|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:16:38 GMT 9
1.Chân lýTừ điển KantHoward Caygill Chân lý [Hy Lạp: aletheia; Latinh: veritas; Đức: Wahrheit; Anh: truth] Xem thêm: Phân tích pháp, Xác tín (sự), xem-là-đúng (việc/sự), ảo tượng Câu trả lời của Kant cho câu hỏi ‘chân lý là gì’ được trình bày dựa vào ‘tiêu chuẩn phổ biến và chắc chắn để biết được chân lý của một nhận thức’ (CPR A58/B82). Sau khi xem xét định nghĩa duy danh là đương nhiên về chân lý như ‘sự trùng hợp của nhận thức với đối tượng của nó’ (A 58/ B 82), ông tuyên bố rằng không thể có tiêu chuẩn phổ biến nào ‘có giá trị cho mọi nhận thức không phân biệt những đối tượng của chúng’ (A 58/ B 83). Tuy nhiên, trong khi điều này là đúng với nội dung của nhận thức, thì ta có thể xác lập một tiêu chuẩn lôgic, tiêu cực về chân lý trong chừng mực ‘những quy luật phổ biến và tất yếu của giác tính’ (A 59/ B 84) được lôgic học trình bày như là điều kiện không thể thiếu [conditio sine qua non]. Bởi lẽ, ‘cái gì mâu thuẫn lại với những quy luật ấy là sai’ (sđd) mặc dù sự trùng hợp với những quy luật này không phải là một tiêu chuẩn đầy đủ của chân lý. Trong khuôn khổ phê phán ý niệm về ‘sự trùng hợp của một nhận thức với đối tượng của nó’ mang một ý nghĩa mới, đặc biệt là dưới ánh sáng tỏ tiên đề cơ sở của nó phát biểu rằng ‘những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng của kinh nghiệm’ (CPR A 158/ B 197). Điều này có nghĩa là những điều kiện của kinh nghiệm quyđịnh sự trùng hợp giữa nhận thức và đối tượng, hoặc như Kant nói, ‘kinh nghiệm mang lại cho ta quy luật và là nguồn suối của chân lý’ (A 318/ B 375). Những điều kiện của kinh nghiệm bao gồm những hiện tượng manglại thông qua trực quan tiên nghiệm và được tổng hợp những khái niệm tiên nghiệm thuần túy của giác tính. Vì thế, Kant mới có thể nói rằng sự tổng hợp những yếu tố này ‘như là nhận thức tiên nghiệm, lại chỉ có được chân lý (là sự trùng hợp với đối tượng) là khi nó không chứa đựng gì khác hơn là những gì tất yếu cần thiết để mang lại sự thống nhất tổng hợp của kinh nghiệm nói chung (A 158/ B 197). Điều này phải bao gồm, như Kant giải thích kỹ, ‘những điều kiện mô thức của trực quan tiên nghiệm, sự tổng hợp của trí tưởng tượng và sự thống nhất tất yếu của tổng hợp ấy trong một Thông giác siêu nghiệm’ (A 158/ B 197). Với lập luận này, Kant bác bỏ bất kỳ quan điểm nào theo thuyết Platon xemchân lý như là sự phù hợp giữa nhận thức với một ý niệm, cũng như là sự đánh đồng kiểuPlaton nào giữa cảm năng và ảo tưởng. Những hiện tượng không còn được xem xét còn như là những ảo tưởng nữa, màlà một yếutố bản chấtcủa kinh nghiệm và do đó, là của chân lý. Bên cạnh nghiên cứu này về chân lý như là ‘sự phù hợp với đối tượng’ Kant cũng trình bày chân lý được trình bày dựa theo tính giá trị hiệu lực. Trong phiên bản này, chân lý được bàn luận dựa vào ‘việc xem-là-đúng’ hay tính giá trị hiệu lực chủ quan và khách quan của cácphán đoán. Có ba mức độ: tư kiến, tức cái có ý thức nhưng không đầy đủ cả về mặt chủ quan lẫn khách quan; lòng tin, tức cái có ý thức chỉ đầy đủ về mặt chủ quan như không đầy đủ về mặt khách quan; tri thức, tức cái đầy đủ cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan và do đó sự xác tín. (CPRA 822/B 850). Tuy nhiên, quanniệm về sự đầy đủ kháchquan có thể được đưa ra để bao hàm bên trong nó định nghĩa về ‘chân lý như sự phù hợp với đối tượng (A 58/ B 82). Hoàng Phong Tuấn dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant” - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:17:42 GMT 9
2. Giác tính Từ điển Kant
Howard Caygill Giác tính [Hy lạp: dianoia; Latinh: intellectio; Đức: Verstand; Anh: understanding] Xem thêm: Nước đôi (tính), Phân tích pháp, Khái niệm phản tư (các), Quan năng, Hữu hạn (tính), Trực quan, Lôgíc học, Lý tính, Quy tắc (các), Cảm năng, Tự khởi (tính), Bảng các phạm trù/các phán đoán Lịch sử của giác tính chủ yếu được xác định bởi các vấn đề trong việc xác lập mối quan hệ giữa những tác vụ của giác tính, hay tư duy nói chung, với quan năng của tâm thức là quan năng chịu trách nhiệm cho những tác vụ này. Những tranh cãi ở thời kỳ đầu xoay quanh bản tính của quan năng của giác tính làm động cơ cho một trong những tranh biện nổi tiếng nhất của Aquinas:Về tính thống nhất của giác tính chống lại những người phái Averroist(Aquinas, 1968) và kéo dài đằng đẵng suốt cả nền triết học trung đại trong lớp vỏ là vai trò của sự thần minh (divine illumination) trong những tác vụ của giác tính và sự đóng góp được tạo ra bởi những giác quan và trí tưởng tượng. Trong Những suyniệmsiêu hình họcDescartes gán cho quan năng của giác tính một vai trò lớn hơn trong sự sáng tạo của tri thức, đặt sự đóng góp của nó lên trên sự đóng góp của trí tưởng tượng và các giác quan. Khi trả lời cho những chống đối, ông phân biệt một cách rõ ràng giữa những tác vụ của giác tính hay “intellection” vàhay ‘giác tính như là quan năng’ và do đó,đã nhận diện một cách rõ ràng mối quan hệ phức tạp giữa sự cấu tạo của quan năng với những tác vụ của giác tính mà quan năng ấy thực hiện. Sự tranh luận về bản tính của giác tính và mối quan hệ của nó với những tác vụ của giác tính tạo ra một bước ngoặt thú vị trong sự đụng đầu