|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:35:32 GMT 9
Đặc Tính Tiểu Thuyết Sơ Khai Ðặc tính của tiểu thuyết sơ khai: Chúng ta chưa biết nhiều về Lê Hoằng Mưu, Trần Phong Sắc nhưng Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, và Nguyễn Trọng Quản thì họ đều là những người có học Quốc Ngữ và Pháp Văn, do đó ít nhiều họ cũng bị ảnh hưởng văn chương Tây Phương, nhưng cổ văn, Thơ, truyện Tàu vẫn có ảnh hưởng đến họ, chính vì vậy mà tiểu thuyết thuở ban đầu ấy, đã chịu một số ảnh hưởng sau đây :
1.- Chịu ảnh hưởng chương hồi của tiểu thuyết Trung Quốc: Về chương hồi của truyện Tàu, chúng tôi đã nói qua ở Tiết 4, mục V. Tưởng cũng cần nhắc lại, mỗi truyện Tàu chia thành nhiều chương, hồi. Trước mỗi hồi đều có một hay hai câu thơ giới thiệu tổng quát nội dung của hồi đó.
Tiểu thuyết miền Nam buổi sơ khai cũng vậy, có chương hồi. Bản Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên do nhà văn Sơn Nam sưu tầm và cho in lại trong tạp san Nhân Loại (12), không thấy có phân chia thành hồi, nhưng từng đoạn có ghi :
Lâm trí Viễn dụng mưu.
Một chước rất mầu.
Còn tiểu thuyết Nhơn Tình Ấm Lạnh của Hồ Biểu Chánh, do Tín Ðức Thư Xã in năm 1928 có phân chia thành hồi như :
Hồi thứ II
Phi Phụng tỏ tình buồn dạ khách,
Duy Linh tức trí kiếm đường vinh.
hoặc Hồi thứ XVI
Từng cay đắng mới biết thế tình gian dối,
Lắm thảm sầu nên nhìn người ngọc quặn đau.
Sau nầy Hồ Biểu Chánh cho in lại, ông đã bỏ bớt các câu thơ giới thiệu các hồi.
Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử do nhà Phạm Văn Thìn in năm 1954 vẫn còn in chương hồi theo cũ :
Hồi thứ nhất
Thành Bình-Ðịnh thuật sơ sự tích,
Võ-đông-Sơ lướt dặm quan hà.
Như vậy cho thấy, ban sơ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng truyện Tàu về hình thức cũng phân chia thành chương hồi.
2. Chịu ảnh hưởng văn chương Trung quốc : Chúng ta ai cũng biết rằng miền Nam không phảo là mảnh đất chịu ảnh hưởng lâu đời về văn chương Trung Quốc, miền Nam chỉ có năm ba ông Cử, vài ông tiến sĩ, rồi Pháp chiếm lấy miền Nam, nền văn học Quốc ngữ được phát sinh. Quốc ngữ chỉ là phương tiện cai trị của người Pháp, còn con đường quan lại nhất thiết phải học chữ Pháp, bởi vì các Nghị Ðịnh, công văn đều viết bằng Pháp văn, chữ Quốc ngữ chỉ dùng ở báo chí, văn chương. Những người làm báo, sáng tác tiểu thuyết đều biết Pháp văn, Hán Văn và Quốc ngữ.
Mặc dù học Hán văn không nhằm mục đích thi cử, nhưng mà học để biết nghĩa lý thánh hiền, học cho hiểu để đàm luận văn chương, cho nên nhà văn thời đó còn chịu ảnh hưởng rơi rớt lại văn chương biền ngẫu của Trung Hoa.
Ðây là đoạn mở đầu bộ Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử :
Lửa hạ vừa tàn, gió thu đổ lá, kèn xe hơi rỉ rả, tiếng ngâm sầu nhặt nhặt khoan khoan. Nội cỏ bóng le the, trang vẻ cảnh vàng vàng dợt dợt, kìa xóng róng một đám rừng thông cụm liễu cây đứng xơ rơ, trợn mắt trơ trơ, dường như giận cái phong cảnh tiêu điều, mà phai màu xủ lá. Nọ một giãi trường sơn vọi vọi, nằm dọc theo mé biển Ðông dương, dơ sống phơi sườn, thiêm thiếp yêm liềm ở dưới trời Nam, dường như buồn thảm cái thời tiết đổi dời nên không động dạng...
Còn đoạn mở đầu Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên của Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt :
Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát mẻ, trên nhành chim kêu chiu chít, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm trí Viễn tay cầm nhựt báo, tay xách ba-ton (baton), rảo bước thung dung, thơ thẩn lối cầu đường núi Sam là chỗ hẹn hò với tình nhân mà trao lời tâm sự. Gần trót giờ lâu, chẳng thấy dạn nàng, anh ta buồn ý, liền dở tờ nhựt báo xem chơi cho tiêu khiển...
3. Chịu ảnh hưởng về nền luân lý của Trung Hoa: Mặc dù chịu ảnh hưởng phần nào của Tây phương nhưng ảnh hưởng về luân lý của Trung Hoa vẫn nặng nề, nhưng đó cũng là nền nếp, phong hóa của Việt Nam ta từ lâu đời.
Những tam cang, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đã ăn sâu vào đời sống người Việt Nam, khi người ta nói đến lễ nghĩa, đối xử với nhau trong xã thôn và làng nước. Nó là chuẩn mực cho tác giả xây dựng nhân vật, hoàn cảnh. Thậm chí đến nhân vật của Nguyễn Chánh Sắt, ông đặt tên biểu trưng cho từng cá tánh nhân vật.
Kẻ mưu sâu hiểm độc thì tên là Lâm-trí-Viễn, người giả mạo, sau nầy phải chạy trốn tên là Ðào-phi-Ðáng, kẻ hết lòng hết dạ cứu giúp người tên là Trần-trọng-Nghĩa, kẻ có lòng thương người tên là Trịnh-thế-Xương, kẻ phải chịu phiêu bạt tên là Trịnh Phương Lang, còn tên cờ bạc ăn cắp vặt tên là Trịnh-bất-Thanh.
Hồ Biểu Chánh cũng vậy, người con gái trinh trắng ông đặt tên là Bạch Tuyết, kẻ có chí ông đặt cho tên Chí Ðại ...
4. Hành văn trơn tuột như lời nói : Có một đặc tính cho văn chương miền Nam, nó đã tạo thành truyền thống, khởi đầu từ Trương Vĩnh Ký, đặc tính ấy là hành văn trơn tuột, nói sao viết vậy, Chẳng hạn như đoạn trích trong Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên ở trước:
...‘’ Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá ‘’...
Một đoạn trích trong Ai Làm Ðược của Hồ Biểu Chánh, sáng tác năm 1912, nhuận sắc in năm 1922, để chúng ta thấy rõ đặc tính văn chương miền Nam.
... Quan Phủ đã nổi giận mà bà còn châm chích thêm, chẳng khác nào lửa cháy mà bà còn chế thêm dầu, bởi vậy quan Phủ lấy roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống ông đánh hơn một chục roi, cắn răn trợn mắt không cho Bạch Tuyết khóc.
Ông vừa đánh vừa nói rằng :
- Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.
Bạch Tuyết nghe mấy lời ấy thì chưng hửng, không biết lấy chi mà đối lại được, kêu oan rằng :
- Oan ức con lắm cha ôi Mẹ ôi Mẹ ở dưới cửu tuyền xin mẹ chứng dùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm, mẹ ôi !...
(Trác Nguyên Sưu Tầm)
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:36:43 GMT 9
Nhà Văn Lê Hoàng Mưu Lê Hoằng Mưu (1879-1941) Sinh tại Cái Cối tỉnh lỵ Bến Tre, ông có bút hiệu Mộng Huê Lầu, ông bắt đầu sáng tác vào khoảng năm 1917-1918, đến năm 1921 ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn cho đến năm 1930, sau đó ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Long Giang, tờ báo này đình bản năm 1943. Ông mất tại Sàigòn thọ 62 tuổi. Tác phẩm của ông gồm có : Hà Hương phong nguyệt. Ba gái cầu chồng (1915) Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920) Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920) Oan kia theo mãi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật (1922) Ðêm rốt của người tử tội ( 1930 ?) Người bán ngọc (1931) Ðầu tóc mượn Trích văn (8) Oán Hồng Quần ... Trên chữ đề Tân Hiệp nhà ga, dưới chạo rạo người ta lên xuống. Huê khát nước thấy dừa muốn uống, tính xuống mua mà xuống lại e, may đâu con bán dừa đem lại gần xe, cho hành khách tiện bề mua lấy. Huê mừng dạ mau chân bước lại, kêu hỏi thăm một trái mấy đồng. Xãy đâu gần bên nàng có một thầy thông, chợt thấy khách má hồng bủn rũn. Trơ đôi mắt hỏi thầm trong bụng: ‘’ Có phải Túy Kiều xưa, nay sống lại chăng ? Thầy mới lần tay toan mở túi gió trăng, kiếm lời ghẹo ả Hằng cung nguyệt ‘’. Lê Hoằng Mưu hành văn theo lối biền ngẫu, đó là ảnh hưởng của cổ văn Trung Hoa, dùng trong thi phú từ chương. Một đoạn văn xuôi của ông, chúng tôi thử xuống dòng ở các chấm câu, nó gần trở thành một bài phú. ‘’...Chung thờ thần mày trắng, mười mấy năm mới bỏ ra đi. Trốn mà đi Nam Vang, ngỡ cải nghiệp điếm đàng sửa sang tánh hạnh. Có dè đâu lên Nam Vang cũng chẳng tiếc phấn son một mảnh; không thẹn điều lá gió chim cành; hết Tống Ngọc tới Trường Khanh, vui theo cuộc lầu xanh ang ná ...’’ So với văn của Nguyễn Chánh Sắt, rồi lần tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy rõ sự chuyển thể từ thi ca sang văn xuôi, cần phải có một nhịp cầu, ấy là truyện Tàu.Ðọc lại đoạn văn trên chúng ta thấy ông hành văn từng câu ngắn, có người cho đó là văn nhát gừng. Nhưng trong buổi giao thời ấy, ông là một nhà văn sáng giá, theo như bài viết của Lãng Tử đăng trong tuần báo Mai số 68 phát hành ngày 6-1-1939, viết về Lê Hoằng Mưu như sau : Sánh truyện hồi đó ông viết ra thật nhiều và đều bán chạy như tôm tươi giữa buổi sớm, ông nổi danh quá lắm, làm cho ông Nguyễn Văn C trong một lúc vui sướng vì đã có người giúp việc quí giá đã hứa với ông rằng sẽ giữ ông lại trong tờ báo trọn đời. (Trác Nguyên Sưu Tầm)
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:38:14 GMT 9
Nhà Văn Nguyễn Chánh Sắc Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947) Ông từng làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, là một nhà dịch truyện Tàu, cũng là một trong những nhà viết tiểu thuyết buổi sơ khai. Lần thứ hai làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, truyện Tàu đã được dịch nhiều rồi, và tiểu thuyết bắt đầu ló dạng buổi bình minh, nên ông chuyển sang viết tiểu thuyết đăng trong Nông Cổ Mín Ðàm. Tiểu thuyết Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên làm cho ông nổi tiếng hơn cả, người ta gọi ông với biệt danh là Monsieur Chăn Cà Mun, đó là tên của nhân vật chính trong chuyện. Về tiểu thuyết của ông sáng tác gồm có : - Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết, 4 quyển 220 trang, năm 1920) - Tài mạng tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 2 quyển) - Lòng người nham hiểm (xã hội tiểu thuyết, 1 quyển) - Nghĩa hiệp kỳ duyên (năm 1920) ( 6 ) - Trinh hiệp lưỡng mỹ - Lê Thái Tổ (4 quyển, năm 1931) Trích văn : Vậy sao? Cơ khổ dữ chưa, vậy mà tôi không biết, chớ anh nhà cửa ở đâu? Sao mà biết con hai ở đây? Trịnh-thế-Xương chưa kịp trả lời, Lâm-thế-Viễn liền rước mà nói rằng: ‘’ Ông bác đây là người giàu có lớn bên chợ Tân Châu ‘’. Rồi đó Lâm-trí-Viễn mới thuật hết đầu đuôi sự tích lại cho Dì Tư bán cá nghe. Dì tư bán cá miệng nhai trầu tích hoát, tay xỉa thuốc ba ngoai mà nói rằng: ‘’ Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá ‘’. Trịnh thế Xương bèn thò tay vào túi lấy ra (100 đồng) một trăm đồng bạc, trao cho Dì tư bán cá mà nói rằng: ‘‘ Con gái tôi nó đùm đậu ở đây trong mấy tháng thiệt cũng nhờ cái lòng tốt của chị, mà bởi tôi đi thình lình nên không có bạc đem theo nhiều, vậy thì xin chị nhận đỡ lấy một trăm đồng bạc nầy, gọi là của tôi đền đáp ơn dày của chị, vui lòng đặng tôi đem con gái tôi về, kẻo để tắt tưởi cái tấm thân nó tội nghiệp’’. Trích Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên Từ bài trích Mộ Tào Tháo ở Tiết Báo Chí, đến phần trích trên đây, chúng ta thấy Nguyễn Chánh Sắt hành văn nhẹ nhàng, nhưng vẫn thể hiện nét đặc thù của truyền thống văn chương miền Nam. (Trác Nguyên Sưu Tầm)
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:40:17 GMT 9
Nhà Văn Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1885-1958) Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1885, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo. Năm lên 8, Hồ Biểu Chánh học chữ Nho, năm lên 12 ông bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi sau học trường tỉnh Gò Công. Nơi đây ông được cấp học bổng để theo học tại trường Chasseloup-Laubart ở Sàigòn. Cuối năm 1905 ông thi đậu bằng Thành Chung. Năm 1906, ông thi đổ làm Ký lục tại Soái phủ Nam Kỳ (Sàigòn), tòng sự tại Dinh Hiệp Lý, năm 1912,1913 tòng sự tại toà bố tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau. Năm 1914, tòng sự tại tòa bố tỉnh Long Xuyên. Năm 1917, Hội Khuyến Học Long Xuyên xuất bản Ðại Việt tạp chí, ông có cộng tác với tạp chí nầy, viết về khoa học, kinh tế, lý tài. Năm 1919, đổi về làm việc tại tòa bố Gia Ðịnh. Năm 1920, làm việc tại văn phòng Thống Ðốc Nam Kỳ. Cuối năm 1921 thi đậu Tri Huyện. Năm 1927 thăng tri phủ, đổi đi làm Quận Trưởng quận Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Năm 1932, đổi đi làm Quận Trưởng quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1934, đổi đi làm Quận Trưởng quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Năm 1935, đổi về Sàigòn làm Phó Chủ Sự phòng 3, kiểm soát ngân sách tỉnh và thành phố. Năm 1936, thăng Ðốc Phủ Sứ, trong năm nầy ông làm đơn xin hưu trí, nghị định cho về hưu tháng Giêng năm 1937, nhưng mãi đến năm 1941, ông mới được về hưu. Ngày 4-8-1941, ông được cử làm Nghị Viên Hội Ðồng Liên Bang Ðông Dương, đến ngày 26-8-1941, ông được cử làm Nghị viên kiêm Phó Ðốc Lý thành phố Sàigòn. Cuối năm 1941, thành phố Sàigòn - Chợ Lớn sáp nhập làm một, ông làm Nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố Sàigòn cho đến năm 1945. Năm 1946, ông làm Chánh Văn phòng cho Chánh phủ Nam kỳ của Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh quyên sinh. Hồ Biểu Chánh mới từ bỏ hẳn cuộc đời công chức. Sau khi về hưu, ông ở Gò Công một thời gian, rồi trở lại Sàigòn, ông vẫn tiếp tục sáng tác cho đến khi nhắm mắt lìa đời ngày 4 tháng 11 năm 1958, tại biệt thự Biểu Chánh, đường Hồ Biểu Chánh (gần ngã tư Ngô Ðình Khôi và Trần Quang Diệu). Phú Nhuận, tỉnh Gia Ðịnh. Khi ông mất, thi sĩ Ðông Hồ lấy tên các tác phẩm của ông, làm câu đối đi viếng tang ông như sau : - Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tác phẩm viết trăm lẻ năm thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ cứng gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được. - Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt giả giả thiệt, Vườn văn xưa Ghé mắt, Ðoạn tình còn Ở theo thời. (14) Trong đời công chức, ông có những huy chương sau : - 28-12-1920: Khuê bài danh dự bằng bạc 06-04-1921: Kim Tiền 26-08-1924: Monisaraphon 25-03-1927: Ordre Royal du Dragon de l’Annam 02-09-1937: Ordre Royal du Cambodge 09-08-1941: Chevalier de la Légion d’Honneur Về văn nghiệp, ngoài tiểu thuyết ra, ông còn viết nhiều thể tài khác như khảo cứu về tôn giáo, chánh trị, tiểu thuyết. Viết tuồng cải lương, hát bội... Năm 1942 và 1943, Hồ Biểu Chánh làm chủ nhiệm Bán nguyện san Ðại Việt Tạp Chí (13) và Nam Kỳ Tuần Báo xuất bản tại Sàigòn. Về tiểu thuyết, ông đã sáng tác những tác phẩm sau đây : 1. Ai làm được sáng tác năm 1912, nhuận sắc năm 1922 2. Chúa tàu Kim Qui 1922 3. Cay đắng mùi đời 1923 4. Tỉnh mộng 1923 5. Một chữ tình 1923 6. Nam cực tinh huy 1924 7. Nhơn tình ấm lạnh 1925 8. Tiền bạc, bạc tiền 1925 9. Thầy thông ngôn 1926 10. Ngọn cỏ gió đùa 1926 11. Chút phận linh đinh 1928 12. Kẻ làm người chịu 1928 13. Vì nghĩa vì tình 1929 14. Cha con nghĩa nặng 1929 15. Khóc thầm 1929 16 Nặng gánh cang thường 1930 17. Con nhà nghèo 1930 18. Con nhà giàu 1931 19. Ở theo thời 1935 20. Ông Cử 1935 21 Một đời tài sắc 1935 22. Cười gượng 1935 23. Dây oan 1935 24. Thiệt giả, giả thiệt 1935 25. Nợ đời 1936 26. Ðóa hoa tàn 1936 27. Lạc đường 1937 28. Từ hôn 1937 29. Tân phong nữ sĩ 1937 30. Lời thề trước miễu 1938 31. Tại tôi 1938 32. Bỏ chồng 1938 33. Ý và tình 1938 34. Bỏ vợ 1938 35. Người thất chí 1938 36. Tìm đường 1939 37. Hai khối tình 1939 38. Ðoạn tình 1939 39. Ái tình miếu 1941 40. Cư kỉnh 1941 41. Mẹ ghẻ, con ghẻ 1943 42. Thầy Chung trúng số 1944 43. Hai Thà cưới vợ 1944 44. Một đóa hoa rừng 1944 45. Ngập ngừng 1944 46. Chị Hai tôi 1944 47. Bức thư hối hận 1953 48. Trọn nghĩa vẹn tình 1953 49. Nặng bầu ân óan 1954 50. Ðỗ nương nương báo oán 1954 51. Lá rụng hoa rơi 1954-1955 52. Tơ hồng vương vấn 1955 53. Hai chồng 1955 54. Hai vợ 1955 55. Ðại nghĩa diệt thân 1955 56. Trả nợ cho cha 1955 57. Những điều nghe thấy 1955-1956 58. Ông Cả Bình Lạc 1955-1956 59. Một duyên hai nợ 1956 60. Trong đám cỏ hoang 1956-1957 61. Vợ già chồng trẻ 1956 62. Hạnh phúc lối nào 1957 63. Sống thác với tình 1957 64. Nợ tình 1957 65. Ðón gió mát, nhắc chuyện xưa 1957 66. Chị Ðào, chị Lý 1957 67. Nợ trái oan 1957 68. Tắt lửa lòng 1957 69. Lẫy lừng hào khí 1957-1958 70. Lần qua đời mới 1958-? 