|
Post by Huu Le on Aug 7, 2006 3:34:38 GMT 9
Chè Huế, Trà Tàu Khát uống trà mai hương ngọt ngọt, Giấc nằm hiên nguyệt gió hiu hiu.Nguyễn Bỉnh Khiêm Lịch sử Tục truyền đức Bồ Đề Lạt Ma, người Ấn Độ đã du nhập Phật giáo dyana vào Trung Hoa khoảng 520 qua trường phái chan (đầu tiên được gọi chan na), sau nầy trở nên seon bên Hàn Quốc, zen bên Nhật Bản, thiền ở Việt Nam, một hôm ngủ gật nhân lúc ngồi định tâm. Thức giấc, hổ thẹn, ngài cắt hai mí mắt vứt xuống đất. Hai mí nầy mọc rễ, đâm chồi lớn lên thành một cây lá hình mí mắt mà người đời hái về dùng để giữ trí óc luôn được tỉnh táo. Mặt khác người ta tin tục uống trà được truyền lại từ thuở Thần Nông ! Sau một loại tên : tu, she, chuan, jia, ming,… ngày nay nó được gọi cha bên Tàu, cha hay sa bên Nhật, tchai bên Nga, tea bên Anh, tee bên Đức, thé bên Pháp,…toàn những chữ đồng âm. Lúc ban đầu, cách dùng trà có phần rắc rối : lá được ẩm hơi nước, cán nghiền nát, vo thành viên rồi đem nấu với hành, gừng, cam, sữa và nhiều gia vị khác gọi là bánh trà hay đoàn trà. Thêm vào bơ, kem sữa, lối ăn nầy hiện còn được thông dụng bên Tây Tạng. Trên thế giới ngày nay ít thấy có nơi khác còn ăn trà như vậy. Ở Á Châu, trà liên quan mật thiết với Phật giáo. Tăng lữ khi ngồi thiền "cần tịnh tọa, điều tâm, quán chiếu tự tánh, tiêu từ tạp niệm, để đạt trạnh thái khinh an, minh tịnh,… Trà lúc thức uống để thần tỉnh não, xua đuổi ma ngủ…." Từ đấy trong tu viện sinh ra trà đường, nơi thảo luận, trà cổ, nơi đánh trống chiêu tập tăng ni, trà đầu, vị tăng coi việc nấu trà (Tảo chữ phàm phu, Triệu Châu : "uống trà đi", Giác Ngộ số 31, 1999). Dần dần, thú uống trà rời chùa chiền lan qua cung đình, quan lại, sĩ phu, thương gia. Song song với Phật giáo, Lão giáo lấy trà làm thuốc trường sinh, góp phần phổ biến tục dùng trà vào quần chúng. Bên Trung Quốc, ở thời Khổng Tử đã thấy biết uống nước cây tu, một loại trà đắng. Bắt đầu từ các thời đại Tam Quốc, Lục Đại, thuật dùng trà dần dần trở nên thịnh hành. Qua đời Đường, nghệ thuật trà chiếm một chân quan trọng trong giới uyên bác, bên cạnh văn thơ, hội họa, thư pháp, âm nhạc, võ thuật,… Trà kinh, cuốn sách đầu tiên thảo luận về trà, đưa tác giả Lục Vũ lên bậc trà sư đầu tiên, sau nầy còn được tôn là trà thần (Đỗ Trọng Huề, Trà, lược sử và ý nghĩa, Bách Khoa số 169, 1964). Cũng vào thời ấy, Lư Đồng viết bài Trà ca cùng Lục Vũ để tên lại hậu thế trong thế giới trà. Sau nầy còn ra đời nhiều cuốn khác mà có tiếng nhất là cuốn chuyên khảo xuất bản đời Tống, Trà luận của vua Huy Tông, lúc nghệ thuật dùng trà đạt đỉnh tối cao. Đồ gốm uống trà thời ấy còn giữ tiếng vang (John Blofekd, Thé et Tao). Nghệ thuật trà theo Phật giáo nhập vào Nhật Bản, từ một thức uống trở thành một dụng cụ truyền bá trường phái zen. Cũng như ở những nơi khác, trà đạo thoát khỏi nhà chùa, lấn vào địa hạt văn hóa, tổng hợp những lý tưởng cao siêu thuộc về đạo giáo, luân lý, mỹ học, cùng triết lý, kỷ luật, quan hệ xã hội. Tiếp tay các tu sĩ Ikkyu 休 (1394 - 1481), Murata Shukô (村田珠光 (1423-1502), Takeno Joo (1502-1555), phát minh một phong cách mới, nghệ thuật wabi, dùng trà trong một ngôi nhà nhỏ, vẻ khiêm nhường, không phô trương, kết hợp thiền định và nguyên tắc bình quân của nền dân chủ. Đồ đệ ông ta, Sen Rikyu, là người khai triển trọn vẹn nghệ thuật nầy, nhận diện trà đạo với bốn nguyên tằc căn bản hòa hợp, tốn kính, thuần khiết và bình tâm. Hậu duệ của ông 15 thế hệ sau còn là trà sư có tiếng. Ngày nay, trong nghi lễ dùng trà Nhật Bản chanoyu, sự kiện cho là đơn giản pha trà và uống trà chỉ nhắm một mục đích : đạt đến thanh thản tâm hồn, thông cảm với đồng loại trên thế giới (Sonutsu, Vie du thé, vie de l’esprit). Rửa lòng tục, tỉnh mộng trần Âu châu chỉ tiếp xúc với trà từ thế kỷ 17 qua Công ty Ấn Độ thuộc Hòa Lan. Hãng buôn nầy chiếm độc quyền nhập cảng trà vào nưóc Anh và Mỹ châu. Bữa dùng trà vào năm giờ chiều, thêm đường, thêm sữa là một tục lệ mà ít người Anh có thể bỏ qua. Ấm trà samovar giữ nóng suốt ngày bên Nga nhắc ta nhớ đến om chè luôn đặt trên bếp quê ta. Tuy nhiên ở phương Tây, cạnh tranh cà phê khá mạnh nên, trừ ở những nước Đông Âu, tập quán dùng trà ít được phát triển cho đến gần đây, bắt đầu thấy được kêu trong các tiệm cơm Tàu Việt Thái sau hoặc ngay trong bữa ăn. Ở Việt Nam, chúng ta thường phân biệt chè xanh và trà tàu. Tuy nhiên, một hôm ở quận 13, Paris, khi tôi gọi ấm nước trà sau bữa ăn, anh dọn bàn lễ phép hỏi lại : chè đậu hay hay chè khoai ? Không có những đồn điền mênh mông như ở các nước Ấn Độ, Sri Lanka, Indonesia, thường ở nước ta vườn nào cũng có vài ba góc chè đủ dùng trong nhà. Lá chè tươi nấu nước sôi là thức uống bình dân rẻ tiền. Tuy vậy, ngày nay nó đang bị những nước ngọt Pepsi, Cola nhập cảng hay các các rượu bia đủ loại lấn át. Nhà văn Võ Phiến, cách đây gần 30 năm, đã luyến tiếc cái om chè Huế ngày xưa : "Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ nước vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức chế thêm tí nước lã vào để trấn nó xuống. Một chốc nó lại sôi lên lại tí nước lã nữa. Ba bốn bận như thế… Cần phải kiên nhẫn : lửa không nên cháy hỗn quá, nước chế thêm không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có thế chè pha ra bát mới tắt bọt được" (Hạt bọt trà trong Tùy bút). Bên các xứ Ma rôc, Tunidi thì người ta cố ý rót thật cao cho có nhiều bọt một loại nước chè thật nóng, thật ngọt lại rặt mùi bạc hà thơm ngát. Trà tàu bên ta nếu không dùng theo kiểu Trung Quốc xưa : trảm mã (trà ủ trong bụng ngựa, trùng diệp (trà ủ trong ruột sâu chế với búp trà), bạch mai hầu (trà do khỉ lông trắng hái),… thì các cụ lại ướp hoa (lài, sen, hồng, sói,…) không chỉ để có trà thơm. "Nhưng đặc biệt nhất thì lại là lấy gạo sen dùng để ướp trà. Những gia đình nền nếp, dù túng bấn cũng không thế nào dừng được việc này. Việc này không còn là một sự a dua theo thời, mà đã là một cần dùng về lễ nghi tôn giáo và cần dùng trong việc xã giao, ngoài cái thú thưởng thức hương vị đặc biệt của trà sen" (Lê Văn Siêu, Trà ướp sen… trong Văn minh Việt Nam). Dọn trà lại là một nghệ thuật. "Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý" (Nguyễn Tuân, Chén trà trong sương sớm trong Vang bóng một thời). Thanh hương, hậu vị, ấm chén chưa đủ để gây cái thú uống chè. "Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng thanh, với bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục" (Phạm Đình Hổ, Cách uống chè trong Vũ trung tùy bút). Ôi, cả một quá khứ biết bao thanh cao, thuần khiết ! Ngày nay, khi lại thăm nhà ai, vẫn còn có bình trà tiếp khách, nhưng lễ nghi không quá điếu thuốc, miếng trầu. Thời đại kinh tế, khoa học, ít thì giờ mà lại cần hiệu lực. Trên thế giới, bốn nước đặc biệt sản xuất số lớn. Đứng xa hàng đầu là Ấn Độ (mỗi năm 870.000 tấn), theo gót là Trung Quốc (665.000 tấn), sau đó mới đến Kenya (294.000 tấn), Sri Lanka (281.000 tấn) rồi Indonesia, Pakistan, Đài Loan,… Số sản xuất thế giới hàng năm xấp xỉ 2 triệu tấn. Ở Ấn Độ, đồn điền trồng trà rải rác khắp nơi và chất lượng trà mỗi vùng khác nhau, phụ thuộc vào loại đất và khí hậu. Ở Trung Quốc, phần lớn những tỉnh trồng trà nằm ở miền nam. Bên Kenya, xứ mới trồng trà so với các nước Á châu, trà có hương vị nồng đậm đặc biệt của miền núi. Sri Lanka, nơi được mệnh danh là "đảo trà", gồm có sáu vùng trà đều ở miền nam. Về mặt tiêu thụ, ngoài các nước Á Đông dùng nhiều nhưng không có thống kê, nước Anh nhập cảng nhiều nhất (trung bình mỗi người mỗi năm uống 5kg), theo sau là New Zealand, Canada,… Được thưởng thức nhiều nhất là trà Ấn Độ, đặc biệt sản xuất ở các vùng Darjeeling, Jalpaiguri, sau đến trà Sri Lanka, Java, Trung Quốc… Quốc tế lúc đầu đặt tên cây trà là cây Thea, theo Linn., thuộc họ Trà Theaceae. Dần dần danh từ Camellia lại thế vì lá trà giống lá cây hoa trà camelia. Có nhiều loại Camellia : C. assamica, C. macrophyllia, C. rosea, C. viridis, thông dụng nhất là C. japonica và C. sinensis. Sách thuốc xưa đã biết dùng trà để giảm đau, đỡ mệt, tăng sức, gia cố nghị lực, phục hồi thị giác. Ngày nay, vì trà được dùng nhiều nơi trên thế giới lại là một nguyên liệu dễ kiếm, rẻ tiền nên rất nhiều phòng thí nghiệm ở các viện Đại học cũng như ở các xí nghiệp dược phẩm đổ xô vào khảo cứu và hàng ngàn bản báo cáo hàng năm chiếm đầy các sách báo khoa học, trước để tìm hiểu tính chất, sau hầu mong phát hiện được ứng dụng những hoạt chất tiềm tàng đoán biết trong một thức uống rất thông thường. trà bột matcha, Nhật Bản Trên thị trường thế giới, trà xuất hiện dưới ba thể : chè tươi hay trà xanh là trà không lên men, mạt trà (matcha) Nhật Bản, một loại trà bột dùng trong nghi thức chanoyu, thuộc về thể chè nầy ; trà đen là trả ủ hay ngâm, nước trà màu đậm, hương nồng, nặng mùi tannin ; trà ô long là trà ủ lanh, đặc tính nằm giữa hai thể trà kia. Thường được hái là ngọn đọt thêm một, hai hay ba lá tùy theo chất lượng trà muốn sản xuất. Cũng có khi hái thêm bốn hay năm lá nhưng là để chế tạo trà hạng tồi. Lá đưa về được đem phơi hay sấy khô rồi cho kẹp lăn để chiết xuất tinh dầu. Thao tác nấy bẻ gãy một số lá, đem sàn chia làm ba loại : lá toàn vẹn dùng làm các trà Orange Pekoe, Flowery Orange Pekoe, Golden Flowery Orange Pekoe,… ; lá gãy một phần dùng trong các trà Broken Orange Pekoe, Golden Broken Orange Pekoe,… ; và lá nghiền nát thành mụn dành cho các trà Dust, Fannings,… Để ủ, trà được thêm nước đưa độ ẩm lên 90% và đặt trong môi trường không khí giữ giữa 22 và 28°C. Phản ứng hóa học làm tăng nhiệt độ khối lá. Khi nhiệt độ hạ xuống là lúc cuộc lên men chấm dứt : chuyên viên có kinh nghiệm biết rõ lúc nào cần cho ngừng thao tác. Ủ trà cần thiết để gây hương vị trong trà nhưng kéo dài phản ứng thì có hại cho chất lượng trà. Sau đó, lá được đem sấy ở 80°C để hạ độ ẩm xuống 12%. Trà bây giờ có thể cho vào hộp kim loại chống ẩm, chống ánh sáng, nhưng trước đó còn phải qua tay một viên giám định kiểm tra màu sắc, hương vị và ngay cả tính đàn hồi của lá trà khô. T.G : Vo Quang Yen
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 7, 2006 3:38:29 GMT 9
Tính chất, hương vị, chất lượng loại trà là do hơn 200 hóa chất trong lá chỉ định, qua máy sắc ký, một phần lớn đã được chiết xuất và xác định cấu trúc. Chúng thuộc đủ loại chức : từ alcan qua alcanal, alcenal, từ acid qua ester, ceton, oxid, rượu,… đến những phân tử phức tạp hơn như ở trong nhóm tannin. Hương trà thường được cho là các chất hexenal, octadienon, norleucin,… mà ra, mùi hoa hồng từ b-alanin, phenylalanin, glutamic acid, mùi trái từ arginin, lysin, mùi rượu từ threonin, còn tyrosin, tryptophan thì cho phảng phất một mùi hôi, trong khi dimethyl octatrienol cống hiến một hương hoa dịu ngọt. Trà Darjeeling được thưởng thức nhờ các linalool, linalool oxid, geranol, haxanoic acid, benzyl alcool, phenylethyl ethanol, geranic acid, hexanoic acid, dimethyl octadiendiol,… Trà Trung Quốc, từ Vân Nam, Phú Kiến qua Quảng Đông, Quảng Tây, khác với trà Ấn Độ nhờ có nhiều benzyl alcool, phenylethyl ethanol. Trà Sri Lanka cũng được hưởng ứng nhiều nhờ hai chất chính : methyl jasmonat có mùi hoa lài, jasmin lacton có mùi trái mơ, trái đào, bên cạnh dimethyl nonenolid, octanolid, nonanolid, decanolid, hai chất sau nầy có mùi cần tây, thơm như trái hồ đào kèm theo mùi sữa dịu, phảng phất đằng sau hương trái cây. Diệt khuẩn, trị nấm, khử độc Ở Việt Nam ta, trong số hơn một trăm chất đã được xác định trong trà, nhiều nhất là pentanal, linalool, phenylcetat và ít nhất là benzaldehyd, geraniol. Một công tác khảo cứu trên hai loại trà đen và trà sen thì lại tìm ra được nhiều nhất linalool, linalool oxid, dimethyl octatrienol, dimethyl pyrazin, ethylformyl pyrrol bên cạnh anethol và dimethoxy benzen. Chất sau nầy có nhiều nhất trong trà sen. Các hóa chất trong trà thay đổi với tuổi cây trà, vị trí lá trên cây, thời gian hái lá trong năm,… cũng như cách xử lý, chế biến, tích trữ trà. Ví dụ khi giữ trà lâu ngày thì số lượng propanal tăng gia trong khi hexanal giảm hạ. Đặc biệt, trong thời gian lên men, trừ những aspartic, glutamic acid, glutamin, arginin, threonin, serin, theanin còn nguyên vẹn, tất cả các amin acid dần dần biến hóa thành những aldehyd tương ứng, góp phần nâng cao hương vị trà. Đáng để ý là nếu ascorbic acid ngăn chận cuộc biến hoá nầy, dehydro ascorbic acid có phản ứng ngược lại. Đằng khác, khi đem trà đốt nóng thì thường thấy hiện ra những chất pyrazin : methyl pyrazin, ba chất đồng phân dimethyl pyrazin, trimethyl pyrazin. Màu sắc trà là do những chất thuộc nhóm tannin mà ra. Những chất sắc thường thấy là những xanthin, theaflavin, theaflagallin,… nhuộm trà đủ màu hồng, đỏ, nâu,… Đặc biệt, những amin acid như arginin làm tăng màu nâu, cystein cống hiến màu hồng. Tannin là một hỗn hợp có tính chất bảo vệ gỗ, da, chống thối rữa, mục nát. Nó cũng có thể gây ung thư ở thực quản. Tỷ lệ trong lá thường quanh 12-13%, khi lá hái cuối mùa có thể lên đến 18%. Tám chất polyphenol nổi trội chiếm 40-60mg/g trà (có nhiều trong lá trà non hơn lá trà già) : catecin (C), epicatechin (EC), gallocatechin (GC), epigallocatechin (EGC) và bốn dẫn xuất gallat của chúng : catechin gallat (CG), epicatechin gallat (ECG), gallocatechin gallat (GCG) và epigallocatechin gallat (EGCG). Khi trà lên men, các chất catechin giảm hạ. Khi trà bị đốt nóng, những polyphenol cũng thay đổi : epicatechin biến thành catechin, epigallocatechin biến thành gallocatechin,… còn epicatechin gallat, epigallocatechin gallat,… thì phân hủy ra gallic acid cùng các mảnh hoá chất nhỏ khác. Một thành phần quan trọng của tannin là tannic acid có tác dụng bóc vảy tế bào biểu mô ở ruột, thoái hóa tế bào gan, thêm nhiễm ngoài tiểu cầu và ngoài mạch tế bào bạch cầu đơn nhân thận,… Tannic acid trong trà pha là (mg/mL) 55-59 từ lá, 80-95 từ mụn ; trong trà nấu, số lượng lên đến 85-95 từ lá, 102-118 từ bụi trà. Vì tannin có tính chất hóa học và dược lý có ích nên cuộc chiết xuất nó đã được khảo cứu, đặc biệt để phân tách các catechin. cafein (C8H10N4O2 ) Thường người không quen uống trà bị mất ngủ. Thật vậy, trong trà có cafein, nhiều hơn cả trong cà phê. Nói chung, trà chứa đựng một số alcaloid dẫn xuất của purin. Ba chất chính của nhóm nầy là ba dẫn xuất của xanthin : cafein (trimethyl xanthin), theobromin, theophyllin (hai chất đồng phân dimethyxanthin). Cafein có nhiều nhất (2-4%). Theobromin ít hơn (dưới 0,2%), thường được chiết xuất từ hột cây Theobroma cacao. Theophyllin còn ít hơn (khoảng 0,01%) chỉ có ở lá trà. Ngoài nhóm xanthin, còn có adenin, (aminopurin), guanin (aminohydro purin), xanthin (dihydro purin),… đều dưới 0,01%. Cafein được chiết xuất từ năm 1820 từ hột cà phê (chứ đựng 1-2%) và qua năm 1885 được nhà hóa học Hermann Emil Fischer (1852- 1919, Nobel 1902) nhân tạo tổng hợp. Cả ba xanthin đều dược xem như là những chất kích thích hệ thần kinh. Tác dụng của cafein mạnh nhất : nâng cao hoạt động não, tăng gia ứng lực trí tuệ, nhưng thời gian hưng phấn thường có kèm theo một trạng thái suy thoái. Dùng ít, cafein có tính chất hạ huyết áp, dùng nhiều thì tác dụng ngược lại. Trong hệ thống tim mạch, theophyllin hiệu nghiệm nhất : tăng gia biên độ tần số tim đập và tác dnụg lên sợi tim. Dùng nhiều, nó có thể thúc tim đập lanh. Đằng khác, có tính chất thã duỗi sợi cơ trơn nên nó được dùng để chữa bệnh suyễn cũng như các chứng thông khí kinh niên, để tháo giải co thắt phế quản, đồng thời cải tiến sự tuần hoàn động mạch vành. Cả hai theobromin và theophyllin đều có tác dụng lợi tiểu lớn. Ba chất xanthin đều không độc dù dùng liều lượng lớn. Tuy vậy, chúng có khả năng gây nôn mửa vì kích thích niêm mạc dạ dày và nhất là gây mất ngủ. Chúng không gây ra thói quen, nhất là cafein, thiếu thì sinh ra bực dọc, bồn chồn, nếu không là bị kích thích, nổi cáu. Vì vậy ngày nay có bán nhiều loại trà bột, khuấy nước uống liền, được khử cafein hoặc bằng phương pháp tinh lọc, hoặc bằng chiết xuất với dung dịch hữu cơ hay, theo số lớn những văn bằng sáng chế, với thán khí tới hạn (super critic carbonic gaz). Người Âu Mỹ thường uống trà với đường. Thật ra trong trà đã có fructose, glucose, arabinose, sucrose, maltose, raffinose, stachyose (từ 0,1 đến 0,7 %) dưới thể tự do hay kết thành glycosid với rhamnose, galactose, xylose, galacturonic, mannuronic acid. Ít được biết là sinh tố trong trà. Bên cạnh các vitamin C, E, cả một loạt vitamin B đã được xác định : B1, B2, B3, B5, B8, (tức H), B9 (vài mg% mỗi thứ) nên trà đã được dùng làm thuốc bổ sức, trương lực. Một tính chất rất quan trọng của trà là nó có khả năng chống oxi hóa nhờ những chất như ascorbic acid, tocopherol và nhất là những polyphenol, đặc biệt những catechin. Một văn bằng dùng nước chiết xuất rồi phân tích qua máy sắc ký lỏng cao áp đã xác định được phân suất các catechin ấy : trong 12g trà chiết có EC (rất ít), GC (0,85), EGC(1,44), ECG (1,24), EGCG (4,87g) *. Tác dụng chống oxi hóa tăng theo thứ tự EC<ECG<EGC<EGCG. Tính chất dược liệu của trà được thấy rõ ràng nhất là diệt khuẩn đủ loại, một số gây bệnh trong rau, trái, thức ăn : những Agrobacterium, Bacillus, Clitidium, Clostridium, Escherichia, Plassiomonas, Porphyromonas, Pseudomonas, Salmonella, Staphylococcus, Vibrio,…Nhờ vậy, trà chiết được dùng làm thuốc khử nấm *, chữa dị ứng **, chống đau *, trị viêm *, làm bánh chống tinh thần bại hoại *, chữa các chứng dương liễu *, tẩm khăn khử trùng *, khử độc những trùng Vibrio paraha emolyticus, V. cholerae ** hay Clostridium botulinum *. Trà chiết chứa đựng polyphenol được dùng để chống những loại trùng như Staphylococcus aureus, Clostridium botulinum kháng cự lại methycillin **, có khi đồng vận với b-lactam. Bên phần thảo mộc, polyphenol xúc tiến cây cỏ chóng mọc *, xua đẩy tạp trùng *, chống bệnh trùng cầu *, với liều lượng rất nhỏ <100ppm *. Saponin * cũng như polyphenol còn có tác dụng lên các virus gây cúm **, tiêu chảy *, viêm vị tràng *. T.G Võ Quang Yến
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 7, 2006 3:45:10 GMT 9
Những lợi ích của trà - Diệt khuẩn Trong số các vi khuẩn bị polyphenol diệt có những loại Streptoccocus mutans là sâu răng, Bacteroides gingigalis gây bệnh tạo keo, Porphyromonas gingivalis gây viêm khớp răng. Polyphenol còn tác dụng lên enzym chuyển đường glucotransferase, tăng sức chống đở acid của men răng đồng thời chống sự cấu tạo mảng răng. Vì vậy trà chiết đã được cho vào thuốc đánh răng ***, chống mảng răng **, hay vào các hỗn hợp làm nước súc miệng ngừa sâu răng **, chữa răng hư **, chống viêm khớp răng **, khử hơi mồm, thơm hơi thở **, có khi cho ngay vào thức ăn để phòng ngừa răng hư *. Polyphenol cũng như saponin có tính chất chống dị ứng, ức chế hyaluronidase, phản vệ trên da, phóng thích histamin trên tế bào màng ngoài bụng chuột - Chống đông tụ máu, điều hòa lượng đường trong máu Đi vào trong máu, polyphenol, nhất là EGCG cũng như theaflavin galat, flavol, flavonol, saponin có tính chất chống đông tụ, ức chế sự kết tụ tiểu cầu * do collagen *, adrenalin hay arachidonic acid * gây ra. Tiềm lực EGC có thể so sánh với tác dụng của aspirin, còn saponin thì có hiệu lực từ 50mg/kg, kết quả giữa 2 và 24 giờ. Bên phần huyết áp, polyphenol cùng saponin, apigenin, camellianin có khả năng giảm hạ *, đồng thời ảnh hưởng lên cuộc chuyển hóa lipid khi thử trên chuột. Những catechin, polysaccharid, diphenylamin thì lại giảm hạ cholesterol ở dịch tương. Polysaccharid, trọng lượng phân tử giữa 20.000 và 200.000, gồm có ribose, arabinose, glucose được phân tách qua phương pháp sắc ký *. Những catechin như C, ECG, EGCG được cho vào thức ăn, nước uống hay thuốc men *, có thể trộn thêm với a-linolenic và eicosapentaenoic acid *. Polyphenol, polysaccharid còn có tính chất ức chế những enzym loại a-amylase, lipase *, ức chế tinh bột thoái hóa ra đường *, từ đấy có khả năng điều hòa đường trong máu **, chống béo **, phòng ngừa bệnh tiểu đường **. Một hỗn hợp tannin-kim loại cũng đã được chế tạo và đem thử chữa bệnh đái đường trên chuột *. - Chống ung thư da, phổi, thực quản, dạ dày Một tính chất dược liệu vô cùng quan trọng nữa của trà chiết là khả năng chống lại ung thư, nhờ những flavanoid như quercetin, kaempferol, myricetin, các chất thơm như nerolidol, b-ionon, d-cadinon, b-carophyllin, các polyphenol **. Nhiều cơ quan trong cơ thể súc vật và người đã được đem thử nghiệm : u khối đã được hoặc tia tử ngoại mặt trời, tia phóng xạ xuất phát từ các cuộc chữa bệnh hoặc các hoá chất gây ra. Trong số nầy, đứng hàng đầu là benzopyren đã có sẵn trong trà tuy rất ít trong trà khô (51,5-70,7 µg/kg), còn ít hơn trong nước trà (<0,01 µg/L). Ngoài ra còn có chất độc đủ loại, đáng kể là aflatoxin B1, các chất amin (nitroso methyl, nitroso methyl benzyl, nitroso diethyl), dimethyl hydrazin, methyl dinitro guanidin,… Kết quả là trà chiết đã ức chế được cuộc phát triển ung thư ở da, phổi**, thực quản, dạ dày, ruột tá, ruột kết,… Song song với một cuộc khảo cứu về dịch tể học dễ thực hiện ở vùng có nhiều người uống nước trà, dùng trà chữa bệnh còn cống hiến nhiều tiện lợi : an toàn, không độc, rẻ tiền, dễ chế biến… Trong lãnh vực nầy, tuy còn ít, đã thấy vài văn bằng sáng chế * dùng nước * và dung dịch hữu cơ chiết xuất *, tinh lọc các hoạt chất qua lignocellulose gỗ * gồm có theaflavin, theaflavin monogalat, theaflavin digalat và các catechin galat vì thấy ra hoạt động mạnh lớn của polyphenol là do nhóm galat mà lại. Bên ta có thường lệ đi đôi mời uống trà, hút thuốc lá, có thể hiểu như không phải là một chuyện tình cờ. Trong thuốc lá đặc biệt có methyl nitroso amino pyridyl butanon là một chất có khả năng gây ung thư ở phổi mà trà lại có tính chất khử được chất độc nầy. Vì vật có văn bằng cho trộn trà ** hay cafein ** vào thuốc lá. Khói thuốc cũng độc vì có tác dụng oxi hóa trong microsom gan, tế bào phổi, tăng gia tính lưu tế bào phổi. Polyphenol trong trà cũng chống được phản ứng nầy nhờ có khả năng ức chế cấu tạo gốc lipid. Bên cạnh ung thư cũng thấy có vài bản báo cáo dùng polyphenol hay những chất camelliatannin ngăn cản cuộc sinh sản HIV trong bạch huyết bào. - Khử mùi Bên lề dược phẩm, trà còn được dùng để làm thuốc khử mùi ** phun trong phòng **, giữ được lâu trong bếp *, phòng vệ sinh *, khử mùi tỏi, mùi thuốc lá *, mùi thối các chất có lưu huỳnh, ammoniac, amin *, formaldehyd *, làm thơm nước *, dung dịch hữu cơ dầu đốt *, thuốc chùi nhà *, thuốc tẩy da * dùng cho con trẻ, thuốc nhuộm đồ ăn. Cùng trong lãnh vực, trà được dùng trong các thuốc gội đầu ***, chống ngứa, kích thích tóc mọc, phòng ngừa tóc bạc *, thuốc nhuộm tóc râm, thay sắc bạc *, thuốc tắm **, thêm enzym loại pectinase, hemicellulase, b-amylase chữa viêm da *, xà phòng rữa sạch mùi cá *, chất tẩy vật liệu bằng gỗ, da, đồ gốm, chất dẻo *. Hơn nữa, nhờ khả năng trừ khử những gốc tự do tác hại lên tế bào làm cho cơ thể mau hư, chóng già, trà được dùng trong các mỹ phẩm bảo vệ da **, chống các tia tử ngoại mặt trời ***, các gốc tự do *, thêm vitamin E* ức chế tia tử ngoại oxi hóa dầu mỡ *, ức chế tyrosnase * của collagen *, bảo vệ mỹ phẩm ***, thêm vitamin C làm ổn định dược phẩm * giữ lâu không hư màu sắc, tính chất ***… Mấy ai trong chúng ta ngày nay uống trà mà ý thức được những ứng dụng phong phú và lợi ích của một loại cây thường thấy trong vườn, một thức uống biết bao bình dân ở nước ta cũng như ỏ một phần lớn các nước châu Á. Các cụ ngày xưa chắc còn kém ta hơn ta trong kiến thức khoa học về cây trà, lá trà, nhưng các cụ lại biết hơn ta nhiều trong cách thưởng thức trà. Có ai chịu khó sai người nhà đi xa để xin cho được chút nước giếng chùa về pha nước ? "Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn, sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa xin nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật ! " (Nguyễn Tuân, Những chiếc ấm đất trong Vang bóng một thời). Mà không phải chỉ vào lúc trà dư tửu hậu ! Trích Thông tin khoa học và Công nghệ 1(27) (2000) 3-13 (có sửa chữa lại) Tham khảo Tài liệu khảo cúu về cây chè, lá chè về mặt phân tích, cấu tạo các thành phần cũng như bên phía tính chất, ứng dụng trong dược liệu, mỹ phẩm rất phong phú. Trong số hàng ngàn bài bao, 500 bản bảo cáo đã được sử dụng làm căn bản cho bài viết thô sơ nầy, trong số ấy dấu (*) trong bài dẫn 100 văn bằng sáng chế tiêu biểu trong lĩnh vực ứng dụng (số văn bằng) : bổ sức, tương lực (4), diệt khuẩn, khử trùng (21), đánh răng, súc miệng (14), chống béo, đái đường (11), ung thư, u khối (6), trà trộn thuốc lá (3), gội đầu, nhuộm tóc (25), mỹ phẩm, chống già (16). Xám (C), trắng (H), xanh (N), đỏ (O) Đồi trà tại Sri Lanka Võ Quang Yến
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 23, 2006 5:31:30 GMT 9
Tục cà răng căng tai
