|
Post by Can Tho on Aug 22, 2013 1:04:46 GMT 9
Cái Chết Của Cha Tôi(08/21/2013) Tác giả : Giao Chỉ, San Jose Vẫn chuyện tượng đài. Cô Hoàng Mộng Thu của biệt đoàn Lam Sơn vừa lên radio thông báo về việc San Jose thực hiện bức tường tưởng niệm các vị anh hùng Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết. Trong 7 vị anh hùng dự án lựa chọn có hình ảnh của trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long. Hình ảnh do 1 thân hữu gửi đến. Sinh quán chưa biết rõ, năm sinh chưa tìm ra. Bỗng một hôm có người gọi cho cô Thu. Thân nhân của ông Long là chúng tôi đây. Hình này không chắc là hình của cha tôi. Bà là ai vậy? Tôi là con gái của ông Long. Thưa bà ở đâu gọi vậy. Tôi ở San Jose đây này. Tôi ở đây đã 11 năm rồi. Bức tường tưởng niệm sẽ dựng tại San Jose và hình ảnh lịch sử tại Sài Gòn, trung tá Nguyễn Văn Long tự sát tại tượng đài TQLC VN. Cô Thu bèn điện thoại cho bác Lộc. Chết rồi bác ơi. May mà mình còn đang quyên tiền. Chưa làm hình trên đá. Hình đó không phải của ông Long. Con gái ông nói chuyện với cháu đây này. Nhưng chuyện không hay mà lại thành duyên kỳ ngộ. Tìm kiếm bao năm nay để xin tin tức, bây giờ gặp may. Tôi phải liên lạc gấp với gia đình trung tá Long ngay tại San Jose. Nhắc chuyện năm xưa Khi nhận ngôi nhà làm Viện bảo tàng năm 2003 cách đây 10 năm, tôi đã có ý muốn ghi lại hình ảnh các vị anh hùng tuẫn tiết. Chúng ta thường nghe nói danh tiếng của 5 vị tư lệnh tự sát được gọi là ngũ hổ tướng. Sau đó có bài viết nhắc nhở đến vị anh hùng thứ sáu là đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tại Cần Thơ. Chúng tôi bắt đầu lưu tâm tới vị anh hùng thứ bẩy là trung tá Nguyễn văn Long. Không ai có được hình ảnh của 6 vị anh hùng đã hy sinh ra sao. Cả trường hợp đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tháng 8- 1975 tại Cần Thơ cũng không có hình ảnh. Trên internet có phổ biến hình tên cộng sản dí súng vào đầu ông Cẩn. Đây là hình chụp trong một vở kịch. Riêng hình trung tá Long chết vào buổi trưa ngày 30 tháng 4-75 là hình ảnh đăng trên hầu hết các báo hải ngoại, và sau này thì tràn đầy trên internet. Quả thực tấm hình này gây xúc động lớn lao cho toàn thể báo giới tây phương vào thời kỳ tháng 4 -1975 đã 38 năm qua. Tôi được thấy tấm hình này lần đầu trong thư viện thành phố Springfield ở Illinois. Trên tạp chí Newsweek đã cũ vào năm 1976. Xuất xứ nguyên thủy là hình trên báo Pháp. Tờ Paris Match. Tấm hình này và chỉ cần 1 tấm hình này đã làm mờ nhạt tất cả các hình ảnh tang thương khác của miền Nam vào ngày quốc hận. Trung tá Long là người đầu tiên đáp lại lệnh bỏ súng đầu hàng của tổng thống cuối cùng Dương văn Minh. Ông tự sát rồi buông súng. Bức hình chụp được phổ biến cho thấy ông nằm nghiêm chỉnh dưới bức tượng xung phong của thủy quân lục chiến trước tòa nhà quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Có nhiều người chứng kiến nhưng không ai là nhân chứng kể lại giây phút cuối cùng. Dường như có người đã sắp xếp lại di hài vị anh hùng mang cấp bậc trung tá cảnh sát. Hai tay để ngay ngắn trên bụng. Nón trước ngực. Tấm hình chụp thật rõ ràng. Ai đã sắp xếp lại. Đồng bào miền Nam hay anh phóng viên chụp hình cho tờ báo Pháp. Bức hình của người sĩ quan bại trận nằm yên nghỉ nhưng hết sức lẫm liệt. Đó chính là vị tử sĩ thứ bẩy chúng tôi muốn đưa vào danh sách tiêu biểu của tượng đài anh hùng. Chúng tôi cần có tấm hình, ngày và nơi sinh. Đi truy tầm suốt 10 năm không thấy. Chợt tìm ra đáp số vào đêm nay 5 tháng 8- 2013. Tôi gọi điện thoại cho bà Tâm là con thứ ba của trung tá Long. Nhận được câu trả lời hết sức rõ ràng đơn giản. Trung tá Nguyễn văn Long sinh tại Phú Hội, Huế ngày 1 tháng 6 năm 1919. Ông ra đi năm 1975 lúc đó 56 tuổi, là người cao niên nhất trong số các vị tuẫn tiết. Bà Nguyễn thị Tâm năm nay ngoài 60, đã có cháu nội cháu ngoại nhưng mãi mãi vẫn là cô nữ sinh Đồng Khánh. Bằng một giọng nói xứ Huế pha tiếng Saigon, bà Tâm nói chuyện tuôn trào trôi chảy và đầy hãnh diện khi nhắc đến người cha anh hùng. Câu chuyện 38 năm xưa kéo dài qua điện thọai giữa canh khuya. Chuyện của cha tôi đã được viết đầy đủ trên báo chí, trên các web của quân đội và cảnh sát. Nhưng bây giờ chỉ nói riêng về thời gian của tháng 3-1975. Gia đình rất đông con, tới 13 anh chị em. 6 trai 7 gái. Con trưởng là thiếu úy biệt động quân hy sinh tại Quảng Tín năm 68. Anh Nguyễn Công Phụng (1942-1968) được truy thăng trung úy. Nhà 6 con trai mà 5 anh em đi lính. Chỉ còn con trai út 13 tuổi là học sinh. Hai lính không quân, 1 thiết giáp, 1 cảnh sát và 1 biệt động quân. Trung Tá Nguyễn Văn Long. SVSQ Nguyễn Công Phụng.( Anh cả) Tên các con trai như thể hiện ước mơ của cha. Các anh Phụng, Hoàng, Minh, Tiến, Quang, Hội. Các tên con gái như hình ảnh dịu hiền của mẹ. Đào, Tâm, Thiện, Hòa, Hảo, Hiền, Huê. Ngày nay có 3 chị em ở Hoa Kỳ, các anh chị em khác còn ở Việt Nam với Mẹ. Mẹ của các con tức là vợ trung tá Long qua đời mấy năm trước. Đó là hình ảnh của 1 đại gia đình, có người cha anh hùng đã ra đi, để lại tấm hình hết sức đặc biệt. Cái chết của cha tôi Bà Tâm, người con gái thứ ba bắt đầu kể về những ngày cuối cùng. Lúc đó vào cuối tháng 3- 75 ở Đà Nẵng. Ba vẫn làm việc trong trại, không về nhà. Hai cậu em không quân, một ở Đà Nẵng, một ở Biên Hòa. Một cậu đưa cả nhà vào sân bay Đà Nẵng chờ di tản. Nhưng rồi cũng không đi được. Vào ngày cuối người cha về nhà không thấy gia đình. Ông nghĩ rằng vợ con có thể đã đi thoát trong phi trường. Ông xuống bãi và ra đi bằng tàu. Vào đến Saigon đã có cô con gái lớn đón cha về ở tạm. Lúc đó mới biết vợ con còn kẹt ở Đà Nẵng. Ông Long lại vào trình diện tổng nha cảnh sát để làm việc. Trưa 30 tháng 4-75 khi radio phát thanh lời tổng thống đầu hàng thì 1 phát súng đơn độc nổ trong thái dương, trung tá Long ngã xuống. Ông buông cây súng nhỏ theo lệnh tổng thống. Cây súng tùy thân trung tá vẫn mang theo từ Huế, Đà Nẵng vào đến Sài Gòn. Một lần nữa, xin ghi lại. Có thể đây chính là người đầu tiên thi hành lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng. Lẫm liệt và công khai. Hình ảnh trên youtube do người vô danh đưa lên có cảnh những người dân khiêng xác vị anh hùng lên xe. Đó là hình ảnh cuối cùng. Không một tin tức nào loan báo trên báo chí cộng sản trong nước. Dân Việt từ Huế vào Sàigon không ai biết tin. Nhưng cả thế giới đều biết qua hình ảnh. Cuối tháng 5 -1975 có người từ nhà thương Đồn Đất (Grall) của Pháp liên lạc đưa tin về Đà Nẵng. Trong quân phục của trung tá Long có địa chỉ của gia đình. Hai vợ chồng bà Tâm thay mặt cả nhà tìm đường vào Nam. Gặp chị và em ở Saigon. Chị em tìm vào nhà xác của bệnh viện Grall. Nhân viên phụ trách mở tủ lạnh. Xác cha cô vẫn còn nguyên vẹn. Quân phục, cấp bậc huy hiệu và mũ cảnh sát. Nhân viên nói lại rằng nhà thương cho biết đây là di hài một người anh hùng. Phải bảo quản chờ thân nhân. Phải giúp cho gia đình tẩm liệm mai táng chu đáo. Chị em lúc đó giữa cuộc đổi đời đành gạt nước mắt đi chôn cha tại nghĩa trang Bà Quẹo. Chuyện đó đã xảy ra 38 năm xưa. Đây là lần đầu tiên có người hỏi và bà kể rõ lại cái chết của cha. Chúng tôi có hình của ông bà trung tá Long thời còn trẻ nên không giống hình thời 75. Bây giờ có hình chính xác. Lại còn tìm hiểu thêm giờ tổng thống phát thanh lệnh đầu hàng và giờ ông Long tự kết liễu cuộc đời căn cứ vào bóng mặt trời trong tấm hình. Làm sao phóng viên báo Pháp lại tình cờ có mặt để chụp hình. Di hài trung tá Long nằm đó bao lâu. Có nhiều bệnh viện quanh Sài Gòn sao lại chở vào nhà thương của Pháp. Phải chăng có mối liên hệ với anh phóng viên? Trước đó một ngày, 29 tháng 4, thiếu tướng Phạm văn Phú tự tử bằng thuốc cũng trong nhà thương Grall của Pháp. Qua đến 30 tháng tư ông mới ra đi. Khi uống thuốc tự vẫn, ông Phú chưa biết đến lệnh đầu hàng. Ông chỉ uất hận vì trách nhiệm bỏ Vùng 2. Cái chết của ông Long hoàn toàn vì lệnh đầu hàng 30 tháng tư. Ngày 30 tháng tư trong cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều tấm gương oanh liệt. Trường hợp của ông Long là cái chết hào hùng nhất. Ông đã chọn đúng giờ và đúng chỗ. Thời gian là trưa 30 tháng 4-1975 và địa điểm là chết giữa lòng Saigon. Phương cách chết là cầm súng bắn vào đầu. Gia đình ông có 5 con trai trưởng thành và đi lính hết. Nhưng dù trai hay gái, tất cả đều thấm nhuần giáo huấn của cha. Tất cả đều sống hòa thuận và yêu thương đất nước. Các con đều hiểu được tấm lòng của cha khi quyết định hy sinh vào ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975. Đó là lý do chúng tôi đã chọn được vị anh hùng thứ bẩy để đưa vào tấm bia vĩnh cửu. Gia đình còn lại 12 người con và hơn 30 người cháu bây giờ ở 2 bên bờ Thái bình Dương đều không quên ngày 30 tháng tư. Ngày tang đất nước và ngày giỗ người cha anh hùng. Giao Chỉ, San Jose - viết cho Việt Tribune
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 18, 2013 9:16:23 GMT 9
Cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp qua đời, thọ 86 tuổi Sunday, September 15, 2013 Ðỗ Dzũng/Người Việt ORLANDO, Florida (NV) - Cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp vừa qua đời lúc 2 giờ 5 phút sáng Thứ Bảy, 14 Tháng Chín, tại tư gia ở Orlando, Florida, sau một thời gian bị bệnh. Tiếp xúc với nhật báo Người Việt qua điện thoại, bà Phan Châu Ánh, phu nhân người quá cố, nói trong nước mắt: “Nhà tôi qua đời khá bất ngờ. Ông bị ung thư phổi hơn một năm nay. Tưởng là đến cuối năm ông mới đi, không ngờ ông đi sớm như vậy.” Cố Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp. (Hình: Gia đình cung cấp) “Ông là một người rất tốt, luôn lo cho gia đình và con cái, trong suốt 52 năm chung sống với tôi,” bà Phan Châu Ánh, trước đây tên là Châu Ngọc Ánh, nhận xét về người bạn đời. “Hồi còn sống, ông có hỏi: 'Nếu có kiếp sau, ba sẽ xin cưới má nữa, má có bằng lòng không?' Tôi trả lời: 'Má rất bằng lòng.'" Nhà báo Phan Nhật Nam từng là thư ký trưởng phái đoàn và là sĩ quan trao trả trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên của VNCH trước năm 1975, mà trưởng phái đoàn lúc đó là cố Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp. “Phải nói rằng trước đây không ai có thể nghĩ rằng một sĩ quan thiết giáp mà lại đảm trách một nhiệm vụ có tính cách chính trị. Nhưng khi trở thành trưởng phái đoàn ban liên hợp, Tướng Phan Hòa Hiệp đã chứng tỏ ông rất 'cứng cựa' và vững vàng,” nhà văn Phan Nhật Nam nhận xét. Nhà báo này chia sẻ thêm: “Phải nói là tôi và chuẩn tướng có rất nhiều kỷ niệm. Tôi còn nhớ, khoảng năm 1952, tôi ở chung khu nhà số 5 Tô Hiến Thành-Huế với ông, lúc đó ông mới là trung úy. Khi tôi thấy bức hình ông duyệt xe thiết giáp ở Phú Văn Lâu, tôi cảm thấy hào hứng vô cùng và muốn vào quân đội. Và năm 1960, chính ông thúc giục tôi đi lính. Khi ra trường năm 1963, tôi lại gặp ông, lúc đó mang lon thiếu tá, và tôi coi ông như người anh. Rồi đến năm 1973, chính ông xin cho tôi về Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên.” Bà Phan Châu Ánh cho biết bà và cố chuẩn tướng có năm người con, hai trai, ba gái, và bảy cháu nội ngoại. Bà cho biết hiện gia đình đang phối hợp với nhà quàn để lo an táng cho ông. Theo dự trù, viếng xác từ 5 giờ chiều đến 9 giờ tối trong hai ngày Thứ Năm và Thứ Sáu, 19 và 20 Tháng Chín. Lễ an táng diễn ra vào lúc 9 giờ 40 sáng Thứ Bảy, 21 Tháng Chín và sau đó linh cữu chuẩn tướng được chôn cất tại nghĩa trang Palm Cemetery, Winter Park, Florida. Theo gia đình cố Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp cho biết, ông tốt nghiệp Khóa 1 Võ Bị Ðịa Phương Trung Việt, Ðập Ðá, Huế. Những chức vụ ông từng đảm nhiệm trước đây là Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi, Trưởng Phái Ðoàn VNCH trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự hai bên và bốn bên, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, Tư Lệnh Lữ Ðoàn I Kỵ Binh, và Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 4 Kỵ Binh. Ông từng được Ðệ Nhị Bảo Quốc Huân Chương trong thời gian phục vụ trong QLVNCH, cũng theo gia đình cho biết. ************************************** Thiếu Tướng Lê Minh Đảo - Vị Tướng bất tử25 Tháng Ba 2020 Nguyễn Quang Duy Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vừa qua đời ở Connecticut, Hoa Kỳ, ngày 19/3/2020, hưởng thọ 87 tuổi.
Xin chia sẻ suy nghĩ về một vị tướng lừng danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lãnh 17 năm tù cộng sản vẫn không ngừng vận động để dân Việt thoát ách cộng sản.
Vị tướng gần dân…
Tướng Lê Minh Đảo Gần 6 năm, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện và sau đó là tỉnh Định Tường, ông nổi tiếng là người thương lính và gần dân.
Năm 1979, tôi sống trong vùng Đồng Tiến, An Giang, một hôm chủ nhà nhắc chuyện cũ, ông chỉ về chỗ tôi đang ngồi rồi nói:
“Hồi đó ông Tướng Đảo có ghé thăm nhà mình, ỗng mặc áo thung, quần đùi ngồi (nhậu) ở chỗ Bảy nó đang ngồi đó (tôi thứ bảy trong gia đình nên ông chủ nhà gọi tôi là Bảy), ỗng thương dân lắm, ỗng nói bà con kêu ỗng bằng anh Tư, giờ nghe nói ỗng bị tù ở tận miền Bắc, thương ỗng lắm, bà con mình thương ỗng lắm…”
Vị Tướng và tôi…
Cuối năm 2004, Tướng Đảo cùng phái đoàn Tập thể Chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa sang thăm Úc, có ghé Canberra, vào Quốc Hội Úc vận động nhân quyền, sau đó có gặp bà con trong Cộng Đồng tại Canberra, ở một quán ăn, để chia sẻ tâm sự.
Tôi đến quán đúng lúc Tướng Đảo tới, tôi gặp ông ngay cửa quán ăn, ông đứng thẳng chào tôi theo Quân Cách rồi hỏi: “Chiến hữu thuộc đơn vị nào?”
Tôi hơi bỡ ngỡ trả lời ông “Thưa Thiếu Tướng thế hệ tiếp nối”, xong tôi đưa tay ra xin bắt tay ông và mời ông vào quán ăn.
Hôm đó, ông nhắc nhở mọi người đừng quên những tội ác cộng sản đã gây ra, đừng quên nhưng không thù, vì thù oán không giải quyết được vấn đề, đừng quên để nhớ trách nhiệm của tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa vẫn chưa hoàn tất đó là bảo vệ người dân khỏi ách cộng sản..
Vị Tướng và 9 người con…
Tướng Đảo có chín người con, hai trai và bảy gái, khi cộng sản chiếm miền Nam tất cả đều ở lại Việt Nam, đều chịu chung số phận tù đày với đồng bào, cho đến năm 1979 mới vượt biên sang đến Mỹ.
Cô Lê Bích Phượng, con gái thứ sáu trong gia đình Tướng Đảo, hiện làm phóng viên cho đài SBTN, có phỏng vấn Tướng Đảo tại sao ngày 30/4/1975 có điều kiện cho gia đình di tản sang Mỹ nhưng ông không thực hiện.
Ông trả lời chiến hữu của ông cũng có con cái, họ đều phải ở lại Việt Nam, nếu ông cho các con di tản, giờ con cái chiến hữu của ông sẽ chỉ vào mặt các con ông mà nói: “Ba mày không chạy trốn, nhưng cho chúng mày chạy trốn.”, biết vậy, để giữ danh dự cho cả gia đình nên ông không cho các con di tản.
Tướng Đảo còn nói, mà cũng nhờ mấy năm sống với cộng sản các con mới hiểu, vì sao ba chiến đấu bảo vệ miền Nam, các con mới hiểu, mà thương cho đồng bào vẫn chưa thoát được ách cộng sản như các con.
Vị Tướng thương dân…
Được BBC tiếng Việt phỏng vấn Tướng Đảo cho biết: “Vợ tôi có hỏi tôi tại sao anh thương dân miền Bắc hơn dân miền Nam. Tôi cho bà ấy biết, dân miền Bắc đáng thương lắm, họ đau khổ lắm, họ đau khổ hơn mình, họ đau khổ nhiều hơn mình, hơn 20 năm trong chế độ cộng sản.”
Tướng Đảo cho biết một người cộng sản đã nói với ông rằng: “Các anh có biết, tại sao các anh thua không? Không phải tại Mỹ bỏ đâu, là tại các anh không dám cầm súng các anh bắn vô dân. Còn tụi tôi có chuyện [cần] làm chúng tôi vẫn phải bắn…”
Vị Tướng thương cả “địch quân”
Tướng Đảo cũng từng chia sẻ, bộ đội miền Bắc nhiều người còn rất trẻ chỉ 16 hay 17 tuổi, họ được mang thẳng từ miền Bắc vào, họ thiếu kinh nghiệm chiến trường, nên chết rất nhiều, tội nghiệp họ lắm, họ cũng là nạn nhân cộng sản.
Ông cho biết Đức, Đại Hàn, Tàu cũng chia thành 2 miền, nhưng chỉ có cộng sản miền Bắc là mang quân đánh miền Nam.
Miền Bắc hy sinh 2 hay 3 triệu những đứa con ưu tú của Việt Nam, miền Nam cũng hy sinh hằng triệu người, lỗi cũng tại những người cầm quyền miền Bắc quá tin vào chủ nghĩa cộng sản và quyết đánh chiếm miền Nam.
Vị Tướng anh hùng…
Đầu tháng 4/1975, khi quân đội miền Bắc vượt vĩ tuyến 17 tràn xuống miền Nam, Tướng Đảo chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại mặt trận Xuân Lộc, Long Khánh.
Lực lượng Bắc Việt do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy đông gấp 3 đến 5 lần hơn lực lượng của Tướng Đảo, có nơi hơn gấp 10 lần, nhưng đã bị chặn lại 12 ngày tổn thất nặng nề, cộng sản cho Tướng Trần Văn Trà lên thay và cho đổi hướng tiến quân.
Xuân Lộc không còn là địa thế chặn quân miền Bắc, Tướng Đảo được lệnh rút quân, vào tối ngày 20/4/1975 ông rút khỏi Xuân Lộc mang theo được mọi vũ khí, cả pháo, cả đến thương binh và tử sĩ.
Tướng Đảo đi bộ theo đoàn quân, ông đốc thúc binh sĩ hàng ngũ trật tự và nhanh chóng rút quân, đến sáng hôm sau phía cộng sản mới biết.
Trận Xuân Lộc và cuộc rút quân tạo cho Tướng Đảo biệt danh “người hùng Xuân Lộc”, một biệt danh ông không muốn nhận..
Ông cho biết trong suốt 25 năm, chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vừa phải chiến đấu để bảo vệ an ninh cho dân, vừa phải xây đường xá, xây cầu cống, xây trường học, xây nhà thương, xây nhà ở, xây làng xóm cho dân.
Không một Quân Đội nước nào mà các binh sĩ đã có những đóng góp tích cực như vậy, vì thế theo ông mỗi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều là một anh hùng.
Vị Tướng với thế hệ tiếp nối…
Trong lần hội luận do SBTN Úc châu tổ chức, được đồng hương hỏi ông nghĩ sao về một Chính Phủ ở hải ngoại, Tướng Đảo trả lời, sau biến cố 30/4/1975, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại, nhưng tinh thần Việt Nam Cộng Hòa theo ông thì bất diệt.
Tinh thần Việt Nam Cộng Hòa không chỉ được lưu truyền ở hải ngoại cho các thế hệ thứ hai, thứ ba, mà còn được lưu truyền trong nước khi các thế hệ tiếp nối biết được quá trình giữ nước và dựng nước của ông cha. Bởi vậy chúng ta phải nói, nói cho con em chúng ta hiểu rõ.
Những vị Tướng bất tử…
Ở tiểu học, tôi được dạy tấm gương của 2 vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu tuẩn tiết khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội năm 1873.
Biến cố 30/4/1975 tôi biết thêm 5 vị Tướng tuẫn tiết là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn tướng Lê văn Hưng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, và Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ.
Sau gần 45 năm, có thêm Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, với 17 năm tù cộng sản, không ngừng hy sinh vận động cho một Việt Nam không cộng sản.
Anh hùng tử khí hùng bất tử, họ là những tấm gương một lòng vì nước vì dân, họ là những vị Tướng bất tử.
Melbourne, Úc Đại Lợi, 21/3/2020 Nguyễn Quang Duy
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 5:38:50 GMT 9
Thập Đại Thần Tướng Việt Nam thời cận đại Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần Sinh ra là Tướng chết đi thành thần Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính năm 2011, 2013. (trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện) I. Dẫn Nhập - Nguyên Nhân Xa, Thời Tối Cổ: Biểu tượng của nền văn minh tối cổ của tộc Việt là Đông Sơn và Lạch Trường. Hai nền văn minh này đã hiện diện và tồn tại cùng với tộc Việt chúng ta 5000 năm trước Công nguyên. Sự hiện diện và tồn tại này trước cả nền văn minh của người Tầu phương Bắc cả 4000 năm. Đã là một dân tộc hiện diện lâu đời như thế trên một vùng đất phì nhiêu trù phú; tổ tiên chúng ta biết tổ chức đời sống có trật tự, tôn ty, trong một khoảng không gian cố định, biết tưởng nhớ tiền nhân, anh hùng, liệt nữ, cũng như biết tôn xưng vị lãnh đạo, thờ kính những hiện tượng thiên nhiên v.v...Tất cả những điều nêu trên là tư tưởng Việt Nam, và nó đã được hệ thống hóa dưới một tên gọi khác là nền Văn Hiến Chi Bang của một đất nước tự lập, tự cường. Việc tôn thờ, tôn xưng những anh hùng, liệt nữ của dân tộc Việt là một truyền thống từ ngàn xưa, đồng thời cũng là một trong những biểu tượng của nền Văn Hiến của 5000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. II. Nguyên Nhân Gần - Thời Trung Đại: Đời vua Trần Nhân Tông, tháng 4, mùa hạ năm 1285, tổ chức xét định công trạng những người đã đánh quân Nguyên. Như tấn phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Đại vương; Hưng Vũ vương Nghiện làm Khai quốc công; Hưng Nhượng vương Tảng làm tiết độ sứ. Ngoài ra người nào có công lớn đều được tứ quốc tính, Trần Khắc Chung cũng được dự ân tứ này và vẫn giữ chức Đại hành khiển; Nguyễn Khoái làm liệt hầu và được ban cho một "hương" (làng) gọi tên là Khoái lộ. Người tù trưởng Man ở Lạng Giang là Lương Uất, Hà Tất Năng vì biết đốc suất dân đánh giặc, nên Lương Uất được phong làm chủ trại Quy Hóa; Tất Năng được phong tước quan phục hầu; Đỗ Hành vì khi bắt được Ô Mã Nhi, không đem nộp nhà vua, nên chỉ được phong tước quan nội hầu; Hưng Trí vương Nghiễn vì trái tướng lệnh, ngăn cản đường quân Nguyên rút về nước, nên không được thăng trật. Sau khi tước thưởng đã ban hành rồi, có người thắc mắc vì sao ban thưởng ít, thượng hoàng Trần Thánh Tông an ủi rằng: "Nếu các ngươi biết chắc rằng giặc Nguyên không sang nữa, thì dầu phong đến cực phẩm, trẫm cũng không tiếc gì, nhưng nếu một mai giặc lại kéo sang, mà lúc ấy các ngươi lại có chiến công, thì trẫm biết hậu đãi các ngươi thế nào để khuyến khích thiên hạ được?". Mọi người nghe xong không ai có ý kiến gì cả. Nhà vua định những người đã có công đánh giặc hai lần, người nào đã xung phong trước phá được trận tuyến của giặc, lập được chiến công đặc biệt, nay được chép vào tập Trùng hưng thực lục và khiến thợ vẽ hình dạng vào tập sách ấy. Đời vua Trần Hiến Tông (1329), có Lý Tế Xuyên là Thủ Đại tạng thư hỏa chính chưởng Trung phẩm phụng ngự, An tiêm lộ chuyển vận sứ đã tập hợp những truyện tích về các bậc anh hùng, anh thư tộc Việt có công giữ nước biên chép thành quyển Việt Điện U Linh Tập gồm Lịch Đại Nhân Quân, Lịch Đại Nhân Thần, Hạo Khí Anh Linh, tổng cộng là 27 truyện. Mục đích nhằm xây dựng cuộc sống tinh thần, tâm linh một cách lành mạnh mang màu sắc cổ truyền cũng như gầy dựng lại một quá khứ thần thoại, hiển thánh của dân tộc. Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên được biên chép khoảng giữa thế kỷ 13; Đến thế kỷ thứ 15 được tiến sĩ Nguyễn Văn Chất bổ túc thêm những chuyện khác vào. Tên gọi là Việt Điện U Linh Tục Tập hay Tục Việt Điện U Linh Tập. Như trên đã viết, đời vua Nhân Tông ghi ơn những người có công đánh giặc Nguyên bằng cách phong tước, phong hàm. Ngoài ra những ai lập chiến công đặc biệt thì vẽ hình cũng như chép sự tích vào tập sách Trùng hưng thực lục. Đồng thời một Thần Việt Điện đã được dựng nên (ghi chép và phổ biến Việt Điện U Linh Tập) để cho dân chúng tôn thờ những vị thần của tộc Việt, để cho mọi người có thể hãnh diện với quá khứ cao quý, hào hùng và thiêng liêng. Qua hành động này cho chúng ta thấy sự đối kháng mãnh liệt nhất của tộc Việt trên mặt văn hóa tư tưởng đối với giặc Tầu phương Bắc. III. Nguyên Nhân Gần - Thời Cận Đại: Tiếp nối tinh thần tôn vinh những bậc anh hùng dân tộc mà Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên đã thực hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ 13 và được tiến sĩ Nguyễn Văn Chất bổ túc vào thế kỷ thứ 15 qua Việt Điện U Linh Tục Tập, Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu thành lập Thần Việt Điện 2010 (trên trang Trúc Lâm Yên Tử) để tôn thờ những bậc anh hùng, anh thư thời hiện đại. Ôn cố tri tân là tinh thần không thể thiếu vắng được ở bất kỳ không gian và thời gian nào. Chiến cuộc Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương khởi sự từ 1946 và kết thúc năm 1975, đã gieo biết bao cảnh thống khổ đau thương cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Trong suốt cuộc chiến đã có không biết bao nhiêu bậc anh hùng, anh thư đã xả-thân liều mình bảo vệ đất nước và dân tộc Việt trước làn sóng xâm lăng từ phương Bắc của Cộng sản Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quốc tang, quốc hận 30/04/1975 - 30/04/2010, với tinh thần tri ân và tôn vinh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, đặc biệt những vị tướng lãnh đã hy sinh trong lúc thi hành công vụ từ lúc khởi đầu của cuộc chiến cũng như những vị đã bất khuất không chấp nhận đầu hàng quân Bắc xâm Việt cộng ngày 30/04/1975. Chúng tôi chân thành tôn xưng Mười Vị Tướng Lãnh, Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là Thập Đại Thần Tướng Việt Nam - thời cận đại vì họ đã hy sinh trong lúc thi hành công vụ, cũng như biểu hiện khí phách phi thường của một bậc thần tướng; ngoài ra, những vị này cũng đã thi thố tài ba trên chiến trường làm binh sĩ các cấp kính phục cũng như đã chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chiến thắng quân thù một cách vẻ vang. Hơn nữa, họ đã chứng minh là những vị Tướng lãnh biết nhận trách nhiệm trước lịch sử dân tộc. Chúng tôi sắp xếp theo thứ tự ngày tháng thành thần của chư vị Tướng lãnh, đại tá nêu trên. Riêng trường hợp Thiếu tướng Trương Quang Ân vì có phu nhân cùng tử nạn nhưng chúng tôi vẫn xin tôn xưng chung là Cửu Đại Thần Tướng Việt Nam. Trường hợp đại tá Hồ-ngọc-Cẩn, Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu không có tư cách truy phong, hay truy tặng ông là tướng lãnh. Tuy nhiên, vào tháng 09-2013, chúng tôi xin được tôn xưng và tôn vinh ông là bậc Thần Tướng thứ mười dựa trên công đức đã hết lòng hy sinh cho đất nước và dân tộc Việt-Nam. Cũng như tinh thần bất khuất cho dù sa cơ thất thế, đối mặt trước cường quyền bạo lực của Việt cộng. Mười vị tướng lãnh, đại tá đó là: 1/ Trung tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955) 2/ Thiếu tướng Trương Quang Ân và phu nhân (1932 - 1968; 1931-1968) 3/ Trung tướng Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1970) 4/ Đại tướng Đỗ Cao Trí (1929 - 1971) 5/ Thiếu tướng Phạm Văn Phú (1929 - 1975) 6/ Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975) 7/ Chuẩn tướng Trần Văn Hai (1929 - 1975) 8/ Thiếu tướng Lê Văn Hưng (1933 - 1975) 9/ Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975) 10/ Đại Tá Hồ-ngọc-Cẩn (1938-1975) Sự tôn xưng này xin được xem như là biểu tượng, một biểu tượng cao quý. Và là một ý thức hệ thần thoại cao quý để ghi ơn các bậc thần Tướng có công giúp nước cứu dân. Việc tôn xưng chư vị tướng lãnh nêu trên còn dựa trên 3 điểm: Đạo Đức với chính bản thân Nhân Nghĩa với người ngoài Thao lược trên chiến trường Ngoài ra chúng tôi dựa vào giây phút thành Thần của chư vị như sau: Một vị bị ám sát tại mặt trận (Trung tướng Trình Minh Thế) Ba vị tử nạn phi cơ khi thi hành nhiệm vụ (Thiếu tướng Trương Quang Ân, Đại tướng Đỗ Cao Trí, Trung tướng Nguyễn Viết Thanh) Năm vị tuẫn tiết không đầu hàng quân thù (Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn tướng Trần Văn Hai). Đại tá Hồ-ngọc-Cẩn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và bị Việt cộng xử tử hình ngày 14-08-1975. 1/ Thần Tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955)Thần tướng Trình Minh Thế Ông sinh năm 1922 làng Trà Cau, quận Gò Dầu tỉnh Tây Ninh; có dính líu ít nhiều đến cuộc khởi nghĩa của quân Tây-Sơn vì tổ phụ 4 đời họ Trịnh gốc Bình Ðịnh. Ông là tín đồ của Cao-Ðài. Ðã từng là Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Cao Ðài, Chỉ Huy Trưởng Quân Ðội Quốc Gia Liên Minh. Trở về quy phục chính phủ quốc gia ngày 13/2/1955. Ðược đích thân cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm gắn cấp bậc Thiếu tướng. Tướng Thế là một dũng tướng nhưng có tính e lệ với phụ nữ. Biết co giãn tùy thới thích hợp với việc quân (khi nghiêm khắc bàn quân sự, lúc dễ dãi cười đùa trong nghĩ ngơi). Cách phục sức bình dân không diêm dúa, nói năng khiêm tốn lễ độ nhường nhịn lời ăn tiếng nói với mọi người. Khi đã có bụng khi ai, Tướng Thế không nói ra, chỉ im lặng nghe phút biểu rồi nồng hậu tiễn về. Là một vị tướng đức độ (thương xót giúp đỡ kẻ dưới nhường nhịn người trên) thông minh tuyệt vời có một không hai dù ít học. Một vị dũng tướng hiếm có như thế không may bị mất sớm lúc 19 giờ chiều ngày 3 tháng 5 năm 1955. Có giả thuyết cho rằng thực dân Pháp ám sát lại có chỗ nói rằng chính Bình Xuyên đã làm. Thủ tướng Ngô Đình Diệm liền truy phong chức Trung Tướng cho người quá cố. Tang lễ của cố Trung tướng Trình Minh Thế được cử hành theo nghi thức Quốc-táng dưới sự chủ tọa của cố Tổng thống Ngô Ðình Diệm cùng cố vấn Ngô Ðình Nhu. Ông Nhị Lang, cố vấn chính trị của Phong trào kháng chiến Trình Minh Thế cũng đã xác nhận : "Vậy mà khi tôi đem tất cả lòng thành thật diễn tả trường hợp tử vong của người đồng chí họ Trình, sau bao đắn đo cân nhắc mọi giả thuyết, để đi đến kết luận là Tướng Thế “bị ám sát tại chiến trường Tân Thuận” buổi chiều ngày 3/5/55, bởi bọn tôi tớ Pháp, v.v..., thì dư luận lại bất chấp mọi lẽ, cứ một mực đổ diệt cho anh em ông Diệm. Gần đây hơn, tôi có công bố trên mặt báo chí một tài liệu bằng tiếng Pháp, với lời xác nhận của viên Thiếu tá tình báo Pháp tên là Savani rằng chính ông ta đã tổ chức giết Trình Minh Thế, để trả thù cho thượng cấp là Tướng Chanson" mộ của tướng thế Mộ của Trung tướng Trình Minh Thế nơi nghĩa trang Liên Minh núi Bà Đen Cố Trung Tướng Trình Minh Thế chủ trương Chống Cộng, Ðả Thực, Bài Phong. (tác giả Trúc Lâm Lê An Bình) Đọc thêm: Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế tác giả Nhị Lang biên soạn. Nhà Lion Press xuất bản năm 1985. Liên lạc bà Kim Anh 655 south 43rd Street Boulder, Colorado 80303. ************** 2/ Thần Tướng Trương Quang Ân và Phu nhân (1932 - 1968; 1931-1968) Hài cốt của Thần tướng Trương Quang Ân và phu nhân được phụng thờ ở chùa Vạn Phước Sài Gòn từ sau ngày 30/04/1975 ... Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952. Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt. Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ) Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC - Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi. Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh... Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận. Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu. Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy. Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954. Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị. Thành phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba. Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối. Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn... cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai. Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu. Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân đội. Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn. Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương. Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng. Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn. Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7. Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ. Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp: - Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi! Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính. Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn. Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn: - Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe! - Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá! - Đại úy Hợp vội vã trả lời. - Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố? - Thiếu tá Ân hỏi gấp. - Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau! - Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc! Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu. - Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! - Người tài xế ái ngại nhắc nhở. - Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm: - Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa? Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời: - Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi! Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc. Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến nay. Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ. Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng: - Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã! Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu: - Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu! Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười: - Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm! Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại. Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định. Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định: - Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được! Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần: - Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai. Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào thời điểm 1966-1967): - Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn! Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)... để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở. *** Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách. - Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?! Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán. Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ "Ân" đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng: - Vào hàng! Vào hàng! Phắc! Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát: - Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích: - Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh! Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định. Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù. Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã. Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng. Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã. Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại. Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống. Nhưng mỉa mai thay, có một "lạnh nhạt cố ý" rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột "hình như" được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết "Cuộc Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968", danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại. Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ - Tướng Quân. Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập. Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ. Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan: - Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa. Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. "Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!" Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắt son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc. Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng: - Chết rồi! Chết rồi trời ơi! - Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!! Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời. Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc. Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa của phu nhân. Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân - Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân. (tác giả Phan Nhật Nam) Viết về TRƯƠNG QUANG ÂN Một nguồn tin vừa được loan đi đã làm sửng sốt toàn thể chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là các chiến sĩ thuộc Khu 23 Chiến Thuật. Đó là tin Chuẩn Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật tử nạn phi cơ cùng phu nhân và phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật sáng ngày chủ nhật 8-9-1968 vừa qua trên đường tới thăm viếng và tưởng thưởng các chiến sĩ đang hành quân tại Đức Lập. Nguồn tin trên quả đã gây xúc động trong toàn thể chiến sĩ chúng ta, vì không nhiều thì ít, chúng ta cũng đã được biết về vị Tướng Lãnh vốn nổi tiếng về khả năng và kỷ luật gương mẩu nầy. Chuẩn Tướng Trương Quang Ân làm việc siêng năng tận tụy lúc nào cũng một lòng lo tròn nhiệm vụ. Trong thời gian vừa qua, Chuẩn Tướng làm việc không có ngày nghỉ; mặc dầu công việc rất bề bộn, Chuẩn Tướng cũng đã dành một ngày chủ nhật để cùng phu nhân và một phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật đáp máy bay đến vùng Đức Lập với mục đích theo dõi cuộc hành quân đang diễn tiến tại vùng Đức Lập và để tưởng thưởng tại chỗ các chiến sĩ xuất sắc. Điều này chứng tỏ bất cứ trận chiến nào tại Khu 23 Chiến Thuật cũng đều có sự hiện diện của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân vào đúng lúc sôi động nhất. Bất cứ đơn vị nào thuộc Khu 23 Chiến Thuật, trong lúc hành quân tiêu diệt Cộng sản cũng được chính Chuẩn Tướng Trương Quang Ân đích thân tới tưởng thưởng và uỷ lạo đúng vào lúc hiểm nguy gian khổ nhất. Đó là tất cả những sự kiện chứng tỏ tư cách cao quý của một vị chỉ huy. Chúng ta hẳn không quên rằng Chuẩn Tướng Trương Quang Ân là một quân nhân hiện dịch, chọn binh nghiệp làm lẽ sống, tốt nghiệp Thủ khoa Khóa 7 Đà Lạt, về Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, lập những công trạng hiển hách đầu tiên trong đời binh nghiệp với trận đánh lừng lẫy tại bản Hu siu (Lào), năm 1957, làm Trưởng Phòng Hành Quân của Lữ Đoàn Nhảy Dù, kế đó là các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù rồi Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù. Sau một thời gian làm Tỉnh Trưởng Gia Định, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 25 Bộ Binh và cuối cùng, năm 1967 làm Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật. Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật từ năm 1967, đặc biệt trong thời gian từ Tết Mậu Thân đến nay, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân cùng toàn thể chiến sĩ Khu 23 Chiến Thuật đã anh dũng đánh tan tất cả nổ lực tấn công của Cộng quân nhằm tạm chiếm một vài thị trấn của miền Cao nguyên heo hút nhưng hiền từ quả cảm này. Cũng trong suốt thời gian Chuẩn Tướng Trương Quang Ân làm Tư Lệnh, các chiến sĩ Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã tiếp tục tạo lập chiến thắng dồn dập nêu cao danh dự đơn vị cũng như danh dự của toàn thể Quân Đội. Chuẩn Tướng Trương Quang Ân được vinh thăng cấp bậc cuối cùng hiện tại vào ngày Quân Lực 19-6-1968 vừa qua, Chuẩn Tướng đã được tưởng thưởng 30 huy chương đủ loại kể cả Bảo Quốc Huân Chương. Suốt trong đời binh nghiệp, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân lúc nào cũng là một sĩ quan nêu gương sáng về kỷ luật, chỉ biết sống cho Quân Đội, chết cho Quân Đội và tuyệt đối vâng phục Quân Đội. Chuẩn Tướng cũng là một sĩ quan dũng cảm có tài chỉ huy, thương yêu thuộc cấp và đặc biệt là một trong những chiến sĩ Dù giỏi nhất về môn nhảy tự động chính xác. Trong tai nạn đau buồn nầy, phu nhân của Chuẩn Tướng cũng tử nạn cùng chồng. Phu nhân nhủ danh là Dương Thị Kim Thanh, một nữ Chuẩn Uý phục vụ tại Tổng Y Viện Công Hòa và là một trong 7 nữ Phụ Tá đầu tiên trong Quân Lực tốt nghiệp bằng Nhảy Dù. Cả gia đình đều phục vụ Quân Đội. Cả Chuẩn Tướng và Phu Nhân trong suốt đời binh nghiệp đã nêu gương phục vụ cho tất cả thuộc cấp. Người chiến sĩ dũng cảm và tận tuỵ, con chim đầu đàn của Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Khu 23 Chiến Thuật không còn nữa, nhưng tinh thần kỷ luật tuyệt đối và thiện chí phục vụ cao độ của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân sẽ còn là tấm gương sáng mãi mãi cho tất cả chiến sĩ chúng ta. Gắn liền cuộc đời vào binh nghiệp, tuyệt đối vâng phục kỷ luật, phục vụ Quân Đội không mỏi mệt, lúc nào cũng nghĩ tới đồng đội và thương yêu thuộc cấp. Đó là những tính chất của một chiến sĩ lý tưởng và là những yếu tố cao quý tạo thành cuộc đời của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân vậy (tác giả Chinh Yên đăng trên báo Tiền Tuyến xuất bản tại Sài gòn vào tháng 9 năm 1968)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 5:44:06 GMT 9
3/ Thần tướng Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1971)Thần tướng Nguyễn Viết Thanh Ông sinh năm 1930 tại Đà Lạt. Nhập ngủ khóa 5 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1952. Thăng cấp Chuẩn tướng năm 1966 giữ chức Tư lịnh Sư đoàn 7 bộ binh thuộc Quân đoàn IV Quân khu IV. Trong trận Mậu Thân 1968, ông và đơn vị thuộc quyền đã giữ vững an ninh trong toàn khu vực trách nhiệm, và năm sau 1969 được vinh thăng Thiếu tướng. Đồng thời được đề cử giữ trách nhiệm Tư lịnh quân đoàn IV quân khu IV. Đức tính bình dị, thân ái của ông đã lan tỏa đến các quân nhân thuộc quyền cũng như đối với dân chúng, đã khiến cho mọi người kính trọng và ngưỡng mộ một vị tướng lãnh tài ba, đức độ như ông. Sự ngưỡng mộ và kính trọng đã cũng đã thể hiện nơi vị Tướng cố vấn trưởng quân đoàn IV. Tháng 5/1970, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chia làm hai nhánh tấn công vào bộ chỉ huy trung ương cục miền Nam của Việt cộng. Phía Bắc cánh quân của quân đoàn III do Trung tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy tấn công vùng Lưỡi câu; phía Nam cánh quân của quân đoàn IV do Trung tướng Nguyễn Viết Thanh làm tư lịnh tấn công vùng Mõ Vẹt. Nhưng ngay ngày đầu tiên của chiến dịch, chiếc trực thăng chỉ huy của ông lúc đang bay theo các đơn vị thuộc quyền đã chạm vào chiếc Cobra (trực thăng võ trang) và nổ tung trên không trung cách biên giới Việt Nam khoảng 10 cây số. Tướng Nguyễn Viết Thanh và phi hành đoàn 10 người đều tử nạn. Cái chết của ông đã khích lệ đoàn quân Tây tiến và đã tạo nên những chiến thắng hào hùng của QLVNCH trong cuộc hành quân Cao Miên. Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh Vào giữa năm 1968, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV. Lúc đó tôi làm Tổng Thư Ký Hội Đồng Tái Thiết Phát Triển kiêm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tỉnh Kiên Giang. Hàng tháng tôi thường về họp tại Trung Tâm Điều Hợp Quân Khu do Đại Tá Phạm Văn Út làm Trung Tâm Trưởng và thỉnh thoảng có ghé qua thăm Thiếu Tướng Thanh. Nhân một buổi họp cuối năm, tôi có chở theo vài món đặc sản Rạch Giá như nước mắm nhĩ Phú Quốc, khô cá thiều và một ít bánh ú lá dừa biếu gia đình ông. Vì biết tôi có quà cho Tướng Thanh nên Trung Tá Tỉnh Trưởng Kiên Giang cũng nhờ tôi chở theo một số quà biếu Tư Lệnh. Ông nghe tiếng Thiếu Tướng Thanh rất thanh liêm, không ưa vụ biếu xén quà cáp, nên ông không dám đích thân đi biếu mà nhờ tôi là chỗ thày trò cũ, may ra được nhận chăng? Hôm đó sau buổi họp ở văn phòng Đại Tá Út, tôi qua thăm Tư Lệnh. Thiếu Tướng Thanh niềm nở tiếp tôi, hỏi thăm chuyện vợ con, hỏi thăm Thiếu Tướng Khuyên, rồi ông nói: "Bây giờ cũng trưa rồi, Quý qua bên nhà ăn cơm với vợ chồng tôi nhé, ăn chay đó." Tôi thưa: "Cám ơn Thiếu Tướng, hôm nay đàn em không xin được trực thăng, phải đi đường bộ, về trễ sợ nguy hiểm, lần sau sẽ xin ghé tư dinh thăm chị luôn." Tôi tranh thủ trình bày vụ biếu quà, ông bảo: "Thôi được, món nào của anh thì tôi nhận, nhưng chỉ lần này thôi nhé. Còn của anh Tỉnh Trưởng thì anh đem về nói là tôi rất cám ơn, nên đem mấy món quà đó tặng cho anh em thương bệnh binh nhân dịp Tết cho họ mừng. Đó là điều mà cấp chỉ huy nên làm." Bất giác tôi chợt nhớ đến cái Tết 10 năm trước ở Vĩnh Bình. Sáng mồng một Tết, ông cùng Thiếu Tá Khuyên vào bệnh viện tỉnh thăm thương bệnh binh. Rồi suốt ngày mồng hai Tết, ông hết đứng lại ngồi đăm chiêu trước bản đồ hành quân để nghiên cứu địa hình và tình hình địch. Hình như ông nóng lòng trông cho mau đến ngày mồng 3, hết hạn hưu chiến để tổ chức hành quân Bình Định. Cuộc đời của ông chỉ biết phục vụ, phục vụ và phục vụ, chí công vô tư, xả thân vì nước. Một năm sau trong bữa cơm chiều tôi được tin Thiếu Tướng QĐIV tử nạn máy bay trên vùng trời Kiến Tường. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Thế là hết ! Một ngôi sao sáng vừa lịm tắt. Quân Lực mất đi một vị tướng tài ba, công minh chính trực và một cấp chỉ huy hết lòng thương yêu lính. Sau khi mất ông Thanh được truy thăng Trung Tướng (tác giả Quế Sơn Nguyễn Mậu Quý). Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp thì vẫn cay cú vì cú đá "Điện Biên Phủ" của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lõ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Hòa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ý nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm gì, đến báo chí Mỹ "phe ta" mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy "ông thày " vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi. Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn còn những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm lòng trân trọng với Việt Nam Cộng Hòa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v...Charlton Heston đã cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết trình để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, vì VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy "ngứa mắt" vì thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành "Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao" tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển "South Vietnam On Trial" (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định "sơ khởi" về tình hình khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đã đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê bình đụng chạm một cách phiến diện đến tình hình chung của tướng lãnh thời ấy. Chưa chắc họ đã nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng. Theo hai me sừ như đã giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lãnh lừng lẫy thì sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lãnh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường trình dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về tình hình chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, thì hầu hết những tướng lãnh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm...rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê bình giới tướng lãnh là "hết sức thụ động", nào là "yếu kém", nào là "thầy chạy" (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường trình đã cho thêm một câu thòng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. Vì thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lãnh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nhòm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đã chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu. Rà tới rà lui mãi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nhìn chiến lược. Sự nổi lên của hai vị tướng lãnh một phần cũng xuất phát từ ý đồ chính trị của TT Thiệu nhằm loại bớt một số tướng lãnh thuộc "phe" Phó TT Kỳ, đưa những tướng lãnh "trung lập" lên hay ít ra, không có tham vọng chính trị, chỉ biết đánh giặc làm niềm...vui duy nhất mà thôi. Hay biết chắc là họ sẽ trung thành và cho họ trấn đóng ở hai quân khu giàu có nhất và gần cận nhất để đem quân về cứu giá khi cần. Cho nên những vị tướng tá nào được cho về làm tư lệnh SĐ7BB coi như nắm chắc chiếc ghế tư lệnh quân khu trong tương lai gần. Thí dụ như trường hợp Tướng Nguyễn Viết Thanh, kế đến là Thiếu Tướng Nguyễm Khoa Nam, đều là những vị tư lệnh quân khu 4 xuất thân từ tư lệnh SĐ7BB. Theo bảng lượng định của MACV thì tuy SĐ7BB không có gì xuất sắc hơn SĐ9BB hay SĐ21 BB, tuy nhiên Thiếu Tướng Thanh có phần nhỉnh hơn với những tiếng tốt trong quân đội. "Nhất Thắng, Nhì Chinh, tam Thanh, Tứ Trưởng", là những vị tướng đánh giặc lả lướt nhưng cũng rất thanh liêm. Hơn nữa, Tướng Thanh được Đại Tướng William C. Westmoreland đánh giá là viên tướng kiệt xuất nhất trong các vị tư lệnh sư đoàn. Tuy nhiên Westmoreland và bộ tham mưu của ông ta cũng rất dè dặt không dám ra mặt thổi phồng Tướng Thanh nhiều hơn nữa, vì sự ủng hộ về phía Mỹ đối với một tướng lãnh nào đó một cách lộ liễu, ở một khía cạnh nào đó có thể là bản án...tử hình cho ông ta mà thôi. Nhưng may mắn cho Tướng Thanh, Tonton không những hài lòng khả năng tác chiến của Tướng Thanh mà "người" còn rất tán thưởng thái độ thờ ơ với chính trị của ông. Trở lại với những huyền thoại về Thiếu Tướng Thanh. Có thể nói ông là một trong những vị tướng hiếm hoi được lòng binh sĩ và cả lòng dân. Chỉ có những vị tướng lừng lẫy khác như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng hay Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam mới đạt được cả hai thứ ấy. Danh tiếng của Tướng Thanh và lòng dân thương yêu ông to lớn như thế nào, chúng ta hãy nghe một câu chuyện cảm động do Thiếu Tướng Cố Vấn Quân Đoàn 4, ông George Eckhardt, kể lại. Trong một dịp đi thanh sát đơn vị cũ của ông là SĐ7BB tại Mỹ Tho, đoàn của Tướng Thanh đang dùng cơm trưa trong một nhà hàng, vô cùng âm thầm và không kèn không trống. Nhưng không hiểu sao tin tức xì ra ngoài và chẳng mấy chốc dân thị xã rần rần kéo tới như đi hội chợ và reo hò chào mừng vị tướng thân mến của họ. Trung Tướng Thanh buộc phải ngừng bữa ăn và tiến ra chào hỏi bắt tay từng người dân một trong suốt 45 phút. Một sự kiện kỳ lạ lẫn kỳ diệu xảy ra ngay trước những cặp mắt sửng sốt của người Mỹ. Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đã hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ thì SĐ5BB là "sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy", còn SĐ25BB thì là "sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn", trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đã được cải đổi từ sư đoàn "bù mười nút", tức SĐ10BB ra thành sư đoàn "hên chín nút", tức SĐ18BB cho mãi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đã hiện ra rõ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đã không phụ lòng trông cậy của ông và đã đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đã cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Hòa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp hối của VNCH đã vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đã làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng "hay không bằng hên", phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ hòn ngay tại ngưỡng cửa Sàigòn. Việt Cộng đã cay đắng quá đối và đã hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàigòn và chỉ chịu rã ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đã chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng "hên" trong trận Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng. Đánh giá của bảng tường trình thì Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải thì tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đã tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đã bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn "Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà" 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Hòa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đã dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lãnh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đã hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất. Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đã sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot's Beak). Trong khi đó Tướng Thanh làm tư lệnh 4 chiến đoàn bộ binh-thiết giáp tấn công từ Vùng 4 Chiến Thuật lên hướng Bắc đến khi bắt tay với quân đoàn của Tướng Trí. Một nỗi bất hạnh cho người dân vùng 4 nói riêng và cho quân lực VNCH nói chung là trong ngày đầu của chiến dịch, Trung Tướng Thanh bay thị sát chỉ huy mặt trận để thúc giục lòng quân và nhịp độ tiến quân. Chiếc UH1 trực thăng chở Tướng Thanh đã vào sâu trong nội địa KPC được gần 20 cây số thì bất ngờ đụng nhau với một chiếc trực thăng tấn công Cobra. Tất cả những người trên 2 chiếc phi cơ đều tử nạn. Cái chết của Thiếu Tướng Thanh, giờ đây là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, đã phủ một màu tang tốc lên hai quân đoàn đang hừng hực hùng khí tiến công. Nhưng trái với sự hí hửng hả hê của cộng quân, Quân Đoàn 4 tuy thiếu vắng con chim đầu đàn đã tràn lên tấn công như vũ bão và đã đánh một trong những trận lừng lẫy nhất. Chuẩn Tướng Trần Bá Di, Tư Lệnh SĐ9BB đã điều động sư đoàn làm mũi đột phá chính của Quân Đoàn 4. Tướng Trí đã tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nhìn tới nhìn lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy thì đã thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây "ba toong" vung vẩy về phía trước gào to: "Tiến lên! Nhanh Lên!". Westmoreland đã phải viết trong bản báo cáo: "Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam." Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ý đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng mình hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đã lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàigòn. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rõ ràng của ông. Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC còn cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Hòa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh thì thình lình nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nhìn thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát vì thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc trình của phái bộ MACV thì chính là do tình trạng thiếu kinh nghiệm bảo trì phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên tục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không còn tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè năm 1972. Hai viên đại tướng cùng hy sinh vì tổ quốc đã để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đã đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: "Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu dũng mãnh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được lòng tin của lính tráng thì với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy." (Phạm Phong Dinh phỏng theo David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience. Boston Publishing Company)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 5:53:54 GMT 9
4/ Thần tướng Đỗ Cao Trí (1929 - 1971) Tướng Đỗ Cao Trí Cái chết đột ngột của Tướng Đỗ Cao Trí vì tai nạn trực thăng ở phía Bắc Tây Ninh trên đường ra mặt trận sáng ngày 23-2-1971 là bước ngoặt của cuộc chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam. Đại Tướng Đỗ Cao Trí là một tài năng kiệt xuất của Quân Lực VNCH. Thật hiếm có một tướng lãnh nào của chúng ta vừa có mưu lược vừa có dũng khí như Tướng Trí. Ông luôn chủ động đánh trúng địch vào chỗ bất ngờ nhứt và luôn xuất hiện ở điểm nóng nhứt trên chiến trường. Nếu Pháp có De Lattre De Tassigny, Mỹ có Patton, Đức có Rommel, thì VNCH chúng ta có Đỗ Cao Trí. Là Đại Sứ VNCH ở Nam Triều Tiên, Ông tình nguyện xin trở về nước sau Tết Mậu Thân để ra trận ngày 5-8-68, Ông thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang làm Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Lúc bấy giờ quân địch ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn. Quân chánh quy cộng sản Bắc Việt xuất hiện ngay trong các trung tâm thành phố lớn như Sài-Gòn, Chợ Lớn, Biên Hòa v.v... và Quân Đội Mỹ phải rút quân từng phần theo Kế Hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh của Tổng Thống Richard Nixon vì áp lực chống chiến tranh của nhân dân Mỹ. Đại Tướng Đỗ Cao Trí với tài thao lược xuất chúng, chỉ trong một thời gian ngắn, vừa bình định xong lãnh thổ đem lại an ninh ở nông thôn, vừa mở các cuộc hành quân tấn công liên tục các Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt: Công Trường 5, 7, 9, và các Trung Đoàn Địa Phương Việt Cộng ở các tỉnh Biên Hòa, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Tây Ninh, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Long và Phước Long, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề buộc chúng phải rút chạy qua trú ẩn trên lãnh thổ Campuchia. Kể từ tháng 3-1970, Ông đưa chiến tranh ra khỏi lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật. Ngay sau đó, Ông mở cuộc "Hành Quân Toàn Thắng 42", phối hợp với Lực Lượng II Dã Chiến Hoa Kỳ, lần lượt bứng tận gốc các căn cứ của Quân Cộng Bắc Việt dọc theo bên kia biên giới Việt-Campuchia ở khu Mỏ Vẹt và Lưỡi Câu, đồng thời đẩy Cục "R" và các Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt lên tận Đông Bắc Campuchia ở Dambe và Chlong. Thừa thắng xông lên, ngày 18-2-1971, Ông trực thăng vận Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân cùng Ông xuống Chlong, đồng thời điều động LLXKQĐIII và Chiến Đoàn 333 Biệt Động Quân tấn công, chiếm và càn quét Dambe, buộc quân địch phải co về thế thủ. Nhưng mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất trong cuộc "Hành Quân Toàn Thắng 1/71" này là Kratié, căn cứ chiến lược chủ yếu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Ông nói nếu ta chiếm Kratié, chúng ta sẽ cắt đứt con đường tiếp vận huyết mạch chính từ Miền Bắc xuống tận vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông dự định sử dụng Sư Đoàn Nhảy Dù trực thăng vận xuống Kratié, đồng thời LLXKQĐIII sẽ tấn công từ Chlong lên phía Bắc giao tiếp với Dù ở Kratié. Liên Đoàn 30 Công Binh được lệnh của Ông đã đưa đơn vị cầu vào Dambe chuẩn bị bắc cầu ở Chlong yểm trợ LLXKQĐIII vượt sông. Ngày 20-2-1971: Ông gặp tôi ở Chlong. Ông lắc đầu, mặt có vẻ buồn rầu lo lắng. Ông cho tôi hay là Sư Đoàn Nhảy Dù đã được Bộ Tổng Tham Mưu điều động ra Đông Hà (tham dự cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào), làm đảo lộn kế hoạch hành quân của Ông. Mặc dù vậy, Ông không bỏ ý định đánh Kratié. Ông ra lệnh cho tôi sẵn sàng. Ông định sẽ sắp xếp và điều động 1 trong 3 Sư Đoàn của Quân Đoàn III để thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù trong giai đoạn tấn công tới này. Chiều ngày 22-2-1971: Vào khoảng 18:00 giờ, Ông còn bay trên bầu trời Dambe-Chlong gọi tôi trên máy truyền tin hẹn gặp ngày mai tại căn cứ hành quân của tôi — Dambe. LLXKQDIII đã được không vận thả dù tái tiếp tế xong xuôi, hàng ngũ sắp xếp chỉnh tề chuẩn bị lên đường. Tôi biết sắp tới là những ngày chiến đấu quyết liệt nhất. Sáng ngày 23-2-1971: Tôi và Đại Tá Lê Văn Nghĩa, Liên Đoàn Trưởng LĐ 30 Công Binh chờ đón Ông ở Dambe. Sau khi dự buổi thuyết trình sáng ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân QĐ III tại Tây Ninh, như thường lệ, Ông lên trực thăng chỉ huy bay sang Campuchia. Trực thăng vừa cất cánh bay lên hướng Bắc được vài phút thì phát nổ. Tất cả đều tử vong. Ngoài đoàn tùy tùng gồm có Trung Tá Châu, Truyền Tin, Trung Tá Sỹ, Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn, Đại Úy Tuấn, Sĩ Quan Tùy Viên, còn có nhà báo Mỹ gốc Pháp nổi tiếng Francois Sully và Đại Úy Thành Pilot. Tin Đại Tướng Đỗ Cao Trí tử trận làm xúc động dư luận trong nước và thế giới. Báo Times và Newsweek loan tin ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của Ông. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu truy thăng Ông lên Đại Tướng. Đại Tướng Creighton Abrams nghiêng mình trước linh cửu Ông. Đại Tướng Đỗ Cao Trí sinh ngày 20-11-1929, ở Biên Hòa, tốt nghiệp Trường Võ Bị Coetquidan, Trường Nhảy Dù Pau ở Pháp năm 1949 và tốt nhiệp Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ ở Fort Leavenworth năm 1959. Ông sống được 42 tuổi. Ông là vị Tư Lệnh Nhảy Dù đầu tiên của QLVNCH. Lúc 34 tuổi, Ông là trung tướng trẻ nhất của Quân Lực chúng ta. Ông đã từng là Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Đoàn II kiêm Đại Biểu Chính Phủ ở Miền Trung và Cao Nguyên trong 2 năm 1963-64 khi còn rất trẻ, và nổi tiếng điều quân khiển tướng nghiêm minh tài giỏi. Ông vận dụng nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy một cách tuyệt vời. Những đơn vị nào do Ông chỉ huy cũng đều có kỷ luật, thiện chiến và lập nhiều chiến công to lớn. Quân cộng sản rất sợ Ông. Chúng tìm cách cho tay sai len lỏi trong hàng ngũ Quốc Gia dèm pha hạ bệ Ông, nhưng vô ích, Quân Lực chúng ta vẫn kính trọng Ông. Ông vẫn cùng với ba quân xông pha trận mạc bảo vệ Tổ Quốc. Trong buổi lễ xuất quân đánh sang Campuchia của LĐ3KB tháng 1-1971, Đại Tướng tuyên bố là Ông sẽ sống và chết với ba quân trên chiến trường. Ông đã giữ đúng lời hứa. Ông đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Đại Tướng Đỗ Cao Trí là tấm gương chiến đấu sống động nhất cho tuổi trẻ Việt Nam. Ngày nay, sách báo thế giới tự do vẫn ca ngợi Ông là một Anh Hùng Dân Tộc của VNCH. Đại Tướng sống, chiến đấu và hy sinh đúng với danh ngôn của người xưa: Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu. Dân tộc Việt Nam mất đi một Lãnh Tụ Quân Sự vĩ đại, Quân Lực VNCH mất đi một Tướng Lãnh kiệt xuất. Còn tôi, tôi mất đi vị chỉ huy lỗi lạc chưa từng thấy và người bạn chiến đấu tâm đầu hợp ý nhất. (tác giả Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi Virginia, 1/11/1995) Khi ông Thiệu đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ đầu thì đưa Tướng Trí về Quân Đoàn 3 thay Trung tướng Khang, do sự tiến cử của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Trước đó, Tướng Trí đang giữ chức Đại Sứ ở Đại Hàn. Khi tướng Trí về nắm chức Tư Lịnh Quân Đoàn 3 thì tình cờ cả 3 vị Tư Lịnh Sư Đoàn của Quân Đoàn 3 đều xuất thân từ Khóa 3 Đà Lạt. Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh giữ chức Tư Lịnh Sư Đoàn 25, Thiếu Tướng Hiếu, Sư Đoàn 5 và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, Sư Đoàn 18. Trong 3 vị Tư Lịnh vừa kể thì Tướng Trí tỏ vẻ trọng dụng Tướng Hiếu nhứt vì Tướng Hiếu đã từng làm tham Mưu Trưởng cho Tướng Trí trước kia ở Quân Đoàn 1 và Quân Đoàn 2 vào năm 1963. Thời gian Tướng Trí nắm chức Tư Lịnh quân Đoàn 3 là thời gian làm cho các Công Trường 5, 7, 9 của Việt Cộng điêu đứng nhứt. Tướng Trí đã chuyển từ thế thủ sang thế công, đẩy các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam qua bên kia biên giới. Các chiến khu Dương Minh Châu, mật khu Hố Bò bị cày nát, không còn là nơi ẩn an toàn cho Trung Ương Cục Miền Nam nữa. Tôi có dịp theo Tướng Trí lên họp với Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội Cao Miên ở Nam Vang mấy lần để phối hợp hành quân. Lúc đó, Tướng In Tam của Cao Miên làm Thủ Tướng. Nghe nói Tướng In Tam xưa kia từng làm việc dưới quyền của Tướng Trí khi hai người còn ở trong Tiểu Đoàn Dù của Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Có nhìn thấy thái độ nể nang của tướng lãnh Cao Miên đối với Tướng Trí mình mới thấy quả thật Tướng Trí là một tướng lãnh có nhiều uy tín. Mọi việc lớn nhỏ gì, Quân Đội Cao Miên đều phải hỏi qua ý kiến của Tướng Trí. Ngoài ra, không riêng gì Quân Đội Cao Miên mà cả đến các cố vấn Mỹ của Quân Đoàn 3 cũng đều tỏ vẻ thán phục khả năng điều binh khiển tướng của Tướng Trí. Tiếc thay, tướng tài thường yểu mạng. Âu cũng là vận nước mình gặp lúc không may! (tác giả Đại Tá Nguyễn Khuyến San Jose, 16-10-98 ) Tướng Tác Chiến Giỏi ... Cơ Quan Viện Trợ Mỹ MACV đã đưa ra bản tường trình có tính cách phê bình các vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Điều nghịch lý ở đây là một vị Tướng nổi danh về tài hành binh bố trận, được binh sĩ trung thành, lại bị đe dọa chính trị, trong một nước đầy cuộc đảo chánh quân sự. Một nhà quan sát Mỹ ở Sài Gòn hồi đó đã giải thích: "Đây là một quốc gia không cho phép ai được làm anh hùng quá lâu. Nhưng người ta vẫn xài anh hùng nhất thời." Lúc đó QLVNCH có hai anh hùng tài ba trên chiến trường (không phải anh hùng chính trị), đã vượt trội và lãnh trọng trách chỉ huy Quân Đoàn III và IV ngay sau vụ Tổng Phản Công Tết Mậu Thân 1968. Đó là Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí và Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Hai ông đã chứng tỏ là những vị Tướng có tầm nhìn chiến lược sắc bén và có tài điều quân trận địa chiến. Trong lần chấn chỉnh sau vụ Tết Mậu Thân 1968, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã loại những sĩ quan trung thành với PTT Nguyễn Cao Kỳ, và giao cho Tướng Trí và Tướng Thanh đảm nhận chức Tư Lệnh hai Vùng Chiến Thuật đông dân và nhiều yếu tố tế nhị chính trị nhất. ... Tại Quân Đoàn III, Tướng Đỗ Cao Trí đã chỉnh đốn lại khả năng tác chiến của ba Sư Đoàn 5, 18 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Ông có bản lãnh hoàn thành những việc dù khó khăn cách mấy. Thoát chết ba lần ám sát. Không ai dám làm phật lòng chính phủ và Bộ TTM Sài Gòn, nhưng Tướng Trí đã dám thay thế hai vị Tư Lệnh bất tài và là tay chân thân tín của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng ông không gặp phản ứng nào của dinh Độc Lập. Tướng Trí hứa sẽ biến ba sư đoàn bộ binh yếu kém thành tinh nhuệ trong vòng 2 năm, và ông đã giữ đúng lời hứa. Tổng Thống đã cử Tướng Trí làm Tư Lệnh cuộc hành quân càn quét cục R, căn cứ an toàn của VC ở vùng Mỏ Vẹt. Tướng Đỗ Cao Trí được ca ngợi như vị anh hùng của Quốc Gia, ông làm việc không mệt mỏi, kế hoạch hành quân được chuẩn bị rất kỹ càng, chu đáo, và linh động, cùng sự có mặt thường xuyên ở chiến trường khích động lòng quân là những yếu tố đem lại chiến thắng cho đơn vị thuộc quyền của ông. Tướng Trí đã dùng chiến thuật "Diều hâu" và "Nhị thức chiến xa bộ binh" phối hợp một cách thần kỳ nên đã gặt hái kết quả không thể ngờ được. Không ai can đảm và xông xáo như vị Tướng ba sao này, mặc đồ rằn ri, đội mũ lưỡi trai, tay cầm cây gậy chỉ huy, nhảy theo toán quân đổ trực thăng đầu tiên; hoặc đứng trên pháo tháp xe tăng hô to: "Nhanh lên! Tiến nhanh lên các em!" Trước ngày thực sự đổ quân qua Campuchia, có lần khi đang tới thị sát BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tướng Trí nghe báo cáo lính Miên đang "Cáp Duồn" chặt đầu thả trôi sông đồng bào Việt Nam ở vùng đồn điền Michelin bên kia biên giới. Ông vội điều động một tiểu đoàn Nhảy Dù cấp tốc đổ bộ bằng trực thăng Việt Nam (vì trực thăng Mỹ chưa có lệnh Tổng Thống Nixon nên không dám vượt biên) xuống sân banh trong đồn điền cao su. Khi hai đại đội vừa xuống thì chiếc trực thăng của ông cũng đáp xuống theo, ông lấy tay cầm "Can" chỉ về phía trước hô xung phong. Khiến anh Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó giật mình vội báo cáo về xin đổ quân xuống bảo vệ an toàn cho ông. Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng cấp tốc bay đến hiện trường. Binh sĩ thấy hai vị Tướng cùng có mặt tại trận địa, nên ai nấy đều hăng hái xung phong đánh đuổi giặc ác ôn và giải thoát hằng ngàn đồng bào chở về bên nây biên giới (sau này dân chúng địa phương đã tạc tượng Tướng Trí thờ cúng ơn cứu mạng). Đối với một người tài ba và khát khao chỉ huy lập chiến tích oai hùng như Tướng Trí, xá gì chiếc trực thăng an toàn hay không, xá gì chiến trường hung hiểm ra sao, Tướng Westmoreland đã cảm phục tài ba và lòng can đảm này nên ông đã viết: "Tướng Trí là một con cọp của chiến trường, một Tướng Patton của Việt Nam." Tuy nhiên, cái tài của Tướng Trí đã làm nhiều Tướng Lãnh khác ghen tị, họ đã nêu ra những hành động của ông trong trận đánh đồn điền cao su Chup ở Cam Bốt; bắt bẻ ông đã nhảy xuống hồ bơi tắm chơi trong lúc cuộc giao trang đang hồi dữ dội nhất. Họ rêu rao rằng: "Tướng Trí chỉ muốn tạo tiếng tăm anh hùng cho riêng mình, chứ không đếm xỉa đến lợi ích quân sự." Ngoài ra lối sống xa hoa ngang tàng và giàu có của ông đã gây ganh ghét và nghi ngờ ở Sài Gòn. Hai Thượng Nghị Sĩ Nam Việt Nam đã gọi là "vụ tham nhũng trắng trợn", khi tố cáo ông có chân trong đường giây buôn lậu tiền. Vụ tham nhũng này tung ra cùng lúc với những tin chiến thắng của Tướng Trí bay về thủ đô Sài Gòn. Mặc dù đời sống cá nhân bị tai tiếng, Tướng Trí vẫn nổi danh như cồn, ông là vị Tướng Lãnh chiến trường tài giỏi nhất QLVNCH. Ngay cả sau cuộc hành quân Campuchia kết thúc. Dưới sự chỉ huy của ông, QLVNCH đã liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân vượt biên triệt hạ sào huyệt an toàn của địch, khiến chúng chạy xất bất sang bang. Trong lúc Tướng Trí hăng hái với kế hoạch tấn công của QLVNCH, ông có ý định đưa quân sĩ QĐ III lên Kratie để bắt tay với cánh quân ở đây thì bị tử nạn phi cơ trực thăng cuối tháng 2/1971. Trên máy bay còn có ký giả Pháp nổi tiếng là Francois Sully. Chuẩn Tướng Mỹ George Wear đã ghi lại: "Khi quân sĩ VNCH được cấp chỉ huy giỏi sẽ chiến đấu xuất sắc không thua bất cứ quân đội nào khác. Họ chỉ cần những vị chỉ huy hết lòng với họ, chiếm được lòng tin của họ, và làm cho họ dám chết vì chính nghĩa." Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh là hai vị chỉ huy có được tư cách và tài ba đó. (David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience. Boston Publishing Company chuyển ngữ: Trương Dưỡng) Tướng Đỗ Cao Trí Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc. Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp thì vẫn cay cú vì cú đá "Điện Biên Phủ" của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lõ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Hòa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ý nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm gì, đến báo chí Mỹ "phe ta" mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy "ông thày " vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi. Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn còn những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm lòng trân trọng với Việt Nam Cộng Hòa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v...Charlton Heston đã cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết trình để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, vì VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy "ngứa mắt" vì thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành "Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao" tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển "South Vietnam On Trial" (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định "sơ khởi" về tình hình khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đã đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê bình đụng chạm một cách phiến diện đến tình hình chung của tướng lãnh thời ấy. Chưa chắc họ đã nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng. Theo hai me sừ như đã giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lãnh lừng lẫy thì sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lãnh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường trình dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về tình hình chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, thì hầu hết những tướng lãnh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm...rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê bình giới tướng lãnh là "hết sức thụ động", nào là "yếu kém", nào là "thầy chạy" (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường trình đã cho thêm một câu thòng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. Vì thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lãnh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nhòm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đã chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu. Rà tới rà lui mãi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nhìn chiến lược... Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đã hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ thì SĐ5BB là "sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy", còn SĐ25BB thì là "sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn", trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đã được cải đổi từ sư đoàn "bù mười nút", tức SĐ10BB ra thành sư đoàn "hên chín nút", tức SĐ18BB cho mãi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đã hiện ra rõ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đã không phụ lòng trông cậy của ông và đã đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đã cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Hòa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp lối của VNCH đã vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đã làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng "hay không bằng hên", phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ hòn ngay tại ngưỡng cửa Sàigòn. Việt Cộng đã cay đắng quá đối và đã hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàigòn và chỉ chịu rã ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đã chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng "hên" trong trận Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng. Đánh giá của bảng tường trình thì Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải thì tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đã tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đã bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn "Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà" 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Hòa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đã dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lãnh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đã hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất. Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đã sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot's Beak)... Tướng Trí đã tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nhìn tới nhìn lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy thì đã thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây "ba toong" vung vẩy về phía trước gào to: "Tiến lên! Nhanh Lên!". Westmoreland đã phải viết trong bản báo cáo: "Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam." Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ý đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng mình hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đã lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàigòn. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rõ ràng của ông. Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC còn cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Hòa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh thì thình lình nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nhìn thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát vì thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc trình của phái bộ MACV thì chính là do tình trạng thiếu kinh nghiệm bảo trì phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên trục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không còn tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè năm 1972. Hai viên đại tướng cùng hy sinh vì tổ quốc đã để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đã đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: "Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu dũng mãnh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được lòng tin của lính tráng thì với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy." (Phạm Phong Dinh phỏng theo David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience. Boston Publishing Company ) Cái Chết của một Chiến Tướng. Quan ngại bởi bước tiến chậm chạp xâm nhập vào Hạ Lào, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lấy một quyết định nan giải đầu tuần trước. Ông phải đặt để một người chỉ huy mới. Vào 7 giờ sáng, ông triệu Trung Tướng Đỗ Cao Trí, 41 tuổi, một quân nhân mang nhiều huy chương nhất và danh tiếng nhất nước, đến dinh tổng thống tại Sài Gòn. Và ông ủy thác cho Tướng Trí công việc này. Hai người thảo luận ngắn ngủi thể thức và lúc nào Tướng Trí sẽ nắm quyền chỉ huy Lam Sơn 719 thay tư lệnh Quân Đoàn I Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Sau buổi đàm thoại, Tướng Trí đáp trực thăng đi thị sát quân lính của ông đang hành quân vượt biên trong một cuộc săn đuổi địch quân ngay tại các mật khu nằm trong vùng đông nam Căm Bốt. Không đầy 2 tiếng rưỡi sau, xác Tướng Đỗ Cao Trí được lôi ra khỏi thân xác tan tành của trực thăng trong tỉnh lỵ Tây Ninh. Cả thảy mười người tử nạn trong chuyến bay, gồm có một vài cộng sự viên của Tướng Trí và phóng viên Newsweek François Sully. Theo lời thuật chính thức của phát ngôn nhân chính phủ, một bộ phận trực thăng bị hư hỏng khiến cho máy bay bị phát nổ trong khi đang bay cao 100 feet. Lẽ đương nhiên là lời đồn đãi thì đưa ra một giả thuyết khác: Tướng Trí là nạn nhân của một cuộc âm mưu tinh vi - theo thói thông thường và là một lời giải thích không chính xác cho bất cứ biến cố nào xảy ra tại Nam Việt Nam. Theo lập luận này, ông bị bắn hạ bởi các kẻ thù cá nhân hay chính trị. Các sĩ quan tình báo Mỹ nghi là trực thăng Tướng Trí bị hỏa lự̣c súng phòng không ̣địch bắn hạ; giới chức chính quyền tung tin trục trặc máy móc để ngăn ngừa địch lấy công là đã hạ thủ được một trong những anh hùng tài ba nhất của Nam Việt Nam. Tướng Trí thường được đánh giá là chiến tướng cừ khôi nhất của QLVNCH, và các thành tích dũng cảm của ông đã được thần thoại hóa. Trong chiến dịch vượt biên Căm Bốt trong tháng 5 vừa qua, Tướng Trí thường đáp trực thăng xuống đất để nắm lấy quyền chỉ huy một đơn vị đang lâm nguy. Một lần nọ, sau khi người đứng cạnh ông bị mảnh pháo kích đốn hạ, Tướng Trí can trường nhảy lên một thiết vận xa và thôi thúc chiến xa tiến thẳng vào nơi phát xuất hỏa lực, "Tiến tới, tiến tới!" Y phục chiến trường thông thường của Tướng Trí là một bộ đồ ngụy trang cây lá rừng, một chiếc mũ baseball với ba ngôi sao và một cây gậy, mà ông nói bông đùa luôn cầm trên tay để "phát đít Việt Cộng." Ông say sưa với địa vị nổi bật và đơn sơ đủ để nhìn nhận điều đó. "Tôi thích trở nên một anh hùng," ông nói một cách thật là thẳng thừng trong cuộc xâm chiếm Căm Bốt năm ngoái. Điều ít biết đến hơn là sự kiện "Tướng Patton của Vùng Mỏ Vẹt", danh xưng được gán cho ông, cũng còn là một nhân vật hành chánh khôn khéo chỉ huy ba trong bốn vùng chiến thuật và có lúc được nhắm bổ nhiệm cho vùng chiến thuật thứ bốn. Ông hỗ trợ việt nam hóa chiến tranh lâu trước khi điều này trở thành quốc sách. Sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có trong tỉnh Tây Ninh, Tướng Trí bay trực thăng hằng ngày giữa chiến trường và ngôi biệt thự sang trọng của ông, gồm có một hồ bơi, bên cạnh một con sông tại Biên Hòa. Tại đây, Tướng Trí ham thích đóng vai trò chủ khách, nhậu nhẹt và chuyện vãn tán gẫu. Ông cũng còn làm chủ một vườn thú gồm vịt, ngỗng, chim bồ câu, một con nai, một con bò và một con heo chạy quanh trong vườn. Tướng Trí chăm lo vợ và sáu người con; ông dạy kinh tế cho mấy đứa nhỏ bằng cách dùng tiền túi của chúng để mua thực phẩm cho heo, rồi chia phần lời với chúng khi bán được con heo. Nhưng cách lối sống của ông quá xa xỉ khiến cho người đời luôn nghi ngờ ông tham nhũng, và năm 1965, trong một vụ chính phủ điều tra tài sản ông, ông toan tính quyên sinh. Một trong số người bảo lãnh cho cuộc điều tra là Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó cầm đầu Không Quân. Hai người trở nên thù địch không đợi trời chung, và tuy là họ thường thấy mặt nhau tại các công vụ sau khi Tướng Trí trở lại nắm quyền chỉ huy quân sự năm 1967, họ không bao giờ bắt tay nhau. Tướng Trí thường nói ông sung sướng nhất khi ông ở cạnh bên các chiến binh của ông ngoài mặt trận. Tuần qua, trong khi một quân nhân cầm trên tay một bó hoa hồng với một dải ruy băng có ghi hàng chữ VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC, quan tài Tướng Trí được hạ huyệt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Y phục, mũ, găng tay, cây kiếm và cây gậy của ông được cài đặt trên mặt quan tài.( Time Magazine Monday, Mar. 08, 1971)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:02:22 GMT 9
5/ Thần tướng Phạm Văn Phú (1929 - 1975)Thần tướng Phạm Văn Phú Phong Cách Anh Hùng Của Tướng Phạm Văn Phú Từ 1975 tới nay, có một số người viết về Tướng Phạm Văn Phú, một cấp chỉ huy trong ngành LLĐB và Nhảy Dù cũ. — San Jose có tờ báo cũng cho đăng bài của một sĩ quan cấp Tá, nặng lời với một chiến hữu đã mất. Các cấp bậc của Tướng Phú đều được gắn tại mặt trận, và ông cũng đã nhiều lần nếm mùi thất bại, cắt lon, giáng chức, để cho có đủ…”khi vinh lúc nhục” của một đời binh nghiệp. Huyền thoại Phạm Văn Phú đã được mỗi người nhắc tới một cách khác nhau. Ông đã chết nên…ngoại trừ nhà văn Phạm Huấn, người cũng đeo bằng Dù trên ngực áo như Tướng Phú, và đã sống cạnh ông trong những ngày cuối của 1974-1975, là hơn một lần lên tiếng bênh vực cho cấp chỉ huy cũ khi ông Phú bị chỉ trích. Nhà văn tiền bối Nguyễn Đông Thành, đeo cấp Trung Úy từ năm 1947 và là một cây viết chủ lực của cơ quan truyền thông thời Đệ Nhị Cộng Hòa và các tờ báo đứng đắn tại hải ngoại hiện nay. Ông đã đúc kết về Tướng Phạm Văn Phú (Đại Đội Trưởng và Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù năm 1953 tại Điện Biên Phủ) qua tài liệu khách quan nhất của những người ngoại quốc có thẩm quyền và tiếng nói của họ có đủ giá trị để chúng ta suy nghĩ. Trương Dưỡng Dù rằng có nhiệm vụ không thể thiếu sót là làm theo lệnh trên, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, K8ĐL, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2, vẫn không chối được trách nhiệm về việc bỏ mất miền Tây Nguyên và do thế tạo ra điều kiện thuận lợi cho Cộng quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa một cách mau chóng và để dâng hơn cả dự liệu hoang đường nhất của bọn Chóp Bu CSBV. Đó là nhận định nhất trí của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản ở nước ngoài, trong vào năm đầu hạ bán thập niên 1970. Nhận định như thế quả là rất thuận lý vào hồi đó, tức là trong khi người ta chỉ biết rất mù mờ về phần đóng góp của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vào cuộc rút quân khỏi vùng Tây Nguyên, một cuộc hành binh đã bị ghi nhận là thiếu kế hoạch, thiếu chuẩn bị, và thiếu chỉ huy. Nhưng rồi thì từng phần sự thực dần dần được phơi ra. Người ta chưa biết thật đầy đủ, thật chính xác, nhưng cũng đã biết rõ được vài ba sự việc có thể chứng minh rằng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú trên thực tế không có trách nhiệm gì hết trong cuộc rút quân khởi sự ngày 13/3/75 ở Pleiku. Cuộc rút quân ấy do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định với tư cách và quyền hạn của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Trung Tướng Thiệu đã đích thân ra Nha Trang gặp Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, mang theo Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham Mưu Trưởng, để đích thân truyền đạt quyết định rút quân cho Tướng Phú thi hành. Với tư cách là Tư Lệnh của một Quân Đoàn trong QLVNCH, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú dĩ nhiên không được phép chống lại mệnh lệnh của Tổng Tư Lệnh và Tổng Tham Mưu Trưởng. Nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú cũng không tuân hành: hoặc là vì chính ông từ khước; hoặc vì Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Viên ngại rằng Tướng Phú sẽ không ngoan ngoãn vâng lời. Người đứng ra thi hành lệnh rút quân khỏi vùng Tây Nguyên là một Đại Tá mới được thăng cấp Chuẩn Tướng, Đại Tá BĐQ Phạm Duy Tất, để lãnh chức Tư Lệnh Phó Quân Khu 2, và Tướng Tư Lệnh được đặt trong tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe, từ ngày 14/3/75 đến ngày bị Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trướng Quốc Phòng mới nhận chức, bắt giam vì tội bỏ mất vùng Tây Nguyên! [...] Như vậy khi cuộc rút quân khỏi miền Tây Nguyên được thực hiện theo lệnh trên, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú trên thực tế chẳng còn là Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II, nên không có trách nhiệm gì về cuộc hành binh tự sát mà Thiếu Tướng tuyệt nhiên không tham dự vào bất cứ một giai đoạn nào, từ quyết định, thiết kế, đến việc chuẩn bị và thực hiện. Tuy nhiên dù không dự phần trách nhiệm trong việc bỏ mất vào tay địch một phần lãnh thổ Quốc Gia, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vẫn khẳng khái tự xử khi thấy rõ là đại cuộc đã tạm thời không còn cách nào cứu vãn nữa, vì Tướng Dương Văn Minh đã lạm dụng quyền Tổng Tư Lệnh mà bắt toàn quân phải buông súng, nộp mình cho giặc Cộng. Người thất bại anh hùng Phạm Văn Phú tự sát chẳng phải là vì sợ giặc Cộng bắt được và hành hạ trả thù. Nếu muốn, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú cũng có đủ khả năng để đào thoát ra nước ngoài một một cách ung dung như một số đông các vị cựu Tướng Lãnh khác, chứ không đến nỗi phải chịu nhục trong tòa Đại Sứ Hoa Kỳ như một số người khác…hay phải đạp lên đầu đồng bào mà tranh lấy một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng đáp trên một mái nhà như ông Bộ Trưởng Quốc Phòng, kẻ mới tuần trước còn tống giam Tướng Phú vì tội “Không dám hy sinh chiến đấu và bỏ chạy trước quân địch”! [...] Việc Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đến cơ quan D.A.O. gặp Tướng Mỹ Smith để chỉ xin độc một chỗ trong một chuyến bay di tản cho một người con ông, tác giả sách Decent Interval không khen các Tướng khác là thức thời, và cũng không chê Thiếu Tướng Phạm Văn Phú là gàn dở. Ông chỉ viết thêm một câu ngắn, đại ý là Tướng Phú tự sát ngay sau khi Cộng sản tràn vào Sài Gòn, và thở hơi cuối cùng ở bệnh viện Grall. Nhưng một tấm hình in trong tập ảnh kẹp ở giữa quyển Sauve Qui Peut (bản tiếng Pháp của sách Decent Interval) lại “nói” hộ ông Frank Snepp những điều ông cần viết ra mà vẫn nói lên được, về tiết tháo và tinh thần trách nhiệm cao độ của một Phạm Văn Phú đã quyết tâm tự sát để được chết với lương tâm thanh thản chứ không đành chạy thoát lấy thân khi đất nước lâm nguy. Đó là bức ảnh kỷ niệm mà Tướng Smith chụp với Tướng Phú tại cơ quan D.A.O. ngày 27/4/1975. Tướng Smith lúc đó phụ trách việc xếp hạng ưu tiên cho những người được coi là có liên hệ với Hoa Kỳ cùng với việc ấn định giờ giấc, lần lượt của các phi vụ di tản. Ông ta bận đến mực không có thời giờ đi ăn, nên sự kiện Tướng Smith bỏ ra vài chục phút để tiếp chuyện và chụp ảnh lưu niệm với Tướng Phú, chứng tỏ hai người có tình thân thiết lắm. Nếu cũng tham sống sợ chết, Tướng Phú có thể xin ở một người thân với mình như thế hàng chục chỗ cho cả gia đình ung dung ra đi. Nhưng người thất bại anh hùng Phạm Văn Phú còn đủ liêm sỉ để không đành cúi mặt sống hèn; ông chỉ hỏi xin Tướng Smith một chỗ duy nhất cho một cậu con trai của ông, ý hẳn là để giữ cho họ Phạm còn có người nối dõi. Hành động tự giết mình để chết theo Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử đã được quyết định từ lúc Thiếu Tướng Phạm Văn Phú tìm gặp Tướng Smith để ký thác “con côi”, chứ không phải là một việc liều lĩnh chỉ được nghĩ tới khi chiến xa Cộng sản đã hùng hục tiến về phía Dinh Độc Lập. Trước Frank Snepp hơn 20 năm, hai tác giả người Pháp cũng đã có dịp để tán thưởng phong cách anh hùng của một sĩ quan Nhảy Dù tên Phạm Văn Phú, một nhân vật mà lẽ ra họ không lưu ý tới, vì đã chỉ có một chức vụ khiêm nhường (Tiểu Đoàn Phó mới được đề bạt) lại là sĩ quan người bản xứ của một quân đội mới thành hình. Một trong 2 tác giả đó là Đại Tá Pierre Langlais, một sĩ quan Pháp đã tự thú là có thành kiến xấu với quân nhân Việt Nam. Cho đến ngày Trung Úy Phạm Văn Phú theo đơn vị (Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam) nhảy xuống tiếp viện lực lượng G.O.N.O. trong vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, Trung Tá Langlais còn giữ nguyên vẹn cái thành kiến xấu xa của ông ta. Langlais lại có ấn tượng xấu đặc biệt về Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Việt Nam, đơn vị mà chính ông ta đã đề nghị trả về Lực Lượng Tổng Trừ Bị hồi cuối năm trước. Langlais có chép lại đầu đuôi vụ ấy trong quyển Điện Biên Phủ do nhà xuất bản France-Empire phát hành năm 1963. Cũng trong tập ký sự đó, Langlais còn nhìn nhận rằng ông đánh giá lính Việt Nam thấp…Nhưng cũng trong tập ký sự Điện Biên Phủ về sau, Langlais lại dành ra đến hơn 10 đoạn để nói về Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù VN, và đặc biệt về viên sĩ quan cấp Úy mang tên Phạm Văn Phú, người đã chỉ huy giỏi giang và chiến đấu dũng liệt đến mức làm cho Langlais phải từ bỏ các thành kiến sai lầm của mình về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Việt Nam trên trận tuyến chống Cộng. Đại Tá Langlais viết đến người về sau trở thành vị Tư Lệnh cuối cùng của Quân Khu II của nước Việt Nam Cộng Hòa: Ngày 2/3/1954, khi tình hình Biện Điên Phủ đã nguy ngập tới mức Bộ Trưởng Bộ Quân Lực Pháp (René Pleven) vừa từ Điện Biên Phủ trở về, đã phải ra trước Hội Đồng Liên Bộ để đề nghị một loạt biện pháp cấp cứu. Tướng Navarre ra lệnh thành lập Liên Đoàn 5 Nhảy Dù VN, Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù, và Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, mà Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Begeard, là một đơn vị trưởng nổi tiếng từ những năm kháng chiến ở vùng Đức chiếm đóng. TĐ5NDVN nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên, vào buổi chiều ngày 14/3/1954. Nhảy ở độ thấp, dưới mưa đạn súng cối và đại bác 105 ly. Địch bắn dữ dội đến mức phải thay đổi bãi nhảy mấy lần. Trung tá Langlais là Tư Lệnh là Tư Lệnh Phó Lực Lượng GONO nhưng nắm toàn quyền trên thực tế, vì Đại Tá De Castries chỉ làm một việc độc nhất là…ký và chuyển đi những gì được Langlais đưa cho. Langlais vốn có thành kiến với quân nhân người Việt, nhất là với TĐ5NDVN, mà chính ông ta đã “trả về” trước đó hơn 2 tháng. Nên ông đã dự tính là xé lẻ ra để bổ sung chỗ này chỗ nọ, chứ không sử dụng nguyên cả tiểu đoàn như một lực lượng xung kích. Ngay mấy giờ sau khi nhảy xuống, một đại đội của TĐ4NDVN đã bị biệt phái cho một đơn vị Lê Dương để tiếp cứu lực lượng trấn giữ ở cứ điểm Gabrielle; cuộc hành quân không đạt được kết quả nên Langlais càng nghi ngờ khả năng và tinh thần chiến đấu của lực lượng vừa gởi đến tăng viện. Nhưng Langlais đã bắt đầu nhìn TĐ5NDVN với con mắt khác hẳn ngay vài hôm sau. Cùng với TĐ6ND của Thiếu Tá Begeard, TĐ5NDVN được giao cho trấn giữ đồi Eliane IV ở phòng tuyến thứ 2, nhiệm vụ vừa nặng nề vừa nguy hiểm, là tự chôn mình dưới hỏa lực địch. Cả 2 tiểu đoàn đóng ở gần đỉnh đồi, TĐ6 giữ mặt Tây, TĐ5NDVN giữ 2 mặt Đông và Nam. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có thể vị bắn trực xạ bất kể ngày đêm bởi các xạ thủ địch rình rập thường trực ở phía đối diện. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng tình nguyện trấn giữ vị trí nguy hiểm đó, chiến sĩ tiểu đoàn đào đắp xong công sự và địa đạo giao thông hào trong một thời gian kỷ lục; Langlais bắt đầu nghĩ khác về khả năng và tinh thần phục vụ của những quân nhân Việt Nam, đang ép lòng chấp nhận quyền chỉ huy của người Pháp vì đang cần đến đồng minh giai đoạn! Hồi ấy, Trung Úy Phạm Văn Phú là sĩ quan người Việt Nam độc nhất nắm đại đội trong TĐ5NDVN và cũng là Đại Đội Trưởng độc nhất mang cấp bậc Trung Úy, 2 Đại Đội Trưởng khác là Đại Úy Armandi, Rouault, và Đại Đội Phó tạm lĩnh. Ngày 24/3/54, TĐ5NDVN được tăng cường thêm Đại Úy Alian Bizzard, một quân nhân Tùy Viên của một Tướng ở Sài Gòn để xung phong ra mặt trận, do ở thâm niên cấp bậc, ông được cử làm Tiểu Đoàn Phó TĐ5NDVN, rồi chịu trách nhiệm trấn giữ 2 cứ điểm H.6 và H.7, trong tập đoàn cứ điểm Huguette, mà nhiệm vụ bảo vệ các phi đạo còn dùng được. Đại Úy Bizzard mang theo mấy trung đội lấy từ 2 Đại Đội I và IV; trong khi ấy Đại Đội III được biệt phái cho cứ điểm Dominique, Éliane, và Isabelle; lính Bắc Phi ở Dominique I bị tràn ngập. Đại Đôi III của TĐ5NDVN tăng phái chỉ còn 10 người chạy về tới Tiểu Đoàn Bộ. Tình hình hồi ấy tuyệt vọng đến mức Navarre và Cogny chỉ còn độc một việc là đổ lỗi lên đầu nhau; Langlais luôn miệng réo hết Bruno (ám hiệu của Begeard) đến Dédé (Botella), để động viên tinh thần họ giữ vững đồi Éliane IV, vì để mất cứ điểm ấy là Đại Bản Doanh của De Castries cũng mất luôn. Tuy rằng phải chia sẻ với TĐ6 của Begeard cái nhiệm vụ tử thủ đó, TĐ5NDVN, đã mất đi Đại Đội III, vẫn chỉ sử dụng được non phân nửa quân số còn lại. Langlais giải nhiệm cho Bizzard chức Tiểu Đoàn Phó hư hàm để ông ta mang Đại Đội I đi trấn giữ cứ điểm H.6, trong khi Trung Úy Phú được tôn vinh bằng một trọng trách không tương xứng với 1 đại đội là trấn giữ điểm tựa Opéra vừa thiết lập để chận địch trong khoảng giữa các cứ điểm Huguette I và Épevier. Trong thượng tuần tháng 4/54, tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Ngày 14/4/54, Langlais báo cáo là chỉ còn 3000 quân khiển dụng vì ông không thèm tính tới các phần tử đã mất hết tinh thần chiến đấu. — đoạn này trong sách Điện Biên Phủ, tác giả nhấn mạnh rằng lực lượng đóng cứ điểm Éliane IV (TĐ6ND và TĐ5NDVN) vẫn giữ vững tinh thần, và họ đã nhất quyết sống chết với nhiệm vụ. Hôm sau, ngày 15/4, Đại Tá De Castries được thăng Thiếu Tướng, hai Trung Tá Langlais và Ladande cũng được thăng một cấp, cũng như mười sĩ quan khác trong số có Trung Úy Phạm Văn Phú. Ngày 19/4/54, Đại Úy Phú được thay thế bởi Đại Úy Bizzard, ông này được lệnh rút khỏi cứ điểm H.6 đêm hôm trước, Đại Đội I gồm 200 chỉ còn có 80 người đứng vững để tới điểm tựa Opéra thay thế Đại Đội II, rồi Đại Úy Phạm Văn Phú được đề bạt lên chức Tiểu Đoàn Phó ngày 26/4. Vào thời điểm ấy, tình hình ở Điện Biên Phủ rõ ràng là vô phương cứu vãn. Sau gần một tháng thí quân không tính đếm, 3 Trung Đoàn địch đã phá hủy được toàn bộ phi đạo; giải quyết hết 3 điểm tựa trong số có điểm tựa Opéra, mà Đại Úy Phú đã giao lại cho Đại Úy Bizzard 5 ngày trước. TĐ5NDVN chỉ còn ngót hơn 200 chiến sĩ, vì ngoài Đại Đội II (không toàn vẹn), Bộ Chỉ Huy chỉ sử dụng vài chục người còn lại của 3 đại đội đã tan vỡ. Quân số đã hao hụt quá nửa, nhưng TĐ5NDVN lại phụ trách nhiệm vụ nặng nề gấp bội, là một mình trấn giữ tuyến đầu, án ngữ phía trước cho TĐ6ND (Tiểu Đoàn Trưởng mới là Thiếu Tá Béchignac) giữ liên lạc với Bộ Chỉ Huy Trung Ương. Để làm cái việc không thể làm nổi là ngăn chận không cho địch quân (đông gấp mấy chục lần) vượt sông mà xâm nhập khi Trung Tâm, ngót 200 chiến sĩ TĐ5NDVN chỉ dược tăng cường với mấy chục chiến sĩ còn lại của Tiểu Đoàn 2/1 Kỵ Binh Nhảy Dù do Đại Úy Guillemint chỉ huy. Nhưng lực lượng tử thủ ấy vẫn làm tròn được nhiệm vụ cho tới sáng sớm ngày 7/5/54. Mấy giờ trước đó, hai đại đội lính Lê Dương gởi đến tiếp viện cho TĐ5NDVN, nhưng họ phải mất 3 giờ mới đến được Chỉ Huy Sở của Thiếu tá Botella, và chỉ còn không quá 20 chiến sĩ! Đến hừng sáng, Đại Úy Phạm Văn Phú mở cuộc phản kích với ngót 100 tàn quân của mấy đơn vị hợp lại, đánh cận chiến ở thế 1 chọi 20, nhưng cũng giành lại được hơn 100 thước địa đạo. Nhưng rồi thì mũi xung phá ấy bị bẻ gãy, nhiều chiến sĩ và 3 sĩ quan (Đại Úy Guillemint, Thiếu Úy Lafanne, và Đại Úy Phạm Văn Phú) lần lượt bị đạn địch quật ngã. Thiếu Úy Mackowak, sĩ quan độc nhất còn đứng vững cùng vài chục chiến sĩ TĐ5NDVN tiếp tục tử chiến trong khúc địa đạo dưới sườn đồi phía Đông Nam. Địch chùn bước vì mức thương vong quá cao; nhưng mấy chục phút sau, trận đánh dứt điểm tiếp diễn, lần này với loại vũ khí đầu tiên được sử dụng trên chiến trường VN (một thứ súng cối có nhiều nòng và bắn tự động hàng loạt đạn), và căn cứ chỉ huy của TĐ5NDVN thất thủ lúc 9 giờ sáng ngày 7/5/54. Trên đây là tóm lược các đoạn nói về TĐ5NDVN, và về Đại Úy Phạm Văn Phú trong quyển Điện Biên Phủ của Đại Tá Pierre Langlais, người thực sự chỉ huy lực lượng G.O.N.O. ở Điện Biên Phủ trong thời gian TĐ5NDVN tham chiến tại mặt trận đó. Đại Tá Langlais đã đích thân ra lệnh, đã chính mắt nhìn thấy, hay đã được báo cáo tường tận tại chỗ, nên chắc chắn là biết rất đúng sự thật. Viên Đại Tá Pháp đó đã từng mang nặng thành kiến không tốt với chiến hữu VN, nên chắc chắn không cố ý nói sai để ca tụng chiến sĩ Việt Nam trong TĐ5NDVN nói chung, và viên Đại Úy anh hùng Phạm Văn Phú nói riêng. Vả chăng, tác giả tập hồi ký Điện Biên Phủ cũng chỉ thuật lại các sự việc, như tác giả quyển Decent Interval về sau, chứ không trực tiếp khen chê gì nhân vật Phạm Văn Phú. Cũng như Đại Tá Pierre Langlais, người viết quyển La Bataille de Dien Bien Phu (xuất bản ở Paris cuối 1963) cũng là một sĩ quan cao cấp, từng tham chiến ở mặt trận đó suốt từ đầu đến cuối. Ông Jules Roy về sau được phép trở lại Bắc Việt thu thập tài liệu để kiện toàn pho sách của ông (gọi là pho vì dầy đến 624 trang), nên vẫn bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận ở Điện Biên Phủ. Sự nghi ngờ đó không phải vu vơ, quả thật tác giả La Bataille de Dien Bien Phu đã đưa ra khá nhiều hình ảnh và luận điệu có lợi cho phe đó. Tuy nhiên trong các đoạn rải rác trên mấy chục trang nói về diễn tiến mấy trận đánh từ sau ngày các cứ điểm Béatrice I, II, và III thất thủ (đêm 13/3/54), Jules Roy cũng ghi nhận tương tự như Pierre Langlais (khá chi tiết hơn vì viết dài hơn) về các chiến tích của TĐ5NDVN, và nhất là về phong cách anh hùng của Tiểu Đoàn Phó Phạm Văn Phú. Về trận đánh dứt điểm đêm mùng 6 rạng mùng 7/5/54 nhằm vào cứ điểm Éliane IV, Jules Roy bổ túc thêm các chi tiết dưới đây: Xế chiều ngày 6, địch pháo kích kịch liệt cứ điểm Éliane IV. Áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, đến 18 giờ 30, địch mới tấn kích, lực lượng của cộng quân là Trung Đoàn 98. Bộ chỉ Huy TĐ5NDVN chỉ còn sử dụng được khoảng 200 chiến sĩ đã mệt nhừ sau một tuần lễ chiến đấu, đạn dược đã gần cạn mà xin tiếp tế không được. Thiếu Tá Botella ra lệnh cho chiến sĩ kháng cự bằng súng cối và đại bác không giật, nhưng xạ thủ phải tiết kiệm từng viên đạn một, nên địch quân vẫn tiến được lại gần. Trong thế ưu thắng rõ rệt, Trung Đoàn 98 vẫn phải dè dặt tối đa; đây là lần đầu tiên họ sử dụng đường điện thoại vô tuyến nối liền vác đại đội với Chỉ Huy Sở Trung Đoàn! Chiến sĩ TĐ5NDVN chiến đấu cực kỳ dũng liệt, đến 21 giờ Đại Úy Phạm Văn Phú chỉ còn có 30 người để chỉ huy, họ bắn đến nòng súng nóng bỏng, và địch tràn vào như thác nhưng chẳng ai chùn lại. Họ tử chiến để giành giật với địch từng đoạn địa đạo; lấy súng của người đã chết để bắn về phía những tên đội nón cối đan bằng nan tre. Một loạt đạn súng cối liên châu (như Tow mà thô hơn) nã vào, đất bị cày tung lên và đổ ập xuống ông Tiểu Đoàn Phó vừa bị đốn ngã. Trên đỉnh trời vừa rạng sáng, trận cận chiến vẫn tiếp diễn trong ruột đồi Éliane IV. Quân địch tràn ngập khắp nơi, nhưng phép lạ là cứ điểm Éliane IV vẫn còn cầm cự. Theo lệnh Đại Tá Langlais, Trung Tá Lemeunier, Tư Lệnh Bán Lữ Đoàn Lê Dương số 13, đi tiếp cứu Éliane IV nhưng không kịp. Vì trong căn cứu chỉ huy đầy nhóc thương binh. Thiếu Tá Béchignac không đồng ý xin bắn lên đầu mình và hơn 10 người còn vững tay súng bị bắt làm tù binh lúc 9 giờ sáng! Tác giả quyển La Bataille de Dien Bien Phu bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe thắng trận Điện Biên Phủ. Tác giả hồi ký Dien Bien Phu xác nhận vốn có thành kiến xấu với quân nhân người Việt Nam nói chung và TĐ5NDVN nói riêng. Nhưng cả hai tách giả ấy đều đã không thể không ghi nhận phong cách anh hùng của nhân vật Phạm Văn Phú, hồi ấy còn là một sĩ quan cấp Úy, tức là nhỏ cấp hơn họ nhiều. Một chiến sĩ chống Cộng có phong cách anh hùng như thế, từ thuở mới bắt đầu binh nghiệp, tất nhiên không thể chà đạp lên tiết tháo và tinh thần trách nhiệm của một Tướng Lãnh, mà cúi mặt…ở nước người này quân tan, nước mất. Việc thất bại, anh hùng Phạm Văn Phú tự sát, để được chết với lương tâm thanh thản chỉ là việc tất nhiên phải có của một nhà Tướng. (tác giả Nguyễn Đông Thành (trích trong Đời Chiến Binh – Trương Dưỡng) Thiếu tướng Phạm Văn Phú Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, ngày 16 tháng 4/1954, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26 tháng 4/1954, được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức. Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, ông bị vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình Bộ Quốc Phòng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt. Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai -- Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Hồ Trung Hậu -- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.(Tướng Toàn trở lại binh chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng). Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên -- Tổng tham mưu trưởng -- đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã bị bộ Tổng tham mưu "hạn chế" các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. (Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968, khi Tướng Phú còn mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì tướng Cẩm còn là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này). Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đã hai lần đề nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2, nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân trình với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đã bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không do mình chọn lựa, nhưng Tướng Phú đã tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá Lê Khắc Lý nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh. Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ, Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14 tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn đồi "Lầu Ông Hoàng" để chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu -- Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 -- tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức --nguyên Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh văn phòng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại Tá Đức đã kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn, vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới trình cho Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: "Thiếu Tướng". Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ... Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau: Rời phòng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối: "Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đã lâu..." Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối: "...mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút... có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục". Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu Tướng hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng. Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú. Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà biết. Cả gia đình quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang ngồi cạnh: - Tình hình đến đâu rồi? Bà Phú nói: - Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn! Nghe xong Tướng Phú nhắm mắt lại và "ra đi". (tác giả Vương Hồng Anh)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:11:48 GMT 9
6/ Thần tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975)Thần tướng Lê Nguyên Vỹ - Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) là Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975. - Ông sinh ngày 22 Tháng Tám năm 1933 tại Sơn Tây. Năm 1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ bị Địa phương Huế đến năm 1965 được thăng Thiếu tá. - Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Năm 1974, ông được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào khoảng giữa năm 1973, khi ông vẫn còn mang cấp bậc Đại Tá. Ông nổi tiếng về tinh thần dũng cảm và chống cộng cương quyết, cũng như tính tình nóng như lửa của ông. Vào mùa Hè năm 1972, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã có mặt ở Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn tại An Lộc cùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn. Họ đâu biết rằng họ sẽ là chứng nhân cho một biến cố lịch sử. - Rạng sáng ngày 5 tháng 4 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt xua bốn sư đoàn (5, 7, 9 và Bình Long) và hai trung đoàn xe tăng 202, 203 nhiều đơn vị yểm trợ tấn công thị xã An Lộc. Cộng quân đã dùng những trận mưa pháo để chà nát và san bằng thị xã nhỏ bé nàỵ Hàng ngàn đồng bào vô tội đã bỏ mình dưới hỏa lực của Cộng quân. Nhiều lần, Cộng Sản Bắc Việt dùng chiến xa T-54 tấn công thẳng vào nơi Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 5 đang đóng. Lần đầu tiên người lính VNCH gặp phải chiến xa địch, lại không tin tưởng vào khả năng của vũ khí của mình, nên đã hoảng hốt tìm nơi ẩn tránh. Không thể trách họ, vì hoả tiễn M72 không đủ sức xuyên phá nếu bắn vào đằng "mũi" của xe T-54. Khi ấy tướng Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay, với ý định nếu Việt Cộng tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã tiến gần, quay ngang quay dọc để tìm kiếm trung tâm chỉ huy. Đại Tá Vỹ thừa cơ đứng lên, bắn một quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe tăng bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần theo phương pháp diệt xe của Đại Tá Vỹ, bò theo nhũng vách tường, bờ giậu để bắn xe địch. Kết quả là đoàn xe bị tiêu diệt. Sau 68 ngày tử thủ, Cộng quân bị đánh lui và An Lộc được giải toả. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn Tướng và về chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại căn cứ Lai Khê (Bình Dương) khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đi nhận nhiệm vụ mới ở Quân Khu IV. Tại Lai Khê, ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, trong việc xây dựng và tu bổ hệ thống phòng thủ, cũng như huấn luyện binh sĩ. Ông cũng rất nhiệt tình trong việc bài trừ tệ nạn và tham nhũng trong hàng ngũ quân đội. Vì thế, ông đã mang lại miềm tin tưởng cho mọi người . - Cuối tháng 4 năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt từ nhiều ngả tiến về Saigon. Nhưng cánh quân phía Đông Bắc của chúng không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù có lực lượng đông gấp nhiều lần. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đã làm tròn nhiệm vụ. - Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự sát bằng súng lục ngay tại bộ tư lịnh sư đoàn 5 bộ binh. - Thi thể Tướng Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Năm 1987, hài cốt ông được thân mẫu (mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lịnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, khi ông còn mang cấp bực Ðại Tá, vào khoảng tháng 6 năm 73, trong lúc vết thương ở chân của ông chưa lành hẳn, bước đi còn khập khễng và chống gậy vì bị tai nạn trực thăng khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21 BB. Ông là một vị chỉ huy gan dạ nổi tiếng nhất của Sư Ðoàn 5 BB lúc ông còn là Trung Ðoàn Trưởng: "Nhất Vỹ, nhì Gia" (Trung Tá Gia hình như họ Hà, Hà Văn Gia, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ). Ðây là câu nói tôi được nghe nhiều lần nơi sĩ quan và binh sĩ khi rời quân trường về trình diện Sư Ðoàn vào tháng 1-68. Rất nhiều đồng bào và anh em chiến sĩ thuộc các đơn vị bạn quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương cho đến các tỉnh biên giới Bình Long, Phước Long đều biết đến tên ông. Có lẽ một phần vì tinh thần chiến đấu kiên trì và dũng cảm, một phần vì tánh tình nóng nảy như lửa đốt của ông. Tinh thần kiên trì và dứt khoát chiến đấu chống cộng của ông đã biểu lộ qua câu chuyện của một sĩ quan tham mưu Sư Ðoàn kể cho tôi nghe "Ông Vỹ có một cô em gái đi theo VC, viết thư khuyên ông nên quay về với "Bác và Ðảng" và ông đã trao bức thư này cho An Ninh Quân Ðội VNCH để nghiên cứu". Sự chiến đấu dũng cảm của ông gần như mọi người thuộc Sư Ðoàn đều biết vào mùa hè đỏ lửa năm 72 ở An Lộc. VC lùa 3 Sư Ðoàn (Công Trường số 5, 7 và 9, Trung Ðoàn Thiết Giáp T54 và các đơn vị trọng pháo 130 ly để bao vây và tấn công thành phố An Lộc, tỉnh Bình Long. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn cùng với Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn đã tích cực điều động các đơn vị phòng thủ đẩy lui nhiều đợt tấn công ác liệt kéo dài ròng rã gần 3 tháng trời. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất, khi VC quyết định sử dụng toàn bộ lực lượng để dứt điểm chiến trường, chúng tung nhiều đợt pháo kích, sử dụng lực lượng xung kích chủ yếu, thiết giáp T54 và bộ binh kết hợp tiến thẳng vào trung tâm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Vì bị thiệt hại nặng nề do đạn pháo, các đơn vị phòng thủ VNCH phải co cụm lại từng tụ điểm để chống trả. Khi thấy chiến xa và bộ binh địch xuất hiện từ xa, tất cả các loại súng cối của ta bắn ra xối xả, khiến bộ binh VC phải giật lùi lại phía sau, chỉ còn thiết giáp VC vẫn một hàng dọc, theo đường phố tiến vào nơi phòng thủ của Tướng Hưng. Vì lần đầu tiên người lính VNCH nhìn thấy chiến xa địch và phần vì không tin tưởng vào vũ khí chống chiến xa M72, hầu hết đều kinh hoàng và tìm nơi ẩn nấp. Ngay cả đến những người lính phòng thủ trước cửa hầm của Tướng Hưng cũng vậy, khi nhìn thấy chiến xa đã tới gần, tất cả đều nhảy ào xuống hầm. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đã nhanh nhẹn chụp lấy một khẩu M72 của người lính đứng bên cạnh, ông bước lên miệng hầm. Trong khi ấy, Tướng Lê Văn Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay với ý định nếu VC tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã đến gần, nhưng vì chúng chưa định ra được chiếc hầm nào là hầm của Tướng Hưng đang thủ, chúng quay ngang, quay dọc để tìm kiếm. Thừa lúc ấy, Ðại Tá Vỹ đã bắn ngay một quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần reo hò, và họ lần theo từng căn nhà, từng bờ tường để bắn những chiếc còn lại. Kết quả là gần 50 chiếc chiến xa địch bị bắn cháy ngay trên trận địa. Tướng Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp khoảng cuối năm 1974 (tôi không nhớ rõ). Ông đã phải đương đầu với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn: vừa phải lo đối phó với áp lực của quân địch, và vừa lo chấn chỉnh nhân sự, củng cố đơn vị v.v...Ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, hết ở Bộ Tư Lệnh căn cứ tại Lai Khê, lại chạy tới các căn cứ của Trung Ðoàn, Tiểu Ðoàn để kiểm tra, đốc thúc đào hào, tu bổ hệ thống phòng thủ, đắp chướng ngại vật để cản chiến xa. Ông cũng lưu tâm đặc biệt việc rèn luyện tân binh, thường xuyên mở lớp huấn luyện và ôn tập cho các cán bộ và binh sĩ. Ðặc biệt về công tác bài trừ tệ nạn tham nhũng, ông làm rất hăng say. Sau khi Tướng Trần Quốc Lịch bị điều tra và bắt giam ở quân lao, một số các cấp chỉ huy khác đã bị trừng phạt: Thiếu Tá Hồ Ngọc S., TÐT/TÐ3/9, Ðại Úy H., ÐÐT/ÐÐ5 Trinh Sát bị giáng cấp xuống trung sĩ và một số nữa tôi không còn nhớ rõ. Việc bài trừ tham nhũng, không ai nghi ngờ thiện chí của Tướng Vỹ, ông rất nhiệt tình. Ông chỉ có một tật xấu mà tôi ghi nhận được là tính nóng nảy. Một câu chuyện tôi nghe được khi ông làm việc tại trung tâm hành quân, phòng 3 BTL/SÐ. Hôm ấy, một binh sĩ bị quân cảnh bắt về trình diện ông về tội đánh lộn và cướp giật ngoài chợ Lai Khê. Câu chuyện tôi nghe được khi ông đang đứng nói với một sĩ quan khác trước cửa văn phòng: "Tôi chửi mắng cho một trận, mặt hắn cứ trơ trơ ra, không tỏ vẻ ăn năn hối hận gì. Thình lình tôi quay cây gậy đập tới tấp, cu cậu không biết đường mà đỡ, bị một trận nên thân!". Những việc như vậy, ông thường làm, nhưng lại chưa nghe ai nói ông cạo đầu nhốt chuồng cọp binh sĩ. Trong một buổi lễ khai giảng khóa huấn luyện tân binh, đứng trước cả ngàn người vừa tân binh lẫn cán bộ và lính cơ hữu của trung tâm huấn luyện ở Lái Thiêu, ông công kích kịch liệt trong gần một tiếng đồng hồ về tệ nạn tham nhũng. Ông nói rất nhiều, nhưng chỉ có một câu tôi nhớ hoài, không bao giờ quên: "Chúng nó đã móc ngầm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được". Trong một phiên họp ở BTL/SÐ, ông gọi những người được gởi gấm nhiều năm, hết đời Tư Lệnh này tới đời Tư Lệnh khác, sống lưu cựu tại trung tâm huấn luyện Sư Ðoàn là những con heo. Ông nói: "Chúng nó ăn no béo mập như những con heo". Ông muốn "bứng" đám người này đi mà cũng không làm được, Có lẽ vì họ có những cái "gốc" lớn mà rễ của nó đã mọc tới Sài Gòn. Sức lực của ông cũng có hạn, đôi vai ông cũng nhỏ bé như vai mọi người, không lớn rộng như vai Từ Hải! Tuy nhiên tôi ghi nhận, trong thời gian ông làm Tư Lệnh, tệ nạn tham nhũng, nếu không muốn nói đã bị chận đứng thì cũng phải giảm đi rất nhiều; không còn cảnh ăn chơi phè phỡn trong khi người khác cặm cụi làm việc. Nhìn chung, từ ngày Tướng Vỹ về Sư Ðoàn, ông đã cải tổ, xây dựng được nhiều vấn đề. Ông đã mang lại niềm tin tưởng cho mọi người . Việt Cộng càng ngày càng di chuyển người, vũ khí, lương thực về gần Sài Gòn hơn. Áp lực quân sự ngày càng gia tăng. Việc tiếp tế bằng phi cơ cho An Lộc và Chơn Thành quá tốn kém mà chỉ để bảo vệ những đống gạch vụn tại thành phố An Lộc và những vùng đất hoang vu, không người ở. Dân cư tại các làng mạc, đồn điền đều đã di tản để tránh bom đạn hồi năm 1972, một số chạy ngược lên Lộc Ninh, số còn lại chạy về Sài Gòn. Vào khoảng cuối năm 1974, các lực lượng phòng thủ An Lộc và Chơn Thành được lệnh triệt thoái. Một việc làm Tướng Vỹ buồn lòng không ít khi một Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 8 ở Chơn Thành rút lui, ông chỉ thị phải ưu tiên chở hỏa tiễn Tow về trên chuyến phi cơ đầu tiên để ông tái phối trí nơi khác (Tow là một loại hỏa tiễn chống chiến xa rất hiệu nghiệm và rất đắt tiền). Ông đích thân ra sân bay đón chờ. Khi chuyến bay đầu tiên hạ cánh, hàng bốc xuống hết, ông không thấy hỏa tiễn Tow đâu cả, mà chỉ toàn là hàng câu lạc bộ như bia, nước ngọt, cà phê, sữa, v.v...Thế rồi ông nổi cơn thịnh nộ, rồi đích thân lái xe jeep ủi sập hết đống hàng này. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, tỉnh lỵ Phước Long bị VC tràn ngập vào ngày 3/1/75, nhưng QLVNCH không có nỗ lực nào để tái chiếm. Những người chỉ huy quân sự nói chung và của SÐ5BB nói riêng đã bắt đầu lo ngại, nhưng tất cả đều đồng ý rằng, trong chiến tranh, hôm nay mất ngày mai chiếm lại là việc thông thường, không có gì lo âu quá đáng. Khi Ban Mê Thuột thất thủ, quân đội VNCH rút khỏi Cao Nguyên, miền Trung và khi tuyến phòng thủ miền Ðông (Phan Rang, Long Khánh) bị bể, những lực lượng còn lại của QLVNCH đang lui dần về phía cầu xa lộ Biên Hòa, tôi được lệnh chuẩn bị kế hoạch, trang bị nhẹ, dự trù trong trường hợp Sài Gòn thất thủ, sẽ lui dần về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu. Tôi không biết lệnh này xuất phát từ đâu! Lúc này những đoàn quân VC ở phía Bắc Sài Gòn đã ép sát với phòng tuyến của SÐ5BB. Ở phiá quận lỵ Phú Giáo, vào ngày 23 và 27/4/75, phi cơ phản lực, cứ 2 chiếc luân phiên nhau thả bom vào những vị trí tập trung của quân địch để ngăn cản sức tiến quân của chúng. Ðường bay nhào lộn kéo tới tận không phận quận Lái Thiêu. Cán bộ huấn luyện viên và các khóa sinh đều đưa mắt liếc nhìn, không ai nói với ai một lời, tất cả đã hiểu việc gì đang xảy ra. Trung tâm huấn luyện Sư Ðoàn chỉ chấm dứt các hoạt động huấn luyện bãi tập vào ngày 28/4/75 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Tình hình ở Sài Gòn lúc đó quá lộn xộn và các đơn vị du kích cùng quân địa phương VC đã xuất hiện ở nhiều nơi quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương. Khoảng 10 giờ đêm ngày 29/4/75, tôi đã nhìn thấy bộ binh và chiến xa của VC đang di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn (Sài Gòn - Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T54. Chúng chẳng thèm ngụy trang lá cây gì cả và đang di chuyển về hướng Sài Gòn. Thình lình tiếng súng cối 81 ly của TTHL/SÐ từ phía sau lưng bắn ra để cản bước tiến của chúng. Ðạn nổ bốc khói mịt mù xa lộ. Chỉ trong giây lát, chiến xa và bộ binh VC đã giàn hàng ngang tiến thẳng về phía TTHL. Những khẩu phòng không trên pháo tháp của chiến xa địch đang nhả đạn, bỗng dưng khựng lại. Chúng quay ngược ra xa lộ rồi tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Chúng đi rất vội vã, hối hả. Rõ ràng chúng đang được lệnh tránh giao chiến dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt. Sài Gòn vào giờ này đang hỗn loạn, miếng mồi thơm ngon, béo bở đang đợi chờ, chúng không thể chậm trễ được! Khoảng 8 giờ sáng, tôi không còn nhìn thấy một lực lượng nào của VC di chuyển nữa. Tôi vẫn đứng ở phía ngoài phòng tuyến suy nghĩ miên man...Chúng đã lợi dụng đêm tối, len lỏi, vượt nhanh ngang qua hông những điểm phòng thủ chính yếu của SÐ5BB, của tiểu khu Bình Dương. Chúng đã bỏ toàn bộ lực lượng của SÐ5BB về phía sau lưng rồi! Bỗng tôi chợt nhớ tới câu chuyện hơn một năm về trước, khoảng tháng 12 năm 73. Hôm ấy, như thường lệ, tới phiên trực, tôi đem bản đồ vào phòng riêng của Tướng Vỹ vào buổi tối để ông duyệt xét lại tình hình tổng quát mà có các chỉ thị cần thiết cho các kế hoạch hành quân hôm sau. Thông thường, ông chỉ lướt qua 15 phút, vì sĩ quan tùy viên đã báo cáo tình hình hàng giờ, rồi ông nói chuyệnh linh tinh với chúng tôi. Ông người tầm thước, khoảng 165cm, hơi mập, nước da đen sạm vì nắng, giọng nói hơi ồm ồm. Hình như ông đang bị cảm mất tiếng nên giọng nói hơi khó nghe. Tuy nhiên, tôi vẫn còn nghe rõ từng tiếng...Ông đang tỏ vẻ vui mừng về việc xúc tiến phòng thủ trong những tháng qua đạt kết quả tốt đẹp. Bỗng ông tâm sự: "Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ở ngoài này mà tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn..." Ðiều nghi ngờ của ông hôm nay đã trở thành sự thật. Trước tình thế này, Tướng Vỹ sẽ quyền biến ra sao? Tôi chờ đợi, nhưng tôi chợt nghĩ, tình hình sáng hôm nay đang diễn ra trên một quy mô lớn trên toàn quốc, đã vượt ra ngoài vùng trách nhiệm và quyền hạn của một vị Tư Lệnh Sư Ðoàn. Ông vẫn phải chờ lệnh, vì ông là một quân nhân có kỷ luật. Khoảng 9 giờ sáng, TTHL vẫn còn liên lạc tốt với BTL/SÐ. Lệnh từ TT/HQ/SÐ vẫn truyền đi: "Tất cả sẵn sàng tại chỗ, chờ lệnh". Tướng Vỹ đang chờ lệnh gì? Lệnh đánh tập kích phía sau lưng địch hay lệnh rút lui về Vùng 4? Ông chờ lệnh ai? Vào giờ này, Tổng Thống Tư Lệnh Quân Ðội, Thủ Tướng Chánh Phủ, Tổng TMT/QÐ, TMTL/LQ, Tư Lệnh Quân Ðoàn, đã chạy trốn hết rồi! Các tân Tổng Thống thì hoặc vì quá già nua, hom hem ốm yếu, hoặc vì còn đang bàng hoàng ngơ ngác trước kẻ thù, ai đủ tư cách và uy tín để ra lệnh cho ông? Khoảng 10 giờ sáng ngày 30-4-75, TTHL hoàn toàn mất liên lạc với BTL/SÐ (có lẽ giờ này, Tướng Vỹ đã tự sát và BTL đang rối loạn). Chỉ huy trưởng TT/HL vô cùng bối rối. Ông ra lệnh vắn tắt: "Di chuyển về hướng Sài Gòn". Dẫn đầu hàng quân là các khóa sinh lớp huấn luyện thái cực đạo. Ðoàn quân ra khỏi doanh trại chưa được 1/3, tôi đã nghe tiếng súng nổ ròn rã ngoài chợ Lái Thiêu (Chi Khu Lái Thiêu đã rút lui từ nửa đêm và VC đã chế ngự khu này). Trung Úy Bích, Trưởng Ban 2 TT đã bị trọng thương và lực lượng đi đầu bị thiệt hại nặng. Ðoàn quân phải lùi vào trong doanh trại để tìm hướng đi khác. Một vài anh em mở radio để nghe tin tức. Thình lình nghe được bản tin của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh. Lúc ấy giọng ông Dương Văn Minh nghe rất thểu não, tiếng mạnh, tiếng yếu tựa hồ như một người sắp hết hơi. Tôi không nhớ hết nguyên bản văn; nhưng có vài đoạn chính yếu, tôi còn nhớ rõ từng tiếng. Ðại ý bản văn nói, để tránh một cuộc đổ máu vô ích, ông kêu gọi binh lính VC ngừng tấn công và quân đội VNCH ở nguyên vị trí của mình vì ông đã: "Tôi tin tưởng sâu xa vào chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc của chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN" (nguyên văn) và ông tiếp: "Chúng tôi ở đây (tức Dinh Ðộc Lập) đang chờ những người anh em ở phía bên kia đến để làm lễ bàn giao..." Bản tin được lập lại nhiều lần liên tục. Sau khi nghe xong bản tin này, mọi người đều xôn xao nhốn nháo. Anh em khóa sinh lo sợ, trong khi làm lễ bàn giao VC nổi hứng đòi bàn giao luôn "cái chỗ đội nón", thế là hơn 1500 khóa sinh đủ các lớp huấn luyện, đã hè nhau đẩy sập cả cổng chính lẫn cổng phụ, vứt súng đạn, lột bỏ quần áo, chạy ra đường như một đàn ong vỡ tổ, trước sự ngơ ngác, bàng hoàng của cán bộ quân trường. Tại căn cứ phòng thủ của Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn, sau khi nghe xong bản tin trên đài phát thanh của Dương Văn Minh, anh em binh sĩ đã tự động vứt bỏ súng đạn để chạy về nhà. Tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn ở Lai Khê, cái mệnh lệnh mà Tướng Vỹ trông đợi từ nhiều ngày qua để ông thi hành hôm nay đã đến. Mệnh lệnh không đến bằng hệ thống truyền tin quân đội, mà đến qua làn sóng điện của Ðài phát thanh Sài Gòn: lệnh bàn giao! Từ ngữ nghe thật hiền lành và êm ái. Nhưng, tự cổ chí kim, các kẻ chiến bại, sau khi bị tước đoạt hết khí giới, thông thường thì chỉ có chết hoặc bị bắt cầm tù, chưa thấy ai làm lễ bàn giao bao giờ. Tại sao hôm nay, ông tân Tổng Thống miễn cưỡng lại dùng loại từ ngữ mập mờ này? VC vẫn bao vây căn cứ ở Lai Khê, đặt chốt ngăn chặn ở hai cổng phía Nam và phía Bắc. Chúng bắc loa chĩa vào bên trong căn cứ, phát thanh lời kêu gọi của Dương Văn Minh và kêu gọi Tướng Vỹ ra hàng. Ông chỉ đáp lại: "Yêu cầu các anh đối xử nhân đạo với thuộc cấp của tôi". Lúc đó, Tướng Vỹ triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lịnh bàn giao và lịnh bắt buông súng đầu hàng. Ông nói: "Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là lịnh bắt chúng ta buông súng đầu hàng..." Ông phải nói thẳng vì sợ có người hiểu quanh co, mập mờ. Rồi ông tuyên bố: "Vì tôi là một Tướng Chỉ Huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lịnh này. Tôi nghĩ thân làm Tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi". Ðoạn ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình. Tôi không được chứng kiến cảnh Tướng Vỹ tự sát và những diễn biến ở Lai Khê, chỉ viết theo lời tường thuật của anh bạn lúc tôi làm việc tại TTHQ. Tình cờ tôi gặp lại anh ít lâu sau đó. Trung Úy Khang, người sĩ quan trẻ tuổi, có rất nhiều nghị lực và rất giỏi môn võ Không Thủ Ðạo. Anh được tuyển chọn là sĩ quan tùy viên kiêm cận vệ của Tướng Vỹ. Con đường Tướng Vỹ chọn lựa ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lãm và nhiều vị anh hùng khác lựa chọn ngày trước. Ông đã xin nối gót. Ông không đi đơn độc một mình, vì vào giờ này, khắp nơi trên đất nước, đồng đội của ông, nhiều người cũng đang đi trên con đường như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Ngọc Cẩn, v.v... Ðược biết ngày nay, đồng bào và chiến sĩ trong nước đã suy tôn ông là Anh Hùng Dân Tộc. Và trong hàng ngũ của những người đang đấu tranh lật đổ bạo quyền ở trong nước, có đơn vị đã mang tên ông: Chiến Ðoàn Lê Nguyên Vỹ. Tướng Lê Nguyên Vỹ: Từ Miền Tây Đến Căn Cứ Lai Khê Trước tháng 7/1954, sĩ quan Lê Nguyên Vỹ đã theo học khóa Nhảy Dù tại Pháp. Trong thập niên 60, ông lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy: đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng. Năm 1969, ở cấp bậc đại tá, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8/Sư đoàn 5 Bộ binh (BB). Vào giữa năm 1971, ông giữ chức Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB. Năm 1973, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 21 BB. Ngày 7 tháng 11.1973, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB thay thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch khi ông còn mang cấp đại tá (ông được thăng chuẩn tướng gần 1 năm sau). Về lại Sư đoàn 5BB, Tư lệnh Lê Nguyên Vỹ đã trở về với đại đơn vị mà ông đã có nhiều năm gắn bó. Trong năm 1969, ông đã chỉ huy trung đoàn 8/Sư đoàn 5 BB lập nhiều chiến công tại chiến trường Miền Đông Nam phần. * Tư lệnh Sư đoàn 5 BB Lê Nguyên Vỹ tại căn cứ Lai Khê Nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 5 BB vào thời gian Cộng quân gia tăng hoạt động quân sự tại các tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long, thuộc vùng trách nhiệm của Sư đoàn 5 BB, Tướng Lê Nguyên Vỹ đã phải đương đầu với hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vừa phải lo đối phó ngăn chận các cuộc tấn công CSBV vào các vị trí trọng yếu do Sư đoàn 5 BB đảm trách, vừa phải lo củng cố và phát triển hiệu năng tác chiến của các đơn vị trực thuộc. Vị tư lệnh cuối cùng của Sư đoàn 5 BB đã làm việc không kể giờ giấc ngày đêm. Hết họp bàn kế hoạch hành quân tại bộ Tư lệnh Sư đoàn, ông lại bay đến các trung đoàn, tiểu đoàn kiểm tra hệ thống phòng thủ, đôn đốc quân sĩ đào chiến hào, đắp công sự chiến đấu và các cụm chướng ngại vật để ngăn chận chiến xa CSBV khi địch mở cuộc tấn công với xe tăng và bộ binh phối hợp. Trong ba tháng đầu của năm 1975, sau khi CSBV tấn công cường tập đánh chiếm Phước Long vào tháng 1/1975, Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tái phối trí lực lượng để giữ cụm phòng tuyến Chơn Thành. Đến giữa tháng 4/1975, quận Chơn Thành bị bỏ ngỏ, căn cứ Lai Khê được xem như phòng tuyến tiền đồn. Trong tình hình đó, vị Tư lệnh Quân đoàn 3 lúc bấy giờ là Trung tướng Nguyễn Văn Toàn đã bay lên Lai Khê họp bàn với Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ. Trung tướng Toàn nói với Tướng Vỹ là nên di chuyển bộ Tư lệnh về Phú Lợi, Bình Dương, và chỉ nên để một trung đoàn ở lại phòng thủ căn cứ Lai Khê. Trước ý kiến của vị Tư lệnh Quân đoàn 3, Chuẩn tướng Vỹ trình bày: “Nếu tôi di chuyển đi Phú Lợi, anh em binh sĩ sẽ nói mình “Đi di tản chiến thuật hay sao? Do đó, tôi quyết ở lại Lai Khê sống chết với nơi này.” Ngày 28 tháng 4/1975, Chuẩn tướng Vỹ chỉ thị cho vị Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB là Đại tá Trần Văn Thoàn chỉ huy bộ Tư lệnh nhẹ Sư đoàn 5 BB, cùng với Trung đoàn 8 BB mà trung đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng và Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ di chuyển về Phú Lợi. Cũng trong buổi sáng ngày 28/4. Tướng Vỹ nói với quân sĩ các cấp: “Các anh em ai có thể cho vợ con đi nước ngoài được thì cho đi, còn các anh ở lại với tôi. Tôi cũng vậy, cùng ở lại bên cạnh các anh.” Chiều ngày 29/4, sau cuộc họp tham mưu thường lệ tại phòng họp của bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB, vào 7 giờ tối, các đơn vị của Sư đoàn 5 BB được lệnh của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 là phải bỏ Lai Khê di chuyển về Bình Dương. Theo kế hoạch, tất cả quân dụng hư hỏng và giấy tờ không quan trọng phải thiêu hủy tại chỗ. Do đó, tối 29/4, cả căn cứ Lai Khê có từng đám cháy đỏ rực. Cùng với căn cứ Lai Khê, khu vực Phú Giáo ở xa cũng có từng đám lứa như thế do lực lượng phòng thủ tại Phú Giáo cũng di tản. Lúc bấy giờ, Trung tá Nguyễn Minh Tánh, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh, được báo tin CQ đặt chốt ở xã Mỹ Thạnh phía Nam Bến Cát, ông xin với Tư lệnh Sư đoàn 5 BB cho điều động chiến xa đi giải tỏa thế nhưng Tướng Vỹ nói ban đêm khó phối kiểm, để đến sáng sẽ tính. Trung tá Tánh gọi máy về hậu cứ đang đóng tại Trại Phù Đổng (Bộ chỉ huy Thiết Giáp) Gò Vấp hỏi tình hình ở vòng đai Sài Gòn. Trong điện thoại Trung tá Tánh nghe cả tiếng súng nổ văng vẳng, và tiếng động cơ của các trực thăng. Trung tá Tánh cũng được biết bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã di chuyển về Phù Đổng( Trung tướng Toàn vẫn kiêm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết Giáp khi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 3 thay thế Trung tướng Dư Quốc Đống xin từ chức sau khi Phước Long thất thủ vào tháng 1/1975). Trung tá Nguyễn Minh Tánh đã báo tin này cho Tướng Vỹ. Trước đó, theo lời của Trung tá Tống Mạnh Hùng, một trong những sĩ quan cao cấp của bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB, thì Tướng Vỹ đã gọi điện thoại về bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 nhưng không ai trả lời, ông tức giận nói: “Tụi nó chạy trốn cả rồi.” * Những giờ cuối cùng của Anh hùng Lê Nguyên Vỹ Đêm 29 tháng 4/1975 là đêm dài nhất cho tất cả quân sĩ Sư đoàn 5 BB đang còn ở lại Lai Khê. Các vị trí tiền đồn báo cáo từng đoàn quân xa của CSBV đủ loại di chuyển nhưng đi vòng tránh căn cứ Lai Khê. Sáng ngày 30 tháng 4/1975 vào lúc 7 giờ, tất cả sĩ quan ngồi họp tại Phòng họp Hành quân của Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Vừa họp xong, Đại úy Nguyên, chánh văn phòng Tư lệnh, tới báo cáo là 10 giờ Tổng thống Dương Văn Minh sẽ đọc bài diễn văn quan trọng liên quan đến tình hình. Tướng Lê Nguyên Vỹ bảo các Sĩ quan ngồi chờ tại chỗ bên cạnh chiếc radio và tách cà phê nóng. Đúng giờ, mọi người đều nghe bài phát thanh của ông Dương Văn Minh. Khi nghe lệnh tiếp theo của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được ông Dương Văn Minh cử làm phụ tá cho Trung tướng Vĩnh Lộc (Tổng tham mưu trưởng được bổ nhiệm vào ngày 29/4), thì Tướng Vỹ ra lệnh cho Trung tá Nguyễn Tấn Văn, treo cờ trắng trước cổng trại, rồi ông cho triệu tập tất cả các sĩ quan, quân nhân tại bộ Tư lệnh để giải thích cho mọi người rõ về lệnh của ông Dương Văn Minh. Theo lời kể của một số sĩ quan có mặt lúc đó, bằng giọng nói cương quyết, tướng Vỹ nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là bắt chúng ta buông súng đầu hàng. Riêng với tôi, là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh này. Từ nay, tôi không còn chỉ huy các anh em nữa, các anh em tự lo liệu lấy”. Sau đó, tướng Vỹ cho tìm bác sĩ Hiếu, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Quân Y, có lẻ ông định tìm thuốc độc tự tử, nhưng bác sĩ Hiếu đã lánh mặt. Các sĩ quan thân cận quanh tướng Vỹ tìm cách dấu hết súng vì sợ vị tư lệnh tự tử. Các sĩ quan cùng nhau khuyên ông, nhưng ông lại yêu cầu mọi người rời khỏi căn cứ, đừng đợi Việt Cộng vào. Trước khi vĩnh biệt các sĩ quan trong bộ Tư lệnh , tướng Vỹ đã mời mọi người sang nhà riêng ăn cơm chung. Vừa lùa xong chén cơm một cách vội vã, trong khi mọi người đang ăn thì tướng Vỹ đi nhanh vào “trailer”. Hai tiếng súng nổ chát chúa, mọi người bỏ đủa chạy vào thì thấy Tướng Vỹ nằm trên vũng máu. Dù tất cả các súng đã giấu kỹ nhưng còn khẩu súng Beretta 6.35 để trong trailer thì không ai ngờ đến. Vào giây phút đó, quanh Tướng Vỹ có Đại tá Từ Vấn, Tham mưu trưởng Sư đoàn, Trung tá Tống Mạnh Hùng và một số sĩ quan tham mưu. Mọi người đã thay quần áo cho vị Tư lệnh, và đứng nghiêm chào vĩnh biệt vị chủ tướng anh hùng. Tướng Vĩnh ra đi ở tuổi 42. (Một bài viết của ông Thanh Sơn, dựa theo