏ tù nhiều trí thức lương thiện như Cù Huy Hà Vũ, như Trần Huỳnh Duy Thức
trong khi đó lại bảo vệ bênh che cho vô vàn bầy sâu tham nhũng, theo cách gọi của chính ông Trương Tấn Sang. Chỉ một thí dụ nhỏ như viên Đại tá công an Lương Ngọc Anh đã bị phía tòa án Úc chỉ rõ tội ăn hối lộ hàng chục triệu đôla vẫn cứ ung dung sống ngoài pháp luật, mặc dù Luật phòng chống tham nhũng có ghi rõ phải khẩn trương hợp tác với các nước khi vụ án có nhân tố nước ngoài. Tại sao lại tuyên án tù nặng nề cho anh Trần Hùynh Duy Thức đến 16 năm tù giam và 5 năm quản chế, khi anh Thức tỏ ra là một nhà trí thức kiêm một nhà kinh tế - kinh doanh có tài năng và tâm huyết rất đặc biệt. Xin mời các bạn và các nhân vật cầm quyền hãy đọc tài liệu Con đường Việt Nam trên mạng Dòng sông xanh của Trần Đông Chấn (bí danh của anh Thức). Thư của cụ Trần Văn Huỳnh, thân sinh anh Thức, về vụ án và bài viết Ngôi sao bị nhốt của anh Nguyễn Thanh Giang cũng nói lên con người Trần Huỳng Duy Thức thật là một nhân tài mà đất nước đang rất cần. Phải chăng Bộ Chính trị CS đã rắp tâm trừng phạt nặng một trí thức trẻ đã dám vạch trần nền kinh tế - tài chính đầy nguy cơ và lột tả khá rõ nét nhóm lợi ích là đặc trưng của tệ mafia CS thời hiện tại. Một kiểu trả thù để bịt mồm một tiếng nói chân thật, vì quá chân thật, lại có lập luận khoa học chặt chẽ nên cực kỳ nguy hiểm cho họ. Đây là một kiểu «bắt cóc» thâm độc. Gần đây người dân lương thiện lại có một nỗi lo bị Nhà nước «bắt cóc» thật sự bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Đó là trường hợp anh Nguyễn Văn Hải, tức Điếu Cày. Anh đã mãn hạn tù, nhưng vẫn chưa được tự do. Anh vẫn ở trong tù nhưng không có án. Luật nói rõ không ai bị coi là có tội khi chưa bị tòa tuyên án qua một cuộc xử án công minh. Gia đình anh, chị Dương Thị Tân gửi hàng chục đơn để hỏi tin, xin thăm nuôi, đều không có hồi âm. Có tin anh bị cụt tay, bị ốm nặng, thậm chí đã chết, không một ai biết ra sao cả. Anh bị biệt tăm biệt tích. Chỉ có nhà nước biết, ngành công an biết. Đây cũng là một kiểu «bắt cóc». Xin hỏi các vị trong Ban CDTUCCTP có biết chuyện này hay không? Và quý vị trả lời ra sao cho công luận? Sao mạng công dân bị rẻ rúng vậy? Và hơn một tuần nay chị Bùi Thị Minh Hằng bị bắt ở Sài Gòn, có tin chị đã được giải ra Hà Nội, nhưng không ai biết chị ở đâu. Con trai chị đi gõ các cửa, đều vô hiệu. Chị bị Nhà nước này «bắt cóc» chỉ vì chị hết mực yêu nước mình, thương dân mình, chị khắc ở 2 vai 4 chữ: Thù Nhà Nợ Nước; chị hét to: Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam. Và còn bao nhiên chiến sỹ dân chủ, người theo đạo Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo
tỏ rõ tinh thần yêu nước chống bành trướng, đột nhiên biến mất, đều là nạn nhân của một kiểu tội ác mới, một kiểu khủng bố mới, xin tạm gọi là nạn khủng bố nhà nước, nạn bắt cóc nhà nước, với cái nghĩa là khủng bố, bắt cóc do nhà nước thực hiện đối với công dân nước mình. Có ở nơi nào, nước nào lại có những chuyện kỳ quái, trái khoáy như thế này. Từ điển tư pháp quốc tế chắc rồi sẽ có thêm một cụm từ mới : bắt cóc Nhà nước. Trong hiến pháp, nghĩa vụ đầu tiên của Nhà nước là bảo vệ cuộc sống bình an của mọi công dân. Nay họ làm điều trái ngược, đi khủng bố dân, đi «bắt cóc» công dân mình, đem cất dấu ở đâu không ai được biết, thì Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tự làm mất chính danh, làm mất hết uy danh trước nhân dân và thế giới vậy. Bùi Tín
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 4:35:37 GMT 9
Lộ Chuyện anh Hùng Chiêu Hồi, Xuân Lộc Phải Đổi Tên Đường 04/10/2012 Nhà văn ký tên Cô Gái Đồ Long vừa phổ biến bài viết nhan đề “Thà chết chứ hổng chịu hy sinh!” cho biết rằng con đường daì nhất thị trấn Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, từng được đặt tên là Nguyễn Văn Bé để vinh danh “anh hùng diệt Mỹ” bây giờ đã lặng lẽ đổi tên là đường “Hồ Thị Hương” sau khi lộ ra sự thật rằng cán bộ đảng viên CSVN Nguyễn Văn Bé thực ra đã “về chiêu hồi với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.” Bài viết của Cô Gái Đồ Long đăng trên mạng Facebook và đươc phổ biến qua Dân Làm Báo và nhiều trang khác, trích một số đoạn như sau: “Ngay sau 1975, khi thị trấn Xuân Lộc (Đồng Nai) được kiến thiết và xây dựng lại với chính quyền mới; người ta đặt tên cho con đường dài nhất là Nguyễn Văn Bé. Hồi nhỏ đi học ở đây, tui nhớ trong tài liệu từ phòng truyền thống của trường sơ lược, Nguyễn Văn Bé sinh năm 1941 quê ở Châu Thành (Sông Bé). Anh nhập ngũ tháng 7.1961, là Đảng viên ĐCSVN. Năm 1966, sau khi bị bắt trong một chuyến vận chuyển vũ khí, theo yêu cầu của Mỹ - ngụy Nguyễn Văn Bé phải giải thích công dụng của các loại vũ khí này, nhờ cơ hội đó anh đã dùng mưu cầm quả mìn Claymor đập vào một chiếc xe tăng tiêu diệt 69 tên Mỹ - ngụy và nhiều xe tăng địch; hy sinh tan xác tại chỗ. Nguyễn Văn Bé được Ủy Ban MTDTGPMNVN phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... 37 năm trôi qua, Nguyễn Văn Bé là tấm gương sáng được nhiều thế hệ học tập. Huyện Xuân Lộc bây giờ đã là Thị xã Long Khánh nên đường Nguyễn Văn Bé cũng được mở rộng hoành tráng, chạy dọc suốt chiều ngang thị trấn như con đường huyết mạch. Nhưng, tự dưng gần đây mấy bác lãnh đạo địa phương bất ngờ cho đổi tên đường Nguyễn Văn Bé thành Hồ Thị Hương; hầu như ai cũng thắc mắc nhưng không có câu trả lời chính thức nào. Dân thị trấn xầm xì với nhau rằng: “Té ra người ta mới phát hiện cha nội này hổng có hy sinh mà là chết vì bệnh!”. “Thì thiếu gì người chết bệnh mà vẫn đặt tên đường đó thôi, miễn sao những gì họ cống hiến là xứng đáng!”. “À…chắc còn chuyện gì khó nói.”. Dân Long Khánh trà dư tửu hậu bàn tán rằng, Nguyễn Văn Bé bị thương và bị địch bắt làm tù binh trong một trận đánh, sau đó anh được đưa ra ngoài hạm đội chữa trị và chuyển qua Mỹ. Nhiều năm nay Nguyễn Văn Bé mang quốc tịch Hoa Kỳ và mới đây bất ngờ trở về (!). Tuy nhiên, theo một số tài liệu khác của quân đội Mỹ đưa ra, có thể tìm kiếm google - trong đó có cả tờ Times đáng tin cậy và nhiều tờ báo thời điểm 66-67 đăng tải hình ảnh anh Nguyễn Văn Bé còn sống, lại thế này: Năm 1966 Nguyễn Văn Bé bị bắt và đã chiêu hồi Mỹ - ngụy, tin đầu hàng của Nguyễn Văn Bé còn được in trong truyền đơn nữa. Vậy đó. Thực hư thế nào hổng chịu trách nhiệm nha, ai hỏi là tui nhất định không khai thằng cha Vixi đang núp trong bụi chuối đâu à. Túm quần lại là nhân vật Nguyễn Văn Bé có lý lịch không rõ ràng trong sáng. Hahahha… Thay vì ngồi chờ đợi các nhà sử học lật lại “Vụ án Nguyễn Văn Bé “ - mà có vẻ chuyện này hơi bị khó như “Vụ án Lê Văn Tám”, thị xã Long Khánh đã quyết định đổi tên cho chắc ăn. Thà quê còn hơn bị chê! Nhưng cũng có một trường hợp khác, đó là Trường THCS Nguyễn Văn Bé (206 Nguyễn Văn Đậu, Phường 11, Quận Bình Thạnh – TP.Hồ Chí Minh). Trường này thành lập từ năm 1976, nhiều năm liền đạt thành tích Tiên tiến cấp Thành phố. Đã từng nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi nghi vấn về anh hùng liệt sĩ mà trường mang tên chưa sáng tỏ, nơi này đã viết lại lý lịch trong đó ghi rằng anh hùng Nguyễn Văn Bé mất ngày 24.3.2002. Thà chết chứ nhất định hổng chịu hy sinh!...” Bài của Cô Gái Đồ Long cũng kể thêm chi tiết về các trận đánh ở Xuân Lộc trong tháng 3 và tháng 4-1975, và về quả bom CBU. Cũng như kèm một tấm hình cho thấy tên đường “Hồ Thị Hương” mới tinh màu sơn.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 8:16:01 GMT 9
Tổng Bí thư Trọng giảng bài ở CubaÔng Trọng mong muốn Việt Nam và Cuba cùng sát cánh với nhau trên con đường chủ nghiã xã hội Trong khuôn khổ chuyến thăm Cuba, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hôm 9/4 đã có bài thuyết giảng về mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam tại Trường đảng cao cấp Nico Lopez – nơi đào tạo cán bộ chủ chốt của Trung ương Đảng cộng sản Cuba. Với chủ đề ‘Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nhìn từ thực tiễn Việt Nam’, ông Trọng đã giảng giải bốn vấn đề: chủ nghĩa xã hội là gì; làm thế nào để đi lên chủ nghĩa xã hội; con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; những vấn đề nảy sinh trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. ‘Sức sống mạnh mẽ’ Dẫn văn kiện Đại hội Đảng hồi năm ngoái, ông Trọng khẳng định với những người đồng chí Cuba của ông là rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là ‘khát vọng của nhân dân (Việt Nam)’, là ‘lựa chọn đúng đắn của Đảng’ và ‘phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử’. Theo Thông tấn xã Việt Nam, ông Trọng cho biết là đảng của ông đang ‘từng bước’ nhận thức ‘ngày càng đúng đắn hơn’ về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông Trọng cũng đưa ra những dẫn chứng từ Việt Nam và thế giới để chứng tỏ sức sống của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế,” ông nói với các cán bộ, giáo sư và học viên của trường. “Đó là sự ưu việt, là sức sống thực tiễn của chủ nghĩa xã hội!,” ông khẳng định. Trên bình diện quốc tế, ông Trọng đưa ra các dẫn chứng Việt Nam ‘vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội’, Cuba ‘vẫn hiên ngang đứng vững’, ‘bước tiến cách mạng’ ở Venezuela, Bolivia và Eucador, ‘sự lớn mạnh’ của phong trào cánh tả Mỹ Latin, các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Á ‘vẫn tiếp tục con đường tiến lên phía trước’ như là những ‘bằng chứng đầy khích lệ về sức sống của chủ nghĩa xã hội’. Ông cũng đề cập đến cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay tại các nước tư bản để khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là ‘lựa chọn duy nhất đúng’ để vượt qua những bế tắc hiện nay mà các đảng cánh tả và ‘phong trào nhân dân tiến bộ các nước’ đang xác định ‘ngày càng rõ ràng’. Ông Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh những cải cách kinh tế trong Đại hội vừa qua của Đảng cộng sản Cuba và bày tỏ mong muốn Việt Nam và Cuba ‘tiếp tục sát cánh bên nhau’ trên con đường chủ nghĩa xã hội. ‘Lừa dối dư luận’ Ông Nguyễn Khắc Toàn, một nhà bất đồng chính kiến ở Hà Nội, đã bác bỏ hoàn toàn các luận điểm này của ông Trọng. Ông Toàn đưa các dẫn chứng về dân oan mất đất, phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, lạm phát, thất nghiệp tăng cao, an sinh xã hội bị tác động nặng nề, tình trạng tham nhũng hối lộ hoành hành để phản bác ‘thành tích’ về mặt xã hội của Việt Nam mà ông Trọng đã ca ngợi. “Tình trạng bất công ở Việt Nam lan tràn khủng khiếp,” ông nói, “Hàng năm có hàng nghìn các cuộc xuống đường ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn.” Về ‘sức sống’ của chủ nghĩa xã hội, ông Toàn cho biết cả năm nước xã hội chủ nghĩa còn sót lại trên thế giới là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam, Cuba và Lào đang ‘chịu những thách thức ghê gớm’ và ‘đang lung lay dữ dội’. “Không có chủ nghĩa xã hội nào là có sức hấp dẫn đối với quần chúng cả,” ông nói. Đối với trường hợp Venezuela mà ông Trọng đã nêu dẫn chứng như là sự hồi sinh của chủ nghĩa xã hội, ông Toàn đánh giá Tổng thống Hugo Chavez của nước này là ‘mị dân’ và là ‘kẻ đơn độc lẻ loi trơ trẽn ở Tây bán cầu cổ súy cho sự độc tài toàn trị.’ “Những nước tư bản và những nước có nền kinh tế thị trường luôn luôn phát triển và có những cuộc khủng hoảng nhất thời,” ông nói. Tuy nhiên, nhờ vào ‘cơ chế dân chủ’ mà những nước này luôn tìm ra cách giải quyết khủng hoảng, ông Toàn lập luận. Về ‘con đường đi lên chủ nghĩa xã hội’ của Việt Nam và Cuba, ông Toàn cho biết là ‘không có chủ nghĩa xã hội nào ở đây cả’ và hai quốc gia này là ‘độc tài toàn trị mang danh chủ nghĩa xã hội’. Ông giải thích với việc cả Trung Quốc và Việt Nam đều ‘du nhập những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường để cứu cánh cho nền kinh tế của họ đang suy tàn mà thôi’. “Trung Quốc và Việt Nam đều phản bội chủ nghĩa xã hội,” ông khẳng định. Ông lập luận rằng chủ nghĩa xã hội đích thực thì ‘phải có đấu tranh giai cấp, kinh tế kế hoạch và chống lại kinh tế thị trường’ trong khi hai nước này đang tích cực hội nhập vào kinh tế thế giới và mong muốn được thế giới công nhận là ‘kinh tế thị trường’. “Ông ấy (Nguyễn Phú Trọng) chỉ tự nói dối bản thân mình, lừa dối dư luận, lừa dối nhân dân Cuba và nhân dân Việt Nam,” ông nói. Ông Toàn cũng nhận định chuyến thăm Cuba lần này của ông Trọng là để lãnh đạo cộng sản hai nước ‘lên dây cót tinh thần cho nhau’ trong bối cảnh ‘hàng loạt đất nước độc tài ở Bắc Phi đã bị nhân dân bùng lên đánh đổ làm họ hoang mang lo sợ cho số phận của mình’. Ông cho rằng ông Trọng sẽ ‘truyền kinh nghiệm’ của Việt Nam cho Cuba mà ông đánh giá là ‘tình hình hiện nay đang thảm hại về mọi mặt’ để nước này ‘kéo dài thêm sự sống’ và sẽ khuyên Cuba ‘có những bước đi mạnh bạo hơn nữa như Việt Nam về mặt kinh tế’. “Họ (Đảng cộng sản Việt Nam) thấy rằng những cải cách của Cuba trong những năm gần đây theo lời khuyên của họ và của Trung Quốc chưa đủ mạnh để cứu cánh cho nền kinh tế của quốc gia này đang trên đà sụp đổ,” ông nói. “Về chính trị chắc chắn họ sẽ kiên quyết cùng nhau chống lại khát vọng và đòi hỏi tự do dân chủ ở mỗi nước,” ông Toàn nhận xét. “Sự cấu kết của hai nhà cầm quyền (Việt Nam và Cuba) là rất mạnh mẽ,” ông nói và dẫn chứng là mỗi nhiệm kỳ của các tổng bí thư Việt Nam đều đi thăm Cuba. Nguồn: BBC
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 6, 2012 4:23:34 GMT 9
Tiền Phong 3-7-12 BÀI NÀY ĐÃ BỊ Chính phủ VN GỠ XUỐNG!! Bài này vừa đưa lên trang mạng của báo Tiền Phong đã bị gỡ đi ngày (chỉ còn sót trên các mạng Đưa Tin, Báo Mới...). Phải chăng đây là một chiêu mới trong trận chiến Ba Dũng - Tư Sang ?
Sửa đổi Hiến pháp:
Đề xuất chủ tịch nước nắm bộ công an, quốc phòng và ngoại giao
Ngày 2/7, tại hội thảo bàn về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, tổ chức tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nhiều đại biểu cho rằng, việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần tăng quyền lực thực tế cho Chủ tịch nước.
Theo GS.TS Phạm Hồng Thái, Chủ nhiệm khoa Luật (ĐH Quốc gia Hà Nội), với quy định của Hiến pháp hiện hành, quyền lực pháp lý - thực tế của Chủ tịch nước rất hạn chế, chỉ mang tính hình thức.
Trong khi đó, Hiến pháp lại trao cho Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ rất nhiều quyền.
“Việc trao cho Chính phủ quyền lực lớn như vậy mà không có cơ chế để kiểm soát quyền lực hữu hiệu sẽ dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện, thiếu trách nhiệm của bộ máy hành pháp”- GS Thái nhận định.
Theo GS Thái, nếu khẳng định Chủ tịch nước là chức vụ cao nhất của Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang thì thiết chế này phải được nắm các bộ công lực gồm Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ ngoại giao, còn Thủ tướng Chính phủ nắm những bộ còn lại và quản lý chính quyền địa phương.
PGS.TS Lưu Thiên Hương (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia) đề xuất thiết chế Chủ tịch nước nên sửa đổi hẳn theo hướng Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ - cơ quan hành pháp nhưng có tính độc lập tương đối đối với Thủ tướng và các thành viên Chính phủ.
Cụ thể, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động ban hành chính sách, Thủ tướng chịu trách nhiệm liên quan các hoạt động điều hành chính sách.
Theo PSG.TS Hương, để đảm bảo tính thực quyền của Chủ tịch nước, Hiến pháp cần trao cho Chủ tịch nước quyền phủ quyết các dự luật của Quốc hội.
GS.TSKH Lê Cảm (ĐH Quốc gia Hà Nội) đề nghị sửa đổi Hiến pháp theo hướng nhân dân sẽ bỏ phiếu bầu trực tiếp Chủ tịch nước.
Ngân Hà
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 6, 2012 4:27:40 GMT 9
Đại tướng CS VN Lê Đức Anh nói về chủ quyền biển đảo 03/07/2012 Cứ coi đây là một lời sám hối của một người đã khấu đấu Trung Quốc năm 1991 và trước đó, năm 1988, với tư cách bộ trưởng quốc phòng, đã ra lệnh cho hải quân không được nổ súng ở Gạt Ma khi Trung Quốc xâm chiếm bãi này.(ĐVO) Trả lời phỏng vấn của Đất Việt, Đại tướng Lê Đức Anh, người từng giữ nhiều trọng trách trong Đảng, Nhà nước và quân đội CS VN, đã đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm sâu sắc về việc bảo vệ chủ quyền đất nước.Tác giả phỏng vấn Đại tướng Lê Đức Anh. Trước sự việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa" và Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) ngang ngược thông báo mở thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam; xâm phạm thô bạo chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc... Đất Việt đăng tải nội dung trả lời phỏng vấn của Đại tướng Lê Đức Anh về bảo vệ chủ quyền đất nước. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào dịp đầu năm mới Nhâm Thìn 2012. - Gần đây, vấn đề chủ quyền quốc gia, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến Biển Đông được đề cập đến rất nhiều. Theo Đại tướng, điều gì là quan trọng nhất để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình trong thời kỳ hiện nay? - Vấn đề biển đảo, chủ quyền quốc gia là chuyện của lịch sử, phải hiểu được điều này thì mới có thể xử lý được vấn đề này. Việt Nam chúng ta thì ba chìm bảy nổi trong suốt chiều dài lịch sử. Việt Nam đã từng bị coi là một quận của Trung Quốc. Trong suốt thời gian đó, dân ta chịu sự cai trị hết sức tàn độc của người phương Bắc. Nhưng trong hoàn cảnh như vậy, dân ta vẫn chịu đựng được mọi cực khổ, cơ bản giữ được nước, giữ được những nét văn hóa truyền thống, không để bị đồng hóa. Như vậy, chúng ta phải học ông cha ta: phải hiểu rõ lịch sử để giữ nước. - Đại tướng đã từng đảm nhận vị trí bộ trưởng Quốc phòng trong giai đoạn việc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc và giữ hòa khí với một số nước khác không hề dễ dàng. Xin ông chia sẻ những kinh nghiệm quý báu đó. - Bảo vệ chủ quyền Tổ quốc phải đặc biệt chú ý đến vấn đề con người. Hiện nay, có rất nhiều người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam, nhiều người không có phép. Những người này đã biến một số nơi của Việt Nam thành các khu vực gần như riêng biệt. Đây rõ ràng là một nguy cơ lớn về nhiều mặt, đặc biệt là về an ninh, quốc phòng. Tôi thấy chúng ta xử lý chưa tốt vấn đề người nướ ngoài, đặc biệt là người Trung Quốc đang lao động và sinh sống trên đất nước ta. Đại tướng Lê Đức Anh: "Dù Trung Quốc có làm gì để chi phối Việt Nam thì chúng ta cũng sẽ vượt qua được mọi khó khăn như đã từng làm". Ảnh: Bá Mạnh.Năm 1988, Trung Quốc định chiếm toàn bộ Trường Sa. Lúc đó, tôi đang là Bộ trưởng Quốc phòng, đã trực tiếp ra Trường Sa. Trung Quốc luôn muốn chiếm luôn cả Biển Đông. Chúng ta phải hiểu rõ để phá âm mưu này.. - Ý kiến của Đại tướng về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông như thế nào? - Về vấn đề trên Biển Đông, tôi có thế nói rằng, cả thế giới biết Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Ngay chính quyền Thiệu và chính quyền Cách mạng miền Nam Việt Nam trước cũng đã lên tiếng bảo vệ và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc đã sai trong các tranh chấp trên Biển Đông, không chỉ sai so với pháp luật Việt Nam mà sai cả luật pháp quốc tế. Nói về vấn đề Biển Đông, tôi không nói về những điều xa xôi nữa. Tôi muốn lấy một ví dụ nhỏ như sau để nói về thực hiện chủ quyền. Tại sao hàng hóa Việt Nam cũng tốt mà hàng hóa của Trung Quốc vẫn tràn ngập nước ta. Người Việt Nam có ưu tiên dùng hàng Việt được không? Muốn làm được điều nay, từng cơ sở sản xuất kinh doanh, từng người dân phải làm tốt để cạnh tranh được với hàng ngoại, trong đó có hàng Trung Quốc. Qua câu chuyện trên, tôi muốn nói là để bảo vệ chủ quyền biển đảo thì không chỉ bảo vệ từ ngoài khơi, mà còn phải bảo vệ từ trong nội địa. - Nếu chúng ta tôn trọng luật lệ, quy định và giữ hòa khí mà các nước khác không làm như vậy thì chúng ta phải làm thế nào, thưa Đại tướng? - Tôi khẳng định lại một lần nữa, giữ độc lập, chủ quyền đất nước là mục tiêu, là nhiệm vụ tối thượng, số một, quan trọng nhất. Chúng ta luôn muốn hòa bình, hợp tác, hữu nghị nhưng quyết không đổi chủ quyền để lấy những điều đó. Hòa bình, hợp tác ngang bằng với chủ quyền là cách nói, là mưu đồ của Trung Quốc. Chúng ta nhất quyết không đổi chủ quyền, không đổi đất đai, biển đảo Tổ quốc để lấy hòa bình.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 7, 2012 8:11:40 GMT 9
Phải thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh: Dân chủ là để cho dân được mở mồm ra nói Posted on 16/10/2010 by danlambaoblog
“Đối lập với báo chí tự do là báo chí bị kiểm duyệt. Báo chí bị kiểm duyệt là “con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa“. Karl Marx
“Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo nào cả. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở Châu Âu và các nước Châu Á khác chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập…” – Nguyễn Ái Quốc
“Dân chủ là để cho dân mở mồm ra nói. Dân chủ là đừng bịt miệng dân”. – Hồ Chí Minh
”Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước“. – Nguyễn Tấn Dũng ( ke chong Marx va tu tuong Ho Chi Minh vi dai )
*
Tống Văn Công – Dự thảo “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung và phát triển năm 2010” không có ghi nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận – một vấn đề mà các Hiến pháp từ năm 1946 đến nay đã ghi nhận, dù chưa được thực hiện đầy đủ.
Trong dự thảo Cương lĩnh ở mục 6 nói về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến” có đoạn viết: “Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”.
Bảo đảm “quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân“ chỉ là một phần của quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam được quy định trong tất cả các Hiến pháp của nước Việt nam từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992. Nhà nước tạo điều kiện để công dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền được thông tin theo quy định của pháp luật“. Việc “Phát triển các phương tiện thông tin” là tạo ra nhiều thiết bị, công cụ phục vụ cho việc truyền đạt các yêu cầu tuyên truyền của nhà nước tới người dân thuận tiện hơn, chứ chưa hẳn đó là công cụ thực hiện quyền tự do báo chí của người dân.
Trong quyển “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông dương” do Nguyễn Ái Quốc viết từ những năm 1921 – 1926 có đoạn: “Mãi tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào được phép xuất bản một tờ báo nào cả. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở Châu Âu và các nước Châu Á khác chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập…” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội nhà báo TP HCM, 1980, trang 9). Như vậy, có thể hiểu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi thư đến Hội nghị Versailles đòi quyền tự do báo chí cho nhân dân Việt Nam là đòi quyền tự do cho từng người, cho mỗi “một người”. Tư tưởng đó sau Cách mạng Tháng 8, được Hồ Chí Minh diễn đạt một cách dân dã, giản dị: Dân chủ là để cho dân mở mồm ra nói. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.
Đọc lại lời mở đầu Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“. Có thể hiểu quyền tự do của con người là quyền tự nhiên, không do ai ban cho mà là bản chất của con người để tồn tại. Thomas Jefferson nói: “Chính phủ lập ra không phải để ban phát các quyền tự do mà để bảo vệ nó“.
Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng Luật báo chí lại không cho phép tư nhân có quyền ra báo! Mặc dù nếu cho phép ra báo tư nhân mà quản lý theo cách từng thời gian ra chỉ thị những vùng cấm không được nói (dù không thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia hay đạo đức xã hội) thì cũng chưa có tự do báo chí. Karl Marx nói:Đối lập với báo chí tự do là báo chí bị kiểm duyệt. Ông cho rằng, báo chí bị kiểm duyệt là “con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa“.
Báo chí của ta hiện nay là tiếng nói của tập thể các giới thông qua đoàn thể chính trị xã hội của giới mình. Đó cũng là một bước dài (một nửa?) trên con đường tự do báo chí của nhân dân ta. Chúng ta mới có tự do báo chí cho tập thể chứ chưa có tự do báo chí cho từng người dân. Tức là chưa có mỗi “người dân được mở mồm ra nói“. Có lẽ nền báo chí đó chỉ thích hợp với thời chiến, chứ không còn thích hợp trong thời bình, đặc biệt là trong thời hội nhập quốc tế. Ngày nay những quốc gia có chế độ quản lý báo chí siết chặt gần giống với ta chỉ còn đếm trên đầu ngón tay!
Từ sau Đổi mới mở cửa hội nhập quốc tế, Việt Nam được bạn bè khen ngợi về thành tích phát triển kinh tế, nhưng thường xuyên bị chê trách về việc không thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận. Các cơ quan theo dõi tự do báo chí quốc tế luôn xếp Việt Nam ở dưới hơn 150 nước khác! Hội đồng nhân quyền họp năm 2009 có 15 quốc gia đề nghị Việt Nam sửa đổi Luật báo chí sao cho phù hợp với Điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã gia nhập từ 24 tháng 9 năm 1982,
Điều 19:
1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận, và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng chữ viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3 – Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
a/ Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
b/ Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.
Chế độ quản lý báo chí của Việt Nam trái với nội dung Điều 19 nói trên, được thể hiện trong phát biểu của ông Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông ngày 4 tháng 8 năm 2007 tại Hội trường Quốc hội:
- “Tổng biên tập là người của Bộ Thông tin – Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo“.
- Báo chí “hoàn toàn có tự do, nếu đi đúng lề đường bên phải và chúng tôi sẽ cố gắng làm cho các đồng chí lề đường đó“.
Từ phát biểu nói trên đã đẻ ra bao chuyện phản ứng, châm biếm: Báo chí lề phải, báo chí lề trái; hơn 700 tờ báo ở Việt Nam chỉ do một Tổng biên tập điều hành!
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói: ”Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước“.
Toàn dân Việt Nam chắc chắn không ai dung tha kẻ nào có hành vi gây tổn hại lợi ích đất nước. Thế nhưng không có cơ sở nào để cho rằng thực hiện tự do báo chí và cho ra báo tư nhân thì sẽ bị lợi dụng gây tổn hại lợi ích đất nước. Bởi vì:
1- Trong chế độ ta đã từng thực hiện tự do báo chí và sự cho phép ra báo tư nhân đã thu được kết quả rất tốt đẹp. Sau Cách mạng Tháng 8, mặc dù có nhiều đảng phái hoạt động rất phức tạp, nhà nước non trẻ vẫn thực hiện tự do báo chí, cho ra nhiều tờ báo tư nhân. Lúc ấy tuy trình độ dân trí còn thấp nhưng nhân dân vẫn nhận ra tiếng nói chính nghĩa, tuyệt đối tin theo những tờ báo có tiếng nói bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc. Sau khi giặc Pháp chiếm Hà Nội, trong các tờ báo rút ra ngoại thành có tờ báo tư nhân Bạn Trẻ được Ủy ban kháng chiến Khu 3 đánh giá là tờ báo hàng đầu về kỹ thuật làm báo. Nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh đã sưu tầm được bản tin đăng trên báo Độc Lập về cuộc họp báo ngày 21-3-1946 của Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng thông báo việc ban hành sắc lệnh cho phép báo chí xuất bản không phải xin phép mà chỉ thông báo cho các nhà chức trách biết.
2- Sau 1975, tờ báo tư nhân Tin Sáng đã tồn tại hơn 4 năm, đóng góp rất lớn cho việc ổn định tư tưởng đối với đồng bào miền Nam. Tờ báo được cho “hoàn thành nhiệm vụ” chỉ vì thực hiện đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội của Nghị quyết Đại hội 4 của Đảng. Nhiều cán bộ phóng viên báo Tin Sáng đã góp phần cải tiến các báo Tuổi trẻ, Sài Gòn Giải phóng, Lao động…
3- Không cần thuyết lý dài dòng, ai cũng phải đồng ý rằng thực dân Pháp coi nhân dân ta là những kẻ nô lệ mất nước, bị chúng cai trị. Chúng luôn phải đề phòng đồng bào ta lợi dụng báo chí để kích động lòng yêu nước, chống lại chúng. Thế nhưng theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc “Về tình hình chính trị ở Đông Dương từ 1936 đến 1938“, phần nói về báo chí, ông cho biết cả nước ta lúc đó có 12 tờ báo “tán thành đòi tự do dân chủ và ân xá chính trị phạm“. Nguyễn Ái Quốc viết: “Tờ Dân chúng (ở trên người đã chú thích Dân chúng là tờ báo cộng sản) xuất bản ở Sài Gòn, là tờ báo đầu tiên đã bất chấp đạo luật cấm phát hành báo nếu không được cho phép trước. Sau khi nó ra đời một tháng, quyền tự do báo chí được ban hành” (Hồ Chủ tịch với báo chí).
Chẳng lẽ chúng ta ngày nay cảnh giác đối với đồng bào mình còn gay gắt hơn bọn thực dân Pháp ngày xưa? Câu hỏi này, tôi chỉ lặp lại lời cầu xin Quốc hội của nhà báo cộng sản tiền bối là cụ Nguyễn Văn Trấn, Ủy viên Ban biên tập báo Dân chúng nói trên.
Những người bênh vực cho việc tiếp tục để các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quản lý chặt báo chí như hiện nay lập luận rằng: Làm như vậy là để cho toàn dân chỉ nghe một quan điểm chính thống. Nhờ đó không có người nào bị phân tâm, tất cả đồng thuận, tạo nên sức mạnh, chống lại sự xuyên tạc, chống phá, xuyên tạc của bọn thù địch. Thực tế chứng minh ý kiến trên hoàn toàn không chính xác. Trong thời đại bùng nổ thông tin, cách quản lý nói trên không thể bịt miệng những người có ý kiến phản biện, mà tác dụng ngược là tự bó tay mình, tự bịt miệng mình và làm tăng thêm sự tin cậy của người dân đối với các trang web, các blog, các báo đài nước ngoài. Nhà bình luận báo chí nổi tiếng F. B. White cho rằng, sự đa dạng của thông tin tự do có cái hay là, nhiều chủ thể cùng theo đuổi một sự thật thì người dân có nhiều cơ hội để nhận ra chân lý; mọi ý đồ xấu sẽ nhanh chóng bị phát hiện, kẻ xấu không tìm đâu ra chỗ ẩn nấp. Có một câu danh ngôn bênh vực cho tự do báo chí là: “Phương thuốc chữa sai sót của tự do ngôn luận là hãy tự do ngôn luận hơn nữa”.
Tiếp tục quản lý báo chí như hiện nay thì sẽ có hại gì? Chỉ xin phân tích vài điều trong rất nhiều điều có hại.
Đài Truyền hình Việt Nam đang chiếu bộ phim Bí thư Tỉnh ủy, chuyện phim phỏng theo cuộc đời của ông Kim Ngọc. Hồi sự kiện ông Kim Ngọc xảy ra, các nhà báo chúng tôi cũng có nghe xì xầm, nhưng nghe rồi để lại tiếp tục xì xầm với nhau thôi. Chẳng có nhà báo nào, kể cả những cây bút chuyên viết về nông nghiệp rất nổi tiếng thời ấy xem đó là đề tài nóng mà mình có trách nhiệm điều tra và bảo vệ. Trí tuệ và lương tâm của nhà báo xã hội chủ nghĩa không nằm ở đây. Đảng đã bao cấp trí tuệ và cả lương tâm nghề nghiệp trong những vấn đề đại sự như thế rồi! Nhà báo chỉ có trách nhiệm xông pha dưới ánh sáng của các Nghị quyết Đảng để xem ở đâu, người nào đi chệch hướng! Bây giờ nhìn lại, tiếc phải chi ngày ấy có tờ báo nào, nhà báo nào có quyền, hoặc có gan dám đăng ý kiến của ông Kim Ngọc và hàng ngàn ý kiến của nông dân đang trăn trở cùng ông ấy thì chắc chắn chân lý đã sớm lộ ra hơn 20 năm và đồng bào ta được ấm no cũng sớm hơn 20 năm!