Nguyễn Nhân Thống Đến thăm Tây Nguyên các bạn thường trông thấy những người đàn ông và phụ nữ các dân tộc làm đẹp bằng cách cưa răng cửa và căng vành tai cho thật lớn. Đây là một tục lệ có từ lâu đời được "truyền tử lưu tôn" qua nhiều thế hệ. Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên, việc cà răng căng tai là để gái trai đến tuổi cập kê tiến đến hôn nhân một cách thuận lợi. Theo phong tục của đồng bào Tây Nguyên, một người đẹp không phải là có hàm răng đều đặn, trắng ngà mà là hàm răng phải được mài nhẵn cho đến tận lợi. Thông thường họ chỉ làm cụt ở hàm trên thôi, còn hàm dưới không cần mài cả hàm mà chỉ mài bốn hay sáu cái là đủ. Thanh, thiếu niên Tây Nguyên, dù là dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Mơ Nông, Ê Đê, Gia Rai, Kơ Hơ... từ khoảng 14, 15 tuổi đều phải cưa răng. Việc cưa, cà răng là để chứng tỏ cho mọi người trong buôn làng biết là người con trai hay con gái đó đã trưởng thành, vừa là để biểu lộ lòng can đảm, chịu đựng mọi gian khổ ở đời. Cô cậu nào lớn mà còn để răng dài sẽ là một đề tài cho chúng bạn đàm tiếu, châm chọc. Cho nên, đã biết việc cà răng là một cực hình, rất đớn đau, khổ sở nhưng vẫn chấp nhận, vẫn xin làng cho được cà răng để hội nhập vào xã hội buôn làng và được mọi người công nhận là đẹp, là đã trưởng thành. Người ta cưa răng bằng một lưỡi cưa nhỏ rất bén. Cưa xong họ lấy đá mài cho nhẵn thín. Có khi không có cưa họ chỉ dùng viên đá núi sắc cạnh mà mài dần dần. Chỉ cần mài 6 cái răng cửa ở hàm trên là đủ! Tuy nhiên, ở mỗi dân tộc có sự thay đổi chút ít. Chẳng hạn, người Xơ Đăng ở Kontum và người Ba Na ở Gia Lai thường cà hết 6 chiếc răng cửa, còn người Gia Rai chỉ mài có 4 răng. Khi một chàng trai hay cô gái lấy đủ can đảm và quyết định cưa răng thì họ sẽ chọn ngày lành tháng tốt để xin già làng đứng ra coi sóc việc này. Muốn cho mọi việc trôi chảy, an toàn, gia chủ phải nhờ thầy mo làm lễ cúng Dàng. Người được cưa răng phải đặt nằm trên đống rơm hay bãi cỏ hoặc nằm ngay trong nhà. Một người đàn ông khoẻ mạnh dùng một cái cưa nhỏ, lưỡi bén đặt vào hàm trên của người bị cà và bắt đầu cưa. Lưỡi cưa cứ xoèn xoẹt trong miệng, máu ra lênh láng. Bạn bè đứng chung quanh để khuyến khích, an ủi. Còn người muốn làm đẹp đó đôi khi không đủ sức chịu đựng phải lăn ra bất tỉnh. Nhiều khi không biết giữ vệ sinh nên miệng bị nhiễm độc sưng tấy lên đến nỗi phải bị chết oan ức. Cà răng hay cưa răng nói chung rất là nguy hiểm, đe doạ đến mạng sống con người. Ngày nay, nhờ tiếp xúc nhiều với nếp sống văn minh cho nên tập tục trên đã giảm dần một cách đáng kể, nhưng chưa phải là bỏ hẳn. Song song với cà răng, người Tây Nguyên còn làm đẹp bằng cách căng tai. Họ quan niệm rằng, lỗ tai càng căng rộng càng được người bạn tình ưa thích và dễ có người yêu. Ban đầu, người ta chỉ dùi vào dái tai một lỗ nhỏ xíu rồi luồn vào đó một cọng tre hay một thẻ gỗ nhỏ. Thế rồi mỗi ngày, họ lại thay dần vào lỗ thủng đó một cọng tre lớn hơn, cứ thế, lỗ ở dái tai cứ rộng dần! Đến tuổi trưởng thành, lỗ thủng đó có thể xuyên qua một khúc ngà. Thế là các cô, các cậu đã có hai lỗ tai thật là lớn được trang trí bằng vòng ngà hay vòng đồng thật to, thật nặng, lủng la lủng lẳng, kéo vành tai căng căng rộng ra. Tục cà răng và căng tai của người Tây Nguyên - Trường Sơn từ lâu được xem như "mốt" ở rẻo cao. Răng cà nhẵn, tai căng càng rộng thì giá trị càng cao, trông càng hấp dẫn.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 23, 2006 5:33:04 GMT 9
Lễ cưới ở vùng cao
Mùa xuân, có dịp lên vùng cao thăm đồng bào Ê-Đê, bạn sẽ cảm nhận được nhiều điều thú vị. Ví như "lệ" cưới hỏi của trai gái thuộc dân tộc này. Người Ê-Đê có một cách làm đẹp riêng. Trai gái đến tuổi trăng rằm - 15, 16 tuổi - phải cà 6 chiếc răng cửa của hàm trên. Đây là tục lệ bắt buộc, không bạn trẻ nào có thể chối từ. Một chiếc vòng tay được xem như "giấy chứng nhận", trao cho bạn trẻ vừa cà răng xong, và từ đó họ có quyền tự do "tìm hiểu". Dân tộc này có tục ở rể. Các cô gái phải tự đi kiếm chồng và chịu phí tổn toàn bộ tiền cưới. Một cô gái đã "nhằm" một chàng trao nào đó, thì nhờ ông "mối" đem chiếc vòng đồng sang nhà trai để hỏi chồng. Chàng trai thấy "ưng bụng" thì sờ tay vào chiếc vòng đồng ấy, rồi làm lễ nhận vòng. Vậy là, sự "ràng buộc" giữa hai nhà đã có sợi dây thân thiết. Để tìm hiểu cô dâu được kỹ càng, nhà trai có thể "đem" cô gái về ở nhà mình. Tổ chức lễ cưới ở họ nhà gái. Tất nhiên phải có lợn và rượu. Con lợn được mổ để lấy máu thoa vào chân cô dâu, chú rể, rồi cúng tổ tiên cầu cho hai trẻ được sống hạnh phúc. Tiếp đó, ông "mối" xúc cho cô, cậu mỗi người hai miếng cơm và ba chén rượu. Tất cả mọi người có mặt đều ăn một miếng thịt và một miếng ruột lợn. Ông trưởng họ cầm chiếc vòng đồng, cô dâu, chú rể sờ tay vào chiếc vòng đó, "tiết mục" này kết thúc lễ cưới. Sau ba ngày, đôi bạn trẻ về nhà chồng lấy các thứ tư trang, dụng cụ sản xuất về nhà gái, để vợ chồng cùng làm ăn. Người Ê-Đê coi ngoại tình là một tội nặng, vì sự việc không đẹp này gây nên mùa màng bị thất thu cho cả buôn làng. Bởi vậy, kẻ ngoại tình phải phạt một con lợn trắng, hai cái bát đồng, để làm lễ tế đất. Tế xong, bắt hai người trích máu ở đầu ngón tay để uống, rồi xuống suối tắm cho sạch. Rời bản làng người Ê-Đê, mời bạn lên vùng cao phía Bắc, thăm bà con dân tộc La Hủ thuộc tỉnh Lai Châu. Tục lệ cưới xin ở đây có nét đẹp riêng. Tháng 11, 12 hàng năm - là dịp Tết của người La Hủ - cũng là mùa cưới của các đôi trai gái yêu nhau. Chàng trai tìm hiểu cô gái, đã tới độ "chín muồi", anh có thể tới nhà cô gái ngủ một vài tối. Tục lệ cho phép anh, chị có thể ngủ chung giường. Lễ na-nhí, tức lễ dạm hỏi như vùng xuôi, thường vào buổi tối. Ông "mối" cùng bố mẹ và anh em nhà trai sang nhà gái để "có lời". Lễ vật là rượu và một thứ "quà quý" của rừng - ("quà quý" này nhất thiết phải có thịt sóc rừng). Qua trò chuyện, nhà gái thấy bằng lòng thì hai bên cùng uống rượu, nhắm thịt sóc. Sau lễ dạm là lễ hỏi, hai lễ này cách nhau khoảng bảy, tám ngày. Theo tục lệ, lễ hỏi gồm hai chai rượu và số con sóc phải là số chẵn chứ không được số lẻ, chừng 6 đến 8 con. Nhà trai phải "tuân theo" số lượng con sóc của nhà gái: 6 hoặc 8 con, vì theo lệ từ xưa, số sóc không được ít hơn 4 nhưng cũng không được nhiều hơn 8. Người làm mối trong lễ hỏi còn là người "đầu bếp", tự tay làm thịt sóc, trình bày các món ăn này sao cho ngon để mời nhà gái. Trong khi ăn uống vui vẻ hai bên trao đổi về tiền cưới và thời gian ở rể. Ngày xưa, tiền cưới khá "nặng túi": những 70 đến 80 đồng bạc trắng. Trường hợp nhà rể nghèo, không có bạc trắng, thì anh phải ở lại làm rể ngay tối hôm đó. Thời gian ở rể bây giờ rút xuống còn từ 2 đến 4 năm, thời trước từ 8 đến 12 năm. Nếu lễ ăn hỏi có số con sóc phải chẵn, thì lễ cưới quy định: đoàn đi đón dâu phải là số lẻ, trong đó có hai ông "mối" và chàng rể. Khi nhà trai đón dâu đi, ông "mối" trao tiền cưới cho nhà gái. Trên đường đi, dù có nhớ bố mẹ, cô dâu cũng không được ngoảnh lại nhìn ngôi nhà cô sinh ra và lớn lên, vì nếu vấp ngã, e sau này vợ chồng có chuyện cãi cọ không hay. Rước dâu về đến nhà, bà mẹ chồng đã đứng đợi ở cửa. Bà lấy một nắm gạo xoa lên lưng con dâu, ngụ ý "xóa hết cỏ để con dâu không mang cỏ về, trên nương sẽ không có nhiều cỏ mọc". Lại còn tục lệ: bà mẹ chồng trồng hai cây riềng ở hai bên cửa vào nhà, rồi buộc sợi chỉ trắng qua hai cây riềng. Lúc vào nhà, cô dâu đi phía tay trái, chú rể đi phía tay phải, rồi chú rể dùng tay trái, cô dâu dùng tay phải "cắt" đứt sợi chỉ đó, bước vào nhà. Xong thủ tục này hai họ cùng nâng chén chúc những câu tốt lành và ăn uống vui vẻ. Đi thăm đất nước vào dịp xuân về, các bạn sẽ có được nhiều thú vui, nhiều điều bổ ích. Suu Tam
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:32:18 GMT 9
Tiếng Việt - Ca dao và lịch sử Phương Nghi Ca dao, tục ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều thời đại, từ thời xưa và đến cả thời nay. Ca dao, tục ngữ phản ảnh tâm tư, tình cảm của người dân trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ ở nơi đồng nội mà còn ở thành thị, kinh đô. Tuy là ngôn ngữ dân gian, nhưng ca dao, tục ngữ không phải là tiếng nói bình thường mà là ngôn ngữ có vần điệu, ngắn gọn và vì ngắn gọn, có vần điệu nên dễ phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Từ trước, người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữ là văn chương bình dân, phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục ngữ là tiếng nói của nhiều tầng lớp dân chúng, và có lẽ phần lớn tác giả là những kẻ sĩ, cư ngụ ở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn.
Ca dao, tục ngữ là loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều mặt sinh hoạt của quần chúng Việt Nam, nhất là về mặt tình cảm, nên trong ca dao rất phong phú khúc hát trữ tình. Ngoài ra, đặc biệt ca dao, tục ngữ còn biểu lộ những nhận định của dân chúng đối với những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi giao tiếp với nhau, hay bình luận, phê phán giới lãnh đạo trong chính quyền hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sử và các biến cố liên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước.
Trường hợp này, ca dao, tục ngữ có thể xem là một hình thức ngôn luận của quần chúng ở thời đại xưa, khi xã hội chưa phát triển, chưa có điều kiện phổ biến dư luận của người dân như là báo chí hoặc các hình thức thông tin trong thời đại mới, mặc dù từ trước đã có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải văn chương, sử liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v...v... Bài viết này chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với các vấn đề lịch sử Việt Nam.
Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ trước thường có quan niệm trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Nhưng đối với người dân Việt thì không có quan niệm kỳ thị đó, nhất là đối với hạng anh thư nữ kiệt.
Muốn coi lên núi mà coi Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Rõ ràng câu ca dao này đã ca ngợi công đức chống ngoại xâm của Triệu Nữ Vương (tức là Triệu Thị Trinh - mà sử Tàu miệt thị gọi là Triệu ...u : Bà vú Triệu). Sau cuộc nổi dậy chống Tô Ðịnh của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà Triệu noi gương anh dũng đó đã phất cờ khởi nghĩa chống quân Ðông Ngô. Khi Bà đánh giặc, mặc áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ không người, xưng danh hiệu là Nhụy Kiều tướng quân. Sau một thời gian dài bị lệ thuộc Trung Hoa, Việt Nam giành được độc lập và Ngô Quyền thiết lập một vương triều tự chủ, sau hơn 10 thế kỷ chịu nhục của người dân dưới ách đô hộ. Nhưng cuối đời nhà Ngô, vì thế lực suy yếu, nên đã có 12 sứ quân nổi dậy, đánh lẫn nhau, làm cho dân tình khổ sở. Các sứ quân đó, trong hơn 20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu phục ai. Kết cuộc, họ phải khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Ðinh Bộ Lĩnh, tức Ðinh Tiên Hoàng sáng lập ra vương triều nhà Ðinh. Phán xét sự tranh giành quyền lực của các sứ quân và cuộc chiến thắng của Ðinh Bộ Lĩnh, dân gian đã tóm gọn trong câu ca dao:
Ở đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Thật vậy, ở đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không phải là ai cũng có thể chiếm hữu dễ dàng. Phải có tài năng hay mưu lược quyền biến.
Ngôi vua cuối cùng của nhà Lý thuộc về Lý Chiêu Hoàng, tức là Chiêu Thánh công chúa, con vua Lý Huệ Tôn, mới lên 7 tuổị Quyền hành lúc đó ở trong tay Trần Thủ Ðộ. Và Thủ Ðộ đã làm chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, để chuyển vương quyền qua nhà Trần. Quần chúng có lòng lưu luyến nhà Lý đã tỏ lòng công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền khẩu:
Trống chùa ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
Dưới đời vua Trần Anh Tông, vì lý do chính trị, đã gả em gái là Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (tức Ðịa Lý và Bố Chính), sau đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Người Việt vẫn có tinh thần kỳ thị chủng tộc, cho người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản đối việc làm này của triều đình nhà Trần
Tiếc thay cây quế giữa rừng Ðể cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Quần chúng còn tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá ngọc cành vàng, phải lấy chồng man rợ ở phương xa, qua ca khúc Nam Bình, vẫn lưu truyền ở cố đô Huế: "Nước non ngàn dặm ra đi".
Về sau, Chế Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm tìm cách đưa Huyền Trân về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng (theo tục lệ Chiêm). Dư luận quần chúng có vẻ khắc nghiệt khi nghi ngờ về tình cảm của Trần Khắc Chung đối với công chúa Huyền Trân trên chặng đường thủy dài ngày đưa công chúa về nước. Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một lần nữa, qua tay Trần Khắc Chung.
Tiếc thay hột gạo trắng ngần Ðem vò nước đục lại vần lửa rơm
Nhưng đó chỉ là chuyện đồn đại trong dân gian, không có bằng chứng gì xác thực.
Khi Lê Lợi dấy binh chống Minh, khởi đầu ở vùng Thanh Hóa, sau chiếm lĩnh Nghệ An để mở rộng khu vực chiến đấu, nhân dân đã phấn khởi ca ngợi vùng đất tự do ấy và cổ võ cuộc di dân vào vùng này:
Ðường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Ai vô xứ Nghệ thì vô
Các biến cố lịch sử ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, nhất là loạn lạc. Chiến tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan cửa nát. Nhân dân chỉ biết kêu trời, bày tỏ nỗi oán thán:
Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Em về nuôi cái cùng con Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Ấy là thảm cảnh của người dân phải thi hành nghĩa vụ tòng quân dưới thời Nam Bắc Triều, xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc. Cao Bằng là căn cứ địa trọng yếu của nhà Mạc. Người lính trong câu ca dao trên thuộc hàng ngũ quân Trịnh, được lệnh lên đường đánh quân Mạc, vỗ về vợ con trong buổi chia ly. Từ khi Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, dù với danh nghĩa phù Lê, nhưng tập trung mọi quyền hành vào tay mình rồi xưng Chúa, vua Lê chỉ còn giữ hư vị.
Trong lúc họ Trịnh xưng chúa ở miền Bắc, thì Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa từ trước, gây dần thế lực, đến lúc vững mạnh cũng xưng chúa ở miền Nam. Rồi đôi bên gây nên cuộc Nam Bắc phân tranh, kéo dài đến non nửa thế kỷ. Họ đánh nhau liên miên, xây thành đắp lũy kiên cố, hiểm trở để phòng chống nhau, nên có câu tục ngữ:
Hiểm nhất lũy Thầy Thứ nhì đồng lầy Võ Xá
Lũy Thầy tức là lũy Trường Dục, do Ðào Duy Từ chỉ huy xây cất. Nhờ lũy này, quân Nguyễn mới chống cự được lâu dài với quân Trịnh, phải lặn lội đường xa, vất vả nên ở thế bất lợi trong việc tiến quân đánh Nguyễn. Cuộc nội chiến Nam Bắc giữa hai nhà Trịnh - Nguyễn kéo dài, nhưng hai phe cũng liên tục kế truyền nghiệp Chúa. Và cũng vì chiến tranh quá lâu dài nên sau cuộc ngưng chiến, với sông Gianh làm giới hạn hai miền Nam Bắc, họ Trịnh tổ chức một xã hội gần như thanh bình ở Bắc. Các vua chúa cũng như quần thần có mức sống xa xỉ, trụy lạc. Theo tập "Vũ Trung Tùy Bút" của Phạm Ðình Hổ, đời chúa Trịnh thứ 12 là Trịnh Sâm thường tổ chức nhiều cuộc vui chơi ở ly cung trên Tây Hồ, sai người xây cất luôn mãi. Mỗi lần vui chơi thì lại có binh lính hầu quanh hồ, các nội thần thì giả làm đàn bà và dân thì bày bán hàng hóa như ở chợ để vua quan mua sắm.
Cũng dưới triều Trịnh Sâm, phế bỏ con cả là Trịnh Khải, lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử (con của sủng phi Ðặng Thị Huệ, thường gọi là Bà Chúa Chè), giao cho Huy Quận Công Hoàng Ðình Bảo làm phụ chính. Khi Trịnh Sâm mất, đảng Trịnh Khải mưu với quân tam phủ nổi loạn, giết Quận Huy và được tam quân (thường gọi là loạn kiêu binh - hạng lính được ưu đãi, tuyển mộ ở Thanh Nghệ = Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần) lập lên làm Chúa, tức là Ðoan Nam Vương. Khi Trịnh Sâm còn sống, ham vui thú ăn chơi, nên mọi quyền hành ở tay Quận Huy. Ông này tự do ra vào cung cấm và có mối liên hệ bất chính với Tuyên phi Ðặng Thị Huê Việc này không tránh khỏi búa rìu của dư luận quần chúng:
Ba quân có mắt như mờ Ðể cho Huy Quận vào sờ chính cung
Khi viết tập "Vũ Trung Tùy Bút", về việc chúa Trịnh ham mê hưởng lạc, bày cảnh vui chơi làm khổ dân với nhiều sai dịch, Phạm Ðình Hổ đã cho là có sự bất tường. Cho nên hết đời Trịnh Sâm, các con ông là Trịnh Khải và Trịnh Cán vì tranh quyền đã gây rối loạn ở kinh thành. Trịnh Cán (con Tuyên phi Ðặng Thị Huệ) mới được lập lên, với sự hỗ trợ của Quận Huy, chưa được hai tháng, thì bị anh là Trịnh Khải trừ diệt. Và các chúa Trịnh từ đó về sau cũng vì lý do nữ họa mà mất nghiệp:
Sự này chỉ tại Bà Chè Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu
Về chuyện hai anh em họ Trịnh tương tàn, dân gian đã cố lời bàn tán:
Ðục cùn thì giữ lấy tông Ðục long cán gãy còn mong nỗi gì
"Tông" ám chỉ tước hiệu của Trịnh Cán (Tông Ðô Vương). "Ðục long cán gãy" là nghiệp chúa của Trịnh Cán không tồn tại bao lâu.
Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 19, suốt 200 năm là một chuỗi biến cố đẫm máu. Hết cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, đến cuộc tương tranh Nguyễn - Tây Sơn. Từ lúc anh em Tây Sơn khởi nghĩa, chủ yếu là vua Quang Trung, lập nên một triều đại huy hoàng với nhiều võ công oanh liệt, nhưng khá ngắn ngủi:
Ðầu cha lấy làm đuôi con Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
Tương truyền đây là một câu sấm ứng vào việc triều Tây Sơn mất nghiệp sau 14 năm. Ðầu chữ Quang (- Quang Trung) lấy làm đuôi chữ Cảnh ( - Cảnh Thịnh).
Một câu ca dao khác, cũng cùng ý nghĩa:
Cha nhỏ đầu con nhỏ chân Ðến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn
Chữ "tiểu" ở trên đầu chữ Quang, ở chân chữ Cảnh. Trong xã hội Việt Nam ngày trước, có hạng sĩ phu, ở lẫn trong dân chúng, thường nhận định về các hoạt động của giới cầm quyền đương thời và đề xuất những câu sấm để tuyên truyền cho một phe phái nào đó. Câu sấm được truyền trong dân gian bằng cách dạy cho trẻ con hát khi nô đùa ở các nơi công cộng. Chẳng hạn câu sấm sau đây, dưới hình thức ca dao, được truyền là của các cựu thần nhà Mạc tổ chức chống Trịnh làm ra để liên lạc với các đồng chí tìm đến cơ sở ở mạn Bắc:
Ai lên Phố Cát Ðại Ðồng Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa? Có chồng năm ngoái năm xưa Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng
Dù chiến tranh xảy ra giữa hai miền Nam Bắc hết sức khốc liệt, nhưng hai họ Trịnh Nguyễn vẫn thực hiện những công cuộc phúc lợi ở vùng họ cai trị.
Ở Nam, các chúa Nguyễn nhiều đời trấn thủ, mưu cầu an cư lạc nghiệp cho dân chúng. Dưới đời chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, đường đi qua vùng Hồ Xá - Quảng Trị (tức truông nhà Hồ) thường có bọn cướp ẩn núp, cướp bóc kẻ qua đường. Năm 1722, Chúa sai ông Nguyễn Khoa Ðăng, làm Nội Tán, đi đánh dẹp bọn cướp đó. Người dân ca tụng việc ấy, qua câu ca dao quen thuộc:
Nhớ em anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm
Phá Tam Giang ở huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, nơi có 3 sông lớn của Huế (sông Ô Lâu, sông Bồ,sông Hương) chảy về rồi đổ ra cửa biển Thuận An. Phá này nhiều sóng lớn, thuyền bè qua lại khó khăn, về sau cạn đi.
Sau một thời gian dài, suốt 25 năm, đấu tranh gian khổ, Chúa Nguyễn Ánh đã có thế vững mạnh, tiến quân ra Trung để chiến thắng Tây Sơn. Nhân dân miền Nam vốn có cảm tình với nhà Nguyễn đã truyền câu hát:
Lạy trời cho chóng gió nồm Ðể cho Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra
Khi Chúa Nguyễn còn ở trong Nam, tổ chức cuộc Nam tiến vào đất Gia Ðịnh, khẩn hoang lập ấp. Dân chúng đồng lòng cổ võ:
Nhà Bè nước chảy rẽ hai Ai về Gia Ðịnh Ðồng Nai thì về
Vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập nên triều Nguyễn, truyền được 13 đời vuạ Kế tục sự nghiệp mở nước của Thế Tổ Gia Long, vua Minh Mạng đã có công dẹp các vụ nổi loạn ở Bắc và Nam, cũng như chống cự ngoại xâm (Xiêm), chiếm Chân Lạp, bảo hộ Ai Lao.
Về nội trị, vua chấn chỉnh luật pháp, chế độ, làm thành một nước có kỷ cương, văn hiến. Trong việc bảo vệ phong tục, vua đã chạm đến tinh thần bảo thủ của người dân miền Bắc, tức là cấm đàn bà mặc váy:
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:32:37 GMT 9
Tháng sáu có chiếu vua ra Cấm quần không đáy người ta hãi hùng Không đi thì chợ không đông Ði thì phải lột quần chồng sao đang?
Dưới triều vua Tự Ðức, nhiều biến cố trọng đại đã xảy rạ Từ những vụ nổi loạn ở miền Bắc, chủ trương phù Lê, như giặc Châu Chấu (có Cao Bá Quát làm quốc sư), Cai Tổng Vàng ở Bắc Ninh, giặc Khách ở Cao Bằng. Ở triều đình, có người anh vua Tự Ðức là Hồng Bảo, âm mưu đoạt ngôi nhưng thất bạị Năm 1886, nhân dịp vua Tự Ðức cho xây Khiêm Lăng ở Vạn Niên (Huế), ba anh em họ Ðoàn (Ðoàn Trưng, Ðoàn Trực, Ðoàn AÙi) khai thác nỗi oán hận của người dân phải đi làm phu gian lao vất vả, nổi dậy chống triều đình. Họ khích động dân bằng câu ca dao:
Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Trong cuộc khởi nghĩa nầy, họ Ðoàn tôn Ðinh Ðạo (con của Hồng Bảo - cải họ Ðinh, sau khi Hồng Bảo bị tội, tự thắt cổ chết) làm minh chụ Vụ này cũng không thành công. Ngoài các vụ nổi loạn, triều vua Tự Ðức còn phải đối phó với cuộc xâm lăng của người Pháp.
Tự Ðức là ông vua có tinh thần bảo thủ, từ khước đề nghị canh tân của các sĩ phu, nhất là Nguyễn Trường Tộ, nên vận nước có chiều suy vong. Vua Tự Ðức chỉ là một nho sĩ thuần túy, có tiếng hay chữ nhất triều Nguyễn, ưa thích thi văn, ngâm vịnh. Dưới triều vua, có ông Lê Ngô Cát là một danh sĩ, đã soạn một bộ sử bằng văn vần là "Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca". Soạn xong, ông dâng lên vua Tự Ðức ngự lãm. Vua xem rồi ban thưởng cho ông Cát:
Vua khen thằng Cát nó tài Ban một cái khố với hai đồng tiền
Việc ban thưởng này, có lẽ do chuyện bàn tán giữa các đồng liêu với ông Cát ở triều đình, nhưng lại lọt ra ngoài, nên dân gian đã có lời phẩm bình mỉa mai trên, cho rằng vua Tự Ðức không quí trọng văn tài của người khác.
Sau khi vua Tự Ðức mất, quyền hành ở triều đình Huế thuộc về hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hai ông này trong bốn tháng đã phế và lập 3 vua: Dục Ðức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Cho nên thời đó, trong dân gian có câu, giữa lúc có sự tranh chấp gi"a Pháp và Việt:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT Tứ nguyệt tam vương triệu bất TƯỜNG
Nghĩa là: Một sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương thuyết, bốn tháng ba vua điềm chẳng lành. (cuối 2 câu có tên hai ông Thuyết và Tường).
Thời gian triều đình Huế khởi xướng công cuộc chống Pháp với các đại thần và các tướng lãnh, dù có tâm huyết nhưng thiếu kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh, nên dân chúng đã có lời bình phẩm có phần khắc nghiệt:
Nước Nam có bốn anh hùng Tường gian Viêm dối Khiêm khùng Thuyết ngu
Tường là Nguyễn Văn Tường, trước sát cánh với Tôn Thất Thuyết chống Pháp, sau ra hàng. Viêm là Hoàng Kế Viêm, trước cũng chống Pháp, sau được vua Ðồng Khánh phục chức và sai đi dụ hàng vua Hàm Nghị Khiêm là Ông Ích Khiêm, một vị quan thời Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chuyên quyền, vì tính khẳng khái, không luồn cúi cấp trên, làm phật ý hai ông Tường, Thuyết nên bị giam vào ngục. Dân gian nói ông Khiêm "khùng vì có tính khí khác thường, ngang bướng, không chịu khuất phục cường quyền. Và "Thuyết ngu", ngụ ý cho rằng ông Thuyết là một kẻ "hữu dũng vô mưu". Dù sao, dư luận quần chúng cũng chê hai kẻ gian dối và khen hai người trung can, nghĩa khí.
Thời Pháp xâm lược nước ta, người dân không khỏi buồn lòng nhìn thế sự rối reng:
Ðêm đêm chớp bể mưa nguồn Hỏi người quân tử có buồn chăng ai?
Nhất là cảnh quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn:
Một nhà sinh đặng ba vua Vua còn (Ðồng Khánh) vua mất (Kiến Phúc) vua thua chạy dài (Hàm Nghi)
Tuy thua chạy dài, nhưng vua Hàm Nghi với sự phù trợ của Tôn Thất Thuyết và các trung thần, nghĩa sĩ đã phát hịch kêu gọi nhân dân hưởng ứng chống Pháp, khởi xướng phong trào Cần Vương ở khắp nơị Tình trạng trong nước Việt lúc bấy giờ đã phân hóa làm hai:
Gẫm xem thế sự thêm rầu Ở giữa Ðồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Ở giữa, tức là kinh đô Huế, hai đầu là Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi, nơi phát triển phong trào Cần Vương.
Tinh thần ái quốc của người Việt vẫn liên tục sôi nổị Dù công cuộc chống Pháp của vua Hàm Nghi bị thất bại, nhưng đến đời vua Thành Thái, âm mưu chống Pháp vẫn âm thầm trong trí vị vua đã từng giả điên giả cuồng để tránh mắt dò xét của người Pháp.Dân gian phát hiện một hành động của vị vua yêu nước này, mà người ta tưởng lầm là hành vi bất chính, khi vua vốn mang tiếng điên khùng:
Kim Long có gái mỹ miều Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi
Tương truyền vua Thành Thái có tổ chức một đội nữ binh ở ngoại thành, một địa điểm bí mật ở vùng Kim Long và giao cho một vị tướng phụ trách huấn luyện để chờ dịp khởi nghĩa. Nhiều đêm vua xuất cung vi hành để đến xem xét kết quả của việc huấn luyện đó.
Vua Duy Tân lên làm vua lúc mới 8 tuổi, nhưng lớn lên có chí khí và có lòng yêu nước mãnh liệt. Cũng như vua Thành Thái, vua Duy Tân có ý chống Pháp. Vua thường ra ngoài cung điện để xem xét dân tình và tìm cách liên lạc với các nhân sĩ. Ði dạo chơi trên bãi biển, tay vấy cát, người hầu lấy nước cho vua rửa. Vua nói: "Tay nhớp (bẩn) lấy nước rửa, thế nước nhớp lấy gì mà rửa?".
Phong trào Văn Thân bí mật liên lạc với vua để tìm phương cứu quốc. Năm 1915, đảng Việt Nam Quang Phục cử Trần Cao Vân và Thái Phiên hợp tác với vua mưu đồ khởi sư Họ hẹn gặp nhau trên bờ sông Ngự Hà, giả làm người đi câu để tránh tai mắt địch. Rồi mưu đồ phục quốc của vua Duy Tân cũng bị thất bại và vua phải đi đàỵ Người dân Huế thương tiếc vua cùng các nghĩa sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên đã hiến thân vì nước:
Chiều chiều ông Ngự ra câu Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Và trên dòng Hương Giang, nhiều năm sau, trên các chuyến đò dọc, người ta còn nghe mấy câu hò trầm thống, bi đát, đầy tâm sự của kẻ mang hoài bão cứu nước không thành:
Trước bến Văn Lâu Ai ngồi ai câu Ai sầu ai thảm Ai thương ai cảm Ai nhớ ai mong Thuyền ai thấp thoáng bên sông Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
o0o
Như trên đã nói, ca dao là phản ảnh một phần nào dư luận của quần chúng Việt Nam đối với các hiện tượng trong xã hội ở thời kỳ các phương tiện truyền thông bằng văn tự chưa phát triển.
Với người dân, các hành vi của giới cầm quyền, cũng như hành động của các nhân vật trong nước, đều phải chịu sự bình phẩm, phán xét của công luận. Những hành vi có đạo đức, thiện tâm được khen ngợi, ca tụng, trái lại xấu xa, đê tiện đều bị chê bai, nguyền rủa.
Trăm năm bia đá cũng mòn Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Ca dao, nhất là loại ca dao có liên quan đến lịch sử Việt Nam là tấm bia miệng để đời cho người ta ghi nhớ, là tấm gương cho nhiều thế hệ soi chung và bản thân những câu ca dao đó cũng là những phán xét của lịch sử.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:35:39 GMT 9
NGUỒN GỐC TIẾNG VIỆT Tĩnh Túc Tiếng nói là nhịp cầu cảm thông để trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xã hội giữa con người cùng dòng giống xứ sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và quan hệ mật thiết đến sự hưng vong của giống nòi. Dân tộc có một trình độ văn hóa cao, càng văn minh thì họ lại càng chú trọng đến ngôn ngữ văn tự.
Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói, nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt Nam.
Vậy tiếng Việt có tự bao giờ!?
Tiếng Việt bắt nguồn từ đâu!?
Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!
Trước khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép lại những điều đã đọc để các bạn rộng đường thảo luận và kính xin các bậc thức giả sửa sai hoặc góp ý giùm cho.