theo lời kể một số bạn bè, đăng trong KBC, lại ghi rằng: sau khi nói chuyện xong với anh em quân nhân Sư đoàn 5 Bộ binh, tướng Vỹ bước ra sân đứng nghiêm dưới cột cờ của bộ Tư lệnh, rồi tự sát bằng khẩu súng lục chỉ huy của mình). Trung tá Nguyễn Minh Tánh kể lại rằng khi ông dẫn các Thiết giáp xa cơ hữu đến bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB để đón Đại tá Nguyễn Mạnh Tường và Trung tá Tống Mạnh Hùng (hai sĩ quan này cùng khóa 5 Thủ Đức với Trung tá Tánh) như đã hứa trước. Vừa đến nơi thì Trung tá Hùng chạy ra nói: “Anh vào chào Chuẩn tướng Tư lệnh đi, người đã tự sát rồi.” Trung tá Tánh nghe Trung tá Hùng báo tin thì lòng ông vô cùng xúc động. Ông đứng chỗ trailer nhìn vào thì thấy vị Tư lệnh đáng kính của mình nằm yên trong quân phục tươm tất, có huy chương trên túi áo, và hai tay xếp trên bụng. Một viên đạn súng Beretta 6.35 ly trổ từ dưới cằm lên đỉnh đầu. Trung tá Tánh và các sĩ quan thuộc cấp vội chào kính vĩnh biệt người người anh cả của Sư đoàn 5 Bộ binh, một anh hùng của Quân Lực VNCH. “Chiều ấy Lai Khê u uất lắm Đất trời cây cỏ ngập màu tang Khi người nằm xuống, Người nằm xuống Ta đã mất rồi! Mất Việt Nam. Sáng Ba Mươi giặc tràn Phú Lợi Quân ta về trấn thủ Bình Dương Ta vẫn nghe tiếng Người trong máy Lòng trung Tổ Quốc vẫn vang vang … Đồi Bam-mốt Sư Đoàn bị bức tử Đêm ba-mươi vang vọng những hồn oan Bao nhiêu năm! cờ tang chưa xả Sống lưu đày lòng đau nhục mang mang Trời Tháng Tư vẫn nghẹn ngào trong nắng Hởi hồn Người! Còn vang tiếng Việt Nam. (Tưởng nhớ Tướng Lê NguyênVỹ) - Đăng Nguyên. ( Ngoại trừ bài thơ "Tưởng Nhớ Lê Nguyên Vỹ" của ĐN, tài liệu "Tướng Lê Nguyên Vỹ: Từ Miền Tây Đến Căn Cứ Lai Khê" biên soạn dựa theo tài liệu tạp chí KBC, hồi ký của cựu Trung tá Nguyễn Minh Tánh, tài liệu của cựu Thiếu tá Trương Dưỡng, và của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ ). (tác giả Vương Hồng Anh) TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH NGUYỄN VĂN HẢI, M.A Cựu SVSQ/K21 Trường VBQGVN Cựu Thiếu tá Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương (VNCH) Kính dâng Anh Hồn Tướng Lê Nguyên Vỹ Kính tặng các chiến sĩ Quân Lực VNCH. Các bạn thân của tôi thường nhắc tôi viết về Tướng Lê Nguyên Vỹ, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Mọi người Việt Nam đều biết Tướng Vỹ đã tự sát để đền nợ nước tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB ở Lai Khê Bến Cát, tỉnh Bình Dương vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng các bạn tôi cho rằng đến bây giờ mọi người chắc chỉ biết về hành động anh hùng của Tướng Vỹ và mọi người rất cần biết thêm nữa về ông. Sở dĩ các bạn tôi quay sang đề nghị tôi viết về ông bởi vì họ biết tôi là người làm việc với ông từ khi mới ra trường Đà Lạt, từ là một Trung đội trưởng của Trung đoàn 8 BB mà Trung tá Lê Nguyên Vỹ là Trung đoàn trưởng, rồi lên dần đến Tiểu đoàn Trưởng của SĐ5BB và Đại tá Lê Nguyên Vỹ là Tư Lệnh Phó, cuối cùng là Tư Lệnh SĐ5BB. Nói như vậy, tôi chắc chắn chỉ có thể viết một phần nào về con người làm việc của Tướng Vỹ qua những lần tiếp xúc với ông, nhận lệnh và thi hành lệnh của ông, còn cuộc đời riêng tư của ông tôi hoàn toàn không biết gì cả. Tuy thế viết đến những dòng chữ này, tôi cảm thấy rất hãnh diện vì đã có thời gian thật dài làm việc dưới quyền Tướng Vỹ và tri ơn ông, bởi ông là người giới thiệu tôi đi làm Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương. Hơn thế nữa ông lại thường hãnh diện xác nhận với nhiều người trước đây rằng chính ông là người từng chỉ huy tôi từ lúc tôi mới ra trường, làm Trung đội trưởng của Trung đoàn 8BB, mỗi khi ông có dịp nói một điều gì về tôi. Tôi không hãnh diện sao được khi tôi được phục vụ dưới quyền của một vị Tướng Anh Hùng, của một Trần Bình Trọng, của một Nguyễn Tri Phương bất khuất trước quân thù, lấy thân mình để đền nợ nước! VÀI NÉT ĐÁNG GHI NHẬN TỪ TƯỚNG VỸ Tướng Vỹ là người trực và nóng tính, hăng say làm việc và học hỏi. Ngoài Việt Cộng là kẻ thù không đội trời chung với Tướng Vỹ, về phía Quốc Gia chắc cũng có một số người không thích ông, có thể cả ngay bây giờ là lúc tôi đang viết về ông đây. Tuy nhiên đây cũng phản ảnh được ý ông là nặng thà để người ta ghét, nhưng ông không bao giờ muốn người ta khinh ông. Tướng Vỹ nói giỏi hai ngoại ngữ Pháp và Anh văn, sau này ông học thêm chữ Trung Hoa, nhưng ông chỉ biết đọc, viết mà không nói được. Ông học theo lối học chữ Nho của các cụ ta hồi xưa. Ông kể lại cho tôi nghe, khi được Quân Đoàn 3 cho qua Đài Loan du lịch, mỗi khi vào tiệm ăn ông phải viết lên giấy các món ăn. Ông có công đầu trong trận An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972, chính tay ông đầu tiên đã dùng súng M72 bắn chặn đứng được chiến xa của VC tấn công vào An Lộc, kích động lại tinh thần chiến đấu của các đơn vị tham chiến VNCH lúc bấy giờ. Trước khi Tổng Thống Thiệu lên An Lộc, Tướng Vỹ được trực thăng bốc về Lai Khê để được thưởng “du ngoạn Đài Loan”. Còn việc lên lon, gắn Bảo Quốc Huân Chương hoặc các huy chương khác phải nhường lại cho những người khác. Nghe nói Tướng Vỹ không được gặp Tổng Thống Thiệu vì ông không nằm trong “BĂNG” lúc bấy giờ. Trước khi được trực thăng bốc về Lai Khê, Tướng Vỹ có ghé thăm chỗ đóng quân của tôi, tôi có con gà làm cơm mời ông ăn cơm trưa. Cũng vì bữa cơm tiễn chân ông mà tôi bị người ta gán cho là thuộc “BĂNG” Đại Tá Vỹ lúc bấy giờ. Tuy nói ông là người trực và nóng tính, nhưng sau vụ khen thưởng bất công của Tổng Thống Thiệu tại An Lộc, ông không hề bày tỏ ý kiến bất mãn hoặc chê bai ai cả, ông coi như không có gì xảy ra. Ông lại tỏ ra rất vui và hãnh diện khi có người vẽ tặng ông một bức tranh mô tả ông đang dùng súng M72 ngắm bắn chiến xa VC tại mặt trận An Lộc. Ông dùng nhiều thời giờ vào việc nghiên cứu các trận đánh hoặc học chữ Nho. Tướng Vỹ thường khuyên tôi cần phải ghi danh học Đại học để có bằng cấp, sau này nếu tôi có làm lớn không bị chê là võ biền. Tôi theo lời khuyên của ông nên bắt đầu trở lại học college vào tuổi 50 ở đất Mỹ này, thời gian trong tù VC tôi cũng dấu sách học tiếng Trung Hoa để đọc được chữ Tàu, nhưng tôi cũng giống ông làm “Tàu câm”, vì tôi cũng không học nói tiếng Trung Hoa. Tướng Vỹ rất thích người nào thực sự làm việc, còn người nào hay báo cáo láo, thoạt đầu ông có thể tin, nhưng nếu sau ông khám phá ra là báo cáo giả thì người báo cáo rất khó làm việc với ông. Bởi trong buổi họp nào những người lười biếng hay báo cáo láo thường được ông đưa ra làm ví dụ để răn đe những người khác. TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH ... Tướng Vỹ có trí nhớ rất dai, nhất là những lệnh ông đã ban ra, ông luôn theo dõi việc thi hành lệnh ra sao của thuộc cấp. Trước khi ông đề cử tôi đi làm Quận trưởng Phú Giáo, ông đã bí mật gọi những người tôi cho về phục vụ ở trại gia binh Trung đoàn 8. Tôi còn nhớ khi ông còn làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8BB, Đại tá Vỹ đã có văn thư gửi cho các Đại đội của Trung đoàn, chọn 3 hoặc 4 người lính tốt, đã từng bị thương ở chiến trận được ưu tiên về phục vụ tại trại gia binh của Trung đoàn ở Bình Dương. Tôi được những người lính mà tôi đã cho về phục trại gia binh (theo lệnh của Tướng Vỹ) khoảng 7 năm trước đó, nói lại rằng đích thân tướng Vỹ gọi từng người vào đập bàn, đập ghế để cướp tinh thần họ và hỏi xem những người này đã phải nộp cho Thiếu tá Hải (lúc đó tôi là Trung úy Hải, ĐĐT Đại đội 5/TĐ2/8) bao nhiêu tiền để được về phục vụ tại trại gia binh? Giả thử tôi đã không đứng đắn trong việc thi hành lệnh của ông cách đó 7 năm, thì bao nhiêu cố gắng trước của tôi cũng coi như đổ biển hết. Khi đụng trận, ông thường xuyên mở máy theo dõi tới cấp Trung đội, Đại đội để xem chúng tôi điều động quân như thế nào. Làm việc dưới quyền ông, các đơn vị phải luôn sẵn sàng ở vị trí chiến đấu, mọi bất cẩn gây thiệt hại cho binh sĩ, đơn vị đều không được chấp nhận. Khi thăng thưởng cho thuộc cấp Tướng Vỹ cũng làm hết lòng ông và nhất là không đòi hỏi một điều kiện gì, tiền bạc hoặc quà cáp chẳng hạn. Với ông muốn lên lon, lên chức nhanh thì điều kiện duy nhất là phải làm việc giỏi và đánh giặc giỏi. Tướng Vỹ là cấp chỉ huy về chiến thuật rất giỏi ông thường nghĩ cách đánh lừa địch dễ như chơi. Kế hoạch rút quân khỏi Bình Long của ông đã chứng tỏ ông có khả năng vẹn toàn chỉ huy từ tấn công đến lui binh. Sau cuộc rút quân đầy máu và nước mắt tại Đại lộ KINH HOÀNG của Quân khu 2, nhiều người lầm tưởng rằng các cấp chỉ huy chiến thuật của Quân Lực VNCH chỉ biết chỉ huy tấn công mà không biết rút quân. Cuộc rút quân khỏi Bình Long của Tướng Vỹ là câu trả lời đích đáng cho những lời nhận xét sai lầm trên. Theo lệnh của Tướng Vỹ, cuộc rút quân khỏi Bình Long đã được giữ bí mật cho đến lúc hoàn tất. Sự liên lạc của các đơn vị qua máy truyền tin được đặc biệt giới hạn, mã hóa. Trong khi rút quân, trực thăng vẫn ồ-ạt chuyên chở những khẩu súng pháo binh và đạn dược vào Bình Long. Những ổ quan sát của VC quanh Bình Long chắc chắn đã thông tin cho cấp chỉ huy của chúng là Bình Long đang được tăng viện quân và vũ khí, đạn dược, cho đến khi VC biết được sự thật Bình Long đã bị bỏ trống thì đã muộn. Bởi vì những khẩu pháo binh trực thăng vận vào Bình Long kia toàn là súng giả làm bằng giấy! Tôi xin kể thêm một trận đánh rất ngoạn mục ở Phú Giáo, cũng nói lên tài đánh lừa địch của Tướng Vỹ. Khi tôi mới về làm Quận trưởng Phú Giáo được khoảng một tháng thì VC mở một cuộc tấn công đại quy mô vào Phú giáo và Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Tướng Vỹ đoán biết trước được ý định của địch quân, nên ông đã bí mật dấu 6 khẩu pháo binh trong vườn mía tại Tân Hưng, xã Tân Bình của Phú Giáo. Khi VC mở ồ- ạt hai mũi tấn công, một vào quận Bến Cát do SĐ18BB trách nhiệm, một vào Phú Giáo (ngay cầu sông Bé). Quận Bến Cát bị VC tràn ngập xã An Điền, còn đơn vị giữ cầu sông Bé của tôi cũng đang hấp hối gọi tôi xin pháo binh bắn yểm trợ ngay trên đầu họ. Các ổ pháo binh của Phú Giáo, Bình Dương và ngay cả ở Lai Khê của SĐ5 hầu như bị tê liệt, bởi các khẩu pháo của VC (VC bao giờ cũng nghiên cứu kỹ vị trí pháo binh của ta trước các trận đánh) đang bắn dữ dội khóa họng các ổ pháo của ta. Trong giây phút thập tử nhất sinh, VC đã tràn lên cầu sông Bé, Tướng Vỹ đã ra lệnh 6 khẩu pháo binh dấu tại Tân Hưng (không nằm trong danh sách phải khóa họng của VC) đồng loạt khai hỏa hàng ngàn quả lên đầu giặc đang xung phong lên chiếm cầu. Trận đánh này tôi cũng phải “liều thân tranh đấu”, mặc thường phục lẫn lộn với đám dân chạy loạn, lọt được vào cầu sông Bé để tổ chức lại đơn vị Địa Phương Quân giữ cầu đang hấp hối ở đây, mà sau đó Tướng Vỹ đã gọi máy nói đùa với tôi rằng “Tao nghe mày xuống cầu sông Bé để sắp xếp lại đơn vị, tao sợ cho mày mà muốn đái cả ra quần” (xin chân thành cáo lỗi với độc giả vì đã trích lời nói tục của Tướng Vỹ,). Tướng Vỹ không thích văng tục, cọc cằn như các cấp chỉ huy khác, nhưng ông thích nói tiếu lâm, đôi khi tiếu lâm của ông cũng hàm ý châm biếm nhẹ. THÊM VÀI KỶ NIỆM VỚI TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ Tháng 7 năm 2006, tôi và bà xã cùng con gái, cháu trai ngoại tôi qua Nam Cali dự Đại hội Võ Bị Đà Lạt K21. Nhân dịp này tôi đã được gặp một Niên Trưởng cấp Tướng, là Trung đoàn trưởng cũ của tôi. Gặp ông ở chung một khu khách sạn, mới đầu ông không nhận ra tôi, nhưng sau khi tự giới thiệu thì ông mới nhớ ra và nói với mấy người bạn cùng khóa của tôi rằng “anh Hải cũng là người hùng ở trận An Lộc đấy”. Sau khi nghe ông nói vậy, tôi thật chẳng có tí phản ứng hãnh diện gì cả, bởi đó chỉ là câu nói xuông, “great, wonderful” của người Mỹ. Tuy không được vui lắm với câu khen xuông của ông, nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, xin phép ông chạy vào phòng gọi bà xã tôi ra để chào ông cho đủ lễ nghĩa của một đàn em đối với đàn anh. Sau vài câu giới thiệu và chào hỏi xã giao, không hiểu ngẫu hứng làm sao, ông lại nói một câu rất là trịch thượng, câu nói của một người có quyền uy thuở trước, chắc để lấy le với vợ tôi chăng?: “Khi còn là Tư lệnh Sư Đoàn, tôi thấy Tiểu đoàn trưởng nào làm lâu rồi, tôi đều cho đi làm Quận trưởng”. Đến lúc này thì tôi muốn nhịn cũng không nổi rồi, định mở miệng hỏi ông một câu cho ra lẽ. Nhưng chợt liếc thấy vợ tôi nháy mắt ra dấu im; tôi lại đành câm miệng hến – chắc do bản tính sợ vợ của tôi - bởi vợ tôi không muốn tôi phá vỡ cảnh gặp gỡ thân mật này! Đến khi vào phòng vợ tôi hỏi tôi: “lúc nãy anh muốn nói gì mà mặt mày anh đỏ gay lên vậy? Tôi trả lời: “anh định hỏi ông ta rằng cho đi làm Quận trưởng như vậy có phải đóng tiền không?” Qua đất Mỹ này từ năm 1991, tôi rất ít khi đi dự hội hè, tiệc tùng gì. Ngoài mấy kỳ đi dự Đại hội khóa, tôi chỉ có hai lần theo chân vợ đến nhà hai người bạn học Trưng Vương cũ của vợ tôi để ăn cơm thân mật bạn bè và tân gia. Nhưng cả hai lần mỗi khi chủ nhà giới thiệu đến tôi và nhắc rằng trước đây tôi đã làm Quận trưởng thì đều bị các thực khách khác cười ồ lên, có người còn muốn làm bẽ mặt tôi hơn bằng cách đặt câu hỏi: “Tôi hỏi thật anh Hải đi làm Quận trưởng trước đây, anh phải đóng hụi chết bao nhiêu tiền vậy? Đối với những câu hỏi móc lò, tôi luôn điềm tĩnh trả lời rất gọn:” Đất nước mình trước đây thực sự có việc mua quan bán tước, nhưng cũng có những trường hợp không phải mua, đâu phải ai cũng giống ai”. Có vài thực khách không tin vào câu trả lời của tôi nên đã mạnh dạn kể đích danh những người đi làm Quận trưởng phải hối lộ cho các Tỉnh Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, Quân đoàn như thế nào và bao nhiêu? Tôi còn nhớ rõ, một ngày của tháng 3 năm 1974, tôi đang dẫn tiểu đoàn hành quân trong rừng, anh lính truyền tin Tiểu đoàn dừng lại và đưa ống nghe cho tôi để nói chuyện với Trung đoàn trưởng, Trung tá Vuợng. Trung tá Vượng qua máy truyền tin nói với tôi:”báo cho Hải một tin mừng là Tư Lệnh Sư đoàn chọn Hải đi làm Quận trưởng” Thay vì tôi phải hỏi lại ông là cho tôi đi làm Quận trưởng quận nào, tôi lại đặt điều kiện với Trung tá Vượng rằng:”cho tôi đi làm thì tôi làm, nhưng tôi xin nói trước là tôi không có tiền bạc đóng góp đâu nhé” Nghe tôi nói vậy, Trung tá Vượng hét lên trong máy:” ông Tư Lệnh nếu mở tần số này và nghe mày nói thế này, thì mày sống không nổi với ông ấy đâu” Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa: “tôi nói thật là tôi không có tiền đâu” Trung tá Vượng muốn nổi điên, hét to hơn nữa trong máy:”không có tiền bạc gì cả”. Rồi ông cúp máy không thèm nói chuyện với tôi nữa. Như vậy trong ngày đầu tiên được đề cử đi làm Quận trưởng, tôi chưa biết mình sẽ đi coi quận nào nữa. Vài ngày sau được trực thăng bốc về BCH Trung đoàn, lúc đó tôi mới biết tôi được đề cử đi coi quận Phú Giáo. Trước khi lên đường đi nhận nhiệm vụ mới, tôi còn đặt điều kiện với Trung đoàn trưởng là phải cho Đại úy Lạc khóa 22 Đà Lạt, đàn em của tôi được thay tôi, nếu không tôi sẽ không đi làm Quận trưởng. Đó là sự thực việc tôi được cử đi làm Quận trưởng quận Phú Giáo. Hôm nay tôi cũng xin thành thật xin lỗi Tướng Vỹ vì đã nghi oan sự đứng đắn của ông khi đề cử tôi đi làm Quận trưởng. Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi xin lỗi ông chắc ông mới biết, bởi vì Trung tá Vượng cũng thương tôi nên chẳng bao giờ tiết lộ cho ông biết về những phản ứng vô lễ của tôi khi Trung tá Vượng thông báo tin vui cho tôi. Tôi là người biết Tướng Vỹ mà còn nghi oan sự đứng đắn của ông, huống hồ gì những người khác, nhất là những người không thích ông. Bởi vì ngay khi tôi về làm Quận trưởng Phú giáo được khoảng một hoặc hai tháng thì Bộ Tổng Tham Mưu đề cử một vị Đại tá xuống điều tra tôi ngay. Tôi gặp phái đoàn điều tra tại hậu cứ Trung đoàn 9, Sư đoàn 5BB. Vị Đại tá điều tra đã nói với tôi rằng: - Có người đã viết đơn tố cáo ông Tư Lệnh Sư đoàn 5BB cho Thiếu tá Hải đi làm Quận trưởng để làm kinh tài cho ông. Vậy Thiếu tá Hải hãy khai thật anh đã nộp cho ông Vỹ bao nhiêu tiền để được đi làm Quận trưởng và đã kiếm được bao nhiêu tiền cho ông Vỹ rồi. - Tôi đề nghị ngay với vị Đại tá điều tra:” Tôi mới về làm Quận trưởng, nếu đã đóng tiền cho ông Vỹ chắc chắn bây giờ tôi chưa kiếm đủ vốn. Vậy tôi đề nghị Đại tá hãy cho ngưng chức tôi để công việc điều tra của Đại tá được dễ dàng, nếu không có thể tôi lại dùng quyền hành ngăn cản việc khai báo của những thuộc cấp dưới quyền tôi. Sau khi nghe tôi tự nguyện xin thôi việc, vị Đại tá lập tức hủy bỏ cuộc điều tra! Không biết tôi có chủ quan hay không, nhưng tôi có cảm tưởng Tướng Vỹ có khuynh hướng muốn huấn luyện tôi thành một sĩ quan hiện dịch mỗi ngày được hoàn hảo hơn. Những lúc được rảnh rỗi qua thăm ông, ông thường bảo tôi ở lại ăn cơm với ông, trong bữa cơm ông thường nói cách điều quân của ông cho tôi nghe và học hỏi, ông bắt tôi đặt câu hỏi hoặc ông hỏi tôi. Nếu tôi trả lời đúng ý ông thì ông gật- gù rất thích thú. Ông cũng muốn những vị sĩ quan quanh ông mến tôi, nên ông thường khen tôi trước mặt họ: “Hải là vua mìn bẫy”, ông kể cho người khác nghe cách phục kích mìn bẫy của tôi từ khi tôi còn là Đại đội trưởng, có tuần tổng số VC bị Đại đội 5 của tôi giết còn hơn cả tổng số Trung đoàn giết VC. Khi về làm Quận trưởng, tôi xử dụng toán thám báo quận phục kích đặt mìn phá hủy được 2 hoặc 3 chiếc xe vận tải chở vũ khí, tiếp liệu của VC trong mật khu Rang-Rang, giáp ranh với tỉnh Long Khánh, ông cho trực thăng đón tôi qua gặp ông ngay sáng sớm. Trong bữa điểm tâm, ông nói với tôi:”Moa nghe toa không muốn làm Quận trưởng nữa, nếu toa về lại Sư đoàn moa sẽ để toa làm Trung đoàn trưởng hoặc Trung đoàn phó”. Tôi lúc bấy giờ là thằng háo danh, nghe “Trung đoàn trưởng” thì vừa tai, nhưng nghe tới “Trung đoàn phó” thì tôi thối lui ngay. Nhưng tôi chỉ cười, không tỏ ý muốn hay không muốn về lại Quân đội. Lúc đó tôi nghĩ mà không nói ra rằng “thời gian làm phó của Thiếu Tướng trước kia đã mai một tên tuổi của Thiếu Tướng, sao ông lại còn muốn tôi về Sư đoàn 5 để làm Trung đoàn phó”. Mặc dầu tôi biết nếu tôi về làm Trung đoàn phó cho Trung tá Vượng, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 7 thì chẳng bao lâu tôi cũng sẽ được thay Trung tá Vượng. Trung tá Vượng theo tôi được biết đang chờ lên Đại tá vào ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1975 để đi giữ một nhiệm vụ mới, tốt hơn. Trung tá Vượng sống được lòng Tướng Vỹ và nhiều người khác. Trung tá Vượng cũng muốn giao Trung đoàn cho tôi khi ông đi, nên đã nhiều lần ông hỏi ý tôi, phân tích thiệt hơn cho tôi nghe. Như trên tôi không về lại Sư đoàn 5 là do “tính háo danh” của tôi, ngoài ra còn một lý do chính đáng nữa mà Tướng Vỹ và Trung tá Vượng chắc không để ý đến đó là vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, tôi thực sự không muốn giao Quận Phú Giáo cho ai cả. Tôi biết trước sẽ có cuộc rút quân ra khỏi Phú Giáo, nếu tôi giao lại cho một người mới đến điều động quân (gồm 3 Tiểu đoàn Địa Phương quân, mấy chục Trung đội Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân Tự vệ…, tất cả đều trang bị súng), chỉ một sơ suất nhỏ cũng đưa đến hỗn loạn, vô chính phủ, không tránh khỏi những đổ vỡ tang thương, chẳng khác chi Đại lộ Kinh Hoàng miền Trung! Lại nữa đã có những dấu hiệu nổi loạn trong các đơn vị, tôi phải ra tay dập tắt. Tôi xin nói thêm, các Tiểu đoàn Địa Phương Quân tuy đã thành lập thành Liên đoàn, nhưng vẫn chịu sự điều động tác chiến trực tiếp của tôi và tôi chỉ can dự vào việc điều động tác chiến, không hề xen vào hoạt động nội bộ của các Tiểu đoàn trong Liên đoàn ĐPQ 935. Tôi nhớ Thiếu Tướng Ân Tư Lệnh Phó Quân Khu 3, có lần thăm Phú Giáo đã ra lệnh cho tôi hãy chờ khi nào các Tiểu đoàn Địa Phương Quân phát lương, tôi hãy xuống bất chợt kiểm soát tình trạng lính ma, lính kiểng của các Tiểu đoàn ấy ra sao và cho ông biết. Tuy tôi dạ vâng để Thiếu Tướng Ân vui lòng nhưng tôi đã không thi hành, bởi thi hành theo lệnh của ông tôi sẽ đụng chạm rất nặng, chỉ từ chết đến bị thương cho tôi, nên tôi chẳng dại gì mà húc đầu vào tường đá. Các Tiểu đoàn trưởng của Liên đoàn 935 Địa Phương Quân tỉnh Bình Dương vẫn nhất mực tin ở tôi và tuân lệnh của tôi vào thời điểm thập tử nhất sinh của cuộc chiến Việt Nam. (Nếu có cơ hội tôi sẽ viết một bài nói về cuộc rút khỏi Phú Giáo của Quân và Dân Phú Giáo do tôi điều động). Tướng Vỹ có đầu óc rất thực tế như người Mỹ vậy, dù tin ai nhưng vẫn phải kiểm soát (đặt camera, máy nghe lén …)! Có lần tôi phải đi họp ở Tỉnh, ông đáp trực thăng ghé ngay Quận Phú Giáo và vào chỗ ăn ngủ của tôi để kiểm soát sự sinh hoạt hàng ngày của tôi. Tôi không hề buồn ông, bởi tôi nghĩ rằng nặng thà để ông biết rõ mọi việc tôi làm còn hơn để ông nghi ngờ. Tôi chấp nhận như thế, nên khi người lính trong quận báo cáo cho tôi biết Tướng Vỹ mới ghé quan sát phòng ốc của tôi khi tôi đi họp ở Tỉnh thì tôi vẫn vui vẻ như thường. Tướng Vỹ rất ghét đóng kịch, ai kiếm được súng ở đâu mà lập trận giả để báo cáo chiến công, giết VC, thu vũ khí thì ông khám phá ra ngay. Tướng Vỹ rất thông hiểu thuộc cấp, hiểu rõ tính nết của mỗi cấp chỉ huy trực thuộc. Vì Tướng Vỹ hiểu rõ về thuộc cấp nhiều quá mà bị một số người không thích ông chăng? Có một vị Trung đoàn Trưởng của Sư đoàn 5BB, trước ngày miền Nam mất, đến thăm và than với tôi rằng ông không hiểu Tướng Vỹ muốn gì mà mỗi lần Tướng Vỹ xuống thăm đơn vị của ông, tướng Vỹ luôn la rầy, giận dữ ông. Vị Trung đoàn Trưởng này (rất thân với tôi) nhờ tôi rà xem (như rà mìn vậy) Tướng Vỹ muốn gì để ông lo. Tôi thực tình cũng chịu thua chẳng biết Tướng Vỹ muốn gì nữa. Tiện đây tôi xin thành thực xin lỗi vị Trung đoàn Trưởng trên vì tôi đã nói ra điều này. Tôi không muốn ám chỉ Trung tá thích đút lót, hối lộ mà chỉ muốn nói lên nỗi buồn phiền, trách móc của Trung tá khi Trung tá đã làm hết bổn phận rồi mà sao Tướng Vỹ vẫn không được hài lòng. Tôi biết đến giờ này Trung tá vẫn còn giận Tướng Vỹ lắm. Thôi hãy bỏ qua chuyện cũ đi, Trung tá! Tôi biết Trung tá rất thương tôi và tin tôi nên tôi mới dám đề nghị Trung tá bỏ qua chuyện cũ để cùng tôi ca tụng một vị Anh Hùng của Quân Lực VNCH, nào mấy ai có thể làm được như ông. Tôi còn nhớ mãi, hôm tôi và Trung tá ngồi chung trong hội trường của trại tù VC ở Cát Lái (Trường Quân Khuyển cũ) – lúc đó chỉ có tôi và Trung tá – Trung tá đã lớn tiếng và lấy tay chỉ vào mặt ảnh thằng Hồ Chí Minh treo trên hội trường mà nguyền rủa nó thậm tệ; vì nó mà dân tộc Việt Nam điêu linh thống khổ, không cất đầu lên được. Tôi biết Trung tá làm vậy để cho bõ cơn giận với thằng khốn nạn Hồ Chí Minh, nhưng ít nhất Trung tá cũng phải tin và thương tôi nên Trung tá mới dám ngang nhiên xỉ vả nó chứ. Bởi nhỡ tôi bán đứng Trung tá bằng cách đi bá cáo cho VC, lập công với chúng thì sao, phải không Trung tá? Tôi biết ông vẫn còn tin và thương tôi, vậy Trung tá hãy nghe đàn em bỏ qua những chuyện cũ đi nhé! KỶ NIỆM SAU CÙNG NHƯNG MÃI MÃI VỚI TƯỚNG VỸ Vào năm 1973, tôi thường có dịp gặp Tướng Lê Nguyên Vỹ, lúc bấy giờ ông còn là Đại tá Tư Lệnh Phó Sư đoàn 21BB cho Tướng Lê Văn Hưng. Tôi được trò chuyện hàn huyên với ông nhiều nhất vào thời gian ông bị thương nằm tại Tổng Y Viện Cộng Hòa vì máy bay quan sát chở ông bị rớt trong khi ông đi quan sát mặt trận tại vùng 4 chiến thuật. Một điều mà ông thường nhắc đi nhắc lại trong các lần tôi nói chuyện với ông là “Hải ơi, coi chừng mình sẽ bị mất nước đó”. Lúc bấy giờ tôi chỉ biết lắng nghe mà không bày tỏ một ý kiến nào. Có thể tôi chưa có khái niệm gì về sự mất nước cũng như hậu quả của nó chăng? Cũng có thể tôi là một cấp chỉ huy chiến thuật rất tự tin vào mình và đơn vị, nên tôi không bao giờ lại tin là Quân Lực VNCH sẽ thua quân VC để đến nỗi phải mất nước. Nhưng dần dà tôi cũng đã thấy được cuộc chiến VN không được quyết định bằng các trận đánh thắng của Quân lực VNCH ngoài mặt trận và tôi cũng đã linh cảm miền Nam khó giữ được đất đai vẹn toàn. Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến VN, tuy biết miền Nam sẽ thua nhưng tuyệt nhiên tôi không có một ý định nào bỏ trốn khỏi đơn vị để kiếm sự an toàn cho bản thân và gia đình. Những lời khuyên bảo của anh chị ruột tôi, các em gái tôi, phải bỏ đơn vị về Sài Gòn để trốn khỏi VN, đều bị tôi để ngoài tai. Tướng Vỹ ít nhất hai hoặc ba lần nói với tôi hãy tìm cách lo cho vợ con đi an toàn, còn tôi hãy ở lại chiến đấu với đơn vị. Khoảng hơn một tuần lễ trước khi mất nước, Tướng Vỹ cho trực thăng đón tôi qua Lai Khê để gặp ông bàn việc. Trong khi trò chuyện ông thường nhắc đi nhắc lại là đến giờ này Tông Thống Thiệu vẫn còn cố chấp, không chịu nghe lời ai cả. Gặp Tướng Vỹ xong, ra đến bãi đậu trực thăng, hai sĩ quan lái trực thăng cho Tướng Vỹ nói với tôi rằng tôi hãy cố thuyết phục Tướng Vỹ để cho họ chở Tướng Vỹ và tôi ra Đệ Thất Hạm Đội. Hai vị Sĩ quan không quân còn nhấn mạnh rằng mọi người đang lo chạy trốn cả rồi Tướng Vỹ và tôi còn đánh làm gì nữa. Tôi chỉ gật-gù cảm ơn lòng tốt của họ và không nói thêm gì cả. Hai vị Sĩ quan này chắc nghĩ tôi thân với Tướng Vỹ, nên tôi có thể thuyết phục được ông, nhưng tôi lại nghĩ rằng tôi đã không muốn bỏ chạy thì tôi dại gì lại đi thuyết phục người khác hãy bỏ chạy để bỏ tôi ở lại một mình. Hơn nữa tôi cũng biết Tướng Vỹ đã quyết định đánh đến cùng rồi. Về đến quận, vừa ngả lưng nghỉ mệt, người lính gác cổng chạy vào báo cô Quý, em gái ruột tôi từ Sài Gòn lên muốn vào gặp tôi. Tôi căn dặn người lính gác ra nói dối với em tôi rằng tôi đi họp chưa về. Tôi đoán biết Mẹ tôi cho cô em tôi lên thúc tôi bỏ quận để về Sài Gòn lo việc chạy trốn khỏi Việt Nam. Tuy tôi đã quyết định ở lại chiến đấu cùng đơn vị, nhưng tôi nghĩ rằng tôi cũng cần phải lo cho vợ con tôi, nên ngày 27 tháng 4 năm 1975 tôi quyết định về Sài Gòn thăm gia đình như lời khuyên của Tướng Vỹ trước đây.Thực sự buổi về Sài Gòn này tôi đã chỉ dám ghé nhà bố mẹ vợ tôi tại đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên vợ tôi hãy mang hai con tôi bám theo mẹ, anh và các em gái tôi mà chạy khỏi VN. Tôi trở về Phú Giáo ngay trưa hôm 27 tháng 4, không dám ghé đường Lê Văn Duyệt gặp mẹ, bởi tôi biết mẹ tôi sẽ bất cứ giá nào giữ tôi ở lại Sài Gòn để cùng gia đình chạy trốn. Tôi đã tự lựa chọn con đường cho tôi đi, mặc dù tôi biết con đường này không có lối thoát! Nhưng tôi không thể bỏ trốn mọi người quân cũng như dân Phú Giáo, mọi người đang trông chờ sự dẫn dắt khéo léo của tôi để may ra được thoát chết trong giờ phút tuyệt vọng của cuộc chiến. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi hoàn toàn mất liên lạc với tỉnh Bình Dương! Tôi nói với Thiếu tá Hùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306 Địa Phương Quân hãy cố gắng đánh mở đường đưa tôi về tỉnh, vì tôi đã mất liên lạc với Đại tá Của, Tỉnh trưởng Bình Dương. Khoảng nửa giờ sau đó, Thiếu tá Hùng cho tôi biết phía trước đường tiến quân có một cái chốt cấp Đại đội của VC chặn đường. Tôi nhất quyết ra lệnh cho Thiếu tá Hùng phải vượt qua chốt VC. Thiếu tá Hùng đã phải vượt lên tuyến đầu để chỉ huy đánh chốt VC. Chừng nửa giờ quyết chiến, Thiếu tá Hùng báo cáo Tiểu đoàn tràn ngập chốt của VC. Tôi liền ra lệnh toàn thể các đơn vị kéo quân về hướng Hòa Lợi 2 và tiến về Bình Dương. Khốn nỗi thay! Đồng thời lúc đó một anh lính đưa cho tôi nghe lệnh đầu hàng qua một radio nhỏ cầm tay của Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Hạnh, tự xưng là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Tôi bàng hoàng, nước mắt ràn-rụa, nói với mấy người lính đứng bên cạnh:”thôi chúng mình mất nước rồi”! Tôi còn nhớ hôm bố tôi chết vào dịp Tết Mậu Thân 1968, khi VC đánh vào tỉnh Phan Thiết, tôi cũng không khóc nhiều như thế. Nước mắt ở đâu cứ ràn -rụa đổ ra! Nhưng chỉ ít phút sau tôi lấy lại được bình tĩnh và đang đự định lấy tần số liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5, thì Trung tá Vượng Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 kéo bộ chỉ huy đến và bảo tôi cùng kéo quân về Lai Khê gặp Tướng Vỹ để nhận lệnh. Đến hàng rào căn cứ Lai Khê, Trung tá Vượng và tôi phải cố gắng thuyết phục những người lính gác ở đây mới lọt được vào cổng của căn cứ, vì đã có lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” của Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 5. Vừa bước vào phòng họp, tôi thấy hầu hết các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5 đang đứng, ngồi quanh Tướng Vỹ, nào Đại tá Tường Phụ tá Hành Quân, Pháo binh, các sĩ quan tham mưu, tôi không thấy Đại tá Thoàn Tư Lệnh Phó và Đại tá Từ Vấn Tham mưu Trưởng Sư đoàn. Tướng Vỹ ngồi ngay giữa một chiếc bàn nhỏ, trên bàn là bát canh măng khô nấu với vịt, bên cạnh là chén nước mắm ớt. Sau khi tôi và Trung tá Vượng chào ông theo đúng quân cách, Tướng Vỹ nói: - Vượng, Hải vào ăn cơm luôn thể - Giọng nói của ông vẫn khàn khàn, bình thản như mọi khi. Tuy không nói ra nhưng tôi thấy ngán-ngẫm và nghĩ trong đầu:”Trời ơi! Giờ này còn ăn uống gì nữa” Sau khi mời chúng tôi xong, Tướng Vỹ tự cầm chén lên xới cơm, chan canh măng vịt và ăn rất nhanh như người bị đói đã lâu. Vừa ăn ông vừa nói:”món măng khô nấu vịt là món moa thích nhất”. Ăn đúng ba chén cơm đầy ông mới buông đũa. Tôi cũng cầm chén ăn cơm, nhưng không sao nhai nổi lưng chén cơm. Tướng Vỹ, sau khi uống ngụm nước cho trôi cơm, ông đứng phắt dậy và vẫy tôi ra một chỗ để nói riêng. Nhưng tôi hỏi ông trước: -Thiếu tướng có lệnh gì cho tôi không? Ông đáp rất gọn:”Moa lo cho moa, toa lo cho toa” Tôi chưng hửng đáp:”Tôi biết lo làm sao bây giờ, Thiếu tướng. Lính của tôi đã bố trí sát hàng rào Lai Khê rồi” - Khoảng hơn một tháng trước 30 tháng 4 năm 1975, Tướng Vỹ có dặn tôi hãy chuẩn bị một số người lính trung thành để đưa ông và tôi đi. Tôi đoán biết sẽ đi Vùng 4 Chiến Thuật để tiếp tục chiến đấu, vì ở đó có Tướng Hưng, Tướng Nam là những người Tướng Vỹ có thể tin tưởng được (Tướng Vỹ đã nhận định không sai chút nào, vì hai Tướng Hưng, Nam cũng đều là những Tướng Anh Hùng, vị quốc vong thân!). Tướng Vỹ mỉm cười nhìn chằm-chặp vào tôi, nhắc lại y như trên một lần nữa và thêm: “Coi chừng tiêu đó Hải”. Nói xong ông quay lưng bỏ đi ngay. Câu trả lời của Tướng Vỹ đã làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi có cảm giác bị bỏ rơi và nghĩ rằng:”hay Tướng Vỹ đã có trực thăng sẵn sàng bốc ông rồi!”. (Tôi lại nghi oan cho ông lần nữa) Không đầy một phút sau, tôi giật mình vì nghe có tiếng súng nổ. Tôi thấy Đại uý Nguyên tùy viên của Tướng Vỹ chạy ra nói lớn như khóc:”Tướng Vỹ đã tự sát rồi!” Tôi trách Đại úy Nguyên:”Sao anh không tìm cách dấu súng của ông Tướng trước đi” Đại úy Nguyên trả lời:”Tôi biết ông có 6 khẩu súng cả thảy, tôi đã dấu hết, khẩu ông dùng để tự sát, tôi không biết ông lấy ở đâu” . Viên đạn súng colt đã xuyên từ cổ lên đầu Tướng Vỹ làm ông ra đi ngay. Tôi và Trung tá Vượng đã vào chào ông lần cuối. Cả hai chúng tôi sau đó đã bị VC bắt giữ và đi tù ngay cùng chiều hôm 30 tháng 4 năm 1975. Sau này tôi có nghe nhiều người nói rằng khi tên chỉ huy VC vào căn cứ Lai Khê thấy Tướng Vỹ tự sát đã tỏ lòng khâm phục và nói:”Làm Tướng chết theo thành như Tướng Vỹ mới xứng đáng làm Tướng”. Tướng Vỹ đã tự sát đền nợ nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Mão (Âm Lịch), tức ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Dương Lịch). Khi còn ở Việt Nam, dù còn ở trong nhà tù VC tôi đều tìm cách giỗ ông vào ngày 19 tháng 3 âm lịch mỗi năm. Nhưng khi qua đất Mỹ này rồi tôi sợ quên, nên tôi đổi ngày giỗ ông vào ngày 30 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm. Sau đây là một bài thơ tôi đã làm để kỷ niệm những ngày tôi làm giỗ Tướng Lê Nguyên Vỹ: MĂNG KHÔ NẤU VỊT Măng khô nấu vịt Bác không rời, Lời Bác, lòng tôi luôn nhắc tôi. Ngày cuối tháng tư, tôi giỗ Bác, Lịch đầu năm mão, Bác chầu Trời. Tôi vui như lúc tôi còn Bác, Bác chết là khi Bác sống đời. Đốt nén hương thơm tôi khấn Bác, Măng khô nấu vịt, Bác về xơi. Cuộc đời của tôi và biết bao các chiến hữu khác kể từ 30 tháng 4 đen, 1975 trở đi đã bước vào một khúc quanh mới của lịch sử Việt Nam, trong đó chúng tôi phải gánh chịu mọi gian nan, đọa đày, chết chóc trong bệnh tật, đói khát và hắt hủi của những tên lính bị tức tưởi thất trận mà có kể ra cho ai nghe đã mấy người tin rằng thật. Bởi có nhiều người đã mơ tưởng rằng sau khi im tiếng súng vào 30 tháng 4 năm 1975, hai miền Nam Bắc sẽ nhận ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã kéo dài trong bao nhiêu năm chính là do các thế lực bên ngoài cố ý tạo ra cho dân Việt, để rồi anh em ôm nhau mà khóc trên cầu Bến Hải vĩ tuyến 17, cùng tha thứ cho nhau những nhầm lẫn đáng tiếc trong quá khứ và cùng nhau đoàn kết xây dựng lại quê hương Việt Nam đã đổ và rách nát vì bom đạn, vì những thứ chủ nghĩa ngoại lai, những mớ lý thuyết và giáo điều lỗi thời, không tưởng. Trái hẳn với các mơ ước viển vông trên của các sư, cha, những chính khách xôi thịt, thiển cận, vì rằng sau màn chém giết là đến những màn trả thù độc ác và có hệ thống khác, cũng đầy dẫy những xác người, ràn-rụa nước mắt gây ra do đói khát, cướp bóc, tố khổ và phân ly. Hai cây cùng trồng nhưng mọc không đều, một cây mọc thật nhanh cao hơn hẳn cây bên cạnh mọc quá chậm; bây giờ muốn cho hai cây cao ngang bằng nhau, thay vì phải dùng phân bón, vun xới cho cây mọc châm được mọc nhanh hơn, VC đã dùng một phương pháp thật là “cách mạng” để giải quyết vấn đề, đó là dùng dao chặt đứt phần ngọn của cây mọc nhanh cho ngang bằng với cây mọc chậm. Kế hoạch bất chợt đổi tiền xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của VC, trong đó mỗi người dân chỉ đưọc phép đổi lấy một số tiền mới nhất định từ những đồng tiền cũ, chính là phương pháp san bằng tài sản rất độc đáo giữa người giàu và người nghèo của VC, y hệt phương pháp chặt cây vừa trình bày ở trên. Mọi người trong xã hội như thế chắc chắn sẽ được nghèo như nhau! Sau 33 năm, ngày Tướng Vỹ chết theo thành niềm đau mất nước vẫn còn trong tâm khảm những người Việt Quốc Gia thật sự yêu quê hương xứ sở, dân Việt vẫn còn phải sống trong đói rách lầm than, chưa bao giờ được thở hít không khí tự do, bởi ách Thực dân, Đế quốc tuy đã được gỡ bỏ, nhưng ách Cộng sản lại đã được tròng vào cổ dân Việt, nặng nề gấp ngàn lần. Lòng chúng ta vẫn còn đau, vì chúng ta đã thua đau, cái thua không đáng thua chút nào. Một miền Nam của trí tuệ, trù phú lại chịu thua bọn người rừng rú, khố rách áo ôm, ngu si, dối trá. Có người bảo rằng miền Nam thua vì người Mỹ đã bỏ chúng ta. Không đúng hẳn như vậy! Mà phải nói rằng người Mỹ bỏ chúng ta vì chúng ta quá yếu, không bỏ không được. Quân đội là nguồn sức mạnh chính của đất nước sẵn sàng tiêu diệt quân xâm lăng, do vậy quân đội phải được giao phó cho những người có thực tài, can đảm, đạo đức và hết lòng với đất nước. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là nếu các Tư Lệnh Sư đoàn của Quân Lực VNCH đều là Tướng Lê Nguyên Vỹ thì chúng ta không mất nước. Tôi không nịnh nọt Tướng Vỹ và nói ngoa đâu. Chúng ta cứ đọc lại trang sử Việt đời nhà Trần xem tôi nói có đúng hay không?! Nhà Trần đã chiến thắng oanh liệt đoàn quân Nguyên bách chiến bách thắng xưa kia, vì đã quy tụ được những tinh hoa của đất nước: nào Trần Thủ Độ, “đầu tôi chưa rơi xuống đất xin Bệ Hạ đừng lo”, nào Hưng Đạo Vương Trần quốc Tuấn, thao lược mưu trí, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần quốc Toản, Trần Nhật Duật…hết lòng vì đại sự. Một khi quân đội đã hùng mạnh do các tướng có tài đức chỉ huy như thế, thì hội nghị Diên Hồng của toàn dân hưởng ứng, hỗ trợ cho quân đội chiến thắng quân xâm lăng ắt sẽ được mở rộng và đồng tâm, nhất trí. Nhà Trần đã chiến thắng vẻ vang quân Mông Cổ không hề dựa vào một sức mạnh quân sự nào của ngoại bang, chỉ dựa vào sức mình là quân đội do các tướng có tài đức chỉ huy và sự ủng hộ của toàn dân. Miền Nam chúng ta đã không quy tụ được các tướng có tài đức cho quân đội, do đó chúng ta cũng không tạo được khí thế Diên Hồng trong toàn dân, vì dân đã không tin vào quân đội. Những điều tôi vừa trình bày ở trên có thể không làm hài lòng các vị niên trưởng bậc thày của tôi trong quân đội, nhưng tôi vẫn mạnh dạn nói lên quan điểm của tôi, cũng rất có thể là của nhiều người khác nữa, đã được chứng minh từ những kinh nghiệm đấu tranh của lịch sử Việt Nam trong công cuộc bảo vệ giang sơn Tổ quốc. Tôi viết đến cuối bài “Tướng Vỹ Chết Theo Thành” vào đúng cuối tháng 3, chuẩn bị bước vào tháng 4 đen mỗi năm mà mọi người Việt ở hải ngoại không ai không nhớ đến. Riêng tôi cũng đã sẵn sàng hương đèn để tưởng nhớ đến Tướng Vỹ. Tôi không những làm giỗ ông vào ngày 30 tháng 4, hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán tôi luôn mời ông về chung vui Tết với Tổ Tiên, Ông Bà và Cha Mẹ tôi. Thực lòng tôi đã xem ông như người thân trong gia đình tôi vậy. Ông là biểu tượng của Anh Hùng Bất Khuất mà tôi luôn ngưỡng mộ và tin tưởng. Tôi thành tâm xin thưa với ông rằng sau tháng tư đen, 1975 mặc dù tôi đã đánh mất tất cả, nhưng tôi đã không đánh mất tôi, tôi vẫn còn giữ lại được một chút gì gọi là liêm sỉ để trong lời nói cũng như việc làm, tôi không khi nào nói hoặc làm có lợi cho Cộng sản, kẻ thù không đội trời chung của ông, của tôi và của toàn dân Việt yêu chuộng Tự do. (tác giả Nguyễn Văn Hải)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:18:51 GMT 9
7/ Thần tướng Trần Văn Hai (1929 - 1975)Thần tướng Trần Văn Hai Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Cuộc Đời Binh Nghiệp vô cùng gian nan Tú Cơm (Trích đăng) Chuẩn tướng Trần Văn Hai sanh năm 1929 tại Cần Thơ. Ông tốt nghiệp Khoá 7 Sĩ Quan Hiện Dịch, tình nguyện về binh chủng Nhảy Dù và phục vụ tại chiến trường miền Bắc cho tới khi đất nước chia đôi. Sau khi trở về miền Nam, ông phục vụ tại nhiều đơn vị khác nhau tại miền Trung cho tới khi được gởi sang thụ huấn khóa Chỉ huy và Tham mưu Cao cấp tại Hoa Kỳ năm 1960. Lúc đó ông mang cấp bậc đại uý. Trở về nước, ông tình nguyện sang phục vụ tại binh chủng Biệt Động Quân vừa mới được thành lập và đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng trung tâm huấn luyện Dục Mỹ của binh chủng này. Cho tới ngày nay, các cố vấn Hoa Kỳ vẫn còn dùng tên gọi Hai Highway khi nhắc tới ông bởi vì trong thời gian này, ông thường lái chiếc xe ủi đất để làm nền cho các cấu trúc sau này. Sau khi trung tâm huấn luyện đã hoàn thành, ông là người đề xướng ra Khoa Huấn luyện Rừng Núi Sình Lầy, đào tạo biết bao cán bộ cho tất cả các đại đơn vị của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Đến cuối năm 1963, ông được vinh thăng Thiếu tá và giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ. Cho tới năm 1965 thì được bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên. Trong thời gian tại chức, ông đã chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính trong tỉnh bẻ gẫy những cuộc tấn công của Việt Cộng xuất phát từ mật khu Vũng Rô của chúng. Quân đội ta nhiều khi còn tổ chức những cuộc hành quân vào tận sào huyệt này. Đầu năm 1966, phu nhơn của Thiếu tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn II và Quân khu 2 là nữ ca sĩ Minh Hiếu tới Phú Yên có việc riêng và lệnh của tướng Vĩnh Lộc là phải đón tiếp chu đáo. Thiếu tá Hai lúc đó đã được thăng cấp Trung tá, quyết định dùng tiền riêng thuê xe dân sự đưa đón thay vì dùng công xa. Vì chuyện này mà Trung tá Hai mất chức tỉnh trưởng với lý do 'không hoàn tất chu đáo nhiệm vụ'. Ngày ông ra phi trường đi đáo nhậm đơn vị mới, quân dân cán chính ra tiễn đưa rất đông. Không ít người đã nhỏ lệ. Năm 1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên để xem xét việc thực thi một số kế hoạch trong Chiến dịch Phượng Hoàng, đã đem theo rất nhiều quà để tặng dân chúng. Ông được quân dân tiếp đón như một người ruột thịt khiến cho một trong những người tháp tùng ông lúc đó là Trung tá Lê Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Khu 2 đã ngạc nhiên. Và sau này có thuật lại trong cuốn hồi ký 'Cảnh Sát Hoá, Quốc Sách Yểu Tử Của Việt Nam Cộng Hoà' rằng chắc hẳn là trong thời gian làm tỉnh trưởng Phú Yên, tướng Hai đã đối xử với dân chúng tốt hết mực nên mới được quí trọng làm vậy. Sau khi mất chức tỉnh trưởng Phú Yên, Trung tá Trần Văn Hai được bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ huy Trưởng Biệt Động Quân. Và trong biến cố Tết Mậu Thân, ông đã chứng tỏ tài chỉ huycủa mình. Liên đoàn 5 Biệt Động Quân là đơn vị đã phản công tiêu diệt địch ngay trong những giờ giao tranh đầu tiên tại Thị Nghè - Hàng Xanh và sau đó, phụ trách mặt trận Chợ Lớn và Phú Thọ. Ông đã nhiều lần có mặt ngay tại tuyến đầu, chỉ cách nơi giao tranh khoảng 50 thước đặng thị sát mặt trận, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân nhân các cấp. Tháng 5 năm 1968, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia là Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan bị trọng thương tại mặt trận Thị Nghè. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký đã sắc lệnh bổ nhiệm Đại tá Trần Văn Hai thay thế. Cho tới nay, nhiều người vẫn còn ngộ nhận rằng bởi Thủ tướng Trần Văn Hương là một người trong thân tộc đề nghị nên Đại tá Hai mới có được chức vụ này. Kỳ trung, cụ Trần Văn Hương quê quán Vĩnh Long trong khi Đại tá Hai quê quán Cần Thơ. Hơn nữa, Thủ tướng Chánh Phủ lúc đó là Luật sư Nguyễn Văn Lộc. Cụ Trần Văn Hương tới cuối năm đó mới làm thủ tướng. Trong thời gian giữ chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đại tá Hai đã điều hợp tất cả các đơn vị một cách rất xuất sắc trong chiến dịch Phượng Hoàng khiến cho các hạ tầng cơ sở của Việt Cộng bị thiệt hại nặng nề và tê liệt. Tuy vậy, giới truyền thông Tây phương đã xuyên tạc nhiều về chiến dịch này gây nhiều bất lợi cho Việt Nam Cộng Hoà. Quí bạn đọc nào muốn biết thêm về chiến dịch Phượng Hoàng, xin tìm đọc cuốn 'Vietnam: the Conflict and Controversy' của Paul Elliot xuất bản tại Luân Đôn năm 1996 hoặc cuốn 'The Team' của Ian McNeil do University of Queensland Press xuất bản năm 1984. Tướng Trần Văn Hai tuẫn tiết đã đúng 30 năm và khi nhắc tới ông, chúng ta không quên những thiệt thòi mà ông đã cam chịu trong những ngày phục vụ đất nước. Tuy vậy, cũng phải công tâm mà nói, ông không phải là một cấp chỉ huy có tài dùng người. Khi về chỉ huy ngành cảnh sát, ông có đem theo một số thuộc cấp mà ông một lòng tin tưởng. Một số sĩ quan khi sang làm việc với tướng Hai trong ngành cảnh sát, thấy không thích hợp trong vai trò mới đã xin trở về binh chủng Biệt Động Quân. Cũng cần nói thêm ở đây là tuy giữ chức vụ cao cấp nhứt trong ngành cảnh sát, tướng Hai vẫn thường xuyên ghé thăm các thuộc cấp cũ, một điều mà những ai ở vào vị trí của ông rất ít khi làm. Năm 1970, tướng Hai rời ngành cảnh sát với cấp bậc Chuẩn tướng để giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44. Năm 1971, ông trở về binh chủng Biệt Động Quân để một lần nữa giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng nhưng chỉ được một năm thì Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt tung ra chiến dịch Xuân - Hè 1972 mà người Mỹ gọi là The Easter Offensive và chúng ta thường gọi là Muà Hè Đỏ Lửa với ba mặt trận chánh là Trị Thiên, Kontum và An Lộc. Tại mặt trận Kontum, địch tạm chiếm ưu thế trong những ngày đầu. Bộ Tư lịnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh bị chúng tràn ngập, Đại tá Tư lịnh Lê Đức Đạt bị mất tích. Tại phía Bắc Kontum, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù chịu trách nhiệm ngăn chặn Cộng quân tại Tân Cảnh. Sau khi Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù rút khỏi Charlie (Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh ngày 12 tháng 4 tại đây) thì áp lực địch nặng hơn, nên Liên đoàn 6 Biệt Động Quân từ vùng 3 được gởi ra tăng cường cho trận tuyến này. Tại thị xã Kontum, Đại tá Lý Tòng Bá chỉ huy Sư đoàn 23 Bộ Binh cùng các lực lượng tại đây chống lại vòng vây của địch ngày càng xiết chặt. Trong tình thế đó, Tư lịnh Phó Quân Đoàn I và Quân khu 1 là Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn được bổ nhiệm làm Tư lịnh Quân Đoàn II và Quân khu 2 thay thế Thiếu tướng Ngô Dzu. Đồng thời Chuẩn tướng Trần Văn Hai được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lịnh Phó Hành Quân của Quân đoàn. T ướng Hai đã đích thân có mặt tại chiến trường để chỉ huy 10 tiểu đoàn Biệt Động Quân tái chiếm đèo Chu Pao, khai thông Quốc lộ 14 lên tiếp tay cho các lực lượng bạn giải toả Kontum. Chính trong thời gian này đã xảy ra mấy chuyện đáng tiếc. Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Cuộc Đời Binh Nghiệp vô cùng gian nan Tú Cơm (Trích đăng) Quí bạn đọc nào thuộc binh chủng Nhảy Dù có tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 đều còn nhớ Đại tá Kỵ binh Nguyễn Trọng Luật và Trung tá Kỵ binh Nguyễn Đức Dung. Sau này, Đại tá Nguyễn Trọng Luật giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kiêm Tiểu khu Trưởng Darlac và bị địch bắt sáng ngày 11 tháng 3 năm 1975. Tại mặt trận Kontum nói trên, những báo cáo của Trung tá Dung về tình hình mặt trận lại được tướng Toàn một mực tin tưởng gây nhiều tai hại. Sau trận này, Trung tá Dung vinh thăng Đại tá, giữ chức vụ Tư lịnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh và ít lâu sau, giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Pleiku thay thế Đại tá Trương Sơn Ba tức Yaba đắc cử vào Thượng Nghị Viện. Tuy nhiên, khi giữ chức vụ Tỉnh trưởng, Đại tá Dung được tiếng là làm việc khá đàng hoàng. Nhưng bây giờ xin mời bạn đọc trở lại mặt trận Kontum. Sau khi các lực lượng Biệt Động Quân đã đẩy lui được Cộng Quân, khai thông Quốc lộ 14 lên Kontum thì Chuẩn tướng Hai cho một số đơn vị Biệt Động Quân tiếp tục khai thông quốc lộ đồng thời một số truy kích tàn quân Việt Cộng. Mọi việc đang diễn tiến tốt đẹp thì Thiếu tướng Toàn gọi máy xuống mạt sát tướng Hai mà theo lời các nhơn chứng thì Quế Tướng công có chửi thề trong lúc điện đàm. Lệnh của tướng Toàn lúc đó là bằng mọi cách mọi tiến về Kontum trong thời gian ngắn nhứt để giải vây cho Đại tá Kỵ binh Lý Tòng Bá cùng Bộ Tư lịnh và Bộ chỉ huy Tiểu khu Kontum và do đó, bỏ mặc cho đám tàn quân Việt Cộng đang tháo chạy vô rừng. Chính điều này đã cho phép đám tàn quân đó lấy thêm quân đặng tái tổ chức đội hình rồi tấn công quấy nhiễu gây rất nhiều khó khăn cho các lực lượng bạn sau đó. Sau khi Kontum được giải vây, Đại tá Lý Tòng Bá được vinh thăng Chuẩn tướng trong lúc Chuẩn tướng Hai bị Thiếu tướng Toàn khiển phạt 40 ngày trọng cấm xin gia tăng đồng thời cách chức và gởi trả về Bộ Tổng Tham mưu. Trở lại Sài Gòn, Chuẩn tướng Trần Văn Hai được bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn Kiêm Chỉ huy Trưởng Huấn khu Lam Sơn. Xin nói rõ hơn là Huấn khu Lam Sơn nằm trong quận Ninh Hoà thuộc tỉnh Khánh Hoà. Huấn khu này gồm có Trường Pháo Binh, Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ và Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn là nơi tổ chức các khoá huấn luyện cho Hạ sĩ quan Trừ bị và Tân binh quân dịch. Mãi tới đầu năm 1974, khi Tư lịnh Sư đoàn 7 Bộ Binh là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lịnh Quân đoàn IV và Quân khu 4 thì Chuẩn tướng Trần Văn Hai được bổ nhiệm thay thế tướng Nguyễn Khoa Nam, chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ Binh đặt căn cứ tại Đồng Tâm trong tỉnh Định Tường. ....... * Ghi chú: (Tướng Hai đã tự sát khi miền Nam bị rơi vào tay quân CS Bắc Việt ngày 30-4-1975). Tướng Trần Văn Hai: Từ Biệt Động Quân Đến Sư Đoàn 7 Thần tướng Trần Văn Hai * Chỉ huy trưởng Biệt động quân Trần Văn Hai tại mặt trận Khe Sanh Vào tháng Giêng năm 1968, khi Tiểu đoàn 37 Biệt động quân thuộc Liên đoàn 1 Biệt động quân được bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/Vùng 1 chiến thuật điều động tăng phái cho Lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ để án ngữ cụm tiền đồn của căn cứ Khe Sanh, thì Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Trần Văn Hai đã bay ra Đà Nẵng, từ đây ông đi theo một phi cơ C-123 tiếp tế của Mỹ để nhảy xuống Khe Sanh. Trong hai ngày đêm có mặt tại phòng tuyến lửa Khe Sanh, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Trần Văn Hai đã đi thăm từng trung đội Biệt động quân đang ngày đêm trực chiến dọc theo cụm phòng tuyến tiền đồn của căn cứ. Từ trung đội này đến trung đội khác, vị chỉ huy trưởng binh chủng Mũ Mâu đã phải cúi người khom lưng chạy thật nhanh trong các giao thông hào, dưới hỏa lực yểm trợ của các trung đội bắn xối xảo vào rừng để đánh lạc hướng CQ. Đi theo vị chỉ huy trưởng Biệt động quân nhảy xuống Khe Sanh chỉ có 2 sĩ quan, đó là Thiếu tá Ngô Minh Hồng, đại diện Phòng 3 và Đại úy Trần Đình Đàng, đại diện Phòng 1 thuộc bộ chỉ huy Biệt động quân QLVNCH. * Từ Tết Mậu Thân 1968 đến Mùa Hè 1972 Khi CSBV mở cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968 đợt 1 và đợt 2 tại Sài Gòn-Chợ Lớn, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Trần văn Hai đã có mặt ngay trên trận địa của các tiểu đoàn Mũ Mâu để đôn đốc, chỉ thị cho các đơn vị trưởng điều động lực lượng quyết chiến với địch quân, giành lại từng con đường, từng khu phố bị CQ chiếm giữ. Tháng 6/1968, sau khi được thăng cấp đại tá, ông được bổ nhiệm giữ chức Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia thay Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan (từ giữa năm 1970, Tổng nha Cảnh sát Quốc Gia được cải danh thành bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia). Tháng 7 năm 1970, Đại tá Trần Văn Hai được thăng cấp chuẩn tướng và cũng trong tháng 7, ông đã được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 thuộc Vùng 4 chiến thuật (từ tháng 8/1970, các Vùng chiến thuật được cải danh thành Quân khu). Năm 1972, Tướng Trần Văn Hai được điều động lên Cao nguyên để đảm trách chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 2. * Tướng Trần Văn Hai trên chiến trường Cao nguyên Hè 1972 Trong trận chiến Mùa Hè 1972 tại Cao nguyên, Tướng Trần Văn Hai thường xuyên đôn đốc các đơn vị Biệt động quân phản công giải tỏa áp lực CSBV trên Quốc lộ 14. Ông đã đến tận trận địa của các tiểu đoàn Biệt động quân để trực tiếp ban quân lệnh phản công. Trong kế hoạch tái chiếm đỉnh Chu Pao, có độ cao trên 1059 mét, cách Pleiku 17 km về hướng Bắc, Tướng Trần Văn Hai đã đến tận tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 62 Biệt động quân biên phòng, sau đó ông đã cùng với 1 trung đội Biệt động quân hộ tống len lỏi theo đường rừng để lên căn cứ 41 cách Pleiku khoảng 15 km về hướng Bắc. Tại căn cứ này, ông đã thảo luận với vị đại tá chỉ huy cụm tuyến phòng ngự khu vực về kế hoạch phản công. Rời căn cứ này, ông trở lại bộ chỉ huy tiểu đoàn 61 Biệt động quân để trực tiếp ban lệnh tấn kích tái chiếm đỉnh Chu Pao. * Từ Dục Mỹ đến Miền Tây Năm 1973, Tướng Trần Văn Hai rời Cao nguyên về Dục Mỹ giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ kiêm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn (Huấn khu Dục Mỹ gồm ba quân trường: Biệt động quân, Pháo Binh và Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn). Đầu tháng 11/1974, trong kế hoạch tái phối nhiệm các tư lệnh đại đơn vị, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh thay thế, bổ nhiệm một số tư lệnh Quân đoàn và Sư đoàn. Theo nội dung sắc lệnh này, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam được cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4 & Quân khu 4. Đây là lần thứ hai, Tướng Trần Văn Hai trở lại chiến trường miền Tây trong cương vị một tư lệnh chiến trường. Vào những năm cuối của cuộc chiến, bộ Tư lệnh chính của Sư đoàn 7 Bộ binh đặt tại căn cứ Đồng Tâm, tỉnh Định Tường. * Những ngày cuối cùng của Tư lệnh Sư đoàn 7 BB Trần Văn Hai Lời người viết (Trịnh Văn Ngân): Trong khoảng thời gian 1975 – 1977, người viết ở chung D (tương đương cấp tiểu đội) với Trung Úy Huỳnh văn Hoa, sĩ quan tùy viên của Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, kiêm Chỉ Huy Trưởng căn cứ Đồng Tâm. Trước đó, Chuẩn Tướng Trần văn Hai đã từng là Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân, và cũng từng là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trong thời gian đi cải tạo, anh Hoa đã kể cho người viết nghe những giờ phút cuối của Chuẩn Tướng Trần văn Hai., Ông đã chọn cho mình một cái chết anh hùng như một số tướng lãnh khác cuả QLVNCH: Thiếu Tướng Nguyễn khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Thiếu Tướng Lê nguyên Vỹ, Thiếu Tướntg Lê văn Hưng, v.. v.. “Tôi” trong bài này chính là Trung Úy Hoa. Theo lời kể của Trung úy Huỳnh Văn Hoa (ấn bản tiếng Anh không ghi dấu), sĩ quan tùy viên của Tướng Trần Văn Hai, được cựu sĩ quan QL.VNCH Trịnh Văn Ngân ghi lại và sau đó được cựu sĩ quan Biệt động quân Vũ Đình Hiếu dịch sang Anh ngữ phổ biến trong đặc san Biệt Động Quân (ấn bản tiếng Anh), chi tiết về cái chết đầy dũng liệt của Tướng Trần Văn Hai được tóm lược như sau. Trưa ngày 30 tháng 4/1975, sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Tướng Trần Văn Hai đã tập họp các sĩ quan tại Hội quán Sĩ quan Sư đoàn. Tại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng này, Tướng Hai đã ngỏ lời cám ơn tất cả các sĩ quan đã cộng tác với ông trong thời gian qua, và ông gửi lời từ biệt đến các chiến hữu của mình. Cuối cùng, ông mong mỏi anh em nhanh chóng trở về nhà, lo cho gia đình và tránh đối mặt với phía “bên kia”. 3 giờ chiều, Tướng Hai gọi vị trung úy tùy viên vào văn phòng Tư lệnh. Khi người tùy viên bước vào, anh cảm nhận có một cái gì khác thường ở vị tư lệnh: ông không ngẩng đầu lên nhìn tùy viên của mình đang đứng trước mặt. Ông vẫn ngồi yên, suy nghĩ một điều gì đó. Một lát sau, ông ra dấu cho người tùy viên ngồi xuống ghế, và chậm rãi nói: -Tôi cám ơn anh đã ở cạnh tôi vào giờ cuối cùng này... Rồi Tướng Hai hỏi người tùy viên về tình hình gia đình. Cuối cùng, ông lấy từ ngăn bàn một gói bọc giấy báo cũ và nói: -Sáng sớm mai, anh có thể trở về với gia đình. Anh vui lòng chuyển gói này cho mẹ tôi và nói với bà là đây là quà của tôi gửi. Anh cũng trấn an bà là đừng lo lắng cho tôi. Bây giờ thì anh có thể về phòng để thu xếp đồ đạc. Từ đây đến tối, khi nào cần tôi sẽ gọi anh. Đứng nghiêm chào vị tư lệnh, người tùy viên trở về phòng riêng của mình. Đợi đến hơn 6 giờ chiều, anh vẫn không nghe điện thoại reo. Anh linh cảm một điều gì đó đã xảy ra, không thể bình tĩnh được nữa, anh quyết định quay trở lại văn phòng Tư lênh. Khi đến gần văn phòng Tư lệnh, trái tim anh đập mạnh, đèn vẫn sáng, nhưng không khí lạnh lẽo bao trùm. Anh đứng trước cửa và lắng nghe.. bên trong im vắng. Cố can đảm, anh vặn cửa, mở nhẹ và bước vào phòng: Một cảnh tượng bên trong đập vào mắt anh: Tướng Hai vẫn còn ngồi trên ghế sau chiếc bàn, đầu ông ngã lên thành ghế và gần như bất động, một cái ly rỗng còn ở trên bàn. Liền khi đó, anh gọi cho tiểu đoàn Quân Y và bệnh xá Sư đoàn. Lúc bấy giờ chỉ còn một bác sĩ thiếu tá quân y ở đó. Anh báo cho vị quân y sĩ tình trạng của Tướng Hai, vài phút sau, vị bác sĩ đến trên một chiếc xe cấp cứu và đưa Tướng Hai về bệnh xá cấp cứu. Bác sĩ đã cố gắng cứu sống vị tư lệnh Sư đoàn, nhưng thuốc độc đã ngấm vào máu của vị tướng tuẩn tiết. Tướng Hai vĩnh viễn ra đi vào tối 30 ngày 30/4/1975 ở tuổi 49. Đứng nghiêm chào vĩnh biệt vị chủ tướng, người tùy viên vội vã đón xe về Sài Gòn để báo tin cho gia đình Tướng Hai. Gói quà mà Tướng Hai gửi cho người mẹ vỏn vẹn có 70 ngàn đồng mà theo tỷ giá vào thời kỳ đó chưa đến 100 đô. Đó là món quà cuối cùng của Tướng Hai gửi cho mẹ già... (Biên soạn dựa theo các bài viết trong đặc san Mũ Nâu, tài liệu của Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, tài liệu riêng của VB) Tưởng Niệm Tướng Trần Văn Hai Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi ông Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội buông súng dâng miền Nam cho tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt làm tiêu tan nền tảng hợp pháp hóa sự xâm lăng của chúng thì một số quân nhân các cấp không chấp nhận đã tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng hoặc tự sát. Trong số các anh hùng đó, có các danh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân. Với mục đích góp thêm vài nét chấm phá rất thực để tưởng niệm một người quân nhân thuần túy bất khuất, coi quyền lực như không có và đôi khi gần như ngạo mạn, không tham sân si và cả cuộc đời chỉ nhằm đóng góp nỗ lực cho Ðất Nước... Phải thẳng thắn nhìn nhận là ít ai để ý và biết tới tân Thiếu Úy Trần Văn Hai tốt nghiệp Khóa 7 trường Võ Bị Ðà Lạt tình nguyện ra chiến đấu tại chiến trường Bắc Việt năm 1952 bổ nhiệm về phục vụ Tiểu Ðoàn 4 Việt Nam (Thiếu Tá Ðặng Văn Sơn Tiểu Ðoàn Trưởng, sau này là Ðại Tá Tư Lệnh Su Ðoàn 2 rồi Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện BÐQ Dục Mỹ). Sau khi đất nước bị chia đôi và người Pháp lần lượt trao trả quyền quản trị, điều khiển các quân khu lại cho Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam (đặc biệt là Quân Khu 4 trên cao nguyên từ trước vẫn hoàn toàn do các sĩ quan Pháp nắm giữ) và do một cơ duyên nào đó ông Hai gặp Ðại Úy Ðặng Hữu Hồng là một chuyên viên tình báo mới được bổ nhiệm lên cao nguyên làm Trưởng Phòng 2 Quân Khu 4 đã nhận thấy ông Hai rất có thiện chí với nhiều khả năng về tình báo nên đã đề nghị rút về phụ trách ban binh địa của Phòng 2 Quân Khu, sau đó vinh thăng Ðại Úy đi làm Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 81 địa phương đồn trú tại Phan Thiết rồi về làm Ðại Ðội Trưởng chỉ huy công vụ Trung Ðoàn 44 thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Năm 1961, sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ thì Ðại Úy Trần Văn Hai đã trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến trong tình thân thương cũng có mà thù ghét cũng không phải là ít. Khi Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ được thành lập để huấn luyện các đơn vị Biệt Ðộng Quân cũnh như rừng núi sình lầy, mưu sinh thoát hiểm cho sĩ quan, hạ sĩ quan của các đơn vị và sinh viên sĩ quan của trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ðại Úy Hai là một trong số những huấn luyện viên tận tụy làm viếc hết mình theo đúng quan niệm: Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, và mồ hôi của ông luôn luôn ướt sũng bộ đồ tác chiến như mọi người đã nhìn thấy. Năm 1964, Ðại Úy Trần Văn Hai được vinh thăng Thiếu Tá sau khi mang lon Ðại Úy liên tiếp 9 năm và được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên và cũng chính từ ở chức vụ này ông đã có dịp bộc lộ các cá tính và con người thực. Dưới đây là phần trích dẫn bài của Lôi Tam viết lại cuộc đối thoại của một nhóm quân nhân và công chức trẻ mà chính anh là một: - Tụi bây bỏ hết công việc ra đây mai mốt anh Mũ Nâu lại gọi vào chửi cho cả đám. Anh Mũ Nâu là biệt danh chúng tôi dùng để gọi Trung Tá Hai Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng vốn xuất thân là Biệt Ðộng Quân. - Ối ăn nhằm gì, chửi bới là nghề của anh ấy, không có chuyện cho anh ấy chửi, anh ấy bệnh ngay. Dưới mắt anh ấy cả nước này chỉ có mình anh ấy là khá, kỳ dư còn lại là lũ ăn hại, đái nát... - Tụi bây chửi anh ấy cũng tội nghiệp, phải công nhận là anh ấy có thiện chí. Nếu nước mình mà có vài mươi mạng như anh ấy thì cũng đỡ khổ. - Ðỡ qúa chứ cũng đỡ gì...chỉ riêng cái việc anh ấy không ăn bẩn là tao sợ anh ấy rồi... Chúng tôi kính phục Trung Tá Hai vì sự trong sạch, thái độ ngay thẳng và lòng yêu mến dân chúng thật tình của ông. Trong thời gian phục vụ dưới quyền ông, chúng tôi phải làm việc gấp hai ba lần hơn khi làm việc với các ông Tỉnh Trưởng khác nhưng cũng là thời gian mà chúng tôi thích thú nhất... ...Ông không bao giờ cười, họa hoằn lắm mới có một cái nhếch mép nhưng lại có máu khôi hài lạnh. Tôi nhớ sau cuộc hành quân t.ai Vũng Rô, một phái đoàn Tướng Tá Việt Mỹ đến Phú Yên tham dự cuộc thuyết trình về thành quả. Trong khi ông Hai đang thuyết trình về tổn thất địch thì một ông Ðại Tá Mỹ đứng dậy đặt câu hỏi là trong số thương vong của địch có bao nhiêu phần trăm do hỏa lực bộ binh? Trung Tá Hai không trả lời ngày, ông có vẻ suy nghĩ, một lát sau ông nói: - Tôi rất tiếc không thể trả lời câu hỏi của Ðại Tá lúc này được. Mọi người có vẻ ngạc nhiên, viên Ðại Tá Mỹ cau mày hỏi: - Tại sao vậy Trung Tá? Ông Hai hơi nhếch mép, tôi biết ông đang cố gắng nén cái cười ngạo mạn. - Tại vì tôi chưa kịp viết thư cho viên Tướng Cộng Sản ở vùng này. Lẽ ra tôi phải viết thư trước và yêu cầu hắn chỉ thị cho binh sĩ của hắn khi bị sát hại bằng hỏa lực phi pháo thì phải nằm riêng ra một chỗ và khi bị bộ binh bắn chết thì phải nằm riêng ra một chỗ để chúng ta dễ đếm và thống kê, lần này thì chịu, theo nhận định của Bộ Chỉ Huy hỗn hợp thì đầy là một cuộc hành quân phối hợp hoàn hảo của Hải, Lục, Không Quân, thương vong của địch rải rác lẫn lộn, tình thế cũng không cho phép binh sĩ của ta ở lại lâu tại vị trí giao tranh để làm thống kê tỉ mỉ, vì vậy tôi không thể trả lời được câu hỏi của Ðại Tá. Trung Tá Hai có thể nén cười được, nhưng chúng tôi thì không... Trung Tá Hai rời chức vụ Tỉnh Trưởng vì một chuyện rất nhỏ...Ông Tướng Tư Lệnh Vùng đang say mê một cô ca sĩ; biết rõ như thế nên một số các ông Tỉnh Trưởng trong vùng thi nhau làm vui lòng ông mỗi khi cô ca sĩ này đến trình diễn tại địa phương. Ông Hai không cần biết điều này và ông cũng không cần tìm biết làm gì vì bản chất của ông: thanh liêm, chính trực. Sau một lần không làm vừa lòng Tướng Tư Lệnh về những chuyện công vụ, một tháng sau ông Hai bị thay thế, chúng tôi tiễn ông ra máy bay trực thăng... và hành trang của ông là một túi vải nhỏ, loại mà các phi công thường sử dụng mỗi khi đi bay... - Tôi cám ơn các anh chị đã tận tình làm việc với tôi trong những tháng vừa qua, có thể người ta cho rằng mình là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết đục khoét. Nhưng tôi tin là mình đã làm đúng... Thảo luận với ông về những khó khăn trở ngại ông thường nói: Tôi biết, tôi biết, tôi đã di qua chiếc cầu đó rồi, đừng nản, sớm muộn gì đất nước mình cũng có ngày sáng sủa... ...Ông về làm Chỉ Huy Trưởng BÐQ vinh thăng Ðại Tá...Sau Tết Mậu Thân được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Biệt Khu 44, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 2, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Khi ông vừa rời Phú Yên về trình diện Bộ Quốc Phòng thì cũng đúng lúc chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân đang trống và ông Hai được bổ nhiệm điều khuyết để trở lại nơi ông đã xuất thân với những tình cảm thân thương. Vừa nhận chức với buổi họp tham mưu đầu tiên tại Bộ Chỉ Huy, ông đã giành tối đa thời giờ để lên lớp đúng theo danh từ mà Lôi Tam dùng để diễn tả các chỉ thị Tham Mưu chính yếu nhằm quét dọn rác rưới trong việc điều hành, thuyên chuyển nhân viên, sử dụng quỹ xã hội cách rất đúng đắn và những ngày sau đó đi thăm viếng các đơn vị, đặc biệt là những đơn vị trú đóng những căn cứ hẻo lánh, các trại gia binh và các thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện. Quyết định đầu tiên của ông là xuất quỹ xã hội trao tặng cho mỗ đơn vị 5000 dồng để tổ chức cây mùa xuân, ông quan niệm đây là tiền của anh em đóng vào thì họ phải được hưởng, và hơn nữa ông là một người trong sạch nên ông coi giá trị đồng tiền khá cao, tại mỗi đơn vị ông giơ cao bao thơ đựng tiền lập đi lập lại nhiều lần khiến mọi người phải cười thầm. Ðặc điểm của ông là luôn luôn lắng nghe và ghi nhận những khó khăn của các đơn vị trưởng và dù với cấp bậc khiêm nhượng ông không ngần ngại đến gõ cửa chính các vị Tư Lệnh vùng để trực tiếp can thiệp giải quyết vấn đề chứ không qua các vị Tham Mưu Trưởng. Ở đâu có đụng chạm, có khó khăn là có sự hiện diện của ông và đặc biệt là nhiều khi mùi khét của thuốc súng giao tranh chưa tan ông cũng không ngần ngại đáp trực thăng xuống để cùng chia sẻ ngay tại chỗ với đơn vị và đặc biệt với các cấp chỉ huy về những nỗi khó khăn gặp phải mặc dù đó không phải là nhiệm vụ chính yếu được ấn định cho chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng của ông là quản trị. Trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, chính ông đã trực tiếp điều khiển các Liên Ðoàn BÐQ hành quân giải tỏa vùng ven đô gây tổn thất nặng nề cho địch quân cũng như giảm thiểu thiệt hại cho dân chúng. Khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Ðốc CSQG, ông có đem theo một số sĩ quan và hạ sĩ quan để cùng tiếp tay với ông điều hành công vụ và ông đã tỏ ra rất cứng rắn đối với những người này. Trường hợp Ðại Úy La Thành H. cùng quê và được ông coi như một người em đỡ đầu được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 10 nhưng có những hành động lợi dụng chức vụ, tức khắc bị ông áp dụng biện pháp trừng phạt và trả về quân đội, trong đó có luôn cả chánh văn phòng của ông. Khi một đại diện của Giám Sát Viện phàn nàn với ông về những bê bối trong ngành Cảnh Sát, ông trầm ngâm trả lời: Tôi biết, nhưng vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều mà phải kiên nhẫn tìm ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt thì mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đã gặp khá nhiều khó khăn, mình như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn mình làm những điều mình thấy cần phải làm. Tướng Hai là một quân nhân thuần túy, không biết hay nói cho đúng hơn là không bao giờ chịu luồn cúi. Khi mới nhận chức CHT/BÐQ và lúc đó uy quyền của Tân Sơn Nhất hay nói đúng hơn là Tướng Kỳ đang ở thế thượng phong nên có người đặt vấn đề là nếu ông muốn vững tiến thì cần phải tìm cách móc nối để lọt vào vòng ảnh hưởng, nhưng ông làm ngơ. Với ông, bè phái là một từ ngữ xa lạ. Theo tiết lộ của cụ Trần Văn Hương khi cụ được chỉ định làm Thủ Tướng thay thế Luật Sư Lộc, cụ đề nghị với Tổng Thống bổ nhiệm một tướng lãnh có khả năng chỉ huy chiến trường là Trung Tướng Ðỗ Cao Trí làm Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 và Ðại Tá Trần Văn Hai, một sĩ quan trong sạch làm Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát. Nhưng có lẽ đó cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nằm trong kế hoạch loại bỏ ảnh hưởng của ông Kỳ. Khi vừa nhận chức được ít lâu thì ông Bộ Trưởng Nội Vụ muốn đưa đàn em về coi Cảnh Sát Tư Pháp nên yêu cầu ông Hai cất chức Phụ Tá Tư Pháp là Luật Sư Ðinh Thành Châu, nhưng ông Hai thẳng thắn trả lời: Nếu ông Bộ Trưởng muốn thay xin cứ ban hành nghị định, tôi sẽ thi hành nhưng tôi không thấy LS Châu có lỗi lầm gì hết. Ðể dằn mặt và trả dũa về sự cứng đầu của ông, phụ phí cho Cảnh Sát đã bị cắt giảm quá một nửa, ông biết như vậy sẽ gặp rất nhiều trở ngại cho sự thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn làm những gì mà lương tâm ông nghĩ và coi đó là lẽ phải. Với thời gian hơn một năm làm TGÐ, ông Hai chỉ đến gặp Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng khi có lệnh hoặc vì công vụ phải đích thân trình bày, ngoài ra không bao giờ mon men cầu cạnh và chưa bao giờ người ta thấy ông mặc thường phục đi xe hơi mang số ẩn tế hoặc công xa lộng lẫy với xe hộ tống võ trang cùng mình chạy trước, chạy sau dẹp đường mà chỉ sử dụng chiếc xe jeep cũ của BÐQ mang theo với vài người cận vệ ngồi phía sau. Người ta cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy ông bị thay thế trở về Quân Ðội vì cụ Hương đã rời phủ Thủ Tướng và hơn thế nữa, các thế lực sẽ không thể chi phối các hoạt động của Cảnh Sát nếu còn để ông tiếp tục nắm giữ quyền điều khiển cơ quan này. Mùa hè đỏ lửa 72, Cộng quân đẩy mạnh các nỗ lực tấn công có tính cách trận địa chiến cắt đứt các trục giao thông chiến lược, đặc biệt là đoạn Quốc Lộ 14 nối liền hai thị xã Kontum Pleiku và Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 Quân Khu 2 cũng vừa mới nhận chức muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của ông cũng như tạo một tiếng vang nên ra lệnh cho lực lượng BÐQ phải hành quân giải tỏa đoạn Quốc Lộ nêu trên với sư tăng cường của một Chi Ðoàn Thiết Kỵ giao tiếp với một thành phần của Sư Ðoàn 23 nhưng liên tiếp bị chận đánh không tiến lên được như ý muốn của ông nên trong một buổi họp tham Mưu, Tướng Tư Lệnh đã trút giận dữ cho là BÐQ không chịu đánh, ra lệnh thay thế các cấp chỉ huy liên hệ bằng những sĩ quan khác đồng thời còn hướng về Tướng Hai lúc này đã được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn và nói: Biệt Ðộng Quân của anh đó. Bị miệt thị và nhất là tự ái binh chủng của ông nên ông đã thẳng thắn đáp lễ là ông sẽ đứng ra trực tiếp điều khiển cuộc hành quân và ngay sau chấm dứt ông sẽ rời khỏi Quân Ðoàn 2 vì ông không thể cộng tác với một ông Tư Lệnh làm việc tùy hứng... Hai ngày sau đó lực lượng Biệt Ðộng Quân giao tiếp được thành phần tiếp đón từ Kontum tiến ra, Tướng Tư Lệnh đã bay tới nơi với một phái đoàn báo chí để ngợi khen cái bắt tay có tính quyết định này. Tuy nhiên, để giữ lời hứa, Tướng Hai yêu cầu được rời Quân Ðoàn 2, sau đó về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, nơi mà trước đây ông đã phục vụ với tính cách một huấn luyện viên nhỏ bé; nhưng ông chưa ngồi ở chức vụ này được bao lâu thì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 nên ông Hai được bổ nhiệm thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trong chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7, một đại đơn vị nổi danh với những vị Tư Lệnh tiền nhiệm yêu nước, trong sạch gồm cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một đơn vị đã hoạt động một cách hữu hiệu trong nhiệm vụ chận đứng sự xâm nhập của các đơn vị Cộng quân trong mưu toan cắt đứt đường liên lạc tiếp tế từ miền Tây về thủ đô và đó cũng là đơn vị đã chứng kiến hành động khí phách phi thường nhất của ông với niềm tin sắt đá sớm muộn gì đất nước mình rồi sẽ có ngày sáng sủa. Cùng các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Tướng Hai đã ghi đậm một nét son cho trang cuối của quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày quân lực, xin đốt nén nhang cho những tang trung liệt, những người đời đời là nỗi tiếc thương và niềm hãnh diện cho Quân Dân Miền Nam, cho mọi thế hệ, cho mọi thời đại của giòng sử đấu tranh Việt. (tác giả Người Lính Già (Ða Hiệu))