Năm 2009, trả lời TuanVietnam.net, nhà báo Hữu Thọ, cũng đồng thời là nhà lý luận lớn về báo chí của chế độ, nói: “Chúng ta đang làm báo ở thời kỳ tế nhị cả về đối ngoại, kinh tế“. Có lẽ các nền báo chí tự do sẽ không thể hiểu được tại sao lại có một nền báo chí “tế nhị”?! Chẳng là, báo chí Việt Nam đang vướng trong việc gọi đúng tên nước đưa tàu ra Biển Đông bắn giết ngư dân Việt Nam! Bạn ư? Không được! Thù ư? Càng không được! Đành phải tế nhị gọi chúng là nước lạ, tàu lạ vậy!
Câu trả lời của ông Hữu Thọ làm tôi nhớ lại chuyện ở Hội nghị tổng kết công tác báo chí năm 1989, gồm các Tổng biên tập các báo chí Trung ương, do ông Đào Duy Tùng – Ủy viên Bộ Chính trị chủ trì. Trong năm đó, báo Tuổi trẻ có đăng bài bút ký của nhà báo Kim Hạnh – Tổng biên tập báo này, miêu tả rất sinh động tệ sùng bái cá nhân lãnh tụ Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên. Ngoại giao Bắc Triều Tiên lập tức có công hàm phản đối Việt Nam xúc phạm lãnh tụ vĩ đại của họ. Ông Tùng đề nghị mổ xẻ sự việc này, rút kinh nghiệm cho các báo biết né tránh những gai góc khi đăng bài có liên quan đối ngoại với các nước phe ta. Ông Hà Xuân Trường – Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sảnxin hiến kế. Ông Trường cho rằng, sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ để phản ứng bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của Đảng: “Báo chí là công cụ của Đảng nói tiếng nói của Đảng”. Để tránh bị phản ứng kiểu này, nhân đây, nên đổi mới, thay đổi cơ chế quản lý báo chí: “Đảng lãnh đạo báo chí, nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình. Như vậy tờ báo nào nói thì tờ báo đó chịu trách nhiệm, chứ không phải Đảng chịu trách nhiệm cho tất cả…”. Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình thì ông Đào Duy Tùng đã cắt lời ông: ”Đồng chí phụ trách tạp chí lý luận cao nhất của Đảng, chẳng lẽ đồng chí quên rằng, báo chí là công cụ của Đảng, một vấn đề của tính nguyên tắc? Đó là vấn đề bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi, không có đổi mới ở chỗ này!”
Đã qua 20 năm, do “không có đổi mới ở chỗ này“ mà báo chí Việt Nam vẫn bị vướng vào chứng bệnh “tế nhị” rất nan giải! Vấn đề sẽ dễ dàng biết bao nhiêu nếu mọi ”người dân được mở miệng ra nói“ và sẵn sàng chịu trách nhiệm. Tám mươi triệu dân Việt Nam có đủ cách nói phong phú, sinh động và chịu trách nhiệm thay cho Đảng và Nhà nước trong những câu chuyện tế nhị mà về phương diện quốc gia chưa cần phải lên tiếng. Trong một dịp tới Hoa Kỳ, tôi rất ngạc nhiên khi đọc một tờ báo tiếng Việt, tức là báo của những người đang “ở nhờ” nước người ta, lại dám chạy một hàng tít lớn đầu trang nhất: “Tổng thống Bush, kẻ phản bội lý tưởng dân chủ“. Đó là tiếng nói của một số người còn mang nặng hận thù. Tiếng nói đó không làm lung lay chiếc ghế Tổng thống Mỹ, ngược lại giúp Tổng thống biết chính sách của mình có bao nhiêu người dân chưa đồng tình, họ thuộc thành phần nào và nên giải quyết thế nào. Tiếng nói đó gây tranh cãi trong người Việt, dần dần tạo nên xu thế hòa giải.
Mới đây, sự kiện Ủy ban giải thưởng Nobel của Na Uy quyết định trao giải thưởng Hòa Bình cho ông Lưu Hiểu Ba là một sự kiện lớn, được báo chí quốc tế tốn nhiều giấy mực. Báo chí Việt Nam chỉ đưa tin Trung Quốc phản đối, cho rằng ông Lưu là một tội phạm, việc trao giải là vi phạm các nguyên tắc của giải Nobel và làm tổn hại quan hệ Trung Quốc – Na Uy. Có lẽ báo chí Việt Nam lại bị “thời kỳ tế nhị về đối ngoại“ trong vụ này!
Tự do báo chí, tự do ngôn luận, vấn đề được loài người tiến bộ tiếp nhận hơn 200 năm rồi, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lên tiếng đòi hỏi cho dân tộc 100 năm rồi và nay đang trong xu thế của thời đại. Tại sao những nhà lý luận soạn thảo Cương lĩnh chưa bức xúc ghi nhận một cách sâu sắc, để luồng gió tự do bùng lên phơi phới mọi tâm hồn Việt Nam khát khao?
Ngày 10 tháng 10 năm 2010
T. V. C.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 18, 2012 8:24:12 GMT 9
Sự thật cay đắng không ai ngờ 15/07/2012 Văn Quang Giữa hai thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Sài Gòn lâu nay vẫn hiên ngang mọc lên những bệnh viện hay phòng khám bệnh đồ sộ của các ông Trung Quốc, tôi không nói đó là của những “ông bác sĩ" Trung Quốc bởi chưa chắc những ông này đã là bác sĩ. Người dân cứ đinh ninh những phòng khám “hoành tráng” như thế, quảng cáo tơi bời hoa lá như thế, tất yếu là phải có giấy phép và là những bệnh viện Trung Quốc có uy tín mới được mở tại Việt Nam. Chính bản thân tôi cũng đã từng tin tưởng như vậy. Như bạn đọc đã biết, cái bệnh “u tiền liệt tuyến” là thứ bệnh của hầu hết đàn ông từ 50 tuổi trở lên. Tôi bị bệnh và đã đến khám ở một vài bệnh viện tại Sài Gòn. Nhưng ở đâu các ông bác sĩ cũng khuyên tôi nên mổ. Tôi ngại tuổi già nên cứ lần khân mãi, tìm mọi thứ thuốc uống kể cả trồng cây trinh nữ hoàng cung lấy lá uống tươi uống cho bệnh tình đỡ nặng thêm. Đánh trúng tim đen bệnh nhân: Không cần mổ cũng khỏi bệnh Bỗng một hôm đi bộ qua đường Lý Thái Tổ, thấy có cái bệnh viện mới mở, đó là “Phòng Khám Trung Y Vĩnh Khang”. Nhìn bề ngoài cũng thấy bắt mắt lắm, liền ghé vào thăm. Giữa nhà là một cái quầy thuốc rộng, có hai ba người đang ngồi chờ khách, một chị đang lúi húi mở những ô kéo nhỏ bốc thuốc cho bệnh nhân. Nhìn tờ liệt kê chữa các loại bệnh của phòng khám, tôi đọc được ngay hàng chữ chữa đúng thứ bệnh của tôi. Quay sang hỏi một anh chẳng biết là y tá hay phiên dịch về cách thức điều trị bệnh này, anh ta nhiệt tình giới thiệu một bác sĩ Trung Quốc sẽ chẩn bệnh rồi mới tính đến phương pháp điều trị. Tôi đã hơi tin tưởng vào cách làm này. Ngay khi đó anh ta giới thiệu một điều trúng ngay tim đen của tôi, đó là điều vô cùng “đặc biệt” chữa bệnh hoàn toàn bằng thuốc nam, bằng dược thảo quý từ Trung Quốc gửi qua, không cần phải phẫu thuật. Tôi hỏi lại cho chắc ăn: - Tức là không cần phải mổ? Nhân viên này nói chắc như đinh đóng cột: - Tất nhiên. Ông cứ chữa ở đây đi. Nếu không khỏi, chúng tôi trả lại tiền. Sau đó là một màn săn đón rất nhiệt tình, anh ta còn hóm hỉnh giới thiệu thêm: “Chữa bệnh này còn làm tăng thêm khả năng sinh lý”, rồi anh ta liếc nhìn tôi với vẻ hóm hỉnh. Chẳng buồn chú ý đến những lời lẽ bốc thơm lên chín từng mây của cái phòng khám này, tôi lượm một tờ giấy giới thiệu rồi ra về. Suy nghĩ mãi, tôi thấy phòng khám gần nhà, chỉ đi chưa đầy 100 mét đã tới, rất tiện lợi. Hai là chữa kiểu uống lá trinh nữ hoàng cung của tôi chỉ là để thông đường tiểu thôi, không thể nào khỏi hẳn được, thôi thì cứ chữa thử ở đây xem sao. Không phải mổ lại là điều tôi mong đợi nhất. Đi chữa bệnh gặp Tào Tháo Thế là vài hôm sau, tôi quyết định ra Phòng Khám Trung Y này chữa bệnh. Trước hết là tôi được đưa vào một căn phòng nhỏ, một phút sau mới có một ông Trung Quốc lừng khừng đi ra, ngồi vào ghế khám bệnh. Ông ta chừng trên 30 tuổi, mặt mũi sáng sủa, dáng dấp bệ vệ. Anh phiên dịch bảo tôi đưa tay ra cho ông bác sĩ Trung Quốc bắt mạch. Lát sau, ông ta xì xồ cái gì đó và anh phiên dịch cho tôi biết rõ bệnh tình của tôi rất nguy hiểm, phải điều trị ngay mới có hy vọng khỏi hẳn. Ông bác sĩ Trung Quốc lại hỏi tôi mấy câu vớ vẩn như có bệnh gì khác nữa không, có đau dạ dày không… Tôi lắc đầu. Thế là ông ta viết một cái toa bằng tiếng Tàu, bảo anh thông ngôn đưa tôi ra ngoài quầy mua thuốc. Giá thuốc cao ngất ngưởng, tôi không nhớ rõ là bao nhiêu, nhưng “đã trót thì trét” nên tôi đành phải móc hầu bao mua ngay. Cô bán thuốc “tư vấn” cho tôi nên mua 5-7 thang về sắc uống cho đỡ mất công. Giá 5 thang lên đến 7-8 triệu đồng. Lúc đó, tôi chỉ mua nổi 2 thang thôi. Lại còn phải mua thêm mấy vỉ thuốc viên uống kèm mới có công hiệu. Còn phải ra chợ Bàn Cờ mua thêm cái ấm sắc thuốc. Loại ấm điện bằng đất nung, loại này đổ ba bát nước vào với 1 thang thuốc, cắm điện và khi ấm thuốc còn chừng một bát là nó tự động tắt, rất tiện. Tôi uống hết hai thang thuốc, thấy có biến chuyển thật, nhưng là thứ biến chuyển không mong đợi. “Tào Tháo đuổi” suốt 1 ngày, chạy không kịp. Tôi ghé vào phòng khám hỏi, ông bác sĩ gọi tôi vào bắt mạch thêm một lần nữa và vui mừng báo tin có kết quả tốt. Ông ta nói để chặn đứng triệu chứng “Tào Tháo đuổi” phải uống loại thuốc khác. Ông ta lại viết toa bằng tiếng Tàu và tôi lại phải mua thêm 2 thang thuốc nữa cùng vài loại thuốc viên khác. Tôi uống thêm hai thang nữa, bớt bị đuổi nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì khác. Tôi vác cái toa cũ ra hỏi, anh phiên dịch lại bảo tôi vào gặp bác sĩ. Tôi gặp ông bác sĩ Trung Quốc bảnh bao này lần thứ ba. Ông ta phán tôi phải kiên trì theo đuổi việc chữa bệnh này và lại kê toa cho tôi, lần này ông ta nói thứ này mạnh hơn và tôi lại được khuyến cáo nên mua ngay 5 toa uống cho khỏi hẳn. Không chết đã là may Tôi cầm cái toa thuốc ra ngoài nhưng không mua thêm nữa, số tiền mỗi toa thuốc ngày một cao hơn. Tính ra tôi cũng phải chi cho cái phòng khám này khoảng 7 triệu rồi mà chỉ gặp Tào Tháo chứ bệnh tình không bớt. Từ đó tôi chào thua cái phòng khám “hoành tráng” này. Nói chuyện với mấy ông bạn trong chung cư, các ông ấy cũng lắc đầu: “Nhà tôi cũng chi cho cái phòng khám ấy ba bốn triệu mà bệnh vẫn hoàn bệnh”. Một thời gian sau, buổi chiều đi bộ qua đường Lý Thái Tổ, thấy phòng khám ngày một vắng hoe và một lần tôi bắt gặp ông bác sĩ Trung Quốc và anh phiên dịch ngồi ăn hột vịt lộn ở đầu ngõ. Vài tháng sau, phòng khám này biến mất, thay vào đó là một cửa hiệu chuyên in thiệp cưới. Không biết nó “chuyển đổi hệ thống” bằng cách nào, có thể nó đi tìm một nơi khác có khách hơn hoặc lại sát nhập vào với một phòng khám bệnh nào đó của người Trung Quốc đang ăn ra làm nên. Lúc này tôi cũng vẫn chưa tin hẳn là mình dại, bởi có bệnh viện này không chữa khỏi bệnh này nhưng chữa được bệnh khác chăng. Nhưng quả thật bất ngờ, dư luận đưa tin các phòng khám Trung Quốc quảng cáo láo khoét, chặt chém bệnh nhân, chẳng thấy ai khỏi bệnh. Khi biết mình dại thì đã quá muộn. Theo sự đinh ninh tin tưởng của tôi và chắc chắn của hầu hết những người dân Việt Nam đến những phòng khám chữa bệnh của người Trung Quốc kiểu này, ở Hà Nội hay Sài Gòn, tất nhiên phải có giấy phép của Bộ Y Tế hay ít nhất cũng là của Sở Y Tế Thành Phố và các ông thày thuốc Trung Quốc cũng phải có bằng cấp hẳn hoi, thuốc men cũng được kiểm soát cẩn thận chứ không lẽ để cho dân chết vì những anh mãi võ Sơn Đông sao? Chính vì quá đinh ninh vào một việc làm tất yếu của các cơ quan được gọi là “chức năng” như vậy nên chúng tôi mới là những thằng ngốc. Chỉ còn biết an ủi ngu thì ráng chịu, không chết đã là may. Quảng cáo tiếp tay với các phòng khám của người Trung Quốc Gần như 100% người bệnh tìm đến các phòng khám có “bác sĩ Trung Quốc” khám chữa bệnh là do xem quảng cáo ra rả suốt ngày trên các đài truyền hình. Những người xem truyền hình, ai cũng đã từng nghe một ông làm MC quen mặt của Đài Truyền Hình lớn, đứng ra làm quảng cáo cho một phòng khám bệnh của người Trung Quốc dưới “chiêu bài” phỏng vấn và giới thiệu phòng khám tối tân, bệnh gì chữa cũng khỏi. Đấy chỉ là một trường hợp điển hình, còn hàng ngày hàng đêm trong tất cả các chương trình khác cũng có vô số những kiểu quảng cáo như thế. Một số phương tiện thông tin đại chúng quảng cáo cho các phòng khám Đông y Trung Quốc là họ có khả năng chữa khỏi hoàn toàn một số loại bệnh mà Tây y đã “bó tay”. Tất cả phòng khám Trung Quốc này chỉ tập trung quảng cáo thu hút người bị mắc những bệnh mãn tính, bệnh khó nói, khó chữa như bệnh trĩ, hiếm muộn, bệnh nam khoa, bệnh phụ khoa... Đúng là những thứ bệnh nhiều người Việt Nam rất khó chữa trị, đánh trúng tâm lý người bệnh nên bao nhiêu tiền cũng phải bỏ ra, cố gắng theo đuổi chữa bệnh. Những bệnh mà ngay cả những giáo sư, bác sĩ đầu ngành trong và ngoài nước còn chưa dám chắc 100% chữa khỏi, không tái phát, không biến chứng cho người bệnh, vậy mà họ cam đoan sẽ chữa dứt hẳn. Người dân tin vào truyền hình, vào báo chí, vào sự “kiểm tra” của các cơ quan có trách nhiệm để rồi tiền mất tật mang! Ai cho phép các phòng khám bệnh Trung Quốc lừa bịp? Khi mọi chuyện vỡ lỡ ra, người ta cứ tưởng mấy cái phòng khám đó toàn là “khám chui”, tức là không có giấy phép. Nhưng thật bất ngờ khi biết sự thật các phòng khám đó có giấy phép hẳn hoi. Và đây là bằng chứng. Tìm lại trong đống hồ sơ, công văn ngày 28-7-2011 (do Phó Vụ Trưởng Vụ Y Dược cổ truyền Nguyễn Hoàng Sơn ký), Bộ Y Tế đồng ý cho công ty y học cổ truyền Huê Hạ (199 Nguyễn Chí Thanh, Q. 5) được quảng cáo với nội dung: “Phòng Khám bệnh y học cổ truyền Huê Hạ có bác sĩ y học cổ truyền có kinh nghiệm kết hợp kỹ thuật hiện đại để xác định nguyên nhân, đưa ra giải pháp điều trị hiệu quả các bệnh thuộc về trĩ... Không phẫu thuật, chữa trị chuyên nghiệp các bệnh trĩ...”. Trong khi theo giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề do Sở Y Tế TP. Sài Gòn cấp cho người đứng tên phòng khám này thì phạm vi hành nghề chỉ là “bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc thang”. Trong một văn bản khác ký ngày 13-3-2012, Bộ Y Tế cho phép phòng khám Huê Hạ được quảng cáo “đau lưng, đau bả vai, sưng đau các khớp, tê tay chân, các chứng bệnh phong thấp luôn hành hạ bạn... Để sớm giúp bệnh nhân thoát khỏi sự đau khổ này, phòng khám Huê Hạ vận dụng phương pháp điều trị kết hợp, trong thời gian ngắn, nhanh chóng giải quyết các chứng bệnh đau nhức...”. Cho phép quảng cáo cả nạo phá thai, đặt vòng Đối với phòng khám bệnh y học Trung Quốc (87 Thành Thái, Q. 10 và chi nhánh ở 141 Phan Đăng Lưu, Q. Phú Nhuận), Bộ Y Tế cũng có công văn ngày 7-11-2011 cho phép quảng cáo rất “kêu”: “Khám, điều trị bệnh trĩ hãy đến phòng khám bệnh y học Trung Quốc. Chuyên nghiệp điều trị trĩ, hiệu quả nhanh. Do các bác sĩ Trung Quốc trực tiếp chữa trị bằng phương pháp Trung - Tây y kết hợp, không phải phẫu thuật, không chảy máu, không đau. Điều trị về ngay trong ngày...”. Kèm theo công văn này, Bộ Y Tế còn có một tờ giấy khác cho phép quảng cáo với nhiều nội dung trên truyền hình và đài phát thanh nhưng chỉ có chữ ký của Vụ Phó Vụ Y Dược cổ truyền, không có dấu mộc. Nội dung quảng cáo Bộ Y Tế cho phép là: “... Phòng khám bệnh y học Trung Quốc chuyên khoa trĩ xin bảo đảm với quý bệnh nhân bất kể bệnh tình nặng hay nhẹ - chữa trị với liệu trình một lần. Nếu có tái phát xin hoàn trả toàn bộ chi phí điều trị. Chuyên khoa bệnh trĩ. Chuyên nghiệp chữa trị”! Cũng Bộ Y Tế, trong công văn ngày 23-12-2011 còn cho phép phòng khám bệnh y học Trung Quốc quảng cáo với nội dung: “Phụ nữ như hoa, vẻ đẹp mềm mại nhưng rất dễ chịu sự tổn thương huyết trắng nhiều, có mùi hôi hãy đến phòng khám bệnh y học Trung Quốc... Phòng khám hội tụ các chuyên gia phụ khoa với kinh nghiệm phong phú, sử dụng các thiết bị tân tiến để kiểm tra và chữa trị các chứng bệnh: viêm âm đạo, viêm cổ tử cung, vô sinh ở nữ giới, kế hoạch hóa gia đình. Có hiệu quả rõ rệt...”. Không hiểu Bộ Y Tế nghĩ sao khi cho phòng khám này quảng cáo làm cả kế hoạch hóa gia đình (tức cho phép cả nạo, phá thai, đặt vòng... ) trong khi giấy chứng nhận hành nghề do Sở Y Tế cấp chỉ cho phép phòng khám này được “khám chữa bệnh ngoại trú bằng phương pháp y học cổ truyền”?... Tôi không thể liệt kê hết những kiểu quảng cáo đã được phép của Bộ hay Sở Y Tế này. Chi tiền quảng cáo rất mạnh Để làm được việc này, tất nhiên có sự hỗ trợ của đài truyền hình. Thời gian qua, các đài H2, TV shopping, kênh VOV giao thông... có nhiều quảng cáo cho phòng khám Trung Quốc hơn cả. Theo đại diện công ty quảng cáo này, Hà Nội đang có ba phòng khám Trung Quốc chi tiền quảng cáo rất mạnh tay. Trung bình một năm, một phòng khám trong số này chi đến 6-7 tỉ đồng quảng cáo riêng trên radio, còn quảng cáo trên truyền hình mức giá trung bình 3-3,5 triệu đồng môt spot, mỗi phòng khám phát ít nhất 10 spot ở nhiều khung giờ khác nhau tùy theo giờ nào, đài nào, chi phí riêng cho quảng cáo truyền hình ít nhất cũng nhiều chục triệu đồng một ngày, chưa tính các quảng cáo biển bảng, quảng cáo trên báo mạng và báo giấy. Theo ông Nguyễn Hoàng Sơn, cách đây vài năm Vụ Y Dược cổ truyền có tiến hành một điều tra về trình độ chuyên môn của các thầy thuốc nước ngoài. Kết quả cuộc điều tra cho thấy tỉ lệ thầy thuốc dùng bằng cấp giả đến khám chữa bệnh tại Việt Nam rất lớn. Dọa nạt và chặt chém thẳng tay Ở đây tôi chỉ nêu một trường hợp trong cả trăm cả ngàn trường hợp bị bác sĩ Trung Quốc dọa nạt, chặt chém trắng trợn. Đến phòng khám Maria (Thái Thịnh, Hà Nội) kiểm tra vòng tránh thai, chị Lan (35 tuổi, quận Đống Đa) được phen hoảng vía khi bị bác sĩ Trung Quốc “doạ” nếu không điều trị ngay sẽ dẫn đến ung thư. Chị Lan không đồng ý và ra về. Đến tối, chị nhận được điện thoại của một người xưng là nhân viên của phòng khám Maria gọi “tư vấn” và giải thích thêm tình trạng bệnh của chị. Nhân viên này cho biết thêm “bác sĩ nói chị còn mắc thêm bệnh sùi mào gà, nếu không chữa sẽ lây sang chồng và các con”. Chị Lan phát hoảng, nhanh chóng đồng ý điều trị. Bác sĩ yêu cầu chị chữa bệnh ít nhất 15 ngày. Sau thời gian này phải theo dõi và điều trị tiếp 6 tháng nữa mới khỏi bệnh sùi mào gà... Tuy nhiên chỉ sau 4 ngày điều trị ở đây, chị đã phải chi gần 24 triệu đồng mà không hề thấy bệnh tình biến chuyển, chị Lan đã quyết định chuyển sang một bệnh viện khác khám. Tại đây, kết quả kiểm tra hoàn toàn khác với kết luận của vị bác sĩ người Trung Quốc kia: chị không hề bị sùi mào gà, cũng không có dấu hiệu ung thư. Uất ức vì bị lừa chị Lan đã gửi đơn khiếu nại đến Thanh Tra Sở Y Tế Hà Nội. Chị N.T.M.H (34 tuổi, tạm trú TP. Sài Gòn) đến phòng khám 141 Phan Đăng Lưu để chữa trị vô sinh và bị phòng khám buộc phải trả gần 40 triệu đồng sau khi điều trị. Do bệnh nhân không đủ khả năng trả nên bị “giam lỏng”. Cùng đường, người nhà chị N.T.M.H phải gọi cho công an trình báo sự việc. Đó là kiểu vừa dọa vừa cướp bóc của hầu hết các bác sĩ Trung Quốc. Khi bị thanh tra bác sĩ Trung Quốc bỏ chạy Sự việc này xảy ra ngày 10-7 vừa qua, khi đoàn thanh tra của Sở Y Tế Sài Gòn đến thanh tra bất ngờ phòng khám bệnh y học cổ truyền Trung Quốc tại số 141 Phan Đăng Lưu, P. 2, Q. Phú Nhuận. (Mặc dù thanh tra như vậy là quá muộn, khi mọi sự việc xảy ra từ nhiều năm rồi. Nay mới… tích cục thanh tra). Vừa thấy đoàn thanh tra xuất hiện, một số người Trung Quốc đang khám bệnh vội cởi áo blouse bỏ lại phòng khám rồi thoát ra ngoài rất nhanh, đến mức dù các nhân viên đoàn thanh tra có đem theo máy ảnh cũng không kịp ghi hình những người này. Một nhân viên đoàn thanh tra phát hiện có một người chạy lên lầu trốn, vội chạy theo tìm nhưng cũng không tìm thấy. Còn những sai phạm khác, đếm không xuể. Trong khi kiểm tra, đoàn ghi nhận phòng khám có nhiều loại thuốc chích, kháng sinh, dịch truyền, thuốc viên mang nhãn mác Trung Quốc, nhưng không xuất trình được giấy phép lưu hành. Có 3 loại thuốc hết hạn sử dụng (trong đó có hai loại xuất xứ từ Trung Quốc); một số thuốc viên bọc đường, nhiều viên thuốc hoàn toàn không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Tại quầy thuốc, nhân viên người Trung Quốc đứng bán nhưng không biết tiếng Việt, không rõ bằng cấp. Phòng khám không được phép truyền dịch, nhưng ngang nhiên truyền dịch tại chỗ, xếp ghế san sát trên lầu 1 để truyền dịch cho bệnh nhân theo kiểu ngồi, rất chụp giựt; có rất nhiều chai dịch truyền (ghi toàn chữ Trung Quốc), những vỏ chai dịch truyền được chất cả trong nhà vệ sinh trên lầu 1. Phòng khám không được làm phẫu thuật, nhưng vẫn cắt trĩ cho bệnh nhân. Treo bảng quảng cáo về chức năng chữa bệnh không đúng với những gì đã xin phép. Điều kiện vệ sinh không bảo đảm… Hầu hết máy móc từ máy siêu âm, máy phẫu thuật đều được dán dòng chữ “Đang chờ thẩm định”, nhưng thật ra họ vẫn sử dụng, giấy dán chỉ là để đối phó với thanh tra mà thôi. Hầu hết là bác sĩ dởm, không bằng cấp Việc những người Trung Quốc đang khám bệnh bỏ chạy, khiến đoàn thanh tra không thể xác minh được họ có phải là bác sĩ không? Có đủ điều kiện hành nghề và có được cấp phép làm việc tại Việt Nam không?... Thực tế, đã có rất nhiều trường hợp “bác sĩ” Trung Quốc qua Việt Nam khám chữa bệnh nhưng không có một tờ giấy... lận lưng. Ông Nguyễn Xuân Hướng, chủ tịch Hội Đông Y Việt Nam, nói với báo Kiến Thức, ông có bằng chứng hơn 90% các phòng khám bệnh của người Trung Quốc ở Việt Nam là lừa đảo. Một bằng chứng là trong một lần kiểm tra trước đây mười năm, có 23 người Trung Quốc làm Đông y thì 17 người không qua học hành gì cả, 5 người là y sĩ, bác sĩ cấp xã… Một lần sau, hơn năm năm nay, phải bác bỏ cả 7 hồ sơ. Ông Hướng đến thử ở một phòng mạch, người đứng tên khai sinh năm 1957, gần 50 tuổi, nhưng người đứng ra khám bệnh là một thanh niên ngoài 20 tuổi! Ông Nguyễn Xuân Hướng tố cáo việc để cho các y sĩ Trung Quốc sang Việt Nam hành nghề tràn lan là “thiếu quan tâm tới sinh mạng của dân”. Điều đáng nói, năm 2009, trong loạt bài viết chủ đề “Thâm nhập phòng khám đông y có bác sĩ Trung Quốc” của báo chí Việt Nam cũng phản ảnh về PK 141 Phan Đăng Lưu nói trên, sau đó, nhiều báo tiếp tục tố cáo sai phạm ở phòng khám này, nhưng đến nay họ vẫn ngang nhiên hoạt động sai trái. Nhiều người thắc mắc: họ coi thường cơ quan quản lý; hay cơ quan quản lý làm lơ để phòng khám này ung dung “móc túi” người bệnh trong nước? Bây giờ mới đóng cửa vài phòng khám Trung Quốc là quá muộn. Người dân đã từng mất bao nhiêu tiền bạc và mạng sống bị đe dọa từng ngày. Đó là một sự thật cay đắng, không một người dân nào ngờ tới được. (VQ) 13-7-2012 Văn Quang
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 13, 2012 4:12:19 GMT 9
Lê Anh Hùng - Hai cuộc Biểu tình trong một ngày bị đàn áp khốc liệtHà Nội, 6/8/2012 8h sáng ngày 5/8/2012, tôi đã có mặt tại Bờ Hồ, cạnh tượng đài Lý Thái Tổ. Lúc này đã thấy hai xe buýt cỡ lớn mang ký hiệu tuyến 24 đậu ngay đầu đường Lê Lai, cùng một số xe cảnh sát khác. Lực lượng công an chìm nổi rất đông, riêng số mặc quân phục cảnh sát đã nhan nhản. 8h05, phóng viên Chim Quốc Quốc (Nguyễn Khắc Long) của Diễn đàn Hội luận Phỏng vấn Hiện tình Việt Nam trên mạng Paltalk gọi điện cho tôi và phỏng vấn chừng 14 phút về không khí trước cuộc biểu tình. Gần 8h30, tôi từ Bờ Hồ đi sang phía tượng đài Lý Thái Tổ thì thấy cụ Lê Hiền Đức cùng vài người khác đang bị vây quanh bởi một lực lượng chức năng đông đảo. Một viên sỹ quan cảnh sát chẳng chút kiêng dè, chỉa thẳng loa vào tai cụ mà la lối khiến nhiều người bất bình. Lúc này, blogger Lê Dũng và anh Lê Thiện Nhân đã bị tống lên một chiếc xe buýt. Anh Trương Văn Dũng tỏ thái độ bất bình trước lối hành xử thô lỗ của viên cảnh sát cầm loa kia liền bị mấy viên cảnh sát xông vào lôi lên xe buýt cùng với anh Lê Dũng và anh Lê Thiện Nhân. Trước tình hình căng thẳng, cụ Lê Hiền Đức bèn rời khu vực trước tượng đài Lý Thái Tổ và đi sang phía Bờ Hồ, với sự “tháp tùng” của “biểu tình viên” dày dạn Trương Ba Không và “phó nháy nhân dân” Nguyễn Lân Thắng. Tôi cũng cùng một số người nữa theo cụ Lê Hiền Đức đi về phía Bưu điện Bờ Hồ, không trưng biểu ngữ và cũng chẳng hô khẩu hiệu. Khi đến ngang Bưu điện Bờ Hồ, thấy càng rời xa khu vực tượng đài Lý Thái Tổ thì số “biểu tình viên” tiềm tàng càng ít, trong khi số này lại đang chủ yếu tập trung xung quanh khu vực tượng đài, tôi bèn đề xuất với cụ Lê Hiền Đức là quay lại khu vực Bờ Hồ đối diện với tượng đài Lý Thái Tổ. Khoảng 8h40, chiếc xe buýt chở blogger Lê Dũng cùng anh Lê Thiện Nhân và anh Trương Văn Dũng rời khỏi phố Lê Lai. Khoảng 8h50, đoàn người do cụ Lê Hiền Đức dẫn đầu bị chặn lại và gây khó dễ ở ngay gần cổng trụ sở UBND Tp Hà Nội. Một số viên cảnh sát và sỹ quan an ninh chìm xông vào đòi đưa cụ đi nhưng bị mọi người phản đối quyết liệt. 8h52, một chiếc xe lăn được đưa tới và mọi người đề nghị cụ Đức ngồi vào. Cụ Đức ngồi vào xe lăn trước sự can thiệp thô bạo của mấy viên cảnh sát và an ninh. Gần như ngay lập tức, nhiều viên cảnh sát mặc quân phục xông vào và tìm cách đưa cụ lên một chiếc xe 6 chỗ ngồi, trong sự chống cự và phản đối vô vọng của những người biểu tình. Từ khoảng 8h50, phóng viên Chim Quốc Quốc nối lại cuộc phỏng vấn với tôi để cho toàn thể thính giả toàn cầu đang theo dõi tình hình cuộc biểu tình chống Trung Quốc qua Diễn đàn Hội luận Phỏng vấn Hiện tình Việt Nam được cập nhật những diễn biến nóng hổi nhất. Sau khi cụ Lê Hiền Đức bị bắt đưa đi, lực lượng chức năng tiếp tục bắt bớ những thành viên tích cực khác. Anh Nguyễn Lân Thắng bị đưa về Công an Quận Hoàn Kiếm; 13 người nữa trong đó có nhà văn Nguyễn Tường Thuỵ, các blogger Phương Bích, Nguyễn Hồng Kiên, anh Nguyễn Chí Đức, cô giáo Dương Thị Xuân, nhà giáo-CCB Nguyễn Anh Dũng… bị đưa lên chiếc xe buýt thứ hai và nhanh chóng rời khỏi khu vực. Tôi vẫn tiếp tục tường thuật trực tiếp qua điện thoại cho Diễn đàn HLPVHT Việt Nam. Lúc này, trước sự cứng rắn của lực lượng chức năng, các “ứng viên biểu tình” đứng tản mát và cuộc biểu tình đứng trước nguy cơ không thể diễn ra. Trước tình thế đó, tôi bèn gặp những thành viên tích cực còn lại như chị Trần Thị Nga (Phủ Lý), blogger Dũng Aduka và đề nghị phân phát các tờ biểu ngữ khổ nhỏ đã chuẩn bị sẵn cho mọi người. Tôi cần cầm biểu ngữ để khuấy động không khí nên, theo đề nghị của phóng viên Chim Quốc Quốc, buộc phải để điện thoại trong túi áo ở chế độ kết nối với Diễn đàn hầu giúp cho bà con trong và ngoài nước tiếp tục theo dõi cuộc biểu tình qua những âm thanh trực tiếp từ nơi diễn ra sự kiện. 9h00, khoảng hơn mười người tập hợp lại ở khu vực Bờ Hồ đối diện với cổng trụ sở UBND Tp Hà Nội và bắt đầu biểu tình, hô vang các khẩu hiệu chống Trung Quốc xâm lược. Lực lượng chức năng đông đảo Khoảng 9h10, khi gần đến toà nhà hàm cá mập, một lực lượng chức năng đông đảo ập vào bố ráp những người biểu tình và bắt đi 14 thành viên tích cực nhất, trong đó có tôi và một anh Việt kiều Thuỵ Sỹ tên là Nguyễn Văn Ngoan (người vừa mới đi làm từ thiện ở Lý Sơn, Quảng Ngãi ra), lên chiếc xe buýt thứ ba mang ký hiệu tuyến 09 mới được điều đến trước đó không lâu. Khi xông vào lôi tôi lên xe buýt, mấy tên công an chìm nổi đã thó mất chiếc điện thoại trong túi áo của tôi, lúc đó đang ở chế độ kết nối với phóng viên Chim Quốc Quốc, nhưng chỉ khi đã bị tống lên xe tôi mới phát hiện ra. Cuộc biểu tình bị dập tắt ngay sau đó. Xe buýt nhanh chóng rời khỏi khu vực và chúng tôi được đưa sang Trung tâm Lưu trú Lộc Hà, Đông Anh, Hà Nội. Tại đây, chúng tôi được “đoàn tụ” với 16 người khác của hai chuyến xe buýt trước đó. Trong phần còn lại của buổi sáng và đầu buổi chiều, mọi người lần lượt “làm việc” với công an. Hầu hết các thành viên đều không thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và không ký vào các biên bản do phía công an lập ra. Mặc dù vậy, bọn họ vẫn ra quyết định xử lý vi phạm hành chính với hình thức “cảnh cáo” cho những người bị bắt giữ. Khoảng 15h30, sau khi mọi người đều đã “làm việc” với công an, một viên thượng uý thay mặt Công an Q. Hoàn Kiếm phát biểu mấy câu về “hành vi vi phạm pháp luật” của những người bị bắt giữ và đề nghị mọi người “giải tán”. Phát biểu cụt lủn vài câu xong là anh ta lỉnh mất. Mọi người lên tiếng phản đối về thái độ không đúng mực của viên thượng uý, đòi công an phải bố trí xe buýt đưa về nơi bị bắt giữ và đòi phải “trả” anh Ngoan, Việt kiều Thuỵ Sỹ, lúc này vẫn đang làm việc với họ, thì mới chịu về. Đến 17h10, anh Ngoan “làm việc” xong với công an. Họ thu giữ máy tính và điện thoại của anh nhưng không lập biên bản tạm giữ mà chỉ viết vài dòng nguệch ngoạc hẹn làm việc tiếp với anh vào ngày mai. Chúng tôi đi ra cổng trong niềm vui vỡ oà của rất nhiều người đã đến “tiếp sức” cho chúng tôi ngay từ trưa, kể cả cụ Lê Hiền Đức. Mọi người nhanh chóng quyết định là tiếp tục đấu tranh với công an để buộc họ phải trả máy tính và điện thoại cho anh Ngoan, hoặc ít nhất thì cũng phải lập biên bản tạm giữ hiện vật đàng hoàng, đồng thời giăng biểu ngữ ngay ngoài cổng Trung tâm Lưu trú Lộc Hà để tiếp tục biểu tình. Các câu khẩu hiệu chống Trung Quốc xâm lược lại vang lên ngay trước cổng Trung tâm Lộc Hà, thu hút sự chú ý của người đi đường. Công an điều động thêm lực lượng đến hòng trấn áp tinh thần của những người biểu tình nhưng không ăn thua. Cuối cùng, phía công an buộc phải lập biên bản thu giữ tang vật của anh Ngoan. Đến 19h, mọi người chia tay nhau trong niềm phấn chấn sau một ngày đấu tranh căng thẳng. Dù bị đàn áp khốc liệt nhưng chúng tôi vẫn thực hiện được hai cuộc biểu tình đầy ý nghĩa. Dường như trong mỗi người, niềm tin về một nền dân chủ - tự do trong tương lai không xa cho nước nhà lại càng được củng cố, dù vẫn biết đó là con đường chẳng thiếu những gập ghềnh, chông gai./. Nguồn: Blog Lê Anh Hùng
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 13, 2012 4:13:42 GMT 9
