|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:07:20 GMT 9
Tôi nói ngắn gọn: -- Thiệu đang gặp nhiều khó-khăn: Hoa-Kỳ rút ra, cộng-sản tiến vào, đối-lập lấn lên. Lần đầu tiên người dân Việt-Nam được tự do xúc-phạm một nguyên-thủ quốc-gia mà không sợ bị bắt nhốt, trả thù, như dưới thời Diệm. Theo tôi, Thiệu không nên tham-quyền cố-vị. Vì chống mình nên người ta chỉ nhắm vào việc thay mình. Nếu mình bắn tiếng từ-chức thì tự-nhiên sẽ nổi lên tất cả các chuẩn-ứng-viên thay mình; dân-chúng sẽ so-sánh lựa-chọn giữa họ với mình, và người ta sẽ quay lại chống nhau, làm sáng tỏ ưu khuyết điểm của từng người; mình dựa vào đó mà tu-chính và quyết định ở lại hay ra đi . Nếu Thiệu từ-chức, hoặc ông bị mất trí hay mệnh-vong, thì cũng chỉ có Phó Tổng-Thống Trần Văn Hương lên thay, cho đến cuối năm 1975 mới hết nhiệm-kỳ. Với Hương, tình-hình sẽ như thế nào ? Còn nếu muốn loại cả chế độ Thiệu tức-thời thì chỉ có cách là đảo-chính quân-sự, việc mà chắc đã có kẻ chủ-trương nhưng không thuyết-phục được ai nên không xảy ra . Nhưng nếu xảy ra thì Chính-Quyền cũng sẽ chỉ nằm trong tay các tướng Minh, Khiêm, Kỳ, v.v... hoặc người nào khác thì cũng thế thôi . Có khuôn mặt nào nổi bật hơn đâu ? Kinh-nghiệm Cách-Mạng 1-11-1963: thay đổi toàn diện thì tình-hình sẽ như thế nào ? Tóm lại, người ta mới nghĩ đến việc loại Thiệu, nhưng chưa nghĩ đến tình-hình hậu-Thiệu; hoặc cũng đã có nghĩ đến, nhưng không thực-tế, chỉ chủ-quan, cầu-may . Thực-tế là đã có Việt-Nam-Hóa, không còn báo-cô Hoa-Kỳ như trước được nữa, mà quốc dân thì chưa đủ sức tự-túc tự-tồn. Giặc đã đến bên lưng, không còn thì giờ để làm lại từ đầu ...
Im lặng một lát, rồi Ferguson hỏi tôi mà tôi nghe anh như tự hỏi mình: -- Không còn cách nào nữa ư ?
Tôi nói chậm rãi: -- Đáng lẽ đã có nhiều cách rồi ! Bạn tôi nhướng mắt lên, đợi chờ.
-- Đệ-Nhất cũng như Đệ-Nhị Cộng-Hòa Việt-Nam chỉ thấy cái phần chiến-thuật chứ không thấy cái phần chiến-lược của các kế-hoạch mà Hoa-Kỳ đưa ra . Ngoài ra, họ chỉ chú-trọng cái phần ưu mà không quan-tâm đến cái phần khuyết, ở cuối mỗi kế-hoạch đều có nêu lên. Hơn nữa, còn có hai nhược điểm về phần Hoa-Kỳ. Cố-vấn Mỹ chỉ là cấp thừa-hành, đâu phải ai cũng hiểu được thâm-ý khi soạn-thảo kế-hoạch của cấp Trung-Ương; thế mà họ đã để cho Đồng-Minh Việt-Nam cứ xem cố-vấn Mỹ như thước ngọc khuôn vàng. Trong lúc đó, các cấp Trung-Ương và ngoại-giao sành-sỏi của Mỹ thì cứ phép-tắc lễ-nghi; đáng lẽ phải nói huỵch-toạc ra như giữa các bên phối-tác với nhau, thì họ lại chỉ bóng-gió xa-xôi, mặc cho người nghe hiểu lầm.
-- Xin anh nói rõ hơn. -- Diệm đã phá hỏng kế-hoạch của Mỹ nên mới hỏng bét. Bây giờ Thiệu cũng bỏ lỡ kế-hoạch của Mỹ nên phải dở dang.
-- Anh muốn nói về “Cảnh-Sát-Hóa” và trước đó là “Liên-Bang Đông Dương”, “Liên-Phòng Đông-Bắc Á-Châu”? -- Vậy anh muốn tôi nói về vấn đề gì khác nào ? -- Nếu còn vấn đề gì khác, sao không nói ra ?
Tôi ngưng một lát, rồi đánh bạo nói lên ý nghĩ của mình: -- Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa quả thật thiện-chiến, tinh-thần rất cao, nhưng dù có được Hoa-Kỳ tiếp-tục viện-trợ và yểm-trợ thì cũng vẫn sẽ không bao giờ thắng được đối-phương!
Ferguson không giấu nổi vẻ ngạc-nhiên. Tôi giảng giải thêm: -- Lính phải ngăn chận kẻ thù đằng trước để che chở cho dân đằng sau . Đằng nầy: ở cấp Xã thì Nghĩa-Quân thu mình trong một vài chòi gác; ở cấp Quận thì Địa-Phương-Quân thủ thế trong khuôn-viên trụ-sở Chi-Khu; còn Chủ-Lực-Quân thì sau các cuộc hành-quân là rút về trại binh. Cộng-sản chiếm được phần lớn không-gian và thời-gian, nhất là ban đêm, cô-lập lính trong đồn và chế-ngự dân bên ngoài . Lính đã không bảo-vệ được dân thì thôi, làm sao mong dân phải làm khiên mộc bên ngoài bảo-vệ cho lính trong đồn?
Người bạn của tôi ngẫm-nghĩ một lát rồi hỏi lại tôi: -- Thế còn Cảnh-Lực thì sao ?
-- Cảnh-Lực, với tổ-chức và điều-hành hiện nay, không giúp được gì đúng với mong đợi của mọi người . Cảnh-Sát mới xuống đến Xã, các Xã “an-ninh” mà thôi, và chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không làm điệp-báo, không lùng diệt, và cũng không chống-cự nổi nếu bị đối-phương tấn-công. Đặc-Cảnh thì ở cấp Quận, và Ban Tác-Vụ chỉ có mấy người, làm sao nắm hết các Xã, các Thôn trong khắp khu-vực trách-nhiệm của mình, nhất là khi không có đủ phương-tiện để tổ-chức các đường dây ... Ferguson hỏi vặn tôi: -- Nghe anh có vẻ bi-quan. Thế tại sao hôm trước anh lại nài ép tôi, và tôi đã nhiệt-thành giúp anh, bênh-vực Việt-Nam Cộng-Hòa trước các Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ Hoa-Kỳ khi họ đến tận chỗ quan-sát tình-hình tại Vùng I này ?
-- Anh muốn tôi cứ để mặc cho chính-thể này suy sụp sao ?
Chừng thấy câu chuyện hơi găng, Ferguson liền đổi đề-tài: -- Tôi thấy anh có nhiều hiểu biết và nhận định giá-trị hơn người . Ước chi anh là Tổng-Thống của nước này!
Dù anh nói thật hay nói mỉa tôi, tôi cũng không cần. Tôi đã bốc đồng: -- Tôi đợi thăng cấp vào ngày mồng 1 tháng 6 này, xong tôi ứng-cử vào Quốc-Hội . Tôi vào một Khối hoặc một Ủy-Ban. Tôi ra một tờ báo . Tôi lập một hội đoàn. Và tôi ứng-cử Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa . Anh nghĩ sao ?
Ferguson trả lời: -- Tại sao lại không?
Tôi muốn nhân dịp dò xét thái độ của anh đối với mình: -- Nhưng điều quan-trọng là anh có ủng-hộ tôi hay không? Người Bạn Đồng-Minh đưa ngay tay ra bắt tay tôi: -- Tại sao lại không? Chúng tôi ôm nhau mà cười .
Sau đó, trở lại với chủ đích của mình, tôi nói: -- Tôi đã đưa cho Watkins, viên-chức phụ-tá của anh, một chiếc máy truyền-tin cầm tay, với tần-số và mật-hiệu liên-lạc với tôi 24/24 giờ. Khi nào anh rời Đà-Nẵng thì anh hoặc anh ấy gọi tôi . -- Watkins đã nói cho tôi biết rồi .
Đề-cập đến sự việc ấy, bỗng-nhiên tôi thấy nghẹn-ngào . Tôi rán hỏi thêm một câu: -- Tóm lại, Hoa-Kỳ có bỏ Đà-Nẵng không? Và Hoa-Kỳ có bỏ Việt-Nam không? -- Anh đã biết câu trả lời của tôi rồi!
Thật là một câu trả lời “khôn-ngoan”. Rốt cuộc, tôi vẫn chẳng biết Người Bạn Đồng-Minh Hoa-Kỳ Ferguson đã trả lời tôi như thế nào .
*
Ngay đêm hôm ấy, Tòa Tổng Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I bí-mật ra đi . Sáng sau, 28-3-1975, từ trong trụ-sở của họ khói đen từ mấy thùng đốt hồ-sơ tài-liệu bốc lên ngút trời . Tôi tìm và gọi cho đến hôm sau vẫn không vân mòng Người Bạn Đồng-Minh. Và ngày 29-3-1975 được xem là ngày thất-thủ của thủ-phủ Miền Trung.
(trích trong cuốn sách hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ xuất-bản năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:09:15 GMT 9
TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG
CỘNG-SẢN chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp-tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi "làm việc" như thế tại các trại giam như Thanh-Liệt ở Hà-Nội; Kho-Ðạn, Hội-An, và Hòa-Sơn ở Quảng-Nam; mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về tội "kinh-tế" hoặc "tham-ô" và cả "bạo-loạn" nữa, cũng như đồng-bào nhiều giới phạm tội "phản-động hiện-hành", vượt biên, vượt biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra bên ngoài thế-giới "cải-tạo" hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin trung-tá Nguyễn Văn Long tự-tử từ lâu. Nhưng vì có những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm-thầm đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên "thủ-trưởng" -- một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại "thành phố Hồ Chí Minh", một thuộc Ban Hậu-Cần Quân-Khu 5 -- khẳng-định là họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam đã tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà-Nẵng di-tản vào, đã tự-tử chết phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc Huyện Thanh-Trì, Hà-Nội, là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Ðảng, Nhà-Nước và Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi mới được một "bạn tù" cho biết thêm một chi-tiết quý-báu về cái chết hùng-vinh của trung-tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một trung-tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam -- tổng-thư-ký của một tổ-chức đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp khác -- xác-nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung-tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, in trên bìa trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ, trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở một số cấp cao đã sưu-tầm để nghiên-cứu những gì có liên-quan đến Việt-Nam. Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của cộng-sản bạo-tàn. * Thuở ấy, vào khoảng 1950, ở Miền Trung có hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp với cơ-quan Su^reté fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police franc,aise (Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng-sự bên Su^reté Fédérale (chính-trị) của Pháp, trong số vài người phụ-trách nội-ô Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự) của Việt-Nam. Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng mình. Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn, nhà hàng lộ-thiên trên lề đại-lộ Trần Hưng-Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông-Ba. Nhân-viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau. Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện "Trai Thời Loạn" chống Pháp xâm-lược và Bảo-Ðại bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà-báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám-Ðốc Thông-Tin Lê Tảo can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự-do. Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện-cảm của nhiều người hơn.
Một hôm, anh Long tâm-sự với tôi: "Tôi chống Việt-Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình". Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến ngần nào trước thời-cuộc bấp-bênh của nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh Long đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ Nhất-Hiên, Vân-Sơn PMT, Như-Trị, v.v... mà Su^reté Fédérale đã định bắt giam. Liêm-Phóng Liên-Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn. TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG (2)
Sau đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như-Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài-Gòn; kẻ thành ký-giả tên tuổi, người nên luật-sư tài-danh.
Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam Cộng-Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận-tụy phục-vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực và liêm-khiết nhất trong Ngành. * TÔI về lại Miền Trung đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. Tìm gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các chức-vụ Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Ðại qua thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long. Một số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó Giám-Ðốc, Chánh-Sở. Anh Long thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà chỉ giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về hình-sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện tinh-thần.
Anh Long tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị -- diệt-Cộng -- ngoài phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình. Là một tay cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân làm công-tác sưu-tầm về hình-phạm mà thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp cho Ngành Ðặc-Cảnh của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng. Theo anh quan-niệm, đã là Cảnh-Sát Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì phải góp phần trực-tiếp hoặc gián-tiếp vào lãnh-vực tình-báo, để phát-hiện và loại-trừ cộng-sản -- mà trong giai-đoạn hiện-tại thì đối-tượng Việt-Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu -- để bảo-vệ và duy-trì an-ninh & trật-tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong khả-năng mình, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân. Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của mình, trung-tá Nguyễn Văn Long đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lý-do nào đó đã tự cho mình là Cảnh-Sát Sắc-Phục thì không dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Tặc Miền Nam và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng. Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn-Chà, tuốt bên kia bờ Hàn-Giang. Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn-khóa, chấm dứt tình-trạng bắt các học-viên góp tiền. Không còn tiệc-tùng, thì phần lớn quan-khách ngớt vãng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp-tục đến dự -- anh nói -- để yểm-trợ tinh-thần chung. Hồi đó, anh thăng cấp trước tôi, nhưng bao giờ cũng ý-tứ nhường tôi về ngôi thứ đứng+ngồi, nhất là trong các cuộc họp chính-thức có các cấp dưới từ các nơi về, vì chức-vị anh thấp hơn. Anh nói: mình phải nêu gương kỷ-luật cho thuộc-viên, mà mấu chốt của kỷ-luật là tôn-ti.
Về mặt tư-pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu "pháp bất vị thân". Ngay đối với chính đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa thẳng tay -- anh nói -- để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên "Long Lý", ý nói anh chỉ biết chiếu-lý chứ không vị-tình.
Sau Hiệp-Ðịnh Paris 1973, tình-hình xã-hội Miền Nam thật là rối-ren. Bên ngoài thì Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các tổ-chức xưng-danh đối-lập và lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày càng gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái tinh-thần các lực-lượng Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải đối-phó với các bộ-phận Ðảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và "Việt-Cộng", vừa phải chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng cho kẻ thù. Về mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đã gặp quá nhiều khó-khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, tìm sự che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo nào đó trong Chính-Quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy tai-họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ "tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn". Ðại-khái như sau:
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:10:46 GMT 9
Và vụ mà tôi thích nhất là vụ "tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn". Ðại-khái như sau: Ðầu năm 1975, đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại Tạm-Cư Ðà-Nẵng. Trên thực-tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lãnh các món cứu-trợ di-tản nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn đồng-bào vẫn còn ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do ngân-sách của Bộ Xã-Hội đài-thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo diện tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các xã bất-an và "xôi-đậu" đến định-cư tại các xã an-ninh, để lãnh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng-nhận cho cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát, nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp loại này do Bộ Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân di-tản cũng bị lôi-cuốn vào tình-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số trở thành nhân-viên Chương-Trình Áo Xanh, do một tổ-chức xã-hội Hoa-Kỳ tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người lao-động thất-nghiệp. Một số cũng là hội-viên Hội Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế, quy-tụ lính cũ đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng-Pháp, thời Bảo-Ðại, và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả, hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ và lãnh đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo Hoa-Kỳ những món viện-trợ tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v... Hơn nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu "hụi chết" tại các hàng quán, bến xe. Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia. Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian+tham. Vụ án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường, lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu Sài-Gòn, là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa, do đó, đã phí-phạm công-quỹ và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương. TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên Ðặc-Cảnh phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương. Bởi thế, đã có một số Trưởng Mối bị trừng-phạt oan, vì phía Hình-Cảnh nghi là đồng-lõa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh Cảnh-Lực, Ðặc-Cảnh càng gặp nhiều khó-khăn hơn, đến nỗi Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là đại-tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Ðốc chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao. Với tôi, anh Long đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Ðặc-Cảnh liên-can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại cho công-tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó là quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long. * KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà-Nẵng, thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Hòa. Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành Ðà-Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: "Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!" Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều người ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa-Cường tiến vào. Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Ðặc-Cảnh sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho đại-tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh-Sở Vùng và một số Chỉ-Huy Cảnh-Lực Tỉnh tập-trung tại đây. Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền-tin của Ngành Ðặc-Cảnh Vùng -- nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ toàn-quốc, và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự -- cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình-hình thế nào. Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của đại-tá Lộc để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I trung-tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác thường: "Tôi xin mời ông Phụ-Tá đến ngay để tổ-chức phòng-tuyến và chỉ-huy đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em chúng tôi!" (Tử-thủ là lời cam-kết của trung-tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát-Thanh Ðà-Nẵng suốt chiều hôm nay). Tôi hỏi về đại-tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường: "Các ngài đào-ngũ hết rồi!" Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ-sở Vùng -- Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy của một số Tỉnh, có cả mấy viên đại-tá quân-đội -- theo đại-tá Lộc xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông. Anh hỏi đi đâu thì đại-tá Lộc trả lời: "Chúng ta di-tản vào Nam!" Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: "Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!" Lộc cố giải-thích: "Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình-huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!" Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui. Và anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em. TÔI tin-tưởng và kính-phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi. Tôi kéo thiếu-tá Ngô Phi Ðạm, Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch-Ðằng quả thấy xe Jeep xanh+trắng và ô-liu bỏ đậu nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến đại-tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương. Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi-trường, nhưng tôi đến Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân-nhân. Ðến sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài-Gòn. Tôi cùng Tác-Vụ, Thám-Sát Ðặc-Biệt, quan-sát xong tình-hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình-dáng của anh, mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương-nghị, lái xe vụt qua. ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi. * GẦN sáng, ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường. Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước bắt đầu tấn-công vào. Ðến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Ðặc-Cảnh Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH còn hoạt-động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn mình. Và tôi không còn gặp lại anh Long. * CÁI chết của trung-tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều. Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua. Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ý-thức được chúng là kẻ thù số một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một của mọi người yêu quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ Thành-quả chống Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con số chúng bị thiệt-hại trên chiến-trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản-thân mình một phần trách-nhiệm đối với đối-phương về những tổn-thất mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm-khốc của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử -- cũng như các anh-hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, vân vân -- để tạ tội với Tiền- Nhân và Quốc-Dân, và để nói lên tinh-thần bất-khuất của người chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình đầu-hàng kẻ thù. CÁI chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin-tưởng và phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung. Bây giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung-tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên-chức An-Ninh, là những gì gì khác nữa... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh-quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách một anh-hùng của Dân-Tộc Việt-Nam nói chung và Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia nói riêng. LÊ XUÂN NHUẬN (trong cuốn hồi-ký "Cảnh-Sát-Hóa") www.geocities.com/LeXuanNhuan/index.html
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:13:42 GMT 9
BỤI ÐẤT VÀ HƯ-VÔ
TRƯA ngày 25 tháng 12 năm 1974, tôi đang cùng với bạn-bè dự một bữa ăn nhân dịp Nô-En tại nhà của một thuộc-viên thì được Sĩ-Quan Trực từ Phòng Tình-Hình gọi máy đến báo-cáo một tin-tức khác thường.
Vào khoảng 11g30 vừa rồi, có một chiếc trực-thăng đáp xuống cạnh Trường Tiểu-Học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam. Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và một trung-tá Việt-Nam Cộng-Hòa, cùng với một người đàn-ông và một người đàn-bà Hoa-Kỳ.
Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay. Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra, giới-thiệu với mấy người kia; rồi bác Cai Trường vào trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp của người đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông giống bình-thường như không có việc gì xảy ra. Xong, bốn người kia trở lên trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường.
Mọi việc xảy ra mau lẹ như đã được sắp-đặt từ trước rồi. Lúc chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa.
TÔI đoán là có cái gì bí-mật, mà nhà chức-trách địa-phương giấu kín, hoặc không biết rõ nên Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản thế thôi. Cho nên, do tò-mò nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào việc ngay. Sau khi gọi điện-thoại hỏi Trung-Tâm Hành-Quân thuộc Sư-Ðoàn I Không-Quân và Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến đi quan-sát tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết về vụ này... * BÁC Nam thanh-minh: - Tôi cứ tưởng là chỉ cần báo-cáo những gì liên-can đến cộng-sản mà thôi, còn đây là vấn-đề tình-cảm cá-nhân mà các người trong cuộc đã yêu-cầu tôi giữ kín giùm... Thiếu-tá Sơn đỡ lời tôi: - Không ai trách-móc bác đâu. Bác hãy kể chuyện về người Mỹ tên Sam đi. Bác Nam kể:
- Ðầu năm 1971, Toán Dân-Sự-Vụ của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ hoạt-động tại Quận Ðại-Lộc thay đổi cấp chỉ-huy.
“Người mới đến là đại-úy Sam, một thanh-niên đẹp trai, hiền-lành, nhã-nhặn, bình-dân. Anh rất lanh-lợi và có nhiều sáng-kiến hay.
“Công-tác nổi bật đầu tiên là anh thành-lập một Hội Việt-Mỹ cho Quận Ðại-Lộc. Anh chịu khó đi thuyết-phục để mời vào Hội không những chỉ các viên-chức chính-quyền như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng, Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng Phòng Văn-Hóa Giáo-Dục, Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xã-Trưởng, giáo-sư, phụ-huynh học-sinh, học-sinh trung-học, v.v... như thường-lệ, mà anh còn mời cả các thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân, v.v... cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng.
“Với Hội Việt-Mỹ của Sam, sinh-hoạt ở đây sinh-động hẳn lên. Hội-viên gồm mọi tầng-lớp xã-hội. Sách+ báo từ phía Hoa-Kỳ phân-phát, phổ-cập hầu như đến từng gia-đình. Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các kỳ họp, mà còn thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội nào có người Mỹ xuất-hiện trong làng xóm Việt-Nam.
“Sam đề-nghị, và được phía Việt-Nam đồng-ý, dùng phòng học của Lớp Năm trường này làm nơi trao-đổi văn-hóa, dạy tiếng Anh vào buổi tối, vì nơi đây thuận-tiện cho sự đi lại của mọi người. “Phòng này nằm ở đầu dãy, bên hông có một cửa sổ nhìn ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người qua đường. Phía bên kia đường, các ông thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê, rễ ở gốc cây cao hơn mặt đất, người nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào gốc cây nhìn vào cửa-sổ thì trông thấy mặt cô giáo rõ-ràng.
“Giáo-viên Lớp Năm là cô Diệu-Hương, hoa-khôi toàn Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi, dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn, siêng-năng. “Phòng học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm chương-trình đại-học vào các ngày nghỉ và mỗi buổi tối, thì nay còn là nơi cô đến làm công-việc của Hội với tư-cách thư-ký, học tiếng Anh, dạy tiếng Việt cho ngưới Mỹ, giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm, v.v...
“Cha mẹ cô thuộc giới trung-nông, sùng Ðạo Phật và chịu ảnh-hưởng Ðạo Nho.
“Sự giao-tiếp giữa cô với Sam, trong khung-cảnh chung của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ, có bắt tay, có vỗ vai, nhất là giữa đàn-bà con-gái Việt Nam với đàn-ông Hoa-Kỳ, bề ngoài là chuyện tự-nhiên, nhưng cha+mẹ cô rất lo, nên đã nhờ tôi theo dõi, ngăn ngừa giùm, sợ đi quá xa.
“Tôi là liên-lạc-viên của Hội, vừa sắp dọn rồi cất dẹp mọi thứ trước và sau mỗi buổi, vừa tham-dự học tiếng Anh và dạy tiếng Anh, nên tôi có mặt hầu hết mọi lần Sam và Diệu-Hương gặp nhau. Và tôi đã thấy ngay một mối tình trai+gái chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu nặng hơn.
“Quả thật là tôi đã có đồng-lõa với hai người.
“Thứ nhất là vì tôi thấy đại-úy Sam thật tình yêu Diệu-Hương, muốn xây-dựng lâu dài. Anh đi lễ chùa vào rằm, mồng một âm-lịch, tìm hiểu Ðạo Phật, học hỏi phong-tục tập-quán Việt-Nam. Anh biếu quà và tham-gia mọi cuộc vui với trẻ em vào các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu. Anh đưa Y-Tế Mỹ đi săn-sóc từng cụ già, cứu-trợ từng nạn-nhân bị Việt-Cộng pháo-kích, giật mìn. Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương, tích-cực hơn cả cán-bộ của mình. Dân-chúng nhờ anh rất nhiều.
‘Mà điều quan-trọng là anh trân-trọng người yêu, không hề sỗ-sàng bậy-bạ như đa-số người Mỹ khác. Sam nói riêng với tôi là anh sẽ xin chính-thức cưới Diệu-Hương. Tôi biết là có nhiều cô-gái Việt-Nam lấy chồng Mỹ đường-hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ nữa là vì tôi nghĩ: nếu cho cha+mẹ cô biết thì chắc ông+bà sẽ cấm hẳn cô tới+lui với Hội Việt-Mỹ; mà không có cô thì Hội tất-nhiên sẽ tan, vì anh sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc làm với đồng lương cao và tiền lời bán đồ giải-khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm.
“Mãi đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với hai người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho cha+mẹ cô biết về mối tình giữa hai người.
“Huống chi đại-úy Sam thì đã về nước từ sau Nô-En năm ấy, và cô Diệu-Hương thì cũng đã bỏ đi đâu biệt-tích từ sau Nô-En năm ngoái, 1973...”
- Từ khi Sam rời Việt-Nam, đến khi Diệu-Hương đi biệt, là hai năm trời, hai người có còn liên-lạc với nhau hay không? Ðời sống tình-cảm của cô thế nào? - Anh vẫn gửi thư đều-đặn cho cô, qua tôi; tôi đều chuyển lại tận tay; nhưng cô nói là cô không trả lời. Tôi không được biết trong thư anh nói những gì. “Có nhiều thanh-niên Việt-Nam cũng như vài ba người Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối xử với họ bề ngoài tự-nhiên như đối với Sam trước kia, chứ không có gì khác hơn. “Cuối năm 1972 thì cô đổi về dạy ở Tam-Kỳ, thuộc Tỉnh Quảng-Tín; cuối tuần về nhà thường ghé thăm tôi. “Tôi hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh hơn... “Ðây là bức thư của cô đã viết cho Sam vào dịp Nô-En năm ngoái. Cô không gửi nó qua Mỹ mà lại nhờ tôi cất giữ như một bằng-chứng hoặc một di-vật lưu lại cho Sam; tôi không mở xem. Cô đã dặn tôi: nếu đến hết ngày Nô-En năm nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà Sam vẫn không trở lại gặp tôi, thì xin tôi hãy giải giùm lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây đa, là nơi anh đã đứng đó nhiều lần hướng về cửa sổ say-đắm nhìn vào...” Lộc-Mỹ, ngày 25/12/1973
Anh Sam yêu-dấu, Ðây là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư cuối cùng em gửi anh, người đàn-ông đầu tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng trong đời em. Nội-dung chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không chỉ đơn-giản như ba tiếng “em yêu anh”. Anh là người Mỹ học-thức, giàu-có, mạnh-khỏe, trẻ-trung, can-đảm, cần-cù, nhân-ái, vị-tha, hào-phòng, tự-do.
Những quân-nhân như anh, ngoài các cuộc hành-quân còn dành thêm tâm-trí, công-sức và thì-giờ để làm công-tác xã-hội giúp ích cho người xung quanh, thật là hiếm-hoi. Trong cương-vị của anh, anh xứng-đáng tiêu-biểu cho một dân-tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp, vượt vạn dặm trùng-dương đến đây hy-sinh xương máu để bảo-vệ, kiến-thiết, và phát-triển Việt-Nam nghèo-yếu khổ-nạn quê-hương em.
Anh là một thanh-niên lịch-thiệp, nói theo các bạn em là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu đời, yêu người, biết kính già quý trẻ, biết tôn-trọng những giá-trị tinh-thần, nhất là tôn-trọng người mình yêu.
Anh đã cho em biết thế nào là mãnh-lực ái-tình, thế nào là tình yêu không phân chia chủng-tộc, màu da. Anh vừa lãng-mạn phác-họa một cảnh gia-đình hạnh-phúc tràn-trề, vừa thực-tế dự-trù sau khi xuất-ngũ sẽ tiếp-tục học lấy bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường cho sự-nghiệp tương-lai. Anh đặt kế-hoạch cho tiền-đồ của cả hai chúng mình. “Anh đã cho em Niềm Tin trong Tình Yêu”... Nhưng vì cha+mẹ em không chấp-nhận việc một người con-gái Việt-Nam lấy chồng người nước ngoài (em biết điều đó qua nhiều lần ông+bà phê-bình người khác trước mặt em, và qua lời ông+bà nói với bác Nam mà bác ấy kể lại với em), nên em đành phải giấu-giếm mọi người, trừ bác Nam mà em đã thú thật sau này.
Yêu nhau mà phải lén-lút, còn gì bực-bội và xấu-hổ bằng!
Hy-vọng duy-nhất của em là chờ đến ngày em hai mươi mốt tuổi, là tuổi hợp-pháp tự mình quyết-định hôn-nhân của mình; nhưng không phải là để tự-do làm giấy hôn-thú với anh, mà là để dễ thuyết-phục song-thân em chấp-nhận mối tình của chúng mình, vì em không thể làm một đứa con bất-hiếu - bất-hiếu vì làm trái ý cha+mẹ, bất-hiếu vì làm cha mẹ mất mặt với mọi người.
Nhưng, nếu ông+bà vẫn không đồng-ý thì sao? Ðó là điều mà em không dám giải đáp, vì chỉ nghĩ đến là em đã thấy sợ rồi.