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:36:24 GMT 9
8/ Thần tướng Lê Văn Hưng (1933 - 1975)Thần tướng Lê Văn Hưng Tướng Lê Văn Hưng: Từ Sư Ðoàn 21 Ðến Sư Ðoàn 5BB. SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN.Ông sinh ngày 27 tháng 3 năm 1933 tại Hốc Môn - Gia Định. Tuy ông mồ côi cha từ thuở nhỏ, nhưng ông vẫn được ăn học đàng hoàng. Sau khi tốt nghiệp tú tài 1 tại trường Huỳnh Khương Ninh, ông nghỉ học đi làm để phụ giúp gia đình. Năm 1954, ông nhập ngũ khóa 5 Vì Dân trường BBTĐ, năm sau ông ra trường với cấp bậc thiếu úy và về phục vụ tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà chúng ta luôn gọi với cái tên thân thương là Miền Tây. Ông đã từng nắm chức trung đội trưởng sau khi ra trường, rồi năm 1957 giữ chức đại đội trưởng với cấp bậc trung úy, năm 1957 ông làm Trưởng Ban 2 TrĐ 31/SĐ 21 BB. Đầu năm 1961 ông thuyên chuyển qua làm Trưởng ty cảnh sát Tỉnh Vĩnh Bình. Năm 1962 ông làm Quận Trưởng Quận Trà Ôn. Năm 1964, ông được thăng đại úy và về làm TĐP/TĐ 2/31, rồi cuối năm đó ông lên nắm chức TĐT. Năm sau ông được thăng đặc cách tại mặt trận thiếu tá. Năm 1966, ông được chỉ định làm TrĐT/TĐ 31. Rồi ông được thăng cấp trung tá năm 1967, đại tá năm 1968. Năm 1969, ông về làm Phụ Tá Hành Quân của Quân Đoàn IV. Năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Tĩnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Phong Dinh. Năm 1971, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh SĐ 5 BB, tháng 2 năm 1972 ông được thăng cấp chuẩn tướng. SĐ 5 BB, dưới quyền điều khiển của ông đã lập rất nhiều chiến công lớn. Đặc biệt là Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, SĐ 5 BB cùng với các Lực Lượng Tổng Trừ bị như Liên Đoàn BKD 81, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Liên Đoàn 3 BĐQ, Thiết Giáp, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Bình Long cùng một số đơn vị tăng phái khác đã giữ vững An Lộc trong gần 3 tháng, trước sự bao vây cô lập và tấn công dứt điểm của các Công Trường (cách Việt cộng gọi các SĐ của chúng để che mắt công luận quốc tế) 5, 7, 9 và Bình Long, cùng với TrĐ 203 chiến xa, TrĐ pháo 42 Đ, TrĐ 271 độc lập... Trước sức chiến đấu ngoan cường của người lính VNCH, bọn cộng nô xâm lược thất bại thảm hại, đành phải rút lui. Phải nói đây là chiến tích để đời của danh tướng Lê Văn Hưng. Tháng 9 cùng năm ông về Làm TLP/QĐ III kiêm chỉ huy Lực Lượng Xung Kích Phản Ứng Cấp Thời. Năm 1973 ông về làm TL SĐ 21 BB. Năm 1974, ông về làm TLP/ QĐ IV. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Ông đã tuẩn tiết vào ngay tối hôm đó ngay tại văn phòng làm việc bằng chính khẩu súng của ông. Sự ra đi của ông thật vô cùng đau sót và mất mát lớn lao cho toàn thể quân dân miền Nam, cho người lính VNCH và cho gia đình ông... ... Can qua sinh tử tựa hồng mao, Vó ngựa tung hoành thỏa chí trai. Quốc thổ điêu linh, anh hùng tận, Đoạn kiếm bên trời biệt chiến chinh... * Lược ghi về đời binh nghiệp của Tướng Lê Văn HưngTướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, mãn khóa vào tháng 1/1955. Sau ngày ra trường, ông đã có một thời gian dài chiến đấu tại chiến trường Miền Tây qua các chức vụ các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, Trung đoàn thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh (BB). Năm 1966, ở cấp Thiếu tá, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 31 BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong năm ngũ hổ U Minh Thượng (ngoài Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Hưng, 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 BÐQ; Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 BÐQ, Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/33BB; Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33BB). Năm 1968, ở cấp bậc Trung tá, Sĩ quan Lê Văn Hưng là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 BB. Ông đã chỉ huy Trung đoàn 31 BB lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang. Cũng trong thời gian chỉ huy trung đoàn 31BB, ông đã được thăng cấp đại tá. Giữa tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB khi còn mang cấp đại tá, hơn 9 tháng sau, ông được thăng cấp chuẩn tướng, tiếp tục giữ chức Tư lệnh Sư đoàn này đến ngày 3 tháng 9/1972, sau đó được cử giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3. Một năm sau, Tướng Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4 và đã tự sát vào tối ngày 30 tháng 4/1975 tại Cần Thơ. Tướng Lê Văn Hưng và Sư đoàn 5 BB tại Bình Long hè 1972: Trong suốt 20 năm chiến đấu trên chiến trường miền Ðông Nam phần, Sư đoàn 5 BB đã tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô, và đã lập nhiều chiến công lớn. Riêng trong cuộc chiến mùa Hè 1972, Sư đoàn 5 BB dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng, đã cùng với các đơn vị Nhảy Dù, Biệt động quân, Biệt cách Nhảy Dù và các đơn vị tăng viện giữ vững An Lộc. Trận chiến tại Bình Long đã bắt đầu vào ngày 4/4/1972 khi 1 trung đoàn CSBV tấn công một chi đội chiến xa tăng phái cho Trung đoàn 9 BB từ biên giới rút về tăng cường cho lực lượng phòng thủ Lộc Ninh. Ngày 5/4/1972, Cộng quân (CQ) bắt đầu tấn công vào bộ chỉ huy Chi khu Lộc Ninh và hậu cứ Trung đoàn 9 BB đặt trong quận lỵ. Ðịch đã mở đầu trận tấn công bằng trận địa pháo và sau đó tung bộ binh, thiết giáp tấn công cường tập. Lực lượng trú phòng đã chống trả quyết liệt. Vào trưa cùng ngày, CQ bị đẩy lùi khi cố đánh chiếm phi đạo. Ngày 6 tháng 4/1972, CQ mở đợt tấn công mới với sự yểm trợ của 1 tiểu đoàn chiến xa T54 với khoảng 30 chiếc. Pháo binh VNCH tại Lộc Ninh đã phải hạ nòng bắn trực xạ vào các chiến xa CSBV đang tiến tới, nhưng do áp lực quá nặng của CQ, thị trấn Lộc Ninh bị tràn ngập, một thành phần của đơn vị phòng thủ đã vượt thoát khỏi vòng vây của địch và về đến An Lộc. Sau khi trận tấn công của CQ vào Lộc Ninh diễn ra, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã khởi động kế hoạch bảo vệ An Lộc. Theo kế hoạch của Tướng Minh, bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 5 BB cho Tướng Lê Văn Hưng chỉ huy và 2 tiểu đoàn của Liên đoàn 3 BÐQ được trực thăng vận vào An Lộc. Cuộc chuyển quân hoàn tất vào ngày 5 tháng 4/1972. Ngày 7 tháng 4/1972, bộ Tổng tham mưu đã điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện cho Sư đoàn 5 BB. Sáng ngày 16 tháng 4/1972, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù được lệnh tiếp ứng cho mặt trận Bình Long. Về các đơn vị thuộc Sư đoàn 5 BB, ngày 11 và 12 tháng 4/1972, Trung đoàn 8 BB được trực thăng vận vào An Lộc. Trước đó, Sư đoàn 5 BB được bộ Tổng tham mưu tăng viện Trung đoàn 52 của Sư đoàn 18 BB. Trung đoàn này đóng ở khu vực cầu Cần Lê, sau cuộc tấn công của CQ vào các ngày 6 và 7 tháng 4/1972 đã bị thiệt hại nặng. Trung đoàn 7 BB và Trung đoàn 9 BB bị tổn thất trong các cuộc tấn công vào thượng tuần tháng 4/1972, đã được bổ sung quân số để cùng với các đơn vị bạn phối trí phòng thủ bảo vệ An Lộc. Sau hơn hai tháng tử chiến với CSBV, dưới quyền tổng chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng, Lực lượng VNCH đã giữ vững được An Lộc và sau đó đã khởi động các cuộc phản công giải tỏa áp lực địch ở các khu vực phụ cận thị xã tỉnh lỵ. Câu chuyện về Tướng Lê Văn Hưng tại mặt trận An Lộc: Trong hơn 2 tháng tổng chỉ huy lực lượng VNCH tại mặt trận An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng đã cùng với quân sĩ các cấp giữ vững phòng tuyến tỉnh lỵ Bình Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đã nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Giữa tháng 6/1972, một nhóm phóng viên từ Sài Gòn đã đến bộ tư lệnh Hành quân của Tướng Hưng. Qua tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến trường An Lộc, một phóng viên VTVN đã viết về tướng Hưng như sau: "Bước vào lối đi nhỏ hẹp, đó là con đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh mặt trận Bình Long. Căn hầm tù mù, 1 ngọn đèn duy nhất chừng 45 nến chỉ mang lại một chút ánh sáng vàng vọt, không đọc được bức thư. Sau này, chúng tôi (phóng viên) được biết Tướng Hưng chuẩn bị cho những ngày phong tỏa kéo dài, ông có ba máy phát điện riêng nhưng nhất quyết chỉ sử dụng một máy mà công suất chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và các máy liên lạc, còn thừa lại là ánh điện mờ trong hầm chỉ huy. Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng cho sự sống còn của Bình Long. Nếu không còn mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc thì An Lộc sẽ thất thủ tức khắc. Ngoài căn hầm trung tâm hành quân, Tướng Hưng còn lại một căn hầm nhỏ dành riêng cho ông và nơi này chỉ được thắp sáng khi cần, bằng pin với bóng đèn xe đạp. Tướng Hưng chỉ sử dụng 1 máy phát điện, hai máy còn lại phải phòng hờ cho trường hợp máy đang phát bị trúng đạn pháo kích. Hơn nữa mức dự trữ nhiên liệu chỉ đủ cho thời gian 1 tuần lễ. Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 có thả dù các phuy xăng nhưng trong 10 thùng khi chạm đất thì đã phát nổ đến 9 thùng. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lệnh đi mót xăng từ các xe cộ nằm rải rác trong thành phố. Nhiều người đã chết trong công tác tầm thường này, nhưng chính là sự hy sinh đầy ý nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc, trong hơn hai tháng trời khói lửa. Trong trung tâm Hành quân tù mù, Ðại úy Quí, sĩ quan báo chí Sư đoàn 5 BB, trình diện Tướng Hưng và giới thiệu từng người trong nhóm phóng viên. Tướng Hưng mặc áo thun xanh và có nụ cười hiền từ, ông bắt tay mọi người và khất hẹn đến sau phiên họp hành quân sẽ để phóng viên phỏng vấn. Căn hầm Tướng Hưng rất hẹp so với số người chen chúc làm việc, kích thước chỉ chừng 4 x 10 mét, tất cả bộ tham mưu của ông làm việc dưới này và không một ai có quân phục đàng hoàng, không mặc áo thun thì cũng mình trần. Vào buổi chiều, Tướng Hưng ra khỏi hầm để nhóm phóng viên thực hiện 1 “show” dã chiến, anh em nhận rõ khuôn mặt gầy gò rất có nét của ông. Ðiểm đặc biệt là làn da ông trắng xanh sau hơn hai tháng trời làm việc dưới hầm, tránh các trận pháo kích kinh hoàng mà có lúc đã lên tới 7,500 trái mỗi ngày. Trong cuộc phỏng vấn, Tướng Hưng thay vì nói về mình đã chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Tướng Hưng trở lại chiến trường miền Tây: Ðầu tháng 9/1972, Tướng Hưng được cử giữ chức Tư lệnh phó Quân khu 3, đặc trách chỉ huy lực lượng đặc nhiệm phản ứng cấp thời. Một năm sau, ông trở lại Sư đoàn 21 BB với chức vụ Tư lệnh Sư đoàn. Trong năm 1974, Tướng Hưng đã điều động các đơn vị trực thuộc mở những cuộc hành quân đánh bật CSBV tại chiến trường Hậu giang. Cuối tháng 10/1974, Tướng Hưng bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 BB cho Ðại tá Mạch Văn Trường, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 BB tại chiến trường An Lộc Hè 1972, để về Cần Thơ giữ chức Tư lệnh phó Quân đoàn 4. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày 30/4/1975 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối 30/4/1975. (Biên soạn dựa theo tài liệu của Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ TTM/QL.VNCH, bài viết của nhóm phóng viên chiến trường được phổ biến năm 1972, lời kể của phu nhân cố Thiếu tướng Lê Văn Hưng). AN LỘC ANH DŨNG, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng "An Lộc đã đứng vững suốt 3 tháng cam go, nhờ vào tinh thần chiến đấu kiên cường của toàn thể quân - dân anh hùng nơi thị xã nhỏ bé thân yêu của đất nước ." An Lộc 7/7/72 Chuẩn tướng Lê văn Hưng Thần tướng Lê Văn Hưng và Đại tá tư lịnh phó sư đoàn Nhảy Dù tại mặt trận An Lộc năm 1972 LỜI TỰA Một thông tín chiến tranh trẻ của Nga, Konstatine Simonoff từng chứng kiến chiến trận Stalingrad giữa lúc thành phố này bị công hãm đã viết lại rằng: "quả đất như lay chuyển dọc chiến tuyến dài 40 dậm kéo dài ngang thành phố Stalingrad . Đường phố Stalingrad tắt nghẽn . Phụ nữ, trẻ em không di tản được khỏi thành phố, đã phải trú ẩn trong những hầm hố đào sâu trong các lòng suối dẫn đến con sông Volga . Các oanh tạc cơ của Đức rơi chất đống trên thành phố ... Không một vật gì an toàn ở Stalingrad ... không có thời giờ để chôn người chết ... Các bộ chỉ huy trú phòng Stalingard được đặt sâu dưới lòng đất ..." Những ngôn từ diễn tả trận chiến Stalingard cách đây 30 năm bây giờ lại được người ta dùng để mô tả chiến trường An Lộc . Nếu bút mực, phim ảnh trong 30 năm qua vẫn chưa nói lên hết thảm trạng chiến tranh ở Stalingard, thì An Lộc ngày nay cũng vậy . An Lộc nhỏ bé, nhưng chiến thắng An Lộc quá vĩ đại . An Lộc điêu tàn nhưng chiến thắng An Lộc là một hào quang rực rỡ . Một chiến trận mà cả thế giới hướng về với những cảm phục và ngữơng mộ như An Lộc không thể diễn tả hết bằng vài trăm trang giấy một quyển sách nhỏ . Cả một đạo quân báo chí quốc tế đã chọn An Lộc làm mục tiêu chính . Tất cả đã ghi nhận lại bằng ngôn từ, bằng hình ảnh những gì về An Lộc với từng khía cạnh riêng rẽ của nó . Nhóm người trẻ từng theo dõi chiến cuộc An Lộc, từng đặt chân vào thị trấn nhỏ bé nhưng kiêu hùng này trong những ngày khói lửa, từng cảm kích trước sực chiến đấu và chịu đựng của quân dân An Lộc . Hôm nay ghi lại đây những điều thu thập được chỉ với ước vọng nhỏ phản ảnh phần nào sự chiến đấu kiên trì dũng cảm của toàn thể quân dân ta đang nỗ lực bảo vệ non sông, giữ từng tấc đất ... như Bình Long Anh Dũng, Komtum Kiêu Hùng và Trị Thiên Vùng Dậy . Trước những sự mầu nhiệm giúp An Lộc đứng vững, Tướng Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc đã viết cho chúng tôi rằng: "An Lộc đã đứng vững suốt 3 tháng cam go, nhờ vào tinh thần chiến đấu kiên cường của toàn thể quân - dân anh hùng nơi thị xã nhỏ bé thân yêu của đất nước . " Những dòng chữ của vị Tướng anh hùng nho nhã mở đầu cho quyển sách nhỏ này "An Lộc, Bình Long anh dũng" . VÀI NÉT VỀ AN LỘC Thành phố An Lộc trước cuộc chiến Thành phố An Lộc sau cuộc chiến An Lộc, tỉnh lỵ của Bình Long anh dũng, trước đây là một thị trấn nhỏ gọi là Hớn Quản thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Từ thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vì nhu cầu hành chính tỉnh Bình Long được thành lập gồm 3 quận Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh. Từ ngày đó, quận Hớn Quản đổi thành quận An Lộc và tỉnh lỵ An Lộc nằm trong quận cùng tên này, trong phạm vi xã Tân Lập Phú. Tỉnh Bình Long nằm sát biên thùy Kampuchea với một diện tích 2,240 (hai ngàn hai trăm bốn mươi) cây số vuông, gồm trên 76 ngàn dân. Riêng quận An Lộc gồm cả thành phố tỉnh lỵ rộng 740 cây số vuông với khoảng 44 ngàn dân, đa số tập trung vào xã Tân Lập Phú. Toàn tỉnh Bình Long, chung quanh tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút ngàn, vài ngọn đồi thoai thoải. Đồi Gió, Đồi 100, Đồi Đồng Long là những cứ điểm quân sự quan trọng bảo vệ thị trấn An Lộc. Quốc lộ 13 từ Sàigon đi ngược lên cắt đôi tỉnh Bình Long và xuyên ngang tỉnh lỵ An Lộc dẫn dài tới biên thùy Kampuchea, tới Snoul. Quốc lộ 13 phải vượt qua Lai Khê, Chơn Thành, Tàu Ô, Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch, Xa Cam rồi mới tới thành phố An Lộc. Quảng đường này đã trở thành chông gai trắc trở trong thời gian diễn tiến cuộc chiến An Lộc. Những chiến sĩ phải khắc phục quảng đường này từ Nam lên Bắc và những người dân chạy loạn từ Bắc xuống Nam đã mệnh danh hơn 20 cây số quốc lộ này là con đường máu 13. Điểm thứ nhất khiến Cộng Sản Bắc Việt nhắm vào An Lộc là vì tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchea nơi che dấu những căn cứ địa của CS Bắc Việt . Thị trấn này về mặt chiến lược còn nắm vai trò chủ yếu phòng thủ cho Bình Dương và sau đó là thủ đô Sàigon . Thế nhưng An Lộc chỉ là một thành phố nhỏ bé, nơi đặt cơ sở hành chánh điều hành tỉnh Bình Long. Điều quan trọng mà Cộng sản Bắc Việt đã gán cho An Lộc là yếu tố tinh thần. Khi chọn làm mục tiêu tấn công Cộng Sản Bắc Việt hy vọng đạt một chiến thắng đồng thời tạo một kinh hoàng, đe doạ thủ đô. Khi " họ quyết tâm" tấn công An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt cũng không ngờ đến rằng sẽ gặp phải một sức chiến đấu kiên trì anh dũng của quân dân tại thành phố thân yêu này . Sức chiến đấu không phải chỉ một người ca tụng, một dân tộc ca tụng mà cả thế giới ngưỡng mộ và cảm phục. TỪ LỘC NINH ĐẾN AN LỘC Giữa lúc dân chúng trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam tự do chưa hết bàng hoàng bởi cuộn sóng đỏ xâm lăng công khai vượt lằn ranh vĩ tuyến 17 tràn vào vùng cực Bắc VNCH, trong những ngày đầu thì một mũi dùi khác của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) bắt đầu thọc mạnh vào tỉnh Bình Long, với quân số 4 sư đoàn, mưu toan " dứt điểm " Bình Long, làm bàn đạp tiến về phía Nam, uy hiếp thủ đô Sài-gon, chỉ cách nơi đây có hơn 100 cây số. Rạng sáng ngày 5/4/72, vào lúc bình minh, Bộ Chỉ Huy hành quân của CSBV ban ra một mệnh lệnh khô khan: "Phải chiếm An Lộc trước ngày 20-4, nghĩa là phải đè nặng áp lực tối đa lên vùng hơn 100 cây số Bắc Sài-gon, để cầm chân một số lớn lực lượng nòng cốt của địch tại đây " Đoàn quân xâm lăng, được chuẩn bị từ lâu, gồm các sư đoàn Công Trường 5, CT 7, CT 9, CT Bình Long, cùng Trung đoàn 203 chiến xa từ vùng Lưới Câu của Kampuchea tràn qua, xuyên qua các rừng cao su dày đặc. Quân CSBV được pháo binh nặng loại bắn xa 130 ly và các loại súng phòng không cực kỳ tối tân yểm trợ. Tính ra, ít lắm cũng đến 40 ngàn quân CSBV tham dự mặt trận này. Trong trận đánh đầu tiên, Cộng sản Bắc Việt dồn toàn lực Công Trường 5 gồm 3 trung đoàn 174, 275, và Trung đoàn Biệt lập cùng trung đoàn Pháo E 6, quyết nuốt trọn Lộc Ninh, một quận nằm về phía Bắc An Lộc. Cộng quân gặp sự kháng cự mãnh liệt của chiến đoàn 9, gồm Trung đoàn 9 BB ( bộ binh) và 30 chiến xa thuộc Thiết đoàn 5, Biệt Động Quân Biên Phòng, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Lộc Ninh cùng phản ứng không kém phần ác liệt. Mặc dù quân số cán binh CS đông gấp 3; quân trú phòng vẫn cố chống trả . Nhiều trận đánh xáp lá cà diễn ra ngay bên trong quận lỵ . Trước chiến thuật thí quân của CS, quân trú phòng phải hạ nòng đại bác 105 trực xạ vào các đợt xung phong biển người của địch . Đánh vùi nhau suốt ngày không xong, Cộng quân dội trở ra, để rồi pháo kích liên miên bất tận vào các ổ kháng cự của quân trú phòng. Giữa lúc chiến trường Lộc Ninh vẫn diễn ra ác liệt, một cánh quân khác của Công trường 9, đơn vị được coi là thiện chiến nhất trong số 4 sư đoàn CSBV tham chiến Bình Long bất ngờ tấn công vào tỉnh lỵ An Lộc từ 3 giờ chiều ngày 6 tháng 4, nhằm chặn đường tiếp viện cho Lộc Ninh. Đoạn đường từ An Lộc đi Lộc Ninh bị gián đoạn hoàn toàn, chỉ có thể liên lạc bằng điện thoại . Tình hình hết sức nguy ngập. Trận thế của CSBV đã bắt đầu hình thành. Công trường 5 quyết lấy Lộc Ninh, rồi chọc thẳng mũi dùi theo quốc lộ 13 tiến xuống phía Nam, công hãm mặt Bắc An Lộc. Cả hai sư đoàn CT. 7 và CT. 9 cùng xuất phát từ vùng Lưỡi Câu Kampuchea, đánh ép vào mặt Tây An Lộc. Nhưng CT. 9 đánh thẳng vào An Lộc, còn CT. 7 thì giữ chặt quốc lộ 13 ở về phía Nam An Lộc, con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị trấn này. Một cánh quân khác do CT. Bình Long gồm chừng 2 trung đoàn địa phương tiến từ mạn Đông Bắc xỉa xuống. Bốn sư đoàn bộ chiến, chưa kể chiến xa pháo binh, đại bác phòng không, cùng chỉa mũi dùi vào một thị trấn không quá 4 cây số vuông . Nếu đem rải đều 40 ngàn quân trên diện tích 4 cây số vuông, thì lính CSBV tràn ngập An Lộc, mỗi người cách nhau 10 thước, ngang cũng như dọc, với đủ loại vũ khí tối tân . Lực lượng trú phòng chỉ có một sư đoàn 5 BB. Tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh Quân khu III, tức tốc bốc liên đoàn 3/BĐQ từ Tây Ninh về án ngữ phía Bắc An Lộc. Trong khi đó, tại Lộc Ninh, sau 3 ngày bị pháo, không được tiếp viện, quân trú phòng được lệnh di chuyển dần dần về phía Nam, để lùi về An Lộc. Toàn bộ 30 chiến xa của VNCH, một số bị phá hủy, một số đành bỏ lại. Trước áp lực mỗi ngày một mạnh từ mặt phía Bắc xuống, chiến đoàn 52 từ vùng cầu Cần Lê, 15 cây số Bắc An Lộc, cũng phải lui dần về An Lộc . Quân CSBV giăng sẵn một tuyến phục kích dài trên 3 cây số toan nuốt trôi tiểu đoàn 1/48 của chiến đoàn 52 vào ngày 7 tháng 4, nhưng tiểu đoàn này đã anh dũng chiến đấu, mở một đường máu chạy về An Lộc và chỉ thiệt hại nhẹ. Chính tiểu đoàn này đã gỡ thể diện cho Trung đoàn 52 BB. Chỉ trong vòng 3 ngày giao tranh, tại Lộc Ninh, đã có đến 2 ngàn 1 trăm 50 Cộng quân bị hạ sát, quân số của một trung đoàn . Về phía ta có 600 chiến sĩ hy sinh, cùng với 30 chiến xa và một pháo đội 105 ly bị mất . Kể từ đây, An Lộc bỏ mình trong vòng đai phòng thủ, không có lấy một chiến xa để đối đầu với chiến xa địch, có đến cả một trung đoàn hàng trăm chiếc. Tại mặt trận An Lộc, điểm đáng kể thứ hai nữa là quân trú phòng không có đại bác. Nguyên một tiểu đoàn pháo binh mang số 52 với 24 khẩu 105 ly cũng bị phá hủy gần hết chỉ còn một khẩu duy nhất. Trọn một pháo đội 6 khẩu của quân Dù thả xuống đồi Gío, 4 cây số Đông An Lộc, mấy ngày sau, cũng bị tiêu luôn. Tất cả đã chiến đấu với ý chí " hoặc còn sẽ sống trong tự do, hoặc chết cũng để cho con cháu được sống tự do ". Những người đang sống trong không khí tự do mà chưa hề bị đe doạ, không sợ bị mất đi, sẽ cho đây là một sáo ngữ đầy tính chất tuyên truyền. Nhưng đối với người dân Việt Nam, đã biết rõ mối đe doạ đó qua 27 năm khói lửa, kể từ năm 1945 đến năm 1972. Họ cũng đã có nhiều kinh nghiệm xương máu về điều gọi là chủ nghĩa cộng sản, nên họ đã chiến đấu, tận lực chiến đấu, dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Cuộc chiến tại Việt Nam hiện nay, năm 1972, đã chứng tỏ điều đó. Lời tuyên bố của Tướng Lê văn Hưng quyết tử thủ An Lộc, đã đưa vị Tướng một sao này lên hàng danh tướng và làm nức lòng chiến sĩ Bình Long TRẬN CHIẾN KHỞI ĐẦU Bản đồ An Lộc Trận chiến khốc liệt tại An Lộc, một tỉnh lỵ rộng không đầy 4 cây số vuông, nhưng mức độ tàn khốc của các cuộc giao tranh đã khiến cho nhiều ký giả quốc tế cho là gấp 10 lần Điện Biên Phủ thật sự khởi đầu ngày 7-4-1972. Tất cả các cánh quân của 4 sư đoàn CSBV đều dồn về An Lộc . Sư đoàn CT. 5 từ trên đánh xuống . CT. 9 và CT. Bình Long ép hai mặt Tây Đông. Sư đoàn CT.7 vừa chặn mặt Nam, lập chướng ngại trên quốc lộ 13 vừa tung quân tiến đánh các mục tiêu sát biên giới như Katum, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn để cầm chân sư đoàn 25 Bộ Binh đang trách nhiệm vòng đai Tây Ninh, chặn đường tiến của địch về Saigon theo ngã Quốc lộ 1. Quân trú phòng không "tăng" mà cũng không "pháo" phải đối đầu với một quân số gần gấp 4, có hàng trăm chiến xa và cả trung đoàn Pháo đủ loại . Toàn bộ Lữ đoàn 1 Nhẩy Dù, gồm 3 tiểu đoàn 5, 6, và 8 được gửi đến tăng viện. Toàn bộ sư đoàn 21 Bộ Binh, cùng trung đoàn 15 của Sư đoàn 9/BB từ vùng lầy miền Tây cũng được bốc lên Lai Khê. Tuy nhiên, kể từ đây, quãng đường Chơn Thành đi An Lộc đã bị tắt nghẽn. Các đơn vị tăng viện cố tiến từng bước một để đến gần đơn vị bạn tại An Lộc, nhưng mỗi bước tiến, không biết bao nhiêu chiến binh gục ngã, dù là bên này hay bên kia . Tiến lên không nổi, phải quay trở lại, để rồi tìm cách tiến lên. Gần trọn sư đoàn CT.7 của địch dồn nỗ lực chính vào tuyến phục kích dài 26 cây số từ Chơn Thành đến An Lộc. Suốt dọc quãng đường này, nơi nào cũng có thể là mục tiêu của pháo binh địch. Chúng rải quân dài dài dọc theo quốc lộ để sẵn sàng chỉ điểm toạ độ cho pháo binh từ xa bắn tới. Phi trường Lai Khê, vắng vẻ từ 3 tháng qua, kể từ khi các đơn vị Hoa Kỳ rút đi, bỗng nhiên tấp nập trở lại. Các chuyến bay nối đuôi nhau chuyển quân hoặc tiếp tế cho chiến trường . Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn ác liệt. Dần dần, lực lượng bên trong An Lộc đã có thể khởi lại thế công, dù phải hết sức chật vật. Mấy hôm trước, vòng bán kính bao vây thị trấn chỉ chừng 500 thước. Nhưng đến ngày 11-4, vòng đai kiểm soát được nới rộng thêm đến hơn ba cây số đường bán kính . Bên ngoài, lữ đoàn 1 Dù đã tiến khỏi Chơn Thành được 7 cây số về hướng Bắc, sau khi giải tỏa áp lực địch từ Lai Khê đến Chơn Thành. Sau một trận đụng độ ác liệt với địch quân tại vùng này, lữ đoàn 1 Dù giao lại trách nhiệm cho các đơn vị của sư đoàn 21/BB giữ an ninh trục lộ những đoạn đường đã được giải toả . Riêng trong ngày 11-4, 27 pháo đài B.52 trút gần 800 tấn bom xuống các vị trí địch. Có lẽ nhờ thế, buổi chiều hôm đó, mức độ pháo kích đã giảm sút rất nhiều . Sư đoàn 21/BB được tăng phái trung đoàn 15/9 và một tiểu đoàn Dù, có nhiệm vụ khai thông Quốc lộ 13 nhưng đây quả là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà mãi đến 8-6 mới hoàn thành nổi. TRẬN CHIẾN XA ĐẦU TIÊN Ngày 12-4, Bộ Tư Lệnh cao cấp của CSBV lại ra khẩu lệnh cho cán binh của họ: "Cán bộ và binh sĩ phải tấn công khắp mặt trận. Chắc chắn quân ta sẽ thắng ". Guồng máy tuyên truyền của CSBV được tổ chức ngay tại quận Lộc Ninh, rêu rao là An Lộc đã được giải phóng, nên ngày hôm sau 13-4, chiến xa của chúng mở nắp khơi khơi tiến vào thị xã An Lộc. Khi xe bị bắn cháy, những tên lính CSBV gục chết mà gương mặt vẫn còn hết sức ngỡ ngàng, như còn vương mắc: " Quân ta đã giải phóng An Lộc rồi kia mà ? " Mở màn cho trận đánh khốc liệt bằng chiến xa này, hồi rạng sáng, cộng quân từ mạn Bắc thành phố tiên chiếm phi trường L.19 và toàn thể kho nhiên liệu, đạn dược của Bình Long gần sân bay bị phát hoả bốc cháy dữ dội. Hàng ngàn quả đạn đại bác rơi vào An Lộc dọn đường . Đoàn chiến xa lù lù tiến vào. Nghe tiếng ì - ì của chiến xa từ phía Bắc thẳng vào thành phố, lính trung đoàn 8/BB hơi bỡ ngỡ , vì đây là lần đầu tiên họ trực diện với thiết giáp T-54 và PT.76 của CSBV. Đoàn chiến xa tiến theo đường Ngô Quyền, sát cạnh Bộ Chỉ Huy (BCH) của Đại Tá Mạch văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 8/BB. Mặc dù một vài trái pháo của ta làm chậm bước tiến, nhưng đoàn chiến xa địch vẫn bò tới. Chỉ còn cách BCH của ĐT. Trường 20 thước, đoàn chiến xa bị khựng lại bởi một loạt đạn M.72. Ba phát đầu bị hụt . Phát sau trúng đích, chiếc xe dẫn đầu bốc cháy, trườn tới mấy thước rồi ngừng hẳn. Mấy tên lính CS trong xe nhẩy ra, cháy nám, lăn lộn trên lề đường . Một loạt đạn M.16 giải thoát, hay nói theo đúng danh từ Cộng sản, " giải phóng " chúng khỏi cảnh đau đớn đó . Lên tinh thần, lính của Trung đoàn 8 chỉa mũi M.72 vào tất cả đoàn xe. Có tới 15 chiến xa địch bị bắn cháy sát cạnh BCH của Trung đoàn 8/BB. Đoàn chiến xa địch lùi lại để rồi tìm đường khác tiến vào. Tiếng súng vang rền trong phân nửa phía Bắc thị xã An Lộc . Trong lúc giao tranh ác liệt tiếp tục . Đại tá Trương hữu Đức , thiết đoàn trưởng thiết đoàn 5 đang ngồi trực thăng quan sát, bị trúng đạn tử thương . Một ngôi sao bạc được gắn trên quan tài phủ lá Quốc Kỳ, đánh dấu cấp bậc cuối cùng của một anh hùng thiết giáp . Tại Saigon, khoáng đại Thượng Nghị Viện đã ngưng lại một phiên họp thường lệ để dành hết thời gian ca ngợi và tri ân các chiến sĩ đang chiến đấu anh dũng trên khắp các mặt trận. Trở lại An Lộc, sau 30 giờ ác chiến đẫm máu bằng đủ mọi hình thức, xáp lá cà, cận chiến bằng lựu đạn, súng dài, súng ngắn thi nhau nổ, trong phân nửa thị xã phía Bắc, cuộc tấn công đợt I có chiến xa pháo binh hổ trợ của CSBV đã bị đẩy lui . Hai bên đều bị thiệt hại nặng, và kiệt lực, cần phải nghỉ ngơi chỉnh đốn lại ... Cuộc tấn công bằng chiến xa lần thứ hai, rồi thứ ba ... Ngày 14-4 đánh dấu một nỗ lực mới của Tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh Quân khu III. An Lộc bị xiết chặt trong vòng vây. An Lộc bị bó cứng trong mấy cây số vuông. Quân trú phòng không bung ra ngoài được để hoạt động. Số thương vong vì pháo kích mỗi ngày mỗi tăng. Cần phải tìm một lối thoát, lập một đầu cầu mở cửa ra vào An Lộc, nới rộng tầm hoạt động của quân trú phòng. Mặt Bắc, mặt Tây, mặt Nam đều bị bít kín. Chỉ còn mặt Đông Nam, với những ngọn đồi thoai thoải. Những ai phải lãnh nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm này ? Lữ đoàn 1 Nhẩy Dù dưới quyền Đại tá Lê Quang Lưỡng được Trung Tướng Minh chọn, vì quả thật không có đơn vị nào tại mặt trận này làm hơn được LĐ 1/ ND. Cuộc họp mặt tại căn cứ Lai Khê giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù, Trung Tướng Minh và Đại tá Lưỡng kết thúc mau chóng. Sau 5 vòng bay quan sát, Đại tá Lưỡng chọn ấy Srok Ton Cui làm bãi đáp, 4 cây số Đông An Lộc. Tiểu đoàn 6 Dù xuống trước dọn bãi đáp. Ngày hôm sau, 15-4, hai tiểu đoàn 5,8 và BCH Lữ đoàn xuống theo. Tiểu đoàn 6/ND ở lại đoạn hậu, trấn giữ Đồi Gió, để hai tiểu đoàn bạn chia làm hai cánh song song tiến vào An Lộc. Cũng trong thời gian này, nghĩa là vào sáng 15-4, CSBV lại ồ ạt tấn công đợt 2 vào mạn Bắc thị trấn. Một số chiến xa địch lọt được phòng tuyến phía Bắc, xuống đến nửa phía Nam thành phố. Một số lớn chiến xa địch lại bị phá hủy . Rút kinh nghiệm lần trước, quân trú phòng bắt đầu tranh nhau bắn chiến xa, không phải chỉ bằng M-72 mà bằng cả súng phóng hoả tiễn B.40 và B.41 tịch thu được của đối phương khi chúng xâm nhập thành phố. Chính trong những cuộc giao tranh này, cán binh CSBV để lộ rõ một khuyết điểm trầm trọng trong kỹ thuật tác chiến trong thành phố: thiếu phối hợp giữa bộ binh và chiến xa. Quân trú phòng ẩn nấp trên các cao ốc, trong các hầm trú ẩn, dưới các cống rãnh, tại bất cứ nơi nào kín đáo mà họ thuộc nằm lòng để chỉa tất cả họng súng đủ loại vào một mục tiêu quá lớn, và chỉ cách nhau trong vòng 10 thước. Quân tấn công, tất nhiên từ xa tới, dường như hoàn toàn lạc lõng giữa một thành phố xa lạ . Dù họ có được học tập kỹ càng đến mức nào đi nữa, trên mô hình, dù có thực tập đánh trên xa bàn hàng bao nhiêu lần đi nữa, thì họ cũng không thể nào biết rõ địa thế bằng chính người dân, binh sĩ đang sinh sống tại An Lộc. Đó là chưa kể một lỗi lầm trầm trọng trong chính sách tuyên truyền của CSBV là đã khiến cho binh sĩ của họ mang một tin tưởng quá lạc quan rằng An Lộc đã được giải phóng. Điều này chẳng khác nào họ đã dẫn dụ, lừa bịp binh sĩ của họ vào chỗ chết. Hơn thế nữa, nếu lúc ban đầu, đoàn chiến xa hùng hậu của CSBV có tác dụng làm phấn khởi tinh thần binh sĩ của họ, đồng thời làm suy giảm nhuệ khí quân trú phòng, thì trong thời gian sau, ảnh hưởng đó lại trái ngược. Trong đợt tấn công bằng xe tăng đầu tiên vào An Lộc, vài đoàn viên xe tăng Cộng sản Bắc Việt được cấp chỉ huy của chúng cho biết trước là An Lộc đã được giải phọng Cho nên lính Cộng sản Bắc Việt lừ lừ cho "tăng" tiến vào thành phố, mở rộng cả nắp pháo tháp ngắm cảnh "thị trấn giải phóng" và chờ đợi những tiếng hoan hô của " dân được giải phóng ". Cũng nhờ vậy mà chúng còn được dịp chạy thoát khỏi xe tăng. Trong các đợt tấn công sau đó, các chiến sĩ ta sau khi hạ được " tăng " địch đều khám phá rằng các đoàn viên tăng cộng sản Bắc Việt đều bị cấp chỉ huy của chúng xích chặt vào " tăng " luôn. Lúc đầu, chiến sĩ ta cứ tưởng là binh sĩ Cộng sản Bắc Việt can đảm cố thủ trong xe tăng ? Ngày 9/4/1972 tại Quảng Trị, tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến chỉ dùng vũ khí cá nhân M-72 hạ một loạt hàng chục chiến xa địch chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Chiến thắng đầu tay này được loan truyền mạnh mẽ trên hệ thống truyền thanh quốc gia. Cũng trên làn sóng này, kỹ thuật bắn chiến xa cũng được chính các Tướng lãnh giải thích tường tận. Binh sĩ VNCH, hầu như mỗi người đều có một máy thu thanh bỏ túi để nghe âm nhạc, và dường như tất cả đều chú ý nghe ngóng tin tức chiến sự tại các mặt trận khác. Họ biết được hiệu quả của vũ khí chống chiến xa, và các cấp chỉ huy mặt trận cũng không bỏ lỡ cơ hội huấn luyện thêm ngay tại chỗ, như trường hợp của Tướng Hưng, ngay sau trận tấn công bằng chiến xa đầu tiên của CSBV vào An Lộc. Kể từ khi hạ được chiến xa đầu tiên tại An Lộc, binh sĩ trú phòng lên tinh thần, và vững chãi chiến đấu với địch. Cùng lúc đó, tinh thần của binh sĩ CSBV phần lớn dựa vào chiến xa. Chiến xa bị cháy, bị bắn lật gọng nằm ngổn ngang trên đường phố, họ còn tinh thần đâu nữa để mà chiến đấu ? Bộ binh tùng thiết ( đi theo thiết giáp ) thấy chiến xa bị bắn cháy là mất tinh thần. Đây là một trong những yếu tố khiến cho An Lộc khỏi mất! Sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất của quân VNCH bên trong An Lộc, có thể nói mà không sợ sai lầm, đến 90 phần trăm do pháo kích. Cũng trong ngày 18/4, Tướng Nguyễn văn Minh dời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III lên Lai Khê để trực tiếp chỉ huy mặt trận Bình Long. Một lực lượng đặc nhiệm gồm 20 ngàn binh sĩ với Nhẩy Dù, Bộ Binh, Thiết kỵ được thành lập để giải toả quốc lộ 13. Cuộc đổ quân của lữ đoàn 1 Nhẩy Dù gây thiệt hại cho cả một tiểu đoàn trấn giữ Đồi Gió. Tiểu đoàn 6 Nhẩy Dù và một pháo đội 6 khẩu đại bác 105 ly bị thiệt hại nặng. ( Sau 18 năm thành lập, tiểu đoàn 6 Dù bị tan nát vào lúc 17 giờ ngày 21/4). Tuy nhiên, chính tiểu đoàn này, được bổ sung ngay tại chỗ, đã trả được mối hận đó, bằng cách đánh cú chót tuyệt kỹ, bắt tay với lực lượng bên trong An Lộc vào ngày 8/6, kết thúc giai đoạn 2 tháng vây hãm của chiếc rọ tử thần "An Lộc ". Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù, đang hoạt động bên trong phòng tuyến địch, cũng được bốc hết về An Lộc ngày 16-4, để tiêu diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thành phố sau hai cuộc tấn công vào thị xã. Lính Biệt Cách Dù được huấn luyện để đơn độc chiến đấu trong lòng địch, thuộc nằm lòng cách tách chiến thói quen và vũ khí của CSBV để có thể giả dạng quân " giải phóng ", nên kỹ thuật tác chiến cá nhân quá cao so với đặc công CS. Chính Biệt Cách Dù đã tỉa các đặc công CS cố bám vào dân, và nhờ đó, tránh một số thiệt hại đau thương cho số dân chúng còn kẹt lại bên trong thành phố. Sau khi quân Dù bắt tay được với quân trấn thủ, liền nới rộng vòng đai về phía Nam, Không Quân VNCH và Hoa Kỳ hoạt động dữ dội. Pháo đài B52 dội bom chỉ cách An Lộc 1 cây số về phía Bắc, tiêu diệt trọn một trung đoàn địch. Áp lực địch đã giảm bớt trong ngày 17-4. Các lực lượng CSBV bên trong thành phố, lớp bị tiêu diệt, phần bị đánh bật ra ngoài. Quân trú phòng có nới rộng vòng đai phòng thủ, đồng thời di chuyển được chừng 2.000 dân chúng ra khỏi An Lộc để chạy về Chơn Thành. Mặc dù kho đạn dã chiến tại Lai Khê bị pháo kích nổ dữ dội gây bối rối cho sư đoàn 5, và hành lang máu trên quốc lộ 13 vẫn còn bế tắc, nhưng đến đây, Tướng Nguyễn Văn Minh nhìn thấy được một tia hy vọng "Có thể giữ vững được An Lộc ". Trong cuộc họp báo tại Lai Khê sáng ngày 17-4, Tướng Minh tuyên bố " Giai đoạn khó khăn nhất đã qua. Chúng tôi hết sức thận trọng vì sợ kẹt dân. Chúng tôi không lạc quan quá trớn, và đang ghìm súng chờ đợi những đợt tấn công mới của đối phương ". Tướng Minh khỏi phải chờ đợi lâu . Ngay ngày hôm sau, 18-4, đợt tấn công chiến xa thứ ba đã đổ ập vào An Lộc, một chiến trường nặng ký gấp nhiều lần Điện Biên Phủ 18 năm trước, nhưng theo một nhà báo ngoại quốc, là " Gió đã đổi chiều cho Giáp ". Mà quả thật, gió đã đổi chiều tại đây. Quân trú phòng không vướng một mặc cảm chủ bại. Họ cùng một lòng chiến đấu, hy sinh cuộc sống của họ cho lẽ sống của cả 17 triệu dân miền Nam tự do, như lời Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh sư đoàn 5 BB, chỉ huy toàn bộ lực lượng trú phòng: "Ngày nào tôi còn, An Lộc còn". Thần tướng Lê Văn Hưng trong hầm chỉ huy mặt trận An Lộc 1972 Vị Tướng này tay cầm M.16, áo thun, quần đùi, lựu đạn quanh mình, hoạt động 24/24, hai tai liên tục nghe báo cáo, và điều động binh sĩ ở khắp nơi. Sư hiện diện của vị Tướng này ngay tại mặt trận là một trong những yếu tố quan trọng giữ vững An Lộc. Thêm nhiều chiến xa CSBV bị hạ gần Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng. B52 tiếp tục dội bom chung quanh. Không quân VN dồn dập yểm trợ và tiếp tế. Nhưng, trước một hàng rào phòng không dầy đặc đủ loại, từ đại bác 37 ly, B.40, B.41, hoả tiễn tầm nhiệt cầm tay SA.7 lố nhố trong rừng cao su bao vây An Lộc, dù anh em phi công có cố gắng đến mức tối đa, chịu nhiều tổn thất, cũng chỉ tiếp tế "nhỏ giọt" cho chiến trường. Phần lớn kiện hàng thả xuống, bay tạt ra ngoài hàng rào phòng thủ. Nguồn tiếp tế bị cản trở, quốc lộ 13 vẫn tắc nghẽn. Quân trú phòng bị bao vây trong hơn hai tháng trường như thế . Không khí ngột ngạt và căng thẳng đến độ một Trung Tá Trưởng Phòng 2 của sư đoàn 5BB phải thốt lên " Đây là chiến trường cô đơn, và mãi đến ngày thứ 60 của cuộc chiến, các cánh quân tiếp viện cũng chỉ le lói ở cuối đường số 13" Nếu đây là một đoàn quân không chiến đấu cho một chính nghĩa, không có một niềm tin vững chãi, và hình như, nếu không có một sự nhiệm mầu nào đó hổ trợ, chắc chắn họ đã thảm bại. Đợt tấn công thứ tư Hạn định lúc ban đầu của BCH cao cấp CSBV ban ra là ngày 20-4 phải dứt cho được An Lộc . Nhưng An Lộc vẫn còn vững. Tin tình báo cho hay, đúng ngày này, toàn bộ chỉ huy của Công Trường 5 CSBV bị thay thế, để chuẩn bị đợt tấn công mới. Nửa đêm về sáng 21-4, cộng quân pháo kích trên hai ngàn trái đạn đủ loại vào những địa điểm trú phòng của quân ta, rồi tấn công 4 mặt vào thị xã. Bốn mũi dùi chỉa vào 4 vùng cùng ở mặt Đông: a) 2 cây số ĐN An Lộc b) 3 cây số ĐN c) 1 cây số ĐĐN d) 5 cây số ĐN Là những nơi có quân VNCH trấn đóng. Tại mỗi nơi, cộng quân có 5 hoặc 6 chiến xa, với một tiểu đoàn BB tùng thiết ( đi theo thiết giáp) Đặc công CS hoạt động mạnh trở lại, ăn nhịp với các hoạt động bên ngoài. Tuy nhiên không hiểu vì do xếp đặt trước, hay thiếu sự phối hợp, các mũi dùi này không khai diễn đồng loạt, mà lại cách quãng nhau. Mũi thứ nhất khởi diễn hồi 4 giờ sáng, và nỗ lực sau cùng khởi diễn hồi 13 giờ chiều. Nhờ thế, quân trú phòng có thể yểm trợ cho nhau một phần hoả lực súng cối còn lại, và nhất là hoả lực của không quân . Có đến 17 phi vụ B.52 để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm ấy. Trong số đó có 3 "pass" yểm trợ cho tiểu đoàn 6 Dù rút khỏi Đồi Gió, 4 cây số, đông An Lộc. Nhưng rủi thay, tiểu đoàn này gặp phải hoả lực quá hùng hậu của địch quân hờm sẵn để tấn công mặt đông An Lộc đúng vào ngày này. Tiểu đoàn 6 Dù "tan hàng" - Nói theo kiểu nhà binh. (Xem Đồi Gió đổi tên, trang 37) Những đơn vị còn lại đều đẩy lui được các đợt tấn công của đối phương. Bắn hạ thêm nhiều chiến xa. Trong lòng nửa phía Bắc thành phố An Lộc, cuộc giao tranh giữa Biệt Cách Dù và đặc công Cộng sản tiếp tục với mức độ ác liệt, tạo thành những mảng da beo trên phần đất này. Hàng ngàn xác chết của cả bạn lẫn thù, của thường dân, của người lớn, của trẻ em la liệt trong thành phố. Đêm 22 rạng 23-4, CSBV tung thêm hai cánh quân, một đánh vào vùng trách nhiệm của tiểu đoàn 8 Dù ở cửa Nam An Lộc, và một chặn đánh trung đoàn 15 của sư đoàn 9/BB trên quốc lộ 13. Xe tăng Việt cộng bị bắn hạ trong An Lộc Cánh quân đánh tiểu đoàn 8 Dù có 2 chiếc T.54 và 2 chiếc BTR yểm trợ . Lúc này, quân trú phòng đã có các loại súng bắn chiến xa mới mang tên XM202 từ M.72 biến cải, có thể bắn liên tiếp bốn phát, với sức nóng 3 ngàn 600 độ Fahrenheit mỗi trái . Cả bốn chiếc đều bị cháy rụi, quân tùng thiết mất tinh thần bị đánh bật trở ra. Không những thế, tiểu đoàn trưởng TĐ 8 Dù còn gọi phi cơ C.130 có gắn đại bác 105 ly bắn theo sự hướng dẫn của ra-đa hạ luôn một đoàn xe 5 chiếc khác đang hướng về trung đoàn 15 BB. Sau đợt tấn công thứ tư bị thất bại, cộng quân chỉ còn nước pháo kích vào thành phố để trả hận. Tình hình An Lộc có phần dễ thở hơn, mặc dù vẫn dưới điệu nhạc ì ầm của Pháo binh cộng sản, hàng ngàn trái mỗi ngày. Trong khi đó, đoạn đường quốc lộ 13 Chơn Thành - An Lộc vần tiếp tục nhuộm thêm máu. Bên VNCH cố tiến lên. Quân CSBV cố sức giữ lại. Các cấp chỉ huy CS đã không ngần ngại xiềng chân binh sĩ của chúng vào các hố chiến đấu cá nhân nằm rải rác dọc quốc lộ 13 để làm những con chốt cản đương, và chỉ điểm cho pháo binh của chúng từ xa bắn tới. Thả dù tiếp viện cho An Lộc Ngày nào cũng có một số trực thăng bị rớt nhưng không có chiếc nào hạ cánh nổi xuống An Lộc. Các cuộc chuyển quân cấp đại đội của Nhẩy Dù đều bị đánh bật. Về sau phải di chuyển ở cấp tiểu đoàn. Mãi đến ngày 8-5, lực lượng giải tỏa quốc lộ 13 mới tiến thêm được 6 cây số nữa để chiếm làng Tàu Ô, nằm giữa Chơn Thành và An Lộc, sau 3 ngày giao tranh đẫm máu, gây thiệt hại nặng cho cả đôi bên. Quân CSBV đã xây những hầm chiến đấu hết sức vững chắc tại đây. Có nhiều đường hầm sâu đến 6 thước dưới lòng đất khiến phi cơ không thể nào phá nổi. Quân giải tỏa phải đánh cận chiến, đánh bằng lựu đạn, và chiếm cứ từng hầm hố, từng địa đạo, từng căn nhà, từng thước đất một. Hai trung đoàn của sư đoàn 21-BB được thả ở vùng Bắc Tàu Ô đánh thốc xuống, trong lúc một cánh quân khác đánh thốc từ phía Nam đánh lên. Trước khi chiếm làng này, lực lượng giải tỏa phải đối đầu với 4 tiểu đoàn CSBV, 2 tiểu đoàn Pháo và đặc công tăng cường, nằm đầy mạn Bắc làng Tàu Ô. Quân giải tỏa cố lập một phòng tuyến tại đây, tạo một đầu cầu trên đường tiến vào An Lộc. "PHÁO TẬP" DỌN ĐƯỜNG CHO TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH Đến giờ phút này, 10-5, cả ba mặt trận An Lộc, Kontum và Trị Thiên đều đang ở trong tình thế gay cấn. Bên kia Thái Bình Dương, Tổng Thống Nichard Nixon công bố những biện pháp mạnh đối với CSBV. Tại Sàigon, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tuyên bố " Tổ Quốc Lâm Nguy". Lệnh thiết quân luật được ban hành trên khắp lãnh thổ kể từ 0 giờ ngày 11-5. Chính vào giờ nay, Bộ chỉ huy cao cấp của CSBV tại mặt trận Bình Long muốn "dứt điểm" An Lộc, bắt sống tướng Lê văn Hưng. Kể từ trưa hôm trước, tất cả các khẩu pháo của Cộng quân đã bắn trái khói lai rai cầm chừng để điều chỉnh tọa độ những địa điểm mà chúng định sẵn sẽ tấn công. Đúng 12 giờ đêm, giờ khởi đầu của tình trạng thiết quân luật trên toàn lãnh thổ VNCH, cộng quân bắt đầu cuộc "pháo tập" khốc liệt nhất trong chiến tranh Đông Dương, vào An Lộc. Đến 4 giờ sáng, địch quân bắt đầu "chuyển pháo". Kinh nghiệm và khả năng tác chiến cao đã giúp cho binh sĩ trú phòng biết ngay địch muốn làm gì khi chuyển pháo đi nơi khác. Sau khi chịu đợt "tiền pháo", tất cả đều vọt ra khỏi hầm ghìm súng chờ đợi "hậu xung". Quả nhiên, ngay sau đó, chiến xa ì ì kéo tới. Từ 4 giờ sáng, cộng quân xỉa 3 mũi dùi từ hướng chính Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc với quân số mỗi cánh cấp trung đoàn có chiến xa dẫn đầu đánh ập xuống nữa thị xã phía trên. Ở ngã Đông Bắc, cộng quân đột nhập vào khu chợ Mới, sát phòng tuyến VNCH. Trận giao tranh tại đây càng lúc càng đẫm máu, kéo dài mãi đến 8 giờ 30 sáng. Mặt Bắc thành phố là mặt bị uy hiếp nặng nhất ngay từ đầu cuộc chiến. Các cánh quân CSBV ẩn phục trong đồn điền cao su Quản Lợi và từ quốc lộ 13 kéo xuống như vũ bão. Mặt chính Bắc và Tây Bắc, địch huy động một lực lượng hùng hậu có chiến xa dẫn đầu để tiến công. Chiến xa địch dẫn đầu đã chọc thủng phòng tuyến Tây Bắc của lực lượng trú phòng. Theo sau, là 2 trung đoàn bộ chiến. Tuy nhiên, tại đây, địch lại phạm một lỗi lầm lớn. Vì sợ hỏa tiễn chống chiến xa, nên đoàn xe tăng của địch phóng quá nhanh, quân bộ chiến theo không kịp. Chiến xa tách rời bộ binh, liền lập tức bị quân trú phòng dùng hỏa tiễn M.72, XM.202 và cả B.40, B.41 tịch thu được, hạ luôn một hơi 8 chiếc xe tăng; những chiếc còn lại hoảng sợ bỏ chạy. Tuy nhiên, quân bộ chiến của chúng tràn đến kịp dùng chiến thuật biển người áp đảo quân trú phòng. Dường như tiên đoán được cuộc tấn công qui mô quyết định này, Tướng Nguyễn văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III đã xin từ trước hỏa lực yểm trợ của B.52 dội vào khu vực phía Bắc. Mãi đến 10 tiếng đồng hồ sau, nghĩa là đúng lúc hai trung đoàn CSBV từ mạn Tây Bắc tràn vào thành phố liền bị hàng loạt bom B.52 thả trúng, cách bì thành phố chỉ 1 cây số. Riêng trong ngày này, Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã dành cho chiến trường An Lộc 20 phi vụ B.52 với 2 ngàn tấn bom đủ loại. Theo ước tính tại chỗ, có ít nhất một trung đoàn địch bị tiêu diệt. Cuộc tấn công lập tức bị chặn lại. Một cánh quân thứ tư, ước độ 1 trung đoàn, có 10 chiến xa dẫn đầu đánh thốc từ dưới lên lên, theo ngã Tây Nam vào lúc 6 giờ 30 sáng. Lực lượng trú phòng chống giữ mặt này chống trả mãnh liệt nên mũi dùi chính không thể tiến thêm được. Tuy nhiên, ở cả hai mặt Bắc lẫn Nam, một số đơn vị CSBV đã xâm nhập được vào thành phố và chia thành nhiều tổ chiến đấu nhỏ, gây hỗn loạn trong thành phố. Suốt ngày 12-5, quân trú phòng cố sức đánh cận chiến để trục các toán cộng sản ra ngoài. Mãi cho đến tối, chiến trường mới tạm lắng tiếng súng giao tranh, nhưng pháo binh địch lại nã liên hồi vào bên trong. Sau 4 giờ để pháo binh tác xạ, đồng thời xếp dặt lại đội ngũ. CSBV lại lợi dụng thời tiết xấu với những cơn mưa như trút tất công vào, từ 3 mặt Đông Bắc, Tây và Tây Nam. Như vậy, cộng quân đã liên tục tấn công vào sáu mặt chung quanh An Lộc trong 3 ngày liên tiếp. Mặc dù phải liên tiếp chiến đấu trong 3 ngày ròng rã, trong sự thiếu thốn cả lương thực lẫn đạn dược, nhưng với sự yểm trợ của Không Quân VNCH lẫn Hoa Kỳ của B.52 lẫn các phi cơ khu trục, trực thăng võ trang, phản lực... quân trú phòng vẫn cầm cự được, và lần hồi bẻ gẫy các mũi dùi tấn công, đánh bật cộng quân ra ngoài rìa thành phố. Trong 3 ngày giao tranh, có đến 600 binh sĩ của đôi bên chết ngổn ngang trên đường phố, chưa kể số tổn thất của CSBV vì B.52. Mùi tử khí đã bắt đầu xông lên nồng nặc vì không ai có thời giờ kịp chôn cất. Có chăng là các binh sĩ đồn trú để dành thì giờ nghỉ ngơi chôn cất bạn đồng đội, đánh dấu để sau này thân nhân có thể tìm ra. Đáng kể nhất là các chiến sĩ Biệt Cách Dù. Họ đã quen sống trong lòng địch, đơn độc nhiều ngày, nên An Lộc đối với họ cũng khá dễ chịu. Bởi thế, họ vẫn bình thản tạo dựng được một nghĩa địa khá tươm tất để chôn cất các bạn đồng đội không may ngã gục trên chiến trường. Nghĩa địa Biệt Cách nằm sát ngôi chợ Bình Long. Nghĩa Trang Biệt Cách Dù tại An Lộc "An Lộc địa, sử ghi chiến tích Biệt Cách Dù Vị Quốc vong thân." Hai câu thơ mộc mạc được tô đậm trên tấm mộ bia chung. Quân trú phòng tuy phải bị một phen xấc bấc xang bang, nhưng sau trận này, sau khi chịu đựng nổi cuộc tấn công quyết định mà CSBV dồn toàn lực vào quyết dứt điểm An Lộc, họ đã thoát được những giờ phút nguy hiểm nhất. Tuy nhiên, mối đe dọa vẫn còn, vẫn thường trực chờ ở bên mình. Bên nào cũng ngất ngư. Gần 40 ngày đã trôi qua. Lực lượng tấn công dù có chuẩn bị kỹ càng dến đâu, cũng khó lòng tích trữ một số lương thực và đạn dược cho một trận chiến quá lâu dài với một cường độ khốc liệt như vậy. Bom đạn hàng ngày tàn phá các vị trí tiếp liệu, đánh phá các đường tiếp tế. Vũ khí đạn dược mỗi ngày một hao mòn. Trên 50 chiến xa bị bắn cháy. Binh sĩ lớp chết, lớp bị thương phải lo di tản... Bao nhiêu sự khó khăn dồn dập trong lúc hậu phương lại quá xa. Một ngày qua là gánh nặng càng thêm chồng chất. Hàng ngày quân CSBV phải chia nhau đi lượm dù tiếp tế do phi cơ thả lạc ra ngoài. Quân trú phòng cũng chẳng hơn gì. Hàng trăm thương binh không được di tản từ 40 ngày qua. Họ nằm dài dài chung quanh các phi trường để mỏi mòn chờ đợi trực thăng. Nhưng sân bay nào cũng là mục tiêu chọn sẵn của pháo binh địch. Vừa thấy bóng dáng trực thăng thấp thoáng ở đâu là pháo được câu ngay đến đó. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài phi công trẻ tuổi gan lỳ cũng đáp xuống được, chuyển vào thêm một số binh sĩ. Biết bao thảm cảnh xẩy ra bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Vấn đề còn lại, ai chịu đựng giỏi, ai còn tinh thần chiến đấu, bên đó sẽ thắng. Bao ngày không được tắm rửa? Nước không đủ để uống lấy gì mà tắm giặt? Lò mò ra suối tìm nước là một việc làm mạo hiểm, vì không biết nó pháo lúc nào. Cơm sấy chỉ đủ ăn cầm hơi. Dù tiếp tế 10 cái, rơi ra ngoài hết 8. Suốt mấy tháng trời ăn ngủ dưới hầm, giấc ngủ chập chờn, ám ảnh. Xác chết ngổn ngang, thương binh oằn oại trước mắt. Nếu không phải là sống trong một tập thể chặt chẽ, nếu không tin tưởng vào một cái gì đó tốt đẹp hơn, chắc chắn khó có ai chịu đựng nổi mấy tháng trời liên tục như thế. TƯỚNG MINH ĐỔI CHIẾN THUẬT Càng nóng lòng tiến đến An Lộc, đoàn quân giải tỏa càng bị thiệt hại. Tướng Tư Lệnh mặt trận Nguyễn văn Minh đành thay đổi chiến thuật: đặt trọng tâm vào việc càn quét những đơn vị chung quanh An Lộc và dọc theo quốc lộ 13 trước đã, để dọn đường cho Bộ Binh tiến vào An Lộc. Toàn bộ sư đoàn 21 và các lực lượng tăng phái gồm trung đoàn 9, Biệt Động Quân Biên Phòng, Thiết giáp, Nhẩy Dù quyết thâu ngắn khoảng cách. Pháo đài bay B.52, phản lực cơ, khu trục cơ oanh tạc dữ dội dọn đường. Quân giải tỏa ào ạt tiến lên, vượt suối Tầu Ô, qua Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch. Đến trưa 16-5, đoàn quân này chỉ còn cách An Lộc có 3 cây số thì bị khựng lại. Các đơn vị của ta thi đua nhau tiến vào An Lộc. Tuy nhiên, cộng quân ẩn nấp trong đồn điền cao su Xa Cam, cửa ngõ tử thần đi vào An Lộc, với một địa thế vô cùng hiểm trở, sẵn sàng chặn đứng mọi cuộc tiến quân xuyên qua yết hầu này. Theo sự tiết lộ của các giới chức quân sự Quân Khu III, trung ương đảng CSBV đã chỉ thị các đơn vị CS tham chiến tại Bình Long phải cố gắng kéo dài trận chiến thêm 3 tháng nữa để phù hợp với tình hình và đem lại lợi thế cho họ trong một giải pháp chính trị trong tương lai. Trong tình thế, quân lực VNCH tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển thủ ra công, chuyển từ thế hạ phong sang thượng phong, để rồi giải tỏa được vòng vây lửa của 4 sư đoàn CSBV. Tướng Nguyễn văn Minh, khi tiếp xúc với báo chí tại Lai Khê ngày 31-5 đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông thừa nhận, CSBV đã đạt được lợi thế ngay từ đầu với quân số gấp 4 lần, và quân VNCH đã phải chấp nhận khá nhiều tổn thất. Tuy nhiên sau 54 ngày giao tranh, cộng quân đã thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn của chúng. Mưu đồ của CSBV mong tiến đánh thủ đô Sàigon đã hoàn toàn bị chặn đứng tại An Lộc. Điều ước muốn nhất của ông là sớm thoát khỏi cảnh tù túng, không khác một địa ngục trần gian. Cũng vào ngày cuối tháng 5, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay thị sát hai mặt trận Kontum và Thừa Thiên, hai mặt trận đều đang đắm chìm trong lửa đạn, đồng thời phát động chiến dịch 18 ngày thi đua diệt giặc mừng ngày Quân Lực 19-6. Chiến dịch đã thu đạt được kết quả mỹ mãn: giải tỏa Kontum, khắc phục quốc lộ 13, mở đường tiếp viện cho An Lộc, một tuần sau đó. Tải thương trên chiến trường An-Lộc Chiều 19-5, Tướng Nguyễn văn Minh đã đáp trực thăng đến BCH hai trung đoàn 15 và 33 để thảo luận kế hoạch giải quyết chiến trường Xa Cam. Giải quyết được khúc xương này, là giải tỏa được mặt trận An Lộc. Nhiều cuộc giao tranh ác liệt diễn ra chung quanh vùng này. Ngày 19-5 là ngày mà quân đội CSBV thường năm vẫn gây đổ máu khắp nơi để mừng sinh nhật Hồ chí Minh. Theo tin tức của một tù binh cao cấp CSBV bị bắt tại An Lộc, thì Bộ Tham Mưu cao cấp CSBV đã cử hành lễ này trước đó 3 ngày, để rồi cố gắng đánh một trận nữa vào An Lộc, may ra có thể khích động tinh thần cán binh lần chót quyết chiếm thị trấn này vào ngày 19-5, gọi là để mừng ngày sinh nhật "Bác Hồ", dù ông Hồ đã chết. Nhưng kế hoạch này bị bại lộ. Một toán Biệt Kích được tung vào vùng tình nghi, 16 cây số Tây Nam Bình Long. Nhận đúng tọa độ, toán Biệt Kích gọi về cho Bộ Chỉ Huy hành quân. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, 6 phi vụ B.52 liên tiếp dội bom xuống vùng này. Nguồn tin này cho hay, 80% nhân mạng chung quanh Bộ Tham Mưu này của CSBV bị chôn vùi trong hố bom. Nhờ cuộc không tập này, quân CSBV đã không thể mở nổi trận đánh vào ngày 19-5 như chúng đã dự định. Đến ngày 23-5, từ rạng sớm cho đến xế chiều, cộng quân lại mở liên tiếp 4 đợt tấn công bằng chiến xa vào các đơn vị VNCH tại các khu vực Nam và Tây Nam An Lộc cách thị trấn này từ 1 đến 5 cây số, nhưng đều bị đẩy lui. Kết thúc trận đánh này, có thêm 13 chiến xa CSBV bị hạ, 5 chiếc T.54 và 8 PT.76. Lực lượng giải tỏa vẫn chập chờn tại đồn điền Xa Cam. Quốc lộ 13 vẫn bị quấy rối bằng pháo, và các ổ phục kích. Hai trung đoàn Bộ Binh VNCH vẫn tiếp tục lục soát, tảo thanh chung quanh vòng đai phía Nam An Lộc. Qua máy truyền tin, các lực lượng tử thủ An Lộc biết được quân tiếp viện còn cách họ không bao xa. Cũng qua máy điện thoại siêu tần số, Tướng Lê văn Hưng cho các phóng viên biết rằng tinh thần binh sĩ của ông vẫn cao, vẫn sẵn sàng chiến đấu, và đã có thể ra khỏi hầm để tắm suối, sau 50 ngày "tắm khô" vì mực độ pháo kích của cộng quân đã giảm. Họ cũng đã quá quen với nhịp độ 1 ngàn trái mỗi ngày. Không quân chiến thuật yểm trợ quân VNCH tại vùng Nam An Lộc, trong lúc không quân chiến lược B.52 liên tiếp không tập vùng Bắc thị trấn, phá vỡ các kho vũ khí, đạn dược vừa được CSBV chuyển tới. Một tài liệu tối mật bắt được ngoài mặt trận cho thấy, Trung ương Cục R của cộng quân khẩn báo về trung ương Đảng Bộ CSBV sự thiệt hại nặng nề của các đơn vị cộng sản tham chiến tại An Lộc. Bản báo cáo này nêu rõ trường hợp điển hình là trung đoàn 209, sau một thời gian trấn giữ Bàu Bàng và Tàu Ô đã tan nát. Mỗi đại đội chỉ còn không đầy 30 lính, mỗi tiểu đoàn chỉ còn độ 90 so với quân số lúc đầu là 350 người. Cục R cũng than phiền khả năng chiến đấu của sư đoàn Bình Long quá yếu kém, vì phân nửa sư đoàn này là lính Khmer đỏ, tỏ ra hoảng hốt mỗi khi nghe tiếng phi cơ dội bom. Theo sự tiết lộ của các giới chức quân sự Quân Khu III, trung ương đảng CSBV đã chỉ thị các đơn vị CS tham chiến tại Bình Long phải cố gắng kéo dài trận chiến thêm 3 tháng nữa để phù hợp với tình hình và đem lại lợi thế cho họ trong một giải pháp chính trị trong tương lai. Trong tình thế, quân lực VNCH tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển thủ ra công, chuyển từ thế hạ phong sang thượng phong, để rồi giải tỏa được vòng vây lửa của 4 sư đoàn CSBV. Quang cảnh đổ nát trong thành phố An Lộc Thị Trấn An Lộc Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 Tướng Nguyễn văn Minh, khi tiếp xúc với báo chí tại Lai Khê ngày 31-5 đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông thừa nhận, CSBV đã đạt được lợi thế ngay từ đầu với quân số gấp 4 lần, và quân VNCH đã phải chấp nhận khá nhiều tổn thất. Tuy nhiên sau 54 ngày giao tranh, cộng quân đã thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn của chúng. Mưu đồ của CSBV mong tiến đánh thủ đo Sàigon đã hoàn toàn bị chặn đứng tại An Lộc. Điều ước muốn nhất của ông là sớm thoát khỏi cảnh tù túng, không khác một địa ngục trần gian. Cũng vào ngày cuối tháng 5, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay thị sát hai mặt trận Kontum và Thừa Thiên, hai mặt trận đều đang đắm chìm trong lửa đạn, đồng thời phát động chiến dịch 18 ngày thi đua diệt giặc mừng ngày Quân Lực 19-6. Chiến dịch đã thu đạt được kết quả mỹ mãn: giải tỏa Kontum, khắc phục quốc lộ 13, mở đường tiếp viện cho An Lộc, một tuần sau đó. Chuẩn Tướng Hưng và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại An Lộc 1972 ( bên trái tướng Hưng là Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh QLVNCH ) Tướng Lê Văn Hưng dưới mắt một sử gia Mỹ Dale Andrade (Trial By Fire) - Nguyễn Văn Tín dịch Tướng Hưng xuất thân từ một gia đình khá giả có đầy đủ địa vị trong xã hội để trở thành chỉ huy trưởng trong Quân Lực Việt Nam, và ông ghét các quân nhân Mỹ thích lấn át và muốn buộc người khác phải đánh giặc theo lề lối của họ. Thái độ đố kỵ này ảnh hưởng tới mối giấy liên hệ giữa ông và các sĩ quan Mỹ từ đầu năm 1960, và khiến ông mang tiếng "bài Mỹ". Trước khi nắm Sư Ðoàn 5 năm 1971 theo sự tiến cử của một người bạn và người đỡ đầu, Tướng Minh, Tướng Hưng là một tỉnh trưởng của một tỉnh ở vùng Ðồng Bằng sông Cửu Long. Ông tới Quân Ðoàn 3 với tư cách một thành viên của một phe nhóm sĩ quan, mang tên "Băng Miền Tây", được đem từ Ðồng Bằng sông Cửu Long lên để phục dịch quanh Tướng Minh như những tay sai trung tín. Ông tầm vóc khá cao so với người Việt Nam khác, khoảng 5 feet 6. Kể ngay cả những ngày đen tối trước khi xảy ra cuộc vây hãm An Lộc, ông luôn quần áo tươm tất, huy hiệu bóng láng. Sau này ông trở về Quân Ðoàn 4 với chức Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn. Khi Miền Nam thất thủ vào Mùa Xuân năm 1975, Tướng Lê Văn Hưng và vị chỉ huy của ông thà tự sát hơn là đầu hàng Cộng Sản. Với tư cách là cố vấn trưởng sư đoàn, Ðại Tá William Miller hiểu biết Tướng Hưng hơn bất cứ người Mỹ nào. Nhưng chính ông Miller không hiểu được Tướng Hưng cách trọn vẹn. Khi ông mới tới Sư Ðoàn 5 vào Mùa Hè năm 1972, ông trình cho TRAC (Bộ Chỉ Huy Hỗ Trợ Vùng 3) là "Tướng Hưng phô bày những đức tính của một lãnh đạo kiệt xuất, xông xáo, ngăn nắp, và quyết liệt. Ông có vẻ hiểu biết rộng, đầy tự tin và mau chóng chiếm được lòng tin cậy của thuộc cấp." Hoặc là ông Miller không thật với cấp trên hoặc là ông đã phán đoán hết sức sai lầm. Ðến khi trận chiến tại Quân Ðoàn 3 gần kề thì sự nhận xét của ông về Tướng Hưng có phần sắc bén hơn. Một mặt thì Tư Lệnh của Sư Ðoàn cũng giống như những sĩ quan Việt Nam khác mà ông đã làm việc chung trong những nhiệm kỳ trước. Họ dùng cố vấn Mỹ để tiếp nhận được đạn dược và tiếp liệu chứa trong kho tiếp vận giàu có của Mỹ. Nhưng mặt khác, Tướng Hưng thì làm cao hơn các người khác. Tuy ông kính trọng ông Miller, nhưng ông không mấy khi hỏi ý kiến hay thông báo quyết định chiến thuật của mình. Tướng Hưng không hèn nhát. Nhưng cũng như các các sĩ quan cao cấp Việt Nam khác, ông không muốn phải lấy những quyết định khó khăn. Nếu được ông thà ngồi đợi và ngó chừng, hy vọng là tình trạng đen tối sẽ tự tan biến đi. Thiếu tướng Lê Văn Hưng Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói: "Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ." Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào. Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đày yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không ? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử. Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau: "Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì." Họ còn hỏi nhau: "Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?" Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi: "Quân không Tướng chỉ huy thì sao?" Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: "Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng." Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi: "Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?" Lại có người nghiêm khắc trách tôi: "Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?" Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét "theo tầm hiểu biết của họ". Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì...những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng "buông súng" rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao? Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: "Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: "Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm." Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi. Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Còn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính lúc "kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất." Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định: "Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng." Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi "ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên đâng nước Việt Nam cho Cộng Sản." Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng. Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật oà khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đã không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy. Trong khi Sài Gòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng. Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ. Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này. Tìm kiếm Đại Tá anh ninh, người mà đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi : "Có đồng ý đem con lánh nạn không?" Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi: "Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?" Tôi đáp: "Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản." Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ơ nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều ngày 30 tháng 4, khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu: "Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường..." Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: "Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng." Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: "Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan Đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đã nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh." Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: "Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào." Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời lêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt. Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: "Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: "Em phải sống ở lại nuôi con." Tôi hoảng hốt: "Kìa mình, sao mình đổi ý?" "Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con." "Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc." "Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta." "Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?" Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: "Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?" Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: "Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế." Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: "Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không gao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào." Tôi phát run lên hỏi: "Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?" Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: "Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình." Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: "Vâng, em xin nghe lời mình." Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục: "Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi." "Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?" Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi: "Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh." Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng.Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: "Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó." Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: "Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên." Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống. Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: "Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh." Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: "Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả." Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: "Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết." Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: "Nghĩa trở lại với tôi." Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: "Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?" Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: "Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!" Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: "Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!" Tôi bảo Giêng: "Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng." Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc dộng, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi. Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: "Alô, Alô, ai đây?" "Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây." Tôi bàng hoàng: "Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?" Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: "Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút." Tôi lúng túng vài giây: "Ông đang điều động quân ngoài kia." "Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?" "Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé." Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi: "Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?" Nghĩa lúng túng: "Cô nói Thiếu Tướng chết rồi." "Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng." Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: "Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?" "Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?" "Cẩn vui lòng chờ chút." Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: "Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?" Cẩn đáp thật nhanh; "Lúc nào cũng sẵn sang, chớ chị!" "Tốt lắm, vậy thì y lịnh." "Dạ, cám ơn chị." Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: "Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!" Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đây, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!" Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?" Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện. Mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam: "Alô, chị Hưng!" Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng: "Thưa Thiếu Tướng..." Giọng Tướng Nam buồn bã u uất: "Tôi biết rồi, chị Hưng. tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng." tôi vẫn nức nở: "Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?" "Hưng đã nói với chị nghe hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá...thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình." Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi: "Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?" "Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng đã vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?" "Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì...Đàng chị thế nào?" "Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản. "Còn mấy chú đâu hết?" "Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng." "Chị tẩm liệm Hưng chưa?" "Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới." "Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên." "Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?" Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên: "Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót." Người chép miệng thở dài: "Thôi chị Hưng ơi." Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi: "Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước." Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi: "Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới." "Dạ, cám ơn Thiếu Tướng." Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. — dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gío thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế. Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam. Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện: Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ. Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên. Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho lúc đến chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người. Chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại. Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản? Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: "Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống? Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sâu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc. (tác giả Bà Lê Văn Hưng nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:39:33 GMT 9