Nguồn gốc dân tộc Việt
Tiếng Việt vào thời đại sơ cổ:
Kể từ trời mở viêm bang Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra Cháu đời Viêm Ðế thứ ba Nối dòng Hỏa Ðức gọi là Ðế minh Quan phong khi giá Nam hành Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều Vụ Tiên vừa nở đào yêu Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên Dòng thần sánh với người tiên Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra Phong làm quân trưởng nước ta Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Hóa Cơ dựng mối luân thường Ðộng Ðình sớm kết với nàng Thần Long Bến hoa ứng vẻ lưu hồng Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)
Theo truyền thuyết (tục truyền) thì khai mở họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr. CN) là Lộc Tục, con trai vua Ðế Minh. Sau Ðế Minh nhường ngôi lại cho con trưởng là Ðế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Ðông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân Sùng Lãm.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên Âu Cơ, sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa con theo mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bể Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, tức Quốc tổ của dân tộc Việt Nam ngày nay. (2)
Tuy nhiên, theo sách Ðại Việt Sử Lược do Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có ghi một đoạn rất quan trọng như sau:
"Ðến đời Trang Vương nhà Chu, năm 696-682 tr. CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật, áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang... Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương."(3)
Như vậy là Hùng Vương đã xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó cho tới năm 257 tr. CN thì nước Văn Lang bị Thục An Dương Vương thôn tính. Tính ra họ Hùng trị vì được 439 năm, nếu đem ra 18 đời, thì mỗi đời trung bình từ 25 tới 30 năm. Như thế có phần xác thực hơn là nói họ Hồng Bàng và họ Hùng cai trị cả mấy nghìn năm như truyền thuyết ghi chép.
Thế nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại thấy ghi rằng: về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ sang cống hiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu công phải dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được. Căn cứ vào sử ký của Tư Mã Thiên, bộ sử xa xưa nhất của Trung Hoa có ghi chép như sau:
"Năm Tân Mão thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN) đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bộ Giao Chỉ có họ Việt Thường, qua ba lần sứ dịch, dâng chim trĩ trắng."(4)
Nếu đúng như vậy thì họ Hùng Vương đã trị vì ít nhất là trên 800 năm. Không đúng theo sử ký của Tiền Hi Tộ, trong Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không đúng với Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.
Ðó là chiếu theo sử ký và tục truyền để tìm ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng ta cũng đã thấy nhiều điều không trùng khớp hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có thể chắc rằng dân tộc Việt bấy giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính vì thế mà vua Chu đã phải ba lần kiếm tìm người thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.
Về gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp, viết rằng:
"Theo ý kiến của những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ. Còn người Thái thì theo sông Mê kông, lập ra nước Tiêm La (Thái Lan) và các nước Lào."
Lại có nhiều người Tàu và người Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi, chiếm giữ vùng sông Hoành hà lập ra nước Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người Tam miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc đào tị xuống miền Việt Nam ta bây giờ. (5) Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng không tin vào giả thuyết này.
Trong quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Ðức Tịnh (tr. 171 - 188) khi viết về lịch sử tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Ðức Tịnh tán thành thuyết của các học giả cho rằng Việt ngữ là một thứ tiếng thuộc về dòng Thái. Vì dòng tiếng Thái có hai đặc điểm: giọng trầm bổng như tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi của loại tiếng Ấn độ - Mã Lai. Nhà bác học Schmidt cho rằng dòng tiếng Thái thuộc về tông-chi rộng-rãi bao trùm các ngôn ngữ của những thị tộc Ðông Nam Á và Ðại dương châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt tên cho tông chi ngôn ngữ này là ''tông chi Úc - Á''. Nhưng thuyết của ông không được chứng minh một cách đầy đủ. Bác sĩ Rivet, trong đại hội các nhà tiền sử học họp tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có đưa ra một ức thuyết: Từ miền nam châu Á hoặc từ Nam dương quần đảo, vào một thời đại tối cổ, đã có những đoàn di dân tản mác đi theo hình rẻ quạt, vượt trùng dương đến ở những đảo rải rác trên Thái bình dương và Ðại tây dương ... Người ta thường gọi chung họ là các giống Ðại dương nhân (Océaniens). Ðó là những người Ne'gritos, Me'lane'sien (Australien), Indone'sien và Mông cổ. Theo các nhà nhân chủng học, có lẽ trước tiên, tại bán đảo Ðông dương có hai giống người Me'lane'sien và Indone'sien. Do đó, có thể ức đoán rằng vào thời sơ cổ, đã có những thị tộc người Indone'sien ở vùng trung châu Bắc Việt và miền bắc Trung Việt. Một mặt khác, trước đời nhà Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp vùng lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc miền biển cũng đã có chi nhánh của chủng tộc Indone'sien, mà sử gia Tàu gọi họ là giống Man di. Những phần tử Việt tộc này đã di cư lần xuống miền Nam theo đường sông hoặc đường biển.
Theo Ðào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm dùng thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng buồm, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên hải phương nam, đại khái vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mã phía Bắc Việt ngày nay. Ðến mùa gió Nồm, họ lại vượt biển trở về nguyên quán. Thế là ngay từ những ngày rất xưa, đã có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc theo bờ biển nước Bắc Việt với những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc, ở vùng Phước Kiến. Khi nước Việt bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng Việt tộc tràn xuống miền nam càng nhiều. Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào miền bắc Việt nam, là nơi đã quen biết trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ là Lạc, và một nền văn hóa tuy có chỗ tương đồng với thổ dân trước nhưng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ có tên Lạc Việt ấy là vì trong các cuộc vượt biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến đi và về đồng thời với một giống hậu điểu thuộc loại ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ đã nhận giống chim ấy là vật tổ .(6)
Theo nhà sử học người Pháp, ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách Trung Hoa, thì dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân Bách Việt gốc ở tỉnh Chiết Giang (Trung Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi lần xuống phía nam, hợp với dân bản xứ, nhờ vào điều kiện địa dư thuận tiện, đã chống lại sự xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời Triệu Ðà, nhờ chế độ cai trị dễ dãi mà Triệu Ðà khôn khéo biệt lập, tự củng cố địa vị ở phía nam xứ Trung Hoa, tránh được ảnh hưởng của người Tàu .(7)
Nhưng lập luận này đã không đứng vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương diện ngôn ngữ đã chất vấn trong bài '' Xét về cội rễ tiếng Việt Nam'' như sau: (8)
"Bọn dân Việt hồi đó, rợ Bách Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói tiếng gì? Nếu là tiếng Trung Hoa thì không hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà xuất hiện ra một thứ tiếng khác hẳn tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung Hoa, thì các rợ Bách Việt ấy tất phải có một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như vậy thì sao trong suốt các rợ Bách Việt ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này còn phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà vẫn giữ được tiếng nguyên âm, còn thời các rợ khác ở Nam Phương nước Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng Trung Hoa cả? Nếu ta thừa nhận cái thuyết của ông Léonard Aurousseau, thì cái vấn đề tiếng nói tưởng cũng khó giải quyết vậy".
Theo ông Lê Ngọc Trụ (9) thì dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời sinh sống tại đồng bằng Bắc Việt. Còn nhóm người Việt (Câu Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn Xuân Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đã di cư xuống miền nam theo đất liền đến chung sống với các dân tộc khác như Việt-Ðông-Hải vùng Ô Châu, Mân-Việt vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng Quảng Ðông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh Quảng Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào tới cả Thanh Hoá (Cửu Chân). Nhưng họ chỉ là nhóm người thiểu số và bị đồng hóa, chứ họ chẳng phải là gốc tích tổ tiên Việt Nam như ông Léonard Aurousseau đã nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ còn cho rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đã cư trú ở những vùng triền núi từ sông Ðà (Hắc giang) tới Quảng Bình, sống chung hoà với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày nay, tiếng nói ở những vùng này có nhiều chỗ tương tợ tiếng Mường. Dân Mường là dân miền núi, cho nên họ rút lần rải rác vào sâu dãy Hoành Sơn, do đó họ không bị ảnh hưởng văn hoá của các đại cường quốc Ấn Tàu, và chính vì thế họ vẫn giữ được các cổ tục và tiếng nói của họ cũng không bị thay đổi nhiều. Nên khi so sánh hai thứ tiếng Mường Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ từ một nguồn gốc mà ra. Thí dụ:
Mường Thạch Bi Hà Tĩnh Hà Nội ka Ga Gà kảy Gái Gái kốk kộk Gốc ka?w Ga.w Gạo
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:37:53 GMT 9
Tiến sĩ Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng có cùng quan điểm lập luận như giáo sư Lê Ngọc Trụ và cho rằng, dân Bách Việt phát xuất từ miền Duyên hải miền nam Trung Hoa và giống dân Lạc Việt sinh sống lâu đời tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn không cùng chủng tộc. Sau nhiều cuộc xung đột, hai giống tộc này đã chịu hòa đồng chung sống với nhau như một đại tộc. Về sau, người Mường, cũng là sắc dân Lạc, đã chạy vào ẩn núp trong núi rừng, cao nguyên, để tránh sự xâm lăng đô hộ của người Tàu. Nhờ đó, họ vẫn giữ nguyên được ngôn ngữ, phong tục tập quán và kỹ thuật đúc trống đồng mà trước thời kỳ Bắc thuộc đã được đúc tại miền duyên hải Bắc việt và lưu vực sông Mã (nền văn hoá thạch khí Hòa Bình và Bắc Sơn với nền văn hoá đồng đen Ðông Sơn). Do đó các nhà nhân chủng học cho rằng: '' người Mường là Tiền-Việt'' (proto Vietnamiens)(11) , vì trong ngôn ngữ, tục lệ có nhiều điểm tương đồng với người Lạc. Ông có tìm được bản văn Mường-Việt nói về sự tích của sông Pờ (sông Bờ, tức sông Hồng ngày nay) trong quyển Cours de Langue Annamite của A. Cheon, do nhà in F-h Schneider, xuất bản tại Hà Nội năm 1899-1901 (nguyên văn): "Khây khước măng pâu pô. Khi trước nghe người ta nói rằng cỏ mống ông, thên hốp là rằng có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cở hai bợ chồng; ông Ðồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải nó rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mê, ti lê ksú tê, nã lấp mới đi lấy đá, để nó lấp ksông. Lòng klởi skinh tha sông. Lòng trời sinh ra mốch ông hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; me thuỗng mê thếch pât bởi mói xuống mới thách vật với ông Tùng. Nã me pao lò, nã ông Ðồng. Nó mới vào lò; nó tỏ ming nã pât ông Tùng đỏ mình nó mới vật ông Ðồng. Ông Tùng mê chẩi hết mìng, ông Ðồng mới cháy hết mình, mê chết. Cho đên cải ksông mới chết. Cho đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác pờ dỉ. Thác bờ ấy." Ðọc đoạn văn trên, ta thấy tiếng Việt được chuyển dịch xen kẽ lẫn vào bản văn tiếng Mường, rất tối nghĩa. Cho nên tôi mạo muội viết ra hai bản Mường và Việt rõ ràng để quí vị dễ đọc và so sánh: Bản văn tiếng Mường: "Khây khước măng pâu pô, cỏ mống ông thên hốp ông Ðồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã mê, ti lê ksú tê nã lấp ksông. Lòng klởi skinh tha mốch ông hốp là ông Sách me thuỗng mê thếch pât bởi ông Ðồng. Nã me pao lò, nã tỏ ming nã pât ông Ðồng. Ông Ðồng mê chẩi hết mìng, mê chết. Cho đên cải ksông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy cái Thác pờ dỉ." Bản văn dịch sang tiếng Việt: "Khi trước nghe người ta nói rằng, có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai vợ chồng nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bờ. Nó toan lấy sông Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mới đi lấy đá, để nó lấp sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt mới xuống mới thách vật với ông Tùng. Nó mới vào lò, nó đỏ mình nó vật ông Tùng. Ông Tùng mới cháy hết mình, mới chết. Cho nên cái sông ấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác bờ ấy." Khi nhắc đến nguồn gốc của Việt ngữ, ông Phạm Thế Ngũ cũng có nêu giả thuyết là người Việt có cùng tông tổ với người Mường, vì các nhà khảo cổ, khi xét về phong tục, lịch sử cũng như ngôn ngữ của người Việt, đã thấy có rất nhiều điểm giống với người Mường. Hiện nay, trong tiếng Việt có rất nhiều tiếng tương tự với tiếng Mường, và có thể xem đó là hình thức tối cổ của tiếng Việt tương đương, thí dụ :(12) một Hai ba trời đất núi sông trâu gà tằm ăn lá dâu móc Hai pa tlòy tất nủy không tlu kà thảm ăn lá tô Thứ tiếng cổ ấy, về sau, trong ngôn ngữ người Việt, thâu nhận thêm những yếu tố vay mượn của các chủng tộc lân cận mà trở thành tiếng Việt. Và ông kết luận rằng: "dân tộc Việt Nam là kết quả tạp chủng và lai lẫn với các dân tộc đã sinh sống trên bán đảo Ðông dương, và tiếng Việt là kết quả trại lẫn của nhiều thứ tiếng của các dân tộc ấy." (13) Trong quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam(14), ông Bình Nguyên Lộc đã có một số nhận định và chứng minh khoa học cụ thể về vấn đề nan giải nêu trên. Theo ông, viết thượng cổ sử khác xa với viết sử. Vì viết sử chỉ cần sử liệu, còn viết thượng cổ sử thì cần phải chứng minh bằng khoa học, do đó muốn tìm tòi về các chủng tộc ta phải vận dụng kiến thức khoa học chính xác của ngành Chủng Tộc Học (Anthropologie physique). Riêng về nguồn gốc của một chủng tộc thì khoa học chỉ nhìn nhận 3 chứng tích sau: Khoa Chủng Tộc Học Khoa KhảoTiền Sử Khoa Ngôn Ngữ Tỷ Hiệu (Études comparatives des Langues) Theo ông trên thế giới ngày nay không còn chủng tộc nào là thuần chủng. Ngay cả trên cao nguyên của nước ta có người Thượng mà ta cứ ngỡ là thuần chủng, nhưng thực sự họ đã lai giống đến nhiều lần rồi. Về vấn đề nguồn gốc dân Việt, ngôn ngữ Việt, từ lâu đã có những nhà bác học Pháp thuộc viện Bác Cổ Viễn Ðông, các sử gia, ngữ học gia, giáo sư Việt Pháp khổ công tìm tòi nghiên cứu, nhưng vẫn chưa tìm được một giải đáp thoả đáng. Và họ đã đưa ra một số ức thuyết khá hỗn loạn: Ông Kari Himy cho rằng tiếng ta có bà con với tiếng Môn Ông H. Maspe'so bỏ Việt Ngữ vào chung với Thái ngữ Ông E. Souvignet cho rằng tiếng Việt có liên hệ với Mã Lai Bs. Reynand nhấn mạnh về ngữ vựng Miên Việt giống nhau quá nhiều Gs. Lê Ngọc Trụ và Sử gia Nguyễn Phương khẳng định tiếng ta là tiếng Tàu Sg. Phạm Văn Sơn kết luận Việt ngữ + Việt chủng là một chủng tộc, một ngôn ngữ riêng biệt Từ năm 1920 nhờ những cuộc phát kiến ngẫu nhiên của dân chúng vùng Ðông Sơn tỉnh Thanh Hóa đã khai quật được một số cổ vật đồng pha kế tiếp nhau ở cách lưu vực sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Cả, sông Mã, sông Ðà, sông Nhị, sông Lệ. Nghiên cứu sơ khởi cổ mộ Ðông Sơn, người ta tìm thấy người chết có đồ tùy táng, trong đó có trống bằng đồng thau khá rực rỡ. Ước tính theo số tuổi cổ vật, mộ này ắt đã được chôn trước thời Hai Bà Trưng (40- 43) đến 32 năm. Nhưng qua đó vẫn chưa xác định được người dưới mồ là người bản xứ, vì rất có thể họ là dân tộc khác sang nước ta rồi sau khi chết được mai táng tại đó. Mãi về sau, khi khai quật được nhà bằng gỗ và tre đã hoá thạch, các nhà nghiên cứu khảo cổ đưa ra được một kết luận quan trọng. Nhà ấy có lối kiến trúc giống như hình nhà khắc trên trống đồng trong cổ mộ. Bấy giờ mới chắc chắn được là người có trống chôn theo là người bản xứ. Hợp kim của trống khai quật được phân chất và kết quả đưa ra đó là hợp kim đặc biệt, khác hẳn với hợp kim của Tàu, Ấn Ðộ hay của Tây phương thời đó. Các nhà bác học gọi người trong mộ táng được khai quật thuộc chủng tộc Indone'sien. Indone'sien, thuật ngữ của ngành Chủng Tộc học có nghĩa là Cổ Mã Lai, chứ không thuần nghĩa thông thường được chú giải trong các tự điển ngôn ngữ hiện nay là người dân của xứ Nam Dương quần đảo. Mặc dù các dân tộc Nam Dương, Mã Lai Á đều từ gốc chủng tộc Cổ Mã Lai mà ra nhưng đã không còn thuần giống. Chủng Cổ Mã Lai phát tích từ Tây Tạng, hay nói rõ hơn là tại chân cao nguyên Tây Tạng, vùng đất quanh chân núi Himalaya (Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya). Từ 6000 năm trở về xưa hơn, dân Cổ Mã Lai từ quanh cao nguyên Tây Tạng xuống chiếm đất Ấn Ðộ, đẩy lui thổ dân kém cỏi nơi đó lên vùng đồi núi và hợp chủng với chủng tộc Melane'sien đã có mặt từ lâu trên đất Ấn (Chủng Melane'sien chẳng những là thổ trước trên đất Ấn mà còn tìm thấy di tích ở khắp đất Trung Hoa và Ðông Nam Á). Nền văn minh của họ tồn tại được một ngàn năm thì bị dân Aryen xâm lăng đánh đuổi. Vì vậy, một mặt giống dân Indone'sien di cư về hướng Nam, đến bán đảo Mã Lai Á, sang Nam Dương quần đảo, rồi từ đó sang Madagascar đến tận Phi Luật Tân. Mặt khác họ di dân sang Ðông Ấn, rồi từ Ðông Ấn họ đi sang Hoa Nam (Trung Hoa), hoặc đi bằng đường biển sang Ðông Pháp (danh từ cổ chỉ các nước Cổ Việt Nam, Ai-Lao, Cao Miên). Vào khoảng 2500 năm sau, dân từ các vùng đất quanh núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) dưới sự thống lãnh của Xy Vưu tới Hoa Bắc (Trung Hoa). Nhóm dân này được gọi là Cửu Lê gồm 9 nhóm, làm bá chủ Hoa Bắc không được bao lâu thì bị người Tàu từ Tây Bắc dưới quyền của Hiên Viên xâm nhập. Dân Cửu Lê thua và bị đánh đuổi, chia làm hai: chi Âu và chi Lạc. Toàn thể chi Âu vượt Hoàng Hà để nam thiên, còn chi Lạc thì lại chia hai, một số cũng vượt Hoàng Hà, số kia theo đường biển sang Ðại Hàn, Nhựt Bổn, Ðài Loan và Ðông Nam Á. Rời đồng bằng Hoa Bắc thì dân chi Âu chiếm địa bàn núi rừng ở Hoa Nam , còn dân chi Lạc thì chiếm địa bàn sông ngòi ở Hoa Nam và ở các vùng đất mới. Nơi đây, họ đã gặp các dân thổ trước nhưng đồng chủng cho nên đã sống chung hòa không gây chiến tranh lấn đất. Người Tàu dùng danh từ Việt để chỉ bất kỳ thổ dân nào từ sông Dương Tử đổ xuống, tức nhiều nhóm dân gốc Cổ Mã Lai nhưng khác chi. Theo sử Tàu thì có ba nhóm Lạc: Lạc bộ Trãi bị gọi là rợ Ðông Di, có địa bàn ở sông Bộc, tỉnh Sơn Ðông lên đến Hà Bắc; Lạc bộ Chuy bị gọi là rợ Khuyển Nhung, có địa bàn vùng sông Lạc (Thiểm Tây Ba Thục, ngày nay con sông Lạc này được đổi viết thành bộ Thủy); và Lạc bộ Mã, bị gọi là rợ Nam Man chỉ dân Việt ở Hoa Nam. Về phía Nam, đất Ngũ Lĩnh là địa bàn của các quốc gia Bách Việt trong đó có Ðông Âu, Mân Việt và Tây Âu nhưng không có Cổ Việt. Mặc dù về mặt chủng học tộc, ta thuộc về Bách Việt nhưng không phải là dân của ba nước kể trên. Trong ba nước này, Tây Âu là một quốc gia cường mạnh nhất, gồm ba quận Nam Hải (Quãng Ðông), Quế Lâm (Quãng Tây) và Tượng Quận (phần đất giữa Quãng Tây và Vân Nam). Theo bức dư đồ ngôn ngữ Ethnolinguistico Groups of Mainland Southeast Asia do Human Relations Area Files Yale University xuất bản thì Tây Âu là địa bàn của người Thái, một dân tộc thuộc chủng Mã Lai mà người Tàu xưa gọi là dân Âu. Thái là một danh tự xưng của họ khi bị Hoa tộc lấn đất dữ dội. Nhà Tần tiêu diệt cả ba quốc gia Bách Việt này và họ lại phải nam thiên xuống thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày nay. Thái có nghĩa là '' tự do, thoái khỏí'. Trước đó họ xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Tiếng Quan thoại phiên âm danh tự đó cũng là Ngê-U. Duy chỉ các nhà nho đọc sai ra là Âu, chứ người Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu. Người Thái ở miền thượng du Bắc Việt ngày nay đã khác hẳn với người Thái Lan, vì ngưởi Thái Lan đến bờ biển lập quốc cả hàng trăm năm và theo văn hóa của Ấn Ðộ và Phật giáo. Còn người Thái thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên văn minh cổ thời của họ. Theo như trên thì truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân rất tương đồng với bối cảnh lịch sử của dân Cửu Lê, khi bị Hiên Viên xâm lăng thì phải chia hai, chi Âu chiếm địa bàn núi rừng (Âu Cơ là Tiên đem con lên núi) và chi Lạc chiếm địa bàn sông ngòi, ven biển (Lạc Long Quân đem con xuống biển). Cả ba Lạc này đều có mặt tại Cổ Việt Nam nên ngôn ngữ của ta mới hỗn hợp tiếng Mã Lai nhiều đợt. Ðịa bàn phương đông của chủng dân Cổ Mã Lai bị dân Tàu lấn đất, họ đành phải nam thiên. Tới vùng đất mới, họ lại bị Tàu xâm lăng lần nữa, chẳng hạn như ở Cổ Việt bị nhà Hán chinh phục. Lần bị chiếm đất này, họ không còn đất lánh thân, nên một số ở lại chịu văn hóa Tàu, còn một số khác rút lên rừng núi, rồi vì khí hậu và phong thổ không ưu đãi, thiếu thốn phương tiện canh tân nên nhóm người này bị thái hóa. Do đó người Thượng trên cao nguyên vẫn còn giữ nhiều phong tục văn hóa của chủng Cổ Mã Lai hơn dân ta, kẻ ở lại đồng bằng đã khác xa, nhất là khi bị ảnh hưởng văn hóa mới và hợp chủng với dân xâm lược. Sau đây là những dấu vết Mã Lai còn sót lại trong xã hội Việt Nam ngày nay: 1. Trống Ðồng: Dân ta vẫn duy trì phong tục của Lạc Việt, như tả nhậm, xâm mình, nhuộm răng, búi tóc, chít khăn, tục thờ thần Âm Dương Vật và cả tục thờ Thần Trống Ðồng. Sau thời gian dài nghiên cứu về thời đại đồng thau xưa ở Bắc phần Việt nam các nhà khảo cổ cho thấy rằng người Việt Nam thời xưa đã đạt được một trình độ luyện kim và chế tác kim loại khá cao để đúc được nhiều loại trống đồng. Do số lượng trống đồng tìm thấy được tại miền Bắc Việt Nam quá nhiều và đủ loại cho nên các nhà khảo cổ đã nghĩ rằng Việt nam phải là quê hương của trống đồng. Tuy rằng cũng có tìm được một vài trống đồng rải rác tại vài nước Ðông Nam Á hoặc vùng Nam Trung Hoa giáp ranh giới Việt Nam nhưng số lượng ít ỏi và kém mỹ thuật, nhất là các tầm vật này nằm trên những lộ trình xuyên biên giới Việt-Hoa, nên đã làm các nhà khảo cổ nghĩ rằng đó có thể là những trống thâu lượm từ Việt Nam đem về. Trong sách Ðại Nam Nhất Thống Chí(15) ghi: "Núi Ðồng Cổ: có tên nữa là núi Khả Lao ở cách huyện Yên Ðịnh 16 dặm về phía tây .... Phía tả núi có đền thần, trong đền có một cái trống bằng đồng, nặng chừng 100 cân, đường kính phỏng 2 thước một tấc, chiều cao phỏng 1 thước 5 tấc, một mặt trống rỗng, một mặt có chín vòng tròn, ở giữa mặt trống có rốn tròn, chung quanh lưng trống là hình hồi văn chữ 'vạn', bên cạnh có văn chữ như hình văn tự khoa đẩu. Tương truyền cái trống này chế từ đời Hùng Vương. " Trong tác phẩm Kiến văn Tiểu Lục, Lê Quí Ðôn đã viết như sau: "Nước nhà, vua Thái Tông nhà Lý dựng miếu thờ Thần Ðồng Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành Thọ. Hằng năm cứ đến ngày mồng bốn tháng tư lập một đàn ở trước miếu này, rồi dàn binh lính, đọc lời thề để quần thần cùng thề... ".
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:38:53 GMT 9
Nhiều thư tịch Trung Hoa xưa cũng có nói đến trống đồng có nguồn gốc ở Việt Nam như: (16) Sách Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Lã Hương Lân ghi: "Thời cổ, văn hoá Việt rất đáng được lưu ý là sự chế tạo trống đồng và cách sử dụng. Trống đồng Lạc Việt rất nổi tiếng nên thường được gọi là Lạc Việt đồng cổ. Sách Hậu Hán Thư quyển 54 thời Hậu Hán có ghi ở mục Mã Viện: "Mã Viện thích cưỡi ngựa. Lúc sang đánh Giao Chỉ, ra lệnh tịch thâu trống đồng để đúc ngựa kiểu." Sách Chu Phiên Chí, Triệu Như Quát cũng có kể về Mã Viện như trên. Sách Lĩnh Ngoại Ðai Ðáp, Chu Khứ Phi, một học giả đời Tống, có thừa nhận rằng trống đồng không thuộc về văn hóa Hán. Trong các sách Quảng Châu Ký, Tán Thư Trấn Thủ, Thủy Kinh Chú, Linh Biểu Lục Di đều có ghi: "Man, Di là chủ nhân của trống đồng Lạc Việt." Ông V. Goloubew đã kể lại trong tập kỷ yếu B.E.F.E.O vol XXXIII, năm 1933 như sau: "Làng An-Nê, huyện An Ðịnh, tỉnh Thanh Hóa, là một vùng hoàn toàn Việt Nam, và gần đó không có dân Mường. Trong đền thờ trên đường Phủ Quãng, gần bến đò An Ðịnh đưa sang sông Mã, có trống đồng cùng loại với trống đồng Hoà Bình để ở Bảo tàng viện Hà Nội. Mặt trống rộng 0,85 và cao 0,58th. Trống này chỉ để thờ chứ không được đánh, bằng vào lớp bụi dày trên mặt trống..." Ông R. Mercier thì đối chiếu cách chế tạo trống đồng của dân Ðông Sơn với cách chế tạo đồng đồng của dân Việt Nam ngày nay ở Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Ðông, Nam Ðịnh và thấy cả hai dân tộc đều dùng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ y như nhau. Ông nghiên cứu chiếc trống lớn nhất ở bảo tàng viện L. Finot. Ðó là một cái trống đúc nguyên khối, không có ráp mối. Bên hông trống đếm được cả thảy 280 vết đen hình vuông, một phân tây mỗi cạnh. Nhờ đó ông khám phá được kỹ thuật đúc trống thợ Ðông Sơn xa xưa. Họ làm hai cái khuôn, một lớn một nhỏ, cái nhỏ nằm trong cái lớn, hai cái cách nhau khoảng 1/2 một phân tây, khoảng trống ấy được chêm bằng các khúc gỗ. Khi đổ đồng pha vào khoảng trống ấy, gỗ chêm bị cháy và để lại dấu vết bên hông trống. Ông Mercier nói rằng chỉ có dân Việt Nam các tỉnh cao nguyên mới đúc bằng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ như thế mà thôi. Về vấn đề vật tổ biểu tượng của dân Việt là chim Lạc (theo ông Ðào Duy Anh đưa ra) thì ông Bình Nguyên Lộc không đồng ý, vì chữ Lạc được viết với dạng bộ Trãi, bộ Chuy và bộ Mã chứ không hề viết theo dạng bộ Ðiểu, chỉ loài chim. Theo ông thì vật tổ biểu tượng của dân ta ngàn xưa là cây cau, nai, mặt trời, giao long bằng cứ vào những hình chạm khắc trong các đền đài chùa chiền, trên các cổ vật Ðông Sơn, phong tục, cổ tích vv... Danh hiệu Văn Lang cũng từ đó mà ra, có nghĩa là một loại cau có sọc trắng, chứ không thuần nghĩa là người con trai xâm mình. 2. Kiến trúc: Ngôi nhà cổ Việt độc nhất, do ông Pajot nhân viên của viện Viễn Ðông Bác Cổ tìm được tại bờ sông Mã năm 1927, nhưng mãi đến 17 tháng Giêng 1938, nhà khảo cổ V. Goboulew mới báo cáo trong một buổi thuyết trình. Có sự chậm trễ đó cũng bởi vì ông gặp khó khăn trong việc định tuổi cho các vật liệu dùng làm căn nhà. Và căn nhà đó được định cùng tuổi với ngôi mộ cổ đã khai quật. Ðó là một nhà sàn có cột cái cao 4,50 thước, sàn cao 1 thước. Mái nhà dài xuống tới sàn, và vì thế mà cửa phải trổ ra ở góc hồi. Sàn bằng tre sặt, một loại tre giống tầm vong ở miền Nam. Sườn nhà không có trính ( loại sườn nhà mà miền Nam gọi là nọc ngựa, miền Trung gọi là nhà chữ Ðinh). Hình dáng ngôi nhà này giống nhà khắc trên trống đồng có mái cong quớt lên và đó là lối kiến trúc của tất cả các nhóm dân Cổ Mã Lai và Kim Mã Lai. Ngày nay nông dân ở nhiều đảo Nam Dương vẫn còn cất nhà như vậy, và người Chàm, cũng gốc Mã Lai, giữ lối kiến trúc đó cả đến trong những xây cất bằng gạch. Loại nhà đó người Chàm gọi là nhà Thang-giơ. Danh từ Thang-giơ do tiếng Mã Lai Nam Dương Tanga mà ra, có nghĩa là cái thang. Dân Việt gọi đó là nhà sàn. 3. Tín ngưỡng Có rất nhiều nhóm Mã Lai thờ mặt trời hoặc ông trời. Ngay cả Mã Lai Nhật Bản cũng thờ nữ thần Thái Dương. Tất cả đều ăn khớp với hình trên mặt trống đồng. Tục thờ dương vật và âm vật của chủng Mã Lai vẫn còn tồn tại ở vài làng Bắc Việt (báo Ngày Nay, tác phẩm của Toan Ánh và Lê Quang Nghiêm). Tôn giáo ấy chẳng những được thấy ở Bắc Việt mà còn có cả ở Trung Việt. Ngay cả bên Nhật ngày nay vẫn còn giữ tín ngưỡng này. 4. Ðối chiếu chỉ số sọ Dựa theo chỉ số sọ rút từ quyển État actuel de la crânologie indochinoise của các bác sĩ P. Huard, F. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Ðức - Hà Nội 1938 - thì các dân tộc gốc Mã Lai đều có chỉ số sọ trên 80, như Mã Lai, Thái, BắcViệt, Cao Miên và Ðại Hàn, ngoại trừ Nhật Bản, Mường và người Thục. Chỉ số sọ của người Tàu thì luôn luôn dưới 80. Người Nhật có chỉ số sọ thấp nhất trong các nhóm Mã Lai Bách Việt chỉ vì họ bị lai giống với Tàu quá nhiều. Người Mường mặc dù họ là Cổ Mã Lai như tất cả các phụ nữ và bần dân lại thuộc chủng Melanesien, chỉ trừ các đàn ông cấp lãnh đạo, do đó chỉ số sọ trung bình của họ không giống chỉ số sọ trung bình của người Bắc Việt Nam. Người Thục có chỉ số sọ rất giống chỉ số sọ Trung Hoa, mặc dù họ thuộc chủng Thái. Cũng chỉ vì họ đã lai giống với Tàu trên cả hai ngàn năm rồi. Chỉ số sọ của người Việt miền Nam thấp hơn chỉ số sọ của người Việt miền Bắc, chứng tỏ rằng người Việt miền Nam lai Tàu nhiều hơn người Việt miền Bắc. 5. Ngôn ngữ tỷ hiệu Theo ông Bình Nguyên Lộc thì một số danh từ Mã Lai trong ngôn ngữ Việt không phải là vay mượn hiển nhiên của các dân tộc khác như Chàm, Miên, Mường, Thái mà do từ gốc Cổ Mã Lai mà ra. Ông thẳng thừng bài bác lập luận cho là tiếng Việt là tiếng Tàu của sử gia Nguyễn Phương. Trong quyển Việt Nam Thời Khai Sinh, trang 230, sử gia Nguyễn Phương viết: "Hầu như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau 10 thế kỷ độc lập, vẫn còn chính là tiếng Tàu, nhưng chỉ đọc lên một cách hơi khác với cách đọc của những tiếng địa phương ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen vào đôi số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, những hiện tượng đó không nói lên gì khác ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng, đã có gặp người Mọi người Chàm, cũng một cách như họ đã gặp người Pháp trong thế kỷ qua và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp trong kho ngôn ngữ của họ". Nhưng theo ông Bình Nguyên Lộc thì nếu đã phải vay mượn của Tàu thì tựu chung ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ lạ, vật dụng lạ. Như danh từ nước là một danh từ tối quan trọng để chỉ chất mà ta dùng hàng ngày để sống đã được sử dụng để gọi từ ngàn xưa, vậy thì sao ta không dùng chữ thủy của Tàu. Vả lại với thiên kiến của một nước luôn tự hào là văn minh và xem cái gì của họ đều hơn của Man di cả, nhất là vấn đề ngôn ngữ, thì tất nhiên những danh từ như Lá, Trăng, Ngựa, Chòi, Túp, Cơm, Trâu, Cá, Bông, Chim, Vua, Cây dừa vv... ta phải nhất nhất dùng chữ Tàu, không nên vay mượn chữ của Mọi làm chi. Do đó chỉ có một cách trả lời là nó xảy ra thời thượng cổ, lúc hai dân tộc còn là một, tức ta với họ đồng chủng với nhau. Ðiều này ông đã chứng minh khi đối chiếu các danh từ Việt với các dân tộc chủng Cổ Mã Lai, nếu ta không giống Chàm thì cũng giống Khơ Me, không giống Khơ Me thì cũng Thái, không giống Thái thì cũng giống người Thượng. Tóm lại danh từ Việt thế nào cũng giống danh từ của nhóm dân cùng chủng Cổ Mã Lai nào đó. Sau đây là một số bản đối chiếu ngôn ngữ rút ra tưø quyển NGMLCDTVN của ông: Việt Nam : Cá Sơ Ðăng : Kaa Mạ : Ká Chàm : Kán Mã Lai : Aka Việt Nam : Cột Sơ Ðăng : Kơt Bà Na : Kơơt Chàm : Kaat Mã Lai : Ikaat Việt Nam : Mắt Sơ Ðăng : Mat Mạ : Maht Chàm : Kán Mã Lai : Mata Việt Nam : Mặt trăng Bà Na : Mạt tlăng Mạ : Maht kăn Chàm : Blaăng Mã Lai : Bulăng Việt Nam : Sông Chàm : Krong Mường : Không Bà Na : Krông Mã Lai : Sôngai Việt Nam : Trái (blái) Mường : Blái Bà Na : Plây Sơ Ðăng : Plây Thai : Pho la Việt Nam : Cháu Bà Na : Saò Mạ : Sáu Mường : Cau Mã Lai : Chu Việt Nam : Chim Sơ Ðăng : Chim Mường : Chim Bà Na : Sêêm Kha?La'Vàng : Tiêm Việt Nam : Con (cái) Mường : Kon Bà Na : Koon Sơ Ðăng : Kooon Cao Miên : Kôn Việt Nam : Con (vật) Bà Na : Ko Mạ : Ko Cao Miên : Ko Mường : Ko Việt Nam : Ngày Cao Miên : Thngay Mường : Ngai Sơ Ðăng : Haai Môn : Tngay Việt Nam : Con ruồi Mạ : Ko Rhai Bà Na : Ko Rooi Mường : Ko Ruuêi Cao Miên : Ko Ruy Ngoài ra, ông cũng khám phá ra khá nhiều điều lý thú trong ngôn ngữ như: Người Mường có danh từ Khai để chỉ con chó, đồng thời lại có nghĩa là con cọp. Theo cố đạo L. Cadière thì tiếng Việt xưa cũng gọi con chó là Khai, hình thức cổ sơ của danh từ con Cầy. Danh từ Bố Cái Ðại Vương, Cái là danh từ Mã Lai, có nghĩa là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh. Hiện nay Mã Lai vẫn còn có danh từ Ibu La'ki, đúng nghĩa Bố Cái, vì Ibu=bố, La'ki=Cái, Ibu La'ki có nghĩa là nhà lãnh đạo. Danh từ La'ki của Mã Lai biến thành Lìcáy của Chàm và Cái của Việt. Danh từ riêng của miền Nam "người lại cái", có nghĩa là bán nam bán nữ, chắc chắn là do danh từ Chàm mà ra, đó là "Càmay lagi lìcáy" dịch ra là "đàn bà lại còn đàn ông". Ta nuốt mất chữ Càmay lagi, chỉ còn Lìcáy biến thành Lại Cái. Hiện nay người miền Nam vẫn thường nói sai là "đàn ông lại cái", chỉ vì họ không rõ căn nguyên và lại hiểu sai chữ Cái là Ðàn bà. Ngay cả danh từ Thợ Cái, Sông Cái, hoặc trong lúc chơi bài bị bắt làm Cái cũng đồng nghĩa nêu trên. Người Việt miền Nam thường dùng chữ Tía để chỉ người cha. Ðó là danh từ Tia của dân Thất Mân, Mã Lai đợt II. Các đảo Mã Lai đều nói là Tưa, có nghĩa là cha vợ, chứ không phải là Cha như người Việt miền Nam đã dùng sai.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 26, 2006 16:39:39 GMT 9
6. Ðồng bào Mường
Gọi là đồng bào, bởi vì theo ông Bình Nguyên Lộc rằng khoa học đã nhìn nhận rằng dân tộc Mường là Indonesien (Cổ Mã Lai) từ hơn thế kỷ nay, và ông đã chứng minh là dân ta cũng là gốc Mã Lai thì họ và ta là đồng bào rồi vậy.