Cuộc biểu tình yêu nước ngày 5/8/2012 đã bị các cơ quan chức năng Hà Nội đập tan như thế nào? 08/07/2012 Nguyễn Thượng Long Sau khi tôi chính thức trình làng bài viết “Không xứng với biển xanh”, đặc biệt trước quyết định sẽ tham gia các cuộc biểu tình yêu nước sáng ngày 22/7 và sáng 5/8/2012, tôi đã nhận được từ nhiều người, nhiều câu hỏi lý thú. Có người lo lắng hỏi: “Liệu TQ có đánh ta không bác?”, người khác thì hỏi: “Trong tình thế thân cô thế cô bất lợi thế này, liệu Việt Nam có chống đỡ được cuộc chiến đó không bác?”. Lại có một ông đinh ninh với tôi: “Tuy chỉ là một Chúa Chổm đối với ngân quỹ của TQ… người Mỹ sẽ đánh người Tàu cho người Việt Nam mình…bác nên tin điều đó (!?)”, câu khẳng định này làm buồn lòng và xấu mặt những người Việt nào còn một chút liêm xỉ và tự trọng. Tôi vốn không thích nói năng theo kiểu “Chém Gió” của mấy ông “gúc gồ” nên chỉ cười trừ mà rằng: Việc hỏi TQ có đánh ta hay không đánh ta… thì cứ quan sát hiện tượng người TQ đã đạt được những gì ở biên giới đất liền, ở thác Bản Giốc, ở ải Nam Quan, bãi Tục Lãm, ở Tây Nguyên, ở các điểm cao ở Hà Giang, ở rừng thượng nguồn, ở Cam Ranh, ở Hoàng Sa - Trường Sa và biển Đông, ở các công trình mà người TQ luôn thắng thầu… rồi đặt ra một câu hỏi ngược lại là: “Không phải nổ súng mà trong tay người Tàu đã có ăm ắp những thứ đó rồi …thì đánh nhau làm gì cho mang tiếng là đại bá - thực dân - đế quốc…để bị thế giới văn minh lên án. Ai đã tặng cho người Tàu những cái mà cả 1000 năm Bắc Thuộc họ không làm nổi, mà nay chỉ bằng 2 lá bùa “16 chữ” và “4 tốt” họ đã có đủ cả! Năm 1979 họ xua quân tràn ngập biên giới Việt Nam với mệnh lệnh huyênh hoang “Phải dậy cho bọn tiểu bá Việt Nam một bài học!”, còn nay… họ sẽ chẳng dại gì mà lại AQ như thế, họ sẽ lớn tiếng rằng “Do bị bọn tiểu bá VN tráo trở luôn ăn hiếp, cưỡng chiếm… nên họ buộc lòng phải tự vệ!?”…Phải sống trong một thế giới đầy những điều đảo điên… người Mỹ thực sự nghĩ gì về người Việt Nam sau cuộc chiến tranh Mỹ - Việt? Người TQ nghĩ gì về VN sau biết bao điều thê thảm! Người Việt Nam nghĩ gì về người Việt Nam trong giai đoạn đầy những nghịch lý này? Câu hỏi đó đặt ra bao nhiêu là lời giải? Trước khi đề cập đến đề tài nóng hổi “Ngày 5 – 8 – 2012 - Cuộc biểu tình yêu nước ở Hà Nội bị đập tan như thế nào?”, xin mọi người cùng đọc bức thư của một giáo viên Lịch Sử mới gửi vào Email của tôi ta sẽ có thêm những cơ sở để trả lời câu hỏi: “Liệu Việt Nam có chống đỡ được cuộc chiến của người Tàu không?”. Câu hỏi này đặt ra không chỉ riêng cho một người VN cụ thể nào mà phải đặt ra cho tất cả dân Đại Việt đang sống ở trong cũng như ngoài nước. “Cháu là một giáo viên dậy Lịch Sử, cũng như bao người Việt Nam bình thường khác. Cháu muốn tâm sự với bác cho vợi đi nỗi buồn của một người Việt Nam khi phải chứng kiến điều tủi nhục của cả dân tộc mình mà cháu chưa khi nào ngờ đến lại có ngày hôm nay. Thấy nỗi uất hận đang dâng trào của cả dân tộc đối với bè lũ cướp nước và những hành động vô cùng kỳ lạ mà ngay cả các triều đại phong kiến thối nát trong lịch sử dân tộc cũng chưa dám làm đối với bờ cõi của tổ tiên, lòng cháu buồn vô hạn bác ạ. Gần đây cháu rất ít ngủ, cứ nghĩ đến tình cảnh của dân tộc mình là cháu thấy đau lòng vô hạn. Người yêu nước thì bị bắt bớ, hoặc buộc tội một cách vô lý. Điều làm cháu đau xót nhất là nhìn thấy cảnh đồng bào của mình bị đàn áp trong những vụ cưỡng chế đất ở Văn Giang, rồi thấy những người yêu nước khi tham gia biểu tình chống kẻ thù xâm lược bị bắt bớ, tận mắt nhìn thấy cảnh những người công nhân Việt Nam phải làm việc kiệt sức dưới sự bóc lột tàn bạo của nhiều thế lực trong nước lẫn ngoại bang…cháu thật xót xa và buồn chán. Điều cháu vô cùng bất bình là người ta ác ý làm lẫn lộn các khái niệm “Yêu nước” và “Bọn phản động”, “Thế lực xấu”. Vì quyền lợi ích kỷ của một bộ phận người mà người ta chà đạp lên tinh thần dân tộc, triệt hạ lòng yêu nước của bao người. Kẻ thù truyền kiếp của dân tộc chính là bọn xâm lược Bắc Kinh, người có đầu óc bình thường nhất cũng nhận ra được, vậy mà người ta vẫn nhìn nhận chúng là “Đối tác chiến lược…” (!?) Chao ôi! Kẻ thù dân tộc đang tràn ngập đất nước, âm mưu thôn tính đất nước ta đã rõ ràng, những hành động ngang ngược trắng trợn như vậy mà người ta vẫn còn ngợi ca chúng được. Nếu cứ thế này thì dân tộc này sẽ đi đâu về đâu? Chẳng lẽ một dân tộc có văn hiến mấy ngàn năm và lịch sử oai hùng như dân tộc này mà bỗng chốc cơ đồ của cha ông cứ lần lượt rơi vào tay giặc? Còn rất nhiều điều ngang trái làm người có lương tri không thể an lòng. Cháu biết lúc này bác cũng đang đau xót lắm. Cháu viết vội mấy dòng tâm sự với bác để cùng chia sẻ nỗi đau buồn này. Kính mong bác luôn mạnh khoẻ và bình an!”.(TQV…@gmail.com 21:42 ngày 03 – 8 – 2012). Tôi đã tìm đến với cuộc biểu tình yêu nước sáng ngày 5/8/2012 những mong sẽ có được những trả lời có thể chấp nhận được dành cho những ai đã đặt ra các câu hỏi mà phần đầu bài viết này đã đề cập. Tôi lén lén như một thằng ăn trộm lúc bước chân ra khỏi nhà vào 5g00 ngày 5/8 và lẻn lên xe bus 02 cùng các bà đi buôn lúc vẫn còn mờ đất. Sau mấy tiếng lang thang, ngắm nhìn người Hà Nội thơ thái, vô tư luyện tập dưỡng sinh trên những con đường quanh Hồ Gươm… tôi tiến đến công viên sau tượng đài đức vua Lý Công Uẩn thì gặp được những người mà tôi cần gặp. 8 h 15 phút, tôi cùng người đồng nghiệp Dương Thị Xuân, cụ bà Lê Hiền Đức, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Nhà giáo cựu chiến binh Nguyễn Thanh Nhàn, Nhà Văn Nguyễn Tường Thuỵ, các Bloger nổi tiếng Nguyễn Chí Đức, Lê Dũng, Nguyễn Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Phượng Bích, mẹ con Phạm Thị Nga… cùng nhiều người khác mặc áo No – U mà tôi không biết rõ tên…tiến về khu vực tượng đài Lý Thái Tổ. Chúng tôi chưa tụ lại được thành một đội hình thì đã bị lực lượng chống biểu tình xé lẻ ra thành những cuộc cãi vã tay đôi. Phía công an dùng lực lượng đông đảo, phủ đầu chúng tôi bằng loa điện kè vào tai là những mệnh lệnh cưỡng bức phải rời khỏi khu vực đang xếp đầy những tấm biển cấm tụ tập đông người, khu vực bảo vệ. Bloger Lê Dũng phản ứng quyết liệt việc làm này và anh cũng là người đầu tiên được công an nhét vào xe bịt bùng. Tôi cùng nhà giáo Dương Thị Xuân cùng một bác đã luống tuổi mặc áo No – U xé rào tiến đến chân tượng cụ Lý Công Uẩn để cầu khấn cụ khôn thiêng phù hộ độ trì cho dân tộc sớm vượt qua được những năm tháng điêu linh như thế này. Quay trở lại đám đông, tôi thấy không khí quá căng thẳng. Cụ Lê Hiền Đức tóc tai xoã xượi, bị lôi đi lôi lại rất quyết liệt, tiếng cụ bị chìm đi trong những âm thanh huyên náo. Những người phụ nữ khác như Dương Thị Xuân, Phượng Bích, Phạm Thị Nga và nhiều người khác mà tôi không biết tên… cũng không thoát được tình trạng tượng tự. Một bé trai bị lạc mẹ đang bơ vơ kêu khóc giữa đám đông người lớn đang chí mạng quần thảo nhau …làm đau lòng bao người. Nhìn cảnh cứ 4 – 5 nhân viên công vụ vây lấy 1 người biểu tình, tôi vô cùng thất vọng và ngán ngẩm. Có lẽ đây là cuộc biểu dương sức mạnh của lực lượng chống biểu tình chứ không phải là cuộc biểu tình của người dân yêu nước nữa. Tôi hớt hải nắm vai, chất vấn tất cả mọi nhân viên công vụ trong mọi sắc phục vô tình xuất hiện trước mắt tôi với câu hỏi: “Nếu cần phải bảo vệ thì phải bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa chứ cái vườn hoa này đâu có cần phải bảo vệ như thế?”…chẳng một ông nào trả lời câu hỏi của tôi, ngoài cái nhún vai… 8 h 45 phút, toàn bộ đám đông đã bị dồn hết sang phía bờ hồ đối diện, thì bước 2 của kịch bản đàn áp đã bắt đầu. Đoàn biểu tình tiếp tục bị dồn đẩy ra xa khu vực tượng cụ Lý. Khi một sinh viên đẩy vào tay cụ Lê Hiền Đức chiếc xe lăn của cụ, tình hình thực sự là hỗn loạn, không kiểm soát được nữa. Người biểu tình kiên quyết giữ xe cho cụ, phía chống biểu tình cũng kiên quyết không cho cụ Đức được ngồi vào xe lăn để dẫn đầu đoàn biểu tình. Trong thời khắc quyết liệt đó, tôi thấy gương mặt Chí Đức, Tường Thuỵ, Phạm Hông Sơn, Dương Thị Xuân, Phượng Bích…nhễ nhại mồ hôi và hình như có cả nước mắt của họ nữa. Tôi đã thấy những sinh viên, học sinh phổ thông bị khống chế, bị lôi xềnh xệch, bị nhét vào xe bịt bùng mà vẫn dõng dạc hô to “Bảo vệ máu thịt Việt Nam!”…Tường Thuỵ hét lớn “Không được thế, không được thô bạo với cụ Lê Hiền Đức!”, còn Chí Đức gào lên “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!” trước khi bị nhét vội nhét vàng vào xe bắt giữ người. Lần lượt Dương Thị Xuân, Phượng Bích, Phạm Thị Nga, Lân Thắng…không thoát được khỏi cánh cửa của xe bịt bùng. Và trong những xe bắt người đó vẫn vang lên những tiếng hô “HS – TS – VN”, “Đả đảo TQ xâm lược”, “Bảo vệ máu thịt Việt Nam!” …Tôi ngồi bệt xuống bãi cỏ dưới chân mình, vừa lặng lẽ lau đi trên gương mặt nhầu nát của mình những giọt nước mặn chát không rõ là mồ hôi hay cả nước mắt đàn ông …tôi vừa nghĩ: “Sao họ không xúc luôn cả tôi đi Lộc Hà luôn thể!”. Có lẽ họ chê tôi già, ngu lâu dốt bền khó “Phục hồi được nhân phẩm!” nên họ chê! Chưa kịp định thần lúc mà những gương mặt nổi bật của biểu tình bị vô hiệu hoá gần như hết, thì đám đông còn lại bỗng lại ầm ầm những tiếng hô “HS – TS – VN!”, “Đả đảo TQ xâm lược!”, hàng loạt biểu ngữ lại xuất hiện, lại được giơ cao. Đoàn biểu tình lại tiếp tục tiến về phía tượng đài “Cảm Tử Cho Tổ Quốc Quyết Sinh”. Chưa kịp định thần tôi đã nghe thấy tiếng còi hú của xe chở CSCĐ lấp loáng mũ sắt và xe chở đám quần chúng tự phát đeo băng đỏ ào ào chậy đến. Đợt bắt giữ thứ 2 bắt đầu, hàng loạt người biểu tình đã không thoát được cánh cửa của xe bịt bùng…Vài chục người còn lại chậy được về phía quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thì cũng nhanh chóng bị nhét lên xe… thẳng tiến về Lộc Hà. Cuộc biểu tình của những người Việt Nam yêu nước sáng 5/8/2012 đã bị dẹp tan theo một kịch bản, lớp lang, chi tiết như vậy đấy. Tôi nói với một tay an ninh đã có tuổi đeo bám tôi ngay từ chân tượng cụ Lý rằng, ông đã chụp tôi rất nhiều ảnh, nếu có bức nào hay hay ông cho tôi xin 1 bức làm kỷ niệm, quay sang bên kia tôi nói với một ông an ninh rất trẻ rằng: “Hôm nay các ông đã chiến thắng nhân dân! Một chiến thắng thật hoành tráng!”. Xin chào! Việc của ông, ông cứ tiếp tục, còn việc của tôi, của dân tộc tôi… chúng tôi không sao nhãng. Trước khi lên xe bus 02 để trở về nơi ở, tôi lang thang xung quanh hồ như một kẻ mộng du trong tình trạng huyết áp là cực kỳ tồi tệ, trong tâm tưởng như vọng vang những giai điệu đã nằm lòng thế hệ cựu học sinh Hà Nội chúng tôi những năm đầu thập kỷ 1960: “Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời Hà Nội ầm ầm rung sông hồng reo!” Và: “Không thể nói trời không xanh hơn Và mắt em xanh khác ngày thường!” Và: “Mẹ đứng hàng đầu rưng rưng nước mắt Xốn xang mẹ thầm gọi các con!” ề đến nhà vừa lúc chương trình HTV của Hà Nội đang ra đòn đánh bồi: “Đã bắt được quả tang hành động chia nhau tiền thuê biểu tình!”, lại còn hứa trong chương trình thời sự 18 h 30 sẽ cung cấp chứng cớ cho vụ này…(!?), bà vợ tôi bảo: Sao lần này ông buồn thế? Tôi bảo: Phải nói là rất buồn, nhưng nhờ có cuộc đi này mà tôi có thêm được những câu trả lời chính xác cho những người đã hỏi tôi ở phần đầu bài viết này. Và tôi lặng lẽ vào máy để trả lời cho thầy giáo dậy Lịch Sử mà bài viết này đã nhắc tới: “Cám ơn người bạn đồng nghiệp TQV. Đất nước và dân tộc đang trong cơn điêu linh và thử thách mà vẫn có những âu lo… mà bạn đã bày tỏ,là điều đáng mừng cho đất nước và cộng đồng. Tôi tin tưởng dân tộc này, đất nước này sẽ trường tồn, một khi sẽ ngày càng đông hơn những con người có tấm lòng với với sự nghiệp chung như bạn”. Hà Đông 6/8/2012 Nguyễn Thượng Long
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2012 8:05:58 GMT 9
Khi trái núi đẻ ra... "một đồng chí"Nguyễn Ngọc Giao “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc : Nói láo và làm bậy. Hễ họ nói là nói láo, hễ làm là làm bậy. Xin độc giả nhớ dùm cho như vậy“.(10) (10)Xuân Vũ, SĐD trang 335Sau này bất luận thế nào, có lẽ 15.10.2012 sẽ được ghi là ngày tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng -- và tập thể 174 đồng chí ủy viên trung ương của ông -- đi vào lịch sử bằng cổng sau. Hai tháng chuẩn bị thực hiện "nghị quyết 4" (về phê và tự phê), 3 tháng họp 4 đợt, rồi 15 ngày liên tục "Hội nghị Trung ương 6" (trong đó 5 ngày tập trung về NQ4), để rồi quyết nghị đầu voi đuôi chuột : "không kỉ luật" cả Bộ chính trị lẫn "một đồng chí ủy viên Bộ chính trị". Ngôn ngữ chính trị Việt Nam từ nay được làm giàu với những cụm từ "một đồng chí", mà mấy ngày sau, chủ tịch Trương Tấn Sang gọi là "đồng chí X". Đồng chí không được/bị nêu tên ấy, mọi người đều biết, chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người trực tiếp thành lập và chỉ đạo 18 tập đoàn kinh tế (Vinashin, Vinalines...) đang nợ như chúa chổm, và đã phung phí không biết bao nhiêu tài nguyên của đất nước. Ông Sang đã từng nói nạn tham nhũng không chỉ là "con sâu làm rầu nồi canh" mà là cả "một bầy sâu". Lần này, ông nói tới "tập đoàn" sâu. Dùng chữ "tập đoàn" (tuy không nói rõ con số 18), chắc ông Sang không vô tình lỡ lời. Thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng "xin lỗi toàn đảng, toàn dân" (nhiều người để ý ông nghẹn ngào khi nói mấy lời này). Mấy ngày sau, thủ tướng Dũng cũng nối điêu "nhận lỗi" trước Quốc hội. Đây không phải lần đầu, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam xin lỗi toàn dân. Lần trước, vào những ngày này năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải thay mặt Trung ương xin lỗi toàn dân về những sai lầm và tội ác trong cải cách ruộng đất. Chỉ khác một điều, năm ấy ông Lê Văn Lương đã bị đưa ra khỏi Bộ chính trị, ông Trường Chinh mất chức tổng bí thư. Bây giờ, có thể trách ĐCS vẫn chưa gột rửa hết những sai lầm của thời ấy, không từ đó rút ra một cách triệt để những bài học 1, nhưng ít nhất cuộc sửa sai cũng thực sự được tiến hành tuy không rốt ráo, và bước đầu, ĐCS đã phần nào thoát khỏi ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Mao. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch nước Trương Tấn Sang và "đồng chí X" (ảnh AFP) Marx, đâu đó, đã nhận xét : lịch sử thường lặp lại, lần thứ nhất, là một bi kịch, lần thứ hai, là một hài kịch. Xin lỗi mà quyết định "không kỉ luật" của Trung ương ĐCS và lời kêu gọi cán bộ phải "tự trọng" của ông Nguyễn Tấn Dũng, quả là hài hước hiếm thấy. Điều mà Marx không tiên liệu là hài kịch có thể diễn ra trong bối cảnh một thảm kịch khôn cùng. Trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị - xã hội chung của đất nước, với những đe dọa quân sự, kinh tế, nhân sự của Trung Quốc, chỉ cần nhìn tình hình kinh tế cũng đủ thấy rõ mức độ nguy kịch : * Hệ thống ngân hàng đang đối mặt với rủi ro hệ thống ngày càng cao. Có nguy cơ các ngân hàng sụp đổ hàng loạt, do nợ xấu chồng chất đến 200 ngàn tỷ đồng, trong đó 70 % là nợ của khu vực quốc doanh. Theo tác giả Tô Văn Trường : "Một số thông tin từ cơ quan tài chính, ngân hàng, từ IMF, ADB và báo chí ở Việt Nam cho chúng ta thấy với số liệu năm 2011 : tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước tương đương 52,2 tỷ USD, bằng 43% GDP, riêng phần doanh nghiệp nhà nước nợ các ngân hàng là 24,5 tỷ US, trong đó 47% là nợ xấu." (xem tại đây) 2. Khi chúng tôi viết những dòng này, được biết một phái đoàn của ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á) đang chuẩn bị tới Hà Nội để "báo động lần chót" về nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng. * Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước gây thất thoát đầu tư ngày càng trầm trọng thêm. Hiệu quả đầu tư công giảm mạnh : hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR : đầu tư / tổng sản lượng) không ngừng tăng và ở mức 7 – 8 trong thời chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (từ 2007 đến nay), trong khi thời các chính phủ Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải (1991-2006), hệ số ở mức 3,5 – 4 ; năm 2010, riêng khu vực quốc doanh có hệ số ICOR vượt 10 trong khi khu vực ngoài nhà nước có hệ số chưa đến 5. 18 tập đoàn kinh tế và cả trăm công ti con đã làm thất thoát tài nguyên đất nước (tài nguyên thiên nhiên, công quỹ và tín dụng, cướp đất của nông dân), tích lũy của cải trong tay một đẳng cấp tư sản đỏ mà cuộc sống sa hoa, vô văn hóa và vô sỉ là một khiêu khích hỗn xược đối với nhân dân đang phải bươn chải với vật giá leo thang, sản xuất ngưng trệ 3. * Luật đất đai đang tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương lấy lại đất của nông dân (kể cả cưỡng bức bằng bạo lực). Chỉ từ năm 2006 (Nguyễn Tấn Dũng nắm quyền thủ tướng) đến năm 2010, hai trăm ngàn ha đất nông nghiệp đã bị thu hồi cho các dự án khu công nghiệp, biệt thự, sân golf. Các vụ Tiên Lãng, Văn Giang... tiếp diễn trong khi HN6 vẫn ngoan cố duy trì luận điểm "đất đai là của toàn dân". * Lạm chi : Từ năm 2007 đến nay năm nào chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng chi nhiều hơn rất nhiều so với số Quốc hội thông qua, năm 2007 là 31%, năm 2008 là 29%, năm 2009 là 46%. Năm 2010 chưa được kết toán nhưng theo tờ trình sơ bộ của Bộ Tài chính thì chi vượt 11%. Trong tình hình ấy, lòng dân ra sao, ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng cũng thừa biết. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, trong cuộc họp Quân ủy Trung ương và gặp gỡ bốn chục tư lệnh sư đoàn, ông Trọng đã thông báo kết quả một cuộc thăm dò dư luận (không công bố) : tỉ lệ người dân vẫn tin tưởng ở "đảng và nhà nước" chỉ còn 30%. Sự thật còn đen tối hơn con số ấy vì nó là tổng của hai con số : 10% tin tưởng vào "lãnh đạo hiện nay", 20% vào "lãnh đạo đã từ trần". Chắc hẳn ông tổng bí thư đã vận dụng con số đáng sợ này để củng cố "tín điều" số một và duy nhất của bộ máy an ninh, quân sự : "còn đảng, còn chế độ, thì còn mình". "Bước đường cùng" dường như cũng là tâm trạng của 175 ủy viên trung ương tại Hội nghị 6, thúc đẩy họ "đoàn kết, thương yêu lẫn nhau", "chữa bệnh, cứu người". Nếu không, làm sao giải thích được những con số thoạt trông mâu thuẫn nhau một cách khó hiểu : - trong những cuộc thăm dò mức tín nhiệm đối với ông Nguyễn Tấn Dũng : 4/14 ở Bộ chính trị, 40/175 ở Ban chấp hành Trung ương - đến khi biểu quyết thông qua đề nghị "kỷ luật" (Bộ chính trị và cá nhân Nguyễn Tấn Dũng, đề nghị đã được Bộ chính trị "100% nhất trí"), thì 129 người (trên 175 ủy viên trung ương) bác bỏ. * Nhiều nhà bình luận đã để ý : Hội nghị Trung ương 6, các phát biểu và văn kiện đã công bố không hề đả động tới Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đã bao trùm lên cuộc họp. Hội nghị giữa chừng, có tin đại sứ Bắc Kinh đến gặp một phó thủ tướng. Và trước ngày hội nghị khai mạc là cuộc gặp ở Nam Ninh của phó chủ tịch Tập Cận Bình, người sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào trong vài ngày nữa, và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. 16 chữ vàng và 4 tốt, nay thêm phương châm "cà vạt cùng màu" (ảnh Chính phủ) Giới thân cận lãnh đạo ở Hà Nội không ngần ngại rỉ tai nhau, diễn dịch những động thái khác thường (ít nhất về thời điểm) ấy : bạn vàng phương bắc muốn giữ nguyên trạng quyền lực ở Hà Nội, và sẵn sàng cho vay 10 tỉ đô la nếu người anh em phương nam lún sâu vào cuộc khủng hoảng ngân hàng đã được báo trước. Thực hư không biết ra sao, chỉ biết thủ tướng Dũng đã hiên ngang tuyên bố " (sẽ) không cần đến sự giúp đỡ của IMF ". Hiên ngang không kém là những phiên tòa xử tù nặng, những cuộc bắt bớ, bắt cóc những người mang tội duy nhất là lên án chính sách hung hãn của Trung Quốc. Mọi dấu hiệu đều chứng tỏ : trong sự bất lực và bất cập, trong tâm trạng bất an về sự tồn vong của chính mình, đẳng cấp cầm quyền đã muốn quay lưng với đường lối đoàn kết dân tộc, con đường duy nhất để tăng cường nội lực quốc gia, bảo vệ chủ quyền, khắc phục khủng hoảng, và thay vào đó, họ tiếp tục lún sâu vào con đường lệ thuộc. Quá muộn rồi chăng ? Những ai luôn luôn lạc quan cũng như những ai bi quan cố hữu đều có sẵn câu trả lời. Nhưng có lẽ còn quá sớm để có căn cứ chính xác. Điều chắc chắn là xã hội Việt Nam không thể bị động ngồi chờ. Mấy năm qua, trong cuộc khủng hoảng của chế độ toàn trị, bất chấp mọi sự trấn áp, xã hội dân sự đã khẳng định sự tồn tại của mình, đã từng bước lên tiếng, đảm nhiệm chức năng xã hội công dân. Hơn lúc nào hết, sự trưởng thành của xã hội dân sự / công dân Việt Nam vừa là mục tiêu cấp bách của mọi người Việt Nam thiết tha với vận mệnh dân tộc, vừa là điều kiện để bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ lãnh thổ và biển đảo, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á, đưa đất nước vượt qua thử thách to lớn trước mắt. Nguyễn Ngọc Giao 24.10.2012 1 Bằng chứng là theo chứng từ của ông Trần Bạch Đằng và của những cán bộ lão thành thuộc Ban nông thôn miền Nam : năm 1964, ông Nguyễn Chí Thanh, lúc đó là bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã đưa ra chủ trương "phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để". Theo lời ông Nguyền Thành (Mười) Thơ (bí thư Khu ủy Khu IX, rồi Chủ tịch Ban nông thôn miền Nam), Cụ Hồ đã gửi điện vào Nam, nói đại ý : "Bác nghe Chú T. (tức là Nguyễn Chí Thanh) có chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện triệt để. Bác khuyên chú đừng làm, làm là sai, dứt khoát sai thôi". Sau đó, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã viết điện trả lời : "Chúng tôi có chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để. Bác cho là sai, không an tâm. Chúng tôi thi hành ý kiến Bác. Xin Bác yên tâm" và ra lệnh rút các đoàn đi thực nghiệm ở Bến Tre, Mỹ Tho và Bạc Liêu (xem Nguyễn Thành Thơ, Cuối đời nhớ lại, hồi ký, 2003, tr. 153-154, dẫn theo Đặng Phong : Kinh tế Miền Nam Việt Nam / Thời kỳ 1955-1975, nxb Khoa học xã hội, 2004, tr. 476-477). Tháng 2.2008, người viết bài này có dịp nêu câu chuyện ấy với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông "Sáu Dân" khẳng định chưa bao giờ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định có bàn về dự án "cải cách ruộng đất" này. Ông cho rằng có lẽ tướng Thanh nêu lên như một ý kiến cá nhân trong lúc trao đổi với cán bộ phụ trách nông thôn. Cho dù như vậy, bản thân việc tướng Thanh còn nuôi dưỡng ý tưởng điên cuồng ấy (gần 10 năm sau cuộc cải cách ruộng đất "long trời lở đất" ở miền Bắc) tự nó cũng mang rất nhiều ý nghĩa. Liên hệ với cuộc "cải tạo công thương nghiệp" ở miền Nam năm 1978, hai mươi năm sau cuộc "đánh tư sản" ở miền Bắc với những tác động tai hại (cũng vẫn do một người được phân công trực tiếp chỉ đạo là ông Đỗ Mười), ông Võ Văn Kiệt trầm ngâm nhận xét : Một khuyết tật lớn của Đảng là sau mỗi sai lầm, không phân tích đến nơi đến chốn, còn nể nang cho qua, nên dễ lặp lại sai lầm. 2 Cụ thể hơn, đây là bảng số liệu do nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt tập hợp từ các thông tin của IMF, ADB và báo chí Việt Nam : 3 xem Vũ Quang Việt : Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008 : sai lầm về chính sách (Tạp chí Thời Đại Mới)
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2012 6:42:01 GMT 9
Điệp Viên Công An Nguyễn Thiện Thành và Tuổi Trẻ Yêu Nước - Câu Lạc Bộ Kháng Chiến Sau khi công an biết được có một nhóm bạn trẻ có tên Tuổi Trẻ Yêu Nước được thành lập và sinh hoạt tại quốc nội, Nguyễn Thiện Thành (không phải tên thật) được công an gài vào Paltalk để liên lạc và xin gia nhập vào nhóm bạn trẻ nầy. Vì là một người ở quốc nội lại có tinh thần yêu nước và ăn nói rất "chống Trung Quốc" nên chiếm được lòng tin của mọi người, Thành đã nhanh chóng "thành công" trong việc gia nhập và tiếp xúc với nhóm TTYN nầy. Thành sinh năm 1985 (không phải 1989), vì muốn tiếp xúc với Nguyễn Phương Uyên, Thành được công an bố trí cài vào làm sinh viên năm thứ 2 của trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm thành Hồ nơi Uyên đang học. Cùng thời gian nầy Thành cũng gặp được nhiều bạn trẻ khác mà tiêu biểu là Trần Vũ Anh Bình và Đinh Nguyên Kha... Mỗi lần sinh hoạt nhóm thì Thành chính là người cung cấp tiền bạc cho TTYN và nói đó là tiền do anh em trên Paltalk đóng góp, Thành cho biết thêm là vì vấn đề "an ninh" nên giữ bí mật không tiết lộ nguồn tiền ở đâu. Sự thật không có ai ở Paltalk đóng tiền cho TTYN hoạt động và thành lập, thuê server cho trang mạng tuoitreyeunuoc.com Số tiền mà Thành luôn cung cấp cho TTYN hoạt động chính là tiền của công an. Phong trào TTYN bao gồm những sinh viên, thanh niên có tinh thần yêu nước thật sự chỉ nhằm mục đích duy nhất là chống Trung Quốc xâm lược nhưng lại được Thành "công an" cho thêm vào truyền đơn những lá Cờ Vàng của VNCH với nội dung "chống Đảng" để công an có được thêm chứng cớ truy tố sau nầy. Sau khi Thành nắm được toàn bộ danh sách và tin tức của các anh em TTYN thì công an bắt đầu chiến dịch truy tầm, càn quét. Ngày 03/01/2012 Nguyễn Thiện Thành được đài Phát Thanh Á Châu phỏng vấn cho biết: "Nguyễn Thiện Thành: Ngày 19 tháng 9 (2011), có khoảng là 40 công an họ ập vô nhà tôi, ập vô cái nhà trọ tôi lúc đó chỉ có hai anh em tôi ở nhà thôi. Họ tiến hành thu giữ cái máy điện toán của tôi và họ chở anh em tôi về phường Đông Hưng Thuận quận 12. Trưa ngày 20, tôi bị họ chở trên ô tô chuyên dụng vô đồn công an PA24 ở quận Bình Thạnh. Họ làm việc với tôi ở công an PA24, tối ngày 21 họ thả tôi ra. Có 4 công an theo tôi ngày đêm, canh gác ở nhà trọ tôi." Thành tuyên bố với đài Á Châu Tự Do là Thành đã gặp Trần Vũ Anh Bình trong PA24 lúc Thành bị bắt vào đó, thực sự là Thành vào đó để giám sát xem Trần Vũ Anh Bình đã cung khai với công an đầy đủ danh sách các em TTYN chưa. Nguyễn Thiện Thành cho biết đã "trốn thoát" lưới công an qua cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do: "Ngày 22 thì chiều tối thì tôi về tới nhà. Cũng may mắn cho tôi là nhà kế bên họ có đám cưới và cái khu phố tôi ở là đường hẻm, cho nên khi họ dựng rạp thì nó che úp trên cái cửa trước nhà tôi thì công an cũng gặp khó khăn cho họ vì ngồi trước cửa đó. Sau đó tôi mới lợi dụng tình hình, tôi mới mở cửa sau ra, leo qua cái hành lang của cái nhà kế bên rồi tôi trốn thoát. Tôi chạy lên đường Nguyễn Văn Quá tiếp giáp với quốc lộ 1A, tôi mượn điện thoại của người đi đường gọi cho anh em tôi tới đón tôi tới nơi bí mật." Nơi ở mà Thành cho là chỗ ở "bí mật" thật sự là tại trụ sở Công An Quận Bình Thạnh. Tại đây, Thành được Công An điều động để bắt thêm một mẻ chót là chiến dịch "M". Để có "Danh Chánh Ngôn Thuận" qua chỉ thị của công an, Thành nói láo là đang trốn ở Thái để lấy lòng tin rồi điều động các thành viên TTYN phát tán truyền đơn tại Cầu Vượt An Sương ngày 10/10/2012. Ngày 28/09/2012, Công An PA67 đã cho in một số truyền đơn có 4 nội dung chống Đảng và một số cờ Vàng VNCH. Em Đinh Nguyên Kha được Nguyễn Thiện Thành giao nhiệm vụ làm một thùng giấy Tự Động Mở Ra bằng PHÁO ĐẠI và nhang, khi nhang cháy tới tim pháo thì PHÁO sẽ nổ tung và thùng sẽ bể bung ra để truyền đơn rơi ra ngoài. Không đồng ý phương pháp nầy vì sợ nguy hiểm cho người khác nên em Đinh Nguyên Kha đã dùng phương pháp CƠ là lấy một máy trả phim VHS cũ để làm phương pháp mở tự động bằng CƠ thay vì dùng PHÁO ĐẠI như công an đề nghị. Nguyễn Phương Uyên được phân công làm nhiệm vụ chụp hình và quay phim. Thành nói với Uyên là làm xong những chuyện rải truyền đơn nầy, Uyên sẽ có được một số tiền để dành cho việc học. Để lấy lòng tin của Uyên, phía công an tìm cách gián tiếp đưa cho Uyên 5 triệu đồng, 2 triệu đồng là tiền công của Uyên, số tiền 3 triệu còn lại được đổi ra tiền 10 nghìn, 20 nghìn dùng để dán vào truyền đơn. Sau khi Nguyễn Phương Uyên bị bắt thì gần như toàn bộ số tiền nầy đã bị công an lấy lại. Ngày 10/10/2012 với sự điều động của CÔNG AN, chiến dịch "M" Cầu An Sương bắt đầu . Vào khoảng 7 giờ 15 sáng, thùng truyền đơn buộc vào thành cầu An Sương được mở bung ra thì "bỗng nhiên" ở gần đó đã có nhiều công an, dân phòng mai phục để lượm lại hết số truyền đơn và cờ Vàng. Những tấm hình mờ mờ ảo ảo (không phải do Uyên chụp) mà là của công an cung cấp được phát tán lên mạng cùng với tin tức và những bài viết láo như có một người "vô tình" đi ngang cầu An Sương trong thời điểm truyền đơn vừa rơi xuống, anh ta nhặt được một tờ truyền đơn nầy và tung hô sự thành công của TTYN. Ngày 14/10/2012, công an ập vào phòng trọ và bắt em Nguyễn Phương Uyên đưa về Long An để rồi bắt thêm em Đinh Nguyên Kha. Mãi tới ngày 03/11/2012 thì phía công an bắt đầu tung tin thất thiệt về nhóm TTYN. Công an cho biết là họ có bằng chứng bao gồm trên 2 kg "chất nổ" (PHÁO ĐẠI) mà họ đã TỰ cung cấp cho em Đinh Nguyên Kha để làm nhiệm vụ NỔ thùng truyền đơn. Tuy nhiên, phương pháp nầy không được các em đồng tình vì quá nguy hiểm cho người khác, nhưng phía công an lại không bỏ lỡ cơ hội nầy để ngụy tạo thêm chứng cớ rằng các em là KHỦNG BỐ. Công an đã từng làm chuyện vu khống như vậy trong vụ án BIA SƠN mới đây. Hiện nay Công An đang gài nhiều cán bộ tình báo trên Paltalk để gài bẫy những người yêu nước tại quốc nội có tinh thần chống Trung Quốc. Những tên công an nầy được huấn luyện chuyên nghiệp ăn nói rất "chống Trung Quốc" nên dễ được lòng tin của nhiều người.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 11, 2012 1:18:37 GMT 9
Vàng và máu 04/11/2012 Văn Quang
Xin long trọng minh xác ngay rằng bài này không có “nhã ý” chôm nguyên văn tiểu thuyết trinh thám rất nổi tiếng của nhà văn Thế Lữ từ thời Tự Lực Văn Đoàn xa xưa (*). Đây chỉ là sự trùng hợp với cái tiêu đề mà thôi. Bởi vàng vốn là máu của người dân Việt Nam ta từ ngàn xưa cho tới nay. Làm cả đời ky cóp được tí tiền, giành giụm để làm đủ thứ quan trọng trên đời. Hãy tạm kể có 3 thứ việc, cả đời ông bà ta thường lo nghĩ đến là tậu trâu, cưới vợ và làm nhà. Ngoài ra, các cụ còn muốn thực hiện “nghĩa vụ cao cả” của các bậc sinh thành đối với con cái như cho con gái có chút của hồi môn khi lập gia đình, chia của cho các con trước khi nằm xuống về với tổ tiên… Cũng như nhiều quốc gia Á Châu, vàng ở Ấn Độ cho đến nay vẫn là thứ trang sức nhiều giá trị (của hồi môn, tích trữ, chứng tỏ đẳng cấp giàu nghèo...). Ở Trung Quốc xưa và nay, vàng là bản vị của sự tiết kiệm, lặng lẽ vươn lên để trở thành “tiểu gia”, “đại gia” của người dân. Vậy nên, vàng được coi là một phần máu thịt của người dân, có thể nói đó cũng là nét đặc thù của văn hóa phương Đông.
