|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:18:26 GMT 9
Huyền thoại và sự thực: Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất02/09/2010 Tác giả: Nguyễn Quang Duy Để tiến hành sửa sai Cải cách Ruộng đất (CCRĐ), Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Hồ Chí Minh đề nghị phương châm: “phải bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”. (HCMBNTS, tập 6, trang 334) Theo lời đề nghị của ông, Hội nghị quyết định: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Chi tiết về Hội nghị này vẫn còn trong bí mật. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất một Hội nghị Trung ương ĐCS đã không đưa ra được nghị quyết tổng kết. Nguyên Đại sứ tại Trung Quốc, ông Hoàng Văn Hoan cho biết: “Hội nghị Trung ương đáng lẽ ra phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về CCRĐ, nhưng Trường Chinh, vừa là Tổng Bí thư, lại vừa là Trưởng ban CCRĐ, vì tư tưởng chưa thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không đựơc Hội nghị Trung ương chấp thuận.” Về người chịu trách nhiệm chính, ông Vũ Đình Huỳnh cho biết: “khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh , chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ”. Vậy mà sau hơn 60 năm, trách nhiệm của Hồ Chí Minh vẫn còn được bao phủ bằng nhiều huyền thoại, che lấp nhiều sự thật khủng khiếp đã xẩy ra trong cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam (1949-56). Huyền thoại và sự thực “ Của Bác ” Gần đây người viết đã phát hiện bài “Địa chủ ác ghê” trên báo Nhân Dân ra ngày 21 tháng 7 năm 1953 đã được in lại trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C. B. cũng do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955. C. B. là một trong hằng trăm bút danh của Hồ Chí Minh với hằng trăm bài trên báo Nhân Dân viết trong khỏang thời gian 1952 đến 1956. Bài “Địa chủ ác ghê” lên án bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm là địa chủ phản động cường hào ác bá (Xin xem bài “Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất“ hay bài “Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ Chí Minh” để biết chi tiết). Một bạn đọc cùng quê Hồ Chí Minh góp ý rằng C. B. là viết tắt của “Của Bác”. Bài báo “Của Bác” đã được phổ biến rất rộng rãi để lý giải việc xử bắn bà Năm là một việc làm chính đáng. Bài được đăng lại trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953) hay trong Nội san Cải cách Ruộng đất. Ông Bùi Tín cho biết bà Năm bị xử bắn vì “các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi”. Phóng viên báo chí đây lại chính là “Của Bác” thì làm sao bà Năm tránh khỏi án tử hình. Thế mà tới đầu thế kỷ thứ 21, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hoàng Tùng vẫn tiếp tục thêu dệt huyền thoại: “chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước, là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.’ Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘ Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.’ Và họ cứ thế làm”. Bài “Địa chủ ác ghê” được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953. Lúc ấy Hoàng Tùng là phó Tổng Biên tập. Đến năm 1955 khi bài báo được đăng trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất thì Hoàng Tùng đã lên Tổng Biên tập. Ông chắc chắn phải biết bài viết “Của Bác” và hậu quả của bài viết này. Nhà báo Bùi Tín lại cho biết: “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: ‘Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.’ Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này“. Hoàng Quốc Việt làm gì không biết chuyện Bộ Chính trị, trong đó có cả Hoàng Quốc Việt và Hồ Chí Minh, đã biểu quyết việc xử bắn bà Nguyễn Thị Năm. Hồi ký của ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng CHXHCN Việt Nam, viết rất rõ: “Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: ‘Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: ‘Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!’. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!” Rõ ràng huyền thoại này chỉ được thêu dệt sau khi sửa sai và được chính thức phổ biến từ nhiều cán bộ cao cấp. Ba dẫn chứng trên cho thấy cả một guồng máy tuyên truyền đã không ngừng loan tải huyền thoại “Của Bác” để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo”. Hoàng Tùng và Hoàng Quốc Việt xác nhận đây là một câu chuyện do chính ông Hồ dựng lên. Câu chuyện được các cán bộ cộng sản cao cấp như Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng thêu dệt để trở thành huyền thoại. Huyền thoại lại được những người như Bùi Tín kể lại, nếu không có những bằng chứng cụ thể khó mà phá vỡ được. Điều đáng nói là huyền thoại do Bùi Tín kể lại đã đề cập đến việc “sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này“. Như vậy quả là đúng Trường Chinh đã là con dê được Hồ Chí Minh mang ra tế thần. Nói cách khác Hồ Chí Minh đã trút tất cả trách nhiệm vụ xử bắn bà Năm lên đầu Trường Chinh nhằm chạy tội và duy trì quyền lực. Cũng do guồng máy tuyên truyền này, càng ngày càng nhiều người biết đến bà Năm. Bà đã trở thành một con người của lịch sử. Một lịch sử bị che đậy đầy huyền thoại dối trá đang cần từng bước đưa ra sự thật. Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm Đến nay thông tin về điền chủ Nguyễn Thị Năm còn hết sức giới hạn. Chỉ biết trong thời gian đấu giảm tô để tiến đến CCRĐ, sáu xã huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một đại điền chủ có tới 2,789 mẫu đất thuộc hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long hay Cát Thanh Long. Khi ĐCS còn hoạt động bí mật, bà che giấu và nuôi dưỡng nhiều lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… Trong “Tuần lễ vàng” bà đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng vàng. Theo tin của nhà báo Bùi Tín: “Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến“. Nói cách khác bà Năm không phải là địa chủ phản động cường hào ác bá như trong bài Địa Chủ Ác Ghê đã viết. Ông Nguyễn Minh Cần thì cho rằng “Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương duyệt y và Bộ Chính trị Đảng Lao độngt Việt Nam cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!” Qua điện thơ, một bạn đọc từ Việt Nam cho biết: “Bà Nguyễn Thị Năm, có cửa hàng bán đồ cơ khí (sắt) tại đường Cầu Đất, một phố trung tâm của Hải Phòng . Cửa hàng của bà gọi tên là Cát Thanh Long, bây giờ là số nhà 87 Cầu Đất (cạnh Hiệu sách ” NHÂN DÂN “, nay là hiệu sách quốc doanh). Cửa hàng của bà có mặt ngoài làm bằng đá granito màu huyết dụ đầu tiên ở thành phố Hải Phòng . Con trai cả của bà, tên là Nguyễn Đức Phú, cũng có một cửa hàng nhỏ hơn (tên ĐỨC PHÚ), nằm ở phố Nguyễn Đức Cảnh, đầu ngõ Hàng Gà, đối diện với cầu Caron (nay cầu này không còn nữa) vừa là nhà ở, vừa là nơi sản xuất đồ cơ khí của ông.” Hai người con trai kế của bà là ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin. Bạn đọc nói trên cho biết bà Năm còn có hai người con gái nhỏ. Cuối tháng 10-1953 được thả và về đến Sài Gòn, ông Đoàn Duy Thành đã được một người tên Nam kể lại rằng bà Năm đã bị xử bắn. Như vậy có thể bà đã bị xử bắn trong khoảng thời gian bài “Của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953 đến giữa tháng 10-1953. Còn việc ông Bùi Tín đề cập đến: “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này (xử tử bà Năm) với ông Hồ Chí Minh…” là thiếu chính xác vì mãi đến cuối năm 1954 Hồ Chí Minh mới về lại Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Năm, nạn nhân đầu tiên? Một sự thực khác là bà Nguyễn Thị Năm không phải là nạn nhân đầu tiên. Có thể vì bà quá nổi tiếng nên là người đầu tiên và duy nhất buộc Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương phải thảo luận và biểu quyết. Theo ông Hoàng Minh Chính, trong vụ đấu chính trị xảy ra trước đó vào đầu năm tháng 1 và 2-1953 thì “trung bình mỗi xã có từ ba đến 5 người bị đánh chết, họặc vì uất ức phải tự tử, trong số đó có một bộ trưởng chính phủ là ông Đặng Văn Hướng”. Ông Đặng Văn Hướng là thân sinh đại tá Việt Minh Đặng Quốc Việt, một thời vang danh “anh hùng đường số 4”. Ông Nguyễn Minh Cần góp ý với người viết rằng có thể ông Hoàng Minh Chính nhớ không đúng. Theo ông Cần, ông Đặng Văn Hướng đã bị đấu trong thời đấu CCRĐ sau này. Tháng 11-1953, ngay khi về lại miền Bắc, ông Đoàn Duy Thành đã nghe ”Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách Ruộng đất, có nơi như thôn Lan, Kim Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?)”. Ông Thành dùng dấu chấm hỏi trong ngọăc kép (?) để hỏi có phải đúng 3 người này là địa chủ cường hào hay không ? Đây là cách suy nghĩ của người cộng sản. Cho đến nay vẫn còn nhiều gia đình cho là bị oan nghĩa vì họ không phải là phản động cường hào ác bá. Hiến pháp 1946, cũng được xem là Hiến pháp “Của Bác”, là một Hiến pháp cộng hoà và dân chủ. Theo Hiến pháp 1946 thì mọi công dân đều bình đẳng. Trong khi Hiến pháp này vẫn còn đó thì ông Hồ lại muốn xây dựng một thể chế cộng sản lấy đấu tranh giai cấp làm nền tảng. Sự thật là trong Hiến pháp này, không phải mọi người đều bình đẳng. Có một điều ngoại lệ là Chủ tịch Hồ Chí Minh vì là lãnh tụ nên theo điều thứ 50: “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc“. Vì thế Hồ Chí Minh đã không phải chịu trách nhiệm dù đã tiêu diệt một giai cấp. Một giai cấp mà theo Hồ Chí Minh ước tính là chiếm “không đầy 5 phần trăm dân số” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Số nạn nhân của Cải cách Ruộng đất Không biết Hồ Chí Minh đã lấy từ đâu ra con số tỷ lệ địa chủ 5% dân số. Có điều trong quyển Vấn đề dân cày do Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp viết vào năm 1937-1938 thì con số đó nhỏ hơn nhiều. Theo hai ông “Ở Trung kỳ và Bắc kỳ có hạng tiểu địa chủ, chỉ có mươi, mười lăm mẫu ruộng cho cấy rẽ, ngồi không mà hưởng địa tô. Lại có nhiều làng không có địa chủ, chỉ có từ phú nông trở xuống. Trái lại bần cố nông chiếm đa số… Nếu ta tin ở thống kê của ông I-vơ Hăng- ri (Yves Henri) thì ta thấy: ở Bắc kỳ dân số hơn 8 triệu người mà số dân quê có trên một mẫu là 970.379 người, nghĩa là một phần hai mươi trong nhân dân” (VĐDC, trang 24-25) Con số hoặc tỷ lệ ước tính trong phần trích dẫn bên trên là sai. Nếu con số 970.379 người là đúng, giả sử mỗi gia đình nông dân có sáu người thì đại đa số dân quê đều là tiểu nông. Còn nếu tỷ lệ là đúng thì tỷ lệ dân quê có trên một mẫu ruộng là 5% dân số. Và như thế CCRĐ đã đấu tất cả những người có trên một mẫu ruộng. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp còn viết rất rõ: “Trong 18 tỉnh (ở Bắc Kỳ ), người ta tính được 12.005 địa chủ sống về cách cho cấy rẽ” (VĐDC, trang 97). Trung bình một gia đình điền chủ là 6 người thì tỷ lệ chưa đến 1% dân số. Vì chiến tranh, nhiều điền chủ đã mất đất hay rời bỏ thôn quê lên thành thị. Nhiều điền chủ biết không thể sống với cộng sản nên di cư vào Nam tìm tự do. Do đó con số điền chủ trong những năm 1955 và 1956 có thể nhỏ hơn nhiều. Như vậy “Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số” theo ước tính “Của Bác” có thể đã được phóng đại cả chục lần nhiều hơn con số thực. Có người cho rằng con số 5 % dân số là do cố vấn Trung Quốc dựa trên thực tế cuộc CCRĐ tại Trung Hoa. Điều này có thể không đúng. Ở Trung Hoa, với một mức độ tập trung ruộng đất rất cao nên đa số điền chủ là các đại điền chủ. Vì thế tỷ lệ điền chủ trên dân số ít hơn nhiều. Cuộc cải cách ruộng đất ở Trung Hoa cũng “long trời lở đất” nhưng không thể so với những chuyện đã xảy ra tại miền Bắc Việt Nam. Ngày nay đa số tài liệu về cuộc CCRĐ tại Trung Hoa đều đã được công khai phổ biến. Ông Hoàng Văn Hoan lại đưa ra những tin tức hoàn toàn khác: “Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như đưa thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc“. Mặc dù Hoàng Văn Hoan là một người thân Trung Quốc, nhưng ai đúng ai sai chỉ biết được khi nào các tài liệu liên quan đến sự việc được công khai phổ biến. Ông Hoàng Minh Chính có thể là người đầu tiên đã sử dụng con số 5% để ước tính số nạn nhân của cuộc CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam. Theo đó, con số này đã lên đến 500.000 người. Một con số trong một thời gian dài bị cho là phóng đại. Có điều những người không đồng ý với ông thường không cho biết xuất xứ con số hay cũng chỉ dựa trên những huyền thoại hay con số tuyên truyền do cộng sản đưa ra. Gần đây sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000, Tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 tiết lộ trong cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) đã có 172.008 người bị quy là địa chủ hay phú nông. Trong đó có 123.266 người (72%) bị quy sai thành phần. Chính cương ĐCS đề ra việc “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Theo đó giai cấp địa chủ là kẻ thù của Đảng, của nhân dân, phải bị tiêu diệt. Vì thế trong CCRĐ địa chủ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà tù. Do đó khi bị quy là địa chủ nhiều người đã tự tử vì uất ức hay để tránh những nhục hình. Cũng theo tập tài liệu này, chỉ riêng đợt 5 CCRĐ, được thực hiện ở 3.563 xã với khoảng 10 triệu dân và tỷ lệ đã được quy định trước là 5 % thuộc thành phần địa chủ. Để vượt chỉ tiêu do “Bác và Đảng” đề ra, các đội cải cách đã đôn tỷ lệ lên đến 5,68%. Như vậy con số nạn nhân đã lên đến 568.000 người. Con số này bao gồm thân nhân, gia đình của những người bị quy là địa chủ. Khi bị quy là thành phần địa chủ họ cũng bị cô lập đối xử phân biệt và bị cướp hết tài sản. Nhiều người chết vì đói, vì bị ức hiếp hay bị hãm hiếp. Chưa kể bất cứ ai nếu không chấp nhận cuộc đấu chính trị, đấu giảm tô hay đấu CCRĐ đều có thể trở thành nạn nhân của cuộc đấu tiêu diệt giai cấp địa chủ này. Một sự thực khác là cuộc CCRĐ (1949-56) không phải chỉ “đào tận gốc, trốc tận rễ” giai cấp địa chủ, mà “trí, phú và hào” tại nông thôn cũng không thóat khỏi cuộc đấu “long trời lở đất” này. Theo báo cáo của Bộ Chính trị tháng 10 năm 1956 thì chỉ riêng tổng số đảng viên bị “xử trí” đã lên tới 84.000 người. Cũng cần nói, trước đó trong cuộc đấu chính trị và đấu giảm tô, số nạn nhân đã lên đến hằng vạn người. Như thế con số người bị giết trong CCRĐ và chỉnh huấn có thể lên đến vài trăm ngàn người không phải là con số đựơc phóng đại. Với Hồ Chí Minh và ĐCSVN đây là một thành quả vĩ đại vì đã tiêu diệt được giai cấp địa chủ. Nhưng sự thực đây lại là cuộc diệt chủng khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:19:27 GMT 9
Hồ Chí Minh khóc trong sửa sai?Về việc ông Hồ đã khóc khi đọc quyết định sửa sai và xin đồng bào tha lỗi, ông Nguyễn Minh Cần cho biết như sau “Ngày 29-10-1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: ‘Bác đến không tiện’, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra ‘chịu trận’ thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.” Tài liệu của Cục Lưu trữ Quốc gia Nga về CCRĐ Gần đây có hai bức thư của Hồ Chí Minh gởi Stalin, xin được xem xét và cấp chỉ dẫn cho Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, được phát hiện lưu trữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia Nga. Bức thư thứ nhất Đồng chí Stalin kính mến: Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới. Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này. …. Hồ Chí Minh 30-10-1952 Bức thư thứ hai Đồng chí Stalin kính mến: Xin gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San. Đề nghị đồng chí xem xét và cho chỉ dẫn. Gửi lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh 31-10-1952 Đối chiếu với Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử thì trong tháng 9 và 10 năm 1952 ông Hồ đang ở trong nước. Nhưng theo hồi ký của Vu Hoá Thẩm thì hạ tuần 9-1952, Hồ Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc, sau đó sang Liên Sô dự Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Sô. Chuyến đi còn để báo cáo và xin phép Liên Sô và Trung Quốc chấp nhận Chương trình Cải cách Ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam. Chương trình này do chính ông Hồ và hai đồng chí Trung Quốc Lưu Shao Shi và Văn Sha San đồng soạn. Cả hai bức thư đều viết bằng tiếng Nga. Trong bức thư thứ nhất Hồ Chí Minh viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Trung Hoa. Trong bức thư thứ hai ông viết tên mình bằng tiếng Nga và ký tên bằng tiếng Việt. Ông Nguyễn Minh Cần cho biết nét chữ Nga trong hai bức thơ là nét chữ của một phụ nữ. Chương trình CCRĐ “Của Bác” chắc vẫn còn được lưu trữ trong Cục Lưu trữ Quốc gia Nga và một ngày sẽ được phát hiện. Biết đâu con số 5% dân số là thành phần địa chủ đã được đề xướng từ Chương trình CCRĐ “Của Bác”. Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù Linh mục Lê Đức Trong tham dự họp đấu địa chủ đã kể lại: “Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: ‘Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…’ Người ngồi sau run sợ ! Một lúc nữa, đội lại nói: ‘Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta’. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi! Sợ sệt và sợ sệt…!” Sau ba đợt đấu: đấu chính trị, đấu giảm tô vầ đấu cải cách ruộng đất, miền Bắc phủ một màu tang trắng. Sự kinh hoàng sợ hãi của cái chết bao trùm khắp nơi. Cuộc sửa sai gia tăng sự sợ hãi vì người tham gia cải cách nay sợ bị trả thù. Một xã hội chỉ biết sợ và biết thù là căn bản để ĐCS dựa vào đó xây dựng một nền chuyên chính vô sản, một thể chế công an trị còn tồn tại đến ngày nay. Cũng cần nói CCRĐ đã phá tan nền tảng văn hoá nhân bản của dân tộc, phá tan phong tục cổ truyền và nếp sống làng thôn Việt Nam, để từ đó ĐCS dễ dàng áp đặt tư tưởng Nga Sô-viết và Trung Quốc của Mao vào cuộc sống của mọi tầng lớp dân chúng tại miền Bắc Việt Nam. Cuối đời Hồ Chí Minh Câu chuyện bà Năm bị xử bắn do cố vấn Trung Quốc và do Trường Chinh quyết định chỉ là một trong rất nhiều huyền thoại do chính ông Hồ dựng nên. Huyền thoại có thể dối gạt dân chúng. Nhưng sự thực mới có thể thuyết phục được nội bộ giới cầm quyền cộng sản Việt Nam đương thời. Nhiều bằng chứng cho thấy sau sửa sai, uy tín và quyền lực của Hồ Chí Minh đã mất dần và sau đó lọt vào tay Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Nghiên cứu về lịch sử cận đại Việt Nam mà thiếu tìm hiểu cặn kẽ vai trò của Hồ Chí Minh là một thiếu sót lớn. Thế nhưng tài liệu về Hồ Chí Minh lại thiếu, không có, hay lại đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá. Bài viết trước người viết đã cho thấy việc ông Hồ ra lệnh bắn bà Năm nhằm xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam (xin xem bài Vai Trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất hay bài Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh để biết chi tiết). Bài viết này làm rõ thêm việc Hồ Chí Minh tạo ra những những huyền thoại chỉ để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”, trong khi CCRĐ đã giết hàng trăm ngàn dân vô tội. Không riêng gì trong CCRĐ, cuộc đời Hồ Chí Minh đã gắn liền với đam mê quyền lực. Ngày 2/9/1945 là ngày mà ông Hồ đạt được tột đỉnh quyền lực, được đa số dân Việt ủng hộ. Ngày 2/9/1969 Hồ Chí Minh trút hơi thở cuối cùng, một trùng hợp ngẫu nhiên hay một hành động kết liễu một đời người? Càng ngày càng nhiều chỉ dấu cho thấy vào cuối đời Hồ Chí Minh trong tay không còn chút quyền lực hay chỉ là một người tù trong một nhà tù do chính ông dựng lên. Hiểu rõ sự thực cuộc đời của Hồ Chí Minh chẳng những giúp chúng ta hiểu thêm về con người thật của ông mà còn giúp chúng ta viết lại một lịch sử cận đại Việt Nam. Một lịch sử đầy huyền thoại tuyên truyền dối trá chỉ nhằm để “bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”. 31/8/2010, Melbourne, Úc Đại Lợi © 2010 Nguyễn Quang Duy © 2010 talawas Tài liệu tham khảo Đoàn Duy Thành, Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964 Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, talawas Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989 Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự Thật, 1955 Thành Tín, Mặt thật Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp: Vấn đề dân cày, Xuất bản lần thứ hai, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội. Phao Lồ Lê Đắc Trọng, Chứng từ của một giám mục: Những câu chuyện về một thời, Diễn Đàn Giáo Dân tái bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Văn Nghệ California, USA, 1997 Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác!… Nửa thế kỷ trước, Nguyễn Quang Duy (2005), Hiến pháp đúng mực sẽ giúp người dân làm chủ, Đài phát thanh BBC Nguyễn Quang Duy (2007), “Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách Ruộng đất”, talawas Nguyễn Quang Duy (2010),”Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ Chí Minh”, danluan Võ Xuân Minh (2005), 172.000 nạn nhân trong “Cải cách Ruộng đất” Vu Hoá Thẩm (Dương Danh Di dịch), Đồng Chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp, Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày Hai bức thư của Hồ Chí Minh gởi Stalin: www.rusarchives.ru/pik/events/vietnam1/lett.jpgwww.rusarchives.ru/pik/events/vietnam1/lett_1_st.jpgwww.rusarchives.ru/pik/events/vietnam1/lett_2.jpgwww.rusarchives.ru/evants/exhibitions/vietnam1/22.shtml
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:30:49 GMT 9
Hồi ký “Thiên thu định luận”: Chương VI “Sửa sai đấu tranh chính trị và phát hiện sai lầm Cải cách Ruộng đất” 25/09/2010 Tác giả: Hoàng Nhật Tân
talawas – Trong chương VI của cuốn hồi ký tự xuất bản mang tên Thiên thu định luận (Phả ký gia tộc) mà chúng tôi giới thiệu dưới đây, tác giả Hoàng Nhật Tân thuật lại việc cha mình, cựu Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan (1905-1991), phát hiện sai lầm Cải cách Ruộng đất giai đoạn 1953-1956. Do những bất đồng trong nội bộ ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là do mâu thuẫn với Lê Duẩn, ông Hoàng Văn Hoan đã bỏ trốn sang Trung Quốc giữa thời điểm quan hệ Việt – Trung căng thẳng cao độ năm 1979 và bị Việt Nam kết án tử hình vắng mặt. Trong cuốn hồi ký Giọt nước trong biển cả viết tại Bắc Kinh năm 1986, ông nhận định: “Lê Duẩn là một kẻ âm mưu đặt lợi ích cá nhân và bè cánh lên trên lợi ích của dân tộc, đặc biệt là những năm trước và sau khi Hồ Chủ tịch mất, tôi được biết những hoạt động xấu xa nguy hiểm của y, như việc choán quyền Đảng, việc xuyên tạc lịch sử, việc động viên toàn bộ lực lượng chống Trung Quốc và xâm chiếm Cam-pu-chia, là những việc phản chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phản cách mạng, phản lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc.”
__________
Trong cuộc đời cha tôi có nhiều sự kiện tỏ ra ông độc lập suy nghĩ nên thường hay phát hiện được sai lầm. Chương trên đã kể nhiều sự kiện, những phải nói rằng sự kiện nổi bật nhất và có ý nghĩa trọng đại hơn cả là việc ông đi sửa sai “đấu tranh chính trị” đầu năm 1953 và phát hiện sai lầm Cải cách Ruộng đất từ 1953 đến 1956.
Ngày ấy cha tôi là một Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt nam và uỷ viên Thường vụ Quốc hội, đang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc, kiêm Đại sứ ở Triều Tiên và ở Mông Cổ. Ông thường từ Bắc Kinh về nước tham gia các cuộc hội nghị Trung ương Đảng và họp Quốc hội để xây dựng Cương lĩnh Ruộng đất của Đảng và Luật Ruộng đất của Quốc hội cũng như kiểm điểm công tác định kỳ của Trung ương.
Về phần tôi, từ cuối năm 1952 cho đến đầu năm 1957 là một cán bộ chủ chốt của cuộc vận động giảm tô và Cải cách Ruộng đất. Cuối năm 1952 đến tháng 7-1954 là thư ký của đồng chí Hoàng Quốc Việt, uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Mặt trận và dân vận, chuyên trách chỉ đạo chung phong trào phát động quần chúng thực hiện giảm tô và Cải cách Ruộng đất. Từ tháng 7-1954 đến cuối năm 1956 là Trưởng ban Tuyên huấn của Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương.
Do hoàn cảnh như trên mà tôi hiểu khá kỹ một phần hoạt động của cha tôi trong thời gian này, mỗi lần ông về nước.
*
Tháng 12-1952, tôi có một chuyến đi từ Liên khu IV ra Việt Bắc để phục vụ Hội nghị Nông vận và Dân vận Toàn quốc họp tại khu rừng tỉnh Tuyên Quang. Mấy ngày ở làng quê Quỳnh Đôi, tôi chứng kiến cuộc “đấu tranh chính trị” của quần chúng địa phương. Ở làng tôi, người ta bắt mấy chục người thuộc từng lớp giáo viên, hào lý, công chức cũ bị tình nghi là “phản động”, đưa ra đình làng cho nhân dân truy khảo bắt phải nhận tội. Hình thức truy khảo rất tàn bạo, như trói, treo, đánh bằng gậy, đốt mười đầu ngón tay v.v… khiến những người bị tra tấn phải nhận tội và khai ra “tổ chức phản động”, mặc dầu chưa có chứng cớ gì xác thực để buộc tội họ là phản động.
Từ Quỳnh Đôi ra tới địa điểm hội nghị, tôi lập tức tìm gặp đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo ngay những điều tai nghe mắt thấy như trên:
“Thưa anh”, tôi nói, “Đây là một hiện tượng khác thường. Tôi thấy Bác Hồ nêu cao chính sách khoan hồng và Đại đoàn kết, thế mà ở quê tôi, nghe nói đây là sáng kiến, chủ trương từ đâu trên Tỉnh uỷ hay Khu uỷ đưa xuống. Vậy đề nghị anh báo cáo với Bác để kịp thời xem xét.”
Đồng chí Hoàng Quốc Việt vỗ vai tôi thân mật:
“Tân thấy hiện tượng như thế mà báo cáo ngay với trung ương là rất tốt. Nhưng anh cứ yên trí, việc này tối hôm qua anh Ca là cán bộ Cục Thuế ở Hà Tĩnh ra đây họp đã báo cáo với trung ương và Bác Hồ đã phái anh Hoan cầm đầu một đoàn cán bộ vào ngay khu IV kiểm tra và xử lý vấn đề.”
Nhiều đồng chí cán bộ Liên khu IV hồi ấy kể lại rằng phong trào truy bức, đấu tố chính trị nói trên khởi đầu từ Diễn Châu (Nghệ An). Cán bộ tình nghi một số phần tử phản động, liền bắt họ ra trước hội nghị dân làng để cật vấn. Nhân dân căm thù phản động, đánh đập họ, truy khảo bắt khai, thế là lòi ra cả một tổ chức phản động rất lớn, tay sai của thực dân xâm lược Pháp, ngấm ngầm phá hoại kháng chiến đã từ lâu, và tổ chức này đã lan rộng ra nhiều làng xã.
Một đồng chí Uỷ viên Khu uỷ kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An được tin, cho rằng đây là một sáng kiến rất hay của quần chúng, liền chỉ thị cho các tỉnh truyền bá kinh nghiệm này, mở rộng nhanh chóng thành một phong trào quần chúng đấu tranh chính trị truy nã phản động, từ Nghệ An ra tới Thanh Hoá, vào cả Hà Tĩnh.
Hàng trăm người bị tra khảo rất tàn bạo. Có người đã chết. Các chị nói: Ngày ấy, nếu Bác không kịp thời phái anh Hoan vào ngăn lại thì phong trào “đấu tranh chính trị” tai hại nay còn làm chết bao nhiêu người nữa.
*
Anh Sơn Tùng là nhà văn đã sưu tầm được nhiều sử liệu và hồi ký, nhắc lại với tôi rằng: Các lão đồng chí tham dự cuộc họp sửa sai đấu tranh chính trị ở Khu IV hồi ấy còn nhớ anh Hoan chỉ vào đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An (là Khu uỷ viên) mà nói như mắng: “Là một người cộng sản mà anh đang tâm ngồi xem quần chúng treo ngược người ta, thui đốt người ta, thử hỏi lương tâm cộng sản của anh ở đâu? Chủ trương của Khu uỷ, tỉnh uỷ phát động đấu tranh chính trị như thế chẳng những là một sai lầm mà còn là một tội lỗi với dân, với Đảng, gây tác hại vô cùng nghiêm trọng và lâu dài. Mấy đời sau, con cháu những người bị tra tấn kia sẽ còn nguyền rủa ai là người đã gây ra tang tóc, thương tật cho ông cha họ!”
Sau này tôi được xem bản báo cáo của cha tôi trình lên Bác khi đã làm xong đợt sửa sai “đấu tranh chính trị”. Ông phê phán chủ trương của Khu uỷ IV và Tỉnh uỷ Nghệ An là hồ đồ, mù quáng, tạo thành một sai lầm phổ biến và rất nghiêm trọng, tác hại sâu sắc đến uy tín của Đảng, xâm phạm lợi ích quần chúng, phá hoại khối đoàn kết kháng chiến. Trong quá trình sửa sai, ông đã xuống một vài xã, huyện điều tra cụ thể, rồi họp Khu uỷ, Tỉnh uỷ, chỉ thị phải chấm dứt ngay phong trào đấu tố chính trị ấy, thừa nhận chủ trương sai lầm và tự phê bình nghiêm túc với các cấp dưới. Một mặt tuyên bố xoá bỏ các hồ sơ báo cáo về tổ chức phản động do truy bức mà tạo nên. Ông không chủ trương thi hành kỷ luật tất cả cán bộ đã chấp hành nghị quyết sai lầm kia, chỉ đề nghị Trung ương thi hành kỷ luật một đồng chí Khu uỷ viên đã mù quáng ra chỉ thị. Mặt khác ông đề nghị tuyên dương một số đồng chí ở các xa, huyện đã dám phản đối, hoặc ngăn cản hành động truy bức, nhục hình.
Cho đến nay một số người từng bị truy bức còn giữ thương tật, họ thường nhắc lại việc cha tôi sửa sai. Nhờ có sự sáng suốt của Bác Hồ và công tác sửa sai của ông mà bao nhiêu người đã thoát nạn.
*
Sau vụ “đấu tranh chính trị” ở khu IV xong, cha tôi trở sang Trung Quốc, lần đó cha con chúng tôi không có dịp gặp nhau ở Việt Bắc.
Về phần tôi, sau Hội nghị Nông vận và Dân vận Toàn quốc tháng 2-1953, tôi được đi theo đồng chí Hoàng Quốc Việt đến Thái Nguyên tổ chức Đoàn uỷ thí điểm giảm tô. Tôi được làm thư ký chung của Đoàn uỷ, theo dõi các đội thí điểm giảm tô trong 25 xã thuộc ba tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ và Thanh Hoá. Sau đó tiếp tục theo dõi công tác phát động quần chúng giảm tô đợt 1, mở rộng trong 163 xã.
Khi hai đợt giảm tô đầu tiên đã kết thúc, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 5 vào tháng 11-1953, đánh giá kết quả giảm tô rất tốt: phát động được quần chúng nâng cao ý thức đấu tranh giai cấp, bước đầu hạ uy thế địa chủ, gây một luồng phấn khởi rất sâu rộng trong toàn dân, nhất là quân đội, những người nông dân mặc áo lính, càng hăng hái chiến đấu quên mình trên các chiến trường. Trung ương Đảng quyết định mở rộng nhanh chóng phong trào phát động quần chúng giảm tô và tiến hành một đợt thí điểm cải cách ruộng đất.
Chuyện từ giảm tô lên cải cách ruộng đất là một chủ trương lớn, có ý nghĩa lịch sử, nên Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng (từ 14 đến 23-11-1953) để thông qua đường lối chung. Tiếp đến Hội nghị Uỷ ban Mặt trận Liên Việt toàn quốc (26 đến 28-11-1953) nhiệt liệt hoan nghênh thắng lợi giảm tô và hoàn toàn tán thành chủ trương của Đảng về cải cách ruộng đất. Sau đó Quốc hội (Khoá I) họp lần thứ ba (1 đến 4-12-1953) nhất trí thông qua Luật ruộng đất và ngày 19-12-1953 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh ban hành Luật Ruộng đất.
Trong dịp này cha tôi có mặt ở Việt Bắc khá lâu. Tôi lại được hân hạnh tham gia Hội nghị toàn quốc của Đảng với tư cách là cán bộ của Trung ương theo dõi diễn biến của hội nghị qua các buổi thảo luận của các đoàn đại biểu các địa phương. Trong hoàn cảnh đó cha con chúng tôi thường gặp nhau.
Một buổi chiều, khi Hội nghị toàn quốc đã kết thúc, cha tôi tìm gặp tôi sau bữa cơm chiều, cùng tôi đi dạo trên đường rừng, quanh khu vực hội nghị. Ông hỏi tôi tin tức về gia đình ở trong quê Nghệ An, rồi hỏi về công tác của tôi từ ngày được điều động về nước.
Tôi kể:
“Khi con từ Bangkok về tới Việt Bắc cuối năm 1951 được gặp đồng chí Phạm Văn Đồng báo cáo tình hình công tác của Đảng bộ ở Thái Lan. Sau đó anh Trần Hiệu là Trưởng ban Tình báo gặp con, dự định xin con sang làm công tác tình báo Đông Nam Á. Nhưng Trung ương cho con dự một lớp chỉnh huấn ở trường Nguyễn Ái Quốc khoá 2, rồi điều động về Văn phòng Trung ương Đảng làm thư ký cho đồng chí Hoàng Quốc Việt, theo dõi công tác Mặt trận và Dân vận. Cuối năm 1952, con đã giúp anh Việt ấy thảo chương trình công tác 1953. Hồi ấy đã có thư của Đoàn Cố vấn Trung Quốc hỏi Trung ương đối với giai cấp địa chủ thì có đánh đổ toàn bộ không và đối với việc phát động quần chúng thì có ‘phóng tay’ hay không. Trung ương đã quyết tâm ‘phóng tay’ phát động quần chúng và đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ một cách có sách lược phân hoá.” Cha tôi hỏi:
“Qua hai đợt phóng tay phát động quần chúng giảm tô vừa rồi Tân có nhận xét gì không?”
“Con thấy các đội công tác, đội nào đi sâu thăm nghèo hỏi khổ và phóng tay phát động quần chúng thì ở đấy giảm tô, thoái tô nhanh chóng. Nhưng địa chủ cũng phản ứng rất mạnh, thầy ạ.”
Ông nhìn tôi có vẻ thăm dò, rồi nói với một giọng, tin cậy, thân mật:
“Tân dự Hội nghị toàn quốc vừa rồi thì thấy đấy: đường lối Cải cách Ruộng đất của Trung ương rất toàn diện, rất mềm dẻo, đánh vào giai cấp địa chủ có phân biệt các loại, chiếu cố địa chủ kháng chiến, chú trọng đoàn kết nông thôn, tránh gây chấn động, làm mất sự đồng tình của các nhân sĩ, trí thức, anh em khối đoàn kết kháng chiến toàn dân. Những lần này thầy về nước, đi từ biên giới đến an toàn khu, có tham quan mấy cuộc đấu tố địa chủ ở các xã giảm tô, thì thấy cách làm như hiện nay là không đúng.”
“Không đúng thế nào ạ?” Tôi hỏi trong thái độ ngạc nhiên.
“Mình thấy các đội giảm tô đem địa chủ ra cho quần chúng đấu tố, xỉ vả như thế thì sẽ gây ra oán thù không cần thiết. Mặt khác mình thấy trên đường nhan nhản khẩu hiệu ‘Dựa vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, trung lập phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ’ cũng rất đáng suy nghĩ. Đây là một khẩu hiệu sách lược, cần phổ biến sâu sắc, thấm nhuần nội bộ để trong hành động thực tế của cán bộ có phương pháp đúng mức, chứ giương lên công khai khắp các nẻo đường như thế thì không thể đoàn kết nông thôn, thậm chí có thể gây chia rẽ trong nội bộ nông dân. Khẩu hiệu ‘trung lập phú nông’ nay đã được Trung ương sửa lại là ‘Liên hiệp phú nông’ cốt để lôi kéo phú nông, nhưng cách phát động quần chúng như thế này thì chưa chắc đã liên hiệp được phú nông đâu.”
Ngừng một lát, có ý xem thái độ của tôi, ông nói tiếp:
“Những điều mình nói với Tân hôm nay mình đã phát biểu trong cuộc họp Trung ương rồi, nhưng chỉ là ý kiến trong nội bộ thôi. Tân là một cán bộ của Trung ương, nên biết, nhưng cũng là biết vậy chớ không được tuỳ tiện phát biểu rộng rãi.”
Nghe cha tôi nói, tôi hơi ngạc nhiên. Qua hai đợt giảm tô, tôi là một cán bộ chủ chốt của Đoàn uỷ do đồng chí Hoàng Quốc Việt phụ trách, tôi chỉ được nghe những lời ca ngợi cái hay cái tốt của phong trào và sự sáng suốt của Đảng, lòng biết ơn của nhân dân với Bác, với Đảng đã đem lại quyền lợi thiết thân. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe một ý kiến phê bình từ miệng cha tôi, một đồng chí uỷ viên Trung ương Đảng. Tôi chỉ im lặng.
Thật ra, trong vấn đề này tôi đã một lần vấp váp hồi chỉnh huấn ở Trường Nguyễn Ái Quốc đầu năm 1952.
Ngày ấy Trung ương đang cân nhắc và chuẩn bị có sự chuyển hướng chính sách đối với giai cấp địa chủ. Việc giáo dục về lập trường giai cấp trong các lớp chỉnh huấn được nhấn mạnh, đi đôi với việc khuyến khích “tự do tư tưởng”, dám nghĩ, dám nói (để Trung ương nắm vững tư tưởng cán bộ). Nhà trường tổ chức một buổi thảo luận chung tại hội trường, cho học viên tranh luận chuyên đề “Có nên chuyên chính với giai cấp địa chủ hay không”. Nhiều đồng chí đã thấu hiểu dự định của Trung ương đặt vấn đề lập trường giai cấp thành cơ sở nghiên cứu vấn đề này. Riêng tôi, mới ở Thái Lan về nước, chưa nhạy bén cảm thụ điều dự kiến của Trung ương, nên đã mạnh dạn phát biểu:
“Từ ngày Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, Bác Hồ đã nhiều lần tuyên bố chính sách đoàn kết, không phân biệt giai cấp để mưu cầu giải phóng dân tộc. Hồi đầu kháng chiến, nhiều nhân sĩ hỏi Bác ‘Có đoàn kết với địa chủ không và có đoàn kết lâu dài không?’ thì Bác đã trả lời dứt khoát: Chân thành đoàn kết, đoàn kết lâu dài cho đến ngay kháng chiến thành công. Bây giờ Đảng ta muốn nâng cao đời sống nông dân, giảm nhẹ bóc lột, thì nên vận động địa chủ vì lòng yêu nước, vì nghĩa đồng bào mà nhả bớt quyền lợi kinh tế, khiến nông dân đỡ khổ, hăng hái đánh giặc, vì số đông bộ đội là con cái nông dân. Chỉ có những địa chủ đã là Việt gian, phản động thì mới không nghĩ tới đồng bào, không chịu giảm bớt bóc lột mà thôi. Nếu ta tuyên bố chuyên chính với giai cấp địa chủ thì hoá ra Bác Hồ làm sai lời hứa. Như vậy có ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhất là các nhân sĩ yêu nước đã đi theo kháng chiến mà nghe nói giai cấp của họ là đối tượng chuyên chính của ta thì họ sẽ nghĩ như thế nào về Bác, về Đảng Lao động Việt Nam.”
Sau buổi thảo luận, một số đồng chí trong lớp gặp tôi tỏ lời hoan nghênh bài phát biểu của tôi là có tình có lý. Nhưng ngày hôm sau tôi đã bị phê bình đích danh trên tờ báo tường dán ở trước hội trường. Đó là bài của anh Hà Nghệ, thư ký đồng chí Trường Chinh, từng viết một số bài hay trên báo Nhân dân, nay được đi học chỉnh huấn Trường Nguyễn Ái Quốc. Tác giả bài bích báo phê phán: “Đồng chí Hoàng Nhật Tân không nắm vững lập trường giai cấp, không hiểu sự cần thiết phải chuyển hướng đường lối giai cấp của Đảng… còn thông cảm với giai cấp bóc lột hơn là thông cảm với quần chúng cơ bản của cách mạng.”
Từ đó tôi dè dặt hơn trong phát biểu ý kiến, và tự nhắn nhủ mình phải quan tâm rèn luyện lập trường giai cấp của một chiến sĩ cộng sản. Qua thực tế của phong trào giảm tô tôi càng thấm nhuần cách giải thích của các đồng chí cố vấn Trung Quốc về âm mưu của giai cấp địa chủ, về những người liên quan với địa chủ thường vì tình cảm bà con họ hàng mà làm trái lợi ích giai cấp của bần cố nông. Các đồng chí cố vấn giải thích cho cán bộ tham gia giảm tô rằng: Một người chiến sĩ cách mạng chân chính thường phải trải qua ba của ải: Cửa ải kháng chiến để rèn luyện tinh thần yêu nước, cửa ải phát động quần chúng để nâng cao lập trường giai cấp và cửa ải chỉnh huấn để từ sửa chữa sai lầm, tỏ lòng trung thành với Đảng.
Trong thời gian các đợt giảm tô và Cải cách Ruộng đất đầu tiên, tôi hoàn toàn tin tưởng những điều đã học được ở trường chỉnh huấn và ở các lớp giảng của cố vấn, cho nên mỗi khi nghĩ đến những lời cha tôi phê bình việc phát động quần chúng giảm tô thì tôi lại thấy hơi lo, một mối lo mơ hồ, không rõ rệt. Tôi không thể nói điều lo lắng này ra với cha tôi cũng như với bất cứ ai cả.
*
Ngay sau khi Luật Ruộng đất được công bố, đồng chí Hoàng Quốc Việt đích thân chỉ đạo đợt thí điểm Cải cách Ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, vào đầu năm 1954.
Tháng 5-1954, phát động quần chúng giảm tô đã làm xong ở 631 xã thuộc các tỉnh vùng tự do từ Việt Bắc đến Thanh Nghệ Tĩnh. Đợt thí điểm Cải cách Ruộng đất cũng hoàn thành. Đợt I Cải cách Ruộng đất bắt đầu tiến hành trên 47 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và 6 xã thuộc Thanh Hoá. Bản thân tôi được đồng chí Hoàng Quốc Việt cho nắm một đội Cải cách Ruộng đất xuống xã Túc Duyên (huyện Đại Từ, Thái Nguyên) làm thí điểm.
Đi vào thực tế, là đội trưởng, tôi cũng bắt rễ, xâu chuỗi như mọi anh em đội viên, xét duyệt danh sách địa chủ ở các xóm do các tổ báo cáo lên. Tôi thấy thật khó mà trong vòng một thời gian ngắn nắm bắt được tâm trạng của 20 anh em đội viên của mình, khó mà nắm rõ thực hư trong mọi trường hợp nông dân tố khổ địa chủ. Tôi chỉ làm được một việc là nhắc anh em lắng nghe cả trung bần cố nông để giữ được khách quan, đừng để xảy ra nhục hình khi đấu tố. Những đến cuối đợt thì được đồng chí đội phó báo cáo là ở xóm của đồng chí phụ trách có một địa chủ tự sát. Thẩm tra lại các yếu tố thì chúng tôi xác định đây là trường hợp bị quy oan địa chủ. Phát hiện sai lầm này cũng vừa lúc Đoàn uỷ triệu tập các đội ở Thái Nguyên về địa điểm tổng kết đợt thí điểm Cải cách Ruộng đất. Tôi uỷ thác đồng chí đội phó ở lại Thái Nguyên tiến hành sửa sai ngay cho gia đình bị quy oan, rồi đưa toàn đội về Thái Nguyên tham gia Hội nghị Tổng kết.
Qua thực tế đợt I Cải cách Ruộng đất, tôi bắt đầu nghĩ rằng ý kiến cha mình phê bình cách làm phát động quần chúng là có phần đúng: Một số cán bộ trong đội Cải cách Ruộng đất muốn gây thành tích, cố moi ra cho được nhiều địa chủ. Khi động viên nông dân kê khai ruộng đất thì chẳng những cán bộ trong đội, mà ngay cả đồng chí cố vấn Trung Quốc xuống xã cũng có khuynh hướng ép nông dân khai tăng số ruộng đất họ mới được chia để có thành tích tuyên truyền. Nhân dân trong xã Cải cách Ruộng đất từ trung nông trở lên có nhiều thắc mắc mà không ai dám nói vì sợ bị vạ lây.
Trong Hội nghị Tổng kết, tôi được chỉ định ra báo cáo điển hình ở hội trường, nói lên một số nhận thức của mình là phải chống hữu khuynh đồng thời hết sức tránh tả khuynh. Cần lắng nghe cho thấu ý kiến của nhân dân, cả bần cố và trung nông trong khi phân định thành phần giai cấp trong xã cũng như khi lãnh đạo nông dân bình nghị để kê khai ruộng đất. Tôi thay mặt toàn đội Túc Duyên tự phê bình nghiêm khắc về việc quy oan địa chủ dẫn tới vụ tự sát thảm thương. Có thể nói nhận thức của tôi tuy có chuyển biến bước đâu, nhưng còn rất hời hợt.