Ðể viết về dân Mường, ông đã chọn tài liệu chủ lực cho sự nghiên cứu của ông, một cuốn sách mà ông thấy là đầy đủ nhất về dân tộc này, đó là quyển Les Mường, Géographie humaine et Sociologie của cô Jeanne Cuisinier do Viện Dân Tộc Học, Bảo Tàng Viện về Con Người xuất bản tại Paris năm 1946.
Như trong phần đo chỉ số của các giống tộc ở trên, người Mường không thuộc chủng Mã Lai mà lại thuộc chủng Thái, trong khi họ có ngôn ngữ rất gần với ta. Cô J. Cuisinier cho biết rằng quí tộc Mường, gia đình và họ hàng của các quan Lang, các thổ đạo, các hương chức hội tề thì xinh đẹp như người Việt. Còn bần dân và tất cả phụ nữ, kể cả phụ nữ thuộc hàng quí phái cũng bé choắt và xấu xí.
Ông Bình Nguyên Lộc giải thích rằng người Mường là quí tộc Lạc Việt từ Hoa Nam nam thiên cho nên không mang đàn bà theo kịp, họ đến đây hợp chủng với dân Melane'siens da đen xấu xí và lãnh đạo dân Melane'sien cho đến ngày nay. Vào thời thượng cổ, khi mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra thì đa số phụ nữ bị bỏ rơi, hoặc yếu sức chết dọc đường. Cho nên khi đến địa bàn định cư, đàn ông goá vợ hay thanh niên thì lấy dân thổ trước làm vợ. Chính vì thế mà phụ nữ của họ mới không đồng chủng với họ.
Xét về ngôn ngữ thì văn phạm của hai dân tộc Mường và Việt giống hệt nhau:
Tiếng Việt Tiếng Mường
Ba hồn bảy vía con đùa (con trai), con gái, đâu đi về cùng bố, cùng mẹ, ăn cơm, ăn cá Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô, kung mè, ăn kơm ăn ka
Bố ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu bố ơi Pô ơi keát bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi!
Ăn ra khói nói ra lửa Ăn za khuê nói za lửa
Ðể cho quỉ xa ma sợ Tê co kwi sa ma đượi
Vía lúa ơi, về đụn về nhà mà ở Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!
Cơm như vàng ròng Kơm như yang rong
Danh từ Vua, thì họ nói là Bua. Trời, thì họ nói là Blời. Các cố đạo ngày xưa tại Việt Nam cũng viết là Bua, Blời, không phải vì các ông không biết âm Tr, mà bởi vì thuở đó ta cũng giống dân Mường đều không có âm Tr. Trái cây họ đọc là Tlai kây, Trái ngang họ nói là Plái ngang, Trâu họ kêu là Tlu vv...
Ngoài ra, trên mặt các trống đồng khai quật có khắc bộ hình một số người cầm gậy thọc xuống một vật mà đa số các nhà bác học Âu Châu cho rằng đó là động tác giã gạo. Nhưng nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường và đã thấy người Mường ngày nay vẫn còn đánh trống như vậy, tức dùng gậy thọc xuống mặt trống.
Cô J. cuisinier còn viết rằng cô đã thấy toàn thể người Mường nhuộm răng đen, một số xâm mình, toàn thể ăn trầu, họ có đồng bóng và có sử dụng trống đồng loại lớn. Loại trống này chỉ có các quan Lang mới có và số tia của ngôi sao trên mặt trống càng nhiều thì tỏ rõ thế lực của ông quan Lang ấy, thông thường chỉ có 7,8 tia mà thôi.
Nói tóm lại, những giả thuyết, những lý luận mà các nhà ngữ học, bác học, sử học, nhân chủng học ngoại quốc cũng như người Việt nêu trên đã cho ta nhiều điều lý thú về nguồn gốc dân tộc cũng như nguồn gốc tiếng Việt. Qua đó, quí vị có thể tự suy ra kết luận hay ít nhiều cũng tạo hứng khởi trong việc tìm về nguồn cội văn hóa nước ta.
Tĩnh Túc
thanh.nguyen@student.uni-ulm.de
Chú thích:
(1) Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca, Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái, tr.48
(2) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 11-12, Anh hùng nước tôi, MTQGTNGPVN, tr. 43
(3) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 36
(4) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 146 - 147
(5) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 5
(6) Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Ðào Duy Anh, 1950.
(7) Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 11
(8) Nam Phong, số 110, tháng 10 năm 1926
(9) Tầm Nguyên Tự Ðiển VN, tr. 12
(10) Chánh tả Việt Ngữ, tr. 19
(11) Việt Nam Tinh Hoa, tr. 100-101, tr. 155-158
(12) Mượn của A. Chéon trong Note linguistique sur les Muong, BEFFEO, T5, tr, 338-339
(13) Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 13
(14) Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam - Xuân Thu xuất bản
(15) Ðại Nam Nhất Thống Chí - Quốc Sứ Quán Triều Nguyễn, quyển 2, tr. 255, 288
(16) Mượn của Phan Hưng nhơn, Diễn Ðàn Phụ Nữ 183 - 1999, trong bài "Nhìn lại nền văn hoá Ðông Sơn để nhó lại nguồn gốc của Trống Ðồng".
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:08:01 GMT 9
CA-DAO VIỆT-NAM, VĂN-HÓA NHÂN-BẢN
"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."
Đạo-lý Việt-Nam, gọi là Việt Đạo, được truyền tụng từ thời thái-cổ đến nay bằng ca-dao, tục-ngữ và Kinh-Việt với những truyện dân-gian mà người ta còn gọi là Sử-thi hay Sử-ngôn. Ngày nay, muốn hiểu cho tường-tận những ca-dao tục ngữ đó, ta cần suy-luận theo người thái-cổ với những âm điệu và ngôn-ngữ xưa nay kèm những hình tượng xưa. Một trong những hình-tượng xưa nhất nằm trong Kinh-Dịch, nói cho chính xác là Việt-Dịch.
[Việt Dịch với biểu tượng Âm Dương như sau:
* 1 khuyên-tròn, nằm trên trục thẳng đứng, là Dương --------> O
* 2 khuyên-tròn, đối-xứng qua trục-Dương, là Âm --------> -------0--------0---
Trễ hơn về sau, người Hán Mông (vốn là dân du-mục) đánh chiếm lấy "Trung-Nguyên"(là lãnh thổ vùng Động Đình Hồ và phía nam sông Dương-Tử sau này) rồi nhận vơ độc quyền nền văn-minh Dịch-Lý Nông-Nghiệp của Tộc Bách-Việt (Chinese Mithology of Anthony Christie/ Library of the World’s Myths and Legends, page 51); họ cũng đã thiêu hủy Liên-Sơn Dịch và Quy-Tàng Dịch thuộc thời Hạ, Thương, Ân (các nhà Dịch Học như Thiệu Vĩ Hoa/dòng dõi Thiệu Khang Tiết; Lê Văn Quán . . . đều cho biết hiện những sách này không còn) sau khi đã đúc kết lại và sửa đổi biểu tượng Âm Dương thành "vạch-liền" và "vạch-đứt" (trong khi vẫn dựa trên Hà-Đồ và Lạc-Thư với những "nút kết-thằng", tác-phẩm của Nòi Việt (1)) rồi gọi là Chu-Dịch (mà đành phải bỏ quên trục không-gian; mặc dầu như về cách cấu-tạo chữ viết, người Trung-Hoa luôn nói đến "ngang bằng, sổ ngay" như một câu thiệu nằm lòng. Sự thực là vì do "tiến-bộ" của dụng-cụ dùng để viết, họ không thể khoanh tròn nhỏ được nữa; vả lại khi điểm các chấm rời liền nhau thì chúng lại bị nối liền với nhau / Chinese Character by Dr. L. Wieger and Davrout)].
Muốn giải thích cho rốt ráo những Sử-ngôn xưa, ta không thể dùng biểu-hiệu Âm Dương của Chu Dịch sinh sau đẻ mụôn được, mà phải xử-dụng đến ký-hiệu Âm Dương là những "khuyên tròn"(đã xuất-hiện rất sớm trên Hà-Đồ và Lạc-Thư, và trên trống-Đồng Lạc-Việt về sau) của Việt Dịch (đầu tiên chỉ là những "chấm" tạo-hình, trên 2 lần 9 ô vuông của 2 Đồng-Bánh-Chưng-lớn 4 lạt kết lại, để hoàn-tất 36 quân Trò-chơi KIANO công-bố năm 1993) như trong trường-hợp câu ca-dao:
"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."
Trong câu ca-dao này, NON và NÚI là tiếng Việt, chúng có cùng nghĩa nhưng chữ thì khác; chữ Nôm gọi là SƠN, chữ Hán gọi là CẤN. Theo Việt Dịch:
* CÂY được khoác Tượng LÔI (Chấn) có hình như 1 gốc mọc lên 2 cành, hoặc hình 2 luồng điện xẹt nhau gây ra
* NÚI, NON được khoác Tượng SƠN (Cấn) như hình ngôi nhà hay hang động, lànơi Người trú ngụ vào thời tiền-sử.
Xem thế, ta thấy 2 hình của LÔI và SƠN là hình lật úp (quay 180 độ) của nhau theo trục dọc: Một đằng giống hình cái bát úp xấp, một đằng giống hình cái bát lật ngửa. Cũng chính vì vậy, Tổ-Tiên ta đã để hai hình đó kề nhau mà ví von, mà so-sánh vì khi lật ngược lên thì "CÂY chẳng khác gì NÚI" (nhưng Chấn và Cấn lại là 2 hình nghịch nhau). Đây mới chính là cái thú-vị của Việt Dịch trong văn-chương chữ nghĩa.
[Chúng tôi xin mở ngoặc ở đây để nói rằng, một khi nhìn Tượng LÔI / SƠN qua Việt Dịch như nói trên, chúng ta nhận ra rõ ràng đó là hình vẽ "cái chầy" để giã; trong khi đáng buồn cho các tác-giả người Đức và Mỹ, họ đã không dám vẽ "cái chầy / PESTLE” để dãn-chứng kèm với quẻ Tượng TIỂU QUÁ theo Chu Dịch trong đề mục “History of Civilization” (đương nhiên là viết theo lời các Đại Dịch-Sư người Hán)/ Sách The I CHING or Book of Changes của Wilhelm/Baynes, Princeton University Press , seventh printing 1971, trang 334].
Hình ảnh đối chứng của CÂY và NÚI cũng đã được các nhà Dịch-Học, tiền bối của chúng ta xử-dụng trong bài thơ sau đây:
Bắc Nam đâu cũng một non sông,
Đi, ở can chi phải bận lòng. - - 0 - - - - - 0- -
Vận nước hãy còn đang Kiển, Bĩ, - - 0 - - - - - 0 - -
Làm trai chi sá ngại lao-lung. O
Gió mưa mấy độ cây không chuyển, O
Sấm sét nhiều phen núi chẳng rung. - -0- - - - - -0- -
Việc trải qua rồi, rồi mới biết, - -0- - - - - -0- -
Non sông muốn thử khách anh-hùng.
Bài thơ này do cụ Phan-Chu-Trinh làm (năm 1908, khí các cụ Võ Hữu Kiên, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tiểu La và Phan Chu Trinh đang cùng mgồi tù ở nhà lao Quảng-Nam, thì các cụ Huỳnh, cụ Phan, cụ Nguyễn phải lên đường trước vì bị đầy đi tù chung-thân tại Côn-Đảo) để nói lên tâm-sự của kẻ ở người đi. Trong bài, “gió mưa”, “sấm sét” được ví với những tra-tấn, khủng-bố của thực-dân Pháp và tay-sai; còn "cây" và "núi" được ví như chí-khí của các Cụ với một lòng vì Nước thương Nòi, không thể bị lay chuyển.
Trong ca-dao và thơ, CÂY và NÚI được đối nhau về bằng trắc đã đành, 2 Tượng của chúng còn đối nhau chan chát vì chúng là hình lật ngửa của nhau nữa (một đằng là “bát úp”, một đằng là "bát ngửa"), mà chúng ta đã thấy rõ qua biểu-tượng bằng Việt Dịch như ở trên.
Ta hiểu và thấy rõ ràng NÚI có khối chóp đặc 3 chiều; về CÂY thì khi nhìn phần phía ngọn, ta cũng thấy có hình NÚI, vậy thì làm gì có “đối” thật sự! Tiền nhân đã muốn ta nhìn thấy "đối qua Dịch Tượng".
Thường khi nói đến “cây” là người ta muốn nói đến chiều cao (bởi vì nói đến cây là nói đến “trèo", "trèo cao té nặng" v.v.) Đơn-giản-hóa đi, cây được vẽ bằng 1 đoạn thẳng đứng, có cành và tàn lá như chóp núi (cây thông là loại cây chịu rét rất giỏi là một thí-dụ) (h.1).
Để suy bì với NÚI, Tổ-Tiên ta đã nghĩ đến chuyện chụm ngọn 3 cây lại với nhau
(ngọn giao nhau và gốc choãi ra ở 3 hướng) hầu tạo được một hình khối tam-giác 3 chiều rất khó bị lật chuyển, tương-tự như núi (h.2).
Khi so sánh CÂY với NÚI thì đúng là các Cụ đứng ở gần cây, và núi thì ở xa xa, hướng sau cây. Cây gần hơn nên ta thấy cây cao hơn núi, lớn hơn núi (chẳng khác nào khi ta đưa ngón tay chỉ mặt-trăng, di chuyển ngón tay càng gần mắt hơn thì có lúc thấy "ngón tay ta lớn hơn mặt Trăng vậy" vậy. Phải nói là phương-pháp nhận-xét tỉ-giảo của Tổ-Tiên ta vào thời xua cũng đã tinh-tế lắm! mà vì chưa có chữ viết nên chỉ truyền-khẩu lại.
Nhìn hình 2 và 3 ta thấy: Khi để 3 cây chụm lại với nhau, ta tạo được môt hình trái núi. Lúc cây ở gần, núi ở xa thì núi chẳng khác nào như một "hòn"(hòn non bộ) mà thôi. Chắc hẳn thời-gian xuất-hiện câu ca-dao này là thời-gian Tổ-Tiên ta biết dùng Tượng của Việt Dịch, và vào lúc đó mới chỉ có Việt Dịch thôi (Thời-gian hoàn-thành Việt Dịch phải là thời-gian ngay sau khi 2 bảng Hà-Đồ và Lạc-Thư xuất-hiện, với những chấm-tròn đen và trắng). Hồi đó các Ngài sống ở vùng Trung-nguyên nông-nghiệp, chỉ có đồi mà không có núi, khong như dân du-mục Hán Mông sống trên vùng cao-nguyên có núi cao và chuyên nghề săn bắn. Phải chăng câu ca-dao là một bài học đơn-giản nhưng chính yếu, nói lên nét giáo-dục từ thời Hùng-Vương dựng nước; cũng là sự chống-đối giữa văn-minh nông-nghiệp và nhóm người sống bằng du-mục săn bắn.
Thực sự khi truyền-tụng câu ca-dao này, Tổ-Tiên ta muốn nói nhiều về nghĩa bóng của nó, chẳng khác nào câu hát "Đèo cao thì mặc đèo cao, lòng ta quyết-chí còn cao hơn đèo!" hoặc "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông!"v . v . Hầu hết là những câu ca-dao tục-ngữ nhằm đề cao những giá-trị Nhân-Bản Việt Nam, đầy tính giáo-dục cao-cả, nhắc-nhở con cháu đoàn-kết vượt khó-khăn. Ba cây “chụm” lại mới có hình quả núi , chớ 3 cây nối lại thì tuyệt-nhiên không phải. Ba cây chụm lại là một biểu-tượng "vững như núi", nhất là khi 3 ngọn cây lại được cột lại với nhau. Ta còn thấy 3 cây chụm lại (cây dễ kiếm và rẻ tiền nhất là cây tre) như giàn treo gầu sòng, tát nước từ vũng thấp lên ruộng cao ở những miền quê thuộc Văn-Lang Bách-Việt xưa.
Chỉ với Tượng của Việt Dịch, chúng ta mới tìm thấy những hình ảnh đích-thực diễn-tả được đầy-đủ lý nghĩa của Văn-Hóa Dân-Tộc. Thế mới biết, muốn hiểu rõ di-sản Văn-Hóa của Tổ-Tiên mà ta từng nghe nói "năm ngàn năm văn-hiến”, ít nhất chúng ta phải có tấm-lòng Việt và tâm-tư Việt trước đã; Tâm-tư Việt dầy đặc trong Việt Dịch và Việt Đạo. Không như những kẻ “cá-nhân chủ nghĩa”, may mắn được sống tạm ổn để “nuôi thân” (làm nô-tài) là đã vội thỏa-mãn, không biết rằng đa số đồng-bào ta vẫn còn bị khinh chê (mà ngay mình cũng vậy) nên ta vẫn rất cần quảng-bá Văn-Hóa Việt Nam với các cộng-đồng bạn để cùng tôn-trọng nhau. Khi người Việt-Nam được tôn-trọng chung như vậy, sự làm việc của chúng ta mới được chú-ý và do đó dễ đem lại hiệu-quả hơn. Lại có kẻ, vì cá-nhân mình tạm thất-bại, đã bất-mãn với tiền-nhân, để buông lời rẻ rúng những biểu-tượng văn-hóa cố-hữu, như Chùa-Một-Cột chẳng hạn; có kẻ viết "Không thể cứu dù có là Thánh. . . ." (lại nêu hẳn tên riêng ra), mới đáng trách. Kẻ khác, tự nhận mình là "văn sĩ”, lại trắng trợn sủa đổi cả những sự-tích thần-kỳ làm nên lịch-sử hào-hùng của Dân-Tộc; họ đã không hiểu nổi Gậy-Thần 9 đốt có 2 đầu Sinh Tử (một bộ mặt mới của “cửu cung bát-quái” mà có lẽ họ quen thấy nhưng không nhận ra được) lại bịa ra là Gậy-Thần 3 đốt .v .v . Thậm-chí có ngừơi, đã không hiểu nổi những nhân-thoại trong Cổ-Sử lại dám đề-nghị lấy Việt-lịch từ khi có Thành Cổ-Loa thôi; họ không hiểu gì về ẩn-dụ "Thần Kim Qui" cả. Để đến nỗi có kẻ muối mặt viết “Tổ-Quốc Ăn-năn”; họ chẳng hiểu gì hai chữ Tổ-Quốc, họ cho rằng là L’état (tiếng Pháp) hay Government (tiếng Mỹ) chăng? (1) Chỉ những “Đại Trượng Phu” mới biết coi nhẹ mình, mở lối cho đại khối đồng-bào, đại đa-số trầm lặng nơi đáy-tầng Dân-Tộc vẫn bị thế-giới hiểu lầm. Có những nước cho rằng dân ta là dân Tầu, nước ta là một quận huyện của Tầu, Văn-hóa ta là vay mượn của Tầu .v . v . Những dân-tộc khác đó đâu biết rằng chỉ duy-nhất dân Việt ta thờ cúng Tổ-Tiên bằng Đồng Bánh-Chưng-lớn buộc bằng 4 lạt, (9 ô vuông/ Magic Square 3) và Cây Mía (dựng cạnh bàn-thờ) tượng-trưng Gậy-Thần 9 đốt (mà người bình-dân, ngay cả tại Bùi-Chu Phát-Diệm tỉnh Nam-Định, thường gọi là "Gậy Ông-Vải").
Để tạm kết-thúc, chúng tôi xin nhắc lời của một nhà giáo-dục, cũng là nhà nghiên-cứu Trống-Đồng Lạc-Việt, Giáo-Sư Tiến-Sĩ Dương–Thiệu-Tống: "Hãy nên có một tâm-tư Việt khi nói về Văn-Hóa Việt", bởi vì Văn-Hóa Việt là Văn-Hóa Nhân-Bản.
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Who’s Who of American Inventors Viện KIANO Văn-Hóa Việt 3/ 1998, Việt lịch 4877
(1) Vài điều cập-nhật-hóa vào năm 2001.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:31:41 GMT 9
CA DAO VIỆT NAM
Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo
Sông hồ một giải con con,
Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo.
Yêu nhau sinh tử cũng liều,
Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau
(Ca dao Việt Nam)
Cứ mỗi độ Xuân về, điều đầu tiên mà ta nghĩ tới trước tiên là tuổi. Nói về tuổi thọ của một đời người, chúng ta thường chúc nhau "sống lâu trăm tuổi". Nhưng nếu một người sống đủ trăm năm thì họ sống thật được bao nhiêu năm. Theo tôi chỉ trong khoảng năm mươi năm, tính từ khi ta lớn lên cho đến khi "rửa tay, gác kiếm". Đó là quãng thời gian sống thật của một đời người, quảng thời gian mà ta đã biết thế nào là tình yêu. Trước đó thì quá trẻ, sau đó thì quá già. Trên thực tế, rất ít người có tuổi thọ là trăm năm. Theo thống kê vào năm 1990, tuổi thọ của quí ông trung bình là 71.9 và quí bà là 79. Như vậy, tuỗi sống thật cũng chỉ chừng trên dưới năm mươi tùy theo hoàn cảnh và tùy cả vào cách sống của mỗi người.
Theo thi hào Nguyễn Du trong Kim Vân Kiều thì người ta có hai con đường lựa chọn là tu để vào "cõi phúc" hay chạy theo tình để tạo "dây oan". Thật ra, "cõi phúc" và "dây oan" cũng có những cái rắc rối riêng và chỉ những người trong cuộc mới biết được. Ai sinh ra mà không phải chịu cảnh "Đời là bể khổ"? Thời gian năm mươi năm của cuộc đời, nếu không chọn con đường "cõi phúc", người ta bắt đầu vào cái lộ "dây oan". Gặp một người chia sẻ ngọt bùi và đi tới hôn nhân không dễ mà cũng không khó. Có người tìm bạn đường cả đời vẫn không thấy mà có người tự nhiên lại gặp. Do đó ta vẫn cho là duyên nợ, có duyên gặp được nhau và có nợ nên phải lấy nhau để trả nợ. Nợ nhiều hay nợ ít, theo người Việt xưa thì cũng phải trả cho hết cuộc đời.
Vì sống chết với nhau như thế, Việt Nam ta có những câu ca dao, tục ngữ, câu hò, bài hát dễ thương, trữ tình trong nhân gian, mà chúng ta không biết phát xuất ở thời gian nào, không biết tác giả là ai; có những câu hò đầy tình nghĩa vợ chồng của người phụ nữ như:
"Đi đâu cho thiếp theo cùng,
Nắng mưa thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam"
Hay:
"Vì tằm em phải chạy dâu
Vì chồng em phải qua cầu đắng cay"
Hoặc có câu tục ngữ đầy tình nghĩa phu thê "thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn", hay "chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa". Trong đó nói lên được sự bình đẳng, chung sức nhau để xây dựng gia đình. Trong thiên nhiên, mọi vật tạo hóa dựng nên đều có sự cân bằêng. Và nhờ sự cân bằng mà vạn vật đều vững vàng và tồn tại. Tình vợ chồng cũng thế, vợ chồng cùng chung sức như nhau thì chắc chắn gia đình sẽ không đổ vơ.õ Đó là tinh hoa của văn hóa Việt.
Khi người Việt chịu ảnh hưởng quan niệm hôn nhân của Khổng Mạnh, con cái thường phải nghe lời cha mẹ, "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" nên khi được cha mẹ gả đi đàn bà cứ ngồi nguyên một chỗ dù bị đối xử như thế nào. Trong khi đó, luân lý xã hội lại cho đàn ông có quyền lấy thêm thê thiếp "Trai năm thê, bảy thiếp. Gái chính chuyên có một chồng".
Trong hôn nhân, thời Khổng Mạnh, người vợ thường chịu thua hoàn toàn nên người chồng khó có lý do bỏ vợ. Thời đó người ta sống với nhau không phải vì tình yêu mà chỉ vì bổn phận nên rất ít có trường hợp ghen tuông, giận hờn làm xáo trộn gia đình. Như vậy ta có thể hiểu được tại sao người đàn bà lại đi lấy vợ hai cho chồng. Chính vì được giáo dục chịu đựng từ đời này xuống đời kia nên đàn bà thời Khổng Mạnh không phàn nàn về bất cứ một bất hạnh nào xảy đến cho chính mình. Cũng theo quan niệm ngày xưa, con gái bị gả chồng sớm vì sợ ế, làng xóm láng giềng cười. Con gái nhà ai lấy chồng sang giàu không những làm rạng danh cho cha mẹ mà conø cho cả giòng tộc nữa. Vì vậy nên có nhiều cuộc tình tan vỡ vì không "môn đăng hộ đối". Đối với đàn ông, lấy vợ để nối dõi tông đường nên " lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống". "Tông" tốt là cái đức hạnh, do gia phong nhiều thế hệ mà có. Còn "giống" tốt là khỏe mạnh, tướng mạo phương phi. Tuy nhiên, dù tài đức vẹn toàn, nếu nàng dâu không sinh con đẻ cái, vẫn không được nhà chồng chấp nhận. Như vậy con gái lấy chồng là để đền ơn dưỡng dục của mẹ cha, và để lãnh trách nhiệm đem giòng giống cho nhà chồng. Ước nguyện có tình yêu trong hôn nhân của người con gái là điều xa xỉ và thầm kín. Sau thời Khổng Mạnh, văn hóa tây phương tràn sang, tình trạng tương quan trai gái bắt đầu thay đổi. Nếu ta muốn biết về tâm tình của người phụ nữ được bộc lộ ra từ thời nào, có lẽ cách tốt nhất là ta nhìn vào văn học sử. Khi cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời vào năm 1925, người ta mới thấy cái lãng mạn của tình yêu trai gái. Tố Tâm và Đạm Thủy yêu nhau, nhưng Đạm Thủy đã hứa hôn với một người theo ý của gia đình nên Tố Tâm phải nghe lời cha mẹ thành hôn với một người đàn ông khác. Nhưng câu chuyện không dừng ở đây mà là cái chết của người con gái sau khi lên xe hoa về nhà chồng.
Mối tình của hai nhân vât Tố Tâm và Đạm Thủy cũng ngang trái éo le và lãng mạn như chuyện tình của Romeo và Juliet trong kịch bản của văn hào William Shakespear vào thế kỷ thứ 16. Chuyện tình này vẫn còn được trình diễn ở các hý viện nổi tiếng cho đến bây giờ. Tiểu thuyết Tố Tâm đã làm rơi nước mắt của nhiều kẻ yêu nhau, nhất là giới phụ nữ. Điểm đặc biệt, nhà văn Hoàng Ngọc Phách đã nói lên được sự cần thiết của tình yêu trong hôn nhân đối với thế hệ bấy giờ. Sau đó, nhóm Tự Lực Văn Đoàn (1933) đã mạnh mẽ nói lên những xung đột giữa mới và cũ về đời sống gia đình và xã hội, điển hình là cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh (1935). Loan là một cô gái theo tân học, yêu Dũng, một thanh niên đi làm cách mạng, bị cha từ bỏ. Vì thế mà hai người không lấy được nhau. Sau đó Loan bị gả cho một người đàn ông khác , đưa đời người con gái đẹp xuống vực thẳm. Cuốn Đoạn Tuyệt là cuốn sách gối đầu giường của các thiếu nữ thời bấy giờ. Nhà văn Nhất Linh đã mở đầu việc tranh đấu cải thiện đời sống phụ nữ trong hôn nhân.
Đến đây chúng ta không thể không nhắc đến một bài thơ đăng ở báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy vào năm 1937, ký tên TTKH, diễn tả sự tan vỡ của một mối tình lãng mạn, sự đau khổ của một người con gái phải sống với bổn phận làm vợ mà thiếu vắng tình yêu:
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn dấu trong tâm một bóng người".