Ðùng một cái, anh được lệnh hồi-hương. Một việc bình-thường mà thời-gian qua đắm chìm trong tình yêu em không nghĩ đến. Hết hạn tùng-quân thì phải về thôi! Tuy thế, có lý nào chấm dứt mọi sự ngang đây sao anh? Nhưng anh đã trấn-an em. Anh hứa là sẽ tìm đủ mọi cách trở lại Việt-Nam, dù với tư-cách quân-nhân hay nhân-viên dân-chính, thường-dân.
Qua năm 1972 thì Hội Việt-Mỹ dời đi nơi khác. Em sống xa anh, lại không còn gần những cảnh sinh-hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm dấu ấn của anh, nên em cảm thấy cuộc sống trống vắng, lạt-lẽo vô cùng, dù anh vẫn gửi thư về đều đều; nên qua Nô-En thì em đã xin thuyên-chuyển về dạy ở Tam-Kỳ. Em về Tam-Kỳ để gần căn-cứ Chu-Lai, để được thấy các bạn anh nhiều hơn, để đỡ nhớ anh hơn, và để càng nhớ anh hơn.
Anh yêu! Cuộc đời không chiều lòng người. Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng vẫn còn nhiều hy-vọng, vì chiến-tranh vẫn còn. Nô-En 1973 anh không trở lại được, thì đâu còn hy-vọng, vì chiến-tranh không còn. Phải chăng hy-vọng chỉ còn, tình yêu của chúng ta chỉ còn, khi vẫn còn chiến-tranh, cuộc chiến khốc-liệt mà chúng mình muốn sớm kết-thúc? Nhưng, kết-thúc như thế nào, có phải là trong chia-lìa, mất-mát, đổ-vỡ, đau-thương không anh?
Nô-En năm nay em có một quyết-định mới. Em bỏ gia-đình, em bỏ việc làm, em thử... tìm về Hư-Vô, một cõi sắc-không không-sắc - như anh đã có nghiên-cứu và nói là đã lĩnh-hội được rồi - vì cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm phi-lý quá, phải không anh? Cha+mẹ em ép buộc em phải kết-hôn với một người mà em không yêu. Thế là em đã có lý-do để thoát-ly gia-đình mà không làm cho ai đổ lỗi cho anh.
Thời-hạn ba năm của lời thề xưa vẫn còn. Anh còn một năm để giải lời thề trước cây đa làng cũ. Anh còn một năm để thử-thách lòng anh. Em đã cố tình không viết một dòng chữ nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn miệng với các người bạn mà anh nhờ gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ trung-thành với anh, cốt để giúp anh trắc-nghiệm tình anh. Nếu anh trở lại được, thì anh đi tìm em được; Tình Yêu sẽ hướng-dẫn anh. Nếu anh không tìm ra em, mà anh vẫn muốn tìm em, thì đêm Nô-En 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm xưa; chậm lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút cuối cùng của thời-gian thử-thách, em sẽ chờ anh ở gốc cây đa. Ở gốc cây đa đó, em đã đón nhận nụ hôn đầu tiên của người khác phái, em đã trao anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là lần đầu tiên em ngây-ngất mê-ly, là lần đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong vòng tay siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi sáng mùa xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng-cay mùi vị chia-ly chúng mình dành cho nhau trước ngày anh xa em. Anh không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết những người dân làng ở đây đều sợ ma. Nhờ họ sợ ma nên họ để yên cho chúng mình gặp nhau giữa khuya bên gốc cây đa nhiều đêm. Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo sợ vô cùng: không phải là sợ có người biết được mối tình mà chúng mình giữ kín, mà là sợ Việt-Cộng tìm cách ám-hại anh, vì chúng đã hơn một lần muốn nhờ tay em...
Bây giờ thì anh đã hiểu rồi đấy. Nụ hôn biểu-hiện lời thề. Ðời em chỉ hôn một người; người đó, trên đạo-lý, đã là chồng em. Em còn nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đã giảng cho em: “Không được thề dối!” và “Không được phạm tội ngoại-tình!”; và: “Hễ ai ly-dị vợ mà không phải vì cớ vợ mình gian-dâm thì tức là khiến cho nàng ngoại-tình!” (Matthew 5:33, 27, 32).. Em không ngoại-tình, em không gian-dâm; em chỉ yêu một mình anh. Nếu không có anh thì em sẽ là hư-vô, vì đời trở nên hư-vô. Ðây cũng là một cuộc thử-thách tối-trọng và tối-hậu về phần em: do nơi anh, và do lời hẹn của anh, em sẽ trở về sống với hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp-tục và vĩnh-viễn trở thành sắc-không... D.H.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:14:45 GMT 9
- VÀ đây là mười hai bức thư của anh; Diệu-Hương không ghé lấy từ mười hai tháng nay... Trời đã xế chiều. Tôi tranh-thủ mở đọc bức thư mới nhất của người thanh-niên đã từng một thời là đại-úy Sam:
New York, December 1974
Diệu-Hương, người yêu duy-nhất của anh: Cả ba năm nay em không viết thư cho anh. Anh chấp-nhận, vì đó là ý muốn của em mà em đã nói cho anh biết trước rồi; nhưng trong thâm-tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng chờ thư em. Vậy mà giờ đây thì anh không còn trông đợi thư em nữa, em biết vì sao không?
Ngay khi gặp em là anh yêu em. Ðồng-thời, sau khi đã ở Việt-Nam rồi, đã hiểu Việt-Nam rồi, là anh yêu luôn Ðất Nước và đồng-bào em. Anh về Hoa-Kỳ không phải chỉ để vận-động trở lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là còn để nói lên tiếng nói của lương-tri, chống lại phong-trào phản-chiến, kêu gọi tinh-thần khử-bạo phù-nguy vốn là truyền-thống cao-đẹp của dân-tộc Hoa-Kỳ.
Thế nhưng kết-quả ngược lại.
Ma-quỷ đang hồi cực mạnh; người ta không nghe tiếng nói thống-thiết của những con người chính-trực như anh, thậm-chí bác đơn thỉnh-cầu của anh xin được một lần trở lại Việt-Nam. Và bây giờ thì nước Mỹ đã bỏ cuộc rồi.
Anh còn mặt-mũi nào sống trên đời này mà làm người thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc tình của chúng mình mà hạn chót của lời thề đã đến rồi.
Trong quá-khứ, nước Mỹ đã từng cứu Pháp, giúp Ðức, tiếp-trợ Âu-Tây, nâng Nhật-Bản, vớt Ðại-Hàn, che-chở Á-Ðông. Trong tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ còn hành-hiệp cái-thế độ-nhân.
Nhất-định mọi người sẽ phải xét lại thái-độ yếu hèn của ngày hôm nay.
Riêng đối với em, anh đã giữ tròn danh-tiết cho em. Trong đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đã lịm người trong vòng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh. Nhưng anh kính-trọng tinh-thần văn-hóa Ðông-Phương... Anh sẽ không để cho ai biết gì về mối tình vô-vọng của chúng mình. “Khối tình mang xuống tuyền-đài khôn tan...” Nếu còn có thoáng chốc nào em nhớ đến anh, thì xin em hãy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, anh vẫn chỉ biết một lòng yêu em. Tình Yêu ấy là sinh-khí cho hình-hài này, vốn là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất mà thôi.
Xin cho linh-hồn anh được thanh-thoát, làm một Romeo, một Trương Chi... SAM * THIẾU-TÁ Sơn, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh sở-tại, nãy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu:
- Như thế là cô Diệu-Hương đã tái xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có mặt ở gốc cây đa đêm nay...
Tôi nghĩ: “Ðoạn cuối câu chuyện không thuộc nhiệm-vụ của mình. Mình chỉ tìm biết xem cô là ai, lâu nay làm gì, ở đâu; thế thôi”.
Tôi bắt tay từ-giã Sơn: - Tất cả thư-từ, và những việc gì xảy ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy bác Nam giải-quyết. Bây giờ thì tôi phải về; còn nhờ anh Hòa trong Quảng-Ngãi, anh Song trong Quảng-Tín, và anh Ðảm ngoài Thừa-Thiên, dĩ-nhiên là cả anh nữa, tìm xem cô đang tu ở chùa nào... * Ðà Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm 1974 PHIẾU TRÌNH Kính trình... tại SÀI-GÒN Tiếp theo công-điện... Kính xác-nhận điện-trình sơ-khởi về việc...
Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I xác-nhận chính thiếu-tướng Hoàng Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp Trên, đã dùng trực-thăng đưa hai người Mỹ liên-hệ đến Xã Lộc-Mỹ trưa ngày hôm nay, 25-12-1974. Hai người Mỹ ấy là đại-diện của một văn-phòng Chưởng-Khế Mỹ, thi-hành di-chúc của một người tên Sam. Theo di-chúc của ông Sam thì sau khi ông tự-tử chết đi, thi-hài được thiêu thành tro, đem đến chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam, Việt-Nam, ngay hướng mắt nhìn từ gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm, giữa ngày Nô-En năm nay...
Chúng tôi đã đến tận nơi tìm hiểu, được biết: Nguyên...
SÁNG sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hình báo-cáo rằng các Chánh Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm.
Thiếu-tá Thái Văn Hòa của Tỉnh Quảng-Ngãi được tôi hỏi trước, trả lời: - Ở Tỉnh Quảng-Ngãi có chùa Thiên-Ấn và nhiều chùa khác, nhưng không có ni-cô nào giống với đối-tượng cần tìm... Thiếu-tá Ðặng Văn Song, Chánh-Sở của Tỉnh Quảng-Tín, báo-cáo là chưa tìm ra. Chánh-Sở Trương Công Ðảm của Tỉnh Thừa-Thiên liền xin xác-nhận: - Ngoài này chúng tôi đã tìm ra được cô rồi. “Cô ở ngay Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của Miền Trung. Tại đây, cô giấu lý-lịch; ngoại-trừ Sư-Bà trụ-trì, còn với người khác thì cô xưng một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp-danh mà thôi. Cô không bao giờ tiếp-xúc với người ngoài chùa. Trước đây đã có nhiều người từ trong Ðại-Lộc ra tìm, nhiều lần mà không gặp được. Riêng ngày hôm kia, cô đã xin phép đi vào Quảng-Nam thăm nhà...”
TÔI cám ơn các anh, rồi hỏi thiếu-tá Lâm Minh Sơn của Tỉnh Quảng-Nam tình-hình đêm qua thế nào. Sơn đáp: - Ðêm qua, chúng tôi không thấy Diệu-Hương đến gốc cây đa. Có lẽ cô đã nấp kín, cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng không thấy Sam xuất-hiện thì cô đến đó làm gì! “Còn bác Nam thì, vào lúc 12 giờ khuya, sau khi đốt xong bức thư của cô ở gốc cây đa, đã chôn luôn các bức thư của Sam vào chỗ đã chôn cái hộp mới được đưa đến từ nửa vòng trái đất bên kia...” LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:15:59 GMT 9
GÓP PHẦN ĐÁNH ĐỔ
HỆ-THỐNG XÃ-HỘI CHỦ-NGHĨA
BA-LAN VÀ ÐÔNG-ÂU Ðể điều-tra về các điệp-vụ của tôi, lúc tôi cầm đầu Ngành Ðặc-Cảnh Vùng I (1973-75), nhắm vào hai nước cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, cơ-quan Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, thừa lệnh Bộ Nội-Vụ của chúng, đã thực-hiện một cuộc thẩm-vấn vô cùng quy-mô. Thật ra thì tuy tôi đã bị bắt giải từ Nha-Trang ra Ðà-Nẵng từ ngày 26-4-1975, trải qua nhiều Trại (Kho-Ðạn, An-Ðiềm, Kho-Ðạn, Hội-An, An-Ðiềm, Ðồng-Mộ, “Nhà-Trắng” Thôn 5, Tiên-Lãnh I), nhưng không khai-báo − và các bạn khác, nếu cũng bị bắt, chắc cũng không khai-báo gì − nên nhiều năm sau chúng mới biết được, chút ít mà thôi, về các hoạt-động nói trên. Cho mãi đến ngày 16-10-1980, năm năm rưỡi sau, chúng mới đưa tôi từ trại ở núi về thành, để chuẩn-bị cho cuộc hỏi cung này. Hình như tin-tức mà chúng có được để làm cơ-sở hỏi cung sau này là những tài-liệu lấy được của ta − hoặc từ bộ-phận “Ðiều-Hợp” của Bộ Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, hoặc từ trong hố hồ-sơ mà Ban Văn-Thư của Ngành Ðặc-Cảnh Vùng I chuyển đến chôn tạm sau vườn Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Miền Trung (rồi không có dịp trở lại để thiêu-hủy đi). Tôi tin là sau biến-cố 30-4-1975 tại Việt-Nam, CIA đã áp-dụng ngay các biện-pháp an-toàn cho các điệp-vụ, nhất là điệp-viên chính-yếu, cấp cao, ở hai nước ấy, ít nhất thì cũng đưa họ tránh ra nước ngoài, và thay-đổi hết ngụy-thức & mật-hiệu giao+liên. * Chúng nhốt tôi riêng trong một buồng giam tại trại Kho-Ðạn (Chợ Cồn), trong lúc mỗi buồng như thế ở cùng một dãy và các dãy khác đều nhốt năm/sáu chục người. Cửa chính và các cửa sổ trước+sau đều bị đóng tôn che kín, chỉ chừa có một lỗ nhỏ chừng hơn bàn tay để chúng nhòm vào quan-sát kiểm-soát hoặc ra lệnh gì cho tôi. Chúng muốn ngăn-cách tôi với các nghi-can/phạm-nhân khác, vì họ có dịp ngang qua buồng tôi để đi khai cung, tắm giặt, múc nước, nhận quà thăm+nuôi, v.v... Chúng cho khiêng vào buồng tôi một thùng phuy lớn, cho đổ nước đầy mỗi ngày hai lần, lại còn cho bắc một ống nước máy vào cho tôi dùng. Chúng cho bác-sĩ và y-tá vào săn-sóc tôi mỗi sáng, mỗi chiều (tôi bị chấn-thương cột sống vì một tai-nạn xe hơi, trên đường chúng chở từ Tiên-Lãnh về). Ðặc-biệt hơn hết là chúng cho tôi được hưởng quy-chế “tiểu-táo” − có một người tù hình-sự đặc-trách nấu ăn cho tôi. Anh này trổ tài nấu-nướng, ba bữa mỗi ngày; chỉ bữa điểm-tâm là ít đổi món, còn hai bữa chính thì bữa nào cũng có thức ăn mới, nóng hổi, thơm phức; thịt/cá/tôm/cua là chuyện quá thường; bánh/kẹo, trái cây; nước trà; dọn bằng bát sứ, đũa mun; v.v... Ðối với một “cải-tạo-viên” như tôi, cũng như hằng vạn đồng-tù, đói khổ từ bao năm nay, thì đây quả thật là những bữa tiệc cao-lương. Tên Giám-Thị-Trưởng phân-bì là tôi sướng hơn lãnh-đạo của chúng. Các tên Bảo-Vệ thì thường chực lúc cơm đã đưa vào là đến nhòm vào, bảo tôi giở các nắp đậy cho chúng nhìn xem bữa nay có những món gì, nét mặt không giấu được vẻ thèm-thuồng. (Tôi được “bồi-dưỡng” như thế trong ba tháng liền, xong trở lại ăn bình-thường cả một tháng rưỡi, rồi mới được trả về trại Tiên-Lãnh vào ngày 02-3-1981. Khi tôi vào phòng, anh+em đã đi lao-động, chỉ có thiếu-tá Lê Quang Ngộ ở nhà trực làm vệ-sinh. Ngộ hỏi tên tôi, hồi trước ở cơ-quan nào. Khi tôi nói ra, Ngộ đã trố mắt kêu lên: “Trời ơi! Anh Nhuận đâu mà mập dữ thế này!”) Buổi trưa, sau khi các buồng ăn xong, không còn người nào ra ngoài, chúng cho tôi ra tắm nắng nửa giờ. Nửa tháng một lần, chúng cho một thợ hớt tóc đến cắt+tỉa+cạo cho tôi. Gã này lắm mồm, hỏi tôi đủ chuyện, nhưng tôi nghi là tai+mắt Công-An nên chỉ ừ-ào cho xong. Gã hỏi có phải tôi là cán-bộ Công-An, rồi gã tự đáp là gã đoán đúng; rồi gã nâng tôi từ cấp thiếu-tá, lên cấp trung-tá, rồi lên thượng-tá, cuối-cùng gã nói gã tin tôi là đại-tá, và phải là cấp lãnh-đạo ở Liên-Khu này, ở Miền Trung này. Gã lý-luận thêm: nếu tôi là cấp Trung-Ương thì hẳn đã được đưa ra thủ-đô; còn nếu chỉ là cấp Tỉnh mà đã bị “cách ly” rồi thì đâu còn được đối xử đặc-biệt thế này! Chúng bồi-dưỡng tôi vì hai lý-do: chúng cần tôi khai nhiều hơn những điều đã khai lắt-nhắt mấy lần trước đây, vì sắp có các Phái-Ðoàn Phản-Gián Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi đến hỏi cung tôi, sợ tôi khai với bọn kia nhiều hơn thì chúng mất thớ về mặt chuyên-môn; ngoài ra, chúng muốn trình-bày trước các đồng-chí Ðông-Âu một tên tù ngụy “đỏ-da thắm-thịt” biểu-trưng chính-sách “khoan-hồng/nhân-đạo” của Ðảng Cộng-Sản Việt-Nam! Chúng nói phía chúng sẽ dùng tiếng Nga, tiếng Ba-Lan, và tiếng Hung; và hỏi tôi chọn tiếng gì để chúng biết trước, vì chúng cho phép tôi nói trực-tiếp với các phái-đoàn hỏi cung. Tôi nói tôi chọn tiếng Pháp hoặc Anh. Chúng bảo tôi dùng tiếng Anh, và cho người nhà gửi vào cho tôi một cuốn từ-điển tiếng Anh bỏ túi (cuốn từ-điển này tôi bảo dùng để khai cung nên tôi được giữ cho đến ngày ra khỏi tù). * Chuẩn-bị ba tháng xong xuôi, chúng chở tôi đến trụ-sở của Sở Công-An Nhân-Dân Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng. Ðây là tòa lầu bốn tầng, cùng với những dãy, trạm, kho phụ-thuộc, do chính tù-nhân “cải-tạo” mới xây-cất lên, chiếm hết khu nhà+đất cũ của Bộ Chỉ-Huy CSQG Thị-Xã Ðà-Nẵng (mà khu-vực chính chỉ có 2 tầng, vốn chỉ ở trên một đường), luôn cả mấy khu nhà+đất kế-cận, tạo thành góc đường. Cổng chính bây giờ nằm trên mặt đường lớn hơn. Mới nhìn thoáng qua đã thấy tầm-cỡ to-lớn của ngành Công-An Việt-Cộng, vượt trội nhiều lần so với trụ-sở Cảnh-Lực VNCH. Chúng đưa tôi lên một phòng ở tầng thứ ba, trong đó có thiết-trí sẵn đèn pha, những máy ghi-âm, chụp ảnh, quay phim, v.v... Tôi ngồi đầu bàn; bên trái là thông-dịch-viên, đại-diện Bộ Nội-Vụ Việt-Cộng, đại-diện Sở Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng; bên phải là ba người nước ngoài, được giới-thiệu với tôi là cán-bộ phản-gián cao-cấp của Bộ Nội-Vụ Hung-Gia-Lợi. Qua vị-trí ngồi, cách nói-năng, thái-độ ứng-xử với nhau, tôi đoán tuy chúng lần này hỏi tôi về Hung-Gia-Lợi, nhưng gã ngồi giữa là Nga (Liên-Xô), gã ngồi gần tôi thật-sự là Hung, còn gã đằng kia có thể là Ba-Lan. Liên-Xô thì vẫn cai-trị cả hai nước ấy, hẳn không bỏ lỡ cơ-hội làm chủ trong công-tác này; và Ba-Lan thì cũng cần quan-sát nghe-ngóng vụ này, vì cả Ba-Lan lẫn Hung đều là nạn-nhân trong các công-tác liên-hệ của tôi. Gã ngồi ở giữa chủ-động chất-vấn, hỏi nhiều về sự cố-vấn, yểm-trợ, phương-thức hoạt-động của CIA. Gã ngồi gần tôi hỏi nhiều chi-tiết linh-tinh về Hung. Gã ngồi đằng kia hỏi về sinh-hoạt chung-đụng giữa Hung-Gia-Lợi và Ba-Lan. Hơn nữa, ba người cùng một cơ-quan mà giữ tư-thế khách-sáo với nhau, và có những lúc họ đã phản-ứng khác nhau trước lời trình-bày của tôi. Khi tôi nói rằng trong Nam đã có một thành-viên Hung-Gia-Lợi công-khai xin ra hồi-chánh với Việt-Nam Cộng-Hòa, thì gã ngồi giữa quay nhìn vào mặt gã ngồi gần tôi; gã này đỏ mặt lúng-túng phân-bua. Khi tôi kể chuyện các tướng Hung-Gia-Lợi thường từ Sài-Gòn ra Ðà-Nẵng đến ăn uống tại quán “Danube” thì gã này khoe là sông Danube chạy ngang qua Hung. Khi tôi nói rằng các thành-viên Hung có “cảnh-giác” hơn Ba-Lan, vì có một số thành-viên Ba-Lan thường gặp các nữ-y-tá Tây-Ðức, thì gã ngồi giữa quay nhìn vào mặt gã ngồi đằng kia; gã ấy làm bộ chán-ngán lắc đầu. Lại nữa, chúng đưa tôi xem một bức ảnh của ông George, một Người Bạn Ðồng-Minh cũ của tôi (chụp chung tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-Bên), hỏi tôi có quen hay không. Mà George thì Người Bạn Đồng-Minh Ferguson có cho tôi biết là qua Ba-Lan chứ không qua Hung. Rõ-ràng là chúng chống Mỹ, nên tôi lợi-dụng dịp này để tỏ rằng mình cũng có chống Mỹ, bằng cách “tố-cáo” các hành-động “đế-quốc” của Mỹ, tỷ như: gài mìn hải-cảng Hải-Phòng năm 1972 khiến tàu Liên-Xô và tàu Hoa-Cộng không vào bến được, phải đựng tiếp-liệu trong bao nylon mà thả cho sóng trôi vào (tôi ở miền Nam mà cũng nhận được một số gạo bao, thịt lon, v.v...); hành-quân trực-thăng vào tận trại giam tù-binh Sơn-Tây năm 1970, may “ta” đã dời đi trước, nếu không thì Mỹ đã cứu được hết tù-binh về rồi! Tôi cố ý kể những chuyện tương-tự, như đã từng làm trong suốt thời-gian bị “cải-tạo” tập-trung, để nhắc cho chúng thấy được khả-năng của Mỹ: tiến sát vào bờ, bay sâu vào trong nội-địa miền Bắc Việt-Nam... Nói về những việc có vẻ tố-Mỹ như thế thì tôi nói nhiều, nhưng về trọng-tâm khai-báo là các tổ-chức nội-tuyến của ta bên trong nội-bộ của chúng thì lẽ tất-nhiên tôi chỉ thú-nhận càng ít càng hay. Sau cuộc hỏi cung, thấy không thu-thập được gì nhiều hơn, chúng bảo tạm ngưng để nghiên-cứu thêm. Chúng bắt tôi chờ thêm một tháng rưỡi, chấm dứt ăn ngon; và vì không thấy Hà-Nội và các nước kia nói gì nên Công-An Tỉnh đã trả tôi về trại Tiên-Lãnh I trở lại làm tiếp lao-nô. Đến ngày 09-4-1981, chúng đưa tôi về trại Kho Ðạn lại. Lại chờ. Sau cùng, Hà-Nội quyết-định để cho Trung-Ương của chúng trực-tiếp hỏi cung tôi. * * * Tôi bị đưa ra Hà-Nội, vào ngày 15-7-1981, và giam tại Trại đặc-biệt của Bộ Công-An Việt-Cộng, ở Xã Thanh-Liệt thuộc Huyện Thanh-Trì. Chúng có mấy lần đưa tôi đi Hà-Nội để “tham quan” thủ-đô. Trong thời-gian đó các loa phóng-thanh phổ-biến tin-tức về “Ðại-Hội 5” − đại-hội này đã bị hoãn lại mấy lần từ cuối năm ấy đến đầu năm sau. Tôi nghe ở một tiệm phở người ta bàn-tán về tin báo đăng đại-tá Việt-Cộng Lê Ðức Anh mới được thăng lên thiếu-tướng (tuớng một sao) và được đưa vào Bộ Chính-Trị Trung-Ương Ðảng để kịp dự Ðại-Hội Ðảng kỳ này, đầu năm 1982 (Theo cuốn “Ðại Thắng Muà Xuân” của Văn Tiến Dũng, mà tôi đã đọc trước đó, thì Anh đã là trung-tướng từ năm 1974). Vào ngày đã định, bộ-phận Chấp Pháp (Thẩm-Vấn) tổ-chức cho tôi khai cung trực-tiếp trước sự viễn-thính kiểm-tra của chính Phạm Hùng, cựu chính-ủy Trung-Ương-Cục Miền Nam, lúc đó là Phó Thủ-Tướng kiêm Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ (Công-An), xử-lý thường-vụ Thủ-Tướng Chính-Phủ Cộng- Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam, những khi vắng mặt Phạm Văn Ðồng. Hôm ấy, vào khoảng cuối năm 1981, chúng chở tôi đến một quán bên đường gần Tòa Ðại-Sứ Cuba, xong chia ra làm hai nhóm, đi bộ qua hai con hẻm khác nhau, rồi vào một ngôi nhà gạch kiểu Pháp khoảng giữa các đường Lý Thường Kiệt và Trần Hưng Ðạo, vào một căn buồng có vẻ vừa-là-chỗ-ở vừa-là-văn-phòng. Hai cán-bộ trẻ, tên Trần Trung Chính và Hoàn (cỡ như một gã tôi thấy đến Trại Tiên-Lãnh, mới trên 20 tuổi mà đã mang cấp-hiệu thiếu-tá; bọn tù phục-dịch Ban Giám-Thị Trại nói là “lớp mới, tốt-nghiệp ở Liên-Xô về”), lâu nay tiếp-xúc với tôi, nay nhường cho một gã khác, mà chúng gọi là “ông tướng”, đứng ra chủ-trì cuộc gặp mặt này. Tên Hoàn dặn tôi phải giữ lễ-độ trước mặt “ông tướng”, nhất là có sự theo-dõi của ông Thủ-Tướng Phạm Hùng. Khi gã “ông tướng” đến rồi, tên gác phòng này bưng khay bình-và-tách trà đã pha ra để trên bàn tiếp khách, rồi đi khuất vào cửa sau. Các tên Chính & Hoàn tỏ vẻ kính nể “ông tướng” ra mặt, nói gì cũng đứng thế nghiêm, xong lui ngồi gần cửa chính và cửa phía sau, như để ngăn chừng không cho ai đến quấy rầy. Tôi đoán gã phải là một Tổng-Cục-Trưởng hay Cục-Trưởng gì đó ở Bộ Nội-Vụ (Công-An). Thấy tôi liếc nhìn những máy điện-thoại, bộ-đàm, nội-đàm, ống kính, micro, loa, v.v... trên bàn, trên kệ, trên tường, trên trần, gã “ông tướng” nói: − Thì cũng là “nhà an toàn” như của các anh trong Nam! Gã đã “đả thông tư tưởng” của tôi rất lâu; có những bài+bản mới hơn những cái mà mọi cán-bộ Việt-Cộng từ trên xuống dưới đều đã đem ra thực-hành lâu nay. Gã nói: − Giữa anh và tôi, chúng ta có tình đồng hương: tôi ở Quảng Bình, anh ở Thừa Thiên. Trong tình đồng hương với nhau, tôi sẽ hết sức giúp anh. Và anh cũng hãy giúp tôi. Trước nay chỉ có những người cùng Tỉnh lập hội đồng-hương với nhau, nay Tỉnh Quảng-Bình tận tuốt ngoài kia của Tỉnh Quảng-Trị mà gã cũng bảo đồng-hương với tôi ở Tỉnh Thừa-Thiên tận tuốt trong kia! (tôi chưa biết chúng đã lập Tỉnh “Bình-Trị-Thiên”). − Anh đã trở về, làm dân của nước Việt Nam, có Ðảng lãnh đạo, có Nhà Nước quản lý. Anh có bổn phận đối với quốc gia. Ở tuổi của anh, chắc anh đã biết thế nào là “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung?” Tự-nhiên tôi thấy buồn cười. Tôi nói tiếp theo: − Phu xử phụ tử, phụ bất tử bất nghĩa. Phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu! Gã cười lớn lên, khoái chí gật đầu. Hai tên cán-bộ dưới quyền của gã ngơ-ngác không hiểu gã và tôi nói gì. − Các ông ra lệnh cho tôi phải khai, nếu tôi không khai thì các ông sẽ giết tôi? − Tốt! Thế là anh đã hiểu rồi! Gã nói tiếp theo: − Tuy nhiên, giữa anh và tôi, chúng ta đều là đồng nghiệp, chỉ khác chiến tuyến mà thôi! Gã thêm: − Nhưng điều quan trọng là chúng tôi có lý tưởng, có Ðảng sáng suốt chỉ đường! Gã nói về những khiếm-khuyết, lầm-lẫn “không thể tránh được” của một số việc và người; và xác-quyết rằng Ðảng biết sửa sai, nhất-định cuối-cùng “Ta” sẽ thành-công. Gã nói: từ ngày “giải phóng” Miền Nam đến nay (1981), nhiều đợt cán bộ rành nghề nghiên cứu đã đọc hơn hai mươi tấn hồ sơ tài liệu bắt được của “Ngụy” Miền Nam, nhưng mới chỉ là một nửa, và đọc dở chừng thì họ đã chết hết rồi − chết vì tuổi già − cho nên chưa thể kết thúc điều tra, vẫn cần tập trung “cải tạo” các anh cho đến bao giờ nắm được mức độ tội lỗi thật sự của từng cá nhân! Gã nói rằng tôi là một nhân-tài, làm được những việc động trời. Cứ như bên phía của gã, thì hễ thực-hiện được một điệp-vụ như thế − mà hiếm vô-cùng, có khi mỗi vụ cả chục năm trời mới thành − thì được thăng cấp vượt bậc, đưa lên “Trung-Ương” để làm giảng-sư, dùng các kinh-nghiệm đã có để chỉ-đạo cho các lớp đi sau; huống gì tôi đánh một lần vào nhiều đối-tượng, trong cả hai đảng, hai nước, có vụ chỉ trong mấy tuần, mà đã đạt được yêu-cầu! Gã nói: nhờ các đồng-chí Trung-Ương cũng như Ba Lan và Hung Ga Ri chú ý đến tôi, nên chúng lục đọc hồ-sơ cá-nhân của tôi tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, và thấy có mấy năm liền có những báo-cáo thống-kê thành-tích diệt-Cộng của tôi − hạ-sát hằng trăm, bắt sống hằng nghìn, chiêu-hồi vô-số − thế mà chúng có thấy tôi được tưởng-thưởng gì thật xứng-đáng đâu, lại còn nhiều phen bị phạt, bị đày! Tôi nói: vì tôi chống lại cả hai chế-độ Miền Nam. Gã thấy không khích được tôi thù-hận Chính-Quyền Miền Nam, mà lại tưởng tôi kể công “chống Ngụy”, nên gã đổi giọng, đập bàn la lên: − Anh chống bọn chúng vì anh muốn cho chế độ của chúng tốt hơn, đẹp hơn, trong sạch hơn, hùng mạnh hơn, để giết chúng tôi, để diệt chúng tôi, chứ đâu phải để hưởng ứng “Cách Mạng”, về với “Nhân Dân”! Lát sau, chuông dây-nói reo, gã cầm ống nghe, đứng dậy mà nghe, liên tiếp trả lời “Vâng! Vâng! Báo cáo thủ trưởng, nhận rõ!” một hồi, xong ngồi xuống ghế, ra hiệu cho Chính và Hoàn bắt đầu. Tôi đoán là chúng mở máy ghi-âm, thu-hình, và thu+phát-thanh, hoặc để ống nghe điện-thoại ra ngoài. Gã nói với tôi: − Ðây là cơ hội cuối cùng cho anh “lập công”. Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào, anh không còn gì để phải giấu che. Chỉ cần cung cấp một vài thông tin về hoạt động của CIA ở Ba Lan và Hung Ga Ri là anh được tha về ngay. Trần Văn Hai, Tổng Giám Ðốc của anh; Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Phó trung ương của anh; đều đã khai xong, và đã được cho ra Trại lâu rồi (sự thật là chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tử-tiết ngay từ đầu, và chuẩn-tướng Bùi Văn Nhu thì từ-trần trong trại lao-cải tập-trung). Gã nói: − Anh hãy tưởng tượng, vào một buổi sáng đẹp trời, cán bộ Chính, hoặc cán bô Hoàn ở đây, là người cùng đi với anh, sẽ sánh vai anh từ trên xe lửa bước xuống sân ga Nha Trang; ở đó, có vợ con anh, đã được báo trước, đứng sẵn đón anh trở về. Gia đình tái hợp, bắt đầu làm lại cuộc đời. Cán bộ của Bộ sẽ họp ngay với lãnh đạo địa phương để lo sắp xếp mọi sự dễ dàng cho anh, như họ đã làm cho các anh Hai, Nhu, và nhiều người khác... Gã vói tay qua cầm lấy tay tôi ra vẻ thân-tình: − Tôi đã tâm sự với anh về những khó khăn của “Ta”. Nhưng “Ta” còn các đồng chí Ba Lan và Hung Ga Ri, và họ cũng gặp khó khăn như “Ta”. Chắc anh thừa hiểu là đế quốc Mỹ là bọn sen đầm quốc tế; chúng cho CIA xâm nhập đánh phá các Ðảng Cộng Sản khắp nơi. Huống gì đã có tay trong trong hai Ðảng ấy, từ các công tác của anh cài vào. Riêng tại Ba Lan, lâu nay chúng đã cài cấy thêm nhiều tai mắt tay chân, như vòi bạch tuộc, chằng chịt bên trong hàng ngũ của “Ta”. Hiện nay chúng đã khích động các giới lao động thợ thuyền, giật dây bọn trí thức tiểu tư sản, và lợi dụng các nhà thờ Ky Tô. Một tên chủ tịch công đoàn bất hợp pháp, có tên “Ðoàn Kết”, cầm đầu công nhân nhiều nơi nổi lên, bị “Ta” trấn áp vừa rồi. Một tên hồng y Ba Lan được chúng phong lên giáo hoàng, đã qua trình diện tổng thống Hoa Kỳ, phát biểu phản động tại đại hội đồng Liên Hợp Quốc, và về Ba Lan xúi giục tín đồ phản bội Ðảng và Nhân Dân; vì y xen lấn vào chuyện chính trị nên bị giết hụt mới đây... (Những tin-tức ấy thì tôi đã có biết rồi, và biết nhiều hơn. Số là chúng có thỉnh-thoảng đưa vào giam chung với tôi, mỗi lần một tên khác nhau. Mới nhất là tên Nguyễn Văn Dũng, kỹ-sư địa-chất tốt-nghiệp từ Liên-Xô về. Hắn bị bắt tại sân bay Nội Bài và đưa thẳng đến Trại này vì đã mang lậu về nước một số mặt hàng. Hắn nói hắn là em họ của Lê Quỳnh, diễn-viên điện-ảnh Miền Nam. Hắn nói là tại Liên-Xô hắn xem truyền-hình tự-do; thí-dụ, hắn thấy chiếu cảnh tướng Nguyễn Cao Kỳ dẫn vợ qua Bắc-Kinh, và hắn khen bà Kỳ đẹp. Trong số những chuyện hắn kể cho tôi nghe, có chuyện tình-hình mới nhất ở Ba-Lan). “Ông tướng” kết-luận: − Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ thắng quang vinh; đó là xu thế không thể đảo ngược, và là chân lý của thời đại này. Riêng anh, tự do của anh, hạnh phúc gia đình của anh, tương lai của anh, tất cả đều do nơi anh. Và chúng tôi chỉ giải quyết có lần này thôi. “Cách Mạng” đã biết những tên CIA nào hoạt động tại Miền Nam, những tên CIA nào hoạt động tại Ba Lan và Hung Ga Ri. Các tên đầu sỏ bị bắt hết rồi; “Ta” đang tiếp tục lùng tìm tay chân của chúng cài cấy dày đặc khắp nơi. “Cách Mạng” cần thêm thông tin của anh để phát hiện thêm, những tên tay sai, phản bội, nhất là phương thức liên lạc tiếp xúc đặc biệt dùng giữa bọn chúng với nhau. Tôi đã đoán trước thế nào chúng cũng hỏi đến điều này, nên trả lời ngay: − Tôi có nói ra thì cũng vô-ích, mà còn có thể có hại vì bị “Cách-Mạng” tưởng lầm là tôi khai dối, khai gian. − Anh cứ nói đi! − Tôi không có gì để khai, khác hơn những điều đã khai trước đây. Tóm lại, về CIA thì tôi không biết, vì các Người Bạn Ðồng-Minh của tôi thì chỉ hoạt-động ở Vùng I thôi, còn các người nào hoạt-động tại Ba-Lan và Hung-Ga-Ri thì các cấp trên của họ phái đến từ những nơi nào ngoài tầm hiểu biết của tôi. Hơn nữa, họ thường sử-dụng tên giả, lý-lịch giả; ngay cả nhân-dáng cũng có thể giả, nghĩa là giải-phẫu thay-dạng đổi-hình mỗi lần thay đổi chức-vị, địa-phương. Về các kế-hoạch hoạt-động thì, theo quy-luật an-ninh trong ngành tình-báo, mỗi ngụy-thức, ngụy-tích, chỉ-dấu an-toàn, tín-hiệu nhận nhau, v.v... chỉ có giá-trị trong một thời-gian mà thôi; sau đó là phải đổi mới; ai dùng cái cũ tức là kẻ gian, kẻ thù. Huống gì, tình-thế đổi thay, hơn sáu năm rồi, tin-tức của tôi, nếu nhớ thật đúng, thì cũng không còn có hiệu-lực gì. − Anh đã dứt khoát không chịu khai thêm, phải không? − Vâng ạ. − “Cách Mạng” khoan hồng cho anh, lãnh đạo Trung Ương chiếu cố đặc biệt đến anh, mà anh từ chối, phải không? − Phải. Gã “ông tướng” trợn cặp mắt tóe lửa nhìn tôi: − Hừ! Tôi báo trước cho anh biết: chỉ trong vài hôm nữa thôi, tất cả các thành phần phản động tại Ba Lan cũng như Hung Ga Ri đều sẽ phải đền tội trước tòa án nhân dân; và ngay cả bọn CIA liên quan cũng sẽ bị Nhà Nước có chủ quyền của hai nước ấy trừng trị thẳng tay. Thành trì xã hội chủ nghĩa bất cứ ở đâu cũng sẽ ngày càng bành trướng vững vàng. Sẽ không bao giờ xảy ra sự cố mà bọn đế quốc và lũ tay sai như anh hằng mơ, để anh có thể “tự hào” là chính anh đã góp phần đánh đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan và Hung Gia Ri, kéo theo sự sụp đổ của cả Khối Cộng Sản Ðông Âu! Có phải bọn chủ CIA của anh đã nhồi nhét cái ý tưởng hão huyền ấy vào trong đầu óc vong bản của anh hay không? (Lúc đó, vào năm 1981, Cộng Sản Vịệt Nam chỉ biết là Ba Lan và Hung Gia Lợi bị tôi tổ chức xâm nhập giùm cho CIA từ năm 1973, nên mới suy luận là nếu cộng sản tại hai nước ấy mà sụp đổ thì sẽ kéo theo cả sự sụp đổ tại các nước kia, vì Ba Lan có thủ đô Vác Xô Vi (Warsaw) là trung tâm của các lực lượng quân sự Liên Xô đối đầu với Khối NATO của Thế Giới Tự Do tại Âu Châu. Sau này, khi sự suy diễn của họ trở thành hiện thực, thì cái trình tự nói trên đã đảo ngược lại: Từ năm 1985, lãnh tụ Mikhail Gorbachev của Liên Xô đã chủ trương Perestroika (cải tổ chính trị và kinh tế) và Glasnost (cởi mở tư tưởng); đến năm 1989 thì cộng sản tại các nước trong Liên Bang Xô Viết đã tự chấm dứt, và cuối năm ấy, cộng sản tại Hung Gia Lợi cũng đã hạ màn. Chính Liên Xô đã tự lột xác tử năm 1985, mở đưởng cho các quốc gia thuộc quyền lần lượt về với Tự Do trước, rồi chính mình sẽ chính thức giải thể sau. Cuối năm 1989, cộng sản Đông Đức phá bỏ bức tường Bá Linh, mở cửa ra với Tây Phương. Đến cuối năm 1990 thì cộng sản Ba Lan cáo chung. Thế là tan rã toàn Khối cộng sản cả Đông Âu lẫn Liên Xô). -- Nhẹ không muốn mà muốn nặng thì là do anh! Mặc dù tôi luôn sẵn-sàng đón nhận hình phạt tối-đa là cái chết, nhưng vì không biết mình sẽ bị giết cách nào, và vì đã thấy nhiều bạn bị chúng hành-hạ dã-man trước lúc lìa đời, nên tôi cảm thấy thần-kinh căng thẳng tột cùng. Không-khí ngột-ngạt một lát thì chuông dây-nói vang lên. Gã cầm ống nghe, đứng dậy trả lời: − Vâng! Vâng! Bộ sẽ trả về cho Tỉnh. Báo-cáo đồng-chí lãnh-đạo, nghe rõ! * Tôi được chở vào trả lại cho Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, cũng bằng máy bay, vào ngày 20-4-1982. LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:18:14 GMT 9
TIẾN-SĨ HOÀNG MAI THÊM
Lần này ra Huế tôi ngẫu-nhiên gặp lại Hoàng Mai Thêm, một người bạn thân đã cách xa nhau từ hồi tôi bị tống-xuất ra khỏi Miền Trung. Bây giờ Thêm là giáo-sư, dạy Luật tại Viện Ðại-Học Sài-Gòn và một số Viện Ðại-Học khác. Chuyến này anh ra Huế dạy tại Viện Ðại-Học Huế. Khi đi ngang qua “Bót Cò” cũ, trước kia là trụ-sở của Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, nơi hai chúng tôi đã làm việc chung với nhau một thời-gian dài, cả Thêm lẫn tôi đều hướng mắt nhìn vào . Ở đó, chúng tôi đã có với nhau rất nhiều kỷ-niệm; nhưng cái kỷ-niệm đắng-xót nhất là cuộc tranh-luận giữa hai chúng tôi mà kết-quả là tôi lâm vòng gian-truân. Lúc nãy, khi mới gặp lại nhau, Thêm đã nói ngay là anh rất buồn vì việc đáng tiếc xảy ra cho tôi ngày xưa . Giờ đây, có lẽ để xí-xóa chuyện cũ, anh nói qua chuyện mới: – Mình được mời làm Thứ-Trưởng, nhưng mình chưa nhận. Sự tiết-lộ ấy đã khiến tôi suy-nghĩ nhiều .
* Năm 1951, chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam ban-hành chế độ quân-nhiệm, theo đó các viên-chức Cảnh-Sát Công-An được xem là công-chức nên cũng bị lần-lượt động-viên. Thêm vào thụ-huấn tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ-Quan Trừ-Bị ở Thủ Ðức; tôi vào làm việc tại Phòng Năm thuộc Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở Huế. Cuối năm 1956, mãn nhiệm-kỳ quân-vụ, tôi trở về Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế và được cử giữ trách-vụ Trưởng Phòng Hành-Chánh kiêm Trưởng Phòng Huấn-Luyện. Tôi cũng kiêm-nhiệm Trưởng Ban Tổ-Chức và Thuyết-Trình-Viên các Lớp “Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục” mà nội dung và phương-thức điều-hành được ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, bào đệ của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, chỉ đạo cho toàn-quốc. Về lại ngành Cảnh-Sát, theo dõi tình-hình sinh-hoạt của mọi giới trên mọi lĩnh-vực tại địa-phương, tôi mới biết thêm, dù chưa đầy đủ, những điều chướng tai gai mắt, và cả những điều bất-nhân thất đức, do một số thân-nhân, gia-nhân, và thuộc-hạ của Diệm gây ra . Ðối với Ðảng Cần-Lao, đối với Ðạo Ky-Tô, cũng như đối với cả ba Ngành trong Chính-Quyền thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa, họ chỉ là thiểu-số; nhưng thiểu-số đó đã cậy thế họ Ngô mà giật dây các cơ-quan chấp-hành của chế độ, để áp-bức và hãm-hại lương dân, hầu thỏa-mãn tư-lợi hoặc tư-thù.
MỘT BUỔI LỄ CHÀO QUỐC-KỲ
Thuở đó, các công-sở và quân-cứ đều cử lễ Chào Quốc-Kỳ vào lúc bảy giờ rưỡi sáng mỗi ngày đầu tuần. Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần cho nhân-viên trực-thuộc sắp hàng chỉnh-tề trước sân trụ-sở Nha năm phút sớm hơn. Hôm ấy, toàn-thể viên-chức hiện diện đều vô cùng hoang-mang, và sau đó kể lại với mọi người sự-việc đã xảy ra . Trung-úy Hoàng Ðạt Vọng, Trưởng Ðội Biệt Ðộng thuộc Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, đem thuộc-hạ đến bao vây sân chào cờ tại Nha và gác chận trước đường, vào lúc đúng bảy giờ hai mươi lăm phút. Vọng ra lệnh điểm danh và đóng cổng trụ-sở. Lúc đó, trung-tá Trần Văn Cư và trung-tá Tôn Thất Dẫn, hai Chủ-Sự Phòng thuộc Nha, vừa đến nơi thì bị giữ lại bên ngoài . Viên Giám Ðốc Nha ấy liền đứng ra hứa sẽ phạt hai viên-chức kia, và xin cho họ được vào vì còn kịp dự lễ chào cờ. Nhưng viên Trưởng Ðội thuộc Ty -- là một nhân-viên dưới quyền và ở dưới nhiều cấp -- đã không chấp-thuận. Vọng điều-khiển lễ thượng-kỳ, hát quốc-ca và “suy-tôn Ngô Tổng-Thống”, xong chở Cư và Dẫn đến báo-cáo nội-vụ lên Văn-Phòng của “Cậu”, tức ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn, bào đệ của anh em Diệm+Nhu . Vọng là một trong số ít những phần-tử đến hầu “Cậu” thường-xuyên.
MỘT BUỔI HỌP TỐ KHỔ
Ông Ngô Ðình Cẩn có một ngôi nhà nghỉ mát tại bãi bể Thuận-An. Vì lý do an-ninh, chỗ nầy cách xa khu tắm bể của đồng-bào . Những ngày cuối tuần vào mùa hè, Cẩn thường về đó câu cá giải-trí. Sợ “Cậu” câu cá một mình thì buồn, một số nhân-vật tín-cẩn, hoặc muốn được thân-cận, bèn cùng đến đó câu cá, mong tạo bối-cảnh thân-mật cho ông. Trừ những người được ông sai phái hoặc giữ lại để chuyện-trò, số còn lại phải chọn chỗ nào không gần ông lắm -- vì sợ nếu ông không câu được cá mà bị kẻ khác ton-hót đổ lỗi câu giành với ông thì khốn -- đồng-thời họ cũng không đi quá xa, để vừa được ông nhận mặt là mình cũng có tham-gia giúp vui cho ông, vừa chục phòng khi ông gọi thì nghe mà đến cho nhanh kẻo bị kẻ khác nhanh hơn thì mất cơ-hội được hầu-hạ ông. Giám Ðốc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần, ông Lương Ký Lịch, cũng có dự phần vào những buổi câu cá như thế. Hôm đó, Lịch mặc một chiếc áo sơ-mi cụt tay có in hình hoa bướm gì đó. Trên đường về nhà ở thành-phố, Lịch gặp vài nhân-viên thuộc Nha, trong số những phần-tử đã vào Ðảng. Thuở ấy, xứ Huế còn rất nệ-cổ. Người nữ phải mặc áo dài mới được ra phòng khách; các cô giúp việc dù đang làm việc nặng, các chị bàn hàng-rong dù đang vai gánh hay tay xách, mỗi khi ra đường đều phải mặc áo dài . Người nam thì phải nhét áo trong quần. Vào thời-gian chuyện này xảy ra, tuy lối sống đã có đổi mới phần nào, xã-hội vẫn chưa chấp-nhận cho các cá-nhân “danh-giá”, nhất là các viên-chức cao-cấp trong chính-quyền, dù là vào ngày nghỉ và lúc đi chơi, bỏ áo ngoài quần, hoặc mặc áo có sọc, có ô, hoặc có in hình mà người dân địa-phương gọi là “áo chim cò”. Lịch bị báo-cáo lên Văn-Phòng Cố-Vấn. Vào buổi “học-tập chính-trị và công dân giáo dục” kế đó, số nhân-viên dưới quyền Lịch, nhưng thuộc đường dây thân-tín hơn, đã nêu vụ kể trên ra để hội đường thảo-luận. Mặc dù viên Giám Ðốc của họ đã nhận lỗi, xin lỗi mọi người, và hứa về sau sẽ không tái-phạm, sau khi đã giải-thích là mình ăn mặc như thế để dễ lội xuống nước mà bắt cá cho “Cậu”, số nhân-viên ấy vẫn nặng lời sỉ-vả Lịch và thúc đẩy các phẩn-tử khác lên tiếng tố-cáo Lịch là “thiếu tác-phong cách-mạng”, “phản nhân-vị”, “không chịu học-tập noi gương đạo đức của Ngô Tổng-Thống”. Người dân xứ Huế không quên những vụ tố khổ vào những ngày đầu tiên ông Ngô Ðình Diệm lên cầm quyền. Trong một cuộc mít-tinh tại chúng-trường Phu Văn Lâu, một nữ-công-chức thuộc Nha Pháp-Chánh Trung-Phần đã đứng lên trước máy vi-âm xỉ mặt viên Giám Ðốc của Nha ấy mà kể tội là trước đó đã từng lợi dụng chức-quyền để hãm-hiếp mình... Quang-cảnh đấu tố giống hệt dưới chế-độ cộng-sản ở Miền Bắc Việt-Nam. CÔNG-CHỨC BỊ PHẠT VÌ VỀ VỚI GIA ÐÌNH
Có một số công-chức tùng-sự tại các công-sở ở Huế nhưng có gia đình ở Tỉnh Quảng-Trị; cuối tuần họ về ngoài đó với vợ+con. Nhưng rồi, vào một buổi trưa ngày cuối tuần nọ, số người ấy đã gặp nạn. Sau đó, họ ngao-ngán kể lại với bạn-bè: ông Tôn Thất Nhiều, Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Trị, đã ra lệnh chận đường từ hướng Huế ra, bắt giữ tất cả các công-chức vừa mãn giờ làm việc cuối tuần là để bụng đói phóng xe về với thân-nhân. Còn nhớ dưới thời Việt-Minh, để khuyến-khích phong-trào Bình Dân Học-Vụ, có nhiều Xã Thôn đã dựng cổng kiểm-soát dọc đường; ai biết chữ thì được đi qua cổng chính, ai không biết chữ thì phải lội vòng xuống ruộng bùn mà đi . Nhiều thì không cho các công-chức ấy đi, về với gia đình, mà cũng không chịu cho họ quay lui . Ông bắt họ tập-trung tại chỗ, đợi đến sáng ngày đầu tuần mới cho xe chở họ vào Huế giao nạp cho Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Miền Trung. Nhiều sợ dư-luận đồng-bào về những bê-bối của chính-quyền Tỉnh mà ông cầm đầu có thể bị các công-chức ở Huế là những tai mắt ấy thu-thập đem về phổ-biến, mà không bưng-bít được, vì ở ngoài vòng kiểm-soát của mình. Ông là em của một người con rể gia đình họ Ngô.
LUẬT-PHÁP PHỤC-VỤ CHO CÁ-NHÂN
Có lần, Nha Bảo-An Trung-Phần được cơ-quan Viện-Trợ Mỹ trao cho một số xe Jeep. Viên trung-tá Giám Ðốc Nha ấy đến báo-cáo với “Cậu”, xem như đó là một thành-quả “nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và Cậu” mới có được, và chọn một chiếc tốt đẹp nhất đưa đến để xin “Cậu” lái khai-mào hầu nhờ “Cậu” mà toàn Nha được hưởng hên. Chiếu cuối tuần ấy, có một số giáo-sư Viện Ðại-Học Huế, vốn được ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn nâng đỡ, và đều là nhân-vật tên tuổi một thời ở thủ-phủ của Miền Trung, về bãi Thuận-An tắm bể. Họ lái xe Traction, chạy vùn-vụt trở về nhà ở Thành-Phố Huế vào lúc hoàng-hôn. Ðồng-thời, từ tư-thất ở Thành-Phố về nhà nghỉ mát ở bãi bể, ông Cố-Vấn đích-thân cầm tay lái, lái thử chiếc xe Jeep của Nha Bảo-An. Trên con đường lưu-thông duy-nhất giữa hai địa điểm, mà vào cuối tuần giữa mùa hè nóng bức thì người dân đi tắm bể tấp-nập, khi ngang qua lãnh-thổ Quận Phú-Vang, hai xe ngược chiều kể trên gặp nhau . Xe Traction thì thấp; xe Jeep thì cao, mà vì mới xuất-kho nên mặt kính đèn trước chưa được che bớt phần trên bằng một lớp sơn màu vàng như các xe khác, và Cẩn thì cứ để đèn pha mà chạy . Các nhà học-thức ấy bị chói mắt nên nổi giận, bèn cũng bật đèn pha, rồi thắng xe lại ngay giữa lòng đường, chận đầu chiếc xe kia, nhảy ra, xông tới, định dạy cho tài-xế xe Jeep một bài học. Cùng lúc, ông Cố-Vấn luýnh-quýnh thắng xe lại; các vệ-sĩ của ông tưởng gặp kẻ khủng-bố nên nhảy ngay xuống, xáo ổ đạn, chĩa mũi súng về phía đối-phương, sẵn-sàng bấm cò. Thế là hai bên nhận ngay ra nhau; các nhà khoa-bảng liền đổi thái-độ, chắp tay vái “Cậu” liên-hồi . Sau đó, Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Trung-Phần Việt-Nam chỉ-thị cho Nha Công-Chánh Giao-Thông, Nha Cảnh-Sát Công-An, cùng Tòa Hành-Chánh, Cơ-Quan Quân-Sự, Ty Công-Chánh, Ty Thông-Tin Tỉnh Thừa-Thiên, Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, Trung Ðội Hiến-Binh địa-phương, v.v... phải họp tìm biện-pháp tạo sự thoải-mái cho “Cậu” trên đường đi . Họ bèn quy định, phổ-biến, và kiểm-soát, để từ nay trở đi mọi loại xe-cộ lưu-thông trên đường Huế--Thuận-An, và ngược lại, chỉ được phép chạy với tốc-lực tối đa 25 cây số/mỗi giờ; hễ gặp xe khác thì phải ngừng lại, rồi chạy từ từ; và nhất là buổi tối và ban đêm thì chỉ được bật đèn ló mà thôi . Sự việc ông Cố-Vấn bị chận xe dọc đường thì đã được chính ông bỏ qua; nhưng vì nó có liên-quan đến “Cậu”, các nhà chức-trách xem là quan-trọng hàng đầu nên đã đặt thành luật-lệ cho người dân tuân theo .
MỘT BỮA TIỆC SINH-NHẬT CỦA “CẬU”
Vào dịp sinh-nhật của ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn năm ấy, một mình tôi nhận được ba tấm thiệp mời dự tiệc; một với tư-cách văn-nghệ-sĩ ký-giả, một với tư-cách thành-viên Thuyết-Trình-Ðoàn Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục, và một với tư-cách cấp chỉ-huy ngành Cảnh-Sát Công-An. Trên đầu tờ giấy có in hàng chữ “Văn-Phòng Cố-Vấn Chỉ Ðạo Các Ðoàn-Thể Cao--Trung--Hải”. Về các “Ðoàn-Thể”, có nơi ghi rõ là “Chính-Trị, Kinh-Tế, Văn-Hóa, Xã-Hội, Thanh-Niên, Phụ-Nữ, Sinh-Viên Học-Sinh, Lao-Công, v.v...” Cao là Cao-Nguyên, Trung là Trung-Phần, và Hải là Hải-Ngoại . Ðây là một cơ-hội hiếm có để tôi có thể trực-tiếp nghe+thấy những gì liên-quan đến “Cậu”, người mà dân-chúng sợ-hãi như một hung-thần. Con đường xe lửa xuyên-Việt nằm ở giữa, ngăn-cách tư-thất của ông Cố-Vấn với Văn-Phòng ở bên kia . Lách qua khỏi hai cánh cổng sắt cao to mở hé, tôi bước vào một thế-giới lạ thường. Không có đường dây điện-thoại liên-lạc với bên ngoài . Ông Cố-Vấn thường chỉ ở trong tư-thất, và ít có ai thấy được chữ ký của ông. Một mái rạp cao được dựng sát trước hiên nhà, dài suốt ba gian, là nơi bày dọn nhiều dãy bàn ăn. Hầu hết món ăn đều là món Huế, những loại ngày xưa dành cho hoàng-gia, triều-thần nhà Nguyễn và giới thượng-lưu, do chính một số đầu-bếp cũ trong Ðại-Nội hoặc tại các Phủ Chúa đến nấu dọn. Thực-khách được chia ra mời làm nhiều đợt; nhưng có một số đến sớm trước giờ; và một số ăn xong vẫn còn nấn-ná ở lại, vừa chỉ dẫn cho những kẻ đến sau để tỏ ra rằng mình đã là người nhà của chủ-nhân rồi, vừa cầu-may mong có cơ-hội được “Cậu” hỏi đến. Mắt mang kính, miệng nhai trầu, tay cầm quạt khi thì phe-phẩy, khi thì dùng để gãi lưng, ông Cố-Vấn vừa nói chuyện với vài ba nhân-vật -- nhất là ông Nguyễn Ðình Cẩn, Tỉnh-Trưởng Trưởng Tỉnh Bình-Thuận, suốt buổi vẫn bám sát theo ông -- vừa đi quanh chăm-sóc từ các loại cây cảnh quý trước mặt nhà đến các loại muông thú hiếm bên hông và sau vườn, trong đó có một con voi con. Hầu-hạ quanh nhà có một số nhân-viên Cảnh-Sát hoặc Công An. Có một kẻ thường đi dọc theo đường Phan Chu Trinh và đường Vạn Vạn, trên bờ Nam của “sông An-Cựu nắng đục mưa trong”, ngang-nhiên chặt cây trên bến, và cả chuối trong vườn nhà dân, nói là để cho voi của “Cậu” ăn. Nhiều người qua lại trên cầu Phú Cam và trên đường bờ sông Phan Ðình Phùng có lần trông thấy dưới bến “Cậu” dùng thìa cà-phê múc sữa đút cho voi uống, trong lúc các thuộc-viên đang kỳ-cọ tắm cho con voi . Tôi vừa vào đến nơi thì nghe có tiếng còi xe hộ-tống hụ từ phía cầu Phú Cam. Ông Cố-Vấn quay đầu về phía nhà trong, im-lặng lắng nghe . Lập-tức, có hai thuộc-viên chạy nhanh ra cổng. Họ thò đầu ra ngoài nói gì đó, rồi nhân-viên gác cổng mở hé một cánh cổng cho một số quan-chức và một viên tướng bước vào . Tất cả đều mặc lễ-phục, và đều đi rón-rén vì sợ đế giày gây tiếng ồn. Về viên tướng, tôi nhận ra là trung-tướng Trần Văn Ðôn. Hôm mới ra thay trung-tướng Thái Quang Hoàng, trong một buổi lễ tại Phu Văn Lâu, Ðôn đã bắt đầu diễn-văn bằng câu “Quân Dân Miền Trung!” Tôi nghe kể lại, chỉ một lát sau là “Cậu” được nghe báo-cáo, liền phán “Hắn muốn lãnh đạo cả Dân ngoài ni nữa răng?” Họ cúi đầu chào ông Cố-Vấn nhưng ông không đáp lại . Họ bèn nhập chung với một số khác đã đến trước, đứng sắp hàng quay mặt vào bức chân dung của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm để trên một chiếc bàn cao trong phòng khách chính, xong cất tiếng đồng-thanh hát bài “Suy-Tôn Ngô Tổng-Thống”, như lệ thường mỗi lần bắt đầu một buổi lễ hoặc buổi họp. Có đến hai bài “suy-tôn” khác nhau, một của Miền Trung và một của Miền Nam, nên nhịp và lời của hai bài chõi nhau, nghe rất chói tai . Bỗng có tiếng đằng-hắng trong nhà. Ông Cố-Vấn liền nạt: – Ồn! để cụ nghỉ! Thế là mọi người nín bặt, lấm-lét tan hàng. Trong lúc họ chưa biết giấu mặt ở đâu thì các gia-nhân ra hiệu cho họ đứng vào hai bên các dãy bàn tiệc mà bắt đầu ăn. Lát sau, ông Cố-Vấn đi ngang qua các bàn ăn, nhìn chung, hỏi chung: – Ngon không? – Dạ ngon! “Cậu” cho ăn ngon quá! Nghe mọi người đồng-loạt khen, ông nở một nụ cười khoan-khoái, xong tiếp-tục đi ngắm-nghía, sờ-mó không biết chán các món quà đắt giá mà các cấp chức quyền từ khắp nơi trong nước và ngoài nước dâng về. Trước mắt tôi, hình-ảnh của “Cậu” Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vẫn quen thuộc như những lần ông chủ-tọa các cuộc thi rước xe hoa vào những dịp lễ lớn trong năm. Mỗi cơ-quan dân-chính và quân-sự đều thực-hiện một cỗ xe hoa, với nhiều cỡ, nhiểu kiểu, nhiều cách khác nhau, nhưng tựu-trung thì đều rước ảnh của Ngô Tổng-Thống và được trang-trí đèn hoa rực-rỡ vô cùng. “Cậu” đứng trước cổng nhà, vừa nhai trầu vừa quạt, nhướng mục-kỉnh chiêm-ngưỡng từng công-trình nghệ-thuật trẩy qua, và dễ dàng đồng-ý với những lời phê-bình cũng như chấm điểm, định mức thưởng tiền, của các “cố-vấn” hầu-cận hai bên. Tự-nhiên tôi thấy ông hiền-lành quá, vô-tư quá. Người như thế này mà có quyền sinh-sát đối với mọi người sao ?