của Leibniz với lý thuyết của Lock về giác tính con người trong Những luận văn mới về giác tính con người (1765). Trong Luận văn về giác tính con người (1690), Lockemô tả giác tính như là “không khác lắm một cái buồng kín hoàn toàn cách ly khỏi ánh sáng, với chỉ một vài khe hở được để mặc, để đưa vào những nét giống nhau có thể thấy được bên ngoài, hay những ý niệm về các sự vật bên ngoài” (tr. 76). Leibniz đáp rằng để nói lên đặc điểm của công việc của giác tính một cách hoàn toàn, thì đối với Lock ắt hẳn phải trang bị cho căn buồng của mình bằng một tấm màn che, và tấm màn che ấy ắt sẽ không đồng bộ nhưng ắt sẽ là dưới sức căng, “được đa dạng hóa bởi những nếp gấp (folds) hình dung ra những mục của nhận thức bẩm sinh”; và sẽ đáp ứng những ấn tượng giống như dây đàn trong một nhạc cụ (Leibniz, 1765, tr. 144). Sự đặc trưng hóa cực kỳ phức tạp của thao tác của giác tính con người không được những người theo trường phái triết học Wolf của Leibniz thừa nhận, mặc dù cũng giống như cả Leibniz lẫn Locke, những người phái Wolff xem giác tính như là “năng lực hình dung những sự vật khả hữu” (Meissner, 1737, mục từ “Verstand/Giác tính”); tức là, như một năng lực hình dung gồm cảm năng và năng lực tưởng tượng” và thao tác thông qua các khái niệm, các phán đoán và các suy luận. Những dấu vết cũa quan niệm Wolff về giác tính như là năng lực phổ biến của sự hình dung tồn tại dai dẵng trong Kant, cho dù ông quan tâm đến việc tách giác tính như là quan năng ra khỏi cả cảm năng lẫn lý tính. Đối với ông, ta có thể “quy mọi hành vi của giác tính vào những phán đoán” và do đó có thể hình dung giác tính như là một “quan năng phán đoán” (CPR69/B 94). Ônghiểu phán đoán là“nhận thức gián tiếp [trung giới] về một đối tượng, do vậy, là biểu tượng của một biểu tượng về đối tượng” (A 68/B 93), dù biểu tượng này là một trực quan hay một khái niệm. Mọi phán đoán theo đó là “những chức năng mang lại sự thống nhất cho những biểu tượng của ta”, cho nên giác tính có thể được xác định rõ hơn như là một quan năng cho việc thống nhất những biểu tượng. Do đó, từ những tác vụ của giác tính – những phán đoán – Kant đi đến “sự phân tích về bản thân quan năng giác tính”,qua đó ông “nghiên cứu khả thể của các khái niệm tiên nghiệm” (A 65/B 90). “Manh mối” của ông trong việc tìm kiếm những khái niệm cơ bản này của giác tính – những hình thức thống nhất cơ bản của nó – là bảng các phán đoán gồm bốn nhóm: lượng, chất, tương quan và tình thái của những phán đoán. Để nêu bật đặc trưng làm thế nào giác tính có thể tạo ra những khái niệm thuần túy của chính nó, Kant phải phân biệt nó với hai quan năng khác là cảm năng và lý tính. Việc làm này dẫn tới điều mà bản thân ông thừa nhận là những định nghĩa “theo nhiều cách khác nhau” về giác tính. Giác tính được định nghĩa như là “một sự tự khởi của nhận thức (trong sự phân biệt với tính thụ nhận của cảm năng)” (CPRA 126), bởi lẽ những khái niệm của nó là những thể cách của sự thống nhất siêu nghiệm của thông giác mang tính chất nguyên thủy và tự khởi. Nó cũng được mô tả như là một “quan năng để suy tưởng”, “một quan năng của những khái niệm” ở chỗnó gồm những phạm trù qua đó nó mang lại “quy luật của sự thống nhất tổng hợp mọi hiện tượng” (A 128), một quan năng của phán đoán, và “quan năng của những quy tắc”. Dưới lớp vỏ của cái sau, giác tính “bao giờ cũng tập trung vào công việc soi xét những hiện tượng với mục đích phát hiện nơi chúng một quy tắc nào đó” (A 126). Tuy nhiên, những quy tắc này “thoát thai một cách tiên nghiệm từ bản thân giác tính”, vì nó cũng được xác định đặc điểm như là “sự ban bố quy luật (Gesetzgebung) cho Tự nhiên” (sđd.). Một trong những cách đọc vềsự mô tả này của Kant về giác tính có vẻ khiến ta hiểu rằng, giác tính được cảm năng cung cấpnhững chất liệu của kinh nghiệm rồi sau đó chỉ cóviệc thâu gồm chúng vào dưới một quy tắc. Nhưng cách hiểunày không thể hiện được đầy đủ phẩm cáchmà ông dành chogiác tính như là “sự ban bố quy luật cho Tự nhiên”, vì nó cũng có thể “buộcnhững hiện tượng phục tùng quy luật, và vì thế làm cho kinh nghiệm có thể có được” (A 126). Mối quan hệ mà Kant xác lập giữa giác tính và cảm năng là cực kỳ rối rắm và phức tạp, và đó là việc mang những trực quan và những khái niệm dị tính lại với nhau. Cả trực quan lẫn khái niệm đều là những biểu tượng, nhưng cái trước khởi sinh trong tính thụ nhận của cảm năng của con người, cái sau khởi sinh trong tính tự khởi của giác tính. Những trực quan và những khái niệm phải được thích ứng với nhau theo một cách tôn trọng tính dị loạicủa chúng, nhưng lại cho phép sự tổng hợp của chúng được thực hiện hoàn tất. Kant đánh bạo mô tả sự tổng hợp ấy được hoàn tất trong thuyết niệm thức và trong các nguyên tắc. Quan hệ của giác tính với lý tính được đặc trưng hóa theo một cách trực diện hơn. Giác tính đảm bảo “sự thống nhất cho những hiện tượng nhờ các quy luật” trong khi lý tính theo đuổi “sự thống nhất cho những quy luật của giác tính vào dưới các nguyên tắc” (CPRA 302/B 359). Trong khi giác tính được giới hạn vào phạm vi của kinh nghiệm khả hữu, thì lý tính “bao giờ cũng chỉ liên quan đến cái toàn thể tuyệt đối trong sự tổng hợp những điều kiện” (A 326/B 382); điều này đã dẫn lý