|
Post by Can Tho on Nov 10, 2011 9:16:32 GMT 9
BÀI THỨ TƯ - DÂN TỘC MƯỜNG Nguyễn Khôi ( Đình Bảng ) Cách dùng họ và đặt tên các dân tôc ở Việt Nam Dân tôc Mường Dân tôc Mường có trên 1,1 triệu người, chiếm hơn 1,5 % dân số Việt Nam Ngoài ra có các tên khác gọi : Mol, Mual, Mọi, Mọi bi, Au tá,. Tên Mường mới xuất hiện khoảng hơn một thế kỷ nay, để chỉ cộng đồng dân có nét tương đồng với người Kinh (Việt) sinh sống ở các bản Mường Hoà Bình,Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn La,Thanh Hoá..."Mường" là một loại tổ chức hành chính cơ sở ở vùng núi , trở thành tên gọi của tộc người . Xét về nguồn gốc lịch sử , người Mường là người Việt cổ ( bản địa) từ 3000 năm trở về trước, từ sau thế kỷ 10 có sự cách biệt của nhóm người Việt ở đồng bằng với người ở miền núi nên dần dần có sự khác biệt thành người Kinh - người Mường. Về kinh tế , đồng bào Mường trồng lúa nước là chính. Trên nương dẫy có ngô, khoai, sắn , đậu , đỗ. Một số nơi trồng tre, luồng, trẩu , gai, sở , đay, bông, quế, mía. Về chăn nuôi có trâu, bò,ngựa, lợn ,gà, ngựa, lợn, gà, vịt. Đồng bào có các nghề thủ công : dệt,đan lát, mộc... Ngoài ra còn thu hái các lâm thổ sản, săn bắt các lọai thú rừng để cải thiện bữa ăn hàng ngày . . Xã hội Mường Hoà Bình trước năm 1945 là một xã hội có đẳng cấp , trong đó mỗi con người được " chính danh định phận ". Quý tộc gọi là Lang , bình dân gọi là Jan ( dan ) . Trong một mương ( Mường) gồm nhiều xóm , quý tộc thống trị đều là thành viên một dòng họ. Ví dụ dòng họ Bạch Công thống trị ở Mường Rếch ( 12 xóm ) . Con trai trưởng thống trị toàn bộ thung lũng 12 xóm gọi là Lang Cun ( cun ) . Lang Cun Mường Rếch là Cun Đếch ( Chiềng Rếch hay Cun Rếch là Cun Đếch ) Chiềng Rếch , tức là Chiềng của Mường Rếch). Các chi thứ chia nhau thống trị các xóm khác ở phạm vi ngoài Chiềng ( ý là trung tâm) . Đứng đầu xóm Đúp là con trai trưởng của một chi thứ của họ Bạch Công , đó là Lang Tạo ( Lang Đạo ) , nói rõ là Tao Tuúp ( Đạo Đúp , tức Lang Đạo xóm Đúp). Nội bộ bình dân phân hoá thành từng lớp Âu. Người bình dân được cất nhắc vào bộ máy thống trị của Cun ở Chiềng hay Đạo ở xóm chức Âu, cao nhất là Âu Eng ( Âu anh) được ăn phần ruộng tốt nhất , chức nhỏ là Âu ún ( Âu em ) là tay chân cho Lang và các Âu anh sai phái. Dưới Âu đến nóc dân thường được ăn ruộng công gọi là nhà nưóc , cấp thấp nhất là Noóc K,Loi (Nóc Trọi) sống bằng nước rẫy , đó là Tứa Roong , có ý khinh miệt.. Sau năm 1945 mọi người Mường đều được bình đẳng.. Gia đình Mường tổ chức theo mô hình gia đình nhỏ phụ quyền . Con trai là người được hưởng quyền thừa kế tài sản... Dân tộc Mường theo hôn nhân một vợ một chồng bền vững , cư trú bên nhà chồng. Tục cưới xin giống người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi , xin cưới và đón dâu).. Khi trong nhà có người sinh đẻ , đồng bào rào cầu thang chính bằng một phên nứa. Khi trẻ lớn một tuổi mới đặt tên.. Khi có người chết , tang lễ được theo nghi lễ nghiêm ngặt.. Tiếng Mường là một ngôn ngữ thống nhất , là hình ảnh của tiếng Việt ở giai đoạn tiếng Việt- Mường chung với đăc điểm chính là lưu giữ lại quá trình vô thanh hoá các phụ âm đầu. Ví dụ gà (Việt)/ ka (Mường), đi/ti, ba/pa.... Dân tộc Mường chưa có chữ viết riêng. Mo "đẻ đất đẻ nước" là tài liệu văn học dân gian có giá trị nhất trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Mường.. Dàn cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc đặc sắc nhất của dân tộc Mường. ở Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là Đâm Đuổng.. Lễ sinh con; Ngày đứa trẻ ra đời cả gia đình mở tiệc ăn mừng , mời Mo đến cúng cho hai mẹ con khoẻ, bé ăn no chóng lớn . Cả gia đình vui như hội . Thời gian kiêng cữ từ 7-12 ngày . Con trai goi là Thóc giống (lọ me), con gái gọi là Rau cỏ (cách tắc) . Khi ở cữ , phụ sản phải qua tục Sưởi lửa . Bất kể mùa nào cũng phải ngồi bên bếp lửa , với ý là lưu thông khí huyết , ba ngày sau mới được lau tắm thân thể. Sau một tháng mới được ăn thịt gà (chỉ ăn đùi bóc sạch da) nướng với rau bệ. Ngay sau khi sinh đặt tên tạm , chờ đến đầy tuổi tôi (12 tháng) mới làm lễ đặt tên chính thức. Để cầu mong cho trẻ hay ăn chóng lớn người ta còn làm lễ cúng Mụ . Lễ vật gồm xôi, rượu , cá chép . Mâm cỗ đặt trên cửa sổ nhà sàn. Gia chủ cầu khấn mong cho đứa trẻ "thốt như cách, mách như đác" nghĩa là :" Tốt như ót , mát như nước". Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ , người Mường ở Vĩnh Phúc đặt đứa trẻ trên cái Cúm (mẹt to) có lót lá chuối rừng đã được nướng mềm . Người mẹ nằm ngay bên cạnh con. Nếu là con gái thì lấy cái hông nồi xôi bằng gỗ khoét rỗng (chõ) đập nhẹ xuống sàn , nếu là con trai thì lấy cái chài cũ , đập nhẹ xuống sàn , miệng nói: " hỡi con trai dậy mà ti chài ti lứa. Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo thằm ", đại ý là : "Hỡi con trai dậy mà đi kéo chài, đánh lưới. Hỡi con gái dậy mà kéo tơ, kéo tằm". Gọi và đập như vậy ba lần chờ đứa bé khóc to mới bế lên quấn tã lót. Ba tháng sau mới làm lễ Vía cho bé. Người Mường có họ tên như người Kinh . Do xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo (Đinh , Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có Lang Cun , dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm cai quản một xóm. Ngoài bốn họ trên còn có một số họ tiêu biểu như Bùi , Hoàng , Lê, Phạm, Trịnh, Xa, họ Phùng ... Ví dụ như Đinh Công Vợi, Quách Tất Công, Bùi Thị Phệu, Phùng Thị Lợi , Hà Công Rộng , Bạch Thành Phong , Bùi Văn Kín./. BÀI THỨ NĂM - DÂN TỘC MÔNG Dân tộc Mông có trên 784 nghìn người. cư- trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang , Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái,Lai Châu , Sơn La, Cao Bằng , Nghệ An... Còn có tên là Mông roi ( Mèo Trắng ) , Mông Lềnh ( Mèo hoa), Mông roi ( Mèo đỏ), Mông đú( Mèo đen) , Mông súa ( Mông mán). Mông có nghĩa Người. Dân tộc Mông có bản sắc văn hoá rất độc đáo. Gốc gác ở vùng Quý Châu Trung Quốc , gọi là Miêu Tộc (miêu gồm bộ thảo và chữ điền nghĩa là mạ , là mầm , là dáng diệu xinh đẹp , một tộc người biết trồng lúa từ xa xưa). Do bị phong kiến Hán tộc tàn sát nên di cư- xuống Việt nam... , tên đồng bào tự gọi nhau là H'Mông, có nghiã là Người. Từ trước đến nay , các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc vẫn kiên trì coi ngôn ngữ nhóm H'Mông - Dao thuộc ngôn ngữ Hán Tạng. Người H'Mông , có người nghiên cứu tìm ra có nhiều cái nhất: Ngôn ngữ có nhiều thanh nhất 8 thanh chia thành nhiều âm vực ; Vốn từ láy dồi dào . Hệ thống âm đầu rất phong phú có từ 51-57 phụ âm đầu ; Âm nhạc H'Mông có tiếng Sáo , Khèn Mèo, đàn môi nổi bật gai điệu ở dạng gãy khúc "nhâp nhô" như- đỉnh non cao mà họ cư- trú . Ngoài ra còn có Gạo Mèo, Rượu Mèo, Táo Mèo là ngon nhất; Lợn Mèo , bò Mèo là to nhất ; Cày Mèo, cối xay Mèo bằng đá độc đáo bền nhất, ruộng bậc thang với hệ thống tới tiêu ở lưng chừng núi tuyệt vời nhất; Váy Mèo, áo Mèo sặc sỡ đẹp nhất ; Múa Mèo , hát Mèo vào loại hay nhất; Súng Mèo tự tạo , dao Mèo tốt sắc nhát; Đi bộ leo dốc giỏi nhất; Dũng cảm , vượt gian khó , hiên ngang nhất . Tại Việt nam cùng thời với Hoàng Hoa Thám đánh Pháp người H'Mông cũng có Giàng Chỉn Hùng ( Bắc Hà ) Thảo Nủ Đa ( Mù Cang Chải ) Giàng Tả Chay ( Tây Bắc) . Sau nay có Vừ A Dính( Tuần Giáo ) - Kim Đồng ( Cao Bằng ). Nhân vật lịch sử Vua Mèo Vàng Chí Sình ( Bắc Hà ) sau cũng theo Việt Minh đánh Pháp. Thời nay có nhiều người H'Mông học tới Cử nhân , Tiến sỹ , ví dụ Tiến sỹ Thào Xuân Sùng , bí thư tỉnh uỷ Sơn la. Về văn học có "Tiếng hát làm dâu" "Tiếng hát mồ côi" nói lên thân phận con người thật là thống thiết , dù ai "cứng lòng" mà đọc cũng phải rư rưng nước mắt! . "Dân ca Mèo'', truyện cổ tích Mèo cũng rất phong phú. Quan hệ dòng tộc rất đặc sắc , mỗi dòng họ cư- trú quây quần thành từng cụm , có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung "đi đâu ở đâu" có họ hàng , sống chết không rời nhau. Có tục "Háy Pú" , cướp vợ rất đặc sắc. Đồng bào có chữ viết riêng. Lễ cúng khi sinh đẻ: Đồng bào quan niệm rằng: Con người ta có hai phân (thể xác và linh hồn) , họ không quan tâm nhiều đến phần thể xác. Họ cho rằng con người sinh ra trên cõi đời chỉ cần nhìn thấy ba lần ánh mặt trời cũng là một kiếp người. Một con người có ba linh hồn : Hồn thứ nhất ở đỉnh đầu, do đó kiêng xoa đầu trẻ em vì hồn nó yếu , xoa đầu hồn sẽ bỏ đi , vì thế ai xoa thì phải làm lễ gọi hồn về. Hồn thứ hai ở vùng ngực , hồn này ít bỏ đi lang thang , nhưng khi đã bỏ đi thì bệnh sẽ nặng Hồn thứ ba ở rốn, hồn này cai quản thân xác và nội tạng , hồn này bỏ đi là đau nội tạng , đau bụng (hồn này ở phụ nữ yếu hơn nam giới , nên phụ nữ hay đau bụng hơn , hồn bỏ đi không về sẽ chết). Khi chết hồn thứ nhất bay lên tầng cao nhất cùng tổ tiên trên trời (cõi tiên) . Hồn thứ hai bay lên chỗ Ngọc Hoàng chờ đầu thai vào kiếp khác (ai xấu sẽ đầu thai làm con vật); Hồn thứ ba gác phần mộ , lởn vởn nơi tầng thấp của Ngưu ma vương , thường bay về quấy nhiễu. Vì thế người H'Mông rất quan tâm đến việc thờ cúng gắn với chu kỳ đời người. Khi bà mẹ sắp sinh em bé thì nhà có lễ cúng "đề ca súa" , cầu cho mẹ tròn con vuông. Đồng bào cho rằng : Khi trẻ sinh ra chư-a có linh hồn ngay, phải sau 3 ngày mới tổ chức lễ gọi hồn (húp hi) - đây là lễ lớn , thông báo cho sự ra đời của một thành viên trong gia đình . Đây cũng là lúc đặt tên cho trẻ. Tên trẻ không đư-ợc trùng với tên ông bà , tổ tiên , họ hàng . Cuối lễ , thầy cúng xem chân gà "bói" tư-ơng lai cho trẻ. Về họ và tên , những người có chung một họ như- Giàng , Vừ , Thào , Lầu , Lý... đều coi nhau như- anh em , dẫu không chung một tổ. Người H'Mông ở Lào Cai , Thanh Hoá và Nghệ An có nhiều nét văn hoá đặc sắc. Người H'Mông ở Lào Cai có hơn 30 họ, các họ lấy tên con vật như- Sùng (gấu), Hầu (khỉ) ,Lồ (lừa), Mã (ngựa) Giàng (dê) và Lùng (rồng). Có họ lấy màu sắc đặt họ ví dụ Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh) Hùng (màu đỏ). Có họ lấy tên cây , ví dụ như- Lý (mận) Thào (đào). Họ còn lấy tên đồ vật , ví dụ như- Cư- (trống), Thèn (thùng) . Đồng bào đặt tên nhiều lần : Khi bé đầy tuổi , có lễ mừng tuổi , Lễ đội tên đệm của bố cùng lúc với lễ mừng con đầu lòng 1 tuổi. Khi ấy con trai tặng nỏ , súng , dao , cháu gái tặng cuốn chỉ thêu, tấm vải . ước nguyện trai tài gái đảm. Lễ đặt tên lần thứ hai "Tì bê lầu" , thịt một con lợn tặng bố mẹ vợ nửa , cầu khấn những điều tốt lành , buộc chỉ cổ tay , đặt tên đệm mới cho con rể. Bố mẹ vợ tặng vật kỷ niệm cho con rể thường là đồng bạc trắng , cái địu con . Có trường hợp người đàn ông có đến 3-4 tên , khi đau ốm hoặc rủi ro , tai nạn thì lại làm lễ đặt tên lại . Đồng bào quan niệm "thùng sếnh, thùng đang" tức là cùng họ cùng ma vì làm ăn làm uống ta có thể học ngư-ời khác , nhưng làm ma thì không thể theo người ta đựơc. Lễ ma có 4 lễ : . Lễ ma tươi . Cúng ma bò . Cúng ma lợn . Cúng ma cửa Đúng là , cách đặt 3-4 tên của ngư-ời H'Mông mang bản sắc văn hoá thật độc đáo ./. BÀI THỨ SÁU - DÂN TỘC KHƠ ME Dân tộc Khơ Me có trên 1 triệu người , sống tập trung ở các tỉnh Sóc Trang , Vĩnh Long, Trà Vinh , Cần Thơ, Kiên Giang , An Giang . Còn có các tên khác Khơ Me Krom, Cur, Cul , Thổ, Việt gốc Miên . Tên Khơ Me bắt nguồn từ tiếng Phạn ( Ấn Độ ) Khêmara có nghĩa là "An Vui Hanh Phúc." Đây là một cư dân sống lâu đời ở Đồng bằng Sông Cửu Long, sống xen kẽ với người Kinh và người Hoa. Đồng bào biết thâm canh lúa nước từ lâu đời, biết làm thuỷ lợi và lợi dụng thuỷ triều để thay chua rửa mặn, xổ phèn cải tạo đất.Có địa phương trồng nhiều dưa hấu . Chăn nuôi gia súc , gia cầm , làm các nghề thủ công (dệt , gốm...) và làm đường Thốt nốt. Dân tộc Khơ Me sống quần tụ thành các phum , sóc( như thôn ấp của người Kinh , gồm từ 17-70 nóc nhà. Trên các phum sóc không có đình mà có chùa , gọi là chùa Khơ Me . Các chùa này có cấu trúc khá giống nhau tuy quy mô khác nhau . Chùa là nơi thờ Phật và là nơi hành lễ của dân làng. Về trang phục : đàn ông đóng khố sampôt. đàn bà mặc váy xà rồng , dài chấm mắt cá chân , màu gụ, có nhiều hoa văn đẹp . Ngày xưa phụ nữ không mặc áo mà dùng một tấm vải vắt chéo qua vai để che ngực , có thói quen quấn khăn Khrâm lên đầu . Nhà sư cọc trọc đầu , râu và lông mày. Khoác áo cà sa , mang khố vàng màu nghệ và ô trắng hay vàng. Đồng bào Khơ Me có ba hình thức tôn giáo , theo tín ngưỡng dân gian , đạo Balamon,Phật giáo tiểu thừa . Trong mỗi chùa có nhiều sư sãi( gọi là các ông Lục ) và do sư cả đứng đầu . Con trai Khơ Me trớc khi trưởng thành thường đến ở chùa để tu học, trau dồi đức hạnh và kiến thức. Nhà chùa thường dạy kinh nghiệm sản xuất , dạy chữ. Hiện nay có trên 400 chùa Khơ Me. Ngời Khơ Me ghi chép lại một nền văn học rất phong phú của mình trên lá buông gọi là Xatra . Văn học dân gian truyền miệng cũng vô cùng phong phú . Nghệ thuật sân khấu gồm nhiều loại Dù kê, Rô băm . Các điệu múa nổi tiếng : Lăm vông, Múa kiếm ( Răm khách ), Lăm Lêu... Các ngày lễ lớn là Choi Chnăm Thơ Mây( Mừng năm Mới ) , Lễ Phật đản , lễ Đôn ta ( xá tội vong nhân ) , Oóc Bom boóc ( cúng trăng ). Các họ của người Khơ Me : Bàn , Binh , Chau , Chiêm , Danh , Dơng, Đào, Điêu, Đoàn , Đỗ, Hiùnh, Hứa , Kỷ, Liêu, Lộc , Lục, Lu , Mai , Neang, Nuth, Ngô, Nguyễn, Panth, Pem, Pham , Sơn, Tăng, Tô, Từ , Tng, Thạch, Thị , Thuấn, Trà , Trần, U, Uônth, Xanh, Xath,Xum... Các họ tên tiêu biểu của người Khơ Me Danh , Sơn, Kim, Thạch , Châu , Lâm , ví dụ : Danh út, Ngọc Anh ( Nam ) Lâm Phú Thạch Thị ( nữ). Phụ nữ thường phân biệt bằng chữ Thị hoặc Nêang . Người Khơ Me có họ từ thời Nguyễn , vua Minh Mạng , để kiểm kê hộ khẩu dân số. Trước đó người Khơ Me không có họ. Nét văn hoá đặc sắc trong văn hoá dùng họ và đặt tên của ngời Khơ Me chính là : Để phân biệt những người cùng tên và có quan hệ huyết thống thì người Khơ Me thường gọi kèm tên người cha ( phụ tử liên danh) , tên người cha thành họ của người con./.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 3:42:26 GMT 9
100 năm trước: Thương nòi giống, Thần tiên giáng bút
Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc. Trong các nghi lễ của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý là thiện đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt. Song vì nhiều lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944) và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, 1989). Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn. Tài liệu có niên đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm. Bối cảnh chính trị văn hoá xã hội Việt Nam thời Nguyễn Học giả Việt Nam đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách âm chất văn chú. Năm 1839 Âm chất văn chú được khắc in theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in. Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839 không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm. Ngay từ năm 1825, tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC. 408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan Phu tử, Quan Vân Trường). Suốt nửa cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều Thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên,... Nội dung và hình thức thơ ca giáng bút càng về sau càng khác lúc ban đầu. Thời gian đầu là giáng bút của các vị thần của Đạo giáo Trung Quốc như Văn Xương Đế quân, Quan Thánh Đế quân...Các bài thơ văn giáng bút này được in trong một quyển sách và chúng không phải là văn bản có được sau một cuộc giáng bút cầu văn tại Việt Nam. Hay nói khác đi, nó chỉ như một cuốn danh ngôn mà những người tu đạo tâm niệm. Nội dung, do vậy mang tính chung chung. Văn giáng bút ở đây đều bằng chữ Hán, được diễn đạt bằng thơ luật. Về sau, do yêu cầu mới của đời sống xã hội, thơ giáng bút đã thay đổi. Các vị thần linh giáng bút không chỉ là có nguồn gốc Trung Quốc nữa, mà còn có các tiên nho liệt thánh Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trưng Vương, Liễu Hạnh vv...Thơ do yêu cầu phải đến với quảng đại quần chúng nên đã có nhiều thơ lục bát, song thất lục bát. Văn giáng bút cũng phần nhiều không dùng chữ Hán mà dùng chữ Nôm. Các bản sách văn giáng bút cũng được sưu tập ngay từ đàn giáng bút và đưa đi khắc in ngay. Có tình hình ấy là do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn... Thực trạng kinh tế, xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được củng cố. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: Chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông nom việc khai khẩn ở miền sơn cước. Chỉ sau khi Tự Đức băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần trở nên chiếm ưu thế, bởi được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn. Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng khắp Trung kỳ, Bắc kỳ. Phong trào Cần Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ lĩnh. Từ sau năm 1897 khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong đất nước đã từng có những cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Thơ văn yêu nước thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng. Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn ...giàu sức biểu cảm được dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh long yêu nước. Trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức tín ngưỡng...Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm tưởng. Cũng chính vì hoạt động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao, nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng. Thực dân Pháp thực sự hoang mang và bối rối khi phải xử trí với tình hình nở rộ của các Thiện đàn và các hoạt đông giáng bút ở khắp nơi. Không tìm được chứng cớ khả dĩ kết tội, đàn áp, thực dân Pháp đã mất ăn mất ngủ với các hoạt động nửa tôn giáo, nửa cách mạng đang lan tràn và phát huy tác dụng và thanh thế ở khắp nơi. Tại Văn Hiến đường, xã Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng, Hà Tây), năm 1930 tay sai đã về tịch thu các ván in và bộ sách Cổ kim truyền lục đã được in ấn và đang lưu hành ở đây. Gs Đào Duy Anh, trong bài Tìm hiểu phong trào Thiện đàn đối với cuộc vận động ái quốc - Kinh Đạo Nam dài 25 trang in trong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (Nxb Trẻ, 1989) có cho biết : "Ông Nguyễn Ngọc Tỉnh kể lại rằng trong thời gian giáng bút và ấn hành bản kinh này thì Lý trưởng và Phó lý xã Hạc Châu sợ liên luỵ nên đã báo cáo cho quan lại sở tạị. Chính quyền thực dân giao cho Bùi Bằng Đoàn bấy giờ làm Tri phủ Xuân Trường điều tra. Bùi Bằng Đoàn cho vợ có sai nha đi theo đến đàn để thử, viết một tờ sớ bỏ vào phong bì kín. Hàng ngày khách thập phương qua lại để lễ và xin kinh rất đông, nhiều người sang trọng, cho nên chẳng ai để ý đến đó là bà phủ Xuân Trường. Theo lệ thì người đến lễ đặt phong bì kín lên bàn thờ, Thánh phải giáng bút chỉ tên người ấy, có đúng thì người ta mới tin. Thánh bèn giáng bút cho ngay một câu thơ rằng: Côn dược thiên trùng thương hải ngoại; Bằng Đoàn vạn lý tử tiêu gian. Thế là chỉ rõ tên Bùi Bằng Đoàn ra bằng một câu thơ, mà các nhà Nho học giỏi đều nhận là rất hay, bình thường khó có người tức tịch làm ra được, huống chi người cầm kê đây là người sức học cũng tầm thường. Bùi Bằng Đoàn do đó tin là có tiên thánh giáng bút thực, báo cáo lên tỉnh rằng đó là việc tôn giáo thực chứ không phải là hoạt động chính trị như hương lý báo. Sau đó án sát Nam Định là Mai Toàn Xuân cũng cho vợ đến lễ để đặt phong bì kín và thử như thế. Bùi Bằng Đoàn là người Nho học có tiếng cho nên được giáng bút một câu thơ chữ. Mai Toàn Xuân xuất thân là bồi Tây nên ít học, chỉ được giáng bút một câu thơ Nôm, nhưng cũng vạch rõ cả ba chữ họ tên như vẽ ra: Đầu cành Mai mới điểm hoa; Non sông bốn bể đâu mà chẳng Xuân ? Sau đó tỉnh báo cáo lên Thống sứ rằng đây chỉ là một hoạt động tôn giáo, không nên ngăn cấm. Vì thế mà bản kinh in xong vào mùa Đông năm 1923 được phát hành ở Bắc kỳ, rồi sau đó được phát hành bằng quốc ngữ ở Nam kỳ. Các mùa hè năm 1924, 1925, 1926 ông Nguyễn Ngọc Tỉnh đều được Đồng Lạc Khuyến Thiện đàn ở Nam Định nời đến giảng kinh Đạo Nam cho tín đồ của đàn ấy nghe. Nhưng đến năm 1929, trong cuộc đàn áp dối với các đảng bí mật tiến hành ở khắp bắc kỳ, chính quyền mới soát nhà mà tịch thu tất cả bản kinh còn lại và các tấm ván in để huỷ đi và bắt đàn chủ là ông Nguyễn Đức Kinh và chủ bút là ông Nguyễn Ngọc Tỉnh làm án giám".(Sđd tr.200-224) Như vậy là, các Thiện đàn trong suốt quá trình hoạt động của mình luôn gặp phải sự dò xét của thực dân Pháp và quan lại phong kiến Nam triều. Có một thực tế là chính nhờ vào hình thức giáng bút, như một hoạt động mê tín dị đoan, các bài hát bài thơ yêu nước thương nòi và nặng lòng với văn hoá dân tộc đã được lưu truyền. Các thành viên của các phong trào yêu nước đấu tranh cách mạng cũng nhờ đó mà thoát khỏi sự rình rập và đàn áp của kẻ thù. Thiện đàn với cuộc vận động ái quốc Vận động ái quốc, trước hết các nhà yêu nước kêu gọi lòng thương yêu của những người cùng nòi giống, mà ở đây cụ thể là giống da vàng con Lạc cháu Hồng cùng chung một bọc. Các thiện đàn thường tổ chức các buổi giảng kinh, các bản kinh này thường là có được sau khi xin được của mộth vị thần thánh nào đó. Thời gian đầu các vị thánh giáng bút thường là các danh thần võ tướng các thần linh của thần điện Trung Quốc, song càng về sau các vị thần giáng đàn lại là các vị danh thần võ tướng các thần linh trong thần điện Việt Nam như Tản Viên Sơn Thánh, Liễu Hạnh Công chúa, Phùng Khắc Khoan, Tô Hiến Thành, Bà Triệu, Hai Bà Trưng, các Thánh Mẫu,... Những năm đầu thế kỷ này, trước tình hình bị giặc Pháp đàn áp nặng nề, một số cơ sở vận động yêu nước tại Hà Nội và các đô thị phải chuyển về vùng nông thôn phụ cận. Một trong những cơ sở có hoạt động mạnh là Văn Hiến đường ở làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (Hà Tây). Văn Hiến đường hoàn thành vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1909), là nơi thờ Thái uý Tô Hiến Thành và các vị tiên hiền của làng. Thực ra thì trước đó, vào năm 1907, Thiện đàn ở đây đã cho khắc in bộ sách Cổ kim truyền lục đề tuyên truyền vận động yêu nước. Bộ sách gồm 4 tập Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh với gần 400 bài thơ văn, bao gồm nhiều thể loại, viết bằng chữ Hán, do tập thể tác giả đều là người địa phương sáng tác. Văn Hiến đường hiện có đôi câu đối về việc giáng bút và khắc in kinh : Kinh điển bản tàng Tiên hiền giáng bút thuỳ kinh điển Cổ kim truyền lục Vãng thánh di thư diệu cổ kim (Kinh điển bản khắc Tiên hiền giáng bút truyền kinh điển Cổ kim truyền lục Thánh hiền di cảo sáng cổ kim) Tại Hạ Mỗ, không chỉ Văn Hiến đường là nơi có giáng bút mà giáng bút còn được tổ chức trong chùa Hải Giác nữa. Và Cổ kim truyền lục chính là tập thơ văn được tập hợp sau gần 4 tháng giáng bút. Về cách phát hành thì phát cho mọi nhà, biếu tặng các nơi với mục đích: Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ (sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn. Văn Hiến đường cũng còn là nơi bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Tháng 4 năm 1996, khi về Hạ Mỗ để lấy tài liệu tôi còn thống kê được 14 tên sách / bộ sách Hán Nôm tại Văn Hiến đường: như: Thiên ất chân kinh (in, Bảo Đại 8 ), Văn Xương đế quân cứu kiếp bảo sinh kinh (in, 1911), Ngọc Hoàng chân kinh (viết tay), Ngọc Hoàng phổ độ tôn kinh (2 bản in, Bảo Đại 8), Liệt thánh bảo cáo (in), Ngũ phúc kinh .Tập Ninh (in), Tâm pháp thiết yếu chân kinh (2 bản in, Bảo Đại Mậu Thìn), Bảo huấn hợp thiên (in, Tự Đức Bính Tý), Lã Tổ trung hiếu cáo (in, Thành Thái ất Tỵ), Dược sư kinh,... Thơ văn giáng bút đã được lưu truyền khá rộng rãi trong nhân dân vùng xứ Đoài. Hình thức lưu truyền quảng bá thơ văn yêu nước trong khuôn khổ của một hình thức của tôn giáo, và nhất lại là trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã gây ảnh hưởng lớn và có hiệu quả rõ rệt. Thiện đàn với công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc Đóng góp của các thiện đàn trong công cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc là một đóng góp quan trọng của các thiện đàn. Đóng góp này thể hiện trên hai khía cạnh: Xây dựng, giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống và Tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, in ấn các kinh sách. Xây dựng và giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống là một yêu cầu của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước hết là sinh hoạt của thị dân ở đô thị. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ lên Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Sự phân hóa giai cấp diễn ra nhanh chóng trong toàn bộ xã hội. Luân lý cổ truyền cùng các giá trị đạo đức truyền thống rạn nứt trước sự xâm thực của văn minh phương Tây. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ, kéo theo quá trình “Âu hóa” rất mãnh liệt. Ở nông thôn bộ máy lý dịch đã trở nên tha hóa. Bức tranh nông thôn Việt Nam trong suốt thời gian hàng thế kỷ là một khoảng tối tăm với một đời sống khổ cực và những áp bức nặng nề của bộ máy cường hào, lý dịch. Trong tình hình xã hội như vậy việc gióng lên tiếng trống thức tỉnh cách mạng, kêu gọi chấn chỉnh nếp sống theo mẫu mực truyền thống là một công việc có ý nghĩa. Các thiện đàn đã mọc lên ở khắp mọi nơi và hoạt động khá sôi nổi trong cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc. Các buổi giảng thiện được thực hiện đúng theo lịch đã định sẵn, có đông đảo nhân dân tham dự. Việc tu bổ và tôn tạo các di tích được nhiều người hưởng ứng, và rất nhiều văn bia hiện đặt trong các di tích đã ghi lại việc sửa chữa, tôn tạo này. Đền Ngọc Sơn - trụ sở Hội Hướng Thiện, cơ sở in ấn tàng bản và công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc Trong số các thiện đàn đã biết thì đền Ngọc Sơn là một cơ sở tiêu biểu nhất. Đền Ngọc Sơn không những là một cơ sở được thành lập sớm nhất, có đóng góp toàn diện nhất, là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất, mà còn có vai trò như là một trung tâm có sức lan toả rất lớn, trong phạm vi khắp cả đông bằng châu thổ Bắc bộ, nếu không muốn nói là trong cả miền Bắc. Theo bài văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1843 thì đền Ngọc Sơn do hội Hướng Thiện tạo dựng năm 1842. Ngoài mục đích thờ thần thánh, đây còn là nơi cho “sĩ phu kết bạn với nhau yêu cảnh này, vì mến tên hồ này việc tu dưỡng, du ngoạn, nghỉ ngơi đều có nơi có chốn”. Từ sự thống nhất trong hội Hướng Thiện, chủ trương chấn hưng văn hoá của Hội được các nhà khoa bảng có uy tín trong hội và khắp Hà thành tán dương và coi là mục đích cao nhất của hội. Việc đầu tiên mà các nhà Nho hướng đến là hướng dẫn cho mội người tu dưỡng chính bản thân mình, trước hết là ngay là sự chính tâm (ngay thẳng) và ngăn chặn những dục vọng xấu nảy sinh trong ngay chính lòng mình. Đền Ngọc Sơn đã được biến thành một giảng đàn là nơi mà đều đặn vào các ngày 2 và 16 âm lịch hàng tháng hội tổ chức giảng thiện. Cũng tại đây đã tiến hành các buổi giáng bút để xin những lời dạy của Thánh nhân qua một người trung gian. Các bản kinh in ở đền Ngọc Sơn đại bộ phận đều là các kinh giáng bút bằng chữ Hán, ghi lời giáng bút của các vị thần thánh có nguồn gốc từ Trung Quốc như Quan Thánh Đế Quân, Văn Xương Đế Quân. Tuy nhiên, nội dung lời văn của các bản kinh này lại rất phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội như: Tự giác ngăn ngừa các thói tham lam, độc ác, dâm loạn, gian dối..., khuyên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng người trên, thương kẻ khốn cùng, chuyên cần học tập, chăm chỉ làm ăn...Mượn lời dạy của thần tiên nhưng các bản kinh được in tại đền Ngọc Sơn không hề đưa lại một tinh thần xuất thế, lảng tránh cuộc đời thực mà ngược lại lại rất tích cực. Và có lẽ cũng chính vì thế, các kinh văn giáng bút được in ra ở đây được lưu truyền rất rộng khắp trên nhiều địa phương cho tới tận Cách mạng Tháng Tám 1945. Một khía cạnh khác trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc của hội Hướng Thiện ở đền Ngọc Sơn là tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Tại khu vực xung quanh Hồ Gươm, hội Hướng Thiện đã tôn tạo Trấn Ba đình, trùng tu đền Ngọc Sơn, xây Tháp Bút và Đài Nghiên... Khu vực Hồ Gươm có được khuôn mặt như ngày nay là do những lần tu bổ tôn tạo này. Không những thế, với tình cảm yêu mến Thăng Long, các nhà nho trong hội Hướng Thiện còn sáng tác biết bao áng văn thơ đề vịnh trên những di tích danh thắng Hà Nội. Đền Ngọc Sơn là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất trong suốt khoảng 100 năm (1845 - 1945). Vậy trong khoảng 100 năm ấy tại đền Ngọc Sơn đã có bao nhiêu bộ sách ra đời và đi vào đời sống xã hội? Mới đây, Vương Thị Hường dựa vào hai cuốn sách Các đẳng kinh bản Ngọc Sơn thiện thư lược sao mục lục (A.1116), Cao Vương kinh chú giải (AC.438) cho chúng ta biết danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc Sơn gồm 246 tên sách (mỗi tên sách có thể là một bộ với nhiều cuốn) thuộc nhiều môn loại khác nhau như tôn giáo, văn học, sử học... (Xem tạp chí Hán Nôm số 1 -2000). Có một điều đáng chú ý là khi chúng tôi khảo sát các sách in kinh giáng bút thì thấy có hiện tượng một số nơi (các thiện đàn) đã mượn ván in kinh giáng bút của đền Ngọc Sơn về in và phát hành. Như vậy là trong suốt một trăm năm đền Ngọc Sơn đã là một cơ sở in ấn tàng bản lớn của cả vùng châu thổ Bắc bộ, nơi đặt trụ sở của hội Hướng Thiện với các hoạt động thiết thực trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Cũng chính vì lẽ đó mà cuối năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã đến thăm hội Hướng Thiện, trò chuyện với các hội viên của hội và căn dặn: “Các cụ đã cao tuổi mà vẫn còn giảng Thiện cho bà con theo, thế là rất quý. Tôi xin phép gợi thêm vài ý. Tôi nghĩ điều Thiện lớn nhất là yêu nước. yêu dân chủ, điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Tôi đề nghị các cụ khi giảng Thiện nên chú ý khuyên đồng bào bảo vệ độc lập, tự do và tăng gia sản xuất, xây dựng dân chủ”(Theo Nhân dân, 22 - 8 - 1990). Nội dung thơ văn giáng bút Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đâù thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Đây là một chủ đề lớn của thơ văn giáng bút nói riêng và thơ văn yêu nước cách mạng nói chung. Trong thơ văn giáng bút, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Giáng bút lời của các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Liệt nữ “Tiết hạnh khả phong” ở làng Đông Ngạc... - Giáng bút lời của các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh... - Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hoá của Việt Nam như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà tổ nghề thao ở Triều Khúc... Ngoài ra thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước. Chấn hưng văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Về nội dung này, thường được biểu hiện như sau: - Đề cao việc nâng cao dân trí - Bài bác hủ tục - Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh mẫu cho phụ nữ) - Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau - In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ Hình thức và Nghệ thuật thơ ca giáng bút: * Về mặt văn tự: Bà chúa Liễu Hạnh về Trời Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm - một sáng tạo của người Việt Nam, dùng ký tự Hán để ghi âm Việt nên không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân nhất là trong việc truyền miệng. Ta biết rằng, trong khi triều đình nhà Nguyễn tổ chức Nhà nước và các thiết chế văn hoá theo Nho giáo rập khuôn nhà Thanh Trung Quốc, thì trong dân gian, tư tưởng và văn chương bình dân lại dường như cũng có một sức sống riêng. Ví dụ rõ nhất là khắp các nơi trong nước hàng loạt các hiệu, đàn, trai, đường, lâu... đã ra đời làm nở rộ nghề in. Tại các nhà in này, mảng truyện Nôm đặc biệt phát triển so với trước đó. Thời kỳ này ngoài việc tái bản những cuốn cũ còn có thêm nhiều đầu sách mới nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần người dân. Riêng cuốn Phạm Công - Cúc Hoa, từ năm 1907 đến năm 1936, được in cả thảy 15 lần (trong phạm vi cả nước). Đặc biệt là Truyện Kiều được in cả thảy là 32 lần. Trong số 25 lần in có ghi rõ thời gian và nhà tàng bản thì có tới 16 lần được in tại Hà Nội. Về việc sử dụng chữ Nôm và chữ Hán trong một tài liệu giáng bút, chúng ta ghi nhận một số điều sau: Có cuốn toàn Nôm, có cuốn là Hán xen Nôm. Văn giáng bút chữ Hán thường là giáng bút của các vị thần linh Trung Quốc, hoặc các vị Nho học, hoặc hướng đến đối tượng là người có chữ nghĩa. Văn giáng bút chữ Nôm, ngược lại, thường là giáng bút của các vị thần linh Việt Nam, hoặc là các thánh mẫu, hoặc dành cho đối tượng là đông đảo tầng lớp bình dân. Một vấn đề khác, văn giáng bút chữ Nôm bao giờ cũng có độ dài dài hơn các bài giáng bút bằng chữ Hán. Còn về thể loại, văn giáng bút Nôm thường chọn các thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, hoặc các thể thơ có khả năng diễn đạt phong phú nhiều nội dung. Thơ văn giáng bút, để đạt được mục tiêu phát hành và tuyên truyền như trong lời nói đầu bộ Cổ kim truyền lục là: “Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ” (Sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn) thì nhất định phải dùng chữ Nôm. * Về mặt thể loại: Kinh Đạo Nam Thơ văn giáng bút nhằm đến nhiều đối tượng khác nhau, với mỗi loại đối tượng đã dùng các thể thơ khác nhau. Các tài liệu giáng bút thường ghi rất rõ về thời điểm giáng bút (giờ, ngày, tháng, năm) và thậm chí có tài liệu còn ghi rõ bài thơ văn giáng bút này là dành cho ai quê quán ở đâu. Ví dụ trong cuốn Bản thiện kinh (AB.355) có ghi tường tận như vậy. Phù hợp với từng đối tượng, từng nội dung tuyên truyền, về mặt hình thức, đã có các thể thơ sau được dùng: Phú, Thơ luật, Lục bát, Song thất lục bát, Phong dao, Hát Xẩm, Từ khúc,Hát nói (Ca trù), Gửi thư (Ca trù), Ngụ ngôn, Tiểu thuyết... * Về việc minh họa: Tài liệu giáng bút hiện có trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ yếu là sách in bản khắc gỗ (226 bản in / 254 bản sách) Trong đó có một số các văn bản thơ văn giáng bút hiện có tại thư viện Viện Hán Nôm có nhiều cuốn có các đồ họa. Thiết nghĩ, rồi đây những đồ họa này sẽ trở thành những tài liệu cho một công trình chuyên khảo về Đồ họa Đạo giáo nói riêng và Nghệ thuật Đạo giáo nói chung. Kết luận: Với 98 Thiện đàn hiện biết tại các địa phương trong hầu khắp các tỉnh miền Bắc là nơi có lưu truyền/sáng tác/in ấn/tàng bản kinh văn giáng bút cho thấy sự hoạt động sôi nổi của các Hội Hướng Thiện, Thiện đàn trong khoảng một trăm năm từ 1845 đến 1945. Các Thiện đàn và Hội Hướng Thiện, trong đó tiêu biểu nhất là Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã có những đóng góp lớn trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Tư liệu thơ văn giáng bút tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn 254 cuốn. Kinh giáng bút được in nhiều vào các khoảng thời gian các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các Thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Văn thơ giáng bút càng về sau càng sử dụng nhiều chữ Nôm và các thể thơ ca dân gian để thể hiện các lời dạy dỗ của các thần linh đất Việt. Điều này càng khẳng định chữ Nôm vẫn giữ vai trò nhất định trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, trong khuôn khổ các phong trào yêu nước. Trong hoạt động của mình các thiện đàn đã sử dụng thành công chữ Nôm trong việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hoá dân tộc. Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. Box1 “Thuật bói tiên lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”(Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả - Phạm Đình Hổ). Box2 Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn sách, với hàng vạn bài văn thơ. Box3 Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. Box4 Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 254 cuốn thơ văn Nôm giáng bút lời của Tiên - Phật –Thánh - Thần sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn do các nhà Nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 3:44:32 GMT 9
Truyền thuyết tổ ca trù và những đền thờ
Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời. Trong đó, các vị tổ ca trù đã được chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa được bệnh cho mọi người. Tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa ... Ngoài ra, rất nhiều câu chuyện được lưu truyền và lan tỏa tạo cho nghệ thuật ca trù nhuốm thêm màu huyền bí... Điệu múa cổ - tranh của Nguyễn Tư Nghiêm Câu chuyện lưu truyền như sau: Vào đời Lê, Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng. Một hôm, Nguyên Sinh đem đàn nguyệt và rượu vào rừng thông để tiêu khiển, gặp được hai ông cụ già. Đó chính là hai tiên ông Lý Thiết Quài và Lã Động Tân. Hai tiên ông đưa cho chàng khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn và dặn đóng đàn theo kiểu mẫu như trong giấy. Tiếng đàn ấy sẽ trừ được ma quỷ, giải được phiền muộn. Nguyên Sinh y theo lời. Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, chàng chữa được bệnh cho rất nhiều người. Một lần, Nguyên Sinh đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chàng đã chữa bệnh cho người con gái tên Hoa, con của vị Quan châu Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Sau Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên vợ nên chồng, sống cùng nhau rất hòa hợp tương đắc ở bên nhà Bạch công. Nguyên Sinh đã đặt ra lối múa hát mới, rồi lấy hai thanh tre vót thực đẹp để cho nàng gõ lên trên mảnh gỗ theo với nhịp đàn mà hát. Sau hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh ở Cổ Đạm để lập nghiệp. Ít lâu sau, chàng gặp lại các vị tiên ông và được ghi tên tuổi vào tiên phả rồi cùng nhau hóa. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết gia tài rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau nàng bệnh mà chết. Dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ, gọi là đền Tổ Cô đầu, hay là đền bà Bạch Hoa Công chúa. Trải các triều đều phong tặng Đinh Lễ là Thanh Xà Đại vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa Nhiều nơi có giáo phường ca trù trong khắp châu thổ bắc bộ có đền thờ tổ ca trù. Trong đó gần kề Thăng Long - Hà Nội nhất phải kể đến làng Lỗ Khê thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội. Làng có đình chùa riêng. Trong làng còn có một đền thờ tổ ca trù, mà dân địa phương gọi là đình ca công. Đình ca công xây dựng từ bao giờ không rõ. Về mặt kiến trúc, quy mô hiện nay gồm 5 gian, kiến trúc như nhà ở dân dụng bình thường. Đình còn giữ được một bức hoành phi Sinh từ tự điển (Thờ phụng và dựng đền lúc còn sống) và bức phù điêu các vị tổ ca trù. Bản gốc của thần tích tổ ca trù cũng còn lưu tại đình ca công. Ngày nay, hàng năm vào dịp ngày 6 tháng 4 (Ngày sinh của Đinh Lễ) hoặc ngày 13 tháng 11 (ngày hóa của Đinh Lễ), những nghệ sỹ ca trù ở Hà Nội và các vùng lân cận vẫn thường về “chốn tổ” Lỗ Khê để tỏ lòng sùng phụng và gặp gỡ bạn nghề. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là Hãng Phim truyền hình Việt Nam) đã tổ chức làm phim “Hát cửa đình” tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Phạm Thị Mùi... Vùng ven đô Thăng Long cũng còn một làng quê còn giữ được đền ca công. Đó là Phú Đô là một làng thuộc xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Tại đây cũng có một đền Ca công ở xóm 1. Đền có ba chữ Ca công từ xác nhận tên gọi của đền. Trong đền có một sắc phong có nội dung: Sắc cho Mãn Đường Hoa Phương Phi Chân Thực Từ Hoà Công chúa và Thanh Xà Thuận Bình Hưng Linh Thông Tuy Hưu Tích Hỗ Đại vương. Niên đại của sắc là năm Chiêu Thống 1 (1787). Sắc này cũng chỉ là một bản sao, vì trên sắc không thấy có dấu ấn triện. Thần tích hiện còn giữ cũng là một bản sao, trên giấy sắc, nội dung cũng không có gì khác thần tích Lỗ Khê. Tượng các vị tổ ca trù ở đền thờ tổ giáo phường Phượng Cách, Hà Tây Làng Phượng Cách, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũng là một nơi có di tích đền thờ tổ. Phượng Cách là tên làng cũng đồng thời là một xã, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Trong lịch sử nơi đây là một vùng rất thịnh của ca trù. Ở trong khu nhà thờ họ Nguyễn Thế (do ông Nguyễn Thế Mạnh trông nom) có một gian điện thờ đức tổ ca trù với hai pho tượng tròn rất đẹp. Theo các vị cao tuổi trong dòng họ thì đây là nơi các giáo phường lớn nhỏ trong huyện Quốc Oai về dâng hương lễ tổ hàng năm. Phượng Cách cũng là quê hương của ông Tự So và bà Đào Nhu - một đào nương nổi tiếng đã từng chống Pháp. Gần đây nhất, dòng họ có Kép Tư Châu và cô Đào Phê (thường gọi là Bà Hương Phê), những danh ca, danh cầm ở ấp Thái Hà, Hà Nội trước 1945. Nhắc đến các đền ca công, các nhà thờ tổ ca trù không thể không nhắc đến lễ tế tổ - một sinh hoạt quan trọng của các giáo phường, vừa mang ý nghĩa tâm linh là kính tổ, vừa là dịp để các đào nương già trình diễn các kỹ thuật cao siêu của nghệ thuật hát, như một sự báo cáo trước tổ rằng nghề của tổ truyền lại vẫn được giữ gìn, trau chuốt. Đây cũng là dịp để các giáo phường hiểu biết nhau thêm trong tình cảm đồng nghiệp. Vào ngày 13 tháng 11, các Giáo phường làm lễ tế tổ. Trước đó hàng tháng những giáo phường trong hai ba huyện họp lại chọn một người nhiều tuổi từng trải, đứng lên làm Trùm nhất để điều hành công việc. Ông Trùm nhất gửi giấy cho các phường biết nơi tế, vì ít phường có đền thờ tổ riêng biệt nên khi tế họ chọn một nhà nào rộng rãi ở trong phường, hoặc mượn đình sở của làng lân cận. Những phường ở xa góp tiền, còn phường sở tại lo sắm lễ vật và chuẩn bị đón tiếp khách khứa. Khi giáo phường tế tổ cũng cử hành nghi thức như lễ tế thần. Các phường đều tuyển những đào hay kép giỏi tới múa hát. Hát thờ tổ khác lối hát cửa đình ở chỗ có hai khúc hát Non mai, Hồng hạnh. Các nhà nghiên cứu trước đây cho biết khúc hát Non mai đã thất truyền. Nay chúng tôi đã tìm kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được 2 văn bản chép hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Đó là Ca trù thể cách (AB.564) và Ca trù tạp lục (VHv.2940). Non mai là lấy hai chữ đầu tiên trong khúc hát thờ tổ để đặt tên cho cả khúc hát. Theo Ca trù thể cách (AB.564) thì bài thơ có 4 đoạn, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng, lần lượt 3 đoạn đầu tả vẻ đẹp và ca ngợi “đức” của mai, trúc, tùng có tiết tháo của bậc quân tử đem tài cao chí lớn, giúp nước giúp vua; đoạn cuối cùng là mấy câu ca mừng làng và chúc phúc “tứ dân”. Bài thơ này gián tiếp có nội dung ca ngợi vị tổ ca trù là bậc quân tử thanh cao, đem tài giúp nước. Đoạn cuối cùng trong bài thơ chúc mừng dân làng được vinh hoa sang giầu; Sĩ thì chiếm bảng vàng khôi khoa, Nông thì thóc lúa đầy nhà, Công thì ngày càng thêm khéo léo, Thương thì thu nhiều vàng bạc. Tương truyền chính bà Bạch Hoa Công chúa đã làm ra hai khúc Non mai, Hồng hạnh nên ả đào chỉ dành khi hát thờ bà mới hát, ngoài ra không bao giờ hát khúc ấy ở đền miếu khác và cũng không dám hát cho ai nghe. Chính vì thế mà việc thất truyền càng dễ. Ngay cả Nghệ sỹ Nhân dân Quách Thị Hồ cũng không được mẹ dạy cho hai khúc Non mai và Hồng hạnh. Các nghệ nhân, nghệ sỹ ca trù hiện nay còn sống cũng không ai biết hát hai khúc hát này. Trong quá trình lần tìm về hai điệu hát cổ trong lễ tế tổ ca trù tôi được biết, vào khoảng thập kỷ 50 của thế kỷ XX các chuyên gia âm nhạc của Liên Xô đã ghi âm được hai khúc Non mai, Hồng hạnh do bà Châu Doanh Đinh Thị Hảo trình bày. Để ghi âm được 2 bài này, các chuyên gia âm nhạc đã tổ chức một lễ tế tổ, và rất tự nhiên, bà Châu Doanh tay cầm lá phách đã thành kính dâng trước điện thờ hai khúc hát thờ. Đây là tư liệu duy nhất về hai điệu hát thờ Non mai, Hồng hạnh. Tuy nhiên, do kỹ thuật thu âm lúc đó chưa tốt, phương tiện bảo quản chưa hiện đại nên băng ghi âm nghe không rõ lời. Nếu không kết hợp với các lời ghi trong sách cổ thì không thể học hát được bài hát này. Được biết, có một nữ nghệ sỹ ca trù con nhà nòi đã tập hát bài Non mai từ 6 năm nay, qua cuốn băng sao lại từ kho lưu trữ. Mong sao một ngày kia (có thể là đúng vào dịp UNESCO công nhận ca trù là Kiệt tác văn hóa của nhân loại) thì khúc hát này lại vang lên trong một dịp tế tổ ở Lỗ Khê, để tưởng nhớ đến các vị tổ đã đem khúc nhạc ca trù từ nơi tiên giới xuống giữa trần gian …
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 3:47:11 GMT 9
Ca trù là một bộ môn nghệ thuật đặc sắc của dân tộc
Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện 1/ Ca trù 2/ Nhận xét của Gs Trần Văn Khê về luận án 1/ Ca trù Ca trù chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi ca trù cũng đã được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ “trù” trong “ca trù” 歌 籌đều dùng chữ “trù” 籌. Theo đó Trù籌là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền), dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng trống chầu (gọi là cầm chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi ca trù; cũng là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên ca trù, với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói ở trên thì chỉ có ở hát ca trù ở đình đền, tức là hát thờ. Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói. Đây là một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc bộ, người nghe cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc cầm chầu. Ca trù còn có những cái tên khác như: hát cửa đình, hát nhà trò (hát ở đình, đền, miếu), hát cửa quyền (trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), hát ả đào, hát cô đầu (hát ở các ca quán)... Ca trù gắn liền với nghi thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát còn có các nghi lễ với vũ điệu và cả các cách thi tuyển tại đình làng trong dân gian nên các lề lối biểu diễn ca trù được gọi là thể cách. Thể cách ca trù vừa bao gồm làn điệu, vừa bao gồm các hình thức diễn xướng khác như múa, biểu diễn kỹ thuật nghề (đàn, trống). Trong 49 tài liệu Hán Nôm có liên quan đến ca trù được khảo sát trong có 8 bản mang tên Ca trù thể cách. Các học giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong sách Việt Nam ca trù biên khảo cũng gọi là các thể ca trù. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Ca trù là một DI SẢN VĂN HÓA ĐẶC SẮC của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu, thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức thưởng thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong tục, với sinh hoạt cộng đồng. Ca trù làm người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông, chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà…Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ, nhà báo, họa sĩ) với Ả đào - mối quan hệ quan trọng nhất của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng thức các tác phẩm của mình. Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình. Khoảng chục năm trở lại đây dư luận xã hội và các cơ quan thông tấn báo chí đã từng lên tiếng về nguy cơ thất truyền của ca trù. Nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi ca trù là một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn ca trù như một vốn quý văn hóa của dân tộc. Do vậy việc cung cấp những hiểu biết sâu hơn và có căn cứ về một số vấn đề của ca trù, không những góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt ca trù. 2/ Nhận xét của Gs Trần Văn Khê về luận án Tiến sĩ của Nguyễn Xuân Diện Năm vừa qua, trước khi gặp tác giả tại quê nhà, tôi đã đọc được quyển sách Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù của Nguyễn Xuân Diện. Tôi vô cùng thích thú và ngạc nhiên. Thích thú vì trước kia khi bắt đầu tìm hiểu Ca trù, tôi chỉ đọc được hai bài viết trên báo Nam Phong của Nguyễn Đôn Phục và Phạm Quỳnh. Sau này, có thêm quyển Việt Nam Ca trù biên khảo của hai tác gỉa Đỗ Trọng Huề và Đỗ Bằng Đoàn. Hôm nay, quyển sách của Nguyễn Xuân Diện đã cho tôi biết thêm rất nhiều sách báo về hát Ca trù mà tôi chưa hề đọc được. Trước kia tôi chỉ biết một quyển Ca trù thể cách mà trong thư mục tác gỉa đã cho tôi biết thêm sáu, bảy quyển Ca trù thể cách khác, lại còn kê khai trên bảy chục văn bia viết bằng chữ Nôm đang được tàng trữ tại Viện Hán Nôm. Ngạc nhiên vì tác giả là một thanh niên lại chịu học Hán Nôm, sưu tầm, nghiên cứu rất nhiều tư liệu về Ca trù và giữ chức vụ Phó Giám đốc Thư viện, ngạc nhiên vì quyển sách là một bước tiến rất mới và rất xa trong việc nghiên cứu Ca trù, vừa mang tính phát hiện, vừa mang tính bao quát, phương pháp áp dụng rất phù hợp với cách nghiên cứu trong các nước tiên tiến, đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế nên có độ tin cậy rất cao. Tôi rất mong khi về nước sẽ gặp được tác giả để tỏ lời khen tặng. Nhờ biết trước khả năng của tác gỉa nên khi tôi làm cố vấn cho việc lập hồ sơ để trình bày những nét đặc thù của ca trù cho UNESCO, tôi đã nghĩ ngay đến em và mời em tham gia viết hồ sơ, cụ thể là phần lịch sử và phát triển ca trù Việt Nam. Hôm nay, sau khi đọc bản Luận án của em thì tình cảm mến được tăng lên rất nhiều. Nội dung vô cùng phong phú. Công việc sưu tầm, nghiên cứu phân tích và phê phán các văn bia rất phù hợp với những phương pháp khoa học đã được áp dụng trên các nước Âu Mỹ theo phương cách đặt câu hỏi cái gì, ai, ở đâu, lúc nào, như thế nào (what, who, where, when, how) và không quên đối chiếu với những tư liệu khác. Nhờ đó, có nhiều phát hiện mới mà từ trước đến nay chúng ta chưa được biết. Có những nghi vấn về Ông Tổ của Ca trù, về lúc nào danh từ “Ca trù” được dùng lần đầu tiên thì Luận án này đã đưa ra những bằng chứng đáng tin cậy. Nhờ Luận án này, chúng ta thấy rõ không gian biểu diễn Ca trù như hát thờ, hát chơi và hát chúc hỗ (hát chúc thọ nhà Vua hay tiếp Sứ ngoại quốc), cách tổ chức giáo phường, lề lối và hoàn cảnh sinh hoạt của các nghệ nhân, nghệ sĩ; nắm rõ được các thể cách, thể điệu (chín mươi chín thể cách trong đó có sáu mươi sáu về hát và ngâm và ba mươi ba hát và múa), xuất xứ và miêu tả nhạc khí căn bản của Ca trù như phách, đàn đáy, trống chầu; kỹ thuật hát (hát khuôn, hát hàng hoa, các khổ đàn, khổ phách như phách khoan, phách mau, phách theo, phách róc, phách ba, phách hơi, phách vào ba ra bảy…) Luận án đưa ra bảy kết luận nhưng trong Luận án, chúng ta thấy nhiều điều có thể mở ra những vấn đề nghiên cứu khác nữa. Văn phong giản dị, ngôn ngữ và chánh tả chính xác. Nội dung và hình thức của Luận án cho phép chúng tôi đánh giá đây là một công trình khoa học tối ưu. Nguyễn Xuân Diện đã đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu về lịch sử Ca trù đồng thời cũng cung cấp được nhiều cứ liệu quan trọng trong việc phục hồi không gian văn hóa Ca trù và phát triển nghệ thuật Ca trù. Mặc dầu đề tài Luận án đặt trọng tâm vào nguồn tư liệu Hán Nôm về việc nghiên cứu Ca trù, chúng tôi đề nghị thêm một phụ lục vào những bài viết đáng kể về Ca trù của các tác giả ngoại quốc như Baron trong quyển Histoires curieuses des royaumes du Tonkin et de Laos. Nên có một bảng ngữ vựng về những thuật ngữ chuyên môn trong Ca trù. Nên có một danh sách những dĩa hát xưa nay về Ca trù (Beka, Columbia…), những băng ghi âm ghi hình. Ngày 26 tháng 3 dương lịch, năm 2007. GS.TS TRẦN VĂN KHÊ ****************************** Ca Trù
Vietsciences-Trần Văn Khê Bề dầy lịch sử.Ca trù theo một số chuyên gia , có thể sinh ra từ đời Lý ( thế kỷ thứ 11) hay muộn nhứt cũng từ đời Lê (thế kỷ thứ 15) cách nay hơn 500 năm. Có nhiều sách sử ghi lại lịch sử của Ca trù. Trong quyển « Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù « của Nguyễn xuân Diện do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành từ năm 2000 , tác giả đã cho chúng gta biết rằng tại Viện Hán Nôm, có tàng trử 39 quyển sách viềt bằng chữ Nôm vể Ca trù , 78 văn bia về thể lệ, sinh hoạt Ca trù. Và còn có 93 sách báo viết bằng chữ quốc ngữ về Ca trù. Chiều sâu của nghệ thuật. Về mặt nghệ thuật thì Ca trù là một loại nhạc thính phòng vô vùng độc dáo. Chỉ có 3 người mà nên đình nổi đám Chỉ có 2 diễn viên một đào nương vừa ca vừa gõ phách, một người đàn đáy phụ hoạ và một người dánh trống chầu vừa tham gia vào buồi trình diễn bằng cách chấm câu , vừa phê phán khen thưởng bằng tiếng tom chát của trống để hướng dẫn người nghe biết tiếng ca lúc nào hay, tiếng phách lúc nào giòn, tiếng đàn lúc nào xuất sắc. Nhạc và Thơ quyện nhau như bóng với hình Người nghe một bài Ca trù thưởng thức được văn chương bóng bảy của câu thơ, thang âm, điệu thức dồi dào của nét nhạc, tiết tấu rộn ràng của tay phách, chữ đàn gân guốc hay bay bướm của nhạc công, không khí nghiêm trang hay rộn rã của buổi trình diễn nghệ thuật trong đó Thơ và Nhạc quyện vào nhau như bóng với hình. Kỹ thuật hát tinh vi , độc đáo Cách ém hơi, nhả chữ, đào nương không mở to miệng, gần như mím môi mà ca thì tròn vành rõ chữ, luyến láy khi đổ hột , lúc đổ con kiến, hơi trong cổ theo kỹ thuật "ậm ự" làm cho lời ca những đoạn buồn, như có tiếng khóc chẳng khác tiếng hát đặc biệt của người Á rập nghe "khàn khàn mà nức nở" xoáy lòng người nghe, khéo biểu diễn thì người cầm chầu không thể dằn lòng, phải thưởng tiếng hát với khổ chầu "xuyên tâm" , hay "song châu" . Cổ phách, phách cái, phách con, cách gõ phách đặc biệt vô song Đào nưong chẳng những hát hay mà tay phách phải vững : 5 khổ phách : sòng đầu, khổ đơn ( hay khổ giữa), khổ rải, khổ xiết, khổ lá đầu, cùng với tiếng đàn đáy đánh đoạn mở đầu. Lúc không hát, chỉ có tiếng đàn biểu diễn đoạn » lưu không « tiếng phách lại phải róc giòn cho người đàn thêm hứng.. Phách ca trù có môt không hai trên thế giới : Phách là môt thanh gỗ hay thanh tre để trước mặt đào nương, gọi là cổ phách. Đào nương dùng hai dùi gỗ để gõ. Trong các nước trên thế giới, khi nhạc công gõ phách hay đánh trống, đều dùng hai dùi giống nhau.Chỉ có trong truyền thống ca trù hai dùi phải khác nhau. . Hai dùi tròn dài, một dùi chuốc hơi nhọn ở phía đầu. Một dùi chẻ làm hai theo chiều dài nhưng cập lại để gõ. Dùi tròn, và nhọn, tượng trưng cho dương vật, dùi chẻ hai, là âm vật. Như vậy hai dùi là Dương Âm trộn hai tiếng khác nhau, một tiếng tròn, một tiếng dẹp, một tiếng cao, một tiếng thấp, một tiếng trong một tiếng đục, một tiếng nặng một tiếng nhẹ, một tiếng Dương một tiếng Âm, chen nhau, xen kẽ, pha trộn, khi gõ riêng từng dùi, khi gỏ hai dùi một lượt gọi là "chát" làm cho tiết tấu có nhịp hẵn hòi mà nghe như không có nhịp, thực mà như hư, có mà như không ,hiện mà như ẩn. Có chỗ tiếng phách bao trùm tiếng hát như làn sóng lượn, lúc điểm đều đặn chấm câu, gõ cùng một lượt với tiếng đàn và tiếng trống chầu. Cách gõ phách làm người nghe hứng thú, không phải nghe tiếng gõ đều đều làm chán tai, mà có tiếng mạnh tiếng nhẹ như cách đánh castagnettes của người Tây ban Nha trong diệu hát flamenco, tiếng trống tabla va bahya của Ấn độ hay cách đàn Rubato đặc biệt của Chopin, khi tay trái đánh đều theo nhịp một cách rõ ràng, tay mặt tha hồ lả lướt trên phím ngà như mây bay, nước chảy không cần theo nhịp, và mang tên là "Rubato chopinesqueé. Trên thế giới chỉ có bốn thí dụ tôi vừa kể trên trong trăm ngàn cách đánh nhịp. Người Ấn độ hãnh diện với cách đánh nhịp như thế, và đã nghĩ rằng trên thế gian chỉ có bên Ấn độ là có đuợc Tala là tiết tấu nhịp điệu rõ ràng và Laya là nhịp mà như không có nhịp. Có người nhạc sĩ nói với tôi : Tala như bước đi của một người phụ nữ, đều đặn . Còn Laya là chiếc váy phất phơ theo bưóc đi. Ngưới ta nghe rõ và đếm đươc bước đi mà không đếm được cái phất phơ của chiếc váy. Trong truyền thống Ca trù không có bài bản như trong Ca Huế hay đòn ca tài tử, mà có những "Lối", hay "Thể" theo danh từ dùng trong Ca trù biên khảo gần giống như Làn điệu trong Hát chéo và Hát bội.Lời thơ có trước Rồi nét nhạc tùy theo thanh giọng của câu thơ mà thể hiện. Nhưng cấu trúc âm thanh thì không thể sai.Thí dụ như có Ba thể điêu Bắc Phản , Mưỡu Hát nói mà có rất nhiều bài. Hát nói do nhiều nhà văn nổi tiếng đạt ra. Sách Ca trù biên khảo của hai tác giã Đỗ bằng Đoàn và Đỗ trọng Huể co ghi lại Dương Khuê,( 13 bài) Nguyễn công Trứ(52 bài), Cao Bá Quát,(16 bài ) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (12 bài) Vô Danh ( 38 bài)Trần Tế Xương (7 bài) Nguyễn Khuyến ( 6 bài)Nguyễn Quí Tân (5 bài)Nguyễn đức Nhu ( 6 bài) , Nguyễn văn Bình (9 bài) Cụ Ưng Bình ( 2 bài : nhưng thật ra Ông Cụ đã sáng tác mấy chục bài mà Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khuơng ái nữ của Cụ đã sưu tập ) Gân đây các Cụ Nguyễn Linh Ngọc, Chu Hà ngoài Bắc có rất nhiều bài. Cũng như trong Nam Nuyễn Quảng Tuân trong tập Ca trù Thú Xưa Tao nhã đã sáng tác hơn 70 bài hát nói với nhiều đề tài hiện đại như Ba lê cảm tác, những bài Hát cảm tác khi sang Nhựt, lúc sang Trung quốc . Các thể rất nhiều. Sách Ca trù biên khảo có ghi lại : Khi Hát chơi tại nhà ả đào hay nhà quan viên 15 thể Hát cửa đình 12 thể Hát thi có 4 giai đoạn : Vãn chỉ cần vài câu Gửi thư, ngâm vịnh để tỏ ra đào nương biết hát Giám khảo chứng nhận và cho phép vào hát Chầu thi. Chầu thi có 28 khúc hát Giám khảo bảo hát khúc nào phải hát và sau khi trúng tuyển vào Chầu cầm ; Chầu cầm có 17 khúc hát. Trúng tuyển Chầu Cầm mới đưọc vào giai đoạn chó là Hát lại hay Phúc hạch Lúc thi giám khảo chấm hát, đàn ; Kỹ thuật xong mới đến nhan sac. Và cuối cùng xét đến hạnh kiểm. Giải nhứt là Thủ khoa ; Giải nhì Á nguyên Đến đêm hát Giã đám, các đào nương trúng giải xếp hàng đôi : Đứng đầu bên trái là Thủ khoa rội đền các cô giải ba, bớn, năm, sáu Đầu hàng bên mặt là Á nguyên và tiếp theo giải bảy tám, chín mười Sáng hôm sau đến lãnh thưởng : Thủ khoa lãnh 30 quan tiền 10 vuông nhiểu điều, 1 cân trà Tàu và 1 cái quạt Tàu Á nguyên lãnh 26 quan tiền 6 vuông nhiểu điều, nửa cân trà Tàu và một cái quạt Tàu Từ giải ba 24 quan tiền trở xuống thì mỗi giải ít hơn giải trước 2 quan tiền 22, 20, 18 đến giải thứ 10 thì còn 10 quan tiền, không có nhiểu điều và trà Tàu mà chỉ có 1 quạt Tàu. Xong rồi dự tiệc : ngoài các cổ cho chức sắc trong làng , Thủ khoa và Á nguyên ngồi một cổ, 8 cô từ giải 3 đén giải 10 chia ra ngồi 2 cổ. Thức ăn có giò, nem, ninh mộc,có sơn hào là hai con chim bồ câu hầm,và hải sãn là 1 con cua biển, 1 con cá trắm. Mỗi cỗ có 2 bánh chưng, 2 bánh dầy, một mâm bánh đồ đường Lúc ăn có nhạc bát âm giúp vui.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 3:50:45 GMT 9
