|
Post by NhiHa on Oct 20, 2010 15:16:33 GMT 9
2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu (Phần I) truongxuabancu.fpb.yuku.com/topic/1074/QLVNCH-Mt-Th-Lng-LyNgo-Dinh-Diem-BS-H-Thc?page=3#.VVWxXPD09oMTôi mới nhận được một giấy mời tham dự Lễ Tưởng niệm cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02/11/2007. Tôi không một chút suy nghĩ và đã nhận lời. Lần đầu tiên nhận một giấy mời như thế kể từ khi ông chết. Cám ơn ban tổ chức. Tôi nhìn thấy tên người tổ chức: ông Lê Châu Lộc. Người đã có thời hãnh diện vì đã được sống bên cạnh vị tổng thống ấy. Từ Lê Châu Lộc, tôi liên tưởng đến những người từng có cơ hội gần gũi với ông Tổng thống Diệm như Đỗ Thọ, Nguyễn Hữu Duệ, Cao Xuân Vỹ, Tôn Thất Thiện, Cụ Quách Tòng Đức, Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến Lâm Lễ Trinh, cụ Đoàn Thêm, Võ Văn Hải, Nguyễn Thành Cung, Nguyễn Cửu Đắc, Nguyễn Văn Minh và v.v... Ít ai có lời phỉ báng, nặng nhẹ, nếu không nói là một lòng, một dạ. Hình như ít có vị lãnh đạo nào, dù đạo hay đời mà khi chết đi để lại thương nhớ và niềm kính trọng nơi những kẻ dưới quyền đến như ông? Hồ Chí Minh chăng? Không. Nào ai khác không có. Nhớ những người này, những kẻ một lòng, một dạ với ông thì đồng thời tôi cũng muốn không nhớ tới Đỗ Mậu, một số tướng lãnh hay Thích Trí Quang và Cabot Lodge. Nói chi đến thứ viết như Nguyễn Đắc Xuân, viết bẩn, bôi bẩn. Tôi sẽ đến đó với một tấm lòng thanh thản. Bởi vì tôi đi đến đó không phải để vinh danh một vị tổng thống của nền đệ nhất cộng hoà. Đến đó không phải để tôn sùng, không phải để thần thánh hóa như người ta mỉa mai. Đến đó không phải vì ngu muội.vì thiếu hiểu biết lịch sử. Như người ta chửi. Cũng chẳng một chút mưu cầu gì. Bất cứ mưu cầu gì. Và có thể, tất cả những người đến đó, như tôi, đều chẳng có mưu mô, mưu cầu nào cả. Mưu cầu dựng lại đảng Cần lao nhân vị? Buồn cười. Đừng ai gán ghép gì cả. Có người vui mừng vì những cái chết đó. Có người buồn, thương tiếc. Người vui thì được, tại sao lại khó chịu khi người khác không vui, khi người khác buồn? Hãy cứ để cho người vui được vui và người buồn được phép buồn. Tôi đến với một chút lòng. Chỉ có thế. Đến vì nghĩ rằng những năm tháng ấy, mặc dù chẳng phải là một xã hội toàn hảo. Mặc dù xã hội ấy chập chững khập khễnh giữa dân chủ, phong kiến, tự do và độc đoán. Tôi tránh chữ độc tài bởi vì nó nhiều mức độ quá. Và tôi vẫn tự hào với mình, với bạn bè mình, đó là những năm tháng đẹp nhất quãng đời tuổi trẻ của tôi, của chúng tôi .Tôi đã hỏi các bạn bè tôi, ít ai nói khác. Hỡi những ai, những loài chim ri, chim sẻ đã từng là Chu Văn An, Petrus Ký, Gia Long, Trưng Vương. Nói lên đi, đã có lần nào các anh bị tù, bị bịt mồm, bịt miệng một cách bất công, bị đàn áp một cách vô lý… Và các anh, các chị đã có lúc nào cảm thấy bị ngộp thở, bị đè nén trong thời gian đó vì lý do tôn giáo? Do ai và người nào, bày tôi nào mà chúng ta bị đối xử như thế? Hãy tìm cho tôi một thời gian nào của mảnh đất miền Nam trong 20 năm và nay nửa thế kỷ đã qua những ngày tháng tốt đẹp hơn những ngày tháng ấy? Tôi nhắc lại nơi đây một nhận xét của Võ Phiến về giai đoạn 1954-1963 như sau: “Trong khung cảnh thái bình, nước nhà vừa có chủ quyền ..., chính phủ đang được tín nhiệm, trong không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do, văn học nghệ thuật đã phát triển nhanh chóng mạnh mẽ. Tình hình văn học trong giai đoạn mở đầu miền Nam phản ánh cái phấn khởi, tin tưởng, tích cực….Sang giai đoạn sau cả văn nhân lẫn văn chương đều hóa ra phong trần… (Trích Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến, trang 207) Trước 1954 và sau 1963, chúng ta đã sống thế nào? Trước 1954, nhiều nỗi bấp bênh. Tương lai vô định. Sau 1963, tình thế rối beng, tuổi trẻ chán ngán. Trong khi thời gian từ 1954, miền Nam như một miền đất hứa cho nhiều người. Chúng ta đã đến đó và góp bàn tay, góp trí óc chúng ta xây dựng mảnh đất miền Nam ấy. Hơn thế nữa, chúng ta đã góp xương máu để giữ nó, mặc dù bây giờ chúng ta đã mất. Mất tất cả? Dù thế, chúng ta đã để lại một di sản văn hóa, tinh thần tự do và một thể chế hành chánh tương đối quy mô và hữu hiệu. Và chỉ khi thật sự mất miền Nam, chỉ khi chúng ta không còn gì… chúng ta mới có dịp so sánh và nhìn lại. Chúng ta mới thực sự hiểu và đánh giá đúng mức cái gia tài văn học, văn hoá, giáo dục của miền Nam. Nhiều khi, chúng ta đã có lúc đòi cái nọ, cái kia mà thực sự cái chúng ta đòi đã nằm sẵn trong túi áo? Nghĩ lại thời đó, chúng ta vẫn thong dong tuổi trẻ? Chúng ta đã được đào tạo đến nơi đến chốn? Trường y, trường dược, trường kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành Chánh với các đại học Sài Gòn, Đà Lạt, Huế. Chúng ta từ đâu mà lớn lên và trở thành những chuyên viên hàng đầu của miền Nam Việt Nam? Hãy cố nhớ lại xem. Hãy dùng tất cả cái tấm lòng để nhớ đến. Nơi ấy vẫn là một niềm Nam đáng sống với những ngày tháng tuổi trẻ được lớn lên và trưởng thành. Theo cụ Đoàn Thêm, dự án trung tâm Phú Thọ tưởng không thành vì thiếu giáo sư. Ông Diệm bảo: “Có nhiều học nhiều, có ít học ít, đợi đến bao giờ và cứ cho phép mở. Viện Đại học Đàlạt được thành lập dễ dàng với sự nâng đỡ đặc biệt của ông. Ông trợ cấp nhiều cho Đại học Huế, tặng tiền dịch sách để tiến tới một cơ quan dịch thuật và khuyến khích lập một viện Hán học. Ông hoan nghênh sự cố gắng chấn hưng Nho giáo của Hội Khổng Học và dặn Bộ giáo dục tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm Khổng tử. Như sự trưởng thành của quân đội, từ những tiểu đoàn bộ binh hay khinh binh thời Bảo Đại tới một lực lượng hùng hậu với đủ các quân chủng và binh chủng, là kết quả nỗ lực của mọi cấp chuyên trách Việt Nam với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ” Nay thì đã mấy lần từ ngày 01/11/1963? Hơn 40 năm rồi. Có điều gì cần phải nói nữa không? Có nhiều điều chúng ta không nên nhớ đến nữa. Forgive and forget. Có nhiều điều nên quên để di dưỡng tuổi già, để nhìn về thế hệ con cháu chúng ta. Độc giả nghĩ rằng tôi sẽ viết về ông Diệm. Thưa không. Viết về ông, nhiều người đã sống bên cạnh ông viết đủ và họ có đủ tư cách để viết về ông hơn tôi gấp bội. Ngô Đình Lệ Thuỷ (con gái ông bà Nhu), Trần Lệ Xuân và ông Cố vấn (duyệt đội danh dự của “Phong trào Phụ nữ Liên đới” tháng 4-1962) Nguồn: vsnonline.net --------------------------------------------- ----------------------------------- Cho nên, bài này tôi sẽ viết về vợ chồng ông Nhu, bị hiểu lầm và bị ghét nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, ghét là đằng khác, khinh nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Tôi biết rõ. Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Nhưng đã trót quý mến ai rồi thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, tôi đã trót quý mến Nam Phương Hoàng Hậu.Và niềm kính trọng vẫn còn đó. Nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi. Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó. Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường dòng Chúa Cứu thế nên ngày thứ năm là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi “theo học” lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học. Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh tôi là người tài giỏi hơn người. Thật vậy, vào năm 1953, anh tôi đã thi xong Phần 1, tiến sĩ triết học ở Bỉ và 1955 về nước tình nguyện ra miền Bắc phục vụ. Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục. Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt. Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và điềm đạm. Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc. Nhưng khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là cớ sự cho những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963. Đối với tôi, sau 1963, cái gì cũng trở thành đầu đề để đàm tiếu gia đình ông Nhu. Có cần nhắc lại những điều viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân không? Xin được nhắc lại một lần cuối. Trong bài ký: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường ‘gặt bão’ của anh em Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11–63”. Ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, nửa hư, nửa thực như sau: Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đình Nhu – người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy? Và Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp: Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v... Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi. Theo ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho người viết hay: phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác. Chi tiết mà ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết một lần nữa chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân đã bịa đặt, viết lếu láo và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng. Im lặng ở đây được coi là đồng loã.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 20, 2010 15:17:54 GMT 9
Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhưng ấn tượng đó còn được ghi khắc thêm là trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho tôi là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình. Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy. Cụ Đoàn Thêm nhận xét: “Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.” Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng. Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt cho. Nghe sao thì nói lại. Mà câu chuyện này tôi nghe khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều gì đi nữa. Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được? Ai nghĩ xấu thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi không là không. Nói xấu cho một người thì dễ. Kính trọng được một người thì mới là điều khó. Bẵng đi một thời gian gần 10 năm, tôi lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác. Hồi ấy, tôi còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời. Nói như cụ Đoàn Thêm thì ông Nhu “cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ mình là đủ).” (Còn tiếp) © DCVOnline --------------------------------------------- ----------------------------------- DCVOnline: (1) Học giả Nguyễn Khoa Toàn, thi sĩ kiêm hoạ sĩ tài danh, tốt nghiệp trường Hậu bổ như ông Diệm và lớn hơn ông Diệm năm, sáu tuổi. Cụ Toàn từng giữ nhiều chức vụ hệ trọng như Tá lý Bộ học thời Ngự tiền Văn Phòng (tương đương với Thủ tướng) Phạm Quỳnh, Bộ trưởng Giáo dục trong Chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Đại sứ ở Thái Lan thời Bảo Đại năm 1949. Khi mới về nước, Thủ tướng toàn quyền Ngô Đình Diệm lưu dụng cụ Toàn ở Bang Kok hai năm trước khi cụ về hưu. Hoạ sĩ Toàn là cha của bà Nguyễn Khoa Diệu Mai, nhạc phụ của Võ Văn Hải, cựu Chánh Văn Phòng Đặc biệt của Thủ tướng Ngô Đình Diệm (Trích “Nén hương cho bạn Võ Văn Hải”, Lâm Lễ Trinh, California, 27/08/2006). ============================================= ===== Nguyễn Văn Lục 03-11-2007 2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu (Phần Kết) Tiếp theo phần I Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ thì không. Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ , thái độ của mấy ông này. Ông không phải là loại người của đám đông. Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô hậu ủng. Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống. Tôi đã đọc lại các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đã làm được như vậy? Xin hãy đọc vài dòng của cụ Đoàn Thêm viết về ộng Nhu để thấy con người ấy sống như thế nào: ông Cố vấn Ngô Đình Nhu Nguồn: z.about.com --------------------------------------------- ----------------------------------- “Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn . Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh ... Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất đắc dĩ. Theo như lời kể của cụ Đoàn Thêm: “Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn). Người nào đã đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có mà chê cũng có. Vậy nên những nhận xét của cụ phải được coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn bôi bẩn hay xưng tụng quá mức. Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, hẳn người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người thế nào? Tư cách ở chỗ ấy, trí thức thứ thiệt ở chỗ ấy. Cứ thử nhìn lại, những người thay thế ông sau này, quyền bính vào trong tay, họ đã hành xử thế nào? Cứ như ông Đỗ Mậu hồi làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm cố vấn? Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm? Từ đầu đến giờ, tôi chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập gì đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu con người mà không xứng đáng thì nói chi đến thứ khác? Sau này, tại California, tôi lại một lần nữa nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục. Tôi đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng. Ông đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu. Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào. Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu. Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó. Trường hợp thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, gs ảnh Đh Vạn Hạnh (1925-1989) Nguồn: LuanHoan --------------------------------------------- ----------------------------------- Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm. Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v… Theo lời kể của anh Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Không phải loại người bờm xơm, cớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý. Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm. Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh để rồi kính trọng nhân cách con người bà? Phải thú thực không có bao nhiêu. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì gần như tất cả. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Ghét ngay từ những năm1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu chỉ là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ sinh đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó. Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Không làm cũng chết chỉ vì bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn. Đàn ông nào nó chịu được. Có lẽ chúng ta lại cần đến lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu xem sao. Theo cụ Đoàn Thêm: – Dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. – Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam. – Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, theo cụ Đoàn Thêm là nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khoẻ và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu thì người ta còn nhẫn nhịn chờ đợi, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ. – Nên dù trái hay phải, gnười đàn bà VN muốn vội sống theo gương đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu và những Từ Hy. – Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt. Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó. Người ghét cứ ghét, cứ mỗi ngày mỗi nhiều thêm do cái thể chế tam đầu chế, cộng thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu. Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông vừa được nâng cấp trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn. Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ Xuân/my.opera.com --------------------------------------------- ----------------------------------- Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm. Tôi hiểu. Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những điều bôi nhọ bà Nhu của Nguyễn Đắc Xuân. Tôi chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai. Nói sai dĩ nhiên là không dám nói. Nói đúng thì hóa ra đồng lõa bôi nhọ. Trả lời khôn ngoan nhất là không nhớ. Không nhớ gì hết. Theo quý vị độc giả, tôi phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân? Nhưng nếu chúng ta có thể tạm quên đi tất cả những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì? Đã nói gì? Đã viết gì? Và đã sống như thế nào? Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói. Cắt đứt mọi liên lạc với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc đều nhận thấy bà sống cuộc đời ẩn dật và sống chết với quá khứ đó. Ai hiểu được tâm trạng và nỗi buồn, nỗi đau của bà gần 50 năm này? Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà? Kể như bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu. Đối với bà, cuộc sống đã không còn nữa. Sự im lặng của bà mang nhiều ý nghĩa: Đắng cay và tủi hận. Những ai từng kết án bà thì xin nhớ rằng nếu bà là loại người tham tiền cố vị, không tư cách hay tệ hơn nữa trăng hoa, mất nết… Chúng ta sẽ thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963. Nhưng ngay những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được bằng cớ nhỏ nhoi gì để bôi nhọ bà. Bà sống ẩn dật một thời gian ở Ý rồi sang Pháp mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài. ngày ngày đi lễ nhà thờ, lấy kinh nguyện làm lẽ sống. Một con người như thế, chịu biết bao điều sỉ nhục, biết bao điều tệ bạc, phản trắc về thế thái nhân tình. Nhân cách ấy, cách chọn lựa lối sống ấy, không phải là dễ, không phải ai cũng làm được. Và chỉ cần nhìn lại những tháng ngày sau 1963, tôi nghĩ thật mấy ai đã làm được như bà? Người ta đồn bà đang viết nhật ký. Mong là như vậy . Ông Lê Châu Lộc có nói với tôi là bà viết nhiều lắm. Tôi chỉ biết vậy. Bà Trần Lệ Xuân (Ảnh 200x) Nguồn: l0ng3ta's blog/l0ng3ta.wordpress.com --------------------------------------------- ----------------------------------- Trong cuộc sống này, trong suốt những năm làm vợ ông Nhu. Tôi mường tượng hình ảnh mô tả của nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh nói tới ánh mắt reo vui, âu yếm của ông khi nhìn mẹ con bà Nhu ăn mặc chuẩn bị chụp hình. Đặc biệt , ông nuông chiều cậu Út. Đó là một gia đình êm ấm. Ông đã chết từ 02/11/1963. Phần bà Nhu đã chết kể từ ngày ấy. Nhưng bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay. Nghĩ đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, tôi không khỏi có chút so sánh và ngậm ngùi, thương tiếc cho hai người phụ nữ tài sắc ấy mà số phận dành cho họ không khỏi bất công. Tôi quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và trân trọng quý mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 8:27:31 GMT 9
Ngày hai anh em ông Diệm – Nhu bị hạ sát (2/11/1963) thì bà Trần Lệ Xuân đang ở đất Mỹ để “giải độc” cho chế độ nhà Ngô. Bà Trần Lệ Xuân cùng trưởng nữ là Ngô Đình Lệ Thủy đã tới nhà thờ để dự lễ cầu hồn cho người thân. Sau đó vài năm thì một người em chồng của bà là ông Ngô Đình Cẩn cũng đã bị phe đảo chánh giết hại. Nỗi đau tang gia chưa nguôi thì bà Lệ Xuân được tin mẹ chồng là bà Ngô Đình Khả (Phạm Thị Thân) hơn 90 tuổi đã tạ thế tại Huế. Quả phụ Ngô Đình Nhu cùng các con không được về nước chịu tang mẹ chồng và bà nội. Cả giám mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Luyện, cựu đại sứ VNCH tại Anh và đang sống lưu vong tại đó, cũng không được về nước chịu tang thân mẫu. 5 năm sau những biến cố ấy thì trưởng nữ của bà, Ngô Đình Lệ Thủy lại qua đời do tai nạn giao thông tại Paris (Pháp), vào năm 1968. Sau đó bà Trần Lệ Xuân cùng các con nhỏ chuyển về sinh sống tại La Mã, nơi giám mục Ngô Đình Thục đang tạm sống ở đó. Ngày 13/12/1984, mấy mẹ con quả phụ Ngô Đình Nhu lại nhận được tin giám mục Ngô Đình Thục đã từ trần tại đất Mỹ sau mấy năm bị khủng hoảng tinh thần và đang nghỉ dưỡng tại một dòng tu Công Giáo tại Mỹ. Khi còn ở Việt Nam, hay lúc sống lưu vong, ông Ngô Đình Thục lúc nào cũng thương yêu mẹ con bà Trần Lệ Xuân, do vậy, với gia đình bà, ông Ngô Đình Thục không chỉ là người thân ruột thịt mà còn là ân nhân của bà nơi đất khách. Khi được tin ông Ngô Đình Thục qua đời, mấy mẹ con bà Nhu định sang Mỹ phục tang, nhưng vì có chuyện xích mích trong gia đình họ Ngô nên ông Ngô Đình Luyện, em út trong gia đình họ Ngô, không đồng ý cho mẹ con bà sang Mỹ dự tang lễ Giám mục Ngô Đình Thục. Gần 2 năm sau (28/7/1986), bà Lệ Xuân nhận được điện thoại của người em trai ruột của bà là Trần Văn Khiêm báo tin song thân là ông bà Trần Văn Chương đã qua đời nhưng không rõ nguyên nhân. Sau đó lại được tin Trần Văn Khiêm bị cảnh sát Mỹ bắt giữ do có liên quan đến cái chết của song thân. Cha mẹ qua đời bà cũng không thể qua Mỹ chịu tang được. Đến năm 1990, người em út của gia đình họ Ngô là Ngô Đình Luyện cũng qua đời tại Paris vì bệnh. Mẹ con bà Nhu cũng không sang dự đám tang vì trước đó họ đã có xích mích. Như vậy là cuộc đời bà Nhu đã phải chứng kiến tới 10 cái chết của những người thân họ hàng ruột thịt, từng khóc hết nước mắt nhưng đã không một lần được tham dự tang lễ, âu cũng là một chữ “Lệ”! Vào tháng 3/2002, luật sư Trương Phú Thứ có sang Paris chơi và đã đến thăm gia đình bà quả phụ Ngô Đình Nhu. Khi về lại Mỹ, luật sư Trương Phú Thứ đã viết một bài khá dài về cuộc gặp gỡ với bà quả phụ Ngô Đình Nhu. Luật sư Trương Phú Thứ cho biết, bà Nhu ở một mình trong căn hộ của một tòa nhà mới xây gần tháp Eiffel (Paris). Bà Nhu là chủ sở hữu 2 căn hộ ở trên tầng lầu thứ 11 của tòa nhà cao tầng ở khu vực có địa thế rất đẹp của thủ đô Paris. Bà Nhu ở một cái và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của bà, cũng đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt tại Paris là cựu trung tướng quân đội Sài Gòn Trần Văn Trung vẫn tưởng là bà Nhu hiện đang sống ở Italia. Bà Nhu tuy đã ngoài 80, nhưng vẫn khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Căn hộ của bà Nhu khá bình thường với hai phòng ngủ và một phòng khách. Trên tường phòng khách của bà có treo vài khung hình lớn của ông Diệm, ông Thục và ông Nhu, có cả ảnh trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy, và nhiều người trong thân tộc khác đã quá vãng. Bà phân trần quanh chuyện có người nói rằng một người Pháp giàu có biếu Giám mục Ngô Đình Thục một món tiền lớn, rồi ông Thục đã cho bà để mua một căn trong tòa nhà cao tầng này, và sau đó bà đã dành dụm mua thêm được một căn nữa. Sự thật không phải như vậy. Bà Nhu cho biết bà đã trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một ân nhân ẩn danh. Có tiền trong tay, bà đã nhờ một cựu bộ trưởng thời Chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai căn nhà này. Bà Nhu cũng cho biết: “Mấy thanh niên Việt mới bơ vơ đến Pháp được bà cho tạm trú ở căn thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau, những thanh niên này đã được thân nhân hay vì nhu cầu công việc ra đi tạo lập đời sống thì bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê cho đến ngày nay. Bà Nhu cũng cho biết: Vị ân nhân tặng bà Nhu số tiền kếch sù đó là bà Capici, một người Italia, từng lọt vào danh sách những người phụ nữ giàu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và mãi đến 4 năm sau khi bà Capici tạ thế bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp của người đã gia ân cho mình. Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp có treo tấm hình đen trắng ngôi nhà của ông bà Nhu ở Đà Lạt. Bà Nhu hiện nay không có ý định về thăm quê hương Việt Nam. Khi nói về những người con thì bà Nhu có vẻ bằng lòng với chút hãnh diện. Người con trai lớn Ngô Đình Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đã 55 tuổi, lấy vợ người Italia và đã có 4 con, (3 trai, 1 gái). Bà Nhu khoe là những đứa cháu nội (con trai ông Trác), ai cũng “cao một mét tám, to lớn và đẹp trai lắm”. Vợ ông Trác thuộc dòng dõi quý tộc giàu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt chăn nuôi và đã chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho việc canh tác những thửa đất nhỏ. Gia đình ông Trác sở hữu một biệt thự to và rất đẹp trong nội thành La Mã. Ngôi biệt thự này có phong cách cấu trúc và dáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đã ở đây nhiều năm nên rất nhiều người lầm tưởng rằng bà Nhu đã tá túc ơ một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài. Người con trai thứ hai là Ngô Đình Quỳnh cũng đã trên 50 tuổi, tốt nghiệp Trường ESEC (Ecole Superieur de I’Economie et du Commerce) chứ không phải Trường HEC (Hautes Etudes Commerciales) như rất nhiều báo chĩ đã đưa tin. ESEC là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tại chính, có học trình chặt chẽ và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chính trên toàn thế giới trọng vọng. Khi Ngô Đình Quỳnh học trường này bà Nhu đã không đủ khả năng trả học phí nên phải làm giấy xin nợ tiền bạc. Hiện ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một công ty Hoa Kỳ ở Brussels (thủ đô nước Bỉ). Ông Quỳnh không lập gia đình. Bà Nhu cười nói: “Thằng Quỳnh giống bác ruột” (hàm ý sống độc thân như ông Diệm). Cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ Trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật sư ngành Công pháp rất nổi tiếng nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở Phân khoa Luật của Đại học Roma mà thôi. Lý do đơn giản là Lệ Quyên không chịu nhập quốc tịch Italia. Luật pháp Italia không cho phép những người không có quốc tích được quyền giảng dạy một cách chính thức trong học trình.Lệ Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc khiến các “cây đại thụ” của ngành công pháp thế giới phải ngưỡng mộ. Lệ Quyên có chồng người Italia nhưng đứa con trai 7 tuổi lại chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu đã hãnh diện nói tên cháu bé là Ngô Đình Sơn. Niềm tự hào dòng họ là sự giữ gốc rễ dân tộc. Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết, bà Nhu đều xuống đường đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint dự thánh lễ hàng ngày, Thông thường sau thánh lễ, bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt, trưng bày hoa nến. Ngày chủ nhật, bà phụ trách dạy lớp giáo lý cho các trẻ nhỏ. Bà Nhu hầu như rất ít đi mua sắm. Một bà bạn người Nhật đã lo cho bà về cái mặc rồi. Nói đến quần áo, bà có vẻ đăm chiêu: “Ở Sài Gòn nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ. Tổng thống không bằng lòng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là “kiểu áo bà Nhu” đã một thời là mốt của các thiếu nữ Sài Gòn và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rỗi nghề. Bà Nhu kể chuyện trước kia phải đại diện chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót. Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (rubi), bà Nhu có trình và xin ông Diệm số tiền là 6 ngàn đồng bạc Việt Nam thời đó (tương đương 6 triệu bây giờ) để mua lại. Tổng thống nghe lời giải bày cũng hợp lý nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận với đầy đủ lai lịch của những món đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất ông Diệm cho tiền và cũng chẳng còn nhớ những đồ trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu. Luật sư Thứ cũng kể lại “bà Nhu có những phân tích, lượng giá vấn đề một cách chi tiết và hợp lý đồng thời đưa ra những kết luận làm người nghe dễ dàng bị thuyết phục”. Điều này chứng tỏ tuy sống khép mình trong một căn phòng nhỏ bé nhưng bà vẫn theo dõi thời cuộc một cách cẩn thận. Bà Nhu cũng kể lại vào mùa xuân năm 1975. Hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin phỏng vấn trong 30 phút. Lý do bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC và đòi 10 ngàn USD tiền thù lao với hai vé máy bay khứ hồi hạng nhất đi Paris – Washington DC, vì lúc đó Lệ Quyên còn rất nhỏ và muốn đi gặp ông bà ngoại. Vì không có tiền trang trải cho chuyến đi nhưng vì thương con nên bà bằng lòng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp ông bà Trần Văn Chương ở thủ đô nước Mỹ. Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC thì những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đã vội vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhât bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất bà tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra, bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ dưới bất cứ hình thức nào. nguồn: st
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 15:30:11 GMT 9
Bà TRẦN LỆ XUÂN Trần Lệ Xuân (sinh năm 1924), cũng thường được biết đến là Bà Ngô Đình Nhu, là một gương mặt then chốt trong chính quyền Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng hòa cho đến khi anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị lật đổ và ám sát năm 1963. Đệ nhất Phu nhân của Việt Nam Cộng Hòa Trần Lệ Xuân sinh tại Huế (có tài liệu ghi là Hà Nội). Bà là cháu gái của vua Đồng Khánh và là con của luật sư Trần Văn Chương. Lúc nhỏ bà học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, tốt nghiệp tú tài Pháp. Năm 1943 bà kết hôn với Ngô Đình Nhu và cải sang đạo Thiên Chúa, từ bỏ đạo Phật. Bà là dân biểu, chủ tịch Hội Phụ nữ Liên đới, thường được gọi là "Bà Cố vấn" và được coi là Đệ nhất Phu nhân (First Lady) của Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955 đến năm 1963 vì Tổng thống Ngô Đình Diệm không lập gia đình. Trong thời Đệ nhất Cộng hoà của miền Nam Việt Nam, Trần Lệ Xuân bị cho là người lộng quyền. Việc Ngô Đình Diệm để cho bà cũng như Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và người em út Ngô Đình Cẩn tham gia sâu vào việc nước tạo nên hình ảnh gia đình trị độc đoán kiểu phong kiến. Trần Lệ Xuân và con gái Ngô Đình Lệ Thủy Trong sự kiện Phật Đản năm 1963, ngày 3 tháng 8 năm 1963, trong cuộc nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân lên tiếng rằng "hoạt động của Phật giáo là một hình thức phản bội xấu xa...". Về sự tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, bà nhiều lần công khai phát biểu "Vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu, nếu ai có thiếu xăng dầu thì tôi sẽ cho" và gọi vụ tự thiêu là "nướng sư" (nguyên văn: I would clap hands at seeing another monk barbecue show). Trả lời phỏng vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: "Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt tỉnh, không cần biết tới". Các hành động, phát biểu thiếu cân nhắc và quá khích của bà góp phần đổ thêm dầu vào lửa dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Trần Lệ Xuân cũng là người khởi xướng kiểu áo dài cổ thuyền, khoét sâu (mà dân chúng vẫn gọi nôm na là "áo dài Trần Lệ Xuân") tạo ra một làn sóng thời trang áo dài hở cổ mới mà những người cổ học lên tiếng phê phán. Bà còn cho xây dựng tượng Hai Bà Trưng, nhưng với khuôn mẫu Trưng Trắc giống hệt bà còn Trưng Nhị giống hết con gái Lệ Thủy của bà. Ba năm sau ngày bà đi lưu vong, hai tượng này bị đập bỏ. Ngày nay, những cánh rừng do bà khởi xướng trồng trên đường từ Sài Gòn đến rừng Cát Tiên vẫn được nhân dân gọi là rừng Trần Lệ Xuân. 2 Sống lưu vong Trong tháng 10 năm 1963, Trần Lệ Xuân cùng con gái Ngô Đình Lệ Thủy đi Hoa Kỳ và Roma với dự định sẽ vạch trần âm mưu lật đổ của Tổng thống Kennedy và CIA trước công chúng Mỹ. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Trần Lệ Xuân và con gái đang trú ngụ tại khách sạn sang trọng Wilshire Hotel ở Beverly Hill, California thì cuộc đảo chính xảy ra, chồng và anh chồng bà bị giết. Ngày 15 tháng 11 năm 1963, Trần Lệ Xuân và Lệ Thủy rời khỏi Los Angeles để đi Roma sinh sống sau khi phát biểu: "Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi." Ngày 16 tháng 10 năm 1971, tờ New York Times đưa tin bà bị đánh cướp số nữ trang trị giá trên 32 ngàn dollar tại Roma. Ngày 9 tháng 5 năm 1975 khi trả lời phỏng vấn đài truyền hình NBC Trần Lệ Xuân đã tố cáo chính quyền Kennedy can thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ . Ngày 2 tháng 11 năm 1986, Trần Lệ Xuân tố cáo Mỹ chơi xấu với gia đình bà trong việc bắt giữ Trần Văn Khiêm (em trai bà) về tội giết cha mẹ là ông bà Trần Văn Chương tại nhà riêng ở Washington, D.C. hồi tháng 7 cùng năm. Những năm đầu thập niên 1990, Trần Lệ Xuân sống tại vùng Riviera Pháp và thường chỉ trả lời phỏng vấn một lần duy nhất để lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua thăm ông bà ngoại ở Mỹ. Hiện nay Trần Lệ Xuân đang sống một mình, viết hồi ký tại một trong 2 căn hộ thuộc quyền sở hữu của bà (căn thứ hai cho thuê) trên tầng 11 của một tòa nhà cao tầng gần tháp Eiffel tại Quận 15, thủ đô Paris và cắt đứt mọi quan hệ với các nhân vật chính trị. Hai căn hộ này theo bà là của một nữ bá tước tỉ phú người Ý là Capici tặng mặc dù hai người chưa từng gặp nhau. Gia đình • Cha: Luật sư Trần Văn Chương, đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ • Chồng: Ngô Đình Nhu, Cố vấn của Tổng thống Câu nói nổi tiếng • Khi đã lâm vào bước đường cùng rồi thì có lẽ mình cũng phải đi theo Cộng sản chớ!
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 15:55:53 GMT 9
1 | T r a n g NGÔ ĐÌNH NHUMột Nhà Chiến Lược (1910-1963) Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm Chân dung Ông Ngô Đình Nhu I. Thân Thế Ngô Đình Nhu Thời Thơ Ấu Và Thanh Niên, 1910-1955 Ông Ngô Đình Nhu (1910- 1963), sinh ngày 3 tháng 10 năm 1910 (có tài liệu ghi 1911 ở Huế) tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Binh, lúc nhỏ đi tu tại Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng Trị được một thời gian thì hồi tục. Khác với nhiều người trong gia đình theo ngành học có xu hướng cựu học, cậu Nhu cùng với cậu Luyện, được gia đình cho đi du học Pháp theo Tây học khoảng đầu thập niên 1930. Trong những năm 1935-38, các thanh niên sinh viên Trần Văn Chương, Trần Đức Thảo, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Mạnh Tường đang theo học bên Trường Luật và Văn Khoa tại Viện Đại Học Sorbonne, Paris, thì sinh viên Ngô Đình Nhu theo học Trường Quốc Gia Cổ Điến Học (Ecole Nationale des Chartes[1]) Điều kiện nhập học là ứng sinh phải có Văn Bằng Tú Tài Toàn Phần theo chương trình Pháp. Mỗi khóa học kéo dài trong 4 năm, khi đó thường chỉ nhận 20 tuyển sinh. Trong các sinh viên Việt Nam, chỉ một mình cậu Ngô Đình Nhu trúng tuyển. Sau Nhu, có sinh viên Nguyễn Thiệu Lâu, nhưng Lâu chỉ học được một năm, thì phải bỏ dở vì lý do sức khỏe tâm lý. Anh Ngô Đình Nhu có trí khôn thông minh sắc bén và thâm trầm, ít nói và thường chìm đắm trong suy tư, có xu hướng tích cực tham gia đời sống trí thức xã hội. Sinh viên Ngô Đình Nhu làm tiểu luận kết thúc khóa học với nhan đề là: “Les Moeurs Et Les Coutumes Des Annamites Du Tonkin Au XVIIe Siècle[2]. (Phong Tục Tập Quán Của Người An Nam ở Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII) 2 | T r a n g Trong danh sách các thí sinh tốt nghiệp năm 1938, sinh viên Nhu được xếp cuối cùng ba trong số mười ba sinh viên trình luận văn tốt nghiệp, nhưng không theo thứ tự ABC[3]. Nhưng trong một bài viết của Nguyễn Lý Tưởng không biết dựa vào nguồn tư liệu nào, tác giả đã ghi Ngô Đình Nhu làm đề tài có tên khác[4] Anh Nhu tốt nghiệp Khoa Cổ Điển Học năm 1938 [có học giả ghi là những năm 1930]. Văn bằng tốt nghiệp này tương đương Văn Bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp. Lập Gia Đình Với Cô Trần Lệ Xuân 1. Tân khoa Ngô Đình Nhu về nước được bổ trước hết làm Quản Thủ Văn khố Toà Khâm Sứ Huế (1943) sau ra Hà Nội làm việc tại Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia (1945, thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim), tức Giám Đốc Quản Thủ Thư Viện Trung Ương Đông Dương tại Hà Nội. Vào thời gian ấy, anh thanh niên Ngô Đình Nhu năng tham gia tích cực những lớp huấn luyện thanh niên Công giáo về xã hội. Đúng như hồi ức hiếm có của một chứng nhân tuổi nhỏ khi đó ở Hà Nội: “…Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó. Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường Dòng Chúa Cứu Thế nên ngày thứ năm là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi “theo học” lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học. Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh tôi là người tài giỏi hơn người…” “…Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục. Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt. Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và điềm đạm. Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc” [5] 2. Sau biến cố chính trị tháng 8/1945, Ngô Đình Nhu tiếp tục làm ở Văn Khố theo bổ nhiệm của Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp[6]. E. Miller có nói “dường như” Ngô Đình Nhu vẫn giữ công việc của mình tại Thư viện Quốc gia trong suốt quãng thời gian Hà Nội nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh theo các điều hiểu biết của tác giả bài viết “Lịch sử đầy đủ về gia đình Cụ Ngô-Đ.-Diệm”, trong báo Saigon Mới, ngày 23 tháng 6 năm 1954. Nhưng với các chứng liệu người viết đã thu thập, thì việc ông Nhu ở lại Hà Nội làm việc sau biến cố Mùa Thu 1945 là chắc chắn. Điều này chứng tỏ tinh thần ái quốc và dân tộc tích cực của Ngô Đình Nhu rất cao trong luồng diễn biến chung các sự kiện lịch sử của cả nước lúc đó[7] 3 | T r a n g Sau hai thanh niên sinh viên Nhu và Lâu, thì mãi đến năm 1966, mới có một nữ sinh viên Việt Nam tốt nghiệp khoa này là cô Đặng Phương Nghi[8]. Cô Nghi sau về nước làm Giám Đốc Thư Viện Trung Ương VNCH I ở Sàigòn. Chính thời gian học ở Paris, Pháp, hai gia đình và hai thanh niên Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương đã có cơ hội quen biết nhau. Khi làm Quản Thủ Thư Viện Trung Ương tại Hà Nội, Ngô Đình Nhu hơn cô nữ sinh Trần Lệ Xuân 15 tuổi. Năm 1943, Xuân đậu Tú Tài I Pháp, dự định thi xong Tú Tài 2 sẽ học ngành Luật theo gương cha. Nhưng do mối quan hệ từ lâu giữa hai gia đình Trần Ngô, nên hai danh tộc sớm chuẩn bị gả con cho nhau và ưng thuận trở thành Thông Gia 3. Từ lúc còn ở trung học, một người tên là Hoàng Việt có một thời được giới thiệu làm gia sư, phụ giáo cho Trần Lệ Xuân khi cô mới được 17 tuổi, để học ăn học nói xõi tiếng Việt và cách cư xử khi ra trường đời theo thói quen của nhiều danh gia vọng tộc quyền quí thời đó. Sự chênh lệch về tuổi tác ngay lúc đó ở Hà Nội giữa hai người gây nhiều dư luận xôn xao, nhất là sau chính biến 1/11/1963, trong tương lai. Để có thể tiến hành việc hôn nhân, theo tinh thần Công giáo, Cô Trần Lệ Xuân ưng thuận từ bỏ Phật Giáo, chấp nhận đức tin mới, tự nguyện xin gia nhập Công giáo và chịu phép Thánh Tẩy theo nghi thức Công giáo ở Nhà Thờ Lớn Hà Nội, do chính Giám mục Ngô Đình Thục chủ lễ với nhiều quan chức đạo đời tham dự. Khi đó là năm 1943. Chỉ khoảng gần nửa tháng sau là cô Xuân rửa tội, hai họ Ngô Trần tổ chức ngay Hôn Lễ. Thánh Lễ Hôn Phối được tổ chức trọng thể tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội vẫn do Giám Mục Ngô Đình Thục làm chủ tế, có Giám Mục F. Chaize Thịnh, quản nhiệm Địa Phận Hà Nội, cùng tham dự, với đông đảo Linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân Pháp, Nam và nhiều quí khách, thân hữu ngoài đời thường của hai họ Ngô, Trần[9]. Về phía họ nhà gái, nhiều thân chủ sang trọng của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương, có nhiều nhân vật quốc tế trong giới ngoại kiều như Pháp, Nhật, Hoa, các quan lại Nam triều. Đám cưới diễn ra trong khi người Nhật vẫn còn đang chiếm đóng Đông Dương, đang tranh chấp gay go với phe đồng minh, tuy thế thắng đang nghiêng dần ngày càng rõ rệt về phía Mỹ ở chiến trường Á Đông Thái Bình Dương. Chiến trường Việt Nam đang chịu nhiều áp lực của quân đội Đồng Minh, mà chủ yếu là những cuộc không tạc chiến lược của quân đội Hoa Kỳ trên khăp các vùng có quân Nhật chiếm đóng. Dù tình hình căng thẳng như thế, vẫn có đến mấy chục xe hơi của quí khách và thân nhân tham dự đậu dài bên đường Gambetta Hà Nội, nơi cư ngụ của gia đình họ Trần cùng với văn phòng làm việc của Luật Sư Trần Văn Chương. Đến tham dự thánh lễ hôn phối, người ta thấy cô dâu Trần Lệ Xuân đẹp đẽ, duyên dáng, e ấp trong bộ đồ cưới trắng toát, có dát kim tuyến óng ánh vương giả, theo sau có hai cháu bé tay nâng đuôi áo cưới, tay cầm cành thiên tuế. Sau Thánh lễ hôn phối theo nghi thức Công giáo, cô dâu vào bên trong nhà mặc áo, thay bộ quốc phục quần trắng áo dài gấm đỏ tha thướt, thêu vàng, đầu đội khăn màu thiên thanh, quấn nhiễu vàng gần giống lễ phục vương giả của Bà Nam Phương trong ngày lễ thành hôn với Vua Bảo Đại. Pháo hồng tươi nổ dòn dã kéo dài khét lẹt trước dãy phố có tòa biệt thự của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương. Xác pháo bây giờ trải đầy xác pháo hồng trên đường, ngập đến hết bàn chân của nhiều khách bộ hành đi qua lại trên mặt phố. Đám rước dâu bên nhà trai đi đón dâu với tốp hai trẻ, tốp thứ nhất cầm hai đèn lồng đi trước, theo sau là tốp hai trẻ khác cầm hai nhành thiên tuế, nối tiếp với một đám tùy tùng đông đảo các trẻ em ôm hai con ngỗng trắng, câu án có bốn lọng đỏ, cau lồng, rượu ché, heo đóng cũi, bò đeo bông, … kiểu truyền thống vọng tộc đất Thần Kinh xứ Huế. Cô dâu được rước về quê nhà họ Ngô ở Phú Cam, Huế theo lễ nghi trang trọng.[10] 4 | T r a n g Dấn Thân Vào Hoạt Động Xã Hội, Chính Trị Đôi trai tài gái sắc thành hôn chỉ được khoảng hai năm sau, thì hàng loạt chính biến tháng 8 và 9 năm 1945 lần lượt diễn ra trên cả nước từ Bắc Trung Nam. Kỷ niệm đau lòng đối với những người kháng chiến quốc gia khi ấy là lực lượng Việt Minh đã lợi dụng tình thế truy lùng và sát hại rất nhiều nhân vật và cơ sở của các đảng viên và chính đảng không có xu hướng Cộng Sản, dường như muốn giành lấy hết công lao và vinh dự của một mình phong trào Việt Minh lãnh đạo kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Vì thế, lúc đó khi được tin người anh là ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giữ, Ngô Đình Nhu đang làm việc tại Thư Viện Đông Dương, và đang tham gia vào kế hoạch cải tổ cho nền giáo dục toàn quốc. Theo một nguồn tin có chứng liệu[11], ông Nhu là 1 trong 14 thành viên trong Ban Cải Cách Giáo Dục, phụ trách Chương Trình Trung Học, do Bộ Trưởng Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn lãnh đạo.Nhà sử học cần mẫn của Mỹ đã nghiên cứu tỉ mỉ vào những hoạt động của Ngô Đình Nhu có nhận xét ông này có cá tính riêng biệt.[12] Nhưng chắc các biến cố, có thể nguy hiểm cho bản thân và gia đình, cùng mưu tính hoạt động chính trị ái quốc không theo kiểu Cộng Sàn, đã khiến ông phải vội bỏ nhiệm sở, tìm đường chạy vào tá túc ở Thanh Hóa, Phát Diệm, còn Bà Trần Lệ Xuân một mình vội tìm đường chạythoát về Phú Cam. Có lẽ sau ngày 19/12/1946, ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp do phong trào Việt Minh phát động, thì Ông Nhu mới chạy vào khu Tư ở vùng Thanh Nghệ, có lần thám sát vùng biên giới Lào Việt ở khu vực đó. Cuộc đời và sinh hoạt của gia đình Ngô tộc không tách rời với bối cảnh liên hệ chung của những thành phần khác[13]. Ông Nhu cùng với nhóm an hem đồng chí hướng âm thầm nhưng tích cực chuẩn bị cho kế hoạch lên nắm quy1ên của ông Ngô Đình Diệm. Biến Cố Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (28/8/1945) Trong lúc biến cố diễn ra, sau khi Nhật đầu hàng, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, có lẽ ông Ngô Đình Khôi khuyên vua Bảo Đại đừng trao chính quyền cho Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông đã tương kế tựu kế xử dụng người Nhật một cách khôn khéo cầm cự với phong trào Việt Minh... Có thể vì lý do đó, ngày 28-08-1945, ông Ngô Đình Khôi[14] (1891?-1945) bị Việt Minh dẫn đi và thủ tiêu cùng với con trai ông là Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (Thượng Thư Bộ Lại, thời Bảo Đại). Giới chức CSVN sau khi cưỡng chiếm cả nước mới tiết lộ và nhìn nhận sự thật phũ phàng này. Việc bắt giết đó nhằm mục đích trả thù cá nhân dưới mỹ từ đẹp đẽ nhưng sắt máu “đấu tranh giai cấp”, kiểu “đấu tố địa chủ cường hào”. Cách hành động này không xét xử và tuyên án công khai, được nhập khẩu và chỉ đạo từ Trung Quốc Cộng Sản diễn ra trên khắp phần đât do CSVN kiểm soát, nhất là trong những năm 1950-1955. Ông Ngô Đình Khôi (1895 ?-1945): tốt nghiệp trường Quốc Tử Giám ở Huế, năm 1910, bắt đầu làm việc ở Bộ Binh dưới quyền Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài và cưới cô Nguyễn Thị Giang, con gái Ông Nguyễn Hữu Bài làm vợ. Dần dần Ông lên đến Tổng Đốc Nam-Ngãi (1930) rồi Tổng Kinh Lược các tỉnh miền Nam Trung Kỳ (1933). Năm 1943 ông hoạt động công khai, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lúc đó đang tá túc ở Nhật, nên ông phải từ bỏ các nhiệm vụ ở Nam triều do người Pháp kiểm soát. Ông Ngô Đình Khôi cai quản trên đất Quảng Nam và ông Ngô Đình Huân làm thanh tra lao động. Tài liệu CS sau này có nói Ngô Đình Huân làm Hiến Binh (?) cho quân đội Nhật với dụng ý lên án cha con ông làm tay sai cho Nhật, nhưng thực ra việc làm của họ đều gây khó khăn nhất định cho các hoạt động khuấy đảo tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam trên đất Quảng Nam. Hai cha con đều bị tay chân Việt Minh ở địa phương sát hại ban đêm tại Hát Phú, cách Huế 20 cây số. Ngày 28 Tết năm 1958, gia đình họ Ngô mới tìm thấy hài cốt cha con cùng chôn một hố chôn chung với thượng thư Phạm Quỳnh. Tử thi của cả ba người đều được thân nhân nhận diện và cải táng. Sau đó di cốt của hai cha con ông Khôi được chôn lại trong nghĩa trang gia đình tại Phú Cam, Huế. 5 | T r a n g Nhóm Hoạt Động Xã Hội Cần Lao 1. Trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, thì người ta mới phát hiện ông Ngô Đình Nhu thoát khỏi Hà Nội. Trước khi đến Thanh Hóa, Ngô Đình Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh và một số thân hữu nòng cốt về Phát Diệm lập khu an toàn. Chính thời gian này ông Nhu manh nha thành lập cùng với nhiều người đồng chí hướng, tổ chức Liên Đoàn Kháng Chiến Cần Lao Việt Nam. Khi Việt Minh bị quân Việt-Pháp đánh bật khỏi Hà Nội, thì ông Nhu trở lại Hà Nội, với một Linh Mục mà tài liệu Cộng Sản Việt Nam gọi tên là Trọng, đem theo một cán bộ quốc gia có bản lĩnh, nói là ở Điền Hộ, từ Hà Trung mới ra. Nhân vật này, người nhỏ bé, xuất thân từ chủng viện Thanh Hóa, tính tình thông minh điềm đạm. Theo Lương Khải Minh ghi lại, đó là một thanh niên tự xưng là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, sau này cầm đầu ngành tình báo một thời trong chế độ Ngô Đình Diệm[15]: Chính tại Thanh Hóa Phát Diệm, ông Nhu cùng một số nhân sĩ trí thức đã chuẩn bị cơ cấu ban đầu nhân sự và tổ chức, thành lập Đảng Cần Lao sau này làm nòng cốt cho tổ chức chính trị của chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ 1954-1963. Nhưng đồng chí nòng cốt đầu tiên là: LS Lê Quang Luật, Hoàng Bá Vinh, Trần Kim Tuyến, Đái Đức Tuấn, tức Mai Nguyệt, Tchya, với tên gọi ban đầu là Nhóm Xã Hội Công Giáo (1946-1954) là nhóm cột trụ sau này của Đảng Cần Lao Nhân Vị. Về tới Hà Nội, ông Nhu mới hay biết vợ ông vẫn sống bình an và còn ở Huế. Nhưng sau đó ông lại được tin vợ ông đã về Đà Lạt[16] với gia đình người chị là Lệ Chi (1947-1951). Dần dần ông Nhu bắt lại liên lạc với Giám Mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long, và ông Ngô Đình Luyện ở Sàigòn. Sau chính biến Tháng Tám 1945, ông Ngô Đình Diệm bị CS bắt giữ (như đã nói trên), rồi giải giam tại Việt Bắc, nhưng với sự can thiệp của Giám Mục Lê Hữu Từ, cùng vì nhiều áp lực từ tình hình chính trị phức tạp trong nước và quốc tế, Hồ Chí Minh phải trả tự do cho Ngô Đình Diệm đầu năm 1946, như một chiến lược tương kế tựu kế, thu phục nhân tâm nhân sĩ và quan lại của cựu trào. 2. Ở Hà Nội, theo một số tài liệu, ông Ngô Đình Diệm tá túc tại Dòng Chúa Cứu Thế ở khu tu viện Nhà Thờ Nam Đồng ở Thái Hà Ấp. Chính từ đây ông Ngô Đình Diệm dần dần mở rộng liên lạc lại được với các nơi. Thời kỳ này ông Ngô Đình Diệm đã tiếp xúc với Linh Mục Nguyễn Văn Thính. Từ Nhà thờ Nam Đồng, mấy cán bộ thân tín, như Nguyễn Văn Châu (sau này làm đại tá, Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, Việt Nam Cộng Hòa), Đỗ Mậu (sau này làm đại tá An Ninh Quân Đội) sang Phúc Xá liên lạc với Linh Mục Bằng. Khi Linh Mục Bằng bị bắt giết, ông Ngô Đình Diệm vào Sàigòn tá túc tại nhà ông Ngô Đình Luyện (ở số 2, Đường Armand Rousseau (tức số 8 Đường Nguyễn Văn Tráng sau này). Nơi này về sau chính là cơ sở Trường Y Khoa thuộc Viện Đại Học Minh Đức Khi nghe tin vợ đang ở Đà Lạt, ông Nhu liền tìm lên theo. Trong cảnh nhiễu nhương bấp bênh, cặp vợ chồng trẻ sống chật vật nhưng can đảm và hết tình trong cảnh thắt lưng buộc bụng thiếu thốn đạm bạc. Bà Nhu lo cho chồng từng bao thuốc lá Bastos Xanh, mà ông say mê và suốt ngày chỉ vùi đầu miệt mài với sách vở. Có lúc bà phải đích thân ra chợ mua từng bó rau lạng thịt về chung nhau ăn từng bữa. Có khi bà phải đem bán cả vòng xuyến vàng đeo cổ kỷ niệm ngày cưới đế có tiền sinh sống qua ngày. Ông Nhu can trường chịu dựng với bộ quần áo sơmi cụt tay và chiêc quần gabardine. Cảnh sống khem khổ ấy chứng tỏ hai ông bà luôn luôn đằm thắmnhẫn nại trong tính nghĩa vợ chồng, dù trong những phút khó khăn. Nhưng lý tưởng xây dựng một xã hội Việt Nam nhân bản không rời xa những câu chuyện bàn bạc của ông thật say sưa và nhiều mưu lược với bạn bè. Có lúc dường như đam mê chính trị và lý tưởng xã hội lấn át cả những tình cảm và bổn phận gia đình. Đúng là tác phong quên mình của một người có dầu óc chiến lược và t2âm nhìn xa trông rộng. Từ khi lựa chọn sinh viên của École des Chartes, câu Nhu đã bộc lộ một trí thông minh sắc sảo, một con người có óc tổ chức khiến nhiều người phát ghen, nhưng lại nể phục! Sau khi ông Ngô Đình Diệm qua Mỹ (1950), ông Ngô Đình Nhu về Sài Gòn liên lạc với các tôn giáo, đảng phái, xuất bản Nguyệt San Xã Hội, phổ biến tư tưởng chính trị của ông. Tháng 09-1953, ông tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hoà Bình với tư cách đại diện Công Giáo. Phong Trào này 6 | T r a n g họp tại Sài Gòn ngày 6-09-1953 qui tụ các đại biểu Công Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số nhân sĩ, trí thức Trung, Nam, Bắc...tất cả 65 đại biểu.[17] Năm 1954, trước tình hình nghiêm trọng có thể xoay chuyển số phận đất nước, sau khi căn cứ Điện Biên Phủ của Pháp bị thất thủ ( 07-05-1954), Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng (toàn quyền): ngày 07-07-1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trình diện Tân Chính phủ tại Sài Gòn, Ông Ngô Đình Nhu làm Cố Vấn Chính Trị cho Ông Diệm, một chức vụ mà không bao giờ được bổ nhiệm chính thức đến khi ông bị sát hại ở độ tuổi đang sung sức, ít ra về nhận thức và kinh nghiệm chính trị. Ông Nhu là một lý thuyết gia cừ khôi xây dựng chủ nghĩa Nhân Vị và là một nhà chiến lược chính trị sâu sắc đến độ đam mê. Như một cặp bài trùng, đã hết sức giúp ông Diệm ổn định tình hình, đối phó với các tổ chức chính trị đối lập tại miền Nam, có cả hoạt động bí mật của Cộng Sản ở miền Nam trong lúc các sinh hoạt của Cộn Sản Việt Nam đều công khai ở miền Bắc... Ông thành lập đảng chính trị Cần Lao, dựa vào một chủ thuyết về cơ bản do ông khởi xướng là Học Thuyết Cần Lao - Nhân Vị để hỗ trợ chính quyền của người anh ông. Một phần nào vận dụng viện trợ của người Mỹ, đảng Cần Lao phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập tổ chức "Thanh Niên Cộng Hòa" nhằm qui tu và huấn luyện theo mô hình chặt chẽ và hoạt động tích cực, có hiệu quả do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác cũng được thành lập với mục đích như trên, dành cho giới nữ lấy tên là "Phụ Nữ Liên Đới" do vợ ông, Bà Trần Lệ Xuân, làm Tổng thủ lãnh. Hai tổ chức này là hai cánh tay nối dài của Đảng Cần Lao Nhân Vị, kiểu như các đoàn thể trong tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc của Cộng Sản, nhưng theo mục đí khác biệt nếu không phải là đối lập. Sau khi chế độ suy tàn biết bao xích bác, lời khen tiếng chê đủ điều được dịp nói đến bà, từ phía những người Cộng Sản cùng phên dậu của họ và nhiều cá nhân và đảng phái quốc gia không có thiện cảm hay không đồng ý với cá nhân bà và gia đình họ Ngô Đình. Trên danh nghĩa là một cố vấn chính trị, nhưng hầu như nhiều nhà chiến lược và nhiều tài liệu đều ghi nhận, ngoài ông Ngô Đình Diệm, ông Nhu mới là kiến trúc sư xây dựng rường cột của chế độ. Ông hoạch định tư tưởng và xây dựng các cấu trúc từ thượng tầng ở trung ương đến hạ tầng ở địa phương, nông sơn thôn của chế độ. Ông Nhu là người khởi xướng chính yếu mọi chủ trương chính sách của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông cũng cho lập và trực tiếp điều phối nhiều cơ quan tình báo và mật vụ ( có tới 13 cơ quan) với những quyền lực to lớn như có thể bắt giam người không cần xét xử trước. Trong cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963 do phe quân nhân chủ động ông Nhu đã bị thảm sát cùng một lần với Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02-11-1963 theo lệnh của Mỹ. Một Hình Ảnh Về Cuộc Đời Của Hai Anh Em Diệm Nhu Thay cho lời kết luận, người viết chỉ ghi lại một lời chứng của một quân y sĩ VNCH có ý nghĩa “novissima verba” đối với người đã chết và những thương tiếc bản thân chế độ, đất nước mà hai ông hết lòng phục vụ, vì lợi ích của cộng đồng dân tộc và nhân dân cho đến chết: Phục Vụ Đất Nước Đến Chết "....tôi (tức ông Đôn) quả quyết rằng: “Không có lời phát biểu công khai nào của tướng tá lúc đó đòi phải xử tử hai ông Diệm và Nhu..." người ta không khỏi phì cười và chê là lý luận quá ngây thơ (không "công khai" tức là phải hiểu "bí mật" chăng?) Để làm sáng tỏ vấn đề hơn, về điểm này, LM Cao Văn Luận đã viết như sau: "Khi xác chết anh em ông Diệm được đưa vào nhà thương Saint-Paul thì giây trói quật cánh khuỷu hai người vẫn còn nguyên. "Trên ngực ông Nhu có nhiều vết thương do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu. Trên thân thể ông Diệm chỉ có một vết thương ở đầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 15:58:40 GMT 9
"Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (thiếu tá) (lúc đang nói ở đây ông Nhung chưa được thăng thiếu tá - lời ghi chú thêm của người viết) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu. "Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ vẻ khinh miệt. "Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục, nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó, và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do vật bén nhọn đâm từ lưng chổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu. "Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức (những tấm hình này, trong cuộc họp báo ngày 5.11.63 tại bộ TTM, Đỗ Mậu đã trưng ra như một bằng chứng cụ thể xác nhận anh em cố TT Diệm đã chết thật, vì lúc đó còn rất nhiều người hoài nghi hai ông chưa chết. (lời ghi chú thêm của người viết (Phụng Hồng)). " Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quật cánh khuỷu, dẫn từ nhà thờ ra xe thiết giáp, tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu chỉ huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng hộ ông chống lại phe đảo chánh" (7) Trích dẫn đoạn trên của cha Luận (cũng là một nhân chứng!), tôi (người viết Phụng Hồng) muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng vụ mưu sát hai anh em cố TT Diệm là một dự mưu đã được tính toán trước bởi một số tướng lãnh phản bội toa rập với đề nghị của ngoại bang (vì nếu không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ không ủng hộ cuộc đảo chánh thì sức mấy mà thành công!). Tiếc thay, ông Đôn đã cố tình miêu tả một cách hời hợt, như ngầm đổ lỗi cho đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ tay chân của ông Minh, tự ý giết (trang 238), và mình không có trách nhiệm gì. Tuy nhiên, ta vẫn thấy ở một trang khác, tác giả đã để lộ ý định cho rằng giết TT Diệm là đúng (tr. 250). Chính trong cuốn "Our Endless War" (8), ông Đôn đã viết chương "Diem Must Go" và đã biện minh cho việc giết TT Diệm là hợp lý. Đọc đến đây, người ta băn khoăn tự hỏi nếu ông Đôn chối bỏ hành động cố sát TT Diệm thì tại sao lại ngụy biện vậy? Thật là mâu thuẫn không thể hiểu được! Đó là một sai lầm lớn.”[18] Nếu Hai Ông Không Bị Sát Hại, Số Phận Đất Nước Có Thể Chuyển Biến Tích Cực Khác Muốn mượn lời người khác, ng ười viết dẫn chứng tác giả Phụng Hồng làm rõ thêm luồng tư tưởng này như sau: “…tôi (người viết Phụng Hồng) muốn mời bạn đọc tìm hiểu thêm một ý kiến khách quan của một người ngoại cuộc, ông Von Wenland, Đại Sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Việt Nam. Ông này đã tâm tình với cha Luận rất lâu sau ngày đảo chánh. Cha Luận đã viết: "Trước hết tôi đến gặp Đại Sứ Đức là ông Von Wenland. Ông này phàn nàn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với Quốc Gia.” "Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông Đại Sứ Đức: "Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phảng phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình. "Mặt ông đượm buồn, và giọng ông hết sức chua chát. Ông cho biết ông đã đệ đơn từ chức và sẽ rời Việt Nam trong ít lâu." (9) 8 | T r a n g Và sự thật cũng đã chứng minh một ách hùng hồn như chúng ta đã từng là Nhân Chứng từ 1975 đến nay. Vậy ta có thể kết luận một cách đau lòng rằng "Cuộc Đảo Chánh 1.11.63 đã làm cho Việt Nam mất vào tay giặc cộng sản Bắc Việt" Bạn có đồng ý với tôi [Phụng Hồng] không? Nếu bạn không đồng ý, xin mời bạn hãy đọc tiếp đoạn này: "....Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt đó chẳng đẹp đẽ gì hơn. "Những người Mỹ trong đó có cựu đại sứ Nolting, tướng Harkins, ông Richardson, giám đốc trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1.11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự, Quân Đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng." (10) (sự bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược mà Việt cộng từng ghê sợ nhất, là một thí dụ điển hình-lời ghi chú thêm của người viết [Phụng Hồng]). Đây là một bằng chứng hùng hồn nhất, một bài học lịch sử đau đớn nhất cho những ai từng tự vỗ ngực huênh hoang cho mình là "người hùng cách mạng", và tự đeo lon to nhất để suy gẫm lấy. Và tôi [Phụng Hồng] cũng muốn những người đã "bái lạy tướng to lon" để mưu đồ đảo chánh, phản bội chủ mình hãy tự kiểm điểm lại hành động mình mà ăn năn hối lỗi. Nhưng chậm quá rồi! Lịch sử và những vượt biên trên biển cả, những hồn thiêng trong Tết Mậu Thân, trong "lò luộc người cải tạo" chắc chắn không bao giờ tha thứ bọn người này! Đó là một sự thật cay đắng mà ai nấy đều đã thấm thía khi phải "tha phương cầu thực". Và sau cùng, tôi [Phụng Hồng] muốn nhân dịp này nhắc lại câu nói để đời của William Colby, cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo đã từng hoạt động nhiều năm tại Việt Nam, và là người am hiểu tình hình chính trị Sài Gòn hơn ai hết, khi hối tiếc về cái chết của TT Diệm trong cuốn sách mới nhất của ông (11): "Nếu ông Diệm còn, chưa chắc miền Nam mất."[19] Những Dư Luận Thóa Mạ Chống Đối Sau khi chế độ sụp đổ thì không biết bao nhiêu lời thóa mạ được nói đến gia đình họ Ngô, nhưng mấy người được tiếp xúc và có nhận xét nghiêm chỉnh quân bình về những con người đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục đã tổng hợp đứng đắn những diều được nhiều người phát biểu: Nhiều đàm tiếu diễn ra sau 1963, về gia đình ông Nhu, những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân…Chỉ nhắc lại một lần cuối. Trong bài ký: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường ‘gặt bão’ của anh em Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11–63”, ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, ỡm ờ nửa hư, nửa thực như sau: “Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đình Nhu – người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy” 9 | T r a n g Về nhóm sinh viên nằm vùng tranh đấu, Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp: “Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v... Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi.” Một Số Nhân Chứng Trực Tiếp Dù có những dư luận kiểu đó, ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ông Nguyễn Văn Lục hay: “Phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ. Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác.” Chi tiết được ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân đã bịa đặt, và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng đồng loã. “Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhiều ấn tượng còn được ghi khắc trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho Nguyễn Văn Lục hay biết: “là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình. Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy. Còn cụ Đoàn Thêm có những nhận xét: “Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.” Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng.” Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Ông Nguyễn Văn Lục nghe biết câu chuyện này, khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Nói xấu một người thì dễ hơn là kính trọng người ta, vì người ta thường thấy cái tiêu cực trong người khác hơn là thấy nết xấu ở nơi mìn. “Chân mình thì lấm mê mê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”, đấy là cái thói ở đời ben Đông cũng như bên Tây. Sau gần 10 năm, tác giả Nguyễn Văn Lục lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác. Hồi ấy, anh còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Ông Lục nhớ lại: 10 | T r a n g “Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời.” Cụ Đoàn Thêm nói tiếp về con người ông Nhu “cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ mình là đủ).” Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ thì không. Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ, thái độ của mấy ông này. Ông không phải là loại người của đám đông. Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô hậu ủng. Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống.” Căn cứ vào các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Ông Lục không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đã làm được như vậy? Cụ Đoàn Thêm viết về ông Nhu đã sống như thế nào: “Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn. Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh ... Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất đắc dĩ.” Vẫn theo lời kể của cụ Đoàn Thêm: “Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn). Ai đã từng đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có mà chê cũng có. Như thế những nhận xét của cụ nên coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn xuyên tạc hay xưng tụng quá đáng. Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, thì chắc người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người biết “liệu cơm gắp mắm” 11 | T r a n g Tư cách trí thức biết điều là ở chỗ ấy. Người ta nhìn lại, những người thay thế ông sau này. Một khi có quyền bính trong tay, họ đã hành xử thế nào? Như ông Đỗ Mậu làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm cố vấn? Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm? Người ta chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu làm người mà không xứng đáng thì nói chi đến thứ khác? [20]. Vận Động Chính Trị ở Hải Ngoại: ông Ngô Đình Diệm Trở lại cuộc vận động hải ngoại cho ông Ngô Đình Diệm, thì thực ra, theo GS Tôn Thất Thiện, cuối năm 1949, Cụ Diệm khước từ lời của Cựu Hoàng Bảo Đại mời ông làm Thủ Tướng vì cho rằng Hiệp Định Cựu Hoàng vừa ký với Pháp (Hiệp Định Elysées) không mang lại độc lập thực sự cho Việt Nam, nhất là về ngoại giao. Sau đó, ông nhận lời cùng với Giám Mục Thục đi một vòng thế giới nhân dịp GM Thục đi tham dự một hội nghị các giám mục của Giáo hội Công giáo ở La Mã. Hai ông đi Nhật Bản, rồi từ đó sang Hoa Kỳ. Sau mấy tuần ở Hoa Kỳ, hai ông sang La Mã. Mỗi người sinh hoạt theo kế hoạch riêng biệt. Sau khi tham dự hội nghị giám mục tại Rôma, Đức cha Thục đi hành hương ở Tây Ban Nha, rồi về Việt Nam, còn ông Diệm thì đi Thụy sỹ và Pháp. Trong thời gian ở Paris ông Diệm gặp lại người em Ngô Đình Luyện và gia đình ông này. Ông gặp lại Võ Văn Hải, một người hăng say sát cánh bên ông trong những năm 1945-1949. Ngoài ra, ông có sở thích đi bộ quan sát Paris, và viếng các nhà thờ lớn. Ông đi bộ nhiều đến nỗi viên mật thám có nhiệm vụ trông coi ông phải than trời “ông này điên rồi! ông muốn thăm hết Paris, mà toàn đi bộ!”. Tất nhiên cũng có nhiều người tìm gặp ông. Vì vậy mà nhà chức trách Pháp muốn ông ra khỏi đất Pháp. Đúng lúc đó có tin Tu viện Maryknoll ở New York mời ông sang với tư cách làm nhân viên giảng dạy đặc biệt, nên ông Diệm đi lại Hoa Kỳ. Giữa năm 1953, ông lại đi Âu Châu, trú tại Tu viện Biển Đức Thánh Anrê (Couvent Bénédictine de Saint André) ở Bruges, Bỉ (Belgique). Thường những quyết định lớn về Việt Nam diễn ra ở Paris, nhưng lại hay gây ồn ào, và bị mật thám Pháp rình mò, nên ông chọn qua Bỉ gần Paris, mà tránh được cả hai thứ phiền phức trên. Mùa Thu năm 1953 tình hình Việt Nam sôi động, ảnh hưởng đến tình hình chính trị Pháp với viễn ảnh điều đình lập lại hoà hình ở Đông Dương. Đặc biệt trong trường hợp ấy, có tiếng đồn Ông Ngô Đình Diệm sẽ là Thủ Tướng Việt Nam. Thật ra, đây chính là thời gian Cựu Hoàng Bảo Đại bắt đầu tìm liên lạc với Ông Ngô Đình Luyện để “nối lại tình xưa”, vì hồi nhỏ, trước Thế Chiến II, hai ông là bạn chơi với nhau ở Paris. Nhưng Ông Luyện thừa hiểu nguời Cựu Hoàng muốn móc nối không phải là ông mà là ông Diệm. Để nắm tình hình rõ hơn, ông Diệm sang Paris, nơi có nhiều chính khách Việt Nam, và quyết định về Việt Nam - vẫn đang bị Pháp chi phối. Muốn kín đáo hơn, ông không ở với Ông Luyện, trong vùng Choisy, ngoại ô Paris, mà ở với ông Tôn Thất Cẩn, trong vùng Gentilly, ngay sau khu Học Xá Đại Học Paris. Ông Cẩn là con của Quận Vương Tôn Thất Hân, từng làm Phụ Chính, kết thân với bản thân ông Ngô Đình Khả. Ông Hân đã lén giúp ông Ngô Đình Khả trong thời gian ông này khốn đốn vì bị tước hết chức vụ, mất hết bổng lộc, vì không chịu ký kiến nghị truất phế Vua Thành Thái. Chính ở đây mà ông Tôn Thất Thiện, em ruột ông Cẩn, hội kiến ông Diệm lần đầu qua trung gian ông Thuyên, người phụ giáo cho gia đình ông Hân. Ông Diệm tiếp ông Thiện khoảng một giờ. Ông trình bày tình hình quốc tế, và nói: mình may mắn hơn Tàu, vì người Trung Hoa ở Đài Loan không có hy vọng lấy lại được Lục Địa, còn Việt Nam có nhiều may mắn hơn. Ông cũng kể về những năm phải nghỉ việc, dành thì giờ nghiên cứu thuyết cộng sản, đọc sách, trồng hoa, nhất là Hoa Hồng. Ông muốn một thể chế tối thiểu ngang với “Dominion” như 12 | T r a n g các Dominion Anh. “Dominion” là danh từ chính ông dùng. Ông không nói gì về thể chế Việt Nam tương lai, nhưng căn cứ trên lý lịch và nếp sống gia đình, và cách ông cư xử với Cựu Hoàng Bảo Đại, có thể chế độ ông thích là quân chủ lập hiến. Lúc ông được bổ nhiệm làm Thủ Tướng, rất ít người hiểu rõ về ông. Tôn Thất Thiện nhờ các chi tiết ông cung cấp để viết bài gởi về Việt Nam qua đại diện Việt Tấn Xã ở Paris, với tựa đề: “Ông Ngô Đình Diệm là ai?”. Đó là tài liệu trung thực đầu tiên nói về ông mà báo chí phổ biến rộng rãi. Tôn Thất Thiện hỏi Ông khuyên những người trẻ phải làm gì. Ông nói: “Các anh nên vô làm việc trong các cơ quan đi, để lấy kinh nghiệm sau ni mà làm việc”. Tuy thấy đây là một lời khuyên hơi lạ, vì thanh niên lúc đó có xu hướng “chờ thời” giữa hai bên là làm việc với một Chính phủ thì Chính phủ Bảo Đại (mang tiếng “theo Pháp”) hay Chính phủ Hồ Chí Minh (đang ở trong rừng, nhưng Cộng sản). Thực sự suy nghĩ cho cùng, thì muốn làm được việc, phải có kinh nghiệm về hành chánh quản lý công việc, tổ chức guồng máy và nhân sự cùng vận động quần chúng; mà muốn có kinh nghiệm đó, thì con đường tốt nhất là phải làm việc trong các cơ quan chánh phủ. Trả lời phỏng vấn, lúc đó một chính khách cộng sản Pháp nói: “Nên tham gia chính phủ, vì ở trong chính phủ mới được đọc được hồ sơ và hiểu rõ tình hình.” Chính ông ta biết như vậy nhờ tham gia Chính phủ Liên hịệp của de Gaulle lúc de Gaulle cầm quyền sau Thế Chiến II. Điều này giải thích tại sao ông Diệm lại tin dùng những người như ông Nguyễn Ngọc Thơ và công chức cao cấp các thời trước, kể cả thời Pháp. Những ý nghĩ và kiến thức cùng kinh nghiệm làm việc đã chinh phục thiện cảm và tin tưởng hơn vào ông Diệm trong giới thanh niên. Tài liệu CS và một số thành phần không ưa ông Diệm, đã ghi lại một số tình tiết với thâm ý làm sai lạc sự thật là gán ghép Mỹ và Công Giáo chủ mưu đưa Ông Ngô Đình Diệm và phe cánh của ông lên nắm quyền. Tài liệu tiêu biểu mới đây là một điều sai sự thực, trong lúc chính quyền CS bề ngoài nói là muốn xóa bỏ quá khứ để xây dựng đoàn kết dân tộc. Tài liệu “Trần Lệ Xuân: Giấc Mộng Chính Trường” và nhiều tài liệu khác xuất bản vào giai đoạn này do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân có ý nghĩa gì, khi chủ tình nói sai sự thật và chỉ theo quan điểm Cộng Sản. Thực ra, năm 1950 ở Roma có hội nghị các giám mục trên thế giới, Giám Mục Ngô Đình Thục được mời tham dự. Nhân dịp này ông Diệm xin đi theo. Trên đường đi, hai người ghé lại Nhật Bản xin gặp một số chính khách Nhật và Việt xem họ có giúp được gì không. Sau đó tại Rôma, ông Diệm được Giám Mục Thục giới thiệu với Hồng Y Giáo Chủ Spellman là giáo chủ của Mỹ để xin giúp đỡ cho Diệm. Spellman đồng ý. Năm 1951, Diệm bay sang Mỹ và được Hồng Y Spellman đỡ đầu cho vào ở trong tu viện Maryknoll tại Lakewool thuộc bang New Jersey, Diệm ở đây hai năm. Thơi gian này ở Đông Dương, Pháp đang bị Việt Minh đánh tơi tả. Pháp cầu cứu Mỹ giúp khí giới, nhưng Mỹ lừng khừng vì thâm ý của Mỹ là muốn cho Pháp bại trận, để sau đó nhảy vào giành phần. Ông Diệm rời Mỹ vào tháng 3.1953, ở Paris ít lâu rồi sang Bỉ lưu trú tại Tu Viện Bénédictine. Một năm sau, ông Diệm lại trở về Paris để nghe ngóng tình hình Đông Dương. Các con bài của Nguyễn Văn Tâm rồi hoàng thân Bửu Lộc do Bảo Đại chỉ định làm thủ tướng theo chỉ thị 24 của Pháp không tạo được hậu quả nào, trong khi đó Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ chỉ còn là vấn đề thời gian. Đến lúc này Mỹ thực sự nhảy vào cuộc, đề nghị Pháp dùng lá bài Ngô Đình Diệm. Nhưng Bảo Đại không chấp thuận ông Diệm thay ông Bửu Lộc vì Bảo Đại vẫn còn căm hận ông Diệm đã bỏ Bảo Đại để rút lui về vườn. Thêm một lý do nữa vì lúc ấy Bảo Đại đang chịu sự chi phối của Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu về vấn đề tài chính. Một mặt Mỹ ép Pháp thay đổi chính phủ tại Việt Nam bằng cách dùng lá bài Ngô Đình Diệm do Mỹ đưa ra; mặt khác Ngô Đình Thục tích cực vận động giới Công giáo La Mã, Pháp và nhất là Mỹ phải đưa Ngô Đình Diệm ra gấp thì mới hy vọng cứu Việt Nam khỏi bị Việt Minh thống trị! Đồng thời Ngô Đình Luyện cũng gặp Bảo đại để dàn xếp cho Diệm về nước lập chính phủ vì từ lâu Luyện rất thân với gia đình Bảo Đại…“(t.23, sđd.) 13 | T r a n g Thời gian 1953-54, Pháp bị tấn công mạnh ở Việt Nam, khi có thêm hậu thuẫn từ Trung Quốc Cộng Sản, sau khi toàn thể lãnh thổ bị Cộng Sản Trung Hoa chiếm quyền thống trị. Tóm Thuật Hoạt Động Thực Tế Phức Tạp Khi Nắm Chính Quyền Khi lên nắm chính quyền, chế độ mới do hai ông Diệm Nhu hoạch định thựa hiện phải đối phó với nhiều vấn đề nhiêu khê, có thể làm nguy ngập đến thể thống đất nước. Một cách tổng lược, ngưới ta có thể đưa ra một hình ảnh vắn tắt như sau Những Việc Cụ Thể Chế Độ VNCH I Đã Thực Hiện: 1. Tổ chức việc tiếp chuyển, định cư di dân từ miền Bắc vào miền Nam và bố trí trại định cư theo địa điểm chiến lược, hình thảnh cấu trúc ban đầu cho một mạng lưới Ấp Chiến Lược, giải quyết vấn đề dân sinh và an dân chống lại họat động của Cộng Sản từ miền Bắc xâm nhập miền Nam qua đường rừng núi chủ yếu bên Lảo và đường thủy (sông rạch và biển cả) 2. Đoàn kết các đảng phái chính trị, lực lượng quân sự, chủ yếu dựa trên tôn giáo hay địa phương: các tổ chức Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công giáo, Tin Lành, các lực lượng chính đảng khác như Đại Việt, phe Bảo Hoàng, lực lượng ủng hộ quyền lợi thực dân Pháp, trong một mặt trận thống nhất dựa trên một ý thức hệ và hoạt động Chủ Nghĩa Nhân Vị, đối lập với ý thức hệ và hoạt động chủ nghĩa Cộng Sản. 3. Tổ Chức Quân Đội Quốc Gia Độc Lập từ cơ sở những lực lượng trong quân đội Pháp: Địa Phương Quân, Bảo Chính Đoàn, thành một lực lược chính quy, hiện đại có kỷ luật, có tổ chức, có huấn luyện, đủ khả năng phòng vệ và tác chiến hữu hiệu với doanh trại, quân trang, quân dụng, vũ khí, từ cá nhân binh sĩ ở các cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu doàn, trung đoàn, sư đoàn, các lực lượng lên đến quân đoàn vùng chiến thuật I, II, III, IV với yểm trợ cần thiết ban đầu của nhiều nước, nhất là Mỹ. 4. Xây dựng Lực Lượng Cảnh Sát Công An từ các bộ phận còn manh mún phục vụ cục bộ của nhiều nhóm, nhất là của Bình Xuyên, thành một Đơn Vị Cảnh Sát Công An Quốc Gia Độc Lập thống nhất. Hình thành mạng lưới an ninh duy trì cảnh vệ trậ tự các cơ sở hành chính quan yếu của quốc gia. 5. Tổ chức chính trị nòng cốt là thành lập chính đảng Cần Lao Nhân Vi tôn trọng nhân vị và yêu mến cần lao để kiến thiết bản thân và đất nước, chống lại chủ nghĩa và hoạt động phá hoại của Cộng Sản. Ngoại vi của lực lượng Cần Lao Nhân Vị là qui tụ động viên thành phần chủ yếu là thanh niên vào hai tổ chức chính: Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới. Từ chính đảng nòng cốt này có thể vận động thanh niên nam nữ và nhiều thành phần nhân dân vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước chống lại hoạt động theo xu hướng của chủ nghĩa Cộng sản. Tạo thành một phong trào Cách Mạng Quốc Gia, ây dựng đ1ât nước, nhất tâm đối phó với Cộng Sản 6. Tổ Chức hệ thống chính trị dân chủ với ba lãnh vực Hành Pháp (Tổng Thống), Lập Pháp (Quốc Hội) Tư Pháp (Hệ Thống Tòa Án), với bầu cử dân chủ chọn người làm việc từ trong các thành phần giáo phái chính đảng quốc gia trong tình trạng đối phó với hoạt động xâm nhập, phá hoại dưới nhiều hình thức của Cộng Sản, cụ thể là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. 7. Một Giài pháp chính trị chiến lược thực tế đa hiệu, chống lại Cộng sản là chính sách Ấp Chiến Lược. Ý nghĩa chính thức của tổ chức này là kêu gọi tổ chức nhân dân tập trung vào các ấp chiến lược, nhất là tại những vùng dễ xâm nhập hoạt động của cộng sản, nhưng có lợi điểm cư trú và hoạt động kinh tế nông nghiệp, kỹ nghệ, lâm ngư nghiệp, giáo dục của nhân dân.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:01:06 GMT 9