tính đến việc đẩy những khái niệm của giác tính vượt khỏi những giới hạn hợp thức của chúng và làm sản sinh ra những suy luận sai lầm đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm” của CPR. Giác tính đã là một chủ đề gây tranh cãi đối với triết học phê phán. “Những siêu-phê phán” thời kỳ đầu, như của Hamann (1967) và Herder (1953) chống lại sự tách rời giữa giác tính và cảm năng, trong khi những phê phán sau này như Fichte (1794) và Hegel (1807, 1812) đã phê phán sự tách rời giữa giác tính và lý tính. Những thế hệ các nhà phê phán sau này, trước hết là Nietzsche và các nhà Kant mới cuối thế kỷ 19, kháng cự lại khuynh hướng của Kant muốn làm biến đổi sự bàn thảo về những tác vụ của giác tính thành sự giải phẫu quan năng của giác tính. Trào lưu phê phán này, nổi lên với những lối đọc phản-duy tâm lý về triết học Kant, vẫn còn ảnh hưởng rất lớn suốt thế kỷ 20, và được thấy rất rõ khi tađọc The Bounds of Sense [Những ranh giới của giác quan] (1961) của Strawson. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant” - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:18:25 GMT 9
3. Thế giới khả niệm Từ điển Kant
Howard Caygill Thế giới khả niệm [Latinh: mundus intelligibilis; Đức: die übersinnliche Welt; Anh: intelligible world] Xem thêm: Hiện tượng, Vương quốc của những mục đích, Noumenon, Cảm năng, Siêu nghiệm, Siêu nghiệm thể, Đối tượng siêu nghiệm, Thế giới Trong CPR Kant phê phán việc “các triết gia hiện đại” sử dụng các “thuật ngữ mundus sensibilis và [mundus] intelligibilis” để dẫn đến “một trò chơi chữ vặt vãnh” (A 257/B 312). Sự sử dụng mà ông phê phán xem “thế giới khả giác” là “tổng thể các hiện tượng trong chừng mực chúng được trực quan” và “thế giới khả niệm” là các quan hệ giữa các hiện tượng với tư cách là chúng “được suy tưởng dựa theo các quy luật của giác tính”. Lấy ví dụ cho sự phân biệt nhầm chỗ này, ông dẫn ra “thế giới khả giác” của thiên văn học quan sát và “thế giới khả niệm” của thiên văn học lý thuyết theo hệ thống Copernicus và Newton. Ông lưu ý rằng sự phân biệt này chuyển từ những phương cách khả giác và khả niệm của nhận thức đến những đối tượng khả giác và khả niệm một cách không chính đáng. Sự phân biệt riêng của Kant, được phát triển lần đầu trong luận án tiến sĩ ID (Bàn về mô thức và những nguyên tắc của thế giới khả giác và thế giới khả niệm), được phát biểu dưới dạng mô thức và những nguyên tắc chủ quan về thế giới khả niệm, hay “sự nối kết phổ quát của mọi sự vật, trong chừng mực chúng là những phenomenon” và nguyên tắc hay nguyên nhân khách quan của thế giới khả niệm “nhờ đó mà có một sự nối kết lẫn nhau giữa các sự vật đang tồn tại tự thân” (ID §13). Ông không xem nguyên tắc sau trong quan hệ với các lực vô hình như trọng lực chẳn hạn, và thực tế ông rất ít nói về nó; phần lớn sự bàn luận của ông tập trung vào không gian và thời gian như là những nguyên tắc chủ quan của thế giới cảm tính. Thậm chí trong mục 4 cuốn LA, có nhan đề “Về nguyên tắc của mô thức của thế giới khả niệm”, Kant khá kín tiếng về nguyên tắc này là nguyên tắc nối kết nhiều thực thể với nhau. Sự mô tả gần như là một định nghĩa của ông là sự mô tả phủ định về cái khả niệm như là “không có cái gì được mang lại trong trực quan của con người” (ID§10). Sự kín tiếng này được biện minh trong CPR, ở đó Kant yêu sách rằng “những đối tượng khả niệm” hay “những sự vật có thể được suy tưởng chỉ bằng các phạm trù thuần túy” mà không cần có các niệm thức của cảm năng, không thể là những đối tượng của kinh nghiệm (A 286/B 342). Song ông cũng thấy không thể phủ nhận rằngnhững đối tượng như thế có thể được suy tưởng , và hơn nữa chúng đi kèm với nhận thức cảm tính, như đã được gợi ý trong định nghĩa của ông về cái khả niệm như là “cái gì nơi một đối tượng của giác quan mà bản thân không phải là hiện tượng” (A 538/B 566). Tuy nhiên, không có một tri thức nào về những đối tượng khả niệm ngoại trừ với tính cách là các noumenon hay các đối tượng nghi vấn mà sự tồn tại của chúng không thể được chứng minh cũng như không thể bị bác bỏ. Và nếu những đối tượng khả niệm không thể thừa nhận là những đối tượng của nhận thức khẳng định, thì một thế giới khả niệm hay toàn bộ những đối tượng như thế (ID§§32 và 34)để làm gì? Một thế giới như thế, Kant lưu ý trong phần Nhận xét bổ sung choNghịch lý thứ nhất, “không gì khác hơn là khái niệm phổ biến về một thế giới nói chung, trong đó người ta trừu tượng hóa khỏi mọi điều kiện của trực quan về nó” (CPR A 433/B 462). Sự sử dụng siêu việtmột khái niệm phổ biến như thế sẽ xem thế giới khả niệm như là nằm bên ngoài thế giới khả giác và giữ vai trò như là cơ sở hay mô hình siêu nghiệm của thế giới khả giác. Quan niệm rộng rãi theo thuyết Platon về thế giới khả niệm như là một lĩnh vực tồn tại ẩn sau những hiện tượng đã bị Kant cự tuyệt; cái được phép là sự sử dụng siêu nghiệm của khái niệm liên quan đến một nguyên nhân khả niệm, vốn là cái “chỉ có ý nghĩa là cơ sở đơn thuần siêu nghiệm và không thể nhận thức được đối với ta về khả thể của chuỗi cảm tính nói chung” (CPR A 809/B 592). Từ quan điểm của CPR, thế giới khả niệm được phép duy nhất là “thế giới luân lý – đã bị trừu tượng hóa trong khái niệm về nó mọi trở ngại cho luân