Phần 2 - Những chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù Người ca nữ cầu Trò - Tranh: Bùi Xuân Phái Xung quanh lối chơi nghệ thuật ca trù cũng đã lưu truyền biết bao câu chuyện linh thiêng khiến cho nghệ thuật càng trở nên u hiển. Nào là nữ thần ở đền Hàng Trống vốn là một ca nữ tài danh trong phủ chúa Trịnh ứng vào bà đồng già mà khiển trách người ta đem ả đào đến hát trong ngôi đền của bà. Nào là chuyện những cô đào chết vào giờ thiêng trên đường đi hát mà mối tự đắp thành mộ, hiển linh khắp một vùng quê xứ Đoài... Chuyện rằng vào thời Lê - Trịnh có rất nhiều ca nữ thanh sắc vẹn toàn từng phục vụ trong phủ. Đó là câu chuyện về nàng Nguyễn Thị Huệ ở giáo phường Cựu Lâu bên hồ Lục Thuỷ (nay gọi là hồ Hoàn Kiếm, hồ Gươm). Khi nàng 21 tuổi, trong một đêm hát ở phủ chúa nàng đã lọt vào mắt xanh của An Đô vương Trịnh Cương rồi được nhà chúa vời vào cung. Nàng rất được nhà chúa yêu vì ban cho nàng danh hiệu Ngọc Kiều phu nhân. Vào một năm nọ, kinh thành Thăng Long bị một trận dịch lớn, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc cứu được rất nhiều người. Về già nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống yên tĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Dân trong vùng đã xây một ngôi đền thờ nàng ở phố Hàng Trống, trên mảnh đất có ngôi nhà mà chúa Trịnh Cương xây tặng mẹ nàng khi bà còn sống. Nay đền toạ lạc ở số 82 phố Hàng Trống. Đền có bức hoành phi “Nghiễn thiên muội”(Em gái của trời), để tôn vinh và khẳng định ân đức và uy linh của vị nữ thần là đào nương được thờ phụng trong đền. Tục ở phố Hàng Trống từ xưa đến nay không riêng ở đền mà ngay các tư gia có việc vui mừng cũng không tìm ả đào về hát. Vì một năm,nhân ngày tiệc,dân phố tìm ả đào về hát thờ, một cô đương hát tự nhiên ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép mê man bất tỉnh. Dân làng sợ hãi kêu khấn. Nữ thần ứng vào bà đồng già mới bảo rằng: “Các ngươi đem ả đào về đây hát là làm điều vô lễ với ta, nếu lần sau còn như thế nữa ta sẽ vật chết ngay”. Một lúc ả đào dần dần tỉnh lại,khoẻ mạnh như thường. Từ đấy dân phố Hàng Trống không ai dám tìm ả đào về hát ở đền hoặc ở nhà nữa. Nàng là Huệ - tên một loài hoa đẹp, trắng tinh khôi, thơm ngan ngát và thanh tịnh. Để tỏ lòng thành kính trước người ca nữ tài danh,nhân hậu và hào hiệp, những người đến lễ đền Hàng Trống từ xưa đến nay đều không mang hoa huệ vào đền, dù là để dâng lên nàng với tất cả sự thành tâm nhất. Ca trù. Tranh sơn mài của Lý Anh Vũ Nếu như Kinh Bắc là đất quan họ, thì xứ Đoài là một trong những cái nôi của ca trù cửa đình. Các giáo phường, các nơi có nhà hát cô đầu ở Xứ Đoài có thểt kể như: Phù Xa, Đông Tác (Sơn Tây), Gạch (Phúc Thọ), Thượng Mỗ (Đan Phượng), Sơn Đồng, Ngãi Cầu (Hoài Đức)... Dân gian vùng Kẻ Mía (làng cổ Đường Lâm) còn lưu truyền câu chuyện về cô đào nọ đã đẻ rơi và đứa bé đã chết vào giờ thiêng ngay trong đêm hát ở đình làng Mông Phụ. Còn dân Phố Gạch thì lưu truyền câu chuyện về người ca nữ bị cảm trên đường trở về nhà sau một đêm hát, đã chết vào giờ thiêng khiến cho ngôi mộ bị mối đùn thành ra một nấm mồ bên cây cầu nhỏ. Chuyện rằng: Trên con đường Kẻ Chợ - Xứ Đoài, gần thị trấn Gạch, có một cây cầu tên gọi cầu Trò, nằm trên địa phận thôn Gia Hòa, xã Phúc Hoà, Phúc Thọ. Xưa có một cô đào từng làm mê mẩn bao quan viên, bởi vẻ đẹp đoan trang và kiều diễm, bởi nhịp phách giòn tan và những luyến láy trác tuyệt. Một đêm mưa gió, tan cuộc hát, nàng trở về nhà; không may cho nàng, vừa đến cầu thì nàng cảm lạnh mà chết. Sáng hôm sau, đã thấy mối đắp lên thành nấm mồ nhỏ. Dân làng thương nàng, quan viên say mê tiếng hát của nàng đã lập miếu thờ nàng ở ngay bên cầu. Câu chuyện ấy, tình cảnh ấy đã làm bao người xót xa thân phận “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” của người ca nữ nọ. Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện ấy, cảm động viết bài thơ Cảm tạ, với hai câu kết: Tạ lòng nào biết nên chi được Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng! Sau khi đọc bài Cảm tạ, chung với mối đồng cảm ấy, hoạ sĩ Bùi Xuân Phái còn vẽ cả một bức tranh ca nữ Cầu Trò. Người ta còn bảo rằng, sau khi nàng chết, cầu ấy gọi là cầu Trò (trò là nhà trò, trò là trù - ca trù). Thật là câu chuyện rất thi vị mà cũng rất thương tâm! Bức chạm nhạc công ca trù đền Lê Khôi (Thạch Hà, Hà Tĩnh). Thế kỷ XVIII.. Ảnh Đặng Hoành Loan Các câu chuyện linh thiêng trong thế giới ca trù không ai biết nhiều bằng các “quan viên” vốn là chỗ thâm giao với các nhà hát cô đầu ngày xưa. Một trong những người biết nhiều chuyện nhất chắc phải là nhà văn Nguyễn Tuân. Ngày nay, đọc lại Chùa Đàn của ông, những người yếu bóng vía không khỏi rùng mình bị ám ảnh bởi không khí huyền hoặc của nó. Đó là chuyện về một người vợ giữ gìn cây đàn Đáy của chồng quá cố để lại. Người vợ, cũng là một đào nương kể về cây đàn: “Tang đàn làm bằng nắp ván thôi cỗ quan tài một người con gái đồng trinh”. Và “cứ vào những đêm tối giời không tiếng gà gáy chó kêu và thứ nhất là vào những đêm áp giỗ nhà tôi, thường cây đàn vẫn dở giời, thành đổ mồ hôi cứ vã ra như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật mẩy với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm”. Thế rồi có người khách mê tiếng hát của đào nương mà đến xin nghe bằng được, cho dù cô đào đã nhắc lại lời thề không bao giờ hát với ai khác nữa. Người khách cũng không ngại ngần chơi bằng cây đàn thờ treo ở gian thờ của nhà đào nương, cho dù biết là mình sẽ chết vì dám động vào cây đàn thiêng... Và còn biết bao câu chuyện khác nữa xung quanh cuộc đời của các đào nương tài danh mà bạc phận, không để cho nhân gian biết lúc bạc đầu, đem cả tiếng hát tuyệt kỹ xuống hoàng tuyền xa thẳm, không để lại tuổi tên. Phần 3 - Hát cửa đình 500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Trong ngày hội lớn đó 8 giáp trong làng cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Lê Đức Mao đã thay mặt 8 giáp viết 9 bài văn để các giáp đọc và khen thưởng cho các cô đào. Đó là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, hát cửa đình là một sinh hoạt không thể thiếu trong mỗi dịp tế thần Thành hoàng làng, trở thành một nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Những cuộc hát cửa đình này đều do các giáo phường đảm nhiệm Bức chạm tiên gảy đàn Đáy ở đình Lỗ Hạnh, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang Ở thế kỷ XV ca trù đã là một bộ môn hoàn chỉnh về lối chơi (qua phát hiện tư liệu sớm nhất về ca trù Việt Nam) Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù có từ thời Lý - Trần -Hồ, thế kỷ XI, XII khi căn cứ vào các bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái Lạc (Hưng Yên) và mấy chữ ả đào, đào nương trong các sách cổ Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Công dư tiệp ký. Gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ Hán Nôm xác thực và tin cậy, chúng ta chỉ mới có tài liệu về ca trù sớm nhất là khoảng thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy - một cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy ở các ngôi đình làng, chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tư liệu chữ viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả (A.1855) soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt trong văn học viết. Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng: ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội có trước năm 1500 và hát cửa đình đã có trước năm 1500. Bài thơ cho ta mường tượng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong ngày hội lớn của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8 giáp, đã cùng nhau thưởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm và Mừng nay tiệc ca trù thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát người đàn (đào và kép). Mỗi khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào tang trống để thưởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng ném thẻ vào chậu thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thưởng khiến cho họ hát càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai cho thấy tiệc ca trù được mở để thờ thần. Hát thờ ở cửa đình Đông Ngạc cho thấy cái trống chầu đã có vai trò riêng: để thưởng và để phạt (để khen và để chê), điều này nói lên rằng việc thưởng thức ca nhạc đã đạt được đến một chuẩn mực, một trình độ đáng kể. Chính việc khen chê như vậy (khen gọi là thưởng đào, hoặc thướng đào) đã góp phần nâng cao các thành tố trong cuộc biểu diễn lên một trình độ mới. Tiếng hát, tiếng phách của đào nương, tiếng đàn đáy của kép và lời thơ đã có cái tiêu chuẩn để đánh giá. Trải qua nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến đã trở thành một nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ. Bức chạm nhạc công đàn Đáy ở đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ Thế kỷ XVI sự phát triển và phổ biến của ca trù được ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân gian tại các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang) và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các bức chạm hoặc tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có tượng tròn hình người đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình con hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khác có cả đám nhạc công đang hòa nhạc trong đó có 1 người đàn ông ngồi cầm đàn đáy. Hình ảnh này cho thấy ca trù đã có mặt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt trong điêu khắc đình làng. Ở chùa Cói (Thần Tiên tự), xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc cũng có bức chạm người phụ nữ gảy đàn đáy. Tiếc rằng hiện vật đã bị cháy cùng với ngôi chùa, và chúng ta chỉ còn lại bức ảnh chụp bức chạm này. Đây là tư liệu mỹ thuật về đàn đáy duy nhất hiện biết tìm thấy ở một ngôi chùa. Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các đình, đền, có thể thấy rằng: dàn đáy đã trở nên phổ biến ở thế kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu được sử dụng trong các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông (có khi có cả người múa), mà người đàn có thể là nam, có thể là nữ với tư thế là đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất trong cuộc hát. Thế kỷ XVII và XVIII nghi lễ hát cửa đình rất thịnh trong các làng quê Tiếp tục dòng chảy của của điêu khắc đình làng từ thế kỷ trước, sang đến thế kỷ XVII và XVIII chúng ta vẫn bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy. Điều này càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và phong tục dân gian, và hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành một nét sinh hoạt phổ biến tại các đình làng dân gian. Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII như đình Đại Phùng (xã Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội), đình Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội), đình Xốm (xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các bức chạm những người đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc tả hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu tả cả đám nhạc công đang hòa nhạc. Đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) cũng cho các cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn xướng ca trù ở thế kỷ XVIII. Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn chứ không còn vẻ mộc mạc thô phác của các bức chạm trước đó. Điều này thể hiện rõ nhất là những đặc tả về trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá kiểu cách, và những bộ trang phục của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là tư liệu rất quý, làm cơ sở cho việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian. Về các nhạc cụ và trình diễn các nhạc cụ, các bức chạm này không những miêu tả một cảnh hòa nhạc vui vẻ, với sự góp mặt của đàn đáy và cỗ phách, của sáo, trống cơm, chũm chọe. Điều này cho biết trong sinh hoạt ca trù tại các cuộc vui mang tính cộng đồng như thế, ngoài đàn đáy và phách, sự góp mặt của các nhạc cụ khác càng làm cho không khí thêm rộn ràng và ca trù trong lúc này không chỉ có ba thứ nhạc cụ là trống chầu, đàn đáy và phách như ca trù về sau. Như vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử dụng cây đàn đáy, chúng ta biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Tĩnh. Nguồn tư liệu văn bia cũng cho biết giáo phường ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định. Tỉnh có nhiều bia nhất là Hà Tây cũ (33 bia), trong đó các huyện có nhiều bia là Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ (8 bia), Thạch Thất và Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia). Trong các huyện của các tỉnh thì huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều bia nhất, với 19 bia. Hà Nội có 11 bia, chủ yếu ở ngoại thành và đều thuộc thế kỷ XVIII. Các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định mỗi tỉnh 1 bia. Những tỉnh thành khác, tuy không có các văn bia ghi nhận nhưng thực tế, sinh hoạt ca trù đã có mặt ở hầu khắp các làng quê mỗi dịp tế thần. Các bản hương ước, tục lệ của các làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn trong làng đều có hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả nửa tháng trời. Hát cửa đình là hát thờ nên các bài bản đều có quy định khá thống nhất, trở thành một lệ tục. Mỗi giáo phường được quy định được phép hát ở các cửa đình mà mình được Ty giáo phường phân chia. Hàng năm, cứ đến ngày tế lễ ở các làng này là các giáo phường lại xách đàn phách đến hát hầu trước cửa đình theo lệ. Đi hát như vậy gọi là hát lệ. Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc, Bắc phản, Hát Giai, Độc phú...trong tiếng hòa âm của các nhạc khí. Giáo phường được mời đến hát nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các Thánh thờ trong đình để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có chữ ấy thì hát thật nhỏ, và tránh đi; ví như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc là Lữ. Nếu cô đầu không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người quản giáp của giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu , đến trước điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên. Trong làng, người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về âm luật, biết thưởng thức ca trù và là đại diện cho cả làng để khen chê đào nương, bình luận và tán thưởng về các ngón đàn, các luyến láy của giọng ca. Thưởng phải công minh thì làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng rãi” thì làng tốn tiền, thưởng mà “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, chê là không biết nghe hát nghe đàn. Có khi, người cầm chầu mà không biết thưởng thức, không biết khen ngợi những câu hát công phu, những tiếng phách cao siêu, những tiếng đàn bén quyện mà đào kép công phu rèn tập, gặp phải cô đào đanh đá, cô ta sẽ hát một câu khiến người cầm chầu phải xấu hổ mà bỏ roi chầu không dám cầm chầu nữa. Làng tôi ở Đường Lâm, năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào phải hát rằng: “Nào những ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”. Lại có chuyện nực cười mà một đào nương già (hiện còn sống) đã kể lại với chúng tôi rằng: Bà đi hát ở một làng kia, khi hát, các thẻ tre thả xuống rất nhiều làm cho đào kép rất phấn chấn, bà đã nhẩm đếm được đến hàng trăm thẻ. Thế nhưng cuối cuộc hát, khi làng đếm thẻ để trả tiền cho giáo phường thì chỉ thấy có vài chục thẻ! Lại có chuyện khi người cầm chầu thưởng tiếng “chát” vào tang trống, nhưng chú nhỏ ngồi bên cạnh lại buồn ngủ quên cả việc ném thẻ khiến cho đào kép không vui, nên hát qua loa cho xong chuyện mà về. Đã nửa thiên niên kỷ trôi qua, hát cửa đình là một sinh hoạt văn hóa tinh thần rất độc đáo của người Việt trên khắp châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của sự hoà quyện giữa văn chương và âm nhạc vừa hoang sơ mộc mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học. Đó là “chút hương hỏa của tổ tiên” để lại cho cháu con hôm nay.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 3:51:49 GMT 9
Phần 4 - Giáo phường ca trù Giáo phường ca trù được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Quyền lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm bia đá dựng ngay trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương và kép đàn đều phải thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, như: họ Xuân, họ Đông, họ Thịnh, họ Từ ... Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Đó là hình thức nghệ danh độc đáo trong làng ca hát Việt Nam thời trước. Một văn bia xác nhận quyền lợi của giáo phường - Ảnh: tác giả cung cấp Cách tổ chức giáo phường Hàng năm, xuân thu nhị kỳ, khi “thong thả nhân gian nghỉ việc đồng” thì cũng là lúc các làng vào đám. Khắp các làng quê thường mở hội để tế thần, tế thành hoàng, cầu mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh. Trong phần tế lễ không thể thiếu việc hát thờ thánh. Theo lệ, các giáo phường lại xách đàn, phách đến các đình đền để hát thờ trong suốt kỳ lễ hội. Xưa, các đào kép được tổ chức thành các giáo phường. Nhiều giáo phường được đặt dưới sự quản lý của Ty giáo phường. Theo ghi chép của các văn bia thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt động ca xướng tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của huyện. Ty giáo phường huyện quản lý hoạt động của các giáo phường các xã trong huyện. Mỗi huyện thường có một Ty giáo phường. Người đứng đầu Ty giáo phường là một ông trùm. Ty giáo phường phân chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phường. Việc giữ này được truyền từ đời này sang đời khác. Theo đó các giáo phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc được phép tuỳ ý mời giáo phường khác đến hát giúp trong những ngày tiệc của làng và hưởng quyền lợi. Đặc biệt là giáo phường sẽ được hát trong lễ xông đình trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng. Ngược lại, giáo phường cũng phải có một số trách nhiệm đóng góp vào các nghi thức hát xướng tế lễ của làng, theo mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo phường. Quyền lợi của giáo phường được xác định bằng một tấm bia đá đặt trang trọng ngay trước cửa đình làng mà giáo phường được quyền hưởng lợi. Hát múa ca trù. Chạm gỗ thế kỷ 18. Đền Lê Khôi, Hà Tĩnh - Ảnh: tác giả cung cấp Việc giữ cửa đình này được truyền từ đời này sang đời khác, tuy nhiên nếu cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo phường có thể sang nhượng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có đình, từ đó làng xã này không phải trả tiền cho giáo phường như quy định trước đó nữa. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có bản rập của 64 văn bản mua bán này. Trong đó có 14 văn bản soạn vào thế kỷ XVII, có 39 văn bản soạn vào thế kỷ XVIII, có 9 văn bản soạn vào thế kỷ XIX và 2 văn bản không ghi rõ niên đại. Căn cứ vào niên đại của các văn khế mua bán quyền giữ cửa đình, chúng ta thấy việc mua bán xảy ra phổ biến nhất là vào thế kỷ XVIII. Và trong số các bia thuộc thế kỷ XVIII thì phần lớn là thuộc về nửa sau của thế kỷ này. Việc soạn văn bản sang nhượng, mua bán các lệ hát cửa đình phần lớn đều do các giáo phường và quan viên làng xã có đình thực hiện, không ghi rõ tên người soạn bia, nhưng có xác nhận của các bên với họ tên và chức vụ rõ ràng. Có 3 văn bia ghi rõ soạn giả soạn bản giao kèo về việc sang nhượng quyền giữ cửa đình do các Tiến sĩ soạn. Đó là TS. Phan Lê Phiên soạn 1 bia, TS. Đào Hoàng Thực soạn 2 bia. Những tư liệu văn bia về hát cửa đình với lượng thông tin phong phú cho thấy trong suốt thời gian lịch sử dài lâu (ít nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích ca trù, coi việc thưởng thức ca trù như một nhu cầu văn hóa, và quan trọng hơn, việc biểu diễn ca trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả người nghệ sĩ dân gian lẫn các nhà tổ chức. Những nét đẹp nhân văn của giáo phường xưa Xã có thể có một hoặc nhiều giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ riêng. Văn bia về việc các giáo phường được tập hợp theo “họ”, thể hiện trên bia 11 bia có bản rập lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các họ thống kê được trên bia gồm 8 họ: họ Xuân (2 bia), họ Đông (4 bia), họ Thịnh (1 bia), họ Từ (1 bia), họ Hoàng (1 bia), họ Việt (1 bia), họ Kiều (1 bia), họ Khổng (1 bia). Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Người thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trước tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Những văn bia này đã cung cấp cho chúng ta một tư liệu quý về sinh hoạt và quan hệ giữa các cá nhân và có thể coi là một nét đẹp trong một giáo phường ca trù thời trước. Gia đình nghệ nhân ca trù Nguyễn Văn Mùi, 27 Thuỵ Khuê, HN - Ảnh: tác giả cung cấp Giáo phương ca trù xưa còn tôn vinh tri ân người có công truyền nghề. Bia Bản huyện giáo phường lập bi, tạo năm Vĩnh Trị 5 (1681), đặt tại đình xã Trung Việt, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang. Văn bia cho biết có vị trong Ty giáo phường xã Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, đạo Kinh Bắc, vì có ngoại tổ họ Hà là Phúc Đạo, ở xã Trung Trật trước có mở nghiệp giáo phường, sinh con gái Hà Thị Khánh lấy chồng họ Nguyễn ở Đông Lâm và tạo nên giáo phường ở đây. Nay các vị trong giáo phường xã Đông Lâm nhớ đến ân nghĩa sinh thành của ngoại tổ, tỏ lòng báo đáp, đặt ra lệ, hễ đình Trung Trật có mở tiệc thì các khoản tiền tiệc, tiền khao và tiền lễ xông đình, các khoản tiền làm cỗ, thảy đều do giáo phường Đông Lâm trang trải. Bia còn ghi tên các vị ngoại tổ họ Hà do dân xã Trung Trật cúng giỗ. Đây cũng là một nét đẹp nhân văn của một giáo phường ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành kính tri ân người có công gây dựng nghề cho giáo phường. Giáo phường ca trù ở nông thôn hoạt động bán chuyên nghiệp. Họ là những người nông dân vẫn phải lo việc đồng áng, chăn tằm dệt cửi. Họ được cha mẹ hoặc các đào kép lớn tuổi trong “họ” dạy dỗ về nghề. Người trong giáo phường đều phải tuân thủ các phong tục và luân lý trong làng trong họ. Họ không được phép làm những việc bất chính. Nếu vi phạm, họ bị các bậc cao niên và người Quản giáp luận tội và bắt phạt, thậm chí đến bị đuổi ra khỏi giáo phường và thông báo cho các giáo phường khác biết để không giáo phường nào cho vào nữa. Việc đi hát ở các đình miếu bao giờ cũng do người Quản giáp cắt đặt, và thường là chồng đàn vợ hát, anh đàn em hát, bố đàn con hát. Trong giáo phường xưa, việc thờ kính thầy dạy rất được xem trọng. Trò coi thầy như cha mẹ, “sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thường dạy dỗ được nhiều học trò thành nghề và rất được kính trọng. Mỗi khi các học trò đi hát được trả tiền công vẫn thường trích ra một khoản tiền để góp với giáo phường cung dưỡng thầy. Đối với giáo phường, tất cả các công việc như lễ tế tổ hàng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù, việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở xiêm áo để công nhận một cô đào bắt đầu được hành nghề đều được tổ chức và tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo phường như thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo phường, khiến cho đào kép ngày xưa rất được cộng đồng làng xã trân trọng và kính nể. Ca trù còn lại được đến hôm nay chính là nhờ các đào kép xưa đã từng sống trong các giáo phường như thế truyền lại.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 7:25:04 GMT 9
LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ [1] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Hôm nay nhân ngày lễ khai mạc niên khóa Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật, tôi rất hân hạnh được cha Khoa trưởng ủy nhiệm cho thuyết trình cùng quý vị về một đề tài rất cũ nhưng lại rất mới, đó là Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. Trước khi vào đề, xin quý vị hãy chia vui cùng chúng tôi khi thấy Viện Đại Học Minh Đức nói chung và phân khoa Triết học nói riêng càng ngày càng phát triển. Riêng khoa Triết học này đã hoàn toàn thay đổi bộ diện. Từ một phân khoa Triết học nó đã triển dương thành một Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật. Từ một cơ sở khiêm tốn ở đường Chi Lăng, Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật đã di chuyển về địa điểm hiện thời với những phòng ốc khang trang, với một ban giám đốc tăng cường, với một ban giáo sư chọn lựa cùng nhiều ban học mới. Đà phát triển nay đã trực tiếp biểu dương được ý chí cương quyết và lòng tha thiết muốn vươn lên, muốn tiến tới của Cha Khoa Trưởng cũng như của Ban Giám Đốc. Nó cũng còn biểu dương được ý nguyện của trường là tích cực góp phần xây dựng quốc gia, đào tạo nhân tài cho đất nước. Chắc quý vị cũng đã nhận được rằng với hai chữ Minh Đức, Viện Đại Học Minh Đức đã cố nói lên cái quyết tâm muốn phục hồi những giá trị tinh thần của tiền nhân, muốn hòa hài Á Đạo, lẫn Âu thuật, ngõ hầu tạo nên những con người toàn diện, những nhân tài chân chính, đích thực cho quốc gia. Cũng vì muốn tạo nên những con người toàn diện, nên ngoài chương trình nhân văn triết học, nghệ thuật chọn lựa, Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Minh Đức sẽ còn đem võ thuật vào Đại Học đường. Chủ đích là mỗi sinh viên khi tốt nghiệp sẽ thành một võ sư thực thụ nữa. Nhưng ngoài vấn đề trí dục, thể dục, Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật chúng tôi còn tha thiết đến vấn đề đức dục, còn tha thiết đề cao đến giá trị tinh thần, đề cao tinh thần nhân loại. Chúng tôi cố tâm đào tạo cho sinh viên trở thành những người tài đức song toàn. Chúng tôi quan niệm rằng đại học không phải chỉ là nơi để truyền thụ văn chương, kỹ thuật, triết lý suông, mà chính còn phải là môi trường để tạo nên những con người toàn diện, biết sống xứng đáng của danh hiệu con người, biết trọng nhân cách, danh dự, biết kính trên, nhường dưới, biết xả kỷ vị tha, biết hy sinh cho đại nghĩa. Chính vì thế trong bài thuyết trình của tôi nhưng cũng là của trường này, chúng tôi muốn chọn đề tài: Lễ, Nghiã, Liêm, Sỉ. Đề cập đến Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ ngày hôm nay, trong giờ phút long trọng của buổi lễ khai trường này, tức là muốn dùng chiêu bài Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để đặt nặng vấn đề đức dục, vấn đề giá trị tinh thần, tình tương thân, tương kính và tình đoàn kết để phuc vụ cho xứ sở, phụng vụ cho tương lai. Sở dĩ chúng tôi đề cập đến vấn đề Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhất là thấy từ ít lâu nay, do ảnh hưởng chiến tranh tàn phá, cũng như do ảnh hưởng nếp sống vật chất văn minh, người Việt Nam chúng ta đã mục kích nhiều cảnh băng đọa tinh thần, những nếp sống phù du sốc nổi, những thái độ buông thả quá trớn, không có đếm xỉa gì đến đạo lý cương thường. Nay là thời hậu chiến, là thời chúng ta phải sửa sang lại tất cả những tàn phá về phương diện vật chất lẫn tinh thần đó. Những tàn phá về vật chất có thể được sửa chữa bằng tiền bạc, nhưng những tàn phá về tinh thần thì chỉ có thể sửa chữa được bằng công trình cổ súy và phục hưng lại nền đạo lý cổ truyền, khuyến khích mọi người phải tu tỉnh phải sống theo cương thường, phải tiết độ, phải cần cù lao tác. Hầu chuyện cùng quý vị và anh em sinh viên hôm nay về Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ chúng tôi cũng còn có mục đích là tiếp tay với cụ Trọng Nghĩa, một vị thượng khách của trường, hiện có mặt nơi đây, một vị lão thành khả kính đã gần 80 tuổi đầu mà từ nhiều năm nay đã tốn công, tốn của để hô hào trên mặt báo chương cũng như trên các đài truyền thanh, truyền hình để quảng bá sâu rrộng vào trong quần chúng 4 chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ ngõ hầu vãn hồi nhân tâm, thế đạo. Vì thế mà mấy năm nay, chúng ta thường thấy trên mặt các báo Chính luận, Hòa bình, Sóng thần, Tiền tuyến, những khẩu hiệu: Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ.-Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ còn, Việt Nam còn v.v… Thưa quý vị, Chủ trương dùng bốn chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để phục hưng tinh thần đạo đức cho quốc gia dân tộc là một chủ trương cố hữu từ ngàn xưa. Cách đây 2600 năm, Quản Trọng (- 645) khi làm tướng quốc nước Tề, đã áp dụng 4 chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để làm quốc sách chấn hưng tinh thần đạo đức cho dân. Quản Tử nói: «Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là Tứ duy tức là bốn đầu dây của một nước. Bốn đầu dây ấy nếu không dương lên được thì nước sẽ diệt vong.» Nguyên văn của thiên Mục dân trong sách Quản Tử như sau: «Nước có 4 đầu dây. Một đầu dây đứt thì phải nghiêng. Hai đầu dây đứt thì nước phải nguy. Ba đầu dây đứt thì nước phải đổ. Bốn đầu dây đứt thì nước phải diệt. «Nếu nghiêng thì còn làm cho ngay lại được; nếu nguy có thể làm cho yên được; nếu đổ có thể nâng lên được; nếu diệt vong, thì không thể nào gây dựng lại được nữa. «Thế nào là tứ duy? Một là Lễ, hai là Nghĩa, ba là Liêm, bốn là Sỉ. Lễ là không vượt quá chừng mực tiết độ. Nghĩa là không hành động theo lối riêng tư (mà làm điều hợp lý). Sỉ là không làm điều sằng bậy. Bởi không vượt quá chừng mực nên người trên sẽ vững ngôi. Bởi không hành động theo lối riêng tư, nên người dân sẽ không xảo trá. Bởi không che dấu lỗi xấu của mình, nên hành vi tự nhiên sẽ hoàn hảo. Bởi không làm điều xằng bậy, nên những chuyện gian tà sẽ không sinh.» [2] Ngày nay, khảo lại vấn đề, xin quý vị hãy cùng tôi đào sâu hơn cân nhắc kỹ càng hơn, có như vậy chúng ta mới thưởng thức được cái hay cái đẹp của người xưa. Tôi xin lần lược bàn về từng chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. LỄ Lễ là một danh từ rất bao quát, hàm súc rất nhiều ý nghĩa. 1) Lễ trước hết là một danh từ chung bao quát mọi định luật thiên nhiên chi phối vạn vật quần sinh. (Ensemble des lois naturelles) 2) Lễ là nghi lễ, là tất cả các bổn phận con người đối với trời đất, tổ tiên (Céremonies, rites religieux, rituel, céremonial). 3) Lễ là tất cả các quy luật chi phối sinh hoạt tâm thần con người. (Lois morales) 4) Lễ là tất cả các các tổ chức chính trị xã hội (organisation politique et sociale) có thể đem đại hòa, đại thuận đến cho nhân quần. 5) Lễ là những cách cư xử tiếp nhân, đối vật thanh lịch, khéo léo (Bonnes manières, convenances, décence, bonne conduite, bonne tenue, courtoisie, bienséance, politesse). 6) Lễ là phong tục, tập quán hay nói đúng hơn là tất cả những gì gọi là thuần phong mỹ tục (Usages et coutumes, tradition).[3] Gần đây các học giả Au Châu, như Escarra,[4] như Needham[5] đã tìm hiểu sâu xa về chữ Lễ. Các ông cho thấy rằng dân Trung Hoa cũng như các dân tộc khác, xưa nay thường sống theo hai bộ luật. Một là theo bộ luật tự nhiên, do Hóa công đã ấn định. Bộ luật này được gắn liền vào với tính chất vạn hữu nhân quần. Bộ luật này chi phối vạn hữu từ các vì tinh tú trên trời, đến con người nơi gian thế. Trung Hoa gọi những định luật tự nhiên là Lễ. Hai là theo bộ luật nhân tạo, do chính quyền lập ra. Bộ luật này vì là nhân tạo, nên có khi hợp lý có khi không hợp lý và thường có tính cách gò bó, khô khan, cứng cỏi không uyển chuyển như những định luật tự nhiên. Trung Hoa gọi những định luật tự nhiên này là Pháp, hay Pháp luật.[6] Từ khi đức Khổng ra đời cho đến khi các Nho gia chân chính sau này, nhất nhất đều chủ trương dạy con theo nững định luật tự nhiên, theo những định luật tâm lý, nhân sinh, tức là phải theo Lễ. Chủ trương Lễ trị này cũng còn được gọi là Nhân trị. Chủ trương Lễ trị hay Nhân trị có thể toát lược như sau: Muốn sống một đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia hay xã hội hạnh phúc, ý nghĩa, đầm ấm, hòa hợp, cần phải biết rõ định luật thiên nhiên chi phối vạn vật, chi phối sinh hoạt cá nhân và đoàn thể. Muốn tìm cho ra những định luật thiên nhiên cần phải: Biết quan sát ngoại cảnh. Biết tâm lý. Khảo lịch sử, phong tục. Dựa theo lẽ phải.[7] Có vậy mới suy ra được hoạt động, cư xử lý tưởng. Những định luật thiên nhiên chi phối con người có thể quy kết lại thành 3 đề mục: 1) Con người sinh ra đời cần phải biết thích ứng với hoàn cảnh. Chẳng những thế lại còn phải biết lợi dụng hoàn cảnh để mà sống cho vui, cho mạnh. 2) Mặt khác, con người sinh ra đời còn có nhiệm vụ truyền giòng giống. 3) Những nhiệm vụ chính yếu nhất của con người là phải tiến hóa để tiến tới chân, thiện, mỹ. Suy ra ta sẽ có những tiêu chuẩn, những định tắc sau đây để hướng dẫn hành vi, sinh hoạt của ta. 1) Phải biết vệ sinh, phải biết hiếu sinh. 2) Phải lo cho có một dòng dõi hoàn hảo, lành mạnh. 3) Phải lo gia tăng sinh lực, trau dồi tình cảm, mở mang trí tuệ, nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, vươn mãi lên theo hướng chân, thiện, mỹ. Vậy cái hay là cái gì làm cho đời sống ta thêm mạnh, thêm sướng, thêm trật tự, thêm an lạc, thêm hòa hợp,thêm văn minh, thêm tiến bộ. Cái dở là cái gì làm cho đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia trở nên rối loạn, bệnh hoạn, vô lý. Nói cách khác, cái gì làm ta sống xứng đáng với danh nghĩa con người, cái gì nâng cao giá trị con người, nâng cao phẩm cách con người, khiến con người tiến về phía tinh thần, trở nên thanh cao là hay. Cái gì làm con người trở nên cục cằn, ti tiện, gian manh, tàn ác, trở nên thoái hóa giống như muông thú là dở.[8] Thánh quân, hiền phụ xưa khi lập ra lễ, lập ra những định tắc nhân luân đã dựa trên những tiêu chuẩn thiên nhiên hết sức chắc chắn. 1) Vì thấy trời đất liệt bày lẽ tôn ti trật tự, nên các Ngài minh định rằng xã hội này cần phải có tôn ti trật tự, mới có thể sống thái bình hoan lạc, vì thế nên các Ngài đã minh định phận vụ cho mỗi hạng người.[9] 2) Các Ngài minh định rằng con người cần phải theo định luật tự nhiên thì mới có thể có đời sống hay, đẹp; mà đã nói đến định luật thì phải nói đến tiết độ. Cho nên các Ngài suy ra rằng con người không thể sống một cuộc đời buông thả, nhưng làm gì cũng có một chừng mực, tiết độ.[10] 3) Các Ngài minh định rằng con người sinh ra ở đời cần phải nhân nhượng lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau, mới có thể đi đến chỗ đại hòa, đại thuận. Nếu phàm gặp trường hợp bất đồng ý kiến nào, người xưa cũng cố điếu đình, nhân nhượng để đi đến cỗ ý hiệp tâm đầu tránh mọi chuyện đổ vỡ. Chính vì thế mà ta thường hay nói: Lễ nhượng.[11] 4) Các Ngài cũng chủ trương rằng muốn được lòng người khác, con người ta phải luôn luôn khiêm cung, nhún mình, trọng người. Chính vì thế mà khi nói đến Lễ, ta thường liên tưởng đến hai chữ Lễ phép, Lịch sự.[12] 5) Các Ngài cũng thường quan niệm rằng thuần phong, mỹ tục chính là kinh nghiệm của tiền nhân. Chúng gói ghém tất cả những cách thức tốt đẹp để đối phó với mọi hoàn cảnh, để giải quyết mọi công việc, vì thế cần phải bảo trọng.[13] Tóm lại nếu mọi người trong một quốc gia xã hội: - Sống theo những định luật tự nhiên. - Không tự do buông thả. - Biết lo trau dồi tâm thần cho một ngày một nên cao khiết, trang nghiêm. - Nhường nhịn nhau kính trọng lẫn nhau, lịch sự tử tế với nhau. - Sống theo điều hay lẽ phải thì sẽ đem đến cho mình một đời sống xứng đáng, sẽ tạo cho quốc gia xã hội một quang cảnh hạnh phúc, đầm ấm, hòa hợp.[14] Mới hay Lễ chi phối mọi hành vi cử chỉ của con người, những cách giao tiếp của con người. «Lễ không cho phép đi quá trớn, quá giới hạn, mực thước đã qui định, không cho phép xâm phạm quyền lợi của người khác, vũ nhục, khinh khi hay sàm sở với người khác.» [15] Mục đích của Lễ là: - Dạy dân cho biết nhân luân, biết hiếu, biết kính.[16] - Nuôi dưỡng những tính tốt. - Ngăn chặn những tính xấu. - Điếu hòa đời sống tình cảm tâm tình. - Xác định tôn ti, thiện ác, thị phi. - Đem lại hòa hợp, ngăn chặn sự chia rẽ, loạn lạc. - Đào luyện cho con người ngày một thêm thanh lịch, thêm nhân cách.[17] Hiểu Lễ là những định luật tự nhiên, là những cử chỉ, những cách đối đãi đẹp đẽ mà muôn thế hệ đã lọc lõi, lưu truyền lại trong các nếp sống hay đẹp của dân gian, ta sẽ thấy thánh hiền Đông Á xưa đã có chủ trương hoàn toàn phù hợp với chủ trương của các bậc thượng nhân, thượng trí mọi nơi, mọi đời trên thế giới. Aritote cũng đã phân biệt hai loại lề luật: - Lề luật trời hay lề luật tự nhiên. - Lề luật người hay lề luật nhân tạo.[18] Cicéron cũng cho rằng: Luật tự nhiên chính là luật trời, cố sức dạy con người làm điếu hay tránh điều dở.[19] Âu Châu xưa cũng cho rằng: Luật nhân tạo kém vua chúa; luật thiên nhiên hơn vua chúa. Vua chúa mà dạy làm điều gì trái với luật tự nhiên thì dân chúng có quyền chống đối.[20] Thánh Thomas cũng cho rằng lề luật thiên nhiên chính là thiên lý, chính là sự khôn ngoan của trời hướng dẫn mọi hoạt động mọi biến chuyển.[21] Luật con người làm ra chỉ đúng là luật khi nào phù hợp với lề luật thiên nhiên, còn nếu chúng đi ngược lại với luật thiên nhiên thì không còn phải là luật nữa.[22] Hiểu Lễ là những định luật tự nhiên giúp con người sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống hòa hợp với mọi người, đoàn kết với mọi người, ta mới hiểu rõ ràng được nững câu sau đây của Lễ ký và Tứ thư: «Con chim anh vũ tuy biết nói nhưng vẫn là chim. Con khỉ con vượn tuy biết nói nhưng vẫn là cầm thú, nên nếu con người không biết lễ thì tuy biết nói cũng vẫn là có lòng cầm thú. «Cầm thú, vì không biết lễ nên mới có sự loạn luân, chung chạ. «Cho nên thánh nhân lập ra lễ để dạy dân, để con người biết theo lễ mà ăn ở khác với loài vật.» [23] Lễ là điều gì hợp lý.[24] Lễ nghĩa là đầu mối của con người.[25] Cho nên lễ phát nguyên từ trời, có tầm hoạt động lan khắp trần gian, bao quát vạn sự biến chuyển theo thời, thích ứng với mọi nghề nghiệp, hoạt động con người. Nơi tâm con người lễ giúp làm nảy nở các đức tính tự nhiên. Trong hành vi con người lễ bao quát mọi cách thức tặng dữ, trao đổi, mọi hành động, mọi phép lịch sự, xã giao, mọi vấn đề ăn uống, quan hôn, táng tế, bắn cung, đánh xe, yết triều, thăm hỏi…[26] «Lễ nghĩa quy định những gì hay, những gì phải cho con người, nên rất cần yếu đối với con người. Nó dạy con người biết làm sao để trở nên đức hạnh thật sự, làm sao để hòa thuận với người. Nó giúp cho xương thịt con người trở nên cứng cát, rắn chắc, dạy con người cách nuôi người sống, chôn kẻ chết, tôn kính quỉ thần. Nhờ Lễ như là một cửa lớn, mà con người tìm ra được thiên đạo, sống thuận với nhân tình. Vì thế mà thánh nhân cho rằng cần phải biết lễ. «Quốc phá, gia vong, nhân tâm ly tán chính là vì con người không còn biết cách sống theo những định luật của trời đất, của nhân sinh…» [27] Cho nên muốn trị dân có hai cách. Thượng sách thời dùng lễ trị dân. Khi ấy người trên làm gương đáng cho người dưới, sống theo định luật thiên nhiên, theo vật lý, tâm lý, thiên lý, theo danh dự, dạy dân biết nhường nhịn lẫn nhau, biết xấu hổ mỗi khi mình làm điều gì xằng bậy. Đó là Nhân trị, đó là Vương đạo.[28] Hạ sách là luật pháp trị dân, dùng thủ đoạn trị dân, dùng hình phạt đe nẹt dân, lúc ấy dân sẽ tìm cách để trốn tránh lề luật và không còn biết xấu hổ vì những hành vi bất chính của mình nữa. Đó là Pháp trị, đó là Bá đạo.[29] Các Pháp gia xưa như Hàn Phi Tử (chết năm 232, năm thứ 15 Tần Thủy Hoàng), Thương Ưởng (chết năm 338) (làm tướng quốc đời vua Tần Hiếu Công) đã có một đời dùng luật pháp nghiêm minh để trị dân, nhưng cuối cùng đếu thất bại, vì đó gò bó miễn cưỡng, vô nhân đạo không phù hợp với tâm lý con người. Âu Châu ngày nay cũng đề cao Pháp trị, cũng dùng những lề luật hình pháp bên ngoài để trị dân, cũng dùng những thủ đoạn để thằng thúc, nhuyễn hoặc dân, chỉ bắt bẻ dân trên những hình thức bên ngoài, chỉ cần dân tuân theo những thể chế, qui ước bên ngoài mà thả lỏng lòng dục của dân, mặc cho các tính xấu của dân tha hồ phát triển, miễn sao là dân khéo léo tránh né được con mắt dòm hành của pháp luật, của các nhà cầm quyền, thế là đủ. Vì thế nên thế giới ngày nay đã trở nên thác loạn. Cá nhân thác loạn vì có thể sống buông thả vô kỷ cương; gia đình thác loạn, sự tương kính tương thân trong gia đình dần dần mất đi; xã hội thác loạn, vì giá trị con người đã mất, vì lòng trọng kính thương yêu nhau cũng chẳng còn. Cho nên ngày nay bàn về Lễ tức là muốn kêu gọi mọi người chúng ta hãy sống một cuộc đời hẳn hoi, chừng mực theo lẽ phải, xứng với danh nghĩa cao quý của con người, cổ súy tình tương thân, tương nhượng, tương, kính, cố gắng bảo tồn những thuần phong mỹ tục, những nề nếp đẹp đẽ của tiền nhân, để xã hội quốc gia đi đến chỗ đại hòa đại thuận.[30]
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 7:25:56 GMT 9
NGHĨA Nếu Lễ là những định luật tự nhiên, là tất cả những điều hay lẽ phải cầm cân nảy mực cho cuộc sống con người toàn diện, cả công lẫn tư, từ tinh thần đến vật chất, thì Nghĩa là những gì hay, những gì đẹp phải đem áp dụng vào đời sống xã hội, vào đời sống giao tế con người. Như vậy Lễ có phạm vi lớn hơn, còn Nghĩa có phạm vi hạn hẹp hơn, vì Nghĩa chỉ chi phối con người xã hội. 1) Cho nên Nghĩa trước hết phải được hiểu là mọi cách cư xử hẳn hoi.[31] Nghĩa cũng còn là những bổn phận mà mỗi người phải tuân giữ khi đóng mỗi một vai trò trong xã hội. Người xưa quy định mười bổn phận, gọi là thập nghĩa. Mỗi một hạng người trong xã hội lại có một bổn phận khác nhau: Vua phải nhân. Thần phải trung. Cha phải khoan từ. Con phải hiếu thảo. Anh phải hẳn hoi. Em phải kính thuận. Chồng phải đường hoàng. Vợ phải nhu thuận. Người lớn phải thi ân. Người nhỏ phải vâng phục.[32] Nếu ai cũng ăn ở cho đúng với phương vị, đúng với bổn phận mình, thì thân tu, gia tề, quốc trị, thiên hạ bình.[33] Sở dĩ ngày nay chúng ta chứng kiến những cảnh loạn lạc trong nhân quần, những cảnh băng đọa trong gia đình, ngoài xã hội, chính là vì vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, chồng chẳng ra chồng, vợ chẳng ra vợ, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em.[34] 3) Nghĩa cũng là sự công chính, sự chính trực, cho nên sự bất nghĩa thường được hiểu là gian tà, bất lương, bất chính. Tôn chỉ người xưa là phải sống cho quang minh chính đại dẫu phải nghèo hèn vì thế cũng cam, còn hơn là theo đường gian tà mà được hưởng giàu sang phú quý. Đức Khổng nói: «Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu trong cảnh đơn bạc như vậy mà nhà đạo đức vẫn lấy làm vui. Chớ do nơi những hành vi bất nghĩa mà trở nên giàu có và sang trọng, thì ta coi cảnh ấy như mây nổi.» [35] 4) Nghĩa chính là sự công bình xã hội. Sống trong xã hội này, có ta mà cũng có ngươì. Ta muốn sống hẳn hoi, thì cũng phải cho người được sống hẳn hoi nữa. Cho nên người anh hùng trọng nghĩa là những người sẳn sàng chiến đấu để dẹp tan những nỗi bất bằng, luôn luôn ra tay để bảo vệ những kẻ cô đơn hèn yếu. «Anh hùng đã gọi tiếng rằng, Giữa đường chẳng thấy bất bằng mà tha.» (Kiều) 5) Con người sinh ra ở đời tất nhiên phải có liên lạc chặt chẽ với nhau. Giây liên lạc thiêng liêng nhất được tạo nên bởi huyết thống hay tình cảm, yêu đương. Ví như ta nói tình phụ tử, tình bằng hữu. Mối dây liên lạc thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Đó là tình nhân loại, mối tình này được tạo nên do tiếp xúc với nhau, hoặc do những cách đối xử đẹp đẽ với nhau. Có tình tức phải có nghĩa, có thương tức là phải có bổn phận. Ta thường nói: «Một ngày nên nghĩa chuyến đò nên quen» là vì vậy. Ta cũng còn nói: Nghĩa quân thần, nghĩa phu thê v.v… Như vậy, chữ nghĩa còn thường gói ghém tình thương, tình yêu. Mà thật ra, Nghĩa chính là biểu dương của lòng yêu thương. Không thương nhau, không yêu nhau, thì khó mà đối đãi với nhau cho đẹp được.[36] 6) Nghĩa là con đường hướng thượng, con đường lý tưởng của cuộc đời. Lễ ký cho rằng nếu ta biết giữ Lễ, nghĩa là nếu ta tuân theo những định luật của trời đất, ta sẽ đạt được thiên lý, và sẽ sống thuận nhân tình.[37] Trong khi đó thì Mạnh Tử lại cho rằng nếu ta biết chuyên lo làm việc nghĩa, chuyên lo làm điều hay lẽ phải thì trung đời ta, thì ta sẽ bồi dưỡng khí hạo nhiên của trời đất nơi mình ra. Nói cách khác, nếu ta luôn làm điều hay lẽ phải, nếu trong bất kỳ trường hợp nào ta cũng cố xử sự cho hay cho đẹp, cho hoàn toàn thì tức là ta đã thực hiện được sự hoàn thiện, đã thực hiện được tinh hoa nhân loại.[38] Nếu nói theo từ ngữ Đại Học, thì làm việc Nghĩa, làm theo điều hay lẽ phải, ta sẽ làm cho ánh sáng Minh Đức trong ta rãi sáng dần ra bên ngoài, và có thể làm cho ánh sáng ấy lan tỏa ra khắp năm châu. Như vậy tức là muốn thực hiện một cuộc đời lý tưởng, ta phải làm điều nghĩa, phải sống cho lý tưởng trong bất ký trường hợp nào. LIÊM Chữ Liêm có nghĩa là thanh liêm, liêm khiết. Một người liêm khiết luôn luôn giữ cho nhân cách mình được vẹn toàn thanh danh mình được trọn vẹn, không lợi dụng địa vị mình để chiếm công vi tư, để bóc lột nhũng nhiễu đồng loại. Sách Chu Quan xưa đã dùng chữ Liêm để bao quát mọi đức tính của một người đứng ra đảm đương công vụ. Theo Chu Quan, thì một công bộc quốc gia liêm chính phải: có đức, có tài, biết kính trọng nghề nghiệp, vui vẻ với mọi người, công chính vô tư, biết lễ, biết phép, biết hay dở phải trái, tóm lại một người liêm chính la một người tài đức xứng với danh vị của mình, với chức tước, phận vị của mình.[39] Liễu Di Trung bình về chữ Liêm như sau: «Liêm là thấy của người, không ham được một cách phi pháp. Thế tức là biết xét nét đâu là giới hạn giữa công và tư của mỗi người không dám làm điều xấu rồi tìm cách che đậy. Quản Tử cho rằng: Không che đậy điều xấu, tức là đức hạnh vẹn toàn. «Thế là Liêm có mục đích bồi dưỡng và kiện toàn nhân cách vậy.[40] «Lễ nghĩa là đại pháp để trị người. Liêm sỉ là đại tiết để giúp con người nên người. «Vì nếu không liêm thì của gì cũng lấy, không sỉ thì việc gì cũng làm. «Người mà đến như thế, thì họa bại vong loạn còn cái gì, mà chẳng đến. «Phương chi kẻ làm quan mà cái gì cũng dám lấy cái gì cũng dám làm, thì làm sao mà thiên hạ không loạn, quốc gia không mất cho được.» [41] Gương thanh liêm xưa nay rất nhiều, nhưng có lẽ cảm động nhất là gương Gia Cát Vũ Hầu. Gia Cát Khổng Minh suốt trong 12 năm trời giúp vua Thục, ra thời làm tướng võ, vào thời làm tướng văn, binh quyền nắm hết trong tay, mà rút cuộc bản thân cũng chẳng giàu có gì, lại còn gởi thân nơi chiến địa. Đến như con cái cũng chẳng được thừa hưởng gì công danh, lợi lộc của cha. Lúc xuất chính Gia Cát có 800 gốc dâu, 50 mảnh ruộng thì đến lúc chết cũng vẫn chỉ có 50 mảnh ruộng, 800 gốc dâu. Thực là liêm khiết hết mức. Mạo Tôn Cương bình về Khổng Minh như sau: Tào Tháo, Tư Mã Ý làm tướng cũng nắm hết quyền binh như Khổng Minh. Ba người cùng có những thần cơ diệu toán khiến mọi người khâm phục. Nhưng một bên thì soán đoạt, một bên thì trung lương mà được. Một bên thì bụng riêng tư, bên thì lòng vô tư. Bên thì giao quyền lại cho con cháu, mưu đồ cho con cháu, bên thì không giao cho con cái, không mưu chiếm cho con cháu, chỉ trao người hiền tài, chỉ lo cho quốc gia. Tháo chết giao quyền cho Phi. Ý sắp chết giao quyền cho Sư Chiêu. Vũ Hầu thì không thế. Khi lâm chung giao việc thừa tướng cho Tưởng Uyển, Phí Vy. Việc Đại tướng quân thì giao cho Khương Duy. Còn Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng không hề dự đến. Ngoài 800 gốc dâu và 50 mảnh ruộng, gia đình Gia cát không con chút gì riêng để làm giàu. Thế là cái ông Khổng Minh ra tướng võ vào tướng văn, với cái ông Khổng Minh ôm gối gảy đàn…chỉ là một, chẳng có gì khác vậy. Xưa kia lúc sắp bước chân ra khỏi lều tranh, lòng đã những mong sau khi thành công sẽ chu du Ngũ Hồ như Phạm Lãi, sẽ tịch cốc như Trương Lương. Thế mà không được như sở nguyện, lại chết giữa mặt trận gió lạnh sao rơi ở Ngũ Trượng Nguyên! Than ôi! Con người như thế, dễ gì tìm thấy trong đám công danh phú quý ở đời? (Tử Vi Lang dịch thuật, Tam Quốc Chí diễn nghĩa, IV, tr.1856, 1857) Như vậy, người xưa khi nói đến liêm khiết, những muốn đề cao nhân cách con người khi ra giúp nước, và khuyên người cầm quyền phải luôn luôn vì nước vì dân, không màng lợi lộc, chỉ cốt sao cho hẳn hoi trọn vẹn, tiết sạch giá trong. SỈ Sau hết người xưa thường đề cao chữ Sỉ. Sỉ là biết xấu hổ. Nhưng đối với người xưa, xấu hổ không phải là vì tiền bạc thua người, áo xống kém người, nhưng xấu hổ vì đã không làm tròn phận sự mình, xấu hổ vì những điếu xằng bậy mình đã làm, xấu hổ vì đã không theo được lý tưởng mình đã vạch ra. Trong Luận Ngữ, Đức Khổng khen Tử Lộ: «Mặc áo dài bằng vải cũ rách, đứng chung với những người mặc áo lông hồ lông hạc mà chẳng hổ thẹn, đó là trò Do chứ!» [42] Ngài cũng còn nói: «Kẻ sĩ chuyên tâm cầu đạo, nhưng còn hổ thẹn vì nỗi áo xấu, cơm thô, thì chưa đáng được nghe bàn luận đạo lý.» [43] Luận Ngữ cho rằng: Điều đáng xấu hổ, là bên trong thời gian ác, xấu xa mà bên ngoài thời dùng lời nói hay, bộ tịch khéo léo, lịch sự để che đậy; bề trong thì ooán ghét người mà bên ngoài lại giả tảng thân thiết với người.[44] Điều đáng xấu hổ là khi trong nước loạn ly, mà mình dùng những phương tiện bất chính để trở nên sang trọng dư dật.[45] Điều đáng xấu hổ làlúc nào cũng bo bo nghĩ đến lợi lộc cơm áo riêng tư, còn vận nhà, vận nước thì mặc cho gió cuốn, sống vùi.[46] Người xưa chỉ xấu hổ khi tài đức không xứng với chức vị khi không có tài đức mà dám cầm trọng trách, đẻ cho cơ đồ tan hoang đổ vỡ. Chín vi tế mà trong một cuộc đối thoại với Mạnh Tử, Lương Huệ Vương tỏ ra xấu hổ vì trrong khi cầm quyền đã thua trận, mất đất.[47] Ngươi xưa chỉ xấu hổ khi mình đã ở cấp lãnh đạo mà không làm được cho đạo đức thi hành.[48] Lễ Ký cho rằng người quân tử khi cầm quyền xấu hổ 5 điều: 1) Có địa vị mà lời ăn tiếng nói không xứng đáng. 2) Lời ăn tiếng nói xứng đáng mà hành động không xứng đáng. 3) Đã có đức độ rồi lại làm mất đức độ. 4) Trị dân mà dân bỏ ra đi. 5) Người khác trị dân cũng có phương tiện như mình mà lại thâu lượm được kết quả gấp đôi.[49] Mạnh Tử cho rằng: «Biết xấu hổ rất hệ trọng với con người. Những người chuyên sống xảo trá, quỷ quyệt đã bỏ mất tấm lòng hổ thẹn của mình rồi. Khi đã không còn có liêm sỉ như mọi người, thì làm sao mà còn là giống người được nữa!» Tóm lại có biết trọng danh dự thì mới xứng đáng là con người. Làm người mà bán rẻ khí tiết danh dự thì làm sao mà còn có thể gọi là con người được nữa? Thưa quí vị và quí bạn, Đầu niên khóa mà trình báy cùng quí vị và quí bạn đề tài Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ tức là muốn nói lên ý nguyện của trường Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Minh Đức muốn đề cao những giá trị vĩnh cửu của con người, muốn khuyến khích các bạn sinh viên ra công trau dồi trí não, rèn luyện xác thân. Chúng tôi thành khẩn ao ước các bạn sẽ trở thành những mẫu người xứng đáng biết trọng nhân cách, danh dự, biết sống theo những định luật tự nhiên biết tự xử tự giác, biết kính biết nhường, biết yêu chuộng lý tưởng biết tha thiết với những điều hay lẽ phải. Chúng tôi hết sức ao ước quý bạn luôn luôn cố gắng phát huy mọi tiềm năng, tiềm lực các bạn, hãy cố gắng vạch ra cho mình con đường hướng thượng, con đường lý tưởng và luôn luôn hướng về tinh hoa cao đại. Chúng tôi ước mong quí bạn lúc nào cũng sống cho hay, cho đẹp trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và bất kỳ là đối với ai. Chúng tôi ước mong các bạn sẽ là những trung tâm sống động quy tụ lại tinh hoa, tú khí của trời đất, tinh hoa của cả hai nền văn minh Âu Á. Chúng tôi cũng xin tặng quý bạn bốn câu thơ cổ: «Minh kính chỉ thủy dĩ tồn tâm, Thái sơn, kiều nhạc dĩ lập thân. Thanh thiên, bạch nhật dĩ ứng sự, Thanh phong minh nguyệt dĩ đãi nhân.» Tạm dịch: Lòng như nước lắng gương trong, Thân như non Thái phong long cao vời. Thanh thiên, bạch nhật đối đời, Trăng trong gió mát với người ở ăn. Đến đây tôi xin kết thúc bằng một câu Luận Ngữ: «Người quân tử trước học văn chương để mở mang trí thức mình, kế đó nương theo lễ giáo mà kiễm giữ lấy nết mình nhờ vậy mà khỏi trái với đạo lý.» [50] Ước mong anh em sinh viên sẽ lấy đó để làm những phương châm hướng dẫn mình trên con đường tu thân, cầu học. Ước mong anh em sẽ trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ như là những nấc thang để tiến tới chân, thiện, mỹ.● CHÚ THÍCH [1] Đã đăng Tập san Minh Đức, số 8, tháng 12-1973 & 01-1974. [2] Xem Trương Kỳ Quân, Trung Hoa ngũ thiên niên sử, quyển 3, chương X, tr.127. [3] Cf. Séraphin Couvreur, Mémoires sur les bienséances et les cérémonies (Li Ki) Tome I. P.IX. [4] Cf. Jean Escarra, Le droit chinois, Editions Henri Vetch, Pékin, Librairie du Recueil Sirey. Paris, 1936. [5] Cf.-Joseph Needham, Science and Civilisation in China Tome 2 p.518-584. [6] Cf. Needham, Science and Civilisation in China Tome 2, pp.518-538. Human Law and the laws of nature in China and the West. -Jean Escarra, Le Droit Chinois, p.17. [7] Jean Escarra, Le droit chinois, p.59. [8] Cf. Nguyễn văn Thọ, Chân dung Khổng Tử, tr.181-182. [9] …Hỗn độn nguyên khí ký phân, khinh thanh vi thiên tại thượng, trọng trọc vi địa tại hạ, nhi chế lễ giải pháp chi nhi lập tôn ti chi vị dã. (Khổng Đĩnh Đạt) 5 Couvreur, Li Ki, I, p.527, notes) Khi nguyên khí đã phân, thì khí thỉnh thanh ở trên thành trời, khí trọng trọc ở dưới thành đất, nên người lập ra lễ, phỏng theo đó mà lập ra thứ vị thấp cao: …Phù Lễ giả sở dĩ chương nghi, biệt vi, dĩ vi dân phường giả dã. Cố quí tiện hữu đằng, y phục hữu biệt, triều đình hữu vị, tắc dân hữu sở nhượng. (Lễ Ký, Phương Ký, XXX) Lễ là dùng để làm cho rõ điều ngờ, biện bạch những điều vi ẩn, để lâm sự phòng giữ cho dân. Cho nên người sang, người hèn có bậc, y phục có phân biệt, chỗ triều đình có ngôi thứ, thì dân mời nhường nhịn lẫn nhau. [10] Phù Lễ giả, tiên vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ trị nhân chi tình. (Lễ ký, Lễ vận, IX) : Lễ là tiên vương vâng theo cái đạo của trời để trị cái tình của người. -Lễ hồ, lễ hồ, sở dĩ chế trung dã. (Lễ ký, Ai công vấn). Lễ để điều chế cho vừa đúng mức. -Trung nhân chi tình hữu dư tắc xỉ, bất túc tắc kiệm vô cấm tắc dâm vô độ tắc thất túng dục tắc bại. Cổ ẩm thực hữu lượng y phục hữu tiết, cung thất hữu độ, súc tụ hữu số xa khí hữu hạn dĩ phòng loạn chi nguyên dã. (Khổng Tử tập ngữ: Tế ầu vấn, XIII) (Cf. Trần Trọng Kim. Nho giáo I, 117). [11] Thị dĩ quân tử cung kính, tốn tiết, thoái thượng dĩ minh lễ. (Lễ ký, Khí lễ, I). Vì thế nên người quân tử cung kính, sống cho có chừng mực, tiết độ, nhún mình, nhường người để làm sáng tỏ chữ Lễ…L’idéal suprême du Kiun Tseu (quân tử) est, en toutes circonstances de faire preuve, d’une juste mesure, d’une modération rituelle, qui se traduit par le gout du compromis, des concessions réciproques, de la cote plus ou moins taillée. Abuser de son avantage invoquer «son droit» sont des choses mal vues en Chine. Le grand arrt est de céder sur certains points, afin de réserver une monnaie d’échange pour obtenir des avantages ailleurs. Toute la philosophie chinoise est incluse dans cette notion de Yang (Nhượng) céder, faire preuve de modération…(Jean Escarra, Le Droit chinois, pp.17, 18) -sở dĩ trị ái nhân, Lễ vi đại; sở dĩ trị Lễ Kính vi đại. (Lễ Ký Ai công vấn, XXIV, 9). Muốn cho mọi người yêu thương nhau, cần nhất là Lễ. Muốn có Lễ cần nhất là Kính. [12] Phù Lễ giả, tự ti nhi tôn nhân. (Lễ ký, Khúc Lễ thượng, I, 25. Người biết lễ tự nhún mình để trọng người. [13] Quoi qu’il en soit, cet enseignement confucéen de la suprématie des rites surr la loi traduisant des notions longuement élaborées, depuis des oigines dans la conscience du peuple chinois demeure vivance…(Jean Escarra, Le Droit chinois, p.19) …Il y a là des textes qui reflètent intensément ce qu’il y a de permanent dans la civilisation chinoise et qui à ce titre, sont un précieux complément des lois civiles récemment promulguées. (Ibid. 162) -La conception du droit traduit fondamentalement des notions qui se sont élaborées, à l’aube d’une civilisation, dans la conscience des hommes qui ont peuplé la Chine. (Ib p.78). [14] Tứ thể cử chính, phu cách sung doanh, nhân chi phì dã. Phụ tử đốc, huynh đệ mục, phu phụ hòa, gia chi phì dã. Đại thần pháp, tiểu thần liêm, quan chức tương tự quân thần tương chính, quốc chi phì dã. Thiên tử dĩ đức vi xa, dĩ nhạc vi ngự, chư hầu dĩ lễ tương dữ, đại phu dĩ pháp tương tự, sĩ dĩ tín tương khảo, bách tính dĩ mục tương thủ, thiên hạ chi phì dã. Thị vị đại tuận. (Lễ ký, Lễ vận VII) [15] Lễ bất du tiết, bất sâm vũ bất hiếu áp. (Lễ ký, Khúc lễ, Tiết I, câu 10) [16] Tử viết: Chế độ tại lễ, văn vi tại lễ, hành chi ký tại nhân hồ! (Lễ ký, Trọng Ni yến cư, XXV). Lễ quy định mực thước phải giữ, hành động hay đẹp phải theo, nhưng giữ được là tùy nơi người. - Thị cố thánh nhân tác, vi Lễ dĩ giáo nhân, sử nhân dĩ hữu lễ, tri tự biệt ư cầm thú. (Lễ ký, Khúc lễ I). [17] Tử viết: …Quân tử lễ dĩ sức tình (Lễ ký, Tăng tử vấn). Người quân tử lấy lễ làm đẹp tâm tình. - Phù lễ, tiên vương dĩ thừa thiên đạo, dĩ trị nhân chi tình. (Lễ ký, Lễ vận IX). Lễ là tiên vương vâng theo cái đạo của trời, để trị cái tình của người. - Lễ giả nhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phường giả dã. (Lễ ký, Phường ký, XXX). Lễ là nhân cái thường tình của người ta mà đặt ra tiết độ, văn vẻ để làm cái ngăn giữ cho dân. - Phù Lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết hiềm nghi, biệt đồng dị minh thị phi dã (Lễ ký, Khúc lễ thượng, I). Lễ là cốt để ohân ra trật tự, khiến cho vạn vật kông có điều gì hồ đồ, hỗn độn. - Phù Lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết hiềm nghi, biệt đồng dị minh thị phi dã (Lễ ký, Khúc lễ I). Lễ cốt để định thân sơ, tránh hết lẫn lộn, nghi ngờ, phân biệt cái gì giống nhau, cái gì khác nhau cho thấy rõ cái nào là phải, cái nào là sai… - Nhân hữu lễ tắc an, vô lễ tắc nguy, cố viết: lễ giả bất khả bất học dã (Lễ ký, Khúc lễ, I). Người có lễ sẽ bình an, không có lễ sẽ nguy, cho nên nói lễ cần phải được học hỏi vậy. - Lễ khí, thị cố đại bị. Đại bị thịnh đức dã. Lễ thích hồi tăng mỹ chất (Lễ ký, Lễ khí VIII). Lễ cốt là để rèn luyện con người. Lễ giúp con người đi đến chỗ thành toàn, đi đến chỗ nhân đức, hòan thiện. Lễ giúp con người sửa nết xấu, mở mang tính tốt. [18] Political justice is of two kinds one natural (physicon) and the other conventional (nomikon) …(Nicomach, Eth.V,VII, tr. Rackham p.295. - Joseph Needham, Science and Civilisation in China, Vol 2, p.520.) [19] Cicérron (-106 te-43) of course, reflection this, saying: «Natualem legem divinam esse censet (Zeno), eamque vim obtinere recta imperantem prohibentemque contraria.» De Natura Deorum, I, 14 (tr. Brooks, p.30). -Joseph Needham, Science and civilisation in China, Volume 2, p. 534. [20] Positiva lex est infra principantem sicut lex naturalis est supra. (Joseph Needham, Science and civilisation in China, Volume 2, P.538) [21] Lex Oeterna nihil aliud est quam summa ratio divinae sapientine secun dum quod est diectiva omnium actuum et motionum. (Summa.I.(2). Q.93 at.I.- Joseph Needham Science and Civilisation in China, Volume 2, p. 538. [22] Every law framed by man bears the nature of a law in the extent to which it is derived from the Law of Nature. But if on any point it is in conflict with the Law of Nature, it at once ceases to be a law; it is a mere corruption of law. (Joseph Needham, Science and civilisation in China, Volume 2, p. 538). [23] Anh Vũ năng ngôn, bất ly phi điểu. Tinh tin năng ngôn bất ly cầm thú. Kim nhân nhi vô lễ, tuy năng ngôn, bất diệt cầm thú chi tâm hồ? Phù duy cầm thú vô lễ cố pụ tử tụ ưu. Thị cố thánh nhân tác, vi lễ dĩ giáo nhân, sử nhân dĩ hữu lễ, tri tự biệt ư cầm thú. (Lễ ký, Khúc lễ thượng). [24] Tử viết: Lễ giả, Lý dã. (Lễ ký, Trọng Ni yến cư. XXV) [25] Cố Lễ nghĩa dã giả nhân chi đại đoan dã. (Lễ ký, Lễ vận VII) [26] Cố Lễ tất bản ư thiên, động nhi chi địa, liệt nhi chi sự, biên nhi tòng thời, hiệp ư phân nghệ. Kỳ cư nhân dã viết dưỡng, ký hành chi dĩ hóa lực, từ nhượng, ẩm thực, quan hôn táng tế, sạ ngự, triều sinh. (Lễ ký, Lễ vận, VII). [27] Cố Lễ Nghĩa dã giả, nhân chi đại đoan dã. Sở dĩ giảng tín tu mục, nhi cố nhân coơ phu chi hội, cân hài chi thúc dã. Sở dĩ dưỡng sinh tống tử, sự qui thần chi đại đoan dã. Sở dĩ đạt thiên đạo, thuận nhân tình chi đại đậu dã. Cố duy thánh nhân vi tri lễ chi bất khả dĩ dĩ dã. Cố hoại quốc táng gia, vong nhân, tất tiên khứ kỳ lễ. (Lễ ký, Lễ vận, VII). [28] Tử viết: Đạo chi dĩ chính, tế chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sĩ thả cách. (Luận Ngữ, Vi Chính II, 3). [29] Liêm Khê tiên sinh viết: “Cổ thánh vương chế lễ pháp, tu giáo hóa, tam cương chính, cửu trù tự, bách tính đại hòa, vạn vật hàm nhược…hậu thế lễ pháp bất tu, chính hình hà vẫn, túng dục bại độ, hạ dân khốn khổ…(Cận tư lục 0.9, tr. 1a). [30] Lễ chi dụng hòa vi quý. (Luận ngữ, Học nhi I). [31] Nghĩa giả nghi dã. (Trung Dung chương XX, Lễ ký chương XXVIII, Trung Dung, tiết II, câu 6). [32] Hà vị nhân nghĩa: Phụ từ, tử hiếu, lương huynh, đệ đễ, phu nghĩa, phụ thính trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung, thập giả vị chi nhân nghĩa…Cố thánh nhân sở dĩ trị nhân thất tình, tu thập nghĩa, giảng tín, tu mục, thượng từ nhượng, khử tranh đoạt, xả lễ hà dĩ trị chi? (Lễ ký, Lễ vận) [33] Tề Cảnh Công vấn chính ư Khổng Tử. Khổng Tử đối, viết: «Quân nhân, thần thần, phụ phụ, tử tử». Công viết: «Thiện tai! Tín như quân bất nhân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi?» (Luận ngữ, Nhan Uyên XII, II). [34] Tề Cảnh Công vấn chính ư Khổng Tử. Khổng Tử đối, viết: «Quân nhân, thần thần, phụ phụ, tử tử». Công viết: «Thiện tai! Tín như quân bất nhân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi?» (Luận ngữ, Nhan Uyên XII, II). [35] Tử viết: «Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẫm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỹ. Bất nghĩa nhi phú tha quy, ư ngã như phù vân.» (Luận ngữ, Thuật nhi, VII, 15) [36] Nhân giả nghĩa chi bổn dã, (Lễ ký, Lễ vận, VII, tiết IV, II) Lý giả nghĩa dã. (Lễ tang phục tứ chế, 13) [37] Cố Lễ Nghĩa dã giả…sở dĩ đạt thiên đạo, thuận nhân tình chi đại đâu cả. (Lễ ký, Lễ vận VII). [38] Cảm vấn: «Hà vị hạo nhiên chi khí?» Viết: «Nan ngôn dã. Kỳ vi khí dã chí đại chí cương; dĩ trực dưỡng chi nhi vô hại, tắc tắc hồ thiên địa chi gian. Kỳ vi khí dã, phối nghiã giữ đạo; vô thị, nỗi dã. Thị tập nghĩa sở sinh dã. Phi nghĩa tập nhi thủ chi dã.» (Mạnh Tử, Công tôn Sửu, chương cú thượng, 2) Dám hỏi thầy: Sao gọi là khí hạo nhiên? - Khó giải lắm. Cái khí rộng lớn, bao la, cứng cỏi vững vàng lắm. Nếu mình thuận theo lẽ thẳng mà bồi dưỡng nó, đừng làm tổn hại nó thì nó sẽ lan ra khắp trong khoảng trời đất này. Cái khí ấy phối hợp với việc nghĩa việc đạo băng không nó sẽ hư hoại đi. Mình cần phải làm nhiều việc hợp nghĩa, cái khí hạo nhiên ấy mới sinh ra; chẳng phải làm một việc nghĩa rời rạc, mà thâu đoạt được cái khí lực ấy. Nếu mình làm việc quấy bậy chẳng thuận với lương tâm thì cái khí ấy phải hư hoại vậy… [39] Trương Kỳ Quân, Trung Hoa ngũ thiên niên sử, quyển 3, chương X tr.128. [40] Ibid. [41] Ibid. [42] Tử viết: «Ý tệ uẩn bào, dữ ý hồ lạc giả lập, nhi bất sỉ giả, kỳ Do dã dư!» (Luận ngữ IX, Tử Hãn, 25). [43] Tử viết: Sĩ chí ư đạo, nhi sĩ ác y ác thực giả vị túc nghị dã. (Luận ngữ, Lý Nhân IV, 9). [44] Tử viết: Xảo ngôn, lệnh sắc, túc cung, Tả Khâu Minh sĩ chi, Khâu diệc sĩ chi. Nặc oán nhi hữu kỳ nhân, Tả Khâu Minh sĩ chi, Khâu diệc sĩ chi. [45] Bang hữu đạo, bần thả tiện, sĩ dã. Bang vô đạo, phú thả quí sĩ dã. (Luận ngữ Thái Bá, VIII, 1) [46] Hiến vấn sĩ, Tử viết: Bang hữu đạo, cốc, Bang vô đạo cốc sỉ dã.(Luận ngữ Hiến vấn, XIV, 1) [47] Lương Huệ Vương viết: «Tấn quốc thiên hạ mạc cường yên, tẩu chi sở chi dã. Cập quả nhân chi thân, Đông bại ư Tề, trưởng tử tử yên: Tây táng địa ư Tần thất bá lý: Nam nhục ư Sở. Quả nhân sĩ chi; nguyện thí tử giả nhất tẩy chi, như chi hà tắc khả.» (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương chương cú thượng, 5) [48] Lập hồ nhân chi bổn triều nhi đạo bất hành, sỉ dã. (Mạnh Tử, Vạn Chương chương cú hạ, 5). [49] Quân tử hữu ngũ sỉ: Cư kỳ vị nhi vô ngôn: quân tử sỉ chi. Hữu kỳ ngôn vô kỳ hành, quân tử sỉ chi. Ký đắc chi nhi hựu thất chi, quân tử sỉ chi. Địa chi dư, nhi dân bất túc, quân tử sỉ chi. Chúng quả quân nhi bội yên, quân tử sỉ chi. (Lễ ký, Tạp ký XVIII, tiết IV, câu 20) Mạnh Tử viết: «Sỉ chi ư nhân, đại hỹ. Vi cơ biến chí xảo giả, vô sở dụng sỉ yên. Bất sỉ bất nhược nhược nhân, hà nhược nhân hữu?» (Mạnh Tử Tận Tâm Thượng, 7). [50] Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù. Luận Ngữ, Ung Dã, VI, 25.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 7:27:59 GMT 9
