|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:33:41 GMT 9
Công bằng (sự)= DIKAOSUNÊ (HÊ): Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry
DIKAOSUNÊ (HÊ): Công bằng (sự) [t. Latinh: justitia; t.Pháp: la justice Thuật ngữ này có hai lớp nghĩa : thiết chế, hay công bằng [trong] chính trị; đức hạnh, hay công bằng [trong] luân lý. Các nhà tư tưởng Hy Lạp bận tâm tới cả hai phương diện này, và công đầu phải kể tới là Platon và Aristote. Những từ đồng nghĩa đôi khi cũng được sử dụng: dikê, dikaïotês, dikaïon (to): công chính, cái công chính. Sự công bằng về cơ bản là thước đo (mésotês, méson). Và vì đặc điểm này là đặc điểm của đức hạnh nói chung (Aristote, Éth. Nic., II, VIII), công bằng trở thành đức hạnh quan trọng nhất và đáng ngưỡng mộ nhất; và về điều này, Aristote (ibid. V, I) trích dẫn một câu thơ của Théognis: “Trong công bằng đã có toàn bộ đức hạnh”. Mặt khác, kể từ Platon trở đi, công bằng trở thành một trong bốn phẩm chất chính yếu, nó đi cùng hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự minh triết (Platon, Rep., IV, 429e-441c), hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự khôn ngoan thực hành (Zénon, Plotin, I, II, 7). x. Arétê. Những người phái Pythagore có thái độ hết sức cung kính trước sự công bằng, vì trong hệ thống của họ, sự hài hòa là nguyên tắc thống nhất vũ trụ, tâm lý và luân lý, và theo lời của Polos phái Pythagore[1]: “công bằng là sự hài hòa của linh hồn” (Athénée, IX, 54). Một câu thơ trong Paroles d’or / Lời vàng (13) ra mệnh lệnh là phải thực hành sự công bằng. Theo Aristoxène, Pytagore khẳng định ta phải đặt công bằng chính trị trên cơ sở “Nguyên tắc thần thánh” (Jamblique, Vie de Pythagore / Cuộc đời của Pythagore, 174). Archytas đã viết một chuyên luận Bàn về luật pháp và sự công bằng. Platon đã xác lập một mối liên hệ mật thiết giữa công bằng luân lý và công bằng chính trị nhờ vào quan niệm của thuyết Pythagore về sự hài hòa. Về mặt luân lý, trong số ba đức hạnh thì mỗi một đức hạnh có liên quan đến một bộ phận trong linh hồn của con người; và có vẻ như chúng độc lập với nhau (autonomes); chính sự công bằng là cái làm cho ba đức hạnh này hòa hợp lại. Về mặt chính trị, thì mỗi đức hạnh có quan hệ với một tầng lớp xã hội riêng biệt; chính sự công bằng xác lập sự hòa hợp giữa ba đức hạnh này, vì qua nó mỗi một tầng lớp xã hội thực hiện một chức năng đóng góp vào lợi ích chung của thành quốc (Rep. IV, 435b-443e). Ngược lại, sự không-công bằng (adikia) là sự không hòa hợp giữa ba phần của linh hồn và ba tầng lớp của xã hội (Rep., IV 434b-c; 444b-d). Aristote[2]có ý định xử lý vấn đề công bằng luân lý và công bằng chính trị theo cách tách rời nhau, vì con người tư nhân và con người công cộng vốn thực hiện những hoạt động khác nhau (Pol., III, 3-7).Tuy nhiên, ông không thể xử lý vấn đề trước, ông dành cả một quyển để bàn riêng về nó, mà lại không dựa vào luật pháp: công bằng được xác định qua quyền bình đẳng và tính hợp pháp; vì sự công bằng chỉ có với những ai sống theo pháp luật, cần điều chỉnh các quan hệ của mình (Éth. Nic. V, II, VI).Tuy nhiên, để có đức hạnh thì hành động công minh cần phải được đi kèm một cách tự nguyện (ibid., V, II, 1-3; V, 1; VIII, 1-4). Mặt khác, Aristote tiến hành phân loại những hình thức khác nhau của sự công bằng: công bằng phân phối (thời Trung đại, chữ này không có trong văn bản), một hình thức phân phối danh vọng và tài sản (ibid., V, II, 12; III, 7; IV, 2);công bằng tu chỉnh (sunallagmatikê), tức là cái không tự nguyện, và coi việc sửa lại sự không công bằng là công việc của quan tòa. Chúng ta hãy trở lại với luật pháp. Trong Chính trị học, thay vì xét sự công bằng như là thiết chế, Aristote xem xét nó như là đức hạnh công dân, cốt ở chỗ nó phục vụ cho lợi ích chung (III, IV, 1-7). Đối với Archélaos, sự công bằng và không-công bằng không tự nhiên có được, mà là do thỏa ước (D. L., II, 16). Theo ông, Épicure đã quy sự công bằng về khế ước (sunthêkê) và đặt nó trên cơ sở tính hữu ích (Maximes / Các châm ngôn, 33, 36, 37). Plotin không mấy quan tâm đến vấn đề sự công bằng; có một sự công chính (dikê) phổ quát, được giả định bởi Linh hồn, và là cái phối hợp với sự chuyển động của các thiên thể (II, III, 8); và đối với từng linh hồn của con người, sự công chính cốt ở chỗ lựa chọn thể xác thích hợp với nó khi nó hiện thân (IV, III, 13). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivrin Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Éllipses, 2000. [1]Hay là Polo xứ Lucanie, đừng lầm với biện sĩ Polos xứ Agrigente. [2]Theo Cicéron (Rep., III, 8), Aristote đã viết chuyên luận Bàn về sự công bằng thành bốn quyển.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:34:30 GMT 9
SOPHIA (HÊ): Minh triết (sự) Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry SOPHIA (HÊ): Minh triết (sự) [t.Latinh : sapientia ; t.Pháp : la sagesse] Nhà hiền triết (sophos) là người mải mê cuộc tìm kiếm cá nhân về những lẽ huyền nhiệm trong thế giới và về lối ứng xử riêng của mình. Có vẻ như, vào thời khai nguyên của tư tưởng Hy Lạp, loại người này rất hiếm khi gặp thấy, vì các thế hệ sau liệt họ vào nhóm thất hiền. Sophostrước hết có nghĩa là tinh thông lão luyện và là một từ hạn định đơn ; nó chuyển sang vị thế của thể từ, và có được ý nghĩa trí tuệ, ở đó tri thức và sự đồn đại chưa tách rời nhau. Chúng ta bắt gặp chữ sophia ở Anaxagore : ở một trong các đoản văn của ông (21b), ông đánh giá rằng sự ưu thế của con người đối với con vật ở chỗ con người sử dụng sự minh triết và kỹ thuật. Héraclite sử dụng các chữ nhà hiền triết và sự minh triết theo nghĩa trí tuệ : sự minh triết là chỗ “nhận thức Tư duy đang ngự trị cái Toàn bộ” (fr, 41), và do đó thừa nhận tính nhất thể của cái Toàn bộ (fr. 50). Với Socrate, chữ sophia có một nghĩa rất rõ ràng : đó là tri thức được sở đắc bằng kinh nghiệm, đối lập với tri thức sách vở (Xénophon, Mém., III, 4-5). Với Platon, sự minh triết là đức hạnh dành riêng cho lý tính, dùng để điều hành Nhà nước (Rep., 586-587, 589-592). Với Aristote, “Sự minh triết là một ngành khoa học có đối tượng là các nguyên nhân chắc chắn và các nguyên tắc chắc chắn.” (Met., A, I, 982a). Quan niệm theo cấp so sánh cao nhất về vấn đề này : nhà hiền triết, một mặt là người có được tri thức rộng hơn người khác, và mặt khác là người có khả năng nhận thức được các sự vật khó lĩnh hội đối với người thường.” (Met., A, 2). Như vậy, “cái mà người Hy Lạp gọi là sự minh triết là cái cao hơn cả đối với toàn bộ các khoa học.” (Éth. Nic., X, VII, 2). Với các trường phái thời Hy Lạp hóa, người ta quay trở lại một quan niệm có tính cách thực hành hơn về thuật ngữ này. Đối với Épicure, “nhà hiền triết không sợ cái chết, cuộc sống không phải là gánh nặng với ông, và ông xét thấy rằng cái chết không phải là điều tồi tệ vì [ta] không còn sống nữa” (D. L. X, 126). Đối với các nhà Khắc kỷ, nhà hiền triết, lý tưởng của nhân tính, là người đã thoát ly khỏi những đam mê, dửng dưng với sự vinh quang, với lạc thú, với đau khổ : người ấy là thánh nhân (D. L. VIII, 117, 119). Plotin lấy lại quan niệm của Aristote : sự minh triết là ở chỗ “chiêm ngưỡng những tồn tại mà Tinh thần có được.” (I, II, 6). Trên thực tế, nhóm Thất hiền nổi tiếng trong tư tưởng Hy Lạp thời khai nguyên là mười một vị, vì ở bảng danh sách điển hình đầu tiên đã được bổ sung thêm một số tên tuổi khác. Bảy vị hiền triết đầu tiên là Thalès xứ Milet, Solon xứ Athènes, Chilon xứ Sparte, Pittacos xứ Mitylène, Bias xứ Priène, Cléobule xứ Lindos, Périandre xứ Corinthe (D. L. I, 22-100). Những vị khác được bổ sung thêm vào là Anacharsis người Scyth, Myson người Laconie, Épiménide người Crétois, và Phérécyde xứ Syros, thầy của Pythagore. Hermippe liệt kê có đến mười bảy vị, “chọn ra bảy vị là tùy ý mỗi người” (D. L. I, 42). Như vậy, ngoài những vị kể trên, ông kể tên các vị khác nữa: Acousilaos, Léophante, Aristodème, Pythagore, Lasos, Hermonée, Anaxagore ; nhưng ông lại bỏ sót Myson. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Éllipses. 2000. Bản dịch tiếng Việt đăng lần đầu trên trên triethoc.edu.vn
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:35:45 GMT 9
ALÊTHÉÏA (HÊ) : Chân lý Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry ALÊTHÉÏA (HÊ) : Chân lý [t.Latinh : veritas ; t.Pháp : la vérité] Ta gọi là alêthês cái gì không thể bác bỏ được hoặc trong những sự kiện (thực tế, thật sự), hoặc trong những lời nói (hiển nhiên từ điểm nhìn của lôgíc học, xác thực từ điểm nhìn của chủ thể đang khẳng định). Triết học có mục đích tối hậu là đạt đến chân lý. Triết gia, theo Platon, là “người ái mộ Tồn tại và chân lý.” (Rep., VI, 501d) ; chương trình của triết gia là đẩy linh hồn đạt đến Chân lý tự thân (ibid., VII, 526b). Đối với Aristote, triết học là “khoa học về chân lý” : épistêmê tês alêthéia (Met., α, 1, 993b). Đối với Plotin, lòng ham muốn cơ bản của linh hồn là tìm kiếm, ở bên kia tất cả các hình thức của Tồn tại, “cái đúng thật hơn cả cái đúng thật” (VI, VII, 34). Chân lý bản thể học. Đối với Parménide, có hai con đường tìm kiếm : tư kiến (hay thường kiến) dẫn đến cái không-tồn tại, và tư tưởng (noëma) dẫn đến cái Tồn tại, tức là dẫn đến chân lý (fr., I, 30, II, 1-8, VIII, 39-40, 50-52). Ở Platon, Chân lý thường được trình bày cho ta như là cái ở bên kia các giác quan và bên kia thế giới cảm tính. Linh hồn “đạt đến chân lý” khi, nhờ vào diễn trình lập luận, nó thấy các Tồn tại (ta onta) xuất hiện ra (Phédon, 65bc) ; và chính lòng ham muốn này về chân lý đã đẩy linh hồn lao vào cuộc tìm kiếm các Tồn tại (ibid., 66a) ; vì đối tượng của những sự ham muốn sâu xa trong ta, đó chính là chân lý (ibid., 66b). Cũng vậy, người định hướng cho cuộc tìm kiếm như vậy là triết gia thực thụ, nói nguyên văn là : “triết gia một cách thực thụ” : alêthôs philosophos (ibid., 64b, e). Cũng tương tự như thế, có một tư kiến đúng, alêthês doxa, dẫn ta đến cái tốt (hay cái thiện) hiện tồn để thực hành nơi thế giới này (Ménon, 98c). Đối với Aristote, chân lý chính là chỗ nhận thức cái Tồn tại tự thân (to on auto) (Met., θ, 10). Đối với Épicure, tiêu chuẩn của chân lý là các cảm giác (D. L., X, 31). Đối với Plotin, chân lý được thực hiện trong viễn quan về cái Tốt (hay cái Thiện) : to agathon. (VI, VII, 34) Chân lý lôgíc học. Platon cho ta thấy rằng Socrate đã tạo điều kiện cho việc khôi phục lại cuộc bàn luận này, bằng cách đòi hỏi người nghe phải có mối bận tâm về chân lý (Phédon, 91c). Theo Aristote, việc nghiên cứu về các phạm trù là phải phân biệt chân lý với sai lầm (Cat., IV) ; đó cũng là mục đích của chuyên luận Bàn về sự lý giải (De int., I). Trong Siêu hình học (E, 4) và trong chuyên luận Bàn về sự lý giải (I), ông nói đến nghĩa của Tồn tại xét như là chân lý, đối lập với không-tồn tại xét như là sai lầm (pseudês), và sau đó (θ, 10), ông đòi hỏi phải khảo sát cái Tồn tại và cái không-tồn tại, tương ứng với chân lý và sai lầm, theo những loại phạm trù khác nhau ; rồi (K, 8) ông lấy sự thao luyện của tư tưởng làm chân lý của Tồn tại. Đối với Épictète, “bản tính của lý tính chúng ta là tán thành chân lý.” (Entretiens, I, XXVIII, 4). Sự phủ định về chân lý. Aristote nhắc lại rằng, theo Héraclite, “mọi sự đều đúng và mọi sự đều sai” (Met., Γ, 8), và theo Démocrite “chẳng có gì đúng cả ; hơn nữa, chân lý là cái ta không thâm nhập được” (Met., Γ, 5). Trái lại, Protagoras quả quyết rằng “mọi sự đều đúng” (Sextus Empiricus, Adv. log., I, 60). Về phần Sextus, ông lập luận như sau : Nếu tôi nói “mọi sự đều sai”, thì tôi hiểu rằng mệnh đề này là đúng ; cũng giống như vậy nếu tôi nói “Chẳng có gì đúng cả” (Hypot., I, 7). Rốt cuộc, không có một tiêu chuẩn nào về chân lý (ibid., II, 4). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Éllipses, 2000. Bản dịch tiếng Việt đăng lần đầu trên trên triethoc.edu.vn