lý” (A 809/B 837). Đối tượng chính của thế giới này là sự tự do, mà đến lượt nó được chứng tỏ trong “tính năng khả niệm” của chủ thể “được giải phóng ra khỏi mọi ảnh hưởng của cảm năng” (A 541/B 569). Chính tự do là cái biểu thị “nguyên nhân khả niệm” làm cơ sở cho tính năng khả niệm của tính nhân quả. Trong khi tính năng thường nghiệm của tính nhân quả nối kết những hiện tượng này với những hiện tượng khác trong thế giới cảm tính, thì tính năng khả niệm làm cơ sở cho chuỗi nguyên nhân tác động trong một “quy luật của tính nhân quả” mà bản thân nó lại không phục tùng nguyên nhân tác động. Tính năng sau mang tính chất siêu nghiệm, tức là một điều kiện cho sự mở rộng của tư duy mà bản thân nó không bao giờ là một đối tượng của tư duy. Bằng cách này Kant đặt thế giới khả giác và khả niệm vào cùng hàng với thế giới của tự nhiên và tự do vốn “có thể cùng tồn tại với nhau mà không có mâu thuẫn nào ngay trong cùng những hành vi, tùy theo những hành vi của chúng được quy chiếu đến nguyên nhân khả niệm hay đến nguyên nhân khả giác” (A 541/B 569). Trong GMM, thế giới khả niệm được đồng nhất với “thế giới của hữu thể lý tính (mundus inlligibilis) như là một vương quốc của những mục đích” (tr. 438, tr. 43) mà con người là những thành viên; tuy nhiên, con người không chỉ là “thành viên của thế giới khả niệm”, bởi lẽ mọi hành vi của họ sau đó sẽ “hoàn toàn tuân theo nguyên tắc của sự tự trị của một ý chí thuần túy” (GMM tr. 54, tr. 453). Nguyễn Thị Thu Hà dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) - GMM : Groundwork of the Metaphysics of Morals / Cơ sở siêu hình học đức lý (1785) - ID : Inaugural Dissertation : De mundi sensibilis atque intelligibilis forma et principiis / Luận án Tiến sĩ : Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm (1770)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:19:16 GMT 9
4. Hữu hạn (tính, sự) Từ điển Kant
Howard Caygill Hữu hạn (tính, sự) [Đức: Endlichkeit; Anh: finitude] Xem thêm: Xúc cảm, Bất tử, Mệnh lệnh, Trực quan, Nhu cầu, Lý tính, Thụ nhận, Cảm năng, Tổng hợp, Thời gian, Giác tính Trong những trang kết thúc quyển CPrR, Kant nói đến“sự kính sợ và ngưỡng mộ” đã được gợi lên bởi “bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật đạo đức ở trong tôi” (tr, 162, A 289). Sự phản tư về hai đối tượng trên tạo ra một sự chuyển động giữa những xúc cảm về sựhữu hạn và sự vô nghĩa với những xúc cảm về sự bất tử và giá trị vô hạn. Cảm nghĩ về sự thủ tiêu “tầm quan trọng của tôi, xét như một sinh vật thụ tạo, mà sau khi được ban cho một sự sống ngắn ngủi (không ai biết tại sao), lại phải quay về lại với cát bụi đã hình thành nên nó nơi một hành tinh vốn chỉ là một chấm nhỏ trong vũ trụ” của nghĩa này cùng tồn tại với cảm nghĩ về sự tự nâng cao lên qua quy luật luân lý “về một đời sống độc lập với thú tính và cả với tòan bộ thế giới cảm tính” (tr. 162, A 289). Sự chuyển động này thấm nhuần trong toàn bộ triết học phê phán, và được biểu hiện ở việc giới ước sự nhận thức vào trong những ranh giới của một trực quan và một giác tính hữu hạn đi kèm với việc nâng mình lên khỏi những giới hạn này bằng quy luật luân lý. Trực quan hữu hạn của con người được phân biệt với trực quan thần thánh hay “trí tuệ” bởi tính chất thời gian của sự tổng hợp cấu thành nên kinh nghiệm và nhận thức. Những sự tổng hợp khác nhau hợp nhất khái niệm và trực quan đều được định hướng theo kinh nghiệm trong quá khứ và tương lai, và về căn bản là không hoàn chỉnh. Còn trong lĩnh vựctriết học thực hành, xu hướng hướng đến những mục đích riêng lẻ cụ thể nảy sinh từ nhu cầu bắt nguồn từ sự hữu hạncủa thân phận con người. Đó chính là quan hệ căng bức giữa “lý tính thực hành hữu hạn” và quy luật luân lý làm cho mệnh lệnh luân lý và “nhiệm vụ không bao giờ ngưng” của việc theo đuổi mô hình của một ý chí thiêng liêng trở nên cần thiết (CPrR, tr. 32, tr, 32). Trong CPR, Kant luôn nhấn mạnh đến tính hữu hạn của kinh nghiệm con người, bằng việc giới ước phạm vi của nó vào những hiện tượng hay những tri giác của một trực quan hữu tận. Ngoại lệ duy nhất là kinh nghiệm luân lý mà theo Kant nó bao gồm cả lòng tin. Thế nhưng nhiều nhà phê phán, nhất là Nietzsche và Heidegger hậu kỳ, đã truy vấn sự thừa nhận của Kant về những kích thước vôhạncủa kinh nghiệm luân lý. Trong triết học của ông, có một chiều hướng sai lầm rõ rệt giữa các nghiên cứu nghiêm ngặt về kinh nghiệm trong quan hệ với tính hữu hạn của con người xuyên suốt trong phê phán thứ nhất và phê phán thứ ba (tức là CPR và CJ), mà ta có thể gọi là nghiên cứu theo lối Epicurus, đồng thời lại có nghiên cứu theo kiểu Platon, nhấn mạnh đến sự đối lập giữa thế giới hữu hạn và thế giới vô hạn được trình bày trong CPrR. Liệu ta có thể giữ lại sự nhấn mạnh đến cái trước trong khi bác bỏ lối nghiên cứu sau là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Một câu trả lời thỏa đáng cho nó chủ yếu xoay quanh việc ta có thể quan niệm về kinh nghiệm luân lý mà vắng mặttính vô hạn (điều mà theo Kant là không thể), và liệu vai trò mấu chốt của sự tự do và tính tự khởi trong toàn bộ các lĩnh vực của triết học phê phán có thể được duy trì trong một khuôn khổ hữu hạn nghiêm ngặt hay không. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant - CJ: Critique of Jugement / Phê phán năng lực phán đoán (1790) - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) - CPrR: Critique of Practical Reason / Phê phán lý tính thực hành (1788)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:20:56 GMT 9