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:19:06 GMT 9
LỆNH... LẠC
Ngoài ông Chánh Văn-Phòng, mà một số người cho là có hiểu biết, còn có một số sĩ-quan quân-lực được biệt-phái đến làm việc tại Văn-Phòng Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn. Ông Hồ Văn Huế, một đồng-nghiệp đàn anh của tôi, là một tín đồ Ky Tô có đạo đức, đã có lần than-thở với tôi: – Té ra mạnh ai thì nấy báo-cáo lên “Cậu”; chỉ cần nói khích một câu, tỉ như “Tên này phản-loạn, dám chống lại Ngô Tổng-Thống và Cậu!” thì nếu đề-nghị giết chết “Cậu” cũng gật đầu liền. Nhưng trong đa-số trường-hợp họ có trình lên “Cậu” đâu ! Quyền-hành của Cẩn tuyệt đối như thế nên dân-chúng gọi ông là “Lãnh-chúa Miền Trung”. Thật ra, quyền-hành của ông cũng bao trùm cả Miền Nam, là lĩnh địa của ông anh, Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu . Một thi-hữu của tôi, Hồ Ðình Phương, của Tỉnh Long-An, và một số thành-viên khác thuộc các phái đoàn từ các Tỉnh trong Nam ra Huế họp đại-hội Ðảng Cần-Lao, đã xác-nhận với tôi điều đó. Không có học-lực và kiến-thức như các ông Diệm, Nhu, ông Cẩn chỉ là một thứ hào-mục hãnh-tiến, bỗng-nhiên thấy được người ta tôn lên thì được hưởng lợi chứ chẳng thiệt gì, nên để mặc cho thủ-hạ lèo-lái, vẽ-vời . Ông chỉ đáng khen trong có một việc là lòng hiếu-kính đối với mẫu-thân, góa-phụ của cụ Ngô Ðình Khả. Và chính cụ-bà cũng được nhiều người ngợi-ca vì lòng “trung-quân”. Người ta kể lại rằng, khi lăng của chồng đã được xây xong, cụ-bà lên ở trên lăng. Ðức Ðoan-Huy Hoàng Thái Hậu, tức Ðức Từ-Cung, mẹ của Cựu-Hoàng Bảo Ðại, thấy cảnh miếu đường hoang-phế mà không được chính-quyền chiếu-cố, bèn lên gặp cụ-bà để xin nói giúp với anh em nhà Ngô . Cụ-bà nghe tin, đang bệnh mà cũng gắng dậy xuống đón từ dưới mấy cấp thềm, toan phủ-phục trước người mà cụ-bà tưởng vẫn còn là quốc-mẫu nên vẫn thủ-phận chồng+con mình là bề-tôi của quân-vương. Ðiều tai-hại hơn hết là không có ai dám kiểm-chứng lệnh của ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn. Thường thì mọi người chỉ biết tuân lệnh, do nghe kẻ khác nói lại, mà không biết là nói lại hay là nói đại . Mà do chính miệng của ông nói ra lắm khi cũng chẳng hẳn là lệnh-lạc gì hết. Một thí dụ đầy tính tiếu-lâm được truyền miệng trong giới an-ninh: Một trong những tay chân đắc-lực của Cẩn là ông La Quát, Trưởng Ban Hoạt-Vụ thuộc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần. Mọi việc bắt-bớ, đọa đày, hãm-hại, v.v... đều nằm trong tay Quát. Thế mà... Dạo ấy ở Tỉnh Quảng-Ngãi có sự rối-loạn. Ty Công-An liên-hệ điện xin Nha Trung-Phần tăng-cường gấp một số nhân-viên. Vì Quát có nhiều nhân-viên nhất nên Phòng Nhân-Vụ đề-nghị rút bớt một số. Quát chỉ cho lấy một người, là người mà Quát tưởng là không thiết-yếu vì không thấy đến báo-cáo công-tác hằng ngày . Và người ấy nhận được sự-vụ-lệnh thuyên-chuyển từ Huế vào Tỉnh Quảng-Ngãi . Kế đó, một hôm ông Cố-Vấn đi ra sau vườn thì thấy có một thuộc-viên nằm lăn-lộn trước chân ông mà khóc; ông tránh, người kia lại tái diễn, khóc to hơn. Ông hỏi vu-vơ: – Cha mi chết hay răng mà mi khóc dữ thế? Ðươc ông hỏi đến, người giữ vườn kêu gào thảm-thiết: – Không phải một mình cha con chết, mà chính con, rồi cả gia đình nhà con đều sẽ chết hết, “Cậu” ơi! Người ta không muốn cho con tiếp-tục ở đây để được hầu-hạ “Cậu”, “Cậu” ơi! – Rứa người ta đưa mi đi mô ? – Việt-Cộng giết người tùm-lum trong Quảng-Ngãi, mà người ta đưa con vô trong đó! – Ai đưa mi đi ? Người ấy vốn đã có đến năn-nỉ với Phòng Nhân-Vụ đề xin ở lại, nhưng được nơi đây giải-thích là chính Quát đã quyết định cho đương-nhân ra đi . Người ấy liền đáp: – Dạ, La Quát đưa con đi! Ông Cố-Vấn vừa bước tiếp vừa nói khống: – Răng hắn không đi mà đưa mi đi ? Mọi lời nói của “Cậu” đều được truyền đi tức-thời . Thế là Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần ký sự-vụ-lệnh khác, để nhân-viên kia lại, và đưa ... La Quát đi ! Một thời-gian sau, một hôm ông Cố-Vấn sực nhớ mới hỏi: – Thằng Quát mô rồi mà lâu ni tau không thấy hắn? Thế là Quát lại được thuyên-chuyển từ Ty Quảng-Ngãi về lại Nha! Dân-chúng cũng đàm-tiếu với nhau: Bà Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, lãnh-tụ Phong-Trào Phụ-Nữ Liên Ðới và Ðoàn-Thể Thanh-Nữ Cộng-Hòa của toàn-quốc, tức là gồm cả Miền Trung, những lần ra Huế thường tránh gặp mặt “Cậu”. Trung-tướng Thái Quang Hoàng, nguyên Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, mà tổng-hành dinh đóng ở Huế, vốn là một sĩ-quan sủng-ái được thăng cấp vùn-vụt, mà rồi cũng bị thất-sủng vì bị dèm pha . Ông Trần Chánh Thành, là người được chính ông Ngô Ðình Diệm chọn đưa từ Pháp cùng về với mình, cử làm Bộ-Trưởng Bộ Thông-Tin, phụ-trách Chiến Dịch Tố Cộng và Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia, mà rồi cũng va-chạm với uy-lực của “Cậu” về quyền lãnh đạo các tổ-chức và hoạt động này tại Miền Trung... Tôi tự hỏi không biết có phải chính “Cậu” đã chủ động, đã chủ động nổi, trong các vụ này, hay là bị bọn ác-ôn côn đồ gài bẫy, mạo danh...
VỤ GIÁN ÐIÊP PHÁP TẠI MIỀN TRUNG
Sau khi Pháp, do áp-lực của Mỹ, rút quân ra khỏi Việt-Nam, một số kiều dân Pháp vẫn còn ở lại; họ điều-hành các đồn điền cao-su, cà-phê, trà, và các nhà máy điện, nước, lữ-xá, tiệm ăn, v.v... Ngoài ra, còn có các nhà ngoại-giao ... Ở Huế, có một Phòng Thông-Tin Pháp, mà Giám Ðốc là ông Avril, một người Pháp lai Việt, sinh sống từ nhỏ tại Thành-Phố này . Tôi đã giới-thiệu để Avril làm quen với ông Thompson A. Grunwald, khi ông này đến nhậm chức Giám Ðốc Thông-Tin Hoa-Kỳ ở Huế. Trong lúc chưa có Tổng Lĩnh-Sứ, Grunwald là đại diện Mỹ đầu tiên đến Miền Trung. Ðối với dân-chúng địa-phương thì sự quen biết đã có từ trước và những giao-tiếp không thể tránh được sau này của Avril với những nửa-đồng-bào xung quanh đã gây tai-họa không ít cho nhiều con dân Việt-Nam. Trong chương-trình “đả-thực, bài-phong, diệt-cộng”, mà “thực” ở đây là thực dân Pháp, các cơ-quan an-ninh sở-tại cho biết đã khám-phá được một tổ-chức gọi là “gián điệp Pháp tại Miền Trung”. Trong những năm đầu sau Hiệp Ðịnh Genève, Liên-Xô và Hoa-Cộng chưa chủ-trương cho Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-chiếm Miền Nam; nhờ đó, đa-số các cấp chính-quyền, nhất là ở nhiều Xã Thôn, đã có hoàn-cảnh thuận-lợi để loại-trừ các phần-tử có liên-hệ hoặc bị nghi có dính-líu với ba kẻ thù kể trên. Trung-Ương cho phép mỗi Xã lập nên một “Hương-Ước” riêng của mình; đó là những quy định tội-trạng và hình-phạt có giá-trị pháp-lý, nằm ngoài và bổ-sung luật-pháp và luật-lệ chung của Quốc-Gia . Chính-sách của Chính-Quyền Quốc-Gia thời Ðệ-Nhật Cộng-Hòa là phục-hồi “Lệ Làng”, một thứ quyền tự-trị của các hương-chức thời xưa; đúng với tuc-ngữ “Phép Vua thua Lệ Làng”. Giải-pháp giàn-tiện hơn hết là trục-xuất tất cả các đối-tượng “phản động” ra khòi quê-quán của họ. Nhân dịp có cái gọi là “quốc-sách” Ấp Chiến-Lược và Dinh Ðiền, nhà cầm quyền tống họ lên vùng Cao-Nguyên, cùng với các thành-phần bất-hảo khác -- cựu-can hình-sự, đồ đệ “Tứ Ðổ Tường”, cá-nhân lừng-khừng -- sống tập-trung chung trong các Ðịa Ðiểm Dinh Ðiền, là nơi Hoa Kỳ viện-trợ dồi dào để giúp các giới dân nghèo Việt Nam tái định-cư kiến-tạo đời sống ấm no, thanh-bình, và thịnh-vượng lâu dài cho tương-lai . Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề mặt, nhất-thời . Thật ra, ngay sau khi chính-quyền Ngô Ðình Diệm ra đời, những kẻ có liên-hệ chặt-chẽ với Pháp, với Hoàng-Tộc, với Việt-Minh, hoặc bị tổn-thương quyền-lợi cá-nhân, đều đã tìm cách tự-tồn. Họ trá-hình quy-phục, hoặc ngụy-tạo lý-lịch, đổi vùng sinh-hoạt; hoặc rút lui vào bóng tối, hoạt động bí-mật; hoặc bất động chờ thời . Cao điểm là sau khi Mặt Trận Việt-Minh tập-kết cán-bộ và bộ đội ra Bắc; quân-lực Pháp giao lại Miền Nam Việt-Nam cho Mỹ; chế độ Diệm tịch-thu tài-sản của Pháp, lật đổ và tịch-thu tài-sản của cựu Quốc-Trưởng Bảo Ðại, phát động chiến dịch “Tố Cộng”, đánh dẹp các giáo-phái, đàn-áp các chính đảng, cấm Hoa-Kiều làm mười một nghề, v.v... Có những chính-sách đúng, nhưng bị phai mờ vì những chủ-trương sai; và ngay những đường-lối tốt cũng bị hoen-ố vì những việc làm xấu . Và thiểu-số lạm quyền đã xử ức người này, trị oan kẻ kia, đào hố sâu chia-rẽ và giúp nẩy mầm phẫn-uất trong dân-nhân. Hạt nhân đối-nghịch và khuynh đảo từ đó đã được gieo ra . Thật ra, người dân căm-hờn thực dân, oán ghét tay sai, thù hận thành-phần thân Pháp, nên ủng-hộ các nỗ-lực phát-hiện gián điệp nước ngoài . Nhưng khi chính-viện không truy-tố bị-can ra trước pháp-viện, lại sử dụng luật rừng để bạo-hành đối với tù-nhân, thì chiêu-bài “Dân-Chủ Pháp-Trị’ của chính-quyền Ngô Ðình Diệm đã trở thành bịp-bợm đối với người dân. Vào một buổi sáng nọ, như để chứng-minh cụ-thể cho những luồng dư-luận lan tràn lâu nay, một số đồng-bào đã tìm đến tận nơi để nhìn thấy tận mắt thi-thể của một nạn-nhân: ông Võ Côn, cựu Phó Giám Ðốc Cảnh-Sát Công-An Trung-Việt, bị giết chết và vứt bỏ xác ở chân Núi Ngự-Bình.
THẦU-KHOÁN NGUYỄN VĂN YẾN
Nhà thầu Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật tên tuổi được đồng-bào khắp Huế mến thương. Sau ngày hồi-cư vào năm 1947, Yến bắt đầu thu thuế tại chợ An Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu dân-chúng còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán người mua . Vợ anh cũng theo giúp chồng. Tuy là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử tử-tế với giới chịu thuế, nhẹ tay với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời . Nhờ làm việc cần-cù, giao dịch khéo-léo, Yến đã tiến từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh cao là thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của anh+em Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm thủ-phủ của Miền Trung, đặt tên Nguyễn Văn Yến cho đại Khách-Sạn và Diễn Ðường này . Sự thành-công của Yến là một gai nhọn trước mắt những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác hoặc chi-phối mọi nguồn lợi kinh-tài . Thế là Yến bị bắt. Vợ Nguyễn Văn Yến bị bệnh hiểm-nghèo . Sau khi được chữa lành, trước khi xuất-viện chị đã được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng: muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông. Thương chồng, chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu tiền của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có kết-quả. Cuối cùng, chị được đưa đến ra mắt ông Cố-Vấn để cầu xin “Cậu” thi-ân. Nhờ ân của “Cậu”, chị chết. Nỗi đau thương của gia đình Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị giết chết trong tối-tăm.
THẦU KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG
Là Trưởng-Phòng Huấn-Luyện, trong thời-gian có Khóa Tu-Nghiệp hoặc Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm để lo cho mọi thứ được chuẩn-bị sẵn-sàng. Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên thấy Hội Ðường, mới chiều hôm qua còn ngăn nắp, mà sao sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng lệch và trên nền lầu vương vãi những lá lót, giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ uống thừa . Những lần đầu, tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác đêm bày tiệc ăn nhậu . Ðến lần nọ, tôi vào hỏi ông Ðỗ Hủi, Phó Chỉ-Huy; ông nhìn trung-úy Hoàng Ðạt Vọng, trả lời tôi: “Ðêm qua, Chi-Bộ họp”. Chi-Bộ là tổ-chức Ðảng; tôi không ở trong Ðảng, tôi không thể phàn-nàn gì thêm. Môt hôm, nhân vào Sài-Gòn lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp trung-sĩ Tôn Thất Óc giữa phố. Óc là nhân-viên Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với anh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe hơi đậu bên lề đường. Anh dừng lại chào hỏi tôi . Khi anh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong Nhà Hàng “Thanh Thế” vẫy gọi tôi vào . Họ là công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh sống trong này . Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình, nghe Thanh Thanh!” Tôi mở tròn mắt hỏi lại: “Tôi làm gì mà bắt ai ?” Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: “Thanh Thanh không dính vào những vụ đó đâu!” Hồi đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì ở bên phía tư-pháp hình-sự, không phải bên phía chính-trị. Một người hỏi tôi: “Hôm nay các anh đã bắt được bao nhiêu mạng rồi ?” Thấy tôi ngơ-ngác, một người khác nói: “Bọn hồi nãy là mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung, vào đây bắt người đấy!” Tôi cũng có nghe nói đến tổ-chức ấy, nhưng không biết là họ thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An Tỉnh Thừa-Thiên thì chỉ có Ban Hoạt-Vụ, Ban Lưu Ðộng, hoặc Ban Truy-Tầm gì đó thôi . Không-khí ở Sài-Gòn tự do hơn, nên mấy người này tranh nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt, giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả Huế lẫn các Tỉnh gần xa . Diệm thì huênh-hoang tuyên-bố: “Ðằng sau Hiến-Pháp còn có tôi!” để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì kìm kẹp đối-lập ở P-42; vợ Nhu thì hùn-hạp làm ăn bất-chính với vợ Trần Chánh Thành; Cẩn thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá, hồ lửa ở Chín Hầm... Khi nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát Huế, một người la lên: – Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác xuống sân, tri-hô là người ta nhảy lầu tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả? Các bạn khác cũng sững-sờ như tôi . Một người ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” Tôi đáp: “Sáng thứ năm” Người ấy thở phào: “Thế thì không phải là anh!” Người kia nhìn tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn gọn: – Chúng bắt bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới chở một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một lần vào lúc nửa đêm. Tại đó, chúng cũng khảo đả nạn-nhân. Án-mạng vừa rồi xảy ra vào khuya thứ năm; tôi mới vào chiều hôm qua; thứ sáu . Tội-nghiệp thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương! Tôi nghe mà lặng điếng cả người . Thì ra Hội Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết lý-tưởng về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức chính-trị của Ngô Tổng-Thống, đã bị dùng làm nơi chà đạp “nhân-vị” và sinh-mạng của con người! Trước đó, tôi có gặp Nguyễn Ðắc Phương một lần, tại nhà giáo-sư Nguyễn Như Minh. Minh là thầy cũ của tôi ở “Thuận-Hóa Học-Hiệu”. Ông vừa mới giao cho Phương, và Phương vừa mới khởi-công xây-cất một trụ-sở mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục Nguyễn Du . Ngang đây thì tôi thấy trung-tá Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi, hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ ngoài bước vào . Từ bị thương trong một trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng. Ðể tránh đụng chạm, tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai” . Lát sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh lắc đầu thở dài: “Hết nước nói! Minh chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”
*
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:19:41 GMT 9
* VÀO dịp lễ Hai Bà Trưng năm 1960, tôi thuyết-trình về tinh-thần ái-quốc của Trưng Nữ-Vương, theo tài-liệu học-tập của Trung-Ương phổ-biến. Hoàng Mai Thêm, lúc ấy cũng đã mãn định-kỳ quân-nhiệm, trở về Ty Cảnh-Sát Huế, cùng tham dự buổi họp. Khi đến câu “Quân của Hai Bà là quân ô-hợp nên bị thất-trận”, tôi đã cố ý bỏ qua từ đoạn “là quân ô-hợp”. Hội Ðường thắc-mắc; nhiều người đưa ý-kiến là phải đọc trọn câu, và đòi giải-thích hai tiếng “ô hợp”. Tôi giải-thích tĩnh-từ “ô hợp”, xong thanh-minh rằng tôi không muốn trong lúc tưởng nhớ công đức của tổ-tiên anh-hùng mà lại chê-bai phẩm-chất chiến đấu của tiền-nhân: – Có lẽ soạn-giả sơ-ý. Theo tôi thì chỉ cần nói “Hai Bà thua trận là đủ”, không cần nêu thêm cái lý do ấy, nhất là nói về khuyết nhược của mình. Vậy đề-nghị các bạn khi về đơn-vị địa-phương thuyết-trình lại cho các học-viên của mình thì bỏ bớt mấy chữ đó đi . Ngang đây, Thêm chất-vấn tôi: – Sự thật là “ô hợp” thì cứ nói là “ô hợp”, anh muốn chống lại lịch-sử và cãi lại tài-liệu của “Ban Chỉ Ðạo Học-Tập Trung-Ương” ư ? Cuộc thảo-luận chung biến thành cuộc tranh-luận riêng giữa hai chúng tôi . Tôi nói: “Tuy Ban Chỉ Ðạo Trung-Ương do ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu chủ-trì, nhưng ông chỉ đề ra ý chính, làm sao kiểm-soát hết từng chữ?” – Tôi đã từng thảo diễn-văn cho các Ðơn-Vị-Trưởng, họ dò rất kỹ trước khi đọc; anh cho là ông Cố-Vấn không đọc kỹ à? – Tôi cũng đã từng thảo diễn-văn cho các tướng Tư-Lệnh, đúng như anh nói . Nhưng đó là cho chính miệng họ đọc ra, lâu lâu một lần. Ðằng nầy, tài-liệu tổng-quát do nhân-viên phụ-trách soạn chung cho mọi người, ào-ạt phổ-biến mỗi tuần mấy đợt, trải qua nhiều năm rồi, thì cũng chỉ giống như tờ báo định-kỳ thông-thường ngoài phố mà thôi, làm sao tránh khỏi sơ-xuất? – Nhưng đây không phải là sơ-xuất, mà là nói lên sự thật! Tôi đáp: “Ðồng-ý là sự thật. Tuy nhiên, đó là ở trường đại-học, nghiên-cứu sử-liệu chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều khác lạ; thí dụ tài-liệu của Trung-Hoa nói về Hai Bà Trưng, có đăng trên báo của Viện Ðại-Học Huế, do linh-mục Cao Văn Luận làm Viện Trưởng, thì tàn-tệ hơn nhiều . Còn đây thì không phải là một công-trình nghiên-cứu lịch-sử ở trình độ bác-học, mà chỉ là một bài học công dân giáo dục nhắm vào đa-số bình dân, cốt để nhân ngày kỷ-niệm Trưng-Vương mà khích động đồng-bào noi gương yêu nước của Hai Bà; như thế thì chỉ cần đề-cập những gì có lợi cho mục đích trước mắt mà thôi”. – Nói như anh tức là cấp trên khinh thường dân-chúng, chủ-trương ngu dân! Tôi thấy Thêm đã vô-tình tạo ra cơ-hội cho tôi lợi dụng mà nói lên những điều cần nói công-khai : Ở đây có ông Trần Văn Hương, Chỉ-Huy Trưởng, vừa đi du-học ở Mỹ về, đã thấy rõ sự khác nhau giữa Mỹ với nước mình. Thế nhưng, tài-liệu, mà chúng ta học-tập ở đây thì nói rằng Hiến-Pháp của Việt-Nam Cộng-Hòa là tiến-bộ hơn Hiến-Pháp của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Cũng thế, học-tập về chế độ hiện-tại thì chỉ toàn đề-cao những tốt lành ngay chính chứ có ai phanh-phui những xấu dữ gian tà đâu ! Thế là mọi người bỏ mất trọng-tâm. Hội Ðường chia ra làm hai phe; đa-số thì đồng-ý với tôi dẫn chứng từ những sai lầm bất-công đến những gian tham tàn-ác của nhóm đặc-lợi đặc-quyền; thiểu-số đắc-thời thì chối-cãi, biện-minh. Không-khí quá găng; chủ-tọa phải tuyên-bố giải-tán. Nhưng khi ra khỏi phòng họp rồi họ vẫn còn phát-biểu rất hăng. Việc làm của tôi đã mở đường cho những chống đối công-khai và đồng-loạt của nhiều tập-thể lớn về sau (hầu như đồng-thời với vụ phản-kháng của 18 nhà chính-trị tên tuổi tại Nhà Hàng Caravelle trong Sài Gòn. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam, bị kết án tử-hình, đã tự-tử, với kết-luận “đời tôi để lịch-sử xét” để phủ-nhận quyền-hành của chế độ nhà Ngô). Riêng trường-hợp của tôi đã gây nên mối bất-đồng quan điểm giũa hai ông Cố-Vấn họ Ngô. Vây-cánh của ông Cẩn thì muốn dùng biện-pháp mạnh đối với tôi, nhưng ông Nhu thì tiến-bộ hơn nên nương tay . Do đó, họ giao tôi cho Bộ Nội-Vụ áp dụng kỷ-luật hành-chánh. Sau ba tháng bị cất chức, giam cầm, tôi bị ghép vào thành-phần “phản-loạn” và bị đày lên Cao Nguyên là vùng “nước độc và nguy-hiểm”, cùng với bốn đồng-nghiệp khác; đó là hai sĩ-quan tham-mưu có uy-tín mà không chịu đứng chung vào hàng-ngũ phá đạo hại đời, và hai viên-chức cũng là tín đồ Ky-Tô-Giáo và cũng là đảng-viên Ðảng Cần-Lao nhưng không đồng-hội đồng-thuyền với họ nên họ cũng nhân dịp này mà tống cổ đi luôn. Suốt đời tôi không bao giờ quên được hình-ảnh của những Giám Ðốc, Trưởng Ty, công-chức các cơ-quan bạn, mà nhiều người trước kia tôi chưa hề quen, và rất đông đồng-bào vô danh, đã bất-chấp mật-vụ, lên ga xe lửa Huế ngậm-ngùi tiễn chúng tôi đi ... * Rồi Diệm bị đảo-chánh hụt, rồi Dinh Ðộc-Lập bị ném bom. Vụ các chính-khách bất-đồng chính-kiến họp tại nhà hàng Caravelle nổ bùng. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam tự-tử để phủ-nhận quyền-hành của chế-độ nhà Ngô. Phật-Giáo bị cấm treo cờ vào ngày lễ Phật-Ðản; Phật-Tử Huế biểu-tình đòi quyền tự do tín-ngưỡng, bị tàn-sát trước Ðài Phát-Thanh. Diệm+Nhu cho Cảnh-Sát Chiến Ðấu tấn-công chùa-chiền. Hòa-Thượng Thích Quảng Ðức và nhiều tu-sĩ, Phật-Giáo-Ðồ khắp nước tự-thiêu . Sinh-viên học-sinh và các giới dân-nhân xuống đường; toàn-quốc nổi dậy . Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng VNCH, tự cạo trọc đầu từ-chức để phản-đối Diệm; ngay chính ông Trần Văn Chương, đại-sứ VNCH tại Mỹ, là cha ruột của bà cố-vấn Ngô Ðình Nhu, và bà Trần Văn Chương, quan-sát-viên VNCH tại Liên Hiệp Quốc, là mẹ đẻ của bà Nhu, cũng cùng từ-chức để chống lại bè lũ Diệm—Nhu đàn-áp Phật-Giáo. Chính-giới Hoa Kỳ phẫn-nộ, dư-luận thế-giới xôn-xao . Cuộc Cải-Mệnh 1-11-1963 xảy ra . Sau này, tôi chỉ-huy Cảnh-Lực cấp Tỉnh trên Cao-Nguyên thì Hoàng Mai Thêm cũng chỉ-huy Cảnh-Lực ở Tỉnh Thừa-Thiên. Một số bạn cũ nói rằng Thêm vẫn trung-thành với quan-niệm sống của mình, cứ theo lý-thuyết sách vở mà làm; theo đó, Luật-Pháp mới là nguyên-tắc của trật-tự và an-ninh, nên anh phục-vụ; còn Chính-Trị thì là phi-nguyên-tắc nên anh không tham-gia . Anh chỉ chú-tâm riêng vào phần Hình-Cảnh, và phó mặc phần Ðặc-Cảnh (có thể gọi là Cảnh-Sát Chính-Trị) cho viên Phó Chỉ-Huy chuyên-trách cầm nắm các vấn đề phe đảng, giáo-phái, hội đoàn, tình-hình nội-bộ chính-quyền, cũng như trực-tiếp giải-quyết với Ủy-Ban An-Ninh về các vụ bắt-bớ. giam cầm Việt-Cộng tại địa-phương. Tuy không đối diện, đối-thoại, nhưng qua tin-tức như trên, tôi vẫn thấy cần tranh-luận với Thêm. Nếu anh chịu nhúng tay vào, thì cơ-quan mà anh vẫn là người chịu trách-nhiệm chính, chắc-chắn sẽ tránh được nhiều lầm sai . Cùng lắm thì anh vẫn có thể công-khai nói lên tiếng nói của mình, như tôi ngày xưa ? Việt-Cộng không bám sát anh, hoặc vì cơ-sở của chúng hoạt động dở, hoặc do may-mắn tự-nhiên, mà anh thoát chết ở Huế vào vụ Tết Mậu-Thân 1968. Anh trà-trộn với đồng-bào vào trốn trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế; khi địch đến thanh lọc, anh đưa Thẻ Sinh-Viên trường Luật ra; chúng không nhận diện ra anh. * Chừng nhớ ngày xưa tôi rất ham thích Ngành Hình-Pháp, Thêm nói: – Mình không ngờ Nhuận mà lại qua Ngành Ðặc-Cảnh. Tôi định đáp: “Mình cũng không ngờ Thêm mà lại tham-chánh”, nhưng tôi nín kịp. Một người bạn thân khác của tôi, thi-sĩ Như Trị, tức luật-sư Bùi Chánh Thời, cũng có quan-niệm như Thêm. Nhưng Thời không tham-chính; anh hoạt động vì nhân đạo, cầm đầu chi-nhánh của một tổ-chức quốc-tế Bảo-Vệ Thiếu-Niên Nhi Ðồng tại Việt-Nam. Mỗi người có quyền theo đuổi lý-tưởng riêng của mình. Tôi tôn-trọng quyền ấy . Nhưng vì Luật-Pháp tự nó không có Tổ-Quốc, nên chính-thể nào cũng dựa trên Luật-Pháp nói chung để làm ra Luật-Pháp của riêng mình. Trong một Quốc-Gia, vào một giai đoạn nào đó, phải chăng Luật-Pháp cũng chỉ là sản-phẩm của Chính-Trị? Người đã tham-gia vào Chính-Quyền, nhất là ở cương-vị lãnh đạo, làm sao không dự phần vào chính-sách chung? Thêm được mời làm Thứ-Trưởng một Bộ. Dù là của Bộ Tư-Pháp đi nữa, thì đó cũng là một phần của Ngành Hành-Pháp, và đó cũng là một trách-vụ chính-trị. Anh nói là anh chưa nhận, tức là đã nhận trên nguyên-tắc, chỉ còn cân-nhắc một số điều-kiện nữa mà thôi ? Bị ám-ảnh vì bóng ma quá-khứ, tôi sợ là anh sẽ lại rơi vào hai trường-hợp khó-khăn: Lý-thuyết siêu-chính-trị có thoát khỏi bị guồng máy chính-quyền biến-thể? Và nhập-cuộc nửa vời có phải là giải-pháp an ổn cho lương-tâm? Thà Thêm chỉ là luật-sư, hoạt động ngoài-chính-quyền như Thời, đứng hẳn về phía đối-lập trong dân-nhân, hoặc chỉ là huấn-sư trong một trường Luật, hoặc công-khai đối-lập trong các chức-vụ lập-pháp và dân-cử... Ðằng này, trong cương-vị công-cử, nếu gặp nghịch-cảnh, thái độ của anh sẽ như thế nào ... Tuy nhiên, lịch-sử cũng đã sang nhiều trang; cả Thêm lẫn tôi, cũng như mọi người, đều đã lớn hơn, khôn hơn. Trên đường tiến tới Dân-Chủ, dân-nhân Miền Nam Việt-Nam đã bước những bước khá dài . Ít nhất thì, ngày xưa, hễ thiếu kính-trọng đối với Ngô Ðình Diệm là cầm chắc cái chết trong tay; nhưng, ngày nay, mọi người đều tự do chỉ-trích, thậm-chí mạt-sát, Nguyễn Văn Thiệu mà không hề-hấn gì. Giới trí-thức phải hiểu rằng tài-năng, đạo đức, thiện-chí, và kết-quả phục-vụ là những yếu-tố cần-thiết để thẩm định giá-trị của một con người . Ðã giỏi Luật-Pháp, mà cũng rành về Chính-Trị và các Ngành khác, hoặc ngược lại, thì tài-năng mới không phiến diện; và đã tham-gia thì phải dấn thân, có thế đạo đức mới vẹn toàn. Tôi bắt tay Thêm thật chặt, để mừng anh, và để truyền đạt qua anh niềm tin của tôi rằng bạn mình bây giờ nhất định đã tiến rất xa ...