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:36:35 GMT 9
TECHNÊ (HÊ) : Nghệ thuật / Kỹ năng Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry TECHNÊ (HÊ) : Nghệ thuật / Kỹ năng [t.Latinh : ars ; t.Pháp : l’art] Hoạt động của con người, thay vì theo các quy luật của Tự nhiên, cho phép con người hành động theo bản tính riêng của mình. Tuy nhiên, chữ technê thể hiện hai loại hoạt động rất khác nhau. + Sự biến đổi tự nhiên để tạo ra một tác phẩm [nghệ thuật – ng.d.] : đó chính là cái mà ta gọi là mỹ thuật. Ở đây, với tư cách là cái đối lập với Tự nhiên, nghệ thuật là một sự mô phỏng về Tự nhiên : đây sẽ là lý thuyết cổ điển ngự trị đến tận thời kỳ lãng mạn chủ nghĩa (một cách tuyệt đối). Đây là luận cứ mà Platon dựa vào để kết án nghệ thuật : hội họa và thi ca chỉ làm công việc mô phỏng chứ không có năng lực sáng tạo ; đó là những nghệ thuật về ảo ảnh (Rep., X, 602c-604a). Ở Aristote cũng vậy. Một mặt, ông đối lập nghệ thuật với Tự nhiên ; có hai loại tồn tại : những gì đang tồn tại theo bản tính tự nhiên (phusei), tức là các động vật, thực vật và các đơn chất ; và những gì được tạo ra bởi nghệ thuật (apo technê). Mặt khác, ông đã định nghĩa nghệ thuật là một sự mô phỏng về Tự nhiên : hê tecnê mimeîtai tên phusin (Phys., II, 2, 194a). + Sự áp dụng một nhận thức phổ biến vào những trường hợp cá biệt [kỹ năng – ng.d.]. Ở Platon, đức hạnh là sự kết hợp giữa khoa học (êpistêmê) và kỹ năng (Ion, 532c-e ; Protagoras, 357b-c) ; nghề nghiệp là sự áp dụng một nhận thức phổ quát vào các trường hợp cụ thể : như người hoa tiêu và người thầy thuốc chẳng hạn (Rep., I, 341d-342e). Ở Aristote, “kỹ năng nảy sinh khi một phán đoán phổ quát duy nhất, có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp giống nhau, được hình thành từ nhiều quan niệm được sở đắc bởi kinh nghiệm.” (Met., A, 1, 981a). Trên thực tế, trong cả hai vị đại tác gia đã để lại cho hậu thế nền triết học về nghệ thuật ấy, người ta nhận thấy ở mỗi vị đều có những lý thuyết nào đó của riêng mình. Platon đối lập nghệ thuật với thần cảm. Nghệ thuật thấp kém hơn Tự nhiên, vì nó là sự mô phỏng về Tự nhiên ; và tự nhiên thấp kém hơn các Bản chất vĩnh hằng, vì nó là bản sao của các Bản chất này. Thi ca, như ta bắt gặp ở Homère và Hésidote, vì thế là thứ không có giá trị siêu hình học, và hơn nữa là thứ giả dối, nên không có giá trị luân lý. Ta có thể nói như thế về những bức tranh và những tấm thảm thêu, vốn là những cái tái tạo lại những câu chuyện ngụ ngôn của các thi sĩ (Rep., II, 376e-378c) ; trái lại, Ion, khi ông nghị luận về Homère, không tỏ lòng tôn kính nghệ thuật, mà tôn kính một năng lực thần linh (théia dunamis) ; và Socrate soạn một bài thơ để vâng theo một mệnh lệnh thần linh (Phédon, 61a-b). Trong Nền Cộng hòa, nghệ thuật được tách ra làm hai : người ta phân biệt kỹ năng của người thợ thủ công (kỹ năng chế tác, poiêtousa) và nghệ thuật của người nghệ sĩ (nghệ thuật mô phỏng, mimêsoménê). Như vậy, người họa sĩ vẽ một chiếc giường thì thấp kém hơn người thợ đóng một chiếc giường, vì người thợ đã tạo ra một thực tại khả giác, bản sao của Ý niệm vĩnh hằng của chiếc giường, trong khi đó người họa sĩ chỉ mô phỏng cái thực tại khả giác đó mà thôi (Rep., X 595b-597a), nghĩa là anh ta chỉ đạt đến một bản sao của bản sao, đạt đến “một sự mô phỏng vẻ bề ngoài” : mimésis phantasmatos (598b). Đến lượt mình, Aristote phân biệt : a. nghệ thuật và kinh nghiệm (emperia) : “Kinh nghiệm là sự nhận thức về cái cá biệt, nghệ thuật là sự nhận thức về cái phổ quát” (Met., A, 1, 581a) ; b. nghệ thuật và khoa học (épistêmê). Nghệ thuật là sự áp dụng cái phổ quát vào cái cá biệt (sđd.) ; c. hành động (prâxis) và chế tác (poiêsis). Nghệ thuật thuộc về phạm trù “chế tác” : nó là “sự sắp đặt, kèm theo lý tính (méta logou), theo cách chế tác” (Eth. Nic., VI, IV, 3) ; d. nghệ thuật sử dụng (chrôménê) và kỹ năng chế tác (poiêtikê) (Phi., II, 2, 194b). Sự phân biệt sinh ra từ b. và c. là : “như ở Platon, cuối cùng ta có nghệ thuật khéo léo (người thầy thuốc) và kỹ năng biến đổi chất liệu (người thợ thủ công). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp, Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:37:41 GMT 9
AGATHON (TO) : Thiện/Tốt (sự, cái) Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry AGATHON (TO) / άγαθόυ(τό) : Thiện/Tốt (sự, cái) [t.Latinh : bonum ; t.Pháp : le Bien] Thể từ giống trung của tính từ agathos/άγαθός: tốt/thiện. Danh từ so sánh cao nhất, to ariston/ τò άριοτον: cái Thiện Tối cao. Latinh: summum bonum Trong triết học Hy lạp, cái Thiện [hay cái Tốt] là mục đích dành cho mọi người để sống thành công. Nó là nguồn suối của hạnh phúc (eudaïmonia), là cuộc tìm kiếm không ngừng của linh hồn. Nhưng chỉ có bậc hiền nhân mới đạt đến cái Thiện, vì chỉ có vị ấy mới sử dụng lý tính một cách thích hợp. Tuy nhiên, không một triết gia nào (người biện minh cho nghĩa của chữ: “người yêu mến sự hiền minh”, mà [cũng là] người đi tìm sự hiền minh nhưng không tìm được) hình như không đi đến tận cùng cuộc tìm kiếm ấy, vì tất cả họ đều không nhất trí về bản tính của cái Thiện. Vì thế chủ đề này được bàn luận rất phong phú trong triết học Hy Lạp. “Môn khoa học cao hơn tất cả những môn khoa học khác, và các môn khoa học khác phụ thuộc vào nó, Aristote viết để tóm tắt ý kiến khái quát, là khoa học nhận thức về mục đích của mọi hoạt động, và trong từng hữu thể, nó là cái thiện, và trong mọi hữu thể nó là cái Thiện Tối cao (to ariston) trong Tự nhiên phổ quát.” (Met. A, 2, 982b). Sự tìm kiếm về bản tính của cái thiện diễn ra tương đối muộn. Những nhà tư tưởng đầu tiên đều bận tâm về bản tính và nguồn gốc của thế giới: pân, holon. Chính Pythagore là người đặt cái Thiện ở vị trí cao nhất trong hệ thống thứ bậc các tồn tại, bằng cách đồng nhất nó với Thượng đế, với Tinh thần và với Đơn tử sản sinh ra các tồn tại. Như vậy, một truyền thống triết học lấy cái Thiện là nguyên tắc, nhưng không phải là nguyên tắc luân lý hay kinh tế, mà về bản chất là nguyên tắc siêu hình học; thật vậy, ông kết luận cái thiện không những như là giá trị luân lý, mà còn như là cái Đẹp, Chân lý và hạnh phúc; chính xác hơn, nó vượt lên trên các giá trị thứ sinh này và mang lại giá trị cho chúng: nó là giá trị tuyệt đối và căn nguyên. Archytas dùng thuật ngữ này theo cách khiêm tốn hơn và bình dân hơn trong cuốn sách Luận về người tốt và người hạnh phúc / Traité de l’homme bon et heureux, được Stobé trích dẫn rất nhiều. Với Euclide de Mégare, môn sinh của Parménides rồi của Socrates, “cái Thiện là Tồn tại nhất thể” (Cicéron, Acad. Post., II, 42); Diogène Laërce đưa ra một công thức khác: “Cái Thiện là cái Một, cho dù ta cũng gọi nó bằng những tên khác như: Tư duy, Thượng đế, Tinh thần.” (II, 106) Với Platon, “Bản chất của cái Thiện là đối tượng của môn khoa học cao nhất” (Rep. I, 505a). Cái Thiện, thực vậy, “là nguyên nhân của những gì công chính và đẹp” (Rep. VII, 517c); trong thế giới khả giác, “nó đã tạo ra ánh sáng và là chủ tể của ánh sáng”, tức là mặt trời; còn trong thế giới khả niệm, “chính nó chủ trì chân lý và trí tuệ.” (Rep. VI, 508c-509a). Nó là “cái hoàn toàn tuyệt đối (téléôtaton) và nó trên mọi tồn tại” (Philèbe, 20d). “Nó chính là cái bên kia của Bản chất bởi vẻ uy nghiêm và sức mạnh của nó.” (Rep. VI, 508c-509b). Chính vì thế, nó là bất khả diễn đạt (Rep. VI 505a-506b); ta không có thể đưa ra một khái niệm về nó: cần phải đạt đến nó bằng một diễn trình đi lên (anabasis) của tinh thần (Rep. VII, 519c-d). Ở con người, “chính nhờ cái Thiện mà mọi hành động được thực hiện” (Gorgias, 468b), và nếu không có nó, tất cả những gì ta có đều vô ích (Rep. VI, 505a). Ở Aristote, cái Thiện được đồng nhất với Đệ nhất Động cơ (Met., K, 1), với Tồn tại tất yếu, với Nguyên tắc, với Tư duy tự trị, với Tác vụ tự tồn bền vững là Thượng đế (ibid., A, 7). Với con người, đối tượng đầu tiên của ý chí hợp lý tính chính là cái Thiện (ibid.). Đến mức là tất cả mọi nghệ thuật và mọi khoa học đều được hướng đến cái Thiện (Éth. Nic, I, I, 1); và cái Thiện Tối cao (aristhon) là mục đích cuối cùng, của cá nhân cũng như của Nhà nước (ibid., I, II, 1-7). Vì vậy, ông xét nó trên nhiều phương diện. “Nó gồm nhiều phạm trù không kém gì Tồn tại: với tư cách là bản thể, cái Thiện Tối cao được gọi là Thượng đế và Tinh thần; với tư cách chất, nó là các đức hạnh; với tư cách lượng, nó là hạn độ đúng mực, v.v. (ibid. I, VI, 3). Nó cũng là mục đích duy nhất và hoàn hảo, vốn được sở hữu, tạo nên hạnh phúc; cái khiến cho ta phải tìm kiếm nó cho chính mình chứ không phải cho ai khác (ibid. I, VII, 3-5). Và bằng một sự đảo ngược các thuật ngữ, Aristote kết luận rằng cái Thiện Tối cao đó chính là hạnh phúc (eudaïmonia); và ông nói rõ: “cái thiện của riêng con người là sự hoạt động của linh hồn phù hợp với đức hạnh” (ibid. I, VII, 8-15; VIII, 8). Cuối cùng, cái Thiện-hạnh phúc này chính là “sống đúng với phần hoàn hảo nhất của chính chúng ta (ibid. X, VII, 8), phần ấy là nguyên tắc thần thánh của lý tính chiêm ngắm (épistêmonikon). Với Épicure, cái thiện ít mang tính siêu hình học; vì cái thiện đầu tiên và có tính cách đồng bản tính (agathon prôton kaï sungénikon) là sự thích khoái: hêdonê / ήδουή(D.L., X, 128-129). Nhưng đó là một cái Thiện Tối cao rất chủ quan tính mà các nhà Khắc kỷ chủ trương. Thực vậy, về cơ bản nó là một cái tuyệt đối, có thể quy chiếu đến tất cả mọi thứ và không thể so sánh được (Stobée, Ecl., II, 6). Theo Diogène xứ Babylone, nó là “cái tuyệt đối bởi bản tính tự nhiên: natura absolutum” (Cicéron, De fin., III, 10). Trên thực tế, ngay khi ta gán một nội dung cho định nghĩa hình thức này, theo bản tính tự nhiên của một con người có lý tính, với tư cách là con người có lý tính” (D. L., VII, 94). “Con người ấy là hữu ích” (ibid., Sextus Empiricus, Adv. mor., II, 10; Hypot., III, XXII, 169). Hoặc nữa, theo Hécaton và Chrysippe, cái Đẹp (D. L., VII, 100-101); Marc Aurèle, II, 1; Cicéron, Tusc., V, VII, 18). Với Zénon xứ Cittium, đó là đức hạnh (Sextus Empiricus, Adv. mor., III, 77; Cicéron, De fin., III, 11). Với Herillos xứ Carthage, cái Thiện đó chính là khoa học (épistêmê) (Clément xứ Alexandrie, Stromates, II, XXI, 129; Cicéron, De fin., III, 9; D. L., VII, 165, v.v.). Chính Plotin là người nâng cái Thiện lên tầm siêu hình học đáng kể nhất, đến độ, trong công trình dài dòng của mình, chỗ nào ông cũng nhắc tới nó. Nguyên tắc của tất cả mọi sự vật, cái Thiện là đồng nhất với cái Một (hén), Ngôi thứ nhất (II, IX, 1). Với tư cách là cái tốt nhất của các tồn tại (to ariston tôn ontôn) (VI, VII, 23), nó ở bên kia Tồn tại và Tư duy (III, IX, 9), bên kia cái Đẹp tối cao (I, VI, 9). Tất cả những gì mà ta có thể nói về nó đó là nó là Ý chí (boulêsis), bởi lẽ chính ý chí riêng của ta mới là cái mang lại cho ta sự hiện hữu (VI, VIII, 13) và là sức mạnh của mọi sự vật (V, IV, 1). Cái sản sinh một cách tự phát và trực tiếp đó là Tinh thần, tức ngôi thứ hai, và tác vụ đầu tiên của nó (I, VII, 1; II, IX, 1), Hình ảnh của cái Thiện, tức cái suy tưởng về cái Thiện, bởi lẽ cái Thiện không suy tưởng (V, VI, 4; VI, VII, 40). Tất cả mọi tồn tại đều thông dự vào cái Thiện (I, VII, 1); tất cả mọi tồn tại đều thụ nhận từ nó vẻ đẹp và ánh sáng (VI, VII, 31); nó là sự Ham muốn mà mọi linh hồn đều hướng đến (I, VI, 7; V, VII, 25) và là kho trí khôn mà có có đủ (I, IV, 4). Proclus, tiếp sau Plotin, khẳng định rằng : “Cái Thiện là nguyên tắc và là nguyên nhân của mọi tồn tại” và [như là] nguyên tắc của sự thống nhất, nó đồng nhất với cái Một (Théologie, 12-13). Cũng vậy, với Hermès Trismégiste, cái Thiện và Thượng đế là hai thuật ngữ có thể dùng cho nhau được (II, 38). Trong Chính trị học (I, I, 1), Aristote gọi cái Thiện Tối cao (của cộng đồng) là to kuriotaton / κυροτατόν, kurios / κύριος (thường dịch âm là kyrios): sự làm chủ, chủ quyền (trong sách lễ Kitô: Thiên Chúa = Thượng đế). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:38:31 GMT 9
ÉPISTÊMÊ (HÊ): Khoa học Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry ÉPISTÊMÊ (HÊ): KHOA HỌC [t. Pháp: la science; t. Latinh: scientia] Khoa học, nhận thức về cái phổ quát. Tùy theo những sự dị biệt trong tư tưởng siêu hình học, đối tượng của khoa học cũng khác nhau; cái Phổ quát hoặc là một Thực tại siêu nghiệm đối với trí tuệ, hoặc là một khái niệm trong trí tuệ. * Ở Platon, khoa học có đối tượng là Thế giới khả niệm, tức các Bản chất (x. eïdos) : đây là các Thực tại đúng thật (Phèdre, 247d); cái hiện hữu tự mình (Phédon, 75d), Tồn tại (Théétète, 186d), Philèbe, 58a), hay các Tồn tại (Théétète, 187d; Philèbe, 62a). * Ở Aristote, “[từ] ‘khoa học’ là khái niệm về cái phổ quát và cái tất yếu” (Éth. Nic., VI, VI, 1); “Nó có đối tượng là cái đang hiện hữu một cách tất yếu, và vì thế là vĩnh hằng” (ibid., VI, III, 2). Tuy nhiên, cái tuyệt đối này ta không đến được trực tiếp bằng trực quan, mà phải bằng suy luận hay tam đoạn luận. Như vậy, “khoa học là một sự sắp đặt cho phép [ta tiến hành] sự chứng minh” (ibid., VI, III, 4). Ta hãy thử đào sâu thêm các học thuyết của hai lý thuyết gia vĩ đại này. Platon đối lập khoa học với tư kiến (doxa, x. từ này). Cái này có đối tượng là Thế giới khả niệm, cái kia có đối tượng là thế giới khả giác. Hoặc nữa : khoa học vươn đến cái Tồn tại tuyệt đối, trong khi tư kiến lại vươn đến cái tồn tại tương đối (Rep., 479c-480a). Hoặc nữa : khoa học giúp ta nhận thức các Nguyên tắc (archaï) trong tính hiện thực của chúng, trong khi tư kiến chỉ mang lại cho ta hình ảnh của các Nguyên tắc này. Ta đi từ tư kiến đến khoa học bằng một diễn trình đi lên của tinh thần, tức là biện chứng pháp (x. từ này). Aristote đặt khoa học vào trong một tổng thể các lãnh vực nhận thức. Trong Siêu hình học (A, 1, 980a-982a), theo trật tự đi lên, đó là : cảm giác, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học, minh triết. Hai lãnh vực sau ta rất khó phân biệt, bởi lẽ minh triết được định nghĩa là một khoa học chắc chắn lấy các nguyên nhân và các nguyên tắc làm đối tượng, trong khi đó xa thêm một bước (A, 3), khoa học được định nghĩa là sự nhận thức về các đệ nhất nguyên nhân và các nguyên tắc. Trong Đạo đức học cho Nicomache (VI, III, 1), đó là các lãnh vực : nghệ thuật, khoa học, sự khôn ngoan, minh triết, trí tuệ ; lãnh vực minh triết bao gồm cả khoa học và trí tuệ. Tuy nhiên, vì các nguyên tắc đi đến chỗ tự biến đổi, nên khoa học cũng nhanh chóng được sử dụng theo số nhiều ; và Aristote phân biệt ba lãnh vực: đệ nhất triết học, hay thần học, khoa học toán học và khoa học vật lý (Met., E, 1 ; K, 4) ; và vì Tự nhiên bao gồm các nguyên tắc, nên vật lý học sẽ được định nghĩa là “khoa học về Tự nhiên” (Phys., I, 1). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:39:35 GMT 9
OUSIA (HÊ): bản thể, tồn tại, bản chất Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry OUSIA (HÊ): bản thể, tồn tại, bản chất [t.Latinh: substantia; t.Pháp: la substance, l’être, l’essence] Ousialà một thể từ được rút ra từ chữ ousa, phân từ giống cái của động từ eïnaï : tồn tại. Giống trung của phân từ này là on : cái đang tồn tại, cái tồn tại. Vì thế, chữ ousia có nghĩa là cái đang tồn tại, cái hiện hữu thực sự ở bên ngoài tư tưởng của chúng ta. Thuật ngữ này được các tác gia không thuộc lãnh vực triết học sử dụng với nghĩa có : tài sản, của cải, cơ nghiệp. Từ này có thể trông có vẻ nghịch lý, nhưng lại hoàn toàn không nghịch lý chút nào : với người bình thường, cái thực tế và chắc chắn là cái gì hữu dụng và sinh lợi. Các triết gia sử dụng chữ ousia một cách chuyên biệt với hai lớp nghĩa: thực tại, tức là tồn tại xét như là cái đang hiện hữu ; bản chất, tức là bản tính của cái tồn tại ấy. Ta bắt gặp thuật ngữ này ở Héraclite, khi ông tuyên bố rằng bản thể của sự vật phục tùng sự biến đổi : métabolê. (fr. 91). Chính với Platon mà chữ này đi vào triết học ; ông đối chiếu nó với nhiều nghĩa khác nhau, nhất là [nghĩa] Tồn tại ; trong Théétète (185c) : ousia và mê eïnaï = tồn tại và không-tồn tại, nhưng luôn theo tinh thần của nghĩa thứ nhất, và nhất là : * Bản chất vĩnh hằng(nói khác là eïdos), Thực tại siêu hình học vượt khỏi thế giới cảm tính. Ở đây, bản thể và bản chất cùng chỉ đến cái Tồn tại. “Đối với mỗi Thực tại (tuyệt đối : ousia), ta cần thiết định sự hiện hữu bởi chính sự hiện hữu (kath’hautên).” (Parménide, 133c). “Thực tại đang hiện hữu thực sự (ousia ontôs ousa) thì không màu sắc, không hình thể, không sờ được, chỉ có thể được chiêm ngắm bằng Trí tuệ (noûs), quan năng dẫn dắt linh hồn.” (Phèdre, 247c). “Khi nói về Độ lớn, Sức khỏe và Lực... thì đó là ta nói về Thực tại (ousia)” (Phédon, 65d). Ở đây, thuật ngữ này rõ ràng là đồng thời chỉ đến bản thể và Bản chất vĩnh hằng. Chính ý nghĩa mà Platon gán cho lý tính cao hơn (noêsis) nhiệm vụ nâng mình lên tới ousia (Rep., VII, 523). * Bản chất của các sự vật, bản tính của chúng. Mọi người thường không không để ý đến bản chất (ousia) của mỗi sự vật (Phère, 237c). Các thực tại khả tri coi tồn tại và bản chất (eïnai kaï ousia) là cái Tốt [hay cái Thiện] (Rep., VI, 509). Ở quyển II tác phẩm Nền Cộng hòa (359a), Platon thử định nghĩa “bản tính của sự công bằng” (ousia dikaïosunês) Chính Aristote, người đã xét một cách có hệ thống quan niệm của ông về ousia như là bản thể, theo ba bình diện : lôgíc học, vật lý học và siêu hình học. * Lôgíc học. Trước hết bằng lối tiếp cận phủ định : “bản thể, theo nghĩa cái nền tảng nhất, đó là cái không được chủ từ khẳng định, cũng không nằm trong chủ từ.” (Cat., V, 2a). Điều này muốn nói : nó không phải là một thuộc từ (trong câu : “tuyết có màu trắng”, màu trắng không thể là thể từ) ; và nó không thể thuộc về một thực tại như là tính chất riêng, nó cũng không thể có sự hiện hữu xét như là phương cách của một tồn tại khác. Rồi lối tiếp cận khẳng định : ousia, đó là chủ từ lôgíc, phần còn lại của nó được khẳng định (Cat., V, 4b). Từ đó, kết luận thứ nhất : bản thể là phạm trù đầu tiên của tồn tại (Met., Z, 1). * Vật lý học. Vì ousia là chủ thể, nên nó cụ thể ; và cái chủ thể cụ thể đầu tiên mà kinh nghiệm mang lại là chủ thể khả giác, thuộc về giới tự nhiên, và là đối tượng của khoa học. Bản thân chất liệu phải được xét như là bản thể phổ quát (Met., H, 1, 8 ; Λ, 2 ; De gen., I, 4). Chính trong bản thể vật lý mà sự biến đổi được diễn ra (Phys., I, 4) ; chính bởi bản thể ấy mà sự sinh và sự hoại được giải thích (ibid., I, 7). Từ đó, lý thuyết mô thức-chất thể : mọi bản thể vật lý được hợp thành từ chất liệu (hulê) và mô thức (morphê). * Siêu hình học. Siêu hình học, hay đệ nhất triết học (Aristote không biết đến thuật ngữ siêu hình học) là khoa học về bản thể (Met., Γ, 2 ; B, 2 ; Z, 1 ; ∆, 8). Bản thể, Aristote nói, có thể được xét từ bốn điểm nhìn : cái bản chất (to ti ên eïnaï), nghĩa là sự vật tồn tại “bởi nó”, nói cách khác, tồn tại không phải bởi bất cứ thuộc tính nào liên quan tới nó, mà bởi thực tại riêng của nó : một sự hiện hữu độc lập ; cái phổ quát (katholou) và loài (génos), vì bản chất này là cái giống nhau trong mọi cái tồn tại cho phép có cùng một định nghĩa ; cuối cùng cơ chất, hay chủ thể (hupokeïménon) (ibid., Z, 4). Khái niệm này được nối với khái niệm bản chất ; thực vậy, nếu bản thể độc lập với các thuộc tính của nó, tức vẫn luôn là cái nó đang là, và không biến đổi, thì nó là gốc khởi sinh, chủ thể của các thuộc tính (các tùy thể sumbékêkota) và của sự biến đổi. Bản thể cá biệt, cái duy nhất có được bản chất, là cái ousia đúng thật ; nhưng ta có thể gán cái gọi là các bản thể thứ hai cho các bản chất phổ quát và các loài (Cat., V). Các nhà Khắc kỷ cho rằng có một bản thể phổ quát (hê ousia tôn holôn, Marc Aurèle, VI, 1), nhưng họ không tìm cách định nghĩa khái niệm ấy. Không có bản thể cá biệt, vì mọi tồn tại là một phân mảnh của Tồn tại duy nhất. Plotin sử dụng chữ ousia theo những nghĩa giống với Platon : * Tồn tại, Thực tại. “Chính trong thế giới khả niệm mà Thực tại đúng thật (hê alêthé ousia) được xác định.” (IV, I, 1). “Sự minh triết thực sự, đó là Tồn tại : ousia” (V, VIII, 5). “Cái mà ta gọi là Thực tại (ousia) theo nghĩa thứ nhất, không phải là cái bóng của Tồn tại, mà là chính bản thân sự Tồn tại.” (V, VI, 6). * Bản chất của các sự vật. Linh hồn “coi tất cả những gì nó có là bản chất của nó” (VI, II, 6). “Mỗi người do thể xác mà bị xa rời bản chất của mình, nhưng do linh hồn mà tham dự vào cái bản chất ấy.” (VI, VIII, 11). “Trong các nghiên cứu của chúng ta về bản chất của linh hồn...” (V, II, 1). * Tuy nhiên, ta thường nhớ đến Aristote khi ông gợi ý bản thể như là cái được hợp thành từ mô thức (eïdos) và chất liệu (hulê) (VI, I, 3 ; III, 3). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:40:56 GMT 9