Bài thơ này đã nổi tiếng đến bây giờ và không biết tác giả là ai. Nếu tác giả là phụ nữ, chắc bà phải là người can đảm, dám nói lên sự thật. Và nếu bà sống vào thế hệ sau, bà sẽ can đảm hơn. Bà sẽ không khóc lóc than van. Bà sẽ có nhiều lựa chọn. Hoặc là bà bỏ cuộc, hay là bà chấp nhận ở lại để tu bổ liên hệ vợ chồng đã "lạt lẽo" bấy lâu. Nhưng tiếc thay TTKH không sinh vào thế hệ sau nên bà không có quyền lựa chọn.
Nói đến thế hệ sau, tôi nhớ ngày còn ở tuổi mười lăm, mười sáu, vì đời sống trong quân đội, cha tôi bị đổi về một tỉnh nhỏ. Ông tính hiếu khách nên quen biết với hầu hết các chức sắc trong thị xã. Hồi đó một ông quận trưởng độc thân hay đến thăm nhà. Mỗi lần tới ông cho chị em tôi nhiều quà và hay nói chuyện tôn giáo với cha tôi tuy ông không phải là người có đạo.
Mẹ tôi nói:
_ Ông quận này giàu lắm, đứa con gái nào mà vớ được ông là phước bảy mươi đời.
Tôi cứng đầu trả lời:
- Không hẳn như vậy đâu mẹ, con chỉ lấy chồng khi nào con thích người đó. Bây gìờ con thích đi học.
Mẹ tôi giáo huấn bằng một giọng đặc sệt Bắc kỳ:
- Vẽ! lấy nhau xong mới biết. Mẹ có biết ba trước khi lấy nhau đâu. Học lắm rồi ế chồng. Một bước lên bà mà không muốn.
Tôi rất sợ "lên bà". Nhớ đến mỗi lần các mệnh phụ phu nhân đến chơi, các bà ăn mặc, trang sức lộng lẫy làm tôi ngột thở. Tưởng tượng một con bé mười sáu tuổi, tóc bới cao, tay đeo đầy kim cương, cẩm thạch, vàng, bạc sáng lóe, trông "nhà quê" quá. Không, chắc chắn là không. Ít lâu sau ông quận lấy vợ, mẹ tôi bảo cô gái ấy có phước, còn "con nhà này sao ngu quá".
Mẹ tôi lớn lên cùng thời với Tự Lực Văn Đoàn mà sao cụ vẫn còn có quan niệm hôn nhân cổ điển như vậy. Nhưng nói cho cùng, phụ nữï Việt Nam đã bị ảnh hưởng giáo điều Khổng Mạnh Trung Hoa quá lâu, từ đời này đến đời kia, không thể một sớm một chiều mà thay đổi được. Công việc canh tân đời sống gia đình cho phụ nữ do Tự Lực Văn Đoàn khởi xướng, phải mất một thời gian dài mới được xã hội chấp nhận.
Dần dần theo đà tiến hóa, con gái hay con trai đều được nuôi dạy như nhau nên con gái cũng độc lập như con trai. Vì thế khi lấy chồng điều kiện vật chất chỉ là thứ yếu. Không như thời Khổng Mạnh, cha mẹ dù muốn "dựng vợ gả chồng" cho con cái cũng khó thực hiện vì trai gái đã có quyền gặp gỡ để tìm hiểu nhau trước khi đi đến hôn nhân. Đó là một quan niệm chính đáng mà phần lớn chúng ta đều công nhận. Trai gái đã có quyền tự do kết hôn nhưng lại xảy ra một điều mà ngày xưa không có là trường hợp "nửa đường đứt gánh" của những cặp vợ chồng không hòa thuận. Nguyên nhân vợ chồng đưa nhau ra tòa có rất nhiều lý do mà thời nay mới có. Khi đôi trai gái yêu nhau mà không có gì trắc trở, được nên vợ chồng thì chắc không còn gì hạnh phúc cho bằng. Họ đi trăng mật, nói với nhau những lời nhỏ nhẹ ái ân, hai người tưởng như hai mà một, một mà hai. Hay nói một cách khác như người Mỹ là người này là nửa của người kia. Nửa kia mà đau sơ sơ thì nửa này sẽ đau đứt ruột. Và cứ mãi như thế thì chắc không ai muốn làm khổ ai. Nhưng tất cả mọi việc trên đời không thể lúc nào cũng hoàn hảo, ngay cả con ngưới, "nhân vô thập toàn".
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:33:22 GMT 9
Người ta sống với nhau lâu ngày sẽ thấy đươc cả cái tốt , cái xấu của nhau. Nhiều khi những thói hư tật xấu đó của người bạn đường đã có sẵn nhưng mình không thấy lúc đầu, hoặc mình đã chấp nhận nhưng bây giờ mới cảm thấy khó chịu. Ngoài ra, sống trên đời, ít ai tránh khỏi lỗi lầm. Trong trường hợp ấy, sự rộng lượng tha thứ là cần thiết. Tuy nhiên, một người có thể được tha thứ, không có nghĩa là người ấy không phải tự sửa lỗi lầm của mình. Trong thời gian khủng hoảng này là lúc cần cẩn thận kẻo cái "lâu đài hạnh phúc" có thể đổû sập xuống làm thương tổn đến cả vợ chồng con cái. Ngoài ra, sự xáo trộn gia đình còn có rất nhiều lý do khác, thực tế nhất vẫn là tiền bạc. Thống kê cho thấy nguyên nhân của sự cãi nhau giữa hai vợ chồng phần lớn cũng vì tiền. Trong chương trình "To day" trên đài NBC, giám đốc tài chánh của tờ Money Magazine cho biết có tới 67% cặp vợ chồng cho biết vấn đề tiền bạc trong gia đình làm họ bất hòa. Có những cặp vợ chồng đổ vỡ chỉ vì muốn người bạn đường mình "phải như ngày xưa", sự đòi hỏi này là một điều không thực tế và dễ gây lục đục trong gia đình. Tiến sĩ Phil, một nhà cố vấn gia đình nổi tiếng đã khuyên những cặp vợ chồng có vấn đế này là phải thực tế. Những bông hồng rải trong bồn tắm, trên giường ngủ, đèn nến lung linh mờ ảo ...chỉ là lúc ban đầu.
Những kiểu du dương như Hollywood chỉ là giả tạo. Cuộc sống gia đình không thể đặt căn bản hạnh phúc trên những chuyện mơ mộng viển vông ấy. Tiến sĩ Phil viết cuốn "Get Real" để hướng dẫn những đôi vợ chồng có thể làm thăng hoa đời sống gia đình hơn.
Một vấn đề không thực tế khác nữa là quan niệm vợ chồng luôn luôn phải đồng ý với nhau mới là hạnh phúc, và chắc chắn không bao giờ có chuyện đó xảy ra. Trời không sinh ra ai cũng giống ai mà sinh ra người này bổ túc cho người kia, cho nên đòi hỏi sự giống nhau toàn diện là không tưởng. Trong cuốn "Surrendering to marriage" của nhà báo nổi tiếng Iris Krasnow, tác giả cho biết "nếu có người nào nói với bạn là vợ chồng họ lúc nào cũng hạnh phúc là họ nói dối hay là họ không bao giờ nhìn thấy người bạn đường của họ cả". Vì sự thật gia đình nào cũng có lúc bất đồng ý kiến " cơm không lành, canh không ngọt". Và bà cho biết người nào tin rằng vợ chồng hạnh phúc suốt đời là tự "mua vé tàu đi tới ly dị", vì không có cuộc hôn nhân nào hòan hảo cả. Quan niệm của bà Krasnow là "phải biết đầu hàng để chiến thắng" cả vợ lẫn chồng, với mục đích để cứu vãn thành trì gia đình khỏi đổ. Bà cũng tin rằng ngay cả những cuộc hôn nhân sắp tan vỡ cũng vẫn có thể hàn gắn tốt đẹp, trừ khi mình không muốn. Cùng một ý là bảo tồn hôn nhân, tiến sĩ Harville Hendrix, tác giả cuốn " Getting the love you want", một người rất kinh nghiệm về giáo dục hôn nhân hơn 30 năm qua, đã có phương pháp tìm hiểu nguyên nhân làm cho hai vợ chồng đau khổ, đối nghịch nhau trong những cuộc hôn nhân nhiều sóng gió. Một trong những lý do mà ông nêu ra là khi hai vợ chồng bất hòa với nhau về một vấn đề nào đó, thật sự vấn đề đó không phải là mục tiêu, mà có khi là họ đã đụng chạm đến một vết thương tâm lý của nhau từ thời thơ ấu.
Sau khi xác định xong những nguyên nhân gây xung đột, Hendrix cho hai vợ chồng đối thoại. Ông khuyên cả hai vợ chồng đều phải biết lắng nghe nhau nói và đứng ở vị trí người kia để cảm thông. Do dó hai người sẽ hiểu nhau hơn và cùng nhau hoàn thiện cuộc sống gia đình.
Có lẽ người Mỹ đã nhìn thấy nền tảng gia đình tại Hoa kỳ không còn bền vững. Nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ đã đưa đến hậu quả xáo trộn cho xã hội như tình trạng tuổi trẻ phạm pháp quá nhiều. Lý do chính cũng vì cha mẹ lục đục không có thì giờ săn sóc con cái. Điều này làm nhiều người quan tâm, đã viết sách để củng cố truyền thống gia đình. Ông William Bennett, tác giả cuốn The Broken Heart, một người có quan niệm bảo thủ về chính trị cũng như văn hóa, đã báo động về sự xụp đổ giá trị gia đình của người Mỹ. Ông quy trách nhiệm cho cách sống ích kỷ không bình thường của cha mẹ làm ảnh hưởng không tốt tới đời sống của các con. Thời đại máy móc, hối hả hiện nay cũng là nguyên nhân lớn gây đổ vỡ gia đình làm nhiều người lo sợ, nhất là giới trẻ. Những người con, lớn lên trong một gia đình cha mẹ ly dị hình như muốn tránh né cuộc sống hôn nhân. Họ đổi quan niệm theo đà sống mới. Hoặc là họ lập gia đình trễ hơn. Theo thống kê năm 2000 thì tuổi trung bình của đàn ông lấy vợ là 26.1, so với 23.2 vào năm 1970. Về phía phụ nữ, tuổi lấy chồng cũng trễ hơn, trung bình là 25,1 vào năm 2000 so với 20.8 vào năm 1970.
Thứ đến là vấn đề sống chung nhưng không có hôn thú đã tăng vọt. Theo thống kê năm 2000 thì có tới 72% các cặp trai gái hay đồng tình luyến ái sống với nhau như vợ chồng nhưng không có hôn thú. Tình trạng trai gái sống chung ngoài hôn nhân, nếu có con thì cũng ảnh hưởng tới trẻ em vô tội không ít. Một cách tránh né gia đình khác nữa là người đàn bà chọn làm người mẹ độc thân, có con ngoài hôn nhân và chịu trách nhiệm hoàn toàn nuôi đứa nhỏ như cô đào nổi tiếng Jodie Foster, tài tử chính nỗi tiếng trong phim "The silent of the lambs" hay nuôi con nuôi như vài tài tử độc thân khác, hoặc không lấy chồng sau khi ly dị. Trong trường hợp này, dù có đủ tiền nuôi con đi nữa, đứa trẻ vẫn bị thiệt thòi vì chúng cần sự săn sóc của cha lẫn mẹ.
Cũng may, thống kê cho biết tỉ lệ người mẹ độc thân Á đông trong những nơi nhiều dân Á dông trú ngụ như New York chẳng hạn, chỉ có 4. 4% so với người da trắng là 6.8% và người da đen là 29.6%ø.ï Theo như giáo sư xã hội học tại Porland State University, Sharon Lee nói rằng nhiều người Á đông là những di dân mới nên họ còn giữ lại được truyền thống cổ truyền, gia đình không đổ vỡ.
Tuy nhiên một nhân vật cao cấp khác là ông Christopher Kui giám đốc chương trình người Mỹ gốc Á châu cho biết, có thể thống kê không chính xác vì người Á đông ly thân nhưng không muốn khai báo.
Một điều khó phủ nhận là dù quan niệm ra sao đi nữa, trong quãng đường hôn nhân ai cũng phải đi qua cầu Hỉ, Nộ, Ái, Ố. Không giống như tuổi đầu đời mộng mộng, mơ mơ để làm dáng cho cuộc đời, cũng không phải như tuổi cuối đời, đi đứng run run rẩy rẩy, nói trước quên sau, phải sống dựa vào con cháu. Đời sống vợ chồng là thời gian người ta sống thực với đầy đủ chuyện vui buồn mà người độc thân không thể có. Đó cũng là thời gian trưởng thành của những người có trách nhiệm với chính họ và vợ chồng con cái.
Nói chung, hầu hết chúng ta đều mong có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, không sóng gió dù trong nền văn hóa nào. Sự đạp đổ bao giờ cũng dễ dàng hơn sự xây dựng. Nếu gia đình lủng củng mà nghĩ đến xa nhau là một việc làm quá dễ, chỉ cần ký một tờ giấy là xong. Còn làm hòa với nhau và giúp nhau cải thiện cuộc sống mỗi ngày, chắc chắn khó khăn hơn nhiều.
Tuy nhiên, khi làm việc mà mình thấy đúng thì dù khó khăn người ta vẫn cảm thấy có giá trị. Đó là phần thưởng Đối với người Việt Nam quan niệm liên hệ vợ chồng cũng là "Ba năm đầu là tình, ba mươi năm là nghĩa" hay ngay cả như các cụ ngày xưa, chẳng có ba năm đầu đi nữa. Dù sao, khi tình yêu đã biến thể thành nghĩa vợ chồng thì cả hai sẽ cùng nhau nhìn về một phía. Cái phía ấy là các con khi tuổi còn trẻ và các cháu khi tuổi về già. Con, cháu chính là bột hồ dính liền đại gia đình lại với nhau.
Hôn nhân không phải là tờ hôn thú để hợp thức hóa cặp trai gái sống chung với nhau, cũng không phải là tờ "Hợp đồng hôn phối" mà đôi tân hôn ở Mỹ đã ký trong ngày cưới. Và chắc chắn hôn nhân không là cái áo, muốn mặc vào hay cởi ra lúc nào cũng đươc. Hôn nhân là một sứ mạng, Sứ MạngTình Yêu. Khi trai gái yêu nhau, nếu thật sự là tình yêu thì lúc nào cũng còn đó vì tình yêu thật không bao giờ chết. Họ đã được hoàn toàn tự do kết hôn thì đương nhiên phải chịu trách nhiệm về quyết định của chính mình. Cái trách nhiệm đó là thực hiện những lời đôi trai gái đã thề ước với nhau, ở với nhau cho hết cuộc đời "dù khỏe mạnh hay đau yếu, dù giàu sang hay nghèo hèn, dù hoàn cảnh có tệ hơn hay khá hơn...".
Nếu may mắn có tuổi thọ cao, chúng ta sẽ sống hết quãng đời vợ chồng với thiên đườøng và địa ngục. Và năm mươi năm ấy, hầu như cái đích mà chúng ta ai ai cũng ước mơ là cuối đời vẫn còn mãi mãi có nhau.
Phạm thị Quang Ninh
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 5, 2008 6:27:10 GMT 9
Những ngôi đình Việt Nam Bất kỳ một làng quê nào ở Việt Nam cũng có một ngôi đình. Đình là ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành Hoàng và họp việc làng Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang , xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con Nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành Hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.
Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên.
Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt. Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 5, 2008 6:30:01 GMT 9
-------------------------------------------------------------------------------- Chiếc Nón Lá Việt Nam Nón là Việt Nam là một hình ảnh mà người xa quê hương lâu rồi vẫn luôn mong nhó có ngày gặp lại. Chiếc nón đan bằng lá đơn sơ ấy có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Trên đường xa nắng gắt hay trong những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre, cô gái có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Ngoài Huế chiếc nón lá được thi vị quá thêm bằng những bài thơ lồng bên trong lớp lá. Muốn đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn xuyên qua ánh nắng mặt trời. Thơ sẽ hiện ra bên trong nón... Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam. Các cô nữ sinh đi học đều có chiếc nón lá theo kèm. Nó có rất nhiều công dụng đối với các cô gái ấy. Nón che nắng, che mưa. Nón che ngực, che thân những khi thẹn thùng bởi ánh mắt của các chàng trai. Rồi có lúc nón cũng dùng để đựng me, đựng mận khi các cô đi chơi vườn cây. Nón cũng được phe phẩy đem gió mát đến cho các gương mặt đang ửng hồng vì nóng. Chiếc nón lá chính là biểu tượng của Việt Nam, là đồ vật truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước. Nếu ở một nơi xa xôi nào đó không phải trên đất nước Việt Nam, bạn bỗng thấy chiếc nón lá, đó chính là vốc dáng Việt Nam. (VS)
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 5, 2008 6:35:47 GMT 9
Áo Dài Việt Nam Những dịp đầu xuân ở hải ngoại. Cộng đồng Việt Nam thường hay tổ chức các sinh hoạt với nhau. Trong đó các cuộc thi "Hoa Hậu Áo Dài" là được nhiều người tán thưởng nhất. Nổi tiếng là cuộc thi hàng năm đươc tổ chức ở miền Nam California, do Tổng hội Sinh viên Việt Nam tổ chức. Gần đây tại Loas Angeles, tạp chí Viễn Xứ cũng đã tổ chức một cuộc thi "Hoa Hậu Áo Dài" trong vùng. Kết quả rất mỹ mãn và thành công. Áo tứ thân miền Bắc là chiếc áo dài đầu tiên của Việt Nam chỉ mặc vào dịp lễ Tết. Áo nâu với hai vạt trước buộc chéo thả xuống đi với quần lĩnh đen và thắt lưng lụa. Rồi áo tứ thân biến đổi thành áo mớ ba (hay áo mớ bảy). Cổ áo cao khoảng 2cm, tay may bó khít cổ tay, chiều rộng ngực eo bằng nhau, điểm đặc biệt là ngoài hai vạt chính còn có vạt phụ (vạt con) dài sát gấu áo. Khuy áo được tết bằng vải, cài cúc cạnh sườn. Cổ áo lật chéo để lộ ba màu áo (hoặc bảy màu áo). Lớp ngoài cùng thường là lụa màu nâu hoặc the màu thâm, kế tiếp là màu mỡ gà, cánh sen, vàng chanh, hồ thủy... nhiều màu, hấp dẫn mà vẫn nền nã, kín đáo, hài hòa. Theo làng sóng Âu hóa, năm 1935 áo dài tân thời của Lemur Nguyễn Cát Tường xuất hiện. Áo dài vai bồng, tay măng-sết, cổ tròn khoét sâu đến ngực, viền đăng ten. Gấu áo cắt sóng lượn nổi vải khác màu hay đính ren diêm dúa. Đến giai đoạn 1939-1945 có đấu tranh quan điểm thẩm mỹ, áo dài truyền thống dân tộc lại phục hồi. Cổ áo các thiếu nữ cao từ 4-7 cm, góc tròn vải hồ cứng, vạt áo lượn, tà khép rộng bản, dài gần mắt cá chân. Cuối năm 1968-1969, áo dài khoét rộng cổ, hở vai (décolleté) của vợ Ngô Đình Nhu được "lăng xê". Đầu năm 1971 áo dài tay Raglan do bà Tuyết Mai cách tân khắc phục nhược điểm nhăn, đùn vải ở vai và nách áo. Từ đầu thập niên 70 -75 là thời kỳ áo dài mini, hippy mặc với quần tây ống xéo, ống voi tràn lang. Cho đến năm 1989, lần đầu tiên có cuộc thi hoa hậu áo dài do báo Phụ Nữ tổ chức, Kiều Khanh đăng quang và áo dài truyền thống trở lại với vẻ đẹp dịu dàng vốn có. Tiếp theo là cuộc trình diễn "Mười khúc biến tấu áo dài" của họa sĩ Minh Hạnh và "Mười hai áo dài vẽ" của họa sĩ Sỹ Hoàng đã tạo nên luồng sinh khí mới. Các hội thi Người Đẹp Thể Thao, Hoa Khôi Học Đường, Hoa Hậu báo Tiền Phong... đều có tà áo dài trên sân khấu. Năm 1995 là năm được mùa của chiếc áo dài dân tộc. Chiếc áo dài của Trương Quỳnh Mai được chọn là trang phục dân tộc đẹp nhất tại Tokyo. Áo dài Hoàng Hoa mặc (với thiết kế mới của Sỹ Hoàng) đã làm say lòng mọi người và được chọn là chiếc áo dài đẹp nhất tại cuộc thi hoa hậu áo dài Sài Gòn lần 2. Áo dài 1995 cách tân phù hợp với thời đại và đẹp hơn. Tà áo dài, chịt ben ngực, eo lưng. Cổ cao lượn tròn góc từ 4 - 7 cm, tay áo dài ôm vừa sát tay. Áo dài nhung, thêu, vẽ, in bông... đã tạo nên những vẻ đẹp kiêu sa hơn nữa nâng cánh áo dài Việt Nam bay lên...
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 4, 2008 4:37:17 GMT 9
Chọn Vợ...Coi Tướng
Theo quan niệm “ Nam ngoại nữ nội” dưới nhãn quang tướng học Á đông, những tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn :
-Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.
-Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.
-Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.
Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.
Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.
Miệng không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt ruồi. Tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.
Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ đó*. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó, chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.
*Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ hàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc.
Dưới nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.
Ngược lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu : “Mũi đàn bà là phu tinh”. Miệng quá lớn và mỏng, môi sáng hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.
Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng,thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v… người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn khổ.
Về phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.
Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây :
Loại hướng nội : Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ lạc quan, dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, không thích thủ đoạn. Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính thường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thuỷ với chồng.
Loại hướng ngoại: Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao, môi mỏng cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui, dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán. Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ không ưa nấu nướng,kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.
Loại trung tính: Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khá mập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá mỏng. Các bộ phận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu của hai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát loại tướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác .
Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng trong thực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phải đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lãnh vực bao gồm nhiều trọng đề dưới đây :
a ) Lãnh vực cá tính
1 - Tướng người ham mê nhục dục
Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt : -Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm -Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng -Phía dưới mắt ( Lệ đường ) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt ( Ngư vĩ ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm -Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo -Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm -Miệng lớn và khoé đi xuống lưng ong -Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đới ít ra cũng vài ba bận thông dâm -Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục -Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm -Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật -Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy -Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng -Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm
Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị : có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp. Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc điểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện của mình.
Ngoài ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện được cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau :
a ) Nhân trung có tía đỏ :
Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giớ . Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đó hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi .
b ) Mắt tam bạch :
Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.
c ) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen.
d ) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.
Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình nhân hoặc vợ nhà chưa mây mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.
2 - Tướng người trinh thục :
Trong nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt, vì mắt là cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau :
-Trán tròn nhưng không cao, không lồi -Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể -Môi hồng, răng đều và trắng -Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao -Đi đứng, ngồi chững chạc, đoan trang -Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nó, ít cười
3 - Tướng người hung tợn
Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau đây :
-Miệng thô, môi lộ xỉ -Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít -Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể -Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang -Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm -Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông -Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn -Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều
4 - Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình
Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á đông là những kẻ có nét tướng sau : -Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng -Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao -Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp
5 - Tướng người cần kiệm
Tóc den mướt, lông mày hình dạng vừa phả, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ….là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang tháo vát.
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 4, 2008 4:37:51 GMT 9
6 - Tướng người biếng nhác
Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau : -Tóc nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau -Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít -Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu -Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ -Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi
b ) Lãnh vực vận mạng
1 - Tướng người cao quý
Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây : -Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể. -Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt. -Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối có thể vững vàng, mang tai xuôi thẳng. -Lông mày thanh nhã có thần khí. -Trán tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài. -Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều. -Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang -Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
2 - Tướng người phú túc
Đàn bà có số no đủ thường có : khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài ( dán đài, đình uý rõ và cân xứng đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dày, bụng tròn, lưng nở, tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.
3 - Tướng người khốn khổ
Tướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây :
-Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con -Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc -Mũi nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt -Môi quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô -Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm -Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông -Sơn căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu
4 - Tướng người có nhiều con
Những bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường (còn gọi là Ngoa tàm), nhân trung, *, mông, kế đó là hai mắt và hai tai. Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn không không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi, * lớn và núm * sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc : miệng đều đặn, môi có nhiều vằn, mông tương xứng với thân người. Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa con dầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt đầy hơn thì con đầu lòng là con gái.
5- Tướng người hiếm con hoặc không con
Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể. Tại diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền mà không có mang tai thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới : nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.
Tai thân hình : * gẫy, đầu * hướng xuống, núm * thụt sâu vào thịt : da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ. Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v… thì đó là tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,*, Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái.
6 - Tướng đàn bà khắc chồng :
Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnhvực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.
Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng : - Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám . - Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). Lông mày thưa vàng và ngắn . - Mày thô, mắt có sát khí - Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi - Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu - Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên - Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe - Trán vuông, mày lớn cao và đậm - Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ - Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm - Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu - Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết - Mặt chè bè về chiều ngang ( phần Trung đình ) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống . - Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau - Trán có tật bẩm sinh ( vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu ) . - Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng - Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại ) - Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi - Tác có phù quang ( trơ trẽn không có sinh khí ), da trắng và khô mốc - Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu) - A án đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn . - Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn ) - Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre - Xương che lỗ tai ( mạng môn cốt ) nổi cao.
Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm hại chồng. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám ( tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết ) ở mang tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề. Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn gian làm mất lý trí.
7 -Tướng đàn bà vương phụ ích tử
Đặc điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dú chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây :
- Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình, Ngũ nhạc và tứ đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy : - Aán đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh. - Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp. - Lòng bàn chân hoặc trong thân thể ( rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai *, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc son. - Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp.
Thường thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé ). Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau : Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng. - Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu. - Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai.
Người đàn bà có hai đặc điểm về tướng cách cuối cùng như trên dường như chắc chắn sẽ sinh quý tử bất kể diện mạo xấu đẹp ra sao. Vì đó là hai nét tướng ngầm có khả năng chế ngự tất cả các phá tướng khác (dĩ nhiên là trong trường hợp như vậy ông chồng phải có khả năng truyền giống thì quý tướng trên mới phát huy được kết quả thực tiễn).
Sưu tầm
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:23:00 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyện Nữ Sĩ
Cư sĩ Tịnh Hải Garden Grove: Bà chị giải thích hộ câu: "Bộc bạch cùng đại chúng hiện tiền" là sao?
+ Là biểu lộ nỗi lòng của mình cho mọi người, mọi giới hiện diện. Có nghĩa là nói lên tình thương của mình trước đại chúng đương có mặt trước chốn thính đường...
Cháu Hồ Mộng Điệp Santa Ana: Cháu có nghe từ một người bạn của nhà thơ Huệ Thu tại San Jose có nói đến bài thơ của nhà thơ Thượng Nhân nhắc đến Quán Chùa, đến Thanh Thúy, đến Queen Bee và luôn cả Khánh Ly nữa. Bà cụ có nhớ mấy vần thơ này không? Xin nhắc hộ.
+ Có, đó là mấy câu trong "Ngày Tháng Khó Quên" tập hai trong Bên Trời Lận Đận, một thi phẩm được xem như là kiệt tác của nhà thơ nổi tiếng Hà Thượng Nhân. Các câu đó sau sau:
Nhờ hè phố xanh lam tà áo,
Nhớ trên tay trang báo vừa in.
Quán Chùa+ những buổi săn tin,
Vây quanh bàn nước mắt nhìn ngu ngơ.
Nhớ Thanh Thúy canh khuya nức nở,
Bạn bè mình ai ở, ai đi ?
Nhớ đêm ca nhạc Queen Bee,
Lúc này mái tóc Khánh Ly còn dài ?"
+ Quán Chùa là La Pagode ở đường Tự Do.
Ông Hồ Đắc Bàng Quang Brookhurst Orange County: Bên ta có trái đười ươi, ăn ngon, nghe nói y học Đông Phương dùng làm thuốc. Bà cụ có biết nó trị được bệnh gì không?
+ Trái đười ươi hay còn gọi là trái bời lời, Đông Y gọi An Nam Tử. Danh từ khoa học gọi Sterculia Scaphigera Wall. Ngoài tên An Nam Tử còn gọi là Bàn đại hải hay Hồ đại hải. Vị này chủ trị thương phong, ho mất tiếng, cổ khô, tắt tiếng, trừ đờm. Loại này nước Việt Nam có nhiều. Nhưng nơi có nhiều trái này nhất lại là đảo hải Nam Trung Hoa.
Cư sĩ Diệu Huệ Monterey Park: Thế nào gọi là Phật tánh? Xin bà cụ giải hộ.
+ Phật tánh quả thật vô cùng thâm hậu. Đó là Táng Giác Ngộ. Vốn thật lành. Căn thật thiện. Con người mang Phật tánh ngay từ khi vừa lọt lòng mẹ. Muốn tìm hiểu Phật tánh cần phải hiểu về thuyết duyên khởi. Phật tánh thật vô thủy vô chung. Bất sinh bất diệt. Không thể đo lường được. Phật tánh tuyệt nhiên không thay đổi, nó không định mà cũng chẳng động.
Cháu Nguyễn Thị Diễm Maryland qua Ký Diệp :1. Tại sao người Chiêm Thành ở Phan Rang lại gọi người đồng bào thượng Sédang là ông "Ba Bị"? Có nhiều sắc dân thượng, bà cụ biết xin ghi lại nơi mục này luôn. Cám ơn bà cụ nhiều.
+ Người Sédang vốn là người thượng sống ở vùng thung lũng tại nhưng nơi đồi núi nghèo nàn. Dân tộc này có một vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh, da ngăm đen. Bản tính người Sédang vốn thật thà và thành tín. Nhưng có điều họ có bản tính nóng nảy và hiếu chiến. Những người mới gặp nghĩ đây là giống người thô bạo, dã man... nhưng thật ra họ rất tốt và đầy nghị lực lại thiện chiến trong rừng rú, chiến đấu hăng say không hề biết mệt mỏi. Ngày xưa người Bahnar thường lo sợ giống dân này đến cướp phá, nên rào làng đắp lũy ngăn ngừa. Về sau lời đồn đãi này đến tai người Chiêm Thành, do đó người Chàm - tức Chiêm Thành - mới cho đó là ông Ba Bị – một loại ma quái chuyên đi dọa con nít.
2. Có sáu sắc dân thượng gồm:
- Sedang
- Bahnar
- Djarai
- Rhadé
- M'nông
- Stien
- Koho
Các sắc dân này có những tục lệ như : "mừng lúa mới.lễ bó mạ, lễ đâm trâu, lễ mai táng, nghề phù thủy, cách làm rượu cần v.v...
Cụ Vũ Đình Hòe Virginia qua Huỳnh Cao: Tôi còn nhớ có hai câu duy nhất bài Kinh Thi: "Vĩ vĩ Văn vương/ Lịnh vấn bất dĩ... " nhưng mấy câu sau tôi quên khuấy mất, xin bà cụ nhắc hộ nếu được luôn bài dịch thì quí hóa vô cùng. Cám ơn bà cụ.
+ Bài Kinh Thi đó như sau:
Vĩ vĩ Văn vương,
Lịnh vấn bất dĩ,
Trần tích tai Chu.
Hầu Văn vương tôn tử
Văn vương tôn tử
Bổn chi bách thế.
Phàm Chu chi sĩ
Bất hiển, diệt thế?
Bài dịch đó như sau:
Văn vương như cố gắng hoài,
Cho nên tiếng tốt lâu dài chẳng thôi.
Vương nghiệp nhà Chu, Trời ban thưởng,
Con cháu Văn vương hưởng dồi dào.
Văn vương con cháu trước sau,
Làm vua đích thứ nối nhau trăm đời.
Phàm Chu triều những người quan chức,
Há đời đời chẳng rất hiển vinh ?
Tạ Quang Phát dịch
Bà Vương Phi Tử Valley: Đọc truyện Tàu thấy nói về nêm công chả phụng, và các món cao lương mỹ vị khác... tôi muốn được biết có thật như vậy không? nếu thật thì nó bao gồm những món ăn nào? Bà cụ chỉ giáo cho.
+ Có như vậy. Như bà biết, vua là đấng tôn quý nhất trong một quốc gia, nên bất cứ cái gì nhất là cái ăn, cái mặc đều thuộc hàng hiếm quý. Mỗi khi nói đến món ăn của các nhà vua thì người ta nói ngay đến "Bát Trân". Cái nghĩa của "Bát Trân" là tám món thượng thặng mà người dân giả khó lòng có được. Vậy tám món trân quý đó là:
1. Gan công (có sách nói gan rồng)
2. Chả phụng
3. Thai con báo
4. Đuôi cá gáy
5. Chả thịt cú
6. Môi đười ươi
7. Bàn tay gấu
8. Nhượng heo con.
Đây là món cao lương của các nhà vua đời nhà Đường. Nhưng "Bát Trân" thời Chu thì có khác hơn, gồm có:
1. Thuần ngao (xôi có gia vị)
2. Thuần mô (xôi mỡ)
3. Bào dồn (thịt lợn nướng)
4. Bào dương (thịt dê trộn mỡ chưng cách thủy)
5. Đảo trâu (giò lụa)
6. Trách (thịt heo ngâm giấm)
7. Ngao (nem)
8. Can liêu (gan chó ướp gia vị, cuốn lá thơm rồi nướng)
Còn nhiều món ăn độc đáo khác nữa, có dịp xin trở lại vấn đề này hầu bà chị.