Khi dân chúng tự nguyện tự giác vào sinh cư tập trung gọn gàng và kỷ luật trong các ấp này, thì tất cả những thành phần còn lại bên ngoài các ấp (khu trù Mật và Dinh Điền) là Công Sản hay hoạt động đi theo ủng hộ Cộng Sản. Du kích Cộng Sản sẽ lần lượt bị ngăn chặn, tiêu diệt vì không còn chỗ 14 | T r a n g dung thân và sinh sống.Tổ chức này hữu hiệu làm nguy ngập cho tổ chức hoạt động của Cộng sản, nên CSVN mới phản tuyên truyền, xuyên tạc là bắt gom dân vào Ấn Chiến Lược, và thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Nhưng Kế Hoạch Do Chế Độ Xây Dựng Có Những Khuyết Điểm Sau: 1. Quyền lợi, nhận thức cá nhân và đoàn thể khác nhau về tôn giáo và chính trị xã hội muốn xây dựng dân chủ tự do vội vã đốt giai đoạn, đã cản trợ hoạt động phát triển dân chủ thống nhất của nhà nước, trong tình thế phải đối phó với các hình thức xân nhập và hoạt động của Cộng Sản. 2. Hoạt động tuyên truyền, đồng khởi, phá hoại của Cộng sản đánh phá nhiều mắt xích trong hệ thống hành chính địa phương và trong hệ thống Ấp Chiến Lược ở các vùng sâu vùng xa, và các điạ điểm chiến lược, khi tổ chức chiêu hồi và ấp chiến lược tỏ ra nhiều thiệt hại bất lợi cho Cộng Sản. 3. Hệ thống quản lý đất nước bị lạm dụng, nên có xu hướng thiên về gia đình trị, công giáo trị gây hoài nghi cho nhiều thành phần nhất là Phật Giáo, trong việc kết nạp vào Đảng Cần Lao Nhân Vị và nhiều hoạt động khác như tố chức an ninh (mật vụ, tình báo, cảnh sát, thanh niên, quân đội). 4. Sự can thiệp xen lấn lộ liễu mạnh bạo của Mỹ từ yểm trợ nhẹ nhà đến hoạt động hành quân của cả một lực lượng lớn trên lãnh thổ một đất nước độc lập có chủ quyền với nhiều phương tiện doanh trại, tổ chứng nhân vật lực phức tạp. Điều này tạo cơ hội cho tuyên truyền Cộng Sản về nhiều mặt. Khi các cảnh chiến tranh tàn bạo được chiếu trực tiếp trên truyền hình các gia đình Mỹ hằng ngày đêm đã dần dần tạo nên phong trào phản chiến, đòi chính quyền Mỹ phải rút về mau lẹ, tạo một khoảng trống cho quân đội còn dòn mỏng của VNCH, chưa kịp tổ chức xây dựng, bổ sung về quân số và huấn luyện và thiếu vũ khí tối tân, so với lực lượng võ khí và mưu lược dối trá của Cộng Sản, 5. Phong trào Đồng khởi từ Bến Tre và Biến Cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân trên lãnh thổ VNCH II là một hoạt động liều lĩnh của Cộng Sản khi hệ thống Ấp Chiến Lược đã chứng tỏ có hiệu quả đã đẩy CSVN đến chỗ phải hành động để sống còn. Sự tàn bạo và dối trá của Cộng Sản trước Việt Nam toa rập với ý chí chủ bại và phản bội của Mỹ đã đưa đến thằng lợi trước mắt của CSVN ngày 30/4/1975. Việc hủy bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược sau khi lật đổ chế độ VNCH I là một hành động phá hoại chiến lược, chuẩn bị xa nhưng mau hơn cho sự chiến bại của miền Nam Gia Đình Bên Ông Ngô Đình Nhu Gia đình họ Ngô Đình[21], nguyên quán ở đất Quảng Bình, ông cố tổ là dân bần hàn sống nghề chài lưới. Khi đạo Công giáo truyền đến vùng này từ thế kỷ 17, thì tổ tiên của dòng họ Ngô Đình đã tin đạo. Đời ông Ngô Đình Khả đức tin đó vẫn được củng cố và phát triển. Là một thanh niên chăm chỉ đạo dức mà lại thông minh, cậu được theo học cả chữ hán lẫn chữ Pháp. Cậu được gửi du học ở trường chủng viện Thánh Giuse ở Penang (Mã Lai), cùng với Nguyễn Hữu Bài, với ý định được huấn luyện để trở thành Linh Mục. Nhưng vì không được ơn gọi làm Linh Mục, cả hai cậu Khả và Bài đều trở về Việt Nam và sau này trở thành thông gia, vì có một quá trình dài học tập và hiểu biết lẫn nhau. Về nước, vì giỏi về ngoại ngữ, ông Khả và ông Bài đều được tuyển làm thông dịch viên. Làm việc xuất sắc có nhiều kết quả, Khả được trọng dụng và thăng chức rất nhanh. Khi vua Thành Thái mất chức, thì Khả cũng mất chức Phụ Đạo Nam Triều. Gia đình Ngô Đình Khả cư ngụ tại Phú Cam, nơi có một xứ đạo kiên trung của đất Huế. Ông Ngô Đình Khả có tất cả: Con cả là Ngô Đình Khôi (1885?-1945) lập gia đình với người con gái của Nguyễn Hữu Bài. Con thứ hai là Ngô Đình Thục (1897-1985) từng du học tại Rôma năm. Từ 1919-1927 du học Roma: Tiến sĩ Triết học (1922), Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật (1927). Qua Pháp học Đại Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Khi về nước giữ nhiều chức vụ trước khi làm Giám Mục Vĩnh Long, rồi Tổng Giám Mục Huế. 15 | T r a n g Con thứ ba là Ngô Đình Diệm (1901-1963), từng làm Tuần Vũ Bình Thuận, rồi Thượng Thư Bộ Lại triều Bảo Đại (1932). Năm 1918 thi vào trường Hậu Bổ, sau 03 năm tốt nghiệp, lần lượt giữ các chức vụ từ Tri huyện Hương Thủy (1922), Tri huyện Quảng Điền (1923), Tri phủ Hải lăng (1925), Quản đạo Ninh Thuận (1927), Tuần vũ Bình Thuận (1930), Thượng Thư Bộ Lại (1933) được hơn 02 tháng thì từ chức...Năm 1945 bị Việt Minh bắt sau nhờ Đức Giám Mục Lê Hữu Từ can thiệp, được trả tự do. Năm 1950 qua Roma rồi qua Hoa Kỳ. Ngày 07-07-1954 về nước chấp chánh giữ chức Thủ Tướng toàn quyền do Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định. Sau cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 10-1955, dược dân bầu lên làm Quốc Trưởng rồi Tổng Thống tại Miền Nam VN đối lập với chế độ Cộng Sản tại Hà Nội do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông có công ổn định tình hình, thống nhất quân đội, phát triển kinh tế, mở mang giáo dục, xây dựng dân chủ, v.v...Rất tiếc, ngày 01 tháng 11 năm 1963 ông bị phe quân nhân (theo lệnh Mỹ) làm đảo chính lật đổ và bị thảm sát ngày 02 tháng 11 năm 1963. Biến cố 01-11- 1963 đã dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-04-1975, đưa đất nước vào tay Cộng Sản độc tài! Con trai thứ tư là Ngô Đình Nhu (1910- 1963). Con trai thứ năm là Ngô Đình Cẩn (1912- 1964) Con trai út là Ngô Đình Luyện (1914- 1990), tốt nghiệp kỹ sư công chánh ở Pháp và Anh. Nhiều nhà nghiên cứu lầm lẫn Ngô Đình Cẩn là con trai út Ông Bà Ngô Đình Khả còn có ba con gái là: Ngô Thị Giáo, chết sớm năm 1944, Ngô thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, vì lập gia đình với ông Nguyễn Văn Lễ, Ngô Thị Hiệp, lập gia đình với ông Nguyễn Văn Ấm, thân phụ của Hy TGM FX Nguyễn Văn Thuận. TGM NVT làm Bộ Trưởng Bộ Công Lý và Hòa Bình tại TT Vatican trước khi tạ thế ngày 16/9/2002, tại Rôma. Hai gia đình Trần Ngô cũng là thông gia môn đăng hộ đối theo Nho giáo cổ truyền. Gia Đình họ Trần bên Bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân) 1. Bà Ngô đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh tại Hà Nội này 24/8/1924, con gái thứ hai của Ông Trần Văn Chương (Luật Sư) và Bà Thân Thị Nam Trân. Ông Bà Trần Văn Chương có ba người con. Con đầu là Trần Thị Lệ Chi. Con thứ ba là Trần Văn Khiêm. Lệ Chi lập gia đình với ông Nguyễn Hữu Châu (Luật Sư, Tiến Sĩ Luật ở Pháp). Ông này gốc người Gò Công có họ hàng với ông Nguyễn Hữu Hào, thân sinh ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan, tức hoàng hậu Nam Phương, kết duyên với vua Bảo Đại. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống năm 1956, thì Ông Nguyễn Hữu Châu được bổ nhiệm Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống. Chỉ mấy tháng sau, chính ông Châu xin từ nhiệm. Gia đình ông Trần Văn Chương vốn theo Đạo Phật, nhưng từ nhỏ Cô Trần Lệ Xuân đã được gửi học nội trú ở Trường Dòng Nữ Thánh ÂuCơTinh, quen gọi là Couvent des Oiseaux. Một thời gian cô nữ sinh Trần Lệ Xuân có theo học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội trong thời gian ông Trần Văn Chương hành nghề Luật Sư ở Hà Nội. Chính mấy năm cuối cùng ở trường này, Trần Lệ Xuân đã phát triển các quan hệ thân tình cụ thể hơn với Ông Ngô Đình Nhu. Sau chính biến 1/11/1963, vô số lời đàm tiếu đổ dồn vào bà Ngô Đình Nhu. 2. Sau này, tại California, Ông Nguyễn Văn Lục lại nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục. 16 | T r a n g Tác giả đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng. Ông Lê Châu Lộc đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu. Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào. Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan, thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu. Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó. Chứng nhân thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm. Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v… Theo lời kể của Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải loại người bờm xơm, chớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý. Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm. Ông Nguyễn Văn Lục muốn viết về vợ chồng ông Nhu, vì ông bà là bị nhiều người hiểu lầm và bực ghét, nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, khinh ghét bà nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Nhiều người biết rõ và khó quên câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Theo ông, khi người ta đã trót quý mến ai rồi, thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, có người đã trót quý mến và kính trọng Nam Phương Hoàng Hậu và nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi… Khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là nguyên nhân gây nên những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963. Thực ra ít người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu biết và kính trọng nhân cách bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh. Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm. 17 | T r a n g Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì quá nhiều. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Đến nỗi người ta cố moi ra sự việc từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Vì thế dưới mắt của quần chúng nói chung, thí bà Nhu là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng hầu như giới nữ sinh hay các mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó. Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Dù sau cũng chết, chỉ vì bà là một người đàn bà. Bà lại nay nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn ai, lại có vè “đành hanh” khiến giới mày râu không chịu được. Có lẽ người ta phải cầu cứu đến những lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu. Cụ Đoàn Thêm cho rằng, dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. Việc bà tham gia vào chính trường, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị, hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam. Vẫn theo cụ Đoàn Thêm, nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, gây thêm nhiều ác cảm với bà là do bà đã xinh đẹp, mà lại muốn tỏ ra cứng cỏi và đánh hanh nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Người ta có thể nhẫn nhịn chờ đợi ông Nhu, nhưng đối với bà, bà chỉ xuất đầu lộ diệ, thì cũng không được tán thành hay dung thứ. Nên dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương người đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, kiểu chủ nghĩa nữ quyền, là chưa thể yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những người phụ nữ nhu Võ Hậu hay Từ Hy. Tâm lý quần chúng như vậy nên nhiều con mắt dễ chú ý đến những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều có nguy cơ trở thành những cơ hội cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt. Bi kịch của chế độ khởi đầu từ đó. Người ghét cứ ghét, mỗi ngày mỗi đông thêm, như đòn hội chợ do thể chế tam đầu, lại có thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu. Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông vừa được nâng cấp trở thành Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn. ( Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ Xuân/my.opera.com) Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những gì Nguyễn Đắc Xuân dựng lên bôi nhọ bà Nhu. Chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai.Dĩ nhiên là không dám nói sai, ma nói đúng thì đồng lõa bôi nhọ. Thực ra họ không biết để ma nhớ, mà nói đúng hay sai. Người ta phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân? Người ta có thể tạm quên đi những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì, nói gì, viết gì, thanh minh cho việc mình làm và đã sống như thế nào? Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói, không thanh minh, Cắt đứt mọi giao tiếp với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc, Trương Phú Thứ đều nhận thấy bà sống ẩn dật, im lặng với quá khứ, lo việc từ thiện. Chắc là tâm trạng và nỗi niềm của bà gần 50 năm này đã diễn ra thật phức tạp, đa đoan, nhưng chỉ tập trung vào gia đình và niềm tin phú thác? 18 | T r a n g Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà? Thực ra bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu, chôn vùi quá khứ, cuộc sống đã sang một trang mới: im lặng> Điều ấy mang nhiều ý nghĩa: vửa cay đằng, tủi hận vừa sám hối trong tâm tình của một tín đồ. Những ai từng kết án bà, thì khó thấy bà là loại người tham tiền cố vị, vô tư cách hay thậm chí trăng hoa, mất nết… Người ta phải thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963. Nhưng những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được chứng cớ nhỏ nhoi nào, bôi nhọ bà. Bà sống ẩn dật một thời ở Ý rồi sang Pháp, mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài, ngày ngày đi lễ nhà thờ, lchuyên chú làm việc từ thiện, lấy kinh nguyện làm lẽ sống. Một con người như thế, chịu đựng biết bao điều sỉ nhục, tệ bạc, phản trắc, hờn ghét của thế thái nhân tình, khi không còn thời để lợi dụng. Không phải là dễ mà ai cũng bộ lộ nhân cách ấy, chọn lựa lối sống ấy. Mấy ai đã làm được như bà trong những tháng ngày sau 1963, nếu bắt buộc phải sống như vậy? Người ta nghĩ bà đang viết nhật ký, nhưng có lẽ chỉ là những tâm sự về đạo nghĩa Những điều Trương Phú Thứ đã viết thật là hiếm hoi và phản ảnh cuộc đời im lặng hơn là bận rộn chuyện phù hoa thế sự. Theo ông Lê Châu Lộc bà viết nhiều lắm, nhưng không ai biết gì. Trong cuộc đời này, suốt những năm làm vợ ông Nhu và nhất là từ khi ông bị ám sát, có thể cùng với lời cố vấn khuyên giải nào đo, bà đã chủ động chỉ lo cho gia đình êm ấm và dồn vào sống ẩn dật trong niềm tin Công giáo. Ông đã chết từ 02/11/1963 và từ ngày ấy ba cũng chết như một góa phụ. Theo kiểu nói của ông Lục, bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính mình, cho cuộc sống hiện nay. Nói đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, người đời không khỏi cám cảnh ngậm ngùi, thương cho hai kiếp người “hồng nhan bạc phận” Trong niềm giận ghét, ác cảm không tránh được của nhiều người, vẫn có nhiều người trân trọng quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và cám cảnh thương mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu. (Tham khảo Website T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục đã dẫn trên) 3. Tiếp theo liên hệ đến Trần Lệ Xuân, ông cụ nội tam đại, tính từ bản thân, là cụ Trần Văn Thông, cựu Tổng Đốc tỉnh Nam Định, tuy nguyên quán ở Biên Hòa, đất Gia Định. Cậu Thông sinh 1875.Cậu Thông thuở nhỏ theo học Trường Chasseloup Laubat, một trường trung học Pháp đầu tiên do người Pháp thiết lập ở Sàigòn. Chính Hoàng Thân Sihanouk của Nam Vang cũng theo học trường này. Là Bachelier (Tốt nghiệp Trung Học Tú Tài Pháp) Ban Văn Chương cổ điển 1894. Năm 1907- 1911, anh làm công chức trong chính quyền Pháp tại Đông Dương, sau ra Hà Nội ông làm Giám Đốc Trường Hành Chính tập sự (Ecoles de Stagiaires) tại Hà Nội. Chỉ ít lâu sau, ông Trần Văn Thông làm Tổng Đốc tỉnh Nam Định (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình) cho đến 1945. ông Trần Văn Thông còn làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, Hội Đồng Bảo Hộ Bắc Kỳ, được thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ Nam Triều. Ông Bà Trần Văn Thông sinh Trần Văn Chương năm Mậu Tuất (1898). Cậu Chương từ nhỏ theo học bậc tiểu học tại Hà Nội, rồi gia đình cho đi du học 10 năm ở Algérie. Sinh viên Chương được 19 | T r a n g học bổng theo học Trường Luật ở Paris, đậu Tiến Sĩ Luật năm 1922. Năm 1925, Ông Trần Văn Chương trở về Việt Nam, làm việc với tính cách trạng sự tại Tòa Thượng Thẩm Sàigòn đến 1935. Năm 1938, Luật Sư Trần Văn Chương tham gia Hội Đồng Lý Tài Đông Dương, soạn thảo các Luật dân sự Trung Kỳ lên tới Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lý Tài Đông Dương. Trong thời gian tùng sự tại Huế, Luật Sư Trần Văn Chương lập gia đình với cô Thân Thị Nam Trân, con gái của Đông Các Đại Học Sĩ Thân Trọng Huề. Làm quan dưới triều vua Khải Định, người vợ kế của Thân Trọng Huề là Công Chúa, con gái của Kiến Thái Vương. Như thế Mẹ của bà Nam Trân là em gái vua Hàm Nghi và Đồng Khánh. Trần Văn Chương trở thành cháu rể vua Hàm Nghi. Hai họ Trần Thông đều môn đăng hộ đối theo nếp nho giáo cổ truyền. Năm 1940, Luật Sư Trần Văn Chương mở Văn phòng Luật sư tại 71, đại lộ Gambetta Hà Nội. Khi mới về nước, trạng sư (thầy cãi) Trần Văn Chương mở Văn Phòng ở Bạc Liêu, rồi chuyển lên Sàigòn trước khi ra Hà Nội. LS TVChương nổi tiếng nhất về vụ kiện cô Cúc giết Huyện Trương, vì bạc tình. Nhờ LS Chương, cô Cúc chỉ bị án ba năm rồi được trả tự do. Thời CP Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, LS Chương làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Kiêm Phó Tổng Trưởng Nội Các. Khi CP TTK tan ra, thì ông TVChương sống ẩn dật tại Hà Nội, rồi đem gia đình vào Sài gòn. Sau Hiệp Định Genève 20/7/1954, miền Nam Việt Nam do Bảo Đại nắm quyền, Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, thì LS TVC được bổ nhiệm chức Quốc Vụ Khanh Phủ Thủ Tướng. Năm 1956, khi ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, rồi lên thay Bảo Đại làm Tổng Thống VNCH, thì LS TVC được bổ nhiệm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ năm 1963. Trong khi TVC làm đại sứ, thì Bà Thân Thị Nam Trân làm quan sát viên VNCH tại LHQ. Nhiều người nghĩ rằng ảnh hưởng gia đình trị khá mạnh, cộng với những biện pháp mạnh bạo – vì chưa hiểu và chưa muôn hy sinh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Công Sản - đối với những người bất đồng chính kiến dẫn đến việc ông bị xem là có phần nào trách nhiệm trong sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa. Nhưng việc chính quyền Mỹ nhu nhược dựa trên phản ứng của dân chúng Mỹ cùng với hoạt động tình báo của Cộng Sản Việt Nam và quốc tế yểm trợ kích động thêm Đặc biệt là những biện pháp được thực hiện trong vụ đàn áp Phật giáo năm 1963 chủ yếu do tình báo chính quyền Mỹ dàn dựng đã dẫn đến một chuỗi dây chuyền phản ứng dữ dội. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh với yểm trợ mua chuộc của Mỹ đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Sauk hi đã liên lạc dàn xếp với phe đảo chính, vào ngày 2 tháng 11 năm 1963,hai an hem ông Diệm và ông Nhu bước lên xe tank trong đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chính vì tin tưởng vào lời nới của các tướng lĩnh, khi chiếc thiết giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người. Người ta về sau tìm thấy bằng chứng là chính Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh sát hại hai anh em ong Diệm và Nhu.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:03:16 GMT 9
II. Sự Nghiệp Chính Trị Của Ông Ngô Đình Nhu Những người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm son trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ quan trọng của quốc gia, nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế tìm hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I: chủ nghĩa nhân vị, chính đảng cần lao nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu trù mật, dinh diền, …). 20 | T r a n g Theo ý kiến ông Minh Võ[22], ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì nhóm ông gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị. Mãi cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông Thành giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du Khi làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức. Chủ Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) 1. Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau của Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian ông Diệm cầm quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I. Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ chưa đánh giá về tầm quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Đây quả đúng là một vấn đề lịch sử chưa được trình bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, phê phán công bình, khách quan và bình thản, xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình thực hành để trả lại sự thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963). 2. Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là: - Mục đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị - Bản chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào? - Chủ Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể hiện bằng các đường lối chính sách nào? - Về triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc tính văn hoá Việt Nam? Trả lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền.... Chương khảo luận của tác giả Hoàng Ngọc Tấn "Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường Của Tiến Bộ" có nhiều dữ kiện, suy đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết. Luận đề này đề cập đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm. Mục Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị 21 | T r a n g Trong tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác nhau. Miền Bắc theo ý thức hệ chù nghĩa Cộng Sản, nên miền nam muốn được đầu với chế độ chủ trương đâu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung[23] Ngày 8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo sư đại học, giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình Nhu xác định: “… mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ, mà chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đáng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc…”[24] Ông nói tiếp: “Muốn phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị.” (Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 421). Bản Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị 1. Về bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích: Về Nhân Vị là gì: Nhân và Vị là hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp thành (仁) có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人 và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý tưởng nói về phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân loại và trong vũ trụ. Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa Nhân) trong triết lý Tam Tài truyền thống của Phương Đông. Một cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị[25] theo lối phân tích của Lm Bửu Dưỡng: “ Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ personne humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ personne humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý nghĩa đày đủ của hai chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình trong những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị tùy thuộc quan niệm về con người và quan niệm các tương quan.” [26] Theo cách nói của LM Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng nước, giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái bí quyết thành công qua thành ngữ “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Thành ngữ này dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa. Được giáo dục bởi nền văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã hệ thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là “Chủ Nghĩa Nhân Vị” Trong bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm đã phát biểu: “Sống với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: “Thương người như thể thương thân”. Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra cái phẩm giá cao quý của con người. Đó là sống với chữ tâm của “Tiết trực tâm hư”, chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng vị trí của mình đối với Thiên Chúa [Trời] - Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước - Địa; đối với Nhân Dân, Đồng Bào - Nhân.” [27] 22 | T r a n g Ông Ngô Đình Nhu giải thích: “Về tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình, một tin ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức… Ý thức hệ Nhân vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo… Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý thức hệ đó…”[28] Chủ Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân Vị cho rằng bản vị con người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt trên đời đều được tập trung và phải là phương tiện qui hướng đến mục tiêu phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người. Nguồn Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I Về quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh niên Ngô Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động của Emmanuel Mounier, nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa Nhân Vị của các ông Diệm, ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công Giáo[29]. Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa tìm hiểu thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị. Trong số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn Ngọc Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm “Is South Vietnam Viable?”, ông nói rằng ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh "Personnalisme" của Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và "Personnalisme" cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có Emmanuel Mounier[30] và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó... Thưc ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói thời đại không và được thời đại đó chấp nhận không? Nhà sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I đã ghi lại: “Chủ Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh thần của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể mác-xít.”[31] Mới đây tác giả Jean-François Petit [32] nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E. Mounier (1905-1950). Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết, trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu hướng muốn dung hợp nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học từ linh mục Guerry. Khi học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền giáo dục thiên về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và một nền thẩn học bị tác động do cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại. Luận đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập một triết học riêng biệt, tách rời khòi tư tưởng có màu sắc tôn giáo. Nhưng khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra nhạy cảm thấy người ta phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan 23 | T r a n g niệm triết học về nhân vị và cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công nguyên. Paul Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có tầm ảnh hưởng lớn lao lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ nguồn gốc tư tưởng Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản. Theo quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau nau 30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có thể là “con đường thứ ba” để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó. Trong nhãn quan Ngô Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa cộng sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị. Những nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam. Phát biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ông Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó. Trong số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn nổi tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình Diệm, ông viết: "Nếu dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính ông cũng chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng, bởi vì nó phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ" [33]. 4. Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề cùng những phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát biểu trực tiếp của các ông Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt. Hơn nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với biện chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông phương) của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của Mounier (Duy tâm Tây phương) được[34]. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mọi việc đã được sáng tỏ và những nghiên cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ xướng mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam. Theo dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu ở những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như: "Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang” [35] - "Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này... ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam" [36] 24 | T r a n g - "Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam... Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn" [37] Như thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là mô hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963, có mấy đặc điểm: - Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù hợp với văn hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên - Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự - Vận dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm đến phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội. - Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên thực sự ở hạ tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược, khu trù mật -Kiến tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính trị kết hợp với vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó. Chủ nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam, nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay. Sử gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal như sau: “Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai… Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân.” [38] Sự điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy nhau trong tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả! - Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già.” “Ông Trời hãy dẹp một bên, để cho nộng hội tiến lên làm Trời!” - Địa là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì: “Tổ quốc với chẳng tổ cò Nơi nào no ấm ta dò ta bay” - Còn Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng: “Thanh cha, thanh mẹ, thanh dì 25 | T r a n g Hễ có phong bì thì lại thanh-kiu”. So sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn tính ưu việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng xây dựng xã hội con người. Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ, không tôn trọng con người để xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người. Không thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị trường tự do và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm, chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh giữa chế độ toàn trị độc đảng mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị trường. Chế độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại Miền Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì thiếu một chủ nghĩa nhân bản dân chủ chân chính: -Chế độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt theo hình thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, trong đó tất cả đều theo lệnh của Bộ Chính Tri Đáng -Nền kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đàng chuyên chính. Có phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh doanh của các công ty liên doanh ngọai quốc -Xã hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân chân, nam nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn lan, ứng xử gian dối trong tương quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của một chính đảng được bầu cử theo cách sắo đât trước của một Đảng Và nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Chủ Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở trong cũng như ngoài nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý làm sai lệch tư tưởng chính thống thế nào là chủ nghĩa nhân vị. Từ Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị Chủ nghĩa nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà Việt Nam bền vững , ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ phận khác. Làm việc gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong guồng máy Việt Nam Cộng Hòa. Trong nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đó[39]. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và một nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài năng thật sự của ông là thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường chỉ gọi là vắn tắt “Cần Lao”. Lúc đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không biết gì về những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác. Sau năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích 26 | T r a n g chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Việc đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ), trong ý thức cạnh tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một số tư tưởng chỉ đạo phong trào công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: công nhân được tổ chức thành nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: “Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc”[40]
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:05:37 GMT 9
Về Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông[41] Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa[42] một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm. Tổ Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới Ngoài hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu, con có những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính là Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường lối chính sách theo hướng Chủ Ngjhĩa Nhân Vị. Chủ trương như thể nhưng có nhiều lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương và cá nhân dẫn dần đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá hoại một cách nào đó. Khi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì. Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đê “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v... thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật phục sức làm việc của ông Nhu. Ấp Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn Mục tiêu 1/. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi. 27 | T r a n g Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Nghiên cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam túc của quân dân cán chính trong ấp chiến lược. 2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình: “Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân: A. Tam Túc là 1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc. Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài: 2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải 3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác. B.Tam Giác là: 1. Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ. 2. Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm. 3. Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ. Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa…” [43] 3/. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. 28 | T r a n g Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất. 4/. Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có chức này. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan điểm về một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh Du Kích. Theo ông, ai cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau, khu vườn, ao cá của mình. Cho nên, chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không còn bị khủng bố, không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp tiền. Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước. Nhưng thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược, khi tập trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là những người hoạt động bảo vệ chủ nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản. Chúnh vỉ nhiều người miền nam chưa nhận thức được hết những kinh nghiệm về hiểm họa Cộng Sản trong chủ trương “tam cùng” và những điều giải thích về tam túc và tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến lược đã từng được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân khỏi trà trộn vào trong dân để tốn tại bằng lương thực và khủng bố để được cưỡng bách che chở Nhưng chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho rằng “đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và khi Khu trù mật thất bại, thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại khái là một biến thể của Ấp chiến lược cũ. Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt hại cho dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức là di chuyển hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.[44]” 5/. Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lịch sử Việt Nam, lúc có chiến tranh. Tác giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần chận đứng các cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi. Ðại Nam Thực Lục [45] có ghi lại như sau: Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư. Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà. Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước 29 | T r a n g theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thuế cho. Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để .Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến phòng giữ ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân. Theo người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền Đông Bắc Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm dân tộc Đá Vách và việc khai lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt đối xử so với người dân tộc đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của người dân tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số. Từ Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù Mật, Dinh Điền Cách đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền tùy theo địa phương và thời gian. Nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số 928-NV do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như một Bộ trong Chính Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954), còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ 10/8/1954 – 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ 4/12/1954 -17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng[46]. Thực sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người); Phật giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000) người Hoa cũng di cư vào Nam[47] (= 900.206 người). Vì số di dân Công Giáo chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám Mục Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm điều hành. Tổng số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người[48]. Họ được chuyển đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá nhân hay theo các đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn[49]. Chủ yếu nhiều trại định cư về sau được tổ chức bố trí thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền. Linh mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó: Ông (Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên và đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt, số người di cư được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa), Cam Ranh… Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di cư vào dân địa phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong việc đó (t. 200) [50]. Theo ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng Ủy Di Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt: - Cứu trợ và di chuyển. - Kiểm soát và tiếp cư. - Giúp đỡ định cư. Về phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn Công giáo, Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại phi trường Tân Sơn Nhất và bến tầu Sài Gòn. Mãi đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn. Ủy ban cử các linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện. 30 | T r a n g Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men, vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do. Ngoài 2 tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác cũng tích cực tham gia giúp đỡ như: Văn Phòng Viện Trợ Công Giáo Hoa Kì do Mgr. Joseph Harnett[51] phụ trách; Văn Phòng Thanh Thương Hội Phi Luật Tân; Rotary Club; Hội Cứu Trợ Pháp; Báo Figaro quyên giúp 35,000,000 quan Pháp (1955).[52] Tổ Chức Ấp Chiến Lược Thời gian từ đó đến nay đủ những nhiều đàm tiếu và nhận định khác nhau để có thể phê phán được các vấn đề của lịch sử. Theo Tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư kiêm trưởng ban Ðịa lý trường Ðại Học Văn khoa Sài gòn, giảng dậy tại các viện đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Ðà Lạt, Huế, Cần Thơ, Minh Ðức trước năm 1975, “Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam (1954-1994)[53],.”, đã tổng hợp rõ về cơ cấu tổ chức và lợi thế của kế sách Khu trù mật[54] như sau: Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và tập trung thôn dân vào đấy sinh sống ở những địa phương nào chưa an toàn. Các thôn dân sinh sống trong những vùng hẻo lánh, xa cách các giao lộ, khó kiểm soát. Trước mưu toan Miền Bắc dùng chiến tranh xâm lược Miền Nam , Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện tổ chứcxây dựng và nâng cao, phát triển đời sống của họ, đồng thời bảo vệ họ, cô lập họ với Việt Cộng, giống như bắt cá khỏi nước mà du kích Cộng Sản vẫn thường bám vào dân để sinh sống Thiếu dân và các nguồn lợi, quân dân cán chính có thể nhận diện được du kích mà loại trừ. Mỗi KTM có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở và các tiện ích giống như một thành phố. Vì thế các KTM dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là đơn vị kinh tế, thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh. Về quân sự, bố phòng, KTM là những địa điẻm chiến lược để bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh du kích xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việcquàn lý dân chúng, chính quyền địa phương còn được trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến KTM thành một tiền đồn, ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam. Về kỹ thuật, KTM có vị trí được được chọn lựa kỹ lưỡng, có đủ các điều kiện phát triển thuận lợi, như đất đai phì nhiêu, gần các giao lộ và điện khí hóa. Về hành chánh va xã hội, KTM có một chi nhánh bưu điện), cơ sở xã hội, như một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa như các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền. Chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: việc tập trung dân cư cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...) Về kinh tế, KTM có các tiện ích thương nghiệp và dịch vụ (có chợ xây bằng gạch với các tiệm buôn bán); công nghiệp có các tiểu thủ công nghệ liên hệ với nền nông nghiệp địa phương; nông nghiệp, với diện tích đất trồng có thể mở rộng nhờ khẩn hoang thêm đất đai giúp các thế hệ trẻ tương lai tiền lên thành điền chủ: 31 | T r a n g Có Bao Nhiêu Ấp Chiến Lược Trên Lãnh Thổ VNCH Ngoài các làng xã thôn ấp chiến lược địa phương, tổng số các địa điềm định cư có thể biến thành khu trù mật, hay ấp chiến lược, dinh diền hình dung như sau: “Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 1955 đã thành lập được 255 trại định cư (sau này còn thành lập thêm): 156 trại tại Nam phần, 65 trại tại Trung phần và 34 trại trên cao nguyên. Tổng số dân đi định cư là 596.031 người; số đồng bào di cư sống rải rắc các nơi là 140.039 người; gia đình binh sĩ là 125.393 người (những con số này có sai biệt chút ít giữa các bản thống kê, một phần cũng do số sinh tử mỗi ngày). Ngân khoản dành cho chương trình di cư là 1.058.000.000$. Trong số đó 480 triệu dành để làm nhà sẵn cho đồng bào và 300 triệu cấp cho nơi nào đồng bào tự làm nhà lấy. Tại các trại có đợt phát tiền mặt cho mỗi đầu người 700$. Ngoài ra đồng bào còn được 124.813 dụng cụ canh nông; 681.585 kiện vải; 393.994 kg chỉ và 3.471 kg chì để làm chài lưới”[55] Robert Scigliano (Robert Scigliano: Vietnam: Politics and Religion. Asian Survey, Vol. 4, No. 1, A Survey of Asia in 1963: Part I (Jan., 1964), pp. 666-673. This article consists of 8 page(s)), giáo sư tại trường Ðại Học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội chống lại chính sách khu trù mật. Thể chế này có tác dụng hữu hiệu là ngăn chận Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, vì được xây dựng ở các vùng chiến lược, như dọc theo một trục đường chính, một giao lộ trên bộ hay trên sông rạch gây trở ngại rất nhiều cho việc di chuyển của Cộng Sản. Tác Giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung Tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm lý, Bộ Quốc Phòng Trong cuốn “Ngô Ðình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée” (Bản dịch Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn, Luận Án Sử Học, Trường Đại Học Paris VII, 1982. Bản tiếng Việt do nxb Xuân Thu, Nam Cali, 1989) cho rằng Khu Trù Mật do chính quyền sáng kiến bị chỉ trích vì chỉ nhắm vào những chuyện tiêu cực về nhân sự, Những dư luận chống lại quốc sách ấp chiến lược còn đi xa hơn nữa cho rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa. Ngày nay đọc Suzanne Labin, người ta rút ra được bài học lịch sử về chính sách ấp chiến lược. Bà là một nhà văn kiêm phân tích gia đã nhiều lần tới thăm Miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I. Bà từng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tiếp kiến, và đã thuyết trình về chính trị tại Sài gòn. Trong cuốn “Vietnam: An Eye-Witness Account - Việt Nam: Tường Thuật Của Một Nhân Chứng Thấy Tận Mắt” [56], Suzanne Labin đã viết: "Khi nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn ấp chiến lược đã được thành lập xong và đang vận hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để bảo vệ cả nước. Nông dân sống rải rác dọc theo các con kênh, được yêu cầu dời chuyển để qui tụ lại thành nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu châu. Mỗi làng được rào vững chắc bằng hàng rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đàng sau có tăng cường hệ thống hào rộng, gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm. Trong ấp, mỗi gia đình đều được khuyến khích đào một hầm trú ấn ngay trước nhà họ. Tại sao vậy? Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường quá sợ nên nên chạy tứ tung gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào người nhà mình. Từ khi có hầm trú, người già và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để xạ trường quang đảng cho lực lượng chiến đấu hành sự” "Người dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà được giao cho một phần vụ đặc biệt. Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là những đơn vị chiến đấu; những dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có nhiệm vụ chiến đấu được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng được trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin được cung cấp giúp cho các người bảo vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào 32 | T r a n g rừng trong khi lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập một vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngạị" Bà còn nhắc lại câu nói cô đọng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm: Muốn nghiền nát quân thù cần chiếc búa có sức mạnh năng động dập trên đe ấp chiến lược. Ấp chiến lược tồn tại vì đã đưa lại nền tảng đa hiệu vững chắc cho tiến bộ kinh tế xã hội. Âp chiến lược chính là tâm điểm cuộc cách mạng chính trị và xã hội Chính sách ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 là một kế hoạch táo bạo nhất của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Kế hoạch ấy được Sir Robert Thompson cố vấn. Ông là chuyên viên về chiến thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn là Desmond Palmer và Dennis Duncanson Nhận định tổng quát về kết quả của chính sách ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu đã khẳng định trong luận án của ông: Quốc sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn sống bám lén lút trong nhân dân. Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành lực lượng hành quân chủ động. Du kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị động và chao đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở. Tinh thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt Cộng càng ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Trong một bài báo mới đây nhan đề “Bốn Mươi Năm Ngày Đảo Chính Chế Độ Ngô Ðình Ðiệm: Cái Nhìn Từ Hà Nội, Tạp chí Thông Luận số 174, tháng 10-2003.”, Bùi Tín, nguyên Phó chủ nhiệm Nhật báo Nhân Dân Chủ Nhật, cựu đại tá của Bộ Đội Bắc Việt đã phải xác nhận ưu thế của quốc sách ấp chiến lược đã gây cho lực lượng xâm lăng Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng : Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần phải trả lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này... Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị. Bởi thế, những nhận xét của tác giả Nguyễn Bá Cẩn về khu trù mật, rồi ấp chiến lược như đã trích dẫn ở trên có phải là những quan điểm nông nổi chăng, hay là do một tư duy thiên kiến nào đó thúc đẩy ông viết nên những câu đáng lẽ cần được cân nhắc hơn, từ một người làm chính trị ở vào một trong những vị thế lãnh đạo Miền Nam trước đâỵ. Thực tế chính trị Miền Nam Việt Nam cho thấy sự lợi hại của quốc sách Khu trù mật qua sự chứng kiến không chỉ của dân Miền Nam mà cả rất nhiều giới ngoại quốc. Trong cuốn “Nation That Refused to Starve: The Challenge of the New Vietnam [57], Tướng John W. O'Daniel[58], chỉ huy phái bộ Quân sự Mỹ đầu tiên, đã ca tụng chính sách tiếp cư chu đáo của Ông Ngô Ðình Diệm, thành công của các khu trù mật mà tiêu biểu là Cái Sắn, chương trình dinh điền ở Quảng Ðức, Ban Mê Thuột...
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:08:18 GMT 9
Chương trình cải cách điền địa thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I cho người nông dân cuộc sống bảo đảm tương lai với các con số sau đây: Từ tháng 7 năm 1954 tới tháng 7 năm 1961 có tất cả 648.294 mẫu tây được phân phối lại cho nông dân, 301.923 mẫu tây đất nhà nước mua lại để phát cho nông dân. Một tổng cộng 950.217 mẫu tây mà chính quyền trưng mua lại của các đại điền chủ với giá 1.260.559.427 đồng. Trong khi đó các nông dân chủ điền mới chỉ phải trả 1.822.116 đồng vào năm 1961. Nhiều tư liệu lịch sử khác xác nhận thành quả quốc sách ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, và chương trình cải cách điền địa nói trên. Tóm lại, Ấp chiến lược là một "quốc sách" của chính quyền 33 | T r a n g Việt Nam Cộng hòa I sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm đề xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.[59] Quan điểm của Việt Nam Cộng hòa I về Ấp chiến lược là nhằm mục đích tách rời du kích Cộng Sản Việt Nam dưới chiêu bài Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Việt Nam ra khỏi dân thường ở nông thôn. Dân chúng không phải sống trong vùng oanh kích tự do, hay "vùng xôi đậu", loại trừ đối phương có cơ sở hoạt động “tam cùng” (cùng ăn, cùng ở cùng làm) trong dân chúng, dần dần cô lập hoàn toàn lực lượng du kích khỏi nông thôn. Nhưng để chống lại chính sách đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên truyền đây là hình thức gom dân, nhốt dân, kìm kẹp dân hòng "tát nước bắt cá". Kế hoạch ấp chiến lược khi được thực hiện tốt sẽ cô lập lực lượng vũ trang cộng sản không thể dựa vào dân, và dần dần Việt cộng bị tiêu diệt. Ấp chiến lược tổ chức theo hình thức "tự quản, tự phòng và tự phát triển". Quản lý ấp là một Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với các đơn vị Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách. Khi ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động. Ban đầu, Quốc sách Ấp chiến lược thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân du kích cộng sản bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức lấy ngân sách Ấp chiến lược rồi bắt dân phải gánh chịu khoản này như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Vì thế, dân cảm thấy bị gom vào một chỗ sẽ làm xáo trộn một phần nào nếp sống cổ truyền nông thôn của họ. Vì thế, phía Cộng sản đã phát động phong trào "phá ấp chiến lược". Thử Đi Đến Một Kết Luận Người ta có thể có nhiều nhận định phán đoán khác nhau về con người Ngô Đinh Nhu hoạt động trong hoàn cảnh một chế độ đã diễn ra. Đã có những phán đoán phê phán về những khuyết điểm của chế độ Ngô Đình Diệm như độc tài, gia đình trị, công giáo trị. Trong chừng mực nào, người ta có thể chấp nhận những phê phán như thế, nếu chỉ xét một cách chủ quan, tương đối, có thiên kiến phần nào. Nhưng xét trong bối cảnh toàn cuộc, chế độ Ngô Đình Diệm đã phải ứng phó với nhiều đoàn thế đối lập như nỗ lực xâm nhập và phá hoại đa diện của Cộng sản miền Bắc, như nhiều đảng phài có những quyền lợi khác nhau có căn bản ở nhiều thế lực chính trị và tôn giáo: xu hướng Cao Đài, Bình Xuyên, nhiều giáo phái Phật Giáo (Phật Giáo Hòa Hảo, Phật Giáo Thống Nhất, Phật Giáo Nguyên Thủy Cổ Sơn Môn, Phật Giáo Tiểu Thừa, Phật Giáo Đại Thừa,… ), Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Bảo Hoàng thân Pháp, phong trào đòi độc lập tự trị của nhiều nhóm dân tộc thiểu số,... Trước thực tại xã hội đó, việc xây dựng một xã hội tự do dân chủ và tôn trọng nhân vị vừa đối kháng với Cộng Sản chuyên chính, vừa nỗ lực đoàn kết toàn dân có lập trường chính trị và tôn giáo khác nhau, không phải là một chính sách đơn giản, dễ dàng. Nhưng Ngô Đình Nhu và những người cùng chủ trương đã xây dựng một chính cương (chủ nghĩa nhân vị) chỉ đạo các chính sách như dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược để vừa xây dựng vừa chiến đấu. Trong tình thế đó, chắc chắn quyền tự do, dân chủ và nhân quyền chỉ được áp dụng đến một chừng mực nhất định trong một xã hội theo cái nhìn của chủ nghĩa nhân vị và các tổ chức xã hội, nhầt là thanh niên làm công cụ thực hiện các chính sách. Đoàn kết toàn thể quân dân cán chính để xây dựng xã hội. 34 | T r a n g Nhưng nhận thức của toàn dân không triệt để, nhiều chính trị gia và tướng lãnh đồng lõa với những mưu đồ cá nhân và bị nước ngoài mua chuộc, lực lượng đồng minh Hoa Kỳ không kiên trì và trung thành trong cuộc xây dựng và chiến đấu, trong khi Cộng Sản xúc tiến phối hợp các mưu đồ đánh phá chế độ xã hội miền Nam, ra sức khai thác và phóng đại những khuyết nhược điểm khó tránh khỏi của chế độ. Những yếu tố đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm chủ yếu do tập thể Ngô Đình Nhu kiến trúc nên đã bị thất bại trong chính biến có nội công ngoại kích tháng 11 năm 1963. Đối chiều với thực tại chính trị Việt Nam hiện nay, người ta càng thấy rõ mưu lược của nhà kiến trúc xã hội như Ngô Đình Nhu vậy. Một Số Sự Kiện Với Năm Tháng Có Ý Nghĩa: TT Thời gian Sự Kiện Nhân Vật 06.1954, Cannes Quốc trưởng Bảo Đại ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm lập nội các mới. 25.06.1954, Sàigòn Ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam 21.07.1954, hay 20/07/1954 Genẻve 14 Nước Ký Kết Hiệp Định 06.08.1954- 23.8.1963 Hoa Kỳ Ông Trần Văn Chương, đại sứ t ại Hoa Thịnh Đốn 07.09.1954 Sài Gòn Pháp trao trả Dinh Norodom, Chính Phủ Ngô Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc lập 20.09.1954 Việt Nam Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) trở về 23/10/55VN N ĐD tổ chức trưng cầu dân ý. Ông NĐDiệm đạt 98.2% số phiếu, làm Tổng Thống, Bảo Đại bị truất phế Các tướng lãnh Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ, Trần Văn Đôn ban đầu thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm Nhóm nòng cốt chuẩn bị cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm: Hoàng Bá Vinh, Cao Xuân Cẩm, Cao Xuân Mỹ, Đỗ La Lam, Hà Đức Minh, Trần Kim Tuyến, Phạm Văn Nhu, Nguyễn Vỹ, …Nhị Lang, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Thành Phương, Văn Ngọc, Hà Huy Diễm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ý, Đoàn Trung Còn, Nguyễn Văn Quyền, (Nguyễn Trãi) Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Trọng Ứng, Khuất Duy Trác, Cung Thúc Tiến, Trần Chánh Thành (tự sát dịp 30/4/1975 tại nhà ở Sàigòn), Trình Minh Thế (chết 03.05 1955), Lý Kai (chết 14.07.1956), Nguyễn Hữu Châu, Lương Danh Môn, Võ Văn Hải 31.02.56 Ngô Đình Luyện, bạn học với Tạ Quang Bửu, cố vấn, đại sứ lưu động, toàn quyền tại London Nguyễn Thị Nghĩa, em ruột Nguyễn Đệ, Couvent des Oiseaux 35 | T r a n g Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng 1956 Ngô Đình Nhu, cố vấn 1/59 Luật gia đình: 135 điều, cấm ly dị, cấm đa thê, truất quyền của con ngoại hôn, Trần Lệ Xuân dự thảo và trình Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ngày 13.12.1957 Đoàn Thêm, Đổng Lý Văn Phòng Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam 11.11.60 Mưu toan lật đổ chế độ lần 1: Đảo chính: Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Thành Phương, Bùi Lượng, Phan Bá Cầm, Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, … 1960-63 Phong Trào Áo dài Bà Nhu. 27.02.1962 Chính biến l ần 2: Oanh tạc Dinh Độc Lập: Phạm Phú Quốc - Nguyễn Văn Cử- Nguyễn Xuân Vinh. 01.03.63 (6.2) Tượng Hai Bà Trưng. 05/05/63 Huế Lễ Mừng TGM Ngô Đình Thục. Cờ VN va cờ Vatican. 08/05/63 Huế Đại Lễ Phật Đản 2507treo cờ VN nhưng không được treo cờ Phật Giáo ngoài khuôn viên các Chùa. Biểu tình phản đối. 9 người chết có cả trẻ em, 20 người bị thương. Phật Giáo có 10,5. Công Giáo có 1,5. Quan hệ Mỹ Việt bắt đầu căng thẳng 09/05/63 Phật Giáo đòi 5 điểm: 1/. Hủy lệnh cấm treo cờ Phật 2/. Phật Giáo phải bình đẳng Công Giáo 3/. Không được đàn áp Phật Giáo 4/. PG được quyền thờ phượng theo tín ngưỡng của mình 5/. Chính quyền phải bồi thường những thiệt hại cho Phật Giáo và trừng trị những người có trách nhiệm trong việc đàn áp PG ngày 08/05/1963 12/05/63 Phái đoàn PG gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn kiến nghị Tổng thống 28/05/63 T.T Thích Tịnh Khiết kêu gọi Phật Tử xuống đường. Tại Huế, cả ngàn người xuống đường. Tại SG, nhiều tằng ni Phật Tử xuống đường , tuyết thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại sứ F. E. Nolting vắng mặt khỏi SG, ĐS W.C. Trueheart giải quyết 2/6/63 Huế Hằng trăm sinh viên biểu tình bạo động,Huế giới nghiêm 36 | T r a n g 4/6/63 Trueheart gặp Nguyễn Đình Thuần, BTPTT, nhưng bất đồng 7/6/63 Bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và cho các nhà lãnh đạo PG bị CS giật giây 11/6/1963 HT Thích Quảng Đức, 73 t, tẩm xăng tự Thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt Phan Đình Phùng. Bà Nhu tuyên bố “Tất cả các lãnh đạo PG đóng góp vào quốc gia là nướng một nhà sư” 16/6/63 Uy Ban CP va PG ký Thông Cáo Chung. Truyền thong Mỹ chỉ trích chính quyền NĐD. TT Trí Quang (sinh 1922) thay thể TT Thích Tịnh Khiết 25/6/1963 Trưởng CIA John Richardson không giải quyết được mâu thuẫn CP và PG. Ông Nhu đòi làm mạnh và chống PG vì không chống Cộng. Những ngày cuối tháng 6/63 Đại Sứ Trueheart đe dọa chính quyền NĐD, nên NDD trở nên độc lập với áp lực Mỹ hơn. Vai trò Nolting được trọng dụng. Nhưng Kennedy muốn thay thế Tháng 7-8/1963 Áp lực gia tăng 11/7/63 Nolting trở lại Sàigòn thuyết phục NDD hòa giải với PG 18/7/63 Nolting cố thuyết phục NDD. NDD chịu lên Đài Phát Thanh. Vụ tự thiêu thứ 2 xảy ra 19/2/63 TT lên Đài PT chỉ hai phút, chỉ hứa có UB diều tra về việc xảy ra. Cảnh sát vẫn bao vây chùa 23.07.1963 Trần Thanh Chiêu, TGĐ dân vệ đoàn, 5/8/63 Phan Thiết Nhà sư Nguyên Hương tự thiêu 13/5/63 Huế 1 nhà sư quấn cổ tự thiêu. Ni cô tự thiêu tại một nhà thờ Cg. 1 sư 71 t tự thiêu ở Chùa Từ Đàm 14/8/63 Nolting từ biệt NDD về Mỹ, Henry Cabot Logde đến thay thế 15/8/63 Nolting rời Sàigòn. NDNhu cảnh giác Mỹ có thể thay đổi chính sách 20/8/63 NDNhu cho enh bao vay tấn công chùa tại Xá Lợi, tại Từ Đàm: 30 chết, 200 bị thương, bắt giam 10xe chơ người 21.08.1963 Bố ráp Chùa. LL Đặc Biệt và Dã chiến tấn công 2000 chùa trên toàn quốc, bắt 1400 tăng ni, 50-100 người chết. Mỹ lên án NDD. ở Hoa Thịnh Đốn và Honolulu. Cả nước thiết quân luật. Sinh viên bất tuân, xuống đường. Vũ Văn Mẫu từ chức cùng với Đại sứ Mỹ Trần Văn Chương 22/8/1963 ĐS Cabot Lodge đến Sàigòn 9.30 tối 23.08.1963 Lucien Conein được TVDôn mời đến Bộ TTM trao thu cho Cabot logde noi la quân đội không nhúng tay vào vụ PG. LV 37 | T r a n g Kim phụ tá Trần Văn Đôn đòi loại NDNhu. Võ Văn Hải hứa bảo vệ TT NDD neu quan doi loai Nhu. R. Hilsman va Averell Harriman đều tỏ ý không ủng hộ chế độ NDD 24/8/63 Cabot Logde liên lạc với Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ phối hợp với tướng lãnh VN làm đảo chính chế độ NDD Bộ Ngoại Giao gởi TĐS Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay. Tối mật. Không được phổ biến. Chỉ đích thân Đại Sứ Cabot Lodge mới được phép đọc. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Sàigòn 320, Saigon 316. Sàigòn 329 Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị thiết quân luật, hoặc Ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công Chùa chiền bằng Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngờ rằng quân đội làm. Hơn nữa cũng thất quá rõ rang là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy. Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền bính lại nằm trong tay ông Nhu và các thuộc hạ của ôngđể thay vào đó bằng những quân đội tinh nhuệ và những chính trị gia có tư cách. Nếu Ông (Cabot Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồ tại được. Kỳ tên: Hilsman, Ball, W. Averell Harriman 24/8/63 25/8/63 ĐS Lodge báo cáo đã nhân được, nhấn mạnh mọi việc vẫn từ Hoa Thịnh Đốn 26/8/63 Các Cố Vấn TT Mỹ chia 2 lập trường: Taylor muốốn có thảo luận thêm bức điện trên, và phe Mc Cone thấy tư cách xứng đáng của TT NDD, khó thay thế. Cuối cùng mọi người thấy cần phải dè dặt và giữ lại NDD, loại NDNhu thôi. VOA phổ biến vội lập trường Mỹ mà Lodge chưa gặp NDD. Nhưng các tướng Minh, Khiêm và Khánh đã được liên lạc 27/8/63 TT Kennedy họp với các cố vấn cao cấp, trong đó có Nolting. Muốn loại bỏ Nhu nhưng hai anh em như gắn bó như cặp bài trùng. TTKennedy vẫn giữ lập trường điện văn ngày 24/8/1963 29/8/63 Kennedy tin giao mọi trách nhiệm cho Cabot Lodge 30/8/63 Kennedy sợ có cảnh tắm máu tại Sàigòn nên cho báo động các nơi ngoài khơi dự trù 31/8/63 Tướng Minh báo cho Richardson biết kế hoạch đảo chánh phải hoãn lại, vỉ sự thân thiết Richardson với TT NDD có thể 38 | T r a n g bại lộ cuộc đảo chánh. 04.09.1963 Họp báo tại Dinh Gia Long 09.09.1963 Bà Trần Lệ Xuân đi dự HNQT tại Nam Tư 10.09.1963 (11- 19.09.63), đến Rôma: 22.09.1963 29.9.1963 Đến Paris 07.10.63 – 13/11/63 Đến Mỹ: đến Idlewild, hạ viện Mỹ 8.10.63, đến New York 09.10 (Hotel Waldrof-Astaria), 14.10, tới Harvard, MA. 03.11. ở Hotel Beverly Wilshire, Beverly Hills-13.11, sắm đồ ở New York (Barclay Luggage Shop), với tiền hóa đơn 52.045US$ Ngô đình Lệ Thủy: 07.08.1945, Huế 12.04.1967 Paris Nguyễn Thị Thuần, thư ký riêng của Bà Nhu Nhóm mật vụ miền Trung: Dương Văn Hiều, Nguyễn Tư Thái, Nguyễn Thiện Dzai 11.63 Vị tướng cầm đầu đảo chính lật đổ chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Đại Tướng Dương Văn Minh. 01-2.11.63 Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Các tướng lãnh Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Tỵ, Văn Thành Cao. Một số nhân vật: Lê Công Hoàn, Trần Văn Khiêm, Truơng Đình Dzu. 10 giờ đêm 27.7.1986 Ông bà Trần Văn Chương chết, có nhiều nghi vấn là Trần Văn Khiêm giết cha mẹ để giành gia tài (?)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:14:08 GMT 9