SOPHISTÊS (HO) : Biện sĩ / Nhà nguỵ biện Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry SOPHISTÊS (HO) : Biện sĩ / Nhà nguỵ biện [t. Latinh: sophistes, t. Pháp: le sophiste] Thuật ngữ này, có gốc từ chữ sophos (sự hiền minh), thoạt đầu dùng để chỉ người tinh thông lão luyện. Nhưng trái với chữ sự hiền minh vốn có được nghĩa ca ngợi, chữ biện sĩ/ nhà nguỵ biện đến thế kỷ V tcn lại khoác lấy một ý nghĩa xấu do sự lạm dụng của các nhà tư tưởng như: Gorgias, Protagoras, Hippias, Prodicos, Thrasymaque, Polos, Euthydème, Dionysodore. Trước Platon, sophistês thường dùng với ý là sophos (Timon de Phlionte, Silles, I). Cho đến thế kỷ V tcn, ở Hy Lạp, nhà biện sĩ chuyên nghiệp là người rất danh giá. Anh ta là bộ phận của đời sống công cộng và cấu thành một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt của nền văn hoá bình dân. Ban đầu, anh ta là một nhà hùng biện; lui tới những thành thị có tổ chức những ngày lễ hội hành hương, và đọc trước công chúng những bài hùng biện về các chủ đề khác nhau nhất. Rồi anh ta trở thành người thầy dạy môn tu từ học và chủ trương dạy nghệ thuật dùng lời nói. Cuối cùng, vì nghệ thuật này chỉ dành riêng cho những ai muốn bảo vệ sự nghiệp, tức các trạng sư và nhất là các nhà chính trị, nhà biện sĩ trở thành bậc thầy lão luyện: nền giáo dục mà anh ta thực hiện không còn mang tính thẩm mỹ nữa mà có tính cách vị lợi: thái độ và các phương pháp để thành công trong các việc công. Giờ đây, một diễn ngôn tuỳ thuộc vào sự thành công không còn được hướng dẫn bởi những quy luật của chân lý, mà bởi những quy luật của lợi ích. Nhà biện sĩ trở nên đồng nghĩa kẻ cơ hội chủ nghĩa [tức mang nghĩa nhà nguỵ biện – chú thích của người dịch]: chủ nghĩa tương đối về mục đích, không ngần ngại về phương tiện và giảo hoạt trong lập luận. Platon đã công kích trực diện nhóm người này. Trong đối thoại mà ông gọi thẳng tên là le Sophistes / Những kẻ ngụy biện, khi tìm cách định nghĩa kiểu người xảo trí này, ông đưa ra một loạt nhận xét bóng bẩy và ít nhã nhặn về họ như: “nhà nguỵ biện là tay thợ săn trục lợi các thanh niên nhà giàu” (223 a, b), “Nhà nguỵ biện là kẻ biến tri thức thành món hàng để bán” (224c, 231d). Mang tính mô phạm hơn là tranh biện, Aristote sắp xếp trong chuyên luận của ông các kiểu lập luận của các nhà nguỵ biện để bác chúng. Đây sẽ là chất liệu chất liệu cho quyển cuối cùng của bộ Organon, Sophistikoï élenchoï. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:41:55 GMT 9
DIALEKTIKÊ (HÊ): Biện chứng pháp Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry DIALEKTIKÊ (HÊ): Biện chứng pháp [t.Pháp: la dialectique; t. Latinh: dialectica] Tính từ đã được danh từ hóa, có gốc từ động từ dialégomaï, bản thân từ này lại được kết hợp từ hai chữ: légo (nói) và dia (giới từ dùng để chỉ sự vận động). Ban đầu, phép biện chứng là sự đối thoại. Platon, người đưa thuật ngữ này vào triết học, gán cho nó nghĩa “diễn trình đi lên của tinh thần”, còn Aristote dùng nó với nghĩa lôgíc học. Trong khi sự thanh tẩy (katharsis) làm cho quan hệ giữa linh hồn và thể xác dần dần phân ly với nhau, biện chứng pháp Platon lại là một sự thao luyện theo diễn trình đi lên của nhận thức, từ cái cảm tính nhất nâng mình lên tới cái khả niệm nhất. Do đó, thế giới các Bản chất, nguyên nhân của hạnh phúc (eudaïmonia), được bộc lộ ra trong sự toàn vẹn của nó. Biện chứng pháp của Aristote là một sự bàn luận để đi tới chân lý từ những khẳng định nghi vấn. Ở Platon, sự đi lên theo lối biện chứng được gắn với các phương cách của nhận thức. (x. psuchê). Sự đi lên này diễn ra thành bốn giai đoạn, được trình bày ở quyển VII trong tác phẩm Nền Cộng hòa (532a-534c), và đã được sửa soạn qua phần trình bày về các phương cách của nhận thức ở quyển VI (509d-511e): Các phương cách nhận thức này cho thấy có mối quan hệ cặp đôi giữa những cái tương tự nhau: cái thấy được (đối tượng của thường kiến) là hình ảnh của cái khả niệm (đối tượng của khoa học); các hình ảnh (đối tượng của sự phỏng đoán) là những sự mô phỏng về các thực tại khả giác; các quan niệm (đối tượng của dianoïa) là những sự mô phỏng về các Bản chất vĩnh hằng. Plotin đã soạn thảo chuyên luận về Biện chứng pháp (Ennéades, I, III). Phép biện chứng, không biết có chính xác không, là phương pháp để đi đến cái Tốt [hay cái Thiện] khả niệm, và đi từ vẻ đẹp cảm tính. Nghĩa này hoàn toàn mang màu sắc Platon. Ở Aristote, biện chứng pháp là một sự bàn thảo khởi từ việc truy vấn hoặc là về luận đề (thésis), hay tư tưởng nghịch lý được một nhà tư tưởng lỗi lạc phát biểu ra, hoặc là về một tiền đề (protasis) làm nên một suy luận tam đoạn có tính biện chứng (Top., 5, 10-11). “Carnéade nói rằng biện chứng pháp không khác gì một kẻ tham lam vô độ.” (Démophile, Similitude, 105, trong Stobée, Flor. LXXXII, 13). Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie / Từ vựng triết học Hy Lạp. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 7:45:22 GMT 9
ARCHÊ (HÊ): Nguyên tắc Thuật ngữ Hy Lạp
Ivan Gobry Archê (hê) : Nguyên tắc, nguyên lý [t.Latinh: Principium; t.Pháp: le Principe] Nguyên nhân căn nguyên, Thực tại đầu tiên mà những thứ khác trong vũ trụ xuất phát từ nó. Từ này có thể có hai nghĩa: 1. Nghĩa vũ trụ học: Nguyên tắc là một vật thể vật chất (các triết gia tiền-Socrate); 2. Nghĩa siêu hình học: Nguyên tắc là một Thực tại phi nhân vị, có thể mang những tên gọi khác nhau: Đơn tử (Pythagore), cái Một (Parménide, Plotin), Bản chất (Platon). Platon, là người rất hay dùng chữ archê, đã đưa ra một định nghĩa về chữ này trong quyển Phèdre (245 tcn): “Nguyên tắc, đó là cái Không-được-sinh-ra (agênéton); vì tất cả những gì đang tồn tại đều tất yếu phải xuất phát từ cái nguyên tắc ấy, tức cái nguyên tắc không xuất phát từ bất cứ cái gì.” Do đó nó là cái hiện hữu đầu tiên hết, và sản sinh ra một loạt các tồn tại khác. Aristote đã định nghĩa Nguyên tắc này, nhưng theo một cách khá mơ hồ. Trong Métaphysique / Siêu hình học (Δ, 1), ông lưu ý trước tiên đến từ này. Và ông gán cho nó năm nghĩa: 1. điểm xuất phát (của một tuyến, của một con đường). Do đó có một nguyên tắc đối xứng là điểm đến; 2. sự khởi đầu tốt nhất (nghệ thuật sư phạm) 3. cái đầu tiên và nội tại trong sự trở thành (các nền móng của một ngôi nhà); 4. cái nguyên nhân đi trước và không có tính nội tại (ông bố và bà mẹ đối với đứa con); 5. ý chí tự do của một hữu thể có lý tính (nguyên tắc của các biến cố). Trong Physique / Vật lý học (I, 1, 184a), khi trình bày lịch sử các lý thuyết, Aristote gọi các yếu tố đầu tiên ở các triết gia xứ Ioniens (các nhà Tự nhiên học) là các nguyên tắc. Trong Siêu hình học (A, 5), ông gọi những thực tại căn nguyên của một số triết gia tiền bối, như con Số ở Phytagore, cái Một ở Xénophanes, Tồn tại ở Parménide, là các nguyên tắc. Ở các triết gia xứ Ionie thế hệ đầu, được Aristote gọi là các nhà Tự nhiên học, Nguyên tắc là một yếu tố căn bản của vũ trụ. Người đầu tiên trong số họ, Thalès xứ Milet, tuyên bố rằng đó chính là Nước (Aristote, Met., A, 3; Cicéron, De nat. deor. I, X. 23; Ps-Plutarque, Placit. I, 3; D.L.I, 27). Aristote quy việc “phát hiện” này vào sự quan sát, bằng cách gợi nhớ rằng câu chuyện đầu tiên của thần thoại Hy Lạp coi Océan là căn nguyên của thế giới. Nietzsche tuyên bố rằng quan niệm đó là một nét đặc sắc của thiên tài. Trên thực tế, đó là một di sản đơn thuần của các môn vũ trụ học Đông phương. Thalès là người gốc Phénisie, và biết rành các câu chuyện thần thoại của người Sémite. Cosmogonies chaldéenne / Sáng tạo vũ trụ học của chaldéenne, một thánh điển của truyền thống Babylon, mà Damascius và Bérose đã giữ lại được cho chúng ta một số đoạn, khẳng định: “Về căn nguyên, toàn thể các vùng đất đai đều là biển”. Eunuma Elis, một câu chuyện kể khác của người Babylon về sự sáng tạo: “Khi ở trên cao trời còn chưa có tên, khi ở dưới đất chưa có tên, chưa có đại dương Apsou, cha của chúng, và chưa có Tiamat náo động, mẹ của tất cả, thì nước hòa trộn nhau thành cái Một. Le Livre des Morts / , văn bản cổ xưa nhất của người Ai Cập: “Ban đầu chỉ có Noun, cái vực của nước tiên khởi”; bấy giờ, tộc người Phénicie đã thống trị người Ai Cập về mặt văn hóa ngay từ thiên niên kỷ thứ III, nên bằng mọi cách, Thalès đã cư lưu ở Ai Cập và thụ giáo những lời dạy của các vị giáo sĩ (D. L. I, 27). Người kế nhiệm Thalès làm thủ lĩnh Trường phái Milet, Anaximandre, chọn cái không-xác định (apeiron) làm Nguyên tắc căn nguyên. Thủ lĩnh thế hệ thứ ba của trường phái này, Anaximène (†526) xác lập không khí (aêr) là nguyên tắc đầu tiên. Đó vẫn còn là một thần thoại cổ xưa của người Phénicie. Ta gặp lại lý thuyết này ở Diogène xứ Apollonie (thế kỷ 5 tcn). Cuối cùng, Hippase xứ Métaponte (thế kỷ 6 tcn) và Héraclite xứ Éphèse (†480) thừa nhận lửa (pûr) là Nguyên tắc đầu tiên. Các triết gia người Ý, gốc Ionie nhưng lại sinh sống tại miền Nam nước Ý (Đại Hy Lạp), đều đưa ra những nguyên tắc siêu hình học. Với Pythagore, đó là con Số, mà chính xác hơn là Đơn tử, tức Đơn vị căn nguyên của tồn tại. Với Xénophane (thế kỷ 6 tcn), cái Một đầu tiên là một vị Thượng đế duy nhất không mang thân xác; với Parménide, môn đệ của Xénophane, đó là Tồn tại, và Tồn tại này là cái Một được hiểu theo nghĩa cái Duy nhất, vì ông không thừa nhận bất cứ cái nào khác; với Anaxagore, Nguyên tắc căn nguyên có tính nước đôi: một chất liệu vô hình trơ lì và một Tinh thần tuyệt đối năng động khởi sinh ra vũ trụ trong tính đa dạng của nó. Với Empedocle, đó là tình yêu (philotês) và sự oán ghét (néϊkos) nhưng với tư cách là chúng hợp nhất và phân ly các yếu tố tiền-hiện hữu, tức bốn [yếu tố] cổ điển. x.stoϊchéϊa. Platon không cương quyết một lập trường nào: các Bản chất, được hiểu theo nghĩa tập hợp, trong Phédon; Tồn tại trong Sophistes / Nhà Biện sĩ; cái Thiện trong République / Nền Cộng hòa; Thượng đế trong Lois / Pháp luật. Ở Aristote, Nguyên tắc là Đệ nhất Động cơ, vốn bị lẫn lộn với Trí tuệ hay cái Thiện (Met., Λ, 6-7). Nhưng đối với các tồn tại của Tự nhiên (ta phuseϊ onta), ông ghi nhận ba nguyên tắc: chất liệu (hulê), mô thức (morphê) và sự khiếm diện (stérêsis). Ở Plotin, Nguyên tắc là cái Một, vốn đồng thời cũng là cái Thiện. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn: Ivan Gobry. Le vocabulaire grec de la philosophie. Ellipses, 2000.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:07:41 GMT 9
