|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:15:09 GMT 9
4. Phản ứng của mì chính đối với cơ thể.
Vào những năm mở cửa, mì chính ồ ạt tràn vào nước ta. Thứ gia vị “quý như vàng” của thời bao cấp trở nên quá thông dụng đến thành lạm dung, đến mức mà quãng năm 1991 – 1992 nhiều phương tiện thông tin đại chúng phải lên tiếng uốn nắn khi nhiều bà mẹ bán thịt, bán trứng gà mua mì chính quấy bột cho con. Đài báo ngày ấy chỉ nói rằng: mì chính cũng giống đường hóa học, ăn chỉ ngọt miệng dù không bổ dưỡng nhưng dễ ăn, không độc hại! Không sao. Vậy nhiều năm nay chúng ta cứ “vô tư” dùng mì chính văng mạng, thành thói quen. Nồi canh rau, xoong thịt kho, đĩa xào, bát nước rau, thậm chí bát nước mắm chấm thường được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính. Mới đây một công trình khảo nghiệm khoa học của nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Hàn Quốc Hwo Woong Zhong đăng trên tờ tạp chí Khoa học Mỹ số 7 – 1996 (Science No 7) với tên: “Hội chứng món ăn tài” (Chira Distres Symtoms) đã công bố những tác hại của việc dùng mì chính: Nếu dùng quá sẽ gây những tác hại cho các nơron thần kinh duy trì trí nhớ. Mặc dù muối Natri gốc Axít glutamic có tác dụng làm giảm lượng Amoniắc trong hệ tuần hoàn não nên phần nào có tác dụng làm giảm đau đầu (một thời có người đã chữa chứng đau đầu bằng... ăn nhiều mì chính). Nhưng sau đó, chính nó lại hạn chế khả năng trao đổi chất của các tế bào thần kinh, gây nên lão hoá. Đó chíh là nguyên nhân làm suy giảm trí nhớ. Từ công trình nghiên cứu khoa học trên đây, ngày nay, tổ chức WHO (Tổ chức vì sức khoẻ của thế giới) và tổ chức Nông lương thế giới FAO đã khuyến nghị: Không nên dùng mì chính trong chế biến cho trẻ em dưới 6 tuổi. Cũng tác giả bài báo này đã thống kê và chỉ ra rằng: Châu Âu và các nước phát triển hầu như không ăn mì chính. Các nước sản xuất nhiều mì chính chỉ đem....xuất khẩu (Mỹ tiêu thụ nội địa 0,7%; Pháp 0,9%; Braxin 1%). Ngay nước Nhật, nước phát minh ra mì chính cũng chỉ làm ra để bán chứ tiêu thụ nội địa có 1,5% lượng mì chính làm ra. Một số trắc nghiệm của các nhà hoá thực phẩm Anh - Mỹ còn chỉ ra rằng: Ăn nhiều mì chính trong thức ăn một lần có thể gây triệu chứng buồn nôn, chóng mặt, ngứa dị ứng toàn thân hoặc từng phần; đặc biệt là phản ứng tăng nhanh nhịp tim... rất nguy hiểm cho người cao huyết áp. Từ vài chục năm nay, mì chính, bột canh luôn là bạn đường thuỷ chung của các món ăn, nhà bếp Việt Nam. Bất kỳ món ăn nào của ta hiện nay cũng đều được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính. Các món ăn hướng dẫn trên ti vi, trên báo, không món nào nêm dưới 2 thìa cà phê thứ muối a xít này. Ngay mì tôm, thứ đồ ăn rẻ tiền, dẫn dã cũng có tới 4 gr mì chính 1 gói. Chả thế mà hiện nay, hai nhà máy chuyên sản xuất mì chính ở Việt Trì và Vedan ở Đồng Nai và nhiều nhà máy bột canh ở Hà Nội, Sài Gòn cũng chưa cung cấp đủ nhu cầu nội địa. Hàng năm ta vẫn phải nhập mì chính từ Nhật, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Braxin với rất nhiều tên thương phẩm như Ajinomoto, Aone...và cả mì chính Tàu nữa mới đủ cho nhu cầu thị trường. Thử làm một tính nhẩm nhỏ: trung bình một gia đinh 4 người 1 ngày dùng bình thường cỡ 7 thì cà phê cho các món ăn của 3 bữa, ước tính bình quân 4gr/thìa, tức là, bình thường 1 người dùng 7 gam: đã vượt quá giới hạn cho phép đến 15-20%. Nếu hiện tượng này không nhanh được uốn nắn liệu mai đây cái gì sẽ xảy ra? Đặc biệt là các cửa hàng, nhà hàng lại càng lạm dụng mì chính để hấp dẫn khách, nhất là các cửa hàng phở, bún, miến... Ngày xưa để bán được phở, bún trong các nồi nước dùng phải có thật nhiều xương và tôm nõn ninh lấy vị ngọt. Ngày ấy phở, bún không mọc như nấm như ngày này. Ngày nay vô tình chúng ta đang tự đầu độc hoặc bị đầu độc bằng chất độc ngọt ngào: Mì chính. Đã đến lúc các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng cần vào cuộc tuyên truyền, uốn nắn một thói quen có hại của việc lạm dụng mì chính trong chế biến thực phẩm. Đừng để đến lúc các tác hại của hội chứng lạm dụng mì chính phát tác thì sẽ là quá muộn. 5.Phương cách loại bỏ mì chính.
Những năm qua chúng tôi đã đọc được lời cảnh báo về MGS (mì chính, hay bột ngọt): đầu tiên là từ các sách hướng dẫn phòng và trị bệnh bằng phương pháp thực dưỡng Ohsawa, mãi sau này là từ các sách báo như tạp chí “Thuốc và sức khoẻ”...Kể từ đó trong gia đình tôi “bỏ mì chính” một cách từ từ. Chúng tôi đã ăn chay trường tức là bỏ cá, thịt, trứng, rượu bia được hai năm rồi sau đó mới bỏ được mì chính, bỏ mì chính rất khó vì người thường không rõ tác hại ngay lập tức của nó. Bỏ nó khónhư bỏ thuốc lá, có lẽ còn khó hơn nữa vì người ta dễ cho rằng mì chính cũng là thức ăn chay. Trước đây có thời nó được quảng cáo dùng để trị bệnh “nhức đầu” và suy nhược thần kinhh và làm dễ nuốt cơm. Kỳ thực ăn mì chính rất có hại cho cơ thể vì nó đánh lừa cảm giác. Khi cơ thể co s cảm giác chán ăn đó là do mỏi mệt hoặc đầy ứ chất độc cần được nghỉ ngơi bằng phép tiết thực hoặc thải bỏ chất độc ra ngoài thì người ta hay dùng lý trí và cảm tính lệch lạc để nhồi nhét những thức ăn đã được cho nhiều mì chính hơn để dễ nuốt! Thực ra người ta cần có trực giác phát triển để cảm nhận chính xác về cơ thể, để ứng xử với “nó” cho phải. Nhưng phần đông dân chúng thay vì để cho cơ thể nghỉ ngơi một chút khi có cảm giác chán ăn (điều này giống như đènhiệu đỏ báo tạm dừng xe cộ) thì thay vào đó người ta chế ra đủ thứ món ăn ngon vật lạ, đặc sản....với cách nấu ăn cực kỳ phức tạp để đáp ứng một mục đích “dễ nuốt” mà bất cần xem cơ thể có thực sự cần những thức ăn đó hay không? Nếu người ta biết gốc của Đạo là Tự nhiên thì người ta dễ dàng nhận thức ngay được mì chính là một thứ hoá chất nhân tạo chế biến theo phương pháp hoá học phản tự nhiên hết sức. Tôi có một anh bạn Việt kiều ở Mỹ về, da anh bóng lưỡng hông hào béo tốt khoẻ, được biết anh ăn chay rất kỹ, anh không dùng trứng và đặc biệt anh không dùng mì chính, anh nói anh chỉ cần ăn chút thức ăn có mì chính là cái cổ anh nó rát liền, anh có cơ thể mẫn cảm. Tôi hỏi anh bí quyết để có làn da đẹp – anh bảo do anh biết kỹ thuật thở và thiền định. Tôi chợt giật mình vì thấy cách đây 5, 7 năm về trước mỗi bát phở người ta có cho chút mì chính (do trước đây mì chính phân phối và đắt đỏ), nay người ta cho gấp 2-3 lần. Không biết có phải do quảng cáo về mì chính trên các phương tiện thông tin đại chúng mà ra hay không? Một người bạn nhắc tôi: Cứ để ý cái thìa họ thường xuyên múc mì chính mà xem! Nếu là thìa nhôm - loại thìa xúc bột trẻ con – thì thấy ngay nó gỉ két lại. Sở dĩ có hiện tượng dó vì thực chất mì chính là một loại có gốc axít (MSG Mono Sudium Glutamate). Mỗi lần tôi có việc phải đi ăn cơm khách hay nhà hàng, mặc dù họ nấu chay là trở về nhà tôi bị hỏng vị giác mất 2, 3 hôm. Sau đó vị giác tôi mới hồi lại, ăn những thức ăn mẹ tôi nấu mới thấy ngon. Tôi đã qua kinh nghiệm này hàng chục lần, đều cho một kết quả y như vậy. Có một người mà tôi biết có vị giác rất tinh nhạy – đó là bà Diệu Hạnh Ngô Thành Nhân ở 390 Điện Biên Phủ, quận Bình Thạnh TP.Hồ Chí Minh. Xem cách phán đoán về thức ăn của bà, tôi rất lấy làm khâm phục về trực giác và vị giác của bà. Theo sự học hiểu của chúng tôi, một người gọi là khoẻ mạnh là người đạt được 7 tiêu chuẩn:
1.Không mệt mỏi. 2.Ngon ăn. 3.Ngủ ngon giấc. 4. Trí nhớ tốt. 5.Sắc mặt vui tươi. 6.Phán đoán và thực hành nhanh nhạy 7.Công bằng. Trong đó “ngon ăn” là một trong những tín hiệu của cơ thể khoẻ mạnh. Theo Ohsawa, nếu gặp bất cứ món ăn thiên nhiên nào các bạn cũng ăn một cách nhác nhớm không ngon lành, thế là các bạn không ngon ăn; nếu các bạn gặp một miếng bánh mì khô hẩm hoặc một nắm cơm, các bạn cũng ăn một cách ngon lành, thế là các bạn ăn ngon, dạ dày các bạn được tốt. Ăn ngon miệng tức là có sức khoẻ. Vậy nếu các bạn ngon ăn rồi thì các bạn còn dùng mì chính làm chi nữa? Có phải mì chính được cho vào thức ăn để làm cho các bạn ngon ăn và ăn được nhiều lên không? Nếu nhờ mì chính mà bạn mới thấy ngon ằn thì đúng là bạn không còn ngon ăn nữa rồi và do vậy bạn đâu còn khoẻ mạnh. Thực sự con người ta rất tham ăn và luẩn quẩn – Vì không ngon ăn (tức là cơ thể không còn khoẻ mạnh, đáng lẽ phải tiết thực để lấy lại trạng thái ngon ăn) nên sử dụng mì chính để tự mình lừa cảm giác của mình. Cứ đưa thức ăn vào làm cho cơ thể muốn nghỉ ngơi một chút cũng không được, và cứ thế...trong vòng lẩn quẩn. Không còn lúc nào biết ngon ăn thật và ngon ăn giả (do thức ăn có mì chính...), kéo theo không còn biết tình trạng cơ thể mình lúc nào khoẻ mạnh thật sự lúc nào mệt mỏi cần nghỉ ngơi... cho đến lúc bệnh lộ ra, viêm họng, ung thư; các loại bệnh nặng lộ ra...lúc đấy bạn cũng không biết nguyên nhân do đâu mà lại phải nhờ đến các loại bác sĩ, thầy thuốc...Con đường của chúng tôi là con đường tự mình làm thầy của mình, tự mình làm bác sĩ cho mình. Để kiểm chứng về tác hại của bột ngọt (mì chính) tôi đã đọc tài liệu về tác hại của mì chính cho một người quen của tôi - một người rất hay dùng mì chính. Bạn đó nói: Đúng, đúng toi mắc một số bệnh đúng như báo nói. Không biết sau đó bà có chịu bỏ mì chính để đổi lấy một cơ thể lành mạnh hơn lên không? Cách thức mà tôi bỏ thành công mì chính là: Bỏ từ từ, tìm chất ngọt từ thiên nhiên như cà rốt, củ đậu...nhất là từ tương cổ truyền và đặc biệt là Misô. Chúng tôi làm lấy gia vị: Muối đãi sạch, rang, giã nhỏ trộn với một chút đường hoa mai (đường vàng) cùng với cà rốt nhỏ sao khô, tán nhỏ trộn vào....thay bột canh trên thị trường (có trộn nhiều mì chính nội). Các bạn có thể sáng tạo những món bột canh thiên nhiên khác. Gần đay trên thị trường có bán một số bột canh thiên nhiên từ nấm hương...của Hồng Kông, Đài Loan...tuy nhiên chỉ nên dùng hạn chế, ở giai đoạn “chuyển tiếp” để sang giai đoạn không dùng bột ngọt trong bất cứ tình huống nào là tốt nhất. 6. Lời kêu gọi
Từ tháng 7 năm 1987 cuộc họp của 15 tổ chức thuộc 5 nước: Indonesia, Nhật, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Mã Lai ở Bangkok đã quyết định hình thành “Tổ chứ hành động chống Bột ngọt” đưa ra tuyên bố Bangkok kêu gọi: “Cấm dùng bột ngọt trong thực phẩm cho trẻ em, thiếu niên và phụ nữ có thai”. Hội nghị lần thứ 12, “Hội bảo vệ người tiêu dùng thế giới” họp ở Ma drit (Tây Ban Nha) với 13 nước thành viên cũng lập lại một lần nữa các đề nghị của tuyên bố Bangkok. Tổ chức hành động chống bột ngọt “No MSG please day” (MSG: Mono Sodium Glutamate) ra đời. Tầm lan rộng bột ngọt nguy hại hơn thuốc lá và rượu! Vì rượu và thuốc lá chỉ có một số thanh niên và người lớn dùng có giới hạn; còn bột ngọt thì pha trộn trong thức ăn cho mọi lứa tuổi dùng thường xuyên hàng ngày, mà chính người dùng hoàn toàn không biết hậu quả về lâu về dài rất nguy hiểm. Một điều khẳng định rằng: “Bột ngọt chỉ tạo ảo giác ngon miệng sự thực không phải là chất bổ dưỡng cần thiết, mà trái lại gây hậu quả thật là vô cúng”. Nhiều tài liệu các nước Đông Âu, Mỹ, Pháp, Nhật, Hồng Kông... đã yêu cầu không nên sử dụng bột ngọt trong thức ăn trẻ nhỏ và khuyên người lớn cần tránh! Nhiều cán bộ, Tiến sĩ, Dược sĩ, Bác sĩ, các nhà chuyên môn giữ nhiều chức vụ then chốt trong ngành dinh dưỡng, Y khoa tại Việt nam đều nhất trí cao lên tiếng cảnh báo về tầm nguy hại sức khoẻ trầm trọng lâu dài trong việc ăn bột ngọt. Giáo sư Tiến sĩ Hà Huy Khôi (Viện trưởng Viện dinh dưỡng Việt nam- Bộ y tế), đồng chí Lê Văn Thiệu (Tổng thư ký Hội bảo vệ tiêu chuẩn và Người tiêu dùng Việt Nam), Tiến sĩ Dược khoa Phạm Văn Tất (Chuyên viên Viện vệ sinh Y tế công cộng), Dược sĩ Diệu Phương (Tổng Hội Y dược học – Hội dược học Việt Nam), Bác sĩ Nguyễn Lân Đính... và nhiều nhà nghiên cứu khác đã ra thông báo, đăng bài khắp các báo: Tạp chí Thuốc và Sức khoẻ (sô 8-9/92 và số 18/93), Thông báo của Viện dinh dưỡng Bộ Y tế, công văn số 266/VSTP (ngày 22/9/93), Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng (1/1193), Báo Khoa học Phổ Thông (số 407, số 561).... Do đó không nên chấp nhận việc sản xuất và nhập khẩu vào Việt Nam một lượng mì chính với những con số khủng khiếp như hiện nay. Điều đớn đau nhất là một dân tộc vừa chập chững đứng lên sau nhiều năm chiến tranh liên miên, hiện nay bị đầu độc gây bệnh thấp khớp, đái đường, teo não, bại não, mất trí nhớ dần dần. Thần kinh là cơ quan trung ương của con người mà bị huỷ hoại thì cả thế hệ phải tự triệt tiêu nòi giống.
-Hết-
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 5:20:35 GMT 9
Ái nam ái nữ - truyền thuyết và khoa học
Theo thần thoại Hy Lạp, loài người gồm 3 giới: đực, cái và vừa đực vừa cái. Vì làm cho thần Zeus nổi giận nên nhân loại bị trừng phạt bằng cách tách từng người ra làm hai nửa: chỉ là nam hoặc là nữ. Sự chia cắt đó khiến loài người luôn tìm kiếm một nửa của mình, tạo nên hiện tượng mà ta gọi là tình yêu.
Truyền thuyết về những người có giới tính mập mờ đã xuất hiện từ thời cổ đại. Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai: Hermaphrodite. Một nữ thần khác yêu Hermaphrodite nhưng bị khước từ nên đã có lời ước nguyện là cơ thể của 2 người được nhập làm một. Điều mong ước đó đã được chấp thuận, làm xuất hiện con người vừa là nam vừa là nữ. Hình tượng được thể hiện như một người vừa có * vừa có dương vật. Thần thoại Hy Lạp cũng nói đến Tiresias là người mà theo huyền thoại khi thì là đàn ông khi thì là phụ nữ.
Trong sinh học, trạng thái vừa đực vừa cái một cách tự nhiên có thể thấy ở một số loài, ví dụ con sên khi là đực khi là cái trong suốt cuộc đời của nó. Thời cổ đại, người ta coi những trẻ có "giới mập mờ" là kẻ có kỳ tích sự nổi giận của các thần; và họ bị giết ngay. Cho đến gần đây, cách hành xử này vẫn tồn tại ở một số nước. Tuy nhiên một số trường hợp giới tính mập mờ lại được coi là mô hình của sự trùng hợp những yếu tố đối lập, quy tụ sức mạnh thần bí và tôn giáo gắn với mỗi cá thể mang 2 giới. Trong trường hợp này, cá thể được trao cho những quyền năng của cả 2 giới bằng nhiều thực hành có tính nghi thức, đặc biệt là sự thay đổi trang phục.
Trước đây, nhóm dân số có giới tính mập mờ thường gọi là ái nam ái nữ. Nếu xảy ra cho một gia đình, điều này gây ra nhiều sự lo lắng, thậm chí kinh hoàng. Có nhiều lý do để cần quan tâm: các bậc cha mẹ sinh con có giới mập mờ sẽ phải nuôi dưỡng, giáo dục như thế nào để không tổn thương đến sự phát triển tâm lý và vai trò xã hội của chúng; các thày thuốc cần nhúng tay vào vào thời điểm nào để đáp ứng đúng nguyện vọng của trẻ; tương lai của những trẻ có giới mập mờ sẽ ra sao nếu không được nhúng tay vào... Ngoài ra còn nhiều vấn đề cần giải đáp khác và chỉ có sự hiểu biết mới có thể cải thiện phẩm chất sống cho nhóm dân số này.
Thuật ngữ ái nam ái nữ (hermaphrodite) hầu như không còn được dùng nữa vì không phù hợp. Giới y học đề nghị dùng một thuật ngữ thay thế là giới trung gian (intersex), giới mập mờ hay lẫn lộn (ambigous androgyne). Các thầy thuốc trước đây tin rằng đường sinh dục là dấu hiệu chính yếu để xếp con người thuộc một giới nào đó. Vì vậy, họ đã đặt ra một loạt tên gọi không dựa trên hiểu biết về nhiễm thể học, nội tiết học hay bào thai học, và phân những người có giới tính không rõ thành nhiều loại như "ái nam ái nữ giả kiểu nam", "ái nam ái nữ giả kiểu nữ" hay "ái nam ái nữ đích thực".
Chỉ khi nào cả 2 tuyến sinh dục (cả tinh hoàn và buồng trứng) tồn tại trên một cá thể mới có thể gọi là ái nam ái nữ đích thực, điều này không thể xảy ra, trừ phi có sự kiện về nhiễm thể học và cũng rất hiếm. Những người này có thể sống được nhưng không thể sinh sản và giới hạn về khả năng tình dục vì các hormore nam đã triệt tiêu tác dụng của các hormore nữ và ngược lại.
Nhiều hình thái bệnh lý khiến trẻ sinh ra đã có cơ quan sinh sản không phù hợp với định nghĩa về nam hay nữ. Ví dụ một trẻ sinh ra bề ngoài là gái nhưng phần lớn cấu trúc giải phẫu bên trong cơ thể là nam. Tuy nhiên, cũng có trẻ sinh ra với cơ quan sinh dục ngoài không rõ nam hay nữ: ví dụ trẻ gái sinh ra với âm vật to hay không có cửa vào âm đạo; hoặc một bé trai sinh ra với dương vật nhỏ rõ rệt hoặc có bìu tách đôi giống như 2 môi lớn. Có khi trẻ sinh ra với cấu trúc gene hình khảm nên một số tế bào vừa có cặp nhiễm sắc thể giới XX và một số khác lại có cặp nhiễm sắc thể giới XY.
Giới mập mờ có thể do những rối loạn về thể nhiễm sắc hay hormore gây ra; thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau về mặt thể chất. Đây mặc dù là một bệnh bẩm sinh nhưng không phải lúc nào cũng bộc lộ ra ngay khi đẻ. Đôi khi tình trạng giải phẫu mập mờ về giới chỉ khám phá ra khi đến tuổi dậy thì hoặc tuổi trưởng thành do không thấy sinh sản được. Thậm chí có người đến khi chết già, qua giải phẫu thi thể người ta mới tình cờ biết là có giới không rõ ràng. Một số người chung sống suốt đời với tình trạng giới mập mờ mà không ai biết (ngay cả chính họ).
Có phải người giới tính mập mờ nào cũng có cơ quan sinh dục khó nhận biết là nam hay nữ? Câu trả lời là không. Cơ quan sinh dục ngoài có khi mập mờ nhưng cũng có khi hoàn toàn giống nữ hay nam. Ví dụ, bé gái sinh ra với cặp nhiễm sắc thể XY và mắc hội chứng không nhạy cảm với androgeăcsex có cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nữ. Và một số trẻ sinh ra với cặp XX nhưng có hội chứng quá sản bẩm sinh đường thượng thận thì cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nam. Lớn lên, dĩ nhiên trẻ sẽ nhận thấy sự khác biệt và khi đó nó sẽ tự quyết định thuộc giới nào dựa trên cảm nhận về bản sắc giới. Y học hiện đại và tâm lý học có vai trò quan trọng để bảo đảm quyền được chuyển giới cho một số người giới mập mờ và rối loạn bản sắc giới.
Nhân cách của người có giới mập mờ thế nào? Còn tùy theo nguyên nhân thực thể; bất thường nặng gây tâm lý trả giám, trí tuệ chậm chạp. Có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ có giới mập mờ không được nhúng tay vào ngoại khoa vẫn có thể lớn lên bình thường. Y văn đã từng nêu 2 trường hợp phụ nữ đã lớn lên với âm vật to; ngay cả con trai có dương vật nhỏ cũng có thể trưởng thành bình thường, nếu không nhúng tay vào ngoại khoa và được nuôi dưỡng, giáo dục đúng đắn.
Có thể khai sinh là trai hay gái cho cá thể có giới mập mờ mà không cần nhúng tay vào ngoại khoa? Thông thường, muốn quy định một trẻ giới mập mờ là trai hay gái thì cần làm một số thăm dò về hoóc môn, nhiễm thể, điện quang và tham khảo ý kiến thầy thuốc về giới dễ có ở trẻ khi trưởng thành. Ví dụ, tuyệt đại đa số trẻ bị hội chứng không nhạy cảm hoàn toàn với androgen khi lớn lên cảm thấy mình là nữ và nhiều trẻ phì đại âm vật với cặp nhiễm sắc thể XY sẽ lớn lên với cảm nhận mình là nam. Hội nghiên cứu về giới mập mờ Bắc Mỹ (ISNA) chủ trương quy định cho trẻ sơ sinh có giới mập mờ thuộc nam hay nữ nhưng đây chỉ là bước chuẩn bị; vì sau này trẻ có thể cho rằng người ta đã quy định lầm giới cho mình và muốn chuyển sang giới khác.
Trẻ có biểu hiện giới mập mờ có tỷ lệ chuyển giới cao hơn rõ rệt so với dân số chung. Đó là lý do chính yếu không nên nhúng tay vào ngoại khoa sớm khi chưa có sự đồng ý của họ. Cơ quan sinh dục đã tạo hình từ nhỏ sẽ rất khó sửa lại, nếu như không muốn nói là không thể. Vì vậy, việc nhúng tay vào ngoại khoa để sửa chữa lại cơ quan sinh dục nên được trì hoãn đến độ tuổi mà trẻ có thể cảm nhận mình thuộc giới nào và tự quyết định.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 5:22:33 GMT 9
Ái nam ái nữ - truyền thuyết và khoa học
Theo thần thoại Hy Lạp, loài người gồm 3 giới: đực, cái và vừa đực vừa cái. Vì làm cho thần Zeus nổi giận nên nhân loại bị trừng phạt bằng cách tách từng người ra làm hai nửa: chỉ là nam hoặc là nữ. Sự chia cắt đó khiến loài người luôn tìm kiếm một nửa của mình, tạo nên hiện tượng mà ta gọi là tình yêu.
Truyền thuyết về những người có giới tính mập mờ đã xuất hiện từ thời cổ đại. Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai: Hermaphrodite. Một nữ thần khác yêu Hermaphrodite nhưng bị khước từ nên đã có lời ước nguyện là cơ thể của 2 người được nhập làm một. Điều mong ước đó đã được chấp thuận, làm xuất hiện con người vừa là nam vừa là nữ. Hình tượng được thể hiện như một người vừa có * vừa có dương vật. Thần thoại Hy Lạp cũng nói đến Tiresias là người mà theo huyền thoại khi thì là đàn ông khi thì là phụ nữ.
Trong sinh học, trạng thái vừa đực vừa cái một cách tự nhiên có thể thấy ở một số loài, ví dụ con sên khi là đực khi là cái trong suốt cuộc đời của nó. Thời cổ đại, người ta coi những trẻ có "giới mập mờ" là kẻ có kỳ tích sự nổi giận của các thần; và họ bị giết ngay. Cho đến gần đây, cách hành xử này vẫn tồn tại ở một số nước. Tuy nhiên một số trường hợp giới tính mập mờ lại được coi là mô hình của sự trùng hợp những yếu tố đối lập, quy tụ sức mạnh thần bí và tôn giáo gắn với mỗi cá thể mang 2 giới. Trong trường hợp này, cá thể được trao cho những quyền năng của cả 2 giới bằng nhiều thực hành có tính nghi thức, đặc biệt là sự thay đổi trang phục.
Trước đây, nhóm dân số có giới tính mập mờ thường gọi là ái nam ái nữ. Nếu xảy ra cho một gia đình, điều này gây ra nhiều sự lo lắng, thậm chí kinh hoàng. Có nhiều lý do để cần quan tâm: các bậc cha mẹ sinh con có giới mập mờ sẽ phải nuôi dưỡng, giáo dục như thế nào để không tổn thương đến sự phát triển tâm lý và vai trò xã hội của chúng; các thày thuốc cần nhúng tay vào vào thời điểm nào để đáp ứng đúng nguyện vọng của trẻ; tương lai của những trẻ có giới mập mờ sẽ ra sao nếu không được nhúng tay vào... Ngoài ra còn nhiều vấn đề cần giải đáp khác và chỉ có sự hiểu biết mới có thể cải thiện phẩm chất sống cho nhóm dân số này.
Thuật ngữ ái nam ái nữ (hermaphrodite) hầu như không còn được dùng nữa vì không phù hợp. Giới y học đề nghị dùng một thuật ngữ thay thế là giới trung gian (intersex), giới mập mờ hay lẫn lộn (ambigous androgyne). Các thầy thuốc trước đây tin rằng đường sinh dục là dấu hiệu chính yếu để xếp con người thuộc một giới nào đó. Vì vậy, họ đã đặt ra một loạt tên gọi không dựa trên hiểu biết về nhiễm thể học, nội tiết học hay bào thai học, và phân những người có giới tính không rõ thành nhiều loại như "ái nam ái nữ giả kiểu nam", "ái nam ái nữ giả kiểu nữ" hay "ái nam ái nữ đích thực".
Chỉ khi nào cả 2 tuyến sinh dục (cả tinh hoàn và buồng trứng) tồn tại trên một cá thể mới có thể gọi là ái nam ái nữ đích thực, điều này không thể xảy ra, trừ phi có sự kiện về nhiễm thể học và cũng rất hiếm. Những người này có thể sống được nhưng không thể sinh sản và giới hạn về khả năng tình dục vì các hormore nam đã triệt tiêu tác dụng của các hormore nữ và ngược lại.
Nhiều hình thái bệnh lý khiến trẻ sinh ra đã có cơ quan sinh sản không phù hợp với định nghĩa về nam hay nữ. Ví dụ một trẻ sinh ra bề ngoài là gái nhưng phần lớn cấu trúc giải phẫu bên trong cơ thể là nam. Tuy nhiên, cũng có trẻ sinh ra với cơ quan sinh dục ngoài không rõ nam hay nữ: ví dụ trẻ gái sinh ra với âm vật to hay không có cửa vào âm đạo; hoặc một bé trai sinh ra với dương vật nhỏ rõ rệt hoặc có bìu tách đôi giống như 2 môi lớn. Có khi trẻ sinh ra với cấu trúc gene hình khảm nên một số tế bào vừa có cặp nhiễm sắc thể giới XX và một số khác lại có cặp nhiễm sắc thể giới XY.
Giới mập mờ có thể do những rối loạn về thể nhiễm sắc hay hormore gây ra; thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau về mặt thể chất. Đây mặc dù là một bệnh bẩm sinh nhưng không phải lúc nào cũng bộc lộ ra ngay khi đẻ. Đôi khi tình trạng giải phẫu mập mờ về giới chỉ khám phá ra khi đến tuổi dậy thì hoặc tuổi trưởng thành do không thấy sinh sản được. Thậm chí có người đến khi chết già, qua giải phẫu thi thể người ta mới tình cờ biết là có giới không rõ ràng. Một số người chung sống suốt đời với tình trạng giới mập mờ mà không ai biết (ngay cả chính họ).
Có phải người giới tính mập mờ nào cũng có cơ quan sinh dục khó nhận biết là nam hay nữ? Câu trả lời là không. Cơ quan sinh dục ngoài có khi mập mờ nhưng cũng có khi hoàn toàn giống nữ hay nam. Ví dụ, bé gái sinh ra với cặp nhiễm sắc thể XY và mắc hội chứng không nhạy cảm với androgeăcsex có cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nữ. Và một số trẻ sinh ra với cặp XX nhưng có hội chứng quá sản bẩm sinh đường thượng thận thì cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nam. Lớn lên, dĩ nhiên trẻ sẽ nhận thấy sự khác biệt và khi đó nó sẽ tự quyết định thuộc giới nào dựa trên cảm nhận về bản sắc giới. Y học hiện đại và tâm lý học có vai trò quan trọng để bảo đảm quyền được chuyển giới cho một số người giới mập mờ và rối loạn bản sắc giới.
Nhân cách của người có giới mập mờ thế nào? Còn tùy theo nguyên nhân thực thể; bất thường nặng gây tâm lý trả giám, trí tuệ chậm chạp. Có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ có giới mập mờ không được nhúng tay vào ngoại khoa vẫn có thể lớn lên bình thường. Y văn đã từng nêu 2 trường hợp phụ nữ đã lớn lên với âm vật to; ngay cả con trai có dương vật nhỏ cũng có thể trưởng thành bình thường, nếu không nhúng tay vào ngoại khoa và được nuôi dưỡng, giáo dục đúng đắn.
Có thể khai sinh là trai hay gái cho cá thể có giới mập mờ mà không cần nhúng tay vào ngoại khoa? Thông thường, muốn quy định một trẻ giới mập mờ là trai hay gái thì cần làm một số thăm dò về hoóc môn, nhiễm thể, điện quang và tham khảo ý kiến thầy thuốc về giới dễ có ở trẻ khi trưởng thành. Ví dụ, tuyệt đại đa số trẻ bị hội chứng không nhạy cảm hoàn toàn với androgen khi lớn lên cảm thấy mình là nữ và nhiều trẻ phì đại âm vật với cặp nhiễm sắc thể XY sẽ lớn lên với cảm nhận mình là nam. Hội nghiên cứu về giới mập mờ Bắc Mỹ (ISNA) chủ trương quy định cho trẻ sơ sinh có giới mập mờ thuộc nam hay nữ nhưng đây chỉ là bước chuẩn bị; vì sau này trẻ có thể cho rằng người ta đã quy định lầm giới cho mình và muốn chuyển sang giới khác.