NHIỆM VỤ VÀ SỨ MẠNG NGƯỜI LÀM VĂN HÓA [1] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Suu Tam Kính thưa quý vị, Trước đây, Quý vị đã nhiều lần nghe thuyết trình về văn hóa. Vì thế nên lần này tôi mạo muội bàn về: «Người làm văn hóa cũng như nhiệm vụ và sứ mạng của người làm văn hóa». Thực vậy, đã bàn về Văn hóa thì trước sau cũng phải có một lần bàn về vấn đề trọng yếu này, vì Văn hóa dù cao đẹp đến đâu cũng vẫn là sản phẩm của con người. Như vậy, muốn có một nền Văn hóa cao siêu, chân chính, lẽ dĩ nhiên là phải đề cập đến vấn đề nhân sự đến những người đã tạo tác nền Văn hóa. Trong bài thuyết trình này tôi xin lần lượt đề cập ba đề mục sau đây: 1. Phân loại những người làm Văn hóa. 2. Nhiệm vụ của những người làm Văn hóa. 3. Sứ mạng của những người làm Văn hóa. 1. PHÂN LOẠI NHỮNG NGƯỜI LÀM VĂN HÓA Đại khái chúng ta có thể phân chia những người làm Văn hóa ra làm ba hạng chính sau đây: a. Những người làm Văn hóa siêu việt. b. Những người làm Văn hóa trung đẳng thông thường. c. Những người làm Văn hóa hạ đẳng. a. Những Người Làm Văn Hóa Siêu Việt - Những người làm Văn hóa siêu việt tước tiên là những người có thiên tài xuất chúng. Làm thơ cho có vần có điệu thì ai cũng có thể làm được, nhưng sáng tác được những vần thơ trác tuyệt như Lý Thái Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà, thì trong một đời hồ dễ có mấy ai. - Đọc đời sống của các văn nghệ sĩ chân chính, siêu việt ta thường thấy họ hết sức tha thiết với nghệ thuật, say sưa nghệ thuật. Mễ Phế, một danh họa thời Bắc Tống, ngay từ lúc thiếu thời đã say sưa nghệ thuật. Ông ra công thu thập tất cả những danh họa những bút pháp của danh gia. Có một lần Ông đương du ngoạn trên thuyền cùng với các bạn thơ, chợt có một người đưa cho xem 1 bản thủ bút của Vương Chi Hi. Mễ Phế mê thích quá và dọa sẽ nhảy xuống sông tự tử nếu chẳng được tặng bức chữ ấy. Cố nhiên là người ta phải biếu ông.[2] - Một văn nghệ sĩ siêu việt phải biết thanh lọc tâm thần cho thoát vòng cương tỏa của lợi danh, để cho lòng không còn bị vấn vương bởi những chuyện đời nhỏ nhen, phù phiếm. Nhà thơ Bạch Cư Dị trong bài thơ Nhàn tịch đã cho biết bí quyết khiến Ông trở thành thi nhân như sau: «Phóng hoài riêng thú tiêu dao, Người vui khi gặp cảnh nào cũng vui. Phép gì được thế ai ơi, Vì lòng không vướng chuyện đời nhỏ nhen.» [3] - Một văn nghệ sĩ siêu việt là một người sống huyền hóa với đất trời, với vạn hữu, đã rũ bỏ được mọi khuôn sáo mọi qui ước chật hẹp của chúng nhân, để cho tâm thần hồn nhiên tỏa ra trên ngọn bút, hoặc phát tiết ra theo vần thơ tiếng nhạc hoặc có thể thông thần, trực giác, đi sâu được vào lòng vạn vật để tìm ra cái tinh thần bất diệt đang rạt rào sống động bên trong. Khảo về các danh họa, danh sĩ Trung Hoa ta đều thấy như vậy. Ví dụ như các bức tranh: - Cành mai của Từ Vị. - 6 quả hồng của Mục Khê. - Cây bên ghềnh đá của Thạch Đào. - Cành trúc của Nghê Tán. - Bình bông của Bát Đại Sơn Nhân. - Núi cây trong sương của Mễ Phế. Tất cả đều nói lên cái khinh thoát, cái giản dị, cái tự nhiên của họa sĩ cũng như của cảnh vật. Tất cả bí quyết chỉ là: - Thoát khuôn sáo. - Hòa mình với cảnh vật. - Giữ cho tâm thần sảng khoái, thảnh thơi, bình dị, vô tư vô cầu.[4] Cúc - tranh của Bát Đại Sơn Nhân đời Minh-Thanh Họa sĩ Hoàng Công Vọng sống trong rừng núi. Ông vẽ bức danh họa «Nhà lan» khi ở trong Huyền Chân đạo trường, mà Huyền Chân đạo trường chính là trạng thái tự nhiên, vô niệm.[5] Họa sĩ Thạch Đào chủ trương: «Luận vẽ cũng như luận thiền. Cái hay, cái quý là đã thoát được ra ngoài vòng tư lự và vào được «đệ nhất nghĩa» tức là vào được cảnh giới tuyệt đối vô nhân, vô ngã. Như vậy mới là cao thủ. Bằng không thời là sa vào vòng tương đối, không phải là một họa sĩ chân tài.» [6] Bát Đại Sơn Nhân, một họa sĩ danh tiếng khác cũng cho rằng: «Khi lòng trong sáng như mặt nước trong, lúc ấy chẳng có gì trong vũ trụ mà mình chẳng thích. Khi tâm hồn êm ả như gió mát thoảng trong ánh dương, lúc ấy chẳng có ai mà mình quên.»[7] Họa sĩ Thạch Đào, làm thơ tự vịnh và ca ngợi đời sống hồn nhiên, phóng khoáng giữa thiên nhiên, xa cảnh phồn hoa, tục lụy như sau: Trúc mai - tranh của Thạch Đào đời Thanh «Ta ưa tĩnh lánh nơi thành phố, Xa phồn hoa dựng cỗ nhà tranh. Một vùng non núi bao quanh, Lang thang đây đó, thênh thênh tấc lòng Mùa xuân tới ngắm trông chim lượn Mùa hè sang, suối xuống tắm chơi. Mùa thu, đỉnh thắm leo coi. Mùa đông sưởi nắng, nằm vùi ngoài không. Bốn mùa trời thong dong hưởng thú, Nhật nguyệt kia xin cứ vần xoay. Rảnh thời kinh kệ ta coi Mệt rồi ta ngủ, ngủ vùi ổ rơm. Bạn hỏi ta mơ màng ai đó? Ta liền thưa: Gặp gỡ Hiên Viên. Hiên Viên đem bí quyết truyền. Cấm ta chẳng được nói lên với đời. Ao ta đây tuổi trời vài chục, Sở truyền ta rộng mức biển khơi. Khi ta múa bút vẽ vời, Mới hay công dụng tuyệt vời bao la. Bí quyết ấy nếu ta chỉ giáo, Thời núi non khuynh đảo nát tan…» [8] - Một nhà làm văn hóa siêu việt phải có cái nhìn tinh tế và óc sáng tạo. Họa sĩ Delacroix ngày kia giữa những phút nghỉ ngơi sau nhiều giờ làm việc, ngồi phơi mình trên cỏ nắng. Ông tinh nghịch bốc lên tay một nắm cát mắt lim dim, khẽ hé lòng bàn tay cho cát rơi lả tả trong nắng. Cát lăn tăn quay lộn, bắt ánh nắng mặt trời hiện ra muôn màu sắc lóng lánh như những phần tử ánh sáng lạ lùng. Ngoài xa, những đống rơm vàng rực, những đàn bà ngăm đen tượng trời hình đất, cả một khung cảnh kỳ thú và tuyệt diệu biến ảo trước mắt nghệ sĩ sau màn cát chứa đựng cả một vũ trụ ánh sáng và màu sắc quyến rrrũ như những hình ảnh mơ trrong một giấc mơ tuyệt đẹp. Delacroix bàng hoàng hấp tấp ghi lại những «ấn tượng» khả ái kia trên khung vải, bằng đầu bút, thành những chấm màu sắc li ti xinh xắn, chấm nọ đặt khít chấm kia. Trên tác phẩm đầy sức sống hiển hiện giữa những vẩy vàng nhảy múa lẫn lộn trong cát mang tên là «Những người đàn bà da đen thành Alger», Delacroix đã ghi lại tiếng ồn thơ rrung động và hình ảnh mỹ lệ vừa thoáng qua trong giây phút…Bức họa này đã mở màng cho phong trào cá nhân chủ nghĩa, tiền phong cho trường phái Ấn tượng.[9] Khảo sát lại lề lối sống của người xưa, ta thấy văn nghệ sĩ thường sống một đời sống cao khiết. Một nghệ sĩ chân chính dùng nghệ thuật để trau dồi nhân cách, và cố gắng sống sao cho tinh ròng viên mãn, thâm sâu, để có thể rung cảm cùng nhịp với Đạo bổn, với «vũ trụ chi tâm», vì tin rằng đạo chỉ tự mặc khải ra cho những tâm hồn sáng suốt tinh luyện: chỉ có những bậc kỳ tài mới khám phá ra được bí quyết của Đạo và mới có được cái gọi là thần bút, khả dĩ biểu lộ được cái tiết diệu, huyền vi, bát ngát ràng buộc vạn hữu. Họa sĩ Đằng Sương Hữu (thế kỷ IX chuyên vẽ Mai và Ngỗng) đã từ chối quyền chức, không lập gia đình, để được sống tận tụy với hội họa. Nhờ vậy mà tư tưởng thâm sâu của Ông phát lộ ngay trên họa phẩm…[10] Chính vì vậy mà ở chỗ cao siêu nhất nghệ sĩ và đạo sĩ gặp gỡ nhau. Vị đạo sĩ thời có bổn phận khám phá ra và diễn tả lại Thần Linh ngự trị trong lòng mình bằng lời lẽ, bằng đời sống để cho người bàng quang cũng được cùng mình chia xẻ sự cảm thông hòa hợp ấy; còn người nghệ sĩ thời dùng tài nghệ của mình, dùng tâm linh mình mà khám phá ra Thần Linh, hay Thái Hòa tiềm ẩn trong đáy lòng vạn hữu, vũ trụ, khiến những người khác cũng thưởng thức được và cũng cảm thông được với nguồn mạch huyền linh ấy một phần nào… b. Những Người Làm Văn Hóa Trung Đẳng Thông Thường Nhưng từ ít lâu nay, khi mà đời sống văn hóa vật chất đã quá tiến bộ, người ta không còn cho phép những người làm Văn hóa được sống siêu thoát như vậy nữa. Ngày nay, người ta quan niệm rằng người làm Văn hóa không được xa rời quần chúng mà phải hòa mình vào đời sống của mọi người, để nhìn cho rõ những thảm cảnh của cuộc đời, để trở thành những chứng nhân trung thực của cuộc đời. Thay vì chọn con đường sống nội tâm thanh tĩnh, thay vì tập trung tinh thần để cho tâm thần trở nên tinh tế, nhạy bén, nhiều người làm văn hóa ngày nay đã chọn con đường dấn thân con đường phá tán. Họ có thể lao đầu vào những cuộc truy hoan, họ có thể mượn chất kích thích để thôi thúc cho con tim khối óc hoạt động sáng tạo nhiều khi một cách miễn cưỡng, giả tạo. Chính vì vậy mà dần dần sự siêu việt trong văn chương nghệ thuật không còn, mà văn chương văn nghệ chỉ còn là phản ảnh của đời sống thực tại. Vì quá lặn lội vào cuộc đời, những người làm Văn hóa hạng 2 này không có tính cách vươn vượt, siêu thoát. Nhưng trái lại họ cũng rất tha thiết vì đời đấu tranh cho công lý, cho công bình, bác ái, cho nhân phẩm tự do, cũng như khuấy động lòng yêu nước thương nòi, chủ trương phú quốc cường dân… Tuy họ không có thiên tài như những nhà Văn hóa siêu việt kể trên, tuy văn chương họ không rạt rào như mây tuôn, khói tỏa, nước bủa, sóng trào, tuy tác phẩm họ không có phong thái thần tiên siêu việt như những sản phẩm của các bậc thần văn, thần bút kể trên, nhưng thực ra họ cũng rất đáng được quý mến vì họ rất gần gũi với đời, họ chia vui sẻ buồn với đồng bào đồng chủng và họ cũng chính là những người nhìn thay dân, nói thay dân, nghĩ thay dân, nhiều khi lại còn bị tù tội thay dân. Đúng như lời Camus đã nói: Họ là những người thay vì ngồi xem những dũng sĩ tử chiến với mãnh thú trong thao trường, thì chính họ đã dấn thân xuống thao trường để đấu tranh cùng mãnh thú.[11] c. Những Người Làm Văn Hóa Hạ Đẳng Ngoài ra còn một hạng người làm văn hóa thứ 3 nữa. Tuy cũng mang danh là những người làm văn hóa, nhưng thực ra họ là những người thợ thơ, thợ văn, thợ vẽ, thợ chạm, thợ nặn, thợ đúc. Họ chỉ biết làm theo những khuôn khổ, những đường lối sẳn có, chỉ biết làm văn hóa một cách máy móc, theo truyền thống chứ không có gì là sáng tạo là cao siêu. Danh họa Lộc Sài đã nói: «Không phương pháp (kỹ thuật) là không tốt, nhưng bao giờ cũng lại theo phương pháp cũng lại không tốt. Nghệ sĩ không nên để mình bị kiềm tỏa trong vòng chuyên môn, nhưng cần phải biết siêu thoát, biến hóa…» [12] Hạng thứ ba này làm văn hóa vì sinh kế, nên sẳn sàng trở thành khí cụ của công quyền, bảo sao làm vậy, sẳn sàng áp dụng những chủ trương, những tủ đoạn mị dân, mê dân, hoặc chúng. Họ cũng sẳn sàng chiều theo thị hiếu của quần chúng đến nỗi có thể thoát ly, đọan tuyệt với hết lý tưởng văn chương, văn nghệ để ma tận dụng khai thác những hình thức sống sượng, tục tằn, bất cần danh dự với lương tâm, miễn sao có nhiều tiền nhiều bạc là đủ… Phác họa ra ba mẫu người Văn hóa: - Mẫu người siêu việt. - Mẫu người thông thường. - Mẫu người hạ đẳng. Tức là cho chúng ta thấy mọi khía cạnh rõ ràng của văn hóa, cũng như vai trò đa đoan của Văn Hóa. Văn hóa có thể là cuộc tiêu khiển, mua vui khi trà dư, tửu hậu, nhưng Văn hóa cũng là sự cố gắng đem Chân, Thiện, Mỹ đến cho đời, từ những bước đi chập chững cho tới những công trình siêu đẳng. Trúc - tranh của Từ Vị đời Minh 2. NHIỆM VỤ CỦA NHỮNG NGƯỜI LÀM VĂN HÓA 1) Người làm văn hóa có nhiệm vụ trước tiên là phải thành thực với mình, với người, không được dùng văn chương văn nghệ mà bóp méo hay vo tròn thực tại. Cố tổng thống Kennedy đã nói: «Nhiệm vụ cao cả nhất của người cầm bút là trung thực với mình và viết cho đúng. Văn nghệ sĩ phục vụ thực sự là phục vụ đất nước đắc lực nhất.» Nhưng muốn cho người làm văn hóa nói lên tiếng nói chân thực của mình, chính quyền phải cho họ được tự do. Cố tổng thống Kennedy nói thêm: «Tôi chắc chắn rằng nếu được tự do phát biểu ý kiến, thì chân lý thế nào cũng thắng, bất kỳ trong phạm vi chính trị hay tôn giáo.» [13] 2) Nhà văn hóa không có quyền nông cạn hời hợt. Oscar Wilde đã viết: «Cái khuyết điểm trầm trọng nhất của văn nghệ sĩ là sự nông cạn hời hợt.» [14] 3) Người làm văn hóa phải giữ sao cho khí phách được hiên ngang không chịu để cho ai mua chuộc ngọn bút mình, con tim khối óc của mình. Thực vậy một khi đã bán mình cho danh cho lợi, một khi đã chịu phận cá chậu chim lồng, thì làm sao tác phẩm của mình cảm hóa được lòng người, làm sao mong hướng dẫn được người khác đến tinh hoa cao đại. 4) Một người làm văn hóa phải tha thiết với công trình mình sáng tạo, mục phiêu mình sáng tạo. Có tha thiết có say sưa thì công trình mình sáng tạo mới dồi dào, sống động. Khổng Tử xưa kia cũng đã say sưa tìm cầu chân lý đến nỗi nhiếu khi quên ăn, quên ngủ[15] và đặc biệt nhất là tuổi già nó đến lúc nào cũng không biết, không hay.[16] 5) Người làm văn hóa phải tin tưởng vào thiên chức cao cả của mình, phải nhận chân rằng tư tưởng của mình rồi ra sẽ có ảnh hưởng lớn đến đời, đến dân, cho nên phải hết sức thận trọng mỗi khi phát biểu ý kiến. Hệ Từ Thượng nơi chương VIII đã viết: «Dạy rằng quân tử trên đời, Ngồi nhà nói phải, muôn người vẫn theo. Dặm nghìn còn phải hướng chiều Thời gần gang tấc đâu điều lần khân. Nói lời sai lạc nhố nhăng, Ngàn xa vẫn thấy bất bằng nổi lên. Nữa là gang tấc kề bên, Nói sai ai kẻ họa thêm với người. Khi người quân tử nói lời, Nói ra ảnh hưởng đến đời đến dân. Hành vi phát động tuy gần, Nhưng mà ảnh hưởng dần dần lan xa. Việc nhời ấy chính động cơ, Động cơ đã phát, hãy chờ nhục vinh. Mới hay quân tử ngôn hành, Đủ làm trời đất rung rinh mấy hồi. Cho nên trong việc trong lời, Cố sao thận trọng đáng người hiền nhân.» 6) Người làm văn hóa phải ăn ở xứng đáng, phải tự đào luyện cho mình được một tâm hồn cao cả thanh khiết, một cái nhìn khoáng đạt, sáng suốt vô tư, một tấm lòng thành khẩn thiết tha muốn cải thiện đồng loại. Họ phải lấy câu Trung Dung sau đây làm phương châm: «Mỗi động tác quân tử đều nên như mẫu mực, Mỗi hành vi là khuôn phép chúng dân theo. Mỗi lời nói thiên hạ đời sau sẽ nương vào, Người xa ngưỡng vọng người gân kông hề ngán…» (T.D. XXIX) 7) Người làm văn hóa phải biết rung động biết cảm xúc trước những nỗi khổ đau của đồng loại, và phải là một chiến sĩ chống lại mọi nỗi bất công, mọi áp chế, bóc lột mọi tà thuyết, mọi ý đồ mị dân, ngu dân… Bài thơ Thạch hào lại của Đỗ Phủ tả cảnh lầm than của dân chúng thời ly loạn, tả cảnh lính tráng đến nhà dân bắt người đi đánh giặc lúc ban đêm, bắt cả bà già ông lão làm cho nhân dân điêu đứng, bây giờ đọc ta vẫn thấy não lòng… 8) Người làm văn hóa chân chính, vì là tinh hoa của đất nước cũng như của nhân loại, nên không thể có niềm tin tưởng dễ dãi như mọi người, nhất là đối với những vấn đề trọng đại như triết học, chủ nghĩa, đạo giáo v.v…Ngược lại, họ phải biết soát xét và kiểm thảo mọi vấn đề. Có người hỏi Vivekananda xem có nên áp dụng các phương pháp khảo sát dùng trong khoa học để khảo cứu đạo giáo không. Ông đáp: «Nên, và thêm: Càng sớm càng tốt. Nếu một tôn giáo mà bị phá hủy bằng sự khảo sát, thì nó chỉ là một sự mê tín bất xứng. Nó càng tiêu ma sớm càng tốt. Cái gì là cặn bã sẽ bị vứt bỏ, cái gì thiết yếu sẽ tồn tại và sẽ toàn thắng…» [17] 9) Ngoài ra người làm văn hóa còn phải có thái độ khoan dung cởi mở cảm thông với mọi người. Vivekananda cũng còn viết: «Bổn phận thứ nhất của bạn là tìm hiểu và yêu mến người không ngghĩ như bạn. Chẳng những ta không nói với kẻ khác rằng họ sai, như những kẻ cuồng tín thường làm, mà ta còn bảo rằng họ đúng, nếu họ theo đường lối của họ, theo phương pháp thích hợp với họ. Bạn đừng đả kích những người không cảm nghĩ như bạn. Cả triệu ánh sáng đều quy tụ về một tâm điểm ấy là mặt trời. Dẫu ánh sáng xa cách nhau mấy rồi ra cũng sẽ gặp nhau ở tâm điểm…Mỗi người chúng ta hãy cố gắng tiến lên mãi cho tới trung tâm…» [18] 10) Người làm văn hóa phải là những chiến sĩ dũng cảm nêu cao ngọn đuốc chân lý, soi đường chỉ lối cho quần chúng. Họ phải nói được như Romain Rolland: «Tôi cảm thấy trong tôi một niềm tin mạnh mẽ. Tôi phải dốc hết niềm tin ấy sang kẻ nào cần dùng. Tôi sẽ mặc khải cho dân tộc tôi; tôi sẽ là một kẻ kích động; tôi sẽ gây nên lòng dũng cảm dù là gây ra bão táp. Rồi cho cuộc đời cứ tiêu hủy tôi xâu xé tôi cũng không sao miễn là tôi đã nhóm được lòng tin đó trong kẻ khác và trong tôi.» [19]
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 7:28:42 GMT 9
3. SỨ MẠNG CỦA NHỮNG NGƯỜI LÀM VĂN HÓA Mạnh Tử xưa có nói: «Trong Kinh thư có lời rằng: Trời sinh ra dân ở cõi đời này, cũng sinh ra người làm vua, kẻ làm thầy để giúp Thượng đế trong công cuộc cai trị dân, giáo hóa dân…» [20] Câu nói đó cho thấy từ ngàn xưa những người làm văn hóa có một sứ mạng hết sức là trọng đại.» 1) Người làm văn hóa chân chính trước tiên có sứ mạng thiêng liêng phục vụ chân lý, phân biệt đâu là giả, đâu là chân cho đồng loại. Sống trong trần ai tụy lụy này, nơi mà vàng thau lẫn lộn, cân giả chen xen, đồ giả thường mang nhãn hiệu đồ thật, tà thuyết thường đội lốt chân lý, người làm văn hóa phải có cái nhìn cho tinh tế sự nhận xét cho đích đáng hẳn hoi. Kim chỉ nam hướng dẫn chúng tatrong cuộc đi tìm cầu chân lý chỉ có thể như sau: - Cái gì thiên nhiên, thiên tạo, vĩnh cửu phổ quát là chân lý. - Ngược lại cái gì nhân tạo, qui ước, biến thiên, hạn hẹp, có màu sắc địa phương lịch sử, chủng tộc đều không phải là chân lý thực sự. Chân lý luôn luôn siêu việt lên trên những thiên kiến, những tính toan bè phái, những quyền lợi giai cấp. Chính vì thế mà những chiến sĩ tiền phong đem đuốc sáng chân lý soi cho đời lại thường bị những người có quyền thế đương thời phỉ báng, hãm hại, cho thế là gieo rắc hoang mang, phổ biến tà thuyết tà đạo, phá rối trật tự trị an. Đó là trường hợp mà Chúa Jesus, mà Socrate, mà All Hallaj đã gặp phải. Ấy là chưa kể đến những Savonarole (1452-1498), Bruno Giordano (1550-1600), Jean Huss (1369-1415) và muôn vàn anh hùng văn hóa khác đã tuẫn tiết vì chân lý. 2) Ngoài sứ mạng đem chân lý đến cho nhân loại, người làm văn hóa còn còn có sứ mạng làm cho cuộc đời của chúng dân thêm vui, thêm đẹp. Muốn cho đời thêm vui, thêm đẹp, người làm văn hóa phải biết tận dụng âm thanh, màu sắc, phải biết khai thác các vẻ đẹp tiềm ẩn trong thiên nhiên, trong vạn vật, trong cuộc sống cần cù lao tác của dân chúng hằng ngày, trong đời sống giao tế thường nhật, ngoài ra còn phải biết khai thác những vẻ đẹp của lý trí tâm tư… Và chính là để đem nguồn vui đến cho nhân loại mà bao nhiêu nhà văn hóa đã cống hiến cả cuộc đời. Đó là những văn nghệ sĩ, những tài tử, những minh tinh, những họa sĩ, nhạc sĩ, những nhạc công. Nhờ có họ mà nhà cửa của chúng ta ngày một thêm vui, thêm đẹp. Nhờ có họ mà chúng ta mới có dịp thưởng thức những bức tranh đẹp, những pho tượng khéo, những quyển sách hay, những tấn kịch cảm động, những cuốn phim tuyệt vời những bản nhạc êm đềm réo rắt. 3) Nhà văn hóa còn có sứ mạng chuyển hóa tâm hồn con người, làm cho họ hướng thiện. Nói thế tức là người làm văn hóa phải biết đem nhân nghĩa, đạo đức tô điểm cho đời sống con người, đem công bình bác ái phổ biến vào đời sống xã hội con người. Người làm văn hóa chân chính, như vậy, phải luôn luôn đứng về phía quần chúng, bảo vệ quyền lợi của quần chúng, chống bạo lực, bạo quyền, tố giác mọi điều bất công, bất nghĩa, bất tín, bất trung. Nhà văn Camus viết: «Chúng ta phải lên tiếng bênh vực tất cả những ai đang đau khổ, bất chấp những vẻ huy hoàng đã qua hay sẽ tới của quốc gia hay đảng phái đang áp bức họ. Không có loại đao phủ nào có đặc quyền với nghệ sĩ. Vì thế ngay lúc này và nhất là trong lúc này, nghệ thuật không thể phục vụ một đảng phái nào. Trước cũng như sau, nghệ thuật chỉ phụng sự nỗi thống khổ và quyền tự do con người mà thôi…» [21] Chính vì thế mà người làm văn hóa không có quyền coi nghệ thuật như là một phương cách tiêu sầu, khiển muộn lúc trà dư, tửu hậu cho mình cho người. Nghệ thuật mà chỉ phục vụ hình thức, chỉ câu nệ về kiểu cách bên ngoài, còn bên trong thì rỗng tuếch, không đưa ra được tư tưởng gì, không vạch ra được một đường hướng nào, thì chỉ là một thứ văn nghệ phòng trà, làm cho con người trở nên phù phiếm, nhụt chí tiến thủ, cầu an hưởng thụ mà thôi. 4) Nhà văn hóa có sứ mạng tra vấn, kiểm soát đường đi, nước bước của nhân loại, cân nhắc cái hay, cái dở của mọi đường hướng, mọi tính toan. Chính vì vậy mà từ xưa đến nay nhiếu nhà văn hóa đã luôn luôn tra vấn về thân thể con người, về định mạng con người, về những ưu khuyết điểm của các đạo giáo, các chủ nghĩa hiện hành, và họ cũng đã không ngần ngại nói lên tư tưởng của họ, cảm nghĩ của họ mặc dù đôi khi những tư tưởng ấy, những cảm nghĩ ấy không làm đẹp lòng những người đương quyền. Mới đây, trong một bài diễn văn nhan đề là: «Những bài học khôn ngoan cho Tây Phương, đọc tại Amsterdam, nhân dịp Ông lĩnh giải thưởng văn chương Erasme 1973, Claude Lévi-Strauss đã nhận định đại khái về người Âu Châu như sau: - Quá đề cao mình, cho rằng con người có toàn quyền mặc tình chi phối vạn hữu. - Trong quá khứ đã hủy diệt nhiều sắc dân. - Đã hủy diệt nhiều nền văn minh cổ. - Đã xúc phạm đến thiên nhiên, làm ô nhiễm không khí và nước.[22] Ông chủ trương rằng, dưới ánh sáng nhân chủng học thái độ ấy là sai lầm, vì theo Ông các sắc dân cổ sơ đều chủ trương rằng đức hiếu sinh là cần: mình sống nhưng cũng phải để cho người khác, vật khác sống nữa. Mình sống nhưng không phải được quyền tha hồ tác oai, tác quái, mà phải biết tôn trọng hoàn cảnh thiên nhiên. Như vậy đức hiếu sinh và cuộc sống hài hòa cùng thiên nhiên, vũ trụ chính là những bài học khôn ngoan mà những dân tộc cổ sơ có thể dạy cho người Tây Phương… Triết gia Karl Jaspers, khi Hitler sắp lên cầm quyền, đã cho xuất bản một cuốn sách nhỏ, nói về những nguy cơ đe dọa thế giới. Sau khi Đức quốc bại trận, Ông đã diễn thuyết nhiều lần về tội lỗi của người Đức. Và năm 1958 Ông đã lớn tiếng tố giác nguy cơ bom nguyên tử.[23] Năm 1955, ít lâu trước khi từ trần, nhà bác học Einstein đã cùng với ít nhiều khoa học gia khác ký vào một bản tuyên cáo. Bản tuyên cáo này vừa là một lời cảnh cáo vừa là một sự khẩn cầu, trong đó ông nói: «Nếu trong trường hợp bom khinh khí được dùng thả sức, thì phải tiên đoán một phần nhân loại sẽ chết tức khắc, và các sinh vật còn lại sẽ bị bệnh tật khổ sở và sẽ chết dần chết mòn hết…» [24] Như vậy các nhà văn hóa chân chính đích thực là lương tâm nhân loại. Họ luôn đề cao cảnh giác nhân loại, và luôn khuyến cáo nhân loại: + Trọng nhân phẩm con người. + Thành thực với người chứ đừng dùng những thủ đoạn lừa dân, bịp dân. + Hiếu sinh chứ không hiếu sát. + Không được bóc lột con người. + Không được làm mất tự do con người. + Không được khinh miệt những giá trị tinh thần vĩnh cửu. + Không được coi con người là phương tiện mà phải coi con người như là cứu cánh. 5) Một nhà văn hóa chân chính có sứ mạng là dạy cho dân biết tự lập, tự cường, tự tín, tự trọng. Nếu mình không giúp mình, không trọng mình thì còn ai muốn giúp mình, trọng mình cho được. Chúng ta ngày nay không còn có thể có thái độ nô bộc như xưa là cúi đầu chịu đựng mọi sự áp bức của thống khổ, tật nguyền, bất công, đói khát. Tất cả những gì do hoàn cảnh, do nhân loại tạo nên, ta đều có thể hoán cải, đều có thể lướt thắng. Với một khối óc tinh tế luôn luôn tìm hiểu, suy tư để phanh phui ra mọi duyên do của mọi nỗi đau thương, khổ ải còn đè nặng trên chúng ta, với một ý chí sắt thép tìm mọi phương thế để khắc phục tiêu diệt những duyên do ấy, thì bất kỳ một khó khăn nào ta cũng lướt thắng bất kỳ một dang dở nào ta cũng tiêu trừ, và như vậy ta sẽ tạo cho ta một đời sống tươi vui, hạnh phúc. Con người sinh ra ở đời, không phải là để sống lầm than khổ sở, không phải là để sống một cuộc đời nô lệ tù đày, trâu ngựa, mà là để sống một cuộc đời xứng đáng, thanh cao, hạnh phúc. Bổn phận các vị lãnh đạo bổn phận các nhà giáo dục, bổn phận các bậc trưởng thượng, bổn phận các nhà văn hóa là phải hun đúc chí quật cường của dân, dạy cho dân biết cách tổ chức đời sống gian trần cho yên vui, đẹp đẽ, xứng đáng và luôn hướng thượng. Lãnh đạo dân, giáo hóa dân mà làm cho dân nhụt chí phấn đấu tiến thủ, làm cho dân trở nên ù lỳ, chịu đựng, hèn hạ, đốn mạt, thì sự lãnh đạo, sự giáo hóa ấy chỉ là một phương cách ngu dân, chứ không phải là một sự lãnh đạo, sự giáo hóa đích thực. Suy cho cùng, con người chúng ta về phương diện cá nhân, cũng như về phương diện xã hội, là phản ảnh biến thiên của sự giao thoa giữa hai con người: - Con người lý tưởng. - Con người thực tại. Con người lý tưởng nơi ta luôn luôn mơ ước một sự viên mãn hoàn hảo, một thế giới đào nguyên, lạc cảnh. Con người thực tại nơi ta thì luôn luôn va chạm với thế giới hữu hình, thực tại và bị chi phối rất nhiều bởi những hoàn cảnh địa lý, lịch sử, xã hội, tâm tình và bị chìm nổi giữa muôn ngàn âu lo, sầu não, họa phúc bất thường. Con người luôn luôn mơ ước lý tưởng, luôn muốn thực hiện chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, muốn thực hiện chân thiện mỹ không phải là điều dễ. Muốn vậy, các vấn đề vật chất, tâm thần cần phải được giải quyết thỏa đáng, các liên lạc giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với môi trường, với gia đình, quốc gia, xã hội, liên lạc giữa quốc gia này với quốc gia khác cần được giải quyết cho thật hẳn hoi, cần được cải thiện cho đến mức tối đa. Mới hay, con người sống ở trần gian này, không phải chỉ có một đời sống mà nhiều đời sống: đời sống xác thân, đời sống lý trí, đời sốngtâm tình, đời sống tâm linh, đời sống gia đình, đời sống quốc gia, xã hội. Tất cả những đơi sống ấy phải được tài bồi cho đẹp đẽ, tất cả những đời sống ấy phải hài hòa ăn khớp với nhau thì chân, thiện, mỹ mới có cơ thực hiện. Văn hóa chính là sự phát hiện ra mọi bộ mặt con người mọi đời sống con người, và đồng thời cũng là những bước tiến chậm chạp hướng về chân, thiện, mỹ. Chính vì thế mà gần đây, trong Tuần Báo Tin Văn, Patrich d’Elme đã phân biệt Văn Hóa đại khái thành hai loại: - Văn hóa thanh lịch, cao siêu, đó là văn nghệ. - Văn hóa phổ thông, đó là cuộc sống hằng ngày.[25] Chúng ta cũng có thể phân loại hoạt động sáng tac của văn ngệ sĩ thành hai loại: - Trước hết văn ngệ sĩ là chứng nhân của thời đại. Họ là những người trí thức sống giữa cuộc đời chứng kiến cuộc đời của mìn và của đồng loại, rồi suy tư, nhận định, tìm hiểu những nỗi u uẩn của nó ghi lấy những rung cảm mà cuộc đời đã hiến cho để rồi lại diễn tả nó ra mà truyền thông cho đồng loại, khiến cho sau cùng mọi người đều hiểu được ý nghĩa của lịch sử, của cuộc đời. Họ dùng âm thanh, màu sắc, từ ngữ, hình ảnh tâm tình để mô tả và làm sống động lại những uẩn khúc của tâm tư; những cảnh hợp tan, sống chết; khổ đau hay hoan lạc; những hành động kém hèn hay cao cả; những tâm hồn ti tiện hay những khí phách thanh cao; những thời nhiễu nhương, ly loạn; hay những cảnh thanh bình, hòa lạc. Tóm lại văn nghệ sĩ đã dùng nghệ thuật, văn chương làm cho những quang cảnh ở đời trở nên bất tử…. - Mặt khác, văn nghệ sĩ cũng là những người đi tiên phong trên con đường hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Giữa những cơn giông tố trần gian, văn nghệ sĩ là những người đã có công vén mây mù, cho nhân quần thấy lại ánh dương quang, và luôn nuôi dưỡng trong lòng quần chúng niềm hy vọng niềm tin tưởng vào một tương lai hạnh phúc và tốt đẹp. Họ luôn luôn giúp con người thanh lọc, tinh luyện tâm tư, đem lại nguồn vui, sức sống, đem lại sự thanh cao, tế nhị cho nhân quần, làm cho bản năng, bản thể con người phát triển đến mức tối đa. Như vậy, chẳng những họ đã giúp con người vui sống, mà còn đem lại cho con người một niềm hy vọng vô biên là một ngày nào đó nhân loại sẽ thực hiện được Chân, Thiện, Mỹ. Trước khi kết thúc bài này, tôi xin có một lời ước nguyện. Ước nguyện rằng tất cả các nhà văn hóa trong nước, các nhà văn nghệ sĩ trong nước nhận chân được tiên chức cao cả của mình, luôn luôn cầu tiến cầu học, luôn luôn có một đời sống thanh cao, tế nhị, tự do, phóng khoáng, sáng suốt, cởi mở, bao dung và lúc nào cũng tận tình tôn sùng, phục vụ cái hay, cái đẹp, cái phải; luôn luôn là những nguồn sáng tung tỏa quang huy vào trần hoàn, là những nguồn năng lực truyền thụ sinh khí cho quần chúng. Ước nguyện rằng tất cả các nhà văn hóa, các nhà văn nghệ sĩ trong nước tận tình xây dựng hạnh phúc cho đồng bào, đem lại vin quang cho tổ quốc. Được thế thực là điều đại hạnh, đại phúc cho nước Việt Nam thân yêu của chúng ta vậy.
CHÚ THÍCH [1] Bài diễn văn tại trường Quốc Gia Sư Phạm vào tháng 12-1973, nhân dịp kỷ niệm 27 năm thành lập Tinh Việt Văn Đoàn. Đã đăng Tập san Minh Đức số 10, tháng 6&7 năm 1974. [3] Xem Trần Trọng Kim, Đường Thi, tr.86. [2] Xem Văn Hóa Tập San, Tập XI q.12, số 76 tháng 12-1962 tr.1393-1394. [4] Xin đọc Chang Chung Yuan. Creativity and Taoism, The Julian Press, Inc, New York, 80 East 11th Street New York 3: Bức vẽ cành mai tr.8 plate 1; 6 quả hồng plate 4; cây bên ghềnh đá Plate 5; Cành trúc Plate 6; Bình bông, Plate 10; Núi cây trong sương mù, Plate 3. [5] Xem sách trích dẫn nói trên, plate 2. [6] «Luận họa giả như luận thiền tương tự, qui bất tồn tri giải, nhập đệ nhất nghĩa, phương vi cao thủ. Phủ tắc tức lạc đệ nhị nghĩa hĩ, tuyệt phi mẫn thủ». (Xem sách trích dẫn nói trên, plate 5). [7] Xem sách trích dẫn trên, plate 10. [8] Xem sách trích dẫn trên, plate 5. [9] Xem Phạm Kim Khải, Nghệ thuật hội họa Tây phương, đăng trong Văn Hóa Á Châu, số 19, tháng 10, 1959, tr.86. [10] Xem Kim Định, Cửa Khổng tr.137, 138. [11] Xem Camus, Sứ mệnh văn nghệ hiện đại, Trần Phong Giao dịch, Giao điểm 1963, tr.28. [12] Xem Kim Định, Cửa Khổng, tr.136. [13] Xem Les voies de la Liberté, p.37. [14] Xem Camus, Sứ mệnh Văn nghệ hiện đại, Trần Phong Giao dịch, 35. [15] Luận ngữ XV Về Linh Công, câu 30. [16] Luận ngữ VII, Thuật nhi câu 18. [17] Xem Romain Rolland, La vie de Vivekananda, 11, p.78. [18] L’évangile universel, p.51. [19] Nguyễn Nam Châu, Sứ mạng văn nghệ, tr.19. [20] Mạnh Tử, Lương Huệ Vương chương cú hạ, câu 3. [21] Xem Camus, Sứ mệnh văn nghệ hiện đại, Trần Phong Giao dịch, 54. [22] … J’ai tort, sans doute de m’exprimer au futur, car voilà des siècles qu’a commencé l’entreprise aujourd’hui proche de son terme, consistant à détruire aveuglément la richesse et la diversité des cultures humaines. Voilà des décennies que, par adivité et par imprudence, l’homme s’emploie à exterminer des espèces vivantes dont chacune représente pourtant à sa façon un chef-d’oeuvre aussi irremplaçable que le seraient, si elles disparassaient, les oeuvres de nos plus grands artistes que nous préservons religieusement dans les musées. Enfin, voilà des annés que ces biens essentiels dont il y a un demi siècle à peine, l’idée qu’ils puissent manquer ou être gravement adultérées se serait heurtée à l’incrédulité générale: l’air et l’eau, sont à leur tour corrompus par des miasmes dont il faut retracer l’origine jusqu’à cette prolifération démentielle de l’espèce humaine qui, en même temps qu’elle compromet l’existence des autres espèces vivantes et la pureté des éléments, en vient à menacer physiquement et moralement l’homme lui-même. (Cf. Nouvelles littéraires, du 4 au 10 Juin 1973, No. 2384, mục Lévi-Strauss, Des Leçons de Sagesse pour l’Occident pp.2 et 11.) Car ne nous y trompons pas; l’éveil de la sensibilité publique au destin lamentable des peuples dits archaðques, la sympathie, la révolte même qu’inspire la fin des dernières tribus de l’Amérique tropicale, proviennent moins d’un sursaut de clairvoyance ou de génerosité que d’un réflexe profondement égoðste: nous nous identifions à ces peuples que nous avons cond**nés au moment où nous découvrons que nous sommes les prochains à figurer sur la liste. En faisant mine de les défendre, mais trop tard pour pouvoir les sauver, c’est nous-mêmes, plutôt, que nous plaignons et voudrions protéger. Nous mêmes, c’est-à-dire une humanité devenue trop nombreuse sur un espace terrestre qu’elle ne peut agrandir, réduite de ce fait à se coloniser elle-même en quelque ne peut agrandir, réduite de ce fait à se coloniser elle-même en quelque sorte; confinée dans une réserve insuffisante pour assurer ses besoins vitaux à l’exemple de ces malheureuses populations exotiques depuis des siècles une fraction d’humanité qui se croyait triomphante imposa un sort préfigurant peut-être, à une échelle réduite, celui que, pour l’hummanité entière, entraineront ses excès. (ib. p.3) Car aucune de ces sociétés n’a jamais cultivé une image de l’homme conçu comme le seigneur et maître de la création, libre de s’octroyer des droits exorbitants sur toutes les manifestations de la nature et de la vie. Bien au contraire: leurs systèmes philosophiques sont d’accord pour faire à l’homme une place de choix dans la naturer, mais à la condition qu’elle n’empitète pas sur celle des autres espèces vivantes et que celles-ci restent libres d’exister et de prospérer; comme si, au regard de cette proclamation par trop exclusive des droits de l’homme dont nous tirons tant d’orgueil, les peuples que nous appelons prrimitifs répondaient depuis des centaines de millénaires, par une proclamation permanente des droits de la vie. En allant partager leur existence, les ethnologues n’amassent donc pas simplement des documents scientifiques; ils écoutent et recueillent les leçons de sagesse dont l’Occident pourrait s’inspirer s’il voulait éviter qu’une humanité trop imbue d’elle, prompte à détruire tout ce qui n’est pas d’elle, ne dispose plus d’aucun glacis protecteur pour se prémunir contre ses propres atteintes; et que, ne respetant plus la vie en dehors de lui, l’homme désapprenne à la respecter en lui - comme les guerres mondiales, les camps d’extermination, les armes atomiques et chimiques le prouvent parce qu’il a oublié que sa dignité essentielle est moins celle qui s’attribute de manière exclusive comme être pensant, que celle qu’il partage avec des millions d’espèces végetales et animales comme être vivant… (Ib. p.3 et 11) [23] Xin đọc Karl Jaspers, La Bombe atomique et l’avenir de l’Homme, Tribune libre, 1958, p.8. [24] Einstein, peu de temps avant sa mot, en 1955, signa avec d’autre savants une déclaration qui était un avertissement et une supplication et dans laquelle il était précisé: «Au cas òu les bombes H seraient massivement employées, il faudait prévoir le décès immédiat d’une patie de l’humanité, puis de tortuantes maladies, et enfin la mort lente de tous les êtres vivants (ib. 25) [25] La culture noble, celle des arts et des lettres, est le précieux gouvernail de la culture vulgaire, celle de la vie quotidienne. (Patrick d’Elme. - Nouvelles Litéraires) Juillet 1973, 15.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:44:49 GMT 9
THÚ DÙNG TRANH TẾT ĐỂ CHÚC TẾT Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Lúc còn bé, ở ngoài Bắc, tôi nhớ cứ vào mỗi dịp Tết là mọi người dân quê lại đua nhau đi sắm tranh Tết về treo nhà: tranh gà, tranh lợn, tranh cóc, tranh chuột, tranh cá, tranh Nhị Thập Tứ Hiếu, tranh chinh Đông, chinh Tây, v.v. Lúc ấy tuy chưa biết gì về nghệ thuật, nhưng tôi cũng rất thích học thuộc lòng những sự tích và những lời lẽ viết trong tranh như: Yêu trẻ trẻ đến nhà, Trọng già, già để tuổi cho. Hay: Thuyền theo lái, gái theo chồng. Hay: Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. v.v. Lớn lên, ra tỉnh học, ít khi tôi còn được dịp ngắm tranh Tết bình dân, mỗi độ xuân sang. Sau này vào miền Trung phục vụ, tôi hầu như quên bẵng đi mất những loại tranh Tết ấy. Thế nhưng, năm 1961, nhân một chuyến ghé Paris ít ngày, một hôm đang thơ thẩn ở khu Quartier Latin, nơi có nhiều Việt Kiều ở, bỗng nhiên tôi nhìn thấy một hiệu sách Việt Nam. Tò mò tôi ghé vào xem, thì thấy hiệu sách đó rất là sơ sài, chỉ bày bán ít truyện Tàu cổ, và những bức tranh lợn, tranh gà cổ điển. Tôi hết sức ngạc nhiên vì thấy ở ngay Paris mà người ta lại thích những loại tranh Tết bình dân mộc mạc ấy. Rồi tôi lại được biết rằng hiện có những họa sĩ chuyên khảo về những loại tranh mộc bản kể trên. Hơn thế nữa, vào năm 1960, ông Maurice Durand cũng đã cho ấn hành quyển Imagerie populaire vietnamienne rất phong phú và giá trị. Từ đấy tôi lưu tâm đến tranh Tết và dần dần tôi mới nhận ra tầm quan trọng của những tranh Tết về nhiều phương diện như: - Dân tộc học, - Nghệ thuật dân tộc cổ truyền, - Thú chơi chữ chơi tranh của tiền nhân, - Cách dùng tranh Tết để tuyên truyền cho chính quyền, v.v. Cho nên trước khi bàn về thú dùng tranh tết để chúc tết, tôi muốn bàn qua về các khía cạnh của tranh Tết. Trước hết là về phương diện dân tộc học, tranh Tết đã có cả ngàn năm lịch sử. Có người cho rằng tranh Tết đã có từ thời nhà Lý (1010-1225), có người lại cho rằng nó đã có từ thời nhà Hồ (1400-1414), và được phát triển mạnh nhất vào cuối thời Lê (1533-1788). Chính vì thế mà tranh Tết có một sắc thái dân tộc hết sức độc đáo và một truyền thống hết sức độc đáo. Tất cả đều đậm đà sắc thái Việt Nam, từ những bản khắc, những giấy tranh, cho đến những màu sắc, những hình ảnh, những đề tài, nhưng không vì thế mà giảm mất giá trị, mất phong vị. Về phương diện nghệ thuật, tranh Tết thực là một loại nghệ thuật hết sức bình dân và hết sức Việt Nam. Tranh Tết chỉ có mấy nơi làm nhưng chuyên môn nhất, lâu đời nhất và theo đúng nề nếp cổ truyền nhất là tranh làng Đông Hồ (Bắc Ninh). Thứ đến là những tranh Hàng Trống, sản xuất tại phố Hàng Trống, Hà Nội. Cuối cùng là tranh Nam Đàn (Nghệ An) phỏng theo kỹ thuật cổ truyền của làng Đông Hồ. Những bản khắc tranh thường bằng gỗ thị, thớ gỗ vừa cứng vừa nhuyễn, lại không bị mọt, nên có nhiều khi một bản khắc được dùng cả trăm năm. Những giấy làm tranh thường là giấy bản hồ bằng thứ phấn trắng làm nền. Thứ phấn này lấy ở vỏ con sò (điệp) nung lên và đem tán nhỏ gọi là phấn điệp. Màu sắc thì có năm màu, gọi là thuốc cái: 1- Phấn trắng lấy ở vỏ sò tán (điệp), nên gọi là thuốc điệp. 2- Xa thanh (xanh óng ánh xà cừ). 3- Mực Tàu. 4- Kim nhũ. 5- Ngân nhũ. Ngoài ra cũng còn có nhiều màu khác. Mỗi màu lại có nhiều sắc thái. Như đỏ thì có: hoa hiên, điều, son, cánh quế thẫm, cánh sen nhạt, phấn hồng, màu hoa đào. Vàng thì có vàng thẫm, vàng nhạt, hoa lý. Xanh thì có xanh nhạt màu hồ thủy hay hòa bình, hay nguyệt bạch, xanh lá cây, xanh lam, v.v. Nâu thì có cánh kiến. Các màu khi trộn với nhau, hay khi tô lên giấy, người ta thường pha thêm vào chút hồ tẻ loãng cho bớt thấm, bớt loang ra giấy. «Màu đen thì lấy ở than rơm, than lá tre càng đun nấu và ủ lâu ngày càng đậm lại lúc in, màu đen dần dà lại có một chất xôm xốp rất quý; màu xanh lấy ở rỉ đồng; màu lam lấy ở lá chàm; màu vàng lấy ở hạt dành hoặc hoa hòe; màu trắng thì lấy ở vỏ sò, vỏ hến hầm đốt, dùng làm điệp quét lên giấy bản, hoặc dùng để in lên tranh xen lẫn với các màu khác, tạo ra một sắc thái riêng biệt và quý.» [2] Ông Lê Văn Hòe trong bài Lẽ sống của tranh gà, tranh lợn trong số Xuân Văn Nghệ 1953, đã bình về tranh Tết như sau: «Tranh gà, tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như mầu lúa chín, xanh như lá mạ, hay vàng như nghệ kho cá, xanh như nấm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cầy, toàn những màu sắc quen thuộc thân mến từ bao nhiêu đời người rồi. Những màu sắc in sâu vào tâm não nông dân hết thế hệ này đến thế hệ khác, thành những màu sắc dân tộc rồi. Những màu sắc xanh đỏ chói rực rỡ của tranh Tầu tranh Tây nó chướng quá, nó không mộc mạc quen thuộc như những màu xanh đỏ, thô kệch điềm đạm thật thà của tranh lợn, tranh gà.» Đề tài của tranh thật hết sức giản dị: con gà, con lợn, con cóc, con cá, cậu bé con, ông lão già, quả đào, quả lựu, quả phật thủ, hoa sen, hoa cúc, v.v. hoặc những cảnh sinh hoạt của đồng quê hư đi cầy, đi cấy, gặt lúa, xay thóc, tát nước, hái dừa, làm mùa, úp nơm, mò cua, bắt óc, gánh mạ, dắt trâu đi cầy, cho trâu nằm nghỉ, v.v. hoặc những cảnh ăn chơi ngày hội, ngày hè như đánh đu, đô vật, rước rồng, v.v. Cách phục sức của người trong tranh cũng hết sức mộc mạc: trẻ con thì để trái đào, đàn ông thì búi tóc củ hành, đàn bà thì vấn khăn, tóc đuôi gà, mặc yếm, mặc váy, xúng xính với những thắt lưng, ruột tượng, v.v. Chính vì cái giản dị ấy, cái mộc mạc ấy, mà tranh được dân chúng ưa chuộng. Hơn nữa những tranh Tết xưa đem bán ra với một giá bình dân, rẻ mạt, nên dẫu nghèo đến đâu cũng có thể mua được vài bức đem về dán tại nhà. Tranh Tết tuy là mộc mạc, nhưng không vì thế mà kém đi phần cao siêu. Nó cũng đã diễn đạt được hết những hoài bão, ước mơ của quần chúng, những sự châm biếm, hài hước, những lời chúc tụng, và cũng có những lối chơi chữ, dùng tranh làm chữ để chúc Xuân, mà chỉ những người có ăn có học mới thưởng thức được hết cái thi vị của chúng. Lát nữa đây chúng ta sẽ trở lại vấn đề quan trọng này. Những bậc thức giả xưa cũng đã sớm biết dùng tranh Tết để phổ biến đạo lý vào trong dân gian, vì thế mới có những loại tranh Nhị thập tứ hiếu, Chính khí ca, loại tranh phương ngôn, v.v. Người Pháp thời còn đô hộ nước ta đã sớm nhận ra tầm quan trọng của tranh Tết nên đã mượn chúng làm lợi khí tuyên truyền cho chính phủ Pháp. Ví dụ, trên bức tranh con gà trống, ta thấy đề: Pháp Nam phục hưng và những lời thơ sau đây: Sung sướng như chúng ta, Thực là nhờ Lang Sa. Giếng sâu mạch nước tốt, Cây cao bóng rợp xa. (Nên nhớ: biểu tượng của nước Pháp là con gà trống. Đó cũng là cách chơi chữ.) Hoặc trong bức tranh thần Vũ Đinh giữ cửa, ta thấy ghi: «Nước Pháp chẳng bao giờ quên cái sứ mạng thiêng liêng giữ thái bình thịnh trị cho Đông Dương.» Thế tức là ngụ ý coi nước Pháp là thần Vũ Đinh che chở cho nhà Việt Nam. Nhân tiện cũng nên ghi nhận rằng tranh Tết thời Pháp thuộc cũng đổi chủ đề ít nhiều (nhất là những tranh Tết Hàng Trống) và mang nhiều ảnh hưởng văn minh Tây Phương, muốn khuyên dân nên theo nếp sống mới, như đi xe đạp, hút thuốc lá, đánh tennis, tập thể dục, v.v. A. CHÚC TẾT BẰNG TRANH CHỮ Gọi là tranh chữ vì nhiều tranh chỉ có một chữ, mỗi chữ lại được vẽ rất lớn, cũng có khi còn được điểm tô bằng nhiều hình ảnh rất công phu. Những tranh chữ thường có những sau đây: - Phú, Quí, Thọ, Khang, Ninh. - Phúc, Đức. - Phúc, Thọ. - Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tranh chữ Phúc còn thấy có câu: Phúc như Đông Hải. Tranh chữ Thọ còn thấy có câu: Thọ tỷ Nam Sơn. Tranh chữ cũng có thể là vừa tranh vừa chữ. Trong bức tranh, trên mỗi hình vẽ lại có một câu chúc tụng ngắn. Ví dụ: - Tiến lộc tiến tài (vẽ trên hai lọ lục bình có cắm hoa sen, do hai vị quan văn hay hai vị thần văn cầm). - Tích ngọc đôi kim (vàng bạc chất đống). - Chiêu tài tiến bảo (có thêm tiền của; tranh hai chú bé: một chú cầm quả đào để chữ tích ngọc đôi kim, một chú cầm quả phật thủ đề chữ chiêu tài tiến bảo). - Cao thăng lộc vị (vẽ hai vị quan cầm ngọc như ý, bên cạnh có ghi bốn chữ cao thăng lộc vị). - Nhất bản vạn lợi (ghi trên bức tranh vẽ các cảnh nhà nông như xay thóc, đập lúa, gánh lúa, vác cầy ra ruộng, cấy lúa). - Đinh tài tương vượng (con cái của cải đều vượng; hình hai chú bé ôm nhau ngồi bên cạnh hũ vàng, người anh đang cầm quyển sách, trên có ghi đinh tài tương vượng). - Trường sinh, bình an (tranh ông lão gánh hai quả lựu, mang chữ trường sinh; tranh ông lão gánh hai quả đào, mang chữ bình an). - Đào hiến thiên xuân (đào dâng nghìn tuổi xuân; tranh ông lão cầm quả đào). - Lựu khai bách tử (quả lựu mở sinh trăm con; tranh ông lão cầm quả lựu bóc dở, cho trông thấy hạt). - Phú quý vinh hoa vạn vạn niên (đề trên tranh vẽ ba đứa trẻ đang chơi với hoa, với chim). - Nhất gia hòa khí tử tôn hiền (đề trên tranh vẽ ba đứa trẻ đang chơi chim, cá). - Xuất môn nghinh bách phúc, nhập hộ chúc tam đa (đề trên bức tranh hai đứa trẻ đầu đội dĩa đào, dĩa lựu, tay mang lộc bình cắm hoa sen, hoa cúc). - Thiên hạ thái bình, quốc gia thịnh trị. - Thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc (viết trên tranh vẽ người nông phu ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên cạnh cái cày, ấm nước và con trâu nằm nghỉ; hoặc trên tranh vẽ người nông phu ngồi nghỉ dưới bóng liễu, bên cạnh cái bừa và con trâu nằm nghỉ). B. CHÚC TẾT BẰNG HÌNH ẢNH Người xưa nhiều khi không dùng chữ, mà chỉ dùng hình ảnh để nói lên lời chúc nguyện. Có hai cách sử dụng hình ảnh: 1. Coi hình ảnh như là một tượng trưng 2. Coi hình ảnh như là một chữ 1. Coi hình ảnh như là một tượng trưng - Quả đào tượng trưng cho sự sống lâu. - Quả lựu tượng trưng cho sự đông con cái. - Con lợn đực tượng trưng cho sự sung túc. - Con lợn cái với bầy con tượng trưng cho sự sung túc và con cái đầy đàn. - Con gà mái với bầy con tượng trưng cho gia đình đông đúc, đầm ấm. - Con công tượng trưng cho sự bình an thịnh vượng. - Con hạc biểu hiện sự sống lâu. - Con cóc tía tượng trưng cho sự giàu có, can đảm, và cái gì quý báu, khó kiếm ra được. - Cậu bé con tượng trưng cho con cái đầy đàn. - Quan văn tượng trưng cho tước lộc. - Ông già tượng trưng cho sự sống lâu. - Quyển sách tượng trưng cho sự may mắn về đàng công danh, khoa cử. - Rồng tượng trưng cho hạnh phúc. - Phượng tượng trưng cho sự trường thọ. - Cá vượt vũ môn tượng trưng cho sự thi đỗ. 2. Dùng hình ảnh thay chữ Người ta cũng có thể dùng hình ảnh thay chữ, vì hình ảnh ấy đọc giống hay gần giống một chữ Hán nào đó, ví du: - Vẽ con gà (Kê 雞) thay chữ Cát 吉 (tốt lành) vì chữ Kê đọc gần như như Cát. - Vẽ cái bình (Bình 瓶) để thay chữ Bình 平 (bình an). - Vẽ con cá (Ngư 魚) thay cho chữ Dư 餘 (dư thừa), vì Ngư và Dư đọc gần như nhau. - Vẽ hoa sen (Liên 蓮, Hà 苛) thay chữ Liên 連 (liên tục) hay thay chữ Hòa 和 (hòa hợp). - Vẽ quả thị, cành thị (Thị 柿) thay chữ Sự 事 (sự việc) vì hai chữ đọc giống nhau. - Vẽ ngọc như ý thay cho hai chữ Như Ý 如 意. - Vẽ hoa cúc (Cúc 菊) thay chữ Cửu 久 (lâu), Cư 居 (ở) hay Cử 舉 (tất cả). - Vẽ con dơi (Biên Phúc 蝙 蝠) thay chữ Phúc 福 (hạnh phúc). Vẽ 5 con dơi thời đọc là Ngũ Phúc 五 福. - Vẽ con mèo (Miêu 貓) thay chữ Mạo 耄 (già 80 tuổi). - Vẽ con bướm (Điệp 蝶) thay chữ Điệt 耋 (già 70 tuổi). - Vẽ bông hoa (Hoa 花) thay chữ Vinh Hoa 榮 華. - Vẽ cái kích (Kích 戟) thay chữ Cát 吉 (tốt lành). - Vẽ ống sáo (Sinh 笙) thay chữ Sinh 生 (sinh nở) hay chữ Thăng 升 (bay lên). - Vẽ quả lựu (Lựu 榴) thay chữ Lưu (đời). - Vẽ cây bầu (Đại) thay chữ Đại 代 (đời). - Vẽ con hươu (Lộc 鹿) thay chữ Lộc 祿 (lộc), v.v. CÁCH DÙNG HÌNH ẢNH ĐỂ CHÚC TỤNG Hiểu được các cách ngụ ý trên, ta sẽ hiểu cách dùng hình ảnh để chúc Tết. Ví dụ: 1. Vẽ hình quả đào với 5 con dơi là Ngũ Phúc. Mà Ngũ Phúc theo Hồng Phạm Cửu Trù trong Kinh Thư là: + Giàu (Phú 富) + Sống lâu (Thọ 壽) + Khỏe mạnh (Khang ninh 康 寧) + Yêu nhân đức (Du hiếu đức 攸 好 德) + Chết êm ái (Khảo chung mệnh 考 終 命) 2. Vẽ hoa cúc (tượng trưng phúc thọ) với một giải lụa dài (bàn trường) là muốn chúc: Phúc thọ bàn trường 福 壽 ○長 . Vẽ hoa cúc với con chim hoàng tước là chúc cử gia hoan lạc 舉 家 歡 樂 (cả nhà yên vui), vì Cúc 菊 đọc gần như chữ Cử 舉 , chữ Hoàng 黃 đọc gần như chữ Hoan 歡 (vui). 3. Vẽ quả phật thủ với con bướm là chúc Điệp thọ 耋 壽 (sống lâu đến 70-80), vì quả phật thủ tượng trưng cho Thọ hay Phúc, con bướm (Điệp 蝶 ) thay chữ Điệp (Điệt) 耋 là già 70 tuổi. 4. Vẽ quả phật thủ (phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) là chúc: đa phúc, đa thọ, đa nam tử. 5. Vẽ quả phật thủ, quả đào, quả lựu với 9 miếng ngọc như ý là có ý chúc: tam đa cửu như 三 多 九 如 , nghĩa là chúc cho phúc thọ, con cháu đầy đàn, bền vững. Theo Kinh Thi (Tiểu nhã- Thiên bảo), cửu như là: - Như núi (như sơn 如 山), - Như gò (như phụ 如 阜), - Như đồi (như cương 如 岡), - Như nổng (như lăng 如 陵), - Như sông nước cuồn cuộn chảy (như xuyên chi phương chí 如 川 之 方 至), - Như mặt trăng lâu dài (như nguyệt chi hằng 如 月之 恆 ), - Như mặt trời đang lên (như nhật chi thăng 如 日之 升), - Như núi Nam trường thọ (như Nam sơn chi thọ 如 南山 之 壽), - Như tùng bách luôn tươi xanh (như tùng bách chi mậu 如 松 柏 之 茂). 6. Vẽ quả lựu đã bóc vỏ một phần để lộ hạt ra là có ý chúc: lựu khai bách tử 榴 開 百 子 (lựu mở sinh trăm con). Nếu vẽ quả lựu với 5 cậu bécon là ý chúc cho con cái sau này đều dương danh hiển đạt như 5 con của ông Đậu Yên Sơn đời Tống. Có khi lại vẽ quả lựu (Lựu 榴 > Lưu 流 )[3] với cái mũ (Quan 冠 > Quan 官), cái đai lưng (Đái 帶), cái thuyền (Thuyền 船 > Truyền 傳), đó là chúc: Quan đái truyền lưu 官 帶傳 流 (được phong quan tước nhiều thế hệ). 7. Vẽ cành thị (Thị 柿 > Sự 事) với ngọc như ý (Như ý 如 意) với một giải lụa dài (bàn trường) là có ý chúc: Sự sự như ý bàn trường 事 事 如 意 ○長 (làm gì cũng được như ý mãi mãi). Vẽ cành thị với cái kích (Kích 戟 > Cát 吉), cái khánh (Khánh 慶), con cá (Ngư 魚 > Dư 餘) là chúc cho: Sự sự cát khánh hữu dư 事 事吉 慶 有 餘 (làm gì cũng được tốt lành thắng ý nhiều). Vẽ hai quả thị với ngọc như ý là chúc sự sự như ý 事 事 如 意. 8. Vẽ cây ngô đồng (Đồng 桐 > Đồng 同 : cùng với) với con hươu (Lộc 鹿 > Lộc 祿) và chim hạc (trường thọ) là có ý chúc Lộc thọ đồng lộc hạc 祿 壽 同 鹿 鶴 (được bổng lộc và sống lâu như hươu, hạc). Vẽ chim hỉ thước 喜 鵲 (Hỉ 喜 : vui) đậu cây ngô đồng (Đồng 桐 > Đồng 同 : cùng với) là có ý chúc Đồng hỉ 同 喜 (mọi người cùng vui vẻ). 9. Bông sen (Liên 蓮 ) chỉ sự liên tục, liên tiếp (Liên 連 ), nên vẽ đứa trẻ cỡi trên lưng con kỳ lân tay cầm bông sen và ống sáo (Sinh 笙 > Sinh 生) là ý chúc: Liên sinh quý tử 連 生 貴 子 (liên tiếp sinh quý tử). 10. Vẽ 4 đứa trẻ con, mỗi đứa một vẻ: đứa cầm cành táo (Tảo 棗: cây táo > Tảo 早 : sớm), đứa cầm ống sáo (Sinh 笙 > Sinh 生), đứa cầm cái ấn quan văn, đứa cầm cái kích quan võ là có ý chúc: sớm sinh con cái sau này thành quan văn hay quan võ. 11. Vẽ cậu bé con ăn mặc sang trọng (Phú 富), cổ đeo cái khánh (Khánh 慶: may mắn hạnh phúc) đang ngắm bầy cá vàng (Ngư 魚 > Dư 餘) là ý chúc: Giàu có, đông con, hạnh phúc có thừa). 12. Cành mai 梅 dùng thay chữ Mỗi 每 (mọi người) hay chữ Mi 眉 (làn mi). Cành trúc 竹 dùng thay chữ Chúc 祝 (chúc tụng). Do đó vẽ Chim hỉ thước (Hỉ 喜: vui) đậu cành mai 每 (mọi người) cành trúc là ý chúc cho mọi người đều vui vẻ. Có người giải là Hỉ mi 喜 眉 (mặt mày vui vẻ). Vẽ trúc mai là chúc mọi người may mắn. Vẽ mai, trúc với con mèo (Miêu 貓 : mèo > Mạo 耄: già 80) và con bướm (Điệp 蝶: bướm > Điệp 耋: già 70) là ý chúc mọi người sống lâu đến 70-80 tuổi. 13. Cành quế chỉ sự thanh quý, nên vẽ đứa trẻ cầm cành quế, hoa sen (Liên), và ống sáo (Sinh) là ý chúc: Liên sinh quý tử 連 生 貴 子 (liên tiếp sinh quý tử). 14. Hoa mẫu đơn là hoa phú quý, còn chim phượng theo đạo Lão là chim Đan điểu, thứ chim linh, chim quý ở động thần tiên, nên vẽ mẫu đơn với chim phượng là ý chúc: Sẽ có được mọi điều quý báu nhất trong đời. Vẽ mẫu đơn với con gà (Kê 雞 > Cát 吉) là chúc: phú quý cát tường 富 貴 吉 祥. 15. Con gà trống gọi là Công kê 公 雞 , nên có thể thay cho chữ Công 功 (công nghiệp). Gà có thể gáy. Chữ Nho gáy là Minh 鳴, mà Minh 鳴 thì đọc giống như chữ Danh 名. Nên vẽ gà trống là đã đủ chúc được công danh 功 名. C. NHỮNG CÁCH CHÚC TẾT CÓ TÍNH CÁCH BÙA CHÚ Ngoài ra còn có những hình thần thánh dán ngoài cửa hoặc trong nhà để trừ tà, giáng phúc, như: - Thần Vũ Đinh (môn thần) trừ tà. - Thần Huyền Đàn (trấn môn). - Thần Tử Vi (trấn trạch). Các hình thần trên đây thường được vẽ kèm theo các hình Nhị Thập Bát Tú, Tứ linh, Tứ tượng, Thái Cực, Ngũ hành, Bát quái, Long mã phụ đồ, Thần quy phụ thư, v.v. cho tăng thêm vẻ thần bí. Chính vì thế mà tất cả các loại hình trên được gọi chung là bùa trấn trạch. Tuy nhiên chúng cũng là những lời ước nguyện. Ước nguyện được sống yên ổn, hạnh phúc dưới sự che chở của chư thần, không bị tà ma quấy nhiễu. Trên đây tôi chỉ khảo tranh Tết về loại tranh chúc tụng. Thật ra còn nhiều loại tranh như: - Tranh thờ, - Tranh giáo hóa (Chính khí ca, Nhị Thập Tứ Hiếu, phương ngôn, v.v.), - Tranh lịch sử (Ngô Quyền, Trưng, Triệu, Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng, v.v.), - Tranh truyện (Truyện Kiều, Thạch Sanh, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Hoa Tiên, Chinh Đông, Chinh Tây, Tam Quốc, Tây Du, v.v.) - Tranh trào lộng (riễu những tệ đoan xã hội, những thói văn minh rởm, hoặc riễu Tây chế Tàu, v.v.) - Tranh sinh hoạt dân gian và đồng quê, v.v. Nều mà đem bàn cả, thì không biết bao giờ mới nói hết. Bàn qua về tranh Tết, về ý nghĩa những lời chúc tụng và những cách dùng để chúc Tết trong các tranh Tết, ta mới thấy chúng tuy đơn sơ, mộc mạc, nhưng không kém phần cao siêu, và đã chiếm được một địa vị khả quan trong nền văn hóa nước nhà. Nó vừa thấp lại vừa cao. Thấp vì những hình ảnh của chúng rất là đơn sơ mộc mạc, dân dã, dù một đứa bé con cũng thích, cũng hiểu. Cao vì dẫu một học giả uyên thâm cũng khó lòng mà biết hết cái hay ho ý vị của nó. Tôi ước mong một ngày gần đây, bộ Văn Hóa Giáo Dục cũng sẽ in bán cho dân chúng miền Nam những tranh Tết mộc mạc rẻ tiền như vậy. Làm văn hóa mà đi sâu được vào tới mọi thôn xóm của dân gian, vào được tới mọi hang cùng ngõ hẻm, để đem lại cái hương vị của nghệ thuật, cái màu sắc của ngày xuân, ngày tết, cái bản sắc của dân tộc, cái tinh hoa của nền đạo lý cổ truyền, đem lại được cho dân gian một ước mơ, hay nói đúng hơm một niềm tin tưởng vào hạnh phúc tương lai, giúp cho họ ăn tết, hưởng xuân vui hơn, như thế chẳng phải là một sự đóng góp văn hóa giá trị hay sao? Để kết thúc bài này, tôi xin mượn hai bài thơ chúc bình an, trường sinh của tranh Tết xưa để chúc mừng năm mới quý vị độc giả. Hai bài thơ này đề trên hai bức tranh bình an và trường sinh. Trên bức bình an vẽ một ông lão tráng kiện, gánh một gánh quả, mỗi bên có một trái đào lớn, trái thì ghi chữ bình, trái thì ghi chữ an, với bài thơ rằng: Tự đâu mà lại gánh an bằng, Tuổi tác xem chiều hãy khỏe lưng. Thôi đã giã ơn công cán ấy, Đem cho vâng lấy, để cho mừng. Cho vâng lấy, để cho mừng, Hãy ra sức gánh an bằng về đây. Bức tranh thứ hai cũng vẽ một cụ già tráng kiện, râu tóc đẹp đẽ, gánh hai quả lựu, một quả ghi chữ trường, một quả ghi chữ sinh, với bài thơ như sau: Gã nào thong thả gánh tràng sinh, Lão tráng hùng hào mới biết danh, Song đã có lòng đem lại đấy, Ơn cho mặc đội, sở cung mình. Ơn mặc đôi, sở cung mình, Mỗi năm một gánh trường sinh đến nhà. Kính chúc quý vị bình an trường thọ. Xuất môn nghinh bách phúc, Nhập hộ chúc tam đa. và vui hưởng một xuân mới trong bầu không khí hoan lạc. [1] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số kép 31-32, tháng 1, 2-1974, Xuân Giáp Dần. Đây là một bài khảo luận, lượm lặt hoặc phiên dịch những tài liệu đã có, nhất là của: - Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, École Française d’Extrême Orient, Paris, 1960. - Tranh Tượng Dân Gian, nhà xuất bản Mỹ Thuật, Hà Nội. - Các số Indochine 127 (Jeudi 4-2-1943) và 230 (Samedi 16-2-1945) - Schuyler Camman, Types of Symbols in Chinese Art, trong quyển Studies in Chinese Thought, edited by Arthur Wright. - Thái Tuấn, Ngày Xuân xem tranh mộc bản Việt Nam, tạp chí Phương Đông, số 19-20. [2] cf. Tranh Tương Dân Gian Việt Nam. [3] Dấu > là chuyển đổi ý nghĩa thành.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:47:52 GMT 9