Kinh thành thần thoại giữa Địa Trung Hải (VienDongDaily.Com - 10/10/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Cổng vào phía bắc cung điện Knossos ở Crete, Hy Lạp, theo nhà khảo cổ Sir Arthur Evans dựng lại - ảnh: Marc Ryckaert/MJJR. Crete tuy là đảo, nhưng là hòn đảo lớn nhất trong Địa Trung Hải. Nó có diện tích 3.217 dặm vuông, tức rộng gấp một rưỡi lần tiểu bang Delaware, với chiều dài 186 dặm, chiều ngang từ 7 cho tới 35 dặm và bờ biển bao quanh dài tất cả 360 dặm. Tuy có dãy núi chạy dọc dài theo đảo, từ đầu này tới đầu kia, nhưng đất còn rất rộng và phì nhiêu, nên cây cối mọc um tùm, tươi tốt. Không như các nền văn minh cổ khác như Sumerian, Babylone, hay Ai Cập, Ấn Độ, Trung hoa, đều để lại những dấu tích, như những thành quách, đền đài đổ nát, để từ đó người ta khám phá rộng ra, hầu tìm hiểu cặn kẻ thêm. Còn nền văn minh Minoan thì hoàn toàn khác, vì nó bị xóa mất hẳn, không hề để lại một chút vết tích, có chăng chỉ vài mẫu chuyện thần thoại truyền miệng trong dân gian, mơ hồ, huyền hoặc và khó tin. Nhưng, đúng trong thời trai trẻ của Arthur Evans, vào cuối thế kỷ thứ 19, tin nhà khảo cổ tài tử Đức Heinrich Schliemann, dựa theo một chuyện thần thoại của Hy Lạp, mà tìm ra được di tích của thành Troy tại Tiểu Á (nằm trên lãnh thổ của Thổ Nhĩ kỳ ngày nay), được toàn thế giới xôn xao bàn tán. Thừa thắng xông lên, sau đó 4 năm, Heinrich lại đặt trọng tâm khám phá của mình vào vùng Mycenae, nơi có tàn tích pháo đài của vua Agamemnon, vì vua Hy Lạp lãnh đạo cả 100.000 quân sang đánh thành Troy, để cướp lại vợ. Lần này Heinrich lại thành công một lần nữa, vì ông đã tìm kiếm được một ngôi mộ, trong đó có chứa một kho báu vật, gồm nhiều đồ vật bằng vàng, nhiều thứ nặng tới 44 pound. Ngoài ra còn có những đĩa vàng, lá vàng đắp trên thi thể người chết, những đồ trang sức, như nhẫn, vòng tay, vòng cổ, hoa tai, cả những con bướm, đóa hoa, để điểm trang cho đẹp. Tất cả đều bằng vàng, chạm trổ rất tinh vi. Heinrich còn tìm thấy một chiếc mặt nạ bằng vàng khối, mà ông cho là đã tạc theo khuôn mặt của nhà vua Agamemnon. Sau vụ thành công đó, ông quay sang chú tâm đến đảo Crete, nhưng hồi đó đảo này thuộc chủ quyền của Thổ Nhĩ kỳ và chính phủ này không cho phép ông đào xới, nên ông đành phải bỏ. Đúng lúc đó Sir Arthur Evans nhẩy vào, vừa may sau đó ít năm, đảo Crete được tự trị và chính quyền mới đã cho phép Evans khai thác. Vụ đào xới trong ngành khảo cổ cần rất nhiều kiên nhẫn và thời gian, vì có khi người ta dùng được cuốc xẻng, nhưng nhiều lúc chỉ được phép dùng con dao nhỏ và chiếc chổi lông, để bảo vệ cho những di tích được nguyên vẹn. Vì vậy cuộc đào xới tại nơi này đã kéo dài tới 25 năm trời. Nhưng, theo thời gian trôi, ngày nào giới khoa học cũng tiếp nhận được những khám phá mới, rất ngạc nhiên, vô cùng thích thú và nhiều lúc thật sửng sốt. Nhìn một cách bao quát ta thấy kinh đô của các vị vua Minos rộng có tới 5 mẫu rưỡi đất, gồm rất nhiều dinh thự và nhà cửa, có nhà cao tới 4 từng lầu. Chỉ riêng tại hoàng cung, người ta đã đếm được tới 1.500 phòng ốc. Nhưng nhiều người cho rằng, hoàng cung đã tiếp giáp với mê cung, nơi nhốt con Minotaur, con quái vật đầu trâu mình người. Quả thật, các phòng ốc tại đây có nhiều cửa, ai lạc vào là cứ sẽ đi vòng vòng, đến mỏi nhừ chân, mà không thể tìm được lối ra. Chính Evans cũng tuyên bố, ông đã tìm được một bộ xương rất lớn trong giữa mê cung, có thể đấy là xương của con Minotaur chăng? Nhiều nhà khoa học nhìn nhận cung điện các vua Minos lớn rộng thật, nên đã so sánh chúng với lâu đài Buckingham, nơi ở của Hoàng gia Anh quốc hiện tại, vì nơi đây cũng bao gồm tới 600 căn phòng. Cả kinh thành nằm trọn trong một thung lũng, nhưng không cùng ở trên một mặt đất bằng, mà ở trên nhiều mực cao thấp khác nhau. Do vậy, nhìn bao quát ta thấy nhà cửa nhấp nhô tạo một quang cảnh đẹp mắt và mát mẻ như một thành phố nghỉ mát. Nhất là ở những chỗ dốc họ đã xây những bực tam cấp, để dễ đi lên đi xuống, cùng những bức tường có gạch trỗ bông theo lối kiến trúc tân kỳ chẳng khác gì những công viên danh tiếng ngày nay. Đặc biệt hơn nữa là trong thành phố đều đặt một hệ thống thoát nước để không bị ngập lụt khi trời mưa, cũng như canh chừng được vấn đề vệ sinh. Người ta còn ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy từ thời đó, cách đây 35 thế kỷ, dân dô thị Knossos cũng đã biết dùng hệ thống thông hơi cho các phòng ở thoáng mát, không bị ngộp thở. Dựa theo truyền thuyết, có thể là nhà kiến trúc sư đại tài Daedalus đã giúp vua Minos kiến tạo ra thành phố, thiết lập mê cung để nhốt Minotaur, cùng nghĩ ra những hệ thống dẫn nước, thoát nước và thông hơi. Vua Minos rất quí Daedalus, nên cố giữ ông ta lại, không cho rời khỏi đảo Crete. Do vậy Daedalus mới nghĩ cách làm đôi cánh để bay qua biển Aegean trở về đất liền. (Còn tiếp) Hồ Sĩ Viêm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:12:49 GMT 9
Giết người tế thần (VienDongDaily.Com - 17/10/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Tượng Nữ Thần cầm hai con rắn trong Cung Điện Knossos, Crete - ảnh tham khảo: Chris 73/Wikimedia. Trong công cuộc đào xới kinh thành Knossos, người ta có tìm được hàng ngàn bảng đất sét có khắc ghi bằng một thứ chữ đặc biệt, nhưng các nhà bác học chưa tìm hiểu được cách đọc. Tuy nhiên, nhận thấy nền văn minh này thật xán lạn và là cổ xưa nhất tại Âu Châu, nên Sir Arthur Evans mới đặt tên cho nó là văn minh Minoan, theo tên các vua Minos trị vì xứ này. Dựa theo các di tích, các nhà khoa học biết, nền văn minh này đã khởi đầu từ năm 3.000 trước Tây lịch và cũng đã 3 lần thay đổi, do những trận động đất tàn phá. Vào khoảng năm 1400 trước Công Nguyên một chuỗi những trận động đất cực kỳ lớn xẩy ra, rồi hỏa diệm sơn từ đảo Thera phun lên, đã tung phún xuất thạch, rồi tro than phủ đầy ngập khắp nơi. Đảo Crete cách Thera cả 60 dặm, mà cũng bị tro than cao đến hàng chục thước phủ trùm, lấp kín và chôn vùi luôn cả nền văn minh Minoan, nằm im trong lòng đất cả trên 3.500 năm. Người ta không tìm thấy hài cốt người trên các đường phố hay những chỗ lộ thiên, chứng tỏ mọi người đã chạy trốn hết ra biển hầu bơi vào đất liền, nhưng rồi bị những đợt sóng thần ồ ạt kéo tới, lôi kéo họ ra biển, quăng xuống khối nước đang sôi sục giận dữ để vùi dập thân xác họ cho đến chết và sẽ tiêu tan trong miệng cá, không hề để lại một chút vết tích. Sự việc đã xẩy ra bất ngờ và nhanh chóng, nên khi khám phá tới 3 căn phòng dùng làm đền thờ tại Arkhanes, các nhà khảo cổ đã thấy một cảnh giết người để lấy máu tế thần, xẩy ra đúng vào lúc động đất. Vì mọi cử chỉ đều giữ y nguyên, nên dù đã qua 3 ngàn rưỡi năm, người ta còn tưởng tượng như thấy cảnh rùng rợn đó đang xẩy ra trước mắt. Theo suy đoán thì vụ tế thần này xẩy ra khi trên đảo đã có nhiều lộn xộn gây ra vì động đất. Một thanh niên khoảng 18 tuổi là vật bị hy sinh. Thanh niên này nằm trên một chiếc bàn mà tay chân không bị trói. Tuy nhiên có một người đàn ông dáng dấp lực lưỡng đứng bên cạnh. Chắc người này sẽ ôm chặt lấy anh ta khi hành quyết. Đạo sư là một người đàn bà còn trẻ khoảng 28 tuổi, đã cầm con dao nhỏ khứa vào mạch máu tại cổ tay người thanh niên. Người thứ tư bưng chiếc chậu sành hứng lấy máu. Xong, người này bưng chậu máu đó, định đem sang phòng bên cạnh đặt lên bàn thờ. nhưng vừa ra đến cửa, trận động đất xẩy ra. Mái sập làm người này ngã lăn và làm văng chiếc chậu đựng máu vỡ tan tành. Trong phòng người đàn ông và cô đạo sĩ cũng bị dui kèo rớt xuống đè chết. Ngọn đèn dầu thắp sáng bị đổ và lửa bắt vào gỗ cháy lớn, sinh ra trận hỏa hoạn thiêu hủy tất cả. Theo sự khám nghiệm của nền khoa học hiện tại, thì người thanh niên đã không chết vì chảy hết máu, mà chết vì bị cháy. Bác sĩ Contopoulos giải thích, một người bình thường bị chết cháy thì xương họ có màu đen. Còn người nào bị rút hết máu và bị cháy thì xương của họ vẫn giữ màu trắng. Còn khi quan sát thanh niên này, thì xương của anh ta một bên đen và một bên trắng, chứng tỏ máu anh ta bị chảy đi có một nửa. Những chiếc bình khai quật ở Knosos - ảnh tham khảo: Harrieta171/Wikimedia. Nền kinh tế của kinh thành này chắc là khá giả, vì người ta tìm được một nhà kho chứa rất nhiều vại, chậu, bình thật lớn dùng để chứa dầu, rượu, mật ong và các hạt giống. Những chiếc chậu này rất bự và cao còn hơn đầu người. Có thể người Ba Tư sau này đã bắt chước cách nặn và nung các chiếc vại này, nên đã có chuyện “Ngàn Lẻ Một Đêm”, về Alibaba và 40 tướng cướp. Nguyên ông triệu phú Alibaba hiếu khách nên cho một đoàn lái buôn lỡ đường vào tá túc trong nhà mình, với cả đoàn lạc đà đeo theo bên hông những chiếc vại thật lớn, nói là chở dầu và các hạt giống. Đêm đến, người hầu gái của nhà triệu phú, vì hết dầu nên định ra chiết một ít dầu dùng tạm qua đêm. Ai ngờ vừa đụng đến chiếc vại, cô giật mình, vì có tiếng người trong vại hỏi vọng ra “Đến giờ chưa?”