8/ Thần tướng Lê Văn Hưng (1933 - 1975)NỤ HÔN VĨNH BIỆT ! Phạm Trung Nghĩa Ông nguyên là Trung Úy, Sĩ Quan Tùy Viên của cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng Lúc đó khoảng 8 giờ 30 tối ngày 30-4-1975. Bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng. Bên trong phòng ngủ của Chuẩn Tướng, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, sau nụ hôn vĩnh biệt của phu nhân vừa kịp đặt lên má chồng, ông Tướng đã vội vã đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, thấy tôi còn đứng lại trong phòng, giọng ông thảng thốt: - Nghĩa! Mày đi ra. Vừa nói, ông vừa nắm tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo: - Tôi ở lại cùng Thiếu Tướng. Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hàng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi. Cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự cọ xát ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi cảm giác mình như là thỏi sắt bị hút ra khỏi cục nam châm. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt òa khóc! Đứng bên ngoài, tôi và phu nhân nghe tiếng rít gài then khô khốc từ bên trong. Bất giác, tôi và bà Tướng mọp người xuống nền gạch, cố đưa mắt nhìn vào khe hở dưới cửa. Mọi sự diễn ra không đầy một phút sau đó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên bên trong cánh cửa. Tôi hoảng hốt ngưng khóc, đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn chuyện gì đã xảy ra rồi. Trong phòng không còn tiếng động nào. Tôi đưa tay thử lay động cánh cửa. Vô hiệu! Tôi lùi lại nhìn xuống phía chân cầu thang kêu lớn khi thấy có 3-4 cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên: - Kiếm một con dao... Cạy cửa mau! Người tài xế tên Giêng cầm con dao to, nhọn, chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cùng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông đang ngửa người, nửa thân trên nằm trên tấm nệm trải drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong. Cả phần chân Chuẩn Tướng buông thõng bên ngoài, 2 gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa nòng Colt 45 ấn vào chỗ trái tim. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng ngay ngắn lại trên giường, gương mặt ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi, miệng há, đôi mắt chưa khép, biểu lộ sự đau đớn cực độ. Vừa đặt đầu ông lên gối, bà Tướng vuốt mắt cho chồng. Chuẩn Tướng đã yên nghỉ! Viên đạn oan nghiệt đã xuyên thật chính xác qua quả tim người anh hùng. Thật sự tôi chỉ biết rõ quãng đời của Chuẩn Tướng, vào thời điểm Cần Thơ, thủ phủ miền Tây, thật sự đã vô chủ. Cần Thơ gần như chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4. Mười giờ đêm, lúc tôi đang mơ màng, điện thoại từ TOC Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn III, từ Sài Gòn bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được. Tôi thức luôn tới sáng vì điện thoại đến liên tục. Khoảng 12 giờ khuya, nghe có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng giòng người cuồn cuộn tuôn trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễn hành náo loạn như đang giữa ban ngày. Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng mới biết đó là đoàn người kéo nhau ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân ra đi... Tôi ngỡ ngàng: “Như vậy là Phó Đề Đốc TL/HQ/V4SN tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư?” (Các lực lượng Không Quân, Hải Quân, Lực Lượng Đặc Nhiệm ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/QĐ IV). Trong làn sóng người lục tục kéo đi bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng TMT/QĐIV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá trưởng toán trực TOC hỏi ông có biết vụ này không, rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi, và bảo tôi gọi Đại Tá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ để ông nói chuyện. Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ này giá có Phúc thì hết chê. Phúc khỏe mạnh, tháo vát, giỏi giắn nhưng anh đang kẹt lại Sài Gòn sau một chuyến “quá giang” trực thăng về Sài Gòn, ngày trở lại đơn vị bằng đường bộ, quốc lộ Sài Gòn - Long An bị Cộng Quân cắt đứt với trận chiến dằng dai nhiều ngày, chưa khai thông được. ...Vào 7 giờ 30 sáng ngày 30-4, tại phòng họp Bộ Tư Lệnh như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình tình hình trong đêm vừa qua trước 2 vị tướng Tư Lệnh và các quan chức. Lần này có vẻ nghiêm trọng về việc lực lượng Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi bỏ đi. Lúc 9 giờ 30, hai vị Tướng Lãnh gặp nhau trong phòng làm việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đang chỉ huy cuộc giải tỏa Quốc Lộ 4 tại Long An, nói ông khẩn dùng trực thăng bay về bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Trên đường bay, Tướng Lạc không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn nên đành phải quay về. Chuẩn Tướng lại lệnh cho tôi gọi về Bộ TTM để ông gặp tướng Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tùy phái cho biết: - TTM hiện không còn ai. Các Tướng Tá Sĩ Quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ. Tôi hiểu liền các vị có mặt tại đó để làm gì. Bộ TTM cũng đã lặng lẽ đóng cửa! Và như vậy, có nghĩa là riêng QĐ IV phải tự lo liệu lấy. Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê buốt chạy dọc thân thể: “Đất nước thật sự đã mất rồi!” Tôi bước vào phòng trình tự sự lên hai vị Tướng. Tôi thấy mặt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống rồi gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, một nhân viên văn phòng trao chiếc radio và cho biết đài phát thanh Sài Gòn thông báo dân chúng đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi quay trở vào phòng trình Chuẩn Tướng. Lúc này Thiếu Tướng Nam đã trở về phòng ông. Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về tòa nhà Tư Lệnh. Tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, định sang trình 2 vị Tướng. Gặp Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi vừa trao tờ giấy vừa nói vắn tắt: - Tổng Thống Minh đã đầu hàng! Chuẩn Tướng quày quả đẩy cửa vào phòng Tư Lệnh. Khoảng 15 phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để ông nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là khẩu lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn thể Vùng IV kể từ giờ phút này. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn. Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho Tư Lệnh 3 Sư Đoàn 7, 9 và 21. Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng trách nhiệm sinh tử Vùng 4 lúc này muốn ngăn trở những hỗn loạn có thể xảy ra trong cảnh tối tăm. Ban hành thiết quân luật, Vùng IV đang có vẻ chuẩn bị đối phó với tình tình hơn là treo cờ hàng. Ngay sau khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán được dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội, cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà, vẻ mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố như chuẩn bị đón cơn mưa lớn. Sau bức thông điệp đầu hàng của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Chúng tôi không biết gì về tình hình Thủ Đô. Tuy nhiên cho đến trưa, tình hình Cần Thơ và 16 tỉnh lỵ vẫn yên tĩnh, chưa có bóng dáng một nhóm Cộng Quân nào vào các Thị Xã. Các tiểu khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Buổi cơm trưa thật lạnh lẽo, tôi nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục kể cả giày, ngả lưng trên giường. Tôi biết, kể từ giờ phút này, biến cố sẽ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Buổi sáng, tôi đã tự ý gọi đại đội trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu cho đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Ford Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. 13 giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Tư Lệnh Phó độ 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Tướng và hai con rời cổng dinh. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng. Có tiếng ồn ào phía Phòng 2 Quân Đoàn: Một núi giấy tờ đang được đốt cháy. Có lẽ các hồ sơ quan trọng được thiêu hủy? Tôi không rõ Đại Tá Trưởng Phòng còn đó không, và việc thiêu hủy giấy tờ do lệnh của ai? Tôi cũng không rõ giờ phút này còn có đủ các Trưởng Phòng không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến vị Trưởng Phòng nào, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3! Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở. 14 giờ 30, Chuẩn Tướng trở về tư dinh. Ông bước lên bực thềm, nhưng không bước vào trong như mọi khi, mà đứng tại hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảnh sân phía trước. Bất chợt, ông quay lại hỏi tôi: - Cô đi đâu? - Thưa, cô đến nhà thờ xin lễ. Vừa lúc đó, cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào. Tôi thở nhẹ nhõm. Gương mặt ông thoáng rạng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh. 16 giờ, Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây là lần hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh này. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, ông ra hiệu dừng lại và bước xuống xe xem coi chuyện gì xảy ra phía trước. Bên kia đường, đối diện với vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên, kẻ quần tây, người quần đùi ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Đây là những thanh niên vừa thoát từ Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Đến ngã tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, ông ra hiệu dừng xe, bước xuống, đứng ngó bao quát. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố như thoi thóp, im lỉm. Bỗng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một xe Jeep đang theo Đại Lộ Hòa Bình lao nhanh về phía chúng tôi. Chiếc Jeep dừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng, người ngồi trên xe là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tướng Trường xuống xe trình Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu, cộng với tình hình trước mặt, tôi đoán chắc Bộ Tư Lệnh của ông hiện đang tan rã. Chuẩn Tướng bảo Tướng Trường theo ông về dinh. Tại phòng khách, hai vị ngồi yên trên ghế bành, ông bảo Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành ra lệnh cho 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M-113 đang ở vùng Quận Lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến phà chuyển lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên chở đoàn thiết vận xa vượt sông. Ra lệnh xong, ông đứng lên, vào phòng rửa mặt trong lúc Tướng Trường vội vã ra xe đến dinh Tiểu Khu Trưởng. Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, trên bàn có hai máy điện thoại: một tự động và một qua tổng đài viên. Tối nay tôi tăng cường thêm một máy PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ21 và Thiết Đoàn 9 để liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 17 giờ, vì tôi gọi không nghe có tiếng tổng đài viên trả lời. Còn máy tự động dường như bị cắt. Lúc này Thiếu Tá Trịnh Đức Phương, nguyên Chánh Văn Phòng, cũng từ dưới phòng anh bước lên đứng phía trái Chuẩn Tướng. Cả ba chúng tôi im lặng, hồi hộp nhìn vào phía màn hình TV vẫn sáng trong, im ỉm. Phái đoàn hai bên rời BTL/QĐ đã gần hai tiếng đồng hồ và chính lúc này là giờ qui định phát thanh. Có tiếng nói vọng ra từ TV, tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QĐ và đọc văn bản thông cáo “BTL đã đầu hàng. Các đơn vị phải buông trao vũ khí...” Bản văn vắn tắt nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi đều chết điếng. Đây không phải là bản văn được hai bên thỏa thuận ký kết. Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyền máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi, đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông Thành dùng M113 lái đến dinh để đi cùng ông đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi lùi một bước về phía cửa, ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Tôi trở lại chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trong loa khuếch đại. Lời lẽ vẫn lễ độ, nhưng rõ ràng đó là lời từ chối thi hành lệnh. Thật khó đoan chắc có lực lượng đáng kể nào của Cộng Quân đã có mặt ở thị xã hay Bộ Tư Lệnh chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc chắn sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc này. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động này, tuy lòng có lo âu, sợ hãi, nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ của ông, tôi khâm phục ông xiết bao! Sau bản thông điệp của Tổng Thống Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt với các đơn vị cộng quân rồi bỗng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương? Đang miên man suy nghĩ, tôi giật mình khi điện thoại reo vang. Nhấc ống nghe lên, tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Ông trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, TMP/CTCT/QĐ đại diện cùng đi với phe Cộng Quân. Vì sao bản văn chung bị tráo và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao chỉ duy nhất Đại Tá Sáu biết mà thôi. Tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng chuyện ông tính đến đài phát thanh mà không thành. Cuộc điện đàm giữa hai vị Tướng kết thúc. Lần đầu tiên tôi nhận ra vẻ tuyệt vọng trên khuôn mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín mà ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc. Ông đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Thượng Sĩ Trưởng Toán tiểu đội bảo vệ dinh Tư Lệnh Phó tập hợp quân thành hai hàng bên hông dinh. Ông cám ơn họ đã ở bên ông đến giờ phút cuối cùng và bảo anh em bây giờ ai muốn rời dinh cứ tùy ý... Bỗng có tiếng người lính gác trên cao báo động có xe Cộng Quân đến. Lập tức ông chạy vào trong nhà. Tôi hô toán cận vệ vào vị trí rồi xách máy PRC 25 theo ông lên lầu. Ông vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn, nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc này tôi mới nhận ra đường phố đang tối thui. Trong bóng đêm, hai vệt sáng rực phát ra từ hai đèn pha chiếc xe Jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu, quét thẳng về phía chúng tôi. Nhưng khi ra đến ngã tư, ánh đèn lại rẽ trái theo Đại Lộ Hòa Bình hướng về BTL/QĐ. Họ không đến chỗ chúng tôi. Ông đứng lên, trở về phòng. Tôi dùng máy, thử gọi danh hiệu của Tướng Trường và Trung Tá Thành. Gọi ba, bốn lần vẫn không có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đầu bên kia đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh Tiểu Khu Trưởng, chỗ Tướng Trường và Trung Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh TKT và dinh TLP chỉ cách nhau 300 mét thôi, nếu có tiếng súng nổ, chúng tôi phải nghe được, nhưng sự kiện máy không còn mở túc trực chứng tỏ tình trạng Tướng Trường rất bi quan. Có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Có lẽ Chuẩn Tướng thấy rằng thì giờ rất cấp bách, nên ông bước đến đẩy cửa vào phòng bà. Hai cháu bé đang đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch. Tôi trở xuống nhà dặn dò toán gác. Thật ra, tôi tìm họ cũng là để tự trấn an mình. Mười phút sau ông gọi tôi lên lầu gặp ông. Tại đây tôi thấy ngoài Thiếu Tá Phương còn có đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Ông đứng, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái 3 tuổi để cho đầu cháu tựa vào má ông. Bà Tướng đứng bên cạnh. Hai bàn tay măng non của cháu bé lùa vào mái tóc cha. Bằng giọng nói tha thiết, ông gởi bà cùng hai con lại cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho tới sáng sẽ không có chuyện gì xẩy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà cùng gia đình về Sài Gòn rạng sáng ngày mai, 1 tháng 5. Sau đó, ông lấy lại trầm tĩnh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và bà Tướng ở lại. Giây phút vĩnh quyết đã đến... Lúc đó đã 9 giờ đêm 30 tháng 4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho ông. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Chuông điện thoại reo. Tôi giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện. Ông cần nói chuyện với Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định nhanh trong trí: “Không cho Đại Tá biết Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết!” Tôi nghĩ, hệ thống điện thoại đã bị ngắt hoặc do đơn vị này đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì bây giờ lại tái lập? Chắc Cộng Quân đã chiếm đóng và đang kiểm soát cuộc điện đàm. Sau này khi hồi tưởng lại, tôi mới thấy mình thật khờ: Chỉ vì muốn bảo toàn thi hài Chuẩn Tướng mà hậu quả là Đại Tá Cẩn vẫn tiếp tục cho Tiểu Khu mình tử thủ, để rồi bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và bị Cộng Quân xử bắn. Đại Tá Cẩn vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện cho chiến trường An Lộc mùa Hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện sau đó. Trở lại phòng Chuẩn Tướng, tôi thấy bà đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực ông. Bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Thiếu Tá Thuyên Tôi trở lên lầu, gặp Thiếu Tá Thuyên, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy, tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhất của BTL/QĐ đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Tướng thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước, nếu bị buộc phải rời dinh. Thâm tâm tôi nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31, Trung Úy Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay, Thành đã thuyên chuyển về sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Trong lúc chờ sáng, tôi bàn với Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và mua quan tài. Lúc tôi đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người. Trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang nghi ngại: họ đánh giá một khi tôi ra khỏi đây, có lẽ không bao giờ trở lại chăng! Tôi mở hé cổng để vừa đủ đi qua, nhìn thấy Đại Tá C, một trong những phụ tá Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hòa Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá C lật đật rảo bước, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt rảo bộ đến nhà Thành. Tôi mừng rỡ khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với ba, bốn người trước cổng BTL/Đặc Nhiệm của ông. Tôi cho ông biết Chuẩn Tướng đã chết và bà Tướng muốn chôn chồng theo đúng lễ nghi quân cách, xin Đại Tá, với tư cách một sĩ quan cao cấp, đến gặp họ (Cộng Sản) để nói giúp. Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc này. Thiếu Tướng Nam Tự Sát Đến nhà cha mẹ vợ Trung Úy Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng đã tuẫn tiết nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ cho mọi người biết Chuẩn Tướng chết như thế nào, trước đó ông dặn dò điều gì và tôi đang cần được sự giúp đỡ để thực hiện lời ủy thác của người chết. Tôi cùng Thành lên chiếc vespa của anh đi đặt mua quan tài rồi trở lại sở của anh. Do ý của Thành, tôi tìm gặp Trung Tá Bia, phụ tá Chánh Sở Hành Chánh & Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩm liệm. Ông đang thay Đại Tá Chánh Sở hiện vắng mặt, chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá Bia hứa là ông sẽ đến liền sau khi xong việc ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ gì cho việc tẩm liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30 tháng Tư, buổi sáng hôm nay, 1 tháng 5, Thị Xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như mọi nhà đều có người đổ xô ra đường, có nhiều con lộ bị nghẹt cứng. Dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Úy Việt, Tùy Viên Tư Lệnh, đang đứng trong sân nhà của Trung Úy Minh, sĩ quan Quân Sử BTL, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Buổi sáng, trước khi rời dinh, một hạ sĩ quan văn phòng đã đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ của tôi đã “đăng ký trình diện” và cho tôi biết tin Thiếu Tướng Nam cũng đã tự sát. Tôi hỏi lại và được Trung Úy Việt xác nhận điều đó. Anh còn cho biết thêm, xe cứu cấp của Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Úy Danh gọi đã đến và mang Tư Lệnh về QYV. Việt kể, lúc đó khoảng 7 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở trong phòng, ông bảo hai tùy viên về nhà, rồi dùng Colt tự sát khi ông còn lại một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm vì còn quá nhiều việc để làm. Ra đến khu chợ, tôi cùng Thành tìm chỗ ăn sáng. Sau đó, tôi để Thành ngồi lại một mình, đi sâu vào chợ, mua các thứ trà, nhang, đèn cầy, vải liệm rồi trở ra cùng Thành phóng nhanh về dinh. Quan tài đã được đem đến và được đặt trên hai giá gỗ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có hai cán binh Cộng Sản miền Nam đang trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh. Hình như họ được lệnh chỉ ở đó mà thôi. Có lẽ thấy yên tâm phần nào, bà Tướng nói với tôi và Thiếu Tá Phương, ý bà dự định quàng lại 3 ngày. Tôi thấy cổ áo quan cũng “khiêm tốn” nên bàn với Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin bộ ny lông. Tôi muốn nhân dịp này để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Viếng Thăm Thi Hài Thiếu Tướng Nam Xe chúng tôi vừa tới cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Khi vào sâu bên trong, tôi nhận ra nơi đây im lìm, trống vắng, y sĩ, nhân viên lẫn thương bệnh binh đều đã rời viện tự bao giờ rồi. Một ít thương binh tôi còn gặp có lẽ vì thân nhân ở xa mới vừa đến để đón họ. Duy nhất chỉ một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm mong gặp được nhân vật có vai trò đúng như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh việc tôi đến đây. Rất may, tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi bộ áo quan ny lông giấu nơi yên xe. Tôi hỏi Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu? Anh chỉ Phòng Lựa Thương cách đó chỉ 30 thước và dặn dò tôi coi chừng, đã có chúng nó. Khi thấy chỉ có ba chúng tôi, tôi cảm ơn anh rồi bảo Thành chạy xe đến đậu sát bậc thềm căn phòng, rồi ngồi trên xe chờ tôi. Tôi vừa bước vào cửa phòng là thấy ngay một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng, chỉ ló ra ngoài hai chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài nằm trên chiếc băng ca đặt trên giá sắt cao gần 1 thước. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong Phòng Lựa Thương vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương phải trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương trái, vệt máu đã thẫm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và động lại trên bâu áo phải làm lem lấm hai ngôi sao thêu màu đen. Bộ quân phục chiến đấu vẫn trên người Thiếu Tướng đến giây phút cuối cùng. Tôi đốt một nén hương cặm vào cái lon đã có ba chân nhang của ai đó đến đây trước tôi. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện. Lễ Tẩm Liệm Đơn Sơ Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. Hai mươi phút sau Trung Tá Bia đến đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng phần đầu. Lễ tẩm liệm đơn sơ, nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn ông điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bỗng có tiếng la uất nghẹn: - Trời ơi! Ông “thầy” ơi! Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, anh xúc động gần như quỵ xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng 3/33. Tiểu đoàn của anh sáng nay cũng đã tuân lệnh giải giáp, giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, rồi từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, mạnh ai tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường, về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 68. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng 31, nên anh vẫn nhớ và kính trọng vị “thầy” của mình. Đúng lúc đó, Trung Úy Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà gặp gia đình. Từ hôm qua, 30 tháng 4, tên ông vẫn còn nằm trong sổ cấm quân ban hành từ hơn một tuần nay của BTL/QĐ. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và Thiếu Tá Phương thuyết phục bà Tướng nên an táng ngay cho ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia công việc cho nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của Hiệp Hội Xe Đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện cho Hiệp Hội chấp thuận, dù biết đó là đám tang của một vị Tướng. Ông cho biết là phải lo cho một đám tang khác lúc 15 giờ. Vậy chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là phải di chuyển liền. Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mong manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi cánh cửa cổng mở toang. Chiếc xe tang đen ngòm đưa phần đuôi trườn vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà, năm phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc, tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau xe tang. Lúc xe rời cổng lớn một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả, vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ nó lại! Xe quẹo qua Đại Lộ Hòa Bình hướng về Cái Răng. Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng với miệng hô khẩu lệnh điều khiển lên xuống đòn tay, rút dây khéo léo, đưa êm thấm quan tài xuống đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đắp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình ông đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng. Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Tướng và gia đình cùng Thiếu Tá Phương, Trung Úy Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Rốt cuộc chúng tôi cũng về được Sài Gòn đông đủ. Khi bà Tướng cùng gia đình tạm có chỗ ở là đúng lúc tôi phải vào trại cải tạo. (tác giả Phạm Trung Nghĩa) Bài Viết Của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng gửi Nguyễn Cao Kỳ DuyênTôi chuyển đến cô bài viết này nhân dịp 30 tháng 4, 2010. Cô hãy đọc và xin cô chuyển đến ba cô, TT Nguyễn Cao Kỳ Phó TT VNCH như là một lời trần tình của một công dân VNCH gửi đến vị cựu Phó TT VNCH qua lời phát biểu của ông rằng : “Từ TT Nguyễn văn Thiệu trở xuống đều ham sống sợ chết”. Nếu nhận được hồi âm của cô hay ba cô thì tốt quá. Vì không có địa chỉ email của ba cô, mong cô giúp tôi. Cám ơn cô. Bài viết của Phu nhân Thiếu Tướng Lê văn Hưng. Xin chuyển tiếp để đọc những lời tâm huyết giây phút cuối của những chiến sĩ anh dũng trong cuộc chiến … Bài do chính Phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng viết … với những tinh tiết quá xúc động Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào. Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử. Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau: - “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau: - “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?” Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi: - “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: - “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”. Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi: - “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?” Lại có người nghiêm khắc trách tôi: - “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?” Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao? Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị TướngNguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi. Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sàigòn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.” Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định: - “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”. Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng. Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và oai hùng thế đấy. Trong khi Sàigòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng. Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ. Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này. Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi: - “Có đồng ý đem con lánh nạn không?” Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi: - “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp: - “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”. Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu: - “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”. Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: - “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”. Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: - “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”. Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: - “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”. 6g45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt. 7g30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: - “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”. Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: - “Em phải sống ở lại nuôi con”. Tôi hoảng hốt: - “Kìa mình, sao mình đổi ý?” - “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.” - “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”. - “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”. - “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?” Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: - “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?” Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: - “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”. Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: - “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”. Tôi phát run lên hỏi: - “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?” Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: - “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”. Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: - “Vâng, em xin nghe lời mình”. Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục: - “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”. - “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?” Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi: - “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”. Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng.Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: - “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”. Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: - “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”. Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống. Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: - “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”. Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: - “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”. Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài. Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: - “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”. Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: - “Nghĩa trở lại với tôi”. Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: - “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?” Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: - “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!” Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: - “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!” Tôi bảo Giêng: - “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chúng ta phải ngăn chận Việt Cộng”. Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi. Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: - “Alô, Alô, ai đây?” - “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng: - “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?” Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: - “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây: - “Ông đang điều động quân ngoài kia”. - “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?” - “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”. Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi: - “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng: - “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”. - “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”. Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: - “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?” - “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?” - “Cẩn vui lòng chờ chút”. Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: - “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?” Cẩn đáp thật nhanh: - “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!” - “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”. - “Dạ, cám ơn chị”. Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: - “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!” “Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi? Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện. 11 giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam: - “Alô, chị Hưng!” Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng: - “Thưa Thiếu Tướng…” Giọng Tướng Nam buồn bã u uất: - “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”. Tôi vẫn nức nở: - “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?” - “Hưng đã nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”. Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi: - “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?” - “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?” - “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?” - “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”. - “Còn mấy chú đâu hết?” - “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng” - “Chị tẩm liệm Hưng chưa?” - “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”. - “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”. - “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?” Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên: - “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”. Người chép miệng thở dài: - “Thôi chị Hưng ơi”. Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi: - “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”. Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi: - “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”. - “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”. Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế. Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam. 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện: - Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ. Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên. Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại. Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản? Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?. Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn Sáu Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho Tổ Quốc. Phạm Thị Kim Hoàng [Nguồn Vietland]
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 6:56:08 GMT 9
9/ Thần tướng Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975)Thần tướng Nguyễn Khoa Nam Tiểu Sử Tướng NGUYỄN-KHOA-NAM Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại. Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Ông tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951. Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập Khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Mãn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt. Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm sau, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ. Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc Hành Quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư Đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi Ngok Van 1416 ở Kontum, tiêu diệt một trung đoàn chủ lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của tổng thống Hoa Kỳ. Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này. Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ. Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách là Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi. THẮP NÉN HƯƠNG TƯỞNG NIỆM TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM Đức độ tài năng đã rõ ràng Báo đền nợ nước, NGUYỄN KHOA NAM Núi sông bức tử vào tay giặc Thà chết vinh danh, chẳng nhục hàng! Ngô Minh Hằng 1975 - Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam Chiều chiều ra đứng ngã sau; Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ đã gần tàn nhưng ông vẫn cầm, một thói quen mà những người chung quanh bắt gặp thường xuyên nơi Tướng Nguyễn Khoa Nam, hai ngón tay cầm thuốc lúc nào cũng vàng khè, bao thuốc mặc dầu đang hút dở dang nhưng lúc nào cũng vuông vắn không nhầu nát, khi không tham dự hành quân bao thuốc được đựng cẩn thận trong hộp nhựa mỏng rẻ tiền, chứa được bao thuốc và hộp quẹt, bán sẵn ở các tiệm tạp hóa, nhưng khi hành quân thì hộp nhựa đựng bao thuốc, được cho vào túi đựng băng cá nhân đeo tòng teng ngay trên khoen giây TAB trước ngực, cho nên mặc dù đang lội bộ trong vùng rừng núi miền Trung hay ở những vùng sình lầy Nam Phần, hoặc ở tại hậu cứ, lúc nào bao thuốc cũng không bị nhầu nát, đó là một trong những thói quen ngăn nắp của Thiếu Tá Nguyễn Khoa Nam Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù,(Chiến Đoàn Trưởng hay Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù vẫn phải lội như những chiến sĩ Nhảy Dù khác); Một ngụm bia 33 nhạt nhẽo như câu chuyện tình muôn thuở của ông, có lẽ câu chuyên tình này ông chỉ tâm sự với rất ít người, cũng như ít người thấy ông uống rượu hay bia, tôi có dò hỏi một số ít người thân cận nhưng không một ai hay biết, mà đa số chỉ biết về một cô dược sĩ hay đến cư xá Lữ Gia, Sài Gòn; Thăm ông mỗi khi ông về đây nghỉ, sau này tôi có gặp người yêu của ông, là cô N... cô N cũng có xác nhận câu chuyện tình chung này, nhưng câu chuyện tình của ông không phải là bài viết này, đó là bài viết khác tôi chỉ viết khi được cô N... đồng ý, hiện nay cô đang sống tại Hoa Kỳ, có lẽ cô đang sống tại Hawaii, nếu thuận lợi tôi sẽ cống hiến quí vị câu chuyện tình không có đoạn kết, câu chuyện tình đầu và cũng là tình cuối của vị Tướng chung tình này, (với hình ảnh chụp từ năm 1957 tại nhà người yêu ở Tây Đô, cùng với ba má cô N và họ hàng nhân ngày ra mắt). Ông rất ít nói tánh tình điềm đạm, và có lẽ không nói lớn, ngoại trừ phải đứng trước hàng quân. Ông chung thủy với gia đình, với họ hàng, với thôn xóm, với cấp trên, với cấp dưới, với quân đội, với Quốc Gia Dân Tộc và ngay cả với người yêu; Vì hiểu tính tình và tư cách của ông cho nên khi nghe tin ông tự sát tôi không ngạc nhiên. Nội tổ của ông là cụ Nguyễn Khoa Đăng có công giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc nam tiến vào thời vua Lê chúa Trịnh; Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng có công dẹp giặc cướp ở Truông Nhà Hồ (phá Tam Giang) hai địa danh này nói lên sự hiểm trở của đất đai miền Trung cho nên không ai không biết tên trên sử sách, với giòng dõi Võ Tướng. Nhớ lúc lên đường ra tiễn chân anh, Dâng lên khóe mắt mẹ nói đôi lời , Diệt thù lập công cho xứng tài trai . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai Con đi chinh chiến để nước yên vui Lam Phương Ông nhập ngũ theo lệnh động viên vào khóa 3 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1953, cùng năm đó ông tốt nghiệp và trình diện TĐ7 ND/VN, đồn trú tại trại Quần Ngựa, Hà Nội, ông được giao cho chỉ huy một trung đội Nhảy Dù từ ngày đó; Theo dòng thác dân tộc. Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta phải phân chia làm hai: Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của Cộng Sản Việt Nam, Miền Nam thuộc quyền cai trị của Thực Dân Pháp, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới của hai miền, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam lúc đó còn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp, nên phải di chuyển xuống miền nam vĩ tuyến 17. Tháng 8 năm 1954 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Trịnh Xuân Nghiêm được không vận vào Nha Trang cùng với TĐ3ND và TĐ5ND . Tháng 9 năm 1954 vì nhu cầu thành lập BCH Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam và Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, trong lúc đó Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam không được tuyển mộ thêm quân số, cũng như không được tăng cường quân số từ các đơn vị khác thuyên chuyển đến, cho nên TĐ7ND phải giải tán, ông được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, sau đó được bổ nhiệm là Đại Đội Trưởng đại đội Kỹ Thuật Nhảy Dù thuộc tiểu đoàn này. Tháng 1 năm 1957 sau khi du học Hoa Kỳ ông được thuyên chuyển về Phòng 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù, (lúc này Liên Đoàn Nhảy Dù được đổi tên thành Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, gồm 6 Tiểu Đoàn Nhảy Dù và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Nhảy Dù) tại đây ông trách nhiệm về hành quân của Lữ Đoàn . Năm 1960 thuyên chuyển về làm Trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù. Năm 1963 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Năm 1964 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Năm 1965 được bổ nhiệm làm Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Tháng 12 năm 1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam vì nhu cầu chiến trường được bành trướng thành Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Năm 1966 ba Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Được đổi tên thành Lữ Đoàn. Tháng 10 năm 1966 ông chỉ huy ba tiểu đoàn Nhảy Dù gồm TĐ3ND, TĐ6ND và TĐ8ND tham dự cuộc hành quân song song với Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ. Trong lúc bọn phóng viên phản chiến đang thêu dệt làm nhục QLVNCH, nói rằng chúng ta không chịu chiến đấu trong lúc các đơn vị Đồng Minh tích cực chiến đấu, đó chính là đề tài cho sinh viên Hoa Kỳ biểu tình Phản Chiến, chống đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng tại ngọn đồi chiến thuật 1418 Dakto (KonTum) Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã rửa nhục cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là chiến thắng vẻ vang trận này, TĐ8ND Việt Nam đã được Tổng Thống Hoa Kỳ L. B. Johnson trao tặng Huy Chương Danh Dự, chính cá nhân Đại Tá Nguyễn Khoa Nam LĐT/LĐ3ND được phía Việt Nam trao tặng Anh Dũng Bội Tinh với ngành Dương Liễu, về phía Hoa Kỳ cũng trao tặng huy chương Silver Star. Cho đến ngày nay các đơn vị Nhảy Dù Hoa Kỳ vẫn còn ca tụng chiến thắng này của chúng ta. Năm 1969 trong lúc LĐ3ND đang tham dự hành quân phối hợp LĐ1Không Kỵ thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (các quân nhân phục vụ trong đơn vị Không Kỵ là quân nhân Nhảy Dù, đơn vị này trực thuộc Quân Đoàn 18 Nhảy Dù) tại biên giới Miên Việt thuôc tỉnh Tây Ninh, ông được thượng cấp thuyên chuyển ra khỏi Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh . Năm 1974 vì tình hình đòi hỏi các cấp Tư lệnh Quân Đoàn cũng như Sư Đoàn phải có đầy đủ khả năng cũng như uy tín và Trung Kiên nên ông được điều động làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Năm 1975 ngày 30 tháng 4, Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông đã bình tĩnh cho lệnh cuối cùng, để quân nhân thuộc cấp tự định liệu lấy đời mình, nhưng ông chính vì lòng trung tín mà ông phải tuân theo lệnh thượng cấp, sau đó ông vào phòng tư lệnh dùng súng tự sát để trở về với những anh hùng Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản. . . (tác giả Mũ Đỏ Đặng Trần Hào Nhớ về Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam) Ngày Tàn Của Cuộc Chiến Lê Nguyên Bình (Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam ) LTS: Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do. Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy. Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài. Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết. Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp. Ðột nhiên, những "coup départ" khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập. Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông. Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975. Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An. Lập căn cứ ở Quân khu 4 ? Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước. Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ. Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo. Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết "Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa" để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ. Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim "Chiến thắng Hạ Lào" liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: "Nếu đời mình như thế là hết!" Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch. Chúng ta là quân nhân ... Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ. Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đoàn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH. Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói. Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành. Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch. Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện. 10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực thuộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn. "Các sĩ quan thân mến," ông nói, "Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết." Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: "Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?" Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: "Biết làm sao được bây giờ hả anh." Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối. Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng. Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì? Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bục đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển. Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên... Lê Nguyên Bình ****************************** Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam : Những Phút Tâm Tình Cuối Cùng Cuối năm 1973, tôi được lệnh bổ nhiệm về Liên đoàn 67 Truyền tin tại Cần Thơ. Lúc đầu, Thiếu tướng Nam không đồng ý cho tôi rời khỏi Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông bảo: "Anh ở đó chứ đi đâu". Tôi thưa với ông rằng: "Thưa Thiếu tướng, tôi đã phục vụ ở Sư đoàn ròng rã 7 năm trời. Trong binh chủng Truyền tin chỉ có 3 Liên đoàn. Thiếu tướng giữ tôi lại SĐ7BB, e sau này tôi mất cơ hội". Suy nghĩ một chốc, ông đồng ý và hỏi ai là người thay thế tôi. Tôi trình rằng nếu ông đồng ý thì Cục Truyền tin sẽ cử anh Bùi Văn Hạp, trung tá hiện đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Truyền tin SĐ7 BB (người cùng khóa 3, cùng trung đội với thiếu tướng Nam) thay thế tôi. Tướng Nam đồng ý. Tôi về Cần Thơ được 6 tháng thì thiếu tướng Nam cũng về Cần Thơ nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV. Một người bạn bảo tôi chạy trời không khỏi nắng. Buổi lễ bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV được tổ chức tại sân cờ Bộ Tư lệnh. Sau khi một sĩ quan tuyên đọc lệnh bổ nhiệm Tân Tư lệnh - Trung tướng cựu Tư lệnh trao quân kỳ Quân đoàn IV cho tân Tư lệnh. Không có thượng cấp chủ tọa, không diễn văn, không huấn thị. Một buổi lễ bàn giao "ngắn, gọn" và "độc đáo". Buổi lễ tuy vắng bóng cấp trên của Quân đoàn nhưng thân hào, nhân sĩ, các vị lãnh đạo tinh thần dự lễ rất đông. Sau buổi lễ bàn giao, ông bắt tay vào công việc mới. Từ nay, công việc của ông không còn hoàn toàn thuần túy quân đội mà còn liên hệ đến các lãnh vực khác như hành chánh, ngoại giao, chính trị. Tuy rất bận nhưng thỉnh thoảng ông cũng đến thăm Liên đoàn của tôi, đóng tại gần cầu Bình Thủy. Lần thăm viếng đầu tiên, sau phần thuyết trình, ông muốn đi thăm doanh trại và cơ sở. Ông hài lòng và có ý định dùng bản doanh Liên đoàn 67 Truyền tin làm bản doanh Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm để chỉ huy và điều hợp các tiểu khu Kiến Phong, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc. Do gợi ý của ông, những hôm sau, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Nguyễn Đình Vinh, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn đến thăm đơn vị tôi. Công việc chỉ mới dự định, chưa thực hiện thì mất nước. Một hôm, ông đến thăm, ghé vào cư xá, tôi sống một mình vì vợ con tôi vẫn còn ở Mỹ Tho. Trông thấy trong phòng khách có tượng Phật Quan Âm và tượng Đức Mẹ bằng thạch cao. Ông hỏi tượng Phật ở đâu mà đẹp vậy, thỉnh cho ông một chiếc được không. Tượng Phật Quan Âm do vợ tôi mua tại một cửa hàng mỹ thuật tại Sài Gòn. Đơn vị tôi có trách nhiệm cung cấp các mạch liên lạc điện thoại và viễn ấn cho các thành phố, các căn cứ quân sự của Hải, Lục, Không Quân thuộc 15 tỉnh miền Tây. Tháng nào cũng có anh em trong đơn vị bị thương vong do bị mìn, bị bắn sẽ, bị trúng đạn pháo nên vợ tôi thỉnh tượng Phật Quan Âm để cầu an. Còn tượng Đức Mẹ thì do các bà xơ thuộc một tu viện trước mặt Liên đoàn tặng làm kỷ vật. Tôi thiết trí một bàn thờ, mẫu mã đơn giản nhưng gọn đẹp, một bộ đèn bằng gỗ trắc và thỉnh tượng Phật về đặt tại phòng khách dinh Tư lệnh. Ngày an vị Phật, ông mời thầy Tuyên úy Phật Giáo và một số quan khách đến cầu an và dự cơm chay tại tư dinh. Ngờ đâu, sau ngày 30-4-1975, ông đã kết liễu cuộc đời tại phòng khách, trước bàn thờ Phật. Đêm 29 tháng 4, Cộng Sản tấn kích Rạch Sỏi, Sóc Trăng, Trà Vinh. Các mạch liên lạc với Sài Gòn bị trở ngại vì đài viễn thông Núi Lớn ở Vũng Tàu bị pháo gây thiệt hại. Tôi nhận được điện thoại của Thiếu tướng, ông hỏi lý do vì sao liên lạc với Sài Gòn bị khó khăn. Tôi trình cho ông biết lý do và báo đã chuyển mạch liên lạc Cần Thơ - Sài Gòn qua ngã Đồng Tâm. Sáng 30-4-1975, lúc 6 giờ rưỡi sáng, Quân đoàn mời các đơn vị trưởng hay phụ tá đến họp tại Bộ Tư lệnh. Các đơn vị trưởng phần lớn đều còn ở lại. Đại tá Nguyễn Đình Vinh được chỉ định làm quyền Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Tôi ngồi cạnh anh Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 3 Thủ Đức), đại tá Tỉnh trưởng Cần Thơ, anh Lê Nguyên Bình, đại tá Trưởng Phòng 2 Quân đoàn và anh Nguyễn Bá Trang, đại tá Hải Quân. Anh Trang và tôi cùng học chung khóa Chỉ huy Tham mưu năm 1972. Tôi hỏi anh Trang rằng anh sẵn tàu sao không đi? Anh trả lời: "Bậy nào - Để chờ xem Tư lệnh quyết định thế nào đã - Mặt mũi nào mà bỏ chạy". Sau này tôi gặp lại anh và cả người anh của anh là đại tá Nguyễn Bá Trước, gốc Dù, cựu tỉnh trưởng Phước Tuy và có thời kỳ làm Tham mưu trưởng SĐ7BB. Các anh đều bị đưa ra cải tạo ở miền Bắc như chúng tôi. Tướng Nam vừa bước vào phòng họp thì tùy viên báo cho ông là Tổng Thống Dương Văn Minh muốn nói chuyện với Tư lệnh Quân đoàn IV qua điện thoại. Tướng Nam rời phòng họp. Liền sau đó Trung tâm Hành quân Quân đoàn mở đài Sài Gòn. Đài phát đi lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh: "Quân đội VNCH ngưng chiến đấu để chờ bàn giao". Đại tá Hiền vật vã khóc: "Đầu hàng rồi tụi bây ơi! Nhục ơi là nhục!" Thật thấm thía, đau khổ không thể nào kể xiết. Rồi đây, bản thân và gia đình sẽ ra sao? Đất nước, dân tộc đi về đâu? Tướng Nam trở lại phòng họp, nét mặt ông lộ vẻ buồn, rất buồn. Giọng nói còn xúc động, ông nói với chúng tôi: "Chúng ta là quân nhân. Quân nhân phải thi hành lệnh thượng cấp. Nay Tổng Thống ra lệnh ngưng chiến đấu, ở vị trí tại chỗ, chờ bàn giao. Thôi chào anh em và anh em trở về đơn vị". Ông lại nói tiếp: "Tôi không chủ trương ra đi. Với cương vị của tôi, ra đi lúc nào cũng được, nhưng nghĩ đến anh em chiến sĩ ngoài mặt trận, gia đình vợ con binh sĩ và đồng bào nên tôi không ra đi." Đây là lần chót tôi gặp ông. Tôi lên xe trở về đơn vị, tâm thần bất định, nửa muốn chết nửa tham sinh. Lời vợ tôi vẫn còn văng vẵng: "Anh đi đi, ở lại tụi nó giết cho bây giờ". Giữa đường, tôi có thấy hai anh Huỳnh Ngọc Diệp và Lê Nguyên Bình. Khi ra Bắc cải tạo, không thấy các anh ấy, tôi biết rằng các anh đã vượt thoát và tôi mừng cho các anh ấy. Sáng 1-5-1975, lính gác bảo là "cách mạng" muốn gặp đơn vị trưởng. Tôi vẫn mặc quân phục đầy đủ ra tiếp họ. Một nhóm bộ đội, trong đó có vài người mang túi vải trên vai, cán bộ chỉ huy, một người trạc dưới 50 tuổi, nói giọng Huế, giới thiệu là Tám Thanh. Đơn vị anh ta đến tiếp quản khu vực Liên đoàn của tôi. Họ tập họp binh sĩ các cấp lại, cấp giấy tờ cho về nhà, trừ cấp chỉ huy, lấy lý do họ cần chúng tôi để "bàn giao". Hai hôm sau, cũng chính ông cán bộ tên Tám Thanh này cho biết trong đơn vị có người tự sát. Khi mở cửa nhà kho, chúng tôi thấy thi thể một hạ sĩ quan đã tự sát bằng lựu đạn. Đang dự tính tháo ván trên vách đóng thành quan tài để chôn ngay tại đơn vị thì một hạ sĩ quan tài xế xuất hiện, thấy chúng tôi bị giữ tại đơn vị, anh ta mua ít bánh mì tặng chúng tôi làm lương thực. Anh ta báo rằng, ở Trung đội Chung sự còn bốn quan tài, người ta lấy một chiếc để chôn Thiếu tướng Nam, còn 3 chiếc có thể xin mấy ông cách mạng viết giấy giới thiệu, lãnh quan tài về chôn bạn mình. Nghe tin, tôi bàng hoàng xúc động. Thượng cấp đã đi rồi và thuộc cấp cũng lấy cái chết để bảo toàn danh dự. Sau 5 ngày bị lưu giữ tại đơn vị, bộ phận tiếp quản thấy không có gì xẩy ra, họ cấp cho tôi giấy trở về nhà. Trước khi trở về Mỹ Tho, tôi ghé lại nhà một người quen và được biết sau khi tự sát, thi hài Thiếu tướng Tư lệnh được đưa về Quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. Đêm hôm ấy, hai bác sĩ, một trung tá thuộc Trung tâm Tiếp huyết, và một đại úy cháu của tướng Nam đến viếng thi hài của ông thì bị lính Việt Cộng bắn, Trung tá chết và Đại úy bị thương nặng. Anh Hoàng Như Tùng, trung tá Bác sĩ, giám đốc Quân y viện Phan Thanh Giản đích thân giải phẩu và điều trị cho vị sĩ quan, sau này tôi mới biết là bác sĩ Nguyễn Khoa Lai. Anh Hoàng Như Tùng, nay định cư ở Houston - Texas là bạn học của tôi khi chúng tôi còn học trung học ở trường Khải Định - Huế. Chính anh Hoàng Như Tùng đứng ra chôn cất thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Thi hài ông được an táng ở Nghĩa trang Quân đội Cần Thơ. Việt Cộng xóa dòng chữ "Nghĩa trang Quân đội" và viết lên đó những dòng chữ "Mồ chôn quân giặc". Thân nhân các người quá cố thấy tủi thân nên chờ ban đêm, họ lén đào các mộ người thân đem đi cải táng nơi khác - Việt Cộng đã xả súng bắn vào nhóm người đó gây thêm một số thương vong. Khi tôi còn ở trại cải tạo số 8 đoàn 776 Hoàng Liên Sơn, bỗng một hôm gặp bác sĩ Hoàng Như Tùng. Anh từ một trại cải tạo ở Sơn La được chuyển xuống Yên Bái. Lẽ ra các bác sĩ chỉ bị cải tạo ở trong Nam. Trường hợp của bác sĩ Tùng, anh phải ra Bắc là vì Cộng Sản nghi các chết của thiếu tướng Nam có "vấn đề". Họ nghi xác đó là Nguyễn Khoa Nam giả. Hơn nữa, khi tiếp nhận thi hài của thiếu tướng Nam, trong hoàn cảnh đó, anh dám nói lên một câu: "Đời ông ấy để lịch sử phê phán". Sau khi được tha từ trại cải tạo về, đời sống gia đình quá khó khăn. Kinh tế gia đình kiệt quệ, nhà cửa và tài sản đều bị tước sạch, tôi thì bị Công An theo dõi ngày đêm, các con tôi mang một lý lịch chính trị của cha nó đen xì. Chúng tôi từ một trại tù nhỏ được chuyển về một nhà tù lớn. Và không cứ gì gia đình tôi phải gánh chịu cuộc sống bi đát đó. Cả một dân tộc sống trong đau thương. Tôi nghe người ta bàn tán rằng tướng Nguyễn Khoa Nam hiện đang ở trên một chiếc tàu ngoài biển khơi, chỉ huy đoàn quân phục quốc. Rồi còn để thuyết phục lòng tin của mọi người, người ta còn bảo đài BBC loan tin như vậy. Tôi biết Thiếu tướng đã mất, nhưng khi mọi người chỉ còn dựa vào tên ông như là một hy vọng vào niềm tin để sống, tôi chia xẻ và cảm thông với họ. Shakespeare, qua các nhân vật của một vở kịch, có viết rằng, mỗi người xuất hiện trên sân khấu một lần, diễn xuất một cách vụng về rồi biến mất. Điều này có thể đúng với tôi, với nhiều người khác nhưng không đúng với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông không diễn xuất vụng về, trái lại, ông diễn xuất rất đạt, rất thành công. Ông không biến mất - Ông vẫn trường tồn. Ông được nhiều người ca tụng là anh hùng. Theo tôi, ông có những cái gì khác hơn anh hùng. Anh hùng dựa vào dân tộc, dựa vào lịch sử mà trường tồn, được xem như người chiến thắng, được bỏ qua những lổi lầm. Còn ở ông còn toát ra những gì thanh cao, khí tiết. Ông là kết tụ của tinh thần bất khuất Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu - ninh thọ tử bất ninh thọ nhục - thà chết chứ không chịu nhục. Ông là tiếp nối của truyền thống hào hùng tiết tháo của Võ Tánh, Hoàng Diệu - tướng chết theo thành. Cái chết của ông thật lặng lẽ, âm thầm và cô đơn nhưng lại chuyển vào mạch sống của dân tộc. Ông đã để lại cho lịch sử khúc ca chính khí. ************************* Tôi viết lên những dòng này vào giữa đêm khuya, trong phòng vắng. Đến đây, tôi ngừng viết, đọc lại những gì ghi trên giấy, nước mắt bỗng tuôn tràn trên gò má. Tôi khóc cho ông, người thầy của tôi và cho những người nằm xuống. Nhưng tôi cũng khóc cho tôi, cho những người thân, cho những bạn bè đã hứng chịu những hệ lụy bi đát sau ngày tàn cuộc chiến. Tôi khóc vì cảm động trước đắng cay mà đồng bào tôi đang sống trong màn đêm bạo tàn ở ngay chính trên quê hương của mình.