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO:Tài Liệu Ấn Hành Vật Chất - Văn Bia. Ðời Một Phóng Viên và Những Ngày Chung Sống Với Chí Sĩ Ngô Ðình Diệm. Hồi Ký. In lần thứ hai (2003). Bổ túc nhiều chi tiết và hình ảnh. Có thêm Phần "Ðoạn Cuối Ðời Một Phóng Viên". Tác giả giữ bản quyền. Copyright 2003 by Lê Văn Bia. All rights reserved. Ðăng ký: TX 5-528-510, Dec 11, 2001. Tái đăng ký: April 2003. - Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu. Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975. 2004, Nhà XB Văn Hóa, PO BOX 721049, Houston TX, 7727-1049, 22US$, USA. 4/10/2006, 4 Hồn Việt - Nguyễn Đức Cung. Ấp Chiến Lược - Phạm Cường .Bí Ấn Mộ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. VNnet - Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. 4366 Menlo Avenue # 23, San Diego, C.A. 92115, U.S.A. ĐT: 619-284.5484. Giá bán: 15 USD. - Trần Văn Đôn. Việt Nam Nhân Chứng - Phụng Hồng. ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN. Đại Chúng số 85 - phát hành ngày 1/11/2001 www.daichung.com/85/17_vn_nhan_chung.shtm39 | T r a n g www.daichung.com/86/15_viet_nam_nhan_chung.shtm- DAI CHUNG NEWS MEDIA INCORPORATED d/b/a DAI CHUNG BIWEEKLY NEWSPAPER [10515 Summit Avenue Kensington, Maryland 20895] Đại Chúng số 86 - phát hành ngày 16/11/2001 - Lữ Giang. Harriman, Người Quyết Định Về Số Phận Ngô Đình Diệm, Canada, 19/10/2004, 09t, A4 - Lữ Giang.Những Bí ẩn Về Biến Cố Ngày 11.11.1960. Canada, Thứ Sáu 12/11/2004, 09t, A4 - Mậu Hải. Chúa Gọi. Hồi Ký. Kỷ niệm Năm Mươi Năm Linh Mục và Thượng Thọ Bát Tuần Linh Mục Inhaxiô Mai Xuân Hậu, 20.05.2003. Sàigòn, viết xong Lễ Truyền Tin, 25.03.2003, 97t, 13x24cm. - Vũ Đình Hoạt. Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan. Trực thoại với Đỗ Mậu, tác giả Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Virginia, Alpha, 1991 (1771, Wilson Blvd, Falls Church, VA 22044), 727t. I-X, 15x25cm; 1619-11t. XI-XX, 15x25cm) - Nguyễn Gia Kiểng, "Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào?", Thông Luận, tháng 4, năm 2005. - Phạm Văn Lưu, Tổng Thống Diệm: Những ngày đầy thử thách khi về nước chấp chánh, 1954-1955(7-29), Melbourne, 18.10.2004; - Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn. Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam (1954-1963), Một Cuộc Cách Mạng. Center For Vietnamese Studies Publications, Reservoir, Victoria, 3073, Australia. [(Lê Tinh Thông) 2362 Ashbury Circle, Westminster, C.A., 92683, USA. ĐT: 714-891.6216.10 USD. (nhà sách Nam Á): Centre Commercial Les Olympiades, 44 avenue d'Ivry, 75013 Paris, France.] - Hoành Linh Đỗ Mậu. Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Hồi Ký Chính Trị. Bổ túc hồ sơ về sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Hoa Kỳ, NXB Quê Hương PO Box 8435 Mission Hills, CA 91346 USA. In lần 1, 1986, lần 2, 1987, 1267tr., 16x27cm - Đỗ Mậu. Một Trời Tâm Sự hay Hồi Ký Của Tướng Lưu Vong của Đỗ Mậu. Hà Nội, NXB Công An Nhân Dân, 1991 - Lương Khải Minh & Cao Vị Hoàng. Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống I&II. Sàigòn, Đinh Minh Ngọc xuất bản, 1971. - Nguyễn Văn Minh. Dòng Họ Ngô Đình: Giấc Mơ Chưa Đạt. Hoàng Nguyên XB, NV Printing 7775 Westminster Ave., Westminster, CA 92683 (714)-897-3626. . nvprinting.com . (Dorothy Nguyen PO BOX 2637 Garden Grove, CA 92842-2637) Ca, USA, 2004, 586t, 14x25cm Giá bán 20 USD. - Trung Quốc Và Việc Giải Quyết Cuộc Xung Đột Lần Thứ Nhất ở Đông Dương. Nhà XB Thông tin lý luận, bản tiếng Việt, Hà Nội, 1981 - Nhật ký Đỗ Thọ. Sàigòn, Đồng Nai, 1970. - Tôn Thất Thiện “Cụ Diệm ở PARIS 1953 - 1954”. Lữ Giang giới thiệu. Canada, 2004, 24t, A4 Tài Liệu Không Mạng - BBC phỏng vấn John Prados (National Security Archive): John Fitgerald Kennedy Và Cuộc Đảo Chính Ngô Đình Diệm Diễn Ra Ngày 1-11-1963. tieulun.hopto.org- LARRY BERMAN, Sự Kiện Nhân Chứng Trên Mặt Trận Thầm Lặng (Nguyễn Đại Phượng dịch). (Theo Tuổi Trẻ Online) www.qdnd.vn/qdnd/sukiennhanchung. trenmattranthamlang.24055.qdnd 40 | T r a n g - Larry Berman: "Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự". Bản dịch Nguyễn Mạnh Hùng, - Lý Quý Chung: Hồi Ký Không Tên. CÁI CHếT CủA BA ÔNG DIệM, NHƯ, CẩN. Website Talawas - Phạm Cường, Bí ẩn mộ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. (báo Vn net ra ngày 18-8-2005) - Ngô Đình Diệm. Tiểu Sử: Source: Tài liệu Keywords (Ngô Đình Diệm) vi.wikipedia.org/wiki .. - NGÔ ĐÌNH DIỆM giết tướng TRỊNH MINH THẾ (01/02/2007) - Giải Tỏa Bí Mật Về Cái Chết Của Tướng Trịnh Minh Thế www.chuyenluan.net/200411/0411_23.htm- Ngô Đình Diệm, Minh Trực, Tạ Văn Vân, Trần Thành Đô, Nguyễn Bá Vinh, Vĩnh Bảo, Nguyễn Bá Tứ: Thơ. - ĐÔNG DUY. Ngô Đình Diệm: “Dĩ vãng oai hùng” và huyền thoại 65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/ issues/vw5n47/ngoDinhDiem.html - ĐÔNG DUY. Danh từ “cộng phỉ” do ông Ngô Đình Diệm đặt ra? 65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/issues/vw5n46/congPhi.html- Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ lại những ngày ở cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm. - Mường Giang. KISSINGER ĐÃ BÁN ĐỨNG VNCH CHO CSBV - Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng thay CT nước. Về việc cử ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và thư viện toàn quốc. Sắc lệnh 21 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Bổ nhiệm 08/09/1945 có hiệu lực ngày 08/09/1945 Toàn quốc vbqppl3.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/194509/194509080009/lawproperties_view- HĐGMVN, Văn Phòng Tổng Thư Ký. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2004. Nhà xb Tôn giáo. Hà Nội, 2004. - Phan Phát Huồn. Việt Nam Giáo Sử. Quyển II. Cứu Thế Tùng Thư. Sài Gòn, VN. 1962. - Ngô Kỷ. Khui Hồ Sơ Tối Mật: Mỹ Chủ Mưu Thanh Toán Anh em Tồng Thống Ngô Đình Diệm… ( Ngô Kỷ: PO BOX 836, Garden Grove, CA 92842. Email: ngokyusa@yahoo.com . www.take2tango.com/printing.aspx?NewsID=6216- Trân Thi Liên, "Les catholiques vietnamiens dans la République du Viêtnam (1954–1963)" in Pierre Brocheux, ed., Du conflit d'Indochine aux conflits indochinois (Paris: Éditions Complexe, 2000), pp. 53–80. www.clemson.edu/caah/history/facultypages/EdMoise/54-64.html- Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn. Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam, 1954-1963, Một cuộc cách mạng - Nguyễn Văn Minh. Dòng họ Ngô Đình, ước mơ chưa đạt. - Lâm Thanh Liêm & Gustave D. Meillon. Từ Sàigòn Tới Tp. HCM. Nam Á. - Đỗ Hữu Nghiêm. Giáo Hội Và Các Đồng Bào Thiểu Số Ở Việt Nam. Định Hướng 26. - Ngo Dinh Nhu, "Why We Must Defend the Existing Regime." (Tại Sao Chúng Ta Phải Bảo Vệ Chế độ Hiện Hữu) Bản dịch một cuộc nói chuyện của ông Nhu ngày 15/11/1957, 30tt. Bài viết có 41 | T r a n g một số thảo luận đến Chủ Nghĩa Nhân Vị. Bản văn được đưa lên mạng trong Văn khố Dự Án Việt Nam tại Trường Đại Học Kỹ Thuật Texas. - Nguyễn Hữu Hanh. Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới – Câu chuyện đời tôi. Hồi ký, 16.10.2006 và các ngày tiếp theo. Website Talawas - Phạm Đức Hoàn (1889-1954). Họ Phạm với đất nước - Bản tin nội tộc họ Phạm(Số 22/2007), 01-11-2007) www.hopham.org/index.php?mn=newsdetail&key=ho-pham-voi-datnuoc&newsid=468&type=7 Nguyễn Tiến Hưng. Bí mật Dinh Độc Lập. Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng MinhTháo Chạy. Website Việt Nam Thư Quán. (http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n1nvn4n31n343tq83a3q3m3237nvn - Bùi Kha: Bảy Điểm Dẩn Đến Thất Bại & Cái Chết Nhục Nhả Ngô Đình Diệm (9. 9. 2003) www.tialia.com/showthread.php?t=133991- Trần văn Kiệm. Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam? Website Dung Lac.net - Nguyễn Gia Kiểng. Những Vấn Đề Lịch Sử: Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào? (TL 191). Đăng ngày 05/04/2005 lúc 22:46:28 EDT. Đề tài: Chính Trị Việt Nam www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=125- Hoàng Lạc và Hà Mai Việt. Việt Nam 1954-1975: Những sự thật chưa hề nhắc tới. - Jon Larsen (Tạp Chí Time). Điệp viên hoàn hảo - Kỳ 5: Còn lại một mình. Thứ Ba, 02/10/2007, 09:19 (GMT + 7 - Lễ Giỗ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 1963-2004. Ghi nhớ 50 năm Ngày Chí Sĩ Ngô Đình Diệm chấp chánh (1954-2004) - Nguyễn văn Lục: Twenty years and twenty days miền Nam Việt Nam (I-IV). Đệ nhất Cộng hòa. Ngày: 28-11-2006. DCV Online www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=print&sid=2655hatnang.com/showthread.php?t=23220www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/others/OngCoVan/ocv-I-10.htm - Nguyễn Văn Lục, 2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu (I, II), 11&12/10/2007 - Nguyễn Văn Lục, Hồ sơ báo “Công Giáo và Dân Tộc” (I, II) 2&3/7/2007 - Nguyễn Văn Lục, Gió chướng đã đổi chiều 07-01-2007, 05:37 PM (I) (13/7/2007) www.dautiengclub.com/portal/showthread.php?t=1062- David Marr: Việt Nam 1945; Việt Nam Chống Thực Dân, 1885-1925 (1971); Truyền Thống Việt Nam Qua Thử Thách, 1920-1945 (1981). [Việt Báo (Theo_TuoiTre)] vietbao.vn/Xa-hoi/TS-David-Marr-va-cuon-sach-Viet-Nam-1945/40095521/157/- Edward Miller. Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954. Hoài Phi, Vy Huyền dịch (10.8.2007) [ 1 2 3 ] www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=030242 | T r a n g - Nhớ Cha Trần Hữu Thanh (Kỳ 2 ) www.trungtammucvudcct.com/web/news.php?mode=chitiet&no=322&id=3332- Đỗ Hữu Nghiêm. Một Mảng Bối Cảnh: Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm Về Nước Chấp Chính. Dayton, Ohio, 18/8/2005, 7t., A4 - Bùi Thị Đoàn Nguyên. Nhân vật lịch sử: Huynh & Đệ Ngày Ấy Bây Giờ. Việt Nam Thư Quán Thư Viện Online - Nguyễn Hữu Phước, Vài ghi nhận về Cố TT Ngô Đình Diệm (Ghi nhận của một Đại Tá) (47- 54); - Bradley S. O''Leary. Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy (13-14) www.vietnamvanbut.com/vnvb/story/content.aspx?id=125200713920543397- Hoàng Ngọc Tấn. Chủ Nghĩa Nhân Vị www.viet.no/component/option,com_akobook/Itemid,71/ - Nguyễn Thái. Chủ Thuyết Nhân Vị Và Giới Luật Yêu Thươn. Garden Grove 3/11/2007 www.chuacuuthe.org/11-10-07-chuthuyetnhanvi-lm-ng-thai.html- NGUYỄN HỮU THÁI. Việt Nam năm 1945: giành quyền lực của David G. Marr NXB Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, 1995.Giải thưởng John K. Fairbank về công trình nghiên cứu xuất sắc của Hiệp hội Châu Á học Mỹ, 1996 (Thứ tư, 21 Tháng sáu 2006, 16:53 GMT+) - Vu The Thanh. <vuthethanh@gmail.com> - To Nghiem Do <nghiemdohuu@gmail.com>, - Nov 23, 2007 11:25 PM Vu The Thanh <vuthethanh@gmail.com> - To Nghiem Do <nghiemdohuu@gmail.com>,Nov 23, 2007 3:53 AM - Đoàn Thêm. Hai Mươi Năm Qua 1945 - 1964 Việc Từng Ngày. Xuân Thu. - Đoàn Thêm. 1969 Việc Từng Ngày. Xuân Thu. - Lê Thiên, Cụ Diệm ở Paris, 1953-1954 (31-46), Ottawa, 10-2004; - Tôn Thất Thiện, Một số sự thật về Anh Em họ Ngô và Chế độ Cộng Hòa I, qua tác phẩm Dòng Họ Ngô Đình: Ước Mơ Chưa Đạt, Hồi ức của một nhân chứng trực tiếp, Nguyễn Văn Minh, 2003 (55-86), Ottawa, 10/2004; - Tôn Thất Thiện. Cần Thẩm Định Lại Giá Trị Của Ông Ngô Đình Diệm Và Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa I (nguồn: 21/6/2006 www.viet.no/content/view/228/87/- "Nhìn lại kinh nghiệm Ngô Đình Diệm", Thông Luận, tháng 11, 2005. nguồn: www.thongluan.org- Lê Thiên & Lê Tinh Thông. Người Mẹ chứng nhân thế kỷ: Bà Cố Elizabeth Ngô Đình Thị Hiệp (1903-2005) memaria.org/bai_da_dang/nguoi_me_chung_nhan_- Lê Tinh Thông, Kỷ Niệm Năm Mươi Năm Ông Ngô Đình Diệm Về Nước Chấp Chánh (87-90); - Ngô Đình Thục. Kỳ 5:Về tổng giám mục Ngô Đình Thục (Chủ nhật, 14 Tháng chín 2003, 15:57 GMT+7) vietbao.vn/Phong-su/My-Diem-cuoc-dao-chinh-Diem-Nhu-Tong-giam-muc-Ngo-Dinh-Thuc/40001315/262/ 43 | T r a n g - Đặng Tiến. Người điều hành tạp chí Bách Khoa, Lê Ngộ Châu, 160 Phan đình Phùng.Orleans, 27/9/2006 (Đặng Tiến Cập nhật : 13/03/2007 18:26) www.diendan.org/nhung-con-nguoi/le-ngo-chau-nguoi-111ieu-hanh-tap-chi-bach khoa/ my.opera.com/tranminhkhanh007/blog/show.dml/696398- Lâm Lễ Trinh. Về Nguồn. San Jose 2006. - Lâm Lễ Trinh. Chín Năm Bên Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm - (Mạn Đàm Với Ông Quách Tòng Đức). USA, July 21, 2005. Website Liên Lạc Nhân Văn -Trường Cao Đẳng Sư Phạm Tp. HCM & Cục Đo Đạc Và Bản Đồ Nhà Nước. Việt Nam Tập Bản Đồ Hành Chính Và Du Lịch. 1989. - Nguyễn Văn Tuấn: Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm" – tác giả Vĩnh Phúc (Friday, 19. January 2007, 16:08:26) www.giaodiem.com/doithoai/nvt_docvphuc.htmNguyễn Lý-Tưởng. Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoạ của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005) www.lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=fe1f431fe37884ea8f9a5fdae2b65c4ctvvn.org/f18/ba-ta-c-va-i-ae-ia-u-va-ha-ngoa-i-ca-ca-ha-ng-y-thua-n- 1753/ - Minh Võ. Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (I): Đệ nhất Cộng hòa. Ngày: 24-09-2007, Dan Chim Viet Online - Minh Võ.– Phỏng vấn Minh Võ: Ngô Đình Nhu: Hiệp thương Nam-Bắc. Đài Tiếng nói VNHN www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4101thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=922&Itemid=297www.vietcyber.net/forums/showthread.php?t=120512vnthuquan.net/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn2nvn4n31n343tq83a3q3m3237nvn - Nguyễn Đức Vinh. Phụ lục 1. An ninh Thế Giới Vietnamnet: Huyền Thoại Về Cụm Tình Báo H.63 - Phần 2: Kỳ 15: Người Hà Nội "ở Phòng Chỉ Huy Quân Đội Mỹ"(08:30' 03/09/2007 (GMT+7) www.vietnamnet.vn/psks/2007/09/736602/- Vũ Ngọc Nhạ. Vĩnh biệt "Ông Cố vấn" www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/others/OngCoVan/ocv-III-18.htm- Phạm Thắng Vũ. Nghiên mực cổ Tức Mặc Hầu của vua Tự Đức và Tổng Thống Ngô Đình Diệm. (01-11-200716-01-2008, 12:45 AM) www.hatnang.com/showthread.php?t=23375www.x-cafevn.org/forum/archive/index.php?t-12214.html- Cao Xuân Vỹ. Minh Võ Phỏng Vấn Ba giờ nghe một nhân chứng. 07/2007. Ngày Quốc Khánh Cộng Hoà Pháp Quốc. Trích DCVOnline www.hungviet.org/minhvo/minhvo0707.html44 | T r a n g - Cao Xuân Vỹ. Lời tựa (1-6), 30/10/04 (Lễ Giỗ NĐD, sđd.) - Stephen Young. Kissinger đã bán đứng VNCH cho Hà Nội - NHữNG GIờ PHÚT ĐịNH MệNH CủA Cố TổNG THốNG NGÔ ĐÌNH DIệM.- Wikipedia: Ngo Dinh Nhu en.allexperts.com/e/n/ng/ngo_dinh_nhu.htm 10-11/2/2008.X-2. - Wikipedia tiếng việt: Chủ nghĩa Nhân Vị: Tham Khảo Tự Điển ngày 18/8/2005 www.viet.no/component/option,com_akobook/Itemid,71/ Một Số Tài Liệu Tiếng Anh Pháp - Jessica Chapman. Staging Democracy: South Viet Nam’s 1955 To Depose Bao Dai. Pacific Rim Research Program University of California, Multi-Campus Research Unit. Year 2005. Paper Vietnam. This paper is posted at the eScholarship Repository, University of California. repositories.dlib.org/pacrim/Vietnam , with 130 footnotes Copyright @2005 by the author, 1-52 pages (23/10/1955) - Department of Defense, US-VN Relations, 1945-67, Washington DC, Government printing Office, 1970. 12 volumes - Department of State, Foreign Relations Of US, 1952-54, 1955-56. Vos XIII-XIV, Washington DC, Government Printing Office, 1982 - Stanley Karnow. The Edge of chaos. Vietnam's "royal family", long aided by U.S. troops and money, has persecuted religious leaders, embittered the people and bungled a critical struggle against Communism. The Saturday Morning Post, No.33. September 28, 1963, p.27-37 236th year, - Stanley Karnow. The Fall of the House of Ngo Dinh. The Vietnam coup: the plot, counterplot - an exclusive account of how Diem and Nhu died. The Saturday Morning Post, Issue no. 45, 21-28, 1963, 75-79. vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Nhu- Edward Miller. Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Dình Diêm, 1945–54. The History Department at Dartmouth College. His e-mail contact is Edward.G.Miller@dartmouth.edu Abstract This article challenges existing interpretations of Ngô Dình Diêm by examining his activities during the decade before he became leader of South Vietnam in 1954. Diêm actively pursued power in these years, and he achieved it mainly due to his own efforts and to those of his Vietnamese allies. At the same time, he and his brother Ngô Dình Nhu were outlining the distinctive vision of modernisation which would inform South Vietnam's post-1954 nation-building strategies. Journal of Southeast Asian Studies (2004), 35: 433-458 Cambridge University Press. Copyright © 2004 The National University of Singapore. Vietnam - Acknowledgments and Preface www.mongabay.com/reference/country_studies/vietnam/all.htmlListe de chartistes par promotion (1825-2007) fr.wikipedia.org/wiki/Liste_de_chartistes_par_promotion#1938theses.enc.sorbonne.fr/theses.html?annee=1938- Robert Scigliano: Vietnam: A Country at War. Asian Survey, Vol. 3, No. 1, A Survey of Asia in 1962: Part I (Jan., 1963), pp. 48-54 45 | T r a n g - Robert Scigliano, South Vietnam: Nation Under Stress. Boston: Houghton Mifflin, 1963. ix, 227 pp. pb Boston: Houghton Mifflin, 1964. ix, 237 pp. Oakland, CA, ĐHN tổng hợp ngày 15/10/2006.CN, 15/6/2007.6, 4/2/2008.5, 2/3/2008.X. [1] Hiện ở số 19, rue de la Sorbonne – 75005 Paris – tél. : +33 (0)1 55 42 75 00. Có nhiều nhà nghiên cứu lẫn chữ Chartes [cổ điển học] chuyên giảng dậy về Khoa Cổ Điển Học) với Chartres [địa danh ở cách trung tâm Paris khoảng 30 km]. Đây là một trường danh tiếng về khoa lịch sử, từ năm 1821 chuyên dạy việc tổ chức bảo lưu các văn kiện và di sản lưu trữ quốc gia khác. Không nên lẫn với khoa khảo cổ [archéologie], vì trong khoa khảo cổ có nhiều ngành đặc biệt như cổ tiền học [numismatique], cổ vật học [paléologie], paléontologie,… [2] Theo website theses.enc.sorbonne.fr/theses.html?annee=1938[3] Những sinh viên khác tốt nghiệp Trường đó năm 1938 là: [BOUQUET Marie-Madeleine, L'abbaye de l'Ile-Barbe des origines à la sécularisation du XVIe siècle COQUIBUS Geneviève, Jean Carondelet, agent diplomatique de Charles le Téméraire, chancelier de Bourgogne (1428-1501) DIANOUS de Jean, Les communautés juives du Comtat-Venaissin et de l'Etat d'Avignon, d'après leurs statuts (1490-1790) GUIGNARD Jacques, Recherches sur l'histoire du livre à Tours de la fin du XVe à la fin du XVIe siècle (1485-1588) HAUCOURT d' Geneviève, Etude sur le droit des assemblées françaises au début du XIVe siècle LEVI Maxime, La grande pêche basque des origines à la Révolution MOREL Anne, La guerre de course à Saint-Malo (1681-1715) OSWALD Marguerite, Anseïs fils de Girbert. Etude de la chanson et de ses rapports avec Yon de Mes, suivie d'une édition partielle OURSEL Madeleine, Les origines de la commune de Dijon ROUSSEAU Louis, L'assistance charitable à Rouen du XIIe au XVIe siècle : l'Hôtel-Dieu de la Madeleine, la police des pauvres WAQUET Jean, La politique étrangère de la monarchie française sous Charles le Bel (1322- 1328) BOISSET Anne-Marie, La vie municipale à Aurillac de 1360 au début du XVIIe siècle - NGÔ Dinh-Nhu, Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au XVIIe siècle] [4] Theo nhà biên soạn Nguyễn Lý Tưởng, ghi đề tài luận án tốt nghiệp cùa Ngô Đình Nhu là “Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIe et XVIIIe siècles d’après les voyageurs et missionaires” (Phong tục tập quán của người Bắc kỳ vào thế kỷ thứ 17 và 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo), cũng vào năm 1938, tại Ecole Nationale des Chartres (thực ra là Chartes mới chính xác). Và tên của luận án này không hoàn toàn trùng hợp với tên luận đề ghi trên. Không biết tác giả ghi lại tên này ở nguồn tài liệu nào hay phải chăng co một đều tài khảo luận nào khác 46 | T r a n g [Ông Ngô Đình Nhu (1910- 1963), lúc nhỏ đi tu tại Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng Trị đựơc mấy năm thì hồi tục, du học Pháp, tốt nghiệp Ecole Nationale des Chartres (trường khảo cổ danh tiếng của Pháp) vào năm 1938 với tiểu luận “Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIè et XVIIIè siècles d’après les voyageurs et missionaires” (Phong tục tập quán của ngừơi Bắc kỳ vào thế kỷ thứ 17 và 18 theo du khách và các nhà truyền giáo). Về nước, làm Quản thủ Văn khố Toà Khâm Sứ Huế (1943), sau ra Hà Nội làm tại Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia (1945, thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim).] (?) Hai đề tài này thoạt nhìn thì rất giống nhau, nhưng khác biệt nhau rất nhiều: trong khi đề tài thứ nhất theo tài liệu của nhà trường thì sinh viên NDNhu tập trung vào thế kỷ 17 dựa vào tất cả các loại tài liệu không nói rõ đến phong tục tập quán của người An nam ở Bắc Kỳ, thì đề tài sau đề cập đến hai thế kỷ 17 và 18 dựa vào tài liệu của các nhà du hành và các nhà truyền giáo. Xin xem [Nguyễn Lý-Tưởng: Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoại của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005)] www.lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=fe1f431fe37884ea8f9a5fdae2b65c4c[5] T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục: “Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu, ngày 2 tháng 11, 1963” www.vietcyber.net/forums/showthread.php?t=120512[6] Về việc cử ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha Lưu Trữ Công Văn Và Thư Viện Toàn Quốc, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 21, bổ nhiệm ngày 08/09/1945, có hiệu lực ngày 08/09/1945 trên toàn quốc vbqppl3.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/194509/194509080009/lawproperties_view Nguyên Văn Sắc lệnh như sau: [CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ Số: 21 VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----- o0o -----Hà Nội , Ngày 08 tháng 09 năm 1945 SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 21 NGÀY 8 THÁNG 9 NĂM 1945 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI DÂN CHỦ CỘNG HOÀ VIỆT NAM Theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, RA SẮC LỆNH: Khoản I: Cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Khoản II: Ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Bộ trưởng Bộ quốc gia Giáo dục thi hành sắc lệnh này mỗi người trong phạm vi quyền hạn của mình./. CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ BỘ TRƯỞNG (Đã ký) Võ Nguyên Giáp vbqppl4.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/194509/194509080009 ] 47 | T r a n g [7] Edward Miller: “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diem, 1945-1954” (Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954). (Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004 Bản dịch Hoài Phi, Vy Huyền.WebsiteTalawas ngày 9-10-11/8/2007. www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302[Edward Miller là Giáo Sư Phụ Giảng Môn Lịch Sử (Assistant Professor of History) tại Trường Cộng Đồng Dartmouth. Ông hiện đang viết một cuốn sách về lịch sử các quan hệ của Ngô Đình Diệm với Hoa Kỳ. Ông cũng là tác giả bài nghiên cứu “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diem, 1945-1954,” xuất bản trên tạp chí Journal of Southeast Asian Studies vào tháng Mười năm 2004. Miller đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam giữa năm 2001 đến 2006, kể cả một chuyến nghiên cứu dài ngày tại Tp HCM năm 2001-2002, được Học Bổng Fulbright-Hays tài trợ.)] www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=topics.item&news_id=197836. Theo người viết, đây la một tài liệu nghiên cứu công phu có ý nghĩa, vì khác với những lập trường của nhiều nhà bien soan hiện nay, nhưng có nhiều tính chính xác cao dựa vào nhiều chứng liệu khả tín.. [8] Cô tốt nghiệp École des Chartes Paris năm (?). Về Việt Nam có một thời trước 30/4/1975, Bà l àm Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia (VNCH). Sau biến cố 30/4/1975, Bà đinh cư tại Pháp đến nay. [9] Về tiểu sử hai họ này và riêng tiểu sử của Ngô Đình Nhu, E. Miller có nói đến hai tài liệu “Ngô Ðình Nhu”, trong Souverains et notabilités d’Indochine (Hanoi: Éditions du Gouvernement Généralde l’Indochine, IDEO, 1943), trang 62; “Curriculum Vitae of Mr. Ngo Dinh Nhu”, không rõ ngày tháng, Texas Tech University, The Vietnam Archive, John Donnell collection, Box 2, Folder 22, Box 2”. (A. Miller, sđd.) [10] Tham khảo Lý Nhân (Phan Thứ Lang) [11] Thông tin từ những nghiên cứu của Vũ Thế Thanh tại TPHCM [12] Theo E. Miller: “Gia đình họ Ngô không thiếu những cá nhân có cá tính lạ thường và khó hiểu; tuy nhiên, so với mọi người, ông Ngô Đình Nhu được coi là người bất thường và bí ẩn nhất. Là người thứ tư trong sáu anh em, người ta nói ông cẩn trọng, sâu sắc và kín đáo. Ông không quê mùa như Ngô Đình Cẩn hay tao nhã như Ngô Đình Luyện, ông cũng có vẻ không quan tâm đến việc triều chính, điều mà Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm đã quá bận tâm. Quả vậy, là một người đàn ông trẻ, ông Ngô Đình Nhu có vẻ ham sách vở hơn làm chính trị. Những năm 1930 ở Paris, trước tiên, ông dành nhiều thời gian học về văn chương rồi sau đó học về chữ cổ và ngành quản thư tại École des Charte nổi tiếng. Cuối những năm 1930, ông trở về Việt Nam và làm việc trong ngành lưu trữ; đến 1945 ông giữ chức vụ trụ cột tại nơi sau này là Thư viện Quốc gia ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông Ngô Đình Nhu tham gia nhiều hơn vào chính trị, đặc biệt trong những cố gắng của các anh em ông để vận động sự ủng hộ của những người Việt Nam Công giáo.” (Edward Miller, bđd.,trên. www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302[13] E. Miller đã phỏng vấn Gene Gregory ở Tp HCM, tháng 3, 2002. Một trong những phụ tá của Ngô Đình Nhu sau này nhớ lại đã tháp tùng ông, thay mặt Ngô Đình Diệm đi thăm một vùng Công giáo ở gần biên giáo Lào năm 1946. [14] Nhưng theo luận đoán của Lữ Giang, trong một cuốn sách, tr.402, ông Ngô Đình Khôi sinh năm 1885 có thể không đúng vì đến năm 1889, Ông Ngô Đình Khả mới cưới Bà Phạm Thị Thân. Và bình thường sớm nhất là ông Khôi sinh năm 1890, nhưng cũng có thể ông Ngô Đình Khôi sinh ra năm 1885, nếu ông Khả và bà Thân đã ăn ở với nhau trước khi chính thức cưới nhau (?!)] 48 | T r a n g 15- “Dạo ấy ông Tuyến vừa đậu tú Tài II, ba lô trên vai, với chiếc xe đạp “cuộc” ông Tuyến là hướng dẫn viên. Ông Nhu thì ngồi trên chiếc xe kéo bánh gỗ che kín. Ở lại nhà Chung (Thanh Hóa) trong ba tuần lễ, ông Nhu lên thẳng Bái Thượng, ông Tuyến từ giã ông Nhu, rồi được Linh Mục Trọng hướng dẫn lên châu Thường Xuân (Hòa Bình). Ở đây ít ngày, ông lại được một vị linh mục họ đạo người Mường đưa qua Sầm Nứa theo ngả đường rừng. Trong thời gian này, ông chịu ơn các linh mục Thanh Hóa. Về sau, ông còn nhớ mãi ơn nghĩa đó…Linh Mục Trọng đã cho ông mượn tấm áo “soutane” để hóa trang trên đường trốn tránh”( Lý Nhân, sđd., tt. 19-20) [16] Chính thời gian ở Đà Lạt ông Nhu đã chuẩn bị viết bài vận động cho lực lượng Công giáo tham gia đời sống chính trị do Ngô Đình Diện phát động: “Sự Góp Sức Của Người Công Giáo Vào Hoà Bình ở Việt Nam” ( diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị Đà Lạt) [17] Tham khảo tài liệu “Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu” của Nguyễn Lý Tưởng, về Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hoà Bình, tr.445 Chắc là Nguyễn Lý Tưởng nói đến Đại Hội Đoàn Kết qui tụ nhiều đoàn thể nhằm củng cố vị thế của Bảo Đại. E. Miller ghi nhận số đại biểu tham dự là 55 chứ không phải là 65 như bài của Nguyễn Lý Tưởng nhắc đến. Theo ông, thực ra Đại Hội Đoàn Kết diễn ra trong ngày 5- 6 tháng 9, 1953 là một sự kiện hỗn độn. Năm mười lăm (55) đại biểu có mặt đã tham gia ký xác nhận bản tuyên bố phản đối mạnh mẽ chính sách độc lập từng phần của Bảo Đại… Nhưng với Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm, sự kiện này chủ yếu chỉ để chiếm lấy quyền hành từ tay Bảo Đại, nên trong trường hợp này, Ðại hội là một thành công rực rỡ. (E. Miller, bđd., www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10658&rb=0302)[18] Trích trong Phụng Hồng: “Đọc ‘Việt Nam Nhân Chứng’ Của Trần Văn Đôn”. www.daichung.com/82/09_vn_nhan_chung.shtm[19] Đoạn trích vẫn trong Phụng Hồng (một bác sĩ quân y VNCH): “Đọc ‘Việt Nam Nhân Chứng’ Của Trần Văn Đôn”. www.daichung.com/82/09_vn_nhan_chung.shtm[20] Tham khảo Nguyễn Văn Lục, website TSCN đã dẫn trên. Những cảm tưởng nói trên là của nhiều nhân vật khác nhau được tác giả Nguyễn Văn Lục ghi lại qua nhiều nguồn khác nhau, không phải chỉ là của chính mình. [21] Tham khảo Nguyễn Lý Tưởng: Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoại của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005) lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=b134c2ba333eeb7a45d5eca99b5c944a Nguyễn Thế Hùng và Hoàng Đình Hiếu: Sông Gianh Đàng Trong: Giáo Hạt Quảng Bình, (1613-1975), tt. 145-150. Tủ Sách Sông Gianh – Quê Hương Bọ Mạ Xuất Bản. Grand Prairie, TX, 2004, 210 trang, 15X25cm [22] Minh Võ phỏng vấn Cao Xuân Vĩ: :[23] Tham khảo Nguyễn Đức Cung: “Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết Mậu Thân; Những hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam”. Tập san Định Hướng số 51, Mùa Xuân 2008, tt. 77- 114 [24] Nguyễn Văn Minh: Dòng Họ Ngô Đình: Giấc Mơ Chưa Đạt. Hoàng Nguyên xuất bản, tái bản lần thứ nhất, tháng 11/2003, t. 419 [25] E. Miller chú ý cả đến cách dịch Personalism là nhân v. Ông cho rằng, Ngô Đình Nhu theo cách của Lm Bửu Dương, cũng là một học giả đặt ra cụm từ này trong những bài giảng của ông những năm 1940. Trong thời gian thập niên , các LM dòng Đa Minh chi tỉnh Lyon có qui tụ được một số thanh niên sinh viên cư ngụ tại Câu Lạc Bộ Phục Hưng (Club de Renaissance) Xem Nguyen Trai, “The government of men in the Republic of Vietnam”, (bản thảo chưa xuất bản, 1962), trang 139; một bản sao của tài liệu này nằm ở Widener Library, Harvard University. Không rõ ông Ngô Đình Nhu có học với Mounier ở Pháp hay không; một số những phụ tá người Việt của ông cho rằng ông đã từng học với 49 | T r a n g Mounier, nhưng ít nhất là một lần, Ngô Đình Nhu đã phủ nhận việc này. Xem “Nhu and Personalism”, một ghi chú không rõ ngày tháng, Donnell paper, Box 3, Folder 14. [26]Lm Bửu Dưỡng: Trước những trào lưu mới: Phong trào nhân vị. Tạp Chí Đại Học số 11 (tháng 9/1959), t. 40. (dẫn theo NĐC, sđd., t.111) [27] Lm Nguyễn Thái: Chủ Thuyết Nhân Vị Và Giới Luật Yêu Thương. Garden Grove 3/11/2007 www.chuacuuthe.org/11-10-07-chuthuyetnhanvi-lm-ng-thai.html[28] NguyễnVăn Minh, sđd., t. 421 [29] Điều khẳng định này cũng trùng hợp với nhân định và đáng giá của tác giả Nguyễn Đức Cung trong bài nói trên trong Tập San Định Hướng số 51, trang 74. [30] Theo nhân định của sử gia E. Miller, khi tham khảo Philip Mairet: Emmanuel Mounier, Personalism, trong (London: Routledge and Paul, 1952), trang 17-19 (personalism) và 103-5 (social order), thì cái nhìn của Mounier và những người Pháp theo chủ nghĩa Nhân vị có thể được phân biệt với chủ nghĩa Nhân vị Hoa Kỳ, phát triển ở Boston vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dưới quyền lãnh đạo trí thức của Borden Parker Bowne. Mặc dù cả hai nhánh của chủ nghĩa Nhân vị đều bắt nguồn từ thần học Công giáo La Mã. Những người Mỹ theo chủ nghĩa Nhân vị thường vững vàng hơn là những người Pháp. Họ chấp nhận thực tế vật chất tồn tại độc lập, mặc dù họ tranh luận rằng người ta không nên nhấn mạnh nó quá mức, theo quan niệm “Personalism” trong The enclyclopedia of philosophy, ed. Paul Edwards, vol. VI (New York: Macmillan, 1967), 106-0, và “Personalism” trong The Cambridge dictionary of philosophy, ed. Robert Audi (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), trang 575. [31] Robert Scigliano: South Vietnam, Nation under stress, edited by Dayton D. Mckean, University of Colorado, Houghton Mifflin Company, Bocton.p. 76. Dẫn theo NĐC, sđd., t. 111 [32]Jean-François Petit: Philosophie et théologie dans la formation du personnalisme d'Emmanuel Mounier. Paris, tác giả xuất bản vào tháng 1/2007. (http://www.editionsducerf.fr/html/fiche/fichelivre.asp?n_liv_cerf=7092) [33] Nguyễn Gia Kiểng: Ông Ngô Đình Diệm lên nắm quyền như thế nào? tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=NhinLaiKinhNghiemNgoDinhDiem www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=12724[34] Thực ra theo E. Miller, trong thời gian du học ở Pháp, Ngô Đình Nhu đã chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của triết gia Công giáo Emmanuel Mounier. Trong những sách và bài viết trên tạp chí Esprit của mình, Mounier phản ứng lại thời Đại Khủng Hoảng và những đau khổ mà nó gây bằng cách phát triển một lý thuyết phê bình chủ nghĩa tư bản tự do; ông phê phán thiên kiến tự do với chủ nghĩa cá nhân, tranh luận rằng điều đó dẫn đến cô lập, bất hoà và bóc lột. Là một người Công giáo thuần thành, Mounier không đồng tình với tư tưởng duy vật của chủ nghĩa Marx vì nó huỷ hoại những điều ông gọi là chiều kích “tâm hồn” trong bản tính con người. Giữa chọn lựa xu hướng chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản, Mounier chú ý đến một trật tự xã hội hậu tư bản. Trong đó, các nhu cầu vật chất của cá nhân cũng như thịnh vượng chung của tập thể đều được hưởng lợi, nhưng một trong hai điều này không trở thành trọng tâm độc nhất trong chính sách của xã hội. Thay vào đó, Mounier đề nghị đặt trọng tâm vào việc phát triển một con người toàn diện (la personne), được định nghĩa là gồm cả những nhu cầu tinh thần và vật chất. Mounier nhấn mạnh vào “con người” như lối thoát cho “cá nhân”: đó là đề tài chủ yếu trong những bài viết của ông, và vì vậy ông đặt cho tư tưởng của mình là “chủ nghĩa nhân vị”. 35] Ông Ngô Đình Diệm nói nói với ký giả Marguerite Higgins. (Dẫn theo Nguyễn Ngọc Tấn, bài đã dẫn) [36] Phát biểu của Ông Ngô Đình Nhu trong Đại Hội Văn Hóa Quốc Gia tại Sài Gòn, ngày 11/1/1957. (nt)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:16:07 GMT 9
[37] Trả lời Phỏng vấn của báo Toronto Globe and Mail, trong Nguyệt san Gió Nam, 5-5-1963. (nt) [38] Dẫn theo Nguyễn Ngọc Tấn, bài đã dẫn trong bài viết của Tôn Thất Thiện. Xin cũng xemThe Commonweal A Weekly Review Of Public Affairs, Literature And The Arts Cuban Build-up. Vol. 076 Issue 021 (September 21 1962 in the General Volume LXXVI March 30, 1962 to September 21, 1962 search.opinionarchives.com/Commw_Web/digitalarchive.aspx?panes=1&aid=07621011_1 [39]“Bài diễn văn của ông Ngô Đình Nhu báo hiệu cho những việc sắp xảy đến. Ngoài việc dài dòng, rắc rối và trừu tượng. Nó chứa đựng một nội dung, mô tả nhiều đặc điểm và ông và Ngô Đình Diệm đều tuyên bố về ích lợi và giá trị của chủ nghĩa nhân vị. Những đề tài này không chỉ nói đến những nguy hiểm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, mà còn nói đến lợi ích quan trọng của “phần hồntâm linh” thay vì chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, bài diễn văn cũng làm nổi bật niềm tin chắc chắn của Nhu rằng Việt Nam cần một cuộc cách mạng toàn diện: “Đó là những điều đại cương, rất vắn tắt của một cuộc cách mạng chính-trị kinh-tế, nhắm đích đặt con người vào trung tâm của triển vọng thế giới. Tôi nói: cách-mạng, bởi vì chúng ta sẽ làm một việc vô cùng phí công nếu chúng ta gắng gỏi tô chữa những đường nứt nẻ ở một cái nhà đã lung lay, lúc cần phải thay đổi cả cơ cấu nội bộ của toàn thể cái nhà ấy.” ( Ngô Đình Nhu, “Sự góp sức của người Công giáo vào hoà bình ở Việt Nam” (bài diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị Đà Lạt), được phổ biến lại trong Xã hội, tháng 2, 1953, trang 5, 14, 18-22.) [40] (E. Miller, bđd., www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302)[41] Điều này cũng đúng với tìm kiếm sau này của E. Miller, khi ông trưng ra dẫn chứng này: “Chương trình của Cần Lao Nhân Vị đi theo con đường của chủ nghĩa công đoàn, ủng hộ việc đồng quản lý công nghiệp quốc gia bởi đại diện của giới tư bản và lao động và sự tham dự của công nhân vào lợi nhuận và phát triển kỹ thuật của những ngành công nghiệp. Đảng đã nắm một vị thế mạnh trong việc ủng hộ cải cách điền địa cũng vì lý do này, là quyền sở hữu là quyền lợi của người công nhân”; Times of Vietnam Weekly, 25 tháng 2, 1956, trang 9.. [42] Những điều xác quyết của Cao Xuân Vĩ trùng hợp với những nghiên cứu của E. Miller. Ngoài hoạt động bí mật của đảng Cần Lao Nhân Vị, Ngô Đình Nhu còn có những tổ chức khác công khai hơn. Ông liên minh với nhà hoạt động và tổ chức công đoàn kỳ cựu Trần Quốc Bửu, đã nhiều thời kỳ có quan hệ với nhóm Cao Đài và Việt Minh. Vào cuối những năm 1940, sau khi vỡ mộng với chủ nghĩa cộng sản, Trần Quốc Bửu theo tổ chức nghiệp đoàn lao động của Pháp. Nhờ đó, Trần Quốc Bửu đã học những tư tưởng và những sách lược của phong trào công đoàn mậu dịch Dân chủ Công Giáo. Sau chuyến đi ngắn đến châu Âu, Trần Quốc Bửu trở về Việt Nam năm 1949 và bắt đầu xúc tiến tổ chức bất hợp pháp công đoàn những công nhân thành phố và nông thôn. Năm 1952, Quốc gia Việt Nam thay đổi về luật lao động khiến ông Bửu hợp pháp hoá liên minh những công đoàn của ông dưới tên gọi “Liên minh Công nhân Công Giáo Việt Nam” và là thành viên của Liên minh Công đoàn Mậu dịch Công Giáo giáo Thế giới có trụ sở tại Brussels. Vào năm 1953, Ngô Đình Nhu liên hệ thân thiết với Liên minh Trần Quốc Bửu. Tháng Hai năm đó, Ngô Đình Nhu và tổ chức của ông bắt đầu xuất bản tạp chí Xã hội ở Sài Gòn, mạnh mẽ ủng hộ Trần Quốc Bửu và liên minh của ông. Tạp chí này công khai ủng hộ chủ nghĩa công đoàn, và còn mạnh mẽ ủng hộ thành lập những tổ chức hợp tác công nhân và nông dân – một lập trường báo trước chính sách mà Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ thi hành một khi đã trở thành những lãnh đạo của miền Nam Việt Nam. Chắc chắn có hơi hướng đấu tranh với liên minh công nông của tổ chức Cộng Sản ở miền Bắc sau nay. [43] Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 423. 51 | T r a n g [44] Nguyễn Bá Cẩn: Đất Nước Tôi. Hồi ký chính trị, khổ 5x8, gần 600 trang, 20 chương không kể lời tựa.. Riêng 3 chương cuối 18-19 và 20 nói về nguyên nhân sự sụp đổ miền Nam và nhận định về đất nước Việt Nam trong tương lai. lenduong.net/spip.php?article4795 / 17/9/2003 , trang 70 [45] Đại Nam Thực Lục Chính Biên, quyển XXVII, tr. 45 [46] Trần Vinh: Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Các Trại Định Cư tại Miền Nam và Công Lao Của Các Vị Cha Già. II Cuộc Di Cư Năm 1954. www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=60&ia=160 [47] Trần Vinh, tài liệu đã dẫn trên [48] Nguyễn Đức Cung, sđd., t. 80; Nguyễn Đức Cung Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết Mậu Thân... 22/01/2008 lúc 02:39:13 EST. www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2479[49] Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men, vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do. [50] Hoàng Đình Hiếu: “Di Dân Nghệ Tĩnh Bình Với Sứ Mạng Lịch Sử”. Tuyển Tập Gia Đình Thánh Tự 1957-2007. USA, 2007, 292 trang, khổ A4. tt.176-200. Trích Cao Văn Luận: Bên Giòng Lịch Sử, Hồi Ký 1940-1965. Nhà Xuất Bản Trí Dũng, Sàigòn, 1972. Chương “Công đầu của Tổng Thống Diệm, định cư 1.00.000 ngưòi”, tt.245-256. [51] Giám Mục Joseph J. Harnett (1910-1986), trực tiếp điều khiển các dự án cứu trợ người tị nạn cho Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Mỹ suốt gần bốn thập niên, mới qua đời Thứ Tư vì bệnh ung thư tại Biệt Thự Thánh Giuse , một nhà dinh dưỡng của một linh mục gắn liền với Bệnh Viện Chúa Thương Xót tại Darby, Penn. Ngài thọ 76 tuổi và cư ngụ tại Immaculata, Pa. Ngài phục vụ nhiều nơi trong đó có châu Á trước khi nghỉ hưu năm 1984. Lúc qua đời, ngài đang làm tuyên úy cho học viện Immaculata College. Năm 1954, khi quyền lực người Pháp báo hiệu chấm dứt tại Đông Dương, ngài được sai đến Sàigòn để thiết lập chươngrình viện trợ chí nguyện đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam. Sauk hi rời Việt Nam ngài tiếp tục phục vụ ở nơi khác cho đến khi trở về nghỉ hưu tại Philadelphia năm 1984 Joseph John Harnett sinh ngày 23/12/1910 tại Philadelphia. Ngài tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương năm 1930 tại Chủng Viện Thánh Charles tại Overbrook, một vùng ngoại ô Philadelphia. Trong năm đó, ngài đi Rôma học tại Chủng Viện Lateran trước khi được thụ phong linh mục năm 1935. Ngài trở về Philadelphia và dậy tại trường trung học Thánh Thomas ở Philadelphia và tại chủng viện Thánh Charles trước khi xuống tầu dấn thân vào Các Công việc của Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo ở nhiều nơi trên thế giới Ngài có 1 người chi gái và bốn anh em trai tại Mỹ query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9B0DE6DF153FF93BA1575BC0A961948260[52] Tham khảo Trần Vinh, sđd. www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=60&ia=160[53] Nxb. Nam Á, Paris, 1995, tr. 55., dẫn theo NĐC, Sđd. [54] Vẫn theo tác giả Trần Vinh, Quá Trình Định Cư diễn ra như sau ”Vừa mới chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu với nhiều thế lực chống đối: người Pháp, số quân nhân thân Pháp, các giáo phái Miền Nam, vài đảng đối lập, v. v.. Đang khi đó chính phủ lại phải dồn rất nhiều nỗ lực lo cho đồng bào di cư tị nạn Cộng Sản. Đáp lại, chính khối đồng bào di cư đã trở thành khối hậu thuẫn đắc lực cho tân chính phủ. Trong nỗ lực định cư, lo cho đồng 52 | T r a n g bào có nơi ăn chốn ở, an cư lạc nghiệp, chính phủ cũng lợi dụng khối đồng bào nạn nhân Cộng Sản này để khai khẩn những vùng đất bỏ hoang và để phục vụ cho an ninh lãnh thổ, an ninh các trục lộ giao thông quan trọng. Ngay từ năm 1955, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã đặt kế hoặch đưa đồng bào đi định cư tới nhiều địa điểm khác nhau ở miền Nam, miền Trung và Cao nguyên, tùy theo nguyện vọng nghề nghiệp của đồng bào. Năm sau, chính phủ mới công bố dụ số 28 vào ngày 30 tháng 4 năm 1956 về: các ruộng, đất bỏ hoang phải được khai khẩn. Sau đây là một số trại định cư tiêu biểu: - Tiểu thủ công thương nghiệp và chăn nuôi: các trại vùng Xóm Mới, Gò Vấp; các trại vùng Tam Hà, Thủ Đức; các trại vùng Tân Mai, Hố Nai, Biên Hòa giúp an ninh cửa ngõ phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Các trại vùng Trung Chánh, Hốc Môn giúp an ninh cửa ngõ Tây Bắc thủ Đô Sài Gòn. Các trại vùng Bình An, quận 8 giúp an ninh cửa ngõ phía Nam thủ đô Sài Gòn. - Nông nghiệp trồng khoai mầu và cây công nghiệp: Các trại vùng Gia Kiệm, Dốc Mơ, Túc Trưng, La Ngà, Phương Lâm, Bảo Lộc, Di Linh, Đức Trọng... giúp khai thông và duy trì an ninh cho quốc lộ 20 từ ngã ba Dầu Giây đi Đà Lạt (trước đó không xử dụng được). Các trại vùng Bình Giả, Phước Tuy; các trại miền cao nguyên Trung phần ở Đức Lập, Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum...giúp mở mang đất mới và an ninh lãnh thổ. - Nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi: Các Đức Hòa, Đức Huệ; các trại An Hoá, An Hiệp, Thành Triệu, Bến Tre; các trại Bà Bèo, Long Định, An Đức, Mĩ Tho; trại Phụng Hiệp, Cần Thơ; Các trại vùng Cái Sắn, Rạch Giá...giúp khai khẩn đất bỏ hoang và an ninh lãnh thổ. - Ngư nghiệp: Các trại Thanh Bồ, Đức Lợi, Đà Nẵng; các trại ở Phan Rang, Phan Thiết; các trại Phước Lâm, Phước Tỉnh, Phước Tuy và các trại từ Cát Lở tới Bãi Dâu, Vũng Tầu; trại Phú Quốc... - Một số trại nằm trong phạm vi thủ đô của đồng bào làm công tư chức và tiểu thủ công nghệ, như vùng Phú Nhuận, vùng Ngã Ba Ông Tạ.” (Trần Vinh, đdt.) [55] Trần Vinh, đdt. [56] Xuất bản tại Springfield, Va.: Crestwood Books, 1964. Bryton Barron giới thiệu. 16 ảnh, bìa mềm. viii, 98 p. (bản tiếng Pháp: Vietnam, Révélations d'un Témoin; Paris, Nouvelles Editions Latines, 1964: Bao bìa mỏng, 18.5cm x 12cm, 158tt + 4tt ảnh) [57] “Một quốc gia quyết không chịu chết đói: Thách thức của nước Việt Nam Mới, New York, Coeard-McCann, Inc., 1960, in lần 1, 121t., bìa cứng, giá bán $15.00” [58] Tháng Sáu năm 1953 Tướng J.W. O’Daniel câm đầu một phái đoàn khảo sát đến Sài Gòn. Ông gặp gỡ với tướng Henri Navarre, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương, và tiếp nhận kế hoạch giành chiến thắng của người Pháp. Tháng Tư 1954, Iron Mike chấp thuận cho việc tiết chế cấp bậc ông vào hàng Trung Tướng, đảm l ãnh chỉ huy Toán Cố Vấn Quân Viện (Military Assistance Advisory Group - MAAG) tại Đông Dương. Trong khi giữ chức Trưởng Toán Cố Vấn Quân Viện, thì ông còn cầm đầu Phái Bộ Chỉ Giáo và Các Quan Hệ Huấn Luyện (Training Relations and Instruction Mission - TRIM), sau khi Hoa Kỳ lãnh trách nhiệm huấn luyện Quân Lực Việt Nam vào tháng Hai 1955. www.vietnamgear.com/bio/7.aspx[59] Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (20-12-1960) Trong lúc du kích Cộng Sản ở miền nam gặp nhiều khó khăn do chính sách Ấp Chiến Lược, Cộng Sản phải phát động phong trào đồng khởi nơi đồng bào miền Nam. Vì thế Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ra đời (20-12-1960) nhằm khủng bố và cưỡng bức dân chúng đánh phá ấp chiến lược, sát hại quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa I, tuyên truyển “đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc” Với đường lối khủng bố vừa dụ dỗ hứa hẹn dối trá vừa xử dụngbạo lực ấy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã cưỡng bức tập hợp dưới ngọn cờ của mình nhiều thành phần nhân 53 | T r a n g dân, nhiều tổ chức và lấy cớ người Việt Nam có quyền chiến đấu trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam, động viên mọi người Việt nam yêu nước, kể cả ở Miền Nam, để cùng chống Mỹ cứu nước. Mặt trận dân tộc giải phóng thực ra là một giải pháp chính trị được thành lập từ miền Bắc để có chiếu bài mở rộng lôi kéo nhiều thành phần dân tộc, cưỡng bức, lừa dối tổ chức và động viên trên cả ba lãnh vực: quân sự, chính trị và ngoại giao. Sau 30/4/1975, MTDTGPMN biến thể thành Mặt Trận Tổ Quốc qui tụ những cá nhân và tổ chức thành công cụ của Đảng và Nhà Nước Việt Nam. www.mattran.org.vn/GioithieuMT/LS_MTDTTN.htmlNguồn : todiep.com
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 16:19:43 GMT 9
CHUYỆN TRÒ VỚI BÀ NGÔ ĐÌNH NHU Trương Phú Thứ www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110501-ba-ngo-dinh-nhu-tu-thoi-tre-soi-dong-den-nhung-thang-nam-an-datTôi đến thăm Bà Ngô Đình Nhu vào lúc 2 giờ trưa ngày 16 tháng 3 năm 2002 tại kinh thành Paris của nước Pháp. Nắng êm dịu vừa lên sau buổi sáng ẩm ướt của những ngày đầu Xuân và Paris thì lúc nào cũng chật ních những người và xe. Thành phố có cả một kho tàng bảo vật và huyền thoại. Ở đây người đi bộ đầy đường với những tiệm ăn và quán cà phê nối tiếp chạy dài cả dẫy phố. Người Paris nhàn hạ và ham muốn hưởng thụ, chậm chạp nhưng thon thẻ hơn người Seattle. Cuộc sống thư giãn chậm chạp của những ông Tây bà Đầm là niềm ước mơ của những người luôn phải vội vã lập cập với tốc độ từ sáng sớm đến nửa đêm ở Cali hay Texas. Bà Nhu ở một mình trong một đơn vị gia cư (apartment) của một toà nhà mới xây gần tháp Eiffel. Nói là mới để phân biệt với những chung cư san sát ở Paris đã được xây cất cả đến vài ba thế kỷ với những đường nét hoa văn cổ kính. Chung cư Bà Nhu ở có những nét kiến trúc đương đại giống như một cái hộp khổng lồ bằng kính, có lẽ đã được tạo dựng từ 30 đến 40 năm. Bà Nhu là sở hữu chủ hai (02) đơn vị gia cư ở trên tầng lầu thứ 11 của toà nhà cao tầng ở khu vực có địa thế rất đẹp và đắt tiền nhất thủ đô Paris, ngay giữa cái nôi của văn hoá và chính trị thế giới. Nơi đây một tấc đất chẳng biết giá tới mấy chục hay mấy trăm tấc vàng. Cả vùng này hầu như là nơi cư ngụ của các nhân viên và phái đoàn ngoại giao trên đất Pháp. Bà Nhu ở một đơn vị và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của Bà, cũng tiệm tạm đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật, đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt quốc gia ở Paris là cựu Trung Tướng Trần Văn Trung vẫn nghĩ là Bà Nhu sống ở bên Ý. Trên đường đến thăm Bà Nhu, tôi vẽ ra trong đầu óc qua hình ảnh cuả những chung cư đắt tiền ở New York hay San Francisco đã xem trên những tạp chí chuyên về địa ốc ở Mỹ và nghĩ là nơi cư ngụ của Bà Nhu chắc phải sang trọng lắm. Những apartment của Jacqueline Kennedy hay John Lennon ở New York và của các tay tài phiệt ở San Francisco gợi cho tôi một náo nức mong chờ. Các cụ mình ngày xưa vẫn nói “ăn cơm Tầu, ở nhà Tây” thì chắc là đã có một so sánh cẩn trọng. Tôi bước đi vội vàng với những lung linh nơi lãnh điạ của giới thượng lưu. Những dòng họ quý tộc từ bao nhiêu đời cấu trúc nên vẻ hào nhoáng phong nhã của kinh thành Anh Sáng và dân cư ngụ dù ở chân trời góc biển nào lưu lạc tới đây cũng được nhận lãnh ấn tích của người Paris. Chiếc thang máy nhỏ hẹp vừa đủ chỗ đứng cho một ông Mỹ quá khổ đưa tôi lên tầng th? mu?i m?t của toà nhà cao tầng. Bà Nhu mở cửa đón khách trong chiếc áo kimono Nhật mầu xanh nước biển, khuôn mặt trang điểm kỹ lưỡng với giọng nói đặc Huế. Bà đón tôi trong một tư thái rất chánh trị, không vồn vã mà cũng chẳng quá lạnh nhạt. Bà Nhu sắp vào tuổi 80 nhưng rất khoẻ mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Có người nói từ năm 1963 đến nay Bà chẳng già đi chút nào. Thật ra đó chỉ là một lối nói để diễn tả sức khoẻ sung mãn của một người tuy đã nhiều tuổi đời nhưng vẫn giữ dược vóc dáng linh hoạt và nét mặt không có những nếp nhăn theo thời gian. Tuy nhiên “cái già” cũng vất vưởng đâu đó trên khoé mắt vành môi. Khi Bà cười thì khuôn mặt trông rất tươi trẻ phô bầy bộ răng trắng vẫn còn đầy đủ trong tình trạng hoàn hảo. Chỗ ở của Bà Nhu tuy không nghèo nàn nhưng chẳng có gì đáng nói, ngay cả không bằng cái apartment mà tôi thuê mướn ở ngoại ô thành phố Seattle vào mùa Đông năm 2 | T r a n g 1975 khi vừa đến Mỹ. Đơn vị gia cư của Bà Nhu rất tầm thường, giống như những apartment rẻ tiền ở Mỹ với hai phòng ngủ và một diện tích nhỏ làm phòng khách. Phía tay trái lối đi từ cửa ra vào là nhà bếp. Trên tường phòng khách treo vài khung hình lớn có những tấm hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục, Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cô trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy và nhiều người thân tộc đã quá vãng. Khoảng trống phía bên tay phải là phòng khách có một bộ xa-lông, bên cạnh kê bàn ăn với 6 cái ghế. Bộ bàn ghế này và vài cái tủ nhỏ kê ngoài phòng khách làm bằng gỗ gụ mầu đen với những nét chạm trổ Việt Nam quen thuộc. Bà Nhu cho biết trước kia thân sinh là Ông Bà Trần Văn Chương có một apartment ở Paris và những đồ đạc này được mang từ Việt Nam qua, lâu lắm rồi. Khi hai cụ thân sinh bán cái apartment đi thì cho Bà Nhu bộ bàn ăn và hai cái tủ nhỏ này. Tôi đã đọc mấy bài báo nói về khiếu thẩm mỹ của Bà Nhu qua việc sắp xếp và trang hoàng Dinh Độc Lập. Giờ này được đứng ngay giữa cơ ngơi của riêng Bà mà chẳng thấy một “công trình” nào xem cho bắt mắt, có thể vì điều kiện tài chánh hay thời trưng diện của Bà đã qua. Đứng ở nhà bếp nhìn ra ngoài có cảm tưởng như tháp Effeil sát ngay bên cạnh khung cửa kính. Tôi tiếc thầm, phải như phòng khách mà được xếp đặt ở chỗ này thì đẹp biết bao. Ngồi đây nhâm nhi ly cà phê nhìn thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến chân tháp chờ lên thang máy nhìn cả kinh thành Paris. Ngày như đêm lúc nào cũng là hội hè đình đám. “Vui với cái vui của thiên hạ” chắc lòng mình cũng phần nào đỡ trống trải. Có lẽ cũng vì vậy mà phòng ngủ bên cạnh nhà bếp có kê một bộ xa-lông để bù đắp lại sự thiếu sót to lớn của người thiết kế khu chung cư. Phòng ngủ thứ hai là chỗ làm việc của Bà Nhu với đủ loại sách báo. Cả đơn vị gia cư của một người sống lẻ loi một mình không có đến một cái giường nhỏ. Buổi tối Bà Nhu trải một cái chăn trên nền nhà, ở một chỗ nào đó trong “căn hộ” nhỏ hẹp để nghỉ qua đêm. Bà không ngủ trên giường nệm nên mặc dầu đã lớn tuổi mà vẫn giữ được lưng thẳng và đi đứng nhanh nhẹn mạnh dạn. Bà Nhu mời tôi ngồi trên một cái ghế ngay đầu bàn ăn cạnh khu phòng khách. Bà ngồi ghế đối diện, chân trái gác lên một chiếc ghế thấp hơn. Bà nói kỳ này khí hậu thay đổi bất thường nên cái chân hơi bị đau vì vết thương ngaỳ trước. Bà Nhu bị gẫy chân trái trong vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Sau này Bà đang đi bộ thì trượt chân ngã và cũng cái chân trái này bị gẫy lần thứ hai. Mặc dầu Bà không gặp khó khăn gì khi đi đứng nhưng đôi khi cũng thấy khó chịu. Đối với tôi đây chỉ là một cuộc thăm viếng thường tình giữa người đồng hương nơi xứ lạ. Tôi không có ý định phỏng vấn Bà Nhu và chắc chắn Bà sẽ không được tự nhiên, thoải mái khi phải đóng khung trong những câu hỏi của một cuộc phỏng vấn. Phần khác tôi cũng không muốn khơi lại những đau thương mà Bà phải gánh chịu trong cơn bão táp lịch sử và bể oan cừu cay nghiệt của cuộc đời. Tôi muốn cuộc thăm viếng không bị gò bó và trói buộc vào một chủ đề đồng thời cũng không muốn tìm tòi những gì mà cá nhân tôi và rất nhiều người được nghe đủ loại chuyện tốt xấu về Bà mà chẳng biết hư thực ra sao, và từ những mù mờ đó đã có biết bao câu hỏi về một người đàn bà một thời xe ngựa thênh thang. Tôi muốn câu chuyện được tự nhiên và để Bà chủ động bất cứ những gì Bà muốn nói. Tôi có thể dùng những tiểu xảo của kỹ thuật phỏng vấn “gài” Bà vào những sơ hở để thoả mãn những gì tôi muốn biết hoặc chỉ nghe đồn thổi. Tôi đã không làm như vậy vì lòng kính trọng đối với Bà và lương tâm ngay lành của tôi. Tôi mở đầu câu chuyện bằng mấy lời xã giao thông thường, kính chúc Bà luôn được mạnh khoẻ an vui. Bà bắt đầu nói về lai lịch nơi hiện cư ngụ. Rất nhiều người biết qua báo chí chuyện một người Pháp giầu có biếu Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục một món tiền lớn và Đức Cha Thục đã cho Bà Nhu để mua một đơn vị gia cư trong toà nhà 3 | T r a n g cao tầng này và sau đó Bà dành dụm mua thêm được một đơn vị nữa. Sự thật không phải như vậy. Bà Nhu trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một vị ân nhân ẩn danh. Có tiền trong tay, Bà đã nhờ một cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai đơn vị gia cư này. Vào những năm mà người Việt vượt biển ra đi một cách rầm rộ gần như công khai, Bà Nhu cho mấy thanh niên mới bơ vơ đến Pháp tạm trú ở đơn vị gia cư thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau những thanh niên này tìm được thân nhân hay vì nhu cầu công việc ra đi tạo lập đời sống mới thì Bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn cho đến ngày nay. Vị ân nhân tặng Bà Nhu số tiền kếch xù đó là Bà Capaci, một cư dân thành Milan nước Ý và cũng là một trong bẩy người phụ nữ giầu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và mãi đến bốn năm sau khi Bà Capaci tạ thế Bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp của người đã gia ân cho mình. Bà Nhu và con gái Ngô Đình Lệ Thủy Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp có treo tấm hình đen trắng ngôi nhà của Ông Bà Nhu ở Đà Lạt, tôi kể cho Bà nghe chuyến đi về Việt Nam nhân dịp Tết Tân Tỵ, lần đầu tiên sau 26 năm vội vã ra đi lánh nạn cộng sản. Tôi đã đi Đà Lạt, ghé lại thăm ngôi nhà xưa của thời trung học, bước qua đường đứng nhìn nhà Ông Bà Nhu một lúc lâu. Ngôi nhà của Ông Bà Nhu hiện không có người ở nhưng được bảo quản khá tốt, không thấy những đổ vỡ hoang tàn vì thời gian hay qua những biến động. Hiện nay Bà Nhu không ý định về thăm Việt Nam mặc dầu Bà được nhà cầm quyền Hà Nội đánh tiếng cho biết là nếu Bà muốn về thì cũng chẳng có trở ngại gì. Những kỷ niệm về một nơi chốn thân thương xa xưa gợi lại miền ký ức dấu ái, Bà nói “tôi gặp Ông Cố Vấn năm 16 tuổi, đến năm 18 tuổi thì làm đám cưới”. Bà có vẻ buồn khi nói đến ngôi nhà ở Đà Lạt. Một vùng trời mộng mơ với những kỷ niệm của ngày tháng êm đềm nơi xứ sương mù vẫn còn vương vất đâu đây. Khi nói về những người con thì Bà Nhu có vẻ bằng lòng với chút hãnh diện. Tôi cố tình không hỏi han gì về trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy đã bị chết thảm trong một tai nạn xe cộ trên xa lộ vòng đai của Paris. Rất có thể đây là một âm mưu quốc tế còn nhiều nghi vấn chưa được sáng tỏ và tôi cũng không muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn để rồi những giọt nước mắt của bà mẹ lại một lần nữa ướt đẫm trên khuôn mặt đã có quá nhiều khổ đau. Ông con trai lớn Ngô Đình Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đã 55 tuổi, lấy vợ người Ý và có bốn con, ba trai một gái. Bà Nhu nói về những đứa cháu nội, con trai của Ông Trác, trong niềm vui “cao một mét tám, to lớn và đẹp trai lắm”. Vợ Ông Trác thuộc giòng dõi qúy tộc rất giầu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt chăn nuôi và đã chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho việc canh tác những thửa đất nhỏ. Gia đình Ông Trác sỡ hữu một biệt thự to và rất đẹp trong nội 4 | T r a n g thành La Mã. Ngôi biệt thự này có cách cấu trúc và dáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đã ở đây nhiều năm nên rất nhiều người lầm tưởng rằng Bà đã tá túc ở một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài. Người con trai thứ hai là Ngô Đình Quỳnh cũng đã trên 50 tuổi, tốt nghiệp trường E.S.E.C (Ecole Superieure de l’Economie et du Commerce) chứ không phải trường H.E.C (Hautes Etudes Commerciales) như rất nhiều báo chí và sách vở đã sai lầm. E.S.E.C là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tài chánh cao cấp, có học trình gay gắt và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chánh trên toàn thế giới trọng vọng. Khi Ngô Đình Quỳnh học trường này, Bà Nhu đã không đủ khả năng trả học phí nên phải làm giấy xin nợ tiền học. Hiện Ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một số công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông Quỳnh không lập gia đình. Bà Nhu cười nói “Ông Quỳnh giống Ông Bác”, hàm ý sống độc thân như Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đang lúc tôi nói chuyện với bà Nhu thì một thiếu nữ người Pháp gõ cửa buớc vào với một xấp hình trên tay. Cô bé 17 tuổi này vừa trở về sau chuyến đi làm công việc thiện nguyện giúp các thanh nữ Phi Luật Tân bị bệnh AIDS. Tất cả chi phí cho chuyến đi của cô bé này do Ông Ngô Đình Quỳnh đài thọ. Cô bé có những lọn tóc mầu hạt dẻ khoe những tấm hình chụp chung với các nạn nhân của căn bệnh thời đại và ước mong sẽ được trở lại thủ đô của nước Phi Luật Tân để tiếp tục công việc bác ái. Bà Nhu nói ông Quỳnh sống đạm bạc và rất tích cực trong những hoạt động từ thiện nên ước vọng của cô bé chẳng phải là một giấc mơ. Cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật gia ngành Công Pháp rất nổi tiếng nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở phân khoa Luật của đại học Roma mà thôi. Lý do đơn giản là Lệ Quyên không chịu vào quốc tịch Ý. Luật lệ nước Ý lại không cho phép những người không có quốc tịch được thủ đắc hàm giáo sư và do vậy không được quyền giảng dậy một cách chính thức trong học trình. Lệ Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc làm sửng sốt các “cây đại thụ” của ngành công pháp thế giới. Lệ Quyên có chồng người Ý nhưng đứa con trai 7 tuổi lại chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu hãnh diện nói tên cháu bé là Ngô Đình Sơn, một tự hào dòng họ hay là sự giữ gìn gốc rễ gia tộc. Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết, Bà Nhu đều “xuống đường” đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint Leon dâng thánh lễ hằng ngày. Cũng tại ngôi thánh đường này, lần đầu tiên vào tuần lễ đầu tháng 11 năm 2001, Bà Nhu tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thông thường sau thánh lễ Bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bầy hoa nến. Ngày chúa nhật Bà phụ trách dậy lớp thánh kinh cho các trẻ nhỏ. Bà gia nhập đạo công giáo khi lập gia đình nhưng lúc thiếu thời được giáo dục trong các trường công giáo nên có thể nói là Bà đã lớn lên và trưởng thành trong tín lý của đạo Chúa. Trong câu chuyện, Bà Nhu nhiều lần biểu lộ đức tin tuyệt đối nơi sự an bài của Thiên Chúa. Bà đặt niềm cậy trông và phó mặc tất cả mọi sự vui buồn, may rủi vào sự xếp đặt và định đoạt của Đấng Tối Cao. Khi nghe tôi nói có thân nhân đang bị bệnh và rất muốn trở về Mỹ sớm hơn, Bà Nhu đi vào phòng làm việc lấy cho tôi một tượng ảnh Đức Mẹ Maria đúc bằng kẽm to hơn đồng một xu mỹ kim. Bà nói mang tượng ảnh về cho bệnh nhân thì Đức Mẹ sẽ cứu giúp và chữa khỏi. Tôi nghĩ là vì có đức tin mạnh mẽ như vậy nên Bà đã vượt qua được bao cơn sóng gió ba đào mà sống mạnh khoẻ đến ngày nay. Trên đường từ nhà thờ về Bà Nhu cũng thỉnh thoảng ghé lại tiệm bán hoa và cây cảnh mua vài bông hoa hay một chậu cảnh trang hoàng trong nhà. Ít khi Bà phải nấu nướng vì ăn rất ít và những bà bạn người Pháp thường mang đồ ăn đến cho nên cũng chẳng 5 | T r a n g bận rộn gì việc bếp núc. Trước kia tôi nghe có người nói Bà Nhu chỉ ăn qua loa, hai ba lần một tuần. Tôi nghĩ là nếu ăn uống như vậy thì làm sao mà…thở được. Bây giờ tôi nghe chính Bà Nhu nói “hai ngày nay tôi chưa ăn gì cả, vì tôi không ăn nên không có bệnh”. Các vị tu sĩ An Độ giáo rất ít khi ăn uống nhưng người nào cũng mạnh khoẻ và sống lâu trăm tuổi. Ở các nước Âu Mỹ đa phần người ta chết vì ăn chứ có ai chết vì đói. Bà Nhu và TT Hoa Kỳ Johnson (tháng 5, 1961) Bà Nhu hầu như không đi sắm sửa quần áo giầy dép. Mỗi năm một bà bạn người Nhật gửi qua cho vài cái áo kimono đủ mặc trong nhà, có việc đi đâu thì mặc mấy cái quần áo cũ cũng còn tạm được. Nói đến quần áo Bà có vẻ đăm chiêu “ở Sài Gòn nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ, Tổng Thống không bằng lòng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là “kiểu áo Bà Nhu” đã một thời là “mốt” của các thiếu nữ Sài Gòn và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rồi nghề. Bà kể chuyện trước kia phải đại diện chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót. Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (ruby), Bà Nhu có trình và xin Tổng Thống số tiền sáu ngàn đồng bạc Việt Nam để mua lại. Tổng Thống nghe lời giãi bầy cũng hợp lý nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận với đầy đủ lai lịch của những món đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất Tổng Thống cho tiền và cũng chẳng còn nhớ những đồ trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu. Trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng Bà Nhu cũng đề cập đến những diễn biến chính trị, kinh tế và xã hội toàn cầu. Bà có những phân tích, lượng giá vấn đề một cách chi tiết và hợp lý đồng thời đưa ra những kết luận làm người nghe dễ dàng bị thuyết phục. Điều này chứng tỏ tuy sống khép mình trong một căn phòng nhỏ bé nhưng Bà vẫn theo dõi thời cuộc một cách cẩn thận. Bà vẫn còn giữ những liên lạc cần thiết với giới ngoại giao quốc tế trong một giới hạn cẩn trọng. Nhớ lại Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới năm xưa, Bà nắm hai tay ngước mắt nhìn lên trần nhà nói bằng tiếng Pháp “phụ nữ phải được giải phóng, phụ nữ phải được tôn trọng”. Giấc mơ của Bà là người phụ nữ phải có chỗ đứng và tiếng nói trong xã hội. Ước vọng của Bà là người phụ nữ phải có những cơ hội thuận tiện để thăng tiến trong mọi lãnh vực của đời sống. Tiếng nói của Bà rõ ràng, chắc nịch, lên xuống với những cảm xúc làm người nghe rất dễ bị lôi cuốn rồi nhiệt tình ủng hộ. Trong cả một buổi chiều, lúc nói chuyện này và đột nhiên nói sang chuyện khác nhưng Bà không hề đả động gì đến nước Mỹ, mặc dầu Bà biết tôi đến từ một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Nhiều người nói Bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới đã kinh ngạc nghe và nhìn Bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những nhà lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch Oc một quãng đường. Tôi nghĩ là Bà đã không còn mang những “hận thù” đó trong tim óc nữa và thưc sự muốn quên hết để mọi chuyện nhẹ nhàng đi vào lịch sử. Bà kể chuyện vào mùa Xuân năm 1975, sau khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hoà, hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin phỏng vấn trong 30 phút. Lý do Bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC và đòi mười ngàn (10,000) mỹ kim thù lao cộng với hai vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris – Washington DC, vì lúc đó Lệ Quyên rất nhớ và 6 | T r a n g muốn đi gặp ông bà ngoại. Bà Nhu không có tiền trang trải cho chuyến đi nhưng vì thương con nên bằng lòng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp Ông Bà Trần Văn Chương ở thủ đô của nước Mỹ. Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC thì những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đã vội vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhất Bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất Bà tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra Bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ dưới bất cứ hình thức nào. Trong quá khứ đã có vài tờ báo ở Đức quốc và California đăng tải bài phỏng vấn Bà Ngô Đình Nhu. Tất cả những bài “phỏng vấn” đó đều là những ngụy tạo mà độc giả rất dễ dàng nhận ra tính chất giả dối và bịa đặt của người viết. Bà Nhu cũng không nói gì về vụ phản loạn 1-11-1963 và những người được ngoại bang thuê mướn sát hại chồng Bà. Tôi có nói xa gần đến đám quân nhân phản lọan để dò xét phản ứng của Bà nhưng không trông chờ ở một sự tức giận thường tình của một con người vì thời gian đến gần 40 năm cũng đã làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ. Bà có vẻ buồn, nhìn qua khung cửa sổ nói một cách nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh “đó là một bọn ngu dốt”. Đồng hồ chỉ tám giờ rưỡi tối. Những ngọn đèn của Paris kết nối làm thành một biển ánh sáng và thành phố đã bắt đầu đi vào cuộc sống ban đêm. Hơn sáu giờ đồng hồ ngồi nói chuyện, tôi đã uống hết hai ly nước bưởi to nhưng tuyệt nhiên không thấy Bà Nhu uống một chút nước nào. Tôi sợ ngồi lâu quá Bà sẽ mệt mỏi nhưng thực sự thì chính tôi là người đã thấm mệt. Bà Nhu không tỏ ra mệt mỏi hay có một dấu hiệu nào biểu hiện sự rã rời sau một buổi chiều dài chuyện trò. Trước khi tôi xin cáo từ Bà Nhu có nói đến cuốn sách của Bà. Theo chỗ tôi được biết thì cuốn sách này sẽ được phát hành cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới bằng bốn thứ ngôn ngữ: Việt Nam, Anh, Pháp và Ý. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ý. Bản dịch tiếng Việt đang trong giai đoạn nửa chừng. Cũng vì vậy mà tôi hạn chế bài viết này trong một kích thước vừa đủ, những gì độc giả muốn biết hay những gì gọi là “bí mật lịch sử” sẽ rất có thể được nói đến hoặc phân giải trong cuốn sách mà rất nhiều người đang chờ đợi. Tôi bước ra chỗ thang máy để xuống phố lang thang với người Paris mà trong lòng xôn xao niềm vui vì không ngờ một “bà cụ” gần 80 tuổi đã vật vã với bao sóng gió phũ phàng của cuộc đời mà lại còn có một sức khoẻ thật sung mãn, trí óc minh mẫn đến như thế. Ở vào tuổi đời như vậy mà còn giữ được thể chất và tinh thần trong một tình trạng gần như lý tưởng thì thật là hiếm có. Bà Nhu đã thực sự lánh xa những tục lụy phù phiếm của trần gian. Bà sống trong hơi thở nhịp tim cũa đời sống tận hiến và phó dâng với niềm cậy trông tuyệt đối nơi sự quan phòng của Đấng Tạo Hoá. Tôi cầu chúc Bà luôn mạnh khoẻ, an vui. Nguồn : todiep.com Bà Ngô Đình Nhu : Từ thời trẻ sôi động đến những tháng năm ẩn dật Bà Trần Lệ Xuân, tức bà Ngô Đình Nhu.Thụy My Tin bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu, người từng được coi là Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng Hòa trước đây từ trần tại Roma cách đây đúng một tuần, ngày chủ nhật 24/4, đã khiến cho dư luận trong và ngoài nước hết sức chú ý. Sau cuộc đảo chính năm 1963, hầu như không ai biết gì về bà, vì bà sống ẩn dật, hầu như không có một tiếp xúc nào với thế giới bên ngoài. Người ta chỉ biết là bà đang viết một cuốn hồi ký. Sinh năm 1924 trong một gia đình danh gia thế phiệt, thân phụ là luật sư Trần Văn Chương, thân mẫu là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và là em họ của vua Bảo Đại, năm 19 tuổi bà lập gia đình với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì ông Nhu làm cố vấn chính trị, và vì ông Diệm độc thân nên bà Trần Lệ Xuân luôn là người đứng ra tiếp các phu nhân của các vị quốc khách. Bà Trần Lệ Xuân cũng là dân biểu Quốc hội, chủ tịch phong trào Phụ nữ Liên đới. Bà đã đưa ra đạo Luật gia đình cấm người đàn ông lấy hai vợ, Luật bảo vệ luân lý và thuần phong mỹ tục, đồng thời có nhiều hoạt động xã hội khác. Chiếc áo dài cổ hở do bà đề xướng, vào thời đó được gọi là « áo dài bà Nhu », cũng là một dấu ấn mà bà để lại đến ngày hôm nay. Là một phụ nữ tài giỏi, xông xáo, nhưng bà cũng có những phát biểu gây sốc làm cho không ít người bất bình. Tháng 10/1963, bà và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy đi Hoa Kỳ và Roma với dự định tố cáo âm mưu lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm của Tổng thống Kennedy và CIA. Nhưng ngày 1/11/63 đã xảy ra đảo chánh, ông Diệm và ông Nhu đều bị sát hại. Bà rời Mỹ với lời tuyên bố : « Tôi không thể sống ở Mỹ, đơn giản vì chính phủ Mỹ đã đâm sau lưng tôi ». Bà sống lặng lẽ ở Paris cho đến cách đây một năm sức khỏe yếu dần, thì sang Roma với người con lớn cho đến khi mất. Một trong những câu nói nổi tiếng của bà là : « Ai đã có người Mỹ là đồng minh thì chẳng cần phải có kẻ thù ». Luật sư Trương Phú Thứ, người chịu trách nhiệm biên soạn và in ấn cuốn sách của bà Trần Lệ Xuân cho biết, theo dự định thì tác phẩm này sẽ được ra mắt vào năm 2012. Khi được hỏi, cuốn sách do chính bà viết ra hay có ai chấp bút cho bà, ông Trương Phú Thứ nói : Bà viết ra tự tay bà viết ra chứ không có ai viết thay bà hết, vì bà không có liên lạc với bẩt cứ một người nào hết. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai : các con bà ở mỗi người một nơi. Bà viết cái này khi bà còn ở bên Paris, tức là khi sức khỏe của bà còn tốt. Bà viết trong căn phòng appartement có một mình bà thôi, thì bà đâu có nhờ ai viết được, bà tự viết lấy. Tiếng Việt của bà thì kém lắm, tiếng Pháp rất là giỏi. Tiếng Pháp bà viết còn hơn cả những người có bằng cấp về văn chương Pháp ở Pháp. Tiếng Pháp của bà rất giỏi nhưng mà tiếng Việt thì kém lắm, thành ra bà phải viết bằng tiếng Pháp. Thế thì bà đưa cho mình, và mình có nhiệm vụ dịch ra tiếng Việt Nam. Thưa anh, một nhân vật như bà Nhu thì chắc chắn nhiều người rất là trông chờ để biết vì mấy mươi năm nay không có tin tức gì của bà hết. Như vậy liệu cuốn sách đó có đáp ứng được mong đợi của người đọc không ? Cái này thì tùy theo quan điểm của người đọc. Những người nào tò mò muốn biết về đời tư của bà như thế nào, hoặc thái độ đối xử của bà đối với những người đã gây ra những đau khổ cho bà, hoặc những người vu oan nói xấu bà này nọ, thì không có. Bà không đề cập đến chuyện đó, vì bà coi đấy là những chuyện không đáng để nói tới. Quyển sách của bà truyền đạt những suy tư, tư tưởng của bà đối với thân phận con người, đối với tạo hóa, và rất có thể là nhiều người đọc sẽ thất vọng lắm. Nhưng những cái gì của bà viểt ra thì mình sẽ đưa ra cho công chúng như vậy thôi, mình không thể nào thêm bớt được hết. Một dấu phẩy, một dấu chấm mình cũng không thay. Thứ nhất là bây giờ bà chết rồi mình phải tôn trọng cái đó một cách tuyệt đối. Như vậy đây không phải là một cuốn tự truyện ? Không phải là tự truyện mà cũng không phải là hồi ký. Thông thường người ta hiểu hồi ký là viết lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, những chuyện vui chuyện buồn, chuyện của một cá nhân của một con người. Thế nhưng bà đã quên hết rồi. Bà đã sống 48 năm từ khi lưu vong ra nước ngoài, trong một căn phòng, một chỗ ở rất nhỏ hẹp, sống một cách quá cô độc, không tiếp xúc, không có liên lạc với bất kỳ một người nào hết. Bà chỉ đi ra ngoài mỗi buổi sáng. Thời gian mà bà còn khỏe mạnh thì bà đi ra ngoài, đi lễ ở nhà thờ Saint Léon. Lâu nay vẫn có nhiều dư luận trái chiều nhau về bà Trần Lệ Xuân. Như vậy trong sách có nói gì về những lời đồn đãi chung quanh tính cách của bà không? Chuyện đó thì không có. Bà Ngô Đình Nhu hay bất kỳ một người nào trên thế gian này cũng có người ghét người thương. Không ai có thể nói là mình được tất cả mọi người thương mến, kính phục hết, cũng có người này gièm pha ba câu, người kia đố kỵ…Thế nhưng bà Nhu không hề động chạm, đề cập đến bất kỳ một chuyện lớn nhỏ nào như thế. Từ khi bà chọn một cách sống, ở một mình trong một căn phòng, tức là bà đã muốn quên hết, muốn bỏ lại đằng sau lưng tất cả. Những chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện vui chuyện buồn bà bỏ hết. Bà sống như một người khổ tu, gần gần như một người khổ tu vậy. Ngay cả vấn đề ăn uống, bà cũng chẳng có nấu nướng gì hết. Tôi thấy trong bếp của bà cũng chẳng có một cái nồi, cái chảo hay thìa muỗng gì hết. Trong tủ lạnh mở ra thì độc có một vài chai nước, chỉ có vậy thôi. Thế thì bây giờ người ta hỏi bà ăn ở đâu, bà cũng phải ăn chứ ! Thì thường thường những người Pháp ở trong chung cư đó, họ biết bà như vậy nên thường một hai ngày họ nấu đồ ăn họ mang tới cho bà. Còn nếu không thì bà sống như thế nào nếu bà không ăn uống gì ạ? Bà ăn rất ít. Có một lần bà nói với tôi, đây nè anh Thứ à, hai ngày hôm nay tôi chưa ăn và uống gì. Thế rồi bà cười, bà nói là vì tôi không ăn uống nên tôi không có bệnh gì hết. Nhưng phải nói là bà rất khỏe. Bà chỉ cảm thấy yếu từ đầu năm 2010. Mới đây thôi. Thứ nhất là vì cái tuổi già, đến đầu năm 2010 thì bà bắt đầu cảm thấy yếu. Nhưng mà cách đây chừng độ hai tháng, bà gọi điện thoại cho tôi, tiếng nói của bà vẫn còn rất là to, rất là khỏe. Bà cũng cười vui vẻ lắm trên điện thoại, thì tôi nghĩ là bà khỏe lắm. Thế nhưng mà sau đó thì vì tuổi già, sức khỏe sụt xuống một cách quá mau lẹ. Thì bà cũng qua đời vì tuổi già thôi, chứ thật ra chẳng có bệnh tật gì. Có một cái vấn đề về sức khỏe là cái chân của bà bị gẫy từ xưa, thành ra đôi khi cũng hơi đau đau chút chút vậy thôi, nhưng không có đau đớn nhiều lắm. Ai đến tuổi già thì cũng bệnh như vậy thôi, cũng suy sụp như vậy thôi, chứ không phải riêng gì bà Nhu. Có nhiều người già phải nằm trên giường bệnh hết năm này qua năm khác. Nhưng mà bà Nhu nằm trên giường bệnh chưa đến một tháng, khoảng độ ba bốn tuần lễ vậy thôi. Bà đi một cách rất là bình an, như vậy thì tôi nghĩ cũng là một phước lành, một phúc đức của bà. Và cũng có người thân chung quanh ? À, các con cái thì như cô biết là bây giờ bà còn hai người con trai và một cô con gái. Anh con trai lớn là Ngô Đình Trác thì có vợ con, vợ anh người Ý. Còn cô con gái út là cô Ngô Đình Lệ Quyên thì chồng cũng là người Ý luôn. Nhưng con trai giữa là Ngô Đình Quỳnh thì sống độc thân một mình, không có vợ con gì hết, ông làm việc bên Bỉ. Khi bà Nhu về La Mã, bà ở căn nhà của gia đình Ngô Đình Trác. Nhà đó cách thủ đô La Mã khoảng 10 cây số. Cái nhà đó là nhà trệt, không có tầng lầu, nhưng mà dưới có một cái tầng hầm. Gia đình ông Trác ở trên, và gia đình của cô Lệ Quyên ở dưới. Họ sống với nhau cả bao nhiêu năm trời rồi, rất là vui vẻ, rất là hòa thuận. Khi bà yếu quá, ông Trác đưa vô trong nhà thương… Bên đó chắc là mấy người con cũng bận rộn với vấn đề lo tang lễ cho bà, không biết là ngày nào giờ nào nhưng mà tôi biết chắc chắn là sẽ tổ chức rất là kín đáo, trong gia đình mà thôi. Giám đốc giáo xứ Việt Nam ở Paris, đức ông Mai Hữu Vinh có cho biết là nhiều người tới xin lễ cho bà… Ở đây, ở California tối hôm qua cũng có làm một buổi lễ để cầu nguyện cho bà Nhu, và trong nhà thờ rất đông, vì họ cũng quý mến bà lắm. Và tôi có được thông báo là tiểu bang Oregon chiều thứ bảy này họ cũng xin lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà. Thôi thì bà chết như vậy mà được mọi người nhớ đến trong một cái ân tình như vậy, tôi cũng mừng cho bà lắm. Vâng, thì thôi cũng tốt cho bà, với những sóng gió mà bà đã trải qua… Ông và bà Ngô Đình Nhu, năm 1956 (DR). Bây giờ cô thấy nhé, một người đàn bà sống trong bốn bức tường nho nhỏ, trong một căn phòng nho nhỏ, một hai ngày thì còn chịu được. Bà sống như vậy 48 năm liền, tức là từ năm 1963 cho tới ngày bà qua đời. Thế thì bà sống bà chỉ còn có một cái hy vọng duy nhất thôi, tôi nói là hy vọng cũng không đúng, bà sống chỉ có một cái chờ đợi thôi, là đến một ngày nào đó được gặp lại người chồng của bà. Bà Nhu rất yêu mến và kính trọng ông Nhu. Như cô biết là khi mà ông Nhu bị thảm sát như vậy, thì bà Nhu lúc đó mới có 39 tuổi. Một người phụ nữ 39 tuổi còn quá trẻ, nhưng mà bà vẫn ở vậy. Bà ở vậy để chờ đợi đến ngày gặp ông chồng. Và khi bà quá vãng ở cái tuổi 87, bên Việt Nam mình thì tính là 88, riêng cá nhân tôi thì tôi mừng cho bà, thấy đó là một sự giải thoát cho bà. Nhưng một người phụ nữ trẻ đẹp, góa chồng lúc còn trẻ, ở cái tuổi đó mà đã từng nắm trong tay quyền lực rồi, đã nổi tiếng, thì chọn lựa một cuộc sống ẩn dật bao nhiêu năm có lẽ là không dễ. Bởi vậy tôi mới nói là bà có một nghị lực rất là phi thường. Bà có nghị lực cao lắm. Chứ nếu ở một người bình thường có thể họ bị suy sụp về tinh thần, mà suy sụp tinh thần kéo theo suy sụp về thể xác. Tôi nghĩ là những người không có cái nghị lực như bà Nhu thì chắc sống không có lâu được như bà Nhu đâu. Mà bà từ hồi mà phải đi lưu vong ra ngoại quốc rồi đến khi bà chết là 48 năm, nửa thế kỷ chứ đâu phải một hai tháng gì. Mà tại sao trước bao nhiêu dư luận như vậy bà lại im lặng ? Vì bà đóng kín cửa, bà có nghe thấy dư luận gì đâu ! Bây giờ người ta có nói tốt hay nói xấu cho bà, bà cũng không nghe thấy. Bà đóng cửa kín không giao thiệp với ai, không biết gì hết. Thì tôi nói như hồi nãy là bà sống như một người nữ tu, mà nữ tu khổ hạnh lắm, chứ không phải nữ tu thường đâu. Bên đạo Công giáo có những dòng tu họ chỉ đóng cửa cầu nguyện với Chúa thôi, chứ chẳng có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì bà Nhu cũng như thế. Đóng kín cửa không giao thiệp với ai, làm sao bà biết được ai nói xấu, ai nói tốt cho bà. Bà không biết ! Hồi đó bà vốn là người lăng xê thời trang áo dài cổ hở, người ta gọi là « cổ bà Nhu », nhưng mà khi anh tiếp xúc với bà thì anh có thấy bà ăn diện không ? Không. Khi tôi tiếp xúc với bà thường thường thì bà hay mặc cái áo kimono của Nhật. Bà nói với tôi những cái áo kimono này là của một vài người bạn Nhật, mỗi năm họ gửi cho vài ba cái để mặc ở trong nhà. Còn về cái áo khoét cổ, thì khi tôi nói chuyện với bà, bà nói ở Sài Gòn nóng quá - bà lấy hai ngón tay ra dấu như cái kéo - thì tôi cắt cái cổ đi cho nó mát. Bà nói là, tôi mặc như vậy thì Tổng thống không có bằng lòng. Tôi nghĩ là về sau thì nhiều người theo cái mốt của bà Nhu cũng mặc áo dài hở cổ, thì chắc là ông Tổng thống cũng chẳng để ý đến cái chuyện đó nữa. Có vẻ như là vì bà Nhu lấy chồng khi còn trẻ quá, nên cả ông Diệm lẫn ông Nhu coi bà như một người em gái nhỏ thì phải ? Có thể là đối với ông Nhu thôi, còn đối với ông Tổng thống là đâu ra đó, trên dưới lễ phép đàng hoàng. Một người thân cận với Tổng thống là nghị sĩ Lê Châu Lộc, vốn là tùy viên, cũng xác nhận mỗi lần bà Nhu muốn vào gặp Tổng thống là phải ăn mặc chỉnh tề, và phải xin sĩ quan tùy viên vào trình với Tổng thống. Tổng thống cho vào gặp thì mới được gặp, còn không thì bà vẫn vui vẻ ra về như thường. Tức là không có cái chuyện vì bà nhỏ tuổi mà bà hành xử thiếu tôn ti trật tự, vì gia đình của họ là một gia đình nền nếp, có trên có dưới, và rất là tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai nữa là bà phải tôn trọng người anh chồng của bà là một vị Tổng thống chứ không phải là một người anh chồng thường. Thành ra mỗi lần bà muốn gặp hoặc là thưa trình với Tổng thống là phải có sự xếp đặt của các viên chức phụ giúp Tổng thống. Bà có kể cho tôi nghe một câu chuyện. Hồi đó ông Tổng thống Ngô Đình Diệm không có vợ, thành ra mỗi một lần có các vị quốc khách đi với phu nhân đến Sài Gòn, thì người đứng ra tiếp đón các vị phu nhân đó chính là bà Nhu chứ không ai khác. Tôi nhớ bà là người rất giỏi giao thiệp, tiếng Anh tiếng Pháp cũng rất lưu loát. Hồi đó bà không có cái gì để mà chưng diện khi tiếp đón các phu nhân ngoại quốc. Không biết bà được ai đánh tiếng là có một bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán một bộ vòng tay, nhẫn…với cái giá sáu ngàn đồng Việt Nam, họ nói là nếu bà cố vấn muốn mua thì họ bán lại cho. Bà Nhu không có tiền, bà trình Tổng thống, ông thấy chuyện đó cũng được nên lấy tiền lương của ông cho bà để mua bộ nữ trang đó, nhưng với điều kiện là bắt người bán phải viết một tờ giấy trình bày lai lịch của nữ trang và quyền sở hữu. Bà nói với tôi đó là lần duy nhất Tổng thống cho tiền, và bây giờ bà cũng không biết những nữ trang đó thất lạc ở đâu. Bà có hay kể cho anh những chuyện tương tự vậy không ? Thì khi trong câu chuyện hễ bà nhớ đến cái gì, hay khi mình hỏi cái gì thì bà cũng nói. Đại để là khi nói chuyện với bà tôi tuyệt đối không nói về những vấn đề chính trị, hay những ngày bà còn ở Dinh Độc Lập ; những chuyện có thể gây khó chịu hoặc đau khổ cho bà tôi không nói tới. Thường thường là những chuyện mưa nắng thôi chứ chẳng có gì quan trọng hết. Vì những gì bà muốn tâm sự là với khối người Việt Nam, cả cộng đồng người Việt Nam, chẳng những ở ngoại quốc mà cả trong nước Việt Nam nữa, thì bà đã viết trong cuốn sách của bà rồi. Thành ra mai mốt khi nào quyển sách đó ra, người đọc sẽ có những phán đoán, nhận xét về những tư tưởng của bà. Trong sách bà không đề cập đến những vấn đề chính trị, những vấn đề mà đa số người muốn biết. Thí dụ như thái độ của bà đối với những người cầm khẩu súng mà bắn vào đầu chồng bà như thế nào. Có nhiều người nghĩ là bà sẽ chửi rủa những người kia, sẽ nói nặng lời với họ, nhưng tuyệt đối bà không nói một câu. Bà không để ý tới những chuyện đó nữa. Bà muốn quên, bà bỏ lại đằng sau lưng tất cả, và đặc biệt là bà muốn tha thứ tất cả. Bà muốn tha thứ là vì bà là người rất sùng đạo. Bà nói, Chúa đã tha thứ cho bà, thì bà phải tha thứ cho tất cả mọi người, đơn giản vậy thôi. Bà không có thù oán, và không bao giờ nói nặng nhẹ đến những người đã gây khổ đau cho gia đình bà, không nói tới một câu. Như vậy đây không phải là hồi ký mà gần như là những tâm sự, suy tư về cuộc đời ? Như tôi đã nói, đó không phải là một hồi ký thông thường. Thành ra những người nào muốn tò mò chuyện thâm cung bí sử, những oán trách… thì không có. Đừng trông chờ những cái đó trong quyển sách của bà. Khi anh Lê Châu Lộc trả lời phỏng vấn của một đài truyền thanh, thì anh nói một câu rất đúng : đọc quyển sách đó anh có cảm tưởng như sách của một vị nữ tu. Nhưng quyển sách của bà tôi nghĩ người nào mua về đọc thì họ sẽ giữ lại, sẽ nghiền ngẫm, đọc lui đọc tới để mà hiểu. Nhưng dù sao bà Nhu cũng là một chứng nhân của lịch sử, và có những chuyện chỉ có người trong cuộc biết, nếu bà ôm cái bí mật đó theo thì có uổng không ? Tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng, Saigon, bị cho rằng giống khuôn mặt bà Trần Lệ Xuân và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy, đã bị đập bỏ khi bà đi lưu vong ở nước ngoài (DR). Bây giờ có cái gì là bí mật nữa đâu. Tất cả mọi chuyện đã phơi bày ra ánh sáng hết cả rồi. Ai giết ông Tổng thống, ai giết chồng bà ấy, những thế lực nào đứng đằng sau cuộc đảo chánh, hoặc là bà có bao nhiêu tiền, có bao nhiêu đồn điền…thì người ta biết hết cả rồi, chả có gì gọi là bí mật nữa. Bà có đặt tựa cho cuốn sách đó chưa ? Có. Bà lấy một cái dẫn dụ trong Cựu Ước để đặt tựa cho cuốn sách. Và anh sẽ là người dịch ? Tôi có sự giúp đỡ rất quý báu của anh Nguyễn Kim Quý, rất giỏi tiếng Pháp. Anh có bằng tiến sĩ văn chương Pháp, và là giáo sư Pháp văn của các trường đại học ở Mỹ. Anh giúp tôi về chuyện đó. Khi viết cuốn sách này bà Nhu có ước vọng gì, dành cho người Việt hay cho độc giả các nước ? Bắt đầu cách đây khoảng chừng mười năm, lần đầu tiên tôi gặp bà cố vấn Ngô Đình Nhu, thì bà viết bằng tiếng Pháp, và có ý định sau khi viết xong thì bà sẽ tự tay dịch sang tiếng Anh và tiếng Ý. Thế nhưng về sau có thể có nhiều lý do, như là sức khỏe không được tốt như hồi trước, hoặc là bà bận bịu, nên bà chỉ viết bằng tiếng Pháp mà thôi. Mà ngay cả bản bằng tiếng Pháp thì cũng còn phần cuối dang dở. Thành ra để vài ba tuần lễ nữa, khi gia đình lo tang lễ cho bà xong thì lúc đó tôi sẽ hỏi để lấy cái phần cuối cùng đó. Có dài lắm không ạ ? Dài ! Nguyên bây giờ thì cũng đã gần 500 trang rồi, nhưng in ra thì tôi nghĩ khoảng 300 trang thôi vì chữ viết của bà to. Bà Nhu muốn quyển sách này đến với độc giả khi bà còn sống, chứ không phải là khi bà chết rồi. Thế nhưng khi còn sống bà chưa làm được chuyện đó, thành ra bây giờ khi bà mất mình giúp đỡ để hoàn thành giấc mộng của bà là đưa quyển sách, đưa tư tưởng, suy tư của bà đến với độc giả, đến với người Việt Nam. Anh dự định cho xuất bản ở đâu ? Tôi sẽ in và phổ biến bên Mỹ này thôi, còn đương nhiên là sau đó tôi sẽ gởi đi những quốc gia có cộng đồng người Việt Nam đông như là Anh, Pháp, Đức… Các con của bà có ý kiến gì về cuốn sách này không ? À, hầu như là không. Vì họ lớn lên ở ngoại quốc, họ tôn trọng tính độc lập của từng cá nhân. Các con của bà thì đương nhiên rất là yêu mến và kính phục bà, nhưng họ không có xen vào những chuyện mà bà làm. Và những người con của bà Nhu có vẻ cũng kín tiếng như bà ? Thì như cô thấy đó, từ hồi năm 1963 cho đến giờ các con của bà có ai ra ngoài công chúng, có nói năng gì đâu, không ! Họ rất là im lặng, y như bà vậy thôi. Họ cũng giữ một cái khoảng cách quá xa xôi đối với thế giới bên ngoài Bà Trần Lệ Xuân (DR). Qua thời gian tiếp xúc với bà Nhu, anh có cảm tưởng như thế nào về bà ? Cảm tưởng của tôi thì cũng như rất nhiều người đã nhận xét về bà. Bà là một người đàn bà tài giỏi, can đảm, dám nói và dám làm. Chẳng hạn một chuyện trong quá khứ, khi bà đưa ra đạo luật về gia đình ở Việt Nam, đề cao nhân phẩm của người phụ nữ. Đạo luật đó được Quốc hội biểu quyết thông qua, cấm đàn ông lấy hai vợ, và những vấn đề khác nữa, để nâng cao đời sống của người phụ nữ Việt Nam lên. Mặc dầu hồi đó có những sự chống đối nhưng bà vẫn can đảm vượt qua. Một phụ nữ như thế mà chọn cuộc sống ẩn dật có lẽ không dễ ? Tôi thấy là khi chọn lựa một cuộc sống như vậy, chắc là bà phải có những suy nghĩ và quyết định rất là khôn khéo. Từ khi mà bà phải sống lưu vong ở ngoại quốc sau vụ đảo chánh ngày 1/11/63 ở bên Việt Nam, gần như không có ai nói tới bà nữa. Nhưng không phải là người ta sẽ để cho bà yên. Trường hợp nếu bà có một cái manh động, một lời nói, cử chỉ sao đó, đương nhiên họ sẽ nói tới rất nhiều. Hồi xưa lúc chồng bà chết rồi thì bên Mỹ Tổng thống Kennedy cũng bị giết, thì bà Kennedy cũng là góa phụ. Thế nhưng bà Kennedy về sau đi đến đâu thì người ta theo dõi đến đó, người ta có những bản tường trình đầy đủ, chuyện xấu cũng có mà chuyện tốt cũng có. Thế nhưng đối với bà Nhu thì tuyệt nhiên không, vì bà không đi đâu hết ! Bà tự giam hãm mình trong một căn phòng. Ngay cả buổi sáng đi lễ bà cũng mặc quần áo rất kín đáo, đội mũ, che đầu… để không ai nhận ra bà hết. Về phần ông linh mục ở nhà thờ Saint Léon, bà đã đi lễ ở nhà thờ đó nhiều năm rồi mà về sau ông mới biết đó là bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả sau khi lễ xong bà ở lại dọn dẹp, trang hoàng nhà thờ thì ông cũng nghĩ đó là một giáo dân bình thường thôi. Mãi mấy năm sau, không biết người nào nói với ông thì ông mới biết ! Cũng có nhiều người muốn có một tấm hình của bà lúc về già, nhưng tôi nghĩ là chẳng có ai chụp được cái hình nào hết. Đương nhiên là bà phải già đi, nhưng trông vẫn còn khỏe lắm và vui tươi. Tôi có nhận xét, mỗi lần bà cười trông bà trẻ lắm, làm tôi nhớ lại những hình ảnh mà tôi được coi trên báo chí, trông rất trẻ ! Khi bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài từ năm 1963, bà không có một đồng trong túi… Như vậy làm sao bà mua được hai căn nhà ở Paris ? Hai căn nhà là mãi sau này, do một bà bá tước người Ý cho. Mà bà này cho rất là kín đáo, bà Nhu không biết. Thì bà Nhu có một số tiền rất lớn, tôi không biết là bao nhiêu nhưng mà căn hộ đó dù ở trên tầng lầu thứ 11 nhưng cái tòa nhà ở khu đó đắt lắm. Bà nhờ một ông cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle mua giùm hai cái appartement. Có nhiều người đặt câu hỏi, vì sao lại có một số tiền trên trời rớt xuống như vậy, thì vấn đề có nguyên do của nó. Tức là Ngô Đình Trác, con trai lớn của bà lấy một cô vợ người Ý, mà gia đình cô này là một trong những gia đình thế phiệt, vọng tộc, giàu có nhất của nước Ý, thì từ chỗ đó mà ra. Người ta thấy bà sống vất vưởng không có nhà cửa thì có một người cho một số tiền nhưng ẩn danh, không nói cho bà Nhu biết. Mãi đến bốn năm sau, bà kia chết thì bà Nhu mới biết đó là người đã cho mình tiền để mua nhà. Xin phép được tò mò thêm một câu, tên đề trên hộp thư và interphone tại tòa nhà nơi bà sống là bà Trần Lệ Xuân hay là bà Ngô Đình Nhu ? Tôi nghĩ có thể bà ghi tên trên hộp thư là bà Ngô Đình Nhu, vì mỗi lần tôi gửi sách cho bà thì tôi đề là Madame Ngô Đình Nhu, bà đều nhận được hết. Xin cám ơn luật sư Trương Phú Thứ từ Hoa Kỳ đã vui lòng dành thì giờ trao đổi với RFI Việt ngữ hôm nay về bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 31, 2010 7:37:27 GMT 9
Chạnh Nghĩ Về Một “Đệ Nhất Phu Nhân”… Không Ngai Ý định của tác giả khi quyết định viết bài nầy là chợt nhớ những gì Bà Ngô Đình Nhu đã tuyên bố vào đầu thập niên 60, với ước muốn cùng quý bạn đọc suy nghĩ xem có phải là những lời tiên đoán quá đúng về những gì xảy ra trên đất nước triền miên đau thương của chúng ta, sau ngày binh biến 1.11.1963, tất yếu dẫn tới thảm họa 30 tháng Tư 1975 cho cả dân tộc: -"Thầy chùa nướng BBQ" và... Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu tại miền Trung do Thượng tọa Thích Trí Quang chủ xướng sau đó... -"Các sĩ quan Mỹ là những tay phiêu lưu (aventuriers)" và..."Khi đồng minh tháo chạy", bỏ rơi VNCH cho CSBV "làm thịt" sau đó… Ngoài ra, tưởng cũng cần suy nghĩ thêm về sự tranh đấu của Bà chống ly dị, chống tệ trạng 5 thê 7 thiếp để bảo vệ gia đình và để bình quyền nam nữ. Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới, trước đây bị đả kích, bôi bác, xuyên tạc nặng nề. Các phụ nữ VN hải ngoại cũng như trong nước giờ đây tưởng cũng nên điều chỉnh lại cái nhìn về vấn đề nầy: Bà Trần Thị Lệ Xuân phải chăng đã đi bước tiên phong tại VN so với Phong Trào Bảo Vệ Phụ Nữ (Féminisme) phát triễn rộng khắp thế giới ngày nay? Tháng 4 năm 1961, trăm hoa xuân đua nở khoe sắc thắm, kết thành áo choàng ngoài muôn màu bao phủ những bức tường xám xịt, ám khói đen của Viện Pháp-Việt (InstitutFranco-Vietnamien), nằm trong quartier latin de Paris: Là nơi trú ngụ của nhóm 16 sinh viên VN trong đợt đầu được chính phủ VNCH chấp thuận cho xuất ngoại du học ngày 26 tháng 10 năm 1960 (Nghị định số 988-TTP/KH ngày 8 tháng 10 năm 1960 của Phủ Tổng Thống) -gồm 10 nam nữ sinh viên các ban Triết Học, Pháp Văn, Sử Địa, năm thứ 3 Đại Học Sư Phạm Sài Gòn và Đà Lạt, 1 nữ sinh viên sang làm luận án Tiến sĩ, cùng 5 nam nữ sinh viên theo học các trường đào tạo kỹ sư hóa học, cơ khí, thủy điện, công kỹ nghệ, với học bổng do chính phủ Pháp cấp sau một thời gian khá dài hai nước gián đoạn “giao lưu văn hóa”, hậu quả của không khí ngoại giao nguội lạnh từ khi Tây bị Mỹ hất cẳng khỏi VN- ngôi nhà hai tầng với sous-sol, tọa lạc số 269 rue Saint-Jacques nầy (góc Feuillantines, gần Hôpital du Val-de-Grâce, sát vách Schola Cantorum, trường dạy khiêu vũ Ballet, cách Trường Sorbonne, cùng đường, không xa lắm) đang sửa soạn tiếp đón các vị thượng khách từ VN sang thăm viếng. Nhóm anh chị em sinh viên chúng tôi chỉ được thông báo về vụ tiếp tân nầy vào giờ chót, nên phải tất bật bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các thứ. Tôi được giao phó phụ trách phần âm thanh cho khách “đàm đạo” với sinh viên và cho buổi dạ vũ sau đó, cũng như trang hoàng hoa đăng cho buổi dạ tiệc -rất đơn sơ, với thức ăn nhẹ- trong khuôn viên tuy nhỏ bé nhưng rất xinh xắn,ấm cúng, phía sau Institut… G.S. Giám đốc Viện Gustave Meillon và phu nhân -cả hai đều nói tiếng Việt lưu loát, ông giọng miền Bắc, bà, giọng miền Nam- cùng cô con gái và Ban Điều Hành Institut nghênh đón, hướng dẫn phái đoàn khách quý về hướng khuôn viên lộ thiên. Tháp tùng Ông Cố vấn và Bà Ngô Đình Nhu -nhũ danh Trần Thị Lệ Xuân- cùng ái nữ Ngô Đình Lệ Thủy -17 tuổi, đẹp nhu mì- có Ông Đại sứ và Bà Phạm Khắc Hy cùng cô con gái cưng tên Uyên, trang lứa với Lệ Thủy, cũng khá đẹp, nhưng cung cách hầu như không còn chút Á Đông nào hết. Kinh nghiệm đương đầu với đám sinh viên VN thân cộng thường lỡn vỡn trước phạn điếm đại học (restaurant universitaire “Maison des Mines”), đối diện Institut -nơi anh chị em sinh viên chúng tôi đến dùng bữa trưa và cơm tối sau giờ học- để gây sự, đôi khi đưa tới xô xát, tôi linh cảm thế nào chúng cũng tìm cách trà trộn vào buổi tiếp tân để phá thối… Quả nhiên! Đoán biết chúng sẽ bị nhận diện ngay, nếu chúng mưu toan len lỏi vào Institut -bởi chúng thường chận đường nhét truyền đơn chống VNCH vào tay chúng tôi trước cửa quán ăn sinh viên; và nếu chúng tôi vứt bỏ không cần xem là bị chúng áp lại hành hung tức khắc - chúng bèn đổi chiến thuật: đưa các cảm tình viên loại “gộc” của CSBV, bên ngoài trông rất đạo mạo, “trí thức”, ăn mặc rất “chic”, nói năng chững chạc, hòa nhã…vào tham dự buổi tiếp tân! Chính tôi cũng không rõ những tay nầy thiên tả “có bằng cấp”; không chừng dám là cán bộ CS chính hiệu con nai vàng nữa đấy! Trông họ rất đứng đắn, sang trọng, tiền bạc rủng rỉnh, tiêu xài rất “mát tay”. Họ thường lân la tìm cách giúp đỡ những sinh viên VN bị tạm cúp sổ chuyển ngân vì ngã theo CS tuyên truyền chống VNCH và hăng hái tham dự các sinh hoạt văn nghệ hay du ngoạn do các bộ phận CSBV trá hình tổ chức, nhằm thu phục cảm tình đám sinh viên nhẹ dạ rời xa quê hương khá lâu, không am tường hiện tình đất nước, với hậu ý khuyến dụ đám “nai tơ” nầy trở về miền Bắc phục vụ sau khi thành tài - những con nai tơ đã được miền Nam VN ưu đãi tài trợ cho xuất ngoại tiếp tục dồi mài kinh sử. Thế đấy: một lũ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” mà vẫn hiu hiu tự đắc mình “cao siêu” hơn bọn sinh viên theo “Diệm-Mỹ”! Các đợt sinh viên kế tiếp do VNCH cho xuất ngoại hưởng học bổng của chính phủ Pháp nâng cao nhân số cư trú tại Institut, khiến chúng tôi cảm thấy đỡ lẻ loi trước sự hung hãn của bọn sinh viên theo VC luôn chờn vờn trước Maison des Mines: Những bậc đàn anh, như BS Nguyễn Phước Đại, GS Trần Văn Tấn, GS Hồ Thới San, v.v… trước đây đã từng du học tại Pháp, Bỉ… sang đây chuẩn bị tiến thêm về học vị quả thực có giúp chúng tôi thấu đáo hơn các mưu chước quỹ quyệt của CSBV nhắm vào giới sinh viên VN mới chân ướt chân ráo tới kinh đô ánh sáng. Dĩ nhiên , các giới chức trách nhiệm an ninh cho “thượng khách” biết trước sẽ có “địch thủ” thâm nhập, nhưng vì nơi đây là xứ tự do, không lý do gì ngăn cản họ tới tham dự cuộc tiếp tân dành cho giới chức cao cấp của VNCH, một chính thể…tự do! Chúng tôi chỉ còn biết hy vọng ông cố vấn Ngô Đình Nhu đủ bản lĩnh và thao lược đương đầu với các phần tử tập tành trung kiên với chế độ độc tài đảng trị Bắc Bộ Phủ! May mắn thay, lòng tin tưởng vào khả năng đối đáp của vị Cố vấn Tổng Thống VNCH trước những câu hỏi hốc búa của hai sinh viên “yêu nước” - yêu XHCN! - trong khuôn viên Institut được đền bù xứng đáng: - Thưa ông Cố vấn, sinh viên yêu nước thứ nhứt hỏi. Xin ông vui lòng xác nhận hay phủ nhận chuyện ông cho chuyển ngân bất hợp pháp hai tỷ đô-la sang một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Có phải ông định dùng số tiền nầy kinh tài để củng cố chế độ “gia đình trị” do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ xướng chăng? Có tiếng vỗ tay lét đét từ phía “cò mồi” do các phần tử “yêu nước” gài. Ông Cố vấn chờ tiếng vỗ tay chấm dứt, điềm tĩnh trả lời: - Có! Chúng tôi có một ngân khoản ở Thụy Sĩ. Nhiều hơn con số anh đưa ra. Tôi không tiết lộ con số chính xác vì nó liên quan tới An Ninh Quốc Phòng. Đó là một ngân quỹ bí mật. Muốn sử dụng phải hội đủ 5 nhóm mật mã của 5 vị trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mà tôi là một thành viên. Có lẽ anh ở ngoại quốc quá lâu, nên không theo dõi hiện trạng đất nước. Người Mỹ đang áp lực chúng tôi theo đường lối chính trị của họ. Chúng tôi không muốn hoàn toàn lệ thuộc vào họ, đánh mất chủ quyền quốc gia. Nên quỹ bí mật nầy nhằm đảm bảo sự độc lập của chúng tôi trong việc điều hành quốc sự… Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng điều anh thắc mắc… Cử tọa không vỗ tay rầm rộ, nhưng gật gù tán thưởng. Sinh viên “yêu nước” bẽn lẽn rời khuôn viên Institut. - Thưa ông Cố vấn, sinh viên “yêu nước” thứ hai sừng sõ “chất vấn” tiếp. Ông vẫn chưa trả lời dứt khoát Tổng Thống Ngô Đình Diệm có áp dụng chế độ “gia đình trị” tại miền Nam không? Lại có tiếng vỗ tay lét đét! - Như ông bạn anh vừa hỏi tôi, tôi nghĩ rằng anh cũng đã xa quê hương rất lâu. Tôi xin tóm lược hiện tình đất nước từ ngày Ngô Tổng Thống về chấp chánh đến nay, để đặt câu hỏi ngược lại với anh: Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm, về nước năm 1954 khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục các giáo phái có thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh, nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng? Sinh viên “yêu nước” thứ hai âm thầm lủi mất. Mọi người lần lượt rời khuôn viên bước vào hội trường tham dự dạ vũ... *** Ông Tuyên, tùy viên văn hóa (attaché culturel) Tòa Đại Sứ VNCH có lẽ là người duy nhứt trong cơ cấu đại diện quốc gia được anh chị em sinh viên chúng tôi quý mến. Ông rất cởi mở, chia sẻ và cảm thông những khó khăn của sinh viên du học, giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của họ nơi xứ người. Nhờ vậy chuyện mất thiện cảm của kiều bào trước thái độ ít nhiều lãnh đạm, nếu không muốn nói là kiêu căng, hách dịch của các viên chức ngoại giao tại tòa đại sứ giảm sút thấy rõ từ lúc ông nhận trách nhiệm. Cũng nhờ ông chăm chú cải thiện việc tiếp đón thực khách mà số sinh viên lâu nay thường la cà ở tiệm ăn khu Maubert của CSBV dần dà trở lại quán cơm Việt Nam đường Monge của VNCH! Bà Ngô Đình Nhu và ái nữ Ngô Đình Lệ Thủy Nhưng trong buổi tiếp tân nầy, trông ông có vẻ bối rối ra mặt trước phản ứng bất bình của một sinh viên VN đến mời cô con gái cưng của ông Đại sứ ra sàn nhảy, bị cô khước từ với lý do cô không biết… nhảy. Nhưng sau đó cô ta lại “nhảy” liên tu bất tận với… sinh viên Tây! Trong khi đó tôi cũng đến lịch sự mời ái nữ ông bà Cố vấn khiêu vũ và cũng bị từ chối, cũng với lý do rất lễ phép: - Thưa anh! Rất tiếc Lê Thủy không biết khiêu vũ… Nhưng khác hơn cô Uyên, Lệ Thủy không khiêu vũ với ai cả. Tôi không cảm thấy bị mất mặt nhưng anh bạn sinh viên VN của tôi thì cho rằng anh bị xúc phạm nặng nề… Trước tình thế căng thẳng có thể gây bất lợi cho việc thu phục nhân tâm của chính quyền VNCH tại hải ngoại, ông bà Đại sứ vẫn không chút nao núng… Hầu như ông Đại sứ quên mất trách nhiệm của ông trước một “rối rắm” (incident) bất ngờ. Và… không ai ngờ Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu đã nhanh trí ra tay làm công việc của ông Đại sứ VNCH! Với một phong cách “ngoại giao đầy nữ tính” (diplomatiquement féminine) hết sức duyên dáng, Bà Cố vấn nhẹ nhàng giải tỏa bế tắc (dénouer l’impasse): - Lệ Thủy! Ban chiều con đi Kermesse (chợ phiên) bắn bia trúng được hai chai rượu. Mau đem ra mở mời các anh đi con! Lệ Thủy đích thân khui hai chai rượu đỏ, rót mời “các anh”. Con nhà gia giáo có khác! Một điểm son cho người mẹ quá tinh tế trong giao tiếp… Vì Tổng thống Ngô Đình Diệm suốt đời độc thân, nên do vị thế khá đặc biệt của người phụ nữ trong xã hội VN thời đó, Bà Ngô Đình Nhu - vừa là vợ Ông Cố vấn, vừa là Dân biểu Quốc hội - mặc nhiên được thiên hạ coi như “Đệ Nhất Phu Nhân”…không ngai! Nhờ sự “can thiệp” khéo léo của người phụ nữ đã có thời dạy piano cho các nữ sinh Couvent des Oiseaux (Đà Lạt), sự căng thẳng chùng hẵn và không khí vui tươi trở lại bao trùm cả hội trường. Chủ, khách trò chuyện râm rang, thoải mái. Khi hội trường trở lại hoang vắng, tôi liếc nhanh đồng hồ: 3 giờ sáng! Cũng may là… Chúa Nhật! Khỏi phải thức sớm! *** Có tiếng gõ cửa phòng tôi. Còn ngáy ngủ, tôi vẫn cố ngồi dậy: người gác dan Institut báo “une dame vietnamienne” muốn gặp sinh viên. Anh gõ cửa tất cả các phòng, không ai trả lời; chắc họ đi chơi hết rồi. May thay tôi chưa “sortir”. Hỏi có biết danh tánh người đến tìm gặp sinh viên chăng; được trả lời người ấy chỉ nói đêm qua có đến dự tiếp tân… Gấp rút làm vệ sinh, thay áo quần mới, tôi tự hỏi “Madame” nào bí ẩn dữ vậy, chẳng lẽ… Vô lý. Bởi nếu đúng như tôi nghĩ thì phải nghi lễ rườm rà, tiền hô hậu ủng chứ! Từ thang lầu vội vã bước xuống, tuy khách quay lưng về phía tôi, ngắm nhìn dàn hoa oeillet hai bên lối đi dẫn tới cổng Institut, tôi muốn đứng tim: dáng dấp nầy chỉ có thể của một người rất “tinh tế”… Nhưng sao không mặc áo dài cổ hở - dấu ấn độc đáo của “người ầy”? Quần tây sậm, sơ mi trắng giản dị, tóc buông thả phủ vai như Graziella, chân mang ballerines… Tôi tiến gần đến độ ngửi được hương tóc thoang thoảng mà người thiếu phụ vẫn chưa quay mặt lại vì mãi mê ngắm hoa. Vẫn giữ khoảng cách tối thiểu, tôi tuyệt đối im lặng cho tới khi “phu nhân” xoay người lại… - Kính chào và hân hạnh được đón tiếp Bà Cố vấn… Quả thật khó khăn lắm tôi mới nói được suông câu, trong lòng bán tin bán nghi có phải mình chào đón đúng người chăng vì… “Bà Cố vấn” hôm nay sao hình như…quá trẻ? Tôi cảm thấy như đang tiếp chuyện với một nữ đồng môn ở Sorbonne! Tôi hỏi sao không ai báo trước cho chúng tôi bà đến thăm. Bà cho biết muốn đến tự nhiên với anh chị em sinh viên, muốn đích thân tìm hiểu cuộc sống chúng tôi xem có gì cần giúp đỡ cải thiện thêm chăng. Sau khi hướng dẫn bà đi quan sát phòng ốc, tiện nghi vệ sinh, v.v… tôi thực sự quý mến và cảm phục lòng ưu ái chân thành của bà đối với đám sinh viên xa quê hương, còn bỡ ngỡ trước những khác lạ trong nếp sinh hoạt thường nhật nơi xứ người. Tình thật tôi không cảm thấy chút kiêu căng, hách dịch, xa cách, “quan liêu” nào toát ra từ người phụ nữ rất phong lưu, rất có “classe” nầy! Có lẽ phần nào bị ảnh hưởng về cách phục sức y như sinh viên chúng tôi của vị khách quý bất chợt đến, tôi miên man liên tưởng tới hình ảnh người nữ một thời thanh thoát ngồi trước dương cầm, thả hồn phiêu lãng theo đôi bàn tay tuyệt trần bay lượn trên các phím ngà, cho hàng chuỗi giai điệu réo rắt vang lộng khắp các hành lang Couvent des Oiseaux xứ Hoa Đào thơ mộng thuở nào… **** Hai mươi tám năm sau, từ dạo tiễn Đệ-Nhất-Phu-Nhân-Không-Ngai ra cổng Institut Franco-Vietnamien, lặng nhìn “Madame” đơn độc đếm bước về hướng métro Port Royal dưới ánh nắng xuân vàng ấm, tôi có dịp trở lại con đường Saint-Jacques đầy ắp kỷ niệm, sau khi ngồi tù cải tạo CS năm năm, vượt biển lưu lạc sang Xứ Tuyết Canada định cư. Tiệm Tabac, góc Saint-Jacques-Feuillantines, nơi bọn sinh viên chúng tôi thường đến điểm tâm trước khi đi cours vẫn còn, nhưng chắc cũng đã nhiều phen đổi chủ. Cũng nơi nầy, 28 năm về trước, tôi dự tính mời Madame-khách-quý ghé qua để nghe giọng lanh lảnh của nữ chủ tiệm Tabac duyên dáng lập lại “còm-măng” quá quen thuộc của tôi: - Một cà-phê sữa to và 2 miếng bánh mì nướng! (Un grand crème et deux tartines!) Nhưng vào giờ chót tôi bỏ ý định vì sực nhớ phương vị rất “bề thế” của Madame, sợ không tiện lắm. Schola Cantorum vẫn bất biến, luôn kín cổng cao tường. Trái lại ngôi nhà mang số 269 St-Jacques, tuy vẫn còn ở nguyên vị trí, đã hoàn toàn thay hình đổi dạng, từ ngoài tới trong! Bảng đồng mạ vàng khắc hàng chữ xanh Institut Franco-Vietnamien được thay thế bằng tấm gỗ sơn mài, tô hàng chữ đỏ chói Maison du Sud-Est Asiatique! Phòng ốc bên trong cũng đã đổi thay toàn diện . Và hình như chẳng có sinh viên VN nào trú ngụ cả. Toàn sinh viên Căm-pu-chia và một số ít sinh viên Lào. Sau khi tiếm đoạt quán ăn đường Monge - mà CSBV đổi tên thành Foyer Vietnamien như đã đổi tên Sài Gòn - nghe đâu Hội Thân Hữu Pháp Việt (được tái lập từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa) bị CHXHCNVN áp lực tháo gỡ bảng hiệu Institut Franco-Vietnamien làm xốn mắt Bắc Bộ Phủ. Họ muốn xóa bỏ mọi dấu tích của VNCH trên đất Pháp… -o-o-o- Paris, một thuở… Sài Gòn, một thời... Khi Tháng Tư còn Xanh... Khi Tháng Tư chưa Đen trên đất nước, chưa sầu thảm, uất nghẹn trong ký ức ray rứt, trăn trở của người dân Việt, trong cũng như ngoài nước... Hãy hình dung cảnh ngộ người vợ - đang công tác ngoài nước, rụng rời nhận hung tin chồng và anh chồng bị thảm sát trong cuộc binh biến 1.11.1963 tại Sài Gòn - chưa kịp khô nước mắt, đã phải sụt sùi lau lệ khóc đứa con gái Lệ Thủy tử nạn thảm khốc, chưa đầy một năm sau chịu tang chồng... Suốt 47 năm, người đàn bà đau khổ sống ẩn dật như một nữ tu, không hề lên tiếng trước những ồn ào náo nhiệt từ loa phát thanh của các “đấng” anh hùng hải ngoại, chuyên đấu võ mồm, mắc chứng “nổ” không ngưng nghỉ (non-stop), tự đánh bóng ngoài những giới hạn có thể chấp nhận! Nghe đâu người đàn bà rất tự trọng nầy dự tính viết hồi ký. Hàng ngũ anh hùng dỏm chắc chắn ít nhiều đang bị chấn động… Ném một hòn sỏi xuống giòng sông, theo dõi các vòng tròn từ từ tan loãng, tôi ngước nhìn trời cao thầm cầu nguyện cho người đàn bà bạc phước, một thời Đệ Nhất Phu Nhân không ngai của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, nhưng mãi mãi vẫn ngự trị trong tâm hồn tôi như Một Phụ Nữ Việt Nam phi thường… Thôn trang Rêu-Phong, Tháng Tư 2010 Lê Tấn Lộc
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 13, 2011 7:35:56 GMT 9
Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào ? (TL 191) 05/04/2005 Nguyễn Gia Kiểng * Ngô Đình Diệm do chính phủ Pháp đưa lên cầm quyền và được Pháp hỗ trợ * * Tại sao Hoa Kỳ quyết tâm lật đổ Ngô Đình Diệm ? *Trong Thông Luận số tháng 11-2004, tôi có viết bài "Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm". Sau đó vài ngày tôi nhận được thư của ông Trần Minh Châm, một người đàn anh quí mến của tôi và cũng là một người rất gần gũi với gia đình họ Ngô, đặc biệt là với ông Ngô Đình Cẩn. Tôi không khỏi bỡ ngỡ khi mở thư này : đó chỉ là hai tờ photocopy, mỗi tờ là một trang của một thư viết tay bằng tiếng Pháp, tuồng chữ hai thư rất khác nhau. Đọc xong, tôi hiểu là tôi vừa nắm được "cái mảnh còn thiếu" (la pièce manquante) mà tôi vẫn tìm kiếm về chính quyền Ngô Đình Diệm. Tôi gọi điện thoại cho ông Châm, và vài ngày sau được trao toàn bộ hai lá thư này. Tôi không khỏi bâng khuâng : tại sao một sự kiện quan trọng như vậy mà lại hoàn toàn không ai biết? Cho tới một thời gian gần đây, hầu như đối với mọi người, ông Diệm đã được người Mỹ đưa lên cầm quyền trong chủ trương hất người Pháp ra khỏi Đông Dương. Một vài tác giả còn thêm rằng ông Diệm đã được phe Công giáo Mỹ, tiêu biểu là hồng y Spellman, đỡ đầu nên đã giành được sư ủng hộ của Mỹ. Người ta tin như vậy chỉ vì không có giả thuyết nào khác chứ thực ra việc Mỹ chuẩn bị Ngô Đình Diệm như một giải pháp của họ có nhiều điều khó hiểu. Ông Ngô Đình Nhu, con người chủ chốt của chế độ, không tới Mỹ bao giờ và cũng không hề quen biết một người Mỹ nào trước khi lên cầm quyền. Cá nhân ông Ngô Đình Diệm chỉ sang Mỹ hai lần, lần đầu năm 1950 và lưu lại vài tháng nhưng không được chính khách Mỹ nào tiếp cả ; lần thứ hai năm 1951, ông ở lại lâu hơn và có đi nói chuyện ở một số trường đại học, nhưng cũng không đi đến kết quả nào vì ông không có tài diễn thuyết và rất kém về tiếng Anh. Ông trở lại Paris cư ngụ tại nhà một người quen, rồi sau đó, tháng 5-1953, ông sang Bỉ sống trong một dòng tu Công giáo cho đến ngày được mời ra cầm quyền. Như thế chứng tỏ rằng ông Diệm chỉ có rất ít liên hệ với Hoa Kỳ. Hơn nữa, việc ông vào một dòng tu và không tiếp xúc với ai cũng chứng tỏ ông đã bỏ cuộc. Người ta nói nhiều đến đại tá CIA Lansdale như là một nhân vật Mỹ nhiệt tình ủng hộ ông Diệm, nhưng Lansdale đã hoạt động tại Việt Nam từ lâu và cũng chỉ quen biết với hai ông Diệm và Nhu sau khi họ đã lên cầm quyền. Như vậy ông Ngô Đình Diệm khó có thể là giải pháp của người Mỹ. Sau này các tài liệu được công khai hóa của chính phủ Mỹ cũng chứng tỏ Mỹ không hề quan tâm đến ông Diệm trước khi ông lên cầm quyền. Không những thế, họ còn có ý định lật đổ ông vào tháng 4-1955 giữa lúc tình hình đặc biệt gây cấn giữa ông Diệm và các giáo phái. Họ đã chỉ đổi ý và ủng hộ ông Diệm sau khi ông Diệm, trước sự bất ngờ của họ, đánh bại quân Bình Xuyên của Bảy Viễn một cách nhanh chóng và dễ dàng. Người đầu tiên cải chính rằng ông Diệm không do người Mỹ đưa lên cầm quyền là ông Ngô Đình Luyện, em ruột hai ông Diệm và Nhu. Theo ông Luyện thì chính Bảo Đại đã tự lấy quyết định bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Vì giải thích của ông Luyện phù hợp với những dữ kiện mà Hoa Kỳ công bố sau này nên tất cả các tác giả viết về ông Diệm từ hơn mười năm qua đều chấp nhận. Những nhân vật Việt Nam đã tình cờ được biết những sự kiện lịch sử có đặc tính là họ biết có những điều rất sai và ảnh hưởng tới lý luận của nhiều người nhưng không thấy cần phải đính chính. Ông Ngô Đình Luyện đã chỉ kể lại cho những người mà ông quen biết. Tôi may mắn là một trong những người được ông Luyện kể lại giai đoạn ông Diệm được chỉ định làm thủ tướng, có lẽ chi tiết hơn mọi người khác vì tôi đặt nhiều câu hỏi cho ông. Theo ông Luyện thì chính ông đã được ông Bảo Đại tiếp xúc và yêu cầu chuyển lời mời ông Diệm làm thủ tướng. Ông Bảo Đại nói rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng nên cần một người đủ dũng cảm, sẵn sàng hy sinh tính mạng để cơ nghiệp nhà Nguyễn không chấm dứt một cách quá tầm thường, và ông Diệm có thể là người đó. Điều này có lẽ ông Luyện không nói với ai nên không thấy tác giả nào viết ra. Cũng theo ông Luyện, chính vì nghĩ rằng cơ nghiệp nhà Nguyễn không còn gì nên ông Bảo Đại đã chấp nhận trao toàn quyền cho ông Diệm. Ông Luyện cũng kể thêm một chi tiết khôi hài là chính ông nhận quyết định này từ tay ông Bảo Đại đang đánh bạc tại sòng bài Palm Beach ở Cannes, một thành phố nghỉ mát miền Nam nước Pháp. Ở đây cũng xin mở một ngoặc đơn để nói về quan hệ đặc biệt giữa hai ông Bảo Đại và Ngô Đình Luyện. Hai người rất thân nhau vì ông Luyện được chọn ngay từ hồi mới 10 tuổi để được nuôi dạy chung với ông Bảo Đại, cho thái tử có bạn. Hai người cùng được gửi đi Pháp du học từ thời thơ ấu, sống với nhau và trưởng thành cùng với nhau. Tóm lại, ông Ngô Đình Luyện khẳng định là quyết định đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền hoàn toàn do ông Bảo Đại, chính phủ Hoa Kỳ hoàn toàn không có vai trò gì và chỉ biết đến ông Diệm sau khi ông đã nhận chức thủ tướng. Còn Pháp thì không những không giúp gì mà còn phá ông Diệm. Tôi đã thảo luận nhiều với ông Luyện về chuyện này, đặc biệt là vào ngày 1-11-1986 khi tôi cùng với ông đi dự lễ giỗ ông Diệm vào buổi sáng, sau đó chúng tôi nói chuyện suốt buổi chiều và buổi tối, đến gần nửa đêm tôi mới đưa ông về nhà. Tôi tin sự thành thực và chính xác của những gì ông Luyện kể, hơn thế nữa không ai thân cận với cả ông Bảo Đại lẫn ông Diệm bằng ông để biết rõ sự thực. Tuy nhiên tôi vẫn thấy nó không hợp lý. Trước hết ông Diệm đã giành được thắng lợi một cách quá dễ dàng trong giai đoạn rất gay cấn từ tháng 9-1954 đến tháng 5-1955, khi ông bị tướng Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc Gia Việt Nam, và các lực lượng vũ trang Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo chống đối. Ông đã trục xuất được Nguyễn Văn Hinh vào tháng 11-1954, đánh đuổi được quân Bình Xuyên trong một vài ngày vào cuối tháng 4-1955, thu phục được Trịnh Minh Thế, vô hiệu hóa được Trần Văn Soái (Năm Lửa) và Nguyễn Thành Phương, mặc dù liên minh chống đối ông được cả chính phủ Pháp lẫn Bảo Đại yểm trợ, trong khi ông chỉ có trong tay một vài tiểu đoàn. Tướng Paul Ely, tư lệnh quân đội Pháp, phải rời Việt Nam vào tháng 6-1955. Cần nhắc lại là Mỹ đã chỉ yểm trợ ông Diệm sau khi ông đã toàn thắng. Vậy phải giải thích thế nào ? Tôi không tin là thắng lợi này do bản lĩnh phi thường của hai ông Diệm và Nhu vì họ đã tỏ ra rất kém sau đó. Một điều cũng khó hiểu là mặc dù chống Pháp, chính quyền của ông Diệm thuần túy là một sự tiếp nối rất bình thường của bộ máy cầm quyền mà người Pháp để lại, rất khác với một chính quyền đặt nền tảng trên tinh thần quốc gia dân tộc. Các hạ sĩ quan, trung úy, đại úy của quân đội Pháp được thăng nhanh chóng lên cấp tướng để cầm đầu quân đội Việt Nam Cộng Hòa, các đốc phủ sứ, tri phủ, tri huyện được lưu dụng và trọng dụng. Những người đã từng làm công an thời Pháp, đã truy lùng, bắt bớ, tra tấn những người tranh đấu cho độc lập trở thành nòng cốt của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ngay cả cái máy chém và đội đao phủ đã từng hành quyết những người yêu nước cũng được giữ lại. Con cái các bộ trưởng và cả con cháu họ Ngô tiếp tục học trường Pháp (hình như không có một bộ trưởng nào của ông Diệm cho con học chương trình Việt cả). Hơn thế nữa, chính quyền Ngô Đình Diệm còn tiếp tục đàn áp thô bạo các đảng phái quốc gia chống cả thực dân Pháp lẫn cộng sản như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Mặt khác, tại sao ông Bảo Đại đã coi cơ nghiệp của nhà Nguyễn là hết và đã trao toàn quyền cho ông Diệm sau này lại trở mặt đòi cách chức ông Diệm ? Tôi tin là ông Ngô Đình Luyện đã thuật lại đúng những lời ông Bảo Đại, nhưng không tin là ông Bảo Đại đã nói thực, vì một lý do giản dị là nếu ông biết nghĩ tới danh dự của nhà Nguyễn thì ông đã không sống nếp sống trụy lạc và bê tha như thế. Đối với tôi, Bảo Đại là một người hoàn toàn không có một quan tâm nào với bất cứ ai, ngoài cờ bạc và ăn chơi. Sau cùng, để chỉ giới hạn trong một vài điểm chính, tại sao chính quyền Pháp mặc dù chống ông Diệm, lại bênh vực ông Diệm trong việc từ chối tổng tuyển cử theo đòi hỏi của Hà Nội ? Tại sao chính quyền Pháp, dưới chính phủ xã hội Guy Mollet, lại lấy quyết định chỉ nhìn nhận một chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như là đại diện duy nhất của Việt Nam ? Nếu giải thích là do áp lực của Hoa Kỳ thì tại sao sau này họ lại bênh vực Hà Nội và chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam ? Tóm lại, có những điều rất khó hiểu, thậm chí vô lý. Tôi vẫn nghi là có một cái gì đó còn thiếu và cần được phát giác ra. Tôi đã trình bày những điểm trên, và nhiều điểm khác, với ông Luyện. Ông Luyện nhún vai trả lời ngắn gọn : "logique ou pas, c'est la vérité" (hợp lý hay không, đó là sự thực). Trở lại với hai lá thư mà ông Trần Minh Châm giao cho tôi. Một lá thư là của ông Jacques Bénet, bạn thân của ông Ngô Đình Nhu, gửi cho bà Nhu đề ngày 18-10-2004, thư thứ hai đề ngày 20-4-1955 là của ông Nhu gửi ông Bénet. Trong thư gửi bà Nhu, tình cờ nhân một xung khắc giữa hai người, ông Bénet nhắc lại rằng chính ông đã là đầu mối đưa ông Diệm lên cầm quyền (trong khi bà Nhu thì tin rằng ông Diệm đã lên cầm quyền là do ý Chúa). Ông Bénet thuật lại rằng vào khoảng tháng 3-1954, khi trận Điện Biên Phủ đã chứng tỏ sự nguy ngập của Pháp, ông Ngô Đình Nhu đã nảy ý kiến thuyết phục chính phủ Pháp, lúc đó là một chính phủ cánh hữu do ông Laniel làm thủ tướng, đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền. Ông viết : "(…) Chồng bà, Ngô Đình Nhu, đã có một ý kiến thiên tài, chắc chắn là do Chúa khiến, là lúc này, vào tháng 3-1954 giữa lúc trận Điện Biên Phủ đang diễn ra, là lúc để thuyết phục chính phủ Pháp (chính phủ Laniel-Bidault-Reynaud) nên mau chóng đưa Ngô Đình Diệm lên cầm quyền" (1). Ông Nhu đã cử bạn ông là ông Trần Chánh Thành sang Paris và nhờ ông Jacques Bénet giúp đỡ để tiếp xúc và thuyết phục chính quyền Pháp về đề nghị này. Ông Bénet đã làm được việc này nhờ một người bạn tên là Antoine Ahond quen thân nhiều nhân vật quan trọng trong chính quyền Pháp, đặc biệt là các ông Germain Vidal, chánh văn phòng thủ tướng, ông Bourgenot, bộ trưởng tại phủ thủ tướng, và ngoại trưởng Bidault. Mặt khác, chính ông Trần Chánh Thành cũng tỏ ra xuất sắc. Nhờ thế mà ông Diệm đã được chính quyền Pháp chấp nhận và ép buộc ông Bảo Đại phải chấp nhận. Ông Bénet viết như sau : "Điều này (việc đưa ông Diệm lên cầm quyền) đã có thể làm được chủ yếu là vì chính phủ Pháp lúc đó có nhiều phương tiện khác nhau để gây áp lực quyết định đối với Bảo Đại" (2). Như vậy, theo ông Bénet thì rõ ràng là chính phủ Pháp đã chọn giải pháp Ngô Đình Diệm và buộc Bảo Đại phải chấp nhận. Có lẽ cũng vì ông được Pháp chọn lựa và áp đặt nên ông Diệm đã thừa thắng xông lên đòi ông Bảo Đại phải trao toàn quyền. Ông Bảo Đại quá lệ thuộc Pháp để có thể cưỡng lại. Bí mật này có lẽ chỉ có hai người là ông Nhu và ông Bénet biết rõ mà thôi, ông Trần Chánh Thành biết giai đoạn đầu nhưng không biết rõ khúc sau, còn chính ông Diệm có lẽ cũng không biết rõ giai đoạn đầu. Lá thư thứ hai, của ông Nhu gửi ông Bénet, khẳng định một cách rõ ràng ông Diệm hành động trong một thỏa thuận với Pháp. Thư đề ngày 20-4-1955, giữa lúc tình hình đang cực kỳ căng thẳng với lực lượng Bình Xuyên. Tám ngày sau cuộc chiến bùng nổ và lực lượng Bình Xuyên bị đánh bại nhanh chóng hầu như không kháng cự, Bảy Viễn chạy về Rừng Sát để rồi năm tháng sau bị tấn công trong chiến dịch Hoàng Diệu, do đại tá Dương Văn Minh chỉ huy, phải bỏ chạy sang Pháp. Ít lâu sau, tướng Hòa Hảo Ba Cụt ở Long Xuyên cũng bị truy kích, rồi bị bắt trong lúc ra thương thuyết để đầu hàng và bị chém đầu. Trong thư này ông Nhu yêu cầu ông Bénet vận động để chính quyền Pháp thực hiện khẩn cấp một kế hoạch đã được dự trù. Ông Nhu viết : "Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn" (3). (Trong thư ông Nhu gạch dưới để nhấn mạnh đoạn này, ông Nhu xưng hô mày, tao với ông Bénet vì hai người rất thân nhau). Nhưng "chiều hướng này" là chiếu hướng nào ? Trong thư ông Nhu nói khá rõ là phải nắm được quân đội quốc gia (do Nguyễn Văn Hinh làm tổng tham mưu trưởng) và dẹp các giáo phái vũ trang, để sau đó tổ chức tuyển cử. Ông Nhu cũng than phiền là tướng Ely (tư lệnh quân đội Pháp tại Việt Nam) là một con người tiêu cực và thiếu quả quyết. Một cách hàm ý, ông yêu cầu chính phủ Pháp triệu hồi tướng Ely. Không đầy hai tháng sau tướng Ely về Pháp. Tất cả trở thành rõ ràng. Ông Diệm lên cầm quyền do một kế hoạch của Pháp và ông đã được Pháp giúp đỡ một cách tận tình, dù kín đáo. Chính nhờ sụ giúp đỡ này mà ông Diệm đã toàn thắng. Tất cả là một kịch bản đã được sắp đặt. Việc ông Diệm tỏ ra chống Pháp và ngược lại Pháp tỏ ra chống ông cũng chỉ là một kịch bản. Ông Nhu viết : "Không thể lập lại sai lầm của giai đoạn 1945-1954. Nếu chỉ được phương Tây yểm trợ chúng ta sẽ chắc chắn thua cộng sản tại châu Á. Phải có hậu thuẫn của nhân dân Việt Nam và cảm tình của các nước châu Á" (4). Ông Bảo Đại đã không hiểu kịch bản này, khi thấy có sự căng thẳng bề ngoài giữa Pháp và Ngô Đình Diệm ông đã tưởng là có thể dựa vào Nguyễn Văn Hinh, Bảy Viễn và các giáo phái để lật ông Diệm. Chính ông đã bị truất phế. Cũng cần nói thêm là chiến dịch Hoàng Diệu tấn công vào Rừng Sát do đại tá Dương Văn Minh chỉ huy chỉ là một dàn cảnh. Không hề có giao tranh. Pháp đã chuẩn bị sẵn để đem Bảy Viễn đi khỏi Việt Nam. Bây giờ người ta có thể hiểu tại sao ông Diệm đã trọng dụng nhân sự của Pháp để lại, bảo vệ các quyền lợi kinh tế của người Pháp, duy trì văn hóa Pháp, và ngược lại tại sao chính quyền Pháp sau đó đã chỉ nhìn nhận chính quyền Ngô Đình Diệm mà không nhìn nhận chính quyền Hồ Chí Minh. Việc ông Diệm và ông Nhu bí mật tiếp xúc với phe cộng sản trước khi bị lật đổ cũng nằm trong chủ trương của Pháp. Và người ta cũng hiểu luôn tại sao sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cảm tình của Pháp lại dần dần hướng về Bắc Việt. Còn một câu hỏi khác. Tại sao chính quyền Kennedy lại quyết tâm lật đổ ông Diệm cho bằng được ? Họ không chỉ ủng hộ các tướng lãnh để lật đổ ông Diệm, họ đã trả tiền cho các tướng để lật ông. Ông Trần Văn Đôn, trong hồi ký "Việt Nam Nhân Chứng", đã nhìn nhận là trung gian của Mỹ đã mua chuộc các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa, ông trưng cả các biên lai nhận tiền (một trong những biên nhận này là của ông Nguyễn Văn Thiệu, nhận một triệu đồng). Nhiều người nói rằng tổng thống Kennedy đã tỏ ra rất xúc động khi nghe tin ông Diệm và ông Nhu bị giết chết. Nhưng sự xúc động này không chứng tỏ rằng Kennedy không chủ trương lật đổ ông Diệm. Sự xúc động trước một án mạng do chính mình gây ra không có gì là lạ. Nhưng sự xúc động đó đã không ngăn cản chính quyền Mỹ giao ông Ngô Đình Cẩn cho các tướng lãnh để bị xử bắn khi ông Cẩn vào tòa đại sứ Mỹ xin tị nạn. Cũng đừng nên quên là Kennedy có quan hệ cá nhân với các mafia và đã được mafia tài trợ để tranh cử tổng thống. Kennedy không phải là một người hiền lành. Theo tôi, chính quyền Kennedy phải bằng mọi giá lật đổ hai ông Diệm-Nhu vì họ chống lại việc đem quân đội Mỹ vào Việt Nam. Kennedy lên cầm quyền đầu năm 1961 với chủ trương sống chung hòa bình với Liên Xô và chống Trung Quốc. Từ đầu năm 1962, Kennedy và Kruschev bắt đầu những cuộc hội nghị thượng đỉnh tại Vienne, thủ đô Áo, trong dó theo nhiều tài liệu được tiết lộ, Liên Xô đã thông báo với Mỹ là họ có thể tấn công Trung Quốc để phòng hờ hậu họa. Vào lúc đó căng thẳng giữa Liên Xô và Trung Quốc đã đạt tới mức cao nhất. Thế giới đều lo sợ viễn tượng một Trung Quốc lớn mạnh và hiếu chiến, đã gây ra cuộc chiến Cao Ly, tấn công Kim Môn, Mã Tổ, đánh chiếm Tây Tạng và đang đe dọa Đài Loan. Một cuộc tấn công Trung Quốc là điều mà nhiều quốc gia cho là nên làm. Hơn nữa, Trung Quốc lại vừa trải qua thảm kịch "Bước Nhảy Vọt" làm hơn 40 triệu người chết đói, bất mãn lên tới tột đỉnh. Đó là thời điểm lý tưởng để tấn công Mao Trạch Đông. Tóm lại, một cuộc tấn công Trung Quốc rất có thể xảy ra và Hoa Kỳ phải đổ quân vào Việt Nam để sẵn sàng trước mọi biến cố. Họ không thể cho phép Ngô Đình Diệm ngăn cản kế hoạch này, nhất là khi họ khám phá ra rằng Ngô Đình Diệm đang bí mật tiếp xúc với Hà Nội theo một kế hoạch của Pháp. Sự khám phá ra Ngô Đình Diệm là lá bài của Pháp có lẽ càng khiến họ quyết tâm hơn. Độc giả có thể hỏi : ông Diệm do một chính phủ cánh hữu của Pháp đưa lên, tại sao lại tiếp tục được các chính phủ cánh tả sau đó ủng hộ, mặc dầu vài ngày trước khi ông Diệm lên cầm quyền thì chính phủ Pháp đã thay đổi, cánh tả đã thay thế cánh hữu ? Câu trả lời giản dị là cánh tả còn ủng hộ ông Diệm mạnh hơn là cánh hữu. Một giải pháp tương tự như giải pháp Ngô Đình Diệm là điều mà cánh tả đã chủ trương từ lâu. Hơn nữa ông Nhu, người sắp đặt tất cả, chỉ có hậu thuẫn của cánh tả Pháp. Muốn hiểu rõ những gì đã xảy ra cần hiểu con người Jacques Bénet. Ông này là bạn thân của ông Nhu ; hai người cùng học trường Ecole des Chartes. Ông thuộc đảng Xã Hội, vợ ông là chị em họ với tổng thống François Mitterrand. Ông Nhu mặc dù thân Pháp theo truyền thống gia đình nhưng quan niệm rằng Việt Nam phải được độc lập. Lập trường này được cánh tả Pháp ủng hộ nhưng lại bị cánh hữu bác bỏ. Chính vì vậy mà ông Nhu, qua trung gian của Jacques Bénet, chỉ quan hệ với đảng Xã Hội Pháp. Cánh hữu Pháp chỉ dùng những người hoàn toàn theo Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, v.v. Chỉ đến khi Pháp đã sa lầy tại Điện Biên Phủ và hoàn toàn tuyệt vọng họ mới phải miễn cưỡng chấp nhận giải pháp độc lập mà cánh tả Pháp chủ trương từ lâu. May cho ông Diệm và ông Nhu là họ lên cầm quyền cùng một lúc với cánh tả Pháp, nếu không chắc chắn họ sẽ gặp nhiều khó khăn với cánh hữu. Người ta có thể nhận xét là từ sau khi cánh hữu, với tướng De Gaulle, lên cầm quyền từ 1958, Pháp không còn dễ dàng với chính quyền Ngô Đình Diệm như trước nữa. Điều có vẻ khó hiểu là Jacques Bénet dù thuộc đảng Xã Hội đã vận động được chính phủ cánh hữu ủng hộ ông Diệm vài tháng trước khi nhường chính quyền cho cánh tả. Jacques Bénet đã làm được việc này bởi vì ông là một trong những người tham gia kháng chiến tích cực trong lúc Pháp bị Đức chiếm đóng. Ông đã vào sinh ra tử, bị bắt ba lần và vượt trại ba lần. Hầu hết những người cầm quyền tại Pháp sau thế chiến II, dù thuộc cánh tả hay cánh hữu, đều đã tham gia kháng chiến và quí trọng nhau trong gian nguy. Jacques Bénet là dân biểu quốc hội lập hiến, quốc hội đã khai sinh ra nền cộng hòa thứ tư của Pháp. Ông có nhiều bạn thân giữ vai trò quan trọng trong cánh hữu. Họ tin ông và đã chấp nhận giải pháp Ngô Đình Diệm vì không còn giải pháp nào khác, để bảo vệ những quyền lợi kinh tế và văn hóa,vào lúc nước Pháp đã thất bại rõ ràng tại Việt Nam. Tôi gặp ông bà Jacques Bénet lần đầu tiên cách đây hơn mười năm trong một bữa ăn do ông bà Trần Minh Châm khoãn đãi. Chúng tôi nói chuyện suốt nửa ngày về nhiều vấn đề chính trị, nhưng tuyệt nhiên không đề cập đến ông Ngô Đình Diệm. Tôi không thể ngờ rằng chính ông lại là đầu mối của một biến cố chính trị lớn trong lịch sử Việt Nam cận đại. Sau khi đọc xong hai lá thư do ông Trần Minh Châm trao, tôi lại được gặp lại Jacques Bénet lần nữa trong một bữa cơm trưa cùng với ông Trần Minh Châm. Ông Jacques Bénet năm nay đã ngoài 90 tuổi nhưng còn rất minh mẫn. Ông lái xe đến nhà ông Châm để gặp tôi. Ông nhớ rất rõ những gì đã xảy ra và kể cho tôi mọi chi tiết. Sự thành thực của ông là tuyệt đối. Hơn nữa, điều ông kể ra rất hợp lý. Điều quan trọng trong lịch sử không phải là biết những gì đã xảy ra mà là hiểu tại sao chúng đã xảy ra như thế. Vả lại, hơn tất cả các địa hạt khác, trong lịch sử nếu không hiểu thì càng không thể biết đúng, ngay cả khi chính mình là tác nhân, chưa nói là chứng nhân. Khi tôi hỏi ông có ý thức được rằng ông đã can thiệp một cách quan trọng vào lịch sử Việt Nam không thì ông trả lời với một nụ cười : "Tôi biết lắm chứ". Cho đến nay, ngoại trừ ông Ngô Đình Nhu và ông Jacques Bénet, mọi người đều hiểu lầm về giai đoạn ông Diệm lên cầm quyền. Chính ông Luyện cũng không biết rõ, nếu không chắc chắn ông đã nói với tôi. Ngay cả ông Diệm, mặc dù trước khi rời Paris về nước có tới thăm và cảm ơn ông Bénet có lẽ cũng chỉ biết một phần sự thực. Phát giác này làm tôi bâng khuâng. Nếu không vì một xích mích nhỏ với bà Nhu, vì một tập hồ sơ cũ, thì ông Bénet đã không viết lá thư này nói lên những gì đã xảy ra để ông Trần Minh Châm có được mà gửi cho tôi, và sự hiểu lầm sẽ tiếp tục. Lịch sử là một kho dữ kiện mô tả chân dung của một dân tộc trong dòng thời gian. Nó cho ta biết ta là ai và có thể làm gì. Khi lịch sử sai thì chúng ta không hiểu chính mình, làm việc trên những tài liệu sai, và kết luận không thể đúng. Một giai đoạn còn rất gần với chúng ta và được bình luận nhiều như giai đoạn Ngô Đình Diệm mà còn có thể sai như vậy thì những gì sử Việt Nam chép lại của trăm năm, nghìn năm về trước có mức độ chính xác nào ? Các sử gia sẽ còn cần nhiều cố gắng tìm kiếm, phân tích và phê phán để lịch sử được đúng đắn hơn. Trước hết những người có may mắn được biết những sự kiện có giá trị lịch sử phải nói ra hết sự thực. Đó là bổn phận đối với cộng đồng quốc gia. Đó cũng là điều mà rất tiếc là họ hoặc chưa làm, hoặc chưa làm một cách đầy đủ. Nguyễn Gia Kiểng Chú Thích : (1) "Or votre mari, Ngô Dinh Nhu, a eu l’intuition géniale - dictée, bien sûr, par la Providence - que le moment était arrivé, en mars 1954 pendant la bataille de Dien Bien Phu, d’essayer de convaincre le Gouvernement Français d’alors (Gouvernement Laniel-Bidault-Reynaud) qui disposait encore de quelques atouts déterminants quant au Destin de l’ancienne Indochine de permettre d’urgence la venue au Pouvoir de son frère, Monsieur Ngô Dinh Diem, personnalité nationaliste vietnamienne d’une réputation sans tâche et d’une notoriété évidente, afin de prendre la tête du Gouvernement du Viêt Nam non communiste". (2) "Cela fut possible parce que les gouvernements français d’alors disposaient vis à vis de Bao Dai, particulièrement, de divers moyens de pression déterminants". (3) "Il faut travailler de manière à ce que des instructions en ce sens, qui sont, j’en suis persuadé, déjà prêts, soient envoyées d’urgence à Saigon". (4) "Car il ne faut plus recommencer l’expérience de 1945-1954. Soutenus seulement par le camp occidental, nous sommes sûrs d’être battus par le communisme en Asie. Il faut avoir le concours du peuple vietnamien et la sympathie du Monde asiatique, pour que l’aide occidentale, dédouanée par la personnalité du Président Ngô, puisse être utile, ayant reçue l’étiquette asiatique". Về giai đoạn Ngô Đình Diệm, độc giả có thể đọc hai tác phẩm chi tiết và công phu : "Việt Nam 1945-1995" của Lê Xuân Khoa và "Vietnam, pourquoi les Américains ont-ils perdu la guerre ?" của Nguyễn Phú Đức.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 1, 2011 21:07:59 GMT 9
Luận đề Ngô Đình Nhu và nhận định giải pháp chính trị Việt Nam Nguyen Duy Thanh Nhân loại qua được giai đoạn hồng hoang để tấn tới thế giới ổn định như ngày nay thì công lao đóng góp bởi các vĩ nhân của từng quốc gia thật đáng ghi nhận. Nhưng hơn hẳn các bậc vĩ tài đã thấy, Ngô Đình Nhu đã để lại cho Việt tộc của ông một tiến trình kiến quốc và giữ nước bằng sử liệu, mà hiếm thấy ai đó trong thiên hạ có biệt tài tiên tri được trăm năm sau về số phận của một quốc gia, như chính ông! Tất cả hùng tâm đại chí và binh thao chính lược của nhà tư tưởng uyên bác này đã được cô đọng và đúc đặc trong đại chánh tác: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM Trân trọng nhận xét rằng: Hôm nay, hay mai đây, cho dẫu Việt Nam thuộc thể chế nào ; các nguyên thủ quốc gia hùng tài vĩ lược đến đâu; nhưng 2 lãnh vực quân sự và chính trị không trải qua thực nghiệm như công trình nghiên cứu của Ngô tiên sinh, thì cái họa xâm lấn của người Phương Bắc vẫn treo lơ lửng trên đầu dân tộc! Hãy cùng nhau nghiệm kỹ suy sâu một đoạn nhận định của ông để chứng minh sau 50 năm, Ngô Đình Nhu đã hóa người thiên cổ nhưng nỗi lo xa về ngày vong quốc trong nhãn lực của ông đã vận vào mệnh nước hôm nay, rằng: «… Sự chia đôi lãnh thổ đã tạo thành hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. (..) Các lãnh đạo miền Bắc, khi đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Sở dĩ tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa hình thành, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm lối thoát cho các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nay họ vẫn tiếp tục ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng. Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc, và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa..(..)» Nhận định xưa, nay thành sự thật, hiện tình bi quan và e ngại là chánh sự quốc gia đang trong vòng bế tắc, mà luận khảo của người xưa là sinh lộ cứu quốc nhưng ít ai màng tưởng đến ! Ngộ từ ý trên, xin vịn vào một phần trong lý thuyết chính trị của ông Ngô Đình Nhu, ngõ hầu trình ra vài điểm căn bản thực tế với tình hình chính trị Việt Nam hiện nay. Mong may ra, ai đó cao kiến mà tìm ra giải pháp để quê hương sớm được minh thời! Vậy, tiền đề cùng nhau tham luận là: XÁC QUYẾT QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC GIA THEO ĐỊA LÝ CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC GIA. Rất khác với quan niệm của các chính trị gia đương thời, về Trung Hoa, ông Ngô Đình Nhu quả quyết kết luận bằng quá trình lịch sử của dân tộc, rất khoa học và tâm lý, ông lý giải là: «(..) Trong lịch sử bang giao giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. (..) Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị, và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triếu cống của chúng ta. Ngay mà những lúc quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.(..) Họa xâm lăng de dọa dân tộc chúng ta đến nỗi trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta, và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi tâm lý thuộc quốc..(..) Và để đối phó lại, các nhà lãnh đạo chúng ta chỉ có 2 con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam (..) Ảnh hưởng «Tâm Lý Thuộc Quốc» từ cổ sử kéo dài đến thời cận đại, rồi tiếp nối tới thời hiện đại ngày nay, thì một cách nhìn khác của ông Ngô Đình Nhu về đường lối- chủ trương, xa hơn là học thuyết Cộng Sản mà bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội vẫn cố bám với Trung Cộng, theo ông Nhu thì: «(..) Sự phát triển của một nước nhỏ như quốc gia Việt Nam, không dễ trở thành một sự de dọa cho ai cả, và do đó, sẽ không tạo một phản ứng thù nghịch nào có thể gây trở lực cho công cuộc phát triển của chúng ta.(..) Trong khi đó, sự phát triển của một khối dân, như khối dân Trung Cộng, tự nó sẽ là một sự de dọa cho tất cả thế giới, dầu mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không có tham vọng như hiện nay. Và đương nhiên, những phản ứng thù nghịch sinh ra khắp nơi và dựng lên vô số trở lực cho công cuộc phát triển.(..) …Như vậy thì, sự gắn liền vận mạng của Việt Nam với vận mạng của Trung cộng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, là một hành động di hại cho dân tộc. (..) Nếu đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, thì không có một lý nào có thể bênh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng. Chỉ có một sự lệ thuộc về lý thuyết, mà thật ra Trung Cộng xem như là một phương tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo Trung Cộng ý thức sung mãn tâm lý đó ngày nay, cũng như Nga Sô ý thức sung mãn tâm lý đó trước đây. Vì vậy cho nên, Trung Cộng nỗ lực khai thác lý thuyết Các Mác- Lê nin quy tụ những người dễ bị ma lực cám dỗ, với mục đích cuối cùng là hậu thuẫn cho công cuộc phát triển Hán Tộc (..) Từ các luận điểm mà ông Ngô Đình Nhu đưa ra, chứng tỏ rằng với địa lý sát nách Trung Hoa, thì quan điểm chính trị cũng như đường lối của đảng cộng sản Việt Nam là nguồn gốc dẫn đến họa xâm lăng của người Phương Bắc. Như vậy để quốc gia tránh được ngoại xâm, và dân tộc được phát triển thì ý kiến của ông Ngô Đình Nhu như thế nào ? Nếu dựa vào lý thuyết của ông và liên hệ thực tế tình hình hiện nay thì có thể khái quát chung bằng tiêu đề quan trọng là: Ý THỨC NGOẠI XÂM VÀ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC Trong sách sử hay đời sống thường nhật, người Việt thường tự hào là một dân tộc anh dũng thắng giặc ngoại xâm phương Bắc. Có người lập luận rằng, sở dĩ Việt Tộc viết nên được thiên anh hùng ca đó, là nhờ mọi người nồng nàn yêu nước hay căm thù giặc cao độ. Cũng không ít người cho là vì lẽ này, hay lý kia. Nhưng chẳng mấy ai đặt ra câu hỏi: Động lực nào đã quy tụ được các yếu tố căn bản nói trên thành một mối cho công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc? Vì vấn đề này, trong lý luận chính trị của mình, ông Ngô Đình Nhu xác định ngay: « (..) Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng (..) Đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhất, và điều kiện thiết yếu nhất để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo (..) » Ngoài điều kiện thiết yếu nói trên, sau khi phân tích toàn bộ các quốc gia có cùng hoàn cảnh, đặc biệt một số điểm yếu và mạnh trong dòng sinh mệnh lịch sử Việt Nam, Ngô tiên sinh chỉ giáo thêm rằng: «(..) Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ, lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ..(..) Và rất bất ngờ, nhưng vô cùng cao thâm mà xưa nay ít có nhà sử học hay nghiên cứu nào đặt ra các câu hỏi như ông Ngô Đình Nhu: (..) Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc khoáng đạt hơn(…) Một câu hỏi chúng ta không thể tránh được: Chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển được? (..) Và ông nói một câu hết sức yếm thế mà lịch sử Việt Nam chưa ai từng nói hay và đúng như hiện trạng của quốc gia, rằng: (..) Chúng ta đã bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta..(..) Là bậc trí giả khiêm hiền, ông Cố vấn nhẹ nhàng đặt câu hỏi như thế! Nhưng thật nặng nề khi nhìn lại một chiều dài lịch sử của quê hương mãi cứ quẩn quanh trong « bế quan tỏa cảng». Với 36 năm trôi qua, chiến tranh kết thúc nhưng nền ngoại giao của đảng cộng sản Việt Nam cũng không vượt ra ngoài « cái khung» của Triều Nguyễn. Đến tận bây giờ khi tình hình như «nước nhảy lên bờ», thì giới cầm quyền Hà Nội mới cầu cứu khắp nơi để mong Trung Cộng giảm thiểu áp lực; mà lẽ ra, cánh cửa ngoại giao nên mở toang ra từ ngay ngày kết thúc cuộc chiến! Nếu tình hình đã là như vậy, thì liệu rằng trong: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, ông Ngô Đình Nhu có « quân sư» được gì cho hiện trạng chính trị này, ngoài 2 yếu tố: Lãnh đạo+ Ngoại giao vừa nói trên ? Trả lời cho câu hỏi quan trọng này nếu dựa theo đề cương chính trị của ông, thì việc nhãn tiền phải làm là: VIỆT NAM CẦN TÂY PHƯƠNG HÓA TOÀN DIỆN ĐỂ GIỮ NƯỚC Nhận xét một cách khách quan thì giới đương quyền Việt Nam đang đi theo lý thuyết chính trị của ông Ngô Đình Nhu. Nhưng họ đã làm sai! Mà may thay, dân tộc Việt Nam sẽ vươn lên từ sự sai sót này! Muốn biết điểm đặc biệt đáng chú ý đó thì liên hệ thực tế sẽ thấy giới cầm quyền Hà Nội đang mua sắm khí cụ khắp nơi, và nhờ cậy nhiều quốc gia đào tạo chuyên viên quân sự. Về lãnh vực này, 50 năm trước, nhìn dòng lịch sử thế giới đi qua, ông Ngô Đình Nhu bàn rằng: «(..) Chúng ta chiến bại vì vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo và quân đội chúng ta thua về tổ chức. Vậy, để chống lại địch thủ một cách hiệu quả và lâm thời thắng địch thủ, chúng ta chỉ cần học, một là kỹ thuật sử dụng vũ khí tối tân, hai là tổ chức quân đội theo Tây phương. Với hai khí giới đó, chúng ta có thể hy vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá trị truyền thống của xã hội chúng ta. (..) Như thế có nghĩa là chúng ta chỉ canh tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ. Mọi cơ cấu khác trong xã hội giữ nguyên vẹn. Đây gọi là sự Tây phương hóa có giới hạn.(.. » Nghĩa là, hiện nay đảng cộng sản Việt Nam bắt tay với Mỹ-Pháp- Ấn Độ -Nhật-Nga v.v.. nhằm nhờ họ hiện đại hóa quân đội để bảo vệ đảng, cũng như tìm mọi cách để «đối trọng» với áp lực của Bắc Kinh. Còn mọi khai hóa và cải cách về xã hội với chính trị để nâng cao dân chủ cùng dân trí cho toàn dân thì nhà nước vẫn muốn duy trì nguyên trạng. Nhưng, với hình thức Tây phương hóa có giới hạn như thế sẽ đưa nhà cầm quyền Việt Nam đến chỗ thất bại, có khi là sụp đổ chế độ. Bởi, kinh nghiệm qua nghiên cứu thì ông Ngô Đình Nhu «lắc đầu», rồi nói rằng: «(..) Muốn nuôi dưỡng một lực lượng quân sự đã được canh tân (..) Và muốn gieo cho người chiến binh một sức mạnh tinh thần như người chiến binh Tây phương, lại phải tạo cho họ hoàn cảnh xã hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xã hội. Mà cải tạo xã hội thì phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các lãnh đạo không dự định làm và cũng không muốn làm, vì sở dĩ, các nhà lãnh đạo này chủ trương canh tân quân đội là với mục đích bảo vệ các giá trị truyền thống cũ của xã hội họ.(..) » Với trường hợp của quân đội cộng sản Việt Nam hiện nay cũng nằm trong hoàn cảnh nêu trên. Về mặt chủ quan, các lãnh đạo đảng tin rằng quân đội và công an sẽ nhất quán «trung với đảng, hiếu với dân»! Nhưng nếu xét theo lời bàn tiếp theo của Ngô tiên sinh thì sự tác động của khách quan sẽ làm đảo lộn mọi vấn đề, mà theo kinh nghiệm khảo cứu thì ông Cố vấn lý luận thêm: «(..) Sự canh tân quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả khác mà các nhà lãnh đạo cũng không ngờ. Những người muốn học về tổ chức quân đội Tây phương, trước tiên phải học ngôn ngữ Tây phương. (..) Nhưng khi đọc được ngôn ngữ của Tây phương rồi, thì không làm thế nào cấm họ đọc các sách khác của Tây phương trong nhiều lĩnh vực khác: Chính trị, văn hóa, hay xã hội. Do đó, và vì đã sẵn trong đầu sự cảm phục chính đáng đối với Tây phương trong lãnh vực quân sự, những người này tự nhiên nảy ra sự cảm phục Tây phương trong lãnh vực xã hội, chính trị. (..) Như vậy, họ tin rằng không thể nào có được một quân đội hùng mạnh theo mới, mà không có một tổ chức xã hội và chính trị theo mới. Và chính những người này sẽ biến thành những cái mầm của cuộc cách mạng chính trị và xã hội sau này.(..). (..) Nếu các nhà lãnh đạo lại dùng bạo quyền như đã xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ hai mươi, để hoặc là bãi bỏ công việc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân trong những giới hạn họ muốn, mặc dù họ biết rằng hành động như vậy vẫn không cho phép họ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, thì lực lượng cách mạng, lãnh đạo do những người hấp thụ được, chẳng những kỹ thuật quân sự mới, mà lại thêm những tư tưởng chính trị và xã hội mới, sẽ nổi lên lật đổ các nhà lãnh đạo này..(..) » Xét theo lý luận chính trị của ông Ngô Đình Nhu, thì việc tân trang quân đội của giới cầm quyền Việt Nam hiện nay đang chứa đựng một sự tiềm ẩn về binh biến, hay nói theo cách lo sợ của đảng cộng sản Việt Nam, là sớm hay muộn cũng sẽ có «diễn biến hòa bình», cũng có khi «bất hòa bình»! Và lý luận trên cũng chứng tỏ rằng, mỗi khi hệ thống cầm quyền quyết định chính sách cải cách, thì việc cải cách đó phải toàn diện và sâu rộng trên mọi lãnh vực, không thể và không thế nào thành công khi công cuộc cải cách mang tính « nửa vời» như một số chính sách «đổi mới hay mở cửa», mà nhà nước Việt cộng đã thực hiện nhưng không hiệu quả, trái lại, mức độ thiệt hại vì phản ứng ngược lại mà hậu quả đó còn ảnh hưởng tới ngày nay trên một số phương diện kinh tế, chính trị và an ninh của quốc gia cũng như tình tự dân tộc! Do vậy, có thể hiểu hai chữ Tây phương mà ông Cố vấn đề cập vào 50 năm trước, nghĩa là nói đến Triều đại nhà Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội khi người Pháp bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam! Nhìn từ khung cảnh chính trị thời đó để liên hệ đến thực trạng hôm nay, khi người Mỹ đang tuyên bố trở lại Đông Nam Á, và Việt Nam là quốc gia có địa lý chiến lược cũng như chứng cứ pháp lý mạnh nhất về Biển – Đảo mà Hoa Kỳ đang muốn liên kết..! Hay nói cách khác là Việt Nam đang đứng trước một cơ hội tốt.! Và nếu, người lãnh đạo quốc gia biết cách tận dụng cơ hội này thì Việt Nam sẽ thoát được vòng kiềm tỏa của Trung cộng..! Về chính sách đối ngoại qua quan niệm khai hóa và cải cách cho quốc gia thì lời của ông Ngô Đình Nhu càng chí lý càng tha thiết, rằng: « (..) Đứng trước sự tấn công của Tây phương, con đường chết là con đường bế quan tỏa cảng ngăn cấm không cho Tây phương xâm nhập vào xã hội của nước bị tấn công; con đường sống lại là con đường mở cửa đón rước văn minh Tây phương (..) Bởi vì công cuộc phát triển dân tộc bằng Tây phương hóa là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của dân tộc. (..) Trong hoàn cảnh đó nếu người lãnh đạo không quả quyết tin vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân không tin rằng công cuộc phát triển là con đường sống duy nhất của dân tộc, thì công cuộc phát triển không sao thực hiện được. Vì vậy cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng, công cuộc phát triển dân tộc bằng Tây phương hóa là một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát triển, dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai. (..) Tại sao lý luận của ông Ngô Đình Nhu gần như trở thành một Định Nghĩa là, ngoài công cuộc Tây phương hóa thì Việt Nam không còn một lối thoát thứ hai? Như trên đã nói, phần lãnh đạo và ngoại giao tuy quan trọng trong công cuộc giữ nước và kiến quốc. Nhưng, về lâu dài để một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể trụ vững trước một đất nước đầy tham vọng bành trướng như Trung Cộng, thì nội lực phát triển dân tộc mới là điểm chính. Tuy nhiên, sau các phân tích lý lẽ chính trị nhằm tạo thành một luận điểm chung. Mà tin rằng, toàn dân Việt Nam hiện nay đều mong mỏi theo ý như ông Ngô Đình Nhu là phải : Tây hóa để chống Tàu. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt hiện nay của dân tộc Việt Nam là bị chế độ độc tài khống chế, và tập đoàn thống trị này đang hoàn toàn phụ thuộc và khiếp sợ bởi ảnh hưởng của Tàu Cộng. Nếu quốc gia lâm vào hoàn cảnh như thế, thì liệu rằng trong luận cương chính trị của ông Ngô Đình Nhu có giải pháp gì nhằm khai thông sự bế tắc chính trị hiện nay để toàn dân cùng nhau giữ nước? Câu hỏi thật khó như hai ngàn năm trước Lưu Bị hỏi Gia Cát Khổng Minh: - «Liệu phải mất bao lâu thì Tiên sinh giúp ta bình thiên hạ?» Vâng! Câu hỏi khó như lên trời; nhưng không có nghĩa là không có sự lý giải! Vì nếu cặn kẽ nhìn lại lịch sử những tháng ngày cuối cùng của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa do chính ông góp tay dựng nên, t đó, liên hệ đến cục diện hôm nay của đảng cộng sản Việt Nam thì sẽ tìm ra câu trả lời của ông Ngô Đình Nhu, mà có thể luận giải là: NẾU «THUỘC TÀU» KHÔNG «TÂY HÓA» THÌ SỤP ĐỔ CHẾ ĐỘ Tuy điều kiện lịch sử cũng như thể chế chính trị của thời đó, và nay, tuy khác xa hoàn toàn. Nhưng có hai điểm giống nhau: 1) Sự áp lực khắc nghiệt mà lãnh đạo quốc gia đang + sẽ phải đối diện . 2) Cùng chịu chung (và vẫn là) sự tác động đến từ ngoại bang Trung – Mỹ! Từ 2 điểm chính này, mà dường như, lịch sử đang lặp lại! có thể đặt ra vài câu hỏi để lạm xét vấn đề là: Vì sao năm xưa ông Ngô Đình Nhu cùng thứ huynh của ông là Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải bị thảm sát Ai cũng trả lời được câu hỏi này! Nhưng nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm chuyện gì cũng gật đầu nghe lời ngoại bang thì có bị thảm sát không? Vì sao sẽ không chết? Vì sao ông không chịu gật đầu? Lý luận để trả lời tùy theo quan niệm mà 47 năm rồi chưa dứt cơn bàn cãi! Nhưng, hôm nay giới đương quyền Việt Nam cũng đang đứng trước: « Đèn Vàng»! Hơn 60 năm rồi quẹo tới quanh lui cũng trong: «Đèn Đỏ»! Bây giờ có Hoa Kỳ đưa tay bấm nút: «Đèn xanh»! Chạy về phía nào đây!? Cả dân tộc đều đồng thanh «Đèn Xanh» để dân chủ hóa và giữ nước! Nhưng cái đầu của con tàu vẫn cứ lắc..lắc..lư ..lư.. .. Vì không muốn bỏ.. «Đèn Đỏ», nhưng cũng không muốn hụt mất.. «Đèn Xanh»! Hiện trạng quốc gia Việt Nam cũng như vậy đó! Cái đầu tàu chính là các nhà lãnh đạo VNCS không muốn từ bỏ Trung Cộng vì sợ mất đảng và tư lợi! Nhưng có lẽ rồi cũng đến lúc; mọi người trên con tàu ấy sẽ bước xuống để cùng nhau tiến xô đẩy con tàu! Nếu thế, và cục diện sẽ xảy ra như thế, thì chính giới đương quyền Việt Nam hiện đang và sẽ tự đặt mình vào lý luận của ông Ngô Đình Nhu, là: « ..(..) Những người lãnh đạo bao giờ cũng hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành. Nếu khi đụng chạm với thực tế, những tư tưởng đang hướng dẫn hành động của họ đã tỏ ra sai lạc, hay vì hoàn cảnh bên ngoài đã biến đổi nên không còn phù hợp với những tư tưởng ấy nữa thì cần phải có một sự thay đổi ngay, nhưng thay đổi như thế nào?