. Thì ra, nhóm lái buôn là một đám cướp. Chúng lén lút cho quân ngồi lọt thỏm trong các vại, để chờ đến đêm xông ra cướp phá nhà Alibaba. Bọn cướp thường lớn con, nên những chiếc vại phải là lớn lắm. Tại kinh thành Knossos, hầu như nhà nào cũng có chiếc vại này để trước cửa. Nhiều chậu còn khắc những hình nét rất mỹ thuật. Tại hoàng cung trên các bức tường đều có những hình vẽ mô tả lại nếp sống của dân Cretan, là dân chúng sống trên đảo Crete. Những bức hình này được cẩn bằng những viên đá nhỏ to, đủ cỡ và mầu sắc rực rỡ nên trông rất linh hoạt. Người đàn bà thời đó có vẻ được quí trọng và được coi như bình đẳng với nam giới. Người ta không thể ngờ được có những bức hình trên tường mô tả người đàn bà đẹp thời đó, lại có mái tóc và quần áo trông giống như một cô gái của kinh thành ánh sáng Ba Lê hồi thế kỷ 19. Còn những vũ nữ ca múa phần lớn để ngực trần, người mặc áo thì tay phồng như của phụ nữ Phi Luật Tân. Đặc biệt những váy của họ dài và có xếp nếp, trông bồng bềnh, tha thướt. Đàn ông chỉ xuất hiện trong những màn đấu võ và thi thố tài nghệ nhanh và khỏe trong những vụ thi tài cưỡi trâu và nhào lộn trên lưng trâu. Tất cả những cuộc tranh đua này đều được thực hiện tại võ đường rộng lớn ngay trong hoàng cung. Có một điểm đặc biệt là trong một bức tranh cưỡi trâu, người ta cũng thấy có đàn bà tham dự. Như vậy chứng tỏ phái nữ thời đó không tỏ ra yếu mềm trước nam giới. Tuy nhiên, trong cung điện phòng của hoàng hậu đã nổi bật hơn tất cả. Những bức tranh đẹp nhất đã được trưng bầy tại đây, như những bầy cá heo đang múa lộn trong nước, cũng như các cột nhà được điêu khắc rất tỉ mỉ và mỹ thuật. Người ta cũng thấy các bồn tắm được xây cất với hệ thống thoát nước khá tân kỳ. Người Cretan không làm lễ tôn giáo ở trong nhà, mà đều tổ chức ở ngoài trời trong bầu không khí khoáng đãng. Tuy nhiên, người ta cũng tìm thấy mấy bức tượng Nữ Thần, tạc đẽo bằng đá trắng cao khoảng 12 inch. Bà cũng mặc quần áo như phụ nữ Cretan, nhưng hai tay cầm 2 con rắn. Theo các nhà khảo cổ, hai con rắn này tượng trưng cho thần chết, trong khi Nữ Thầm cầm bóp nghẹt nó nên tượng trưng cho tương lai và cho đời sống kiếp sau. Về phần nhà vua, cung điện đặt ngai vàng của ngài cũng khá rộng với tường lát bằng đá hoa cương. Riêng chiếc ngai cũng bằng đá gọt đẽo rất đẹp và lưng thành ghế có khắc một chiếc rìu có hai lưỡi, gắn trên đầu một con trâu có đôi sừng cong vút. Đây là biểu hiệu cho quyền lực của các vì vua Minos. Trên một bức tường phòng kế cận có cẩn đá hình ảnh một thanh niên tóc thật dài, đội mũ và trên chóp có gắn một chòm lông chim. Người ta cho rằng đây là một hoàng tử sẽ lên nối ngôi vua. Sau 25 năm đào xới, các nhà khảo cổ đã làm lộ dưới ánh nắng mặt trời tròn vẹn cả một kinh thành của một thời thật xa xưa. Sau đó vào những thập niên 50, 70 người ta còn khám phá ra được 3 thị trấn khác trên đảo Crete, cùng một thị trấn ngay trên đảo Thera, hòn đảo có núi phun lửa và vỡ chìm xuống đáy biển một phần của đảo. Tuy nhiên sau khi quan sát kỹ lưỡng, các nhà khoa học đều ngạc nhiên vì thấy cả kinh thành Knossos, cũng như các nơi khác đều không có một pháo đài hay là một trạm canh gác nào, hầu để đối phó nếu có quân địch tấn công. Nghiên cứu kỹ hơn, giới khoa học cho rằng dân chúng Cretan rất hiếu hòa và đồng thời họ hoạt động rất mạnh về đường biển, nên có những đoàn thuyền kiểm soát suốt vùng biển Aegean, cũng như vùng ven biển Địa Trung Hải. Họ dùng thuyền để bảo vệ đảo đồng thời để buôn bán, đổi chác, với những dân tộc quanh vùng. Do vậy, nền kinh tế của họ mau phát triển đồng thời làm mạnh mẽ tươi đẹp thêm nền văn minh Minoan như ta thấy. Hồ Sĩ Viêm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:32:24 GMT 9
Thành Troy bùng cháy, để bị chôn vùi trong lớp bụi thời gian (VienDongDaily.Com - 17/05/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Một phần bức tường thành Troy xưa kia (khoảng năm 1.200 trước Công Nguyên) – ảnh tham khảo: Adam Carr/Wiki. Thành Troy, sau khi bị quân Hy Lạp xông vào đốt phá, đã bị xóa biến hẳn không để lại dù một vết tích nhỏ. Vết bụi thời gian dần dần phủ kín và qua bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu thế kỷ, đã bị chôn vùi dưới hàng chục thước đất, tưởng rằng sẽ được ngủ yên vĩnh viễn. Ai ngờ chỉ vì một anh khật khùng, sống lẫn lộn trong mơ và thực, đã đào xới lên, để lớp tro tàn thành Troy lại lộ diện một lần nữa dưới ánh nắng mặt trời... Câu chuyện về thời thơ ấu của anh chàng này, xin được kể tiếp dưới đây. Nhưng không thấy gì cả. Nó cố lấy hết sức lập lại một lần nữa, nhưng... rồi cũng không có một chuyện gì lạ xẩy đến. Thất vọng, hắn buồn rầu quay trở ra. Bỗng hắn đứng sững người, một đốm lửa như bay bay, tiến thẳng đến nó. Người lạnh băng, hắn muốn quay lại bỏ chạy, thì hình như không thể được nữa. Hắn chẳng cử động được một chút nào. Sợ quá, mắt hắn như lạc đi, tự nhiên thấy cái ánh sáng đó biến ra hai ba hình và càng tiến sát lại gần. Chợt có tiếng hỏi vang lên, “Heinrich đó phải không con?”. Thì ra người cha thấy vắng con, bủa ra đi tìm. “Không thấy con ở nhà, Ba đến nhà vài người bạn con hỏi thăm. Đâu cũng không có. May quá vừa đi qua đây nghe tiếng con léo nhéo nói với ai trong này, nên vội vào, thì đúng là con thật. Vậy tại sao con lại ra ngoài này và để gặp ai đó?”. - Con ra thăm mộ Hennig. Vừa trả lời, Heinrich vừa chạy lại ôm lấy cha. - Ủa, con ra thăm mộ Hennig ư và làm gì vậy? - Con muốn xem cái chân của Hennig thò ra, nhưng đã không thấy. - Trời ơi con tôi ngốc quá! Chuyện ba kể cho con chỉ là một chuyện bịa đặt, hay là một truyền thuyết, một huyền thoại khó có thể tin nổi. Người ta kể cho nhau nghe, chỉ để vui cười, cho qua bớt thời giờ nhàn rỗi, chứ có thật đâu. - Nhưng có tên của Hennig trong đó. - Đó chỉ đúng một phần, còn phần sau là bịa đặt hết. Cậu bé kể trên là Heinrich Schliemann, người mà sau này đào xới tìm ra được dấu vết của thành Troy. Thật là một chuyện lạ lùng, một người thời thơ ấu luôn luôn sống lẫn lộn giữa mộng và thực và luôn luôn tin vào sự việc mà người khác cho là mơ hồ, vớ vẩn. Ấy thế mà đã thành công một cách kỳ diệu, nói ra không ai tin nổi. Hồi đó, người cha thấy mình sai lầm, tưởng rằng mình kể chuyện bịa là để làm cho con vui mà thôi. Không ngờ đứa bé lại cả tin quá. Nó tin dến cả những sự việc vô lý nhất, hoang đường nhất. Tuy nhiên ông cũng phải công nhận một điểm là thằng bé có một cái duyên kỳ ngộ, là khi nó tin một cái gì là nó tìm được đến nơi đó. Giả dụ trong cái nghĩa trang rộng lớn đến như thế, mà nó suy luận cũng tìm ra được cái mộ huyệt của tên sát nhân tên là Hennig. Ngay trong mùa Giáng Sinh năm đó, ông đã ôm về tặng đứa con trai một bộ chuyện của nhà thơ Hy Lạp mù Homer, tả lại chuyện từ thời xa xưa, cả 40 chục thế kỷ về trước, trong đó lẫn lộn cả thần thoại, cả lịch sử, mà những địa danh ghi trong chuyện không có tên trên bản đồ thế giới hiện tại. Ông cũng tưởng bộ chuyện huyền hoặc này, để cho con ông đọc chơi chẳng có ích, mà cũng chẳng có hại gì. Nhưng... ông có ngờ đâu, thằng con ông đó đã ôm bộ sách nghiền ngẫm cả mấy chục năm trời và sau khi ông mất, nó đã đem bán cả gia tài điền sản, để đi lang thang góc bể, chân trời, dò tìm cho ra nơi khoảng đất nào trên trái đất đã chôn vùi vết tích của thành Troy. Ngoài Heinrich Schliemann, không một ai trên thế giới dám làm chuyện này, vì nó là công việc “mò kim dưới đáy biển” và tỷ lệ thành công chỉ một phần trăm. Ấy thế mà Heinrich đã tìm ra, đào đúng và không những thế khoảng đất ông khám phá ra lại có 9 từng, mỗi từng là dấu vết của một thời lịch sử cách nhau hàng chục thế kỷ. Dấu vết thành Troy là thuộc về từng thứ 6. Mới đầu nhiều người đã cho ông Heinrich là điên, nhưng sau khi ông thành công, họ đã đổi cho ông là có cái duyên đặc biệt. Không có cái điên, hay cái duyên của ông Heinrich, thành Troy vĩnh viễn nằm trong lòng đất và câu chuyện Iliad và Odessey của nhà thi sĩ Homer chỉ là một câu chuyện bịa đặt không có thật và không có giá trị. * Kho tàng Sperlonga Vụ nhà khảo cổ tài tử Heinrich khám phá ra được vết tích của thành Troy vào năm 1873 đã gây nhiều chấn động trên toàn thế giới. Tiếp theo đó là vụ khám phá ra động Sperlonga tại Ý vào năm 1957, có phần nào dính dáng với thành Troy, cũng được nhiều người chú ý đến. Nguyên vào mùa Thu năm 1957, một nhóm khảo cổ người Ý, hướng dẫn bởi Bác Sĩ Giulio Jacopi, mở cuộc khảo sát miền duyên hải nước Ý, khoảng giữa từ Rome đến thành phố Naples. Họ đã khám ra được một chiếc động lớn gần thành phố Sperlonga, trong đó có nhiều bức tượng khổng lồ bằng cẩm thạch, nhưng đã vỡ tan tành. Tại sao lại có những bức tượng này? Các nhà khoa học đã tin tưởng vào một câu chuyện viết bởi hai nhà văn La Mã Tacitus và Suetonius viết từ 19 thế kỷ về trước. Câu chuyện đã kể, có một vị vua tên là Tiberius, tuy việc triều đình bận rộn, nhưng ông vẫn để dành được nhiều thi giờ đi du ngoạn tại các miền duyên hải. Do vậy ông đã cho xây cất nhiều dinh thự ven bờ biển. Một nơi nghỉ mát ông thích nhất là một hang động thiên nhiên rộng lớn mà ông biến đổi thành một phòng ăn sáng sủa, mát mẻ. Ông thường mời quan khách về đây dự tiệc do vậy ông cho trang hoàng chiếc hang này thật diễm lệ bằng những bức tượng đẹp, rất nghệ thuật bằng đá cẩm thạch. Nhưng rồi, có một hôm nào đó, tự nhiên trần hang đổ xụp xuống làm vỡ hết tượng và từ đó hang này để hoang phế. Các nhà bác học đã nhặt nhạnh từng mẫu vụn của các bức tượng để ghép lại. Họ đã thấy hình của đạo sĩ Laocoon cùng hai người con trai đang tranh đấu với con trăn lớn. Bức tượng này rập gần y hệt bức tượng nhỏ của Laocoon đặt trong Tòa Thánh Vatican từ năm 1506. Vậy chuyện của nhà thi sĩ Homer viết từ 3.000 về trước không phải là huyền hoặc nữa, mà là có thật./. Con ngựa gỗ thành Troy (VienDongDaily.Com - 14/03/2011) Hồ Sĩ Viêm/Viễn Đông Một quả táo vàng tặng cho người “Đẹp nhất” đã tạo mối bất hòa giữa 3 thần nữ đẹp tuyệt vời, rồi gây nên cuộc chinh chiến 10 năm với máu lửa, hận thù và muôn ngàn tình huống éo le trong yêu đương, đau khổ, ly tan và chết chóc. Một thiên trường ca bằng những lời thơ trau chuốt, bóng bẩy, cốt chuyện dựa theo lịch sử, do một thi sĩ mù sáng tác, kể chuyện và hát trong những bữa tiệc thời tiền sử, khoảng 900 năm trước Tây lịch. Chuyện đó có thật vì các nhà khảo cổ ngày nay đã đào bới, tìm ra được dấu tích. Cuối tháng 4-1996, nước Nga tiết lộ một tin làm thế giới vô cùng sửng sốt: “Nga sẽ cho trưng bày tại bảo tàng viện Pushkin ở Thủ đô Mạc Tư Khoa, những đồ cổ bằng vàng thuộc kho tàng của vua Priam, người trị vì thành Troy trong thập niên 1180 trước Tây lịch”. Nguyên những đồ cổ quí giá này, họ gọi là những “chiến lợi phẩm”, Liên Bang Sô Viết đã tịch thu được của Đức Quốc Xã. Lúc chế độ Phát Xít Đức bị Đồng Minh đánh tan rã tơi bời trong Đệ Nhị Thế Chiến, thì quân đội Nga đã nhanh chân ùa vào chiếm Bá Linh và vơ vét, thu đoạt những của cải và đồ vật quí giá của nước bại trận, rồi chuyển về Mạc Tư Khoa. Trong suốt thời gian trên nửa thế kỷ, Nga Sô đã giấu kín cho đến năm 1996, chính quyền Nga mới tuyên bố đã đoạt được của Đức một kho tàng trị giá cả nhiều tỉ Mỹ kim, gồm có 259 đồ vật, nữ trang bằng vàng, bằng đá quí, trong đó có một chiếc bình lớn hai quai xách bằng vàng ròng, vừa có giá trị về nghệ thuật, vừa giá trị về di tích lịch sử cổ trên 3 ngàn năm. Người ta được biết, vào năm 1873, một nhà khảo cổ tài tử người Đức tên là Heinrich Schliemann, đọc được cuốn thơ của thi sĩ Homer, tả lại cuộc chiến giữa người Trojan và người Hy Lạp tại thành Troy vào thế kỷ thứ 11 trước Tây lịch. Nghiền ngẫm những câu thơ tả lại cảnh thời xưa, ông quyết tâm tìm cho bằng được vùng đất của thành Troy nằm trên miền Tiểu Á ngày xưa. Ông cho đào xới trên đỉnh đồi Hissarlik thuộc vùng Tây Bắc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, và may mắn đã tìm thấy đúng đất cũ của thành Troy, và khám phá ra được kho tàng vô giá của Vua Priam. Ông gửi tất cả về cho Viện Bảo Tàng Museum Fur Volkerkunder ở Bá Linh, Đức Quốc. Thành Troy, trong lịch sử thế giới không một nước nào nhắc tới. Tuy nhiên nó lại được rất nhiều người biết, nhất là dân chúng Hy Lạp, vì nhờ những tập thơ gồm 24 cuốn của nhà thi sĩ mù Homer, đã nhắc nhở tới trong hai chuyện Iliad và Odyssey, hai