Đợt I Cải cách Ruộng đất chấm dứt đúng vào lúc Hội nghị Genève kết thúc thắng lợi. Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Campuchia và Lào được ký kết. Hoà bình được lập lại, quân xâm lược Pháp sắp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Từ tháng 7-1954, Đoàn uỷ Cải cách Ruộng đất ở Thái Nguyên do đồng chí Hoàng Quốc Việt phụ trách, bàn giao nhiệm vụ lại cho khu uỷ Việt Bắc và Đoàn uỷ Cải cách Ruộng đất ở Thanh Hoá do đồng chí Hồ Viết Thắng phụ trách bàn giao lại cho Khu uỷ IV. Các đồng chí lãnh đạo cùng một số cán bộ chủ chốt trong đó có tôi trở về thủ đô Hà Nội. Trung ương Đảng quyết định thành lập Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương gồm các đồng chí lãnh đạo của Đảng và đại biểu của Mặt trận Liên Việt (sau đổi là Mặt trận Tổ quốc), đại biểu các đoàn thể quần chúng và một số nhân sĩ yêu nước tiêu biểu là uỷ viên Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương do đồng chí Trường Chinh làm chủ tịch, hai uỷ viên Bộ Chính trị là Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương trực tiếp phụ trách, đồng chí Hồ Viết Thắng, uỷ viên Trung ương Đảng là uỷ viên thường trực, chỉ đạo công tác hàng ngày. Bản thân tôi được giao nhiệm vụ mới: Trưởng ban Tuyên huấn của Uỷ ban Cải cách Ruộng đất trung ương, dưới quyền chỉ đạo của đồng chí Hồ Viết Thắng.
Trong hoàn cảnh hoà bình, tháng 9-1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết mới, coi Cải cách Ruộng đất là điều kiện quyết định để phục hồi kinh tế sau chiến tranh, nhưng cần phải điều chính chính sách cho thích họp với tình hình mới, không trái với Hiệp định Genève. Dựa theo tinh thần nghị quyết Bộ Chính trị ,Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương ra quyết định “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện Cải cách Ruộng đất”, trong đó sửa đổi và bổ sung một số quy định cụ thể như: Rút khẩu hiệu “Đánh đổ Việt gian phản động” (Vì Hiệp định Genève quy định hai bên không được trả thù người đã từng cộng tác với đối phương) thay bằng khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ cường hào gian ác”, thu hẹp diện đấu tranh, sửa đổi phương pháp đấu tranh, tăng cường tác dụng của Toà án Nhân dân; không vạch linh mục là “Địa chủ Nhà Chung”, mở rộng diện trưng mua, cho địa chủ hiến ruộng với điều kiện rộng rãi hơn, chiếu cố những nhà công thương nghiệp kiêm địa chủ v.v…
Tuy chủ trương, chính sách vạch ra mềm dẻo như vậy, nhưng trong thực hành, các đội giảm tô và Cải cách Ruộng đất vẫn làm như cữ. Diện đả kích ngày càng mở rộng. Toà án Nhân dân do các đội Cải cách Ruộng đất lập nên xử bắn nhiều người bị quy oan là địa chủ cường hào gian ác. Từ Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương truyền xuống một quy định miệng là mỗi xã phải có từ 3 đến 5 phần trăm số hộ là địa chủ thì mới tránh khỏi “lọt lưới”. Hầu hết cán bộ lãnh đạo xã trước ngày phát động quần chúng giảm tô và Cải cách Ruộng đất bị gạt ra khỏi công cuộc vận động quần chúng. Không ít người bị quy thành phần địa chủ, hoặc liên quan với địa chủ, tay sai địa chủ, thậm chí bị quy là phản động, ngấm ngầm làm tay sai cho Pháp trong thời địa phương bị chiếm đóng.
Tháng 3-1955, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 7. Cha tôi từ Bắc Kinh về Hà Nội tham gia hội nghị. Ông đã thẳng thắn nói lên những ý kiến phê phán của mình đối với cách thực hiện Cải cách Ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Nhưng ông đã được đả thông rằng tuy có những hiện tượng “tả khuynh”, nhưng đó là tất yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp “long trời lở đất” ở nông thôn hàng ngàn năm dưới ách phong kiến, đứng trước sức phản ứng quyết liệt của giai cấp địa chủ và bọn tay sai của địch còn cài lại ở miền Bắc. Tuy được đả thông, ông vẫn kiên trì phản ánh dư luận nhân dân không đồng tinh với những sai lầm của các đội cải cách. Ông dẫn chứng báo cáo của đồng chí Hoàng Quốc Việt là trong hai đợt Cải cách Ruộng đất đầu tiên có 500 địa chủ lọt lưới và 400 địa chủ bị quy sai; và lập luận rằng 500 người lọt lưới thì có thể quy lại, nhưng 400 người bị quy sai, đã bị đấu tố, xỉ vả thì sửa như thế nào cho người ta, làm sao xoá được sự oán trách của họ và con cháu để hàn gắn sự đoàn kết trong thôn xóm.
Ý kiến phê bình của cha tôi không được chấp nhận, nhưng dầu sao sau Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, trong các bài phát biểu của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng đã nêu lên tinh thần “chống hữu, phòng tả”.
Tháng 8-1955 lại họp Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cũng có mặt cha tôi. Lần này ông vẫn kiên trì phê phán tả khuynh, yêu cầu phải sửa chữa ngay “tả” khuynh, chứ không phải chỉ “đề phòng tả khuynh”, vì trong thực tế “tả” khuynh đã rất nghiêm trọng. Tai hội nghị này ý kiến phê phán của ông đã mang tính chất như là đối lập với các đồng chí lãnh đạo Cải cách Ruộng đất, và dường như ông đang bị cô lập. Ở cơ quan Uỷ ban Cải cách Ruộng đất một số cán bộ thân cận với lãnh đạo đã thì thào với nhau rằng: Có lẽ chuyến này anh Hoàng Văn Hoan sẽ phải ra khỏi Trung ương và anh Hồ Viết Thắng sẽ được đề bạt vào Bộ Chính trị.
Phần tôi, tuy thầm hiểu rằng cha mình có phần đúng, nhưng mặt khác tôi vẫn còn phân vân: Phải chăng cha mình chưa thật sát với hoàn cảnh trong nước, nên chưa thật vui với niềm vui giải phóng của nông dân được có ruộng cày, thoát ách tô tức của địa chủ. Phải chăng ông đã thông cảm nhiều với nỗi oan ức của các người bị đấu tố, bị khai trừ mà ít thông cảm với nỗi khổ nhục của nông dân trước cách mạng, vì ông cũng chỉ là xuất thân gia đình nhà Nho thôi mà. Phải chăng ông chưa được trải qua cửa ải “đấu tranh giai cấp” nên về phương diện lập trường giai cấp, ông chưa thật sâu sắc như lập trường yêu nước?
Sau nhiều ngày đêm phân vân, suy nghĩ, đắn đo, cuối tháng 10-1955 tôi viết một bức thư dài 4 trang đánh máy gửi sang Bắc Kinh để bàn giải với cha mình bằng lời lẽ rất lễ độ nhưng cũng khá thẳng thắn.
Ý chính trong thư:
“Thầy ạ, mấy năm nay Trung ương Đảng đã nhận thấy mình có hữu khuynh, nên mới kiên quyết phóng tay phát động quần chúng đấu tranh. Tuy con chưa thấy Trung ương ra quyết định tự phê bình hữu khuynh, và các uỷ viên Trung ương Đảng không phải tham gia chỉnh huấn, nhưng tất cả cán bộ cao cấp đều đã kiểm thảo về khuyết điểm trước đây không am hiểu tình hình thực tế ở nông thôn, đánh giá quá thấp tính chất phản động của giai cấp địa chủ. Đối với thầy, con thấy từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 7, thầy thường than thở với con về những sai lầm nguy hại trong Cải cách Ruộng đất. Thầy nói ‘chỉ sợ Trung ương nghe phản ánh chưa đủ nên chưa thấy hết tầm nghiêm trọng của vấn đề, chưa thấy hết sự lo sợ và bất mãn trong nhân dân, chưa đánh giá được hậu quả của tình hình.’ Thầy còn nói ‘Có khi nghe 90 người mà chưa thấy ra sự thực, trái lại nghe một câu nói, xem một thái độ mà có thể phán ra đầu mối của sự thật.’ Cách lập luận của thầy có phần đúng, nhưng chỉ sợ thầy chưa xuất phát từ chỗ ‘nghe ai’, ‘giải quyết vấn đề cho ai’. Cải cách Ruộng đất là vấn đề của hàng triệu quần chúng lao động từng bị đói cơm rách áo. Chỉ e thầy chưa cảm thông sâu sắc nỗi khổ của họ trước cách mạng và điều phấn khởi của họ ngày nay.”
Cuối thư tôi viết: “Trên đây là những lời chân thành của đứa con một của thầy mẹ, và cũng là lời bàn giải thẳng thắn của một đồng chí cách mạng, mong góp phần suy nghĩ với thầy”.
Phải nói rằng hồi ấy tôi tuy đã nhận rõ tác hại của “tả” khuynh, và đã từng phát biểu trong hội nghị cán bộ Cải cách Ruộng đất là cần “chống tả khuynh” đi đôi với chống hữu khuynh. Nhưng trong hệ thống tư tưởng tôi đã thấm sâu quan điểm đấu tranh giai cấp qua các luận văn của đồng chí Mao Trạch Đông như “Mâu thuẫn luận”, “Thực tiễn luận”, nhất là tác phẩm “Bàn về cuộc nổi dậy của nông dân Hồ Nam”… Ngày ấy Đảng ta đặt cụ Mao lên hàng lãnh tụ mẫu mực của cách mạng thế giới, đã ghi vào Điều lệ Đảng: “Lấy học thuyết Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho tất cả mọi hành động”. Tôi tự nhủ không nên vì tình cảm cha con mà không nói thật, nói thẳng những ý kiến phê bình với người cha thân yêu của mình.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:32:08 GMT 9
Bức thư của tôi gửi sang Bắc Kinh không được trở lại, đến tháng 9, tháng 10-1956 thì tôi bắt đầu hiểu rõ điều ngây thơ của mình và sự đúng đắn, sáng suốt của cha tôi.
Ngày ấy Cải cách Ruộng đất đợt 4 đã kết thúc từ tháng 12-1955. Trên toàn miền Bắc đã có 1585 xã nông dân được chia ruộng đất. Báo chí và đài phát thanh tuyên truyền rầm rộ về những thắng lợi huy hoàng của sự nghiệp chống đế quốc cũng như chống phong kiến. Tiếp đó, đợt 5 Cải cách Ruộng đất được phát động từ đầu tháng 1-1956. Trên ba vạn cán bộ lấy từ tất cả các cơ quan Đảng, chính, quân, dân ở các cấp được huấn luyện hàng tháng trước khi toả xuống 1720 xã thuộc 16 tỉnh, trong đó 13 tỉnh là vùng mới giải phóng.
Khi đợt 5 sắp kết thúc thì cơ quan Chủ tịch phủ cũng như Uỷ ban Thường trực Quốc hội và Văn phòng Trung ương Đảng nhận được hàng ngàn lá đơn kêu oan.
Hồ Chủ tịch gọi đồng chí Hồ Viết Thắng sang nói cho biết tình hình nghiêm trọng này và yêu cầu Thường trực Uỷ ban Cải cách Ruộng đất chọn 4 cán bộ kiểm tra có kinh nghiệm về tình tình trung thực đưa sang Phủ Chủ tịch để Bác trực tiếp giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách làm việc để đi thẩm tra một số địa phương có nhiều dân khiếu nại. Bác dặn dò bốn anh phải hết sức khách quan, nghe đầy đủ sự thật và trở về trực tiếp báo cáo với Bác, không giấu diếm sự thật.
Bốn anh cán bộ này, tôi còn nhớ tên hai anh. Một là anh Thúc Khu IV và hai là anh Mỹ Hảo, người Hưng Yên, đều trình độ thường vụ Huyện uỷ, tham gia Cải cách Ruộng đất từ những đợt đầu và làm cán bộ kiểm tra từ đợt 5 Cải cách Ruộng đất. Họ đều xuất thân nông dân, bản chất trung thực và khiêm tốn.
Khoảng giữa tháng 8-1956, bốn anh làm xong nhiệm vụ, báo cáo kết quả kiểm tra với Bác Hồ rồi trở lại cơ quan Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương kể lại cho một số cán bộ chủ chốt của Uỷ ban nghe.
Các anh nói đại ý là: Lâu nay các Đoàn uỷ Cải cách Ruộng đất báo cáo lên Trung ương chỉ nói nhiều về thành tích đấu tranh mà che giấu nhiều sự thật. Lần này chúng tôi đến tận nơi có vấn đề oan khuất, nghe các lão đảng viên báo cáo thực tình, vào tận nhà tù đang giam các địa chủ cường hào và “cán bộ cũ” bị qui là phản động, đến tận nhà những người đã tự sát, nghe vợ con họ trình bầy.
Ở Khu IV, các lão đồng chí yêu cầu Hồ Chủ tịch hãy xem xét lại người lãnh đạo Khu uỷ IV đã dám tuyên bố rằng: “Qua Cải cách Ruộng đất mới thấy phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một phong trào giả tạo, do đế quốc Pháp dựng nên”.
Một đảng viên thời 1930-1931 đắp lên mình lá cờ đỏ búa liềm trước khi viết thư tuyệt mệnh, vạch tội Cải cách Ruộng đất rồi cắn lưỡi tự sát. Ở Liên khu III, trong nhà tù đã có mấy cán bộ cũ tự sát. Khi chúng tôi cùng với cán bộ Khu uỷ vào phòng giam thẩm tra, có lão cán bộ đã chửi thẳng vào mặt chúng tôi: Chính chúng mày mới là bọn phản Đảng, hại dân, hại nước.
Bà con nông dân thì kể lại nhiều trường hợp rễ chuỗi tố oan trung ương, phú nông, kích họ lên thành phần địa chủ cường hào gian ác để tịch thu được nhiều ruộng đất. Không ít trường hợp tố oan, vu khống để trả thù nhau. Cũng nhiều trường hợp do cán bộ đội mớm cung hoặc nhục hình buộc địa chủ phải nhận tội gian ác. Nguy hại nhất là nhiều cán bộ đội cải cách coi nhục hình là biện pháp tốt không thể thiếu trong đấu tranh giai cấp, mặc dầu Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương đã nhiều lần chỉ thị ngăn cấm nhục hình.
Chúng tôi hỏi:
“Nghe các anh báo cáo, Bác nói thế nào?”
“Bác chưa nói gì, những tỏ ra rất đăm chiêu tư lự. Có lẽ nay mai họp Hội nghị Trung ương Bác sẽ có ý kiến.”
Một không khí hồi hộp chờ đợi lan nhanh trong số cán bộ của Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương.
*
Hội nghị Trung ương họp vào tháng 9, kéo dài đến tháng 10-1956. Có người nói đây là Hội nghị Trung ương lần thứ 9, có người gọi đây là Hội nghị Trung ương lần thứ 10. Cuốn sử biên niên của Viện Sử học (xuất bản 1975) chỉ ghi Hội nghị Trung ương lần thứ 8 rồi ghi đến Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mà không ghi gì về Hội nghị Trung ương lần thứ 9. Phải chăng đây là hai cuộc họp quan trọng được nhập làm một?
Cuốn hồi ký Giọt nước trong biển cả của cha tôi ghi lại một cách khái quát nhưng cũng khá đầy đủ:
“Hội nghị Trung ương về sửa sai Cải cách Ruộng đất họp vào tháng 9-1956, là một cuộc hội nghị họp nhiều ngày nhất (gần một tháng) từ khi có Đảng. Hầu hết các đồng chí Trung ương đều cho rằng trong quá trình Cải cách Ruộng đất, Uỷ ban Cải cách Ruộng đất đã không thi hành đúng chủ trương của Đảng. Thí dụ:
- Đảng chủ trương “đấu lý” để nâng cao giác ngộ của nông dân và làm cho địa chủ biết việc bóc lột nông dân là không đúng thì các đội cải cách đã để cho nông dân xỉ vả người bị gọi là địa chủ, thậm chí để cho nàng dâu xỉ vả mẹ chồng, con xỉ vả bố mẹ, mà người bị gọi là địa chủ cứ phải cúi đầu chịu, không được thanh mình phải trái, có người bị bao vây chặt chẽ đến nỗi cơm không có ăn, hàng xóm hoặc bà con quá thương phải giấu lén đưa cho củ khoai, củ sắn.
- Đảng chủ trương những địa chủ có công với cách mạng, hoặc địa chủ kháng chiến được chiếu cố, thì các đội cải cách đều coi họ là địa chủ có tội ác với nông dân mà đấu tố lung tung.
- Đảng chủ trương những người có một ít ruộng cho thuê, nhưng nguồn sống chính là nhờ vào việc làm ăn khác, như đi buôn, dậy học v.v… thì chỉ khuyên họ trả ruộng đất cho nông dân, mà không coi là địa chủ, nhưng các đội cải cách cứ coi là địa chủ để mặc cho nông dân tuỳ tiện xỉ vả. Vì vậy có những người chỉ có năm ba sào ruộng mà cũng bị coi là địa chủ, trở thành một hiện tượng phổ biến. Những người là trung nông đáng lý phải được đoàn kết chặt chẽ trong hàng ngũ nông dân, những người phú nông đáng lý phải được ở vào địa vị liên hiệp trong Cải cách thì một số không ít cũng bị coi là địa chủ, bị tịch thu hết ruộng đất nhà cửa, của cải, bị đủ mọi điều xỉ nhục mà không được chối cãi.
- Tai hại hơn là lúc chuyển sang giai đoạn “chỉnh đốn tổ chức” thì chẳng những đánh vào trung nông và phú nông mà còn đánh vào các tổ chức cơ sở Đảng, phần lớn là những đảng viên vào Đảng năm 1930, hoặc tham gia Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội từ những năm 1925 – 1926 đều bị đấu tố và giam cầm. Đặc biệt là ở Nghệ Tĩnh thì nhà tù dựng lên khắp nơi, hầu hết cơ sở Đảng đều bị đánh phá tan nát.
(…)
- Hồ Chủ tịch tuy không ở trong Uỷ ban Cải cách Ruộng đất nhưng với cương vị là Chủ tịch Đảng, đã nghiêm khắc tự phê bình trước Hội nghị về việc thiếu kiểm tra đôn đốc. Người chủ trương Đảng phải kiên quyết sửa sai.”
Trên tinh thần thừa nhận sai lầm, các đồng chí phụ trách Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương đều tự nhận phần trách nhiệm: đồng chí Trường Chinh thôi giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Hoàng Quốc Việt , Lê Văn Lương rút khỏi Bộ Chính trị. Đồng chí Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
*
Sau này, trong một buổi gặp mặt, anh Lưu Động, một đồng chí lão thành cách mạng kể lại cho tôi sự kiện sau đây. Anh nói với giọng thân mật của một bác đàn anh:
“Hồi ấy mình đã có lúc gặp anh Hoan trong dịp phát hiện sai lầm Cải cách Ruộng đất. Mình cũng đi Cải cách Ruộng đất, làm một cán bộ trong đội công tác, thấy bọn họ xử lý oan cán bộ, quy oan thành phần địa chủ, truy bức, nhục hình, mình chống lại, bị họ phê bình cảnh cáo. Mình tức quá, viết thư lên anh Trường Chinh. Anh đả thông, mình không chịu. Một hôm, vào khoảng tháng 9-1956, anh Trường Chinh triệu tập mình đến trụ sở Trung ương Đảng ở cạnh hồ Hale. Mình đến thì đã thấy anh Hoan và anh Trường Chinh ở đó. Một lúc sau Bác đến. Cuộc họp chỉ có mấy người thôi. Mình có dịp được trình bầy với Bác những điều phê phán của mình. Anh Hoan nói nhiều về các vấn đề anh không đồng tình với anh Trường Chinh, về những điều mắt thấy tai nghe, dư luận trong cán bộ và nhân dân và những lý lẽ anh phê bình cách tiến hành Cải cách Ruộng đất.”
Qua câu chuyện của anh Lưu Động, tôi hiểu rằng cuộc đấu tranh của cha tôi phát hiện sai lầm này là rất gay go. Nếu không có sự can thiệp của Bác chắc khó mà phân rõ phải trái.
Đến năm 1960, tôi mới có dịp tranh thủ tìm hiểu thêm qua cha tôi. Ông kể:
“Hồi ấy, trong các cuộc hội nghị Trung ương, lúc đầu có 5 anh phê phán sai lầm Cải cách Ruộng đất.”
“Những ai hả thầy?”
“Các anh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu và tôi. Sau khi nghe anh Trường Chinh đả thông thì bốn anh im lặng. Riêng tôi cứ kiên trì phản bác lý lẽ thanh minh của anh Trường Chinh. Mình thấy rằng nếu Trung ương không nhận ra những sai lầm này thì nguy hiểm quá. Anh Trường Chinh nói: ‘Bây giờ chỉ còn một mình anh Hoan, đề nghị anh tiếp tục suy nghĩ. Tôi sẽ gặp và làm việc riêng với anh trong một buổi sau.’”
“Cuộc gặp sau có căng thẳng không hả thầy?”
“Mình chờ đợi mấy hôm thì có 4 cán bộ sừng sỏ của Uỷ ban Cải cách Ruộng đất Trung ương sang nhà khách gặp mình, nói là họ được anh Trường Chinh phái đến. Họ đem hết tài liệu, số liệu về thắng lợi Cải cách Ruộng đất ra để thuyết phục tôi. Nghe xong tôi nói: Tất nhiên Cải cách Ruộng đất đem lại ruộng đất cho nông dân, đó là thắng lợi quan trọng của cách mạng, chứng tỏ đường lối lớn của Đảng ta là đúng. Nhưng sai lầm trong cách làm lại quá nghiêm trọng, quá phổ biến, đã ảnh hưởng sâu sắc đến lòng tin của nhân dân và uy tín của Đảng. Những điều các anh trình bầy hôm nay tôi đã được nghe nhiều rồi. Đề nghị các anh về báo cáo lại với anh Trường Chinh rằng anh đã hẹn đích thân gặp tôi những sao không gặp, mà lại phái các anh đến. Cách làm việc như thế tôi không đồng tình đâu!”
“Rồi sau đó, anh Trường Chinh có gặp lại thầy nữa không?”
“Có. Sau đó mình trình bầy thêm với Bác, Bác đã gặp chung cả mình với anh Trường Chinh. Thực ra những sai lầm của Cải cách Ruộng đất không phải như cái kim trong bị lòi đầu ra mà như cái ung nhọt và mủ. Nỗi oan ức trong nhân dân đã quá nặng nề, ‘tiếng oan dậy đất’ đến tai Bác. Trong Hội nghị Trung ương, Bác lắng nghe ý kiến mọi người và khẳng định rằng Cải cách Ruộng đất giải phóng nông dân, xoá bỏ quan hệ bóc lột phong kiến là một thắng lợi căn bản to lớn, nhưng trong việc chỉ đạo thực hiện đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Nhiều đồng chí uỷ viên trung ương phê bình cách làm việc của Bộ Chính trị và Ban Bí thư có chỗ chưa hợp lý nên mới để xảy ra những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức kéo dài đến lúc kết thúc mới được phát hiện. Các đồng chí đề nghị bổ sung ba thành viên Bộ Chính trị và đã bỏ phiếu bầu ba người: anh Nguyễn Duy Trinh, anh Lê Thanh Nghị và tôi vào Bộ Chính trị. Trong tình hình đó, Bác là Chủ tịch Đảng phải kiêm nhiệm chức Tổng Bí thư.”
Sau Hội nghị Trung ương, cha tôi ở lại trong nước một thời gian tham gia việc chỉ đạo sửa sai bước đầu, rồi mới trở sang Bắc Kinh tiếp tục công tác ở Đại sứ quán cho đến năm 1957 mới trở về hẳn trong nước.
Đầu năm 1957, tôi được Trung ương cho sang Mạc Tư Khoa học tập lý luận ở trường Đảng cao cấp Đảng Cộng sản Liên Xô. Mùa hè năm ấy, cha tôi tháp tùng Hồ Chủ tịch đi thăm 9 nước trong “phe xã hội chủ nghĩa”. Đoàn của Bác Hồ dừng lại ở Mạc Tư Khoa, và cha con chúng tôi lại có dịp gặp nhau.
Cho đến lúc này tôi mới biết cha mình được bổ sung vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khi đọc báo Nhân dân đưa tin về danh sách đoàn đại biểu cấp cao Việt nam do Hồ Chủ tịch dẫn dầu đi tham hữu nghị 9 nước.
Cha con gặp nhau ở nhà khách Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ông cười, hỏi tôi:
“Tân còn nhớ bức thư gửi sang Bắc Kinh góp ý với mình về lập trường giai cấp nữa không? Bây giờ Tân được học tập có hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác – Lenin, cần phải chú ý nâng cao lập trường giai cấp. Nhưng lập trường giai cấp không phải là ‘công nông chủ nghĩa’ mà là vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác Lenin vào thực tiễn Việt Nam, lúc nào cũng phải nghĩ đến lợi ích của nhân dân. Sách có câu ‘Hưng lợi, trừ hại’. Ngày nay chúng ta làm cách mạng mà biết quan tâm hưng lợi trừ hại cho nhân dân thì mới là có lập trường giai cấp.”
Câu chuyện về cha tôi phát hiện sai lầm Cải cách Ruộng đất cùng với toàn bộ sự kiện Bác Hồ thừa nhận sai lầm Cải cách Ruộng đất, đối với tôi có ảnh hưởng rất sâu sắc. Từ ngày ấy tôi tâm niệm rằng mình phải độc lập suy nghĩ, phải trung thực từ trong sự suy nghĩ của bản thân mình thì mới tránh được sai lầm, và mới thực sự “dám nghĩ, dám nói, dám làm” như Bác Hồ đã dạy. Tôi coi cha tôi là một tấm gương cho tôi trong việc độc lập suy nghĩ, dám nghĩ, dám nói, đặt lợi ích chung của Đảng, của nhân dân lên trên những tính toán riêng tư cho mình.
Nguồn: Hồi ký Thiên thu định luận của Hoàng Nhật Tân, tác giả tự xuất bản.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 4:52:15 GMT 9
Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng 1951 – “Đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa” 28/09/2010Tác giả: Vũ Tường Lời dẫn: Tư liệu hiếm dưới đây có lẽ chưa bao giờ được công bố. Đó là một bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc vào tháng 3 năm 1951, do một phóng viên của tờ Học tập liên khu 4 ghi lại nguyên văn.[1] Tại Đại hội này, Đảng Lao động Việt Nam ra công khai sau 6 năm nấp dưới tên gọi “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác”. Bài diễn văn thú vị này cho ta thấy Chủ tịch là một nhà cách mạng, một chính trị gia, và một nhà tuyên truyền lão luyện. Một nhà cách mạng có niềm tin ngây thơ nhưng sâu sắc rằng lý thuyết cách mạng của các “ông thầy” của mình có quyền lực vạn năng. Một chính trị gia qua thủ đoạn tâng bốc các “ông anh” (trong khán giả chắc chắn có sứ thần của các “ông anh” gửi đến. “Ông anh” Stalin lờ tịt các bức điện khẩn xin giúp đỡ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945. Mãi đến tháng 1 năm 1950 Chủ tịch phải lặn lội giữa mùa đông băng giá bí mật đến Mạc Tư Khoa và qua sự bảo lãnh của “ông anh” Mao Trạch Đông và có lẽ cả “ông anh” Thorez, thì “ông anh” Stalin mới tiếp đón và công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2] Nhưng ở Đại hội, Chủ tịch vẫn phải khen nức nở chứ không có một lời oán hận). Và cuối cùng, Chủ tịch cho thấy mình là một nhà tuyên truyền lão luyện qua kỹ thuật động viên quần chúng song vẫn khéo léo biến tất cả công lao xương máu của quần chúng thành công lao của chủ thuyết của mình, và qua đó, công lao của mình và đảng mình (vì mình và đảng mình nhập khẩu chủ thuyết ấy từ Âu châu). Phản ứng của quần chúng ở cuối bài nói (hô to “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”) cho thấy kỹ thuật dẫn dắt người nghe của Chủ tịch đã thành công. Vũ Tường, Đại học Oregon —– HỌC TẬP — Nội san Đảng Bộ Liên Khu Bốn (Chỉ lưu hành Trong Nội Bộ) Số 35, Năm thứ tư, Tháng 4 – 1951, trang 1-8 LỜI HỒ CHỦ-TỊCH TRONG ĐẠI HỘI TOÀN ĐẢNG (Sau khi đồng chí Võ-nguyên-Giáp báo cáo xong vấn đề quân sự, Hồ-Chủ-tịch lên diễn đàn, giữa những tràng pháo tay). Hồ-Chủ-tịch nói. Các đồng chí, Vừa nghe báo cáo của đồng chí Giáp, các đồng chí thấy – và trước khi nghe cũng đã thấy – Quân đội ta từ chỗ yếu tiến đến chỗ mạnh, từ chỗ nhỏ tiến đến chỗ to, từ không thắng tiến đến thắng, từ thắng ít đến thắng nhiều, rồi từ thắng nhiều tiến đến thắng lợi hoàn toàn (Đại hội vỗ tay). Đó là vì đâu? Là vì trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa: (Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lãnh tụ: Marx, Engels, Lénine) (Đại hội vỗ tay vang dậy) Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tổng tư lệnh là ông kia kìa. (Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: STALINE) (Đại hội vỗ tay dậy vang và cùng đứng dậy hô lớn) (Đồng chí Staline muôn năm!) Chắc ít người biết mà có lẽ cũng không ai ngờ. Ông ở cách xa đây mấy muôn dặm, mà ông theo rõi cuộc kháng chiến của ta, của Triều-tiên, của Mã-lai và cuộc đấu tranh của các nước Đông-nam Á. Ông cảm động khi nghe kể lại những cử chỉ chiến đấu anh dũng của một chiến sĩ Thổ khi giết giặc lập công như thế nào. Vì vậy có thể nói tuy ông ở xa nhưng tinh thần của ông và hiểu biết của ông ở với chúng ta. (Đại hội vỗ tay dài) Chúng ta lại nhờ có ông anh này: (Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: MAO-TRẠCH-ĐÔNG) – (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn Đồng chí Mao-Trạch-Đông muôn năm!) Ông Mao ở cách đây mấy nghìn dặm. Còn ông Staline thì xa những muôn dặm… Ông theo rõi từng bước cuộc chiến đấu cách mạng của chúng ta. Như lúc quân đội và nhân dân ta giải phóng biên giới, như lúc chúng ta mở chiến dịch Trung-du có thể đêm ông không ngủ mà chờ tin tức… (Đại hội có tiếng tấm tắc) … Có ông thầy, ông anh như thế nên quân đội ta, quân đội Việt-Mên-Lào, từ chỗ nhỏ đến chỗ lớn, từ chỗ yếu đến chỗ mạnh, từ không thắng đến thắng hoàn toàn. Cũng vì chủ nghĩa quốc tế, cũng chủ nghĩa Marx – Engels – Lenine – Staline, mà đến ông anh kia … (Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí Thorez và nói tiếp… là ông THOREZ …) (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đồng chí Thorez muôn năm! Muôn năm!) … Ông lãnh đạo đảng Pháp, đảng đàn anh … vì do được đảng Pháp lãnh đạo, nhân dân lao động ở Pháp kiên quyết bảo vệ hòa bình thế giới, tranh đấu chống chiến tranh thuộc địa, ủng hộ cuộc kháng chiến của chúng ta, chống lại chiến tranh thực dân. Như hôm nọ, tôi đã nói về đồng chí Henri M…,[3] một sĩ quan trong hải quân của thực dân, mà đi phát truyền đơn ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt nam, khuyên thanh niên Pháp và bộ đội Pháp từ chối, phản đối không qua đánh Việt nam. Lại có những công nhân như Raymone Dieu, khi thực dân Pháp chở khí giới từ một ga xe lửa đến bến tàu để rồi đưa qua Việt nam. Cô Raymone nằm ngang ra giữa đường sắt để ngăn chuyến xe ấy. Và do cử chỉ cao xa này mà toàn dân xứ ấy kéo ra chặn cả đoàn xe lại. (Đại hội vỗ tay hoan hô nhiệt liệt và hô lớn: Hoan hô tinh thần của Henri M… và Raymone Dieu!) Đó là nhờ nhân dân lao động Pháp đã thấm nhuần tinh thần Marx – Engels –Lénine – Staline. Chẳng những nhân dân lao động Pháp có rất đông những người như thế, mà vừa rồi đây lại có tin hàng trăm người lãnh đạo công giáo – khai hội nghị chống chiến tranh thực dân ở Việt nam và ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc Việt nam. (Đại hội vỗ tay vang dậy – và đứng dậy hô lớn: Đảng cộng sản Pháp muôn năm! Muôn năm!) Có thể nói cái tinh thần, cái chủ nghĩa của đồng chí Staline đã thấm nhuần vào dân công giáo và đấu tranh giành một phần nào “lời nói” của ông Pope. (Đại hội vỗ tay, ngồi) Vừa đây có một giám mục đứng ra kêu gọi con chiên đấu tranh cho hòa bình. Thì ra, tinh thần của đồng chí Staline đã đi vào địa bàn của giáo hoàng. Đây là ở phương tây. Còn ở phương Đông thì như thế nào? Do chỗ đảng Trung Quốc đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine nên đã áp dụng chủ nghĩa Marx – Lénine thích hợp với hoàn cảnh Trung Quốc. Do chỗ đảng ta đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine, thấm nhuần tinh thần ấy lực lượng ấy, mà làm thấm nhuần đến cả quân đội ta, thấm nhuần đến nhân dân ta. Nếu không thấm nhuần như thế, thì sao lại có bộ đội nhịn đói hơn 4 ngày, vẫn cứ bám lấy giặc mà đánh và đánh thắng giặc! (Đại hội vỗ tay dài) Thì sao có những cử chỉ oanh liệt như ở một trận đánh nọ có chiến sĩ bị thương ở tay nói với người bên cạnh “Cậu chặt tay cho mình cái” vì thấy cánh tay gãy vướng, chặt đi cho dễ đánh, thế rồi lại cứ xung phong? Nếu không thấm nhuần chủ nghĩa Marx – Lénine thì làm sao có được những cử chỉ oanh liệt như thế? (Đại hội vỗ tay) Nếu không có chủ nghĩa Marx – Lénine kinh qua đảng ta thấm nhuần đến nhân dân, thì sao có những chị em phụ nữ Mán, Thổ, Mèo ban ngày thì mưa ướt, đường trơn vẫn hăng hái đi tải đồ cho bộ đội, tối đến đường trơn, ở giữa rừng không có chỗ ngủ, phải dựa lưng vào nhau mà ngồi qua đêm, để sáng sớm lại vui vẻ đi vận tải đồ cho bộ đội? Nếu không có tinh thần Marx – Lénine thấm nhuần qua Đảng ta đến dân ta, thì sao có những cử chỉ cảm động như thế? Đó là những vô danh anh hùng. Dân tộc ta là dân tộc anh hùng. (Đại hội vỗ tay vang dậy) Chẳng những đồng bào ở ngoài, mà ngay đồng bào trong vùng tạm bị chiếm cũng hết sức ủng hộ ta. Tôi vừa nhận được bức thư của một bà ở ngoại thành, một bà hơn năm mươi tuổi, đây tôi đọc để dẫn chứng – (Còn nhiều bức thư khác nữa, nhưng bức thư này vừa tiếp được, tiện đây đưa ra đọc) – Bà có một đứa con chín tuổi, bà nói sự độc ác của bọn giặc Pháp, sự cực khổ của đồng bào trong vùng tạm bị chiếm. Bà viết: “Tôi già sống trong hoàn rất cực khổ, thế nhưng mà tôi luôn luôn mong mỏi, tin tưởng bộ đội ta sẽ tổng phản công để đuổi lũ giặc Tây hung ác, đưa dân chúng đến cảnh tượng hòa bình.” Có một cháu bé 16 tuổi cũng viết thư như thế, kể nỗi khổ cực: “Cháu luôn luôn nhớ Bác, luôn luôn nhớ chính phủ. Dầu cực khổ mấy, lúc nào cháu cũng cố gắng học tập, nghe theo như lời Bác dạy, một lòng trung thành với chính phủ. Cháu cố gắng học tập, để xứng đáng là một đứa cháu của Bác và sau này trở thành người dân xứng đáng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.” (Đại hội vỗ tay dài) Thế là do chủ nghĩa Marx – Lénine đã thấm nhuần qua đảng ta, qua dân ta, nên chúng ta nhất định sẽ thắng lợi. (Đại hội vỗ tay rất lâu) Bây giờ tôi qua điểm khác. Nói đến quân đội ta, quân đội anh dũng Việt-Mên-Lào, chúng ta phải nhớ đến đoạn đầu, những người đầu. Trước hết nhớ đến những chiến sĩ Nam bộ lấy gậy tầm vông đập vào đầu thực dân Pháp. (Đại hội vỗ tay lớn) Đây tôi cũng sung sướng giới thiệu với các đồng chí một du kích viên đầu tiên, khi mới tổ chức đội du kích đầu tiên, chỉ có 12 người: 10 nam 2 nữ. Trong những đồng chí ấy thì đây có Lê quảng Ba (Hồ Chủ tịch nhìn quanh đại hội, và hỏi Lê quảng Ba đâu? Đứng lên nào) (Đồng chí Lê quảng Ba đứng dậy. Cả đại hội hướng về phía đồng chí ấy, vỗ tay hoan hô vang dậy) Và tôi giới thiệu một tư lệnh viên đầu tiên trong thời kỳ du kích Bắc sơn – Chắc các cô, các chú cũng đã biết cả – là chú này … (Hồ Chủ tịch ngoảnh về phía chủ tịch đoàn và chỉ đồng chí Chu văn Tấn hiện đang làm chủ tịch buổi họp) – chú Chu văn Tấn! (Đồng chí Tấn đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy). Từ 12 người ấy mà tiến lên, rồi dần dần thành đội tuyên truyền xung phong, rồi đổi ra là Nam tiến, đổi là Giải phóng quân, đổi ra là Vệ quốc đoàn. Người tổng chỉ huy đầu tiên đội Nam tiến là … (Hồ Chủ tịch chỉ đồng chí Võ nguyên Giáp ngồi ở hàng ghế đầu và nói mạnh rằng: Võ nguyên Giáp đây này! (Đồng chí Giáp đứng dậy. Đại hội vỗ tay hoan hô vang dậy.) Còn những chiến sĩ gậy tầm vông nam bộ ở đây có nhiều! Từ chú du kích viên, rồi đến chú tư lệnh, rồi đến chú Tổng chỉ huy đầu tiên, đều là con của Đảng cả. (Đại hội vỗ tay rất mạnh, rất dài.) Hồi bấy giờ từ 12 đội viên du kích đầu tiên mà bây giờ ta có – có thể nói, Một triệu hai, tính cả dân quân, bộ đội địa phương, bộ đội chính quy. Từ 12 “vawis” (?)[4] (Đại hội cười) bây giờ sinh nở ra một triệu hai trăm ngàn vắt … (Hồ chủ tịch vừa nói vừa gõ tay lên bàn). (Đại hội vỗ tay vang dậy.) (Giữa những tràng vỗ tay tiếng nói của Hồ Chủ tịch nổi bật lên …) Đấy chính là nhờ chủ nghĩa Marx – Lénine. (Đại hội càng vỗ tay nhiệt liệt.) Bây giờ tôi qua điểm thứ ba. Đảng ta, – Nhiêm vụ Đảng ta cũng như nhiệm vụ các đảng đàn anh ta, Đảng Bolchévik, Đảng cộng sản Trung hoa, trong lúc chiến đấu bằng chính trị đã đều chiến đấu bằng quân sự. Như trước kia, trong đại chiến thứ hai – không nói đến thời kỳ cách mạng ở Xô-liên, cũng kháng chiến, kiến quốc như mới đây ở Trung quốc, là đánh Tưởng mà Tưởng do Mỹ giật mũi — , là kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mà cũng là vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Các Đảng đàn anh ta đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất. Ta cũng đề ra kháng chiến đệ nhất, thắng lợi đệ nhất, vì kháng chiến thắng lợi thì các việc khác giải quyết mới dễ dàng. Thế nên, chúng ta nói, kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết. Muốn kháng chiến trên hết, thắng lợi trước hết, chúng ta phải học kinh nghiệm của các Đảng anh em ta. Như chú Hai vừa kể, có lần bên Xô-liên, đảng Bolchévik động viên đến 1/5 số đảng viên, nhưng chú nói còn ít đấy chứ có chỗ động viên đến 50% lúc chiến đấu gay go. Đảng Cộng sản Trung hoa cũng động viên hầu hết các đảng viên vào bộ đội, lúc lên đường vạn lý trường chinh. Đảng ta có bảy, tám mươi vạn. Rồi đây trung ương mới sẽ có chỉ thị về việc này, – Ít ra cũng phải động viên một vạn Đảng viên. Không kể số đảng viên hiện đã ở trong quân đội trực tiếp vào công việc kháng chiến. (Đại hội vỗ tay, hoan hô nhiều lắm) Với chủ nghĩa như thế, với Ông thày, Ông anh như thế, với lòng trung thành và kiên quyết của nhân dân ta, của Đảng ta, nhất định chúng ta thắng lợi. (Hồ Chủ-tịch bước xuống diễn đàn. Đại hội đứng dậy vỗ tay vang dậy và hô lớn nhiều lần: Hồ Chí Minh Muôn năm! Muôn năm!) Bản điện tử © 2010 Vũ Tường Bản điện tử © 2010 talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1] Chúng tôi cũng đánh máy đúng theo nguyên bản, kể cả những chữ in đậm và chữ cái. [2] Xem Ilya Gaiduk, Confronting Vietnam: Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1954-1963 (Washington, DC: Woodrow Wilson Center, 2003). [3] Bản chụp tên bị nhòe. [4] Bản chụp mờ, không nhận ra chữ gì.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 5:29:40 GMT 9
y kien phản hồi Trên trang web báo Nghệ An có ghi lại danh sách những tờ báo của đảng bộ Nghệ An đã được xuất bản trước 1945 như sau: Các tờ báo của Đảng bộ Nghệ An trước 1945: - Báo Nghệ An đỏ (1930) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Tiến Lên (1931) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Chuông Vô sản (1932) do Khu bộ Vinh xuất bản - Báo Tự chỉ trích (1933) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Chuông đánh thức (1933) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Chuông cách mạng (1934) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Vô Sản (1934) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Tự Cứu (1935) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Dân Nghèo (1936) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Chỉ Đạo (1938) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Cởi Ách (1940) do Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản - Báo Kháng dịch (1945) do Việt minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh xuất bản - Báo Truyền Thanh (1940) do Ty thông tin Nghệ An xuất bản - Báo Giữ làng (1950) do Ngành Bộ đội địa phương và Dân quân tự vệ Nghệ An xuất bản - Báo Dân học (1950) do Ty Giáo dục Nghệ An xuất bản - Báo Cứu quốc (1945) do Mặt trận Liên Việt Liên khu Bốn xuất bản - Báo Sự Thật (1947) do Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê Nin liên khu IV xuất bản - Báo Học tập (1948) do Hội cứu quốc Liên khu IV xuất bản - Tạp chí Sáng Tạo (1948) do Đoàn Văn nghệ khang chiến Liên khu IV xuất bản - Tập san Tiền tuyến (1948) do Bộ chỉ huy lực lượng vũ trang Liên khu IV xuất bản. - Tập san Người Thợ mới (1951) do Tổ chức công đoàn vũ khí Liên khu III và IV xuất bản. - Báo Tin Nghệ An (1957) sau đổi tên là Nghệ An, do Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tinh xuất bản. www.baonghean.vn/news_detail.asp?newsid=54237&CatID=21Trong danh sách có ghi: báo Học Tập (1948)do Hội Cứu quốc LK IV xuất bản. Vậy so với ngày tháng ghi trên tờ Học Tập do ông Vũ Tường trích dẫn thì đó chính là tạp chí Học Tập trong danh sách trên: (1948 -> 1951 (năm thứ ba). Về cách thức trình bày báo trong thời kỳ này, trong phần giới thiệu bìa những tờ báo đầu tiên rất tiếc là không thấy có bìa tờ Học Tập, nhưng có hình tờ Sáng Tạo (1948) với chữ Sáng Tạo có cùng “phông” chữ với tờ Học Tập. Bìa tờ Sáng Tạo: www.baonghean.vn/news_detail.asp?newsid=54236&CatID=21Vậy, theo tôi, có thể kết luận là tờ báo do ông Vũ Tường trích dẫn là một tờ báo hoàn toàn “có thật”, không phải là hàng giả. Tờ này trùng tên với tạp chí Học Tập của Đảng Lao Động Việt Nam ấn hành số đầu tiên vào năm 1955. Tạp chí Học Tập (1955):http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=15549113&News_id=15550151 ************** Trần Văn Tích nói: 02/10/2010 lúc 2:47 sáng Kính thưa ông Phan Nhiên Hạo, Tôi xin được phép nói rõ là tôi thắc mắc về tính đích thật, xác thực (authenticité) của bản thân tài liệu chúng ta đang cùng nhau đề cập đến. Nói trắng ra một lần nữa, tôi nghi ngờ có thể ông Vũ Tường đã mua nhầm một tài liệu giả mạo. Khác với nhiều người gửi phản hồi đến talawas, tôi không bận tâm nhiều về nội dung. Vì nội dung dẫu hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, mà chính bản thân tài liệu là của giả thì mọi luận bàn tự dưng trở thành uổng phí. Năm 1951 tôi còn ở “phía bên kia”. Tôi làm thư ký cho Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Quảng Trị, trụ sở đóng tại chiến khu Ba Lòng, vùng Đá Nổi, Phong Nguyên, nơi thượng nguồn sông Thạch Hãn. Các văn thư của Ủy ban gửi đi nếu ít thì đánh máy, nếu nhiều thì in litho (thạch bản). Ủy ban có một anh thanh niên chuyên phụ trách việc ấn loát này. Ảnh dùng một miếng đá mềm và viết chữ lên miếng đá đó với một loài bút riêng. Sau đó ảnh bôi lên “bản vỗ” một hoá chất để nó ăn mòn những chỗ cần ăn mòn, khiến những nét chữ hiện ra trên tấm thạch. Cuối cùng ảnh bôi màu và in ra giấy. Tuyệt nghệ công phu của anh bạn chuyên viên này là khi viết chữ lên tấm thạch, ảnh phải viết ngược, như chúng ta xem trong gương vậy. Nhìn tấm bìa tờ Hoc Tap do ông Vũ Tường gửi lên mạng, tôi có cảm tưởng hai chữ Hoc Tap và dòng chữ cuối trang “CHI LUU HANH TRONG NOI BO” được in theo lối thạch bản, còn các chữ khác thì in bằng máy in công nghiệp thông thường. Tất nhiên những điều kiện ấn loát tuy rằng tương đối thô sơ như thế, cũng chỉ có được ở vùng “giải phóng” Khu Tư tức Thanh Nghệ Tĩnh. Nếu hai chữ Hoc Tap không mang dấu khiến ông tin tưởng hơn thì ngược lại, tôi lại thấy đó có thể là một chiêu thức của cao thủ làm tài liệu giả, nó khiến người mua sắm tài liệu càng dễ rơi vào bẫy hơn. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông là vụ “đóng dấu” không biện biệt được tính chân giả của tài liệu. Nhưng ít nhất, nó cũng chứng minh là có một tài liệu như thế như vầy đang nằm tại chỗ đó chỗ kia. Cùng trong một chiều hướng, tôi từng hy vọng là tài liệu Hoc Tap có mang nhật ấn nhập viện. Xin thử tưởng tượng là nó được đóng triện với hàng chữ “nhập ngày 11.03.1953″ thì có phải là khả năng giả mạo sẽ giảm thiểu đến gần số không không, vì vào thời điểm đó đâu có của giả, của dởm tràn lan như bây giờ? Vì tính chất độc đáo của tài liệu, vì muốn việc sử dụng – và khai thác – tài liệu đoạt được tính tối ưu nếu có thể, nên tôi mới đâm ra suy nghĩ vẩn vơ như vừa hầu chuyện cùng ông. Tuy nhiên tôi e ngại rằng ước nguyện của ông theo đó có người “chứng minh ngược lại” chỉ là một mission impossible. Nhân tiện, kính xin ông vui lòng chuyển giúp lời thăm hỏi của tôi đến ông Vũ Tường cùng với lời khẳng định một lần nữa là tôi không hề có ý xúc phạm ông Vũ trong chuyện Hoc Tap này. Trân trọng kính thư. ***************** Thai Nguyen nói: 02/10/2010 lúc 2:30 sáng Việc ông Vũ Tường sẽ cho chụp tập tư liệu để đăng trên diễn đàn Talawas là điều đáng quý. Xin cảm ơn ông. Đó cũng là điều trước đây ông Nguyễn Quang Duy đã làm khi công bố bài báo “Địa chủ ác ghê” trong đó tác giả C.B. (một bút hiệu khác của ông Hồ Chí Minh) lên án “ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!” với những lời lẽ cực kỳ cay độc. Tôi không nghĩ là ông Vũ Tường ra gặp notary public làm gì, vì bổn phận của họ chỉ là chứng thực người ký tên trước mặt họ là đúng tên với thẻ căn cước đệ trình (bằng lái xe chẳng hạn), chứ họ không thể xác nhận tài liệu là “sao y bản chánh” hay không. Nếu có thể, xin ông Vũ Tường cho biết đã tìm được tài tiệu đó từ đâu. Cùng với ông Trần Văn Tích: Đọc bài “Văn Tế Cá Sấu” hay truyện “Lĩnh Nam Dật Sử”, chúng ta không cần xem bản chính cũng đủ biết đó là tài liệu giả mạo: Chỉ cần xem qua văn phong, ngôn ngữ, và sự kiện lịch sử. Riêng tôi, việc kết tội ông phó bảng Nguyễn Can Mộng là ông cố tình chế tạo bài “Văn Tế Cá Sấu” e hơi chủ quan. Có thể ông ta công bố bài này cũng chỉ vì… mua hay thu lượm được tài liệu giả mà không thẩm định lại rõ ràng. Nếu tôi không lầm, việc lên án Nguyễn Can Mộng là do hai học giả Trần Văn Giáp và Nguyễn Lân chủ xướng sau này. Lý do có thể vì chính trị hoặc tị hiềm cá nhân: Ông Nguyễn Can Mộng cộng tác với chính quyền thực dân và được giao phó những chức vụ lớn trong khi hai vị kia chỉ lên án ông sau khi họ đi theo “cách mạng”. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có khá nhiều tài liệu sai lệch mà trường hợp thơ chữ nôm và chữ hán của Hồ Xuân Hương là một điển hình kể cả tập Lưu Hương Ký mà nhiều học giả lúc trước coi trọng (kể cả việc muốn chiếm đoạt riêng cho mình như ông Đào Thái Tôn đã làm.) Việc ông Vũ Tường cho chụp ảnh tập tư liệu này còn có một điểm quan trong khác ngoài việc thẩm định sự chân thực của tài liệu: Ông cho biết bản chụp có những chỗ “chụp tên bị nhòe” hoặc “Bản chụp mờ, không nhận ra chữ gì.”. Biết đâu độc giả có thể cùng tham gia với ông khôi phục lại nguyên bản các chữ ấy. Chợt nhớ hồi đầu thập niên 1970 ở Sài Gòn ông Đỗ Quang Chính có ra một một sách rất quan trọng và hữu ích là “Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ” trong đó ông cho chụp lại các tài liệu tiếng Việt trong thế kỷ 17 mà ông đã sưu tập ở các thư viện và văn khố Âu Châu. Nhờ vậy, người ta có thể đồng ý với ông là ông Hoàng Xuân Hãn trước đó có một vài chỗ đọc sai tiếng Việt cổ. Và người ta thấy ngay cả chính LM Đỗ Quang Chính cũng vướng mắc một số lầm lạc khi ghi lại theo chữ quốc ngữ ngày nay bản tài liệu quý giá viết tay của ông Bento Thiện. ************************ Phùng Tường Vân nói: 02/10/2010 Tôi thì thấy có hai vấn đề cần biện biệt : 1/Tính chính xác nguồn gốc của tài liệu tức là cái “authenticity” của tờ HOC TAP ấy, điều này tương đối dễ giải quyết và người có thẩm quyền hơn hết chính là ông Vũ Tường, người cho công bố sử liệu hiếm quý ấy. Những ai muốn phản bác, xin hãy đợi vì như ông Phan Nhiên Hạo vừa cho biết, ông Vũ đang chuẩn bị đáp ứng đòi hỏi chính đáng ấy của độc giả . 2/ Một khi tính chính xác của nguồn gốc đã được thiết lập mà vẫn không thuyết phục được những người còn nghi nan, thì gánh nặng dẫn chứng thuộc trách nhiệm của họ. Cũng hệt như thiết lập trách nhiệm hình sự trong tội phạm học trong các pháp chế văn minh : can phạm không có bổn phận phải chứng minh rằng mình vô tội mà chính công tố viên mới phải chứng minh rằng can phạm là người có tội bằng những bằng chứng, nhân chứng không tỳ vết v..v….Tôi kéo sự song song này có thể bị nhiều vị cho là có hơi bị méo mó nghề nghiệp (cũ) chăng, nhưng rõ ràng vấn đề ở đây là, tài liệu đã được công bố, nguồn gốc, niên đại, nội dung…nếu anh bảo rằng anh không tin thì anh phải nói tại sao một cách cụ thể để phủ nhận sự hiện hữu của nó, chớ không thể nói khơi khơi : “không phải giọng văn”, “ổng đâu có hô khẩu hiệu hồi nào…” hoặc quẹo câu chuyện sang những móc máy cá nhân thì tôi thấy là “bấy” lắm !