Văn hoá là gì? Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ ☸ Lời giới thiệu của Phạm Đình Tân, Đoàn trưởng Tinh Việt Văn Đoàn và Tổng thư ký Trung tâm Nghiên cứu và Thông tin Tân Định. Kính thưa quí vị Năm trước đây, một vị giáo sư ngoại quốc đã tới thăm Việt Nam. Ông rất thông thạo Việt ngữ, viết và nói như một nhà văn vì ông đã học tập ngôn ngữ nước nhà tại quê hương ông từ lâu. Ông đã nhờ người đồng hương của ông ở đây mua báo chí và sách vở và đã lưu trữ được khá nhiều những tác phẩm giá trị Việt Nam. Ông tới thăm chúng tôi để nói chuyện về văn hoá và mua mấy số báo Văn đoàn của chúng tôi mà ông thiếu để cho đủ bộ, ông rất ngạc nhiên khi biết chúng tôi tự động ngừng xuất bản tờ tuần báo này vì tình hình chính trị và chiến tranh trong nước. Ông đã thân mật nói với chúng tôi: «Ông bạn ơi! nhiều người ngày nay cũng nhầm lẫn như ông. Họ tưởng tình hình chính trị xáo trộn và chiến tranh lan rộng làm cho người ta không còn nghĩ gì đến các vấn đề khác liên quan đến con người. Điều đó đúng nhưng họ không ngờ rằng chỉ dăm ba tâm hồn thiện chí cũng đủ xây dựng tương lai. Một tư tưởng trong báo ông chỉ cần được một phần trăm số độc giả hằng ngày của nó lưu tâm cũng đủ cho ta hy vọng. Vì ông nên nhớ, dầu quân sự, chính trị có thắng mà văn hoá không tiến hay suy đồi thì phần thua ta nắm chắc và sự suy vong của xứ sở không còn nghi ngờ gì nữa. Lời nói của vị giáo sư ngoại quốc này đáng chúng ta suy nghĩ vì nó nói lên sự quan trọng của Văn hoá. Chính nhà bình luận trứ danh Pháp, Julien Benda, cũng đã nhắn nhủ đồng bào hồi đầu thế kỷ này: «Cuộc chiến tranh chính trị bao hàm cả chiến tranh Văn hoá, đó thực là một phát minh của thời đại chúng ta và nó bảo đảm cho thời đại này một địa vị đặc biệt trong lịch sử tinh thần của nhân loại.» [2] Quả đúng vậy. Cũng như sự tiến hoá của con người đã chuyển từ địa hạt vật chất sang địa hạt tinh thần như nhà bác học Lecomte du Noüy đã nhận định thì cuộc tranh đấu ngày nay của các dân tộc cũng đã lan sang địa hạt văn hoá. Và cái thắng ở khu vực đó là cái thắng cuối cùng, cái thắng quyết định vì quân sự, chính trị thắng mà Văn hoá thua thì cũng không ích gì. Vậy văn hoá là gì? Theo thành kiến thông thường, ở giới trí thức cũng như trong dân gian, văn hoá biểu hiện cho tất cả những sự phong phú tinh thần, là vật đặc hữu của giới thượng lưu mà người thường dân khó mà thu thập được. Cho nên, ngày xưa những vị khoa bảng, các ông nghè, ông cử, ông tú đều được coi là hiện thân của thánh hiền. Lời nói của các ngài là khuôn vàng, thước ngọc, chữ viết của các ngài là những thánh tự không được để vương vãi trên mặt đất hay dày đạp dưới chân! Ngày nay quan niệm về văn hoá cũng không được may mắn lắm. Người ta lẫn lộn văn hoá với văn chương, văn hoá với giáo dục, văn hoá với văn mình, văn hoá với kiến thức… Viết một bài văn, giảng một đoạn sách, sống một cách thời trang, được nhiều chuyện, người ta đã tưởng đó là văn hoá rồi. Điều đáng chú ý nữa là mặc dầu không hiểu rõ văn hoá là gì và coi văn hoá là một sự phù phiếm, khi nói đến hai tiếng này người ta vẫn có mặc cảm tự tôn đối với các ngành học thuật khác như kinh tế, kỹ thuật, khoa học… Tình trạng đó thật đáng lo âu và khiến chúng ta cần xem xét lại, nhất là trong giai đoạn này vì Việt Nam hằng tự hào có bốn ngàn năm văn hiến và Việt Nam đang phải phát triển mau lẹ để theo kịp hoàn đầu về mọi phương diện, vật chất cũng như tinh thần. Vì vậy, đã mấy năm nay, chúng tôi vẫn hằng bàn luận về văn hoá với ông bạn thân là bác sĩ Nguyễn Văn Thọ mà chúng tôi được hân hạnh giới thiệu với Quí Vị hôm nay. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ chắc cũng không phải là người xa lạ với nhiều Quí Vị vì ông vừa là giảng sư ở Đại học Văn khoa Sài Gòn vừa là người đầu tiên được giải thưởng văn chương «Lecomte du Noüy» của Tinh Việt Văn Đoàn chúng tôi về bộ môn biên khảo với tác phẩm Trung Dung Tân Khảo năm 1960-1961. Ông cũng là người đang chuyên tâm nghiên cứu các học thuyết Đông Tây như Khổng học, Phật học, Lão học v.v… và đã viết cuốn «Lecomte du Noüy và học thuyết viễn đích», một tác phẩm rất công phu trong đó ông đã đối chiếu các tư tưởng và học thuyết của nhà bác học này với các tư tưởng và học thuyết cổ kim. Nhờ thông thạo nhiều thứ tiếng: chữ La tinh, Hán ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ, Đức ngữ v.v… ông đã lần mò vào các kho tàng văn học của cổ nhân cũng như của ngoại quốc để tìm nghĩa văn hoá. Công phu đó đã giúp ông thu thập được khá nhiều quan niệm của các danh nhân đồng thời suy nghĩ và ấn định cho mình một quan niệm riêng. Những quan niệm ấy thế nào? Chốc nữa diễn giả sẽ trình bày cùng Quí Vị. Những quan niệm đó có đúng không. Có đầy đủ không. Ai mà dám chắc vì ở đời này có cái gì hoàn toàn và vấn đề văn hoá nó cũng phức tạp như chính con người. Cho nên người tổ chức và diễn giả trông mong chốc nữa Quí Vị sẽ góp thêm ý kiến cho cuộc hội họp hôm nay thêm phần phong phú. Tuy nhiên công trình của diễn giả thực đáng ghi nhận và sẽ góp phần đắc lực vào việc xây dựng tương lai. Nhà triết học và sử gia Đức Oswald Spengler đã viết ở đầu thế kỷ này; trong cuốn «Ngày suy tàn của Tây Phương»: «Mỗi nền văn hoá trải qua những giai đoạn tiến hoá của con người nói riêng. Nền văn hoá nào cũng có thời thơ ấu, thời thanh niên, thời trưởng thành, thời già cỗi.» [3] Vì vậy, nền văn hoá cổ xưa của chúng ta có đẹp đến đâu chúng ta cũng cần phải xem xét lại và phải tích cực hoạt động để cho nền văn hoá Việt Nam ngày nay thích hợp với sự tiến triển của dân tộc nói riêng và của thế giới nói chung. Và chúng ta cũng đừng bào giờ quên rằng văn hoá cũng, đã lăn vào cuộc chiến như nhà bình luận Julien Benda đã nhắn nhủ trên kia. Với những ý tưởng đó, chúng tôi xin nhường lời cho diễn giả hầu chuyện Quí Vị. VĂN HOÁ LÀ GÌ? Thưa Quí Vị. Cách đây mấy năm, Ông Phạm Đình Tân đã có ý muốn tổ chức một loạt bài nói chuyện về văn hoá, và từ độ ấy Ông đã có nhã ý mời tôi nói về một trong những đề tài văn hoá của Ông. Mặc dầu tôi đã hết sức thoái thác, từ nan, mà vẫn không được, nên rút cuộc phải nhận lời. Tuy nhận lời, nhưng thực sự tôi rất ngại nói về văn hoá, một vẫn đề khô khan như sa mạc, mơ hồ như sương thu, và khó khăn như con đường vào Ba Thục. Giờ đây, được hân hạnh ra trước Quí Vị, để nói về đề tài tổng quát «Văn Hoá là gì?», tôi cảm thấy bồi hồi và lạc lõng liên tưởng đến mấy câu Kiều: «Bây giờ đất thấp trời cao, Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?» Biết ăn làm sao, biết nói làm sao, khi mà đã đường quang không đi, lại bắt quàng đường rậm, khi đã không biết tự lượng sức mình mà mua lấy cái khó vào mình? Đã tới nông nỗi này, tôi chỉ còn biết xin Quí Vị khoan dung mà bỏ qua cho những điều lầm lỗi cũng như những điều sơ xuất của tôi trong buổi nói chuyện hầu Quí Vị hôm nay. Để tìm hiểu văn hoá là gì, tôi sẽ lần lượt: 1. Khảo sát xem hai chữ Văn Hoá xuất sinh từ đâu, từ thời kỳ nào. 2. Bình luận về ít nhiều định nghĩa Văn Hoá. 3. Triết tự Văn Hoá, và phân tách nội dung Văn Hoá. 4. Bàn về sự thăng trầm của một nền Văn Hoá, cũng như về ba nền Văn Hoá chính trong hoàn võ từ trước tới nay. 5. Thử đưa ra một định nghĩa về Văn Hoá, một quan niệm về Văn Hoá. I. XUẤT XỨ VÀ KHỞI NGUYÊN CỦA HAI CHỮ VĂN HOÁ Thoạt tiên trước khi khảo sát về hai chữ Văn hoá, thiết tưởng cũng nên tìm hiểu xem lý lịch của hai chữ Văn hoá ra sao, nó đã phát sinh từ phương nào, thời nào, ai đã khai sinh ra 2 chữ Văn hoá v.v… Nhưng đó là một công trình thiên nan, vạn nan. Tôi tuy đã tốn công tìm tòi, nhưng tới nay, vẫn chưa gọi được thông tỏ vấn đề . Cho nên đây tôi chỉ xin trình bày hồ sơ lý lịch tạm thời của chữ Culture bên trời Tây, và chữ Văn Hoá bên trời Đông. Bernard Chabonneau cho rằng chữ Văn hoá đã được Goethe (1749-1832) khai sinh đầu tiên trong tiếng Đức với chữ Bildung, và có nghĩa thuần túy là văn chương, nghệ thuật chứ không có dính dấp gì đến đạo giáo, kinh tế hay chính trị. [4] Harry Levin chủ trương ngược lại rằng chữ Kultur của Đức đã được vay mượn trong tiếng Pháp. [5] Thế là, về phương diện xuất xứ của chữ Văn Hoá, ta đã bị đánh đong đưa giữa hai chủ trương tương phản. Đến như vấn đề chữ Culture phát sinh từ năm nào, thời nào, thì lại càng khúc mắc, nan giải hơn nữa. Bernard Chabonneau cho rằng chữ Culture chỉ được thông dụng ở Anh và Pháp sau năm 1918. [6] Harry Levin cho rằng chữ Culture với nghĩa là Văn Hoá đã xuất hiện trong tiếng Pháp vào cuối thế kỷ XVIII. Bằng chứng là trong Bách Khoa Tự Điển của Diderot, chữ Culture chỉ có nghĩa là trồng trọt đất đai, chưa có nghĩa là Văn Hoá. Mãi đến năm 1777, Tự Điển Hàn Lâm Viện Pháp mới chữa thêm rằng: «Culture cũng còn được dùng theo nghĩa bóng là trau dồi nghệ thuật và tâm trí.» [7] Ruth Emily Memury cho rằng trong tiếng Anh, chữ Culture xuất hiện lần đầu tiên trong tự điển Oxford vào năm 1875. [8] Bộ Bách Khoa Tự Điển Anh cho rằng chữ Culture với nghĩa là Văn Hoá được Matthew Arnold dùng trong quyển Culture and Anarchy từ 1869.[9] Harry Levin cho rằng từ năm 1510, Thomas More đã dùng chữ Culture với ý nghĩa là giáo dục, là đào luyện tinh thần. [10] Như vậy, chữ Culture với nghĩa là Văn hoá đã sinh ra từ năm nào? 1918, 1875, 1869, 1777 hay 1510? Nó đã ra chào đời đầu thế kỷ XX, hay cuối thế kỷ XIX, cuối thế kỷ XVIII hay đầu thế kỷ XVI. Ai sẽ là trọng tài để đoán định dứt khoát về sự sai biệt sơ sơ non bốn thế kỷ này? Nhưng thế cũng chưa lạ, nếu ta truy nguyên thì trong tiếng Latin, chữ Culture đã được dùng từ thời đế quốc la-mã ít là hơn 100 năm trước Công nguyên. Thời ấy chữ Culture đã có 3 nghĩa: 1. Phương pháp làm ruộng. (Trau dồi thể xác = XÁC) 2. Phương pháp làm người.(Trau dồi tâm Hồn; HỒN) 3. Phương pháp làm thần minh, hay sự thờ phượng thần minh (TRAU DỒI PHẦN Thần LINH; Thần). [11] Quay sang Đông Phương, chúng ta cũng vấp phải những khó khăn tương tự. Ở Trung Hoa, chữ Văn Hoá có gần đây, nhưng chữ «Văn» đã có từ lâu và bao hàm mọi ý nghĩa của văn hoá. [12] Một học giả Trung Hoa, Ông Shih-Hsiang-Chen viết: « Văn là tất cả những gì đẹp đẽ của nhân quần. Văn là sự sáng tạo của tinh thần, có mục đích kết hợp mọi phần tử rời rạc vô nghĩa thành một đoàn thể có tổ chức, đổi sự xung đột thành hòa mục, đổi loạn thành trị, thực hiện cái hay, cái đẹp …[13] J. Laloup và J. Nélis cũng cho rằng: Chữ Văn của Trung Hoa hàm ngụ tất cả công trình cải thiện con người. Nó bao quát văn chương, đạo giáo, triết học, nghệ thuật, tóm lại, tất cả mọi thủ đắc trên bình diện tâm thần, ngược lại với chữ Vũ, tượng trưng cho guồng máy hành chánh và quân sự. [14] Trong Kinh Thư, chữ Văn hay chữ Văn giáo đã được dùng thay vì chữ Văn hoá. Ngoài ra ta còn thấy những cử chỉ hết sức đẹp đẽ của vua chúa thời ấy, muốn dùng văn để trị đời, như vua Đại Võ phô trương đức độ, lễ nghi, nghệ thuật nơi triều ca để cảm hoá rợ Miêu, khiến họ phải tự động thần phục; như Võ Vương sau khi đã diệt được Trụ Vương, liền thả trâu trận, ngựa chiến nơi miền núi Hoa Dương và miền đông Đào Lâm để tỏ ý sẽ dùng Văn mà cai trị, cải hoá thiên hạ thay vì dùng Võ, dùng bạo lực. [15] Đọc Tam Quốc, ta thấy Phó Cán khuyên Tào Tháo không nên mãi mãi điều động binh mã bình Ngô, diệt Thục, mà phải biết dùng văn để củng cố vương quyền… Tào Tháo nghe theo, bèn bãi việc Nam chinh. Rồi lo chấn hưng các trường học, ưu đãi văn sĩ …[16] Như vậy chữ Văn ít là đã chống chất trên mình 4000 năm tuổi hạc, nhưng ngược lại, hai chữ Văn hoá thì chắc là mãi tới đầu thế kỷ XX mới xuất hiện trong từ ngữ Trung Hoa. Bằng chứng là trong quyển Pháp Hoa tự điển của Séraphin Couvreur, xuất bản tại Trung quốc năm 1890, ta chưa thấy bóng dáng hai chữ Văn Hoá. Ở Việt Nam vì chúng ta chịu ảnh hưởng Trung Hoa, nên chữ Văn cũng đã có tự lâu đời, trái lại, chữ Văn Hoá chắc chắn là một tiếng mới được thông dụng. Lục soát các tự vị, tự điển Việt, hay Pháp Việt, xuất bản trước 1918 đều không thấy tung tích hai chữ Văn Hoá.[17] Nếu tôi không nhầm, thì tuy tập chí Nam Phong bắt đầu xuất bản từ 1917, nhưng mãi đến năm 1924, trong số 84 mới thấy Ông Thượng Chi viết một bài nhan đề là Bàn phiếm về văn hoá Đông Tây. [18] Tổng kết lại, nếu ta khảo sát các tự điển Pháp, Hoa, Việt, Anh, ta có thể kết luận một cách khá chắc chắn rằng chữ Văn Hoá là một tiếng mới mẻ. Nó đã ra chào đời khoảng cuối thế kỷ XVIII, nhưng chỉ được thông dụng ở bên Đông cũng như ở bên Tây, sau đệ nhất thế chiến.[19] II. BÌNH LUẬN VỀ ÍT NHIỀU ĐỊNH NGHĨA VĂN HOÁ Sau khi đã biết sơ qua về lai lịch chữ văn hoá, thiết tưởng nên tìm hiểu về ít nhiều định nghĩa văn hoá. Chữ văn hoá ngày nay tuy hết sức thông dụng, nhưng văn khó định nghĩa cho chính xác. Hơn nữa mỗi người hiểu Văn hoá một cách, cho nên bộ mặt văn hoá biến thiên, có đủ hình dung sắc thái: có người cho nó mung lung phiểu diểu như tinh thần, có người cho nó thiển cận, thực tiễn như vật chất. Tùy nơi, tùy thời, tùy người, chữ Văn hoá lại có một nội dung hay một hình thức hoàn toàn mới mẽ, khác lạ. Cũng vì vậy mà các nhà học giả chân chính rất ngại ngùng khi phải định nghĩa văn hoá. Trong bài phi lộ quyển Culture, a critical review of Concepts and Definitions, hai nhà nhân chủng học trứ danh là Ông Kroeber và Clyde Kluckhohn đã mượn lời của Lowell mà thú nhận rằng: «Tôi đã được ủy nhiệm nói về Văn hoá. Nhưng ở trên đời này không có gì phiêu diêu, mung lung hơn là hai chữ Văn hoá. Người ta không thể phân tách văn hoá, vì thành phần nó vô cùng tận … Người ta không thể mô tả Văn hoá, vì nó muôn mặt, muôn hình. Muốn cô đọng ý nghĩa Văn hoá thành lời lẽ, thì cũng y như tay không bắt không khí: ta sẽ thấy không khí ở khắp nơi, mà riêng trong tay ta, thì chẳng nắm được gì».[20] Cũng vì vậy, mà có nhiều nhà đại văn hoá lại không muốn định nghĩa Văn hoá. Trong cuộc hội thảo về văn hoá ở Venise, từ ngày 25 đến 31thág 3 năm 1956, do Châu Âu Văn hoá hội tổ chức, qui tụ một số triết gia, văn gia các nước Âu Châu gồm cả hai phe Tự Do và Cộng Sản. Trong đó có những nhân vật lừng danh như Karl Barth, Campagnolo, Jean Paul Sartre, Maurice Merleau Ponty, Vercors, Silone, Fédine, Boris Polévoi Kampov, Jaroslaw- Iwaszkiswioz v.v… người ta đề nghị không nên đưa ra một định nghĩa về văn hoá trong bản tuyên cáo chung[21]. Các tác giả bộ Le Bilan du Monde (tức là bộ Bách Khoa Công giáo về thế giới Cơ Đốc Giáo) cũng tránh không đưa ra một định nghĩa về Văn hoá. Họ không muốn có thái độ dứt khoát như nhiều người, coi văn hoá đối lập với văn minh, mà chỉ muốn nói Jacques Maritain rằng: «Trong Văn hoá có hàm nghĩa, phát triển con người và nhất là phát triển về lý trí, tâm thần, còn trong văn minh có khía cạnh xã hội chính trị và kỹ thuật của sự phát triển về con người. [22] Thomas Sternns Eliot, một văn gia người Anh, đã đoạt giải thưởng Nobel về văn chương năm 1948 đã viết một quyển sách với một nhan đề hết sức khiêm tốn là «Những ghi chú để tiến tới một định nghĩa về văn hoá». [23] Thế là T.S. Eliot cũng không muốn trực tiếp định nghĩa Văn hoá. Những thái độ dè dặt nói trên, xét cho cùng, hết sức là khôn ngoan, vì định nghĩa là giới hạn, là thắt buộc [24], mà giới hạn quá, thắt buộc quá, ta sẽ khó quanh, khó gỡ. Quần chúng thì trái lại, có thể định nghĩa và bàn cãi về văn hoá một cách hết sức dễ dàng. Trước đây hơn 10 năm, Ông Đặng Văn Ký đã mở một cuộc phỏng vấn về 2 chữ văn hoá và đã ghi kết quả cuộc phỏng vấn ấy trong Văn hoá Á Châu số 9, tháng 12, 1958. Giữa 2 thái cực ấy, còn có những học giả khác, không cẩu thả dễ dãi, nhưng cũng không tích cực tránh né, đã dám «dấn thân», đã dám định nghĩa về văn hoá. Nhờ vậy, mà nếu chúng ta chịu sưu tầm, thì cũng có thể có cả trăm định nghĩa về Văn hoá. Năm 1952, ông A.L. Kroeber và Clyde Kluckhohn trong quyển Culture: a Critical, Review of Concepts and Definitions đã viện dẫn hơn 400 tác giả và thâu lượm được 130 định nghĩa về văn hoá. [25] Sau đây chỉ xin bình luận về ít nhiều định nghĩa thông thường về văn hoá. 1. Có người cho rằng VĂN HOÁ là TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC, KIẾN VĂN của mỗi người. Cho nên nói: người này có trình độ văn hoá cao, người kia có trình độ văn hoá thấp. Theo định nghĩa này, thì văn hoá có nghĩa tương đương như trình độ học vấn. [26] 2. Có người cho rằng VĂN HOÁ là SỰ ĐÀO LUYỆN TÂM TRÍ CON NGƯỜI ĐỂ HỌ TRỞ NÊN THANH LỊCH. T.S. Eliot cho rằng: Văn hoá là sự cải thiện tâm trí con người. [27] Tự điển Oxford cho rằng: Văn hoá là sự đào luyện, là sự phát triển tâm trí và tài năng, phong thái v.v… Văn hoá là huấn luyện, là giáo dục con người để cải thiện con người, cho họ trở nên thanh lịch. [28] Tự điển của Bác sĩ Johnson cũng thích nghĩa văn hoá là nghệ thuật cải thiện, nghệ thuật tiến tới hoàn mỹ. [29] Như vậy, những người có văn hoá là những người có tác phong thanh lịch, có giáo dục, học vấn, những người mà con tim khối óc đã được chau chuốt dũa mài, những người có tâm hồn nghệ sĩ biết thưởng thức nghệ thuật. Những người có văn hoá là những tao nhân, mặc khách, những chính nhân quân tử, mà Kinh Thi đã khen tặng như sau: Kìa xem bên khuỷu sông Kỳ, Tre non mới mọc, xanh rì vườn ai Người đâu văn vẻ hỡi người, Nhường như cắt đánh rũa mài bấy nay. Lẫm liệt thay, rực rỡ thay, Hởi người quân tử biết ngày nào quên. [30] 3. Có người hiểu VĂN HOÁ là CÔNG TRÌNH GIÁO HOÁ CON NGƯỜI. Chữ Culture trong tiếng Pháp, ngoài nghĩa văn hoá ra còn có nghĩa là dạy dỗ, mở mang, khai hoá. [31] Và như vậy, chữ văn hoá đã được gắn liền với chữ giáo hoá, giáo dục, với chương trình giáo dục của quốc gia. Chữ Văn hoá, hay giáo hoá ở đây, chẳng những có nghĩa là đào luyện tâm trí con người cho họ trở nên những người có nhân cách, xứng đáng với danh vị con người, mà cũng còn có nghĩa là huấn luyện cho con người trở nên những người tài trí, hữu dụng cho đất nước. Nói thế tức là xưa và nay, đường lối văn hoá, giáo dục khác nhau. Xưa thì Đông cũng như Tây, giáo dục cốt là cải hoá tâm hồn con người cho họ trở nên những người chính nhân, quân tử. Chương trình giáo dục thiên về nghĩa lý, đạo lý. Nay Đông cũng như Tây, giáo dục cốt là để mở mang tài trí con người để cho họ trở thành những thầy, những thợ, những chuyên viên. Chương trình giáo dục thiên về khoa học và kỹ thuật. Mỗi đường lối có cái hay, cái dở của nó. Làm chính nhân quân tử, mà không có nghề nghiệp mưu sinh, thì dĩ nhiên sẽ lâm cảnh bần cùng, túng thiếu. Làm thầy, làm thợ mà vô lương tâm, thời sẽ trở thành họa hại cho quốc gia. Cái hay chính là biết dung hòa hai đường lối giáo dục nói trên, để đào tạo nên những con người tài đức song toàn. Cách đây 45 năm, Thượng Chi tiên sinh cũng đã viết: «Có khoa học mà không có đạo học, thời như vỏ, mà không có ruột không thể thành lập được ở đời. Nếu có đạo học mà không có khoa học thời như có ruột mà không có vỏ, không thể xông pha được với đời. Cho nên, hai bên cần phải điều hòa với nhau, điều hòa khoa học với đạo học, lòng công lợi với bụng chân thành tức là điều hòa văn hoá Đông, Tây vậy.» [32] 4. Có người hiểu VĂN HOÁ là VĂN CHƯƠNG, NGHỆ THUẬT, hay nói tắt là VĂN NGHỆ. Đó là một trong những định nghĩa phổ thông nhất của Văn hoá. Hiện nay, văn hoá và văn nghệ thường đi đôi với nhau như bóng với hình. Thực vậy văn nghệ là công cụ để phô diễn văn hoá, để bắc cầu thông cảm giữa con người, để truyền thụ và cũng là để bảo tồn văn hoá. Nếu con người có hai phương diện: Một phương diện lý tưởng siêu việt, vượt tầm không gian và thời gian, và một phương diện thực tài, còn mắc mưu trong vòng thời gian lịch sử, xã hội địa dư, thì văn hoá, văn nghệ cũng có hai chiều, hai mặt như vậy. Những nhà văn hoá cao siêu dùng văn chương, nghệ thuật phác học cho nhân quân một viễn tượng, một viễn đích cao siêu, một nếp sống lý tưởng. Những nhà văn hoá thông thường, những văn nhân, tài tử thông thường dùng văn nghệ dùng tài hoa mình để làm cho đời thêm tươi, cho đời bớt sầu bớt não, hoặc là để ghi lấy những sắc thái biến ảo của nhân tình thế thái, phơi bày tâm tư mình hay, tâm tư quần chúng, nói lên những nỗi éo le cả cuộc đời, những cảnh phủ phàng của đời sống, nói lên những uất ức của nhân gian, hay những niềm sung sướng vui tươi của nhân quân, những ước mơ của thế hệ, chung qui như là muốn ghi chép lại tất cả những cái hay, cái hèn của mọi hoàn cảnh, ghi lại bộ mặt chân thực của con người trong một khung cảnh lịch sử, địa dư nhất định nào đó, để cho mọi người lấy đó làm gương, hoặc lấy đó làm răn, để rồi hiểu ra biết xử trí với hoàn cảnh một cách khéo léo hơn, biết sống một đời sống hữu lý hơn, hạnh phúc hơn… Vì cho rằng văn hoá là văn nghệ, nên nhiều người mới tưởng rằng văn hoá thấp hơn đạo giáo. Đạo giáo là thiên văn, thiên đạo, còn văn hoá chỉ là nhân văn, nhân đạo. [33] Nhưng thực ra, văn hoá là một danh từ bao quát hơn chữ đạo giáo. Bằng chứng là phàm khi đề cập đến văn hoá của một nước, một dân, người ta chẳng những đề cập đến đạo giáo mà còn đề cập đến nhiều vấn đề khác như văn nghệ, thể chế chính trị phong tục, lễ tết, du hí v.v… Vì coi văn hoá là văn nghệ, một thứ văn nghệ «trà dư tửu hậu» để tiêu sầu, khiển muộn, cho nên các chính trị gia thường muốn tách văn hoá ra hỏi phạm vi chính trị. Các chính trị gia thường sẵn sàng muốn đóng vai trò Mạnh thường quân để bảo trợ cho các nhà văn hoá, miễn họ cứ việc bàn đến những chuyện vô thưởng, vô phạt, miễn là họ cứ việc khơi sâu, dĩ vãng, hoặc mơ màng tương lai, hoặc đả kích những thể chế đối lập, nhưng ca tụng, ủng hộ khuôn khổ đương thời, nhưng khuyên đủ mọi người vui sống trong khung cảnh hiện tại sẵn có, và đừng đòi hỏi thêm chi, mơ ước thêm chi, đừng có súi giục quần chúng vùng lên tranh đấu đòi cải thiện, cải cách. Nhưng thực ra, văn hoá cũng bao trùm luôn cả chính trị. Văn hoá không phải là công cụ chính trị, mà chính trị mới đích thực là công cụ để thực thi một nền văn hoá nào, một chủ nghĩa nào. 5. Có nhiều người định nghĩa Văn Hoá là sinh hoạt tinh thần, đối nghịch với văn minh là sinh hoạt trên bình diện vật chất. Họ cho rằng cái gì thuộc về đạo đức, văn nghệ là văn hoá cái gì thuộc về kỹ thuật khoa học là văn minh, cái gì đẹp, cái gì hay là Văn hoá, cái gì ích, cái gì lợi là văn minh[34]. Nhưng thực tế không giản dị như vậy. Người ta đã cãi vã nhau rất nhiều về phạm vi văn hoá với văn minh. - Người thì cho rằng văn hoá thuộc phạm vi tinh thần; văn minh thuộc phạm vi vật chất (Đa số học giả Đức, Mỹ). [35] - Người thì cho rằng văn hoá cao, văn minh thấp (Á Đông thường có quan niệm này).[36] - Người thì cho rằng văn hoá thấp, văn minh cao (Ý kiến của ít nhiều nhà nhân chủng học). [37] - Người thì cho rằng văn minh là phân bộ của văn hoá (Ý kiến của ít nhiều nhà nhân chủng học). [38] - Người thì cho rằng văn hoá là phân bộ của văn minh (I. Olague). [39] - Người thì cho rằng văn hoá, văn minh đồng nghĩa nhau, và cùng chỉ một lề lối sống thanh lịch. (Đa số học giả Anh, Pháp) Trong một cuộc hội thảo về văn minh, văn hoá tại Salzburg từ 8 đến 15 tháng 10, 1961, gồm rất nhiều học giả trứ danh như Sorokin, Toynbee, Spengler, Northrop v.v… người ta đã dùng hai chữ văn minh và văn hoá lẫn lộn nhau, đồng nghĩa với nhau. [40] Toynbee giải thích rằng có sự kiện này xảy ra là vì trong tiếng Đức thời văn hoá có nghĩa là tiến bộ tinh thần văn minh có nghĩa là tiến bộ vật chất, còn trong tiếng Anh tiếng Pháp thì không có sự phân biệt ấy, vì thế mới dùng chữ văn minh với hai nghĩa văn hoá lẫn văn minh. [41] Những tranh luận, những quan niệm trái ngược nhau về Văn hoá với Văn minh làm cho chúng ta thấy rõ ràng những sự kiện sau đây: - Con người cần phải cải tiến về mặt tâm thần để trở nên cao siêu, thanh lịch, và giúp cho người khác cũng trở nên giống như mình. - Ngoài ra con người cũng cần phải cải thiện hoàn cảnh để cho đời sống thêm tươi, thêm đẹp, thêm hương vị. - Tóm lại con người cần phải tiến hoá không ngừng về mọi phương diện. - Như vậy, những người không cố gắng tiến tới, không cố gắng cải thiện mình, cải thiện hoàn cảnh, mà chỉ lo hưởng thụ hoặc sống đoạn tháng qua ngày, là những người đã bị loại ra khỏi trào lưu tiến hoá, và cũng chẳng đóng góp được gì vào công trình xây dựng văn minh và văn hoá. Suy cho cùng, thì văn minh hay văn hoá cũng chỉ là sự tinh luyện con người, để biến cái dở thành cái hay, cái xấu thành cái tốt, cái tầm thường thành cái cao đại [42]. Công trình này có hai chiều, hay mặt: mặt nội tâm và mặt ngoại cảnh, hai chiều, hai mặt này mới trông tưởng chừng tương phản nhau, nhưng kỳ thực đều góp công trình vào đại nghiệp, đại sự của đất trời, đó là hoàn thiện hoá, thần thánh hoá con người. Dịch kinh đã nói: «Trời đất nghịch nhau, nhưng cùng một công việc, trai gái nghịch nhau, nhưng cùng một ý chí, vạn vật nghịch nhau nhưng công việc cùng giống nhau.» [43] Nghịch nhau, đối nhau, chống nhau, kình nhau mới sinh ra được mọi biến hoá. Mà biến hoá cốt là để muôn loài đạt được bản tính chí thiện, định mệnh sang cả của mình, và thực hiện được sự hiệp hòa lý tưởng. [44] Gosala, một triết gia Ấn độ cũng nói: Tất cả vũ trụ đều tiến tới trên con đường biến hoá. Nhờ sự biến hoá này, người hiền cũng như người ngu, theo bản tâm mình tiến tới, rồi ra sẽ đạt được sự toàn thiện, một cách tự nhiên, nhờ ở sự tuần tự biến hoá. [45] 6. Có nhiều người đặt nặng vấn đề sáng tạo trong Văn hoá nên đã có định nghĩa VĂN HOÁ là SÁNG TẠO. Campagnolo chủ trương: VĂN HOÁ là sáng tạo những giá trị mới, không nhất thiết nô lệ quá khứ, không nhất thiết chạy theo những cái đã có, mà phải luôn luôn hướng về sự đổi mới. [46] Francisco Romaro, một tác giả người Tây Ban Nha, định nghĩa văn hoá là sự sinh hoạt của tinh thần, sự sáng tạo không ngưng nghỉ của tinh thần, được thể hiện bằng văn chương, nghệ thuật khoa học, triết học, và các tập tục, luật lệ xã hội .[47] 7. Cũng có người cho rằng VĂN HOÁ là MỘT SỰ CẢM THÔNG TRUYỀN THỤ. [48] Như vậy, văn hoá là một hiện tượng xã hội, có hô, có ứng có san sẽ, chia sớt, chứ không phải là sở hữu của một cá nhân. Nếu văn hoá là một sự cảm thông, truyền thụ, hấp thụ, rồi lại được bảo tồn của nhiều thế hệ. Như vậy nếu một nhà văn hoá mà có những nhận định lệch lạc, những tư tưởng sai lầm sẽ di hại đến nhiều đời. Nói thế, tức là muốn khuyến cáo các nhà làm văn hoá phải hết sức thận trọng trong tư tưởng, cũng như trong ngôn từ. Dịch kinh viết: Dạy rằng: Quân tử trên đời, Ngôi nhà nói phải muôn người vẫn theo. Đậm nghìn con phải hướng chiều, Thời gân gang tấc đâu điều lần khân. Nói lời sai lạc nhố nhăng, Ngàn xa, vẫn thấy bất bằng nổi lên, Nữa là gang tấc kề bên, Nói sai ai kẻ họa thêm với người Khi người quân tử nói lời, Nói ra ảnh hưởng đến đời đến dân, Hành vi phát động tuy cần, Nhưng mà ảnh hưởng dần dần lan xa. Việc, thời, ấy chính động cơ, Động cơ đã phát, hãy chờ nhục vinh. Rồi hay quân tử ngôn hành, Đủ làm trời đất rung rinh mấy hồi. Cho nên trong việc trong nhời, Cố sao thận trọng, đáng người hiền nhân… [49] 8. Cũng có người cho rằng VĂN HOÁ là tất cả những gì làm cho đời thêm đẹp, thêm tươi, thêm hương vị, thêm màu sắc, thêm thích thú, tóm lại tất cả những gì làm cho CUỘC ĐỜI TRỞ NÊN THI VỊ VÀ ĐÁNG SỐNG. Eliot viết: «Đối với xã hội, văn hoá bao gồm tất cả những hoạt động đặc biệt của một dân tộc, như đối với dân tộcAnh là ngày đua ngựa ở Derby, đua thuyền ở Henly, đua du thuyền ở Cowes, cuộc đua chó, trò chơi phóng tên, hoặc là ăn phó mát Wensleydale, bắp cải luộc xát thành miếng, củ cải đỏ ngâm dấm, đi nhà thờ làm theo kiểu Gothic thế kỷ XIX, nghe âm nhạc Elgar… [50] Theo chủ trương này, thì những bài dân ca nỉ non trong khóm lứa, những câu hò thánh thót trên dòng sông, những căn nhà tre trúc chơi vơi nơi sườn non, giữa những hàng bách tùng, đào liễu ẩn ước trong khói mây, hoặc rực rỡ dưới ánh tà huy, những lễ tết, những hội hè, những thú vui chơi, những tà áo thêu hoa thêu phưỡng phất phơ trước làn gió đều là những biểu dương văn hoá, chứ không phải riêng gì những lời giáo huấn trang nghiêm nơi giáo đường hay trường học, hay những lâu đài, những kiến trúc hoặc cổ kính hoặc tân kỳ ngạo nghễ vươn mình lên như muốn tranh hùng cùng phong sương tuế nguyệt mới là những công trình văn hoá. 9. Cũng có người hiểu văn hoá là đà tiến của nhân loại từ thô đến tinh, là NỔ LỰC CỦA NHÂN LOẠI để tiến tới một ĐỜI SỐNG LÝ TƯỞNG và TẤT CẢ NHỮNG THÀNH QUẢ ĐÃ THỰC HIỆN ĐƯỢC TRONG CÔNG TRÌNH HƯỚNG THƯỢNG ẤY. Người ấn độ chẳng hạn gọi văn hoá là Sansriti, Sanskriti là một danh từ mà gốc chữ có nghĩa là thanh lọc, biến hoá, rèn luyện và cải thiện. Một người có văn hoá ở Ấn độ là một người chịu theo một kỷ luật, và đã chế ngự được thú tính, đã hoán cải được mình để sống hợp với nhân luân [51] Arnold cho rằng: Văn hoá là sự cố gắng của con người để vươn lên tới mức độ cao siêu hơn, hoặc là vươn lên cho tới hoàn thiện. Phương tiện của sự siêu thăng này chính là văn chương và nghệ thuật và sự học hỏi về những tư tưởng và hành động cao đẹp của tiền nhân [52] Arnold cũng đã phân tách văn hoá thành hai phương diện: 1. Sự cố gắng của con người để vươn lên cho tới toàn thiện. 2. Tất cả những sách vở, những công trình ghi chép lưu lại những cái hay cái đẹp của tiền nhân. [53] Cụ Nguyễn Đặng Thục gắn liền văn hoá với tiến hoá. Tiên sinh viết: Văn hoá có nghĩa là tiến hoá, tiến từ trình độ thô sơ đến trình độ văn vẻ từ thấp đến cao, từ vật chất hữu hình lên tinh thần vô hình. [54] Tất cả các nhà tư tưởng trên đây tuy lời lẽ không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều quan niệm văn hó đại khái như là một quá trình nhân cách hoá con người, [55] siêu thăng hoá [56] con người, coi văn hoá như là một nỗ lực tiến tới tinh hoa, khác hẳn với sự thô sơ, mộc mạc lúc ban đầu. [57] Đó cũng là một trong những nhận định trong những nhận định cổ điển nhất về văn hoá. [58] 10. Các nhà xã hội học, nhân chủng học hiện nay thường tránh những chự tịnh thân, những ý niệm chủ quan, những mục đích thâm viễn, nên thường chỉ định nghĩa văn hoá là LỀ LỐI SỐNG CỦA MỘT DÂN TỘC, MỘT XÃ HỘI CON NGƯỜI. Malinowski chẳng hạn cho rằng học về văn hoá tức là học về tất cả lề lối sống của một xã hội. [59] Henri de Man chủ trương «văn hoá» là một lề lối sống dựa trên một niềm tin công cộng, vào một hệ thống và một tôn ti, trật tự, thức bực giá trị, làm cho đời sống có một ý nghĩa nhất định. [60] Linton cũng chủ trương tương tự. Ông viết: «Văn hoá của một xã hội là lề lối sống của các phần tử trong xã hội ấy. Đó là toàn bộ những ý tưởng và tập tục mà họ đã thâu lượm, chia sẽ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác «văn hoá» đem lại cho mỗi người của mỗi thế hệ những cách giải quyết hữu hiệu và lập thành về tất cả các vấn đề mà họ sẽ gặp phải. Những vấn đề này được nêu lên vì những nhu cầu cá nhân sống trong một đoàn thể có tổ chức. [61] Như vậy văn hoá không phải là một lề lối sống suông. Nó còn là một QUAN NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG (une conception de la vie), và MỘT LỀ LỐI SỐNG (manière de vivre). [62] Một môn phái xã hội Anh viết: «Văn hoá xưa kia chỉ sự chải chuốt, thanh lịch về phương diện lý trí và tâm thần, và sự phát triển của nghệ thuật, ngày nay là toàn thể nết ăn, thói ở của một dân tộc. [63] Thế nghĩa là, đối với các nhà nhân chủng học, chữ Văn hoá ngày nay có một ý nghĩa hoàn toàn mới. Xưa kia thì Văn hoá là một tinh thần, là những công trình những nghệ phẩm, thoát ly hẳn với đời sống thực tại, thường nhật của quần chúng. Nó là một lý tưởng, một đời sống lý tưởng cho quần chúng vươn lên.[64] Còn ngày nay, người ta cho rằng Văn hoá là phản ảnh của một đời sống thực tại, thường ngày với tất cả những cái hay cái dở của đời sống ấy. [65] Hơn thế nữa, các nhà nhân chủng học, trong đó có Claude Lévi-Strauss, ngày nay dần dà bỏ cái quan niệm hẹp hòi xưa là cho văn hoá mình hay, văn hoá người dở, văn hoá này hay, văn hoá xưa dở. Thái độ ấy, quan niệm ấy ngày nay đã trở nên lỗi thời. Người ta dần dà nhận ra rằng xưa và nay cũng vẫn chỉ là một con người, cũng vẫn một lý trí ấy, một tâm tư ấy, cũng vẫn những khả năng ấy, nhưng vì thời vận khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, quan niệm về cuộc sống khác nhau, cho nên đã có những phản ứng, những thái độ, những lề lối sống khác nhau, những tố chức, những thể chế khác nhau. Nhận định này làm ta liên tưởng đến hai câu đối đáp giữa Đặng Trần Thường và Ngô Thời Nhiệm đời Gia Long: «Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai!» «Thế Chiến Quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế, thời chịu thế.» [66] Ngày nay người ta đã bắt đầu nghiên cứu các nền văn hoá với một thái độ thông cảm và cởi mở , mong tìm ra những nét dị biệt mang những mầu sắc không gian, thời gian và nhân sự cùng như những điểm chính yếu, đại đồng, dưới những hình thái biến ảo bên ngoài. [67] Vả lại, người ta bắt buộc phải nhận chân rằng ngay từ thời tiền sử, cũng đã có thể đã có những nền văn hoá cao rồi, chứ không phải như người ta đã lầm tưởng rằng văn hoá mới phát sinh từ thời Hi Lạp, nhất là từ khi người ta tìm ra được những bích họa siêu thoát thần kỳ của các dân tộc xa xưa ở trong những hang động ở Âu Châu như ở Altamira (Tây Ban Nha), La Mouthe (Dordogne Pháp), Pont de Gaume hay Lascaux v. v… [68] Thậm chí, đã có những nhà nhân chủng học như Claude Lévi Strauss đã dám nói rằng nền văn hoá thời TÂN THẠCH, là nền văn hoá cao siêu, hoàn mỹ nhất từ trước tới nay. [69]
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:51:00 GMT 9
Khảo sát hai chữ Văn Hoá về phương diện ngữ học, và từ nguyên, ta đã làm nổi bật lên ít nhiều định nghĩa sau đây về Văn Hoá: 1. Văn Hoá là trình độ trí thức, kiến thức con người. 2. Văn Hoá là trí dục, đức dục. Văn hoá là sự đào luyện tâm trí con người. 3. Văn hoá là công trình giáo hoá con người, là hệ thống giáo dục trong một quốc gia. 4. Văn hoá là văn chương, nghệ thuật. 5. Văn hoá là sinh hoạt tinh thần, ngược lại với văn minh. 6. Văn hoá là sự sáng tạo ra những giá trị mới. 7. Văn hoá là sự cảm thông, truyền thụ. 8. Văn hoá là tất cả những gì làm cho đời thêm thi vị đáng sống. 9. Văn hoá là nỗ lực của nhân loại để tiến tới một đời sống lý tưởng. 10. Văn hoá là lề lối sống của một dân tộc. Những định nghĩa trên có thể thu về ít nhiều lập trường sau đây: 1. Văn hoá bao gồm Thiên Đạo, nhân đạo. Như vậy nó bao quát đạo giáo, luân lý, triết lý, văn chương và nghệ thuật. 2. Văn hoá chỉ là nhân đạo. Nó khác với đạo giáo và văn minh. 3. Văn hoá bao gồm nhân đạo và địa đạo. Như vậy nó bao quát văn chương và khoa học, từ chương và kỹ thuật. Nó vừa là văn hoá vừa là văn minh. 4. Văn hoá là tất cả. Văn hoá bao quát đạo giáo, nghệ thuật, văn chương, chính trị, khoa học kỹ thuật… Như vậy ta thấy văn hoá là một từ ngữ mà nội dung thay đổi tùy theo quan điểm của từng tác giả. Xét về phương diện mục đích, văn hoá là sự tiến hoá, sự tiến tới toàn thiện. Xét về phương diện thực dụng, văn hoá là sự đào tạo con người để họ thích ứng với nhu cầu của từng thời kỳ. Về phương diện lý thuyết, Văn hoá là một quan niệm sống. Về phương diện thực hành. Văn hoá là một lề lối sống riêng biệt của một dân tộc trong một thời kỳ và một hoàn cảnh nào đó… - Ta có thể dùng màu sắc tôn giáo, hay chủ nghĩa để hoá trang văn hoá. Ta nói, Văn hoá Khổng Giáo, Văn hoá Công giáo, Văn hoá Phật giáo, Văn hoá Hồi giáo, Văn hoá Cộng sản v.v… - Ta có thể đem quan niệm triết học mà vẽ vời văn hoá. Ta nói: Văn hoá duy linh, văn hoá duy vật v.v… - Ta cũng có thể lấy sở thích của từng thời đại mà đoán định về Văn hoá. Ta nói: Văn hoá nhân văn, Văn hoá kỹ thuật v.v… - Ta cũng có thể lấy son phấn thời gian mà điểm tô văn hoá. Ta nói Văn hoá cũ, Văn hoá mới v… - Ta cũng có thể khoác cho văn hoá một màu sắc chính trị, như nói: Văn hoá tiểu tư sản, văn hoá vô sản. - Ta cũng có thể lấy những phát minh, những dụng cụ chính yếu của từng thời đại mà phô diễn Văn hoá, như nói: - Văn hoá cổ thạch (Culture paléolithique). - Văn hoá trung thạch (Culture mésolithique). - Văn hoá tân thạch (Culture néolithique). - Ta cũng có thể lấy phương hướng, địa dư, địa lý, quốc gia chủng tộc mà phân định các nền văn hoá, như khi nói; - Văn hoá Đông phương - Văn hoá Tây phương - Văn hoá Tàu - Văn hoá Tây - Văn hoá Việt - Văn hoá Chàm v.v… Đối với bất kỳ môn phái nào, chủ trương nào, văn hoá cũng bao hàm những nỗ lực, những phương thức, để cải thiện con người, để phát huy năng khiếu con người, để hướng dẫn họ theo một đường hướng nào, một chủ trương nào. Văn hoá có mục đích cảm hoá, canh tân, rèn luyện con người. Để đúc kết lại, ta có thể nhận định về VĂN HOÁ như sau: VĂN HOÁ LÀ LỀ LỐI SỐNG riêng biệt của cá nhân, đoàn thể, xã hội hay dân tộc, đã được PHÁT SINH nhờ những ý niệm, tình cảm, khuynh hướng đặc biệt làm nồng cốt và dẫn đạo; đã được PHÁT HUY, THỂ HIỆN qua những công trình văn chương, nghệ thuật, đạo giáo, chính trị, xã hội; đã được LỒNG VÀO TRONG NẾP SỐNG HÀNG NGÀY, nhờ những phong tục luật lệ, tổ chức, y phục, dụng cũ điển hình, đã được TRUYỀN THỤ, LƯU LẠI nhờ ngôn ngữ và giáo dục. VĂN HOÁ là tất cả những cố gắng của con người để cải thiện nội tâm, gia đình, quốc gia, xã hội và hoàn cảnh để con người có thể sống một cuộc đời khác biệt với muông thú, một cuộc đời thanh cao, đầy đủ nhân cách, nhân vị, và nếu có thể một đời sống tự do, tự tại, khinh khoát, thần tiên. Văn hoá này sinh do những ước mơ về chân thiện mỹ và là nỗ lực của con người để vươn lên cho tới chân thiện mỹ, để thực hiện chân thiện mỹ v.v… III. TRIẾT TỰ VĂN HOÁ, VÀ PHÂN TÁCH CƠ CẤU VĂN HOÁ Sau khi đã bình luận về ít nhiều định nghĩa văn hoá, chúng ta có thể khơi sâu thêm vấn đề bằng cách phân tách từ ngữ văn hoá, và cơ cấu văn hoá. 1. Trước tiên, chúng ta hãy phân tách chữ Culture. Culture, theo nghĩa đơn, nó nghĩa là trồng trọt, tức là bao gồm tất cả những phương pháp, những công trình chăm bẳm, vun trồng cho cây cối, ngũ cốc được sinh hoa kết quả. Đó là những phương pháp, kỹ thuật bên ngoài, có mục đích làm nảy sinh những khả năng sẵn có của thảo mộc, ngũ cốc. Nếu vậy, thì theo nghĩa bóng, Culture hay văn hoá cũng bao gồm tất cả những phương thức, những kỹ thuật bên ngoài, còn mục đích làm nảy nở những khả năng sẵn có bên trong của con người. Nói cách khác, văn hoá là làm nảy nở, làm phát triển những tài năng, những linh tính còn tiềm ẩn trong con người. Minh định như vậy, chúng ta mới thấy các triết gia thuộc phái tiến hoá như Herbert Spencer chẳng hạn đã sai lầm khi nhận định rằng không có gì là thiên nhiên, thiên bẩm, mà toàn là thủ đặc, tập thành, nghĩa là con người trở nên thế này thế nọ, toàn là nhờ ảnh hưởng của hoàn cảnh, của xã hội mà thôi. [70] Trong Nam Phong tạp chí, số 84, Ông Phạm Quỳnh cũng đã bình luận về hai chữ văn hoá theo nghĩa là trồng trọt nói trên. Ông viết: «Văn hoá là gì? Văn hoá là cách đào luyện tinh thần người ta thế nào cho được thập phần tốt đẹp, để nảy nở ra những công trình to tát, sự nghiệp lớn lao, mà đem tư cách một quốc gia đến tuyệt phẩm. Vì người ta như cái cây, thời văn hoá là cách trồng cây, bón cây, tưới cây cho cây nở ngạnh, xanh ngọn kết quả sinh hoa, để tô điểm cho cái vườn hoa của thế giới…» Ông bình luận tiếp: «Nay mầm Mống, chồi Lạc của ta không phải là giống cỏ hen của tạo vật, sao nỡ để cho đến khô héo mà úa tàn? Bởi vì lúng túng chưa biết cách vui xưới cho phải đường, cứ trồng theo lối cũ, thì chỉ gây được một giống cây non bộ, coi nó nhỏ nhen lí tí, thâu hẹp, bần cùng, đặt trong chậu sàng, chậu sứ, bể cạn tường hoa thì được, chứ đem ra nơi nắng cả gió to được mấy nả? Muốn trồng theo lối mới, thời cũng chỉ mọc ra một loại tầm gửi, giây leo, quấn vào chung quanh cây lớn, thời sống được, chứ thả ra, mềm oặt, đứng sao? «Nhân tài nước ta cũng như cái cảnh tầm gửi, cây non bộ đó, mong sao có ngày chiếm địa vị vẻ vang trên thế giới?» [71] Ông cũng còn viết: «Văn hoá là gồm cách đảo luyện tinh thần người ta. Văn học là dịch tiếng tây «Culture» nghĩa đen là cách trồng trọt. Người ta ví như cái cây, thì văn hoá là cách làm cho nảy nở được hết cái tinh hoa. Cây cỏ trồng mới tốt, người có hoa mới hay…» [72] Trở về hai chữ văn hoá trong từ Hán Việt, chúng ta cũng có thể hiểu được ba cách khác nhau: a). Lấy sự đẹp đẽ để cảm hoá người b). Có đẹp đẽ mới cảm hoá được người. c). Có biến hoá mới có thể trở nên đẹp đẽ, thanh cao. a. Trước hết, nếu ta hiểu Văn hoá là lấy sự đẹp đẽ mà cảm hoá con người, ta sẽ thấy Văn hoá bao trùm hết tất cả những gì gọi là văn chương, nghệ thuật, tất cả những gì là tinh hoa của con người, mà xưa nay con người đã thực hiện được, mà xưa nay, đời nay truyền lại cho đời kia, như là những kỷ niệm đẹp đẽ, những gia tài quí báu của mỗi thế hệ. Ta cũng sẽ thấy, xưa và nay người ta thường dùng văn nghệ để cảm hoá tha nhân. b. Văn hoá cũng có thể hiểu là có đẹp đẽ mới cảm hoá nổi người khác. Theo lối giải thích này, ta thấy nhân loại có thể chia ra làm hai thành phần: Một thành phần thiểu số đẹp đẽ hơn, thanh lịch hơn, tiến bộ hơn, và một thành phần thô sơ hơn, chậm tiến hơn. Thành phần trước có bổn phận dẫn dắt cải hoa thành phần sau, thế tức là: «Tiên giác giai hậu giác!» Nói thế còn có nghĩa là những người làm văn hoá phải là những người đẹp đẽ. Hiểu Văn hoá như vậy, ta sẽ không ngại những chuyện đổi thay, biến cải. Nhưng chúng ta chỉ chấp nhận những biến cải khả dĩ có thể đem lại cho chúng ta một đời sống xứng đáng hơn, đẹp đẽ hơn, hạnh phúc hơn, thanh cao hơn, tự do hơn, khoáng đạt hơn… Như vậy, văn hoá là tất cả những nổ lực của con người để cải hoa ngoại cảnh, cải hoa tâm thần để trở nên hạnh phúc, thanh cao, đẹp đẽ về mọi phương diện. Nếu thế thì biến sa mạc hoang vu thành đồng nội phì nhiêu, thành ruộng vườn xanh tốt, đem thịnh đạt phong doanh về cho xứ sở, đem thanh kỳ hoa lệ về cho giang sơn cũng là một công trình văn hoá lớn lao, vì nếu một nhà họa sĩ dùng bút màu làm hiện lên trên mặt vải, mặt giấy những phong cảnh thần tiên, kỳ diệu, là làm một công trình văn hoá, thì những người dùng tài trí và mồ hôi, nước mắt cải tạo cho giang sơn trở nên thần kỳ, cho trần gian trở nên tươi đẹp, cho đất đai rực rỡ muôn màu hoa cỏ, chẳng phải là một nhà đại văn hoa hay sao? Hiểu rằng Văn Hoá là biến hoá để làm cho mọi sự trở nên đẹp đẽ, thì một chính trị gia, một nhà xã hội học có công làm cho nhân loại thực sự có được một đời sống an bình, thái thịnh, hạnh phúc, bình đẳng, chính là một nhà đại văn hoá, vì nếu một nghệ sĩ dùng thanh âm, dùng tài nghệ mình để giúp vui cho người trong chốc lát mà đã được gọi là nhà văn hoá, thì những người đem lại nụ cười hồn nhiên trên làn môi các thanh thiếu nữ, đem lại sắc diện hớn hở trên mọi khuôn mặt công dân, làm khô cạn mạch sầu nhân loại, khơi thông nguồn hạnh phúc cho trần hoan, chẳng phải là những nhà đại văn hoá hay sao? Nếu biến hoá mà trở nên đẹp đẽ được, nếu ngoại cảnh nhờ biến hoá mà trở nên đẹp đẽ được, thì tâm hồn nhờ biến hoá cũng sẽ trở nên đẹp đẽ được. Như vậy, chúng ta đã chất chứa sẵn trong lòng chúng ta những vẹ đẹp vô biên vô tận, nhưng những vỏ đẹp ấy còn chờ chúng ta trau dồi, biến hoá, phát huy, mới có thể triển dương phóng phát được. Hiểu Văn Hoá như vậy, sẽ khai thông cho tâm hồn chúng ta một tiến trinh vô hạn, một viễn tưởng đẹp đẽ vô ngần, và chúng ta sẽ nhận thấy rằng mục đích tối hậu của Văn hoá chẳng những là giúp ta hoàn hảo ngoại cảnh vật chất, xã hội, xác thân, mà còn đem lại cho tâm thần chúng ta những vẻ đẹp siêu nhiên, phí phạm, thoát tục, những tâm kích vũ trụ, và dần dà sẽ đưa chúng ta lên đến ngôi vị thần linh sang cả… Nhiệm vụ cao siêu nhất, sứ mạng sang cả nhất của người làm văn hoá tức là cố gắng thực hiện cho mình và cho người mục phiêu cao cả, và trong đại ấy. Thế mới hay: Hoàn cầu phục vụ con người, Con người nay trước, con Trời mai sau. Nội tâm cố tiến vào sâu, Cơ Trời dần mở, cơ mầu dần hay. Hết con gang quải Đông Tây, Ngoại tuy muôn nước trong nay một nhà. Thiên sơn, vạn thủy băng qua, Muôn người như một, thái hòa khắp nơi… 2. Phân tách cơ cấu Văn Hoá. Triết tự hai chữ Văn Hoá như trên, tức là mở rộng phạm vi Văn Hoá, để cho nó bao quát hết mọi hoạt động con người, miễn là ta coi những hoạt động ấy như là những cố gắng để vươn lên cho tới một đời sống ngày một thanh nhã hơn, cao siêu hơn, hoàn mỹ hơn. Đồng thời chúng ta cũng làm cho hai chữ Văn hoá trở nên linh động, biến hoá vô cùng, và đem lại cho chúng ta một nguồn sống vô biên vô tâm, cũng như một viễn tượng vô cùng đẹp đẽ về tương lai, một viễn tượng cao siêu, đẹp đẽ, nhưng không phải là một giấc mơ suông, mà là cả một mục phiêu cho mọi hoạt động, tâm tư hướng về. Chúng ta mở rộng phạm vi Văn hoá như vậy cũng không sai, vì như trên ta đã thấy ngày nay các nhà ngôn ngữ học, xã hội học, nhân chủng học đều đã làm như vậy. Sorokin chẳng hạn cho rằng Văn hoá bao gồm: - Ngôn ngữ. - Khoa học. - Đạo giáo. - Mỹ nghệ. - Luân lý [73]. Bách Khoa tự điển Anh (Encyclopodia Britanica) ấn bản lần thứ chín cho rằng văn hoá bao gồm: - Đạo giáo. - Chính trị. - Văn chương. - Học thuật. - Khoa học. - Triết học. - Doanh nghiệp. - Mỹ thuật. - Âm nhạc. - Và Linh tinh… [74] Lý Đảnh Thinh trong quyển «Hiện đại dụng ngữ từ điển», đã phân tách cơ cấu Văn hoá thành ba tầng lớp: - Vật chất. - Xã hội. - Tinh thần. [75] Félix Sartiaux và Đào Duy Anh cũng chia Văn hoá thành 3 bộ phận như sau: - Sinh hoạt kinh tế. - Sinh hoạt xã hội. - Sinh hoạt trí thức. [76] Đào Duy Anh cho rằng Văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng văn hoá tức là sinh hoạt. [77] Thế là theo đà thời gian, phạm vi Văn hoá càng ngày càng được mở rộng, càng ngày càng trở nên bao la, bát ngát cho đến mức độ là bao quát cả mọi ngành hoạt động của con người. Cho nên, ngày nay muốn giới hạn văn hoá vào trong một phạm vi nhất định nào, sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Suy cho cùng, thì rất khó mà giới hạn văn hoá trong một phạm vi nào, vì nếu văn hoá là tất cả những cố gắng của con người để sống xứng đáng với danh nghĩa con người, thì những nổ lực để mưu sinh, ăn ở cho có tiện nghi, tạo cho xã hội một đời sống công bằng bác ái, tạo ra những cuộc du ní lành mạnh, những hội hè tuần tiết cho dân chúng cùng hướng, cùng vui, chẳng phải là những hoạt động văn hoá hay sao, cứ gì phải dạy tam cương, ngữ thường, mới nhất định là hoạt động văn hoá. Khi đã có một tầm nhìn bao quát về văn hoá, ta mới hiểu tại sao có người cho văn hoá là đạo giáo, văn hoá là chính trị, văn hoá là văn minh, nhưng cũng có người lại cho rằng văn hoá khác đạo giáo, văn hoá khác chính trị, văn hoá khác văn minh, chẳng qua là do hai lập trường khác nhau, một đằng muôn giới hạn văn hoá, một đằng không muốn giới hạn văn hoá mà thôi. Những cách phân chia Văn hoá sẽ thành từng cơ cấu nói trên của Lý Đảnh Thinh, của Félix Sartiaux, hay của Sorokin, tuy tiện cho việc nghiên cứu Văn hoá, nhưng không cho ta thấy được hệ thống, mạch lạc giữa các tầng lớp văn hoá. Vì thế, để cho thấy đâu là gốc, đâu là ngọn, đâu là nhân đâu là quả, chúng ta có thể phân chia văn hoá ra làm ba thành phần như sau: 1. Những quan niệm chính yếu về vũ trụ, nhân sinh. Nói tắt là một quan niệm sống (Weltanschauung). 2. Những phương thức dùng để thực thi, áp dụng quan niệm sống nói trên vào đời sống xã hội. 3. Lề lối sống của một cộng đồng, của một xã hội, theo quan niệm sống nói trên. Với lề lối phân tích trên, ta sẽ thấy rằng: Văn hoá là một lề lối sống riêng biệt của từng phương, từng miền, của từng dân tộc hay xã hội. Nó gồm: 1. Một quan niệm sống (une conception de la vie), với những tư tưởng nồng cốt dân đạo, hoặc đạo lý hoặc triết lý. 2. Những phương thức để diễn đạt và phổ biến những tư tưởng ấy, quan niệm sống ấy. Những phương thức này bao quát hết mọi đường lối văn chương, nghệ thuật, âm nhạc kịch ảnh, và mọi cách thế dùng để tuyên truyền và thu hút quần chúng. 3. Những lề lối sống dân gian, những cách khởi cư, cử chỉ hằng ngày của quần chúng, từ trẻ đến già, những phong tục lễ nghi chi phối con người từ lúc mở miệng khóc chào đời cho đến lúc nhắm mắt tắt hơi, những lề lối sống đã được thấm nhuần, đã được chi phối bởi những tư tưởng nồng cốt nói trên, quan niệm sống nói trên. IV. SỰ THĂNG TRẦM CỦA MỘT NỀN VĂN HÓA Nếu ta nhận định rằng văn hoá là một quan niệm sống đã được thực thi, áp dụng vào cuộc đời để trở thành một lề lối sống cho một cộng đồng nhân loại, ta có thể theo dõi đà tiến triển của một nền văn hoá từ lúc phôi thai đến lúc thái thịnh, rồi lại từ lúc thái thịnh đến lúc tàn tạ, suy vi. Ta có thể chia đời sống của một nền văn hoá thành năm giai đoạn sau đây: - Giai đoạn thứ nhất tức là giai đoạn xuất sinh: Một nền văn hoá bao giờ cũng phát xuất từ một hệ thống đạo giáo triết học hay nói cách khác từ một chủ nghĩa, một viễn tượng về cuộc đời. Các nhà khai sinh ra một nền văn hoá bao giờ cũng có trong đầu óc một quan niệm về đời sống, một viễn tượng về cuộc đời, cho rằng phải sống như thế này thế nọ, phải cải cách xã hội thế này, thế kia, mới là lý tưởng. - Giai đoạn thứ hai tức là giai đoạn tăng trưởng: Chính cũng là giai đoạn thực thi, áp dụng, thể hiện những quan niệm mới mẽ vào cuộc đời, bằng đủ mọi hình thức, phương tiện văn chương, nghệ thuật, mặc dầu phải đấu tranh, mặc dầu bị bức bách, hay bị đàn áp. - Giai đoạn thứ ba là giai đoạn toàn thịnh: Đó tức là khi mà mọi cơ cấu từ tinh thần đến vật chất, từ cá nhân đến xã hội đã được hình thành, được tổ chức theo những khuôn mẫu đã được dự liệu từ lúc ban sơ. - Giai đoạn thứ tư là giai đoạn đình đốn: Đó cũng là giai đoạn tán dương các thành quả đã thâu lượm được, bảo vệ các cơ cấu đã gây dựng được, coi chúng như là cái gì tuyệt đối, bất khả xâm phạm, cần được bảo vệ bất kỳ bằng giá nào. Kẻ xưa kia bị người khác bách hại, nay có thể thành kẻ bách hại người khác. Giai đoạn này cũng là giai đoạn tập quán. Tới giai đoạn này, các sinh lực sáng tạo đã trở nên yếu ớt. - Giai đoạn thứ năm là giai đoạn suy vi, tàn tạ. Nền văn hoá linh động khi xưa, nay đã trở thành những khuôn khổ chật hẹp, cố định, những ràng buộc, những xiềng xích đối với con người. Nó không còn ăn khớp với đời sống thực sự của con người, không còn giải quyết được những nỗi khó khăn, những băn khoăn, thắc mắc hiện tại của con người. Nhân loại bắt đầu hoài nghi, chán ngán, và bắt đầu muốn duyệt xét lại, muốn cải tổ lại hoặc từng bộ phận, hoặc toàn bộ nền văn hoá cũ. Trong khi nghiên cứu về văn hoá, có học giả, vì chú trọng đến viễn tượng lý tưởng lúc ban đầu, nên đã định nghĩa văn hoá là lý tưởng. Có học giả chú trọng đến văn hoá khi đã lồng vào trong đời sống con người với những nét đặc thù của nó, nên đã coi văn hoá như là tất cả những gì làm cho cuộc đời trở nên đáng sống, như những phong tục, những tuần tiết, những hội hè, những trò chơi giải trí bên ngoài v.v... Ba nền văn hoá chính yếu trong hoàn võ Nếu ta chỉ nhìn lịch sử và nhân quần bằng một cái nhìn phiếm diện thì ta tưởng như có đến muôn vàn thứ văn hoá khác nhau từ trước đến nay và ta muốn nói như Henri de Man: «Có bao nhiêu cộng đồng nhân loại chấp nhận một hệ thống giá trị riêng biệt, thì có bấy nhiêu nền văn hoá»[78]. Nhưng nếu ta chịu so sánh, chịu cân nhắc, thì ta thấy các nền văn hoá trong thiên hạ có thể qui về ít nhiều loại được. Nổ lực để phân chia văn hoá thành những loại riêng biệt, không phải là chưa có ai đã làm. Toynbee trước đây, đã dựa theo quan niệm quốc gia, chủng tộc để phân chia văn hoá thành 21 hay 26 loại khác nhau.[79] Spengler và Sorokin thời dự vào khuynh hướng, vào năng khiếu của mỗi dân tộc để phân chia Văn hoá thành ba loại chánh: Văn hoá Apollo hay thần linh, văn hoá ma thuật, và văn hoá Faust hay kỹ thuật (Spengler)[80]. Đó là quan điểm của Spengler. Còn Sorokin thời chia văn hoá thành ba loại là: Văn hoá tinh thần (Ideationale culture), Văn hoá trung gian (Idealistic culture) và Văn hoá vật chất (Sensate culture). [81] Theo thiển ý tôi, văn hoá có thể chia thành ba loại, dựa trên những quan niệm chính yếu về vũ trụ và về nhân sinh, cũng như trên những viễn tượng, những mục phiêu hoạt động của từng thời đại. Ba loại văn hoá ấy là: I. Văn hoá thần linh (Văn hoá thiên bản hay văn hoá vụ thần). Đó là thứ văn hoá đặt trọng tâm chỉ vẽ cho con người phương pháp để sống một đời sống siêu nhiên, hoàn hảo ngay từ khi còn ở gian trần này, tức là những phương pháp dạy con người thành phật, thành tiên, thành thánh, thành chân nhân, thần nhân, tùy theo từ ngữ từng địa phương, hay thời đại. Đó là THIÊN ĐẠO. II. Văn hoá nhân bản (Văn hoá nhân văn, hay Văn hoá vụ nhân). Đó là thứ văn hoá đặt trọng tâm vào công cuộc cải tạo tâm hồn con người, để con người có thể biến cải mình, sống một cuộc đời có nhân cách, thanh lịch, cao cả, bất kỳ ở trong hoàn cảnh nào. Đó là NHÂN ĐẠO. III. Văn hoá kỷ thuật, vật chất (hay văn hoá địa bản, văn hoá vụ cảnh). Đó là thứ Văn hoá đặt trọng tâm vào công cuộc cải tiến xã hội nhân sinh, tổ chức đời sống quốc gia, kinh tế, kỹ thuật, đời sống vật chất của quần chúng. Đó là VẬT ĐẠO. Chia VĂN HOÁ, thành ba loại như trên, có thể nói đã dựa trên những tiêu chuẩn chắc chắn. Trước tiên là nó dựa trên quan niệm TAM TÀI về con người. Nó tương ứng với 3 ý nghĩa của chữ CULTURA trong tiếng La Mã: 1. Làm ruộng (agri cultura hay argi cultus) 2. Làm người (Animi cultura hay animi cultus) 3. Làm thân minh (Dei cultura hay Dei cultus) Nó tương ứng với quan niệm TAM TÀI CỦA DỊCH KINH (Thiên, Địa, Nhân), và đồng thời tương ứng với quan niệm TAM TÀI về con người, với ba bình diện trong con người: 1. Thần (Esprit) 2. Tâm (Âme) 3. Xác (Corps) [82] Nó cũng tương ứng với ba thế giới của Pascal: - Thế giới bác ái - Thế giới tâm tư - Thế giới thân xác cũng như đối với lề lối nhận thức riêng biệt của từng thế giới ấy, tức là: - Trực giác. - Tri giác. - Cảm giác. [83] Nó cũng tương ứng với quan niệm tâm tài về con người của nhiều môn phái triết học Âu Châu thời xưa. Môn phái Valentin chẳng hạn đã chủ trương rằng con người có ba hạng: - Những người có tiên cách, thần cách (spirituels) - Những người có nhân cách (Psychiques) - Những người phàm phu, xác chất, vật hèn. (Hyliques). [84] Mỗi dân tộc lại sở trường về một nền Văn hoá. Theo Jean Laloup, thì Ấn Độ đã tìm hiểu sâu xa về Trời, Trung Hoa đã nghiên cứu kỹ lưỡng về nhân luân, Âu Châu đã tỏ ra xuất sắc về sự tìm hiểu và chinh phục thế giới vật chất [85]. Tuy nhiên đó chỉ là những giả thuyết những phân tách giả tạo cho chúng ta nhìn cho tỏ hơn, học cho dễ hơn, chứ thực tế không bao giờ đơn giản như vậy. I. Nền văn hoá thứ nhất, tức là nền Văn hoá thần linh (như ta thấy thực thi ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, ở Ai Cập thời cổ) chủ trương rằng: - Vũ trụ và con người đều là biểu tượng của Tuyệt đối thể. - Và vì vậy, con người là dòng dõi thần minh. có bản chất thần minh có thể trở thành thần minh, nếu biết phương pháp tu luyện, biết đường học hỏi. - Về phương diện đạo giáo, nền văn hoá này chú trọng đến sự cho rằng người ta tự cứu thoát mình bằng sự giám ngộ. - Về phương diện chính trị, chủ trương Trời dùng các vị thánh quần để thay trời trị dân, đồng thời để làm gương nhân đức cho dân. Vua như vậy, vừa là quốc vương, vừa là giáo chủ. Khi nền Văn hoá này được đem thực thi, áp dụng vào quần chúng, ta thấy nó khoác hai sắc thái: a. Một số ít người giác ngộ, một số ít đệ tử được chân truyền đã thực sự tu luyện trở thành thần minh, và đã thần thánh hoá được mình. Đó là nội giáo, hay mật giáo (ésotérisme hay hermétisme). b. Còn đa số quần chúng thì tôn thờ thần minh để cần cầu phúc, nhương tai, làm lành lánh dữ để được thưởng công, khỏi bị phạt tội kiếp này hoặc kiếp sau. Đó là ngoại giáo (exotérismo) c. Ngoài ra, còn có những phương diện đồng bóng, bùa chú ma thuật, phù thủy, pháp môn v.v… với mục đích là cảm thông với thần minh, chi phối hoàn cảnh, hoặc là lợi dụng quần chúng… Trên lý thuyết, nền văn hoá nầy hết sức cao siêu, nhưng về phương diện thực hành, thì ít người hiểu thấu đáo và thực thi được. Về phía quần chúng, thì vì đặt nặng tin tưởng vào sự an bài của thần minh, nên họ không tự lực, tăng cường, tự lực cánh, tự lực giải thoát, mà cứ ỷ lại vào số mệnh. Hơn nữa, nền văn hoá này coi nhẹ cuộc sống vật chất, gian trần, cho là phù du, hư ảo, cũng vì vậy mà sự đói khổ lầm than là một mối đe dọa thường xuyên đối với quần chúng. II. Nền văn hoá thứ hai, có thể nói là nền Văn hoá nhân bản. Nền văn hoá này chủ trương vũ trụ cũng như con người là vật thụ sinh, do Thượng đế sáng tạo ra. Về phương diện đạo giáo, nền văn hoá này chủ trương con người phải thời phụng thần minh, dù là độc thân hay là đa thần ăn ngay ở lành, để lai sinh khỏi bị sa đọa. Và cũng không đặt nặng vấn đề đời sống thế tục hiện tiền, mà chỉ ước mơ, chỉ chuẩn bị cho một lai sanh tốt đẹp. Về phương diện luân lý, nó khuyến khích nhân, nghĩa, nhân luân, dạy dân cố sao ăn ở cho xứng đáng với danh hiệu con người. Về phương diện chính trị, nền Văn hoá này phân biệt hai thứ thần quyền, thế quyền, các vị vương bá. Và các nhà lãnh đạo tôn giáo chia nhau hoặc dành nhau quyền thống trị dân. Mục phiêu của chính trị là giữ gìn an ninh, trật tự bên ngoài. Về phương diện kinh tế, thương mại, nhà nước thường là để dân tự do kinh doanh, không có trực tiếp chỉ huy, can thiệp. Nền văn hoá này chỉ đặt nặng vấn đề giao tế giữa người với thần minh, giữa người với người, giữa người với giáo hội với quên không giải quyết được sự đói khổ vật chất, cũng như không giải quyết được các tệ nạn xã hội. III. Nền văn hoá thứ ba là nền văn hoá vật chất, kỹ thuật.Nền văn hoá này không còn đặt ra các vấn đề sáng tạo, hay thần quyền. Nó chủ trương con người chỉ là con vật tiến bộ. Nó không còn muốn đặt ra các vấn đề thần minh hay đạo giáo, hổn phách, mà chỉ chú trọng đến các vấn đề xã hội, nhân sinh, kinh tế, kỹ nghệ v.v… Nó không thần bí, cũng chẳng nhận nghĩa, mà thực tiễn, thực tế. Nó không mơ ước lai sinh, mà chỉ ra công cải tiến con người hiện thực, cải tiến tình trạng xã hội hiện thực để tiến tới một đời sống vật chất, cộng đồng khả quan hơn. Con người không có giá trị gì nếu không nhờ xã hội. Như vậy con người hoàn toàn lệ thuộc xã hội. Tất cả các vấn để cần được cân nhắc bàn cãi, tất cả các nỗ lực cần được hướng dẫn để đi đến một xã hội hùng mạnh công bình… Thế tức là gạt thần thánh, gạt đạo giáo ra một bên, để đặt hết trọng tâm vào công cuộc mưu sinh và tiến bộ kỹ thuật. Trong những xã hội theo nền văn hoá này chỉ có khoa học là trọng, kỹ thuật là trọng. Về phương diện kinh tế, thường mãi, cũng có xã hội cho cá nhân được tự do cạnh tranh kinh tế, cũng có xã hội chi phối hướng dẫn hết mọi hoạt động kinh tế, thương mại… Ba nền Văn hoá: - Thần linh (culture spirituelle) - Nhân bản (culture humaniste) - Vật chất, kỹ thuật (culture matérialisté techenique) có thể nói được đã xây dựng trên ba quan niệm khác nhau về con người. Nền văn hoá thần linh chủ trương con người có đủ tam tài «Trời, đất, người» trong một thân, nghĩa là có đủ: - Thân (Esprit) - Tâm (Âme) - Xác (Corps) và Trời chẳng có xa người, Trời đã ở ngay trong tâm hồn con người nên, muốn tìm Trời khỏi phải tìm trong đền đài miếu mạo, khỏi phải tìm đâu ngoài lòng và như vậy con người trọng hơn đạo giáo, trọng hơn xã hội, một khi con người đã giác ngộ. [86] Nền Văn hoá nhân bản cho rằng con người chỉ có hai phần: Hồn và Xác. Muốn tìm Trời, tìm thần thánh phải vào các nơi thờ tự, cần phải dựa vào các lễ nghi bên ngoài, cần có những người hướng đạo mãi mãi, từ bé cho đến già, trong lúc sống cũng như trong lúc dắm mắt tắt hơi. Cho nên con người không thể trọng hơn đạo giáo, con người không thể nào tự giải thoát, con người không thể nào có những tư tưởng ngược lại với một số giáo điều đã được coi như là những chân lý viên mãn, bất khả di dịch, và con người phải hoàn toàn tung phục các cấp lãnh đạo, chỉ huy. Nền Văn hoá kỹ thuật, vật chất cho rằng con người chỉ có xác chẳng có hồn thiêng, chỉ có cuộc sống đời nay mà chẳng có lai sinh. Cho nên khỏi cần đạo giáo, khỏi cần suy tư về lai sinh, mà phải đế hết tâm trí tổ chức cho đời sống trần gian được trở nên hữu lý hoàn bị ngày một hơn. Nền văn hoá này có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề, vật chất, xã hội, nhân sinh, nhưng đi tới cực đoan có thể từ chối quyền tự do, tự chủ cá nhân và bắt con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào đoàn thể, vào giai cấp lãnh đạo. Chúng ta có thể nói được rằng: Ba nền Văn hoá thần linh nhân bản và vật chất đã lần lượt kế tiếp nhau trên triền thời gian và không gian, và ta thấy chiều hướng lịch sử nhân loại, đã dần dà đi từ tinh thần ra vật chất, từ nội tâm ra ngoại cảm từ cá nhân đến xã hội, từ thần quyền đến nhân quyền, đến vật quyền, tự chủ trương để cho con người được sống tùy ý, đến chủ trương kiểm soát và chỉ huy mỏi hành động con người, lồng con người dần dần vào các khuôn khổ đạo giáo, xã hội, chính trị, xí nghiệp ngày một chặt chẽ. Khi đi đến cùng cực của nền Văn hoá, văn minh vật chất, rất có thể nhân loại sẽ quay ngược chiều tiến hoá để trở về với nền văn hoá nhân bản, rồi với nền Văn hoá thần linh đã được làm cho trở nên tinh khiết, toàn hảo. Tương lai sẽ còn dành cho chúng ta rất nhiều kỳ bí. Khảo cứu các nền văn hoá với những quan niệm khác nhau về con người như trên, cho ta thấy rằng con người thật ra có thể sống trên nhiều bình diện khác nhau: bình diện vật chất xác thân, xã hội, gia đình, bình diện tâm tình, bình diện tâm linh… Con người có thể sống như một con thú thượng đẳng có trí khôn, hoặc sống như con người với tất cả phẩm giá của nó hoặc cũng có thể sống một cuộc đời thần minh, như các vị thánh hiền kim cổ … V. THỬ ĐI TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA VÀ MỘT QUAN NIỆM VỀ VĂN HOÁ Sau khi đã bình luận về ít nhiều định nghĩa Văn hoá, sau khi đã phân tích từ ngữ và nội dung hai chữ Văn hoá, sau khi đã khảo sát sự thăng trầm của một nền Văn hoá, và khảo sát về ba nền Văn hoá chính yếu của nhân quần, thiết tưởng cũng nên đưa ra một định nghĩa riêng tư, một quan niệm riêng tư về Văn hoá. Bởi vì theo ý tôi, đưa ra một định nghĩa về Văn hoá tức là đưa ra một quan niệm về Văn hoá tức là cũng đưa ra một chủ trương, một đường lối về nhân sinh, một viễn tượng, một mục phiêu cho cuộc đời. Trước tiên, muốn định nghĩa về văn hoá, tôi nghĩ nên có một định nghĩa cho hết sức rộng rãi, hết sức linh động để có thể phổ cập mọi nơi mọi đời. Vì lẽ đó mà tôi muốn định nghĩa Văn hoá như là: Tất cả những nỗ lực của muôn thế hệ nhân quần để vươn lên cho tới tinh hoa hoàn thiện, cho tới một đời sống lý tưởng về một phương diện nào hay về mọi phương diện, và tất cả những công trình đã thực hiện được, những giai đoạn đã vượt qua được trên bước đường tiến hoá ấy. Văn hoá xưa nay sở dĩ khác nhau là chính vì người ta quan niệm khác nhau về lý tưởng, về đời sống lý tưởng, về thân thế cũng như về định mệnh con người. Cho nên nói một cách thiết thực hơn, Văn hoá chính là một tầm nhìn, một lối nghĩ, một niềm tin, một cảm tưởng về thân thế, về định mệnh con người, đã được đem lồng vào trong đời sống xã hội, dân tộc. Quan niệm sống ấy, niềm tin về tương lai ấy chính là ngọn lửa thiêng đã làm bừng lên trong lòng chúng ta một làn hùng khí, đã soi sáng cho chúng ta nhìn thấy một đường hướng để tiến tới, một mục phiêu để tranh đoạt, thực hiện. Cũng vì vậy mà chúng ta không thể quan niệm Văn hoá một cách hời hợt như là Văn chương, văn nghệ, như là giáo dục, hay như là một lề lối sống suông. Nói như vậy, mới là đề cập đến cái xác Văn hoá, chứ chưa đến cái hồn Văn hoá. Bởi vì Văn chương, văn nghệ cũng có ba bảy đường: văn chương văn nghệ mua vui, văn chương văn nghệ kiếm tiền hay văn chương văn nghệ để đưa đường chỉ nẻo cho quốc dân, cho đồng bào, đồng chủng. Nói đến giáo dục, không phải là nói đến giáo dục suông, phải nói đến giáo dục theo tiêu chuẩn nào, có mục đích gì v.v... Nói đến lề lối sống, phải nói đến lề lối sống theo căn bản nào, chủ trương nào: sống ù lì, hay sống tranh đấu; sống bảo thủ hay cách mạng; sống tồn bản hay vong bản; thâm trầm, chín chắn hay phù phiếm, xốc nổi; sống cầu an, hay sống cầu tiên, sống hướng nội siêu thần, hay hướng ngoại trục vật, v.v… . Tóm lại cái quan hệ là tìm cho ra được cái hồn của mỗi nền văn hoá, những động cơ chính yếu bên trong khuôn đắp nên những hiện tượng bên ngoài. Một người làm văn hoá chân chính phải có khối óc tinh tế nhận định được về cuộc đời một cách chính xác, tìm ra được một đường hướng lý tưởng, phải say sưa thực hiện cái mà mình cho là lý tưởng nhất, mà cũng phải hăng say, nồng nhiệt, để thổi vào lòng mọi người một nguồn sinh khí mới. Như vậy, văn hoá đối với tôi, bao giờ cũng phải là một viễn tượng về tương lai, hơn là một kỷ niệm của quá khứ. Văn hoá luôn luôn còn phải là biểu hiệu của những cố gắng sáng tạo, xây dựng, chứ không phải chỉ là những thái độ hưởng thụ, bảo thủ. Nếu chúng ta hiểu Văn hoá là nỗ lực của con người để tiến tới một đời sống lý tưởng về mọi phương diện, thì dĩ nhiên chúng ta phải chủ trương một nền văn hoá toàn bích, với những ý niệm cơ bản sáng suốt, rõ ràng về nhân sinh, nhân thế, và những đường lối hẳn hòi để thực hiện nhân sinh ấy. Một nền văn hoá chủ trương một đời sống hoàn hảo toàn diện cho mình và cho dân tộc, sẽ không thể nào khinh chê, gạt bỏ, một khía cạnh nào, một bình diện nào của con người mà phải chú trọng cả vật chất lẫn tinh thần, tâm lý lẫn sinh lý, đạo giáo lẫn chính trị. Khảo về các nền văn hoá các nước Đông Tây kim cổ, ta đã thấy: Có dân nước, có thời đại đã chú trọng đến thần linh, đến tâm linh, mong tu luyện để đi đến giác ngộ, đến giải thoát. Có dân nước, có thời đại đã chú trọng đến nhân tâm, nhân bản, chủ trương giáo hoá con người, để con người ăn ở cho xứng đáng với danh hiệu con người. Có dân nước, có thời đại đã chú trọng đến các vấn đề khoa học, kinh tế, quốc gia, xã hội. Dựa vào những sự kiện lịch sử ấy, ta nhận thấy con người có thể sống trên 3 bình diện: Thần linh, hay tâm linh, hay thiên đạo Nhân tâm, nhân bản, hay nhân đạo. Vật chất, kinh tế, xã hội hay địa đạo.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:52:31 GMT 9