5. Không gian và thời gian Từ điển Kant
Howard Caygill Không gian và thời gian [Đức: Raum und Zeit; Anh: space and time] Xem thêm: Cảm năng học, Bên đối ứng không đồng dạng, Trực quan, Vị trí, Niệm thức, Cảm năng Thời gian và không gian cùng được bàn đến trong phần ba của ID với tư cách là các nguyên tắc của mô thức về thế giới cảm tính. Chúng là ‘các sơ đồ và các điều kiện của những gì là cảm tính trong nhận thức của con người’ (§13) và cấu thành yếu tố mô thức của cảm năng. Kant lập luận rằng thời gian và không gian là ‘những trực quan thuần túy’ (§14): là “thuần túy” trong chừng mực chúng được tiền giả định [là có sẵn] trong cảm giác về các sự vật, và như vậy không thể được ‘rút ra từ những cảm giác bên ngoài’ (§15), và là “các trực quan” vì chúng ‘phối kết’ các đối tượng của giác quan nhưng không thâu gồm các đối tượng này theo phương cách của các khái niệm. Với lập luận như vậy, Kant đã phân biệt được nghiên cứu của mình về không gian và thời gian với quan điểm duy nghiệm là quan điểm cho rằng chúng được rút ra từ các đối tượng của giác quan, với quan điểm duy lý là quan điểm cho rằng chúng là những tri giác mù mờ về một trật tự khách quan của các sự vật, và khác với sự phân biệt của Newton giữa không gian-thời gian tuyệt đối và không gian-thời gian tương đối.Hơn nữa, mặc dù không gian và thời gian phối kết các đối tượng của giác quan, nhưng chúng chỉ làm như thế trong sự tương hợp với “một nguyên tắc bên trong của tâm thức” được ngự trị bởi “các quy luật ổn định và có sẵn” (§4), và các quy luật này không được tâm thức tác tạo một cách tự khởi. Chúng là những phương diện của tính thụ nhận hay tính thụ động của tâm thức, đối lập lại với việc làm chủ động và tự khởi của giác tính, tuy thế chúng lại tổ chức chất liệu của cảm giác. Sự bàn luận về không gian và thời gian trong phần “Cảm năng học siêu nghiệm” của CPA phát triển thêm viễn tượng được đề xuất trong ID.Không gian và thời gian là những mô thức thuần túy tiên nghiệm của trực quan, và những mô thức này, với tư cách là giác quan bên ngoài và giác quan bên trong, hình thành những điều kiện tất yếu của kinh nghiệm (bên ngoài và bên trong) cũng như của các đối tượng của kinh nghiệm như thế (CPA A 48-9/ B 66). Không gian và thời gian là thuần túy vì chúng không thể được rút ra từ kinh nghiệm, là tiên nghiệm vì chúng “có trước bất cứ mọi hành vi suy tưởng nào” (B 67), là mô thức vì chúng sắp đặt trình tự “cái đa tạp của hiện tượng”, và là các trực quan trong chừng mực cách sắp đặt chất liệu của cảm năng của chúng khác với cách sắp đặt của một kháiniệm (chúng phối kết nhưng không thâu gồm cái đa tạp). Với tư cách là các mô thức thuần túy của trực quan, không gian và thời gian có thể tạo nên sự chính đáng cho các dạng nhận thức, ví dụ như toán học (đặc biệt là hình học), là môn học quan tâm đến việc tìm tòi các đặc tính của các tính chất mô thức của trực quan. Vai trò của không gian và thời gian trong cấu trúc quyển CPA là phải phối kết các đối tượng của cảm năng trước khi các khái niệm của giác tính hợp nhất chúng vào trong một phán đoán. Để làm được như vậy, không gian và thời gian phải được phân biệt với các khái niệm được tạo ra một cách tự khởi trong khi chúng đồng thời vẫn làm công việc sắp xếp chất liệu của cảm năng theo một phương cách thích hợp với chúng. Phần không nhỏ nỗ lực triết học trong CPA là dành để cho thấy điều này có thể được thực hiện như thế nào, nhưng bên dưới chúng là một loạt vấn đề nảy sinh từ quan niệm của Kant về không gian và thời gian. Các vấn đề này liên quan đến khó khăn cơ bản của việc vừa khẳng quyết rằng tâm thức là có tính thụ nhận trước việc các đối tượng được mang lại cho ta trong khi nó vừa phối kết chúng vào các quan hệ nhất định. Nếu cảm năng hoàn toàn là thụ nhận, sẽ không có chỗ cho bất cứ hoạt động phối kết nào; nhưng nếu hoạt động này được thừa nhận thì ta khó thấy được làm thế nào để cảm năng có thể được coi là thụ động. Nhưng nếu cảm năng được coi là chủ động trong việc phối kết các đối tượng của giác quan dựa theo các quan hệ không gian-thời gian, thì việc các đối tượng là “được mang lại cho ta” – thành trì của Kant chống lại thuyết duy tâm [của Berkeley] – bắt đầu thấy có vẻ lung lay. Dù sao cũng không thể quá thổi phồng tầm quan trọng của việc xác lập không gian và thời gian như là những mô thức của trực quan, vì nó là cơ sở không chỉ của các phê phán của Kant đối với thuyết duy nghiệm và thuyết duy tâm, mà còn của việc ông đặt câu hỏi liệu Thượng đế, thế giới và linh hồn có thể là những đối tượng chính đáng của nhận thức lý thuyết, hay chỉ đơn thuần là sự mở rộng không chính đáng của nhận thức vượt khỏi các giới hạn không gian-thời gian của cảm năng con người. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) - ID: Inaugural Dissertation– De mundi sensibilis atque intelligibilis forma et principiis/Luận ánTiến sĩ–Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm(1770).