Trẻ có biểu hiện giới mập mờ có tỷ lệ chuyển giới cao hơn rõ rệt so với dân số chung. Đó là lý do chính yếu không nên nhúng tay vào ngoại khoa sớm khi chưa có sự đồng ý của họ. Cơ quan sinh dục đã tạo hình từ nhỏ sẽ rất khó sửa lại, nếu như không muốn nói là không thể. Vì vậy, việc nhúng tay vào ngoại khoa để sửa chữa lại cơ quan sinh dục nên được trì hoãn đến độ tuổi mà trẻ có thể cảm nhận mình thuộc giới nào và tự quyết định.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 5:11:50 GMT 9
Phòng Tránh Rủi Ro Khi Làm Đẹp MóngNguyễn Ý-Đức Trang điểm cho mười móng tay, móng chân đẹp không chỉ là nhu cầu khi đi dự tiệc vui mừng, cưới hỏi hoặc thăm viếng xã giao, mà còn là chuyện thường phải có đối với nữ giới. Muốn có một bàn tay với các móng rạng rỡ màu sắc, bàn chân với móng gọt giũa đều đặn, người sành điệu thường đến nail salons. Vì họ cho là sẽ được chăm sóc an toàn hơn khi làm lấy ở nhà. Nhưng chính nơi đây, nhiều rủi ro gây ra ảnh hưởng xấu cho sức khỏe đã đợi sẵn. Đó là một vài hậu quả của thành phần hoá chất dùng trong nghề làm móng cũng như do sơ sót kỹ thuật của nhân viên hoặc trang bị thiết kế ở tiệm không đúng tiêu chuẩn. Trên toàn nước Mỹ có tới gần 60.000 tiệm nail với số nhân viên là trên 300.000 trong đó người Việt Nam chiếm quá nửa. Có nhận xét cho rằng đồng hương ta được sanh ra với một khéo léo tuyệt vời của đôi bàn tay trong việc chăm sóc bộ móng, cho nên khách sẵn sàng tín nhiệm. Nghề nail đã tạo ra một thương vụ lên tới cả dăm tỷ mỹ kim mỗi năm. Nhưng kỹ nghệ này hầu như bị bỏ quên với rất ít nghiên cứu về hậu quả đối với sức khỏe cũng như tổn thất tài chính do các hóa chất ô nhiễm trong tiệm gây ra cho nhân viên, khách hàng và dân chúng kế cận. Hóa Chất Thường Dùng Theo cơ quan FDA, “nhiều sản phẩm trong kỹ nghệ làm móng chứa một số thành phần có khả năng gây hại nhưng vẫn được lưu hành vì chúng an toàn khi dùng theo đúng hướng dẫn. Chẳng hạn một vài thành phần làm móng chỉ gây hại nếu nuốt vào mà nuốt vào không phải là chỉ định” Có điều là đa số hóa chất dùng trong tiệm móng đều dễ bay hơi, hòa lẫn trong không khí mà nhân viên cũng như khách sẽ hít thở. Chúng đã được xếp vào loại có thể gây khó khăn cho sức khỏe của nhân viên, đôi khi lại nhiều hơn là ô nhiễm ở các khu kỹ nghệ. Ảnh hưởng này cần được nghiên cứu để đưa ra biện pháp phòng ngừa. Các hóa chất thường dùng gồm có: Móng nhân tạo với liquid như Ethyl Methacrylate (EMA), Methyl Methacrylate (MMA) monomer; Bột đắp như Benzoyl Peroxide, Poly Ethyl Methacrylate, Poly Methyl Methacrylate; Chất lót (primer) như Methacrylic acid, 2-Propanol; -Sơn móng tay có 2-Propanol, Ethanol Acetate, Titanium Dioxide; -Hóa chất chùi nail polish như Acetone, 2-Propanol; -Hóa chất bóc móng nhân tạo có Acetone; -Làm bóng móng tay có Butyl acetate, Ethyl Acetate, Nitrocellulose, các chất Phthalates, Titanium Dioxide, Toluene, Formaldehyde và Camphor. Ba chất được nhắc nhở tới là: 1-Nhóm Phthalates với Phthalate dibutylphthalate (DBP), dimethylphthalate (DMP), and diethylphthalate (DEP). Các chất này được dùng với nồng độ dưới 10% trong các sản phẩm làm giảm nứt nẻ gẫy móng và trong keo xịt tóc để tạo lớp phủ mỏng dễ uốn trên tóc. Theo FDA, chưa có đủ dữ kiện để kết luận có rủi ro sức khỏe gây ra do các chất này, do đó cơ quan chưa ra các biện pháp điều chỉnh. Về rủi ro gây rối loạn sinh sản khi tiếp xúc với các chất Phthalates thì Viện Y học Quốc gia Hoa Kỳ kết luận là rất ít, không đáng kể. 2-Chất Formaldehyde để làm móng cứng có thể gây ra dị ứng đối với người nhạy cảm với chất này. Do đó nên coi kỹ nhãn hiệu của mỹ phẩm để tránh phản ứng bất lợi. 3-Toluene được dùng như chất hòa tan trong nhiều mỹ phẩm móng như làm bóng móng, cứng móng và lau sạch sơn móng. Chất này đã được một cơ quan của FDA nghiên cứu vào năm 1987 và đưa ra kết luận là an toàn khi dùng trong mỹ phẩm móng ở nồng độ không quá 50%. Tuy vậy, Toluene và Formaldehyde đã được khuyến cáo lấy ra khỏi mỹ phẩm làm bóng móng tay. Nhiễm Độc Móng Dù là làm ở tiệm hay ở nhà, móng có thể bị nhiễm độc vì vi khuẩn, virus hoặc nấm độc, nhất là khi gắn móng giả. Dấu hiệu của nhiễm độc gồm có da sưng đỏ, ngứa, đau, mưng mủ. Một va chạm vào móng giả có thể làm móng cong và tạo ra khoảng trống giữa móng giả-móng thật và bụi bậm sẽ bám vào. Nếu gắn keo móng đó lại mà không khử trùng cẩn thận thì vi khuẩn sẽ ăn hư móng nguyên thủy. Khi móng tự nhiên mọc dài, sẽ có một khoảng cách giữa móng thật và móng giả. Nếu khoảng cách không được lấp kín, vi khuẩn sẽ xâm nhập và gây bệnh. Chất acrylic nail để lâu quá, hơi ẩm sẽ đọng lại và là môi trường tốt cho nấm độc phát sinh. Dùng chung dụng cụ cho nhiều thân chủ, nhiễm độc cũng có thể xẩy ra. Biểu bì là phần da bao che quanh chân móng. Nếu cắt nó quá sâu thì tác nhân gây nhiễm cũng dễ xâm nhập, vì thế các bác sĩ ngoài da khuyên không nên đụng tới biểu bì. Khi móng giả mà bị nhiễm thì phải tháo bỏ và khử trùng móng tự nhiên. Ngoài ra còn các phản ứng dị ứng như viêm da, da mần ngứa vì chất formaldehyde trong keo hoặc thuốc làm bóng móng. Mặc dù hiếm hoi nhưng sản phẩm dùng trong tiệm nail đôi khi cũng gây ra bệnh tật, ngay cả tử vong nếu chẳng may uống nhầm, nhất là trẻ em. Đề Phòng Rủi Ro Phòng ngừa các rủi ro là việc mà chủ nhân, nhân viên, khách hàng cũng như cơ quan Lao Động Y Tế cần phối hợp thực hiện để mọi người liên hệ tới ngành nghề nail được an toàn. 1-Chủ Tiệm Với Cơ Sở Đã có nhiều mũi dùi hướng về các tiệm nail của người Việt, than phiền kém vệ sinh thoáng khí, phá giá, công việc không được thực hiện cẩn thận. Trước đây, có một vài cơ quan truyền thông lớn của Mỹ đã liên tục nói về việc này, với thiên kiến, nhìn khác biệt. Họ than phiền nhiều tiệm nail không kiểm soát được rủi ro do hóa chất làm móng giả gây ra cũng như từ sơn móng tay, keo gắn móng, chất lau sơn móng tay. Mặc dù thống kê cho thấy mức độ hơi khói và bụi hóa chất ở dưới mức độ cho phép, nhưng chuyên viên móng vẫn có thể mắc các bệnh như khó thở, hen suyễn do Ethyl Methacrylates gây ra. Thường thường làm một bộ nail cần khoảng 1 gr bột có EMA và 0.5 oz chất lỏng. Theo luật, mức độ tối đa của EMA trong tiệm là 100 part per million (ppm) trong 8 giờ làm việc, 40 giờ một tuần. Nhiều người thấy cay mắt khi nồng độ EMA trong không khí là 0.05 ppm. Giả thử là có 5 người làm móng một lúc thì nồng độ EMA có thể là 30 ppm, vậy thì suốt 8 giờ các người thợ đó đã chịu ảnh hưởng không tốt của EMA. Những hạt bụi thoát ra từ giũa mài móng đều rất nhỏ (PM 2.0). Hạt càng nhỏ thì càng nguy hại vì chúng dễ dàng vượt qua các hàng rào cản ở mũi, cuống phổi và dễ xâm nhập vào góc sâu của lá phổi và đưa tới tổn thương như hen suyễn. Trong bụi có pha lẫn các chất như keo dán và methacrylate polymers. Theo Luật Lao Động, chủ tiệm có bổn phận cung cấp cho nhân viên một môi trường làm việc an toàn và lành mạnh, không gây hại đến sức khỏe. Chủ nhân cần tuân theo các đòi hỏi tối thiểu sau đây: -Cơ sở phải có giấy phép hoạt động do chính quyền địa phương cấp. -Sử dụng và cất giữ các hóa chất cẩn thận. Tuân theo các hướng dẫn của nhà sản xuất cũng như coi kỹ Bản Liệt Kê An Toàn Vật Liệu (Material Safety Data Sheet-MSDS). -Cung cấp MSDS cho mọi nhân viên làm việc trong tiệm. -Cung cấp thùng rác có nắp đậy kín khi không dùng để tránh mùi, bụi bay ra ngoài. -Gói kín các vật liệu lau chùi móng trong túi nhựa trước khi vứt bỏ, vì hóa chất trong các vật này có thể bốc hơi, lẫn vào không khí trong tiệm. -Có các chai lọ miệng nhỏ đựng hóa chất để giảm thiểu hơi và mùi có hại bay ra ngoài, -Đặt các thiết bị hút hơi và bụi trên bàn làm móng để hút hơi xuống dưới rồi đưa ra ngoài. -Kiểm tra hệ thống thoát hơi trong tiệm để lưu chuyển không khí ra ngoài. -Tuyển lựa nhân viên có bằng hành nghề, huấn luyện nhân viên cách sử dụng máy móc, hóa chất. -Giữ dụng cụ và phương tiện làm móng sạch sẽ, không nhiễm độc. Theo cơ quan Quốc Gia An Toàn và Lành Mạnh Nghề Nghiệp (NIOSH) thì thiết bị thoáng hơi tại bàn bảo vệ nhân viên rất tốt đối với hơi hóa chất EMA. Cũng như với bất cứ môi trường trong nhà nào, các tiệm làm móng cần được thoáng khí với lượng thích hợp không khí trong sạch từ ngoài vào. Tối thiểu, lượng khí ngoài vào phải là 25 feet khối cho mỗi nhân viên trong một phút. Để tránh ô nhiễm lan sang cơ sở lân cận, hệ thống thông hơi của tiệm móng cần thiết trí riêng biệt và cũng cần có tường ngăn vững chắc, không kẽ hở. Ngoài ra, quý vị chủ tiệm cũng nên liên lạc với cơ quan y tế, lao động coi có các đòi hỏi gì khác về nghề nghiệp của mình. 2-Nhân Viên Danh từ “Chuyên Viên Làm Móng” (nail technician) được dùng nhiều hơn là “Người Cắt Sửa Móng” (manicurist) của mấy chục năm về trước vì hiện nay họ làm nhiều dịch vụ khác hơn là chỉ cắt sửa móng tay móng chân. Muốn thành chuyên viên làm móng cũng không phải dễ. Họ cần được huấn luyện với một số giờ nhất định trong 10 tuần lễ, tổn phí trên dưới1000 mỹ kim. Sau đó phải thi lấy bằng hành nghề rồi đi thực tập trước khi thực sự trở thành chuyên viên. Có nơi cho thi bằng tiếng Việt, nhưng đa số thi bằng Anh ngữ. Nhưng người Việt ta cũng dễ dàng vượt qua chuyện thi cử và dễ dàng kiếm được công ăn việc làm nuôi sống gia đình. Công việc của họ thường là gắn móng giả, giũa sửa móng chân tay. Trước khi gắn móng giả, chuyên viên phải mài giũa móng tự nhiên, cắt da dư quanh móng với dao kéo sắc. Tất cả đều tạo ra những bụi hóa chất có thể gây khó chịu cho chuyên viên mà sau một ngày làm việc hầu hết cảm thấy mệt mỏi, vì hít thở không khí ô nhiễm hóa chất ở tiệm. Để tránh các rủi ro, nhân viên cần áp dụng các phương thức tự phòng như: -Coi xem cơ sở làm việc có hội đủ điều kiện an toàn tối thiểu theo luật định. -Yêu cầu chủ hướng dẫn cách dùng các hóa chất, tác dụng không tốt và các rủi ro khi tiếp cận với hóa chất hiện đang dùng trong tiệm. Đọc kỹ bản MSDS. -Sử dụng các vật bảo vệ cá nhân như khẩu trang, bao tay cao su, kính che mắt, mặc áo tay dài. -Rửa tay, cánh tay, mặt với xà bông nhẹ và nước lạnh sau khi làm móng nhiều lần trong ngày để tránh bụi hóa chất dính bám trên người. -Bỏ rác lau chùi có hóa chất trong túi kín, để trong thùng rác có nắp. Đổ thùng rác mỗi ngày. -Đậy kín chai lọ đựng hóa chất ngay sau khi dùng. Đựng hóa chất trong chai lọ miệng nhỏ, có nắp tự động, ít một, khi hết lấy tiếp. -Sử dụng các dụng cụ gọt giũa móng đã khử trùng bằng hơi nóng hoặc hóa chất với mọi cẩn thận để tránh thương tích cho khách. -Không ăn uống nơi gắn móng. Methacrylate trong móng giũa có thể lẫn trong muỗng, ly, và ăn lẫn với thực phẩm. -Không hút thuốc trong tiệm để tránh hỏa hoạn cũng như hít thêm nhiều hơi hóa chất. 3-Khách Hàng Khi trả tiền để được phục vụ, khách có quyền đòi hỏi sự hoàn hảo, an toàn từ dịch vụ đó. Bình thường thì tới làm móng sẽ không có rủi ro gì nếu chủ tiệm và nhân viên áp dụng đúng đắn quy luật nghề nghiệp và lương tri con người. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xẩy ra, nên khách cần lưu ý ở vài điểm: -Chính những khách hàng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc yêu cầu chủ tiệm thiết lập trang bị để thanh lọc ô nhiễm trong tiệm. Tiệm được cơ quan chính quyền thanh tra theo định kỳ -Tới lui tiệm nào mà mình đã tín nhiệm sau nhiều lần dùng dịch vụ của họ. -Coi xem tiệm và chuyên viên móng có giấy phép hành nghề không. -Quan sát xem tiệm có sạch sẽ, thoáng khí, có mùi khó chịu của hóa chất. -Hỏi xem dụng cụ làm móng được khử trùng bằng cách nào. -Trước khi làm móng, cả nhân viên lẫn khách đều rửa tay sạch bằng xà bông và nước ấm. -Mỗi khách đều có một bát mới có nước xà bông để ngâm móng trước và sau khi làm móng. -Nếu muốn, có thể yêu cầu chuyên viên mang bao tay cao su để tránh lây truyền các bệnh nhiễm như viêm gan, HIV... Điểm son là theo CDC cho tới nay chưa có trường hợp truyền bệnh do máu từ hoặc cho nhân viên làm nail. -Nếu thấy chuyên viên không cẩn thận trong việc làm, có thể gây thương tổn cho bàn tay, yêu cầu ngưng ngay và cho chủ tiệm hay. -Thông báo cho chính quyền mọi rủi ro hóa chất, vi phạm nghề nghiệp mà mình nhận thấy, để giúp dịch vụ an toàn hơn cho mọi người. 4-Chính Quyền Thường thường các quy luật về môi trường đều tập trung vào nguồn xuất phát của chất độc ô nhiễm và ít quan tâm tới số lượng các chất mà con người đã tiếp cận với cũng như ảnh hưởng của chúng trên sức khỏe. Riêng ngành nail mặc dù rất phát triển nhưng ít được chú ý đến. Cho đến nay, có rất ít các nghiên cứu về sự thiệt hại cho sức khỏe của nhân viên và khách hàng khi các hóa chất không được dùng đúng chỉ dẫn trong tiệm. Chỉ trong thời gian gần đây các cơ quan chính quyền như cơ quan Bảo Vệ Môi Sinh và văn Phòng An Toàn Lành Mạnh Nghề Nghiệp mới lưu tâm nhiều tới các rủi ro do hóa chất gây ra ở tiệm móng. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành và phương thức phòng ngừa được ban hành. Cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh cũng đưa ra các biện pháp để phòng ngừa nhiễm bệnh do máu lan truyền như viêm gan, liệt kháng HIV. Theo cơ quan này thì cho tới nay chưa có trường hợp lan truyền các bệnh vừa kể từ nhân viên làm móng cho khách và ngược lại, nhưng có nhiều trường hợp nhiễm thông thường đã được công bố. Các sản phẩm về nail được cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ kiểm soát và được coi như mỹ phẩm tức là chất để làm sạch, làm đẹp, làm tăng sự hấp dẫn hoặc thay đổi vẻ dáng của con người. Các chất này phải không có rủi ro có thể gây ra tổn thương cho người tiêu thụ và phải có nhãn hiệu với thành phần các hóa chất theo thứ tự nhiều tới ít. Cơ quan này không kiểm tra mỹ phẩm hoặc sản phẩm làm móng trước khi được tung ra thị trường, nhưng sẽ thanh tra cơ sở và lấy mẫu hàng để phân chất khi cần. Nếu có người khiếu nại về sản phẩm thì cơ quan sẽ có biện pháp đối phó. Nhà sản xuất cũng tự nguyện báo cáo cho cơ quan về tác dụng không tốt của sản phẩm. Rủi ro cũng được cung cấp từ giới tiêu thụ, y giới, chuyên viên làm móng và từ các nhà sản xuất cạnh tranh nhau. Các tiệm làm móng thường được đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền tiểu bang với Văn Phòng Thẩm Mỹ. Mỗi tiểu bang đều có quy luật riêng áp dụng cho tiệm móng cũng như chuyên viên làm móng. Các quy luật này đều nhắm vào việc bảo vệ nhân viên cũng như khách hàng. Chuyên viên phải học và thi lấy bằng hành nghề do Văn Phòng Thẩm Mỹ tổ chức. Vì nghề làm móng dễ dàng mang lại nhiều lợi nhuận cho nhân viên nên đã có nhiều trường hợp mua bán giấy phép hành nghề cũng như hành nghề không giấy phép. Tiệm phải hội đủ điều kiện vệ sinh và được thanh tra thường xuyên. Nhưng trên thực tế, nhiều tiểu bang không có đủ nhân viên làm công việc kiểm tra nên rủi ro vẫn xẩy ra. Các trang bị cũng như dụng cụ sử dụng đều phải sạch sẽ, khử trùng; nước nóng nước lạnh đầy đủ, cơ sở thoáng khí, khang trang. Kết Luận Nghề nào cũng có những rủi ro và sinh ư nghệ, tử ư nghệ vẫn là câu nói thường được nhắc nhở. Nhắc nhở không phải để hù dọa mà để ta đề cao cảnh giác, áp dụng các phương thức hữu hiệu ngõ hầu ngăn ngừa thiệt hại, bệnh tật. Nghề làm móng cũng không tránh khỏi quy luật này. Có những phương thức rất hữu hiệu để phòng ngừa, những trang bị tốt để giảm thiểu rủi ro. Nếu mọi người liên hệ đều áp dụng thì ngành nghề nail sẽ trở nên an toàn cho khách và thợ; mang lại nhiều lợi nhuận cho chủ và nhân viên. Ngoài ra, các nhà sản xuất mỹ phẩm móng cũng nên cải tiến và loại bỏ thành phần có thể gây rủi ro cho sức khỏe như dibutyl phthalate, formadehyde và toluene. Mong vậy thay. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ Tháng 5-2010
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 14, 2010 7:37:10 GMT 9
Mệt Mỏi Kinh Niên Nguyễn Ý-Đức Hội chứng Mệt Mỏi Kinh Niên (Chronic Fatigue Syndrome) không phải là vấn đề mới lạ. Bệnh đã được mô tả từ thế kỷ thứ 19. Rồi trong thập niên 30 tới 50 của thế kỷ trước, có nhiều trường hợp bệnh xẩy ra tại các quốc gia trên thế giới. Vào năm 1980, sự lưu tâm tới hội chứng này tăng lên và đã có nhiều triệu người đi khám bác sĩ với than phiền luôn luôn mệt mỏi, không có sinh lực. Định nghĩa Hội chứng này được định nghĩa như tình trạng mệt mỏi kéo dài quá sáu tháng, gây ảnh hưởng xấu tới các sinh hoạt hàng ngày và không do một bệnh nào về thể xác gây ra. Đặc tính của tình trạng mệt mỏi là: a- Phải trầm trọng đến nỗi nghỉ và ngủ không làm thuyên giảm. b- Mệt mỏi không gây ra do làm việc hay tập dượt nặng nhọc. c- Mệt mỏi ảnh hưởng tới mọi công việc thường lệ. đ-Mệt mỏi phải là hiện trạng mới chứ không phải do một bệnh tật nào đó, và phải kéo dài liên tục. Hội chứng Mệt Mỏi Kinh Niên khá phổ thông nhất là tại các quốc gia kỹ nghệ cao. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, hội chứng này vẫn được coi như là một bệnh kinh niên có nhiều điều chưa được sáng tỏ. Khác với các bệnh truyền nhiễm vì hội chứng không do một vi khuẩn rõ ràng nào gây ra. Không như bệnh tiểu đường, bệnh thiếu hồng cầu vì mệt mỏi kinh niên không thể đo lường. Lại chẳng như bệnh tim mạch vì phương thức trị liệu rất hiếm hoi. Bệnh có nhiều ở nữ giới hơn nam giới, trong khoảng tuổi từ 20 tới 50, thường thấy ở lớp người có kiến thức tương đối cao, khá hiểu biết về bệnh tật, có bảo hiểm sức khỏe và thường hay đi khám bác sĩ. Nữ giới có kinh kỳ bất thường bị chứng này nhiều hơn. Riêng đối với dân Mỹ, Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh cho hay cứ 100.000 người thì 3 người bị bệnh. Nguyên nhân Đã có nhiều thuyết được nêu ra để giải thích nguyên nhân của hội chứng này và các thuyết đều cho nó là tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Tuy vậy một số người trong y giới vẫn nghĩ rằng hội chứng chỉ là dấu hiệu của vài bệnh về tâm thần hay về thể xác, giống như sự thiếu hồng cầu, cao huyết áp trong một vài bệnh. Hầu như bất cứ một bệnh trạng kinh niên nào cũng gây ra mệt mỏi được như bệnh tiểu đường, u bướu giáp trạng, phong thấp khớp, viêm cơ tim, bệnh trầm cảm, lo âu. Sau đây là một số giải thích: 1- Thay đổi trong hệ thần kinh trung ương như viêm não, rối loạn sự điều hòa giấc ngủ, trung tâm kiểm soát căng thẳng, Cấu tạo dưới “đồi” (hypothalamus) bị xáo trộn; giảm chất cortisol hoặc hóa chất trung gian thần kinh. 2- Nhiễm độc đặc biệt là với các loại virus. 3- Suy yếu hệ thống miễn nhiễm phòng vệ cơ thể. 4- Ở một số người bị Mệt Mỏi Kinh Niên, huyết áp xuống thấp khi họ đứng lên. Nguyên do là có một thay đổi ở hệ thần kinh khiến nhịp tim chậm lại, huyết áp giảm, máu dồn xuống chân, gây ra chóng mặt, buồn nôn, ngất xỉu. 5- Sự suy yếu chung của các bắp thịt và hệ thống xương cốt cũng được nêu ra như một giải thích cho hội chứng. 6- Nhiều người đôi khi bị rối loạn hô hấp, hơi thở dồn dập, căng thẳng quá mức, có thể đưa đến ho suyễn, lo âu, tức ngực, tê đầu ngón chân tay vì mất thăng bằng giữa dưỡng khí và thán khí trong cơ thể. 7- Sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1990, nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ nhất là nữ giới bị hội chứng này. Sự việc được giải thích là sự căng thẳng cơ thể khiến máu lưu thông trên óc giảm, virus dễ xâm nhập và gây ra hội chứng. 8- Một số dược phẩm gây ra mệt mỏi như thuốc chữa bệnh cao huyết áp, đau nhức, thuốc tâm thần, thuốc trị dị ứng. Triệu chứng Việc chẩn đoán bệnh đều căn cứ vào lời khai của bệnh nhân về các dấu hiệu, y sử cá nhân, gia đình, các thuốc đang dùng. Ngoài sự mệt mỏi, hội chứng cần có ít nhất bốn hay nhiều hơn những dấu hiệu sau đây để được xác định bệnh: 1-Mất trí nhớ ngắn hạn, kém tập trung vào việc làm, sự học hay các sinh hoạt khác; 2- Đau cuống họng; 3- Nổi hạch ở nách và cổ; 4- Đau nhức các bắp thịt; 5- Một số khớp xương bị đau nhưng không sưng hay đỏ; 6- Nhức đầu trầm trọng; 7- Mệt mỏi rã rời suốt ngày sau bất cứ một gắng sức nào; 8- Ngủ không ngon giấc hoặc có nhiều nhu cầu ngủ hơn thường lệ. Ta cũng cần lưu ý là có nhiều bệnh có thể nhầm lẫn với hội chứng này như trầm cảm, nhiễm độc, mang thai, chứng mất ngủ, tâm thân thường xuyên căng thẳng, sử dụng sức lực quá đáng, tiếp xúc với hóa chất môi trường độc, nghiện rượu, ma túy và nhiều bệnh khác. Cho nên khi ta bị mệt mỏi kéo dài cả tháng không bớt thì cần đi tham khảo bác sĩ. Tương lai của người bị bệnh rất khó đoán. Có trường hợp trầm trọng khiến phải nằm liệt giường vì không còn sức di chuyển, sinh hoạt. Nhẹ hơn có người cũng nói là không hoàn tất chu đáo được công việc hàng ngày. Nhiều người than phiền làm việc mà tâm trí để ở đâu đâu hoặc không làm được việc có tính cách tỉ mỉ. Cũng có người cảm thấy tự cô lập, giảm sinh hoạt, rơi vào tình trạng trầm buồn, ưu phiền. Điều trị Điều đáng tiếc là cho tới nay chưa có phương thức điều trị nào được coi như hữu hiệu, đáng tin cậy để chữa hội chứng mệt mỏi mà chỉ có thể làm nhẹ bớt khó khăn ngõ hầu bệnh nhân có thể tiếp tục các sinh hoạt hàng ngày. Các lời khuyên về việc áp dụng một nếp sống lành mạnh với tập luyện cơ thể vừa phải, ăn uống cân bằng bổ dưỡng, giữ tâm thân an lạc, hoạt động vừa sức, tất cả đều có ích. Bác sĩ có thể cho dùng vài loại thuốc an thần, chống đau để làm bớt trầm cảm, đau đớn thể xác. Vài trung tâm điều trị khảo cứu có dùng mấy loại thuốc mới như Ritalin, Corticosteroid…Ta có thể xin bác sĩ gia đình giới thiệu tới các trung tâm này để dung thử. Ngoài ra, một số người bệnh còn tìm sự chữa trị ở các phương pháp khác như châm cứu, Đông y cổ truyền, thuốc ta. Có bệnh thì vái tứ phương là vậy. Nhưng nên đề phòng khi có người khoe khoang rằng họ có thuốc chữa dứt hội chứng,. Để khỏi rơi vào tình trạng tiền mất, tật mang. Chẳng hạn như là muốn khỏi bệnh chỉ nên dùng thuốc của họ. Rằng muốn hết mệt mỏi thì phải sinh hoạt thường xuyên với họ cũng như mua thuốc trực tiếp qua các cơ sở thương mại của họ, với giá tiền quá cao. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 19, 2010 3:17:11 GMT 9
Michelangelo bị tự kỷ Thiên tài hội họa thời Phục hưng Michelangelo có thể đã mắc phải hội chứng Asperger, một hình thức nhẹ hơn của chứng tự kỷ, khiến người ta gặp khó khăn trong giao tiếp cộng đồng. Những người mắc hội chứng Asperger có thể là những thiên tài trong một số lĩnh vực như hội họa, âm nhạc và toán học. Nghiên cứu do các nhà chuyên gia Anh và Ireland thực hiện đã chứng tỏ Michelangelo có một số dấu hiệu phù hợp với hội chứng Asperger. "Michelangelo là một người cô độc và sống ẩn dật. Ông ấy có rất ít bạn bè", tiến sĩ Muhammad Arshad nói. Michelangelo, nhà điêu khắc, họa sĩ và nhà thơ người Italy, là một trong những nhân vật hàng đầu của thời kỳ Phục Hưng, giai đoạn hồi sinh của nền văn hóa và học vấn, đánh dấu sự kết thúc của thời Trung cổ. Trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm bức họa trên trần nhà của nhà thờ Sistine và bức tượng điêu khắc David vừa mới được khôi phục. Các nhà khoa học miêu tả ông là một người lạ lùng, tách biệt và bị ám ảnh bởi thế giới riêng mình. Cha, ông nội và một số anh em của ông đều có những triệu chứng của chứng tự kỷ. "Chế độ làm việc mẫn cán, lối sống khác thường, sở thích giới hạn, kỹ năng giao tế kém và một loạt những vấn đề trong cuộc sống đều là những dấu hiệu của chứng tự kỷ hay hội chứng Asperger", các nhà nghiên cứu kết luận. Hội chứng Asperger là một sự rối loạn phát triển, nhưng không giống những người mắc chứng tự kỷ, người bị hội chứng Asperger không gặp trở ngại trong việc phát triển ngôn ngữ. Không có biện pháp cứu chữa nào cho những bệnh nhân này. Nhưng có thể điều trị bằng liệu pháp tâm lý, giáo dục và rèn luyện, đào tạo kỹ năng xã hội... VnExpress (AFP) Đề phòng bệnh tự kỷ ở trẻ Sinh viên khoa tâm lý đang cùng giáo viên Trung tâm Phúc Tuệ dạy các em tự kỷ ám thị Tự kỷ là một căn bệnh quen thuộc trong điều trị tâm lý đã được phát hiện ngày một nhiều ở trẻ em. Ở VN, cùng với sự phát triển của xã hội, số trẻ mắc bệnh này ngày một tăng, nhưng các trung tâm điều trị lại quá ít. Phần đông người lớn hiểu chưa đầy đủ về tác hại của loại bệnh này, không ít trường hợp trẻ bị mắc bệnh tự kỷ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tại Trung tâm tư vấn phát hiện sớm và chăm sóc trẻ chậm phát triển trí tuệ, thuộc Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật VN, cháu Nguyễn Dương là một trong số 92 cháu đang điều trị và chăm sóc. Cháu đã bị mắc bệnh từ khi 18 tháng tuổi. Khi mới sinh, cháu là một đứa trẻ phát triển bình thường, khỏe mạnh. Chỉ đến khi ngôn ngữ nói của cháu ngày một mất dần, gia đình mới chợt nhận ra rằng, cháu bị mắc một chứng bệnh thần kinh nhưng không rõ là bệnh gì. Chị Phạm Tuyết Nhung - mẹ cháu Nguyễn Dương cho biết: "Trong số hàng chục cháu bé đến đây điều trị, nhiều cháu trông rất bình thường như bao đứa trẻ khác, thậm chí cha mẹ còn cho cháu là đứa trẻ thông minh vì rất giỏi vi tính hoặc am hiểu âm nhạc". Thực chất, những đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ đều rất sợ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhất là những người xung quanh. Các cháu chỉ muốn thu mình trong một không gian nhất định và chỉ thích chơi một loại đồ chơi. Nguyên nhân thì có nhiều: Mẹ bị sốt khi mang thai, tai biến khi sinh nở gây ảnh hưởng đến sự phát triển của não, nhưng nhiều khi cũng do ảnh hưởng của môi trường. Có không ít gia đình không hề biết rằng, việc giữ con em mình quá cẩn thận, không cho ra ngoài cũng có thể làm cho con em mình dễ mắc bệnh. Theo bà Đỗ Thúy Lan - Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát hiện sớm và chăm sóc trẻ em chậm phát triển trí tuệ: "bệnh tự kỷ không thể chữa khỏi, nhưng nếu được phát hiện và điều trị sớm, trẻ có thể hòa nhập trở lại với cộng đồng. Trên thế giới đã có nhiều trường hợp mắc bệnh này, nhưng do được điều trị và giáo dục đúng hướng đã trở thành tài năng...". Ở VN, đến thời điểm này vẫn chưa có một cơ sở điều trị nào do Nhà nước lập ra, mà chỉ có một vài trung tâm hoạt động từ thiện thuộc các tổ chức phi chính phủ hoặc tư nhân. Điều quan trọng lúc này là, các bậc cha mẹ khi phát hiện con mình có những biểu hiện bất thường về ngôn ngữ, giao tiếp thì nên đưa đến các cơ sở y tế hoặc các trung tâm để được điều trị kịp thời. Theo VTV Con bạn có mắc bệnh tự kỷ? Cập nhật 9/5/2006 1:01:04 AM Bệnh thường xuất hiện từ trước 3 tuổi. Trong 2 năm đầu đời, trẻ có thể phát triển, vận động tương đối bình thường; sau