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 5:33:21 GMT 9
Quanh chuyện cành đào Hồ Chí Minh gởi vào Nam 01/11/2010 Tác giả: Nguyễn Quang Duy
Ông Quách Tòng Đức, Đổng lý Văn phòng Tổng thống Ngô Đình Diệm xác nhận một Tết Nguyên Ðán, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Ðộc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội miền Bắc” (Lâm Lệ Trinh, trang 89). Một số người đã gắn liền câu chuyện cành đào và một vài tin đồn khác để lý luận ông Diệm và ông Nhu đã đi đêm, hoà giải, ve vãn, bắt tay, đầu hàng,… hay mắc lừa phe cộng sản. Đến đánh mất tín nhiệm và hậu thuẫn cuả Hoa Kỳ, để dẫn đến đảo chánh 1-11-1963. Nhiều người khác lại cho rằng miền Nam mất đi một cơ hội hòa bình, trung lập, không cộng sản,…
Gần 50 năm qua, không ít người đã tranh luận về đề tài này. Tháng 3-2003, trên diễn đàn Giao Điểm, nhà sử học Vũ Ngự Chiêu chứng minh việc hai ông Diệm và Nhu ve vãn nhằm bắt tay với Việt cộng. Thì chỉ đến tháng 7, cùng trên diễn đàn, ông Nguyễn Ngọc Giao lại chứng minh điều trên không đúng sự thật. Cần phải nói là cả hai lập luận cùng chủ yếu dựa trên hồi ký của Mieczyslaw Maneli, nguyên Trưởng đoàn Kiểm soát Đình chiến Ba Lan.
Sự mâu thuẫn này không phải chỉ xảy ra riêng với các nhà nghiên cứu gốc Việt. Hầu hết các học giả Tây phương cũng chung hoàn cảnh. Một phần vì nhãn quan mỗi người mỗi khác, Maneli chỉ viết lại công việc của mình, không đề cập đến một số việc chung quanh, sinh ra nhiều câu hỏi để tùy người đọc diễn giải.
Bài viết này dựa trên một số tài liệu mới từ Đảng Cộng sản và từ Bộ Ngoại giao Ba Lan và Liên Sô, cũng như từ phía Việt Nam để làm rõ hơn vấn đề như: Có thật hai ông Diệm – Nhu muốn thương lượng với cộng sản hay không? Chuyện cành đào có thực hay không? Hồ Chí Minh có muốn thương lượng với miền Nam hay không?
Thế giới những năm đầu 1960
Khi đã củng cố được quyền hành, Khrushchev đề xướng một chiến lược mới cho toàn khối cộng sản. Chiến lược này chủ trương chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Theo đó, Liên Sô tập trung vào việc xây dựng kinh tế cho khối cộng sản, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng sản xuất. Thông qua tăng trưởng kinh tế, Liên Sô kỳ vọng đủ khả năng để ủng hộ các nước đang phát triển và ủng hộ các phong trào cộng sản trên toàn thế giới, mở rộng ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản.
Phía Trung cộng không chấp nhận chiến lược trên. Họ cho rằng Liên Sô sợ chiến tranh với Mỹ, sợ bom nguyên tử của Mỹ, đầu hàng đế quốc Mỹ. Theo quan niệm của họ, có chiến tranh cách mạng quốc tế càng mau thắng lợi, càng sớm tiến đến thế giới đại đồng.
Phía Hoa Kỳ, tổng thống Kennedy khi ấy vừa đắc cử đã phải đương đầu với tranh chấp ở Tây Bá Linh (Tây Đức), thất bại trong cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo (Cu Ba), và tính sai trong việc trung lập hoá Lào. Những thất bại liên tục này đã dẫn đến một chiến lược chống cộng thiếu tích cực “vừa dọa vừa đàm”.
Toà thánh Vatican cũng thay đổi chiến lược chấp nhận chung sống hòa bình với những người cộng sản.
Pháp thì muốn tạo lại ảnh hưởng ở các quốc gia cựu thuộc địa, vận động cho giải pháp trung lập hoá Đông Dương. Tranh chấp giữa Liên Sô và Trung cộng càng ngày càng căng thẳng. Bắc Việt càng ngày càng nghiêng về phía Trung cộng, chủ trương sử dụng vũ trang để chiếm miền Nam. Phe Liên Sô đánh giá một Việt Nam trung lập theo đề nghị của Pháp sẽ có lợi hơn một Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung cộng. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)
Ấn Độ khi ấy lại có chiến tranh biên giới với Trung cộng. Theo Hiệp định đình chiến Genève, Ấn Độ và Ba Lan là hai quốc gia trong Phái đoàn Kiểm soát Đình chiến tại Việt Nam. Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai cũng đương kim chủ tịch Phái đoàn.
Theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, vào tháng 1-1963, Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki sang thăm Ấn Độ. Ông đã được Thủ tướng Ấn Jawaharal Nehru và Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai tiếp đón. Trong cuộc gặp, Rapacki bàn đến một giải pháp trung lập hoá cả hai miền Nam Bắc và tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Thủ tướng Ấn Độ Nehru cho biết Hoa Kỳ cũng muốn giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam bằng giải pháp trung lập.
Từ cuộc gặp trên, Rapacki đã tiếp xúc với Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ, ông John Kenneth Galbraith, để tìm giải pháp trung lập Việt Nam. Trong cuộc họp từ ý kiến riêng, ông Galbraith đề nghị trước tiên hai phía cùng tiến hành việc ngừng bắn trong vòng sáu tháng. (G. K. Magaret tài liệu số 1 trang 37). Trong nhật ký công tác ngày 21-1-1963, ông Galbraith xác nhận việc này. Sau đó đã báo về cho Tổng thống Kennedy đề nghị của mình. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)
Như vậy, tám tháng trước ngày hai ông Nhu và Maneli gặp nhau, phía Hoa kỳ và Ba Lan đã thảo luận về một giải pháp cho Việt Nam. Nhưng không biết vì lý do gì, đề nghị cuả Đại sứ Mỹ Galbraith đã không được tiến hành. Cũng như không hiểu giữa Mỹ và Ba Lan sau này còn có các cuộc gặp gỡ khác hay không?
Maneli và các cuộc gặp gỡ hai phía Bắc Nam
Cũng theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, trong trường hợp của Maneli, Ba Lan hoàn toàn không có ý định xen vào nội tình Việt Nam. Thượng cấp Maneli đã chính thức cấm ông ta làm trung gian hay gặp riêng ông Nhu, ngay cả nếu ông bị áp lực từ phía Bắc Việt. Họ chỉ cho phép ông ta thực hiện vai trò giám sát quốc tế. Phía Ba Lan đã thấy được Maneli chỉ là một chuyên viên luật, không kinh nghiệm ngoại giao, thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị, dễ bị vướng những bẫy ngầm làm ảnh hưởng đến phía Ba Lan. (xem G. K. Magaret)
Tuy vậy, Maneli với bản tính tính cực và phấn đấu, công việc giám sát quốc tế thì lại rất nhàm chán, chủ yếu chỉ viết báo cáo, lại tò mò, mới xảy ra câu chuyện gặp gỡ với ông Nhu. Maneli cho biết các Đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Ram Goburdhun (Ấn độ) và Salvatore d’Asta (Tòa thánh Vatican) là những người trực tiếp thúc đẩy việc ông gặp gỡ ông Nhu. Gián tiếp thì có Đại sứ Anh Hohler.
Do những thúc đẩy từ nhiều phía như đã kể, Maneli bay ra Hà Nội để xin ý kiến của phía Liên Sô và được Đại sứ Liên Sô tại Hà Nội đồng ý. Lúc này, Ba Lan đang là một chư hầu của Liên Sô, sự đồng ý của Liên Sô đủ bảo kê cho cuộc gặp gỡ.
Những tài liệu mới phát hiện cũng cho biết Liên Sô không mấy quan tâm đến việc Maneli muốn làm. Có lẽ cả Ba Lan lẫn Liên Sô đều đã rõ khi ấy Bắc Việt đã ngả hẳn về phiá Trung cộng. Liên Sô chấp nhận cuộc gặp chẳng qua chỉ muốn thu thập thêm tin tức của cả hai phía Bắc và Nam Việt.
Vào tháng 5-1963, ngay khi kế hoạch liên lạc với ông Nhu được chuyển cho phía Hà Nội, Maneli đã nhận ngay hồi đáp như sau: “Phạm Văn Đồng xác quyết đề nghị (ngừng bắn và trung lập) của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tuyên bố của chính phủ (VNDCCH) vẫn còn hiệu lực: Chính phủ nhân dân (VNDCCH) đã sẵn sàng bắt tay thương lượng vào bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai.” (M. Maneli, trang 121). Sau đó, trong lần gặp gỡ, Phạm Văn Đồng còn khéo miệng tuyên bố: “Ông Nhu chắc chắn có khả năng suy nghĩ thực tế, vì ông đã tốt nghiệp cao đẳng (lycée) ở Chartres”. Khi Maneli kể lại chuyện này cho Đại sứ Pháp, ông ta đã phải thốt lên “quá thú vị, quá quan trọng.” (M. Maneli, trang 122).
Ngay sau đó Maneli đã gặp, và được Xuân Thủy cho biết: “… đầu tiên là trao đổi văn hóa và buôn bán (gạo đổi than) trước khi bàn đến chuyện chính trị.” (G. K. Magaret tài liệu số 16 trang 59).
Vài ngày sau, Maneli nhận được một lời nhắn của phái đoàn Ba Lan từ Hà Nội: “Các đồng chí Vịêt Nam rất mong tất cả chi tiết liên hệ đến việc thu xếp cho cuộc gặp với Nhu và chi tiết về cuộc gặp gỡ này.” (M. Maneli, trang 123). Trưởng đoàn Kiểm soát Đình chiến Bắc Việt Hà Văn Lâu còn gởi cho Maneli một điện tín: “Các đồng chí lãnh đạo đòi hỏi thông báo ngay tức thì những bước tiếp và mong rằng mọi việc sẽ tiến hành tốt đẹp, trước khi gặp Nhu, đồng chí cần ghé Hà Nội để thảo luận.” (M. Maneli, trang 123).
Đầu tháng 7-1963, Maneli trở lại Hà Nội. Lần này, Maneli được gặp Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thủy và Ung Văn Khiêm. Trong hồi ký, Maneli cho biết: “Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ nên làm gì nếu Ngô Đình Nhu mời tới nói chuyện. Họ trả lời ngay lập tức: nhận gặp và lắng nghe. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói gì (với Nhu). Họ trả lời: ‘Tất cả những gì đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hoá (giữa hai miền). Một điều chắc chắc là: Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể thương lượng bất cứ điều gì’ ”. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính phủ liên hiệp ở miền Nam hay một hình thức liên bang Bắc Nam, Phạm Văn Đồng trả lời: “Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam, mọi điều đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đã đặt ra nền tảng pháp lý và chính trị: không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lãnh thổ đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với bất luận người Việt Nam nào.” (M. Maneli, trang 127-28).
Khi nhận được dấu hiệu khuyến khích từ Đại sứ Liên Sô và biết được sự phấn khởi từ phía Hà Nội, trở vào Sài Gòn, Maneli báo cho Lalouette và d’Asta biết để thu xếp cuộc gặp với Ngô Đình Nhu. Trong cuộc tiếp tân chiều ngày 25-8 của Quyền Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Trương Công Cừu, các ông Lalouette, d’Orlandi, Goburdhun and d’Asta đã giới thiệu Maneli với ông Nhu. Ông Nhu vui vẻ ngỏ lời mời Maneli thu xếp gặp riêng. Ngay ngày hôm sau, văn phòng của ông Nhu đã liên lạc và hẹn cuộc gặp vào sáng ngày 2-9-1963.
Trong cuộc gặp gỡ tại dinh Độc Lập, Maneli cho biết ông Nhu dành cả hai tiếng đồng hồ nói về chủ nghĩa cần lao nhân vị, chính sách ấp chiến lược, thành quả của Việt Nam Cộng hoà v.v… Riêng về vấn đề hiệp thương giữa hai miền Nam-Bắc, Maneli cho biết ông Nhu chỉ có ý như sau: “…Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đã đề nghị với tôi. Ngay trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu có bắt đầu đối thoại trực tiếp, thì có thể tiến tới xích lại gần. Và Ủy hội quốc tế – cũng như bản thân ông – sẽ đóng vai trò tích cực ở đây… Trong tương lai gần, tôi không dự liệu điều gì dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có thể sẽ hé ra khả năng…” (M. Maneli, trang 146) Như vậy ông Nhu chưa có một ý để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo cộng sản Bắc Việt.
Ngay sau cuộc họp, Maneli đã báo cáo về Ba Lan với kết luận như sau “Những tuyên bố thiếu vững chắc của ông Nhu chính là kết qủa của sự bất ổn và kỳ vọng cây cầu với người Mỹ vẫn chưa bị đốt cháy”. (Magaret K. G. tài liệu số 21, trang 67)
Phần vì tò mò, phần vì muốn thâu nhặt tin tức, Maneli đã đặt câu hỏi về mối liên lạc hay đàm phán trực tiếp giữa hai miền Nam-Bắc với ba ông Nhu, Thủy và Đồng. Xuân Thủy vừa giỡn vừa trả lời: “Có phải ông thực sự tưởng tượng rằng chúng tôi thương lượng hay đồng ý với ông Nhu?” (M.K. Gnoinska, trang 147) Ông Nhu và ông Đồng thì cho biết đây chỉ là những lời đồn đại: “Ông Nhu hỏi lại, có phải ông đã chịu thua dư luận? đó chỉ là chuyện đùa” (Maneli, trang 147) và ông Đồng có cùng chung phản ứng đã hỏi lại “Có phải đồng chí đã tin vào những câu chuyện như vậy hay không?” (Maneli, trang 147) Sau 1/11/1963, Phạm Văn Đồng giải thích cho Maneli các nguồn tin từ tướng đảo chánh về các cuộc đàm phán Bắc Nam như sau: “Đó chỉ là giả dối, phe đảo chánh thông báo tin này chỉ để giải thích lý do phản lại Diệm”. (G. K. Magaret tài liệu số 21, trang 67)
Ngay chiều hôm đó, ông Nhu đã tiếp Đại sứ Hoa kỳ Lodge, Đại sứ Ý d’Orlandi và Khâm sứ tòa thánh Vatican d’Asta. Ông Nhu cho biết về cuộc gặp gỡ với Maneli vào ban sáng. Ông Nhu nói Maneli đã yêu cầu ông chú ý đến tuyên bố của De Gaulle và Hồ Chí Minh về giải pháp trung lập Việt Nam và tiến hành tổng tuyển cử, rồi hỏi ông Nhu muốn chuyển lời gì cho Phạm Văn Đồng. Ông Nhu trả lời “Chẳng có gì cả.”
Không một dấu hiệu nào cho thấy ông Nhu muốn tiếp tục quan hệ với Maneli trong vai trò “đi đêm” với Hà Nội. Cuộc gặp gỡ tại Dinh Độc lập cho thấy ông Nhu chỉ muốn chứng minh với Hoa Kỳ rằng nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ông ta có khả năng thương lượng trực tiếp với Bắc Việt. Không như ông tính, đây lại chính là bằng chứng duy nhất để phía Hoa Kỳ lập luận ông Nhu muốn thay đổi chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ.
Ngược lại, phía Bắc Việt lại rất mong Maneli đứng ra làm trung gian. Trước khi xem xét về phía Bắc Việt thật giả ra sao, người viết sẽ phân tích một vài tin đồn khác có liên quan.
Chuyện đồn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng
Ông Cao Văn Vỹ cho biết, trong một chuyến đi săn với ông Nhu và trung tá Bường (tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận) tại khu rừng Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, ông Nhu đã bí mật tiếp xúc với hai người. Ông Vỹ và trung tá Bường cả hai đều không được tham dự buổi họp. Họ chỉ quan sát từ phía ngoài, ông Vỹ chỉ biết ông Nhu ngồi trong lều săn nói chuyện với hai người, nhưng không biết là ai, vì lúc đó là ban đêm. Theo ông, có lẽ trung tá Bường biết vì chịu trách nhiệm an ninh và tổ chức cuộc gặp gỡ. (Vĩnh Phúc, trang 336)
Ông Quách Tòng Đức cho biết: “Chính ông Nhu có nhắc đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khóa 13.” (Lâm Lệ Trinh trang 98.) Ông Trần văn Đôn tìm hiểu và biết rõ nhân vật ông Nhu gặp trong rừng Tánh Linh chính là Phạm Hùng. (Trần văn Đôn trang 183)
Thực ra vào năm 1963, Phạm Hùng là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam, phó thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Do đó, ông hoạt động tại miền Bắc. Trong khi ấy, người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh. Năm 1964, tướng Cộng sản Nguyễn Chí Thanh lên thay. Tháng 7 năm 1967, tướng Thanh trên đường về Bắc nhận chỉ thị tổng tấn công Mậu Thân bị bom chết dọc đường. Phía cộng sản đưa tin ông Thanh đột ngột qua đời ở Hà Nội do bị đau tim. Tháng 10 năm 1967, Phạm Hùng mới vào Nam thay thế tướng Thanh. Phạm Hùng thuộc phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chủ chiến không chấp nhận thương thuyết với miền Nam. Tin đồn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng được cựu đại sứ William Colby ghi trong hồi ký của ông. Colby còn cẩn thận ghi thêm “Giai thoại này có thể là chuyện bịa.” (xem Nguyễn Ngọc Giao)
Chiếu theo bản tóm lược về Mục tiêu của Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Hội đồng An ninh Quốc gia, tháng 9 năm 1963, nhiệm vụ cuả các nhân viên Hoa Kỳ là phải: “… Ngụy tạo những tài liệu liên kết Nhu với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Hà Nội) làm cho Nhu mất tín nhiệm với các tướng lãnh…” (Phạm Văn Lưu, trang 246). Ở thời điểm này, ông William Colby đang làm vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Cơ quan Tình báo Hoa Kỳ (CIA). Câu chuyện biết đâu lại do chính Colby bịa rồi cho CIA tung ra trước ngày đảo chánh.
Sau hơn 35 năm, cộng đồng người Việt hải ngoại vẫn không chấp nhận mọi liên lạc với nhà cầm quyền cộng sản. Người miền Nam lúc ấy so ra chỉ chưa đầy 9 năm thoát khỏi Việt Minh. Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có liên lạc với cộng sản. Hiểu được như vậy, mới thấy Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ quá sức thâm độc khi đề ra nhiệm vụ nói trên. Đây chính là ngòi nổ cho cuộc đảo chính 1/11/1963 và dẫn đến sự hy sinh của anh em ông Diệm.
Trở lại câu chuyện ở rừng Tánh Linh, không thấy ông Vỹ nhắc đến việc bảo vệ ở phía bên kia, như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ vòng ngoài. Một cuộc họp như vậy, chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng một phía và phải hết sức tin tưởng nhau. Như vậy có thể hai người được ông Nhu gặp là gián điệp Quốc gia về trực tiếp báo cáo tình hình với ông Nhu.
Chuyện đồn từ những người đi từ miền Bắc
Ông Trần Hùng Văn một nhà báo đi từ miền Bắc cho biết ông Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an Bắc Việt, được lệnh vào Nam để thu xếp cuộc gặp giữa hai ông Ngô đình Nhu và Phạm Hùng. (Vĩnh Phúc, trang 339-340) Nguyễn Tài sau khi vào Nam bị quân đội Quốc gia bắt. Sau năm 1975 ông lại bị Lê Đức Thọ giam lỏng để điều tra.
Ông Tài có viết hồi ký cho biết Lê Đức Thọ từng nói thẳng với ông bị bắt sao không chịu chết đi. Xuyên suốt hồi ký, hình như Nguyễn Tài vẫn thắc mắc không biết tại sao Lê Đức Thọ lại đối xử quá nghiệt với mình (một đồng chí trung kiên) như vậy. Câu trả lời có thể là chính Lê Đức Thọ tung tin Nguyễn Tài làm trung gian giữa hai ông Nhu và Phạm Hùng. Lê Đức Thọ không ngờ ông Tài còn sống để cho chúng ta biết rằng ông đã được điều động vào Nam năm 1964. Khi ấy ông Nhu đã về đất Chúa.
Liên lạc để kêu gọi chiêu hồi
Tháng 4-1963, Việt Nam Cộng hoà ban hành chính sách chiêu hồi. Ông Nhu cũng nhiều lần xác nhận có liên lạc với Việt cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. (Chính Đạo, trang 309)
Ông Nguyễn Văn Chức, một nhân sỹ tại Canberra, đã kể cho người viết và rất nhiều đồng hương câu chuyện Mặt trận Giải phóng miền Nam đã có ý định xin hàng. Ông Chức trước đây ngoài làm cho Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, ông còn dịch và thẩm định những tài liệu của cộng sản. Ông Chức cho biết sau biến cố Mậu Thân, trong một trận phục kích, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bắn chết 1 cán bộ, 2 giao liên và thâu được một tài liệu quan trọng. Theo tài liệu này, một số cán bộ cao cấp của Mặt trận Giải phóng miền Nam đã họp bàn với ý định mang toàn thể Mặt trận Giải phóng miền Nam ra hàng. Nhiệm vụ của người cán bộ bị phục kích là mang tài liệu nói trên đến một số cán bộ cao cấp khác cũng có ý định ra hàng. Cơ quan tình báo Hoa Kỳ cho dịch tài liệu này ra Anh ngữ. Ông Chức được giao trách nhiệm thẩm định tài liệu. Ông Chức đã kết luận đây là một tài liệu thực, nhưng không biết Hoa kỳ có sử dụng tài liệu này hay không?
Xem chủ trương của Hồ Chí Minh về Mặt trận Giải phóng miền Nam: “Mình phải đưa Mặt trận Dân tộc Giải Phóng ra. Phải chú ý đến bọn leo nheo, theo đóm ăn tàn…” (HCM, BNTS, tập 8, trang 368) Rồi mới thấy ông Nhu đã nhìn ra tổ chức này để đề ra chính sách Hồi chánh. Đến năm 1974, sau 10 năm chính sách Hồi chánh được ban hành, đã có trên 200.000 hồi chánh viên. Nhiều đơn vị cộng sản cấp đại đội, tiểu đoàn đã ra hồi chánh tập thể. Hồi chánh là một chính sách nhân đạo và thành công nhất của chính quyền Quốc gia, nhưng lại ít hay không được giới sử gia để ý tới.
Sau 1968, Bắc Việt đã công khai điều động chiến tranh xâm lược miền Nam. Năm 1975, họ cho quân chính quy trực tiếp vượt vĩ tuyến 17, đánh chiếm miền Nam, rồi vội vàng giải thể Mặt trận Giải phóng miền Nam. Nhiều cán bộ Mặt trận cao cấp đã bị bắt, bị quản thúc hay phải trốn tránh ra hải ngoại. Hà Nội phải mang cả một guồng máy cầm quyền từ miền Bắc vào áp đặt lên miền Nam. Hy vọng tài liệu về Mặt trận Giải phóng miền Nam xin hàng sẽ được tìm thấy trong núi hồ sơ của CIA để chúng ta hiểu rõ hơn về tổ chức này.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 5:34:10 GMT 9
Hoa kỳ quyết định đảo chánh ngày 24-8-1963 Song song với việc bổ nhiệm Đại sứ Henry Cabot Lodge, phe chủ chiến Hoa kỳ M – W. Averell Harriman, Roger Hilsman, Ball, Getsinger và V. Forrestal, đã đồng ký một công điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation immediate). Đô đốc Harry Felt, Tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã góp ý kiến vào việc soạn công điện này. Công điện đã được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24-8-1993. Công điện ghi rõ: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể để cho Nhu nắm quyền hành trong tay. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể tìm được. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và đối kháng, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại.” (Nguyễn kỳ Phong, hình công điện bìa sau sách) Như vậy, việc lật đổ Chính phủ Ngô đình Diệm đã được quyết định trước ngày Maneli gặp ông Nhu. Tất cả những tin đồn, tin chính thức, báo cáo chỉ được dựng lên hay thêm bớt nhằm thực hiện chỉ thị trên. Tranh chấp giữa hai phe lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt Từ những năm đầu 1950, Trung cộng đã trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo cuộc chỉnh huấn (một hình thức thanh trừng nội bộ) và cuộc cải cách ruộng đất. Mao Trạch Đông không hề che giấu ý đồ dùng Đông Dương làm bàn đạp và Đảng Cộng sản Việt Nam làm công cụ để bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Do đó, không lạ gì khi thành phần công khai thân Trung cộng như Lê Duẩn (bí thư), Lê Đức Thọ (tổ chức Đảng), Trần Quốc Hoàn (công an), Nguyễn Chí Thanh (quân đội),… nắm đa số lãnh đạo miền Bắc. Phe thân Nga chỉ là thiểu số, họ lại còn bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam. Về mặt chìm, phe thân Trung cộng luôn luôn thắng thế, như Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất đất nước. Hay Nghị quyết 49/NQ/TVQH, được Quốc hội Cộng sản ban hành ngày 20-6-1961, cho phép bắt giam công dân 3 năm không cần thủ tục tố tụng. Chiếu theo Nghị quyết này, hàng trăm, cán bộ lãnh đạo thân Liên Sô sau này đã bị bắt giam không cần xét xử và nhiều người đã chết trong tù. Qua báo Nhân Dân, có thể thấy nhiều xung đột xảy ra công khai giữa hai phe nhóm kể trên. Qua những tài liệu có được, việc nghiên cứu quá trình xung đột giữa hai nhóm này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về giai đọan lịch sử này. Ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Sô), Hồ Chí Minh chính thức xác nhận bản chất đánh thuê của tập đoàn cộng sản Bắc Việt, (tự ví là “bộ đội biên phòng”): “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (HCMTT, tập 8, trang 258) Tháng 11-1960, Hồ Chí Minh tham dự “Đại hội Mạc Tư Khoa”, đồng ý ký vào Tuyên bố chung, đồng thuận với chiến lược thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau do Liên Sô đề xướng. Ngày 2-10-1961, dự phiên họp Bộ Chính trị, Hồ Chí Minh giải thích lý do theo Liên Sô như sau: “… Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng. Trước nó nói “Bắc tiến”, nay nó nói “Nam trị”, nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu Bắc Tiến. Nó sợ mình đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta, chính trị mạnh nhưng quân sự yếu. Nếu lấy sức độ sức để tiêu hao thì không lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi bảo vệ cơ sở, phong trào dân sẽ lên…” (HCM, BNTS, tập 8, trang 150) Chủ trương này được các phe nhóm trong Đảng Lao động chấp nhận cho đến khoảng đầu năm 1963. Ngày 1-1-1962, trên báo Nhân Dân có đăng “Lời chúc tết đồng bào cả nước”, trong đó Hồ Chí Minh nhận xét, “… lực lượng xã hội chủ nghĩa hơn hẳn lực lượng đế quốc, lực lượng hoà bình hơn hẳn lực lượng chiến tranh.” Và công khai đề nghị: “Chúng ta luôn luôn chủ trương rằng: Thống nhất Việt Nam là sự kiện thiêng liêng cuả toàn dân Việt Nam. Đại diện của hai miền có thể gặp nhau, cùng nhau bàn bạc, tìm con đường tốt nhất để hoà bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định.” (HCMTT, tập 9, trang 272) Ngày 28-3-1962, để trả lời phóng viên báo Tin Nhanh Hàng Ngày ở Luân Đôn (bài này đã được đăng trên báo Nhân Dân), Hồ Chí Minh thống thiết kêu gọi: “Chính phủ nước VNDCCH đã nhiều lần đề nghị với chính quyền miền Nam, hai bên phái đại diện gặp nhau để bàn bạc cách giải quyết theo phương pháp hòa bình, và vưà rồi, trong bản Tuyên bố ngày 18-2-1962, chính phủ nước VNDCCH lại một lần nữa yêu cầu hai chủ tịch và các nước tham gia Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương nghiên cứu gấp những biện pháp có hiệu quả để chấm dứt cuộc vũ trang xâm lược của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhằm bảo vệ hòa bình cuả Đông Dương và Đông Nam Á. Việc miền Nam theo chế độ trung lập hay một chế độ nào khác là do nhân dân miền Nam quyết định… Chính phủ nước VNDCCH đã từng đề nghị (Công hàm ngày 22-12-1958) với chính quyền miền Nam bình thường hoá quan hệ giữa hai miền về mặt kinh tế và văn hóa, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền, v.v…” (HCMTT, tập 9, trang 319-320) Ngày 22-7-1962, trả lời phóng viên báo Tin Tức và Sự Thật Thanh Niên (Liên Sô) về đường lối và biện pháp, Hồ tuyên bố: “Chúng tôi luôn luôn chủ trương thống nhất tổ quốc bằng đường lối hòa bình, luôn luôn đòi phải thực hiện đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vờ, đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 267) Ngày 6-11-1962, kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng 10 Liên Sô, Hồ đã gởi điện tới Bí thư Đảng Cộng sản Liên Sô trong đó nhấn mạnh: “Từ ngày thành lập Liên Sô luôn luôn thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và kiên trì đấu tranh cho chính sách chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.” (HCM, BNTS, tập 8, trang 317) Ngày 22-1-1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội. Ngày 26-1, Hồ Chí Minh và Novotny đã ký một Tuyên bố Chung phản ánh quan điểm của Liên Sô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.” Ngay sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai phe trong Đảng Lao động căng thẳng hơn. Ngày 17-2-1963, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, Hồ Chí Minh đã phải yêu cầu “đoàn kết nhất trí trong đảng” trước tình hình hiện nay. Về vấn đề trung lập, Hồ đã phải giải thích như sau: “Mỹ bối rối, mình đề xướng trung lập. Đó là thắng lợi của mình. Nói hai bên đình chiến, mình không đánh, đình chiến gì?” (HCM, BNTS, tập 8, trang 367) Kết quả, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm vì đã soạn thảo Tuyên bố Chung và bị thay bằng Xuân Thủy. Nguyễn Văn Trấn cho biết Hồ Chí Minh đã đọc và sửa lại bản nháp của bản Tuyên bố nhưng làm ngơ, tránh trách nhiệm (NVT, trang 328). Đây là lần đầu Hồ Chí Minh bán phe thân Liên Sô để nhập vào hàng ngũ thân Trung cộng. Nhờ đó mới dẫn đến thắng thế đầu tiên của phe chủ chiến chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5-1963 của Chủ tịch Trung cộng, Lưu Thiếu Kỳ. Chuyến thăm này đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung cộng. Hồ và Lưu Thiếu Kỳ ký một Tuyên bố Chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào Cộng sản Quốc tế. Trong vòng chưa đầy 4 tháng, hai Tuyên bố Chung phản ảnh hai quan điểm trái ngược, Hồ đã chuyển hẳn từ nhóm thân Nga sang nhóm thân Tàu. Cần nhắc lại vào tháng 7, Maneli gặp Phạm Văn Đồng và Xuân Thủy có cả sự hiện diện của Hồ Chí Minh. Theo Hồi ký của Maneli, Hồ chỉ lắng nghe hai phía và không có ý kiến gì. Trong khi Maneli gặp ông Nhu thì Hồ Chí Minh đang nghỉ mát tại Quảng Đông, Trung Quốc. Hồ họp riêng với Thủ tướng Trung cộng Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!” (HCM, BNTS, tập 8, trang 457) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra, nhằm biểu lộ chủ trương hiếu chiến và lòng trung thành cuả Hồ với Mao. Cùng lúc ấy, một bài báo của Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong bài, nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng. Bài báo là một bước trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 tiến hành vào tháng 11 cùng năm. Ngày 20-10-1963, Hồ Chí Minh tiếp đoàn Đại biểu Viện Kiểm soát Tối cao Liên Sô do ông R.A.Rutencô làm trưởng đoàn. Hồ tuyên bố: “Để hoà bình giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là: Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, vấn đề miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự gỉai quyết lấy, như hiệp định Giơnevơ đã quy định”. (HCM, BNTS, trang 471) Tuyên bố này được đăng báo Nhân Dân 24-10-1993, như vậy Hồ đã chính thức từ bỏ chủ trương chung sống hoà bình cuả Liên Sô. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam. Bùi Công Trừng kể lại cho Nguyễn Văn Trấn như sau: “Cái thằng Lê Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong phòng, như thể đội trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị… Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn: ‘Bác hãy để cho anh em nói mà’…” (NVT, trang 328) Phe thân Liên Sô chưa biết họ đã bị Hồ Chí Minh bán sống nên Lê Đức Thọ mới dám lộng quyền như trên. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 9, nhóm Lê Duẩn tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của Lê Đức Thọ, được đăng trên báo Nhân Dân, đã thừa nhận một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm… những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn – Lê Đức Thọ trong Hội nghị 9. Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9. Tại hội trường Ba Đình, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng sản và nhà nước Trung Quốc.” (Nguyễn Minh Cần, trang 129) Chiến lược kinh tế của Liên Sô cũng hoàn toàn thất bại ở miền Bắc Việt Nam. Qua tuyên truyền trên báo chí, miền Bắc luôn luôn đạt kế hoạch đảng giao. Qua biên bản Hội nghị Bộ Chính trị và qua lời Hồ Chí Minh thực tế khác xa: “Từ ngày hòa bình lập lại năm nào cũng thấy có thuận lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. Tình hình mỗi ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá.” (HCMBNTS, tập 8, trang 272). Sau 1975, sự nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất được giải thích là để miền Bắc tập trung giải phóng miền Nam. Chẳng qua chiến tranh chỉ là cái cớ để Đảng Cộng sản che giấu thất bại về xây dựng kinh tế. Trở lại chuyện cành đào Ông Cao Xuân Vỹ cũng nhớ là vào tết nguyên đán năm 1963, Hồ Chí Minh đã nhờ Đại sứ Ấn Độ trong Ủy hội Kiểm soát Quốc tế Ðình chiến chuyển tết ông Diệm một cành đào. Tổng thống Ngô đình Diệm chỉ biết khi món quà xuân đã về đến Dinh Độc Lập. Ông Diệm cho lệnh mở ra thấy có cành đào, một tấm thiệp chúc tết đề đại khái “Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kính tặng, chúc tết Tổng thống Việt Nam Cộng hoà” và một lá thơ ông Hồ gởi cho ông Diệm. (Vĩnh Phúc, trang 336) Trên báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris, vào năm 1981, có phổ biến “Bức chúc thư của Hồ Chí Minh” trong đó có đoạn: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên Ủy hội Kiểm soát Quốc tế Ðình chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam .” Rất nhiều người tin đây là chúc thư thật với thủ bút cuả Hồ Chí Minh. Bài viết này không đánh giá bức chúc thư là thật hay giả. Nhân vật Hồ Chí Minh đã tự viết sách tự ca ngợi là cha già dân tộc thì còn việc gì không dám làm. Nếu là thật, Hồ Chí Minh nên dành nỗi thương tiếc “cụ Ngô” cho hằng trăm “đồng chí” tin Hồ và thân Liên Sô đã bị Hồ bỏ rơi chết trong tù hay trong đọa đày lao khổ. Kết Qua bài có thể thấy câu chuyện hai ông Diệm và Nhu muốn thương lượng với miền Bắc chỉ là một thế cờ (dọa Mỹ) tính sai nước. Người Mỹ đã phản phé nước cờ một cách tàn nhẫn lấy lý do trên. Ngược lại trong cuộc hội thảo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức vào cuối tháng 9/2010 vừa qua, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lần đầu tiên thú nhận “… Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam là do chính người Mỹ làm ra,… Nước Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng.” Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam sau khi ông Diệm đã chết cũng chỉ muốn thảo hiệp trong thế mạnh nào ngờ đã sa lầy tại Việt Nam. Trong khi đó, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản công khai chấp nhận làm “tiền đồn” đánh thuê cho phe cộng sản và xung đột để chọn giữa hai ông chủ Liên Sô và Trung cộng. Cả hai phe đều chủ trương thống nhất Việt Nam. Phe Liên Sô, muốn dùng giải pháp chính trị thương lượng với miền Nam. Nếu bắt tay được với miền Nam là một thắng lợi lớn của phe này. Phe Trung Quốc thì chủ trương đánh để giải phóng miền Nam và thực hiện chiến lược bành trướng phong trào cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Cuối bài, xin dùng một hình ảnh dễ nhớ làm kết luận. Ở miền Nam, anh em ông Ngô Đình Diệm bị người Mỹ trói tay chỉ biết la làng. Từ miền Bắc, Hồ Chí Minh một tay đưa tặng cành đào, tay khác giấu đằng sau con dao nhọn. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thì đằng đằng sát khí “cầm gươm ôm súng xông tới” vượt sang miền Nam. Ông chủ Liên Sô, Khrushchev, buồn rầu không biết sao giúp đàn em. Ông chủ Trung cộng, Mao Trạch Đông cười toe toét miệng la lớn “hẩu hẩu” khen thưởng đàn em. Hình ảnh trên cũng bộc lộ toàn bộ cuộc chiến Bắc – Nam 1954-75. Tài liệu tham khảo và trích dẫn Chánh Đạo, 2004, Cuộc thánh chiến chống cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, 1996, Tập 8, Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh toàn tập, 1989, Tập 8 và Tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội. Gnoinska K. Magaret, 2005, Poland and Vietnam , 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the “Maneli Affair”, Working Paper No 45, Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar. Lâm Lệ Trinh, 2006, Về nguồn sinh lộ cho quê hương, Thủy Hoa Trang, California, Hoa Kỳ. Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished, translated from the Polish by Maria de Gorgey, Harper & Row, New York, 1971. Nguyễn Ngọc Giao, “1963: Tìm hiểu cuộc ‘đi đêm’ giữa Sài Gòn và Hà Nội”, Diễn Đàn số 131 tháng 7.2003. Nguyễn Minh Cần, 2001, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Quốc tế Cộng sản, Tuổi Xanh xuất bản. Nguyễn Tài, Khúc khuỷu đường đời – Mười một năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thừa nhận, talawas, 28.11.2005 – 13.12.2005. Nguyễn Kỳ Phong, 2006, Vũng lầy Bạch Ốc: Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam 1945-1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ. Nguyễn Văn Trấn, 1995, Viết cho Mẹ Việt Nam, Văn Nghệ, Hoa Kỳ. Phạm Văn Lưu, 1994, Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại: Ngô Đình Diệm và bang giao Việt Mỹ 1945-1963, Centre for Vietnamse Studies. Vĩnh Phúc, 1998, Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ. Vũ Ngự Chiêu, “Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng hoà”, Diễn Đàn số 127 tháng 3.2003. Melbourne, Úc Đại Lợi 29/10/2010 © 2010 Nguyễn Quang Duy ************** Y Kien Thac Mac ve bai viet : Một số logic hơi quái đản làm tôi không hiểu - “không thấy ông Vỹ nhắc đến việc bảo vệ ở phía bên kia” -> “như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ vòng ngoài” -> “chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng một phía và phải hết sức tin tưởng nhau”. Câu hỏi đặt ra là ô Vỹ có biết chắc chắn bên kia không có bảo vệ, hay thật ra ô Vỹ không nhìn thấy bảo vệ của bên kia . - Có 3 người (Cao Văn Vỹ, Quách Tòng Đức và Trần Văn Đôn) chứng thực cho cuộc họp qua từng cấp độ, và ô Đôn tìm hiểu ra là Phạm Hùng & “Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có liên lạc với cộng sản”, nhưng theo tác giả, đây là tin đồn! Và đây là lý do để tác giả kết luận: “năm 1963, Phạm Hùng là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam, phó thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Do đó, ông hoạt động tại miền Bắc” WTF! Lý luận kiểu đó thì Lê Đức Thọ không thể có mặt tại Paris để gặp Kissinger mặc dù hình chụp đăng báo cả đống. Muốn nữa không, tôi chỉ ra thêm.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 5:50:04 GMT 9
Vua mặc áo Tàu, quân mặc váy Tây, và Bác Hồ mặc áo bác Mao30/09/2010 Tác giả: Phùng Tân Côi Trong bài trước tôi đã có dịp nói về việc “vua mặc áo Tàu, quân mặc váy Tây“, nhân chuyện y phục của triều Lý qua bộ phim Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long. Hôm nay xin nói về y phục của triều Hồ, tức triều cộng sản do ông Hồ Chí Minh khai sinh, phòng trường hợp vài chục năm nữa có ai làm phim Hồ Chí Minh – Đường tới Ba Đình. Đôi dép Bác Hồ, biểu tượng của thời trang cộng sản Việt Nam Nói chung các lãnh tụ cộng sản không đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực thời trang. Gu thời trang của họ có phần cổ hủ, bảo thủ, xơ cứng, hay nói đúng ra là họ không có gu. Phong trào cộng sản quốc tế không có quy chế y phục nào áp dụng chung cho giới lãnh đạo. Ai thích gì thì mặc nấy. Giày dép, mũ miện đều tùy chọn, đôi khi khá xuề xòa, tùy tiện, có lẽ để gần gũi hơn với giai cấp công nhân. Lãnh tụ công nhân mà ăn mặc như đại quý tộc hay đại tư sản thì khó tuyên truyền cho chính nghĩa cộng sản. Lenin thích mũ lưỡi trai công nhân, Mao cũng thích mũ lưỡi trai, nhưng đến Khrushchev thì thích mũ phớt. Stalin dận giày cao cổ, Chu Ân Lai diện giày da, Fidel Castro ưa bốt nhà binh, còn Hồ Chí Minh thì nổi tiếng với đôi dép cao su, còn được gọi là “đôi dép Bác Hồ”… Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong áo sơ mi cộc tay Tuy nhiên, thời trang vẫn để lại dấu ấn của nó. Ngày nay, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam thường xuất hiện trong bộ com-lê, không khác mấy so với giới lãnh đạo các nước tư bản. Ngoài ra, họ cũng rất chuộng áo sơ mi cộc tay kiểu Nguyễn Văn Linh – Võ Văn Kiệt, những người xuất thân từ miền Nam và hoạt động chính tại miền Nam với khí hậu nóng, nhưng vào buổi mở đầu triều Hồ thì khác. Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946 Hồ Chủ tịch được tiếng là người ăn mặc giản dị, chỉ có hai bộ quần áo kaki dùng khi tiếp khác, còn ở nhà thì mặc bộ bà ba. Hai bộ quần áo kaki đó trông như thế nào? Trong bức hình chụp Chính phủ Liên hiệp Lâm thời VNDCCH đầu năm 1946, ông Hồ là Chủ tịch chính phủ đứng giữa, nổi bật trong bộ trang phục khác hẳn những người còn lại, người thì vận Âu phục, kẻ thì đóng quốc phục truyền thống. Bộ đồ này chỉ một thời gian sau đã trở thành mốt phổ biến trong hàng ngũ lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Đó là bộ đồ gồm chiếc quần cùng màu và cùng chất vải với chiếc áo đại cán bốn túi, nửa dân sự nửa quân sự, cổ đứng hoặc cổ bẻ, may sát người hoặc may rộng, khuy thưa hay khuy dày, túi to hay túi nhỏ… tùy sở thích. Tôn Dật Tiên và vợ Nguồn gốc của nó là bộ quốc phục mới, do Chủ tịch lâm thời Trung Hoa Dân quốc Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) chỉ đạo thiết kế cho nước Trung Hoa mới sau Cách mạng Tân Hợi. Năm 1923, Quốc dân Đảng cầm quyền chính thức quy định đây là trang phục bắt buộc đối với viên chức nhà nước Trung Hoa. Từng là ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng trong thời Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông cũng mặc bộ đồ này. Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu trang phục này, khi giành chính quyền từ tay Quốc dân Đảng. Mao Trạch Đông mặc bộ đồ này trong buổi lễ tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 01/10/1949 và suốt đời ông không thay đổi cách trang phục. Từ đó, bộ đại cán 4 túi đi vào lịch sử trang phục thế giới với tên gọi “bộ đồ Mao”. Mao Trạch Đông tuyên bố sự ra đời của nước CHND Trung Hoa ngày 1/10/1949 Mao Trạch Đông và Giang Thanh Trang phục của nhân dân Trung Hoa dưới thời Mao Tuy thỉnh thoảng cũng cho phép mình mặc quần short Tây như trong các bức hình sau đây, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp trong kháng chiến chống Pháp Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp nhưng càng về sau, ông Hồ càng nhất quán với bộ đồ Mao. Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh 1955 và lôi kéo các đồng chí của mình vào phong trào mặc áo Mao. Bác Hồ và bác Tôn Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng Hồ Chí Minh và Lê Duẩn Và ông trở về với cát bụi, hay nói đúng ra là vào nằm hòm kính trong lăng cũng trong bộ đồ đó. Bảy năm sau, đến lượt Mao vào nằm lăng trong cùng trang phục. Ngay cả sau khi ông Hồ qua đời, hàng ngũ lãnh đạo triều Hồ vẫn duy trì mốt áo đại cán kiểu Mao cho đến ngày chiếm lĩnh miền Nam năm 1975 và có thể cho đến ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Tượng đài Lê Duẩn tại Quảng Trị Tượng Bác Hồ, bác Tôn Tôi không biết chính xác giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam thay áo Mao bằng áo sơ mi cộc tay và com-lê chính xác từ thời điểm nào. Sự kiện đó nên được các nhà nghiên cứu lịch sử làm rõ, để chúng ta khỏi sa vào tranh luận “ta hay Tàu”, khi chẳng hạn trong bộ phim tương lai Hồ Chí Minh- Đường tới Ba Đình, đạo diễn cho các vị lãnh đạo mặc áo Mao và cho quần chúng ăn bánh bao, đi xe đạp Phượng Hoàng Trung Quốc. © 2010 Phùng Tân Côi
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 17, 2010 5:56:16 GMT 9
Ai yêu bác Hồ Chí Minh 04/10/2010 Tác giả: Đại Nghĩa
Ngày xưa khi còn học lớp ba, lớp nhì, vào mỗi kỳ nghỉ hè tôi thường theo mẹ về quê ngoại ở vùng “giải phóng” chơi đùa với những người con của ông cậu thật là thú vị. Thuở ấy tôi thường hay hát nghêu ngao mấy câu:
Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
…
Bác chúng em dáng cao cao, người thanh thanh
Bác chúng em mắt như sao, rầu hơi dài
Bác chúng em nước da nâu vì sương gió
Bác chúng em thề cương quyết trả thù nhà…
(Sáng tác của Phong Nhã)
Sau này khi lớn, lên trung học, tôi không còn có dịp về quê ngoại nữa, ngay cả ngày bà ngoại mất mà tôi cũng không được về thọ tang, những câu hát ấy đã mờ phai trong ký ức. Và hôm nay ngồi viết bài này về “bác Hồ Chí Minh” thì không làm sao tôi còn hát lại câu: “Ai yêu bác Hồ Chí Minh…” được nữa vì tôi đã biết lời ca này do một nhạc sĩ dựa theo những mẩu chuyện kể tự tô vẽ, ca ngợi mình, đánh lừa thiên hạ và đánh lừa trẻ con, thật không có sự trơ trẽn nào bằng. Sau đây là một đoạn văn mà Hồ Chí Minh mô tả về mình qua cái tên giả Trần Dân Tiên:
Hồ Chủ tịch thường mặc bộ đồ áo ka ki, đi giày vải đen. Tóc Người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng, râu che nửa miệng, mặt gầy, da ngăm đen, khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích.