Huế, 1973-75 LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:15:48 GMT 9
CUỘC DÂN BIẾN Ở QUẢNG NAM NĂM MẬU THÂN (1908) QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ CỦA PHÁP *** Phan Văn Hoàng - Trần Viết Ngạc (Khoa Lịch Sử, trường Đại Học Sư Phạm TP. HCM) Trung tâm lưu trữ của Pháp ở Aix-en-Provence (C.A.O.M) còn giữ nhiều tư liệu về cuộc dân biến năm Mậu Thân (1908). Nhờ những tư liệu gốc, trực tiếp và vô cùng quý giá này, chúng ta biết tường tận hơn biến cố làm rung động cả guồng máy cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Cũng nhờ nguồn tư liệu này mà chúng ta hiểu tại sao Pháp đàn áp mạnh tay với các nhà cách mạng nước ta đầu thế kỷ. Trước hết hãy đề cập đến các nguồn tư liệu chúng ta có hiện nay: 1. Mậu thân dân ký biến của Huỳnh Thúc Kháng (tù chung thân số 7455) 2. Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký của Phan Châu Trinh 3. Phong trào kháng thuế miền trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân (Nguyễn Thế Anh sưu tầm, phiên dịch) Cuốn đầu tiên, Huỳnh Thúc Kháng viết trong nhà ngục Côn Đảo. Trong hoàn cảnh bị giam cầm như thế, người tù chung thân, thẻ bài số 7455, không thể viết thẳng sự thật. Nhưng mục đích muốn lưu lại một tài liệu lịch sử, Mính Viên phải chọn cách viết gián tiếp, một loạt thông tin bậc hai mà người đọc phải đọc giữa hai hàng chữ, phải nắm bắt được thông tin thật sự của người viết qua cách viết, cách dùng chữ (ý tại ngôn ngoại). Cuốn Mậu thân dân biến ký không mang về được mà đành ném xuống biển. Về sau, sau ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính, Huỳnh Thúc Kháng viết lại với nhan đề mới là Trung Kỳ cự sưu ký rồi tự dịch ra quốc ngữ. Phan Châu Trinh thì chỉ muốn kêu oan (tụng oan)! Viết Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký, năm 1911, khi vừa đặt chân lên đất Pháp. Hy Mã muốn "kêu oan" với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Messimy và Toàn quyền Đông Dương sắp qua nhậm chức là Albert Sarraut để xét lại bản án của các thân sĩ Trung Kỳ, đặc biệt là bốn người bạn của ông đang thụ án tù ở Côn Đảo là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Tiểu La Nguyễn Thành và Hàn Hải Lê Bá Trinh. Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký vừa là biện minh trạng nhằm bào chữa cho các thân sĩ Trung Kỳ vừa là một cáo trạng đối với chính sách đàn áp thẳng tay của chính quyền thực dân với phong trào dân biến. Cả trong hai tính chất - biện minh trạng và cáo trạng - những gì Phan Hy Mã trình bày không thể phản ánh đúng sự thật hoàn toàn. Về nguồn tài liệu qua châu bản, đây phần lớn là các bản án do phủ Phụ chính triều Duy Tân phúc án và được Khâm sứ Trung Kỳ xét duyệt, phản ánh cái nhìn từ bộ máy cai trị đối với vụ dân biến. Đặc biệt khi xét xử vụ dân biến này, các quan lại Việt Nam đã sử dụng "Hoàng Việt luật lệ", vốn có xuất xứ từ bộ luật Gia Long, nên án phạt rất nghiêm khắc và nặng nề. Điều đáng chú ý là cả ba nguồn tài liệu trên đều thống nhất gọi các cuộc biểu tình ở các tỉnh miền Trung năm 1908 (Mậu thân) là dân biến chứ không phải phong trào chống thuế nhu chúng ta quen gọi. Dân biến là dân nổi dậy (như binh biến là quân lính nổi dậy). Các bản án của Phủ Phụ Chính đều khép những người tham gia lãnh đạo các cuộc biểu tình là "Khích biến lương dân" (xúi dục dân chúng nổi dậy) như: Bản án ngày 22.4.1908 xử Lê Tựu Khiết, Nguyễn Bá Loan Bản án ngày 29.4.1908 xử Lê Tuấn, Nguyễn Văn Bành Bản án ngày 13.6.1908 xử Đoàn Thuần, Trương Hữu Hoàn Bản án ngày 4.11. 1908 xử Nguyễn Văn Khoa. Bản dịch tiếng Pháp cuốn Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký của Phan Châu Trinh cũng lấy nhan đề là Manifestations de 1908 en Annam (Các cuộc biểu tình phản kháng năm 1908 ở Trung Kỳ) Còn các tài liệu lưu trữ của Pháp gồm những gì? Và các tài liệu đó đã cung cấp cho chúng ta những thông tin như thế nào về vụ dân biến ở Quảng Nam. Chúng ta có thể liệt kê như sau: 1. Về tình hình chính trị ở Trung Kỳ: Báo cáo của Dufrenil, thanh tra dân sự vụ Đông Dương, ngày 22 tháng 9 năm 1908 tại Huế. ( Note sur la situation politique en Annam Rapport du Dufrenil, le 22 Septembre 1908, Inspecteur des Services civils de l' Indo - Chine, 18 pages) 2. Báo Cáo gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa của các Toàn quyền Đông Dương Beau, Klobukowski cùng Picanon Tổng giám đốc Thuế quan và Công quản Đông Dương ngày 3.7.1908. 3 trang. ( Rapport au Ministre des Colonies. MM Beau, Klobukowski, Gouverneur Général de l' Indo - Chine, Picanon, Directeur Général des Douanes et Régies de l' Indo - Chine, le 3 Juillet 1908) 3. Công văn của Toàn quyền Đông Dương gửi Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế, đề ngày 8 tháng 5 năm 1908 tại Hà Nội ( Le Gouverneur Général de l' Indo - Chine p.i à Monsieur le Résident Supérieur en Annam à Hue. Hanoi, le 8 Mai 1908, No 902, objet : A.S des Affaires d' Annam) 4. Công điện của Toàn quyền Đông Dương Bonhoure gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, Hà nội ngày 2 tháng 4 năm 1908. Đóng dấu đến cùng ngày của văn phòng Bộ Thuộc địa, số điện tín 143. ( Dépêche télégraphique, No 143. Gouveneur Général de l' Indo - Chine à Colonies Paris, Hanoi, le 2 Avril 1908) 5. Báo cáo của Công sứ Vinh Destenay gửi Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế, ngày 23 tháng 4 năm 1908. ( Rapport à M. Le Résident Supérieur du Résident de Vinh, le 23 Avril 1908) 6. Đơn của bà Huỳnh Thị Lý, vợ của tú tài Mai Luyện và mẹ của cử nhân Mai Dị gửi Toàn quyền Đông Dương khiếu nại về việc bắt giữ Mai Luyện và Mai Dị cùng việc tịch thu tiền bạc của Thương hội Quảng Nam, đề ngày tháng 11.1908 7. Công văn của Công sứ Pháp Charles ở Hội An trả lời Khâm sứ Trung Kỳ về việc Huỳnh Thị Lý khiếu nại, đề ngày 13 tháng 1.1909 8. Những thông tin cung cấp cho Thanh tra Dufrenil, phụ tá Khâm sứ Trung Kỳ ( Thanh Hoá, ngày 16.5.1908) ( Renseigments fournis à Monsieur l� Inspecteur Dufrenil, adjoint au Résident Supérieur de l� Annam. ThanhHoa, le 16 Mai 1908) .... Trên đây là một số tư liệu chính và quan trọng,chưa phải là đầy đủ, song cũng xung cấp cho ta một số thông tin rất xác tín để hiểu hơn cuộc dân biến ở Quảng Nam. 1. Về nguyên nhân của cuộc dân biến Ngay khi cuộc dân biến đang phát triển, chính quyền thuộc địa các cấp, tiøm hiểu ngay tình hình thuế, xâu vì những người biểu tình thỉnh nguyện giảm xâu, thuế và phong trào công khai tự nhận là " xin xâu, xin thuế " Thanh tra Dufrenil, trong báo cáo "Về tình hình chính trị ở Trung Kỳ " viết ngày 22.9.1908, ngay sau khi cuộc dân biến bị đàn áp và lắng lắng dịu, cho rằng nguyên nhân vụ dân biến là thuộc về chính trị và cuộc dân biến đã được tổ chức cẩn thận và chỉ là màn dạo đầu : " Những tin tức thu lượm được dọc hành trình, những chỉ dẫn do chính những kẻ cầm đầu [dân biến] cung cấp, những lời trách cứ và đe doạ trên các bích chương...những thứ tịch thu được từ những phần tử nòng cốt cho thấy có một tổ chức nghiêm túc... tất cả chứng tỏ một cách chắc chắn rằng chúng ta đang đứng trước một kế hoạch đã được nghiên cứu từ lâu và những cuộc biểu tình mới đây chỉ là dấu hiệu báo trước cho một tình trạng trầm trọng hơn ". Theo viện thanh tra dân sự vụ này, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Phan Bội Châu và Cường Để xuất dương sang Nhật. Cường Để thuộc dòng trưởng của vua Gia Long nhiều lần được đề nghị lên ngôi báu. Quanh Cường Để là các sĩ phú " bất mãn " Đào Nguyên Phổ, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,...Dufrenil, cho biết trước tháng 3-1908, khi cuộc dân biến phát khởi thì : " Người ta có thể khẳng định rằng những người của Phan Châu Trinh [Phong trào Duy Tân và Duy Tân Hội] đã đi khắp các tỉnh Trung Kỳ " Người Pháp nghĩ rằng Cường Để là người đứng đầu một chương triønh quang phục trong vòng mười năm với sự ủng hộ tinh thần của Nhật Bản, Phan Bội Châu là người phụ tá đắc lực cho vị hoàng thân này. Phan Châu Trinh là người đại diện cho Cường Để ở trong nước. Điều này không đúng.Cường Để chỉ đóng vai trò Hội chủ danh nghĩa và Phan Bội Châu mới là người sáng lập Duy Tân Hội cùng với Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) Châu Thượng Văn, Đỗ Đăng Tuyển, Đặng Thái Thân... Còn Phan Châu Trinh là người cực lực chỉ trích Cường Để. Nhưng về tổng quan, người Pháp đúng khi cho rằng cuộc dân biến là kết quả tuyên truyền vận động " Khai dân trí, chấn dân khí " của Duy Tân hội và Phong trào Duy Tân. Sự kiện phế truất vua Thành Thái (1907) là ảnh hưởng gần nhất khiến dân chúng đông đảo tham dự cuộc dân biến. 2. Cuộc dân biến ở Quảng Nam đã được chuẩn bị từ lúc nào ? " Ngay từ năm 1906, những sứ giả bí mật [của phong trào Duy Tân] đã lui tới các tỉnh miền Trung, vào lúc đó người ta nhận biết những hoạt động của họ ở Biønh Định và vào tháng 10 � 1907 ở Quảng Nam " Tài liệu cho biết viên Công sứ ở Hội An đã cho theo dõi chặt chẽ một số cuộc họp khả nghi ở Tam Kỳ (1907) Một nhân vật Quảng Nam, nhưng hoạt động ở Biønh Định, cũng được canh chừng là Trần Cao Vân mà người Pháp cho rằng đã tham gia vận động, tuyên truyền tích cực và đồng thời là một trong những người lãnh đạo cuộc dân biến ở Bình Định. Tài liệu cũng ghi nhận những người lãnh đạo ở Quảng Nam và Quảng Ngãi đã đến ranh giới Bình Định - Quảng Ngãi để phát động phong trào ở đây. Tài liệu cũng chỉ rõ một số những người lãnh đạo Phong trào Duy Tân [ và Duy Tân hội] " nguy hiểm nhất " không phải là những người trực tiếp tham dự cuộc dân biến. Ngoài họ, các thân hào, nhân sĩ cũng không cắt tóc để dễ dàng giúp đỡ cuộc dân biến bằng cách quyên góp, bằng uy tín của mình mà không " lộ diện " là đồng loã với " bọn duy tân " ! 3. Ghi nhận diễn biến, đánh giá và ban hành những chỉ thị cần thiết để đối đầu với cuộc dân biến ở Quảng Nam Ngay ngày 2 tháng 4 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương Bonhoure đã báo cáo với Bộ Thuộc địa ở chính quốc : " Khâm sứ Trung Kỳ đã báo cho tôi rằng từ hai hôm nay, dân Quảng Nam và Quảng Ngãi đã tụ họp đông hai, ba ngàn người tại các tỉnh lỵ để biểu tình và yêu cầu miễn thuế. Những người biểu tình không vũ trang và hình như chỉ đơn giản dùng áp lực số đông để đạt yêu cầu. Phong trào có thể do một số sĩ phu bất mãn và những kẻ tuyên truyền ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng Nhật Bản. Viên Khâm sứ đã khảo sát tại chỗ và theo dõi diễn biến. Tôi đã chỉ thị ông hãy yêu cầu Phủ Phụ Chính giải quyết nhanh chóng và kín đáo. Một số kẻ xách động đã bị bắt và sẽ do Nam triều xét xử. Viên Khâm sứ hy vọng sẽ nhanh chóng ổn định tình hình. Tôi sẽ luôn theo dõi tình hình. Bonhoure. " Toàn quyền Đông Dương Bonhoure, trong công văn gửi Khâm sứ Trung Kỳ ngày 8 - 5- 1908 cũng nhấn mạnh đến vai trò của sĩ phu duy tân vào cuộc dân biến và sự kiện đông đảo quần chúng đã hưởng ứng tham gia cuộc biểu tình nhiều ngày khắp các phủ huyện ở Quảng Nam và ngay tại Toà Công sứ ở Hội An. Toàn quyền Đông Dương cũng như viên Khâm sứ Trung Kỳ đều muốn Phủ Phụ Chính đảm đương vai trò xét xử và tuyên án các sĩ phu như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... để dân chúng không có cớ tiếp tục phản kháng chính quyền thuộc địa. Chúng ta cần thấy rõ mục tiêu các cuộc biểu tình phản kháng không phải là các quan lại người Việt mà họ luôn yêu cầu " các quan cùng dân đi xin xâu ", mà là các toà sứ các tỉnh và toà Khâm sứ ở Huế. Còn ở các tỉnh, việc xét xử giao cho án sát, bố chánh và sau đó bản án được phúc thẩm ở Phủ Phụ Chính, Khâm sứ là kẻ phê duyệt cuối cùng. Bản án Trần Quý Cáp đáng lý phải được Phủ Phụ Chính hoặc Cơ Mật Viện xét xử như được quy định viø Trần Quý Cáp là tiến sĩ (hoặc phó bảng như trường hợp Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, không di lý về Quảng Nam mà về Huế để Cơ Mật Viện xét xử). Án sát Khánh Hoà hai lần yêu cầu di lý Trần Quý Cáp về Huế nhưng hai lần Toà Khâm sứ và Cơ Mật Viện đều yêu cầu xét xử tại Khánh Hoà theo điều 309 và 321 Hoàng Việt luật lệ. * * * Tóm lại : Cần chính danh phong trào mà ta quen gọi là chống thuế Trung Kỳ 1908 là Phong trào dân biến,Cuộc dân biến năm Mậu Thân (1908) ở Trung Kỳ như Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng gọi Cuộc dân biến này là kết quả vận động tuyên truyền của những sĩ phu và cán bộ Phong trào Duy Tân (công khai) và Duy Tân hội ( bí mật) từ những năm 1906, 1907. Tại Quảng Nam các cuộc hội họp bí mật này đã bị theo dõi ( 1907 ở Tam Kỳ). Vậy không nên kết luận rằng cuộc dân biến này là tự phát và các sĩ phu nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp là vô can ! Toà Khâm sứ đã đề nghị xử tử hình Trần Quý Cáp và bắt Phan Châu Trinh từ Hà Nội là hai nơi không thuộc mười tỉnh Trung Kỳ có biểu tình " xin xâu " Như trong thư công sứ Quảng Nam gửi Khâm sứ Trung Kỳ trả lời về vụ khiếu nại của Huỳnh Thị Lý, người Pháp biết rõ Thương hội Quảng Nam lập ra ở Hội An không có mục đích buôn bán mà nhằm mục đích " bất hợp pháp " và cho dù có cổ đông là quan lại Việt Nam và cả Công sứ Pháp, Thương hội Quảng Nam vẫn bị giải tán, và tiền bạc bị tịch thu ! Việc công sứ Quảng Nam tham gia Thương hội Quảng Nam có thể đã làm cho các sĩ phu mất cảnh giác và để người Pháp có thể theo dõi những hoạt động " bất hợp pháp " nấp đằng sau Thương hội Quảng Nam. Người Pháp đã đàn áp các cuộc biểu tình một cách tàn bạo, chém giết thẳng tay những kẻ lãnh đạo trực tiếp và bắt giữ đầy ải các sĩ phu duy tân ra Côn Đảo, lên Lao Bảo... vì họ sợ những gì có thể tiếp diễn, mạnh hơn, không còn là bất bạo động... như họ đã theo dõi và nhận định. Chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn nếu ta theo dõi các tỉnh khác như Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An, Thanh Hoá qua tài liệu lưu trữ Pháp. Nội dung đó chưa được đề cập trong bài này. Có thể chúng ta mượn nhận định sau đây của Jean Ajalbert, một nhân chứng đã từng đi dọc Đường Cái Quan viết trong ký sự " Les destinées de l'Indochine-voyage-histoire-colonisation " rằng : Cuộc dân biến được tổ chức một cách thông thạo nhất, như là một cuộc diễn tập qua đó xứ Annam tổng ước các năng lực của miønh, kiểm điểm các lực luợng nổi dậy của họ " Phan văn Hoàng _Trần viết Ngạc
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:03:53 GMT 9
TT NGUYỄN VĂN THIỆU: NÓI VỀ CÁI CHẾT CỦA TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM 25/04/2010 Trên cương vị Tổng Thống, tôi không có đủ thì giờ thăm viếng tất cả các sư đoàn. Rất tiếc là chuyến sau cùng tôi xuống Cần Thơ đi thăm Biệt Khu 44 cùng với Tướng Thanh vào ngày Thứ Bảy trước khi đi Côn Sơn, qua ngày Chủ Nhật hôm sau thì Tướng Thanh tử trận, trước hay sau đó tôi không nhớ rõ, tôi có ngồi nói chuyện với Tướng Nam. Sau này, Tướng Nam có lên phủ Tổng Thống họp trong những ngày cuối, lúc tình hình nguy hiểm. Theo dõi các Tư Lệnh Sư Đoàn thì tôi thấy ông là người nghiêm chỉnh, đạo đức, về cái đạo đức của ông thì quá tốt, mình không còn gì để đặt câu hỏi. Khả năng quân sự thì chỉ có khen thôi, không có chỗ nào có thể chê được, con người can đảm, trầm tĩnh, suy nghĩ và lý luận rất là chín chắn, phân tách rất rõ ràng. Tóm lại, khi suy nghĩ về cái chết của Tướng Nam và các tướng lãnh khác, tôi thấy đó là những cái chết anh hùng không ai có thể chối cãi được – Tướng chết anh hùng là như vậy – Nhưng có điều tôi có thể nói là tôi tiếc vì đã nghĩ lầm: “Hồi đó, tôi tin tưởng rằng, vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, các tướng lãnh sẽ có lập trường riêng của mình.” Khi tôi quyết định từ chức, tôi chỉ giao quyền cho cụ Hương, mặc dù tôi cũng có nghe nói Tướng Dương Văn Minh muốn thay thế cụ Hương. Tôi từ chức là vì những lý do riêng của tôi, và tôi nghĩ rằng đó là quyết định tốt nhất cho đất nước trong tình thế khó khăn lúc ấy. Tôi quyết định từ chức vì bổn phận bắt buộc tôi phải làm như vậy. Tôi tin rằng giao lại cho cụ Hương, chắc chắn Cụ sẽ không bao giờ chịu trao quyền lại cho Việt Cộng, họa chăng Việt Cộng vào Dinh Độc Lập, dí súng vào cổ ông, ông thà chịu để cho địch bắt đi chớ không bao giờ kêu gọi quân dân trao quyền cho chúng. Trước khi tôi từ chức, đâu phải quân đội mình hoàn toàn tan rã đâu. Mình muốn tiếp tục đánh thì cũng đánh được, không biết tới bao lâu thôi, và chắc mình cũng không phải đầu hàng vô điều kiện. Trước đó, tôi có hỏi ý kiến một số anh em sĩ quan hay lấy ý kiến từ những người này người kia, mọi người đều đồng ý rằng nếu thương thuyết một giải pháp chính trị với Việt Cộng là việc không thể tránh thì mình phải làm, nhưng nếu giải pháp chính trị quá bất lợi cho mình thì phản ứng tự nhiên của quân đội là rút về miền Tây. Tôi nghĩ rằng nếu cụ Hương còn thì ông cũng làm như vậy. Ông sẽ giao quyền cho anh em tướng lãnh, và về phương diện quân sự, lựa chọn cuối cùng của các anh em tướng lãnh là rút về miền Tây. Có điều tôi lấy làm tiếc là khi ông Minh ra lệnh buông súng đầu hàng Cộng Sản thì các anh em tướng lãnh tại miền Tây như ông Nam, Hưng, Hai lại lựa chọn giải pháp tuẫn tiết. Lúc ấy ở miền Tây thì các ông ấy có toàn quyền quyết định. Mình có câu nói: “Tướng sa trường đâu có bắt buộc phải theo lệnh thượng cấp.” Thật ra bây giờ, tôi chỉ tiếc cho cái chết của Tướng Nam và các tướng lãnh khác. Quốc gia, quân đội và nhân dân đã không được tận dụng tối đa các đức tính và tài năng của cấp chỉ huy quân đội còn lại như ông Nam. Lấy ví dụ như là các ông ấy quyết định tử thủ miền Tây mà thua đi vì thiếu phương tiện (dù không đầu hàng thì mình cũng phải thua, không phải vì mình thua trí, thua cái can đảm mà mình thua sức, thua phương tiện), thì lúc đó các ông ấy vẫn làm được cái gì để giữ mình và còn có cơ hội làm lại được điều gì hữu ích cho đất nước sau này… Tiểu sử tướng Nguyễn Khoa Nam: Tướng Nguyễn Khoa Nam… Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927 tại Đà Nẵng. Ông là em ruột nhà văn Hải Triều-Nguyễn Khoa Văn và là chú của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm… Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm… ( Một số nhà văn Huế kể rằng: Sở dĩ ông Nguyễn Khoa Điềm bị quân đội Sài Gòn bắt và được ra khỏi nhà lao Thừa Phủ sớm là nhờ có sự can thiệp của ông chú Nguyễn Khoa Nam. Chính chuyện này nghe nói sau này cũng đã gây biết bao rắc rối cho ông Nguyễn Khoa Điềm; ông bị ông T.Đ.H cho ” lên bờ xuống ruộng” do việc này khi ông có ý định chạy đua vào ” tứ trụ ” triều đình…) Năm 1953 ông Nguyễn Khoa Nam nhập ngũ Khóa 3 Thủ Đức và gia nhập binh chủng Nhảy dù vào tháng 10 cùng năm. Từ 1955 đến 1964, Nguyễn Khoa Nam mang lon đại úy. Năm 1965 ông lên quân hàm thiếu tá và giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù. Năm 1967, Nguyễn Khoa Nam được thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng của Lữ đoàn 3 Nhảy dù. Cuối năm này ông được thăng đại tá. Năm 1969 ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. Tháng 11 cùng năm ông được thăng chuẩn tướng. Năm 1972 ông được thăng thiếu tướng. Tháng 11 năm 1974, Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật đến năm 1975. Ông tự sát bằng súng bắn qua màng tang vào khoảng rạng sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975…
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:08:23 GMT 9
Tâm tư của Tông Thong Nguyễn Văn Thieu
Một trong những nhân vật trong chính quyền VNCH trước 1975 “kín miệng” nhất là cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. (Hai người kín miệng khác là tướng Ngô Quang Trưởng và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm). Từ ngày ông đi tị nạn cho đến ngày ông qua đời năm 2001, ông không hề trả lời phỏng vấn báo chí Việt ngữ (nếu tôi nhớ không lầm), và không thấy xuất bản cuốn hồi kí nào cả. Nhưng ai cũng biết ông không ưa Mĩ, dù mấy năm sau này ông chuyển từ Anh sang Mĩ sống với mấy người con, và qua đời tại Mĩ. Ông cho rằng Mĩ phản bội VNCH. Bây giờ, ông Nguyễn Tiến Hưng sẽ cho chúng ta biết về tâm tình của ông cựu tổng thống. Hi vọng nay mai tôi sẽ có dịp đọc cuốn sách của Ts Nguyễn Tiến Hưng.
Ông Thiệu có nhiều câu nói nổi tiếng. Có lẽ câu nổi tiếng của ông ta là "Đừng tin những gì ... hãy nhìn kĩ những gì ..." :-) Nhưng sau 1975 ông còn nổi tiếng với câu nói bị đồng hương ghét. Nhưng đọc bài phỏng vấn sau đây tôi mới biết câu nói nổi tiếng của ông Thiệu sau 1975 là … bị trích dẫn sai. Hồi đó, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại lưu truyền rằng ông Thiệu không ưa người tị nạn, vì ông ta phát biểu với báo chí ngoại quốc rẳng ông chẳng có liên can gì đến người tị nạn vốn lên cao trào lúc đó. Hóa ra, ông không có ý đó; có thể phóng viên viết sai. Theo ông Hưng thì khi được phóng viên hỏi: “Thưa tổng thống, tổng thống có còn làm được gì đối với đồng bào của ông không, đối với vấn đề thuyền nhân không?” thì ông trả lời bằng tiếng Anh rằng: “I have nothing to do for them.” (Tôi ngạc nhiên là sao ông không nói: "I can not do anything for them"?) Nhưng phóng viên in trên báo là “I have nothing to do with them.” Ôi, mấy ông phóng viên!