đó các khả năng đã có lại mất dần đi. Cha mẹ thường đưa con đi khám vì thấy cháu như bị điếc (gọi không trả lời) hoặc chậm nói. Nếu chú ý, phụ huynh sẽ nhận thấy những biểu hiện bất thường xuất hiện khá sớm từ khi trẻ mới 10-12 tháng tuổi. Trẻ hầu như thờ ơ, ít đòi hỏi chăm sóc hoặc luôn bứt rứt, quấy khóc, khó ngủ, ít cười hoặc không cười, không phát âm khi được dỗ nựng, ánh mắt đờ đẫn, không tinh nhanh. Khi đến 2-3 tuổi, các biểu hiện của tự kỷ dần dần bộc lộ rõ trong 3 lĩnh vực: Tương tác xã hội: Trẻ không nhìn vào mắt người khác khi giao tiếp, nét mặt thờ ơ, vô cảm; chỉ chơi tha thẩn một mình, không chơi với các trẻ khác, không thích khoe những thứ mình thích với mọi người. Một số trẻ lại gắn bó lệ thuộc với 1-2 người thân, thường là mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc. Khi cần một đồ vật gì ở cao hoặc xa, trẻ cầm tay người thân đến chỗ đồ vật và xem đó là “công cụ để nối dài tay” cho mình. Trẻ chỉ biết đến nhu cầu bản thân mà không quan tâm đến người xung quanh. Trong khi chơi đùa, trẻ không biết chơi tương tác, không biết luật của trò chơi, không biết chơi “giả vờ” mang tính xã hội. Ngôn ngữ: Trẻ chậm nói, chỉ nói một số từ đơn điệu, không nói được câu dài hoàn chỉnh. Một số trẻ không nói được từ nào rõ ràng mà chỉ nói những từ, những âm vô nghĩa, người khác nghe không hiểu. Ngoài ra, một số trẻ còn nói lắp, nói định hình một vài câu từ hoặc nói nhại người khác. Trẻ không hiểu ý nghĩa của từ, của lời nói; thường không biết bắt đầu câu chuyện với người khác thế nào và cũng không biết duy trì cuộc nói chuyện. Vì vậy, nhiều người cho rằng trẻ như một người từ hành tinh khác đến và xa lạ với thực tại. Hành vi: Trẻ có những hành vi định hình lặp lại vô nghĩa, nhiều khi làm rất lâu một cách thích thú những việc như: giơ tay nhìn bàn tay, ngắm sàn nhà, vỗ tay, vê hoặc xoắn vặn tay, quay tròn, lắc lư người, cười một mình... Trẻ thích chơi với một số đồ vật trong nhiều giờ như: giở xem tranh ảnh ở tạp chí, tháo các đồ vật nhỏ ra rồi tự lắp lại, cầm chong chóng quay, xoay tròn một đồ vật, lăn bóng qua lại... Trẻ không biết dùng đồ chơi theo đúng chức năng của nó. Một số trẻ có trí nhớ máy móc rất tốt, biết điều khiển tivi, đài, video rất thành thạo, do vậy bố mẹ lại cho rằng con mình “thông minh”. Có trẻ thích ăn những món nhất định; một số cảm thấy bứt rứt, khó chịu nếu trật tự trong phòng bị thay đổi. Nhiều bệnh nhi rất nhạy cảm với âm nhạc, thích nghe nhạc và nhún nhảy theo, hoặc chăm chú theo dõi các chương trình quảng cáo... Tùy thuộc vào sự biểu hiện của các triệu chứng mà người ta phân loại tự kỷ làm các mức độ nhẹ, vừa và nặng. Khoảng 70-80% trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ, 20-25% bị động kinh kèm theo. Số khác có thể tăng hoạt động, hung tính... Tỷ lệ mắc tự kỷ là 4-10/10.000 trẻ em, trẻ trai mắc nhiều hơn trẻ gái (gấp 3-4 lần). Bệnh nhi có thể lực bình thường nhưng hay bối rối, lo lắng, bi quan. Nguyên nhân gây chứng tự kỷ đến nay vẫn chưa được xác định đầy đủ. Qua các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học cho rằng tự kỷ là do di truyền bởi nhiều gene. Bên cạnh đó có những yếu tố khác như mẹ bị bệnh rubeolla khi mang thai, trẻ bị sang chấn não khi sinh, bệnh lý xơ cứng củ... Xem xét não của trẻ, các nhà nghiên cứu nhận thấy có một số bất thường ở bán cầu não trái, thùy thái dương, hệ Limbic và tiểu não. Nếu gia đình ít cho trẻ giao tiếp với bên ngoài thì mức độ tự kỷ của trẻ càng nặng hơn. Trẻ tự kỷ cần được điều trị sớm ngay từ khi phát hiện bệnh, hư cần được đánh giá, hướng dẫn tập luyện bởi đội ngũ nhiều chuyên gia như bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ tâm thần nhi, nhà tâm lý, cán bộ phục hồi chức năng, nhà trị liệu ngôn ngữ, giáo viên giáo dục đặc biệt. Bố mẹ trẻ cần kết hợp chặt chẽ với các nhà chuyên môn để tạo hiệu quả tốt trong việc tập luyện. Trong chương trình giáo dục đặc biệt, trẻ được huấn luyện các kỹ năng giao tiếp (như chú ý, bắt chước, tiếp nhận và thể hiện ngôn ngữ, tự chăm sóc, kỹ năng xã hội, kỹ năng trước khi đến trường...). Các chuyên gia cũng giúp bệnh nhi huấn luyện hành vi (tìm nguyên nhân để giảm bớt hoặc làm mất đi những hành vi không thích hợp, dạy trẻ kỹ năng học tập), huấn luyện điều hòa các giác quan. Đặc biệt, họ dạy trẻ tập trung nhìn vào vật và vào mắt người giao tiếp, chơi các trò chơi trị liệu... Bố mẹ nên cho trẻ theo học các lớp đặc biệt (ở Hà Nội đã có một số lớp nằm trong chương trình giáo dục hòa nhập) hoặc các trung tâm phục hồi chức năng, song song với tập luyện tại nhà. Chương trình dạy phải phù hợp với mỗi trẻ và tạo được sự hứng thú. Những trẻ có hành vi tăng động, hung tính hoặc có cơn động kinh..., cần được điều trị bằng thuốc hướng thần. Ở tuổi đến trường, một số trẻ tự kỷ có sự cải thiện nhất định. Với trường hợp nhẹ, việc điều trị sớm và tích cực sẽ giúp trẻ có được những kỹ năng xã hội và thích nghi dần dần, sau này có thể học tập và có nghề nghiệp, sống đỡ phụ thuộc vào người thân. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 19, 2010 3:18:52 GMT 9
Bệnh Autism từ các báo chíBí ẩn trí tuệ của người tự kỷKim Peek. Họ là những người bị coi là thiểu năng trí tuệ, nhưng lại có thể nhân nhẩm được những số có 12 chữ số, vẽ rất đẹp hoặc nói được… 30 ngoại ngữ. Các nhà khoa học đang tìm cách vén bức màn bí hiểm bao quanh họ để rút ra kinh nghiệm làm cho những người bình thường trở nên thông minh hơn. Khả năng kỳ dị của những người tự kỷ. Kim Peek 51 tuổi, có đôi chân gầy tong teo và hai bàn tay mềm nhũn, trắng xanh, lạnh lẽo. Khi tiếp khách, ông ngồi lọt thỏm trong ghế, thở hổn hển. “Tôi sinh ngày 26/12/1959, đó là một ngày thứ bảy trong tuần”. “Còn bố mẹ, vợ, con anh?”. “Cha tôi sinh ngày 16/6/1923. Cũng là một ngày thứ bảy. Con trai tôi sinh ngày 13/2/1996, một ngày thứ ba và sẽ đủ tuổi hưu ngày 13/2/2061 vào một ngày chủ nhật”. “Kim, thế 4.397 nhân 8.915 là bao nhiêu”. “39.199.255”. Kim Peek đã không "tính" ra con số này mà gọi ra từ đâu đó, như từ trong tiềm thức vậy. Ông có thể tính nhẩm các ngày trong tuần cho 4.000 năm và chưa bao giờ tính nhầm cả. “Tôi đến từ Hamburg ở miền bắc nước Đức… Năm 1510, Hamburg được công nhận là thành phố độc lập của đế chế Đức, 1558, thành lập thị trường chứng khoán; 1678, khai trương nhà hát opera đầu tiên; 1871, gia nhập đế chế Đức; 17 năm sau gia nhập hội thuế quan; trước đó ngày 5/5/1842, bị một trận hoả hoạn ghê gớm. Đó là ngày thứ hai trong tuần. Kim Peek nạp dữ liệu từ 14 lĩnh vực. Ông tính ra ngày trong tuần, nắm các sự kiện lịch sử, các tuyến xe buýt trên khắp nước Mỹ, Canada, mã số điện thoại, bưu điện, nhớ kết quả các trận bóng chày cách đây 40 năm, cả vị trí địa lý các thành phố châu Phi. Khả năng kỳ diệu của Kim Peek bùng phát đúng vào đêm Giáng sinh năm 1962, khi cậu bé 10 tuổi đột nhiên đọc trước mọi người trong nhà toàn bộ câu chuyện về lễ Giáng sinh trong Kinh Thánh đúng từng câu, từng chữ. Kim đã học thuộc lòng câu chuyện rất dài đó trong những buổi đi lễ nhà thờ. Mỗi ngày Kim đọc sách khoảng 10 giờ. Cho đến nay, ông đọc khoảng 7.600 cuốn sách chuyên môn, nhưng lại không thể hiểu được sách văn học! Ngoài ra, Kim còn đọc các loại bảng giờ tàu, xe, danh bạ điện thoại…và nhớ được hầu hết những gì đã đọc - tương đương với khối lượng sách chứa đầy 190 thùng các tông lớn. Giáo sư tâm lý Darold Treffert là một trong số 100 tiến sĩ giỏi nhất nước Mỹ. Từ nhiều năm nay, ông nghiên cứu những tài năng bị thiểu năng trí tuệ như Kim Peek. Đó là những người không có khả năng tự mình đi qua đường mà không bị xe cộ đâm phải, nhưng lại nói được vài chục ngoại ngữ, không hiểu được một bộ phim hoạt hình nhưng lại tính được bất cứ ngày nào trong vòng 4.000 năm là ngày thứ mấy trong tuần. Đó là những người rất khó khăn mới đọc được tên của chính mình, nhưng có thể vẽ lại đúng tới từng chi tiết nhỏ nhất Viện bảo tàng Anh. Trên thế giới có khoảng gần 100 người mắc hội chứng tự kỷ như vậy. Chỉ những gì ta hay dùng đến mới được cất vào các ô trong bộ nhớ. Một bộ não khoẻ mạnh có một cơ chế quản lý bộ nhớ, và cái gì cần thiết mới được cất giữ vào các ô. Người tự kỷ có lẽ không có bộ nhớ gồm các ngăn và cũng chẳng có cơ chế quản lý nó. Họ luôn sống trong “nhà kho” lưu trữ những gì mà họ nhớ được: con số, công thức toán học, tranh ảnh… Cũng như Kim Peek, Stephen Wiltshire là một người sống như vậy. Một ngày tháng 8/2001, hai phóng viên BBC và một thanh niên da đen bay trên một chiếc máy bay lên thẳng để làm một thử nghiệm trên bầu trời London. Stephen Wiltshire là một chàng trai da đen thiểu năng trí tuệ 29 tuổi. Anh phải nhìn qua cửa sổ máy bay trong khi nó lượn một vòng qua khu nội thành London. Sau đó máy bay hạ cánh và trong 3 giờ anh dễ dàng vẽ lại từng chi tiết một khu vực rộng khoảng 10 km2 của London nhìn từ trên trời xuống, nơi có 12 danh lam thắng cảnh nổi tiếng của London, hơn 200 toà nhà với cả những chi tiết như cửa sổ lâu đài, tháp canh, ống khói… Stephen Wiltshire không vẽ, mà “in” bức tranh từ bộ nhớ của anh ta. Cũng như mọi người khác, những hình ảnh Stephen nhìn thấy được lưu trong vùng sau đầu trên diện tích khoảng 3-4 tỷ tế bào thần kinh. Điểm khác biệt giữa Stephen với những người bình thường là anh không chỉ nhìn một lần (khi máy bay bay qua) mà “nhìn thấy” mãi mãi (cả khi máy bay đã bay qua) những gì anh đã nạp vào bộ nhớ. Bộ não của người tự kỷ có thể có những năng lực hoàn toàn khác nhau: nhớ các số liệu về các sự kiện lịch sử; các tuyến đường giao thông; tính ra ngày trong tuần cho một ngày bất kỳ; nhớ được những gì đã “nhìn thấy” như Stephen Wiltshire hoặc có năng lực ngôn ngữ phi thường như Christopher Taylor. Christopher Taylor năm nay 40 tuổi và sống tại một thị trấn nhỏ bé ở Đông Bắc nước Anh. Tối tối anh lại đến uống một, hai cốc bia tại một cái quán nhỏ chỉ cách nhà anh 200 mét. Tuy nhiên, nếu không có người dẫn đường thì thế nào anh cũng đi lạc. Nhưng anh lại có thể nói, đọc và viết được tiếng Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hindi, Italy, Nauy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thổ Nhĩ Kỳ… Từ đâu mà những người tự kỷ có được khả năng của họ? Câu hỏi tuy có lý, nhưng chưa đúng hướng. Các nhà nghiên cứu đặt câu hỏi theo một hướng hoàn toàn khác: tại sao người bình thường lại không có được những khả năng của những người tự kỷ. Matt Savage 9 tuổi đã sáng tác những bản nhạc đậm màu sắc và lấp lánh. Việc gạn lọc các dữ liệu trí nhớ bảo đảm cho chúng ta lựa ra những thông tin cần thiết từ “cái kho” lộn xộn trong bộ não, nhưng lại gây khó khăn cho việc học của con người. Các nhà nghiên cứu cho rằng nếu điều khiển được cơ chế học gạn lọc đó thì mỗi người bình thường đều có thể trong chớp mắt học được tiếng Anh hoặc dễ dàng chơi các bản nhạc của Chopin. Cơ cấu trí nhớ của con người Cơ cấu trí nhớ của mọi người đều nằm trong vỏ bán cầu đại não gồm khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh và chúng tạo nên khoảng một tỷ tỷ điểm kết nối. Cái kho này có đủ chỗ cho mọi dữ liệu, cảnh vật, con số, sự kiện xảy ra từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Những hình ảnh đó có thể gọi ra được, nhưng được nạp dưới một chế độ nén lớn đến mức không thể lần mò đến chúng được. Để phân biệt những dữ liệu cần thiết cho cuộc sống với những dữ liệu không cần thiết, bộ não phải tiến hành các phương pháp nhắc lại, liên hệ kết nối và xác định giá trị cảm xúc để đánh dấu những dữ liệu quan trọng. Lúc bình thường, không ai nhớ được tên người phi công đã lái chiếc máy bay chở mình trên chặng Frankfurt - New York cả. Nhưng nếu người phi công đó phải hạ cánh khẩn cấp, trên một núi băng chẳng hạn, thì sự kiện bất thường đó sẽ kích hoạt hàng nghìn tế bào thần kinh tạo các điểm kết nối mới và vì thế mỗi lần kể lại câu chuyện đó thì tên người phi công lại được gọi ra từ bộ nhớ. Bộ não sẽ duy trì mối liên kết sao cho đến khi về già người ta vẫn nhớ được câu chuyện và tên người phi công. Giá trị xúc cảm là một chiến lược rất khôn khéo của bộ não. Việc gạn lọc các dữ liệu trí nhớ bảo đảm cho sự lựa chọn chính xác điều cần thiết, cho dù trữ lượng của “cái kho” trong bộ não to lớn một cách khủng khiếp. Nhưng mặt khác, cơ chế lọc này lại làm cho việc học của con người khá khó khăn. Nếu chế ngự được cơ chế học này theo nhu cầu thì mỗi người bình thường có thể trong chớp mắt học được tiếng Anh, dễ dàng chơi các bản nhạc của Chopin hoặc kích hoạt những tiềm năng còn ẩn giấu trong đầu. Rất tiếc là không thể làm thế được. Tuy nhiên, các nhà khoa học lại cho rằng, có thể làm thế được. Người bình thường có thể trở thành thiên tài ngôn ngữ nếu bộ não được kích hoạt một cách phù hợp. Từ 16 năm nay, giáo sư Allan Snyder đi tìm công thức sự “thiên tài” của người tự kỷ. Ông cho rằng, người bình thường chúng ta phải học từ họ, vì “họ chỉ cho chúng ta thấy chúng ta thực sự là ai và có thể sẽ trở thành ai”. Cũng như ông, các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới trong các lĩnh vực sinh lý, sinh học thần kinh như Gerhard Roth hoặc Manfred Spitzer đều cho rằng, chiến lược của bộ não chỉ nhớ những sự kiện quan trọng đã hạn chế con người len lỏi được vào kho dữ liệu đầy ắp trong bộ não để khai thác những gì mà con người thực ra đã biết. Vấn đề là làm thế nào để làm giảm đi sự hoạt động của cơ chế lọc và kìm hãm này, nhưng không gây nguy hiểm cho sự cân bằng hóa điện tử của bộ não? Ai lại muốn học ngoại ngữ, nếu vì thế có thể sẽ bị tàn phế (khả năng hoạt động cơ bắp chẳng hạn)? Giáo sư Allan Snyder cho rằng: “Vấn đề đó chúng ta sẽ giải quyết được”. Mới đây, Allan Snyder cùng với nhóm 6 nhà khoa học khác đã kết thúc một công trình nghiên cứu công phu về vấn đề này. Trong một năm trời, họ đã dùng thiết bị kích thích từ trường vào vùng đầu (TMS) để thử nghiệm vài trăm người. Từ vài năm nay, phương pháp này được dùng để kích thích và làm giảm hoạt động của những vùng nhất định trong não. Mục đích của giáo sư Allan Snyder là kìm hãm hoạt động của những kết nối điện thần kinh nhất định và thế vào đó là “giải phóng” những kết nối điện thần kinh khác, để qua đó thử nghiệm được các khả năng trí tuệ. Giáo sư Allan Snyder cho biết: “khả năng sáng tạo của họ tăng 40%. Những người chịu tác động của TMS ít bị ảnh hưởng bởi lý trí và sự tính toán trong suy nghĩ. Họ suy nghĩ trong những luồng cố định. Họ có thể sử dụng nhiều hơn nguồn dữ liệu trong tiềm thức của họ. Trong một thời khắc, họ đã thành những người tự kỷ!”. Snyder mơ đến một thiết bị tạm gọi là “cái mũ suy nghĩ”, mà khi chụp nó lên đầu thì năng lực sáng tạo và khả năng học hành của con người sẽ được cải thiện. Ông thừa nhận rằng, nghe có vẻ như khoa học viễn tưởng nhưng 30 năm trước đây ai có thể tưởng tượng ra một thế giới Internet ngày nay. Hiện nay vẫn chưa có một cái mũ kiểu như vậy. Những nhà khoa học như Allan Snyder ở Australia và Darold Treffert ở Mỹ vẫn truy tìm những điều bí ẩn bên trong những người tự kỷ. Mới đây, giáo sư Darold Treffert nhận được một đĩa CD do mẹ của một cậu bé mắc chứng tự kỷ gửi đến. Ông biết nhiều người tự kỷ chơi piano và thuộc hàng nghìn bản nhạc, nhưng hầu như ai cũng chơi vô cảm như một cái máy. Tuy vậy khúc tam tấu nhạc Jazz soạn cho piano, contrabass và bộ gõ do cậu bé này chơi lại thật tuyệt vời. Vợ ông khẳng định: “Không thể là của một người tự kỷ được”. “Đúng - ông nói - chưa là một người, vì đó mới chỉ là một cậu bé 11 tuổi”. Matt Savage biết chơi piano từ năm 6 tuổi và lên 9 đã sáng tác những bản nhạc đậm màu sắc và lấp lánh đến nỗi hai nhạc sĩ nổi tiếng Dave Brubeck và Chick Corea phải tuyên bố cậu là tài năng âm nhạc lớn nhất của thế kỷ! Có thể ông sẽ tìm ra câu trả lời từ trường hợp cậu bé này chăng? Có thể giáo sư Darold Treffert sẽ tìm thấy ở cậu bé này chiếc cầu nối giữa những thiên tài tự kỷ nhưng vô cảm, không ý thức được tài năng của mình với những thiên tài là người bình thường hoàn toàn ý thức được tài năng của mình? Thế Giới Mới (theo Spiegel) chungtuky.com/news/?id=43&menu=26&t=1Hội chứng tự kỷ Hội chứng tự kỷ đã được nhà tâm lý bệnh học trẻ em người Mỹ Leo Kanner mô tả từ lâu. Tự kỷ có nghĩa là tự phong tỏa, từ chối mọi giao tiếp với người khác, sống cô lập và đắm mình trong một thế giới tưởng tượng, không còn ý niệm đối với thực tế xung quanh. Đây là một thể rối loạn khác với tâm thần phân liệt và mọi tâm bệnh khác ở trẻ em. Bảng phân loại bệnh của Mỹ đã xếp tự kỷ vào mục các rối loạn về phát triển. Các triệu chứng chính: - Thích cô độc, thiếu vắng tình cảm với mọi người (trốn tránh người lạ, không chơi với cả bạn bè cùng lứa, tỏ ra lạnh nhạt với cả những người trong gia đình, thờ ơ với mọi sự việc xảy ra xung quanh). - Luôn lo hãi về mọi sự thay đổi, dù nhỏ, trong nếp sống và môi trường sống. Ví dụ: Lo lắng khi thấy có sự sắp đặt lại đồ đạc trong phòng ở (trẻ nhớ rất kỹ vị trí của mọi đồ vật trong nhà). - Có những ứng xử kỳ dị, sử dụng một cách dập khuôn và nghi thức hóa các đồ vật. Ví dụ: Trẻ có thể trốn vào một xó xỉnh nào đó để chơi hàng giờ với một thứ không hẳn là đồ chơi với một động tác dập khuôn, như gấp đi gấp lại một tờ giấy chẳng hạn. - Trẻ không có ngôn ngữ hoặc có một loại ngôn ngữ riêng kỳ dị, hầu như không phải dùng để giao tiếp với mọi người. Chính vì thế mà có thể nhầm trẻ tự kỷ với trẻ điếc, câm khi chưa đo khám thính giác. Cũng dễ nhầm trẻ tự kỷ với trẻ chậm khôn; cái khác là trẻ tự kỷ có bộ mặt thông minh với trí nhớ đặc biệt khác thường và khả năng cao khi chơi các trò chơi (như thao tác xếp hình trong không gian). GS Phạm Kim, Sức Khỏe & Đời Sống Bệnh tự kỷ ở trẻ Bệnh tự kỷ là một chứng rối loạn có thể ảnh hưởng đến hành vi, suy nghĩ, giao tiếp của trẻ và trong tương tác với các trẻ khác. Tại Mỹ, có hơn 1,5 triệu trẻ nhỏ và người trưởng thành được chẩn đoán mắc bệnh tự kỷ. Bệnh thường xảy ra ở trẻ trai hơn so với trẻ gái, và thường được chẩn đoán khi trẻ trong độ tuổi 15 đến 36 tháng tuổi, mặc dù các dấu hiệu của bệnh có thể xuất hiện sớm hơn. Hiện chưa có thuốc điều trị cho trẻ bị bệnh tự kỷ, và các nhà nghiên cứu cũng chưa chắc chắn về nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên cũng đã có các liệu pháp và nhiều cách khác nhau có thể giúp đỡ trẻ mắc bệnh tự kỷ và gia đình trẻ. Bệnh thường có các đặc trưng sau: - Gặp các vấn đề trong giao tiếp, bao gồm chậm trễ trong phát triển khả năng nói năng, lặp từ và nói với chất giọng đều đều mà không có sự chuyển giọng hay chuyển nhịp điệu. - Tương tác xã hội kém. - Hành vi và sở thịch lặp đi lặp lại. - Có những hành vi bất thường như xoay tay hay vỗ tay. Khoảng 1/3 trẻ được chẩn đoán bệnh tự kỷ có các triệu chứng đặc thù của bệnh khi trẻ được 1 hoặc 2 tuổi, và sau đó bắt đầu giảm dần, thể hiện trong cách trẻ nói và hòa nhập với xã hội. - Thích chơi 1 mình. - Không chấp nhận cho các trẻ khác cùng chơi. - Thích sắp xếp các đồ vật và sắp xếp chúng theo màu sắc. - Ít biểu lộ cảm xúc trong đôi mắt khi tiếp xúc với người khác. Nếu trẻ có riêng bất kỳ một trong các dấu hiệu trên, điều đó không hẳn là trẻ bị bệnh tự kỷ. Thường thì tập hợp các triệu chứng trên sẽ dẫn đến chẩn đoán trẻ mắc bệnh tự kỷ. Nguyên nhân gây bệnh Không có một nguyên nhân riêng biệt gây bệnh tự kỷ. Các nghiên cứu hiện nay đang tập trung vào sự mất cân bằng hóa chất, những khác biệt ở não, gen hay các vấn đề ở hệ miễn dịch. Dị ứng thức ăn, thừa quá mức lượng men trong hệ tiêu hóa, nhiễm chất độc từ môi trường cũng có thể gây bệnh. Tuy nhiên chưa có bằng chứng khoa học cho thấy chúng rõ ràng là nguyên nhân gây bệnh. Một số người tin thimerisol (một thành phần của vaccine) và vaccine, đặc biệt vaccine sởi, quai bị và rubella, có thể liên quan đến bệnh tự kỷ do đã có nhiều trẻ cùng lứa tuổi được tiêm các vaccnie này được chẩn đoán mắc bệnh tự kỷ. Tuy nhiên cũng chưa có bằng chứng khoa học nào về mối liên quan này. Chẩn đoán bệnh Bệnh tự kỷ không thể được phát hiện lúc sinh hay qua theo dõi trước khi sinh. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, nếu bạn có con mắc bệnh tự kỷ, bạn có khoảng 10% khả năng có một đứa con khác mắc bệnh tự kỷ hay một chứng rối loạn tương tự. Bệnh tự kỷ khó nhận dạng hay chẩn đoán, điều quan trọng là phụ huynh phải biết chọn lựa chuyên gia sức khỏe có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh sớm ngay khi có thể. Hãy theo dõi khả năng giao tiếp của trẻ, tham khảo tài liệu và trao đổi ý kiến bác sĩ nếu bạn phát hiện trẻ có những biểu hiện bất thường. Tuổi Trẻ Online (KidsHealth) Bệnh tự kỷ ảnh hưởng đến toàn bộ não Bệnh tự kỷ không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ của người bệnh với những người khác mà còn ảnh hưởng đến cả toàn bộ não - kết luận mới đây của các nhà khoa học Mỹ. Khi so sánh những trẻ mắc bệnh tự kỷ và trẻ không mắc bệnh này tuổi từ 8-15, tất cả trẻ này đều có khả năng nói, đọc và viết, các nhà khoa học Mỹ phát hiện những trẻ mắc bệnh gặp nhiều rắc rối hơn khi thực hiện các nhiệm vụ phức tạp, chẳng hạn như phân biệt sự khác nhau giữa những người trông có vẻ giống nhau hay buộc dây giày. Điều này cho thấy nhiều khu vực của não trẻ đã bị ảnh hưởng. Thông thường, các bệnh nhân tự kỷ được xác định là những người có các vấn đề trong giao tiếp với người khác, cả giao tiếp bằng lời nói và không lời nói. Họ cũng có thể có những hành vi lặp đi lặp lại và đặc biệt chú ý vào những điều họ thích. Tuy nhiên nghiên cứu mới đây cho thấy bệnh tự kỷ có thể ảnh hưởng đến cả sự nhận thức giác quan, hành vi và trí nhớ do bệnh cản trở nhiều phần khác nhau của não - những phần này làm việc với nhau để thực hiện những nhiệm vụ phức tạp. Nancy Minshew, một chuyên gia thần kinh và tâm thần tại Trường ĐH y Pittsburgh và là trưởng nhóm nghiên cứu cho rằng các nhà nghiên cứu cần quan tâm xem xét nguyên nhân vì sao bệnh tự kỷ lại ảnh hưởng đến nhiều vùng não như vậy thay vì chỉ đơn giản xem xét mối liên quan giữa các vùng não này với vấn đề giao tiếp và những hành vi lặp lại hay các sở thích ám ảnh người bệnh, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn về căn bệnh này và có cách xử trí thích hợp. Tuổi Trẻ Online (Theo BBC)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 19, 2010 3:23:07 GMT 9
Chứng tự kỷ (autism) Hồ Văn Hiền Kim Peek (trái) và cha là Fran (giữa) và Dustin Hoffman Trả lời Ông Trần Thanh Yên ở Cà mau. Bé trai 7 tuổi, chưa nói được hoặc chỉ phát âm vài từ không rõ rệt, học chung với những trẻ 3-4 tuổi, tuy em ít chơi với các trẻ khác và cần giúp đỡ trong một số sinh hoạt hằng ngày như tiêu tiểu.. Nói chung em sức khỏe tổng quát không có vấn đề gì đặc biệt , cân nặng và chiều cao thì thấp hơn trẻ cùng tuổi nhưng vẫn ở mức bình thường. Khám tai mũi họng bình thường, tôi đoán là người ta đã thử thính giác, tức là khả năng nghe của em và thấy bình thường. CT scan não bộ bình thường. Điện não đồ (EEG) có dấu hiệu động kinh mặc dù em chưa bao giờ co giật hay có những cơn động kinh có thể quan sát được. Nói ngắn ngủi thì tôi nghĩ em bé đã được khảo sát đầy đủ và có lẽ mắc chứng tự kỷ, tiếng Anh là autism. Bé có những dấu hiệu của chứng này: trở ngại về ngôn ngữ, ở đây bé không nói được (trở ngại truyền đạt, communication disorder), phát triển chậm về ý thức, kém về giao thiệp, chơi đùa với trẻ cùng tuổi và không có khả năng sinh hoạt độc lập do rối loạn nhiều mặt. Hỏi: Bịnh tự kỷ được nhắc đến khá nhiều trong các phương tiện truyền thông của Mỹ, xin bác sĩ giải thích thêm để thính giả VN ý thức hơn về vấn đề này. BS: Định bịnh trên một số dấu hiệu do cha mẹ kể lại thường là một việc không nên làm, nhất là trên một trẻ em đã được nhiều người khám và làm thử nghiệm khá phức tạp và chuyên sâu như bé ở đây. Thêm nữa những điều tôi nêu ra về bịnh autism đây có thể làm một số thính giả khác vội đi đến kết luận là con, cháu mình cũng có những dấu hiệu như vậy và lo âu hoặc định bịnh "tài tử" cho các trẻ con người khác, điều này có thể có hại nhiều hơn có lợi. Tuy nhiên, trong trường hợp bịnh tự kỷ, chúng ta chưa hiểu nguyên do bịnh cũng nhơ cơ chế gây ra bịnh như thế nào. Định bịnh gần như là một nghệ thuật và cần người thầy thuốc có kinh ngiệm về chẩn đoán lâm sàn (clinical diagnosis) hơn là căn cứ trên những đo lường, xét nghiệm tân kỳ. Trị liệu đặc trị chưa có và mục tiêu của sự chữa trị chỉ là nuôi dưỡng, dạy dỗ cho các em bị bịnh được cuộc sống càng gần với cuộc sống bình thường càng nhiều càng tốt. Do đó tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn hết là giúp cho phụ huynh và những người chung quanh bịnh nhân hiểu và ý thức về những nhu cầu của trẻ bị chứng tự kỷ, một cách bình tĩnh, kiên nhẫn và hợp lý . Nghĩa là cha mẹ ý thức được về chứng autism, sau khi đã được bác sĩ chẩn đoán tính tự kỷ, tránh tìm cách chữa chạy hết nơi này qua nơi khác, lạm dụng các phương tiện thử nghiệm đắt tiền không cần thiết, không giúp gì cho cách chữa trị cho bịnh nhân.. Ở Mỹ thì chỉ mới để ý tới bịnh autism gần đây, nhất là sau khi phim “The Rain Man” gây chú ý đến chứng bịnh này, qua câu chuyện một bịnh nhân tự kỷ có khả năng nhớ và toán học kỳ lạ (xin xem câu chuyện sau bài này về Kim Peek, một bịnh nhân "bác học khờ’ đã làm "người mẫu"cho Rain Man). Nay thì autism được nhắc đến rất nhiều và người ta nghi có một bịnh dịch autism xảy ra, tăng rất nhiều so với 10 năm trước đây. Có một số cha mẹ sai lầm cho rằng một số chủng ngừa như thuốc MMR gây ra chứng autism, không chịu cho con mình chủng ngừa, do đó gây nguy hại cho y tế công cộng. Cũng nên cân nhắc thêm một số chữa trị được nhiều người đề ra trên TV, báo chí Mỹ có thể tốn kém mà không có căn cứ khoa học. Điển hình là một phương pháp gọi là facilitated communications, trong đó những người tự gọi là chuyên gia, rất đắt tiền , tự nhận họ có khả năng hiểu được những gì bịnh nhân autism không phát biểu thành lời được và phát biểu thế cho binh nhân, gây cho người cha mẹ những hy vọng không căn cứ về khả năng và tiến bộ con mình. Hỏi: Trong mục đích thông tin và tăng kiến thức tổng quát của của các phụ huynh, xin giải thích chi tiết hơn về chứng này. BS Hiền: Chứng tự kỷ (autism). Ở một số hiếm trẻ con, chứng phát triển chậm về ngôn ngữ là triệu chứng đầu tiên của chứng tự kỷ. Các bé này có những dấu hiệu đặc biệt như không bặp bẹ ra tiếng (babble) lúc em bé được 7-8 tháng, hoặc