áng thơ về anh hùng ca, tả lại cuộc chiến giữa các vua trong vùng Hy Lạp vây đánh thành Troy của người Trojan. Những câu chuyện vừa thần thoại vừa dựa theo lịch sử, mà những người tham dự cuộc chiến được tả như những vị anh hùng, mỗi người đều mang một cá tính riêng biệt, có một tài riêng và một hoàn cảnh riêng. Trong thời nhà thi sĩ Homer, hồi thứ kỷ thứ 9 trước Công Nguyên, chữ viết chưa được thông dụng, nên thường có những người đi lang thang thu thập những câu chuyện, rồi kể lại cho những người khác nghe. Thi sĩ Homer, tuy bị mù từ thủa nhỏ, nhưng ngược lại trời phú cho ông một thiên tài về thơ văn và âm nhạc. Chính ông đã thâu lượm những mẩu chuyện về “Cuộc chiến thành Troy”, rồi sáng tác thành những vần thơ óng chuốt, sống động, hào hùng lẫn bi ai, để tả lại đời sống của những người anh hùng đã tham dự trận chiến. Trong những cuộc đình đám, hội hè, hoặc những cuộc vui họp mặt, người ta thường mời ông đến, để nghe ông kể chuyện. Giọng ông sang sảng, trầm bổng và rất có hồn, đã làm mê hoặc lòng người. Ngoài ra, trong những lúc hào hứng, ông còn phổ nhạc vào những vần thơ và hát lên, làm cho âm điệu và cốt truyện càng xoáy sâu vào tâm hồn người nghe. Đến nỗi rất nhiều người đã thuộc lòng thơ ông, ghi khắc vào lòng, rồi lại kể lại cho con cháu, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do đó mà những vần thơ của thi sĩ Homer không bị chìm vào quên lãng. Sau này, người ta mới thu lại đủ và in thành sách. * Quả táo vàng tặng cho người đàn bà đẹp nhất Khởi đầu câu chuyện, là giữa một buổi tiệc cưới tưng bừng của Vua Pelias, xứ Thesally. Hôm đó, triều đình đã mời đầy đủ các vị Thần nam và nữ trên Thiên Đình, đặt trên đỉnh núi Olympus cao ngất trời, quanh năm mây trắng bao phủ. Nhưng không hiểu vì vô tình hay cố ý, người ta đã không mời vị Nữ Thần Eris, thần trông coi về mối “bất hòa” trên trần thế. Tuy đã ở địa vị thần tiên, nhưng thần Eric vẫn biết giận hờn và chờ dịp báo thù. Thế rồi trong khi bữa tiệc đang ồn ào, vui vẻ. thần Eric đã lẻn vào và tung lên bàn tiệc một quả táo vàng sáng chói, đẹp đẽ, quí giá, với dòng chữ ghi trên “Tặng phẩm dành cho người đàn bà đẹp nhất cả tiên giới lẫn trần gian”. Đối với các vị thần, thì quả táo vàng có quí giá như thế, hay hơn nữa, họ cũng không màng, nhưng còn dòng chữ ghi trên thì lại khác. Tất cả các vị thần nữ đều coi, quả táo đó là để dành riêng cho mình. Nhưng, Nữ Thần Hera, vợ của Zeus, Ngọc Hoàng Thượng Đế, ngồi gần nhất đã vươn tay cướp ngay quả táo, Các vị nữ thần khác đã nhao nhao phản đối, nhưng có hai vị là Athena và Aphrodite cực lực chống đối mạnh mẽ nhất. Thế là một cuộc tranh cãi đã bùng lên dữ dội giữa 3 nữ thần, để xem ai đáng được quả táo. Thấy thế, cả bàn tiệc đều yêu cầu Zeus đứng lên phân xử. Nhưng Ngọc Hoàng Thượng Đế không muốn mang tiếng bênh vợ, nên ông đề nghị, “Hiện nay dưới trần đang có một người con trai đẹp nhất thế gian tên là Paris, con trai của Vua Priam thuộc thành Troy, Người đó chắc chắn sẽ có đôi mắt nhận xét sáng suốt ai là người đàn bà đẹp nhất”. Đề nghị được hoan nghênh, nên Zeus cử vị thần liên lạc có cánh Hermes, đưa 3 nữ thần xuống trần thế tìm đến mỏm núi Ida, kiếm Paris đang sống tại đó, để nhờ phân xử. Được biết Paris là con vua Priam thật, nhưng từ lúc mới sanh, Paris đã bị đem bỏ trên đỉnh núi Ida cho chết đi, vì bà mẹ nằm mơ được thần nhân cho biết, sau này Paris sẽ là nguyên nhân làm cho thành Troy bị tàn phá, thiêu hủy. Nhưng, Paris may mắn được một người chăn cừu cứu sống và nuôi cho đến khôn lớn. Sau lúc thần Hermes giải rõ nguyên do, 3 nữ thần lần lượt ra mắt Paris, để cho anh chấm điểm. Muốn giành phần thắng về mình, cả 3 nữ thần đều hứa tặng cho Paris những phần tặng giá trị. Như Hera hứa sẽ cho Paris quyền năng điều khiển tất cả đàn ông trên thế gian; Athena, nữ thần về Khôn Ngoan, hứa sẽ hóa phép biến Paris thành người khôn ngoan nhất thiên hạ; trong khi đó Aphrodite, nữ thần của Tình Yêu, hứa sẽ kết hợp vợ chồng, Paris với người đàn bà đẹp nhất trên trái đất. Paris chấp nhận đề nghị thứ ba, nên tuyên bố, Aphrodite xứng đáng nhất để được giữ quả táo vàng. Thế là Hera và Athena bị loại. Hai nữ thần này mang lòng uất hận và hứa sẽ trả thù khi có dịp. Từ đó sóng gió bắt đầu nổi dậy tưng bừng, dưới trần thế, nhất là tại vùng Troy. (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 14, 2011 8:35:32 GMT 9
Con ngựa gỗ thành Troy (Tiếp theo tuần trước) (VienDongDaily.Com - 21/03/2011) Hồ Sĩ Viêm Menelaus vung gươm chém Helen, nhưng rụng rời vì sắc đẹp của nàng, đành buông gươm. Thần Eros (đang bay) và Aphrodite (bên trái) đứng xem – họa tiết trên bình cổ, niên đại 450-440 TCN, khai quật ở Egnazia, Ý Đại Lợi, nay ở bảo tàng viện Louvre. Một quả táo vàng tặng cho người “Đẹp nhất” đã tạo mối bất hòa giữa 3 thần nữ đẹp tuyệt vời, rồi gây nên cuộc chinh chiến 10 năm với máu lửa, hận thù và muôn ngàn tình huống éo le trong yêu đương, đau khổ, ly tan và chết chóc. Một thiên trường ca bằng những lời thơ trau chuốt, bóng bẩy, cốt chuyện dựa theo lịch sử, do một thi sĩ mù sáng tác, kể chuyện và hát trong những bữa tiệc thời tiền sử, khoảng 900 năm trước Tây lịch. Chuyện đó có thật vì các nhà khảo cổ ngày nay đã đào bới, tìm ra được dấu tích. * Paris cướp vợ của Vua Menelaus Từ khi đem con vứt đi trong miền núi đá hoang vu, vua Priam đôi lúc cũng có lòng hối hận và nhớ thương, nhưng chuyện đã dĩ lỡ, nên ông đành cố quên đi. Rồi một hôm, có tin đồn con ông còn sống sót, ông hối hả cho người đi dò la và đã nhận được tin tức xác thực về ngày tháng, và nhất là vết dao cạnh rốn do bà mụ đỡ lúc cắt rốn vô ý chạm phải. Tức khắc, ông sai quân đi đón hoàng tử trở về. Cuộc trùng phùng đầy cảm động và vui vẻ, khiến nhà vua quên đi giấc mơ hãi hùng năm xưa. Ít lâu sau, vì có sự cần liên lạc với Hy Lạp tại xứ Sparta, nên vua Priam sai hoàng tử trẻ Paris đảm trách nhiệm vụ này. Tại đây, Paris gặp một phụ nữ đẹp nhất thế gian tên là Helen, nên anh ta đem lòng say mê, đắm đuối. Nhưng khốn thay, Helen lại là hoàng hậu của xứ Sparta, vợ của vua Menelaus đang trị vì tại đây. Lúc đó, Nữ Thần Tình Yêu Aphrodite nhớ lại lời hứa, nên cũng xui khiến cho Helen yêu lại Paris một cách cuồng si. Thế là chờ dịp lúc vua Menelaus có cuộc viễn du đến hải đảo Crete, Paris táo bạo tổ chức cuộc bắt cóc và mang Helen về thành Troy. Helen cũng chẳng là ai xa lạ, mà chính là đứa con gái rơi của Zeus, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nguyên có một ngày, Zeus đội lốt một con thiên nga bay xuống trần. Mải vui chơi tại một cánh đồng, con thiên nga vô ý bị sa vào một cái bẫy, mắc cứng chân không bay được về trời nữa. May mắn có một cô thôn nữ thật đẹp đã đến cứu ông. Nàng ôm ông vào lòng vuốt ve và trìu mến ông, làm ông quyến luyến, thấy mình say mê người thôn nữ. Ngày lại ngày, hai người quấn quít bên nhau, cho đến ngày nàng thôn nữ mang thai và sinh ra một đứa con gái kháu khỉnh, đẹp trần đời. Zeus về Trời và Helen sống với người cha hờ. Càng lớn lên Helen càng đẹp, đến nỗi khi nàng mới lên mười, Theseus, người anh hùng của thành Athens, người đã giết quái vật Minotaur, đầu trâu mình người, đã say mê sắc đẹp tìm cách bắt cóc nàng, để sau này lấy làm vợ. Nhưng hai người em cùng mẹ khác cha đã tìm cách cứu được nàng. Đến lúc Helen dậy thì, không biết bao nhiêu người anh hùng trong vùng đã đến cầu hôn, nhưng nàng đã chọn Menelaus, vị vua của thành Sparta, làm chồng. * Dấy động binh đao Sau cuộc viễn hành tại hải đảo Crete trở về, vua Menelaus giận run người khi biết tin vợ mình bị Paris bắt cóc đem về thành Troy. Ông tức tốc kêu gọi tất cả những hoàng tử trong hoàng tộc Hy Lạp, mà hiện nay mỗi anh em chiếm giữ mỗi nước, đem quân về Sparta để đi chinh phạt thành Troy, báo thù và cướp lại Helen. Trước đây trong ngày lễ cưới của Menelaus và Helen, Zeus đã nhớ đến con gái, nên đã đến dự. Nhân dịp này, ông đã bắt tất cả các hoàng tử phải hứa giúp đỡ cặp vợ chồng này. Do đó khi lời kêu gọi vừa tung ra, các nước đã ào ào đem quân đến trợ giúp. Vì thiếu tài thao lược, cũng như để lo các vấn đề về hậu tuyến, vua Menelaus không cầm quân được, nên nhờ người em là Agamemnon, vua của xứ Mycenae, thống lĩnh toàn cánh quân chinh phạt lên đến 100.000 người. Trong những vị tướng đi theo, có những vị thật nổi danh như Achilles, vua của xứ Phthia, một người hùng vừa can đảm, vừa sức khỏe như thần, lẫn tài thao lược và óc khôn ngoan vô cùng xuất sắc và có tài chạy rất nhanh khó có ai địch nổi. Sau đó là đến Odysseus (tức Ulysses), vua của xứ Ithaca, một người anh hùng trong thần thoại từng ghi được nhiều chiến tích trong những cuộc mạo hiểm vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Tiếp theo là Ajax, người khổng lồ có sức mạnh vô địch, Diomides, vua của xứ Aetolia, và Nestoro của xứ Pylos, một cụ già nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan. Họ đã kéo cả ngàn chiến thuyền vượt biển Aegean, để tiến thẳng đến thành Troy. Tất cả chỉ vì một người đàn bà đẹp và còn sẽ kéo theo biết bao nhiêu chết chóc, đau thương và tàn phá, trong suốt 10 năm trời nữa. * Xuất quân nhiều bất lợi cho quân Hy Lạp Trước khi kéo buồm đem quân đi chinh phạt thành Troy ở bên kia bờ biển Aegean, đoàn quân Hy Lạp đóng ở hải cảng vùng duyên hải Aulis. Lợi dụng vài ngày nhàn rỗi chờ chuyển lương thực, quân trang, quân dụng lên các chiến thuyền, người tổng tư lệnh đoàn quân Hy Lạp Agamemnon, đã kéo một nhóm quân đi săn hươu. Ai ngờ Agamemnon vô tình đã bắn phải một con hươu sao đặc biệt, con vật nuôi của nữ thần Artemis, nữ thần trông coi về săn bắn. Tức giận nữ thần Artemis đã reo rắc bệnh tật cho quân lính Hy Lạp và yêu cầu Thần Gió ngưng hoạt động, để các chiến thuyền không có gió bọc cánh buồm, không thể xuất phát được. Rất buồn lòng, Agamemnon phải cầu khẩn xin lỗi Thần Artemis và bằng lòng hy sinh đứa con gái yêu của mình là Iphegenia, để tế thần. Thấy Agamemnon thật sự hối lỗi, nên thần Artemis cũng mềm lòng, tha cho mạng sống của Iphegenia và buộc cô phải đi tu. Đồng thời thần Artemis còn hóa biến con hoẵng thay vào mạng sống của cô Iphegenia. Thế là gió lại nổi lên, đưa những chiến thuyền của cánh quân Hy Lạp vượt qua được biển Aegean, và đóng quân trên bờ biển đối diện với pháo đài vững chắc của thành Troy. Cuộc chiến sẽ kéo dài mười năm và áng thơ của thi sĩ mù Homer còn tả lại nhiều trận chiến ác liệt, với những tình tiết đầy tình người, nhưng cũng có vài mẩu chuyện mang mầu sắc thần thoại thật kỳ lạ và hấp dẫn. Con ngựa gỗ thành Troy (Tiếp theo kỳ trước) (VienDongDaily.Com - 28/03/2011) Hồ Sĩ Viêm Dân quân thành Troy vui mừng kéo ngựa gỗ khổng lồ về thành, ai ngờ đó là mưu mô của quân La Mã để tàn phá thày Troy, chấm dứt trận chiến 