71. Hy sinh 1958--? Ðáng lẽ chúng tôi đặt nhà văn Hồ Biểu Chánh vào hàng các tiểu thuyết gia đầu tiên, nhưng chúng tôi nghĩ từ năm 1912, ông sáng tác Ai Làm Ðược, nhưng phải đợi 10 năm sau, ông mới sửa chữa và cho in ra, thời gian 10 năm ấy vật đổi sao dời, tiểu thuyết đã đi được những bước vững chắc rồi. Lối hành văn của ông vượt hẳn các nhà văn lớp trước, tuy những quyển tiểu thuyết của những năm đầu, thỉnh thoảng ông cũng dùng lối biền ngẫu, như đoạn sau đây trong Nhơn Tình Ấm Lạnh : ‘‘... Ðêm đã khuya nên trên đường chẳng còn ai đi nữa, trăng thật tỏ mà mấy nhà ở dọc theo đường lại kín cửa ngủ hết. Duy Linh ra khỏi cửa ngỏ của ông Huyện hàm rồi, thì thủng thẳng huởn bước mà về. Ði vài chục bước ngó ngoái lại một lần, thì thấy vách tường trắng toác, nóc lầu hồng hồng, trước cửa lầu ngọn đèn chiếu sáng trưng, sau nhà bếp dạng người còn náo nức. Bóng trăng vì nhanh áng nên chỗ mờ chỗ tỏ, cây cỏ bị ngọn gío đàng nên lắc lại lắc quạ Dọng ngâm nga nghe tiếng dế khóc bên chân, bay sập sận thấy cánh chim quơ trước mặt ...’’ Tuy nhiên tiểu thuyết của ông đã có ranh giới phân biệt rõ ràng thời kỳ sơ khai đã chấm dứt, cho nên chúng tôi đưa ông vào các nhà văn tiếp nối. Nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi thấy những nét đặc biệt bằng bạc trong hầu hết các tác phẩm của ông. Về luân lý, ông vẫn theo luân lý Khổng Mạnh, nhưng luôn muốn có cải cách, uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh chớ không quá câu nệ, chẳng hạn như trong Vì Nghĩa Vì Tình : ‘‘... Tối lại cô ngủ không được, cô nằm suy tới tính lui, làm thân đàn bà con gái, nếu tỏ với đàn ông con trai một lời không đoan chánh, thì thẹn thùa xấu hổ có chi bằng, mà nếu mình vì danh tiết, không đành khêu tình, đặng mà cứu cái sanh mạng của người ta thì té ra mình trọng chữ ‘‘ trinh ‘’ hơn là chữ ‘‘ nhơn ‘’, làm người dường ấy chưa phải là người đứng đắn. Cô cân phân từ chút, cô xét nét từ hồi, nếu cô giữ vẹn tiết trinh thì Chánh Tâm phải chết, rồi Trọng Quí phải mang cái quả báo. Cô là người có lòng nhân từ, cô không nở vì phận cô mà cô để cho kẻ khác bị hại, thà là cô mang tiếng thất tiết mà cô cứu người ta, chớ cô cố chấp danh tiết của cô thì cái lỗi bất nhơn nó còn nặng hơn cái lỗi thất tiết nhiều lắm. Mà tại sao lại gọi rằng thất tiết? Phận gái phải gìn giữ nết na, mình liếc mắt trêu hoa, mình tỏ lời ghẹo nguyệt, mình làm giả dối đặng cho khách buồn rầu động tình mà quên nổi vợ con vậy thôi, chớ mình dại gì mà để rơm gần cho lửa bắt, thọc tay vào cho chàm dính, mà sợ xủ tiết ô danh ‘’. Nhân vật của Hồ Biểu Chánh phần nhiều đều có khuynh hướng phiêu lưu, từ Chí Ðại trong Ai Làm Ðược, Phan Văn Quí trong Mẹ Ghẻ Con Ghẻ, Duy Linh trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Châu Tất Ðắc trong Từ Hôn, Lân trong Lời Thề Trước Miễu, cho đến thằng Hồi, thằng Quì trong Vì Nghĩa Vì Tình, thằng Ðược, thằng Bỉ trong Cay Ðắng Mùi Ðời, thằng Hiệp, thằng Cao trong Lạc Ðường là những nhân vật phiêu bạt, lang thang để :‘‘ đi một ngày đàng, học một sàng khôn ‘’. Những nhân vật phiêu lưu ấy thường chọn con đường thương mại để nên người. Chắc chắn ông muốn thay đổi tạp quán, khuyến khích người ta nên rời khỏi con trâu, cái cày, mảnh vườn, đám ruộng để đi đó đi đây, dùng con đường thương mãi tiến thân. Xã hội tiểu thuyết của ông phần lớn là xã hội của những điền chủ, Hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, thầy Thông, cô Ký ở thành thị, bên cạnh những Ba Có bán chè trong Nợ Ðời, Tư Cu trong Vì Nghĩa Vì Tình, Lý Trường Mậu trong Lạc Ðường... lớp trưởng giả đầy rẩy những lường lọc, bất công, xa hoa, còn trong khuê phòng các con ông Hội đồng, điền chủ chịu nhiều nổi gian truân, nào là Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược..., còn những người nghèo khó rất đáng thương tâm như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương Hào Ðiều trong Khóc Thầm. Ông cũng đã phá về quan niệm hôn nhân của người xưa như môn đăng hộ đối...Nhưng không phải đổi mới hoàn toàn như Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, hay ngược lại một sự cảm hóa như Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, ông muốn kêu gọi sự thức tỉnh về quan niệm hôn nhân như trong Tại Tôi, một tiếng kêu trầm thống cho bà cả Kim, đại diện cho lớp trưởng giả miền Nam thời bấy giờ, không phải một sự phản kháng, không phải do may rủi tình cờ, mà là trường hợp điển hình gây ra nổi thương tâm ray rức cho bậc cha mẹ. Từ năm 1927, ông là bậc ‘’ Dân chi phụ mẫu ‘’, vậy mà tiểu thuyết ông tả những chuyện loạn luân, giết người như Lý Trường Mậu giết Mái Chín Cúng giựt tiền cho vợ con, sau vợ con sa đọa, mãn tù anh ta trở về lại giết vợ là Ba Trâm và con là Cô Ba Hào, rồi anh ta tự tử trong Lạc Ðường (1937), Trinh giết bà Lợi để cướp tiền trong Người Thất Chí (1938), Hương Hào Ðiều giết Vĩnh Thái và Thị Sen là đôi gian phu dâm phụ trong Khóc Thầm (1929). Tiểu thuyết của ông có hậu, quả báo nhãn tiền, mọi việc đều để răn dạy, phải chăng nó phản ánh cái xã hội ngang tàng thời đó ? của thứ anh hùng ‘‘ thế thiên hành đạo ‘’; nếu tiểu thuyết để giáo hóa con người thì nó cũng có khả năng làm cho người ta bắt chước, nghĩa là nó có ảnh hưởng tốt và xấu tuỳ theo trình độ và trường hợp của mỗi người. Nhưng phải công nhận đây là sự táo bạo của nhà văn lớp trước. Nhiều tiểu thuyết của ông đã phóng tác theo tiểu thuyết Tây phương rất tài tình, như quyển Ai Làm Ðược, ông mô phỏng theo quyển André Cornelis của P. Bourget, Chúa Tàu Kim Qui phỏng theo Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas, Ngọn Cỏ Gió Ðùa phỏng theo Les Miserables của Victor Hugo, Cay Ðắng Mùi Ðời phỏng theo San Famille của Hecto Mailot, Người Thất Chí phỏng theo Tội Ác Và Hình Phạt của Destoievski... Trong Tội Ác Và Hình Phạt của Dostoievski ám chỉ ý tưởng hình phạt do luật định, không làm tội nhơn sợ hải nhiều như những nhà làm luật tưởng, trừ khi chính hắn đòi hỏi hình phạt đó trong tinh thần, nhưng cuối cùng rồi Dostoievski cũng đưa Raskôlnikốp trở về nhà giam của xã hội con người ở Tây Bá Lợi Á với bản án tám năm tù khổ sai, còn Hồ Biểu Chánh đẩy Trinh tự phạt mình hơn mười năm xa lánh con người trong dãi Thất Sơn, vì chàng ta tự đòi hỏi cái hình phạt ấy cho mình, ông đã vượt quá Dostoievski. Văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng giản dị như những nhà văn lớp trước, nhiều khi ông kể chuyện hơn là tả chuyện, ông cũng dành lấy quyền nói cho mình quá nhiều mà không để cho những tình tiết tạo thành câu chuyện. Chẳng hạn một đoạn trong Nhân Tình Ấm Lạnh, ông sử dụng lối ấy: ... Ở đời có nhiều cái vận hội lạ lùng có khi việc nên đã thấy trước mà rồi lại hóa ra hư, việc quấy đã tỏ tường mà ai cũng cho là phải. Mà việc quấy thiên hạ cho là phải, ấy là tại bụng người dua bợ nên chẳng luận làm gì, chí như việc gần nên mà hóa ra hư, nghĩ thiệt không biết sao mà liệu trước ... Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh phần nhiều ở Lục Tỉnh, Sàigòn và Gia Ðịnh, đó là những nơi ông đã sống, làm việc có nhận xét, có nhiều ấn tượng để viết, nên khi tả cảnh ông ghi được những nét tinh tế, do đó ông tả cảnh thôn quê, chúng ta thấy như một bức tranh đẹp có nhiều màu sắc linh động. Một cảnh ông tả Xóm Tre ở Gò Công. ‘ ‘ Ðến nữa tháng năm, trời mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy. Chiều bửa nọ, trận mưa mới tạnh, bóng mặt trời chói chói phía bến đò; trong xóm nhà nhúm lửa nấu cơm chiều khói lên ngui-ngút; tre níu nhau mừng trời mát lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu, bạn cầy thá ví tiếng vang vầy, công cấy hát hò hơi lảnh lót. Dưới sông bao ngược ghe chài chở lúa trương buồm rồi thả trôi theo giòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc nít chạy chậm xì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.’’ Về tả người, chúng ta xem qua kỹ thuật của ông, tả Huỳnh Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh : ‘‘... Cô tuổi vừa mới 17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm trăng trắng mà đều như hột bầu, ngón tay dài mà lại non như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn quần lụa bom-bay mới tinh, chơn đi giày thêu cườm, bông tay cà rá, dây chuyền đều nhận hột xoàn sáng ánh.’’ Tả Ba Trâm, vợ cập rằng Mậu trong Lạc Ðường : ‘’... Ba Trâm tóc tai dã dượi ở trong buồn bước ra. Tuy cô hẩm hút trong cái chòi lá, tuy cô mặc cái áo cụt vải trắng với mộyt cái quần lãnh đen củ xì, nhưng mà nước da trắng trong, mái tóc dợn sóng, tay chân dịu nhiễu, môi má ửng hồng, tuổi đã quá ba mươi mà sắc vẫn còn xinh đẹp. Nhan sắc nầy lẽ thì phải ở nhà lầu, ngồi xe hơi mới xứng đáng.’’ Ðến khi Ba Trâm lấy chồng khác, đã ở nhà lầu, đi xe hơi rồi, ông tả lại cô ta : ‘’ ... Cô bận một bộ đồ mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước da của cô đã trắng; mà nhờ màu áo giọi thêm, làm cho nhan sắc của cô pha vẻ lả lơi với vẻ nghiêm nghị, nên coi đẹp đẻ vô cùng...’’ Cái lối viết trơn tuột của ông, tưởng chỉ cần nghe thằng Ðược nói với Ba Thời : ‘’- Sướng a ! Tía tôi vìa đây tôi biểu tía tôi mua thép uốn lưỡi câu rồi tôi đi câu với tía tôi chơi. Nầy má, hôm trước thằng Phát đi câu với tía nó, nó câu được một con cá trê lớn quá, mà à...’’ Còn nếu cần nữa, chung ta đọc luôn bức thư của tên Hữu, gửi cho Ba Thời cũng trong Cay Ðắng Mùi Ðời. Xà-No, le 16 Decembre 19.. Tao gửi lời về thăm mầy được mạnh giỏi. Tao ở dưới nầy bình an như thường. Năm nay tao làm ăn cũng khá khá. Như mầy có nghèo lắm thì bán cái nhà lấy bạc đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu mà xuống đây. Mà nếu mầy đã có nơi nào khác rồi thì phải gửi thơ cho tao biết. Nói dùm tao gửi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm hết thảy. Hữu ký Nói chung, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rấp hấp dẫn lớp độc giả trung lưu và bình dân thời bấy giờ, do cốt truyện đều đáng thương tâm vì những hoàn cảnh éo le ngang trái. Nhân vật đồng quê có, thành thị có phô bày xã hội đương thời thích hợp với nhiều tầng lớp. Truyện của ông đều nhằm mục đích hướng thượng, ông luôn luôn để cho những nhân vật thiện của ông nhắc nhở hành động của mình để đi tới con đường lương thiện. Kỹ thuật xây dựng truyện của ông khá cao, ông dồn đẩy những nhân vật chính vào các trạng huống thương tâm, những tình tiết dồn dập dễ gây cảm xúc cho độc giả. Gần 50 năm sống và viết, viết cho đến hơi thở cuối cùng, ông đã để lại cho văn học miền Nam 71 quyển tiểu thuyết, văn nghiệp thật hiếm có đối với một nhà văn. Trong văn học sử, người ta lãng quên nhiều nhà văn lớp trước của miền Nam, nhưng người ta không thể quên được tên tuổi, văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Ðộc giả trộng tuổi vẫn còn ưa chuộng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vì cốt chuyện, và vì người ta còn tìm thấy dĩ vãng xã hội mình một thời đã sống an. Trác Nguyên Sưu tầm
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:43:34 GMT 9
Nhà Văn Trương Duy Toản Trương Duy Toản (1885-1957) Trương Duy Toản tự Mạnh Tự, bút hiệu Đổng Hổ, sinh năm 1885, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thuở nhỏ học ở tỉnh rồi lên học trường lớn ở Sàigòn, năm 1905 ra trường làm Kinh lịch tại tòa Khâm sứ Pháp ở Nam Vang. Năm 1907 đổi về Sàigòn, ông tham gia vào hội Minh Tân của Trần Chánh Chiếu, ông có sang Nhật làm thông ngôn cho Phan Bội Châu và Cường Để ở Nhật và Pháp. Năm 1908, Nhật trục xuất du học sinh, ông theo Cường Để sáng Âu Châu. Có lẽ trong thời gian này, ông viết tiểu thuyết Tiết phụ gian truân do F.H. Scheneider – Imprimerie, editeur 1910 – Saìgòn xuất bản. Năm 1914, ở Âu châu ông trở về Thượng Hải, Singapore rồi lại sang Pháp, tại Paris ông liên lạc với Phan Chu Trinh rồi bị Pháp bắt dẫn độ về Sàigòn, ông bị giam cầm một thời gian rồi được trả tự do. Sau đó ông sống bằng nghề cầm bút. viết tuồng cải lương. Năm 1924-1933, ông làm chủ báo Trung Lập, Sài Thành nhựt báo. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông sống ở Sàigòn với nghề làm báo, năm 1955, ông còn viết hồi ký về Phong trào cách mạng trong Nam đăng trên tuần báo Tiến Thủ với bút hiệu Đổng Hổ và tiểu Thuyết Phan Yên Ngoại sử tức Tiết Phụ gian truân đã in năm 1910. Ông mất năm 1957 tại Sàgòn, thọ 72 tuổi, an táng tại quận Tam Bình tỉnh Vĩnh Long. Tác phẩm của ông gồm có: - Phan Yên ngoại sử (1910) - Truyện Đơn Hùng Tín An Nam tục kêu Ba Tính (1925) - Phong trào cách mạng trong Nam (1956) Các tuồng hát: - Kim Vân Kiều - Lục Vân Tiên - Hạnh Nguyên cống Hồ - Trang Tử cổ bồn ca - Trang Châu mộng hồ điệp - Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu. ( Trác Nguyên Sưu Tầm )
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:45:51 GMT 9