Nhà văn Phạm Đình Trọng trong bài “Ăn mày dĩ vãng….”, có đoạn viết vạch trần cái ý đồ gian xảo của ông HCM như sau:
Ngay sau ngày 2-9-1945, hầu hết người dân Việt Nam vẫn ngơ ngác chưa biết Hồ Chí Minh là ai!… Hồ Chí Minh liền tự tay viết tập sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch và kí tên người viết là Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện kể tưởng như chân thực nhưng vẫn mang không khí huyền thoại, mang cảm hứng anh hùng ca. Trong tập sách đó cũng chính Hồ Chí Minh tự nhận là Cha già dân tộc!”.
Cựu đại tá Quân đội Nhân dân Bùi Tín, nguyên Phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân và báo Nhân dân, từng có nhiều dịp tiếp xúc, gặp gỡ với Hồ Chủ tịch, trả lời trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Trà Mi của đài RFA:
Tôi coi ông ta không phải là thần thánh, chỉ là một con người bình thường như mọi người khác, tức là cũng có ưu điểm và khuyết điểm, có những đóng góp tích cực và tiêu cực. Về tư tưởng, nhiều người cho rằng ông ta không phải là người yêu nước. Còn tôi, tôi khẳng định ông ta là một nhân vật yêu nước, nhất là thời trai trẻ của ông.
Theo tôi, khi ông Hồ sang Pháp năm 1911 lúc đầu không phải vì mục đích tìm đường cứu nước. Lúc bấy giờ ông ta gặp phải một bi kịch gia đình. Ông cụ là tri huyện Bình Khê vì đánh chết nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại, tha phương ở phía Nam. Mất chỗ dựa, ông Hồ quyết định ra đi tìm kế sinh nhai và giúp đỡ gia đình…
Tuổi trẻ bây giờ quan trọng nhất là cần có tư duy độc lập. Tất cả những gì mình tiếp thu được nên sàng lọc qua bộ óc, suy nghĩ của mình xem đúng hay sai. Về việc họ ca ngợi đạo đức Hồ Chí Minh, tôi nghĩ tuổi trẻ cần phải biết rõ là ông Hồ trong hoạt động cách mạng có sai lầm lớn là giả dối nhiều lắm. Một ví dụ đơn giản là ông ta tự viết ra quyển sách nói về tiểu sử của mình, ký tên là Trần Dân Tiên… trong đó còn ghi là Hồ Chí Minh không có vợ con, suốt đời chỉ nghĩ đến dân tộc, thế nhưng thật ra, ông ta có nhiều vợ.
Điều này đã được chứng minh đầy đủ như ông ta đã cưới bà Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu, Trung Quốc, có rõ cả ngày giờ, giấy hôn thú, ảnh và thư từ cơ mà. Rồi sau này, khi ông về Hà Nội rồi, người ta cũng biết chính ông Trần Quốc Hoàn bố trí cho ông một cô tên là Nông Thị Xuân, hằng tuần lễ vào gặp ông, và ông Hồ đã có con là anh Nguyễn Tất Trung nay đã hơn 50 tuổi. ( RFA online ngày 19-5-2007 )
Ông Lữ Phương, nguyên Thứ trưởng Văn hóa trong Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói về “huyền thoại Hồ Chí Minh” như sau:
Những mẩu chuyện về đời Hồ Chủ tịch do chính ông viết (“Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của tổ quốc Việt Nam”). Về sau vì có lẽ vì thấy hơi quá lố, hình ảnh ấy không còn được nhắc lại, mấy chữ “Bác Hồ” được thay vào và giữ mãi cho đến khi ông mất…
Bà Kim Hạnh lúc làm Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, vì đăng ở trang nhất tin nói về bài thơ của ông (bí danh Lý Thuỵ khi từ Liên Xô sang Trung Quốc khoảng 1925) gửi người vợ Tàu mà bị cách chức và đuổi khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ, khi truy tầm hồ sơ mật của Đệ tam Quốc tế lưu trữ tại Moscow sau khi Liên Xô sụp đổ, đã tìm thấy tài liệu cho biết khi đi dự một Đại hội Quốc tế cộng sản ở Nga, ông đã khai có vợ và người ấy chính là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai chứ không phải là ai khác!
Dư luận Hà Nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô tên Xuân, cô này do mật vụ Trần Quốc Hoàn đưa về để phục vụ cho ông nhưng sau cho người giết đi để bịt miệng tung tích, có đứa con trai được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông đem về nuôi…
Gần đây nhân Đại hội 9 của Đảng (tháng 4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã nói đến khá nhiều chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với một nữ cần vụ người dân tộc và sinh ra Nông Đức Mạnh, mới được bầu làm Tổng Bí thư Đảng.
Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục, nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm…
Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, như chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất. Sau CCRĐ năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ Trung Quốc, quá thất đức và sai lầm, ông đưa Võ Nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân…
Hồ Chí Minh là một trong rất nhiều thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ. Nhưng từ đó cho rằng vì yêu nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài để tìm giải pháp cứu nước thi điều này không nhất thiết phải là tất yếu. Một người Pháp nghiên cứu về Việt Nam là D. Hémery có tìm ra được tờ đơn của Hồ Chí Minh đề ngày 15-9-1911 ở Marseille -ký là Paul Tất Thành – gửi chính phủ Pháp xin vào học trường École coloniale (một loại trường tạo công chức cho các thuộc địa) và đã bị từ chối. Nhà sử học này cũng tìm ra một số thư của ông – cũng ký là Paul Tất Thành – nhiều lần gửi về nước nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin tức và chuyễn tiền cho cha…
Tư tưởng Hồ Chí Minh… Nhưng xét kỹ thì đây không phải là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ Chí Minh còn sống, ông đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư tưởng gì cả. Nếu có một người xứng đáng ở Á châu này thì đó chính là Mao Trạch Đông (chính vì vậy mà Điều lệ Đảng Đại hội II đã ghi: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, phong cách Hồ Chí Minh). (Việt Tide số 14 ngày 19-10-2001)
Tiến sĩ Sophie Quinn-Judge là tác giả cuốn Ho Chi Minh – The Missing Years. Cuốn sách này dựa trên những tài liệu của Pháp, nhất là của Quốc tế Cộng sản được giải mật sau khi Liên Xô sụp đổ:
Năm 1930, Nguyễn Thị Minh Khai đến Hong Kong và làm việc trong văn phòng của ông Hồ. Và khi đó quan hệ giữa hai người đã bắt đầu. Trong năm 1931, một lá thư của ông Hồ báo cáo rằng ông sẽ lấy Nguyễn Thị Minh Khai làm vợ… Rồi đến năm 1934, trước ngày Quốc tế Cộng sản lần 7 tổ chức thì trong các tài liệu về các đại biểu tham gia Đại hội đều nói về Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Quốc tức Hồ Chí Minh. Và trong toàn bộ thời gian đó hai người sống ở Matxcơva hai người là vợ chồng”.
Giáo sư Hoàng Tranh, một nhà “Hồ Chí Minh học” ở Quảng Tây xác nhận với Lê Quỳnh đài BBC:
Trong cả buổi nói chuyện, giáo sư Hoàng Tranh ca ngợi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ vĩ đại”. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về Tư tưởng HCM, khi mà Chính cương điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1950 ghi rõ “Chủ nghĩa Mác–Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí minh”. Ông nghĩ Hồ Chí Minh có tư tưởng gì không?
Vị giáo sư khẳng định là có, nhưng nói chung chung: “Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là tài sản quý giá của nhân dân Việt Nam, mà còn của nhân dân thế giới…
Thực tế việc ông Hồ Chí Minh có người vợ Trung Quốc đã được nhiều người dân ngay tại Việt Nam bàn tán từ lâu. Tại Trung Quốc, hiện nay người ta nói thoải mái về chuyện này – có ít nhất hai bài báo khác đăng trên báo chí phổ thông ở đại lục cùng nói về bà Tăng Tuyết Minh.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia viết về cuộc hôn nhân của ông Hồ với Tăng Tuyết Minh như sau:
Mùa hè năm 1926, qua sự mai mối của một trợ thủ đắc lực là Lâm Đức Thụ, Nguyễn Ái Quốc gặp Tăng Tuyết Minh, ông rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng, điềm đạm, đoan trang, thông minh này.
Tháng 10 năm 1926, Nguyễn Ái Quốc, khi đó lấy tên là Lý Thuỵ, tổ chức tại nhà hàng Thái Bạch, với sự chứng kiến của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một bộ phận học viên khóa huấn luyện phụ vận…
Nguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyễn thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả. Khi ở Thái Lan ông đã viết một lá thư bằng chữ Hán… Bức thư này bị mật thám Đông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d Outre-Mer – Trung tâm lưu trữ hải ngoại).
Cuộc đời làm chính trị của ông Hồ mắc phải nhiều lỗi lầm, trong đó có việc nghe theo lời Mao Trạch Đông tàn sát đồng bào mình một cách không thương tiếc trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất. Theo cựu đại tá Bùi Tín và thượng tọa Thích Quảng Độ thì có từ 500 đến 700 ngàn người bị sát hại, còn theo tài liệu chính thức Lịch sử kinh tế tập 2, có đến 172.008 người bị quy là địa chủ thì trong đó oan sai là 123.266 người.
Cùng lúc ấy ở miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm cũng cho tiến hành chiến dịch “Người cày có ruộng” nhưng chẳng chết một người dân nào. Thế là sao? Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân dân kể về “Bí mật Hồ Chí Minh” như sau:
Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định thực hiện CCRĐ… Mùa hè năm 1952, sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác cho chuẩn bị hội nghị cán bộ năm 1953, quyết định CCRĐ. Trung Quốc cử đoàn cố vấn sang. Bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền…
Nguyễn Thị Năm tức là Cát Thành Long có người con là trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác Hội Phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà.
Cụ Nguyễn Văn Trấn, trong hồi ký Viết cho mẹ và Quốc hội cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc ấy nghe theo lệnh của Trung Quốc buộc phải CCRĐ như thế nào, và việc ấy giao cho cụ Tôn Đức Thắng, Tổng Bí thư Đảng thi hành. Nhưng đến khi toàn dân đã cất tiếng oán thán “long trời lở đất”, thì ông Hồ Chí Minh mới cho dừng lại. Ông trốn trách nhiệm và đè cụ Tôn ra mà cách chức, điều này nói lên tư cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại:
Ác hết sức là cố vấn Trung Quốc hiến cho cái kế “Phóng tay”. Phóng tay! Nói nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc nguỵ biện “à la Mao Trạch Đông”: “Kiểu uông tất tu quá chinh”. Có nghĩa là: muốn uốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá chiều.
Trời ơi Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật trở lại chết bao nhiêu vạn sanh linh…
Có lần anh chị em Nam bộ đại biểu tôi đến gặp ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho CCRĐ giết người như vậy?
Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy bước ra khỏi ghế, vừa đi và nói: “Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?”
Cựu đại tá Quân đội Nhân dân trả thẻ Đảng Phạm Quế Dương trả lời phỏng vấn của Việt Tide (số 44 ngày 17-5-2002) về vấn đề CCRĐ như sau:
Cụ Hồ làm nhiệm vụ đấu tranh cho dân tộc ông cũng phải nhờ nước ngoài. Ông về nước cũng phải nhờ bà con nhà giàu. Ông ở nhà thị xã, kêu gọi“ Tuần lễ Vàng” để lấy tiền của bà con. Đáng lẽ, ông phải cảm ơn người ta mà ông lại quay lại đánh người ta. Chuyện đó đáng để lịch sử lên án.
Một nhà trí thức trẻ, bác sĩ Phạm Hồng Sơn trả lời đài VOA về việc CCRĐ của ông Hồ Chí Minh:
Theo tôi cột mốc rõ nhất cho sự phi dân chủ hóa để trở thành độc tài toàn trị cộng sản của chính thể VNDCCH, một cái tên rất dân chủ, là việc Đảng Lao động Việt Nam phát động CCRĐ, được cụ Hồ gọi là cuộc “cách mạng long trời lở đất”, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ cuộc “cách mạng” này là sự tuỳ tiện của chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ, bắn giết, tịch thu gia sản đối với hàng trăm nghìn người Việt Nam…
Cụ Hồ cũng đã thể hiện sự tránh né trách nhiệm của người đứng đầu hệ thống chính trị trong vụ CCRĐ khi để đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng ra xin lỗi nhân dân và chỉ để một số nhân vật cấp dưới chịu kỷ luật.
Tiếp sau sai lầm CCRĐ là vụ án Nhân văn – Giai phẩm, bách hại không biết bao nhiêu nhân tài lỗi lạc của đất nước như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Đức Thảo, giáo sư Trương Tửu, học giả Đào Duy Anh…, ngoài ra còn không biết bao nhiêu văn thi sĩ có tài cũng bị trù dập đến mai một như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Hữu Loan…
Vừa rồi, GS. TS Vũ Hoan, chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Hà Nội trong cuộc hội thảo ngày 17-5, nói rằng:
Kế thừa truyến thống “Chiêu hiền đãi sĩ”, sau hơn hai tháng tuyên bố độc lập, ngày 14-11-1945, Bác Hồ ra lời kêu gọi “Nhân tài và kiến quốc”. Một năm sau, Bác lại ra chỉ thị “Tìm người tài đức”, một lần nữa Người khẳng định “Nhà nước cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.
Trong chiến dịch CCRĐ ông Hồ đã cho phát động khẩu hiệu sắt máu “Trí, Phú, Địa, Hào: đào tận gốc, trốc tận rễ”. Thành phần trí thức được ưu tiên đưa lên hàng đầu trong những đối tượng mà Đảng Cộng sản cần thanh toán. Học theo gương Bác, ngày nay bao nhiêu nhân tài chỉ vì đưa ý kiến trái ngược với lợi ích của Đảng mà phải vào tù, như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Minh Hoàng… còn những nhà trí thức của Viện IDS cũng phải tự giải thể.
Học giả Hoàng Xuân Hãn, trả lời phỏng vấn của Thuỵ Khuê đài RFI:
Xét về Hồ Chí Minh thì phải có lâu năm sau này thì xét mới không thiên lệch. Hiện bây giờ thì người ta oán nhiều lắm. Oán ấy là oán Đảng Cộng sản, những người có đầu óc Marxiste hồi ấy. Chuyện đầu hết là: tranh giành, chém giết những người quốc gia. Đấy là một cái họ trách. Cái thứ hai là lúc Cải cách Ruộng đất, gọi là trong nước có người giàu, người nghèo, chênh lệch. Cái thứ ba là: phương pháp của Marxiste, lúc ấy họ chỉ có một chiều, nghĩa là sự thật chỉ có một mà thôi. Không có sự thật thứ hai. Không được nói trái nhau. Nghĩa là họ không lý luận như người thường, cho nên sự oán với sự ghét nhiều lắm.
Sử gia Pháp Pierre Brocheux, người đã bỏ ra hơn nửa thế kỷ nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đã đưa ra nhận định như sau trong bài phỏng vấn của đài BBC vào tháng 9 năm 2003:
Theo nghiên cứu của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không có quyền gì, ông ấy biến thành một biểu tượng. Vì thế cuốn sách của tôi còn có một tựa đề nữa là “Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng biến thành một biểu tượng”. Ý tôi muốn nói ông bị người ta biến thành một biểu tượng không có quyền, một biểu tượng yếu về quyền lực.
Ông Lữ Phương nói về vai trò của ông Hồ trong trận tấn công Tết Mậu Thân (1968) như sau:
Theo một bài viết của Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh đăng trên báo Văn nghệ Xuân cách đây vài năm), công lao của Hồ Chí Minh trong cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” 1968, vẻn vẹn chỉ có một bài thơ “Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua, Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà…” Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được đưa đi… nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” nổ ra qua đài phát thanh nghe được ở nơi ông được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh.
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã bị thất sủng kể từ phong trào “xét lại chống Đảng”. Chính hai ông đã bị “đưa đi nước ngoài ngồi chơi xơi nước” trong khi cuộc tổng tấn công khai diễn. Lúc ấy cả những người thân cận của ông Hồ như cụ bí thư Vũ Đình Huỳnh và người con trai là Vũ Thư Hiên cũng bị cho đi tù.
Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng đã thúc đẩy một kế hoạch đầy nguy cơ về “tổng tấn công” trên phạm vi toàn quốc thông qua một Bộ Chính trị đang lưỡng lự, bất chấp sự phản đối của tướng Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh (“Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975” của Merle L. Pribbenow II do Nguyễn Việt dịch, talawas)
Cụ Nguyễn Văn Trấn, nhà cách mạng lão thành Nam bộ tả cảnh ông Hồ bị thất sủng trong hồi ký Viết cho mẹ và Quốc hội:
“Tao nói cho mầy nghe nha”, Bùi Công Trừng nói tiếp, “về chuyện lão già Hồ Chí Minh. Tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh thay. Ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu lý luận Mác-Lênin. Chuyện nước giao cho Nguyễn Chí Thanh…”
“Mày coi, coi nó tội nghiệp không. Đồng chí Hồ Chí Minh muôn ngàn kính mến của chúng ta bận bộ đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà day mặt ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên Xô. Khi chướng tai quá quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc Hà: ‘Bác để cho anh em nói đã mà’. Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn. Cuối cùng ông cũng cho hội nghị nghe, ông nói ca dao bằng tiếng khóc: ’Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo.’ Và ông nói xuội lơ: ‘Thấy lợi người ta cho tên lửa vô; thấy bất lợi thì người ta rút ra. Có chi mà!’” (trang 328)
Kết thúc bài này, xin mượn lời nhận xét về ông Hồ của hai người, một nhà trí thức trẻ và một nhà cách mạng lão thành:
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: “Khi cầm quyền, cụ Hồ đã để cho chính phủ của cụ tạo ra nhiều tiền lệ cầm quyền độc đoán, nhẫn tâm, phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu, có thể nói, lớn đến mức mà vết hằn sâu của nó đến nay vẫn còn hiện rõ trong cả hệ thống chính quyền hiện thời”.
Nhà nghiên cứu Lữ Phương: “Thời trai trẻ, tôi quý trọng ông Hồ Chí Minh là do ông đã tô đậm cái tình cảm tự nhiên đó trong tôi biết trách nhiệm với đất nước. Nhưng cũng chính vì tình cảm và trách nhiệm ấy mà khi tóc tôi đã bạc rồi, tôi không còn có thể mù quáng tin vào ông nữa.”
© 2010 Đại Nghĩa *************** Y Kien Phan Hoi: tracy nói:
Đọc lại bài hát thuộc loại đồng dao “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”, tự dưng tôi nhớ lại câu chuyện xảy ra tại trường trung học Trưng Vương sau ngày 30 tháng Tư.
Ở tuổi ấu thơ, không ít chúng ta thường hay hát trại những bài hát, thí dụ bài hát Aung Lang Syne của Hoa Kỳ mà họ hay hát vào dịp cuối năm, được chúng tôi hát thành “… Chết cha con ma nào đây, thằng tây nhẩy dù, thằn lằn cụt đuôi…”. Sau ngày “giải phóng”, chúng tôi đã được dạy những bài hát thiếu nhi như thế “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh…”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”, “Vòng tròn có một cái tâm…” dù lúc đó chúng tôi không còn ở tuổi thiếu nhi và cũng chưa bao giờ biết Bác Hồ là ai mà cứ lập đi lập lại “Bác chúng em dáng cao cao, người thanh thanh.” Có một em nữ sinh trong trường chúng tôi, vui vui hát nhái “Như có Bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán…” mà chúng tôi vẫn nghe hát lén ở đường phố. Cha mẹ của em này bị gọi lên trường, cô Hiệu Trưởng liên lạc với phường khóm để theo dõi tác phong văn hóa đồi trụy của em (mới 11 tuổi) và em bị đuổi học.
Đó là bài học về Cách Mạng mà tôi được học “Các em thiếu niên nhi đồng chỉ được yêu Bác Hồ Chí Minh, nếu không yêu là sai, là bị bánh xe lịch sử nghiền nát cho dù thiếu nhi chưa có một đầu óc để phân biệt đâu là đúng đâu là sai, việc làm của trẻ nhỏ cho dù vô tình nhưng cha mẹ sẽ bị kiểm thảo, bị điều tra, bị theo dõi. Bài học đầu tiên về Cách Mạng vẫn nằm mãi trong trí của tôi, cho dù nó xảy ra cho em khác.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 28, 2011 8:43:26 GMT 9
Khi ông Trần Thiện Khiêm trở lại với cộng đồng! Vũ Ánh/Việt Herald (10/08/2010) Hồi còn nằm trong tù Cộng sản, anh em chúng tôi thường an ủi và khuyến khích nhau giữ vững tinh thần bằng những “hot news”, một thứ Anh ngữ tự chế để chỉ những tin tức nóng bỏng thẩm lậu từ ngoài vào trại qua con đường thân nhân thăm nuôi. Ở trong nghề, tôi hiểu những tin tức do những bạn tù với tôi đem vào trại sau những lần thăm gặp gia đình là những tin vô căn cứ, nhiều khi buồn cười vì mang nhiều tính khôi hài, do chính các bạn tôi “chế”ra, hoặc do chính thân nhân cũng chỉ nghe tin đồn đại thôi, nhưng vẫn nói cho người thân của mình biết để nuôi hy vọng hầu giúp họ vượt qua những hoàn cảnh khốn khó trong chốn lưu đầy.Trong giai đoạn đầu, tôi nghiệm ra một điều. Ðó la,ợ hầu hết những tin tức đưa vào trại đều hướng vào những tin tức liên quan đến việc “trở về kháng chiến trong rừng sâu” của những ông như Nguyễn Cao Kỳ, Ngô Quang Trưởng, Dư Quốc Ðống, Bùi Thế Lân, Cao Văn Viên. Nào là ông Kỳ “râu” về Thái Lan và từ Thái Lan đã xâm nhập vùng U Minh Hạ lập căn cứ kháng chiến, nào là tướng Ngô Quang Trưởng về Rừng Lá Bình Tuy rải truyền đơn kêu gọi thanh niên gia nhập lực lượng Phục Việt, nào là tướng Dư Quốc Ðống được Mỹ hỗ trợ trở về thành lập sư đoàn nhảy dù Ðông Dương, nào là báo chí ngoại quốc đã chụp được hình tướng Bùi Thế Lân tại Bảy Núi Châu Ðốc vân vân và vân vânà Tuy thế, có một điểm khá lạ là trong những “hot news”, các anh em bạn tù của tôi không bao giờ nhắc tới hai tướng lãnh, một là tướng Nguyễn Văn Thiệu và hai là Tướng Trần Thiện Khiêm. Có lẽ anh em tù cải tạo chúng tôi phần lớn là quân nhân và công chức nên vẫn còn lòng hờn giận nhà lãnh đạo hàng đầu của VNCH đã không giữ đúng cam kết ở lại chiến đấu bên cạnh quân đội mà bỏ đi không kèn không trống cho nên họ không còn kỳ vọng gì vào ông ấy nữa, nên cũng chẳng buồn chế ra trong tin. Còn Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm thì khỏi nói. Ông “thủ khẩu như bình” nổi tiếng trong hàng ngũ các thủ tướng của VNCH cho nên nhiệm kỳ thủ tướng của ông kéo dài từ 1969 đến 1975, và nếu không có biến cố 30 tháng 4-1975 và ông Thiệu không từ chức thì có lẽ ông Khiêm còn ngồi lâu hơn nữa. Tướng Khiêm làm thủ tướng nhưng chưa bao giờ ông mở miệng có ý kiến về những dự luật được thảo luận ở Quốc Hội, chưa bao giờ lên tiếng hay đề nghị những phương thức chấm dứt nạn tham nhũng, nạn mua quan bán tước, chưa bao giờ tự mình đứng ra trả đũa những lời chỉ trích của phe đối lập. Hàng năm ông xuất hiện trên hệ thống truyền hình của chính phủ THVN-9 một lần để đọc thông điệp chúc tết đồng bào với nội dung vô thưởng vô phạt. Rồi thôi, rồi bắt vô âm tín. Ngoài ra, Tướng Trần Thiện Khiêm còn là một thủ tướng ít đi kinh lý hay thăm dân cho biết sự tình nhất. Vì thế, trong tù nếu có ai trong chúng tôi thắc mắc: “Không biết bây giờ ông Khiêm ở đâu ha?” sẽ bị kê tủ đứng ngay: “Mẹ kiếp, giờ này chắc người đang ôm vợ ở đâu trên đất cờ hoa, chúng mày còn trông mong gì ở cái anh ngậm miệng ăn tiền muôn năm ấy chứ !”. Thế rồi thời gian từ 1989 đến 1992 là thời gian được thêm một tí tự do hơn ở cái nhà tù lớn hơn là Saigon, lũ chúng tôi sống nhếch nhác với nghề lao động chân tay kiếm sống. Tưởng không khí “hot news” sẽ qua đi, nhưng không, “hot news” còn bạo hơn và còn nhiều tin thú vị hơn. Công viên trước trụ sở Bộ Ngoại Giao cũ lúc nào cũng đông ngạt nguồn tin. Bọn tôi không thường xuyên đứng ngóng tin được ở công viên đó được, chỉ thỉnh thoảng ghé qua, nhưng mỗi lần ghé chiếc xích lô để đổ khách hàng đến Sở Ngoại Vụ tiện thể tạt qua đây là tôi có thể ôm một lô những bản tin “lèo” về nhà coi chơi. Tin nóng vào giai đoạn này là tin về chương trình H.O và số phận những người Việt Nam tị nạn ở các trại Ðông Nam Á và Hong Kong. Hồi đó anh em chúng tôi biết bà Nguyễn Văn Thơ, ông mục sư Nguyễn Xuân Bảo nhiều hơn là cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hay cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Rồi cũng đến ngày sang định cư ở Hoa Kỳ, vùng đất tự do và dân chủ nhưng cũng là nơi phơi bầy tất cả sự thật về những nhà lãnh đạo hàng đầu của VNCH nhanh chân chạy sang đây trước. Sang định cư đúng lúc xảy ra một vụ kiện cáo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh ở San Jose, rồi nghe bạn bè kể lại hoạt động của mặt trận này, hoạt động của ông Thiệu, một số các ông tướng trung tâm của những “hot news” khi còn ở trong trại giam Cộng sản, tôi đâm ra hoài nghi sự thông minh của mình. Ngồi gặm những chiếc hamburger đầu tiên trên đất Mỹ, lòng tôi nặng trĩu lo âu không biết làm sao kiếm được công việc làm khi bắt đầu làm lại cuộc đời từ tuổi 51 và nghe các bạn bè nói đến chuyện đi tìm lãnh tụ với giọng khinh bạc: “Mẹ kiếp, lo kiếm chân bus boy, rồi sau đó tìm cách đi học lại đi con. Bọn mình đã tiêu phí quá nửa đời chỉ vì nghe lệnh mấy anh lãnh tụ này rồi. Sau khi chạy trước sang đây, họ chuyển sang người nhái tuốt luốt”. Tôi còn ngây thơ: “Già như vậy còn nhái nhiếc gì nữa?”. Một thằng cười hộc lên: “Nhái tức là lặn kỹ đó thằng ông nội này. Tù cộng sản lâu thế mà đ... vỡ ra được! Thế rồi thời gian thấm thoát qua đi. Và phải đợi đến khi thế hệ chúng tôi có cháu nội, ngoại đầy đàn rồi mấy ông thợ lặn hàng đầu của VNCH mới xuất hiện gọi là “đến với cộng đồng” nhân cơ hội có một vài nhà hoạt động cộng đồng này vẫn chưa dứt được cái bệnh “thích tìm lãnh tụ xưa để suy tôn”. Hết lễ giỗ Ngô Ðình Diệm lại đến lễ giỗ Nguyễn Văn Thiệu. Mà ông nào cũng có người thương người ghét, ông nào cũng để lại nhiều nạn nhân, ít ân sủng. Vì thế mà cộng đồng cứ rối tinh rối mù, phe phái ngày càng nhiều, rạn nứt khắp nơi, khắp chốn. Gần đây, không biết lý do nào thúc đẩy mà mấy ông trong Tập Thể Chiến Sĩ lại đưa ông tướng 4 sao “thủ khẩu như bình” Trần Thiện Khiêm ra làm cái dù cho một hội đoàn cựu quân nhân được coi như quan trọng vào bậc nhất ở hải ngoại. Cái tập thể của những người từng mặc áo lính này lúc đầu đưa ông Tướng Lê Minh Ðảo ra thì còn tạo được niềm hy vọng, vì dù muốn dù không ông Ðảo cũng là một vị tướng đánh trận đánh cuối cùng rất ngoạn mục và nổi tiếng thế giới trước 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng là vị tướng đương quyền vào lúc ấy không bỏ chạy trước địch quân và bằng lòng chung số phận thất trận rồi bị tù đầy rất lâu cùng với những sĩ quan và binh sĩ VNCH. Rồi đến tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh, hoạt động được vài năm thì cũng “cháy” luôn. Ðến nay tập thể chiến sĩ lại đưa một khuôn mặt xa lạ với cộng đồng với các hội đoàn quân đội ở đây là Tướng Trần Thiện Khiêm ra làm “bùa hộ mạng” thì đúng như nhận định của nhiều người “quả là hết thuốc chữa”. Bệnh đi tìm lãnh tụ của một số các ông cựu binh đã trở thành ngày càng nặng, không còn hy vọng gì chữa khỏi nữa khi cố tình đưa ông thủ tướng “ngậm miệng ăn tiền” ra làm mẫu mực lãnh tụ. Có thể là vì không quen “ánh đèn sân khấu chính trị” ở quận Cam, hoặc vì xa rời đồng hương đến 35 năm rồi, nên Tướng Khiêm có vẻ “lạng quạng” ngay khi ông nói rằng ông nhờ ông Phan Tấn Ngưu tổ chức bữa cơm cho ông gặp mặt anh em cựu chiến sĩ VNCH để cám ơn họ đã chiến đấu để bảo vệ đất nước. Lập tức những lời lẽ của ông Trần Thiện Khiêm đã bị phản ứng ngay từ phía những người có thể là đồng đội với ông trước đây. Phản ứng ấy không có gì khó hiểu hay khó giải thích. Cách ông Khiêm đến với họ làm sự giận dữ trong lòng họ lại bùng lên. Lý do: từ ngày 25 tháng 4 năm 1975 tới nay, nghĩa là từ ngày gia đình ông và gia đình ông Thiệu lên chiếc C-118 rời khỏi Việt Nam giữa lúc đất nước nghiêng ngửa tới tháng 9 năm 2010, ông chưa nói một lời nào gọi là chia sẻ những nỗi đau và những nỗi nhục mà các đồng đội của ông phải nhận lãnh sau ngày Miền Nam Việt Nam sụp đổ, chưa từng một lời an ủi các đồng đội của ông đang giam thân trong các nhà tù trên khắp lãnh thổ Việt Nam nhân chiến dịch nhân quyền mà Tổng Thống Ronald Reagan mở ra năm 1982, chưa một lần nào ông lên tiếng ái ngại, an ủi những người vợ lính có chồng, con đang bị trả thù trong chốn lưu đầy, chưa một lần ông lên tiếng hay có hành động trợ giúp, hoặc đến thăm những đồng hương tỵ nạn trên các đảo tỵ nạn ở Ðông Nam Á, Hồng Kông, chưa một lần nào ông quan tâm đến những đồng hương khi họ chân ướt chân ráo đến nước Mỹ, chưa một lần nào ông bỏ ra một vài chục đô la để gởi đến các thương phế binh VNCH còn kẹt tại quê nhà... Nghĩa là chạy sang được Ðài Loan, Anh rồi tới Mỹ, chưa một ngày nào ông cũng như ông Thiệu tỏ ra quan tâm chứ đừng nói gì đến sự giúp đỡ đồng hương và đồng đội của ông tại nước Mỹ cũng như ở Việt Nam. Làm lãnh đạo mà như thế thì ngày nay không trách được có những người viết trên e-mail, trên các trang mạng gọi ông Khiêm là cái “thây ma” đã rữa thối. Cá nhân, cũng như rất nhiều bạn tù với tôi không hề giận dữ tướng Khiêm, nhưng chúng tôi cho rằng ông Khiêm không xứng đáng làm tướng, và càng không xứng đáng ngồi vào ghế lãnh đạo. Chúng tôi cũng thừa biết ông mang những 4 sao, ngồi vào ghế “thừa tướng” thời đại cũng chỉ do phe cánh và người Mỹ đặt vào. Có điều chúng tôi rất ngạc nhiên, là với thành phần lãnh đạo chóp bu như thế mà mãi 30 tháng 4, 1975 Miền Nam Việt Nam mới rơi vào tay Cộng sản thì cũng là điều lạ. Nhưng suy đi nghĩ lại thì mới ngộ ra được rằng sỡ dĩ thượng tầng của VNCH thối nát, thiếu sáng suốt, dựa dẫm, phe phái mà VNCH vẫn đứng vững được cho tới hết tháng Tư năm 1975 được là nhờ sức chiến đấu, tinh thần, nhiệt tình và xương máu của quân đội VNCH. Nhưng nghĩ được như thế lòng lại đau thắt như có ai cắt từng đoạn. Hóa ra, một số các nhà lãnh đạo chóp bu của VNCH chỉ biết thổi kèn thúc quân và chúng tôi lao vào trận, đến khi nhìn lại để mong nhờ họ trợ giúp tinh thần giữa lúc đất nước nghiêng ngửa thì đã thấy các ông ấy lên máy bay rời khỏi Việt Nam mất hút! Than ôi ! Nhưng nghĩ cho cùng, thôi thì 35 năm đã trôi qua. Cộng đồng đã nếm trải nhiều cay đắng và phũ phàng vì sự thật diễn ra trước mắt. Ðất nước đã mất, cộng đồng đã nát tan vì chia rẽ, vì những trò múa rối chính trị, vì những mưu độc của Cộng sản, vì những tiếp tay của những kẻ lợi dụng chiêu bài chống Cộng để gây rối trong cộng đồng. Bây giờ, dù có chỉ trích cách mấy thì những tấn tuồng nói trên cũng sẽ lại tái diễn. Vấn đề của chúng ta ngày nay là bằng mọi giá hãy để những ông lãnh tụ trước đây của VNCH nằm yên trong những kho chứa. Bởi vì khi những “mummy” này được khóa vào đúng vị trí của nó và không ai có thể đem ra trưng bày được, thì sẽ không còn những tranh cãi trong cộng đồng nữa. Lúc ấy có hy vọng cộng đồng được sống bình yên và đồng hương có thể nắm tay nhau để chỉ hướng vào mục tiêu duy nhất: chống Cộng. (V.A.)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:37:12 GMT 9
Huyen thoai CS Bac Viet: TẠ ĐÌNH ĐỀ
CÓ thể nói: không có cán-bộ, đảng-viên, bộ-đội, hay thường-dân nào sống dưới chế-độ Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa (cộng-sản Bắc-Việt) mà không nghe tên của Tạ Đình Đề, một nhân-vật phi-thường của cộng-sản Việt-Nam. Họ Tạ phi-thường ở điểm không ai biết gã-ta là đảng-viên cấp nào mà ngay đến uy-quyền của đại-tướng Võ Nguyên Giáp cũng còn bị gã-ta coi khinh; phi-thường ở điểm gã-ta đã đi vào truyền-thuyết, huyền-thoại "nhân dân" (theo huyền-thoại ấy thì gã-ta là một con người đại-tài, chỉ thua Hồ Chí Minh một bậc mà thôi!); và phi-thường ở điểm gã-ta đã được "toàn đảng, toàn quân, toàn dân" (ngoại-trừ một ít phần-tử lãnh đạo Trung-Ương Đảng, sau khi Hồ Chí Minh chết rồi) yêu thương, kính trọng, và bênh-vực tận-tình... Không ai biết, và cũng không ai nghĩ đến việc tìm hiểu xem, Tạ Đình Đề là con-cái nhà ai, quê-quán ở đâu, thuở nhỏ như thế nào, hiện có vợ+con thân-thích gì không. Tạ Đình Đề là một con người không có quá-khứ rõ-ràng. Sự xuất-hiện và hiện-hữu của gã-ta chỉ thình-lình khởi đầu bằng một cuộc đấu-trí công-khai-mà-bí-mật giữa hai nhân-vật nửa-hiện-thực nửa-hư-cấu của cộng-sản Việt-Nam: Hồ Chí Minh và Tạ Đình Đề. * Dạo ấy, sau Hiệp Định Genève 1954, tình-hình Việt-Nam đổi khác rõ-ràng. Sông Bến-Hai ở vĩ-tuyến thứ 17 trở thành giới-tuyến ngăn đôi hai Miền: ở Miền Bắc thì cộng-sản dời Trung-Ương Đảng và bộ máy Nhà-Nước từ rừng sâu về Hà-Nội, trong khi ở Miền Nam thì phe Quốc-Gia đặt thủ-đô tại Sài-Gòn. Hồ Chí Minh, vừa là Chủ-Tịch Đảng, vừa là Chủ-Tịch Nước, chiếm-ngụ Phủ Chủ-Tịch là việc đương-nhiên. Và lẽ dĩ-nhiên chỗ làm việc và chỗ ở của Hồ Chí Minh được nhiều cán-bộ an-ninh bảo-vệ từ lớp trong ra lớp ngoài . Cộng-sản Việt-Nam có một thành-phố lớn, cố-đô Thăng-Long, để làm thủ-đô, hầu hãnh-diện với hoàn-cầu. Thành-quả ấy không phải chỉ là do công của cộng-sản Việt-Nam (do chúng bịp-bợm cướp quyền lãnh-đạo đồng-bào yêu nước), mà còn là của cả khối cộng-sản quốc-tế, chủ chốt là Liên-Bang Xô-Viết và cộng-sản Trung-Hoa . Nhìn qua Thế-Giới Tự-Do, cộng-sản thấy rõ vai trò của Pháp đã được Hoa-Kỳ thay thế; nhưng chúng cố ý bưng-bít không cho dân-nhân hiểu được sự khác-biệt giữa Pháp và Hoa-Kỳ. Pháp thì vẫn còn nuôi mộng tái-lập nền đô-hộ tại cựu thuộc-địa Việt-Nam, trong lúc Hoa-Kỳ giúp cho mọi nước nhược-tiểu trong đó có Việt-Nam thoát ra khỏi ách nô-lệ của cả đế-quốc tư-bản lẫn Liên-Xô . Cộng-sản lợi-dụng tinh-thần ái-quốc của toàn-dân vốn căm-thù ngoại-nhân xâm-lăng, để lèo-lái mọi người tiếp-tục bước vào cuộc "Kháng-Chiến 2" (chống Mỹ). Và chúng cũng thừa biết rõ khả-năng to lớn của Hoa-Kỳ, đặc-biệt về mặt tình-báo, mà cơ-quan được xem là chủ-mưu mọi cuộc chính-biến khắp nơi trên thế-giới, là CIA, thì từ người già cho đến trẻ con đều được cộng-sản Việt-Nam tuyên-truyền huấn-luyện để đề-phòng, khám-phá, và triệt-tiêu . Chính từ bối-cảnh lịch-sử đó mà nhân-vật Tạ Đình Đề xuất-hiện (hay được cấu-thành?).