Những “tử huyệt” của nền kinh tế Việt Vàng ngày nay vẫn giữ nguyên những giá trị then chốt đó trong hầu hết những gia đình người Việt, bất kể là quan hay dân, miễn là có tí tiền tích cóp được. Tôi không kể đến những nhà tài phiệt, những quan tham, những “đại gia vĩ đại” do thời thế tạo nên, họ có đủ cách để giữ tiền qua các ngân hàng nước ngoài, tích trữ từng bó đô la như bó rau muống. Tuy nhiên, vàng vẫn có một vị trí vững vàng trong két sắt của họ. Khi đồng tiền mất giá, tất cả những kiểu tiết kiệm, kiểu làm ăn không sinh lời, nhiều rủi ro thì cất vàng trong tủ, chôn vàng dưới nền nhà là cách an toàn nhất. Tất cả là do mất niềm tin vào những đổi thay của nền kinh tế suy thoái chung trên toàn thế giới và nhất là tại Việt Nam. Từ biện pháp hành chánh này đến biện pháp hành chánh khác tung ra để cứu vãn lạm phát, cứu vãn cái kho nợ xấu khổng lồ của hầu hết các ngân hàng, cứu vãn những doanh nghiệp nằm chết trên đống vàng gồm hàng loạt nhà cửa đồ sộ làm ra rồi không bán được hoặc cứu vãn những cái kho chứa đầy hàng sản xuất ra nằm ế mốc ế meo. Rồi cứu vãn 400 tấn vàng (hay cả ngàn tấn, không có cách gì kiểm tra hết) nằm chết trong dân làm cho tài khóa không lưu thông, tiền thiếu, vàng thừa nhưng không huy động được… Bằng ấy cái mà nhiều nhà kinh tế học, thích nói chuyện “kinh tế vĩ mô”, gọi là “tử huyệt của nền kinh tế Việt Nam”. Những “tử huyệt” đó đang làm đau đầu, bấn xúc xích những chuyên gia, những bộ trưởng chịu trách nhiệm về nền kinh tế tài chánh của Việt Nam. Quốc Hội có quá nhiều vấn đề vô cùng quan trọng để thảo luận, để xem xét và để tìm ra quyết sách. Một số lớn người dân ít phải lo đến cơm gạo áo tiền hàng ngày, theo dõi kết quả cụ thể của những vị đại diện cho dân đã làm được những gì, sẽ làm những gì và họ “tiên đoán” tương lai sẽ ra sao. Từ đó họ có niềm tin hay không. Người dân có cảm tưởng Quốc Hội hiện nay đang bị tràn ngập về những “tệ nạn” như bệnh kinh niên tham nhũng trở nên “quá xá” rồi, tưởng như ung thư đến thời kỳ thứ tư, vô phương chạy chữa. Đến chuyện những con đập vỡ làm người dân hoảng hốt chỉ lo ôm đồ chạy. Rồi đến chuyện bỏ phiếu tín nhiệm mở đường cho “văn hóa từ chức” và bãi chức, chuyện lấy tiền đâu tăng lương… Quả là “một rừng” công việc, nặng như trái núi đang làm ngăn trở sự tiến hóa của dân tộc mà những ông đai biểu cho dân phải giải quyết. Nhưng ở đây, tôi chỉ điểm lại những vấn đề về “vàng và máu” như tiêu đề đã nêu. Nhà nước độc quyền vàng, dân chịu thiệt nặng Người dân đi mua vàng, ai cũng biết vàng SJC có thương hiệu uy tín và có thị phần lớn từ rất nhiều năm nay. Nhưng không phải ai cũng mua vàng có nhãn hiệu SJC. Người dân còn mua nhiều nhãn hiệu khác như AAA, PNJ, SBJ, Rồng Thăng Long của Cty Bảo Tín Minh Châu, giá cả chỉ hơn kém nhau chút ít không thành vấn đề. Vàng nào cũng là vàng, mỗi khi cần tiêu, chỉ việc mang ra các cửa tiệm vàng bán lại là xong. Nếu cẩn thận hơn, họ mang hóa đơn, có khi không cần hóa đơn, đến cửa tiệm mua vàng cũ, bán lại. Khi có lời, khi thiệt vài ba trăm ngàn tùy theo thời giá. Nếu Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) để thị trường tự quyết định thì sẽ không có gì xáo trộn. Việc nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng là hợp lý nhưng sau khi chọn SJC là đơn vị gia công duy nhất vô tình tạo tâm lý rằng chỉ có vàng miếng SJC là được tin cậy, còn các thương hiệu khác là “đồ bỏ”. Điều này khiến thị trường xáo trộn với hàng loạt hành động sùng bái vàng SJC. Người dân tá hỏa tam tinh, nôn nóng chuyển đổi vàng “phi” SJC (tức là vàng không mang nhãn hiệu SJC) sang SJC, chen nhau đi kiểm định vàng. Rất dễ hiểu, đang có vàng trong tay bỗng chốc trở thành… vàng không có giá trị bởi không phải là vàng SJC. Ai mà không đau, ai mà không hoảng hốt. TS Nguyễn Đại Lai, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, đã ví von: “Nếu giá trị của vàng trên thế giới được đo bằng tuổi vàng thì với thị trường vàng trong nước, do cơ chế cấm “nửa vời” nên tuổi của vàng miếng không quan trọng bằng miếng vàng đó mang nhãn hiệu gì. Vàng SJC như được khoác trước “chiếc áo vinh quang” sẽ trở thành vàng chính hiệu “SBV” - là thương hiệu của NHNN…”.
Vừa mất thì giờ vừa bất an Ngay cả chuyện chuyển đổi vàng miếng cũng khiến dân mệt mỏi. NHNN nhiều lần khẳng định vàng các thương hiệu khác được chuyển đổi dễ dàng. Thực tế không như vậy. Người dân đổ xô đến dập vàng thì cũng phải chờ đợi phiền phức, bởi phải chờ SJC kiểm định. Thị trường đâm ra khan hiếm vàng SJC trong khi vàng các thương hiệu khác thì số phận hẩm hiu. Rồi khi thị trường suốt hai tuần liền xuất hiện hàng trăm miếng vàng làm giả thương hiệu SJC thì đến ngày 25-10, Phó Thống Đốc NHNN Lê Minh Hưng mới khẳng định: “Các thương hiệu vàng miếng khác đã được cấp phép vẫn được lưu thông bình thường. Do đó, việc có chuyển đổi sang vàng SJC hay không là quyền của người sở hữu, người dân cần bình tĩnh trước các thông tin, cân nhắc cẩn thận để tránh thiệt hại cho mình”. Nói vậy nhưng liệu có người dân nào đi chọn mua một thứ tài sản vàng “phi” SJC để vừa mất lợi nhuận lại vừa gánh chịu những việc “tào lao” khác. Người dân vừa mất thời gian chuyển đổi, tinh thần lại bất an.
Nảy sinh ba lần thiệt hại - Dân thiệt lần đầu tiên khi thông tin sẽ chỉ còn tồn tại duy nhất thương hiệu vàng miếng SJC trên thị trường. Thời điểm đó, dù chưa tuyên bố chính thức nhưng các thương hiệu vàng miếng không phải SJC ngay lập tức mất giá hàng triệu đồng một lượng so với vàng miếng SJC. Người có các loại vàng miếng này ngậm ngùi chấp nhận thiệt thòi, đành phải đi đổi sang vàng SJC cho “chắc ăn”. Đến khi việc độc quyền được chính thức, dù NHNN khẳng định, vàng phi SJC được bảo đảm giá trị nhưng trên thị trường, mức chênh lệch cao giữa 2 loại vàng vẫn duy trì. Những người “có gan” giữ vàng miếng không phải SJC cuối cùng, buộc phải chấp nhận thiệt hại để đổi vàng. - Thiệt hại lần thứ 2 đến từ việc giá vàng trong nước luôn cao hơn thế giới từ 2-3 triệu đồng do cung không đủ cầu. Điều này là đương nhiên khi hàng chục cơ sở sản xuất vàng miếng buộc phải đóng cửa để SJC “một mình một chợ” sản xuất và cung cấp vàng miếng. Với mức chênh lệch này, những người có thói quen tích trữ vàng, các nhà đầu tư vàng trong nước phải đối diện với rủi ro cực lớn khi giá vàng đột ngột đổi chiều hay biến động mạnh. Thậm chí, nếu nhà độc quyền muốn làm giá, cố tình tạo khan hiếm giả, cung cấp nhỏ giọt thì người dân cũng bó tay. - Thiệt hại thứ 3 là mua nhầm vàng nhái, làm giả SJC. Chỉ trong ít ngày, đã phát hiện gần 470 lượng vàng nhái, giả SJC, hầu hết do người dân mang đến. Đây là kết quả của việc độc quyền nhưng thiếu chuẩn bị về năng lực cung cấp cũng như giám sát của cơ quan quản lý. Lợi dụng cơ hội này, một bọn bất lương đã tận dụng tối đa chênh lệch giá giữa vàng SJC với vàng phi SJC; giữa vàng SJC với vàng thế giới để tung ra thị trường các loại vàng giả SJC kiếm lợi. Chỉ tội người dân, ngay cả nhà sản xuất, các chuyên gia vàng còn khó phân biệt giữa vàng SJC thật và sao chép nhãn hiệu, vàng giả thì họ làm sao biết được thật và giả. Đành một lần nữa chấp nhận thiệt thòi. Đó mới chỉ là thiệt hại cụ thể về tài chính, còn rất nhiều những thiệt hại về thời gian, công sức, tâm lý hoang mang của người dân, lãng phí của xã hội cũng như những rối ren xảy ra trên thị trường chưa thể đong đếm được.
Một số công ty kinh doanh vàng bạc kiếm lời bạc tỉ Người thiệt tất nhiên sẽ có người hưởng lợi. Đó là những đơn vị hốt siêu lợi nhuận từ việc được NHNN cho phép dập lại vàng miếng phi SJC thành vàng miếng SJC. Như đã nói trên, chênh lệch giữa vàng miếng phi SJC và SJC trên thị trường cao tới 3 triệu đồng một lượng, thấp cũng cả triệu đồng một lượng. Chỉ cần dập lại, bán sang tay, họ kiếm lợi trung bình 2 - 3 triệu đồng/lượng vàng. Với 350.000 lượng vàng đầu tiên cho phép dập lại, số lợi từ chênh lệch này là khổng lồ. Cơn hoang mang trong cộng đồng mà người dân vốn nổi tiếng thích cất giữ vàng hàng đầu thế giới. Hàng loạt người dân đổ xô đến thẩm định và ép lại vỏ bao tại công ty SJC. Nếu không may vàng đó là không phải là SJC, số phận của nó sẽ là bị cắt ra, sau đó được bán với giá vàng nguyên liệu, tất nhiên là thiệt mất đến 2-3 triệu một lượng. Trường hợp xấu hơn nữa, chủ nhân sẽ phải giao nộp vàng cho cơ quan công an giải quyết. Khi hiện tượng vàng giả thương hiệu manh nha xuất hiện, người dân đã được khuyên nên giao dịch tại các cơ sở uy tín, trong đó có ngân hàng. Nhưng vấn đề trái khoáy là, theo thông tin từ một nhà lãnh đạo Cty SJC miền Bắc thì đến nay, đa phần lượng vàng SJC giả mà đơn vị này phát hiện đến từ... các ngân hàng. Đến các ngân hàng cũng còn chưa có nghiệp vụ kiểm định vàng, thì người dân “mắt thịt” lấy đâu ra cái khả năng siêu phàm để nhận diện vàng giả. Mọi hậu quả sẽ rơi vào người mua phải vàng giả SJC.
Độc quyền “toàn tập” “Chiếc áo” SJC sẽ làm nên rất nhiều thứ. Không có cái áo đó (hoặc áo giả), những miếng vàng dù phẩm chất, tuổi vàng không hề “thua chị kém em” cũng sẽ bỗng dưng trở thành một loại “con ghẻ” bị hờ hững, xua đuổi. Chỗ dựa cho quyền lực của chiếc áo là các chính sách cho phép sự độc quyền “toàn tập” - độc quyền nhập cảng, độc quyền sản xuất, độc quyền thương hiệu và giờ là độc quyền kiểm định vàng. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra cơ chế độc quyền này không giúp loại bỏ sự chênh lệch vô lý giữa giá vàng Việt Nam so với thế giới, mà còn tạo khan hiếm giả, đẩy người dân vào thế cầu cạnh, chịu thiệt. Không chỉ có thế, vị đứng đầu doanh nghiệp SJC, cách đây vài hôm còn cho biết sự phức tạp trong quy trình xin NHNN dập lại vàng SJC móp méo. Vị này cho biết: “Nếu cứ tiếp tục “xin – cho” thế này, chúng tôi sẽ ngưng mua vàng móp méo!”. Nếu cả cái cửa “xin - cho” này cũng đóng lại với người dân, thì tình hình sẽ còn rối loạn đến mức nào?
Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam nhận lỗi về bất ổn thị trường vàng Giải trình trước Quốc hội trong kỳ họp sáng 31-10-2012, về những bất bình trong quản lý kinh doanh vàng miếng suốt thời gian qua, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình nói: “Tôi xin thay mặt cho NHNN nhận trách nhiệm về việc không làm tốt thông tin truyền thông để phổ biến kịp thời những nội dung về chủ trương chính sách của Nhà Nước trong vấn đề quản lý thị trường vàng. Do đó, còn nhiều thông tin chưa đầy đủ và chính xác gây nên những cách hiểu không đúng và bất ổn trên thị trường”. Sau phần xin lỗi, ông Bình khẳng định: “Không có chuyện bắt buộc chuyển đổi từ mác vàng miếng này sang vàng miếng khác. Các loại vàng miếng đã được cấp phép vẫn được lưu hành bình thường”. Phân trần về “sai sót” của mình, ông Bình cho biết từ ngày 25-5, tất cả các đơn vị dập vàng miếng, kể cả Công ty SJC, đều chấm dứt dập vàng miếng. Kể từ lúc đó, chỉ có NHNN thực hiện vai trò độc quyền Nhà Nước được dập vàng miếng và NHNN chọn mác vàng SJC là mác vàng của NHNN. Thực tế, vàng SJC đến thời điểm hiện nay đã chiếm tới khoảng 93% - 95% thị phần vàng miếng toàn quốc. Để tránh xáo trộn trên thị trường vàng miếng cũng như chi phí phải dập lại, NHNN sử dụng luôn mác đó và độc quyền Nhà Nước về mác đó chứ không có Công ty SJC nào được dập vàng miếng SJC nữa. Tuy nhiên, theo quy định của Nghị Định 24, kể từ sau ngày 25-4, tất cả các loại vàng miếng mà trước đây đã được cấp phép dập vàng miếng đều được phép lưu hành bình thường. Cũng theo ông Bình, nền kinh tế Việt Nam có khoảng từ 300 - 400 tấn vàng, tương đương 15-20 tỉ Mỹ kim bị chôn chặt vào vàng. Mỗi khi giá vàng biến động làm ảnh hưởng đến tỉ giá thông qua hoạt động nhập cảng lậu vàng gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập cảng và gián tiếp làm cho lạm phát tăng cao trong những năm qua, tạo ra sự bất ổn của kinh tế vĩ mô. Từ tháng 5 đến nay, hệ thống ngân hàng đã mua lại được 60 tấn vàng (khoảng 3 tỉ Mỹ kim) từ nền kinh tế.
Phản ứng của người dân Lời xin lỗi của ông Thống Đốc NHNN xem ra rất nhẹ nhàng. Lỗi là do “không làm tốt thông tin truyền thông để phổ biến kịp thời những nội dung về chủ trương chính sách của Nhà Nước trong vấn đề quản lý thị trường vàng”. Không biết ông thống đốc có biết đến nỗi lo cháy lòng vì những thiệt hại tiền tỷ của người dân khi chạy nháo nhào chuyển đổi từ vàng mang các nhãn mác sang SJC không và cả những người mua phải vàng sao chép nhãn SJC, vàng giả nữa? Hơn thế, ông có đọc được những phản ứng gay gắt của người dân chung quanh sự kiện này không? Xin nhắc lại một số trong hàng ngàn ý kiến đó trên hầu hết các trang báo Việt Nam: - Độc giả Phung Khanh giãi bày: “Những người dân bình thường như chúng tôi, bao năm lao động tích cóp được ít tiền để chuẩn bị làm nhà, chuẩn bị cho con cái, rồi lo cho tuổi già... Vậy mà gửi tiết kiệm vào ngân hàng rồi chỉ trong thời gian giá trị đã bị bốc hơi. Thực sự xót xa mà chẳng thể làm gì, chẳng biết kêu ai. Không tin tưởng vào việc gửi tiết kiệm đành mua ít vàng cho an toàn, rồi cũng do chính sách điều hành quản lý vàng, cuối cùng người dân cũng thua thiệt. Muốn điều hành gì trước hết hãy nghĩ đến hàng triệu người dân lao động bình thường. Chúng tôi thật khó mong được lợi gì ở việc điều chỉnh các chính sách như vừa rồi, chỉ mong được bảo toàn giá trị sức lao động của mình đã bỏ ra. Vàng chính là máu thịt của người dân chúng tôi”. - Độc giả Hoàng Huy đề nghị: “Không được dùng mệnh lệnh hành chính để làm méo mó hoạt động mua bán vàng. Hãy để cho cơ chế thị trường quyết định. Người dân sẽ tự quyết định dự trữ tài sản của mình theo cách nào, miễn là nó mang lại lợi ích. Ngân hàng là đơn vị kinh doanh tiền tệ, phải có chiến lược phù hợp nếu muốn huy động vàng để làm lợi cho hoạt động kinh doanh của mình”. - Độc giả Hai Hậu nhận xét: “Ngân hàng nhà nước là cơ quan phải chịu trách nhiệm trong cảnh bát nháo của vàng hiện tại. Cứ xem chương trình VTV1 và trả lời phỏng vấn của ông Lê Hùng Dũng thì ta nhận ra rằng tất cả các yếu kém của NHNN là mầm mống phát sinh ra hiện trạng này. Trong khi nền kinh tế đang chao đảo vì khủng hoảng thì NHNN lại tung ra những cú đột phá khiến thị trường càng thêm rối bời”.
Của để dành cũng bị các ông làm cho khốn đốn Để kết luận cho bài viết này, mong Thống Đốc NHNN VN vui lòng đọc những lời tâm sự này của bạn đọc Cong Quang trên báo Dân Trí: “Cho phép tôi được nói thẳng: SJC là đơn vị vô trách nhiệm nhất trong nền kinh tế nước ta. Vì sao mà người dân mua 1 món hàng dù nhỏ nhưng đơn vị sản xuất cũng cấp cho người mua phiếu bảo hành với đầy đủ thông tin như số seri, số lô, ngày sản xuất. Vậy mà SJC bán vàng mà không có giấy chứng nhận gì kèm theo dù trên miếng vàng có mã số nhận dạng. Lẽ ra nếu SJC có trách nhiệm họ sẽ kèm theo giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa tương tự như phiếu bảo hành trên các sản phẩm điện máy đi kèm với miếng vàng mà họ cung cấp ra thị trường thì làm gì có chuyện vàng nhái như hiện giờ. Vì vậy theo tôi SJC phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với số vàng nhái hiện có trên thị trường chứ không thể né tránh như hiện nay. Đơn giản là vì vàng là tài sản lớn của người dân không thể nói 1 câu không phải SJC rồi cắt đôi và giao lại cho người dân đi bán ngoài thị trường. Các ông quá xem thường tài sản của nhân dân và luôn đẩy dân vào cảnh khó vì sự vô trách nhiệm của chính các ông. Người dân đã quá mệt mỏi với bao vấn đề về cơm áo gạo tiền giờ đến lượt của để dành cũng bị các ông làm cho khốn đốn. Làm dân Việt Nam sao mà khổ thế còn làm quan ở ta thì sướng không gì bằng: cái gì không quản được thì cấm, cái gì ngon ăn thì độc quyền bỏ mặc bao nỗi khổ cho dân”. Khỏi cần bình luận gì thêm sau khi đọc những lời tâm sự cháy lòng của người dân. - (VQ)
02-11-2012
(*) “Vàng và máu” là tập truyện đầu tiên của Thế Lữ(1934), là tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của ông ở thể loại trinh thám, đã trở thành một hiện tượng mới lạ ngay từ khi ra đời và để lại dư âm đến nhiều năm sau. Văn Quang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 9:01:55 GMT 9
Dốt nát như thế, giảng bài không xấu hổ sao?Đại tá Trần Đăng Thanh Cái sự dốt ngút ngàn, trùng điệp của quan chức ta lâu nay giống như mùa rươi, nhiều đến nỗi chán đến mức không thể đếm và không muốn bàn thêm nữa… Thế nhưng, đọc bài giảng của ông TĐT thì quả là quá sức chịu đựng – thần kinh căng thẳng gần như sắp bị đột quỵ vì không thể nào tưởng tượng nổi một người kém cỏi và u mê đến thế vẫn có thể giảng bài cho những “siêu nhân” của nghệ thuật giảng bài? Mọi giới hạn của lòng tự trọng và tính khiêm tốn, sự đúng mực của hiểu biết đều bị biến thành trò hề chính trị thích bỡn cợt với nỗi đau của 90 triệu con người… Như đã nói ở trên, những cái sai của TĐT là nhiều như rươi – “Con rươi ‘nở’ giữa bầy rươi/loằng ngoằng kiếm chác trêu ngươi cuộc đời”, nên không thể kể cho hết, chỉ xin nêu ra mấy loại sai không thể dung thứ sau đây.1.Kiến thức đa phần sai bét sai be Ông TĐT cho rằng GDP của Mỹ năm 2011 là 14.700 tỷ USD, gấp ta khoảng 150 lần (?) Nói như thế có khác gì ông TĐT cho rằng các số liệu mà Đảng và Nhà nước ta công bố là nói khống, bởi theo thông tin chính thức, GDP VN năm 2011 là 122 (126?) tỷ USD; còn theo ông TĐT chỉ là… 98 tỷ USD (!). Chẳng lẽ ông TĐT nghĩ và tin rằng 30 tỷ USD dư ra đó là sự dối lừa chăng? Ông TĐT nói rằng Biển Đông lớn thứ hai thế giới “sau Địa Trung Hải”. Chẳng lẽ ông không hề xấu hổ một chút nào khi cái kiến thức sơ đẳng về biển, trẻ lớp 3 nó bấm ‘clốc’ là ra liền: Biển Philippines có diện tích 5,177 triệu km2, Biển Coral 4,791 triệu km2, Biển Ả rập 3,862 triệu km2, Biển Đông 3,537 triệu km2 – còn Địa Trung Hải mà TĐT nói lớn nhất thế giới chỉ có… 2,510 triệu km2 (!) Ông còn nhầm tệ hại khi ghép Vịnh Thái Lan thuộc Biển Đông! Mang danh là Đại tá mà kiến thức quân sự của ông TĐT chưa bằng một học sinh phổ thông. Căn cứ vào đâu để ông nói rằng 90% tiếp tế hậu cần – kỹ thuật của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ là “qua Biển Đông”? Chẳng lẽ Mỹ lấy đồ tiếp tế từ các nước Đông Nam Á hay Ấn Độ chắc, hay là nó cho tàu bè chở ngược từ Đại Tây Dương để qua châu Âu, vòng qua châu Phi, qua Ấn Độ Dương để băng qua Biển Đông rồi mới đến Guam? Lệnh “cấm” đánh bắt cá quái gở của TQ năm nào cũng từ 16.5 đến 1.8 mà ông không biết sao? Nếu biết sao ông lại nói từ 1.6? Muốn nịnh TQ bá quyền nhưng ông TĐT toàn sai, ông quên mất rằng khen ai đó mà khen không đúng là mặc nhiên trở thành kẻ thù của người ta đó, thưa ông. Hoàng đế Phổ Nghi thoái vị ngày 12.2.1912, chứ không phải năm 1911; và, cái thời Thương – Ân chẳng có đủ chữ (vì nó còn sơ khai lắm với các văn bản khắc trên xương quạt trâu bò hay mai rùa) nên không thể có cuốn sách nào của Khương Tử Nha viết năm 1776 tr.CN. Thực ra, có một Khương Tử Nha thật, tức Tề Thái Công, nhưng ông ta sống vào vào thế kỷ XI tr.CN (khoảng 1045 – 1015 tr.CN). Như vậy, ông TĐT đã nhầm lẫn rất, rất chi là chân thành (vì nói đi nói lại chắc như đinh) có hơn… 600 năm chơ mấy(!) Hay ông TĐT nghĩ ‘Khương’ với ‘Thương’ là một?… v.v. và v.v… 2.Ấu trĩ đến mức thảm hại Nói chuyện Tàu từ xưa đến nay mà ông chẳng hiểu dẫu chỉ là một chút về cái thâm hiểm, nguy hiểm khôn cùng của chủ nghĩa Đại Hán. Ông cho rằng Tàu nó vừa bắt tay ta vừa đá lung tung ư? Xin thưa với ông, chỉ có ông mới đá, mới múa may lung tung như một kẻ khùng chứ Tàu nó đã đá thì đá cú nào chắc chắn trúng chỗ hiểm cú đó. Ông nghĩ một nước cờ, nó tính đủ 30 nước mà ông sẽ đi; nó gài bẫy tinh vi, ác độc đến mức muốn giãy không thể nào giãy nổi bởi những sai lầm của ông hôm nay là bắt buộc tiếp tục sai từ cái sai những 20 năm, 30 năm trước ông ạ. Ông coi thường “nguyên khí quốc gia” (như ông nói) một cách đáng phẫn nộ: Nói chuyện với tinh hoa trí tuệ của Thủ đô Hà Nội mà ông “dọn món” cơm thiu ôi với các hình ảnh lấy từ năm 2009 (!) Đó là chưa nói chuyện ông khinh khi quá quắt khi oang oang hợm hĩnh rằng “báo cáo các đồng chí nước Mỹ đến năm 2011 tên của họ vẫn không có gì thay đổi, vẫn là Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Rồi dân số nước Mỹ hiện nay đến năm 2011 là 301 triệu người dân…”. Nói như thế chẳng khác gì nói “báo cáo các đồng chí tình hình tên gọi không có gì thay đổi, bé trai có chim và bé gái thì có bướm”. Xin thưa với ông là CHÚNG chứ không phải ‘chủng’ và dân số Mỹ đến 31.12.2010 là 308,6 triệu người. Số liệu công bố đầy dẫy mà ông không biết chứng tỏ ông có đọc bao giờ đâu! Ông đã chứng tỏ cái dốt tệ dốt hại của ông về kiến thức trong mọi điều ông nói nhưng có lẽ điển hình nhất là việc ông nói Mỹ thực hiện công thức 10-30-30 (!). Từ thuở biết đọc đến giờ tôi chưa hề biết có cái nước nào trên thế giới chuẩn bị chiến tranh trong vòng… 10 ngày (!)? Đó là cách chuẩn bị của của “tinh hoa quân sự” là ông chăng? Dù là “chiến tranh” để chiếm đất của nhà hàng xóm cũng phải nhiều hơn 10 ngày chuẩn bị, thưa ông Đại tá, PGS.TS.NGƯT rất chi là… Căn cứ vào đâu để ông khẳng định Mỹ đóng quân ở Nhật Bản, Hàn Quốc thì hai nước đó phải nuôi từ A đến Z? Ông cứ nói xằng nói bậy như thế mà dám thay mặt QĐND VN anh hùng để giáo huấn cho tinh hoa trí thức nước nhà ư? Căn cứ vào đâu để ông nói Yeltsin công bố sắc lệnh không trả lương hưu cho những người đã tham gia chính quyền cũ? Vậy là hàng chục triệu người Nga đã chết đói cả rồi sao? Chính xác là bao nhiêu người chết, chết như thế nào – bởi chắc chắn là họ không có điều kiện tham nhũng như ở ta và cũng không đi ăn cướp của dân đâu ông. V.v và v.v… 3.Lú lẫn về ân nghĩa – bạn – thù Ông TĐT cho rằng chúng ta không được quên “ƠN” TQ đã “giúp” VN trong chiến tranh, sao ông không hỏi lại TQ mang ơn nhân dân VN những gì? Ví dụ, trong Chiến tranh thế giới Hai, Mỹ viện trợ cho Liên Xô 11 tỷ USD để chống lại phát xít Đức (được cụ thể hóa bằng hàng trăm ngàn máy bay, xe tăng, đại bác, xe vận tải…) không có nghĩa là LX phải mang ơn mà chính ra là ngược lại: Người Nga hy sinh 27 triệu người trong khi Mỹ chỉ mất có 343.000 người (!). Mặt khác, ông TĐT đã lú lẫn tuyệt đối khi không hề đánh giá tội ác của quân xâm lược TQ gây ra với VN năm 1974, 1979, 1988…, mà lại đánh giá tội ác của Mỹ là “trời không dung đất không tha”? Đã là tội ác thì trời không bao giờ dung, đất chẳng bao giờ tha mà chỉ có con người có thể xóa bỏ hận thù hay không mà thôi. Xin hỏi ông TĐT rằng “tiêu chí” để đánh giá tội ác là căn cứ vào mốc thời gian (gần – xa) hay số lượng, hay hành vi, cách thức gây ác? Về thời gian, tội của quân xâm lược TQ gây ra với VN gần hơn Mỹ. Về số lượng thì chỉ riêng tội ác làm chết 57,5 triệu người dân TQ (theo số liệu của chính ông TĐT trong bài giảng này) đã gần bằng toàn bộ số người chết trong cuộc Chiến tranh thế giới Hai rồi – đó là chưa nói chuyện ngưởi TQ giết người TQ. Ông TĐT cho rằng đó là tội của Mao (?) Thưa ông, đó là tội ác của ĐCS TQ chứ một mình Mao sao có thể giết nhiều người thế? Ông cố tình đổi trắng thay đen khi nói về tội ác ấy bằng cách đổ sai cho một người (Mao) nhằm biện minh cho giả thiết “lòng tốt” của “anh bạn vàng” ư? Về hành vi, trên đời này có bao giờ có anh bạn của chúng ta (từ của TĐT) nào nhân khi bạn mình mới thương hàn ốm dậy (sau 30.4.1975) lại tìm đến đánh vùi, đánh lấp cho tàn hại thêm không? Trên thế giới, cách hành xử tàn nhẫn đến tận cùng như thế, chỉ có thiên đường XHCN TQ mới đối xử với CNXH VN kiểu đó thôi, thưa ông. Và, cũng nhấn mạnh thêm rằng, chẳng có chính quyền nào dùng xe tăng để chà lên sinh viên như TQ, năm 1979. Con em họ mà họ còn dã man, táng tận lương tâm đến thế, chẳng lẽ ông và không ít người nữa còn hy vọng vào “lòng tốt” của anh bạn hay “đá lung tung” ư? 4. Ông TĐT chống lại Đảng và Nhà nước Cả lịch sử dân tộc VN hào hùng, vĩ đại như thế mà ông viết có 39 TRANG thì chẳng khác gì ông sổ toẹt tất cả những cuốn lịch sử khác – chỉ tính riêng lịch sử Đảng CSVN đã dày hàng trăm trang rồi. Ông còn tự hào, huênh hoang là nhiều người đòi ông in thành sách, và ông dám kêu gọi các thầy cô giáo ngồi nghe ông nói, đem 39 trang A4 đó về photo phát cho sinh viên, đừng mất công học những sách sử dài dòng làm gì, chẳng phải là đang chống lại Đảng sao? Trong khi hàng vạn con ông cháu cha đang theo học ở các trường đại học của Mỹ mà ông nói là Mỹ đang phá hoại chúng ta về giáo dục, chẳng khác gì ông vả vào mặt nhiều lãnh đạo của Đảng đang có con học ở Mỹ, ở thế giới giãy chết. Chẳng hạn, ‘thực dân Anh’ (như ông nói) đã góp phần đào tạo nên Ủy viên Ban Chấp hành TƯ Đoàn TNCS HCM đó thôi. Không thể phủ nhận tài năng, hiệu quả của nền giáo dục “thực dân Anh” khi nó đào tạo một đứa trẻ 14 tuổi, sau 7 năm, thành ra cán bộ đoàn cao cấp của CNXH. Vậy, sao lại còn rủa sả thành công ấy; hay là, ông giương đông kích tây, muốn gài thế cán bộ đó? Ông cố tình phá hoại khối đoàn kết VN – Cămpuchia khi ông nói rằng “Vùng Tây Nam Bộ thì xin thưa với các đồng chí đây là vùng Tây Nam Bộ, nó rất phức tạp. Báo cáo các đồng chí nó liên quan đến đảo Cổ Tru, đảo Phú Quốc v.v… Đây cái đảo Phú Quốc của chúng ta. Đây là vùng nước lịch sử mà Việt Nam ký với Campuchia năm 1982. Tại sao chúng ta ký được? Sau năm 1978 chúng ta cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi ách diệt chủng cho nên vùng nước lịch sử là như vậy. Thưa các đồng chí, hiện nay họ lại đang đòi, họ lại đang ý kiến và hiện nay chúng ta phải dựa vào cái đường Bre-vơ. Cái đường này mới là cái đường quan trọng. Cái đường này là đường mà người Pháp đã ký có công ước quốc tế từ năm 1939. Ta xem thì đúng là đây cũng gần (CPC) thật nhưng bởi vì người nước Việt Nam, đất có thổ công sông có hà bá, sống ở đây lâu rồi thì họ phải chịu thế chứ. Báo cáo các đồng chí là như vậy, … nó rất phức tạp”. Ông nói như thế trước trí thức – tức là công khai trước công luận, chẳng khác gì nói VN đang ép CPC để lấy đất, lấy biển đảo vì đã “cứu”, vì “đất có thổ công…”(!)? Ông cũng đặt Bộ Ngoại giao VN vào tình thế hiểm nghèo bởi trong khi cả thế giới lên án Bắc TT về vụ bom nguyên tử thì ông công khai nói “họ làm tất cả các nước lớn mất ăn mất ngủ và rất là lo lắng về quả tên lửa của họ. Cái điều mà chúng ta phải cần học tập”. Vậy là VN sẽ đi theo ngọn cờ Bắc TT – để mặc dân chết đói, chết rét, làm bằng được tên lửa, nguyên tử để cho thế giới chạy nháo nhào sao? Nói thật, nếu lãnh đạo mà nghe ông (hay nghe rồi?) thì đất nước này chỉ có đường xuống hố cả nút, ông ơi! Ông TĐT ca TQ “cả ngày” nhưng ông có biết đâu rằng chỉ cần một câu thôi, ông sổ toẹt tất cả, và dĩ nhiên là TQ sẽ cho ông vào sổ đen, ông có biết câu gì không ông TĐT? Đó là câu “hiện nay nhiều quốc gia đặc biệt là Châu Phi họ đang đánh giá Trung Quốc là một dạng thực dân kiểu mới”. Điều này chứng tỏ ông “giảng” mà chẳng hiểu mình đang nói cái chi. Cũng xin nhắc ông luôn rằng, chỉ cần câu này không thôi, anh ‘bạn vàng’ của ông sẽ hành lãnh đạo của ông lên bờ xuống ruộng đó, ông để yên mà coi! Cái điều khủng khiếp nhất là ông TĐT đã cho rằng “Và tôi đi giảng bài cho tất cả các đối tượng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây. Cho nên ta phải nói rõ luôn, hiện nay chúng ta phải làm mọi cách để bảo vệ bằng được Tổ quốc Việt Nam thời XHCN”. Kính thưa ông TĐT, tôi tuy không phải là đảng viên, nhưng tôi nguyện suốt đời đi theo Đảng bởi tôi tin vào CNXH, CNCS, đạo đức, tấm gương HCM. Nhưng bây giờ, nghe ông nói thế, tôi hết cả hồn vía bởi ông nói tuy VN thời XHCN có nhiều nội dung nhưng ông LƠ MẶC NHIÊN mọi nội dung khác, chỉ nói cái nội dung SỔ HƯU thì chẳng phải ông đang tầm thường hóa, trần tục hóa, tiền hóa, thực dụng hóa CNXH đó sao? LÝ TƯỞNG SỔ HƯU là “tư tưởng sáng tạo” của “Tổ quốc THỜI XHCN”? Ngay đến Tổ quốc cũng chỉ là món hàng có thời hoặc lỗi thời thì quả thật, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã trở thành cái đáy tận cùng của sỉ nhục. Nó là “sản phẩm” của ai đó, thưa ông TĐT?… v.v và v.v… 15.000 m2 Thành Cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm phải chịu 328.000 tấn bom đạn, tức mỗi ngày 4.100 tấn bom đạn – tức phải cần 1.000 chuyến xe chuyên chở đạn dược mỗi ngày, hoặc tức là phải huy động 2.000 lượt máy bay ném bom phản lực mỗi ngày, tức là cứ một vuông đất xấp xỉ 4X4m phải chịu 4 tấn bom đạn/ngày – và liên tục 81 ngày như thế: Chỉ riêng lượm sắt vụn mảnh bom đạn trên mỗi vuông đất ấy đem bán = vài trăm tấn, đủ xây mấy cái nhà lầu (?)! Ôi chao là con số! Trẻ nít nó cũng không thèm tin ông, ông TĐT ơi!… Đọc bài của TĐT đã nhọc, viết để bàn còn nhọc hơn đi củi ngàn lần. Nói thật, cử những người như ông TĐT đi giảng bài thì đó là cách tốt nhất để phá nát mọi điều tốt đẹp còn sót lại trên thế gian này. Lăng mạ hiểu biết, coi khinh trí thức, tầm thường hóa đạo đức, rác hóa lý tưởng cao đẹp…, là thực chất những gì TĐT muốn chuyển tải đến 90 triệu người dân VN. Huế, 20.12.2012 H.V.T.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 5:03:25 GMT 9