Trong tiếng Anh, cụm từ “nothing to do with” có thể hiểu là “chẳng liên can gì với”. Chẳng hạn như “I have nothing to do with this problem” có nghĩa là tôi chẳng có can dự gì với vấn đề, hay tôi không có trách nhiệm gì, hay hàm ý nói không phải lỗi lầm của tôi, đừng có cáo buộc tôi. Còn “I have nothing to do for them” thì có nghĩa là tôi không có gì để làm cho (giúp) họ, hay tôi không làm được gì cho họ. Do đó, chỉ có khác nhau giới từ “with” và “for” mà ý nghĩa câu nói rất khác nhau. Ôi, tiếng Anh, tiếng U!
Bây giờ, qua Nguyễn Tiến Hưng, ông đã được giải oan, nhưng phải chờ đến 30 năm. Muộn còn hơn không.
NVT
Cuốn sách sắp ra mắt của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng
Đinh Quang Anh Thái/Người Việt (Thực hiện)
Ngày Chủ Nhật, 16 tháng 5 sắp tới lúc 1 giờ trưa tại Westminster Civic Center, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng sẽ cho ra mắt sách “Tâm tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.” Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng từng là tổng trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hai tác phẩm của ông đã được dư luận chú ý rất nhiều là “Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập” và “Khi đồng minh tháo chạy.” Là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử đầy uẩn khúc và có điều kiện đặc biệt để tiếp cận với những diễn tiến nơi hậu trường, qua tác phẩm “Tâm tư của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu,” Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng sẽ trình bày nhiều sự thật và đưa ra một số bí mật chưa ai hiểu về những suy nghĩ, tính toán và hành xử của nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối cùng trước khi rơi vào tay cộng sản.
Tin tưởng là cuốn sách có tầm giá trị đặc biệt, ký giả Ðinh Quang Anh Thái đã đề nghị Tiến Sĩ Nguyễn Tiên Hưng dành cho nhật báo Người Việt một cuộc phỏng vấn tại tòa soạn, được ghi lại như sau đây.
***ÐQAThái: Cuốn “Tâm tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu” sẽ được ra mắt vào Chủ Nhật, 16 tháng 5 sắp tới tại Westminster Civic Center so với hai cuốn trước kia là “Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập” và “Khi đồng minh tháo chạy” có những điểm nào đặc sắc và khác biệt?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Thưa anh Thái, khác hẳn hai cuốn trước của tôi, “Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập” và “Khi Ðồng Minh tháo chạy” viết về người Mỹ, hướng vào việc đồng minh đã đối xử với lãnh đạo và nhân dân miền Nam vào lúc bỏ chạy. Cuốn mới “Tâm tư Tổng Thống Thiệu” là một chủ đề khác hẳn, tập trung vào người lãnh đạo miền Nam đã suy nghĩ gì về người đồng minh và đặc biệt là lúc đồng minh tháo chạy tâm tư của ông ấy như thế nào, tức là hai khía cạnh của một vấn đề, thưa anh. Cuốn mới cũng có rất nhiều tài liệu được giải mật trong 5 năm vừa qua. Chúng tôi cũng sưu tầm qua hệ thống liên lạc riêng tư có được thêm những tài liệu mới khác nữa, thí dụ như những hồ sơ mật của Ðại Sứ Martin trước khi ông qua đời.
Chúng tôi cũng viết rất nhiều về khía cạnh con người của ông Thiệu vì ông là con người rất khép kín. Chúng tôi vì tình cờ lịch sử, có may mắn làm việc gần ông tổng thống trong gần 3 năm, sau này còn gặp ông rất nhiều lần tại London và tại Boston nên được biết một số khía cạnh nào đó về con người của ông.
ÐQAThái: Trong thời điểm thuyền nhân Việt Nam vượt biên lên tới cao điểm, dường như ông Thiệu có nói với một nhà báo người Mỹ hay người Anh là ông không mắc mớ gì tới những người thuyền nhân đó cả. Theo ông nếu quả tình đó là lời của ông Thiệu, tại sao ông Thiệu lại nói ra một câu gây ra sự căm phẫn trong dư luận của đồng bào hải ngoại như thế?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Tôi còn nhớ vào mùa Thu năm 1979 khoảng tháng 9, tháng 10 năm 1979 báo Việt Nam (tại Hoa Kỳ) lúc đó có chỉ trích ông Thiệu rất nặng nề vì câu mà anh Thái vừa kể. Tôi cũng giật mình cho rằng không hiểu sao một người như ông Tổng Thống Thiệu lại nói câu đó. Tôi định nhấc phone lên hỏi ông, nhưng cũng ngại vì telephone lúc đó đắt lắm, gọi sang bên Anh rất tốn tiền. May mắn là ngay 2, 3 hôm sau chúng tôi nhận được thư của tổng thống cho biết ông rất đau buồn vì đã bị hiểu lầm. Tổng thống có kể lại rằng chuyện đó từ đầu chí cuối do một ông nhà báo tên là Michael của báo “Now,” một tờ báo lớn ở bên London, đã năn nỉ ông để được phỏng vấn mấy câu thôi, rồi xuyên tạc ra nói câu đó.
Câu chuyện đó là như thế này, “Thưa tổng thống, tổng thống có còn làm được gì đối với đồng bào của ông không, đối với vấn đề thuyền nhân không?” Khi trả lời, ý ông Thiệu muốn diễn tả là “hiện nay tôi chẳng còn chính quyền, chẳng còn phương tiện và làm được gì đối với vấn đề thuyền nhân”. Kẹt là tiếng Anh, ông Tổng Thống Thiệu thích nói tiếng Anh lắm, tiếng Anh ông nói rất lưu loát nhưng có những sắc ý nhiều khi cũng khó, chữ kẹt là “for” and “with” đáng nhẽ phải nói rằng “I have nothing to do for them,” tôi không còn gì để mà làm cho họ, theo nhà báo nói thì ông lại nói rằng, “I have nothing to do with them” tiếng Việt dịch ra là tôi không còn làm gì mắc mớ đối với họ nữa. Ông Thiệu rất đau đớn, ông nói chính thằng này, ông gọi thằng... này đã phịa ra, ông bảo rằng ông đã nói for mà nó phịa ra with, báo dịch ra là đối với, cái đó làm cho ông đau đớn lắm. Ông Thiệu yêu cầu chúng tôi tìm dịp hay báo chí nào để cải chính, ông dùng chữ “clear up giùm tôi.” Ðó là chuyện làm cho ông Thiệu đau đớn nhất vì bị hiểu lầm trong lúc phong trào thuyền nhân đang lên cao mà ông tổng thống nói như vậy thì thật là ê chề.
ÐQAThái: Thưa tiến sĩ nhưng có bằng chứng nào thật cụ thể cho thấy rằng Tổng Thống Thiệu đã nói như vậy mà báo chí viết sai đi không?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Trong cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu”, ngay lời mở đầu tôi có xin phép tổng thống ở thế giới bên kia cho chúng tôi được in lại bức thư này. Tôi nói rằng xin ông cho tôi được in lại ít nhất một thư này và tự tay chụp hình in lại chính văn thư nguyên bản để đồng bào thấy được sự thật của vấn đề.
ÐQAThái: Thưa Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, theo nhận định của tiến sĩ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có phải là người được xem có trách nhiệm tối hậu với quyết định bỏ rơi cao nguyên và Quân Ðoàn II dẫn tới hậu quả 30 tháng 4 năm 1975 không?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Thưa anh, chúng tôi nghĩ ông Thiệu là Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, chắc chắn trách nhiệm cuối cùng là phải về ông Thiệu. Chúng tôi không biết được hết để phê phán về nghi vấn này, tuy nhiên trong cuốn sách mới chúng tôi đã ghi lại rất kỹ những cuộc họp cuối cùng ở dinh Ðộc Lập và những mệnh lệnh lúc đó.
Về vụ rút cao nguyên, ông Thiệu phàn nàn với chúng tôi rất nhiều lần rằng buổi họp về rút cao nguyên là ở Cam Ranh, vào độ khoảng mùng 4 tháng 3 gì đó, Tổng thống nói rằng ông ấy ra hai lệnh chứ không phải một lệnh.
Lệnh đầu tiên không phải rút khỏi cao nguyên. Theo lời ông Thiệu, “Tôi không ra lệnh rút cao nguyên mà tôi ra lệnh rút khỏi Pleiku, Rút khỏi Pleiku để hy vọng đánh bọc lấy lại Ban Mê Thuột vì đứng về phương diện quân sự Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku nhiều”. Ông bảo nếu rút được hai sư đoàn ra khỏi Pleiku mà thấy rằng tình hình khó khăn quá không lấy lại Ban Mê Thuột được thì sẽ dồn hai sư đoàn đó ra yểm trợ cho ông Tướng Trưởng. Ðấy là lệnh thứ nhất, ông Thiệu nói đi nói lại là không ra lệnh rút khỏi cao nguyên.
Tôi thấy chưa ai nói về lệnh ông Tổng Thống Thiệu gọi là lệnh thứ hai. Ông nói đã ra lệnh Tổng Tham Mưu, theo dõi và giám sát. Ðáng nhẽ là ông Viên phải gọi ông Phú về để bàn bạc chương trình rút, thế mà không hiểu vì sao tối hôm ấy Tướng Phú đã rút ngay.
Ông bảo chuyện hai lệnh đó rất rõ ràng. Chúng tôi có hỏi ông rằng tại sao tổng thống không tuyên bố hay cắt nghĩa cho lịch sử hiểu điều đó. Ông bảo, “Tôi nói ra thì người ta bảo mình chạy tội, tôi hy vọng rằng một ngày nào một trong quý vị họp với tôi ngày hôm đó có đủ can đảm đứng lên nói hết sự thật.”
ÐQAThái: Thưa tiến sĩ, những người nào là nhân chứng sống có mặt trong buổi họp tại Cam Ranh mà còn sống?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Có 5 người ở buổi họp ấy, Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Trung Tướng Quang, Ðại Tướng Viên và Thiếu Tướng Phú. Trong đó ba người đã chết rồi, Thủ Tướng Khiêm, Trung Tướng Quang là hai nhân chứng trong buổi họp ở Cam Ranh còn sống.
ÐQAThái: Có một dư luận thắc mắc mà hầu như ai cũng đề cập đến. Tại sao cho tới ngày vĩnh viễn lìa đời, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không để lại bất kỳ một cuốn sách hay một dấu tích nào để cho sau này hậu thế có thể biết được về giai đoạn lịch sử đó, thưa tiến sĩ?
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Thưa anh, tôi cũng có một chương viết về chủ đề tại sao Tổng Thống Thiệu không viết hồi ký. Ngay cả chính chúng tôi cũng thôi thúc ông rất nhiều lần, có lúc ông cũng suy nghĩ rằng ông có thể viết, ông hỏi tôi rằng viết bố cục như thế nào, ai sẽ in ấn v.v... Sau cùng nghĩ đi nghĩ lại ông không viết nữa. ông ấy bảo tôi, “Tôi nói thật với anh, Mỹ đã phản bội mình rồi, bây giờ đừng có vạch áo cho người xem lưng, đừng có bêu xấu nhau nữa người ta cười thêm cho.”Ngoài ra ông có để lại một di tích lịch sử đó là chương XVIII mà chúng tôi viết rất dài, đó là một cuộc phỏng vấn duy nhất mà chúng tôi thôi thúc ông ấy, ông ấy đã cho một bài phỏng vấn khá chi tiết để phản ánh tâm tình của ông ấy. Tờ báo ấy ở bên Ðức, ông ấy nghĩ rằng tờ báo Ðức thế nào ông Kissinger cũng đọc, bài báo đó được dịch sang tiếng Anh do chính ông Thiệu đưa cho chúng tôi với những bút tích của ổng, chúng tôi có đăng lại bài đó.
ÐQAThái: Tiến sĩ có điều gì muốn nói thêm nhân dịp tiến sĩ cho ra mắt độc giả tác phẩm mới nhất đó là cuốn “Tâm tư Tổng Thống Thiệu.”
T.S Nguyễn Tiến Hưng: Nguyện vọng của chúng tôi là cố gắng ghi lại trung thực cho hết vì chúng tôi cũng đã viết những cuốn kia nhưng còn những điều chúng tôi chưa viết hết ra được nhất là những điều phải dựa trên những bằng chứng mới giải mật soi sáng rất nhiều cho lịch sử, cho những điều chúng tôi đã viết trước đây. Chúng ta sẽ thấy hoàn cảnh của chúng ta vô cùng khó khăn mà sự thất bại không thể tránh được, hy vọng rằng độc giả sẽ tìm hiểu và đọc tất cả những dữ kiện chúng tôi mang ra để có thể đi tới kết luận riêng của mình. Vì thế chúng tôi rất mong chia sẻ những điều này với độc giả.
ÐQAThái: Xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:14:48 GMT 9
T Thong Nguyễn Văn Thiệu và cuộc chiến 1975 Tác Giả: Trọng Đạt Nhiều người than thở chúng ta không có được nhà lãnh đạo xứng đáng, tài đức như Pak Chung Hee, người đã đưa đất nước Đại Hàn tới chỗ phú cường. Đất nước gặp vận xui, trong khi phù thủy ma quái tạo cuồng phong, gây giông bão, chúng ta lại không có được người đủ khả năng lèo lái con thuyền quốc gia để vượt qua cơn sóng gió.
Những khuyết điểm
Sau khi Cộng quân tràn ngập Thủ đô Sài Gòn ngày 30-4-1975, người dân bàng hoàng như trong cơn ác mộng, họ bảo nhau.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ellsworth Bunker cùng TT Nguyễn Văn Thiệu và Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, 1969. Ảnh: flickr - Ủa tại sao thua nhanh thế nhỉ? Khoảng một tháng sau ngày mất nước, công chức trung cấp, cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện cải tạo tại trường nữ trung học Gia Long Sài Gòn, một ông quả quyết nói:
- Thiệu đóng đúng cái vai trò mà Mỹ đạo diễn, ngoài ra không có gì cả!
Các giới chức quân sự, chính trị cũng đều nghĩ rằng ông Thiệu là người đã làm mất miền Nam, gây lên tấm thảm kịch 1975. Mười lăm năm sau ngày mất miền Nam, năm 1990 khi Cộng Sản Nga và Đông Âu thi nhau sụp đổ, ông Thiệu tổ chức buổi nói chuyện với đồng bào Hải ngoại về tình hình đất nước tại Cali, ông đã bị chống đối dữ dội. Mười lăm năm đã trôi qua người ta vẫn còn oán hận ông vì ông mà mất Sài Gòn.
Đó là chuyện đã qua, dần dần những bí mật về cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tiết lộ, nhất là về mặt quân sự, quốc phòng. Từ giữa thập niên 80 và cuối thập niên 90 ông Cao Văn Viên cựu Tổng tham mưu trưởng Quân độïi VNCH trong cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH đã nói về tình trạng kiệt quệ đạn dược tiếp liệu của ta trong những năm 1974, 1975. Nhiều tài liệu sách báo khác cũng cho thấy những khó khăn khốn đốn của ta trước áp lực rất mạnh của Cộng Sản Bắc Việt, lại nữa thuyết Domino không còn giá trị, khi ấy người ta mới thấy rằng còn có nhiều nguyên nhân chính yếu khác đã gây nên sụp đổ chứ không phải chỉ do một mình ông Thiệu.
Cuộc chiến tranh Đông Dương mà hơn 90% diễn ra tại Việt Nam đã được quốc tế hóa từ 1949, 1950. Tháng 10-1950 sau khi Mao nhuộm đỏ nước Tầu, thành lập Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc thì Việt Minh được viện trợ tối đa, họ đã thành lập được 40 ngàn quân chính qui, các trại huấn luyện quân sự mọc lên như nấm dọc theo biên giới Việt Hoa. Trước nguy cơ Cộng Sản lan tràn xuống Đông Nam Á, Mỹ vội nhẩy vào cuộc chiến, tháng 10-1950 họ viện trợ cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Cuộc chiến Đông Dương khởi đầu giữa Thế Giới Tự Do gồm Pháp – Mỹ và Cộng Sản Quốc tế do Trung Cộng đứng sau lưng Việt Minh.
Cuộc chiến Đông Dương kéo dài mấy chục năm cho tới thập niên 70 là giai đoạn chót, phía Cộng Sản Quốc tế gồm Nga Xô, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa anh em vẫn tiếp tục viện trợ không ngừng cho Cộng Sản Bắc Việt. Trong giai đoạn 1969-1972 họ viện trợ cho Bắc Việt 684,666 tấn vũ khí (Theo tài liệu của BBC.com, CSVN công bố trong cuộc Hội thảo tại Sài Gòn ngày 14-4-2006) và giai đoạn 1973-1975 là 649,264 tấn vũ khí, trong khi ấy Thế Giới Tự Do chỉ có một mình Mỹ đứng ra viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, các nước đồng minh Tây phương Anh, Pháp đã không phụ giúp Mỹ mà còn thọc gậy bánh xe phá Mỹ.
Năm 1968 trong trận Mậu Thân, Việt Cộng thảm bại, VNCH đã đánh thắng một trận lớn nhưng thua cuộc chiến, trận Tổng công kích của Việt Cộng đã thúc đẩy phong trào phản chiến tại Mỹ lên cao rất nhiều. Năm 1969 Nixon lên nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, họ đã bắt đầu nghĩ tới việc rút quân phần vì bị dân trong nước chống đối dữ dội, phần vì thuyết Domino không còn ý nghĩa, từ 1970 họ đã đi đêm với Trung Cộng, ngày 9-7-1971 Kissingger đã bí mật gặp Chu Ân Lai tại Bắc Kinh.
Năm 1969 quân phí của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam lên tới đỉnh cao là 29 tỷ đô la, nhưng ngày càng tụt dần, tụt dần cho tới 1975 chỉ còn 700 triệu đô, tức là chỉ còn hơn 2%. Năm 1972 trên 500,000 quân đồng minh đã rút đi, VNCH một mình phải gánh vác chiến trường với quân số bị cắt giảm tới xương tủy. Trong khi Cộng Sản Quốc Tế kiên trì viện trợ cho Bắc Việt thì Hoa Kỳ lại chán nản, thay đổi chính sách tại Đông Dương. Đứng trước những thử thách lớn lao như thế VNCH cũng khó mà vượt qua cơn nguy khốn.
Mặc dù ông Thiệu không phải là nguyên nhân duy nhất đưa tớisự sụp đổ miền Nam nhưng chế độ của ông cũng đã có nhiều khuyết điểm lớn. Liên danh Thiệu Kỳ đắc cử cuối tháng 10-1967, chấm dứt một giai đoạn biểu tình tuyệt thực nhiễu nhương, năm 1971 ông Thiệu tái cử độc diễn và đắc cử nhiệm kỳ hai. So với thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chế độ Nguyễn Văn Thiệu dân chủ tự do hơn, chính sách cởi mở dễ thở hơn, công nhận chính trị đảng phái đối lập nhưng kỷ cương lại thụt lùi. Về phương diện kỷ luật trong lãnh vực hành chánh, quân sự thua kém thời ông Diệm nhiều. Chế độ chỉ nghiêm chỉnh được một thời gian ngắn rồi dần dần lụn bại trong vũng lầy thối nát tham nhũng.
Những năm đầu của chế độ 1967, 1968, guồng máy tương đối còn có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối nát tồi tệ, nó đã phá hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã tiến tới chỗ tột cùng. Các chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân còn chấp nhận được. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một người làm cho chính phủ than thở.
“Chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới Thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục trên đống vàng!”
Nhà báo Phạm Huấn có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường dây bà Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu mà hầu như ai cũng đều thấy cả, những chức vụ, công việc hái ra tiền đều được mua bán sòng phẳng. Tại các bộ phủ, cơ quan trung ương cũng như trong quân đội, các quan chức lớn tham lam vơ vét lộ liễu. Nguyễn Đức Phương nói các hình thức tham nhũng tại miền Nam đã được nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma Trong phim Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình (Vietnam, a Television History), ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption) đã phát triển quá độ tại miền Nam VN, chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rõ và họ đã phải che giấu không cho báo chí biết sợ đến tai Quốc Hội, viện trợ sẽ bị cắt giảm.
Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xã hội, bình định phát triển bị đục khoét nhiều, viện trợ Mỹ dùng vào mục tiêu kinh tế quân sự đã vào túi các quan lại tham ô không phải là ít. Tham nhũng vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu tinh thần người dân cũng như người lính chiến.
Tham nhũng ngày càng đào sâu hố bất công xã hội tại miền Nam, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận thì tại các thành phố lớn, nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm bẩy tầng lầu. Con buôn đầu cơ tích trữ hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ sông pha mũi tên hòn đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xã hội đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu cho một chế độ bất công thối nát, người dân thì bi quan chán nản không tha thiết ủng hộ chính quyền.
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ tịch Phong trào Nhân dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tổng thống Thiệu bị tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán bạch phiến phong trào lôi cuốn các nhóm khác như sinh viên, ký giả, chính khách. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực khiến ông phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái. Phong trào chứng tỏ sự phẫn uất của người dân đã lên cao.
Người Mỹ chán nản, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu Đại sứ Bùi Diễm nói.
“Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhiều người nói Cộng Sản Việt Nam hiện nay còn tham những thối nát gấp trăm ngàn lần chế độ VNCH trước đây, ta không thể so sánh như vậy để bào chữa cho chế độ Thiệu được. Chế độ Thiệu tham nhũng trong thời chiến nay CS tham nhũng trong thời bình khi chính quyền của họ đang vững chãi, hai sự kiện khác nhau.
Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, cựu Tư Lêïnh Sư đoàn 2 BB trong hồi ký Cuộc Chiến Dang Dở của ông đã chỉ trích nạn bè phái, cho rằng nạn bè phái bổ nhiệm trong quân đội đã khiến cho nhiều người không có thực tài nắm giữ những chức vụ then chốt.
Một khuyết điểm lớn của Tổng thống Thiệu là không nắm vững tình hình quốc ngoại cũng như quốc nội, Chuẩn Tướng Nhựt đã nhận xét như sau.
“Việc ông sửa đổi Hiến Pháp để làm Tổng Thống thêm một nhiệm kỳ năm năm nữa chứng tỏ ông đã không nhìn thấy việc Hoa Kỳ sắp bỏ rơi Việt Nam và đã làm xáo trộn thêm tình hình chính trị trong nước. Như Tướng Khiêm phải ra mặt chống đối Tổng Thống Thiệu vì ông Thiệu không giữ lời hứa là sau 2 nhiệm kỳ làm Tổng Thống của ông thì tới phiên ông Khiêm.” (Cuộc Chiến Dang Dở trang 273.)
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
Người ta đã có chính sách bỏ Đông Dương từ những năm cuối thập niên 60 và bắt đầu thực hiện dần dần vào đầu những năm thập niên 70, họ đã bắt đầu đi đêm với Trung Cộng nhưng ông Thiệu vẫn cho sửa Hiến pháp chuẩn bị ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa như thế ông không hay biết gì và quá lạc quan tin tưởng vào những lời hứa xuông của họ. Về điểm này, khi trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Vĩnh Lộc nói ông Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ không phải chỉ đi dự tiếp tân mà phải làm một điệp viên (spy) cung cấp tin tức mật cho chính phủ VNCH. Vì thiếu tin tức ông Thiệu đã không biết trước mưu đồ của người bạn Đồng minh ngõ hầu soay trở kịp thời.
Ngay cả đối với tình hình quốc nội, ông Thiệu cũng không nắm vững, vì quá khinh địch cho rằng Cộng Sản Bắc Việt chưa phục hồi sau trận Mùa hè đỏ lửa, họ không đủ khả năng tấn công vào các thành phố lớn. Trong cuốn Decent Intreval, Frank Snepp, một chuyên viên cao cấp về phân tích tình báo chiến lược Hoa Kỳ thuộc văn phòng CIA ở Sài Gòn đã cho biết như sau.
“Một điệp viên trong bộ tham mưu thân cận của Tổng Thống Thiệu đã gửi một bản báo cáo tối mật về những kế hoạch và ước đoán của chính phủ Sài Gòn cho Bắc Việt. Theo báo cáo của tên gián điệp này thì vào hai ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974, có một phiên họp cao cấp về quân sự tại Sài Gòn nhằm vào việc thẩm định những dự tính của Hà Nội trong năm tới.Trong phiên họp này, các tướng lãnh cùng đồng ý với quan điểm của Tổng Thống Thiệu là trong những tháng sắp tới, Cộng Sản sẽ “chiến đấu trên một bình diện đại qui mô” hơn trong năm 1974 tuy nhiên sẽ không tổng tấn công như hồi năm Mậu Thân 1968. Điệp viên nói thêm rằng Tổng Thống Thiệu đã kết luận rằng các lực lượng Bắc Việt sẽ không đủ khả năng để tấn công chiếm giữ và bảo vệ các thành phố lớn, (Trần Đông Phong trích dịch – Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng)
Tài liệu phía Cộng Sản cũng có nói tới gần giống như vậy. Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Cộng Sản Bắc Việt, người chỉ huy trận chiến xâm lăng miền Nam 1975 đã ghi nhận trong hồi ký của y (Đại Thắng Mùa Xuân) như sau.
“Theo tin tình báo của ta, trong hai ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974, trong “dinh Độc Lập”, Thiệu họp với bọn tư lệnh các quân đoàn, quân khu ngụy để phán đoán hoạt động của ta trong năm 1975. Bọn chúng nhận định.
Trong năm 1975, ta có thể đánh với qui mô lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc thành phố, dù có đánh cũng không giữ được. Ta chỉ có thể đánh loại thị xã nhỏ và cô lập như Phước Long, Gia Nghĩa.” (Trang 40, 41)
Trong khi trên 80% lực lượng chính qui Bắc Việt đã có mặt tại miền Nam nhất là tại Quân khu 1 và 2 từ cuối 1974 và đầu 1975 với quân số và vũ khí đạn dược gấp bội lần năm 1972 mà ông vẫn không hay biết. Theo ông Cao Văn Viên trong buổi họp cao cấp quân sự ngày 6-12-1974 nêu trên dưới sự chủ toạ của Tổng Thống Thiệu đã nhận định.
“Buổi họp kết luận năm 1975 là năm Cộng sản sẽ tấn công miền Nam để phá hoại cuộc bầu cử VNCH trong năm 1975 và gây tiếng vang trong cuộc tranh cử Tổng thống Hoa kỳ cho năm 1976…” (Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa trang 96)
Như vậy chứng tỏ ông Thiệu đã tỏ ra rất khinh địch, cho rằng CS chỉ đủ sức phá hoại cuộc bầu cử, không đủ khả năng đánh vào các thị xã, ông vẫn tin tưởng mình sẽ lên làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa.
Về điểm này ông Nguyễn Tiến Hưng nói:
“Trái với nhiều người lầm tưởng, Sài Gòn và Washington không hề ngạc nhiên khi cuộc tấn công mùa Xuân 1975 xẩy ra. Tin tức tình báo cũng như đánh giá về khả năng này đã được thông báo đầy đủ cho phía Hoa Kỳ từ cuối năm 1974 qua nhiều ngả.
Ngày sáu tháng 12, 1974, một phiên họp mật tại Dinh Độc Lập về tình hình quân sự đã đi đến kết luận là năm 1975 sẽ có một cuộc tổng tấn công với mức độ 1972, đi tới cao điểm vào tháng 10, 1975 lúc đó có bầu cử tổng thống ở Việt Nam, rồi kéo dài tới 1976 là năm bầu cử tại Hoa Kỳ” (Khi Đồng Minh Tháo Chạy -Trang 248)
Nhận định này chắc không đúng vì như đã dẫn chứng ở trên tác giả Frank Snepp, Đại tướng BV Văn Tiến Dũng, cựu Đại tướng Cao Văn Viên đều ghi nhận ông Thiệu cho rằng CSBV không đủ khả năng đánh lớn, đánh vào các thị xã mà chỉ để phá hoại cuộc bầu cử, BV chưa phục hồi sau trận mùa hè đỏ lửa. Chưa tới một tuần sau phiên họp quân sự cao cấp kể trên, vào ngày 13-12-1975 CSBV đưa ba sư đoàn đánh chiếm Phước Long khi ấy ông Thiệu mới tiên đoán là BV sẽ đánh lớn trong năm 1975.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:15:34 GMT 9
Sự thất bại.
Chúng tôi xin sơ lược tình hình quân sự 1975. Phía Việt Nam Cộng: Hòa Không quân có 2,075 máy bay, đứng thứ tư trên thế giới về số lượng, binh chủng Thiết giáp có 2,200 chiếc (hơn 60% là M-113 và các loại xưa cũ), Pháo binh gồm khoảng 1,500 khẩu (60% là súng 105 ly, 25% loại 155 ly, 15% 175 ly), đây chỉ là những số thống kê lý thuyết, trên thực tế nhiều máy bay, xe tăng, đại bác bất khiển dụng, thiếu cơ phận thay thế. Hải quân có 1,600 tầu chiến và giang thuyền đủ các loại.
Lục quân có hơn một triệu, 40% là chủ lực chính qui khoảng 400 ngàn người gồm các lực lượng tác chiến và yểm trợ, 50% là Địa phương quân, nghĩa quân, không quân, hải quân, cảnh sát, đó chỉ là con số lý thuyết trên thực tế không hẳn như vậy vì phải trừ đi số lính đảo ngũ, lính ma lính kiểng… Quân đội VNCH tổ chức theo lối Mỹ, một người tác chiến có năm người yểm trợ thuộc các ngành tài chánh, quân y, quân trang, quân dụng, lính nhà nghề chỉ vào khoảng từ 160 cho tới 180 ngàn người. Chủ lực quân gồm 13 Sư đoàn (11 Sư đoàn BB và 2 Sư đoàn tổng trừ bị) và 15 Liên đoàn Biệt động quân (có tài liệu nói 17 liên đoàn) tương đương hơn 2 Sư đoàn (một Liên đoàn trên thực tế có hơn 1,000 người) bố trí như sau: Quân khu Một: 5 Sư đoàn và 4 Liên đoàn BĐQ, Quân Khu Hai: 2 Sư đoàn và 7 Liên đoàn BĐQ, Quân khu Ba: 3 Sư đoàn và 4 Liên đoàn BĐQ, Quân
Khu Bốn: 3 Sư đoàn.