10 năm – chi tiết họa phẩm của Giovanni Domenico Tiepolo (thế kỷ 18-19) Tóm lược kỳ trước: Giữa bữa tiệc, một quả táo vàng được tung vào, trên đó ghi tặng cho “Người Đẹp Nhất”, nhưng không ghi rõ ai, nên 3 nữ thần tranh dành nhau. Ai cũng coi là mình đẹp nhất, đáng nhận phẩm vật. Cuộc tranh cãi thật gay go, nên phải nhờ Paris, một hoàng tử đẹp trai trần thế, phân xử. Chàng trai này được nữ thần Tình Yêu hứa gây dựng cho mình lấy được một người “đàn bà đẹp nhất trần gian”, nên trao táo vàng cho vị nữ thần này. Rồi một lần đi sứ sang nước Hy Lạp, Paris thấy Hoàng hậu Helen, một sắc nước nghiêng thành, từng làm cho bao anh hùng mê mệt, nên cướp về thành Troy. Thế là Hy Lạp dấy binh, vượt biển, để đòi lại người đẹp, gây cuộc can qua, chinh chiến tơi bời. * Các trận chiến đẫm máu Với sự rút lui của Achilles, đồng thời được sự nâng đỡ của các vị thần Zeus, Ngọc hoàng, Apollo, thần Ánh Sáng và Aphrodite, nữ thần Tình Yêu, phe Troy thắng thế rõ ràng và phe La Mã sa sút tinh thần thấy rõ, hầu như chỉ muốn rút lui, dù rằng trong tủi nhục vì thất trận. Sự thực bên thành Troy, trừ Hector vượt trỗi hẳn về sức mạnh, can đảm và trí dũng, còn các hoàng tử khác đều ở mức bình thường. Vua Priam chỉ ngồi trên đài cao giám trận, nhưng ông biết lo xa, nên đã cho mời các bộ lạc khác đến tiếp viện. Trong số các đoàn quân tiếp viện có một bộ lạc rất đặc biệt tên là Amazon, toàn thể toàn là đàn bà. Bộ lạc này sống ở miền rừng núi Coucasus, ngay miền biên giới của Scythia. Họ có một tập tục rất đặc biệt là hận thù đàn ông, nên trong vùng của họ không hề có bóng dáng một nam giới nào cả. Tuy nhiên để duy trì dân số của bộ lạc, hàng năm vào một ngày nhất định, họ kéo đi xâm lăng các bộ lạc giáp cận, để bắt đàn ông làm nô lệ cho họ. Sau khi đã thỏa tình mong muốn, những tên nô lệ này, họ thả cho đi hoặc giết chết. Khi đã có mang và sinh con, nếu là nam, họ thẳng tay giết ngay, còn là nữ, họ sẽ nuôi cho khôn lớn và huấn luyện cho tiếp tục cuộc sống chiến đấu một mình, hận thù đàn ông và coi đó là những người nô lệ, để sai khiến và thỏa mãn. Để dễ cầm khí giới để chiến đấu, những người đàn bà này đã tự cắt đi một bên vú. Do vậy họ rất thiện chiến, bắn giỏi, ném lao chính xác, cũng như bơi lội thật tài tình. Nữ hoàng Penthesilea, một trong những người cầm đầu bộ lạc, đã kéo quân đến trợ giúp đoàn quân thành Troy, nhưng tiếc thay nữ hoàng Penthesilea không may bị tử trận, nên cánh quân này tan rã. Hoàng tử Paris cũng là một tướng tầm thường, nhưng vì được sự che chở của nữ thần Aphrodite, nên anh luôn luôn thoát nạn. Tuy thế, nhưng vì quá nhụt chí, nên quân Hy Lạp cứ thất trận liên miên. Thấy tình thế quá nguy, Agamemnon cầu khẩn và mang nhiều quà biếu đến Achilles xin ông hồi tâm, quay trở lại trận tiền, hầu cứu nguy cho cánh quân Hy Lạp. Achilles nhất định không chịu. Tuy nhiên ông cũng nể lòng cho phép một người bạn thân của ông là Patroclus mang khiên, lao và giáp mão của chính ông, để dự trận. Ai ngờ chỉ một trận đầu, Patroclus đã bị Hoàng thái tử Hector đâm chết ngay trước cửa thành Troy, rồi còn buộc giáp mão của Achilles vào đầu một đoạn dây thừng, kéo chạy vòng quanh thành, để reo hò, chế riễu. Được tin này Achilles đau buồn, quên đi lòng oán hận đối với Agamemnon và quyết định trở lại chiến trường. Nhưng bây giờ khí giới, nhất là lá khiên của ông đã bị quân thành Troy chiếm đoạt rồi, do vậy ông phải trở lại nhà xin với mẹ là Thetis giúp đỡ. Biết sinh mạng của con được bảo vệ rất nhiều do chiếc khiên, nên bà Thetis đã khẩn cầu thần Hephaestrus, vị thần coi về nghề rèn trên Trời, rèn cho Achilles một chiếc khiên đặc biệt. Chỉ ít lâu thần Hephaestrus đã trao cho Achilles một chiếc khiên rất đẹp, chạm trỗ tinh vi và hợp chế bằng các kim loại quí như vàng, bạc, sắt và đồng. Khiên này không có một ngọn giáo nào có thể đâm thủng được. Một điểm đặc biệt là đây là lần đầu tiên nhân loại được nghe về tên của các loại kim khí này. * Cái chết của Hector Cùng trong thời gian Achilles sắp trở lại chiến trường, thì Hera, Hoàng hậu của thiên đình, vợ của Zeus, Ngọc hoàng Thượng Đế, mới biết chồng mình thiên vị cho Troy. Bà nhớ lại thù xưa với Paris, nên nhất quyết buộc chồng phải bỏ ngay hành động đó. Nể vợ, Zeus không còn can thiệp vào chyuện chiến trận nữa. Thế là hôm đó, yên trí như thường ngày, quân Hy Lạp chỉ thủ chứ không công, sau khi từ giã vợ là Andromache và hôn xong đứa con nhỏ Astyanax, Hector đóng bộ giáp và dùng vũ khí của Achilles để ra trận tiền. Vừa giáp trận, ông thấy ngay sự hiện diện của Achilles. Biết mình biết người, nên Hector ra lệnh cho quân mình rút lui ngay vào thành. Tuy nhiên vì tính khí anh hùng, Hector ở lại ngoài thành, chờ cho quân sĩ vào hết mới vào sau cùng. Nhưng đã không kịp nữa rồi, sau khi tên lính cuối cùng thoát được qua cổng thành thì quân của Achilles đã ào tới. Rút lui không kịp, nên Hector phải chạy vòng vòng quanh thành. Đến đây ta mới thấy cơn giận dữ dài lâu của nữ thần Athena, vị thần coi về Khôn Ngoan, thù thành Troy vì không được quả táo vàng. Bà này liền biến hóa ra thành Deiphobus, một người em can trường của Hector. Deiphobus chạy ngay sát bên anh và bàn định là nếu cả hai cùng hợp sức thì sẽ đuổi được Achilles. Nghe vậy Hector liền ngừng lại và trực diện chiến đấu với Achilles. Mới đầu Achilles ném ngọn lao nhanh như chớp, nhưng Hector cúi đầu tránh được, nên chiếc lao xẹt qua mái đầu găm tít phía xa. Đến lượt Hector phóng trả đũa, thì ngọn đao bay thẳng và mạnh đến Achilles không sai trật. Nếu mà đỡ thì với chiếc khiên thường cũng không chịu được sức mạnh và chiếc lao sẽ xuyên qua. Nhưng đây là chiếc khiên thiên thần đúc bằng các thứ kim khí đặc biệt nên khi chạm phải, chiếc lao đã gẫy gục. Đồng thời lúc đó nữ thần Athena đã lấy chiếc lao ném hụt trả vào tay Achilles, mà Hector không biết. Không lao, Hector gọi em đưa ngọn khác cho mình, nhưng nhìn lại thì không thấy Deiphobus đâu cả. Biết thế nguy, Hector rút vội thanh gươm đeo bên mình xông thẳng tới Achilles, định sống chết với địch thủ, nhưng không kịp, thanh lao của Achilles bay nhanh tới nhắm đúng vào chiếc cổ không áo giáp che chở mà đâm thẳng vào. Hector gục ngã giữa chiến trường, giữa sự chứng kiến trên tháp canh cao thành quách của cha, nhà vua Priam và vợ, Andromache. Giết được kẻ thù đáng gờm nhất, Achilles buộc thây Hector sau lưng ngựa và kéo lết về trại mình, như để báo thù cho cái chết của người bạn thân Patroclus. Sau này chính vua Priam cầu khẩn mãi, mới được Achilles chấp thuận cho phép đem thây con về an táng trong nghi lễ. Đau buồn về cái chết của người anh, Paris quyết chí trả thù, nên ông kéo rốc lực lượng hùng mạnh ra trận, một mất một còn với quân La Mã. Lần đó chiến trận tơi bời, máu xương tơi tả, hai bên đều thiệt hại khá nhiều. Nhưng kết quả, một mũi tên của Paris bắn ra, do sự hướng dẫn của nữ thần Aphrodite đã ghim đúng vào gót chân của Achilles. Aphrodite đã nghe theo lời tiết lộ của thần ánh sáng Apollo, chỉ làm sao chạm được vào gót chân Achilles mới giết được người anh hùng này. Mũi tên bắn trúng có tẩm thuốc độc, nên chỉ vài giờ, Achilles từ trần. * Phần kết cuộc của chuyện Iliad Chết mất người kiện tướng cột trụ Achilles, Agamemnon vô cùng thoái chí. Đồng thời hai danh tướng trong đoàn quân là Odysseus và Ajax lại tranh nhau bộ giáp, chiếc khiên của Achilles, nên càng làm cho ông ta khó chịu. Cuối cùng ông quyết định cho Odysseus giữ các đồ vật của vị tướng quá cố, vì chính Odysseus đã có công mời được Achilles. Ajax, là vị tướng có thân hình khổng lồ và sự can trường trong lúc xông pha chiến trận chỉ thua có mỗi Achilles. Thấy bị thất sủng, ông ta đâm ra điên cuồng và trong một lúc quẫn trí, thấy đoàn cừu trong trại, ông tưởng là quân lính thành Troy, nên vung gươm giết sạch. Lúc tỉnh dậy, xấu hổ, Ajax đã quay mũi gươm vào cổ mình để tự vẫn. Trong tình thế đó, biết không thể chiếm được thành Troy, nên Agamemnon nhất định rút quân. Trước lúc hồi quân, Agamemnon cho tổ chức một cuộc tế lễ thật vĩ đại và có đóng một con ngựa gỗ thật lớn để tế thần. Rồi trong một sáng mai đẹp trời, đoàn quân La Mã xuống hết các chiến thuyền, dong buồm ra khơi. Phút chốc cả đoàn quân rầm rộ, náo nhiệt mọi khi, đã biến mất dưới chân trời phía xa xa, để lại một bãi biển trống vắng và một con ngựa gỗ, im lặng, đứng chênh vênh. Từ trên vòng thành cao, quân Troy đã quan sát thấy rõ hành động của quân La Mã từ nhiều tuần lễ, nên biết ý định rút quân của địch quân. Nay thấy không còn một bóng quân thù, họ vui sướng reo hò và dự định tổ chức một cuộc ăn mừng thật lớn. Hàng ngàn người đã kéo ra trại cũ của quân La Mã và đều trầm trộ khen ngợi con ngựa gỗ khổng lồ đóng thật khéo léo và công phu. Cho đây là phẩm vật tế thần của người La Mã, nhiều người bàn tán, nên kéo con ngựa vào thành, như là một chiến lợi phẩm, để cuộc ăn mừng thêm phần long trọng và có ý nghĩa. Đa số tán thành, chỉ có một người đạo sĩ tên là Laocoon phản đối. Ông này liền bị nữ thần Athena, người thù của Paris, cho trăn đến quấn chết cùng với 2 người con, để bịt miệng. Thế là quân lính và dân chúng thành Troy cố sức đẩy và kéo con ngựa gỗ cho đến lúc nó lọt hẳn vào thành. Đêm hôm đó, lần đầu tiên trong 10 năm trời chiến tranh, quân dân thành Troy quăng bỏ những mối lo âu, để ngủ một giấc thật ngon lành. Ai ngờ, thật không ai ngờ, nửa đêm hôm đó, một nhóm quân sĩ, điều khiển bởi Odysseus, nấp trong bụng ngựa, đã thòng dây tụt xuống một cách âm thầm. Họ đã chia nhau ra các cổng thành, mở cửa toang hoang và cùng lúc đó cánh quân La Mã đã trở lại từ lúc nào, ào ào xông vào chém giết và đốt phá tan tành. Quá bất ngờ, thành Troy thất thủ trong phút chốc. Vua Priam, Paris cùng nhiều hoàng tử đã bị chết ngay trong phút đầu giao tranh. Hoàng hậu Helen, người đẹp nguyên do của trận chiến 10 năm, đã được trả về cho vua Menaulus, người chồng cũ của bà. Bà vẫn đẹp, nhưng tuổi đã lớn và hồng nhan đã hết đa truân, nên bà sống với chồng trong hạnh phúc cho đến ngày nhắm mắt. Còn Agamemnon, quá lâu rời gia đình, xả thân chinh chiến chốn xa xôi, nên người vợ bao nhiêu năm trời phòng không chiếc bóng, chịu không nổi, đã kiếm một người bồ để ấp ủ, tâm sự lúc vắng chồng. Nay chồng về, bà thấy người tình nồng ấm hơn, nên đã đầu độc cho ông đi thêm nữa nơi vùng thật xa lắc và vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa. Cuối cùng còn Odysseus, người anh hùng này lúc trở về đã lạc đường trôi dạt trên biển cả mênh mông. Trong suốt 10 năm trời phiêu lưu thêm nữa, ông đã vượt qua bao nhiêu hiểm nguy, tạo được nhiều kỳ công khó người có thể thực hiện được. Đó là phần sau của cốt chuyện Odessey, mà chúng tôi có dịp sẽ xin kể hầu tiếp cùng quí vị độc giả.
|
|