THIÊN ĐẠO cao siêu có mục đích thần thánh hoá con người làm cho con người tin vào sức mạnh vô biên của tâm linh, của tinh thần, và của ý chí. Nó có mục đích thần minh hoá, thần thánh hoá con người. Nhưng vì quá cao siêu, nên nó không thể phổ cập vào dân chúng được. Dân chúng vì tư chất còn kém cỏi nên không vươn lên được tới bình diện cao siêu ấy, không thực hiện được mục đích cao cả của thiên đạo, cũng như không thấu thái được tinh hoa của thiên đạo, cho nên chỉ sống bằng từ ngữ suông, nắm được cái võ, bắt được cái bóng của thiên đạo và rất dễ sa vào vòng mê tín dị đoan. Hơn nữa vì nó quay lưng vào đời sống thực tại, nên không giải quyết được một cách hữu hiệu các vấn đề sinh kế, vật chất cho quần chúng. Đó là mặt trái của nền văn hoá thần linh. Những khuyết điểm ấy đã làm cho các triết gia, các vị lãnh đạo tinh thần suy tư để tìm cho ra một cái đạo thích hợp với quần chúng hơn, chú trọng về huấn luyện, giáo hoá con người trên bình diện luân lý, lập ra những hình thức lễ nghi bên ngoài, cho dân chúng dễ theo, lập ra những hệ thống giáo lý dễ hiểu, để mọi người có thể thâm nhuần, lập ra những cơ sở giảng giải, những phẩm chất để lãnh đạo mọi giai cấp, để đi sâu vào lòng mọi giai cấp. Nên nhân đạo nầy thỏa mãn quần chúng được phần nào, nhưng vì muốn bành trướng, muốn nắm vững quần chúng, nên đôi khi đã dùng đến những thủ đoạn dã man, tàn khốc, đôi khi đã đi đến chỗ áp bức, khống chế con người. Hơn nữa vì muốn lòng mọi người vào một khuôn khổ nhất định cho nên làm cho những người yêu chuộng tự do và nhân phẩm đôi khi phải sống ngột ngạt trong sự tù túng tinh thần. Ngoài ra nó còn làm khuất lấp mất cái phần cao siêu nhất trong con người đó là phần thần linh (Esprit). Vả chăng, nó cũng không giải quyết được một cách cụ thể những sự bất công, tàn ác, những đau thương, những đói khổ, lầm than của nhân loại. Tuy rằng có những tổ chức từ thiện, giúp đỡ con người trong những lúc cập thời, nhưng đó không phải là làm tăng nhân phẩm con người. Đó là mặt trái của nền nhân đạo. Vì thế mà người ta lại nghĩ đến sự tổ chức nên một vật đạo, nghĩa là ra công cải thiện xã hội, mục đích là làm cho con người bớt lầm than đói khổ, có được đời sống đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng nền Văn hoá vật chất, kỹ thuật cũng mắc phải nhiều nhược điểm. Nói rẻ rúng nhân cách con người, nó tàn nhẫn, xảo quyệt thủ đoạn, có nhiều khi còn lồng cho con người vào trong những khuôn khổ cực kỳ chật hẹp, cứng rắn hết mọi tự do con người. Họ cho con người bánh, nhưng lại lấy mất tự do, nhân phẩm con người. Vì vậy mà trong nhân quần đã từng vang lên những tiếng kêu cứu cấp: Ai sẽ giải thoát chúng tôi cho khỏi sự máy móc hoá bây giờ? [87] Suy ra thì bất kỳ nền văn hoá nào xưa nay cũng có cái hay, cũng có cái dở, cũng đã có nhiều công, mà cũng đã có lắm tội… Bổn phận ta là phải đi tìm một quan niệm mới về Văn Hoá, đi tìm một nền văn hoá mới, một nền văn hoá sống động, có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, một nền văn hoá đa phương, đa điện, gồm nhiều tầm kích, vừa cao siêu, vừa tinh vi, lại vừa hạng người, mọi tầng lớp, mọi tuổi tác, có thể uyển chuyển theo kịp đà tiến hoá của thời gian, của lịch sử, mà không sợ bị đào thải, theo được sự tiến triển của con người như bóng với hình, để cuối cùng giúp cho con người thực hiện được mục phiêu tối hậu, là sống một cuộc đời đạo hạnh thần tiên, trong một thế giới hoàn mỹ, một xã hội hoàng kim mai hậu. Một nền văn hoá như vậy dĩ nhiên phải là một nền văn hoá toàn diện, toàn bích. Thế nào là một nền văn hoá toàn diện, toàn bích? Một nền văn hoá toàn diện toàn bích phải gồm đủ cả ba nền: - Thiên đạo, - Nhân đạo, - Vật đạo nói trên, lọc lõi những cái hay, mà gạt bỏ những cái dở của ba nền văn hoá ấy. Nền văn hoá toàn diện có mục đích phát huy mọi giá trị, mọi khả năng trong con người, trên mọi bình diện, tạo cho mọi người những điều kiện tinh thần vật chất thuận tiện để họ được nâng đỡ, được hướng dẫn, ngõ hầu có thể phát triển mọi khả năng của mọi người, kiến tạo một xã hội tương dung, tương trở, hạnh phúc, công chính, và giúp con người có những điều kiện thuận tiện, những môi trường thuận tiện để sống một cuộc đời ung dung, sung sướng, thoát được mọi cảnh lầm than, đói khổ, ốm đau, tật nguyền, và cuối cùng có thể thần thánh hoá mình. Để xây dựng để tiến tới một nền văn hoá toàn diện, chúng ta có thể nêu ra ít nhiều nguyên tắc sau đây: 1. Nguyên tắc thứ nhất là nhận thức rằng con người có THIÊN CĂN, THIÊN TÍNH, và vì thế có khả năng tiến hoá vô cùng tận. Cho nên, tất cả các tổ chức đạo giáo cũng như xã hội phải giúp con người phát huy đến cùng cực mọi khả năng của mình. 2. Nguyên tắc thứ hai là nhận thức rằng: mọi sự tốt đẹp đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người, và các đạo giáo, các tổ chức xã hội chỉ có bổn phận là tài bồi, là làm cho nảy nở, làm triển những mầm mộng chân thiện mỹ đã tiềm ẩn sẵn trong ta mà thôi. Chủ trương này đưa đến những hiệu quả thực tế hết sức quan trọng; tức là: - Tôn trọng phẩm giá con người. - Đề cao tinh thần tương dung, tương trợ, và thông cảm lẫn nhau. - Giải phóng thực sự con người, vì chủ trương trên rằng một khi đã giác ngộ, khi đã đạt đạo, con người sẽ vượt lên khuôn khổ đạo giáo. Con người rốt cuộc vẫn là chủ tể, các đạo giáo chỉ là công cụ nhất thời. Con người phải biết dùng đạo giáo như là phương tiện để tiến thân, như là phương thức để thần thánh hoá mình, chứ không coi mình như là nô lệ của đạo giáo, hay của hằng giáo phẩm của bất kỳ đạo giáo nào. 3. Nguyên tắc thứ ba là nhận thức rằng: tiền nhân đã dày công mới tìm ra được những đức tính cao siêu của tâm hồn như NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ, TÍN, như CÔNG CHÍNH, LIÊM KHIẾT, THANH CAO vân vân. Nhưng đức tính cao quí của con người ấy cần được bảo vệ, khuyến khích tài bồi bằng mọi phương cách thanh tao như văn chương, kịch nghệ, âm nhạc v.v… Một nước có nhiều tâm hồn tốt đẹp cũng y như một nhà có nhiều châu báu, một vườn có nhiều hoa thơm. Tâm hồn mọi người mà thanh cao đẹp đẽ cả thì làm gì còn loạn lạc, làm gì còn đấu tranh. 4. Nguyên tắc thứ tư là nhận thức rằng con người không thể sống xa lìa xác thân, hoàn cảnh, xã hội, cho nên những vấn đề kinh tế, cơm áo, hoàn cảnh, xã hội, cho nên những vấn đề kinh tế, cơm áo, vật chất, chính trị, xã hội đều là những vấn đề khẩn yếu, cần phải giải quyết cho thỏa đáng. Tuy nhiên, con người cũng không phải là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh xã hội, cũng không phải là công cụ thuần túy của quốc gia dân tộc. Con người vẫn có thể và vẫn có quyền vượt lên những khung cảnh lịch sử, quốc gia, xã hội. Suy cho cùng, thì xã hội và lịch sử cũng vẫn chỉ là những môi trường những công cụ cho con người dùng để tiến thân… 5. Nguyên tắc thứ năm là nhận thức rằng bất kỳ chếch mác, dở dang nào, bất kỳ tệ đoan, hủ bại gì, nếu mình thật tâm muốn trừ khử, cũng có thể trừ khử được. Lịch sử đã chứng minh rằng nếu con người chịu suy, chịu nghĩ, chịu tìm kiếm, sẽ có thể lướt thắng được đói khổ, bệnh hoạn cải tạo được đời sống, gia tăng được tiện nghi, giảm bớt được sự lầm than, lam lũ, bằng cách sử dụng kỹ thuật, và khoa học, máy móc.[88] Những tệ nạn xã hội cũng có thể giải trừ được hết, nếu chính quyền có thiện chí, nếu dân chúng có ý thức được quyền hạn mình, giá trị và sứ mạng của mình, và biết đoàn kết chặt chẽ để cải thiện đời sống mình. 6. Nguyên tắc thứ sáu là nhận thức rằng con người có một khả năng tiến hoá vô hạn định, có thể tiến hoá từ thú đến thần, nên cần được giáo hoá, được hướng dẫn hẳn hoi, cần phải cố gắng tiến tới mãi mãi. Nếu vậy thì sinh ra ở đời này, không phải là để cầu an để hưởng thụ, mà chính là để tranh đấu, để cố gắng, để vươn lên. Muốn sống động, muốn hào hùng, chúng ta cần phải có những mộng tưởng lớn lao, cần phải có những lý tưởng cao đại. Vươn cho cao, hãy ngửng mặt lên cao, Lý tưởng có cao, nguồn sống mới rạt rào. Sống tầm thường lấy gì hun chí cả. Đời an nhàn là đời đang tan rã, Đứng nhìn đời là thái độ một trẻ thơ. Hãy ra công vì đồng loại mong chờ, Hãy cố gắng vì giang san cần tuấn kiệt. Non sống đang chờ ta đem gấm đem hoa thêu dệt, Đời vinh quang ta tạo lấy cho ta, Sống làm sao cho rạng vẻ quốc gia, Muốn gian lao không làm sờn chí cả. Dầu đất chuyển, tơi long, biển vơi, núi lả, Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn… [89] 7. Nguyên tắc thứ bảy là nhận thức rằng thực tại bao giờ cũng không được hoàn mỹ, nó mới chỉ là nấc thang cho ta tiến tới lý tưởng. Ôm ấp thực tại, tán dương thực tại, tán dương những lề lồi sống hiện tại là một lỗi lầm lớn. Nhiệm vụ con người là luôn luôn phải biết phê phán, phải biết kiểm điểm lại quan điểm của mình, đường lối của mình, luôn luôn phải cố gắng cải tiến không ngừng. «Nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân»… 8. Nguyên tắc thứ tám là nhận định rằng con người không phải nguyên có tinh thần, mà cũng chẳng phải nguyên có vật chất, nên không thể nhất thiết khinh bên nào, trọng bên nào. Lúc còn thiếu thốn đói khổ, thì phải lo miếng cơm, manh áo. Khi đã no đủ, thì phải đặt các vấn đề, lý trí, tâm thần lên hàng đầu. Nói thế cũng có nghĩa là những động cơ thúc đẩy sự biến thiên của lịch sửgồm đủ thiên ý, nhân tâm, và hoàn cảnh chứ không phải là chỉ có nhất thiết một yếu tố nào, như nhiều người đã lầm tưởng. 9. Nguyên tắc thứ chín là phải có một tinh thần luôn luôn cởi mở, thức thời, luôn luôn cần tiến, biết tìm ra những ưu điểm của người, nhược điểm của mình, ngõ hầu có thể thích ứng được với mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, tiến tới không ngừng. 10. Nguyên tắc thứ mười nhận định rằng con người luôn khao khát tự do, khao khát chân lý, khao khát lý tưởng, khao khát tiến bộ. Một nền Văn hoá toàn bích phải đáp ứng được với những niềm khát vọng ấy. Nó phải là một nền văn hoá mở rộng, chứ không phải là một nền Văn hoá khép kín. Nó phải dành những lối thoát cho những người tiền tiê, có thiện chí, có nhiệt huyết muốn vươn lên cho tới cao đại, muốn sống vượt tâm vượt mức thường nhân. Văn hoá phải là phương tiện cho con người tiến gới, chứ không phải là gông cùm là thừng chão trói buộc, kìm hãm con người. 11. Nguyên tắc thứ mười một là nhận định rằng tư tưởng cốt để hướng dẫn hành động; lý tưởng để ra cốt là để cải tạo thực tại làm cho thực tại trở thành lý tưởng. Nếu tư tưởng mà không được đem ra thi hành, nếu lý tưởng mà không được lộng vào cuộc sống, thì tư tưởng trở thành không tưởng; lý tưởng trở thành huyển tượng, vọng tưởng. 12. Nguyên tắc thứ mười hai là trên phương diện lý thuyết cũng như thực hành, tất cả nỗ lực con người sẽ được tận dụng để: - Biên cải hoàn cảnh vật chất. - Cải thiện xã hội. - Phát triển lý trí, tài năng con người. - Cải thiện tâm hồn con người. - Giúp cho tâm linh con người triển dương tới mức siêu phàm nhập thánh… Thực thi, áp dụng vào cuộc đời, chúng ta sẽ đi tới những nhận định, những đường lối sau: - Hiện nay lịch sử và khoa học đã cho ta thấy rằng phân loại có đầy đủ khả năng để giải quyết và thỏa mãn được các nhu cầu vật chất của con người, và giúp con người chiến thắng được thiên nhiên và hoàn cảnh. Như vậy ta không còn lý do gì mà không tận dụng mọi phát minh của khoa học, mọi khả năng của kỹ thuật để: - Triệt để khai thác tài nguyên của đất nước. - Kỹ nghệ hoá quốc gia. - Điện lực hoá nông thôn. - Cơ giới hoá ngành canh tác. - Phát triển các đạo lộ giao thông, các phương tiện chuyển vận. - Chỉnh trang thành thị. - Song song với những cải tiến về vật chất ấy, các vấn đề xã hội cũng cần được kiểm điểm lại, chấn chỉnh lại để cho mọi người đều được sống trong tình thương yêu, trong công bằng và danh dự, và cũng cần đặt nặng vấn đề giáo dục, đào luyện nhân tài, đào luyện chính nhân, quân tử… - Về phương diện siêu nhiên, đạo giáo không nên đặt nặng vấn đề lễ nghi hình thức bên ngoài, mà cần phải đặt nặng vấn đề nghiên cứu bàn bạc, thảo luận, học hỏi, đặt nặng vấn đề thanh lịch hoá, siêu thăng hoá con người… Trong viễn tượng tương lai ấy, con người phần đông, và nếu có thể được, tất cả, sẽ là những người học rộng, biết nhiều, sung túc, thoải mái về thể chất, thung dung, thanh thản về tinh thần, sống trong tình tương thân, tương ái, thông cảm lẫn nhau, sống thành khẩn với mình, không giả tạo, không bôi bác, luôn luôn cố gắng cải thiện, tiến tới, ai ai cũng nỗ lực để tạo cho mình và cho người một đời sống thi vị, và đẹp đẽ, đáng sống. Mỗi cá nhân đều nỗ lực học hỏi lao tác, để canh tân, cải thiện mình. Mỗi gia đình sẽ trở nên một trung tâm đào luyện con người, và cha mẹ có trách nhiệm hướng dẫn, giáo dục con cái cho nó ý thức được thế nào là đời sống lý tưởng, và biết nỗ lực để thực hiện đời sống lý tưởng ấy. Chính quyền thời biết cách đem an bình, thái thịnh lại cho đất nước, thúc đẩy quốc dân theo kịp trào lưu tiến hoá của thế giới, đặt trọng tâm vào công cuộc đào luyện nhân tài, trọng nhân tài, đào luyện chính nhân quân tử, trọng dụng chính nhân quân tử. Đồng thời, tận dụng mọi phát minh khoa học, kỹ thuật để khai thác tài nguyên đất nước, mở mang ngành hàng hải, hàng không, mậu dịch kinh doanh với liệt cường, làm cho đất nước trở nên phú cường, thái thịnh, làm cho mọi người ai nấy hãnh diện vì là công dân tốt trong một cộng đồng tốt … Như vậy nền Văn hoá toàn bích bao gồm tất cả những nỗ lực của con người để tiến tới một đời sống lý tưởng, và tất cả những thành quả do nỗ lực ấy sáng tạo nên. - Lý tưởng vì hoàn cảnh và thiên nhiên phục vụ con người hết còn là chướng ngại và là thù địch. - Lý tưởng vì xác thân khỏe mạnh, hùng tráng, đủ ăn, đủ mặc, không còn phải lam lũ, vất vả, khổ sở để kiếm ăn, vì đã có những phương pháp khoa học, những máy móc đỡ đần trong mọi công việc. - Lý tưởng vì đời sống xã hội được tổ chức một cách công bằng, hợp lý, nhân cách con người được bảo đảm. - Lý tưởng vì đời sống nội tâm và siêu nhiên con người được hướng dẫn, và được phát huy tới mức tối đa cho mỗi một con người. Như vậy, con người Văn hoá là con người nỗ lực chiến đấu chống lại với mọi khuyết điểm, mọi chếch mác dở dang, để cho mình và cho người có một đời sống đẹp đẽ hơn, sáng sủa hơn, thanh lịch hơn, hoàn hảo hơn mãi mãi … Viễn tượng ấy lấy ở đâu ra? Thưa lấy từ tâm linh chúng ta. Phương pháp thực hiện tương lai ấy sẽ lấy ở đâu? Thưa lấy từ ở tâm tư, trí não, ở tay chân ta, và ở sự đồng lao, cộng tác của chúng ta. Viễn tượng tương lai ấy có thể thực hiện được, nếu mọi người đều cố gắng, hoạt động cho có phương pháp, có tổ chức, có hướng dẫn. Nếu mọi người chúng ta đều có ý thức được sứ mạng mình, nỗ lực cải tiến không ngừng thì ta sẽ lèo lái chẳng những con thuyền quốc gia, mà cả con thuyền nhân loại về hướng thần tiên sang cả như viễn tượng của Victor Hugo: «Thuyền nhân loại hướng về đâu tá? Thuyền quang hoa băng ngả thần tiên. Tiến về mai hậu siêu nhiên. Tiến về đức hạnh nguyên tuyền tinh hoa Ánh khoa học trời xa lóng lánh, Thuyền quang hoa băng cảnh thần tiên. Tiến về đẹp đẽ tinh tuyền, Tiến về thượng giới, về miền muôn sao.»[90] Isaie và Jérémie từ xa xưa cũng đã nhìn thấy tương lai đẹp đẽ ấy. Và đây là lời hai vị tiên tri ấy mà tôi đã mạo muội lồng vào vần thơ lục bát: «Bao giờ thay đất đổi trời, Bao giờ nhân loại khắp nơi vui hòa? Mây mù quá vãng biển xa, Hết còn khóc lóc hoá ra vui cười. Trẻ thơ chóng lớn dễ nuôi, Đẻ ra là sống, sống thời ngoài trăm. Mình làm, mình hưởng, mình ăn, Mình xây mình ở, hết thân tôi đòi. [91] Quanh nhà nho mọc tốt tươi, Mình trồng, mình hái hết người tranh ăn. Người cùng thảo mộc đua xuân, Người cùng thảo mộc tháng năm tương đồng. Chẳng còn vất vả lao lung, Con đông, mà cháu cũng đông cũng đầy. Ơn Trời mưa khắp đó đây, Người đời vui hưởng những ngày hoàng kim. Người xin, Trời sẽ cho liền, Nguyện cầu chưa rứt, ước nguyền thỏa thê. Sói chiến, chiến sói đề huề, Trầu bò, sư tử một bề ăn rơm. Rắn ăn bụi bặm thấy ngon, Đâu đâu cũng một giang sơn thái hòa.[92] Trời, người sum họp một nhà, Đôi lời ước cũ hoá ra thành toàn.[93] Luật Trời ghi tạc tâm can, Lương tri là luật Trời ban cho người. Dân Trời ở khắp chốn nơi, Đâu đâu cũng chỉ một Trời, một dân. Hết còn sư đệ qua phân, Tìm Trời ai cũng ân cần ngày đêm. Biết Trời lớn bé mọi miền, Tội tình xóa bỏ, tần phiền sạch không.[94] ĐỂ TỔNG KẾT LẠI, bàn về VĂN HOÁ, tức là xem xét xưa nay con người đã nghĩ gì về CHÂN, THIỆN, MỸ, đã quan niệm thế nào về CHÂN, THIỆN, MỸ, đã thực hiện được những gì, đã cố gắng ra sao, để hướng về CHÂN, THIỆN, MỸ, để thực hiện CHÂN, THIỆN, MỸ. Nhìn bao quát các quốc gia, các dân tộc, các thế hệ, ta nhìn thấy con người y như là một chiến sĩ hào hùng, nhưng lạc trong khu rừng trần gian rậm rạp đầy mãng xà, ác thú, đầy gai góc, hiểm nguy, trong một đêm trường tăm tối, chỉ le lói vài ánh sao thưa, mà đã cố mò mẫm tìm cho mình được lối thoát, tạo cho mình được những kỳ vọng, lập nên được những chiến công, những thành tích hết sức vẻ vang, hiển hách. Sau này, khi khu rừng dần dà đã được khai quang; mãng xà, ác thú dần dà đã bị tiêu diệt; ánh dương quang lại hiện ra rực rỡ, con người sẽ thấy công trình của mình từ trước tới nay không có gì là uổng phí. Nhưng gì xưa kia ta mò mẫm, chỉ tìm ra được một vài khía cạnh, sau này sẽ hiện rõ ra cả toàn thể; và chính bản thân ta mà xưa nay ta thường dè bỉu cho là hèn hạ, tầm thường, cũng sẽ nổi bật lên với tất cả những nét, những vẻ đẹp tươi, tráng lệ, hào hùng của nó. Con người sau này dần dà sẽ khám phá ra mình là dòng dõi thần minh, và sẽ mãi mãi khắc phục được hoàn cảnh, khắc phục được mọi gian lao để đoạt lại ngôi vị cao sang xưa của mình. Khảo về văn hoá, tức là khảo về những nỗ lực, những cố gắng muôn mặt của con người, để tiến tới CHÂN, THIỆN, MỸ. Khảo về văn hoá, chúng ta thấy con người lúc thì xông pha vào thế giới thần minh, khi thì bôn tẩu trong thế giới nhân loại, lúc thì phiêu lưu trong thế giới vật chất hữu hình, để mà mưu sinh, để mà tìm hiểu về mình, về vũ trụ, để tạo cho mình, cho người một đời sống tươi đẹp, để đem thơ mộng về trang hoàng cho tâm hồn mình và ngoại cảnh. Mặc dầu trong dĩ vãng, con người đã có muôn vàn lầm lỗi, mặc dầu trong hiện tại con người vẫn còn đang đau khổ, lầm than, ta không khỏi cảm động, khi thấy con người càng gặp gian lao, càng trở nên hăng hái. Vì thế, chúng ta có quyền hi vọng về tương lai: Tương lai nhân loại sau này sẽ vô cùng đẹp đẽ. Nó sẽ hết sức đẹp đẽ, khi con người có những tư tưởng chính đáng, nhưng hành vi chính đáng, những cố gắng chính đáng. Những giọt mồ hôi, những hạt nước mắt từ xưa đến nay nhân loại đã đổ ra để khắc phục trần hoàn, sau này sẽ trở thành những ngọc châu điểm tô cho nhân loại. Bàn về VĂN HOÁ, khảo về VĂN HOÁ, tức là sống lại đời sống của tiền nhân, cảm thông những nỗi lo âu, hồi hộp của muôn thế hệ, cũng như chia vui với những niềm vui của trần hoàn; tức là dùng gương xưa tích cũ làm những bài học cho hiện tại, và tương lai, tránh những lỗi lầm mà người xưa đã mắc; bắt chước cái hay mà người xưa đã có; tiếp tục công trình dang dở của người xưa đã làm, ngõ hầu cải thiện đời sống mình và người, cho trần gian sớm trở nên thanh bình, cho trần hoàn sớm thành nơi hoan lạc, cho mọi người được sống một cuộc sống xứng đáng, cho chân, thiện, mỹ sớm tới chung sống với mọi người. Làm Văn hoá tức là cố tìm cho mình, và cho người một cuộc sống đáng sống, một lý tưởng đáng theo, là học để biết sống một cuộc sống chân thực, biết nhìn, biết nghĩ, biết suy, biết bắt cân nặng nhẹ, phải trái, không chịu cho người biến mình thành máy móc, công cụ, không để cho trần hoàn lôi cuốn mình như chiếc lá khô trước cơn gió lốc. Làm Văn hoá tức là tận dụng thời gian và khả năng để đắp xây cho tương lai xứ sở, bảo vệ cho những gì gọi là tinh hoa nhân loại. Làm Văn hoá tức là khai thác, là làm tăng trưởng mọi khả năng thể chất, não cân, và tâm thần ta để trở nên những phần tử ưu tú của đất nước, những chiến sĩ tiền phong của non sông, là tạo cho chúng ta một lý tưởng cao cả. Muốn sống động, hào hùng, dũng mãnh, chúng ta phải vươn lên một lý tưởng cao cả, hướng về một tương lai sán lạn vô biên, vô tận. Sống vào thời đại này dù muốn dù không, chúng ta cũng đang ở trong một giai đoạn giao thời, sống trong một thời kỳ mà nhân loại đang chuyển mình, đang biến thể. Nhân loại ngày nay đang chiến thắng mọi trở lực để tiến về hướng siêu nhân. Bao nhiêu bức tường ngăn chận đà tiến của con người dần dần bị phá vỡ hết: Núi non, sông biển, sa mạc, tường âm thanh, lớp khí quyển, không còn ràng buộc được con người. Nhân loại đang siêu nhân hoá con người bằng những cách chọn lựa giòng giống, bằng những công cuộc tiếp hạch, tiếp cơ thể, tạng phủ, bằng cách đại tấn công ma bệnh. Nhân loại đang siêu nhân hoá con người bằng những phát minh khoa học, bằng những cải tiến kỹ thuật, bằng những tổ chức, những phương sách mới. Nhân loại đang siêu nhân hoá con người bằng những tư tưởng hùng mạnh, bằng cách tập cho tâm hồn con người trở nên hùng mạnh coi gian khổ là bước tiến tới vinh quang. Cho nên sống trong thời đại này, chúng ta phải là những kẻ không yếu, không hèn, không ngu, không máy móc, mà phải có óc quật cường luôn luôn tìm hiểu, linh động và biến hoá. Tất cả những công trình Văn hoá, từ văn chương, kịch nghệ, cho tới mỹ thuật, kiến trúc, cho tới những tổ chức pháp lý, luân lý, đạo giáo của nhân quần đều như muốn khuyến dụ ta trở thành những con người xứng đáng, những con người hoàn thiện, hấp thu lấy tinh hoa của muôn nghìn thế hệ, của muôn nghìn đất nước, để mà tô điểm cho tấm thân ta thêm thánh thiện, cho đồng bào đồng chủng, cho nhân quần thêm hạnh phúc, cho giang sơn chúng ta và cho trần hoàn thêm đẹp tươi, cho thế giới thêm an bình, cho mọi người được sống những ngày thái thịnh, hoan lạc trong đạo lý, và nhân luân, sử dụng kỹ thuật và khoa học đến triệt để, và hoàn toàn chế ngự được hoàn cảnh … Tất cả viễn tượng đẹp đẽ ấy chính là lời cầu chúc và ước nguyện của tôi gửi đến Quí vị trước khi chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay về Văn hoá …
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:53:15 GMT 9
CHÚ THÍCH [1] Cuộc nói chuyện của bác sĩ Nguyễn Văn Thọ do Tinh Việt Văn Đoàn cùng Trung tâm Nghiên cứu và Thông tin Tân Định tổ chức tại trường Quốc gia Âm nhạc Sàigòn hồi 17 giờ ngày chủ nhật 13.7.1969. [2] La guerre politique impliquant la guerre des cultures, cela est proprement une invention de notre temps et qui lui assure une insigne dans l’histoire morale de l’humanité. – JULIEN BENDA: La trahison des clercs. [3] Chaque culture traverse les phases évolutives de l’homme en particulier. Chacune a son enfance, sa jeunesse, sa maturité et sa vieillesse. – OSWALD SPENGLER: Le déclin de l’Occident. [4] La Culture naît dans le langage en Allemange avec la «Bildung» goethienne, qui identifie cette culture avec l’humanisme classique, en la distinguant de la religion et de la pratique économique ou politique… Plus tard, dans cette même Allemagne, on commencera à parler de la Kultur, opposée à la civilisation qui est matérielle… – Bernard Chabonneau, Le Paradoxe de la Culture, p. 40. [5] The word had already taken its artistie and intellectual turn when the Germans borrowed it from France … and gradually change its initial C to the more aggressive K. (Harry Levin, Science and Culture, edited by Gerald Holton, p.2) [6] En Angleterre et en France, ce terme de Culture ne passera vraiment dans le langage courant qu’après 1918. (Bernard Chabonneau, Le Paradoxe de la Culture, p.40). [7] Thus in the article in Diderot’s Encyclopedia is limited to «culture des terres», but in the Dictionnaire de l’Académie française of 1777 subjoins to this agricultural definition a figurative sense! «se dit aussi au figuré, soin qu’on prend des arts et de l’esprit». (Harry Devin, Science and Culture, p.2) [8] It is first recorded by the Oxford English Dictionary from the year 1875, when Whitney spoke of «a more incident of social life and of a cultural growth». (Ruth Emily Memury and Muna Lee. The cultural approach, p.2). [9] Matthew Arnold responded to John Bright’s dismissal of culture as «a smattering of the two dead languages of Greek and Latin», in Culture and Anarchy (1869), defining Culture as a pursuit of our total perfection by means of knowledge of the best which has been thought and said in the World and the development thereby of all sides of our «humanity». – Encyclopedia Britannica, Culture and Humanity, Vol. I, p.745 … and not till 1876, did Matthew Arnold use the noun: «Culture the acquainting ourselves with the best that has been known and said in the world». – R. Emily Memury and Muna Lee, The Cultural Approach, p.2. [10] The Oxford English dictionary cites a phrase employed by Thomas More in 1510 : The culture and profits of their minds»… – Harry Levin, Semantics of Culture in Gerald Holton, Science and Culture, p.1. [11] The term Culture and Cult have the same derivation and were applied by the Romans to the cultivation of the field (agri cultura or cultus), the cultivation of the mind (animi cultura or cultus) and the cultivation of religion and God (Dei cultus or cultura). Cicero thus defines philosophy as the «culture of the mind» and argued that philosophy first educated men to the cult of Gods. – Encyclopedia Britannica, Culture and Humanity, Vol.I, p. 743. [12] L’équivalent chinois du mot littérature, Wen, ne signifiait à l’origine, rien de moins que l’ensemble de la civilisation humaine telle que la conçoivent les Chinois. – L’Originalité des Cultures (Unesco), p.43. [13] Le mot chinois qui désigne la littérature, Wen, symbolise aussi bien dans sa graphie étymologique que dans son premier emploi, l’idée de la création intellectuelle, qui change les éléments informes en un tout organique, les contraires en harmonie, les chaos en ordre, donnant ainsi une forme saisissable au bon et au beau … Ib p.43. [14] Depuis les conquêtes mongoles, le Chinois cultivé s’est désintéressé de la politique et de l’appareil militaire et juridique dans lesquels il ne voit que l’expression d’une force extrinsèque à l’esprit ou d’une violence méprisable, qu’il désigne du mot Wu. Pour lui, l’effort d’humanisation réside dans le Wen, vocable par lequel il désigne la littérature ainsi que les croyances religieuses et philosophiques, les efforts culturels et artistiques, bref, toute acquisition intérieure de l’esprit; c’est pourquoi, le Wen, agent unique de vraie culture, doit s’opposer au Wu et lui faite échec. – J. Laloup et J. Nélis, Culture et Civilisation, p. 80. [15] Tam bách lý qui Văn giáo. (Trong vòng ba trăm dặm các ngài thi hành chủ trương văn hóa giáo dục) Kinh Thư, Vũ cống hạ, câu 20). – Xem Đại Vũ mô, tiết 21 – Xem Kinh Thư, Vũ Thành, tiết 2. [16] Xem Tam quốc chí, Tử Vi Lang dịch thuật tập V, trang 1218. [17] Trong các Tự điển cổ sau đây ở Việt Nam, đều không có chữ Văn hóa: - Dictionnaire élémentaire annamite français, par l’Abbé Le Grand de la Libraye, Saigon, Imprimerie impériale, 1868. - Dictionnaire annamite française, par J. F. M. Génibrel, Mission à Tân Định, 1898. - Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Của, Imprimerie Curiol et Cie, Rue Catinat et d’Ormay, 1896. - Petit Dictionnaire français annamite, P. J. B. Trương Vĩnh Ký Saigon, F. H. Schneider éditeur, 1911. - Dictionnaire français annamite, Masseron, 1916. [18] Xem bài: Bàn phiếm về Văn hóa Đông Tây của Thượng Chi, Nam Phong, số 84, trang 447-453. [19] Both terms Culture and Civilization came into European and English usage, with something of their current sense, about the 18th century (Encylopedia Britannica, Tome I, p. 742). [20] Thus in their introduction to the Volume Culture: A critical Review of Concepts and Definitions, the anthropologists L. Kroeber and Clyde Kluckhohn quoted Lowell’s confession: «I have been entrusted with the difficult task of speaking about culture. But there is nothing in the world more elusive. One cannot analyse it, for its component are infinite. One cannot describe it, for it is a Protean in shape. An attempt to encompass its meaning in words is like trying to seize the air in the hand, when one finds that it is everywhere, except in one’s grasp.» – Cf. Gerald Holton, Science and Culture, Houghton Mifflin Co, Boston, The Riverside Press, Cambridge 1955, p. VII. [21] Mr Vercors propose, en retenant la suggestion de M. Sarte de ne pas définir la Culture. – Cf. Comprendre 16, Rencontre Est-Ouest, cinquième séance, p. 263. [22] Sans craindre, nous renonçons ici à donner une définition philosophique de la culture. Ce terme, nous ne l’opposons pas comme certains l’ont fait à celuide «civilisation». Suivant Jacques Maritain, Religion et Culture, Paris 1930, p.13, nous distinguerons seulement dans la Culture «un développement véritablement humain et donc principalement intellectuel, moral et spirituel, et dans la civilisation, l’aspect social, politique et technique du même développement humain. (Le Bilan du Monde, I, p.94). [23] T.S. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, Faber and Faber limited, 24 Russell Square, London. [24] Definition: I. The setting of bounds, limitation (rare) – 1483, Oxford English dictionary. Cf. T.S. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.5. [25] Cf. Edmund R. Leach, Culture and Social Cohesion: An Anthropologist’s view. In Science and Culture edited by Gerald Holton, p.24. [26] Câu chuyện Văn hoá của Đặng Văn Ký đăng trong Văn Hóa Á Châu, số 9, tháng 12, 1958. [27] The improvement of the human mind and spirit. – Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.21. [28] The Cultivating or development (of the mind, faculties, manners, etc…), improvement or refinement by education and training. [29] The art of improvement or melioration. Cf. Harry Levin, Semantic of Culture. – In science and Culture edit by Holton, p.9… Culture: - Improvement, refinement or development by study, training etc… - The training and refining of the mind, emotions, manners, tastes. - The results of this: refinement of thoughts, 20th Cent. Dict). [30] Cf. Kinh Thi, Tản Đà dịch, trang 168. [31] Cf. Pháp Việt tự điển Đào Duy Anh nơi chữ Culture. … Trong bài báo: Góp ý về «Độc lập của văn hóa và giáo dục của Hoàng Văn Ngũ, đăng trong nhật báo, Hòa Bình ra ngày thứ tư 14.5.65, tác giả viết như sau: «Riêng ở lãnh vực Văn hóa, Giáo dục, những tệ trạng thời Thực, Phong cũng chưa chấm dứt. 1. Người làm văn hóa chưa được chăm sóc quí trọng đúng mức. (Các nhà văn thường bị thiếu thốn và câu thúc về vật chất lẫn tinh thần). 2. Người làm Văn hóa, Giáo dục (giáo chức) biến thành một hạng viên chức có quy chế của thời xưa để lại.» Như vậy theo Hoàng Văn Ngũ, chữ Văn hóa gồm hai phương diện văn nghệ và giáo dục. Đó cũng là hai nghĩa thông dụng của Văn hóa trong dân gian. [32] Xem bài: Bàn phiếm về Văn hóa Đông, Tây, Nam Phong số 84, trang 452. [33] Pour l’évêque d’Hippone (St Augustin), l’âme comprend sept degrés. Les deux premiers sont communs aux végétaux et aux êtres animés; le troisième degré, au contraire, est propre à l’homme: il lui permet de jouir de la culture humaine, avant de parvenir au septième degré, qui est delui de la contemplation de la vérité, et donc de la sainteté, l’âme doit avoit accompli tout un voyage à travers la création. Il faut être devenu entièrement homme par esprit avant d’espérer connaître la paix et la joie céleste. – Cf. CRITIQUE, Octobre, 1961, No 173, p. 863. … Avec Saint Augustin, s’installe déjà le dualisme: culture ou sainteté, qui allait se substituer à ce qu’il avait espéré instaurer: culture et sainteté. Ib. 864. … Averroès, Sieger de Brabant, Boèce de Dacie tendront à un séparatisme radical, il y aura pour eux deux vérités: celle de la connaissance et celle de la foi. Pour Averroès, ces deux vérités peuvent être contradictoires: l’oeuvre d’Aristote demeurera raisonnable même si la foi y contredit… (Ib. 864) … Au monde sacré des premiers siècles, chrétiens, succède une séparation des domaines profane et sacré et le triomphe à partir du XVIe siècle environ du profane. La tentative occidentale d’union de la culture et de la sainteté s’est soldée par l’échec de la sainteté: la culture s’est développée d’une manière autonome en dehors du sacré, puis à son détriment. (Ib. 835) [34] Xem Sứ mạng văn nghệ của Nguyễn Nam Châu, thiên III. Đại vi văn nghệ trong văn hóa và văn minh, từ tr. 23 đến 43. … The concept (of culture) could be defined by the Oxford editors, as nothing less than «the intellectual aide of civilization» (Harry Levin, Semantics of Culture, in Gerald Holton, Science and Culture, p.I). [35] Several German and US scholars have sought to endow the pair with contrastive meanings civilization to denote technology and that objective information which is socially cumulative; culture to indicate subjective religion, philosophy and art which are non additive. – Encyclopedia Britanica, Civilization and Culture, p. 742 … CIVILIZATION CULTURE Manual work Intellectual work Working day Holiday Labor Leisure Realm of necessity Realm of freedom Nature Spirit (Geist) Operational thought Monoperational thought (Herbert Marcuse), Gerald Holton, Science and Culture, p. 221. [36] … Culture refers to some higher dimension of human autonomy and fulfillment while ‘civilization’ designates the realm of necessity, of socially necessary work and behavior, where man is not really himself and in his own element but is subject to heteronomy, to external conditions and needs. (Herbert Marcuse), Gerald Holton, Science and Culture, p. 221. [37] It may be said that civilization is that kind of culture which includes the use of writings, the presence of cities, and of wide political organization and the development of occupational specialization. – Encyclopedia Britannica, Civilization and Culture. [38] Durant le Moyen-Âge, des cultures entre elles apparentées ont coexisté dans les anciennes provinces de Byzance, sur les bords de l’Euphrate, de l’Indus et du Guadalquivir. Les historiens et les linguistes démontrent leurs particularités: les style d’un art plus ou moins local, le fait d’un esprit littéraire indépendant, les cultures de la Syrie, de la Mésopotamie, de l’Iran, de l’Inde, ou de l’Andalousie n’en demeureront pas moins unies par une conception supérieure de l’existence, par les idées religieuses et intellectuelles. Elles composeront malgré leurs différences un tout: la civilization arabe … On peut envisager comme des structures mineures, les cultures et comme des structures supérieures, les civilisations. Cf. Les Problèmes des civilisations, p. 68. [39] Do Quốc tế đối chiếu văn minh học hội tổ chức (S.IE.C.C.: Société internationale pour les études comparées des civilisations). Cf. The Problems of civilizations, edited by F. AHDERLE, p. 147. [40] … Cultural wholes (ganzheiten). N. Danilevsky calls them «The culture-historical-types»; O. Spengler terms them «the High Cultures» (die Hochkulturen); A. Toynbee refers to them as the civilizations or «the units and intelligible fields of historical study»; A.L. Kroeber, as «the high value culture patterns»; N. Berdyaev, as «the great cultures»; F.S.C. Northrop, as «cultural systems» or the «world cultures»; I (Sorokin) call them the social and cultural supersystems (Sorokin) – The Problems of the Civilizations, Preface by Sorokin, p. 5. [41] If we begin now with the rather trite and important point of terminology: the German language has the rather useful distinction, which the English language does not have, I think, between «Hochkultur» and «Civilisation». If I am right, in German, «Zivilisation» has rather a depreciatory sense, meaning the mere material apparatus of «Kultur», and Spengler has given it a rather technical meaning of the later stage of one of these life - histories of a culture - the stage in which the culture is in decay. In French or English, we have not the words to make this distinction, so when, we say «civilisation», we mean a «HochKultur», including the later stages in which a «HochKultur» is in decay, as well as the earlier stages, in which it is in growth. (Toynbee). The Problems of civilizations, p.50-51. … Digression historique sur l’origine du concept moderne de civilisation. Culture et civilisation mis ainsi sur le même plan définis comme étant «la qualité (spécifique) de l’exitence humaine prise dans son ensemble» et confrontés comme équivalents de la langue et de la religion. Nouvelle définition. (A. Hilckman). The problems of civilisation, p. 61. … Sorokin cũng dùng hai chữ văn hóa và văn minh đồng nghĩa với nhau: «La civilisation ou la culture est la totalité des significations des valeurs et des normes qui sont celles des individus ou interaction réciproque et la totalité des institutions (on verra plus loin que Sorokin les nomme véhicules) qui objectivent, socialisent et transmettent ces significations. Cf. Pitirim A. Sorokin, Comment la civilisation se transforme, Préface d’Armand Cuvillier, p.19. Sorokin, Society, Culture and Personality, p. 63. … Romano Guardini, tác giả quyển Christianisme et Culture cũng dùng hai chữ văn hóa và văn minh lẫn lộn nhau. Ông viết: «Le terme de «culture» ou civilisation se présente à nous lui aussi, en de multiples acceptions. Dans un sens très général, la culture représente ce que l’homme à transforme, accompli, fait, produit: tantôt le terme désigne le résultat, l’oeuvre; tantôt l’état ou elle met son auteur, d’où culture soit objective, soit subjective… Ensuite, il comporte une idée de valeur et devient l’antonyme de barbarie. Alors la culture ne désigne plus tout ce qu’a fait l’homme, mais seulement ce qu’il a bien fait: ce qui est tel que cela devrait être, mettant en règle, et la tâche et la personne. – Christianisme et Culture, p. 198. [42] Telle que le comprit le Moyen-Âge, l’oeuvre de civilisation chrétienne était bien en effet, un «grand oeuvre» au sens que donnaient à ce mot les alchimistes, c’est-à-dire, la transformation de toute chose de l’état vil à l’état précieux, de l’état impur à l’état pur de l’état sombre à l’état lumineux, symbolisée par la transmutation du plomb en or. «Pierre de l’angle», le Christ était pour eux, la suprême «pierre philosophale» selon que la puissance du verbe est l’agent du grand oeuvre universel de la rédemption. – Louis Lallement, La Vocation de l’Occident, p. 134, Note I. [43] Thiên địa khuê nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ khuê nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật khuê, nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỉ tai! 天 地 睽 而 其 事 同 也. 男 女 睽 而 其 志 通 也. 萬 物 睽 而 其 事 類 也. 睽 之 時 用 大 矣 哉 – Dịch Kinh, quẻ 38: KHUÊ. [44] Càn đạo biến hóa các chính tính mệnh, bảo hợp Thái hòa nãi lợi trinh. 乾 道 變 化 各 正 性 命, 保 合 大 和 乃 利 貞. – Dịch Kinh, Càn quải, Thoán truyện. [45] Tout l’univers progresse sur le chemin de l’évolution au cours de laquelle, l’humanité entière, le fou tout comme le sage, en obéissant à la loi prédéterminée de la nature, atteindra la perfection d’une facon spontanée sans fournir d’effort, grâce à une transformation graduelle … . Cette transformation se nomme «samsara suddhi», elle consiste essentiellement en une purification au moyen de la transmigration … (Gosala). – Lilian Silburn, Instant et Cause, p. 134. [46] Je ne sais pas si l’on peut définir toute culture comme la fonction de créer des valeurs qui ne sont ni la reproduction, ni la dérivation des valeurs existantes. – Comprendre No 16, Rencontre Est-Ouest, 5ème séance, p. 267. [47] La cultura es la vida del espiritu, su crecio continua, su manifestación en formas y novinientos. El spiritu se realiza y objectiva en las lettras y las artes, el las proposiciones del saber cientifico y filosofico, en las instituciones y regulaciones de la convivencia civil. – Ib. p. 116 (La Cultura y la libertad de expresión. – Bài của Francisco Romero.) [48] La culture se définit essentiellement par ce qui est partagé et transmis. … Toute la questionest de savoir si cette culture sera la communication de tous ou la complicité de quelques-uns. (Claude Roy, Notes sur la culture, la politique et la communication). Cf. Comprendre (Revue politique de la Culture) (Société européene de Culture pour la biennale Venise) No 16, p. 67. [49] Cf. Dịch Kinh, Hệ từ thượng, chương VIII. [50] It includes all the characteristic activities and interests of a people: Derby day, Henley Regetta, Cowes, the twelfth of August, a cup final, a dog races, the pin table, the dart board, Wensleydale cheese, boiled cabbage cut into sections, beetroot in Vinegar, nineteenth-century Gothic churches and the music of Elgar … – TS. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.21. [51] Les Indiens désignent la Culture sous le nom de Sanskriti, mot don’t la racine veut dire purifier, transformer, exalter, façonner et perfectionner. Un homme cultivé est pour eux, un homme qui s’est soumis à une discipline, qui est parvenu à maîtriser des instinots et qui s’est façonné lui-même conformément à sa morale … . Manou, l’un des théoriciens sociaux de l’Inde, dit que, de nature (de naissance), nous sommes tous des barbares, étrangers à la culture et à la civilisation. (B. L. Atreya). L’Originalité des cultures. (Unesco), p. 141. [52] Arnold is concerned primarily with the individual and the «perfection» at which he should aim. (Cf. T. S. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p. 22.) … The effect, therefore, is to exhort the individual who would attain the peculiar kind of perfection which Arnold calls «Culture» is to raise superior to the limitation of any class rather than to realize its highest attainable ideals. (Ib., 22). … Arnold … defining culture as a pursuit of our total perfection by means of knowledge of the best which has been thought and said in the world and the development thereby of all sides of our «humanity» – Encyclopedia Britannica, Culture and Humanity, p. 743. [53] He (Arnold) saw culture both as a form of personal activity (the study and pursuit of perfection) and as a collection of works to be studied the best which has been thought and said in the world. – Harry Levin, Semantics of Culture, in Science and Culture, edited by Gerald Holton, p. 4. [54] Cf. Văn hóa Á châu, tập VI, 3.3.1961, tr. I, nơi bài Văn hóa kinh tế, của NGUYỄN ĐĂNG THỤC. … Xin đọc thêm: Đặt lại vấn đề Văn minh với Lévi Strauss của Nguyễn Văn Trung, đăng trong Hành trình vào dân tộc của Lê Văn Hảo, tr. 137-163. [55] We should define Culture as a process of humanisation. – Herbert Marcuse, Remarks on a Redefinition of Culture, in Science and Culture, edited by Gerald Holton, p. 218. [56] Culture is a social process of sublimation … Ibid, 218. [57] Que veut dire Culture? Le terme s’oppose d’abord à nature … – Romano Guardini, Christianisme et Culture, p. 150. … đưa con người từ tình trạng tự nhiên lên địa vị làm người, đưa con người từ con vật «đốn mạt» đến chỗ thành con người văn minh và không có sinh hoạt văn hóa không phải là người. Sau cùng, sinh hoạt văn hóa cần hơn sinh hoạt làm ăn. – Xem: Đặt lại vấn đề văn minh với Levi Strauss của Nguyễn Văn Trung.- Hành trình vào dân tộc học, tr. 137.) [58] … The tradition concept of culture as improvement. – Harry Levin, Semantics of Culture. Cf. Science and Culture edited by Gerald Holton, p. II. [59] For Malinowski, the study of a culture meant the study of a total way of life. – Science and Culture, p. 28 (Edmund R. Leach, Culture and social cohesion). … It (Culure) obviously is the integral whole consisting of implements and consumers’ goods, of constitutional charters for the various social groupings of human ideas and crafts, beliefs and customs. (Văn hóa là một tổ hợp bao quát hết mọi khí cụ, vật phẩm, qui chương, quan niệm, kỹ thuật, tín ngưỡng và phong tục.) – Cf. Bronislaw Malinowski, A science theory of culture, p. 36. (Xem bản dịch chữ Hán trong Hiện đại dụng ngữ tự điển, tr. 339). … Định nghĩa Văn hóa của E. B. Tylor: Văn hóa là toàn thể những tri thức, những tín ngưỡng, kỹ thuật, đạo đức pháp luật, phong tục cũng như các tập quán, các khả năng, mà con người sống trong xã hội đã thâu lượm được. That complex whole which includes knowledge, belief, art, law, morals, customs, and any other capabilities and habits acquired by man as member of society. (E. B. Tylor). – Harry Levin, Semantics of Culture in Science and Culture, edited by Gerald Holton, p. 9. [60] La culture est donc une configuration de la vie reposant sur la croyance commune à une hiérarchie de valeurs déterminées. Cette hiérarchie de valeurs donne à la vie une signification précise, elle s’incarne en un style de vie particulier, à travers des besoins et des normes communes de jugements. Henri de Man, L’Idée socialiste, p. 35. [61] La culture d’une société est le mode de vie de ses membres, c’est l’ensemble des idées et des habitudes qu’ils acquièrent, partagent et transmettent de génération en génération. … La culture fournit aux membres de chaque génération des solutions efficaces et toutes prêtes pour la plupart des problèmes qui se poseront vraisemblablement aux. Ces problèmes sont eux-mêmes soulevés par les besoins d’individus vivant au sein d’un groupe organisé. – L’Originalité des Cultures (Unesco), p.12, note I. … Đào Duy Anh cũng định nghĩa văn hóa là LỀ LỐI SINH HOẠT của một dân tộc. Ông viết: «Người ta thường cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật, tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hóa vốn có tính chất cao thượng, đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa, nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục, tập quán tầm thường lại không phải ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa, tức là sinh hoạt. – Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, tr. 13. [62] Chacun de nous a donc sa métaphysique – ou pour s’exprimer en termes plus modestes, chacun de nous a sa conception de la vie qui fait de sa manière de vivre. – Crane Brinton, La formation de l’esprit moderne, p.13. [63] Toute une école de sociologues anglo-saxons a été conduite a donner une définition de la culture, Pour eux, «le mot culture qui évoque le raffinement intellectuel et moral, le développement des arts, désigne maintenant la totalité des comportements de tout un peuple.» – Le Paradoxe de la Culture, p. 171, 172. [64] La culture bourgeoise, même celle qui a été transmise aux sociétés socialistes consiste en un esprit et des oeuvres qui se distinguent de la pratique, du peuple et du quotidien. Ainsi dans des sociétés qui se veulent démocratiques, cette culture reste aristocratique, et tout effort pour y élever les masses doit surmonter une inertie presque invincible. Ib. 171. [65] A ce compte … ce sont les comportements les plus répandus et par conséquent, les plus vulgaires qui mériteraient le nom de culture … – Le Paradoxe de la Culture, p. 171. … Dans tout les cas, la critique socialiste repose sur une conception de la culture, don’t l’extension est beaucoup trop vaste pour correspondre véritablement à l’idée d’une superstructure spirituelle. Tous les écrits socialistes, qui s’occupent de la théorie de la culture – peu importe que leurs auteurs se déclarent marxistes ou non-considèrent en réalité la culture comme un concept total, répendant au comportement déterminé de l’être humain, réglé par les normes collectives envers son milieu. – Henri de Man, L’Idée socialiste, p. 33. [66] Lý Văn Hùng, Tây Sơn dữ Gia Long, tr. 63. [67] Cf. Đặt lại vấn đề văn minh với Claude Lévi-Strauss của NGUYỄN VĂN TRUNG, trong Hành trình vào dân tộc học của Nguyễn Văn Hảo, tr. 141. [68] As news of the drawings and paintings began to reach experts throughout Europe, disbelief mounted. To the 19 century mind, progress was charted in a straight line, ascending from crude unskilled barbarism to the apex of its own technical achievement. Culture stemmed exclusively from the Greeks. It has been revived in the Renaissance and perfected by contemporary artists. Scattering to the cherished Victorian picture of its own importance, would be the admission that drawings as fine as any by their own artists had come from brutes living over 15,000 years ago ... Impossible to ignore was the evidence that culture developed in a succession of peaks and hollows. Some authorities even developed a theory that in the course of evolution man had lost certain faculties possessed by prehistoric man. The primitive ability to grasp forms as a whole, and retain eidetic images, had been lost by succeeding cultures, was only slowly being regained. Modern artists developed a consuming interest in primitive art, were more excited by a tribal painting or carving than by a classical Venus. Lost forever was what English critic Roger Fry called «the right little, tight little, round little world», which believed that all culture stemmed from Greeks … – Original Art (The wonder of prehistoric cave art) in Pacific M. D. No 11 August, 1968, pp. 31 et ss. [69] C’est au Néolithique que se confirme la maîtrise, par l’homme des grands arts de la civilisation: poterie, tissage agriculture, et domestication des animaux … (La Pensée sauvage, tr. 22) – Cf. Trần Thái Dũng, Luận lý và tư tưởng trong huyền thoại, tr. 197, 200. [70] Par suite Weismann fut conduit à étudier d’une façon critique les faits d’hérédite des caractères acquis, et en tout cas, le rejeta comme inexacts … Les philosophes évolutionnistes en particulier. Herbert Spencer, avaient avancé que l’hérédité des caractères acquis était le principal facteur du développement des races, alors que les philanthropistes, les éducateurs et les politiciens assumaient tacitement sa vérité comme la base du progrès social … … Cependant, il est clair que l’acceptation de la non-gérédité des caractères acquis signifie que la «nature» est plus que «l’éducation» et l’héredité plus que le milieu. Si l’amélioration des conditions de la vie peut et doit, bien entendu, profiter à l’individu, il ne peut rien faire, sauf par des méthodes indirectes de sélection naturelle ou artificielle, pour ameliorer les qualites innees d’une race. – W. Dampier, Histoire de la Science, p. 344. [71] Xem Bàn phiếm về văn hóa Đông Tây của Thượng Chi, Nam Phong số 84, tr. 447-453. (Đoạn trên trích nơi tr. 449.) [72] Ib. 450. [73] Sorokin lists language, science, religion, fine arts, ethics as the main cultural systems of mankind. – History, Civilization and Culture, 213. … Each of these systems (except language) has many sub-systems to include f. ex. Literature, music, theater, architecture, sculpture and painting under fine arts, and law and morals under ethics. Over and above these purely cultural systems and these sub-systems stand the social systems, and the men and women composing them who act as bearers or agents through whom the cultural reality finds expression. – Ib. 213-214. [74] Historical persons mentionned in Encyclopedia Britannica (9th ed.) who have contributed to each of the following fields of culture over each period of 50 years: Religion, Statemanship, Literature, Scholarship (Humanistic, juridical and social sciences), Science (including technology), Philosophy, business, fine arts, Miscellanous, Music … – Ib. p. 219. [75] Lý Đảnh Thinh viết: Cơ cấu văn hóa phân thành ba tầng lớp: cơ sở vật chất, tổ chức xã hội, sinh hoạt tinh thần. - Cơ sở vật chất bao quát hết mọi vật dụng, công cụ, phòng ốc, vũ khí. Tất cả những cái đó là cơ sở, đã cấu thành văn hóa. - Nhân loại chế ra vật dụng công cụ để kiếm lương thực; nhân loại lập ra màn trướng, xây dựng nhà cửa để đối phó với thời tiết. Nhân loại sử dụng vũ khí để đề phòng địch nhân. b) Tổ chức xã hội nằm ở giữa cơ sở vật chất và sinh hoạt tinh thần. Nó gồm gia đình luân lý, chức nghiệp, đoàn thể, tổ chức văn hóa và chế độ quốc gia. c) Sinh hoạt tinh thần là thượng tầng tổ chức, bao quát từ ngữ, phong tục, tập quán, đạo đức, khoa học, triết học, nghệ thuật, tôn giáo v.v… Nói cách khác văn hóa gồm ba tầng lớp: - Vật chất cơ tầng gồm: Kỹ thuật Kinh tế - Xã hội tổ chức gồm: Chính trị Giáo dục Pháp luật - Sinh hoạt tinh thần gồm: Tôn giáo Trí thức Nghệ thuật Âm nhạc (Dịch từ Hán văn) xin xem: Lý Đảnh Thinh, Hiện đại dụng ngữ từ điển, trang 358. [76] Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, trang VIII (tựa). [77] Ibid. trang 13. [78] Il y a autant d’erares culturels que de communautés où l’on croit à une hiérachie de valeurs différentes. – Henri de Man, L’idée socialiste, p. 35. [79] J. Toynbee dénombre en tout et pour tout 21 groupes historiques différents qui ont créé 21 civilisations différentes: l’occidentale, deux chrétiennes orthodoxes (en Russie et dans le Proche Orient), l’Iranienne, l’Arabe, l’Hindoue, deux en Extrême-Orient, l’Hellénique, la Syriaque, l’Indienne, la Chinoise, la Minoenne, la Sumérienne, la civilisation Hittite, la Babylonienne, l’Andine, la Mexicaine, la Yucatèque, la Maya, l’Égyptienne, plus cinq civilisations arrêtées (qui ne se sont pas développées en de vraies civilisations: la Polynésienne, l’Esquinaude, la Nomade, l’Ottomane, et la Spartiate). Voir son livre déjà cité: A Study of History, Vol. I pp. 132 et ss et Vol. IV p. ! et ss. Il est sans importance pour notre propre de choisir cette liste de civilisations qui ont pu développer de grands systèmes culturels nouveaux ou n’importe quelle autre. Ce qui importe, c’est, le fait que ce ne sont pas systèmes socio-culturels («des civilisations» au sens de Toynbee) et que la plupart des tribus primitives sont demeurées à un niveau inférieur par rapport à cette position et ne sont trouvées être selon les termes de Toynbee, des civilisation soit «avortées», soit «arrêtées» dans leur developpement. – Sorokin, Comment la Civilisation se transforme, pp. 138, 139, Note 2. [80] Like Spengler’s «Apollonian, Magian, Faustian and so on !!! (P. A. Sorokin).– The Problems of civilisation, p. 54. … C’était la première fois – tout au moins à notre connaissance qu’une tranche de l’histoire avait été expliquée en raison d’une idée générale dominant l’action sociale et politique. Nietzsche dans ses travaux de jeunesse avait lui aussi signale que la civilisation des Grecs pouvait être déterminee par un seul caractères qui en résumait l’essence. C’était le génie ‘apollinéen». Spengler reprit cette conception et en chereha de similaires dans d’autres civilisations. Il enseigna que la civilisation arabe était intimement liée à une particulière interprétation de la vie: «l’esprit magique». Il baptisa de «Faustique» la civilisation moderne de l’homme blanc, laquelle comme le héros germanique, est obsédé par le besoin de connaitre les secrets de la nature, soit pour en satisfaire son insatiable curiosité, soit pour enextraire des facultés d’existence. (I. Olague).– Les Problèmes des civilisations, p. 88. [81] An ideational culture may be described as that of an age of faith, and the sensate culture as that of an age of science and of the common man. The old theological distinction between the Word or Spirit and the Flesh also corresponds fairly closely to the two classes. – History, civilization and culture, p.12. … He (Sorokin) uses «idealistic» to describe a special form of culture which is a blend between the «ideational» and the «sensate systems. An «idealistic» culture is therefore a mixed one; it endeavours to achieve a sysnthesis of the other two. – Ib. 12. … Danilewskij chia văn hóa thành chín loại.- (… Like Danilewskij’s terminology, nine great types of historical cultures», Sorokin, Cf. The Problems of civilization, p. 54.) Northrop chia văn hóa thành hai loại … - (F. C. Northrop, in his fundamental division of two types of civilization, in his terminology: aesthetic and theoretic. (Ib. 55). [82] Quan niệm TAM TÀI về con người cũng là một quan niệm thấy trong Thánh kinh Công giáo. (Xin xem: I. Thessaloniciens, 5,23; lời bình của Bible de Jérusalem tr. I5, 62; IN Cor. 2, 14-I5; Matthieu I6,23; Matthieu 22,37; Ecclésiasticue I7,30; Jean, Prologue I2; Galates, 4, 6-7 và 3, 26; I Cor. 2, I4; 15, 45-49; 2, I5; 15, 53 v.v… [83] On aura reconnu dans cette méthode le schéma des trois ordres selon Pascal: le monde de la chair de l’esprit et de la charité. Chaque ordre transcende l’ordre intérieur; le monde de illumination dépasse celui de la connaissance, comme celui ci depassé l’existence physique. – Critique, No 174, Octobre, 1961. De la mystique byzantine à la literature d’aujourd’hui. A. J. Festugière O. P. Les moines d’Orient, . I. Culture ou sainteté, (Édition du Cerf, 1961, p. 861 et ss … [84] Môn phái valentin được thành lập khoảng năm 140 do thuộc thành Alexandrie) … Cette trinité est assez proche de celle établie par le valentinisme; les hyliques sont enracinés dans matière, les psychiques doués du libre-arbite et les spirituels destinés à devenir anges, , archanges etc … (Serge Hutin, Les Gnostiques, Ed. PUF, p. 79). Il est évident que les hyliques n’ont aucune idée de ce que sont les psychiques qui à leur tour, ne peuvent concevoir les spirituels, qu’en se métamorphosant en eux, au contraire, les spirituels voient clairement, tout le système; il n’y a pas de connaissance ascendante possible, mais il y a un regard descendant. (Critique, 173, Oct., 1961. – La mystique byzantine, p. 869). Cf. Dictionnaire des religions, par E. Royston Pike, p. 314.) … Papus trong quyển ABC Illustré d’Occultisme nơi tr. 196 cũng đã làm một đồ bản ghi chú các môn phái Đông Tây thời xưa và nay đã chấp nhận quan niệm Tam Tài về con người như Khoa học huyền bí cận đại, các triết gia huyền học (philosophes hermétiques), ít nhiều môn phái Rose-Croix, môn phái thần bí của Allen Kardec, cổ Ai Cập, môn phái Kabbale Do Thái, môn phái Pythagore, Paracelse, Ấn Độ, Trung Hoa, thánh Paolo v.v… [85] Si la Chine a cultivé spécialement l’art difficile des relational hummaines, si l’Inde s’est évadée vers l’approfondissement des mystères de l’homme et de Dieu, si l’Occident s’est spécialisé dans la connaissance et la domination du monde matériel, toutes ces acquisitions paraissent aujoud’hui distinctives et forment les lots distincts d’un patrimoine commun. – Jean Laloup et J. Nélis, Culture et Civilisation, p. 140. [86] It spoke of an intense yearning for the divine which is in man and not in the temple … (Cf. Rabindranath Tagore – «The Greatest of the Bauls of Bengal» by Edward C. Dimock, Jr. trong The Journal of Asian Studies, Vol XIV, No I, Nov. 1959 từ tr. 33 đến tr. 51). Câu trên ở trang 35. The path is hidden by the temple and the mosque. And though I hear Your call, O God, I cannot find the way For against me stand my guru and murlid. Ib. tr. 37. (Guru là sư phụ theo Ấn giáo, Murlid là sư phụ theo Hồi giáo). … The vision of the Supreme One in our own soul is a direct and immediate intuition, not based on any ratiocination or demonstration at all … Ib. 42. [87] … La reconstruction de l’avenir de la Terre, qui, en définitive, s’il n’y a pas d’évènements qui changent toute chose sera la fatale expérience d’une civilisation de robots. Et devant le cri presque désespérée: «TU VAS ÊTRE DÉTRUIT PAR LES RÉFLEXES CONDITIONNÉS», s’élève une invocation de «DÉLIVRER LES HOMMES DU CONDITIONNEMENT» (Cf. Les Problèmes des Civilisations, p. 386). [88] Lors qu’on demande aux Japonnais pourquoi ils produisent aujourd’hui plus de riz qu’ils n’en consomment, ils avouent qu’ils le doivent à leurs 132 avions agricoles. En 1952, leurs rizières rendaient 16 quintaix à hectare. En 1967, 52 quintaux. Dans un monde de plus de trois milliards d’êtres humains, 58% de la population ne mange pas à sa faim. Sans augementer la mécanisation ni la quantité d’engrais, la simple lutte par avion contre les insectes parasites et les maladies cryptogamiques des plantes permettrait de sauver d’après le Centre international de l’aviation agricole: blé: 86 millions de tonnes; orge: 129; mais: 121; pommes de terre: 129; canne à sucre: 566; légumes: 78 et pour le seul pays qu’est l’Inde, 77 millions de tonnes de riz. – Paris Match, No 1038/29 Mars 1969. (Match rubriques: Aviation p. 23). [89] Hai câu thơ sau cùng là của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cf. Mã thượng số II. [90] Où va-t-il ce navire? Il va, de jour vêtu, À l’avenir divin et pur, à la vertu, À la science qu’on voit luire. Il va, ce glorieux navire, Au juste, au grand, au loin, au beau, vous voyez bien, Qu’en effet, il monte aux étoiles. Victor Hugo (Plein Ciel) [91] Car je vais créer des cieux nouveaux et une terre nouvelle et on ne souviendre plus du passé, qui ne remontera plus au couer. Qu’ont soit dans la jubilation et qu’on se réjouisse de siècle en siècle de ce que je vais créer, car je vais créer Jérusalem «joie» et son peuple «allégresse» … Là plus de nouveau-né qui ne vive que quelques jours, ni de vieillard qui n’accomplisse pas son temps. (Suite) Mourir à cent ans, c’est mourir jeune et ne pas atteindre cent ans signe de malédiction. [92] Ils bâtiront des maisons qu’ils habiteront, ils planteront des vignes don’t ils mangeront les fruits. Ils ne bâtiront plus pour l’habitation d’un autre et ne planteront plus pour la consommation d’un autre. Car la durée de mon peuple sera telle que la durée des arbres et mes élus useront ce que leurs mains auront fabriqué. Ils ne peineront plus en vain, ils n’auront plus d’enfants destinés à leur perte … … car ils seront une race bénie de Yahvé, ainsi que leur descendance … Avent même qu’ils appellent, je leur répondrai, ils parleront encore qu’ils seront déjà exaucés. Le loup et l’agnelet paîtront ensemble, le lion mangera la paille comme le boeuf et le serpent se nourrira de poussière. On ne fera plus de mal ni de ravages sur toute ma sainte montagne, dit Yahvé. Isaie, 65, 21-25. (Bible de Jérusalem, p. 1092-1093). [93] Voici venir des jours – oracle de Yahvé – où je conclurai avec la maison d’Israel (et la maison de Juda) une alliance nouvelle. Non pas comme la’alliance que j’ai conclue avec leurs pères … Jérémie, 31, 31, 32. (Bible de Jérusalem, p. 1092-1093). [94] Je mettrai ma Loi au fond de leur être et je l’écrirai sur leur coeur. Alors, je serai leur Dieu et eux seront mon peuple. Ils n’auront plus a s’instruire mutuellement, se disant l’un à l’autre: «Ayez la connaissance de Yahvé!» Mais ils me connaîtront tous, des plus petits jusqu’aux plus grands - oracles de Yahvé – parce que je vais pardonner leur crime et ne plus me souvenir de leur péché. Jérémie, 31, 33-34. (Bible de Jérusalem, p. 1093)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:55:07 GMT 9