Chuyện thật như đùa: Bộ trưởng quốc phòng VN báo cáo với Phó chủ tịch Quân ủy T.Ư TQĐàn Chim Việt: Ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng bô Quốc Phòng Việt Nam, hồi cuối tháng Tư, có chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc. Chuyến đi được báo chí trong nước đánh giá là, “vừa có cương, vừa có nhu”, coi như thành công.Tờ Quân Đội Online, một tờ báo gần đây rất tích cực trong việc đánh phá các “thế lực thù địch” hay đám “âm mưu diễn biến hòa bình” đã có một bài tường thuật về chuyến đi của ông bộ trưởng Quốc Phòng, trong đó nói ““Đại tướng Phùng Quang Thanh đã báo cáo với Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu kết quả bước đầu của chuyến thăm, đặc biệt là cuộc hội đàm giữa Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước CHND Trung Hoa”. Ơ hay, xưa nay, chỉ nghe cấp dưới báo cáo cấp trên hay con cái báo cáo cha mẹ. Sao giờ lại có chuyện bộ trưởng một nước đi báo cáo với phó chủ tịch Quân ủy TW nước láng giềng? Bình luận về điều này, trang Bauxite nói ngắn gọn là: NHỤC! Có thể với ai đó, thì đây quả là một việc nhục nhã.Nhưng biết đâu, đó chẳng là thói quen của các cấp lãnh đạo Việt Nam trong những năm gần đây? Xin chuyển lại nguyên văn bản tin của trang Quân Đội, nếu bạn đọc truy cập vào đường link và thấy nó không còn nữa, hay đã bị sửa chữa thì đừng cho rằng Đàn Chim Việt đưa tin bậy nghe! ————————————————- Phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương nước CHND Trung Hoa Từ Tài Hậu chúc mừng Đại tướng Phùng Quang Thanh sang thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Đại tướng Phùng Quang Thanh chân thành cảm ơn đồng chí Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương đã dành thời gian tiếp đoàn mặc dù bận rộn rất nhiều công việc. Sự đón tiếp nhiệt thành, trọng thị, thắm tình đồng chí, anh em của các bạn Trung Quốc đã để lại cho Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước Cộng hòa XHCN Việt Nam những ấn tượng đẹp đẽ về tình hữu nghị giữa hai nước nói chung và hai quân đội nói riêng. Sang thăm hữu nghị đúng vào thời điểm quân và dân Trung Quốc đang phải dốc sức khẩn trương tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả vụ động đất ở tỉnh Thanh Hải, một lần nữa Đại tướng Phùng Quang Thanh gửi tới Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và toàn thể nhân dân Trung Quốc lời chia buồn, sự cảm thông sâu sắc. Những ngày cuối tháng Tư này, trên khắp đất nước Việt Nam đang diễn ra nhiều hoạt động thiết thực kỷ niệm 35 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân sự kiện này, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh: Sự ủng hộ, viện trợ quốc tế, trong đó có sự giúp đỡ của Trung Quốc là một trong những yếu tố góp phần quan trọng giúp Việt Nam lập nên chiến thắng mang ý nghĩa lịch sử to lớn đó. Đồng chí Phùng Quang Thanh đã kể lại nhiều kỷ niệm trong những năm tháng chiến đấu ở chiến trường, tận mắt chứng kiến sự giúp đỡ thiết thực, có hiệu quả của Trung Quốc đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Đồng chí khẳng định: Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi sâu sự kề vai, sát cánh của bạn bè quốc tế, đặc biệt là của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Trung Quốc. Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vui mừng, phấn khởi trước sự đổi thay kỳ diệu của đất nước Trung Quốc, coi đó như thành tựu của chính đất nước mình, là điều kiện thuận lợi để Việt Nam và Trung Quốc vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN. Đại tướng Phùng Quang Thanh đã báo cáo với Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu kết quả bước đầu của chuyến thăm, đặc biệt là cuộc hội đàm giữa Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Đoàn đại biểu Quân sự cấp cao nước CHND Trung Hoa. Đồng chí Phùng Quang Thanh đã trân trọng mời đồng chí Từ Tài Hậu sang thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong thời gian thích hợp. Nguồn: www.quandoinhandan.org.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/4/37/37/110213/Default.aspx
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 5:05:33 GMT 9
Cảnh sát giao thông Việt Nam, băng cướp ngày có bảo kêẢnh: photobucket Vấn đề giao thông tại mỗi quốc gia trên thế giới luôn là bài toán khó giải, nhất là đối với những nước nghèo nàn lạc hậu. Đối với một nước mà thể chế cầm quyền có những bộ óc vĩ mô siêu việt, thì việc ưu tiên đầu tư cho hạ tầng cơ sở ở quốc gia mà họ nắm quyền, trong đó đặc biệt là giao thông luôn là ưu tiên hàng đầu. Người ta tính trung bình diện tích dành cho xây dựng đường xá trong một đô thị hiện đại luôn phải chiếm từ 20% tổng diện tích toàn thành phố trở lên. Nhờ vậy mà những thành phố lớn như Mexico City- Thủ đô của nước Mexico – Với trên 20 triệu người sinh sống, người dân mới có điều kiện đi lại dễ dàng… Ở Việt Nam, với tỉ lệ diện tích trung bình dành cho giao thông đô thị chỉ khoảng 5%, thì với những thành phố đông dân như Hà Nội (khoảng hơn 4 triệu người), Sài Gòn (khoảng trên dưới 10 triệu người) thường xuyên lưu trú, vấn đề giao thông trở nên tắc nghẽn và hỗn loạn trầm trọng là điều dễ hiểu. Người ta đã nghiên cứu và phân tích nhiều về những nguyên nhân gây ra hiện tượng hỗn loạn trong giao thông ở Việt Nam, nhưng hầu như chưa một ai dám nói lên một sự thật nhức nhối đó là: Chính lực lượng cảnh sát giao thông (CSGT)Việt Nam, lại là một trong những nguyên nhân gây ra nạn phá đường nghiêm trọng, và đồng thời là một tổ chức giống như một băng đảng chuyên hành nghề cướp cạn- Mãi lộ trên đường. Kể từ đầu những năm 1990 trở lại đây, khi mà nhà cầm quyền CSVN tuyên bố xóa bỏ bao cấp, thì nền kinh tế thị trường tự phát đã có cơ hội phát triển. Đi cùng với nền kinh tế hàng hóa, các phương tiện vận tải (chủ yếu là ô tô) đã không ngừng tăng một cách chóng mặt. Vấn đề là, thay vì nhập ô tô mới nguyên chiếc hoặc chi tiết máy móc riêng rồi lắp ráp tại Việt Nam, các nhà nhập khẩu ô tô lại chú tâm nhập hàng triệu chiếc xe I Fa cũ nát từ Đông Đức, xe Ka Maz từ Liên Xô (cũ) và các loại xe vận tải hạng nặng thải loại từ Hàn Quốc. Để cho những “đống rác” biết di động là những chiếc xe cũ nát được nhập khẩu vô tội vạ ấy lưu hành hợp pháp, thì khâu đầu tiên mà CSGT góp phần hốt bạc, là khâu đăng ký xe. Món hời từ các chủ xe đến đăng ký mạng lại này chỉ dành riêng cho các cán bộ CSGT từ cấp trưởng phó phòng (công an tỉnh, thành phố) đến cán bộ trực tiếp đăng ký xe. Trong đó thường có kèm “dịch vụ” lên đời xe, là nâng năm sản xuất (tức là tăng thời hạn được lưu hành) bằng cách thay đổi số khung sườn (nếu kiểu xe cho phép), và “dịch vụ biển xe đẹp” mà chủ yếu là biển số có tổng ba số cuối bằng 9 hoặc 10 (gọi là chín nước, mười nước) để chủ xe làm ăn phát tài(!)… Khi những chiếc xe vận tải nói trên lăn bánh trên đường, thì đây là lúc các “chốt” cơ động của CSGT bắt đầu có cơ hội “gặt hái”. Xe có kích cỡ thùng cao quá, rộng quá quy định ư? Không sao cả! “Làm luật”, tức là nộp tiền. Xe chở hàng quá khổ, quá tải ư? Nộp tiền, rồi… tiếp tục lên đường. Mỗi chiếc xe tải tùy theo kích cỡ (tương ứng với số tiền phải nộp), sẽ được các CSGT dừng xe “kiểm tra giấy tờ” trong khoảng thời gian nhiều lắm là một phút, đủ để cho họ mở một tờ giấy đã được gấp lại có tiền “làm luật” bên trong. Thông thường chỉ là một cuốn sổ mua xăng (hay bất cứ tờ giấy lộn nào) để kẹp tiền cho kín đáo, chứ không cần phải trình đăng ký xe, hay bằng lái, vận đơn hàng làm gì cho mệt!!! Hậu quả là những tuyến đường vốn đã bị rút ruột từ lúc thi công, nên rất dễ hư hỏng, lại càng nhanh có “ổ gà”, thậm chí là “ổ voi” chỉ trong một thời gian ngắn, bởi các loại xe quá khổ quá tải mặc sức tung hoành. Nguy hiểm nhất là đối với những cây cầu yếu thì càng nhanh xuống cấp hơn. Ở Việt Nam chuyện xe tải có tổng trọng lượng 6- 7 chục tấn đi lại bình thường qua những chiếc cầu có mốc giới hạn trọng tải 15 tấn, thậm chí là 10 tấn là chuyện không có gì đặc biệt(!) Vậy kẻ chủ mưu phá hoại đường xá của Việt Nam chính là CSGT! Nhắc đến bằng lái xe, thì trong nhiều năm trước đây công việc Sát Hạch vẫn thuộc quyền CSGT, chỉ dăm bảy năm trở lại đây mới chuyển qua Sở Giao Thông Vận Tải. Đối với bằng lái thì cũng có tiền là có bằng ngay. “Dịch vụ” cấp bằng nhanh gọn không tốn thời gian học luật, thậm chí thi tay lái cũng có người thi hộ khâu “Dồn Số”. Bằng lái đổi từ bằng B lên bằng C, thậm chí lên thẳng… bằng F cũng chỉ là chuyện nhỏ! Chính vì vậy mới có chuyện lái xe khách tuyến Bắc- Nam khi gây tai nạn chết người hàng loạt, hỏi ra mới biết là anh ta không… biết luật giao thông(?!). Xin trích một đoạn văn của hai phóng viên điều tra là Hương Vũ và Duy Hiển- Báo Dân Trí, đăng ngày 29/11/2009 viết về vụ tai nạn giao thông kinh hoàng làm chết 9 người và nhiều người khác bị thương tại Thường Tín- Hà Nội, như sau: “Sự im lặng của Phan Xuân Lăng khiến chúng tôi gai người. Là lái xe lâu năm nhưng những quy định nằm trong Luật Giao thông đường bộ, cũng là nội dung trong kỳ thi sát hạch cấp giấy phép lái xe, Lăng đều không nắm được”. Vậy CSGT là kẻ tiếp tay cho các lái xe rởm cố ý giết người qua các vụ tai nạn giao thông! Nhiều năm qua, trong ngành công an thì phòng CSGT từ cấp quận, huyện trở lên đến cấp tỉnh, thành phố (hiện nay CSGT cấp huyện không được “đứng đường” nữa), luôn là nơi hội tụ các thành phần con ông cháu cha và những kẻ có nhiều tiền bỏ ra đầu tư mua chỗ. Thật trớ trêu là ngày xưa thì ông bà ta có câu “đồ đứng đường” để chỉ những người chịu kiếp ăn mày, làm mõ. Nhưng ngày nay được làm kẻ đứng đường như CSGT lại không hề đơn giản chút nào, vì đó là cách làm giàu hợp pháp(?) mà không tốn mồ hôi, công sức và trí tuệ. Chỉ làm phép tính sơ sơ, nếu ở những cung đường nhiều xe lưu thông như tuyến Quốc Lộ Số 1 chẳng hạn, cứ mỗi phút CSGT sẽ “làm luật” xong 1 xe (thu khoảng 100 ngàn đồng). Cộng lại một giờ sẽ là 6 triệu, một ngày “làm việc” 8 tiếng của một “chốt” sẽ có trung bình khoảng từ 40 đến 48 triệu. Thật là một con số khủng khiếp! Âý là chưa kể đến nếu có vụ tai nạn giao thông nào, thì kẻ sai hay người đúng cũng sẽ phải mất những khoản tiền lớn cho CSGT để mà chuộc xe ra cho nhanh… Lâu ngày, thứ “luật” của CSGT đã trở thành quen thuộc đến nỗi, xe không có lỗi gì, tức là đủ giấy tờ hợp lệ, hàng hóa đúng trọng tải, phẩm cách, nhưng khi qua “chốt” công an thì vẫn cứ phải… “làm luật” như thường. Tại sao có chuyện vô lý ấy? Vì rất đơn giản là lái xe chở hàng mỗi ngày trên đường, sẽ có lúc vi phạm. Nếu lái xe nào không “nuôi” đủ cho CSGT thì hãy liệu hồn, sau này, lỡ để xảy ra lỗi cho CSGT bắt được thì yên tâm mà đưa xe vào “kho” của CSGT, rồi chờ vài tháng mới được nộp phạt mà lấy xe về… Vì những lý do ấy, cho nên đằng nào cũng phải “làm luật” vậy là lái xe chẳng cần lo đủ giấy tờ, chở đúng tải vv.., mà làm gì, vì đằng nào thì cũng mất tiền. Thế mới có chuyện lạ đời là, một chiếc xe tải, lái xe bị thu bằng lái, đăng ký xe bị giữ (vì chưa đủ tiền “làm luật” ở Miền Nam), nhưng lại thoải mái chạy rong ruổi chở hàng tận… Hà Nội!!! Người viết bài này, vào thời gian năm 2000 đến 2002 thường xuyên thuê xe chở hàng là gỗ vườn rừng (gỗ trồng) từ Gia Lai, Đắc Lắc về Việt Trì- Phú Thọ ở Miền Bắc để bán. Ngoài việc bị kiểm lâm, thuế vụ sở tại vòi vĩnh gây khó khăn cho bản thân, khiến mất rất nhiều tiền lo lót cho bọn chúng để nhanh xong thủ tục giấy tờ. Thì trên đường vận chuyển gỗ ra Miền Bắc, còn bị hàng chục “chốt” CSGT của 16 tỉnh thành liên tục “làm luật” trên suốt chặng đường, đặc biệt là các tỉnh thành như Gia Lai, Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Tây, Hà Nội, có lúc phải “làm luật” tới 3 “chốt” công an trong một tỉnh thành. Nhịn nhục mãi cũng có ngày “cóc phải mở miệng”. Một ngày cuối tháng 2 năm 2002, sau chặng đường hàng ngàn km từ Gia Lai chở hàng đến địa phận Cầu Ghẽ – Hà Tây. Người viết bài này vốn đã quá quen với quy luật hoạt động của CSGT Hà Tây, nên đã cho xe nghỉ lại tại ngoại ô trung tâm thị xã Ninh Bình để tránh phải “làm luật” tại “chốt” CSGT Cầu Ghẽ- Một điểm khét tiếng ác ôn vì đòi tiền cao của lái xe. Nhưng dù “căn” giờ cho đúng 7 giờ sáng (giờ đổi người của CSGT) mới cho xe chạy qua đoạn đường này, thì không ngờ chiếc mô tô “Bô Nớt” trắng toát của CSGT Hà Tây vẫn lù lù ở ngay gần Cầu Ghẽ. Thế là phải xuống để “làm luật”. Một tên CSGT mặt non choẹt chỉ khoảng trên 20 tuổi nhìn tập giấy tờ hồ sơ gỗ (gồm 28 con dấu các loại) của người viết bài này như nhìn một vật lạ, rồi hắn đưa mắt đi chỗ khác lạnh lùng: “Tao xem giấy tờ của mày làm gì, nếu mày không có giấy thì làm sao đi được từ Miền Nam ra đây? Cứ “làm” cho nhanh rồi đi là được”. Bức xúc suốt cuộc hành trình, nào là trạm cân xe, nào là quản lý thị trường, nào là CSGT các tỉnh thành gây rối, giờ lại bị một tên CSGT nhãi nhép (kém mình có lẽ đến hai chục tuổi) xưng mày, tao. Không giữ nổi bình tĩnh, người viết nhảy lên Ca Bin xe, rút ra chiếc móc lốp xe (vốn là vũ khí trang bị để chống cướp) lao vào tên CSGT ấy… May thay cho hắn (và cũng may cho người viết) là bốn người lái xe trên hai chiếc Hyundai Ba Khoang chở gỗ đã kịp giữ lại, chứ nếu không thì không biết điều gì đã xảy ra… Gần đây, báo chí có đăng một số trường hợp lái xe đâm thẳng xe vào CSGT, thanh tra giao thông, có vài viên CSGT đã phải chầu trời, cũng là vì họ bức xúc quá mà thôi… Một lần khác, khi ấy khoảng cuối năm 2002. Người viết bài này đi xe máy chở một cụ già thăm người nhà quê ở Vĩnh Phúc. Trên đường về đến ngoại thành thành phố Phúc Yên thì gặp tai nạn. Số là, tại “chốt” cơ động của CSGT lúc đó có một chiếc xe 24 chỗ ngồi chở khách biển số Yên Bái, đang phải dừng lại “làm luật”. Người phụ xe sau khi nộp tiền cho CSGT (đứng bên kia đường, phía ngược chiều) thì vội vã băng qua đường để về xe của mình vì lúc đó trời lất phất có mưa, không ngờ đúng lúc đó xe máy của người viết vừa đến nơi. Dù chạy không nhanh, nhưng vì quá bất ngờ, phanh cũng không có tác dụng nhiều, nên đã đâm trực diện vào người phụ xe nói trên. May thay, anh ta rất cao lớn lại mặc áo khoác bằng da thú, nên không bị đau lắm. Còn người viết và cụ già thì cũng mặc áo ấm rất dày và còn mặc thêm bên ngoài mỗi người một bộ quần áo đi mưa, cho nên dù cả ba người đều bị ngã nhưng cũng không ai hề hấn gì. Tội nghiệp cho anh phụ xe vừa cố nén đau vừa phải đưa cụ già đi bệnh viện chụp X Quang và sau đó còn biếu cụ 500 ngàn đồng bồi dưỡng… Ngày 06/11/2009 theo báo Dân Trí đưa tin. Hai vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra ngay tại “chốt” trực của CSGT tại xã Xuân Lam, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh làm 1 người chết, một người bị thương nặng. Lý do là xe tải dừng để “làm luật” đứng lấn đường gây tai nạn cho người đi xe máy, do người đi xe máy bị khuất tầm nhìn. Ngày 03/12/2009 tại Phú Thọ, xe CSGT biển số 6868 (lộc phát) đã đâm chết một nữ sinh ở thị trấn huyện Phong Châu. Lý do là “tránh… chướng ngại vật, cho nên đâm thẳng vào tốp học sinh đi ngược chiều” (tin VN Express, Dân Trí, Tiền Phong…). Đêm ngày 27/11/2009 một chiếc xe du lich bốn chỗ ngồi hiệu Hyundai đã vượt đèn đỏ từ ngã tư Tôn Đức Thắng – Hà Nội, gây tai nạn liên hoàn làm 5 người bi thương nặng, hư hỏng ba xe gắn máy. Điều đáng nói là lái xe bỏ mặc nạn nhân rồi rồ ga bỏ chạy, chỉ khi bị người dân truy đuổi áp sát và xe ô tô bị nổ lốp bánh trước thì lái xe mới chịu dừng xe. Trên xe nguyên hình là một sỹ quan CSGT tên là Phạm Thế Dũng, cán bộ thuộc cục CSGT đường bộ và đường sắt… Tại Biên Hòa, dư luận năm 2007 phải xôn xao vì sự lộng hành của một đoàn xe Benz hung thần chở đất ngang nhiên bất chấp luật lệ, coi thường tính mạng người dân. Hỏi ra mới biết rằng đoàn xe ấy là của một viên trung tá CSGT tỉnh… Vv và vv… Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới WHO, hàng năm tại Việt Nam có khoảng trên 12 ngàn người chết vì tai nạn giao thông đường bộ (thống kê năm 2007). Không quá chủ quan khi người viết dám khẳng định rằng, cùng với những chính sách bất cập về giao thông nói chung của nhà nước độc tài CSVN, CSGT Việt Nam cũng góp phần quan trọng vào những cái chết thương tâm của hàng chục ngàn người vô tội mỗi năm. Nhưng dù biết vậy, vòng xoáy cám dỗ từ lợi nhuận khổng lồ bởi nạn tham nhũng, nạn cướp ngày. Cho nên CSGT Việt Nam vẫn cố tình ngoảnh mặt trước tính mạng của đồng bào mình. Đó cũng là hệ quả của chế độ CS ở bất kỳ nơi nào trên thế giới!!! Hàng ngày quan chức của chế độ vẫn phải đi lại trên đường. Mọi chuyện nhốn nháo lộn xộn trong giao thông, xe cộ vi phạm, rồi nhiễu nhương của CSGT đều đập vào mắt họ. Nhưng vì món lợi từ CSGT, cho nên họ đã làm ngơ cho CSGT lộng hành, vì cả một đường dây lòng vòng ngoằn ngoèo hút tiền của dân, của nước, đã bắt đầu từ việc CSGT cướp tiền của những ai đang lưu thông trên đường ấy. Vậy CSGT Việt Nam ngày nay là băng cướp ngày có tổ chức, có bảo kê bởi những tay trùm cán bộ CS các cấp! Thật mỉa mai thay cho câu nói của Hồ Chí Minh: “Công an là bạn dân”. Câu nói ấy có lẽ phải được viết thêm cho đầy đủ là: “Công an là bạn dân, nhân dân đích thị nạn nhân!” Những người dân vô tội là lái xe, phụ xe ô tô, người đi xe máy hãy lên tiếng để bảo vệ mình, bảo vệ cộng đồng. Không thể để băng cướp ngày CSGT lộng hành, tác oai tác quái và tiếp tục gây tội ác! Đàn Chim Việt Online 2009
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 27, 2013 5:26:04 GMT 9
Thanh niên 24/04/2013 Những bí mật của thị trường vàng Việt Nam đã được “kể” ra từ những con số thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới.Lượng vàng VN nhập khẩu Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới - Đồ họa: Hồng Sơn Hàng tỉ USD nhập vàng lậu ? Theo Hiệp hội Vàng thế giới, chỉ trong hai năm 2011 và 2012, tổng nhu cầu vàng VN đã lên đến gần chục tỉ USD. Trong đó, giá trị vàng nữ trang nhập đã lên đến con số gần 1,3 tỉ USD. Cụ thể, lượng vàng nữ trang VN nhập khẩu năm 2011 là 13 tấn, trị giá 634 triệu USD. Sang năm 2012, ngoại tệ nhập vàng nữ trang còn nhiều hơn. Quý 1 nhập 5 tấn, trị giá 269 triệu USD, quý 2 nhập 3 tấn, trị giá 156 triệu USD, quý 3 nhập 2,5 tấn trị giá 130 triệu USD và quý 4 là 2 tấn, trị giá 111 triệu USD. Tổng cộng, năm 2012 VN đã nhập 12,5 tấn, trị giá 666 triệu USD. Chỉ tính riêng vàng nữ trang, trong 2 năm qua VN đã bỏ ra gần 1,3 tỉ USD để nhập khẩu. Đáng nói, cho đến nay NHNN chưa cấp phép cho bất cứ đơn vị nào nhập vàng nữ trang và nếu đúng thì số vàng nữ trang với khối lượng lên tới trên 25,5 tấn này là nhập lậu hoàn toàn. Cũng theo thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, trong 2 năm này số lượng vàng thỏi nhập vào VN còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, trong năm 2011 vàng thỏi nhập vào VN tổng cộng là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD. Năm 2012, con số này cũng không kém với tổng cộng là 75,2 tấn, tương đương trên 4 tỉ USD. Riêng với vàng thỏi, trong năm 2011 và 2012, NHNN cũng không cấp phép công ty nào được nhập loại vàng này. Vì vậy, vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo 2 con đường. Thứ nhất là NHNN cho phép các NHTM mua trạng thái nước ngoài và thứ hai là vàng thỏi nhập lậu. Những con số trên nói lên rằng, vàng lậu đã, đang và sẽ tiếp tục tràn vào VN. Đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá trong suốt thời gian qua. Điều này hợp lý và lý giải vì sao cầu ngoại tệ “chính thống” của nền kinh tế mấy năm nay không tăng, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh nhưng “sóng tỷ giá” vẫn thỉnh thoảng lại nổi lên. Ngay tại thời điểm này, khi khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục, trên 6 triệu đồng/lượng, thì tỷ giá ngoài thị trường tự do lại bị hun nóng một cách đáng ngờ. Hợp pháp hóa vàng lậu ? Với những biến động tại thị trường vàng, các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào VN. Bởi như phân tích trên, ngoài “chui” vào kênh vàng nữ trang, vàng lậu còn có thể được dập thành vàng miếng giả thương hiệu SJC, vàng nữ trang dưới tên gọi phi SJC. NHNN đã chính thức quản lý việc dập vàng miếng thương hiệu độc quyền SJC nên nếu muốn hợp pháp hóa số vàng lậu chỉ có con đường duy nhất là xuất ra rồi nhập trở lại. Và cũng trùng hợp NHNN “bỗng dưng” (nói bỗng dưng là bởi trước đó, NHNN công bố có khoảng 500 tấn vàng đang nằm trong dân và lên phương án huy động. Với lượng vàng trong dân nhiều như vậy, không có lý do gì để nhập vàng) cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập vàng miếng SJC. Sự “trùng hợp” này rất dễ tạo điều kiện cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào để hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi khủng. Nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD. Nhưng mọi chuyện không dừng ở đó. Số vàng lậu nhập vào VN trong 2 năm qua, như thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, là 25,5 tấn (chỉ tính riêng vàng nữ trang). Đợt “tạm xuất, tái nhập” vừa rồi được 11 tấn vàng và đã được NHNN bán hết sau phiên đấu thầu ngày hôm qua. Như vậy, còn khoảng gần 15 tấn vàng lậu vẫn đang “ẩn” trên thị trường chờ cơ hội hợp pháp hóa. Câu hỏi đặt ra là, liệu có xảy ra thêm một cuộc tạm xuất – tái nhập để chuyển thể về vàng miếng SJC một cách chính danh nữa hay không? Câu trả lời vẫn phải chờ, nhưng những biểu hiện của thị trường vàng hiện nay đang cho thấy điều đó hoàn toàn có thể tiếp tục được thực hiện. Cụ thể, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới (lý do lớn nhất để phải bình ổn) đang ở mức kỷ lục, khoảng 6 triệu đồng/lượng, lượng vàng NHNN nhập khẩu trước đó đã bán hết sau 11 phiên đấu thầu… Khả năng tạo những cơn khan hiếm giả gây áp lực xuất – nhập để hợp pháp hóa vàng lậu là rất lớn. Giá vàng VN trong quá khứ có cao có thấp hơn giá thế giới, nhưng mấy năm trở lại đây luôn cao hơn vàng thế giới rất nhiều. Trong quá khứ, VN có xuất khẩu vàng, nhưng mấy năm gần đây vàng xuất hầu như không có mà vàng nhập thì rất lớn. Đặc biệt, là nhập lậu. Đây là kết quả từ chính sách quản lý thị trường vàng yếu kém, tạo cơ hội cho các đơn vị, giới đầu nậu, giới đầu cơ… thao túng, trục lợi từ ngay trên cơ chế. Vàng là thủ phạm làm tăng giá USD: Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN cũng khẳng định, diễn biến kinh tế vĩ mô chưa cho thấy áp lực căng thẳng quá lớn về đồng USD. Nhưng vừa qua, sự nóng lên của đồng ngoại tệ này chính do các đầu nậu tranh thủ nhập vàng đế “kiếm lời”. Ở các địa bàn như TP.HCM, Hà Nội nhu cầu tiêu thụ vàng bao giờ cũng rất lớn, với mức chênh lệch giá như vừa qua, dễ hiểu giới buôn lậu vàng chắc chắn đã vào cuộc. Một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trên thị trường tài chính cũng nhận định, trong tình hình khó khăn hiện nay, cầu USD cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự chưa cao, trong khi đó nhập siêu quý 1 không quá lớn để gây áp lực lên cán cân thương mại, thì có thể thấy nhiều khả năng vàng chính là thủ phạm khiến USD đã tăng giá so với VND.Anh Vũ (ghi)Nguyên Hằng ************ Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế ?Lỗi: có thể dòng không tin đang không hoạt động. Hãy thử lại sau. “Với những biến động tại thị trường vàng, các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào VN.” Một độc giả méc bài này và bình: “Sao không thấy ông Nguyễn Bá Thanh “hốt ngay bắt ngay” nhóm lợi ích Ngân hàng (cầm đầu là Thống đốc Nguyễn Văn Bình ) ?“ Bổ sung, hồi 19h20′: VTV1-Thời sự vừa đưa tin, chiều nay Ngân hàng nhà nước đã họp báo bác bỏ nội dung bài báo này, cuộc họp báo vừa kết thúc cách đây ít phút. Hiện bài đã không còn trên Thanh niên Online. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật thông tin chi tiết khi có bài viết tường thuật nội dung cuộc họp báo. 23h38‘: Ngân hàng Nhà nước bác thông tin “rửa” vàng bằng cơ chế (DT). 1h25‘, 25/4: Bộ Công an được đề nghị cùng xử lý thông tin “rửa” vàng (VNEco). 6h50‘, 25/4: 12 tấn vàng bán từ dự trữ ngoại hối quốc gia (VNE). 7h10‘, 25/4: Ngân hàng Nhà nước: Quản lý thị trường vàng đúng quy định của pháp luật (TN). “Báo Thanh Niên trân trọng cáo lỗi với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng bạn đọc.” Bổ sung, hồi 11h, 25/4/2013: độc giả Trần Gia có phản hồi phân tích vụ này. Mời đọc chi tiết đã được đăng lại trong mục Độc giả viết: Mánh khóe “tạm xuất-tái nhập vàng” để hưởng lợi khủng khiếp. 12h10‘, độc giả “ccorrectorr” phản hồi, đã đăng lại thành bài: VỀ PHẢN ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NN ĐỐI VỚI BÀI BÁO ĐINH CỦA BÁO THANH NIÊN. 14h: - Bài báo của Thanh Niên chỉ sai về mặt kỹ thuật, về bản chất không có gì sai cả (Nguyễn Vạn Phú).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 27, 2013 5:37:52 GMT 9