Phía Cộng Sản Bắc Việt: Theo tài liệu của Nguyễn Đức Phương và tài liệu phía Cộng Sản: Lực lực lượng chính qui Bắc Việt 1975 có 4 Quân đoàn (gọi theo thứ tự 1, 2, 3, 4) và đoàn 232 tương đương một Quân đoàn, mỗi Quân đoàn có 3 Sư đoàn, tổng cộng có 15 Sư đoàn chính qui, thêm vào đó một Sư đoàn đặc công, trên 10 trung đoàn độc lập, toàn bộ lực lượng vào khoảng 20 hoặc 21 Sư đoàn, trên 300 ngàn người. Lực lượng yểm trợ gồm trên 20 lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không.
Hơn 80% bộ đội chính qui Bắc Việt đã có mặt tại miền Nam từ đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn I (gồm 3 Sư đoàn) ở ngoài Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Trọng pháo được ước lượng không chính xác vào khoảng trên 500 khẩu gồm 130 ly, 120 ly… xe tăng khoảng trên 600 chiếc phần nhiều là xe T-54. Theo tài liệu Cộng sản (Dương Đình Lập, Trần Cao Minh, Cuộc Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91) tại Quân khu 2 lực lượng BV gồm 5 Sư đoàn và 4 trung đoàn độc lập, tương đương 6 Sư đoàn. Tại Quân khu 1, lực lượng Cộng quân gồm 8 Sư đoàn (theo Tướng Cao Văn Viên gồm 5 Sư đoàn và trên 10 trung đoàn độc lập, theo Nguyễn Đức Phương gồm 7 Sư đoàn và 4 trung đoàn độc lập)
Xin nêu thêm những khó khăn của VNCH trong giai đoạn này: sau Hiệp định Paris hơn nửa triệu quân Đồng Minh đã rút đi, Quân đội VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường với nhiều khó khăn thiếu thốn. Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương Việt Mên lào, được áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Đông Dương tăng dần từ 1967 là 20 tỷ, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên tới đỉnh cao là 29 tỷ, nhưng năm 1970, 1971 tụt xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Cuối 1972 Hoa Kỳ rút hết quân sau Hiệp định Ba Lê, năm 1973 viện trợ quân sự cho VNCH xuống còn 2 tỷ 1, năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó kể cả ngân khoản để trả lương cho nhân viên DAO Hoa Kỳ.
Theo ông Cao Văn Viên như đã nói ở Chương Bẩy, hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho Không quân VNCH phải giải tán hơn 200 phi cơ chiến đấu, oanh tạc, vận tải thám thính, giảm giờ bay thực tập và yểm trợ, yểm trợ giảm 50%, vận chuyễn trực thăng giảm 70%, không vận bằng vận tải cơ bị cắt giảm 50%. Hoạt động Hải quân bị cắt giảm 50%, hoạt động từ tháng 7-1974 ở sông ngòi giảm 70%, giải tán 600 giang thuyền. Từ tháng 7-1974 hỏa lực giảm trên 70%. Vào tháng 2-1975, số lượng đạn tồn kho của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
Theo Tướng Viên nạn đào ngũ (trang 79) đã khiến cho quân số thiếu hụt, hàng tháng lính đào ngũ trung bình lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định vì nạn trốn quân dịch.
Trong khi đó Cộng Sản Bắc Việt ngày càng gia tăng xâm nhập chuẩn bị đánh lớn, trong khi miền Nam bị Mỹ cắt giảm viện trợ thì BV được Cộng Sản Quốc Tế giúp đở không ngừng nghỉ. Như đã nói ở Chương Bẩy, theo cuộc hội thảo qui mô tại Sài Gòn ngày 14 và 15-4-2006 của Viện Lịch Sử Quân Sự CSVN, trong giai đoạn 1969-1972 Nga, Tầu, Đông Âu đã viện trợ cho Bắc Việt 684,666 tấn vũ khí đạn dược, trong giai đoạn 1973-1975 họ viện trợ cho BV 649,246 tấn vũ khí đạn dược. Khối lượng hàng viện trợ trong hai giai đoạn tương đương nhau nhưng giai đoạn trước (1969-72) sự vận chuyển vũ khí đạn dược gặp nhiều trở ngại vì bị không lực Mỹ trải bom, đánh phá, trái lại giai đoạn sau (1973-75) đường xâm nhập gần như bỏ ngỏ nên BV đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải chuyên chở được nhiều vũ khí đạn dược gấp bội các giai đoạn trước.
Nguyễn Văn Thiệu và cuộc chiến 1975
Sau khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn hay Hành làng 613 song song với đường mòn Hồ chí Minh nhưng nằm trong lãnh thổ VNCH, BV đã xử dụng hằng nghìn xe máy ủi, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong… ngày đêm, phá núi san đèo, xây cống, làm đường, dựng cầu… Tới 1975 thì hoàn tất công trình, tuyến đường rộng 8 m, dài 1200 km, đường dẫn dầu từ Quảng Trị tới Lộc Ninh, chiều dài toàn bộ 5 hệ thống trục dài 5,500 km, 21 trục ngang 1,020 km, hệ thống dẫn dầu dài 5,000km. (Phần này chúng tôi dựa theo tài liệu của Nguyễn Đức Phương và Đặng Phong)
Nhờ hệ thống xa lộ Đông Trường Sơn mà BV đã vận chuyển vào Nam một khối lượng rất lớn súng đạn, sau 1975, CSBV tiết lộ trên báo Sài Gòn Giải Phóng số vũ khí đạn dược của họ năm 1975 coi như gấp 3 lần năm 1972, có thể họ phóng đại lên, nhưng chắc chắn đạn dược vũ khí của BV năm 1975 phải dồi dào hơn năm 1972.
Như chúng ta đã thấy, năm 1975 lực lượng BV tham gia cuộc tổng tấn công lên tới 20 Sư đoàn, gấp hai lần số Sư đoàn của họ tham chiến trong trận Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Theo tài liệu CS, quân số của BV trong giai đoạn 1975 rất dồi dào, các đơn vị, tiểu đoàn quân số đầy đủ, được bổ sung nhiều, tóm lại giai đoạn này BV hơn hẳn VNCH về nhân lực. Tháng 10-1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã lựa chọn chiến trường Tây Nguyên làm chủ yếu. Bộ Chính trị CSBV đã đưa kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976 để chiếm miền Nam. Ngày 9-11-1974 Quân Uỷ Trung Ương họp quyết tâm đánh Ban Mê Thuột, chiến dịch được mang tên 275.
Ngày 13-12-1974 CSBV tấn công Phước Long, lực lượng trú phòng VNCH chiến đấu anh dũng cho tới 7-1-1975 thì thất thủ, trong số 4,500 binh lính, sĩ quan VNCH chỉ còn 850 người sống sót, còn lại bị giết, bị bắt. Một tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn địa phương quân không thể chống lại gần 3 Sư đoàn CSBV. Khi ấy ông Thiệu mới biết lực lượng địch không yếu như ông đã đánh giá.
Chính phủ cho biết không thể tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng tiếp tế, cứu viện bằng trực thăng từ Biên Hòa vả lại về mặt kinh tế, chính trị, Phước Long không bằng Pleiku, Tây Ninh, Huế nên phải giữ lực lượng để bảo vệ các vùng khác. CSBV đánh Phước Long để thăm dò dư luậïn Mỹ và thấy Mỹ chỉ phản đối xuông, cũng có ý kiến cho rằng ông Thiệu cố tình hy sinh Phước Long để kéo Hoa kỳ trở lại yểm trợ cho VNCH.
Khi ấy ta biết chắc BV sẽ đánh lớn vào đầu năm 1975 nhưng chưa biết tại đâu. Đầu tháng 3-1975, BV vờ cho pháo kích Pleiku dữ dội để đánh lạc hướng nhử cho các đơn vị VNCH lên giải tỏa rồi cắt các đường giao thông (19, 14, 21) dẫn đến Ban Mê Thuột, nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc. Ban Mê Thuột là một tỉnh lớn tại Cao Nguyên với số dân khoảng 200 ngàn người, có nhiều đồn điền cà phê, trà, cao su. Trong trận tấn công này, BV không đóng quân ở vị trí xuất phát mà từ xa vận động tới, chuyển quân bằng xe Molotova, lần đầu tiên lính BV đánh trận bằng xe hơi, họ bỏ vòng ngoài, đánh thẳng vào thị xã, không đánh theo lối bóc vỏ.
Hai giờ sáng ngày 10 tháng 3, tổng cộng 12 trung đoàn CSBV tiến đánh Ban Mê Thuột sau khi pháo kích ồ ạt, đổ bão lửa lên thị xã, trong một ngày BV đã làm chủ tình hình. Quân trú phòng chỉ có 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 BB (có tài liệu nói 2 tiểu đoàn) còn lại là ba tiểu đoàn Địa phương quân, các đơn vị nghĩa quân, cảnh sát, theo Nguyễn Định một nhân chứng tại đây cho biết tổng cộng chỉ vào khoảng 2,000 người (có lẽ khoảng 4,000 người vì Ban Mê Thuột là một tỉnh lớn). Tướng tư lệnh Quân đoàn Phạm Văn Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban mê Thuột nhưng không đạt được mục tiêu.
Một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 (có tài liệu nói 2 tiểu đoàn) chiến đấu chống trả dữ dội cho tới ngày 17-3 thì chấm dứt, hầu hết các binh sỉ tử trận, theo Nguyễn Định, địa phương quân, nghĩa quân, cảnh sát dã chiến đã chiến đấu rất gay go anh dũng nhưng không thế chống lại áp lực đông đảo của BV. Kế hoạch phản công tái chiếm ban Mê Thuộït thất bại vì ta không đủ lực lượng vả lại các đường vào Ban Mê Thuột đã bị cắt. Theo hồi ký của Văn Tiến Dũng, khi chiếm xong Ban Mê Thuột, Tướng Cục trưởng hậu cần Bắc Việt Đinh Đức Thiện xoè hai bàn tay nói bỏ một vốn mà lời mười, ý nói lấy được rất nhiều đạn dược, vũ khí, tiếp liệu của ta trong kho.
Thiếu tướng Phạm Văn Phú mới nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân đoàn 2 được vài tháng kể từ 5-11-1974 nên chưa nắm vững tình hình, dư luận chung các giới chức quân sự, ký giả, sử gia đều cho rằng ông không đủ khả năng chỉ huy một Quân đoàn nên đã để mất Ban Mê Thuột, ông Cao Văn Viên cho rằng việc thay đổi chức vụ Tư lệnh Quân khu 2 là một trong những nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột.
Những nguyên do chính khiến Ban Mê Thuột thất thủ
- Tướng Phú mắc lừa kế nghi binh của BV. - Lãnh thổ quá rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn, bố trí lực lượng không đủ đương đầu với áp lực địch. - Thiếu tin tức tình báo.
Như đã nói ở Chương Chín, ngày11-3-1975 ông Thiệu họp với Thủ tướng, Trung Tướng Đặng Văn Quang và Đại Tướng Cao Văn Viên, ông cho biết sẽ áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng vì không đủ quân số bảo vệ lãnh thổ quốc gia. Ngày 12-3-1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết bác bỏ 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc và bác luôn quân viện cho năm tới.
Ngày 13-3-1975, sau khi mất Ban Mê Thuột, TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn I về Sài Gòn họp Hội đồng an ninh Quốc Gia với Thủ Tướng, các Tướng Viên, Tướng Quang, Tướng Toàn và tuyên bố kế hoạch tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền rừng núi để giữ những vùng mầu mở.
Ngày 14-3 ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt Thủ tướng, Tướng Quang, Tướng Viên, Tướng Phú. Ông lệnh cho Tướng Phú phải rút quân bỏ Kontum Pleiku về duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Như đã nói ở Chương Tám, Quân đoàn 2 tan rả sau mười ngày triệt thoái kể từ ngày 16-3-1975
Ngày 22-3-1975 Tỉnh Quảng Đức di tản. Ngày 25 và 26 -3 Sư đoàn 7 CSBV tấn công chiếm Định Quán, Hoài Đức Giá Rai rồi tiến vào Lâm Đồng khiến cho tỉnh lỵ này phải di tản ngày 27-3, mấy ngày sau Đà Lạt cũng di tản. Cuối tháng 3, đầu tháng 4-1975 mất Qui nhơn, Nha Trang hỗn loạn mất ngày 2-4, Quân khu 2 mất 10 tỉnh chỉ còn Phan Rang, Phan Thiết.
Ngày 19-3 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được mời về Sài Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó Tổng Thống Trần Văn Hương.
Tướng Trưởng trình bầy hai kế hoạch lui binh.
Kế hoạch Một: Các đơn vị sẽ theo Quốc Lộ Một từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị địch cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu lai. Tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng.
Ngày 19-3 Quảng Trị bỏ ngỏ.
Sáng 20-3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng Thống đã ra lệnh giữ bằng mọi giá. phòng thủ tốt đẹp. Trưa hôm 20-3 ông Thiệu đọc hiệu triệu trên đài phát thanh Huế, chiều hôm ấy ông ra lệnh Tướng Trưởng bỏ Huế.
Quân khu 1 ngày một nguy ngập, Cộng quân đấu tấn công mạnh theo, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngãi kéo lên. Sáng ngày 24-3 tại phía Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 và xe tăng đánh Tam kỳ.
Ngày 25-3 tất cả các đơn vị Quân đoàn 1 tụ lại 3 phòng tuyến chính: Nam Chu Lai, Đà Nẵng và Bắc Huế, các lực lượng của Quân đoàn 1 bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn 1 và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngãi rút ra Cù Lao Ré bằng tầu dương vận hạm, một nửa quân số của Sư đoàn 2 đã lên tầu đưa về Bình Tuy, Huế và Chu lai thất thủ ngày 25-3.
Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn 1 và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền, trong khi ấy Việt Cộng đuổi theo nã pháo vào các địa điểm tập trung quân gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra, Sư đoàn 1 tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được Đà nẵng. Hơn 100 thiết giáp các loại từ Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, và các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ… từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn hơn trước. Cộng quân lại pháo kích vào địa điểm tập trung gây thiệt hại nặng.
Ngày 27-3 Các cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Việt cộng dồn nỗ lực bao vây thành phố. Các sư đoàn BV bao vây Đà Nẵng, sáng ngày 28-3 Tướng Trưởng cho tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ quân để thực hiện. Việt Cộng pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội. Tướng Trưởng xin di tản bằng đường biển, ông Thiệu không ra lệnh rõ ràng. Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại: chân đèo Hải Vân, núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29-3-1975. Tổng cộng có 70 ngàn người dân và 16 ngàn lính được cứu thoát, 4 Sư đoàn bị thiệt hại nặng nề, vũ khí, đạn dược coi như mất hết. Quân khu 1 nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại coi như tồi tệ so với Quân đoàn 2, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn nhiều.
Như đã thấy cả hai Quân khu 1 và 2 đã tan rã trong vòng hai tuần lễ kể từ ngày triệt thoái Quân đoàn 2 vào ngày 14-3-1975 cho tới cuối tháng 3-1975 theo lệnh của TT Thiệu, trong chiến tranh Việt Nam cũng như chiến tranh Đông Dương thật chưa bao giờ có sự thiệt hại lớn và nhanh như thế, Cộng sản chiếm được một nửa đất nước mà không phải giao tranh dai dẳng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:16:14 GMT 9
Nhận xét
Mặc dù mang cấp bậc Trung tướng ba sao trong quân đội nhưng trên thực tế TT Thiệu chỉ là một chính trị gia chứ không phải là một Tướng lãnh nhà nghề như các Tướng Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Khoa Nam… TT Thiệu trên thực tế không có khả năng và kinh nghiệm trong việc chỉ huy những đại đơn vị cấp Quân đoàn trở lên. Trên nguyên tắc Tổng thống là Tổng Tư lệnh quân đội có quyền tuyên chiến nhưng việc điều binh khiển tướng, điều động các đơn vị ngoài chiến trường cấp Sư đoàn, Quân đoàn thuộc nhiệm vụ của Bộ tổng tham mưu. Trên thực tế Bộ TTM không có thực quyền, tất cả những lệnh điều quân lớn cấp Quân đoàn ngoài mặt trận như tình hình 1975 đều do Tổng thống nắm giữ.
TT Thiệu nắm toàn quyền quân sự nhưng ông không thực sự nắm vững tình hình trong nước. Trong khi hơn 80% lực lượng BV đã có mặt tại miền Nam vào cuối năm 1974 và đầu 1975 với quân số, đạn dược gấp hai lần năm 1972 nhưng ông vẫn lạc quan cho rằng CSVN không đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn, chưa thể phục hồi sau trận Mùa hè đỏ lửa 1972. Đó là một lỗi lầm tai hại đưa tới sự thảm bại như ta đã thấy.
TT Thiệu đã dẫm chân lên công việc của Bộ Tổng tham mưu, ôm quá nhiều trọng trách lớn cả về chính trị lẫn quân sự, từ đàm phán hiệp định đình chiến, hoạch định chính sách Quốc gia đến cả việc điều động các lực lượng đại binh trong trận chiến lớn, nghĩ rằng ngoài ông ra không ai có thể làm được. Chẳng có gì khó hiểu khi thấy hai Quân đoàn, hai Vùng chiến thuật, một nửa giang san đã tan rã nhanh chóng trong vòng hai tuần lễ.
Như đã thấy, kể từ ngày mất Ban Mê Thuột, TT Thiệu nắm trọn quyền hành quân sự trong tay, không chia sẻ cho Bộ tổng tham mưu hay các Quân đoàn tí nào. Tại Vùng 2, ông nhất định bắt Tướng Phú phải rút bỏ Pleiku, Kontum về duyên hải để hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột, một con đường hành quân chữ U rất dài trong khi ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, săng dầu. Sự thực ông cũng một công đôi chuyện, vừa cho rút quân tái phối trí và vừa giả vờ thua chạy để người Mỹ đau xót phải nhẩy vào cứu nguy, điều này chứng tỏ ông không có tầm nhìn xa ở cương vị một nhà lãnh đạo, người ta đã có chính sách bỏ Đông Dương từ mấy năm trước
Trước một quyết định quan trọng liên quan tới sinh mạng của hàng trăm ngàn người, tới vận mệnh của cả nước ông Thiệu không cho ai bàn thảo, góp lời mà tự ý quyết định hết y như Staline hay Hiler thời Đệ nhị thế chiến. Như đã thấy ngày 14-3-1975, mặc dù mất Ban Mê Thuột, VNCH mới chỉ mất đất nhưng chưa bị sứt mẻ lực lượng bao nhiêu, tại đây VNCH mất một hoặc hai tiểu đoàn chính qui, ba tiểu đoàn địa phương quân, nghĩa quân, cảnh sát…
Như đã nói tại Chương Chín, ông Cao Văn Viên cho biết mặc dù mất Ban Mê Thuột nhưng lực lượng ta tại quân khu 2 chưa bị sứt mẻ bao nhiêu. Ban Mê Thuột mất, quân đội ta tại KonTum Pleiku vẫn còn mạnh: một tiểu đoàn của Trung đoàn 45, năm Liên đoàn Biệt Động Quân, Thiết đoàn 21 kỵ binh (xe tăng M-48), hai tiểu đoàn pháo binh 155 ly, một tiểu đoàn 175 ly, các đơn vị Nghĩa quân, Địa phương quân, Liên đoàn Công binh chiến đấu, Liên đoàn 231 tiếp liệu, 20 ngàn tấn đạn, bom của bộ binh, không quân; nhiên liệu đủ cung cấp cho 45 ngày, thực phẩm cho 60 ngày. Với một lực lượïng như thế CSBV chưa dễ chiếm Pleiku, Kontum ngay được.
Lực lượng còn khá mạnh nhưng TT Thiệu nhất quyết rút bỏ cả Quân khu một cách vô lý khiến nhiều người nghi ngờ đặt nhiều giả thuyết.
Theo ghi nhận của Phạm Huấn, Tướng Phú đã nài nỉ xin ở lại giữ đất vì cho rằng tiềm năng của ta còn đủ để đương đầu với nghịch cảnh nhưng quyết định độc đoán của TT Thiệu đã làm tiêu tan mọi hy vọng. Cuộc triệt thoái Quân đoàn 2 hay cuộc hành quân phá sản đã làm tan rã 75% lực lượng của quân đoàn, 20 ngàn tấn bom đạn coi như mất hết, một phần không ít lọt vào tay Cộng quân , VNCH đang thiếu thốn đạn dược nay lâm vào tình trạng kiệt quệ sau hai tuần triệt thoái.
Như ở Chương Chín, cựu Tướng Viên cho rằng miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không có tái phối trí. Kế hoạch đã hủy diệt tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Không có tái phối trí quân đội VNCH không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột BV vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng 2. Duyên hải Vùng 2 vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng 2 có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, BV không thể chiếm được nhiều đất nhanh như thế.
Các giới chức quân sự, chính trị, truyền thông cũng cho rằng nếu ta không rút, cứ đánh chưa chắc đã thua. Sách Mạnh Tử có câu “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa”. Ngài giảng: Kẻ địch cất quân sang đánh nước ta là chúng có thiên thời, nước ta có núi non hiểm trở, thành lũy cao, hào sâu là ta có địa lợi, nhưng khi quân địch vừa tới, binh sĩ ta quăng gươm giáo bỏ chạy là vì ta không có nhân hòa… (ta không được lòng người). Thật vậy chúng ta lui binh tức là từ bỏ ưu thế địa lợi để rồi mất luôn cả ưu thế nhân hòa.
Trước một kế hoạch lớn, nếu để cho các vị Tướng lãnh bàn thảo thì TT Thiệu đã tránh được trách nhiệm bản thân, các vị Tư lệnh Quân đoàn đều muốn tử thủ nhưng ông lại ra lệnh lui binh. Lịch sử đã chứng tỏ rằng sự tập trung quyền hành trong tay một người đã đưa tới những sai lầm trầm trọng như Hitler đã làm tiêu tan nguyên một lộ quân ba trăm ngàn người trong trận Stalingrad 1942 vì quá độc tài.
Về hậu quả tai hại của kế hoạch rút quân di tản hai quân khu kể trên đã có nhiều giả thuyết, nhận định của các giới chức quân sự, chính khách, sử gia, ký giả… chúng ta có thể chia làm ba nhóm chính.
-TT Nguyễn Văn Thiệu là một nhà quân sự dở, không đủ khả năng để chỉ huy, điều động những đại đơn vị. -Ông chơi cờ bạc tháu cáy, giả vờ thua chạy để dụ người Mỹ nhẩy vào can thiệp. -Ông làm theo lệnh của người Mỹ.
Nhiều người nghĩ có lẽ ông là một nhà quân sự dở, mà cũng có thể cả ba giả thuyết này đều đúng. Ngày 14-3-1975 ông ra lệnh cho Tướng Phú rút quân khỏi Kontum, Pleiku xuống Tuy Hòa, từ đó về Nha Trang, rồi từ Nha Trang đi ngược lên Cao nguyên tái chiếm Ban Mê Thuột. Con đường đi theo hình chữ U như vậy dài gấp mấy lần đường từ Pleiku thẳng xuống Ban mê Thuột, nó sẽ vô cùng khó khăn trắc trở cho cuộc hành quân nhất là khi ta đang thiếu thốn về tiếp liệu. Từ những sự vô lý đó đã đưa đến nhiều giả thuyết như đã nêu trên.
Napoléon nói “Thượng đế chỉ đứng về phía kẻ nào có nhiều đại bác” nhưng thực tế đã chứng tỏ lời của ông không hoàn toàn đúng. Tại trận Borodino, nước Nga năm 1812, lực lượng Pháp mạnh hơn Nga, Napoléon áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung cố hữu, ông cho tập trung hơn 200 cỗ đại bác bắn nát nhừ mục tiêu rồi cho kỵ binh và bộ binh xung phong tấn công nhưng quân Nga vẫn gan lì giữ vững vị trí. Đây là lần đầu tiên Napoléon thất bại, như vậy không hẳn nhờ hỏa lực mạnh mà thắng vì còn phải kể tinh thần binh sĩ. Theo Tướng Viên sự thất bại của cuộc lui binh không phải do ở áp lực địch mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa.
Cuối tháng 3-1975 Quân khu 1 hoàn toàn do CSBV kiểm soát, Quân khu 2 coi như mất hết chỉ còn 2 tỉnh Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân Khu 3. Kế hoạch tái phối trí đã gây thiệt hại khoảng 40% vũ khí, đạn dược, tiếp liệu, quân nhu toàn quốc của VNCH, một số lượng lớn đã lọt vào tay CSBV. Miền Nam đã thiếu hụt nhiên liệu, đạn dược nay lại càng thiếu hụt trầm trọng thêm.
Các Sư đoàn bộ binh, các đơn vị yểm trợ, tiếp liệu thuộc hai Quân khu cũng mất quá nhiều quân số qua hai cuộc lui binh lại không gây thiệt hại nhiều cho BV. Phần đất còn lại của miền Nam không thể tồn tại nếu không có yểm trợ của oanh tạc cơ B-52 hoặc viện trợ khẩn cấp của Hoa Kỳ. Giữa tháng 4-1975 mặc dù VNCH đánh thắng được hai trận Long Khánh và Long An nhưng không cứu vãn nổi tình thế.
Ngày 28- 3-1975, TT Ford cử Tướng Weyand tới Sài Gòn để nghiên cứu tình hình, sự thực họ đang chuẩn bị rút ra, Bộ quốc phòng Mỹ đã cử người (Marbod, Armitage) sang VN để tìm cách thu hồi máy bay, quân dụng, tầu bè của VNCH để khỏi lọt vào tay CS. Ngày 4- 4-1975 Tướng Weyand về Mỹ đề nghị ngân khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu. Ngày 10-4-1975 TT Ford ra trước Quốc hội nói về tình hình Việt Nam và đề nghị Quốc hội chấp nhận ngân khoản 722 triệu viện trợ quân sự khẩn cấp, ông đưa ra thời hạn 10 ngày. Trong khoảng thời gian này tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn khuyến khích quân đội VNCH cố gắng tạo chiến thắng để yểm trợ cho đề nghị của hành pháp Mỹ. Tại Long Khánh Sư đoàn 18 đã anh dũng đẩy lui cuộc tấn công của các Sư đoàn BV, tại Thủ Thừa Long An Cộng quân bị thiệt hại nặng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 20:16:52 GMT 9
Tân Sơn Nhất, di tản tháng tư 1975.
Ngày 18-4-1975 Ủy ban Quốc Phòng Thượng Viện Mỹ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp kể trên của Tổng thống Ford một phần vì kế hoạch tái phối trí của ông Thiệu đã làm tan rã thiệt hại một nửa lực lượng, một nửa số bom đạn, vũ khí nặng cũa VNCH, Lập pháp Hoa kỳ lý luận dù có viện trợ thêm 722 triệu cũng không thể đảo ngược tình hình, chỉ kéo dài thêm chiến tranh tang tóc mà thôi. Quốc hội Mỹ do đảng Dân chủ nắm giữ chủ trương rút bỏ VN, thêm vào đó kế hoạch điều quân thất bại nặng nề của TT Thiệu đã khiến họ có cớ bác bỏ viện trợ quân sự cho chúng ta vào giờ chót. Như Tướng Cao Văn Viên đã nói nếu không có tái phối trí và hậu quả tai hại của nó VNCH có nhiều cơ hội hơn, ta có thể hiểu rằng miền Nam còn có cơ hội xin được viện trợ quân sự tiếp tục cuộc chiến đấu tự vệ.
Ngày 21-4-1975 TT Thiệu từ chức, ông chỉ chịu từ bỏ quyền hành khi tình hình đến lúc tuyệt vọng, không thể cứu vãn gì được, khi Cộng quân đã chuẩn bị bao vây khóa chặt thủ đô Sài Gòn.
TT Thiệu và Thủ tướng Khiêm bỏ nước ra đi ngày 24-4-1975, phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay được mấy ngày rồi bàn giao cho ông Dương Văn Minh để rồi mấy ngày sau, 30-4-1975 miền Nam hoàn toàn sụp đổ.
Trong truyện Chiến Tranh Và Hòa Bình, War and Peace viết 1869, nhà Văn hào Léon Tolstoi bác bỏ những nhận định của các sử gia cho rằng vĩ nhân, lãnh tụ là những kẻ tạo ra biến cố lịch sử. Ông cho rằng vĩ nhân không có tác động gì tới lịch mà cũng chỉ là quân cờ của lịch sử, cuối cùng bị lôi cuốn trôi theo dòng lịch sử, Tolstoi nói rằng những nguyên nhân gây ra biến cố tiềm ẩn và cấu kết với để nhau tạo lên định mệnh lịch sử.
Đi tìm những nguyên nhân gây nên sự sụp đổ miền Nam, ngoài sự sai lầm của TT Thiệu ra chúng ta có thể kể thêm nhiều nguyên nhân, yếu tố quan trọng khác: Người Mỹ đổi chính sách bỏ Đông Dương, quân viện bị cắt giảm, thuyết Domino không còn giá trị, dân chúng di tản làm náo loạn cả lên, tin đồn cắt đất nhường cho CSBV, đài BBC tuyên truyền phá hoại, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ đơn vị chạy trước… Những nguyên nhân ấy đều đúng nhưng trách nhiệm nặng nề của ông Thiệu là điều không thể phủ nhận được, chính ông đã nói một câu tiếng Tây thế này.