ÍT NHIỀU CẢM NGHĨ VỀ VĂN HOÁ DÂN TỘC [1] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Cách đây chừng hơn hai tháng cụ Chân Thiện Minh, văn hóa vụ trưởng có ý ngỏ nhờ tôi thuyết trình về VĂN HOÁ DÂN TỘC. Tôi tuy nhận lời, nhưng thú thật tôi rất ngại nói về đề tài này vì thấy nó khô khan như sa mạc, mơ hồ như sương thu, và hiểm hóc như con đường vào Ba Thục, cho nên, cứ lần lữa «nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng» tôi để ngày tháng qua đi mà vẫn chưa làm được gì cụ thể. Thế nhưng kiếp tằm rồi ra cũng phải nhả tơ, rút cuộc tôi cũng phải bắt tay vào việc để viết nên bài thuyết trình khiêm tốn này với nhan đề: ÍT NHIỀU CẢM NGHĨ VỀ VĂN HOÁ DÂN TỘC. Với nhan đề khiêm tốn đó, quí vị sẽ thấy ngay là tôi không có tham vọng cầu toàn trách bị về văn hoá, nhất là về văn hóa dân tộc, mà chỉ muốn mạn đàm cùng một số thân hữu, mà chỉ muốn dùng những lời lẽ mộc mạc, chân thành đơn giản để trình bày vấn đề. Tôi sẽ lần lượt trình bày : 1) Thử phân tách hai chữ Văn Hoá và chữ Culture 2) Ít nhiều định nghĩa về Văn Hoá 3) Văn Hoá Dân Tộc là gì 4) Ít nhiều đóng góp tôi vào nền văn hóa dân tộc 5) Người giáo hữu Cao Đài có thể đóng góp gì cho nền văn hoá dân tộc Tổng kết I. THỬ PHÂN TÁCH HAI CHỮ VĂN HOÁ VÀ CULTURE. Có thể nói được rằng khoảng sau thế chiến I, Đông Phương mới dùng hai chữ Văn Hoá để dịch chữ culture của Tây phương. Ở Việt Nam. thì tuy tạp chí Nam Phong mới bắt xuất bản từ 1917, nhưng mãi đến 1924, trong số 84 mới thấy Thượng Chi viết một bài nhan đề là Bàn phiếm về văn hoá Đông Tây (xem các trang 447 - 453 số báo trích dẫn). Trước kia người ta thường chỉ dùng chữ VĂN. Kinh Thư chẳng hạn đã dùng chữ VĂN, chữ Văn Giáo thay vì chữ Văn Hoá, trong các thiên Vũ Cống hạ, Đại Vũ Mô, và Vũ Thành. Kinh Dịch nơi quẻ Bí đã cắt nghĩa thế nào là Văn và có đề cập đến Thiên Văn và Nhân Văn. Dịch kinh viết: «Cương nhu giao thác, thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ nhân văn dã.» 剛 柔 交 錯 天 文 也. 文 明 以 止 人 文 也. Nương theo ý đó, chúng ta có thể giải rộng như sau : Văn là văn vẻ, là vẻ đẹp. Mà văn vẻ là do những cặp mâu thuẫn: cương- nhu, âm- dương pha phách hoà hài với nhau mà sinh ra . Ví dụ gọi là Thiên Văn, vì trên trời có mặt trăng mặt trời, sao to, sao nhỏ, sao sáng, sao mờ, sao đứng, sao chạy, có mây, có gió, có sấm, có chớp, tất cả những cái đó hoà hài pha trộn với nhau thành Thiên Văn. Ví dụ gọi là Nhân Văn, vì ở trần gian này, có ngưòi hay, kẻ dở, người đẹp, kẻ xấu, người hướng ngoại, kẻ hướng nội, người ưa văn, kẻ trọng võ, người ưa lý tưởng, kẻ ưa thực tại, lúc sinh, lúc tử, lúc vui, lúc buồn, lúc sướng, lúc khổ, tất cả những cái đó pha trộn với nhau thành nhân văn. Và cảnh đời cứ thăng trầm, rò rẫm, diễn biến như vậy cho đến khi này tới mức huy hoàng, sán lạn mới thôi. Đó là nhân văn. Ví dụ như một bức vẽ, thì cái vẻ đẹp là do sự khéo léo pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa các màu sắc với nhau Trước kia, tôi có một con phượng bằng trầm . Thay vì để con phượng đó có một màu đỏ của trầm mà thôi, thợ lại đem đốt nhiều chỗ cho trầm chảy nhựa ra thành ra mình phượng, cánh phượng có chỗ thì đen, có chỗ thì đỏ. Cụ Vương Hồng Sển đến chơi. nhận định rằng: Màu trầm đỏ cũng ví như là Dương, có Dương không chưa đủ, nên thợ lại phải tạo ra những vết đen, vết đen đó là Âm. Có Âm, có Dương, con phượng mới đẹp. Hoá là gì? Hóa là cảm hóa, là thay đổi, là làm cho biến đổi. Đem cái hay cái đẹp truyền thụ cho người, mong biến đổi con người thành một ngưòi mới. đó chính là Văn Hóa. Nói rằng trong con nguời có Phật tính, có Thiên tính chưa đủ, phải nói làm sao cho say sưa, cho khẩn thiết, cho mãnh liệt, để người nghe bị ánh mắt mình, bị cử chỉ mình, bị ngôn từ mình, bị tâm thần mình làm cho rung động, để cho họ thấy như có một luồng nhân điện chạy rạt rào trong người họ, để họ cảm kích nước mắt như muốn trào ra, để rồi lập tâm sống một cuộc đời mới hiên ngang hơn, đẹp đẽ hơn, ý nghĩa hơn, hòan hảo hơn, được như vậy mới gọi là làm Văn Hóa, được như vậy mới nói được là đã biết dùng vẻ đẹp của tâm linh , của tư tưởng, của ngôn từ, của điệu bộ mà cảm hóa được người khác. Đến như chữ Culture thì nguyên có nghĩa là vun trồng, là tu sửa. Và vì con người có xác, nên phải vun trồng ruộng đất, tu sửa ruộng đất , để có cái mà ăn. Cho nên chữ Agriculture có thể hiểu được là vun trồng ruộng đất, tu sửa ruộng đất, hay nói nôm na hơn là làm ruộng, là làm ăn. Thứ đến vì con người có Hồn, cho nên lại có chữ animi cultura hay animi cultus tức là trau dồi, mài giũa, tu sửa Tâm Hồn, cho ngày một nên thanh lịch, tế nhị. Sau hết vì con người có Thần, nên lại có chữ dei cultura hay dei cultus. Đó tức là tu sửa Thần Linh của mình. Nếu sửa sang ruộng đất được gọi là làm ăn, thì sửa sang tâm hồn được gọi là làm người, trau chuốt thần linh được gọi là làm Thần. Hiểu thế thì Văn Hóa có mục đích giúp con người trở nên toàn thiện về mọi mặt. Làm Ăn, nhưng không phải thứ làm lam lũ như súc vật, mà thứ làm thông minh nghệ thuật, làm mà vẫn vui, vẫn sướng, vẫn thấy thoải mái. ĂN nhưng không phải thứ ăn bốc bải dần sàng, mà ăn uống với những mâm son, bát sứ, với những món ăn ngon lành, với những kiểu điệu thanh lịch. Làm Người không phải là làm những hạng người TẦM THƯỜNG, ngu si, dốt nát, cúi đầu cam chịu số phận khốn nạn hẩm hiu, mà làm con người cho sướng đáng, thông minh, tinh tế, lễ độ, nhân từ, khoan quáng… Làm Thần không phải là làm những thứ thần hạ đẳng, mà là trở nên những con người toàn diện, có tầm kích vũ trụ. II. ÍT NHIỀU ĐỊNH NGHĨA VỀ VĂN HÓA Khảo sát chữ văn hóa và culture xong, ta thấy phạm vi Văn Hóa thật là rộng rãi, chính vì vậy mà trên phương diện thực tế, rất có nhiều định nghĩa về văn hóa. Nơi đây chỉ xin đơn cử ít nhiều định nghĩa mà thôi. 1. Có người cho rằng VĂN HÓA là trình độ kiến thức kiến văn của mỗi người . Cho nên nói: Người này có trình độ văn hóa cao, người kia có trình độ văn hóa thấp. Chính vì thế mà mới có những lớp bổ túc văn hóa. 2. Có người cho rằng: Văn hóa là sự đào luyện con người để họ trở nên thanh lịch. Như vậy những người có văn hóa là những con người có tác phong thanh lịch, có giáo dục, có học vấn , nhưng người mà con tim khối óc đã đượ trau chuốt, rũa mài, những tao nhân, mặc khách mà Kinh Thi đã khen tặng như sau Kìa xem bên khuỷu sông Kỳ, Tre non mới mọc xanh rì vườn ai, Người đâu văn vẻ hỡi người, Nhường như cắt đành rũa mài bấy nay, Lẫm liệt thay, rực rỡ thay, Hỡi người quân tử biết ngày nào quên. (Kinh Thi, Tản Đà, tr. 168) 3. Có người cho rằng Văn hóa là công trình giáo hóa con người. Chữ Culture trong tiếng pháp ngoài nghĩa văn hóa còn có nghĩa là dạy dỗ. Chính vì thế mà thường khi hai chữ Văn Hóa, Giáo Dục đã đi kèm với nhau. 4. Cũng có người hiểu Văn hóa là văn chương, nghệ thuật , là văn nghệ. Hiểu như vậy là hết sức thu hẹp phạm vi Văn hóa, coi văn hóa như là một cái thú tiêu khiển trong những lúc trà dư, tửu hậu. 5. Có nhiều người định nghĩa văn hóa là sinh họat tinh thần, đối nghịch với văn minh là sinh họat trên bình diện vật chất. Họ cho rằng cái gì thuộc về đạo đức, văn nghệ là văn hóa, cái gì thuộc về kỹ thuật là văn minh, cái gì hay cái gì đẹp là văn hóa, cái gì ích, cái gì lợi là văn minh. Nhưng thực tế không giản dị như vậy. Và kỳ quặc nhất là trong cuộc hội thảo về văn minh, văn hóa tại Salzburg, từ 8 đến 15 tháng 10, 1961, gồm rất nhiều học giả trứ danh như Sorokin, Toynbee, Spengher, Northrop… người ta đã dùng hai chữ văn minh và văn hóa lẫn lộn nhau, đồng nghĩa với nhau. 6. Cũng có người cho rằng Văn Hóa là tất cả những gì làm cho đời thêm đẹp, thêm tươi, thêm hương vị, thêm màu sắc, thêm thích thú. Tóm lại tất cả những gì làm cho cuộc trở nên thi vị và đáng sống. Theo chủ trương này thì những bài dân ca nỉ non trong khóm lúa, những câu hò, thánh thót trên dòng sông, những căn nhà tre trúc chơi vơi, nơi suờn non, giữa những bách tùng, đào liễu, ẩn ước trong khói mây, hoặc rực rỡ dưới ánh tà huy, những lễ tết, những hội hè, đình đám, những tà áo thêu hoa, thêu phượng phất phơ trước gió, đều là những biểu dương văn hóa, chứ không phải riêng gì những lời giáo huấn trang nghiêm nơi giáo đường hay trường học, hay những lâu đài, những kiến trúc hoặc cổ kính hoặc tân kỳ ngạo nghễ vươn mình lên như muốn tranh hùng với phong sương tuế nguyệt mới là những công trình văn hóa. 7. Cũng có người hiểu văn hóa là đà tiến của nhân lọai từ thô đến tinh, là nỗ lực của nhân lọai để tiến tới một đời sống lý tưởng và tất cả những thành quả đã thực hiện được trong công trình hướng thượng ấy. Cụ Nguyễn Đăng Thục đã gắn liền văn hóa với tiến hóa. Tiên sinh viết: «Văn hóa có nghĩa là tiến hóa, tiến từ trình độ thô sơ đến trình độ văn vẻ, từ thấp đến cao, từ vật chất hữu hình lên tin thần vô hình.» (Xem Văn Hóa Á Châu tập VI 3.3. 1961, tr. 1, nơi bài Văn hóa kinh tế của Nguyễn Đăng Thục). 8. Các nhà xã hội học, nhân chủng học hiện nay thường tránh những chữ tinh thần, những ý niệm chủ quan, những mục đích thâm viễn, nên chỉ định nghĩa văn hóa là lề lối sống của một dân tộc, của một xã hội lòai người. Malinowski chẳng hạn cho rằng học về văn hóa tức là học về tất cả lề lối sống của một xã hội. Henri de Man chủ trương «văn hóa» là một lề lối sống dựa trên một niềm tin,công cộng, vào một hệ thống và một tôn ti, trật tự, thứ bực giá trị, làm cho đời sống có một ý nghĩa nhất định. (Heni de Man L’ide’e socialiste, p.35) Linton cũng chủ trương tương tự. Ông viết : «Văn hóa» của một xã hội là lề lối sống của các phần tử trong xã hội ấy. Đó là toàn bộ những ý tưởng và tập tục mà họ đã thâu lượm, chia sẻ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. «Văn hóa» đem lại cho mọi người của mỗi thế hệ những cách giải quyết hữu hiệu và lập thành vê tất cả các vấn đề mà họ sẽ gặp phải. Những vấn đề này được nêu lên vì những nhu cầu của cá nhân sống trong một đoàn thể có tổ chức. Như vậy văn hóa không phải là một lề lối sống suông. Nó còn là một quan niệm về đời sống (une conception de vie) và một lề lối sống (manière de vie) phù hợp với quan niệm sống ấy… Để đúc kết lại chúng ta có thể nhận định về Văn Hóa như sau: Văn Hóa là lề lối sống riêng biệt của cá nhân, đoàn thể, xã hội hay dân tộc đã được phát sinh nhờ những ý niệm tình cảm, khuynh hướng đặc biệt làm nòng cốt và dẫn đạo, đã được phát huy, thể hiện qua những công trình văn chương, nghệ thuật, đạo giáo, chính trị xã hội đã được lồng vào trong nếp sống hằng ngày, nhờ những phong tục, luật lệ, tổ chức, y phục, dụng cụ điển hình, đã được truyền thụ, lưu lai nhờ ngôn ngữ và giáo dục. Văn hóa là tất cả những cố gắng của con người để cải thiện nội tâm, gia đình, quốc gia, xã hội và hòan cảnh, để con người có thể sống một cuộc đời khác biệt với muôn thú, một cuộc đời thanh cao, đầy đủ nhân cách, nhân vị và nếu có thể, một đời sống tự do, tự tại, khinh khoát, thần tiên. Văn hóa nảy sinh do những ước mơ về Chân, Thiện, Mỹ và là nỗ lực của con người để vươn lên cho tới Chân Thiện Mỹ, để thực hiện Chân Thiện Mỹ. III. THẾ NÀO LÀ VĂN HÓA DÂN TỘC Muốn nhận định cho khách quan và chính xác về vấn đề Văn Hóa Dân tộc Việt Nam, chúng ta phải lưu tâm đến những yếu tố sau đây: a) Về phương diện lịch sử, nước ta là một nước đã lập quốc từ rất lâu đời. Theo Hòang Việt giáp tý niên biểu , thì Hồng Bàng nguyên niên là năm Nhâm tuất - 2879, như vậy là không thua sút Trung Hoa. - Nước ta cũng là một nước bị ngoại bang đô hộ hết sức lâu: * 6 lần Bắc thuộc: 1053 năm. * 1 lần Pháp thuộc: 1864 - 1945 ngót một thế kỷ. - Nhưng cũng là một nước luôn luôn triển dương lớn mạnh. Năm III trước Công nguyên nước ta mới vẻn vẹn có miền Bắc việt cho tới Quảng Bình, mà tới thời Nguyên, tức là tới đầu thế kỷ XIX, đã gồm cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc như hiện nay. b) Về phương diện địa dư văn hóa, nước ta nằm giữa Trung Hoa Ấn Độ, và nằm trong vùng các nước Đông Nam Á, như Nam Dương, Lào, Campuchia, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Đông Ấn, Tích Lan, Phi Luật Tân, Tân Ghi Nê, và Malaysia…. c) Về phương diện tâm lý, dân tộc ta là một dân tộc hết sức cần cù, nhẫn nại, hết sức kiên nhẫn, hết sức anh dũng, hết sừc khoan dung, cởi mở và hết sừc sáng tạo. Những yếu tố trên cho ta thấy ngay nền văn hóa dân tộc ta là một nền văn hóa đã được cấu tạo nên bằng tinh hoa mọi nền văn minh khác trên thế giới nhưng sâu đậm nhất, quan trọng nhất là ba nguồn văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, và Đông Nam Á. Tuy nhiên tất cả những nguyên liệu văn hóa xa gần ấy một khi đã vào trong lò cừ biến hóa, sáng tạo văn hóa Việt Nam, lập tức nó có một phong thái khác biệt. Vay mượn lẽ dĩ nhiên là cũng nhiều : Ví dụ, các vua chúa Việt Nam xưa đã rập khuôn hoàn toàn cơ cấu chính trị, luật pháp và luân lý Trung Quốc. Về phương diện tôn giáo, thì chúng ta cũng đã nhập cảng các đạo ngoại lai như Phật, Khổng, Lão và Thiên Chúa Giáo … Về phương diện phong tục, có nhiều phong tục mới xem tưởng chừng là thuần túy Việt Nam, như xâm mình, búi tóc củ hành, ăn trầu, ăn nước mắm, nhuộm răng đen, thả diều, đúc trống đồng, thờ thổ công…. Truy nguyên thì lại là những phong tục chung cho cả vùng Đông Nam Á, từ thủa rất xa xưa.[2] Nói thế không phải là nói dân tộc ta không có một nền văn hóa riêng biệt đặc thù và phong phú. Muốn thấy những nét đặc thù dân tộc riêng biệt của nền văn hóa Việt Nam, chúng ta hãy hỏi những người Việt Nam tha hương ở các nước ngoài. Có nhiều người đã nhập các quốc tịch khác nhau nhưng đến ngày tết cũng cố sắm cho được một cành đào, mua được vài chiếc bánh chưng, một ít giò chả lụa để ăn tết, lại cũng cố sắm cho được những bộ quốc phục để trưng diện trong những dịp tiệc tùng cưới hỏi … Có một lần tôi dạo chơi trong khu Quartier Latin ở Paris, tôi rất ngạc nhiên vì thấy có một hiệu sách nhỏ bán lèo tèo vài ba truyện Việt Nam và ít nhiều tranh lợn tranh gà khắc một bản y thức như ở Việt Nam. Lúc ấy tôi mới thấy thắm thía rằng những gì mang màu sắc quê hương đất nước cũng có thể kích động lòng người, cũng sưởi ấm lòng người. Mà càng xa quê hương lâu ngày thì sự kích động càng mãnh liệt. Eliot cũng đã viết : Đối với xã hội, văn hóa bao gồm tất cã những hoạt động đặc biệt của một dân tộc, như đối với dân tộc Anh là ngày đua ngựa ở Derby, đua thuyền ở Henley, hoặc du thuyền ở Cowes, cuộc đua chó, trò chơi phóng tên hoặc là ăn phó mát Wnesleydale, ăn bắp cải luộc xắt thành miếng, ăn củ cải đỏ ngâm dấm, đi nhà thờ làm theo kiểu Gothic thế kỷ XIX, nghe âm nhạc của Elgar …[3] Vả vay mượn nhau thì nước nào trên thế giới mà chẳng đi vay mượn, nhưng cái hay là làm sao cho cái vay mượn trở thành cái độc đáo của mình. Ví dụ Yoga An Độ với các tư thế vặn vẹo, uốn éo kỳ quái, kinh khủng sang đến Trung Hoa đã trở thành một thứ Thiền giản dị, ngồi thở thầm lặng trong tư thế ngồi kiết già hay bán kiết già. Thiền Trung Hoa truyền sang Nhật Bản lại khóac thêm màu sắc Phù Tang, thi ca nghệ thuật và tạo nên môn phái ZEN Nhật Bản. Cái cơ cấu vĩ đại nhất, đồ sộ nhất, lâu đời nhất, mang nhiều đặc tính văn hóa dân tộc nhất chính là tiếng VIỆT. Thực vậy, sau cả ngàn năm đô hộ giặc Tàu, sau cả ngót thế kỷ đô hộ Pháp, mà tiếng Việt vẫn mãi là tiếng Việt, chẳng những thế lại còn càng ngày càng thêm phong phú, thêm tinh vi, thêm điêu luyện, thêm trong sáng. Dẫu vay mượn nguyên liệu gì của tiếng nước ngoài chăng nữa, nhưng khi đã đổ vào lò Việt, vào khuôn Việt, nó trở thành hoàn toàn Việt Nam. Ví như hai chữ Gia Đình là mượn tiếng Trung Hoa, nhưng người Quảng Đông đọc là cá thình, tiếng quan hỏa đọc là chi-a thỉnh, tiếng Phúc Kiến đọc là ca tiểng, tiếng Triều Châu đọc là kê tiếng như vậy là đã: Anh đi đường anh, tôi đường tôi rồi. Tiếng Pháp nói: beurre, gare, boulon, saucisse, madame. Tiếng Việt nói: bơ, ga, bù-loong, súc-xích, bà đầm. Tiếng Pháp nói café, mình cũng nói cà fê, nhưng đôi khi còn nói càfê cà fáo. Hơn thế nữa, trong tiếng Việt, có những vần, có những âm mà ngay tiếng Hán Việt cũng không chen được chân vào. Ví dụ như vần G: - với các chữ gà, gấu, gờ, ghe, gò gẫm, gù ghì, gầm gừ…thì hỏi còn gì là Việt Nam hơn. - lại như vần E , với các tiếng như e dè, le te, lè nhè, le le thì hỏi còn gì Việt Nam hơn? Tôi hết sức yêu những tiếng đôi, tiếng kép Việt Nam như: ríu rít, tê mê, thoăn thoắt, liếng thoắng, đủng đỉnh, Rồi lại có những lọai tiếng kép gợi hình, gợi ảnh như: kềnh càng, khệnh khạng, ngênh ngang, lồm cồm, lổ ngổ, lỉnh kỉnh, lủng củng, lẳng cẳng … Rồi thay vì nói ngọt không, còn có ngọt xớt, ngọt lịm, ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi. Thay vì nói đỏ không, còn có đỏ cạch, đỏ tươi, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ hoen hoét, đỏ thắm, đỏ chót, đỏ rực, đỏ hồng. Cũng chỉ là mang, nhưng ta còn vô số danh từ khác như gánh, như gồng, như khiêng, như vác, như khuân, như đội, như xách, như đèo, như cặp, như kè, ấy là chưa kể đến những lối nói lặp đi lặp lại như: Nói nhăng, nói nhít, Nói xằng, nói xịt Làm việc làm viếc, Tiêu tiêu tiệc, Làm dáng làm diếc Thật là vô cùng phong phú. Một công trình văn hóa đồ sộ khác đượm màu sắc dân tộc khác chính là chữ NÔM. Tuy là nói mượn chữ Hán để tạo thành, nhưng rồi ghép ngang ghép dọc, hoặc trại đi, thấy chữ lại đọc nghĩa mà bỏ âm, học chỉ để lấy âm mà bỏ nghĩa, khiến người Trung Hoa đọc vào không hiểu mô tê mù tịt gì cả, trái lại người Việt đọc vào thấy hết sức thích thú. Nhiều người nói: «Nôm na là cha mách qué», nhưng thiết nghĩ nó chẳng mách qué tí nào, và đã được cấu tạo nên một cách rất hữu lý, quy cũ. Để quý vị thưởng thức cái tài tình của chữ Nôm, tôi đan cử bài thơ Phong Hoa Tuyết Nguyệt của viên Bảng Kim Bồng, Vũ Duy Thanh (1806 - 1861) theo thế thuận nghịch độc. Bài này tài tình ở chỗ đọc xuôi la thơ chữ Hán đọc ngược lại từ dưới lên trên theo lối đọc chữ Nôm, thì lại thành thơ quốc văn. Thi đàn tế liễu lộng hoa hài, 詩 檀 細 柳 弄 花 鞋 Khách bộ tùy sương, ấn bích đài. 客 步 隨 霜 印 碧 苔 Kỳ cục đả phong thanh áp trận, 棋 局 打 風 清 壓 陣 Tửu biều nghinh tuyết bạch hòa bôi. 酒 瓢 迎 雪 白 和 杯 Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc, 疏 簾 透 月 香 離 菊 Yến tịch lăng hoa vị át mai. 燕 席 陵 花 味 喝 梅 Phi phất lĩnh đầu chiêm tĩnh điếm, 披 拂 嶺 頭 瞻 靜 店 Thi đàn tế liễu lộng hoa hài. 詩 檀 細 柳 弄 花 鞋 Đọc ngược từ dưới lên theo kiểu chữ Nôm ta có: Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ Điếm tạnh xem đầu núi phất phơ, Mai át mùi hoa lồng tiệc yến Cúc lìa hương nguyệt thấu rèm thưa Chén hòa bạch tuyết nghiêng bàn rượu, Trận áp thanh phong đánh cuộc cờ, Rêu biếc in sương theo bước khách, Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ. Bài thơ nôm vừa là bài thơ mới lại vừa dịch lại được đại ý bào thơ chữ Hán thực là tuyệt diệu.[4] Càng đi sâu vào vấn đề văn hóa dân tộc, càng thấy nó mênh mông bát ngát. Giáo sư Trần Văn Khê đã để cả đời mình để nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Hùng Lân từ nhiều năm nay cũng đã để tâm nghiên cứu rất nhiều về dân ca Việt Nam. Về kiến trúc ta thấy có Chùa Một Cột là cái gì độc đáo. Về các thể văn thơ, ta có: lục bát, song thất lục bát là các thể thơ thuần túy Việt Nam. Về võ thuật ta có môn võ Vovinam mà trong vòng mấy chục năm nay rất thịnh hành. Rồi ngày nay lại còn một phong trào hết sức là rầm rộ: Đó là vấn đề thuốc dân tộc. Trong các lãnh vực này có những cố gắng rất đáng ca ngợi. Chẳn hạn L.M. Vũ Đình Trác, đã nghiên cứu, đã bào chế được hơn 150 vị thuốc ta, mùi vị cũng rất là thơm tho, trình hbày cũng đẹp mắt. Các vị lương y như Việt Cúc, Định Ninh … cũng đã khéo biến chế dùng các vị thuốc Nam thay thế thuốc Bắc hết sức tài tình. Khi cụ Nguyễn Văn Ba, chủ hiệu thuốc Kim Điền, còn sinh tiền, tôi có lần xuống chơi. Tôi con nhớ hồi đó là khoảng năm 1976. Tôi hỏi cụ: Cụ pha chế thuốc Đông Y làm sao mà cụ có đủ nguyên liệu mà làm. Cụ trả lời: «Các nguyên liệu của tôi từ trước tới nay hoàn tòan là cây cỏ miền Nam. Vậy chỉ có khi nào giang sơn Việt Nam không còn, tôi mới hết nguyên liệu làm thuốc.» Tôi ra về mà trong lòng hết sức thán phục cụ … Về phương diện đạo giáo, tuy nước ta từ thời Lý Trần theo Phật, và đa số dân chúng theo phật, nhưng tinh thần hòa đồng tam giáo đời nào cũng hết sức mãnh liệt. Đó là một nét rất đặc thù về văn hóa dân tộc. Gần đây khảo cứu một số sách vở Phật vừa bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm như : Thơ văn Lý Trần (Nhà xuất bản Khoa Học Hà Nội 1972). Thiền tông bản Hạnh, Chân Nguyên thiền sư viết (1646- 1726) khoảng thế kỷ XVII, Thanh Hanh xuất bản lại năm 1932. Sách này tiêu biểu cho Thiền học đời Trần, phái Thiền Lâm Tế, và Thiền học thế kỷ XVII Thơ văn Ngô Thời Nhiệm (1764- 1803) (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1978) tiêu biểu cho Thiền học cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Hồng Mông Hạnh mà tác giả là tỳ kheo Giác Lâm ở Chùa Hồng Đức, Phường Hòe Nhai, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông, và đã khắc thời vua Minh Mệnh (tiêu biểu cho Phật giáo thế kỷ XIX) Tu Chân Yếu Chỉ Quốc Âm, khắc in năm 1930, tiêu biểu cho Thiền học cuối thế kỷ XIX và đầu XX. Tôi nhận thấy khuynh hướng Phật giáo trước sau cũng là khuynh hướng hòa đồng Tam giáo, lấy thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể làm tư tưởng chính yếu, nhân đó suy ra các quan điểm khác về vũ trụ, nhân sinh, tu trì, đắc đạo, và lấy đủ các danh từ trong Tam Giáo để suy diễn và trình bày học thuyết ấy. Ta thấy những danh từ như TỲ LƯ NHẤT THÍCH, như HI DI, như HƯ VÔ DIỆU THẾ, như CHÂN NHƯ, như BẤN LAI DIỆN MỤC, như THÁI CỰC NHẤT KHÍ CHÂN NGUYÊN được dùng song song với nhau, thay thế cho nhau, bổ túc, giải thích lẫn cho nhau. Cái THỂ trước sau vẫn là ĐỒNG, cái GỐC trước sau cũng vẫn chỉ có một, chỉ có cái ngọn mới khác nhau, chỉ có cái DỤNG mới là DỊ. Chỉ bấy nhiêu, mà tôi thấy các ngài đã đi từ cái Tạp thù, trở về được với cái Thuần nhất, từ cái Đạo tại Sách vở, kinh kệ, từ cái Phật tại Chùa, tại Tây thiên mà tìm ra được cái đạo tại Tâm, cái Phật tại Tâm, cái Giác ngộ tại tâm, cái giải thóat tại tâm, cái giải thóat tại tiền, không phải đợi tới lai sinh, tới vãng cảnh. Tôi mới cảm phục các ngài, vì đã đem được những gì từ những xứ xa xôi, cách trở, đem về được nước mình, gắn vào được lòng mình, cho nó nhập vào được tâm linh mình, rồi lại từ nguồn suối tâm linh ấy tung tỏa lại ra thành nững tư tưởng mới, sống động, hồn nhiên, đượm màu sắc Việt Nam, và dân tộc Việt Nam. Và cũng chính là để nói lên lòng ngưỡng mộ của tôi đến với các vị đắc đạo tiền bối ấy, tôi đã viết bài: Ít nhiều cảm nghĩ suy tư về Thiền Học Việt Nam, đăng trong Cao Đài Giáo Lý Rằm tháng hai năm Kỷ Mùi … Từ mấy chục năm gần đây, Cao Đài rồi Tam Tông Miếu cũng đã ra công phát huy, ra công thừa kế cái tinh thần đạo giáo dân tộc ấy. Thay vì theo một đạo giáo nào mà thôi, hoặc Phật, hoặc Lão, hoặc Khổng một khuôn, gạn lọc lấy tinh hoa, loại trừ những gì phù phiếm. Như vậy thiết tưởng Cao Đài chính đã đại diện cho Việt Nam về phương diện tôn giáo. Thế giới ngày nay nếu nói: Bà La Môn giáo là của Ấn Phật giáo là của Ấn Khổng Lão là của Trung Hoa, Gia tô giáo, Thiên chúa giáo là của Tây Phương, Hồi giáo là của các nước Ả Rập thì cũng phải nói: Cao Đài giáo là của Việt Nam. Cao Đài lại dùng cơ bút như là một phương tiện truyền đạo giảng đạo, dạy đạo. Và nền văn chương, thi phú cơ bút này đã đóng góp không ít vào nền văn học thi ca, và tư tưởng của nước nhà. Tôi không dự cơ, nhưng đã khảo cứu rất nhiều cơ bút của Cao Đài, và nhận thấy hết sức là phong phú và có nhiều đoạn hết sức là sâu sắc, thâm thúy. Đó là một hiện tượng văn hóa hết sức là ly kỳ. Về phía Công giáo, chúng ta cũng đang thấy có nỗ lực lấy các hình thức lễ nghi dân tộc để trang sức, để phục sức cho Công giáo có bộ mặt dân tộc. Các câu kinh lời hát ngày nay, hoàn toàn bằng tiếng Việt Nam không còn bằng La Tinh hay Pháp ngữ như mấy chục năm gần đây. Rồi cũng hương nhang, rồi cũng chiêng trống, rồi cũng áo mão, nhang đèn, theo kiểu Việt Nam. Các nhà Công giáo ngày nay cũng thấy bày ảnh cha mẹ, ông bà với hương hoa, đèn nến, cái mà mấy chục năm trước đây được Công giáo liệt vào hàng đại cấm kỵ. Thế mới hay chạy theo bên ngoài mãi, cuối cùng mới lại thấy theo tổ tiên, theo dân tộc là cái gì tự nhiên nhất, cái gì thích hợp với lòng con người nhất. Và rút cuộc vẫn là: Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn … Suy cho đến kỳ cùng , thì lạ lùng nhất là thấy ai ai trong một nước chẳng ít thì nhiều cũng đã đóng góp vào nền văn hóa dân tộc. Người cao thì đóng góp bằng tư tưởng, bằng phát minh, sáng kiến, người thấp thì đóng góp bằng văn nghệ hình thức, người thấp hơn nữa thì đóng góp vào văn hóa mỗi khi có ý gì hay, hành vi gì tốt. Tạo văn hóa, làm văn hóa, sống văn hóa đều là góp phần vào công trình văn hóa thay thảy. Cũng có thể nói được rằng : những người đóng góp nhiều nhất vào văn hóa dân tộc nhiều nhất chính lại là quảng đại thần chúng. Họ chẳng cần bằng sắc, họ không có quyền thế, địa vị, họ chẳng theo Tàu, chẳng theo Tây, mà chỉ sống hồn nhiên cởi mở, ngẫm nghĩ sao nói năng vậy, vui buồn sao, hò hát vậy. Ay chính vì tự nhiên thế mà lại có năng lực cảm động lòng người. Cái không cầu kỳ nhất lại trở thành cái cao siêu nhất, cái giản dị nhất lại là cái đẹp đẽ nhất. Ví như câu: Hỡi cô tác nước bên đàng Sao cô múc trăng vàng đổ đi? Không cần biết câu đó là của ai làm, nhưng chỉ thấy nó mộc mạc làm sao mà cũng duyên dáng làm sao, đẹp đẽ làm sao. Trông vào gàu nước đục, không thấy nước đục mà toàn thấy có ánh trăng vàng … Tóm lại nói đến Văn Hoá Dân Tộc tức là mặc nhiên nói đến sức sáng tạo của dân tộc.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:57:30 GMT 9
IV. ÍT NHIỀU ĐÓNG GÓP CỦA TÔI VÀO NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC Nếu nền văn hóa dân tộc đã được gắn liền với sức sáng tạo, nếu mỗi người dân nước chẳng bằng cách thức này, thì cũng bằng cách thức kia đã đóng góp vào nền văn hóa dân tộc, thì thiết tưởng quý vị cũng chẳng hẹp lượng gì mà chẳng chấp thuận cho tôi được nói lên được trình bày cùng quý vị ít nhiều đóng góp của tôi vào nền văn hóa dân tộc. Trước hết là những đóng góp về phương diện văn chương thi phú: Trong mấy chục năm nay tôi dịch rất nhiều, như dịch Trung Dung, dịch Đạo Đức Kinh, dịch Kinh Dịch ra thành thơ, và cũng đã đăng tải ít nhiều bài thơ đã phóng tác trong Báo Văn Đàn cách đây ngót hai mươi năm. Dẫu dịch dài hay vắn, tôi bao giờ cũng chỉ có ước nguyện là cống hiến sao cho độc giả những áng văn óng ả mỹ miều, chứa đựng những ý tưởng cao đẹp đúng theo chủ trương: VĂN DĨ TÁI ĐẠO. Tuy là dịch nhưng không phải dịch ngô nghê, vô duyên, vô hồn, vô nghĩa, vụng về mờ mịt, nhưng mà là những bản dịch sống động vừa là thơ, vừa là nhạc, vừa là họa vừa có ý nghĩa, vừa có hồn thiêng sống động. Dưới đây tôi xin đại loại so sánh một vài bản dịch của tôi với những bản dịch của các dịch giả khác. Ví dụ như bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha. Dịch giả khuyết danh đã dịch như sau, và đã được đăng tải trong Văn Đàn Bảo Giám Tần Trung Viên - sưu tập - Hư Chu hiệu chính, Nam Ký 1932 - Mặc Lâm 1968, tập 3, trang 112 như sau: Thu nhâm tuất qua rằm tháng bảy, Ông Đông Pha cùng mấy người quen. Lửng lơ nổi một con thuyền, Ra chơi Xích Bích thuận miền xuôi sông. Gió hây hẩy mặc dòng chẳng gợn, Dang tay tiên chuốc chén tương phùng. Hát bài MINH NGUYỆT, THANH PHONG, Ca chương YỂU ĐIỆU dãi lòng tôi con. Trăng phút chốc sườn non dựng dấu, Lửng lơ chừng sao Đẩu sao Ngưu. Ngang sông sương trắng một màu, Mênh mông sương trắng liền theo vẻ trời. Một lá cỏ dong chơi chẳng bận, Muôn tầm sông cũng sấn đi qua. Mênh mông nào biết đâu là, Tay không cưỡi gió ấy là thế chăng. Tưởng phất phới lạc chừng đứng một, Mọc cánh lông mà vút lên tiên. Chén vui vui với bạn hiền, Nhân vui lại gõ mạn thuyền ca ngâm. Rằng : Lan quế làm dầm bánh lái, Vỗ không minh mà rối lưu quang. Lòng ta dằng dặc nhớ thương, Nhớ trông người đẹp một phương xa vời … Cũng đoạn ấy tôi đã dịch như sau ( Xem Văn Đàn số 41 - tuần lễ từ 9 đến 15/8/62 tr. 6- 7): Năm Nhâm tuất mùa thu tháng bảy, Rằm đã qua chiều lại bâng khuâng Dưới chân Xích Bích chập chùng, Khách cùng TÔ TỬ thuận giòng chơi trăng. Gió thu nhẹ lung linh sẽ thổi, Sông như gương chẳng nổi sóng hoa, Rượu ngon chuốc chén năm ba, Hát cung YỂU ĐIỆU, ngâm thơ TRĂNG VÀNG, Chẳng mấy chốc Đông ngàn trăng ló, Rẽ Đẩu Ngưu bỡ ngỡ đường mây. Sương vương mặt nước tỉnh say, Giòng sông trong vắt in mây lông trời. Thuyền một lá chơi vơi thỏa thích, Nước muôn đầm xa tít mênh mông, Nhẹ nhàng cưỡi gió tầng không, Thuyền trôi nào biết vân mòng về đâu, Lòng phơi phới ngỡ hầu thoát tục, Tung cánh mơ phơ phất lên tiên, Rượu ngon chuếnh choáng hơi men, Nhịp nhàng ta gõ mạn thuyền ta ca, «Chèo lan nhẹ đẩy đưa thuyền quế, Khua ánh trăng ta rẽ nước mây. Nhớ ai canh cánh khôn khuây, Nhớ người má phấn đó đây cách trùng»… Sở dĩ tôi dịch bài Xích Bích Phú vì thấy Tô Đông Pha đã tìm ra 2 chiều, 2 mặt hằng và biến của vũ trụ. Khuyết danh dịch : «Thử đem lý biến mà bàn, Có khi chớp mắt dài hơn cao dầy. Ví chẳng biến thế này cũng có, Vật với ta thiên cổ chẳng cùng.» Tôi dịch: «Từ biến chuyển nhìn ra trời đất, Thì đất trời phút chốc đã qua. Từ trong vinh cửa nhìn ra, Muôn loài muôn vật như ta vô cùng.» Bài Chính Khí Ca của Văn Thiên Tường cũng đã có nhiều người dịch. Dưới đây xin trích một đoạn của Trần Trọng San đã dịch và đăng trong Nguyệt san Phương Đông, tháng 2, tháng 3/72 : nơi trang 139: «Trong trời đất một bầu chính khí, Hóa thành ra ngàn thế muôn hình, Dưới là nước tú non linh, Trên là nhật nguyệt, thần tinh sáng ngời. «Hạo nhiên» ở nơi người cao cả, Khí đại dương ngút tỏa mù xanh, Đường vua gặp lúc thanh bình, Êm đềm vào chốn triều đình mà bay. Lúc khốn quẫn tiết ngay mới tỏ Gác Lân treo rực rỡ đan thanh …» Cũng đoạn ấy tôi dịch như sau, và đã đăng trong Văn Đàn, số 37 - 38 từ 12 đến 25 tháng 7- 1962, nơi tr. 22: «Anh hoa chính khí đất trời, Khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng. Tràn mặt đất tuôn sông kết núi, Vút trời mây chói lói trăng sao. Trần ai lẫn bóng anh hào, Muôn nghìn khí phách rạt rào tầng xanh, Thủa non nước thanh bình khắp chốn, Nét đan thanh choáng lộn bệ rồng. Sơn hà gặp buổi lao lung, Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son …» Một hôm tôi nhân đọc bài Improvisation của Adam Mickiewicz (1798-1855), mà Charles Dobzynski đã dịch ra Pháp văn và đăng trong quyển L’Art poétique của Jacques Charpier và Pierre Seghers, nơi các tr. 395, 396, 397. Tôi thhấy bài đó lời hay ý đẹp tứ cao siêu. Tôi đã phóng tác lại và đăng trong văn đàn số xuân Quý Mão, nơi các trang 44, 45 (Quý Mão, 1963). Đây là một đọan trong bài thơ đó: «Trời đất hỡi, hỡi trăng sao vạn thủa, Hãy nghe ta ca thơ mây thơ gió, Hãy lắng tai nghe nhạc sĩ trứ danh, Đang trổ tài rung các phím sao xanh, Để độc tấu khúc ca muôn thời đại, Muôn phím sao theo ta rung phấp phới, Góp âm thanh mà tạo khúc hòa ca: Mỗi vì sao là một điệu say sưa, Hòa tấu nhạc theo tay ta điều khiển. Ta vung sao thành cầu vòng uyển chuyển, Ta gom sao thành một khúc trường ca, Ta rung sao thành tiếng nhạc say sưa, Rồi ta ngắm ánh sao rơi lấp lánh,… Nhưng hoàn võ bỗng trầm ngâm hiu quạnh, Vì tay ta thôi tấu khúc đàn trời. Hai tay ta vin hái giác thiên nhai, Và ta hát những lời trong như gió. Ta ca lên tiếng nước mây than thở, Làm rộn trời vang cả chín tầng không. Lúc lâm ly thánh thót não muôn lòng, Lúc dồn dập oai phong như bão tố. Muôn thời đại hòa theo ta bỡ ngỡ, Lời ta rung lan tỏa ánh hào quang, Lời ta bay, bay uyển chuyển rỡ ràng Lời ta phát muôn âm thanh huyền diệu, Như gió gấm rung sóng mây phiểu diểu, Bay ngang trời làm vi vút thinh không. Ao xiêm mây kìa gió cuốn mơ mòng, Ta biết gió là nhờ mây đưa lối … Lời thơ ta đất trời nghe mới nổi, Lời thơ ta bát ngát thấu cửu trùng. Lời thơ ta lời khí phách hào hùng, Lời thơ ta là lời thơ bất diệt … Ta tung mây ta lên hỏi thinh không , Xem trời đất có gì hơn thế nữa. Ý thơ ta rút đáy lòng muôn thủa, Cho giáng trần cho khóac áo văn chương. Lời thơ ta tung bay vạn nẻo đường, Bay lên trời sống với muôn tinh tú. Lời thơ ta hào quang bay tở mở, Xa ngàn tầm mà vẫn thấy sáng linh lung. Lời thơ ta dầu cách trở muôn trùng, Mà ta vẫn hình dung nên dáng dấp, Theo lời thơ hồn ta bay tít tắp …» Tôi nghĩ rằng có lẽ đã góp được vài ba bài thơ đẹp thêm vào cho nền văn chương nước nhà. Về các bản dịch Đạo Đức Kinh, Trung Dung hay Dịch kinh cũng vậy, tôi cố gắng suy tư tìm hiểu xem mỗi câu mỗi đoạn có ý gì, nghĩa gì. Sau khi đã hiểu rõ ý, mới dịch cho thật thoát, thật văn chương. Ví dụ Chương I Đạo Đức Kinh, tôi hiểu đức Lão muốn bàn tới Đạo, tới Bản Thể uyên nguyên đã sinh xuất ra vạn hữu đất trời. Và tôi đã dịch như sau: Hóa công hồ dễ đặt tên, Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn. Không tên sáng tạo thế gian, Có tên là mẹ muôn vàn thụ sinh. Tịch nhiên cho thấy uy linh, Hiển dương cho thấy công trình vân vi. Hai phương diện một Hóa Nhi, Huyền linh khôn xiết huyền vi khôn lường. Đó là «Chúng diệu chi môn», Cửa thiên xuất phát mọi nguồn huyền vi. Ví dụ như tôi đã dịch Thoán truyện quẻ KIỀN như sau: Lớn thay là cái góc trời, Làm cho vạn vật vạn loài sinh sôi. Hiền Nguyên tóm hết đạo trời, Tóm thâu thiên đạo khúc nhôi sinh thành. Rồi ra vũ khí vân hành, Làm cho vạn vật hình thành đòi nơi. Thánh nhân thấu suốt đầu đuôi, Biết sáu giai đoạn cơ trời biến thiên. Thế là cưỡi sáu rồng thiêng, Vượt muôn biến hóa vần xoay. Làm cho vạn vật thêm hay thêm tình, Kiện toàn tính mệnh của mình. Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho, Thế là ích lợi không bờ. Thế là vĩnh cửu, thế là lợi trinh, Thánh nhân vượt trôi chúng sinh. Làm cho muôn nước an bình khắp nơi … Có người hỏi tôi tại sao cứ dịch thành thơ mà không dịch ra văn xuôi, có phải rõ nghĩa không ? Tôi trả lời: «Ấy là vì từ trước đến nay các bản dịch văn xuôi tối tăm mù mịt, càng dịch càng mờ, càng giải càng rối, cho nên tôi mới dịch bằng thơ. Vì nếu muốn dịch ra thơ mà không hiểu rõ ý thì không sao mà làm thơ cho được.» b) Thứ đến là những đóng góp về tư tưởng. Tôi nghĩ đó mới là những đóng góp quan trọng. 1. Cái ngày mà tôi trực giác được rằng dưới lớp Nhân Tâm, còn có lớp Thiên Tâm, tôi liền biết sẽ đóng góp gì cho nền Văn hóa dân tộc. Thực vậy, ngay từ giây phút ấy, tôi thấy được ý nghĩa và nhiệm vụ các tôn giáo là đưa con người từ Nhân Tâm trở về Thiên Tâm, biến Nhân Tâm thành Thiên Tâm. Như vậy là xác định được được hướng đi chung các đạo giáo. 2. Rồi nhân tìm hiểu Trung Dung, tôi đã phát minh ra được một phương pháp tân kỳ để lý giải Trung Dung. Đó là dùng Tâm Điểm và Vòng Tròn để lý giải Trung Dung. Nếu chấp nhận Tâm điểm là duy nhất, bất biến, là căn nguyên vạn hữu, và vòng tròn bên ngoài là các hình tướng biến thiên, chúng ta sẽ nhận thấy ngay rằng mục đích Trung Dung cũng như Dịch Kinh chính là dạy con người tìm cho ra được tâm Vũ Trụ và Trung Tâm Hằng Cửu giữa lòng biến thiên của vũ trụ và của con người. Nhân đó thâu tóm được tất cả cái triết lý cao siêu thâm viễn của người xưa, và có thể trình diễn nó bằng một đồ hình giản dị: Đó là Tâm điểm và vòng tròn. Tâm điểm, tượng trưng cho Bản thể thì duy nhất, bất biến. Vòng tròn, tượng trưng cho vạn tượng, vạn hữu, thì tạp thù, biến thiên. Nhưng biến hóa không phải là không có định luật, không có chiều hướng, mà chính là biến hóa từ TÂM ra BIÊN, từ tinh thần ra vật chất, rồi lại biến hóa từ BIÊN về TÂM, từ vật chất trở về tinh thần, về BẢN THỂ. Tất cả vẽ thành một chu kỳ, để chung cuộc mọi sự trở nên toàn vẹn. Tâm điểm và vòng tròn, với thuyết THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ cũng đã giúp tôi nhận định được về vũ trụ, nhân sinh, lịch sử như nhau: Vũ trụ quan: Từ một Bản thể biến hóa ra muôn ngàn hiện tượng. Muôn vàn hiện tượng biến hóa để trở về với BẢN THỂ DUY NHẤT. Nhân sinh quan: Như vậy, con người lý tưởng, cuộc đời sẽ có hai chiều. Còn trẻ thì hướng ngoại mưu sinh, tìm cầu địa vị, xây dựng đất nước, tô điểm giang sơn ngoại cảnh. Nửa đời sau, tu luyện tâm thần, hồi tâm, phản tỉnh, để đi sâu về phía tâm linh vượt TIỂU NGÃ lên tới ĐẠI NGÃ. Sử quan: Lịch sử nhân loại cũng có hai chiều. Chiều vật chất và chiều tinh thần. Hiện nay, nhân loại còn trẻ, nên đang đi chiều vãng, chiều hướng ngoại, củng cố văn minh vật chất. Trong tương lai sẽ dần dà xoay chiều đổi hướng, để tìm về những giá trị tinh thần, để lúc chung cuộc sẽ trở thành thần minh, những mẫu người hòan hảo sống trong lạc cảnh. 3. Ngoài ra, có một khám phá mà tôi thích thú nhất: Đó là tìm ra được rằng trung tâm NÃO BỘ, hay NÃO THẤT BA, là TRUNG TÂM VŨ TRU và TRUNG TÂM con người, và thấy rằng đó cũng chính là NIẾT BÀN theo danh từ Phật giáo, chính là NÊ HOÀN theo danh từ LÃO GIÁO. 4. Sau hết cái sáng kiến cuối cùng của tôi là: Gắn liền thuyết THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ với THUYẾT PHÓNG PHÁT TÁN PHÂN, rồi lấy đó mà suy diễn ra căn cơ cốt cách con người, đường hướng tu trì, cứu cánh tu trì, cũng như những nét chính yếu, những điểm tương đồng giữa các tôn giáo. Tôi nhận định rằng : Từ muôn thuở, có một BẢN THỂ vô ngã bao quát vũ trụ, mà nhân loại xưa nay gọi bằng nhiều tên như Thái Hư, Chân Như, Brahman, Đại ngã, Đại Linh Quang, Thượng đế Vô Ngã … Và Bản thể ấy, Đại Linh Quang ấy đã sinh ra muôn loài bằng lối phóng phát tán phân. Vì chúng ta đều từ Đại Linh Quang ấy phóng phát ra, cho nên từ phía hiện tượng mà nhìn vào, thì chúng ta cũng chỉ là Tiểu Linh Quang, nhưng nếu nhận định từ phía Đại Linh Quang, từ phía Bản Thể, thì chúng ta vốn chính là Đại Linh Quang, vì có bao giờ Đại Linh Quang lìa khỏi Tiểu Linh Quang đâu? Lại nữa, nếu nói phóng phát tán phân, thì tất phải nói đến qui hoàn, hội tụ, và như vậy xác định được hai chiều: RA ĐỜI, VÀO ĐẠO của bất kỳ tôn giáo nào. Mê chẳng qua là tưởng mình chỉ là một chuỗi hiện tượng phiêu lưu, Ngộ là khi hồi quang quán chiếu, tìm ra được CĂN BẢN ĐẠI LINH QUANG của mình. Và thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể cũng cho thấy những đường nét chính yếu của các đạo giáo là như sau: Nếu Nhất thể đã sinh vạn tượng, vạn hữu, thì dĩ nhiên các thánh hiền bất kỳ đạo giáo nào cũng trực giác được rằng mình vốn có Thiên Thể, Thiên Tính, Phật Tính … Cái Tiểu Ngã biến thiên bên ngoài chẳng qua chỉ là những áng mây mờ che phủ cái THINH KHÔNG BẢN THỂ, CÁI THINH KHÔNG ĐẠI NGÃ bao la ở bên trong mà thôi. Và như vậy chỉ có Đại Ngã là trọng, chỉ có Thiên Tâm là trọng, chỉ có Bản thể, chỉ có Thần là trọng. Tất cả những gì thuộc hình thức sắc tướng bên ngoài, chỉ là bì phu, chỉ là phụ thuộc. Và như vậy trong cái hữu hạn, có tàng trữ cái vô cùng, trong giữa cái óc não hữu hình hữu tướng của mỗi người chúng ta, đều có sẵn THÁI HƯ vô tận. Và vì chúng ta đều cũng cùng một bản thể với nhau cho nên mới có thể nói được rằng: TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ. Đó là đại cương những đóng của tôi vào nền văn hoá dân tộc nước nhà.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 8:59:57 GMT 9
V. NGƯỜI GIÁO HỮU CAO ĐÀI CÓ THỂ ĐÓNG GÓP GÌ CHO NỀN VĂN HÓA NƯỚC NHÀ Muốn hiểu biết xem nhiệm vụ người giáo hữu Cao Đài như thế nào đối với nền văn hóa dân tộc, trước hết ta phải xét xem sứ mạng đạo Cao Đài là gì? Đạo Cao Đài, vì đã là một tôn giáo dân tộc, cho nên nó phải trường tồn với nước non. Sứ mạng của đạo Cao Đài thật là rõ ràng: Nếu về phương diện đạo giáo, Cao Đài có sứ mạng thu thập tinh hoa các đạo giáo thiên hạ, để đúc kết lại cho nên một đại đạo phổ độ cho nhân quần, thì về phương diện văn hóa, sứ mạng người giáo hữu Cao Đài cũng phải thu thập tinh hoa các nền văn hóa nhân loại để đúc kết nên một nền văn hóa toàn diện, vừa đượm màu sắc dân tộc và màu sắc thế giới. Thế nào là một nền văn hóa toàn diện, toàn bích? Thưa: Một nền văn hóa toàn diện toàn bích phải gồm đủ cả ba phần: Thiên đạo có mục đích dạy con người trở thành thần thánh. Nhân đạo có mục đích dạy con người tu tâm, luyện tính, ăn ở cho xứng đáng với danh hiệu con người. Địa đạo có mục đích dạy con người biết cáchh làm ăn sinh sống, ăn ở cho sung sướng thoải mái, có tiện nghi. Nền văn hóa toàn diện có mục đích phát huy mọi giá trị, mọi khả năng trong con người, trên mọi bình diện, tạo cho mọi người những điều kiện tinh thần vật chất thuận tiện, để họ được nâng đỡ, được hướng dẫn, ngõ hầu có thể phát triển mọi khả năng của mọi người, kiến tạo một xã hội tương dung tương trợ, hạnh phúc công chính, vì giúp con người có những điều kiện thuận tiện, những môi trường thuận tiện để sống một cuộc đời ung dung sung sướng, thoát được mọi cảnh lầm than, đói khồ, ốm đau, tật nguyền và cuối cùng có thể thần thánh hóa mình. Đó là một công trình thiên thu, xứng đáng với tầm kích của một đạo giáo. Để xây dựng, để tiến tới một nền văn hóa toàn diện, chúng ta có thể nêu ra ít nhiều nguyên tắc sau đây: 1) Nguyên tắc thứ nhất là nhận thức rằng con người có thiên tính, thiên căn, và vì thế có khả năng tiến hóa vô cùng tận. Cho nên tất cả các tổ chức đạo giáo cũng như xã hội phải giúp con người phát huy đến cùng cực mọi khả năng của mình. 2) Nguyên tắc thứ hai, là nhận thấy rằng : mọi sự tốt đẹp đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người, và các đạo giáo, các tổ chức xã hội chỉ có bổn phận là tài bồi, là làm cho nảy nở, làm triển dương những mầm mộng chân thiện mỹ đã tiềm ẩn sẵn trong lòng ta mà thôi. Chủ trương này đưa đến những kết quả thực tế hết sức quan trọng, tức là: - Tôn trọng phẩm giá con người. - Đề cao tinh thần tương dung, tương trợ và thông cảm lẫn nhau. - Giải phóng thực sự con người, vì chủ trương, khi đã giác ngộ, khi đã đạt đạo con người sẽ vượt khỏi khuôn khổ đạo giáo. Con người rốt cuộc vẫn là chủ tể, các đạo giáo chỉ là công cụ nhất thời. Con người phải biết dùng đạo giáo như là phương tiện để tiến thân, như là phương thức để thần thánh hóa mình, chứ không coi mình như là nô lệ của đạo giáo, hay của hàng giáo phẩm của bất kỳ đạo giáo nào. 3) Nguyên tắc thứ ba là nhận thức rằng: tiền nhân đã dày công mới tìm ra được những đức tính cao siêu của tâm hồn như NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ, TÍN, như CÔNG, CHÍNH, LIÊM KHIẾT, THANH CAO …. Những đức tính cao quý ấy của con người cần được bảo vệ, khuyến khích tài bồi bằng mọi phương cách thanh tao như văn chương, kịch nghệ, âm nhạc … Một nước có nhiều tâm hồn đẹp cũng y như một nhà có nhiều châu báu, một vườn có nhiều hoa thơm. Tâm hồn mọi người mà thanh cao đẹp đẽ cả thì làm gì còn loạn lạc, làm gì còn đấu tranh, tranh chấp. 4) Nguyên tắc thứ tư là nhận thức rằng con người không thể sống xa lìa xác thân, hoàn cảnh xã hội, cho nên những vấn đề kinh tế, áo cơm, vật chất, chính trị, xã hội, đều là những vấn đề khẩn yếu, cần phải giải quyết cho thỏa đáng. Tuy nhiên con người cũng không phải là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh xã hội, cũng không phải là công cụ thuần túy của quốc gia dân tộc. Con người vẫn có quyền vượt lên trên những khung cảnh lịch sử quốc gia, xã hội. Suy cho cùng thì xã hội và lịch sử cũng vẫn chỉ là những môi trường, những công cụ cho con người dùng để tiến thân … 5) Nguyyên tắc thứ năm là nhận thức rằng bất kỳ chếch mác dở dang nào, bất kỳ tệ đoan, hủ bại gì, nếu mình thật tâm muốn trừ khử, cũng có thể trừ khử được. Lịch sử đã chứng minh rằng: nếu con người chịu suy, chịu nghĩ, chịu tìm kiếm, sẽ có thể lướt thắng được đói khổ, bệnh hoạn, cải tạo được đời sống, gia tăng được tiện nghi, giảm bớt được sự lầm than, lam lũ, bằng cách sử dụng kỹ thuật và khoa học , máy móc. Những tệ đoan xã hội cũng có thể giải trừ được hết, nếu chính quyền có thiện chí,nếu dân chúng ý thức được quyền hạn mình, giá trị và sứ mạng mình, và biết đoàn kết chặt chẽ để cải thiện đời sống mình. 6) Nguyên tắc thứ sáu là nhận thức được rằng con người có một khả năng tiến hóa vô hạn định, có thể tiến từ thú đến thần, nên cần được giáo hóa, được hướng dẫn hẳn hoi, cần phải cố gắng tiến tới mãi mãi. Nếu vậy thì sinh ra ở trên đời này không phải là để cầu an, để hưởng thụ, mà chính là để tranh đấu, để cố gắng, để vươn lên. Muốn sống động muốn hào hùng húng ta cần phải có những mộng tưởng lớn lao, cần phải có những lý tưởng cao đại. Vươn cho cao , hãy ngưởng mặt lên cao, Lý tưởng có cao , nguồn sống mới rạt rào, Sống tầm thường lấy gì hun chí cả, Đời an nhàn là đời đang tan rã, Đứng nhìn đời là thái độ một trẻ thơ, Hãy ra công vì đồng lọai mong chờ, Hãy cố gắng vì giang sơn cần tuấn kiệt, Non sông đang chờ ta đem gấm hoa thêu dệt Đời vinh quang tatạo lấy cho ta, Sống làm sao cho rạng vẻ quốc gia, Muôn gian lao không làm sờn chí cả … «Dẫu đất chuyển, trời long, biển vơi núi lả Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn …» (2 câu cuối của cụ Hùynh Thúc Kháng - Mã thượng số II ) 7) Nguyên tắc thứ bảy là nhận thức rằng: thực tại bao giờ cũng không được hoàn mỹ nó mới chỉ là nấc thang cho ta tiến tới lý tưởng. Ôm ấp thực tại, tán dương thực tại, tán dương lề lối sống hiện tại là một lỗi lầm. Nhiệm vụ con người là phải luôn luôn phê phán, kiểm điểm lại quan điểm của mình, đường lối của mình luôn luôn phải cố gắng cải tiến không ngừng. “Nhận tân, nhật tân, hựu nhật tân.” 8) Nguyên tắc thứ tám là nhận định rằng: Con người không phải nguyên có tinh thần mà cũng chẳng phải nguyên có vật chất, nên không thể nhất thiết khinh bên nào trọng bên nào. Lúc còn thiếu thốn đói khổ, thì phải lo miếng cơm, manh áo. Khi đã no đủ thì phải đặt các vấn đề lý trrí, tâm thần lên hàng đầu. 9) Nguyên tắc thứ chín là phải có một tinh thần luôn luôn cởi mở, thức thời luôn luôn cầu tiến biết tìm ra những ưu điểm của người, nhược điểm của mình ngỏ hầu có thể thích ứng với mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, tiến tới không ngừng. 10) Nguyên tắc thứ mười là nhận định rằng: Con người luôn khao khát tự do, khao khát chân lý, khao khát lý tưởng, khao khát tiến bộ. Một nền văn hóa toàn bích phải đáp ứng được với những niềm khát vọng ấy. Nó phải là một nền văn hóa mở rộng, chứ không phải là một nền văn hóa khép kín. Nó phải dành những lối thoát cho những người tiền tiến, có thiện chí, có nhiệt huyết muốn vươn lên cho tới cao đại muốn sống vượt tầm, vượt mức thường nhân.Văn hóa phải là phương tiện cho con người tiến tới ,chứ không phải là công cụ kìm hãm, ngăn chặn con người. 11) Nguyên tắc thứ mười một là nhận định rằng tư tưởng cốt để hướng dân hành động, lý tưởng đề ra cốt là để cải tạo thực tại, là cho thực tại trở thành lý tưởng. Nếu tư tưởng mà không được đem ra thi hành, nếu lý tưởng mà không được lồng vào cuộc sống thì tư tưởng trở thành không tưởng, lý tưởng trở thành huyễn tưởng, vọng tưởng. 12) Nguyên tắc thứ mười hai là trên phương diện lý thuyết cũng như thực hành tất cả nỗ lực con người sẽ được tận dụng để: - Biến cải vật chất, hoàn cảnh vật chất - Cải thiện xã hội - Phát triển tâm lý tài năng con người - Cải thiện tâm hồn con người. - Giúp cho tâm linh con người triển dương tới mức siêu phàm nhập thánh … Thực thi áp dụng vào cuộc đời, chúng ta sẽ đi tới những nhận định, những đương lối sau: - Hiện nay lịch sử và khoa học đã cho ta thấy rằng nhân loại có đầy đủ khả năng để giải quyết và thỏa mãn được các nhu cầu vật chất con người và giúp con người chiến thắng được thiên nhiên và hoàn cảnh. Như vậy ta không còn lý do gì mà không tận dụng mọi phát minh của khoa học, mọi khả năng của kỹ thuật để: + Triệt để khai thác tài nguyên của đất nước. + Kỹ nghệ hóa quốc gia. + Điện lực hóa nông thôn. + Cơ giới hóa ngành canh tác. + Phát triển các trục lộ giao thông, các phương tiện vận chuyển. + Chỉnh trang thành thị. Song song với các vấn đề vật chất ấy, các vấn đề xã hội cũng cần được kiểm điểm lại, chấn chỉnh lại để cho mọi người đều được sống trong tình thương yêu công bằng và danh dự, và cũng cần đặt nặng vấn đề rèn luyện nhân tài, giáo dục quần chúng, đào luyện chính nhân quân tử …. - Về phương diện siêu nhiên, đạo giáo không nên đặt nặng vấn đề lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà cần phải đặt nặng vấn đề nghiên cứu, bàn bạc thảo luận, học hỏi, đặt nặng vấn đề thanh lịch hóa, siêu thăng con hóa người … Như vậy một nền văn hóa toàn bích bao gồm hết mọi nỗ lực của con người để tiến tới một đời sống lý tưởng, và tất cả những thành quả nỗ lực ấy sáng tạo nên. + Lý tưởng vì thiên nhiên hoàn toàn phục vụ con người, hết còn là chướng ngại vật và là thù địch. + Lý tưởng vì xác thân hùng tráng, đủ ăn, đủ mặc, không còn phải lam lũ vất vả khổ sở, để kiếm ăn, vì đã có những phương pháp khoa học, những máy móc đỡ đần trong mọi công việc. + Lý tưởng vì đời sống xã hội được tổ chức một cách công bằng, hợp lý, nhân cách con người được bảo đảm. + Lý tưởng vì đời sống nội tâm và siêu nhiên con người được hướng dẫn và được phát huy tới mức tối đa cho mỗi một con người. Như vậy làm văn hóa tức là cố gắng chiến đấu chống lại với mọi khuyết điểm, mọi chếch mác dở dang để cho mình và cho người có một đời sống đẹp đẽ hơn, sáng sủa hơn thanh lịch hơn hoàn hảo hơn mãi mãi … Viễn tượng tương lai ấy, ta lấy ở đâu ra? Thưa từ tâm linh chúng ta. Phương pháp thực thi tương lai ấy ta lấy ở đâu? Thưa từ tâm tư, trí não, từ ở tay chân ta, và sự đồng lao cộng tác của chúng ta. Viễn tượng tương lai ấy có thể thực hiện được nếu mọi người đều cố gắng, hoạt động cho có phương pháp, có tổ chức, có hướng dẫn. Nếu mọi người chúng ta đều có ý thức được sứ mạng mình, nỗ lực cải tiến không ngừng thì ta sẽ lèo lái chẳng những con thuyền quốc gia mà cả con thuyền nhân loại về hướng thần tiên sang cả như viễn tượng của Victor Hugo … «Thuyền nhân loại hướng về đâu tá? Thuyền quang hoa băng ngả thần tiên. Tiến về mai hậu siêu nhiên, Tiến về đức hạnh nguyên tuyền tinh hoa. Ánh khoa học trời xa lóng lánh, Thuyền quang hoa băng cảnh thần tiên, Tiến về đẹp đẽ tinh tuyền, Tiến về thượng giới về miền muôn sao.» (Òu va- t- il ce navire? Il va, de jour vêtu, À l’avenir divin et pur, à la vertu, À la science qu’on voit luire, Il va, glorieux navire, Au juste, au grand, au loin, au beau, vous voyez bien, Qu’en effet, il monte aux étoiles. (Victor Hugo. - Plein Ciel) Một khi đã biết rõ sứ mạng mình, đã thấy rõ công trình mình, nhiệm vụ mình, đã có những nguyên tắc hướng dẫn hành động người giáo hữu Cao Đài sẽ phóng tâm đóng góp hàng ngày vào công trình xây dựng văn hóa dân tộc, bởi vì làm bất cứ cái gì hay, cái gì đẹp, cái gì lợi, cái gì ích cho mình, cho người, cho nhà, cho nước đều là làm văn hóa dân tộc, bởi vì làm bất cứ cái gì mà hướng về chân, thiện, mỹ, đều là làm văn hóa cho dân tộc cả … .TỔNG KẾT. Để tổng kết lại, bàn về văn hóa, tức là xét xem xưa nay con người đã nghĩ gì về Chân, Thiện, Mỹ đã quan niệm thế nào về Chân, Thiện, Mỹ, đã thực hiện được những gì, đã cố gắng ra sao để hướng về Chân Thiện, Mỹ, để thực hiện Chân Thiện, Mỹ. Bàn về văn hóa dân tộc tức là sống lại đời sống của tiền nhân cảm thông những nỗi lo âu, hồi hộp của muôn thế hệ, cũng như chia vui với nững niềm vui của trần hoàn, tức là dùng gương xưa tích cũ làm những bài học cho hiện đại và tương lai, tránh những lỗi lầm mà người xưa đã mắc, bắt chước cái hay mà người xưa đã có, tiếp tục công trình dang dở của người xưa đã làm, ngõ hầu cải thiện đời sống mình và người cho trần gian sớm trở thành nơi hoan lạc cho mọi người được sống một cuộc sống xứng đáng một lý tưởng đáng theo, là học để biết sống cho chân thực, biết nhìn, biết nghĩ, biết suy, biết bắc cân nặng nhẹ, phải trái, không để cho người biến mình thành máy móc, công cụ, không để cho trần hoàn lôi cuốn mình như chiếc lákhô trong cơn gió lốc. Làm văn hóa dân tộc, tức là tận dụng thời gian và khả năng để đắp xây cho tương lai xứ sở, bảo vệ những gì gọi là tinh hoa nhân lọai. Làm văn hóa dân tộc tức là khai thác, là làm tăng trưởng mọi khả năng thể chất, não cân và tâm thần ta để trở nên những phần tử ưu tú của đất nước, những chiến sĩ tiền phong của non sông, là tạo cho chúng ta một lý tưởng cao cả. Tất cả những công trình văn hóa, từ văn chương, kịch nghệ, cho tới mỹ thuật, kiến trúc, cho tới những tổ chức pháp lý, luân lý, đạo giáo của dân tộc cũng như của nhân quân đều như muốn khuyến dụ ta trở thành những con người xứng đáng, nhửng con người hoàn thiện, hấp thụ lấy tinh hoa của muôn nghìn thế hệ, của muôn nghìn đất nước, để mà tô điểm cho tâm thần ta thêm thánh thiện, cho đồng bào đồng chủng, cho nhân quần thêm hạnh phúc cho giang sơn chúng ta và trần hoàn thêm đẹp tươi, cho thế giới thêm an bình, cho mọi người được sống những ngày thái thịnh hoan lạc trong đạo lý và nhân luân, sử dụng kỹ thuật và khoa học đến triệt để, và hoàn toàn chế ngự được hoàn cảnh … Tất cả những viễn tượng đẹp đẽ ấy chính là những lời cầu chúc và ước nguyện của tôi gửi đến quý vị trước khi chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay về văn hóa dân tộc … CHÚ THÍCH [1] Bài thuyết trình tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, ngày... tháng... năm... [2] Cf. France Asie, số XXVIII, tr. 805 - 806.- Xem : Le norcissement des dents en Asie orientale et en Indchine, của Pierre Huard trong France Asie XXVIII, tr. 804 - 813.- Xem BEFEO XIV, 9, tr.15 - 1 . - Xem bài Tục ăn trầu trên thế giới bài của Hoàng Sỹ Quý trong nguyệt san Phương Đông số 8 - 9, tháng 2- 3, 1972 tr. 109 - 123 … [3] Eliot, Notes towards the definition of culture, p. 21. [4] Xem Lãng Nhân, Giai thoại làng Nho, 1972, Nam chi tùng thư, 3 Nguyễn Siêu, Sài Gòn, tr. 251- 252.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:02:58 GMT 9
VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI THEO QUAN NIỆM CỦA THÁNH NHÂN NGÀY XƯA [1] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Trước khi vào đề, tác giả xin có đôi lời thanh minh: 1/- Đề tài trên thực là trọng đại và phức tạp. Viết một quyển sách mà bàn, còn khó thay, nữa là viết một bài báo. Vì thế, trước hết xin quý vị lượng thứ cho những điều khiếm khuyết. 2/- Có vị sẽ cho rằng tôi đang làm một chuyện vô ích. Bởi vì thời nay, có biết bao nhiêu vấn đề sôi bỏng thì không bàn lại đi bàn về một thời xa xưa từ lâu đã được chôn vùi vào quá vãng. Vả: «Cổ nhân bất kiến kim thời nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.» 古 人 不 見 今 時 月 今 月 曾 經 照 古 人 (Trăng nay từng rõi người xưa, Người xưa nào thấy trăng giờ được đâu!) Mà nào ai tắm đúng hai lần trong một dòng sông đâu? Thời chúng ta theo trào lưu lịch sử, đã tiến tới chế độ dân chủ, đã tiến tới văn minh vật chất huy hoàng, còn đâu cần đến những tư tưởng cũ mèm, mà ngay từ xưa, Thương Ưởng (?- 338 TCN), Hàn Phi Tử (?- 232 TCN) cũng đã từng ra công chối bỏ. Để trả lời những vị đó, tôi xin thưa: Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy. Tục ngữ đã có câu: «Phi cổ bất thành kim» 非 古 不 成 今 (Không cổ sao thành được kim). Nếu chúng ta chịu học lại cổ nhân, ắt là chúng ta sẽ tránh được nhiều điều lầm lỗi. Vả lại ngay đến những nhà đại cách mạng gần đây cũng không dám khinh thường dĩ vãng, cũng muốn tìm cho ra những bài học quý báu của quá vãng. Tôn Dật Tiên (1865-1925) đã viết: «Bạn đừng có quên dĩ vãng. Dĩ vãng phải là thầy dạy bạn trong tương lai.»[2] Trương Kỳ Quân, một học giả Trung hoa hiện đại, đã chủ trương rằng: «Tam dân chủ nghĩa (Dân tộc, Dân sinh, Dân quyền) của Tôn Văn chính là kết tinh của nền văn minh Trung Hoa quá vãng.» [3] Tưởng Giới Thạch đã dựa vào học thuyết của Quản Tử (?-645 TCN) và Vương An Thạch (1021-1086) để xây dựng nên một học thuyết kinh tế mới cho Trung hoa.[4] Mao Trạch Đông cũng đã áp dụng binh thư Tôn Võ để chiến thắng.[5] 3/ Đường lối chính trị và lề lối tổ chức xã hội mà tôi sắp đem trình bày cùng quý vị chính là của các tiên vương đời trước, của Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ. Đường lối ấy đã được đức Khổng cùng các môn đệ nghiên cứu quảng bá lưu truyền trong Tứ thư, Ngũ kinh. Trung Dung viết: «Trọng Ni tổ thuật Nghiêu, Thuấn, hiến chương Văn, Võ.» 仲 尼 祖 述 堯 舜 憲 章 文 武 (Trung Dung, chương 30). «Đức Khổng trần thuật đạo Thuấn, Nghiêu, Làm sáng tỏ lối đường Văn, Võ.» Sở dĩ nay tôi muốn đem những đường lối tổ chức chính trị và xã hội nói trên để trình bày lại cùng quí vị chính là vì tôi thấy người xưa đã hết sức muốn xây dựng một nền chính trị lý tưởng, một xã hội lý tưởng, trên những nguyên lý bất biến của trời đất, theo những định luật bất biến của trời đất. Giờ đây xin quí vị hãy cùng tôi quay lại cuộc phim quá vãng để tìm hiểu về tổ chức chính trị và xã hội của người xưa. A. TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ THEO QUAN NIỆM THÁNH NHÂN NGÀY XƯA 1. TẠI SAO PHẢI CÓ CHÍNH QUYỀN Con người sinh ra ở đời không phải ai cũng thông sáng; không phải ai cũng biết lẽ phải trái, biết ăn ở cho phải đạo làm người. Tình dục con người hay phóng túng, cần phải có người chỉ huy, cầm cương, nảy mực, lèo lái, hướng dẫn. Hơn nữa, sự sống chung cần phải được điều hòa mới có thể cùng nhau sống an vui và hạnh phúc được. Vì thế nên cần phải có những người hay, người giỏi cầm đầu dân nước. Đó cũng chính là Thiên ý. Trong kinh thư, Võ Vương nói: «Trời sinh ra dân ở cõi này, cũng sinh ra kẻ làm vua, kẻ làm thầy. Vua và thầy giúp thượng đế (mà cai trị dân, giáo hóa dân). Cho nên trong bốn phương, hai hạng đó được Trời yêu mến một cách đặc biệt…» [6] (Mạnh Tử, Lương Huệ vương chương cú hạ, đoạn 3). 2. CHÍNH QUYỀN PHẢI LÀ MỘT CHÍNH QUYỀN LÝ TƯỞNG Nhưng muốn cho dân chúng sống an vui, sung túc và có cơ phát triển, tiến bộ cần phải có một chính quyền lý tưởng. Chính quyền lý tưởng ấy cần phải được xây dựng trên căn bản hoàn thiện, hoàn mỹ, tức là phải coi mình có Thiên chức, Thiên mạng để đem an lạc lại cho chúng dân và có nhiệm vụ hướng dẫn chúng dân tới Hoàn thiện, Hoàn mỹ, tới Thượng đế.[7] Cho nên, theo quan niệm của tiền nhân, vua xưa kia phải là một vị thánh nhân, một vì Thiên Tử, một hiện thân của Thượng Đế. Ch’in Ya Yen viết: «Đấng thánh nhân ở ngôi cao đã lập ra được một gương mẫu tuyệt đỉnh về nhân đức lấy chính bản thân mình đơi sống mình để dạy dỗ thiên hạ. Lấy đơi sống mình để dạy dỗ, tức là cho chúng dân trông thấy những hành vi, cử chỉ của mình; lấy lời lẽ dạy dỗ để dân ca tụng, ngâm vịnh cho thuộc, cho nhớ. Cả hai phương diện đều cần thiết, không thể bỏ đằng nào được. «Trong thiên hạ chỉ có Lý là hằng cửu, là cao đại…Lý đó bắt nguồn từ trời, vì trời đã đem chân lý ấy ghi tạc vào tâm khảm con người nên nững lời lẽ hợp với chân lý hợp với lương tâm con người tức là lời giáo huấn của trời. Trời tức là vị thánh nhân không nói. Thánh nhân tức là Trời biết nói; Một là hai, hai là một vậy.» [8] 3. CHÍNH TRỊ PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN NHỮNG CĂN BẢN HẰNG CỬU, TỰ NHIÊN - Chính trị, theo người xưa, phải dựa trên căn bản: TÔN GIÁO: làm chính trị, làm vua là để thay dân thế trời và thay trời trị dân: để thi ân, giáo hóa và hướng dẫn chúng dân.[9] TRIẾT LÝ: làm chính trị cốt là để cải thiện dân, đưa dân đến hoàn thiện.[10] Làm chính trị là dạy dân theo tiếng lương tâm, theo những luật định thiêng liêng của trời đất.[11] ĐẠO ĐỨC: Làm chính trị phải dựa vào hai tôn chỉ chính yếu: «Yêu dân và kính dân.» [12] Hơn nữa làm chính trị tức là để sửa trị người. Muốn sửa trị người trước hết mình phải là con người ngay chính. Đó là một đề tài mà Tứ Thư, Ngũ Kinh tường đề cập đến.[13] - Chính trị như vậy có nghĩa là cải thiện toàn dân. Nên bất kỳ ai cũng phải đóng góp. Từ vua đến dân ai cũng phải tu thân. (Đại học, chương 1) Người quân tử chẳng ra khỏi nhà, vẫn làm được chính trị là vì vậy.(Luận ngữ, I, 21. -Đại học IX) 4. BA NGUYÊN TẮC CHÍNH YẾU, BẤT DI DỊCH CỦA CHÍNH TRỊ Người xưa trị dân, dựa vào 3 nguyên tắc: - Thuận theo thời trời. - Thuận theo thế đất. - Thuận theo lòng người. a/ Trị dân thuận theo thời trời. Người xưa trị dân, rất chú trọng đến thời trời, vì thế rất chú trọng đến thiên văn và lịch số. Vua Nghiêu xưa đã từng sai Hi, Hòa khảo sát tinh tượng, tiên đoán các ngày nhật thực, nguyệt thực, v.v… Thời Nghiêu đã có tên «Nhị thập bát tú». (Xem Kinh thư Nghiêu điển). Lễ ký nơi Thiên Nguyệt lệnh, đã mô tả tỉ mỉ công việc của nhà vua trong từng tháng từng năm. Đại khái: - Trong những mùa xuân, hạ, khi nhựa sống đang tràn đầy trong vũ trụ, công việc đồng áng, tàm tang đang bận rộn nhà vua sẽ không động dụng dân chúng, sẽ không giết các tội nân, không động dụng quân sĩ binh đao. Dân sẽ không giết chim phá tổ không săn bắn, không vét tát sông hồ, không đốt phá rừng rú, không chặt cây đẳng cối. - Trong những mùa thu đông, khi vạn vật héo khô dần, vua mới bắt đầu cho thi hành các án trảm quyết. Thu đông là những mùa gặt hái thâu liễm. - Các ngày hạ chí đông chí, khi mà âm dương nhị khí giao nhau, thời nên giảm công việc, tránh viễn hành. - Ngày Xuân phân, Thu phân nhật dạ tương đồng, nên nhà vua truyền xem xét lại cân lường đấu hộc. (Xem Lễ ký nguyệt lệnh; Xem Li ki của Couveur dịch quyển I, tr.330-410. Xem Nguyệt lệnh trong tập Khổng học tinh hoa của tác giả, tr.337-438) b/ Người xưa trị dân thuận theo thủy thổ Vua Đại Võ là vị vua của Trung Hoa đầu tiên rất sàn về địa lý. Ngài đã vẽ địa đồ của nước Trung Hoa. Thiên Vũ cống trong Kinh Thư cho thấy Ngài biết rõ: - Địa thế từng miền. - Năng xuất đất đai của từng miền. - Thổ sản của từng miền. - Nghề nghiệp của từng miền. - Đường lối giao thông của từng miền. Tùy theo sức sản xuất và sự phú cường của từng miền, Ngài định thuế khóa và phẩm vật cống tiến. (Xem Kinh Thư, Vũ cống). Lễ ký viết: «Các thánh vương xưa thuận theo định luật trời đất mà cai trị. Các ngài không bắt người vùng núi xuống ở vùng biển; không bắt người ngoài đảo vào ở trong đồng. Các ngài sử dụng ngũ hành, sử dụng nguyên liệu, vật thực tùy theo thời. Các ngài tùy tuổi dân mà cho phép kết hôn, tùy tài đức mà ban tước vị. Các ngài sử dụng dân theo đúng thời tiết, cho nên trong nước thoát thủy tai, hạn hán, côn trùng, dân chúng không lo đói khát.» Lễ Ký, Lễ vận, Tiết IV 16, Couvreur, Li Ki.I, p.535.-Xem thêm Lễ ký: Lễ khí II, 10; Lễ khí, Tiết 1,3) c/ Người xưa trị dân thuận theo nhân tâm Các vị thánh vương xưa cho rằng dân muốn là trời muốn, nên làm vua phải biết thuận nhân tâm.[14] Vậy nên các vua xưa, khi làm việc gì trọng đại, thường hỏi ý dân, hay ít là giải thích cho dân, cho quân được rõ nguyên do hành động của mình. Thành Thang trước khi cất binh đánh vua Kiệt nhà Hạ, đã làm bài Thang thệ, phủ dụ dân quân (Xem Kinh Thư, Thang thệ) Võ Vương trước khi đánh vua Trụ nhà Thương Ân, đã họp quân sĩ và chư hầu ở bến Mạnh Tân, để hiểu thị (Kinh Thư. Thái thệ) Vua Bàn Canh khi muốn dời đô tư Cảnh sang Ân, để đề phòng lụt lội cho dân, đã hội họp dân lại, giải thích hơn thiệt. (Kinh Thư Bàn Canh) Đại học viết: «Thi vân: “Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu.” Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử vị dân chi phụ mẫu.» 詩 云: «樂 只 君 子, 民 之 父 母.» 民 之 所 好, 好 之; 民 之 所 惡, 惡 之. 此 之 謂 民 之 父 母. «Sướng thay bậc phụ mẫu dân, Cùng dân yêu ghét muôn phần chẳng sai Đáng làm cha mẹ muôn người.» (Đại học, chương X) Luận ngữ chủ trương: Phải sử dụng dân cho hợp thời. (Sử dân dĩ thì. 使 民 以 時. - Luận ngữ, 1,5). Trung Dung cũng ghi: «Thì sử, bạc liễm, sở dĩ khuyến bá tính dã.» 時 使, 薄 斂, 所 以 勸 百 姓 也. «Muốn bách tính kính tin một dạ. Xâu phải thời, thuế má phải chăng.» (Trung Dung, chương 30) Thuận thiên thời, địa lợi, nhân hòa, đó là nắm vững được ba yếu tố tạo dựng lịch sử. (Xem Mạnh Tử, Công Tôn Sửu chương cú hạ, I) 5. PHƯƠNG PHÁP VÀ NGHỆ THUẬT TRỊ DÂN A/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Hồng Phạm Cửu Trù Hồng phạm đưa ra chín tôn chỉ, mà xưa gọi là cửu trù. 1/ Ngũ hành Đấng quân vương phải am tường vật lý, phải biết khai thác các tài nguyên của đất nước, để lo cho dân no ấm. 2/ Ngũ sự Đấng quân vương phải biết phương pháp tu thân. - Dáng điệu phải nghiêm trang kính cẩn. - Nói năng phải hợp lý. - Trông nhìn phải sáng suốt. - Nghe ngóng phải tinh tế. - Nghĩ ngợi phải cho thấu triệt. Được như vậy, đấng quân vương sẽ trang nghiệm, oai vệ, lý sự, đường hoàng, không ngoan, sáng suốt, tinh tường, mưu lược. 3/ Bát chính Đấng quân vương phải biết trị dân. Cương lĩnh trị dân gồm 8 điểm. Trị dân là lo cho dân: 1) - No ấm. 2) - Sung túc có đủ tiện nghi. 3) - Có lễ nghi, tế tự. 4) - Có nhà cửa, đất đai. 5) - Có một nền giáo hóa hẳn hoi. 6) - Khỏi bị bọn gian ác, bất lương, đạo tặc quấy nhiễu. 7) - Biết đường tiếp nhân, xử thế. 8) - Được bảo vệ tính mạng và tài sản, thoát nạn ngoại xâm, nhờ có binh hùng, tướng mạnh của nhà nước. 4/ Ngũ kỷ Đấng quân vương phải am tường ý nghĩa của năm, tháng, ngày; sự vận chuyển của nhật, nguyệt, tinh thần, lịch số. Như vậy mới có thể dạy dân biết cách điều hòa công tác cho hợp thời, hợp tiết để được ấm no, thịnh vượng, cho trời đất người cùng hòa tấu một bản nhã ca thanh bình, thái thịnh. 5/ Hoàng cực Đấng quân vương sẽ ở ngôi Trời, ngôi Hoàng cực, thay Trời trị dân. Muốn được như vậy phải có đức hạnh siêu phàm, thoát tục, xứng đáng làm môi giới giữa Trời và muôn dân. 6/ Tam đức Thuật trị dân phải dựa vào 3 đức sau đây: a) Chính trực. b) Cương (cương quyết khi nước loạn, khi phải đối đầu với những kẻ phản loạn, lưu manh) c) Nhu (nhu hòa khi nước an bình, khi giao tiếp với những người đạo cao đức cả). 7/ Kê nghi Đấng quân vương phải biết suy nghĩ, bàn bạc, hỏi han khi gặp trường hợp nan giải. Trước một công chuyện nan giải sẽ hội ý kiến: - Của nhà vua. - Các khanh sĩ, thứ dân. - Của thượng đế (bằng cách bói thi, qui) Phối kiểm lại sẽ biết thế nào là tốt là xấu và tìm ra được đường lối đẹp đẽ nhất để xử sự. 8/ Thứ trưng Đấng quân vương phải nhân các điềm trời mà soát xét lại đường lối cai trị của mình, xem tuần tiết, độ lượng gió mưa, nóng lạnh của trời mà suy ra xem mình đã cai trị dở hay hay. Lý do là vì đấng quân vương, đúng với danh hiệu của nó, sẽ cảm ứng được với đất trời, và hiểu được tiếng nói thầm lặng của đất trời qua các biến thiên của thời tiết. 9/ Ngũ phúc, Lục cực Đấng quân vương phải nhìn vào tình cảm của nhân dân để nhận định giá trị của nền cai trị mình. Nếu cai trị mà hay, dân chúng sẽ được hưởng Ngũ phúc: - Thọ. - Giàu. - Yên vui. - Ham chuộng nhân đức. - Chết già yên ổn. Nếu cai trị mà dở, dân chúng sẽ lâm vòng Lục cực: - Chết non. - Bệnh tật. - Lo buồn. - Nghèo khổ. - Tội ác. - Yếu ớt. (Xem Kinh Thư, Hồng phạm cửu trù) Thế mới hay: Con người chẳng những soi bóng nước Còn phải ngắm mình trước muôn dân.[15] B/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Trung Dung Trung dung cũng đưa ra chín tôn chỉ để trị dân, thường gọi là Cửu kinh. 1/ Tu thân Đấng quân vương phải giữ tâm hồn cho trong sạch, cử chỉ tác phong cho trang ngiêm đĩnh đạc như vậy mới làm cho đạo nghiã trở nên thịnh đạt được. 2/ Kính hiền tài Có kính hiền tài thì những trang hiền tài mới giúp đỡ mình hết lòng. Muốn tỏ lòng kính hiền tài, biết “chiêu hiền đãi sĩ”, nhà vua phải xa lánh nữ sắc, xa lánh kẻ nịnh hót; phải trọng nghĩa khinh tài. 3/ Phải thương yêu họ hàng Phải giúp đỡ họ hàng nghe lời họ hàng, như vậy thân tộc sẽ không còn ai oán thán 4/ Kính đại thần Muốn vậy phải cho họ đủ phương tiện làm việc, đủ quyền hạn thì họ mới chân thành mà cộng tác với mình. 5/ Thương yêu công bộc quốc gia Phải tăng lương cho họ, như vậy họ sẽ nỗ lực đền đáp. 6/ Thương dân như con Không được bắt dân làm xâu khi họ đang bận công việc đồng áng, không được thu thuế nặng. Có thương dân thì dân mới hài lòng. 7/ Khuyến khích nhân tài, khuyếch trương bách nghệ Phải biết khuyến khích, mở cuộc thi đua, treo giải thưởng để khuyến khíh thợ thuyền, như vậy nước sẽ không thiếu hóa tài. 8/ Đón tiếp người viễn xứ Biết chiêu tập hiền tài, người giỏi ở tứ phương sẽ về với mình. 9/ Che chở chư hầu Thật lòng giúp đỡ những nước nhỏ, thiên hạ sẽ sợ uy mình sẽ thần phục mình. (Xem Trung dung chương 28) C/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Luận Ngữ - Phải biết chọn người tài đức cộng sự. (Luận ngữ, VII 20.-XII,19-XVIII,11) - Phải luôn luôn cẩn trọng, không được coi thường thiên chức lãnh đạo dân con của mình, (Luận ngữ, XIII,15) - Không được hành sự hấp tấp, vội vàng; không được tham lợi nhỏ để hỏng việc lớn v.v…(L.N.XIII,17) - Phải làm sao để mọi người lo tròn chức vụ mình (Luận ngữ, XII,11) D/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Đại Học - Chính kỷ trước, chính nhân sau. (Đại học, chương I) - Phải trọng Nhân Nghĩa hơn Tài Lợi. (Đại học X) - Đã làm chính trị thời không được làm kinh tài, tranh lợi với dân, (Đại học X) - Người trên mà tham tài, mà vơ vét tài sản của dân, mà dùng tiểu nhân nhũng nhiễu dân, thì dẫu thánh nhân giáng hạ, cũng không cứu nổi họa nhà tan, nước nát. (Đại học X) E/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Lễ Ký Muốn trị dân phải áp dụng thực thi: Lễ, Nhạc, Hình, Chính. - Lễ Lễ là dạy dân biết nhân luân, biết hiếu kính. (Lễ ký, Khúc lễ, Phần I, tiết I, mục 22: Thánh nhân đem Lễ để dạy con người xử sự khác biệt với muôn thú) (Xem Khúc lễ, các tiết mục tiếp theo). Lễ là tất cả các định luật tự nhiên những mẫu mực, qui tắc chi phối hành vi cử chỉ con người, chi phối các cách giao tiếp của con người (Xem Khúc lễ, phần I, tiết I, mục 8,9,10) - Nhạc Nhạc có mục đích giúp cho con người tinh luyện tâm thần, giúp cho conngười trở nên cao khuết, hồn nhiên thư thái. Nhạc cũng có mục đích đem lại sự đoàn kết, hòa mục trong dân chúng, tình tương thân, tương ái trong mọi tầng lớp xã hội. (Xem lễ ký, Nhc5 ký, XVIII,15; Tế Nghĩa, XXI) - Hình Hình có mục đích ngăn chặn những chuyện phạm pháp, sa đọa (hình phạt trúng, cố thứ dân an-Lễ ký, Nhạc ký,XVII,15) - Chính Chính là tổ chức công cuộc cai trị. (Xem Lễ ký, Vương Chế, tiết III, mục 1; tiết V, mục 28) Chính trị là tiên liệu, là quy định mọi công việc lớn nhỏ trong nước. Lớn như: Cách tổ chức quốc gia, phân châu, phân dã; số lượng các nước lớn nhỏ, phẩm trật quan chức nơi triều đình, cũng như ở các nước chư hầu; số lương hướng cũng như phẩm phục tương ứng với từng chức vụ, phân hạng nông dân với những ruộng đất cho mội hạng; minh định công việc cho từng hạng quan lại; minh định thể thức trưng binh, hoãn dịch; minh định những hạng người được chính quyền cấp dưỡng; minh định lễ nghi trong dân gian v.v… (Xem Lễ ký, Vương Chế) Nhỏ như: Cách nam nữ đi lại, xe cộ đi lại trong đường xá v.v…(Xem Lễ ký, Vương chế) Vì thế Trung dung cũng viết: «Phàm sự dự tắc lập, bất dự tất phế.» 凡 事 豫 則 立, 不 豫 則 廢. (Việc gì tính trước cũng linh, Không toan tính trước âu đành dở dang.) (Trung dung. XX)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:03:52 GMT 9