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 1, 2011 21:09:31 GMT 9
Người lãnh đạo phải thay đổi tư tưởng, hay phải thay đổi người lãnh đạo? (..) Càng phân tích về lý luận chính trị của cố vấn Ngô Đình Nhu để liên hệ với hiện chính Việt Nam thì càng hấp dẫn bởi tính hợp lý và linh động trong lý thuyết chính trị của ông! Một điều ngạc nhiên nhưng khâm phục vô bờ khi nghiên cứu luận cương chính trị của bậc triết phu này, là ngay cả, lý thuyết gia như ông viết ra lập thuyết nhưng cũng không ngờ rằng: Đã có ngày … ! Chính tính mạng của ông phải trả lời các nan đề trong khối lý thuyết của chính ông! Hiếm có tư liệu nói đến! Nhưng có thể võ đoán rằng, ông Cố vấn và Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã dứt khoát không suy nghĩ đến vế thứ nhất của câu hỏi là: «Người lãnh đạo phải thay đổi tư tưởng». Bởi rằng, nếu tham khảo thật kỹ toàn bộ từng chương, từng phần của: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, thì có thể nói: Trải dài trong 9 năm, từ lúc giúp thứ Huynh của ông là Ngô Đình Diệm xây nền móng thể chế Cộng Hòa, cho đến lúc chế độ sụp đổ, ông Ngô Đình Nhu đã có bắt đầu.. ! Nhưng chưa hoàn thành được một số điểm căn bản quan trọng mang tính chiến lược lâu dài do ông vạch ra, ngoại trừ thành công được một số mặt về bình định và dân sinh. Điều này cũng thật dễ hiểu vì chính phủ mà ông phụng vụ phải chịu quá nhiều áp lực, nhất là từ phía Hoa Kỳ, cũng như phá hoại từ Miền Bắc tác động vào! Tuy nhiên, một quan điểm chính trị hết sức rõ ràng được thể hiện qua từng chi tiết trong việc hướng dẫn giữ nước và kiến quốc: Là ông Ngô Đình Nhu chỉ muốn dựa vào sự viện trợ của Hoa Kỳ để cường thịnh quốc gia trên toàn phương diện, và cũng từ nỗ lực của chính phủ cùng sự hợp tác của toàn dân, ông tin tưởng rằng Miền Nam cũng sẽ vững mạnh như Nhật Bản v.v.. Đồng thời, ông trọng kính kêu gọi lãnh đạo Miền Bắc hãy lợi dụng sự viện trợ dồi dào của Nga Sô và Trung Cộng để tái thiết quê hương, và chớ nên phá hoại miền Nam theo chủ trương xâm lấn của Trung Cộng. Trên tinh thần dân tộc đó, Ngô Đình Nhu cũng đã Kế Hoạch một công cuộc kiến quốc cho cả 2 miền, nếu thống nhất! ( nhận xét theo nội dung của Sách). Hoặc, có thể kết luận rằng : Tư tưởng Ngô Đình Nhu hay Chính phủ của Ngô Đình Diệm mong muốn xây dựng quốc gia theo quan điểm: Chính Trị Trung Lập, vào thời đó. Một quan điểm chính trị mà ngày nay đảng cộng sản Việt Nam đang muốn thể hiện, qua tuyên bố: 3 Không của Thứ trưởng quân đội Việt cộng Nguyễn Chí Vịnh khi trả lời báo chí, là: 1) Không tham gia các liên minh quân sự, hoặc đồng minh quân sự của bất cứ nước nào. 2) Không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam. 3) Không dựa vào nước này để chống nước kia. Từ một số luận giải quốc sự thuộc quá khứ và hiện tại như vừa nêu để đầy đủ hiểu rằng: Dù năm xưa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hay hiện tại là các lãnh đạo Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng: Người Lãnh Đạo Không Thay Đổi Tư Tưởng, dù vì mục đích gì! Qua một phần phân tích tuy hạn hữu nhưng cũng đủ để hiểu toàn bộ cục diện chính trị xưa, và nay, của từng thể chế đang chịu tác động bởi các cường quốc trong 2 giai đoạn lịch sử khác nhau của Việt Nam. Để rồi từ đó, có thể đặt ra một câu hỏi nghiêm khắc với lịch sử, cũng như với các nhà lãnh đạo Hà Nội, rằng: Mọi khả năng nội lực hiện có của quốc gia dưới thể chế tự do năm xưa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cũng như mọi phương diện sẵn sàng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay, cả hai, có hội đủ mọi yếu tố để Quân lực được hùng mạnh, Ngoại giao được phóng khoáng, Kinh tế được tự lực, nhằm vững vàng tự chủ một quốc gia có quan điểm: Chính Trị Trung Lập??? Ai nắm chắc được rằng, nếu bị Tây phương cấm vận một lần nữa, thì kinh tế Việt Nam vẫn ổn định cho người dân, không rơi vào tình trạng như Bắc Hàn? Ai dám vỗ ngực nói rằng, nếu bị xâm lăng thì Quân đội Nhân dân sẽ đánh tan Trung Cộng khi mà kỹ nghệ quốc phòng chưa chế tạo được một loại vũ khí nào; dù là vũ khí cận chiến như Lựu Đạn, Súng ngắn, đạn dược, quân y? Nếu ấp úng trả lời trước các câu hỏi này rồi, thì từ đó có thể niệm ra khi người lãnh đạo không chịu thay đổi tư tưởng, thì ắt hẳn lý luận tiếp theo của ông Ngô Đình Nhu phải xảy ra là : PHẢI THAY ĐỔI NGƯỜI LÃNH ĐẠO (Tức là: phải thay đổi thể chế) Cố vấn Ngô Đình Nhu luận rằng: «… Kinh nghiệm chỉ rằng không bao giờ người lãnh đạo thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất rất nhiều thì giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lý chính trị mà họ chủ trương. Nay nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh, họ phải có đủ thì giờ để một là xét vì sao triết lý đó không phù hợp, và hai là, để tìm triết lý khác thay thế vào. Điều mà họ không thể làm được nếu họ vẫn bị hành động lôi cuốn. Vì vậy cho nên yêu cầu một người lãnh đạo thay đổi tư tưởng của họ đang khi hành động là một việc không bao giờ thực hiện được. Giả sử mà họ có thay đổi được thì, việc lãnh đạo sẽ gặp một nguy cơ lớn hơn nữa. Bởi vì thay đổi hấp tấp và không suy nghiệm như vậy, người lãnh đạo sẽ không còn chính là họ nữa, và đương nhiên hiệu quả trong hành động của họ sẽ kém bội phần. Như vậy chỉ còn cách là phải thay đổi lãnh đạo (..) Tất cả lý lẽ của ông Ngô Đình Nhu rất hợp lý và rõ ràng … ! Nhưng! Lực lượng nào có thể thay đổi được người lãnh đạo khi chính họ không chịu thay đổi tư tưởng để giữ nước!? Như đang biết, hiện tại giới lãnh đạo đương thời Việt Nam nằm giữa hai gọng kềm Trung – Mỹ, kèm theo cái «đinh nhọn» là phong trào chống Tàu của trí thức! Hiện cảnh chính trị này cũng giống như những tháng cuối cùng của năm 1963, ông Ngô Đình Nhu và Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng phải đứng giữa 2 gọng kìm Hoa Kỳ – CSVN, kèm theo cái «răng nanh» là các nhóm đối lập..! Xét lại một đoạn lịch sử năm xưa để nhận định chính tình Việt Nam hôm nay là: Nếu không có thế lực bên ngoài nhúng tay thì dù các phong trào đối lập mạnh đến đâu, có khi …kể cả quân đội tự lực đảo chánh thì kết quả chưa chắc đã thành công! Vậy, ai có thể móc nối với quân đội? Và, có nên tạo điều kiện và ủng hộ cho lực lượng này không? Cũng từ các lý luận nêu trên, cho dù phải đi qua bước nào, thì rốt cuộc, lời của ông Ngô Đình Nhu đã nói là: Tây phương hóa nhưng phải giữ được bản chất dân tộc là mục đích sống còn mà tin rằng mỗi con dân Việt Nam đều khát vọng! Người ta có thể hoài nghi… rồi loại bỏ… và đả phá chủ thuyết Mác – Lê! Bởi đôi khi, chính 2 ông Mark- Lenin này cũng chẳng biết mình viết ra cái gì đây; để hôm nay người đời phải lập bia tưởng niệm hơn 100 Triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng với lý thuyết chính trị của Ngô Đình Nhu thì rất có giá trị, vì «bảo chứng» cho giá trị đó chính là tính mạng của ông. Hay, trọng kính nhận xét cách khác rằng: Ngô Đình Nhu bị thảm sát nên Lý Thuyết Chính Trị của ông sẽ sống mãi đời đời! Kết thúc bài viết, xin gởi đến đoạn tâm chí cuối cùng của bậc quốc sĩ chí hiền đã xếp bút trong Đại chánh tác của mình, rằng: «(..) Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề của dân tộc Việt Nam, trong thời kỳ này chỉ có thể tìm được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí dân tộc (..) Đương nhiên là vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm không thể là một vị trí dân tộc bế quan tỏa cảng, hẹp và nông như dưới các triều đại quân chủ xưa kia. Vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với tất cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có (..) Và vì vậy cho nên, chúng ta thành khẩn mong mỏi các nhà lãnh đạo Miền Bắc, kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của dân tộc, không còn nên sự tiếp tục trụ đóng vào phương tiện cộng sản nữa (..)» Đang dịp húy nhật của nhà tư tưởng. Xin hãy cầu nguyện nhân mùa lễ tạ ơn! Kính chào. Nguyễn Duy Thành
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 22, 2012 1:33:26 GMT 9
Thế Lực Chính Trị Của Phật Giáo Ấn Quang May 8, 2011 Trần Tú Uyên phiên dịch từ tài liệu của USMACV. Sở Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ Tài Liệu Tình Báo Truyền Tin Bằng Đường Giây Nóng. Tình trạng số: NLJ92465 Hồ sơ của thư viện MBJ số: 27 Hồ sơ lưu trữ của cơ quan MORI: 13197:13197 Ngày báo cáo: Ngày mồng 4 tháng Năm, 1967 Số truyền tin: 59488 Quốc Gia: Nam Việt Nam, Sài Gòn 4 19292 DOI Chủ đề: Phẩm định về thế lực chính trị của nhóm Phật Giáo phản loạn trong thời điểm bầu cử hiện thời kéo dài đến hết tháng 9 năm 1967. ACQ: Sài Gòn, Việt Nam. Nguồn tài liệu: 1.3(a)(4) Phẩm định lực lượng Phật Giáo Cực Đoan Nổi Loạn và Phật Giáo Ôn Hòa, ưu điểm và nhược điểm của họ, và kế hoạch cũng như chủ đích trong thời kỳ bầu cử sắp tớị Đây không phải là sự phán quyết chính thức của cơ quan hay phân bô.. Tài liệu tượng trưng cho sự nhận xét của nhân viên Sở Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ căn cứ theo dữ kiện mà họ thu thập được trong thời điểm của bản báo cáo nàỵ 1. Tóm lược: Hiện tình của Phong Trào Phật Giáo Nổi Loạn chống chính quyền Quốc Gia đang ở vị thế ít đe dọa cho sự ổn định chính trị ở Miền Nam hơn là những thời điểm từ năm 1963 trở về trước. Chính quyền Quốc Gia Việt Nam có một hệ thống tình báo rất hữu hiệu trong các hoạt động của các tổ chức Phật Giáo Nổi Loạn, và sự kiểm soát chừng mực của chính quyền cũng được tính toán cẩn thận để kềm chế tình trạng mà không đi đến sự phản ứng quá đáng, có thể đưa đến hậu qủa là có thể xảy ra tình trạng xáo động nghiêm trọng. Thích Trí Quang, ở thời điểm này, là lãnh tụ duy nhất của phe Loạn Đảng Phật Giáo Việt Nam và cũng là kẻ duy nhất có đủ cơ động và khả năng để khích động điều hành những cuộc phiến loạn chống Chính Quyền Quốc Giạ Cuọc tranh giành quyền lực cá nhân giữa phe Phật Giáo Nổi Loạn Qúa Khích và phe ôn hoà lãnh đạo bởi Thích Tâm Châu hình như vẫn còn tiếp tục. Theo sự phỏng đoán thì Thích Trí Quang có thể nắm trong tay khoảng 180,000 (một trăm tám mươi ngàn) lá phiếu trong khu vực mà hắn ta có quyền lực mạnh nhất ở Miền Trung và Sài Gòn. Hắn ta có khả năng khích động và xúi giục người khác và đệ tử của hắn hành động theo ý của y thi.. Thế nhưng, đệ tử của hắn nằm trong hệ thống Phật Giáo hình như trung thành và được rèn luyện và quy về một nhóm khoảng chừng 600 sư sãị Thích Tâm Châu được sự ủng hộ của các Phật Tử gốc Miền Bắc di cư, mặc dù đa số sự ủng hộ này có thể là do phản ứng chống lại hành vi thiên Cộng của bọn Phật Giáo Nổi Loạn Thích Trí Quang. Thích Tâm Châu yếu ớt về khả năng tổ chức và không có nhiều cán bô.. Dù cho đa số Phật Tử chống lại chính quyền quân sự hiện thời; thế nhưng có thể là cả Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang đều sẽ không chống lại cuộc bầu cử Tổng Thống và Quốc Hội sắp tới, mà họ sẽ âm thầm ủng hộ cuộc bầu cử và muốn thấy nhiều đệ tử của họ được trúng cử vào Quốc Hội.. Thích Tâm Châu có thể là sẽ ủng hộ Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Thích Trí Quang có thể là sẽ công bố ứng cử viên Trần Văn Hương. Trong khi đó, một điều không thể chối cãi được rằng có Việt Cộng nằm vùng trong hàng ngũ Phật Tử trên phương diện chính trị, thế nhưng chưa có bằng chứng cụ thể là Việt Cộng thống trị Phật Giáo hay là điều khiển Phật Giáo, mặc dù trên thực tế thì Phật Giáo Ấn Quang luôn luôn hoạt động có lợi cho Việt Cô.ng. Chính Quyền Quốc Gia đã tỏ ra nắm được thế chủ động trong tình thế chính trị ở Miền Nam, và Thích Trí Quang thì luôn luôn tiếp tục quấy nhiễu Chính Quyền Quốc Gia bất cứ khi nào hắn ta có cơ hội, và có những dấu hiệu cho thấy rằng các ông sư lãnh tụ Phật Giáo không chấp thuận cho các Phật Tử tiếp tục tranh đấu ngoài vòng Pháp Luật. Vào tháng Chín và tháng Mười, rất có thể là những phe Loạn Đảng Phật Giáo Ấn Quang cực đoan và nhóm ôn hoà sẽ tràn vào các địa điểm bầu cử thay vì các chướng ngại vật. 2. Hiện tình hoạt động của Phong Trào Phật Giáo Nổi Loạn chống chính quyền Quốc Gia đang ở vị thế ít đe dọa cho sự ổn định chính trị ở Miền Nam hơn là những thời điểm từ năm khoảng giữa 1963 trở về trước. Bởi vì sự thất bại về những yếu điểm sách lược quan trọng của pha Phật Tử Nổi Loạn là điểm chính đưa đến sự ổn định chính trị ở Miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, khi thời hạn nhiệm kỳ của chính phủ này từ từ hết hạn và bầu cử tổng thống và quốc hội sắp đến vào mùa thu năm 1967, Phật Giáo Nổi Loạn, bảo đảm là, sẽ quan sát sự kiểm tra phiếu rất tỉ mỷ. 3. Trong những năm qua, sự liên hệ giữa chính quyền Quốc Gia và nhóm Phật Giáo Nổi Loạn đã được mô tả bằng những cường độ thay đổi của áp lực chính trị và bạo động của nhóm loạn đảng Phật Giáo lên Chính Quyền Quốc Gia và sau này Chính Quyền Quốc Gia đã phản công lại với sự tính toán kỹ càng. Sách lược phản công của Chính Quyền Quốc Gia được điều nghiên trên tất cả mọi chiến thuật chống nổi loạn từ toàn lực tấn công bao gồm việc sử dụng quân đội thẳng tay đàn áp những cuộc nổi loạn từ trọng tâm vào mùa xuân 1966, đến hình thức nhân nhượng trong vài trường hợp khi biểu tình được chính quyền cho phép. Những mưu mẹo và thủ đoạn mà Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã dùng để xử sự với vấn đề Phật Giáo nổi loạn có thể mô tả như mực độ nhạy bén về chính trị mà ông đã thu đạt được kể từ khi nắm chính quyền. Chính Quyền Quốc Gia có một hệ thống tình báo làm việc rất hiệu qủa ở bên trong các hoạt động của phe luạn đảng Thích Trí Quang, và biện pháp kềm chế tình hình để không đi đến chỗ qúa đáng để có thể kết tủa thành sự rối loạn nghiêm tro.ng. 4. Sự điều khiển các phong trào Phật Giáo Nổi Loạn như là những áp lực chính trị vẫn còn tiếp tục nằm trong bàn tay của một nhóm rất ít tu sĩ Phật Giáo trong danh sách sau đây: 1) Thích Trí Quang. 2) Thích Huyền Quang. 3) Thích Thiện Hoạ 4) Thích Pháp Trí. 5) Thích Pháp Siêụ 6) Thích Trí Thủ. 7) Thích Thanh Vân. 8) Thích Minh Châụ 9) Thích Hộ Giác. 10) Thích Đôn Hậụ 11) Thích Thiện Minh. 12) Thích Nhất Hạnh. Ngoại trừ Thích Nhất Hạnh ở ngoại quốc, chúng hội họp và bàn thảo vào tuần lễ đầu tiên của mỗi tháng và mỗi khi có chuyện cần thiết trong nội bô.. Cho đến khi Thích Thiện Minh bị thương bởi một kẻ tấn công vô tung tích vào năm 1966, hắn ta vẫn là kẻ có ảnh hưởng lớn nhất của đám “giặc thầy chùa”, được xếp vào hàng thứ nhì đứng sau Thích Trí Quang. Thích Trí Quang hoạt động trên mặt nổi và khuôn mặt của hắn rất quen thuộc với công chúng, còn Thích Thiện Minh thì hoạt động trong mặt chìm điều khiển tất cả các lực lượng phiến loạn và biểu tình gồm tất cả các hội Thanh Niên Phật Giáo và Gia Đình Phật Tử. Tình trạng sức khoẻ tệ hại của Thích Thiện Minh đã gây trở ngại cho các hoạt động của hắn ta, và đưa đến hậu quả là bị mất quyền thế và ảnh hưởng và để lại Thích Trí Quang phải gánh chịu trách nhiệm lãnh đạo các Phật Tử phiến loạn là một điều không tránh được. Với sự suy tàn của Thích Thiện Minh, không còn ai ngoài Thích Trí Quang có đủ khả năng để khích động và lãnh đạo các hoạt động chống Chính Quyền Quốc Gia hoặc là chỉ huy đám “giặc thầy chùa” một cách hiệu lực. 5) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) là tổ chức Phật Giáo duy nhất hiện hữu từ ngày thành lập năm 1964 đã bị tổn thất vì sự chia rẽ nội bô.. Sự chia rẽ nội bộ này là hậu qủa của sự xung đột cá nhân mãnh liệt giữa Thích Trí Quang nhà sư người Miền Bắc Di Cư và cũng là Lãnh Tụ Phật Giáo Thích Tâm Châụ Vào cuối tháng Mười năm 1966, sự phân chia đã chính thức triển khai trong GHPGVNTH khi những Phật Tử theo phe ông Thích Trí Quang trong phiên họp “bỏ phiếu kín”của “Hội Đồng Lưỡng Viện lạ thường” của GHPGVNTN đã đề cử ông Thích Thiện Hoa làm Chủ Tịch Viện Phật Học thay thế ông Thích Tâm Châu, cũng kể từ giờ phút đó, Loạn Đảng Phật Giáo Việt Nam đã thiết lập trụ sở chính thức tại chùa Ấn Quang ở Sài Gòn trắng trợn phủ nhận sự thừa kế quyền Chủ Tịch Viện Phật Học của Thích Tâm Châụ Cũng trong thời gian đó, ông Thích Tâm Châu và các Phật Tử theo phe ông cũng phủ nhận tính cách hợp pháp của cuộc “bỏ phiếu kín” của phe ông Thích Trí Quang. Sự tranh giành quyền lực trong tổ chức Phật Giáo này chỉ chủ yếu giữa các Phật Tử trong giáo phái MAHAYANẠ Giáo phái THERAVADA là một giáo phái chiếm một phần ba số Phật Tử Việt Nam thì chỉ đứng bên ngoài quan sát, giáo phái Phật Giáo này bao gồm hàng ngàn các Phật Tử Việt Nam gốc Cam Bốt. 6) Sự khác biệt giữa Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang không thể nào hàn gắn được trong một tương lai ngắn ngủi, thế nhưng điều đó không có liên hệ gì đến việc các Phật Tử tự do hành xử theo Đạo Phật hay chủ nghiã của ho.. Thích Trí Quang tranh đấu cho quyền thế, với mục đích chủ yếu là thao túng quyền lực thế tục và tâm linh của một quốc gia chính trị thần quyền trong tất cả hay là một phần của Việt Nam gọi là “quốc giáo”, điều này đã nẩy sinh ra trong tài liệu ông ta viết đã chỉ ra sự bất khả phân định và quan hệ tự nhiên của khu vực địa lý, những người sống trong vùng và Phật Giáọ Thích Tâm Châu hình như là quan tâm về uy tín nhiều hơn là quyền thế. Ông phấn đấu cho các hoạt động của Phật Giáo Thống Nhất trong vùng Đông Nam Á, mà ông muốn trở thành nhà lãnh đạo cao tro.ng. Chứng cớ cho thấy hoài bão của Thích Tâm Châu có thể được nhận ra trong các hoạt động cố vấn Tăng Thống của Hội Tăng Gìa Thế Giới, Đại Biểu Tối Cao của Hội Ái Hữu Phật Tử và thông tín viên thường xuyên của Lãnh Tụ Phật Giáo trong nhiều Quốc Gia ở Đông Nam Á. 7. Một ít điều căn bản cần thấu triệt để thẩm định, một cách đúng đắn, mực độ “hậu thuẫn quần chúng ủng hộ” ông Thích Tâm Châu hay Thích Trí Quang. Quyền lực chính trị của Thích Trí Quang chủ yếu là ở Miền Trung và ở vùng Sài Gòn và có thể phát hiện được qua sự kêu gọi mỵ dân của ông ta, tài năng tổ chức và sự thao túng các thành phần sinh viên Đại Học ở Sài Gòn và những nơi khác. Theo sự phỏng định từ ba nguồn tin thì con số cử tri mà có thể bị ảnh hưởng bởi Thích Trí Quang trong cuộc bầu cử toàn quốc sắp tới là khoảng chừng 180,000 (một trăm tám mươi ngàn) ngườị Thêm vào đó, con số đáng kể những thành phần Trung Lập và Thân Cộng có thể theo sự lãnh đạo của Thích Trí Quang. Thích Trí Quang đã chứng tỏ là có khả năng khích động và xúi giục những người khác, và những “phật tử” ủng hộ ông ta đã lộ ra thái độ trung thành một cách cuồng tín và hung bạo, và điều này chứng tỏ cần phải có sự trừng phạt tương xứng, theo sự phỏng đoán rằng có khoảng chừng 600 cán bộ trung kiên thuộc loại sư sãi cuồng tín luôn sẵn sang tuân theo mệnh lệnh của hắn ta một cách tuyệt đốị Yếu điểm chính của Thích Trí Quang là thái độ bất hòa hoãn và chủ ý khát vọng quyền lực, ý định của hắn là xóa bỏ các hệ phái Phật Giáo khác, và chống đối sự phát triển của đạo Công Giáọ (Đối với Thích Trí Quang thì Phật Giáo là “tôn giáo gốc” (Quốc Giáo) của người Việt Nam, còn Công Giáo là nhập cảng từ ngoại quốc do Thực Dân mang vàọ) Chủ đích “trung lập” và “chống Mỹ” của Thích Trí Quang cũng đưa đến hậu qủa là số đông các phần tử Quốc Gia Chống Cộng chán ghét và xa lánh. 8. Thích Tâm Châu được ủng hộ bởi thành phần Phật Giáo Di Cư và ông cũng được các phe nhóm Phật Tử khác ủng hộ một cách hiển nhiên, thế nhưng, đa số Phật Tử ủng hộ Thích Tâm Châu rất có thể là do phản ảnh của sự ghê tởm hành vi chính trị cực đoan quá khích trong qúa khứ của bọn phiến loạn Phật Tử hơn là sự thành khẩn và tích cực theo Thích Tâm Châụ Ông Thích Tâm Châu rất yếu kém về khả năng tổ chức và không có cán bộ nòng cốt có khả năng để để tổ chức và khích động quần chúng làm theo ý ông. Nhiều báo cáo chi biết ông Thích Tâm Châu bị mất nhiều phật tử vì họ phản đối việc ông lien kết với Chính Quyền Quốc Giạ Ông Thích Tâm Châu đã củng cố vững mạnh trong ciệc tranh đấu với Thích Trí Quang trong việc nắm quyền điều khiển Việt Nam Quốc Tự bởi tác động của Chính Quyền Quốc Gia đã lựa chọn đường lối rõ ràng là vô hiệu hóa Phong Trào Phật Giáo Nổi Loạn qua sự việc Chính Quyền Quốc Gia đã ủng hộ phe Phật Giáo ôn hoà. 9. Kể từ năm 1963, phe Phật Giáo Nổi Loạn đã kiên định và liên tục quấy nhiễu và đánh phá nền an ninh trật tự của Miền Nam Việt Nam, và hầu như họ không còn biết kính trọng cá nhân nào hay quan tâm đến vận mệnh Quốc Giạ Đa số Phật Tử hình như chống đối lại chính quyền Quân Sự hiện thờị Ngay cả phe Phật Giáo ôn hoà cũng không chấp nhận Chính Quyền Quân Sự mà không cần hạn chế điều kiện nào cả. Sự liên minh giữa Thích Tâm Châu và Chính Quyền Quân Sự chỉ hoàn toàn là do sự thuận lợi mà thôị Dù sao đi nữa, cả hai phe theo Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang đều không chống đối cuộc bầu cử dân sự vào mùa thu nàỵ Sự công khai tẩy chay cuộc bầu cử Hội Đồng Lập Hiến vào tháng 9 năm 1966 vừa qua đã mang đến hậu qủa là họ bị vô cùng mất mặt và không có thế đứng trong Quốc Hội, và lần này họ sẽ cố gắng sửa đổi lầm lẫn đó. Cả hai phe Phật Giáo ôn hòa và Phật Giái nổi loạn đều không công khai chấp nhận hay ủng hộ một ứng cử viên nào trong cuộc bầu cử Tổng Thống sắp tớị Thế nhưng có dấu hiệu cho thấy Thích Tâm Châu sẽ khuyến khích Phật Tử phe ông ta tham dự cuộc bầu sử và, ít ra là ngấm ngầm, ủng hộ Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ nếu ông ra tranh cử. Nhiều tin tình báo mới đây cho biết Thích Trí Quang cũng sẽ ủng hộ cuộc bầu cử toàn quốc. Trong buổi họp với các cố vấn chính trị của Thích Trí Quang ở chùa Ấn Quang vào thượng tuần tháng Tư, Thích Trí Quang đã quyết định công khai ủng hộ ông Trần Văn Hương làm ứng cử viên Tổng Thống, và ủng hộ một số ứng cử viên khác vào Lưỡng Viện Quốc Hội, mặc dù sự ủng hộ các ứng cử viên này không được công bố chính thức. Cũng từ các tin tình báo này cho biết trong buổi họp bí mật giữa ông Trần Văn Hương và người đại diện cho Thích Trí Quang và Thích Trí Quang đã điều đình với ông Trần Văn Hương để gài người của ông ta vào ghế Phó Tổng Thống trong Chính Quyền Quốc Giạ Trong buổi mật đàm này, ông Trần Văn Hương đã nhiều lần tán dương Thích Trí Quang và chỉ trích Thích Tâm Châụ Nhiều tin tình báo từ Miền Trung đã cho biết nhiều ứng cử viên là đệ tử của Thích Trí Quang. 10. Sự việc đáng nghi ngờ rằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng như nhiều cơ quan khác ở Miền Nam đã bị Việt Cộng thâm nhập, mặc dùng không có bằng chứng cụ thể nào chứng minh rằng Phật Giáo bị thống trị hay điều khiển bởi Việt Cô.ng. Thế nhưng sự thật là thái độ của GHPGVNTN quấy phá nền an ninh trật tự Miền Nam trong thời chiến, và chứng cớ hiển nhiên là chúng tẩy chay cuộc bầu cử hiếp pháp từ tháng Bẩy cho đến tháng Chín năm 1966, thường là mọi việc đều rặp khuôn theo chính sách của Việt Cô.ng. Sự thật không thể chối cãi được là các phần tử Phật Giáo Nổi Loạn, trong những hành vi chống đối Chính Quyền Quốc Gia, nhiều khi chúng đứng hẳn về phía Cộng Sản càng làm làm gia tăng sự nghi ngờ là GHPGVHTH bị Việt Cộng thâm nhập và do Việt Cộng điều khiển. Những kẻ thường kêu gọi “trung lập và phản chiến” như cố vấn chính trị của Thích Trí Quang là Thích Nhất Hạnh đã cho thêm bằng chứng mạnh mẽ để không thể chối cãi rằng GHPGVNTH được điều khiển bởi Việt Cô.ng. Thêm vào đó nữa là một cố vấn chính trị khác của Thích Trí Quang là Thích Thiện Hoa ở Chùa Trà Vinh, Tỉnh Ninh Bình là vùng Việt Cộng kiểm soát. Mặc dùng sống ở Sài Gòn, nhưng Thích Thiện Hoa đi về Chùa Trà Vinh mỗi tháng, và tin tình báo cho biết Thích Thiện Hoa có người chuyển tin tức và đi đi về về giữa Ninh Bình và Sài Gòn luôn luôn. Thích Thiện Hoa là người mà ai cũng biết tiếng ông ta là bạn than của Nguyễn Hữu Thọ là Chủ Tịch của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ngoài ra còn có nhiều chứng cớ từ lời khai của các cácn binh Việt Cộng bị bắt cho biết rằng GHPGVNTH là cơ sở để thâm nhập cán bộ vào hoạt động ở Miền Nam. 11. Miền Trung Việt Nam, hay nói rõ hơn là Huế, là trung tâm hoạt động chính trị của GHPGVNTH từ sau giữa năm 1963, và ngay cả đế giờ, mực độ và bản chất của của các hoạt động của Phật Giáo trong vùng này là biểu hiệu cho mực độ chống chính quyền Quốc Giạ Tuy rằng thỉnh thoảng ở Huế và những nơi khác vẫn còn những tin tức tình báo cho biết là có những mưu đồ chính trị của Phật Giáo, tình trạng hiện thời cho thấy rằng Chính Quyền Quốc Gia đang nắm giữ được tình thế ở Huế và những nơi khác. Lẽ dĩ nhiên là Thích Trí Quang vẫn luôn luôn là cái gai nhọn chống đối Chính Quyền Quốc Gia, và bất cứ khi nào có cơ hội là hắn sẽ không ngần ngại làm xấu hổ Chính Quyền Quốc Giạ Thế nhưng cũng có những lãnh tụ Phật Giáo khác, dù là đang hoạt động chính trị hiện thời hay trong qúa khứ, đã bày tỏ thái độ là không nên đấu tranh nổi loạn ngoài vòng pháp luật. Ngày bầu cử gần kề, nhưng không có dấu hiệu hòa giải giữa hai phe Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang. Có thể là Chính Quyền Quốc Gia sẽ tiếp tục ổn định được tình thế, và sẽ có nhiều Phật Tử tham dự vào thể chế dân chủ và cũng sẽ có nhiều Phật Tử tham dự vào Quốc Hội để giải quyết vấn đề của ho.. Vào thời gian bầu cử tháng 9 và tháng 10 năm 1967, hy vọng là cả hai phe Phật Giáo sẽ tràn vào phòng phiếu để bầu cử chứ không phải để quấy nhiễu Chính Quyền. 12. Bản báo cáo này gồm tin tức phối hợp với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. 13. Tin tình báo State USMACV (Thống Tướng Westmoreland, Chỉ Huy Trưởng, J-2) Cinpac (Đô Đốc Sharp và Polad). Hết
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 2, 2013 9:55:29 GMT 9
Ngô Đình Nhu và luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes (1/2) NDN_LIFEsLuận văn này có tên “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”. Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm 1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Luận văn của ông Nhu Dưới đây là bản tóm tắt luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes năm 1938 của Ngô Đình Nhu (1910-1963). Luận văn này có tên “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”. Quốc Anh bạn tôi đang dạy học ở Sciences Po đã bớt thời gian gõ đầu trí thức Pháp mà vào thư viện lục lọi và gửi về. Bạn Khiếu Anh cũng đã bớt thời gian đi học để dịch bản luận văn này qua tiếng Việt với tên “Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII”. Nhưng trước hết là một chút thông tin về tác giả bản luận văn. Ông Ngô Đình Nhu ( 7 tháng 10, 1910 – 2 tháng 11, 1963). Nguồn: LIFE Magazine. Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học ở Sorbonne rồi học tiếp École de Chartes. Trong một tài liệu khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ (archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất danh tiếng là Henry Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp (link này cho thấy năm 1938 chỉ có 13 người trong danh sách luận văn). Do đó có từ “Chartistes” để chỉ các sinh viên tinh hoa của trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ hào quang của trường Chartes nên các cuộc gặp chỉ là cá nhân mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn trong “Perfect Spy” thì một trong những lực lượng gây ra cái chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale [1], được cho nguyên mẫu của The Quiet American.[2] Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Cụ thể từ năm 38 đến 43 ông làm nhân viên Nha văn khố trung ương Hà Nội. Sau đó kiêm thêm Chủ sự văn khố tòa khâm sứ Huế. Triều đình Huế cũng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch hội đồng chỉnh đốn Châu bản của Văn khố nhà Nguyễn. Sau đó Nhật đảo chính Pháp, ông Nhu (có thể vì có anh ruột là ông Diệm thân Nhật chống Pháp) nên được bổ nhiệm làm Giám đốc văn khố trung ương tại Hà Nội. Năm 1945 ông Nhu đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội”.[3] Trong thời gian này, ông Nhu cũng lấy vợ, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau này nổi tiếng với tên gọi “đệ nhất phu nhân” ở Việt Nam, và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng Việt qua gia sư, và là “một phụ nữ thuộc một giai cấp ở Việt Nam không có”. Bà Xuân đã “nuôi chồng” suốt thời gian ông Nhu “thất nghiệp, chưa có sự nghiệp”, ở Đà Lạt và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự “bao”. Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời. Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau 19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng Sciences Po năm 1937 rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng. Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm sau 19/8 ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: “nói bằng tiếng Pháp, tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về chính trị”, có lẽ “chuyện chính trị” mà hai ông nói liên quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp. Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963 ông Tuyến mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc, và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Chuyện đại tá Thảo và ông Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ hai mét nhưng mà không được xem tận mắt. Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến nhưng theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác, điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề Việt Nam [4]) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình. Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược … (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn đã làm (theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832), dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng Phong) ông cũng không che dấu các bí quyết trị quốc phải được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá khứ. Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng, người đã phát minh ra “bia cốc bờ Hồ” được ưa chuộng cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món “bia cốc” này, tôi nghĩ, chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng ta vẫn nốc cùng thịt chó. Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét; từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa. Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng. Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn tay của ông Nhu. Ngày mà bản Hiến pháp 1956 này được thông qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất). Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler, Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10 ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước cảnh sát của Hitler. Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế giới. Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân tộc. Một số “sách lược, chiến lược” ông Nhu chỉ ra trong sách, sau này không hiểu vô tình hay học lóm mà các chế độ sau đều áp dụng. Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN, ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm mạnh tiếng Việt. Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W. Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì ông Nhu lý giải rằng chữ “động” trong “lao động” có màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ “cần” trong “cần lao” của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu là do chịu ảnh hưởng triết lý “personalism” của triết gia công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong bối cảnh “hợp tác tập thể để tự cá nhân” rồi phát triển nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là “personism”. Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ (tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu), và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự, không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng,… là những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm Nhu bị giết). Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã dẫn lời Phạm Xuân Ẩn. Còn xung đột với Phật Giáo, sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi xong đảo chính. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist. Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ (?). Sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ) của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội (mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự, khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam. Edward Miller, April 2013. Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm, Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jacques Bénet. Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes [5] với ông Nhu, tham gia kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ bức thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống, qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời De Gaulle quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính thức đứng sau ông Diệm. Phân tích này cũng phù hợp với thông tin mới nhất (2013) của Edward Miller lấy từ tài liệu được giải mật của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó Mỹ có rất ít thông tin và mù mờ về ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội. Điều này khá logic với việc ông Nhu không sử dụng nhóm ông Hà (học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội), ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Ông Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả Joseph Buttinger năm 1956. Cả Đỗ Mậu lẫn Trần Kim Tuyến đều nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết. Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người chống Pháp như ông Diệm mà chỉ trong năm 1955 đã dẹp sạch những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội Bình Xuyên. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952, một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã đưa Bảy Viễn qua Paris. Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là “không có giải pháp thay thế (thì chống để làm gì)” có lẽ là vì lý do bí mật về “giải pháp thay thế Bảo Đại” mà ông Kiểng phát hiện ra. Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông Diệm mà không có “giải pháp thay thế”. Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối rắm. Mà lịch sử Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một trường hợp vô tiền khoáng hậu. Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình, với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược, rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên, một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa còn non nớt. Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm (tổng thống đầu tiên của miền nam) sau này trở thành tổng thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Các bí ẩn quanh quan hệ của tướng Dương Văn Minh, thượng tọa Trí Quang, nhà điệp báo Phạm Xuân Ẩn, cùng với khám phá mới nhất (2013) của Miller về kế hoạch tấn công giải phóng miền bắc của ông Diệm (sau trận Ấp Bắc), sẽ là món “nhậu” khoái khẩu cho các vị theo thuyết âm mưu, và là sự hồi hộp cho những ai kiên nhẫn đợi chờ sự tiết lộ dần dà của lịch sử. Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả lời của ông Nhu, theo ghi chép của bác sỹ Tuyến: Câu hỏi: Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập? Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương. Đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia. Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn như họ… nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là (mô) phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng (), ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn. Câu hỏi: Hình như Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp? Ông Nhu trả lời: Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy. Câu hỏi: Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở? Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng. Chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội không kiểm soát được Hành Pháp. Trích từ “Chính đề Việt nam” Bìa “Chính đề Việt Nam”, 1965. Trang trong: Thủ bút của tác giả Tùng Phong và Lê Văn Đồng, ký tặng dân biểu Mặc Giao, 1968. Nguồn: Sách của tác giả và Lê Văn Đồng tặng ông Mặc Giao/DCVOnline 2010. ““Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại. Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.” “Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam.” ‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’ “Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương.” “Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có gì thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.” “Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn: 1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau. 2. Các bí mật quốc gia được truyền lại. 3. Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi. 4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.” “Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ vãng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.” Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm 1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Và lời giới thiệu về tác giả như thế này là quá dài và hơi liên thiên. (Còn tiếp) Nguồn: Luận văn của ông Nhu. Blog của 5xu. Tháng Mười Một 20, 2013. DCVOnline chú thích và minh hoạ. DCVOnline: [1] Edward Geary Lansdale (6 tháng 2, 1908 – 23 tháng 2, 1987) là sĩ quan Không quân Mỹ công tác với OSS và CIA. Lansdale có mặt tại Đông Dương từ năm 1953, làm cố vấn cho Pháp trong chiến dịch chống quân du kíchViệt Minh. 1954-1957, Lansdale là trưởng Phái bộ Quân sự Mỹ tại Saigon; 157-1963, Landsdale làm việc với bộ Quốc phòng Mỹ tại Washington. Lansdale giải ngũ ngày 1 tháng 11, 1963 với cấp bậc trung tướng. [2] 1988 Cecil B. Currey cho xuất bản cuốn “Edward Lansdale: The Unquiet American” Edward Lansdale: Người Mỹ không trầm lặng; tựa cuốn sách của Currey phủ nhận điều nhiều người đã tưởng thật nhưng không đúng là nhân vật Alden Pyle trong cuốn tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng” của Graham Greene lấy Lansdale làm người mẫu. [3] Có thông tin khác cho rằng cuốn sáchnăm (~1945) của Ngô Đình Nhu viết bằng tiếng Pháp tựa đề là “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi sous les Postérieurs”. Nguồn: motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/NgoDinhDiem/NDChau/CvNDNhu.htm, truy cập 21/11/2013. [4] Cho đến nay (11/2013) chưa có một chứng cớ thuyết phục nào xác định Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn “Chính đề Việt Nam”, sách viết bằng tiếng Việt, xuất bản năm 1964, tên tác giả là Tùng Phong. Những nhận định xung quanh việc tìm kiếm tên thật của Tùng Phong đều đồng ý rằng “sách” của Ngô Đình Nhu [nếu đã] viết [phải] bằng tiếng Pháp và tựa đề là dấu hỏi lớn vì không ai có nguyên bản [thảo]của tác giả Ngô Đình Nhu. Theo Phạm Đình (Thông Luận) thì Tùng Phong là bút hiệu của Lê Văn Đồng, cựu Đổng Lý văn phòng Bộ trưởng Canh nông và có mặt trong bộ tham mưu chính trị của ông Diệm (cho đến năm 1957). Tác giả Lê Văn Đồng xuất bản sách “Chính đề Việt Nam” năm 1965, sau khi ông Diệm bị lật đổ và bị giết cùng với ông Nhu. 1975, Lê Văn Đồng đi tị nạn cộng sản và qua đời năm 1992 tại Mỹ. Gia đình ông Lê Văn Đồng khẳng định Lê Văn Đồng là tên thật của tác giả cuốn “Chính đề Việt Nam”, Tùng Phong. [Nguyễn Văn Lục, Ai là tác giả cuốn “Chính Đề Việt Nam?” và “Đúc kết hồ sơ Nghi án văn học: Ai là tác giả cuốn Chính Đề Việt Nam?”, © DCVOnline 2010. [5] Luận án tốt nghiệp năm 1939 tại École Nationale des Chartes của Jacques BENET (1915 – 2009) là “Jean d’Anjou, duc de Calabre et de Lorraine (1426-1470)”. Nguồn: École des chartes » thèses theses.enc.sorbonne.fr/titres?de=1939. Truy cập ngày 21/11/2013. Luận án này đã được l’association de soutien des archives publiques de Lorraine cho xuất bản năm 1997. ********************** Ngô Đình Nhu và luận văn tốt nghiệp trường École Nationale des Chartes (2/2) Ngô Đình Nhu – Khiếu Anh lược dịch edcLàng xã. – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao. Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia phần đất chung theo kỳ hạn. Dưới đây là bản dịch tóm lược bản luận văn. Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII [6] Ngô Đình Nhu – Người dịch Khiếu Anh ——————- Tài liệu tham khảo —————— Phần mở đầu Không có bất cứ tài liệu nguồn gốc châu Á nào, do đó các tài liệu châu Âu có vai trò đặc biệt quan trọng. Các thầy tu dòng Tên (Jésuites): Baldinotti, Alexandre de Rhodes, Marini, Tissanier. Các thầy dòng của Hội thừa sai: Deydier, Jacques de Bourges, Belot, Guisain. Các nhà buôn: Baron, Dampier. Văn khố của Hội thừa sai; tổng hợp và miêu tả. ————— Phần Một Xã hội Chương Một Các nhóm dân cư 1. Làng xã – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao. Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia phần đất chung theo kì hạn. 2. Chợ giữa các làng – Chợ họp hàng tuần và thường là giữa bốn đến năm làng, các làng thay phiên nhau làm chủ chợ. Việc họp chợ giữa các làng là tế bào kinh tế của cả vùng. Các đô thị quan trọng nhất là Domea (200 nóc nhà) và Hien (2000 nóc nhà) thường xuyên có sự hiện diên của các nhà buôn nước ngoài và Kien-lao (7000 giáo dân) trở thành lợi thế của vùng để được hưởng các ưu tiên của triều đình 3. Ke-cho (Hanoi) – Kinh đô, nơi có các công ty xuất nhập khẩu châu Âu. Sự phồn thịnh, 36 phố phường, bảy mươi hai khu chợ, mỗi phố chỉ chuyên một ngành hàng, 20 000 nóc nhà. Chương Hai Nông nghiệp 1. Lúa gạo a) Vị trí bậc nhất của cây lúa. Lí do. b) Chế độ sở hữu: hợp đồng cầm cố (vente à réméré) chỉ được chấp nhận đối với người ngoại quốc, ruộng đất manh mún. Chiếm dụng đất theo dòng họ (groups de famille), sự nhũng lạm của giới quý tộc. c) Nông cụ: sử dụng cày. Tự điển của linh mục de Rhodes cần được sử dụng cẩn trọng, có liên hệ tới cả Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài. d) Canh tác: hai vụ lúa mỗi năm và tô (prix de revient) tăng cao. e) Nạn đói: mười hai nạn đói từ năm 1681 đến 1721: tính chất. 2. Trồng trọt thứ yếu – Trồng cau, dâu tằm. Chương Ba Chăn nuôi, Đánh cá, Công nghiệp 1. Chăn nuôi – Gia cầm và lợn thịt. Ít bò và trâu. Thiếu đồng cỏ. 2. Đánh cá – Tầm quan trọng đối với người Đàng Ngoài a) Nước ngọt: Vợt và vó. b) Trên biển: kém phát triển do giá tàu biển cao. 3. Làng nghề – Có rất ít tài liệu liên quan đến chủ đề này: văn khố của Hội thừa sai cung cấp một văn bản quý giá cho phép định vị nghề dệt chiếu ở tỉnh Nam-dinh. Nghề sơn và gốm sứ. Kéo sợi và dệt lụa là nguồn cung xuất khẩu duy nhất: các nhà buôn nước ngoài đến vào tháng bảy, đặt mối với các thợ thủ công – luôn phải qua khâu trung gian – và chờ đợi ít nhất sáu tháng để đơn hàng được hoàn thiện. Chương Bốn Tiền tệ 1. Các loại tiền tệ – Duy nhất một loại tiền được lưu hành: tiền đúc từ đồng. Tiền 10 đồng và 6 đồng được nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ được dùng ở Ke-cho và bốn tỉnh xung quanh. 2. Tỷ giá quy đổi – Sự ổn định của đồng so với vàng, sự bất ổn của tiền đồng trong đó có yếu tố trượt giá: 1 quan đổi ra 600 đồng năm 1666 và 1200 đồng năm 1715. 3. Cho vay nặng lãi – Lãi suất hợp pháp từ 25% đến 30% thường xuyên bị vượt qua, người ta cho vay lấy lãi 100% đến 240% rồi 3600%. Tình trạng khốn cùng cuối thế kỷ XVII và đời sống đắt đỏ. Chương Năm Thương nghiệp 1. Nội thương a) Các con đường giao thương: sông và kênh b) Các phương tiện giao thông: không có máy móc vận tải, chuyển chở trên ván thăng bằng, thuyền ba ván. 2. Ngoại thương – Những con đường đến Đàng Ngoài: mọi hoạt động ngoại thương đều qua đường biển. Thương nhân Trung Quốc ngược lên Cua Luc-bô (Rokbo theo Dampier) chính là sông Đáy; người châu Âu qua Cua Lâ (Thai-Binh) dẫn đến Domea; ngôi làng này chắc chắn không phải là Dôn-Minh, mà là Dông-xuyên-ngoai : những tàu buôn châu Âu không đi xa thêm trong khi thuyền mành (jonque) Trung Quốc ngược lên đến Hien. Người ta không bao giờ chỉ ra rằng, bên ngoài Đàng Ngoài, không có bóng dáng một con thuyền cũng như không có một nhà buôn Đàng Ngoài nào, và những người châu Á khác cùng với người châu Âu đã độc chiếm hoàn toàn ngoại thương của vùng. Thường xuyên thiếu lương thực, bị bỏ đói định kỳ, người Đàng Ngoài nhận lấy một sự tồn tại khốn khó, bất bênh và không thể nghĩ đến điều gì ngoài miếng cơm hàng ngày. ———— Phần Hai Cuộc sống gia đình ———— Chương Một Tổ chức gia đình 1. Nền tảng của quan hệ họ hàng – Quan hệ huyết thống, địa vị vượt trội của họ hàng bên nội thể hiện qua những cách gọi tên đặc biệt. 2. Cấu trúc gia đình – Không có thị tộc (clan); bố mẹ và con cái. 3. Tổ chức gia đình – Người mẹ phụ thuộc vào quyền quyết định của người cha, con cái bình đẳng. Chương Hai Hôn nhân Nguồn bằng chứng châu Âu dồi dào trở nên đặc biệt quý giá khi không có bất cứ tài liệu nào có xuất xứ An Nam. 1. Vai trò của đôi vợ chồng tương lai – Không có quyền được chọn người hôn phối; bố mẹ cưới gả con từ khi còn nhỏ tuổi. 2. Ăn hỏi – Người mối lái, sính lễ, thách cưới chàng rể tương lai. 3. Đám cưới – Trình của hồi môn, luôn là ruộng vườn và được tặng bởi chú rể; nộp khoản phí bắt buộc cho các chức sắc trong cộng đồng; cỗ cưới do chú rể chi trả; cô dâu trình diện trước các ông thần bếp (ông Táo) và tổ tiên của chồng Chương Ba Chấm dứt hôn nhân 1. Ly hôn – Người phụ nữ hiếm khi có thể ly hôn và trong trường hợp có thể thì phải bồi thường cho người chồng. 2. Bỏ vợ – Người chồng luôn có rất nhiều cơ hội để ruồng rẫy vợ. 3. Cách thức ly hôn và bỏ vợ – Sự phá bỏ quan hệ hôn phối được thể hiện công khai: “đồng tiền hay chiếc đũa bẻ đôi” 4. Bât-dông hay dô-dông – Các quý tộc có quyền lấy làm lẽ những người phụ nữa góa chồng, bị chồng bỏ, ly hôn hay những cô gái chửa hoang trong làng; những người này chỉ có thể khước từ bằng cách nộp 1 quan tiền cho quý tộc và từ đó không được phép lấy bất cứ ai. Tục lệ này chỉ còn được lưu giữ trong văn khố của Hội thừa sai. Chương Bốn Sinh và Tử 1. Sinh a) Ngày sinh: đặc biệt quan trọng b) Tên riêng: không được là tên một đứa trẻ khác đã chết; đặt tên xấu cho con để tránh bị ma quỷ quấy nhiễu. Khi đứa con đầu tiên ra đời, cách gọi tên ông bà nội và ông cậu họ nội sẽ được thay đổi, cách gọi tên người con cả thay đổi khi người con thứ ra đời. Khi thôi nôi, đa phần tên gọi cũ sẽ được thay thế bằng một cái tên đẹp. Sự tôn kính một bậc bề trên thể hiện qua việc không bao giờ gọi tên của người này cũng như tên của cha mẹ ông ta, và người ta phải nói chệch đi bằng các từ đồng âm với tên gọi; cũng từ đó mà một số gia đình có vốn từ đặc biệt. c) Tuổi trưởng thành : mười tám tuổi. Thông thường, trẻ em được tính một năm tuổi khi vừa chào đời và được hai tuổi vào Têt (đầu năm) sau. d) Con nuôi : phổ biến, nhưng không được chứng thực bằng giấy tờ và không công khai. Baron được một hoàng tử ở Đàng Ngoài nhận nuôi để không phải chịu phiền toái và những Thừa sai người Pháp nhận làm con trai danh dự của một ái phi của Trinh Can để tự bảo vệ trong một phiên xử khó. Nhận nuôi thường không chỉ là một sự tiến cử đơn thuần, chỉ ra rằng ở Đàng Ngoài vào thế kỉ XVII không có tổ chức xã hội nào khác ngoài gia đình và rằng người ta không thể có người bảo hộ nào khác ngoài cha và mẹ. 2. Tử – Người Đàng Ngoài sợ cái chết, nhưng có thái độ chấp thuận, và sợ nhất là không có được một cỗ áo quan đẹp. Thi hài được quàn trong mười đến mười lăm ngày trước khi được an tang ở bản quán. Thời gian chịu tang: ba năm cho con, hai năm, ba tháng và mười ngày cho góa phụ; phải sống khắc khổ trong thời gian chịu tang. Thờ cúng tổ tiên, trong đó gia đình là đơn vị, tạo nên sự gắn kết và sức mạnh. ——–——– Đàn ông Annam, Saigon, c.1870s (b/w photo), Nhiếp ảnh gia châu Âu, (19th century) / Ảnh tư liệu / The Bridgeman Art Library Đàn ông Annam, Saigon, c.1870s (b/w photo), Nhiếp ảnh gia châu Âu, (19th century) / Ảnh tư liệu / The Bridgeman Art Library Phần Ba Đời sống cá nhân Chương Một Trang phục Tóc thả dài, biểu tượng của tự do; việc cắt tóc là một nhục hình hoặc là dấu hiệu của tang gia. Trán rộng được cạo nhẵn, răng được nhuộm lúc mười sáu hay mười bảy tuổi. Mũ, quần áo. Dân cư chủ yếu ở trần. Chương Hai Thức ăn Gạo là thức ăn chính; thịt, nhất là thịt chó; các loại cá và nuoc-mam. Chỗ ở và đất đai. Một chế độ ăn thiếu thốn giải thích cho việc các tín đồ Cơ Đốc ở Đàng Ngoài đều không ăn chay. Chương Ba Tính cách Có sự tương thích giữa các lời chứng. Người Đàng Ngoài cởi mở, nhạy cảm với tình bạn, ý tứ, ít gây gổ, ngăn nắp nhưng cũng tham ăn (có lẽ đơn giản là do bị bỏ đói), lười nhác và trộm cắp. Mại dâm thế kỷ XVII. ——–——– Kết luận Nhìn chung, các tập quán ở Đàng Ngoài không có nhiều thay đổi từ thế kỷ XVII và không có gián đoạn nào trong sự tiếp nối tâm lý. Tuy nhiên, ta nhận thấy ở người Đàng Ngoài một sự thích nghi đáng lưu ý: những phong tục khắc nghiệt biến mất không để lại dấu vết và nhận định này khiến chúng ta cần thật sự cẩn trọng trong những giả thuyết về các nguồn gốc của văn minh Đàng Ngoài. Biên niên của trường l'Ecole des chartes. Biên niên của trường l’Ecole des chartes. 1938, Tập 99. trang 195-199 Nguồn: Luận văn của ông Nhu. Blog của 5xu. Posted on Tháng Mười Một 20, 2013 DCVOnline chú thích và minh hoạ. DCVOnline: [6] Dinh-Nhu NGÔ, “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”, 1938. École des chartes » thèses. Nguồn: theses.enc.sorbonne.fr/titres?de=1938. Với Luận án này ông Ngô Đình Nhu được chấm tốt nghiệp cổ tự học lưu trữ (archivists paleographer) hạng 4. Nghiên cứu của ông Nhu là một trong 3 luận án mà trường École des chartes coi là những tác phẩm mà Bộ Giáo dục Pháp cần để ý tới. Nguồn: Biên niên của trường École des chartes và archivistes-paléographes. Lưu trữ tại thư viện trường École des chartes. 1938, Tập 99. trang 195-199. www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/bec_0373-6237_1938_num_99_1_460392
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 22, 2014 5:43:10 GMT 9
Đi tìm Bà Nhu Hà Giang/Người Việt Trích Giai Phẩm Xuân Người Việt Giáp Ngọ 2014 Bà Nhu là vợ ông Ngô Đình Nhu, em ruột và là cố vấn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Bà tên thật là Trần Lệ Xuân, và là một dân biểu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng người ta hầu như không ai gọi bà là Dân Biểu Trần Thị Xuân, mà bằng những tên khác: Bà Cố Vấn, Bà Ngô Đình Nhu, Bà Nhu, Đệ Nhất Phu Nhân (thời đó), vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm không có vợ. Bà Ngô Đình Nhu và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy xuất hiện trên hình bìa tạp chí Life ngày 11 Tháng Mười năm 1963. (Hình: AP Photo) Bà Nhu được biết tới qua sự bặt thiệp, lưu loát cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, dáng người thanh lịch trong kiểu áo dài cổ thuyền (do chính bà thiết kế) rất thông dụng, mà dân gian gọi là “cổ bà Nhu.” Tên bà cũng dính liền với Hội Phụ Nữ Liên Đới, Bộ Luật Gia Đình, gồm những luật như cấm phá thai, ly dị, ngoại tình, khiêu vũ và thi hoa hậu, mà người khen thì cho là bênh vực phụ nữ, kẻ chê lại bảo là những bộ luật đẩy phụ nữ thụt lui hàng chục bước. Bà Nhu bị nhiều người cùng thời không ưa. Họ tả bà bằng những tĩnh từ thiếu thiện cảm: Hách dịch, kiêu căng, ác miệng, thiếu ngoại giao, quá khích. Còn nữa, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson, khi gặp bà lần đầu tiên gần như bị hớp hồn, quên phép tắc ngoại giao, tán tỉnh bà trước bá quan văn võ. Cựu Tổng Thống John F Kennedy thì ghét bà thậm tệ. Nhiều sử gia cáo buộc rằng bà là nguyên nhân khiến chế độ Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ tiếp tay đảo chánh, và khiến nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam sụp đổ. Đặc biệt, thế giới bên ngoài Việt Nam đặt cho bà danh hiệu “The Dragon Lady” tạm dịch là “Bà Rồng Cái,” một cụm từ có tính cách miệt thị, mà người Tây Phương dùng để tả những người đàn bà Á Đông bí hiểm, quyền biến, mưu mô, nói tóm lại là “quá quắt.” Nhưng dù chê trách hay ngưỡng mộ bà, đa số đều đồng ý rằng bà Ngô Đình Nhu là người phụ nữ được chú ý và gây tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Bà Nhu có thực sự ghê gớm như những lời đồn đãi? Bị mê hoặc bởi dung nhan, vóc dáng, tính dám nói dám làm, và những lời đồn đãi về bà, học giả Monique Brinson Demery, ra đời sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có bằng thạc sĩ về nghiên cứu khu vực Đông Nam Á từ Đại Học Harvard, đã bỏ một thời gian rất dài để truy tầm, tìm hiểu và tiếp xúc với cho bằng được với con người thật đằng sau cuộc đời đầy thảm họa, dính liền với giai đoạn đầu của cuộc chiến Việt Nam. Tác giả Monique Demery cho biết đã bị những giai thoại và các bài tường thuật báo chí về nhân vật “Dragon Lady” lôi cuốn từ hồi nhỏ, và muốn kể chuyện về cuộc đời bà Nhu bằng “sự thật” nhìn từ phía bà, với tiền đề là biết đâu nhân vật “đáng sợ” này chính là một người rất đáng thương? Kết quả hành trình đi tìm kéo dài nhiều năm, khởi sự từ 2005 đến khi bà Nhu qua đời, được Monique Demery kể lại tỉ mỉ trong cuốn “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu,” viết bằng tiếng Anh, dài 280 trang, bìa cứng, do nhà xuất bản Public Affairs phát hành cuối Tháng Chín năm 2013, hơn hai năm sau ngày bà Ngô Đình Nhu trở thành người quá cố. Monique Demery chọn một hình ảnh biểu tượng của bà Nhu làm hình bìa của cuốn sách. Trong hình, bà Nhu mặc chiếc áo dài Việt Nam ôm sát người, tóc bới cao, tay cầm một khẩu súng, chìa ra phía trước, mắt nheo lại trong thế sẵn sàng nhả đạn. Đây là một chọn lựa xuất sắc, vì tấm hình này cùng một lúc nói lên nhiều khía cạnh của nhân vật, khiêu khích, quyến rũ, và nguy hiểm, những điều thiên hạ hay nói đến khi nhắc đến hai chữ “Dragon Lady.” Bằng một giọng kể chuyện thân tình, lôi cuốn, tác giả Monique Demery đưa người đọc hồi hộp cùng bà tham dự cuộc hành trình ly kỳ, từ lúc rảo bước tại thành phố Paris, truy tìm ra căn hộ của bà Nhu, chỉ dựa theo một câu tả mơ hồ trong bài viết trên một trang blog Việt ngữ. Như một thám tử kiên trì, Monique tìm được đúng nơi bà Nhu cư ngụ, để lại một bức thư, và liên tục viết cho bà nhiều thư khác nữa, cho đến khi, sau nhiều tháng săn đuổi, điện thoại của nhà Monique Demery vang lên một sáng sớm, khi cô còn ngái ngủ, và đầu dây bên kia là một giọng xa xôi, tự xưng là Madame Nhu. Độc giả thở ra nhẹ nhõm khi biết sau khi đã tra hỏi nhiều lần, và yên tâm Monique Demery không phải là một gián điệp của CIA, cũng không phải là một phóng viên của tuần báo Times, bà Nhu “cảm ơn Thiên Chúa” đã gửi một thiên thần đến giúp bà “hoàn tất cuốn hồi ký, trong đó mọi sự thật sẽ được phơi bày.” Như một người ái mộ cuối cùng được tiếp xúc (dù chỉ qua điện thoại) với một minh tinh màn bạc lừng danh mà mình từ lâu mê đắm, và vì hứa hẹn “mọi việc sẽ được phơi bày,” Monique Demery ngoan ngoãn chiều theo tất cả mọi điều kiện, hoàn toàn để bà Nhu chủ động trong mọi tiếp xúc. Sau nhiều cuộc nói chuyện hàng giờ qua điện thoại, mà bà Nhu luôn luôn gọi không báo trước, Monique Demery thấy mình “say đắm” như đoạn đầu của một cuộc tình lãng mạn. Khi được bà Nhu cho một cái hẹn gặp ở Paris, Monique Demery khăn gói quả mướp, mang theo đứa con nhỏ mới sinh, đáp chuyến bay sớm nhất qua Paris, hấp tấp đến điểm hẹn là một nhà thờ, chờ ở đây đến tối, chỉ để bị cho leo cây, không chỉ một lần, mà hai lần. Không gặp được nhau, “cuộc tình lãng mạn” giữa hai người lại tiếp tục qua điện thoại. Ngay cả khi bà Nhu gửi cho những trang hồi ký, trong đó không phơi bày những sự thật mà Monique Demery mong đợi, mà chỉ đầy những suy nghĩ về tôn giáo, về đời sống tâm linh, tác giả cuốn “Finding the Dragon Lady” vẫn ôm ấp hoài bão muốn hiểu bà, cứu bà, vì cảm thương cho hoàn cảnh của bà. Giải thích hành động mâu thuẫn tự hẹn rồi không cho gặp của bà Nhu, Monique Demery tỏ ra đồng cảm với tâm lý tế nhị của người phụ nữ nổi tiếng từ thời còn trẻ đẹp, rằng có lẽ bà Nhu không muốn hình ảnh yêu kiều xưa kia của mình bị xóa nhòa, và thay thế bằng hình ảnh một cụ già yếu ớt, hơn tám mươi tuổi. Cuối cùng thì Monique Demery cũng khám phá ra một số dữ kiện về cuộc đời bà Nhu mà ít người biết đến. Chẳng hạn ấu thời, bà Nhu gần như bị cha mẹ bỏ rơi, dù được sinh ra trong một gia đình thượng lưu, vì bà chỉ là một người con gái, lại là con gái thứ. Việc chăm sóc bà Nhu được mẹ bà giao cho vú em, người vú em đùn việc săn sóc cho người làm vườn, đến nỗi bà Nhu bị nhiễm trùng đến suýt chết. Lớn lên, vẫn trong mặc cảm là người con không được thương yêu, muốn thoát ly gia đình, bà Nhu bằng lòng kết hôn với người chồng lớn hơn mình nhiều tuổi, là ông Ngô Đình Nhu, dù không hề yêu ông. Qua lời kể của Monique Demery, bà “Rồng Cái” Ngô Đình Nhu không chỉ là một người đàn bà có vẻ đẹp hấp dẫn nhưng ác miệng. Demery đơn cử một số việc làm của bà Nhu, mà theo lời kể của chính bà, là đã giúp củng cố chế độ Ngô Đình Diệm, kể cả việc cho ra đời Bộ Luật Gia Đình gây nhiều tranh cãi. Trong đoạn cuối của “Finding the Dragon Lady,” tác giả Monique Demery nhắc đến cuốn nhật ký do bà Nhu viết bằng tiếng Pháp vào khoảng thời gian 1959 đến năm 1963, hiện do Đại Úy James Văn Thạch giữ. Cuốn nhật ký này đã được Học Viện Hoover thuộc Stanford University chứng thực là chữ viết của bà. Cùng trong khoảng thời gian cuốn “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu” được phát hành, một hồi ký khác của bà Nhu, được con cháu bà xuất bản bằng tiếng Pháp tại Pháp. Chưa ai biết cuốn hồi ký này và cuốn mà tác giả Monique Demery sau nhiều năm chinh phục mới có trong tay, không biết có phải cùng một cuốn không. Sau khi sách được bày bán khắp nơi, khi được hỏi hỏi “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu” liệu có cải thiện được hình ảnh bà Nhu trong cái nhìn của mọi người, tác giả Monique Demery trả lời rằng mục đích của bà khi viết sách không nhất thiết là để cải thiện hình ảnh của bà Nhu, mà để vạch ra sự bất công của người đời, khi phê phán một phụ nữ cuộc đời đầy đau thương, mà không cần tìm hiểu xem người ấy thực sự là ai, cũng như hiểu rõ vai trò và ảnh hưởng của người phụ nữ này trong một giai đoạn lịch sử của Việt Nam, và những khúc mắc về cuộc chiến Việt Nam mà cho đến giờ nhiều người trong chúng ta vẫn không hiểu rõ. Nếu xét theo mục đích muốn phơi bày những bí mật quanh cuộc đời bà Nhu, và những gì thực sự xảy ra giữa hai chính quyền Hoa Kỳ và Việt Nam thời đó, có lẽ cuốn “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu” làm độc giả hơi thất vọng. Đọc hết xong 280 trang, tâm tư của bà Nhu vẫn là một điều bí ẩn, và những gì người ta hiểu về bà, đúng hay sai, sau cuốn sách này, nhiều thập niên sau, phần lớn vẫn không thay đổi. Mặc cho nhiều năm và công sức, tác giả Monique Demery đã không thành công trong việc làm cho bà Nhu bỏ đi sự đề cao cảnh giác. Người phụ nữ sắc như dao này, ở tuổi hơn 80, vẫn hoàn toàn chủ động, chỉ cho tác giả Monique Demery biết những điều bà muốn cho biết. Bà Ngô Đình Nhu chết đi, với bí mật vẫn còn nguyên vẹn, vì bà muốn như thế! ************************************************************************************** Luận văn của ông Nhu5xu - Dưới đây là bản tóm tắt luận văn tốt nghiệp trường École Nationale de Chartes năm 1938 của Ngô Đình Nhu (1910-1963). Luận văn này có tên “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”. Quốc Anh bạn tôi đang dạy học ở Sciences Po đã bớt thời gian gõ đầu trí thức Pháp mà vào thư viện lục lọi và gửi về. Bạn Khiếu Anh cũng đã bớt thời gian đi học để dịch bản luận văn này qua tiếng Việt với tên “Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII”. Nhưng trước hết là một chút thông tin về tác giả bản luận văn. Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học ở Sorbonne rồi học tiếp École de Chartes. Trong một tài liệu khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ (archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất danh tiếng là Henry Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp. Do đó có từ “Chartistes” để chỉ các sinh viên tinh hoa của trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ hào quang của trường Chartes nên các cuộc gặp chỉ là cá nhân mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn trong “Perfect Spy” thì một trong những lực lượng gây ra cái chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale, được cho nguyên mẫu của The Quiet American. Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Cụ thể từ năm 38 đến 43 ông làm nhân viên Nha văn khố trung ương Hà Nội. Sau đó kiêm thêm Chủ sự văn khố tòa khâm sứ Huế. Triều đình Huế cũng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch hội đồng chỉnh đốn Châu bản của Văn khố nhà Nguyễn. Sau đó Nhật đảo chính Pháp, ông Nhu (có thể vì có anh ruột là ông Diệm thân Nhật chống Pháp) nên được bổ nhiệm làm Giám đốc văn khố trung ương tại Hà Nội. Năm 1945 ông Nhu đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu ” “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội”. Trong thời gian này, ông Nhu cũng lấy vợ, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau này nổi tiếng với tên gọi “đệ nhất phu nhân” ở Việt Nam, và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng Việt qua gia sư là “một phụ nữ thuộc một giai cấp ở Việt Nam không có”. Bà Xuân đã “nuôi chồng” suốt thời gian ông Nhu “thất nghiệp, chưa có sự nghiệp”, ở Đà Lạt và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự “bao”. Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời. Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau 19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng Sciences Po năm 1937 rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng. Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm sau 19/8 ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: “nói bằng tiếng Pháp, tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về chính trị”, có lẽ “chuyện chính trị” mà hai ông nói liên quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp. Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963 ông Tuyến mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc, và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Chuyện đại tá Thảo và ông Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ hai mét nhưng mà không được xem tận mắt. Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến nhưng theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác, điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề Việt Nam) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình. Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược … (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn đã làm (theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832), dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng Phong) ông cũng không che dấu các bí quyết trị quốc phải được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá khứ. Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng, người đã phát minh ra “bia cốc bờ Hồ” được ưa chuộng cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món “bia cốc” này, tôi nghĩ, chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng ta vẫn nốc cùng thịt chó. Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét; từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa. Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng. Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn tay của ông Nhu. Ngày mà bản hiến pháp 1956 này được thông qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất). Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler, Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10 ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước cảnh sát của Hitler. Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế giới. Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân tộc. Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN, ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm mạnh tiếng Việt. Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W. Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì ông Nhu lý giải rằng chữ “động” trong “lao động” có màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ “cần” trong “cần lao” của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu là do chịu ảnh hưởng triết lý “personalism” của triết gia công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong bối cảnh “hợp tác tập thể để tự cá nhân” rồi phát triển nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là “personism”. Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ (tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu), và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự, không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng, …là những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm Nhu bị giết). Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã dẫn lời Phạm Xuân Ẩn. Còn xung đột với Phật Giáo, sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi xong đảo chính. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist. Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ. Sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ) của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội (mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự, khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi ông vua trẻ này rời Việt Nam qua Pháp đúng 10 năm trước (1953). Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm, Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jaques Bénet. Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes với ông Nhu, tham gia kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ bức thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống, qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời De Gaule quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính thức đứng sau ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội. Điều này khá logic với việc ông Nhu không sử dụng nhóm ông Hà (học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội), ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Ông Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả Joseph Buttinger năm 1956. Cả Đỗ Mậu vẫn Trần Kim Tuyến đều nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết. Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người chống Pháp như ông Diệm mà chỉ trong năm 1955 đã dẹp sạch những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội BÌnh Xuyên. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952, một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã đưa Bảy Viễn qua Paris. Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là “không có giải pháp thay thế (thì chống để làm gì)” có lẽ là vì lý do bí mật về “giải pháp thay thế Bảo Đại” mà ông Kiểng phát hiện ra. Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông Diệm mà không có “giải pháp thay thế”. Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối rắm. Mà lịch sử Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một trường hợp vô tiền khoáng hậu. Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình, với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược, rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên, một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa còn non nớt. Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm (tổng thống đầu tiên của miền nam) sau này trở thành tổng thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả lời của ông Nhu, theo ghi chép của bác sỹ Tuyến và vài đoạn trích từ chính đề: Câu hỏi: Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập? Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương. Đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia. Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn như họ…nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là (mô) phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng (), ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn. Câu hỏi: Hình như Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp? Ông Nhu trả lời: Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy. Câu hỏi: Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở? Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng. Chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội không kiểm soát được Hành Pháp. ““Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại. Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.” “Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam.” ‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’ “Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương.” “Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có gì thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.” “Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn: 1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau. 2. Các bí mật quốc gia được truyền lại. 3. Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi. 4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.” “Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất. Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ vãng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.” Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm 1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Và lời giới thiệu về tác giả như thế này là quá dài và hơi liên thiên. Dưới đây là bản dịch tóm lược bản luận văn… __________________________________ Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII Ngô Đình Nhu Tài liệu tham khảo: Phần mở đầu Không có bất cứ tài liệu nguồn gốc châu Á nào, do đó các tài liệu châu Âu có vai trò đặc biệt quan trọng. Các thầy tu dòng Tên (Jésuites): Baldinotti, Alexandre de Rhodes, Marini, Tissanier. Các thầy dòng của Hội thừa sai: Deydier, Jacques de Bourges, Belot, Guisain. Các nhà buôn: Baron, Dampier. Văn khố của Hội thừa sai ; tổng hợp và miêu tả. ————— Phần Một Xã hội Chương Một Các nhóm dân cư 1. Làng xã. – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao. Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia phần đất chung theo kì hạn. 2. Chợ giữa các làng. – Chợ họp hàng tuần và thường là giữa bốn đến năm làng, các làng thay phiên nhau làm chủ chợ. Việc họp chợ giữa các làng là tế bào kinh tế của cả vùng. Các đô thị quan trọng nhất là Domea (200 nóc nhà) và Hien (2000 nóc nhà) thường xuyên có sự hiện diên của các nhà buôn nước ngoài và Kien-lao (7000 giáo dân) trở thành lợi thế của vùng để được hưởng các ưu tiên của triều đình 3. Ke-cho (Hanoi) – Kinh đô, nơi có các công ty xuất nhập khẩu châu Âu. Sự phồn thịnh, 36 phố phường, bảy mươi hai khu chợ, mỗi phố chỉ chuyên một ngành hàng, 20 000 nóc nhà. Chương Hai Nông nghiệp 1. Lúa gạo a) Vị trí bậc nhất của cây lúa. Lí do. b) Chế độ sở hữu: hợp đồng cầm cố (vente à réméré) chỉ được chấp nhận đối với người ngoại quốc, ruộng đất manh mún. Chiếm dụng đất theo dòng họ (groups de famille), sự nhũng lạm của giới quý tộc. c) Nông cụ: sử dụng cày. Tự điển của linh mục de Rhodes cần được sử dụng cẩn trọng, có liên hệ tới cả Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài.d) Canh tác: hai vụ lúa mỗi năm và tô (prix de revient) tăng cao. e) Nạn đói: mười hai nạn đói từ năm 1681 đến 1721: tính chất. 2. Trồng trọt thứ yếu. – Trồng cau, dâu tằm. Chương Ba Chăn nuôi, Đánh cá, Công nghiệp 1. Chăn nuôi. – Gia cầm và lợn thịt. Ít bò và trâu. Thiếu đồng cỏ. 2. Đánh cá. – Tầm quan trọng đối với người Đàng Ngoài a) Nước ngọt: Vợt và vó. b) Trên biển: kém phát triển do giá tàu biển cao. 3. Làng nghề. – Có rất ít tài liệu liên quan đến chủ đề này: văn khố của Hội thừa sai cung cấp một văn bản quý giá cho phép định vị nghề dệt chiếu ở tỉnh Nam-dinh. Nghề sơn và gốm sứ. Kéo sợi và dệt lụa là nguồn cung xuất khẩu duy nhất: các nhà buôn nước ngoài đến vào tháng bảy, đặt mối với các thợ thủ công – luôn phải qua khâu trung gian - và chờ đợi ít nhất sáu tháng để đơn hàng được hoàn thiện. Chương Bốn Tiền tệ 1. Các loại tiền tệ. – Duy nhất một loại tiền được lưu hành: tiền đúc từ đồng. Tiền 10 đồng và 6 đồng được nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ được dùng ở Ke-cho và bốn tỉnh xung quanh. 2. Tỷ giá quy đổi. – Sự ổn định của đồng so với vàng, sự bất ổn của tiền đồng trong đó có yếu tố trượt giá: 1 quan đổi ra 600 đồng năm 1666 và 1200 đồng năm 1715. 3. Cho vay nặng lãi. – Lãi suất hợp pháp từ 25% đến 30% thường xuyên bị vượt qua, người ta cho vay lấy lãi 100% đến 240% rồi 3600%. Tình trạng khốn cùng cuối thế kỷ XVII và đời sống đắt đỏ. Chương Năm Thương nghiệp 1. Nội thương a) Các con đường giao thương: sông và kênh b) Các phương tiện giao thông: không có máy móc vận tải, chuyển chở trên ván thăng bằng, thuyền ba ván. 2. Ngoại thương. – Những con đường đến Đàng Ngoài: mọi hoạt động ngoại thương đều qua đường biển. Thương nhân Trung Quốc ngược lên Cua Luc-bô (Rokbo theo Dampier) chính là sông Đáy; người châu Âu qua Cua Lâ (Thai-Binh) dẫn đến Domea; ngôi làng này chắc chắn không phải là Dôn-Minh, mà là Dông-xuyên-ngoai : những tàu buôn châu Âu không đi xa thêm trong khi thuyền mành (jonque) Trung Quốc ngược lên đến Hien. Người ta không bao giờ chỉ ra rằng, bên ngoài Đàng Ngoài, không có bóng dáng một con thuyền cũng như không có một nhà buôn Đàng Ngoài nào, và những người châu Á khác cùng với người châu Âu đã độc chiếm hoàn toàn ngoại thương của vùng. Thường xuyên thiếu lương thực, bị bỏ đói định kỳ, người Đàng Ngoài nhận lấy một sự tồn tại khốn khó, bất bênh và không thể nghĩ đến điều gì ngoài miếng cơm hàng ngày. ———— Phần Hai Cuộc sống gia đình ———— Chương Một Tổ chức gia đình 1. Nền tảng của quan hệ họ hàng. – Quan hệ huyết thống, địa vị vượt trội của họ hàng bên nội thể hiện qua những cách gọi tên đặc biệt. 2. Cấu trúc gia đình. – Không có thị tộc (clan); bố mẹ và con cái. 3. Tổ chức gia đình. – Người mẹ phụ thuộc vào quyền quyết định của người cha, con cái bình đẳng. Chương Hai Hôn nhân Nguồn bằng chứng châu Âu dồi dào trở nên đặc biệt quý giá khi không có bất cứ tài liệu nào có xuất xứ An Nam. 1. Vai trò của đôi vợ chồng tương lai. – Không có quyền được chọn người hôn phối; bố mẹ cưới gả con từ khi còn nhỏ tuổi. 2. Ăn hỏi. – Người mối lái, sính lễ, thách cưới chàng rể tương lai. 3. Đám cưới. – Trình của hồi môn, luôn là ruộng vườn và được tặng bởi chú rể; nộp khoản phí bắt buộc cho các chức sắc trong cộng đồng; cỗ cưới do chú rể chi trả; cô dâu trình diện trước các ông thần bếp (ông Táo) và tổ tiên của chồng Chương Ba Chấm dứt hôn nhân 1. Ly hôn. – Người phụ nữ hiếm khi có thể ly hôn và trong trường hợp có thể thì phải bồi thường cho người chồng. 2. Bỏ vợ. – Người chồng luôn có rất nhiều cơ hội để ruồng rẫy vợ. 3. Cách thức ly hôn và bỏ vợ. – Sự phá bỏ quan hệ hôn phối được thể hiện công khai: “đồng tiền hay chiếc đũa bẻ đôi” 4. Bât-dông hay dô-dông. – Các quý tộc có quyền lấy làm lẽ những người phụ nữa góa chồng, bị chồng bỏ, ly hôn hay những cô gái chửa hoang trong làng; những người này chỉ có thể khước từ bằng cách nộp 1 quan tiền cho quý tộc và từ đó không được phép lấy bất cứ ai. Tục lệ này chỉ còn được lưu giữ trong văn khố của Hội thừa sai. Chương Bốn Sinh và Tử 1. Sinh a) Ngày sinh: đặc biệt quan trọng b) Tên riêng: không được là tên một đứa trẻ khác đã chết; đặt tên xấu cho con để tránh bị ma quỷ quấy nhiễu. Khi đứa con đầu tiên ra đời, cách gọi tên ông bà nội và ông cậu họ nội sẽ được thay đổi, cách gọi tên người con cả thay đổi khi người con thứ ra đời. Khi thôi nôi, đa phần tên gọi cũ sẽ được thay thế bằng một cái tên đẹp. Sự tôn kính một bậc bề trên thể hiện qua việc không bao giờ gọi tên của người này cũng như tên của cha mẹ ông ta, và người ta phải nói chệch đi bằng các từ đồng âm với tên gọi; cũng từ đó mà một số gia đình có vốn từ đặc biệt. c) Tuổi trưởng thành : mười tám tuổi. Thông thường, trẻ em được tính một năm tuổi khi vừa chào đời và được hai tuổi vào Têt (đầu năm) sau. d) Con nuôi : phổ biến, nhưng không được chứng thực bằng giấy tờ và không công khai. Baron được một hoàng tử ở Đàng Ngoài nhận nuôi để không phải chịu phiền toái và những Thừa sai người Pháp nhận làm con trai danh dự của một ái phi của Trinh Can để tự bảo vệ trong một phiên xử khó. Nhận nuôi thường không chỉ là một sự tiến cử đơn thuần, chỉ ra rằng ở Đàng Ngoài vào thế kỉ XVII không có tổ chức xã hội nào khác ngoài gia đình và rằng người ta không thể có người bảo hộ nào khác ngoài cha và mẹ. 2. Tử. – Người Đàng Ngoài sợ cái chết, nhưng có thái độ chấp thuận, và sợ nhất là không có được một cỗ áo quan đẹp. Thi hài được quàn trong mười đến mười lăm ngày trước khi được an tang ở bản quán. Thời gian chịu tang : ba năm cho con, hai năm, ba tháng và mười ngày cho góa phụ ; phải sống khắc khổ trong thời gian chịu tang. Thờ cúng tổ tiên, trong đó gia đình là đơn vị, tạo nên sự gắn kết và sức mạnh. Phần Ba Đời sống cá nhân ——– Chương Một Trang phục Tóc thả dài, biểu tượng của tự do ; việc cắt tóc là một nhục hình hoặc là dấu hiệu của tang gia. Trán rộng được cạo nhẵn, răng được nhuộm lúc mười sáu hay mười bảy tuổi. Mũ, quần áo. Dân cư chủ yếu ở trần. Chương Hai Thức ăn Gạo là thức ăn chính ; thịt, nhất là thịt chó ; các loại cá và nuoc-mam. Chỗ ở và đất đai. Một chế độ ăn thiếu thốn giải thích cho việc các tín đồ Cơ Đốc ở Đàng Ngoài đều không ăn chay. Chương Ba Tính cách Có sự tương thích giữa các lời chứng. Người Đàng Ngoài cởi mở, nhạy cảm với tình bạn, ý tứ, ít gây gổ, ngăn nắp nhưng cũng tham ăn (có lẽ đơn giản là do bị bỏ đói), lười nhác và trộm cắp. Mại dâm thế kỷ XVII. ——– Kết luận Nhìn chung, các tập quán ở Đàng Ngoài không có nhiều thay đổi từ thế kỷ XVII và không có gián đoạn nào trong sự tiếp nối tâm lý. Tuy nhiên, ta nhận thấy ở người Đàng Ngoài một sự thích nghi đáng lưu ý: những phong tục khắc nghiệt biến mất không để lại dấu vết và nhận định này khiến chúng ta cần thật sự cẩn trọng trong những giả thuyết về các nguồn gốc của văn minh Đàng Ngoài.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2014 12:33:26 GMT 9
Quan Điểm của Ông Ngô Đình Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung cộngTiến Sĩ Phạm Văn Lưu Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét: Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy.[1]. Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu [2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu.. Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam . Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyển ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được. Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này.. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình. Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nửa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất. Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta. Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội. Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay. Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau: Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên. Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa. Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất. Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam . Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng vì lý do trên. Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166) Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp. Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm. Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau: Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc. Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên.(tr. 201) Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt. Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc. Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được.. Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam . Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối. Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc. Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết qảu nhất. Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ. Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa. Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam. Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. (tr. 202 -204). Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng. Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam , hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm: Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta. Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô. Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212) Chính Sách Ngoại Giao Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây: Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế. Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn. Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam . Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam . Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình. Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều. Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta. Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ. Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm. Vì vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam . Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ. Chính sách chống ngoại xâm. Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương? Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam . So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam , và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta. Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn. Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta. Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc. Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng. Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng. Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên. Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ. Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền. Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm. Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân. Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân. Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam . Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc. Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt. Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây: Biện pháp ngoại giao. Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây. Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này, Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157) Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải: Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181). Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7] Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ? Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam . Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris , họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất ,vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam . Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng Biện Pháp Quân Sự Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam , tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với họ nữa ! Biện Pháp Chính Trị Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau: Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được. Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được. Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thì vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian. Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu Melbourne, 1. 11. 2009 ----------------------------------------- [1] Linh Mục De Jaegher, Cố vấn thân cận của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thach, đàm luận với tác giả tại Sàigòn vào 6. 1966. [2] . Sách được xuất bản mang tên Tùng Phong, Chính Đê Việt Nam , Saigon-Việt Nam , 2009 [3] Xin xem các diễn văn này trong La Voix de la Juste Cause, Recueils Des Principaux Discours et Meassages du President Ngo Dinh Diem, June 1954 – Juillet 1963, Saigon, Service de la Press de la Presidence de la Republique du Vietnam, 1963. Các diễn văn này thường được ông Phạm Đình Khiêm dịch ra Việt ngữ và Gs. Tôn Thất Thiện ra Anh ngữ. [4] Có lẽ vì đánh máy sai, nên trong ấn bản in là vĩ tuyến 17, thực tế lá vĩ tuyến 16, chú thich của người viết. [5] Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đã gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lãnh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đã phải lên tiếng trấn an. Còn Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng đã tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, đă quan mặt cà Nam Dương và Mã Lai về chi phí quốc phòng. Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đã dành đến 34% cho ngân sách quốc phòng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đã thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đã có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đã ký hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đã để chi phí quốc phòng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars. Còn Mã Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc phòng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mã Lai, không bị cắt giảm mà lại còn được gia tăng từ 1,482 tỉ Mã kim lên đến 1,613 tỉ Mã kim để gia tăng khả năng phòng thủ quốc gia. [6] Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9. 1963, đặc trách về cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo. [7] Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11. 1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Tòa Đại Sứ Mỹ Saigon, ngày 11. 12. 1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995, tr. 78. Trich bao Viet Cong : Ong Ngo Đình Nhu mất 100 kg vàng cho “Phó vương” Dap Choun Đăng Bởi Một Thế Giới - Ngo Dinh Nhu mat 100kg vang Cố vấn Ngô Đình Nhu cạnh Bộ trưởng Tư pháp Mỹ Robert Kennedy (bìa phải). Ong Ngô Đình Nhu sẵn sàng chờ nghe William Colby vai lời với mình về bức thư đe dọa sát hại cả gia đình của một nhân viên CIA (do tình báo dinh Độc Lập mượn danh “phe đảo chánh” viết gởi theo lệnh ong Nhu)… Nhưng - đáng ngạc nhiên, sau vài phút “im lặng - Colby đã không làm to chuyện, mà khôn khéo lái cuộc đối thoại theo hướng có lợi cho cả đôi bên, bằng cách giả bộ không biết “tác giả chính” của bức thư là người đang ngồi trước mặt mình (Nhu). Thay vào đó, Colby đổ hết những lời đầy sát khí trong thư là của “phe đảo chánh” viết, chứ không phải của “phe Nhu” - và thông báo: “Để bảo vệ nhân viên kia và gia đình anh ta tránh khỏi hậu quả của một lời cáo buộc oan” nên CIA và sứ quán Mỹ quyết định sắp xếp đưa anh ta về nước gấp, kèm theo yêu cầu được Nhu giúp đỡ một phần. Nghe vậy, Nhu ngầm hiểu đòi hỏi “trục xuất” của mình sắp được đáp ứng, nên không cần kéo dài “chiến tranh lạnh” với Colby làm gì - đã mỉm cười và “trịnh trọng bày tỏ sự đồng tình, sai tổ chức canh gác cẩn mật để “bảo vệ” anh ta và gia đình cho đến lúc đi. Ra sân bay, anh ta và gia đình còn được cảnh sát võ trang (của Sài Gòn) đi xe jeep theo hộ tống! Thế là “sự cố” được ém nhẹm và không một ai bị mất mặt !” (William Colby - sđd Kỳ 3. tr. 107). Về phía Nhu, vẫn giữ được “thể diện quốc gia” dầu phải “trải thảm cho kẻ thù” ra đi. Về phía Colby, vẫn không mang tiếng là giải quyết sự việc theo áp lực của Nhu, để vẫn âm thầm tiếp tục giúp những cộng sự CIA người Việt từng bí mật trà trộn hoạt động trong chính biến 11.11.1960 thoát khỏi đợt truy lùng của tình báo dinh Độc Lập sau ngày thất bại. Tiêu biểu là trường hợp do chính Colby kể: “Một phần tử chính trị ly khai trước đây làm việc cho CIA bỗng xuất hiện trước nhà một nhân viên chúng tôi và yêu cầu được giúp đỡ. Biết nếu không được giúp đỡ, chắc chắn anh ta sẽ bị bắt. Tôi cho giấu anh ta vào một ngôi nhà của cơ quan (CIA) lúc này tạm thời chưa có người ở và anh ta đã bí mật sống ở đấy nhiều ngày. Rồi một hôm, lấy cớ có một chuyến hàng cần phải chở bằng máy bay, chúng tôi cho anh ta đi, nằm giấu mình trong một túi đựng thư từ, công văn. Sau đó anh ta đến sống ở một nước châu Âu và chúng tôi đã bảo vệ được “nguồn” của chúng tôi” (William Colby - sđd tr. 108). Giáo sư Trần Gia Phụng nêu (tài liệu đã dẫn kỳ 29): “Một nhân vật dân sự quan trọng trong cuộc binh biến ngày 11.11.1960 là Hoàng Cơ Thụy nhờ người Mỹ sắp đặt, giúp ông trốn thoát ra nước ngoài (Mark Moyar, Triumph Forsaken - the Vietnam War 1954-1965 - Cambridge University Press 2006, tr. 114). Trong sách Việt sử khảo luận (cuốn 5), Hoàng Cơ Thụy cho biết ông lưu vong từ 4.12.1960 đến ngày 20.11.1963 mới trở về sau khi chính phủ Diệm sụp đổ, nhưng không cho biết nơi lưu vong. Có tài liệu cho rằng ông Thụy trốn vào Tòa đại sứ Mỹ, qua Phi Luật Tân, rồi qua Nhật Bản”. Cứ thế, dù đứng chung một chiến tuyến chống cộng sản, nhưng CIA và tình báo dinh Độc Lập trong lúc cùng tiến đánh mục tiêu phía trước, vẫn phải để mắt quan sát lẫn nhau, đề phòng những cú hích bất ngờ của đồng đội (như vụ 11.11.1960). Trước đó một năm (1959), tình báo dinh Độc Lập dầu đang cộng tác với CIA vẫn cứ giữ kín phần việc của mình trong vụ tổ chức lật đổ Quốc vương Norodom Sihanouk của Campuchia. Có một số lý do để Ngô Đình Nhu quyết định tiến hành cuộc lật đổ. Trước hết bởi chủ trương trung lập và đường lối ngoại giao “trung lap ” của Sihanouk trở nên nguy hiểm đối với an ninh của VNCH lúc đó. Chính phủ Campuchia do Sihanouk lãnh đạo (với tư cách thủ tướng - rồi quốc trưởng) hé mở khả năng sẽ để “cộng sản Bắc Việt (VNDCCH)” chuyển quân xâm nhập theo đường biên giới Campuchia, hoặc mượn các cảng nước sâu làm điểm trung chuyển để tiếp tế vũ khí đạn dược, nhu yếu phẩm cho Việt cộng (Cộng sản miền Nam ). Bắt tay vào việc, Ngô Đình Nhu chỉ thị đặc sứ VNCH tại Campuchia là Ngô Trọng Hiếu phải bằng mọi cách tranh thủ, lôi kéo tướng Dap Choun vào cuộc (với vai trò lãnh đạo quân đảo chánh Campuchia) - vì viên tướng này: 1. Đang có mâu thuẫn với Sihanouk (chống Sihanouk trung lập và thân cộng sản) 2. Với vị trí là nguyên Bộ trưởng Bộ nội vụ, đang nắm giữ quyền thống lĩnh phía Tây Campuchia (với thủ phủ Siem Reap) - được xem là “Phó vương Cao Miên” (Campuchia) 3. Lực lượng bảo vệ hoàng cung tại thủ đô Nam Vang (Phnôm Pênh) đều là tay chân ruột rà của Dap Choun là yếu tố thuận lợi để tiếp sức đảo chánh quân sự từ trong lòng hoàng cung 4. Vợ nhỏ của Dap Choun là một phụ nữ người Việt rất được “Phó vương” sủng ái. Chính người vợ gốc Việt trên đã góp lời thuyết phục Dap Choun giúp Tòa đại diện Việt Nam và Ngô Trọng Hiếu lật đổ Sihanouk. Dap Choun nhận lời, yêu cầu Sài Gòn hỗ trợ kinh phí thực hiện. Hai ông Diệm - Nhu bàn với Trần Kim Tuyến rút 100kg vàng trong số trữ kim của ngân khố để đem sang Campuchia giao tướng Dap Choun vận động chuẩn bị cuộc ra quân. Số vàng trên được niêm phong cẩn mật và do đặc sứ Ngô Trọng Hiếu tự mình lái xe đến Siem Reap giao Dap Choun. Nhận vàng xong, Dap Choun đánh điện cám ơn “quà biếu” của dinh Độc Lập. Kể từ đó đều đặn mỗi ngày cứ theo thời biểu: 7 giờ sáng, 12g trưa và 9g đêm, Dap Choun liên lạc và trao đổi tin tức với cơ quan tình báo Phủ tổng thống VNCH. Lần gặp cuối cùng giữa Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu (10.1.1959) hai bên ấn định ngày H. sẽ nổ súng, tiến đánh Nam Vang (10.2.1959). Rủi ro xảy đến từ Sài Gòn, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh hoãn lại cuộc lật đổ khoảng 10 ngày để Sơn Nhật Thành (một nhân vật chính trị Campuchia đối lập với Sihanouk đang lưu vong tại Việt Nam) đủ thời gian sang Thái Lan vận động ủng hộ (đưa Sơn Ngọc Thành về thủ đô Phnom Pênh thay Sihanouk). Nhưng trong khoảng đó, Tòa đại sứ Pháp (ủng hộ Sihanouk) và đại sứ Liên Xô tại Nam Vang đã phát hiện mưu toan đảo chánh và cấp báo cho Sihanouk biết vào nửa khuya 21.2.1959. Ngay đêm ấy, Sihanouk khẩn cấp triệu tập các tư lệnh và chỉ thị để tướng Lon Nol đem quân nhảy dù tấn công chớp nhoáng thành phố Siem Reap vào 3 giờ sáng. Đến 6 giờ hôm sau (22.2.1959), quân Lon Nol đã tràn ngập và chế ngự được thành phố Siem Reap lúc tướng Dap Choun đang còn ngủ. Dap Choun phải cải trang như dân thường mới trốn thoát vào rừng, bỏ lại nhiều tang vật quan trọng như tài liệu quân báo, đài phát sóng và 100kg vàng có đóng dấu ngân khố VNCH. Tại mặt trận, quân chính phủ Sihanouk bắt sống hai điệp viên Sài Gòn - chuyên trách điện đài, mật mã giao dịch, hoạt động thường trực cạnh Bộ tư lệnh của tướng Dap Choun - và kết án tử hình họ. Trước lúc bị hành quyết, trên pháp trường, cả hai điệp viên Sài Gòn cùng hô to: - Việt Nam muôn năm ! Việt Nam muôn năm ! Tiếng hô khí phách đó có sức mạnh vượt lên những định kiến chính trị và lẽ thắng bại ngoài đời, để vang động trong dư luận công chúng và trên mặt báo Campuchia đương thời. Dưới góc độ nhân văn và công bằng lịch sử mà xét, họ cũng là những anh hùng đến nay đang còn bị lãng quên? (
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 16, 2014 16:18:46 GMT 9
2 tháng 11 năm 1963: Dấu Ấn Lịch Sử Dài Nhất Thế KỷSau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam như chiếc ghế cũ chỉ còn ba chân gập ghềnh càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Vì Dân nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng những tay “mưu đồ chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây ngầm tạo ra vô tổ chức về sự bạo loạn. Có tình trạng “rất hỗn”, hầu lợi dụng thời cơ… thừa nước đục thả câu. Nói chung, tình hình lúc đó quả thật là một xã hội đang trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực lên nắm chính quyền điều hành. Vì Dân dạo ấy tuy còn rất trẻ và cùng bạn sinh viên năm thứ Hai Văn Khoa, nhưng nàng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó dựa vào một vài dữ kiện đáng ghi nhớ xảy ra về sự kiện lịch sử cay đắng đến xót xa bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng tín-trung vào cuộc đấu tranh trung-dũng. Vì Dân cảm thấy cách mạng nhạt nhẽo mù mờ vô bổ từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Vì Dân. Dân muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi bình lặng trong đời sống, quyết giữ tinh thần ôn nhu trong sáng, tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để góp phần nho nhỏ giúp ích trong cuộc đời, một cuộc đời thực sự bình dị mến thương nhau. Ôn hoà, an lành có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư trong lòng. Do một tuần lễ công tác trong Tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Vì Dân bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Khi cùng làm việc với Vì Dân trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến bạn. Anh ta ngầm ngầm báo với Vì Dân là: - Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ”. Thú thật, nàng Vì Dân không hiểu nỗi mình đã làm gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điều nầy, thì nàng chẳng thể biết ra sao. Nàng không hình dung chữ “Họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Vì Dân và các bạn lo ghi tên ở khách sạn, nhưng ban đêm cùng nhau đi ẩn nấp chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, khi ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya lại cho ghe neo đi chỗ khác. Lúc thì lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân... Đồng thời, Dân rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ. Dân quá chán ngán không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vào đời sống sinh viên, quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh bạn và nhất là có người yêu dấu của Vì Dân): Vì Dân cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha thủ đoạn “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết. Theo thiển ý cuả Dân tham gia làm cách mạng (vì thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, một đất nước tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn; ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ và ôm hận thù, điều cần thiết và cấp bách muốn thực thi cách mạng trước tiên ta cần phải an-nội. Thế nhưng giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Vì Dân cảm thấy buồn bã chán nản lên tột đỉnh. Cúi đầu nhanh nhẹn quay gót lo thụt lùi lui xa chính trường, Vì Dân không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn… * * * Bởi, Vì Dân còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhạt nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng là một tí nữa đây Vì Dân và hai anh bạn sẽ được vinh dự trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại liên hệ đến lịch sử. Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963. Đúng hơn là buổi sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm. Trong nhà có thêm bạn: Trung, Thạch, và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống, e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ: - Tổng thống, và ông cố vấn đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi. Sửng sốt bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả túc trực trong phòng khách vội mở radio lên nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tạm thờ lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc tẩu thoát đâu đó”… Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế. Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ mang vứt bỏ chiếc quan tài ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhất. Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định: - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi. Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh. Gần 11 giờ trưa phone của ông Trần Trung Dung gọi báo: - Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông ngườI đi và ai lạ tháp tùng. Xe chỉ chở một lần một quan tài đến đó trước. Ông Ba nêu ý kiến: - Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa. Hay không? - Chở từng cái một. Mang cái “đầu tiên” trước. Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”, là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có Bà chủ tiệm hòm, Năm, Vì Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy họ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vào nhà xác. Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur len lén lấp ló nhìn trước ngó sau, coi có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như làm chuyện mờ ám gì, chả biết (hình như soeur có lệnh trước) đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù leo lét treo lơ lửng treo tòn ten trên trần. Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hai mươi phút sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân phóc xuống, vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca đi lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm, cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng… Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau… Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm, mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế thật đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?! Đạo tỳ khiêng xác Ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, hai soeur: - Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu giúp tôi. Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Ngo Dinh Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã dễ dàng khép lại nhẹ nhàng giữ xâu chuỗi như ông đang lim dim đọc kinh lần hạt. Mọi người hiện diện nín thở có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp. Thở hụt hơi. Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi. Bẽ bàng! Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt của người anh). Ông nằm nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng. Loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia. Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng khóc thương một kiếp người phù sinh: khi đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc lìa đời thì quá ư bẽ bàng bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn! Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm. Vì Dân sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào! Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn. Ngay lúc đó, Vì Dân thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ “Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954″). Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc biến sạch hết ra đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị Họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ và những tháng năm sau nầy phán xét. Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô vừa đi khỏi. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em Tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu, an táng trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc). Hiện diện, làm việc cấp tốc trong đêm khuya có vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung, Trung-tá Nguyễn Văn Luông (Trưởng ban mai táng), một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu. Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn: - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời ngay đi. Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến bàn trước tính sau cặn kẽ. Họ nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng bia trên mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì “họ” sợ dân biết tin hai vị nằm đó, họ sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin: - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm. Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, “hoành tráng” nhìn sang “hai anh em”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia. Thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người ta dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói: - Vĩnh biệt Tổng Thống Ngo Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Ngo Dinh Nhu. Xin các Ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là con người, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và phù hộ cho dân lành được ấm no bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, đã tàn nhẫn hại mình. Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng trầm buồn trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! … Tình Hoài Hương hon-viet.co.uk/TinhHoaiHuong_Ngay2Thang111963%20DauAnLichSuDaiNhatTheKy.htmAi Là Người Đã Gửi Tiền Về Việt Nam Để Xây Mộ Cố Tổng Thống Ngô Đình DiệmLệ Tuyền. Như quý độc giả đã biết, trước đây, qua bài viết: Nền Đệ Nhất Cộng Hòa Sụp Đổ: Miền Nam Tự Do Sụp Đổ, hiện vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo Hồn Việt: khi nói đến ba ngôi Mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị Bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, tôi đã viết như sau: Nên biết, ba ngôi mộ của ba vị tại Lái Thiêu, Việt Nam, là không phải do các con, các cháu của ba vị đã bỏ công, bỏ của ra để xây ba ngội mộ đó. Nhưng, tôi đã không viết thêm ai là người thực sự đã bỏ tiền ra để xây ba ngôi mộ đó. Vậy, hôm nay, tôi tự thấy, cần phải nói cho thật rõ ràng: Người đã gửi tiền về Việt Nam để xây ba ngôi mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cùng nhị vị bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, chính là Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong. Một tờ báo đã do ông Nguyễn Thanh Hoàng khai sinh ra từ năm 1956. Và để quý độc giả đều được biết một cách chính xác, nên nhân đây, tôi xin ghi lại đầy đủ từ bước khởi đầu trong việc di dời cả ba ngôi mộ như sau: Chắc mọi người còn nhớ, vào những năm, sau ngày 30-4-1975, do « Lệnh cấm vận » của Hoa Kỳ, nên những người Việt ở Mỹ, không thể gửi tiền về Việt Nam, mà họ phải qua những đường giây chuyển tiền tại Pháp. Song lúc đó, mặc dù Pháp là nước đã « trợ cấp nhân đạo » cho Việt Nam nhiều nhất, nhưng cũng không cho phép chuyển một lần với số tiền nhiều, nên đã có một số đường giây chỉ chuyển những thùng thuốc Tây về Việt Nam, và những người Việt bên Mỹ cũng đã gửi cho thân nhân còn ở quê nhà bằng tiền, và những thùng thuốc Tây qua những đường giây này, để người thân của họ ở Việt Nam, sau khi nhận những thùng thuốc Tây, thì đã đem bán để lấy tiền. Nghĩa là họ phải chuyển tiền, hay thuốc Tây về Việt Nam qua những đường giây tại Pháp. Sau đó, phía Mỹ đã nới lỏng hơn là cho phép những người Việt được gửi về Việt Nam, mà tôi nhớ là không quá 500 Mỹ kim. Cho đến mãi sau này, khi « Lệnh cấm vận » đã được bãi bỏ, thì mọi người mới được gửi tiền về Việt Nam một cách tự do. Chính vì thế, khi được tin bọn việt-gian-cộng-sản sẽ phá bỏ nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, đồng thời đã được biết về chuyện tên cộng sản ác ôn là « Hòa thượng » Thích Trí Dũng, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Ấn Quang, đã từng cạy nắp mộ của Ông Ngô Đình Cẩn để bỏ vũ khí của Lữ đoàn 316, và đã nuôi tên Thiếu tướng việt công, là Trần Hải Phụng và nhiều tên khác ở trong chùa Phổ Quang, và đã bắt cái xác chết của Ông Ngô Đình Cẩn, mà lúc sinh tiền Ông là một người chống cộng tuyệt đối, phải giữ một số súng đạn của Lữ đoàn 316, và Biệt Động Thành Sài Gòn-Gia Định. Xin quý độc giả hãy đọc lại bài viết: Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân, 1968-2008, mà tôi đã viết vào ngày 26-01-2008, hiện vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo Hồn Việt: hon-viet.co.uk để biết một cách rõ ràng hơn về những hành vi tàn ác của Phật giáo Ấn Quang trong cuộc thảm sát Mậu Thân. Và chính vì biết được những tin trên, nên ông Nguyễn Thanh Hoàng vì rất sợ bọn việt-gian-cộng-sản sẽ phá bỏ mộ phần của ba vị, nên đã tìm cách gửi tiền về Việt Nam để di dời cả ba Ngôi mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, và sau đó cũng đã di dời cả mộ phần của Mẫu Thân của ba vị về tại Lái Thiêu. Tôi xin ghi lại từ đầu như sau: Lần đầu tiên, do Ông Trần Trung Quân, là Tác giả của nhiều cuốn sách có giá trị như: Trong Lòng Địch, Cụm A 22: Tình Báo Dinh Độc Lập v…v… Ngoài ra, còn có cuốn sách đã ký dưới một bút danh khác. Và sau đây, là những lần chuyển tiền: Lần thứ nhất, do chính tay của Ông Trần Trung Quân, là một người thân thiết của Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, đã trao tận tay cho ông Trần Tam Tiệp, vì ông Trần Tam Tiệp biết cách gửi tiền về Việt Nam, vào tháng 10 năm 1977, tại tiệm Café Balto, 15, Rue Mazarine, 75006 Paris, với số tiền là $9,000 (chín ngàn Mỹ kim). Lần thứ hai, vào tháng 7 năm 1978, cũng do Ông Trần Trung Quân trao tận tay cho Ông Trần Tam Tiệp tại Thánh Thất Cao Đài của Cô Ba Lê Kim Huê, tức Bà Lễ Sanh Lê Kim Huê, tại địa chỉ số 12, Rue Xavie Privas, 75005 Paris, với số tiền là $10,000 (mười ngàn Mỹ kim). Riêng một lần khác, vào tháng 3 năm 1978, tại tiệm Café Notre – Dame de Paris, 03, Boulevard du Palais 75004 Paris. Nhưng lần này đã do chính Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng đã trao tận tay cho Ông Trần Tam Tiệp với số tiền là $6,000 (sáu ngàn Mỹ kim) trước sự chứng kiến của Ông Trần Trung Quân. Như vậy, tổng cộng tất cả ba lần, ông Trần Tam Tiệp đã nhận của Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng với số tiền là $25,000 ( hai mươi lăm ngàn Mỹ kim ). Tưởng cũng nên nói rõ, là với số tiền $ 25,000 (hai mươi lăm ngàn Mỹ kim), mà ông Trần Tam Tiệp đã nhận hai lần qua Ông Trần Trung Quân và một lần do chính tay của ông Nguyễn Thanh Hoàng, là do tiền bán báo Văn Nghệ tiền Phong, mà Ông Trần Trung Quân thu được. Bởi lúc đó, Ông Trần Trung Quân là đại diện cho báo văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh Hoàng tại Pháp. Sau đó, ông Trần Tam Tiệp đã chuyển số tiền trên về Việt Nam, để cho người của Ông Nguyễn Thanh Hoàng lo liệu việc di dời ba ngôi mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nhị vị Bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn về tại Lái Thiêu. Những việc làm âm thầm của Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng ít ai được biết, kể cả gia đình của Bà Ngô Đình Nhu. Cho đến năm 1980, thì Ông Ngô Đình Luyện mới biết, và Ông Nguyễn Thanh Hoàng và Ông Trần Trung Quân, đã được Ông Ngô Đình Luyện tiếp tại tư gia. Trong dịp này, Ông Ngô Đình Luyện đã ngỏ lời cám ơn Nguyễn Thanh Hoàng và Ông Trần Trung Quân. Sau đó, từ Hoa Kỳ, Ông Nguyễn Thanh Hoàng cũng đã âm thầm chuyển thêm những số tiền khác nữa về Việt Nam, để bốc mộ của Cụ bà Thân Mẫu của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nhị vị bào đệ về tại Lái Thiêu, để cả gia đình được nằm cạnh bên nhau. Mặc dù vậy, nhưng ít có người biết những việc làm của Ông Nguyễn Thanh Hoàng. Tuy nhiên, những người thân thiết của Ông đều biết như Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tác giả của cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tức Nhật Lệ Nguyễn Hữu Duệ trên Văn Nghệ Tiền Phong, sau khi ba ngôi mộ hoàn thành, thì Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, từ Hoa Kỳ Ông đã tìm cách trở về Việt Nam để viếng mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ, là Ông Có vấn Ngô Đình Nhu và Ông ngô Đình Cẩn. Về phần ông Trần Tam Tiệp, ngày xưa, ông cũng đã từng kêu gọi nhiều người đóng góp tiền bạc cho ông chuyển về Việt Nam để giúp đỡ các văn nghệ sĩ, đang còn ở tại Việt Nam. Nhưng riêng về ba ngôi mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn là hoàn toàn do số tiền bán báo Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã chuyển nhiều lần về Việt Nam để xây ba ngôi mộ của ba vị anh hùng đã Vị Quốc Vong Thân. Và chắc quý độc giả, khi đọc cuốn sách Trong Lòng Địch của Ông Trần Trung Quân đều đã thấy phía sau bìa sách những dòng này của Ông Trần Trung Quân: « Trong suốt thời gian ba năm ở hải ngoại và nhiều năm ở trong nước để hoàn thành thiên hồi ký Trong Lòng Địch này, tôi hết sức biết ơn anh Nguyễn Thanh Hoàng, chủ nhiệm tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong đã hướng dẫn tôi, giúp đỡ tôi về cách sắp xếp cũng như sửa chữa và viết lại bản thảo…. » Nghĩa là, qua những dòng này, đã cho mọi người thấy được mối giao tình thân thiết giữa Ông Nguyễn Thanh Hoàng và Ông Trần Trung Quân. Và hôm nay, người viết bài này, cũng là người thân thiết với cả hai vị là Ông Nguyễn Thanh Hoàng và Ông Trần Trung Quân, mà cũng ít người biết được, vì ngày xưa khi viết trên Văn Nghệ Tiền Phong tôi đã ký dưới bút danh là Hàn Giang, rồi sau đó đã có kẻ phản đối « thằng Hàn Giang », có người còn đòi đi « kiện thằng Hàn Giang ra tòa » nữa. Vì thế, Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã cho tôi làm « thằng Hàn Giang » luôn, mà tôi cũng đã im lặng, bởi thấy vui, khi tự nhiên, mà mình trở thành một « đấng tu mi nam tử », chứ không phải vì sợ ra tòa mà không dám cho mọi người biết rằng mình là một phụ nữ. Tạm thay lời kết: Với một bài viết ngắn này, người viết muốn nói: Sỡ dĩ ngày xưa Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã âm thầm làm những việc ấy, mà không muốn cho mọi người biết một cách rộng rãi, chỉ trừ một số người thân. Bởi đã có nhiều kẻ, trong đó, có Võ Văn Ái, từng là « Tổng Thư ký Trung ương Phật tử Việt kiều tại Hải ngoại, từ những năm đầu của thập niên 1960, và đã từng viết « Lời tựa » cho cuốn ngụy thư « Hoa Sen trong Biển Lửa » của Thích Nhất Hạnh vào thắng 6-1967, tại Paris, Võ Văn Ái đã từng nói « Ông Nguyễn Thanh Hoàng-Văn Nghệ Tiền Phong, là tờ báo của Cần Lao, nên đánh phá Phật giáo ». Nhưng thật ra, Ông Nguyễn Thanh Hoàng – Văn Nghệ Tiền Phong – Ông Trần Trung Quân và kẻ viết bài này, cũng như hiện nay, trên trang điện báo Hồn việt, đã có những bài viết của các vị về những hành vi tàn ác của những tên cộng sản khoác áo cà sa để làm giặc, với những hành vi giết người vô tội, chẳng những thế, mà chúng đã từng liên thủ với nhau, để đánh đổ cả hai nền Cộng Hòa Việt Nam, cho đến trước và sau ngày 30-4-1975, thì chính những tên ác tăng này đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận vùng giặc để đón rước cộng quân vào các thành phố, trên khắp miền Nam tự do, chứ không có vị nào lại « đánh Phật giáo giáo » cả. Bởi không ai nói đến Phật – Pháp, mà chỉ nói đến bọn Tăng Phỉ mà thôi. Chắc nhiều người còn nhớ, ngày xưa Cư sĩ nỗi tiếng tại miền Nam là: Cụ Mai Thọ Truyền, từng giữ chức: Quốc Vụ Khanh, thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa, đã từng tuyên bố: « Tôi chỉ quy y Nhị Bảo, chứ không quy y Tam Bảo, vì tôi chỉ Quy Y Phật, quy y Pháp, chứ không bao giờ quy y Tăng ». Trở lại với nguyên do mà Ông Nguyễn Thanh Hoàng không muốn phổ biến rộng rãi, về chuyện xây mộ của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì Ông Nguyễn Thanh Hoàng và cả Ông Trần Trung Quân đã nói với người viết bài này như sau: « Khi viết, hay làm một điều gì về Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không phải để « Phục hồi Đảng Cần Lao » như những kẻ có tâm địa hắc ám kia đã cố tình xuyên tạc, mà vì chúng ta muốn nói lên những công nghiệp vĩ đại của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Người đã khai sáng Nước Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời đã xây dựng được một miền Nam Tự Do Thanh Bình thực sự, như người dân miền Nam đã chứng kiến vào buổi bình minh của lịch sử: Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Và để cho hậu thế còn biết đến ba tấm gương ngời sáng của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, là ba vị đã quên mình để chỉ biết phụng sự Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam, và rồi cuối cùng; sau khi đã Vị Quốc Vong Thân, thì đã trở thành ba vị Anh Hùng Bất Tử ». 04-01-2010 Lệ Tuyền. Nguồn : hon-viet.co.uk/LeTuyen_AiLaNguoiDaGuiTienVeVNDeXayMo....htmHồi-ký của Bà Ngô Đình NhuNguyễn Vy Khanh Ở hải-ngoại, từ giữa thập niên 1980, từ sau cuốn hồi-ký của ông Đỗ Mậu, các hồi-ký về cái chết của Việt-Nam Cộng-Hòa, về cái chết của Đệ nhất cộng hòa và anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, về cuộc chiến chấm dứt ngày 30-4-1975 ở miền Nam, ... đua nhau xuất-bản, tái-bản. Sử liệu thì cũng có dù giả-chân đầy ra đó, nhưng không thiếu những lời tự biện hộ hoặc tự đề cao cá nhân và phe nhóm; toàn là lời chót lưỡi của những con người khi có quyền lực đã không làm gì hoặc đã nhúng tay vô chàm hay đồng lõa, nay đánh bóng lại cái sai lầm, cái đồng lõa một thời, và nếu có thủ phạm thì toàn là người đã chết không còn tự biện hộ hoặc phản pháo lại “đồng đội” được nữa! Và mỗi năm đến ngày 2 tháng 11, người ta lại tổ chức tưởng niệm người đã chết, chạy theo khí tiết người bị giết, đăng đàn diễn thuyết, ra sách, viết báo về những chuyện tưởng chưa bao giờ nghe nhưng thực ra đã nghe đâu đó rồi! Năm nay là đã 50 năm sau ngày đảo chánh 1-11-1963, công tội đã rõ, nhưng người ta vẫn chưa thỏa mãn, đặc-biệt người ta mong đợi cuốn Hồi-ký của Bà Ngô Đình Nhu từ nhiều năm qua – mong đợi có thể vì tò mò và sẵn sàng “phản pháo, đính chính, chụp mũ” hơn là vì muốn biết Bà Ngô Đình Nhu nghĩ gì về những biến cố bi thảm đã xảy ra cho đất nước và cho riêng gia-đình bà và chồng bà. Và cuối cùng, sau gần 47 năm im hơi lặng tiếng, bà viết xong tập hồi-ký ngày 22-8-2010 tại nhà riêng (Tịnh-Quang-Lâu) ở ngoại ô Rome nước Ý, do sự thôi thúc của cô gái út Lệ Quyên và con rể Olindo Borsoi (mà bà xem là do Chúa sắp đặt vì bà đã muốn giữ im lặng, tr. 190), và 6 tháng sau, ngày 24-4-2011, bà qua đời tại bệnh viện ở La-Mã, tên thánh Maria (bà trở lại đạo Công-giáo sau khi lập gia-đình), thọ 87 tuổi, sau 48 năm sống lưu vong. Hôm 2-11-2013 vừa qua tại nhà thờ giáo xứ Việt-Nam ở Paris, nhân lễ tưởng niệm 50 năm ngày qua đời của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thứ nam của ông bà Ngô Đình Nhu là ông Ngô Đình Quỳnh đã cho ra mắt quyển sách tiếng Pháp La République du Việt Nam et les Ngô-Đình ( Nền Cộng Hòa Việt Nam và Gia Đình Ngô-Đình) mà hơn một nửa là di-cảo hồi ký của mẹ ông. Ông đã cho biết lý do ra đời của quyển sách này như sau: “Cuốn sách được xuất bản hôm nay có một phần hồi ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng tôi có ý muốn soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm về hình ảnh của hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đã lưu truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn quan có phần huyền bí của Bà. Thế thôi!». Chúng tôi được một tín hữu cùng giáo xứ với bà Nhu ở Paris gởi cho một bản; trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại những điểm đặc-biệt hoặc ít được biết, hoặc theo cách nhìn và cắt nghĩa của bà Nhu, còn phần thần học tâm linh, sẽ để một dịp khác hoặc người khác trong ngành bàn đến. Tập sách 246 trang nhưng phần hồi-ký do Bà Ngô Đình Nhu viết với tựa đề “Le Caillou blanc” (Viên Sỏi Trắng) được hơn 130 trang (tr. 109-241) kể cả phụ lục 3 bức thư viết tay chưa từng công bố của ông Ngô Đình Nhu viết gởi cho đồng môn Ecole des Chartes ở Paris (20-4-1956, Tết 1963 và 2-9-1963) nay vẫn được giữ ở Văn khố nhà trường này. Phần đầu do hai người con Ngô Đình Quỳnh, Ngô Đình Lệ-Quyên (tử nạn giao thông, 16-4-2012) và bà Jacqueline Willemetz dẫn nhập với tài liệu gia-đình về lịch-sử Việt-Nam từ sau ngày thành lập nền đệ nhất cộng hòa, ngày 26-10-1956, đến cuộc đảo chánh 1-11-1963 và sau đó. Bà Ngô-Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân, sinh năm 1924 tại Hà-Nội, thân phụ là Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam Định, mẹ là Thân Thị Nam-Trân - với bên ngoại, bà Nhu là cháu ngoại vua Đồng Khánh và là cháu họ vua Bảo Đại. Bà Nhu gọi ông Bùi Quang Chiêu là “ông bác” (anh cả của bà nội) bị Hồ Chí Minh ra lệnh giết một cách tàn ác giết hết cả nhà kể cả 6 người con mà đứa nhỏ nhất mới 6 tuổi; cả Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cũng là anh em họ với thân phụ bà. Bà học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp. Năm 19 tuổi, bà kết hôn với ông Ngô Đình Nhu ở Hà-Nội ngày 30-4-1943, sau đó ông bà về sống ở Huế. Không biết khi đặt tựa Viên Sỏi Trắng/Le Caillou blanc cho cuốn hồi-ký, bà muốn nói thân phận bà bị lịch-sử đối xử như vậy mà vẫn trắng trong, nhỏ bé, hay muốn tả nỗi lòng trơ như đá, bất nhẫn trước thời cuộc? Thật vậy, trong hơn nửa tập hồi-ký, bà nói đến chuyện tâm linh, những chuyện cao xa hơn chuyện thế tục thường tình, về sự hiện hữu của Thượng Đế và của con người. Mở đầu hồi-ký, bà Nhu ghi lại lời sách Khải Huyền “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Apocalyse 2, 17). Và thêm lời Thánh Thư Luca : “Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Luc 9, 48). Bà bắt đầu hồi-ký ở chương 1, “Lý lẽ của định mệnh” như sau: “Vào cuối cuộc đời tôi, sau nửa thế kỷ im lặng, và vì ý nghĩa đơn thuần của nhiệm vụ, tôi ghi lại những gì cần phải được biết. Đó là sự giải thoát cho tất cả. Không phải để thỏa mãn tò mò nào đó, nhưng để trả lại những gì mà định mệnh đã đòi hỏi “kẻ nhỏ nhất” của Thiên Chúa, vào thời điểm của kẻ đó. Tôi bắt đầu cuốn ký ức này, nếu tôi có thể viết xong được, cốt để làm cho người khác hiểu được những đòi hỏi của một chuỗi dài đời-sống đã được định sẵn trước, nhận ra rằng cuộc sống không bao giờ có hành động trái với ý muốn của mình, mà trái lại, luôn luôn như là phải như vậy” (tr. 112). Như vậy, bà xem thân phận bà như viên sỏi trắng “nhỏ bé” mà định mệnh đã đặt vào thời đó, nơi đó. Từ suy nghĩ về cuộc đời mình, bà khám phá ra được Thiên Chúa một cách bất chợt và khủng khiếp. Cái gì thuộc về Tạo Hóa sẽ trả lại cho Tạo Hóa để thực hiện đầy đủ và tột cùng chương trình của con người. Định mệnh, đó là cắt nghĩa đơn giản của bà lúc này là lúc bà đã bắt đầu cảm nhận sống những ngày tháng cuối đời, và trước nay bà sống một cuộc sống mà bà không bao giờ nghi ngờ gì. Bà ra đời do một bác sĩ người Pháp đỡ đẻ thay vì là một cô mụ người Việt, ông ta nắm 2 chân trẻ sơ sinh và đánh vào mông thật mạnh cho đến khi đừa bé khóc ré lên phản đối. Đó là khung cách bạo lực mà bà đến với cuộc đời này, đã vậy mẹ bà lại thất vọng vì bà là cô con gái thứ hai. Sau bà là một em trai sẽ khiến mẹ bà càng hất hủi bà - khi cha mẹ bà vào Sài-Gòn, đã để một mình bà lại cho bà nội nhưng sinh hoạt chung với người làm, khiến bà bị bệnh nặng. Được về sống lại với gia-đình, bà lớn lên trong tự tin một cách tự nhiên, dễ chấp nhận nhưng cũng sẵn sàng đối đầu với thực tại, ở trường cũng như trong gia-đình, nhưng bà không được yêu thương như chị và em trai, trở thành đứa trẻ không thể động đến (Intouchable). Khiến về sau bà biết lúc cần xuất hiện và lánh mặt khi không còn cần thiết, cho đến khi bà phải đối đầu với Tây phương, thực-dân và đế quốc, bà vốn dè dặt một cách đặc-biệt. Đối đầu đòi hỏi sự tôn trọng tha nhân, nhưng ở đời không phải lúc nào cũng vậy, bà thường rút lui, không muốn tấn công ra mặt, cuối cùng bà chịu sự bất cảm thông hoặc ác ý của kẻ kia. Năm 17 tuổi, bà gặp ông quản thủ thư viện Ngô Đình Nhu, lần đầu khi đến thăm gia-đình bà vốn là chỗ thân giao từ kinh thành Huế. Hai người mến nhau từ việc ông Nhu đến mà cô Trần Lệ Xuân chưa chưng xong hoa vừa đi mua về theo lệnh mẹ; cô gái đẩy ông Nhu vào phòng đợi nhỏ và dặn chỉ được đi ra khi cô xong chậu hoa. Sau đó thì chàng tặng sách, nàng hồi thư – được chàng tặng cho danh hiệu “Bà De Sévigné” vì thư nào cũng dài hơi và linh hoạt. Chính ông Ngô Đình Diệm quyền huynh thế phụ (đã mất) đến xin hỏi cưới cô Xuân cho em mình. Sau ngày cưới, cô Xuân hài lòng thoát gia-đình, đưa theo bà vú, về nhà chồng ở Huế. Vai trò bà đã thay đổi, hết bị rẻ rúng như ở với cha mẹ, nhất là từ khi anh cả Ngô Đình Khôi và con trai nối dòng bị Việt-minh giết, con cái bà sẽ nối dõi tông đường. Bà vú xin thôi việc sau đó vì cảm thấy không thiết yếu trong khung cảnh sống mới, điều mà bà Nhu sau này tiếc nuối, nhất là thời gian bị Việt-minh bắt lên rừng và sống ở Đà-Lạt. Bà cảm nhận rằng rừng núi Nam-Giao, một nơi thiêng liêng độc nhất ở Việt-Nam, tượng trưng cho sự đợi chờ Thần Thánh Vạn Năng không tên, của cả một dân-tộc, trãi qua nhiều tôn giáo. Bà đã du lịch nhiều nơi nhưng chỉ có Nam Giao là đã cho bà ấn tượng mãnh liệt rằng thần linh đã chúc phúc cho dân-tộc Việt. Bà không thể lường trước cuộc sống đầy bất trắc với chồng và gia-đình chồng, nhiều lúc bà trách chồng “dối” bà (không tiết lộ gì) khi làm chính-trị, bí mật. Ban đầu ông Nhu thường sang nhà các người anh để trò chuyện, đến bữa ăn ông bà sang nhà từ đường phía bên kia kinh An Cựu để dùng bữa. Một năm làm quen với Huế và đại gia-đình nhà chồng, thì bất hạnh xảy đến cho người anh cả Ngô Đình Khôi và con trai ngày 22-8-1944. Sau đó chồng bà biến mất, sợ rơi vào tình huống của ông anh cả và ông Ngô Đình Diệm, người anh thứ ba, cũng đã bị Việt-minh bắt trên xe lửa từ Sài-Gòn về Huế và đưa ra nhốt ở miền thượng-du Bắc Việt từ tháng 9-1945 đến 12-1946. Ông Diệm được thả ở Hà-Nội nhờ chồng bà đã gặp ông Hồ, vả lại họ Hồ bí không trả lời ông Diệm được tại sao lại giết anh cả và cháu của ông. Ông Nhu đã ra Hà-Nội lúc đó, ở nhà cha mẹ bà và không ai biết ông làm gì lúc đó (bà Nhu không hay biết gì, mà ông Nhu cũng không hề kể). 20 tuổi, một mình ở Huế dù có người làm, bà dần dà thấy chồng bà không những không bảo vệ bà mà còn là một mối nguy cơ đe dọa bà và tiểu gia-đình bà (tr. 135) – may mà bà còn có an ủi: ngày 27-8-1945, bà hạ sinh cô con gái đầu Lệ-Thủy. Ông bà Trần Văn Chương cuối cùng bỏ Hà-Nội (villa bị tịch thu) vào ở Huế, ông Nhu cũng trở về Huế, nhưng cán bộ cộng-sản đến nhà tìm, bà Nhu đã khéo léo lần lữa bắt tên này chờ đến phải bỏ về và hẹn trở lại, nhưng đêm đó ông Nhu phải bỏ trốn, và bà Nhu không có tin tức chồng trong một thời-gian dài sau đó. Sau ngày 19-12-1946, chiến-tranh lại bùng nổ, bộ đội Việt-minh cưỡng bách gia-đình bà Nhu phải bỏ nhà cửa sơ tán khỏi thành phố Huế theo vào vùng họ kiểm soát, trãi qua suốt mùa Đông lạnh lẽo. Cuối cùng mẹ con bà được một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế đem thuyền đến giúp trốn về Nhà Dòng, ở nhà kho nơi ông Cẩn đang tạm trú, nhưng hôm sau bà ôm con 3 tuối theo xe vào Đà Nẵng và mua vé máy bay quân sự vào Sài-Gòn. Tạm trú ở nhà người chị, bà Nhu vô cùng ngạc nhiên gặp lại chồng bí mật ở nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó ông bà lên sống ở Đà Lạt, ở nhà người chị của bà, theo bà là "thời gian hạnh phúc nhất", bà sinh thêm hai người con trai, Ngô Đình Trác 1947 và Ngô Đình Quỳnh 1952, và cuộc sống của gia-đình bà tại Đà Lạt tuy giản dị, trong khung cảnh hoang dã nhưng an ninh, lúc đầu xa rời chính trị. Nhưng rồi bà thừa nhận bà đã cô độc khi ở đây và viết: "Chồng tôi thường biến mất mà chẳng nhắn lại gì" (tr. 152). Từ khi ông Ngô Đình Diệm, anh chồng bà, được cử làm Thủ tướng từ Pháp về nhận chức (7-7-1954), ông bà Nhu xuống Sài-Gòn để phụ tá. Ông bà Nhu và 3 con sống tạm nhiều nơi trước khi về ở trong Dinh Độc Lập. Ông Nhu làm báo Xã-Hộitòa soạn ngay trong căn nhà nhỏ hẹp. Trong lúc thủ đô Sài-Gòn tình hình chưa ổn định, phe Bình Xuyên và tay chân của Pháp liên tục quấy phá, bà Nhu đã thành công một việc ngoài sức tưởng tượng: nhân dịp tướng Nguyễn Văn Xuân mời ông bà Nhu ăn ở một nhà hàng trong Chợ Lớn, bà Nhu đã hỏi thẳng ông Xuân tại sao không cách chức tướng Nguyễn Văn Hinh tổng tư lệnh quân đội, ông Xuân đã thách thức bà Nhu tìm cho được 5 chữ ký thì ông sẽ thuận theo yêu cầu đó. Bà Nhu tình cờ gặp những người từ Bắc mới di cư vào, cùng họ vận động những người di cư kín đáo tụ tập rồi giơ cao biểu ngữ trước nhà thờ Chánh tòa Sài-Gòn ngày 21-9-1954. Dù cảnh sát Bình Xuyên được mật báo nên đã có mặt ở trại di cư trước với 2 xe tăng, bà lái chiếc xe hiệu Panhard đến và tra hỏi tại sao cảnh sát lại cấm cản người dân đi chợ. Đám cảnh sát bỏ đi, xong trở lại, bà lên xe rồ máy bỏ chạy đến trước nhà thờ nơi mà những người di cư đang chờ, và họ đã giương cao biểu ngữ ủng hộ kiến nghị của bà Nhu (đòi hỏi tướng Hinh phải từ chức). Hình ảnh và thông tin được gởi cho tờ báo tiếng Pháp duy nhất ở Sài-Gòn. Ông Trần Chánh Thành bộ trưởng Thông tin đã kiểm duyệt không cho báo-chí VN đăng tin đó, nhưng báo tiếng Pháp đã đăng tải phổ biến thông tin và hình ảnh vụ biểu dương mà không được phép của chính phủ. Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Xuân đã phải từ chức 3 ngày sau đó, trở thành “nạn nhân” đầu tiên của bà Nhu (tr. 165). Nội các Ngô Đình Diệm phải cải tổ, bà Nhu bị người Pháp với sự giúp đỡ của người Mỹ, ép đưa đi ra ngoại quốc 3 tháng để Nội các cải tổ được ổn định, và để bà Nhu không thể ra ứng cử dân biểu Quốc hội lập hiến và lập pháp sau đó. Nhưng vô ích, vì dù ở xa, bà sẽ vẫn đắc cử, với sự ủng hộ của tập thể người di cư. Bà sang Hoa-Thịnh-Đốn nơi ông thân bà làm đại sứ ở Hoa-Kỳ, ông đưa bà đến ăn sáng do thượng nghị sĩ J.F. Kennedy (về sau đắc cử Tổng thống) mời, sau đó bà ở lâu hơn ở tu viện nữ người Ý ở Hương-Cảng. Bà tận dụng thời-gian ở đó để học thêm tiếng Anh. Bà Nhu trở về miền Nam và vào ở trong Dinh Độc Lập. Sau Trưng cầu dân ý 23-10-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống, mở đầu cho nền Đệ nhất Cộng-hòa, và cử ông Ngô Đình Nhu chính thức làm Cố vấn chính-trị – với chức này, ông Nhu đề ra thuyết Nhân Vị đề cao tính siêu việt của con người, tức sự tái sinh bởi khả năng con người hành xử Đức độ như Thiên Chúa đã dạy (Mt. 19, 28). Theo bà Nhu, thực dân Pháp chưa buông tha, rút người về Cam Bốt, từ nơi đó tổ chức gây rối ở miền Nam. Vụ tiếp theo là vụ ám sát Tổng thống Diệm ở Ban-Mê-Thuột, có liên quan đến Lê Văn Kim người của Pháp đào tạo và từng là tùy viên của Thierry d'Argenlieu, đang là chỉ huy Trường Võ bị Đà-Lạt. Rồi đến vụ đảo chánh 11-11-1960 và vai trò của tướng Nguyễn Khánh từng là tùy viên của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và từng tổ chức những buổi pique-nique ở Đà Lạt có bà Nhu và Bảo Đại, Nguyễn Khánh xưng là đại diện cho nhóm đảo chánh. Bà Nhu tin là do Pháp giật dây. Bà Nhu đã can thiệp khi thấy tướng Khánh dùng thủ đoạn đánh điểm yếu của Tổng thống Diệm là thương người và sợ đổ máu. Bà Nhu hối chồng hất cẳng tướng Khánh và kêu gọi quân lính trung thành về chiếm lại đài phát thanh. Tướng Khánh do đó bị đám đảo chánh kết tội phản bội, nhưng đã thua nên phần lớn bỏ trốn sang Nam Vang. Đại diện CIA gặp anh em Tổng thống Diệm cam đoan là Hoa-Kỳ đã đứng ngoài vụ đảo chánh, bà Nhu có mặt ở đó đã trách móc người Mỹ “Tôi không mong chờ các ông đồng minh, tức là bạn, giữ trung lập trong vụ này!”. Thái độ của bà Nhu gây chú ý của Hoa-Thịnh-Đốn. Vụ tiếp theo là chuyến viếng thăm Việt-Nam của Phó tổng thống Lyndon B. Jonhson ngày 12-5-1961. PTT Mỹ xuống máy bay, bất chấp nghi thức ngoại giao, thay vì đến chào PTT Nguyễn Ngọc Thơ trước, ông đã đến thẳng bà Nhu, khiến ông Thơ phải chạy theo sau lưng ông PTT Mỹ. Trong buổi điểm tâm sau đó do PTT Thơ mời, có cả ngoại giao đoàn và các dân biểu, ông PTT Johnson thêm một lần gây bối rối khi mời bà Nhu sang thăm trang trại của ông ở Texas mà bà Nhu lại từ chối với lý là chưa có dự tính đó. Vô tình bà Nhu nói dí dỏm sẽ sang thăm nếu ông PTT trở thành Tổng thống. Không ngờ lời nói đó khích động PTT Mỹ, ông kéo bà Nhu ra bao lơn nhưng vô tình sức mạnh kéo tay bà Nhu lại kéo luôn phu nhân Chủ tịch Quốc hội, ông nhìn thấy hớ hênh bèn chữa thẹn rằng muốn bà Nhu giới thiệu thắng cảnh Sài-Gòn từ bao-lơn. Không ngờ lời nói cho qua chuyện lại thành sự thật hơn 2 năm sau đó. Năm 1964, ông Ngô Đình Cẩn - thành viên cuối cùng của dòng họ Ngô Đình còn ở Việt-Nam, bị xử tử sau khi đã xin tị nạn chính-trị với lãnh sự Hoa-Kỳ ở Huế lại bị giao cho nhóm đảo chánh dựng tòa án kêu án tử hình. Bà Nhu đã viết thư yêu cầu TT Johnson can thiệp, nhưng ông đã tỏ ra “hèn hạ” (tr. 177) - Bà Nhu từng khen ông Cẩn phụ trách cả miền Trung khiến nơi đó yên bình mà không tốn kém gì cho chính quyền Sài-Gòn (tr. 182). Trước đó, vào mùa Thu 1963 khi sang Hoa-Kỳ “giải độc”, bà Nhu đã nhận lời mời đến thăm trang trại của hàng xóm của Johnson, Johnson đã không có hành động gì và trong 1 lá thư duy nhất trả lời thư bà Nhu hỏi tại sao ông ta có vẻ sợ bà, ông viết ”Làm sao tôi có thể sợ một phụ nữ tuyệt vời như bà?”. Lá thư này về sau bà gởi lại một người bạn đồng môn của ông Nhu ở Paris nhờ giữ khi bà Nhu dọn về Rome, đã bị một người đánh tiếng với con trai trưởng của bà Nhu là sắp chết nên muốn nhìn thấy nó trước khi chết, nhưng lá thư không bao giờ trở lại - về sau bà Nhu mới biết người này làm cho tình báo Pháp. Đắc cử dân-biểu, đến năm 1958, bà đề nghị Luật Gia-Đình có mục-đích giải phóng phụ nữ về mặt pháp lý (một vợ một chồng, nam nữ bình quyền cả trong quản trị, sử-dụng và phân chia gia sản, thừa kế di sản, v.v.), đã bị đa số vẫn còn tinh thần gia trưởng, gia tộc hoặc đa thê, phản đối; dù Hiến pháp 26-10-1956 đã nêu cao nam nữ bình quyền nhưng trong thực tế, người phụ nữ vẫn phải phục-tùng chồng là người vẫn được xã-hội xem là giám-hộ. Bà tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới (với hình biểu tượng Ngọn đèn dầu của những cô trinh nữ trong Thánh Kinh) kêu gọi và giúp đỡ người phụ nữ ra đời làm việc xã-hội, thiện nguyện. Bà Nhu kêu gọi tinh thần tái dựng lòng yêu nước. Cùng lúc, bà tổ chức lực lượng Phụ nữ bán quân sự (10-1961) tự nguyện, được huấn luyện tự vệ, sử-dụng vũ khí và y tế thường thức. Trưởng nữ Lệ Thủy cũng gia nhập lực lượng này từ khi 16 tuổi. Sáng sớm ngày 27-2-1962, thêm một vụ chính biến do 2 phi công bắn phá Dinh Tổng thống. Con cái bà bị thương và bà phải vào bệnh viện vì muốn cứu con với bà vú của cô út Lệ Quyên. Biến cố khiến bà thêm ghê tởm bọn thực dân (tr. 180) - bà ghi rõ vụ bắn phá Dinh Tổng thống là do thực dân (“colon”), sau đó là căn nhà từ đường bằng gỗ của gia-đình Ngô Đình ở Huế cũng bị phá hủy, do “la rage francaise contre le Việt-Nam que nous représentions...”(tr. 181). Xảy ra vụ Phật giáo, bà Nhu muốn có đại diện các đảng phái và các nhóm xã-hội trong Ủy Ban Liên Phái, nhưng Tổng thống Diệm không thuận vì không muốn có bà. Nhưng khi xong Thông cáo chung và bên Phật giáo đã ký, ông Nhu lại hỏi ý kiến bà trước khi cố vấn Tổng thống ký. Bà thấy lạ vì các đòi hỏi của Phật giáo đều là những thứ chưa bao giờ cấm, bà đề nghị ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ cấm. Ông Cố vấn đem Thông cáo chung đến buổi họp sau đó và nói lại ý vừa kể, ngoại trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó Tổng thống Thơ phát biểu: ”Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường khiến mình thành người ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu từ chức. Theo bà Nhu cũng ông VV Mẫu này đến cận ngày 30-4-1975 nghe lời thực dânủng hộ và theo tướng Big Minh (lực lượng thứ 3), nhưng đế quốcmạnh hơn muốn chấm chấm dứt chiến-tranh (tr. 188)! Trước ngày đảo chánh, từ ngày 12-9-1963, bà Nhu và cô trưởng nữ Ngô-Đình Lệ-Thủy lên đường đi “giải độc” ở Âu châu và Hoa-Kỳ; trước khi xảy ra vụ ám sát anh em Tổng thống, bà và con gái được đông đảo cảnh sát bảo vệ, nhưng sau đó thì bị bỏ rơi, may có một gia-đình người Mỹ do 1 linh-mục giới thiệu, đã giúp đỡ mẹ con bà cho đến khi rời nước Mỹ đi Rome. Phần ông Cô vấn Ngô Đình Nhu, vài ngày trước đảo chánh đã gọi cậu Ngô Đình Trác đưa 2 em lên Đà-Lạt và dặn dò khi có biến hoặc ông Nhu chết, thì phải đưa 2 em trốn vào rừng. Khi xảy ra tiếng súng đảo chánh, các cô cậu đã chạy trốn vào rừng phía sau nhà, trãi qua một đêm trong mưa lạnh. Cả ngày hôm sau đi xuyên qua sông rạch để tránh để lại dấu vết, và cuối cùng đến một nơi trực thăng có thể đáp và chờ đợi. Chỉ trong vòng ba ngày, mấy đứa trẻ đã thoát khỏi sự nguy hại và tới được Rome trước khi mẹ và chị cũng đến đó. Ngày 15-11-1963, bà và con gái rời Los Angeles để đi Roma sinh sống. Bị đế quốc bỏ rơi, nhưng ở phi trường đầy phóng viên báo-chí và truyền hình. Rồi lúc ghé Paris, bà cũng được đông đảo báo-chí phóng viên đón như vậy, ông đại sứ Mỹ ở Paris bí không biết phải trả lời báo-chí ra sao bèn nói “Chúng tôi có làm gì thì cũng vẫn bị nguyền rủa!”. Nhưng ít có nhà báo nào dám nói lên hết sự thật, bà Nhu được ông nhà báo Georged Mazoyer dám bênh phía bà, nhưng ông ta vừa được thăng chức giám đốc một nhật báo ở Paris ra ban chiều thì liền bị xe đụng chết khi đi bộ. Bà Nhu thấy những ai đứng về phía bà đều bị biến mất (tr. 189-190): kế đó là bà Suzanne Labin và Marguerite Higgins (3-1-1966) – được Tổng thống Kennedy gửi sang Việt-Nam điều tra riêng, bà là tác-giả cuốn Our Việt-Nam Nightmare (1965), trong đó bà cho rằng biến cố Phật giáo chỉ là một trò đánh lừa (leurre), mục-đích không vì Phật giáo mà vì muốn lấy đầu ông Diệm và thay vì bỏ lên mâm bạc như Thánh Jean-Baptiste tử đạo, thì nay phải quấn cờ Mỹ; và bà nhận xét các sư sãi rất rành tên các phóng viên ngoại quốc, gọi họ bằng tên/prénom! Vào tháng 6 năm 1964, hiệp hội báo chí Hoa-Kỳ tổ chức mời bà Nhu và con gái Lệ Thủy sang Mỹ làm một vòng để các cơ quan thông tin báo-chí tìm hiểu sự thật (Truth Rally) về thực trạng Việt-Nam vì các cơ quan này không tin giải thích của Hoa-Thịnh-Đốn (tr. 71). Lúc đó nước Mỹ chuẩn bị bầu cử Tổng thống thay thế T.T. Kennedy, chính phủ Mỹ đã từ chối cấp visa cho 2 mẹ con bà Nhu lấy “lý do an ninh quốc-gia“. Ngày 9-5-1975, khi trả lời phỏng vấn của đài truyền hình, bà Nhu đã tố cáo chính quyền Kennedy can thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ Hoa Kỳ". Bà cũng bình luận cảnh đại sứ Mỹ Martin chờ trực thăng tới đón trên nóc nhà, cờ Mỹ cuộn dưới nách: “Cường quốc Mỹ dùng để làm gì, nếu không phải là để phải trốn chạy theo họ?”. Năm 1985 khi báo-chí Hoa-Kỳ làm kiểm điểm 10 năm Hà-Nội chiếm miền Nam, bà Nhu đã nhận trả lời phỏng vấn cho Newsweek, nhưng các cơ quan thông tin này đồng lõa với nhau để không ai liên lạc được với bà (tr. 71). Bà sống lúc tại vùng Riviera nước Pháp, lúc ở nhà bên Roma, bà trả lời phỏng vấn một lần khác để lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua thăm ông bà ngoại ở Mỹ. Bà Monique Brinson Demery phỏng vấn bà Nhu năm 2005 đánh dấu lần đầu tiên bà trả lời báo chí phương Tây sau một thời-gian khá lâu, phỏng vấn để thực hiện cuốn sách về bà Nhu, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu(New York : Public Affairs, 2013), nội-dung cuốn sách cho thấy bà Nhu đã nói chuyện với bà Demery với nội-dung cuốn hồi-ký. Suốt tập hồi-ký, bà Nhu cho người đọc thấy và hiểu rằng bà căm ghét thực dân Phápvà đế quốc Hoa-Kỳ(bà gọi chung là “Occident criminel”). Bà có thắc mắc là ngoài Thánh lễ khai mạc Cộng đồng Vatican II ngày 2-12-1963 có nhắc ý lễ cầu cho anh em Tổng thống Diệm, Tòa thánh Vatican đã không lên tiếng và không làm gì về cái chết của anh em chồng bà (và người mà Tòa thánh giới thiệu giúp làm giấy tờ cho căn nhà mà Đức Cha Thục mua cho mẹ con bà ở Roma lại lừa dối cướp hết tiền gia-đình bà). Bà kể có thể đã góp phần (qua một phỏng vấn ngay trước đó) trong việc khiến cho Hà-Nội đã phải để cho Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, cháu của ông Nhu, ra ngoại quốc chữa bệnh và thoát cộng-sản; và hơi trách móc Ngài đã không làm gì cho những cái chết của chồng và các anh em chồng bà. Bà cho rằng sau ngày 2-11-1963 anh em Tổng thống bị giết, nước Việt-Nam rơi vào địa ngục là do các đế quốc thực dân và cộng-sản(tr. 201). Bà thêm, cái chết của Lệ Thủy con gái bà vẫn chưa được điều tra đến cùng! Về phần người Pháp, bà gọi là “tên thực dân” (colon) và so sánh với quỷ Satan khi dùng lời Chúa Jesus cảnh báo Thánh Phê-Rô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của con người” (Mt 16, 23) – vì thực dân đã lợi dụng danh nghĩa của Giáo hội để làm chuyện Ác đã khá lâu rồi ở Việt-Nam. Bà Nhu cho người đọc hiểu rằng bao nhiêu biến cố, đảo chánh, ám sát, v.v. thời Việt-Nam Cộng-Hòa đều là do bàn tay của thực dân và đế quốc chủ động hết, do đó bà không nói nhiều đến những tay sai người Việt của chúng. Bà cho rằng với những gì bà viết ra, chỉ có đám thực dân là phải tự vấn lương tâm (tr. 190)! Cuối cùng là những suy niệm tâm linh cuối đời của bà; bà tạ ơn Chúa đã đoái nhìn con chiên Việt-Nam qua việc đức Hồng y tân cử của Hoa-Kỳ đã đến La-Vang ngày 21-8-2009 dâng lời cầu nguyện “Đức Mẹ La-Vang cũng là Đức Mẹ của quốc-gia Hoa-Kỳ và của giáo hội Công-giáo“. Và bà cảm ơn và hiểu Chúa đã trao phó cho bà trọng trách làm mẹ và bà đã làm hết mình cho đến cuối đời! * Trong Phần Phụ lục, trong lá thư đề ngày 2-9-1963, 2 tháng trước ngày bị giết, ông Ngô Đình Nhu trình bày lập trường Việt-Nam chính-thực của chính phủ của Tổng thống anh ông (Việt-Nam của người Việt Nam!) trước âm mưu của Hoa-Kỳ đi chung với Liên Xô cộng-sản, âm mưu đưa đến phương-tiện thôi miên, tuyên truyền, huyền-hoặc các sư sãi rồi đẩy những kẻ này vào lửa thiêu sau khi báo cho thông tín viên quốc tế biết để đến quay phim, chụp hình (và cản cứu người “tự thiêu”!) (1). Từ ngày ra thiết quân luật 20-8-1963 thì hết còn tự thiêu, nhưng 2 thế lực kia lại xúi sinh viên học sinh xuống đường như đã làm ở Đại Hàn và Thổ-nhĩ-kỳ, nhưng ông Nhu cho là thất bại vì chính quyền bắt đi học quân sự và tẩy não chúng. Ông Nhu biết 2 thế lực đó chưa ngừng tay vì phải biện minh với cấp trên về việc chi 20 triệu đô Mỹ (2) cho âm mưu này! Chú thích: 1- Sau ngày đảo chánh 1-11-1963, còn có 6 vụ tự thiêu Phật tử khác, nhưng không báo chí Tây phương nào để ý đến nữa! Và sau ngày 30-4-1975, đã có biết bao nhiêu kỳ thị, kiểm soát, khủng bố tôn giáo và toàn dân, tù đày, cướp của dân,... nhưng thượng tọa Trí Quang không có hành động nào, trở thành câm, lặng, đồng lõa với cộng-sản Hà-Nội! Còn vụPhái đoàn Liên Hiệp Quốc đến VN điều tra về vụ gọi là «đàn áp Phật giáo», Báo cáo được dịch ra Việt ngữ - Vi Phạm Nhân Quyền Tại Miền Nam Việt-Nam, do Võ Đình Cường dịch, 1 nhóm Phật giáo xuất-bản năm 1966, từ tay Thích Trí Quang người đề tựa, nhưng đã bỏ đi phần kết luận (1 thứ lừa dư luận từ cái thật, lộng giả thành như ... thật!). Đây là Báo cáo 234 trang trình ngày 7-12-1963 của Phái đoàn với kết luận không có đàn áp lẫn kỳ thị tôn giáo, và những đụng độ với chính quyền chỉ là do 1 nhóm nhỏ, và có tính cách chính-trị, không phải tôn giáo. Bản báo cáo bị giấu kín, đến tháng 2-1964, văn bản này đã được Thượng Viện Hoa-Kỳ xuất-bản. 2- Ông Nhu tiên đoán đúng, tiếp đó là chi tiền mua chuộc mấy ông tướng Việt-Nam làm đảo chánh và giết anh em ông ngày 2-11-1963 và sau đó là ông Cẩn, người em khác! Lou Conein đưa 3 triệu đồng tương đương 42 ngàn đô la Mỹ cho nhóm tướng lãnh đảo chánh để chia chác cho nhau, thật ra chỉ là những đồng bạc lẽ từ 20 triệu đô! Nguyễn Vy Khanh Montreal, 11-2013 ********************************************************** Những điều chưa biết về Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưaNghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên, nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ “đã từng” yên nghỉ, tôi dùng chữ “đã từng” vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay. Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài Gòn. Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”… Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu. Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố, những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn! Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập. Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu. Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn. Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 27, 2014 9:47:01 GMT 9
Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một Nhà Chiến Lượcongvove.wordpress.com/2010/12/18/ph%E1%BA%A1m-ng%E1%BB%8Dc-th%E1%BA%A3o-ong-la-ai/I. Thân Thế Ngô Đình Nhu Thời Thơ Ấu Và Thanh Niên, 1910-1955 Ông Ngô Đình Nhu (1910- 1963), sinh ngày 3 tháng 10 năm 1910 (có tài liệu ghi 1911 ở Huế) tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Binh, lúc nhỏ đi tu tại Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng Trị được một thời gian thì hồi tục. Khác với nhiều người trong gia đình theo ngành học có xu hướng cựu học, cậu Nhu cùng với cậu Luyện, được gia đình cho đi du học Pháp theo Tây học khoảng đầu thập niên 1930. Trong những năm 1935-38, các thanh niên sinh viên Trần Văn Chương, Trần Đức Thảo, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Mạnh Tường đang theo học bên Trường Luật và Văn Khoa tại Viện Đại Học Sorbonne, Paris, thì sinh viên Ngô Đình Nhu theo học Trường Quốc Gia Cổ Điến Học (Ecole Nationale des Chartes) Điều kiện nhập học là ứng sinh phải có Văn Bằng Tú Tài Toàn Phần theo chương trình Pháp. Mỗi khóa học kéo dài trong 4 năm, khi đó thường chỉ nhận 20 tuyển sinh. Trong các sinh viên Việt Nam, chỉ một mình cậu Ngô Đình Nhu trúng tuyển. Sau Nhu, có sinh viên Nguyễn Thiệu Lâu, nhưng Lâu chỉ học được một năm, thì phải bỏ dở vì lý do sức khỏe tâm lý. Anh Ngô Đình Nhu có trí khôn thông minh sắc bén và thâm trầm, ít nói và thường chìm đắm trong suy tư, có xu hướng tích cực tham gia đời sống trí thức xã hội. Sinh viên Ngô Đình Nhu làm tiểu luận kết thúc khóa học với nhan đề là: “Les Moeurs Et Les Coutumes Des Annamites Du Tonkin Au XVIIe Siècle. (Phong Tục Tập Quán Của Người An Nam ở Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII) Trong danh sách các thí sinh tốt nghiệp năm 1938, sinh viên Nhu được xếp cuối cùng ba trong số mười ba sinh viên trình luận văn tốt nghiệp, nhưng không theo thứ tự ABC. Nhưng trong một bài viết của Nguyễn Lý Tưởng không biết dựa vào nguồn tư liệu nào, tác giả đã ghi Ngô Đình Nhu làm đề tài có tên khác Anh Nhu tốt nghiệp Khoa Cổ Điển Học năm 1938 [có học giả ghi là những năm 1930]. Văn bằng tốt nghiệp này tương đương Văn Bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp. Lập Gia Đình Với Cô Trần Lệ Xuân 1. Tân khoa Ngô Đình Nhu về nước được bổ trước hết làm Quản Thủ Văn khố Toà Khâm Sứ Huế (1943) sau ra Hà Nội làm việc tại Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia (1945, thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim), tức Giám Đốc Quản Thủ Thư Viện Trung Ương Đông Dương tại Hà Nội. Vào thời gian ấy, anh thanh niên Ngô Đình Nhu năng tham gia tích cực những lớp huấn luyện thanh niên Công giáo về xã hội. Đúng như hồi ức hiếm có của một chứng nhân tuổi nhỏ khi đó ở Hà Nội: “…Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó. Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường Dòng Chúa Cứu Thế nên ngày thứ năm là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi “theo học” lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học. Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh tôi là người tài giỏi hơn người…” “…Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục. Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt. Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và điềm đạm. Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc” She was 32 years old then and her husband 46. She was 32 years old then and her husband 46. 2. Sau biến cố chính trị tháng 8/1945, Ngô Đình Nhu tiếp tục làm ở Văn Khố theo bổ nhiệm của Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp. E. Miller có nói “dường như” Ngô Đình Nhu vẫn giữ công việc của mình tại Thư viện Quốc gia trong suốt quãng thời gian Hà Nội nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh theo các điều hiểu biết của tác giả bài viết “Lịch sử đầy đủ về gia đình Cụ Ngô-Đ.-Diệm”, trong báo Saigon Mới, ngày 23 tháng 6 năm 1954. Nhưng với các chứng liệu người viết đã thu thập, thì việc ông Nhu ở lại Hà Nội làm việc sau biến cố Mùa Thu 1945 là chắc chắn. Điều này chứng tỏ tinh thần ái quốc và dân tộc tích cực của Ngô Đình Nhu rất cao trong luồng diễn biến chung các sự kiện lịch sử của cả nước lúc đó Sau hai thanh niên sinh viên Nhu và Lâu, thì mãi đến năm 1966, mới có một nữ sinh viên Việt Nam tốt nghiệp khoa này là cô Đặng Phương Nghi. Cô Nghi sau về nước làm Giám Đốc Thư Viện Trung Ương VNCH I ở Sàigòn. Chính thời gian học ở Paris, Pháp, hai gia đình và hai thanh niên Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương đã có cơ hội quen biết nhau. Mme Ngo Dinh Nhu Mme Ngo Dinh Nhu Khi làm Quản Thủ Thư Viện Trung Ương tại Hà Nội, Ngô Đình Nhu hơn cô nữ sinh Trần Lệ Xuân 15 tuổi. Năm 1943, Xuân đậu Tú Tài I Pháp, dự định thi xong Tú Tài 2 sẽ học ngành Luật theo gương cha. Nhưng do mối quan hệ từ lâu giữa hai gia đình Trần Ngô, nên hai danh tộc sớm chuẩn bị gả con cho nhau và ưng thuận trở thành Thông Gia 3. Từ lúc còn ở trung học, một người tên là Hoàng Việt có một thời được giới thiệu làm gia sư, phụ giáo cho Trần Lệ Xuân khi cô mới được 17 tuổi, để học ăn học nói xõi tiếng Việt và cách cư xử khi ra trường đời theo thói quen của nhiều danh gia vọng tộc quyền quí thời đó. Sự chênh lệch về tuổi tác ngay lúc đó ở Hà Nội giữa hai người gây nhiều dư luận xôn xao, nhất là sau chính biến 1/11/1963, trong tương lai. Để có thể tiến hành việc hôn nhân, theo tinh thần Công giáo, Cô Trần Lệ Xuân ưng thuận từ bỏ Phật Giáo, chấp nhận đức tin mới, tự nguyện xin gia nhập Công giáo và chịu phép Thánh Tẩy theo nghi thức Công giáo ở Nhà Thờ Lớn Hà Nội, do chính Giám mục Ngô Đình Thục chủ lễ với nhiều quan chức đạo đời tham dự. Khi đó là năm 1943. Chỉ khoảng gần nửa tháng sau là cô Xuân rửa tội, hai họ Ngô Trần tổ chức ngay Hôn Lễ. Thánh Lễ Hôn Phối được tổ chức trọng thể tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội vẫn do Giám Mục Ngô Đình Thục làm chủ tế, có Giám Mục F. Chaize Thịnh, quản nhiệm Địa Phận Hà Nội, cùng tham dự, với đông đảo Linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân Pháp, Nam và nhiều quí khách, thân hữu ngoài đời thường của hai họ Ngô, Trần. Về phía họ nhà gái, nhiều thân chủ sang trọng của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương, có nhiều nhân vật quốc tế trong giới ngoại kiều như Pháp, Nhật, Hoa, các quan lại Nam triều. Đám cưới diễn ra trong khi người Nhật vẫn còn đang chiếm đóng Đông Dương, đang tranh chấp gay go với phe đồng minh, tuy thế thắng đang nghiêng dần ngày càng rõ rệt về phía Mỹ ở chiến trường Á Đông Thái Bình Dương. Chiến trường Việt Nam đang chịu nhiều áp lực của quân đội Đồng Minh, mà chủ yếu là những cuộc không tạc chiến lược của quân đội Hoa Kỳ trên khăp các vùng có quân Nhật chiếm đóng. Dù tình hình căng thẳng như thế, vẫn có đến mấy chục xe hơi của quí khách và thân nhân tham dự đậu dài bên đường Gambetta Hà Nội, nơi cư ngụ của gia đình họ Trần cùng với văn phòng làm việc của Luật Sư Trần Văn Chương. Đến tham dự thánh lễ hôn phối, người ta thấy cô dâu Trần Lệ Xuân đẹp đẽ, duyên dáng, e ấp trong bộ đồ cưới trắng toát, có dát kim tuyến óng ánh vương giả, theo sau có hai cháu bé tay nâng đuôi áo cưới, tay cầm cành thiên tuế. Sau Thánh lễ hôn phối theo nghi thức Công giáo, cô dâu vào bên trong nhà mặc áo, thay bộ quốc phục quần trắng áo dài gấm đỏ tha thướt, thêu vàng, đầu đội khăn màu thiên thanh, quấn nhiễu vàng gần giống lễ phục vương giả của Bà Nam Phương trong ngày lễ thành hôn với Vua Bảo Đại. Pháo hồng tươi nổ dòn dã kéo dài khét lẹt trước dãy phố có tòa biệt thự của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương. Xác pháo bây giờ trải đầy xác pháo hồng trên đường, ngập đến hết bàn chân của nhiều khách bộ hành đi qua lại trên mặt phố. Đám rước dâu bên nhà trai đi đón dâu với tốp hai trẻ, tốp thứ nhất cầm hai đèn lồng đi trước, theo sau là tốp hai trẻ khác cầm hai nhành thiên tuế, nối tiếp với một đám tùy tùng đông đảo các trẻ em ôm hai con ngỗng trắng, câu án có bốn lọng đỏ, cau lồng, rượu ché, heo đóng cũi, bò đeo bông, … kiểu truyền thống vọng tộc đất Thần Kinh xứ Huế. Cô dâu được rước về quê nhà họ Ngô ở Phú Cam, Huế theo lễ nghi trang trọng. Mme Nhu & Her Daughter Ngo Dinh Le Thuy Mme Nhu & Her Daughter Ngo Dinh Le Thuy DẤN THÂN VÀO HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI, CHÍNH TRỊ Đôi trai tài gái sắc thành hôn chỉ được khoảng hai năm sau, thì hàng loạt chính biến tháng 8 và 9 năm 1945 lần lượt diễn ra trên cả nước từ Bắc Trung Nam. Kỷ niệm đau lòng đối với những người kháng chiến quốc gia khi ấy là lực lượng Việt Minh đã lợi dụng tình thế truy lùng và sát hại rất nhiều nhân vật và cơ sở của các đảng viên và chính đảng không có xu hướng Cộng Sản, dường như muốn giành lấy hết công lao và vinh dự của một mình phong trào Việt Minh lãnh đạo kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Vì thế, lúc đó khi được tin người anh là ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giữ, Ngô Đình Nhu đang làm việc tại Thư Viện Đông Dương, và đang tham gia vào kế hoạch cải tổ cho nền giáo dục toàn quốc. Theo một nguồn tin có chứng liệu, ông Nhu là 1 trong 14 thành viên trong Ban Cải Cách Giáo Dục, phụ trách Chương Trình Trung Học, do Bộ Trưởng Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn lãnh đạo.Nhà sử học cần mẫn của Mỹ đã nghiên cứu tỉ mỉ vào những hoạt động của Ngô Đình Nhu có nhận xét ông này có cá tính riêng biệt. Nhưng chắc các biến cố, có thể nguy hiểm cho bản thân và gia đình, cùng mưu tính hoạt động chính trị ái quốc không theo kiểu Cộng Sàn, đã khiến ông phải vội bỏ nhiệm sở, tìm đường chạy vào tá túc ở Thanh Hóa, Phát Diệm, còn Bà Trần Lệ Xuân một mình vội tìm đường chạythoát về Phú Cam. Có lẽ sau ngày 19/12/1946, ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp do phong trào Việt Minh phát động, thì Ông Nhu mới chạy vào khu Tư ở vùng Thanh Nghệ, có lần thám sát vùng biên giới Lào Việt ở khu vực đó. Cuộc đời và sinh hoạt của gia đình Ngô tộc không tách rời với bối cảnh liên hệ chung của những thành phần khác. Ông Nhu cùng với nhóm anh em đồng chí hướng âm thầm nhưng tích cực chuẩn bị cho kế hoạch lên nắm quyên của ông Ngô Đình Diệm. Biến Cố Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (28/8/1945) Trong lúc biến cố diễn ra, sau khi Nhật đầu hàng, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, có lẽ ông Ngô Đình Khôi khuyên vua Bảo Đại đừng trao chính quyền cho Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông đã tương kế tựu kế xử dụng người Nhật một cách khôn khéo cầm cự với phong trào Việt Minh… Có thể vì lý do đó, ngày 28-08-1945, ông Ngô Đình Khôi (1891?-1945) bị Việt Minh dẫn đi và thủ tiêu cùng với con trai ông là Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (Thượng Thư Bộ Lại, thời Bảo Đại). Giới chức CSVN sau khi cưỡng chiếm cả nước mới tiết lộ và nhìn nhận sự thật phũ phàng này. Việc bắt giết đó nhằm mục đích trả thù cá nhân dưới mỹ từ đẹp đẽ nhưng sắt máu “đấu tranh giai cấp”, kiểu “đấu tố địa chủ cường hào”. Cách hành động này không xét xử và tuyên án công khai, được nhập khẩu và chỉ đạo từ Trung Quốc Cộng Sản diễn ra trên khắp phần đât do CSVN kiểm soát, nhất là trong những năm 1950-1955. Ông Ngô Đình Khôi (1895 ?-1945): tốt nghiệp trường Quốc Tử Giám ở Huế, năm 1910, bắt đầu làm việc ở Bộ Binh dưới quyền Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài và cưới cô Nguyễn Thị Giang, con gái Ông Nguyễn Hữu Bài làm vợ. Dần dần Ông lên đến Tổng Đốc Nam-Ngãi (1930) rồi Tổng Kinh Lược các tỉnh miền Nam Trung Kỳ (1933). Năm 1943 ông hoạt động công khai, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lúc đó đang tá túc ở Nhật, nên ông phải từ bỏ các nhiệm vụ ở Nam triều do người Pháp kiểm soát. Ông Ngô Đình Khôi cai quản trên đất Quảng Nam và ông Ngô Đình Huân làm thanh tra lao động. Tài liệu CS sau này có nói Ngô Đình Huân làm Hiến Binh (?) cho quân đội Nhật với dụng ý lên án cha con ông làm tay sai cho Nhật, nhưng thực ra việc làm của họ đều gây khó khăn nhất định cho các hoạt động khuấy đảo tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam trên đất Quảng Nam. Hai cha con đều bị tay chân Việt Minh ở địa phương sát hại ban đêm tại Hát Phú, cách Huế 20 cây số. Ngày 28 Tết năm 1958, gia đình họ Ngô mới tìm thấy hài cốt cha con cùng chôn một hố chôn chung với thượng thư Phạm Quỳnh. Tử thi của cả ba người đều được thân nhân nhận diện và cải táng. Sau đó di cốt của hai cha con ông Khôi được chôn lại trong nghĩa trang gia đình tại Phú Cam, Huế. Nhóm Hoạt Động Xã Hội Cần Lao 1. Trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, thì người ta mới phát hiện ông Ngô Đình Nhu thoát khỏi Hà Nội. Trước khi đến Thanh Hóa, Ngô Đình Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh và một số thân hữu nòng cốt về Phát Diệm lập khu an toàn. Chính thời gian này ông Nhu manh nha thành lập cùng với nhiều người đồng chí hướng, tổ chức Liên Đoàn Kháng Chiến Cần Lao Việt Nam. Khi Việt Minh bị quân Việt-Pháp đánh bật khỏi Hà Nội, thì ông Nhu trở lại Hà Nội, với một Linh Mục mà tài liệu Cộng Sản Việt Nam gọi tên là Trọng, đem theo một cán bộ quốc gia có bản lĩnh, nói là ở Điền Hộ, từ Hà Trung mới ra. Nhân vật này, người nhỏ bé, xuất thân từ chủng viện Thanh Hóa, tính tình thông minh điềm đạm. Theo Lương Khải Minh ghi lại, đó là một thanh niên tự xưng là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, sau này cầm đầu ngành tình báo một thời trong chế độ Ngô Đình Diệm: Chính tại Thanh Hóa Phát Diệm, ông Nhu cùng một số nhân sĩ trí thức đã chuẩn bị cơ cấu ban đầu nhân sự và tổ chức, thành lập Đảng Cần Lao sau này làm nòng cốt cho tổ chức chính trị của chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ 1954-1963. Nhưng đồng chí nòng cốt đầu tiên là: LS Lê Quang Luật, Hoàng Bá Vinh, Trần Kim Tuyến, Đái Đức Tuấn, tức Mai Nguyệt, Tchya, với tên gọi ban đầu là Nhóm Xã Hội Công Giáo (1946-1954) là nhóm cột trụ sau này của Đảng Cần Lao Nhân Vị. Về tới Hà Nội, ông Nhu mới hay biết vợ ông vẫn sống bình an và còn ở Huế. Nhưng sau đó ông lại được tin vợ ông đã về Đà Lạt với gia đình người chị là Lệ Chi (1947-1951). Dần dần ông Nhu bắt lại liên lạc với Giám Mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long, và ông Ngô Đình Luyện ở Sàigòn. Sau chính biến Tháng Tám 1945, ông Ngô Đình Diệm bị CS bắt giữ (như đã nói trên), rồi giải giam tại Việt Bắc, nhưng với sự can thiệp của Giám Mục Lê Hữu Từ, cùng vì nhiều áp lực từ tình hình chính trị phức tạp trong nước và quốc tế, Hồ Chí Minh phải trả tự do cho Ngô Đình Diệm đầu năm 1946, như một chiến lược tương kế tựu kế, thu phục nhân tâm nhân sĩ và quan lại của cựu trào. 2. Ở Hà Nội, theo một số tài liệu, ông Ngô Đình Diệm tá túc tại Dòng Chúa Cứu Thế ở khu tu viện Nhà Thờ Nam Đồng ở Thái Hà Ấp. Chính từ đây ông Ngô Đình Diệm dần dần mở rộng liên lạc lại được với các nơi. Thời kỳ này ông Ngô Đình Diệm đã tiếp xúc với Linh Mục Nguyễn Văn Thính. Từ Nhà thờ Nam Đồng, mấy cán bộ thân tín, như Nguyễn Văn Châu (sau này làm đại tá, Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, Việt Nam Cộng Hòa), Đỗ Mậu (sau này làm đại tá An Ninh Quân Đội) sang Phúc Xá liên lạc với Linh Mục Bằng. Khi Linh Mục Bằng bị bắt giết, ông Ngô Đình Diệm vào Sàigòn tá túc tại nhà ông Ngô Đình Luyện (ở số 2, Đường Armand Rousseau (tức số 8 Đường Nguyễn Văn Tráng sau này). Nơi này về sau chính là cơ sở Trường Y Khoa thuộc Viện Đại Học Minh Đức Khi nghe tin vợ đang ở Đà Lạt, ông Nhu liền tìm lên theo. Trong cảnh nhiễu nhương bấp bênh, cặp vợ chồng trẻ sống chật vật nhưng can đảm và hết tình trong cảnh thắt lưng buộc bụng thiếu thốn đạm bạc. Bà Nhu lo cho chồng từng bao thuốc lá Bastos Xanh, mà ông say mê và suốt ngày chỉ vùi đầu miệt mài với sách vở. Có lúc bà phải đích thân ra chợ mua từng bó rau lạng thịt về chung nhau ăn từng bữa. Có khi bà phải đem bán cả vòng xuyến vàng đeo cổ kỷ niệm ngày cưới đế có tiền sinh sống qua ngày. Ông Nhu can trường chịu dựng với bộ quần áo sơmi cụt tay và chiêc quần gabardine. Cảnh sống khem khổ ấy chứng tỏ hai ông bà luôn luôn đằm thắmnhẫn nại trong tính nghĩa vợ chồng, dù trong những phút khó khăn. Nhưng lý tưởng xây dựng một xã hội Việt Nam nhân bản không rời xa những câu chuyện bàn bạc của ông thật say sưa và nhiều mưu lược với bạn bè. Có lúc dường như đam mê chính trị và lý tưởng xã hội lấn át cả những tình cảm và bổn phận gia đình. Đúng là tác phong quên mình của một người có dầu óc chiến lược và t2âm nhìn xa trông rộng. Từ khi lựa chọn sinh viên của École des Chartes, câu Nhu đã bộc lộ một trí thông minh sắc sảo, một con người có óc tổ chức khiến nhiều người phát ghen, nhưng lại nể phục! Sau khi ông Ngô Đình Diệm qua Mỹ (1950), ông Ngô Đình Nhu về Sài Gòn liên lạc với các tôn giáo, đảng phái, xuất bản Nguyệt San Xã Hội, phổ biến tư tưởng chính trị của ông. Tháng 09-1953, ông tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hoà Bình với tư cách đại diện Công Giáo. Phong Trào này họp tại Sài Gòn ngày 6-09-1953 qui tụ các đại biểu Công Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số nhân sĩ, trí thức Trung, Nam, Bắc…tất cả 65 đại biểu. Năm 1954, trước tình hình nghiêm trọng có thể xoay chuyển số phận đất nước, sau khi căn cứ Điện Biên Phủ của Pháp bị thất thủ ( 07-05-1954), Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng (toàn quyền): ngày 07-07-1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trình diện Tân Chính phủ tại Sài Gòn, Ông Ngô Đình Nhu làm Cố Vấn Chính Trị cho Ông Diệm, một chức vụ mà không bao giờ được bổ nhiệm chính thức đến khi ông bị sát hại ở độ tuổi đang sung sức, ít ra về nhận thức và kinh nghiệm chính trị. Ông Nhu là một lý thuyết gia cừ khôi xây dựng chủ nghĩa Nhân Vị và là một nhà chiến lược chính trị sâu sắc đến độ đam mê. Như một cặp bài trùng, đã hết sức giúp ông Diệm ổn định tình hình, đối phó với các tổ chức chính trị đối lập tại miền Nam, có cả hoạt động bí mật của Cộng Sản ở miền Nam trong lúc các sinh hoạt của Cộn Sản Việt Nam đều công khai ở miền Bắc… Ông thành lập đảng chính trị Cần Lao, dựa vào một chủ thuyết về cơ bản do ông khởi xướng là Học Thuyết Cần Lao – Nhân Vị để hỗ trợ chính quyền của người anh ông. Một phần nào vận dụng viện trợ của người Mỹ, đảng Cần Lao phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập tổ chức “Thanh Niên Cộng Hòa” nhằm qui tu và huấn luyện theo mô hình chặt chẽ và hoạt động tích cực, có hiệu quả do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác cũng được thành lập với mục đích như trên, dành cho giới nữ lấy tên là “Phụ Nữ Liên Đới” do vợ ông, Bà Trần Lệ Xuân, làm Tổng thủ lãnh. Hai tổ chức này là hai cánh tay nối dài của Đảng Cần Lao Nhân Vị, kiểu như các đoàn thể trong tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc của Cộng Sản, nhưng theo mục đí khác biệt nếu không phải là đối lập. Sau khi chế độ suy tàn biết bao xích bác, lời khen tiếng chê đủ điều được dịp nói đến bà, từ phía những người Cộng Sản cùng phên dậu của họ và nhiều cá nhân và đảng phái quốc gia không có thiện cảm hay không đồng ý với cá nhân bà và gia đình họ Ngô Đình. Trên danh nghĩa là một cố vấn chính trị, nhưng hầu như nhiều nhà chiến lược và nhiều tài liệu đều ghi nhận, ngoài ông Ngô Đình Diệm, ông Nhu mới là kiến trúc sư xây dựng rường cột của chế độ. Ông hoạch định tư tưởng và xây dựng các cấu trúc từ thượng tầng ở trung ương đến hạ tầng ở địa phương, nông sơn thôn của chế độ. Ông Nhu là người khởi xướng chính yếu mọi chủ trương chính sách của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông cũng cho lập và trực tiếp điều phối nhiều cơ quan tình báo và mật vụ ( có tới 13 cơ quan) với những quyền lực to lớn như có thể bắt giam người không cần xét xử trước.NgoDinhNhu1a Trong cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963 do phe quân nhân chủ động ông Nhu đã bị thảm sát cùng một lần với Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02-11-1963 theo lệnh của Mỹ. Một Hình Ảnh Về Cuộc Đời Của Hai Anh Em Diệm Nhu Thay cho lời kết luận, người viết chỉ ghi lại một lời chứng của một quân y sĩ VNCH có ý nghĩa “novissima verba” đối với người đã chết và những thương tiếc bản thân chế độ, đất nước mà hai ông hết lòng phục vụ, vì lợi ích của cộng đồng dân tộc và nhân dân cho đến chết: Phục Vụ Đất Nước Đến Chết “….tôi (tức ông Đôn) quả quyết rằng: “Không có lời phát biểu công khai nào của tướng tá lúc đó đòi phải xử tử hai ông Diệm và Nhu…” người ta không khỏi phì cười và chê là lý luận quá ngây thơ (không “công khai” tức là phải hiểu “bí mật” chăng?) Để làm sáng tỏ vấn đề hơn, về điểm này, LM Cao Văn Luận đã viết như sau: “Khi xác chết anh em ông Diệm được đưa vào nhà thương Saint-Paul thì giây trói quật cánh khuỷu hai người vẫn còn nguyên. “Trên ngực ông Nhu có nhiều vết thương do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu. Trên thân thể ông Diệm chỉ có một vết thương ở đầu. “Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (thiếu tá) (lúc đang nói ở đây ông Nhung chưa được thăng thiếu tá – lời ghi chú thêm của người viết) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu. “Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ vẻ khinh miệt. “Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục, nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó, và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do vật bén nhọn đâm từ lưng chổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu. “Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức (những tấm hình này, trong cuộc họp báo ngày 5.11.63 tại bộ TTM, Đỗ Mậu đã trưng ra như một bằng chứng cụ thể xác nhận anh em cố TT Diệm đã chết thật, vì lúc đó còn rất nhiều người hoài nghi hai ông chưa chết. (lời ghi chú thêm của người viết (Phụng Hồng)). ” Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quật cánh khuỷu, dẫn từ nhà thờ ra xe thiết giáp, tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu chỉ huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng hộ ông chống lại phe đảo chánh” (7) Trích dẫn đoạn trên của cha Luận (cũng là một nhân chứng!), tôi (người viết Phụng Hồng) muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng vụ mưu sát hai anh em cố TT Diệm là một dự mưu đã được tính toán trước bởi một số tướng lãnh phản bội toa rập với đề nghị của ngoại bang (vì nếu không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ không ủng hộ cuộc đảo chánh thì sức mấy mà thành công!). Tiếc thay, ông Đôn đã cố tình miêu tả một cách hời hợt, như ngầm đổ lỗi cho đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ tay chân của ông Minh, tự ý giết (trang 238), và mình không có trách nhiệm gì. Tuy nhiên, ta vẫn thấy ở một trang khác, tác giả đã để lộ ý định cho rằng giết TT Diệm là đúng (tr. 250). Chính trong cuốn “Our Endless War” (8), ông Đôn đã viết chương “Diem Must Go” và đã biện minh cho việc giết TT Diệm là hợp lý. Đọc đến đây, người ta băn khoăn tự hỏi nếu ông Đôn chối bỏ hành động cố sát TT Diệm thì tại sao lại ngụy biện vậy? Thật là mâu thuẫn không thể hiểu được! Đó là một sai lầm lớn.”NgoDinhNhuMurdered Nếu Hai Ông Không Bị Sát Hại, Số Phận Đất Nước Có Thể Chuyển Biến Tích Cực Khác Muốn mượn lời người khác, ng ười viết dẫn chứng tác giả Phụng Hồng làm rõ thêm luồng tư tưởng này như sau: “…tôi (người viết Phụng Hồng) muốn mời bạn đọc tìm hiểu thêm một ý kiến khách quan của một người ngoại cuộc, ông Von Wenland, Đại Sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Việt Nam. Ông này đã tâm tình với cha Luận rất lâu sau ngày đảo chánh. Cha Luận đã viết: “Trước hết tôi đến gặp Đại Sứ Đức là ông Von Wenland. Ông này phàn nàn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với Quốc Gia.” “Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông Đại Sứ Đức: “Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phảng phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình. “Mặt ông đượm buồn, và giọng ông hết sức chua chát. Ông cho biết ông đã đệ đơn từ chức và sẽ rời Việt Nam trong ít lâu.” (9) Và sự thật cũng đã chứng minh một ách hùng hồn như chúng ta đã từng là Nhân Chứng từ 1975 đến nay. Vậy ta có thể kết luận một cách đau lòng rằng “Cuộc Đảo Chánh 1.11.63 đã làm cho Việt Nam mất vào tay giặc cộng sản Bắc Việt” Bạn có đồng ý với tôi [Phụng Hồng] không? Nếu bạn không đồng ý, xin mời bạn hãy đọc tiếp đoạn này: “….Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt đó chẳng đẹp đẽ gì hơn. “Những người Mỹ trong đó có cựu đại sứ Nolting, tướng Harkins, ông Richardson, giám đốc trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1.11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự, Quân Đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng.” (10) (sự bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược mà Việt cộng từng ghê sợ nhất, là một thí dụ điển hình-lời ghi chú thêm của người viết [Phụng Hồng]). Đây là một bằng chứng hùng hồn nhất, một bài học lịch sử đau đớn nhất cho những ai từng tự vỗ ngực huênh hoang cho mình là “người hùng cách mạng“, và tự đeo lon to nhất để suy gẫm lấy. Và tôi [Phụng Hồng] cũng muốn những người đã “bái lạy tướng to lon” để mưu đồ đảo chánh, phản bội chủ mình hãy tự kiểm điểm lại hành động mình mà ăn năn hối lỗi. Nhưng chậm quá rồi! Lịch sử và những vượt biên trên biển cả, những hồn thiêng trong Tết Mậu Thân, trong “lò luộc người cải tạo” chắc chắn không bao giờ tha thứ bọn người này! Đó là một sự thật cay đắng mà ai nấy đều đã thấm thía khi phải “tha phương cầu thực“. Và sau cùng, tôi [Phụng Hồng] muốn nhân dịp này nhắc lại câu nói để đời của William Colby, cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo đã từng hoạt động nhiều năm tại Việt Nam, và là người am hiểu tình hình chính trị Sài Gòn hơn ai hết, khi hối tiếc về cái chết của TT Diệm trong cuốn sách mới nhất của ông (11): “Nếu ông Diệm còn, chưa chắc miền Nam mất.” Những Dư Luận Thóa Mạ Chống Đối Sau khi chế độ sụp đổ thì không biết bao nhiêu lời thóa mạ được nói đến gia đình họ Ngô, nhưng mấy người được tiếp xúc và có nhận xét nghiêm chỉnh quân bình về những con người đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục đã tổng hợp đứng đắn những diều được nhiều người phát biểu: Nhiều đàm tiếu diễn ra sau 1963, về gia đình ông Nhu, những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân…Chỉ nhắc lại một lần cuối. Trong bài ký: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường ‘gặt bão’ của anh em Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11–63”, ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, ỡm ờ nửa hư, nửa thực như sau: “Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đình Nhu – người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy” Về nhóm sinh viên nằm vùng tranh đấu, Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp: “Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v… Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi.” Một Số Nhân Chứng Trực Tiếp Dù có những dư luận kiểu đó, ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ông Nguyễn Văn Lục hay: “Phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ. Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác.” Chi tiết được ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân đã bịa đặt, và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng đồng loã. “Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhiều ấn tượng còn được ghi khắc trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho Nguyễn Văn Lục hay biết: “là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình. Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy. Còn cụ Đoàn Thêm có những nhận xét: “Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.” Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng.” Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Ông Nguyễn Văn Lục nghe biết câu chuyện này, khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Nói xấu một người thì dễ hơn là kính trọng người ta, vì người ta thường thấy cái tiêu cực trong người khác hơn là thấy nết xấu ở nơi mìn. “Chân mình thì lấm mê mê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”, đấy là cái thói ở đời ben Đông cũng như bên Tây. Sau gần 10 năm, tác giả Nguyễn Văn Lục lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác. Hồi ấy, anh còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Ông Lục nhớ lại: “Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời.” Cụ Đoàn Thêm nói tiếp về con người ông Nhu “cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ mình là đủ).” Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ thì không. Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ, thái độ của mấy ông này. Ông không phải là loại người của đám đông. Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô hậu ủng. Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống.” Căn cứ vào các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Ông Lục không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đã làm được như vậy? Cụ Đoàn Thêm viết về ông Nhu đã sống như thế nào: “Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn. Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh … Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất đắc dĩ.” Vẫn theo lời kể của cụ Đoàn Thêm: “Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn). Ai đã từng đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có mà chê cũng có. Như thế những nhận xét của cụ nên coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn xuyên tạc hay xưng tụng quá đáng. Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, thì chắc người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người biết “liệu cơm gắp mắm” Tư cách trí thức biết điều là ở chỗ ấy. Người ta nhìn lại, những người thay thế ông sau này. Một khi có quyền bính trong tay, họ đã hành xử thế nào? Như ông Đỗ Mậu làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm cố vấn? Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm? Người ta chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu làm người mà không xứng đáng thì nói chi đến thứ khác? . Vận Động Chính Trị ở Hải Ngoại: ông Ngô Đình Diệm Trở lại cuộc vận động hải ngoại cho ông Ngô Đình Diệm, thì thực ra, theo GS Tôn Thất Thiện, cuối năm 1949, Cụ Diệm khước từ lời của Cựu Hoàng Bảo Đại mời ông làm Thủ Tướng vì cho rằng Hiệp Định Cựu Hoàng vừa ký với Pháp (Hiệp Định Elysées) không mang lại độc lập thực sự cho Việt Nam, nhất là về ngoại giao. Sau đó, ông nhận lời cùng với Giám Mục Thục đi một vòng thế giới nhân dịp GM Thục đi tham dự một hội nghị các giám mục của Giáo hội Công giáo ở La Mã. Hai ông đi Nhật Bản, rồi từ đó sang Hoa Kỳ. Sau mấy tuần ở Hoa Kỳ, hai ông sang La Mã. Mỗi người sinh hoạt theo kế hoạch riêng biệt. Sau khi tham dự hội nghị giám mục tại Rôma, Đức cha Thục đi hành hương ở Tây Ban Nha, rồi về Việt Nam, còn ông Diệm thì đi Thụy sỹ và Pháp. Trong thời gian ở Paris ông Diệm gặp lại người em Ngô Đình Luyện và gia đình ông này. Ông gặp lại Võ Văn Hải, một người hăng say sát cánh bên ông trong những năm 1945-1949. Ngoài ra, ông có sở thích đi bộ quan sát Paris, và viếng các nhà thờ lớn. Ông đi bộ nhiều đến nỗi viên mật thám có nhiệm vụ trông coi ông phải than trời “ông này điên rồi! ông muốn thăm hết Paris, mà toàn đi bộ!”. Tất nhiên cũng có nhiều người tìm gặp ông. Vì vậy mà nhà chức trách Pháp muốn ông ra khỏi đất Pháp. Đúng lúc đó có tin Tu viện Maryknoll ở New York mời ông sang với tư cách làm nhân viên giảng dạy đặc biệt, nên ông Diệm đi lại Hoa Kỳ. Giữa năm 1953, ông lại đi Âu Châu, trú tại Tu viện Biển Đức Thánh Anrê (Couvent Bénédictine de Saint André) ở Bruges, Bỉ (Belgique). Thường những quyết định lớn về Việt Nam diễn ra ở Paris, nhưng lại hay gây ồn ào, và bị mật thám Pháp rình mò, nên ông chọn qua Bỉ gần Paris, mà tránh được cả hai thứ phiền phức trên. Mùa Thu năm 1953 tình hình Việt Nam sôi động, ảnh hưởng đến tình hình chính trị Pháp với viễn ảnh điều đình lập lại hoà hình ở Đông Dương. Đặc biệt trong trường hợp ấy, có tiếng đồn Ông Ngô Đình Diệm sẽ là Thủ Tướng Việt Nam. Thật ra, đây chính là thời gian Cựu Hoàng Bảo Đại bắt đầu tìm liên lạc với Ông Ngô Đình Luyện để “nối lại tình xưa”, vì hồi nhỏ, trước Thế Chiến II, hai ông là bạn chơi với nhau ở Paris. Nhưng Ông Luyện thừa hiểu nguời Cựu Hoàng muốn móc nối không phải là ông mà là ông Diệm. Để nắm tình hình rõ hơn, ông Diệm sang Paris, nơi có nhiều chính khách Việt Nam, và quyết định về Việt Nam – vẫn đang bị Pháp chi phối. Muốn kín đáo hơn, ông không ở với Ông Luyện, trong vùng Choisy, ngoại ô Paris, mà ở với ông Tôn Thất Cẩn, trong vùng Gentilly, ngay sau khu Học Xá Đại Học Paris. Ông Cẩn là con của Quận Vương Tôn Thất Hân, từng làm Phụ Chính, kết thân với bản thân ông Ngô Đình Khả. Ông Hân đã lén giúp ông Ngô Đình Khả trong thời gian ông này khốn đốn vì bị tước hết chức vụ, mất hết bổng lộc, vì không chịu ký kiến nghị truất phế Vua Thành Thái. Chính ở đây mà ông Tôn Thất Thiện, em ruột ông Cẩn, hội kiến ông Diệm lần đầu qua trung gian ông Thuyên, người phụ giáo cho gia đình ông Hân. Ông Diệm tiếp ông Thiện khoảng một giờ. Ông trình bày tình hình quốc tế, và nói: mình may mắn hơn Tàu, vì người Trung Hoa ở Đài Loan không có hy vọng lấy lại được Lục Địa, còn Việt Nam có nhiều may mắn hơn. Ông cũng kể về những năm phải nghỉ việc, dành thì giờ nghiên cứu thuyết cộng sản, đọc sách, trồng hoa, nhất là Hoa Hồng. Ông muốn một thể chế tối thiểu ngang với “Dominion” như các Dominion Anh. “Dominion” là danh từ chính ông dùng. Ông không nói gì về thể chế Việt Nam tương lai, nhưng căn cứ trên lý lịch và nếp sống gia đình, và cách ông cư xử với Cựu Hoàng Bảo Đại, có thể chế độ ông thích là quân chủ lập hiến. Lúc ông được bổ nhiệm làm Thủ Tướng, rất ít người hiểu rõ về ông. Tôn Thất Thiện nhờ các chi tiết ông cung cấp để viết bài gởi về Việt Nam qua đại diện Việt Tấn Xã ở Paris, với tựa đề: “Ông Ngô Đình Diệm là ai?”. Đó là tài liệu trung thực đầu tiên nói về ông mà báo chí phổ biến rộng rãi. Tôn Thất Thiện hỏi Ông khuyên những người trẻ phải làm gì. Ông nói: “Các anh nên vô làm việc trong các cơ quan đi, để lấy kinh nghiệm sau ni mà làm việc”. Tuy thấy đây là một lời khuyên hơi lạ, vì thanh niên lúc đó có xu hướng “chờ thời” giữa hai bên là làm việc với một Chính phủ thì Chính phủ Bảo Đại (mang tiếng “theo Pháp”) hay Chính phủ Hồ Chí Minh (đang ở trong rừng, nhưng Cộng sản). Thực sự suy nghĩ cho cùng, thì muốn làm được việc, phải có kinh nghiệm về hành chánh quản lý công việc, tổ chức guồng máy và nhân sự cùng vận động quần chúng; mà muốn có kinh nghiệm đó, thì con đường tốt nhất là phải làm việc trong các cơ quan chánh phủ. Trả lời phỏng vấn, lúc đó một chính khách cộng sản Pháp nói: “Nên tham gia chính phủ, vì ở trong chính phủ mới được đọc được hồ sơ và hiểu rõ tình hình.” Chính ông ta biết như vậy nhờ tham gia Chính phủ Liên hịệp của de Gaulle lúc de Gaulle cầm quyền sau Thế Chiến II. Điều này giải thích tại sao ông Diệm lại tin dùng những người như ông Nguyễn Ngọc Thơ và công chức cao cấp các thời trước, kể cả thời Pháp. Những ý nghĩ và kiến thức cùng kinh nghiệm làm việc đã chinh phục thiện cảm và tin tưởng hơn vào ông Diệm trong giới thanh niên. Tài liệu CS và một số thành phần không ưa ông Diệm, đã ghi lại một số tình tiết với thâm ý làm sai lạc sự thật là gán ghép Mỹ và Công Giáo chủ mưu đưa Ông Ngô Đình Diệm và phe cánh của ông lên nắm quyền. Tài liệu tiêu biểu mới đây là một điều sai sự thực, trong lúc chính quyền CS bề ngoài nói là muốn xóa bỏ quá khứ để xây dựng đoàn kết dân tộc. Tài liệu “Trần Lệ Xuân: Giấc Mộng Chính Trường” và nhiều tài liệu khác xuất bản vào giai đoạn này do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân có ý nghĩa gì, khi chủ tình nói sai sự thật và chỉ theo quan điểm Cộng Sản. Thực ra, năm 1950 ở Roma có hội nghị các giám mục trên thế giới, Giám Mục Ngô Đình Thục được mời tham dự. Nhân dịp này ông Diệm xin đi theo. Trên đường đi, hai người ghé lại Nhật Bản xin gặp một số chính khách Nhật và Việt xem họ có giúp được gì không. Sau đó tại Rôma, ông Diệm được Giám Mục Thục giới thiệu với Hồng Y Giáo Chủ Spellman là giáo chủ của Mỹ để xin giúp đỡ cho Diệm. Spellman đồng ý. Năm 1951, Diệm bay sang Mỹ và được Hồng Y Spellman đỡ đầu cho vào ở trong tu viện Maryknoll tại Lakewool thuộc bang New Jersey, Diệm ở đây hai năm. Thơi gian này ở Đông Dương, Pháp đang bị Việt Minh đánh tơi tả. Pháp cầu cứu Mỹ giúp khí giới, nhưng Mỹ lừng khừng vì thâm ý của Mỹ là muốn cho Pháp bại trận, để sau đó nhảy vào giành phần. Ông Diệm rời Mỹ vào tháng 3.1953, ở Paris ít lâu rồi sang Bỉ lưu trú tại Tu Viện Bénédictine. Một năm sau, ông Diệm lại trở về Paris để nghe ngóng tình hình Đông Dương. Các con bài của Nguyễn Văn Tâm rồi hoàng thân Bửu Lộc do Bảo Đại chỉ định làm thủ tướng theo chỉ thị 24 của Pháp không tạo được hậu quả nào, trong khi đó Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ chỉ còn là vấn đề thời gian. Đến lúc này Mỹ thực sự nhảy vào cuộc, đề nghị Pháp dùng lá bài Ngô Đình Diệm. Nhưng Bảo Đại không chấp thuận ông Diệm thay ông Bửu Lộc vì Bảo Đại vẫn còn căm hận ông Diệm đã bỏ Bảo Đại để rút lui về vườn. Thêm một lý do nữa vì lúc ấy Bảo Đại đang chịu sự chi phối của Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu về vấn đề tài chính. Một mặt Mỹ ép Pháp thay đổi chính phủ tại Việt Nam bằng cách dùng lá bài Ngô Đình Diệm do Mỹ đưa ra; mặt khác Ngô Đình Thục tích cực vận động giới Công giáo La Mã, Pháp và nhất là Mỹ phải đưa Ngô Đình Diệm ra gấp thì mới hy vọng cứu Việt Nam khỏi bị Việt Minh thống trị! Đồng thời Ngô Đình Luyện cũng gặp Bảo đại để dàn xếp cho Diệm về nước lập chính phủ vì từ lâu Luyện rất thân với gia đình Bảo Đại…“(t. 23, sđd.) Thời gian 1953-54, Pháp bị tấn công mạnh ở Việt Nam, khi có thêm hậu thuẫn từ Trung Quốc Cộng Sản, sau khi toàn thể lãnh thổ bị Cộng Sản Trung Hoa chiếm quyền thống trị. Tóm Thuật Hoạt Động Thực Tế Phức Tạp Khi Nắm Chính Quyền Khi lên nắm chính quyền, chế độ mới do hai ông Diệm Nhu hoạch định thựa hiện phải đối phó với nhiều vấn đề nhiêu khê, có thể làm nguy ngập đến thể thống đất nước. Một cách tổng lược, ngưới ta có thể đưa ra một hình ảnh vắn tắt như sau Những Việc Cụ Thể Chế Độ VNCH I Đã Thực Hiện: 1. Tổ chức việc tiếp chuyển, định cư di dân từ miền Bắc vào miền Nam và bố trí trại định cư theo địa điểm chiến lược, hình thảnh cấu trúc ban đầu cho một mạng lưới Ấp Chiến Lược, giải quyết vấn đề dân sinh và an dân chống lại họat động của Cộng Sản từ miền Bắc xâm nhập miền Nam qua đường rừng núi chủ yếu bên Lảo và đường thủy (sông rạch và biển cả) 2. Đoàn kết các đảng phái chính trị, lực lượng quân sự, chủ yếu dựa trên tôn giáo hay địa phương: các tổ chức Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công giáo, Tin Lành, các lực lượng chính đảng khác như Đại Việt, phe Bảo Hoàng, lực lượng ủng hộ quyền lợi thực dân Pháp, trong một mặt trận thống nhất dựa trên một ý thức hệ và hoạt động Chủ Nghĩa Nhân Vị, đối lập với ý thức hệ và hoạt động chủ nghĩa Cộng Sản. 3. Tổ Chức Quân Đội Quốc Gia Độc Lập từ cơ sở những lực lượng trong quân đội Pháp: Địa Phương Quân, Bảo Chính Đoàn, thành một lực lược chính quy, hiện đại có kỷ luật, có tổ chức, có huấn luyện, đủ khả năng phòng vệ và tác chiến hữu hiệu với doanh trại, quân trang, quân dụng, vũ khí, từ cá nhân binh sĩ ở các cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu doàn, trung đoàn, sư đoàn, các lực lượng lên đến quân đoàn vùng chiến thuật I, II, III, IV với yểm trợ cần thiết ban đầu của nhiều nước, nhất là Mỹ. 4. Xây dựng Lực Lượng Cảnh Sát Công An từ các bộ phận còn manh mún phục vụ cục bộ của nhiều nhóm, nhất là của Bình Xuyên, thành một Đơn Vị Cảnh Sát Công An Quốc Gia Độc Lập thống nhất. Hình thành mạng lưới an ninh duy trì cảnh vệ trậ tự các cơ sở hành chính quan yếu của quốc gia. 5. Tổ chức chính trị nòng cốt là thành lập chính đảng Cần Lao Nhân Vi tôn trọng nhân vị và yêu mến cần lao để kiến thiết bản thân và đất nước, chống lại chủ nghĩa và hoạt động phá hoại của Cộng Sản. Ngoại vi của lực lượng Cần Lao Nhân Vị là qui tụ động viên thành phần chủ yếu là thanh niên vào hai tổ chức chính: Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới. Từ chính đảng nòng cốt này có thể vận động thanh niên nam nữ và nhiều thành phần nhân dân vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước chống lại hoạt động theo xu hướng của chủ nghĩa Cộng sản. Tạo thành một phong trào Cách Mạng Quốc Gia, ây dựng đ1ât nước, nhất tâm đối phó với Cộng Sản 6. Tổ Chức hệ thống chính trị dân chủ với ba lãnh vực Hành Pháp (Tổng Thống), Lập Pháp (Quốc Hội) Tư Pháp (Hệ Thống Tòa Án), với bầu cử dân chủ chọn người làm việc từ trong các thành phần giáo phái chính đảng quốc gia trong tình trạng đối phó với hoạt động xâm nhập, phá hoại dưới nhiều hình thức của Cộng Sản, cụ thể là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. 7. Một Giài pháp chính trị chiến lược thực tế đa hiệu, chống lại Cộng sản là chính sách Ấp Chiến Lược. Ý nghĩa chính thức của tổ chức này là kêu gọi tổ chức nhân dân tập trung vào các ấp chiến lược, nhất là tại những vùng dễ xâm nhập hoạt động của cộng sản, nhưng có lợi điểm cư trú và hoạt động kinh tế nông nghiệp, kỹ nghệ, lâm ngư nghiệp, giáo dục của nhân dân. Khi dân chúng tự nguyện tự giác vào sinh cư tập trung gọn gàng và kỷ luật trong các ấp này, thì tất cả những thành phần còn lại bên ngoài các ấp (khu trù Mật và Dinh Điền) là Công Sản hay hoạt động đi theo ủng hộ Cộng Sản. Du kích Cộng Sản sẽ lần lượt bị ngăn chặn, tiêu diệt vì không còn chỗ dung thân và sinh sống.Tổ chức này hữu hiệu làm nguy ngập cho tổ chức hoạt động của Cộng sản, nên CSVN mới phản tuyên truyền, xuyên tạc là bắt gom dân vào Ấn Chiến Lược, và thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Nhưng Kế Hoạch Do Chế Độ Xây Dựng Có Những Khuyết Điểm Sau: 1. Quyền lợi, nhận thức cá nhân và đoàn thể khác nhau về tôn giáo và chính trị xã hội muốn xây dựng dân chủ tự do vội vã đốt giai đoạn, đã cản trợ hoạt động phát triển dân chủ thống nhất của nhà nước, trong tình thế phải đối phó với các hình thức xân nhập và hoạt động của Cộng Sản. 2. Hoạt động tuyên truyền, đồng khởi, phá hoại của Cộng sản đánh phá nhiều mắt xích trong hệ thống hành chính địa phương và trong hệ thống Ấp Chiến Lược ở các vùng sâu vùng xa, và các điạ điểm chiến lược, khi tổ chức chiêu hồi và ấp chiến lược tỏ ra nhiều thiệt hại bất lợi cho Cộng Sản. 3. Hệ thống quản lý đất nước bị lạm dụng, nên có xu hướng thiên về gia đình trị, công giáo trị gây hoài nghi cho nhiều thành phần nhất là Phật Giáo, trong việc kết nạp vào Đảng Cần Lao Nhân Vị và nhiều hoạt động khác như tố chức an ninh (mật vụ, tình báo, cảnh sát, thanh niên, quân đội). 4. Sự can thiệp xen lấn lộ liễu mạnh bạo của Mỹ từ yểm trợ nhẹ nhà đến hoạt động hành quân của cả một lực lượng lớn trên lãnh thổ một đất nước độc lập có chủ quyền với nhiều phương tiện doanh trại, tổ chứng nhân vật lực phức tạp. Điều này tạo cơ hội cho tuyên truyền Cộng Sản về nhiều mặt. Khi các cảnh chiến tranh tàn bạo được chiếu trực tiếp trên truyền hình các gia đình Mỹ hằng ngày đêm đã dần dần tạo nên phong trào phản chiến, đòi chính quyền Mỹ phải rút về mau lẹ, tạo một khoảng trống cho quân đội còn dòn mỏng của VNCH, chưa kịp tổ chức xây dựng, bổ sung về quân số và huấn luyện và thiếu vũ khí tối tân, so với lực lượng võ khí và mưu lược dối trá của Cộng Sản, 5. Phong trào Đồng khởi từ Bến Tre và Biến Cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân trên lãnh thổ VNCH II là một hoạt động liều lĩnh của Cộng Sản khi hệ thống Ấp Chiến Lược đã chứng tỏ có hiệu quả đã đẩy CSVN đến chỗ phải hành động để sống còn. Sự tàn bạo và dối trá của Cộng Sản trước Việt Nam toa rập với ý chí chủ bại và phản bội của Mỹ đã đưa đến thằng lợi trước mắt của CSVN ngày 30/4/1975. Việc hủy bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược sau khi lật đổ chế độ VNCH I là một hành động phá hoại chiến lược, chuẩn bị xa nhưng mau hơn cho sự chiến bại của miền Nam Gia Đình Bên Ông Ngô Đình Nhu Gia đình họ Ngô Đình, nguyên quán ở đất Quảng Bình, ông cố tổ là dân bần hàn sống nghề chài lưới. Khi đạo Công giáo truyền đến vùng này từ thế kỷ 17, thì tổ tiên của dòng họ Ngô Đình đã tin đạo. Đời ông Ngô Đình Khả đức tin đó vẫn được củng cố và phát triển. Là một thanh niên chăm chỉ đạo dức mà lại thông minh, cậu được theo học cả chữ hán lẫn chữ Pháp. Cậu được gửi du học ở trường chủng viện Thánh Giuse ở Penang (Mã Lai), cùng với Nguyễn Hữu Bài, với ý định được huấn luyện để trở thành Linh Mục. Nhưng vì không được ơn gọi làm Linh Mục, cả hai cậu Khả và Bài đều trở về Việt Nam và sau này trở thành thông gia, vì có một quá trình dài học tập và hiểu biết lẫn nhau. Về nước, vì giỏi về ngoại ngữ, ông Khả và ông Bài đều được tuyển làm thông dịch viên. Làm việc xuất sắc có nhiều kết quả, Khả được trọng dụng và thăng chức rất nhanh. Khi vua Thành Thái mất chức, thì Khả cũng mất chức Phụ Đạo Nam Triều. Gia đình Ngô Đình Khả cư ngụ tại Phú Cam, nơi có một xứ đạo kiên trung của đất Huế. Ông Ngô Đình Khả có tất cả: Con cả là Ngô Đình Khôi (1885?-1945) lập gia đình với người con gái của Nguyễn Hữu Bài. Con thứ hai là Ngô Đình Thục (1897-1985) từng du học tại Rôma năm. Từ 1919-1927 du học Roma: Tiến sĩ Triết học (1922), Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật (1927). Qua Pháp học Đại Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Khi về nước giữ nhiều chức vụ trước khi làm Giám Mục Vĩnh Long, rồi Tổng Giám Mục Huế. Con thứ ba là Ngô Đình Diệm (1901-1963), từng làm Tuần Vũ Bình Thuận, rồi Thượng Thư Bộ Lại triều Bảo Đại (1932). Năm 1918 thi vào trường Hậu Bổ, sau 03 năm tốt nghiệp, lần lượt giữ các chức vụ từ Tri huyện Hương Thủy (1922), Tri huyện Quảng Điền (1923), Tri phủ Hải lăng (1925), Quản đạo Ninh Thuận (1927), Tuần vũ Bình Thuận (1930), Thượng Thư Bộ Lại (1933) được hơn 02 tháng thì từ chức…Năm 1945 bị Việt Minh bắt sau nhờ Đức Giám Mục Lê Hữu Từ can thiệp, được trả tự do. Năm 1950 qua Roma rồi qua Hoa Kỳ. Ngày 07-07-1954 về nước chấp chánh giữ chức Thủ Tướng toàn quyền do Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định. Sau cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 10-1955, dược dân bầu lên làm Quốc Trưởng rồi Tổng Thống tại Miền Nam VN đối lập với chế độ Cộng Sản tại Hà Nội do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông có công ổn định tình hình, thống nhất quân đội, phát triển kinh tế, mở mang giáo dục, xây dựng dân chủ, v.v…Rất tiếc, ngày 01 tháng 11 năm 1963 ông bị phe quân nhân (theo lệnh Mỹ) làm đảo chính lật đổ và bị thảm sát ngày 02 tháng 11 năm 1963. Biến cố 01-11- 1963 đã dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-04-1975, đưa đất nước vào tay Cộng Sản độc tài! Con trai thứ tư là Ngô Đình Nhu (1910- 1963). Con trai thứ năm là Ngô Đình Cẩn (1912- 1964) Con trai út là Ngô Đình Luyện (1914- 1990), tốt nghiệp kỹ sư công chánh ở Pháp và Anh. Nhiều nhà nghiên cứu lầm lẫn Ngô Đình Cẩn là con trai út Ông Bà Ngô Đình Khả còn có ba con gái là: Ngô Thị Giáo, chết sớm năm 1944, Ngô thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, vì lập gia đình với ông Nguyễn Văn Lễ, Ngô Thị Hiệp, lập gia đình với ông Nguyễn Văn Ấm, thân phụ của Hy TGM FX Nguyễn Văn Thuận. TGM NVT làm Bộ Trưởng Bộ Công Lý và Hòa Bình tại TT Vatican trước khi tạ thế ngày 16/9/2002, tại Rôma. Hai gia đình Trần Ngô cũng là thông gia môn đăng hộ đối theo Nho giáo cổ truyền. Gia Đình họ Trần bên Bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân) 1. Bà Ngô đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh tại Hà Nội này 24/8/1924, con gái thứ hai của Ông Trần Văn Chương (Luật Sư) và Bà Thân Thị Nam Trân. Ông Bà Trần Văn Chương có ba người con. Con đầu là Trần Thị Lệ Chi. Con thứ ba là Trần Văn Khiêm. Lệ Chi lập gia đình với ông Nguyễn Hữu Châu (Luật Sư, Tiến Sĩ Luật ở Pháp). Ông này gốc người Gò Công có họ hàng với ông Nguyễn Hữu Hào, thân sinh ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan, tức hoàng hậu Nam Phương, kết duyên với vua Bảo Đại. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống năm 1956, thì Ông Nguyễn Hữu Châu được bổ nhiệm Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống. Chỉ mấy tháng sau, chính ông Châu xin từ nhiệm. Gia đình ông Trần Văn Chương vốn theo Đạo Phật, nhưng từ nhỏ Cô Trần Lệ Xuân đã được gửi học nội trú ở Trường Dòng Nữ Thánh ÂuCơTinh, quen gọi là Couvent des Oiseaux. Một thời gian cô nữ sinh Trần Lệ Xuân có theo học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội trong thời gian ông Trần Văn Chương hành nghề Luật Sư ở Hà Nội. Chính mấy năm cuối cùng ở trường này, Trần Lệ Xuân đã phát triển các quan hệ thân tình cụ thể hơn với Ông Ngô Đình Nhu. Sau chính biến 1/11/1963, vô số lời đàm tiếu đổ dồn vào bà Ngô Đình Nhu. 2. Sau này, tại California, Ông Nguyễn Văn Lục lại nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục. Tác giả đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng. Ông Lê Châu Lộc đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu. Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào. Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan, thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu. Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó. Chứng nhân thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm. Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v… Theo lời kể của Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải loại người bờm xơm, chớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý. Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm. Ông Nguyễn Văn Lục muốn viết về vợ chồng ông Nhu, vì ông bà là bị nhiều người hiểu lầm và bực ghét, nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, khinh ghét bà nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Nhiều người biết rõ và khó quên câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Theo ông, khi người ta đã trót quý mến ai rồi, thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, có người đã trót quý mến và kính trọng Nam Phương Hoàng Hậu và nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi… Khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là nguyên nhân gây nên những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963. GiadinhNDN Thực ra ít người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu biết và kính trọng nhân cách bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh. Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì quá nhiều. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Đến nỗi người ta cố moi ra sự việc từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Vì thế dưới mắt của quần chúng nói chung, thí bà Nhu là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng hầu như giới nữ sinh hay các mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó. Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Dù sau cũng chết, chỉ vì bà là một người đàn bà. Bà lại nay nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn ai, lại có vè “đành hanh” khiến giới mày râu không chịu được. Có lẽ người ta phải cầu cứu đến những lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu. Cụ Đoàn Thêm cho rằng, dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. Việc bà tham gia vào chính trường, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị, hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam. Vẫn theo cụ Đoàn Thêm, nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, gây thêm nhiều ác cảm với bà là do bà đã xinh đẹp, mà lại muốn tỏ ra cứng cỏi và đánh hanh nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Người ta có thể nhẫn nhịn chờ đợi ông Nhu, nhưng đối với bà, bà chỉ xuất đầu lộ diện, thì cũng không được tán thành hay dung thứ. Nên dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương người đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, kiểu chủ nghĩa nữ quyền, là chưa thể yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những người phụ nữ nhu Võ Hậu hay Từ Hy. Tâm lý quần chúng như vậy nên nhiều con mắt dễ chú ý đến những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều có nguy cơ trở thành những cơ hội cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt. Bi kịch của chế độ khởi đầu từ đó. Người ghét cứ ghét, mỗi ngày mỗi đông thêm, như đòn hội chợ do thể chế tam đầu, lại có thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu. Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông vừa được nâng cấp trở thành Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn. ( Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ Xuân/my.opera.com) Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những gì Nguyễn Đắc Xuân dựng lên bôi nhọ bà Nhu. Chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai.Dĩ nhiên là không dám nói sai, ma nói đúng thì đồng lõa bôi nhọ. Thực ra họ không biết để ma nhớ, mà nói đúng hay sai. Người ta phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân? Người ta có thể tạm quên đi những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì, nói gì, viết gì, thanh minh cho việc mình làm và đã sống như thế nào? Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói, không thanh minh, Cắt đứt mọi giao tiếp với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc, Trương Phú Thứ đều nhận thấy bà sống ẩn dật, im lặng với quá khứ, lo việc từ thiện. Chắc là tâm trạng và nỗi niềm của bà gần 50 năm này đã diễn ra thật phức tạp, đa đoan, nhưng chỉ tập trung vào gia đình và niềm tin phú thác? Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà? Thực ra bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu, chôn vùi quá khứ, cuộc sống đã sang một trang mới: im lặng Điều ấy mang nhiều ý nghĩa: vửa cay đằng, tủi hận vừa sám hối trong tâm tình của một tín đồ. Những ai từng kết án bà, thì khó thấy bà là loại người tham tiền cố vị, vô tư cách hay thậm chí trăng hoa, mất nết… Người ta phải thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963. Nhưng những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được chứng cớ nhỏ nhoi nào, bôi nhọ bà. Bà sống ẩn dật một thời ở Ý rồi sang Pháp, mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài, ngày ngày đi lễ nhà thờ, lchuyên chú làm việc từ thiện, lấy kinh nguyện làm lẽ sống. Một con người như thế, chịu đựng biết bao điều sỉ nhục, tệ bạc, phản trắc, hờn ghét của thế thái nhân tình, khi không còn thời để lợi dụng. Không phải là dễ mà ai cũng bộ lộ nhân cách ấy, chọn lựa lối sống ấy. Mấy ai đã làm được như bà trong những tháng ngày sau 1963, nếu bắt buộc phải sống như vậy? Người ta nghĩ bà đang viết nhật ký, nhưng có lẽ chỉ là những tâm sự về đạo nghĩa Những điều Trương Phú Thứ đã viết thật là hiếm hoi và phản ảnh cuộc đời im lặng hơn là bận rộn chuyện phù hoa thế sự. Theo ông Lê Châu Lộc bà viết nhiều lắm, nhưng không ai biết gì. Trong cuộc đời này, suốt những năm làm vợ ông Nhu và nhất là từ khi ông bị ám sát, có thể cùng với lời cố vấn khuyên giải nào đo, bà đã chủ động chỉ lo cho gia đình êm ấm và dồn vào sống ẩn dật trong niềm tin Công giáo. Ông đã chết từ 02/11/1963 và từ ngày ấy ba cũng chết như một góa phụ. Theo kiểu nói của ông Lục, bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính mình, cho cuộc sống hiện nay. Nói đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, người đời không khỏi cám cảnh ngậm ngùi, thương cho hai kiếp người “hồng nhan bạc phận” Trong niềm giận ghét, ác cảm không tránh được của nhiều người, vẫn có nhiều người trân trọng quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và cám cảnh thương mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu. (Tham khảo Website T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục đã dẫn trên) Ảnh được Bettmann chụp ngày 21/10/1963 tại Washington DC – Mỹ, khi bà Trần Lệ Xuân sang Mỹ và có họp báo với báo giới, truyền hình. 3. Tiếp theo liên hệ đến Trần Lệ Xuân, ông cụ nội tam đại, tính từ bản thân, là cụ Trần Văn Thông, cựu Tổng Đốc tỉnh Nam Định, tuy nguyên quán ở Biên Hòa, đất Gia Định. Cậu Thông sinh 1875.Cậu Thông thuở nhỏ theo học Trường Chasseloup Laubat, một trường trung học Pháp đầu tiên do người Pháp thiết lập ở Sàigòn. Chính Hoàng Thân Sihanouk của Nam Vang cũng theo học trường này. Là Bachelier (Tốt nghiệp Trung Học Tú Tài Pháp) Ban Văn Chương cổ điển 1894. Năm 1907-1911, anh làm công chức trong chính quyền Pháp tại Đông Dương, sau ra Hà Nội ông làm Giám Đốc Trường Hành Chính tập sự (Ecoles de Stagiaires) tại Hà Nội. Chỉ ít lâu sau, ông Trần Văn Thông làm Tổng Đốc tỉnh Nam Định (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình) cho đến 1945. ông Trần Văn Thông còn làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, Hội Đồng Bảo Hộ Bắc Kỳ, được thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ Nam Triều. Ông Bà Trần Văn Thông sinh Trần Văn Chương năm Mậu Tuất (1898). Cậu Chương từ nhỏ theo học bậc tiểu học tại Hà Nội, rồi gia đình cho đi du học 10 năm ở Algérie. Sinh viên Chương được học bổng theo học Trường Luật ở Paris, đậu Tiến Sĩ Luật năm 1922. Năm 1925, Ông Trần Văn Chương trở về Việt Nam, làm việc với tính cách trạng sự tại Tòa Thượng Thẩm Sàigòn đến 1935. Năm 1938, Luật Sư Trần Văn Chương tham gia Hội Đồng Lý Tài Đông Dương, soạn thảo các Luật dân sự Trung Kỳ lên tới Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lý Tài Đông Dương. Trong thời gian tùng sự tại Huế, Luật Sư Trần Văn Chương lập gia đình với cô Thân Thị Nam Trân, con gái của Đông Các Đại Học Sĩ Thân Trọng Huề. Làm quan dưới triều vua Khải Định, người vợ kế của Thân Trọng Huề là Công Chúa, con gái của Kiến Thái Vương. Như thế Mẹ của bà Nam Trân là em gái vua Hàm Nghi và Đồng Khánh. Trần Văn Chương trở thành cháu rể vua Hàm Nghi. Hai họ Trần Thông đều môn đăng hộ đối theo nếp nho giáo cổ truyền. Năm 1940, Luật Sư Trần Văn Chương mở Văn phòng Luật sư tại 71, đại lộ Gambetta Hà Nội. Khi mới về nước, trạng sư (thầy cãi) Trần Văn Chương mở Văn Phòng ở Bạc Liêu, rồi chuyển lên Sàigòn trước khi ra Hà Nội. LS TVChương nổi tiếng nhất về vụ kiện cô Cúc giết Huyện Trương, vì bạc tình. Nhờ LS Chương, cô Cúc chỉ bị án ba năm rồi được trả tự do. Thời CP Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, LS Chương làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Kiêm Phó Tổng Trưởng Nội Các. Khi CP TTK tan ra, thì ông TVChương sống ẩn dật tại Hà Nội, rồi đem gia đình vào Sài gòn. Sau Hiệp Định Genève 20/7/1954, miền Nam Việt Nam do Bảo Đại nắm quyền, Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, thì LS TVC được bổ nhiệm chức Quốc Vụ Khanh Phủ Thủ Tướng. Năm 1956, khi ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, rồi lên thay Bảo Đại làm Tổng Thống VNCH, thì LS TVC được bổ nhiệm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ năm 1963. Trong khi TVC làm đại sứ, thì Bà Thân Thị Nam Trân làm quan sát viên VNCH tại LHQ. Nhiều người nghĩ rằng ảnh hưởng gia đình trị khá mạnh, cộng với những biện pháp mạnh bạo – vì chưa hiểu và chưa muôn hy sinh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Công Sản – đối với những người bất đồng chính kiến dẫn đến việc ông bị xem là có phần nào trách nhiệm trong sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa. Nhưng việc chính quyền Mỹ nhu nhược dựa trên phản ứng của dân chúng Mỹ cùng với hoạt động tình báo của Cộng Sản Việt Nam và quốc tế yểm trợ kích động thêm Đặc biệt là những biện pháp được thực hiện trong vụ đàn áp Phật giáo năm 1963 chủ yếu do tình báo chính quyền Mỹ dàn dựng đã dẫn đến một chuỗi dây chuyền phản ứng dữ dội. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh với yểm trợ mua chuộc của Mỹ đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Sauk hi đã liên lạc dàn xếp với phe đảo chính, vào ngày 2 tháng 11 năm 1963,hai an hem ông Diệm và ông Nhu bước lên xe tank trong đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chính vì tin tưởng vào lời nới của các tướng lĩnh, khi chiếc thiết giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người. Người ta về sau tìm thấy bằng chứng là chính Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh sát hại hai anh em ong Diệm và Nhu. II. Sự Nghiệp Chính Trị Của Ông Ngô Đình Nhu Những người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm son trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ quan trọng của quốc gia, nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế tìm hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I: chủ nghĩa nhân vị, chính đảng cần lao nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu trù mật, dinh diền, …). Theo ý kiến ông Minh Võ, ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì nhóm ông gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị. Mãi cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông Thành giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du Khi làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 27, 2014 9:50:28 GMT 9
Chủ Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963)
1. Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau của Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian ông Diệm cầm quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I. Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ chưa đánh giá về tầm quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Đây quả đúng là một vấn đề lịch sử chưa được trình bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, phê phán công bình, khách quan và bình thản, xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình thực hành để trả lại sự thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).
2. Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là:
- Mục đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị
- Bản chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào?
- Chủ Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể hiện bằng các đường lối chính sách nào?
- Về triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc tính văn hoá Việt Nam?
Trả lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền…. Chương khảo luận của tác giả Hoàng Ngọc Tấn “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường Của Tiến Bộ” có nhiều dữ kiện, suy đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết. Luận đề này đề cập đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm.
Mục Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
Trong tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác nhau. Miền Bắc theo ý thức hệ chù nghĩa Cộng Sản, nên miền nam muốn được đầu với chế độ chủ trương đâu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung[23]
Ngày 8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo sư đại học, giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình Nhu xác định:
“… mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ, mà chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đáng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc…”
Ông nói tiếp:
“Muốn phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị.” (Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 421).
Bản Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
1. Về bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích: Về Nhân Vị là gì: Nhân và Vị là hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp thành (仁) có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人 và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý tưởng nói về phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân loại và trong vũ trụ. Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa Nhân) trong triết lý Tam Tài truyền thống của Phương Đông.
Một cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị theo lối phân tích của Lm Bửu Dưỡng:
“ Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ personne humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ personne humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý nghĩa đày đủ của hai chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình trong những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị tùy thuộc quan niệm về con người và quan niệm các tương quan.”
Theo cách nói của LM Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng nước, giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái bí quyết thành công qua thành ngữ “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Thành ngữ này dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa. Được giáo dục bởi nền văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã hệ thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là “Chủ Nghĩa Nhân Vị”
Trong bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm đã phát biểu:
“Sống với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: “Thương người như thể thương thân”. Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra cái phẩm giá cao quý của con người. Đó là sống với chữ tâm của “Tiết trực tâm hư”, chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng vị trí của mình đối với Thiên Chúa [Trời] – Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước – Địa; đối với Nhân Dân, Đồng Bào – Nhân.”
Ông Ngô Đình Nhu giải thích:
“Về tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình, một tin ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức… Ý thức hệ Nhân vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo… Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý thức hệ đó…”
Chủ Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân Vị cho rằng bản vị con người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt trên đời đều được tập trung và phải là phương tiện qui hướng đến mục tiêu phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.
Nguồn Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I
Về quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh niên Ngô Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động của Emmanuel Mounier, nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa Nhân Vị của các ông Diệm, ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công Giáo. Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa tìm hiểu thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị.
Trong số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn Ngọc Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm “Is South Vietnam Viable?”, ông nói rằng ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh “Personnalisme” của Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và “Personnalisme” cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có Emmanuel Mounier và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó…
Thưc ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói thời đại không và được thời đại đó chấp nhận không?
Nhà sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I đã ghi lại:
“Chủ Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh thần của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể mác-xít.”
Mới đây tác giả Jean-François Petit nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E. Mounier (1905-1950). Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết, trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu hướng muốn dung hợp nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học từ linh mục Guerry.
Khi học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền giáo dục thiên về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và một nền thẩn học bị tác động do cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại.
Luận đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập một triết học riêng biệt, tách rời khòi tư tưởng có màu sắc tôn giáo.
Nhưng khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra nhạy cảm thấy người ta phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan niệm triết học về nhân vị và cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công nguyên.
Paul Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có tầm ảnh hưởng lớn lao lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ nguồn gốc tư tưởng Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản.
Theo quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau nau 30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có thể là “con đường thứ ba” để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó. Trong nhãn quan Ngô Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa cộng sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị.
Những nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam.
Phát biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ông Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó.
Trong số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn nổi tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình Diệm, ông viết:
“Nếu dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính ông cũng chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng, bởi vì nó phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ” .
4. Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề cùng những phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát biểu trực tiếp của các ông Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt.
Hơn nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với biện chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông phương) của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của Mounier (Duy tâm Tây phương) được. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mọi việc đã được sáng tỏ và những nghiên cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ xướng mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam.
Theo dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu ở những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như:
“Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”
- “Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này… ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam”
- “Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam… Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn“
Như thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là mô hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963, có mấy đặc điểm:
- Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù hợp với văn hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên
- Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự
- Vận dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm đến phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội.
- Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên thực sự ở hạ tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược, khu trù mật
-Kiến tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính trị kết hợp với vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó.
Chủ nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam, nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay.
Sử gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal như sau:
“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai… Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân.”
Sự điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy nhau trong tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả!
- Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà:
“Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già.” “Ông Trời hãy dẹp một bên, để cho nộng hội tiến lên làm Trời!”
- Địa là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì:
“Tổ quốc với chẳng tổ cò Nơi nào no ấm ta dò ta bay”
- Còn Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng:
“Thanh cha, thanh mẹ, thanh dì Hễ có phong bì thì lại thanh-kiu”.
So sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn tính ưu việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng xây dựng xã hội con người. Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ, không tôn trọng con người để xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người.
Không thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị trường tự do và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm, chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh giữa chế độ toàn trị độc đảng mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị trường.
Chế độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại Miền Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì thiếu một chủ nghĩa nhân bản dân chủ chân chính:
-Chế độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt theo hình thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, trong đó tất cả đều theo lệnh của Bộ Chính Tri Đáng
-Nền kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đàng chuyên chính. Có phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh doanh của các công ty liên doanh ngọai quốc
-Xã hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân chân, nam nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn lan, ứng xử gian dối trong tương quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của một chính đảng được bầu cử theo cách sắo đât trước của một Đảng
Và nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Chủ Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở trong cũng như ngoài nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý làm sai lệch tư tưởng chính thống thế nào là chủ nghĩa nhân vị.
Từ Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị
Chủ nghĩa nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà Việt Nam bền vững , ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ phận khác. Làm việc gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong guồng máy Việt Nam Cộng Hòa.
Trong nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đo. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và một nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài năng thật sự của ông là thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường chỉ gọi là vắn tắt “Cần Lao”.
Lúc đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không biết gì về những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác.
Sau năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Việc đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ), trong ý thức cạnh tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một số tư tưởng chỉ đạo phong trào công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: công nhân được tổ chức thành nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: “Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc”
Về Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao.
Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale.
Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
Tổ Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới
Ngoài hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu, con có những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính là Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường lối chính sách theo hướng Chủ Ngjhĩa Nhân Vị. Chủ trương như thể nhưng có nhiều lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương và cá nhân dẫn dần đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá hoại một cách nào đó.
Khi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đê “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v… thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật phục sức làm việc của ông Nhu.
Ấp Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn
Mục tiêu
1/. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi.
Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.
Nghiên cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam túc của quân dân cán chính trong ấp chiến lược.
2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình:
“Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân:
A. Tam Túc là
1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc.
Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài:
2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải
3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác.
B.Tam Giác là:
1. Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.
2. Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.
3. Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ.
Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa…”
3/. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu.
Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản.
Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
4/. Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có chức này. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.
Theo tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan điểm về một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh Du Kích. Theo ông, ai cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau, khu vườn, ao cá của mình. Cho nên, chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không còn bị khủng bố, không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp tiền. Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước.
Nhưng thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược, khi tập trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là những người hoạt động bảo vệ chủ nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản. Chúnh vỉ nhiều người miền nam chưa nhận thức được hết những kinh nghiệm về hiểm họa Cộng Sản trong chủ trương “tam cùng” và những điều giải thích về tam túc và tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến lược đã từng được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân khỏi trà trộn vào trong dân để tốn tại bằng lương thực và khủng bố để được cưỡng bách che chở
Nhưng chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho rằng “đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và khi Khu trù mật thất bại, thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại khái là một biến thể của Ấp chiến lược cũ. Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt hại cho dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức là di chuyển hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.”
5/. Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lịch sử Việt Nam, lúc có chiến tranh.
Tác giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần chận đứng các cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi.
Ðại Nam Thực Lục có ghi lại như sau: Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư.
Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà.
Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thuế cho.
Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để .Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến phòng giữ ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân.
Theo người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền Đông Bắc Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm dân tộc Đá Vách và việc khai lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt đối xử so với người dân tộc đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của người dân tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số.
Từ Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù M ật, Dinh Điền
Cách đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền tùy theo địa phương và thời gian.
Nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số 928-NV do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như một Bộ trong Chính Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954), còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ 10/8/1954 – 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ 4/12/1954 -17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng.
Thực sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người); Phật giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000) người Hoa cũng di cư vào Nam(= 900.206 người). Vì số di dân Công Giáo chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám Mục Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm điều hành.
Tổng số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người. Họ được chuyển đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá nhân hay theo các đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn. Chủ yếu nhiều trại định cư về sau được tổ chức bố trí thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền.
Linh mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó:
Ông (Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên và đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt, số người di cư được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa), Cam Ranh… Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di cư vào dân địa phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong việc đó (t. 200) .
Theo ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng Ủy Di Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt: – Cứu trợ và di chuyển. – Kiểm soát và tiếp cư. – Giúp đỡ định cư.
Về phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn Công giáo, Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại phi trường Tân Sơn Nhất và bến tầu Sài Gòn.
Mãi đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn. Ủy ban cử các linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện.
Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men, vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do.
Ngoài 2 tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác cũng tích cực tham gia giúp đỡ như: Văn Phòng Viện Trợ Công Giáo Hoa Kì do Mgr. Joseph Harnett phụ trách; Văn Phòng Thanh Thương Hội Phi Luật Tân; Rotary Club; Hội Cứu Trợ Pháp; Báo Figaro quyên giúp 35,000,000 quan Pháp (1955).
Tổ Chức Ấp Chiến Lược
Thời gian từ đó đến nay đủ những nhiều đàm tiếu và nhận định khác nhau để có thể phê phán được các vấn đề của lịch sử. Theo Tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư kiêm trưởng ban Ðịa lý trường Ðại Học Văn khoa Sài gòn, giảng dậy tại các viện đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Ðà Lạt, Huế, Cần Thơ, Minh Ðức trước năm 1975, “Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam (1954-1994),.”, đã tổng hợp rõ về cơ cấu tổ chức và lợi thế của kế sách Khu trù mật như sau:
Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và tập trung thôn dân vào đấy sinh sống ở những địa phương nào chưa an toàn. Các thôn dân sinh sống trong những vùng hẻo lánh, xa cách các giao lộ, khó kiểm soát. Trước mưu toan Miền Bắc dùng chiến tranh xâm lược Miền Nam , Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện tổ chứcxây dựng và nâng cao, phát triển đời sống của họ, đồng thời bảo vệ họ, cô lập họ với Việt Cộng, giống như bắt cá khỏi nước mà du kích Cộng Sản vẫn thường bám vào dân để sinh sống Thiếu dân và các nguồn lợi, quân dân cán chính có thể nhận diện được du kích mà loại trừ.
Mỗi KTM có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở và các tiện ích giống như một thành phố.
Vì thế các KTM dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là đơn vị kinh tế, thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh.
Về quân sự, bố phòng, KTM là những địa điẻm chiến lược để bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh du kích xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việcquàn lý dân chúng, chính quyền địa phương còn được trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến KTM thành một tiền đồn, ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.
Về kỹ thuật, KTM có vị trí được được chọn lựa kỹ lưỡng, có đủ các điều kiện phát triển thuận lợi, như đất đai phì nhiêu, gần các giao lộ và điện khí hóa.
Về hành chánh va xã hội, KTM có một chi nhánh bưu điện), cơ sở xã hội, như một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa như các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền.
Chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: việc tập trung dân cư cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v…)
Về kinh tế, KTM có các tiện ích thương nghiệp và dịch vụ (có chợ xây bằng gạch với các tiệm buôn bán); công nghiệp có các tiểu thủ công nghệ liên hệ với nền nông nghiệp địa phương; nông nghiệp, với diện tích đất trồng có thể mở rộng nhờ khẩn hoang thêm đất đai giúp các thế hệ trẻ tương lai tiền lên thành điền chủ:
Có Bao Nhiêu Ấp Chiến Lược Trên Lãnh Thổ VNCH
Ngoài các làng xã thôn ấp chiến lược địa phương, tổng số các địa điềm định cư có thể biến thành khu trù mật, hay ấp chiến lược, dinh diền hình dung như sau:
“Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 1955 đã thành lập được 255 trại định cư (sau này còn thành lập thêm): 156 trại tại Nam phần, 65 trại tại Trung phần và 34 trại trên cao nguyên. Tổng số dân đi định cư là 596.031 người; số đồng bào di cư sống rải rắc các nơi là 140.039 người; gia đình binh sĩ là 125.393 người (những con số này có sai biệt chút ít giữa các bản thống kê, một phần cũng do số sinh tử mỗi ngày).
Ngân khoản dành cho chương trình di cư là 1.058.000.000$. Trong số đó 480 triệu dành để làm nhà sẵn cho đồng bào và 300 triệu cấp cho nơi nào đồng bào tự làm nhà lấy. Tại các trại có đợt phát tiền mặt cho mỗi đầu người 700$. Ngoài ra đồng bào còn được 124.813 dụng cụ canh nông; 681.585 kiện vải; 393.994 kg chỉ và 3.471 kg chì để làm chài lưới”
Robert Scigliano (Robert Scigliano: Vietnam: Politics and Religion. Asian Survey, Vol. 4, No. 1, A Survey of Asia in 1963: Part I (Jan., 1964), pp. 666-673. This article consists of 8 page(s)), giáo sư tại trường Ðại Học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội chống lại chính sách khu trù mật. Thể chế này có tác dụng hữu hiệu là ngăn chận Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, vì được xây dựng ở các vùng chiến lược, như dọc theo một trục đường chính, một giao lộ trên bộ hay trên sông rạch gây trở ngại rất nhiều cho việc di chuyển của Cộng Sản.
Tác Giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung Tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm lý, Bộ Quốc Phòng Trong cuốn “Ngô Ðình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée” (Bản dịch Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn, Luận Án Sử Học, Trường Đại Học Paris VII, 1982. Bản tiếng Việt do nxb Xuân Thu, Nam Cali, 1989) cho rằng Khu Trù Mật do chính quyền sáng kiến bị chỉ trích vì chỉ nhắm vào những chuyện tiêu cực về nhân sự, Những dư luận chống lại quốc sách ấp chiến lược còn đi xa hơn nữa cho rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa.
Ngày nay đọc Suzanne Labin, người ta rút ra được bài học lịch sử về chính sách ấp chiến lược. Bà là một nhà văn kiêm phân tích gia đã nhiều lần tới thăm Miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I. Bà từng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tiếp kiến, và đã thuyết trình về chính trị tại Sài gòn. Trong cuốn “Vietnam: An Eye-Witness Account – Việt Nam: Tường Thuật Của Một Nhân Chứng Thấy Tận Mắt” , Suzanne Labin đã viết:
“Khi nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn ấp chiến lược đã được thành lập xong và đang vận hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để bảo vệ cả nước. Nông dân sống rải rác dọc theo các con kênh, được yêu cầu dời chuyển để qui tụ lại thành nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu châu. Mỗi làng được rào vững chắc bằng hàng rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đàng sau có tăng cường hệ thống hào rộng, gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm. Trong ấp, mỗi gia đình đều được khuyến khích đào một hầm trú ấn ngay trước nhà họ.
Tại sao vậy? Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường quá sợ nên nên chạy tứ tung gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào người nhà mình. Từ khi có hầm trú, người già và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để xạ trường quang đảng cho lực lượng chiến đấu hành sự”
“Người dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà được giao cho một phần vụ đặc biệt. Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là những đơn vị chiến đấu; những dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có nhiệm vụ chiến đấu được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng được trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin được cung cấp giúp cho các người bảo vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào rừng trong khi lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập một vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngạị”
Bà còn nhắc lại câu nói cô đọng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm: Muốn nghiền nát quân thù cần chiếc búa có sức mạnh năng động dập trên đe ấp chiến lược. Ấp chiến lược tồn tại vì đã đưa lại nền tảng đa hiệu vững chắc cho tiến bộ kinh tế xã hội. Âp chiến lược chính là tâm điểm cuộc cách mạng chính trị và xã hội
Chính sách ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 là một kế hoạch táo bạo nhất của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Kế hoạch ấy được Sir Robert Thompson cố vấn. Ông là chuyên viên về chiến thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn là Desmond Palmer và Dennis Duncanson
Nhận định tổng quát về kết quả của chính sách ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu đã khẳng định trong luận án của ông:
Quốc sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn sống bám lén lút trong nhân dân.
Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành lực lượng hành quân chủ động.
Du kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị động và chao đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở.
Tinh thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt Cộng càng ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Trong một bài báo mới đây nhan đề “Bốn Mươi Năm Ngày Đảo Chính Chế Độ Ngô Ðình Ðiệm: Cái Nhìn Từ Hà Nội, Tạp chí Thông Luận số 174, tháng 10-2003.”, Bùi Tín, nguyên Phó chủ nhiệm Nhật báo Nhân Dân Chủ Nhật, cựu đại tá của Bộ Đội Bắc Việt đã phải xác nhận ưu thế của quốc sách ấp chiến lược đã gây cho lực lượng xâm lăng Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng : Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần phải trả lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này… Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị.
Bởi thế, những nhận xét của tác giả Nguyễn Bá Cẩn về khu trù mật, rồi ấp chiến lược như đã trích dẫn ở trên có phải là những quan điểm nông nổi chăng, hay là do một tư duy thiên kiến nào đó thúc đẩy ông viết nên những câu đáng lẽ cần được cân nhắc hơn, từ một người làm chính trị ở vào một trong những vị thế lãnh đạo Miền Nam trước đâỵ. Thực tế chính trị Miền Nam Việt Nam cho thấy sự lợi hại của quốc sách Khu trù mật qua sự chứng kiến không chỉ của dân Miền Nam mà cả rất nhiều giới ngoại quốc.
Trong cuốn “Nation That Refused to Starve: The Challenge of the New Vietnam , Tướng John W. O’Daniel, chỉ huy phái bộ Quân sự Mỹ đầu tiên, đã ca tụng chính sách tiếp cư chu đáo của Ông Ngô Ðình Diệm, thành công của các khu trù mật mà tiêu biểu là Cái Sắn, chương trình dinh điền ở Quảng Ðức, Ban Mê Thuột…
Chương trình cải cách điền địa thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I cho người nông dân cuộc sống bảo đảm tương lai với các con số sau đây:
Từ tháng 7 năm 1954 tới tháng 7 năm 1961 có tất cả 648.294 mẫu tây được phân phối lại cho nông dân, 301.923 mẫu tây đất nhà nước mua lại để phát cho nông dân. Một tổng cộng 950.217 mẫu tây mà chính quyền trưng mua lại của các đại điền chủ với giá 1.260.559.427 đồng. Trong khi đó các nông dân chủ điền mới chỉ phải trả 1.822.116 đồng vào năm 1961.
Nhiều tư liệu lịch sử khác xác nhận thành quả quốc sách ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, và chương trình cải cách điền địa nói trên.
Tóm lại, Ấp chiến lược là một “quốc sách” của chính quyền Việt Nam Cộng hòa I sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm đề xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.
Quan điểm của Việt Nam Cộng hòa I về Ấp chiến lược là nhằm mục đích tách rời du kích Cộng Sản Việt Nam dưới chiêu bài Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Việt Nam ra khỏi dân thường ở nông thôn. Dân chúng không phải sống trong vùng oanh kích tự do, hay “vùng xôi đậu”, loại trừ đối phương có cơ sở hoạt động “tam cùng” (cùng ăn, cùng ở cùng làm) trong dân chúng, dần dần cô lập hoàn toàn lực lượng du kích khỏi nông thôn.
Nhưng để chống lại chính sách đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên truyền đây là hình thức gom dân, nhốt dân, kìm kẹp dân hòng “tát nước bắt cá”. Kế hoạch ấp chiến lược khi được thực hiện tốt sẽ cô lập lực lượng vũ trang cộng sản không thể dựa vào dân, và dần dần Việt cộng bị tiêu diệt.
Ấp chiến lược tổ chức theo hình thức “tự quản, tự phòng và tự phát triển“. Quản lý ấp là một Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với các đơn vị Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách.
Khi ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động.
Ban đầu, Quốc sách Ấp chiến lược thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân du kích cộng sản bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức lấy ngân sách Ấp chiến lược rồi bắt dân phải gánh chịu khoản này như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Vì thế, dân cảm thấy bị gom vào một chỗ sẽ làm xáo trộn một phần nào nếp sống cổ truyền nông thôn của họ. Vì thế, phía Cộng sản đã phát động phong trào “phá ấp chiến lược”.
Thử Đi Đến Một Kết Luận
Người ta có thể có nhiều nhận định phán đoán khác nhau về con người Ngô Đinh Nhu hoạt động trong hoàn cảnh một chế độ đã diễn ra. Đã có những phán đoán phê phán về những khuyết điểm của chế độ Ngô Đình Diệm như độc tài, gia đình trị, công giáo trị. Trong chừng mực nào, người ta có thể chấp nhận những phê phán như thế, nếu chỉ xét một cách chủ quan, tương đối, có thiên kiến phần nào.
Nhưng xét trong bối cảnh toàn cuộc, chế độ Ngô Đình Diệm đã phải ứng phó với nhiều đoàn thế đối lập như nỗ lực xâm nhập và phá hoại đa diện của Cộng sản miền Bắc, như nhiều đảng phài có những quyền lợi khác nhau có căn bản ở nhiều thế lực chính trị và tôn giáo: xu hướng Cao Đài, Bình Xuyên, nhiều giáo phái Phật Giáo (Phật Giáo Hòa Hảo, Phật Giáo Thống Nhất, Phật Giáo Nguyên Thủy Cổ Sơn Môn, Phật Giáo Tiểu Thừa, Phật Giáo Đại Thừa,… ), Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Bảo Hoàng thân Pháp, phong trào đòi độc lập tự trị của nhiều nhóm dân tộc thiểu số,…
Trước thực tại xã hội đó, việc xây dựng một xã hội tự do dân chủ và tôn trọng nhân vị vừa đối kháng với Cộng Sản chuyên chính, vừa nỗ lực đoàn kết toàn dân có lập trường chính trị và tôn giáo khác nhau, không phải là một chính sách đơn giản, dễ dàng. Nhưng Ngô Đình Nhu và những người cùng chủ trương đã xây dựng một chính cương (chủ nghĩa nhân vị) chỉ đạo các chính sách như dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược để vừa xây dựng vừa chiến đấu. Trong tình thế đó, chắc chắn quyền tự do, dân chủ và nhân quyền chỉ được áp dụng đến một chừng mực nhất định trong một xã hội theo cái nhìn của chủ nghĩa nhân vị và các tổ chức xã hội, nhầt là thanh niên làm công cụ thực hiện các chính sách. Đoàn kết toàn thể quân dân cán chính để xây dựng xã hội.
Nhưng nhận thức của toàn dân không triệt để, nhiều chính trị gia và tướng lãnh đồng lõa với những mưu đồ cá nhân và bị nước ngoài mua chuộc, lực lượng đồng minh Hoa Kỳ không kiên trì và trung thành trong cuộc xây dựng và chiến đấu, trong khi Cộng Sản xúc tiến phối hợp các mưu đồ đánh phá chế độ xã hội miền Nam, ra sức khai thác và phóng đại những khuyết nhược điểm khó tránh khỏi của chế độ. Những yếu tố đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm chủ yếu do tập thể Ngô Đình Nhu kiến trúc nên đã bị thất bại trong chính biến có nội công ngoại kích tháng 11 năm 1963.
Đối chiều với thực tại chính trị Việt Nam hiện nay, người ta càng thấy rõ mưu lược của nhà kiến trúc xã hội như Ngô Đình Nhu vậy.
Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm
Một Số Sự Kiện Với Năm Tháng Có Ý Nghĩa:
TT Thời gian Sự Kiện Nhân Vật 06.1954, Cannes Quốc trưởng Bảo Đại ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm lập nội các mới. 25.06.1954, Sàigòn Ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam 21.07.1954, hay 20/07/1954 Genẻve 14 Nước Ký Kết Hiệp Định
06.08.1954-23.8.1963 Hoa Kỳ Ông Trần Văn Chương, đại sứ t ại Hoa Thịnh Đốn
07.09.1954 Sài Gòn Pháp trao trả Dinh Norodom, Chính Phủ Ngô Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc lập 20.09.1954 Việt Nam Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) trở về 23/10/55VN N ĐD tổ chức trưng cầu dân ý. Ông NĐDiệm đạt 98.2% số phiếu, làm Tổng Thống, Bảo Đại bị truất phế Các tướng lãnh Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ, Trần Văn Đôn ban đầu thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm Nhóm nòng cốt chuẩn bị cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm: Hoàng Bá Vinh, Cao Xuân Cẩm, Cao Xuân Mỹ, Đỗ La Lam, Hà Đức Minh, Trần Kim Tuyến, Phạm Văn Nhu, Nguyễn Vỹ, …Nhị Lang, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Thành Phương, Văn Ngọc, Hà Huy Diễm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ý, Đoàn Trung Còn, Nguyễn Văn Quyền, (Nguyễn Trãi) Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Trọng Ứng, Khuất Duy Trác, Cung Thúc Tiến, Trần Chánh Thành (tự sát dịp 30/4/1975 tại nhà ở Sàigòn), Trình Minh Thế (chết 03.05 1955), Lý Kai (chết 14.07.1956), Nguyễn Hữu Châu, Lương Danh Môn, Võ Văn Hải
31.02.56 Ngô Đình Luyện, bạn học với Tạ Quang Bửu, cố vấn, đại sứ lưu động, toàn quyền tại London Nguyễn Thị Nghĩa, em ruột Nguyễn Đệ, Couvent des Oiseaux Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng 1956 Ngô Đình Nhu, cố vấn 1/59 Luật gia đình: 135 điều, cấm ly dị, cấm đa thê, truất quyền của con ngoại hôn, Trần Lệ Xuân dự thảo và trình Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ngày 13.12.1957 Đoàn Thêm, Đổng Lý Văn Phòng Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam 11.11.60 Mưu toan lật đổ chế độ lần 1: Đảo chính: Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Thành Phương, Bùi Lượng, Phan Bá Cầm, Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, … 1960-63 Phong Trào Áo dài Bà Nhu. 27.02.1962 Chính biến l ần 2: Oanh tạc Dinh Độc Lập: Phạm Phú Quốc – Nguyễn Văn Cử- Nguyễn Xuân Vinh. 01.03.63 (6.2) Tượng Hai Bà Trưng. 05/05/63 Huế
Lễ Mừng TGM Ngô Đình Thục. Cờ VN va cờ Vatican. 08/05/63 Huế
Đại Lễ Phật Đản 2507treo cờ VN nhưng không được treo cờ Phật Giáo ngoài khuôn viên các Chùa. Biểu tình phản đối. 9 người chết có cả trẻ em, 20 người bị thương. Phật Giáo có 10,5. Công Giáo có 1,5. Quan hệ Mỹ Việt bắt đầu căng thẳng 09/05/63 Phật Giáo đòi 5 điểm: 1/. Hủy lệnh cấm treo cờ Phật
2/. Phật Giáo phải bình đẳng Công Giáo
3/. Không được đàn áp Phật Giáo
4/. PG được quyền thờ phượng theo tín ngưỡng của mình
5/. Chính quyền phải bồi thường những thiệt hại cho Phật Giáo và trừng trị những người có trách nhiệm trong việc đàn áp PG ngày 08/05/1963
12/05/63 Phái đoàn PG gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn kiến nghị Tổng thống 28/05/63 T.T Thích Tịnh Khiết kêu gọi Phật Tử xuống đường. Tại Huế, cả ngàn người xuống đường. Tại SG, nhiều tằng ni Phật Tử xuống đường , tuyết thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại sứ F. E. Nolting vắng mặt khỏi SG, ĐS W.C. Trueheart giải quyết
2/6/63 Huế
Hằng trăm sinh viên biểu tình bạo động,Huế giới nghiêm 4/6/63 Trueheart gặp Nguyễn Đình Thuần, BTPTT, nhưng bất đồng 7/6/63 Bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và cho các nhà lãnh đạo PG bị CS giật giây 11/6/1963 HT Thích Quảng Đức, 73 t, tẩm xăng tự Thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt Phan Đình Phùng. Bà Nhu tuyên bố “Tất cả các lãnh đạo PG đóng góp vào quốc gia là nướng một nhà sư” 16/6/63 Uy Ban CP va PG ký Thông Cáo Chung. Truyền thong Mỹ chỉ trích chính quyền NĐD. TT Trí Quang (sinh 1922) thay thể TT Thích Tịnh Khiết 25/6/1963 Trưởng CIA John Richardson không giải quyết được mâu thuẫn CP và PG. Ông Nhu đòi làm mạnh và chống PG vì không chống Cộng. Những ngày cuối tháng 6/63 Đại Sứ Trueheart đe dọa chính quyền NĐD, nên NDD trở nên độc lập với áp lực Mỹ hơn. Vai trò Nolting được trọng dụng. Nhưng Kennedy muốn thay thế Tháng 7-8/1963 Áp lực gia tăng 11/7/63 Nolting trở lại Sàigòn thuyết phục NDD hòa giải với PG 18/7/63 Nolting cố thuyết phục NDD. NDD chịu lên Đài Phát Thanh. Vụ tự thiêu thứ 2 xảy ra 19/2/63 TT lên Đài PT chỉ hai phút, chỉ hứa có UB diều tra về việc xảy ra. Cảnh sát vẫn bao vây chùa 23.07.1963 Trần Thanh Chiêu, TGĐ dân vệ đoàn, 5/8/63 Phan Thiết
Nhà sư Nguyên Hương tự thiêu 13/5/63 Huế
1 nhà sư quấn cổ tự thiêu. Ni cô tự thiêu tại một nhà thờ Cg. 1 sư 71 t tự thiêu ở Chùa Từ Đàm 14/8/63 Nolting từ biệt NDD về Mỹ, Henry Cabot Logde đến thay thế 15/8/63 Nolting rời Sàigòn. NDNhu cảnh giác Mỹ có thể thay đổi chính sách 20/8/63 NDNhu cho enh bao vay tấn công chùa tại Xá Lợi, tại Từ Đàm: 30 chết, 200 bị thương, bắt giam 10xe chơ người 21.08.1963 Bố ráp Chùa. LL Đặc Biệt và Dã chiến tấn công 2000 chùa trên toàn quốc, bắt 1400 tăng ni, 50-100 người chết. Mỹ lên án NDD. ở Hoa Thịnh Đốn và Honolulu. Cả nước thiết quân luật. Sinh viên bất tuân, xuống đường. Vũ Văn Mẫu từ chức cùng với Đại sứ Mỹ Trần Văn Chương 22/8/1963 ĐS Cabot Lodge đến Sàigòn 9.30 tối 23.08.1963 Lucien Conein được TVDôn mời đến Bộ TTM trao thu cho Cabot logde noi la quân đội không nhúng tay vào vụ PG. LV Kim phụ tá Trần Văn Đôn đòi loại NDNhu. Võ Văn Hải hứa bảo vệ TT NDD neu quan doi loai Nhu. R. Hilsman va Averell Harriman đều tỏ ý không ủng hộ chế độ NDD 24/8/63 Cabot Logde liên lạc với Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ phối hợp với tướng lãnh VN làm đảo chính chế độ NDD Bộ Ngoại Giao gởi TĐS Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay. Tối mật. Không được phổ biến. Chỉ đích thân Đại Sứ Cabot Lodge mới được phép đọc. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc
Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Sàigòn 320, Saigon 316. Sàigòn 329
Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị thiết quân luật, hoặc Ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công Chùa chiền bằng Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngờ rằng quân đội làm. Hơn nữa cũng thất quá rõ rang là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.
Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền bính lại nằm trong tay ông Nhu và các thuộc hạ của ôngđể thay vào đó bằng những quân đội tinh nhuệ và những chính trị gia có tư cách.
Nếu Ông (Cabot Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồ tại được.
Kỳ tên: Hilsman, Ball, W. Averell Harriman 24/8/63
25/8/63 ĐS Lodge báo cáo đã nhân được, nhấn mạnh mọi việc vẫn từ Hoa Thịnh Đốn 26/8/63 Các Cố Vấn TT Mỹ chia 2 lập trường: Taylor muốốn có thảo luận thêm bức điện trên, và phe Mc Cone thấy tư cách xứng đáng của TT NDD, khó thay thế. Cuối cùng mọi người thấy cần phải dè dặt và giữ lại NDD, loại NDNhu thôi. VOA phổ biến vội lập trường Mỹ mà Lodge chưa gặp NDD. Nhưng các tướng Minh, Khiêm và Khánh đã được liên lạc 27/8/63 TT Kennedy họp với các cố vấn cao cấp, trong đó có Nolting. Muốn loại bỏ Nhu nhưng hai anh em như gắn bó như cặp bài trùng. TTKennedy vẫn giữ lập trường điện văn ngày 24/8/1963 29/8/63 Kennedy tin giao mọi trách nhiệm cho Cabot Lodge 30/8/63 Kennedy sợ có cảnh tắm máu tại Sàigòn nên cho báo động các nơi ngoài khơi dự trù 31/8/63 Tướng Minh báo cho Richardson biết kế hoạch đảo chánh phải hoãn lại, vỉ sự thân thiết Richardson với TT NDD có thể bại lộ cuộc đảo chánh. 04.09.1963 Họp báo tại Dinh Gia Long 09.09.1963 Bà Trần Lệ Xuân đi dự HNQT tại Nam Tư 10.09.1963 (11-19.09.63), đến Rôma: 22.09.1963 29.9.1963 Đến Paris 07.10.63 – 13/11/63 Đến Mỹ: đến Idlewild, hạ viện Mỹ 8.10.63, đến New York 09.10 (Hotel Waldrof-Astaria), 14.10, tới Harvard, MA. 03.11. ở Hotel Beverly Wilshire, Beverly Hills-13.11, sắm đồ ở New York (Barclay Luggage Shop), với tiền hóa đơn 52.045US$ Ngô đình Lệ Thủy: 07.08.1945, Huế 12.04.1967 Paris Nguyễn Thị Thuần, thư ký riêng của Bà Nhu Nhóm mật vụ miền Trung: Dương Văn Hiều, Nguyễn Tư Thái, Nguyễn Thiện Dzai 11.63 Vị tướng cầm đầu đảo chính lật đổ chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Đại Tướng Dương Văn Minh. 01-2.11.63 Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Các tướng lãnh Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Tỵ, Văn Thành Cao. Một số nhân vật: Lê Công Hoàn, Trần Văn Khiêm, Truơng Đình Dzu. 10 giờ đêm 27.7.1986 Ông bà Trần Văn Chương chết, có nhiều nghi vấn là Trần Văn Khiêm giết cha mẹ để giành gia tài (?)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 10:30:38 GMT 9
Bà Ngô Đình Nhu
Tôi nhận được rất nhiều câu hỏi qua những lần gặp gỡ, điện thư, điện thọai về “hồi ký’ của Bà Ngô Đình Nhu. Người nào cũng hỏi là bao giờ ‘hồi ký” của Bà Nhu...được phát hành và nếu đã có bầy bán rồi thì mua ở đâu? Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đã từng viết trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây cũng có câu hỏi như vậy. Ai cũng muốn biết cuộc đời công và tư của Bà Nhu như thế nào. Bà làm gì và sống ra sao từ năm 1963 cho đến ngày hôm nay. Nhiều người cũng còn tò mò muốn biết cuộc sống tình cảm của một góa phụ nổi tiếng và xinh đẹp có gì vui buồn không?
Năm nay Bà Nhu đã trên tám mươi tuổi và bà đả xa lìa cuộc sống với những thăng trầm đã gần nửa thế kỷ. Bà đã thực sự xa lánh những phù phiếm ảo ảnh của trần thế. Bà sống đơn độc nghèo khó như một người tu hành. Đã từ hai năm nay bà không còn đi nhà thờ mỗi buổi sáng nữa vì đau chân. Tuổi già với những giới hạn về sức khỏe và đủ mọi lọai bệnh tật chẳng trừ một ai. Tuy vậy bà vẫn còn khỏe mạnh hơn đa số những người cùng lứa tuổi.
Cho đến ngày hôm nay, rất nhiều người còn có những câu hỏi thật vô lối về Bà Nhu, như số tiền mười bẩy tỷ Mỹ kim bây giờ còn bao nhiêu và cất giữ ở đâu? Sau khi Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát thì bà có mối tình nào không? Tiền và tình luôn luôn là những câu hỏi và vì không có những câu trả lời nên mỗi người tin tưởng theo những cảm tình và nhận định khác nhau. Do vậy ai cũng trông chờ “hồi ký” do chính Bà Nhu viết sẽ giải tỏa những thắc mắc đó.
Một nhà báo ở trong nước, Ông Phan Kim Thịnh, bút hiệu Lý Nhân, đã viết một cuốn sách nhan đề “Trần Lệ Xuân Giấc Mộng Chính Trường”. Cuốn sách được nhà xuất bản Công An Nhân Dân phát hành và đã được in lại đến ba lần chỉ trong vòng hai tháng. Như vậy thì vẫn còn biết bao người yêu kẻ ghét Bà Nhu. Quyển sách cũng chẳng có gì mới lạ. Tác giả chỉ thu góp lại những tài liệu trên báo chí và cô đọng lại thành một tập sách nhưng cũng đã lôi cuốn được rất nhiều người đọc. Tất nhiên là những tài liệu trên báo chí do nhiều người viết một cách vội vã theo nhu cầu tin tức đã có rất nhiều sai trái, nhiều khi bịa đặt trắng trợn.
Bà Nhu có viết “hồi ký” không? Câu trả lời chắc chắn và rõ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi ký Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.
Năm 1963, thế giới có hai người góa phụ trẻ và xinh đẹp là Bà Jacqueline Kennedy và Bà Ngô Đình Nhu. Hai góa phụ này luôn luôn là những tâm điểm của báo giới quốc tế. Một tiếng nói, một bước đi của Bà Kennedy hay của Bà Nhu cũng là một đề tài nóng sốt sôi nổi. Bà Kennedy đã trải qua nhiều cuộc tình và chính thức kết hôn với tỷ phú người Hy Lạp Onassis. Những hình ảnh của Bà Kennedy với nhiều người đàn ông khác nhau đầy rẫy trên báo chí. Cuộc sống của Bà Kennedy chưa thể nói là quá vương giả nhưng cũng thật nhung lụa. Một góa phụ có bạn trai hay lấy chồng, đối với người Âu Mỹ là một chuyện rất bình thường. Bà Kennedy cũng bị dư luận chỉ trích vì đôi khi đi quá giới hạn của một mệnh phụ đã từng là đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ. Ngược lại những soi mói rất tinh vi và tân tiến đôi khi thật tàn bạo của báo giới trên toàn cầu đã không đưa ra được một hình ảnh dù rất nhỏ nhoi về những cái gọi là chuyện tình của góa phụ Ngô Đình Nhu. Bên cạnh những luật lệ tôn giáo rất khắt khe và lễ nghĩa của người phụ nữ Việt Nam thì đối với Bà Nhu chỉ có hình ảnh của một người đàn ông là Cố vấn Ngô Đình Nhu, cho dù Ông Nhu đã ra người thiên cổ. Bà Nhu góa bụa ngay vào tuổi mặn nồng của người phụ nữ nhưng bà đã ở vậy thờ chồng nuôi con và không hề có một tai tiếng ngay cả không có những lời đồn thổi vu vơ. Bên cạnh những xung khắc chính trị, những người chống đối Bà Nhu cũng không thể nào tìm ra được một tì vết để nhạo báng nhưng lại kính trọng bà như là một người phụ nữ nền nếp đoan trang.
Chuyện tình cảm không có gì để nói tới. Chuyện tiền bạc của cải cũng chỉ là một con số không.. Bà Nhu sống đơn sơ thanh bạch trong một căn phòng bầy biện giản dị. Trong phòng, ngoài cái điện thọai thì chỉ có một cái máy truyền hình mầu cỡ nhỏ 13 inches mà ở Mỹ bỏ ra ngoài bãi rác chắc chắn không ai ngó ngàng tới. Bà Nhu chẳng có gì ngoài hai căn phòng trên tầng lầu thứ mười một của một chung cư. Bà Nhu ở một căn và một căn cho thuê để lấy tiền sinh sống. Chỗ ở của Bà Nhu như một cái hộp bằng kính. Khách đứng trong căn phòng này nhìn mây bay lãng đãng ngay bên cạnh sẽ có cảm giác sợ hãi như đang bay giữa trời mây. Tiền mua hai căn phòng này là do một người Ý ẩn danh bí mật trao tặng. Bà Nhu có con dâu và con rể người Ý nên chắc hẳn có nhiều liên hệ giao tiếp với người Ý. Hơn nữa bà vợ của Ông Ngô Đình Trác, con trai lớn của Bà Nhu, là người Ý thuộc một gia đình quý tộc và rất giầu có. Chỗ ở này rất bất tiện và không thích hợp với người cao tuổi. Nếu Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim thì với tuổi đời như vậy chắc bà cũng tìm một chỗ tiện nghi thoải mái hơn để sống những ngày còn lại trên dương thế.
Bà Nhu không viết hồi ký và bà cũng không có gì cần phải cải chính, biện minh hay tâm tình. Thực sự thì trong những lúc rảnh rỗi, bà có viết nhiếu bài tạp bút. Nếu gom góp những bài tạp bút này thì cũng có thể in thành một cuốn sách dầy đến sáu trăm trang. Bà Nhu đã viết gì? Có thể nói đây là một cuốn sách đạo. Bà Nhu viết về sự hằng hữu của Thiên Chúa và đời sống tâm linh của con người. Sau ngày Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Bà Nhu sống gần như là một người khổ tu hết lòng trông cậy phó thác vào sự an bài và định đọat của Thiên Chúa. Bà viết nhiều về lòng thương xót của Chúa không những đối với con người mà còn đối với những tạo vật trong vũ trụ. Bà rất có lòng yêu mến và gần gũi với Đức Mẹ Maria. Bà viết về những ân sủng đã được nhận lãnh và những mầu nhiệm huyền diệu của Đức Mẹ mà bà đã được ân hưởng những phước đức từ lòng yêu mến và cậy trông Đức Mẹ. Khi được tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát thì Đức Giáo Hoàng Paul Đệ Lục và các giám mục trên tòan thế giới đang họp Công đống Vatican II đã cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổng Thống Diệm. Đó là một sự kiện vô cùng đặc biệt và Bà Nhu đã một lần duy nhất nhắc đến tên Tổng Thống Diệm trong gần sáu trăm trang giấy.
Một ông gốc lính huyênh hoang có “hồi ký” của Bà Nhu trong tay và sẽ công bố khi cần thiết. Ai cũng biết đây chỉ là một âm mưu gian giảo bịp bợm. Ông phường chèo này nếu quả thật có cái gọi là “hồi ký” của Bà Nhu thì chắc hẳn sẽ còn nhiều đòn phép láo khoét chứ không chịu ngồi yên để nghe thiên hạ mắng nhiếc chửi bới vì những lươn lẹo phản trắc lúc cưỡng chiếm được quyền hành trong một thời gian ngắn. Một sử gia chân chính thì lại quả quyết rằng các con Bà Nhu sẽ công bố cuốn “hồi ký” sau khi Bà Nhu từ trần. Ông sử gia này chắc không biết rằng Bà Nhu viết những bài tạp bút này bằng tiếng Pháp và chỉ viết về những suy tư và tâm tình tôn giáo mà thôi. Độc giả người Việt biết đọc tiếng Pháp có là bao và chắc rằng số người muốn biết về những suy tư và tâm tình đạo giáo của Bà Nhu sẽ còn ít hơn nữa. Một tập giấy gần sáu trăm trang chỉ nói về tôn giáo và đạo đức lễ nghĩa thì phát hành lúc Bà Nhu còn sống hay đã quá vãng không phải là một vấn đề phải cân nhắc.
Bài viết này là một câu trả lời rõ ràng và chắc chắn: Không, Bà Ngô Đình Nhu không viết hồi ký. Những Bức Mật Điện .....Được Giải Mã Làm Sụp Đổ Nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Đưa Đến Hậu Quả Ngày 30/04/1975
Bốn mươi lăm năm đã trôi qua .. nhưng câu chuyện đau thương nầy luôn luôn mới mẻ.
Cũng chẳng trách cứ làm gì những tên Mỹ thiển cận, phi nhân, xấc xược ...
Đáng nguyền rủa chăng là cái đám người ăn cháo đá bát, miệng còn tràn trề ngập ngụa bổng lộc quốc gia mà đành tâm phá nát giềng mối quốc gia, để đưa đến thãm họa vong quốc.
Cái sai lầm lớn nhất của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là sử dụng lũ phản phúc đề làm tâm phúc.
Đây là những bằng cớ trên giấy trắng mực đen về việc chính quyền Kennedy đã chủ xướng, chủ mưu, chủ động và chủ lực trong việc khai tử chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963. Một hành động mà lịch sử Mỹ đã lấy làm hối tiếc và hổ thẹn sau này, cũng đã hối tiếc và hổ thẹn trong vụ phản bội miền Nam năm 1975.
1) Công điện ngày 24/8/1963, bộ ngoại giao Mỹ gởi đại sứ Lodge:
Khánh và Cabot Lodge
Đại sứ Cabot Lodge đến Saigon 22/8. Hai ngày sau, ngày 24/8 ông nhận được công điện của bộ ngoại giao Mỹ, với một nội dung sau đây:
"Bây giờ đã rõ rệt: vụ thiết quân luật dù do quân đội đề nghị hay do Ngô Đình Nhu đề nghị; Ngô Đình Nhu vẫn là người đã lợi dụng nó để đánh phá chùa chiền với lực lượng cảnh sát và lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung hiện trung thành với Nhu. Như vậy, Nhu đã đổ trách nhiệm lên đầu quân đội, trước mặt thế giới và nhân dân VN. Hiển nhiên Nhu đã tự điều động mình lên tư thế nắm quyền chỉ huy. Chính quyền Mỹ không làm ngơ để cho quyền bính lọt vào tay Nhu. Diệm phải được dành cho cơ hội để loại bỏ Nhu và bè lũ, và thay vào đó, những phần tử tốt nhất có thể tìm thấy, quân sự cũng như dân sự. Nếu ông đại sứ đã cố gắng thuyết phục Diệm mà Diệm vẫn ngoan cố, thì lúc đó chúng ta phải đứng trước tình huống là ngay cả Diệm cũng không được duy trì nữa. Ông đại sứ và tổ hành động tại chỗ phải cấp tốc cứu xét việc tìm người lãnh đạo thay thế, và soạn thảo những kế hoạch chi tiết để thay thế Diệm, khi cần. Không cần phải nói, chắc ông đại sứ sẽ tham khảo ý kiến với đại tướng Harkins về những biện pháp cần thiết để bảo vệ nhân viên Mỹ trong suốt thời kỳ khủng hoảng... Ông đại sứ nên hiểu rằng chúng tôi không thể từ Hoa Thịnh Đốn đưa ra những chi tiết hành động, nhưng ông đại sứ cũng nên hiểu rằng chúng tôi triệt để đứng sau lưng ông đại sứ trong tất cả những hành động nhằm đạt tới mục tiêu của chúng ta" (Telegram 243, State to Lodge, Aug 24, 1963, Box 198, National Security File, John F. Kennedy Library).
Đoạn văn trên của bức công điện có thể tóm tắt như sau: "Diệm phải loại bỏ Nhu. Nếu không, chính Diệm sẽ bị loại bỏ. Hãy cấp tốc sửa soạn kế hoạch thay thế Diệm, ông đại sứ được toàn quyền hành động để đạt mục tiêu".
Loại bỏ ông Diệm bằng cách nào ? Bức công điện viết tiêp: "Ông đại sứ cũng có thể nói cho những tướng lãnh "thích hợp" biết rằng: chúng ta sẽ trực tiếp ủng hộ họ trong thời kỳ tạm quyền, khi bộ máy chính quyền trung ương bị ngưng."
Câu này có thể viết lại một cách sống sượng như sau: "Ông đại sứ hãy nói cho các tướng lãnh biết: lật đổ chính quyền trung ương đi, Mỹ sẽ ủng hộ".
Bức công điện nói trên (mà sau này sử sách gọi là bức công điện ngày 24/8) mang chữ ký chấp thuận (approved) hoặc thông qua (cleared) của những người sau đây: Roger Hillsman, phụ tá bộ ngoại giao, W. Averell Harriman, thứ trưởng ngoại giao đặc trách chính trị vụ, Michael V. Forrestal, chuyên viên về VN và Đông Nam Á tại tòa Bạch Ốc và George Ball, thứ trưởng ngoại giao.
Tác giả của bức công điện là Hillsman và Harriman. Hai người này đã hành động gấp rút và trí trá, vượt mọi thủ tục thường lệ TT Kennedy, tổng trưởng ngoại giao Dean Rusk, tổng trưởng quốc phòng McNamara, tổng tham mưu trưởng liên quân Maxwell Taylor, giám đốc trung ương tình báo MacCone, tất cả đã bị qua mặt. Hôm đó những nhân vật này đang nghĩ cuối tuần. Họ chỉ được thông báo và đọc cho nghe trong điện thoại. Và trong điện thoại, mỗi vị đều được biết: tổng thống đã chấp thuận, hoặc cấp trên trực tiếp của họ đã chấp thuận. Riêng TT Kennedy thì được phúc trình rằng ngoại trưởng Dean Rusk đã chấp thuận... Còn ngoại trưởng Dean Rusk đã chấp thuận, và được cho biết trong điện thoại rằng TT Kennedy đã chấp thuận.
Công điện gửi đi lúc 9 giờ 36 phút tối 24/8 và khoảng 11 giờ tối hôm đó, đại tướng Taylor mới nhận dược bản sao. Ông nổi giận cho rằng "nhóm chống đối Diệm nằm trong Bộ Ngoại Giao đã lợi dụng lúc các viên chức cao cấp trong chính phủ vắng mặt để đưa ra những chỉ thị mà nếu được soạn thảo trong những trường hợp bình thường sẽ không bao giờ được chấp thuận". (Kennedy in Vietnam, trang 116).
2) Công điện ngày 26/8, đại sứ Lodge gởi Bộ Ngoại Giao.
Đại sứ Lodge nhận được công điện nói trên của bộ ngoại giao vào sáng chủ nhật 25/8. Ông bèn họp tham mưu, và quyết định đi thẳng với các tướng lãnh VN. Ông lập luận rằng: ông Diệm sẽ chẳng bao giờ chấp nhận những khuyến cáo của Hoa Kỳ về việc loại bỏ ông Nhu. Nói cho ông Diệm biết lập trường của tòa Bạch Ốc, sẽ không ích lợi gì. Chẳng những vậy, còn có thể khiến cho ông Diệm đâm ra nghi ngờ các tướng lãnh.
Dưới đây là bức công điện của đại sứ Lodge trả lời bộ ngoại giao:
"Tôi tin rằng Diệm sẽ không chấp thuận những đòi hỏi của chúng ta. Đồng thời, khi đưa những đòi hỏi ấy ra, chúng ta sẽ cho Nhu cơ hội đề phòng trước hoặc chận đứng hành động của quân đi, đó là một cuộc mạo hiểm không nên làm, bởi vì hiện nay Nhu đang nắm giữa những lực lượng chiến đấu tại Saigon. Vì vậy, tôi đề nghị, chúng ta nên đi thẳng với các tướng lãnh, mà không cho Diệm biết. Tôi sẽ nói cho các tướng lãnh biết rằng chúng ta chủ trương giữ Diệm lại, không có Nhu. Nhưng trên thực tế, giữ Diệm hay không là tùy ở họ. Tôi cũng sẽ yêu cầu các tướng lãnh làm những điều cần thiết để thả các lãnh tụ Phật giáo và thi hành thỏa ước này 16/8. Tuy nhiên tôi không đề nghị ra tay hành động, cho đến khi chúng ta có được những kế hoạch trốn thoát và tránh né (evasion, escape) thỏa đáng. Tướng Harkins đồng ý. Ngày mai, hồi 11 giờ sáng, tôi sẽ trình ủy nhiệm thơ lên TT Diệm". (Lodge to State, quoted in telegram 6346 Forrestall to President, Aug 25, 63. Box 198, National security files, John F. Kennedy library).
Có ba điểm quan hệ trong bức công điện của đại sứ Lodge. Thứ nhất: không cần phải nói với Diệm loại bỏ Nhu, mà bảo các tướng lãnh loại bỏ Nhu. Thứ hai: cho phép các tướng lãnh VN được tùy ý giữ Diệm hay loại bỏ Diệm. Thứ ba: toà đại sứ Mỹ đã nghĩ đến việc giúp đỡ các nhân viên Mỹ và các tướng lãnh VN trốn thoát trong trường hợp đảo chánh thất bại.
Đại sứ Lodge gởi công điện đi ngày 26/8. Cùng ngày đó, ông nhận được công điện vắn tắt sau đây của bộ ngoại giao: "Đồng ý với sự sửa đổi đã đề nghị". Nguyên văn "Agree to modification proposed". (telegram Ball to Lodge, 26/8/63, Box 198, national security files, John F Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Viet Nam, trang 116). Tức là bộ ngoại giao Mỹ chấp thuân toàn bộ kế hoạch của đại sứ Lodge: đi thẳng với các tướng lãnh để giải quyết vấn đề loại bỏ ông Nhu, và có thể loại bỏ cả ông Diệm.
3) Công điện ngày 28/8, TT Kennedy gởi đại sứ Lodge.
Sáng thứ hai, ngày 26/8, TT Kennedy trở về tòa Bạch Ốc sau cuộc nghỉ cuối tuần tại Hyannisport. Ông khám phá ra những mờ ám chung quanh bưc công điện 24/8. Tổng trưởng quốc phòng McNamara không được tham khảo ý kiến, không được thông báo. Giám đốc CIA MacCone, đại tướng Taylor và ngoại trưởng Rusk cũng không được tham khảo. Ngoại trưởng Rusk đã đồng ý cho gửi bức công điện đi, và tưởng rằng TT Kenndy đã đồng ý. Và TT Kennedy đã đồng ý cho người gửi bức công điện đi, và tưởng rằng ngoại trưởng Rusk đã đồng ý.
Harriman và Kennedy
Theo các tài liệu, thì sau khi khám phá ra những điều khuất tất, TT Kennedy đã giận dữ như chưa từng thấy. Trưa hôm đó (26/8), một cuộc tranh luận sôi nổi đã diễn ra tại tòa Bạch Ốc, trước sự hiện diện của Kennedy. Phần đông những nguời có mặt đều bất mãn với nội dung của bức công điện và lề lối làm việc của Hillsman và Harriman. Vấn đề được đặt ra một cách khẩn trương: có nên rút lại dức công điện 24/8 hay không ? Tuy đa số những người có mặt không đồng ý với nội dung của bức công điện, nhưng không một ai tán thành việc rút lại hoặc hủy bỏ bức công điện. Vì vậy, bức công điện vẫn giữ nguyên hiệu lực của nó.
Chẳng những vậy, ngày 27/8, khi TT Kennedy gặp lại các cố vấn trong tòa Bạch Ốc, ngoại trưởng Rusk còn nhấn mạnh rằng: "chúng ta phải cho các viên chức chúng ta ở Saigon biết rằng chúng ta sẽ không thay đổi những chỉ thị đang có, những chỉ thị mà họ đã căn cứ và để tiến hành nhiều công việc rồi" (Memorandum of Conference with the President, Aug 27, 63, John F. Kennedy library)
Một vấn đề khác, không kém khẩn trương, cũng đã được đặt ra trong phiên họp, liệu các tướng lãnh VN sẽ thành công hay không ? Đối với TT Kennedy, thì đây là một vấn đề sinh tử. Chính quyền mang tên ông đã được gắn liền với những thất bại ê chề và rúng động dư luận trong vụ Vịnh Con Heo và Ai Lao mới đây. Nếu cuộc đảo chánh thất bại, ông là người phải chuốc lấy mọi tiếng xấu và khinh khi của dư luận, trong cũng như ngoài nước.
Vì vậy, ngày 27/8, bộ ngoại giao được lệnh phải đánh điện yêu cầu đại sứ Lodge cho biết thêm chi tiết về âm mưu đảo chánh và về những tướng lãnh đang âm mưu đảo chánh. Đ/s Lodge bèn cấp tốc gửi công điện về Hoa Thịnh Đốn đoan quyết răng: "cuộc đảo chính có viễn tượng rất tốt, nếu trì hoãn, cơ may thành công sẽ giảm đi" (The Overthrow of Ngo Dinh Diem, United States Viet Nam Relation III, trang 19).
Nhưng, khi bộ ngoại giao đánh điện hỏii đại sứ Lodge, thì tướng Taylor ở Ngũ Giác Đài cũng đánh điện cho tướng Harkins tư lệnh MAGV tại Saigon để hỏi về "tỷ lệ thành công" của cuộc đảo chính mà các tướng lãnh VN đang sửa soạn. Tướng Taylor cũng cho tướng Harkins biết rằng công điện ngày 24/8 đã không có sự tham gia ý kiến của bộ quốc phòng hoăc của bộ tổng tham mưu liên quân. Tướng Taylor còn nói rằng: "các viên chức chánh phủ đang suy nghĩ lại bức công điện đó". (FYI State to Saigon, Telegram 3368-63, Taylor to Harkins, Aug 28, 63, Box 316, national security files, John F. Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Viet Nam, trang 123) Tuớng Harkins
Trái với đại sứ Lodge, tuớng Harkins không lạc quan lắm về khả năng của các tướng đảo chánh. Theo ông, cán cân lực lượng về phía những đạo quân trung thành với ông Diệm. Sau khi nhận được điện tín của tướng Taylor, tướng Harkins bèn đánh điện về tòa Bạch Ốc cho biết quan điểm của ông, và kết luận đại khái rằng: ông không tin rằng tòa Bạch Ốc có đủ lý do để dốc toàn lực chấp nhận một cuộc đảo chánh trong lúc này. (The Overthrow of Ngo Dinh Diem, III, trang 19).
Hai quan điểm đối nghịch nhau của đại sứ Lodge và tương Harkins từ Saigon đánh về, đã làm cho TT Kennedy cực kỳ hoang mang. Ủy ban An Ninh Quốc gia (UBANQG) cấp tốc nhóm họp trưa ngày 28/8, cãi nhau như một cái chợ bên Ai Cập. Theo Arthur Schesinger trong cuốn Robert Kennedy and His Time, thì các nhân viên thuộc bộ ngoại giao chủ trương phải tiến tới việc lật đổ ông Diệm. Chống lại chủ trương đó, có đại sứ Nolting.
Cuộc họp của UBANQG kết thúc chiều hôm đó (28/8). Các ủy viên ủy ban vẫn chia rẽ và tòa Bạc Ốc vẫn không có được một quyết định dứt khoát cho vấn đề. Ngay tối hôm đó, TT Kennedy gửi cho đại sứ Lodge một mặt điện trong đó tổng thống tái xác nhận chủ trương đảo chánh của tòa Bạch Ốc, nhưng ý kiến ấy hoàn toàn tùy thuộc vào sự nhận định tại chỗ của ông đại sứ, và tôi tin rằng ông đại sứ sẽ không ngần ngại cho lệnh hoãn lại hoặc thay đổi kế hoạch bất cứ lúc nào ông đại sứ thấy là cần". (Telegram 269, Kennedy to Lodge Aug 28, 1963, Box 316, national security files, John F. Kennedy library).
Mật điện nói trên của TT Kennedy là một sử liệu vô cùng qúy gía, chứng minh sự tham gia tích cực của chánh quyền Mỹ trong vụ lật đổ TT Ngô Đình Diệm năm 1963. Hơn thế nữa, nó còn là hành vi trực tiếp dấn thân của nhân vật cao cấp nhất trong hệ thống quyền lực và quyền bính của Hoa Kỳ, trong vụ lật đổ một tổng thống của miền Nam Việt Nam....
4) Công điện ngày 29/8, đại sứ Lodge gửi ngoại trưởng Rusk.
Sau khi nhận được mật điện 269 của TT Kennedy, đại sứ Lodge bèn tức tốc gửi công điện cho ngoại trưởng Rusk, khẳng định rằng Mỹ không thể nào tháo lui được nữa, và phải lật đổ Diệm. Dưới đây là những đoạn quan trọng của bức công điện:
"Chúng ta đang ở trên một tiến trình hành đúng không thể tháo lui được nữa: việc lật đổ Ngô Đình Diệm. Không thể tháo lui, phần về uy tín của nước Mỹ đã công khai gắn liền với vụ này: sự gắn liền ấy sẽ trở nên lớn hơn khi những sự việc đã bị tiết lộ ra ngoàị Trên một ý nghĩa căn bản hơn, không thể tháo lui, bởi vì theo tôi, không có hy vọng gì thắng được cuộc chiến tranh này với một Ngô Đình Diệm còn ngồi ở chính quyền. Càng không hy vọng gì Diệm hoặc bất cứ người nào trong gia đình Diệm có khả năng lãnh đạo đất nước và tranh thủ được sự hậu thuẫn của những thành phần đáng kể trong dân chúng, như giới trí thức trong và ngoài chánh quyền, dân sự cũng như quân sự, chưa nói đến nhân dân Hoa Kỳ. Trong những tháng gần đây và đặc biệt trong những ngày gần đây, anh em Diệm đã làm cho những thành phần dân chúng nói trên chán ghét đến cực độ. Vì vậy, bản thân tôi hoàn toàn đồng ý với sách lược mà tôi được lệnh phải thi hành, chiếu công điện ngày chủ nhật vừa qua. Cơ may thành công của cuộc đảo chánh tùy thuộc vào các tướng lãnh VN một mức độ nào đó, nhưng cũng tùy thuộc vào chúng ta, ít nhất cùng một mức độ đó. Chúng ta phải khởi sự làm một cố gắng toàn diện để thúc đẩy các tướng lãnh hành động mau lẹ" (Telegram 375, Lodge to Stae Aug 29,1963, Box, National security files, John F. Kennedy library)
Bức công điện của đại sứ Lodge có thể tóm tắt như sau: chúng ta người Mỹ, không thể lùi được nữa, phải lật đổ Ngô Đình Diệm.
Điều đáng nói, là: trong các công điện trước, đại sứ Lodge chỉ nói đến việc loại bỏ ông Nhu, loại bỏ hay giữ ông Diệm để tùy ở các tướng lãnh. Nhưng trong bức công điện nói trên, đại sứ Lodge đã minh thị nói đến sự cần thiết phải loại bỏ ông Diệm và gia đình ông Diệm.
Đại sứ Lodge viết tiếp: "Nếu các tướng lãnh đòi chúng ta phải công khai tuyên bố cắt viện trợ, chúng ta cũng sẽ chấp nhận làm điều đó, miễn là họ hiểu rằng họ sẽ phải khởi sự cùng một lúc với lời tuyên bố của chúng ta".
Một sự việc đã xảy ra, khiến đại sứ Lodge trở nên quyết liệt trong bức công điện. Số là, sáng ngày 29/8, trưởng nhiệm CIA và Lou Conein đã được gọi đến trụ sở MACV cho xem bức công điện của đại tướng Taylor gửi cho tướng Harkins trong đó có câu "các viên chức trong chính phủ đang suy nghĩ lại bức công điện ngày 24/8". Buổi sáng hôm đó, Conein cũng có hẹn với tướng Dương văn Minh, người được coi là lãnh tụ của cuộc đảo chánh. Cuộc gặp gỡ rất là chiếu lệ, Conein đã được chỉ thị của CIA không được hứa hẹn gì với tướng Minh. Sự việc này đã khiến tướng Minh cực kỳ lo ngại, ông nghĩ rằng Mỹ đang chơi trò phản bội đối với các tướng đảo chánh. Tướng Minh bèn đòi Mỹ phải tỏ dấu hiệu ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh băng cách ngưng viện trợ cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Khi biết rõ câu chuyện của tướng Minh, đại sứ Lodge nổi giận và đòi Richardson (trưởng nhiệm CIA tại Saigon) cho biết lý do. Richardson bèn trả lời rằng: Hoa Thịnh Đốn đang suy nghĩ lại và có vẻ hối tiếc về công điện ngày 24/8. Khi nghe vậy, đại sứ Lodge đã phải vội vàng gửi ngay công điện về bộ ngoại giao, khẳng định rằng: Mỹ không thể nào tháo lui được nữa và phải lật đổ Ngô Đình Diệm.
Chúng ta thấy: vai trò của Mỹ trong vụ đảo chánh 1963 đã qúa rõ rệt và qúa lộ liễu. Đại sứ Lodge đã khẳng định trong đoạn 2 của bức công điện. "cơ may thành công của cuộc đảo chánh tùy thuộc vào các tướng lãnh một mức độ nào đó, nhưng nó tùy thuộc vào chúng ta, ít nhất cùng một mức độ đó". Đại sứ Lodge muốn nói rằng: nếu Mỹ không trực tiếp và tích cực nhúng tay vào, thì cuộc đảo chánh sẽ chẳng bao giờ thành công.
Nhưng còn một sự thực khác mà đại sứ Lodge không nói ra, sợ làm nản lòng tòa Bạch Ốc. Sự thực đó, là: nếu Mỹ không trực tiếp và tích cực nhúng tay vào, thì các tướng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh ông Diệm.
Và bây giờ, chúng ta hãy suy nghĩ theo từng giai đoạn.
1 - Nếu Mỹ triệt để ủng hộ ông Diệm, nhưng không chống ông Diệm, các tướng lãnh sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.
2 - Nếu Mỹ không triệt để ủng hộ ông Diệm, nhưng không chống ông Diệm, các tướng lãnh cũng chẳng bao giờ dám đảo chánh.
3 - Nếu Mỹ chống ông Diệm, nhưng không chống đối công khai, các tướng lãnh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.
4 - Nếu Mỹ công khai chống ông Diệm, nhưng không cho CIA đến móc nối, các tướng lãnh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.
5 - Nếu Mỹ cho CIA đến móc nối, nhưng lại không có một hành động cụ thể và công khai nào chứng tỏ Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm (như cắt viện trợ), các tướng lãnh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.
Cái nếu thứ 5 đã xảy ra. Trong suốt thời gian tháng 8/1963, nhất là từ ngày đại sứ Lodge đến, Lucien Conein để đến móc nối khuyến khích các tướng lãnh đảo chánh nhất là hứa hẹn rằng Mỹ sẽ triệt để ủng hộ họ trong thời gian chuyển tiếp sau khi bộ máy chính quyền trung ương bị phá sập. Mặc dù vậy, các tướng lãnh vẫn không dám hành động. Hơn ai hết, họ thuộc nằm lòng bài học 1960 của đại tá Nguyễn Chánh Thi. Họ ý thức một cách sâu sắc rằng: nếu Mỹ không dấn thân, nếu Mỹ không nhập cuộc, thì cuộc đảo chánh sẽ chẳng bao giờ thành công. Chẳng những không thành công, mà còn mang họa. Họ cũng ý thức một cách sâu sắc rằng: sự nhập cuộc và dấn thân của Mỹ phải được thể hiện bằng hành động cụ thể nhất, ngoạn mục nhất và dễ khích động quần chúng nhất, đó là: chính quyền Mỹ phải cắt viện trợ và tuyên bố cắt viện trợ. Chỉ trong trường hợp đó và chỉ với điều kiện đó, họ mới dám đảo chánh.
Các tướng lãnh trong nhóm đảo chánh, tướng Trần văn Đôn, tướng Trần Thiện Khiêm, tướng Dương văn Minh, và kể cả tướng Lê văn Kim - người có ý thức chính trị nhất trong nhóm - không phải là những con người chính trị, hoặc cách mạng. Vì vậy họ thiếu hẳn cái khí phách và can trường của những con người chính trị hoặc cách mạng. Họ không có tầm vóc của những người lãnh đạo. Họ được đào tạo để phục tùng và để được người khác lãnh đạo. Họ cần phải được người khác lãnh đạo và họ cho có hiệu năng khi được người khác lãnh đạo. Đó là một sự thật đáng buồn. Sự thât ấy, quốc dân VN đã có dịp nhìn thấy ra sau khi ông Diệm bị lật đổ.
5) Công điện ngày 29/9 của ngoại trưởng Rusk
Công điện ngày 29/8 nói trên của đại sứ Lodge đã được đưa ra mổ xẻ tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhóm họp khẩn cấp ngay hôm đó tại tòa Bạch Ốc. Và buổi chiều ngày 29/8, ngoại trưởng Rusk cấp tốc đánh điện cho đại sứ Lodge biết quyết định của hội đồng. Dưới đây là nhữg điểm chính:
a) Cho phép tướng Harkins (tư lệnh quân đi Mỹ tại VN) được gặp các tướng đảo chánh để nói cho họ biết Mỹ triệt để ủng hộ việc loại bỏ Ngô Đình Nhu, cũng như sẽ ủng hộ một cuộc đảo chánh có nhiều cơ may thành công, nhưng Mỹ không dự tính việc trực tiếp dùng quân đội Mỹ để tiếp tay cho nhóm đảo chánh.
Cho phép đại sứ Lodge được quyền loan báo việc Mỹ ngưng viện trợ cho chánh quyền Ngô Đình Diệm, vào thời điểm với những điều kiện do tòa đại sứ lựa chọn. (Cablegram from secrectary Rusk to Ambassador Lodge Aug 29/8/63, được in lại trọn vẹn dưới số 40 trong The Pentagon Papers, tr. 198-199)
Cũng ngày hôm đó (29/8), TT Kennedy gửi một mật điện cho đại sứ Lodge, xác nhận triệt để ủng hộ việc lât đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng tổng thống không đồng ý về điểm chính quyền Mỹ "không còn đường tháo lui". Ông bị ám ảnh bởi sự thất bại trong vụ Vịnh Con Heo tại Cuba năm 1961, vì vậy ông khuyên đại sứ Lodge phải cực kỳ thận trọng. Bức mật điện viết: "Kinh nghiệm cho tôi biết rằng: hành động mà thất bại sẽ tai hại hơn là không hành động và bị coi là thiếu quả quyết... Chúng ta hành động, là để thắng. Vì vậy, thà đổi ý (không hành động) còn hơn là (hành động mà) thất bại" (Telegram Kennedy to Lodge Aug 29/8/63, national security files, John F. Kennedy library).
Trong hai ngày cuối cùng của tháng 8/63, tòa Bạch Ốc bận rộn như đại bản doanh hành quân của một đoàn quân viễn chinh. TT Kennedy và các cố vấn của ông ở trong tình trạng báo động. Tất cả trí não và ý chí của tòa Bạc Ốc đều hướng về một cuộc đảo chánh sẽ xảy ra bất cứ giờ phút nào tại miền Nam VN để lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm.
Vì TT Kennedy chủ trương rằng đã ra tay hành động là phải thắng, cho nên quân lực Mỹ đã được huy động để tránh cho nước Mỹ một vụ Vịnh Con Heo thứ hai. Một lực lượng đặc nhiệm hải quân gồm tàu chở trực thăng đổ bộ và khu trục hạm được lệnh tuần tiểu ngoài khơi VN. Tại Okinawa, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ tăng cường, tổng cộng 3 ngàn người, được đặt trong tình trạng báo động 24/24. Mặt dầu vậy, ngoại trưởng Rusk vẫn không an tâm, ông lo sợ quân đảo chánh có thể bị quân đội chính phủ đè bẹp và cuộc nổ súng sẽ kéo dài trong nhiều ngày. Ông đòi Hillsman phải đệ trình một bản phân tách tình hình và cho biết những khả năng về phía Mỹ để giúp nhóm đảo chánh thành công mau lẹ. Hillsman đệ trình bản phân tách, trong đó có câu: "Nếu cần, chúng ta sẽ đưa quân chiến đấu Mỹ vào Saigon để giúp quân đảo chánh đạt được chiến thắng". Nguyên văn: if necessary, we should bring in US combat troops to assist the coup group to achieve victorỵ (Memorandum Hillsman to Rusk, Aug 30, 63, Chicago Sun Times, June 23, 1971, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 126)
Về phần đại tương Harkins, tuân theo chỉ thị của TT Kennedy, ông mời tướng Trần Thiện Khiêm tới bản doanh MAGV sáng ngày 31/8 và cho tướng Khiêm biết: "Nếu các tướng lãnh sẵn sàng lật đổ Diệm, Hoa Kỳ sẽ ủng hộ". Tướng Khiêm bèn đi gặp tướng Dương Văn Minh, rồi chiều hôm đó trở lại báo cho tướng Harkins biết rằng tướng Dương văn Minh đã thôi không nghĩ đến chuyện đảo chánh nữa, vì lý do: nhóm đảo chánh không đủ lực lượng để đương đầu với quân chính phủ. Sự thật, đó chỉ là một lối giải thích. Lý do sâu xa đã khiến nhóm đảo chánh ngưng lại, là: họ không tin Mỹ đã thực sự dấn thân. Họ chờ đợi ở Mỹ một hành động dứt khoát và cụ thể, tức là cúp viện trợ và tuyên bố cúp viện trợ, điều mà Mỹ do dự chưa dám làm. Cuộc đảo chánh vào cuối tháng 8 đã không xảy ra, như Mỹ dự kiến.
6) Lời tuyên bố của TT Kennedy ngày 2/9
Việc các tướng lãnh Saigon ngưng lại không đảo chánh, được Hoa Thịnh Đốn coi như là một thất bại của chính người Mỹ. Hội đồng ANQG và các cố vấn tòa Bạch Ốc họp liên miên để tìm biện pháp đối phó với tình thế mới. Vấn đề anh em ông Diệm bỗng nhiên mang một kích thước lớn hơn: đó là kích thước của chính nghĩa Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á.
PTT Johnson
Các ông Hillsman, Harrman và Katenburg (thuộc bộ ngoại giao) vẫn chủ trương phải lật đổ ông Diệm để tăng cường hiệu năng chiến đấu chống cộng của miền Nam, nếu không, người Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam. Ngoại trưởng Rusk không đồng ý, ông chủ trương không rút khỏi miền Nam mà cũng không lật đổ Ngô Đình Diệm. Riêng phó tổng thống Johnson thì dứt khoát. Theo ông, người Mỹ không nên lật đổ ông Diệm, vì sau đó sẽ không tìm được người lãnh đạo có tầm vóc như ông Diệm. PTT Johnson còn nói: "chúng ta nên chấm dứt cái trò vừa đánh trống vừa ăn cướp và trở lại nói chuyện thẳng với chính quyền Saigon". Nguyên văn: we should stop playing cops and robbers and get back to talking straight to Saigon Government" (The Pentagon Paper, p. 174)
Đang khi đó TT Kennedy tỏ ra vô cùng bực bội.
Ngày 2/9 TT Kennedy lên đài truyền hình CBS, tuyên bố: "chúng ta thấy những cuộc đàn áp Phật giáo (tại miền Nam VN) là những hành động cực kỳ thiếu khôn ngoan. Và bây giờ chúng ta không thể làm gì khác hơn là khẳng định một cách rõ rệt rằng: chúng ta không nghĩ đó là phương thức để chiến thắng CS" .
Ký giả Walter Conkrite hỏi: "Liệu chính quyền Ngô Đình Diệm có còn thì giờ để lấy lại sự hậu thuẫn của quần chúng hay không ?" TT Kennedy trả lời: "còn, nếu họ chịu thay đổi chính sách, và có lẽ thay đổi cả nhân sự".
Trong bối cảnh chính trị lúc đó, ai cũng hiểu rằng: khi ám chỉ đến một sự thay đổi nhân sự trong chính quyền Ngô Đình Diệm, TT Kennedy muốn nói đến việc loại bỏ Ngô Đình Nhu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử bang giao Mỹ-Việt, một vị tổng thống Hoa Kỳ công khai và minh thị lên án chính quyền miền Nam. Nghiêm trọng hơn, tổng thống Hoa Kỳ đã công khai kết tội anh em ông Diệm "đàn áp Phật giáo". Tổng thống Hoa Kỳ đã công khai đứng vào hàng ngũ của nhóm đấu tranh qúa khích tại Saigon đang đòi lật đổ chính quyền.
|
|