“Je suis responsable, mais pas coupable”, tôi chịu trách nhiệm nhưng không có tội!…
Tình hình quân sự chính trị miền Nam cuối thập niên 60 đầu 70 vô cùng cam go, chúng ta một mặt phải chiến đấu chống kẻ thù dai dẳng kiên trì lại phải đối đầu với một đồng minh chán nản đang tìm cách rút quân bỏ Đông Dương. Trước những khó khăn chồng chất, những thử thách lớn lao ấy TT Thiệu nên rút lui để tránh trách nhiệm, lại nữa sự thay đổi nhân sự có thể sẽ đem lại một chân trời mới cho tình hình bế tắc, nhưng ông vẫn khăng khăng nắm giữ quyền hành. TT Thiệu chủ quan sai lầm trầm trọng ở chỗ nghĩ rằng ngoài ông ra không ai đủ khả năng cứu miền Nam thoát cơn nguy biến, ông đã tự đánh lừa chính bản thân mình để giữ độc quyền yêu nước, độc quyền cứu nước.
Sau ngày ngưng bắn 27-1-1973, trong khi Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn trong lãnh thổ VNCH song song với đường mòn Hồ Chí Minh để chuyển vậïn vũ khí vào Nam, chính phủ Thiệu đã không có một chính sách quân sự chính trị nào để ứng phó với tình thế. Mọi người đều biết, TT Thiệu chỉ thụ động chờ sự can thiệp của Mỹ, ông đã không nắm vững tình hình đợi khi nước đến chân mới nhẩy. Ông Thiệu quá tin tưởng vào lời hứa hẹn của cựu TT Nixon ngoài ra không thấy có kế hoạch nào khác.
Thập niên 70 và nhất là những tháng cuối của 1974, những cuộc biểu tình chống chính phủ Thiệu liên miên tại Sài Gòn của sinh viên, các tôn giáo, đảng phái đối lập… đã chứng tỏ rằng chế độ của TT Thiệu bị mất lòng dân, ông phải nhận thức rõ điều này hơn ai hết để hoặc là thay đổi đường lối chính sách cho phù hợp nguyêïn vọng người dân, hoặc nhường lại chính quyền cho nhà lãnh đạo khác thì miền Nam hy vọng có cơ hội sống còn.
Tướng Cao Văn Viên cũng nói ở phần kết luận cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH.
“Cấp lãnh đạo VNCH không thấy rõ sự thay đổi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, khi Hoa Kỳ chuyển sang thái độ hòa hoãn, thỏa hiệp với Cộng sản quốc tế – dù phải thất hứa với đồng minh. Vì không nhận rõ sự thay đổi ngoại giao của Hoa Kỳ, cấp lãnh đạo VNCH đã không uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia cho phù hợp với thực trạng và tình thế. Sau hiệp định Paris 1973, VNCH vẫn trông đợi vào những hứa hẹn xa vời và bất thể hiện” (Trang 236)
Cấp lãnh đạo VNCH không có tầm nhìn xa để thấy đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ đã thay đổi, gió đã đổi chiều, cương vị một nhà lãnh đạo yêu nước, TT Thiệu cần có sự hy sinh khi thấy địa vị của mình không còn phù hợp tình hình lúc ấy. Thực tế chứng tỏ TT Thiệu vẫn không chịu từ bỏ ý nghĩ rất chủ quan cho rằng ngoài ông ra không ai có thể đảm đương trọng trách quốc dân đã trao phó cho ông để tiếp tục giữ độc quyền cứu nước độc quyền yêu nước, đó là một lỗi lầm tai hại. Cuối cùng như đã thấy TT Thiệu chỉ chịu từ bỏ chức vị khi thực trạng đã quá bi đát và ông đã vứt bỏ cái chính quyền vào đống rác mặc cho ai muốn lượm thì lượm như một nhà báo đã nói trong một bài viết nhân ngày 30-4 năm 2005.
Nhiều người than thở chúng ta không có được nhà lãnh đạo xứng đáng, tài đức như Pak Chung Hee, người đã đưa đất nước Đại Hàn tới chỗ phú cường. Đất nước gặp vận xui, trong khi phù thủy ma quái tạo cuồng phong, gây giông bão, chúng ta lại không có được người đủ khả năng lèo lái con thuyền quốc gia để vượt qua cơn sóng gió.
Nói ra thì chuyện đã rồi, dù có qui trách cho ông Thiệu, các vị Tư lệnh, cho những người di tản… thì miền Nam đã mất, tiếc rằng mọi cơ hội đều đã vuột khỏi tầm tay. Chúng ta được một bài học quá đắt mà cái giá của nó bằng cả non sông gấm vóc.
Trích trong Cuộc Chiến Việt Nam Dưới Nhiều Khía Cạnh, xuất bản tháng 4-2010)
Tài Liệu Tham Khảo
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa, Vietnambibliography 2003. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam 2001. Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988. Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987. Trần Văn Nhựt: Cuộc Chiến Dang Dở, An Lộc xuất bản 2003. Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng, Nam Việt 2006. Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh 2005. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Được Nhắc Tới, Texas 1991. Ngô Quang Trưởng: Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn Một, Sài Gòn Nhỏ Dallas 26-1-2007, Lê Bá Chư ghi chép. Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Hà Nội 2004. Dương Đình Lập, Trần Cao Minh: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng hợp, Sài Gòn 2005. Đặng Phong, 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí Thức Hà Nội, 2008 Richard Nixon:No More Vietnams, Arbor House, New York 1985. Wikipedia: War Powers Resolution. Lâm Quang Thi: Autopsy The Death of South Vietnam, Sphinx publishing 1986. The World Almanac of The Vietnam War, General editor John S. Bowman, A Bison book 1985. Stanley Karnov: Vietnam A History, A Penguin book 1991. Marilyn B. Young, John J. Fritzgerald. A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History in Documents, Oxford University press 2002. Leo. Tolstoy: War And Peace, The Maude translation, W.W Norton & Company, Inc 1966. Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2005. Lewis Sorley: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Không Phải Là Bù Nhìn Của Mỹ, Toàn Như dịch, Nguoivietboston.com, October-9-2008. Nguyễn Đạt Thịnh, Một Góc Khác Của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Motgoctroi.com. Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006. BBC.Vietnamese.com, 10-5-2006: Viện Trợ Quốc Tế Cho Miền Bắc Trong Chiến Tranh.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 4:55:13 GMT 9
SỰ HỐI HẬN MUỘN MÀNGtac gia: Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất Sisowath Sirik Matak The three men behind the coup of 1970. From left to right, Sirik Matak, Lon Nol, and In Tam. thbl6869.blogspot.com/search/label/T%C3%A0i%20Li%E1%BB%87uwww.flickr.com/photos/13476480@N07/show/with/4514239546Trước khi Khmer Đỏ vào Phnom Penh, ngày 12-4-1975, ông Đại Sứ Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, đưa ra đề nghị mời các giới chức hàng đầu trong Chính Phủ Cộng Hòa Khmer đi tỵ nạn tại Mỹ, nhưng các ông Sirik Matak, Long Boret, và Lon Non , cùng với các thành viên trong Nội Các Lon Non từ chối, mặc dù các ông Long Boret và Sirik Matak đã có tên trong danh sách tử hình "7 Kẻ Phản Bội’ của Khmer Đỏ. Ông Sirik Matak viết thư trả lời ông Đại Sứ Mỹ như sau: Tôi thành thực cám ơn lá thư của ngài cùng với lời đề nghị đưa tôi đi tị nạn. Rất tiếc, tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế được. Về phần ngài và đặc biệt về phần quốc gia vĩ đại của ngài, tôi không bao giờ mảy may tin rằng quí vị lại có ý bỏ rơi một dân tộc đã chọn lựa tự do. Quí vị đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng làm gì được. Quí vị rời bỏ chúng tôi và tôi xin cầu mong cho ngài và đất nước của ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời. Xin ngài ghi nhớ điều này là, nếu tôi có chết ngay lập tức tại đây trên quê hương của tôi mà tôi yêu dấu, thì đó là điều quá tồi tệ, bởi vì tất cả chúng ta đều sinh ra và một ngày nào đó phải chết. Tôi chỉ phạm phải một sai lầm là đã tin vào quí ngài, những người Mỹ. Thưa ngài Đại Sứ, người bạn quí mến của tôi, xin ngài nhận nơi đây tình cảm chân thành và tha thiết của tôi. Hoàng Thân Sirik Matak (*) Thủ tướng Cam Bốt Sirik Matak và cả chính phủ của ông Lon Non vì tin vào Mỹ nên mất nước và bị Khmer Đỏ phanh thây. Nhiều người VN cho đến bây giờ vẫn còn trông chờ Mỹ giúp họ đánh đuổi VGCS. Nhân mùa Quốc Hận tưởng niệm ngày 30-4-1975, nhắc lại sự kiện Sirik Matak để học hỏi và tìm hiểu xem người Mỹ thực sự chống cộng sản ra sao thiết nghĩ cũng chẳng phải là chuyện vô bổ. Người viết xin mở một dấu ngoặc để lưu ý bạn đọc. Chữ "người Mỹ" chúng tôi dùng trong bài là để chỉ chính quyền và các tập đoàn tư bản Mỹ chứ không nói nhân dân Hoa Kỳ. Mỹ và Liên Sô Tháng 5-1943, quân đội Đồng Minh đã đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi Phi Châu. Sau đó một tháng, Đồng Minh đổ bộ lên đảo Sicily, và ngày 3-9 các lực lượng Đồng Minh chiếm toàn bộ nước Ý. Nhưng đột nhiên và bất ngờ, quân Đồng Minh bị buộc phải dừng lại chỉ còn cách biên giới phía Nam nước Đức vài trăm dặm. Guồng máy chiến tranh kinh khủng -danh từ đại tướng Mark Clark thường gọi quân Đồng Minh- tiến lên hướng Bắc xuyên qua Ý kéo dài cuộc chiến đấu mấy tháng trời vô lý không thể tan vỡ được. Trong cuốn sách viết năm 1950 "Calculated Risk", ông tuyên bố: "Một chiến dịch có thể làm thay đổi lịch sử liên hệ giữa Tây Phương và Nga Sô đã bị mờ dần. Đó là những quyết định từ cấp thượng tầng và vì những lý do ngoài thẩm quyền và hiểu biết của tôi. Không phải theo ý kiến của tôi, mà của một số các chuyên gia cận kề với vấn đề, việc giảm cường độ chiến dịch tại Ý, thay vì tiến quân vào Balkan, là một trong các lầm lỗi chính trị nổi bật của cuộc chiến." Sự trì hoãn được giải thích là để tập trung quân đánh vào miền Bắc nước Pháp 9 tháng sau đó, thực ra đã cho Liên Sô có thì giờ thanh toán quân đội Đức trong chiến dịch Barbarossa đã bị đánh tơi tả để tiến về phía Tây Âu. Quyết định rút các sư đoàn tác chiến khỏi mặt trận Ý Đại Lợi ngay lúc họ có thể thọc mũi dùi vào chỗ hiểm yếu của quân Đức đã được hoạch định từ Hội Nghị Đồng Minh ở Quebec năm 1943. Ở đó Churchill muốn từ phía Nam tấn công thẳng vào nước Đức, chiếm Trung Âu và vùng Balkan trước khi các vùng này kịp rơi vào chế độ nô lệ đỏ. Nhưng Churchill đã bị Hoa Kỳ gạt đi. Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng, những đơn vị rút khỏi Ý sẽ được sử dụng để đổ bộ Pháp lần thứ hai. Sau cuộc đổ bộ lên Normandy nước Pháp tháng 6-1944, quân Đồng Minh được đặt dưới quyền chỉ huy của Eisenhower, một vị tướng mà hoạn lộ như diều gặp gió và là chuẩn thành viên của Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on Foreign Relations). Ông tướng trận này được cố vấn bởi Bernard Baruch, một nhà tài chánh, cố vấn của các TT Wilson và Roosevelt thời Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Hiểu rõ được sự liên hệ này, người ta có thể hiểu được cuộc chiến, và lý do tại sao Đông Âu lại được trao cho Liên Sô. Tướng Wrangel chỉ huy đoàn quân Bạch Nga ở miền Nam đang chiến thắng bọn Bolsheviks thì được lệnh từ phía Đồng Minh buộc phải rút lui về khu vực Biển Đen và bỏ nước Nga. Nếu từ chốị ông sẽ bị cắt đứt tiếp liệu và quân lính sẽ bị nguy hiểm. Những nhân viên tình báo Đồng Minh phá hủy những máy bay mà ông tự sắm lấy. Tướng Wrangel rơi vào tình trạng bó buộc phải từ bỏ việc giải phóng nước Nga. Thống chế Kolchak cũng ở vào tình trạng tương tự. Ông lãnh đạo lực lượng chống cộng tại mặt trận phía Đông. Ông cũng bị cắt đứt tiếp tế trong khi đang chiến thắng Hồng Quân Liên Sô. Trên mặt trận miền Đông, quân Liên Sô được tự do. Sự tiến quân của Nga chạy đua với các lực lượng Tây Âu, mặc dù các lực lượng này, dưới quyền chỉ huy của tướng Eisenhower, bị giữ chân ở nhiều điểm như Prague chẳng hạn. Sự thể đã cho phép Liên Sô đoạt được những vùng mà lực lượng Hoa Kỳ có thể chiếm giữ trước một cách dễ dàng. Tuớng Patton cũng như tướng Clark của Đồng Minh đều không tưởng tượng được tại sao các miền Đông Âu lại bị nhường cho quân đội Nga. Nhưng chuyện bí mật vĩ đại này không thể che giấu được dưới ánh sáng mặt trời. Lý do là vì Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on Foreign Relations) giữ một vai trò trong yếu trong nền chính trị Hoa Kỳ. Người ta nói Hội Đồng là người ngồi ghế tài xế của chiếc xe. Mục sư Jim Shaw, một cựu hội viên Hội Tam Điểm bậc 33 sau khi rút lui khỏi hội Tam Điểm, trong một cuộc phỏng vấn năm 1989 đã tiết lộ về bức tranh nổi tiếng Roosevelt, Churchill, và Stalin tại Hội Nghị Yalta. Ông nói, bởi vì cả ba tay tổ này lúc đó đều là hội viên của hội Tam Điểm (Masonry.) Có một ngưòi nào đó, người viết không nhớ tên, khẳng định: Có thể nói không ngoa rằng Liên Bang Sô Viết được dựng lên từ Hoa Kỳ. Thật vậy, có rất nhiều chứng cớ cho thấy, các Cơ Sở (Foundation) Ford, Rockefeller, và Carnegie đã yểm trợ cho cái gọi là cuộc Cách Mạng Vô Sản tại Nga và tài trợ cho CS Liên Sô. - Tờ New York Journal-American ngày 3-2-1949 tiết lộ, Jacob Schiff đã đổ vào cho chiến thắng cuối cùng của cách mạng Bolshevik 20 triệu dollars. Ngoài ra có nhiều phát giác về các tập đoàn tư bản Hoa Kỳ làm ăn với Liên Bang Sô Viết trong thời chiến cũng như trong thời bình. - Trong cuộc điều trần năm 1953, khi nghị sĩ Norman Dodd khi đọc bản báo cáo viết rằng các nhà kỹ nghệ Hoa Kỳ đã thu được khoảng 200 triệu lợi nhuận từ cuộc Thế Chiến II, ông đã muốn té nhào khỏi chiếc ghế. Ông nói: Sau Thế Chiến I, Quĩ Dự Trữ Liên Bang đã cho nền độc tài Sô Viết vay 200 triệu khi chúng mới lên nắm quyền. Và ông tự hỏi, tại sao những nhà giầu trong thế giới tài chánh lại ủng hộ CS là chế độ công khai muốn tiêu diệt thế giới tư bản. Còn tác giả Phyllis Schlafly viết: Tôi càng nghiên cứu càng cảm thấy hồ đồ (confused), không hiểu tại sao những người càng giầu có càng thích làm việc với kẻ thù của chúng ta. Tổng thống Roosevelt tuyên bố vói Martin Dies, chủ tịch một Ủy Ban Đặc Biệt Hạ Viện Hoa Kỳ, và được ông này tường thuật lại trước Hạ Viện rằng, Tổng Thống không tin vào CS cũng như chúng ta, nhưng theo ông, không có gì sai trái về những người CS trên xứ sở này. Một số bạn thân nhất của tổng thống cũng là CS …. Quả thật về sau, viên cố vấn hàng đầu của TT Roosevelt, Alger Hiss, thành viên CFR, đã bị toà án kết tội làm tình báo cho Liên Sô. Mỹ và Trung Cộng Phần đông người ta đã quên những chuyện kỳ lạ xẩy ta dưới thời TT Harry Truman (người kế vị TT Roosevelt). Trước hết, sau khi ông ký Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, bản văn thừa nhận cơ quan quốc tế này là một Chính Phủ Toàn Cầu. Sau đó ông nhường quyền kiểm soát Đông Âu và Trung Hoa cho CS. Khi công luận bắt đầu nêu thắc mắc tại sao ông phản bội hàng trăm triệu con người để làm thân phận nô lệ, thì ông đã đưa đẩy rằng cuộc chiến tại Á Châu không thắng được. Khi đại tướng MacArthur nói với một vị dân biểu rằng ông không được phép chiến thắng trong cuộc chiến Triều Tiên, thì TT Truman cách chức tư lệnh của ông. Tướng Lâm Bưu, tư lệnh quân đội Trung cộng tham chiến tại Bắc Triều Tiên thừa nhận rằng đã có một thỏa thuận bí mật ngăn chận quân lực Mỹ chiến thắng tại Triều Tiên. Lâm Bưu viết: Tôi không bao giờ tấn công để phải hy sinh binh sĩ và danh tiếng của tôi, nếu tôi không được bảo đảm rằng Washington hạn chế những biện pháp trả đũa tương xứng của tướng MacArthur nhắm vào những tuyến đường tiếp liệu và truyền tin của chúng tôi. Cuối năm 1945, khi tướng Marshall đi Trung Hoa, cán cân quyền lực nghiêng về phía quốc gia, và giữ nguyên cho đến tháng 6-1946. Những sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đang dồn CS về phía Bắc và cơ hội chiến thắng của phía quốc gia cao hơn bao giờ hết. Nhưng, khi tướng Marshall tới Trung Hoa, ông có ý định thành lập sự phối hợp chỉ huy. Kế hoạch bị thất bại khi liên minh thất bại. Khi chính quyền Trung Hoa không thực hiện sự liên minh, thì vào mùa hè 1946, Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự cho Trung Hoa. Hoa Kỳ không chỉ ngưng gởi tiếp tế quân dụng cho Trung Hoa, mà còn ra lệnh ngưng các chuyến tầu chở quân dụng do chính phủ Trung Hoa đã mua. Chính phủ Trung Hoa cũng đã mua các quân dụng ở Okinawa và nhiều nơi khác trên Thái Bình Dương. Những hàng hoá này cũng bị đình chỉ, và lệnh cấm vận hoàn toàn có hiệu lực vào mùa hè năm 1946. Lệnh này kéo dài tới tháng 5-1947. Tướng Chennault xác nhận rằng chuyến tầu đầu tiên chỉ đến Thượng Hải tháng 12-1948. Hơn nữa ông tướng này còn quả quyết rằng các chiến cụ đuợc gởi đến Trung Hoa sau lệnh cấm vận đã không được chở tới đúng lúc để giúp quân đội quốc gia ở ngoài chiến trường. Thống chế Cook xác nhận nhiều sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đưọc trang bị bằng vũ khí của Hoa Kỳ. Khi nguồn tiếp liệu do Hoa Kỳ bị ngưng, các đơn vị này không còn sức chiến đấu và bị đánh bại. Dù sau khi Quốc Hội Khóa 80 đã chấp thuận viện trợ 125 triệu cho phe quốc gia, các chuyến tầu chở tiếp liệu vẫn bị trễ, và khi vũ khí tới được viên tư lệnh của vùng Bắc Trung Hoa, thì súng ống lại thiếu cơ bẩm và trở thành vô dụng. Tại sao Bộ Ngoại Giao lại gởi vũ khí không có cơ bẩm cho người Trung Hoa quốc gia? Đó có phải là việc làm vô tình không? Tiến sĩ Stanley Monteith viết trong cuốn Brotherhood of Darkness: người ta không thể đọc hết bản báo cáo của Ủy Ban Điều Tra McCarran mà không đi đến kết luận rằng, Chính quyền Truman đã phản bội người Trung Hoa Quốc Gia để đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền tại Trung Hoa. Để theo dõi việc cộng sản thống trị toàn Trung Hoa năm 1950, Thượng Viện Mỹ đã chỉ định một Ủy Ban Đặc Biệt do Dân Biểu Carrol Reece cầm đầu để điều tra xem tại sao Bộ Ngoại Giao lại ra lệnh cấm vận vũ khí cho phe Quốc Gia Tầu và đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền tại Trung Hoa. Ủy Ban Điều Tra đã khám phá ra rằng hai tổ chức Rockefeller Foundation và Ford Foundation đã tài trợ cho các chương trình phát thanh tuyên truyền của CS nhiều năm trước khi Trung Hoa sụp đổ. Ủy Ban bèn điều tra các tổ chức được miễn thuế này để xác định người ta tài trợ cho CS bằng cách nào. Có nhiều khía cạnh bị điều tra, nhưng những việc liên quan trực tiếp đến chiến tranh quốc cộng tại Trung Hoa, DB Reece khám phá ra hai sự kiện: Thứ nhất, có nhiều tổ chức lớn (large foundation) đã thực sự cổ võ chủ nghĩa cộng sản và Xã Hội Chủ Nghĩa. Thứ hai, các tổ chức (foundations) đã gây ảnh hưởng đến chính sách của Bộ Ngoại Giao, và do đó phải chịu trách nhiệm phần lớn việc đưa CS lên nắm chính quyền tại Trung Hoa. Một nhóm các nhà đại tư bản lập kế hoạch ngăn chận cuộc điều tra của Ủy Ban Reece. Reece khám phá ra rằng nhũng tổ chức được miễn thuế này đã hoạt động sát cánh với tập đoàn (trust) Rhodes. Các học giả của tập đoàn này được điều phối vào các vị trí chiến lược trong chính quyền Hoa Kỳ. Nhiều người có thế lực đem hết cố gắng chống lại cuộc điều tra của DB Reece. Họ áp lực lên các nhà lãnh đạo Quốc Hội phải chấm dứt cuộc điều trần. Kết quả như ông René Wormser, cố vấn của Ủy Ban Reece viết: Tôi cảm thấy công việc còn để lại nhiều vấn đề chưa được trả lời, trong đó điều quan trọng nhất là, với ý đồ gì, nếu có, các tổ chức lớn lại đem tiền bạc giúp và tiếp tay cho các khuynh hướng Marxist tại Mỹ và làm tàn lụi đi sư yêu mến lối sống của họ mà người dân Mỹ nên có? Mỹ và Việt Nam Còn câu hỏi Hoa Kỳ có thực tâm giúp người VN chống VGCS không thì người viết khỏi cần phải dài dòng. Mỗi người VN dù lớn hay nhỏ đều đã có đủ hiểu biết và tài liệu để tự trả lời cho chính mình. Thời Đệ I Cộng Hòa, khi người Mỹ ngỏ ý muốn trực tiếp can thiệp bằng vũ lực trước vấn đề CS miền Bắc xâm lăng VNCH. Họ muốn đổ quân đội Mỹ vào VN để đánh CS. TT Ngôi Đình Diệm yêu cầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải ký kết một bản Hiệp Ước An Ninh hỗ tương thì vấn đề đó mới danh chánh ngôn thuận, và CSVN không xuyên tạc được, nhưng Mỹ từ chối. Sự thể cho thấy ngay từ đầu cái dã tâm đen tối của người Mỹ, nên TT Ngô Đình Diện từ chối. Từ đó người Mỹ quyết tâm diệt trừ TT Diệm để thực hiện âm mưu của mình. Khi loại trừ được TT Ngô Đình Diệm rồi, Mỹ ngang nhiên đổ quân vào VN mà không cần có một chính quyền VNCH nào cho phép. Người Mỹ tự ý vào, rồi tự ý nắm quyền chủ động cuộc chiến, cũng như sau này việc thương thuyết hòa bình. Trong cuộc chiến, nước Mỹ đã mất 58 ngàn quân sĩ tử trận, nhưng điều bỉ ổi nhất mà nhiều người không biết là 80% đồ tiếp tế của Liên Sô cho VGCS trong thời gian chiến tranh là do các hãng Hoa Kỳ đầu tư và sản xuất tại Nga. Như thế có phải là chính người Mỹ đã gián tiếp giết người Mỹ không? Khi người Mỹ đã hoàn tất mục tiêu thầm kín của mình rồi thì họ tìm cách rút chân ra khỏi VN. Bằng nhiều cách và nhiều thủ đoạn, người Mỹ đã thực hiện ý định nhiều khi khá lộ liệu. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 Quân Lực VNCH đánh sang Nam Lào, người Mỹ đã bí mật thông báo kế hoạch và phóng đồ hành quân cho Hànội. Mục đích của hành động tồi bại này là để làm suy yếu khả năng chiến đấu của các đại đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến nhất của QLVNCH. Ý đồ phản bội miền Nam rõ rệt nhất của Mỹ là năm 1972, khi Kissinger sang thăm Bắc Kinh, y đã nói với Mao Trạch Đông rằng nước Mỹ sẵn sàng chấp nhận một nước VN thống nhất dưới quyền cai trị của CS miền Bắc. Mao ngu gì mà không chịu? Để thực hiện ý đồ nàỵ, chính quyền Mỹ đã giàn dựng cả một chiến dịch ta thưòng gọi là "phong trào phản chiến" bôi nhọ và vu cáo miền Nam, làm cho dư luân Mỹ chán ghét chiến tranh để lấy cớ rút lui. Biện pháp cuối cùng là cắt viện trợ và "embargo" quân dụng và vũ khí đạn dược cho QLVNCH. Biện pháp xẩy ra giống y chang như Mỹ đã làm đối với quân đội của Tưởng Giới Thạch. Để che mắt thế giới, và để đánh lừa cái lương tâm bất chính của mình, người Mỹ đã muối mặt chở đến Saigon 6 chuyến máy bay vận tải toàn đồ quân trang như bi đông đựng nước, giầy trận, áo mưa v.v. Vào những giờ phút sinh tử của cuộc chiến, người Mỹ chở súng không có cơ bẩm cho người Trung Hoa. Nay người Mỹ chở poncho, bidong v.v. cho VN thay vì vũ khí đạn dược. Trên thế giới này có lẽ chỉ có người Mỹ mới có cái tính khôi hài qua việc làm bôi bác như thế mà thôi. Nước láng giềng Cambodia của chúng ta cũng giống như chúng ta: bị người Mỹ bịp, và vì thế ông Sirik Matak mới có lá thư gởi cho ông đại sứ Mỹ như chúng tôi ghi lại trên trang đầu của bài viết. Phần đông chúng ta vẫn tưởng nước Mỹ thay đổi chính sách mỗi khi có một tổng thống mới lên cầm quyền. Vì thế mới bị lầm, và bị lầm rồi mà vẫn cứ hy vọng. Nghị sĩ Barry Goldwater cho biết: khi một tổng thống lên nắm quyền, đó chỉ là vấn đề thay đổi nhân sự, nhưng chính sách không thay đổi. Ông đưa ra thí dụ, thời TT Nixon Cộng Hòa, Henry Kissinger là thành viên CFR, người được Nelson Rockefeller đỡ đầu, nắm chính sách ngoại giao. Khi Jimmy Carter Dân Chủ đắc cử, Kissinger được thay thế bởi Brzezinski. Brzezinski cũng là thành viên CFR và được David Rockefeller che chở. Với những dẫn chứng lịch sử trên, và với kinh nghiệm bản thân của mỗi người VN, chúng ta có thể khẳng định rằng chính sách của nước Mỹ đối vói cộng sản không thay đổi. Chính sách đó như Ts Stanley Montieth cho biết là: Cộng sản và tư bản luôn luôn cộng tác với nhau, bởi vì cả hai cùng được thúc đẩy bởi một đông lực tinh thần, và cả hai cùng tìm kiếm một mục tiêu (communists and capitalists have always worked together because they are motivated by the same spiritual force, and they seek the same goal.) Người viết xin thêm vào một ý kiến riêng để câu nói được trọn nghĩa: mục tiêu đó là khống chế toàn bộ đời sống con người và xã hội. Kết luận Không biết dân tộc Khmer có được mấy trăm, mấy ngàn năm văn hiến mà sản sinh ra được cả một nội các chính phủ đáng kính và đáng khâm phục như thế. Họ thà chết chứ không chạy theo những kẻ đã lừa bịp họ. Thế mà trước đó báo chí Mỹ la rùm beng chính quyền Lon Non tham những số một trên thế gian này. Nếu quả như báo chí dòng chính Mỹ tố cáo, các ông Lon Non, Sirik Matak v.v. đem tiền bạc tham nhũng sang Mỹ hưởng vinh hoa phú quí không sướng hơn ở lại để mất đầu hay sao! Biết chắc chắn mình sẽ không thọ khi rơi vào tay Khmer Đỏ, trước khi chết thủ tướng Sirik Matak đã bầy tỏ sự hối tiếc vì tin vào người Mỹ. Thực ra, không phải chỉ có ông Matak tin vào người Mỹ, mà cả nước Việt Nam (VNCH) chúng tôi tin vào người Mỹ. Nhưng khi ông mở mắt bừng tỉnh thì đã quá muộn rồi. Ông Sirik Matak phạm sai sầm, nhưng cuối cùng khi nhận ra mình sai lầm, ông đã thành khẩn nhận sai lầm và tỏ ra hối hận. Chỉ có người VN, chưa thấy ai nhận ra sự sai lầm của mình và tỏ ra hối hận như ông sirik Matak. Tệ hại hơn nữa là cho đến bây giờ vẫn còn có rất nhiều người u mê tin rằng người Mỹ chống cộng, và trông đợi hão huyền rằng người Mỹ sẽ giúp người VN chống Trung Cộng, đòi đất, đòi biển. Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất (*)
|
|