TẠ ĐÌNH ĐỀ 2
* VÀO một buổi trưa đẹp trời kia, không nắng rát nóng bức, cũng không bão táp lạnh cóng như khí-hậu tại Miền Bắc vẫn thường thay đổi luôn, Hồ Chí Minh gặp được một hôm ít việc, rời phòng-giấy về phòng-ăn sớm hơn mọi ngày . Một trong bốn tay hầu-cận mà "Bác" đặt tên cho là Kháng, Chiến, Thành, Công, vội-vàng chạy lên, chạy xuống, bưng dọn và chầu chực cho "Bác" dùng cơm trưa . Thình-lình Hồ Chí Minh hất hàm: -- Cho Bác xin thêm một cái bát và một đôi đũa nữa! Thỉnh-thoảng Hồ Chí Minh có đãi cơm người-này kẻ-kia, nhưng thường thì "Bác" có báo cho các cần-vụ biết trước để tiện chuẩn-bị sẵn-sàng. Lần này thì tay hầu-cận ngạc-nhiên: -- Thưa Bác, hôm nay Bác có khách à? Hồ Chí Minh gật gật đầu, ra vẻ khoái chí: -- Có chứ! Tay hầu-cận cảm thấy có cái gì khác thường. Nếu "Bác" không dặn ở nhà, dù quên hay cố-ý, thì các đồng-chí ở trên văn-phòng cũng vẫn báo tin cho dưới bếp biết, mỗi khi thấy có khách nào từ xa đến thăm mà chuyện-trò mãi đến gần giờ tạm nghỉ trưa, để họ chuẩn-bị làm tốt nhiệm-vụ nếu "Bác" bất-thần mời khách ăn cơm. Vốn "Bác" thường nói chuyện-này chuyện-nọ với các tay hầu-cận trong lúc chỉ có riêng "Bác" với bọn họ mà thôi, nên bọn họ đã có thói quen, trong "tình đồng-chí bác+cháu" với nhau, đề-cập với "Bác" bất-cứ vấn đề gì . Tay hầu-cận đem bát+đũa lên, hỏi thêm: -- Thưa Bác, khách hôm nay là ai, sao chưa tới nơi ? Hồ Chí Minh nhìn thẳng vào mắt tay hầu-cận, tủm-tỉm cười: -- Khách đã đến từ lâu rồi mà các chú không biết nên không đón tiếp mời vào đấy thôi! Gã cán-bộ thân-tín ngơ-ngác nhìn "Bác", chưa hiểu ý "Bác" nói gì. Hồ Chí Minh cũng thường nói đùa với các đồng-chí xung quanh, nhưng lần này thì đã bảo đem thêm bát+đũa lên, và "Bác" vẫn chưa bắt đầu ăn, thì rõ-ràng là "Bác" còn đợi người khách ấy mà. Nhưng tay hầu-cận thì đã chạy-ra chạy-vào, dòm-trước ngó-sau, dụi mắt nhiều lần, song có thấy ai đâu mà "Bác" bảo là khách đã đến từ lâu rồi! Hiểu rõ ý-nghĩ và tâm-trạng của gã "đồng-chí" phục-vụ mình, Hồ Chí Minh quay đầu hướng mắt về phía buồng ngủ, nói lớn tiếng: -- Xin mời anh Tạ Đình Đề vào ăn cơm trưa với tôi! Tay hầu-cận ngạc-nhiên vô cùng. Cái tên mới nghe lần đầu, mà theo hướng nhìn của Hồ Chí Minh thì người ấy đang có mặt ở phía buồng ngủ của "Bác", song không phải ở trong phòng, mà là... ở trên mái nhà. Tay hầu-cận trực phiên hôm ấy, dù là Kháng, là Chiến, là Thành, hay là Công, cũng bỗng cảm thấy lạnh toát cả người . Hầu-cận là lo cho "Bác" mọi mặt về cá-nhân "Bác", nhất là an-ninh, tức là mạng sống của "Bác". Cứ như thái-độ, cử-chỉ và lời nói của Hồ Chí Minh vừa rồi thì quả thật có một tên Tạ Đình Đề nào đó đã lọt vào được bên trong khu-vực cấm-địa này rồi . Nhìn thấy viên hầu-cận tái nét mặt và bắt đầu run sợ vì đã không chu-toàn trách-nhiệm của mình, "Bác" nhỏ-nhẹ nói: -- Người này tài tình lắm, các chú không đối-phó nổi đâu . Để Bác lo cho! Xong, Hồ Chí Minh quay đầu và hướng mắt về phía nhà bếp, phía trên mái bếp, nói lớn tiếng: -- Tôi mời anh vào phòng ăn, sao anh lại chuyền sang nóc nhà bếp? Giọng nói của "Bác" đầy trách-móc, nhưng thân-mật, vừa kẻ-cả vừa tha-thứ. "Bác" vẫn ngồi yên bên bàn-ăn, trong phòng-ăn. Dù phòng-ăn có hai cửa ra vào và hai cửa sổ, nhưng trần phòng và các bức tường che khuất các phòng khác, làm sao mà "Bác" thấy được người nào ở trên nóc bếp, mái nhà? Tay hầu-cận ý-thức rõ nhiệm-vụ của mình, theo phản-xạ tự-nhiên, vừa rút súng-lục ra khỏi bao, vừa chạy đến cầm ống-nghe của máy điện-thoại định gọi báo động, thì Hồ Chí Minh đã ra hiệu gác máy, cất súng. Tay hầu-cận tuân theo, nhưng vẫn ở trong tư-thế sẵn-sàng ra tay . Gã-ta vừa vểnh tai lắng nghe động-tĩnh bên ngoài, vừa chú mục nhìn "Bác". Hồ Chí Minh vẫn bình-tĩnh ngồi yên trên ghế, và từ-từ xoay nửa người cùng hướng mắt về phía phòng-khách, vừa nhìn xuyên qua mái-đúc vách-xây, vừa dõng-dạc nói: -- Đấy, anh lại phi-thân đến bên trên phòng khách rồi . Tôi thành thật khen anh đại-tài! Trung-tâm sinh-hoạt của tôi được canh gác kỹ- lưỡng; trụ-sở gồm nhiều khu, dãy, tầng, phòng; thế mà anh đã lọt vào được rồi, ngay giữa ban ngày, và mãi cho đến phút này vẫn chưa bị lộ... Nhưng anh không qua mặt tôi được đâu; tôi đã thấy hết hành tung của anh rồi!
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:38:29 GMT 9
TẠ ĐÌNH ĐỀ 3
Tay hầu-cận càng cảm thấy ớn lạnh khắp người . Gã-ta tuy là cần-vụ, nhưng mà là cần-vụ ngoại-hạng, vì phục-vụ "Bác" là một nấc thang cao nhất trong giới cần-vụ, có dịp gần-gũi, nghe biết nhiều điều bí-mật về Đảng và "Bác". Gã-ta đã nghe được chuyện một số văn-nghệ-sĩ có khuynh-hướng thân nhóm Nhân-Văn Giai-Phẩm phê-bình Đông Ky-Sốt (Don Quichotte, nhân-vật chính trong tác-phẩm nổi tiếng của Cervantès) - khuôn-mẫu của "AQ chính-truyện" và "Chí Phèo" -- là một loại anh-hùng "rơm" điển-hình của thế-giới loài người, mà "Bác" thì trong những lúc nói chuyện cũng như trong cuốn tiểu-sử mà "Bác" tự viết để tự đề-cao mình thì lại tôn-vinh Đông Ky-Sốt là hiệp-sĩ! Tay hầu-cận bỗng thoáng có một ý nghĩ bất-thường: Phải chăng lâu nay "Bác" vẫn có mặc-cảm còn thua kém "hiệp-sĩ" Đông Ky-Sốt ở mặt nào đó, dồn nén và căng thẳng mãi, nên đến hôm nay thì đã lên cơn? Hoặc là "Bác" tưởng-tượng ra một nhân-vật xuất-quỷ nhập-thần để đấu tài với "Bác" và để "Bác" tự cho mình thắng, cũng như "hiệp-sĩ" của "Bác" cứ mỗi lần bị người-ta nện cho một trận nhừ-tử thì lại triết-lý trong óc rằng "mày đánh tao tức là mày đánh cha mày đấy!" rồi tự thỏa-mãn với cái ý nghĩ đinh-ninh rằng cha của kẻ thù đã bị đánh nhừ đòn rồi! Hoặc là "Bác" đã gây nên quá nhiều chết-chóc oan-khiên cho người vô-tội, nên vong-hồn của kẻ bạc-mệnh nào đó đã hiện-hình thành ma-quỷ, hôm nay bắt đầu xâm-nhập quấy rối thần-kinh não-bộ của con cáo hồ-ly-tinh này chăng! Nghĩ đến đó, nước mắt tự-nhiên ứa trào ra hai khóe mắt của tay hầu-cận. Gã-ta thương "Bác" thì nhiều, nhưng cái thương ấy chỉ là thương-hại mà thôi, còn thì gã-ta tự thương thân mình nhiều hơn, vì "Bác" mà điên thì rất có thể là "Bác" sẽ giết chết gã-ta trong nháy mắt, tất-nhiên là do ma-lực xui khiến của yêu-quỷ mà thôi; và như thế thì thật là oan-uổng vô cùng cho một kiếp người tận-tụy hy-sinh vì "Bác", vì Đảng, từ bao lâu nay ...
Thế nhưng, ơ kìa, một gã tráng-niên khỏe mạnh nhanh-nhẹn đã bỗng nhảy xoẹt một cái từ trên mái lầu xuống sân, rồi lẹ-làng phóng ngay vào trong phòng-khách, xông tuốt vào trong phòng-ăn, đứng ngay trước mặt Chủ-Tịch Hồ Chí Minh. Hành động của vị khách lạ thoăn-thoắt như máy, tay hầu-cận chỉ có đứng sững mà nhìn chứ không còn biết phản-ứng ra sao . Hồ Chí Minh và vị khách trẻ yên lặng nhìn nhau, vừa nhận-diện vừa quan-sát đánh giá bản-lĩnh của nhau . Già Hồ lên tiếng trước: -- Chào anh Tạ Đình Đề! Trông anh già-dặn hơn trước nhiều, song có phần gầy+đen hơn lúc mới ra trường! Vị khách, trong bộ đồng-phục phổ-quát của một đảng-viên đảng cộng-sản Việt-Nam, nghiêng đầu chào "Bác" và bắt đầu bằng một câu hỏi: -- Chủ-tịch Hồ Chí Minh có nghĩ rằng, nếu tôi muốn, thì dù Chủ-Tịch có báo-động và huy-động toàn-lực bảo-vệ để truy bắt tôi, tôi vẫn có thể thoát khỏi nơi đây và lẩn vào bí-mật lại như thường được không? Hồ Chí Minh không trả lời thẳng vào câu hỏi ấy, mà lại đặt lại một câu hỏi khác: -- Anh Đề có nghĩ rằng, tuy anh đứng trước mặt tôi, nhưng anh có muốn thì anh cũng không thể nào động vào người tôi được không? Hai người không ai trả lời ai; rồi Hồ Chí Minh đứng dậy; rồi cả hai bước đến gần nhau, ôm nhau hôn, hôn bên này, hôn bên kia, theo kiểu cộng-sản. Họ rời nhau ra, nhìn nhau, cười với nhau thật tươi . Hồ Chí Minh chỉ ghế, mời Tạ Đình Đề ngồi xuống, bên bàn-ăn. Tạ Đình Đề không ngồi liền, đứng thẳng người, chắp hai tay trước bụng, lễ-phép nói: -- Thưa Bác, trước hết tôi xin bày tỏ lòng khâm phục của tôi đối với Bác. Tôi xin nói ngay là kể từ phút đầu tiên mà Bác phát hiện ra tôi, tôi đã thấy ngay là Bác cao tài hơn tôi; đến khi vào đây đứng trước mặt Bác, tự nhiên tôi thấy có một sức mạnh vô hình nào đó tự đáy lòng mình thúc đẩy tôi phải đổi hẳn từ thế thù nghịch sang niềm kính yêu . Vậy tôi quyết định chấm dứt công tác của địch giao cho, và xin đặt mình dưới quyền sử dụng của Bác, kể từ hôm nay . Hồ Chí Minh gật đầu, vỗ vai Tạ Đình Đề, ấn gã-ta ngồi xuống ghế: -- Tôi hiểu, tôi tin anh, và tôi nhận anh là đồng-chí của tôi! Tạ Đình Đề rút trong người ra một khẩu súng lục tí-hon có gắn một ống hãm-thanh, tháo những viên đạn có đầu sơn đỏ ra, cùng với một ống nhòm, một bản đồ Dinh Chủ-Tịch, một cục thạch-anh (để dùng với máy vô-tuyến truyền-tin), một số giấy-tờ tùy-thân của cán-bộ cao-cấp, một số bạc giấy, v.v... trao cho viên hầu-cận. Xong, gã-ta thò tay vào miệng, móc từ trong kẽ răng ra một viên thuốc độc, đặt lên thành mâm, trước mặt Hồ Chí Minh. "Bác" nói: -- Thôi, bây giờ chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện.
TẠ ĐÌNH ĐỀ 4
* SAU đây là tóm-lược đại-ý nội-dung câu chuyện của Tạ Đình Đề: Tạ Đình Đề được cơ-quan Tình-Báo Trung-Ương của Hoa-Kỳ (CIA) tuyển-mộ sau nhiều giai-đoạn điều-tra thử-thách cam-go . CIA đưa Tạ Đình Đề đến thụ-huấn tại một trung-tâm đào-tạo điệp-viên tại một nơi bí-mật thuộc lĩnh-thổ Hoa-Kỳ. Chương-trình học-tập bao gồm những gì mà những ai có đọc truyện trinh-thám gián-điệp đều đã biết được hoặc có thể tưởng-tượng thêm. Điều đáng nói là khóa huấn-luyện của Tạ Đình Đề chỉ dành riêng cho bốn người mà CIA cho là xuất-sắc nhất, gồm có: Tạ Đình Đề của Việt-Nam, Giang Thanh của Trung-Hoa (là người sau này làm vợ bé của Mao Trạch Đông, và là Ủy-Viên Trung-Ương của Đảng Cộng-Sản Trung-Hoa), và hai người khác mà Tạ Đình Đề nói là không thể biết tên cũng như không thể mô-tả hình dáng, chỉ trừ khi nào gặp lại thì chắc-chắn gã-ta sẽ nhận ra ngay .
Điều quan-trọng hơn hết là hai người kia thì Tạ Đình Đề tin chắc, do khả-năng tìm hiểu cũng như giác-quan thứ sáu của mình, là cũng được CIA giao-phó nhiệm-vụ đặc-biệt nhắm vào Việt-Nam: hoặc là sát-hại Hồ Chí Minh, hoặc là trường-kỳ mai-phục lèo-lái ngầm trong nội-bộ Đảng để thay đổi hẳn đường-lối chính-sách của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam sau này . Mỗi người hoạt-động theo một đường dây riêng. Tạ Đình Đề kết-luận là gã-ta đã lợi-dụng những tài-liệu học-tập và nghiên-cứu tham-khảo dồi-dào, không bị cắt xén của cơ-quan CIA, kể cả một số báo-cáo của các điệp-viên khác liên-quan đến con người của Hồ Chí Minh, để phác-họa ra trong óc một Hồ Chí Minh khác hẳn với con người mà phe chống Cộng nhận định. Do đó, gã-ta đã chọn cho mình một giải-pháp dứt-khoát: đợi cho đến khi giáp mặt Hồ Chí Minh, gã-ta sẽ đích-thân trực-tiếp đánh giá con người thật của họ Hồ, và sẽ... hoặc là ra tay trừ-khử, hoặc là... Tạ Đình Đề quay lại nhìn tay hầu-cận: -- Không phải "bị" trừ-khử đâu! -- Mà là tham gia cùng tôi để trừ khử những kẻ thù của nhân dân tiến bộ! -- Vâng, Bác quả thật là một lãnh-tụ đại-tài, xứng đáng là cấp lãnh đạo của tôi từ nay cho đến trọn đời . * Từ đó, Tạ Đình Đề nghiễm-nhiên trở thành vệ-sĩ kiêm cố-vấn cho Hồ Chí Minh, ít nhất thì cũng là trong lĩnh-vực phản-gián, đối-phó với các âm-mưu kế-hoạch của Hoa-Kỳ qua các hoạt động của cơ-quan tình-báo CIA .
Tạ Đình Đề không ngừng chứng-tỏ cho mọi cán-bộ Trung-Ương Đảng thấy rõ tài-năng xuất-chúng của mình. Tạ Đình Đề bắn súng đại-tài . Riêng về biệt-tài này, có một lần ngay trong buổi họp của Bộ Chính-Trị Trung-Ương Đảng, gã-ta đã chớp-nhoáng rút súng bắn tắt đóm lửa ở đầu điếu thuốc mà Võ Nguyên Giáp ngồi ở dãy bàn bên kia đang ngậm hút trên môi . Thường thì mỗi khi có ai làm gì sai+trái, dù là nhỏ-nhặt, Hồ Chí Minh cũng quở trách; nhưng với việc làm lộng-hành này của Tạ Đình Đề thì Hồ Chí Minh chỉ cười xòa, lại còn khen là giỏi, khiến không khỏi gây bất-mãn trong lòng một số người .
Có một lần khác, "Bác" và các tay đầu-não của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam đang dự xem một cuộc trình diễn trên sân khấu . Dở chừng, có một nữ diễn-viên vừa mới bước ra, chưa kịp nói xong câu nói đầu tiên của vai trò mình, thì Tạ Đình Đề đã đứng vụt dậy, rút súng bắn một phát; người nữ-nghệ-sĩ chết ngay tức-thì. Tạ Đình Đề liền dẫn Hồ Chí Minh, có các Bí-Thư Trung-Ương Đảng cùng theo, bước lên sân khấu . Tạ Đình Đề khám xét trong người tử-thi, lấy ra một khẩu súng lục tí-hon và một cục thạch-anh giấu trong nịt vú, đưa ra cho "Bác" xem. Tiếp theo, Tạ Đình Đề cởi tuột quần của người xấu số, kéo dang hai chân ra, chỉ cho "Bác" thấy một cái vết chàm trên háng cô-ta . Rồi gã-ta lấy trong túi ra một con dao nhỏ, cạo một mảng tóc trên đầu nạn-nhân, để lộ ra và chỉ cho Hồ Chí Minh nhìn thấy mấy nét xăm da mà chính Tạ Đình Đề cũng không biết là hình gì, chữ gì . Hồ Chí Minh siết chặt tay Tạ Đình Đề, rồi ôm chầm lấy gã-ta mà hôn, hôn bên này, hôn bên kia, theo kiểu cộng-sản, xong nói lớn với mọi người có mặt xung quanh: -- Tạ Đình Đề đã cứu sống Bác! Lời "Bác" là chân-lý, mọi người đều tin theo.
Tuy-nhiên, "Bác" hiểu tâm-lý mọi người, muốn biết rõ hơn, nên Hồ Chí Minh giải-thích: -- Anh Đề đã có báo-cáo cho Bác biết trước; báo-cáo hiện lưu trong hồ-sơ mật trong phòng làm việc của Bác. Để Bác tóm-tắt câu chuyện như sau:
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:40:56 GMT 9
TẠ ĐÌNH ĐỀ 5
Để Bác tóm-tắt câu chuyện như sau: Vì cùng học chung một khóa, cùng sinh-hoạt chung, gồm cả bơi-lội, và vì đàn-bà con-gái phải mặc đồ tắm theo lối Âu-Mỹ, nên anh Đề đã nhìn thấy vết chàm trên háng người nữ điệp-viên CIA này . Đồng-thời, vì phải thực-tập quan-sát, nhận-xét tỉ-mỉ, nên anh Đề đã để ý nhận thấy có cả một tuần cô-ta tắm mà không để ướt đầu, có khi ngứa không chịu nổi đành phải đưa tay lên gãi, nên anh Đề biết là có một sự rách tấy trên lớp da đầu; đến khi học về phương-thức thông-tin, thị-hiệu, gồm có cả những dấu-hiệu kín đáo tạo ra ngay trên cơ-thể của mình, thì anh Đề mới tin chắc là cô-ta đã xăm da . Đối-phương thay tên, đổi tuổi, ngụy-tạo lý-lịch, ngoại-hình, nên anh Đề không biết trước kẻ thù là ai, làm gì, ở đâu . Nhưng nhờ đã có ở chung với nhau nhiều năm trong trường huấn-luyện, và nhờ kiến-thức, kinh-nghiệm, cũng như linh-tính, nhất là nhờ lòng yêu nước, nhờ tình đồng-chí, anh Đề đã nhận ra được kẻ thù ngay khi cô-ta vừa mới xuất-hiện trên sân-khấu . Nếu không, thì với vũ-khí ấy, với tài bắn súng của một điệp-viên CIA, kẻ thù chắc hẳn đã hại được Bác rồi! Tất cả đều tranh nhau ôm hôn Hồ Chí Minh để mừng "Bác" thoát chết, rồi ôm hôn Tạ Đình Đề để cám ơn vị cứu-tinh đã cứu mạng cho "lãnh-tụ vô vàn kính yêu" của mình.
* Thế là Tạ Đình Đề đã trở thành anh-hùng cứu "Bác"; mà cứu "Bác" thì tức là cứu Đảng, cứu Nước. Thủ-tướng Phạm Văn Đồng đã nhân danh Nhà-Nước trao tặng Tạ Đình Đề một chiếc xe mô-tô . Thuở ấy, chỉ có được một chiếc xe-đạp đã là dấu-hiệu của sự cao sang, ăn-nên làm-ra . Xe mô-tô rất hiếm-có ở Hà-Nội; vả lại các người có nó cũng ít khi dùng, vì phải tiết-kiệm xăng dầu, và để tỏ ra là mình bình dân, không dùng xe sang. Đến khi đã có xe mô-tô rồi thì Tạ Đình Đề, là một nhân-vật ngoại-hạng, đã sử-dụng nó khá thường-xuyên, đến nỗi hễ thấy có người cỡi xe mô-tô, thậm-chí chỉ mới nghe tiếng máy xe mô-tô, là người dân ở Hà-Nội đã đinh-ninh rằng đó là Tạ Đình Đề. Một hôm nọ, Tạ Đình Đề cỡi xe mô-tô chạy trên một con đường hẹp, có trồng cây cao bóng rợp che mát mái nhà hai bên. Thường thì đồng-bào nghe tiếng máy xe mô-tô hoặc xe ô-tô là ai nấy đều tránh sát bên lề, nên Tạ Đình Đề chạy xe khá nhanh, hướng phía đường lớn phóng ra . Rủi thay, lần ấy ngẫu-nhiên có một chiếc xe ô-tô bộ đội chạy từ đường lớn rẽ vào, mà cũng chạy nhanh, nên vừa vào xong thì hai xe ấy gặp nhau . Tiếng thắng rít lên, và tiếng kim-loại đâm sầm vào nhau, khiến mọi người ở gần đấy đều thất-thanh kêu lên: "Trời! Anh Đề!" Đồng-bào từ hai bên đường ào ra, ai nấy đều lo cho tính-mệnh của gã-ta . Nhưng chiếc xe mô-tô thì bị ô-tô cán dẹp, mà Tạ Đình Đề thì không thấy đâu . Đợi cho dân-chúng dòm dưới gầm xe ô-tô, nhớn-nhác nhìn quanh một lát xong, Tạ Đình Đề mới cười to và từ trên một nhánh cây nhảy xuống, hoàn-toàn bình-yên. Gã-ta liền được mọi người ôm hôn, vừa mừng thoát nạn, vừa khen không tiếc lời . * Ngày 02 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh "về với cụ Các Mác và bác Lê Nin". Tạ Đình Đề mất chỗ dựa, bèn được bố-trí cho làm Cục-Phó Cục Đường-Sắt, đặc-trách Thể-Dục Thể-Thao . Trong nhiệm-vụ và quyền-hạn của mình, Tạ Đình Đề thu nạp một số thanh-niên vào làm nhân-viên Đường-Sắt, mà thực-tế là để tăng-cường cầu-thủ và nâng cao tài-nghệ của Đội Bóng Đá Trung-Ương: chiếm nhiều giải-nhất, được xếp vào hàng Đội A toàn-quốc, chứ không phục-vụ công-tác chuyên-môn của ngành Hỏa-Xa . Xen lẫn trong số cầu-thủ ấy có một số có lý-lịch lem-nhem, nên Tạ Đình Đề bị phê-bình nhiều lần.
TẠ ĐÌNH ĐỀ 6
Năm 1972, tình-hình có thay đổi lớn. Biến-cố quan-trọng hàng đầu là Tổng-Thống Hoa-Kỳ Richard Nixon qua Bắc Kinh thăm Mao Trạch Đông, mở đầu một giai đoạn mới trong bang-giao Mỹ--Hoa . Hoa-Cộng đã xáp đến gần Hoa-Kỳ! Mỹ--Hoa có nhiều chương-trình kế-hoạch; ngoài những vấn-đề công-khai, hẳn còn có những bí-mật: hai bên hợp-tác với nhau, rõ-ràng có hại cho Cộng-Sản Việt-Nam. Bên Hoa-lục đã có điêp-viên CIA Giang Thanh cầm nắm họ Mao, còn tại Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa thì sao ...? Thế là, chiếu theo kiến-nghị của "nhân dân", cán-bộ, công-nhân viên-chức, và bộ-đội, Tạ Đình Đề bị đưa ra trước Tòa-Án Nhân Dân, vì phạm các tội sau đây: - Phá-hoại tài-sản nhân dân, không chịu bảo-quản tài-sản công-cộng, làm hỏng chiếc xe mô-tô của Nhà-Nước và Nhân Dân; - Xúc-phạm danh dự, uy-tín của các Ủy-viên lãnh đạo Đảng cấp Trung-Ương; - Lạm dụng chức quyền; dung-nạp các phần-tử bất-hảo thuộc thành-phần có thân-nhân di-cư vào Nam, có liên-hệ với một số công-chức, sĩ-quan cao-cấp tại Miền Nam, có người thân can tội bao che cho Biệt-Kích "Ngụy" và giặc lái Mỹ bị "Ta" bắn rơi; - Làm gián điệp cho CIA mà không khai-báo đầy đủ với cơ-quan chuyên-trách hữu-quan. Bằng-chứng là, về mặt đối-nội, trước khi giả-vờ khuất-phục và cộng-tác với Hồ Chí Minh, Tạ Đình Đề đã gây ra vô-vàn tội ác đối với Đảng, phá-hoại cơ-sở, sát-hại đảng-viên, trong một thời-gian khá lâu, từ vùng biên-giới đến vùng ven đô Hà-Nội; về mặt đối-ngoại, đã lợi dụng vai trò gọi là "trung-lập" của Hồ Chí Minh giữa hai thế-lực Hoa-Cộng và Liên-Xô để thu-thập tin-tức về nội-bộ của hai Đảng cộng-sản "anh+em" ấy hầu cung-cấp cho CIA ... Buổi sáng hôm đó, thay vì tuân-hành mật-lệnh của các cấp Ủy, đến dự phiên tòa để phát-biểu và hô khẩu-hiệu đòi-hỏi nghiêm-trị Tạ Đình Đề -- tối đa là án tử-hình -- thì đám đông người thuộc các tầng-lớp dân-chúng thủ đô Hà-Nội và từ các Tỉnh lân-cận kéo về, đã đến tụ-tập đầy nghẹt từ trong tòa-án ra các ngã đường xung quanh, từ khi trời chưa rạng sáng, với bộ mặt u sầu như khi đi dự đám tang. Mặc kệ, cơ-quan tư-pháp vẫn mở phiên tòa . Đồng-bào có mặt lúc đầu xôn-xao bàn-tán từng nhóm, từng nơi; về sau đồng loạt công-khai chỉ-trích, lớn tiếng phản đối những lời buộc tội của cán-bộ Công-Tố được máy phóng-thanh phát ra khắp các phố phường, bất-chấp mọi sự hù dọa của Công-An sát-khí đằng đằng. Đến khi Tạ Đình Đề được phép lên tiếng trước tòa, mọi người không ai rủ ai đều lặng im hồi-hộp lắng nghe . -- Nếu Hồ Chủ Tịch vô vàn kính yêu của chúng ta mà vẫn còn sống, thì hẳn là tôi không bị đem ra hành tội nhục nhã như thế này! Đó là câu nói duy-nhất của Tạ Đình Đề trong phiên tòa ấy, mà giọng nói của gã-ta thì hầu như số đông đã quen thuộc nên nhận ra ngay; không những nhận ra tiếng nói mà còn nhận ra con người, một nhân-vật vừa "dân-tộc, khoa-học, đại-chúng", vừa cổ-tích dân-gian, một hình-ảnh gợi nhớ đến Hồ Chí Minh mà hồi đó đa-số người dân ở Miền Bắc còn bị bưng-bít nên xem như thần-thánh, thân-thương như cha già. Tự-nhiên, tưởng như do một mệnh-lệnh và một quyền-lực thiêng-liêng sai-khiến, mọi người có mặt đều khóc òa lên, rồi cùng nhau hô to khẩu-hiệu đả đảo tòa-án, la hét vang trời, đẩy nhau xông vào trụ-sở pháp đình. Những người đã vào sẵn trong đó rồi thì vội nhảy đến công-kênh Tạ Đình Đề lên vai, đập phá bàn ghế, tấn-công các thẩm-phán hữu-quan, khiến các tên này phải lủi ngã sau . Cuối cùng, Công-An dùng loa phóng-thanh tuyên-bố tòa đã đình xử, và giải-tán đồng-bào . Sau đó, không còn nghe ai đả động gì nữa đến việc xử tội Tạ Đình Đề ... * TÔI đã nghe được nhiều lần, cả cán-bộ cộng-sản tại-chức lẫn bị bắt vì tội phản động, kinh-tế, tham-ô, cũng như thường-dân bị bắt vì xâm-phạm tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, hối-lộ, vượt biển, v.v... bị giam chung buồng với tôi, tại Thanh-Liệt (Hà-Nội), Kho Đạn (Chợ-Cồn, Đà-Nẵng), Hội-An, An-Điềm, Đồng-Mộ, Tiên-Lãnh, Hòa-Sơn (Quảng-Nam), v.v... kể về Tạ Đình Đề. Chuyện của mỗi người có những chi-tiết khác nhau, nhưng tựu-trung các điểm chính-yếu đều y như trên. Có lần, tại trại Hòa Sơn -- một trại quy-mô mới lập ở gần Đà-Nẵng -- tôi nghe một số cựu cán-bộ Việt-Cộng tranh-luận với nhau về câu chuyện này . Một gã cao-niên nói rằng hồi xưa quả có một người tên Tạ Đình Đề, đã được Hồ Chí Minh nhờ cơ-quan OSS (Tiền-thân của cơ-quan CIA) huấn-luyện giùm về tình-báo; nhưng về sau chỉ hoạt-động trong khuôn-phép chứ không ngang-tàng như trên. Có người hỏi lại về người vừa mới phát-biểu thì biết gã-ấy đã rời hàng-ngũ Việt-Minh từ trước 1954, không biết những gì xảy ra về sau . Lại cũng có người nói là có biết một bảo-vệ-viên thân-tín của Hồ Chí Minh, về sau là Tổng-Cục-Phó Tổng-Cục Thể-Dục Thể-Thao, có những đặc-tính giông-giống nhân-vật mà người ta truyền-tụng, nhưng tên là Tạ Quang Chiến (liên-can trong vụ thủ-tiêu Nguyễn Thị Xuân, vợ hờ của Hồ Chí Minh) chứ không phải là Tạ Đình Đề. Phải chăng ngoài bọn Kháng+Chiến+Thành+Công còn có thêm một tay hầu-cận khác, ngoài Tạ Đình Đề; hay là Chiến cũng là Đề?
LÊ XUÂN NHUẬN Huyền thoại VC: TẠ ĐÌNH ĐỂ (đoạn cuối)
Lại cũng có người nói là có biết một bảo-vệ-viên thân-tín của Hồ Chí Minh, về sau là Tổng-Cục-Phó Tổng-Cục Thể-Dục Thể-Thao, có những đặc-tính giông-giống nhân-vật mà người ta truyền-tụng, nhưng tên là Tạ Quang Chiến (liên-can trong vụ thủ-tiêu Nguyễn Thị Xuân, vợ hờ của Hồ Chí Minh) chứ không phải là Tạ Đình Đề. Phải chăng ngoài bọn Kháng+Chiến+Thành+Công còn có thêm một tay hầu-cận khác, ngoài Tạ Đình Đề; hay là Chiến cũng là Đề?
Sau nhiều ngày bàn-cãi, cả bọn đồng-ý với nhau rằng sự-tích Tạ Đình Đề có ngụ-ý là, với truyền-thống ấy, các lớp đàn-em của họ Tạ, tức CIA sau này, dù có tài-giỏi bao nhiêu đi nữa thì rồi cũng phải quy-phục các thế-hệ con+cháu của họ Hồ mà thôi!
Tuy nhiên, sau đó có một kẻ trong bọn đã nói riêng vào tai tôi: Nếu tính đơn-giản thì Tổng-Thống Mỹ là cấp một, Hội Đồng An-Ninh Tình-Báo Quốc-Gia là cấp hai, Giám Đốc CIA là cấp ba, Trưởng Vụ Điệp-Báo hoặc Trưởng Vùng Tình-Báo Đông-Nam-Á là cấp bốn, Trưởng Lưới của Tạ Đình Đề là cấp năm; vậy thì Đề có cao lắm cũng chỉ là cấp sáu mà thôi . Thế mà phải cần đến Hồ Chí Minh là cấp một của Việt-Nam mới đối-phó nổi với một phần-tử cấp sáu của Hoa-Kỳ, trong lúc Việt-Nam thì không có ai "tài-cán" bằng Hồ Chí Minh, và CIA thì lớn mạnh hơn, cầm nắm tình-hình thế-giới ngày càng chặt-chẽ hơn! Tôi phải giữ kẽ nên chỉ giả-vờ tò-mò hỏi xem hiện nay Tạ Đình Đề ở đâu, làm gì, ra sao, v.v... thì có vài người, tất-nhiên thuộc giới cộng-sản thâm-niên, nói là nghe đâu gã-ta đã được đưa qua Liên-Xô sau cuộc xử án bất-thành.
Lâu lâu các cán-bộ Việt-Cộng bị "cải-tạo" nói trên lại suy-đoán với nhau về những nhân-vật có một cuộc đời hai mặt, tỷ như: đại-tá Lê Minh Quốc, đã chết mất xác trên chiến-trường Miền Nam mà rồi sau đó lại trở thành một trung-tướng Không-Quân Liên Xô trong phái đoàn Liên Xô đến Hà Nội đầu năm 1982; đại-tá Nguyễn Quốc Chí đã là liệt-sĩ mà rồi sau đó lại trở thành chính-ủy Hoa-Cộng giật dây Hoàng Văn Hoan trong cái gọi là "Đảng Cộng-Sản Hồ Chí Minh" và "Chính-Phủ Lâm-Thời Dân-Tộc Liên-Hiệp Việt-Nam" Lưu-Vong tại Bắc-Kinh sau biến cố 1979...
RIÊNG tôi nhận ra một điều vô cùng quan-trọng và đầy phấn-khởi trong câu chuyện Tạ Đình Đề: Họ Tạ, do chính Hồ Chí Minh và các Ủy-Viên Trung-Ương Đảng kể lại, có tiết-lộ là CIA đã đào-tạo được, trong khóa ấy, cả thảy bốn điệp-viên. Trừ Giang-Thanh của Trung-Hoa ra, còn lại ba người, đều được giao-phó nhiệm-vụ nhắm vào Việt-Nam. Cô nữ diễn-viên sân khấu đã bị Tạ Đình Đề bắn hạ rồi; Tạ Đình Đề thì hiện đã qua Liên-Xô . Vậy người thứ ba, điệp-viên CIA, mà Tạ Đình Đề nói là có nhiệm-vụ mai-phục trường-kỳ -- ở lâu, đi sâu, trèo cao -- trong Trung-Ương Đảng, hẳn là tài giỏi hơn Tạ Đình Đề -- vì mãi đến nay vẫn chưa bại-lộ -- hiện đang làm gì, ở cương-vị nào; và đến bao giờ thì chúng ta mới biết được những thành-quả của sứ-mệnh bí-mật của tay gián-điệp kỳ-tài kia ?
LÊ XUÂN NHUẬN (tác-giả cuốn hồi-ký "Cảnh-Sát-Hóa, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hòa" tái-bản 2005)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:42:32 GMT 9
KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY VÀ KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN NGUYỄN An Dân là chủ-nhiệm kiêm chủ-bút đặc-san “Ðông Phương”, xuất-bản tại Ðà-Nẵng, đã phát-hành đến tập III, mệnh-danh là Tiếng Nói của “Ðông-Phương Văn-Ðoàn”. Tổ-chức này cũng do y cầm đầu. Với đặc-san trên, Dân đã công-khai mạt-sát Việt-Nam Cộng-Hòa, đề-cao cộng-sản Việt-Nam, gay-gắt hơn cả các đài phát-thanh Hà-Nội và Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam. VÌ không thấy ngành Thông-Tin của ta có biện-pháp gì, tôi bèn tìm cách bịt miệng cán-bộ tuyên-truyền của Việt-Cộng này.DÂN có một số thân-nhân trực-hệ trong ban lãnh-đạo Liên-Khu-Ủy và Tỉnh-Ủy Việt-Cộng địa-phương, thường-xuyên vào rừng, có mặt tại các địa-điểm tặc-phỉ tập-trung dân-chúng tuyên-truyền & cưỡng-thu vật+tài, đồng-thời tham-gia “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” của nhóm đối-lập Vũ Văn Mẫu, và hay lui tới các Chùa. Dân chơi rất thân với kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, Hiệu-Trưởng Trường trung-học Kỹ-Thuật Cao Thắng, là người cũng dùng danh-nghĩa “Thành-Phần Thứ Ba” để chống Việt-Nam Cộng-Hòa. Chính Bảy che-chở cho Dân trong nhiều trường-hợp Dân bị Cảnh-Sát chận xét dọc đường, suýt lộ tài-liệu Việt-Cộng mà y mang theo. TÔI không tiện cho Ðặc-Cảnh bắt Nguyễn An Dân về mặt chính-trị, vì nếu làm thế thì sẽ lộ ra các phần-tử khác mà trong số đó có những điệp-viên cũng như mục-tiêu xâm-nhập của chúng tôi. Tôi giao cho Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Ðà-Nẵng giải-quyết về mặt pháp-lý, vì Dân ra báo mà không khai trình với Bộ Nội-Vụ để xin phái-lai. Dân bị bắt giam tại Trung-Tâm Cải-Huấn Ðà-Nẵng, ở Chợ-Cồn. Ðó là một cách chận đứng cái loa dấy loạn của y, đồng-thời bảo-vệ các lưới phản-gián của ngành Ðặc-Cảnh chúng tôi. * NGÀY 25-8-1978, tôi bị chúng đưa từ Trung-Tâm Lao+Cải “An-Ðiềm” về Trại Tạm-Giam “Kho Ðạn” (“Chợ Cồn”) Ðà-Nẵng. Việt-Cộng nhốt tôi vào một buồng riêng gần cuối Khu B, bít kín mọi cửa, canh gác cẩn-mật. Mỗi ngày nhiều lần chúng dẫn tôi đi khai cung, về vài trong những điệp-viên tôi đã gài vào nội-bộ của chúng mà mãi đến nay chúng mới bắt đầu nghi-ngờ. Tôi thấy các buồng kế tôi cũng bị bít kín, không nghe tiếng ồn nhiều người như những ngày đầu sau cơn quốc-biến 1975; và bên trong khung lỗ rộng chừng một bàn tay cắt thủng ở góc tấm tôn đóng chắn cửa sổ mỗi buồng, tôi thấy thấp-thoáng có một hoặc hai cặp mắt tò-mò nhìn ra. Sau đó ít hôm, Việt-Cộng đưa vào giam chung với tôi hai nhà-sư trẻ; đó là Trần Văn Cúc và Hoàng Mộng Xuân. Họ đã đội lốt nhà-sư để đi tuyên-truyền, móc-nối, liên-lạc tiếp-xúc, hoạt-động chống Cộng từ nội-thành ra ngoại-ô. Bị bắt, bị đánh dã-man, họ chỉ khai là đi tìm đường dây vượt biên để xin đi theo. Hai anh Cúc & Xuân đã cho tôi biết rõ hơn về một số biến-cố chính-trị đã xảy ra trong nước nói chung, và tại Quảng-Nam/Ðà-Nẵng nói riêng, sau ngày cộng-sản cưỡng-chiếm Miền Nam. Nổi bật nhất tại Tỉnh này là vụ kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, nguyên Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học Kỹ-Thuật “Cao Thắng”, người đã lập nên “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”, tổ-chức mật-khu trong rừng, chiêu-mộ chiến-sĩ, và đã tấn-công vũ-trang vào một số cơ-quan & đơn-vị Việt-Cộng quanh vùng để mở rộng phạm-vi kiểm-soát; nhưng nay đã bị Việt-Cộng huy-động toàn-lực bộ-đội hành-quân đè bẹp, phá hủy căn-cứ, và bắt đem về biệt-giam cũng tại Trại này, cùng với hằng trăm chiến-hữu cũng bị bắt tại chiến-khu, hoặc bị truy bắt về sau. * NGÀY 25-12-1978, tôi bị chuyển đến trại giam Hội-An. Tại đây, chúng giam tôi chung với khoảng năm/sáu chục người, thuộc nhiều thành-phần khác nhau: hình-sự, vượt biên, phản-động hiện-hành, và “kinh-tế”. Tuy nhiên, có một thực-tế mà Việt-Cộng không ngờ: đại-đa-số cán-bộ và bộ-đội bị bắt đều đã không được cơ-quan hay đơn-vị của mình chước-miễn - đã bị cách-chức, tước lột quân-hàm, khai-trừ khỏi Ðảng, và bị tì-vết lý-lịch - nên họ không còn tha-thiết gì đến công-tác của ngành Công-An, chưa kể một số đã ra công-khai chống lại Ðảng và Nhà-Nước. Nhờ thế, tôi đã nghe được khá nhiều tin-tức ngoài đời. NGÀY xưa, Tỉnh Quảng-Nam có một lần đến năm danh-nhân được triều-đình Nhà Nguyễn phong là “Ngũ Phụng Tề Phi”. Trong chiến-tranh Việt-Nam, Tỉnh này cũng có rất nhiều phần-tử hoạt-động đắc-lực cho Việt-Cộng nên được Ðảng và Nhà-Nước khen là “Quảng Nam Ði Ðầu Diệt Mỹ”. Nhưng các tổ-chức quần-chúng và cá-nhân có tinh-thần Quốc-Gia thì chống Cộng quyết-liệt vô-cùng. Ngay sau khi Việt-Cộng bắt giam các công-chức và quân-nhân của chế-độ cũ, đại-đức Từ Toại và giáo-sư Phạm Văn Bình đã cùng các bạn trương biểu-ngữ, dán bích-chương, và rải truyền-đơn, tổ-chức một cuộc biểu-tình tuần-hành có đông đồng-bào tham-dự, qua các đại-lộ trong Thành-Phố Ðà-Nẵng. Có nhiều vụ ném lựu-đạn vào Công-An, bộ-đội; nhiều vụ chống-cự bằng vũ-lực vì bị tịch-thu tài-sản qua các chiến-dịch “đánh tư-sản mại-bản”, “cải-tạo công+thương-nghiệp”, “bài-trừ văn-hóa-phẩm nô-dịch và đồi-trụy”. Ðồng-bào ào ào kéo nhau đi vượt biên, vượt biển, giống như tại các nơi khác trên khắp Miền Nam. Người ta đồn miệng với nhau là trung-tướng Ngô Quang Trưởng đã đem Phục-Quốc-Quân về đánh vào biên-giới; phe ta kiểm-soát lưu-thông qua các đèo+núi trên Quốc-Lộ số 1 và nhiều vùng ngoại-ô; trực-thăng Hoa-Kỳ đến bốc một số nhân-vật trọng-yếu; tàu đổ-bộ của Ðệ-Thất Hạm-Ðội nhiều lần vào bờ tấn-công các Ðồn Biên-Phòng; dân đánh cá thỉnh-thoảng có gặp tàu ngầm của Mỹ còn lảng-vảng ngoài khơi. Truyền-đơn chống-Cộng nhiều nhất là của “Ðảng Hắc-Long” (Vùng I), “Ðảng Thanh-Long” (Vùng II), “Ðảng Bảo-Long” (Vùng III và Vùng IV).