Cụ Nguyễn Khải Orange County CA. Bà cụ có còn nhớ bài thơ lục bát vừa chữ Hán vừa chữ Nôm nói về Thiên Văn trong Ngũ Thiên Tự từ câu thứ sáu đến câu thứ tám không? Nếu có xin nhắc hộ. Cám ơn.
+ Có. Đó là một đoạn trong "Đệ Nhị Tiết" như sau:
NGUYỆT mặt trăng NHẬT mặt trời
VÃNG qua LAI lại DI dời CANH thay
VŨ mưa THỬ nắng VÂN mây
SƯƠNG sương TUYẾT tuyết TRÚ ngày DẠ đêm
NHÂN HUÂN ngi ngút TƯỜNG điềm
ĐÔN ánh THỰ sáng ÂM êm ĐIỀU hòa
LÔI ĐÌNH Sấm sét PHÁT ra
OANH ran ĐIỆN chớp HÀ xa NHĨ gần...
Hình như tập Ngũ Thiên Tự gần đây ở Việt Nam có hai tác giả Vũ Văn Kính cùng Khổng Đức soạn lại và xuất bản.
Cụ Đỗ Thạch Bình El Monte LA. Tôi còn nhớ có đọc Lỗ Tấn trong tập tiểu thuyết Cố Hương có nói đến một một con vật ở miền sơn cước thích ăn các loại dưa, mà quên mất đó là loại vật tên gì. Bà cụ biết không? nếu biết xin nhắc hộ.
+ Đó là một loài dã thú hình thù giống như con cầy (chó) có tên là TRA vốn thích ăn các loại dưa.
Cháu Vũ Quỳnh Như Maryland (qua Phan Chánh Thọ): Bà cụ có nhớ bốn câu thơ cuối của bài "Tình Gửi Gió Mây" của nhà thơ Cung Diễm không? Nếu bà cụ nhớ xin nhắc hộ. Thành kính cám ơn.
+ Bài Tình Gởi Gió Mây là một trong những bài được xem là được nhiều người thích nhất của nhà thơ Cung Diễm như sau:
"Một bóng Hoàng bay, Phượng đợi chờ
Trăng sầu nghiêng ánh, lạnh lầu Thơ
Trăng soi một bóng, ta và bóng
Một bóng đơn côi, một bóng mờ !"
Ông Trần Lưu California. Như thế nào mới gọi là lối viết phản đề, bà cụ nếu biết giải hộ. Xin thành thật cám ơn bà cụ.
+ Lối viết này thường với mục đích làm nổi bật chủ đề mà người viết muốn đề cập đến. Thông thường phần trên của bài đưa ra luận cứ bài bác điểm chính mà tác giả muốn đề cao hoặc bênh vực chủ đề của mình. Qua phần sau của bài tác giả đưa ra ý kiến thuyết phục người đọc hưởng ứng chủ đề của mình viết. Tuy nhiên, nếu không khéo léo để thiếu sự cân bằng, ví như phần bài bác lại dài dòng và sắc bén hơn phần lý luận để bênh vực lấy chủ đề của mình. Điều này rất tai hại, chẳng những không làm sáng tỏ được chủ đề của mình viết mà nó còn bị phản ứng ngược lại. Vì vậy, tác giả muốn viết theo lối phản đề cần thật thận trọng để khỏi phải bị gặp sự hiểu lầm đáng tiếc!
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:13:33 GMT 9
Nấu nướng là một phần quan trọng của văn hóa. Những di tích thuộc về môn nầy là chứng chính xác để đo trình độ văn minh của một dân tộc vào một thời đại. Ở nước ta, nay còn thấy một bản cảo, bằng chữ nôm, chép những món ăn với cách làm trước nay hơn 250 năm. Cảo ấy mang tên " Thực vật tất khảo tường kí lục " (1), nghĩa là : tập ghi rõ ràng những phép phải khảo khi làm các món ăn. Ta sẽ gọi tắt cảo ấy là " Thực vật tất khảo ". Cảo gồm 125 tờ giấy dó, khổ nhỏ 14 x 22 phân. Mỗi trang viết 8 cột. Trong cảo có 279 tiểu đề. Mỗi tiểu-đề có ghi số mã (thứ-tự) từ 1 đến 288. Vì lẽ có số mã bị bỏ sót, có số mã được dùng hai lần, cho nên tiểu đề ít hơn số mã. Mỗi tiểu-đề mang tên một món ăn, trừ tiểu đề mang số 184 " Trị lăng pháp " (2) nghĩa là phép xây lăng (mộ vua, chúa). Kẻ dọn cảo nầy đã sao lục góp lại nhiều sơ cảo có trước, trong đó có hai thực phả. Thực phả đầu chứa 174 món ăn, thực-phả sau chứa 104 món. Hai phả ấy có ghi đến 90 món và lời giải trùng nhau. Nếu lọc lại thì chỉ còn 189 món khác nhau, tuy rằng tổng số ghi là 279 món và số mã đánh từ 1 đến 288. Tuy vậy, hàng đầu cảo mang hai chữ tân san (3) nghĩa là mới khắc. Ta không rõ rằng vốn đã có bản khắc chăng, hay là ý soạn giả muốn đem cảo nầy ra khắc. Sau các đoạn đuợc sao tập, còn thấy ghi thời điểm. Đó là những thời điểm các sơ cảo. Dẫu sao, các điều ghi lại trong cảo nầy theo các thời điểm ấy, chắc đã có từ hơn 250 năm, vào khoảng đầu đời vua Cảnh Hưng nhà Lê. Tóm lại, cảo " Thực vật tất khảo " gồm có hai phần chính là hai thực phả và ba phần phụ như sẽ thấy sau : tat-khao Những món ăn được ghi lại đều thuần túy Việt Nam, dùng trong mọi từng lớp xã hội, từ nước cáy ở thôn quê, qua cá rán nhà trưởng giả, đến ram mọc chim nhà quyền quí. Đáng chú ý là không thấy những món nay coi là rất sang, như vây, bóng, yến sào. Vây, bóng có lẽ ngoại lai. Còn yến sào thì được dùng làm gia vị cho nhiều món. Sự hiện diện yến sào và phép xây lăng trong cảo khiến ta phải nghĩ rằng soạn giả cảo nầy là một thái giám coi việc nội vụ trong cung chúa Trịnh hoặc vua Lê. Năm soạn phép xây lăng (1735) chính là năm vua Long Đửc mất. Ý chừng, ấy trỏ lăng vị vua nầy. Trong số các món ăn được ghi, đại khái có hơn 10 loại: mỗi loại gồm nhiều thứ: loại Bánh (28 thứ), Xôi (15), Mứt (19), Dưa (10), Mắm (24), Cá (16), Thịt chả (15), Chim gà (17), Món chay (19), Bột, Kẹo, Bún, Nấm, vân vân (26). Về cách làm những món ăn, văn dùng toàn là văn xuôi nôm viết theo lời nói thông thường, giản dị, có nơi ngắn ngủi nên tối nghĩa. Vả chăng kẻ viết nôm trong cảo không phải nhà nho giỏi chữ, cho nên chữ nôm viết không chính-xác, không thống nhất. Những Việt từ dùng đây thường trỏ món ăn hoặc cách nấu nướng; nó không thường thấy trong những tập văn chương ta quen biết. Khi biên giả dùng phép hài thanh, thì có lúc dùng âm tố Hán quá xa âm tố Việt mà mình muốn diễn, ví dụ dùng các âm Hán tiếp, lồi, kim, tạm để diễn những từ Việt bếp, nhồi, rim, rạm. Vì vậy, phiên âm cảo nầy gặp nhiều trở ngại. Kết quả cũng không chính xác. Nhưng đây là một tư liệu rất quan trọng để khảo ngôn ngữ và chữ nôm dân gian về đầu đời Cảnh Hưng. Tôi bắt đầu giới thiệu một vài món ăn, bằng cách diễn âm y nguyên văn nôm. Tôi sẽ chú thích chữ khó, nêu chữ ngờ. Có chỗ tôi thêm, trong cặp vòng đơn, một chữ để câu văn thành dễ hiểu. Hoặc có chữ nôm không đoán ra âm, tôi sẽ thay bằng âm khác cho xuôi nghĩa ; âm thế sẽ đặt giữa cặp vòng vuông [...], và nếu làm được thì tôi sẽ viết thêm chữ nôm bị nghi ngờ. Cảo nầy, mỗi trương viết 8 dòng, chữ tháo khó đọc. Riêng những món trùng điệp ở hai thực phả, thì có thể so sánh mà sửa chữa chỗ sai chỗ sót. Tôi sẽ ghi chú thích liền sau mỗi bài. 1. XÔI VÒ – số 31 và 207 Lấy đậu xanh mà ngâm, phỏng một trống nửa canh(a). Văn (b) ra xem nó tróc vỏ (chưa). Lấy muối mà xát khan (c) cho bẵm (d) có bọt ra, sẽ đãi cho sạch. Chọn gạo nếp cái tốt cho sõng (e). Gạo, vò đi, để ngâm một chốc, vớt ra. Mỡ với đậu trộn vào, xôi lên (f). Phỏng nó chín hai phần còn một, thì đổ ra, quạt cho ráo, cho nguội. Đánh nước muối, tưới vào, trộn đi cho đều. Lại xát đậu vào, lại xôi lên cho chín. Xem mặt xôi nó đã chín trong mặt, lớn hạt xôi mà nhẻo (g) (chưa), thì tra đường. Nếm cho vừa. Hoặc nó còn cứng hạt xôi, (thì) lại tới nước, với tra đậu; lại xôi lần nữa. Vát (h) ra, sẽ tra đường. Hoặc nó rắn thì tra đường nước; hoặc nó nát thì tra đường tán. Tra đường vào sàng (i) mà đưa (j) cho chóng. Lấy hạt sõng, tra đường còn nóng, chớ tra nguội. Nếm cho vừa thì thôi. Như bằng làm xôi chay, thì đừng mỡ. chú thích : (a) Trống canh : thời-gian bằng hai giờ ngày nay. (b) Văn : cầm vào đầu ngón tay mà xát đi xát lại. (c) Khan : không ướt, không trộn nước. (d) Bẵm : mạnh, với nhiều sức. (e) Sõng : trong, bóng. (f) Câu sau diễn theo bài số 207 ; bài kia sót nhiều chữ. (g) Nhẻo : cũng viết dẻo. (h) Vát (4) : có thể đọc vớt. Hoặc là vát, âm còn trong thành ngữ vớt vát. (i) Sàng : đồ tre đan bẹt và mắt thưa, có thể dùng để rây. Đây theo bài số 207. (j) Đưa : vận chuyến sàng để rây. 2. GIÒ LỤA – số 155 và 252 Giò lụa thì chọn thịt thăn (a) đừng hôi. Lấy ngón (tay) mà văn (b) cho dẻo tốt. Chớ mua thăn già, thăn non. Như bì thì bì lợn non, cho trắng, tốt, mỏng bì. Đem về đánh muối bì cho trắng. Luộc lá chuối cho lụi (c); rửa đi. Sắp lá cho sẵn. Lét (d) thăn ra, dần (e) qua đi. Đâm cho chóng nhỏ. Phỏng cái giò thì ba đồng (f) mỡ chứ, trộn vào mà cùng đâm. Tra nước mắm cho vừa; mà bó cho chặt, mà nấu cho chín. Phỏng nấu nó, như luộc trứng chín thì nó chín. Sẽ lấy ra mà ép, mà châm (e) cho ráo. Chú thích : (a) Thăn : thịt nạc ở dọc lưng lợn. (b) Văn : xem bài 1 , (b). (c) Lụi : héo mềm. (d) Lét (5) : có thể đọc trét, sét hoặc dẹt chăng ? ý là trải trên chỗ bằng. (e) Dần : lấy sống dao mà đập cho mềm. (f) Đồng : 1/10 lạng, chừng bằng 3,9 gam. (g) Châm :chọc thủng lá gói cho nước chảy đi. 3. NEM BẢNG – số 159 và 254 Nem bảng (a) thì lấy nửa thịt thăn (b), nửa thịt rọi (c). Chọn lấy thịt nào đừng hôi; đem về, lạng (d) đi cho hết gân. Mà thái ra từng miếng mà muối; để một chốc, nó ra nước (thì) lấy khăn vải vắt đi cho ráo. Thái cho mỏng, dần (e) cho nhỏ mà đâm. Rồi sẽ băm (f) một ít mỡ mà đâm một nơi (g) cho nhỏ. Rồi sẽ trộn lại làm một; sẽ đâm. Tra một ít cơm với thính (h); nếm cho vừa mùi, mà bóp cho đều. Với lấy một tấm thịt ba rọi (i); lấy nồi luộc vừa chín đến chứ. Rồi tra một ít mật với rượu vào thịt ấy mà bác cho vàng tốt. Rồi rửa nước lã đi; lấy khăn vải mà lau cho ráo. Rồi liền lộng (j) hết trên thịt nó đi. Lại cắt chung quanh nó đi. Rồi thái ra cho mỏng, mà rắc muối với thính cho vừa. Lấy lá vông (k) mà lót. Rồi đặt thịt ba rọi ấy quanh, thịt nem ở giữa. Dát (l) cho mỏng. Gói lá chuối ngoài cho kín, mới ngon. Tháng sốt thì một đêm đã nên ăn. Tháng rét thì hai ba đêm mới nên ăn. chú-thích : (a) Bảng : tên một cách làm nem, có thể là tên làng gốc, như nói cốm vòng (làng Dịch Vọng). Bảng đây trỏ làng Đình Bảng chăng? Cảo nầy chỉ mách hai thứ nem mà thôi : nem bảng và nem gói. (b) Thăn : xem bài 2, (a). (c) Rọi : thịt gồm nhiều lớp nạc và mỡ lẫn nhau ; cũng gọi thịt ba rọi (ba lớp). (d) Lạng : lấy mũi dao sắc tách thịt ra. (e) Dần : xem bài 2, (e). (f) Băm (6) : theo nôm thì âm đáng là lăm, trăm... Đoán ấy là băm, nghĩa là chặt nhỏ. (g) Nghĩa là riêng. (h) Thính : gạo rang và nghiền nhỏ. (i) Ba rọi : xem (c) trên. (j) Lộng (7) : nghĩa là khoét, như nói chạm lộng. (k) Vông : cây gỗ nhỏ mọc ở bờ rào, gỗ mềm, lá cụm ba, phẳng, mỏng, hình tim, dùng gói nem ; cũng có tên vông nem, thuộc loại Erythrina. (l) Dát(8): làm mỏng. Nếu đọc đặt thì không đắt ý. 4. CHIM ĐỒ – số 122 và 262 Làm lông. Đánh muối (cho) trắng. Mổ phanh ra, mà dần (a) qua cái chim. Lấy thịt sườn lợn, mà chặt từng miếng. Một ít nước đường, nước mắm. Phỏng ba lát gừng. Phỏng nửa quả chanh nhỏ, vắt lấy nước nó một ít. Với tương tàu, hành với cây răm. Bóp vào làm một trong cái chim ấy. Sẽ để vào bát mà đồ (b). phỏng hầu chín đem ra, bỏ xương. Lọc lấy nước với thịt chứ, mà nếm mùi (cho) vừa. Hoặc thiếu mùi chi thì thêm mùi nấy. Lại để vào, lại đồ bao giờ ăn sẽ lấy ra. Như tra tương tàu thì cũng nên. chú thích : (a) Dần : xem bài 2. (e). (b) Đồ : nấu hấp bằng hơi nước. 5. CHIM QUAY, GÀ QUAY – số 116 và 260 Chim (hay) gà cũng làm lông. Đánh muối cho sạch. Lôi lòng đi. Mỡ với hành ép vào trong bụng nó. Xỏ bàn (a) mà quay cho chín. Lấy miếng mỡ mà phất. Nó vàng, nó dừ thì thôi. chú thích : (a) Bàn : dụng cụ để quay đồ ăn, hình cái bàn ; gồm có cái que để xuyên qua con gà mà quay trên than nóng. 6. CÁ NHỒI – số 145 và 277 Đánh vảy đi. Mổ bên sống (a) nó ra, lấy xương ra cho hết. Rồi kéo lấy thịt nó. Rồi lạng (b) hết xương con nó đi. Để dưng (c) da nó chứ. Cá kéo ra thì đâm cho nhỏ. Phỏng ba phần cá (thì) một phần mỡ, một phần cua, một ít yến sào. Đâm vào làm một. Tra nước mắm, nước đường vào. Nướng thử nếm cho vừa. Nhồi vào (da) con cá. Lấy nước thịt sườn, nước chanh, nước mắm, nước đường, pha vào làm một. Để con cá vào bát. Sẽ đồ (d). chú thích : (a) Sống : lưng. (b) Lạng : xem bài 3, (d). (c) Dưng: ở cạnh phần đang quan hệ; ví dụ: người dưng. (d) Đồ: xem bài 4,(b). 7. THANG CÁ – số 154 Hoặc (cá) trôi, hoặc cá chi thì cũng nên. Cá hành (a) cho tươi, mà rửa cho sạch. Mà xủi vảy nó đi. Lôi lòng đi, mà khử (b) đi dần. Mà kéo ra mà bỏ xương. Nơi đâu nó có đỏ thịt, thì cắt đi. Hễ ba cá thì một phân mỡ sống. Nhồi củ hành mà nướng. Đâm một nơi (c) Cho nhỏ. Rồi sẽ đâm lại làm một. Lấy cà cuống với nước mắm, sẽ tra vào cho vừa mùi. Rồi thì dát ra cho mỏng bằng cái đĩa ấy. Rồi luôn nấu nước lã lên cho sôi, mà tra bánh cá ấy vào. Nấu cho nó chín, thì sẽ vớt ra, mà để cho nó nguội. Rồi sẽ thái ra mỏng, để trên bát thang (d) ấy. Nào nước nấu nó ấy, thì tra một ít sườn lợn với tôm canh (e). Cho vừa mùi chi thì thôi (f) : (tra) hoặc lá tía tô, hay là rau răm thì mặc lòng; mà thái, cũng để trên bát ấy. Hoặc có ăn kiêng thì đừng tra thịt lợn với cà cuống mà thôi. Lại cứ như phép làm. chú thích : (a) Hành : dùng. (b) Khử: vứt bỏ đi . (c) Xem bài 3, (g). (d) Thang : món ăn thịt cá nấu với nhiều nước bản chất. (e) Canh (9) : thường đọc ngạmh (cá ngạnh); đây trỏ tôm khô dùng để nấu canh. (f) ý là : muốn gia vị thế nào cũng được. 8. MỨT CHANH – số 56 và 223 Chanh thì mài hay là gọt thì cũng nên. Rồi thì đánh muối cho bẵm (a) , cho sạch hăng. Chẻ bốn bên ra mà rửa nước lã cho sạch chua. (Tra) nước phèn cho nó vừa chát nước. Sáng ngày một lần thay nước, tối một lần thay nước; phỏng ba ngày cho nó hết nước hăng. Rồi lấy lá gai mà đâm ra cho đặc. Lấy nồi gang thịt (b) đánh cho láng. Đổ nước lá gai vào mà xếp chanh vào nồi. Một lớp chanh thì lại xếp một lớp lá gai. Bắc lên bếp nấu cho nó xanh. [Nước (c)] chưa xanh thì lại lấy lá cách (d) mà nấu; hai lần rửa đi cho sạch. Hoặc có làm mứt nào xanh, thì cứ như phép ấy mà làm. Nấu nước đường mà đảo. Đem ra vắt đi cho ráo. Lại lấy đường mà ngào cho nó đen. Liệu vừa chứ, chớ cho nó đen quá mà xấu. Phỏng ba ngày sẽ nấu nước đường khác thay nó, (thì) nó mới trong tốt. Muốn thêm mùi thì tra một ít nước hoa; liệu cho lặn (e) mùi chứ (f). Như muốn làm ráo, đương (thì) chọn đường tốt. Các phép cũng thế ấy. Để nhỏ lửa, ngào mãi cho ráo mà thôi. chú thích : (a) Bẵm : xem bài 1 , (d). (b) ý là : nồi bằng gang thường dùng để nấu thit. (c) Nước (10) chữa ra (11). (d) Cách (12) : theo thoạI số 56; đó là một thứ cây nhỡ trồng ở rào có lá xanh mướt, hình bầu dục rộng, có thể dùng gói nem. Thoại số 223 viết chữ (13) đọc khác tự dạng giống chữ cách trên, nhưng ý không chính xác bằng. (e) Lặn (14) (thoại số 56) và (15) (thoại số 223) : ý là không nổi mùi, không xông mùi. (f) Thoại 223 dừng ở dây, thêm đoạn sau bằng chữ bé. Còn thoại 56 thì không có đoạn sau, nhưng lại thêm chính văn sau : " Phỏng mùi hoa hoặc làm vội bấy giờ. Ngào rồi thì nấu nước đường khác, để cho lạnh (mà) thay. Bấy giờ nó mới được trong tốt ". Xem chừng ý có trùng điệp với trên.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 4:14:01 GMT 9
9. BÁNH RÁN – số 10 và 195 + 196 Lấy gạo nếp cái cho tốt, vò cho sạch, rây cho nhỏ, rồi phơi ra. Phơi thì phơi trong gió : chớ phơi nắng mà khét. Lấy bột lọc nếp mà nghiền cho nhỏ. (Đong thì) lấy chiếc đũa mà gạt bằng miệng bát. (Lấy) bốn bằng miệng bát bột đâm (a), một bằng miệng bát lẻ, (hoặc) hai bát bột lọc cũng nên. Trộn đi. Lấy rây mà rây, chín, mời bận cho đều Nấu nước, bắc lên với dềnh (b). Đâm ra cho nhỏ, mà vắt với nước bắc ấy. (Dùng) vừa dềnh,chớ lắm mà khét (c). Sú bột thì cho rắn; chớ sú ướt mà khó rán. Lăn vừng thì lấy một ít rượu pha với nước lã. Ngửi hơi rượu, (cho) một ít chứ, chớ pha nhiều. Khi mới rán, thì phải (d) lửa chứ, đừng cả lửa lắm. Đến khi nó đã nặng đũa (e), (thì) một tay lấy một cái bánh mà tra vào nước đường. Bẻ ra xem. (Như) ngoài nó giòn, trong thì dở mủn (f), (thì) vớt ra cho chóng. Lấy giấy mà lăn đi cho hết mỡ, kẻo khét. (Bỏ) vào còn nóng, mới tốt cái bánh. Nếm cái bánh cho vừa đường. Đem lên, lấy giấy bịn (g) cho kín. Đó là bánh pha để lâu. Có muốn cho nó mỏng vỏ, thì pha bốn bột đâm (h), hai bột nếp lọc. Ăn bấy giờ thì ngon, nhưng để chẳng được lâu. ấy là bánh rán bột bộ (i). Bánh rán bột lọc thì chọn lấy bột chợ nó bán ấy (a). Xem bột nào tốt thì mua lấy. Lại đong bốn bằng miệng bột lọc nếp thì một bằng miệng rưỡi bột lọc tẻ. Đâm lại làm một. Rây cho đều. Dù trộn lại, dù rán, cũng như bánh bột bộ. Rán mầu xanh thì phơi lá (k) cho ráo mà (đâm) luôn với bột. Nướng lên (l) một ít, xem vừa mầu xanh (thì) sẽ nắm mà rán. Rán thì nhận cái bánh xuống, cho mỡ lên trên. Trộn (m) Cho mau, nó mới tốt. Đến khi nó [phồng (n)] thì hơn lửa, kẻo nó dẹp xuống. Các điều cũng như bánh bột bộ. chú thích : (a) Bột đâm : ý trỏ bột gạo nếp nói ban đầu. (b) Dềnh : thứ quả hình bầu-dục, khi chín thì vỏ vàng đỏ, đượọc dùng để nhuộm bột. Cũng có tên dành-dành, chi-tử. Cây mộc nhỏ thuộc loài Gardina. (c) Khét : nôm viết (16), chắc đều phải đọc như vậy. (d) Phải : vừa đúng mức. (e) Nặng đũa : ý là khi chọc đũa vào thì phải đè mạnh. (f) Mủn : đọc mẳn hoặc mủn, nghĩa là trạng thái hạt nhỏ rời. (g) Bịn (17) : đáng đọc bện hoặc bịn (bít), ý là gói kín. (h) Xem chú thích (a) trên. (i) Bột bộ : bài số 195 mang đề " Bánh rán bột bộ ' , dứt ở dây. Đoạn nối sau là bài số 196. Cả toàn bài mang số 10, nhưng có bỏ sót một khoảng như sẽ thay sau. (j) : Đoạn nầy được chép riêng thành bài số 196 mang đề " Bánh rán bột lọc " Tuy tôi chưa biết chắc ý nghĩa từ bột bộ, nhưng qua hai bài số 195 và 196 thì thầy rằng trong nguyên liệu bánh rán bột bộ và bánh rán bột lọc chỉ khác nhau bằng dùng bột đâm cho bánh bột bộ, và bột chợ cho bánh bột lọc mà thôi. (m) Lá : có lẽ gai hay lá hiên mà ta thấy trong những bài khác, cũng trong trường hợp nầy. (n) Đây theo bài số 196, còn bài số 10 sót một ít chữ. 10. CHÈ NGŨ VỊ – số 18, 75, 76, 240 và 241 Tổng-luận - Trong cảo nầy có ba bài chung một tiểu-đề " Chè ngũ vị " số 18, số 75 và số 240. Hai số sau chung một lời. Lại có hai bài khác cũng chung một lời, số 76 và sồ 241, với đề " Chè tháng sốt ' , nghĩa là chè ăn vào tháng nóng. Xét nội-dung thì ấy cũng là chè ngũ vị; mà lời cảo bài 76 và 241 lại gần lời bài 18 hơn các bài 75 và 240. Xét chung năm bài, thì thấy Hán từ vị đọc nôm là mùi; mà mùi có hai nghĩa : một là mùi ngửi hoặc nếm, hai là mầu sắc. Tuy rằng ngũ vị cốt trỏ số năm nguyên liệu của một món ăn, như nói dưa ngũ vị (bài số 244), nhưng ở đây, ngũ vị có lẽ trỏ nguyên liệu có năm thứ mầu sắc khác nhau : trắng, vàng, biếc, xanh, đỏ. Còn số nguyên liệu trong các món chè, thì lại quá số năm. Trong ba bài số 18, 76, 241, thì dùng thạch trắng, quả dềnh vàng, củ huỳnh tinh biếc, lá hiên xanh, quả hồng tàu đỏ. Ngoài đường, số 18 có dùng thêm ba nguyên liệu : hạt sen, củ lạc (đậu phụng) và hạt dưa; các số 76 và 241 chỉ dùng thêm hai nguyên liệu: hạt sen và yến sào Đến khi các bài số 75 và 240, thì lại không thông qua năm mầu, và chỉ kể sáu thực phẩm được dùng : hạt sen, củ lạc, củ mài, huỳnh tinh, hồng tàu và yến sào. Sau đây, tôi sẽ phiên âm riêng rẽ các bài ấy, rồi sẽ chú thích chung. 10a. CHÈ NGŨ VỊ (Số 18) Nấu thạch hoa (a) lên, để trắng. Với (mùi) vàng (thì) nấu (dềnh). Với mùi biếc thì giáo (b) hoàng tinh, cũng như (làm) bánh trôi nước ấy. Mùi xanh thì lấy lá hiên (c) non mà tẩm đi. Mùi đỏ thì lay hồng tàu. Chọn lấy (hạt) sen, bóc ra, nhỏ tầy đầu đũa ằy. Cắt hai bên đầu ; tống ruột nó đi. Lạc hoa sinh (d) thì luộc cho chín; cắt hai đầu nó đi; chọn đường cho trắng, mà nấu nước, lọc cho trong. Hạt dưa thì rang cho vừa, xỏa (e) lên cho nó trắng, đừng rang vàng; lấy nước đường mà dầm. Thức vàng, thức biếc, thức trắng, một thức (để) một nơi, cho nó thôi (f) ra ; bao giờ hầu (g) ăn, sẽ vớt sang nước khác, sẽ trộn các thức vào làm một. Như bằng (h) cái sen, cái hồng tàu, với lạc hoa sinh, với hạt dưa, bao giờ hầu ăn, thì sẽ để sen với hồng tàu, lạc hoa sinh với hạt dưa ; chớ tra để lâu; nó giun (i) lại mà lơi (j). 10b. CHÈ NGŨ VỊ (Số 75 và 240) Luộc hạt sen cho bở. Luộc lạc hoa sinh cho bở. Cắt hai bên đầu nó đi. Củ mài thì cắt ra từng miếng, luộc cho chín. (Lấy) một ít bột hoàng tinh quấy vào nước mà nấu lên cho sôi. Ngửi [không] còn hôi, rồi sẽ tra hạt dưa, (hạt sen), lạc hoa sinh, củ mài vào mà nấu. Bấy giờ sẽ tra đường. Nếm cho vừa (rồi) sẽ tra yến sào vào. Vớt ra cho chóng kẻo chát yến sào. Xả (k) lên trên bát, sẽ tra hồng tàu. 10c. CHÈ THÁNG SỐT (l) (Sồ 76 và 241) Nấu thạch hoa (a) để vậy, đừng pha đường. Cắt ra từng khổ, thái cho mỏng. Sen thì tìm sen tươi, còn non, tầy đầu chiếc đũa. Bóc đi cho hết vỏ; bỏ lõi (m) trong nó đi. Nước thì nấu lên cho trong, để cho nguội. Đường thì rửa cho sạch bụi. Đổ đường vào mà đánh với nước lã ấy cho vừa mùi. Lảy lá hiên non cho xanh; nơi đâu nó xanh thì cắt lấy bằng đốt ngón tay. Đảo (n) cho chín. Thạch hoa (thì) nửa nấu trắng, nửa ngâm (với) dềnh (o), (rồi) nấu cho vàng. Yến sào với thạch hoa, hạt sen, lá hiên, thì đổ nước vào mà ngâm cho lâu, rồi sẽ thay nước đường khác. Bao giờ ăn sẽ tra hồng tàu. Ấy (là) chè tháng sốt. Dẫu để cả ngày thì cũng chẳng có thiu. Như mùi biếc thì lấy bột hoàng tinh; (hoặc) lầy nước làm xôi gấm (p) mà làm. Xem cho nó vừa mùi. Tẩm nước lã đi cho hết hôi. Lấy khăn mà vắt bột cho ráo. Lấy chén nước đóng (q) như (khi) trụng (r) bánh phân (s). (Rồi) giáo lên cho chín. Lấy lá dong mà gói, rồi cắt ra cho mỏng. Như mùi biếc, mùi vàng, thì lấy nước đường mà dầm. Bao giờ ăn sẽ tra nước đường khác. chú thích : (a) Thạch hoa : chát nhầy lầy từ cây rong câu, ăn được ; cũng gọi tắt là thạch ; thuộc loại Agar. (b) Giáo : bỏ vào nước sôi mà quấy cho chóng đặc. (c) hiên : thứ cỏ loài tỏi, lá bẹt dài, hoa cuống dài, hình phễu, nở thành chùm mầu vàng đỏ. Búp ăn được, gọi là kim châm. (d) Lạc hoa sinh : thường gọi tắt là củ lạc (đậu phụng) ; nghĩa chữ nho là : hoa rụng xuống đất mà sinh củ. (e) Xỏa : trải tung ra. (f) Thôi : mầu hoặc mùi của một vật ngâm, nó thấm dần vào nước. (g) Hầu : gần, sắp. (h) Như bằng : còn như. (i) Giun(18) : co lại cũng nói chun, trun. (j) Lơi (19) : rời rạc, trái với săn. Chữ nôm nầy rất gần với (20) đọc chua. Nhưng ý đây e không hợp. (k) Xả : đổ chóng ra. (l) Tháng sốt : mùa hè ; ý là chè ăn cho mát ruột. (m) Lõi : mầm xanh nằm dọc trong hạt sen, vị đắng. (n) Đảo : nấu khan và chóng với lửa nóng, vừa nấu vừa đảo trên dưới cho khỏi cháy. (o) Xem bài 9, (b). (p) Gấm : thứ lá, đâm lấy nước dùng để nhuộm xôi làm xôi gấm (số 38 và 213), hoặc là xôi biếc (các sồ 43, 210, 211 ). (q) Đóng (21) : tạo hình bằng cách nén chất dẻo vào khuôn. Đây đọc đong thì không hớp ý. (r) Trụng(22) : giúng chóng vào nước sôi. (s) Bánh phân : một thứ bánh làm bằng bột hoàng tinh hoặc bột đậu, có thể trộn với bột súng, giáo lên hoặc tráng ra (các số 5, 6 và 186). chu-nom
Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Đoàn Kết số 421, 02.1990)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 9:31:17 GMT 9
Vụ Án Lịch Sử Việt Nam-Yiệc Nam-Byiệt Nam Vietsciences- Trần Thị Vĩnh Tường Bài viết này đựoc gợi ý từ khoảng 3 năm trước, khi nghe thắc mắc của một nam thính giả người Nam gửi đài phát thanh địa phương, “tại sao các xướng ngôn viên phát âm giọng Nam chữ Việt Nam thành Yiệt Nam, giống như Việt Nam bị tiêu diệt, nghe hổng khá”. “Khôn Ngăn Châu Lụy Sụt Sùi” Thầy cô giáo tình nguyện dậy tiếng Việt khi học trò hỏi cũng bí lù chuyện đúng/sai đến nỗi sém có đề nghị bỏ môn… chánh tả. Có lẽ rất ít cộng đồng nào giới có học vẫn “viết sai” chính tả như người miền Nam. Thật ra giọng Hà Nội ở giới có học hay bình dân cũng “nói sai” linh đình một số âm đầu như s/x, ch/tr, n/l, r/d/gi… dù giọng Hà Nội được vài học giả mặc nhiên cho là giọng tiêu chuẩn đến nỗi không đính kèm chứng minh. Điều ngộ nghĩnh, tất cả những điều sai trên chiếm đa số tuyệt tuyệt đối, vậy mà vẫn chịu tiếng “sai”. Điểm lạ nhất là hết học giả này đến hội nghị kia - ở vùng tôi - tranh cãi “khôn ngăn châu lụy sụt sùi” (1) như ông Phan Khôi vì nỗi “tôi đúng/anh sai” nhưng vẫn… e lệ nép vào dưới hoa không hề cho biết nguyên nhân cũng như cách sửa sao cho đúng. Âm [v] truớc thời quốc ngữ abc Không biết nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người Hưng Yên, Đàng Ngoài, thỏ thẻ gửi đến chinh phu những chữ “vàn, vui, vốn” thế nào trong bốn câu Chinh Phụ Ngâm (2): Câu 267 Khi mơ, những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không! Vui có một tấm lòng chẳng dứt. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! Một tài liệu vô danh viết tay năm 1648 có câu “Nhơn danh cha, ùa con, ùa Spirito Santo” ,“và = ùa”, Spirito Santo chưa được viết là “Thánh Thần” (5). Linh mục Ý Christofori B. Bori, trong một bức thư viết tay năm 1631, viết “Con gnoo muon bau tloam laom Hoa laom chiam” (con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng), có nghĩa: cô/em có muốn theo đạo của người Hoa Lan không (3). Chỉ trong câu ngắn này, có vài điều hết sức lưu ý: bau = vào, tloam = trong, chữ Việt không dấu. Ông Phan Khôi viết “Theo lời truyền thuở nay thì chữ quốc ngữ do một ông cố đạo đặt ra”. Thiệt ra không chỉ “một ông cố đạo “, mà các cuốn từ điển quốc ngữ đầu tiên do nhiều bậc thầy hợp soạn, gồm các thầy giảng đạo và các cộng sự người Việt cả về phần phương pháp và tài liệu. Hãy xem thử vần V trong hai cuốn từ điển Alexandre de Rhodes và từ điển Taberd (4). Hai cuốn này, do hai nhóm soạn giả khác hẳn nhau. Thời điểm, không gian cũng khác nhau xa lắc. Âm [v] trong từ điển Alexandre de Rhodes 1651 Vần V từ điển A. D. Rhodes có khoảng 150 chữ. Tuy vậy chỉ có 25 chữ được viết bằng V và đọc với âm [v]. Ví dụ: vắng, vắng vẻ váng dện, mạng dện vàng, chim vàng anh 125 chữ khác tuy xếp vào vần V, nhưng đựơc viết là “ua, ue, ui, ou…” đọc như [w] hay [b-ỳơ] uòi uoi = byòi byoi con uịt = con yịt oũ bà oũ uãi = ông bà ông byải úen áo = byén áo Lật qua vần B, có khoảng 550 chữ, trong đó có 350 chữ viết với B, đọc như : bạn bè, bàn thờ, bền bỉ. Có khoảng 100 chữ viết với B, nhưng được ký âm bằng ký hiệu beta của Hy-Lạp đọc như “beào” (5) hay b-ỳơ trong giọng Nam bộ, ví dụ:
bua = byua
bú bõ = byú bõ
bui bẻ = byui byẻ Âm [v] trong từ điển Taberd 1838
Có 238 chữ vần V. Các soạn giả… thoải mái quất chữ V hết ráo, như âm [v] trong giọng Bắc hiện nay. Vần B chỉ còn lại một chữ “bua= vua”. Vài ví dụ chứng tỏ sự khác nhau giữa hai nhóm soạn giả:
Chữ thường: tđ A.D. Rhodes, chữ lớn: tđ Taberd:
blọn uẹn - TRỌN VẸN
muôn uật - MUÔN VẬT
uiệc Chúa blời - VIỆC CHÚA TRỜI
Điều này chứng tỏ trong vòng 187 năm, một là các thầy và cộng sự đã đơn giản bằng cách loại bỏ những âm [w, b, b-ỳơ], và khóac cho âm [v] giống tiếng La tinh, hai là dân Việt đã thay đổi giọng nói theo sự hướng dẫn của quí thầy. Hoặc điều này là kết quả của điều kia.