F/ Phương Pháp Nghệ Thuật Trị Dân Theo Mạnh Tử - Phải lấy dân làm trọng, «Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.» 民 為 貴, 社 稷 次 之, 君 為 輕 (Mạnh Tử, Tận tâm hạ,14) - Phải coi dân như ruột thịt. «Vua mà coi tôi như tay chân, ắt tôi sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi tôi như chó ngựa, ắt tôi sẽ coi vua như người qua đường. Vua mà coi tôi như bùn rác, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ cướp, người thù.» (Mạnh Tử, Ly lâu hạ,3) - Phải chế định điền sản cho dân được no đủ. «Đấng minh quân chế định điền sản, chia cho dân cày cấy, cốt cho họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi nấng vợ con. Nhằm năm được mùa thì mãi mãi no đủ, phải năm thất bát, thì khỏi chết đói. Được vậy rồi vua mới khuyên dân làm thiện. Tự nhiên rồi họ sẽ làm điều thiện dễ dàng…» (Mạnh Tử, Lương Huệ vương, chương cú thượng, tiết 7) - Phải làm gương tốt cho dân. «Hễ ở trên vua ăn ở có nhân, thì chẳng ai cư xử bất nhân. Hễ ở trên vua nói theo điều nghĩa, thì chẳng ai bỏ bê việc nghĩa.» (Mạnh Tử, Ly lâu hạ, tiết 5) - Phải lo giáo hóa dân. «Làm người ai cũng có đạo lý. Như đã được ăn no, mặc ấm, ở yên, mà chẳng có giáo dục, thì gần với loài thú rồi đó…» (Mạnh Tử, Đằng văn Công, thượng, tiết 3) - Không nên làm bê trễ công việc làm ăn của dân. Vua Văn công nước Đằng, hỏi về cách trị quốc. Mạnh Tử đáp rằng: «Nhà cầm quyền không được làm chậm trễ công việc làm ăn của dân.» (Mạnh Tử, Đằng văn Công, thượng, tiết 3) - Ông viết thêm: «Nếu chính quyền chẳng đoạt mất thì giờ cấy gặt của những gia đình làm ruộng trăm mẫu, thì tronng nhà tám miệng ăn chẳng đến nỗi đói khổ.» (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương, chương cú thượng, tiết 7) Tứ thư, ngũ kinh còn cho rằng: làm chính trị phải biết thường xuyên kiểm điểm lai chương trình hoạt động, cũng như uy thế của chính quyền. Kiểm soát bằng cách: - Tuần thú. - Triều, sính. - Nghiên cứu dân ca, ca dao, đồng dao. - Nghe lời gián nghị. - Thu thập các lời phê bình. v.v. [16] Tóm lại chính trị xưa có mục đích làm cho dân: - No ấm. - Sống trong an bình trật tự hòa hợp. - Sống xứng đáng với danh nghĩa con người. - Biết hướng thượng, tiến tới tinh hoa, hoàn thiện. Khảo về nền chính trị của các bậc thánh vương xưa, ta thấy nó thực là cao siêu, toàn mỹ. Nó đi sâu vào gốc rễ của thần quyền thế quyền, đưa ra một lý thuyết trị dân rất là cao siêu, huyền dịu, rập đúng theo guồng máy âm dương của vũ trụ và tiết tấu của trăng sao, lại có mục đích giúp con người khai thác được những khả năng vô tận tiềm ẩn trong lòng mình và trong lòng vũ trụ. Nó xây nền đắp tảng trên vĩnh cửu tuyệt đối. Nói cách khác, nó đã lấy trời làm căn bản, đã coi nền chính trị là công cụ để cải hóa con người[17] lập ra những nguyên tắc căn bản cho các bậc quân vương dựa vào mà cai trị dân cho tuyệt hảo: thúc đẩy dân chúng làm lụng, tiết kiệm để trở nên giàu có, sung túc[18], tu nhân, tích đức[19] để trở nên người quân tử, nên hiền thánh vời nguyện vọng tha thiết là đem lại cho nhân dân an bình, thái thịnh, hạnh phúc cả về tinh thần lẫn vật chất[20], mục đích là làm cho mọi người trở nên hoàn thiện.[21] Như vậy mục đích của nó cũng tuyệt đối. Tiếc thay nền chính trị cổ thời với ý nghĩa cao đẹp ủa nó đã bị dục vọng con người và bụi bặm lịch sử che lấp hết mọi vẻ đẹp. Vương đạo biến dần sang Bá đạo: Nhân trị chuyển dần sang Pháp trị, nhân đạo dần dần nhường bước cho bạo tàn. Các vị đế vương thời sau, như Tần Thủy Hoàng, như Hán Cao Tổ đâu còn hiểu biết gì về những tế nhị, những tinh hoa của nền chính trị xưa. Tuy cũng mang danh là Thiên Tử, nhưng nào có hiểu Thiên Tử nghĩa là làm sao. Cho nên, chế độ vua chúa dần dà trở nên một mâu thuẫn trên lý thuyết, một gánh nặng trên thực tế đối nhân dân. Đến nỗi ngày nay, nhiều triết gia không còn hiểu nỗi được lý do sự tồn tại của nền quân chủ…[22] B. TỔ CHỨC XÃ HỘI THEO QUAN NIỆM THÁNH NHÂN NGÀY XƯA Trước hết, hiền thánh xưa quan niệm rằng con người sinh ra ở đời phải sống hợp quần với nhau, phải tương liên, tương trợ mới tốt. Quan niệm này đaã được đề cập đến ở nơi quẻ Tỉ trong Dịch kinh. Quẻ Tỉ chính là do hai chữ nhân (người) viết lộn trái lại và đi kèm theo nhau. Ta có thể tóm tắt quẻ Tỉ như sau: Tỉ là liên kết, hợp quần, là qui dân, tụ chúng. Con người sinh ra ở đời, phải sống đoàn kết với nhau, mới dễ mưu cầu hạnh phúc. Nhưng kết đoàn với nhau cần phải theo chính lý, chính nghĩa. Người trên phải có đức độ tài ba, thực lòng mưu cầu hạnh phúc cho dân. Người dưới phải hết lòng phụ bật người trên, trên dưới một lòng mới gây nên sự nghiệp lâu dài. Kiến An Khâu thị bình về quẻ Tỉ như sau: «Tiên vương xưa chia dân thành từng chòm xóm. Năm mười nhà canh tác trong cùng một cánh đồng, uống cùng một giếng nước, ra vào bè bạn với nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống thường nhật; phù trì nhau trong những lúc tật nguyền, thế cho nên được yên vui. Còn như để cho dân tan đàn, sẻ nghé, mỗi người bạc lạt mỗi ngã thì hung hạo không biết chừng nào.» (Xem Dịch Kinh Đại Toàn, nơi quẻ Tỉ). Thánh hiền xưa lại quan niệm rằng: Con người muốn sống hạnh phú, sung sướng không thể nào sống bừa phứa được, mà phải biết tuân theo những quy luật, những định tắc mà thiên nhiên đã phú bẩm cho mình. Con người sống trong thiên nhiên, phải biết sống thuận theo thời tiết, thủy thổ, mới có thể sống khỏe mạnh, sung sướng. Con người sống trong xã hội, cũng cần phải biết sống với tha nhân, cần phải chấp nhận những định tắc, những tiêu chuẩn mà tiền nhân, mà đại chúng, mà phong tục tập quán đã chấp nhận là hay, là phải mới tránh được những lỗi lầm, mới mong tạo được niềm hòa khí và sự thái thịnh chung. Con người sống không phải là để sống suông mà còn là để tiến hóa, để trở nên hoàn hảo ngày một hơn mãi. Tóm lại, con người sinh ra muốn có một cuộc sống hẳn hoi mạnh giải, có ý nghĩa, về phương diện cá nhân cũng như về phương diện xã hội, cần phải biết thuận theo những định luật thiên nhiên, những định luật sinh lý, tâm lý, xã hội. Về phương diện xã hội chẳng hạn người xưa đã cố gắngn rất nhiều để tìm cho ra những nguyên lý căn bản, những định luật thiên nhiên chi phối đời sống xã hội. 1/ NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN a) Người xưa lấy trời làm nền tảng cho mọi công cuộc xây dựng xã hội. Trong công cuộc trị dân, các thánh vương xưa rất quan tâm đến vấn đề tế tự. Các vị đế vương phụ trách việc tế lễ trời, còn dân chúng lo việc thờ cúng tổ tiên. Cử chỉ ấy nhắc nhở chúng dân đừng quên gốc gác của mình, cũng như đừng bao giờ quên rằng trời đã sinh ra mình.[23] Nó cũng nhắc nhở con người sinh ra không phải để mê mãi chuyện trần hoàn, mà thực ra cốt để trở nên hoàn thiện, tìm kiếm lại được đức trung (sự hoàn thiện) [24] cao quý mà trời đã phú cho, tìm lại được sự hoàn thiện nguyên thủy, để đi đến chỗ Phối Thiên, đến chỗ sống thánh thiện, kết hợp với Trời mà Kinnh Thi cũng như Trung Dung đã nhiều lần đề cập tới.[25] Như vậy đời sống mới có đầu đuôi mới có ý nghĩa.[26] Vả nếu không có trời, thì lấy gì làm nền tảng cho nền luân lý chính trị? Xuân Thu Tả Truyện, viện dẫn Kinh Thi để chứng minh điều đó[27] Kinh Thi viết: «Tại sao các người không kính sợ nhau? Thế là các người đã không kinh sợ Trời rồi vậy.» [28] Xuân Thu Tả Truyện cho rằng, Một người cầm quyền không bạo ngược với kẻ là vì kính sợ Trời vậy.[29] Chu Tụng viết: «Ta kính sợ oai trời, nên ta được trời bảo hộ.» [30] Lễ Ký viết: Vạn vật đều gốc gác ở trời, con người gốc gác ở tiên tổ, cho nên làm lễ Giao là để phối kết với Thượng đế, tỏ lòng tri ân với nguồn gốc của mình, và quay về cội rễ đầu tiên vậy.[31] b) Thiên tính con người toàn thiện. Người xưa quan niệm rằng: con người sinh ra đời đã được Trời phú bẩm cho một Thiên tính toàn thiện. Kinh Thi viết: «Trời sinh ra khắp muôn dân Vật nào phép nấy định phân rành rành Lòng dân đã sẵn căn lành, nên ưa những cái tinh thành, tốt tươi.» [32] Nhưng vì vật dục lôi cuốn, hoàn cảnh đẩy đưa, vì đói khát, vì dốt nát, on người dầ dà sa đọa vào vòng lầm lạc, tội lỗi. Tuy nhiên, thiên lương con người thực ra chỉ bị lu mờ đi, chứ không bao giờ bị pha phôi, hủy diệt, vì thế có thể dùng giáo hóa để cải thiện con người, phuc hồi thiên lương, thiên tính họ. Việc ấy chắc có thể thực hiện được. 2/ ÍT NHIỀU ĐỊNH LUẬT THIÊN NHIÊN CHI PHỐI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI a) Định luật tôn ti, trật tự trong xã hội. Dịch Kinh cho rằng: «Trời tôn quí, đất thấp hèn, Kiền Khôn hai quẻ âu liền định theo. Sự đời ao thấp tranh treo Nên trong hào quái có điều hèn sang.» [33] Như vậy, vũ trụ dùng trời đất, Dịch Kinh dùng âm dương, đã cho ta thấy rõ vạn vật, vạn loài đều có tôn ti. Hạ Dương viết: «Vạn vật đều có quí tiện, cao hạ, đại tiểu, tôn ti văn chất khác nhau. Thánh nhân chế phép tắc để mọi loài quí tiện cao hạ sống hợp với tính cách mình.» [34] Khang Hi, nơi quẻ Khôn, đã bình về lẽ tôn ti trong con người và trong xã hội như sau: Nơi con người thì Dương là «Tâm chi thần minh», Âm là ngũ quan, bá thể. Trong nhân luân thì Dương là vua là cha là chồng. Âm là bầy tôi là con là vợ. Tâm linh nhờ có tay chân mới vận động được; vua nhờ có tôi; chồng nhờ có vợ; cha nhờ có con, thì công việc mới chu toàn. «Ở nơi con người thì tứ chi, bà hài phải thuần phục tâm linh, trong xã hội tì thần tử, thê thiếp phải thuận phục quân phụ, hay phu quyền, như vậy xã hội mới có tôn ti, thể thống. Nếu ở con người tứ chi, tai mắt tự do theo sở dục, nếu trong xã hội thần tử, thê thiếp tự ý hành sự, nếu nơi nhân thân mà lý với dụcc giao tranh, nếu nơi xã hội mà công với tư va chạm thì mầm loạn lạc sẽ phát sinh…» [35] b) Định luật «Hiệt củ» 絜 矩, «suy bụng ta ra bụng người.» «Hiệt củ» nói nôm na là phép «Thước tấc». [36] Ta muốn gì thì người cũng muốn thế. Ta muốn người làm cho ta thế nào thì hãy làm cho mọi người như vậy. Cái gì ta không muốn thì đừng làm cho người. (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân). [37] Thay vì nói là «phép thước tấc», ngày nay ta có thể gọi phương châm «Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân» 己 所 不 欲 勿 施 於 人 là khuôn vàng, thước ngọc của nhân loại trong khi tiếp nhân, xử thế.[38] c) Định luật cảm ứng (Loi de l’influence réciproque) và định luật phản ứng dây chuyền (Loi des réactions en chaînes). Dựa vào những định luật này, các thánh hiền xưa cho rằng nếu một người mà hay có thể làm cho nhiều người trở nên hay; một người mà dở có thể làm ho nhiều người khác trở nên dở. Đại học viết: «Một nhà nhân đức có thể làm cho cả nước nhân đức; một nhà lễ nhượng có thể làm cho cả nước lễ nhượng. Một người tham nhũng có thể làm cho cả nước rối loạn. Cái cơ là như vậy. Vì thế có câu: Một lời có thể làm hư cả công việc; một người có thể làm yên cả đất nước.»[39] Đại học lại viết: «Nếu bậc quốc trưởng ở trên cung kính với cha mẹ, thì dân chúng ở dưới cảm động mà ăn ở hiếu thảo với cha mẹ. Nếu bậc quốc trưởng ở trên trọng kính huynh trưởng, thì dân chúng ở dưới cảm động mà ăn ở lễ nhượng với bậc đàn anh. Nếu bậc quốc trưởng ở trên thương xót kẻ côi cuút, thì dân chúng ở dưới sẽ cảm động mà thương giúp kẻ nghèo khổ, chẳng dám trái nghịch…»[40] Định luật này cũng còn áp dụng vào chính trị. Quí Khang Tử, đại phu nước Lỗ, hỏi đức Khổng về chính trị. Đức Khổng đáp: «Chính trị là làm cho dân trở nên ngay chính. Nay quan đại phu mà treo gương ngay chính, thì còn ai dám ăn ở bất chính?» [41] Ngài còn cho rằng người trên mà muốn làm điều lành, thì dân ắt nghe theo. Vì người quân tử như gió, mà tiểu nhân như cỏ. Gió thổi qua thì cỏ sẽ rạp xuống.[42] d) Định luật tâm vật hỗ tương ảnh hưởng (Loi de l’interaction psychosomatique) Người xưa cho rằng Tâm tình ảnh hưởng đến hình hài, ngoại cảnh. Ngược lại ngoại cảnh, hình hài cũng ảnh hưởng đến tâm tình. Đại học bàn về định luật «Tâm ảnh hưởng đến hình hài» như sau: «Giàu thời nhà cửa khang trang, Đức thời thân thể khang an rạng ngời. Lòng mà khinh thoát thảnh thơi. Rồi ra sẽ thấy hình hài tốt tươi.» (Đại học VI) KhổngTử gia ngữ bàn về ảnh hưởng của «vật, của ngoại cảnh, của hình hài đến tâm tình»: «Một hôm, Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử: “Giải mũ và áo chương phủ có ích lợi cho đạo nhân không?” Khổng Tử nghiêm sắc mặt mà thưa: “Sao vua lại nghĩ thế? Người mặt áo sô gai, chống gậy, chí không để đến sự vui, không phải là tại không nghe thấy, vì y phụ khiến như thế; người mặt cái phủ, cái phất, áo ổn, mũ miện, dáng điệu không nhờn, không phải là nguyên tính vốn trang nghiêm vì y phục khiến như thế; người đội mũ trụ mặc áo giáp, cầm cây giáo không có cái khí nhút nhát, không phải là vì thân thể vốn mạnh bạo, mà vì y phục khiến như thế…» (Khổng tử gia nghĩa, Hiếu sinh, X.) Chính vì vậy mà người lập ra những lễ nghi, hình thức bên ngoài để mong cảm hóa con người bên trong. 3/ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP, NHỮNG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH YẾU ĐỂ ĐEM YÊN VUI LẠI CHO XÃ HỘI a) Người xưa dùng Lễ Nghĩa trị dân, cải thiện dân, điều hòa đời sống xã hội. Lễ. Lễ là một danh từ hết sức hàm súc. Nó gồm rất nhiều ý nghĩa. - Lễ trước hết là một danh từ chung, bao quát hết mọi định luật tự nhiên chi phối vạn vật quần sinh (Ensemble des lois naturelles). - Lễ là nghi lễ, là tất cả bổn phận con người đối với trời đất, tổ tiên (Céremonies, rites religieux, rituel, céremonial). - Lễ là tất cả các qui luật chi phối sinh hoạt tâm thần con người (Lois morales). - Lễ là tất cả các cách tổ chức chính trị, xã hội (Oganisation politique et sociale). - Lễ là những cách cư xử, tiếp nhân, đối vật thanh lịch khéo léo. (Bonnes manières, convenances, décence, bonne tenue, bienséance, politesse, courtoisié). - Lễ là phong tục tập quán hay nói đúng hơn là tất cả những gì gọi là thuần phong mỹ tục (Usages et coutumes, tradition). Lễ ký, nơi thiên Lễ Vận, bình luận về Lễ như sau: «Lễ phát xuất tự trời, đem áp dụng ở dưới đất lồng vào trong mọi công việc, biến hóa theo thời gian, thích ứng với phương tiện và nghề nghiệp từng người. Ở nơi lòng người nó điều hòa và làm phát triển được mọi tính tình. Trong hành vi nó bao quát được mọi công việc, mậu dịch, lao tác, ngôn từ, ẩm thực, quan hôn, tang tế, xạ ngự, triều sính. «Lễ qui định cái gì hay, cái gì phải. Đối với con người nó rất là cần thiết. Nó giúp con người hiểu thế nào là nhân đức thật sự. Nó giúp con người nuôi kẻ sống, chôn kẻ chết, thờ quỷ thần, đạt thiên đạo, thuận nhân tình. Cho nên thánh nhân cho rằng con người phải biết Lễ. «Cho nên quốc phá, gia vong, trước hết là vì con người đã quên lễ nghĩa, quên bổn phận. «Thánh vương xưa lập ra qui tắc, lễ nghĩa để trị nhân tình. «Nhân tình như ruộng đất, mà lễ phép như cày bừa. Giảng điều hay, lẽ phải như gieo hạt: dạy dỗ, giáo hóa như làm ỏ, lấy nhân ái (đạo đức) để dạy dân, lấy âm nhạc để an dân… «Mục đích là đến chỗ đại hòa đại thuận.» (Lễ ký, Lễ vận, chương VII, tiết IV, mục 5,6,7 v.v…) Tóm lại mục đích của lễ là: - Nuôi dưỡng những tính tốt. - Ngăn chặn những tính xấu. - Điều hòa đời sống tình ảm, nhân tình. - Xác định tôn ti, thiện ác, thị phi. - Đem lại sự hòa hợp; ngăn chặn sự chia rẽ, loạn lạc. - Đào luyện cho con người thêm thanh lịch, thêm nhân cách… Nghĩa. Nghĩa là bổn phận chính yếu của mỗi một thành phần xã hội, trong khi giao tiếp đối đãi với nhau. Tiên vương xưa chia xã hội thành 10 thành phần như sau: Quân, Thần, Phụ, Tử, Phu, Phụ, Huynh, Đệ, Trưởng, Ấu. Mỗi hạng có một bổn phận khác nhau: - Quân nhân (Vua phải nhân). - Thần trung (Thần phải trung). - Phụ từ (Cha phải khoan từ). - Tử hiếu (Con phải hiếu thảo). - Huynh lương (Anh phải tốt lành). - Đệ đễ (Em phải kính thuận). - Phu nghĩa (Chồng phải chính đính). - Phụ thính (Vợ phải nghe lời chồng). - Trưởng huệ (Người lớn phải thi ân). - Ấu thuận (Người nhỏ phải vâng phục). Đó là thập nghĩa (Lễ Ký, Lễ vận, chương VIII, tiết 2, mục 19). Nếu ai ăn ở cho đúng phương vị, đúng bổn phận mình, thì thân tu, quốc trị, thiên hạ bình. (Luận ngữ, XII II). b) Người xưa dạy dân phải sống hòa hài cùng vũ trụ. Người xưa tổ chức đời sống xã hội cho dân con theo định tắc. «Thượng luật thiên thì, hạ tập thủy thổ.» «Trên thuận theo thời tời, dưới thuận theo thế đất.» (Trung dung XXX). Như vậy thánh nhân xưa dạy con người phải thích ứng với hoàn cảnh vật chất, tích cực khai thác hoàn cảnh vật chất để mà vui sống. Hoàn cảnh vật chất gồm có trời đất, nhị khí âm dương, nóng lạnh, sáng tối, thời tiết; có tinh, thần, nhật, nguyệt; có thảo, mộc, sơn, xuyên; có ngũ vị (Toan, Khổ, Tân, Hàm, Đạm) ; có ngũ âm (Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ) ; có ngũ sắc (Thanh, Hoàng, Xích, Bạch, Hắc). Cho nên con người phải dựa vào âm dương, thời tiết nóng lạnh vào bốn mùa mà tổ chức công việc, nhất là tổ chức công việc đồng áng tằm tơ. Phải biết tận dụng ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm để tài bồi cho đời mình càng ngày càng thêm đậm đà, ý vị, đẹp tươi. Lễ ký đã quảng luận vấn đề này rrất dài dòng nơi thiên lễ vận. c) Thánh hiền xưa dạy dân vui sống. Khảo kỹ lưỡng về các phong tục xưa ta thấy người xưa tuy phải làm lụng lắm lúc cũng hết sức vất vả, nhưng họ hết sức yêu đời và sống vui tươi. Nhiều tác giả Âu châu, khi khảo về phong tục Trung hoa xưa đã nhận thấy điều đó.[43] Kinh Thi có tất cả gồm 70 bài thơ diễm tình. Đọc lên ta thấy biết bao là tình ý của các cặp trai tài, gái sắc yêu nhau, hò hẹn nhau, nhớ thương nhau.[44] Thêm vào đó biết bao là cảnh hát đàn, hát đúm trong những đêm thanh gió mát hoặc trong những khi lao tác ngoài đồng… và biết bao là lễ, tết công cộng để dân có dịp chung vui. 4/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Mục đích của cuộc sống theo người xưa là để tiến tới hoàn thiện. - Hồng phạm, cửu trù, gọi thế là «Qui kỳ hữu cực»: Tiến tới cực điểm tinh hoa.[45] - Trung dung viết: «Hoàn toàn là đạo của trời, Trở nên hoàn thiện đạo người xưa nay.» [46] Theo từ ngữ Trung dung, tiến tời hoàn thiện tức là tiến tới Trung đạo. - Đại học viết: «Đại học có mục tiêu rõ rệt, Đuốc lương tâm cương quyết phát huy. Dạy dân lối sống tân kỳ, Chưa nơi hoàn thiện, còn đi chưa ngừng.» [47] - Trung dung cũng như sách Mạnh Tử đều cho rằng: «Sự hoàn thiện chính là (viễn đích của) con người.» «Nhân giả nhân dã.» [48]
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:04:54 GMT 9
C. TỔNG LUẬN Về phương diện chính trị, ta thấy rằng: Các bậc thánh vương xưa lên trị nước không phải là để hưởng thụ, để buông thả cho dục tình tha hồ phóng túng, nhưng chính là để tuân theo ý trời, tuân theo những định luật thiên nhiên của trời đất và của nhân loại, để mà hướng dẫn dân con. Chính vì thế mà các ngài thời thường yêu cầu đình thần và dân chúng đàn hạch, kiểm thảo hành vi hoạt động của mình.[49] Các ngài hứa đem an bình lại cho dân, nhưng không hứa suông mà lại dạy dân phải thực hiện an bình bằng cách tu thân, bằng cách tôn trọng tam cương ngũ thường, giữ vẹn tín nghĩa, trọng đức khinh tài v.v…Thế tức là dạy dân biết tự trọng, biết tự tạo cho mình một nền hòa bình an lạc do tài đức của mọi người, chớ không phải ngồi không ăn sẳn, ỷ lại chờ trời đổ an bình xuống cho mình, như đổ mưa mốc xuống cho cây cỏ. Vẻ đẹp khác ccủa nền chính trị xưa là cố gắng hòa hợp động tác con người với sự vận chuyển của các tinh cầu, sự vận động của vũ trụ, sự biến hóa của bốn mùa.[50] Trong bài này tôi đã chứng minh rằng tổ chức chính trị củaa các thánh vương xưa đã được xây trên nền tảng vĩnh cữu. Nói cách khác nó đã lấy trời làm căn bản, đã coi nền chính trị như là một công cụ để cải hóa con người.[51] Các thánh vương xưa đã cố công lập ra những nguyên tắc căn bản cho các vua chúa sau dựa vào để mà cai trị dân cho tuyệt hảo. Các ngài thúc đẩy dân chúng làm lụng, tiết kiệm để trở nên giàu có, sung túc,[52] tu nhân tích đức[53] để trở nên những chính nhân, quân tử, nên hiền thánh. Các ngài tha thiết ước mong đem lại ho nhân dân an bình, thái thịnh, hạnh phúc, cả về tinh thần lẫn vật chất, mục đích là cho mọi người trở nên hoàn thiện.[54] Về phương diện xã hội, ta thấy người xưa qui định xã hội thành 3 thành phần khác nhau: 1) Thành phần vô hình. Đó chính là thượng đế, Thần minh và Tiên tổ. Thành phần vô hình này chính là thành phần gốc gác căn cơ không thể nào quên lãng được. Vì thế mới có lễ Giao, lễ Xã, lễ Thường, lễ Đế (Trung dung chương XIX) và Xuân thu nhị kỳ, có lệ tế lễ nơi tông miếu (Trung Dung XIX) 2) Thành phần xã hội hữu hình: đó là mọi người đang sống. Điều cốt yếu là làm sao cho mọi người: - No đủ. - Bình an. - Vui sống. - Sống đúng theo nhân luân, sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Luận ngữ, XII, II) 3) Thành phần hoàn cảnh vật chất: mà con người cần phải biết thích ứng và khai thác để mà sống cho hẳn hoi, sung sướng. Tóm lại người xưa quan niệm rằng: Con người sinh ra ở đời không phải muốn tự do làm gì thì làm mà phải tuân theo các định luật thiên nhiên, các định luật sinh lý, tâm lý, nhân sinh và các định luật giao tế, xã hội. Có tuân theo các định luật thiên nhiên, chúng ta mới tạo được cho mình một đời sống lý sự đẹp tươi, vui, tạo cho mọi người một đời sống xã hội an bình, hòa hợp. Đó là điều kiện căn bản để tiến tới chân, thiện, mỹ… CHÚ THÍCH [1] Đã đăng Tập san Minh Đức, số 4, tháng 1&2 năm 1973. [2] Sun-Yat-Sen, dans ses mémoires, répète: «N’oublie pas le passé, qu’il soit ton maitre dans l’avenir.» (Jean A. Keim, Panorama de la ChineHachétte, 1915, p.41.) [3] The Three Principles of the People is, so to speak, the most well rounded form of expression of the Chinese heritage. In order to understand China, it is advisable that you first explore this typical Chinese ideology. Chang Chi Yun, How to understand China, Chinese Culture, a Quarterly Review, Institute for advance Chinese Studies (P.O.Box Yang Ming Shan, Taiwan) Volume V, No. 3, march 1964, p.1. [4] Dans sa théorie économique chinoise, Tchiang Kai Chek s’appuie sur la doctrine de Kouang Choun, premier ministre du prince de Ts’i au VIIè siècle avant Jésus Christ, et sur les mesures prises par Wang Ngan Che, Premier ministre de Song au XIè siècle. - J. A. Keim, Panorama de la Chine, Hachette 1951, p.41. [5] Mao Tse Tung lui-même, dans ses mémories militaires étudie la tactique des gures durant les époques de «Printemps et de l’Automne» et des Royaumes Combattants qui datent de plus de 2000 ans. - J. A. Keim, Panorama de la Chine, p.41. [6] Thư viết: Thiên giáng hạ dân, tác vi quân, tác chi sư, duy viết kỳ trợ. Thượng đế sủng chi tứ phương. (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương hạ, đoạn 3.) [7] Xem Trung Dung chương 20. – Xem Kinh Thư, Thiên «Hồng Phạm Cửu Trù» tiết 9. Xem Kinh Thư, Thiên «Trọng Hủy chi cáo», tiết 2: «Trời sinh dân có lòng dục, nếu không có chủ tất loạn.Thế nên Trời sinh ra những người thông minh có bổn phận hướng dẫn kẻ khác.» Xem Kinh Thư, Thiên «Thang cáo», tiết 6: «Trời khiến ta mang lại đoàn kết và an ninh tới cho gia đình, cho quốc gia các bạn.» Xem Nguyễn Văn Thọ, Chân Dung Khổng Tử, tr.302 trở đi. [8] Xem Nguyễn Văn Thọ, Khổng học tinh hoa, tr.88. Xem James Legge, The Shoo king, p.332, notes. [9] Xem Kinh Thư, Hồng phạm cửu trù. Kinh Thư, Thái thệ, tiết 3. [10] Chính giả chính dã. (Luận ngữ, chương XII, 16. -Lễ ký, Ai công vấn, tiết 7) -Nhân giả nhân dã. (Trung dung, chương XX) -Hội kỳ hữu cực, qui kì hữu cực, (Kinh Thư, Thiên Hồng Phạm, tiết 13) [11] Vi chính tiên lễ. Lễ kỳ chính chi bản dư? (Lễ ký, Ai công vấn, tiết 11) …men; when raised above the prressure of want, are likely, may be expected to cultivate the morral virtures. (James Legge, the Shoo King, p.333, note 13) [12] Ái dữ kính, kỳ kính chi bản dã. (Lễ ký, Ai công vấn; tiết 9) [13] Luận ngữ, XII,16: «Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thượng chi phong tất yển.» 君 子 之 德 風, 小 人 之 德 草. 草 上 之 風 必 偃. - Mạnh tử, Đằng văn công thượng, 2: «Thị cố, hiền quân tất cung kiệm, lễ hạ; thủ ư dân hữu chế.» 是 故, 賢 君 必 恭 儉, 禮 下; 取 於 民 有 制 (Vậy nên các vua hiền thì giữ mình khiêm cung, ăn xài tiết kiệm có lễ độ với kẻ bầy tôi và lấy thuế của dân có chừng mực.) - Mạnh tử, Đằng văn công thượng, 23: «Nhân luân minh ư thượng, tiểu dân thân ư hạ.» 人 倫 明 於 上, 小 民 親 於 下 (Nếu người trên biết rõ và giữ được nhân luân, thời người dân ở dưới sẽ thân mến và hòa mục với nhau.) [14] Thiên thị tự ngã dân thị, Thiên thính tự ngã dân thính. KINH THƯ Thái thệ trung, 7) -Dân chi sở dục. Thiên tất tòng chi. KINH THƯ Thái thệ thượng, II) -Duy Thiên huệ dân duy tích phụng Thiên (Thái thệ trung, 4) [15] Cố hữu ngôn viết: nhân vô ư thủy giám, đương ư dân giám. (Kinh thư, Tửu cáo, tiết 2) [16] Trí gián cổ; lập báng mộc. (Textes historiques của Wieger trang 31) - Xem Wieger, Textes historiques, Tome I, p.88-89. - Xem Khổng học tinh hoa của tác giả, trang 95, chú thícch 1 và 2. - Xem Kinh thư, Dân chính, tiết 3. - Xem xuân Thu Tả Truyện, Tương công năm XIV. [17] Chính giả chính dã. 政 者 正 也 (Luận ngữ XXI: 6. - Lễ ký, Ai công vấn, tiết 7) [18] Đại học chương X. [19] Đại học chương I. [20] «Hoàn thành không những riêng mình. Rồi ra hoàn thiện quần sinh muôn loài. Hoàn thành mình là người nhân đức, Tác thành vật là bậc thông minh. Thiên nhiên tự tính uy linh, Trong ngoài hai mặt, một mình quán thâu.» (Trung dung, chương XXV) [21] Đại hoc chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện. 大 學 之 道, 在 明 明 德, 在 親 民, 在 止 於 至 善 (Đại học, chương I) …Fifth, of royal perfection. - The sovereign having established his highest point of excellence, he concentrates in himself the five happinesses, and then diffuses them so as to give them to his people… James Legge, The Shoo king, p.328. …This amplification of the Royal perfection contains the un changing rule, and is the great lesson: yea, it is the lesson of God. All the multitudes, instructed in this amplification of the perfect excellence, and carrying it into pratice, will approximate to the glory of the son of Heaven… [22] Xem Nguyễn Văn Thọ, Khổng học tinh hoa, tr.327. [23] …Les sacrifices par lesquels l’homme remontant à l’origine et à la source, remercie des biens recus. Cf. Léon Wieger, TEXTES HISTORIQUES Chapitre II, La Grande Règle p.29. [24] Duy Hoàng Thượng đế giáng trung vu hạ dân. Nhược hữu hằng tính khắc tuy quyết du duy Hậu. (Kinh Thư, Thang cáo). [25] Cố viết phối Thiên, (Trung Dung XXX) -Vĩnh ngôn phối mệnh, (Kinh Thi, Đại Nhã, văn Vương). [26] Vật hữu bản mạt, sự hữu chung thủy (Đại học chương I). [27] XUÂN THU, TẢ TRUYỆN,Văn công năm thứ XV (Xem XUÂN THU TẢ TRUYỆN, Conveur dịch quyển 1, tr.531) [28] Xem KINH THI, Tiểu Nhã, Kỳ phụ, Vũ vô chính, chương 3 «Hề bất tương úy, bất úy vu Thiên». [29] XUÂN THU, TẢ TRUYỆN, Văn công năm XV, Couvreur quyển I, tr.531. [30] KINH THI, Chu tụng, thơ VII, Ngã tương, chương 3, «úy Thiên chi uy, vu thời bảo chi». [31] Vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ tổ. Thử sở dĩ phối Thượng đế dã. Giao chi tế dã, đại báo bản phản thủy dã. 萬 物 本 乎 天, 人 本 乎 祖. 此 所 以 配 上 帝 也. 郊 之 祭 也, 大 報 本 反 始 也. LỄ KÝ, Giao đặc sinh, tiết 8. [32] Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc. Dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức. 天 生 蒸 民, 有 物 有 則; 民 之 秉 彝, 好 是 懿 德 - (KINH THI, Đại Nhã, Chưng dân). Xem thêm MẠNH TỬ Cáo tụ thượng tiết 1,2,3,4. [33] Thiên tôn địa ti, Kiền khôn định hĩ, Cao ti dĩ trần, quí tiện vị hĩ. 天 尊 地 卑, 乾 坤 定矣. 卑 高 以 陳, 貴 賤 位 矣. (DỊCH KINH, Hệ từ thượng, chương I) [34] Vạn vật quí tiện cao hạ, tiểu đại, văn hất các hữu kỳ thể…thánh nhân chế pháp thể thử vạn vật, sử cao hạ quí tiện các đắc kỳ nghi… (LỄ KÝ, Tựa) [35] Xem Dịch Kinh Đại Toàn, Quẻ Khôn, Ngự án. [36] Đại Học, chương IX. [37] Luận Ngữ, Vệ Linh Công XV tiết 23. [38] Các dịch giả Pháp gọi là La règle de la réciprocité hay là Règle d’or. [39] Đại học chương IX. [40] Đại học chương IX. [41] Luận Ngữ, chương XII, tiết 16. [42] Luận Ngữ, chương XII, tiết 17,18. [43] Cf. Herrlee Glessner Creel, THE BIRTH OF CHINA, Jonathan Capé, Thirty Bedford square London 1936, Chpter XXIV, The enjoyment of life, pp.319 ff. Jean A.Keim, PANORAMA DE LA CHINE, Hachette, 1951, Chapitrre VII, La joie de vivre. [44] Marcel Granet FÊTES ET CHANSONS ANIENNES DE LA CHINE, Paris Librairie Ernest Lerroux, 1929. - Marcel Granet, DANSES ET LÉGENDES DE LA CHINE ANCIENNE, Paris Librrairie Felix Alcan, 1926. Các bài thơ trữ tình trong Kinh Thi: CHU NAM: Quan Thư. - Quyển nhĩ. - Chung tư. - Đào yêu. -Phù dĩ. - Hán quảng. THIỆU NAM: Thước sào. -Thái phiền. - Thảo trùng. - Hành lộ. - An kỳ lôi. - Biểu hữu mai. - Tiểu tinh. - Dã hữu tử khuân. -Hà bỉ nùng hĩ. BỘI PHONG: Bào hữu khổ diệp. -Cốc phong. -bắc phong. - Tình nữ. DUNG PHONG: Tang trung. - Thuần chi bôn bôn. - Đế đống. VỆ PHONG: Manh. - Trúc can. - Hà quảng. - Mộc qua. VƯƠNG PHONG: Thái cát. - Đại xa. - Khâu trung hữu ma. TRỊNH PHONG: Tương trọng tử. - Tử vân đại lộ. - Nữ viết kê minh. - Hữu nữ đồng xa. - Sơn hữu phù tô. - Thác hề. -Giảo đồng. - Khiên thường. - Phong. - Phong vũ. - Tử khâm. - Dương chi thủy. - Xuất kỳ đông môn. - Dã hữu man thảo. - Trân, Vĩ. TỀ PHONG: Đông phương chi nhật. ĐƯỜNG PHONG: Trù Mậu. - Hữu đệ chi đỗ. - Cát sinh. TẦN PHONG: Kiêm gia. - Thần phong. TRẦN PHONG: Uyển khâu. - Đông môn chi phần. - Hoành môn. - Đông môn chi trì. - Đông môn chi dương. - Phòng hữu thước sào. - Trạch bi. CỐI PHONG: Thấp hữu trường sở. TÀO PHONG: Phù du. - Hậu nhân. BÀN PHONG: Thất nguyệt. - Đông sơn. - Phạt kha… TIỂU NHÃ: Tinh tinh giả nga. - Xa hạt. - Thái lục. - Thấp tang. [45] Xem Hồng phạm cửu trù (trong KINH THƯ) nơi tiết Hoàng Cực. [46] Thành giả thiên chi đạo dã. Thành chi giả nhân chi đạo dã. (Trung Dung chương XX) - Thành giả…Trung dung trung đạo. (Trung Dung chương 20) [47] Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện. (Đại học chương 1) [48] Nhân giả nhân dã. (Trung Dung chương 20) (Mạnh Tử, Tân tâm chương cú hạ, tiết 16) Nhân, nhân tâm dã (mạnh Tử, Cáo tử chương cú thượng tiết 11) [49] Xem Kinh Thư. -Duyệt mệnh thượng, tiết 5,6. [50] Xem Lễ ký nguyệt lệnh. [51] Luận Ngữ, XII, 16. [52] Đại học chương X. -Luận ngữ: XIII, 9. [53] Đại học I. [54] Đại học chương I. Hồng phạm cửu trù: «Ngũ viết Hoàng cực.» Bị chú. Bài này một phần lớn đã được trích ra từ 2 quyển: Khổng Học Tinh Hoa và Chân Dung Khổng Tử của tác giả.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:06:46 GMT 9
MẠN ĐÀM VỀ VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC [1] Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ V ấn đề giáo dục và vấn đề văn hóa có liên quan mật thiế với nhau, nên đã bàn về văn hóa tất nhiên phải đề cập đến giáo dục; ngược lại, đã đề cập đến vấn đề giáo dục tất nhiên phải đề cập đến vấn đề văn hóa.[2] Văn hóa và giáo dục có thể nói được là hai chiều, hai mặt của một vấn đề. I. SO SÁNH MỘT VÀI ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC Văn hóa có thể hiểu được là lề lối sống riêng biệt của một dân tộc, với tất cả những gì hay, đẹp của nó, từ tín ngưỡng, tâm tư, tư tưởng, đến cách tiếp nhân, xử thế thường nhật.[3] Một trong những mục phiêu của nền giáo dục làcho dân con hấp thụ được những cái hay, cái đẹp của truyền thống văn hóa ấy.[4] Văn hóa cũng có thể hiểu được là sự đào luyện con người để con người trở nên thanh lịch.[5] Mục đích chính yếu của một nền giáo dục chân chính thực ra cũng phải như vậy.[6] Cũng vì thế mà trong tiếng Đức chữ Bildung, trong tiếng Hi Lạp chữ Padeia, vừa có nghĩa là văn hóa vừa có nghĩa là giáo dục. Văn hóa cũng có nghĩa là nỗ lực để vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.[7] Giáo dục cũng chính là công trình đoàn luyện con ngưới, để giúp họ tiến tới Chân, Thiện, Mỹ.[8] II. THỜI NAY VẤN ĐỀ VĂN HÓA, GIÁO DỤC TRỞ NÊN PHỨC TẠP Ngày xưa, vấn đề giáo dục tương đối dễ, vì văn hóa trong một nước thuần nhất, không bác tạp, pha phách như ngày nay. Đàng khác, những đòi hỏi về vật chất, ngoại cảnh cũng không cấp bách như ngày nay. Ngược lại, ngày nay chúng ta đang sống trong một thời kỳ hết sức phức tạp, văn hóa Đông Tây tranh giành ảnh hưởng với nhau; những đòi hỏi của hoàn cảnh và thời thế nhiều khi trở nên hết sức cấp bách, vì thế nên các bậc thức giả có trách nhiệm lèo lái đường hướng văn hóa giáo dục nhiều khi cũng đâm rối rít, không còn biết xoay sở ra sao, không biết nên theo Đông hay theo Tây cho đúng điệu. Sự băn khoăn, thắc mắc ấy đã được thể hiện trong thực tế bằng những khuynh hướng văn hóa hết sức khác biệt nhau. Nhìn bao quát đường hướng văn hóa giáo dục ở các nước Đông Á trong khoảng 40-50 năm gần đây, ta thấy có 4 phong trào chính yếu sau đây: 1. Phong trào phục hưng các giá trị văn hóa cổ truyền, hoặc Phật giáo, hoặc Khổng giáo, hoặc tam giáo (Nho, Thích, Lão).[9] 2. Phong trào dung hòa Âu Á. Phong trào này đề xướng cần phải theo văn hóa Á Châu trên bình diện tinh thần và khoa học, kỹ thuật Âu Châu trên bình diện vật chất, khẩu hiệu là «Á đạo, Âu thuật».[10] 3. Phong trào thoát Á, nhập Âu. Phong trào này nhất quyết theo văn minh Âu Châu, gạt bỏ hẳn mọi nền văn hóa Á Châu mà họ cho là lạc hậu.[11] Ở nước ta, Hoàng Đạo đã có thời kỳ cổ súy phong trào này trong quyển Mười điều tâm niệm. 4. Phong trào tuyên truyền và cổ súy chủ nghĩa Mác-xít. Phong trào này đả kích hết mọi nền văn hóa Á Âu khác, chỉ suy tôn có nền văn hóa Mác-xít.[12] Ở Việt Nam chúng ta ngày nay, lớp người đứng tuổi và các bậc lão thành đều muốn phục hồi lại những giá trị tinh thần cố hữu của dân tộc, còn thanh niên thì đa số chạy theo nền văn minh Âu Mỹ. Ông Tam Điểm trong bài Kết luận cuộc vận động Phật giáo đăng trong Đất Nước số 5, tháng 6 và 7 - 1968, đã viết: «Đầu óc chúng ta đã thay đổi lối suy nghĩ và sự thay đổi nhiều khi cực đoan đến chỗ chúng ta chủ trương đoạn tuyệt quá khứ, xưng tụng theo mới, hoàn toàn theo mới. Các ý niệm Tây phương đã thay thế các ý niệm cổ truyền một cách toàn diện: đối với đa số thanh niên đô thị, không có vấn đề phê bình văn minh Tây phương, chỉ có vấn đề ồn ào bắt chước, cóp nhặt, theo đuổi. Trong giới trí thức, tiêu chuẩn của sự tiến bộ và khác biệt là sự học đòi Tây-Mỹ sớm hay muộn, cái mới nhất hay cái cổ điển nhất. Người ta đặt những câu hỏi đại loại: Dân chủ kiểu Mỹ hay kiểu Pháp, phát triển kiểu Nhật hay kiểu Nga. Không ai có thể nghĩ đến một kiểu Việt Nam.» Đó là một nhận định đáng buồn nhưng không xa thực tế là bao. III. MUỐN LÀM VĂN HÓA GIÁO DỤC CẦN PHẢI BIẾT NHỮNG ĐỊNH LUẬT CHI PHỐI ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI Đứng trước một thực tế phiền tạp như vậy, việc trước tiên của chúng ta là phải có một cái nhìn bao quát, sáng tỏ về văn hóa và giáo dục, nhiên hậu mới tìm ra được một đường lối thích đáng. Các nền văn hóa xưa và nay - kể cả các đạo giáo và các nền triết học - chung qui chỉ có mục đích dạy ta: - Làm thần minh, làm thánh hiền, tiên, phật (Dei cultura hay Dei cultus).[13] - Làm người (Animi cultura hay animi cultus).[14] - Làm ăn (Agri cultura hay agri cultus).[15] Muốn làm thần minh, làm thánh hiền, phải biết luyện thần, phải sống một cuộc đời siêu phàm, thoát tục. Vấn đề này dĩ nhiên là khó, và xưa nay chỉ có một số rất ít người theo được mà thôi. Còn lại hai vấn đề: Làm người và làm ăn. - Muốn làm người cho xứng đáng với danh hiệu làm người, cần phải luyện tâm, luyện trí. Luyện tâm để trở nên người thanh lịch, khoan quảng, hòa nhã, liêm minh, nghĩa khí, biết tiếp nhân xử kỷ cho phải đạo làm người. Luyện trí để trở nên thông minh, tinh tế, biết nghĩ, biết suy, biết đàng đối phó với hoàn cảnh cho hay cho phải. - Muốn làm ăn cần phải biết nghề nghiệp, biết cách khai thác ngoại cảnh. Đó là mọi phương tiện để kiếm ăn, kiếm tiền, ngõ hầu có một đời sống vật chất khả quan. Muốn dạy người làm ăn, chỉ cần huấn luyện khối óc và đôi tay họ. Do đó có tác giả đã tóm tắt chương trình giáo dục như sau: - Giáo dục con tim. - Giáo dục khối óc. - Giáo dục đôi tay.[16] Ngoài ra, văn hóa cũng như giáo dục đều dựa vào niềm tin này là: - Con người có mầm mộng hoàn thiện; nói cách khác, con người có thể trở nên hoàn thiện. - Con người muốn trở nên hoàn thiện phải được dạy dỗ và biết cách tu luyện, cũng như viên ngọc có được dũa mài mới trở nên giá trị, đẹp đẽ. Chung qui, văn hóa và giáo dục cốt là đưa con người lên tới chỗ tinh hoa, hoàn thiện, hạnh phúc. Nhưng trước khi đạt tới mục phiêu tối hậu ấy, con người phải giải quyết một cách ổn thỏa được mọi vấn đề: + cơm áo. + thích ứng với hoàn cảnh, chế ngự được ngoại cảnh. + thích ứng được với tha nhân: hòa đồng, cộng tác được với tha nhân trong một xã hội công bình, bác ái, có tổ chức, và phải có: + một xác thân tráng kiện. + một khối óc mẫn tiệp. + một con tim thanh lịch, hào hùng, bao dung, khoan quảng. + một tâm thần hư linh, bất muội. Tóm lại, nhà văn hóa, giáo dục phải giúp cho con người: 1. Thích ứng được với hoàn cảnh. 2. Tiến hóa để đi đến lý tưởng, đến Chân, Thiện, Mỹ. Khi chúng ta đã nắm vững được những đường hướng văn hóa xưa nay là như vậy rồi, những định luật chi phối đời sống con người cũng như sự tiến hóa con người rồi,ta liền trông thấy mục đích của các nền giáo dục xưa nay. IV. NỀN GIÁO DỤC XƯA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NÓ Nền giáo dục xưa của Đông cũng như Tây cốt là đào tạo con người để họ trở nên những mẫu người quân tử, những con người thanh lịch, những con người có khả năng lãnh đạo quốc gia. A. Nền giáo dục xưa ở Á Châu (Khổng giáo) Xét công trình Khổng giáo xưa, ta thấy nó cốt dạy con người: - Biết đạo lý. - Biết ý nghĩa cuộc đời. - Biết cách đào luyện tâm tyrí, tu dưỡng tinh thần, trau dồi nhân cách. - Tóm lại, cải thiện, cải hóa tâm thần để đi đến tinh hoa cao đạo.[17] Vì thế, chữ giáo thường đi đôi với chữ hóa. Thoán Truyện quẻ Mông viết: «Ta đây dạy dỗ mầm non, Cốt là nuôi dưỡng, bảo tồn tinh hoa. Khải mông, dưỡng chính bôn ba, Dưỡng nuôi chính khí mới là thánh công.»[18] Đức Khổng xưa dạy học trò cũng không ngoài mục đích đó. Vì thế, ngài không dạy nghề làm ruộng, làm vườn (Luận Ngữ, 13-4) không dạy cách cầm quân đánh giặc (Luận Ngữ, 15) mà chỉ chuyên dạy cách làm người, làm thánh hiền (Luận Ngữ, 19-7). Nói theo từ ngữ bây giờ, ngài không dạy khoa học, kỹ thuật , binh bị, mà chỉ dạy chính trị, triết lý, luân lý, đạo lý. Mục đích của công trình giáo dục ấy đã nhiều lần được trình bày trong Luận Ngữ. Luận Ngữ viết: «Bá công có hành nghề mới nên công. Quân tử có học vấn mới thấu triệt đạo lý.» (Luận Ngữ, 19-7) Và ngay nơi chương đầu sách, Luận Ngữ cũng cho ta biết rõ ràng về mục đích của sự học đời xưa: «Học cốt là để biết hiếu đễ, cẩn tín, yêu người, trọng đức, chứ không phải chỉ học văn chương suông.» (Luận Ngữ, 1-6) «Học cốt là để biết cách ăn ở cho vẹn hiếu, vẹn trung, vẹn tình, vẹn nghĩa.» (Luận Ngữ, 1-7) Khổng giáo xưa dùng Lục Kinh để giáo hóa: * Dùng Kinh Thi để dạy cho con người có hồn thơ, biết yêu đời, biết sống ôn nhu, đôn hậu. * Dùng Kinh Nhạc để dạy con người hiểu xa biết rộng, biết phóng tầm mắt nhìn được về cả một quá vãng xa xăm. * Dùng Kinh Dịch để dạy cho con người biết sống khiết tịnh, tinh vi, tế nhị, biết thích ứng với hoàn cảnh và thời thế. * Dùng Kinh Lễ dạy cho con người biết sống khiêm cung, cần kiệm lễ độ, biết kính trên nhường dưới, để xã hội đi đến chỗ đại hòa đại thuận. * Dùng Kinh Xuân Thu để dạy cho con người có óc phán đoán tinh tế.[19] Sách Chu Quan cho rằng giáo dục xưa cốt dạy người: + Lục đức: . Trí (trí huệ, khôn ngoan) . Nhân (nhân đức, bác ái) . Thánh (thánh thiện) . Nghĩa (nghĩa lý, cư xử đúng theo nghĩa lý, nhiệm vụ và lý tưởng) . Trung (sự hoàn thiện) . Hòa (sự thanh thản quân bình, hòa hợp tự nhiên) + Lục hạnh: . Hiếu (hiếu thảo đối với cha mẹ) . Hữu (vẹn tình bè bạn) . Mục (hòa thuận với mọi ngưới) . Nhân (vẹn nghĩa họ hàng) . Nhâm (thành khẩn, có tinh thần trách nhiệm) . Tuất (biết thương xót người)[20] + Lục nghệ: Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số . Học Lễ tức là học những phương thức, qui mô để sống một đời sống xứng đáng. . Học Nhạc cho tâm thần trở nên trang nhã, hồn nhiên, sống cảm thông, hòa hợp được với vũ trụ và tha nhân. . Học Xạ (bắn cung) để tập cho tâm thần được trở nên chính trực, biết tập trung, khỏi tản mạn. . Học Ngự (đánh xe) để tập cho con người bình tĩnh, và biết điều hòa các động tác cho khéo léo. . Học Thư (sách vở) tức là học văn chương, nghĩa lý, đạo lý. . Học toán số là học cho biết tính toán, suy luận. Như vậy cái học xưa của Á Đông là học hỏi để làm thánh hiền. làm chính nhân quân tử. Ta có bài hát ru em cũng phản ảnh được phần nào tinh thần và đường lối ấy. Nó bắt đầu như sau: «Hạ hơi hơi, hạ hời hời, Học là học đạo làm người, Làm người phải biết lẽ trờidám sai. Làm trai cho đáng nên trai, Chớ đừng đi nghịch cho phai lòng vàng…» Trình Tử bình luận về mục đích rốt ráo của sự học người xưa như sau: «Người thường (thường nhân) phải học hỏi để tiến dần từ bên ngoài vào nội tâm. Học cốt để biết tâm mình, biết đường lối tâm hồn phải noi theo, rồi ra sẽ hết sức noi theo đường lối ấy cho đến kỳ cùng, thế gọi là đi từ biết đi đến hoàn thiện. Cho nên học cần phải «Tận kỳ tâm, tri kỳ tính», rồi ra mới cố gắng thực hiện được sự hoàn thiện và nên danh thánh nhân vậy…» [21] B. Nền giáo dục xưa ở Âu Châu Đường hướng giáo dục ở Âu Châu từ thời Trung Cổ cho đến thế kỷ XIX cũng muốn đoàn luyện con người, cho họ trở thành những mẫu người lý tưởng, cho họ hấp thụ được những cái hay, cái đẹp của tiền nhân. Học văn chương, văn học (humanisme, humanités) chính là học lấy tinh hoa nhân loại (humanité).[22] Âu Châu thời Trung Cổ có: + Tam khoa (Trivium): . Văn phạm (Grammaire) . Hành văn (Rhétorique) . Biện luận (Dialectique) + Tứ thuật (Quadrivium): . Nhạc (Musique) . Toán học (Arithmétique) . Hình học (Géométrie) . Thiên văn (Astronomie) Cho đến một thời gian gần đây, chương trình Trung học còn là như sau: - 3 hay 4 năm học Văn phạm (Classes de grammaire) - 1 năm Văn chương (Classe d’humanités) - 1 năm học hành văn diễn thuyết (Classe de Rhétorique) Tựu chung, mục đích giáo dục của người Âu Châu xưa cũng là đào tạo cho dân con trở nên những người biết ăn, biết nói, biết suy luận; biết thưởng thức cái hay, cái đẹp; biết nghĩa lý đạo đức; biết đường tiếp nhân xử kỷ, trở nên tinh hoa nhân loại. Có cái lạ là bên Đông cũng như bên Tây, xưa chỉ dạy dân cho nên người, chứ không dạy dân làm thầy, làm thợ; chỉ chú trọng đến văn hóa, nghệ thuật, mà sao nhãng khoa học, kỹ thuật. Như vậy, giáo dục xưa thiếu hẳn vấn đề hướng nghệ, huấn nghệ. Vả lại, tuy rằng mới đầu mục đích được đặt ra là học nghĩa lý, học đạo lý, học làm người, như người ta thường nói: «Tiên học lễ, hậu học văn.» nhưng dần dà từ chương lấn át nghĩa lý. Người ta đi học để làm quan hay để biết làm thơ phú, biết ngâm thơ, vịnh nguyệt, v.v. Lỗi lầm này theo đà thời gian, cả Đông lẫn Tây đều mắc phải. Thay vì học để làm người, người ta học để làm quan. Bài hát ru em của ta cũng có một đoạn như sau: «Ngoan, ngoan, ngoan thực là ngoan, Bé cần học, lớn làm quan, Khắp triều chu tử [23] đều làng Thi Thư.[24] Chèo thuyền đến bến thày Chu,[25] Bút nghiên là dấu võng dù cân đai, Rõ bảng rõ bài, Tranh khôi đoạt giáp dễ nhường ai…» (Hát ru em) Chu Hi xưa cũng đã sớm nhận thấy sự sa đọa ấy. Ông viết: «Từ khi phép học để trở nên thánh hiền không còn được truyền tụng, các học giả không biết đến lý do của sự học, mà chỉ học từ chương, học chú thích, học thuộc lòng. Do đó sách vở ngày một nhiều, mà nghĩa lý ngày càng mờ tối, học hành ngày một vất vả mà tâm hồn ngày một phóng đãng; văn chương ngày một cao mà thực hành, trau dồi đức hạnh ngày một hết.» [26] Chính vì thế mà ở Âu Châu, từ thế kỷ XIX; ở Á Đông từ khi ta bị lọt vào vòng thống trị của Âu Châu, người ta bắt đầu chỉ trích nền giáo dục cũ. Người ta cho nó là hẹp hòi, chỉ đào tạo nên được một số quyền chức, chứ không phổ cập đến toàn dân. Lý do là vì muốn học những «tử ngữ» như La Tinh, Hi Lạp, Hán Văn, người ta phải mất nhiều năm mới mong đọc nổi sách thánh hiền, đọc nổi sách về tư tưởng. Người ta cho nó là viễn dụng, không thực tế và cho rằng học xem Khổng Tử, xem Cicéron nói gì không ích lợi bằng xem một cái máy quay ra sao. Người ta cũng cho rằng nền giáo dục cũ làm đình đốn sự tiến bộ của đất nước, vì chỉ tạo nên được những người nỏ mồm, bẻm mép chứ không tạo nên được những nhân tài thực sự. Dĩ nhiên là những lời phê bình chỉ trích ấy có nhiều chỗ quá đáng và sai lạc, nhưng chúng đã đảo lộn được chiều hướng giáo dục và đã đưa tới nền giáo dục ngày nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:07:25 GMT 9
V. NỀN GIÁO DỤC NGÀY NAY VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NÓ Ngày nay nền giáo dục đã chuyển hướng hoàn toàn. Giáo dục ngày nay hoàn toàn chú trọng đến khoa học, kỹ thuật, kinh tế, thương mại, luật pháp mà sao nhãng triết lý, văn chương, đạo đức. André Piettre trong bài Những dịp may của một nền văn hóa mới trong quyển Recherches et Débats số 14 đã viết như sau: «Xưa kia người ta thiên về tinh thần. Xác chất đối với người xưa chẳng qua là nấm mồ, theo lời Platon, và văn hóa chỉ chú trọng đến tinh thần. Ngày nay có thể nói: sự đời đã đảo ngược. Khoa học vật lý và các kỹ thuật vật chất đã toàn thắng.» Ngày nay người ta huấn luyện khối óc, huấn luyện đôi tay thì rất tài, mà huấn luyện con tim thì quá dở. Nói cách khác, nền giáo dục hiện đại chỉ tạo nên được những chuyên viên, chứ không đào tạo nên được những người có đức hạnh thực sự. Đàng khác, học đường thay vì là những nơi đào luyện tâm thần, đã trở nên những trung tâm kinh tế, kinh doanh thực sự. Ngày nay ở các trường, người ta thường dạy những điều thực tiễn, thực dụng như sinh ngữ, toán học, khoa học mà quên mất phần đức dục. Môn công dân có dạy cũng là dạy cho lấy lệ. Về văn học thường chỉ học từ chương, thi phú, bút pháp, văn pháp, mà quên hẳn dạy dỗ những nghĩa lý cao xa. Người ta cũng dứt khoát gạt ra ngoài phạm vi học đường ảnh hưởng thần quyền, giáo quyền, v.v. để tránh sự thao túng của Giáo Hội. Tóm lại, nền giáo dục hiện tại trên thế giới chỉ có khuynh hướng kỹ thuật và thực dụng mà thôi. Nhờ lối giáo dục mới này, mà các vấn đề cơm áo, nhà cửa, bệnh hoạn và các nhu cầu thường nhật của quần chúng được cải thiện. Nhưng ngược lại, tinh thần con người trở nên sa sút. Con người dần dần quên đạo đức, nghĩa lý mà chạy theo lợi lộc công danh. Trong số báo Time ngày 2-8-1968, ông Robert M. Hutchins, Giám đốc Trung tâm khảo cứu các thể chế dân chủ, cho rằng: «Cái lối học hướng nghiệp ngày nay kết quả sẽ làm cho con người trở nên nô lệ của hoàn cảnh.» [27] Ông cũng cho rằng người ta đã lẫn lộn không còn phân biệt được thế nào là huấn nghệ, thế nào là giáo dục.[28] Sự nhận xét sau thật chí lý. Ngày nay người ta đã mập mờ đánh lận con đen: huấn nghệ thời kêu bằng giáo dục; dạy từ chương, văn pháp thời lại tưởng là truyền bá lễ nghĩa, đạo đức… Ở học đường đã vậy, ở gia đình con cái lại cũng không được mục kích những gì gọi là cao siêu. Cha mẹ thời đầu tắt mặt tối, suốt ngày đi lo kiếm tiền, không còn có thì giờ dạy dỗ con cái. Ấy là chưa kể đến những cảnh cha mẹ rượu chè, cờ bạc, trai gái bê tha, ghen tuông lục đục với nhau. Như vậy hỏi làm sao mà con cái có thể trở nên cao siêu cho được ? Ở ngoài xã hội, những sách vở đứng đắn thì ít, mhảm nhí thì nhiều, các văn nghệ sĩ đua nhau «ẩn thiện, dương ác» cho nên những ảnh hưởng hay thời ít, mà ảnh hưởng dở thời nhiều. Đàng khác, đi học, khi đã có mảnh bằng; đi làm, khi đã có địa vị khả quan, lương bổng hẳn hoi rồi, thì ít ai muốn học hỏi cầu tiến thêm nữa. Hơn nữa, cái tuổi mà người ta cần được giáo dục, huấn luyện lại về đạo đức, cái tuổi mà người ta cần phải hồi tâm suy tư về ý nghĩa cuộc đời, tức là cái tuổi từ 40 trở đi, thì lại là cái tuổi dùng để hưởng thụ. Cho nên những chếch mác dở dang hiện nay có trong xã hội, không qui trách nhiệm nguyên cho chính quyền, cho học đường, mà còn cho những cha mẹ thiếu bổn phận, cho các bậc mệnh danh là lãnh đạo tinh thần mà không hiểu lãnh đạo tinh thần là thế nào; cho những văn nghệ sĩ chuyên khơi thị dục, thị hiếu của quần chúng; cho mỗi một người chúng ta vì đã thiếu sáng suốt, thiếu phán đoán, thiếu học hỏi, thiếu cố gắng. VI. HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI Như thế, ta thấy rằng nền giáo dục xưa và nay đều có cái hay cái dở. - Chú trọng tinh thần thì vật chất đình đốn. - Chú trọng vật chất thì tinh thần suy đồi. Vì thế nên ngày nay chúng ta cần phải có một nền văn hóa và giáo dục toàn diện, gồm cả hai phần tinh thần vật chất với sự đóng góp của chính quyền, của học đường, của gia đình, và của cá nhân. Cổng trường Trung học Trương Vĩnh Ký Saigon có một câu đối chữ Nho rất có ý nghĩa: «Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt, Tây Âu khoa học yếu minh tâm.» (Khổng Mạnh cương thường nên tạc dạ, Tây Âu khoa học phải ghi lòng.) Dẫu sao đi nữa, thì mục đích chính yếu của giáo dục phải là: 1. Luyện tâm. 2. Luyện trí. 3. Huấn nghệ. Muốn luyện tâm và trí, con người nhất định là phải dùng văn học. Văn học đây có một nghĩa rất rộng: «Văn là thay lời nói, ghi chép hết thảy sự vật, nghĩa lý. Học là gồm cả các tư tưởng, học thuật, tinh thần, khí phách của một dân tộc, một văn hóa.» [29] Tuy nhiên, từ chương phải nhường bớt chỗ cho nghĩa, lễ. Những gương anh hùng, liệt sĩ, những gương trung hiếu, tiết nghĩa phải được soạn thành những bài tập đọc, những bài luận thuyết, hoặc biên thành ca, phổ thành nhạc để dạy cho con em từ khi chúng bước chân vào chốn học đường. Ngoài ra, cũng nên tưởng thưởng cho những học sinh anh dũng, tiết tháo, nết na, đức hạnh, cũng như là những học sinh học hành xuất sắc vậy. Muốn huấn nghệ, thời dạy kỹ thuật cho dân con, cho họ có nghề có nghiệp, có tinh thần khoa học, biết quan sát, biết suy tu, biết tổ chức sáng chế, v.v. Huấn nghệ có cao có thấp. Cao thời dạy nơi các đại học, thấp thời dạy nơi các trường huấn nghệ thông thường. Những trường sau này càng nhiều càng tốt. Đồng thời cũng nên có những trường hải, nông, lâm, súc trung đẳng ở nhiều nơi trong nước, không những là để đào tạo cán bộ, mà còn là để trực tiếp dạy dân biết cách trồng tỉa, chăn nuôi, khai thác hải sản, lâm sản thế nào cho có hiệu quả nhất. Trong công cuộc giáo dục, điều cần yếu khác là tuyển lựa các giáo sư, giáo chức. Trong sự tuyển lựa này, phải để ý đến cả hai phương diện tài năng và đức độ. Song song với các tổ chức học đường cũng cần phải để tâm phát triển các thư viện. Các thư viện cần phải được tổ chức cho qui mô, tập trung được nhiều sách giá trị về văn học, nghệ thuật, tư tưởng, khoa học, v.v. Sách vừa được đọc tại chỗ, vừa có thể cho mượn về nhà - nếu không phải là loại sách quá hiếm - với số tiền cược ít là gấp rưỡi giá tiền sách, để tránh sự mất mát. Lại cũng có những trung tâm văn hóa bình dân như Malraux đã cho thành lập ở nhiều tỉnh bên Pháp để phổ biến văn hóa, nghệ thuật cho những người ít học; phát giác nhân tài, khuyến khích sáng tác. Ngoài ra chính phủ cũng nên lập ra những trung tâm nghiên cứu, hoạch định ra những chương trình để cho các nhà văn hóa, khoa học nghiên cứu, khảo sát, phát minh. Các quốc gia tân tiến ngày nay đều có những chương trình như phát minh nguyên tử, thí nghiệm không gian, du hành nguyệt cầu, những viện nghiên cứu y học, khoa học, những trung tâm khảo cứu văn học như cơ quan Unesco, hoặc phân khoa văn hóa đặc biệt như ở các trường đại học Harvard, Hawað, Sorbonne, v.v. Nếu giàu sang hơn một chút nữa, thời cũng nên có những cơ quan phổ biến văn hóa, nghệ thuật của nước mình ra nước ngoài. Đó là chuyện mà các cường quốc đã làm từ 1919. Pháp đi tiên phong, rồi đến Đức đến Nhật. Năm 1925, Nga cho thành lập cơ quan văn hóa quốc ngoại. Năm 1934, Anh cho thành lập British Council. Năm 1938, Mỹ cũng cho thiết lập cơ quan để cộng tác văn hóa với các nước. Cơ quan văn hóa quốc tế Unesco, thành lập tháng 11-1946 và đã có hơn 30 quốc gia hội viên, cũng là một cơ quan văn hóa mà quốc gia ta nên tham dự. Unesco nhận định như sau: «Vì chiến tranh bắt đầu từ tâm hồn con người, nên công cuộc bảo vệ hòa bình cũng phải được xây dựng từ trong tâm hồn con người. Xưa nay, trong suốt quá trình lịch sử nhân loại, các dân tộc nghi kỵ lẫn nhau, chính là vì đã không hiểu biết lề lối sống của nhau. «Phổ biến văn hóa cho sâu rộng và giáo hóa cho nhân quần về công bình, tự do, hòa bình là điều kiện cần thiết để bảo vệ phẩm giá con người và là bổn phận thiêng liêng mà mọi quốc gia phải thi hành trong tinh thần tương thân tương trợ.» [30] Tóm lại, muốn cho nước mạnh, dân giàu, có nền kỹ thuật tiến bộ, có nền văn hóa cao siêu, dĩ nhiên chính quyền và người dân phải cộng tác để kiện toàn hoàn thiện nền giáo dục. Một nền giáo dục lý tưởng phải đào tạo được đầy đủ nhân sĩ, nhân tài về mọi phương diện, cung ứng được hết mọi nhu cầu quốc gia, cũng như theo kịp đà tiến bộ quốc tế và thực sự chuyển hóa được dân tâm, dân trí. VII. TỔNG LUẬN Tổng kết lại: - Giáo dục cốt là để giúp cho con trẻ sống sung sướng và chuẩn bị cho chúng bước vào cuộc đời một cách êm đẹp.[31] - Giáo dục cốt là để giúp cho thanh thiếu niên có phương kế sinh nhai; giúp cho họ biết đóng vai trò một công dân xứng đáng trong một nước dân chủ.[32] - Giáo dục cốt là để giúp cho người dân phát triển được mọi tiềm năng của họ.[33] - Giáo dục cốt là để đào tạo nên những cá nhân tốt sống trong một xã hội tốt.[34] Nền giáo dục của chúng ta về phương diện văn học sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu các nền đại văn hóa Á Âu, với một tinh thần vô tư và một tâm hồn nhiệt thành đi tìm chân lý. Từ những nền văn hóa Á Âu đó, chúng ta sẽ rút ra những quan điểm tương đồng, chúng ta sẽ tìm cho ra những điều cao siêu chân thực. Những chân lý phổ quát đại đồng chính là tinh hoa nhân loại, và cần phải được ta truyền lại cho hậu thế. Về phương diện khoa học, chúng ta sẽ cố học cách sáng chế, sử dụng máy móc kỹ thuật, nhưng không để cho máy móc kỹ thuật nô lệ hóa chúng ta. Chúng ta phải làm sao cho hai ngành văn học và khoa học, tuy theo hai chiều hướng khác nhau, một đàng chuyên lo cải thiện tâm thần, một đàng chuyên lo cải thiện vật chất ngoại cảnh, đều cùng hướng về một mục phiêu là tạo nên những con người cao siêu đức độ, tài cán và hạnh phúc trong một xã hội có kỷ luật, có tổ chức, đượm tình thương yêu bình an và hạnh phúc. Nền giáo dục của chúng ta dạy làm ăn nhưng cũng dạy làm người. Và nếu có thể, còn dạy làm thánh hiền nữa. Tóm lại, giáo dục phải phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực nơi người. Hiểu giáo dục như vậy sẽ thấy giáo dục rất quan trọng cho tiền đồ đất nước. Giáo dục không phải nguyên hạn hẹp trong ít nhiều năm học tại nhà trường, mà phải bắt đầu từ tuổi ấu thơ ở gia đình; mà phải tiếp tục mãi mãi cho tới già tới chết. Khi còn trẻ dại, xã hội giáo dục ta; đến khi khôn lớn, ta phải tự giáo dục, đoàn luyện mình để tiến đến tinh hoa cao đại. Luật tạo hóa là muốn cho mọi người cố gắng không ngừng để cải thiện bản thân, cải thiện đời sống, cải thiện hoàn cảnh. Ngồi yên mà cầu xin thánh thần lo hộ cho mình có cơm ăn, áo mặc; học hộ mình, thi hộ mình, tu hô mình thuì chắc là chẳng thể nào được. Vận mệnh của mình, tương lai của mình, hạnh phúc của mình cũng như sự vinh quang thái thịnh của cả dân tộc là do công lao của mỗi một người chúng ta cố gắng tạo nên, chứ không phải ngẫu nhiên mà có. Chính vì vậy mà văn hóa, giáo dục là những vấn đề hết sức quan trọng và khẩn yếu.