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:43:57 GMT 9
KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN & KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY 2
Ðúng ba năm sau ngày Ðà-Nẵng thất-thủ, ba tiếng nổ long trời lở đất từ sân-bay Ðà-Nẵng phát ra, làm rung chuyển cả thành-phố và các vùng phụ-cận, tạo nên một biển lửa kinh-hoàng, gây thiệt-hại nặng-nề cho các cơ-sở hoạt-động không-phòng, máy-bay, và cả nhân-mạng của đơn-vị Không-Quân Việt-Cộng đồn-trú tại sân-bay chiến-lược lớn nhất Miền Trung này, khiến người dân địa-phương nhớ lại ba tiếng nổ lớn cũng tại phi-trường này một tháng trước ngày Vùng I rơi vào tay Cộng-quân. Lần ấy, cơ-sở nội-tuyến Việt-Cộng đã phá-hoại ba hầm bom+đạn của ta mà vị-trí thiết-lập thì dù kiên-cố bao nhiêu người ngoài cũng có thể biết được; và sau đó thì Cơ-Quan E6 của tôi đã tìm ra thủ-phạm, là hai hạ-sĩ-quan Không-Quân, mà Ngành Ðặc-Cảnh đã nghi-ngờ từ lâu. Lần này, sau khi đối-phương chiếm được sân-bay tối-tân của ta, các chuyên-gia tài-giỏi nhất của Liên-Xô đã dùng tất cả những phương-tiện và khả-năng khoa-học kỹ-thuật tiên-tiến nhất của thế-giới cộng-sản để rà tìm xem thử Việt-Nam Cộng-Hòa có chôn giấu hoặc gài bẫy bom+mìn, máy-móc gì dưới đất và xung quanh sân-bay hay không, mà không tìm thấy, và đã cải-tổ mọi cơ-cấu phòng-bị cho thật an-toàn; thế mà, ba hầm bí-mật bom lân-tinh, nằm yên ngay trong sân-bay được chúng bảo-vệ nghiêm-ngặt ấy suốt ba năm nay, đã bất-thần phát nổ, như tiếng sấm lệnh khẳng-định hùng-hồn sự trường-tồn của Chính-Nghĩa Tất-Thắng và thúc-giục toàn-dân đứng lên.
Chính trong tình-hình sôi bỏng ấy, nhiều tổ-chức chống-Cộng đã thành-hình; nhiều cá-nhân chống-Cộng đã đơn-phương ra tay; và không ít anh-hùng ái-quốc đã hy-sinh.
“Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” là tổ-chức lớn mạnh hơn hết, có tầm hoạt-động bí-mật lấn ra thấu Huế và vào tận các Tỉnh phía Nam, có chiến-khu công-khai làm căn-cứ-địa xuất-phát các chiến-dịch giải-phóng lĩnh-thổ, giải-thoát đồng-bào.
Ấy thế mà... * NGÀY 20-4-1982, Việt-Cộng đưa tôi từ Trại “Thanh-Liệt”, Hà-Nội - sau khi điều-tra về các điệp-vụ mà tôi đã tổ-chức tại hai nước cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi - về lại Tỉnh Quảng-Nam, và giam tại Trại “Hội-An”. Tại đây, tôi được biết là kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, cùng với năm chiến-hữu khác, trong Ban Lĩnh-Ðạo “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”, đã bị kết án tử-hình trong một “phiên tòa điển-hình”, và liền sau đó đã bị hành-quyết, tại Ðà-Nẵng. Trong số những người bị kết án tử-hình trong vụ này, có tiến-sĩ Nguyễn Nhuận, nguyên giáo-sư tại Viện Ðại-Học Huế, cũng thuộc một tổ-chức chống Cộng khác ở Tỉnh Thừa-Thiên. Hằng chục người khác bị kết án tù chung-thân hoặc hai mươi năm; số bị tù ngắn hạn hơn thì rất nhiều. * NGÀY 20-4-1985, tôi bị đưa từ Trại “Hòa-Sơn” - một trại rộng lớn mới được dựng lên trên lĩnh-thổ Huyện Hòa-Vang của Tỉnh Quảng-Nam, gần Thành-Phố Ðà-Nẵng - về lại Trại Lao+Cải “Tiên-Lãnh I”. Cùng đi chung với tôi, có một tù-nhân chống nạng khập-khiễng được dìu từ Khu khác ra, bế nâng lên xe. Chúng tôi ngồi sát bên nhau trên ghế sau, hai tên Công-An ngồi kèm hai bên. Tên Công-An Trưởng Toán ra lệnh cho chúng tôi và dặn hai gã kia kiểm-soát để chúng tôi không được nói chuyện hoặc ra dấu-hiệu gì với nhau.
LÚC đến địa-phận Huyện Tiên-Phước, xe bị lún bánh ở một đoạn đường đất đỏ ngập nước. Cả Trưởng-Toán lẫn hai tên Bảo-Vệ đều xuống lội lầy đẩy xe, trong lúc lái-xe tăng ga rú máy, mà xe vẫn không lên được. Tên Trưởng-Toán bèn ra lệnh cho tôi xuống xe trước, rồi quay lại bế đỡ người bạn tù đồng-hành của tôi xuống xe, đến đợi ở một mô đất cao bên vệ đường. Vì đường ngập sình, vả lại anh-ta cũng nhẹ, nên tôi bế thẳng anh-ta đến đặt ngồi trên mô ấy, rồi tôi cũng ngồi xuống theo, để cho hai tên Bảo-Vệ trói chúng tôi lại với nhau kẻo sợ chúng tôi chạy trốn. Trong lúc toán Công-An ấy xúm lo đưa xe lên khỏi vũng lầy, người bạn-tù của tôi cúi mặt xuống đất, giả-vờ quan-sát cái chân bị đau, hỏi tôi: “Có phải anh là Lê Xuân Nhuận không?” Tôi cũng nghiêng đầu, làm bộ đang nhìn ngó vào chỗ khác, trả lời: “Vâng. Nhưng lâu ngày quá, tôi chưa nhận được ra anh là ai.” Anh-ta tự giới-thiệu: “Tôi là Nguyễn An Dân.” Ngạc-nhiên, tôi quay mặt lại nhìn vào đôi mắt anh-ta. Anh-ta nói tiếp: “Tôi nhìn thấy anh bị chúng dẫn đi hỏi cung, hằng ngày đi qua trước buồng của tôi, trong năm 1978; hồi đó chúng ta cùng ở Khu B, Trại Chợ-Cồn. Tôi hỏi các anh ở các buồng bên mới biết tên anh. Trước năm 1975, anh đã...”
KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN & KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY 3
Anh-ta nghẹn-ngào không nói được thêm. Tôi thấy rõ hai dòng lệ ứa ra từ đôi mắt đen to tròn của anh-ta.
ÐẾN Trại “Tiên-Lãnh I”, ngẫu-nhiên Nguyễn An Dân và tôi bị giam chung với nhau trong một buồng nhỏ thuộc dãy cách-ly. Nhờ thế, tôi đã biết được mối quan-hệ sau này giữa Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn An Dân.
NGUYỄN An Dân quả thật là một cán-bộ Việt-Cộng nằm vùng, cán-bộ chứ không phải chỉ là cơ-sở thường. Thân-nhân lôi cuốn, các phần-tử cộng-sản quan-trọng khác động-viên và chỉ-đạo. Ðối-phương giao cho Dân công-tác vận-động trí-thức, thanh-niên, sinh-viên, học-sinh, và bất-cứ thành-phần nào khác có thể được, từ Tỉnh Quảng-Nam & Thị-Xã Ðà-Nẵng ra đến các địa-phương xung quanh, kể cả và nhất là Thủ-Ðô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa. Dân đã vào các mật-khu của Việt-Cộng, nhiều nơi, nhiều lần, nên am-thạo địa-hình địa-vật của vùng rừng núi Tỉnh Quảng-Nam, nơi trú đóng của Ðảng-Ủy Liên-Khu V, Quân-Ủy Quân-Khu V, cũng như Tỉnh-Ủy Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng của Cộng-Sản Việt-Nam.
Ở vùng Quốc-Gia, Dân tổ-chức văn-đoàn “Ðông-Phương” như một đảng chính-trị, có hệ-thống liên-lạc chỉ-đạo tại các Tỉnh và Thành+Thị lớn trong đó có Sài-Gòn và Huế, là những nơi có các Tổng-Hội Sinh-Viên đang bị một thiểu-số thuộc thành-phần thân-Cộng giật dây. Anh-ta thường-xuyên đi tiếp-xúc với các chi-nhánh Văn-Ðoàn địa-phương mà địa-chỉ đã được công-bố trên đặc-san nói trên. Anh-ta còn len-lỏi vào làm thư-ký kế-toán xuất+nhập kho cho nghiệp-đoàn các nhà thầu gạo Ðà-Nẵng và Miền Trung bên cạnh Tổng-Cục Tiếp-Tế thuộc Bộ Kinh-Tế, vào Sài-Gòn nhận chở gạo ra phân-phối cho các Tỉnh Miền Trung, nên có lý-do hợp-pháp để có mặt và nhân đó hoạt-động cho cộng-sản tại các nơi nói trên.
NGUYỄN An Dân chưa học hết bậc trung-học. Hành-trang văn-hóa của anh-ta chỉ là một mớ lý-thuyết Mác+Lê, đặc-biệt là cuốn “Từ-Ðiển Triết-Học” của Liên-Xô được dịch in bằng chữ Việt. Phần đông sinh-viên Việt-Nam Cộng-Hòa, nhất là sinh-viên Văn-Khoa, vốn học triết-học một cách khái-quát và tài-tử, đã bị anh-ta hớp hồn. Bên ngoài, khi đề-cập đến sinh-viên, nhiều người chỉ nghĩ đến Huỳnh Tấn Mẫm, xem Mẫm là phần-tử cộng-sản lãnh-đạo sinh-viên, kể cả sau quốc-nạn 30-4-1975; nhưng trên thực-tế thủ-lãnh chính là Nguyễn An Dân.
(Một cán-bộ thuộc Tỉnh-Ủy cộng-sản Quảng-Nam Ðà-Nẵng và thường-trú ở ngoài này mà cầm nắm mọi sinh-hoạt của sinh-viên ở Sài-Gòn: điều đó không phải là ngoại-lệ duy-nhất. Một trong nhiều cán-bộ Công-An Việt-Cộng thuộc Ðảng-Ủy Liên-Khu V và Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng mà tôi đã có tìm cách móc-nối trước đây, là Trần Ðăng Sơn33 : sau ngày Sài-Gòn thất-thủ, Sơn là trung-tá, Phó Trưởng Ty Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, mà cũng vào hoạt-động tại Sài-Gòn với đầy-đủ quyền-hành đối với dân-chúng sở-tại cứ y như trên lãnh-thổ của Tỉnh mình. Bên ta cũng thế, dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, đã có “Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung” xuất-phát từ Huế mà hoạt-động bao gồm cả Sài-Gòn lẫn vùng xung quanh. Sở-dĩ VC thì từ Ðà-Nẵng vào, chứ không phải từ Huế vào như bên ta, là vì Huế/Thừa-Thiên thuộc Liên-Khu Tư, tức thuộc “Phiá Bắc”, còn Ðà-Nẵng/Quảng-Nam thuộc Liên-Khu V thì là đơn-vị địa-đầu của “Phía Nam” mà Trung-Ương Ðảng dùng làm bàn đạp tiến vào Miền Nam). ______ 33 Xem Mục “Hai Cựu Thiếu-Tá Công-An VC” trong sách này.
Sau ngày 30-4-1975, Việt-Cộng chỉ để lại một mình Huỳnh Tấn Mẫm làm vật trang-trí với tư-cách đại-diện sinh-viên đồng-chủ-tọa trong chủ-tọa-đoàn các buổi lễ công-cộng của chúng, còn thì lùa hết sinh-viên của chế-độ cũ vào rừng hoang, dưới danh-nghĩa “Thanh Niên Xung Phong”. Tất cả nam+nữ sinh-viên đều bị đoàn-ngũ-hóa, sung vào các Ðoàn, Liên-Ðoàn, giã-từ học-đường, gia-đình, thành-phố Sài-Gòn, đi khai-hoang lập-trại trong rừng, bắt đầu sống cuộc đời công-nhân lưu-đày vô-hạn-kỳ. Ðó là chính-sách của Ðảng. Và Nguyễn An Dân là Chỉ-Huy-Trưởng Tổng-Liên-Ðoàn các đơn-vị cựu tinh-hoa tuổi trẻ ấy của Miền Nam. *
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:46:49 GMT 9
KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN & KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY 4
* QUA năm 1977, Việt-Cộng chuẩn-bị tấn-công Cam-Pu-Chia. Chúng đẩy mạnh công-tác bắt thanh-niên thi-hành nghĩa-vụ quân-sự, tăng-cường các sư-đoàn, và dự-định quân-sự-hóa tổ-chức “Thanh Niên Xung Phong”. Chúng viện cớ đề-bạt Nguyễn An Dân ra Hà-Nội học lớp đào-tạo cán-bộ Khoa-Học Kỹ-Thuật cao-cấp để đưa một sĩ-quan bộ-đội đến thay-thế Dân tại Bộ Chỉ-Huy Tổng-Liên-Ðoàn ở Sài-Gòn. Bất-mãn, Dân bỏ học, về Quảng-Nam Ðà-Nẵng nhận một chức-vụ trong guồng máy Nhà-Nước địa-phương. Và anh-ta đã gặp lại Nguyễn Văn Bảy tại đây.
CHỈ một thời-gian ngắn sau ngày cộng-sản cướp chính-quyền, nhà trí-thức Nguyễn Văn Bảy, trước kia đứng núi này trông núi nọ, nay đã thấy rõ thực-chất của chế-độ chuyên-chính vô-sản rồi. Bảy bí-mật liên-kết với các thân-hữu cũ - những giáo-sư đại-học có sẵn uy-tín với giới sinh-viên, những nhà hoạt-động chính-trị có nhiều cơ-sở đảng-phái dưới quyền, những nhà tu-hành được giới tín-đồ tin yêu, ở Ðà-Nẵng, Huế, Quảng-Nam, và nhiều Tỉnh khác - tổ-chức một lực-lượng vũ-trang quy-mô, chủ-xướng khởi-nghĩa toàn-dân.
Trong lúc đó, nhà-văn nhà-báo Nguyễn An Dân, vốn tin-tưởng vào một chủ-nghĩa lý-tưởng mà lý-thuyết đầy hấp-dẫn, nay đã va chạm với thực-tế phũ-phàng, qua những quyết-định tàn-nhẫn của bộ máy Nhà-Nước vận-dụng đúng chính-sách của Ðảng đối với từng tầng-lớp nhân-dân trong đó có số đông là bà-con của anh-ta, và qua những nỗi-niềm đau-xót của giới cựu sinh-viên Miền Nam mà anh-ta cảm-nhận được, trong những canh khuya cởi-mở tâm-tình, sau những ngày và đêm dài khắc-khổ sinh-hoạt chung. Món ăn Quốc-Gia, đượm mùi “tư-bản chủ-nghĩa” và “cá-nhân chủ-nghĩa”, đã nuôi lớn con người anh-ta, với một tâm-hồn lãng-mạn và tự-do.
Ðến nay thì Nguyễn An Dân đã dứt khoát chọn con đường đối-nghịch. Anh-ta tâm-sự với Nguyễn Văn Bảy; và đôi bạn cũ bây giờ đóng lại vai trò xưa, nhưng trên chiến-tuyến khác, và cả hai đều quyết-liệt trên một bình-diện rộng lớn hơn và trong một hoàn-cảnh khắc-nghiệt hơn. Với tư-cách là một đảng-viên trung-kiên, có thành-tích quá-khứ nằm vùng hoạt-động đắc-lực và đã từng bị đối-phương cầm tù tại địa-phương, bản-thân lại có nhiều thân-nhân giữ chức-vụ lớn ở cấp cao, Dân đã bao-che cho Bảy và đồng-bạn, giống như trước kia Bảy đã che-chở cho Dân.
Nguyễn An Dân đã lôi cuốn được hằng trăm thanh-niên, Dân-Quân, Tự-Vệ, bộ-đội, và cả Công-An Việt-Cộng, theo về với “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” của Nguyễn Văn Bảy, mà tổng-số đảng-viên đã lên đến vài nghìn. Các thành-viên gốc Việt-Cộng ấy đã đem theo nhiều loại vũ-khí mà họ lấy được trước và trong khi thoát-ly, đủ để trang-bị cho hầu hết các cá-nhân và đơn-vị chiến-đấu của Bảy. Ðiều quan-trọng nhất là Dân đã hướng-dẫn cho Bảy cùng Ban Tham-Mưu chiếm đóng và sử-dụng một căn-cứ lớn cùng năm căn-cứ phụ trong vùng mật-khu cũ của Việt-Cộng, mà địch đã bỏ trống để đưa nhau về Thành sau ngày chúng chiếm được vùng Quốc-Gia. Hoạt-động của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” sau Tháng Tư năm 1975 cũng tương-tự như hoạt-động của Việt-Cộng trước kia: từ mật-khu bung ra, lan rộng, khiến địch bị bận tay ở vùng chúng chiếm, chỉ chống trả ở vùng ven chứ không tấn-công nổi vào vùng sâu.
MỘT hôm có một số dân, trong đó có vài sĩ-quan bộ-đội Việt-Cộng, vào rừng tìm củi, lạc vào vùng căn-cứ chính của Bảy mà không hay, và đã tranh-thủ thì-giờ ngủ lại tại chỗ qua đêm để có thể tiếp-tục công việc sớm vào sáng hôm sau. Sáng sau, khi đi sâu thêm vào trong, nhóm người này bị phát-hiện, nhưng được thành-viên của Ðảng ấy thi-hành chính-sách nhân-đạo dẫn đường cho ra khỏi rừng. Việc đó tới tai Việt-Cộng; chúng bèn tổ-chức cho cán-bộ của chúng giả làm thường-dân đi kiếm củi, mật ong, quế, len-lỏi vào gần để quan-sát, tìm hiểu thực-lực, các đường giao-liên, và hệ-thống bố-phòng của tổ-chức đối-nghịch này. Cuối cùng, Việt-Cộng đã huy-động một lực-lượng quân-sự lớn, có sự tăng-viện của Bộ Quốc-Phòng và các quân+binh-chủng cấp Quân-Khu: đường núi thì có xe tăng, xe thiết-giáp xung-kích; đường sông thì có xuồng-máy đổ bộ; có cả đại-pháo và máy-bay yểm-hộ. Ðịch đồng loạt tấn-công vào căn-cứ chính và hai căn-cứ phụ ở gần đó của kháng-chiến-quân. Rủi thay, toàn-thể các cấp lĩnh-đạo và cán-sự cao-cấp của phe khởi-nghĩa đều đang dự họp tại căn-cứ đầu-não của mình, nên rốt cuộc đã sa vào tay giặc, cùng với các nam+nữ chiến-hữu sống sót và không di-tản kịp-thời. Ba căn-cứ kháng-chiến còn lại sau đó cũng bị địch tràn ngập.
KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN & KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY 5
* NGÀY cuối-cùng của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” cũng là ngày bùng nổ cuộc tranh-chấp công-trạng và quyền-lực đã ngấm-ngầm từ lâu giữa các cấp lãnh-đạo Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam/Ðà-Nẵng.
Ðảng-Ủy Liên-Khu V và Quân-Ủy Quân-Khu V ẩn-trú trên lãnh-thổ của Tỉnh này. Sự an-toàn của các mật-khu này cũng như thành-tích quấy-rối an-ninh vùng Quốc-Gia lâu nay phần lớn là do công của Công-An. Người đứng đầu ngành Công-An Việt-Cộng từ đầu cho đến sau 1975 ở đây là Hoàng Văn Lai. Cầm nắm được tình-hình mọi mặt liên-quan đến “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” của Nguyễn Văn Bảy để đi đến quyết-định tấn-công triệt-tiêu kẻ thù như trên, cũng là do công của Công-An, của Hoàng Văn Lai.
Nhưng vào buổi sáng ngày Việt-Cộng mở cuộc tấn-công mật-khu của Bảy, đại-tá Ðoàn Khuê, Chỉ-Huy-Trưởng Tỉnh-Ðội Quảng-Nam Ðà-Nẵng, cũng là Tư-Lệnh cuộc hành-quân, đã dựa vào lực-lượng quân-sự hùng-hậu của mình mà xuất-phát, không thèm đếm xỉa đến Hoàng Văn Lai. Lai sợ bị Khuê giành mất công đầu, nên ra lệnh cho lái-xe lái vượt lên trước, để nắm vai trò dẫn đường. Khi xe của Lai đang vượt lên thì Khuê ra lệnh cho xe của mình ép qua, lấn xe của Lai lật nhào.
Lai chết tức-thời.
HOÀNG Văn Lai, một cán-bộ cao-cấp, trung-kiên, và có nhiều công-trạng lớn đối với Ðảng và Nhà-Nước, chết rồi mà vẫn chưa yên. Ðảng họp, phân-tích sự-việc theo lời tường-thuật của Khuê, kết-luận là Lai quá nặng đầu-óc cá-nhân chủ-nghĩa, vi-phạm quy-luật hành-quân, suýt nữa phá hỏng kế-hoạch chung của tập-thể, nên đã quyết-định trừng-phạt... cái xác, và cả cái hồn (?) của Lai. Xác Lai tuy cũng được chôn trong một nghĩa-trang, nhưng nằm ở một vị-trí sát cạnh cổng vào, ý nói hồn Lai sẽ không nghỉ-ngơi mà phải tiếp-tục làm lính Công-An gác cổng cho nghĩa-trang này. * NGUYỄN An Dân có góp ý với Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Nhuận trong việc soạn-thảo Cương-Lĩnh Chính-Trị cho “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”. Tiến-sĩ Nguyễn Nhuận cũng ở trong một tổ-chức chính-trị chống-Cộng khác tại Huế; và tổ-chức ấy về sau cũng bị Việt-Cộng phá vỡ, các nhà lĩnh-đạo ngoài đó cũng bị tuyên án tử-hình. Nhuận bị hành-quyết chung với nhóm Bảy trong này, vì địch tìm thấy nhiều đoạn thủ-bút của Nhuận trong bản thảo Chính-Cương của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” và một bức ảnh chụp chung cảnh một buổi họp bên trong mật-khu kháng-chiến của Tỉnh Quảng-Nam, cho thấy cùng ngồi trên bàn chủ-tọa với Bảy là Nhuận và Dân. Tất cả sáu người trong chủ-tọa-đoàn đều bị kết án tử-hình. Nhưng chỉ có năm nạn-nhân đã bị hành-quyết tại pháp-trường; còn Nguyễn An Dân thì không.
DÂN được thân-nhân, toàn là cán-bộ lãnh-đạo nhiều ngành cấp cao, xin giùm, nên được giảm án xuống tù chung-thân, rồi giảm thêm nữa xuống còn tù hai mươi năm. Tôi hỏi anh-ta: “Anh có cảm-tưởng gì khi thoát án tử-hình?” Dân nhìn tôi để dò ý rồi mới trả lời: “Tôi hiểu là có dư-luận nghi tôi được họ gài vào để hại anh Bảy. Nhưng, anh hãy nhìn vào cái chân tôi đây nè!” Dân cởi quần dài, vì anh-ta thường-xuyên mặc quần dài, để tôi nhìn thấy cái chân bên phải của anh-ta bị teo cơ, rút gân, và co ngắn lại như một cành cây sấy khô. Anh-ta chỉ vào một cái sẹo lớn, nói tiếp: “Tôi bị cùm chân suốt mấy năm trời trong buồng biệt-giam. Lúc đầu, đôi chân sưng húp, rồi một cái nhọt bị tấy; tôi khóc, tôi la suốt mấy ngày đêm mà họ chẳng thèm đoái-hoài. Chịu không nổi nữa, tôi phải tự mình móc thịt giải-phẫu. Mất máu, kiệt sức; một chân trở lại bình-thường, một chân teo rút như thế này đây. Nhưng tôi vẫn cứ bị cùm hai chân mãi cho đến ngày anh Bảy và các chính-hữu vĩnh-viễn ra đi...” * KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN & KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY 6
* ÐẦU năm 1985, Việt-Cộng đề ra công-tác tổng-kết thành-tích mười năm bạo-hành ở Miền Nam này. Nguyễn An Dân được đưa về Ðà-Nẵng, để tập, rồi đưa lên vùng căn-cứ cũ của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” để đóng một đoạn dành cho vai-trò cũ của anh-ta trong một cuốn phim diễn lại cuộc tấn-công của Việt-Cộng phá vỡ chiến-khu của Nguyễn Văn Bảy nói trên. Công-An đã thuê một nữ-võ-sư đóng vai một nữ-đại-úy Công-An, sau khi xung-phong quật ngã một số nhân-vật kháng-chiến, dùng một thế võ hiểm-độc tước súng và bắt sống được Nguyễn An Dân. Vì chân bị què nên Dân chỉ đứng dựa vào sau một thân cây, diễn cảnh chĩa súng bắn ra đối-phương, rồi vừa chồm tới là bị tước súng, còng tay. Nhưng đoạn phim ấy là quan-trọng nhất, vì Dân là nhân-vật chủ-chốt duy-nhất còn sống-sót được sau biến-cố lịch-sử ấy tại vùng đất này. Khi đã đóng xong vai mình trong phim, anh-ta được đưa đến Trại “Tiên-Lãnh I” trên cùng chuyến xe với tôi.
VÀO ngày 30-4-1985, Việt-Cộng đem chiếu cuốn phim thành-tích mười năm của chúng cho mọi tù-nhân tại các Trung-Tâm Lao+Cải và Trại Tạm-Giam đều xem.
CŨNG như lệ thường, tôi xốc nách Dân, dìu xuống mấy bậc thềm đá từ buồng cách-ly ra sân, sắp hàng đếm số, rồi cùng tiến vào hội-trường. Hằng ngày, anh-ta vui-vẻ cười chào mọi người gặp trên đường đi; nhưng tối nay thì anh-ta cúi đầu lặng-lẽ bước đi như một tử-tội đang bị dẫn ra pháp-trường.
Tôi tôn-trọng niềm suy-tưởng của người bạn-tù. Trước đó, Nguyễn An Dân đã nói với tôi là người-ta muốn giết anh-ta thêm một lần nữa. Một cái chân què, kết-quả cụ-thể của một chính-sách vô-nhân đối với tù-nhân bị bệnh trong cảnh xích-xiềng, đã giết chết sự toàn-vẹn và sức mạnh thể-xác còn lại của anh-ta. Một bản án tử-hình, tuyên ra không phải là không do ý muốn kết-liễu cuộc đời của anh-ta. Một quyết-định giảm án, chỉ làm cho anh-ta, dù thụ-động, cảm thấy mình không xứng-đáng sống trước anh-linh của Nguyễn Văn Bảy và các anh-hùng khác đã hy-sinh, cũng như bao nhiêu chiến-hữu khác, vì có gia-đình, tài-sản, và sự-nghiệp, nên mất-mát và đau-đớn nhiều hơn anh-ta.
“Bây giờ lại còn bắt mình phơi mặt ra trước tập-thể, để xác-nhận với mọi người về nội-dung của một cuốn phim mà đạo-diễn đã cố ý dàn-dựng cho chế-độ đương-quyền lớn+mạnh và công+chính, trong lúc lực-lượng khởi-nghĩa mà mình là chứng-nhân tiêu-biểu thì nhỏ+yếu và tư+tà, tức là giết nốt những hình-ảnh kiêu-hùng mà đồng-bào trong niềm ngưỡng-mộ đã từng hình-dung ra. Nó là phần kỷ-niệm đẹp nhất đã ghi-khắc trong tâm-hồn mình, cho những ngày còn lại của cuộc đời mình...”
NGỒI giữa cả nghìn con-người, chính-trị-phạm lẫn thường-phạm, đang náo-nức xem phim, tôi cũng trầm-ngâm nghĩ-ngợi theo Dân. Bây giờ anh-ta mới thấy tiếc là đã không hề làm một bài thơ tình; bây giờ anh-ta mới thấy tình-cảm mà một cựu-nữ-sinh-viên Văn-Khoa Sài-Gòn nào đó đã dành cho anh-ta ngày xưa là quý-báu và cần-thiết vô-cùng. Trước ngày mà Dân tưởng là phải ra pháp-trường, anh-ta đã được gặp mẹ; bà-cụ chỉ khóc: “Con đừng chết trước mẹ, con ơi!” Và mới ngày hôm qua, được gặp mẹ vào thăm+nuôi, Dân cũng chỉ khóc: “Mẹ đừng chết trước ngày con về, mẹ ơi!”
NHƯNG tôi bỗng thấy rộn lên trong lòng một niềm vui mênh-mang. Khắp nước chắc-chắn có nhiều cán-bộ như Nguyễn An Dân, chưa mất lương-tri, một sớm một chiều trở về trong lòng Quốc+Dân. Và cũng hiển-nhiên vẫn có vô-vàn công-dân như Nguyễn Văn Bảy, không vì bất-hòa trong nhà mà nỡ đành lòng chấp-nhận để cho giặc+cướp xông vào tàn-sát bà-con...
LÊ XUÂN NHUẬN (trích cuốn hồi-ký "Cảnh-Sát-Hóa, quốc-sách yểu-tử của Việt-Nam Cộng-Hòa" tái-bản 2005)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:48:48 GMT 9
“ÐẠO-ĐỨC CỦA NGÔ TỔNG-THỐNG” ĐÃ CỨU MẠNG TÔI
TÔI bị chế độ Ngô Ðình Diệm đày từ Huế lên Cao-Nguyên, vùng “nước độc và nguy-hiểm”, vì lý-do chính-trị, vào tháng 8 năm 1960. Tuy có lệnh của Bộ Nội-Vụ là cấm cử tôi vào các chức-vụ chỉ-huy, nhưng Nha Công-An Cảnh-Sát Cao-Nguyên Trung-Phần, ở Buôn Ma-Thuột, vẫn giao cho tôi cầm đầu Phòng Cảnh-Sát Tư-Pháp ở đây . Trong đêm rạng ngày 11-11-1960, tôi đang tiếp-tục hỏi cung một số viên-chức, tại Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Pleiku, về tội tham-nhũng -- làm khuya để hoàn-tất nhanh, vì đại-tá Nguyễn Văn Luận, Giám Ðốc Nha, cũng có lên đây và muốn biết kết-quả liền -- thì một đồng-nghiệp, là Lê Tấn Lực, người cùng bị đày một chuyến với tôi lên Cao-Nguyên, nháy mắt ra hiệu cho tôi ra ngoài, dẫn tôi qua cư-xá, nơi tôi tạm trú, mở Ðài Phát-Thanh Sài-Gòn cho tôi nghe .
-- Ðây, bác-sĩ Phan Quang Ðán...
Tiếng nhạc quân-hành phát đi phát lại liên-hồi, thỉnh-thoảng lại nghe chỉ có một câu “Ðây, bác-sĩ Phan Quang Ðán!” rồi không nghe Ðán nói gì thêm. Người bạn ấy nói: “Ðảo-chánh ở Sài-Gòn!” Chúng tôi bực mình vì một y-sư, lĩnh đạo đảo-chính, mà không nói được câu gì, ngoài một câu tự giới-thiệu thông-thường như trên.
Liền đó, có tiếng viên Trưởng-Ty nói vọng sang: -- Thôi, anh em đi ngủ. Sáng mai sẽ hay . Tiếng người xôn-xao, tiếng điện-thoại reo, tiếng súng xáo đạn, tiếng xe nổ máy. Chúng tôi đoán là Trưởng-Ty và các đồng đảng “Cần-Lao” đang có phản-ứng gì đây .
Bỗng Ðài phát ra một bức “Nội-Lệnh”, gửi các cấp nhân-viên Công-An Cảnh-Sát toàn-quốc, của ông Tôn Ngọc Chắc, Chánh Văn-Phòng Tổng-Nha . Lúc đó chúng tôi mới biết là phe đảo-chính đã làm chủ được cơ-quan đầu-não của Ngành An-Ninh ở Thủ Ðô .
SÁNG ra, chúng tôi vẫn qua bên Ty .
Chúng tôi là phái đoàn Nha, gồm có tôi, đại-úy Nguyễn Giang, và viên tài-xế tên Hương. Chúng tôi làm việc, nhưng tâm-trí thì hoang-mang và cặp mắt thì canh chừng viên Trưởng-Ty, là người của “Cậu” từ Huế đưa lên -- vì đại đa-số nhân-viên Cảnh-Sát Công-An trên này, trong đó có Giang và Hương, đã ngán chế độ họ Ngô từ lâu . Nhưng không thấy viên Trưởng Ty, cũng không thấy đại-tá Luận đến Ty . Song không có gì xảy ra .
Hôm sau là ngày Thứ Bảy, hồ-sơ liên-quan chúng tôi đã kết-thúc xong, nên chúng tôi ra lảng-vảng ngoài phố để xem tình-hình thế nào . Qua ngày củ-mật, chúng tôi lên xe trở về Buôn Ma-Thuột để dò tin-tức tại cơ-quan mình.
Nguyễn Giang là một thanh-niên đẹp trai nhất tại Buôn Ma-Thuột bấy giờ. Anh là Trưởng Phòng Hoạt-Vụ của Nha Công-An Cảnh-Sát Cao-Nguyên Trung-Phần, độc-thân, lại là con-nuôi của ông Nguyễn Tước, Phó Giám Ðốc Nha ấy, nên được cả bên trong cơ-quan chiều-chuộng lẫn bên ngoài đồng-bào nể-nang. Anh tập làm thơ, viết văn, ký tên Hà Lãng; được tôi giúp cho, anh rất thân-thiết với tôi và rất cảm-thông hoàn-cảnh của tôi . Vì thế, lúc mới về ngang đồn điền cao-su CHPI của Pháp, tôi bảo ngừng xe, rủ anh vào phía cổng-vào văn-phòng đồn điền, tín-cẩn nhờ anh về trước dò xem tình-thế ra sao . Giang hiểu nên nhận lời ngay . Anh nói với Hương: -- Ông Nhuận muốn vào tìm mua mật ong của Thượng. Anh đi với ông, tôi về mua ít đồ nhậu rồi trở lại ngay . Tôi lấy theo khẩu tiểu-liên Thompson và một thùng đạn, lựu-đạn, và xách đồ dùng cá-nhân. Ðợi Giang lái xe đi xong, tôi nói với Hương là sẽ cắm trại trong vườn cao-su, ở lại đến tối đợi xem tình-hình ra sao hãy về. Người tài-xế này vẫn thường lái xe cho chúng tôi đi công-tác, nên không ngạc-nhiên về những thú vui giải-trí của chúng tôi dọc đường mà anh cũng cùng dự phần. Tuy thế, vì nghe tin-tức lộn-xộn ở Sài-Gòn nên anh có vẻ không sốt-sắng lắm, hẳn nôn về nhà cùng với vợ+con. Tôi bèn bảo Hương nếu muốn về sớm thì đón xe đò mà đi, sáng mai, Thứ Hai, sẽ gặp lại nhau ở Nha . Anh rất mừng rỡ, chào tôi đi liền.
TÔI mang súng đạn và xách đồ dùng chạy nhanh vào lối đi về hướng Tây, tạm giấu trong một bụi rậm, rồi lui phía cổng, viết một mảnh giấy nói là tôi đã cùng Hương đi xe đò về nhà rồi, đính lên trên một thân cây ngay chỗ chúng tôi xuống xe vừa rồi .
Xong tôi đi theo đường mòn của phu đồn điền bên trong rừng cây và song-song với Quốc-Lộ 14, hướng về phía Nam, gần Thị-Xã hơn, trèo lên một thân cây lớn, nấp sau tàn lá rậm-rạp, chờ đợi xe Giang.
Tôi đã định sẵn, nếu bọn ác-ôn ra tay trừ diệt chúng tôi (tôi và 4 đồng-nghiệp khác, bị ghép vào tội phản động, có hành-vi chính-trị nguy-hiểm, đày lên trên này) thì hẳn chúng sẽ bảo Giang dẫn đi bắt tôi; và vì biết Giang với tôi thân nhau, chúng sẽ phái thêm nhân-viên cùng đi với Giang, có thể là đi thêm xe, và hẳn là được vũ-trang... Tôi nấp ở chỗ dễ quan-sát nhất nên sẽ nhìn thấy rõ-ràng. Trong trường-hợp đó, bọn Giang sẽ đến chỗ cũ, sẽ thấy mảnh giấy của tôi, và sẽ quay về tìm tôi ở căn phòng trọ (tôi mới lên đây một mình), lùng kiếm loanh-quanh trong cái Thị-Xã buồn-muôn-thuở, thủ-phủ của Cao-Nguyên này . Còn tôi, thì tôi... trốn vào mật-khu!
ÐỢI một hồi lâu thì Giang lái xe trở lại, chỉ đi một mình. Tôi không thấy có một xe nào khác của Nha . Giang lái thẳng đến hướng cổng đồn điền. Lát sau tôi thấy xe anh quay lui . Tôi biết là anh đã đọc mảnh giấy, nên về tìm tôi ở nhà. Tôi vội tuột xuống, ra đường chận Giang.
Giang vừa thắng xe vừa đưa nắm tay với ngón tay cái chĩa lên cho tôi thấy trước để tôi an tâm. -- Không can chi mô! Anh nhại giọng Huế; tôi cũng nhại theo: -- Mi nói rõ-ràng cho tau nghe coi! -- Trong ngày đảo-chánh, có một mật điện từ Văn- Phòng “Cậu” đánh vào cho ông Ðại-Biểu Chính-Phủ tại Cao-Nguyên Trung-Phần, bảo phải thanh-toán các phần-tử có hành-vi chính-trị nguy-hiểm. Ông Ðại-Biểu Chính-Phủ liền triệu-tập một cuộc họp mật với Giám Ðốc Nha Công-An Cảnh-Sát và các Tư-Lệnh lực-lượng quân-sự địa-phương. Ông Ðại-Biểu Chính-Phủ phát-biểu ý-kiến rằng Ngô Tổng-Thống là vị lãnh đạo tối-cao và duy-nhất của tất cả chúng ta, dù trong hoàn-cảnh nào chúng ta cũng không nên làm việc này, vì nó trái với đạo đức của Người . Giám Ðốc Công-An và các Tư-Lệnh quân-sự sở-tại nghe thế là tán-đồng ngay . -- Làm sao anh biết rõ thế?
-- Ðại-tá Luận kể lại với ông Tước.
ÐỂ tỏ là mình hiểu-biết, Giang nói là bức điện ấy của ông Ngô Ðình Cẩn có hai giá-trị: Một là nhân-danh Cố-Vấn Chỉ Ðạo tất cả các đoàn-thể Cao-Trung-Hải (tức Cao-Nguyên, Trung-Nguyên, và Hải-Ngoại), có quyền đối với Cao-Nguyên của mình. Viên-Chức Công-An Cảnh-Sát nằm trong đoàn-thể “Công-Chức Cách-Mạng Quốc-Gia” và Quân-Nhân nằm trong đoàn-thể “Quân-Nhân Cách-Mạng Quốc-Gia”. Hai là nhân-danh Cố-Vấn của Chính-Phủ và bào đệ của Ngô Tổng-Thống để chỉ đạo toàn-quốc trong lúc Tổng-Thống và ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu đang lâm-nguy . Thế là đã đủ để tôi tin Giang. Tuy nhiên, để cho chắc ăn, tôi bảo Giang lái về nhà của Hương, hỏi chuyện; rồi lái đến nhà anh Trực, anh Liệu, hỏi thăm vu-vơ để biết quả thật là không có gì xảy ra . Chúng tôi la-cà các tiệm và đi quanh phố suốt ngày, để nghe tin-tức từ Ðài Phát-Thanh Sài-Gòn xác-nhận nhiều lần là âm-mưu đảo-chánh đã bị đập tan.
THẾ là nhờ vào “đạo đức của Ngô Tổng-Thống” mà tôi khỏi bị thủ-tiêu (đúng hơn là khỏi phải chạy vào rừng theo phe mà qua tháng sau thì được đặt tên là “Mặt Trận Dân-Tộc Giải-Phóng Miền Nam”). Ðại-Biểu Chính-Phủ hồi đó là cụ Phạm Như Phiên, và đại-tá Nguyễn Văn Luận là Giám Ðốc Nha Công-An Cảnh-Sát, Cao-Nguyên Trung-Phần.
LÊ XUÂN NHUẬN (hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hòa”
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:52:01 GMT 9
PHI-TRƯỜNG ÐÀ-NẴNG & sân bay Gia Lâm (I)
PHI-TRƯỜNG Ðà-Nẵng là sân-bay lớn nhất, sau Tân-Sơn-Nhất của Thủ Ðô Sài-Gòn. Hôm ấy, tôi có việc vào trụ-sở của Hãng hàng-không Hoa-Kỳ thì thấy ông Vũ Hồng Khanh, là lão-lãnh-tụ của Việt-Nam Quốc Dân Ðảng, đáp phi-cơ “Air America” từ Sài-Gòn ra . Có nhiều nhân-vật cao-cấp của chính đảng ấy tại các Tỉnh+Thị ngoài này đến đón ông; họ dùng xe hơi mà trên xe nào cũng có gắn đảng-kỳ. Ông ra Miền Trung với một mục đích: hòa-giải để thống-nhất các hệ-phái vẫn chống-phá nhau lâu nay . Việc ấy tôi đã biết trước; nhưng tôi không định đến xem mà chỉ tình-cờ thấy thôi . Sau đó, tôi về văn-phòng thì được Sở Ðặc-Cảnh Thị-Xã Ðà-Nẵng báo-cáo là ông Vũ Hồng Khanh đã đáp phi-cơ “Air Vietnam” ra đến nơi rồi . Một trong các lý do báo-cáo sai lầm là vì không có nhân-viên Cảnh-Sát gác tại phi-trường. HÃNG hàng-không dân-sự “Air Vietnam” dùng chung phi-trường Ðà-Nẵng với các phi-cơ quân-sự của Sư Ðoàn I Không-Quân; nhưng tại cổng vào phi-trường thì chỉ có một nhân-viên Quân-Cảnh canh gác. Nhân-viên này không kiểm-soát thường dân, và thường không cho thường dân đi lẻ vào phi-trường. Xe “Air Vietnam” chở hành-khách và hành-lý, cùng các loại xe-hơi khác, vào đến nhà-ga thì hành-khách lẫn-lộn với những người đi đưa, đi đón, cũng như các người vào ra buôn bán tại đây; và hành-lý thì lẫn-lộn với đồ đạc, vật dụng của câu-lạc-bộ sân bay; nên khó phát-hiện, ngăn-ngừa kẻ gian, việc gian. Chỉ riêng một việc, cứ mỗi buổi chiều, nhất là cuối tuần, khoảng bốn/năm giờ, là có hằng chục cô-gái có vẻ là con nhà-lành, nữ-sinh, chực sẵn ở cổng để các phi-công ra đón nhận vào, ở lại suốt đêm bên trong cư-xá sĩ-quan, cũng đã là một sơ-hở đối với an-ninh nội-vi phi-trường rồi . Tôi đã nêu vấn đề này ra, và phải can-thiệp với các giới-chức an-ninh quân-sự liên-hệ, nên Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Ðà-Nẵng mới cắt nhân-viên Cảnh-Sát dân-sự đến gác, kiểm-soát thường dân vào ra ở cổng phi-trường quốc-tế quan-trọng này của Việt-Nam Cộng-Hòa.
THẠC-SĨ VŨ VĂN MẪU & LỰC-LƯỢNG HÒA-HỢP HÒA-GIẢI DÂN-TỘC
HÔM đó, tôi đến phi-trường Ðà-Nẵng để quan-sát hoạt động của Toán Cảnh-Sát mới được cải-tổ, nâng lên thành Cuộc, sau khi xảy ra hai vụ không-tặc nổ phi-cơ “Air Vietnam” – vụ trước kết-thúc ở Phú-Bài, và vụ sau chấm dứt ở Phan-Rang nhưng xuất-phát từ đây . Thiếu-tá Tôn Thất Lộc – hồi còn ở Huế, là một giáo-sư tại Trường “Quốc-Gia Âm-Nhạc” nay làm Trưởng-Cuộc ở đây, với tôi là chỗ bạn thân từ xưa . Anh đùa hỏi tôi: tại sao gọi là Trưởng-Cuộc, mà không là Cuộc-Trưởng – chữ “Trưởng” đứng sau, như trong “Tiểu-Khu-Trưởng”, “Chi-Khu-Trưởng”, “Xã-Trưởng”, v.v... Tôi có biết một lý do, nhưng tránh trả lời . Chỉ vì Trung-Ương đã khoái nên chọn chữ “Cuộc” thay vì “Trạm”, “Bót”, “Ðồn”, “Phân-Chi”, để gọi cấp Xã của Ngành/Nghề mình. Nhưng “Cuộc” chỉ là biến-âm của “Cục”, nếu gọi “Cuộc-Trưởng” thì nó đồng-nghĩa với “Cục-Trưởng”; mà “Cục-Trưởng” thì là chức danh của các đại-tá, có thể là tướng, đứng đầu các Cục tại Bộ Tổng-Tham-Mưu . Gọi cấp thấp nhất của mình là Cuộc-Trưởng có thể bị hiểu là xem các Cục-Trưởng khá cao bên quân-ngũ ngang hàng với các Cục/Cuộc-Trưởng dưới chót của mình. Vì thế nên phải đảo thành “Trưởng-Cuộc” Cảnh-Sát Quốc-Gia . LÁT sau thì các loại xe chở hành-khách và người đi đón/đi đưa tấp-nập vào . Ðại-tá Ðàm Trung Mộc, luật-gia, một cấp chỉ-huy và giảng-sư kỳ-cựu của CSQG, hôm nay lên đường rời Vùng I sau mấy ngày thanh-tra ngoài này . Tôi đến nói chuyện với ông. Một lát thì có đại-tá Lê Ðạt Công, Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn III & Quân-Khu III – ra đây xử-lý thường-vụ trong lúc đại-tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Ðoàn I & Quân-Khu I đi công-tác tại Hoa-Kỳ – cũng đến phi-trường để vào Biên-Hòa . Tôi giới-thiệu hai người với nhau . Công tưởng Mộc cũng ở trong ngành Ðặc-Cảnh như tôi, nên vỗ vai tôi mà nói với Mộc: “Cứ như tay này chúng tôi mới thật nể-vì. Tình-báo phải thế; tự-tin, tự-lực, chứ không che dù như mấy người khác!” Một số đại-tá khác cũng đến. Tôi giới-thiệu đại-tá Dương Công Liêm với các đại-tá Mộc, Công, và Lê Bá Khiếu . Khiếu là Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Ngãi . Liêm là Liên Ðoàn-Trưởng Công-Binh Quân Ðoàn II; anh cũng làm thơ như tôi từ thuở đôi mươi . Ðại-tá Ðỗ Tung là Trưởng Phái Ðoàn VNCH trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-Bên.