Nhà Văn Trần Chánh Chiếu Trần Chánh Chiếu (1867-1919) Trần Chánh Chiếu tự Gilbert Chiếu, bút hiệu Tố Hộ và Trần Nhựt Thăng, ông sinh tại làng Vân Tập, sau đổi là Vĩnh Thanh Tân, tỉnh Rạch Giá, cha là Trần Thọ Cửu, hương chức trong làng. Gia đình ông khá giả, sau khi học xong trường tỉnh, ông lên Sàigòn học trường College d’Adran và khi thành tài, ông làm giáo học rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch giá. Ông có khẩn đất vùng Tràm Vẹt, có phố xá tại chợ Rạch giá, nên sau đó ông thôi làm công chức, trở về làng làm Xã trưởng một thời gian, ông được phong chức Phủ hàm và gia nhập Pháp tịch. Khoảng năm 1906, ông lên Sàigòn hoạt động trong phong trào Minh Tân - Danh từ nầy có lẽ lấy chữ trong sách Ðại Học. ‘’ Ðại học chi đạo, tại minh minh đức. tại tân dân tại chí ư thiện ‘’, phong trào Minh Tân là một bộ phận trong phong trào Duy Tân. Năm 1906 và 1907, ông làm Chủ bút tờ Nông Cổ Mín Ðàm và năm 1907 tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời, ông Làm Chủ bút tờ nầy dưới bút hiệu Trần Nhựt Thăng. Ông có hoạt động bí mật với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, ở Sàigòn ông lập Minh Tân Công Nghệ Xã, Nam Trung khách Sạn, ở Mỹ Tho có Minh Tân khách sạn là những nơi mà ông muốn người Việt Nam kinh doanh, để đương đầu với người nước ngoài, và cũng là nơi gặp gỡ của những người trong phong trào. Vì hoạt động bí mật và cạnh tranh thương mại, nên ông bị người Pháp theo dõi, đến tháng 10 năm 1908 ông bị bắt cho đến tháng 4 năm 1909 ông mới được thả ra, sau đó ông vẫn hoạt động bí mật trong phong trào Ðông du, và ông mất tại Sàigòn năm 1919. Ngoài việc làm báo, hoạt động cách mạng ra, ông dịch và viết một số tác phẩm sau : Tiền căn hậu báo (dịch le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas), trước đăng trong Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1914, nhà in Imprimerie de l’Union ấn hành sách. Hoàng Tố Oanh hàm oan. Văn ngôn tập giải. Gia phổ (1917) Trích văn : Thương hải tang điền Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Theo luật lệ tạo hóa, hễ hữu hình thì hữu hoại. Vật chi hễ có hình, hoặc chẳng lâu thì mau cũng phải hư nát. Còn trong đám trần ai hễ hữu sanh thì hữu tử, có sanh sản thì có tử táng, có sống thì có chết. Vã lại, sông biển núi non cũng hay đổi dời, ruộng dâu hóa ra biển, biển cạn bày đất thành ruộng dâu. Núi cao sập lỡ thành ao hồ, non nhỏ có ngày cao lớn. Mỗi người đều thấy, hễ chiêm nghiệm thì đều hiểu. Nói sang qua phong tục thì lại thấy nó mỏng manh hơn bánh tráng. Xưa vẽ mình, ở dã, ở bãi, nhờ ba con cá nuôi lỗ miệng, đầu trọc, mình đóng khố. Sau lần lần bắt chước lân bang, Sắm áo quần ngày càng tao nhã thanh lịch. Nay lại muốn bỏ đồ xưa, đổi áo thay xiêm, đổ dài thay vắn, cúp tóc cho gọn. Xưa đi giày hàm ếch lượt bượt. Nay đi giày đính gót gọn gàng. Xưa bịt khăn, nay đội nón. Muôn việc cũng đều bắt chước các nước, còn việc cơ xão, việc thông minh, bày vẽ cho cận tiện thì mình thua sút xa thăm thẳm. Nghĩ lại sự bắt chước cũng không mau được, ban đầu thì xài quần tây, đến sau cúp tóc, đội nóm, bây giờ muốn đổi áo. Mấy ông tưởng vậy là đủ cuộc trí thời thức thế sao ? Tôi tưởng chưa, là vì việc hủ lậu còn đầy, sự nghi nan còn nặng. Việc đọc sách, đọc nhựt trình còn sơ, việc cơ xão công nghệ còn hẹp. Nay lo chuyện sua se là dọn quần đánh áo. Hà tất duy tân. Ấy là có vỏ nõ có ruột. Phải ráng mà bươn chải với đời, lo cho con nhà nước Nam thông nghề buôn, giỏi nghiệp nghệ, tiện tặn chắt lót, thủ quyền lợi vì hễ có hằng sản mới có hằng tâm; bằng tay không chân rồi, dầu có mặc áo gấm cũng chẳng làm chi, bất quá thì hơn con công một thí mà thôi. Xin tri túc thường túc. Có 10$ ăn 5$ dành để 5$. Ðến khi có gặp điều phải mà thi ân được. Chớ ‘’ đồng rằng trong túi vắng hoe, thì ắt là kiến nghĩa nan vi, lâm nguy nan cứu ‘’. Tố Hộ Bài nầy in ra chắc có các vị Minh Tâm công luận. Phận tôi làm chủ bút sẽ cầm cân. Chủ Bút Số 2, ngày 21-11-1907 ( Trác Nguyên Sưu Tầm )
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 24, 2010 21:47:38 GMT 9
Nhà Văn Nguyễn Trọng Quản Tiểu thuyết gia đầu tiên : Nguyễn Trọng Quản nhà văn tiên phong là tiểu thuyết gia đầu tiên của miền Nam, tiếc rằng tiểu thuyết của ông không gây được ảnh hưởng cho nền văn học tiểu thuyết, có lẻ vì chưa có nhịp cầu nối liền từ nền văn học cũ sang nền văn học mới. Kế đó Gilbert Trần Chánh Chiếu, vì ông chẳng những là nhà văn viết tiểu thuyết gây được ảnh hưởng cho phong trào viết tiểu thuyết, mà còn là nhà cách mạng có tâm huyết với nước nhà. 1.- P.J.B. Nguyễn Trọng Quản : Cho đến nay chưa có tài liệu tra cứu rõ ràng về ông, chỉ biết ông là học trò Trương Vĩnh Ký, bạn đồng học với ông Diệp Văn Cương, từng du học tại Lycée d’Alger, có làm Hiệu Trưởng Trường Sơ Học tại Sàigòn. Ngoài Truyện Thầy LAZAZO Phiền, có lẽ ông còn có những bài viết đăng trên Gia Ðịnh Báo, tiếc rằng chúng ta chưa có tài liệu tra cứu thêm. Truyện Thầy Lazazo Phiền được Nguyễn Trọng Quản sáng tác năm 1886, ông viết tựa đề ngày 1 tháng 12 năm 1886, và được nhà in J. Limage, Librairie - Editeur, đường Catinat Sàigòn, ấn hành năm 1887 Về tiểu thuyết Truyện Thầy Lazazo Phiền thuộc loại thuật sự, cốt truyện như sau : Ðêm 12-1-1884, tác giả xuống tàu tại bến Sàigòn đi Bà rịa, lúc lên pont (sàn) tàu, tác giả gặp một thầy tu Lazazo Phiền, thầy Phiền có tâm sự buồn đi Vũng Tàu nghỉ dưỡng bệnh. Thầy Phiền tâm sự năm 1850 Thầy được 13 tuổi thì mẹ mất, sống với cha là Trùm họ đạo ở Ðất Ðỏ Bà rịa. Năm 1860, Pháp đánh Biên Hòa các người có đạo bị bắt cầm tù, khắc trên mép tai 4 chữ ‘’ Biên Hòa tả đạo ‘’. Năm 1862 Pháp đến Bà rịa thì nhà tù bị quan Annam đốt thiêu ba trăm tù nhân, số còn sống chạy thoát chừng 10 người trong ấy có thầy. Hai chân bị phỏng, thầy té xỉu bên bụi cây, được quan ba Pháp cứu sống và nuôi dưỡng sau đó quan ba Pháp về nước gửi thầy cho đức cha Lefèvre, Thầy được học chữ Quốc ngữ đến năm 1864 vào học trường chữ La tinh. Ở trong trường Thầy kết nghĩa với người bạn là Vero Liễu, Liễu có người em bạn dì, sau cha mẹ Liễu gả cho Thầy. Thầy xuất thân trường College d’Adran nên đi làm thông ngôn tại Bà rịa. Khi làm thông ngôn Thầy có quen quan Pháp nên hay vào đồn ăn cơm, có vợ viên quan ba Pháp là người Việt sanh tâm yêu Thầy, Thầy trốn tránh. Trong khi đó Liễu thôi làm việc ở Sàigòn, xuống Bà rịa buôn ngựa hay ở nhà Thầy, Thầy được thơ nặc danh tố cáo bạn và vợ xằng bậy, nên Thầy lập tâm dẫn lính phục kích bắn chết Liễu, rồi nữa tháng sau Thầy lại dùng thuốc độc của người Thượng dạy bỏ vào siêu thuốc của vợ Thầy, vợ Thầy uống lầm bệnh ngày càng trầm trọng hơn 11 ngày thì mất. Trước khi vợ Thầy mất, có lẽ hiểu được mưu độc của Thầy, nhưng người đàn bà ấy đã nói : ‘‘ Tôi biết vì làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho Thầy.’’ Sau khi chôn cất vợ xong, Thầy Phiền xin thôi việc về Sàigòn xin vào nhà dòng Tân Ðịnh tu và chuyến tàu ấy Thầy đi dưỡng bệnh. Khi tác giả về đến Sàigòn ngày 27-1-1884 thì được thơ của Thầy Phiền viết từ Bà rịa ngày 25-1-1884 thuật lại là khi Thầy về đến nơi, người vợ của quan ba Pháp kia hối hận nên có được thư của cô ta viết cho Thầy thuật lại là chính cô ta đã cáo gian cho vợ Thầy và Vero Liễu Và Thầy Lazazo Phiền chết ngày 27-1-1884. Truyện nầy tác giả viết in ra 28 trang khổ 12 x 19 cm Trích văn : Ai xuống Bà rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong cát tại làng Phước Lễ thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng gần một bên nhà thờ những kẻ Tử đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng, không ai màng ngó tới. Mồ đó là mồ một Thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng nằm yên nơi ấy. ................... Ðồng hồ nhà thờ nhà nước vừa đánh 8 giờ; đồ tôi đã đem xuống tàu mà đi Bà Rịa rồi. Chiếc Jean Depuis định 10 giờ mới chạy, nên còn 2 giờ chẳng biết làm đi gì. Lên đến sân thấy trăng thanh gió mát ( Rằm tháng chạp Annam là 12 Janvier 1884), thì tôi lại đứng nơi be tàu mà hóng gió. Ðứng đó lòng buồn một ít vì phải xa cách cửa nhà vợ con hơn tám bửa cho nên dẫu mà trên bờ đèn sáng như ngày, kẻ qua người lại xe ngựa rầm rầm, nhà hàng dẫy đầy những kẻ vui chơi, tôi cũng chẳng đem trí mà xem các sự ấy, cứ một xem phía bên sông Thủ Thiêm mà thôi; vì phía đó chẳng chơi sự sang trọng vui chơi, chẳng tỏ bày sự phàm xác thịt. Nơi ấy là nơi nghèo khổ làm ăn ban ngày, thong thả mà nghỉ ngơi ban đêm, nên còn một hai chỗ còn đèn leo lét mà chỉ vài nhà chưa ngủ mà thôi. Còn dưới sông mặt trăng dọi xuống làm cho nước giọng ra như tấm lụa vàng có kim sa. Ðọc đoạn văn trích trên đây, chúng ta sẽ có dịp so sánh với các nhà văn sau nầy như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt viết sau ông trên dưới 30 năm, Nguyễn Trọng Quản đã hành văn trong sáng. Lời tựa đề tặng Diệp Văn Cương và các bạn người Việt cùng học ở Lycée d’Alger; ngoài ước muốn cho Miền Nam có tương lai rực rở, tiến bộ và văn minh, ông còn viết : ‘’ ...Tôi một có dụng ý lấy tiếng thường mọi người hàng ngày nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng : người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai ‘’. Qua lời tựa nầy, chúng ta xác định được, trước ông chưa có ai viết tiểu thuyết, cũng như Trương Vĩnh Ký, trước ông chưa có ai viết ‘’ Chuyện đời xưa ‘’ vậy, thứ nữa là dùng tiếng thường nói sao viết vậy : Ðó chính là truyền thống của văn chương miền Nam. ( Trác Nguyên sưu tầm )
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:04:04 GMT 9
nhà văn Lê Văn Trương Ngô Thanh Hương Kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 42 năm ngày mất của nhà văn Lê Văn Trương, Nhà xuất bản Văn học vừa xuất bản bộ sách Lê Văn Trương Tác phẩm chọn lọc. Sách do Nhà văn Triệu Xuân sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu; gồm 2 tập gần 2000 trang khổ 16 x 24 Cm, bìa cứng in giấy đẹp, trình bày đẹp. Nhà văn Lê văn Trương sinh ngày 02-2-1906 (Bính Ngọ) tại Hà Nội, mất lúc 12giờ 30 ngày thứ ba, 13 tháng Giêng năm Giáp Thìn, nhằm ngày 25-2-1964) tại căn nhà 100/67 đường Trần Hưng Đạo, Quận 2, nay là Quận Nhất thành phố Hồ Chí Minh. Sinh thời, Lê Văn Trương viết rất khỏe, đã xuất bản trên một trăm tiểu thuyết có sức lôi cuốn nhiều thế hệ bạn đọc. Sau đây là toàn văn Lời tựa của nhà văn Triệu Xuân in trong bộ sách Lê Văn Trương Tác phẩm chọn lọc. NHÀ VĂN LÊ VĂN TRƯƠNG NĂM MƯƠI CHÍN NĂM SỐNG VÀ VIẾT Lời tựa của nhà văn Triệu Xuân Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nổi bật lên hai văn đoàn. Văn đoàn thứ nhất có trên dưới chục người, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sáng lập, mang tên Tự lực văn đoàn. Văn đoàn thứ hai, thực ra chẳng có đoàn nào cả, chỉ có một người, một mình một cõi nghênh ngang, nhưng số lượng tác phẩm xuất bản, số lượng độc giả mê say tìm đọc không thua kém gì văn đoàn thứ nhất, ấy là nhà văn Lê Văn Trương. Trong lịch sử văn học Việt Nam từ năm 1930 đến nay, tài năng xuất chúng không ít, nhưng tôi chưa thấy có nhà văn nào mà số kiếp lại lênh đênh, ly kỳ như ông! Tính từ năm 1934, khi tác phẩm đầu tay: tập truyện ngắn Những cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích ra đời, cho đến năm 1945, khi Lê Văn Trương được cụ Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban đãi vàng Bắc Kỳ, với 12 năm thực sự viết văn, ông đã viết khoảng 120 tác phẩm, trong đó hầu hết đã xuất bản! Trong Nhà văn hiện đại, quyển tư tập thượng, Vũ Ngọc Phan cho rằng từ 1934 cho đến khi tác giả viết về Lê Văn Trương, năm 1942, chỉ tám năm, Lê Văn Trương đã cho xuất bản 52 tiểu thuyết! Tất nhiên, thống kê này chưa thật đầy đủ, bởi Lê Văn Trương có sách in ở rất nhiều báo, tạp chí, tới 21 nhà xuất bản như sau này ông Nguyễn Ngu Í đã công bố. Theo Nguyễn Ngu Í thì tổng số sách đã xuất bản là 96 tác phẩm, sách chưa in là 29 cuốn, chưa kể gần một chục bản thảo trước khi qua đời (tháng 2 năm 1964), Lê Văn Trương bán cho các báo và nhà xuất bản tại Sài Gòn, nhưng biệt tăm biệt tích! Còn theo thống kê mà Lê Văn Trương công bố với báo chí khi còn sống thì tổng số trước tác của ông lên tới 247 cuốn! Giáo sư Hoàng Như Mai viết: "Tổng số sách mà Lê Văn Trương sáng tác, có nhiều cuốn hai ba tập, nếu chồng lên, phải cao hơn hai mét!... Nước Pháp thường giới thiệu một nhà văn của mình là Gioocgiơ Ximơnông, mỗi tuần hoàn thành một cuốn tiểu thuyết. Thời kỳ viết hăng, Lê Văn Trương cũng gần như vậy. Có lẽ cũng cần phải nói rõ thêm, Lê Văn Trương trong bất cứ công việc gì mà ông làm đều coi mình là một chiến sĩ, phải chiến đấu, phải chiến thắng. Viết một bộ tiểu thuyết dài hay một bài báo ngắn, luôn luôn ông nghĩ đang đấu tranh với ai, với cái gì. Ông chỉ cho ngòi bút nghỉ khi đích thân ông không hứng viết hoặc nhà xuất bản không in kịp. Giá trị của một con người được đo bằng sự cống hiến cho xã hội. Giá trị của nhà văn tính ở những tác phẩm làm ra để phục vụ độc giả (phục vụ theo nghĩa đúng). Lê Văn Trương với những kết quả lao động nghệ thuật của mình xứng đáng một chỗ đứng trên văn đàn1". Lê Văn Trương quê gốc tỉnh Hà Đông, sinh năm Bính Ngọ, 02-2-1906, trong một gia đình túc nho, tại làng Đồng Nhân, nay thuộc khu vực phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, thủ đô Hà Nội. Cha ông đỗ tam trường, mẹ ông cũng là bậc thâm nho, con gái một gia đình khoa cử. Người cha cho con sống khá tự do, nhưng người mẹ dạy dỗ các con khắt khe: "Nếu làm nên vương tướng gì thì làm, bằng không, phải giữ lấy nếp nhà"! Thuở nhỏ, Lê Văn Trương học chữ Hán từ song thân, khi gia đình lên lập nghiệp ở Bắc Giang, ông học Quốc ngữ và tiếng Pháp tại đó. Lê Văn Trương thông minh tuấn tú, học giỏi, thi đậu vào trường Bưởi (Lycée du Protectorat). Năm 1923, Lê Văn Trương vừa mười bẩy tuổi, học năm thứ hai, chứng kiến cảnh viên hiệu trưởng người Pháp lăng nhục một học sinh người Việt là Sale Annamite! (đồ Annam bẩn thỉu), ông liền cùng bạn bè thân hữu tổ chức bãi khóa. Vì thế là bị đuổi học! Lê Văn Trương tự học trong ba năm và thi đậu vào ngành bưu điện năm 1926. Thời bấy giờ, được làm công chức cho chính quyền thuộc địa lương bổng dư dật lắm. Có nhiều nhà văn, nhà thơ lúc đó làm công chức cho Pháp. Nhưng chính quyền thực dân không buông tha Lê Văn Trương vì thành tích: từng tổ chức bãi khóa chống người Pháp! Thế nên ông bị đẩy sang tận Campuchia, làm việc ở thủ đô Phnôm Pênh được một thời gian, ông lại bị chuyển lên Mongkolboray làm Trưởng bưu cục xứ hoang vu, heo hút. Năm 1927, may mắn mỉm cười với ông: Ông yêu và được một cô gái xinh đẹp, nết na hiền thục, con nhà giàu có đáp lại. Cô là Ngô Thị Hỷ, có cha người Bắc, mẹ người Nam, sang Campuchia làm ăn từ lâu. Bà Hỷ sau này theo ông đi kháng chiến, năm 1948 chết vì đạn lạc của Pháp trong một trận càn quét. Lê Văn Trương rất yêu thương, nhung nhớ và ơn sâu nghĩa nặng người vợ cả và thường xuyên nhắc đến bà trong đời cũng như trong văn. Ba năm sau khi cưới vợ, Lê Văn Trương bỏ nghề bưu điện, cùng vợ về sống ở Lovéa thuộc tỉnh Battambang (Campuchia). Ông dốc vốn làm nghề khẩn hoang lập đồn điền và trúng thầu xây dựng con đường xe lửa nối thủ đô Phnôm Pênh với Battambang. Ngày khai trương tuyến đường ấy, ông là lái buôn đầu tiên thuê nguyên một đoàn tàu mười toa chở toàn bò từ Battambang về thủ đô Campuchia. Từ đó ông hành nghề thầu khoán, xây dựng hầu hết cầu cống quan trọng ở Campuchia. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1931-1932 làm Lê Văn Trương lao đao. Các nhà băng của Pháp đòi những khoản nợ ông vay để khai hoang lập đồn điền. Ông dẫn vợ và các con hồi hương. Những ngày mưa dài tới bốn, năm tháng ở đất Cambốt đã nảy sinh trong ông khát vọng viết văn viết báo. Ông tập tọng viết từ đó. Về Hà Nội, ông lao vào viết. Ông Nguyễn Văn Vĩnh chủ bút tờ nhật báo Trung Bắc tân văn mời ông giữ mục Trắng đen. Ông giữ mục này, mỗi ngày tung ra một bài ngăn ngắn, và ngay lập tức cái tên Cô Lý (Lý lẽ của một người, chứ không phải cô gái tên Lý hay họ Lý) khiến làng báo làng văn chú ý. Làm báo một năm, ông tập trung cho việc sáng tác văn học. Giai đoạn này, ông lấy người vợ hai, tên là Đào, vốn là hoa khôi của vũ trường Fantasio, phố Hàng Bông. Bà vợ cả Ngô Thị Hỷ quá yêu chồng, chiều chồng, thương con nên có ghen tuông cũng dằn ở đáy lòng, chấp nhận thực tế! Vừa làm báo, viết văn, đôi khi ông cùng đệ nhị phu nhân đánh quả thuốc phiện ở mạn Bắc Giang, và đã từng làm thầu xây dựng đường sắt Vân Nam, xây dựng đường trong sân bay cho Tưởng Giới Thạch ở Nam Trung Hoa! Sau tập truyện ngắn đầu tay Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích được nhà Trung Bắc Tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản (1934), nhà Tân Dân của ông Vũ Đình Long chú ý đến ông, chèo kéo ông, để rồi biết ông là con gà đẻ trứng vàng, đã vô cùng chiều đãi ông. Lê Văn Trương trở thành thành viên quan trọng hàng đầu của nhà xuất bản Tân Dân, cùng với các nhà văn nổi tiếng như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Lan Khai, Thanh Châu, Ngọc Giao, Tchya Đái Đức Tuấn, Trần Huyền Trân, Nam Cao, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Như Phong, Kim Lân, Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình, v.v… Trên các cơ quan ngôn luận của Tân Dân - nhà xuất bản lớn ở Việt Nam lúc bấy giờ - như Tiểu thuyết thứ Bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, các tác phẩm của Lê Văn Trương được in liên tục, hết cuốn này tới cuốn khác. Tiểu thuyết thứ Bẩy và Phổ thông bán nguyệt san tiếng là tờ báo, nhưng không hề có thông tin thời sự, xã luận, không làm chức năng báo chí mà chỉ in rặt tiểu thuyết, truyện ngắn! Bạn đọc trông chờ từng số báo của Tân Dân để đón đọc tiểu thuyết tôn vinh nhân vật người hùng của Lê Văn Trương. Từ năm 1935 cho đến năm 1942, tám năm trời này là giai đoạn Lê Văn Trương khởi sắc, thăng hoa nhất, tiếng tăm nổi danh khắp nước. Nhiều người Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài cũng đặt mua định kỳ tác phẩm Lê Văn Trương. Nói như Nguyễn Ngu Í, "đây là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết gia Lê Văn Trương". Rồi ông Vũ Đình Long giao cho Lê Văn Trương làm chủ bút tờ Ích hữu, ra số đầu tiên ngày 25-2-1936. Đây thật sự là một tờ báo, với đủ các mục, có cả mục học chữ Hán, thế nhưng phần quan trọng nhất, ăn khách nhất của tờ Ích hữu vẫn là đăng tiểu thuyết! Gần hai năm sau, Lê Văn Trương ra Ích hữu bộ mới, số đầu tiên xuất bản ngày 8-12-1937, trong Ban biên tập có Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, Lê Tràng Kiều, Phạm Ngọc Khuê và Nguyễn Đình Lạp. Rất tiếc, báo ra được sáu tháng, bắt đầu được chú ý thì đình bản! Năm 1940, bà Ngô Thị Hỷ sanh con gái út, đặt tên là Lê Thị Giáng Vân. Ái nữ Giáng Vân được cha mẹ vô cùng cưng chiều. Cho đến lúc này, Lê Văn Trương có năm con: bốn trai và gái út. Đây là giai đoạn gia đình nhà văn sống vương giả, bà cả một dinh, bà hai một dinh. Riêng bà hai, Lê Văn Trương lập một trang trại ở Láng, giao cho trông nom để chuyên thù tiếp bạn văn. Hàng chục nhà văn trở thành thực khách thường xuyên của gia đình này. Có lúc, tại trang trại Láng, gần hai chục người đến đây tá túc, ăn uống và sáng tác, chỉ đến khi chủ nhân hết tiền thì mới lánh đi một thời gian để rồi lại hội ngộ ngay sau khi Lê Văn Trương nhận tiền nhuận bút tác phẩm mới. Mỗi khi Lê Văn Trương nhận tiền nhuận bút, ông rủ rê đàn em đi ăn nhậu, tom chát (hát cô đầu), chơi tổ tôm, và hút hít cho đến kỳ sạch bách số tiền nhuận bút mới thôi! Có một điểm tương đồng giữa Lê Văn Trương và Vũ Bằng. Vào thời kỳ cực thịnh tại Hà Nội, nhà văn Vũ Bằng cũng hào hiệp cưu mang, giúp đỡ từ cơm áo, tài chính, đến gợi ý, hướng dẫn về văn nghiệp cho rất nhiều nhà văn mới vào nghề. Lê Văn Trương cũng thế, tuy thích khoa trương hơn, ồn ào hơn Vũ Bằng, nhưng bản chất hào hiệp, quý trọng nhân tài, trọng nghĩa khí, coi thường danh vọng và tiền bạc ở Lê Văn Trương đã khắc sâu trong óc trong tim hàng chục nhà văn. Con người đã bộc lộ ý chí bất khuất trước cường quyền, sớm dấn thân vào kiếp giang hồ ngay từ năm mười chín tuổi, bôn ba khắp Đông Dương, sang tận Thái Lan, từng buôn lậu, chủ thầu xây dựng cho Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa, con người với trái tim nhạy cảm, được giáo dưỡng theo truyền thống Nho gia, hấp thụ nhanh chóng văn hóa văn minh Tây phương, hẳn không phải bình thường! Ông, tự nhiên nhi nhiên, trở thành Mạnh Thường Quân trong làng văn làng báo. Một Lê Văn Trương cao lớn nghĩa hiệp, một Lê Văn Trương trong đời thường thì ồn ã, thích phô trương, chơi ngông, thích nói tục; trong văn chương thì hơi cường điệu, thái quá tính cách nhân vật, con người ấy hẳn không coi khuôn phép sáo mòn, cổ hủ là gì! Được biết sau khi sống với người vợ hai, ông còn yêu và được yêu bởi cô gái đẹp mỹ miều mới mười bẩy tuổi. Người này được bà vợ cả quý mến. Bà cả cùng bà hai đi cưới bà ba về cho chồng! Thế nhưng Lê Văn Trương - rất không giống ai - không bao giờ chịu có con với bất cứ người đàn bà nào ngoài bà vợ cả! Chính ông đã khuyên nhủ người con gái, người đàn bà thứ ba, gắn bó với ông vài năm ấy, đi lấy chồng. Bà này, sau vô Sài Gòn, lập gia đình và có con cháu phương trưởng. Trong đám tang Lê Văn Trương, bà xuất hiện và không giấu giếm tình yêu mãnh liệt với nhà văn! Văn chương của họ Lê với lý tưởng người hùng trọng Danh dự và Tổ quốc xuất hiện vào thời đoạn năm năm sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong máu, những chiến sỹ Quốc dân Đảng bị thực dân Pháp chặt đầu. Phong trào Cộng sản đang còn trứng nước đã bị Pháp đàn áp dã man khi nổ ra Xô Viết Nghệ Tĩnh. Thanh niên Việt Nam, nhất là giới trí thức và hàng triệu người dân thành thị ngơ ngác không biết chọn con đường nào để sống và hy vọng, ước mong. Văn chương Tự lực văn đoàn như gấm như hoa, đài các, in đậm dấu vết của tầng lớp trưởng giả trong xã hội, đã thu hút một phần công chúng văn học. Số còn lại, gặp tiểu thuyết Lê Văn Trương như nắng hạn gặp mưa rào! Những tiểu thuyết và truyện vừa: Cô Tư Thung, Trường đời, Trận đời, Tôi là mẹ, Một lương tâm trong gió lốc, Bốn bức tường máu, Những đồng tiền xiết máu, Người anh cả, Một người, Một người cha, Một trái tim, Cánh sen trong bùn, Cô giáo tỉnh lỵ, Kiếp hoa rơi, Lịch sử một tan vỡ, Một tội ác, Một linh hồn đàn bà, Anh và tôi, Trong ao tù trưởng giả, Tiếng gọi của lòng, Anh Vẹo, Ông hoàng một đêm, Người vợ lý tưởng, Người vợ hoàn toàn, Đứa con hạnh phúc, Đứa cháu đồng bạc, Chồng chúng ta, v.v… đã trở thành cái phao cứu sinh cho biết bao tâm hồn con người vịn vào giữa cuộc đời đầy giông bão. Chiến tranh thế giới thứ hai vào giai đoạn liệt, giao thương Bắc Nam bị nghẽn, văn hóa đọc tạm thời lắng xuống, người ta mải lo toan làm sao cho an toàn tính mạng và kiếm sống, yên ổn gia đình… Bởi thế, số lượng báo, sách phát hành giảm nhanh chóng. Từ năm 1943, Lê Văn Trương viết ít và in ít hẳn so với trước đó một năm. Rồi cách mạng Tháng Tám bùng lên, cùng với nhiều nhà văn nhà thơ nhiệt tâm với dân tộc, Lê Văn Trương hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, đi theo Việt Minh. Được sự gợi ý, hướng dẫn của ông Trần Huy Liệu và ông Trần Văn Giàu, Lê Văn Trương ra tờ báo Việt Nam hồn, giương cao ngọn cờ yêu nước, căm thù giặc ngọai xâm. Đúng vào lúc tờ Việt Nam hồn có đông bạn đọc, Lê Văn Trương lâm bệnh nặng, phải giao cho người bạn quản lý, tờ báo không khá lên được, phải đóng cửa. Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, Lê Văn Trương được Hồ Chủ tịch bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban đãi vàng Bắc Kỳ, cơ quan đặt ở Chợ Bến tỉnh Hòa Bình. Ông đã cùng đồng đội lăn lộn khắp vùng rừng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Khu Bốn để tìm vàng làm kinh tài mua vũ khí thuốc men cho chính phủ kháng chiến. Rồi Lê Văn Trương vào quân đội Nhân dân Việt Nam. Năm 1953, vì lâm trọng bệnh, ông phải về Hà Nội chữa trị. Về Hà Nội, ông chữa bệnh rồi cộng tác với tờ báo Mới ở Sài Gòn của Phạm Văn Tươi và Lê Văn Siêu. Trong thời gian này, Lê Văn Trương cho xuất bản chín, mười cuốn tiểu thuyết mới viết, trong đó có Cô em họ và Người của mùa xuân. Tháng Sáu 1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Lê Văn Trương vô Sài Gòn, tiếp tục làm báo, viết văn và tái bản một số tác phẩm. Ông vô Sài Gòn một mình, ở chung với Lê Văn Siêu tại tòa soạn báo Phương Đông. Khi hai miền Bắc Nam bị chia cắt, vợ ông mới vô theo, ở đường Arras, nay là Cống Quỳnh. Đầu năm 1956, họ mới mua căn nhà trong hẻm 100/67 Trần Hưng Đạo. Thời gian đầu, Lê VănTrương còn rủng rỉnh tiền bạc. Ông sắm xe hơi, thuê một phòng trong khách sạn Nations đường Nguyễn Huệ để đến đó viết văn. Ông cũng theo đuổi nghề thầu khoán, nhưng thất bại. Thế rồi, không hiểu số phận xui khiến ra sao, ông vô làm cho Nha chiến tranh tâm lý của chính quyền Ngô Đình Diệm được vài tháng, rồi nghỉ. Kế đó, ông làm việc cho Đài phát thanh Sài Gòn, cũng chưa đầy nửa năm thì bị sa thải vì chính quyền Sài Gòn nghi ông dính líu đến vụ đảo chính Ngô Đình Diệm. Vài tháng sau khi nghỉ việc ở đài phát thanh Sài Gòn, ông ốm nặng, sống trong nghèo túng, không tiền thuốc thang, không tiền vô bệnh viện. Hàng ngày, ông lê bước trên từng hè phố Sài Gòn, một tay chống can, một tay ôm bản thảo đi bán hết tòa soạn báo này tới nhà xuất bản khác, nhưng vô hiệu! Thật đáng thương cho một nhà văn vang bóng một thời, từng nghênh ngang một cõi, từng cưu mang biết bao nhà văn nhà báo, nay mắc bệnh phổi cùng nhiều thứ bệnh khác vô phương, cứu chữa, phải sống trong nghèo túng. Bà vợ hai quê Nam Định được bạn bè giúp cho ít vốn mua gạo về bán lẻ ở chợ đắp đổi qua ngày… Đường cùng, ông kêu bán nhà. Nhà chưa bán được mà ông sắp trút hơi thở tàn. Căn nhà ông mua ở số 100/67 đường Trần Hưng Đạo, phường Bùi Viện, khóm 8, Liên gia 9, Quận Nhì (nay là Quận Nhất thành phố Hồ Chí Minh), vốn là đất chú Hỏa (tư sản người Hoa, sở hữu rất nhiều nhà đất tại Sài Gòn Chợ Lớn). Sau, là đất công. Vậy mà, thương thay, trên bìa của tờ khai gia đình (sổ đăng ký hộ khẩu), ông nắn nót viết lên dòng chữ: Nhà, Đất của tôi! Trong tờ khai gia đình, chỉ có tên hai người: 1- Lê Văn Trương, 2-2-1905, Hà Nội, nhân viên đài phát thanh Quốc gia. 2- Nguyễn Thị Đào, 1919, Nam Định, buôn bán. Thuật lại chuyện này, nhà văn Nguyễn Ngu Í xót xa viết: "Đất của tôi, trong khi đất chẳng phải của mình. Anh đã viết trong hồi trí chưa tỉnh nên của người lầm tưởng của mình? Hay vì buồn thấy mình trọn đời luân lạc, chẳng biết nhắm mắt ngày nào, mà chẳng có lấy một tấc đất trong tay, đành dối mình bằng bút mực?". * Nhà văn Nguyễn Ngu Í viết: Tôi may mắn gặp được một trong những người con nuôi của anh, tên là Phú, đã sống bên anh trong những ngày cuối cùngvà đã đưa anh vào nhà thương. - Cậu cháu đau nặng từ 28 Tết (thứ ba, 11-2-1964)- Phú kể- Vì già có, vì ăn uống thiếu thốn có, lại còn mắc bệnh ho nữa. Nhưng cậu cháu lại không nằm nhà để tĩnh dưỡng, lại cố đi thăm các nhà báo quen đã giao bản thảo để mượn ít tiền tiêu Tết, nhưng chẳng gặp ai, trở về nhà, kiệt sức. - Cháu có nhớ cậu thăm những ai và tên những bản thảo gởi cho họ không? - Cậu cháu tìm đến chú Mặc Thu, chú Nguyễn Vỹ và ông Nguyễn Văn Ba. Còn tên tác phẩm, con chỉ nhớ có một cuốn: Vĩ nhân trong đêm gởi chú Mặc Thu. Chị Trương (bà hai) tiếp lời: - Nhà em đau nặng từ 28 Tết, nhưng em đã rất lo từ trên hai tháng trước. Em nhớ nhà em không làm ở đài phát thanh Quốc gia được chừng một tháng thì xảy ra cuộc đảo chánh mồng 1 tháng 11. Trước đó mấy ngày, vào buổi trưa, một đứa con nuôi của nhà em hốt hoảng chạy về cho em hay, nhà em té xỉu trước rạp hát bóng Đại Nam, em chạy ra đưa nhà em về. Nhà em đau nặng từ đấy. Đến mồng 9 Tết, anh chị Đinh Hùng đến thăm. Thấy nhà em suy yếu quá, anh Đinh Hùng hỏi có bằng lòng cho anh em đăng lên báo nhờ bạn bè giúp để vào nằm nhà thương không. Nhà em bằng lòng. Phú tiếp: Bệnh tình cậu cháu càng nguy kịch, chưn thì sưng lên, nhiều lúc sảng mê. Mợ cháu quyết định bán nhà để có tiền đưa cậu vào bệnh viện. Ngày 22-2 tây, có anh Sa Giang Trần Tuấn Kiệt thay mặt chú Nguyễn Vỹ đến thăm, thấy tình cảnh ấy, nói với cháu cứ sửa soạn lần đi, ảnh về nói với chú Nguyễn Vỹ đưa tiền để đưa cậu cháu vô nhà thương. Ảnh vừa đi thì có người đến đặt cọc mười ngàn đồng để mua nhà. Chị Trương xen vô: - Lúc ấy em không có ơ nhà. Nhà em mới lấy tiền ấy bảo cháu Phú đưa vào nhà thương Đô Thành. Nằm trên giường bệnh rồi, nhà em lấy mười ngàn bạc rải ra chung quanh và trên mình. Chính lúc đó anh TrầnTuấn Kiệt đến trao năm trăm bạc của chú Nguyễn Vỹ. Người con nuôi nói tiếp: - Nằm nhà thương mà cậu con bỏ đi ra ngoài thường lắm. Bác sĩ bảo Đô Thành là nhà thương cứu cấp, mà cậu cháu thì bị lao, nên đưa vô nhà thương Chợ Rẫy. Trưa ngày 25-2, cậu cháu thấy mình khó sống, bảo đưa về nhà gấp. Về nhà độ nửa giờ cậu cháu mất. Nguyễn Ngu Í kết luận: Và anh đã chết âm thầm, với tuổi già, với bịnh tật, với túng thiếu, với dày vò, trong căn nhà hẹp. Khi nhà thơ Đinh Hùng viết lời kêu gọi bạn hữu góp tiền giúp Lê Văn Trương, đăng báo Người Việt Tự do, ngày 27-2-1964 báo mới phát hành thì 12 giờ 30 trưa ngày 25-2 (tức ngày 13 tháng Giêng năm Giáp Thìn, 1964), nhà văn đã trút hơi thở tàn, ngày 26 khâm liệm và mai táng tại nghĩa địa Phú Thọ Hòa rồi! Ngày ở Hà Nội, Lê Văn Trương rất mê tổ tôm. Vô Sài Gòn, ông rất thích nuôi mèo. Trong căn nhà nhỏ tồi tàn ở hẻm 100 Trần Hưng Đạo, ông nuôi tới ba chục con mèo. Khi ông chết, mấy chục con mèo kêu la thảm thiết rồi phủ phục liếm chân, tay ông. Tang lễ xong, bà Trương dọn nhà về bên Khánh Hội, nhưng đêm đêm người ta vẫn nghe thấy tiếng hàng chục con mèo về gào lên thảm thiết ở quanh căn nhà trong hẻm nay đã về tay chủ mới! Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, các con của nhà văn Lê Văn Trương từ Hà Nội vô sống tại Sài Gòn đã cải táng và dời mộ cha về an táng tại Gò Dưa, thuộc quận 12 thành phố Hồ Chí Minh. Ngày xây ngôi mộ hoàn tất, Giáo sư nhà giáo nhân dân Trần Văn Giàu, Giáo sư Hoàng Như mai và nhiều bạn bè thân thiết đã đến viếng Lê Văn Trương. Những tưởng nhà văn sẽ được yên giấc ngàn thu từ đây. Nào ngờ, khu đất mà ái nữ của ông, kỹ sư nông nghiệp Lê Thị Giáng Vân (nay đã nghỉ hưu) mua, lại nằm trong khu vực giải tỏa để an toàn lưới điện 500 KV. Thế là, số kiếp lênh đênh, lận đận của nhà văn Lê Văn Trương, một lần nữa tiếp tục bám riết lấy ông. Ông mất đã bốn mươi mốt năm tròn mà nay lại phải đi tìm nơi an nghỉ mới! Chữ đất của tôi mà ông viết nắn nót trên bìa tờ khai gia đình xem ra vẫn mãi mãi chỉ là ước ao, chưa thành hiện thực! * Trong bài báo in trên tờ Tia Sáng, ngày 30-10-1953, Lê Văn Trương viết về một tác phẩm của Triều Đẩu, có đoạn: "Nếu ngòi bút phải là một cái máy ảnh, nếu nghệ sĩ chỉ là thằng hề chạy theo mà nhai lại cuộc đời cho chúng ta xem, thì đời không cần nghệ sĩ. Chúng ta đòi hỏi ở nghệ sĩ một cái gì hơn thế, chúng ta đòi hỏi ở nghệ sĩ những gì nó không hẳn là sự thật, mà nó đúng hơn sự thật. Chúng ta đòi hỏi ở nghệ sĩ những điển hình của sự sống không phai nhạt đối với thời gian". Phương pháp tư tưởng của Lê Văn Trương về điển hình hóa trong văn học đã thể hiện rất rõ qua mấy dòng này. Thế còn Người hùng, Triết lý sức mạnh? Nhà xuất bản Hương Sơn ở số 97 phố Hàng Bông Hà Nội, năm 1938 đã in bài diễn thuyết của Lê Văn Trương, tại Hội Trí Tri, ngày 10 tháng Giêng năm 1938 nhan đề Một phương châm xử thế hay Triết lý sức mạnh. (Bài diễn thuyết này khi in thành sách đã bị kiểm duyệt cắt bỏ khá nhiều khiến Lê Văn Trương vô cùng tức giận, phải văng tục - cái tật cố hữu của ông- nhiều lần)! Trong đó, Lê Văn Trương trình bày năm vấn đề: Triết lý sức mạnh, Quan niệm về người hùng (homme fort), Triết lý sức mạnh đem ứng dụng cho cá nhân, Triết lý sức mạnh đem ứng dụng cho quốc gia và cuối cùng là Những ảnh hưởng, lợi ích của triết lý sức mạnh trong thực tế. Khi Lê Văn Trương tung ra triết lý sức mạnh, không ít người thời ấy, nhất là những đồng nghiệp ở các tờ báo, nhà xuất bản cạnh tranh trên thị trường chữ nghĩa với ông hết lời đả kích, cho rằng ông copy học thuyết của Nietzsch. Họ cho rằng người hùng của ông chỉ là kẻ đạo đức giả, chỉ là con nít ranh! Tại buổi thuyết trình này, Lê Văn Trương giãi bày: "Tôi không học cái triết lý ấy ở các sách, mà chính là tôi đã thâu thập được nó ở trên trường đời cạnh tranh, trong bao nhiêu năm luân lạc, trong bao nhiêu năm phấn đấu, trong bao nhiêu năm đau khổ". Ông nhấn mạnh: "Triết lý sức mạnh bắt nguồn ngay ở sự sống. Nó đột khởi lên một cách rõ rệt ở những cuộc tranh đấu". Lê Văn Trương cho đời là một cuộc tranh đấu không ngừng… tất cả cuộc đời là hiện thân của triết lý sức mạnh… Đường rừng cũng như đường đời, những con đường vinh quang, rộng rãi chỉ để giành cho giống khỏe. Tư duy như thế cho nên ông không ngừng cổ vũ cho việc rèn luyện sức khỏe, bản thân ông từ lúc lạc phách gia nhập chốn giang hồ đã học võ nghệ, tập bắn súng, cưỡi ngựa (Lê Văn Trương bắn súng bằng cả hai tay rất giỏi, phóng phi tiêu ở mọi tư thế đều vào hồng tâm)… để có đủ điều kiện dấn thân chấp nhận luật tranh đấu của loài người. Ông viết: "luật tranh đấu làm cho giống người ngày một tinh xảo, trái đất ngày một đẹp đẽ, sự sống ngày một nhiều sinh thú và ý nghĩa". Ông là người thiết tha yêu nước, vô cùng tự hào với truyền thống dân tộc. Khi nói đến lịch sử vẻ vang của đất nước, ông nhấn mạnh đến vai trò của sức mạnh nòi giống: "Trong lịch sử ta có hai chiến công oanh liệt tỏ cái sức mạnh xung thiên của giống nòi. Đó là khi Trần Hưng Đạo đánh bại quân Nguyên, và Nguyễn Quang Trung đánh bại quân Thanh". Coi Triết lý sức mạnh như là phương châm sống, phương châm xử thế, cắt nghĩa nguyên nhân mà dân tộc ta luôn luôn chiến thắng quân xâm lược phương Bắc, Lê Văn Trương kêu gọi mọi người noi gương cha ông đồng tâm, đoàn kết: "Thấu triệt triết lý sức mạnh, ông cha ta thắt chặt giải đồng tâm lại, tập trung tất cả sinh lực của giống nòi lại, rồi hùa nhau cùng hy sinh để mạnh, mạnh để đối ngoại, ông cha ta đã biết đối đầu với sự thực tàn nhẫn bằng một ý nghĩ tàn nhẫn: Một là còn với sự đắc thắng oanh liệt, hai là ngã một cách vinh dự". Ông hô hào mọi người, nhất là thanh niên phải đặt Danh dự và Tổ quốc lên trên hết! Ông kết luận: "Thêm một người thờ Triết lý sức mạnh tức là thêm một chiến sĩ dũng cảm trong đội quân tranh đấu cho phú cường của đất nước"! Nói đến tác phẩm văn học của Lê Văn Trương, có không ít người phê phán gay gắt: ông viết ẩu, câu cú dây cà ra dây muống, thích trực ngôn, luận thuyết dài dòng… Những người chê bai đều xuất phát từ việc phê phán cái Triết lý sức mạnh của họ Lê. Thật bất hạnh cho Lê Văn Trương, cái mà ông đề cao lên thành triết lý thì chính ông đã tự coi là, và chỉ là, một phương châm xử thế! Vậy mà người đời hết chê ông ảnh hưởng Nietzsch lại bảo ông vơ lấy phân tâm học của Freud! Người ta phỉ báng ông bởi cái mà ông gọi là triết lý ấy không có cơ sở triết học và nhân vật văn chương của ông chỉ là những minh họa tồi cho cái lý thuyết chắp vá kia mà thôi! May thay, không phải ai cũng phủ nhận Lê Văn Trương! Ngay từ năm 1940, trước Vũ Ngọc Phan hai năm, Lan Khai đã viết một cuốn sách nhan đề: Lê Văn Trương, mớ tài liệu cho văn học sử Việt Nam, Nxb Minh Phương ấn hành tại Hà Nội. Sau này, tại Sài Gòn, Nguyễn Vỹ viết chân dung Lê Văn Trương trong tập Văn Thi sĩ tiền chiến, in rải rác trên tạp chí Phổ thông của Nguyễn Vỹ, ông Nguyễn Hùng Trương, chủ Nhà sách Khai Trí in thành sách năm 1970. Cả Lan Khai lẫn Nguyễn Vỹ đều đánh giá cao tài năng, phẩm cách và thẳng thắn nói rõ những hạn chế, những thói tật của Lê Văn Trương. Một tác phẩm văn học ra đời, khen chê là chuyện bình thường. Thế nhưng công chúng yêu văn học và bản thân tác giả bao giờ cũng mong có được sự khen chê một cách khoa học và công tâm. Sinh thời, Lê Văn Trương không mấy quan tâm đến những lời chê bai mình. Ông sống như mình muốn, thích làm, thích viết những gì mình khoái. Văn ông chính là con người ông, chân thực, không giả tạo. Đây là ngoại hình nhà văn: "Ngoài ba mươi tuổi, tầm vóc cao nhớn, dáng đi lừ lừ như con cá trắm lội, với một màu da bánh mật, gương mặt rắn câng, một cái trán hẹp1 của người thiết thực, đôi mắt sâu gườm gườm và những cái nhìn nhanh như chớp. Miệng không rộng, môi trên hơi vểnh lên nổi một chiếc răng cửa khểnh"... "Bất cứ lúc nào và ở đâu ông nói nhiều hơn ai hết… Không nói, Lê Văn Trương rất có thể chỉ là một mớ tro tàn". (Lan Khai, sách đã dẫn). Nguyễn Vỹ viết: "Lê Văn Trương chửi thề toang toác chẳng sợ ai cười… chuyên môn nói tục nói phét, chỉ được cái thành thật không làm hại ai cả"! Lan Khai cho rằng lý thuyết của Lê Văn Trương là "một cuộc cách mạng tinh thần dựa trên thiên hướng và ánh sáng của Khổng học". Về điểm này, Lan Khai quả là người thấu hiểu Lê Văn Trương. Hầu như tư tưởng của hầu hết những tác phẩm văn học quan trọng của Lê Văn Trương đều thấm đẫm lòng nhân ái, bừng sáng nhân nghĩa lễ trí tín. Những nhânvật chính trong Người anh cả, Tôi là mẹ, Trường đời, Trận đời, Một người… đều sống, hành động theo thiên hướng và ánh sáng của Khổng học. Cắt nghĩa tại sao Lê Văn Trương đã một mình nghênh ngang, văn chương "dây cà ra dây muống" mà chinh phục được quá nhiều bạn đọc thời ấy, Lan Khai viết: "Ông đã đem tới cho tâm hồn quần chúng xứ này một sự bồng bột mới sau khi nó đã bị những vết thương đẫm máu làm tê tái và đã bị xâm chiếm bởi cái trống rỗng sau một sự cười cợt kéo dài quá cái hạn định hợp với lẽ phải… Ông đã tỏ ra săn sóc đến cái phần hồn của quần chúng hơn tất cả các văn sĩ hiện tại, săn sóc một cách đôn đốc, hăng hái, mê say". Lan Khai có lý khi cho rằng Lê Văn Trương chinh phục bạn đọc bắt đầu bằng việc tự thể hiện những khao khát trong tâm hồn mình đi tới thể hiện cái khát khao của muôn người. Một nhà văn, bất cứ ở thời đại nào, đất nước nào, nếu làm được như thế, thành công là tất yếu! Những nhân vật như Linh trong Một người, Trọng Khang trong Trường đời, Vĩnh trong Tôi là mẹ… là những mẫu người sống theo tam bất: Bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất. Họ coi thường tiền tài danh vọng mà chỉ trọng danh dự, vượt lên tất cả để sống cho ra một con người. Nhà văn Nguyễn Ngu Í thuật lại lời của Triều Đẩu: "Non ba mươi năm trước tôi là một quan phán bất đắc dĩ. Anh còn lạ gì cái cảnh thiệt thòi, lắm khi tủi nhục của người công chức thời thuộc Pháp ở Nam hay ở Bắc gì cũng thế. Giữa lúc ấy, tôi đọc tiểu thuyết Một người của Lê Văn Trương. Linh, viên tham tá trẻ tuổi con nhà giàu, vì đôi lỗi lầm nhỏ, bị viên sếp người Pháp mắng nặng lời và tát tai. Linh xấu hổ xông lại toan làm dữ, thì viên sếp hồi tâm xuống nước, rồi dọa: Tôi sẽ cách chức anh! Linh đáp ngay: Tôi không cần! Ngay từ bây giờ, tôi sẽ từ giã cái địa ngục mà người ta coi tôi như chó lợn này. Cha dọa dẫm, mẹ năn nỉ, Linh nhứt định thôi việc, nhận sống đời thiếu thốn gian lao của một người trai trọng danh dự… Cái phản ứng quyết liệt và khí phách của Linh đã gây một niềm hào hứng đặc biệt trong giới anh em công chức trẻ lúc bấy giờ. Chúng tôi coi Linh như người lý tưởng và coi tác giả Một người là thần tượng" (Sống và viết với… sách đã dẫn). Nhà văn Ngọc Giao viết: "Số lượng tác phẩm khổng lồ của Lê Văn Trương, trước khi in, tôi đều đọc bản thảo, thật tình, chưa hề bắt gặp một truyện nào thiếu đạo đức, vắng cái hào khí của con người đất Việt1". Sau khi chồng qua đời, bà Trương kể với Nguyễn Ngu Í: "Cách đây khoảng bẩy tháng, có một ông cụ ở Pháp về, tìm đến tận nhà, hết lời ngợi khen và cảm ơn nhà em: Nhờ quyển Sợ sống của nhà em mà con trai cụ ấy nên người. Thấy nhà hư, cụ biếu năm ngàn đồng để sửa chữa, thỉnh thoảng đem xe hơi đến rước nhà em đi chơi. Nhà em rất sung sướng khi thấy tác phẩm của mình có ảnh hưởng xây dựng như thế". Có thể dẫn ra - từ những tài liệu sưu tầm được về Lê Văn Trương - rất nhiều những ý kiến của các nhà văn, nhà báo và của bạn đọc ca ngợi Lê Văn Trương cùng tác phẩm của ông. Vũ Ngọc Phan mặc dù phê phán gay gắt, khắt khe, bắt bẻ từng câu từng chữ hơi cứng nhắc, máy móc, thậm chí đánh giá không công bằng về Lê Văn Trương; vẫn phải dành tới 41 (bốn mươi mốt) trang in cho họ Lê (Trong khi chỉ mười trang cho Nhất Linh). Có những tìm tòi, cách tân trong khi viết như kể chuyện với tiết tấu nhanh, dùng thủ pháp điện ảnh trong tiểu thuyết, dùng những hình ảnh, tu từ hơi quá lên một chút, hơi cường điệu quá mức để thể hiện tính cách nhân vật… đều bị Vũ Ngọc Phan chê bai, phủ nhận. Tất nhiên cụ Vũ có cái lý của mình, bởi những năm 1934-1942, kỹ thuật viết tiểu thuyết ở ta như thế nào, loại tiểu thuyết đăng báo được sản xuất như thế nào, thị trường chữ nghĩa cạnh tranh như thế nào… phải đặt tác phẩm của họ Lê vào bối cảnh đó chúng ta mới hiểu vì sao Vũ Ngọc Phan không ưa văn của Lê Văn Trương. Ngày nay đọc lại Vũ Ngọc Phan, chúng ta thấy những khuôn mẫu, tiêu chí về văn chương, về tiểu thuyết mà Vũ Ngọc Phan đòi hỏi tác giả của người hùng phải đạt tới, xem ra khá là áp đặt, thiếu sức thuyết phục đối với phong cách Lê Văn Trương! Kết thúc bốn mươi mốt trang về Lê Văn Trương, vào lúc Lê Văn Trương nổi danh nhất, hưng thịnh nhất, Vũ Ngọc Phan đánh giá văn nghiệp Lê Văn Trương bằng một câu: "Văn ông chỉ là một thứ văn hoạt, thứ văn dễ hiểu cho người trung lưu trí thức, không có gì đặc sắc"! Quá nhiều những lời đồn đại về Lê Văn Trương, đơn giản là vì ông quá nổi tiếng. Có những lời thêu dệt vì quá yêu, nhưng không thiếu gì những lời dèm pha ác ý. Thị trường chữ nghĩa thời đó đương nhiên là có sự cạnh tranh ác liệt. Cái sự nói xấu nhau tránh sao khỏi! Nhưng cứ đọc khoảng ba chục cuốn chất lượng nhất trong số hơn một trăm cuốn đã in, còn tới ngày nay, thì không thể nào phủ nhận được rằng Lê Văn Trương là người viết nhiều nhất trong số các nhà văn Việt Nam, rằng ông thực sự là một tài năng, là người có nhân cách và lòng nghĩa hiệp. Về mặt lao động, ông xứng đáng được ghi vào sách kỷ lục: Nhà văn Việt Nam lao động văn chương năng suất cao nhất! Sinh thời, ông làm việc hùng hục như trâu cày suốt ngày đêm, tất nhiên trừ những lúc đi tom chát hay tổ tôm. Ông đọc rất nhiều sách Đông Tây kim cổ, sống hết mình, chiêm nghiệm cuộc đời với trái tim mẫn cảm. Tuy thế, khi trò chuyện với bạn bè, ông ít khoe kiến thức. Ông có tác phong viết văn rất khoa học: Suy nghĩ kỹ trong đầu, nghĩ cho chín, thật chín rồi tự gọt rũa, cũng ở trong đầu, cho đến khi nào ông hài lòng thì mới ngồi vào bàn viết. Ông chuyên viết bằng tay. Từ năm 1934 cho đến năm 1964 là ba chục năm, nhưng kỳ thực thời gian thực sự sáng tác văn học chỉ có hơn hai chục năm mà ông đã xuất bản được 200 cuốn, (và gần bốn chục cuốn chưa in - như Lê Văn Trương đã công bố khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngu Í), viết bằng tay, không dùng máy chữ, thì quả là một kỳ tích!