“Rửa vàng” từ chính sách của Ngân hàng nhà nướcMặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok 2013-04-25 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có công văn yêu cầu Tổng cục 2 thuộc Bộ Công an điều tra những sai phạm của một bài báo trên tờ Thanh Niên cho rằng đang có dấu hiệu “rửa vàng” trong các chính sách tạm nhập tái suất vàng. Tại sao lại xảy ra một sự việc có thể nói là rất nghiêm trọng đối với một tờ báo như vậy? “Rửa” vàng bằng cơ chế? Bài báo của Thanh Niên có tựa: “Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế?” đăng ngày 24 tháng Tư đã làm công luận thật sự hốt hoảng. Dựa trên những thông tin từ Hiệp hội Vàng thế giới, bài báo đưa ra cái nhìn hết sức logic về những diễn biến điều hành vàng của Ngân hàng Nhà nước đã trực tiếp khiến giá vàng không thể liên thông với giá vàng thế giới do chính sách xuất nhập và chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC và có dấu hiệu ai đó đang trục lợi và không thể không bỏ qua yếu tố “rửa vàng” trong các động thái này. Bài báo nhấn mạnh nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD. Tuy nhiên bài báo giữ sự chừng mực cần thiết là không đưa ra nhận xét nào vềnhững đối tượng hưởng lợi quá lớn này. Bài báo phân tích sự cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập ra vàng miếng SJC của Ngân hàng Nhà nước đã tạo kẻ hở cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào một lần nữa nhằm hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi. Đúng như nhiều người nhận xét bài báo này không thể không bị rút xuống vì những con số và lập luận logic của nó sẽ khiến cho thị trường vàng phải nhìn lại cuộc chơi của mình, nhất là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nơi ban hành và chỉ đạo các chính sách kỳ lạ được gọi là quản lý thị trường vàng mà không một nước tư bản nào thực hiện. Ngay sau khi bài báo lưu hành, Ngân hàng Nhà nước ra công văn gửi Tổng cục An ninh II – Bộ Công an cho rằng bài báo đã “cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông điệp sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, tạo ra sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng và các nỗ lực phối hợp phòng, chống buôn lậu của các cơ quan Nhà nước”. Bài báo đã đụng đến tử huyệt của chính sách quản lý vàng Câu hỏi đặt ra tại sao Ngân hàng Nhà nước vốn có truyền thống chậm chạp khi đối phó với giá vàng nhảy múa nay lại tỏ ra căng thẳng với một bài báo như vậy? Phải chăng vấn đề mà bài báo đưa ra đã đụng đến tử huyệt của chính sách quản lý vàng hiện nay của Ngân hàng Nhà nước hay không? Nhà báo Phạm Chí Dũng, cũng là một Tiến sĩ kinh tế cho biết nhận xét của ông: Có thể nói là phản ứng của Ngân hàng Nhà nước và cá nhân ông Nguyễn Văn Bình đối với vấn đề biến động thị trường vàng là rất chậm và rất ít. Thí dụ trong lần biến động giá vàng vào tháng Tám năm 2011 chênh lệch với giá thế giới tới 5 triệu đồng. Sau cơn điên đó khoảng 5 ngày sau Ngân hàng Nhà nước mới có một văn bản và từ đó tới giờ phải nói là rất ít văn bản nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi của giới buôn bán vàng cũng như người dân trữ vàng. Cho nên việc NHNN có văn bản có thể nói phản bác đối với báo Thanh Niên thì tôi cho là một động thái rất là nhanh, nhanh một cách kỳ cục và có thề nói đầy nghi ngờ. Người ta có thể đặt câu hỏi là số vàng nhập lậu này được nhập theo cách nào? Câu hỏi này phải được chính Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình là người phải trả trả lời vì trong phiên chất vấn của Quốc hội vào ngày 13 tháng 11 năm ngoái ông đã cho rằng trước khi Nghị định 24 có hiệu lực, lượng vàng buôn lậu mỗi năm lên tới từ 10 tấn tới 30 tấn. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh chia sẻ kinh nghiệm của ông về việc vàng nhập lậu và câu hỏi đặt ra với bài báo của Thanh Niên là không thề chứng minh được sự nhập lậu ấy từ đâu: Trước đây thì ông Nguyễn Văn Bình khi còn làm phó Thống đốc NHNN đã viết trên tạp chí Cộng sản thừa nhận rằng là hàng năm có đến 20, có năm đến 40 tấn vàng lậu chảy vào Việt Nam. Thế nhưng cái khó của bài báo trên báo Thanh Niên là chứng cứ ở đâu, mà đã là hàng lậu thì làm gì có chứng cứ? Đây cũng là một câu hỏi rất lớn. Trước đây Hội đồng Vàng Thế giới mà tôi có gặp trong một cuộc hội thảo thì họ cũng nói rằng họ có các căn cứ đáng tin cậy cho biết họ biết các chỗ bán vàng ra tại Bangkok hay Hongkong và họ cũng biết rõ đường dây từ Bangkok hay Hongkong chuyền về Việt Nam. Nói thế thôi chứ bây giờ đòi hỏi chứng cứ thì không có cho nên cái chỗ sơ hở hay khó chứng minh của bài báo này là cái điểm ấy. Trong công văn ghi rõ chính Ngân hàng Nhà nước đã liên hệ với Hội đồng Vàng thế giới và biết đây chỉ là con số dự báo nhu cầu vàng của Việt Nam chứ không phải là con số thật số lượng nhập khẩu vàng của Việt Nam hàng năm. TS Phạm Chí Dũng phân tích điều này: Những số liệu báo Thanh Niên đưa ra tôi cho là chỉ để tham khảo. Mà báo Thanh Niên cũng nói là số liệu tham khảo từ Hiệp hội Vàng Thế giới. Trong suốt bài báo của Thanh Niên có thể nói là dựa trên những số liệu tham khảo như vậy thì báo Thanh Niên chỉ đặt ra những giả thiết chứ không phải là tiết lộ. Rửa vàng cũng không phải là sự tiết lộ. Báo Thanh Niên đặt ra một thực trạng là vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo hai con đường: Con đường thứ nhất là NHNN cho phép các ngân hàng thương mại mua trạng thái nước ngoài và con đường thứ hai là nhập lậu. Từ đó báo Thanh Niên nêu ra giả thiết là vàng lậu đã đang và sẽ tiếp tục tràn vào Việt Nam và đây là một thực tế và đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá suốt trong thời gian qua. Báo Thanh Niên cũng đặt ra ngay thời điểm này khi khoảng cách giá vàng trong nước và giá vàng thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục trên 6 triệu đồng một lượng thì tỷ giá ngoài thị trường tự do bị hun nóng lên một cách đáng ngờ. Điều đó là đúng. Giả thiết và nghi ngờ của báo Thanh Niên đặt ra là đúng. Trong thực tế giá vàng trong nước có thời điểm lên cao hơn 7 triệu một lượng so với giá vàng thế giới nhưng vẫn không có một lời nhắc nhở không có mọt động tác nào của NHNN. Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng đưa ra nhận xét về thái độ của Ngân hàng Nhà nước đối với điều mà ông cho là dẫm chân lên Bộ Công an, ông nói: Đặt lại vấn đề NHNN có văn bản phản bác có thể nói là cáo buộc đối với báo Thanh Niên một số câu từ giống như trong một bản cáo trạng và hình sự hóa vấn đề. Những câu từ như vậy nó làm cho người đọc nảy sinh câu hỏi tại sao NHNN lại có thái độ cực đoan và có vẻ cáo buộc báo Thanh Niên. Tôi có cảm giác NHNN trong văn bản này dường như đóng thế vai của Bộ Công an và đang dường như muốn đưa cho báo Thanh Niên đội cái mũ đó là điều 88 tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong công văn gửi Tổng Cục II Bộ Công an. Ngân hàng Nhà nước phân trần rằng Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC như bài báo viết. Như vậy là Ngân hàng Nhà nước đã bác bỏ chính quyết định độc quyền vàng của mình trong nghị định 24. Thật ra nghị định này đã được báo chí phân tích rất nhiều trong đó dẫn lại tuyên bố của ông Bình cho rằng sự độc quyền vàng của Ngân hàng Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và tiến hành kinh doanh vàng với vai trò người kiến tạo thị trường, mua bán cuối cùng. Thực tế cho thấy từ 8 thương hiệu vàng miếng đang sản xuất, lưu thông trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước tuyên bố chỉ duy nhất SJC là thương hiệu vàng quốc gia”. Một Ngân hàng Nhà nước lại không thể thống nhất ý nghĩa của một nghị định quan trọng và lái nội dung của nó sang hướng khác nhằm chống lại một tờ báo đăng bài phân tích những bất cập của chính mình thì được phải xem là điều không đơn giản trong tình hình phức tạp dễ dẫn tới đổ vỡ hiện nay. Nguồn: RFA tiếng Việt ******************* Y Kien doc gia : Sau Chứng khoán – Đất đai – Xăng dầu – Vàng, sẽ đến ngoại tệ? dù sao cũng đã can..... đổi tiền rồi.Những thông tin kiểm chứng về bài báo của Thanh niên và phản ứng của NHNN liên quan đến buôn lậu vàng VỀ PHẢN ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NN ĐỐI VỚI BÀI BÁO ĐINH CỦA BÁO THANH NIÊN Phản hồi của độc giả ccorrectorr/nicecowboy (2013/04/25 lúc 11:58) với bài TỪ THỐNG KÊ VỀ VIỆT NAM CỦA HIỆP HỘI VÀNG THẾ GIỚI: “RỬA” VÀNG BẰNG CƠ CHẾ ? Trước khi đặt bút viết còm ment này, tôi xem rất kỹ bài viết “ Rửa vàng bằng cơ chế” của tác giả Nguyên Hằng trên Thanh Niên Online, và sau đó bài phản hồi “Quản lý Thị trường vàng đúng qui định của Pháp luật” của Ngân hàng Nhà nước. 1. Trước tiên, tôi đã kiểm tra lại các số liệu thống kê về vàng VN từ Hiệp hội vàng Thế giới (World Gold Council) mà tác giả NH dùng nó làm cơ sở để đưa ra các suy luận của mình. Nếu ai có thời gian và hiểu chút tiếng Anh, có thể tham khảo đường link này : www.gold.org/investment/research/regular_reports/gold_demand_trends/Tiếp đó, download phần “Gold demand trends Q4 and Full year 2012” thì sẽ thấy tập tài liệu thống kê quan trọng mà tác giả Nguyên Hằng dùng làm cơ sở cho bài viết. Nhận xét trước tiên của tôi, các số liệu thống kê mà tác giả đưa ra khá phù hợp với số liệu thống kê của Hiệp Hội VTG. Tại trang 23 tài liệu nêu trên, có bảng “Consumer demand in selected countries : four quarters total”, dòng Việt nam có ghi tổng giá trị “consumer demand” của vàng nữ trang năm 2011 và năm 2012 là 634 triệu USD và 610 triệu USD ; của vàng thỏi là 4 tỉ661triệu USD và 3 tỉ 621 triệu USD Các con số tương ứng của tác giả trong bài báo ghi là 634 triệu, 666 triệu, 4tỉ 661 triệu và hơn 4tì. Khá phù hợp với các tài liệu thống kê tôi tìm thấy trên mạng nói trên. 2. Dựa trên số liệu này, sau đó tác giả Nguyên Hằng đối chiếu với thực tế là “TRONG SUỐT HAI NĂM 2011 VÀ 2012, NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM KHÔNG CẤP PHÉP CHO BẤT CỨ ĐƠN VỊ NÀO ĐỂ NHẬP KHẨU VÀNG NƯ TRANG VÀ VÀNG THỎI”, tác giả Nguyên Hằng đã đặt vấn đề : a. theo số liệu trên, đã có tổng cộng khoảng gần 10 tỷ USD vàng nữ trang và vàng thỏi được nhập vào VN trong 2 năm 2011 và 2012. Vậy chúng được nhập vào bằng cách nào, khi không có phép của NHNN ? b. nếu là nhập lậu, thì vừa qua tạm xuất ra nước ngoài sau đó nhập trở lại để bán đấu giá, có phải là một cách để hợp pháp hóa số vàng đã nhập lậu trên ? hay nói khác đi là “Rửa” vàng c. ngoài ra, tác giả Nguyên hằng còn nêu ra một số hệ quả xấu khác từ việc nhập lậu trên nếu có, và khả năng sắp tới sẽ còn tiếp tục rửa cho hết số vàng nhập lậu trước đây, bằng cách tạm xuất tái nhập trở lại, gia công thành vàng SJC… Những vấn đề nhỏ này tôi không bàn đến ở đây 3. Tôi cũng đọc qua phản hồi của Ngân hàng Nhà nước trong bài “Quản lý thị trường vàng đúng qui định pháp luật”, chủ yếu trong đó Ngân hàng NN không công nhận con số tác giả NH đưa ra là con số vàng đã nhập khẩu thực tế , mà chỉ là con số ước tính về nhu cầu vàng ! Sau đó báo TN vội vàng có đính chính cho rằng phóng viên của mình đã hiểu nhầm, dịch nhầm từ tài liệu nước ngoài. 4. Về việc này, tôi xin có ý kiến như sau : a. Mấu chốt vấn đề là ở cụm từ “consumer demand” nêu trong các báo cáo thống kê của Hiệp hội vàng thế giới, phải hiểu như thế nào đây : chỉ là ước tính (theo cách ngụy biện của NHNN) hay là con số nhập khẩu thực (theo cách hiểu và phân tích của phóng viên) ? b. tại trang 29 trong tập tài liệu thông kê mà tôi trích ở trên, có định nghĩa rất rõ ràng khái niệm “Consumer demand” : đó là số lượng vàng thực mua của một quốc gia và thực tế do cá nhân sở hữu. Hoàn toàn không có chỗ nào nói là ước tính (estimated, expected, forecast, …) c, Hơn nữa, ngay trong trang 1 của tập tài liệu nêu trên (phát hành mới nhất tháng 3/2013), tất cả các “demand” (nhu cầu) của năm 2011 và 2012 sao lại đến bây giờ là năm 2013 mới công bố “ước tính” ? tại sao nếu “demand” là ước tính thì đến nay là tháng 4/2013 lại chưa có ước tính của cả năm 2013 , 2014…. , (số “ước tính” mới nhất của HHVTG là số cuối năm 2012 ? ) Nếu ai biết tiếng Anh, đọc kỷ trang 1 và trang 29, cộng với trang 23 tài liệu này thì điều hiểu “demand” (nhu cầu) này là gì ? ước tính hay là số thực tế ? Điều này quá dễ dàng để kiểm chứng, cứ việc chính thức gửi Công văn hỏi Hiệp Hội vàng thế giới thì sẽ có trả lời ngay thôi ! vấn đề là dám hỏi hay không ? và nếu hỏi thì người ta lại ngạc nhiên về trình độ Anh Ngữ của Ngân hàng Nhà nước VN ! d. Cuối cùng, lần đầu tiên tôi giật mình và phải khen ngợi một phóng viên nhà báo, sao lại có kiến thức khá sâu về kinh tế tài chính như vậy ? biết tìm các số liệu thống kê nhập khẩu vàng dù NHNN không công bố ? biết từ các con số thống kế đó để đối chiếu với thực tế mà có một suy luận khá bất ngờ ? có nhân vật nội bộ nào trong sự việc này tại NHNN đã rò rỉ tài liệu và phân tích cho phóng viên viết bài ? Hèn gì mà NHNN có một động tác cũng gây ngạc nhiên không kém. Đây quả là một sự việc vô cùng lớn, những trình bày trong phần còm trên đây của tôi chỉ rất đơn sơ, tổng quát của một cá nhân. Phải cả một tổ chức lớn vào cuộc, và mong kiểm toán nhà nước, thanh tra nhà nước vào cuộc, thì mới mong tìm ra sự thật của vấn đề, dù là nó đã khá rõ ràng như phân tích của phóng viên, và nhận xét của riêng tôi. (P/S : Đây là quyền nhận xét của cá nhân tôi, mong rằng Ngân hàng NN đừng nhờ Bộ CA, ở đây là các anh CAM vào cuộc, tôi sợ lắm đó) ———————————————— Mánh khóe “tạm xuất-tái nhập vàng” để hưởng lợi khủng khiếp Độc giả Trần Gia phản hồi lúc 25/04/2013 LÚC 10:09 cho bài THẤY GÌ QUA VỤ BÀI BÁO “RỬA VÀNG BẰNG CƠ CHẾ?” BỊ “BÓC”? của Nhà báo Võ Văn Tạo. Cuộc tranh cãi này không thể kết thúc và dư luận cả hai lề cũng không biết đâu mà lần vì sự thực và ý đồ đã bi che dấu và Báo Thanh niên vì nóng lòng đã dùng sai tư liệu, Ngân hàng nhà nước đủ thông minh để phản bác được. Nhưng sự thật thì vẫn là sự thật. Nó nằm ở đây: Tại sao phải “Tạm xuất-Tái nhập vàng”? Không có việc này, thì không có chuyện gì xảy ra cả. Phải có việc này thì những người thực hiện mới được hưởng lợi khủng khiếp. Lý do phải Tạm xuất-Tái nhập vàng theo NHNN: “Để đẩy nhanh tiến độ kiểm định, chuyển đổi, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thực hiện việc tạm xuất vàng miếng phi SJC và tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế với khối lượng xuất khẩu bằng khối lượng nhập khẩu. Việc thực hiện chủ trương này nhằm đẩy nhanh tiến độ kiểm định, gia công vàng miếng phi SJC thành vàng SJC theo đúng quy định của pháp luật và Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Chính phủ trước khi thực hiện.” Lý do này hoàn toàn sai, che dấu sự thật, lừa người dân, nhằm phục vụ lợi ích nhóm. Vì sao ? Về kỹ thuật, để đẩy nhanh kiểm định, dập nhanh thành SJC không cần xuất vàng ra, mua vàng về. Theo quy trình hiện nay, một ngày là đúc xong 10 tấn vàng rời thành vàng thỏi, 1 ngày là kiểm định xong bằng các phương pháp hiện đại nhất, việc dập ra miếng SJC cần bao nhiêu làm ngay ra bấy nhiêu, máy moc tự động cả. Toàn bộ quy trình này (kể cả tinh lọc vàng thành vàng 9999) trong nước làm được 100% từ lâu rồi (không tin cứ hỏi ông Phú Doji ,Ông Trúc AGRI , Ông Hiển SHB đều là các nhà Vật lý-kỹ thuật cả xem có đúng không) ! Tốn không đến chục tỷ đồng. Đã có nhiều ý kiến đề xuất làm việc này rồi, nhưng NHNN, NHTM, Cty Vàng…liên kết nhau chống lại. Không có tạm xuất-tái nhập thì không có cớ để xóa đi mọi dấu vết vàng thật vàng giả, không có cớ để hợp thức hóa vàng lậu, không có cớ để che dấu tài sản phi pháp, không có hoạt động xuất nhập khẩu để hưởng lợi riêng….Tất cả chỉ cần có “báo cáo Chính phủ” là xong. Báo TN quá ngây thơ, lề trái, lề phải gì cũng dễ dàng qua mặt hoặc đánh lạc hướng. Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội …càng dễ được lừa hơn. Những người nắm tiền và vàng hiện nay cao tay hơn nhiều lắm rồi. Nếu họ vì đất nước, vì dân tộc nghèo nàn này mà hành động thì lợi biết mấy, tiếc rằng…. ————————————- - Thị trường vàng: Nguy cấp! Điều hành vàng: Thất bại! (PLTP). – NHNN quản lý thị trường vàng đúng quy định của pháp luật (CP/VOV). – Ai mua hơn 12 tấn vàng đấu thầu? (TT). – Oanh Yến Thị Phạm: AI NÊN KHÔN KHÔNG KHỐN MỘT ĐÔI LẦN? (Huỳnh Ngọc Chênh). Một độc giả phản hồi: “Số liệu về vàng của VN mình so với bên ngoài sao có vẻ ‘bát nháo’ quá anh BaSàm ơi!!! chả biết ai đúng ai sai luôn??? Anh ghé xem ở đây chút nha: www.tradingeconomics.com/vietnam/importsTheo đó, chỉ riêng trong tháng 3 vừa qua vàng nhập vào VN mình đã tăng hơn 4,3 tỷ USD rồi anh ạ! So với so liệu mà báo Thanh Niên đưa ra dựa theo thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, năm 2011 vàng thỏi nhập vào VN là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD. Năm 2012: 75,2 tấn, tương đương trên 4 tỉ USD. …” nhưng bị NHNN phản bác bảo là cao, không chính xác này nọ… thì chỉ riêng con số chênh lệch tháng 2 & 3/2013 trên trang này cũng đã xấp xỉ rồi!!! đáng lưu ý hơn họ bảo đây là số liệu của cục thống kê VN??? ‘Imports in Vietnam increased to 11575 USD Million in March of 2013 from 7240 USD Million in February of 2013. Imports in Vietnam is reported by the General Statistics Office of Vietnam’.“ Bổ sung, hồi 11h: độc giả Trần Gia có phản hồi phân tích chi tiết vụ này, trích: “Báo TN quá ngây thơ, lề trái, lề phải gì cũng dễ dàng qua mặt hoặc đánh lạc hướng. Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội …càng dễ được lừa hơn. Những người nắm tiền và vàng hiện nay cao tay hơn nhiều lắm rồi.” Mời đọc chi tiết đã được đăng lại trong mục Độc giả viết: Mánh khóe “tạm xuất-tái nhập vàng” để hưởng lợi khủng khiếp. Hổi 12h10′, độc giả “ccorrectorr“/nicecowboy phản hồi, trong đó có những phân tích, lập luận rất đáng quan tâm, đã đăng lại thành bài: VỀ PHẢN ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NN ĐỐI VỚI BÀI BÁO ĐINH CỦA BÁO THANH NIÊN. “Nhận xét trước tiên của tôi, các số liệu thống kê mà tác giả đưa ra khá phù hợp với số liệu thống kê của Hiệp Hội VTG…” phongchongthamnhungvietnam2012.blogspot.com/2013/04/nhung-thong-tin-kiem-chung-ve-bai-bao.html*888 Cuộc tranh cãi này không thể kết thúc và dư luận cả hai lề cũng không biết đâu mà lần vì sự thực và ý đồ đã bi che dấu và .Báo TN vì nóng lòng đã dùng sai tư liệu ,NHNN đủ thông minh để phản bác được.Nhưng sự thật thì vẫn là sự thật. Nó nằm ở đây: Tại sao phải “Tạm xuất-Tái nhập vàng”. Không có việc này, thì không có chuyện gì xảy ra cả. Phải có việc này thì những người thực hiện mới được hưởng lợi khủng khiếp. Lý do phải Tạm xuất-Tái nhập vàng theo NHNN: “Để đẩy nhanh tiến độ kiểm định, chuyển đổi, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thực hiện việc tạm xuất vàng miếng phi SJC và tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế với khối lượng xuất khẩu bằng khối lượng nhập khẩu. Việc thực hiện chủ trương này nhằm đẩy nhanh tiến độ kiểm định, gia công vàng miếng phi SJC thành vàng SJC theo đúng quy định của pháp luật và Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Chính phủ trước khi thực hiện.” Lý do này hoàn toàn sai, che dấu sự thật ,lừa người dân ,nhằm phục vụ lợi ích nhóm. Vì sao ? Về kỹ thuật, để đẩy nhanh kiểm định, dập nhanh thành SJC không cần xuất vàng ra, mua vàng về. Theo quy trình hiện nay,một ngày là đúc xong 10 tấn vàng rời thành vàng thỏi, 1 ngày là kiểm định xong bằng các phương pháp hiện đại nhất, việc dập ra miếng SJC cần bao nhiêu làm ngay ra bấy nhiêu, máy moc tự động cả. Toàn bộ quy trình này (kể cả tinh lọc vàng thành vàng 9999) trong nước làm được 100% từ lâu rồi (không tin cứ hỏi ông Phú Doji xem) ! Tốn không đến chục tỷ đồng. Đã có nhiều ý kiến đề xuất làm việc này rồi, nhưng NHNN, NHTM,Cty Vàng…liên kết nhau chống lại. Không có tạm xuất-tái nhập thì không có cớ để xóa đi mọi dấu vết vàng thật vàng giả, không có cớ để hợp thức hóa vàng lậu, không có cớ để che dấu tài sản phi pháp, không có hoạt động xuất nhập khẩu để hưởng lợi riêng….Tất cả chỉ cần có “báo cáo Chính phủ” là xong. Báo TN quá ngây thơ, lề trái, lề phải gì cũng dễ dàng qua mặt hoặc đánh lạc hướng. Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội …càng dễ được lừa hơn. Những người nắm tiền và vàng hiện nay cao tay hơn nhiều lắm rồi, Nếu họ vì đất nước, vì dân tộc nghèo nàn này mà hành động thì lợi biết mấy, tiếc rằng….
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 27, 2013 5:45:16 GMT 9
Nợ công: cần minh bạch, rõ ràng- Nợ 128,9 tỉ USD mà tính láo là 66,8 tỉ USD ? - Cố tình trì hoãn đến 3 năm mới công bố chỉ số nợ công để dễ bề che đậy, lẩn tránh trách nhiệm? - Nguy cơ nợ tư thành nợ công vì phải bỏ tiền ra cứu rất nhiều “đại gia” bất động sản vỡ nợ! - Chỉ 3 năm nữa là rơi vào tình cảnh làm ra đồng nào phải đem trả nợ đồng ấy. - Vay nợ Trung Quốc gia tăng nhanh! - Tương lai sẽ trở thành một “Hy Lạp thứ hai” (?), để rồi cầu cứu “bạn vàng”, chịu quy phục bằng mọi giá? “Bán” biển đảo hay chấp nhận trở thành một kiểu “khu tự trị”? Còn “kịch bản” nào tuyệt vời và “êm thấm” hơn cho kế hoạch hai đảng cùng dắt tay nhau tiến lên “thiên đường XHCN”? “Chiến công” này phải thuộc về “đồng chí X”, không phải “đồng chí Lú”! Tuổi trẻ 26/04/2013 08:00 (GMT + 7) TT – Cần có những giải pháp xử lý trước khi quá muộn. Đó là khuyến cáo của nhiều chuyên gia tại hội thảo khoa học “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở đối với VN” do Viện hàn lâm Khoa học VN tổ chức ngày 25-4. Các đại biểu cũng đề nghị để khỏi bị động trong việc xử lý, VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công. Thế giới nói 128,9 tỉ USD, VN tính 66,8 tỉ USD Dẫn tính toán của chuyên gia Liên Hiệp Quốc, trao đổi với Tuổi Trẻ bên lề hội thảo, TS Nguyễn Trọng Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần gấp đôi mức VN công bố chính thức. TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch – đầu tư), cũng đồng tình và chỉ ra rằng năm 2011, ước tính theo quốc tế thì nợ công của VN là 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP. Nhưng con số mà Bộ Tài chính công bố chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP. Các nhà khoa học cũng đồng tình với nhận định của TS Hồ khi cho rằng cái khó nhất nói về thực trạng nợ công của VN là thiếu số liệu và không đủ tin cậy. Thời gian cập nhật nợ công của các nước là hằng quý, còn ở VN Bộ Tài chính mới chỉ công bố đến năm 2010 và ước tính đến năm 2011 thôi. Bày tỏ quan điểm cá nhân, ThS Đinh Mai Long – Vụ Tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước – nêu trong 10 năm trở lại đây, nợ công tại VN tăng nhanh một cách đáng lo ngại và có cơ cấu kém bền vững, bị tác động mạnh của những cú sốc từ nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các cú sốc tỉ giá. Cơ cấu đồng tiền vay nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là các đồng tiền chủ chốt như JPY chiếm khoảng 39%, bằng SDR khoảng 27%, bằng USD khoảng 22%, bằng EUR khoảng 9%. Đối với vay nước ngoài của doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước – DNNN) được Chính phủ bảo lãnh) chủ yếu tập trung vào USD (chiếm từ 70-80%). Kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6-2011, ba đồng tiền chủ chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của VN đã lên giá lần lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cho thấy gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ. Mặt khác, ông Long cũng lưu ý là vay nợ từ Trung Quốc gia tăng nhanh trong mấy năm gần đây – khoảng 1,2 tỉ USD. Ngoài ra, tốc độ gia tăng nợ công khoảng 15%/năm đang dần “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân sách khoảng 17-21%, có nghĩa là vài ba năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để bù trả nợ – ông Long nhấn mạnh. Bỏ qua nợ của DNNN Nợ công của VN vì sao lại chỉ bằng một nửa so với cách tính của thế giới? TS Nguyễn Trọng Hậu cho rằng thế giới có tiêu chí nợ công chung, họ có năm thành tố thì VN chỉ có ba. Có hai yếu tố chưa được tính vào nợ công của VN đó là nợ của DNNN và khoản Nhà nước vay của quỹ hưu trí. Ông Hậu cho rằng với cách tính nợ công của VN thì thực tế những khoản nợ nước ngoài cả tỉ USD như của Vinashin không được tính vào nợ công trong khi các nước, doanh nghiệp nào có vốn nhà nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài cũng phải tính vào. Một khoản nữa VN chưa tính vào nợ công là khoản tiền Nhà nước vay của quỹ hưu trí (nếu có), vì về thực chất đây cũng là nợ của dân. Cũng theo ông Hậu, kinh nghiệm hiện nay cần cảnh giác là rất nhiều khoản nợ tư cũng có thể biến thành nợ công. Như hiện nay có rất nhiều “đại gia” bất động sản có thể vay nợ nước ngoài. Đây không phải nợ công nhưng khi các “đại gia” phát triển đến quy mô rất lớn mà nếu để các doanh nghiệp này đổ vỡ có thể kéo theo hàng loạt hệ lụy cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp, các “đại gia” không trả được nợ, Nhà nước sẽ phải đứng ra cứu. Như thế cũng tạo nguy cơ rất lớn khiến phình nợ công rất nhanh. Còn ông Long thì cho rằng trên thực tế, dù được hay không được Chính phủ bảo lãnh nhưng nếu những DNNN không thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ thì Chính phủ với vai trò chủ sở hữu vẫn phải gánh nợ cho các DNNN này. Cần tính theo chuẩn quốc tế Ông Hậu khuyến cáo VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công bởi để đến khi “cái kim trong bọc lâu ngày lộ ra” thì khi đó ứng xử rất bị động. Đặc biệt, ông Hậu khuyến cáo nguy cơ vay nợ nhiều nhưng nếu sử dụng không hiệu quả thì rất nguy hiểm. Trong khi đó, nhiều khoản vay nợ của VN được phân bổ bởi Nhà nước lại có hiệu quả sử dụng không cao… PGS.TS Nguyễn An Hà – Viện Nghiên cứu châu Âu – cho rằng với tình hình nợ công và quản lý nợ công của VN có thể thấy rằng nền kinh tế VN hiện đang có một số đặc điểm giống với các nước PIIGS (các nước châu Âu có tỉ lệ nợ cao, bao gồm Hi Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ công. Đó là tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 đến nay, lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006-2011… Do vậy, cần có những giải pháp xử lý trước khi quá muộn. Theo GS.TS Đỗ Hoài Nam – chủ tịch Hội đồng Học viện Khoa học xã hội VN, điều quan trọng là tìm ra được nguyên nhân của tình trạng đáng báo động về nợ công ở VN. “Phải chăng đó là vấn đề liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế quá nóng, dựa quá nhiều vào vốn, phát triển theo chiều rộng. Điều đó đúng nhưng đã đủ chưa. Người ta còn nói mô hình tăng trưởng dựa vào DNNN làm ăn kém hiệu quả. Gần như là con nợ lớn nhất của nợ công. Thế thì chúng ta sẽ phải bắt đầu từ đâu?” – ông Nam băn khoăn. Ông Nguyễn An Hà cũng cho rằng nợ công là nguồn lực quan trọng nhưng chất lượng sử dụng nợ còn quan trọng hơn. Rút ra các bài học từ nghiên cứu, ông Hà cho rằng con số tuyệt đối nợ công cần minh bạch, rõ ràng. Trong hội nhập quốc tế, VN phải theo luật chơi quốc tế. Bởi theo ông Hà, các khoản vay đến hạn thì nước ngoài họ xiết nợ theo luật quốc tế. VN sẽ khó lờ đi được bởi ông Hà ví dụ trường hợp Vinashin, khi phải trả lãi, ban lãnh đạo mới của Vinashin lờ đi, nhưng chỉ cần các tổ chức xếp hạng đưa định mức tín nhiệm của VN xuống một bậc, thành B- lãi suất cho các khoản vay đến VN tăng, thiệt hại có thể lớn hơn nhiều. C.V.KÌNH – L.THANH
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 7:06:10 GMT 9
Sơn Văn - 30-4-1975: Giai nhân và quái vật Khi đọc đầu đề này hẳn có người nghĩ rằng tôi sắp kể một câu chuyện tình na ná chuyện cổ tích phương Tây “Giai nhân và quái vật” đã làm mê say bao triệu người từ trẻ đến già trên toàn thế giới và vì vậy sẵn lòng chờ một giấc mơ hoa để rũ bỏ dù trong chốc lát những u uẩn của cuộc sống hiện tại. Nếu vậy thì tôi rất xin lỗi mà thưa rằng, những gì tôi nói ngay sau đây sẽ chẳng có vẻ gì của một chuyện tình, càng không phải là một chuyện tình có hậu.