PHI-CƠ đáp xuống.
THẠC-SĨ VŨ VĂN MẪU VÀ LỰC-LƯỢNG HÒA-HỢP HÒA-GIẢI DÂN-TỘC
PHI-CƠ đáp xuống. Ban Lãnh Ðạo trung-ương của “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” – hậu-thuẫn của đại-tướng Dương Văn Minh – tiến vào . Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Chủ-Tịch, cùng với giáo-sư Võ Ðình Cường, Dân-Biểu Phan Xuân Huy, v.v... Võ Ðình Cường, sau mười mấy năm, vẫn nhận ra tôi . Anh hỏi tôi: – Bây giờ Thanh-Thanh làm gì, ở đâu ? – Tôi hiện nay là Giám Ðốc Công-An Miền Trung! Chức-vụ Giám Ðốc-một-Nha-nhiều-Sở của tôi đã được quy định bằng một Sắc-Lệnh, nhưng văn-kiện ấy chỉ được phổ-biến hạn-chế, để bảo-mật tổ-chức của Ngành. Cảnh-Sát Ðặc-Biệt là danh-xưng mới của ngành Công-An. Trước hôm tôi ra Vùng này, trong một bữa tiệc do một số bác-sĩ khoản đãi, đại-tá Lê Trọng Ðàm, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng II, đã giới-thiệu tôi là tân-“Giám Ðốc Công-An Miền Trung”. Cái tước-hiệu ấy đã có một thời tác động mạnh lên tâm-trí người dân Miền Trung. Tôi cố ý nhắc đến mấy tiếng ấy với Cường, là người đã hơn một lần bị thẩm-vấn tại cơ-quan nói trên. Cường quay lại giới-thiệu tôi với Mẫu: – Ðây là thi-sĩ Thanh-Thanh, một người anh-em từ xưa . Thượng-nghị-sĩ Vũ Văn Mẫu chào, bắt tay tôi, và nói: – Rất hân-hạnh được biết đại-tá. Các người kia cũng chào và bắt tay tôi . Tôi cười nhấn mạnh với Phan Xuân Huy: – Ông Dân-Biểu ở ngoài này thì tôi đã có biết rồi . Trong Vùng trách-nhiệm của tôi mà! Huy là thành-viên giảng-huấn của Viện Ðại-Học Huế; nhưng y bí-mật hoạt động cho Việt-Cộng, Ðặc-Cảnh chúng tôi đã có đầy đủ hồ-sơ . Cũng như Dân-Biểu Nguyễn Công Hoan của Tỉnh Phú-Yên, mà tôi biết được hồi tôi nắm Ngành Ðặc-Cảnh Vùng II . Và nhiều người khác, vân vân. Họ là nhân-vật dân-cử, được quyền bất-khả xâm-phạm, nên gây khó-khăn cho Ngành An-Ninh. Cường thân-Cộng, Huy thờ-Cộng, đều là quân-sư của Mẫu, khích động đại-khối quần-chúng ở ngay trong vòng đùm-bọc của Chính-Quyền Quốc-Gia . Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc tổ-chức mít-tinh khắp nơi, công-khai đòi-hỏi Việt-Nam Cộng-Hòa đơn-phương ngưng bắn, tiến tới bắt tay với kẻ thù. Ðiều lạ là không thấy có cấp+chức nào trong Chính-Quyền, từ trung-ương đến địa-phương, ra mặt đối đáp gì. Tôi bèn đề-nghị, và được thiếu-tướng Nguyễn Khắc Bình và chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây cho phép, đứng ra tiếp-xúc với họ để tìm hiểu, trao đổi những vấn đề cần. Lần này ra đây, họ sẽ đi đâu và làm những gì, chúng tôi đã biết rõ rồi; một phần là nhờ Ðặc-Cảnh các Tỉnh liên-hệ, một phần là do mật-viên của tôi nằm ngay bên trong Chùa Tỉnh-Giáo-Hội Ðà-Nẵng ở đường Ông Ích Khiêm – là trạm đầu-tiên cũng như cuối-cùng của họ trên mỗi chuyến đi các tỉnh Miền Trung. Nhưng tôi giả-vờ như chưa biết gì, vừa để thăm dò thái độ của họ, vừa để bảo-mật đường dây của mình: – Quý vị dự định làm gì, nhất là tập-trung đông người, vui lòng thông-báo cho Chính-Quyền địa-phương, để xin nhân-viên đến giữ an-ninh. Ðừng để xảy ra sự-việc đáng tiếc như vụ vừa rồi trong Nam. Quý vị thừa biết là Việt-Cộng sẵn-sàng trà-trộn vào đám đông. Thạc-sĩ Mẫu đáp ngay: – Vâng. Chúng tôi rất tiếc về vụ lộn-xộn vừa rồi trong đó, bởi vì đồng-bào đến dự quá đông, như cả biển người sùng-sục, ra ngoài dự-liệu của chúng tôi . Nhưng chúng tôi đã chấn-chỉnh lại mọi sự rồi . Xin đại-tá yên tâm... VÀ rồi từ đầu đến cuối, dù cho đồng-bào tham dự các cuộc mít-tinh do Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc tổ-chức có đông đến đâu, trên khắp Vùng I vẫn không có gì đáng tiếc xảy ra .
(còn nữa) LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:53:26 GMT 9
HAI HẠ-SĨ-QUAN KHÔNG-QUÂN VNCH LÀM NỘI-TUYẾN CHO VC
THIẾU-TÁ Ngô Phi Ðạm, Chánh Sở Tác-Vụ, sau khi phối-kiểm, đã trình lên tôi kết-quả của một công-tác là đã phát-hiện được một tổ-chức nội-tuyến của Việt-Cộng bên trong Sư Ðoàn I Không-Quân QL/VNCH đóng trong phi-trường Ðà-Nẵng. Nghiên-cứu tin-tức từ nhiều đường dây khác nhau, chúng tôi tìm ra một số mục-tiêu, trong đó có hai trung-sĩ Không-Quân, một người thợ sửa chữa xe đạp/xe-gắn-máy, và một nữ-giáo-viên. Hai hạ-sĩ-quan Không-Quân, tên Hạ và Ðông, thì tùng-sự tại bộ-phận Kỹ-Thuật, bên trong phi-trường. Người thợ sửa chữa xe, tên Xuân, thì dựng một cái quán cóc, làm nơi hành-nghề và cư-trú, ở Quận Nhì. Cô giáo, tên Thu, thì dạy và ngụ ở Quận Ba, bên kia sông Hàn. Theo dõi các mục-tiêu này thì thấy hai viên trung-sĩ thường-xuyên đem xe ra chữa ở quán của Xuân; cô giáo, từ bên Quận Ba, cũng thường qua đây, đóng vai tình-nhân của Xuân. Nhưng Thu thì đẹp, có học, còn Xuân thì chỉ là một người thợ thô quê, trong lúc cả Hạ lẫn Ðông thì bảnh trai hơn. Thế mà Thu chỉ đến gặp Hạ/Ðông tại quán của Xuân, không hẹn nơi khác, không có bạn trai nào khác, và cũng không ở nán lại lâu hơn với Xuân khi chỉ còn lại “một cặp tình-nhân” với nhau . Ðó là sơ-hở trong việc chọn dùng ngụy-thức/ngụy-tích của bốn tên này . Cuối cùng, nội-tuyến của ta xác-nhận: – Ðịch sẽ phá-hoại bên trong phi-trường. Ðọc lại báo-cáo của các điệp-viên, tin chắc ở độ trung-thực của các nguồn tin, tôi liền thảo-luận với đại-tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I An-Ninh Quân Ðội, để có biện-pháp ngăn-ngừa kịp thời . Biện-pháp mà tôi đề-nghị là giao hai hạ-sĩ-quan liên-can cho tôi, vì bên Quân-An chưa biết gì về hành-tung của kẻ khả-nghi, và tôi thì phải bảo-mật mật-viên của mình. Nhơn trình lên Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn I và bàn-bạc với Bộ Tư-Lệnh Sư Ðoàn I Không-Quân, xong liền đồng-ý để tôi câu-lưu cặp Hạ+Ðông để điều-tra . Tôi giao hai hạ-sĩ-quan Không-Quân nói trên cho Ðạm và Văn, cầm chân chúng tại một “nhà an-toàn”, suốt trong hai tuần. ÐÂY là lần đầu, Cảnh-Sát Ðặc-Biệt, dân-sự, bắt giam & thẩm-vấn quân-nhân, trong khi chưa có bằng-chứng quả-tang. Như thế tức là chúng tôi phải phá tổ-chức Ðặc-Công nội-tuyến này của Việt-Cộng; do đó, chúng tôi phải bắt cả cô giáo Thu lẫn anh thợ Xuân. Nhưng không hiểu sao tên thợ chữa xe đã biến mất tăm. Rốt cuộc, Ðặc-Cảnh lấy được lời cung của giáo-viên Thu . Ả chỉ là liên-lạc-viên, trung-gian nhận+chuyển chỉ-thị & báo-cáo giữa một cán-bộ Việt-Cộng Liên-Khu & Quân-Khu V với tên Xuân, và với Hạ+Ðông qua tên Xuân; tên này là một Tổ-Trưởng nằm vùng, đặc-trách đường dây Không-Quân trong phi-trường quân-sự này . Những lời khai này của ả phù-hợp với tin tình-báo nội-tuyến của chúng tôi . Ả khai là ả không biết nội dung chỉ-thị & báo-cáo; tuy nhiên, ả có thoáng nghe Xuân và Hạ+Ðông nói ra những tiếng như “họa đồ”, “chất nổ”, “kho bom”, “thoát-ly”. Hai tên Hạ & Ðông thì chối quanh-co . Ðưa cho chúng xem các tấm ảnh chụp được lúc chúng đến tiếp-xúc với Xuân & Thu tại quán của Xuân thì chúng xác-nhận có đến, nhưng chỉ đến để chữa xe, và chỉ tình-cờ gặp Thu, thấy Thu dễ mến nên có chuyện-trò vu-vơ mà thôi . Chúng tôi trả lại cho Quân-An và Không-Quân hai hạ-sĩ-quan liên-can, tóm-tắt kết-quả hỏi cung, ghi rõ nội dung tin-tức Ðặc-Cảnh nhận được, đề-nghị canh phòng cẩn-mật kho bom và các phi-cơ, điều-chuẩn an-ninh các phần-tử khác, nhất là theo dõi sít-sao hai trung-sĩ này, nếu cần thì thuyên-chuyển chúng đi nơi xa hơn. MỘT tuần trước ngày Ðà-Nẵng thất-thủ, vào một buổi sáng đẹp trời, bỗng-nhiên có hai tiếng nổ khủng-khiếp vang lên, làm rung-chuyển cả thành-phố lẫn vùng tiếp-giáp ở phía ngoại-ô . Lúc đó tôi đang trên đường từ Quận phía biển qua cầu Trịnh Minh Thế để về cơ-quan, nhìn thấy ở hướng phi-trường một vầng lửa khói bốc cao như một cây nấm nguyên-tử trong phim Hiroshima và Nagasaki của Nhật bị Mỹ ném bom vào năm 1945. Hai kho dự-trữ bom lớn, kể cả hỏa-tiễn/napalm, của Sư Ðoàn I Không-Quân, dùng để oanh-tạc Việt-Cộng trên khắp Quân-Khu I, đã bị phá-hoại, nổ tung. An-Ninh Quân Ðội Sở I, An-Ninh Quân Ðội Ðà-Nẵng, An-Ninh Phi-Trường/Không-Quân, v.v... tức-tốc nỗ-lực điều-tra . Chúng tôi cũng cùng điều-tra bên ngoài, nhưng dò tìm xem thì không gặp được hai tên Hạ & Ðông. (Sau khi tôi bị bắt từ Nha Trang giải ra Ðà Nẵng, ở đây tôi đã dò hỏi các đồng bào Ðà Nẵng bị bắt về tội “phản động hiện hành” thì họ cho biết có thấy tên Hạ mang lon thượng úy, làm việc ở trụ sở Công An Phường Thạc Gián, còn tên Ðông thì không biết giữ chức vụ gì mà mặc dân phục, làm việc ở Ủy Ban Nhân Dân Phường Thanh Bình).
CHUẨN-TƯỚNG NGUYỄN HỮU HẠNH
HÔM ấy tôi đi Sài-Gòn. Ðến giờ ra sân để lên phi-cơ, đại diện của Trạm “Air Vietnam” mời tôi ra trước, nghĩa là đi qua hàng-rào dò tìm vũ-khí đựng trong hành-lý xách tay và mang trong người . Nhân-viên hữu-trách tươi cười đưa tay mời tôi đi qua, không rà soát gì. Họ đã biết tôi là ai, và biết là tôi hẳn có mang theo ít nhất là một súng lục phòng-thân. Trên sân đã có độ mươi sĩ-quan, đa-số là đại-tá Trưởng-Phòng tại Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn I . Họ đứng một hàng, trong lúc một đại-tá khác thì đứng trước mặt chuẩn-tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tôi đoán là viên đại diện ngỏ lời tiễn-đưa, và Hạnh đáp lời giã-từ. HÔM qua, tôi đã gặp Hạnh trong phòng-giấy của đại-tá Hoàng Mạnh Ðáng, Tham-Mưu-Trưởng Quân Ðoàn. Ðáng đại diện trung-tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh Quân Ðoàn I & Quân-Khu I, triệu-tập chúng tôi đến họp bàn về tình-hình Việt-Cộng và hoạt động phối-hợp tình-báo giữa các cơ-quan. Cùng có mặt lúc đó là các đại-tá, Nguyễn Xuân Lộc của Cảnh-Lực Vùng I, Phạm Văn Phô của Phòng 2 Quân Ðoàn I, Lê Quang Nhơn của Sở I Quân-An. Chúng tôi đang họp thì chuẩn-tướng Nguyễn Hữu Hạnh vào . Hạnh là Thanh-Tra-Trưởng của Quân Ðoàn này . Các sĩ-quan kia thì đã gặp Hạnh nhiều lần, lúc không có tôi, nên họ tưởng tôi mới gặp lần đầu; do đó, đại-tá Lộc giới-thiệu tôi . Nhưng Hạnh đã tươi cười bắt tay tôi: – Chúng tôi đã quen nhau từ trong Quân-Khu II . TRONG đó, cơ-quan cầm đầu quân-sự cấp Vùng chia ra làm hai: Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn II thì đóng ở Pleiku, và Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II thì đóng ở Nha-Trang. NHƯNG Quân Ðoàn II & Quân-Khu II hầu như không dung các Phó tướng-quân. Trước hết là chuẩn-tướng Lam-Sơn. Ông tên thật là Phan Ðình Thứ, nổi tiếng nhờ đa-tài . Nhưng, chữ tài liền với chữ tai một vần. Trong một buổi lễ, ông mặc lễ-phục, cùng với Cố-Vấn đi kiểm-soát các hàng quân. Viên Cố-Vấn Hoa-Kỳ thọc khăn tay vào trong nòng súng của một quân-nhân, thì thấy khăn dính dầu dơ: lính không chùi sạch khẩu súng của mình. Ðể nêu bằng-chứng tắc-trách của lính dưới quyền của ông, viên sĩ-quan Ðồng-Minh quệt vết dầu dơ từ chiếc khăn tay của anh-ta vào áo của ông. Ðáp lại sự xúc-phạm ấy, ông đã giáng vào má anh-ta một cái tát tai . Vì thế, ông bị trù dập liên-hồi . Khi chuẩn-tướng Lam-Sơn làm Phó Tư-Lệnh Quân Ðoàn II, ở Pleiku, một hôm có một quân-nhân vô-kỷ-luật xách súng đến tư dinh Tư-Lệnh định làm liều . Ông có mặt ở đó, ra lệnh cho y buông súng; nhưng y bất-tuân nên ông bấm cò. Vì thế, ông bị câu-lưu, truy-tố ra tòa . RỒI đến chuẩn-tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Hạnh được cử làm Tư-Lệnh-Phó Quân-Khu II, ở Nha-Trang. Tôi không liên-quan gì đến Hạnh, nhưng vì thói quen nghề-nghiệp tôi cũng tìm biết sơ-sơ đôi điều về ông. Khi chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây ra Vùng II, ngỏ ý muốn ghé thăm Hạnh, là tôi đưa Tây đến trụ-sở Quân-Khu, vào thẳng phòng-giấy của Hạnh, khiến ông ngạc-nhiên sao tôi biết ông ngồi ở chỗ này . Hạnh không được viên tướng Tư-Lệnh Vùng này ưa; nên ông ra Quân Ðoàn I & Quân-Khu I, làm Tổng-Thanh-Tra . Là một trong số mấy tướng bị cho giải-ngũ, vào đầu tháng 3-1974, Hạnh đến phòng-giấy Tham-Mưu-Trưởng để chào từ-biệt đại-tá Hoàng Mạnh Ðáng; nhân gặp chúng tôi, ông cũng luôn thể ngỏ lời chia tay chúng tôi . Tuy ông giữ vẻ tự-nhiên nhưng tôi cảm thấy giọng nói vẳng lên đôi chút bất-mãn từ trong lòng ông. Khi Hạnh đã ra khỏi phòng, Ðáng nói với chúng tôi: – Ông ta là tướng-mặt-trận thật-sự, chứ không phải là tướng-văn-phòng đâu . Nhưng Ðáng nói thêm: – Mấy tay đó có cần gì đồng lương quân đội, giải-ngũ thì thôi, đâu thiếu gì tiền. SẴN trớn, Ðáng nói qua chuyện buôn lậu của một tư-lệnh của một đơn-vị cũng đóng ở Ðà-Nẵng này: – Một hôm, có một đàn-em của hắn từ trong Sài-Gòn gọi điện-thoại ra, nhân-viên tổng đài nghe không rõ tên, tưởng là gọi tôi nên chuyển đường dây đến tôi . Tôi mới “a-lô!” là y nói liền: “Em đã gửi hàng ra rồi, chuyến này khá lắm; đại-tá cho người ra đón; phi-cơ X; cất cánh lúc Y giờ; thằng Z mang đi .” NGỒI ở phòng-giấy của đại-tá Ðáng, chúng tôi có dịp nghe+thấy thêm được đôi điều . Tỷ như có lần, đầu năm 1975, nghe điện-thoại xong, ông bảo bên kia chờ máy, để ông vào trình trung-tướng. Ông qua phòng-giấy tướng Ngô Quang Trưởng, trình xong, về trả lời người bên kia: – Trung-tướng chỉ-thị anh em Không-Quân, khi thấy xe tăng, xe tải, bộ đội của chúng di-chuyển trên đường-mòn Hồ Chí Minh, dù ở trong tầm oanh-kích của ta thì cũng đừng hành động gì, cứ để cho chúng tiếp-tục chuyển quân vào Nam... SAU tôi là Ban Lãnh Ðạo trung-ương Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc ra sân. Họ về Sài-Gòn cùng chuyến với tôi . Tôi nghe Dân-Biểu Phan Xuân Huy nói với Thượng-Nghị-Sĩ Vũ Văn Mẫu và các bạn cùng phe: – Tao có mang súng mà nó có rà ra đâu! Mẫu nói: – Máy-móc gì rồi cũng thua con-người mà thôi! Tôi nghĩ rằng các nhân-viên kiểm-soát thừa biết là các nhân-vật dân-cử được cấp vũ-khí tuỳ-thân. Chuẩn-tướng Nguyễn Hữu Hạnh cùng các sĩ-quan đi đưa, và thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu cùng nhóm đồng-hành, đã đến cầu thang phi-cơ, nhưng bị nhân-viên hàng-không chận lại chưa cho lên. Viên đại diện Trạm “Air Vietnam” mời tôi lên trước, đợi tôi ngồi xong mới để cho các hành-khách khác lên.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:54:42 GMT 9
NGƯỜI HÀNH-KHÁCH ĐẶC BIỆT
HƠN bảy năm sau, ngày 15-7-1981, cũng tại chỗ này, viên Trưởng Công-An Việt-Cộng trong sân-bay Ðà-Nẵng cũng chận các hành-khách lại, đợi tôi lên xong, ngồi yên vào chỗ, rồi mới cho các người khác bước lên.
SỐ là tôi bị hỏi cung nhiều lần, kể cả bởi một Phái-Ðoàn mà chúng giới-thiệu là của Bộ Nội-Vụ Hung-Gia-Lợi; nhưng không khai-báo những gì đáp-ứng nhu-cầu của bọn điều-tra, nên Bộ Nội-Vụ Việt-Cộng phái hai cán-bộ cao-cấp vào Ðà-Nẵng nhận và giải tôi ra Hà-Nội để “làm việc” trực-tiếp với Công-An trung-ương. Chúng nói: -- Anh là số một đấy nhé. Tù “Ngụy” mà được cho đi máy bay ! Ty Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng có 3 chiếc xe-hơi sang nhất, hiệu Peugeot đời mới, mỗi chiếc một màu, tịch-thu của các nhà giàu địa-phương. Chúng dùng loại xe ấy để chở tôi đi+về giữa Trại Giam, trụ-sở Ty, các nơi cần đưa tôi đến, và sân bay. Tôi đã dùng qua cả 3 chiếc xe nói trên.
Sáng nay chúng đưa tôi vào phi-trường.
Ở chỗ trước kia chỉ là cái chòi với cây chận đường để nhân-viên CSQG và Quân-Cảnh xét giấy người vào, nay là một trụ-sở đồn Kiểm-Soát của Công-An đường-hoàng. Tất cả xe-cộ đều phải đậu lại sát bên lề đường. Hành-khách, tài-xế, và mọi người khác, đều phải vào trụ-sở, mang theo hành-lý xách tay -- hành-lý gửi riêng thì đã được soát tại trụ-sở Chi-Nhánh Hàng-Không Dân Dụng “Vietnam Airlines” và được chất riêng trên xe của Hãng, có nhân-viên Công-An đi theo canh chừng. Trong trụ-sở, mọi người đều bị xét lại giấy-tờ, soát lại đồ-đạc và rờ khắp người. Xong rồi, mọi người đều được hướng-dẫn đi bộ ra đường, vượt qua một khoảng đường có vỉ sắt lát ngang, rồi lên đứng đợi ở chỗ xe sẽ đến đón phía trong. Sau đó, mỗi xe được một nhân-viên Công-An lên ngồi cầm lái, chạy qua từ-từ trên tấm vỉ sắt nói trên. Có một hệ-thống điện-tử rà-soát dò-xét phía dưới đáy xe. Xong rồi xe mới được đem đến chỗ đón người, giao cho tài-xế rước khách lái đi . Thủ-tục kể trên không được miễn-trừ cho ai; xe tôi, là xe của Ty Công-An, với hai cán-bộ của Bộ và một tài-xế của Ty, cũng phải tuân theo. Và dù đây cũng là một sân bay quân-sự, nhưng không hề có “Kiểm-Soát Quân-Sự” (tên gọi tương-đương “Quân-Cảnh” của ta). Thẩm-quyền an-ninh hoàn-toàn trong tay Công-An -- dân-sự -- mà thôi .
RIÊNG tôi, chúng chở vào quá nhà-ga, đến một trụ-sở gọi là “Công An Sân Bay Ðà Nẵng”, hình như ở chỗ trước kia là Trạm Hàng-Không “Air America”.
Tại đây, chúng lại tái diễn lục-soát mấy xách đồ dùng và rà khắp người của tôi, xong bảo tôi ngồi chờ ở phòng-khách, rồi kéo nhau vào phòng trong, chắc là phòng-ăn. Tôi nghe một tên từ Hà-Nội vào nói với tên làm Trưởng ở đây là phải chở tôi đi bằng máy-bay vì sợ nếu đi đường bộ thì có thể có “Mỹ+Ngụy” giải-cứu dọc đường.
Tôi nhìn lên tường thì thấy, ngoài các khẩu-hiệu thông-thường, có một hàng chữ:
“WELCOME COME TO VIETNAM!” (dư một chữ “come”)
ÐẾN giờ phi-cơ cất cánh, tôi được chở đến nhà-ga, và cũng lại bị khám-soát, song không phải là sờ tay hoặc rà bằng cái dùi-cui chạy pin nghe kêu tè-tè như xưa, mà là đi ngang qua một hệ-thống màn ảnh mới được Việt-Cộng thiết-lập sau này, văn-minh như ở các nước Tự-Do . Máy-bay là một phương-tiện di-chuyển đang còn hiếm-quý; hành-khách đa-số là cán-bộ Việt-Cộng cấp cao, cùng với một số Cố-Vấn Liên-Xô hoặc các nước khác mà chúng gọi là chuyên-gia . Tất cả đều bị viên Trưởng Công-An phi-trường chận lại, để hai cán-bộ của Bộ Nội-Vụ đưa tôi lên trước, như đã kể trên 35. SÂN BAY GIA-LÂM
KHI máy-bay đậu ở sân Gia-Lâm, Hà-Nội, tất cả hành-khách đều vẫn ngồi yên. Hai viên Công-An giải tôi nói gì với ả tiếp-viên, ả này la to: – Uả, các cô+bác xuống tàu đi chứ! Khi đó họ mới đứng lên. Có tiếng một người trả lời: – Tưởng là chờ “Ðoàn” xuống trước đã chứ! Thì ra họ tưởng tôi và hai hộ-tống-viên là một Phái Ðoàn (VC gọi là Ðoàn) ở cấp rất cao . (Chi-tiết chuyến bay này đã được kể lại qua bài thơ “Hà Nội” trong tập thơ “Cơn Ác-Mộng” của Thanh-Thanh, do Xây Dựng xuất-bản, 1998). Trong phòng khách chờ tại nhà-ga sân bay Hà-Nội, tôi thấy có ghi một hàng chữ lớn: WAI TING ROOM (waiting viết rời thành hai chữ). Tôi xin đi tiểu thì được dẫn đến phòng vệ-sinh nam. Trên cửa phòng này có ghi: MAN Tôi nhìn về phía phòng vệ-sinh nữ thì thấy có ghi: WOMAN MỘT hôm, có dịp được cho đóng vai thường dân đi xem “Thủ Ðô”, tình-cờ gặp một đại-sứ Việt-Cộng từ Phi-Luật-Tân trở về công-tác tại Bộ Ngoại-Giao, tôi đã nhắc đến mấy bảng chữ Anh ghi trên và giải-thích thêm cách dùng. ÐẾN ngày 20-4-1982, tôi rời khỏi Trại “Thanh-Liệt”, thuộc Bộ Nội-Vụ, để về Ðà-Nẵng, cũng bằng máy-bay, tôi để ý thấy các bảng tiếng Anh tại phi-trường Gia-Lâm đã được chỉnh lại, theo lời gợi ý của tôi, như sau: WAITING ROOM (waiting viết liền thành một chữ) GENTLEMEN thay cho MAN LADIES thay cho WOMAN Vào đến phi trường Ðà-Nẵng tôi không được đưa trở lại trụ-sở Công-An Sân Bay nên không biết rõ chữ COME viết thừa đã được bỏ bớt hay chưa, hay vẫn còn là: WELCOME COME TO VIETNAM!
(trích hồi ký “Cảnh Sát Hóa” - Quốc Sách Yểu Tử của VNCH – Xây Dựng tái bản 2005)
LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:56:27 GMT 9
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA QUÂN-KHU I
Lâu nay tôi là người được quyền ký phiếu giữ chỗ ưu-tiên trên các chuyến bay của Hãng Hàng-Không “Air America” do Người Bạn Ðồng Minh thuê bao, miễn-phí cho bất-cứ người Việt-Nam nào mà chữ ký của tôi đương-nhiên công-nhận là có liên-hệ công-vụ với mình. Thế nhưng hôm nay có nhiều hành-khách phải ở lại chờ, mặc dù Hãng đã tăng-cường nhiều tàu và nhiều chuyến, vì tôi đã ký trưng-vận cho cả vợ+con của nhiều thuộc-viên di-tản vào Sài-Gòn mà trước tình-hình nguy-cấp tôi không nỡ chối-từ. Cảnh-nhân, cũng như công-chức và quân-nhân, đào-nhiệm khá nhiều . Tôi phải ký giấy giới-thiệu, kể cả Lệnh Công-Tác, để hợp-thức-hóa cho nhân-viên đưa gia đình ra đi . Ðàng nào thì họ cũng đã quyết định rời bỏ nhiệm-sở rồi . Ngoài các loại tàu của Hải-Quân VNCH và các loại ghe của tư-nhân ra, các cơ-quan quốc-tế, các tổ-chức thiện-nguyện, các Hội Thánh Tin Lành của Hoa-Kỳ, v.v... cũng đã đưa đến nhiều phi-cơ và hải-thuyền để giúp cho người dân thoát ra khỏi Vùng I đang lâm nguy . Ðồng-bào từ các Tỉnh Quảng-Ngãi, Quảng-Tín chạy ra, kể chuyện Việt-Cộng trả thù đối-phương và thảm-sát lương-dân trong đó, khiến dân-chúng ngoài này khiếp vía, kinh hồn. Thành Ðà-Nẵng không còn luật-pháp hay trật-tự gì. Mệnh sống con người rẻ hơn con giun. Nào là một toán vũ-trang này vừa cướp được một túi tiền của Ngân-Hàng “Thương-Tín”, liền bị một toán vũ-trang khác bắn hạ để phổng tay trên. Nào là một nhóm mặc đồ rằn-ri nọ vào tiệm “Thế-Giới Tửu-Gia” ăn nhậu thả giàn không trả tiền xong còn cưỡng dâm nữ-chiêu đãi-viên trước mắt mọi người . Nào là một tốp có súng kia chận đường một viên đại-tá đang đi xe Jeep nhà binh, với tài-xa và vệ-sĩ đều mang vũ-khí và mặc chiến-bào, ngay giữa đại-lộ Quang Trung, để tên cầm đầu sỉ-vả và giáng cho một bạt tai vào mặt viên sĩ-quan cao-cấp ấy, mà ông đành chịu thua chứ không dám có phản-ứng gì... Trong cảnh hỗn-loạn ấy, tôi đã đặc-biệt tăng-cường nhân-viên bám sát các cán-bộ và cơ-sở Việt-Cộng nội-thành, cả còn tự do lẫn đã cộng-tác với nganh an-ninh phản-gián Quốc-Gia, không để xảy ra một hoạt-động tai-hại nào . Nhưng Cộng-Sản Bắc-Việt đã có đại-bác 130 ly rồi, nếu chỉ ở trên núi mà pháo-kích xuống thì chúng cũng đã có thừa sức phá nát phố-phường rồi; huống chi phe mình với nhau mà lại trở mặt bạo-hành, tự biến thành kẻ thù của nhau, như thế làm sao dân-nhân không suy-sụp tinh-thần và mất hết niềm tin.
Ngoài Trung-Ương của Ngành Ðặc-Cảnh ra, các cấp chỉ-huy thuốc Khối Hành-Quân và Trung-Tâm Hành-Quân về phía Sắc-Phục tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia cũng chốc chốc lại gọi ra xin gặp tôi để trực-tiếp hỏi về tình-hình ngoài này . Họ đề-cập đến cái “Kế-Hoạch Di-Tản”, tức Di-Tản I mà tôi đã biết, đại-ý là nhân-viên Cảnh-Sát thuộc Tỉnh Quảng-Trị sẽ phân-tán mỏng xuống bất-cứ tàu nào, vào tập-trung tại Cảng Cam-Ranh trong Vùng II, tại đây sẽ có một tàu lớn của Hải-Quân đưa tiếp vào Nam. Họ chưa thảo xong Kế-Hoạch, nếu có, Di-Tản II và Di-Tản III, v.v... cho cả nhân-viên Tỉnh Quảng-Tín và Tỉnh Quảng-Ngãi, đã mất vào các ngày 22, 23-3-1975, chưa kể Tỉnh Thừa-Thiên cũng đã thất-thủ hôm qua rồi; và họ cũng chưa tưởng-tượng nổi là các làn sóng người chay giặc đã tràn ngập hết các hải-cảng Vùng I này --- người ta bắn nhau để giành ghe xuồng; xà-lan không dám cặp bờ -- kiếm cách ra khơi đâu phải là chuyện dễ dàng như đặt bút ký trên mặt giấy-tờ.
Tối ấy, tôi không buồn mở máy thu-thanh. Trong các hoạn-nạn trước, ngành Truyền-Thông Quốc-Gia đã không nói lên đủ mức ác độc của kẻ thù, khi cộng-sản nhẫn-tâm chôn sống tập-thể hàng ngàn đồng-bào trong cuộc Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân 1968 ở cố đô, cũng như khi Bắc-Việt Xâm-Lược ngang-nhiên tấn-công qua vùng phi-quân-sự, làm cỏ cổ-thành Quảng-Trị, tàn-sát dân lành trên đường chạy giặc vào Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Trong biến-loạn lần này, những tấm gương chiến đấu anh dũng của người chiến-sĩ Cộng-Hòa cũng thiếu được quảng-bá đề-cao . Trái lại, khán-giả đã chỉ nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ cảnh một viên tướng hiểu dụ các đoàn quân sắp rời phi-trường Pleiku đi hành-quân, mà khi sĩ-quan Chiến-Tranh Chính-Trị hô khẩu-hiệu thì chỉ có một ít tiếng yếu-ớt từ các đội-ngũ hô theo; và cảnh dăm quân-viên trên trực-thăng đang bay về hướng Buôn Ma Thuột, vẻ mặt buồn xo, khi được phóng-viên phỏng-vấn thì không người nào trả lời được một câu nào cho ngon lành...
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA QUÂN-KHU I (II)
Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ Rút Khỏi Miền Trung
Khoảng quá nửa đêm 27-3-1975, tôi được báo-cáo là các Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ canh gác Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I đã khóa cổng kỹ và rời khỏi trụ-sở ấy, sau khi đã chở ra khỏi nơi đó nhiều chuyến hàng đóng thùng, và từ giữa sân bên trong thì bốc lên trời một cột khói đen như ai đang đốt nhiều đồ vật gì. Tôi gọi điện-thoại đến đó, rồi đến tư-gia của các Người Bạn Ðồng-Minh và những viên-chức ngoại-giao Hoa-Kỳ mà tôi quen, thì hoặc đường dây bị hư, hoặc chuông có reo mà không có người trả lời . Tôi dùng máy vô-tuyến gọi các Người Bạn Ðồng-Minh Ferguson và Watkins, nhưng cũng không liên-lạc được với ai . * Mờ sáng hôm sau, 28-3-1975, dân-chúng bắt đầu vào hôi của tại tòa nhà vốn được gọi theo địa-chỉ là 52 Bạch Ðằng. Lúc đầu thì đồ ăn, đồ uống, vật-liệu văn-phòng, dụng-cụ linh-tinh; về sau thì bàn ghế tủ giường, trang-cụ thiết-cụ, máy móc; cuối cùng là các loại xe hơi . Tôi chen lách đám đông vào được trong văn-phòng của Trạm Hàng-Không “Air America”. Nơi đây đang chuẩn-bị đợt hành-khách và hành-lý cuối-cùng cho một số phi-cơ bán-phản-lực và trực-thăng. Viên kỹ sư Phi Luật Tân, Trưởng Trạm, tuy đang bận túi-bụi nhưng không quên trao ngay chiếc chìa khóa vào phòng VIP cho tôi . Anh tưởng, như những lần trước, tôi mà đến đây là chỉ để đưa hay đón các viên-chức quan-trọng mà thôi, và lần nào tôi cũng mượn dùng phòng khách quan-nhân. Khi chỉ còn lại mấy chiếc trực-thăng, anh chào từ-giã tôi, rồi cùng với các nhân-viên khác dùng bình xịt xịt ra một thứ bọt trắng xóa, đẩy đám đông lui ra xa khỏi phi-cơ . Xong họ bay lên, rời khỏi sân bay và trạm hàng-không đặc-biệt này . Anh có cho tôi biết là họ bay ra tàu thủy đậu ngoài khơi . Thế là người Mỹ đã thật-sự bỏ Ðà Nẵng, bỏ Miền Trung, bỏ Vùng Chiến-Tuyến này rồi .
Ðà Nẵng Tử-Thủ
Sáng ngày 28-3-1975, Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phái trung-tướng Lê Nguyên Khang ra Ðà Nẵng họp khẩn-cấp với trung-tướng Ngô Quang Trưởng và các tướng sở-tại tại Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn I & Quân-Khu I để tìm giải-pháp cứu-vãn tình-hình. Trong lúc đó, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I tổ-chức phát lương sớm cho nhân-viên các Tỉnh thất-thủ di-tản về tập-trung trước sân. Tình-trạng bơ-vơ và hoàn-cảnh nguy-khốn xung quanh đã thôi-thúc mọi người tranh-thủ từng giây từng phút để sớm ra đi, cho nên thới-gian hầu như dài vô-tận đối với những người phải sắp hàng để đợi đến lượt mình được lĩnh lương. Lần đầu tiên trong lịch-sử của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, có một số cảnh-viên vô-kỷ-luật, muốn mình được giải-quyết trước, đã xông đến bao vây phát-ngân-viên, và, trong lúc lộn-xộn, có kẻ đã nổ súng uy-hiếp để cướp tiền. Viên đan xoi lủng một lỗ và làm nứt một đường, trên cánh cửa kính tiền diện của trụ-sở Cảnh-Lực Miền Trung, phải chăng là dấu-hiệu của sự rạn vỡ đã thâm-nhập vào lòng của một tổ-chức tượng-trưng cho an-toàn chung, để hòa nhịp với guồng máy lớn đã bước trước vào một giai đoạn mới, hỗn-quan, hỗn-quân. Một số tư-xưng là thân-nhân của cảnh-nhân Tỉnh Thừa-Thiên, lùng tìm trung-tá chỉ-huy Cảnh-Lực Tỉnh ấy, lúc ấy đang lánh trong phòng đại-tá Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, để đòi trả lại chồng+con cha+mẹ của họ vốn đã thất-lạc trên đường bôn-đào .
Kết-quả cuộc họp của các cấp chóp-bu tại Bộ Tư-Lệnh của tướng Trưởng là tái-bố-trí lực-lượng để cố-thủ Ðà Nẵng: phía Bắc thì giữ đất từ Ðèo Hải-Vân, phía Nam thì chận địch từ sông Thu Bồn; một viên tướng bảo-vệ phi-trường, một viên tướng trấn-an hải-biên, và một viên khác ổn định tình-hình nội-thành. Riêng tại thị-xã Ðà Nẵng thì nhân-số Quân-Cảnh cũng như các đơn-vị quân-sự thuộc quyền đã không còn nguyên, nên Quân-Khu phải thành-lập một lực-lượng hỗn-hợp, gồm Ðịa-Phương-Quân từ Tỉnh Thừa-Thiên vào, và Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Tỉnh Quảng-Nam ra, có nhiệm-vụ tái-lập trật-tự bằng cách tuần-tiễu trên khắp mọi nẻo đường, và được quyền bắn hạ bất-cứ phần-tử nào có súng mà di-chuyển lẻ-tẻ dọc lề, như cung-cách của những cá-nhân đi khủng-bố đồng-bào mấy hôm nay . Từ 12 giờ trưa, Ðài Phát-Thanh Ðà Nẵng phát đi phát lại lời tuyên-bố được thu băng của trung-tướng Ngô Quang Trưởng, kêu gọi đồng-bào an-tâm và thề quyết tử-thủ thị-xã này . Cũng từ giờ đó, các cấp điều-khiển của lực-lượng hỗn-hợp đến làm việc tại trụ-sở của Bộ Chỉ-Huy Ðặc-Khu, và các thành-viên gặp nhau tại các địa điểm đã hẹn để bắt đầu hành-quân. Kết-quả là suốt buổi chiều ngày đó tình-hình lắng yên; những kẻ đục-nước-béo-cò không còn đi sục-sạo, hãm-hiếp đàn-bà con-gái, cướp của, giết người . Nhưng, để đạt được thành-tích ấy, lực-lượng hỗn-hợp cũng đã bắn oan một số quân-nhân, kể cả hạ-sát ngay chính đồng-thành-viên của mình. Tôi đi một vòng quanh Quận I và Quận II, nhìn thấy một số xác chết, trong đó có một Cảnh-Sát Dã-Chiến trước cổng Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thành Ðà-Nẵng, và một Cảnh-Sát Dã-Chiến tại ngã tư Lê Lợi–Quang Trung bên cạnh nhà tôi . Nguyên-do là vì xe tuần-tiễu chạy nhanh hơn người đi bộ, kẻ chậm chân trên đường tìm đến điểm hẹn hỗn-hợp để hành-sự đã bị nhận lầm là kẻ gian.
Trong lúc tôi đinh-ninh rằng ít nhất thì số ít các cộng-sự-viên tâm-phúc của tôi sẽ còn ở lại với mình cho đến giờ phút cuối cùng, thì trung-úy Nguyễn Ưu Ẩn, bí-sự của tôi, xin tôi cho anh nghỉ việc để đưa gia đình ra đi . Lâu nay, Ẩn là một tay lễ-nghi giao-tế, lễ-phép nhún-nhường đến điều, thế mà bây giớ anh lại nói toạc với tôi: “Bọn tham-nhũng đã lủi hết rồi, hoặc cũng sắp chuồn. Ông thì ăn cái giải gì . Ðể-nghị ông cũng sớm lo cho bản-thân mình ngay thôi!” Tôi vừa tức-giận thì chợt nhận ra anh cũng có lý phần nào. Tôi định gọi điện-thoại vào Nha Trang thì vừa lúc Phòng Tình-Hình mời tôi vào nói chuyện vói trung-tá Nguyển Hữu Hải, Giám Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh Vùng II, trên máy điện đàm. Hải trao máy cho vợ tôi . Vợ tôi nói: -- Pleiku đã về hết rồi, mà chú Thái thì vẫn biệt tăm. Anh+em kể lại là bị phuc-kích dọc đường, tử-thương rất nhiều. Dì Nga và các cháu đau-khổ vô cùng. Anh liệu thế nào về phần mình đây? -- Ðường bộ đã bị cắt đứt, tàu bay thì hết chỗ lên, tàu thủy thì cũng khó ra, mà anh thì còn trách-vụ nặng-nề. Thôi, em lo cho phần em và các con đi ... Ở đầu giây phía bên kia, vợ tôi bỗng khóc òa . Nàng nói đứt quãng: -- Anh đừng giận em nữa nha! Tôi hiểu vợ tôi muốn nói những gì . Cũng như hằng triệu người đàn-bà khác, nàng muốn chồng mình sống cho gia-đình nhiều hơn. Tôi thì hăng say với công-vụ đến độ bỏ ngủ, quên ăn, không có những dịp cuối tuần. Công danh bảy nổi ba chìm mà bản-thân không hưởng-thụ gì. Ðó là lý do có vụ cãi nhau hôm tôi ghé nhà vào lần sau cùng trước khi ra đây . Bây giờ tình-thế bâp-bênh, biết đâu vợ+chồng sẽ không còn gặp lại nhau; câu nói ấy là lời ai điếu trước giờ tử-biệt chăng? “Anh đừng giận em nữa, nha!” Không, tôi không giận nàng, tôi không còn giận nàng. Tôi nghẹn-ngào nói không dứt câu: “Thôi, em về đi!” rồi buông máy, chạy thẳng vào phòng-khách riêng của đại-tá Lộc, ngồi khóc một mình như đứa bé cô-đơn. Trung-tá Tạ Văn Sánh, Chành Sở Nhân+Huấn, ngẫu-nhiên bước vào, định cất tiếng chào, nhưng chợt thấy tôi như thế nên lặng-lẽ bước ra .
Trong phòng-giấy của đại-tá Lộc, các Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực từ các Tỉnh về đang thảo-luận với nhau . Tiếng của thiếu-tá Trần Hàn của Tỉnh Quảng-Tín vang lên: -- Chúng ta phải ở lại quyết-chiến với quân thù, không có lý gì địch chưa tiến tới mà mình đã rút lui!
Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn Lén Bỏ Quân-Khu
Tôi về phòng-giấy mình, giải-quyết mấy việc khẩn-cấp, rồi mang các chồng công-văn về nhà. Làm việc ở nhà, tôi dễ điều động các bộ-phận ngoại dịch hơn. Tối ấy, thiếu-tá Ngô Phi Ðạm, Chành Sở Tác-Vụ tại Vùng, mang tư-trang đến, định sẽ ngủ lại với tôi . Vào khoảng 10 giờ (đêm 28-3-1975), tôi nghe trên máy điện đàm thuộc hệ-thống Cảnh-Sát Sắc-Phục Thành Ðà-Nẵng, có tiếng một đài gọi đài trung-ương mà không có ai trả lời . Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tiếp theo là nhiều đài gọi nhau xôn-xao . Tôi vội can-thiệp, hỏi đài đầu tiên cần gì thì nói với tôi . Tiếng người hồi nãy run run: “Có một số người áo quần lộn-xộn, súng-ống lủng-củng, lấp-ló từ phía Hòa Cường...” Tôi hỏi thêm thì không nghe trả lời; các đài khác cũng im luôn... Tôi báo-cáo lên đại-tá Lộc, xong dùng hệ-thống Ðặc-Cảnh địa-phương, chỉ-thị thiếu-tá Nguyễn Dự và trung-úy Dương Hồ Chương, là Chánh Sở và Chủ-Sự Phòng Tác-Vụ thuộc Sở Ðặc-Cảnh Thành Ðà-Nẵng, phái nhân-viên đi thám-sát tình-hình và thông-báo Ðặc-Khu. Ðạm cũng cho người của mình đi dò xét các ngõ ven biên. Tôi dùng điện-thoại quân-sự gọi đến văn-phòng và tư-thất của các giới-chức cao-cấp Quân Ðoàn và Quân-Khu, và cả Ðặc-Khu, nhưng không có ai trả lời . Ðiện-thoại bưu điện cũng hết người nghe . Vào khoảng 11 giờ, Phòng Tình-Hình xin phép tôi cho trung-tá Nguyễn Văn Long, Chánh Sở Pháp-Cảnh, nói chuyện với tôi trên hệ-thống Ðặc-Cảnh. Tôi nghe giọng Long trịnh-trọng khác thường: -- Thưa ông Phụ-Tá, tôi xin mời ông Phụ-Tá đến đây để tổ-chức và chỉ-huy anh+em chúng tôi tử-chiến với quân thù. -- Tôi đang bận họp một lát, tôi sẽ đến sau . Ðai-tá Tư-Lệnh đâu ? Bây giờ thì Long dằn giọng trút hết giận-dữ và bất-bình: -- Các ổng đào-ngũ hết rồi! Tôi kinh-ngạc hỏi anh chuyện gì xảy ra . Anh kể, đại-ý: -- Tôi đang ngồi nghỉ trong phòng-giấy tôi thì được mời đến văn-phòng Tư-Lệnh; ở đấy đã có nhiều người . Ông Lộc ra hiệu; tất cả bước theo, ra sân, lên xe, lái đi dọc theo bờ sông, Tôi tưởng đi họp hoặc đi thanh-tra nên cũng cùng đi . Ðến bến Giang-Cảnh, tất cả đều xuống. Một ông dùng súng tiểu-liên bắn dọa để đuổi đồng-bào tránh xa; tất cả lên tàu Giang-Cảnh, rời bờ. Tôi lấy làm lạ, mới hỏi ông Lộc: “Chúng ta đi đâu thế này?” Ổng đáp: “Chúng ta di-tản vào Nam.” Tôi thấy máu uất xông lên đỉnh đầu; tôi la lớn lên: “Anh+em vẫn còn ở lại mà chúng ta lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!” Ổng gắng giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi . Trước tình-thế này, thôi thì chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!” Tôi nhìn thẳng mặt từng ông: Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh này, Tỉnh nọ; Chánh-Sở Sở nọ, Sở kia; có cả mấy ông đại-tá quân-đội nữa cơ! Tôi rút súng ra, bảo quay tàu lui cho tôi lên bờ, trở về sống+chết với anh+em. Và tôi đã trở về đây; các ổng thì đã trốn chạy hết rồi! Long xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay tại Phòng Tình-HÌnh, và đòi đến họp với tôi . Ðể tránh bị kẹt với anh trong trụ-sở Cảnh-Lực Vùng, tôi rủ Ðạm ra xe lái chạy đến bến Bạch-Ðằng kiểm-xác xem sao, thì thấy, quả thật, một dãy xe Jeep, xanh-trắng Cảnh-Sát lẫn o-liu nhà-binh, đang đậu nghênh-ngang dọc đường. Tôi dùng hệ-thống riêng của Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng gọi Lộc nhưng không nghe ai trả lời . Tôi bèn bảo Phòng Tình-HÌnh báo-cáo lên Trung-Ương. Long đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu . Tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Long hỏi, tôi đáp là đến Sở I An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai . Tôi gọi đại-úy Trần Văn Phú, Quyền Chỉ-Huy-Trưởng Thám-Sát Ðặc-Biệt Vùng I, theo mật-hiệu riêng. Long hỏi, tôi đáp là lên phi-trường; nhưng tôi chạy xuống Tiểu Ðoàn Nhiên-Liệu sau Cổ-Viện Chàm; tại đây, Phú đến với tôi . Tôi lại dùng điện-thoại quân-sự tại đây gọi đến văn-phòng và tư-thất của các giới-chức cao-cấp Quân-Khu, nhưng không có ai trả lời . Thân-nhân của các quân-nhân Tiểu Ðoàn Nhiên-Liệu vây quanh bến táu, chúng tôi không thể lên tàu . Tôi liền chạy qua Quận 3 để xem xét tình-hình chung và hiện-trạng di-tản bằng đường biển, từ bãi Mỹ Khê lên cảng Tiên Sa . Xác người bị xe cán lên còn nằm giữa đường.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:59:12 GMT 9
Ðà Nẵng Thất-Thủ
Tôi trở về Quận I, trung-tâm Ðà Nẵng, vào khoảng 12 giờ khuya, thì gặp cả một thác xe ngược chiều cuồn-cuộn tuôn qua . Mấy hôm trước đó, tôi lượn trực-thăng quan-sát đoàn xe di-tản từ Huế, qua Ðèo Hải-Vân, đã thấy cảnh-tượng thảm-thương; bây giờ len lách tránh né và cả đụng chạm ngay chính giữa dòng khiếp-hoảng ấy, tôi mới thấy rõ nỗi tuyệt-vọng của đồng-bào và cơn bất-lực của chính mình. Bỗng, thoáng dưới ánh đèn pha, có hình dáng của trung-tá Long, mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi chĩa mũi ra ngoài, mặt đỏ phừng-phừng, lái xe vụt qua . Khuya ấy, Việt-Cộng pháo-kích vào sân bay và bến tàu ...
Tôi kiểm điểm nhân-số Ðặc-Cảnh còn lại, bảo Phòng Tình-Hình chuyển điện của tôi xin chỉ-thị của chuẩn-tướng Huỳnh Thới Tây, Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương. Khi đã được phép tùy-nghi, tôi nói mấy lời giã-từ trên đài Ðặc-Cảnh, hệ-thống truyền-tin duy-nhất của các cơ-quan Chính-Quyền còn lại tại Ðà-Nẵng, cứ điểm cuối cùng, cho phép thuộc-viên tự do tìm đường ra đi . Dân-chúng vây kín lối vào sân bay, bến cảng Tổng Kho, đường ra Hải-Cảng Sâu . Chiếc tàu thủy-vận của Tiểu Ðoàn Nhiên-Liệu, trên đó Phú đã nhắm chỗ trước rồi, đã bị gia đình binh-sĩ xuống chiếm từ chiều hôm qua . Mấy chiếc trực-thăng Không-Quân đã định bốc chúng tôi đi, bay đến một bãi đặc-biệt bên kia sông Hàn, mà không đáp được vì đám đông người không chịu tránh ra . Giữa cái bể người hỗn-tạp ấy, chúng tôi lạc nhau . * Sáng sớm ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích bừa-bãi vào giữa đông đảo đồng-bào tụ-tập ở bến tàu và các nơi . Tứ phía từng chặp vang lên những tiếng súng máy, súng trường. Nhiều chiếc tàu thủy chạy lui chạy tới ngoài khơi, không dám vào bờ. Chợt thấy có chiếc trực-thăng của Hãng Air America sơn màu xanh+trắng, mà một số người gọi là trực-thăng Cảnh-Sát, từ ngoài tàu thủy lượn vào, có kẻ đoán mò là vào bốc tiếp những nhân-vật này, những viên-chức kia . Trong một nỗ-lực cầu-may, tôi lái xe đến chỗ vắng, gác đầu lên mô đất cao, chĩa mũi về nó, liên-tiếp nháy cặp đèn pha, và cả đưa áo lên vẫy, đồng-thời dùng máy vô-tuyến mà gọi Người Bạn Ðồng-Minh, nhưng suốt cả buổi không kết-quả gì. Dân-chúng tiếp-tục đổ qua, dùng cả lối đi ngược chiều, nên tôi không qua phi-trường, không về Quận I được nữa . Sáng ấy, có một phi-cơ hạng nặng cất cánh vào Nam, lúc rời khỏi đất thì có nhiều người rơi xuống vì đã cố bám đeo theo . Khoảng 10 giờ sáng thì có một toán Việt-Cộng xuất-hiện, nổ súng dò đường phía Ngũ Hành Sơn. Trên này, súng đạn vứt bỏ ngổn-ngang, chiến-xa nằm im thin-thít, mấy khẩu đại-pháo ngỏng cổ chơ-vơ; một số có súng bắn nhau để giành xuống phà; trong cảnh biến-loạn, quân cũng như dân, như rắn mất đầu . Tôi vào trụ-sở Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản, kiểm-soát lại việc chôn-giấu tài-liệu mật đã được dời trước qua đây . Tôi gọi máy về trụ-sở, cho phép đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh-Sở Nghiên+Kế, đang còn chờ lệnh tại chỗ, tiếp-tục thiêu-hủy hồ-sơ, máy-móc, và chấm dứt hẳn hoạt động của Phòng Tình-Hình, đơn-vị cuối cùng của Ngành Ðặc-Cảnh, mà cũng là của toàn-bộ Chính-Quyền Quốc-Gia tại Quân-Khu I, vùng chiến-tuyến địa đầu của Việt-Nam Cộng-Hòa . Ðà Nẵng hầu như không bắn chống địch một viên đạn nào .
Vượt Vùng Chiến-Tuyến
Ðến chiều, tôi cùng thiếu-tá Nguyễn Lộc đi liều xuống bãi kiếm ghe . Mọi thứ thúng xuồng đều được chủ-nhân kéo lên, giấu tuốt khuất sau lưng nhà. Một nguời đàn-ông cầm quả lựu-đạn đã rút chốt sẵn, khật-khừ đi lui đi tới dọc bờ, khiến ai nấy đều tránh xa . Tôi thuyết-phục được một lão dân chài, trả ông hai trăm nghìn đồng; ông cho hai đứa cháu nhỏ, kèo vụt hai chiếc thúng xuống, cho bọn chúng tôi hối-hả leo vào . Một chiếc cho trung-úy Dương Hồ Chương, Trưởng Phòng Tác-Vụ Thành Ðà-Nẵng, bị thương, và em gái anh theo díu; chiếc kia cho Lộc vá tôi . Chúng tôi khum lưng, cúi đầu sát đáy chiếc thúng để tránh làn đạn bắn đến từ nhiều hướng, do tức-giận và ganh-ghét vì không kiếm được phương-tiện rời bờ. Ra được một quãng, chúng tôi phóng nhanh lên một chiếc ghe của cùng chủ-nhân. Ghe ra thêm một quãng nữa, chúng tôi leo lên một chiếc phà của Hải-Quân. Ðợi có đông người, phà đưa chúng tôi ra một chiếc tàu Hải-Quân. Tàu này chạy được một chặng lại chuyển chúng tôi lên một chiếc tàu khác, lớn hơn – HQ 504. Một toán Thủy-Binh chận soát, tước súng của người lên tàu, và tôi bị tháo lấy ra cuốn phim chụp dở trong chiếc máy ảnh mang theo . Do linh-tính, trước đó tôi đã thực-hiện một chuyến đi dài, từ đầu đến cuối Quân-Khu, chụp ảnh kỷ-niệm, từ sông Thạch Hãn giới-tuyến Bắc—Nam với lá cờ máu bên kia, đến những con cua đặc-sản Huỳnh Ðế của bãi Sa Huỳnh. Cuốn phim ấy bị họ xỗ tung ra, và ném xuống lòng đại-dương. Nhũng vụ lộn-xộn xảy ra đó đây, nhưng ai cũng lo cho bản-thân mình. Sống được mà thoát vào Nam là phúc lớn rồi . Trong số những kẻ khả-nghi bị bắt, có một thanh-niên mặc áo Cảnh-Sát Dã-Chiến và quần thường dân, xách theo một xách nhiều mìn. Tối lại, qua mấy chiếc máy thu-thanh có người mang theo, chúng tôi nghe bài tường-thuật chuyến bay cuối-cùng rời khỏi Ðà-Nẵng sáng ấy, trên đó có phóng-viên của đài BBC. Chuyến bay kinh-hoàng, với máu đổ, ruột banh, vì bị các phần-tử xấu bụng từ bên đường băng bắn bừa lên, với tiếng khóc gào rên siết của người bị thương và bà con nạn-nhân, và với xác người bị kẹt ở hầm xếp bánh phi-cơ . * Trong hai ngày lênh đênh trên mặt bể, để gậm nhấm nỗi hận sầu của một kẻ bại-binh, tôi dở chiếc cặp hồ-sơ mang theo, đọc đi đọc lại mảnh giấy lược ghi vài điểm đáng nhớ, định sẽ đưa vào nội dung của một báo-cáo đặc-biệt mà tôi sắp làm, tóm trình thành-quả đạt được trong thời-gian tôi về Vùng Chiến-Tuyến, trong bản tổng-kết thành-quả công-tác chung, để chào mừng Ngày Cảnh-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa 01-06-1975 (...)
*
Tôi đóng cặp lại, nhìn cảnh thiểu não xung quanh, nén tiếng thở dài . Thành-tích mà chi, công-trạng mà chi . Vượt khỏi hải-phận Vùng I, với tôi chưa phải là đã vượt khỏi những gian-nan nguy-khốn, dưới hình-thức khác, vẫn còn tiếp-tục thử-thách mọi người Việt-Nam trên mọi nẻo đường chiến đấu, để bảo-vệ, hưng-phục và kiến-thiết Quê Hương. Những gì đang chờ-đợi chúng tôi ở Cam Ranh hay Vũng Tàu, bến bờ của phần đất tư-do còn lại của Viêt-Nạm Cộng-Hòa? Một chiếc “trực thăng Cảnh-Sát” (vì sơn hai màu xanh trắng, và do Cảnh-Sát Ðặc-Biệt sử dụng thường xuyên) còn đậu yên trên chiếc tàu “Pacific Contender”, cũng sơn hai màu xanh trắng, của Hoa Kỳ. Tôi không phải là hành-khách của nó. Không ai đón tiếp, ủy lạo, hướng dẫn, đỡ đần. Tôi vào trụ-sở Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực thị-xã Cam Ranh. Trung-tá Chỉ-Huy-Trưởng ở đây báo-cáo ngay lên thiêu-tướng Nguyễn Khắc Bình, và trong chốc lát nhận được điện phúc của văn-phòng Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, chỉ-thị trung-tá Lê Xuân Nhuận tạm đến đợi lệnh Trung-Ương tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng II ở Nha Trang. Lúc ấy là đã chạng vạng ngày 31-03-1975. Không phải chỉ có “quân, công, cán, chính”, là bốn giới tiêu-biểu của xã-hội Miền Nam, từ Vùng I thất-tha thất-thểu chạy vào, mà trên quốc-lộ số 1 cũng đã diễn ra cái cảnh đủ loại xe cộ chen lấn chở người di-tản từ Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa ... của Vùng II từ hướng Bắc đổ về phương Nam. Xe tôi phải lội xuống ruộng, vì không có chỗ để chạy ngược chiều. Thoáng có tiếng một cụ già nhà ở gần đó ngao-ngán nhìn theo chúng tôi, lắc đầu đọc lớn lên hai câu thơ: Lạc loài một lũ tàn binh Ải xa đắp lũy, xây thành uổng công!
NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH CỦA TÔI: FERGUSON
Trong suốt thời-gian từ Hiệp-Ðịnh Geneva 1954 đến Hiệp Ðịnh Paris 1973, đã có khoảng vài chục người Mỹ làm Cố-Vấn và Phối-Trí-Viên cho tôi: đa-số họ là viên-chức cơ-quan Tình-Báo Trung-Ương Hoa-Kỳ (CIA). Mỗi người đều có những đặc điểm nào đó, phần lớn là tốt, đối với công-tác chung hoặc đối với quan-hệ hợp-tác giữa hai bên. Có một số đã để lại trong tôi nhiều kỷ-niệm không quên. Tuy nhiên, người đã đẩy tôi vào một cuộc chiến-đấu gay-gắt, cùng một lúc với cả ba kẻ thù theo nguyên-tắc tình-báo -- đối-phương, công-chúng, và đồng-nghiệp -- lại là một trong các Người Bạn Ðồng-Minh hậu-chiến của tôi, trong một năm rưỡi tôi được Trung-Ương đưa về vùng chiến-tuyến, cũng là giai đoạn lịch-sử cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa . Cuộc chiến-đấu ấy, éo-le thay, đã diễn ra ngay cả với những người bạn nhất-trí đồng-tâm, làm chung một việc, kể cả Người Bạn Ðồng-Minh của tôi . Người đó là Ferguson. Tôi biết rằng đa-số viên-chức tình-báo Mỹ đều mang tên giả; nhưng, người nào đã có một vai trò, một chỗ đứng, thì đều cần có một cái tên, để phân-biệt kẻ khác với mình. Dù sao, anh bạn này cũng đã ghi lại một dấu ấn sâu-đậm trong trí nhớ của tôi .
Việc phối-hợp hoạt-động giữa các cơ-quan Việt-Nam và Hoa-Kỳ
TÒA Tổng-Lĩnh-Sứ Mỹ tại Vùng I, ở Đà-Nẵng, làm việc thế nào thì ít ai biết, nhưng đối với các cơ quan chính quyền, Cảnh Sát và Quân Đội, cũng như trước mắt người dân, thì chỉ có vài Viên Chức Liên Lạc (Liaison Officer, mà có nhiều người dịch là Sĩ Quan Liên Lạc) là có hoạt động tích cực nhất. Mà mấy người này lại là Người Bạn Đồng Minh (Cố Vấn) của Đặc Cảnh Việt-Nam Cộng Hòa .
Họ có tuyển dụng một số người Nùng làm nhân-viên an-ninh tại tư-gia của các viên-chức ngoại-giao Hoa-Kỳ. Người Nùng là người thiểu-số Miền Bắc Việt-Nam, giáp-ranh Ai-Lao, đa-số được CIA tổ-chức thành một lực-lượng chống-Cộng hữu-hiệu, dưới quyền của tướng Wong Pao . Ngày xưa thì người Pháp ở Việt-Nam tín-nhiệm người Ấn, ngày nay thì người Mỹ ở Việt-Nam tín-nhiệm người Nùng. Nhân-viên an-ninh người Nùng không những chỉ gác trước cổng của các tư-gia Mỹ-kiều, mà còn có những trưởng toán kiểm-soát, di-chuyển bằng xe-hơi mang bảng-số ngoại-giao, đi thanh-tra đôn đốc các đồng-nghiệp ở từng trạm gác trước từng cổng nhà. Lính gác trước nhà có mang súng M-16, giống như quân-nhân trước cổng cư-xá tướng+tá, và lính đi tuần cũng chĩa mũi súng M-16 ra ngoài giống như quân-nhân đi tuần trên xe nhà-binh. Việc đó xảy ra đã lâu, được xem như là chuyện thường. Nhưng tôi không để cho nó tiếp-tục diễn ra . Tôi hỏi Ferguson, trưởng nhóm Người Bạn Đồng-Minh: nếu có chuyện gì xảy ra, thí dụ có kẻ tấn-công vào xe, nhân-viên an-ninh trên xe phản-ứng, gây nên thương-vong cho kẻ tấn-công hoặc người đi đường, thì nhà chức-trách sẽ xử cách nào ? Nhân-viên người Nùng không phải là quân-nhân hay cảnh-nhân, không được chính-quyền địa-phương cấp giấy phép sử-dụng vũ-khí, cũng không phải là Mỹ-kiều, thì lấy tư-cách gì mà dùng súng dọc đường? Thế là Tòa Tổng-Lĩnh-Sứ Hoa-Kỳ nhờ tôi điều đình để xin phái một nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục đi trên mỗi chiếc xe tuần nói trên.
Nhưng còn nhân-viên gác nhà thì sao ? Một buổi tối nọ, có một đám trẻ đến trèo lên một cây dừa ở sát hàng rào trước một tư-gia Người Bạn Đồng-Minh để hái trộm dừa, nhân-viên an-ninh người Nùng gác nhà chĩa súng, xáo đạn để dọa, khiến một em bé trợt chân ngã từ trên cây xuống đường. Tôi được tin báo, đã nhờ Cảnh-Sát sở-tại đến giải-quyết yên. Qua ngày hôm sau tôi bảo Người Bạn Đồng-Minh là em bé ấy đã kiện nhân-viên an-ninh gác nhà của anh vì đã sử dụng vũ-khí khủng-bố khiến em bị ngã và bị chấn động tâm-thần; anh không giấu được vẻ sợ và đã nhờ tôi giúp dàn-xếp giùm. Từ đó, nhân-viên gác nhà người Mỹ không còn chĩa súng gờm-gờm ra ngoài mà chỉ thủ thế tự-vệ bên trong mà thôi .
HỒI đó tôi đoán thế nào cũng sẽ xảy ra những vụ không-tặc hoặc phá-hoại phi-cơ, ít nhất thì cũng sử dụng phương-tiện hàng-không để chuyên-chở vũ-khí và hàng-hóa bất-hợp-pháp, và đã báo động cho các cơ quan bạn (mà quả thật sau đó đã xảy ra 2 vụ không-tặc “Air Vietnam”, một nổ ở Phú Bài, một nổ ở Bửu Sơn), nên “Air Vietnam” đã áp dụng các biện-pháp phòng-ngừa và đối-phó rồi, trong lúc “Air America” thì vẫn để ngỏ cho bất-cứ ai muốn mang theo hành-lý gì. Tôi đề-nghị Người Bạn Đồng Minh tổ-chức kiểm-soát hành-khách và hành-lý của “Air America”, và Tòa Tổng-Lĩnh-Sứ Hoa-Kỳ tại Vùng I ở Đà-Nẵng đã nghe theo lời tôi, cho thi-hành các biện-pháp này . (Về sau tôi mới nghe được ý-kiến là họ cố ý để cho Việt-Cộng không-tặc một chiếc phi-cơ “Air America” hầu có thêm được lý do và cơ-hội để nói chuyện với Hà-Nội, tức là có dịp quan-sát & móc-nối này kia; nhưng lúc đó thì tôi chỉ nghĩ đến an-ninh hàng không trước mắt mà thôi).
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:05:07 GMT 9
NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH CỦA TÔI: FERGUSON (II)
Món quà đầu tiên mà Ferguson tặng tôi là việc anh bí-mật điều-tra về liên-hệ gia đình của tôi . Một trong các cách hay nhất là Người Bạn Ðồng-Minh nhờ chính các thuộc-viên của tôi làm công việc này . Tôi phát-hiện được điều đó, nên đặt thẳng vấn đề với Ferguson. Cuối-cùng, không thể dối lòng, anh thú-nhận: “Tôi tưởng là anh lọt vào lưới tôi, nhưng chính là tôi lọt vào lưới anh!” Ðó là câu nói chống-chế xã-giao, nhưng nó bộc-lộ đức-tính sòng-phẳng của người bạn đồng-minh. Từ đó, anh cởi-mở và tận-tụy với tôi hơn bao giờ. Nhưng cũng từ đó tôi phải khổ nhọc với công-vụ hơn bao giờ, vì phải đương-đầu nhiều hơn với cả khách ngoài Ngành cũng như bạn trong Nghề, trong lúc còn phải đối-phó với quân thù cả đằng trước mặt lẫn đằng sau lưng. * * *
Hoa Kỳ có bỏ Việt Nam hay không?
Tiếp theo mấy Tỉnh ở Cao-Nguyên, tất cả các Tỉnh ở Vùng I cũng mất luôn. Dân, chính, công, quân, từ các Tỉnh thất-thủ kéo về Thị-Xã Đà-Nẵng chật đường. Những kẻ có súng tha-hồ phá-phách, cướp của, hiếp dâm, giết người . Số-phận của Quân-Khu I chỉ còn trông cậy vào tình-hình an-ninh trật-tự tại hậu-cứ duy-nhất này . Đối với tôi, vận-mệnh của bất-cứ yếu điểm nào cũng tùy-thuộc vào quyết định của Hoa-Kỳ . Liệu Hoa-Kỳ có cố-thủ, hay sẽ bỏ rơi Đà-Nẵng, và...?
*
Như có linh-tính báo trước, tôi đã thực-hiện một chuyến đi quan-sát, chụp ảnh để làm kỷ-niệm, từ bên này sông Thạch-Hãn (Bến Hai) cho đến giáp ranh Sa-Huỳnh Bồng-Sơn, vừa kịp trước khi quân ta rút khỏi các nơi này .
Tiếp đó, tôi cũng sợ, nếu mất Quân-Khu I thì tôi không còn có dịp gặp lại Ferguson, Người Bạn Đồng-Minh rất thân này của tôi, cho nên vào ngày 27-3-1975, tôi quyết định gặp riêng, đề-cập với anh một số vấn đề thời-sự tế-nhị liên-quan đến chính-sách của Hoa-Kỳ đối với Việt-Nam.
Như để tỏ ra anh chỉ chú-trọng đến việc chống Cộng mà thôi, Ferguson mở đầu bằng lời khen tôi đã có sáng-kiến và đã thành-công trong việc móc-nối tuyển dụng các thành-viên cao-cấp trong hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi làm nội-tuyến cho ta . Đó là những công-tác gián điệp có tầm-vóc quốc-tế. Họ đã tiếp-tục cộng-tác với các chuyên-viên Hoa-Kỳ, và một số về nước trước đã bắt được liên-lạc và bắt đầu làm việc tại chỗ với các Trưởng Lưới tình-báo của Thế-Giới Tự Do .
Furguson chỉ là một cá-nhân, mà cá-nhân nào thì cũng có cả dở lẫn hay . Anh lại là người Mỹ, mà người Mỹ nào thì cũng có tự do suy-nghĩ khác người . Anh không đại diện cho chính-quyền Mỹ, nhưng anh hẳn-nhiên có biết ít nhiều nhận định kín đáo trong nội-bộ người Mỹ về tình-thế nói chung và các nhân-vật lãnh đạo nói riêng của nước Việt-Nam Cộng-Hòa này . Tôi đi vào vấn đề:
-- Anh với tôi đều làm chung một việc, gồm có hai phần – tình-báo và hành động – nhắm chung vào một mục-tiêu; ấy là cộng-sản, kẻ thù chung. Nhưng, thật ra, cả anh lẫn tôi đều có ít nhất là một mục-tiêu thứ hai, mà hai chúng ta giấu nhau; ấy là thành-phần thứ ba, đối-lập hoặc nằm ngoài thành-phần đương-quyền...
Trong lúc Ferguson chưa kịp xác-nhận hay phủ-nhận, tôi nói thêm: -- Về phía Việt-Nam thì anh biết rồi . Chính-quyền xem như những kẻ đối-lập cũng là kẻ thù . Ngành Đặc-Cảnh nhiều lúc đã bị sử dụng để phục-vụ riêng cho những kẻ cầm quyền. Do đó, ở phần hành động, Ngành Đặc-Cảnh phải đứng về phía đương-quyền. Các cơ-quan an-ninh tình-báo là công-cụ bảo-vệ chế độ; mà chế độ, theo họ, thì không phải là chính-thể hay hiến-pháp, mà là tập đoàn tại-quyền. Nói chung là họ muốn mãi mãi độc-quyền lãnh đạo quốc dân. Thế thì mục đích đã khác đi rồi, nhất là khác với lập-trường của Hoa-Kỳ và các nước tự do . Phải thế không, anh?
Bạn tôi gật đầu; tôi nói tiếp: -- Còn người Mỹ thì vừa giúp các nhà đương-quyền chống Cộng, vừa tìm các tiềm-năng nhân-sự mới, để nếu cần thì thay thế, hầu mỗi ngày mỗi có những nhà lãnh đạo tài đức hơn... Ferguson vói một tay vỗ lên và bóp nhẹ trên vai tôi .
NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH CỦA TÔI: FERGUSON (III)
Hồi đó, không có người nào là không thấy được sự bấp-bênh của tình-hình. Đã chấm dứt chiến-tranh, đã có Ủy-Hội Quốc-Tế, nhưng cộng-sản lại đánh phá mạnh hơn; dân quê vẫn chết-chóc, đói-khổ; và Quân-Lực Quốc-Gia thì thiếu đạn+bom. Sản-lượng ít-oi; viện-trợ Mỹ nuôi sống Nền Cộng-Hòa thì ngày nay đã giảm nhiều . Đời sống khó-khăn; công-chức và quân-nhân không sống đủ với đồng lương. Công-luận bị lèo-lái theo ý muốn của đối-lập nếu không là cộng-phỉ và cộng-nô . Giữa phản-chiến và phản-chính không có biên-cương. Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu bị phần lớn báo-chí chỉ-trích, đa-số hội đoàn phản đối, và các phần-tử bất-mãn tẩy chay . Người ta cũng quy-trách cho cả Hoa-Kỳ.
Tôi kéo bàn tay của viên đại-tá CIA bạn tôi ra trước mắt, vuốt ngược những sợi lông dày và cứng trên mu: -- Báo-chí Việt Nam gọi người Mỹ là những “bàn tay lông-lá”. -- Tôi biết.
Chính-khách Ngô Đình Diệm là người đầu tiên mở trang sử chính-thức và công-khai quan-hệ với Hoa-Kỳ, nên tôi bắt đầu về ông Diệm trước. Tôi hỏi thẳng: -- Anh nghĩ thế nào về cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm? -- Anh nói trước đi!
Ferguson đẩy tôi đi trước. Cũng như nhiều người Mỹ khác, anh muốn tỏ ra là mình không can-thiệp vào việc nội-bộ của nước người .
Tôi bèn dò ý: -- Hoa-Kỳ không muốn giết Diệm. Nhưng điều chắc-chắn là Hoa-Kỳ không muốn chế độ Diệm tồn-tại lâu hơn. Kỳ-thị tôn-giáo là một trong nhiều nguyên-nhân, tuy chỉ một cái nguyên-nhân ấy đã có đủ sức thuyết-phục để Quân-Lực phải ra tay ...
-- Còn những nguyên-nhân nào nữa ? -- Diệm đánh hỏng những giá-trị tinh-thần của Mỹ mà Hoa-Kỳ muốn Diệm là biểu-trưng...
-- Những giá-trị nào được xét ở đây ? -- Căn-bản là các quyền tự do ghi trong Tu-Chính-Án số 1 của Hiến-Pháp Hoa-Kỳ – ngôn-luận, báo-chí, tín-ngưỡng, hội-họp ôn-hòa, đạo đạt ý dân – mà Diệm khinh thường.
-- Gì nữa ? -- Diệm phá vỡ kế-hoạch của Mỹ thành-lập Liên-Bang Đông Dương và Liên-Phòng Đông Bắc Á-Châu . Và Diệm hầu như suýt dâng nốt Miền Nam Việt-Nam cho cộng-sản: ông mưu-toan thỏa-hiệp với Bắc-Việt, lúc ấy là một khối chính-trị và quân-sự to lớn, thống-nhất và ngoan-cường bội phần hơn Miền Nam, có thừa thủ đoạn và khả-năng tiêu diệt thành-phần Quốc-Gia . Ông muốn lạnh nhạt với Mỹ, trong lúc đối-ngoại thì mọi việc đều nhờ Mỹ đỡ đầu, đối-nội thì nền kinh-tế còn phôi-thai, cả guồng máy chính-quyền, trị-an và quốc-phòng, v.v... đều sống nhờ vào viện-trợ của Hoa-Kỳ..
-- Anh nghĩ thế nào về cái chết của Diệm? Ô hay, tôi định hỏi anh thì anh đã hỏi ngược lại tôi . Chúng tôi nhìn nhau rồi cả hai cùng cười . Tôi nói: -- Diệm tự giết mình!
Ferguson trố mắt nhìn tôi xem tôi có nói đùa hay không. Tôi giải-thích thêm: -- Về mặt sự-việc: cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, dù muốn dù không, cũng đã trở thành một con hổ dữ. Hé một lời nói, lộ một cử-chỉ mà vây cánh ông cho là phạm-thượng thì khó mà thoát bàn tay tàn độc của thủ-hạ ông. Huống gì, lật đổ ông, lùng rượt ông, bắt trói ông... Tôi kính trọng Diệm, tôi không tán đồng việc giết Diệm, tôi phản đối cách giết Diệm; nhưng tôi thông-cảm tình-cảnh của những kẻ đã cỡi lên đầu hổ rồi . Giết hổ hay hổ giết mình. Có thể xem như “tự-vệ” mà thôi .
-- Còn mặt nào nữa ?
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:06:12 GMT 9
-- Về mặt tinh-thần:
Thứ nhất: Diệm chịu ảnh-hưởng Đạo Nho, muốn mình “tiết trực, tâm hư”. Nhưng Đạo Nho lấy “trung-quân” làm trọng; mà Diệm thì không chịu làm một bề-tôi lương đống, đã phản-bội Bảo Đại để lên làm Nguyên-Thủ Quốc-Gia, tức đã phạm tội bất-trung với vua . Thế là Nho-Giáo không dung.
Thứ hai: Diệm lật đổ Bảo Đại vì Bảo Đại bất-tài . Điều đó đúng; tức Diệm thực-thi chủ-nghĩa duy-ích, một thứ đạo đức mới . Nhưng học-thuyết vị-lợi ấy chủ-trương nhân danh đa-số, để làm điều có ích lợi chung. Trong lúc đó, chỉ áp dụng chủ-nghĩa thực dụng cho thiểu-số phe mình mà thôi, chính Diệm cũng đã biết trước là sẽ lâm-nguy . Ông nói: “Tôi chết, hãy trả thù cho tôi!” Nếu chết tự-nhiên thì tại sao lại phải trả thù ? Và Diệm cũng đã nêu lên tiền-lệ: mình truất ngôi người này được, thì kẻ khác cũng lại hất cẳng mình được, chứ sao! Các tướng chỉ noi gương ông mà thôi! Đó là quy-luật sinh-tồn! Thế là đạo đức mới cũng quật lại ông.
Thứ ba: Diệm là tín đồ Đạo Ky-Tô . Theo Đạo ấy thì, “Satan là Chúa của đời này” (2 Cor 4:4). Chính “Đức Jesus cũng gọi Quỷ Satan là vua, chúa (kẻ thống-trị, bá-chủ) của thế-gian này” (John 12:31) và Thánh-Kinh xác-nhận “Cả thế-gian đều phục dưới quyền ma-quỷ, đều nằm trong tay ma quỷ (cả thế-giới đều ở dưới quyền thống-trị của Quỷ-vương” (1 John 5:19). Với tư-cách chủ-nhân-ông của cả thế-giới loài người, “Satan đem Đức Jesus lên đỉnh núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước vinh-quang rực-rỡ khắp thế-giới, quyến-rũ Ngài rằng: Ngươi chỉ cần quỳ gối thờ lạy ta, là ta sẽ cho ngươi làm chủ tất cả thế-gian này!” (Matt 4:8,9). Đức Jesus từ-chối; Ngài cầu-nguyện Đức Chúa Trời: “Con đã rao truyền lời Cha cho các tín đồ, nên người đời thù ghét họ, vì họ không thuộc về thế-gian, cũng như Con không thuộc về thế-gian” (John 17:14). Lời Đức Chúa Trời kể rằng: “Các vua thế-gian nổi dậy, các lãnh-tụ bàn nghị cùng nhau, âm-mưu đối đầu với Jehovah Đức Chúa Trời và nghịch với Đức Jesus là Đấng chịu xức dầu của Ngài” (Ps 2:2). Do đó, Chúa dạy: “Chớ yêu thế-gian, cũng đừng yêu (quyền-hành, danh-vọng, lợi-lộc) bất-cứ những gì thuộc về thế-gian (1 John 2:15-17). Thánh-Kinh giảng thêm: “Kết bạn với kẻ thù của Đức Chúa Trời tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời; kẻ thù đó là thế-gian” (Jas 4:4). Ngay chính trong giới tín đồ của mình, khi “Đức Jesus thấy họ sắp tạo áp-lực đưa Ngài lên làm vua, Ngài liền bỏ đi lên núi ở một mình” (John 6:15), không chịu làm vua ở thế-gian. Nói chung, ngày nào mà Đấng Cứu-Thế chưa tái-lâm (chưa tận-thế), thì ngày đó “Cả thiên-hạ (toàn thể thế-giới loài người) còn bị Quỷ-vương hay Satan lừa dối, dỗ dành” (Rev 12:9), “làm mờ tối tâm trí (mù lòng)” (2 Cor 4:4), còn “kết bạn với kẻ thù của Đức Chúa Trời” (Jas 4:4) tức là “các vua thế-gian” (Ps 2:2). Tóm lại, tín đồ Đạo Chúa là người không thuộc về thế-gian; mà Diệm làm Tổng-Thống tức là làm một vua ở thế-gian, dưới quyền của Quỷ Satan, và chống lại Đức Chúa Trời . Hơn nữa, Đạo Chúa cấm đoán mọi Đạo khác, theo các Điều Răn thứ 1 và thứ 2 của Đức Chúa Trời: “Các ngươi không được thờ thần nào khác, ngoài Ta; không được khắc hình tượng-trưng cho bất-cứ cái gì trên cõi đời này; không được thờ phụng chúng” (Ex 20:3-5). Thế mà Diệm còn tôn sùng giáo-lý Đức Khổng, dùng hình khóm trúc làm biểu-hiệu cho tinh-thần Nho Giáo của mình, khắc vào ấn-tín của mình và của cả Quốc-Gia . Thế là Thiên-Chúa-Giáo cũng không dung. “Quân thù trồng rặt loại nho lấy giống từ vườn Sô Đôm với đất từ đồng Gô Mo; trái đắng và chua, làm thành rượu độc nọc rắn”. Tất-nhiên Đức Chúa Trời phải “ganh tị” (Zec 1:14), vì Chúa là Chúa “phân bì” (De 32:16; PS 78:58), “động lòng ghen” (Zec 1:14), nên Chúa phải trừng-trị, phải trả thù: “Báo thù là việc của ta, Ta làm cho chúng ngã nhào, tai họa ào đến tức-thời” (Deut 32:32-35)...
Ferguson ngẫm-nghĩ một lát rồi dò dẫm hỏi tôi: -- Chuyện đã qua rồi, phải không?
-- Cái đó còn tùy . Nhưng có vài điều đáng nói: Thứ nhất, Diệm phản Bảo Đại thì Diệm vẫn còn mắc nợ Bảo Đại, vì Bảo Đại dùng Diệm mà Diệm không giúp ích gì cho Bảo Đại; nhưng các tướng lật Diệm thì Diệm vẫn còn mang ơn các tướng, vì Diệm dùng các tướng thì các tướng đã liều thân xông pha trận-tiền, đánh dẹp các giáo-phái, bình định xứ sở, ổn định tình-hình cho chế độ Diệm vững an. Thứ hai, nếu Diệm có đức, có tài,thì đó là thuộc-tính của một người, không nhất-thiết có nghĩa là mọi người khác đều tầm-thường mọi mặt, và bất-cứ đồ đệ nào còn sót lại của Diệm cũng xứng đáng lên làm lãnh-tụ quốc dân...
Tưởng rằng chừng đó đã đủ, tôi hỏi qua chuyện mới: -- Anh nghĩ thế nào về Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ? -- Cũng xin nhường anh! Thế là Ferguson lại đẩy tôi đi trước nữa .
Tôi thấy cần phải rào đón phần mình trước tiên: -- Chắc anh đã biết là tôi đối-lập với Thiệu . Nhưng tôi chỉ chống tính-cách quân-phiệt, tôi chỉ phản đối việc quân-cách-hóa Chính-Quyền, nhất là với Cảnh-Lực; tôi đòi hỏi thực-thi Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa, là một quốc-sách tối-thượng mà Hoa-Kỳ tặng cho để làm sách-lược hậu-chiến, nhưng Thiệu xếp bỏ không dùng. Trong việc chống Thiệu, tôi khác người ta .
-- Người ta chống Thiệu thế nào ? Tôi thấy là Ferguson đang “moi tin” tôi, nhưng tôi cũng thử dò đường: -- Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc thì có đông đảo quần-chúng, là giới Phật-tử chiếm trên chín mươi phần trăm dân-số, có sẵn ứng-viên lý-tưởng vào chức-vụ Tổng-Thống, là Dương Văn Minh. Nếu là ứng-viên dân-sự thì khó lòng được lòng mọi tướng, nhưng Minh là đại-tướng. Minh hòa-hoãn với cộng-sản, và Hà-Nội đã bắn tiếng chỉ nói chuyện với Minh. Đa số đã chán chiến-tranh, lại ngán cộng-sản, nên đặt hy-vọng vào Minh. Nhưng Lực-Lượng này không bạo động, và chỉ chờ đợi đến kỳ bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm nay mà thôi .
-- Anh cứ nói đi! -- Đại-Việt Cách-Mạng Đảng là một chính đảng có nhiều đảng-viên nhất, lại được tổ-chức chặt-chẽ. Họ có nhiều đảng-viên giữ các chức-vụ trọng-yếu trong Chính-Quyền. Họ có thực-lực chính-trị. Lãnh-tụ của Đảng là Hà Thúc Ký nặng ký hơn Thiệu trong cuộc chạy đua giành phiếu nay mai . Tuy thế, có nhiều đảng-viên có thể bầu Minh.
-- Xin nói tiếp đi! -- Việt-Nam Quốc Dân Đảng là một chính đảng kỳ-cựu, có thời mạnh hơn Việt-Minh tức Cộng-Sản Việt-Nam. Sau này phân-hóa thành nhiều hệ-phái, phải đứng chung với Đảng Dân-Chủ của Thiệu trong một Liên-Minh. Hiện Vũ Hồng Khanh, một lãnh-tụ chính-trị mà Hồ Chí Minh đã phải nài-nỉ mời đồng ký tên ngang hàng với mình trong bản thỏa-hiệp thành-lập chính-phủ Quốc Cộng liên-hiệp vào năm 1946, đang nỗ-lực thống-nhất lại . Mục đích của họ là phục-hồi uy-tín và địa-vị của Đảng cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài . Họ không hoàn-toàn đồng-minh với Thiệu, và nhiều đảng-viên cũng có thể chọn Minh.
-- Còn các tổ-chức khác nữa ? -- Phong-Trào Quốc-Gia Cấp-Tiến dựa vào các nhà khoa-bảng và giới học-thức trẻ. Họ muốn cải-cách kinh-tế là huyết-mạch của quốc dân, vì cho rằng nhà cầm quyền hầu như bất-chấp cán cân mậu dịch và vấn đề cung cầu ... Các đoàn-thể khác nói chung thì chỉ đưa ra một vài ý-kiến mới, nhằm mục đích trình diện một vài nhân-vật tranh đấu cấp địa-phương, nhắm ghế Quốc-Hội hoặc Hội Đồng Tỉnh, Thị. Một số phần-tử nặng tinh-thần dân-tộc thì cho là Thiệu quá lệ-thuộc Hoa-Kỳ. Còn trên bình diện cá-nhân thì phần đông chống Thiệu theo kiểu trưng diện một món thời-trang, sợ không đối-lập thì bị xem là lỗi-thời!
Ferguson cùng cười theo tôi . Lát sau, anh dè dặt: -- Nay Huế đã mất, nhưng những người liên-hệ với Huế thì vẫn còn. Anh thấy hệ-lụy của nó đối với tình-hình mới tại các Tỉnh trong Nam sẽ như thế nào ?
Người Bạn của tôi nhắc đến những việc mà tôi cố ý hoặc bỏ qua hoặc dành nói sau . Tôi phải nói luôn: -- Đảng Nhân-Xã, tức Đảng Cần-Lao Nhân-Vị đổi mới, chỉ hoạt động bên trong các giới tín đồ Đạo Ky-Tô và cựu cơ-sở Đảng Cần-Lao . Bên ngoài, họ có Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình. Hòa-Bình thì chưa thấy có kế-hoạch khả-thi . Tham-nhũng thì là cụ-thể, nhưng chưa phải là yếu-tố quyết định hàng đầu . Theo họ, lật đổ Ngô Đình Điệm mới là tội-phạm tối-trọng, bất-khả khoan dung. Họ đã bắt đầu bạo động. Mục đích của họ là thay thế Thiệu ngay, bằng một Tổng-Thống và Chính-Quyền rập khuôn Đệ-Nhất Cộng-Hòa .
-- Anh nghĩ thế nào ? Tôi đáp: -- Diệm nếu còn sống thì ông cũng đã mãn các nhiệm-kỳ hiến định từ lâu . Người của thời này không thể giải quyết việc của thời kia . Về Diệm: Không dưng mà các cộng-tác-viên ban đầu đã rời bỏ, rồi trí-thức chống đối, rồi nhiều thành-viên nội-các từ-chức, rồi dân-chúng sôi-sục bất-bình, rồi chính người nhà cũng chia tay . Quân-đội bắt đầu đảo-chánh từ 1960, ném bom Dinh Tổng-Thống từ 1962. Việc gì phải đến là cứ đến. Về phe chống Diệm: Háo-hức dẹp một tảng đá cản đường, không ai ngờ trước bãi lầy tiếp theo . Nhưng hẳn không ai muốn cho tình-hình xấu đi . Lịch-sử đã sang trang. Vấn đề bây giờ không phải là khóc mình, hận người, mà là làm sao để cải-thiện tình-hình. Có ai xứng đáng để lên thay Thiệu không, và, nếu thay Thiệu thì thay cách nào ?
-- Ý anh thế nào ? -- Trước hết, nói về người thay . Tôi thấy là không, hoặc chưa, có ai có đủ điều-kiện để lên thay Thiệu . Riêng đối với Mỹ, nếu có thì tất Hoa-Kỳ đã bật đèn xanh cho lên rồi!
Ferguson cố gắng giữ nguyên nét mặt vô-tư . Anh tiếp-tục hỏi tôi: -- Còn về cách thay ? Tổng-Thống là người lãnh đạo toàn dân. Xuất-xứ có thể là bất-cứ đâu, nhưng đối-tượng phục-vụ không phải chỉ là một chính đảng, một giáo-hội, một xã-giới, hay một gia đình. Về Thiệu, tôi đã suy nghĩ về hai trường-hợp có thể xảy ra: ông tự giải-quyết, hoặc bị giải-quyết.
|
|