[1] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số 13, tháng 7-1972, chủ đề TRUYỀN THỐNG HỌC ĐƯỜNG và GIÁO DỤC. [2] Cách đây mấy năm, trong một bài diễn văn tai trường Quốc Gia Âm Nhạc ngày 3-7-69 với đề tài «Văn hóa là gì?» tôi đã bàn cãi rất nhiều về các định nghĩa văn hóa. Bài diễn văn này sau đó được đăng tải trong: - Tập san Gió Việt (của Bộ Ngoại Giao), bộ 1970, số 3-4. - Văn hóa Tập san (của Nha Văn Hóa), các số 2-3, 4-5 năm 1969 và số 1 năm 1970. Để tránh sự trùng phức, trong bài này tôi không muốn bàn rộng về văn hóa, mà sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề giáo dục. Quý vị nào muốn tham khảo về văn hóa xin tìm đọc những tập san nói trên. [3] «La culture d’une société est la mode de vie de ses membres, c’est l’ensemble des idées et des habitudes qu’ils acquièrent, partagent et transmettent de génération en génération.» cf. L’Originalité des Cultures, Unesco, p. 12, note 2. [4] «The purpose of education, it seems, is to transmit culture.» cf. T.S. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.96. [5] «We should define Culture as a process of humanisation.» … «Culture is a social process of sublimation.» Cf. Gerald Holton, Science and Culture, p.218. [6] «Now so long as we mean by education, everything that goes to form the good individual in a good society.» cf. T.S. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.105. [7] «Arnold… defining culture as a pursuit of total perfection by means of knowledge of the best which has been thought and said in the world and the development thereby of all sides of our humanity.» Encyclopedia Britanica, Culture and Humanity, p.743. [8] «The true object of education… is the generation of happiness.» (William Sodwin). Eliot, , Notes towards the Definition of Culture, p.97. «Happiness is often associated with the full development of personality.» Ibid. p.97. [9] Amaury de Riencourt, L’Âme de la Chine, p.134. Xem Văn Hóa Á Châu, tập II, số 16; bài Văn hóa Trung Hoa dưới mắt các học giả. [10] Xem Văn Hóa Á Châu, tập III, số 6 (tháng 9-1960); bài Tư Trào Trung Hoa Cận Kim, từ tr.43 đến 55. Xem Văn Hóa Á Châu, tập III, số 4 (tháng 7-1960), từ tr.23 đến 29. Xem Acta Asiatica, Bulletin of the Institute of Eastern Culture, no13, Tokyo, 1967, bài Reform of the Meiji Restoration and the Birth of Modern Intellectuals, tr.63. [11] Xem Văn Hóa Á Châu, tập III, số 4 (tháng 7-1960); bài Tư Trào Trung Hoa 1898-1950 của Nguyễn Đăng Thục, từ tr.17 đến 29. Xem Văn Hóa Á Châu, tập III, số 5 (tháng 8-1960); bài Tư Trào Trung Quốc tiền bán thế kỷ XX, của Nguyễn Đăng Thục, từ tr.43 trở đi. Xem Amaury de Riencourt, L’Âme de la Chine, p.316-317. Xem Acta Asiatica, số 13, năm 1967, bài Modernization of Japan and the Problem of «IE» consciousness, của Kamishima Jiro, tr.3; và bài Recent Trend of the Studies on «Modernization of Japan» của Toriumi Yashuhi, từ tr.100 trở đi. … Kyoson Tschida: «Lorsque nous reconnaissons», déclare-t-il en effet, «que la supériorité de l’Occident réside dans ses calculs et sa technique, nous ne devons pas oublier que ce fait implique qu’à la base de cette supériorité même, il y a un esprit qui le caractériste. Cet esprit, nous pourrions l’appeler une «aspiration vers la civilisation.» Amaury de Riencourt, L’Âme de la Chine, p.318. [12] Xem Văn Hóa Á Châu, tập III, số 5 (tháng 8-1960); bài Tư Trào Trung Quốc tiền bán thế kỷ XX, của Nguyễn Đăng Thục, từ tr.43 đến 52. [13] Nhiều người dịch Dei cultus là thờ phượng thần minh. thiết tưởng dịch như vậy là lạc nghĩa. [14] Đoàn luyện con tim. [15] Canh tác ruộng đất. [16] L’éducation du cœur, celle de la tête, et celle de la main. (Louis Lallmant, La Vocation de l’Occident, p.153.) [17] Xem: Nguyễn Văn Thọ, Chân Dung Khổng Tử, ch.15: Đức Khổng - vị giáo sư gương mẫu. Lễ Ký, Học ký, ch. 16; Trung Dung, ch.20. [18] Mông dĩ dương chính, thánh công dã. (Kinh Dịch, quẻ Mông, thoán truyện) [19] Lễ Ký, ch.23- Kinh giải. [20] Xem Phan Bội Châu, Khổng học đăng, q.2, tr.718, 748. Xem Từ Nguyên nơi chữ Lục hạnh. [21] Xem Hoặc Vấn Trung Dung, tr.IIIa. Xem Trung Dung giảng luận, giảng khóa triết Trung Hoa của tác giả, tr.161, note 1. [22] Pour eux-même, les termes d’humanisme et d’humanités évoquent une forme de culture dans laquelle l’homme entend assucer ce qu’il y a en lui de proprement humain. (Comprendre, no15, p.178) … L’humanisme classique peut-il encore, comme il le fit au cours des siècles, aider l’homme à dominer par l’esprit les problèmes intellectuels et moraux qui se posent à lui, en développant la liberté et le sérieux de son jugement? - Contribuer à la formation des personalité, équilibrées en facilitant l’intégration des connaissance particulières, en développant le gout des satisfactions esthétiques et en palliant l’excès possible d’une éducation purement technique, qui risquerait de laisser l’homme sans idéal et sans normes de conduite autres que ceux de l’utilité et de l’efficacité. Contribuer à la vie propre de chaque collectivité, à l’intégration harmonieuse de l’individu à la communauté, aussi bien dans les pays les plus avancés techniquement que dans les pays encore insuffisament développés, héritiers d’une antique tradition culturelle et engagés aujourd’hui dans un processu de développement accéléré. Développer le respect de la personne humaine, accroýtre la volonté de compréhension et le sentiment de solidarité entre les peuples au sein de chacune des grandes régions culturelles et entre elles… Ce que les civilisations ont traditionellement cherché dans l’humanisme classique, c’est non seulement cette libération à l’égard du momentané et du particulier, mais aussi, plus précisément un commerce étroit et approfondi avec ce que l’humanité a produit de meilleur, une familiarité avec les grands exemples, un sens de l’éternité de certains problèmes fondamentaux, le modèle d’une méditation ou d’une réflexion, sans compromis. Pour ces différents aspects, l’humanisme traditionel se présentait comme une leçon de sagesse. Comprendre- Revue de la société européenne de culture près «la Biennale» (Giustinian Venise) No15, p.177. [23] Chu: đỏ; tử: tía. Các quan ngày xưa mặc áo đỏ, áo tía. [24] Thi Thư: Kinh Thi và Kinh Thư. [25] Tức Chu Hi. [26] Chu Tử: «Tự thánh học bất truyền, vi sĩ giả bất tri học chi hữu bản nhi sở dĩ cầu chi ư thư, bất việt hồ ký tụng huấn hỗ, văn từ chi gian. Thị dĩ thiên hạ chi thư dũ đa, nhi lý dũ muội; học giả chi sự dũ cần, nhi tâm dũ phóng; từ chương dũ lệ, nghị luận dũ cao, nhi kỳ đức nghiệp sự công chi thực dũ vô.» Xem Tứ Thư tiết yếu, Đại Học, 7, Tựa. - Xem Trung Dung bình giảng của tác giả (giảng khóa Triết Trung Hoa tại Đại học Văn Khoa), tr.85, chú 1. [27] To Robert M. Hutchins, this vocation-oriented approach to education will end up by making man the slave of his environment. (Time, Aug. 2.1968, p.46) [28] Hutchins argues that Americans have failed to distinguish between training and education. Ibid., p.47. [29] Nguyễn Đổng Chi, Cổ Văn Học Sử, Thư viện Bác Cổ Hà Nội, ngày 01-2-1942. [30] Ruth Emily Mc Mury and Muna Lee, The Cultural Approach, p.234. [31] «The government purpose», said the white paper which heralded the latest Education Act, ‘is to secure for children a happier childhood and a better start in life.» Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.97. [32] Dr. C.E.M. Joad: Education has a number of ends. Of these he lists three: a. To enable a boy or girl to earn his or her living. b. To equip him to play his part as the citizen of a democracy. c. To enable him to develop all the latest powers and faculties of his nature and so enjoy a good life. Eliot, Notes towards the Definition of Culture, p.98. [33] Xem chú thích c kế bên trên. [34] Now so long as we mean by «education» everything that goes to form the good individual in a good society. Ibid.105 … The Oxford dictionary tells us that education is «the process of bringing up (young persons)» that it is «the systematic instruction, schooling or training given to the young (and, by extension, to adults) in preparation for the work of life» that it is «culture or development of powers, formation of character.» Ibid. p.96.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:09:26 GMT 9
MẠN ĐÀM VỀ TƯƠNG QUAN GIA ĐÌNH GIA TỘC Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Gia đình là một tổ hợp nhỏ; quốc gia là một tổ hợp lớn. Giữa gia đình và quốc gia còn có một tổ hợp, tuy bề ngoài trông có vẻ lỏng lẻo, nhưng thật ra vẫn có ảnh hưởng lớn đến cá nhân, đó là gia tộc. Mỗi người chúng ta, ngoài cha mẹ, anh em, còn có ông bà, cô dì, chú bác, cậu mợ, anh em, cháu chắt nội ngoại xa gần. Xưa nay, nhìn vào một cá nhân, ở bên Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, người ta thường nhìn lên bốn đời. Như vậy cộng với đời của đương sự, tất cả có chín đời, gọi là Cửu tộc. Cửu tộc là như sau: CAO TẰNG TỔ KHẢO (PHỤ) KỶ TỬ TÔN TẰNG TÔN HUYỀN TÔN = KỴ HAY SƠ = CỤ = ÔNG = CHA = MÌNH = CON = CHÁU = CHẮT = CHÚT Nhưng thực sự mà sống với nhau «trông thấy được nhau» thường chỉ có 5 đời. Tuy nhiên, những gia đình được Ngũ đại đồng đường cũng hiếm. Nhân đi tìm tài liệu để viết bài này, tôi có đến thăm một cụ bạn già, năm 1974 này đã 77 tuổi, ở đường Thủ Khoa Huân. Vào nhà, tôi thấy trên tường có treo 2 câu đối như sau: Ngũ đại đồng đường, danh gia tế mỹ, Bát tuần tấn thọ, đức thụ trường vinh. (Lạc khoản đề: Tân sửu niên, trọng đông. Tùng Phong Nguyễn Khánh Trường trang hạ.) [1] và Ngũ đại đồng cư, trưng phúc quả, Bát tuần khánh thọ, kỷ niên hoa. (Lạc khoản đề: Tân sửu niên, trọng đông. Hán học cử nhân, Tổng đốc trí sĩ, Phạm Văn Hanh đi hạ.) Hỏi ra mới biết đó là những câu đối do các thân hữu mừng vào năm 1961, nhân dịp bát tuần khánh thọ của cụ cố thân sinh. Những câu đối ấy đã nói lên được danh giá và phúc ấm của gia đình đó. Vượt quá phạm vi gia đình để khảo về gia tộc, có một điều sẽ khiến chúng ta phải bỡ ngỡ hết sức, nếu chúng ta để một vài phút suy tư, đó là: cái công trình vô biên của tạo hóa của trời đất, đã tốn không biết bao nhiêu là công phu, năm tháng để tạo dựng nên một Ta. Chúng ta hãy nghĩ mà coi: Ai trong chúng ta mà chẳng có cha, có mẹ. Rồi 2 cha mẹ chúng ta cũng lại đều có cha mẹ. Như vậy vị chi đã là 4 rồi. Rồi 4 ông bà chúng ta cũng có cha mẹ, vị chi là 8. 8 cụ chúng ta lại có cha mẹ, vị chi là 16. Cứ thế mà tính lên cho đến đời thứ 10, thì chúng ta đã có 1024 tổ tiên ở khắp mọi nơi, làm đủ mọi nghề, và lưu lại cho chúng ta đủ mọi đặc tính hay hay dở. Nếu tính lên cho đến đời thứ 20, ta sẽ có 1.048.576 tổ tiên. Tính lên đến đời thứ 30, tức vào khoảng cách đây 1000 năm, ta sẽ được con số 1.000.000.000 tổ tiên. Tính lên cho tới năm I Thiên Chúa giáng sinh, ta sẽ được con số 1025 Tổ tiên. Thật là một con số kinh khủng.[2] Nhưng mà đâu phải chúng ta mới phát xuất tự năm I ! mà tổ tiên xa vời của chúng ta đã có từ khi mới có loài người! Như vậy suy ra, thì chúng ta tất cả chẳng ít thì nhiều đều là anh em với nhau, vì trong dĩ vãng gần hay xa, cũng đã có lần tổ tiên chúng ta đã giao duyên phối ngẫu cùng nhau, nhưng theo đà thời gian các giòng họ, y như các giòng sông nhỏ, mỗi dòng đi về một ngả khác nhau, nên càng ngày càng trở nên xa lạ cùng nhau. Bây giờ chúng ta hãy tạm lấy số 1025 là số tổ tiên ta. Rồi ta cứ cho 30 năm là một đời, nhân lên ta sẽ có 30x1025. Đó là một con số thời gian khủng khiếp, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta! Mới hay một con người thật là có giá trị, vì đã mất bao nhiêu người, bao nhiêu năm để tạo nên ta, chứ không phải chỉ có cha mẹ sinh ra ta, và chỉ mất có 9 tháng 10 ngày đã sinh ra được ta. Ông Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, trong quyển Một lối chép gia phả thật đơn giản đã có nhận định xác đáng về gia đình và gia tộc như sau: «Phạm vi của gia đình không phải chỉ có vỏn vẹn một ít người là cha mẹ, con cái, mà thật ra nó bao gồm cả tổ tiên, cụ kỵ, ông bà của chúng ta nữa. Bởi vậy, nếu mọi người không muốn cho con cháu của mình thành những người lạc lõng giữa một tập thể quốc gia rộng lớn và lúc sống cũng như khi chết không đến nỗi mờ mịt với nguồn gốc cội rễ của tổ tiên, ông bà, thì mình phải có bổn phận phục hồi lại tất cả những gì nó liên quan tới những người đã khuất (là tổ tiên cụ kỵ…) «Vậy thì 2 tiếng gia đình chỉ có thể biểu lộ đầy đủ được ý nghĩa của nó khi bao gồm cả người chết (Tổ tiên) và người sống (con cháu). Như thế khi nhắc đến gia đình, hiển nhiên còn phải nhắc đến nhiều người khác đã chết từ lâu, trước cả ông bà cha mẹ của mình - nhưng lại có rất nhiều công lao xây đắp nền móng cho cái gia đình mà mình đang hiện diện trong đó. Hơn nữa, thuật lại những gì đã xảy ra ở trong gia đình, cũng không phải là chỉ kể câu chuyện hiện tại xảy ra ngay trong đời sống của mình, mà còn phải nhắc đến nhiều sự việc liên quan tới gia đình từ trước kia ở xa mãi bên trên cả ông bà cha mẹ mình nữa. Những sự việc ấy không tên ấy là một chuỗi dài lịch sử xẩy ra nhiều năm về trước dệt thành một tấm màn dày đặc che kín một khoảng trống thật lớn ở bên trong gia đình mà những kẻ làm con cháu chưa hề được biết tới bao giờ…» Nơi khác ông viết: «Gia tộc Việt Nam xưa nay chia làm hai bậc: một là nhà hay tiểu gia đình, gồm cha mẹ vợ chồng con cái; hai là họ hay đại gia đình, gồm tất cả mọi người cùng chung một ông tổ sinh ra, kể cả người chết và người sống, tức là «gia tộc», gồm có một chi trưởng với nhiều chi thứ. Những người liên hệ trong một gia đình thì thường là cụ, kỵ, ông bà rồi đến cha mẹ, còn ở bên trên nữa thì có ông Cao tổ cho đến Thủy tổ. Còn ở dưới thì có con, dưới con có cháu dưới cháu là chắt, và dưới chắt là chút (hoặc huyền tôn), cho đến ở xa dưới nữa thì đều gọi chung là viễn tôn. Từ Cao tổ trở xuống đến huyền tôn thì gọi là Cửu tộc.» [3] I. GIA TỘC VỚI DI TRUYỀN Khảo về gia phả các dòng họ lớn ở Việt Nam, ta thấy có nhiều dòng họ liên tiếp trong nhiều đời đã sinh ra được những bậc khoa bảng triều đình. Ngày xưa khi tôi còn học trường Y khoa Hà Nội, một lần đến chơi nhà anh bạn cùng lớp, là anh Bùi Quốc Hương. Anh cho tôi biết từ 10 đời nay cụ, kỵ, ông, cha anh đều kế thế đỗ đại khoa. Ngày nay anh cũng đỗ thạc sĩ y khoa. Khảo về bốn dòng họ lớn ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông ta thấy bốn họ Phan, Phạm, Đỗ, Nguyễn từ đời Trần đến nay, liên tiếp có các bậc khoa bảng. Ngoài ra, Hà Đông cũng còn nhiều làng khác phát sinh những dòng họ văn vật: Làng Đại Mỗ có dòng họ Nguyễn Quí, 3 đời làm đến Đại vương. Ở nhà thờ tổ của dòng họ có một biển đề: «Nhất môn phụ tử tổ tôn, kế đăng khoa, kế vi sư phó, kế phong đại vương phúc thần, cổ kim sở hãn văn dã.» (Một nhà mà cha con, ông cháu liên tiếp đỗ đại khoa, liên tiếp được làm thái phó, liên tiếp được phong vương, phong thần, cổ kim thực ít khi nghe thấy vậy.)[4] Ở làng Tây Mỗ thì có dòng họ Nghiêm; ở làng La Khê có dòng họ Ngô Thúc. Ở làng La Nội, những dòng họ Đặng, họ Bùi, họ Nguyễn cũng có nhiều vị đại khoa. Ở làng Hương Canh có dòng họ Nguyễn, họ Trần, ở các làng Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết cũng có những dòng họ Nguyễn, họ Hoàng có người đỗ đạt. Vì thế nên có câu: «Mỗ, La, Canh, Cót» để chỉ những làng văn vật đó ở Hà Đông.[5] Ngoài Bắc cũng có nhiều làng có những dòng họ hết sức hiển đạt như ở Vân Đình, có dòng họ Dương, con cháu cụ Dương Khuê, Dương Lâm. Ở Hưng Yên có làng Bạch Sam với dòng họ Phạm, ở Nam Định có làng Hành Thiện với họ Đặng. Vì thế đã có câu: «Xứ Đông Bạch Sam, xứ Nam Hành Thiện.» Ở Hải Dương thì có dòng họ Vũ Hồn ở làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang là một dòng họ lớn từ Đinh, Lê, Lý, Trần mãi cho đến nay liên tiếp có con cháu đại khoa. Nhà thờ của dòng họ có 2 câu đối. Câu đối 1: Cao tằng tổ khảo dĩ lai, thập bát công khanh tam tể tướng, Đinh Lê Lý Trần nhi hậu, bách dư tiến sĩ, tứ đình nguyên. (Từ cụ kỵ ông cha tới nay, có 18 người liệt hạng công hầu, và 3 người làm Tể tướng. Từ Đinh Lê Lý Trần cho đến nay có hơn 100 ông tiến sĩ và 4 trạng nguyên.) [6] Câu đối 2: Vi tử tôn lập vạn đại cơ, công tướng khanh hầu vô trị loạn. Dữ thiên địa đồng nhất nguyên khí, hoàng vương, đế bá hữu long ô. (Lập cơ ngơi vạn đại lâu bền cho con cháu, dù loạn hay trị vẫn có khanh tướng công hầu. Có cùng nguyên khí như trời đất Hoàng vương đế bá còn có lúc thăng trầm.) Ở trong Nam thì có những dòng họ Trương Vĩnh, Trương Minh, v.v... [7] Ở Trung, ngoài những dòng họ nhỏ chúng ta phải kể đến dòng họ Nguyễn Phước, tức là dòng họ tôn thất nhà Nguyễn hiện nay. Dòng họ này khởi từ vị khai quốc công thần nhà Đinh là Đinh quốc công Nguyễn Bặc. Đời nhà Lý có ngài Kiễm hiệu Nguyễn Đệ, Tả tướng quân Nguyễn Viễn, v.v... Triều nhà Trần có Chiêu Quang Hầu Nguyễn Sử, Thái bảo Hoàng quốc công Nguyễn Công Chuẩn và con là Thái úy Trịnh quốc công Nguyễn Đức Trung. Đời nhà Lê có Thượng phu thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim, tức là vị tổ đứng đầu Nguyễn Triều sau này. Và từ đó cho tới năm 1945 con cháu đã kế thế làm vương đế ở Việt Nam.[8] Tại sao nhiều dòng họ kế thế được vinh hiển như vậy? Có người cho rằng đó là vì mả phát, có người cho rằng vì làng được phong thủy tốt (như trường hợp làng Đông Ngạc). Người xưa khi bàn về thi cử đỗ đạt đã nói: «Nhất phận, nhì duyên, tam phong thổ, tứ tích âm công, ngũ độc thư.» (một là nhờ số mệnh, hai là nhờ ngoại duyên, ba là vì phong thổ, bốn là vì âm đức, năm là vì học hành). Nhưng tôi cho rằng chúng ta cũng có thể cắt nghĩa được bằng di truyền. Thực vậy trong con người chúng ta, có những di thể (gènes) rất nhỏ. Tuy là nhỏ nhưng chúng rất có ảnh hưởng đến tính nết, đến sự thông minh, đến sức khỏe chúng ta. Y học chứng minh có những dòng họ đã truyền cho con cháu những bệnh tật cố hữu một cách rất là ly kỳ. Xin đơn cử một chứng bệnh di truyền trong dòng họ của bà Hoàng hậu Victoria nước Anh. Hoàng hậu Victoria tuy không mắc bệnh Huyết hữu (hémophilie, một bệnh hễ chảy máu, là chảy không ngừng), nhưng có thể truyền bệnh ấy cho con trai. Con gái không mắc nhưng đi lấy chồng thì lại có thể truyền bệnh đó cho ít nhiều con trai của mình. Trong vòng bốn đời liên tiếp nhau, nhiều hoàng tử, nhiều vua chúa nội ngoại của dòng họ, đã mắc bệnh huyết hữu. Đặc biệt nhất là trường hoàng tử nước Nga là Alexis (Tsarevitch), Hoàng tử đã mắc bệnh huyết hữu và nhiều lần đã thập tử nhất sinh, mỗi khi bị một vết xây xát nhỏ. Các lương y nhiều lần đã đành phải bó tay. Vua và Hoàng hậu phải mời vị tu sĩ tên là Raspoutine tới chữa hoàng tử mới lành. Nhưng ỷ y được vua và hoàng hậu tin phục, Raspoutine đã lộng hành quá đáng, gây nhiều xáo trộn trong nước Nga, và như vậy đã một phần nào làm cho cuộc Cách Mạng 1917 của Nga bùng nổ, lật đổ Nga Hoàng. Và gần đây, bệnh huyết hữu cũng đã cướp mạng sống của hoàng tử Alphonse nước Tây Ban Nha. Ông hoàng này đã lưu vong sang ở Miami, Florida, Hoa Kỳ. Một hôm ông lái xe đụng vào một xe khác. Ông bị ít nhiều mảng kính bể làm xây xát, chảy máu. Những vết thương ấy nếu ở nơi người khác thì rất nhẹ, nhưng ở nơi ông thì lại rất nặng. Ông bị chảy máu không ngừng và vào đến bệnh viện thì chết. Ông là chắt của hoàng hậu Victoria.[9] Nếu bệnh tật có thể truyền tử lưu tôn, thì dĩ nhiên sự thông minh cũng có thể di truyền nhiều đời, các đặc tính của mỗi dòng họ cũng có thể truyền được nhiều đời. Thomas Huxley (1825-1895), một trong những ông tổ của thuyết tiến hóa cũng đã có chủ trương tương tự. Ông đã viết trong quyển Evolution and Ethics như sau: «Kinh nghiệm hằng ngày đã làm cho chúng ta trở nên quen thuộc với những dữ kiện mà chúng ta gọi là di truyền. Mỗi người đều mang trong mình những dấu tích rõ ràng của tổ tiên xa gần. «Đặc biệt là, cái mà chúng ta gọi là tính nết - tức là tổng hợp các khuynh hướng khiến ta hoạt động theo một chiều hướng riêng biệt nào đó, thường có thể tìm thấy nơi các tông chi tổ tiên chúng ta. «Như vậy, chúng ta cũng có thể nói được rằng tính nết đó - cái đặc điểm tâm trí của mỗi một người đó - thực sự đã diễn tiến từ hình hài này sanh hình hài khác, thực sự đã «luân hồi, chuyển kiếp» từ đời này sang đời khác … «Cái triết gia Ấn Độ gọi những đặc tính ấy là duyên nghiệp… Trong thuyết tiến hóa, thì khuynh hướng làm cho một mầm sống trở thành một loài riêng biệt nào đó, ví dụ như là hạt biển đậu trở thành cây biển đậu, cái đó là duyên nghiệp… Đó là kẻ thừa hưởng cuối cùng và là kết quả cuối cùng của tất cả những điều kiện đã có tác dụng trên một tộc hệ đã khai nguyên từ nhiều triệu năm nay từ khi sự sống mới xuất hiện trên mặt đất này.» Và ông trích dẫn lời của giáo sư T.W. Rhys Davids, để kết luận: «Cỏ tuyết điểm hoa là điểm tuyết hoa chứ không phải là cây sến và chỉ là điểm tuyết hoa chứ không phải là cây sến và chỉ là hạt sương thuộc về một loại nào đó, chính là kết quả các duyên nghiệp của một chuỗi bất tận các kinh nghiệm quá khứ.» [10] Thế là Thomas Huxley đã đồng hóa Di truyền với thuyết Duyên nghiệp (karma) của Phật giáo, và đã muốn nối liền mỗi một sinh vật hiện hữu với muôn triệu tiên tổ đã sinh ra trên mặt địa cầu này trước nó… II. GIA TỘC VỚI VĂN HÓA, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI Gia tộc vì là một thể chế cố cựu nên đã ảnh hưởng sâu rộng đến các vấn đề văn hóa chính trị xã hội. Giở ca dao, tục ngữ Việt Nam, ta thấy có rất nhiều câu liên quan đến gia tộc, họ hàng. Ví dụ như: - Cha nó lú nhưng chú nó khôn. - Yêu nhau yêu cả đường đi, Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. - Một người làm quan cả họ được nhờ. - Một giọt máu đào hơn ao nước lã. - Xểnh cha còn chú, xểnh mẹ còn dì. - Cậu chết mợ ra người dưng. Chú tôi có chết, thím đừng lấy ai … Gia tộc Việt Nam và Trung Hoa còn có một mối liên quan rất là kỳ quặc đến văn hóa: đó là niềm tin vào mồ mả đất cát. Xem gia phả bất kỳ một dòng họ lớn nào, lúc đầu tiên cũng thấy đề cập đến mồ mả kết phát như là lý do chính yếu của sự phát vua, phát quan, phát phú, phát quí của giòng họ mình. Ví dụ như dòng họ Vũ Hồn thì cắt nghĩa rằng ngôi mộ của thủy tổ đã được táng treo vào một đại huyệt gọi là: «Cửu thập bát tú triều dương.» Đó là kiểu đất «Tiến sĩ sào» (ổ ông nghè). Ông Vũ Hồn sau khi sinh được hai người con sinh đôi, người anh ở lại Việt Nam, phát ra một dòng công khanh khoa bảng ở Việt Nam liên tiếp từ bao nhiêu đời. Người con được thầy địa lý đưa về Trung Hoa, cũng đã sinh ra không biết bao nhiêu là con cái cháu chắt khoa bảng công khanh. Trần Đức Lai, trong truyện Hoa khuê các, đăng trong nhật báo Đông Phương, nơi số 142 ra ngày 17-8-1974 đã viết về ngôi mộ của tổ phụ và tổ mẫu của Nguyễn Kim như sau: «Tổ phụ và tổ mẫu của Nguyễn Kim là người hiền lành cày ruộng và vào rừng làm lâm sản. Một buổi chiều ông vào rừng lấy măng tre măng nứa, khi trở về, trời đổ giông gió, bèn chạy vào trong hang núi ẩn. Bỗng một tiếng sét nổ vang trời đá trên núi đổ xuống lấp chặt cửa hang, chôn sống người tiều phu họ Nguyễn trong hang đá đó. Chiều hôm sau, bà vợ đi tìm chồng thì bị cọp tha về gần hang núi nơi ông chồng đã bị chôn sống, đặt trước cửa hang rồi phóng mình đi thì bỗng mối đùn lên vùi luôn thây người vợ. Trời lại đổ mưa giông ầm ầm, ngày sau, nơi chôn cất hai vợ chồng người họ Nguyễn ở thôn Gia Miêu Ngoại Trang, trở thành một khu rừng rậm, thân nhân không làm sao tìm được xác của ông bà họ Nguyễn để chôn cất nữa. Theo thầy địa lý, thì đó là nhờ phúc đức nhà họ Nguyễn nên chồng được thiên táng, vợ đuợc hổ táng đúng ngôi đất Đế Vương sau này nhà Nguyễn mới thống nhất sơn hà lên ngôi Đế Vương.» Những chuyện như vậy đố ai lùa ra được khỏi ký ức người dân Việt. Nhiều gia đình họp lại thành một gia tộc, nhiều gia tộc họp lại thành một nước. Bên Tàu cũng như bên ta xưa cho rằng toàn dân có khoảng chừng 100 họ vì thế nên tòan dân trong một nước cũng được gọi là Bách tính. Nhưng thực ra trong một nước có rất nhiều dòng họ. Học giả Nguyễn Bạt Tụy đã viết trong tập Tên người Việt Nam nơi trang 49 như sau: «Ông P.Gourou, trong quyển Les paysans du Delta tonkinois, tr. 127, tính rằng có tới 202 vùng đồng bằng Bắc Việt. Nhưng theo sự tìm tòi của chúng tôi, con số ấy được tới 308 và có lẽ còn hơn nữa ở toàn cõi Việt Nam.» Giáo sư Paul Perny, trong tập Appendice du Dictionnaire Français Latin, Chinois de la langue Mandarine parlée, đã tìm ra được tất cả 450 họ ở bên Trung Hoa trong đó 420 họ đơn và 30 kép. Đến như chuyện lấy vợ lấy chồng, thì người ta thường tránh lấy họ đồng tông, mà lấy người thuộc dòng họ khác. Lấy nhau trong họ đồng tông, ngoài sự đàm tiếu của mọi người về phương diện luân lý, còn sợ bị ảnh hưởng tai họa về các bệnh di truyền của một dòng họ. Cho nên luật pháp Đông Tây thường cấm lấy nhau trong họ đồng tông. Lấy người khác họ, cũng còn là một cách thêm vây thêm cánh cho dòng họ mình. Các nhà quí tộc xưa ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam quan niệm hôn nhân như một phương cách để: 1. Sinh con, đẻ cái cho đông, cho dòng họ mình lớn mạnh,bền vững lâu dài. 2. Tăng thêm uy thế của dòng họ mình. Cưới xin tức là liên kết với một giòng họ khác. 3. Vợ chồng cùng nhau lo việc tế tự tổ tiên. Khảo thư tịch Trung Hoa, ta thấy xưa kia có một tục lệ rất ly kỳ như sau: Khi mà nhà trai thuộc dòng quý tộc hỏi vợ, thì bên nhà gái, lúc cho con gái mình về vu quy, phải cho ít nhất là người em gái út theo chị, hay một người cháu gái theo cô để phù dâu và cũng là để làm hầu thiếp sau này. Vợ cả thì gọi là Đích. Các nàng hầu đi phù dâu thì gọi là Dắng. Các cô phù dâu gồm có ít nhất là: – Em gái út gọi là Đệ. – Cháu gái gọi là Điệt. Tùy theo cấp bậc trong xã hội, số nàng hầu sẽ tăng: – 1 người quý phái thường sẽ được cung cấp 1 vợ, 1 nàng hầu. – Đại phu 1 vợ hai nàng hầu. – Chư hầu 3 vợ 6 nàng hầu.[11] – Thiên tử 4 vợ 9 nàng hầu. Trần Thủ Độ xưa cũng đã biết dùng hôn nhân để củng cố dòng họ. Ví dụ tìm cách thông gia với các đại tướng quân, hoặc cho các vương tôn đi trấn nhậm các vùng biên cương hiểm trở, rồi lại khuyến khích họ chọn vợ trong những bộ lạc Mường Mán. Như vậy cốt là để dùng hôn nhân củng cố ngai vàng cho dòng họ. Sau này ta thấy Công Chúa Huyền Trân đã kết duyên cùng vua Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô, Lý… Và chính cũng là để tiêu diệt mầm mống phản nghịch, phục thù, nên vua chúa nước Tàu xưa đã lập hình phạt tru di tam tộc: – Giết họ người phạm tội. – Giết họ mẹ người phạm tội. – Giết họ vợ người phạm tội. Hình phạt này được Thương Ưởng sáng chế ra, nhưng đến đời nhà Đường thì Vũ Hậu truyền bỏ. Tuy nhiên ta thấy các triều đại vua chúa Trung Hoa vẫn thường áp dụng hình phạt này.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 9:11:42 GMT 9
Ở nước ta, thì đời nhà Lê, triều đình nhà Nguyễn đã tru di tam tộc nhà cụ Ức Trai Nguyễn Trãi, mặc dầu trong bộ luật Hồng Đức không thấy có ghi hình phạt đó.[12] Đến đời Nguyễn, hình luật Gia Long phỏng theo hình luật Mãn Thanh, nên còn nặng hơn cả hình phạt tru di tam tộc, vì ngoài việc tru di tam tộc còn giết hết mọi người ở chung một nhà với phạm nhân, mặc dầu là khác họ.[13] Chính vì thế mà mỗi khi có người thân bị tội, nhiều người trong dòng họ đã phải thay tên đổi họ, để thoát tội tình, đang họ Trịnh đổi ra họ Nguyễn, đang họ Nguyễn đổi ra họ Lê… Tôi có gặp một người Trung Hoa có họ Vi 韋 . Tôi hỏi sao có họ Vi? Ông cho biết cha ông trước kia là họ Hàn 韓, nhưng vì có tội với triều đình nên đã tách chữ Hàn làm đôi, bỏ đi nửa trái, giữ lấy nửa phải, thành ra họ Vi 韋. Cũng như ở nước ta nhiều người họ Mạc đã đổi thành họ Phạm vì Mạc 莫 và Phạm 范 đều có bộ thảo đầu (艹) như nhau. Thế là «bỏ thì thương, vương thì tội» đành giữ lấy ít là một nửa vậy. Nói đến gia đình, gia tộc, không thể nào bỏ qua được một vấn đề tối ư quan trọng đó là sự thờ cúng tổ tiên với các vấn đề phụ thuộc liên hệ như Từ Đường, ruộng hương hỏa, đích tử, đích tôn, trưởng tộc … Lễ Ký xưa đã quy định về nhà thờ tổ như sau: – Nhà thờ tổ to nhỏ tùy theo giai cấp và chức tước. – Nhà thờ tổ của bậc Thiên tử có bảy miếu: ba miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, ba miếu ở phía phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía Tây, để thờ vị Thái tổ đã lập ra dòng họ. – Nhà thờ của các bậc chư hầu có năm miếu thờ: hai miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, hai miếu ở phía nam gọi là Mục, và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ được vua phong hầu và ban cấp Thái ấp. – Nhà thờ của bậc đại phu có ba miếu: một miếu ở phía bắc gọi là Chiêu, một miếu ở phía nam gọi là Mục và một miếu ở phía tây thờ vị Thái tổ. – Nhà thờ của các bậc quan sĩ, chỉ có một miếu. – Thứ dân (người dân thường) không có miếu thờ riêng và thờ tổ tiên ngay trong nhà.[14] Sau đây là sơ đồ bảy miếu của Nhà Chu:[15] Về đích tử, đích tôn, tức là về người có bổn phận thờ cúng tổ tiên, luật Hồng Đức, điều 389, quy định: 1. Trước hết phải chọn con trưởng của người vợ cả. 2. Nếu người đích tử chết trước, thì lập người cháu trưởng. 3. Nếu không có cháu trưởng mới lập con người vợ thứ. 4. Trong hàng con vợ thứ, không chọn lấy người nhiều tuổi, mà lại chọn lấy người con hiền của vợ lẽ. 5. Trong trường hợp không có con trai, thời được chỉ định các con gái hoặc người thân thuộc (điều 388 luật Hồng Đức).[16] Về ruộng hương hỏa, thì luật Hồng Đức quy định có thể lấy 1/20 ruộng đất để làm ruộng hương hỏa. Điều 400 luật Hồng Đức quy định thêm: Ruộng hương hỏa dù con cháu nghèo khó cũng không được đem bán. Trái luật phải ghép vào tội bất hiếu. Nói đến gia đình, gia tộc, cũng phải nói đến người trưởng tộc.[17] Người trưởng tộc chính là nòng cốt của một dòng họ. Tình thân ái giữa họ hàng, một phần cũng nhờ người trưởng tộc nên mới trở nên thắm thiết. Người trưởng tộc có thể là người lớn tuổi, nhưng cũng có thể là người đức cao, có địa vị lớn trong xã hội, chứ không nhất thiết phải theo nguyên tắc đích trưởng như ở ngoài Bắc. Các vị trưởng tộc có quyền triệu tập hội đồng gia tộc, hay thân thuộc họ hàng mỗi khi cần, phân xử những tranh chấp ở trong họ, định đoạt, khuyên bảo khi họ hàng có việc hôn tang hoặc những việc quan hệ khác. Tôi đã thấy nhiều vị trưởng tộc chẳng ái ngại tốn kém đã triệu tập mọi người trong họ từ ở các tỉnh xa về, để phát gia phả cho họ hàng. Nhiều dòng họ còn lập ra những hội tương tế. Ngoài số tiền nguyệt liễm, còn thu một khoản tiền nhỏ, gọi là tiền trợ tang. Số tiền này sẽ được dùng để giúp đỡ cấp thời, mỗi khi có một hội viên mệnh một. Những dòng họ lớn, như dòng họ Nguyễn phước lại còn có bản Tin Tức để phổ biến trong dòng họ. Nói đến gia tộc, chúng ta cũng không nên quên cách đặt tên của ít nhiều dòng họ, để cứ thấy chữ đệm là biết được tôn ti. Điển hình nhất là họ Nguyễn Phước, năm Quí Tị 1823, tức là năm thứ 4 triều Vua Minh Mạng, vua định phép đặt tên cho tất cả Hoàng gia, tên chia làm thành 11 bài thơ. Đế hệ thì chọn vào Kim sách, 10 hệ khác thì chạm vào Ngân sách. Bài thơ về chính thống đế hệ như sau: Miên [18] Hường Ưng Bửu Vĩnh, Bảo Quý Định Long Trường. Hiền Năng Kham Kể Thuật, Thế Thoại Quốc Gia Xương. Như vậy thấy Tùng Thiện Vương chẳng hạn với tên là Mân (Miên) Thẩm, ta sẽ biết ngài là con của vua Minh Mạng, và cụ Ưng Hoát chẳng hạn sẽ là hàng chú Bửu Lộc, hàng ông Vĩnh Cẩn, hàng cụ Bảo Long, v.v... Cụ Dương Khuê vì có đuợc Tùng Thiện Vương mời ngồi dạy học tại nhà cũng đã bắt chước thế thứ nhà Nguyễn mà làm một bài thơ để đặt cho dòng họ mình như sau: Tự Thiệu Hồng Nghiệp, Vi Bang Gia Ky (Cơ), Thế Tế Kỳ Mỹ, Phúc Khánh Dụ Chi. Và dĩ nhiên là con cháu cụ sẽ có những tên Dương tự, Dương thiệu, Dương hồng, Dương nghiệp, v.v... Ngày nay ở miền nam Việt Nam đang có phong trào làm gia phả. Nhiểu dòng họ đã in những quyển gia phả rất lớn để phát cho các gia đình trong chi tộc. Tuy nhiên ở Việt Nam, công việc làm gia phả cũng khó, vì ít nhà có thói quen làm gia phả. Hơn nữa, vì tình hình chiến tranh, vì nạn tản cư, vì nạn hồ sơ lý lịch thất lạc, nên mỗi khi muốn truy tầm về gia phả thiệt là khó. Ở Châu Âu trái lại, muốn lập gia phả, họ có thể lập dễ dàng, vì xứ đạo nào cũng có sổ rửa tội, sổ hôn phối, làng mạc quận huyện nào cũng có sổ bộ hộ tịch. Lại nữa các phó bản về hộ tịch trong một tỉnh đều được tập trung về thị xã, nên muốn tìm về tên tuổi, nghề nghiệp tổ tiên không có gì là khó. Cuối cùng tưởng cũng nên cân nhắc lại một vấn đề lịch sử trong đó việc thờ cúng tổ tiên đã đóng vai chủ yếu. Đó là sự cãi vã nhau giữa các giáo sĩ Tây phương khi sang giảng đạo ở Trung Hoa về vấn đề thờ cúng tổ tiên. Các linh mục dòng tên thì cho rằng thờ cúng tổ tiên không gây trở ngại gì cho việc rao giảng phúc âm, và cứ nên để người tôn giáo tân tòng được tiếp tục thờ cúng tổ tiên như cũ. Các linh mục các dòng khác như Thừa sai, Đa minh, Biển đức, v.v... thì cho rằng phải cấm hẳn việc thờ cúng tổ tiên. Giáo hội La Mã cũng nhập cuộc. Ngày 19-03-1715, Giáo hoàng Clément XI ra sắc chỉ Ex Illa Die cấm người tôn giáo không được tôn kính tổ tiên theo lối Á đông. Tất cả những sự chia rẽ ấy đã dần dần đưa đến sự thất bại trong công cuộc truyền giáo ở Trung Hoa. Nhưng dần dà, giáo hội La Mã nhận thấy mình đã có quyết định sai lầm nên đã tìm cách sửa sai. Vì thế sau 200 năm cấm đoán, Thánh bộ truyền giáo dưới triều đại Pie XII với sắc lệnh ngày 08-12-1939 đã cho phép giáo dân tỏ lòng tôn kính tổ tiên đã quá vãng như cúi đầu đi trước di ảnh, trước bài vị. Tuy có sắc lệnh ấy, nhưng ở Việt Nam có một thời đã không chịu phổ biến và thi hành, mãi sau này, khoảng năm 1960 mới cho áp dụng. Có lẽ là vì làn sóng canh tân của công đồng Vatican II đã bắt đầu dâng lên mạnh. Gần đây, trong ít nhiều nhà Công giáo đã thấy có di ảnh cha mẹ quá vãng, phía trước có đặt hương hoa. Đó là điều mà trước kia không thể nào có. Hơn thế nữa, ngày 29-11-1970, ngày khai mạc đài phát thanh Veritas, giáo hoàng Paul VI có gửi một sứ điệp cho các dân tộc Á Châu. Trong một đoạn sứ điệp ấy, Ngài đặc biệt ca ngợi lòng hiếu thảo gắn bó với gia đình, và sự thờ kính tổ tiên của người Á Đông. Nguyên văn như sau: «Quả thực, thưa anh em, khi nhìn lại quá khứ của các dân tộc Á Châu, chúng tôi đã phải xúc động trước tinh thần biết trọng những giá trị tâm linh. Tinh thần ấy đã nổi bật trong tư tưởng các nhà hiền triết và trong đời sống của quần chúng Á Châu. Óc kỷ luật của các nhà tu hành, lòng đạo hạnh thâm sâu của dân chúng, lòng hiếu thảo gắn bó với gia đình, và thờ kính tổ tiên của anh em, tất cả những đức tính đó là những dấu chứng tỏ anh em không ngừng tìm đấng Chí tôn và khao khát siêu nhiên. Giá trị của những đặc điểm ấykhông chỉ liên quan đến đời sống tinh thần anh em mà thôi. Nhìn chung, những đặc điểm ấy chẳng những không làm cản trở cho bước tiến kỹ thuật, kinh tế, xã hội như anh em khao khát một cách chính đáng, mà lại còn là nền tảng cho một cái gì vô giá khiến sự tiến bộ có thể thực hiện một cách trọn vẹn mà không phải hy sinh những giá trị thâm sâu và quý hóa nhất. Chính những giá trị này đã làm cho con người, một thực thể tràn ngập luồng khí tinh thần, vừa là hay có thể là chủ của vũ trụ, các năng lực trong vũ trụ mà còn là chủ của chính mình. Khoa học và kỹ thuật đều làm chứng cho cuộc chinh phục của trí óc con người trong lĩnh vực vật chất. [...] Dầu vậy, với nhãn giới tinh thần anh em thừa hưởng được của truyền thống, tinh thần thượng luật, lòng đạo và sự bảo toàn đời sống gia đình của anh em, chắc chắn anh em có đủ sức [...] đi tới chỗ giúp nền văn minh Tây phương vượt được những nguy hiểm, trong đó nền văn minh này đang bị chính sự tiến bộ của mình nhốt chặt lại.» (Xem Sacerdos, Linh mục nguyệt san, số 109-110, tháng 1-2-1971, tr.50-57) Giáo Hoàng Paul VI thực đã tỏ ra rất sáng suốt khi đề cao nền minh tinh thần của Á Đông, tình nghĩa gia đình bền chặt của người Á đông, lòng hiếu thảo và lòng kính nhớ tổ tiên của người Á đông. Và có lẽ ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đã yêu cầu Á châu với tất cả những truyền thống tâm linh tốt đẹp nên giúp cho Âu châu thoát được hiểm nguy băng đọa hiện thời. III. TỔNG LUẬN Bàn về gia đình gia tộc mà không đề cao được tinh thần tương thân tương trợ giữa các thành viên của dòng họ, mà không đề cao được vấn đề danh dự gia đình, mà không khuyến khích được mọi người theo gương tổ tiên để, nói rộng ra, thì an dân định quốc, phú quốc cường dân; nói hẹp lại, thì ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con người thì cũng là uổng công vô ích. Cho nên khi đưa ra chủ đề tương quan gia đình gia tộc, chính là muốn chấn hưng tại tinh thần gia đình, gia tộc ngày nay đang độ suy vi, và củng cố lại mối dây liên lạc thân ái, tương phù tương trợ giữa họ hàng, mối dây mà ngày nay đà văn minh vật chất làm cho trở nên lỏng lẻo. Và để kết thúc bài này tôi muốn nhắc lại hai gương xưa tích cũ. Đó là hai câu truyện «Thiên hạ đệ nhất gia» đã ghi trong truyện Tàu. Nếu quý vị đã đọc Càn Long hạ Giang Nam, ắt còn nhớ chuyện Cao Thiên Tứ (tức Càn Long vi hành) khi đến Cô Tô (Tô Châu). Nơi đây vua thấy ngoài cổng nhà quan Thừa Tướng đương triều là Lưu Dung có treo một tấm biển đề: «Thiên hạ đệ nhất gia», Vua lấy làm phật ý, quyết vào hỏi cho ra lẽ. Vua vào lớp dinh cơ thứ nhất, thì được các cháu trai của Lưu Dung khoảng 20 tuổi ra tiếp. Vua hỏi đến 5 chữ «Thiên hạ đệ nhất gia», các thanh niên này không biết đàng trả lời nên mời vua vào lớp dinh cơ thứ hai. Ở đây có anh Lưu Dung khoảng chừng hơn 40 ra tiếp. Vua lại hỏi như trên, anh Lưu Dung cũng không biết trả lời, lại mời vua vào dinh cơ thứ ba. Nơi đây thân phụ Lưu Dung khoảng 60 tuổi ra tiếp, nhưng vẫn không chịu trả lời câu hỏi của nhà vua, mà lại mời vua vào dinh cơ thứ 4. Nơi đây ông của Lưu Dung khoảng chừng hơn 80 ra tiếp. Vua lại đặt câu hỏi, ông cụ này cũng không chịu trả lời, lại mời vua vào lớp dinh cơ thứ năm ở bên trong. Càng vào sâu thêm vua càng thấy dinh cơ một ngày một thêm lộng lẫy, cảnh trí thêm tân kỳ, đồ đạc bày biện càng ngày càng thêm sang trọng. Vào tới dinh cơ thứ 5 vua được một ông cụ già hơn 100 tuổi ra đón tiếp. Vua lại hỏi ý nghĩa 5 chữ «Thiên hạ đệ nhất gia». Cụ già bèn trả lời: Khi già được 100 tuổi, thân bằng cố hữu chúc mừng cho già ba tấm khuôn biển. Tấm thứ nhất đề là «Thiên hạ đệ nhất gia», tấm thứ hai đề là «Bách tuế đường». Còn tấm thứ ba, Cao tiên sinh coi thì sẽ rõ biết công cuộc nhà Lưu gia này. Vua ngước mắt xem thấy tấm biển thứ ba tỏ ý khen ngợi nhà Lưu gia như vầy: «Trời cũng không qua, đất cũng không hơn, vua cũng khó tày, nhân gian đâu lấn được. Như thể: Cha vi tể tướng, con vi tể tướng, cháu vi tể tướng. Dẫu ai giầu đâu qua đây quý, dẫu ai quý sao bằng cha con, con cháu nhà ta liên đỗ khoa trường. Dẫu dòng ai liên đỗ khoa trường cũng chẳng bằng kiến họ Lưu liên kết năm đời hiện tại sống được một trăm năm.» Vua xem rồi thì khen rằng: «Thiệt là nhà Lưu gia đệ nhất trong đời.» (Xem Càn Long hạ Giang Nam, dịch giả Thanh Phong, tr. 215-220). Tích thứ 2, ta đọc thấy trong quyển Đại Minh Hồng Võ. Vua Đại Minh Hồng Võ (Minh Thái tổ) nghe thấy ở Kim Huê có nhà họ Trịnh đề tấm biển rằng: Thiên hạ đệ nhất gia, bèn giáng chiếu đòi vào chầu. Hồng Võ phán hỏi: «Người là gì mà gọi là nhà ngươi thứ nhất?» Họ Trịnh tâu rằng: «Bởi anh em bà con chúng tôi ở chung tám đời, hòa thuận không tiếng chi hết, nên quan Thái thú tặng tấm biển ấy mà làm gương cho bá tánh, chớ không phải của tôi làm.» Hồng Võ hỏi: «Bà con bao nhiêu mà ở chung lâu vậy?» Họ Trịnh tâu rằng: «Nội nhà tôi hơn một ngàn miệng ăn.» Xảy ra nghe Hoàng hậu ở sau bình bình phong tâu rằng: «Bệ hạ có một mình còn thâu đặng thiên hạ thay, nếu ngàn người đồng một lòng thì làm chi lại không nổi!» Họ Trịnh tâu rằng: «Không có phép chi lạ, phàm việc nào lớn nhỏ, cũng không nghe lời đàn bà.» Minh Hồng Võ cười ngất, xảy có sứ Hà Nam dâng lê thơm. Hồng Võ ban cho họ Trịnh hai trái mà tha về. Họ Trịnh tạ ơn, rồi để hai trái lê trên đầu mà đi ra. Vua sai quan Hiệu úy nom theo coi thử, thấy họ Trịnh đem hai trái lê về đâm nát, hòa với hai chậu nước để trên bàn giữa nhà, mỗi người uống một chén nước rồi trở mặt về Bắc mà lạy tạ ơn. Hiệu úy về tâu lại. Vua thấy vậy tặng thêm một tấm biển ngoài cửa ngõ, đề rằng: «Trịnh nghĩa môn.» (Xem Đại Minh Hồng Võ, Thanh Phong dịch, trang 380.) Ở Việt Nam chúng ta bao giờ mới có được một nhà như Lưu gia và Trịnh gia? ● Đã in trong Tạp chí Phương Đông, số 40, tháng 10-1974. SÁCH THAM KHẢO 1. Coupé, André, Doctrines et cérémonies religieuses du pays d’Annam (in Bulletin de la Société des E.I, Nouvelle Série, Tome VIII, No 3, Juillet Septembre, 1933) 2. Cấn, Tôn Thất, Constitution de la Famille Impériale d’Annam (Imp. AJS, 1942) 3. Cửu Long Giang, Toan Ánh, Người Việt đất Việt, Nam Chi tùng thư, SaiGon, 1967. 4. Granet, Marcel, La Polygynie sororale et le Sororat dans la Chine Féodale, Angers, Imprimerie F.Gaultier et A.Thebert, 4 Rue Garnier. 5. Mẫu , Vũ văn, Cổ luật Việt Nam lược khảo, q. II, Saigon 1970. 6. Ross, Nancy Wilson, Three Ways of Asian Winsdom, A Clarion Book Published by Simon and Schuster, N.Y. 1969. 7. Schreiner, Alfred, Les Institutions Annamites en Basse - Cochinchine, Saigon Claude et Cie Imprimeurs, éditeurs, 1901. 8. Sển, Vương Hồng, Saigon năm xưa, nhà sách Khai Trí, Saigon 1969. 9. Tabuteau, Jacques, Connaissez-vous votre famille, c/o l’auteur, 29 de Beauvais à Clermont (Oise) et en dépôt aux éditions sociales françaises, 7 Rue Jadin Paris, XVII 1947. 10. Tavernier, M.Emile, Le Culte des ancêtres, (in Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Série, Tome 1, No 2, Juillet Décembre, 1926. 11. Toàn, Nguyễn văn (Túy Lang), Thọ Mai gia lễ, nhà sách Khai Trí, Saigon, 1969. 12. Tụy, Nguyễn Bạt, Tên người Việt Nam, Saigon, 1954 13. Thanh Phong, dịch giả, Càn Long hạ Giang Nam, Tín Đức thư xã. 14. Thanh Phong, dịch giả, Đại Minh Hồng Võ, Tín Đức thư xã. 15. Thuyết, Dĩ Thủy, Phạm Văn, Đông Ngạc tập biên, Saigon 1963. 16. Ung Trình, Nguyễn Phúc - Bửu Dưỡng, Nguyễn Phúc, Tùng Thiện Vương, nhà in Sao Mai, Châu Bình, Thủ Đức, 1970. 17. Winchester A.M., Genetic (2d Edition), Houghton Mifflin Co Boston, The Riverside Press Cambrigde, 1968. CHÚ THÍCH [1] Cụ Nguyễn Khánh Trường đỗ cử nhân Hán học, làm đến tuần phủ. [2] Xem Jacques Tabuteau, Connaissez vous votre famille?, Edition Sociale Française, 7 Rue Jadin Paris XVII, p. 42. [3] Xem sách đã trích dẫn, tr.35, 34 và 31. [4] Xem Dĩ Thủy Phạm Gia Thuyết, Đông Ngạc Tập biên, Saigon, 1963. [5] Mỗ là Đại Mỗ và Tây Mỗ. La là La Khê, La Nội. Canh là Hương Canh, Vân Canh. Cót là Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết. (Phỏng theo Từ Liêm huyện đăng khoa chí, tài liệu viết tay bằng chữ Hán đời vua Tự Đức). Cụ Đông Quân Hưng, Phạm Gia Thuyết hiện có tài liệu này. [6] Đôi câu đối này cụ Cửu Chung cho tôi. Cụ Đông Quân Hưng, Phạm Gia Thuyết nhớ là cửu khôi nguyên, cụ Cửu Chung nhớ là tứ đình nguyên. [7] Đất mộ phần dòng họ Trương Minh tại Gò Vấp, đến đấy hỏi thăm nhiều người biết, Phủ thờ cũ kỹ, kèo trích mối leo cả dây. Đặc biệt nơi đây còn giữ được trên trăm bài vị tiền nhân dòng họ. (xem Vương Hồng Sển, Sài Gon năm xưa, tr. 181) [8] Dòng họ Nguyễn phát tích từ làng Gia Miêu Ngoại Trang, tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. [9] Xem Genetic (2nd edition) A.M. Winchester Colorado State-Houghton Mufflin Co Boston, The Riverside Press, Cambridge, 1958 p.p. 121 et ss. [10] «Every experience familiarizes us with the facts which are grouped under the name of heredity. Every one of us bears upon him obvious marks of his parentage, perhaps of remoter relationships. More particularly, the sum of tendencies to act in a certain way, which we call «character» is often to be traced through a long series of progenitors and collaterals. So we may justly say that this «charater» this moral and intellectual essence of man-does veritably pass over from one fleshly tabernacle to another, and does really transmigrate from generation to generation…» «The Indian Philosopher called charater as thus defined, «karma»… In the theory of evolution, the tendency of a germ to develop according to a certain specific type, e.g. of the kidney bean seed to grow into a plant having all the charaters of the phaseolus vulgris is it s «karma». It is the last inheritor and the last result of all the conditions that have affected a line of ancestry which goes back for many millions of years, to the time when life fisrt appeared on the earth. Then quoting professor T.W.Rhys. Davids, Huxley ends: … The snowdrop and not an oak and just that kind of snowdrop, because it is the outcome of the karma of an endless series of past experiences.» (Nancy Wilson Ross, Three ways of Asian wisdsom, A Clarion Book published by Simon and Schuster, Rockfeller Center, 630 Fifth Avenue, N.Y., 1969, p.118) [11] Xem Marcel Granet, La Polygynie sororale et le sororat dans la Chine féodale, Angers, Imprimerie F. Gaultier et A. Thébert, 4 rue Garnier. [12] Xem Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam lược khảo, quyển thứ 2, Sài Gon 1970, tr.428. [13] Ibid. tr. 429. [14] Lễ Ký, mục III Vương chế, chương III, thiên tử thất miếu: tam chiêu, tam mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi thất. Chư hầu ngũ miếu, nhị chiêu nhị mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi ngũ. Đại phu tam miếu, nhất chiêu nhất mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi tam. Sĩ nhất miếu, thứ nhân tế ư tẩm. [15] Xem Vũ Văn Mẫu, Cổ Luật Việt Nam lược khảo, quyển 2, tr. 275-276. [16] Nơi đây, tôi chỉ nói đại cương, còn quý vị nào muốn đi vào chi tiết, xin đọc Vũ Văn Mẫu, Cổ Luật Việt Nam lược khảo, q.2, từ tr.264 đến 283. [17] Xem sách đã dẫn, tr.285. [18] hay Mân.
|
|