Thành công của abc
Các thầy ký âm abc cho tiếng Byiệt là các thầy giảng đạo ngoại quốc. Đàng Ngoài/Đàng Trong (Đàng Ngoày/Đàng Tlão = ký âm của Gaspar De Amaral năm 1632) không có email/phone/fax/máy ghi âm… như bây giờ. Hai Đàng lúc nào cũng chuẩn bị choảng nhau. Các thầy ở Đàng nào ở yên Đàng đó, vừa học tiếng Việt, vừa giảng đaọ, vừa trốn tránh. Thư từ qua lại rất bí mật và tốn kém, vì rất dễ bị cả chúa Nguyễn/chúa Trịnh nghi ngờ làm gián điệp cho phe bên kia, hậu quả có thể bị trục xuất. Riêng Alexandre de Rhodes bị trục xuất cả thảy sáu lần.
Trong hoàn cảnh đó làm gì có thì giờ thẩm âm/nghiên cứu/giải quyết từng chữ. Dẫu sao, các thầy còn dè dặt không dám ban chữ V từ tiếng La Tinh cho tất cả âm w, b-ỳơ, b.
Trong phần mở đầu từ điển, linh mục A. D. Rhodes
* cho biết âm vị áp dụng là của Bồ-Đào-Nha/La-Tinh,
* giải thích rõ ràng về phụ âm, nguyên âm,
* lại ghi cả cách phát âm sai biệt ở các địa phương, cho thấy các soạn giả rất khách quan và khoa học, không xác nhận phát âm nào nguyên thuỷ hay chính thức hơn âm kia.
Ví dụ: buông = vide (xem) buâng
cuội = vide (xem) quội.
Tuy vậy, tác giả Hoàng Xuân Việt cũng cho là một sự ngạc nhiên vì A. D. Rhodes lại không nói năng gì về chữ V. Tác giả HXViệt cũng đặt câu hỏi phải chăng âm V là âm Tây phương, không phải âm Việt cổ. Thật ra tiếng Pháp cách đây 357 năm cũng đâu có âm [v]. Họ đọc/viết “ouelle” cho chữ vowels. Tiếng Spanish dù vẫn viết V, nhưng chỉ là âm lưng chừng giữa âm [v] và âm , ví dụ “ la vida” đọc là “la biđa”.
Cho đến từ điển Taberd, chế độ thuộc địa Pháp đã vững vàng. Các thầy không còn phải trốn lánh, nên thoải mái “ép” tiếng Việt cho giống với âm La Tinh. Không rõ tại quý thầy chỉ thích âm [v] hay tại tiếng Việt có nhiều cách phát âm cho cùng MỘT chữ làm quí thầy bối rối.
Trên hết mọi sự, quốc ngữ abc tiếng Việt là một thành công bất ngờ. Chỉ với 24 chữ cái, tiếng Việt được a-b-c hoá. Từ đó, muôn vàn trang giấy mô tả được hết thảy: lịch sử, cuộc sống dân gian và bản tính của tâm hồn Việt. Điều này đã ra ngoài cả sự tiên liệu của chính quyền Pháp mà mục đích ban đầu của truyền bá quốc ngữ abc là chỉ muốn loại trừ chữ Nho, chữ Nôm và ảnh hưởng của Nho sĩ. Độc giả có thể tìm mua hai từ điển này, tuy hơi hiếm, nơi chữ nghĩa/ý nghĩa có thể dựng nên được cả một bức tranh ngôn ngữ/phong tục/lối sống/cách suy nghĩ của dân Việt thế kỷ 17 và cả trước đó.
Thành công nhất của việc quốc ngữ hóa abc, là tạo được tính thống nhất trong đánh vần, mà vẫn giữ đuợc cách đọc, giọng nói của mỗi vùng mỗi miền, nhờ hai ông Trương Vĩnh Ký và ông Huình Tịnh Của (16), như ông Phan Khôi viết (1) “Hồi đó có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Ký và ông Paulus Của, tức là Huình Tịnh Trai. Vì mỗi ông có làm ra một bộ tự vị tiếng An Nam. Các ổng cũng là học trường bên Đạo mà ra, cho nên các ổng viết chữ quốc ngữ y như người bên Đạo, nghĩa là viết đúng. Hồi bấy giờ chắc người Nam kỳ phát âm cũng vẫn là không đủ, cũng vẫn là lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi, song le các ổng viết ra thì phân biệt đâu ra đó, vì vậy các ổng mới dám làm tự điển. Mà tự điển của các ổng sau rồi trở nên mẫu mực cho người An Nam, ai cũng phải dùng, dùng đến cả phía bắc Trung kỳ và Bắc kỳ là miền chữ quốc ngữ đã do đó sanh ra.”
Âm [v] trong từ điển Mường-Việt 2002 (6)
HHỏi quí thầy xong, cũng phải chạy về hỏi ngài Mường, vừa là chị em ruột thịt trong nhà; vừa là nhân chứng khách quan ở chỗ không học sử Tàu sử Việt nên không cần tránh né hay ve vuốt ai ráo trọi.
Truyền thuyết Âu Cơ (7) của ngài (người) Mường, tương đương với truyền thuyết Hồng Bàng của ngài Việt. Ngài Mường - hậu duệ cuả tiên nữ nai-đốm-sao Âu Cơ, mẹ của vua Hùng Vương, phân nửa kia của tộc Việt. Âu Cơ mặc áo đen, kết duyên vớí Long Wang mặc áo vàng, con vua Yịt Yàng (Việt Vàng). Một hôm Long Wang quyết định chia tay “ta với nàng khác giống”. Âu Cơ dẫn 50 con đi về miền núi; Long Wang dẫn 50 con đi về miền sông nước. Không thấy cả hai truyền thuyết nhắc đến nhau sau ngày chia tay ấy.
Hậu duệ của nàng Âu Cơ cả hàng ngàn năm không sống gần ngưòi Việt đồng bằng, nên tiếng nói cuả ngài Mường không bị Hán hoá và abc hoá. Jeanne Cuisinier (8) ở vùng Mường suốt 15 năm cũng công nhận Mường không có âm [v].
Xem thử nhóm vần V, khoảng 68 chữ (6)
- Cảo nì phái vo xát kỹ khỏi hôi = Gạo này phải vo xát kỹ khỏi hôi.
- Cải à, là hết wiêc văt chũa? = Con à, làm hết việc vặt chưa?
- Ông Bi ưa vỡ mõn hơn vỡ cá = Ông Bi ưa vợ mọn hơn vợ cả
- Hõ nhà tôi chăng cỏ ay là vua quan chi = Họ nhà tôi chẳng có ai là vua quan chi.
Chỉ quí soạn giả mới biết những chữ đuợc viết với V thế này có phải do kề cận với người Byiệt đồng bằng không và kể từ bao giờ. Tuy vậy vẫn có những chữ được viết với cả V lẫn B, ví dụ: vua-bua, vai-bai, vòi-bòi, vỡ-bỡ (vợ), vậy-bẫy, vây-bây, vóc-bóc, vô-bô, vú-bú, vừa-bừa…
Mở qua vần W, có một số chữ giọng Bắc (và một số) giọng Trung sẽ đọc là V, giọng Nam đọc là [w] hoặc [b-yờ]
- Con wac mà ti ăn têm = Con vạc mà đi ăn đêm
- Da wái chiềng thờ cho ho pỡi = Anh vái bàn thờ cho tôi với
- Cầm mẩy cải wán nì wềl cho ủn = Cầm mấy cái oản này về cho em.
- Da chở cỏ wẽ chiễn tha nưa = Mày đừng có vẽ chuyện ra nữa (Chợt để ý: chiễn = rất giống với giọng Nam = mày đừng nhiều chiệng).
- Cải wày way nì nẵng khoáng môch tã = Cái vòi voi này nặng khoảng một tạ.
Rất ngộ nghĩnh, từ cái vòi của chú voi, tiếng Mường/Tày/Nùng cũng có “tà pòi”. Pòi = cái vòi của bé trai, chính là thứ mà pà mụ chỉ nặn riêng cho pé trai. Pé gái có khi cằn nhằn phân bì sao con không có. Pòi = bòi đều là âm tương đương nơi các thị tộc cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hoàn toàn không phải âm này biến qua âm kia. “Tà”, mạo từ như cái/con ở tiếng Munda, Mon-Khmer, Hmong, Mường.
Mở qua vần B cũng thấy nhiều chữ người Mường đọc là , giọng Bắc (và một số) giọng Trung đọc là V, giọng Nam đọc là [b-yờ]
bỉm thay = ví tay
bải chào = vái chào
bài tồng tiền = vài đồng tiền
chở cải bô lỉ = chớ cãi vô lí
ti no mà bỗi mà bàng = đi đâu mà vội mà vàng
mộch bỡ pà, pa bỡ thiêp = một vợ cả, ba vợ thiếp (vợ lẽ)
Chữ Việt theo Bình Nguyên Lộc 1971 (10)
Ông Bình Nguyên Lộc luôn luôn đòi “làm cho ra lẽ” các vụ án lịch sử chữ nghĩa. Điều ra lẽ ngoạn mục nhất cuả BNLộc, là truy lùng chữ Việt từ hồi ban sơ và từ đó theo dấu được những tộc người đã cấu thành dân tộc Việt Nam ở mảnh đất hình chữ S.
Theo BNLộc, có cả thảy bốn chữ Yit, là tên tự xưng của người Yit. Khi có chữ, người Tàu Hoa Hạ ghi lại theo kiểu tượng hình:
- Chữ Yit đầu tiênxuất hiện từ thời nhà Thương, khoảng từ 1000 đến 2000 năm TTL, chỉ cái rìu có tay cầm - dụng cụ của chủng Yit - khi người Hoa Hạ lần đầu tiếp xúc với chủng Yit ở Hoa Bắc, mạn bắc Hoàng Hà.
- Chữ Yit thứ hai 粵đuợc viết thêm hạt thóc trên cái rìu, ý nói giống dân có cái rìu và biết trồng lúa nước. Chữ này có từ đời Xuân Thu (722- 481 TTL). Ngày nay chữ Yit này vẫn chỉ tỉnh Quảng Đông (cũng là Việt, chi Thái-cổ tức Âu).
- Chữ Yit thứ ba: Tẩu + Tuất: 走戌, mang nghĩa 'Vượt'. Dùng để chỉ chủng Yit thuộc đám Bách Bộc, Lạc bộ Trãi, phía Bắc Hoàng Hà, đã vượt sông Hoàng Hà chay xuống nhập với đám Việt đã ở sẵn tại nước Sở và xung quanh nước Sở, lúc đó là khu Động Đình Hồ.
- Chữ Yit thứ tư: Tẩu + Qua (dáo mác): 越, cũng vẫn mang nghĩa Vượt, để chỉ đám U Việt, Lạc bộ Trãi ở miệt Sơn Đông, phía Nam Hoàng Hà.
Chữ V theo Nguyên Nguyên 2007
Theo tác giả Nguyên Nguyên, khoảng 5000 năm trước chủng Yịt ở rải rác từ phía bắc sông Hoàng Hà đến cực nam sông Dương Tử - lúc đó chưa có nước Trung Hoa (11a) - Những biến động lịch sử dẫn đến chiến tranh suốt hàng trăm năm không dứt khiến họ hết thời điểm này đến thời điểm khác có mặt tại cổ Yiệt, tức đồng bằng sông Hồng. Bản đồ dưới đây cho thấy địa bàn liên tục của hai chi Âu và Lạc cũng như lộ trình di tản xuống cổ Việt, lúc đó chưa gọi là Việt Nam:
Trong bài viết gần đây nhất góp tiếng với Trần Hữu Thuần (12) Nguyên Nguyên (11b) có vẻ cho biết tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (tức Âu, thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao Miao-Yao hay Hmong-Mien).
Hai chữ “Việt Nam”, tiếng Mường xưa đọc Yịt Nam
Nam Bộ xưa đọc Byiệc Nam, nay đọc Yiệc Nam
Quảng Đông đọc Yueh Lam, hoặc Yueh Nam
Thuợng Hải: Yue Ne
Quan Thoại: Yue Nan,
Hẹ (Hakka): Yue Nam
Sơn Đông: Yue Nam
Nhật Bản: Beto-nam
Những tiếng này đều là âm tương đương vì cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hòan toàn không phải âm này biến qua âm kia. Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc láng giềng, theo sắp xếp địa lý, có một số từ vựng và cấu trúc giống nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc tại mỗi quốc gia láng giềng với nhau. Mô hình này được gọi mô hình theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để phân biệt với thứ mô-hình tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được sử dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học. (11b)
Khi hay mình có gốc gác khác nhau, người Việt cảm thấy gì? Có thể sẽ thấy… giống nhau và gần nhau hơn là khi không biết là có khác nhau? Nhưng dù khác nhau thế nào vào buổi ban đầu, tất cả bây giờ vẫn là Người Việt, dân của quốc gia duy nhất giữ được “Việt” trong quốc hiệu.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 9:33:15 GMT 9
Hành trình ngàn năm của chữ Yit-Yue-越-Việt: Yit, chữ Trung Hoa viết 越. Nếu giả thiết của hai tác giả Bình Nguyên Lộc và Nguyên Nguyên đúng, thì hành trình của chữ Yit-Yue-越-Việt dài khoảng 5000 cây số theo đường thẳng, từ Sơn Đông đến mũi Cà Mau, trong gần 5000 năm (13). 越được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách sử của người Trung Hoa, cho thấy họ biết rất rõ Yue là một ý niệm bền bỉ nơi những nuớc hay dân tộc thuộc chủng Yue. - Yit trong Âu Việt 甌越,tức Tây Âu - Yit trong Việt Vương Câu Tiễn 越王句踐 có nàng Tây Thi, thời Chiến Quốc, 496-465 TTL - Yit trong Nam Việt 南越 của Triệu Đà, năm 257 TTL - Yit trong Mân Việt 閩越 - Yit trong U Việt 於越, - Yit trong Dương Việt 揚越 - Yit trong Đông Việt 東越 - Yit trong Sơn Việt 山越 - Yit trong Lạc Việt 雒越 - Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大句越 của Việt Nam thời nhà Đinh năm 968 - Quốc hiệu Đại Việt 大越 của Việt Nam thời nhà Lý năm 1054, - Quốc hiệu Việt Nam 越南 thời nhà Nguyễn Gia Long năm 1802. - Tiếng Quảng Đông vẫn được gọi là Việt ngữ 粵語. Nhưng Việt viết 粵cho thấy người Tàu có hiểu biết rất sâu sắc và phân biệt các tộc Yịt ngày từ thời xưa. Người Mường vẫn nhớ âm ban đầu là Yit, và byua cuả đám Yit này là byua Yit Yàng, mà họ cũng gọi là byua Hùng Wang. Ký ức người Nam bộ từ khi theo công chúa Ngọc Vạn năm 1623 đi mở nước ở miền Nam vẫn lưu giữ chữ Yiệc, Byiệc. Phát âm Yit của Mường và Yiệc của người Nam Bộ chính là một khoen trung gian vô cùng quan trọng nối với mắt xích ban đầu. Khi Yit được các ông nghè ông cống Đàng Ngoài tô son cài hoa thiên lý thành Việt thì họ hoặc ở chốn wê mùa hoặc đã tẩu vô Nam trước đó nên hổng có hay. Sông Pơ Đuông -có nghĩa lúa gạo- biến thành sông Đuống cho thấyYịt biến thành Việt cũng là điều dễ hiểu. Trường hợp đám phiêu lưu giữ lại âm cổ xảy ra dài dài. Vùng Pensylvania bên Mỹ vẫn còn tiếng Anh cổ. Người Bạch Nga qua Úc đầu thế kỷ 20 vẫn dùng tiếng Nga thời Nga Hoàng. Âm [v] nơi láng giềng Cho tới bây giờ tiếng Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Indonesia,Thái, cũng không có âm [v]. Tiếng Thái, tiếng Ấn chỉ có âm hơi giống âm [w] trong chữ wind của tiếng Anh. Giống tiếng Việt xưa, tiếng Triều Tiên cũng có rất nhiều âm : bulgogil = bò (thịt), bae = cái bè.
Tiếng Mường, Triều Tiên, Miến Điện, Lào Thái, Khmer, Chàm, Tày-Nùng đều có âm “bờ-yờ” - dưới dạng [p-ỳơ] - với b hay p đọc nhẹ và nhanh. Người miền Trung từ Qui Nhơn-Tuy Hoà trở vô vẫn có âm “bờ-yờ.” Tuy từ điển Chàm và từ điển Taberd không còn ghi âm “bờ-yờ”, nhưng ghi hay không là chuyện của giới khoa bảng, âm “bờ-yờ” vẫn được dân chúng bảo lưu, vì bà con ít khi dòm hành đến từ điển. Nhiều khi các học giả cãi nhau loạn xạ, dân lành vô tội tỉnh bơ, như yụ om sòm về con chim Lạc, về Lạc Vương/Hùng Vương trước 75 ở Saigon. Ít lưu ý đến các đề tài văn hoá/lịch sử không phải dấu hiệu hay, nhất là nơi một dân tộc lúc nào cũng tự hào có bốn ngàn năm văn hiến.
Âm [v] ở trong Nam
Người Byiệt Đàng Trong, nhất là người Nam bộ dù là xứ thuộc địa của Pháp, lại cầm cự lưu giữ được âm w, b-ỳơ.
Thời ông Phan Khôi, có phong trào học abc, “Chữ quốc ngữ chữ nước ta con cái nhà đều phải học”. Ông Phan Khôi xúi phe tóc dài kéo phe húi cua học quốc ngữ theo kiểu Lưu Bình Dương Lễ, nếu chưa thi đỗ thì chưa động phòng “Rồi các cô hẹn nhau, rày về sau, hễ các cậu, cậu nào viết quốc ngữ đúng thì các cô hãy cho bưng trầu rượu đến nhà; còn không, thì đuổi họ đi cho rảnh”.
Mấy cổ đuổi vô hay đuổi ra, ai mà piếc. Nhưng ở miền Nam yụ học chữ abc ngon lành hết piếc như ông Phan Khôi viết “Trong khi ấy thì ngoài Trung, Bắc kỳ, người An Nam ta đương còn nằm sấp xuống, cấn bụng trên ván, duỗi cẳng dài đuột đuột mà viết chữ Hán, từ bậc ông Cống ông Nghè cho đến chú Trùm trong xóm cũng vậy. Kể cái công tập tành chữ quốc ngữ cho quen và rải rắc nó cho một ngày một rộng ra, ấy là phải kể cho xứ Nam kỳ. Tôi muốn nói xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho cả và dân An Nam, cũng không phải là quá đáng. Độc giả hãy nhớ, xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho dân An Nam! “
Ổng nói dạy đây là dạy VIẾT. Nguời miền Nam, thời ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, hay ở chỗ viết vẫn trúng chánh tả. Nhưng vẫn nói giọng Nam bộ, tức giọng Byiệt cổ, trong đó có âm [b-yờ], dù cô Sáu mang thuỷ xoàn mặc quần sa teeng hay chú Ba pán pánh pò pông. Hồi gia đình tôi mới di cư vào Nam 1954, vẫn nghe bà ngoại chòm xóm la om “Úc, mày làm giống gì ngoải, hổng yìa cho em bú, nó nhè ngoại nó đòi byú nè…” Khoảng năm 1980-90, trên một chuyến phà Châu-đốc – Nam-Vang, lẫn trong tiếng võng đưa giữa đám bạn hàng, vẳng tiếng ru em đẫm màu Nam Bộ, rất “đậm đà bản sắc dân tộc” dù có thể bị các học giả biến sắc mặt bắt lỗi “nói”sai… chánh tả:
Đi đâu cho thíp theo cùng
Đói no thíp chiệu lặn lùng thíp cam
Yí yầu tìn có yở yang
Thì cho thíp gọi đò ngang thíp b-yề.
Yí yầu tìn béeng yiêng thề
Thì cho thíp được đền nghì trúc mai
Định mệnh ngoại hạng của Âm [v]
1. Ở từ điển Alexandre de Rhodes, không tìm thấy chữ Việt, Yiệc, hay Byiệc trong các vần V, W, B. Lý do: vào năm 1651, người và nước Việt Nam còn được gọi là An Nam.
2. Đến từ điển Taberd, trào vua Gia Long, mới có chữ Việt Nam=Regnum Anamiticum
3. Tự điển Mường Việt ghi chữ Yịt ở vần D = Dịt. Sử thi truyền khẩu Đẻ Đất Đẻ Nước (9) của người Mường “nói” byua Yịt Yàng. Nhưng khi ký âm abc lại “viết” vua Dịt Dàng. Nếu phát âm chữ Dịt đó theo giọng Bắc như tôi sẽ làm mất khoen nối giữa Yịt - Yiệc - Việt. Thì đừng nói thế hệ sau, ngay thế hệ này đã không hiểu chữ Yịt - Yiệc - Việt có ràng buộc quan trọng tới mức nào.
4. Chữ quốc ngữ phát xuất từ các xứ đạo Đàng Ngoài, nơi vâng lời là một đức, nên đám tân tòng tuyệt đối nghe theo lời chỉ dẫn của các thầy. Dần dần, quốc ngữ abc vượt ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Nguời Việt Đàng Ngoài có lẽ quá hâm mộ chữ quốc ngữ abc nên đã
- thẳng tay loại trừ một số âm như: bl, tl, ml, kl, b-ỳơ, w
- tuyệt đối chấp nhận âm [v] coi như tiêu chuẩn
5. Phát âm Nam Bộ trước sau trung thành với tiếng Byiệc. Khi các thầy soạn tự điển Alexandre de Rhodes, không có giọng Nam Bộ dự phần vì chưa có miền Nam. Tuy vậy, chính người Nam Bộ đi tiên phong trong việc dạy chữ abc. Nhưng giọng Nam lại bị các học giả cho là…sai. Và người Nam lâu dần cũng tin tưỏng như thế vì từ ông Phan Khôi và ngay cả ông Bình Nguyên Lộc đều cho là “tiếng Bắc trúng hơn” dù giọng Bắc cũng “nói” sai tùm lum tà la với chữ viết. Ví dụ “nái xe nam neo nên nề nạng qua nạng nại nật nuôn/lái xe lam leo lên lề lạng qua lạng lại lật luôn” .
6. Dư luận vẫn cho rằng giọng Nam Bộ “lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi” hoặc giọng Bắc “sai” khi không phân biệt s/x, ch/tr, n/l, r/d/gi…Đốt cái dư luận ấy đi!
Vì giới ngôn ngữ học hồi đó (và cả bây giờ) không tính tới thành phần hết sức pha trộn của dân Việt, mà sự khác biệt về dấu/giọng phản ảnh sự khác biệt nguồn gốc ban đầu.
Có thể tóm tắt: cho mãi đến khoảng đời nhà Trần, tại xứ Việt cổ không có một chi chủng thuần tuý nào gọi là chi chủng Việt Nam. Tức không có chi nào gọi là chi Việt Nam trong khối Bách Việt. Mà chỉ có hàng trăm chi trong Bách Việt cung cấp các nòi giống khác nhau cho giòng giống Việt, làm thành dân tộc Việt Nam ngày nay. Sách vở chính thức sau 1975 cho rằng có 54 dân tộc trên mảnh đất VN. Điều này cho thấy nguời Việt không phải là một dân tộc thuần chủng như hồi nào tới giờ lầm tưởng. Những dân tộc này cùng có chung một số từ, chứng tỏ thời gian cộng cư.
Ví dụ, chữ “va” (đọc là [Ya]) = thằng chả/gã nọ/anh ta, thời ông Hồ Biểu Chánh vẫn còn rất phổ biến trong Nam. Theo tác giả Nguyên Nguyên :
* phát âm [Ya] hay [bờ ya] hay [ba], giống với Hakka [za], Mã Lai [Dia] hay [Ia], Tagalog [niya], Sinhalese [Eya], và Polynesian [Ia] (11a), * giọng Nam nói YA vì có gốc Mon-Khmer và Đa Đảo. Giọng Bắc nói VA vì tiếp cận/hợp chủng/hoặc cả hai, với người Hẹ Hakka. * Người Hakka là nhóm chủ lực ở miền Bắc. Hakka cho cả hai âm [za] và [v]. Âm [v] là âm đặc thù của người Hakka thay cho âm W của người Hoa ở các khu vực phía trong kể cả Bắc Dương Tử (tiếng Bắc Kinh). Vì người Hakka có gốc ở miệt Sơn Đông nên cho đến ngày nay tiếng Tàu ở Sơn Đông vẫn có âm [v] thay cho âm W ở tiếng quan thoại/Bắc Kinh (11b).
Đền nghì trúc mai
Bài viết Tiếng Quảng Trị của Trần Hữu Thuần (12) cho thấy chỉ có vài làng ở gần nhau mà tiếng nói cũng khác. Tiếng Việt vẫn có những khác biệt, và sẽ mãi mãi khác nhau như thế. Tuy vậy, sự khác biệt ấy không quá lớn lao như ở Phi Luật Tân, tuy là một hải đảo độc lập, nhưng có tới 27 tiếng nói khác hẳn nhau. Họ phải dùng tiếng Tagalog ở trường học và tiếng Anh ở thương trường hay diễn đàn chánh trị. Không cần thở ngắn than dài vì sai biệt đó không làm giảm tính thống nhất trong tiếng Việt, dẫn tới những thống nhất khác như phong tục, lối sống, cách suy nghĩ.
Thế giới đang tìm cách phục hồi những tiếng nói trên đà diệt vong. Ở Quảng Bình, đám người Rục, người Nguồn (14) mà tiếng nói và nguồn gốc được xem là Việt tối cổ vẫn là đề tài nghiên cứu. Giữ được tiếng nào hay tiếng ấy cũng là cách đền nghì ơn tổ tiên.
Năm 223 TTL khi Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu sáu nước, nước Sở tiêu tán đường. Quí tộc bị giết chết. Dân chạy tan tác. Số ở lại, bị tàn sát hoặc đồng hoá tận gốc rễ. Sau bao cố gắng, đại học Massachusetts Amherst chỉ sưu tầm được… 5 chữ (15).
Riêng Yit, Byiệc, Việt đã chịu sự thử thách của thời gian gần 5000 năm, trôi nổi từ thảo nguyên mênh mông đến sông dài núi rộng, vượt sóng cả trùng dương, vượt lên trên tất cả những oái oăm của lịch sử, cho thấy quá khứ của cả một dân tộc không chỉ lưu lại trong chữ viết.
Vườn nào hoa nấy
Có thể nói, không có chuyện đúng sai trong âm V. Vấn đề chỉ là giọng Bắc đã quốc tế hóa được âm v, cũng như giọng Nam đã quốc tế hoá được âm tr.
Bài viết này không phải là một sáng tác. Chỉ làm công việc lượm lặt lý giải của những người đi trước để trả lời cho thắc mắc chữ V: tiếng nói có trước, chữ viết có sau, các xướng ngôn viên người Nam đã trung thành với phát âm cổ của tiếng Yiệc từ 5000 năm trước abc: Byiệt, Byiệc, Yiệt, Yiệc. Viết theo abc là Việt. Viết cũng như nói, Việt không bao giờ là Diệt hay Dziệt cả.
Trần Thị Vĩnh Tường
Ghi chú
(1)Phan Khôi (1887-1959)/Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5465&rb=06
Ông Phan Khôi thấy báo chí viết sai chánh tả, ông sót sa “khôn ngăn châu lụy sụt sùi” và đề quyết “chữ quốc ngữ ở Nam kỳ mà viết sai bậy bạ hết là bắt đầu từ các ông làm báo bậc tiền bối”.
(2) Chinh Phụ Ngâm, tác giả Đặng Trần Côn (1715-1745) người làng Mọc, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Bản dịch Nôm được cho là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, khoảng giáp Bắc Ninh.
(3) Phụng Nghi/100 Năm Phát Triển Tiếng Việt, NXB Văn Nghệ 1999, California
(4) Từ điển Việt-Bồ-La, Alexandre. De Rhodes, Dictionarivm Annnamiticvm – Lusitanvm – Latinvm, soạn cho Đàng Ngoài, in lần đầu tiên ở La Mã năm 1651, Viện Khoa Học Xã Hội/HCM tái bản năm 1991.
Từ điển Việt-La Tinh Taberd, Dictionarium Anamitico-Latinum, được soạn sau khi nước nhà đã thống nhất không còn Đàng Trong/Đàng Ngoài, in lần đầu tiên tại Bengale (Ấn Độ) năm 1838, tái bản 2004, NXB Văn Học/Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hà Nội và TPHCM.
(5) Hoàng Xuân Việt/Tìm Hiểu Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính, NXB Văn Hoá Thông Tin 2007
(6) Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ và HoàngVăn Hành , NXB Văn hoá Dân Tộc (2002).