chỉ nói được có ba bốn chữ lúc đã lên ba, ai hỏi gì thì chỉ trả lời bằng cách lập lại những chữ người ta hỏi (echolalia), hoặc chỉ dùng những tiếng mà người khác nghe không hiểu bé muốn nói gì. Trường hợp ở đây thì đã rõ ràng là em không nói được vì em đã 7 tuổi. Nếu chú ý hơn, chúng ta sẽ thấy rằng ngôn ngữ chỉ là một mặt của vấn đề. Bé có vẻ như luôn luôn hững hờ, không muốn và không thích tiếp xúc với người khác, kể cả người thân thích như cha mẹ anh em chúng. Lúc còn mới mấy tháng, các bé này không thích nhìn vào mắt người bồng ẵm, đụng đến chúng thì người chúng đơ lại hoặc rướn lên, có vẻ như không muốn người ta đụng chạm tới chúng. Lớn lên chúng chỉ muốn chơi một mình, nhìn vào không trung như sống trong một thế giới riêng biệt của nó, tách rời khỏi xã hội chung quanh (lack of interest in social relationships). Do đó tiếng Anh mơi gọi là autism; do chữ autos là tự mình, tiếng Việt dùng gốc Hán Việt tự (tự mình) để dịch ý này. Một số triệu chứng khác có thể có như bé có những động tác bất bình thường, lập đi lập lại như múa, vỗ tay, búng ngón tay, quay đĩa đồ ăn xoay tròn lúc ngồi lên bàn ăn. Một số trẻ hầu như bị ám ảnh bởi một khía cạnh nào đó của một món đồ vật (như ngửi hít mùi các đồ vật, sờ mó say sưa một cái áo, quần). Một số trẻ lại chăm chú vào một đồ vật lạ lùng nào đó như như trường hợp một đứa trẻ chỉ thích sưu tầm cây thọc hầm cầu, đến nhà ai là chạy ngay vào phòng tắm để tìm cái đồ lạ lùng này. Chúng rất chú ý vào trật tự sắp xếp của các món tầm thường chung quanh mà người khác không thấy có gì quan trọng và có thể nóng giận, mất bình tĩnh lúc thứ tự của các đồ vật của chúng bị ai đó quấy rầy, xáo trộn. Chúng cũng rất gắn bó với một thói quen, tập tục (routine) nào đó, nếu thay đổi bất thần có thể làm cho chúng rất khổ sở và nóng nảy. Ví dụ nếu đi shopping thì phải đi theo một lộ trình nhất định nào đó, đổi lộ trình sẽ làm chúng bị stress và chướng lên. Một trẻ khác thì chỉ mở lon coca lúc cái vòng của nắp hộp phải hướng về một phía nhất định nào đó. Hỏi: Xin BS cho biết chúng ta có thể làm gì cho các em mắc chứng tự kỷ: BS Hiền: Hiện nay y học không chữa lành bịnh autism được. Một số khuynh hướng gần đây trong y khoa giúp cho bác sĩ và cha mẹ sớm phát hiện những trẻ sẽ bị autism lúc chúng cò thật nhỏ, dưới một tuổi. Có những bảng gồm một số câu hỏi để cha mẹ xem con mình có những triệu chứng khả nghi, báo trước hay không. Người ta hy vọng là nếu can thiệp sớm như bằng cách giáo dục đặc biệt các em này, cách tổ chức và các lối giao thông (pathway) của hệ thần kinh em có thể phát triển theo chiều hướng thuận lợi hơn. Tuy nhiên trên thực tế, sự săn sóc các em này phần lớn là săn sóc về giáo dục đặc biệt cho từng trường hợp, tùy trình độ của mỗi em. Các trường học ở Mỹ theo luật định có bổn phận đánh giá (evaluation) các em này và đề ra một chương trình giáo dục cá nhân cho từng em, quy định nhu cầu về dạy nói (speech therapy) hoặc dạy ra dấu (sign language), dạy thực hành các động tác thường nhật như ăn uống, cầm muỗng nĩa, (occupational therapy), và còn cung cấp cả y tá theo săn sóc từng em lúc trong trường học.Thiết tưởng đối với bịnh nhân ở VN, các nhu cầu này có thể phụ huynh hoặc người nhà đáp ứng là tốt nhất vừa ít tốn kém vừa có được sự kiên nhẫn , trìu mến trong tình gia đình mà các em rất cần. Những em này thường rất khó dạy vì trình độ trí thông minh cũng như bản tánh khó thay đổi và khó thích ứng theo các hoàn cảnh, đây cũng là một đặc tính của chứng này, làm người dạy dỗ phải rất kiên trì và kiên nhẫn. Biện pháp biến đổi tính tình (behavior modification) là phần rất quan trọng. Khen, thưởng em nếu em tiến bộ, cộng tác (enhancement measures) và phạt (reduction measures) để giảm thiểu những thái độ, hành động không thích hợp (như phá trật tự trong lớp, ồn ào, đập đầu vào vách..).. là hai mặt rất khó điều hòa trong cố gắng thay đổi behaviour của các em này, mà tuyệt đối –ít nhất là ở Mỹ- không được phép đánh đập hay dùng những biện pháp tàn nhẫn. Ngoài ra, chúng ta phải chú ý dạy em và khuyến khích về những kỹ năng xã hội (social skills) giao tiếp như chào hỏi, lễ phép, chơi với các bé khác cùng lứa, chơi chung đồ chơi, đọc ý nghĩa của nét mặt, cử chỉ điệu bộ của người khác (facial expression, body language), để biết lúc nào thì người đối diện với mình đồng tình với mình, lúc nào thì họ khó chịu, vv; tham gia sinh hoạt tập thể vì đây là một khuyết điểm lớn của các bịnh nhân này. Nếu một số em có những chứng thần kinh như làm kinh (seizures), trầm uất (depression), hoặc tự huỷ hoại một phần thân thể (self mutilation), nguy hiểm đến sức khỏe hoặc mạng sống, cần nhờ BS tâm thần chữa trị và theo dõi. Nói tóm lại, phụ huynh nên em đến cho bác sĩ thần kinh xem lại có hợp với chẩn đoán bịnh autism hoặc nằm trong những phạm vi của các bịnh tương tự nhưng nhẹ hơn (autism spectrum) hay không. Nói chung, các em bị chứng tự kỷ cần được săn sóc, giáo dục lâu dài và kiên nhẫn từ cha mẹ, gia đình và học đường. Một số em gọi là "savant" (bác học) tỏ ra có một tài năng (talent) đặc biệt như trí nhớ “chụp hình", hội họa, âm nhạc, lắm khi giúp cho em được ‘”nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. vietsciences.org/timhieu/khoahoc/ykhoa/images/rainman.jpg[/img] Chú Thích: The Rain Man Năm 1988, phim The Rain Man (“Người Mưa”) do Dustin Hoffman đóng đưọc giải Oscar. Phim này đưa bịnh autism lên hàng đầu dư luận truyền thông báo chí, làm cho người trung bình lẫn y giới hiểu và ý thức thêm về căn bịnh lạ lùng, khó chữa trị và từ trước đến nay thường được coi như những người bịnh tâm trí hoặc quái dị (“freak “). Người viết chuyện phim là Barry Morrow căn cứ chuyện phim trên một nhân vật có thật , còn sống tên Kim Peek, sinh năm 1951 Kim Peek được cha đọc sách cho nghe từ lúc 16 tháng tuổi và nghe tới đâu nhớ tới đó, tòan bộ cuốn sách. Năm 3 tuổi biết tự mình nhớ vần alphabet và tra tự điển tìm hiểu các từ. Nay Kim Peek đã đọc khoảng 8000 cuốn sách và nhớ gần hết nội dung các sách này, uyên bác trong mười mấy lãnh vực, từ lịch sử, cho đến âm nhạc và sở trường là tính lịch rất giỏi. Kim Peek có thể tính ngày sinh nhật của bạn rơi vào ngày thứ mấy trong tuần lúc bạn đến tuổi về hưu, nhớ các ZiP code bưu đện của Mỹ, các thành tích thể thao…Tuy có khả năng “thông kim bác cổ”, Kim Peek lại là một người chậm phát triển về những mặt khác. Kim Peek biết đi lúc 4-5 tuổi và cho đến lúc nổi tiếng nhờ cuốn phim và đi đây đi đó biểu diễn khả năng trí nhớ đặc biệt của mình, trước đó anh ta không bao giờ nhìn thẳng vào mặt ai và không có khả năng giao tiếp. Bộ óc của Kim Peek được các nhà thần kinh nghiên cứu và mang những dị dạng bẩm sinh hiếm có. Hai bán cầu não bình thường được nối với nhau bằng một bộ phận tên corpus callosum. Peek không có corpus callosum, ngoài ra não anh ta còn bị thoát vị não (encephalocele), có nghĩa hiện một phần xương sọ bị hở và một phần óc nằm sát dưới da đầu. Năm 2004, NASA (cơ quan không gian Hoa Kỳ) cũng cho dùng những CT scan và MRI tạo nên một hình tượng 3 chiều (3 dimensional imaging) của bộ óc Kim Peek để tìm hiểu những khả năng đặc biệt của nhân vật “bác học khờ” (idiot savant tuy nhiên hiện nay người ta chỉ dùng chữ savant, bỏ chữ idiot để đừng có vẻ miệt thị) này. Trả lời thính giả đài VOA Kim Peek sinh ngày 11/11/1951 tại Salt Lake City, là một savant autiste có một trí nhớ vô cùng lạ kỳ. Kim sinh ra với cái đầu to (macrocéphalie) và không có corps calleux (xem hình 1) nằm giữa hai bán cầu), và một tiểu não bị thương tích và không có commissure antérieure (hình 2) Nguồn Vietsciences: Theo lời cha ông, thì mặc dù vậy, ông đã bắt đầu có trí nhớ từ 16 tháng tuổi. Ông ghi nhớ toàn bộ những cuốn sách trong lúc đọc. Khi đọc xong, Kim xếp ngược cuốn sách trên kệ sách để tránh phải đọc lại. Kim bắt đầu đọc sách lúc 4 tuổi trong lúc chưa biết đi. Kim ghi nhớ một số lượng thông tin vô cùng lớn các đề tài khác nhau như sử ký, địa lý, văn chương, số , thể thao, âm nhạc và ngày tháng. Kim có thể ghi nhớ toàn bộ 8000-10000 quyển sách. Thí dụ như ông có thể tính nhẩm trong đầu các phiếu lương hàng tháng của nhân viên, hay tính ngày và tuần chính xác của bất kỳ năm nào... Nhưng Kim Peek không thể làm những sinh hoạt hàng ngày, ngay cả luộc trứng hay thay đồ hoặc lái xe. Là một người biết cảm xúc, nhưng không thể điều khiển những công việc không cần phải suy nghĩ như số đông chúng ta Từ năm 2002 ông phát triển môn âm nhạc để chơi dương cầm, nhưng ông không chơi được cho dù ông có thể ghi nhớ các symphonie (nhạc giao hưởng) Năm 2004, các nhà khoa học trung tâm NASA băt ông phải chịu nhiều cuộc thử nghiệm bằng tomographies (radio X) và RMN (Từ cộng hưởng hạch tâm). Họ muốn xem sự tiến triển của não bộ của ông so với những test năm 1988. Viết theo fr.wikipedia fr.wikipedia.org/wiki/Kim_Peek
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:23:41 GMT 9
Rượu Tỏi- Thần DượcTrần Duy Linh, I - Xuất Xứ Vào những năm 1960-1970, WHO_cơ quan theo dõi sức khoẻ & bệnh tật thế giới của Liên Hiệp Quốc phát hiện ở Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khoẻ chung của nhân dân Ai Cập lại vào loại tốt, ít bệnh tật & tuổi thọ trung bình tương đối cao. WHO đặt vấn đề với chính phủ Nasser xin cử một phái đoàn của WHO về Ai Cập nghiên cứu xem tại sao có hiện tượng lạ như thế mà nghành Y tế Ai cập chưa giải thích được. Ðược Tổng Thống Nasser đồng ý, WHO huy động nhiều chuyên gia y tế về Ai Cập nghiên cứu chia nhau đi xuống nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt để thu thập các tài liệu đặc biệt. Cuối cùng các nhà nghiên cứu (đông nhất là Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản) nhận xét là ở Ai Cập nhà nào cũng có 1 lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói từ bao nhiêu thế kỷ nay nước họ vẫn là thế. Ngày xưa Ai Cập là một đế chế lớn, chinh chiến liên miên, chủ yếu là xử dụng gươm dao chém giết nhau. Thời ấy làm gì có thuốc kháng sinh, nên họ chỉ dùng nước tỏi để uống & cũng để rửa các vết thương. Ở các vùng tỏi được ngâm rượu theo những công thức khác nhau. Chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình nghiên cứu và phân tích. Kết luận cái gì tốt rồi sau đó thông qua một báo cáo gởi cho WHO. Sau đó WHO tổng kết & hội thảo về vấn đề này. Rồi đến năm 1980 họ thông báo : Rượu tỏi chữa trị được 04 nhóm bệnh : 1) Thấp khớp (sưng khớp, vôi hoá các khớp, mỏi xương cốt). 2) Tim mạch (huyết áp thấp, huyết áp cao, hở van tim, ngoại tâm thư) 3) Phế quản (viêm phế quản, viêm họng, hen phế quản). 4) Tiêu hoá (ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử). Ðến năm 1983, Nhật lại thông báo bổ sung thêm 2 nhóm bệnh nữa là : 5) Trĩ nội & trĩ ngoại. 6) Ðại tháo đường (tiểu đường) Nhật cũng công bố : "Ðây là một loại thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & có hiệu quả chữa bệnh rất cao". II – Nguyên Lý Con người ta thông thường tuổi từ 40 trở lên (có thể trẻ hơn nữa) là đã có bệnh. Các bộ phận trong cơ thể bắt đầu thoái hoá, bộ phận nào yếu thì thoái hoá nhanh, đặt biệt là làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipid) chất đường (glucone) bị suy giảm. Các chất đó không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch & xơ cứng một số bộ phận khác rồi lâu ngày gây ra những chứng bệnh như trên. Trong tỏi có 2 chất quan trọng : 1) Phitoncid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn. 2) Hoạt tính màu vàng giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành quách mạch máu, làm cho đường đi của máu từ tim ra & về tim bị nghẽn. Chính nhờ 02 chất này mà tỏi có tác dụng chữa bệnh cao. III - Kết quả chữa bệnh Tác giả tổng hợp bài viết này theo kinh nghiệm chứng thực cho biết : Từ năm 1970 bị thấp khớp nặng_sưng cả các khớp phải đi bằng gậy chống. Thuốc tân dược & đông y dùng đã nhiều như "Cao hổ cốt", "rượu tắc kè" (lúc nào cũng có sẵn), thế mà bệnh không đỡ lại nặng thêm. Năm 1975 bị ngã gần chết. Năm 1981 bị ngất phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện 3 ngày mới hết nên sức khoẻ càng giảm. Vào cuối năm 1982 mới bắt đầu uống rượu ngâm tỏi, thì 20 ngày sau bắt đầu thấy giảm bệnh sưng khớp. Qua 3 tháng, huyết áp trở lại bình thường. Bệnh viêm họng cũng khỏi. Hen phế quản giảm nhiều. Ngoài ra tác giả còn cho biết bịnh trĩ nội mỗi năm đi mất 5, 7 lần. Hen phế quản nặng cấp cứu nằm bệnh viện 2, 3 lần. Từ khi liên tục dùng rượu tỏi cho tới nay đã gần 8 năm mà không phải đi bệnh viện lần nào cả. Ngủ rất bình thường, ăn thì tiêu hoá tốt, đặt biệt đối với bệnh thấp khớp thì coi như thuốc thần. Vì tác giả trước đây khổ vì thấp khớp, nay khỏi hẳn không còn biểu hiện gì cả. Cho nên, kết luận của người Nhật phần trên là hoàn toàn đúng : "Ðây là thứ thuốc tuyệt vời của nhân loại, vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ & lại có hiệu quả chữa bệnh rất cao. (Theo World Hearth Organizations) Tôi có dùng rượu tỏi để phòng và trị một số bệnh. Tuy nhiên, khi tôi dùng rượu tỏi vào buổi tối thì có cảm giác bị xót bao tử vào giữa đêm, hơi bứt rứt. Nhờ chuyên mục sức khoẻ của quý báo tư vấn giúp : có phải rượu tỏi gây ảnh hưởng bao tử không ; có cách nào khác dùng tỏi chữa bệnh thay cho rượu tỏi ? Cám ơn quý báo ! (lehang@ ... ) Trả lời : Anh (chị) dùng rượu tỏi có cảm giác bị xót bao tử có thể là do ảnh hưởng của rượu. Chứ tỏi có tác dụng làm lành vết thương, tỏi cũng nóng, nhưng không đến mức làm xót bao tử. Dân gian còn có một cách khác dùng tỏi thay cho rượu tỏi đó là tỏi trộn mật ong, được làm bằng cách : dùng tỏi còn tươi có tép nhỏ, xay nát rồi đem trộn với mật ong, cho vào trong chai để dành dùng dần (mật ong có tác dụng bảo quản tỏi không hư). Dùng tỏi trộn mật ong, ngoài những tác dụng gần giống như rượu tỏi : hỗ trợ tiêu hoá, tiêu diệt các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh (nhờ tỏi có một số tinh dầu, chất kháng khuẩn, có tác dụng ức chế các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh), còn giúp kháng được một số gốc oxy hoá, các yếu tố thuận lợi dẫn đến ung thư ... Theo y học cổ truyền, tỏi có vị cay, tính ấm, có công dụng sát trùng, giải độc, hành khí. Mật ong khi trộn với tỏi, ngoài công dụng bảo quản tỏi không hư, mật ong còn là chất bổ dưỡng cung cấp các vitamin, giúp làm lành các vết loét bao tử. Người bình thường mỗi ngày dùng một muỗng mật ong cũng rất tốt, có thể dùng riêng một mình mật ong, hoặc có thể pha với nước chanh để dùng. Nói thêm : dân gian còn có cách dùng mật ong đánh với lòng đỏ trứng gà (trứng gà đã được kiểm dịch), đánh đến khi lòng đỏ trứng chuyển sang màu trắng hơi vàng lợt (lúc này mật ong đã làm chín lòng trứng), xong rót bia vào và đánh đều lên sẽ có một thức uống rất thơm ngon và bổ dưỡng. Trần Duy Linh (SG) Cách bào chế rượu tỏi Tỏi khô (đã bóc bỏ vỏ) 40 g đem thái nhỏ, cho vào chai ngâm với 100 ml rượu trắng 40-45 độ, thỉnh thoảng lại lắc chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được. Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống 40 giọt (tương đương một thìa cà phê) trước khi ăn ; tối uống 40 giọt trước khi ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp, để ngày nào cũng có rượu tỏi dùng. Uống liên tục suốt đời với một lượng rượu rất nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được. * * * * * Tỏi khô (đã bóc bỏ vỏ) 40 g đem thái nhỏ, cho vào chai ngâm với 100 ml rượu trắng 40-45 độ, thỉnh thoảng lại lắc chai rượu, dần dần rượu chuyển từ màu trắng sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu nghệ và uống được. Mỗi ngày dùng 2 lần, sáng uống 40 giọt (tương đương một thìa cà phê) trước khi ăn ; tối uống 40 giọt trước khi ngủ. Uống khoảng 20 ngày thì hết, bởi vậy cứ sau 10 ngày lại ngâm tiếp, để ngày nào cũng có rượu tỏi dùng. Uống liên tục suốt đời với một lượng rượu rất nhỏ như thế, người kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn dùng được. Đã có nhiều người áp dụng bài thuốc rượu tỏi trên của WHO, nhưng liều lượng thì linh hoạt (thậm chí có người uống tới 3 thìa cà phê rượu tỏi /lần) nhưng không thấy phản ứng phụ. * * * * * 1 - 250 gam tỏi . Tỏi có tép nhỏ và có mùi thơm khi bấm vào, lột vỏ, cho vào cối giả hoặc máy sinh tố xay nhỏ hạt. Không cần nhuyễn nhừ như trái cây uống sinh tố. Cho vào 1/2 lít rượu trắng, loại rượu ngon chuyên dùng để ngâm thuốc. 2 - Đậy kín nắp lọ (dùng lọ thuỷ tinh). Sau khi ngâm 10 ngày, múc bả tỏi cho vào compress (vải mùng) vắt ráo. Nhớ làm mỗi lần một tí, cho đến khi hết tỏi đã ngâm trong lọ. 3 - Nước cốt tỏi có được và rượu còn trong lọ, cho tất cả vào chai thuỷ tinh. Đậy kín để 1 tuần, sau đó bắt đầu uống. Rượu tỏi hơi khó uống vì hôi nồng và nóng, vì thế lúc bắt đầu nên uống chừng 5, 10 giọt, khi quen dần thì tăng lên, nhưng đừng quá 5 ml mỗi lần uống. Ngày có thể uống 1 hoặc 2 lần. * * * * * Cách làm Rượu Tỏi Việt Nam Thư Quán Vật liệu : - 40 gram tỏi khô (mua 50 gram, sau khi bóc vỏ còn chừng 40 gram) - 100 ml rượu trắng 45 độ (tốt nhất là rượu Lúa mới) Cách làm : 1. Thái tỏi thật nhỏ 2. Cho tỏi vào lọ đã rửa sạch 3. Cho rượu vào 4. Ngâm 10 ngày, thỉnh thoảng lắc chai để tỏi ngấm rượu cho đều Quan sát : Mới đầu rượu có màu trắng, sau chuyển dần sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thành màu nghệ. Cách dùng : Mỗi lần dùng 40 giọt (compte gouttes) vào buổi sáng trước khi ăn và buổi tối trước khi ngủ. Vì lượng ít nên chế thêm nước sôi để nguội vào thì mới uống thành một ngụm. Uống liên tục cả đời. Người phải kiêng rượu không uống được rượu vẫn có thể dùng được vì mỗi lần chỉ uống 40 giọt, một số lượng không đáng kể. Bí quyết : 40 gram tỏi như thế, dùng trong 20 ngày thì hết, trong khi phải ngâm đến 10 ngày mới dùng được, cho nên cứ phải ngâm sẵn một lọ gối đầu để dùng liên tục. Chữa bệnh : World Health Organization đã chính thức công bố rượu tỏi có thể chữa được 5 nhóm bệnh sau: 1. Thấp khớp (sưng, vôi hoá, mỏi) 2. Tim mạch (huyết áp thấp hoặc cao, nở van tim, ngoại tâm thu) 3. Phế quản, họng (viêm, hen, xuyễn) 4. Tiêu hoá (khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử) 5. Ngủ bất bình thường hay mất ngủ
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:25:13 GMT 9
Hổ cốt : Cao và rượu Tín lý về thuốc theo á đông Trước đây , hồi bên Việt nam , làm quà cho nhà ai có ông già bà cả vài lạng cao Hổ cốt, tức là đã biếu tặng một món quà trân quí được người ta hân hoan đón nhận. Cao hổ cốt, cao ban long, cao qui bản, cao bú dù là những món bổ dược cổ truyền trong xã hội Á đông. Nhưng cao hổ cốt được liệt vô hàng quí bậc nhất vì rất khó kiếm nên đắt giá kinh khủng. Ngay dù trả với một món tiền lớn, chưa chắc người ta bảo đảm rằng mua được cao hổ cốt thiệt. Cọp thì năm thì mười họa mới săn được, lấy đâu sẵn xương mà nấu cao...Do đó, sự gian ý ngụy tạo pha trộn với xương trâu, xương bò là điều thường xảy ra. Tôi còn nhớ phụ thân tôi hay kể về chuyện huyền thoại ngoa ngôn để thử cao hổ thứ thiệt thì hoà một chút trong rượu rồi bôi vào cọng của một chiếc lá tre, xong thả trên mặt nước, chiếc lá quay tít là đúng...nhưng lại có kẻ bán cao giả dùng lá tre bôi một giọt Crésyl đậm đặc thì chiếc lá tre quay tít còn bạo hơn nữa, tựa hồ như đã chứa một chút tinh túy mãnh lực của chúa sơn lâm! Hơn nữa, cọp càng ngày càng hiếm; theo số báo National Geographic Magazine tháng 11 năm nay, cọp liệt vào loài dã thú đã lâm vào họa diệt chủng từ bấy lâu. Số cọp còn sót lại ở vùng Đông dương đếm đâu đó vào khoảng 200-300 con. Cọp lại không ở trong rừng sâu vì thiếu mồi săn, mà thường ở các ven rừng rậm để có thể bắt trâu bò dê heo của dân cư. Cọp dữ và ma thiêng dần dần bị tiêu diệt với cái đà bành trướng của đám dân khai hoang phá rẫy...Câu "Cọp Khánh Hoà, Ma Bình Thuận" đã có giá trị ghi lại thời điểm dân Việt đã lập đồn điền trên đường Nam tiến vào những thế kỷ trước đây. Cọp thường rình người trên những đoạn đường xuyên qua lùm bụi, truông rừng, bởi thế mới có nạn bị cọp vồ khiến khách bộ hành phải đề phòng kinh hãi..; do đó mới nảy sinh câu tục ngữ: "Qua truông, trẽ bòi cho khái" ( Khái, ba mươi là tiếng chỉ cọp) nghĩa là hết còn sợ cọp khi qua khỏi rừng. Câu chuyện " Cọp lẻn về xóm dân cư coi hát "- để trở nên thành ngữ : " coi hát cọp" của người dân Nam Bộ- có lẽ đã bắt nguồn vào cái thuở ông bà họ ngày xưa đốt đuốc chống xuồng trên sông lạch đến coi hát về đêm đã bị cọp rình. Trước 1975, tôi có lần gặp vài cụ già đỏ da thắm thịt, đi đứng cứng cát, dẻo dai- lưng còn thẳng như lưỡi kiếm của lão học giả Thái văn Kiểm qua lời tả của Hồ Trường An! Mức độ khang kiện của các cụ được đo bằng sự việc các cụ ngồi đánh tài bàn tổ tôm tứ sắc cả ngày cả đêm mà không than đau lưng mỏi mắt...Hỏi thì một cụ hãnh diện cho biết: "...Thằng hai nhà tui đóng đồn ở Cao Nguyên đã kiếm được vài lạng cao hổ cốt " thứ thiệt", đem ngâm rượu. Nó biểu chỉ uống ngày một chung nhỏ hạt mít trước khi đi ngủ thôi! Khỏe ghê !" Nói chí tình, tôi tế nhị không dám vô lễ tọc mạch hỏi thêm...về chuyện " long hổ quyết đấu" đối với cụ nào vẫn còn đang phong độ có bà nhỏ! Tuy nhiên, câu trả lời trên được coi là một chứng ngôn...( không biết đúng được bao nhiêu phần trăm, vì người Việt mình không quen đường lối chứng nghiệm qua kết quả trị liệu lâm sàng hay thống kê gì cả ) nhưng chứng ngôn này đủ làm tăng cái tính chất ly kỳ " danh bất hư truyền" cho cái huyền thoại về hiệu lực của cao hổ cốt. Không sao được khi người ta đã mang một ấn tượng về hình ảnh của chúa sơn lâm với dáng dấp như như con mèo khổng lồ lông vàng vằn đen, nhanh nhen uyển chuyển nhưng có kích thước của một con bò! Nhìn vào nét viết tượng hình của chữ Nho tối cổ (--------), nguời ta nhận định ra những đường vằn tuyệt mỹ của bộ lông cọp qua chữ " Hô" (------) nhưng ở dưới thêm chữ Nhân (----) miêu tả cặp chân trước của cọp lúc ngồi chồm hổm oai vệ như người, đồng thời cũng nói lên sự tinh khôn của loài linh vật như người này. Sức vụt phóng thân mình của cọp kinh khủng còn hơn chiếc xe truck...Và một cái tát nhẹ của bàn chân cọp đủ bứng hẳn phân nửa cái mặt của con người. Sức mạnh phi thường và uyển chuyển của cọp do đâu mà có? Phải chăng đã tích chứa trong bộ xương của nó! Dân Việt còn gọi hổ cọp là Hùm. Hổ và Hùm là hai chữ tượng thanh để chỉ về tiếng rống vang rừng đầy nội lực của chúa sơn lâm. Do đó, khi thi triễn công phu, người Tầu thường áp đảo đối phương bằng cú đấm thôi sơn kèm theo một tiếng hô lớn. Về quân sự, người Tầu thích đặt những tên như Sư đoàn Mãnh Hổ, Biệt động Lôi Hổ. Đó là cái tín lý của dân A đông cổ truyền về thuyết Hình-Ý tương- ứng cho rằng ngoại hình biểu lộ cái nội-ý, tuơng đương thuyết Thự-danh của Tây phương- Doctrine of Signatures- chữ ký là biểu trưng cho con người. Thuyết Hình-Ý tương ứng áp dụng cho nhiều món thuốc của Á-đông ví dụ như : * Cứt dơi ( Dạ Minh sa) trị bệnh về Mắt vì loài dơi thấy rõ trong bóng tối ( đúng ra dơi bay đêm nhờ radar). Máu dơi trị chóng mặt xây xẩm vì dơi treo nguợc đu bám trên cành cây. * Thận hay dái dê , hải cẩu ăn cường dương do ý niệm rằng chúng mạnh về sinh dục * Mật gấu trị bầm dập vì gấu leo cây té không sao cả * Vi kỳ của cá mập ăn mạnh gân cốt * Tổ yến làm bằng nước dãi của chim yến ăn bổ phổi * Hải sâm, sò huyết ăn bổ âm, bổ dương vì chúng có hình dáng của cơ quan sinh dục của người ta. Rất nhiều món thuốc A đông dựa trên tín lý này kể ra không hết...Ngoài ra, có những món thuốc lại dựa trên biện chứng dịch lý như Nhung- sừng mềm mới của loài hươu nai ( Chữ Nhung ---viết là chữ " nhĩ"(.....) với bộ " thảo" đầu ( ....), miêu tả hình dáng hai cái gạc trên vành tai). Nhung là cái gạc non mới mọc sau khi cái sừng già cũ rụng đi khi hươu nai ăn cỏ non trong rừng để tự bồi bổ, nên nhung chứa tinh túy của cây cỏ tùy thời điểm : Nếu Nhung mọc ra vào tiết khí Hạ-chí trong năm, nghĩa là "nhất âm sinh" về Dịch lý thì nhung có đặc tính bổ phần " âm huyết". Nếu Nhung mọc ra vào tiết khí Đông chí, tương đương với " nhất dương sinh " thì Nhung bổ phần " dương khí". Người ta còn nhận xét rằng hươu nai lúc nằm cuộn tròn, để kê mũi thở vào lỗ đít, tức là biết bồi duỡng nguyên khí, không để hư hao thất thoát...Do những ý niệm trên, nhung hươu nai nấu cao hay ngâm rượu bổ tinh tủy, khí huyết, mạnh gân cốt, chữa bệnh hư tổn, tai điếc, mắt mờ. Hổ cốt chủ yếu công hiệu nhất về xương và thần kinh! Trở về Cọp, bộ phận trên thân hình cọp đều đắc dụng làm thuốc cả, không bỏ thứ gì, duy chỉ có bộ xương là quí vì Cọp mạnh về bộ Cốt. Xương cọp nói chung trên thực tế thì chỗ nào cũng đều dùng được cả nhưng xương tốt nhất là xương đầu và xương ống quyển chân ( hĩnh cốt). Sau đây là vài cách nhận định về xương cọp thứ thiệt: Xương ống quyển phiá trước của nó, ở phần dưới gần lắt léo, có một cái rãnh dài đặc biệt gọi là " phượng nhãn". Còn xương quay chân sau rất mỏng. Hĩnh cốt của cọp có màu vàng nâu với những đường chạy dọc, sờ mịn tay. Cưa ngang thì thấy màu xương vàng hơi đen, có lỗ tủy nhỏ giống như lõi mướp khổ qua là tốt nhất . Đặc biệt xương cọp rất chắc, nặng nhưng cưa lại rất dễ. Xương không dính thịt mới là tốt. ( Phụ thân tôi nói muốn xương tróc sạch thịt người ta phải ngâm bộ xương cọp hàng tuần , hàng tháng dưới suối...) Rất nhiều sách nói về xương cọp, nhưng tôi thấy có cuốn sách Materia Medica et Pharmacopée Sino- Annamite ( Bản thảo và Dược điển Hoa-Việt) của Perrot E. và Hurrier P. ( Paris 1907) là đáng chú ý vì đã ghi chép nhiều phương thuốc không những của Tàu mà còn của Ta mà chúng ta cần khảo sát liên quan đến phương pháp mà tiền nhân của ta đã dùng để sao tẩm, và điều chế thuốc men . Ví dụ như xương của cọp đực màu vàng là tối hảo. Cọp bị bắn bằng tên độc thì không dùng được vì thuốc độc rút vào máu và đặc biệt nhiễm vào xương, dùng có hại như tác giả Watson nói kỹ rằng đàn bà có thai dùng thì bị đẻ khó!! Xương cọp được đánh vỡ để rửa sạch tủy. Tùy cách bào chế, xương cọp có thể tẩm với nước tiểu hay dấm và sao cho vàng trên lửa than. Về dược tính thì Xương cọp có vị chua, tính hơi ấm và không độc trong khi thịt cọp cũng có vị chua, nhưng tính lại bình. Xương cọp nhập vào Can kinh và Thận kinh. Xưong cọp có năng lực khu phong (trục gío độc) trấn thống ( trừ đau nhức) , kiện cốt ( mạnh xương), và trấn kinh ( trừ sự kinh hãi) , làm lành các chổ vết thương không lành hay