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:21:46 GMT 9
6. Liên tưởng (sự) Từ điển Kant
Howard Caygill Liên tưởng (sự) [Đức:Assoziation; Anh: association] Xem thêm: Thân thuộc (sự),Tưởng tượng (sự), Tâm lý học, Tổng hợp (sự) Là hiện tượng tâm lý học của sự chắp nối lại với nhau những đối tượng khác nhau của ý thức, sự liên tưởng tuy đã được Platon và Aristoteles nói đến khi nối kết với tính dễ nhớ, nhưng trở thành một bộ phận quan trọng trong nhận thức luận duy nghiệm. Locke phân biệt giữa sự liên tưởng tự nhiên (có tính chất đồng thời) và sự liên tưởng sở đắc (có tính chất tiếp diễn) của những ý niệm, cái sau là do sự tình cờ hay thói quen mà có. Hume hết sức chú ý đến sự liên tưởng, tập trung vào những quan hệ dựa theo đó những ý niệm được nối kết với nhau. Sự liên tưởng không đóng phần lớn trong nhận thức luận của Kant, chủ yếu là do ông quan tâm đến việc biện minh cho những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm. Sự liên tưởng là một hiện tượng tâm lý hay thường nghiệm không có một vị trí nổi bật trong sự biện minh siêu nghiệm về những phán đoán này. Thực vậy, trong CPA Kant phê phán Locke và Hume về mối bận tâm của họ với sự liên tưởng, nhất là vị trí được Hume gán cho thói quen là cái “nảy sinh trong kinh nghiệm, do việc liên tưởng được lặp đi lặp lại” (CPA A 94/ B 127). Kant vui lòng dành cho sự liên tưởng một vị trí trong sự tổng hợp như là “cơ sở chủ quan và thường nghiệm của sự tái tạo dựa theo quy tắc” trong trí tưởng tượng tái tạo thường nghiệm. Thế nhưng ngay cả quy tắc thường nghiệm này của sự liên tưởng là không tự-đầy đủ cho nó, và luôn phục tùng câu hỏi siêu nghiệm: “bản thân sự liên tưởng này làm thế nào có thể có được?” (CPA A 113). Câu trả lời là nó cũng có một cơ sở trong “sự thân thuộc siêu nghiệm, còn sự thân thuộc thường nghiệm chỉ là kết quả đơn thuần từ đó” (CPA A 114). Vì thế, sự liên tưởng là một vấn đề khá là ngoại vi đối với Kant, mặc dù nó là chủ đề lớn trong nhiều lý giải từ các nhà phê phán làm việc trong truyền thống duy nghiệm. Nguyễn Thị Thu Hà dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:25:05 GMT 9
7. Tiên đề của trực quan Từ điển Kant
Howard Caygill Tiên đề của trực quan(những) [Đức: Axiomen der Anschauung; Anh: Axioms of intuition] Xem thêm: Loại suy của kinh nghiệm (những), Dự đoán của tri giác (những), Phạm trù (các), Phán đoán, Nguyên tắc (các), Lượng, Nhất thể Những tiên đề này là một nhóm những nguyên tắc có vai trò như là những quy tắc cho việc sử dụng khách quan các phạm trù về lượng. Mỗi nhóm các phạm trù có những nguyên tắc tương ứng của nó, dùng để xác định các sự vật phải xuất hiện ra trong thời gian như thế nào: những nguyên tắc tương ứng với phạm trù về chất là “những dự đoán của tri giác”, những nguyên tắc tương ứng với các phạm trù về tương quan là “những loại suy của kinh nghiệm”, và những nguyên tắc tương ứng với các phạm trù về tình thái là “các định đề của tư duy thường nghiệm”. Vì kinh nghiệm của ta về thế giới không thể trực tiếp có tính phạm trù, nên ta không thể tổ chức kinh nghiệm về lượng của mình bằng những phạm trù: “nhất thể”, “đa thể” và “toàn thể”; do đó ta cần có những nguyên tắc để làm cho chúng phù hợp với những điều kiện của trực quan hữu hạn. “Những tiên đề” và “những dự đoán” hình thành nên “các nguyên tắc toán học” đối lập với “các nguyên tắc năng động ” của “các loại suy” và “các định đề”. Các nguyên tắc toán học chuyển các phạm trù thành những nguyên tắc tương ứng với sự trực quan những đối tượng trong không gian và thời gian – những đối tượng của lượng có quảng tính và lượng cường độ. Nguyên tắc chủ đạo của các tiên đề, được Kant mang đến cho chúng ta trong CPA, ấn bản A (tr. 162) là: “Mọi hiện tượng, trong trực quan về chúng, là những lượng quảng tính”, và ấn bản B (tr. 202): “Mọi trực quan là những lượng có quảng tính.” Điều này có nghĩa là một hiện tượng không thể trở thành một đối tượng của trực quan trừ phi nó có một lượng quảng tính: lượng có quảng tính là một điều kiện của cả kinh nghiệm lẫn của mọi đối tượng của kinh nghiệm. Kant mô tả lượng bằng quá trình vận động từ cái đơn vị hay một “biểu tượng về một bộ phận” qua cái đa thể suốt cả một giai đoạn thời gian, đến khi đạt được cái toàn thể hay một tổng thể vào cuối giai đoạn thời gian. Ông đưa ra ví dụ về việc cấu tạo nên đường thẳng hình học diễn tiến qua thời gian, từ một điểm sang một đa thể các điểm, cho đến một đường thẳng (CPA A 162/B 203). Cùng với toàn bộ các nguyên tắc của Kant, các tiên đề đảo ngược những thuộc tính mô thức của hữu thể thành những nguyên tắc được xác định về mặt không gian và thời gian của những hiện tượng. Cho nên môn “toán học về không gian (môn hình học)” được đặt cơ sở trên “sự tổng hợp tiếp diễn của trí tưởng tượng tác tạo” (CPA A 162/B 203), là cái diễn tiến từ nhất thể tại một thời điểm, rồi đến cái đa thể, và cuối cùng đến cái toàn thể vào cuối một quảng thời gian. Thậm chí sự duy trì của nhất thể qua thời gian đòi hỏi phải có một sự tổng hợp tiếp diễn, mà nếu không có nó thì nhất thể ắt sẽ chịu một sự thay đổi không thể chấp nhận về chất – nó ắt ngay