Tôi viết những dòng này, trước ngày húy nhật thứ 30 của ông để dâng lên ông lòng kính trọng. Tôi không ca tụng ông vì danh ông lớn quá, ca tụng cũng bằng thừa. Tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện rất người của một con người bình thường, nhưng đã vươn lên cao, nếu không nói là vĩ đại. (tác giả Lê Chu, Arlington – Texas)Lá Thư gửi anh NAMNguyễn Văn Hai Giáo Sư Tiến Sĩ, nguyên Phó Viện Trưởng kiêm Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học, Viện Đại Học Huế Anh Nam kính mến, Chúng tôi vừa coi xong cuốn video "Chiến Tranh và Hòa Bình" của hãng Asia. Một đoạn video gây chúng tôi nhiều xúc động nhất là buổi phỏng vấn anh Phước về cái chết đầy khí tiết của Anh, một vị Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vào giờ phút buồn thảm nhất của lịch sử đất nước. Một chi tiết đến hôm nay chúng tôi mới biết và làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt là Anh thọ trì thần chú Thủ Lăng Nghiêm đã từ lâu. Sửng sốt là vì thật không ngờ từ lâu Anh đã suy ngẫm nhiều về chân tướng cuộc đời, phát tâm tin Phật Pháp thâm diệu, sống ung dung thanh thản giữa một thế giới lắm tai ách và khổ đau. Thực ra, Anh là người đã rất nhiều lần gây cho tôi những giây phút bàng hoàng sửng sốt. Duyên nghiệp cho tôi được cái vinh dự cùng Anh học một lớp và ở chung một ký-túc-xá suốt năm năm ở trường Trung Học Khải Định. Lúc bắt tay Anh lần đầu khi Anh sắp leo lên chiếc giường ngủ đặt sát cạnh giường tôi đêm trước ngày khai giảng niên khóa 1940 - 4, tôi có ngay cảm tưởng từ hôm nay tôi may mắn có thêm một bạn đồng song hiền lành, chăm học, dáng ngoài đúng điệu một thư sinh. Nhưng tôi để ý Anh có một nụ cười bí ẩn, mãi đến nay tôi vẫn còn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Thường Anh ít nói mà chỉ cười, cười kiểu "ngậm kim". Có khi tôi tưởng Anh cười nhạo báng, có khi tôi tưởng Anh cười đồng ý, và có khi tôi cho là Anh cười để tránh nói ra những cảm nghĩ làm mất lòng người khác. Bây giờ tôi kể lại để Anh nhớ một hai câu chuyện hồi còn ở trường Anh đã gây cho tôi bàng hoàng sửng sốt. Thường ngày vào giờ Vẽ, tôi ngồi gần Anh trong phòng Họa, ở sát ngay Nhà Chơi của Trường. Cả lớp đều biết Anh có tài hội họa, vẽ truyền thần và phong cảnh. Kể ra, vốn tự biết mình vụng về không vẽ nên thân, tôi tìm ngồi gần Anh là cốt học mót nơi Anh cách vẽ, chứ thầy Tôn Thất Đào đâu có đủ thời giờ trong một tiếng đồng hồ đi chăm sóc từng trò một trong một lớp có đến 50 tên. Một năm nọ, vào kỳ thi lục cá nguyệt, thầy Đào ra đề tài cho vẽ tùy ý một cảnh hoạt động ngoài trời. Thế là tôi lúng ta lúng túng, hết gôm rồi lại xóa, làm mòn gần hết viên tẩy, thay tờ giấy vẽ này sang tờ giấy vẽ khác, rốt cuộc năm mươi phút trôi qua mà chẳng vẽ ra cái cảnh nào nên hồn cả. Anh thương tình, biết tôi tự ái, không bao giờ mở miệng cầu viện, mới hỏi: Cậu ưng mình vẽ hộ cho cậu không? Không đắn đo suy nghĩ, tôi cảm ơn lòng tốt của Anh và đưa cho Anh một tờ giấy vẽ còn nguyên. Thế là chỉ trong năm hay bảy phút gì đó, Anh đã họa xong giùm tôi một hoạt cảnh "Đá banh." Tôi mừng thầm có cứu tinh phò trợ chuyến này chắc tai qua nạn khỏi. Ngờ đâu, khi nhìn vào tờ giấy vẽ trước khi đem lên nạp thời trời đất ơi! Anh đã vẽ một thằng bé chổng mông rách quần trên sân cỏ!!! Vì đã hết giờ và không còn cách nào hơn, tôi đành đem bức họa "quỷ khóc thần sầu" ấy lên nạp. Tôi nghĩ lại tất cả là lỗi tại tôi, đã có ý gian thì phải cúi đầu mà lãnh đủ quả phạt. Buồn cười là câu chuyện không chấm dứt như dự tưởng. Sau hơn ba năm dạy tôi môn Vẽ, thầy Đào thừa hiểu tôi không bao giờ đủ tài năng sáng tác ra một bức họa để đời như vậy. Thầy không cho tôi là người có tội nên phê vào tờ giấy vẽ đề tên tôi điểm 19 trên 20. Còn điểm bức họa của Anh thì chỉ được 18 trên 20 mà thôi. Tôi được một trận cười ra nước mắt, nhưng Anh thì đón nhận bài của mình vẫn với cái nụ cười "ngậm kim" muôn thuở! Sau đây là một câu chuyện khác, nhưng lần này xin nhường cho Phan Thụy Dung, một người bạn học khác của Anh kể hay hơn tôi nhiều: Một hôm trong lớp học xuất hiện một giáo sư Việt Nam, thầy B. H., dạy tiếng Nhật vừa được ghi thêm vào chương trình trung học. Học trò bên ngoài ngoan ngoãn học ngoại ngữ mới, thật ra bên trong chẳng mấy người hăng hái sốt sắng vì mặc cảm hết tiếng Tây đến tiếng Nhật đang đè nặng. Tất nhiên đám học trò có phản ứng và sự việc xảy ra đã làm cả lớp thích thú: Hôm đó thầy B.H. giảng cách dùng tiếng Nhật khi nói về "đàn ông" và "đàn bà," đại khái nói về "đàn ông" thì dùng chữ "Watakusi," về "đàn bà" thì dùng chữ "Watasi." Một anh bạn đứng dậy giơ tay nói: Thưa thầy, như rứa là "đàn bà" thì không có "ku" phải không? Cả lớp được một dịp cười hả dạ. Tui không bao giờ quên được anh bạn đó, người đã dùng óc hài hước để hóa giải mặc cảm nói trên. Người học sinh có óc hài hước đó lại là một con người tài ba, sau này đã thành công trong đời, đã lên đến đỉnh cao trong binh nghiệp và khi không giữ được nước, đã noi gương trung liệt của Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản, v.v... làm rạng danh một dòng họ lớn ở đất Thần Kinh: họ Nguyễn Khoa. (Trích trong Tiếng Sông Hương "Kỷ Niệm 100 Năm Trường Quốc Học"). Anh Nam ơi! Rồi duyên nghiệp đưa tôi trở thành con rể trong gia đình bên ngoại Anh, và qua nhà tôi, tôi trở thành người em cô cậu của Anh. Tin Anh tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù sau khi mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức làm tôi kinh ngạc hết sức. Đúng ra, theo phong cách của Anh, Anh phải là một văn nhân, một nghệ sĩ. Nay Anh lại tự ý muốn trở thành quân nhân quả cảm của một binh chủng có tiếng oai hùng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, điều này làm tôi mến phục Anh vô cùng! Anh nhớ không, sau Tết Mậu Thân, tôi có dịp cùng một số sinh viên Đại Học Huế lên thăm tiền đồn của Dù bảo vệ Huế đóng trên núi ở phía Tây kinh thành. Lại một lần nữa Anh làm tôi bàng hoàng sửng sốt khi thấy nơi chốn Anh ăn nằm không có chút gì khác biệt giữa cương vị của một vị Đại Tá cao cấp với một anh binh Nhì thuộc cấp. Trong thời gian Anh đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi được gặp Anh một lần ở Sài Gòn và hỏi về chuyện một Giáo Sư trường Đại Học Dược Khoa muốn theo Anh để nâng khăn sửa túi. Nhưng rồi Anh không nói có, Anh cũng chẳng nói không, mà chỉ cười cái cười ngậm kim như thuở nào! Anh Nam ơi! Trong trại tỵ nạn ở Subic Bay, chúng tôi bàng hoàng sửng sốt khi nghe tin Anh đã tự sát để đền nợ nước và để tránh khỏi đầu hàng quân địch. Anh lại gây trong lòng chúng tôi một sự sót xa kính phục vô cùng tận không lời nào tả xiết. Cuối cùng, nhờ được biết Anh thọ trì Thần chú Thủ Lăng Nghiêm từ lâu, nên nay chúng tôi mới rõ trong thời kỳ trước 1975, Anh đã thần thông thấy, biết trước mọi điều bất hạnh sẽ xảy ra cho đất nước, nhưng với trí tuệ giải thoát, Anh vẫn sống an nhiên tự tại, quan niệm sanh tử tức Niết Bàn, thảy thảy đều không. Nay tuy Anh đã đi vào cảnh chân như tịch tịnh, đời đời hậu thế sẽ không bao giờ quên đề cao gương trung liệt của Anh. Thương kính nhớ Anh vô cùng Nguyễn văn Hai & gia đình Hai tay nâng mảnh khăn tang Trăm năm thôi vĩnh biệt Chàng từ đây Vì đâu đến nước non này Lệnh kia sao lại trói tay anh hùng ? Trước hờn bức tử non sông Thiên thu đâu lẽ thẹn cùng cỏ cây Mịt mù bốn phía trời mây Tiếng gầm đại bác, tiếng cày xe tăng Phút giây oan nghiệt bất bằng Giận cơn hồng thủy cuốn phăng sơn hà Âm thầm, Chàng bỏ lại ta...... Giữa trăm ngàn nỗi xót xa nghẹn ngào ! Kỳ đài, cờ rũ trên cao Ngỡ ngàng nghe lệnh chiến hào bỏ không Đau thương nhìn lại xác chồng Chàng đi theo nước, em không trách Chàng ! Xé manh áo, quấn khăn tang Lên đầu con trẻ, hai hàng lệ rơi Xa nhau.....Vĩnh biệt nhau rồi...... Mà không nói được một lời từ ly !!! Mắt thần chẳng khép làn mi Một dòng máu đỏ, tứ chi lạnh dần Ôm chồng, thân ngã vào thân Tứ bề pháo giặc xa gần ầm vang Hai tay nâng lá cờ vàng Phủ lên cho ấm lòng Chàng, lòng ta ! Tên Chàng dù chẳng sử hoa Nhưng hồn Chàng đã nhập hòa núi sông Vô Danh Vạn thuở Anh Hùng ! trích thơ Ngô Minh Hằng (tác giả Nguyễn Văn Hai) ******************************* Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Rạng Danh Anh Hùng
Phạm phong Dinh Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc về một dòng họ danh gia vọng tộc ở đất Thần Kinh Huế. Một trong những vị tổ của họ Nguyễn Khoa là ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng trí dũng song toàn làm quan dưới triều Chúa Nguyễn. Ông nổi tiếng vừa là một võ tướng tài ba, vừa là một văn quan chính trực nổi tiếng xử án như thần. Một trong những công nghiệp lớn lưu truyền trong sử sách của ngài là việc dẹp tan giặc cướp ở Truông Nhà Hồ, mở đường cho dân chúng qua lại buôn bán, thăm viếng Nhớ em anh cũng muốn vô Sợ Truông Nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang. Lời tự tình nhớ thương của người con trai Đàng Ngoài đã được người con gái Đàng Trong tha thiết nhắn gửi ra: Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông Nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm. Ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng còn được người đương thời sùng bái vì đức độ thanh liêm và phép xử án công minh. Như một câu chuyện cảm động sau về nỗi oan tình của một người vợ trẻ bị buộc tội đầu độc mẹ chồng, chờ ngày bị xử chém. Ngài Nội Tán dâng lệnh Chúa Nguyễn đi tra xét dân tình đã ghé qua làng và giở lại vụ án bí ẩn. Nhìn nét mặt tiều tụy và thân thể còm cõi bỏ ăn uống vì nhớ thương chồng con nằm co người như một cái xác chết trong khám lạnh của người thiếu phụ, ngài Nội Tán tin chắc nàng bị hàm oan. Nhưng làm cách nào để minh oan cho nàng? Thiếu phụ bị làng nước buộc tội là đã tẩm độc trên lá trầu têm cho mẹ chồng, người mẹ chồng ăn xong ngã ra chết. Ngài Nội Tán thẫn thờ đi giữa những hàng trầu bóp trán suy nghĩ. Chợt ngài trông thấy một con rắn độc trườn mình trong những dây trầu, thỉnh thoảng nó thè lưỡi liếm những giọt sương đọng trên cuống lá trầu. Thì ra con rắn mới chính là thủ phạm làm chia rẽ phượng loan và suýt làm rơi một cái đầu. Người mẹ chồng bị chết vì ăn phải nọc độc của rắn dính trên cuống lá. Vụ án được sáng tỏ, thiếu phụ được minh oan, vợ chồng đoàn viên hạnh phúc. Từ đó về sau người Việt mỗi khi ăn trầu thường hay ngắt bỏ cuống lá để ngừa trường hợp trúng độc. Những cụ tổ dòng họ Nguyễn Khoa từ đời này sang đời khác đều có công nghiệp giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thanh bình cho dân chúng. Được hun đúc từ truyền thống bảo quốc an dân của tiền nhân, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi danh là một trong những tướng lãnh tài năng và có đức độ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nguyên quán tổ tiên là ở làng An Cựu Tây, thuộc huyện Hương Thủy, nhưng Thiếu Tướng Nam lại được sinh ra ở Đà Nẵng ngày 23.9.1927. Ông có một người chị là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm và một người em trai là ông Nguyễn Khoa Phước. Ông cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Giáo Dục Đà Nẵng, cụ nghỉ hưu năm 1941 và trở về Huế. Bà cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam họ Công Tôn Nữ thuộc dòng dõi Tuy Lý Vương, vị vương gia nổi tiếng hay thơ hay chữ đời vua Tự Đức. Văn như Siêu Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường. Thiếu Tướng Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức và là một học sinh hiền lành chăm học. Trong khoảng năm 1933 đến 1939 cậu bé Nam được gửi theo học Trường Ecole des Garcons Đà Nẵng, tốt nghiệp lên học nội trú Trường Lycée Khải Định Huế. Trong tuổi học sinh đầy hoa mộng, chàng thanh niên có vóc dáng cao to cân đối ấy đã hướng niềm vui thanh cao vào nghệ thuật hội họa và có lần đã trưng bày nhiều tác phẩm của mình trong một cuộc triển lãm. Trong khoảng thời gian hai năm 1946 - 1947 chiến tranh nổ lớn sau khi quân đội Pháp trở lại Việt Nam, gia đình của chàng thanh niên Nguyễn Khoa Nam theo làn sóng tản cư ra khỏi thành phố. Ở độ tuổi 19 tràn đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước ông xin phép gia đình gia nhập tổ chức Thanh Niên Tiền Phong, nhưng bà cụ thân sinh đã khuyên nhủ ông thong thả chờ đợi một thời gian nữa. Là người con chí hiếu ông tuân lời cha mẹ, trong lúc chờ đợi ông tiếp tục phát triển tài năng hội họa của mình, tập vẽ tranh sơn dầu, bột phấn và màu chì, cùng tự làm những khung tranh cho mình. Chàng thanh niên tài hoa ấy còn nhận ra rằng mình có năng khiếu về âm nhạc và có một kiến thức rất vững chắc về nhạc lý. Tinh thần của ông còn tiến đến một mức cao hơn, khi ông an lạc thụ nhận những lời dạy và giáo lý nhiệm mầu trong kinh sách của Phật giáo, đọc nhiều sách triết học và Nho giáo, theo đuổi một cuộc sống thanh cao và đầy tính nhân bản, ngay cả khi đã khoác áo nhà binh và chìm đắm trôi nổi trong những cơn bão lửa chiến tranh. Cùng với vị tướng tư lệnh đức độ như cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân. Cả hai vị tướng đều ăn chay trường, cùng được quân dân miền Tây hết mực kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu hay đơn vị chiến trường nào người đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa, hay bao giờ ông cũng xuống câu lạc bộ cùng dùng cơm với mọi sĩ quan khác, có gì ăn nấy. Bà con thân quyến hay thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá dung dị, không vợ con, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành những huyền thoại. Năm 1947 gia đình Thiếu Tướng Nam trở về lại Huế, ông tiếp tục hoàn tất chương trình trung học đệ nhị cấp và được cho theo học khóa học về hành chánh sau đó. Đến năm 1953 ông được bổ làm Chủ Sự , nhưng chưa được bao lâu thì nhận được lệnh nhập ngũ bảo vệ tổ quốc. Đến đây cuộc đời của viên Chủ Sự trẻ tuổi mở ra một khúc quanh quan trọng, quân đội quốc gia non trẻ Việt Nam đón nhận một tài năng, quân sử ghi lại những trang chiến đấu hào hùng của một tướng lãnh xuất sắc. Sinh viên sĩ quan Nguyễn Khoa Nam theo học Khóa 3 Sĩ Quan Bộ Binh tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tháng 10.1953, tân Thiếu Úy Nguyễn Khoa Nam tốt nghiệp và quyết định tình nguyện về binh chủng Nhảy Dù lúc ấy đang trên đà lớn mạnh. Hai cụ thân sinh của người đã qua đời, cho nên người quyết định dâng hiến cuộc đời cho quân đội và binh chủng Nhảy Dù. Sau một khóa học đặc biệt về nhảy dù, Thiếu Úy Nam cùng đơn vị được điều động ra Bắc. Trong vòng một năm, sự chiến đấu quả cảm và tài năng Thiếu Úy Nam đã được xác định bằng chiếc lon mới Trung Úy năm 1954. Trung Úy Nam cùng toàn bộ các đơn vị Nhảy Dù trở vào Nam, sau khi Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước đã ký ngày 20.7.1954. Trung Úy Nam gặp lại người em là ông Nguyễn Khoa Phước sau nhiều năm xa cách, ông Phước lúc ấy chỉ mới 20 tuổi có lần hỏi khi nào thì anh mình mới lập gia đình. Trung Úy Nam mỉm cười hiền lành và từ tốn trả lời: "Anh là lính Nhảy Dù, nếu anh kết hôn sẽ làm cho người ta trở thành góa bụa tội nghiệp lắm". Trong thân quyến họ hàng nhiều người cố giới thiệu nhiều cô gái xinh đẹp, đức hạnh nhưng Trung Úy Nam đều nhẹ nhàng từ chối. Năm 1955 Trung Úy Nam được đề bạt lên nắm một đại đội thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, tham dự chiến dịch tảo trừ lực lượng Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn. Lữ Đoàn Dù lúc ấy đang đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Đỗ Cao Trí mà sau này nổi danh là viên đại tướng kiệt xuất nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đánh thắng được quân Bình Xuyên và truy quét tàn quân đến mãi tận vùng Rừng Sát, các lực lượng võ trang khác của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo chịu về hợp tác và hợp nhất với Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chuẩn bị trận chiến đấu sinh tử chống lại cuộc chiến tranh do Hà Nội phát động, dùng con tốt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mở đường xâm chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ. Sau chiến thắng Bình Xuyên, Đại Úy tân thăng Nguyễn Khoa Nam được gửi đi học một khóa kỹ thuật đặc biệt 8 tháng tại quân trường PAU bên Pháp. Năm sau Đại Úy Nam trở về nước và nhận một chức vụ khiêm nhường là Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Nhảy Dù, đại đội đồn trú trong khuôn viên Trại Hoàng Hoa Thám, Sài Gòn. Cuộc đời binh nghiệp của Đại Úy Nam vụt chói sáng sau chín năm làm việc ở hậu cứ, được vinh thăng Thiếu Tá và được đề bạt làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Làm Tiểu Đoàn Trưởng của một tiểu đoàn với những vị chỉ huy đầy huyền thoại trước và sau ông như Phạm Văn Phú, Trương Quang Ân, Ngô Quang Trưởng, Lê Quang Lưõng,...Thiếu Tá Nam cùng tiểu đoàn miệt mài hành quân trên khắp bốn vùng chiến thuật, rồi năm 1967 vinh thăng Trung Tá lên nắm Lữ Đoàn 3 Dù và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Là con người đạo đức, giàu lòng nhân ái khi ngày ngày phải đối diện với mọi nỗi mọi hình thái kinh khiếp của chiến tranh, Trung Tá Nam từng u sầu nói với ông Phước: "Chiến tranh mang đến chết chóc và tang thương. Lính Việt Cộng mười lăm mười sáu tuổi nằm chết đầy trên núi, đơn vị anh cũng có hàng tá chiến sĩ bị thương, thật là đau xót. Chắc chắn là vợ con họ sẽ đau khổ biết dường nào. Khi trở về hậu cứ anh sẽ tìm cách giúp đỡ những gia đình ấy". Từ khi còn là Thiếu Úy cho đến sau này lên đến Thiếu Tướng, người hết sức yêu thương và chăm lo cho đời sống của binh sĩ thuộc cấp. Người là một Phật tử, phát nguyện ăn chay 15 ngày trong một tháng, cố gắng tôn trọng những giới răn, tránh sát giới nhưng vẫn làm tròn bổn phận của một người lính bảo vệ đất nước. Vì vậy dưới sự chỉ huy hiệu quả của Trung Tá Nam, Lữ Đoàn 3 Dù đã đánh thắng một trận vang dội trên đồi Ngok Van, được vinh thăng Đại Tá cùng với chiếc huân chương Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc. Đại Tá Nguyễn Khoa Nam đã dẫn dắt Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù về Sài Gòn trong những ngày Mậu Thân binh lửa năm 1968, góp phần vào chiến thắng chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên toàn lãnh thổ, tiêu diệt hầu như toàn bộ lực luợng võ trang của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Quãng đường chông gai chiến đấu cho nền tự do của tổ quốc đối với Đại Tá Nam vẫn còn dài thăm thẳm, khi binh đội miền Bắc ngày càng ồ ạt và công khai theo đường mòn Hồ Chí Minh tràn xuống chiếm lấy miền Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tín nhiệm tài năng của vị Đại Tá Dù, ông quyết định bổ nhiệm Đại Tá Nam về miền Tây làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong năm 1969 và một thời gian ngắn sau vinh thăng lên Chuẩn Tướng. Định mệnh đã đưa người hùng quân lực về Sư Đoàn 7 Bộ Binh và để chuẩn bị đưa người lên một vị trí cao hơn, lừng lẫy hơn rồi đi vào lịch sử ngàn đời. Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 hay Sư Đoàn 21 Bộ Binh có nghĩa là đang ở trong vị thế sẽ được đề bạt lên chức vụ Tư Lệnh Quân Khu bất cứ lúc nào, như trường hợp Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Năm 1972, Chuẩn Tướng Nam vinh thăng Thiếu Tướng, ông nhận trách nhiệm nặng nề bảo vệ các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang, trong khi Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 Bộ Binh hành quân lên Bình Long tăng viện Sư Đoàn 5 Bộ Binh và giải tỏa An Lộc. Tướng hùng thì phải có binh mạnh, có anh hùng thì cũng có hào kiệt, các vị Trung Đoàn Trưởng của SĐ7BB đều là những sĩ quan xuất sắc, trong đó có Đại Tá trẻ tuổi Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 đã lập nhiều chiến công cho quân đội. Đại Tá Thành đã đánh thắng lớn trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn giặc trong tháng 4.1975, giữ vững Quốc Lộ 4. Khi Đại Tá Thành đi tù cộng sản ngoài Bắc, nhân khi ông vượt ngục bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục treo Đại Tá Thành lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết. Trong tháng 11.1974 Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đề bạt lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Thiếu Tướng Nam vô cùng an tâm và hài lòng khi biết vị Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh thay thế ông là Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, một con người kiệt xuất và nhiều huyền thoại. Chắc là ông có được kể cho nghe câu chuyện Chuẩn Tướng Hai cùng hai vị sĩ quan Biệt Động Quân đã đáp máy bay C123 và nhảy xuống chiến trường Khe Sanh đầu năm 1969 ra tận chiến hào tiền tuyến để thăm nom và khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân trấn thủ. Một tin vui khác cũng đến với vị tân tư lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, người hùng An Lộc nhận lệnh về trình diện ông với chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Khu IV. Thiếu Tướng Nam cũng đặt hết tin tưởng vào Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, nguyên Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, trung đoàn mà đã đương đầu trực tiếp với chiến xa T54 địch, bắn cháy 4 và bắt sống 1 chiếc trong ngày đầu tiên đỏ lửa trên các đường phố An Lộc tháng 4.1972. Và Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, trấn thủ vững vàng khu vực trách nhiệm. Năm vị tư lệnh cùng với ban tham mưu mạnh và đầy tài năng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã tạo nên một bức tường thép vững chãi bảo vệ quân khu IV. Cho nên trong lúc tình hình các quân khu I, II và III nguy ngập thì tại quân khu IV quân địch bực tức bó tay không cách nào có thể làm xoay chuyển thế trận để chiếm lấy miền Tây. Tướng Dương Văn Minh trong ngày 30.4.1975 ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng và bàn giao các vị trí cho giặc, trang sử chiến đấu oanh liệt và hào hùng cho nền tự do của tổ quốc của quân dân Việt Nam Cộng Hòa bị lật sang trang một cách tức uất. Trong lúc những chiếc khăn rằn và những chiếc áo xanh màu rêu mốc của cộng quân tràn ngập khắp phố phường thủ đô Sài Gòn sau 10 giờ sáng ngày 30.4.1975, thì dưới Quân Khu IV, các vị tướng lãnh vẫn còn chưa chịu đầu hàng dễ dàng như vậy. Vài ngày trước đó Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng đã cùng soạn kế hoạch phòng thủ Quân Khu IV, chỉnh đốn binh lực, tu sửa doanh trại, công sở tại Cần Thơ để làm thủ đô phòng thủ và đón chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ Sài Gòn di tản về tiếp tục chiến đấu. Bản kế hoạch điều động và phối trí các đơn vị được giao cho một đại tá trong ban tham mưu quân đoàn để liên lạc với các đơn vị đã không đến tay các đơn vị trưởng để được thi hành. Người đại tá này đã bỏ ngũ và biến mất, có lẽ ông ta đã di tản được ra khỏi Việt Nam. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng chỉ có thể lắc đầu, thời gian và tình thế không còn thuộc về phía Việt Nam Cộng Hòa, nói chính xác hơn Miền Tây trong ngày 30.4.1975. Vận nước đã đến lúc tang thương như thế này, thành mất thì tướng phải mất theo thành, cho tròn tiết tháo và dũng khí người làm tướng. Hai vị Tướng đứng dưới cột cờ trong sân Bộ Tư Lệnh, thần thái vẫn ung dung và từ giã nhau sau cái bắt tay vĩnh biệt. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của ông lần cuối cùng. Những ánh mắt u sầu của những chiến sĩ bất hạnh nhìn vị Tư Lệnh, hy vọng người sẽ bảo bọc chở che cho trong những giây phút thê thảm ấy. Thiếu Tướng Nam mắt đẫm lệ nhìn những người chiến sĩ thân thương của ông, người rùng mình không dám nghĩ đến những chuyện ghê rợn mà quân cộng sẽ đối xử với những người thất trận thương phế này, sau khi ông đã vĩnh viễn đi thật xa sang một thế giới khác. Có một lần khi người xem cuộn phim Đường 9 Nam Lào tịch thu được trong một cuộc hành quân, với cảnh Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị cũ của ông, bị sa vào tay giặc, Thiếu Tướng Nam thở dài nói với một sĩ quan ngồi gần bên: "Nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, chắc mình phải tự sát". Giờ đây cái ý tưởng không chịu cúi đầu sống nhục trong cùm xích cộng sản và lấy cái chết để báo ơn Tổ Quốc trở lại và hiện rõ hơn bao giờ hết. Mối thương cảm vận nước, chiến hữu và thương binh đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Khi Thiếu Tướng Nam trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế buổi tối cùng ngày, ông nhận được tin Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tự kết liễu tại văn phòng Tư Lệnh Phó, ông điện sang bà quả phụ Thiếu Tướng Hưng an ủi. Người tự biết giờ ra đi của mình cũng chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nữa thôi. Có một viên thiếu tá địch xin vào gặp Thiếu Tướng để tiến hành việc bàn giao, vẫn giữ uy phong của một vị Tư Lệnh, người đã dõng dạc trả lời: "Chúng tôi sẽ thu xếp, nhưng các anh không được phép bạo động. Nếu trái lại, tôi sẽ không bảo đảm ngay chính mạng sống của anh". Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ quân phục tác chiến màu xanh ô liu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trong chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa súng lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Trên bàn có một chiếc cặp đựng một ít giấy tờ cá nhân cùng 40.000 đồng, số tiền lương khiêm nhường của một vị Tướng. Ngoài ra trong túi áo người còn có một quyển kinh Phật gói trong bao plastic. Ngày hôm sau một vài sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn vào chào kính vị chỉ huy anh dũng và tìm cách mai táng thi thể Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Trung Tá Bác Sĩ quân đội Hoàng Như Tùng, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản cùng một số chiến sĩ làm lễ hạ huyệt và mai táng Thiếu Tướng Nam trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1.5.1975. Ngày 2.5.1975 cụ bà Diệu Khâm cùng người con gái xuống Cần Thơ và dựng mộ bia cho người. Cho đến tháng 3.1994 bà hiền nội ông Nguyễn Khoa Phước, trong lúc ông Phước còn trong nhà tù miền Bắc, đã xuống Cần Thơ bốc mộ và hỏa thiêu hài cốt Thiếu Tướng Nam đựng trong hũ đem về thờ trong chùa Gia Lâm nằm trên đường Lê Quang Định, Gò Vấp, tỉnh Gia Định cho mãi đến ngày nay. Lịch sử rốt cuộc đã trả lại công lý và sự thật cho những oan khuất mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã ngậm đắng nuốt cay mang mễn từ một phần tư thế kỷ qua. Các nhà viết quân sử thế giới, kể cả ông Henry Kissinger trong thời điểm hiện nay đều cùng thừa nhận Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu rất anh dũng và là một nhân tố tích cực chống giữ an toàn cho vùng Đông Nam Á, để những nước này có những cơ hội trở thành những con rồng con hổ ở Á Châu. Những vị thần tướng nước Nam Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, v.v.. là những ánh sao chói chang của lịch sử, là niềm tự hào của đất nước chúng ta và những thế hệ con cháu Việt Nam cho đến ngàn đời sau. (tác giả Phạm Phong Dinh) *************** Người Anh Trong Khóa Lê Chu, Trung Tá Truyền Tin QLVNCH, bạn cùng khóa với Tướng Nguyễn Khoa Nam Đã 26 năm trôi qua kể từ ngày Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ giã cõi trần. Thế nhưng, mỗi khi nhớ lại những năm tháng phục vụ trong Quân Đội dưới quyền chỉ huy của ông, tôi có cảm tưởng những sự việc đó dường như mới xẩy ra ngày nào, rất gần đây thôi. Kỷ niệm về khoảng thời gian sống cạnh ông vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày - 1/4/1953 - cùng một nơi, Huế - theo lệnh động viên, thuộc tài nguyên Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 3 Thủ Đức. Khi trình diện Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu, tôi đã gặp ông và một số các anh khác mà tôi đã biết từ trước như các anh Lê Liêm, Phạm Đình Chi, Võ Sum, Lê Cao Phan, Trần In, Phan Cảnh Tuân, Lê Quang Thị v.v... Tôi xem các anh ấy như những người anh - lúc ấy, tôi là người trẻ tuổi nhất - 22 tuổi. Vào những năm 1950 đến 52, thỉnh thoảng tôi có gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở Huế. Lúc nào ông cũng ăn mặc gọn ghẽ nhưng rất chỉnh tề, dáng điệu khoan thai, lời ăn tiếng nói dịu dàng, từ tốn, hòa nhã. Trông ông, tôi không thấy nét khắc khổ của các bậc tu hành, cũng không thấy nét trầm tư của một triết gia. Ông vui vẻ nhưng không bộc lộ sự tinh nghịch của tuổi trẻ như chúng tôi. Từ Huế, đoàn chúng tôi trên 100 người, đáp tàu hỏa vào Đà Nẵng. Chúng tôi dừng chân ở đây hai hôm để chờ tàu Gascogne cập bến Đà Nẵng đưa chúng tôi vào Sài Gòn. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc bấy giờ là ông Lê Tá đã tiếp đoàn chúng tôi một cách chân tình và niềm nở. Khi chúng tôi nhập trường, ở đấy đã có mặt các anh miền Nam. Và hai hôm sau, các anh từ miền Bắc, đông nhất trong khóa, đáp tàu Saint Michel từ Hải Phòng mới vào đến Sài Gòn. Chúng tôi được phân phối đi các đại đội. Khóa 3 Thủ Đức chia làm 5 đại đội, gồm 21 trung đội. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc Đại Đội 4 còn tôi ở Đại Đội 5, học ngành Truyền Tin. Tuy khác đội, nhưng sau những giờ luyện tập ở bãi tập và học lý thuyết, tôi vẫn thường gặp ông ở nhà ăn và câu-lạc-bộ nhà trường, chuyện trò vui vẻ. Cuối tuần, chúng tôi được nghỉ học, có xe đưa rước về Sài Gòn thăm thân nhân. Tôi có vài dịp đi dạo phố Sài Gòn, xem chiếu bóng và đi ăn nhà hàng với ông. Qua giai đoạn một, xong phần huấn luyện tổng quát, chúng tôi bắt đầu vào giai đoạn hai, học vào từng ngành. Tuy không được rảnh rỗi như trước, nhưng tôi vẫn còn gặp ông. Mãn khóa, tôi ở lại trường tiếp tục học phần chuyên môn. Ông chọn binh chủng Nhảy Dù. Trước ngày mãn khóa, mỗi khi gặp nhau, anh em chúng tôi thường trao đổi ý kiến, xem nên chọn nơi nào. Những lúc ấy, ông không hề tiết lộ ý định của mình. Thế nên khi thấy ông chọn binh chủng Nhảy Dù, anh em chúng tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì chúng tôi cứ nghĩ rằng gia nhập binh chủng Dù phải là những người xông xáo, có tí máu liều - xin lỗi quý vị bên Nhảy Dù. Đằng này, con người ông vốn quá mực thước. Nhưng dự đoán của chúng tôi sai. Ông đã thành công trong binh nghiệp, từ Tiểu Đoàn Trưởng đến Lữ Đoàn Trưởng Dù cho đến chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Năm 1956, hai năm sau khi chúng tôi giã từ quân trường, tôi gặp lại ông ở Huế. Trông ông vẫn như trước, tuy da có xậm, nét mặt rắn rỏi, bớt đi phần nào dáng thư sinh ngày trước. Tôi tháp tùng phái đoàn các đơn vị ở Huế đến Phú Bài đón chào ông Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung đến viếng thăm Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu. Trước khi máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống Phú Bài, có vài chiếc máy bay vận tải DC3 chở binh sĩ Nhảy Dù từ Sài Gòn đáp xuống. Trung Úy Nguyễn Khoa Nam có mặt trong đoàn quân ấy. Đơn vị Nhảy Dù đến Huế biểu diễn nhảy dù trên sông Hương cho bà con cố đô xem. Chúng tôi mừng rỡ khi gặp lại nhau. Đang chuyện trò vui vẻ thì máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống, chúng tôi tạm chia tay. Cuối năm 1968, tôi gặp lại ông sau mười hai năm xa cách. Ông đang chỉ huy một đơn vị Dù hành quân giải tỏa áp lực địch sau cuộc tấn kích đợt 2 Mậu Thân. Ông đóng bản doanh tại Phú Lâm, đang bận rộn với công tác hành quân, thành thử không có thì giờ chuyện trò lâu dài. Đầu năm 1970, lần thứ ba sau khi chúng tôi rời quân trường, tôi gặp lại ông ở mặt trận đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đã thay đổi cách xưng hô với ông lúc nào không biết. Không còn gọi ông thưa Anh mà thưa Đại Tá và sau cùng thưa Thiếu Tướng. Tôi là sĩ quan tham mưu và kỹ thuật phục vụ tại Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 và ông là cấp chỉ huy. Tuy cùng xuất thân một khóa ở Thủ Đức, ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi ròng rã sáu năm, nhưng trước hết và trên hết ông là bậc thầy của tôi. Ông đã để cho chúng tôi, những người có cơ hội phục vụ dưới quyền chỉ huy của ông - những tấm gương sáng về cung cách phục vụ Quân Đội và Đất Nước. Qua ông, chúng tôi đã thấy được những nét nhân dũng cao quý của một người chiến sĩ, một cấp chỉ huy. Qua cung cách điều quân cũng như đối nhân xử thế, chúng tôi kính phục ông. Trong quân đội, thuộc cấp tuân hành lệnh của thượng cấp là do quân kỷ nhưng sự kính phục thì nó đến từ con tim và khối óc. Cấp chỉ huy có thể đạt được sự vâng lời của thuộc cấp nhưng chưa hẳn đã thu được sự cảm mến và kính phục của người dưới quyền. Tướng Nguyễn Khoa Nam, lúc sinh thời, không thích ai nói về ông, nhất là những lời khen. Ông vốn rất mực nhu mì và phần nào kín đáo. Thế nên, cho dù qua năm tháng dài sống cạnh ông, tôi có một số kỷ niệm về ông, tôi vẫn giữ kín không hề thổ lộ. Nhưng nay, gần đến ngày 30 tháng 4, ngày đen tối của đất nước và cũng là ngày ông từ giã cuộc đời, nghĩ rằng ông đã thuộc về lịch sử, tôi viết vài giòng để tưởng nhớ đến ông. Kính mong hồn thiêng của ông tha thứ cho tôi về việc làm trái ý của ông lúc sinh thời (tác giả Lê Chu). ****************** Kỷ Niệm Về Nguyễn Khoa Nam Vĩnh Bội Tôi đặt bút xuống mặt bàn, nhìn một vòng quanh Thư Viện Quốc Gia Paris. Nhiều mái đầu tóc điểm hoa râm hay bạc trắng như tôi - đến đây để tìm lại những cội nguồn - đang chăm chú dán mắt vào những chồng sách cũ kỹ, úa vàng màu thời gian. Ừ nhỉ! Cũng vào một buổi trưa hè oi bức như hôm nay! Tôi thở dài... nhớ về bao nhiêu kỷ niệm thuở niên thiếu. Thời gian qua như bóng mây, thoáng chốc mà đã gần 50 năm trôi qua. Giờ đây, bằng hữu trong nhóm chúng tôi đứa còn đứa mất, mỗi đứa mỗi nơi, chỉ còn lại mình tôi trơ trọi, lạc lõng giữa kinh thành xa lạ này. Nhớ lại ngày Tổng Khởi Nghĩa mùa Đông năm 1946! Huế đã đổi khác nhiều quá. Một sự im lặng nặng nề đến ngạt thở, bao trùm cả hè phố, thỉnh thoảng chỉ bị lay động bằng những hồi còi của đoàn lính lê dương đi tuần. Chúng tôi, phần đông thuộc ba lớp đệ nhất trường Khải Định, cùng với các bậc đàn anh như Cao Văn Khánh (sau này mệnh danh là con hùm xám Pleiku), Đoàn Huyên (sau trở thành thượng tướng Việt Cộng), đã lên đường theo tiếng gọi của đất nước trong thời binh lửa. Là những thanh niên yêu nước sinh vào thời chiến, chúng tôi hăng hái bước nhịp nhàng theo điệu Tiến Quân Ca ra biên khu chiến đấu chống Pháp, không muốn ngậm ngùi quay nhìn lại để thấy: "Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng" (Chính Hữu) Những ý nghĩ vẩn vơ dẫn đưa tôi về với Nguyễn Khoa Nam. Chúng tôi trở lại mái trường xưa vào đầu mùa Hè năm 1950 sau bốn năm xa cách. Tình cờ vì một sự dồn lớp sao đó, tôi và Nam đã chọn được ngồi hàng ghế cuối, để dễ bề nói chuyện thỏa thích mà không ai chú ý. -Bội ơi, tau muốn làm báo, mi có chịu không? Tôi trả lời câu hỏi bất chợt của Nam: -Tau có viết báo khi mô mà nói! Tôi vẫn hình dung rõ ràng trong trí, dáng người mảnh khảnh, nho nhã có nụ cười hiền hòa, gương mặt xương xương, nước da trắng, môi hồng như con gái, đôi mắt trong sáng, nhưng không kém phần ranh mãnh ấy. -Tau muốn lấy tên tờ báo là "Mấy Anh Mấy Chị." Tôi lại càng ngạc nhiên hơn, đưa mắt nhìn Nam như thầm hỏi, thì anh phá lên cười: -Mi biết không, buổi sáng đi học qua chùa Ba La, khi mô tau cũng thấy một mụ ăn mày, ngả nón xin tiền. Mụ ấy nói: "Thưa mấy anh mấy chị!" Mụ nói rát cổ nhưng chẳng ai cho đồng xu teng nào. Rồi Hè trôi qua, tôi rời Huế, không biết tờ báo "Mấy Anh Mấy Chị" có thành hình không, duy chỉ biết sau đó, mình về đây để lại dự khán nhiều lớp thanh niên khác ra các chiến trường khốc liệt như Hòa Bình, Na Sản, rồi Điện Biên Phủ. Mười năm trôi qua, tôi trở về Việt Nam vào năm 1960. Mặc dầu bận rộn trong công việc kỹ thuật, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng được nghe nói đến Nguyễn Khoa Nam. Anh đã hoàn toàn đổi khác, và nay trở thành một vị chỉ huy quân đội lừng danh... Tôi mở cuốn "Vietnam qu'as tu fais de tes fils?" (Việt Nam, anh đã làm gì các con anh?) do Pierre Darcourt, phóng viên kiêm sử gia Pháp, kể lại cuộc phỏng vấn Tướng Nam như sau: "Tướng Nam siết mạnh tay tôi khi ông tiếp tôi tại văn phòng Tư Lệnh. Vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV, người chiến sĩ Dù, 48 tuổi, màu da sạm nắng, có vóc dáng rắn chắc. Ông được huấn luyện cực khổ trong trường nhảy dù của Pháp, rồi sau này được Mỹ huấn luyện về hành quân trực thăng vận." Pierre Darcourt viết tiếp: "Điều đầu tiên làm cho ta chú ý đến ông là vẻ mặt của một chiến sĩ cao quý. -Tướng Nam, tôi đến để tìm hiểu tình hình quân sự. -Tôi xin nói về tình hình của Quân Khu IV. Những đơn vị địa phương quân và nghĩa quân được cắt giữ gìn lãnh thổ; do đó tôi còn đầy đủ 3 sư đoàn chính quy để hành quân và đánh mạnh vào những đơn vị Cộng Sản xâm nhập từ Cao Miên. Ngày hôm qua và hôm nay, chúng tôi chạm nặng với một trung đoàn của Công Trường 5 Bắc Việt. Chúng tôi cũng tịch thu được trên 100 vũ khí đủ loại, kể cả đại bác không giật, súng cối, súng phóng hỏa tiễn và luôn cả đại liên phòng không nữa. -Ông làm thế nào để giải thích được sự sụp đổ ở miền Trung? Tướng Nam vươn vai, đứng lên đi bước một trong văn phòng. Sau mấy phút im lặng, ông lại ngồi xuống ghế và nói tiếp: -Ông Thiệu bị ám ảnh vì chuyện bị người Mỹ bỏ rơi. Tôi tin là ông Thiệu muốn làm cho tình hình đột nhiên hóa ra bi thảm, hy vọng rằng cuối cùng, Tổng Thống Ford sẽ vượt qua được một vài giới hạn nào đó để tiếp tục yểm trợ cho chúng tôi. Nhưng ông Thiệu tính lầm, và chúng ta đã tốn quá nhiều giấy mực bàn về chuyện này. Cách tốt nhất để gây áp lực với Quốc Hội Hoa Kỳ và Toà Bạch Ốc là chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Ngay cả phía Bắc Việt cũng không tin rằng họ dễ thành công đến như vậy. Bằng chứng rõ nhất là mãi đến tuần qua, 4 công trường chiến lược của miền Bắc mới vượt tuyến 17 xâm nhập miền Nam. Tướng Nam nắm tay tôi và nói thêm: -Chúng tôi đã làm việc với ông Thiệu gần 10 năm nay. Ông không còn được sự tín nhiệm của các tướng lãnh. Ông ban hành các mệnh lệnh mà không cần tham khảo ý kiến của ai. Tôi nghĩ ông không thể thắng lướt được các biến cố. Mọi người đang nổi giận vì quân đội bị hạ nhục. -Thế ông tính sao đây? Lật đổ ông Thiệu chăng? Tướng Nam bật lên tiếng cười chua chát: -Dù sao, cũng không phải tôi đâu? Tôi chỉ là một người lính chuyên nghiệp. Nhiệm vụ tôi là đánh giặc và tôi sẽ tiếp tục đánh trận. Chính trị là chuyện bẩn thỉu. Tôi không muốn lội vào vũng bùn nhơ nhớp đó..." Tôi với tay lấy một quyển sách do vị cố đạo Cardière viết vào 28 tháng 4 năm 1915 trong chồng sách để trên bàn. Vị cố đạo Pièrre Cardière đã viết: "Trong phiên họp để thuyết trình về việc tìm kiếm những ngôi mộ cổ của dòng họ Nguyễn Khoa tại làng Tứ Tây, phía Đông Nam núi Ngự Bình, tôi có nhờ ông Nguyễn Khoa Đạm, giáo sư Hán Văn trường Quốc Tử Giám, và ông Nguyễn Khoa Kỳ, Tư Vụ bộ Hình, dịch các bia mộ, đồng thời sưu tầm gia phả dòng họ Nguyễn Khoa. Tôi tìm được tên một vị tướng trong tộc Nguyễn Khoa là Nguyễn Khoa Kiên. Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt Truyện sơ tập, và Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên cũng đã viết về một danh tướng tên là Nguyễn Khoa Kiên." Cardière viết thêm: "Nguyễn Khoa Kiên thuộc đời thứ bảy dòng họ Nguyễn Khoa, sanh năm Giáp Tuất 1754 và mất năm Ất Vị 1775 - đúng 200 năm trước ngày Tướng Nguyễn Khoa Nam tự vẫn." Việt Nam ta có câu: "Con dòng cháu giống." Pháp thì nói: "Bon sang ne sais pas mentir." Còn tôi, vì là con nhà Phật nên tin ở thuyết luân hồi: Phải chăng Tướng Nguyễn Khoa Nam là hiện thân của danh tướng Nguyễn Khoa Kiên, 200 năm về trước? Cuốn sách tham khảo cuối cùng vừa được xếp lại thì tôi cũng mệt nhoài, choáng váng. Ngả lưng ra ghế bành, ngước nhìn lên trần vòng cung cao vút kiến trúc và chạm trổ theo thời đại Trung Cổ, như điện Panthéon nơi chôn cất các vị anh hùng, danh nhân nước Pháp, đầu óc tôi đi vào không tưởng và trí tưởng như vẫn đang đàm thoại với người quá khứ: -Bội ơi, ngó ôn mệ tau có oai không ? -Thì đại ca cũng rứa, có thua chi mô! (tác giả Vĩnh Bội)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 7:05:00 GMT 9
Nguyễn Khoa Nam, mặt trời tháng 4
Việt sử ghi rằng khi Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây Nam Phần, cụ Phan Thanh Giản không giữ được thành đã uống thuốc độc tự tử. Về sau Cần Thơ thành lập trường trung học lấy tên là Phan Thanh Giản.
30 tháng 4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Khu IV nhận trách nhiệm không giữ được miền Tây đã dùng súng lục tự vẫn. Trước đó Tư Lệnh đã đi một vòng lần cuối thăm những người lính của ông tại Quân Y Viện Phan Thanh Giản.
Bên giường bệnh, một thương binh mà vết thương còn chảy máu đã nắm lấy tay vị tư lệnh mà nói rằng:
- Xin Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em.
Nước mắt chảy dài trên mặt vị Thiếu Tướng của Quân Đoàn IV. Ông nói:
- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Đó là lời của ông Nam nói với anh thương binh và đồng thời ông nói với cả QLVNCH. Ông đã ở lại vĩnh viễn. Ông là Mặt Trời Tháng 4.
Nguyễn Khoa Nam không phải là con người của huyền thoại. Ông là con người rất gần gũi với chúng ta. Sinh năm 1927 tại Thừa Thiên, đã đỗ tú tài và đi làm công chức tại Huế từ 1951. Sau đó động viên Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức 1953 và đeo lon Thiếu Úy tham dự các cuộc hành quân miền Bắc trong hàng ngũ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.
Năm 1965, ông đã lên Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đánh trận Quảng Ngãi nhận đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Năm 1967, ông thăng cấp Trung Tá chỉ huy Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù thắng trận Kontum với đệ tam đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Trong quân đội không có sĩ quan cấp Trung Tá nào có Bảo Quốc Đệ Tam ngoại trừ người đầu tiên là Trung tá Đỗ Cao Trí và người thứ hai là Nguyễn Khoa Nam.
Năm 1970, với cấp bậc Đại Tá ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho.
Năm 1974, ông lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV với cấp bậc Thiếu Tướng.
Cho đến tháng 4-1975, ông vẫn sống cuộc đời độc thân và gần như dâng hiến tất cả cuộc đời cho quân đội và đất nước.
Trong suốt hơn 20 năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, Hà Nội luôn luôn xưng tụng các anh hùng vô sản nhưng trên thực tế trong hàng ngũ các tướng lãnh của phe cộng sản chưa hề có cấp lãnh đạo nào nêu gương dũng liệt. Phần lớn là các huyền thoại về cấp dưới đã hy sinh trong gian khổ. Ngay cả khi bị bắt bởi quân đội Pháp thời trước hay QLVNCH sau này thì chính sách của đảng luôn luôn là hy sinh đàn em và bảo vệ cán bộ.
Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua ngày 30 tháng 4-1975, các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai đã ghi tên trong quân sử bằng hành động tuẫn tiết rất can trường.
Do những tình cờ của lịch sử, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dâng hiến cho đất nước những người con uy dũng của cả ba miền: Lê Nguyên Vỹ của đất Thăng Long, Nguyễn Khoa Nam của Phú Xuân, và Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai của Thành Gia Định.
Sau cuộc chiến, hàng chục ngàn sĩ quan các cấp đã bị lùa đi cải tạo nhưng sau nhiều năm, gần như không một ai của phòng tuyến quốc gia bị khuất phục theo cộng sản.
Nhân ngày 30 tháng 4 của 29 năm sau, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị câu chuyện về những giờ phút cuối cùng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Con người dù đã chết nhưng gương sáng vẫn chói lọi như Mặt trời tháng 4.
Bài viết này được trích đoạn từ bút ký đặc biệt của Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Giao Chỉ San Jose. " Tôi là Trung úy Lê Ngọc Danh, xuất thân Thủ Đức, đã tham dự các cuộc hành quân tại Trung Đoàn 10 Bộ Binh, bị thương nhiều lần. Cơ duyên tình cờ về làm tùy viên cho ông Tư Lệnh từ lúc còn ở Sư Đoàn 7 vào năm 1973 rồi đến cuối năm 1974 thì theo ông về Quân Khu IV tại Cần Thơ.
Trong suốt thời gian làm việc gần tướng Nguyễn Khoa Nam, ông xem tôi như người nhà, đứa con trong gia đình, không bao giờ la rầy hay nặng tiếng. Tôi đã ở với ông cho đến giây phút cuối và xin kể lại từ tháng 4-1975 như sau:
Tháng 4-1975
Tình hình chiến sự vào tháng 4-1975 rất căng thẳng. Vùng 1, Vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư Lệnh đi họp liên tục, lúc thì ở Tổng Tham Mưu, ở Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống, lúc ở Dinh Phó Tổng Thống. Thời gian còn lại, Tư Lệnh thường đến thăm các tiểu khu và sư đoàn trực thuộc, nhiều nhất là các tiểu khu Long An, Định Tường, Kiến Tường và Châu Đốc.
Vào đầu tháng 4, Việt cộng tấn công mạnh, nhằm vào Quốc Lộ 4 thuộc hai tiểu khu Định Tường và Long An. Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Định Tường còn Sư Đoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Long An.
Vào buổi trưa, Tư Lệnh đến Tiểu Khu Long An để thị sát tình hình tại đây, VC đã pháo một quả hỏa tiển 122 ly rơi xuống giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Địch càng ngày càng tấn công mạnh dọc Quốc Lộ 4, Tư Lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu của tất cả sĩ quan cùng binh sĩ. Tư Lệnh đã khen thưởng các đơn vị thuộc Vùng 4 vì không hề bỏ chạy trước địch quân, không để mất một căn cứ nên cho tới bây giờ VC vẫn không chiếm được một vị trí nào cả.
Vào một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV và tư dinh Tư Lệnh. Pháo địch xuất phát từ hướng Đông của Chi Khu Bình Minh thuộc Tiểu Khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư Lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.
Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân Đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Đéc.
Trong lúc này, công việc của Tư Lệnh rối bời vì lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản về vùng ngoại ô. Thiếu Tướng ra lệnh các tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư Lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân Đoàn IV và nhất là giữ gìn Quốc Lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư Lệnh đặc biệt đến thăm Tiểu Khu Châu Đốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu.
Những ngày kế tiếp, Tư Lệnh họp liên tục với các tiểu khu và sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lượt bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
Sáng ngày 24 tháng 4, Tư Lệnh đi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Qua sáng 25 tháng 4, họp ở Tiểu Khu Định Tường, trong phiên họp này có tướng Trưởng tham dự.
Ngày 27 tháng 4, Tư Lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí.
Sáng 28 tháng 4, Tư Lệnh tiếp cố vấn Mỹ tại văn phòng Tư Lệnh.
Sáng ngày 29, Tư Lệnh vẫn đi bay thị sát, buổi chiều 29 về họp với tương Mạch Văn Trường ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao xao, nhớn nhác, chạy lung tung. Có người đi hôi của tại Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy vương vãi đầy mặt Đại Lộ Hòa Bình, quần áo, ly tách, đồ hộp, lon bia vất tứ tung.
Áp lực địch vẫn đè nặng ở Quốc Lộ 4, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp Tư Lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư Lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư Lệnh viết nhật lệnh đưa Thiếu tá Đức, Chánh Văn Phòng chuyển đến phòng Chiến Tranh Chính Trị để đọc trên Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Cần Thơ để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ.
Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư Lệnh và kèm theo là bản nhật lệnh của ông, nội dung ngắn gọn nhằm trấn an dân chúng không được bạo động.
Sau khi nghe đọc nhật lệnh trên TV, Tư Lệnh buồn buồn chấp tay sau lưng, tư tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư Lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư Lệnh Phó vào gặp Tư Lệnh bàn luận về thời cuộc.
Đêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc Tiểu Khu Vĩnh Bình. Địch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư Lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vĩnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
Sáng sớm 30 tháng 4, Tư Lệnh bay xuống họp ở Tiểu Khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt nhanh chóng xong ông bay về Cần Thơ.
Thành phố Cần Thơ sáng ngày 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng và xe cộ thưa thớt. Mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh và tình hình chung đang rất bất lợi cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, tinh thần chiến đấu của binh sĩ thuộc Quân Đoàn IV vẫn hăng say, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng.
Bất chợt, tiếng của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vang lên trên đài phát thanh. Lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện có đại ý như sau: “Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư Lệnh và nói:
- Tổng thống Dương Văn Minh đã...
Chưa hết câu, Tư Lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
- Qua đã nghe rồi.
Tôi lặng người, quay lưng chầm chậm bước ra ngoài.
Từ lúc này, Tư Lệnh Phó thường vào gặp Tư Lệnh trong văn phòng qua lối cửa chánh. Lần thứ hai, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp gấp Tư Lệnh trên điện thoại. Ông muốn xin giật sập cầu Long An để cắt đường tiến quân của VC về Vùng 4. Một lần nữa, Tư Lệnh bảo tôi chuyển lời: “Cầu để yên không được phá sập.”
Khoảng gần trưa 30 tháng 4, tôi được báo cáo là Thiếu Tá Chánh Văn Phòng rời văn phòng bỏ đi theo Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan theo lộ trình dọc sông Hậu Giang ra biển. Tôi vội xuống hầm làm việc mới của Tư Lệnh để báo cho ông rõ. Căn hầm này là phòng làm việc thừ hai của Tư Lệnh, nằm ngay dưới chân phòng làm việc chính thức, được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn. Hầm rộng và cao, thiết trí giống như phong làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phong Tư Lệnh. Bước vào hầm, tôi thấy Tư Lệnh đang ngồi viết tại bàn làm việc. Tư Lệnh, như thường lệ, đưa tay kéo lệch cặp mắt kính trề xuống sống mũi, ngước nhìn tôi hỏi:
- Có gì không?
- Trình Thiếu Tướng, Thiếu Tá Chánh Văn Phòng và Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu.
Tư Lệnh vẫn điềm nhiên, không tỏ chút gì giận dữ, ông nói:
- Đi hả? Đi làm chi vậy?
Nói xong, Tư Lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tĩnh như không có gì quan trọng xảy ra. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở Radio 24/24 để theo dõi tình hình ở Sài Gòn. Đang lắng nghe Radio, Tư Lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
- Gọi Đại tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh chỉ định Đại tá Thiên nhận chức vụ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh kể từ sáng hôm đó. Tức là sau khi đã có lệnh đầu hàng.
Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở Câu Lạc Bộ Cửu Long về, Tư Lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư Lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư Lệnh nhìn từng trang một, rồi từ từ xé nhỏ bỏ vào sọt rác.
Khoảng 2 giờ chiều, Tư Lệnh xuống hầm làm việc. Tôi không biết Tư Lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này kín mít. Tư Lệnh bấm loa gọi tôi:
- Danh, xuống đây tôi bảo.
Tôi xuống cầu thang vào gặp Tư Lệnh. Ông đang ngồi ở Sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi, Tư Lệnh nói:
- Danh tháo bỏ tất cả ranh giới và những mũi tên trên bản đồ. Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ.
Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mũi tên đỏ chĩa vào. Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật sẽ thực hiện vào giờ chót theo như tin đồn. Tôi tháo gỡ tất cả những mẩu băng keo bỏ vào sọt rác, tháo xong tôi nói:
- Trình Thiếu Tướng, em đã tháo xong.
- Được rồi.
Vào khoảng 4 giờ chiều, viên Quân Cảnh ở phòng chờ đợi lên gặp tôi nói:
- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư Lệnh.
Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi gõ cửa vào gặp Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu Tướng.
- Được, mời họ vào.
Xuống phòng khách, tôi thấy hai người Việt cộng đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo. Một người hơi thấp, nước da ngăm đen cũng mặc thường phục. Họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí.
Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư Lệnh. Tư Lệnh chào hỏi và mời ngồi nơi Sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng Colt 45 và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư Lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này cách khoảng 4 thước, với tư thế sẵn sàng nổ súng. Tôi sợ hai ông này ám sát Tư Lệnh nên gườm tay súng chuẩn bị nếu thấy hai ông này có hành vi lạ là tôi bắn liền. Tư Lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợ Tư Lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
- Danh đi ra ngoài để tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ... em ở đây với Thiếu Tướng.
- Được rồi, không sao đâu. Em ra ngoài đi.
- Dạ.
Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn gườm thủ thế, mắt nhìn về hướng văn phong theo kẽ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư Lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư Lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Sau đó, hai người VC đứng dậy từ giã, Tư Lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về. Tư Lệnh ngồi trên ghế, gương mặt thật buồn. Một lát sau, ông đứng dậy đi qua đi lại trong phong. Thời gian trôi qua thật chậm, căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung: Nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư Lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư Lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra? Bây giờ còn đi ngoại quốc kịp không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu Tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã xoay trong óc tôi. Bất chợt, tôi nghe tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Nhìn ra ngoài đường, tôi thấy một đoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam. Tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn cho kỹ, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xéch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư Lệnh sửa soạn về tư dinh, Thiếu Tướng nói với tôi:
- Danh chuẩn bị xe để đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.
Xe chở Tư Lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư Lệnh dến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư Lệnh đến bên thương binh này hỏi:
- Em tên gì?
- Dạ em tên...
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Địa Phương Quân ở Tiểu Khu Vĩnh Bình.”
Tư Lệnh nói tiếp:
- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
- Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
- Em cố gắng điều trị... có Qua ở đây.
Tư Lệnh bước nhanh ra cửa bệnh viện, khi ra đến ngoài sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nhìn về bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì nữa cả. Trên suốt đường về tư dinh, Tư Lệnh không nói một lời nào khiến tôi cảm thấy sự im lặng quá nặng nề.
Về đến tư dinh, tôi thấy Quân Cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẽ họ đã bỏ đi bớt.
Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp Trung sĩ Hộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Hộ, tôi nói:
- Anh Hộ, bắt một con gà làm thịt và luộc để Thiếu Tướng dùng!
- Dạ con gà nào Trung Úy?
- Đàn gà nòi Thiếu Tướng nuôi đó! Anh chọn một con!
Lúc này đã hơn 8 giờ tối, về hướng Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen nghịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Hộ làm thịt và nấu xong. Tôi đích thân ra sau Trailer mời Thiếu Tướng vào ăn cơm. Tư Lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
- Danh ngồi ăn cơm cho vui.
Đi các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư Lệnh còn ở dinh, Tư Lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư Lệnh mời tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì khác thường, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum, bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư Lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư Lệnh hỏi:
- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:
- Dạ mấy con gà Thiếu Tướng nuôi ở sau. Em bảo anh Ngộ làm thịt một con để Thiếu Tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy? Ăn cơm thường là được rồi. Thôi, ăn kẻo nguội!
Tư Lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng rồi vội buông đũa và nói:
- Dạ, em ăn xong, Thiếu Tướng dùng tiếp.
Thiếu Tướng nói:
- Ăn tiếp chứ. Sao Danh ăn ít vậy? Thịt còn nhiều.
Vừa nói, Tư Lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi. Bình thường chắc là ăn thấy ngon, bây giờ ăn thịt gà cũng như nhai gỗ mục. Miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu Tướng ra phòng làm việc.
Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng Trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, có lẽ anh cũng đã bỏ đi rồi (nhà Trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn Trung úy Việt cùng vợ hai con vẫn còn ở tại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư Lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
- Có liên lạc với Tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi.
Ngưng một chút rồi tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu Tướng muốn nói chuyện với Tư Lệnh Phó?
- Qua muốn nói chuyện.
Tôi nói với Tư Lệnh:
- Để em đi lại Dinh Tư Lệnh Phó nói mở máy PRC25 để Thiếu Tướng nói chuyện.
Tư Lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe Jeep chở tôi qua Dinh Tư Lệnh Phó nằm đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽ phải vào Dinh Tư Lệnh Phó thì tôi thấy phía bên trái trước Dinh Tỉnh Trưởng có một tên VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mũi súng chĩa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
- VC đã vô tới rồi.
Tôi bảo tài xế:
- Quay trở lại đi! Không ổn rồi.
Tài xế lái nhanh về Dinh Tư Lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em binh sĩ còn lại kéo khoảng 4, 5 vòng kẽm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ. Rào xong, tôi vào Trailer báo Tư Lệnh:
- Trình Tư Lệnh, VC đã vào đến Dinh Tỉnh Trưởng. Em thấy có một tên VC cầm súng AK đứng trước Dinh Tỉnh Trưởng.
Tư Lệnh lặng thinh không nói gì cả. Khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu Tướng:
- Em đi lần nữa, để Thiếu Tướng nói chuyện với Tư Lệnh Phó.
Tư Lệnh nhỏ nhẹ nói:
- Thôi đừng đi! Coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao.
Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế.
- Anh Thông đâu? Đến tôi nhờ một chút.
Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Hộ quản gia nói:
- Em vừa thấy anh Thông ra cổng.
“Anh đã bỏ đi rồi.” Tôi nghĩ thầm. Bất chợt, một binh sĩ khác hỏi tôi:
- Trung Úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến Dinh Tư Lệnh Phó.
- Được rồi, để em đưa ông thầy đi.
Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
- Đi Honda tiện hơn Trung Úy.
Rồi anh chở tôi về hướng Dinh Tư Lệnh Phó, rẽ vào dinh, anh đậu cách đấy khoảng 10 mét bên lề đường.
Dinh Tư Lệnh Phó trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòa nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Tôi linh cảm điều gì không ổn nên gọi tiếp vài lần nữa rồi quay lưng định trở về. Nhưng tôi nghĩ thầm: “Không lẽ mình bỏ cuộc sao?” Tôi nói với qua với anh lính đậu bên kia đường:
- Anh ráng chờ tôi một chút.
Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào. Tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn: “Tôi Trung úy Danh đây, đừng bắn. Tôi Trung úy Danh, đừng bắn.” Miệng la tay níu nhánh ổi leo vào, tôi lên được đỉnh tường rồi theo đà cây ổi tuột xuống đất. Vừa gặp tôi, anh Nghĩa vừa khóc vừa nói:
- Chuẩn Tướng Hưng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nãy Danh nghe tiếng súng nổ.
Anh nói tiếp:
- Chuẩn Tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư Lệnh Phó vào phòng đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
Đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, thấy Tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư Lệnh Phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
- Thôi Danh đi về.
Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 nữa, Chuẩn Tướng Hưng đã chết rồi. Vì tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ ai mở cửa mà trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: “Tại sao Tư Lệnh Phó tự sát? Nếu Tư Lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn Tướng đã tự sát? Hay là...” Tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước dần tới chỗ anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! Xe và người biến đâu mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy bóng dáng anh. Chắc anh bỏ đi rồi. Tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo Đại Lộ Hòa Bình đi thẳng về Dinh Tư Lệnh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bãi đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió.
Tôi đi bộ mất khoảng 15 phút mới về đến dinh, anh lính gác vẹt từng vòng kẽm gai cho tôi vào rồi kéo lại vị trí cũ. Tôi đi nhanh về phía sau vào Trailer để trình Tư Lệnh mọi sự việc vừa xảy ra tại tư dinh Tư Lệnh Phó. Vừa thấy Tư Lệnh, tôi nói ngay:
- Trình Thiếu Tướng, em đến Dinh Tư Lệnh Phó, đến nơi thì ông vừa tự sát chết. Tư Lệnh Phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
Tư Lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc. Ngồi trên Sofa suy nghĩ liên miên: “Tư Lệnh Phó đã tự sát, chắc Tư Lệnh sẽ tự sát theo.” Tôi xuống nhà gặp Trung úy Việt và cho anh biết việc Tư Lệnh Phó đã tự sát. Tôi và Việt thắc mắc về những gì sẽ xảy ra tiếp: Tư Lệnh Phó đã tự sát, còn Tư Lệnh không biết thế nào? Hai đứa tôi suy nghĩ mãi mà không tìm ra được câu trả lời.
Lúc này khoảng 11 giờ đêm, vì lo lắng cho Tư Lệnh nên cứ độ 15 hay 20 phút, tôi lại vào Trailer một lần. Mỗi lần liếc nhìn vào, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang, tôi lại đỡ lo phần nào. Lần khác, Tư Lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu Tướng có sai bảo gì không?
Tư Lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! Khuya rồi.
Tôi nhỏ nhẹ nói:
- Trình Thiếu Tướng, nếu VC vào dinh, tụi em được phép đánh không Thiếu Tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
Tôi rời Trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư Lệnh ra phòng làm việc của tôi trao cho tôi một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
- Danh cất tiền này để dành mà xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu Tướng không dùng đến nên để dành.)
Đưa gói giấy cho tôi xong, Tư Lệnh đi vào Trailer. Tôi tò mò nên hé mở gói giấy này xem, bên trong toàn giấy bạc 500 đồng, tôi đoán chừng hơn 400 ngàn đồng và tôi để gói giấy vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào Trailer để quan sát, tôi sợ Tư Lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư Lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à.
- Dạ em ngủ không được.
Tư Lệnh móc trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nãy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Hộ:
- Thiếu Tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư Lệnh có ý định gì?
Chúng tôi bàn luận với nhau và có linh cảm là Thiếu Tướng đang sắp xếp việc gì đó.
Khoảng sau 1 giờ sáng, một anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.
Tôi vội vã vào Trailer để gặp Tư Lệnh. Thấy Tư Lệnh đang nằm nghỉ, tôi trình:
- Trình Thiếu Tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố khoảng 6, 7 người đang vẹt vòng rào kẽm gai đi vào hướng cửa dinh. Đến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ vấn tóc lủng lẳng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40 đã vào đến vòng kẽm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng kẽm gai nữa mới vào đến cửa dinh. Tôi vẹt kẽm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?
Tôi không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn nên trả lời trớ đi:
- Tôi làm quản gia.
Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung Sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn chỉa mũi súng vào phía sườn tôi và nói như ra lệnh:
- Đi!
Lúc bấy giờ, tôi hồn phi phách tán, nghĩ thầm “chết là cái chắc.” Một người trong nhóm nói:
- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi!
Bọn chúng đi từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
- Súng ngộ và đẹp quá.
Chị bới tóc tiếp theo
- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
Tôi tự nhiên cảm thấy lòng mình se lại. Bất chợt, nhóm người này dừng chân, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu cho tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi! Chắc bọn chúng bắn mình ở đây. Tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại nhìn cửa vô dinh. Tôi thấy Tư Lệnh đẩy nhẹ cánh cửa lưới chắn ruồi trước cửa phòng làm việc của ông rồi bước ra. Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu B38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khắc, Trung sĩ Hộ từ phòng Thiếu Tướng bước ra cho biết Tư Lệnh đang nói chuyện với VC và bảo tôi:
- Thiếu Tướng bảo Trung Úy lấy thuốc lá hút.
Có cớ vào gặp Tư Lệnh, người mang AK bỏ thõng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ là nó có thể bắn tôi từ đằng sau tới. Vô sự, thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu Tướng một điếu, 3 người kia mỗi người một điếu. (Tư Lệnh hút thuốc 555 nhưng thỉnh thoảng cũng hút thuốc Capstan đầu lọc.) Tôi thấy Tư Lệnh ngồi trên Sofa băng dài, người VC không mang vũ khí ngồi trên ghế nhỏ đối diện với Tư Lệnh, người mang khẩu B38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mũi súng hướng về phía Tư Lệnh, còn người mang khẩu Carbin đứng ngay cửa phòng trong tư thế tác chiến.
Xong nhiệm vụ, tôi bước ra ngoài. Người mang AK bên ngoài vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Sau khoảng mười phút nói chuyện, nhóm VC này rời dinh ra về. Tôi vào phòng thấy Tư Lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt có vẻ buồn. Nhìn trên Sofa, tôi thấy điếu thuốc của Thiếu Tướng còn cháy dở dang độ 1/3 điếu nằm trên Sofa bốc khói làm lủng một lỗ nhỏ, tôi nhặt lấy vất đi.
Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư Lệnh trở vào Trailer nằm nghỉ. Một lúc lâu, tôi vào lần nữa thấy Tư Lệnh nằm yên, chắc Tư Lệnh đã ngủ vì mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư Lệnh và tôi hầu như không ngủ. Vào khoảng 3 giờ sáng, tôi trở dậy, rón rén vào phòng Tư Lệnh lần nữa, thấy Tư Lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghỉ, ông vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt nên ra phòng làm việc ngã lưng trên Sofa một chút, nghe vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi bỗng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong.” Tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5. Tôi bước đến bàn thờ Phật, thấy ba cây nhang Tư Lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút.
Đứng trước bàn thờ Phật, Tư Lệnh với quân phục chỉnh tề, đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh về phòng mình làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu Tướng. Thiếu Tướng vẫn đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
- Đêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá, em có nằm nghỉ được một chút.
Tư Lệnh vẫn ngồi trên Sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang phòng làm việc. Một lúc sau, Tư Lệnh đến bên tôi hỏi:
- Gặp Tướng Trường được không hè?
Lúc này khoảng 6:30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.
- Dạ... dạ. Tôi ấp úng trả lời tiếp:
- Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy Tướng Trường chạy xe Jeep ngang qua dinh.
Tư Lệnh hỏi:
- Có phải Tướng Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống Tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh đi vào Trailer. Một lát sau, Tư Lệnh bước ra hai tay xách hai cái vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư Lệnh đưa cho tôi cái vali màu cam và đưa Trung úy Việt cái màu đen. Tư Lệnh nhìn chúng tôi, giọng buồn buồn:
- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
Tư Lệnh chỉ nói ngắn gọn như thế mà không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư Lệnh vội bước đi, được vài bước, Tư Lệnh quay lại nói thêm:
- À, quên chìa khóa.
Rồi Tư Lệnh đi thẳng về phía Trailer, một lúc sau, ông trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói.
- Cái này của Danh, cái này của Việt.
Tôi linh tính sắp có điều gì xảy ra nên Tư Lệnh mới dặn dò và chia phần cho tôi và Việt như vậy. Tuy thế, chúng tôi không dám hỏi. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xa qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi không hiểu Tư Lệnh có định đi ngoại quốc không? Nếu muốn, có lẽ Tư Lệnh cũng đi hết kịp rồi. VC vào đây có bắt Tư Lệnh không? Có làm hỗn hoặc bắn Tư Lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao? Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư Lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư Lệnh ngồi trên ghế Sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về nhà thăm vợ con còn Trung sĩ Hộ đang thập thò trước cửa. Tư Lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá ba xá nữa rồi ông về ngồi trên Sofa như cũ, hai tay để trên thành gỗ Sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì xảy ra. Bất chợt, Tư Lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.
Tôi thầm nghĩ Tư Lệnh và tôi độc thân chắc Tư Lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng Trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi hốt hoảng xoay người chạy trở lại thì Trung sĩ Hộ đã chạy ra la thất thanh:
- Đại Úy ơi! Đại Úy ơi! Thiếu Tướng tự sát chết rồi.
Trong lúc sợ hãi, anh Hộ quýnh lên gọi tôi là Đại Úy. Tôi chạy nhanh vào phòng thờ Phật thấy một cảnh tượng hãi hùng trước mắt mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Tư Lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau Sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, mắt ngước nhìn lên trần nhà. Khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thõng xuống lòng Tư Lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, phát đạn xuyên màng tang phải qua trái. Tư Lệnh chưa chết hẳn, nhưng nói không được, thân hình ông run lật bật, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Hộ thấy vậy vội ôm lấy Thiếu Tướng nói:
- Thôi mình chở Thiếu Tướng đi bệnh viện.
Tôi cũng ôm chầm lấy xác ông vừa khóc vừa nói:
- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu Tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu Tướng đi thăm anh em thương binh ở Bệnh Viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh là: “Qua ở lại với các em.”
Anh Hộ nói tiếp:
- Em đâu dám đến gần Thiếu Tướng. Đứng ở ngoài cửa, em chỉ thấy lưng Thiếu Tướng. Em thấy Thiếu Tướng móc gì từ trong túi ra, em tưởng Thiếu Tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu Tướng móc khẩu súng và tự sát liền, em chạy lại đâu kịp.
Vừa nói anh Hộ vừa khóc nức nở. Chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư Lệnh khóc ngất. Trong lúc bối rối và hoảng hốt, tôi đâu còn tâm trí để xem đồng hồ, tôi đoán lúc đó vào khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Vâng. Đúng như vậy. Tôi là một sĩ quan cấp Úy còn ít tuổi, sống độc thân. Nhờ vậy tôi đã được Tư Lệnh chọn ở bên cạnh ông.
Giờ đây gần 30 năm qua, tôi vẫn còn nhớ mãi từng giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4-1975.
Với tư cách là Tư Lệnh của chiến trường miền Tây, ông Thiếu Tướng của tôi, vị niên trưởng Thủ Đức đã hết lòng với quân đội và đất nước cho đến cả sau khi nghe lệnh đầu hàng. Ngay cả việc chỉ định Đại tá Thiên thay chức Tỉnh Trưởng Cần Thơ vào trưa 30 tháng 4 cũng nhằm mục đích cần có người trách nhiệm để tình hình ổn định.
Ông là vị tướng đầy lòng nhân ái nên không muốn đổ máu thêm vô ích. Ông không cho phá cầu. Ông không tức tối với những người bỏ đi. Ông không muốn có người chết thêm sau khi Tổng Thống đã đầu hàng.
Sau này tôi mới biết rằng sau khi nghe lệnh Sài Gòn đầu hàng, Tư Lệnh đã có ý định sẽ tự vẫn. Vì vậy ông đã bình tĩnh đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản vào buổi chiều. Tại nơi đây tôi đã từng theo ông đến thăm viếng nhiều lần, nhưng lần này ông đã khóc và hứa với những thương binh là ông sẽ ở lại.
Và điều đặc biệt là chính tôi không rõ Tư Lệnh đã nói gì để mà Việt cộng đã hai lần vào gặp ông nhưng đều lặng lẽ lui ra.
Trong quân đội chúng tôi học được bài học về đặc lệnh truyền tin vẫn gọi vị Tư Lệnh là Mặt Trời. Tiếng chuông niệm Phật của ông vào đêm 30 tháng 4 vẫn còn nghe vẳng bên tai. Tôi còn nhớ mãi lúc 3 thầy trò đứng khóc trên lan can nhà lầu vào sáng 1 tháng 5 năm 1975 (tác giả Trung úy Lê Ngọc Danh Tùy viên của tướng NKN tới ngày cuối cùng của cuộc chiến)
V. Kết Luận:
Sự tích, huyền thoại về chín vị thần tướng nêu trên là điều có thật. Những sự tích đó đã và sẽ đi sâu vào tâm khảm của mọi người dân Việt. Và đó là những tấm gương chói ngời cho ngàn đời sau noi theo trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc Việt Nam chống lại đoàn quân xâm lược từ phương Bắc.
Cuộc chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương 1 và 2 xảy ra từ năm 1946, tạm ngưng tiếng súng năm 1975, và tiếp tục những năm sau đó bằng nhiều hình thức khác. Bản chất không đơn thuần là một cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam. Đây là cuộc chiến bảo vệ nòi giống và văn hóa của dân tộc Việt Nam do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (viết tắt QLVNCH) gánh vác chống lại sự bành trướng, xâm lăng của quân xâm lược Tầu cộng phương Bắc (kẻ thù truyền kiếp của tộc Việt), với cánh tay nối dài là đảng cộng sản Việt Nam.
Do đó, ý thức hệ thần thoại cao quý này được hình thành để nêu cao tấm gương trung liệt của Cửu Đại Thần Tướng Việt Nam thời cận đại cũng như quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung là một điều cần thiết.
Chúng tôi thành kính thắp nén hương lòng kính dâng đến anh linh của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Cửu đại thần Tướng Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến vệ quốc 1946-1975. Nguyện cầu anh linh chư vị sớm siêu thăng nơi miền tiên cảnh.
Một nén hương lòng khác kính dâng anh linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong các tại tù cộng sản Việt Nam sau ngày 30/04/1975. Đồng thời tưởng niệm những chiến sĩ VNCH đã hy sinh cho tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến phục quốc.
Xin tỏ lòng biết ơn đến các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh một phần thân thể cho Tổ quốc Việt Nam. Cầu chúc các anh gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống hiện tại nơi quê nhà hay tại hải ngoại.
Xin gởi lời kính trọng đến các bậc sinh thành cũng như hiền phụ đã nung đúc, trưởng dưỡng, cũng như đã đóng góp những hy sinh lớn lao trong cuộc sống hằng ngày để người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa có thể vững tay súng giữ gìn bờ cõi đất nước trong gần 30 năm chiến tranh vệ quốc.
Chân thành cảm ơn các tác giả có bài viết trong bản sưu khảo này, đã giúp chúng tôi hoàn thành được bộ sự tích vô cùng bổ ích.
Cuối cùng, nguyện cầu anh linh chư vị thần tướng, chư vị anh hùng tử sĩ độ trì dân tộc Việt sớm ngày đẩy lui nội ư (Việt cộng) ngoại hoạn (Tầu cộng) để Việt Nam có thể chuyển mình và vươn lên cùng nhân loại trong thế kỷ thứ 21.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc, hiệu đính nhân dịp tưởng niệm 35 năm ngày quốc tang, quốc hận 30/04/1975 - 30/04/2010 (Hội Sử-Học Việt Nam tại Âu Châu)
***
Đi Thăm Danh Tướng Nguyễn-khoa-Nam
Tác Giả: Nguyễn Thanh Khiết. Thứ Ba, 28 tháng Năm năm 2013
Trời không mưa nhưng mây đen vần vũ, cái nóng bức toát trên mặt nhựa đường, nóng của cái không khí bị nhiều chục năm ô nhiễm, và từ cái chật chội của dòng người di trú tràn về thành phố này, bám nó như bám cái phao giữa mênh mông biển lớn, tìm ở đó ít ra còn chút hơi hướm, tự do một chút, thoải mái một chút hơn là định cư chết dí tại một khu hẻo lánh có quá nhiều thái thú như hôm nay.
Ghé chợ Bà Chiểu bằng con đường nhỏ xíu sau Lăng Ông, tôi hướng ra đường Lê Quang Định. Khu này thì lại mưa, cơn mưa rất nhỏ thổi qua vừa đủ lấm lem mặt đường.
Mỗi khi đi ngang con đường này tôi thường hay ghé mắt vào căn tạp hoá nhỏ của cô con gái Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, người đã đi trước Tướng Nguyễn Khoa Nam vài tiếng đồng hồ trong cái ngày nước mất, nhà tan của 38 năm về trước.
Căn tiệm nhỏ còn nguyên, nhưng hôm nay tôi không có thì giờ ghé lại, tôi phải đến chùa Già Lam thắp nén nhang cho vị tử tướng theo thành Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bởi hai năm qua tôi không có dịp quay lại.
Năm nay, ngày này Sài Gòn không ồn ào xe cộ như những năm trước, đường xá có vẻ vắng hơn, người ta thưa hơn dù tôi đang ở vào cái giờ mà thường ngày ngựa xe như nước…
Dân Sài Gòn vốn dĩ có cái truyền thống, làm đủ ăn và hưởng thụ vậy mà hôm nay lễ Lao Động 01- 05 đường phố lại thưa thớt như một dấu hiệu kinh tế trên đà đi xuống, mà ở thành phố này rất dễ nhận ra khi quan sát cái mua, cái bán trong chợ hay chỉ cần nhìn mấy bà bán hàng chống cằm thở ra bên quầy hàng cao ngất ngưỡng là biết mãi lực của người dân. Tôi cũng chẳng quan tâm cho lắm cái sinh hoạt này, nhưng sống sót trong cái cộng đồng da beo nghèo mạt hạng, tất nhiên ít nhiều bị nó che chắn hết cái nhìn trong suốt 24 giờ của một ngày.
Qua chùa Dược Sư cấu trúc to đùng bên đường, đi tới một đỗi là thấy cái bảng sơn màu xanh lam treo lệch tại một ngã ba thì không thể lầm lẫn chùa Già Lam. Men theo con hẻm còn lấm nước mưa tôi vào chùa, khoá xe trước cổng. Cách có hai năm mà cả cái chùa cũng đổi thay bộ mặt nói chi là cái thành phố ồn ào nơi tôi đang sống.
Địa Tạng Đường vắng hoe, tầng trên cửa đóng, ổ khoá treo tòn ten chỉ móc vào nhưng không bấm lại. Tôi định đẩy cửa vào nhưng lại thôi, bước xuống hỏi thăm một thầy sãi đang ngồi nghe nhạc qua cái cell phone ngoài cổng trong cái quán thuốc lá của người giữ xe. Gã thầy tu nhổm dậy, khoác tay bảo tôi cứ mở cửa mà vào, không chút khách khí tôi leo cầu thang bộ xây ngay đầu hiên nhà, bước lên và mở cửa.
Cửa đóng không cài khoá, chứng tỏ hôm nay, không ai ghé qua đây
May mắn thay, lần trước tôi đến, có lẽ muộn hơn nên đèn tắt tối om, đẩy cửa vào trong tôi bước tới linh vị Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, chào kính và than thở đôi điều. Hai năm tôi trở lại nơi này ngày ông tuẫn tiết, hai năm Địa Tạng Đường vẫn âm u lạnh lẽo, chỗ đặt tro cốt của ông có thêm mấy cành hoa bằng nylon, bộ ấm tách trà nhỏ… tươm tất hơn. Có lẽ hai năm nay những người biết đến ông đã từng có đến chăm chút và thắp nhang cho ông.
Tôi nghĩ cũng lạ. Đúng cái ngày ông mất thành và chết theo thành thì hình như không ai đến đây, hay là anh linh người đã chết không muốn ai quấy nhiễu mình hay không muốn những kẻ phàm phu tục tử đứng trước mình vào cái ngày ông thua trận, làm giảm cái uy vũ của một danh tướng một đời hiến dâng cho tổ quốc. Ý nghĩ này làm tôi nhớ Mỹ, thằng bạn tôi.
Trước ngày tan trận nó bị dính giữa sống lưng mảnh phá làm nó nằm liệt suốt đời còn lại. Đêm 30-04-75 ông Tướng Tư Lệnh đã vào bệnh viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, thăm từng người một, ông đến bên giường từng người lính đã theo ông, chiến đấu cùng ông và bị thương tật tại chiến trường ngay trên vùng trách nhiệm của ông, ngay trên thành trì của ông, ông đã rưng nước mắt nói với nó: ‘’Em cố đi, Qua còn đây, Qua sẽ lo cho các em”. Ông Tướng luôn xưng hô với các chiến sỹ của mình như vậy, rồi ông ra về.
Sáng hôm sau, ông ra đi mãi mãi, trước cái nhục mất thành, trong khí tiết của một Tướng trấn ải.
Ngày tan trận quân lực VNCH có hàng trăm tướng lãnh, duy nhất chỉ có 5 anh hùng “tuẫn tiết theo thành”.
Thắp xong 3 nén nhang cho ông, tôi ngồi tựa cửa ra vào, nhìn lên di ảnh người anh hùng, chợt thấy lòng se lại.
Nếu như ngày đó, cả quân đoàn 4 vùng 4 chiến thuật còn nguyên vẹn.
Nếu Chuẩn Tướng tư lệnh phó Lê Văn Hưng không đi trước ông một bước.
Nếu như kế hoạch triệt thoái về tiêu thổ kháng chiến của hai ông tại vùng 4 cắt từ Mỹ Tho, thực hiện được thì Đại tá Cẩn đâu bị hành hình khi chiến đấu đến viên đạn cuối.
Nếu như những cấp tướng tuổi tên lừng lẫy không đào thoát, ôm của chạy với người từ những ngày trước đó.
Nếu như Tướng Viên, Tướng Khiêm tá lả tướng đều can đảm ở lại trên chiến trường, sát cánh với những tàn binh thì chúng ta … có lẽ cũng thua nhưng cái thua ít ra không nhục, và có lẽ sẽ không có những cuộc tự sát tập thể của những chiến binh can trường khi nghe lệnh buông súng.
Và nếu như… “Còn gì mà nếu, Thiếu Tướng ơi! 38 năm qua rồi”.
Tro cốt TT Nguyễn Khoa Nam nằm kề bức tượng Địa Tạng bồ tát n trái ngăn kệ thứ tư từ dưới (trên lầu). Hôm nay chỉ có 4 cây nhang cắm trên bàn thờ, một của người giữ cửa Địa Tạng Đường và… 3 cây vừa cắm
Tôi bước ra ngoài cổng, chiều xuống làm ngôi chùa có vẻ im vắng hơn, mùi khói nhang trên phật đường bay ngào ngạt, nhưng lòng không thanh thản, tôi ghé cái tiệm bán thuốc lá nghèo nàn của anh lính cũ.
Chào nhau một tiếng, anh kéo ghế mời tôi ngồi trước cái sân rộng thênh thang ngoài cổng chùa.
Hai người lính cũ gặp nhau qua những lần đến thắp nhang cho một người duy nhất ở đây, chúng tôi biết nhau. Trong cái âm u của một ngày mưa nhỏ qua đây, hai người chúng tôi bất chợt cùng nhìn lên phía trên Địa Tạng Đường, anh ta thở dài:
- Ba mươi tám năm… mới đó mà mau thật!
Lời than của người lính cũ làm tôi bùi ngùi. Chỉ một câu thôi nó nói lên sự chịu đựng dằn dai từ 38 năm, sự căm hận có lẽ chưa nguôi trong tâm hồn chất phát của người lính miền Nam, dù quân đội của anh không còn, tinh thần không như thời trai trẻ, nhưng trong cái nhìn về nơi lưu giữ tro cốt của một danh tướng với tất cả sự kính cẩn cho tôi tin điều anh nói, anh vẫn thường lên đó thắp cho TT Nam một nén nhang.
Dắt xe ra về tôi còn ngước nhìn lên cánh cửa Địa Tạng Đường mà tôi đã cài khoá lại.
Năm nay tôi còn đến thăm ông ngày ông nằm xuống, biết có còn lần sau nữa không.
Nợ sơn hà ông đã trả xong mà đất nước này hãy còn nợ ông một lời xin lỗi, những chiến binh cùng màu cờ sắc áo với ông vẫn mang mãi ân tình của ông, chút hãnh diện của những người lính dưới quyền những danh tướng tuẫn tiết theo thành.
Yên nghĩ đi người anh hùng của xứ sở nhiều năm điêu linh.
Nguyễn Thanh Khiết Sài-Gòn 22giờ 01-05-2013 (Nguồn Saigonecho)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 7:11:05 GMT 9
10/ Thần Tướng Hồ-ngọc-Cẩn (1938-1975)Phạm Phong Dinh Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh "Tia Sét Miền Tây". Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã được ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây. Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau: - Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ 21BB. - Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ 21BB. Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng. Đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước o0o Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường. Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đ ó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân "Cọp Ba Đầu Rằn", và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân "Cọp Xám". Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: "Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi". Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm, như vị chỉ huy, điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết. Mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: "Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn"! Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái "miệng ve" để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái "miệng ve" nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn "ăn" từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật "cò ỉa miệng ve" của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba chục chiến sĩ. Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ. Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang. Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát. Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường (k11), một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh. Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: "Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A". Ông Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi. Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: "Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không?" Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: "Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua". Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái. Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: "Chết thì chết chứ không lùi". Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này. Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi ông tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng: "Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi". Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời. Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: "Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm" đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam. Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: "Sống chết nằm trong tay Chúa". Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng. Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử. Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: "Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối". Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho ông là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi ông ngạo nghễ ra đi. Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại. Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản!" Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn. Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi. Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục. *** Mãnh Hổ Rừng Xanh Kính bái hương hồn Đại-Tá Hồ-Ngọc-Cẩn Hồ Ngọc Cẩn xả thân vì nước Ngẩng cao đầu tổ quốc yêu thương Nhẫn tâm viên đạn phũ phàng Tuôn dòng máu đỏ chói chang cờ vàng Mười bốn tuổi theo đường binh nghiệp Thiếu sinh quân từng lớp vượt qua Sĩ quan quân lực cộng hoà Thăng hàm đại tá mới vưà ba tư Chàng trẻ tuổi thiên tư vời vợi Phá vòng vây hợp với tướng Hưng Anh em tay bắt mặt mừng Thắm tình huynh đệ nức lòng quân dân Dương tổng thống ươn hèn hàng giặc Cả miền Nam tủi nhục lầm than Dép râu nón cối tro tàn Tiểu khu Chương Thiện lưả đàn máu chan Ngày mồng một tháng năm thất thủ Giưã vòng vây biển lưả hận thù Báo rừng đâu dễ cúi đầu Kẽm gai chúng trói nát nhừ thịt da Bầy lang sói tà ma độc ác Hồ Chí Minh lão tặc truyền cho Mác Lê đại hán côn đồ Thi nhau cắn xé máu trào xương tan Lập toà án vội vàng xử bắn Không luật sư bấn loạn tâm thần Tội vì chống lại nhân dân Giết quân giải phóng công an chính quyền. 3.11.2011 Lu-Hà *** Anh-Hùng Hồ-ngọc-Cẩn Trúc-Lâm Lê-An-Bình sưu khảo Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 và mất ngày 14 tháng 8 năm 1975 Nguyên Ðại tá Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện năm 75. Là sĩ quan Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Cố Đại tá nổi tiếng nhờ sự tác chiến vững chải và gan dạ của ông. Ông là sĩ quan trẻ tuổi và thăng cấp mau lẹ của QLVNCH (nhờ thực tài). Hiến dâng trọn cuộc đời cho công cuộc đấu tranh chống bạo quyền Cộng-sản, dành lấy tự do cho dân tộc, Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân từ một gia đình có truyền thống chống Cộng. Nhập học trường Thiếu Sinh Quân năm 14 tuổi. Sau 4 năm học, nhà trường đã rèn luyện ông thành một chiến sĩ có căn bản vững chắc về lập trường Quốc-Gia và kiến thức Quân-sự. Năm 18 tuổi, sau khi tốt nghiệp Trường Thiếu Sinh Quân, ông đã trở thành Huấn Luyện Viên Quân Sự của nhà trường. Tiếp tục theo học Khóa 2 Sĩ quan Ðặc biệt Ðồng Ðế Nha Trang vào năm 1961-1962. Ông đỗ Thủ khoa với cấp bậc Chuẩn úy và giữ chức vụ Trung đội trưởng Biệt Ðộng Quân. Qua nhiều cuộc giao tranh ác liệt với Vc từ 1962-1963, ông đã trưởng thành trong khói lửa và được đề cử giữ chức vụ Ðại đội trưởng 368 và cũng trong thời gian này ông được bầu làm Chiến sĩ xuất sắc của Binh chủng Biệt Ðộng Quân thuộc Quân khu 4. Do đó, không lấy làm lạ khi ông được tuyển-chọn đi dự Khóa Sình Lầy Mã-Lai năm 1964. Với những chiến công dồn dập, ông được thăng cấp Ðại úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42 BÐQ. Từ 1966-1968, ông được thăng cấp Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh. Sau đó, ông giữ chức vụ Trưởng phòng 3 Sư đoàn 21 Bộ Binh và là Thuyết trình viên cho chiến dịch U-Minh, nhằm tấn công và kiểm soát vùng này. Từ 1970-1971 : Trung tá Trung đoàn phó Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh. Từ 1972-1973 : Trung tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15 Bộ Binh thuộc Sư đoàn 9. Trung đoàn 15 Bộ Binh được tăng phái hành quân cho Sư đoàn 21 Bộ Binh. Tư lịnh lúc bấy giờ (Sư đoàn 21 Bộ Binh) là Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu, trước kia là Tư lịnh phó Sư đoàn Nhảy Dù, đang đảm trách chỉ huy hành-quân giải-tỏa An-Lộc. Bộ chỉ huy hành quân lúc đó đóng tại Lai-Khê. Sau khi nhận lịnh, Trung tá Cẩn cho xuất phát hành quân. Suốt 3 ngày đêm ròng rả vượt bao gian khổ trở ngại, đơn vị của ông bị địch phát giác. Bọn địch cố bám vị trí yết hầu đường đi lấy nước. Ông tìm cách liên-lạc với Bộ Tư lịnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Người chịu trách nhiệm tiếp tế nước lúc đó là Ðại tá Nguyễn Tiến Lộc, thường gọi là ông già FM đầu bạc, Tham mưu trưởng Sư đoàn. Trung tá Cẩn rất khiêm nhường chỉ xin được tiếp tế muối và nước để cuộc hành quân lịch-sử giải-tỏa An-Lộc có thể tiếp tục được. Ðại úy Hạnh, Sĩ quan Tiếp tế và Chuyển vận thuộc phòng 4, Sư đoàn 21 Bộ Binh đã lấy võ đạn 155 đựng nước, vặn khóa thả dù tiếp tế. Với bao kinh nghiệm và thao lược sẵn có, Trung tá Cẩn đã cùng các cánh quân bạn chọc thủng phòng tuyến của địch, đánh bật Cộng quân ra khỏi vùng tử thủ. Sau cùng nối liền tuyến phòng ngự của Tướng Lê Văn Hưng. Hai bên tay bắt mặt mừng, thấm tình Huynh Ðệ Chi Binh. Trong chiến dịch này, Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Ðại tá với 20 tuổi lính và 34 tuổi đời, tuổi hăng say tin tưởng vào tương lai. Ông nhận nhiệm vụ mới với nhiều khó khăn thử thách trong tình trạng khẩn trương của đất nước : Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện. Ở đây, sau một thời gian đọ sức đấu trí gay go, ông đã dọn sạch các căn cứ hậu cần của Cộng quân xây dựng từ nhiều năm trước đó. Bất cứ ở đâu, bất cứ chức vụ nào do cấp trên giao phó, ông đều gieo rắc sự kinh-hoàng cho địch và đồng thời đem lại vinh quang về cho hàng ngủ Quốc gia. Ngày 30 Tháng 4 năm 1975, Cộng sản thôn tính trọn miền Nam. Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn lại có dịp chứng tỏ long trung kiên dũng cảm và son sắt trước uy vũ bạo tàn. Thực vậy, sau nhiều ngày bị Cộng quân tấn công bằng xa tăng và có pháo binh yểm trợ vào Tiểu khu Chương Thiện, Ðại tá Cẩn chỉ huy chặn đứng nhiều đợt tấn công biển người của địch quân. Nhưng ‘mãnh hổ nan địch quần hồ‘. Sáng ngày 30/4/75, chu vi phòng thủ càng bị thu hẹp lại. Trong khi binh sĩ còn đang cầm súng với không hơn 2 Ðại đội với nhiều người hy sinh và bị thương. Ðến 12 giờ trưa cùng ngày, có lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vẫn hiên ngang cùng binh sĩ tử thủ chiến đấu mặc dầu khắp nơi bọn Cộng quân đều hô hào đại thắng. Ðến 5 giờ chiều, bọn chúng tấn công mạnh vào phía Ðông của Tiểu khu. Chi đội Thiết vận xa của ta thất thủ. Cộng sản đã xử dụng M113 lấy được làm phương tiện tấn công quân ta. Phía Bắc và Tây Tiểu khu, Cộng quân cho lực lượng Bộ Binh trang bị vũ khí hùng hậu có pháo binh yểm trợ ồ ạt tấn công. Sau 2 giờ quyết tử, tuyến phòng thủ pháo binh của Sư đoàn 21 Bộ Binh hoàn toàn tê liệt. Cộng quân lại xử dụng trọng pháo 155 ly lấy được của ta bắn xối xả vào Bộ chỉ huy Tiểu khu. Toàn thể chiến sĩ còn lại đã chiến đấu vô cùng anh dũng dù đạn dược đã cạn dần từ lúc 10 giờ đểm 30/4/75. Mãi đến 11 giờ đêm ngày 1/5/75, Bộ chỉ huy Tiểu khu mới hoàn toàn thất thủ. Trước giờ phút nghiêm trọng này, đức tính trong sáng của người chỉ huy vẫn được thể hiện nơi Ðại tá Cẩn. Thực vậy, không muốn cho đồng đội hy sinh, Ðại tá Cẩn đã buộc tất cả phải rời Tiểu khu. Chỉ còn lại một mình và người lính cận vệ trung thành, Ðại tá Cẩn dũng cảm chiến đấu ngăn chận địch che chở cho anh em binh sĩ rút lui bằng khẩu đại liên và 4 thùng đạn. Hết đạn, Cộng quân ập vào chiếm Trung tâm Hành quân, Ðại tá đã tự sát với khẩu rouleau nhưng không kịp thi hành ý định nên đành phải sa cơ. Cộng sản dùng xe Jeep chở Ðại tá Cẩn đến phi trường Vị-Thanh. Nơi đây chúng đã đánh đập Ðại tá Cẩn rất dã man, dùng súng dọa giết. Ðại tá Cẩn dõng dạc nói thẳng vào mặt kẻ thù : ‘Tôi chỉ có một mình không vũ khí, nhưng tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá Quốc kỳ của tôi lần sau cùng’. (Ðây là lời kể lại sau này của một tên Cộng sản bắt Ðại tá Cẩn, nhưng kính phục hành động anh hùng của Ðại tá Cẩn nên kể lại cho thân nhân và một số người ở vùng miền Tây nghe). Thấy Ðại tá Cẩn bất khuất, chúng trói ông bằng kẽm gai và giải về Tiểu khu Chương Thiện, giam ở nơi đây hơn 3 tháng, sau đó chuyển về Cần Thơ và nhiều lần đổi trại giam. Nhiều chiến sĩ ta bị giam chung cho biết Cộng sản đã tra tấn hành hạ ông bằng đủ mọi hình thức dã man nhất. Nhận thấy vô vọng, không khai thác được gì ở người anh hùng này nên chúng đành mượn tay tòa án (một thứ tay sai đắc lực của đảng CSVN) kết án tử hình ông với tội danh hết sức kỳ quái : ‘Giết hàng ngàn người vô tội‘. Mặc dù dân chúng còn ở lại Việt Nam sau năm 75, không còn lấy gì làm lạ với những bản án như vậy, nhưng bọn chúng vẫn lì lợm gọi đó là ‘Tòa án nhân dân’ và ‘Nhân dân đã phán xét như thế‘. Sáng ngày 14/8/75, trước vành móng ngựa với hai tay bị còng, sau khi bản án viết sẵn đọc xong, bọn chúng liền nhanh tay nhét giẻ vào miệng Ðại tá Cẩn để ông không kịp nói lời nào. Mọi người Việt Nam có mặt hôm đó đều vô cùng xúc động và thương tiếc. Buổi chiều cùng ngày, bọn chúng đưa Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn ra sân bắn, bịt miệng, bịt mắt. Thản nhiên bình tỉnh như sẳn sàng tiếp nhận một cái chết anh hùng khi thất thế. Hiên ngang đi vào lòng đất Mẹ, Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn đã nằm xuống nhưng gương sáng vẫn rạng ngời. *** Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (b. 24/3/1938 – d. 14/8/1975) *** Khi Tôi Chết T/g: Tr.T Nguyễn Văn Phán, TĐT/TĐ8/TQLC/QLVNCH Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Đưa tôi về Lao-Bảo, Khe-Sanh. Để đêm nghe vang dội khúc quân hành. Ôi! Lính chiến, một thời kiêu hãnh quá! Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển Đưa tôi về Bến-Hét, Dakto. Nơi bạn bè tôi xây mộng sông hồ Nguyện trấn giữ dãy Trường-Sơn yêu quí. Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ. Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề: “Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.” Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Đưa Tôi về Cái-Nước, Đầm-Dơi. Đêm U-Minh, nghe tiếng thét vang trời. Mừng chiến thắng để dâng về Tổ-Quốc. Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Trả tôi về với dân tộc Việt Nam. Gói thân tôi ba sọc đỏ, màu Vàng. Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi. *** Quốc Hận 30-4-1975 Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện và trung tá cố vấn Mỹ Craig Mandeville- *** VỊ QUỐC VONG THÂN Hồ Ngọc Cẫn Tưởng niệm ngày giổ thứ 36 cố Đại tá HNC . Giọng bình thản: Tôi không mang súng Đang một mình cũng chẳng hàng ai Hảy bắn đi đừng dài dòng đọc Cọng sãn là lừa lọc dả man… Đá đảo… Đất Rạch Giá sinh Hồ Ngọc Cẫn Thiếu Sinh Quân hướng dẩn vào đời Anh hùng quân đội một thời Dọc ngang, ngang dọc vùng trời miền Tây… Chàng chuẩn úy về đây còn trẻ Bốn năm sau làm kẻ chỉ huy Tiểu đoàn trưởng đầy quyền uy Đặc cách mặt trận nhiều huy chương vàng.(1) Tuổi nhỏ nhất vào hàng tỉnh trưởng(2) Tội và công tưởng thưởng phân minh Quân dân Chương Thiện đồng tình Giặc thù khiếp sợ U Minh kinh hoàng.(3) Đang thắng trận lệnh hàng buông súng Đánh đến cùng hết đạn thế cô Pháp trường ai chọn Tây đô (4) Xử người chiến sỹ giày shaut một đời… Trước khi chết trả lời điều ước: Mang quân phục hát được quốc ca Mắt trần không bịt anh la: Việt Nam mãi mãi Cộng Hòa muôn năm../(5). CA Aug/14/2011 STV (1) 87 huy chương đủ loại (2) 35 tuổi (3)U Minh Thượng (4)Cần Thơ (5) Ân huệ không được đáp ứng & chữ in đậm là lời nói cuối cùng. *** Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (b. 24/3/1938 – d. 14/8/1975) * Hồ Ngọc Cẩn (24 tháng 3 năm 1938 – 14 tháng 8 năm 1975) là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông giữ nhiều chức vụ tác chiến trong binh chủng biệt động quân trong giai đoạn đầu đường binh nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 bộ binh. Chức vụ cuối cùng lúc bị phía cộng sản bắt là đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện (tỉnh lị là Vị Thanh nay là tỉnh lị tỉnh Hậu Giang). Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu để cuối cùng đối phương vây bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Thiếu thời Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại miền tây. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc gia Việt Nam. Thuở nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường thiếu sinh quân. Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 trường thiếu sinh quân như sau: Trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu, ở Gia Định Trường thiếu sinh quân đệ nhị quân khu ở Huế Trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu ở Hà Nội Trường thiếu sinh quân Móng Cái dành cho sắc dân Nùng Trường thiếu sinh quân đệ tứ quân khu ở Ban Mê Thuột Trường thiếu sinh quân Đà Lạt của quân đội Pháp Trường thiếu sinh quân Đông Dương của quân đội Pháp, ở Vũng Tàu Ông được thu nhận vào lớp nhì trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường thiếu sinh quân đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho. Khi Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường thiếu sinh quân đệ tam quân khu di chuyển từ Hà Nội vào, sát nhập với trường đệ nhất quân khu ở Mỹ Tho. Niên học 1954-1955, trường bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Ông học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt văn là ông Nguyễn Hữu Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào mà ông lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của ông được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của ông chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi. Binh nghiệp Năm 17 tuổi ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, về vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau ba tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì. Theo quy chế dành cho các thiếu sinh quân thời đó, một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau ông là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí. Chiến tranh tại miền Nam tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ quốc phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Ông được nhập học và tốt nghiệp khóa sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Sau khi ra trường, ông theo học một khóa huấn luyện biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn 42 biệt động quân “Cọp ba đầu rằn”. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương Thiện, Sóc Trăng (Ba Xuyên), Bạc Liêu, Cà Mau (An Xuyên). Nhờ tài chỉ huy thiên bẩm và chiến đấu gan dạ nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận lên đến trung úy và được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 42. Cuối năm 1966, ông từ biệt tiểu đoàn 42 biệt động quân đi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 thuộc sư đoàn 21 bộ binh. Suốt năm 1967, ông với tiểu đoàn 1 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh vùng sông Hậu. Sau trận tổng công kích Mậu Thân, ông được thăng thiếu tá. Năm 1968, ông là người có nhiều huy chương nhất quân đội. Năm 1970, ông được thăng trung tá và rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Năm 1972, ông được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An Lộc. Cuối năm 1973, ông được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện. Trận chiến cuối cùng Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975. Sau khi lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng ông vẫn còn chiến đấu. Các đơn vị quân cộng sản tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội vừa nêu ra không thì ông trả lời như sau: “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”. Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về … và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa … mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà. NGUYEN HUY HUNG Posted by SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH at 3:12 PM dongdenhatrang.blogspot.com/2008/05/dai-ta-ho-ngoc-can.html*** ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN - Nguyễn Văn Khậy Để giúp quý độc giả và quý chiến hữu có thêm tài liệu đánh giá những chiến sỹ VNCH đã chiến đấu thế nào trong công cuộc chống Cộng bảo vệ tự do đến giờ phút cuối cùng... như trường hợp Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Bài do chính tác giả Nguyễn văn Khậy, viết và phục vụ dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn trong lãnh vực chuyên môn tỉnh Chương Thiện trước năm 1975.. (Bài viết được đăng trong Đặc San VÕ KHOA THỦ ĐỨC số 7 năm 2000). Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện Tôi, Nguyễn văn Khậy được lệnh thuyên chuyển từ Sở Điện cơ Cấp phát Ruộng đất (Land Distribution Computing Service chief) trực thuộc Bộ Cải Cách Điền Địa và Phát Triển Nông Ngư Nghiệp Sàigòn đến bàn giao chức vụ Trưởng Ty Điền Địa tỉnh Chương Thiện (Land Reform Service Chief in Province). Ngày 23-6-1973, một tuần sau khi tôi nhận nhiệm sở, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn từ Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 Bộ Binh chuyển về thay Trung Tá Trần Duy Khang về hưu trí tại Saigòn (Phú Nhuận). Tỉnh Chương Thiện (thị xã Vị Thanh) nằm trong quân khu IV, của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân đoàn IV. Suốt hai năm phục vụ dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn gồm các Ty sở chuyên môn và Hành chánh cũng như Quân sự, tôi còn nhớ mãi ghi ra đây như dòng tâm tư của người tỵ nạn còn âm hưởng những vươn rải đau thương, ẩn tàng tâm trí ngày đêm... Ngưỡng mộ Anh Hồ Ngọc Cẩn như người anh cả trong quân sự và hành chánh. Hồ Ngọc Cẩn sanh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại Cần Thơ. Tánh tình hiền hậu, giản dị, trầm tĩnh, ít nói. Anh xuất thân là Thiếu sinh quân (Đệ Nhất Quân Khu Gia Định). Năm 1962, anh tốt nghiệp khóa Sĩ quan Đặc biệt với cấp bậc Chuẩn úy. Sau khi ra trường, Hồ Ngọc Cẩn theo học khóa huấn luyện Biệt Động Quân (BĐQ), rồi thuyên chuyên về phục vụ khu 42 Chiến thuật với chức vụ khiêm tốn: Trung đội trưởng. Lãnh thổ nầy gồm có các tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh), Chương-Thiện (Vị Thanh), Ba-Xuyên (Sóc Trăng), Bạc-Liêu và Cà-Mau (An Xuyên). Ngũ hổ là: Đại úy Hồ Ngọc Cẩn: Tiểu đoàn Trưởng 1/33 Thiếu tá Lư Trọng Kiệt: Tiểu đoàn Trưởng TĐ 42 Thiếu tá Nguyễn văn Huy: TĐT - TĐ 44 BĐQ. Thiếu tá Lê văn Hưng: Tiểu đoàn trưởng TĐ 2/31 Đại úy Dương văn Trổ: Tiểu đoàn Trưởng TĐ 3/33. Trong ngũ hổ nầy thì Thiếu tá Kiệt kém may mắn, tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30-4-74 Thiếu Tướng Lê văn Hưng Tư lệnh Phó Quân khu IV tự tử, Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn. Duy còn Đại tá Dương văn Trổ làm Tỉnh Trưởng tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá), hiện định cư tại Houston Texas Hoa kỳ. Còn anh Nguyễn văn Huy ghi nhận chưa được. Là sĩ quan gan dạ binh chủng BĐQ, anh Hồ Ngọc Cẩn tham gia hầu hết các trận đánh lớn nhỏ tại miền Tây. Đơn vị anh tìm và diệt địch trong mọi tình huống, một thời gây biết bao khiếp đảm cho giặc. Uy danh Đại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 42 BĐQ, “Cọp Ba Đầu Rằng” vang lừng một thuở. Sau đó, anh nắm chức Tiểu đoàn Trưởng đánh trận để đời là tiêu diệt toàn bộ Tiểu đoàn 514 cơ động Việt cộng tại Mỹ Tho (Tiền Giang), bắn chết 320 tên, bắt sống 176 tên, chính chiến công nầy anh được Tổng thống Johnson tưởng thưởng huy chương và Thống tướng Wesmoreland thay mặt Tổng thống Mỹ trao tặng. Năm 1972, nhờ lập chiến công tại chiến trường An Lộc anh là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 15, SĐ 9 BB. 6/1973: vinh thăng Đại tá, làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng tỉnh Chương Thiện cho đến ngày mất nước. Về địa lý tỉnh Chương Thiện gồm: 4 quận với 32 xã. Xã Vị Thanh hay thị xã Vị Thanh, quận Đức Long là trung tâm Thị trấn tỉnh Chương Thiện thời bấy giơ, thuộc quân khu IV. Đây là khu trù mật thành công và hoàn chỉnh nhất thời Đệ I Cộng hòa của miền Nam Việt Nam. Nó cũng là “cái ổ’ của Việt cộng nằm vùng. Người ta thường nói Vị Thanh-Hỏa Lựu đi đôi với nhau, vì sự bình định phát triển nông thôn, đời sống dân chúng sung túc ruộng vườn của 200.000 nông dân, quân cán chính trú đóng phát triển đủ mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa v..v. Trên bản đồ quân sự 1/25.000 thì tỉnh Chương Thiện nằm giữa trung tâm 3 tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên và Rạch Giá cách nhau 60 km đường chim bay từ mỗi tỉnh lỵ. Một con đường Liên tỉnh lộ 32 nối liền thành phố Cần Thơ - Vị Thanh dài 60 km, dẫn dọc theo Kinh xáng Xà-No vào thị xã Vị Thanh. Dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn gồm nhiều sĩ quan cấp Tá, tôi nhớ xin ghi ra đây, sau 25 năm xa vắng cố hương, kẻ mất người còn !. Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp: Quận trưởng quận Kiến Thiện. Thiếu tá Nguyễn văn Bình: Quận trưởng quận Đức Long (Long Mỹ). Thiếu tá Võ văn Phúc: Quận Trưởng quận Kiến Bình. Thiếu tá (không nhớ rõ): Quận Trưởng quận Kiên Hưng. Vị Tham Mưu Phó là Thiếu tá Võ văn Thời, anh cũng là người trực tiếp chỉ huy mặt trận tại ngã ba Vĩnh Tường đến 10 giờ sáng ngày 02-5-75, mới buông súng. Xã Vĩnh Tường nằm trên Liên tỉnh lộ Cần Thơ-Vị Thanh, ngã ba tẻ vào Long Mỹ và ngả về Thị xã Vị Thanh. Áp lực địch rất mạnh quyết sống chết để cắt đứt tiếp viện từ Cần Thơ vô và từ Chương Thiện ra. Được biết chắc Thiếu tá Thời bị thương ở chân, nhưng nghe chạy được về Cần Thơ, nay không rõ tông tích ra sao?. Hai vị Thiếu tá Tiếp và Phúc mỗi khi đi công tác tỉnh, Sư đoàn là kéo tôi theo vì trước Ty Điền Địa, dọc Kinh xáng Xà No là bãi đáp trực thăng. Ân tình thâm sâu khi hai anh còn phục vụ tại Tiểu khu và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Được biết ngày 30-4-75 cả hai anh về tỉnh bằng tác ráng bị B 40 Việt cộng phục kích trên sông rạch. Địa điểm ghi không được. Riêng Thiếu tá Nguyễn văn Bình còn độc thân, xuất thân từ Võ bị Đalạt, sau trận chiến ngày 02-5 thoát chạy về gia đình ở Cần Thơ. Và cũng vô âm bặt tín cho đến nay. Riêng tại các xã, các vị xã trưởng bị xử tử tại địa phương. Tôi nhớ Xã trưởng Nguyễn văn Mây, xã Hỏa lựu (quận Đức Long), xã Ninh Bình (quận Kiến Thiện), Xã trưởng Vĩnh Tường anh Huỳnh văn Bon, xã Vĩnh Tường là đường huyết mạch, lối 3 giờ chiều Việt cộng thường phục kích công xa và quân xa, nên anh Bon rơi vào số phận hẫm hiu chung không ai lấy làm lạ. Đặc biệt Xã trưởng Vị Thanh, Ông Khưu văn Kỉnh thì an nhiên tự tại chỉ bị bắt giam tại ty Cảnh sát Chương Thiện như đa số khác. Cùng rất nhiều vị xã trưởng khác tôi không ghi ra hết được. Họ là những thành phần Hạ sĩ quan phục vụ tại địa phương xã nhà, hy sinh vì chánh nghĩa quốc gia đến ngày chót. Ghi nhận để lịch sử vinh danh họ. Đó là những ghi nhận đến 23-6-1975 khi chuyển trại tập trung tại xã Hỏa lựu. a)Về phần hành chánh chuyên môn: Phó Tỉnh trưởng Hành chánh: Đốc sự Nguyễn Khắc Linh thuyên chuyển về Bộ Nội Vụ, Đốc sự Diệp Bửu Long, lên thay vào áp chót 30-4-75, đi cải tạo miền Bắc. Hiện tỵ nạn ở Mỹ. b) Các Ty sở nội chánh: Ty Hành chánh: Đốc sự Huỳnh Thông. Ty Ngân khố: Đốc sự Khương Phục Hưng, Ty Kinh tế: Đốc sự Lê Thanh Đào, sau về Ba Xuyên, Ty Công vụ: Đốc sự Huỳnh văn Xuân (chuẩn úy đi cải tạo chung với tôi qua nhiều trại ở miền Nam). Nhưng vào tháng 4/75 rất nhiều Đốc sự thuyên chuyển về phục vụ tại Vị Thanh ghi ra đây không được và không quan trọng lắm. -Hội đồng Phát triển Bình Định Nông Thôn: Đại úy Trần Minh Hồng (Trưởng), Đại úy Phan Kim Mỹ, em vợ Đại úy Lê Ngọc Sơn ở Úc châu (khóa 14, chết) làm Phó và nhiều sĩ quan, nhân viên dân chính dưới quyền. -Hội đồng Tỉnh: Y sĩ Thiếu tá Lâm văn Hai làm Chủ tịch. Quách Toàn Thiện (Cựu Trưởng Ty Kiến Thiết), HĐ Minh (quên họ), Trần văn Bạc (cựu Đại úy), Lý Thanh Mẩn làm Tổng thư ký v.v... Một Tòa án thiết lập bên hông Ty Điền Địa, cạnh Hội đồng Tỉnh đã hình thành nhưng chưa có vị Chánh án đáo sở nhậm chức vụ. c) Các Ty sở ngoại thuộc. Ty Điền Địa: Trung úy Nguyễn văn Khậy (hiện tỵ nạn Úc châu). Ty Công Chánh: kỹ sư Trương Minh Trung (tỵ nạn ở Mỹ). Ty Kiến Thiết: Quách Toàn Thiện, ra ứng cử Hội đồng tỉnh chưa có người thay thế. Sau 1975 bạo bệnh chết tại xã Tân Túc, Tỉnh Long An, quê vợ. Ty Miên vụ: Trung úy Danh Thọ. Ty Chiêu Hồi: Đại úy Nguyễn Hiếu Nghĩa, đi "cải tạo" miền Bắc, vô âm bặt tín. Ty Học Chánh: Không nhớ tên Ty Thông Tin: Không nhớ tên Ty Xã hội: Đốc sự Nguyễn Đình Vũ. Ty Canh Nông: Kỹ sư Nguyễn văn Chúng. Ty Thuế Vụ: Tham sự Đặng Ngọc Tợ. Ty Cảnh Sát: Trung tá Võ văn Đường bị xử bắn. Ty Điện lực: Trung úy Phan thế Hòa. Tất cả Trưởng Ty sở tại sau ngày 02-5-75 dứt tiếng súng, lịnh qua loa kêu gọi trình diện, nhốt vô Ty Cảnh sát Chương Thiện, để sau đó phân bố đi cải tạo trong Nam hay ngoài Bắc. Riêng Ty Công chánh Nguyễn Tăng Hà thay Trung và Phan Thế Hòa, Điện lực được lưu nhiệm. Trương Minh Trung về Cần Thơ, hiện nay tỵ nạn ở Hoa kỳ. Còn Hà sau nầy bị đụng xe gắn máy chết 1987 tại cầu Bắc Cần thơ. Những Ty sở chuyên môn trong tỉnh sau năm 1975, kẻ vượt thoát, kẻ chết không ghi ra được hết!. Nói đến cái chết vinh danh của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện, tôi xin được bổ túc thêm: đứng đầu là các vị Quận trưởng, bắn hoặc bị giết tại địa phương; kế Trưởng Ty Cảnh Sát Chương Thiện: Trung tá Võ văn Đường; Đại úy Phạm văn Bé, Đại đội trưởng Đại đội Trinh sát tỉnh, cùng bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975. Các vị xã trưởng từng địa phương, họ là những anh hùng không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ thù. Tổ quốc và quân sử mãi ghi danh họ. Còn một Đại đội Giang Thuyền của Đại úy Nguyễn văn Đầy, Đại đội trưởng; Đại úy Trần hữu Dinh, Đại đội phó đóng tại xã Vị Đức bên kia phi trường Chương Thiện. Hiện cả hai vị nầy ra sao? d) Về lực lượng quân sự và Sư đoàn 21 Bộ Binh cận 30-4-75: Các Trung đoàn 31-33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh, Quân khu IV rút ra bảo vệ phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Một Đại Đội tân binh quân dịch tăng phái về đóng tại ICS (Ủy ban Kiểm soát Đình chiến Bốn bên) cạnh sân Tennis tỉnh, trên đường Gia Long đối diện Kinh xáng Xà-No. Lực lượng nầy bắn trả Việt cộng vào ngày 30-4 không cho tên Việt cộng nào vượt được sang cầu xi măng Lữ quán. Trung đoàn 32 SĐ 21 Bộ Binh, còn trú đóng tại Bạc Liêu. Trung đội bảo vệ dinh Tỉnh trưởng, những con gà cồ 60 ly trên lô cốt, gáy dữ dội từ 30-4 đến 10 giờ sáng ngày 02-5-75 mới chịu tắt tiếng. Trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21, tôi quen biết Đại tá Nguyễn Hữu Kiểm, Tư lệnh phó Sư đoàn, vì ông hay ra đánh tennis với quí thương gia ngoài phố. Đại tá Lâm Chánh Ngôn Tham Mưu trưởng Sư đoàn. Khi Thiếu tướng Lê văn Hưng về nhậm chức Tư lệnh phó Quân khu IV dưới quyền Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Chuẩn tướng Mạch văn Trường về nhậm chức Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh. Sự kiện nầy gây bất bình cho hai vị Đại tá Nguyễn Hữu Kiểm và Đại Tá Lâm Chánh Ngôn, vì cả hai thâm niên quân vụ hơn tướng Trường sao đó...?. Hai vị rục rịch di chuyển đi thì cận 30-4 đen. Trước đó 2 tháng, Đại tá Lê Viết Điều trưởng phòng 4 Sư đoàn về hưu ở tỉnh Ba xuyên. Riêng Thiếu tá Phước (không rõ họ), “cận vệ” cho Đại tá Kiểm thường lui tới Ty Điền Địa chúng tôi, sau 30-4 cũng không ghi nhận tin tức các vị Tá trên. Về phòng 3 Tiểu khu Chương Thiện, tôi quen Đại úy Trương Công Hạnh (phó), vị Trưởng ban Thiếu tá Tiệp đi nhậm chức Quận Trưởng. Đại úy Hưng (quên họ) chồng cô Nguyễn Thị Kim Yến làm tại Ty Điền Địa v.v... Thiết đoàn 4 Chiến xa do Trung tá Trần Hữu Thành, Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh đóng tại đầu cầu sắt, ngã ba vô Tòa Hành chánh, và nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy khác của Thiết đoàn cũng chung vận nước mà tôi chưa kịp ghi ra đây về lý lịch và sống còn của họ. Mặc dù Tổng thống Dương văn Minh ban lệnh buông súng đầu hàng từ 10 giờ sáng 30-4-75, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê văn Hưng vẫn tiếp tục chiến đấu đến giờ phút chót và khi thấy thế cùng lực cạn đành rút súng tự sát, để bảo tồn khí tiết cấp chỉ huy. Quân khu IV không còn. Khu chiến thuật mất liên lạc. Một tiểu khu và một số đơn vị vẫn tiếp tục chống trả VC quyết liệt đến sáng ngày 02-5-75. Đáng kể nhất tiểu khu Chương Thiện kềm địch mọi mặt tấn công vô tỉnh. Rồi đúng 10 giờ sáng mới buông súng. Khi thế nước lâm nguy mới rõ mặt anh hùng. Và quân sử Quân lực VNCH hơn 50 năm sản sinh biết bao vị anh hùng Quân đội. Bên cạnh biết bao kẻ khiếp nhược trốn chạy ôm theo vợ con của cải, gia sản; thì tại miền Tây nước Việt bỗng: vươn lên những bậc anh hào lưu danh muôn thu. Đó là cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, cố Trung Tá Võ văn Đường, cố Đại úy Phạm văn Bé thà chết chớ không chịu sa vào tay giặc, bỏ đồn, bỏ lính, bỏ đơn vị đào nhiệm. Xin một nến hương cho những chiến sỹ, đấng anh linh đã nằm xuống và mãi mãi cho những người đang chiến đấu vì lý tưởng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền trên quê hương đau khổ Việt Nam được sớm vãng sanh. Và cũng một lần nữa, tưởng nhớ AET Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Tiểu khu trưởng đã nằm xuống. Amen! Riêng cầu chúc chị Cẩn và cháu trai sống hạnh phúc trong niềm tự hào tại Anaheim- California, Hoa kỳ. Nguyễn Văn Khậy *** Viễn Đông Phỏng Vấn Phu Nhân Cố Đại Tá Hồ-ngọc-Cẩn ( Tuesday, August 10, 2010) Kính Thưa Quý Chiến hữu. Tối hôm qua ngày 8/8/2010 HCTSQ miền Nam CA (cá nhân tôi) nhận được điện thoại từ bà Quả Phụ Hồ Ngọc Cẩn nhờ tôi thông báo đến quý Chiến Hữu về lá thư mời của Ông Lê Nguyễn Thiện Truyền viếng thăm mộ phần của chồng bà là CTSQ Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vì bà là thành viên của Hội Cựu Thiếu Sinh Quân nên nhờ tôi thông báo đến quý chiến hữu. Nguyên văn trên điện thoại như sau: 1. Gia Đình của chúng tôi hoàn toàn không đồng ý, và chịu trách nhiệm về việc tổ chức viếng thăm mộ phần của Chồng, Cha, và ông Nội của chúng tôi là CTSQ ĐT Hồ Ngọc Cẩn do ông Lê Nguyễn Thiện Truyền tổ chức. 2. Chồng tôi CTSQ Đ/T Hồ Ngọc Cẩn cũng như nhiều biết bao chiến hữu khác trong QL/VNCH đều nguyện Vị Quốc Vong Thân cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa thân yêu, vì chồng tôi khuất đã lâu nên chúng tôi chỉ muốn Người được âm thầm an nghĩ thanh thơi như bao nhiêu chiến hữu khác của chồng tôi không màng danh lợi, và cũng không muốn bất cứ ai lợi dụng hay vinh danh tên tuổi của của người đã khuất. Vì lá thư mời của ông Truyền có thể làm nhiều người hiểu lầm là gia đình của Chị Hồ Ngọc Cẩn đồng ý chuyện nầy và vì HCTSQ miền Nam CA là thành viên của LHCCHS nên tôi kính thông báo đến quý chiến hữu để giúp phổ biến rộng rãi để minh xác đến quý hội viên của quý hội Gia dình Chị H.N, Cẩn và Hội CTSQ miền nam CA không đồng ý và dính dáng đến vụ việc nầy. Kính Thông Báo Đại diên cho Gia Đình bà Quả Phụ Hồ Ngọc Cẩn HT/ HCTSQ miền Nam CA CTSQ Phan Ngọc Luong ***
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 4, 2013 7:14:46 GMT 9
Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn
anh hùng hồ ngọc cẩn
Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN
hay
Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh,thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường:Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện.
Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Người ta sinh ra, ai mà không chết. Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi, An giấc ngàn thu cùng Vợ là Nguyễn Hoàng Châu Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.
***
Tưởng Nhớ Đại tá Hồ-ngọc-Cẩn Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 7:57:54 GMT 9
Bia Đá Đợi Chờ, 39 Năm SauGiao Chỉ San Jose Bia Đá Đợi Chờ, 39 Năm SauGiao Chỉ Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bẩy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ý nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang hình thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đã hoàn tất một công tác ý nghĩa từ cả hai cõi âm dương. Tháng tư 75, năm cùng tháng tận. Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974 Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm dò đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nhìn qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đã trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nhìn về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ còn trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn tòan thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975. Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bã rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngãi. Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I. Hà Nội vừa đánh vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Mọi việc không còn như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 phòng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh. Lúc đó nước đã đến chân, không còn giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đã cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đã từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975. Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đã vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall). Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh còn đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đã qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đình đã trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam. Bia đá tưởng niệm. Những cái chết anh hùng. Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn vì không giữ được thành. Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đã tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ hình ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác. * Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 thì người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. Tình cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày. Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát thì trung tá Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không còn ai bình tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào phòng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba. Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đình sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đình làng ghi rõ là Lê tướng công, tư lệnh sư đòan số 5 quân đội Saigon. Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giã tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê Gò Công, qua đời năm 50 tuổi. Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi. Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đã nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đã có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông còn đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi. Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đã tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất. Bia đá tưởng niệm. Bia Đá ngàn thu. Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường tình. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần võ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đã được thế giới biết đến. Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động vì những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đã vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để hình ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc hình ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quý như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẳn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo hình. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay hình ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là hình bóng các chiến binh Việt Nam. Bia đá tưởng niệm. Lễ khánh thành Buổi lễ khánh thành sẽ là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đã phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tổ chức từ 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Nếu không có gì trở ngại, kính mời quý bà, quý cô mặc áo dài, quý vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương trình sẽ thực hiện bằng Anh và Việt ngữ. Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm sẽ do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ sẽ hòa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chử thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh. Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ý nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đình của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lãnh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đã trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong tình huynh đệ chi binh. Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình, xin mời đến dự.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa. Có thêm phần triển lãm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004. Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẩn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đình tang gia 39 năm sau. Xin hãy đến 1 lần với buỗi lễ và sẽ nhớ suốt đời vì đã mang ý nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong lòng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 25, 2015 6:57:21 GMT 9
Đồng Văn Khuyên: Tướng Tham Mưu Tài Ba 24/03/2015 Đỗ Xuân Tê
Một vì sao lại vừa rụng sáng chủ nhật 22 tháng 3 sau bốn mươi năm kể từ ngày di tản buồn. Mấy ngày trước khi ông mất, người ta nhắc nhiều đến tên ông – trung tướng Đồng Văn Khuyên - một tướng lãnh chưa một lần cầm quân cấp trung đoàn nhưng trở thành tướng ba sao, mỗi sao chưa đầy ba năm và chức vụ cuối cùng trước ngày mất nước là Quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH trao tay từ người đàn anh là Đại tướng Cao Văn Viên từ nhiệm sáng 28/4.
Trong quân đội có thể nhiều người lính chưa biết tên ông, nhưng sĩ quan và ai đảm nhận chức vụ chỉ huy bất kể ngành gì thì đều biết ông. Một thuộc cấp gần gũi với ông, đại tá VVL tức nhà văn Giao Chỉ đã gọi ông là nội tướng của toàn quân chuyên lo vấn đề tiếp vận từ súng ống đạn dược quân xa, quân cụ đến thực phẩm lương khô, quân trang, xăng nhớt…và trong thời cao điểm của cuộc chiến suốt một thập niên tên ông đồng hành với công tác tiếp vận tiếp liệu mà chức vụ chính thức là Tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận trong hệ thống tham mưu đầu não tại trung ương.
Xuất thân Khóa 1 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ông là một trong số sĩ quan đầu tiên có bằng tú tài bị gọi động viên gia nhập quân đội quốc gia. Sau thấy hợp áo lính ông chuyển sang sĩ quan hiện dịch và kể từ chiến dịch bình định Khu 5 cũ tại miền Trung sau 54, ông trở thành sĩ quan tham mưu chuyên về phòng tư lo các mặt tiếp vận, hậu cần cho đơn vị.
Mười năm sau ông trở thành chỉ huy trưởng BCH 3 tiếp vận cho quân đoàn 3 mà lúc này tư lệnh là thiếu tướng Cao Văn Viên. Tướng Viên một sĩ quan Dù thấy ông xuất sắc về tham mưu đã cho ông kiêm luôn chức Tham mưu trưởng quân đoàn, từ đây đường binh nghiệp như diều gặp gió khi xếp ông trở thành tướng 4 sao nắm chức Tổng tham mưu trưởng của quân lực miền Nam. Tướng Viên kéo ông về trung ương, trao nhiệm vụ tiếp vận cho toàn quân với chức vụ Tham mưu phó kiêm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận Bộ TTM. Cũng trong thời gian này do nhu cầu công tác, có lúc ông còn làm Trưởng Phòng Tổng quản trị lo về nhân viên và kiêm luôn Đổng lý văn phòng Bộ Quốc phòng, các chức vụ vừa to về chức vừa nặng về quyền nhưng ông luôn giữ vai trò tham mưu đứng sau các xếp lớn, ít khi nào phô trương cá nhân. Ba năm trước ngày mất nước ông đảm nhận chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân, một CEO nếu kể quân đội là một đại công ty, phụ tá đắc lực và quán xuyến mọi việc cho tướng Viên khi ông này luôn đòi từ nhiệm nhưng tổng thống Thiệu không chịu cho người thay thế. Tướng Khuyên dù thực quyền là số 2 trong hệ thống tham mưu chóp bu, ông vẫn kiêm nhiệm chức vụ đầu ngành tiếp vận của quân lực. Nói vậy để thấy sức làm việc đáng nể của ông tướng này và qua đó nếu kể về công trạng ông được kể là tướng tham mưu tài ba và hữu hiệu nhất trong quân lực dù ông chẳng bao giờ cầm quân chỉ huy trực tiếp các đại đơn vị như các tướng lãnh cùng thời mang cấp ba sao.
Về cuộc đời và binh nghiệp của tướng Khuyên, tất nhiên cũng có người nói sao lên lon quá nhanh dù chỉ làm công tác tham mưu, nhưng xét cho cùng con người ta có số, có thế có thời, lại có khả năng, gặp người phù trợ biết cách dùng người (mentor) như tướng Viên thì bảo sao mà ông Khuyên không có cơ hội tiến thân? Cũng từ giai thoại này mà người ta được biết, tướng Đồng Văn Khuyên cũng rât có tình với thuộc cấp, đặc biệt chuyện lon lá thăng thưởng ông cũng sốt sắng và đặc cách cho nhiều trường hợp ngoài bảng cấp số hoặc châm chước về tiêu chuẩn căn bản miễn là người ấy phải làm việc giỏi và tranh thủ được sự tín nhiệm của ông (ít nhất có một người tôi biết là đại tá VVL).