lở lói nặng ( chữ nho nói là ác thương bất dữ, trưởng nhục sanh cơ), trị chứng phong thấp ở khớp xương, bắp thịt bị co rút. Ngoài ra, xương cọp trị đau bụng, thương hàn, sốt rét, sợ nước, trị kiết kinh niên, sa hậu môn, trị hóc xương ở cuống hầu. Đặc biệt thì xương ống quyển cọp trị chứng ống chân sưng. Xương ống quyển cọp công hiệu nhất cho chứng đau nhức, phong thấp, bắp thịt co giật. Còn xương sọ cọp thì công hiệu cho chứng kinh hãi, tim nhảy hồi hộp. Những bệnh nhân bị chứng huyết hư hỏa vượng ( nóng do khô huyết dịch) cấm dùng! Xương cọp thường được tẩm rượu hay dấm rồi sao khô hay không cho phụ gia phẩm thì khu phong hàn và kiện cân cường cốt. Về cách dùng bên ngoài thì: Xương cọp nấu nước tắm để trị sưng khớp vì phong thấp cho người lớn, còn hài nhi sơ sinh thì tắm ngừa được nhiễm trùng, làm kinh, bị ghẻ chốc , đau vặt chậm lớn, khóc vì kinh hãi do quỉ ma bắt. Xương cọp ngâm rượu đắp trị đau ở đầu gối. Xương cọp nghiền bột để đắp phỏng hay những chổ lở dưới móng chân cái ( hoặc trị tê liệt theo Regnault) Trên mặt tâm thần thì người ta dựa tín lý trị liệu vào cái uy linh của chúa Sơn lâm vì vài dữ kiện sau: * Trên trán cọp có hình chữ " vương" (.......); * Cọp sống lâu năm thì thành tinh và trổ lông trắng - Bạch hổ! * và khi ai bị cọp ăn thịt , hồn ma phải đi theo hầu nó gọi là ma " trành" (......), hồn trành phải dụ cho một người khác cho cọp ăn thịt thì hồn mới siêu thoát , cũng giống như chuyện quỉ Dracula của Tây phương, như nhà văn tiền chiến Mai Nguyệt TCHYA Đái đức Tuấn viết trong chuyện Thần Hổ! Xương cọp và vuốt cọp cùng với lông bàn chân cọp làm bùa cho con nít đeo. Xương cọp treo trên nóc nhà thì đuổi quỉ ma, khiến người nhà không bị ác mộng. Trên mỗi bên xương sườn, có một cái xương cong như hình chữ "ất "(Z) gọi là U cốt, dân nhà võ khoái đeo để tỏ ra uy vệ với cấp dưới. Hình vẽ Cọp treo làm bùa gọi là" Hắc hổ trấn phù"( bùa cọp đen) như phong tục Việt nam ngày xưa thường làm để cho con nít dễ nuôi, khỏi sài đẹn hay ma quỉ bắt. Trong nhà hắc hổ trấn phù Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng ( Trinh Thử) Đôi khi, dân ta còn treo bùa " Ngũ Hổ" ( 5 ông thần cọp với đủ 5 sắc của Ngũ hành: xanh, đỏ, vàng, trắng , đen) Hổ cốt đưọc coi là thuốc quí trong những thứ khác trong ý niệm của dân A đông; điều này đã phản ánh và liệt kê rõ ràng trong văn chương của cuốn Trinh thử: Tìm thầy Biển Thước lập phương, Mã đề, Qui bản, sà sàng, lộc nhung Nhân sâm. liên nhục , mật ong Pha cao hổ cốt, ban long luyện hoàn Bổ trong ngũ nội đã an, Vợ chồng lục vị, thập toàn uống chung! Bây giờ, chúng ta thử đi vào vấn đề bào chế hổ cốt và lập phương: Trong sự phục dược, thì theo phép thông thường có những hình thứ sau : Thang ( pha trà hay nấu sôi lấy nước), Tán ( nghiền thành bột), Cao (nấu cô lại thành bánh) , Hoàn ( lấy bột vo viên) , Tửu ( ngâm rượu). Về hổ cốt thì cách ngâm rượu và nấu cao hoặc luyện viên là thường nghe nói. Hổ cốt tửu Ngâm rượu thì dùng khoảng từ một lạng đến bốn lạng ta ( 1 lạng tương đương 37 gr 500 ) trong một lít rượu, thường là rượu gạo hay rượu vodka càng tốt. Vật liệu ngâm không cần tán bột mà chỉ cần cưa khúc nhỏ để cho tinh tuý dễ tan ra. Thời gian ngâm dưới một tháng chưa đủ để thử, mà cần càng lâu càng tốt- 3 tháng, 6 tháng, một năm- ngâm càng lâu ruợu càng thấm, càng bổ. Nhiều khi rượu thuốc đúng độ được dùng một phần nào đó thì lại châm thêm rượu mới vô. Hổ cốt thường được dùng trong các chứng teo xương ở hai chi dưới, bắp chân bị co giật, đau ở thắt lưng và đau nhức xương. Hổ cốt được ngâm thuần túy hay được phối hộp với những dược thảo khác chẳng hạn như toa Hổ cốt Mộc qua tửu đặc trị để khu phong, bớt đau nhức, khử chứng thấp hàn, cường cân kiện cốt. Toa này lấy từ sách Kinh nghiệm phương, tôi xin kê cứu ra đây với mục đích biên khảo vế văn hoá để quí bạn đọc tường lãm với lời khuyến cáo rằng vấn đề dùng phải có ý kiến tham khảo của Đông Y sĩ về định bệnh lập phương tùy cá nhân. hổ cốt mộc qua tửu Hổ cốt ( Tigris Os) 10 gr Mộc qua ( Chaenomelis fructus) 30 gr Xuyên khung ( Ligustici rhizoma) 10 gr Ngưu tất ( Cyathulae radis) 10 gr Đương qui ( Angelicae sinensis radix) 10 gr Thiên ma ( Gastrodiae rhizoma ) 10 gr Ngũ gia bì ( Acanthopanacis radicis cortex) 10 gr Hồng hoa ( Carthami flos) 10 gr Tục đoạn ( Dipsaci radix) 10 gr Kiết cánh ( Solani Melongae radix) 10 gr Ngọc trúc ( Polygonati officialis rhizoma) 20 gr Tần cửu ( Gentianae macrophyllae radix) 5 gr Phòng phong ( Ledebouriellae radix) 5 gr Tang chi ( Mori ramulus) 40 gr Rượu Cao lương ( Sorghi spirituss) 3,000 cc Đường cát ( Saccharon granulatum) 300 gr Ngoài ra còn những thứ rượu khác như: HỔ CỐT NHÂN SÂM TỬU Hổ cốt 10 gr Nhân sâm 10 gr Ngâm trong một lít vodka, gin. Có công hiệu phục chân dương, mạnh gân xương, khu phong khử thấp Có thai , hoả vượng do âm hư cấm dùng. Ngoài ra, còn nhiều sự phối hợp như Hổ cốt với đương qui, ngưu tất; hổ cốt với mộc qua, bạch thược... Cao hổ cốt Nấu cao tức là nấu vật liệu sau khi tẩy khử những tạp chất ( như thịt, mỡ, tuỷ bám vào xương) bằng lửa cao vừa phải trong nhiều thời gian để tinh túy tan ra, mức nước sôi cạn thì phải canh chừng châm vào. Nấu cao bằng vạc hay chảo đụng lớn, vật liệu chất chung quanh một cái lồng đèn bằng nan tre đan như cái nơm để chính giữa, cốt để dùng gáo múc nước cốt ra. Nước cốt được múc ra thành nhiều đợt, từ đậm rồi lạt từ từ để cuối cùng cô những mẫu nước cốt lại thành cao đặc . Đợt Nước cốt này được múc ra thì lại được châm nước sôi mới vào làm đợt khác. Xác vật liệu chỉ đem vứt khi nước nấu trở thành lạt trong. Giai đoạn cô cao phải canh chừng lửa vừa phải kẻo bị cháy nồi hỏng toàn mẻ cao. Ngày xưa, không có đồng hồ thì phải đốt nhang mà tính thời gian. Đại khái thì nấu cao hổ cốt, ban long, qui bản là như vậy. Ngày xưa, không có giấy bóng, thì người ta dùng lá chuối khô để gói sau khi cắt miếng rồi cân lượng, ghi nhãn bằng một vuông giấy hồng điều. Những khảo sát thực nghiệm về hổ cốt Về thành phần hoá chất, hổ cốt chứa các chất sau: collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonate, magnesium phosphate, kalium carbonate - nhưng collagen là hoạt chất chính. Gelatin của Hổ cốt chứa 17 amino-acid. Ở Hoa lục, người Tầu đã làm nhiều khảo sát, tuy nhiên tính chất chính xác, khoa học của sự khảo sát và sự hiệu nghiệm trên duợc lực học và áp dụng lâm sàng ra sao, thế giới bên ngoài chưa đủ dữ kiện và bằng chứng để đánh giá vì tất cả những khảo sát đều thi hành trong nội điạ khép kín của nước Trung hoa. Người ta chắc còn phài chờ đợi và đọc thêm nhiều tài liệu thư tịch từ các xứ khác. Cuốn sách mà tôi tra cứu duy nhất là cuốn Pharmacology and Applications of Chinese Materia Medica ( Dược học và Áp dụng về dược thảo Trung Y) ấn hành do World Scientific Publishing Co. 1987 , do hai tiến sĩ Hsou Mou Chang và Paul Pui thuộc Trung Tâm nghiên cứu về Dược liệu Trung Y của The Chinese University of Hongkong. Theo sự khảo sát về dược học trên loài vật trong phòng thí nghiệm thì hổ cốt có những công hiệu rõ : kháng viêm. chỉ thống, an thấn, và làm lành xương gẫy. Còn về khảo sát lâm sàng thì , hổ cốt trị đựơc viêm khớp do phong thấp và nhiều dạng phong thấp khác và trường hợp gãy xương với kết quả khả quan rất cao từ 65-92 % ! Hổ cốt và Cẩu cốt! Nhân đây, tôi thú thực quá đỗi ngạc nhiên khi đọc tài liệu nói trên nói rắng ở Trung hoa xuyên qua những cuộc nghiên cứu khảo sát " khoa học" so sánh trong vòng hơn thập niên này đưa đến nhận định rằng Hổ cốt đương nhiên vẫn tốt như truyền tụng, nhưng xương chó ( sic) có thế thay thế xương cọp mà cái tốt thì bên tám lạng ,bên nửa cân! Cẩu cốt cũng kháng viêm, cũng an thần, cũng trấn thống ngang ngửa với hổ cốt.... Phải chăng điều này làm đảo lộn tín lý cổ truyền của dân gian về xương cọp rất hiếm quí với những dược tính siêu đằng danh bất hư truyền ? Hổ cốt đương nhiên rất khó kiếm...nhưng cẩu cốt thỉ trong xã hội Á đông...quá sẵn vì người ta thường thưởng thức món mộc tồn đều đều...Nhân trước đây vài năm, tôi thấy ở miền bắc Trung hoa, có đến " hàng ngàn trại nuôi chó để lấy lông làm áo ngự hàn"! Tôi bỗng liên tưởng đến mắc xích dùng xương chó nấu cao thay cho cao hổ cốt biết đâu chẳng là sáng kiến siêu đẳng khai thác đống xương chó cao ngút ngàn sau khi thịt chó lấy lông của những trại nuôi chó khổng lồ kia? Bỏ xương đi thì tiếc...nghiền ra làm phân bón thì cần máy móc lôi thôi, lại tốn kém! Chi bằng nấu cao Cẩu cốt...tốn kém không nhiều mà để dùng không tốt ngang thì tốt dọc...Rồi Nhà nước lại kiếm thêm nguốn tài lợi, một khi người ta tin tưởng! Cái tinh khôn của mấy ông Tầu cọng nghĩ thật là độc đáo. Nghĩ lại thì làm thân con chó ở Âu Tây là tu nhiều kiếp nên sướng đứng hạng ba trên quí vị liền ông; còn ở cái xứ Tầu cọng, chó bị thịt, bị lột da, bị nấu xương làm cao thì thật là tương phản vô cùng, nhưng chả có gì lạ cả. Mặc dù các cuộc khảo sát của Tầu Hoa Lục đã xác định một cách " cách mạng" rằng Cẩu cốt tốt không thua Hổ cốt trên phương diện dược học và lâm sàng thì tâm lý người quen dùng vẫn thiên về Hổ cốt Tín lý về thuốc theo á đông Trước đây , hồi bên Việt nam , làm quà cho nhà ai có ông già bà cả vài lạng cao Hổ cốt, tức là đã biếu tặng một món quà trân quí được người ta hân hoan đón nhận. Cao hổ cốt, cao ban long, cao qui bản, cao bú dù là những món bổ dược cổ truyền trong xã hội Á đông. Nhưng cao hổ cốt được liệt vô hàng quí bậc nhất vì rất khó kiếm nên đắt giá kinh khủng. Ngay dù trả với một món tiền lớn, chưa chắc người ta bảo đảm rằng mua được cao hổ cốt thiệt. Cọp thì năm thì mười họa mới săn được, lấy đâu sẵn xương mà nấu cao...Do đó, sự gian ý ngụy tạo pha trộn với xương trâu, xương bò là điều thường xảy ra. Tôi còn nhớ phụ thân tôi hay kể về chuyện huyền thoại ngoa ngôn để thử cao hổ thứ thiệt thì hoà một chút trong rượu rồi bôi vào cọng của một chiếc lá tre, xong thả trên mặt nước, chiếc lá quay tít là đúng...nhưng lại có kẻ bán cao giả dùng lá tre bôi một giọt Crésyl đậm đặc thì chiếc lá tre quay tít còn bạo hơn nữa, tựa hồ như đã chứa một chút tinh túy mãnh lực của chúa sơn lâm! Hơn nữa, cọp càng ngày càng hiếm; theo số báo National Geographic Magazine tháng 11 năm nay, cọp liệt vào loài dã thú đã lâm vào họa diệt chủng từ bấy lâu. Số cọp còn sót lại ở vùng Đông dương đếm đâu đó vào khoảng 200-300 con. Cọp lại không ở trong rừng sâu vì thiếu mồi săn, mà thường ở các ven rừng rậm để có thể bắt trâu bò dê heo của dân cư. Cọp dữ và ma thiêng dần dần bị tiêu diệt với cái đà bành trướng của đám dân khai hoang phá rẫy...Câu "Cọp Khánh Hoà, Ma Bình Thuận" đã có giá trị ghi lại thời điểm dân Việt đã lập đồn điền trên đường Nam tiến vào những thế kỷ trước đây. Cọp thường rình người trên những đoạn đường xuyên qua lùm bụi, truông rừng, bởi thế mới có nạn bị cọp vồ khiến khách bộ hành phải đề phòng kinh hãi..; do đó mới nảy sinh câu tục ngữ: "Qua truông, trẽ bòi cho khái" ( Khái, ba mươi là tiếng chỉ cọp) nghĩa là hết còn sợ cọp khi qua khỏi rừng. Câu chuyện " Cọp lẻn về xóm dân cư coi hát "- để trở nên thành ngữ : " coi hát cọp" của người dân Nam Bộ- có lẽ đã bắt nguồn vào cái thuở ông bà họ ngày xưa đốt đuốc chống xuồng trên sông lạch đến coi hát về đêm đã bị cọp rình. Trước 1975, tôi có lần gặp vài cụ già đỏ da thắm thịt, đi đứng cứng cát, dẻo dai- lưng còn thẳng như lưỡi kiếm của lão học giả Thái văn Kiểm qua lời tả của Hồ Trường An! Mức độ khang kiện của các cụ được đo bằng sự việc các cụ ngồi đánh tài bàn tổ tôm tứ sắc cả ngày cả đêm mà không than đau lưng mỏi mắt...Hỏi thì một cụ hãnh diện cho biết: "...Thằng hai nhà tui đóng đồn ở Cao Nguyên đã kiếm được vài lạng cao hổ cốt " thứ thiệt", đem ngâm rượu. Nó biểu chỉ uống ngày một chung nhỏ hạt mít trước khi đi ngủ thôi! Khỏe ghê !" Nói chí tình, tôi tế nhị không dám vô lễ tọc mạch hỏi thêm...về chuyện " long hổ quyết đấu" đối với cụ nào vẫn còn đang phong độ có bà nhỏ! Tuy nhiên, câu trả lời trên được coi là một chứng ngôn...( không biết đúng được bao nhiêu phần trăm, vì người Việt mình không quen đường lối chứng nghiệm qua kết quả trị liệu lâm sàng hay thống kê gì cả ) nhưng chứng ngôn này đủ làm tăng cái tính chất ly kỳ " danh bất hư truyền" cho cái huyền thoại về hiệu lực của cao hổ cốt. Không sao được khi người ta đã mang một ấn tượng về hình ảnh của chúa sơn lâm với dáng dấp như như con mèo khổng lồ lông vàng vằn đen, nhanh nhen uyển chuyển nhưng có kích thước của một con bò! Nhìn vào nét viết tượng hình của chữ Nho tối cổ (--------), nguời ta nhận định ra những đường vằn tuyệt mỹ của bộ lông cọp qua chữ " Hô" (------) nhưng ở dưới thêm chữ Nhân (----) miêu tả cặp chân trước của cọp lúc ngồi chồm hổm oai vệ như người, đồng thời cũng nói lên sự tinh khôn của loài linh vật như người này. Sức vụt phóng thân mình của cọp kinh khủng còn hơn chiếc xe truck...Và một cái tát nhẹ của bàn chân cọp đủ bứng hẳn phân nửa cái mặt của con người. Sức mạnh phi thường và uyển chuyển của cọp do đâu mà có? Phải chăng đã tích chứa trong bộ xương của nó! Dân Việt còn gọi hổ cọp là Hùm. Hổ và Hùm là hai chữ tượng thanh để chỉ về tiếng rống vang rừng đầy nội lực của chúa sơn lâm. Do đó, khi thi triễn công phu, người Tầu thường áp đảo đối phương bằng cú đấm thôi sơn kèm theo một tiếng hô lớn. Về quân sự, người Tầu thích đặt những tên như Sư đoàn Mãnh Hổ, Biệt động Lôi Hổ. Đó là cái tín lý của dân A đông cổ truyền về thuyết Hình-Ý tương- ứng cho rằng ngoại hình biểu lộ cái nội-ý, tuơng đương thuyết Thự-danh của Tây phương- Doctrine of Signatures- chữ ký là biểu trưng cho con người. Thuyết Hình-Ý tương ứng áp dụng cho nhiều món thuốc của Á-đông ví dụ như : * Cứt dơi ( Dạ Minh sa) trị bệnh về Mắt vì loài dơi thấy rõ trong bóng tối ( đúng ra dơi bay đêm nhờ radar). Máu dơi trị chóng mặt xây xẩm vì dơi treo nguợc đu bám trên cành cây. * Thận hay dái dê , hải cẩu ăn cường dương do ý niệm rằng chúng mạnh về sinh dục * Mật gấu trị bầm dập vì gấu leo cây té không sao cả * Vi kỳ của cá mập ăn mạnh gân cốt * Tổ yến làm bằng nước dãi của chim yến ăn bổ phổi * Hải sâm, sò huyết ăn bổ âm, bổ dương vì chúng có hình dáng của cơ quan sinh dục của người ta. Rất nhiều món thuốc A đông dựa trên tín lý này kể ra không hết...Ngoài ra, có những món thuốc lại dựa trên biện chứng dịch lý như Nhung- sừng mềm mới của loài hươu nai ( Chữ Nhung ---viết là chữ " nhĩ"(.....) với bộ " thảo" đầu ( ....), miêu tả hình dáng hai cái gạc trên vành tai). Nhung là cái gạc non mới mọc sau khi cái sừng già cũ rụng đi khi hươu nai ăn cỏ non trong rừng để tự bồi bổ, nên nhung chứa tinh túy của cây cỏ tùy thời điểm : Nếu Nhung mọc ra vào tiết khí Hạ-chí trong năm, nghĩa là "nhất âm sinh" về Dịch lý thì nhung có đặc tính bổ phần " âm huyết". Nếu Nhung mọc ra vào tiết khí Đông chí, tương đương với " nhất dương sinh " thì Nhung bổ phần " dương khí". Người ta còn nhận xét rằng hươu nai lúc nằm cuộn tròn, để kê mũi thở vào lỗ đít, tức là biết bồi duỡng nguyên khí, không để hư hao thất thoát...Do những ý niệm trên, nhung hươu nai nấu cao hay ngâm rượu bổ tinh tủy, khí huyết, mạnh gân cốt, chữa bệnh hư tổn, tai điếc, mắt mờ. Hổ cốt chủ yếu công hiệu nhất về xương và thần kinh! Trở về Cọp, bộ phận trên thân hình cọp đều đắc dụng làm thuốc cả, không bỏ thứ gì, duy chỉ có bộ xương là quí vì Cọp mạnh về bộ Cốt. Xương cọp nói chung trên thực tế thì chỗ nào cũng đều dùng được cả nhưng xương tốt nhất là xương đầu và xương ống quyển chân ( hĩnh cốt). Sau đây là vài cách nhận định về xương cọp thứ thiệt: Xương ống quyển phiá trước của nó, ở phần dưới gần lắt léo, có một cái rãnh dài đặc biệt gọi là " phượng nhãn". Còn xương quay chân sau rất mỏng. Hĩnh cốt của cọp có màu vàng nâu với những đường chạy dọc, sờ mịn tay. Cưa ngang thì thấy màu xương vàng hơi đen, có lỗ tủy nhỏ giống như lõi mướp khổ qua là tốt nhất . Đặc biệt xương cọp rất chắc, nặng nhưng cưa lại rất dễ. Xương không dính thịt mới là tốt. ( Phụ thân tôi nói muốn xương tróc sạch thịt người ta phải ngâm bộ xương cọp hàng tuần , hàng tháng dưới suối...) Rất nhiều sách nói về xương cọp, nhưng tôi thấy có cuốn sách Materia Medica et Pharmacopée Sino- Annamite ( Bản thảo và Dược điển Hoa-Việt) của Perrot E. và Hurrier P. ( Paris 1907) là đáng chú ý vì đã ghi chép nhiều phương thuốc không những của Tàu mà còn của Ta mà chúng ta cần khảo sát liên quan đến phương pháp mà tiền nhân của ta đã dùng để sao tẩm, và điều chế thuốc men . Ví dụ như xương của cọp đực màu vàng là tối hảo. Cọp bị bắn bằng tên độc thì không dùng được vì thuốc độc rút vào máu và đặc biệt nhiễm vào xương, dùng có hại như tác giả Watson nói kỹ rằng đàn bà có thai dùng thì bị đẻ khó!! Xương cọp được đánh vỡ để rửa sạch tủy. Tùy cách bào chế, xương cọp có thể tẩm với nước tiểu hay dấm và sao cho vàng trên lửa than. Về dược tính thì Xương cọp có vị chua, tính hơi ấm và không độc trong khi thịt cọp cũng có vị chua, nhưng tính lại bình. Xương cọp nhập vào Can kinh và Thận kinh. Xưong cọp có năng lực khu phong (trục gío độc) trấn thống ( trừ đau nhức) , kiện cốt ( mạnh xương), và trấn kinh ( trừ sự kinh hãi) , làm lành các chổ vết thương không lành hay lở lói nặng ( chữ nho nói là ác thương bất dữ, trưởng nhục sanh cơ), trị chứng phong thấp ở khớp xương, bắp thịt bị co rút. Ngoài ra, xương cọp trị đau bụng, thương hàn, sốt rét, sợ nước, trị kiết kinh niên, sa hậu môn, trị hóc xương ở cuống hầu. Đặc biệt thì xương ống quyển cọp trị chứng ống chân sưng. Xương ống quyển cọp công hiệu nhất cho chứng đau nhức, phong thấp, bắp thịt co giật. Còn xương sọ cọp thì công hiệu cho chứng kinh hãi, tim nhảy hồi hộp. Những bệnh nhân bị chứng huyết hư hỏa vượng ( nóng do khô huyết dịch) cấm dùng! Xương cọp thường được tẩm rượu hay dấm rồi sao khô hay không cho phụ gia phẩm thì khu phong hàn và kiện cân cường cốt. Về cách dùng bên ngoài thì: Xương cọp nấu nước tắm để trị sưng khớp vì phong thấp cho người lớn, còn hài nhi sơ sinh thì tắm ngừa được nhiễm trùng, làm kinh, bị ghẻ chốc , đau vặt chậm lớn, khóc vì kinh hãi do quỉ ma bắt. Xương cọp ngâm rượu đắp trị đau ở đầu gối. Xương cọp nghiền bột để đắp phỏng hay những chổ lở dưới móng chân cái ( hoặc trị tê liệt theo Regnault) Trên mặt tâm thần thì người ta dựa tín lý trị liệu vào cái uy linh của chúa Sơn lâm vì vài dữ kiện sau: * Trên trán cọp có hình chữ " vương" (.......); * Cọp sống lâu năm thì thành tinh và trổ lông trắng - Bạch hổ! * và khi ai bị cọp ăn thịt , hồn ma phải đi theo hầu nó gọi là ma " trành" (......), hồn trành phải dụ cho một người khác cho cọp ăn thịt thì hồn mới siêu thoát , cũng giống như chuyện quỉ Dracula của Tây phương, như nhà văn tiền chiến Mai Nguyệt TCHYA Đái đức Tuấn viết trong chuyện Thần Hổ! Xương cọp và vuốt cọp cùng với lông bàn chân cọp làm bùa cho con nít đeo. Xương cọp treo trên nóc nhà thì đuổi quỉ ma, khiến người nhà không bị ác mộng. Trên mỗi bên xương sườn, có một cái xương cong như hình chữ "ất "(Z) gọi là U cốt, dân nhà võ khoái đeo để tỏ ra uy vệ với cấp dưới. Hình vẽ Cọp treo làm bùa gọi là" Hắc hổ trấn phù"( bùa cọp đen) như phong tục Việt nam ngày xưa thường làm để cho con nít dễ nuôi, khỏi sài đẹn hay ma quỉ bắt. Trong nhà hắc hổ trấn phù Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng ( Trinh Thử) Đôi khi, dân ta còn treo bùa " Ngũ Hổ" ( 5 ông thần cọp với đủ 5 sắc của Ngũ hành: xanh, đỏ, vàng, trắng , đen) Hổ cốt đưọc coi là thuốc quí trong những thứ khác trong ý niệm của dân A đông; điều này đã phản ánh và liệt kê rõ ràng trong văn chương của cuốn Trinh thử: Tìm thầy Biển Thước lập phương, Mã đề, Qui bản, sà sàng, lộc nhung Nhân sâm. liên nhục , mật ong Pha cao hổ cốt, ban long luyện hoàn Bổ trong ngũ nội đã an, Vợ chồng lục vị, thập toàn uống chung! Bây giờ, chúng ta thử đi vào vấn đề bào chế hổ cốt và lập phương: Trong sự phục dược, thì theo phép thông thường có những hình thứ sau : Thang ( pha trà hay nấu sôi lấy nước), Tán ( nghiền thành bột), Cao (nấu cô lại thành bánh) , Hoàn ( lấy bột vo viên) , Tửu ( ngâm rượu). Về hổ cốt thì cách ngâm rượu và nấu cao hoặc luyện viên là thường nghe nói. Hổ cốt tửu Ngâm rượu thì dùng khoảng từ một lạng đến bốn lạng ta ( 1 lạng tương đương 37 gr 500 ) trong một lít rượu, thường là rượu gạo hay rượu vodka càng tốt. Vật liệu ngâm không cần tán bột mà chỉ cần cưa khúc nhỏ để cho tinh tuý dễ tan ra. Thời gian ngâm dưới một tháng chưa đủ để thử, mà cần càng lâu càng tốt- 3 tháng, 6 tháng, một năm- ngâm càng lâu ruợu càng thấm, càng bổ. Nhiều khi rượu thuốc đúng độ được dùng một phần nào đó thì lại châm thêm rượu mới vô. Hổ cốt thường được dùng trong các chứng teo xương ở hai chi dưới, bắp chân bị co giật, đau ở thắt lưng và đau nhức xương. Hổ cốt được ngâm thuần túy hay được phối hộp với những dược thảo khác chẳng hạn như toa Hổ cốt Mộc qua tửu đặc trị để khu phong, bớt đau nhức, khử chứng thấp hàn, cường cân kiện cốt. Toa này lấy từ sách Kinh nghiệm phương, tôi xin kê cứu ra đây với mục đích biên khảo vế văn hoá để quí bạn đọc tường lãm với lời khuyến cáo rằng vấn đề dùng phải có ý kiến tham khảo của Đông Y sĩ về định bệnh lập phương tùy cá nhân. hổ cốt mộc qua tửu Hổ cốt ( Tigris Os) 10 gr Mộc qua ( Chaenomelis fructus) 30 gr Xuyên khung ( Ligustici rhizoma) 10 gr Ngưu tất ( Cyathulae radis) 10 gr Đương qui ( Angelicae sinensis radix) 10 gr Thiên ma ( Gastrodiae rhizoma ) 10 gr Ngũ gia bì ( Acanthopanacis radicis cortex) 10 gr Hồng hoa ( Carthami flos) 10 gr Tục đoạn ( Dipsaci radix) 10 gr Kiết cánh ( Solani Melongae radix) 10 gr Ngọc trúc ( Polygonati officialis rhizoma) 20 gr Tần cửu ( Gentianae macrophyllae radix) 5 gr Phòng phong ( Ledebouriellae radix) 5 gr Tang chi ( Mori ramulus) 40 gr Rượu Cao lương ( Sorghi spirituss) 3,000 cc Đường cát ( Saccharon granulatum) 300 gr Ngoài ra còn những thứ rượu khác như: HỔ CỐT NHÂN SÂM TỬU Hổ cốt 10 gr Nhân sâm 10 gr Ngâm trong một lít vodka, gin. Có công hiệu phục chân dương, mạnh gân xương, khu phong khử thấp Có thai , hoả vượng do âm hư cấm dùng. Ngoài ra, còn nhiều sự phối hợp như Hổ cốt với đương qui, ngưu tất; hổ cốt với mộc qua, bạch thược... Cao hổ cốt Nấu cao tức là nấu vật liệu sau khi tẩy khử những tạp chất ( như thịt, mỡ, tuỷ bám vào xương) bằng lửa cao vừa phải trong nhiều thời gian để tinh túy tan ra, mức nước sôi cạn thì phải canh chừng châm vào. Nấu cao bằng vạc hay chảo đụng lớn, vật liệu chất chung quanh một cái lồng đèn bằng nan tre đan như cái nơm để chính giữa, cốt để dùng gáo múc nước cốt ra. Nước cốt được múc ra thành nhiều đợt, từ đậm rồi lạt từ từ để cuối cùng cô những mẫu nước cốt lại thành cao đặc . Đợt Nước cốt này được múc ra thì lại được châm nước sôi mới vào làm đợt khác. Xác vật liệu chỉ đem vứt khi nước nấu trở thành lạt trong. Giai đoạn cô cao phải canh chừng lửa vừa phải kẻo bị cháy nồi hỏng toàn mẻ cao. Ngày xưa, không có đồng hồ thì phải đốt nhang mà tính thời gian. Đại khái thì nấu cao hổ cốt, ban long, qui bản là như vậy. Ngày xưa, không có giấy bóng, thì người ta dùng lá chuối khô để gói sau khi cắt miếng rồi cân lượng, ghi nhãn bằng một vuông giấy hồng điều. Những khảo sát thực nghiệm về hổ cốt Về thành phần hoá chất, hổ cốt chứa các chất sau: collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonate, magnesium phosphate, kalium carbonate - nhưng collagen là hoạt chất chính. Gelatin của Hổ cốt chứa 17 amino-acid. Ở Hoa lục, người Tầu đã làm nhiều khảo sát, tuy nhiên tính chất chính xác, khoa học của sự khảo sát và sự hiệu nghiệm trên duợc lực học và áp dụng lâm sàng ra sao, thế giới bên ngoài chưa đủ dữ kiện và bằng chứng để đánh giá vì tất cả những khảo sát đều thi hành trong nội điạ khép kín của nước Trung hoa. Người ta chắc còn phài chớ đợi và đọc thêm nhiều tài liệu thư tịch từ các xứ khác. Cuốn sách mà tôi tra cứu duy nhất là cuốn Pharmacology and Applications of Chinese Materia Medica ( Dược học và Áp dụng về dược thảo Trung Y) ấn hành do World Scientific Publishing Co. 1987 , do hai tiến sĩ Hsou Mou Chang và Paul Pui thuộc Trung Tâm nghiên cứu về Dược liệu Trung Y của The Chinese University of Hongkong. Theo sự khảo sát về dược học trên loài vật trong phòng thí nghiệm thì hổ cốt có những công hiệu rõ : kháng viêm. chỉ thống, an thấn, và làm lành xương gẫy. Còn về khảo sát lâm sàng thì , hổ cốt trị đựơc viêm khớp do phong thấp và nhiều dạng phong thấp khác và trường hợp gãy xương với kết quả khả quan rất cao từ 65-92 % !
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:28:39 GMT 9
Hổ cốt và Cẩu cốt! Nhân đây, tôi thú thực quá đỗi ngạc nhiên khi đọc tài liệu nói trên nói rắng ở Trung hoa xuyên qua những cuộc nghiên cứu khảo sát " khoa học" so sánh trong vòng hơn thập niên này đưa đến nhận định rằng Hổ cốt đương nhiên vẫn tốt như truyền tụng, nhưng xương chó ( sic) có thế thay thế xương cọp mà cái tốt thì bên tám lạng ,bên nửa cân! Cẩu cốt cũng kháng viêm, cũng an thần, cũng trấn thống ngang ngửa với hổ cốt.... Phải chăng điều này làm đảo lộn tín lý cổ truyền của dân gian về xương cọp rất hiếm quí với những dược tính siêu đằng danh bất hư truyền ? Hổ cốt đương nhiên rất khó kiếm...nhưng cẩu cốt thỉ trong xã hội Á đông...quá sẵn vì người ta thường thưởng thức món mộc tồn đều đều...Nhân trước đây vài năm, tôi thấy ở miền bắc Trung hoa, có đến " hàng ngàn trại nuôi chó để lấy lông làm áo ngự hàn"! Tôi bỗng liên tưởng đến mắc xích dùng xương chó nấu cao thay cho cao hổ cốt biết đâu chẳng là sáng kiến siêu đẳng khai thác đống xương chó cao ngút ngàn sau khi thịt chó lấy lông của những trại nuôi chó khổng lồ kia? Bỏ xương đi thì tiếc...nghiền ra làm phân bón thì cần máy móc lôi thôi, lại tốn kém! Chi bằng nấu cao Cẩu cốt...tốn kém không nhiều mà để dùng không tốt ngang thì tốt dọc...Rồi Nhà nước lại kiếm thêm nguốn tài lợi, một khi người ta tin tưởng! Cái tinh khôn của mấy ông Tầu cọng nghĩ thật là độc đáo. Nghĩ lại thì làm thân con chó ở Âu Tây là tu nhiều kiếp nên sướng đứng hạng ba trên quí vị liền ông; còn ở cái xứ Tầu cọng, chó bị thịt, bị lột da, bị nấu xương làm cao thì thật là tương phản vô cùng, nhưng chả có gì lạ cả. Mặc dù các cuộc khảo sát của Tầu Hoa Lục đã xác định một cách " cách mạng" rằng Cẩu cốt tốt không thua Hổ cốt trên phương diện dược học và lâm sàng thì tâm lý người quen dùng vẫn thiên về Hổ cốt...