Không nghi ngờ gì nữa, thống nhất đất nước là khát vọng thiêng liêng của mọi người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của mình, đặc biệt ở thế kỷ 20, bất luận ở bên nào của chiến tuyến, dù trong hàng ngũ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Việt Cộng, hay thuộc lực lượng Việt Nam Cộng hòa chống cộng. Do đó, 30-4-1975 chắc chắn là cái tuyệt vời, cái vô cùng đẹp đẽ khi khép lại cuộc chiến thảm khốc kéo dài 20 năm không một ngày ngưng để nối liền non sông thành một dải. “Giai nhân” mà 30-4-1975 mang lại cho dân tộc ViệtNamchính là chỗ đó! Thế nhưng oái ăm thay, cùng một lúc với “giai nhân”, 30-4-1975 đã mang lại cho người Việt Nam trên khắp đất nước một “quái vật”: Chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lênin (sau đây gọi tắt là “chủ nghĩa xã hội”). Vậy tại sao chủ nghĩa xã hội lại là quái vật? Hỏi tức là trả lời, là vì chủ nghĩa xã hội hại nước, hại dân, hại người! Cụ thể, quái vật này hiện hình như mô tả sau đây. 1. Chủ nghĩa xã hội phản dân tộc Có một sự thật là nội chiến hay chiến tranh giữa những người cùng dân tộc, cùng quốc gia dù không mong muốn thì nó vẫn xảy ra khi mâu thuẫn chính trị giữa họ đã lên đến đỉnh điểm mà không giải quyết được bằng biện pháp hòa bình. Nói cách khác, chiến tranh “huynh đệ tương tàn” không phải là riêng của quốc gia nào, mà đáng tiếc Việt Nam lại là một thí dụ nổi bật với Loạn 12 Sứ quân vào thế kỷ 10, chiến tranh Lê – Mạc vào thế kỷ 16, chiến tranh Trịnh – Nguyễn rồi chiến tranh giữa Tây Sơn và Trịnh, giữa Tây Sơn và Nguyễn vào các thế kỷ tiếp theo cho đến đầu thế kỷ 19, và hiển nhiên rồi, chiến tranh giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Việt Cộng và Việt Nam Cộng hòa ở thế kỷ 20. Như vậy, nếu nội chiến là không thể tránh được thì vấn đề là ở chỗ người chiến thắng phải mau chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh mà hòa giải dân tộc là liệu pháp hàng đầu, cụ thể là không trả thù, không sỉ nhục người chiến bại dưới bất kỳ hình thức nào và ngay lập tức coi họ là những công dân đầy đủ của quốc gia thống nhất. Thế nhưng chính quyền cộng sản ViệtNamđã đi ngược đạo lý dân tộc ấy vì chủ nghĩa xã hội mà chính quyền này theo đuổi. Thực vậy, đối với chủ nghĩa xã hội thì không có “dân tộc” mà chỉ có “giai cấp”, không có “con người dân tộc” mà chỉ có “con người giai cấp” và vì “đấu tranh giai cấp” hay “cách mạng” là thường trực nên bất cứ ai không tán thành sự thống trị của giai cấp công nhân hay “vô sản” đều là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, là đối tượng đàn áp của “chuyên chính vô sản” mà hiện thân là chính quyền cộng sản. Điều này lý giải vì sao sau 30-4-1975, chính quyền cộng sản đã đưa cả trăm ngàn nhân viên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vào các “trại tập trung cải tạo” – các nhà tù thực sự – với lý do duy nhất là họ đã phục vụ trong chính quyền “ngụy” đối nghịch. Lẽ dĩ nhiên, việc bỏ tù các “kẻ thù giai cấp” này của chính quyền cộng sản chỉ càng đào sâu hận thù dân tộc thay vì xóa bỏ nó. Chính sách gây hận thù dân tộc này còn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy lên kịch trần khi bỏ tù luôn cả người đòi nhà cầm quyền thực hiện hòa giải dân tộc, cụ thể là bỏ tù Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, vì ông đã gửi Quốc hội “Kiến nghị trả tự do cho tất cả các tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc”! Chủ nghĩa xã hội không chỉ phản dân tộc ở chỗ xóa bỏ “con người dân tộc” bằng cách luôn duy trì người Việt Nam trong tình trạng thù hận lẫn nhau như trên vừa chứng minh, mà còn tày trời hơn, ở chỗ muốn xóa bỏ luôn Tổ quốc của người Việt Nam với định danh “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” ghi trong Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 hiện hành. Thực vậy, “Tổ quốc” trong tiếng Việt có nghĩa “Quốc gia do Tổ tiên tạo lập”, đồng nghĩa Tổ quốc của người Việt Nam chỉ có một, là quốc gia do Tổ tiên của người Việt Nam là Vua Hùng tạo lập. Do đó “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” không gì khác hơn là phủ nhận Vua Hùng, phủ nhận chính quốc gia của người Việt Nam đã có từ 4000 năm nay hay phủ nhận chính Tổ quốc của người Việt Nam! Nhân đây cần khẳng định rằng lập luận “Tổ quốc phải gắn với chế độ chính trị” để biện minh cho “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” là hoàn toàn phản động, nếu không muốn nói là ngu xuẩn. “Tổ quốc phải gắn với chế độ chính trị” mặc nhiên có nghĩa một khi chế độ bị xóa bỏ thì Tổ quốc cũng mất theo. Vậy phải chăng người Việt Nam không còn Tổ quốc sau khi chế độ phong kiến bị xóa bỏ vào tháng 8 năm 1945 với việc đại diện của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Bộ trưởng Cù Huy Cận tiếp nhận sự thoái vị của Vua Bảo Đại nhà Nguyễn tại Ngọ Môn, Huế?! Nhìn ra nước ngoài, phải chăng người Nga và những dân tộc khác ở Đông Âu không còn Tổ quốc sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước họ sụp đổ, tan tành trong vỏn vẹn vài năm, từ 1989 đến 1991?! Vả lại, nói “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thì phải chăng hàng triệu người ViệtNamđịnh cư ở nước ngoài không còn Tổ quốc?! Cũng như vậy, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà Đảng Cộng sản luôn tuyên truyền là một sự xuyên tạc lịch sử của dân tộc ViệtNamkhông hơn không kém. Thực vậy, Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 68 năm hoàn toàn không dính dáng đến chủ nghĩa xã hội, điều này có thể thấy rõ trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Không những thế, việc Đảng Cộng sản Việt Nam – lúc bấy giờ có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương – tự giải thể vào ngày 11-11-1945, chỉ hai tháng sau khi nền Cộng hòa ra đời, dù trong thực chất có là hình thức đi nữa thì đối với yêu cầu đối nội và đối ngoại của lịch sử lúc bấy giờ, việc giành độc lập của nhân dân Việt Nam là để thực hiện quyền dân tộc tự quyết chứ tuyệt nhiên không phải để xây dựng chủ nghĩa xã hội như một mục đích tự thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, và về khách quan, đấy cũng là bằng chứng chứng tỏ sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam gây trở ngại cho danh nghĩa bảo vệ và củng cố nền Độc lập dân tộc còn trứng nước. Ngoài ra, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không gì khác hơn là phủ định sạch trơn Độc lập dân tộc mà người Việt Nam đã giành được dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Ngô Quyền, Lê Lợi trước phong kiến Trung Hoa, hay nói ngắn gọn, xóa bỏ toàn bộ lịch sử đấu tranh giành Độc lập của dân tộc Việt Nam! Không dừng lại ở phủ nhận, xuyên tạc Tổ quốc và Độc lập dân tộc của người ViệtNam, chủ nghĩa xã hội xâm hại ngay chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ViệtNam. Năm 1988, Trung Quốc đã dùng hải quân tấn công quần đảo Trường Sa, giết chết 64 sĩ quan, chiến sĩ Việt Nam và chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo này của Việt Nam. Thế nhưng, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa”, từ bấy cho đến mãi gần đây Chính phủ Việt Nam im re, không hề lên án hành vi xâm lược này của “đồng chí” Trung Quốc. Thực ra, không phải đến năm 1988 chủ nghĩa xã hội mới xâm hại chủ quyền và lãnh thổ ViệtNam. 30 năm trước đó, năm 1958, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa” Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công hàm gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, điều này giải thích vì sao chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không hề phản ứng dù chỉ là tí chút trước việc Trung Quốc vào năm 1974 dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa quản lý. Những hành vi không thể chấp nhận này mà nguyên nhân là chủ nghĩa xã hội của chính quyền cộng sản Việt Nam càng lộ rõ khi cách đây vài năm chính quyền này bắt giam một số công dân Việt Nam vì họ đã lên tiếng khẳng định “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” với lý do không có gì ngược đời hơn là những người yêu nước này đã “xâm phạm an ninh quốc gia”, cũng như là chính quyền đã không chịu công nhận liệt sĩ cho các quân nhân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, hành vi đáng lo ngại nhất của chính quyền cộng sản Việt Nam khiến cả dân tộc mất ăn mất ngủ vẫn đang là câu chuyện ở phía trước. Thực vậy, trước âm mưu dùng vũ lực thôn tính nốt quần đảo Trường Sa và độc chiếm Biển Đông đã quá rõ ràng của Trung Quốc – hiện đang sở hữu các phương tiện chiến tranh trên biển gấp bội lần Việt Nam – TS luật Cù Huy Hà Vũ đã nhiều lần kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam khẩn trương liên minh quân sự với Mỹ để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa và tiến tới thu hồi quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam nên Biển Đông, vì Mỹ không chỉ là siêu cường quân sự duy nhất trên thế giới mà còn là nước duy nhất trên thế giới có chiến lược quân sự Châu Á – Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bành trướng bằng vũ lực của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt ở Đông Nam Á. Thế nhưng Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ liên minh quân sự với Mỹ vì cho rằng cái giá phải trả cho liên minh này là mất chế độ xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, chính quyền cộng sản Việt Nam thà “mất nước”, mất lãnh thổ quốc gia vào tay Trung Quốc chứ nhất định không chịu mất chủ nghĩa xã hội! 2. Chủ nghĩa xã hội phản dân chủ, chống lại xã hội Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam do Chính phủ Việt Nam chủ trì biên soạn, “chuyên chính” là “trực tiếp dùng bạo lực (đối lập với dân chủ) để áp đặt ý chí của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị”. Vậy chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa đồng nhất với “chuyên chính vô sản” dứt khoát là một chế độ phản dân chủ, trên thực tế, ngược lại với dân chủ (cạnh tranh bình đẳng, phi bạo lực giữa các cá nhân, các đảng phái nhằm cung ứng cho quốc gia, xã hội và các công dân không chỉ một sự quản lý tốt nhất mà cả một sự bảo vệ tốt nhất), Đảng Cộng sản Việt Nam – “đội tiên phong của giai cấp công nhân (vô sản) – sau ngày thống nhất đất nước đã thẳng thừng áp đặt sự thống trị của đảng này đối với nhân dân Việt Nam bằng quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” tại Điều 4 cả trong Hiến pháp 1980 lẫn trong Hiến pháp hiện hành. Cần phải nói ngay rằng bộ mặt phản dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa lộ rõ không chỉ ở sự áp đặt Điều 4 Hiến pháp mà còn ở nội dung phi logic của điều này. Thực vậy, Điều 2 Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, tức nhân dân là chủ duy nhất của Nhà nước, đồng nghĩa Nhà nước không thể phục tùng hay chịu sự lãnh đạo của ai khác ngoài nhân dân là chủ duy nhất của mình. Có nghĩa là, Đảng Cộng sản Việt Nam tuyệt nhiên không phải là chủ của Nhà nước thì không thể điều khiển lãnh đạo Nhà nước được! Ngoài ra, khái niệm “lãnh đạo” của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước là sản phẩm của sự dốt nát, yếu kém cực kỳ về lý luận. Đảng Cộng sản Việt Nam hay bất cứ đảng phái nào khác có thể “lãnh đạo” với nghĩa tổ chức giành chính quyền về tay nhân dân thì chỉ nhân dân, chứ không phải đảng phái quyết định đường lối quốc gia cũng như cách thức hoạt động của chính quyền hay Nhà nước. Cụ thể là nhân dân thực hiện các quyết định sống còn này của mình hoặc trực tiếp bằng lá phiếu – gọi là “dân chủ trực tiếp” – hoặc gián tiếp thông qua các đại diện của mình được bầu ra ở cấp quốc gia (đại biểu Quốc hội) và ở cấp địa phương (đại biểu Hội đồng nhân dân) – gọi là “dân chủ đại diện” hay “dân chủ ủy quyền”. Theo logic đó, các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hay đảng phái khác hoặc người không thuộc đảng phái nào được nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu vào các cơ quan quyền lực Nhà nước mà ở đây là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp chỉ là để thực hiện ý chí của nhân dân hay chỉ là “đầy tớ của nhân dân” như chính Hồ Chí Minh đã nói, chứ không thể làm điều ngược lại là áp đặt ý chí chủ quan của mình cho nhân dân. Để nói, không thể có chuyện đầy tớ “lãnh đạo”, bắt ông chủ, bà chủ phục tùng mình được. Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam hay bất cứ đảng phái nào khác có thể “lãnh đạo” nhân dân nhưng chỉ trong trường hợp dùng vũ lực giành chính quyền về tay nhân dân, đồng nghĩa một khi chính quyền về tay nhân dân thì sự “lãnh đạo” có tính đảng phái này sẽ tự động mất đi và thay vào đó nhân dân sẽ quyết định tất cả, từ đường lối quốc gia cho đến bộ máy thực hiện đường lối đó. Còn như Đảng Cộng sản Việt Nam khăng khăng mình phải “lãnh đạo Nhà nước” thì đó là đảng này phủ nhận chủ quyền của nhân dân, là chống lại nhân dân! Bên cạnh đó, quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” thì tréo ngoe với nhiều quy định khác trong Hiến pháp, trước hết với Điều 2 và Điều 83. Điều 2 Hiến pháp quy định Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền”, tức Nhà nước chỉ tuân theo Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật, gọi chung là pháp luật. Do Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như bất cứ đảng phái nào khác, không phải là pháp luật nên Nhà nước không thể chịu sự “lãnh đạo” hay điều khiển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng như vậy, Điều 83 Hiến pháp quy định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, điều này có nghĩa không có quyền lực hay lực lượng nào đứng trên, làm “sếp” của Quốc hội để có thể “lãnh đạo”, áp đặt ý chỉ chủ quan của mình cho Quốc hội ngoài chính người đã “đẻ” ra Quốc hội là nhân dân! Tương tự, Điều 64 Hiến pháp quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Do đó nếu nói Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo xã hội” tức là “lãnh đạo gia đình”, tức “lãnh đạo mọi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, từ ái ân giữa vợ và chồng cho đến cách nuôi dạy con cái, đối xử với ông bà…”, thì không gì khác hơn là can thiệp vào đời sống gia đình, đời sống riêng tư là đối tượng bảo hộ của luật pháp, đó chưa nói là bất khả thi bởi không ai có thể “lãnh đạo” hay điều khiển các quan hệ gia đình ngoài chính các thành viên gia đình trên cơ sở đạo lý xã hội và pháp luật có liên quan. Mở rộng ra, xã hội là tập hợp các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức… vô cùng đa dạng và phức tạp. Nói cách khác, “xã hội” đồng nhất với “đa dạng và phức tạp”. Vậy “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội” tức buộc các quan hệ xã hội hoạt động theo ý chí chủ quan của đảng này, rõ ràng là “triệt tiêu sự đa dạng và phức tạp” của xã hội, đồng nhất với “phá xã hội”! 3. Chủ nghĩa xã hội chống lại các quyền con người Trước hết cần ghi nhận rằng nhiều quyền con người đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam mà sau đây là một số cơ bản nhất. Điều 69 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Điều 70 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào… Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”. Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam đã tham gia một số điều ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự. Điều 19 Công ước này quy định: Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao giồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến… Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội. Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội là “nói một đằng làm một nẻo”. Những quyền con người nói trên đều bị chính quyền cộng sản Việt Nam chà đạp trên thực tế. Để triệt tiêu quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, chính quyền cộng sản đặt ra “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” – Điều 88 Bộ luật Hình sự. Cụ thể là chính quyền cộng sản vin vào tội danh này để bỏ tù tất cả những ai bày tỏ quan điểm chính trị trái ngược với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản án phúc thẩm của Tòa án tối cao nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kết án TS luật Cù Huy Hà Vũ tự nó đã nói lên tất cả. Bản án ghi “Bị cáo và các luật sư cho bị cáo cũng như một số ý kiến quan tâm đến việc xét xử sơ thẩm bị cáo Cù Huy Hà Vũ cho rằng: Việc kết án Cù Huy Hà Vũ là vi phạm Điều 69 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự (1966) mà Việt Nam đã tham gia Công ước này năm 1988. Hội đồng xét xử thấy: Điều 69 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự cùng quy định “Mọi người có quyền tự do ngôn luận…”. Nhưng Khoản 3 Điều 19 của Công ước này lại quy định “Việc áp dụng các quyền được quy định tại Khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể là đối tượng chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong pháp luật và cần thiết để… bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”. Như vậy, Điều 88 của Bộ luật Hình sự quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp và hoàn toàn phù hợp với Khoản 3 Điều 19 của Công ước Quốc tế các quyền chính trị, dân sự (1966) mà Việt Nam đã tham gia năm 1982”. Như mọi người đã thấy, sau câu “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” và câu “có quyền được thông tin” tại Điều 69 của Hiến pháp là dấu “;” (chấm phẩy), tức là nghĩa của các câu này trọn vẹn. Nói cách khác, các quyền con người – quyền công dân này không bị ràng buộc bởi bất cứ quy định pháp luật nào khác. Thế nhưng Tòa án tối cao đã làm đậm câu “theo quy định của pháp luật” với ý “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” để từ đó nói “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là quy định của pháp luật mà công dân phải tuân theo khi thực hiện các quyền trên. Tóm lại, chỉ riêng việc Tòa án tối cao cố ý xuyên tạc lời văn của Điều 69 Hiến pháp cũng đã đủ triệt tiêu lập luận “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là “cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp” của chính cơ quan tư pháp tối cao này, đồng nghĩa Điều 88 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ pháp lý nên phải xuyên tạc Hiến pháp để hỗ trợ! Vả lại, cứ cho là Hiến pháp quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật” thì Điều 88 Bộ luật Hình sự quyết không thể là quy định pháp luật mà công dân phải tuân theo, bởi không pháp luật nào lại bắt công dân tuân theo tội phạm cả! Thật vậy, nếu thay “theo quy định của pháp luật” bằng Điều 88 Bộ luật Hình sự thì sẽ có “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Thật không thể điên khùng hơn! Còn nếu Tòa án tối cao cho rằng “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là cụ thể hóa các quyền của con người – quyền công dân quy định tại Điều 69 Hiến pháp – thì quan điểm này của cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hơn cả điên khùng, là phản pháp luật đến cùng cực vì đã biến các “quyền” của công dân thành “tội phạm”! Chưa hết, chính Khoản 3 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Tòa án tối cao đã dẫn để biện minh cho sự tồn tại của “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, oái oăm thay, lại có tác dụng “gậy ông đập lưng ông” phủ định chính tội danh này. Thực vậy, như mọi người đã thấy, theo quy định này của Công ước, để bảo vệ an ninh quốc gia… quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, với điều kiện này phải được quy định trong pháp luật. Thế nhưng trong pháp luật của Việt Nam đã không có quy định nào hạn chế quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan. Còn Điều 88 Bộ luật Hình sự dứt khoát không phải là quy định pháp luật hạn chế quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan như trên đã chứng minh. Nói cách khác “Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” chỉ có thể tồn tại sau khi pháp luật đã có quy định “cấm tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vì tội danh được định ra là để xử lý bằng biện pháp hình sự hành vi vi phạm, điều mà pháp luật cấm. Thế nhưng quy định “cấm tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ không bao giờ có thể “xuất đầu lộ diện” trong pháp luật Việt Nam vì nó hoàn toàn trái với quy định “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” tại Khoản 1 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Việt Nam là thành viên. Kết luận lại, “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” phải bị xóa bỏ vì hoàn toàn trái với Khoản 1 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Việt Nam là thành viên và Điều 69 Hiến pháp Việt Nam! Cũng cần nói thêm rằng chính quyền cộng sản cấm báo chí tư nhân trong khi thực chất của quyền tự do báo chí là cá nhân hay tư nhân được ra báo chí. Bản thân khái niệm “tự do” xuất phát và gắn liền với khái niệm “cá nhân”, hay nói cách khác, “cá nhân” không tồn tại thì “tự do” không tồn tại! Về quyền lập hội, quyền biểu tình của công dân, các quyền này chỉ có thể được pháp luật bảo hộ sau khi các quyền này được luật hóa như quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992. Thế nhưng cho đến nay, đã 21 năm trôi qua, Luật về Hội và Luật Biểu tình vẫn chưa được ban hành, đồng nghĩa với quyền lập hội, quyền biểu tình “có cũng như không”, hay nói đúng hơn các hội, các cuộc biểu tình ở Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất hợp pháp và vì vậy có thể bị chính quyền cộng sản dẹp bỏ bất cứ lúc nào và những người tổ chức luôn có thể bị chính quyền này khép vào “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” quy định Điều 258 Bộ luật Hình sự, hay vào “Tội gây rối trật tự công cộng” quy định tại Điều 245 Bộ luật Hình sự. Nhân đây cần khẳng định rằng “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” là trái pháp luật vì “lợi dụng” không phải là hành vi vi phạm pháp. Pháp luật không chặt, hở, để ai đó lợi dụng thì đó là lỗi của các nhà làm luật. Nói cách khác, tội danh này được chính quyền cộng sản Việt Nam đặt ra là để loại bỏ chính các quyền tự do, dân chủ của công dân! Cũng như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Điều 70 Hiến pháp là không thực chất chừng nào còn Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực vậy, tín ngưỡng hay tôn giáo suy cho cùng đều là hệ tư tưởng và chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là hệ tư tưởng. Do đó, một khi đã khẳng định tự tín ngưỡng, tự do tôn giáo thì đương nhiên tín ngưỡng, tôn giáo không thể bị “lãnh đạo” hay định hướng, điều khiển bởi hệ tư tưởng nào khác mà ở đây là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là chưa nói đến quan điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đó, những người cộng sản phải giải thoát nhân dân khỏi sự đầu độc của tôn giáo, tức coi tôn giáo là địch thủ, là đối tượng mà những người cộng sản phải trừ bỏ! Về quy định “những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” cũng tại Điều 70 Hiến pháp thì quy định này đồng nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo bị cấm cản, đàn áp khi nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo bị chính quyền bị xóa bỏ và chiếm đóng trái pháp luật. Cần khẳng định rằng nghĩa trang của giáo xứ là nơi thờ tự của đạo Thiên Chúa (Kitô giáo). Do đó, việc chính quyền Đà Nẵng năm 2009 đã chiếm lấy nghĩa trang của Giáo xứ Cồn Dầu và bỏ tù một số giáo dân do những người này đã đưa một số giáo dân khác vừa qua đời đến chôn ở nghĩa trang này là hành vi đàn áp tôn giáo không hơn không kém! Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều quyền con người – công dân khác như quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tài sản đối với đất đai… bị chính quyền cộng sản xâm hại nghiêm trọng mà khuôn khổ của một bài viết không đủ để liệt kê đầy đủ. Tuy nhiên, một số dẫn chứng về việc chính quyền cộng sản xâm hại nghiêm trọng nhân quyền đã nêu ở trên cũng đã đủ để cho thấy chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa là điển hình của đàn áp nhân quyền! 4. Chủ nghĩa xã hội mang lại đói nghèo và tham nhũng Trước hết phải khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản không gì khác hơn là kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường, còn chủ nghĩa xã hội lại chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tức là xóa bỏ kinh tế tư nhân, xóa bỏ kinh tế thị trường thông qua “công hữu hóa tư liệu sản xuất” mà sản phẩm là các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế ở Việt Nam cho thấy chủ nghĩa xã hội chỉ mang lại đói nghèo cho tuyệt đại đa số người dân, đẩy Việt Nam đến bờ vực phá sản với lạm phát 900% vào năm 1985 dẫn tới ăn mày đầy đường! Để sống sót, từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiến hành “Đổi mới”, bước đầu đi theo chủ nghĩa tư bản bằng cách thừa nhận kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường và “tự diễn biến hòa bình” từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản này đã cơ bản hoàn tất với việc Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức cho đảng viên làm kinh tế tư nhân vốn bị đảng này coi là “bóc lột”. Mặc dầu vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không chịu công khai thừa nhận sự phá sản của chủ nghĩa xã hội và để bao biện cho việc rốt cuộc đã phải thực hiện kinh tế thị trường – hiện thân của chủ nghĩa tư bản – đảng này đã biến báo kinh tế thị trường bằng cách gắn cho nó cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên sự bao biện này của Đảng Cộng sản Việt Nam là công cốc. Thực vậy, như đã nêu trên, “chủ nghĩa xã hội” hay “xã hội chủ nghĩa” đồng nhất với “xóa bỏ kinh tế thị trường”. Vậy khi thay “xã hội chủ nghĩa” trong “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bằng “xóa bỏ kinh tế thị trường” thì ta có “kinh tế thị trường định hướng xóa bỏ kinh tế thị trường” ngớ ngẩn không kể xiết! Ngoài ra, chỉ riêng việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm các nước thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU) đầu năm 2013 luôn khẩn khoản đề nghị các nước này công nhận Việt Nam có “nền kinh tế thị trường” chứ không phải “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng đã đủ cho thấy để tồn tại và phát triển trong thế giới ngày nay, Việt Nam không thể không từ bỏ chủ nghĩa xã hội! Chủ nghĩa xã hội cũng đồng nhất với tham nhũng. Như trên đã đề cập, chủ nghĩa xã hội chủ trương quốc hữu hóa nền kinh tế. Nhà nước trực tiếp kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước, nghĩa là nhà nước vừa là người quản lý đồng nhất với giám sát, kiểm soát tài sản quốc gia vừa là người sử dụng tài sản ấy, tức là làm cái chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi” theo cách nói dân gian. Nói cách khác, nhà nước không phải chịu bất cứ giám sát, kiểm soát nào trong việc sử dụng tài sản quốc gia và chính lỗ hổng thể chế này đã tạo ra tham nhũng – tham nhũng thể chế! Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước là kênh chủ yếu để những người nắm giữ quyền lực Nhà nước, mà ở đây là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham nhũng tột mức bằng mọi thủ đoạn, làm đất nước điêu đứng, mà các vụ VINASHIN, VINALINES là những bằng chứng điển hình. Điều này lý giải vì sao Hiến pháp 1992 hiện hành vẫn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, cơ bản là lỗ! Trong các lĩnh vực phi kinh doanh cũng vậy, tham nhũng tràn lan bởi sự độc quyền cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã loại trừ tính minh bạch trong sử dụng ngân sách Nhà nước. Tình hình nghiêm trọng đến mức ngay Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã phải thừa nhận tham nhũng chính là quốc nạn. Kết Hẳn có người đặt câu hỏi, chủ nghĩa xã hội quái vật như thế, gây hại, tàn phá con người và đất nước Việt Nam như thế thì phải chăng thống nhất đất nước vào 30-4-1975 dưới màu cờ đỏ sao vàng là sai lầm? Như trước đây và ngay ở đầu bài viết này tôi đã nói thống nhất đất nước là khát vọng thiêng liêng của mọi người Việt Nam bất luận chính kiến và vì vậy 30-4-1975 là tất yếu của lịch sử, mà đã là tất yếu thì không thể sai lầm! Vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa đã không do nhân dân lựa chọn mà do Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt. Để nói chủ nghĩa xã hội chống lại con người và quốc gia Việt Nam đã có thể loại trừ nếu như nhân dân Việt Nam đã có quyền quyết định chế độ cho chính mình. Như Hiến pháp quy định, nhân dân là chủ nhân duy nhất của đất nước. Do đó, nhân dân, chứ không phải ai khác quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương nơi cư trú và nhân dân thực hiện sứ mệnh này hoặc trực tiếp bằng lá phiếu hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Trên tinh thần đó, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước trong đó có chế độ chính trị được xác định trong Hiến pháp phải được nhân dân trực tiếp quyết định bằng hình thức bỏ phiếu về Dự thảo Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối (2/3 số đại biểu Quốc hội), hình thức mà Hiến pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nền Cộng hòa – gọi là phúc quyết của nhân dân về Hiến pháp. Nói cách khác, chừng nào Hiến pháp chưa được nhân dân trực tiếp làm ra dưới hình thức phúc quyết về Hiến pháp thì không thể nói nhân dân đã được quyền làm chủ đất nước hay là đã có dân chủ, càng không thể nói chế độ chính trị mà ở đây là chủ nghĩa xã hội đã được nhân dân Việt Nam lựa chọn. Tuy nhiên, có một thực tế là trong điều kiện chiến tranh thì quyền phúc quyết của nhân dân về Hiến pháp là không thể thực hiện được như trường hợp của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, điều này có nghĩa là trong điều kiện hòa bình thì không thể có lý do gì nhân dân không thực hiện chủ quyền cao nhất ấy của mình! Thế nhưng như tất cả mọi người đều thấy, sau khi đất nước đã được thống nhất, hòa bình đã được lập lại vào 30-4-1975, nhân dân đã không được chính quyền cộng sản trao quyền phúc quyết về Hiến pháp, dù đó là Hiến pháp 1980 hay Hiến pháp 1992, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ là lựa chọn của nhân dân Việt Nam theo đúng nghĩa đen của từ này. Kết luận lại, để thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, quyết định vận mạng chính trị của chính mình thì nhân dân Việt Nam không có cách nào khác là phải trực tiếp làm Hiến pháp thông qua phúc quyết về Hiến pháp mới hoặc Hiến pháp sửa đổi. Điều này có nghĩa là Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau khi được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối phải được đưa ra trưng cầu dân ý để nhân dân phúc quyết, trừ trường hợp vì lợi ích tối cao của Tổ quốc và nhân dân Việt Nam quyết định làm Dự thảo Hiến pháp mới để sau đó trình nhân dân quyết định. Cho dù quái vật chủ nghĩa xã hội không phục thiện để trở thành người để câu chuyện 30-4-1975 có được cái kết có hậu như trong cổ tích “giai nhân và quái vật” thì sự tồn tại của giai nhân là báo hiệu sự xuất hiện của anh hùng để làm nên câu chuyện mới – câu chuyện “Anh hùng cứu Mỹ nhân”. Hẳn nhiên rồi, Anh hùng bao mong đợi ấy chính là Dân chủ bởi không thể nào khác được! Một ngày không xa, “Dân chủ – Anh hùng” sẽ lên ngôi để cùng “Thống nhất đất nước – Giai nhân” làm nên câu chuyện tình đẹp nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Thực tế lịch sử cho phép ta được quyền tin như thế! 29/4/2013 S.V.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 4, 2013 3:32:39 GMT 9