lập tức không còn tồn tại và biến thành một cái khác. Những đối tượng của môn hình học là sản phẩm của việc vẽ hình này qua thời gian, như là những con số và phép tính cộng số học. Những phép cộng nói lên sự ổn định hay sự biến đổi về lượng được hoàn tất bằng một sự tổng hợp của trí tưởng tượng xuyên qua thời gian. Kant kết luận bằng tuyên bố rằng “sự tổng hợp về những không gian và thời gian” – sự sản sinh ra lượng có quảng tính qua sự vận động từ nhất thể sang đa thể và đến toàn thể – “là cái làm cho sự lĩnh hội về hiện tượng, cũng như cho mọi kinh nghiệm ở bên ngoài, tức cho toàn bộ nhận thức về đối tượng của kinh nghiệm có thể có được.” (CPA A 165/B 206). Sự tổng hợp này làm cho các tiên đề phù hợp với “nguyên tắc phổ biến” của cả bốn nhóm nguyên tắc, nghĩa là: những điều kiện cho kinh nghiệm cũng là những điều kiện cho các đối tượng của kinh nghiệm. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant: - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:26:02 GMT 9
8. Chuẩn tắc (bộ) Từ điển Kant
Howard Caygill Chuẩn tắc (bộ) [Latin: Canon; Đức: Kanon; Anh: canon] Xem thêm: Phân tích pháp, Kỷ luật học, Phán đoán, Lôgíc học, Siêu hình học, Quy tắc Cơ sở lịch sử của việc Kant đối lập bộ chuẩn tắc (canon) với bộ công cụ (organon) là sự phê phán của Epicurus (341-271tcn) về bộ công cụ của Aristoteles. Thay cho Bộ công cụ phương pháp của Aristoteles, vốn là cuốn sách trình bày những quy tắc để đạt được nhận thức chứng minh, Epicurus đề xuất một Bộ chuẩn tắc vềcác quy tắc để đưa ra những phán đoán đúng. Nhan đề của văn bản ông bàn đến chủ đề này là Canon, gồm nhiều quy tắc và tiêu chuẩn khác nhau để phân biệt phán đoán đúng và phán đoán sai (Diogenes Laertius, 1925, Q. II, tr. 559-61). Epicurus phân biệt chuẩn tắc pháp với biện chứng pháp, coi nó có liên quan đến tính đúng đắn của phán đoán hơn làliên quan đến sự mở rộng tri thức. Kant đã hình thức hóa sự phân biệt lịch sử này trong CPR, cho dù ông có ám chỉ đến những căn nguyên của nó trong L, ở đó ông bàn về Lôgíc học như là “nghệ thuật phổ quát của lý tính (caninica Epicuri)” (L tr. 529). Sự phân biệt hình thức của riêng Kant giữa bộ chuẩn tắc và bộ công cụ vẫn gắn mật thiết với cái tiền lệ lịch sử của nó. Chẳng hạn như phân tích pháp siêu nghiệm được quan niệm theo tinh thần của bộ chuẩn tắc Epicurus là một phương tiện cho việc phân biệt giữa phán đoán đúng và phán đoán sai, “để phán đoán trong sự sử dụng thường nghiệm của giác tính” (CPR A 63/B 88). Khác vớibộ công cụ của Aristoteles, nó không tự nhận là đưa ra những quy tắc cho sự mở rộng của giác tính; thay vào đó, với Kant, “nó sẽ bị lạm dụng nếu người ta cho nó có giá trị như là bộ công cụ cho một sự sử dụng phổ biến và vô giới hạn” (A 63/B 88). Trong CPR, phần “Học thuyết siêu nghiệm về phương pháp”, chương II “Bộ chuẩn tắc cho lý tính thuần túy” – Kant nhận diện “sự sử dụng duy nhất của một triết học về lý tính thuần túy” phải là một bộ chuẩn tắc phục vụ “không phải như là một bộ công cụ cho sự mở rộng tri thức mà như là một kỷ luật học cho sự giới hạn của lý tính thuần túy” (A 795/B 823). Ông mô tả phần phân tích pháp của môn Lôgíc học phổ biến là “một bộ chuẩn tắc cho giác tính và lý tính nói chung” và phần Phân tích pháp siêu nghiệm là một “bộ chuẩn tắc của giác tính thuần túy, vì chỉ có nó mới mang lại những phươngthức tổng hợp đúng đắncủa nhận thức tiên nghiệm” (A 796/B 824). Ông tiếp tục xét bộ chuẩn tắc của lý tính thuần túy, vốn chỉ có thể được áp dụng trong ngữ cảnh của sự sử dụng thực hành của lý tính. Bộ chuẩn tắc của lý tính thuần túy xử lý hai câu hỏi liên quan đến mối quan tâm thực hành, đó là: “Thượng đế có tồn tại không?” và “có đời sống trong tương lai chăng?” (A 803/B 831). Những câu hỏi này được phiên dịch thành hai tiêu chuẩn của bộ chuẩn tắc của lý tính thực hành: “Tôi phải làm gì?” và “Tôi có thể hy vọng gì?” (A 805/B 835), là những tiêu chuẩn mang lại những định đề về sự tồn tại của Thượng đế và đời sống tương lai. Ý niệm về bộ chuẩn tắc được tiếp nhận từ Epicurus có thể được mở rộng ra để làm đặc trưng cho toàn bộ công cuộc phê phán. Có thể nói triết học phê phán cung cấpnhững quy tắc hay tiêu chuẩn để phân biệt phán đoán đúng thật (true judgement) với phán đoán sai lầm trong khi đó không trực tiếp đưa ra một nghiên cứu có hệ thống về các phán đoán đúng (correct judgements) và những phương tiện dùng để mở rộng chúng. Theo nghĩa này, bộ môn chuẩn tắc học của Epicurus có thể được xem là đã được làm sống lại bởi triết học phê phán và được tiếp tục trong những bộ môn phê phán được nó truyền cảm hứng. Thân Thanh dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant: - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) - L: Logic / Lôgíc học(1800)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:27:59 GMT 9
9.Phenomenon Từ điển Kant