BS Lê Văn Lân
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:42:22 GMT 9
Toa Thuốc Gia Truyền Trị Bệnh Tê Bại Toàn Thân,Bán Thân , Toa Thuốc Gia Truyền Trị Bệnh Tê Bại Toàn Thân,Bán Thân, Đau Nhức Cột Xương Sống, Thấp Khớp, Nhức Mỏi. Đính kèm là toa thuốc gia truyền của gia đình ông bà Hồ tấn Quyền. Ông bà Chung tấn Cang đã dùng toa này cảm thấy khoẻ khoắn, hết đau nhức, vui vẻ, linh hoạt. Ông Võ Sum sau khi dùng đã có thể đứng mặc dù ông đã bị stroke, đi lại khó khăn. Chính tôi Du Lê sau khi uống 1 tuần, taỵ dơ thẳng cánh có thể nâng và xoay một thanh sắt dài 6 ft nặng 5 lbs, bớt nhức mỏi.(du_le@yahoo. com) Đây cũng là cơ may cho anh em HQ/HH được cựu Tư Lệnh HQ Hồ Tấn Quyền giúp cho trong lúc tuổi già xế bóng. Toa thuốc này có thể mua tại bất cứ tiệm thuốc bắc nào, giá chỉ có 5 dollars. Toa thuốc 1/ Trạch lan………………………….4 chỉ 2/ Cam Kỷ Tử………………………3 chỉ 3/ Xuyên Khung……………………2 chỉ 4/ Độc Hoạt…………………………2 chỉ 5/ Hổ Cốt hay Cẩu Tích…………..4 chỉ 6/ Sinh Địa ............……………….....4 chỉ 7/ Ngưu Tất………………………...3 chỉ 8/ Nhãn Nhục…………………….. 5 chỉ 9/ Quế……………………………..…2 chỉ 10/ Đương Quy……………………..3 chỉ 11/ Thục Địa………………………... 2 chỉ 12/ Cam Thảo………………...… .....2 chỉ 13/ Đỗ Trọng……………..……....... 4 chỉ Ngâm với 1 lít rượu trắng 37 độ, 1 lít nước suối không có gas ( hoặc 2 lít rượu vang nếu không muốn pha rượu với nước suối), 200 gr đường phèn, Ngâm độ 2 tuần hay lâu hơn càng tốt. Khi uống nhớ quậy đều lên, uống sau bữa ăn trưa và tối, mỗi lần một liquer nhỏ(ly uống sec). Uống mấy thang cũng được, khi nào hết hẳn bệnh hãy ngưng, hay uống tiếp tục càng lâu càng tốt. Nếu không uống được rượu thì nấu 4 chén còn lại 1 chén.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:56:31 GMT 9
Một số thực phẩm và thuốc men không nên dùng chung với nhau, dưới cái nhìn của tây y Cali Today News - Khi uống thuốc trị bệnh, có người không bao giờ chú ý là họ đã hay đang dùng thực phẩm nào. Dược sĩ Paul Doering, giáo sư Đai Học Florida, cảnh báo: “Nhiều người cứ tưởng thực phẩm ăn vào là tự nhiên, nhưng cũng như thuốc, thực phẩm có chất nhiều cấu tạo có thể ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động các cơ quan nội tạng.” Sau đây là những loại thực phẩm không nên dùng chung với một số thuốc men: 1. Nước trái nho: Đừng uống loại nước này với với thuốc làm giảm cholesterol như Lipitor (một loại satins), các loại ngăn chận calcium, thuốc điều hòa nhịp tim như Cordarone, các loại thuốc cyclosporine (Sandimmune, Neoral) và tacrolimus (Ptograf), thuốc chống nhiễm trùng như saquinavir (Fortovase). 2. Rau xanh: Đừng ăn rau xanh với loại warfarin làm máu bớt đặc (Coumadin). Theo Chris D. Meletis, một bác sĩ gia đình ở Oregon, thì: “Các bác sĩ sẽ biết đối với từng người, họ phải ấn định liềâu lượng warfarin cho chế độ ăn kiêng của bệnh nhân ra sao.” 3. Các sản phẩm từ sữa tươi: Đừng dùng với các loại trụ sinh Quinolone như ciprofloxacin (Cipro) hay loại trụ sinh Tetracycline như tetracycline (Achromycine), minicycline (Minocin) hay doxycycline (Vibramycin). Nguyên tắc là khi dùng trụ sinh chữa bệnh nhiễm trùng, thì đừng uống sữa là tốt nhất. 4. Các loại thức uống có chất cà phê trong đó:bạn nhớ đừng uống loại chất uống nào có cà phê cùng lúc với các thứ thuốc trị suyễn (Ventolin, Proventil hay Combivent) hoặc thuốc có chất epinephrine (Primatene Mist), các loại trụ sinh quinolone và thuốc trị an thần như diazepam (Valium) alprazolam (Xanax) hay lozazepam (Ativan) cũng như các thứ ngăn chận Histamine như cemetidine(Tagamet), fatoditine (Pepcid) hay ranitidine(Zantac), Giới dược sĩ căn dặn người nào bị cà phê gây ảnh hưởng rõ ràng thì càng thận trọng hơn khi dùng các thứ thuốc kể trên. 5. Rượu: Khi đã uống rượu, bạn cần nhớ: Đừng uống chung với thuốc giảm đau với acetaminophen (Percpcet, Roxicet), meperidine (Demerol) hay hydrocodone với acetaminophen (Vicodin, Lorcst). Đừng uống chung với thuốc trị suyễn như theophylline (Slo-bid, Theo-Dur, Uniphyl). Các loại ngăn chận beta propranolol (Inderal), isosorbide dinitrate (Isordil, Sorbitrate) các loại Satins hay trụ sinh có chứa metronidazole(Flagyl). Đừng dùng chung với loại an thần có bupropion (Wellbutrin), thuốc chống trầm cảm. Phụ nữ có mang càng được dặn dò khi uống thuốc tuyệt đối tránh xa bia rượu. 6. Ăn thực phẩm như thịt, cá nướng: Đừng dùng chung với thuốc trị suyễn có theophylline, vì chất hơi cháy ngoài lớp ngoài của thịt nướng sẽ làm gan của bạn hoạt động nhanh hơn. Chuyện này cũng có nghĩa là theophylline bị tống văng ra ngoài khá nhanh và không có tác dụng trị bệnh gì cả. 7. Ăn cheese, chocolate và uống rượu vang: đừng dùng chung với thuốc chống trầm cảm có chất phenelzine( Nardi) hay tranylcypromine (Parnate). Hồng Quang theo Women’s Day
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 6:59:05 GMT 9
CÁCH CHỮA BỆNH BẰNG THIÊN NHIÊN
Chữa đầy hơi bằng nước nóng pha chút muối Con tôi có lần bị đầy hơi, bụng chướng căng không thể ngồi được và rất khó chiụ, có người bạn đã bảo tôi đun nước nóng và cho vào một ít muối cho cháu uống, quả nhiên sau khoảng10 đến 15 phút cháu đã đánh rắm được và hết khó chiụ, chữa kịp thời và lại hết sức đơn giản. Nếu bị như vậy các bạn hãy thử chữa theo phương pháp này rất hiệu nghiệm. Chúc các bạn vui vẻ.!!! Cách chữa bệnh cước chân mùa rét Ngày còn nhỏ, vào mùa đông giá rét, chân tôi hay bị sưng đỏ mọng cả 10 đầu ngón chân, rất ngứa và còn bị đau nhức. Trước khi đi ngủ, mẹ tôi pha cho nửa chậu nước nóng, pha thêm khoảng 2 thìa muBi to, rồi thả chân vào ngâm. Chỉ vài tối làm như vậy là khỏi hết. Pha nước thật nóng, lúc đầu nhúng dần từng chút một, sau nước còn nóng vừa thì ngâm ngập cả chân vào, ngâm đến khi nước nguội thì thôi, lau chân cho khô. Mọi người nếu có bị như vậy, làm theo cách trên chắc chắn khỏi. Cách chữa tàn nhang lâu ngày Lấy lớp bên trong của đậu que (loại đỗ xanh hoặc vàng, dài cỡ gang tay), phần thịt trắng, chà và matxa lên nơi bị tàn nhang, ngày làm 2 lần, tránh nắng và tiếp xúc lửa nóng. Làm khoảng 1 tháng là khỏi. Chữa vết chai cục ở bàn chân Rất nhiều người bị nổi cục chai cứng ở bàn chân, b àn tay, đi lại rất khó và đau nhói. Tôi từng bị như vậy. Một người bạn đã cho tôi một công thức chữa dân gian rất hiệu nghiệm sau, mà tôi đã tẩy được những vết chai đau đớn đó trong đúng một lần đắp thuốc. Thuốc đắp gồm có: Hạt gấc, khoảng 5 hạt, (tuỳ theo vết chai - vết mắt cá - theo dân gian gọi) to hay nhỏ để thêm bớt lượng; rượu trắng 1/2 chén (loại cao độ một chút thường để ngâm rượu thuốc). Hạt gấc bóc bỏ vỏ cứng, giữ lấy vỏ màng, cho vào cối giã thật nát, lấy ra bát, trộn rượu vào thành một thứ hỗn hợp sệt. Rửa sạch chỗ có vết chai mắt cá, dùng thìa múc thuốc đã giã đặt trùm lên chỗ chai, dùng khăn gạc băng lại. Nên làm vào buổi tối, vì khi đó cơ thể ít hoạt động. sau 8 C4ến 10 tiếng đắp, tháo băng. Sau một ngày chỗ chai mắt cá phồng lên, sau 2 ngày bong chân, sau vài ngày thì long ra một cái mắt cá chai có lỗ chỗ như rễ cây. Sau đó một thời gian vết lõm ở chân do cục chai tạo ra sẽ đầy lên.Tuỳ theo từng người, có người đắp mấy lần mới khỏi hẳn. Miễn sao bạn có lòng kiên trì. Mẹo chữa nấc Tôi học được mẹo chữa nấc rất hiệu nghiệm, đối với riêng tôi và người thân chỉ cần làm đúng cách là khỏi ngay lập tức: Khi bắt đầu bị nấc, lấy chiếc đũa ăn cơm dùng đầu nhỏ chọc thẳng vào điểm huyệt tại giữa trán, thẳng sống mũi lên và phía trên lông mày một chút. Lưu ý là đũa phải vuông góc với trán và phải giữ=2 0nguyên như vậy bằng một tay đến khi hết nấc (thường chỉ khoảng 1 phút). Khi làm mắt nhìn thẳng, có thể thay đũa bằng vật khác tương tự. Hãy cố gắng làm đúng cách thì sẽ khỏi ngay lập tức và ăn uống lại trở nên vui vẻ. Chữa trĩ nội hoặc đi cầu ra máu bằng đọt "dâm bụt" Mỗi ngày hái khoảng 150gr đọt dâm bụt (khoảng 4 lá ngọn), chia làm 3 lần, luộc sơ (ít nước) ăn cả nước và đọt trong 15 ngày. Nhiều người đã dùng rất hiệu nghiệm. Cách chữa mụn nhọt đầu đinh, lên đinh, chín mé... Các bạn bắt rết đem ngâm rượu, càng lâu càng tốt. Khi bị mụn nhọt đầu đinh mới lên, lấy bB 4ng thấm một ít rượu bôi lên. Chỉ 2, 3 lần là khỏi. Có trường hợp bị lên đinh ở đầu ngón tay bôi vài ngày cũng khỏi. Tôi đã chữa bắp chuối (viêm cơ) cho vài người cũng khỏi, không cần 1 viên kháng sinh nào. Chữa táo bón, đi ngoài ra máu Trứng gà và rau mơ chữa bệnh táo bón, đi vệ sinh ra máu và buốt, ăn rau mơ và trứng trong vòng 3 ngày là khỏi. Cách làm: Trứng 2 quả; Rau mơ 200g, Gia vị: muối, (hoặc bột canh), mỳ chính. Rau mơ rửa sạch thái nhỏ đập trứng trộn đều. Đun dầu ăn nóng rồi đổ vào tráng khi nào chín thì ăn ngay (ăn nóng vừa ngon vừa dễ ăn) Món này còn có thể làm thức ăn mặn trong bữa cơm. Chữa bệnh trĩ nội Rau rấp cá (diếp cá) rửa sạch giã nhỏ vắt lấy nước uống (rất ngọt và dễ uống các bạn đừng sợ) Chữa hăm da trẻ em bằng nước trà đặc Để chữa bệnh hăm da ở trẻ em, các bạn dùng nước trà pha thật đặc rửa cho trẻ ngày 2-3 lần. Làm liên tục trong 1 tuần bệnh sẽ khỏi hẳn. Trị mụn hạt cơm bằng tỏi Theo tôi được đọc ở trên một tờ báo, và tôi cũng đã áp dụng thì để trị bệnh mụn cơm chỉ cần đắp tỏi lên chỗ mụn đó trong vòng 1 đến 2 tuần là khỏi. Vì kết quả không thể thấy ngay, nên phả i sau khi không đắp tỏi một thời gian thì ta mới thấy mụn bị mất đi. Tôi đã áp dụng, bạn tôi cũng thế, rất hiệu quả. Các bạn hãy cùng thử xem! Chữa hôi nách bằng chanh hoặc phèn chua Để chữa hôi nách, bạn có thể dùng chanh vắt lấy nước thoa đều vào hoặc dùng phèn chua rang chín rồi giã nhỏ thoa lên, ngày 2 lần. Chữa hạt cơm bằng lá tía tô Hạt cơm là những nốt to bằng hạt đỗ xanh, đôi khi còn to hơn. Vốn dĩ những hạt này không nguy hiểm nhưng gây khá nhiều khó chịu cho người bệnh, và hơn nữa chúng còn có khả năng lây lan sang các phần khác của cơ thể nếu để các phần khác chạm vào. Để chữa những vế t hạt cơm này, các bạn chỉ cần dùng lá tía tô tươi, vò nát thoa nhẹ lên vị trí nổi hạt. Bạn chỉ cần làm điều đó 7 lần trong 7 ngày thì chắc chắn vết đó sẽ khỏi hoàn toàn. Chữa thần kinh tọa bằng rượu trà Bắc Tôi bị bệnh thần kinh toạ và đã làm theo cách sau đây nên hơn 10 năm nay không còn gặp lại. Cũng với cách này, tôi chỉ cho bạn bè làm khi họ bị bệnh thần kinh tọa, kết quả cũng dứt bệnh. Cụ thể: Khi bạn bị bệnh thần kinh tọa (đúng theo kết luận của bác sĩ), nếu bạn uống được rượu: Bạn hãy mua 100gam trà Bắc (móc câu, thơn ngon, loại dùng để pha nước uống) ngâm với 0,65 lít rượu gạo trắng có nồng độ từ 40 độ trở lên trong thời gian 1 tuần. Sau đó bạn lấy ra uống vào buổi trưa hoặc buổi tối, mỗi bận uống 1 ly (loại li nhỏ chúng ta thường uống nước trà) cho đến hết rượu, sau đó vứt bỏ; làm lại như vậy lần hai để uống. Nếu tối đa cũng chỉ đến lần thứ ba thôi. Hy vọng các bạn sẽ hết bệnh này dứt điểm luôn. (Lưu ý, để có thể uống gối đầu liên tục, khi bạn bắt đầu uống chai thứ nhất thì bạn nên ngâm chai thứ hai...). Xông hoa cứt lợn chữa viêm xoang Xin đóng góp 1 phương pháp mà bản thân tôi đã trải qua. Tôi bị xoang hơn 2 năm, thậm chí trời chỉ thay đổi thời tiết chút ít là tôi bị, mà bị là liền mấy ngày luôn rồi lại phải thuốc mới đỡ, nhưng kể cả đỡ xong mà thay đổi thời tiết là lại bị rất khó chịu. Tình cờ được một anh em cùng công ty bầy mẹo gia truyền bằng cách dùng cây hoa cứt lợn (cây hoa cứt lợn có hoa mầu trắng, tím) đun lên để xông (còn gọi là cây hoa ngũ sắc). Cây này giờ hơi khó kiếm ở thành phố nhưng ven ô thì đầy, nếu không thì ra mua ở chợ người ta cũng có bán. 1. Kiếm hoặc mua hoa cứt lợn (nhớ là cây tươi nhé) về rửa sạch để cả cây hoa lá đun chín lên, nếu cây dài quá thì gập đôi lại. 2. Chờ cây ngấm ra nước khoảng 5phút. 3.. Cho ra 1 cái cốc to loại uống bia (loại to) cả nước cả cây, nếu cây dài quá có thể gập ép xuống. 4. Lấy cái tờ giấy sạch cuộn thành cái phễu, một đầu vừa cái lỗ cốc, một đầu vừa 2 cái lỗ mũi. 5.=2 0Chấp nhận nóng để hít lên (tất nhiên đừng để bỏng lỗ mũi) cứ như thế cho đến khi nguội không còn nóng nữa thì lại đổ vào nồi đun chín lần thứ 2 rồi làm lại như trên lần nữa rồi bỏ đi. 6. Cố gắng làm ngày 2 lần không thì một lần trong vòng 10 ngày liền không được nghỉ ngày nào, kể cả thấy dấu hiệu đỡ không bị xoang nữa. Nếu ngày làm 1 lần thì nên vào buổi tối (như tôi). Nếu bệnh lâu năm có thể làm khoảng 10 - 20 ngày.. Lưu ý các bạn nên làm vào thời điểm lạnh và bị xoang liên tục. Tôi mong các bạn thử 1 lần và nếu khỏi thì không cần câu cám ơn mà hãy nói cho những người khác nữa biết về bài thuốc này (vì tôi rất sợ suốt hơn 2 năm trước đó với bệnh xoang). Sắc cây hoa 'cứt lợn' chữa viêm xoang Tôi bị viêm xoang mãn tính, chữa trị với rất nhiều loại thuốc khác nhau nhưng không khỏi, cho tới khi có một người hàng xóm chỉ cho tôi cách chữa rất hiệu quả mà nay tôi đã khỏi được bệnh đó. Tôi không biết theo tên thuốc nam thì gọi là cây gì, nhưng người Thái Bình quê tôi vẫn gọi đó là cây hoa "Cứt Lợn". Cây này mọc rất nhiều ở mọi nơi, lá rất lắm lông và có hai loại. Một loại hoa tím và một loại hoa trắng. Hoa tím chữa bệnh viêm xoang rất hiệu quả, nếu không thì dùng loại hoa trắng cũng được, hiệu quả thì không bằng loại hoa tím được nhưng vẫn chữa khỏi được bệnh viêm xoang. Lấy cây hoa đó sao vàng rồi sắc nước uống. Nếu không thì phơi k hô cũng được. Sắc lấy nước rồi uống thay nước mình uống hằng ngày thời gian càng lâu càng tốt. Nếu uống trong thời gian 5 tháng liên tục chắc chắn bệnh viêm xoang sẽ khỏi và loại nước đó ai uống cũng được. Nếu muốn nước đó ngon hơn thì cho thêm một ít cam thảo nam vào. Tôi mong các bạn mắc bệnh này chóng khỏi. Chữa viêm xoang bằng nấm mèo và đường phèn Nấm mèo: 5 cái Đường phèn: 1 viên cỡ đầu ngón tay cái. Cách làm: Nấm ngâm, cạo rửa sạch, cắt nhỏ, bỏ vào chén chưng cách thuỷ chung với đường phèn khoảng 15 phút. Nếu bạn không có thời gian có thể bỏ vào nồi cơm lúc sôi cũng được. Mỗi ngày ăn 1 chén như thế trong thời gian khoảng 30 ngày hoặc hơn tuB B bệnh nặng nhẹ. Tuần đầu bệnh có vẻ nặng hơn (nhức đầu hơn), sau đó thì giảm hẳn và khỏi. Riêng cá nhân tôi, 4 năm sau mới tái lại và tôi tiếp tục làm như vậy 1 tuần là khỏi bệnh. Đau cổ họngĐau cổ họng thường là triệu chứng bắt đầu của bệnh cúm, cũng có khi do la hét quá độ, không khí quá khô, hoặc viêm họng. Đôi lúc chứng này tệ đến nỗi bạn đau ngay cả khi nuốt đồ ăn, uống nước hay nước bọt. Dù chứng đau cổ họng đến từ bất cứ lý do gì, các phương pháp dưới đây cũng giúp bạn dễ chịu hơn: Ngậm kẹo thuốc: Kẹo thuốc nhiều lúc hiệu quả hơn kháng sinh trong việc chữa đau họng. Kháng sinh chỉ giết các vi trùng đã xâm nhập sâu vào cơ thể bạn trong khi vi khuẩn gây đau họng thường chỉ đóng vào thành cổ họng mà thôi. Lúc đó, một viên kẹo thuốc chứa phenol sẽ rất công hiệu vì giết được những vi khuẩn bám bên ngoài. Nên đọc kỹ nhãn hiệu kẹo và tìm loại có chất phenol (mosgoogle right). Khi bạn bị cảm, nên dùng loại kẹo có chứa chất kẽm (zinc). Nó không những xoa dịu chứng đau cổ họng mà còn trị được nhiều triệu chứng khác nữa của bệnh cảm. Súc miệng bằng nước muối: Pha một muỗng cà phê muối ăn vào nửa lít nước ấm. Ngậm một ngụm vào miệng rồi ngửa cổ lên cho nước muối chảy vào cổ họng. Đừng nuốt, hãy tống hơi lên cho nước muối bị đẩy ngược trở lại, tạo nên tiếng động trong cổ họng. Việc súc miệng bằng nước muối giết được vi trùng đóng trên thành cổ họng và thường sẽ làm bạn bớt đau sau vài ba lần, trừ khi chứng đau cổ họng này đi đôi với bệnh ho khan tiếng (vi trùng thường bám sâu dưới cổ họng, nới nước muối không vào tới). Tắm nước nóng: Chứng đau cổ họng có thể bắt nguồn từ một đêm ngủ há miệng (thường do ngạt mũi), để cho không khí ra vào nhiều. Nếu không khí này khô, sáng đó bạn sẽ bị đau cổ họng. Có thể được xoa dịu bằng cách hít nhiều hơi nước trong lúc tắm nước nóng, hoặc nghiêng đầu trên một chậu nước bốc hơi và há miệng ra hít hơi ẩm bay lên từ chậu nước. Làm như vậy mỗi lần khoảng 5 phút, có thể làm cách mỗi giờ cho đến khi cổ họng bớt đau. Uống thuốc: Các loại thuốc cảm thông thường như aspirin, Advil (ibuprofen), hoặc Tylenol (acetaminophen) đều có thể làm dịu chứng đau cổ họng. Hít không khí biển: Bạn có thể tản bộ trên bãi biển và hít không khí trong lành ở đây. Bạn cũng có thể... mua không khí biển được đóng chai sẵn để lấy ra hít khi cần. Những chai này được bán tại các tiệm thuốc tây dưới các nhãn hiệu như Ocean Mist, Ayr, hoặc Nasal. Chúng là nước muối nồng độ nhẹ được đựng trong những chai có áp suất. Khi bạn xịt thuốc này vào cổ họng, muối có thể sát trùng và hơi ẩm của nước xoa dịu được chứng đau Sưu Tầm.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:00:33 GMT 9
Thuốc Ở Trong Rau
BS Nguyễn Ý Đức Kinh nghiệm dân gian ta vẫn thường nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”. Nhưng thực ra, rau không chỉ là món ăn nhiều chất dinh dưỡng mà còn là những liều thuốc trị bệnh quý giá. Chẳng thế mà danh y Hải Thượng Lãn Ông của ta đã có nhận xét: “Nên dùng các thứ thức ăn thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn” Và thánh tổ y học phương tây Hippocrates có đưa ra một đề nghị hết sức thuyết phục là “Hãy để rau là vị thuốc”. Mà những loại rau củ có vị đắng chứng tỏ các nhận xét này là rất đúng. Trái Mướp Đắng màu xanh có bề ngoài gồ ghề ngộ nghĩnh đã được ghi trên sáu con tem biểu tượng cho sáu loại cây thuốc thiên nhiên có dược tính trị bệnh cao mà Liên Hiệp Quốc phát hành vào năm 1980. Mướp đắng chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng căn bản như nước, đạm, carbohydrat, béo, sinh tố và một số khoáng chất với tỷ lệ khác nhau Mướp đắng có thể dùng để ăn sống, nấu canh, xào với thịt bò, muối dưa, phơi khô làm trà pha nước uống... Canh thịt heo bằm nhỏ nhồi vào mướp đắng là món ăn đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam. Mướp đắng hấp với tôm tươi, thịt nạc, mộc nhĩ, nấm hương, hành khô, mắm muối tiêu, xảo với thịt.. tạo ra vị hơi đắng hòa với hương thơm mùi tôm thịt là món ăn giải nhiệt, bổ dưỡng..Món xà lách mướp đắng cũng rất hấp dẫn, ăn vào mát cơ thể.. Mướp đắng được coi như có khả năng làm hạ đường huyết, hạ huyết áp, chữa ho, giảm đau nhức, sát trùng ngoài da, trừ rôm sẩy ở trẻ em. Trong mướp đắng cũng có một hóa chất có khả năng ngăn ngừa sự thụ thai ở loài chuột. Trên thị trường hiện nay có bán trà khổ qua, được giới thiệu là có thể giúp ngủ ngon, đại tiện dễ dàng, mát gan, bổ mật, giải nhiệt, giải độc trong cơ thể và khi dùng thường xuyên sẽ ngừa được các biến chứng của bệnh tiểu đường, sỏi thận, mật.... Actiso Đà Lạt là loại thảo mộc nổi danh ở nước ta. Nổi danh vì khí hậu luôn luôn mát lạnh nơi cao nguyên nhiều nắng khiến cho actiso có năng suất cao. Actisô có nhiều chất dinh dưỡng như các sinh tố C, B, folacin, chất xơ và một vài khoáng chất như sắt, kali. Về phương diện ẩm thực, actisô thường được luộc, hấp cách thủy để ăn hoặc ninh với thịt gà, thịt lợn. Actisô có thể được dùng tươi, để đông lạnh hoặc đóng hộp. Nhiều nghiên cứu cho biết Actisô có tác dụng bảo vệ gan, làm hạ cholesterol trong máu và đường huyết, kích thích sản xuất mật, giảm đau khớp xương, thông tiểu tiện. Tại vài quốc gia, dung dịch chế biến từ actisô được dùng làm thuốc chích chữa các bệnh về gan. Trà Actisô là thức uống được rất nhiều người ưa dùng. Theo nhiều nhà chuyên môn, actisô không gây tác hại cho cơ thể. Diếp cá hoặc rau Giấp là món ăn ưa thích của bà con miền Nam. Cách đây mấy chục năm, dân cư miền sông Hồng, núi Ngự vào giao lưu với Cửu Long Giang là rất lắc đầu “nhăn mặt” vì vị tanh tanh “lợm dọng” khi ăn phải cọng rau này. Vậy mà bây giờ, Nam Trung Bắc một nhà, nhiều người cũng đều ưa thích diếp cá. Nhưng cái tanh tanh, béo béo của diếp cá lại rất “hiệp nhất” với cái tanh của những miếng cá còn tươi. Phải chăng đây là duyên tiền định với tên “diếp cá”. Trung Quốc gọi diếp cá là “Ngư Tinh Thảo” và tiếng Anh gọi là Fish Mint Ở nước ta, diếp cá mọc hoang khắp vùng đất ẩm thấp và cũng được trồng làm rau ăn hoặc làm thuốc trị bệnh. Diếp cá có thể ăn sống hoặc dùng làm gia vị chung với các rau khác trong bữa ăn. Có người hầu như ghiền với diếp cá, thiếu nó như thiếu người tình hơi “bị” cho là chanh chua nhưng dễ thương. Lá diếp cá ăn vào rất mát, có thể làm trĩ hậu môn sẹp xuống. Ngoài ra, diếp cá cũng được y học dân gian tại nhiều quốc gia dùng làm lợi tiểu tiện, hạ cao huyết áp, giảm ho, tiêu diệt vi khuẩn. Nghiên cứu tại viện y dược Toyama, Nhật Bản, cho hay diếp cá có chất chống oxy hóa rất mạnh quercetin có thể ngăn chặn nhiều loại ung thư và tăng cường tính miễn dịch.. Trong Lĩnh Nam Bản Thảo, danh y Hải Thượng Lãn Ông tóm tắt: “Ngư Tinh Tảo gọi cây rau Giấp Ấm cay, hơi độc, mùi hôi tanh Ung thũng, thoát giang với đầu chốc Đau răng, lỵ ngược chữa mau lành”. Khát khô cả họng trong nắng tháng Bảy của Sài Gòn mà gặp một xe bán Nước Rau Má xanh mát thì cơn khát không những hết đi mà tâm hồn cón thấy sảng khoái. Thực vậy, nghiên cứu tại Ấn Độ cho hay nước triết rau má không những tăng khả năng trí tuệ của trẻ em có thương số thông minh (IQ) thấp mà còn làm người cao tuổi giảm bớt những quên này quên kia, giúp thị lực bớt nhạt nhòa. Nhiều nghiên cứu khác còn gợi ý rằng rau má trị được cả bệnh vẩy nến, vết phỏng, vết thương, viêm khí quản, chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt, lợi tiểu. Từ những năm 1960, Giáo sư Bửu Hội đã nghiên cứu tác dụng trị bệnh phong với rau má. Ngày nay, nhiều khoa học gia cho là chất Asiatioside của rau má có tác dụng tương đương với dược phẩm trị phong chính là Dapsone. Rau má có tính lạnh cho nên người tỳ vị hàn, hay đi tiêu chảy, cần cẩn thận khi dùng. Rau Đắng đã đi vào văn hóa âm nhạc trong những bài viết nhiều tình người, tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn từ rừng cao su Dầu Tiếng. Nhăc phẩm “Còn thương rau đắng mọc sau hè” với tiếng hát Hương Lan, Như Quỳnh đã làm bao nhiêu khách ly hương khi nghe mà mắt nhòe ướt lệ. “Ai cách xa cội nguồn Ngồi một mình nhớ lũy tre xanh Dạo quanh khung trời kỷ niệm Chợt thèm rau đắng nấu canh” Vì nhớ tới những lũy tre xanh nơi có người chị đầu bạc tóc ân cần nhổ tóc sâu cho chú em từ xa về thăm quê. Có những bà mẹ hiền luôn luôn chăm sóc miếng ăn, thức uống cho chồng cho con. Rau đắng nấu canh với các loại cá, nhúng lẩu hoặc chấm mắm kho là những món ăn tuyệt hảo của bà con miệt đồng. Rau đắng còn có thể nấu với thịt heo bầm nhuyễn, với tép, với tôm… Mới ăn rau có vị khá đắng, chỉ kém có khổ qua, nhưng ăn quen lại thấy ngòn ngọt, nhớ hoài. Rau đắng cũng được dùng trong y học. Theo Giáo sư Đỗ Tất lợi, rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, bổ thận, giúp ăn ngon và giảm đau khi đắp lên nơi tê thấp, rắn cắn. Kết luận Nhà dinh dưỡng uy tín Hoa Kỳ Jean Carpenter phát biểu rằng “Trong thực phẩm có dược phẩm. Thay đổi dinh dưỡng có thể ngăn ngừa và giảm sự trầm trọng của bệnh tật” Đây là lời khuyên khá hữu ích mà chúng ta cũng nên theo. Nguyễn Ý-Đức, M.D.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:02:28 GMT 9
Tỏi với Sức KhỏeBác sĩ Nguyễn Ý Đức - Tháng Chạp năm 1998, một cuộc hội thảo kéo dài hai ngày rưỡi đã được tổ chức tại New Port Beach, California, để thảo luận và trình bày kết quả nghiên cứu về công dụng củaTỏi. Hội thảo được Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ và Đại Học Pennsylvania bảo trợ, với sự tham dự của trên hai trăm khoa học gia, chuyên viên y tế, dinh dưỡng đến từ 12 quốc gia trên thế giới. Kết luận của hội thảo là các cuộc nghiên cứu trong nhiều năm qua đã xác định một số ích lợi của Tỏi đối với sức khỏe con người. Kinh nghiệm dân gian dùng Tỏi chữa bệnh. Chữ viết đầu tiên của dân Sanskrit cách đây 5000 năm đã nhắc đến TỎI nhiều lần. Trong mộ cô? Ai Cập 6000 năm về trước có những củ tỏi khô nằm ướp cùng với bộ xương. Sách Y học Ai Cập trên 3000 năm về trước có ghi hai mươi bài thuốc tỏi để trị một số bệnh như đau bụng, đau nhức khớp xương, nhiễm độc, cơ thể suy nhược. Công nhân xây đắp Kim Tự Tháp được cung cấp thực phẩm có tỏi để tăng cường sức lao động. Những giác đấu Hi Lạp, binh sĩ La Mã cũng được cho ăn tỏi để chiến đấu can trường, dũng cảm hơn. Trong các cuộc hải hành, dân Virking đều mang tỏi làm lương thực và để trị bệnh khi cần đến. Tỏi đã được các vị thầy thuốc xưa kia ca ngợi như một dược thảo có giá trị. Ông tổ nền y học tây phương Hippocrates coi tỏi là môn thuốc tốt để trị các bệnh nhiễm độc, bệnh viêm, bệnh bao tử, và loại trừ nước dư trong cơ thể. Galen, một trong những danh y khi xưa thì ca tụng tỏi như môn thuốc dân tộc trị bá bệnh.Theo Y sĩ Dioscorides thời La Mã, tỏi làm giọng nói trong trẻo, làm bớt ho, làm thông tắc nghẽn ở mạch máu, làm nhuận tiểu, bớt đau răng, chữa bệnh ngoài da, và chữa cả hói tóc nữa. Vào thế kỷ 16, Alfred Franklin nói với dân chúng thành phố Paris là nếu họ ăn tỏi tươi với bơ vào tháng Năm thì họ sẽ được khỏe mạnh trong những tháng còn lại. Trong thế chiến thứ nhất, người Nga đã dùng tỏi để trị bệnh nhiễm vi trùng. Họ gọi tỏi là "thuốc kháng sinh Nga Sô"; các bác sĩ Anh dùng tỏi để trị vết thương làm độc ở chiến trường. Khi có các dịch cúm vào đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đã dùng tỏi như một phương tiện để chống lại sự hoành hành của bệnh. Sách xưa có ghi lại câu chuyện về bốn tên trộm lừng danh ở thành phố Marseille: trong vụ dịch hạch kinh khủng ở thành phố này, có bốn tên trộm vẫn ngang nhiên vào nhà các người bị bệnh để trộm của mà không bị lây bệnh. Khi bị bắt, chính quyền hứa sẽ tha tội nếu họ nói bí quyết không lây bệnh. Bốn chú đạo trích khai là suốt thời gian dịch hạch, họ ăn rất nhiều tỏi tươi, do đó họ không bị bệnh. Vào thời Trung Cổ, khi đi vào vùng phố nhiễm độc, các thầy thuốc đều mang nhiều nhánh tỏi để phân phát cho dân chúng cũng như để ngăn chặn xú uế xâm nhập vào mũi. Triết gia cũng có nhiều nhận xét về giá trị của tỏi. Celsius khuyên dùng tỏi để trị nóng sốt và bệnh đường ruột. Virgil thấy tỏi làm tăng sức lực của nông dân. Aristophanes thì nhắc nhở lực sĩ, chiến sĩ ăn tỏi trước khi xuất trận để chiến đấu cang cường hơn. Dân Nga xưa ngâm tỏi với rượu vodka, để lâu hai tuần rồi uống, tin là sẽ sống lâu. Dân Ukraine uống nước chanh ngâm tỏi để làm tăng sức lực, làm người trẻ ra. Về niềm tin dị đoan, tỏi đã được dùng là vũ khí để trừ tà ma , quỷ quái ở Việt Nam ta. Dân Âu châu xưa rất sợ ma cà rồng hút máu và để xua đuổi, mỗi nhà đều cheo nhiều nhánh tỏi ở trước cửa. Văn tư. Ấn Độ giáo từ nhiều ngàn năm trước có ví một củ tỏi như một tráng sĩ diệt trừ yêu quái. Dân nài ngựa cheo vài nhánh tỏi vào cương để ngựa phi mau hơn. Nằm mơ thấy tỏi là điềm lành. Trong các cộng đồng Hebrew xưa kia, vài nhánh tỏi được trang điểm vào áo cưới cô dâu với niềm tin là cuộc hôn nhân sẽ muôn vàn hạnh phúc. Dân Ai Cập so sánh hương vị cay hôi của tỏi với những thăng trầm của cuộc đời. Các tu sĩ nói với con chiên là khi họ cầm vài nhánh tỏi trên tay tức là đang cầm mọi phức tạp của cuộc đời. Và khi tuyên thệ, họ đặt tỏi trên bàn tay hay trên bàn thờ. Bên Việt Nam ta, các cụ cheo tỏi trước cửa buồng đàn bà mang bầu để trẻ sinh được mẹ tròn con vuông, khỏe mạnh Trẻ con Ý sống trong trại tiếp đón, được cha mẹ cho mang một túi tỏi nhỏ trên cổ để ngừa bệnh tật truyền từ người này sang người khác. Dân Da Đỏ bắt chước đoàn thám hiểm Tây Ban Nha, dùng tỏi để trị các bệnh khó tiêu, đau bụng, đau tai và họ rất ít bị bệnh yết hầu vì mùi tỏi làm cuống phổi mở rộng, hô hấp sê? dàng. Người Mỹ xưa kia chữa bệnh tim phổi bằng cách đắp tỏi giã nhỏ lên chân và họ giải thích là như vậy tỏi sẽ hút hết chất độc xuống để đưa ra ngoài. Tổng Thống Benjamin Franklin thích ăn súp nấu với tỏi, còn binh sĩ của Tổng Thống George Washington thì được thêm tỏi trong khẩu phần. Vào đầu thế kỷ trước, bệnh lao rất phổ biến và khó trị vì chưa có thuốc kháng sinh. Các bác sĩ bèn chữa bằng tỏi và thấy là rất công hiệu để diệt vi trùng lao. Sau đó một thời gian, nước Mỹ bị dịch cúm và bệnh tinh hồng nhiệt, dân chúng bèn đốt tỏi trong nhà và hơi khói tỏi che trở nhiều người khỏi bị bệnh. Nhiều người còn nhai tỏi để ngửa bệnh cúm. Đông Y việt Nam ta ghi nhận công dụng trị bệnh của tỏi như sau: tỏi có vị cay, tính ôn, hơi độc nằm trong hai kinh can và vị. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa bệnh lỵ ra máu, tiêu nhọt, hạch ở phổi, tiêu đàm, chữa đầy chướng bụng, đại tiểu tiện khó khăn. Người âm nhu, nội thiệt, có thai, đậu chẩn, đau mắt không nên dùng. Kết quả nghiên cứu công dụng tỏi với bệnh tật Qua nhiều nghiên cứu khoa học và qua kinh nghiệm xử dụng của dân chúng, thì tỏi không những là một thực phẩm ngon mà còn có nhiều công dụng hỗ trợ việc trị bệnh. Xin nhắc lại là vào năm 1951, hai nhà hóa học Thụy sĩ Arthur Stoll và Ewald Seebeck đã tìm ra hóa chất chính của tỏi là chất Alliin và men Allinase. Hai chất này được giữ riêng rẽ trong tế bào tỏi và đóng góp vai trò quan trọng trong các công dụng y học của tỏi. 1-Tỏi và cholesterol. Quan sát dân chúng vùng Địa Trung Hải, các nhà nghiên cứu thấy họ rất ít bị các bệnh về tim mạch mặc dù họ ăn nhiều thịt động vật và uống nhiều rượu vang. Nhiều người cho là do ảnh hưởng của rượu vang. Nhưng các bác sĩ ở địa phương thì cho là do uống rượu và ăn nhiều tỏi. Sự kiện này thúc đẩy các chuyên viên của Đại Học Western Ontario, Canada, để tâm nghiên cứu và họ kết luận rằng một dân tộc càng ăn nhiều tỏi thì bệnh tim mạch càng ít. Bằng chứng là dân Triều Tiên ăn nhiều tỏi và họ cũng ít bị bênh tim. Nhiều khoa học gia bèn nghiên cứu tương quan giữa tỏi và bênh tim ở súc vật trong phòng thí nghiệm. Họ đều thấy là tỏi làm chậm sự biến hóa của chất béo trong gan, khiến gan tiết ra nhiều mật, đồng thời cũng lấy bớt mỡ từ thành động mạch. Các bác sĩ H.C. Bansal và Arun Bordia ở Ấn Độ nhận thấy khi ăn bơ với tỏi, cholesterol trong máu đã không lên cao mà còn giảm xuống. Năm 1990, nghiên cứu do bác sĩ F.H. Mader ở Đức cho hay, nếu mỗi ngày ăn vài nhánh tỏi thì cholesterol sẽ giảm xuống tới 15%. Một nghiên cứu tương tự ở Đại học Tulane, New Orleans do bác sĩ Ạ K. Jain thực hiện năm 1993 cho thấy người có cholesterol cao, khi dùng tỏi một thời gian, thì cholesterol giảm xuống được 6%. Đó là một sự giảm đáng kể. Bác sĩ Benjamin Lau, Đại Học Loma Linda, California cho biết tỏi giúp chuyển cholesterol xấu LDL thành cholesterol lành HDL. Còn bác sĩ Myung Chi của Đại Học Lincoln ở Nebraska chứng minh là tỏi làm hạ cholesterol và đường trong máu. Một câu hỏi được nêu lên là tỏi có làm giảm cholesterol ở người có mức độ trung bình không? Các nhà nghiên cứu cho là tỏi có một vài ảnh hưởng, nhưng nếu cholesterol cao thì tác dụng của tỏi tốt hơn. Có bác sĩ còn cho là tỏi công hiệu hơn một vài âu dược hiện đang được dùng để chữa cholesterol cao trong máu. Do hạ thấp cholesterol trong máu, tỏi có thể ngăn ngừa nguy cơ một số bệnh tim. Đã có nhiều bằng chứng rằng cholesterol trong máu lên cao là nguy cơ đưa tới các bệnh vữa xơ động mạch và kích tim. 2-Tỏi và sự đông máu Tỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục, một nguy cơ của kích tim và tai biến động mạch não. Máu cục gây ra do sự dính chùm của tiểu cầu mỗi khi có dấu hiệu cơ thể bị thương để ngăn ngừa băng huyết Trong tỏi có chất Ajoene mà bác sĩ Eric Block, Đại học Nữu Ước, khám phá ra. Theo ông ta, chất này có công hiệu như Aspirin trong việc làm giảm sự đóng cục của máu, lại rẻ tiền mà ít tác dụng phụ không muốn. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của bác sĩ I.S. Menon là ở miền nam nước Pháp, khi ngựa bị máu đóng cục ở chân thì nông gia đều chữa khỏi bằng cách cho ăn nhiều tỏi và hành. Bệnh viện Hải quân Hoa Kỳ trong trại Pendleton, California, cũng công bố là tỏi có chất ngừa đông máu do đó có thể làm máu lỏng và ngăn ngừa tai biến động mạch não, kích tim vì máu cục. Ngay cả ông tổ của nền y học cổ truyền Ấn Độ Charaka cũng ghi là " tỏi giúp máu lưu thông dễ dàng, làm tim khỏe mạnh hơn và làm con người sống lâu. Chỉ vì mùi khó chịu của nó chứ không thì tỏi sẽ đắt hơn vàng". Các nhà thảo mộc học xưa kia cũng nói là tỏi làm máu loãng hơn.Tác dụng này diễn ra rất mau, chỉ vài giờ sau khi dùng tỏi. Chưa có trường hợp nào trong đó ăn nhiều tỏi đưa đến máu loãng rồi băng huyết, vì tỏi chỉ làm máu loãng tới mức bình thường thôi. 3-Tỏi và cao huyết áp Tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Bên Nhật Bản, giới chức y tế chính thức thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao. Năm 1948, bác sĩ F.G. Piotrowski ở Geneve làm thế giới ngạc nhiên khi ông tiết lộ kết quả tốt đẹp khi dùng tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông ta, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt hay bị co hẹp, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm. Các nghiên cứu ở Ấn Độ, Gia Nã Đại, Đức cũng đưa đến kết quả tương tự. Nhà sinh học V. Petkov thực hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ 20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ. 4-Tỏi và cúm Trong các dịch cúm vào đầu thế kỷ trước, dân chúng đã dũng tỏi để ngăn ngừa sự lan tràn của bệnh này. Y học dân gian nhiều nước đã chữa cảm cúm bằng cách thoa tỏi tươi mới cắt vào bàn chân. Trong dịch cúm ở Nga Sô Viết năm 1965, dân Nga đã tiêu thụ thêm trên 500 tấn tỏi để ngừa cúm. Trước đó, vào năm 1950, một bác sĩ người Đức đã công bố là tinh dầu tỏi có khả năng tiêu diệt một số vi sinh có hại mà không làm mất những vi sinh vật lành trong cơ thể. Bác sĩ Tarig Abdullah ở trung tâm nghiên cứu tại Tampa, Florida, công bố năm 1987 là tỏi sống và tỏi chế biến đều làm tăng tính miễn dịch của cơ thể với vi trùng, ngay cả HIV và làm giảm nguy cơ vài bệnh ung thư. Cá nhân ông ta đã liên tục dùng mấy nhánh tỏi sống mỗi ngày từ năm 1973 và chưa bao giờ bị cảm cúm. Từ năm 1950, bác sĩ J. Klosa bên Đức đã dùng tỏi để chữa lành những bệnh đau cuống họng, sổ mũi, ho lạnh. Ông ta vừa cho bệnh nhân uống vừa ngửi tinh dầu tỏi. Theo ông ta, đó là nhờ chất Alliin trong tỏi. Trong bệnh cảm cúm, bệnh nhân thường sưng cuống phổi, bị ho, sổ mũi. Bác sĩ Irvin Ziment, California, nhận thấy tỏi có thể làm giảm những triệu chứng trên, làm bệnh nhân bớt ho, long đàm, thở dễ dàng và không bị nghẹt mũi. Theo vị thầy thuốc này thì vị hăng cay của tỏi kích thích bao tử tiết ra nhiều dịch vị chua; dịch vị này chuyển một tín hiệu lên phổi khiến phổi tiết ra nhiều dung dịch lỏng làm long đờm và đưa ra khỏi phổi. Các bác sĩ bên Ba Lan trước đây dùng tỏi để trị bênh suyễn và viêm phổi ở trẻ em 5-Tỏi và ung thư Hiện nay đang có nhiều nghiên cứu coi xem tỏi có công dụng trị ung thư ở người như kết quả nhận thấy ở vật trong phòng thí nghiệm. Từ năm 1952, các khoa học gia Nga Sô Viết đã thành công trong việc ngăn chặn sự phát triển của một vài tế bào ung bướu ở chuột.Thí nghiệm ở Nhật Bản cho hay tỏi có thể làm chậm sự tăng trưởng tế bào ung thư vú ở loài chuột và tỏi có chất oxy hóa rất mạnh để ngăn chặn sự phá tế bào do các gốc tự do gây ra. Tại viện Ung Thư M.D. Anderson Houston, các bác sĩ đã cứu một con chuột khỏi bị ung thư ruột già bằng cách cho uống chất Sulfur trong tỏi. Được biết viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ đang đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu khả năng trị bệnh ung thư của hóa chất sulfur này. Nghiên cứu tại Sloan Kettering Memotial Medical Center cho hay nước triết của tỏi có thể ngăn chặn sự tăng trưởng tế bào ung thư nhiếp tuyến. Nghiên cứu tại Đại Học Pen State cho hay khi nấu tỏi bằng microwave oven thì khả năng chống ung thư giảm đi. Tác giả nghiên cứu, giáo sư Kun Song đề nghị trước khi nấu nên cắt tỏi và để ra không khí mươi phút thì giữ được khả năng này. 6-Tỏi như thuốc kháng sinh Từ lâu, dân chúng tại nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng tỏi để chữa một số bệnh gây ra do vi khuẩn như kiết lỵ, bệnh tiêu chẩy, bệnh thương hàn, viêm cuống họng, mụn nhọt ngoài da, thối tai và tỏi được gọi là thuốc kháng sinh dân tộc. Trong hai thế chiến, tỏi được dùng để chữa vết thương cho binh sĩ tại chiến trường. Người ta cũng dùng tỏi để trị vết thương do côn trùng, rắn cắn. Nông dân, thợ săn đều mang theo tỏi phong hờ khi bị các sinh vật này cắn thì tự chữa. Năm 1858, nhà bác học Pháp Louis Pasteur đã chứng minh được công dụng diệt vi khuẩn của tỏi. Năm 1944, nhà hóa học Chester J. Cavallito, làm việc cho Winthrop Chemical Company ở Hoa Kỳ, đã phân tích được hóa chất chính trong tỏi có công dụng như thuốc kháng sinh. Đó là chất Allicin, chỉ có trong tỏi chưa nấu hay chế hóa. Kháng sinh này mạnh bằng 1/5 thuốc Penicilin và 1/10 thuốc Tetracycline, có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn, xua đuổi hoặc tiêu diệt nhiều sâu bọ, ký sinh trùng, nấm độc và vài loại siêu vi trùng. Theo nhiều nghiên cứu, Allicin có tác dụng ức chế sinh trưởng vi khuẩn nhiều hơn là diệt chúng. Nói một cách khác, chất này không giết vi khuẩn đã có sẵn mà ngăn chặn sự sinh sôi, tăng trưởng và như vậy có thể ngừa bệnh, nâng cao tính miễn dịch, làm bệnh mau lành. Nghiên cứu tại Brazil năm 1982 đã chứng minh là nước tinh chất của tỏi có thể chữa được nhiều bệnh nhiễm độc bao tử, do thức ăn có lẫn vi khuẩn, nhất là loại Salmonella. Các nghiên cứu tại Đại Học California ở Davis cũng đưa đến kết luận tương tự. Ngoài ra, tỏi cũng được dùng rất công hiệu để trị bệnh sán lãi, giun kim, các bệnh nấm ngoài da. Một nhà nghiên cứu đã hào hứng tuyên bố rằng " tỏi có tác dụng rộng rãi hơn bất cứ loại kháng sinh nào hiện có. Nó có thể diệt vi trùng, nấm độc,siêu vi trùng, ký sinh trùng lại rẻ tiền hơn, an toàn hơn vì không có tác dụng phụ và không gây ra quen thuốc ở vi trùng". Giáo sư Arthur Vitaaen, đoạt giải Nobel, cũng đồng ý như vậy. Do đó ta không lấy làm lạ là trong thế chiến thứ nhất, các bác sĩ Anh quốc đã dùng tỏi để chữa vết thương làm độc. Thực tế ra, tỏi được dùng với những nhiễm độc nhẹ, không nguy hiểm tới tính mạng. Chứ còn nhiễm trùng cấp tính mà lại trầm trọng thì kháng sinh âu dược vẫn công hiệu hơn và tác dụng mau hơn. 7-Tỏi với tuổi thọ. Theo dân chúng vùng Ukraine, ngâm nửa kí tỏi cắt hay giã nhỏ bỏ vào nước vắt của 25 quả chanh, để qua đêm rồi mỗi ngày uống một thìa pha với nước lạnh, trong hai tuần sẽ thấy trẻ khỏe ra. Các nhà văn Ukraine tán là nếu uống thường trực thì con người sẽ cảm thấy trẻ trung. Nhiều vị cao niên Việt Nam ta đang có phong trào uống rượu ngâm với tỏi, tin tưởng là sẽ được cải lão hoàn đồng. Một bài thuốc Rượu Tỏi được truyền tụng là tìm thấy từ mộ cô Ai Cập đang rất phổ biến. 40 gr Tỏi khô thái nhỏ ngâm trong 100 ml rượu lúa mới. Mười ngày sau có thể dùng được, ngày hai lần sáng và tối, mỗi lần 45 giọt. Ở vùng Balkan, số người thọ trên 100 tuổi rất cao và được giải thích là họ nhai nhiều nhánh tỏi mỗi ngày. Ngoài ra, Tỏi còn một số công dụng khác như: Nhà thiên nhiên học La Mã Pliny viết rằng tỏi mà đưa cay với rượu vang thì con người làm tình rất điệu nghệ. Do đó dân chúng La Mã ăn nhiều tỏi coi đó là thuốc kích dâm, gợi tình. Nghiên cứu mới đây ở loài chuột cho thấy tỏi có thể có tác dụng tốt trên các chức năng của não bộ, tăng trí nhớ và có thể nâng cao tuổi thọ. Theo bác sĩ Paavo Airola, một nhà chuyên môn dinh dưỡng tại Phoenix, Arizona, tỏi với các hóa chất sulfur của nó, có thể chữa được bệnh trứng cá, bệnh khí thũng phổi làm khó thở, khó tiêu bao tử, táo bón, cảm lạnh. Các nghiên cứu của bác sĩ D Sooranna và I Das bên Luân đôn cho hay dùng tỏi khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tiền sản giật , (cao huyết áp và đạm chất trong nước tiểu ) và làm tăng sức nặng của trẻ chậm lớn. Và cuối cùng là một nghiên cứu ở Monnel Chemical Senses Center, Philadelphia, cho hay khi mẹ ăn tỏi, con sẽ bú sữa mẹ lâu hơn và nhiều hơn vì tỏi làm tăng khẩu vị em bé. Kết luận. Công dụng của Tỏi với sức khỏe đang là đề tài hấp dẫn của các nhà dinh đưỡng cũng như y tế. Với công chúng thì phong trào dùng tỏi để tăng cường sức khỏe cũng khá phổ biến. Tuy nhiên cho tới nay các tổ chức y tế cũng chưa chính thức ủng hộ ý kiến sử dụng tỏi trong việc trị bệnh vì các kết quả nghiên cứu không đủ sức thuyết phục. Và lại kết quả nghiên cứu hiện nay đều có tính cách cá nhân với mục đích thông tin học hỏi và đa số dựa trên quan sát dịch tễ. Cho nên ngoài tác dụng diệt vi khuẩn của chất allicin, các nhà nghiên cứu cũng chưa xác định công dụng của nhiều hóa chất khác trong Tỏi. Trên thị trường có bán sản phẩm Tỏi chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì chỉ là chất bổ sung dinh dưỡng nên các sản phẩm này không được coi là thuốc, không đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan điều hành dược phẩm. Do đó món hàng không bị soi mói về thành phần cấu tạo, sự tinh khiết và có thể bầy bán tự do miễn là không quảng cáo khả năng trị bệnh. Cho nên sử dụng tỏi như một chất dinh dưỡng, một gia vị thực phẩm, hỗ trợ cho sức khỏe có lẽ là khôn ngoan hơn chứ cũng chẳng nên coi tỏi như một môn thuốc trị bệnh này bệnh kia mà bỏ qua những phương thức trị liệu đã được y khoa học công nhận. Kết quả các nghiên cứu về công dụng y học của tỏi cần được tìm hiểu thêm để đi đến một sự đồng thuận của giới y khoa học. Và đặc biệt với vị nào đang uống thuốc chống đông máu như aspirin thì nên tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình trước khi dùng sản phẩm Tỏi vì thực vật này có tác dụng loãng máu. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:03:45 GMT 9
CÂY ALOE VERA Thầy lang vô danh (Tên khác: Cây dứa Tầu, Nha Đam, Hổ thiệt, Lô Hội… trị được 96 bệnh, đặc biệt là các chứng ung thư ) 1/ CÂY ALOE VERA TRỊ UNG THƯ Cây Nha Đam hay cây Lô Hội (Aloe Vera), người Việt Nam đã biết xử dụng từ xa xưa, người ta thường nấu chè ăn để trị bệnh bao tử và giúp cho bộ phận tiêu hóa được điều hòa...lại chữa bỏng rất tuyệt hảo. Còn cách trị bệnh ung thư thì không thấy nói đến, mãi tới khi có phái đoàn VN. sang viếng Đất Thánh, trong đó có Cha Hoàng Minh Thắng, Ngài đã đọc tờ nguyệt san "Thánh Địa" tháng 11 và 12, 1993; trong đó Cha Romano Zago, gốc Brazil, thuộc Dòng Phanxicô, lúc đó đang coi sóc Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh tại Bêlem, Ngài đã phổ biến về cây Aloe Vera, có thể chữa được mọi chứng ung thư mà chính Ngài đã trực tiếp chữa trị được khá nhiều người, dù nhà thương đã từ chối. Cha Thắng đã đem phương thuốc quí báu này về phổ biến khá rộng rãi, để ai mắc bệnh ung thư có thể áp dụng chữa trị. Nhờ bài thuốc trên, tôi (LM.James Vũ) đã ứng dụng ngay để trị bệnh cho Cha Cố Joseph N.D.M., hiện đang hưu tại Chi Dòng Đồng Công. Ngài bị ung thư ruột đã tới thời kỳ thứ ba; 7 vị bác sĩ chuyên khoa đã hợp lại để chữa trị cho Ngài, nhưng sau cùng họ đã quyết định phải giải phẫu và cắt đi một khúc ruột. Bác sĩ đã cho thân nhân Ngài biết, vi trùng đã ăn ra ngoài ruột rồi, sau khi giải phẫu mấy tháng, họ sẽ phải làm therapy cho Ngài và chứng bệnh này chỉ hy vọng sống thêm được 6-7 tháng nữa thôi. Khi biết được điều đó, Ngài đã quyết định về hưu để dọn mình về với Chúa. Tôi đã nhờ người đi tìm được khá nhiều cây Aloe Vera và làm theo đúng phương pháp của Cha Romano. Cha Cố đã dùng nhiều gấp đôi, gấp ba số lượng chỉ định, nhưng cũng không thấy có phản ứng nào xẩy ra. Sau 8 tháng dùng thuốc, Ngài đã đi thử máu, chụp hình theo phương pháp tối tân, tốn phí tới 5-6 ngàn đô la, kết quả là không còn thấy dấu vết gì của bệnh ung thư trong ruột và các bộ phận khác nữa. Hiện nay ngài rất khỏe, hồng hào và lên ký hơn 10 lbs. Khi trở về thăm thân nhân, ai cũng ngỡ ngàng, thấy ngài mạnh khỏe hơn trước, mặc dầu thời gian bệnh tới nay đã gần 2 năm rồi. Trong thời gian trị bệnh cho cha Cố, tôi cũng chỉ cho 4 người mắc bệnh ung thư khác nhau, có người bị xơ gan, cả 4 người sau khi uống thuốc Aloe Vera đều thấy kết quả tốt và đã đi làm việc được. 2/ CÁCH ĐIỀU CHẾ ĐỂ TRỊ BỆNH UNG THƯ THEO CHA ROMANO Lấy 2 lá lớn hoặc 3 lá nhỏ cây Aloe Vera (Để cho dễ làm, tôi đã cân thử, 2 lá lớn phỏng chừng 2 lbs hay 1 kg) rửa sạch, cắt gai bên cạnh lá bỏ đi và 1 pound mật ong tốt (bằng 16 oz hay 1/2 kg ( Mật tốt phải mua ở farm, hay bày bán cạnh đường hay trong farm, thứ này ong hút nhụy hoa để làm mật, mật ong ổ chợ nuôi ở nhà bằng đường không tốt), thêm 3-4 muỗm to rượu mạnh. Lấy máy xay sinh tố, xay chung cả 3 thứ thật nhuyễn, thành một thứ xirô. Nên cất vào tủ lạnh, để khỏi bị hư. 3/ CÁCH XỬ DỤNG Trước khi xử dụng, lắc đều lên.- Mỗi ngày uống 3 lần - Mỗi lần 1 thìa ăn phở- Uống trước bữa ăn từ 15 phút hay nửa giờ. Bình thường việc chữa bệnh kéo dài 10 ngày. Sau 10 ngày đi khám bác sĩ để biết đã tiến triển tới đâu. Nếu chưa khỏi sẽ uống tiếp tới khi khỏi. Thường thường bệnh nhân cảm thấy khá ngay sau đó, nhưng cần đi khám bác sĩ cho chắc ăn đã khỏi. 4/ UỐNG NGỪA BỆNH Những người không bị bệnh ung thư, mỗi năm nên uống 10 ngày để ngừa bệnh. Mật ong là loài thực phẩm cơ thể con người có thể hấp thụ dễ dàng. Chất rượu mạnh làm giãn nỡ mạch máu dẫn chất mật ong lẫn với chất Aloe Vera tới mọi tế bào trong cơ thể : vừa nuôi dưỡng vừa chữa lành vết thương ,vừa lọc máu. Theo bảng phân chất của LM. bác sĩ (Dòng Phanxicô) làm việc tại Trung tâm nghiên cứu, Bắc Ý thì cây Aloe cócác chất sau đây: 1/ 13 chất khác nhau, chứa các chất trụ sinh chống lại vi khuẩn. 2/ 8 loai vitamine cần thiết làm lớn mạnh các tế bào,nuôi dưỡng cơ thể, chế tạo ra máu, điều hòa cơ thể và chữa lành vết thương. ( Vit. A, B1, B2, B6, C, M...) 3/ Cây Aloe chứa hơn 20 chất muối đạm cần thiết cho cơ thể (Calco, Fosforo, Potassio ....) 5/ CÂY ALOE VERA CHỮA CÁC BỆNH KHÁC Theo kinh nghiệm của LM. Vũ Đình Trác trong cuốn "100 Cây thuốc van linh bá bệnh" như sau: Cây Aloe (Nha Đam) Chủ Trị: *Trị chứng trẻ em cam tích * Lên kinh * Táo bón *Trị nhức đầu và các chứng xung huyết nội tạng phủ * Trị máu cam * Đặc biệt trị bệnh gan và * Huyết bạch theo công thức: 6/ TRỊ HUYẾT BẠCH Dùng2,3 lá lột vỏ, ăn sống với muối hay đường, hoặc nấu chè ăn. 7/ TRỊ ĐAU GAN: Aloe khô 3 gr., cam thảo 5 gr, nấu nửa lít nước sôi kỹ còn á, chia uống 2 lần trong ngày 8/ TRỊ MÁU MỠ (Colesterol) , TIỂU ĐƯỜNG, MÁU CAO... LM. Đỗ B.C.mới được người giới thiệu cách điều trị các bệnh trên theo như sau: Lá Aloe làm sạch, bỏ gai 2 bên xay nhuyễn, mỗi lần uống chừng 2 oz pha với 1/3 trái chanh vắt nước, trước bữa ăn chừng15 phút . Ngày 3 lần. 9/ TRỊ VỀ BỘ PHẬN TIÊU HÓA: Ăn uống chậm tiêu, khó tiêu, bụng dạ bất ổn v.v.uống thường xuyên lá cây nha đam sẽ thấy kết quả toost. 10/ TRỊ BỎNG, ĐỨT CHÂN TAY tuyệt vời Người bị bỏng dù nặng tới cấp 3 rồi, lấy chất thạch bên trong lá đắp vào vết bỏng sẽ mát dịu ngay, mỗi ngày thay 1 lần, sẽ mau khỏi mà không có thẹo. Đứt tay chân cũng làm như vậy. 11/ GIÚP NHUẬN TRƯỜNG, TRỊ TÁO BÓN Thường xuyên chỉ nên dùng mỗi lần 1-2 gr là đủ. Nếu muốn đi cầu dễ hoặc muốn xổ thì uống từ 3 gr. trở lên. Đi rất êm nhẹ và thoải mái. Khỏi cần phải uống thuốc tây... 12/ TRỊ BỆNH SIDA Có người nói bên Việt Nam đang chữa chứng Sida bằng ăn lá Aloe. Nếu nó trị được ung thư thì cũng trị được chứng bệnh này. 13/ TRỊ NGƯA NGÁY DA SẦN SÙI Cắt 1 khúc lá lấy chất thạch bên trong bôi các chỗ ngứa, sẽ thấy êm dịu ngay. 14/ CÓ THỂ CÒN TRỊ ĐƯỌC NHIỀU BỆNH KHÁC NỮA Vì Aloe có thể nấu chè ăn thường xuyên làm thông tiểu, mát gan, thanh nhiệt, nên nếu ai mắc bất cứ bệnh gì mà trị mãi không khỏi, cũng nên dùng thử Aloe xem sao. 15/ CÁCH XỬ DỤNG Có thể ăn tươi với muối hay đường hoặc nấu chè ăn. Có thể phơi khô, để dành nấu nước uống thay vì ăn tươi. Thường dùng từ 1-2gr. Nếu dùng trên 3 gr sẽ nhuận trường và xổ. 16/ CẤM KỴ DÙNG ALOE Vị này kị thai. Những em dưới 13 tuổi cũng không nên dùng.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:04:57 GMT 9
MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI 1. Câu châm ngôn thứ nhất: “Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh .” 2. Câu châm ngôn thứ hai: - Đối với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu. - Đối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnhphúc. Ba DƯỠNG 1. Bảo dưỡng. 2. Dinh dưỡng. 3. Tu dưỡng. Bốn QUÊN 1. Quên tuổi tác. 2. Quên tiền tài. 3. Quên con cái. 4. Quên buồn phiền. Năm PHÚC 1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc. 2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc. 3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc. 4. Có người nhớ đến mình, gọi là phúc. 5.. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc. Sáu VUI Một vui là hưu nhưng không nghĩ. Hai vui là con cái độc lập. Ba vui là vô dục tắc cương. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ. Năm vui là có nhiều bạn hữu. Sáu vui là tâm tình không già. Bẩy SUNG SƯỚNG 1. Biết đủ thường sung sướng. 2. Biết giải trí khi nhàn rỗi. 3. Biết đắc chí tìm niềm vui. 4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui. 5. Biết dùng người làm vui. 6. Biết vui khi hành thiện.. 7. Bình an là vui nhất. Tám CHÚT XÍU 1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa. 2. Đầu óc hoạt động thêm một chút nữa. 3. Nóng giận ít thêm một chút nữa. 4. Độ lượng nhiều hơn một chút nữa. 5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa. 6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa. 7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút xíu nữa. 8. Mĩm cười nhiều thêm chút nữa. Chín THƯỜNG 1. Răng thường ngậm. 2. Nước miếng thường nuốt. 3. Mũi thường vê. 4. Mắt thường động. 5. Mặt thường lau. 6. Chân thường xoa (bóp). 7. Bụng thường xoay. 8. Chi thường vươn. 9. Hậu môn thường co bóp. MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH 1. Ít thịt, nhiều rau. 2. Ít mặn, nhiều chua. 3. Ít đường, nhiều trái cây. 4. Ít ăn, nhai nhiều. 5.Ít áo, tắm nhiều. 6. Ít nói, làm nhiều. 7. Ít muốn, bố thí nhiều. 8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn. 9. Ít đi xe, đi bộ nhiều. 10.. Ít nóng giận, cười nhiều hơn.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 22, 2010 7:22:03 GMT 9
25 LÝ DO NÊN ĂN QUẾ Quế không những là loại gia vị mang lại sự hấp dẫn cho món ăn mà còn có nhiều lợi ích với sức khoẻ. Những lợi ích sau của quế sẽ khiến bạn muốn bổ sung ngay vào chế độ ăn hàng ngày của gia đình 1. Giảm cholesterol Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần dùng nửa thìa quế trong bữa ăn hàng ngày có thể giúp giảm lượng cholesterol Quế cũng giúp giảm lượng cholesterol LDL xấu và triglycerids (acid béo trong máu) 2. Giảm lượng đường máu và trị bệnh tiểu đường týpe 2 Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng dùng nửa thìa quế mỗi ngày giúp cải thiện mức độ nhạy cảm insulin và điều chỉnh lượng glucose trong máu. Khi mức insulin được cải thiện, cân nặng và bệnh tim mạch sẽ được kiểm soát. 3. Bệnh tim mạch Quế giúp củng cố sức khỏe hệ tim mạch vì thế tránh cho cơ thể khỏi các rắc rối liên quan tới tim mạch. Cho 1 lượng quế nhỏ khi chế biến đồ ăn rất tốt cho những người mắc bệnh động mạch vành và bệnh cao huyết áp 4. Chống ung thư Nghiên cứu được công bố bởi Bộ Nông Nghiệp Mỹ cho thấy quế có tác dụng khống chế sự sinh sôi của các tế bào ung thư bạch cầu. Ngoài ra, chất xơ và canxi trong quế giúp loại bỏ các dịch mật thừa, ngăn ngừa những ảnh hưởng không tốt với tế bào ruột, từ đó giảm nguy cơ ung thư ruột kết 5. Ngừa sâu răng và sạch miệng Quế từ lâu đã được biết đến là một trong những thảo dược có tác dụng điều trị sâu răng và hơi thở có mùi. Chỉ cần nhai một mẩu quế nhỏ hay súc miệng với nước quế cũng giúp sạch miệng và mang lại hơi thở thơm tho. 6. Điều trị các vấn đề về hô hấp Quế rất hữu ích với người mắc bệnh cảm. Những người bị cảm lạnh, ho dai dẳng, viêm xoang nên dùng ăn hỗn hợp 1 thìa mật ong trộn với 1/4 thìa quế hằng ngày trong 3 ngày liên tục. Quế cũng giúp điều trị cảm cúm, đau họng và chứng sung huyết 7. Bổ não Quế kích thích hoạt động của não như một loại thuốc bổ, giúp loại trừ sự căng thẳng thần kinh cũng như suy giảm trí nhớ . Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ngửi quế làm tăng nhận thức, trí nhớ hiệu quả, tăng khả năng tập trung và nhạy bén 8. Giảm các bệnh truyền nhiễm Với khả năng chống khuẩn, chống nấm, chống vi rút, chống các vật ký sinh và là chất khử trùng nên quế rất hữu hiệu trong việc chống viêm nhiễm cả bên trong và ngoài. Quế được xem là rất hiệu quả trong việc chống lại bệnh nấm âm đạo, nấm vòm họng. ngừa bệnh viêm nhiễm vùng âm đạo, nhiễm trùng vòm họng, loét dạ dày và chấy trên đầu. 9. Dễ chịu trong kỳ nguyệt san Quế rất tốt cho phụ nữ, giúp giảm thiểu chứng chuột rút và những khó chịu khác trong thời gian nguyệt san. 10. Tránh thai Quế được xem là một biện pháp tránh thai tự nhiên. Thường xuyên dùng quế sau sinh con sẽ giúp làm chậm kinh vì thế tránh được mang thai trong thời gian này. 11. Lợi về sữa Mẹ Quế giúp tăng tiết lượng sữa mẹ nên rất hữu ích với những bà mẹ ít sữa. 12. Giảm đau do chứng viêm khớp Trong quế có chứa nhiều hợp chất chống viêm có tác dụng giảm đau và viêm do bệnh thấp khớp gây ra. Nghiên cứu của trường ĐH Copenhagen cho thấy nếu dùng nửa thìa bột quế và 1 thìa mật ong mỗi sáng sẽ giúp giảm đau khớp đáng kể (sau 1> tuần sử dụng) và có thể đi lại không đau (sau 1 tháng dùng). 13. Tốt cho hệ-thống tiêu hoá tuần-hoàn Cho quế vào món ăn hàng ngày giúp tiêu hoá tốt. Quế rất hiệu quả với chứng khó tiêu, buồn nôn, rối loạn dạ dày, tiêu chảy và chứng đầy hơi. Quế có tác dụng giảm bớt lượng gas trong dạ dày và ruột vì thế rất tốt cho tiêu hoá. 14. Giảm viêm đường tiết niệu Những người ăn quế đều thì nguy cơ bị viêm nhiễm đường tiết niệu rất thấp. Quế giúp lợi tiểu tự nhiên và hỗ trợ bài tiết nước tiểu. 15. Chỗng nghẽn mạch Hợp chất Cinnamaldehyde trong quế rất hiệu quả trong việc ngăn ngừa máu đóng và vón cục vì thế rất tốt với những người bị bệnh tim mạch. 16. Bảo vệ thực phẩm Khi cho 1 lượng quế nhỏ vào chế biến thực phẩm giúp ngăn ngừa sự phát triển và sinh sôi của vi khuẩn vì thế giúp bảo vệ đồ ăn tươi ngon hơn. 17. Giảm đau đầu và chứng đau nửa đầu Đau đầu do đi nhiều ngoài trời gió lạnh sẽ được điều trị bằng việc đắp hỗn hợp mỏng bột quế trộn với nước lên vùng trán và thái dương. 18. Ngừa mụn và mụn đầu đen Quế giúp loại bỏ các tạp chất trong máu vì thế rất hữu hiệu trong việc giảm mụn. Dùng hỗn hợp bột quế và vài giọt nước cốt chanh đắp lên những vùng bị mụn và mụn đầu đen sẽ có hiệu quả. 19. Tăng cường lưu thông máu Quế giúp làm sạch thành mạch máu và tăng cường lưu thông máu. Việc lưu thông máu dễ dàng sẽ cải thiện sức khoẻ do đảm bảo cung cấp đủ ôxy cho các tế bào trong cơ thể, tăng cường trao đổi chất, giảm nguy cơ mắc bệnh tim nếu dùng quế đều hàng ngày. 20. Tăng cường sự rắn chắc của các mô Quế giúp tăng sự chắc khoẻ và tính đàn hồi, co giãn của các mô trong cơ thể. 21. Giảm đau cơ và đau khớp Những người ăn quế đều hàng ngày thấy giảm đau các cơ và khớp, tăng cường sự dẻo dai của các cơ và khớp xương. 22. Cải thiện hệ miễn dịch Hỗn hợp mật ong và quế rất tốt giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm mệt mỏi, làm chậm quá trình lão hoá và kéo dài tuổi thọ. 23. Giảm ngứa Hỗn hợp mật ong và quế giúp giảm ngứa do côn trùng đốt. 24. Là nguồn magan, chất xơ, chất sắt và canxi khoẻ mạnh. 25. Làm lành vết thương Quế giúp ngừa máu chảy vì thế có khả năng làm lành vết thương nhanh
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 9:46:26 GMT 9
50 Ðiều Thú Vị Mà Có Thể Bạn Chưa Biết. 1. Xương người vốn không phải màu trắng mà có màu đục như màu nâu nhạt. Và thú vị hơn, xương hông của người còn cứng hơn cả bê tông.... 2. Khi bạn sinh ra, bạn có 300 chiếc xương, nhưng khi trưởng thành, bạn chỉ còn 206 chiếc xương. 3. Một người phụ nữ trung bình tiêu thụ khoảng 20kg son môi trong đời. hehehe 4. Bạn không thể tự tử bằng cách… nhịn thở. 5. Tim người đập hơn 100.000 lần mỗi ngày. 6. Người thuận tay phải có tuổi thọ trung bình cao hơn người thuận tay trái 9 năm. 7. Xương sườn của chúng ta chuyển động khoảng 5 triệu lần mỗi năm. 8. 1/4 số xương trong cơ thể người nằm ở chân. 9. Trung bình một người cười 10 lần/ngày. 10. Giống như vân tay, “hoa văn” trên lưỡi của mỗi người cũng khác nhau 11. Việc truyền máu lần đầu tiên diễn ra vào năm 1667 khi Jean-Baptiste tiến hành truyền máu từ một con cừu sang một thanh niên. 12. Nước chiếm 2/3 khối lượng cơ thể người. Trong máu có tới 92%; não bộ có 75% các cơ bắp cũng có 75% là nước. 13. Trong cuộc đời mình, bạn uống khoảng 75.000 lít nước. 14. Móng tay dài nhanh gấp 4 lần so với móng chân. 15. Nếu như tất cả bộ mã gene của chúng ta được kéo duỗi dài ra thì nó có thể cuốn 6 vòng quanh mặt trăng. 16. Hầu hết bụi trong nhà là tế bào da chết từ cơ thể của chúng ta. 17. Cơ giúp mắt chớp là cơ chuyển động nhanh nhất của con người. Nó có thể thực hiện nháy mắt 5 lần trong vòng một giây. Một ngày con người nháy mắt khoảng 15.000 lần. Tuy nhiên có điều lạ là phụ nữ chớp mắt nhiều gần gấp 2 lần so với đàn ông. 18. Bạn không thể hắt hơi mà vẫn mở mắt. 19. Mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn. 20. Nhiều người dị ứng với sữa bò hơn bất kỳ loại thức ăn nào khác 21. Để nói một từ, bạn sử dụng tới 70 lớp cơ. 22. Cái được gọi là "French kiss" (nụ hôn kiểu Pháp) trong tiếng Anh thì cũng được gọi là "English kiss" trong tiếng Pháp. 23. "Almost" là từ dài nhất trong tiếng Anh với các chữ cái được sắp xếp đúng theo trật tự bảng chữ cái. 24. "Rhythm" là từ tiếng Anh dài nhất không có nguyên âm. 25. Adolf Hitler là một người ăn kiêng và chỉ có duy nhất một… tinh hoàn. 26. Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất I tự coi mình là người mẫu mực trong chuyện vệ sinh thân thể. Bà từng tuyên bố rằng cho dù bẩn hay sạch thì cứ mỗi 3 tháng bà mới tắm 1 lần.... hehehe 27. Dân số trái đất vào năm 2080 được dự đoán lớn gấp 2 lần con số 7.5 tỉ hiện nay (tức 15 tỉ người). 28. Mật ong là thức ăn duy nhất không bị hỏng. Bằng chứng là các nhà khảo cổ khi nếm thử những hũ mật ong được tìm thấy trong lăng mộ của các pharaoh Ai Cập đều đi đến kết luận rằng chúng không hề bị hỏng và hoàn toàn có thể ăn được. 29. Coca-Cola nguyên chất có màu xanh trước khi người ta pha chế màu. 30. Mẩu kẹo cao su cổ nhất có tuổi thọ 9.000 năm! 31. Trung bình một cây bút chì có thể vẽ một đường thẳng dài 56km (tương đương với việc viết được khoảng 50.000 từ). 32. Mỗi một lục địa đều có một thành phố mang tên Rome . 33. Những tháng nào bắt đầu vào chủ nhật thì luôn có “thứ 6 ngày 13”. 34. Trái đất là hành tinh duy nhất không được đặt theo tên một vị thần. 35. Tại bang Nebraska, Mỹ, bạn sẽ bị coi là phạm pháp nếu có các hành động như ợ hơi hoặc hắt hơi trong nhà thờ. 36. Ở Iceland, sở hữu một chú **** cảnh là phạm pháp. 37. Mắt lừa được tạo hóa “sắp xếp” ở vị trí thuận lợi đến nỗi con lừa có thể quan sát cả 4 chân của nó cùng một lúc. 38. Một số loài bọ tự ăn thịt mình khi không tìm thấy thức ăn. 39. Lạc đà có 3 mí mắt giúp chúng bảo vệ mắt khỏi những cơn bão cát. 40. Cá heo khi ngủ chỉ nhắm 1 mắt! 41. Chuyến bay dài nhất của một con gà là 13 giây. 42. Con sên có tận… 4 cái mũi. 43. Loài cú là loài chim duy nhất có thể nhìn thấy màu xanh. 44. Hươu cao cổ có thể liếm sạch đôi tai của nó bằng cái lưỡi dài hơn 7 mét! 45. Trung bình tim của con nhím đập 300 lần/phút. 46. Mắt của đà điểu lớn hơn cả bộ não của nó. 47. Loài dơi mũi heo (tên khoa học là Craseonycteris) có kích thước chỉ bằng một chú ong nghệ, là loài động vật có * nhỏ nhất thế giới. 48. Loài chuột có thể giao phối hơn 20 lần/ngày. 49. Con gián có thể sống trong suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. 50. Voi là loài động vật có * duy nhất không thể nhảy ------------------------- Sưu tầm
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 10:17:59 GMT 9
Bí quyết sống lâu của nam giới
(Dân trí) - Bạn muốn trở thành một chàng trai khỏe mạnh và sức sống bền bỉ, hãy “bỏ túi” cho mình những kinh nghiệm sau: 1. Tắm nắng 10 phút mỗi ngày
Khi thiếu vitamin D, cơ thể của nam giới sẽ có các triệu chứng như bong da, giảm ham muốn tình dục, chân tay mỏi mệt, đau cơ… Việc tắm nắng 10 - 15 phút mỗi ngày ( tốt nhất là vào buổi sáng ) sẽ giúp tăng cường lượng vitamin D cho cơ thể.