(7) Tên Âu Cơ cũng là tên đã Việt hoá. Tên Mường là Ngu Cơ. Ngu Cơ cũng là tên người đẹp của tráng sĩ Hạng Võ trong tuồng “Hạng Võ biệt Ngu Cơ”
(8) Jeanne Cuisinier, tác giả La Danse Sacrée en Indochine et en Indonésia [Múa thiêng ở Đông Dương và Indonesia] và Les Mương, Geographie Humaine et Sociologie (Người Mường, Địa Lý Nhân Văn và Xã Hội Học), Université de Paris, 1946,
(9) Đẻ Đất Đẻ Nước, NXB Văn Học – Hà Nội 1976
(10) Bình Nguyên Lộc (1914-1987) tác giả hai cuốn Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ xuất bản năm 1971 và 1972 ở Saigon, được tái bản dài dài ở hải ngoại, tuy vậy cũng rất hiếm. Hiện có trên www.talawas.org
(11) Nguyên Nguyên
a. Thử Đọc Lại Truyền Thuyết Hùng Vương/trên nhiều trang net.
b. www.khoahoc.net/baivo/nguyennguyen/120707-quangtri.htm
c. Loan Words and Metaphorical Field (tư liệu)
(12) Trần Hữu Thuần/Tiếng Quảng Trị/Talawas 6/2007:
www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06
(13) 5000 năm nếu tính từ lúc lãnh tụ Xuy Vưu lãnh đạo đám Cửu Lê đánh nhau với Hiên Viên của Hoa Hạ ở trận Trác Lộc năm 2879. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, Xuy Vưu là nhân vật huyền sử. Nhưng dân tộc Đại Hàn, dân HMong thờ ông như thánh tổ. Họ còn ghi dấu chiến trường nơi ông bị chặt đầu. Dân Trung Hoa bây giờ cũng phải nhận ông là một trong ba ông tổ (Xuy Vưu, Hiên viên, Thần Nông).
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý, năm 1160, mùa xuân tháng giêng, vua Lý Anh Tông cho xây đền thờ Hai Bà và đền thờ Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Không biết đền này có còn lưu vết tích gì chăng.
(14) Nguyễn Đức Cung/Quảng Bình Chín Trăm Năm Nhìn Lại (1075-1975) NXB Nhật Lệ 2006
(15) www.umass.edu/wsp/results/languages/chu/lexicon.html
(16) Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, ngonngu.net/index.php?p=309:
Trương Vĩnh Ký sinh ngày 6/12/1836 tại thôn Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long. Ông đã học chữ nho, chữ quốc ngữ, sau đó được một linh mục đưa đến Cái Nhum trên đất Campuchia học chữ Latin. Từ năm 1851 đến năm 1858, ông học ở trường đạo Pinang thuộc Ấn Độ Dương, rồi qua Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức và Ý. Trương Vĩnh Ký là người thông minh, uyên bác, có thể đọc và nói giỏi 15 thứ tiếng phương Tây và 12 thứ tiếng phương Đông. Ông là hội viên của các hội khoa học: Hội Nhân chủng học và khoa học miền Tây nước Pháp, Hội chuyên nói các tiếng phương Đông, Hội chuyên khảo văn hoá Á châu, Hội địa lí học Paris,... Đương thời, Trương Vĩnh Ký được báo chí và giới học giả nước ngoài liệt vào hàng thứ 17 trong danh sách “Toàn cầu thập bát văn hào”. Ông mất ngày 01/9/1898, thọ 62 tuổi. Ông để lại khoảng 118 bộ sách đã xuất bản và rất nhiều công trình còn đang dở dang.
Theo tác giả Sơn Nam trong Văn Minh Miệt Vườn, khi Trương Vĩnh Ký đi học ở Poulo Penang (Mã Lai), ông là người đem về cho Cái Mơn nhiều cây trái mới. Cái Mơn sau đó trở thành vườn gây cây giống cho Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Mỹ Tho…tạo sự trù phú và lập nên nền văn minh miệt vườn. Quí bà quí cô mê sầu riêng, boòng boong, măng cụt, chôm chôm, vú sữa… phải nhớ đến Trương Vĩnh Ký.
Bức tượng Trương Vĩnh Ký mặc áo dài, đội khăn, tay cầm cuốn sách, do dân chúng và nhà báo đóng góp từ năm 1908, được dựng lên năm 1927 ở công viên gần dinh Độc Lập, Saigon. Sáng nào chúng tôi đi học ngang cũng nhìn thấy ông. Sau 1975 bị hạ xuống. Theo một bài viết, bức tượng này được đưa vào ngôi nhà của chú Hoả nay biến thành Viện Bảo Tàng ở Saigon.
Huình Tịnh Của (1834–1908), người gốc Bà Rịa. Ông soạn Đại Nam quấc âm tự vị 1210 trang trong bốn năm. Ông còn viết: Phép toán (Số học) (1867); Phép đo (Hình học) (1867); Gia lễ (1886); Sách Bác học sơ giải (1887); Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1897); Thư mẹ dạy con (1913). Sách giải trí: Chuyện giải buồn (in lần đầu năm 1886 và lần thứ năm năm 1904); Câu hát góp (1904); Văn Doan diễn ca (1906). Sách “Bổn cũ soạn lại” hay phỏng dịch của văn học Trung Hoa: Quan âm diễn ca (in lần thứ năm năm 1930); Tống Tử Văn (1904); Bạch Viên Tôn Các (1906); Chiêu Quân cống Hồ (1906); Tống Tử Vưu truyện (1907).
Họ Huình của ông xuất hiện với chữ i ngắn, vì vậy tất cả sách vở khi nhắc tới ông đều dùng i ngắn như nguyên văn để tỏ lòng kính trọng, dù có thể không đồng ý với chữ i ngắn này. Đó cũng là một nét đẹp của giới cầm bút có văn hoá.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 5, 2010 9:26:18 GMT 9
Theo dấu vết của Con đường Tơ Lụa trên BiểnVietsciences- Hồng Lê Thọ 1. Từ một mảnh sành Thanh Hóa 2. Người Nhật Bản với phố cổ Hội An và văn hoá Chăm Việt Nam 3. Tách trà sứ gốm Việt Nam trong Trà đạo của người Nhật Bản 1 1/ Từ một mảnh sành Thanh Hóa Bình hoa gốm Chu Đậu(Hải Dương) ở viện bảo tàng Topkapi(thổ nhỉ kì) Vào một buổi chiều chủ nhật cuối thu năm 1978, khi lang thang trong khu trưng bày đồ cổ Châu Á của Viện bảo tàng Topkapi (Thổ Nhĩ Kỳ), tôi ngạc nhiên khi thấy 4 mảnh sành, trong đó có 3 mảnh men lam màu xanh Cobalt kiểu đời Nguyên, ghi "Đồ sành An Nam" với nét thanh thoát hình cánh hoa mẫu đơn và một mảnh khác men ngọc (Céladon) ẩn hình hoa sen, ám họa mang dáng dấp đời Tống ghi niên đại thuộc thế kỷ 9 - 11 đào được ở thành phố Fustat (Ai Cập cổ đại), với câu hỏi về nguồn gốc "Có phải là Long Tuyền Diêu của Trung Quốc hay là của Thanh Hóa (Việt Nam)" ? Điều thú vị là thành phố Fustat -vùng đất cổ ở ngoại ô thủ đô Cairo ngày nay chỉ tồn tại đến hậu bán thế kỷ 12 (năm 1168), vì người bản xứ đã tự hủy diệt, đập bỏ tất cả trong cuộc giao tranh "vườn không nhà trống" với Thập Tự Quân, cho thấy mảnh sành men ngọc nêu trên đã phải có mặt trước đó. Celadon Việt nam—Song ngư Vài năm sau Viện bảo tàng mỹ thuật Osaka (Nhật Bản) trưng bày một bát men ngọc "An Nam" của ông Kimura, một nhà sưu tầm đồ cổ Việt Nam khá nổi tiếng, bát nầy có màu men, hình dáng và hoa văn rất giống với mảnh sành ở Topkapi, lại thêm chú thích đáng lưu ý: "Celadon An Nam - rất khác với men ngọc của Long Tuyền (Trung Quốc), Sukhothai, Sawalakok (Thái Lan) - có chân bát rất cao; thường thoa thêm một lớp oxyt sắt mà giới chuyên môn gọi là đáy Chocolat, một đặc trưng của đồ sứ gốm Việt Nam ngày trước". Hơn 10 năm sau, vào những ngày cuối năm 1990, ở khu phố bán bàn ghế, tủ, chén giả cổ ở lăng Cha Cả ngày trước (quận Tân Bình) tôi tìm thấy 2 cái bát men ngọc hoàn chỉnh, trong đó một bát có men tuy không dầy như bát ngọc Bắc Tống thường rất nặng tay, nhưng hoàn toàn giống hệt mảnh sành và bát men ngọc ở Osaka nêu trên. Lẽ nào ngày nay còn sót lại những cổ vật quí hiếm như thế ? Trước khi nhắc lại lịch sử di dời của nghề đồ sứ men ngọc từ đời Tống sang nước ta, xin nói phương pháp xác định 2 bát men ngọc liệu là đồ thật hay đồ giả. Theo cách thẩm định của cụ Vương Hồng Sển để biết đồ cổ loại này thật hay giả là phải xem độ dày bóng của men ngọc, những điểm lấm chấm đen hay nâu của oxyd sắt tiết ra từ bên trong qua thời gian, thêm nữa là mô típ về hoa văn bằng bút sắt (hay tre) ẩn chìm trong men. Với mấy yếu tố này thì 2 cái bát mua được tuy không hoàn toàn giống nhau về nước men nhưng cho phép người khảo chứng có thể tạm xác định là "đồ thật" khoảng thế kỷ thứ 10 - 13, còn được sản xuất ở đâu thì chưa rõ, là "Long Tuyền Diêu" ở Chiết Giang (Trung Quốc) hay Thanh Hóa nước ta, mà cũng có thể là men ngọc kiểu "Tống Hồ Lục" của Xiêm La hoặc một nơi nào khác ? Về điểm này, có thể tóm tắt như sau: 1- Nhiều tư liệu lịch sử và khảo cổ cho biết trong những tù binh người Tống bị bắt đưa về khai hoang ở Thanh Hóa vào năm Ất Mão (1075) khi Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh Châu Khâm, Châu Liêm (Trung Quốc) và sau đó là đợt di dân chạy loạn giặc Nguyên Mông, đã có một số danh nhân nghề gốm sứ Bắc Tống sang miền Bắc, mang kỹ thuật Céladon về định cư định canh ở Thanh Hóa và sản xuất đồ gốm sứ ở đây trong suốt gần 2 thế kỷ với mô típ phù hợp với văn hóa Việt Nam, chịu ảnh hưởng của đạo Phật thịnh hành vào thế kỷ 11 - 13. Không những thế, trong cuộc sơ tán này, họ còn mang theo nhiều sản phẩm sành sứ sang Việt Nam và đó cũng là lý do tại sao chúng ta tìm thấy nhiều đồ cổ quí giá của Trung Quốc có mặt ở nước ta. 2- Mặt khác, từ thế kỷ thứ 9 kéo dài đến thế kỷ 17, và nhất là sau khi nhà Nguyên thống trị Trung Quốc thay nhà Tống, người Hồi giáo ở vịnh Ba Tư, thương nhân từ vùng biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đã tấp nập qua lại bến Vân Đồn, phố Hiến... mua bán hương liệu, đồ gốm sứ. Phẩm vật Trung Quốc cũng được chuyển sang nước ta để trao đổi hàng hóa tại đây hay xuất đi nơi khác. Vì thế, các bến cảng miền Bắc vào thời kỳ này là "kho hàng" (Entrepôt) hay trung tâm giao dịch bao gồm cả phía Nam Trung Hoa (Quảng Đông, Phúc Kiến...) lúc bấy giờ. Không chỉ ở Topkapi (Thổ Nhĩ Kỳ) mà cả ở đảo Okinawa (Nhật Bản), Sumatra (Indonesia), quần đảo Philippines... người ta tìm thấy nhiều mảnh sành thời Lý, Trần rất đẹp, chen lẫn trong đồ "thật" và đồ "nhại" của Trung Quốc. 3- Trong đợt người Hoa đời Tống di dân, lánh nạn, nhiều họ tộc đã sang Việt Nam và sau đó, từ đầu đời Nguyên, vua Thái Lan cũng đã mời công nhân sứ gốm đến Xiêm La xây dựng các lò nung tương tự. Mặt khác, theo Roxanna M.Brown, một chuyên gia về đồ gốm sứ Đông Nam Á, cho biết, sau khi nhà Nguyên suy tàn, các họ tộc đời Tống ở Thanh Hóa đã trở về Trung Quốc, và cũng đã có những nhóm người chuyển sang Xiêm La để tiếp tục sản xuất, giải thích tại sao đồ sành của Thanh Hóa không mấy phát triển khi bước vào thế kỷ thứ 16 - 17. Trong những cuộc chuyển di của người Hoa khắp lục địa Châu Á ấy, có lẽ cũng đã có số người dừng chân ở Bình Định (Gò Sành), Đồng Nai... xây dựng lò sản xuất hàng sứ gốm có mô típ rất gần gủi với các nơi khác trong khu vực. Thố men ngọc Việt Nam Nhiều nhà khảo cổ học Nhật Bản cho rằng đồ sành sứ Thanh Hóa đã chịu ảnh hưởng của Việt châu diêu từ đời nhà Đường, khi tìm thấy nhiều cổ vật (bình, vại...) có hình dạng giống như hàng sành sứ của các lò nung vùng này và mang dáng dấp của men ngọc đời Tống, đậm nét nhất vào thế kỷ 10 - 13, khi phát hiện nhiều bát, chén céladon có mô típ rất gần gũi với Long Tuyền Diêu. Như vậy, mảnh sành ở Topkapi rất có thể là sản vật của Thanh Hóa đã theo các thương thuyền của con đường lụa trên biển từ thế kỷ thứ 10 - 12. Chi tiết giúp tôi khẳng định thêm được điều đó khi tìm thấy ở Viện bảo tàng Istanbul ngày nay một lọ hoa men lam tuyệt vời còn nguyên vẹn, ghi rõ "Đại Hòa năm thứ 8" tức vào đời vua Lê Nhân Tôn (nhà Hậu Lê, năm 1450), của một nghệ nhân họ Bùi ở Nam Sách (Hải Dương), chứng tỏ sứ gốm ở Việt Nam là hàng hóa được xuất khẩu ra nước ngoài một cách qui mô. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Giáo sư Misugi Takatoshi (Nhật Bản), con đường tơ lụa trên biển hình thành rất sớm, từ khi kỹ thuật đóng thuyền buồm bọc gió vượt biển được xác lập từ đầu công nguyên và ngày càng phát triển khi kỹ thuật la bàn đi biển được phát minh tạo điều kiện cho những thương thuyền cỡ lớn chuyên chở hàng lụa, hồ tiêu, hương liệu và các loại gỗ quí (trầm hương), sản phẩm sành sứ thay thế dần các đoàn lữ hành bằng lạc đà trên lục địa đầy trắc trở. Song song với sự hưng thịnh rực rỡ của nền văn minh lưỡng hà vào thế kỷ 9 - 11, hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia... đã được đưa đến các xứ Ai Cập cổ đại để mua bán, trong đó có hàng "sành sứ An Nam", đặc biệt loại bát chén men ngọc được người Vịnh Ba Tư rất ưa chuộng, xem là một dụng cụ để đo thuốc độc trong thức ăn (poisoning test) trong thời kỳ các nước và bộ tộc tranh chấp ác liệt và truyền thuyết đó vẫn được lưu lại cho đến ngày nay. 1/1998 Hồng Lê Thọ ( Tokyo ) đã đăng trên báo Sài gòn giải phóng(1998) 2 2/ Người Nhật Bản với phố cổ Hội An và văn hoá Chăm Việt Nam Nếu có dịp đến thăm Viện Bảo tàng NEZU (quận Bunkyo, Tokyo), bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ở đây có một chiếc lu đựng nước bằng gốm pha men nâu sậm của dân tộc Chăm, được các nhà khảo cổ gọi là gốm "Gò Sành" của xứ Bình Định ngày xưa. Khảo sát đồ gốm Seto và Bizen ở miền Nam Nhật Bản vào thế kỷ thứ 15 - 16 và so với những sản phẩm cùng chủng loại của người Chăm, lạ thay tại sao chúng lại rất gần gũi, từ hình dạng, hoa văn đến nước men đen bóng (có khi là nâu đậm). Câu hỏi ấy đã được đặt ra trong giới khảo cổ Nhật Bản đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Một nhà nghiên cứu về Chăm học ở TP Hồ chí Minh đã ngạc nhiên đến tột bực khi xem tập catalogue của Viện Bảo tàng Machida (tỉnh Kanagawa), nơi thu thập được khá phong phú sản phẩm sứ gốm của nước ta, rằng "ở Ninh Thuận có rất nhiều, hiện nay vẫn còn tìm thấy". Dựa vào nguồn tư liệu viết về mối giao lưu giữa hai nước Việt - Nhật qua "Chu ấn thuyền" (Shuinbune) (*) của Mạc Phủ vào hậu bán thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 17 thì các tàu buôn này tập trung mua bán khá lớn ở các bến cảng của người chăm vùng biển Trung Bộ, sau đó mới đến Hội An, Thanh Hà, Phố Hiến và Hà Nội (Đông Kinh) với các mặt hàng chủ yếu là sành sứ, trầm hương, kén tơ tằm, yến sào, gỗ quí... trong đó sứ gốm chiếm tỷ lệ cao nhất. Những sản phẩm sứ gốm này thường được người Nhật Bản gọi chung là sứ gốm "An Nam", "Giao Chỉ" đối với các loại có men lam hồi hay men ngọc, và các loại men nâu hoặc đen thì họ gọi gộp là gốm Khmer hay gốm Chăm (đã có từ thế kỷ thứ 2 - 3). gốm Gò Sành gốm Bizen(NB) Nghề sứ gốm của Nhật Bản phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 - 18, khi tướng quân Toyotomi của Mạc Phủ ra lệnh "dẫn độ" nghệ nhân người Triều Tiên mang theo kỹ thuật lò nung ở nhiệt độ cao (trên 1.300 độ C) của nhà Minh, còn sản phẩm sứ gốm Seto hay Bizen nói trên đã tồn tại từ trước cho thấy có khả năng kỹ thuật sản xuất sứ gốm của người Chăm đã được truyền sang Nhật Bản trước cả thời kỳ hai nước giao lưu bằng "Chu ấn thuyền". Cũng có người giải thích rằng hàng hoá sứ gốm men đen, nâu, nhất là các loại lu, vại để đựng nước uống trên thuyền đã được trao đổi giữa các tàu buôn qua lại trên biển Đông của người Nhật hay Trung Quốc trong đó có cả bọn cướp biển. Mặt khác người Chăm cũng đến tận quần đảo Đài Loan để mua bán và định cư từ những thế kỷ đầu Công nguyên và họ đã mang theo để sử dụng chăng ? Giả thuyết này khá thú vị khi các nhà dân tộc học tìm thấy ở Đài Loan những bộ tộc thuộc nhân chủng Malaysia - Polynesien có đặc trưng sinh hoạt văn hoá rất gần gũi với người Indonesia (đảo Java) và người Chăm ở Việt Nam. Tuy vậy, những phát hiện đó cũng chưa giải thích được sự tương hợp giữa hàng sứ gốm người Chăm và sản phẩm của Seto hay Bizen ở Nhật Bản. Con đường tơ lụa trên biển Một giai thoại trong lịch sử thường được nhắc lại trong những khảo cứu về con đường tơ lụa trên biển vào thời kỳ "Chu ấn thuyền" là Tướng quân Tokugawa - người thống nhất sơn hà vào quyền lực Mạc Phủ trong 300 năm (từ thế kỷ 14 - 17) - rất say mê bát uống trà "An Nam" làm bằng gốm nung màu vàng nhạt có hoa văn cánh sen trang nhã màu hồng tía hay màu xanh cobalt đời Trần. Từ đó, các lãnh chúa phiên bang đều ưa chuộng, trở thành một phong cách trong nghệ thuật uống trà của người Nhật Bản ở Kinh Đô (Kyoto). Ngoài mục đích bảo vệ quyền lợi kinh tế của Mạc Phủ, những thương thuyền Nhật Bản sang nước ta đã thu mua hàng vạn ấm chén uống trà bằng sứ gốm được gọi là "An Nam Yaki" hay "An Nam Somesuke", thậm chí đã có một số lò sứ gốm ở gần Kyoto đã "nhái" lại theo kiểu "An Nam" để tung ra thị trường, một loại hàng giả nổi tiếng thời ấy. Điều đó cho thấy nghề sứ gốm của nước ta thời bấy giờ đã phát triển vài thế kỷ trước Nhật Bản. Mặt khác, nhiều tư liệu mới phát hiện đã chứng minh trước khi thế lực của các công ty tàu biển Đông Ấn - Hoà Lan khuynh loát vùng biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vào thế kỷ 16 bằng phương tiện chuyên chở cỡ lớn (và súng đạn) xuất hiện các bến cảng dọc theo bờ biển của nước Việt Nam thời trung đại (khoảng thế kỷ thứ 11 đến 17), trong suốt 500-600 năm... đã có mối quan hệ trao đổi và trung chuyển hàng hoá giữa các thương thuyền khắp nơi kéo đến vì thế nghề sứ gốm ở Bát Tràng, Thanh Hoá với màu men lam hồi hay men ngọc, Bình Định với men nâu đậm hay men xanh bóng đã có điều kiện phát triển khá rực rỡ, cao nhất là thế kỷ 13 - 15, trở thành một trong những mặt hàng chủ lực lan rộng đến cả Nhật Bản, Indonesia, Malaysia và nhiều nước trong vùng vịnh Ba Tư, trong đó có những sản phẩm sứ gốm của dân tộc Chăm. Thương thuyền Shuinsen của Nhật bản Tàu buôn hàng của Trung quốc trên con đường tơ lụa Song song với sự phát triển đó, nền văn hoá người Chăm nở rộ với nhiều sắc thái khá độc đáo, là một tụ điểm giao thoa nhiều nền văn minh, tôn giáo và nhân chủng khác nhau theo luồng người di trú hay luồng tàu thương nhân mang đến. Người ta còn lấy làm lạ rằng tại sao dân tộc Chăm lại có thể hội tụ nhiều tôn giáo có khi rất tương khắc vào thời kỳ mà việc giao dịch, đi lại rất hạn chế, chỉ có đường bộ và đường biển bằng tàu buồm chạy theo gió mùa ? Ở đấy đã có đạo Bà La Môn, Hồi giáo, Ấn giáo, đạo Phật (tiểu thừa và đại thừa) cùng tồn tại, không kể đến các loại tôn giáo địa phương khác của người Trung Quốc hay người Việt. Liệu những điều đó có gắn liền với quá trình hình thành và tan rã của nước Lâm Ấp thuở xa xưa hay Chiêm thành sau này? Giáo sư Ogura Sadao, một chuyên gia về sử học nổi tiếng ở Nhật Bản, cho biết: "Người Nhật Bản quan tâm đến Hội An không phải chỉ vỉ ở đấy có khu phố cổ, nơi ghi lại những dấu ấn về mối giao thương chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản từ thế kỷ 16, vấn đề chúng tôi muốn biết thêm là nền văn hoá của dân tộc Chăm đã hình thành và tồn tại như thế nào trong suốt 10 thế kỷ hoặc có thể lâu hơn nữa, từ thời cổ đại". Tại khu di tích vừa mới khai quật tại thành phố Kagawa ở miền Nam nước Nhật vào tháng 8 - 1998, các nhà khảo cổ Nhật Bản tìm thấy một vòng bằng đá ngọc xanh thuộc thế kỷ thứ 3 tại khu vực ăn ở của một lãnh chúa (hay phú hào ?) có hình dạng hoàn toàn giống những vòng trang sức của người Chăm ở Óc Eo mà chúng tôi đã thấy ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Có phải đây là một bằng chứng mới xác minh mối quan hệ giao lưu giữa người Nhật Bản và người Chăm ngày trước, phù hợp với nhận định ban đầu của Giáo sư Misugi Takayoshi, rằng có những dấu hiệu cho thấy "người Chiêm Thành đi bằng Giao chỉ thuyền" đã vượt biển đến các vùng đảo của Nhật Bản từ thế kỷ thứ hai vì người dân tộc Chăm sống ở ven biển vốn có nghề đi biển theo hướng gió mùa rất thông thạo. Cho nên cũng không lạ gì khi các nhà khảo cổ trẻ tuổi Nhật Bản thường xuyên đi tìm những mảnh vụn sứ gốm, hàng trang sức đang nằm dưới lòng đất ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu... để tìm một lời giải đáp bằng học thuật; điều vẫn được xem là khá "bí ẩn" trong quan hệ Nhật - Việt vào thời kỳ mà con đường tơ lụa trên biển bắt đầu hình thành. Tokyo, 9-2000 HỒNG LÊ THỌ ------------------------- (*) thương thuyền mang ấn thư triện đỏ do Mạc Phủ cấp gọi là "Chu ấn thuyền" (Shuinbune) hay Goshuinsen (Ngự chu ấn thuyền) - ám chỉ thuyền của Mạc Phủ cử đi để phân biệt với tàu buôn của bọn "hải tặc". đã đăng trên báo SGGP (9/2000) (bổ sung ngày 28/2/2009)) đọc thêm ”Vài nét về đồ Gốm Việt Nam trên thị trường Gốm quốc tế vào thế kỷ 14 đến thế kỷ 17” www.gosanh.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=237và “Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century” tripatlas.com/Nanban Du thuyền trên vịnh Hạ Long ngày nay Thuyền buồm ngày xưa đào cổ vật dưới đáy biển trên con đường tơ lụa Cổ vật dưới đáy biển 3 3/ Tách trà sứ gốm Việt Nam trong Trà đạo của người Nhật Bản Người Việt chúng ta thường nghe nói đến Trà đạo, thú uống trà tao nhã của người Nhật Bản với những lễ nghi cầu kỳ kéo dài gần 4 giờ đồng hồ cho một cuộc gọi là Chaji. Trà đạo hình thành từ thế kỷ thứ IX mà mục đích của nó là tạo ra sự thanh thản, tịnh tâm để thả hồn hòa với thiên nhiên, cảnh vật như quan niệm của Thiền đạo trong Phật giáo. Tách trà An-Nam phổ biến ở Kyoto Vào những ngày đầu xuân đúng lúc hoa anh đào nở rộ từ thượng tuần đến hạ tuần tháng 3 hằng năm, khắp nước Nhật, người ta thường thấy trên đường ngắm hoa bên sườn đồi thoai thoải theo dốc núi là một quán trà với sạp gỗ phủ một miếng vải màu đỏ, bên trên che một chiếc dù rực rỡ dành cho người thưởng ngoạn ghé ngồi dừng chân uống trà trông thật nhàn nhã và phong lưu. Những buổi uống trà này không lệ thuộc vào lễ nghi cho nên "dễ chịu" hơn so với thủ tục của Chaji ... Nhìn những cô gái mỹ miều trong bộ kimono sặc sỡ, vén tóc búi cao để lộ chiếc gáy trắng muốt đi lại dịu dàng mời khách uống trà càng làm cho nét xuân thêm rạng rỡ, trở thành điểm nhấn của buổi du ngoạn độc đáo này. Nếu bước chân vào bên trong quán, người ta phát hiện được những bộ sưu tập về dụng cụ pha chế trà, tủ đựng các ấm chén, tách, đĩa quý hàng trăm năm trước được trưng bày, sắp xếp một cách cẩn trọng theo lịch sử phát triển của ngành gốm sứ ở Nhật Bản. Một nét văn hóa vô cùng đặc sắc của dân tộc Nhật rất đáng ngưỡng mộ. Thương thuyền Nhật Bản lui tới Hội An Trước thế kỷ XIV, nghề gốm Nhật Bản chưa mấy phát triển, chủ yếu vẫn là dựa vào Trung Quốc và Trà đạo cũng còn nằm trong khuôn viên của nhà chùa và các gia đình phú hào, lãnh chúa nhưng đến thế kỷ XV, khi tập quán uống trà ngày càng phổ biến, lan rộng trong đời sống nhân dân thì nhu cầu phát triển về gốm sứ đi kèm cũng trở nên rầm rộ và ngày càng tinh xảo, điệu nghệ hơn. Đó cũng chính là cơ duyên hội ngộ của Trà đạo Nhật Bản và gốm sứ Việt vào cuối thế kỷ thứ XVI đầu thế kỷ XVII khi các đoàn thương thuyền của Nhật Bản theo gió xuôi về nam cập bến Hội An, Phố Hiến ... Trong hơn 35 năm, một số lượng hàng gốm sứ Việt đã ra đi từ đây để phục vụ cho nghệ thuật uống trà với tên gọi Beni-anam, một loại chén uống trà hoa xanh lam có điểm màu đỏ và xanh lục lộng lẫy hay hình hoa sen thể hiện bằng màu xanh lá cây và màu đỏ rất đẹp mà gia đình tướng quân Tokugawa rất đỗi ưa chuộng. Môn phái Trà đạo nổi tiếng ở thế kỷ thứ XVII là Kanamori showa còn giữ được một bình đựng nước men trắng hoa sen của Việt Nam ( thế kỷ XII - XIII ) và nhiều gia đình phú hào ở Osaka vẫn còn lưu giữ các loại chén, bình nước để dùng trong trà đạo. Đã có lúc hàng Việt Nam khan hiếm, các lò gốm ở Kyoto đã phải làm hàng nhái mang tên Kyoyaki thay cho Annam-yaki. Dụng cụ dùng trong Trà Đạo(tách trà An-nam) Theo giáo sư Hasebe Gakuji ( viện Bảo tàng Tokyo ) thì kỹ thuật đồ sứ Việt Nam đã có ảnh hưởng rất lớn đến những người thợ nghề này ở Seto ( thuộc tỉnh Aichi ngày nay ), một nơi được tướng quân Tokugawa đặt hàng với số lượng lớn gốm sứ hoa xanh như của Việt Nam khi phát hiện được những hoạt động của gia đình Owari Chaya ( Nagasaki ) được mô tả trong bức tranh "Chaya Shiroku vượt biển thông thương với nước Giao Chỉ" ở Hội An nổi tiếng. Hiện nay Viện Bảo tàng Tokyo còn giữ được một chiếc đĩa hoa xanh có chân rất đặc biệt do thợ gốm Seto làm vào nửa đầu thế kỷ 19 có ghi chữ "Đại Việt quốc" kèm theo mấy câu thơ chung quanh, mô phỏng theo đồ sứ Việt Nam, cho thấy "đồ sứ Việt Nam được đưa vào Nhật Bản liên tục có tác dụng kích thích những người thợ gốm Nhật Bản" ( GS. Hasebe Gakuji trong Tìm hiểu quan hệ Nhật - Việt qua đồ gốm sứ). Vì vậy những chiếc đĩa xanh lam với mô típ cảnh vật thiên nhiên của đồ sứ Imari ( tỉnh Kyushu - Nhật Bản ) sau này vẫn mang dáng dấp của gốm Chu Đậu, nhẹ nhàng và thanh thoát phù hợp với ý thích trong nghệ thuật của người Nhật hơn là tính kỹ xảo, chi tiết rườm rà trong hàng gốm sứ Cảnh Đức Trấn ( Trung Quốc ). Người viết đã được dịp trông thấy những chiếc chén trà hoa xanh có hình con chuồn chuồn rất trang nhã ở Viện Bảo tàng Nezu ( Tokyo ) và được biết nhiều gia đình Nhật Bản hiện nay vẫn còn cất giữ những chén trà tương tự như một bảo vật của tổ tiên. Đây là loại chén chuyên dụng trong Trà đạo, vì vậy có thể thương lái người Nhật đã đặt hàng sản xuất riêng trong những chuyến đi buôn ở Việt Nam vào thời ấy(*). Còn gì thú bằng khi tham dự một buổi "tiệc" trà mà trên tay cầm một chiếc chén là hàng gốm sứ nước Việt đã có từ hàng trăm năm về trước với độ dày khả dĩ giữ được hơi ấm rất lâu trong gió thoảng lành lạnh còn sót lại của buổi đầu xuân. Điều đó hoàn toàn có thể thưởng thức vào mùa hoa anh đào nở mỗi năm trong công viên ở thành phố Kyoto cổ kính. Hồng Lê Thọ 1/2006 --------------- (*) Nghệ thuật uống trà của Việt Nam (điển hình là trà xanh) và trà cụ đã được tiền nhân chúng ta cho xuất cảng sang Nhật trong giai đoạn nầy (từ triều nhà Lý sang đến nhà Trần). Hiện nay tại một bảo tàng viện của người Nhật ở Kyoto (cựu thủ đô của Nhật) vẫn còn lưu giữ và chưng bày một số trà cụ từ Việt Nam mà họ đã nhập vào nước Nhật trong triều đại nhà Lý mà người Nhật vẫn xem là những món đồ "quốc bảo". Tản Mạn Chuyện Trà www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=print&sid=4792 12/09/2006(bổ sung chú thích nầy ngày 28/2/2009) đã đăng trên Sức khỏe và đời sống số ra ngày Thứ 7, 28/01/2006.(Báo Xuân )
|
|