Howard Caygill Phenomenon Xem thêm: Hiện tượng, Nguyên mẫu, Thế giới khả niệm, Trực quan, Noumenon, Cảm năng. Các phenomenon được phân biệt với cả noumenon lẫn hiện tượng, nhưng những thuật ngữ mà Kant dùng để diễn đạt sự phân biệt được thay đổi một cách triệt để trong suốt sự nghiệp của ông. Trong công trình đầu tiên của ông, ID (1747), Kant sử dụng chữ “phenomenon” một cách quy ước với nghĩa một sự biểu hiện bên ngoài của một lực không thể thấy được, như trong mệnh đề: “chuyển động chỉ là phenomenon bên ngoài về trạng thái của vật thể” (LF§3). Trong khi các yếu tố của quan niệm này thậm chí vẫn còn lưu lại trong triết học phê phán, theo ID (1770) thì những thuật ngữ dùng để phân biệt đã chuyển từ chỗ các phenomenon là sự biểu hiện bên ngoài của các lực hay các đối tượng thấy được thành những hiện tượng đơn thuần là “các đối tượng của cảm năng” được đối lập với các noumenon hay các đối tượng khả niệm, là những đối tượng chỉ có thể được nhận thức qua trí tuệ” (ID §3). Kant cũng kín đáo cho biết một sự phân biệt giữa các phenomenon và các hiện tượng, thuật ngữ “hiện tượng” được dùng để biểu đạt “những gì đi trước sự sử dụng lô gíc của giác tính” và các phenomenon được dùng để biểu đạt “các đối tượng của kinh nghiệm”, là những đối tượng được giác tính rút ra từ việc so sánh các hiện tượng bề ngoài (§5). Theo quan niệm này, “các quy luật của các phenomenon” bao gồm “các quy luật của cả kinh nghiệm và nói chung là của toàn bộ nhận thức cảm tính” (§5). Sự phân biệt này là sợi chỉ xuyên suốt trong CPR, các phenomenon phân biệt với các noumenon theo nghĩa là sự phân biệt giữa thế giới khả giác với thế giới khả niệm (A 294) và giữa các đối tượng khả giác với các đối tượng khả niệm (B 306). Tương tự như vậy, các phenomenon được phân biệt với các hiện tượng trong chừng mực chúng nối kết với các quy luật của nhận thức cảm tính và nhận thức trí tuệ hay, theo cách nói trong CPR, chúng là “những hiện tượng trong chừng mực chúng được suy tưởng như những đối tượng dựa theo sự thống nhất của các phạm trù” (A 248). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant: CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) ID: “Inaugural Dissertation”, On the Form and Principles of the Sensible and the Intelligible World / “Luận án”, Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm (1770) LF: Thoughts on the True Estimation of Living Forces / Vài ý kiến về việc lượng định đúng đắn về các lực sống (1747)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:29:03 GMT 9
10.Sơ luận về bất kỳ môn Siêu hình học nào trong tương lai muốn có thể xuất hiện như một khoa học Từ điển Kant
Howard Caygill
Sơ luận về bất kỳ môn Siêu hình học nào trong tương lai muốn có thể xuất hiện như một khoa học [t.Đức: Prolegomena zu einer jeden künftigen Metaphysik, die als Wissenschaft wird auftreten können, t. Anh: Prolegomena to Any Future Metaphysics that will be able to come forward as Science] Được xuất bản vào năm 1783 ít lâu sau CPR, quyển P đã được Kant dự kiến là 'không phải viết cho học sinh dùng mà là viết cho các giáo viên tương lai dùng'. Cùng với OD, P là lời đáp của Kant đối với làn sóng phê phán đầu tiên đối với triết học phê phán của ông, và giống OD ở một sự luận giải về những chủ đề nền tảng của triết học phê phán. Ông xem P như là một quyển sách tiếp theo của CPR, một quyển phác thảo về khoa học, có thể giúp bạn đọc nắm bắt được tổng thể. Khác với CPR là quyển được trình bày theo một lối tổng hợp đi từ những nguyên tắc, P ‘được phác thảo ra theo một phương pháp phân tích’ (p. 263, p. 8) là phương pháp đi từ những câu hỏi làm thế nào mà những khoa học như toán học thuần túy, khoa học tự nhiên thuần túy, siêu hình học nói chung, và siêu hình học như là một khoa học có thể xác lập những điều kiện cho khả thể của chúng. Kết quả là một tổng quan về những nội dung của "Học thuyết siêu nghiệm về các yếu tố cơ bản" của CPR, được mở đầu bằng những nhận xét về những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm và được nối tiếp bằng những phản tư về 'sự xác định những ranh giới của lý tính thuần túy'. Phần thứ nhất, về những điều kiện khả thể của toán học thuần túy, điểm lại phần "Cảm năng học Siêu nghiệm' của CPR, Phần thứ hai, về những điều kiện khả thể của khoa học tự nhiên thuần túy, điểm lại phần "Phân tích pháp Siêu nghiệm" của CPR; trong khi đó phần thứ ba, về những điều kiện khả thể của siêu hình học nói chung, điểm lại phần 'Biện chứng pháp siêu nghiệm". Ngoài công dụng của việc đưa ra một tóm tắt về CPR, P có ý nghĩa không chỉ làm nổi bật những động cơ siêu hình học thấm nhuần trong CPR mà còn có ý nghĩa đối với những phản tư của Kant về những biến cố đã khiến ông tỉnh thức khỏi "giấc ngủ giáo điều" và đến với triết học phê phán. Cù Ngọc Phương dịch Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing. Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant: - CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787) - OD: On a Discovery according to which any New Critique of Pure Reason has been made Superflous by an Earlier One / Về sự phát hiện theo đó bất cứ sự phê phán mới nào về lý tính thuần túy đều trở nên thừa bởi một phê phán trước đó(1790) - P: Prolegomena to Any Future Metaphysics that will be able to come forward as Science / Sơ luận về bất kỳ môn Siêu hình học nào trong tương lai muốn có thể xuất hiện như một khoa học (1783).
|
|