2. Hạn chế dùng thuốc giảm đau
Trong một cuộc điều tra mới đây của các nhà nghiên cứu thuộc đại học Harvard (Mỹ) với 16.000 nam giới tham gia đã cho kết quả như sau: Những người thường xuyên sử dụng thuốc giảm đau aspirin có nguy cơ cao huyết áp lên tới 38%. Vì vậy, bạn chỉ nên dùng thuốc giảm đau trong trường hợp cần thiết, tốt nhất nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi dùng.
3. Thường xuyên “yêu”
Việc sinh hoạt tình dục đều đặn không chỉ tăng hưng phấn mà cũng rất tốt với các vùng cơ trong cơ thể. Theo các nhà khoa học Australia, sinh hoạt đều đặn trong vòng 1 tuần trước kỳ rụng trứng của nữ giới, có thể giúp nam giới cải thiện được chất lượng tinh binh của mình.
4. Kiểm tra răng định kỳ
Các nhà nghiên cứu trường ĐH Granada (Tây Ban Nha) nhận thấy, chất lượng của “bộ nhá” có ảnh hưởng rất lớn đến các bệnh của nam giới trong đó có bệnh hói đầu. Vì vậy để đảm bảo cho mình có một cơ thể khoẻ mạnh, nam giới nên thường xuyên đến phòng nha sĩ để kiểm tra răng định kỳ.
5. Lấy một người vợ trẻ :tốt: :vt: :đàn:
Các nhà khoa học Đức cho rằng, lấy một người vợ trẻ hơn mình từ 9 - 11 tuổi sẽ giúp các ông chồng giảm nguy cơ tử vong sớm tới 11%.
6. Tăng cường tập luyện các cơ vùng chậu
Việc chăm chỉ tập luyện các cơ vùng chậu sẽ giúp nam giới cải thiện chức năng của các bộ phận sinh dục như bàng quang, dương vật… Từ đó giúp ngăn ngừa nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến tuyến tiền liệt.
7. Có chí tiến thủ
Qua những nghiên cứu khoa học và các cuộc điều tra thực tế, các nhà khoa học Anh cho biết: Tỷ lệ nhân viên cấp dưới tử vong sớm cao gấp 3 lần so với lãnh đạo. Trong đó, không có quyền điều hành và không có quyền quyết định công việc là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tinh thần của nhân viên.
8. Ăn táo & chuối mỗi ngày
Nam giới trên 50 tuổi có nhiều nguy cơ mắc ung thư dạ dày hơn nữ giới. Vì thế, các bác sĩ khuyến cáo, nam giới nên bổ sung 18g xenluloza mỗi ngày. Bạn có thể chọn táo hoặc chuối vì trong 100g táo có chứa 14g xenluloza, còn trong 100g chuối là 8g xenluloza.
9. Không để ví tiền ở túi sau
Có một loại bệnh được các nhà khoa học đặt tên là “bệnh do ví tiền”. Sở dĩ có tên như vậy là vì khi ngồi làm việc hay trong khi lái xe, nếu để ví tiền ở túi sau, nó sẽ chèn lên các dây thần kinh khiến bạn cảm thấy đau, tê ở chân và đùi. Tình trạng này nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh ở cột sống, là một trong nguyên nhân gây bệnh đau lưng mãn tính.
10. Ăn ít thịt
Ăn ít thịt vừa có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ung thư và tim mạch, vừa có thể giúp nam giới tăng cường dương khí, đó là lời khuyên của các nhà khoa học Mỹ thuộc đại học Pennysylvaina.
11. Giảm thiểu cholestorol
Các biện pháp như cai thuốc lá, giảm cân, ăn ít dầu mỡ… đều có thể làm giảm lượng cholesterol trong cơ thể, từ đó thúc đẩy khả năng tuần hoàn máu, nâng cao chất lượng sống.
12. Ít cải nhau
Theo thông báo của các nhà khoa học Anh, hôn nhân hạnh phúc có ảnh hưởng rất lớn đến não bộ của nam giới. Thường xuyên cãi nhau với vợ sẽ làm tăng nguy cơ stress.
Hải Yến
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 10:20:02 GMT 9
Lưu ý khi ăn kem - Những que kem mát lạnh luôn là món khoái khẩu của mọi người mỗi khi hè đến. Tuy nhiên, khi ăn, cần lưu ý những điểm sau: 1. Kem là thực phẩm có lượng đường cao, khó tiêu hóa, tạo cảm giác chán ăn Đường dùng để làm kem chủ yếu là đường tinh luyện, ăn nhiều không tốt cho cơ thể. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, trung bình mỗi người mỗi ngày chỉ nên ăn khoảng 30g đường tinh luyện. Vì thế, nếu một đứa trẻ được cho ăn vài hộp kem, rồi sữa, nước ngọt và các thực phẩm chứa đường khác trong cùng 1 ngày thì hiển nhiên là lượng đường đứa trẻ “dung nạp” chắc chắn sẽ vượt qua con số 30g. Vì kem có chứa rất nhiều đường nên khi ăn nhiều bạn sẽ có cảm giác “no giả tạo”. Các nghiên cứu khoa học cho thấy phải mất 3 giờ đồng hồ cơ thể của chúng ta mới tiêu hóa hết 100g kem. Vậy là trong khoảng thời gian đó, bạn sẽ không muốn ăn thêm bất kỳ thực phẩm gì. Nhiệt độ của kem cũng rất thấp, trên dưới 0oC, trong khi nhiệt độ trung bình của cơ thể là 37oC nên khi kem được đưa vào cơ thể, ruột và thành dạ dày sẽ co lại theo phản ứng tự nhiên, khiến cho dịch vị được tiết ra ít hơn, làm chậm quá trình tiêu hóa. Ăn nhiều kem trong một lúc còn có thể gây đau bụng, rối loạn tiêu hóa. Trong 100g kem có chứa khoảng 74,4g nước, 2,4g protein, 5,3g mỡ, 17,3g đường, còn lại là vitamin A, B2, E và một số nguyên tố vi lượng khác như kẽm, kali vv…Nói cách khác, lượng dinh dưỡng trong 100g kem tương đương với lượng dinh dưỡng có trong 35g cơm. 2. Người béo ăn kem sẽ càng béo, người gầy ăn kem sẽ càng gầy Để chứng minh cho luận điểm trên, các nhà khoa học đã lý giải như sau: Hầu hết những người béo đều có hệ tiêu hóa rất tốt, nên có thể hấp thụ tối đa lượng dinh dưỡng dồi dào trong kem, khiến cho cân nặng của họ không ngừng tăng cao. Trái lại, những người gầy có hệ tiêu hóa kém hiệu quả hơn, nên sau khi ăn kem, họ bị cảm giác “no giả” “đánh lừa” sinh ra cảm giác chán ăn. Các nhà khoa học khuyên không nên ăn kem vào buổi sáng sớm, lúc dạ dày trống, sau bữa ăn và trước khi đi ngủ. Những người có thể trạng yếu, chức năng tiêu hóa kém, người mắc bệnh tiểu đường, béo phì, mỡ máu cao vv…cũng không nên ăn kem. 3. Kem không thể thay thế sữa bò Mặc dù nguyên liệu chủ yếu để sản xuất kem là sữa bò nhưng trải qua quá trình chế biến và bảo quản lạnh, các chất dinh dưỡng trong sữa không còn tồn tại ở dạng nguyên thể. Hầu hết chúng đã kết hợp với các chất khác tạo thành dạng hợp chất. Vì vậy, ăn một qua kem không thể thay thế cho 1 cốc sữa. Hải Yến
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 11:52:40 GMT 9
10 Nhóm Bệnh Giảm Sức "Yêu" Tim mạch là nhóm bệnh đầu tiên được kể đến trong các yêu tố gây suy yếu về tình dục. Trong đó, cao huyết áp chiếm 1/7 trong các trường hợp rối loạn cương dương. Bệnh này có thể làm biến đổi tình trạng mềm dẻo của động mạch, gây trở ngại trong việc cung cấp máu cho dương vật. Các bệnh mạch vành chỉ liên quan đến đời sống tình dục khi những động mạch đưa máu tới dương vật bị đóng lại. Trong trường hợp này, sự cương cứng sẽ giảm sút rõ rệt. Một vài loại thuốc điều trị bệnh tim mạch cũng có thể ảnh hưởng đến sự cương cứng. Nếu rơi vào trường hợp này, cần đổi thuốc hoặc áp dụng một chế độ điều trị dành cho những người bị rối loạn cương dương. Một số nhóm bệnh khác gây suy yếu về tình dục: 1. U tuyến tiền liệt Đó là những khối u lành tính phổ biến ở đàn ông (khoảng 40% nam giới trên 50 tuổi mắc phải). Chất lượng tình yêu giảm sút thể hiện bởi các rối loạn đường tiết niệu kèm theo khối u tiền liệt tuyến. 2. Mãn kinh Trong thời kỳ mãn kinh, đường sinh dục phụ nữ có nhiều thay đổi như khô âm đạo, giảm đàn hồi, khiến cho việc giao hợp trở nên đau đớn, làm giảm khoái cảm. Ngoài các biện pháp bôi trơn, việc “hoạt động” đều đặn cũng có thể giúp cho đường âm đạo được... thông thoáng hơn. 3. Mất cân bằng nội tiết tố Cũng giống như phụ nữ ở tuổi mãn kinh, đàn ông cũng chịu cảnh “hiu hắt” với sự sút giảm sản xuất nội tiết tố testosterone, dẫn đến giảm ham muốn tình dục, giảm sút khối lượng cơ và tỷ trọng xương, thay đổi tính khí và kém năng lực. Sau khi xét nghiệm định lượng, một liều điều trị nội tiết tố bổ sung có thể cải thiện tình hình. Tuy nhiên, liệu pháp này có thể làm phát triển ung thư tuyến tiền liệt và rụng tóc. 4. Ung thư Sự ham muốn tình dục ở người bị ung thư thường giảm sút theo tình trạng stress như buồn phiền, âu lo do tiến triển của bệnh và sự giảm sút thể lực. Sự mệt mỏi, mất thăng bằng nội tiết tố sẽ kéo theo sụt giảm khoái cảm; kèm theo đó nỗi lo sợ không thỏa mãn được người bạn đời. Điều này gây khó khăn cho việc leo tới đỉnh. Các liệu pháp dùng thuốc hay phẫu thuật trị ung thư cũng dẫn đến đau đớn khi cương cứng và quan hệ. Mặt khác, sự cắt bỏ một vài cơ quan (*, dịch hoàn…) có thể làm cho bệnh nhân bị trầm uất và ngăn cản việc đạt đến khoái cảm. 5. Tiểu đường Thực ra, bản thân bệnh này không ảnh hưởng đến cuộc sống tình dục. Nhưng nếu không được điều trị, bệnh nhân sẽ bị rối loạn thần kinh kéo theo rối loạn cương dương. Với những người bị tiểu đường tuổi từ 20 đến 60, rối loạn cương dương chiếm tới 30% và lên đến 50% trong lứa tuổi 50-60. 6. Cắt bỏ tử cung, buồng trứng Phụ nữ có thể phải cắt bỏ buồng trứng khi bị ung thư và nó sẽ dẫn đến sụt giảm khoái cảm. Các liệu pháp nghiên cứu là sử dụng testosterone (nội tiết tố nam được tổng hợp với liều thấp). Thủ thuật cắt bỏ tử cung không phải lúc nào cũng gây ra rối loạn hoạt động tình dục. Phụ nữ bị khối u ở tử cung thường đau đớn trong quan hệ. Nhưng sau khi phẫu thuật, họ thường hết đau nhức, gia tăng ham muốn, gia tăng tần số quan hệ và cường độ khoái cảm. Chỉ có một bất tiện, đó là tình trạng khô âm đạo. 7. Thủ thuật “stomie” “Stomie” là thủ thuật tạo lỗ thông nhân tạo ra ngoài da cho ruột non hay niệu quản khi bị ung thư ruột già hay bệnh lý ở bàng quang. Khoảng 70% bệnh nhân được tạo ống thông nhân tạo nhận xét rằng đời sống tình dục của họ bị giảm sút. Thủ phạm chính là mô xốp của dương vật trao đổi oxy kém, làm giảm năng lực cương cứng. Cần rèn luyện sớm theo chỉ dẫn của bác sĩ cho đến khi bắt đầu xuất hiện các phản xạ cương cứng tự nhiên. 8. Bệnh ở cột sống Các bệnh ở tủy sống sẽ kéo theo sự suy giảm hoạt động của hệ sinh dục và tiết niệu, giảm cực khoái. Người bệnh cần được tập luyện với sự hỗ trợ của các nhà chuyên môn, kích thích tạo cương cứng, sử dụng các bộ phận giả hoặc chích thuốc… Bị liệt do chấn thương cột sống không có nghĩa là bị tước bỏ mọi khả năng trong đời sống tình dục. 9. Viêm khớp Các bệnh khớp thường gây trở ngại trong sinh hoạt tình dục. Tuy nhiên, tùy theo vị trí các khớp bị đau, bệnh nhân có thể khắc phục bằng các kinh nghiệm riêng tư như dùng gối, nệm hoặc các tư thế thuận lợi để giảm đi đau đớn và vẫn giữ được ham muốn.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:50:24 GMT 9
Rau quả, ăn uống và bệnh ung thư Từ nhiều năm nay, các nhà khoa học đã biết thực phẩm có vai trò quan trọng trong việc phòng chống ung thư. Qua đó nghiên cứu về những thực phẩm nào cần tránh sử dụng để khỏi bị ung thư và những thực phẩm nào có khả năng. Từ đó người ta đã phát hiện: một chế độ ăn giàu rau quả, ít chất béo, bão hòa, nhiều ngũ cốc, đậu đỗ có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư tới 30%.phòng tránh được ung thư khi sử dụng. Món ăn, thức uống ảnh hưởng đến việc gây ung thư * Các yếu tố độc hại trong thức ăn chính là yếu tố gây ung thư, như Nitrosamin gây nguy cơ ung thư ở dạ dày, ung thư đường tiêu hóa. Trong khi đó các thực phẩm có nhiều chất xơ, không tan, có tác dụng nhuận tràng, sẽ giảm thời gian tiếp xúc các yếu tố nguy hại gây ung thư với màng nhầy kết tràng, nên có khả năng phòng chống ung thư kết tràng. * Chế độ ăn thiếu cân bằng, nhiều chất béo, gây biến đổi về bài tiết hormone, kéo theo hậu quả xấu, gây ung thư, như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt. * Thức ăn thiếu vi chất dinh dưỡng: Như kẽm, Selen, vitamin, nhất là vitamin C và vitamin E sẽ ảnh hưởng đến hệ miễn dịch và cơ chế sửa sai trong tế bào, từ đó ảnh hưởng đến việc tấn công tiêu hủy các tế bào ung thư. Thực phẩm nào bảo vệ cơ thể chống ung thư? * Tới thập kỷ 80 của thế kỷ vừa qua, các nhà khoa học đổi hướng nghiên cứu, không tìm kiếm các thực phẩm gây ung thư, mà tìm kiếm những thực phẩm có khả năng bảo vệ cơ thể chống ung thư. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã đi đến kết luận: "Chế độ ăn càng giàu rau quả thì nguy cơ mắc ung thư càng ít. Có thể kể những chất có trong rau quả có khả năng bảo vệ cơ thể chống ung thư: Chất kháng ô-xy hóa: Vitamin C: * Có trong cam, chanh, bưởi, quýt và các loại rau tươi khác trong bữa ăn hàng ngày, được điều trị, bổ sung trong ung thư khoang miệng, thực quản, dạ dày, kết tràng, phổi. Beta caroten: * Có trong các loại rau quả màu vàng, cam, đỏ, lục đậm, có tác dụng bảo vệ tế bào, niêm mạc, ngăn ngừa các loại ung thư, như ung thư phổi, ung thư dạ dày. Lycopen: * Có trong các loại quả màu đỏ, như cà chua. Cùng với caroten có trong cà-rốt có tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt, phổi và dạ dày. Các loại Vitamin: Vitamin E: * Chủ yếu dưới dạng alpha và gamma tocopherol, ngăn cản sự hình thành các gốc tự do, gây hủy acid béo chưa bão hòa ở màng tế bào. Chất này còn có vai trò trong hệ thống miễn dịch, đặc biệt chức năng của tế bào lympho T. Vitamin E có trong các loại hạt có dầu như lạc, vừng, đậu nành, giá sống, rau màu lục đậm. Vitamin C: * Có trong các loại quả thuộc họ cam quít và nhiều loại rau xanh ăn thường ngày. Ngoài tác nhân kháng oxy hóa, vitamin C còn có vai trò trong việc tổng hợp collagen và hormone, trung hòa các gốc tự do dẫn đến ung thư. Hợp chất có đặc tính bảo vệ cơ thể chống ung thư: Carotenoid: * Có trong cà-rốt, cà chua, bắp cải xanh, rau dền, dưa hấu. Polyphenol (Flavonoid và Tanin): Có trong rau cải, cam, chanh, bưởi, quít, chè, cà phê. Hợp chất lưu huỳnh: Có trong cải xanh, cải bắp, hành, tỏi. Khoáng chất: * Các khoáng chất bảo vệ chống ung thư như: Selen (Selenium): Có nhiều trong tỏi, nấm, măng tây, men bia, ốc biển. Kẽm (Zn): Có trong tỏi, đậu Hà Lan, thịt vịt, cá mòi. Các Enzyme: Protease: * Là một enzyme đang được nghiên cứu, có khả năng cắt phân tử protein, như vậy protease có thể biến đổi một hormone này thành một hormone khác, có thể gây ung thư. Nếu có được antiprotease thì có thể ngăn được các chất độc. Chất antiprotease có trong đậu xanh, đậu trắng. Các Phytohormone * Là những chất trong thực vật, có tác dụng như hormone nhưng yếu hơn, rất cần cho sức khỏe, giảm được nguy cơ ung thư vú và ung thư tử cung. Chất này có nhiều trong đậu nành, cà chua, sà lách. Chất xơ: * Là chất không được ruột non hấp thu. Nếu sử dụng nhiều rau quả có nhiều chất xơ sẽ giảm nguy cơ ung thư kết tràng. Tóm lại để giảm nguy cơ ung thư nên có một chế độ ăn giàu rau quả, đặc biệt rau xanh, một chế độ ăn đa dạng, cân bằng, hợp lý. Những lời khuyên trong ăn uống để phòng ung thư *Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm: Không dùng thực phẩm nhuộm màu lòe loẹt, có phụ gia không biết nguồn gốc. *Đảm bảo cân bằng dinh dưỡng, ăn uống hợp lý. *Tránh uống rượu, hút thuốc lá, bỏ thuốc lá càng sớm càng tốt. *Tránh uống nước hoặc ăn thức ăn quá nóng hay cháy đen. *Không ăn thức ăn quá mặn, quá chua, khó tiêu. *Không ăn thức ăn nghi ngờ bị nhiễm nấm mốc hay độc tố vi nấm. *Ăn nhiều rau có màu xanh, vàng, giàu chất kháng ôxy hóa thiên nhiên như beta caroten, nhiều vitamin C, vitamin E và chất xơ. *Ăn rau quả sạch, không dùng rau quả vừa phun thuốc trừ sâu hay để cách ly không đảm bảo thời gian. *Hạn chế các món ăn chiên (xào, rán) hay nướng trên than. *Tránh phơi nắng quá lâu dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời. *Luyện tập thể dục, thể thao đều đặn và kiểm tra sức khỏe thường xuyên để phát hiện sớm ung thư nếu có. Theo Sức khoẻ & Đời sống
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:58:43 GMT 9
Thời Sự Y Học Nguyễn Ý Đức Sau đây là vài câu chuyện thời sự về y học mời bà con cùng đọc để bảo vệ sức khỏe. Lại Nói Về CúmHàng năm, cứ vào cuối Hạ, sửa soạn vào Thu là y giới phòng bệnh Hoa Kỳ lại nhộn nhịp “mài gươm, chuốt kiếm” để chiến đấu ngăn chặn Ông Cúm Bà Co cũng như Cúm Heo Cúm Lợn. Mùa cúm thường bắt đầu vào tháng 11 hàng năm và kéo dài có khi tới tháng 5. Thực vậy, mới tháng 8 còn nóng nắng mà cơ quan Phòng Bệnh CDC Hoa Kỳ đã thông báo cho bà con là, thuốc chủng ngừa cho Cúm năm 2010 đã sẵn có và nhắc nhở bà con đi chích ngừa. Theo cơ quan này, chủng ngừa là phương pháp hữu hiệu nhất để tránh Cúm tới thăm viếng, hành hạ cơ thể đồng thời cũng tránh được các biến chứng của bệnh như viêm phổi, tai, xoang, khô nước hoặc làm cho các bệnh mãn tính suy tim, tiểu đường trầm trọng hơn. Theo CDC, tại Hoa Kỳ có từ 3000 tới 49,000 tử vong vì cúm, tùy theo loại virus. Nhớ lại là năm 2009 vừa qua bà con ta phải chích tới hai mũi thuốc mới phòng ngừa được Cúm Hàng Năm và Cúm Heo H1N1. Nhưng năm nay thuốc được chế biến hỗn hợp, cho nên chỉ cần một lần chích là hầu như bảo đảm an toàn với các virus H1N1, H3N2 và một phân loại virus cúm 1 B. Chúng tôi nói “hầu như” là vì theo các nhà chuyên môn, cũng có mươi mười lăm % trường hợp dù có chích ngừa mà vẫn bị cúm nhưng nhẹ hơn hoặc cúm vì một dạng virus cúm khác. Các dược phòng cũng như phòng mạch bác sĩ đều cho hay là họ sẵn sàng chích ngừa rồi. Bà con ở Việt Nam có thể chích ngừa ở Viện Pasteur, các Trung tâm Y tế Dự phòng hoặc phòng mạch bác sĩ. Vậy xin mời nam phụ lão ấu từ 6 tháng tuổi trở lên đi chích ngừa để cơ thể có đủ thì giờ tạo ra sức đề kháng với 3 loại virus của mùa cúm 2010-2011. Đặc biệt là với các cháu bé, bà mẹ mang bầu, lão nhân từ 65 tuổi sấp lên cũng như người đang có bệnh kinh niên như hen suyễn, tiểu đường, bệnh tim bệnh phổi. Các cháu dưới 6 tháng cũng dễ mắc bệnh cúm nhưng còn quá bé để nhận vaccin, cho nên người chăm sóc các cháu phải chích ngừa. Những ai chăm sóc người bệnh hoặc nhân viên y tế cũng cần chủng ngừa. Riêng các cháu dưới 9 tuổi mà chưa bao giờ chích ngừa cúm lại cần hai lần chích, cách nhau một tháng. Không chích ngừa nếu dị ứng với trứng gà, đã có phản ứng với vaccin cúm, trẻ em dưới 6 tháng tuổi. Ai đang bị nóng sốt, nên đợi sau khi hết sốt hãy chích ngừa. Ngoài chủng ngừa, mỗi cá nhân nên áp dụng sáu bước chống Flu sau đây: -Tránh tiếp xúc quá gần với bệnh nhân flu để khỏi hít virus từ họ -Khi bị cúm, nên nghỉ ở nhà cho tới 24 giờ sau khi hết sốt, vừa điều trị dưỡng sức vừa không truyền bệnh cho người khác. -Che mũi miệng với khăn giấy khi ho hoặc hắt hơi để virus khỏi tung bay trong không khí, truyền bệnh cho mọi người. Ném bỏ khăn giấy đã dùng vào thùng rác -Rửa tay thường xuyên với nước và xà phòng để loại bỏ virus gây bệnh bám trên tay -Đừng sờ mũi, miệng mắt để tránh lây nhiễm khi tay dính virus. -Sống khỏe mạnh, dinh dưỡng ngủ nghỉ đầy đủ, xả stress, uống nhiều nước. Nếu chẳng may bị xác định mắc Cúm thì cần uống thuốc vô hiệu hóa virus như như thuốc viên/ nước Tamiflu (generic: osaltamivir và zanamivir) hoặc thuốc bột xịt mũi Relenza mà bác sĩ đã cho toa. Các thuốc này khác với kháng sinh và có thể giúp giảm nhẹ triệu chứng bệnh hoặc rút ngắn thời gian bị bệnh. Điều cần nhớ là thuốc phải dùng sớm, trong vòng 2 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh và dùng liên tục 5 ngày. An Toàn Ăn TrứngTheo CNN, từ giữa tháng 8, 2010 cho tới hôm nay, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ đã yêu cầu một số trang trại thu hồi cả nửa tỷ quả trứng bị nhiễm với vi khuẩn Salmonella Enteritidis. Đây chỉ là 1/10 của cả 67 tỷ quả trứng được sản xuất hàng năm ở Hoa Kỳ. Trước đây đã có ý kiến cho rằng vi khuẩn xâm nhập trứng qua những lỗ nhỏ trên vỏ trứng. Nhưng bây giờ có nhiều bằng chứng cho hay trứng bị nhiễm từ khi được cấu tạo trong noãn sào gà mẹ và vi khuẩn thường nằm trong lòng trắng của trứng. Gà ăn chất phế thải có nhiễm trùng của loài gậm nhấm hoặc từ những con ruồi, bọ. Mới đây, khi thanh tra hai trại gà ở Hoa Kỳ, FDA tìm ra nhiều đống phân bên cạnh trại nuôi gà với ruồi bay. Có nơi lại rửa trứng với nước chứa Salmonella. Theo cơ quan FDA, hàng năm nông trại phân phối hơn 2 triệu trứng bị nhiễm Salmonella, và mỗi năm có khoảng 150,000 trường hợp ngộ độc thực phẩm vì trứng nhiễm. May mắn là 91% trường hợp đều tự khỏi trong vài ba ngày và chỉ có khoảng 1% cần điều trị tại bệnh viện. Ấy vậy mà đôi khi cũng ca trầm trọng, tử vong. Sau đây là vài phương thức để an toàn tiêu thụ trứng: -Khi chọn mua trứng, chỉ mua trứng còn nguyên vẹn, vỏ không nứt và sạch. -Nên để ý tới ngày trứng hết hạn được bán, và chỉ mua trứng được bầy trong ngăn tủ lạnh vì để ở ngoài không khí, nhiệt độ trong phòng làm cho trứng rất mau hư và dễ nhiễm độc. -Mang trứng về nhà, nên cất ngay vào tủ lạnh, xếp đầu nhọn xuống dưới, đầu to quay lên trên. Đầu to vỏ cứng hơn, khó vỡ, đồng thời cũng để cho lòng đỏ nằm gọn trong sự che chở của chất kháng sinh ở lòng trắng. Tốt hơn hết là giữ trứng trong hộp nguyên thủy từ tiệm hoặc trong hộp có nắp đậy. Giữ như vậy, trứng vẫn còn tốt, an toàn tới ba tuần lễ. Đôi khi nếu cất giữ ở nhiệt độ thấp và nơi khô ráo, trứng có thể vẫn còn tốt tới sáu tháng. -Tránh để trứng gần thực phẩm có mùi như hành, tỏi vì trứng dễ hút mùi của các thực phẩm này. -Không cần rửa trứng trước khi xếp vào tủ lạnh. Trên vỏ trứng, có một lớp màng mỏng tự nhiên hoặc do nông trại nhúng trứng vào một loại dầu không mùi, vô hại để che chở cho trứng khỏi bị vi khuẩn xâm nhập cũng như tránh thất thoát độ ẩm và khí carbon dioxide trong trứng. Vỏ trứng rất xốp để trứng có thể thở. Nhưng đây cũng là nhược điểm vì trứng cũ sẽ mất bớt carbon dioxide khiến hương vị trứng giảm bớt, khoảng không khí ở đầu quả trứng tăng, lòng trắng đổi sang vị kiềm. -Trứng còn tươi khi đập khỏi vỏ thì lòng đỏ tròn đầy với lòng trắng đặc quánh bao chung quanh. Trứng hư, lòng đỏ xẹp, lòng trắng vữa loãng. Trứng mới thì lòng trắng đục mờ như sữa, đôi khi còn dính vào vỏ khi ta đập trứng ra; trứng cũ thì lòng trắng nom trong hơn. -Trứng đã nứt vỏ rất mau hư nên cần nấu ngay. Ra khỏi vỏ, trứng có thể giữ trong hộp đậy kín, cất trong tủ lạnh vài ngày. Lòng trắng trứng có thể giữ được một tuần lễ trong tủ lạnh hoặc dăm tháng trong tủ đông lạnh, nhưng lòng đỏ thì chỉ giữ trong tủ lạnh độ vài ngày là hư. Nên thả lòng đỏ trong một bình nước lạnh đậy kín để giữ được lâu hơn. -Luộc trứng tới khi lòng đỏ và trắng chín hẳn. Trứng đánh cần nấu tới khi khô nước. -Rửa tay, dụng cụ bếp núc với nước và xà bông sau khi tiếp xúc với trứng sống. -Đừng để trứng ngoài tủ lạnh quá 2 giờ. -Không ăn trứng chưa nấu chín. -Trứng nấu rồi mà không ăn hết cần được cất ngay vào tủ lạnh. Các điều trên đây cần được áp dụng cho mọi người, đặc biệt là với các cháu bé, quý lão ông lão bà, người suy miễn dịch như là đang điều trị với thuốc steroid, bệnh HIV, tiểu đường, đang hóa trị ung thư… Tháng 9, tháng Hướng dẫn về CholesterolCao cholesterol vẫn là mối e ngại của mọi người vì hậu quả trầm trọng của tình trạng này. Do đó, y giới Hoa Kỳ đã dành trọn tháng 9 hàng năm là Tháng Hướng Dẫn Quốc Gia về Cholesterol (National Cholesterol Education Month). Xin cùng nhau cập nhật về chất béo này. Cholesterol là gì? Cholesterol là một loại chất béo mềm như sáp lưu hành trong dòng máu. Chất này có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như là cấu tạo màng tế bào, tiền chất của nhiều hormon và muối mật. Cholesterol từ đâu mà ra? Có hai nguồn cung cấp cholesterol cho cơ thể, đó là gan và thực phẩm Gan và một số tế bào khác tổng hợp khoảng 75% cholesterol và 25% do thực phẩm động vật cung cấp. Thực phẩm chứa nhiều chất béo bão hòa như thịt mỡ, lòng đỏ trứng, tôm cua sò vẹm và sữa nguyên dạng là nguồn cholesterol. Có vai trò quan trọng, tại sao lại có hại? Dù cần thiết nhưng khi quá cao trong máu thì cholesterol lại là rủi ro gây ra các bệnh tim mạch với hậu quả là tai biến não, cơn đau tim. Mỗi ngày, tại Hoa Kỳ có khoảng 2300 tử vong vì bệnh tim mạch, nghĩa là cứ mỗi 38 giây đồng hồ là một người mãn phần. Thế nào là quá cao? Cholesterol toàn phần: Lý tưởng là dưới 200mg/dl; từ 240md/dl trở lên là cao. LDL (cholesterol xấu): dưới 100mg/dl là tốt nhất; trên 160mg/dl là cao. HDL(cholesterol Tốt): từ 60mg/dl là tốt mà dưới 40mg/dl là thấp Triglycerid: dưới 150mg/dl là bình thường mà trên 200 là cao. Sở dĩ LDL coi là “xấu” vì nếu có quá nhiều trong máu, chúng sẽ kết tụ thành những mảng vữa trong lòng động mạch, gây ra tắc nghẽn sự lưu thông của máu, lâu ngày sẽ gây bệnh tim. Còn HDL tốt vì chúng giúp đưa cholesterol cao từ máu về gan để loại ra ngoài. Các nhà y khoa học đề nghị mọi người từ 20 tuổi trở lên, nên đo cholesterol trong máu mỗi 5 năm. Làm sao để hạ cholesterol quá cao trong máu Chẳng may cholesterol lên cao thì nên nhờ bác sĩ gia đình hướng dẫn điều trị với dược phẩm, thay đổi nếp sống và áp dụng chế độ dinh dưỡng tốt cho tim mạch. -Dược phẩm gồm mấy loại chính như sau: Nhóm statin làm giảm sản xuất cholesterol ở gan như Lipitor, Pravachor, Zocort… Nhóm resins ngăn cản sự hấp thụ cholesterol ở ruột non như Questran, Colestid. Nhóm fibrates tăng HDL, giảm triglycerides, như Lopid Nhóm Niacin giảm LDL, cholesterol, tăng HDL như nicotinic acid. Bác sĩ sẽ lựa dược phẩm thích hợp cho mỗi bệnh nhân. -Dinh dưỡng lành mạnh với nhiều rau trái cây, các loại hạt nhiều chất xơ, thịt nạc, hai lần cá mỗi tuần lễ, sữa giảm chất béo. -Vận động cơ thể mỗi ngày 30 phút như đi bộ, đi xe đạp, bơi lội, khiêu vũ…tùy theo sở thích và sức khỏe cho phép. Một vài ngộ nhận: Tôi gầy thì cholesterol đâu có cao Gầy béo đều có thể bị cao cholesterol nhưng dân mập phì dễ bị cao hơn. Hơn nữa, người gầy lại thường ỷ y, ăn vung vít đủ các loại thịt chứa nhiều chất béo bão hòa, hoặc thực phẩm chiên rán với trans fat. Cho nên, dù gầy cũng cần thử cholesterol trong máu. Cholesterol là chuyện của liền ông chứ đâu có “ăn nhậu” gì với liền bà chúng tôi. Cao cholesterol là vấn đề của cả nam thanh nữ tú. Có điều là, khi đang còn ở tuổi sanh đẻ thì quý bà quý cô được sự che trở của hormon nữ estrogen, nâng cao HDL. Nhưng khi ở tuổi mãn kinh, estrogen giảm lần thì triglyceride và cholesterol lại có chiều hướng lên cao đấy. Bác sĩ cho tôi uống thuốc hạ cholesterol rồi thì đâu cần kiêng khem. Vẫn cần giới hạn chất béo bão hòa. Dược phẩm thường được chỉ định cho người bị cholesterol cao dù là đã áp dụng dinh dưỡng lành mạnh, vận động cơ thể mỗi ngày hoặc cho người có rủi ro bị bệnh tim mạch, tai biến não. Ngộ nhận còn nhiều. Xin hẹn kỳ tới Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
|