Vương Nghị gặp Thủ tướng và Tổng bí thư CS vn đúng ngày xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ02/08/2013 Cầu Nhật Tân Trước sức nóng của ngòi nổ chiến tranh trên Biển Đông, để gỡ thế cô lập ngoại giao xung quanh đường 9 đoạn, Trung cộng phái Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị thăm Mã Lai, Việt Nam và Lào. Tại cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Mã Lai và họ Vương (1/8/2013), hai bên hứa hẹn nhiều vấn đề hợp tác trong đó có quân sự và đưa nội dung hợp tác này lên tầm cao mới nhân hai nước kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngại giao chính thức. Điểm dừng chân tiếp theo của họ Vương là người anh em “đồng sàng, dị mộng” Việt Nam. Họ Vương đến Hà Nội hôm nay 3/8/2013 và sẽ gặp Thủ tướng, Tổng Bí Thư đúng ngày 5/8/2013 – ngày xảy ra sự kiện Vinh Bắc Bộ năm 1964. Lưu ý là họ Vương không gặp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang – người vừa kịch liệt phản đối đường 9 đoạn nhân chuyến thăm Hoa Kỳ. Tại Hà Nội, họ Vương sẽ hội đàm với Bộ trưởng Phạm Bình Minh dự kiến vào ngày Chủ nhật 4/8/2013, sau đó sẽ gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Bí Nguyễn Phú Trọng vào thứ Hai 5/8/2013. Cần lưu ý, ngày 5/8/1964 là ngày xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Như vậy, hẳn là họ Vương mang một thông điệp của Bắc Kinh tới Hà Nội sau khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu kịch liệt phản bác đường 9 đoạn (do Trung Quốc đưa ra) khi ông thăm Hoa Kỳ. Đặc biệt, trong cuộc họp báo tại Nhà Trắng, Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama cam kết sẽ tăng cường hợp tác quân sự Việt Nam – Hoa Kỳ. Ngoài ra, quan điểm về tự do đi lại trên Biển Đông được Tổng thống Hoa Kỳ Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang chia sẻ với nhau không thể không khiến Bắc Kinh tức giận (nội dung tự do đi lại trên Biển Đông do Chủ tịch Sang phát biểu bằng tiếng Việt đã bị phiên dịch của Việt Nam cố tình lờ đi khi dịch sang tiếng Anh). Trở về từ chuyến thăm tới Hoa Kỳ, Chủ tịch Sang dường như bị “việt vị” bởi tại Hà Nội đã xuất hiện những quan điểm cho rằng hợp tác quân sự với Hoa Kỳ là “không có lợi về chính trị”. Do đó, rất dễ hiểu khi họ Vương không gặp chào xã giao Chủ tịch Trương Tấn Sang khi sang Hà Nội mà chỉ gặp Thủ tướng cùng Tổng Bí thư. Chiêu ly gián nội bộ khi xưa Trung Quốc dùng để hạ bệ Ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sau Hội nghị Thành Đô (1990) có lẽ đang lặp lại. Chiêu này rất nguy hiểm khi ai cũng biết giữa đồng chí Ba và đồng chí Tư vẫn tồn tại những vấn đề nhất định. Được biết, họ Vương còn thăm Lào để vận động Lào ủng hộ quan điểm đường 9 đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 15, 2013 7:46:30 GMT 9
Ni cô 'thay nâu sồng mặc quân phục' thứ tư, 14 tháng 8, 2013 Buổi diễn văn nghệ ở chùa Pháp Hải Chính quyền yêu cầu các ni cô diễn văn nghệ nhân ngày kỷ niệm chính trị Dư luận trong nước đang ồn ào về một buổi văn nghệ ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, trong đó các ni cô xuất hiện trong trang phục bộ đội và cầm súng. Trên mạng xã hội Việt Nam đang lan truyền hình ảnh các ni cô mặc trang phục đời thường trình diễn văn nghệ trên sân khấu mà nhiều người cho là ‘phản cảm’ và ‘báng bổ Phật giáo’. Các bài liên quan Thăm chùa gốc Việt ở thủ đô Bangkok Giáo hội Phật giáo 'điều tra tượng Phật' Bị trục xuất vì xăm tay hình Đức Phật Chủ đề liên quan Tôn giáo, Xã hội Việt Nam Tuy nhiên, một vị ni trưởng có liên quan lại nói rằng chương trình này diễn ra ‘hoàn toàn theo ý của chính quyền’ và các ni cô đã trình diễn ‘một cách vô tư’ mà không nghĩ gì đến hậu quả. Sự việc xảy ra hôm thứ Sáu ngày 9/8 tại chùa Pháp Hải, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, chỉ vài ngày trước khi chư tăng ni ở Việt Nam chấm dứt ba tháng cấm túc tu tập kéo dài từ tháng Tư đến tháng Bảy âm lịch vốn được gọi là An cư kiết hạ. ‘Ngày hội nữ tu’ Theo giới luật nhà Phật, trong ba tháng mùa hạ, chư tăng ni phải tập trung tu tập và hành thiền để tinh tấn về cả giáo pháp và đạo hạnh, hạn chế đi ra ngoài để tránh giẫm đạp sinh linh cũng như tiếp xúc với bên ngoài. Chùa Pháp Hải là một điểm an cư cho các ni cô và ni sinh trên địa bàn huyện Bình Chánh. Sự việc đã thu hút sự chú ý của dư luận sau khi trang mạng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vốn thường được gọi là ‘giáo hội nhà nước’, đăng tải phóng sự ảnh về ‘Ngày hội nữ tu’. Những bức ảnh được đăng tải cho thấy các ni cô không còn vận nâu sồng mà thay vào đó là áo tứ thân, áo dài khăn đóng và những trang phục cách điệu sặc sỡ đang múa hát. "Phật tử bình luận: “Xưa chỉ có người diễn vai tu sỹ để tỏ lòng ca ngợi chánh pháp, đạo lý. Sao giờ lại có chuyện người tu hành cởi áo cà sa, giả trang trần tục để diễn vai chiến tranh" Người ký tên Phật tử trên trang nhà của Giáo hội Thậm chí, trong một tiết mục, các vị nữ tu này còn vận vào trang phục bộ đội thời chiến, đội mũ tai bèo và cầm súng giả lên sân khấu. Hiện giờ bức ảnh gây tranh cãi này đã được dỡ ra khỏi phóng sự ảnh. Phông nền của sân khấu ghi rõ đây là sự kiện do ‘Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh’ chủ trì. Trang mạng của Giáo hội còn cho biết đây là sự kiện này được tổ chức nhân ‘kỷ niệm 65 ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc’ nhằm ‘đẩy mạnh phong trào rèn luyện của nữ tu’ nhưng không thấy đề cập buổi trình diễn này có liên quan gì đến đợt an cư kiết hạ hay không. Theo phóng sự ảnh này thì đây là ‘lần đầu tiên’ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh tổ chức trình diễn văn nghệ nhân dịp kết thúc ba tháng mùa hạ. Thượng tọa Thích Huệ Minh, phó Ban trị sự Phật giáo huyện Bình Chánh, được dẫn lời nói đây là ‘mô hình thật hay.. .cần phải mở rộng trong mùa An cư kiết hạ những năm sau’. Mở bằng chương trình nghe nhìn khác Tuy nhiên, nhiều người không có cùng suy nghĩ với Thượng tọa Thích Huệ Minh. Cũng chính trên trang nhà của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, phóng sự ảnh này đã nhận nhiều lời chỉ trích. Một người ký tên là Phật tử bình luận: “Xưa chỉ có người diễn vai tu sỹ để tỏ lòng ca ngợi chánh pháp, đạo lý. Sao giờ lại có chuyện người tu hành cởi áo cà sa, giả trang trần tục để diễn vai chiến tranh?” “Ngày nay tu giống đời thường quá. Buổi văn nghệ không khác chi ngày hội tòng quân. Chả trách đạo đức thời nay xuống cấp trầm trọng,” một người tên Kiên viết. Một người khác ký tên là Hoàng Khôi bức xúc: “Đạo Phật mong cầu thoát khỏi thất tình lục dục. Thi thố ăn thua, đàn ca hát xướng, cởi áo nầu sồng khoác áo lính. Các vị có thuộc các giới mà Phật đã dạy cho ni chúng không?” ‘Rất phiền lòng’ Cũng trong phóng sự ảnh này, Ni trưởng Thích Nữ Huệ Ngọc, viện chủ Chùa Pháp Hải, được mô tả là ‘vô cùng hoan hỷ’ về ngày ‘Ngày hội nữ tu’ này. Một tiết mục văn nghệ của các ni cô Đây là hoạt động vào cuối mùa An cư kiết hạ khi các ni cô chuẩn bị trở về tu viện của mình Tuy nhiên, trao đổi với BBC, Ni trưởng Huệ Ngọc nói bà cảm thấy ‘rất phiền’ khi sự việc để lại dư luận không tốt như thế. Bà cho biết đây là sự kiện do hội phụ nữ chứ không phải nhà chùa đứng ra tổ chức. “Họ đề xuất mình có năng khiếu sáng tạo gì nhân ngày 60 năm Bác Hồ kêu gọi,” bà nói, “Nhà chùa chỉ là nơi mượn địa điểm để tổ chức”. “Bên phụ nữ yêu cầu chủ để ca ngợi đất nước và người phụ nữ nên làm như vậy thôi”. “Họ nói là chủ đề 60 năm lời kêu gọi của Bác Hồ gì đó. Tôi không rành đâu, tự vì mình tu mình cũng hổng rành các việc đó,” bà nói. Khi được hỏi các tiết mục trình diễn có liên quan gì đến Phật giáo không, ni trưởng trả lời ‘họ (chính quyền) chỉ yêu cầu cái đó thôi’. Bà cũng giải thích là các hành giả an cư ‘chỉ vô tình’ nhưng để xảy ra hậu quả như thế là ‘ngoài ý muốn’. “Họ không nghĩ gì hết (khi tham gia trình diễn),” bà nói. “Đúng là ra người xuất gia không làm như vậy, không bận những đồ thế (thế gian) như vậy,” ni trưởng phân trần, “Nhưng chỉ còn hai ngày nữa là ra hạ, là ngày chư Phật hoan hỷ nên các vị bên Ban trị sự muốn có một ngày chia tay cho các hành giả nên mới đồng ý.” Bà cho biết sau khi sự việc xảy ra các hành giả có nói lại cho bà biết những phản ứng của dư luận là ‘rất nặng’ và các vị ni cô ‘cảm thấy rất buồn’. **************** Phật tử tức giận vì tượng Phật 'ở VN'thứ hai, 4 tháng 3, 2013 Hình bức tượng Phật gây phẫn nộ, được cho là chụp ở Việt Nam Hình ảnh được cho là chụp ở Việt Nam Báo Thái Lan cho hay hình ảnh bức tượng Phật ôm trong lòng một phụ nữ khỏa thân, chụp được ở Việt Nam, đã gây tức giận trên các mạng xã hội. Báo Bangkok Post nói bức hình thoạt tiên được đăng tải trên Facebook và nhanh chóng được các công dân mạng Thai Lan chia sẻ và thảo luận. Các bài liên quan Sư bị phạt sau nụ hôn của Mr. Đàm Tu bổ chùa Trăm Gian: Văn hóa thấp? Ngăn chư tăng biểu tình chống TQ? Chủ đề liên quan Tôn giáo Hình ảnh này được cho là chụp ở Việt Nam, nhưng không rõ địa điểm nào. Bức tượng có vẻ bắt chước tượng Phổ Hiền Bồ tát, được xem là một trong bốn Đại Bồ Tát của Phật giáo Đại thừa. Trong hệ phái Tây Tạng thuộc Phật giáo Đại thừa, các Hóa thần, trong đó có Phổ Hiền, thường được tạc tượng ở tư thế Yab-Yum mô phỏng hành vi phối ngẫu. Hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa, trong đó có hàm ý "không sợ nhơ uế". Một netizen người Thái lên tiếng trên diễn đàn mạng, nói người nặn bức tượng này là quỷ dữ và muốn thóa mạ Phật giáo. Người khác thì kêu gọi trên Facebook rằng chính phủ Thái cần truy tìm bức tượng này và hủy nó ngay lập tức vì nó là báng bổ Đức Phật mà các tín đồ Phật giáo hằng thờ phụng và kính trọng. "Một người theo phật giáo đích thực sẽ không vì điều này mà phẫn nộ, tức giận. Nếu có phẫn nộ, tức giận thì cũng chỉ nằm ở tầng lớp sủng ái mà thôi." Thân Thế Hùng viết trên Facebook của BBC Nhưng các phản ứng từ Việt Nam trên Bấm Facebook của BBC Tiếng Việt có vẻ theo chiều ngược lại. Người có tên Tan Nguyen viết: "Có gì đâu, mình đi Nepal toàn thấy hình phật nào cũng có một cô gái ôm như vậy, nhất là trong những hình tranh cổ của Nepal trong viện bảo tàng, hình như là thông điệp muốn nói cho dù có bị cạm bẫy bởi sắc đẹp đời thường thì Đức Phật cũng vẫn không bị cám dỗ mà..." Một người khác, có tên Thân Thế Hùng, nhận xét: "Người sống trong phật pháp thì không thấy có gì là đúng là sai cả, mà chỉ thấy nhận thức của người khác đến mức nào. "Hình vẽ phật ở Tây Tạng chỉ là biểu trưng kết hơp giữa "trí tụê và từ bi". Chứ không phải hiểu theo nghĩa dâm dục như một người thường nghi. Ở đây là tượng đúc nên nó bị nghĩ theo cách nghĩ thô thiển. "Một người theo phật giáo đích thực sẽ không vì điều này mà phẫn nộ, tức giận. Nếu có phẫn nộ, tức giận thì cũng chỉ nằm ở tầng lớp sủng ái mà thôi." 'Tượng làm bằng tay' Trên bức hình, Đức Phật ôm trong lòng người phụ nữ khỏa thân để tóc dài trong tư thế tương tự như quan hệ phối ngẫu từng được mô tả trong các ấn phẩm cổ của Ấn Độ, Bhutan, Nepal hay Tây Tạng. Hiện chưa rõ ai tung hình ảnh này lên internet. Đầu tuần trước, một khách sạn có tên là Moulin de Broaille ở vùng Bourgogne của Pháp đã khiến nhiều người Thái tức giận khi in hình Đức Phật trên nắp đậy toilet. Đại sứ quán Pháp tại Bangkok đã phải gửi thư kiến nghị tới quản lý của khách sạn này. Tượng tương tự như trong bức ảnh gây tranh luận cũng đang được rao bán trên mạng với giá 360 đô la một bức, nặng hai kg. Tượng được quảng cáo là được làm bằng tay ở Patan, Nepal và bất cứ ai trên thế giới cũng có thể đặt mua. ***************** Sư bị phạt sau nụ hôn của Mr. Đàm thứ tư, 7 tháng 11, 2012 Sư Pháp Định (trái) và sư Thích Giác Ân (áo trắng, bên phải) trong buổi đấu giá Hai vị sư được Đàm Vĩnh Hưng hôn phải viết tường trình và bị ‘biệt chúng’, tức phải ở trong phòng không được tiếp xúc với người ngoài trong ba tháng, theo truyền thông trong nước. Báo Dân trí online đăng, sư thầy được Đàm Vĩnh Hưng hôn vào môi có pháp danh là Pháp Định, tu ở Thiền viện Phước Sơn, thành phố Biên Hòa. Còn vị sư được hôn tay là Thích Giác Ân, trụ trì chùa Quan Âm, Đồng Nai. Vụ scandal trên xảy ra tối hôm 4/11, trong buổi đấu giá quyên góp tiền chữa bệnh cho ca sĩ Wanbi Tuấn Anh. Dân chúng đã bất ngờ khi hai vị sư tham gia mua chai rượu với 55 triệu đồng, sau đó còn sửng sốt hơn khi ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng trao nụ hôn lên tay và lên môi ngay trên sân khấu, theo Dân trí viết. Bị phạt Thượng tọa Thích Bửu Chánh, phó ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai, trụ trì thiền viện Phước Sơn, đã xác nhận người trong hình với Đàm Vĩnh Hưng là tỳ kheo Pháp Định. Báo Dân trí trích lời vị thượng tọa: “Tôi vô cùng sửng sốt khi hay tin báo chí phản ánh về những hành vi, lời nói và việc làm không chuẩn mực với tư cách một tu sĩ Phật giáo của sư Pháp Định.” Hai vị sư đã phải tham gia buổi lễ tác pháp Yết Ma, và nhận hình phạt “biệt chúng”, không cho tiếp xúc với người bên ngoài trong 3 tháng liền để sám hối. Sư Pháp Định và sư Thích Giác Ân cũng phải viết tường trình sự việc. Thượng tọa Thích Bửu Chánh cũng nói sẽ gửi bản tường trình lên lãnh đạo Hệ phái Phật giáo Nam Tông và ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai để giải quyết. Theo một số nguồn tin trong nước khác, hai sư thầy giải thích việc đấu giá chai rượu là do có phật tử muốn giấu tên nhờ mùa hộ chứ không phải tiền của sư.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 15, 2013 11:10:26 GMT 9
Cựu binh Liên Xô “hé lộ” cuộc chiến đấu ở Việt Nam(Kienthuc.net.vn) - Cựu chiến binh Liên Xô từng có thời gian phục vụ ở Việt Nam đã tiết lộ nhiều thông tin về cuộc chiến bảo vệ bầu trời miền Bắc Việt Nam trước máy bay Mỹ. Bật mí “rồng lửa” S-75M3 của phòng không Việt Nam “Tất tần tật” mạng lưới radar Việt Nam Đài Tiếng nói nước Nga đã có cuộc phỏng vấn được một trong những người đã từng bảo vệ bầu trời Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam của Đế quốc Mỹ giai đoạn 1960-1970. Đó là ông Nikolai Kolesnik – Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Nga từng công tác tại Việt Nam. Ông Nikolai tới Việt Nam từ năm 1965, khi đó ông là hạ sĩ quan phụ trách chuẩn bị bệ phóng và đạn tên lửa của tổ hợp tên lửa phòng không Dvina. - Thưa ông, có những ý kiến cho rằng các loại vũ khí khí tài được đưa từ Liên Xô sang Việt Nam là loại đã lạc hậu? Theo tôi, vào thời điểm bấy giờ thì đó là những trang bị hiện đại nhất. Ví dụ như tiêm kích phản lực MiG-21, chính trên những máy bay này các phi công Việt Nam đã bắn rơi cả “thần sấm” F-105 hay “pháo đài bay” B-52. Trong những năm chiến tranh, lực lượng không quân tiêm kích của Không quân Nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt 350 máy bay của Không quân, Hải quân Mỹ. Trong những năm chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi 350 máy bay Mỹ. Về phần Không quân Nhân dân Việt nam bị tổn thất ít hơn nhiều, chỉ mất 145 máy bay. Tên tuổi các phi công “át chủ bài” bắn rơi đến 7, 8, 9 máy bay Mỹ đã đi vào lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong khi đó phi công thành công hơn cả của Mỹ chỉ giành được 6 trận không chiến thắng lợi. Các tổ hợp tên lửa phòng không Liên Xô S-75 Dvina (NATO định danh là SA-2) được đưa sang Việt Nam trong những năm chiến tranh có thể tiêu diệt mục tiêu thậm chí ở độ cao 25km. Tạp chí kỹ thuật quân sự của Mỹ những năm đó ghi nhận rằng: “Cho đến nay đây là những quả đạn chết người nhất được bắn lên từ mặt đất nhằm vào máy bay”. Bộ đội tên lửa phòng không của Việt Nam (dùng S-75 Dvina) do các chuyên gia Liên Xô huấn luyện đã bắn rơi gần 1.300 máy bay Mỹ, trong đó có 54 máy bay ném bom chiến lược B-52, mỗi chiếc như vậy chở 25 tấn bom, và có khả năng tiêu diệt sự sống và mọi công trình trên diện tích bằng ba mươi sân bóng đá. "Rồng lửa" Dvina giúp bộ đội Việt Nam bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Sau những chiến thắng đầu tiên của lực lượng tên lửa ở Việt Nam, quân Mỹ buộc phải giảm mạnh độ cao để tránh tên lửa, nhưng lại rơi vào lưới lửa của pháo phòng không. Ngoài ra, khi tên lửa Liên Xô xuất hiện các phi công quân sự Mỹ đã bắt đầu từ chối bay ném bom lãnh thổ Bắc Việt Nam. Bộ chỉ huy của họ đã phải đưa ra những biện pháp khẩn cấp, kể cả tăng tiền trả cho mỗi chuyến bay chiến đấu, thường xuyên thay đổi thành phần đội bay của các tàu sân bay. Thời gian đầu các trận đánh của tên lửa do các sĩ quan Liên Xô thực hiện, các bạn Việt Nam học tập kinh nghiệm của chúng tôi. Lần đầu tiên tên lửa Liên Xô xuất kích trên bầu trời Việt Nam vào ngày 24/7/1965. Khi đó, một tốp 4 chiếc F-4 Phantom của Mỹ bay về phía Hà Nội ở độ cao pháo cao xạ không bắn tới. Các tên lửa của chúng tôi đã được phóng về phía chúng và 3 trong 4 chiếc đã bị bắn rơi. Ở Việt Nam ngày chiến thắng này hàng năm được kỷ niệm như ngày truyền thống của bộ đội tên lửa. - Ông nhớ trận thử lửa đầu tiên của mình chứ? Khi đó ai giành chiến thắng? Ngày 11/8/1965, chúng tôi đã 18 lần chiếm lĩnh trận địa theo báo động chiến đấu, nhưng tất cả đều không có kết quả. Và, cuối cùng, đến khuya chúng tôi đã dùng 3 quả tên lửa bắn rơi 4 máy bay địch. Tổng cộng các tiểu đoàn của các trung đoàn phòng không thứ nhất và thứ 3 trong các trận đánh mà tôi có tham gia đã bắn rơi 15 máy bay địch. Trinh sát cơ RF-4C của Không quân Mỹ trúng đạn tên lửa Dvina trên bầu trời miền Bắc Việt Nam ngày 12/8/1967. - Chắc là Không quân Mỹ đã săn lùng các kíp chiến đấu của các ông? Vâng đúng vậy. Sau mỗi trận đánh chúng tôi phải di chuyển trận địa. Không thể khác được, ngay lập tức quân Mỹ sẽ bắn tên lửa và ném bom vào các trận địa đã phát hiện được. Người Mỹ cố gắng tìm mọi cách ngăn cản sử dụng trang bị của chúng ta, chúng dùng thủ đoạn nhiễu, tên lửa chống radar Shrike. Các nhà thiết kế quân sự của chúng ta cũng đáp trả và hoàn thiện vũ khí trang bị tên lửa phòng không. - Ông đã tự mình nhìn thấy phi công Mỹ bị bắt làm tù binh chưa? Chính tôi chưa lần nào nhìn thấy. Hơn nữa sự có mặt của chúng tôi ở Việt Nam đã không được công khai. Suốt thời gian ở Việt Nam chúng tôi chỉ mặc thường phục, không có vũ khí cá nhân và thậm chí không có bất kỳ giấy tờ nào. Giấy từ được cất giữ ở Đại sứ quán Liên Xô. - Vậy ông đã được giải thích ra sao là sẽ bay sang Việt Nam và ông đã nói gì với gia đình ở nhà? Tôi phục vụ ở trung đoàn phòng không gần Moscow. Trung đoàn trưởng tuyên bố là có đề nghị với chúng tôi đi công tác đến đất nước “có khí hậu nhiệt đới nóng”. Hầu như tất cả đã đồng ý đi, còn những ai vì lí do nào đó không muốn đi thực tế đã không đi. Tôi cũng đã nói với gia đình ở nhà như vậy. - Điều gì làm ông, một chàng trai trẻ, ngạc nhiên nhất? Mọi điều đều làm tôi ngạc nhiên, thiên nhiên không quen thuộc, con người, khí hậu và trận bom đầu tiên phải chịu. Bởi vì ở Moscow chúng tôi được định hướng là chỉ huấn luyện và đào tạo các kíp chiến đấu Việt Nam. Nhưng thực tế, ở Việt Nam chúng tôi đã phải huấn luyện ngay trên trận địa, mà Không quân Mỹ vẫn không ngừng ném bom hàng ngày. Người Việt Nam rất kiên cường, họ học rất nhanh. Tôi cũng đã học thuộc những khẩu lệnh và từ chuyên dùng cơ bản bằng tiếng Việt. - Điều gì là khó khăn nhất? Nóng và ẩm không thể chịu nổi. Ví như, sau 40 phút mặc quần áo tráng cao su chuyên dụng để nạp chất ôxy hoá cho tên lửa (thành phần nhiên liệu đạn tên lửa), chúng tôi đã giảm cân đến 1kg. Ông Nikolai Kolesnik nhận Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Việt Nam trao tặng. Ảnh: VOV - Thanh niên Việt Nam ngày nay nghĩ gì về cuộc chiến tranh này và sự tham gia của các ông trong cuộc chiến tranh đó? Các cựu chiến binh Việt Nam của cuộc chiến tranh này luôn rất quý trọng. Chúng tôi nhớ lại những ngày gian khổ khó khăn và những chiến thắng chung của chúng tôi. Còn thế hệ trẻ thì quan tâm hỏi chúng tôi về những trận đánh và các tình tiết mà họ chưa biết của cuộc chiến tranh này. - Hiện nhiều người ở nước ta (Nga) có ý kiến khác nhau về sự tham gia của Liên Xô vào các cuộc xung đột ngoài lãnh thổ. Đối với ông sự tham gia vào chiến tranh ở Việt Nam là gì? Đối với tôi những trận đánh đó vẫn là những sự kiện sáng chói nhất trong cuộc sống. Tôi và các bạn chiến đấu của tôi, cả Liên Xô và cả Việt Nam đã tham gia vào các sự kiện lịch sử, đã góp phần tạo nên chiến thắng. Tôi tự hào là đã giúp nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập của họ và đã tham gia vào việc xây dựng Bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam. “Viện trợ quân sự của Liên Xô là rất to lớn và toàn diện. Nếu nói về giá trị thì đó là khoảng 2 triệu USD/ngày trong suốt cuộc chiến tranh. Liên Xô đã đưa sang Việt Nam một số lượng lớn trang bị kỹ thuật gồm: 2.000 xe tăng; 7.000 pháo và súng cối; hơn 5.000 pháo phòng không; 158 tổ hợp tên lửa phòng không; hơn 700 máy bay chiến đấu; 120 trực thăng và hơn 100 tàu chiến”, ông Nikolai cho biết. Để huấn luyện bộ đội Việt Nam sử dụng khí tài này chiến đấu, các chuyên gia Liên Xô đã được điều sang Việt Nam. Từ tháng 7/1965 đến cuối năm 1974 đã có gần 6.500 sĩ quan và tướng lĩnh, cũng như 4.500 chiến sĩ và hạ sĩ quan của các Lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia vào các hoạt động chiến đấu ở Việt Nam. Ngoài ra, các trường và học viện quân sự của Liên Xô cũng bắt đầu đào tạo quân nhân Việt Nam, khoảng 10.000 người. Nhiều người lính Hồng quân Liên Xô từng tham gia chiến tranh thế giới thứ 2 sang giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Nga "khoe" vũ khí hiện đại trên Quảng trường Đỏ “Hồi tưởng” cuộc duyệt binh QĐND Việt Nam 1955 Hàng năm, những tấm huân chương và huy chương lại lấp lánh trên ngực áo các cựu chiến binh vào dịp kỷ niệm Сhiến thắng Vệ quốc Vĩ đại chống phát xít Đức của nhân dân Liên Xô. Người ta có thể bắt gặp tấm huân chương Việt Nam bên cạnh các phần thưởng cao quí của Liên Xô, cũng ghi công tham gia chiến đấu và giành chiến thắng nhưng trên đất Việt Nam. Trong số hàng ngàn chuyên gia quân sự Liên Xô tham gia giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì tự do, độc lập và thống nhất đất nước, đặc biệt trong những năm 1960 nóng bỏng, đã có nhiều sĩ quan và tướng lĩnh kinh qua cuộc chiến tranh chống phát xít. Bên cạnh các huân huy chương cao quí của Liên Xô, trên ngực các cựu chiến binh cũng xuất hiện phần thưởng cao quý từ nhà nước Việt Nam. Ảnh minh họa Lấy ví dụ như phi công Sergey Somov, ông được trao danh hiệu Anh hùng thực hiện 118 chuyến bay chiến đấu trong những năm Thế chiến 2. 15 năm sau, ông cầm lái các máy bay vận tải quân sự đầu tiên được Liên Xô chuyển giao cho Việt Nam. Sergey Somov đã chở hàng quân sự và thuốc men tới Mặt trận Lào Yêu nước, vận chuyển thương binh từ Lào về Việt Nam, hướng dẫn kỹ năng bay cho phi công Không quân Nhân dân Việt Nam Hai năm ròng từ tháng tháng 8/1965, Thiếu tướng Grigory Belov, cựu chiến binh Vệ quốc Vĩ đại làm nhiệm vụ tại Việt Nam. Ông là lãnh đạo đầu tiên của nhóm chuyên gia quân sự Liên Xô, tham gia gây dựng 8 trung đoàn tên lửa phòng không và 2 trung đoàn không quân Quân đội nhân dân Việt Nam. Mùa xuân năm 1966, ông có dịp trình bày trước Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp kỹ thuật xạ kích của pháo phản lực phóng loạt Kachiusa, từng làm khiếp sợ quân đội Đức quốc xã trong Thế chiến II. Vũ khí sau đó đến tay các đơn vị thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến sĩ Hồng quân Alexei Petrov cầm súng chiến đấu suốt 4 năm chống phát xít Đức. Tại Việt Nam, ông chỉ huy nhóm hoàn thiện các thiết bị tên lửa Liên Xô để đối phó với thủ đoạn gây nhiễu của Mỹ. Đại tá Petrov cho biết, việc hoàn thiện được thực hiện trong thời gian ngắn nhất và đạt mục tiêu đề ra. “Khi tôi đến Việt Nam, có 500 máy bay Mỹ bị bắn rơi. Một năm sau tôi rời Việt Nam, con số đã là 2.500.”, ông Petrov nói. Những người cựu chiến binh chiến tranh vệ quốc đã giúp đỡ bộ đội Việt Nam làm chủ tên lửa SA-2 đánh máy bay Mỹ. Ảnh minh họa Ông Ivan Lonin là một trinh sát viên trên mặt trận chống phát xít Đức. Kinh nghiệm chiến trường đã giúp ích cho ông ở Việt Nam, nơi ông Ivan Lonin công tác 2 năm trời, giúp đỡ các đồng nghiệp phân tích thông tin trinh sát nhận được. “Tôi đã học được tiếng Việt. Tôi nói thành thạo. Không thể quên sự bảo vệ chu đáo mà các bạn Việt Nam dành cho chúng tôi, những chuyên gia Liên Xô. Rồi tình huống phải nhập viện cũng đến, tại quân y viện ở Hà Nội, tôi đã được bác sĩ Lan chăm sóc tận tình, tôi mãi mãi biết ơn cô”, vị Đại tá năm nay 87 tuổi cho biết. Trong trận đánh đầu tiên dùng tên lửa SA-2 bắn rơi máy bay Mỹ ngày 24/7/1965 ở miền Bắc Việt cũng có sự góp mặt của 2 cựu chiến binh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Thiếu tá Boris Mozhaev và Fyodor Ilyin.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2013 2:57:47 GMT 9
Không có Đảng đâu được như ngày hôm nayỞ Việt Nam chúng ta có một tầng lớp người thấp cổ bé họng nhất gọi là Dân Đen. Về lý thì đúng ra họ phải là người làm chủ đất nước như Hiến Pháp quy định, nhưng sau khi cướp đươc chính quyền thì bị đảng Cộng Sản gạt ra bên lề. Từ đó Dân Đen sống vật vờ, trở thành đối tượng để đảng bóc lột và đè đầu cưỡi cổ. Họ không có tiếng nói gì trong xã hội, khi gặp chuyện oan ức mà đi kiện thì lại lâm vào cảnh “con kiến kiện củ khoai”, cho nên tiền mất tật mang. Đã vậy nào có được yên thân, Dân Đen luôn bị Lâu la Cộng Sản theo sát như hình với bóng để mà dân vận, có muốn tránh cũng không được.Một lần Dân Đen đang mua hàng ở chợ thì gặp Lâu La Cộng Sản, hắn vỗ vai Dân Đen rồi cười nhăn nhở: - Này nhá, ông thấy rồi đó. Chợ búa đông đúc, hàng hoá vật phẩm phong phú. Không có đảng Cộng Sản thì đâu được như ngày hôm nay? Rồi hắn vuốt chùm râu lơ thơ, mắt lim dim: - Còn nhớ khi xưa, dân mình khổ cực lắm. Làm thuê quần quật cả ngày cho địa chủ mà không đủ ăn. Chợ thì một tháng họp lơ thơ mấy buổi, hàng hoá chẳng có gì. Nhờ ơn đảng và Bác Hồ, bây giờ ngày nào chợ cũng họp. Hàng hoá ê chề, dân cư sung túc. Đâu có như ngày xưa… Biết hắn đang định nói gì, Dân Đen liền ngắt lời: - Ông có biết từ bấy đến nay đã bao nhiêu năm trôi qua không? Gần 70 năm rồi đó. Nhật Bản chỉ mất có 20 năm để trở thành cường quốc thứ hai thế giới. Hàn Quốc, Malaysia, Singapore phát triển văn minh hiện đại cũng chỉ chừng ấy năm. Thu nhập bình quân đầu người của họ gấp vài chục lần Việt Nam ta. Phải rồi, không có Đảng và Bác Hồ thì Việt Nam bây giờ còn phát triển hơn cả Hàn Quốc, chứ đâu được trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới như hôm nay… Bị giáng một đòn khá bất ngờ, Lâu la Cộng Sản hơi chóng mặt. Hắn lấy tay dụi mắt lấy lại tinh thần, rồi tiếp tục lên gân: - Mấy nước đó hoàn cảnh lịch sử khác, họ đâu phải chịu hai cuộc chiến tranh tàn khốc nhưng thần thánh như Việt Nam ta… Dân Đen: - Mỗi nước đều có hoàn cảnh lịch sử riêng. Đất nước Việt Nam có đủ mọi điều kiện để phát triển giàu mạnh. Tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, dân cư đông đúc cần cù. Đảng Cộng Sản tự rước lấy hai cuộc chiến giết hại sinh linh, tàn phá đất nước, còn trách cứ ai? Lịch sử hiện đại, Hàn Quốc có khác gì mình, có thể nói là anh em sinh đôi, sao lại khác nhau một trời một vực vậy? Lâu la Cộng Sản tức nổ đom đóm mắt, hắn nhảy cẩng lên như choi choi: - Tại vì…tại vì…họ không bị các thế lực phản động chống phá… - Chẳng có ai chống phá các vị cả. Độc tài độc đảng, tham nhũng sai trái thì đất nước nghèo, dân khổ thôi. Người ta cũng bị bọn khủng bố như các vị phá hoại mà đất nước vẫn giàu có văn minh đó thôi? Lâu la Cộng Sản mặt như chàm đổ, đứng im không nói được gì. Vì bức xúc quá, hắn đưa tay vân vê chòm râu rồi nhổ phứt đi một sợi. Cứ mỗi lần nói chuyện với Dân Đen mà bị thua và đáp xoáy như vậy, hắn đều có thói quen nhổ một sợi râu. Đó là lý do vì sao bộ râu của hắn ban đầu rậm rạp, mà nay chỉ còn lơ thơ như lông giái ngựa. Không để hắn kịp hoàn hồn, Dân Đen tiếp lời: - Còn chuyện ông nói nhờ ơn Đảng và Bác Hồ mà chợ ngày nào cũng họp thì thế này. Chợ thì cứ họp, người tiêu dùng có tiền mà mua hay không mới quan trọng. Nhà nước quản lý yếu kém, nền kinh tế lạm phát, giá cả tăng vọt thì dân có in được tiền đâu mà mua sắm? Thêm vào đó nạn thất nghiệp lan tràn, lương lậu thấp kém không đủ sống thì còn mua bán nỗi gì? Vậy chợ ngày nào cũng họp có ích chi? Lần này thì Lâu la Cộng Sản bí thật sự, hắn điên tiết dứt thêm một sợi râu nữa, đồng thời nhảy như choi choi, tay thì chỉ vào Dân Đen mà hét lên the thé: - Bớ người ta! Có kẻ phản động…phản động… Minh Văn ************************************** Can đảm chính trịJonathan London Political-courage-requires-clarity. Nhiều người đồng ý rằng Việt Nam đang phải đối mặt với một tình trạng hết sức lo ngại. Đất nước có đầy đủ các tiềm năng mà không thể tiến lên được vì bộ máy bị hỏng một cách nghiêm trọng. Những nguyên nhân đã được phân tích rõ trong rất nhiều bài nghiên cứu. Những thể chế xã hội chính trị của đất nước (tức là những ‘luật chơi chính thức và phi chính thức’) đã trở thành một ràng buộc không cho phép Việt Nam cất cánh, không cho phép toàn dân được tham gia vào đời sống xã hội chính trị kinh tế của đất nước mình một cách tự do. Khẳng định như vậy chẳng có liên quan đến âm mưu của ai cả mà là tình trạng khách quan của đất nước. Nói “dũng cảm” [can đảm] là một yếu tố xã hội gắn liền với người Việt Nam, là đúng. Nhưng ta nên suy ngẫm về ý nghĩa của từ này. Ở Việt Nam, khi ta nói về khái niệm “dũng cảm” thì người ta rất hay nghĩ về những chuyện lịch sử, trong khi ít đề cập những vấn đề trước mặt của chúng ta hiện nay. Dũng cảm có nhiều loại. Không cần phải là nhà tâm lý học hay nhà văn học đề khẳng định: dũng cảm không có nghĩa là không sợ mà là có thể khắc phục sự sợ hãi để làm một cái gì đó cần thiết trong một bối cảnh nhất định, bất chấp những đe dọa và trở ngại trước mặt. Như vậy dũng cảm là một cái chúng ta gặp thường xuyên, không chỉ liên quan đến chiến tranh hay một tai họa. Chẳng hạn, người nào cũng phải sống trong vòng những thể chế, những bối cảnh tổ chức, những tình trạng vật chất nhất định. Có khi chúng ta phải có đủ dũng cảm để đối phó với những hạn chế thường trực này. Tôi có một người bạn hai mươi mấy tuổi, có con 9 tuổi, chồng mất do tai nạn giao thông khi cháu mới 4 tuổi. Trình độ học không cao. Chưa được đào tạo. Không có việc làm ổn định. Vẫn phải phục vụ nhà chồng. Mẹ ruột nghiện cờ bạc. Mất tiền của cả nhà mấy lần. Bố là cựu chiến binh, bán hàng trên vỉa hè. Người tốt lành nhưng sức kinh tế không có. Cách đây mấy tháng cô bạn này mới biết bị ung tư đoạn 3. Không có tiền để điều trị. Vẫn phải lo tiền con ăn học, nuôi con dù không thể chia sẻ với con thông tin về căn bệnh của mình. Cá nhân này có bao nhiêu rằng buộc thể chế mà vẫn cố gắng. Đó được gọi là dũng cảm, cho dù là một câu chuyện rất đỗi bình thường ở Việt Nam. Có thể gọi đó là dũng cảm hàng ngày và chắc chắn Việt Nam không thiếu cái đó! Chọn lựa. Hãy nói về chính trị. Và tôi xin bắt đầu qua việc đề cập một tác phẩm quan trọng được viết cách đây hơn 40 năm, đó là cuốn sách ‘Thoát ra, trung thành, và tiếng nói” (‘Exit, Loyalty, and Voice’) do Albert Hirschman viết vào năm 1970. Theo Hirschman (người đã từng được giải thưởng Nobel về kinh tế học, ở bất cứ bổi cảnh tổ chức nào (và ở đây ‘tổ chức’ có nghĩa là xã hội), ta luôn luôn có ba phương án cơ bản đối với cách ứng xử của mình. Một là thoát ra, thức là tránh việc. Hai là trung thành, thức là im lặng và theo lệnh dù đồng ý hay không đồng ý với ‘cấp trên’. Và ba, con đường khó nhất, có nguy cơ nhất, và yêu cầu dũng cảm nhất, là lên tiếng. Là một người Mỹ, đã từng lớn lên và được sống trong một xã hội mà thực sự có tự do về ngôn luận (dù có nhiều vấn đề khác) tôi không dám khuyên bảo cho ai sống ở Việt Nam hay các nước khác (mà có chế độ độc đoán) rằng là: khi nào thì nên thoát khỏi, khi nào thì nên im lặng và trung thành, và khi nào thì nên lên tiếng. Nhưng, là người quan sát xã hội Việt Nam hiện nay, tôi thấy vấn đề mà Hirschman đã làm sáng tỏ rất liên quan đến chính trị của Việt Nam hiện nay. Ngay trong ĐCSVN có rất nhiều người đang đối phó với cụm phương án này. Từ nhóm 72 đến Lê Hiếu Đằng , từ Dương Trung Quốc đến Lê Trấn Gia vừa qua. Tôi chẳng có ý gây chia rẽ mà chỉ quan sát tình hình mà thôi. Và ngoài bộ máy cũng thế thôi. Nhiều người Việt, từ mọi phía, mọi quan điểm, mọi hoàn cảnh xã hội (mà có quan tâm đến chính trị và tình trạng của đất nước) đều đang đối phó với ba phương án này. Vâng, cũng có nhiều người vẫn chưa có tư duy độc lập. Đó là chuyện bình thường ở các nước mà từ lâu đã có những trở ngại. Như Miến Điện, chẳng hạn, vào ngày 23 tháng 10 trong một bài phát biều Bà Aung San Suu Kyi đã chia sẻ: Dân của chúng tôi đang mới bắt đầu biết tự do tư duy có thể sống còn. Nhưng chúng tôi muốn đảm bảo chắc chắn quyền của họ để suy nghĩ một cách tự do và sống theo lương tri của họ được bảo toàn. Quyền này chưa được đảm bảo 100 phần trăm. Chúng tôi phải nỗ lực nhiều hơn nữa trước khi luật cơ bản của lãnh thổ, là Hiến pháp, sẽ bảo đảm quyền để sống theo lương tri của chúng tôi. Có lẽ, ở Việt Nam cũng vậy.
|
|