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:04:53 GMT 9
Tiểu thuyết của một thời, sách viết cho một số tầng lớp người như thị dân, trung lưu, trí thức đọc, người của một thời, văn chương giải trí cho một thời… Đó là những câu người ta thường nói về Lê Văn Trương. Nhưng không vì thế mà những giá trị chân chính, những đóng góp thật sự và quý giá của Lê Văn Trương cho văn học Việt Nam bị mai một, lu mờ. Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Giàu kể rằng ông và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, nhà sử học Trần Huy Liệu là bạn thân với Lê Văn Trương, đọc khá nhiều sách của nhà văn. Ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền thời ấy rất tin cậy, quý mến Lê Văn Trương, đã hướng dẫn Lê Văn Trương ra tờ báo Việt Nam hồn, một tờ báo tiến bộ ủng hộ Việt Minh, chống Pháp. Ông Trần Huy Liệu từng tặng nhà văn một khẩu Browning để Lê Văn Trương phòng thân. Khi việc khai thác mỏ vàng Chợ Bến bị đình lại, Lê Văn Trương gia nhập quân đội, cùng với con trai trưởng Mạc Lân ở Tiểu ban Văn nghệ Phòng chính trị Liên khu Ba. Ông trân trọng những người viết trẻ, thường xuyên hướng dẫn nghề nghiệp cho họ, khuyên họ muốn viết tốt phải sống thật! Lê Văn Trương chiến đấu vô cùng dũng cảm. Theo nhà văn Yên Thao kể1, sau một trận chiến đấu, ông đã được đọc lá thư của người đại đội trưởng chứng nhận: "Nhà văn Lê Văn Trương là một người văn võ toàn tài. Khi chiến đấu, chiến sĩ bắn súng máy bị thương, Lê Văn Trương đã lao tới sử dụng súng máy thành thạo, tiếp tục tiêu diệt giặc. Tôi rất cảm phục ông…". Theo nhà văn Yên Thao, Lê Văn Trương viết báo, viết truyện về bộ đội, về nhân dân kháng chiến. Thế nhưng… tác phẩm của ông không được sử dụng. Tiểu thuyết Sứ mệnh lịch sử, các phóng sự: Tôi làm phóng viên, B 12… viết ra phải xếp xó! Tiểu ban Văn nghệ tổ chức đọc duyệt tập thể, có cả một hai nhà văn từ Trung ương dự. Lê Văn Trương bị phê phán là tự nhiên chủ nghĩa, thậm chí còn những lời bất nhã, chụp mũ khác! Một người có cá tính và tên tuổi như ông, đi kháng chiến, đâu thể nào đòi hỏi ngay ông phải có lập trường quan điểm của giai cấp vô sản, đâu thể nào đòi hỏi ngay lập tức về những trang viết phải hướng vào công nông binh! Ông đau lắm! Ông đi theo Việt Minh, theo cụ Hồ, bỏ lại tất cả, bỏ đời sống vương giả ở Hà Nội, ông đến với kháng chiến bằng cả tấm lòng, đưa cả vợ con theo, sẵn sàng hiến dâng sinh mạng cho Tổ quốc! Thế mà ông không được tin dùng! Chán nản, thất vọng, tác giả của tiểu thuyết người hùng vốn là người có trái tim đa cảm và mềm yếu! Ông giã từ những cuộc họp hành, kiểm điểm, phê phán… về sống với các con ở Đầm Đa. Đúng lúc đó, ông bị một cái nhọt ở giữa sống lưng, nó nhanh chóng bung ra bằng miệng bát (hậu bối). Ở chiến khu, làm sao mua được thuốc kháng sinh như Pênêxilin, Xtreptômixin… Thế là ông phải về Hà Nội, chấp nhận mang tiếng là dinh tê về thành. Bất đắc dĩ ông phải về, còn vợ con, ông cấm vợ con không được về sống ở vùng tề! Số phận đưa đẩy, giữa năm 1954, ông vào Sài Gòn làm báo, làm thầu khoán, để rồi… ra đi trong túng thiếu, cô độc. Thời hoàng kim ở Hà Nội, ông cưu mang hàng mấy chục bạn viết. Đám tang ông, ngoài người vợ hai, người con nuôi, vài người trong họ, chỉ có một vài bạn viết văn, làm báo. Mấy đoàn hát ở gần nhà ông cho mượn xe đưa đám và một số nghệ sĩ đến viếng, tiễn ông đến nghĩa địa Phú Thọ Hòa. Sân khấu cuộc đời ông, tấn trò đời mà ông thủ diễn sau năm mươi chín năm vinh quang và cay đắng đã hạ màn. Trong cảnh hạ màn tang thương ấy, chỉ có tiếng ba chục con mèo mà ông yêu thương gào khóc vĩnh biệt nhà văn! Tôi được đọc tiểu thuyết của Lê Văn Trương lần đầu tiên năm 1970, khi đang học khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Thời ấy, tác phẩm Lê Văn Trương không được giảng dạy trong nhà trường. Ở đại học, chúng tôi chỉ được học phớt qua về ông với những lời phê phán là chính. Tôi được một ông thầy quý mến, cho mượn khá nhiều sách, có cả những sách in ở Sài Gòn gửi qua đường Paris về nước như Vòng tay học trò, có cả những bản dịch tác phẩm văn học hiện sinh Pháp mà bấy giờ chưa được xuất bản như Buồn nôn, Trong khi chờ Gôđô, Nữ danh ca đầu hói, Những chiếc ghế... Trong số sách mà tôi được Giáo sư cho đọc, có mấy cuốn của Lê Văn Trương. Tôi đọc một mạch, một ngày một đêm hết ba cuốn. Sau, tôi tìm đọc Lê Văn Trương tại Thư viện Trung ương, cũng nhờ Giáo sư giới thiệu nên được đặc cách làm thẻ đọc hạn chế, tức sách cấm! Bây giờ thì không còn chuyện cấm đọc Lê Văn Trương nữa. Ít người được đọc cho nên ai nói gì về văn chương của họ Lê tôi cũng chỉ biết nghe. Khi được đọc rồi, tôi mới hiểu, thì ra con người và tác phẩm Lê Văn Trương (cùng với nhiều nhà văn khác) không hoàn toàn như những điều đã được nghe, được học! Năm 1993, khi hợp tác với NXB Văn hóa Thông tin in cuốn Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng (sau khi phát hành một tuần thì bị ngưng phát hành!), tôi đã nghĩ tới chuyện rồi đây phải lần lượt xuất bản các tác phẩm của Vũ Bằng, Lê Văn Trương và những nhà văn anh tài khác. Tác phẩm của họ là tài sản vô giá của dân tộc. Số phận của các nhà văn ấy vô cùng cay đắng, lênh đênh, lận đận. Hậu thế cần hiểu rõ những giá trị đích thực để lớp bụi thời gian không thể làm lu mờ những gì là tinh hoa của đời sống tinh thần người Việt Nam. Lê Văn Trương - Tác phẩm chọn lọc gồm hai tập, ra đời vào đúng dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh (02-2-1906) và 42 năm ngày mất của nhà văn (Ngày 13 tháng Giêng năm Giáp Thìn nhằm ngày 25-2-1964). Hoàn thành bộ sách này, tôi vô cùng cám ơn chị Lê Thị Giáng Vân, kỹ sư nông nghiệp, con gái út của nhà văn Lê Văn Trương; chân thành cám ơn các giáo sư văn học, sử học, các nhà văn, nhà báo, các bạn đồng nghiệp đã tận tình cung cấp tư liệu, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm sách.
Ngô Thanh Hương
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:18:31 GMT 9
Hồ Biểu Chánh (1.10.1885-4.11.1958) Người mở đường cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, vừa đúng 120 tuổi Trang Quang Sen Trong bài giới thiệu quyển Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh, tái bản năm 1988, học giả Trần Hữu Tá than phiền là giới văn học Việt Nam đã quên làm „Kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Hồ Biểu Chánh“ nhà văn „hết sức quen thuộc với nhiều thế hệ người đọc Việt Nam - đặc biệt là người đọc phía Nam Tổ quốc“ [1] . Gs Trần Hữu Tá có lý, nhưng 20 năm sau giới văn học Việt Nam cũng „quên lửng“, ít nhắc đến nhà văn này, người đã mở đường cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nếu còn sống thì tháng 10 năm nay Hồ Biểu Chánh vừa đúng 120 tuổi. Ông thuộc vào một số rất ít nhà văn Việt Nam đã sử dụng những từ ngữ bình dân một cách tự nhiên, phản ảnh trung thực tâm tình và tâm lý của người dân bình dị và nhờ đó các truyện viết của ông dễ gây xúc động cho người đọc. Phần lớn độc giả của ông chỉ biết tên Hồ Biểu Chánh, nhưng tên thật của ông là Hồ Văn Trung tự là Biểu Chánh. Ông lấy họ và tên tự của mình ghép lại để viết văn. Sau khi thi đậu bằng thành chung năm 1905 ông làm thông ngôn và cuối đời làm việc được thăng đến chức Ðốc phủ sứ. Năm 1946, ông nghỉ hưu và dành trọn những ngày tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương cho đến khi mất ngày 4 tháng 11 năm 1958 tạiPhúNhuận. Hồ Biểu Chánh viết văn từ năm 1910. Quyển tiểu thuyết đầu tay của ông Ai làm được ra đời năm 1912 và chỉ trong vòng 19 năm, ông cho xuất bản 18 quyển tiểu thuyết và nhiều kịch bản. Hồ Biểu Chánh say mê văn chương và viết liên tục cho đến khi mất, tổng cộng hơn 70 tiểu thuyết, đoản thiên. Quyển tiểu thuyết cuối cùng của ông là quyển Hy sinh, chưa xong. Ngoài tiểu thuyết ông còn viết nhiều thể loại khác như tuồng hát, hồi ký, biên khảo, thơ, dịch thuật, phê bình, tuỳ bút… Tổng cộng có hơn 130 tác phẩm, một con số ít có nhà văn Việt Nam nào đạt được. Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất lớn của miền Nam và của cả nước. Ông để lại cho văn học Việt Nam một gia tài đồ sộ với hơn một trăm quyển tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thơ, biên khảo… Tiểu thuyết của ông được phổ biến rộng rãi và đã đi vào lòng của đại đa số dân chúng ở vùng đất phương Nam. GS Nguyễn Văn Trung khi viết về Hồ Biểu Chánh đã tâm sự như sau: „dạy văn học trên 20 năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây vì trước đây khinh chê, không thèm đọc“. Sau khi đọc xong, GS Trung nhận thấy tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn. Một người bạn lớn tuổi của ông đã thú nhận với ông „chả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà còn nói bị xúc động như muốn rơi nước mắt“ và ông đặt ra câu hỏi „Tại sao một cuốn truyện, sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn hấp dẫn, gây xúc động với một người ở địa phương khác với địa phương của tác giả?“ [2] Trong cuộc đời làm việc, ông có những bước thăng trầm, có lúc ông ra làm quan cho Pháp nhưng không lợi dụng vị trí này để hưởng lợi cho bản thân hay cho gia đình mình mà để dễ dàng truyền bá đạo lý cuộc sống theo lý tưởng của ông. Có nhiều người muốn qua đó chỉ trích lập trường „chính trị“ của ông quan Hồ Văn Trung, rồi phủ nhận cả công trình văn học của ông, nhưng „ không ai có thể xoá mờ tên tuổi nhà văn Hồ Biểu Chánh trong lòng người đọc cũng như trong lịch sử văn học Việt Nam thời cận đại. Hồ Biểu Chánh phải đâu là trường hợp duy nhứt trong quá khứ văn học nước nhà! Một Nguyễn Du với lập trường chính trị không mấy tốt đẹp, ăn lộc nhà Lê rồi khuất thân phò nhà Nguyễn, chống lại cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, vậy mà kiệt tác Truyện Kiều của ông xưa nay vẫn được nhơn dân đề cao hết mức. Một Xuân Diệu từng làm nhơn viên sở Quan thuế thời Pháp thuộc, vậy mà đương thời những bài thơ đầy tính chất lãng mạn trữ tình của ông không hề bị ai xoá bỏ vì lý do ông làm việc cho chính quyền thực dân. Xưa nay còn biết bao trường hợp na ná như thế“ như học giả Nguyễn Văn Y đã bình luận cho lần tái bản quyển tiểu thuyết Tân phong nữ sĩ. [3] Trong cuộc đời văn chương, ông luôn giữ lập trường và mục đích sáng tác của mình. Ðối tượng độc giả của ông là đại đa số người bình dân, giới trung lưu có học, không phải là giới trí thức cao siêu hay những bậc trưởng giả giàu có. Những người đương thời muốn theo thời, góp ý với ông để ông thay đổi, nhưng Hồ Biểu Chánh „không phải là con người của các trào lưu mà là của truyền thống. Mặc cho thiên hạ khen chê, ông cứ thẳng băng đường của ông, ông tiến. Các văn gia thế hệ 1913 không thuyết phục được ông đã vậy, ngay đến các văn gia thuộc các thế hệ 1932, hay 1945 cũng không làm sao thay đổi được ông“. [4] Cũng như nhiều nhà văn Việt Nam khác, sống trong buổi giao thời giữa nền văn hoá cổ truyền Ðông phương và nền văn hoá Tây phương, Hồ Biểu Chánh lấy cái mới cái hay của nền văn hoá phương Tây để phát huy nền văn hoá phương Đông, vì vậy cái lý tưởng bảo thủ của ông là một thứ „bảo-thủ sáng-suốt, nên đọc tiểu-thuyết của ông, người ta nhận thấy tuy xuất thân từ Tây-học nhưng ông vẫn thiên trọng những tư tưởng truyền thồng của dân-tộc vốn thấm nhuần Nho, Phật và Lão-giáo“ [5] như Nguyễn Khuê đã nhận xét. Nếu Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... là những người tiên phong đặt nền móng cho chữ quốc ngữ thì Hồ Biểu Chánh là một trong những người đã làm cho chữ quốc ngữ được phong phú. Khi nói đến tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, người ta không thể không nói đến những đặc thù từ ngữ của ông. Những nhân vật trong truyện của ông, thường là những người bình thường và môi trường sinh hoạt hầu hết được diễn ra ở vùng đất phương Nam, vì vậy những từ ông dùng trong truyện hoàn toàn có tính cách Nam bộ. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh cho rằng, „Ngôn-ngữ là dấu ấn của con người, là sản phẩm của quá-khứ để lại. Ngôn-ngữ xưa mà vẫn thu hút người đọc (và người xem) như tiểu-thuyết của Hồ Biểu-Chánh, phải chăng do ở những cái đã mất mà thân thương, đã cũ nhưng dấu ấn và vết tích hãy còn có thể nhận ra, phát-hiện lại, hay phải chăng do phong-vị hãy vương vấn đâu đó, như ngôn-ngữ trong các tiểu-thuyết đó?“ [6] Tiểu thuyết của ông là một bức tranh sống động về phong tục và cuộc sống người dân miền Nam bằng chữ trong thời kỳ đầu của thế kỷ XX. Vì vậy Nguyễn Thanh Liêm và cả Phạm Thế Ngũ đều cho rằng, „Người nghiên cứu về xã hội về văn hoá hay lịch sử của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ XX có thể lấy được rất nhiều dữ kiện trong kho tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh“ và Hồ Biểu Chánh „đã đóng đúng vai trò của một sử gia của thời hiện tại“. Ðể kỷ niệm ngày sinh thứ 120 của nhà văn, chúng tôi mượn lời của TS Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, trong một bài giới thiệu về Hồ Biểu Chánh: „Xét về đủ mọi phương diện, Hồ Biểu Chánh là một nhà tiểu thuyết lớn của Nam bộ và của cả nước. Chúng ta phải xác định lại cho đúng vị trí của ông trong lịch sử văn học.“ [7] Tác giả Trang Quang Sen là một trong những người sáng lập và điều hành Web site Hồ Biểu Chánh: www.hobieuchanh.com © 2005 talawas [1]Tựa Ngọn cỏ gió đùa, NXB Tổng hợp Tiền Giang tái bản năm 1988 [2]Văn xuôi Nam bộ nửa đầu Thế kỷ XX, NXB Văn nghệ TP HCM & Trung tâm nghiên cứu quốc học, trang 677, 1999 [3]Tân phong nữ sĩ, NXB Tiền Giang, 1988 [4]Bảng Lược đồ văn học Việt Nam, Quyển hạ, Thanh Lãng, NXB Trình Bày, 1967 [5]Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB TP HCM, trang 261, 1998 [6]i>[1] Hồ Biểu Chánh, người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, sắp xuất bản [7]Văn xuôi Nam bộ nửa đầu Thế kỷ XX, Sđd, trang 11 Trang Quang Sen
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:19:45 GMT 9
Nguyễn Đình Chiểu Nhân cách của một nhà văn hóa lớn Nguyễn Văn Châu Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, một con người tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam trong thời kỳ đất nước đầy biến cố, đau thương, nhưng vô cùng vĩ đại. Đất nước bị ngoại xâm, nỗi nhà tai biến, nỗi mình bi thương, bao nhiêu nghiệt ngã của cuộc đời trút lên vai một người mù lòa, sự nghiệp công danh nửa đường dang dở.Sự thách thức nghiệt ngã ấy đặt ra cho Nguyễn Đình Chiểu thái độ phải lựa chọn lối sống và cách sống như thế nào cho thích hợp với vai trò người trí thức trước thời cuộc “quốc gia lâm nguy that phu hữu trách”, và ông đã chọn con đường sống, chiến đấu, bằng ngòi bút “chí công” với cái tâm “đã vì nước phải đứng về một phía”. Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lý, nặng tình người, đậm đà bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân không màng danh lợi. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền. Với tất cả vai trò xã hội và sứ mạng của con người mà Nguyễn Đình Chiểu phải gánh vác: Nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, chiến sĩ yêu nước... cho đến cuối đời cụ vẫn kiên cường vượt qua số phận, hoàn thành xuất sắc thiên chức của mình, để lại cho đời sau một tấm gương về cách sống trong sáng đến tuyệt vời: “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương” Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng nhân cách của con người không chỉ là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh.Ngày xưa cụ Nguyễn Du từng cho rằng: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen,biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam, Nhà thơ mù lòa ấy là một trong những người đầu tiên đưa ra thông điệp tố cáo hành động phản văn hóa, mất tính người của bọn thực dân xâm lược. Về tội ác hủy diệt cuộc sống yên lành của nhân dân, ông viết: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ bầy chim nháo nhác bay”. Với tội ác xâm lược phản văn hóa ngang nhiên đoạt tài sản và hủy hoại một cách dã man những di sản văn hóa của nhân dân ta: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”. Của tiền là sự tích góp của một đời người lao động sáng tạo vô cùng vất vả. Tranh ngói là cả một dinh cơ sự nghiệp, nhà cửa, đền, miếu, đình, chùa phải mấy trăm năm với bàn tay và khối óc của nhiều người mới dựng nên cơ nghiệp lớn lao ấy. Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, một bọn người mang danh kẻ sĩ đã hèn nhát đầu hàng kẻ thù, phản bội đất nước. Nguyễn Đình Chiểu là người sớm biểu lộ thái độ khinh miệt bọn đê hèn và phản văn hóa ấy: “Dù đui mà giữ đạo nhà Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dù đui mà khỏi danh nhơ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình”. Với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”,Nguyễn Đình Chiểu đã trực tiếp đả kích bọn Việt gian khoác áo văn chương như loại Tôn Thọ Tường thường mượn màu chữ nghĩa làm đảo lộn trắng đen. Cụ viết: “Thây nay cũng nhóm văn chương Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”. Các tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân. Lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên, trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp đến nay vẫn còn được tiếp nối và phát huy trong đời sống văn hóa của nhân dân ta ở miền Nam. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, ca ra bộ trong sinh hoạt văn hóa quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn nầy vừa mới ra đời trên kịch trường Nam bộ. Gần nay đề tài nầy đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện v.v... Hơn một thế kỷ qua, hiếm thấy nhà văn nào mà tác phẩm có tính phổ cập sâu rộng và có sức sống lâu bền trong đời sống văn hóa của nhân dân như vậy. Trên lĩnh vực giáo dục, là một nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hóa Việt Nam về đạo lý truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó nhà thơ - nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người có công lớn. Chúng ta đều biết Nguyễn Đình Chiểu là học trò đời thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một ông thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai - Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ moan sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”. Võ Trường Toản là thầy học của Nghè Chiêu. Nghè Chiêu là thầy dạy Nguyễn Đình Chiểu. Từ lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản mà thế hệ các nhà văn thơ trước đó và cùng thời với Nguyễn Đình Chiểu dù vận nước đến thế nào cũng tràn đầy “hơi chính khí”. Kẻ sĩ Gia Định chính là sản phẩm của phong cách rèn luyện của một ông thầy giỏi, giỏi đến mức dạy nên những người học trò nổi tiếng hơn mình. Thầy Đồ Chiểu dạy học trò theo phong cách ấy. Nhiều thế hệ môn sinh của Đồ Chiểu tiếp thu sự giáo dục của thầy nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện tinh thần để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” mà sinh thời cụ Đồ Chiểu hằng mong ước. Từ Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương ở Mỏ Cày cuối thế kỷ XIX đến các trí thức Nho học Lê Văn Đẩu, Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn ở Ba Tri nửa đầu thế kỷ XX đều là những thế hệ môn sinh đầy nhiệt huyết mang đậm dấu ấn giáo dục của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu. Nhân cách của nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng rất lớn đối với vùng đất Bến Tre và xa hơn nữa. Đất anh hùng từng sản sinh ra nhiều nhân vật anh hùng trong sự nghiệp chống giặc cứu nước. Ngày nay nói đất Bến Tre là quê hương của cụ Đồ Chiểu chính là nói đến truyền thống văn hóa Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu là một con người tiêu biểu và là người có công bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ sau nầy những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa ấy. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý phương Đông và y lý Việt Nam cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là quyển “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, một quyển sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và yêu thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm: “Xưa rằng quốc thử lời khen phải Giúp sống dân ta trọn lẽ trời” Giáo sư Lê Trí Viễn viết trong lời tựa quyển “Ngư tiều y thuật vấn đáp” lần xuất bản năm 1982: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước...”. Đối với lương y Nguyễn Đình Chiểu, y đạo tức là nhân đạo, mà chủ nghĩa nhân đạo của cụ là chủ nghĩa nhân đạo nhân dân rất gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản: “Thấy người đau giống mình đau Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành. Đứa ăn mày cũng trời sanh Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”. Cảm ơn đức của cụ, khi cụ Đồ Chiểu mất, nhiều bịnh nhân được cụ cứu khỏi bịnh ngặt nghèo đến xin để tang cụ như con cháu trong nhà. Kỳ Nhân Sư một hình tượng lý tưởng trong tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” của Nguyễn Đình Chiểu đã tự xông đui đôi mắt của mình cho tròn y đạo và nhân đạo để không phải đem nghề y ra phục vụ cho kẻ thù của Tổ quốc và nhân dân. Nhân cách cao thượng ấy của Nguyễn Đình Chiểu còn để lại dấu ấn sâu sắc trong các thế hệ lương y sau nầy. Người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm nghề thuốc còn vì mục đích từ thiện chớ không phải chỉ có kinh doanh trên sự đau khổ của đồng bào. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc; làm ông Đồ dạy học không biết mệt mỏi vì sự nghiệp nuôi dưỡng “hào khí Đồng Nai” giữ gìn bản sắc Việt Nam trong đời sống văn hóa của nhân dân giữa thời loạn ly; làm thầy thuốc vì đạo cứu người chứ không chỉ vì nghề để vụ lợi. Đó là lối sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người, giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ. Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần xứng đáng cho đời sống văn hóa dân tộc trải qua thử thách nghiệt ngã được bảo tồn và phát triển. Sống trong tình thương và sự kính trọng của nhân dân, những người làm nên lịch sử và sáng tạo văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một nhân cách lớn, một nhà văn hóa chân chính của nhân dân. Nguyễn Văn Châu
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:20:56 GMT 9
Trương Vĩnh Ký - Con người của đất cù lao và sự nghiệp văn hoá Nguyễn Văn Châu Nhìn qua sự nghiệp trước thuật của Trương Vĩnh Ký còn lại đến ngày nay, điều chúng tôi lưu ý là không thấy ông dùng văn học để tâng bốc đạo Chúa mà ông là người thuộc loại đạo dòng, hoặc phỉ báng các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Ngược lại, nhờ công lao sưu tầm, biên sọan, khảo đính, giới thiệu của ông mà một số tác phẩm văn học có giá trị tản mác trong gian gian còn lại đến ngày nay kể cả văn tế nghĩa quân, hịch kêu gọi đánh Tây, thơ và vè chửi Tây xâm lược... Từ ngày Trương Vĩnh Ký qua đời đến nay đã hơn 100 năm (1898-2000). Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã được nhiều thế hệ học giả xưa và nay quan tâm nghiên cứu trên nhiều khía cạnh. Vì sao một con người đã mất hàng thế kỷ nay lại được nhiều học giả trong đó có những nhà trí thức lớn quan tâm đến sự nghiệp văn hóa - khoa học của cong người ấy đến như vậy? Theo chúng tôi, cái cốt lõi trong cuộc đời của nhân vật này chính là những gì ông đã cống hiến cho đất nước dân tộc trên mọi lĩnh vực học vấn và sáng tạo góp phần đổi mới nền văn hóa Việt Nam từ Hán Nôm của thời trung cận sang một nền quốc học hiện đại. Con người mất đi, nhưng sáng tạo của nó trên lĩng vực văn hóa vẫn còn. Đó là lý do vì sao người ta vẫn cứ nhắc đến nhân vật Trương Vĩnh Ký dù thái độ và góc nh2in có khác nhau. Trương Vĩnh Ký trong sự hiểu biết của người trên quê ông là một nhà văn hóa lớn, có sự nghiệp hoạt động khoa học và sự nghiệp trước tác ít có người sánh kịp. Ông lại là người đi tiên phong trong việc chuẩn bị cho công cuộc hiện đại hóa nền học vấn của dân tộc từ Hán sang Quốc học. Ai cũng biết ông là người Việt Nam đầu tiên được chọn vào hàng 18 vị "thế giới thập bát văn hào" một nhân vật ngang hàng với những tên tuổi kiệt xuất lừng lẫy tiếng tăm ở Phương Tây như Honoré Bonhomme, Oscalafayctte. Charles Iemaz, PascalDupral v.v... Năm được chọn vào thập bát văn hào (1874), Trương Vĩnh Ký ở vào độ tuổi 37. Cuộc đời của Trương Vĩnh Ký thật nồng nhiệt và dầy sòng gió. Từ Xưa đến nay những nhà nghiên cứu, phê bình, biên khảo công trình về ông hoặc hết lời khen ngợi, hoặc hết lời chê bai, thậm chí còn lên án ông bằng những lời lẽ nặng nề: một tên tay sai họat động trong quỹ đạo xâm lăng của Thực dân Pháp. Thô thiễn hơn có người còn cho ông là kẽ đi đầu dùng học vấn Pháp ngữ và Quốc ngữ tiêu diệt nền học vấn Hán Nôm của dâbn tộc. Sự khác biệt ấy do khác nhau về thái độ và cách nhìn, phương pháp luận trong phê phán thường thiên về luận nhiều hơn khảo, trừ các bậc học giả có thái độ thận trọng, khách quan và khoa học. Trương Vĩnh Ký sinh ra tại xứ Cái Mơn, thôn Vĩnh Thành, tỗng Minh Lý (có sách viết nhầm là Minh Lệ), huyện Tân Minh, Phũ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa nhiều đời, dân gian gọi là đạo Dòng. Tuy cha và anh của ông có cho triều Nguyễn nhưng gia tư không có gì gọi là giàu có. Ngày nay, trên mảnh đất đũ cất một căn nhà nhỏ trên bờ một ngội đền bia nhỏ ghi dấu nơi đây sinh ra Sĩ Tài Pétrus Trương Vĩnh Ký. Ngòai ra không có điền đất sự sản gì. Ngôi nhà ở lúc sinh thời và mộ phần Trương Vĩnh Ký ở Chợ Quán, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phần lớn người Bến Tre nghe nói chớ ít ai biết ở chỗ nào. Trương Vĩnh Ký sớm mồ côi cha, bà mẹ là Nguyễn thị Châu một phụ nữ nông thôn hiền thục nuôi dạy Ký và cho Ký học chữ nho với một ông thầy Đồ cho đến 12 tuổi. Ký học chữ Nho rất giỏi, đọc, viết thông thạo hiểu rõ nghĩa lý những sách mà mình đã học. Đó là dấu ấn đầu đời với chú bé Trương Vĩnh Ký về đạo lý thánh hiền phương đông. Cố đạo Long thấy Ký tư chất thông minh nên xin đưa Ký sang học một trường đạo trên Cao Miên. Cố Long tên thật là Bouileveaux, người Pháp, một nhà truyền giáo nhưng đồng thời cũng là một nhà thông thái, đi nhiều, học cao, hiểu rộng. Có người viết rằng Cố Long ( Bouileveaux) là một trong những nhà khoa học đã phát hiện ra khu đền cỗ Ăngkor và nền văn minh Ăngkor huy hoàng của dân tộc Khmer. Chính nhờ cố Long phát hiện tư chất thông minh của Trương Vĩnh Ký nên ông đưa Ký sang học ở chủng viện Pénang. Tại đây Trương Vĩnh Ký học chữ La tinh và thần học, được tiếp xúc với văn minh phương tây và quan hệ mật thiết với bạn đọc thuộc nhiều dân tộc châu Á. Chính những năm tháng học ở trường này mà Trương Vĩnh Ký có được kiến thức xuất sắc về văn hóa và ngôn ngữ đễ trở thành một nhà bác ngữ học sau này. Năm 22 tuổi học xong chương trình đào tạo của trường. Có người viết rằng khi tốt nghiệp xong Ký được phong linh mục và bắt đầu công việc của Hội truyền giáo Viễn Đông. Theo chỗ chúng tôi được biết thì khi làm luận văn tốt nghiệp bằng tiếng La tinh, bài văn của Ký thuộc lọai đặc biệt xuất sắc. Một viên quan người Anh cai quản Singapor đã tặng cho Ký phần thưởng đáng giá và không phải thi tốt nghiệp xong ồng ra làm linh mục. Đả ìa một vị Linh mục thì cuộc đời của Trương Vĩnh Ký có lẽ về sau này không có gì đáng nói. Trong lúc ấy có tin ở bên nhà bà mẹ của trương Vĩnh Ký qua đời. Tình thế đặt Trương Vĩnh Ký trước hai con đường lựa chọn: Ra làm Linh mục theo yêu cầu đào tạo của nhà Dòng và Hội truyền giáo Viễn Đông. Về quê tang mẹ và dấn thân vào đời với mớ kiến thức được đào tạo trong nhà trường cà tự đào tạo bằng chương trình tự học riêng của mình (ngay cả môn Pháp văn, Trương Vĩnh Ký chỉ được thầy ad5y như một học sinh có năng khiếu chớ không phải học chính khóa theo chương trình giảng dạy của nhà trường. Trường chỉ day tiếng La tinh và thần học). Giữa hai con đường, ông chọn con đường vào đời và xin về quê để tang mẹ. Vế quê để tang mẹ là hành xử theo đạo lý cổ truyền của người Việt Nam. Lúc bây giờ về lại Cái Mơn không phải là một việc dễ có thể đi lại bất cứ lúc nào. Nhưng ông chọn con đường này cho thấy ông rất trọng đạo hiếu của người Việt Nam dù trong hòan cảnh địa vị nào cũng không quên nguồn gốc sinh thành, công ơn trời biển của người mẹ đạ từng tần ảto nuôi nấng đứa con côn cút tong hoàn cảnh tư gia không lấy gì làm khá giả. Nếu Trương Vĩnh Ký là một người thường thì việc về quê để tang mệ là một điều dễ hiểu. Nhưng ông là một tín đồ Thiên Chúa, chủng sinh một trường Dòng lớn vừa tốt nghiệp, hành xử của Trương Vĩnh Ký quả là lối hành xử theo cung cách văn hóa Việt Nam. Chính vì thế mà sau này khi viết thơ bày tỏ tâm tình với một người bạn, ông viết: "Người có lòng nhơn không ai nỡ bỏ cha bỏ mẹ cho đành". Đó là điểm ghi nhận đầu tiên của chúng tôi về con người Trương Vĩnh Ký. Nhữung nhà nghiên cứu, biên khảo về Trương Vĩnh Ký sau này không ít ngưới công kích ông là người do Tây đào tạo, theo Tây, suốt đời là người làm việc mẫn cán cho Tây. Đại khái cho ông là một thứ tay saicủa thực dân từ đầu đến cuối chẳng chút có gì liên quan đến vận mệnh của dân tộc trong hoàn cảnh nước mất nhà tan. Tại sao khi về đến Cái Mơn để tang cho mẹ Trương Vĩnh Ký không theo nghĩa quân chống Pháp lại nấn ná ở đây rồi ra làm việc cho Tây? Lúc bấy giờ thực dân Pháp đã nổ súng đánh vào Sài Gòn. Các vua Thiệu Trị rồi đến Tự Đức hết sức lo lắng về âm mưu xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp. Các chỉ dụ cấm đạo của triều đình lúc này rất ngặt nghèo. Ở Vĩnh Long đã xảy ra mấy vụ nhành quyết những người mà triều đình cho là nguy hiểm cho công cuộc trị an. Trương Vĩnh Ký từ Pénang về quê để tang mẹ, thời gian kéo dài ở đây ông đến dạy học ở trường Dòng Cái Nhum. Dạy học chưa được bao lâu thì Pháp đánh thành Gia Định. Ở Cái Mơn xảy ra nhiều cuộc vây ráp các phần tử Thiên Chúa bị tình nghi. Các linh mục truyền giáo bỏ trốn về Sài Gòn kéo theo Trương Vĩnh Ký. Tại vùng chiếm đóng của quân Pháp ở Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký lại đứng trước hai sự lựa chọn: Trốn theo nghĩa quân kháng chiến. Ra làm thông ngôn cho Tây. Cuối cùng ông chọn con đường thứ hai, vì con đường thứ nhứt hình như không có lối thoát, ông ở trong số người bị tình nghi. Trong ghi chép còn lưu lại, ông viết " ngày hôm nay mình ra làm việc cho Tây..." làm việc hco Tây là làm một viên thông ngôn bản xứ. Về trường hợp phải lựa chọn con đường làm việc cho người Pháp, một nhà nghiên cức về Trương Vĩnh Ký viết: "Trương Vĩnh Ký là một trí thức lớn, lạoi mà nước ta chưa từng có. Ông đưa tay, lại là người thứ nhất nắm lấy tay tây thì tâm can không thể không nhức nhối bởi những giá trị tinh thần yêu nước đang lên cao trên đất Nam kỳ lúc bấy giờ". Chính vì sự lựa chọn có tính chất giải pháp tình thế ấy mà người ta đã phê phán nặng nề Trương Vĩnh Ký, còn riêng ông giữ chặt bầu tâm sự mong được "tìm nơi thẩm phán để thừa khai" sau này. Theo ý kiến của chúng tôi, nhận định như nhà báo thành Bằng Giang "Trương Vĩnh Ký đã lựa chọn một giãi pháp phi truyền thống" là chính xác hơn cả. Không gia nhập nghĩa quân đánh Tây là phi truyền thống. Nhưng vì có sự lựa chọn con đường phi truyền thống ấy mà ông có được những gì để lại trong lịch sử văn hóa và văn học quốc ngữ của dân tộc buổi giao thời. Hợp tác với người Pháp, nhưng Trương Vĩnh Ký chưa bao giờ tham gia vào ngạch quan lại hành chánh do Pháp bổ nhiệm, không vô dân Tây, không mặc âu phục như những quan lại "Tân trào" thời bây giờ. Trương vĩnh Ký làm thông dịch, đặc biệt là trong những đợt nghị hòa quan trọng. Nhiều năm ông dạy học ở các trường sư phạm và trường hậu bổ. Ông làm báo, viết sách, biên soạn giáo trình và các công trình khoa học, đặc biệt là về ngôn ngữ học, sưu tầm vốn văn học dân tộc tản mác trong dân gian, tham gia hoạt động trong nhiều hội khoa học ở Pháp và nước ngoài về ngôn ngữ, địa lý, lịch sử. Đặc biệt ông là người chủ xướng cách viết chữ quốc ngữ theo lời ăn tiếng nói thông thường " viết như nói" lời văn "trơn tuột", "viết theo tiếng nói Annam ròng:. Ngày nay nhìn lại mới thấy Trương Vĩnh Ký l2 người học Tây, trình độ Tây học thời ấy loại có tầm cỡ thế giới, nhưng ông có chủ trương nhứt quán dùng "tiếng nói Annam ròng" rõ ràng ông là một nhà khoa học rất có ý thức về bản hóa dân tộc. Theo chỗ chúng tôi được biết ông là người trí thức có ý chí học hỏi, nghiên cứu và sức làm việc phi thường. Trong khỏang 35 năm dạy học và cầm bút nhứt là 10 năm cuối đời ông viết rất nhiều cuốn sách có giá tri, là một tác giả có nhiều tác giả có nhiều tác phẩm đã và sắp xuất bản mà từ ấy đến nay ít có người người vượt qua được. Người ta đưa ra những con số 118,119,130 tác phẩm. Riêng trong bản kê tại tủ sách nhà ông "sương mù trên tác phẩm của Trương Vĩnh ký" (theo Bằng Giang) ắt chúng ta sẽ có những con số thật chính xác. Ở đây tính cả tác phẩm đã in, hòan thành bản sắp đưa in và còn trong dạng bản thảo. Các bài báo khoa học ông viết rất nhiều chưa tính trong số các tác phẩm này. Giáo sư Diepich, trường đại học Tổng hợp Matxcơva cho biết ông có đọc sách của Trương Vĩnh Ký trong thư viện của Sa Hoàng (theo giáo sư Nguyễn Văn Trung). Nhà báo Trình Xuyên (đã sang định cư ở Mỹ) xưa có viết bài về cuộc họp mặt cũa Trương Vĩnh Ký với Hội Văn Hóa Á châu của người Nhựt, trong đó có mạn đàm về văn học và trao đổi với nhau (theo nhà báo Phan Tứ Lang). Những việc này nếu quả như vậy thì độ chính xác đến đâu? Và tác phẩm của Trương Vĩnh Ký còn tản mác ở đâu nữa? Vài minh chứng để thấy bao nhiêu sách của Trương Vĩnh Ký viết mà chúng ta biết vẫn chưa đủ và tầm vóc hoạt động văn hóa của ông vượt ra ngòai phạm vi của một quốc gia. Chính vì thế mà ông có tên trong "thế giới thập bát văn hào". Cũng cần nói rõ là Trương Vĩnh Ký được các nhà thông thái trên thế giới (người Pháp gọi là Erudit) bầu chọn, không phải do thực dân Pháp phong cho ông để tặng thưởng công lao làm tay sai về mặt văn hóa như nhiều người đã viết trước đây trên báo chí để bình phẩm về trương Vĩnh Ký. Nguyễn Văn Tố, người được Pháp coi là một Erudit đã đọc hầu hết tác phẩm được in của Trương Vĩnh Ký và thư mục của ông cũng công nhận quả trương Vĩnh Ký là một Erudit. Ống Tố còn tổng kết về mặt học thuật và nhân cách của trương Vĩnh Ký là một con người: Bác học Tâm thuật, Khiêm tốn. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố một người giỏi cả Tay học và Nho học, một trí thức lớn của nước ta , đánh giá về Trương Vĩnh Ký hết sức cẩn trọng. Có lẽ ông không nói quá lời. Người bến Tre, thế hệ giỏi cá Pháp và Nho học, những tri thức xuất thân từ khi nền học vấn quốc ngữ bắt đầu thịnh hành cho đến hiện tại đều hiểu biết và ái mộ Trương Vĩnh Ký trên bình diện là một nhà văn hóa, niềm kiêu hãnh của những người sinh ra trên đất cù lao mà lich sử khai phá chưa bằng tuổi của một thành phố ở Châu Âu. Họ xem Trương Vĩnh ký là một mẫu người có ý chí tự lập, cần học, thông minh và có nhân cách đánh kính của một ông thầy. Thế hệ người cao tuổi còn nhớ trên tạp chí Nam Phong ra năm 1918, ông Phạm Quỳnh viết:"Ông Trương chẳng qua là một nhà làm sách cho con nít học mà thôi". Theo hiểu biết của chúng tôi ông Trương hkông phải là một nhà mà là nhiều nhà, có nhà lớn, có nhà nhỏ như ý kiến của nhà báo kỳ cựu ở Sài Gòn, ông Bằng Giang. Ở loại nhà nào Trương Vĩnh Ký cũng là người đi trước, một người Việt Nam tiên phong trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục của nền học vấn quốc ngữ buổi sơ khai. Ông không sáng tạo ra chữ quốc ngữ nhưng là người đưa chữ quốc ngữ vào đời sống văn hóa hiện đại của các thế hệ người Việt Nam. Ngay trong loại sách giáo khoa được gọi là "sách cho con nít học" cũng không phải là lọai sách tầm thường. Bộ giáo trình lịch sử Annam (Cours d' Histoire Annamite) dạy bậc tiểu học Trương Vĩnh Ký sọan năm 1875 đã được Ernest Renam công nhận là học sinh của họ không có được một bộ sách giáo khoa lịch sử tốt như vậy,(Ernest Renam, Viện hàn lâm học Pháp thế kỷ XIX). Tiểu giáo trình địa lý Nam kỳ (Petit cours de héographie de la basse Cochinchine), ông viết vắn tắt nhưng cho nhiều thông tin rất hữu ích có căn cứ khoa học về việc tìm hiểu địa lý hành chánh - lịch sử của đất Nam bộ xưa. Riêng chúng tôi dựa vào sách này mà tìm hiểu thêm về địa danh Bến Tre trong lịch sử, từ tiếng Khmer cổ: Prek Rusei. Hán Việt: Trúc Tân, Pháp : Pays des Bam bous, đến tiếng dân gian thông dụng: Bến Tre. Các nhà nghiên cứu đã giới thiệu trong các công trình của họ về các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký và công nhận ông đọc và nói rất giỏi mười lăm sinh ngữ và tử ngữ Phương Tây, biết mười một ngọai ngữ châu Á, trong đó ông đã viết sách giáo khoa dạy chín trong số mười một ngôn ngữ ấy. Không ai chối cãi ông là một nhà bác ngữ học. Ông dạy học, học trò ông có người Việt, có người Pháp, họ học để làm thông ngôn, thầy giáo và quan chức , không có loại nào là con nít cả. Học trò của Trương Vĩnh Ký, nhiều người là nhà báo, nhà văn và nhà giao rất có tên tuổi ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Ngay ở Bến Tre, những người học trực tiếp với Trương Vĩnh Ký hoặc học với môn sinh của ông như Lương Khắc Ninh, Nguyễn Khắc Huề, hà Đăng Đàn, Nguyễn Dư Hoài, Lê Hoằng Mưu v.v... đều là những người hoạt động văn học, báo chí rất nổi tiếng. Họ gọi ông Ký là "thầy ta" là"ông thầy của xứ Nam kỳ". Ngày Trương Vĩnh Ký mất trên tờ "Nam kỳ nhựt báo" liên tục các số từ 46 đến 50 có đăng rất nhiều bài viết, thơ, điếu tỏ sự thương tiếc ông. Những học trò ông ở Bến Tre viết bài "Thương khóc thầy ta là quan Đốc Ký". Điều đó cho thấy trong giới học thức trương Vĩnh Ký thực sự có được sự kính trọng đặc biệt. Trước khi mất khoảng 3-4 năm, Trương Vĩnh Ký viết bài thơ tuyệt mệnh lối thơ thất ngôn Đường luật để lại trong di cảo của mình. Ông viết khi còn minh mẫn có sự suy nghĩ chín chắn chớ không phải khi sắp chết mới viết. Rõ ràng là ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của mình, thành quả và hậu quả nên mới có câu: "Cuốn sổ bình sanh công với tội Tìm nơi thẩm phán để thừa khai". Trương Vĩnh Ký tính sổ cuộc đời mình, công và tội một cách tự nguyện, bộc bạch công khai, không che giấu, không lo ngại, sẵn sàng chấp nhận sự phán xét của lịch sử và của hậu thế. Đó là thái độthẳng thắn, tự trọng đúng mức của một người trí thức. Trương Vĩnh Ký qua đời năm ông được 61 tuổi trãi qua gần 40 năm làm công việc của một nhà khoa học không biết mệt mỏi (trừ 6 tháng ra làm quan với vua Đồng Khánh). Ông sống cuộc đời thanh bạch của một người ăn lương chức, mất đi sự sản không có gì đáng giá, nhưng di sản văn hóa của ông để lại thật đồ sộ. cho đến nay, tính lại người có số lượng tác phẩm đến ba chữ số lượng tác phẩm đến ba chữ số không mấy người được như Trương Vĩnh Ký. Nhìn qua sự nghiệp trước thuật của Trương Vĩnh Ký còn lại đến ngày nay, điều chúng tôi lưu ý là không thấy ông dùng văn học để tâng bốc đạo Chúa mà ông là người thuộc loại đạo dòng, hoặc phỉ báng các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Ngược lại, nhờ công lao sưu tầm, biên soạn, khảo đính, giới thiệu của ông mà một số tác phẩm văn học có giá trị tản mác trong dân gian còn lại đến ngày nay kể cả văn tế nghĩa quân, hịch kêu gọi đánh Tây, thơ và vè chửi Tây xâm lược v.v... Có tác giả viết rằng Trương Vĩnh Ký là một con người cơ hội, có quan điểm tùy thời, khi họ phê phán về việc làm của Trương Vĩnh Ký kể cả tác phẩm và việc xuầt bản các tác phẩm của ông. Nếu Trương Vĩnh Ký là một con người cơ hội và là một loại trí thức tùy thời thì Trương Vĩnh Ký không có phẩm chất của một nhà bác học, một người trí thức mà người đương thời gọi là "kẻ sĩ đất Nam trung", hay "Ông thầy của xứ Nam kỳ". Nói Trương Vĩnh Ký có ảo tưởng về chính trị và đã chọn giải pháp phi truyền thống khi ra hợp tác với người Pháp với tư cách là một công chức chuyên nghiệp thì đúng hơn. Song, trong ông "hồn dân tộc Việt" vẫn còn và còn khá đậm ở cách thức ông giữ gìn và làm sáng tỏ bản sắc văn hóa Việt Nam trong cách nói và tiếng Việt. Trương Vĩnh Ký viết theo lối dùng tiếng nói Annam ròng, viết thư nói, nhưng không phải là lối nói dung tục, thực dụng, ngôn ngữ vỉa hè, văn chương cống rãnh mà là lối nói của người Việt bình dân có văn hóa, biết giữ gìn sự trong sáng và phong phú của ngôn ngữ dân tộc kể cả việc vận dụng phương ngữ của người Việt ở Nam bộ. Văn chương hay là nhờ tính độc đáo, người viết hay là có phong cách riêng biệt không sống sượng, không rập khuôn. Người làm văn hiện tại đang phấ đấu để có cách nói và viết không thể nầhm lẫn với cách nói và viết của bất cứ ai. Điều đó khiến chúng tôi nhớ đến Trương Vĩnh Ký và chủ trương viết như nói - nói có văn hóa của ông buổi sơ khai. Cũng cần nhớ lại lúc sinh tiền, Trương Vĩnh Ký gởi thơ cho bạn bè một trí thức lớn của Pháp, Chavanre: "theo họ nhưng không lệ thuộc họ" (nguyên văn tiếng la tinh "Sie vos non vobis"). Phải chăng đây là sự khẳng định quan điểm về chính trị và học thuật của Trương Vĩnh Ký? Một thế kỷ đã đi qua, nhiều thế hệ học giả, trí thức, đã có sự nhìn nhận chín chắn hơn về cuốn sổ bình sanh công với tội của Trương Vĩnh Ký. Ý kiến chung vẫn có còn khác nhau, có người khảo rồi mới luận, cũng có người luận mà không khảo. Nhưng đã qua một thế kỷ mà ảnh hưởng và giá trị về mặt văn hóa của Trương Vĩnh Ký vẫn còn. Có nhà nghiên cứu viết: "Lịch sử chắc chắn sẽ tiếp tục ghi nhận công lao của Trương Vĩnh Ký với tư cách người đi tiên phong trong công cuộc chuẩn bị cho sự canh tân của đất nước". Quả vậy, nếu không có bước đột phá củ anền học vấn quốc ngữ nửa cuối thế kỷ XIX mà Trương Vĩnh Ký là người có công đầu thì ngày nay chúng ta vẫn còn qua cách phiên âm Tàu mà đọc Indochine là Ấn Độ Chi Na, ông Karl Marx là Mã Khắc Tư, Á châu là Á Tế Á v.v... nói gì đến một nền văn hóa có tầm cỡ thế kỷ và thế giới. Cho đến nay tên trường học, tên đường phố, thư viện, ảnh. tượng của Trương Vĩnh Ký ở nhiều nơi kể cả trên quê hương ông bị xóa bỏ bởi nhiều lý do tế nhị. Nhưng có một điều hiển nhiên là không ai xóa bỏ được tên tuổi của Trương Vĩnh Ký trong nền văn học quốc ngữ của dân tộc. Chúng tôi nghĩ rằng đến nay chúng ta đã có đủ kiều kiện để nhìn nhận một cách đúng đắn, công bằng về sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký và ghi nhận những gì ông đã để hết cuộc đời mình đóng góp cho sự đổi mới và phát triển của nền học vấn Việt Nam hiện đại.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:50:48 GMT 9
Nguyễn Vỹ - Nhân chứng của một thời Lê Ngọc Trác Qua tác phẩm của những nhà thơ, nhà văn, chúng ta thấy họ là những nhân chứng của thời đại. Nhà thơ Nguyễn Vỹ là một trong những nhân chứng của một thời đại mà ông đã từng sống. Nguyễn Vỹ sinh năm 1910, trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước ở làng Tân Phong (Tân Hội), huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyễn Vỹ là một người đa tài, suốt đời sống bằng nghề văn và báo chí. Ông ký nhiều bút danh: Tân Phong, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền, Tâm Trí... Từ những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, Nguyễn Vỹ đã xuất hiện trên văn đàn, tham gia viết trên tạp chí Văn học, Tiểu thuyết thứ Năm, Hà nội báo, Phụ nữ... ở Hà Nội. Và, là một cây bút chính luận sắc sảo trên các tờ báo thời bấy giờ như: Le Sygne, L'ami du peuple, La patrie Annamite... Thừa hưởng truyền thống yêu nước của gia đình, dòng họ, Nguyễn Vỹ đã thể hiện tư tưởng chống Pháp, chống phong kiến và chống cả Nhật Bản trong những bài báo của mình. Chính vì vậy, năm 1937, ông bị nhà cầm quyền bắt giam 6 tháng tù ở Hà Nội vì một bài báo chống Pháp. Năm 1940, ông lại bị Nhật Bản bắt cầm tù ở Phú Yên. Năm 1945 mới được tự do. Từ năm 1946, ông sống ở Sài Gòn. Nguyễn Vỹ đã sáng lập và điều hành nhiều tờ báo: Dân ta, Bông lúa, Tạp chí Phổ thông, Tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm... Nguyễn Vỹ bị tai nạn giao thông tại Long An, qua đời vào ngày 4/2/1971. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm với nhiều thể tài phong phú, đa dạng, phải nói là đồ sộ: Về thơ có: Tập thơ đầu – Premières Poésies (1934, thơ Việt – Pháp), Hoang vu (1962). Truyện ngắn: Vinh và nhục của Nguyễn Văn Nguyên (1936). Tiểu thuyết gồm có: Đứa con hoang (1938), Người yêu của hoàng thượng (1938), Thi sĩ Kỳ Phong (1938), Chiếc bóng (1941), Dây bí rợ (1957), Chiếc áo cưới màu hồng (1957), Hai thiêng liêng (1957), Mồ hôi nước mắt (1965). Chính luận viết bằng tiếng Pháp: Kẻ thù là Nhật Bản (1938), Cái họa Nhật Bản (1938), Tấn kịch Việt – Pháp (1947). Biên khảo: Những người đàn bà lừng danh trong lịch sử (1970). Chứng tích thời đại: Tuấn, chàng trai nước Việt (1970), Văn thi sĩ tiền chiến (1970). Nguyễn Vỹ là nhà thơ, nhà văn và là nhà báo lão thành trong làng báo miền Nam. Ông được người đời công nhận là một nhà báo dám nói lên sự thật. Về văn, Nguyễn Vỹ chuyên viết tiểu thuyết xã hội. Nhà văn – Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan nhận định về tiểu thuyết của Nguyễn Vỹ như sau: "Ông là một người giàu tình cảm, nhìn cuộc đời bằng con mắt bi quan, trái tim ông rung động khá nhiều...". Cùng với tiểu thuyết và các thể tài khác, Nguyễn Vỹ trước sau vẫn là một nhà thơ. Ông thật sự nổi tiếng về thơ. Từ năm 1941, mặc dù có những nhận định có phần khắt khe về Nguyễn Vỹ, nhưng cả Hoài Thanh – Hoài Chân và Vũ Ngọc Phan đều phải công nhận: "Nguyễn Vỹ là người có tài về thơ". Nhiều thế hệ yêu thích bài "Sương rơi" và "Gởi Trường Tửu" của Nguyễn Vỹ. Hoài Thanh – Hoài Chân cho rằng 2 bài thơ này thật sự là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Hai bài thơ trên Nguyễn Vỹ viết với phong cách khác nhau. Ông đã tạo ra nhạc điệu riêng trong "sương rơi". Với bài "Gởi Trường Tửu", theo thể thất ngôn trường thiên, Nguyễn Vỹ viết trong cơn say với tâm trạng bi phẫn, u uất: "... Thời thế bây giờ vẫn thấy khó Nhà văn An Nam khổ như chó Mỗi lần cầm bút nói văn chương Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương..." Lời thơ thống thiết, nói lên nỗi khổ của văn thi sỹ và những người làm báo trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp cai trị. Trên con đường thi ca, Nguyễn Vỹ đã từng viết: "Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiếm". Hai câu thơ trên như một tuyên ngôn về thơ của Nguyễn Vỹ. Và, ông đã có những sáng tạo mới lạ, đầy táo bạo trong thơ. Nguyễn Vỹ là người đề xướng trường phái thơ Bạch Nga trên tạp chí tiểu thuyết Thứ Năm ở Hà Nội trong thập niên 30 của thế kỷ 20. Nguyễn Vỹ đã viết những câu thơ 2 chữ và 12 chữ (Có người gọi là câu thơ 12 chân). Sau này trên tạp chí Phổ Thông xuất bản ở Sài Gòn, Nguyễn Vỹ tiếp tục đề xướng trường phái thơ Bạch Nga và thể thơ hình đối xứng. Bài thơ mang dạng hình học, các hình ảnh ngộ nghĩnh, đầy mới lạ (Thơ hình đối xứng là lấy câu giữa của bài thơ làm trục đối xứng của những câu thơ theo thứ tự đầu và cuối của toàn bài thơ. Những bài thơ, nhìn toàn bài sau khi viết hoặc in trên giấy giống như những bức họa, hoặc có hình lục lăng, tứ giác, hình thoi...). Trường phái mới lạ này đã thoát ly khỏi những quy tắc thể thơ cổ truyền. Sau Nguyễn Vỹ, chúng ta còn bắt gặp nhiều bài thơ "lạ" như thế của Phan Phụng Văn, Ngô Hữu Đoàn và nhiều cây bút khác. Trước khi bị tai nạn giao thông qua đời đúng một năm, Nguyễn Vỹ viết bài thơ "Quảng Ngãi, quê hương tôi". Lời thơ tha thiết, ý thơ hùng hồn, Nguyễn Vỹ đã khắc họa được những nét đặc trưng tiêu biểu về đất và người quê hương núi Ấn sông Trà: "... Quảng Ngãi – quê hương tôi Nhiệm màu guồng xe nước Tha thướt chập chùng Lên men đồng lúa mướt Lả lướt mênh mông Quảng Ngãi – quê hương tôi Thương thương làn mây trôi Mơn cảnh đồi Thiên Ấn Vương vương sầu tơ nắng Nút Bút vùng phương khôi Quảng Ngãi – quê hương tôi Dòng sông rạo rực Lưng Rồng uốn khúc Rực rỡ ánh dương ngời Trùng trùng gấm vóc Huyết lệ sử dân Hời Từ Chiêm Thành khai quốc Dâng về ngôi Đại Việt Trọn ân tình Chúa, Tôi Quảng Ngãi – quê hương tôi Dân tình bất ly Dân trí bất nhược Dân đức bất suy Dân tâm bất khuất Khí thiêng nung đúc Văn chương kiệt phách hào hoa Bất chấp cường quyền, uy vũ ..." Cùng với sự nghiệp thơ, có một tác phẩm của Nguyễn Vỹ được nhiều người yêu thích và đánh giá cao, đó là tác phẩm "Tuấn, chàng trai nước Việt". Tác phẩm này trước khi in thành sách trọn bộ 2 tập được đăng tải từng kỳ trên tạp chí Phổ Thông đã thu hút được đông đảo người đọc. Hình minh họa trong tác phẩm là một người thanh niên khôi ngô, tuấn tú, mặc chiếc áo dài cổ truyền, đầu đội mũ cối rộng vành đã trở thành thân thuộc với người đọc thời bấy giờ. Theo Nguyễn Vỹ thì tác phẩm "Tuấn, chàng trai nước Việt" không phải là tiểu thuyết, không phải là hồi ký, cũng không phải là tự truyện. Nguyễn Vỹ đã viết về những con người, những sự kiện chân thật với tư cách là nhân chứng khách quan của thời đại. Chính vì vậy, ông gọi tác phẩm của mình là "chứng tích thời đại". Ông viết về xã hội Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20 đến năm 1945, viết về chân dung cuộc sống của một thế hệ cùng thời với ông, mà ông đã gọi là "thế hệ Tuấn – chàng trai nước Việt". Nguyễn Vỹ đã ghi chép một cách đầy sáng tạo các sự kiện; phải nói là ngồn ngộn sự kiện, đầy hấp dẫn, phong phú và đầy chân thật trong "Tuấn, chàng trai nước Việt". Ông trở thành người kể chuyện tài hoa, hấp dẫn. Từ chuyện ăn mặc, thời trang, tóc tai, học hành, thi cử, chuyện làng xã, chính trị... Từ đời sống sinh hoạt của một vùng đất, của một đất nước chuyên sống bằng nông nghiệp lạc hậu, tiếp xúc với những phương tiện hiện đại, cơ giới, máy móc tự động của phương Tây; đến tình cảm và suy nghĩ của một thế hệ đối với đất nước và dân tộc. Đọc tác phẩm này của Nguyễn Vỹ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh, cuộc sống của Việt Nam từ trong thời kỳ phong kiến, thuộc địa đến thời kỳ bùng nổ dân chủ, giành độc lập. Chúng ta hiểu rõ tình hình kinh tế, văn hóa xã hội, cũng như những tập quán xã hội của nước ta trong thời kỳ đầu thế kỷ 20. Tác phẩm "Tuấn, chàng trai nước Việt" đã trở thành nguồn tư liệu quý giá giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu, biên soạn, trích dẫn những phong tục tập quán, những sinh hoạt trong đời sống, những chuyển biến lịch sử của đất nước Việt Nam trong thời kỳ đầu của thế kỷ 20. Với tác phẩm "Tuấn, chàng trai nước Việt", nhà thơ Nguyễn Vỹ là nhân chứng của một thời đại. Tài liệu tham khảo & trích dẫn: - Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (1942) - Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân (1942) - Nguyễn Vỹ - Nhân tích của một vùng đất và một thời đại của Đỗ Lai Thúy (Tạp chí VHNT số 7/2007) - Tạp chí Phổ thông số 233/1970 Lê Ngọc Trác
|
|