Cũng là sự ngẫu nhiên sau cuộc chiến, khi tôi liên tưởng hai người đứng đầu về hậu cần và tiếp vận của quân đội hai miền Nam - Bắc, ông tướng bên kia cũng họ Đồng xưa nay họ này là hiếm (một ông Hà Tĩnh, một vị Gò Công), nhưng gõ Google tò mò tìm hiểu, tướng Đồng Sĩ Nguyên của Hà nội đã được thăng vượt cấp từ đại tá lên thẳng…trung tướng! Thế mới biết ngành lo về tiếp vận cho binh lính bên nào cũng cần người tài.
Nay viết ít hàng về thân thế, lý lịch của một tướng lãnh vừa nằm xuống, người viết hoàn toàn dựa trên các dữ liệu có thật, trên các chức vụ có thật, với những năm tháng cụ thể và với những nhân vật liên hệ được ghi trong quân sử, chủ đích không hề tô hồng tên tuổi một vị tướng vốn dĩ được sự kính nể của toàn quân mà một sĩ quan cấp nhỏ như tôi ít nhất cũng đã có dịp diện kiến vài ba lần trong các cuộc họp tham mưu cấp cao mà tôi được chỉ định làm biên bản buổi họp.
Lần ấy là năm 1969, một năm sau Mậu Thân, cơ quan chúng tôi có phát động một kế họach nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ lấy tên kế họach Chân Trời Mới. Đây là một dự án có tầm qui mô lớn được thực thi trong toàn quân từ trung ương đến địa phương, cũng không phải là kế hoạch xuông nặng về giấy tờ dao to búa lớn mà là đi sâu vào thực tế của từng đơn vị kèm theo các phương tiện yểm trợ phúc lợi cho binh sĩ và gia đình của họ. Kế hoạch do Tổng cục CTCT chủ trì nhưng lại được hậu thuẫn yểm trợ mạnh mẽ từ Tổng cục tiếp vận.
Đích thân đại tướng Cao Văn Viên chỉ đạo cần có phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành của bộ TTM, và qua các buổi họp phân công tôi mới có dịp thấy và nghe khẩu khí của tướng ĐVK qua các phát biểu và lối giải quyết nhanh nhạy của ông. Nhiều việc chỉ cần họp xong dựa vào biên bản là thi hành không cần chờ văn thư văn bản. Có theo dõi định kỳ, có qui trách nhiệm cho từng phần vụ, có biện pháp kỷ luật cho các đơn vị trưởng thiếu quan tâm hoặc chậm trễ công tác. Kế hoạch khi sơ kết có những thành quả nhất định của nó.
Từ các buổi họp này tôi có ý thầm phục tài tham mưu của tướng Khuyên và càng trọng tư cách khiêm tốn của ông khi cùng sao cùng cấp với tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng ngành tôi, đồng chủ tọa buổi họp nhưng ông luôn kéo ghế sang ngồi phía bên phải cùng các cục trưởng dưới quyền và tham dự như một thành viên cấp cao.
Ra hải ngoại cách đây 7 năm ông có sang Cali, chủ yếu là thăm lại bạn bè và các đàn em cũ. Ông đến trong âm thầm ông về trong lặng lẽ, nếu ông muốn cũng còn nhiều thuộc cấp cũ có máu mặt sẽ tiếp đãi phải lẽ. Tôi không ngờ khi ghé thăm một người đàn anh cũng diện H.O. đang ở trên một căn hộ gần khu tượng đài. Anh nói với tôi tướng Khuyên sang chơi mới ở nhà anh mấy bữa, ông này ở một mình lại không có xe sao ông thầy lại chọn chỗ này, mỗi trưa một ông khác có xe đến chở đi ăn cơm bình dân quán Cali 5 đô rưỡi một phần. Sau đó lòng dòng mấy nơi thăm anh em, tối về lại mỗi người một phần đồ ăn to go.
Tôi cũng như nhiều người có thể đặt câu hỏi sao ông Thầy sống giản dị như vậy, nhất là sang đây từ 75 và có một quá khứ quyền cao chức trọng phương tiện trong tay. Anh bạn tôi một người đã ở cùng tướng Khuyên khi còn ở Biên Hòa cũng chỉ là sĩ quan thanh tra tại tổng cục, anh thổ lộ, nói nhỏ mày nghe, nói to chúng nó chửi, ông thầy cũng sạch như xếp mày, không chịu ăn giờ này mới giống anh em mình. Chưa hẳn đã tin, nhưng lòng tôi cũng thấy bâng khuâng giờ này viết lại vẫn còn cảm xúc tiếc thương một ngôi sao vừa rụng.
Viết tại quận Cam 23-2-2015
Đỗ Xuân Tê
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:22:17 GMT 9
VỊ TƯỚNG CỦA MÙA HÈ ĐỎ LỬA NĂM 1972 Tướng Ngô Quang Trưởng
Tháng 8, 1969: Trong một buổi thuyết trình dành riêng cho đại sứ Hoa Kỳ ở Lào, G. Mcmurtrie Godley, đại tướng tư lệnh MACV, Creighton Abrams, nói về tình hình quân sự và tình hình của các đơn vị chủ lực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Về Vùng I, tướng Abrams nói : “Chúng ta có Sư Đoàn 1 ở đây. Sư đoàn này có 17 tiểu đoàn tác chiến đây là sư đoàn loại hạng nhất; sư đoàn có những quân nhân thượng thặng trên cả nước. Đơn vị có cấp chỉ huy giỏi, từ tiểu đoàn trưởng cho đến tư lệnh sư đoàn. Người tư lệnh sư đoàn… tôi không nghĩ QĐVNCH có một người tư lệnh như ông ta tài giỏi về chiến thuật một người dẫn đầu làm gương”.
Hơn một năm sau, tháng 10 năm 1970, trong buổi thuyết trình dành riêng cho giám đốc CIA, Richard Helms, đại tướng tư lệnh phó MACV. Fredenck Weyand, nói, “Trưởng … tôi không cần phải nói nhiều về ông ta vì khả năng của ông đã đựơc biết. Từng là tư lệnh Sư Đoàn 1, nếu nói về cấp sô quân ông ta đã chỉ huy hơn 2 sư đoàn…. Lâu nay ông đã chứng tỏ được khả năng chỉ huy; không ai lung lay ông được. Từ lúc xuống coi Vùng IV, với cá tính năng động, ông đã đề ra những kế hoạch ưu tiên phải thực hiện.. ông đã đem lại nhiều phấn khởi cho Vann (John Paul Vann chỉ huy trửơng Xây Dựng và Phát Triển Nôn.Thôn Vùng IV ) và McCrown ( thiếu tướng Hal D. McCrown, cố vấn trương Vùng IV ) ngoài sức tưởng tượng.”
Người chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 và vị tư lệnh Quân Đoàn IV được nhắc đến, là trung tứơng Ngô Quang Trưởng, cựu tư lệnh Quân Đoàn IV, và sau đó, Quân Đoàn I. Trung tướng Trưởng đã từ trần ngày 22 tháng 1, 2007, tại Fairfax, Virginia. hưởng thọ 77 tuổi.
Lời bình phẩm của hai vị đại tướng Abrams và Weyand, là hai trong nhiều lời bình phẩm và khen ngợi về khả năng chỉ huy của tướng Trưởng, đến từ nhiều sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ trong thời gian họ phục vụ ở Việt Nam. Một trong những lời ca tụng cao quý nhất dành cho tướng Trưởng đến từ Tham Mưu Trởng Liên Quân Earl G.Wheeler. Tháng 7, 1969, trong cao điểm của chương trình Việt Nam Hóa, tướng Wheeler đến Việt Nam thăm viếng và hội thảo với đại tướng Cao Văn Viên. Khi nói về chương trình gia tăng quân số cho QLVNCH, tướng Wheeler nói ý nghĩ của ông với tướng Viên: cách gia tăng nhanh chóng sự hữu hiệu của QLVNCH là không phải tạo ta thêm nhiều đơn vị mới, mà là tạo thêm ra nhiều anh hùng trong đơn vị. Giống như ở Sư Đoàn 1, một sư đoàn đang hoạt động rất hữu hiệu. Cái quý trọng đáng nói về những lời khen ngợi này, là tất cả cuộc đối thoại nói về tướng Trưởng đều xảy trong vòng bí mật giữa các tưởng lãnh cao cấp Hoa Kỳ; họ nói về tướng Trởng trong vòng kín đáo riêng tư chứ không phải những lời khen thưởng, khích lệ tinh thần ngoài công cộng. Đó là vinh dự cho một vị tướng mà theo lời của đại tướng Norman Schwarzkopf – người đã gọi tướng Trưởng là bậc thầy – “không cao lớn, không đẹp trai, không có vẽ gì là một thiên tài tài quân sự. “
Ngô Quang Trưởng sanh ngày 13-12-1929, tại Giao Thanh. tỉnh Bến Tre, trong một gia đình được coi là khá giả ở miền Nam. Sau khi hoàn tất bậc trung học ở trường Trung Học Mỹ Tho, ông gia nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường tháng 6 năm 1954, tân thiếu úy Ngô Quang Trưởng đậu hạng 162 trên 1148 tân sĩ quan của Khóa 4. Khóa 4 Sĩ Quan trừ Bị Thủ Đức (ra trường cùng thời gian với khóa 10 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt) là một trong những khóa sĩ quan đông nhất và đào tạo nhiều sĩ quan sau này là rường cột của QLVNCH. Cùng khóa 4 với tướng Trưởng là các tướng Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Hồ Trung Hậu, Nguyễn Văn Điềm, Vũ Văn Giai. Những người bạn cùng khóa còn lại là những sĩ quan chỉ huy trưởng quan trọng của các sư đoàn, lữ đoàn, như Nguyễn Trọng Bảo, Liêu Quang Nghĩa, Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thu Lương, Nguyễn Thế Lương, Hoàng Tích Thông, Lê Cảnh Dị, Phạm Hy Mai, Nguyễn Viết Cần. . . . Một số những sĩ quan nói trên hoặc đã hy sinh vì tổ quốc, hoặc đã trải qua một thời gian dài đầy cay đắng trong lao tù cộng sản chỉ vì có tội trung thành với Tổ quốc của họ.
Ra trường, tướng Trưởng chọn binh chủng Nhảy Dù và được chỉ định về phục vụ ở tiểu đoàn 5, tiểu đoàn mà chưa đến một năm trước đó đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng; tiểu đoàn của đại úy Phạm Văn Phú, của những đồi Eliane, Dominique, ở Điện Biên Phủ. Trừ cấp bực đại úy được chánh phủ thăng thưởng chung cho nhiều sĩ quan có thârn niên quân vụ đến thời gian đó (l tháng 11 1961), tất cả cấp bực về sau, tướng Trưởng được đặc cách ngoài mặt trận, hay được đính thân tư lệnh chiến trường, tư lệnh quân đội vinh thăng. Vinh quang đầu tiên của tướng Trưởng xảy ra vào cuối tháng 2 năm 1964, khi tiểu đoàn 5 của Nhảy Dù đánh vào mật khu Đỗ Xá (Đỗ xá là một địa danh nằm ngay biên giới của ba tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Tín và Kontum), ở Vùng I. Với chiến thắng này, cố đại tương Đỗ Cao Trí (lúc thiếu tướng Trí coi Vùng I) đích thân đặc cách thiếu tá nhiệm chức cho tướng Trởng. Đầu tháng 6-1964, ông được lên thiếu tá thực thụ – một cấp bực rất hiếm trong tháng năm đó cho một sĩ quan với mười năm quân vụ.
Sau cuộc đảo chánh 1 thắng 11, năm 1963, trong khi thủ đô Sài Gòn sôi sục với những biến động chính trị, thì những người quân nhân thuần túy vẫn thi hành nhiệm vụ của họ ở chiến trường. Hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh. Với những yểm trợ vũ khí và huấn luyện của các đơn vị chánh quy xâm nhập từ miền Bắc vào. Việt Cộng bây giờ đã có đủ quân và vũ khí để đánh cấp trung đoàn nếu không nói là sư đoàn. Cuối năm 1964 đầu năm 1965, sau khi phục kích và đánh thiệt hại hơn ba phần tư tiểu đoàn 4 TQLC và một tiêu đoàn Biệt Động Quân ở Bình Giả, Phước Tuy, cộng sản tụ quân lại chung quanh địa cứ đó để biểu dương lực lượng. Bộ Tổng Tham Mưu lập tức khởi động chiến dịch Nguyễn Văn Nho, cho hai tiểu đoàn Nhảy Dù, ba tiểu đoàn TQLC và một chi đoàn thiết giáp trở lại Bình Giả truy lùng các đơn vị cộng sản. Nhưng khi thấy lực lượng hùng hậu đó, các đơn vị cộng sản lẫn tránh giao tranh. Nhưng cùng lúc, theo tin tức tình báo đến từ thiếu tá Lê Đức Đạt tỉnh trưởng Phước Tuy, cộng sản sẽ đem ba cố vấn Mỹ mà họ bắt được trong trận Bình Giả trước đó, diễn hành như một chiến thắng cho dân chúng địa phương coi (trong trận Bình Giả, Hoa Kỳ có 5 tử trận, 8 bị thương, và 3 mất tích). Tin tức này cũng được MACV xác nhận: MACV cho biết máy bay thám thính xử dụng hồng ngoại tuyến đã chấm được tọa độ đóng quân của cộng sản ở chung quanh xã Bình Giả và Hắc Dịch (Bình Giả, Bình Ba, Ngãi Giao và Hắc Dịch là bốn xã tạo thành Tống Cơ Trạch.
“Tổng” là một đơn vị hành chánh cho một vài vùng lúc đó. Có nhiều sách địa lý gọi là Hắc Dịch). Với tin tức cụng cấp, Sài Gòn quyết định trở lại truy lùng các đơn vị còn lẩn quẩn chung Bình Giả thêm một lần nữa. Lần này lực lượng tân công là ba tiểu đoàn Nhảy Dù. Ngày 9 tháng 2-1965, tiểu đoàn 5 của Ngô Quang Trưởng; tiểu đoàn 6, Vũ Thế Quang; và tiểu đoàn 7, Ngô Xuân Nghị, nhảy vào Hắc Dịch. Tiểu đoàn 5 và 6 là lực lượng chánh tấn công, tiểu đoàn 7 đi sau lưng để yểm trợ và chận không cho các đơn vị cộng sản thoát ra liên tỉnh lộ 15. Theo đại tá Nguyễn Thu Lương kể lại – lúc đó là đại úy đại đội trưởng tham dự cuộc hành quân – khí tiểu đoàn 5 đã nhận ra và tiến vê mục tiêu là một ngôi làng có tên là Phước Chi, cộng sản cho đốt rừng tre và cỏ tranh trước mặt hướng tiến quân. Họ hy vọng khi lính Dù thấy lửa cháy trước mặt thì sẽ quay đầu lại tìm hướng khác tấn công … và cộng quân sẽ bất ngờ phục kích khi lính tiểu đoàn 5 đi ngược lại. Nhưng tiểu đoàn trưởng Ngô Quang Trưởng không cho lính quay lại; ông ra lệnh xung phong thẳng qua thế hỏa công của địch, đánh thẳng vào bộ chỉ huy cộng sản trước mặt, ở phía sau đám lửa đốt ngụy công đó. Và kết quả của trận chiến? Theo tiểu đoàn trưởng Vũ Thế Quang, “… ông Trưởng đã đánh một trận để đời; đánh tan lực lượng Việt cộn ở Hắc Dịch. Và tên ông Trưởng được nhắc đấn nhiều từ trận đó” Theo báo chí Hoa Kỳ tường trình lại, trong trận này, tướng Trưởng và lính tiểu đoàn 5 Dù đã cứu được vị đại úy Mỹ cố vấn tiểu đoàn, Đại úy Thomas B. Throckmorton là con trai của trung tướng John L. Throckmorton, tư lệnh phó cho đại tướng William Westmoreland, đương kim tư lệnh MACV. (Cũng muốn nói thêm ở đây, tướng Trưởng hình như có duyên với những sĩ quan Mỹ cố vấn cho ông: Trong thời gian ở Sư Đoàn nhảy Dù, ba người cố vấn đều là con của tướng hay là trở thành tướng của quân đội về sau. Sau đại úy Throckmorton là thiếu tá Schwarzkopf. Thân phụ của Schawarzkopf là chuẩn tướng; và chính ông thì trở thành đại tướng. Sau Schwarzkopf là thiêu tá Guy S. Meloy, III. Cha của
Meloy lúc đó là đại tướng ở Mỹ; và Meloy sau này cũng trở thành một vị tướng, coi Sư Đoàn 82 Nhảy Dù trước khi về hưu.)
Nhưng cũng theo đại tá Quang, chiến thắng của Nhảy Dù, của tiểu đoàn 5, không được báo chí loan tin, hay nhắc đến rầm rộ, vì những biến động chính trị ở Sài Gòn đã lấy đi tất cả sự chú ý lúc đó. Nhận định và quan sát của đại tá Quang về chiên thắng bị bỏ quên của tướng Trưởng không xa sự thật. Tháng 2 của năm 1965 là một tháng đầy biến động ở miền Nam: Tướng Nguyễn Khánh vừa bị Hội Đồng Quân Nhân hạ bệ và muốn ông ta rời khỏi Việt Nam; nội các của thủ tướng Trần Văn Hương thay đổi nhân sự tới lui và có thể bị thay thế. Năm 1964-65 là năm mà trung úy TQLC Trần Ngọc Toàn – người đã thoát chết trong trận Bình Giả – gọi là năm của những sĩ quan cao cấp ngồi ở nhà tranh luận và bảo vệ vị thế chính trị cá nhân, trong khi các sĩ quan cấp nhỏ thì đang chết ở chiến trường bảo vệ họ; năm 1964-65 có nhiều đảo chánh – hay tin đồn đảo chánh – đến độ tác giả Nhảy Dù Phan Nhật Nam, khi cho người lính trong trung đội văng mặt một chút, nhưng căn dặn phải trở lại đơn vị ngay “khi nghe nhạc đảo chánh trổi lên trên đài phát thanh.” Trong khi tờ tường trình về chiến thắng Hắc Dịch chưa kịp gởi về Hoa Thịnh Đốn, thì Hoa Thịnh Đốn đã quan tâm, lo lắng, về những thiệt hại ở trận Bình Giả, và họ chuẩn bị gởi quân tác chiến qua Việt Nam, dựa vào tờ tường trình của CIA gởi về Hoa Thịnh Đốn hai tuần trước. Nhưng cũng có thể, trong tuần lễ thứ nhì của tháng 2 năm đó, QLVNCH đang hân hoan về một chiến thắng khác lớn hơn, quan trọng hơn: ngày 16 tháng 2. ở Vũng Rô, Phú Yên, Không Quân VNCH đã đánh chìm một chiếc tàu sắt, chở hàng trăm tấn vũ khí từ miền Bắc vào tiếp tế cho cộng sản ở miền Nam. Với số vũ khí tịch thu được ở Vũng Rô, sự quên lãng của báo chí về trận Hắc Dịch có thể hiểu được.
Chưa nhạt mùi thuốc súng ở Vùng III, tháng 3-1965, tướng Trưởng đem tiểu đoàn trở lại Vùng I đánh trận Thăng Bình. Chiến thắng ở Thăng Bình có sự quan sát của một sĩ quan sau này trở thành đại tướng: Norman Schwarzkopf. Tướng Schwarzkopf lúc đó là thiếu tá cố vấn của tiểu đoàn. Hai mươi năm sau, sau khi cuộc chiến đã tàn; miền Nam đã thất thủ, tướng Schwarzkopf vẫn không quên ấn tượng ông thấy, và bài học ông học được về lối điểu binh của tướng Trưởng. Năm 1995 khi tướng Schwarzkopf trở lại Việt Nam thăm chiến trường cũ, ông có thực hiện một chương trình truyền hình cho một hãng thông tấn. Chiếu lại địa hình của trận Thăng Bình ông nói, khi tiêu đoàn lọt vào địa cứ của cộng sản, quân địch tràn ra đánh. Tiêu đoàn 5, dù bị thiệt hại, nhưng họ chấp nhận và tiếp tục xung phong và chiếm được mục tiêu…. Lính của tướng tTrưởng đánh như để thử thách đối phương; để chứng tỏ họ không sợ đối phương (trong trận này, y sĩ tiêu đoàn là bác sĩ Đỗ Vinh bị tử trận. Bệnh viện Nhảy Dù Đỗ Vinh là tên của vị y sĩ này). Nhưng sự khâm phục của một vị tướng tương lai không quan trọng bằng sự hài lòng của một vị tướng đang quan sát mặt trận: thiếu tướng Nguyên Chánh Thi đang là tư lệnh Vùng I. Với tiểu đoàn chiến thắng là tiêu đoàn cũ của mình 10 năm trước (tướng Thi coi tiều đoàn 5 Nhảy Dù tháng 5-1955), tướng Thi đặt cách cho tướng Trưởng lên trung tá.
Lên trung tá trong những năm của thập niên 1960 là niềm vui một sự hãnh diện, nếu người đó không còn thích làm tiều đoàn trưởng hay thích đi tác chiến. Vào thời đó, tiểu đoàn trưởng -commandant; chef de bataillon; hay chef d’escadron – chỉ là thiếu tá. Trên thiếu tá thì . . . phải đi tìm một việc khác! Lên trung tá, tướng Trưởng được gọi về làm tham mưu trưởng sư đoàn. Nhưng làm về tham mưu không phải là việc làm tướng Trưởng thích. Và ông để lộ ra ý nghĩ đó vài tháng sau, khi được chỉ định làm tư lệnh phó sư đoàn Nhảy Dù.
Giữa tháng 5 năm 1966 một biến cố xảy ra làm thay đổi cuộc đời của tướng trưởng. Những biến động đồn dập ở miền Trung gây ra nhiều sự lo âu cho chính quyền trung ương Sài Gòn. Sài Gòn thay sáu tư lệnh Vùng I trong ba tháng, nhưng tình hình vẫn không thay đổi. Hội Đồng Quân Nhân quyết định dùng quân đội để tái lập trật tự. Tướng Trưởng, đang là tư lệnh phó Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Cao Văn Viên và đại tá Nguyễn Ngọc Loan đem năm tiểu đoàn Nhảy Dù và TQLC ra Vùng I để tái lập trật tự. Sau cuộc hành quân biểu dương thẩm quyền trung ương, tướng Trưởng được thăng chức đại tá. Từ giai đoạn này đến ngày tướng Trưởng rời binh chủng Nhảy Dù để về làm tư lệnh sư đoàn 1, chúng ta không biết chuyện gì xảy ra – về phương diện tài liệu có được. Chúng ta không biết tướng Trưởng bị hay đựơc chỉ định thay thế chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Sau khi tướng Nhuận và một số sĩ quan cao cấp của Vùng I bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Theo những người quen với tướng Trưởng kể lại tướng Trưởng đã lưỡng lự tạm thời nhận thức tư lệnh một sư đoàn bộ binh vì ông không muốn rời màu áo của lính Dù. Tướng Trưởng từ Sài Gòn đi máy bay ra Huế để nhận nhiệm sở mới. Và để giới thiệu với đơn vị mới cùng người dân địa phương mình là lính Dù, tướng Trưởng nhảy dù xuống Huế để nhận nhiệm sở. Nhưng nhảy dù biểu diễn đôi khi có nhiều rũi ro hơn là nhảy dù vào trận địa. Ngày hôm đó chắc trẻ con và dân chúng Huế ở hai bên bờ sông sẽ reo hò thích thú khi thấy một người lính Dù đáp xuống nước giữa sông Hương! Theo lời đại tá Tôn Thất Soạn, lúc đó đang cùng đại tá Nguyễn Thanh Yên chỉ huy các đơn vị TQLC đang có mặt ở Huế, một chiếc thuyền máy chờ sẳn trên sông chạy đến vớt tướng Trưởng lên. Tử sông Hương, TQLC dùng hai xe Jeep hộ tống tướng Trưởng vào thành nội Huế để nhận chức tư lệnh đầu tiên của ông.
Trong thời gian chỉ huy Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tướng Trưởng được nhiều sĩ quan Hoa Kỳ chú ý. Trong hồi ký A Soldier Reports, Westmoreland nói ông nhận được nhiều báo cáo tốt về Sư Đoàn 1 và người tư lệnh. Tớng Westmoreland đi xa hơn khi ông viết, “nhiều tướng lãnh nói cho tôi biết họ tin vào khả năng của tướng Trưởng đến độ họ nghĩ ông có thể chỉ huy một sư đoàn lính Mỹ được”. Năm 1999 khi tác giả Lewis Sorley cho ra tác phẩm A Better War , và sau đó năm 2004, The Abrams Tapes, chúng ta mới đọc đợc nhiều lời bình phẩm về tướng Trưởng giữa các tướng lãnh cao cấp Mỹ ở bộ tư lệnh MACV. Lý do phải chờ những cuốn sách nói trên ra đời để biết thêm những nhận định về tướng Trưởng, là vì phần lớn những nhận định xảy ra trong những cuộc đàm thoại bí mật ở MACV. Hai tác phẩm của nhà quân sử Sorley phần lớn dựa vào những tài liệu giải mật của bộ tư lệnh MACV.
Tướng Trưởng được thăng chức chuẩn tướng khi về chi huy Sư Đoàn 1. Sau trận Mậu Thân 1968, tổng thống Thiệu thăng cấp tướng cho một số tướng lãnh – một số tướng vì có công trạng, và một số tướng được thăng chức để củng cố thế lực của tổng thống Thiệu trong quân đội. Chuẩn tướng Trưởng có tên trong danh sách được thăng thưởng. Tướng Trưởng mang lon thiếu tướng vào mùa thu năm 1968. Mùa xuân năm 1970, khi QLVNCH chuẩn bị đánh qua Cam Bốt, trong một lần nói chuyện giữa tổng thống Thiệu và đại tướng Abrams, ông Thiệu nói với tướng Abrams là ông muôn thay đổi một số tư lệnh sư đoàn và quân đoàn và theo ý kiến của tướng Abrams thì ai xứng đáng cho những chức vụ tư lệnh mới. Đại tướng Abrams nói ông không hiểu hay biết nhiều về tâm lý người Việt Nam. Nhưng với tất cả sự thiếu hiểu biết của một nười Mỹ, ông nghĩ tướng Trưởng là người xứng đáng nhất; một người tướng có khả năng về mọi mặt, nhất là về bình định nông thôn, một một chương trình mà chính phủ VNCH cần phải thực hiện nhanh.
Trước đó, trong một lần nói chuyện với đại tướng Cao Văn Viên, tướng Abrams có so sánh lối chỉ huy của tướng Trưởng với lối chỉ huy của một vị tướng tư lệnh sư đoàn khác cũng có khả năng như tướng Trưởng. Nghe xong, tương Viên giải thích cho tớng Abrams về sự khác biệt giữa hai ông tướng: khi tướng Trưởng ra một quân lệnh nào đó, ông sẽ đích thân đi ra các cấp đơn vị từ nhỏ đến lớn đê coi lệnh của ông có được thi hành không; trong khi người tương kia thì chỉ để cho sĩ quan dưới quyền hành sự. Sau này, qua những gì sĩ quan báo cáo lại; Tướng Abrams nghĩ nhận xét của đại tướng Viên là đúng. Và sau này, vào năm 1972, khi tướng Trưởng ra chỉ huy Vùng I, hai người cố vấn Mỹ ở quân đoàn đều thấy lối làm việc của tướng Trưởng: quân lệnh lúc nào cũng đi kèm với sự hiện diện của ông ở mọi cấp của đơn vị. Trong khi tổng thông Thiệu còn đang lưỡng lự với quyết định chọn lựa các tư lệnh quân đoàn, thì một biến cố xảy đến bắt ông phải quyết định: Ngày 20 tháng 5-1970, thiếu tướng Nguyễn Viết
Thanh, tư lệnh Vùng lV bị tử nạn trực thăng trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt. Tổng thống Thiệu bổ nhiệm thiếu tướng Ngô Dzu thay cố trung tướng Thanh ở Vùng IV. Nhưng chỉ ba tháng sau, vì một lý do nào đó, tổng thống Thiệu đưa tướng Dzu lên coi Vùng II, và chỉ định thiếu tướng Trưởng về Vùng IV.
Vùng IV tương đối được yên tỉnh trong thời gian tướng Trưởng ở Vùng IV. Trong thời gian này ông đã khích động tinh thần của binh chủng Nghĩa Quân và Địa Phương Quân – một binh chủng cho đến thời gian đó gần nư bị bỏ quên trong cấp số của QĐVNCH. Ông cố gắng hiện đại hóa bỉnh chủng này, và tuyên bố, trên đường dài của cuộc chiến, nghĩa Quân và Địa Phương Quân sẽ là lực lượng rường cột của quân đội trên đường dài. Mùa hè năm 1972 chứng minh nhận định của tướng Trưởng: tướng cao điểm của cuộc tổng tấn công vào miền Nam, từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6, các đơn vị chủ lực của QLVNCH bị thiệt hại 23 ngàn quân so với 14 ngàn của nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Phần lớn 14 ngàn thương vong này xảy ra ở Vùng IV. Trong thời gian ở Vùng IV, ông cũng phát động nhiều cuộc hành quân vào các chiến khu mà từ trước được coi là vùng bất khả xâm phạm của cộng quân. Đầu năm 1971, ông ra lệnh cho trung đoàn 33/ Sư Đoàn 21, vào chiếm chiến khu U Minh Thượng và lập nhiều đồn bót ở đó. Khi đại sứ Bunker xuống viếng thăm, ông hỏi tướng Trưởng sẽ định đóng quân ở mật khu U Minh Thượng đó bao lâu, “ở lại luôn”, tướng Trưởng trả lời. Ngoài mật khu U Minh Thượng, hai Sư Đoàn 7 và 9 của quân đoàn cũng tấn công và thiết lập sự hiện diện thường trực ở các mật khu Thất Sơn, Đầm Dơi, và Đồng Tháp.
Nhưng sự bình yên của Vùng IV không kéo dài để tướng Trưởng hưởng thụ những thành quả, hay tiếp tục thực hiện những kế hoạch mà ông dự định cho Vùng IV. Mùa xuân năm 1971 ông nghe ngóng tin tức của cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Lào với nhiều lo lắng. Năm đó ông cũng rất buồn khi tiễn đưa một chỉ huy trưởng cũ ra đi vĩnh viễn: trung tướng Đỗ Can Trí, cựu tư lệnh Nhảy Dù bị tử nạn trực thăng vào ngày 23 tháng 2-1971, trong khi chỉ huy quân của Vùng III đánh qua Cam Bốt lần thứ hai. Ngoài tướng Trí, ông cũng mất một số bạn bè Nhảy Dù ở Hạ Lào.
Thứ Năm ngày 30 tháng 3-1972, cộng sản tấn công qua vùng quân sự ở Vùng I. Vài ngày sau, các cuộc tổng tấn công cũng bắt đầu Ở Vùng II và III. Ở Vùng IV, cộng quân đã có nhiều hoạt động chuẩn bị cho cuộc tổng công kích từ giữa tháng 3. Theo lởi tướng Trưởng kể lại, trong suốt tháng 4, cộng quân tấn công vào 5. 6 tỉnh của Vùng IV, nhưng các cuộc tấn cộng không đủ mạnh để gây lo lắng cho QLVNCH như họ đang lo lắng cho ba Vùng còn lại, nhất là Vùng I. Ngày 2 tháng 5-1972. Quảng Trị thất thủ. Ngày hôm sau, 3 tháng 5, tông thống Thiệu triệu tập các tư lệnh Vùng về họp ở dinh Độc Lập. Trong buổi họp tổng thống Thiệu chỉ định thiếu tướng Trưởng ra thay tướng Hoàng Xuân Lãm ở Quân Đoàn I với chức trung tướng tư lệnh Quân Đoàn. Đúng một tuần sau tổng thông Thiệu chỉ định thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn – đang là tư lệnh phó cho tướng Trưởng – về thay trung tướng Ngô Dzu ở Quân Đoàn II.
Tướng Trưởng bay ra Huế cùng ngay nhận được lệnh. Khi đến Huế thì tình hình Vùng I đã bi quan rồi. Chúng ta có thể thay chữ bi quan bằng chữ bi đát ở đây. Ngày hôm sau, ông ra lệnh lập bộ tư lệnh tiền phương của Quân Đoàn ở hướng bắc thành phố Huế. Đồng thời ông ra lệnh tất cả các quân nhân đang đi lạc khỏi đơn vị, hay không còn đơn vị đê trở về, phải tìm cách trình diện thẩm quyền quân sự lập tức. Mọi sự bất tuân thợng lệnh sẽ bị trừng phạt ngay tại chỗ. Sau khi phân chia vùng trách nhiệm tác chiến cho các đơn vị đã được ổn định, tướng Trưởng tái huấn luyện, tái trang bị lại cho các đơn vị bị tan rã một tháng trước đó. Trong khi chờ đợi các đơn vị hoàn phục sức tác chiến, ông xử dụng hỏa lực của hải quân và không quân Hoa Kỳ để phá hủy các điểm tập trung quân của cộng sản. Trong tháng 5, sau khi được Bộ Tổng Tham Mưu tăng viện cho hai lữ đoàn Dù, tướng Trưởng bắt đầu chuyển từ thế phòng thủ qua thế tấn công giới hạn. Tấn công giới hạn ở đây có nghĩa là ông dùng trực thăng vận để bất thần đột kích sau lưng những đơn vị cộng sản.
Với không vận cung cấp từ TQLC Hoa Kỳ, tướng Trưởng cho những tiểu đoàn của TQLC và Sư Đoàn 1 đột kích sau lưng địch. Hai tiểu đoàn của lữ đoàn 369 nhảy vào Hải Lăng; Lữ đoàn 147 vừa đổ bộ bằng tàu lên Mỹ Thủy, vừa đổ bộ bằng trực thăng vào Cổ Lũy. Sau những lân đột kích như vậy, TQLC hoàn tất nhiệm vụ và trở lại tuyến bạn một cách an toàn. Cùng lúc, Sư Đoàn 1 bất thần nhảy vào chiếm lại căn cứ hỏa lực Bastogne, rồi từ đó chiếm lại luôn căn cứ Checkmate. Đây là hai cao điểm quan trọng bảo vệ hướng tây nam của Huế. Cuối tháng 5, Sài Gòn cho tướng Trưởng thêm lữ đoàn 1 Dù. Như vậy Vùng I bây giờ có được hai sư đoàn tổng trừ bị đủ và ba sư đoàn bộ binh thiếu. Tình hình cuối tháng 5 ở Vùng I sáng sủa hơn hai tháng trớc. Ngày 28 tháng 5, trước cửa Ngọ Môn Huế, tướng Trưởng chứng kiến người bạn cùng khoá, đại tá TQLC Bùi Thế Lân, được tổng thống Thiệu gắn cho ngôi sao chuẩn tướng trên vai. Để đáp lại sự khen thưởng đó, tướng Lân thề sẽ lây lại Quảng Trị.
Cuối tháng 6, khi thấy mình có đủ quân và khả năng để lây lại Quảng trị, ông soạn thảo một kế hoạch và trình về Sài Gòn; cùng lúc ông cho MACV một bản sao của kế hoạch hành quân. Vài ngày sau, trước khi Sài Gòn trả lời, MACV đã trả lời nói với ông là chưa đến lúc. MACV đề nghị ông tiếp tục đột kích và chờ một thời gian nữa. Thất vọng vì kế hoạch không được chấp nhận, Tướng Trưởng bay về Sài Gòn đích thân tường trình kê hoạch cho tổng thống Thiệu. Theo những gì tướng Trưởng viết lại trong tác phẩm The Easter Offensive of 1972, sau khi nghe kế hoạch của ông, tổng thống Thiệu – cũng có thái độ như MACV – ra lệnh cho ông chờ thêm một thời gian nữa. Trong lúc này chỉ nên tấn công phá rối và đột kích như đang làm. Bực tức trong sự yên lặng, tướng Trưởng gom bản đồ lại và bay trở về bộ tư lệnh. Sau một đêm mất ngủ, sáng sớm hôm sau ông gọi điện thoại cho trung tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh quốc gia cho tổng thống Thiệu, ông nói: “tôi sẽ không đệ trình thêm một kế hoạch nào nữa. Nếu họ muốn tôi thi hành ra sao thì nên đưa cho tôi một bản kế hoạch bằng tiếng Việt và tôi sẽ thi hành”. Những chữ nghiêng trong câu trích dẫn là do người viết đánh dấu. Người viết muốn nhấn mạnh những chữ đó, vì đây là một câu nói bí mật, khó hiểu. Phải chăng người Mỹ đã làm áp lực với tổng thống Thiệu và không cho tướng Trưởng đánh trong thời gian đó, hay đánh theo ý của QLVNCH?
Qua những tài liệu của MACV được giải mật sau này, trong khoảng thời gian từ 1 đến 24 tháng 6, tình hình Vùng I và tên của tướng Trưởng được nhắc đến nhiều lần. Những tài liệu mật cho thấy MACV không nói gì đến kế hoạch phản công chiếm lại Quảng Trị, nhưng có vài đoạn chúng ta đọc thấy MACV và chính tướng Abrams lo ngại Quân Đoàn I không đủ quân để thực hiện một kế hoạch đầy tham vọng như vậy. Trong tập hồ sơ giải mật do sử gia Sorley soạn thảo – và tướng Trưởng cũng ghi những chi tiết tương tự trong tác phẩm của ông – đến giữa tháng 6-1972, Quân Đoàn I chỉ có hai sư đoàn TQLC và Nhảy Dù là đủ cấp số và khả năng tác chiến. Các đơn vị cơ hữu còn lại của Quân Đoàn – ba sư đoàn bộ binh 1. 2. 3; Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ, và Liên Đoàn 1 BĐQ – chỉ còn một-phần-ba cấp số và khả năng tác chiến nguyên thủy. Sư đoàn 3 chỉ còn hai tiểu đoàn tác chiến được; bốn tiểu đoàn thì đang được tái trang bị và bổ xung.
Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ mất hơn 200 xe tăng và thiết vận xa; 10 tiêu đoàn pháo binh cần phải được trang bị lại 100% Trong một buổi họp ở MACV ngày 18 tháng 6 (hai ngày sau khi tướng Trưởng đề nghị kế hoạch tái chiếm Quảng Trị), một sĩ quan sau khi tường trình về tình hình các đơn vị ở Vùng I, nói tướng Trưởng cần phải có hơn hai sư đoàn Nhảy Dù và TQLC nếu muốn tái chiếm Quảng Trị; ông không biết số quân cần thêm đến từ đâu nhưng phải có nếu tướng Trưởng muốn thực hiện kế hoạch hành quân. Cũng trong buổi họp này, sĩ quan thuyết trình nói đến vấn đề tiếp liệu đạn đại bác cho Vùng I. Đại bác 105 ly được giới hạn lại 20 quả cho một khẩu/một ngày; trong trường hợp cần thiết 40/ngày. Nếu bắt đầu chiến dịch tái chiếm Quảng Trị, pháo binh có thể xài 120 viên, và có thể 180 vlên khẩu/một ngày.
… Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có khó khăn trong việc tiếp tế. Về tướng Abrams, chúng ta đọc được sự lo ngại của ông về hỏa lực phòng không của địch, nhất là loại hỏa tiễn địa không SA-7. MACV cho biết địch bắn 14 quả SA-7 và hủy diệt 6 phi cơ. Tướng Abrams nói ông nhấn mạnh với Tướng Trưởng về sự nguy hiểm của loại hỏa tiễn địa không mới, vì tướng Trưởng sẽ dùng nhiều trực thăng vận cho cuộc đổ bộ tái chiếm. (Sự lo sợ của tướng Abrams không phải không có lý. Vì chỉ một tháng sau, trong cuộc độ bộ xuống Triệu Phong nằm trong khuôn khổ cuộc hành quân chiếm lại Quảng Trị, hai chiếc trực thăng CH-53 chở quân tiểu đoàn 1 TQLC của trung tá Nguyễn Đăng Hòa bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi. Một trong hai chiếc bị SA-7 bắn nổ tung trên trời. Thiệt hại quân là hơn 100 tử thương từ hai chiếc). Đó là tất cả những gì chúng ta biết về MACV và tướng Trưởng vis-a-vis cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị. Dĩ nhiên đó là những gì đã được giải mật; những gì chưa được giải mật chúng ta chưa biết đợc.
Chín giờ sáng hôm sau tổng thống Thiệu gọi điện thoại và yêu cầu tướng Trưởng trở lại trình bày lại kế hoạch một lần nữa. Lần này tổng thống Thiệu chấp nhận kế hoạch hành quân tái chiếm Quảng Trị của tướng Trưởng. Hành quân Sóng Thần 72 sẽ bắt đâu ngày 28 tháng 6, 1972.
Theo tướng Trưởng, kế hoạch tái chiếm Quảng Trị rất “đơn giản”: từ ngày 10 đến ngày 18, trong khi hai Sư đoàn 2 và 3 bộ binh ở lại lo bảo vệ và phòng thủ, Sư đoàn 1 tấn công về hướng tây, Nhảy Dù và TQLC đánh nhích qua sông Mỹ Chánh vài cây số thăm dò khả năng phản cự của địch. Từ 19 đến 27 tháng 6, với sự giúp đỡ của không và hải vận Mỹ, hai sư đoàn tổng trừ bị làm bộ nhảy vào Cam Lộ và Cửa Việt. Và hai ngày trước khi thật sự tiến quân, hỏa lực từ Không và hải Quân và B-52 sẽ dọn bãi và san bằng những điểm kháng cự khả nghi. Ngày 28, Nhảy Dù đánh bên trái, mục tiêu là La Vang; TQLC đánh bên phải, mục tiêu là Triệu Phong. Quốc lộ 1 là trục làm chuẩn của hướng tiến quân. Nhảy Dù là lực lượng có trách nhiệm chiếm thành phố Quảng Trị. Những ngày đầu của cuộc hành quân, Dù và TQLC đánh chậm nhưng đi được. Trừ một vài trận đụng độ mạnh cấp trung đoàn với địch ở những lớp phòng thủ vòng ngoài . . . địch rút dần theo đà tiến của chúng ta.
Nhưng càng đi gần về bờ sông Thạch Hãn, sức chống cự của dịch càng mãnh liệt hơn. Đầu tháng 7, khi quân Nhảy Dù đến ngoại ô thành phố Quảng Trị, cộng quân từ chối rút: Cổ thành Quảng Trị là cứ điểm kháng cự cuối cùng – đến người cuối cùng; viên đạn cuối cùng – của cộng quân. Chẳng những địch quyết tâm tử thủ, họ còn viện quân thêm từ ngoài vào để củng cô thêm hang phòng thủ. Để chận đường tiếp liệu, tiếp quân của địch, tướng Trưởng ra lệnh cho một tiêu đoàn TQTC trực thăng vận vào một địa điểm ở hướng đông bắc của thành phô để ngăn chân hướng tiếp tế của địch … nhưng TQLC bị bộ binh và thiết giáp của địch chân đứng ngay nơi họ đổ bộ. Nhưng sau khi chỉnh đốn, lính tiểu đoàn 1 của Nguyễn Đăng Hòa chẳng những bám được địa điểm đổ quân, họ còn gom địch ngược về hướng tây (về hớng Cổ Thành). Đến ngày 14, TQLC thành công cắt được đờng liên lạc tiếp tế 560 của địch. Hơn 50 ngàn quân của địch ở Quảng Trị bây giờ chờ gạo từng ngày.
Cuối tháng 7, các cuộc tấn công của Nhảy Dù hết hơi: Cách bức tường Cổ Thành Quảng Trị chừng 200 mét, lữ đoàn 2 của đại tá Trân Quốc Lịch “hết xăng”. Tướng Trưởng thông cảm cho lực lượng Nhảy Dù: Những trận đánh đấm máu ở Võ định, Tân Cảnh, ở Quân Đoàn II đã làm lữ đoàn 2 bị móp. Cộng thêm vào đó là sự cương quyết tử thủ của cộng quân. Không cần phải nghe Sài Gòn nhắc, tướng Trưởng biết Cổ Thành bây giờ là một mục tiêu chính trị; một biểu tượng chính trị cho hai phía VNCH và cộng sản Bắc Việt ở Paris (lúc này cộng sản đã trở lại bàn hội nghị), ở trên đầu môi chót lưỡi của mọi người dân hai phía. Trong tác phẩm của ông, tướng Trưởng nói ông không còn chọn lựa nào khác: Đánh không vào được, hay bao vây chung quanh, hay đi vòng qua Cổ Thành chiếm các mục tiêu khác, rồi sau đó trở lại chiếm Cổ Thành trong một thời gian khác, cũng không được; cũng bị giải thích là thua. Chỉ có Cổ Thành nằm trong tay VNCH thì mới gọi là thắng.
Ngày 27 tháng 7-72, tướng Trưởng thay Nhảy Dù bằng TQLC. “Mục tiêu vẫn như cũ; chỉ thay đổi vùng trách nhiệm,” Tướng Trưởng viết. Nhận được lệnh, thiếu tướng Bùi Thế Lân dung hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC quyết tâm đánh chiếm Cổ Thành. Tám tiểu đoàn tác chiến và một tiểu đoàn pháo binh TQLC bỏ ra hơn 50 ngày để hoàn tất nhiệm vụ. Theo lời kể của đại tá Ngô Văn Định, lữ đoàn trưởng 258, đến ngày 16 tháng 9, khi quốc kỳ VNCH tung bay trên kỳ đài Cổ Thành, TQLC đã mất trên 3500 tử thương, và hàng ngàn quân nhân khác bị thương. Với sự thiệt hại đó câu nói “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô” nói lên thật nhiều ý nghĩa.
Cuối năm 1972, cuộc chiến Việt Nam đã đến thế cờ tàn trên ván cờ chính trị quốc tế: hơn bốn tháng sau, ngày 27 tháng 1-1973, VNCH không còn chọn lựa nào khác hơn là ký vào hiệp định ngưng bắn; tự ký vào một bản án tử hình cho chính mình. Tuyến đầu Vùng I của tướng Trưởng bị áp lực thường xuyên từ mùa thu năm 1974. Không còn lo sợ không lực của Hoa Kỳ, cộng sản rãnh tay kiến tạo hệ thống tiếp liệu của họ: đờng “mòn” Hồ Chí Minh bây giờ là một xa lộ với những quán ăn như “Quán ăn Trường Sơn”. Phi trường Khe Sanh trở thành một căn cứ hỏa tiễn SAM của địch. Trực thăng Bắc Việt có thể đáp ở phi trường Vĩnh Linh, bên kia bờ sông Bến Hải, để đưa các cán bộ cao cấp của họ đi thẳng vào thăm các binh trạm của binh đoàn Trường Sơn. Tháng 7-1974, sư đoàn 304 đánh chiếm Thường Đức, Quảng Nam, rất đau lòng, rất lo lắng, nhưng tướng Trưởng phải “mượn” hơn một lữ đoàn Nhảy Dù để giải tỏa áp lực của địch từ cao điểm 1062 đang đè xuống Đà Nẵng. Dĩ nhiên Nhảy Dù giải tỏa được cao điểm 1062. Nhưng phải tốn 500 quân chết và gần 2000 quân bị thương – trận đánh lớn nhất từ sau ngày ngưng bắn. Vùng I, trong những ngày tháng đó, chỉ ổn định được với sự hiện diện của hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và TQLC.
Phước Long mất vào đầu năm 1975; Ban Mê Thuột mất, và Pleiku, Kontum bỏ ngỏ để di tản vào ngày 16 tháng 3-75. Vùng I và Tướng Trưởng chờ một quyết định tối hậu từ Sài Gòn: Tử thủ hay rút quân về những cứ điểm để phòng ngự.
Ngày 13 tháng 3-75, Sài Gòn gọi tướng Trướng về để duyệt xét lại các kế hoạch phòng ngự Vùng I. Trong buổi họp này – và cho đến ngày VNCH bị thất thủ – ai nói gì quân lệnh ra sao, nhiệm vụ của tướng Trưởng là gì . . . vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Chúng ta biết một chút nội dung, biết một cách gián tiếp, nhưng không ai trong cuộc trực tiếp nói rõ chuyện gì xảy ra. Chúng ta biết ngay trong buổi họp ngày 13 TT Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng phải giữ Vùng I với số quân cơ hữu của quân đoàn và sư đoàn TQLC. Cũng trong buổi họp này, Tướng Trưởng biết Quân Đoàn I phải “trả” sư đoàn Nhảy Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng ông xin TT Thiệu cho ông giữ lại sư đoàn TQLC để dân quân có được tinh thần. Trước mặt ông, TT Thiệu cho ông tùy nghi xử dụng TQLC, chỉ trả sư đoàn Dù lại mà thôi. Nhng sau buổi họp, trong lúc nói chuyện riêng giữa ông và thủ tướng Khiêm, thủ tướng Khiêm nói hé ra là Sài Gòn có thể lấy TQLC khỏi Vùng I. Ngày 14, TT Thiệu ra Nha Trang ra lệnh cho thiếu tướng Phạm Văn Phú di tản tất cả quân còn lại ở Kontum và Pleiku về Tuy Hòa, Nha trang, để tái trang bị và bổ xung rồi từ đó … đánh ngược lên chiếm lại Ban Mê Thuột và Vùng II !
Trở lại Quân Đoàn I ngày 14, Tướng Trưởng thông báo quyết định của sài Gòn cho trung tướng tư lệnh phó Lâm Quang Thi. Ông nói quân đoàn sẽ được giữ lại 2 trong số 3 lữ đoàn củaTQLC. Hai lữ đoàn TQLC sẽ về thay Nhảy Dù ở Đà Nẵng, vì lữ đoàn 2 Dù có thể được trưng dụng trong kê hoạch chiếm lại Ban Mê Thuột. Ngày 18 thủ tướng Trân Thiện Khiêm bay ra Đà Năng họp với tướng Trưởng (theo lời yêu cầu của Tướng Trưởng) để giải quyết vấn đề dân di tản. Trong buổi nói chuyện ngày 13, Tướng Trưởng xin thủ tương Khiêm giúp ông giải quyết vấn đề dân di tản đang dồn về thành phố. Theo ông, dân di tản sẽ làm ứ động quốc lộ 1 con đường huyết mạch để chuyển quân trên toàn Vùng I. Ngày 19, ông được yêu cầu trở về Sài Gòn thêm một lần nữa để trình bày lại kế hoạch di tản và phòng thủ Vùng I. Trong lẩn họp này, với tình hình dân chúng di tản tấp nập trên quốc lộ 1, Tướng Trưởng nói rút quân từ Huế về Đà Nẵng trong tình trạng hôn loạn đó sẽ khó thực hiện được, ông đề nghị cho ông ở lại tử thủ Huế, Đà Nẵng và Chu Lai sẽ là điểm kháng cự cuối cùng của Vùng I. Tông thống Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên đồng ý. Tướng Trưởng bay trở lại Quân Đoàn I và thông báo cho trung tướng Lâm Quang Thi quyết định của TT Thiệu thêm một lân nữa.
Ngày hôm sau, 20 tháng 3, TT Thiệu lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu, ra lệnh dân quân giữ Huế bằng mọi giá. Nhưng tối đêm đó, TT Thiêu đôi ý: ông ra lệnh cho Bộ Tổng Tham Mưu đánh cho Tướng Trưởng một quân lệnh, cho biết Sài Gòn chỉ còn đủ phương tiện để yểm trợ cho một cứ điểm kháng cự. Trong ba cứ điểm Huế, Chu Lai, Đà Năng, Tướng Trường phải chọn một. Dĩ nhiên, Đà Nẵng phải là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng ra lệnh di tản về Đà Nẵng. Tướng Lâm Quang Thi, trong tác phẩm The Twenty-five-year Century của ông, có nói quân lệnh thay đổi như vậy, nhất là ở cấp quân đoàn thì khó làm việc, và gây thêm nhiều hoang mang cho người thừa hành. Đại tướng Frederick Weyand, đang là tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ, trong tờ tường trình cho tổng thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt Nam cuối tháng 3-75, cũng cho biết trong tuần lễ đó, Tướng Trưởng đã nhận 3 quân lệnh trái ngược nhau từ TT Thiệu.
Trong hoàn cảnh hỗn loạn của Đà Năng, ngày 25 Tướng Trưởng nhận thêm một tin không vui tư Sài Gòn: đích thân trung tướng Lê Nguyên Khang – đang là tổng tham mưu phó quân đội – bay ra Đà Năng đưa cho Tướng Trưởng một quân lệnh yêu câu ông trả lại sư đoàn TQLC ngay lập tức. Tướng Trưởng phản đối, ông nói Đà Nẵng không thể nào phòng thủ được nêu không có mặt của TQLC. Trong hai ngày 26-27,.Tướng Trưởng và Tướng Lâm Quang Thi cố gắng san sẻ quân để lấp vào những lổ trống của vòng đai phòng thủ càng lúc càng xiết chặt chung quanh Đà Nẵng. Chín giờ đêm ngày 27 ông gọi cho Tướng Viên báo cáo tình hình và yêu cầu cho phép ông di tản sư đoàn TQLC và những trung đoàn còn lại của sư đoàn 1 và 3. Tướng Viên nói đó là quyết định của tổng thống thiệu. Tướng Trưởng gọi Dinh độc Lập, nhưng tổng thống Thiệu không có mặt; khoảng 10 giờ đêm tổng thống Thiệu gọi lại … sau khi nghe Tướng Trưởng báo cáo tình hình, ông Thiệu hỏi Tướng Trưởng sẽ giải quyết rạ sao. Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự biến chuyên của tình hình. Tổng thống Thiệu cúp điện thoại. Vài phút sau Tướng Trưởng ra lệnh di tản khỏi Đà Nẵng. Nhưng không, đến đó không còn di tản nữa. Vì chữ di tản có chứa đựng một khái niệm về sự thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Địch đã cắt nát quốc lộ 1 ra từng đoàn và đang dùng pháo binh để hăm dọa các cửa khẩu từ biển đi vào bờ. Đến giờ phút dó, chữ bỏ ngõ có nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di tản. Đà Nẵng và Vùng I mất hai ngày sau đó, và ngày sau, cộng quân gom tất cả lực lượng của họ dang có mặt ở Vùng I lập ra một binh đoàn có tên là Binh Đoàn Duyên Hải. Từ đó họ tiến về Vùng III.
Cuộc đời có nhiều nghịch lý và bi hài kịch. Tướng Ngô Quang Trưởng sanh ra và lớn lên ở Bến Tre, một vùng đất được mệnh danh là cái nôi của cộng sản; một nơi mà trong năm Mậu Thân 1968, một sĩ quan Hoa Kỳ tuyên bố phải tàn phá hết để xây dựng lại, nhưng ông đã xả thân chống lại những người cộng sản, chủ thuyết cộng sản, cho đến hết cuộc đời. Sanh ra ở Bến Tre, nhưng Tướng Trưởng lớn lên, yêu, quí mến, và bảo vệ một vùng đất thật xa cho đến hết cuộc đởi: ông thương Quảng Trị và Thừa Thiên đến độ ông đặt tên người con trai út là Ngô Trị Thiên.
Tháng 8 năm ngoái, khi được thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chuyển lời, người viết có dịp nói chuyện với Tướng Trưởng. Trong lần nói chuyện đó, với bản tính thích tìm căn nguyên của lịch sử, người viết mạo muội hỏi Tướng Trưởng về thái độ của ngời Mỹ trong cuộc chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa’’ năm 1972; hỏi về nội dung những đối thọai giữa ông và TT Thiệu vào tháng 3-1975. … Nhưng Tướng Trưởng tránh không trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói . . cũng không có gì đê nói . . . tất cả đã được nói hết rồi … những gì anh em chúng ta làm trong quá khứ đều có nghĩa”. Câu chuyện tiệp tục được vài phút sau thì người viết lại cố gắng “lái” về hai câu hỏi nguyên thủy. Lần này ông cũng tránh trả lời. Nhưng lần này ông nói cho người viết nghe về triết lý của một người quan võ Á Đông. Đại khái Tướng Trưởng muốn nói đến câu “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí” (Tướng bại trân thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ đại phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược). Thâm thúy, thật thâm thúy.
Với tất cả sự kính trọng của một hậu sinh đối với Trung Tướng Ngô Quang Trởng, người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi dòng tưởng niệm này./.
NGUYỄN KỲ PHONG
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 4, 2018 14:23:35 GMT 9
Phan Nhật Nam Từ Thiếu Sinh Quân Nên Thành Người Lính Chiến, Trương Quang Ân
Câu chuyện sắp kể lại sau đáng lẽ đã phải được viết nên từ rất lâu, trước biến cố trọng đại 30 tháng Tư, 1975. Nhưng bởi sự kiện 1975 quá đổi lớn lao, nên kỳ tích tưởng như huyền thoại về Người Lính Trương Quang Ân bị chìm lấp giữa những đau thương của toàn dân tộc. Nay nhân mùa Hè, mùa oanh liệt của quân đội Miền Nam năm 1972, cũng là ngày Tướng Quân vị quốc vong thân ba mươi - hai năm trước, 1970 nơi chiến trường Tây Nguyên. Và quả như cuộc sống khiêm tốn, giản dị của Người, báo chí Sài Gòn, kể cả báo quân đội thuở ấy đã chỉ loan tin một cách sơ lược về cái chết của vị tướng lãnh đầu tiên của Miền Nam gửi xác thân tại trận địa do đạn bắn thẳng của kẻ nghịch...
Chúng ta hôm nay phải viết lại đoạn đời kiệt liệt kết thúc bởi cái chết bi hùng của một cựu Thiếu Sinh Quân cũng là Người Lính Lớn Nhất: Cố Thiếu Tướng Trương Quang Aân - Bởi nếu không sẽ là một thiếu sót vô cùng nghiêm trọng đối với vong linh liệt sĩ tiền nhân, những người đã dâng hiến trọn đời cho quân ngũ, chấp nhận phần thiệt hại cuối cùng, lớn lao nhất với sinh mệnh của chính mình để Tổ Quốc và Dân Tộc tồn sinh.
Bài viết cũng có phần giải thích vì sao đã có sự kiện, trong trận chiến cuối cùng khởi từ 10 tháng Ba, 1975 ở Tây Nguyên, đơn vị đầu tiên hứng chịu ngọn cuồng phong khốc liệt của cuộc tấn công cường tập do bốn sư đoàn bộ binh cộng sản có chiến xa và đại pháo yểm trợ: Sư Đoàn 23 Bộ Binh, trách nhiệm vùng thủ phủ cao nguyên Ban Mê Thuộc đã có sức chống cự bi tráng bền bĩ với những người lính cơ hữu từ hàng binh sĩ, đến cấp chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn. Tất cả đồng đã nêu gương trung dũng quyết liệt, đánh đến viên đạn cuối cùng, mà người viết đã tận mắt chứng kiến, trực tiếp tham dự qua cuộc đỗ quân của các tiểu đoàn thuộc các Trung Đoàn 44 và 46 Bộ Binh từ sân bay Hàm Rồng (Pleiku) trong hai ngày 14, 15 tháng Ba xuống Phước An, Tây-Nam Ban Mê Thuộc để từ đây lập đầu cầu giải toả phần đất bị bộ đội Miền Bắc xâm chiếm từ đêm mồng 10 cùng tháng...
Cuộc đổ quân có lần tham dự với những "người lính không vũ khí" mà chỉ với con nhỏ bế trên tay, hoặc buộc chặt vào thân - những người vợ lính nhảy trực thăng cùng chồng trong chiến dịch tái chiếm Ban Mê Thuộc với lời thề sinh tử: "Trở về Trại Gia Binh của đơn vị hay là chết"; hoặc lời nguyền quyết liệt của Đại Tá Võ Aân, thay mặt toàn thể binh sĩ thuộc Trung Đoàn 53 thề chiến đấu đến giờ phút cuối ở mặt trận Phi Trường Phụng Dực, bên trong thị xã đang bị quân cộng sản chiếm đóng hầu hết những vị trí xung yếu. Tinh thần hào hùng kiên trì nầy không thể hình thành trong một lúc bất ngờ, do tác động ngẫu nhiên mà phải là kết quả của một khởi đầu sâu xa bền bĩ.. Ở đâu? Từ những ai?
Chuyện kể tiếp theo cũng có mục đích tìm hiểu, giải đáp tại sao Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã nên hiển thánh với cái chết làm sông núi phải quặn mình đau thắt cùng lần với hổ tướng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, và vô vàn anh linh tử sĩ khác, những Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ... trong giờ phút thiên thu uất hận của quê hương năm 75. Tất cả gương trung liệt nầy xuất phát từ một nguyên nhân, có chung một động lực: Đất Nước Phương Nam không hề thiếu hào kiệt mà Tướng Quân Trương Quang Aân là một ngọn nguồn ánh sáng vinh hiển dẫn đầu. Khởi nguồn anh linh rực sáng nầy đã thể hiện gần như toàn hảo nơi vị Tư Lệnh của đơn vị Sư Đoàn 23 Bộ Binh trên vừa nhắc đến; Người cũng là Cấp Chỉ Huy của vị Anh Hùng sống mãi với quê hương, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư Lệnh Quân Đoàn IV, hay là nguyên Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù, đơn vị thống thuộc hành quân của Chiến Đoàn 2 Dù do Trung Tá Trương Quang Ân hằng trực tiếp chỉ huy. Và vị sĩ quan kỳ tài, đứng đầu quân lực do công nghiệp dựng nên tại chiến trường, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn chính là đàn em của Người nơi Trường Thiếu Sinh Quân. Chiếc nôi nuôi dưỡng, phát triển lòng yêu nước vô vàn của Người Lính Việt. Đơn vị cuối cùng, quyết liệt chiến đấu với bộ đội cộng sản khi tiến chiếm Vũng Tàu sáng 30 thángTư, 1975 với những Người Lính Cuối Cùng thề chết chiến đấu cho Miền Nam, Những Người Lính chưa đến tuổi thành niên: Thiếu Sinh Quân Quân LựcViệt Nam Cộng Hòa.
Cũng cần nói thêm chi tiết, câu chuyện được ghi nhận từ buổi người viết vừa qua tuổi hai mươi, số tuổi nhìn cuộc sống, chiến tranh với ý niệm trong sáng, sắc son dẫu đang phải chịu đựng những hoàn cảnh tận cùng khó nhọc tân toan. Bởi viên sĩ quan cấp nhỏ nhất ấy tin rằng, đã đi đúng đường của một Người Lính với những Cấp Chỉ Huy xứng đáng để trao gởi hết lòng thành. Buổi chiều cuối năm 1963, anh đưa trung đội đến trình diện Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù, giữ nhiệm vụ tăng phái bảo vệ bộ chỉ huy chiến đoàn do Trung Tá Trương Quang Ân chỉ huy.
Khu rừng vùng hành quân chìm mau trong lớp sương dày đục khi buổi chiều tới, trung đội tăng phái của Tiểu Đoàn 7 Dù cùng với trung đội công vụ chiến đoàn làm thành vòng đai phòng thủ bao quanh bộ chỉ huy hành quân gồm các thành phần tham mưu, chuyên môn đóng trong những lều nhỏ do những tấm poncho ghép sát vào nhau. Anh đi đến chỗ đóng quân của viên sĩ quan Ban 3 (Ban Hành Quân) để nhận những tiêu lệnh đặc biệt cần thiết cho việc phòng thủ đêm, Đại Úy Hợp đang bận rộn nhận những lệnh chuyển tới, và truyền đi qua một giàn máy truyền tin; ông nói nhanh với anh:
- Thiếu úy ở đây, đợi tôi đưa đến gặp trung tá, ông đang bận liên lạc với khu chiến thuật để nhận lệnh hoạt động ngày mai.
Bóng người đứng lên từ chiếc võng, chui ra mái lều, đứng thẳng nghiêm chào tay trả lại khi anh trình diện..
- Trình trung tá, trung đội của thiếu úy nầy từ Tiểu Đoàn 7 tăng phái cho mình bảo vệ bộ chỉ huy hành quân. Đại úy Hợp giới thiệu. Bàn tay tương đối nhỏ nhưng ấm, chắc, bắt tay anh chặt chẽ, Trung Tá Ân nói chậm, ân cần:
- Cám ơn thiếu úy, thiếu úy liên lạc với đại úy Hợp để biết tiêu lệnh riêng và các vị trí tác xạ cận phòng trong đêm khi cần thiết!
Anh chào tay, vừa bước đi thì người hạ sĩ quan truyền tin đưa bản văn đã mã hóa trước khi gởi đi đến..
- Thưa trung tá gọi tôi!
- Phải, ở trên thay đổi hoạt động ngày mai, anh đợi tôi đọc lại để sửa mấy điểm mục tiêu!
Ông cất nón sắt ra khỏi đầu, kẹp sát hông, chui lại vào lều, tiếng nói nhỏ xuống:
- Xin lỗi anh nhá, hôm nay tôi bị sốt, mệt quá, anh để cho tôi nằm nghỉ, và đọc để anh sửa lại!
Viên thiếu úy tưởng như nghe nhầm, đưa mắt dò hỏi... Đại úy Hợp biết ý, giải thích:
- Trung tá, ông bị sốt rét từ ngày đầu hành quân, cứ đến chiều là lên cơn sốt. Nhưng kiểm soát bản văn lệnh hoạt động ngày mai vẫn do chính tay ông duyệt ký trước khi gởi đi. Thật ra, việc ấy để moa làm cũng được!
Anh nhớ ra người chiến đoàn trưởng vẫn còn nguyên bộ giây ba chạc đeo đạn, bi đông nước, túi địa bàn, băng vải cá nhân trên người với thân áo bỏ vào quần tề chỉnh, và tất nhiên, hai ống quần gon thắt gọn trên mép đôi giày trận. Ông ấy bị sốt như thế mà tại sao phải đi hành quân nhỉ? Viên thiếu úy có ý nghĩ thắc mắc khi bước theo cùng người sĩ quan ban hành quân, trở về chỗ lều ngủ..
- Đại úy Hợp trở lại cho tôi nhờ chút việc!
Tiếng gọi nhỏ từ lều trung tá chiến đoàn trưởng với âm sắc quyết định. Viên đại úy ngừng lại, nói vội với anh:
- Đợïi moa chỗ đám truyền tin, moa trở lui xem ông muốn nói thêm điều gì!
Trời sậïp tối mau chóng, khu rừng âm âm chuỗi tiếng động rì rào của muôn vàn côn trùng đâu từ sâu mặt đất. Trước khi kéo tấm mền ni lông đắp lên mặt, người sĩ quan hành quân hỏi gã thiếu úy nằm cách một thân cây giăng võng:
- Toa biết khi chiều ông bảo moa trở lại làm gì không?
- Dạ không!
Gã thiếu úy có ý đoán ra một điều cần thiết về việc phối hợp tác chiến của người chỉ huy và viên sĩ quan tham mưu.
- Ông bảo moa nói thiếu tá cố vấn trình diện ông trong đêm nay về một việc riêng!
Người nầy ngừng một chốc xong nói nhanh..
- Ông không đồng ý việc cố vấn Mỹ gọi thức ăn nóng từ ngoài compound tỉnh đưa vào!
Viên thiếu tá giải thích tiếp, giọng nói bình thường coi như một điều tất nhiên.
Sau buổi hành quân, khi trở về hậu cứ tiểu đoàn, viên thiếu úy đem chuyện trên kể lại với những sĩ quan cùng đơn vị trong buổi cơm, và anh nghe ra điều kết luận:
- Trung Tá Ân luôn đối xử như vậy, với binh sĩ cũng như đối với người chỉ huy, từ lúc mới ra trường thiếu úy, hoặc khi còn là trung úy, đại úy ở phòng ba lữ đoàn, lúc ông Thi làm tư lệnh. Bao giờ ông cũng giữ đúng nguyên tắc, ông đi thiếu sinh quân từ ngày còn nhỏ, nên "nhà binh" là tính chất như máu trong người vậy. Cả bộ tư lệnh ai cũng kính nể ông, nóng tính đến như đến như ông Thi 1 ông Soạn cũng không hề lớn tiếng, xuồng xã với ông bao giờ!
Đại úy Vũ Đạo Ánh, sĩ quan hành quân tiểu đoàn cặn kẽ giải thích, và tiếp lời:
- Câu chuyện cậu vừa kể ra về vụ thiếu tá cố vấn tôi cũng đã biết rõ, vì ngày mình rút ra khỏi vùng hành quân, ông Hợp (sĩ quan hành quân chiến đoàn) đã nói cho tôi nghe. Trung tá Ân đã có ý kiến như sau với thiếu tá cố vấn trưởng:
- Các vị cố vấn đã từ bỏ đời sống tiện nghi, văn minh nhất ở quê hương quý vị để qua đây giúp quân đội chúng tôi trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản. Sự hy sinh to lớn nầy không thể nào kể ra được, vì quý vị có thể chết hoặc bị thương trận nguy biến, hiễm nghèo. Người Việt Nam, người lính Việt Nam rất tri ân quý vị, nhưng nếu chỉ vì một chút tiện nghi vật chất về sinh hoạt, ăn uống, mà quý vị cần một loại thực phẩm khác với khẩu phần lương khô quân đội cấp phát, trong khi lính chúng tôi chỉ có phần lương thực tối thiểu để tồn tại, và chiến đấu thì đối với những người lính, sự hy sinh của quý vị đã mất đi phần ý nghĩa cao quý, vì quý vị đã không chia xẻ cùng họ, dẫu quý vị đã chia mạng sống của mình với họ. Vậy tôi xin đề nghị trách nhiệm cung cấp thức ăn khô của quân đội Việt Nam vào những khi quý vị không nhận được khẩu phần hành quân "C" Ration theo hệ thống cố vấn lữ đoàn" 2
Một người nào đấy hỏi lớn:
- Như vậy ông ấy lấy đâu thức ăn khô mà đưa đủ cho toán cố vấn, chi bằng để họ dùng đồ của Mỹ có phải tiện hơn không?
- Thì ông ấy bảo ban 4 (ban tiếp liệu) lãnh thêm khẩu phần cho toán cố vấn, sau đó tính tiền để họ trả lại quầy hàng quân tiếp vụ như chính ông vậy. Mỗi người ai ai cũng chỉ ba bịch cơm sấy, một hộp thịt, một hộp cá, và hộp kẹo cho ba bữa một ngày. Lính ăn sao, quan ăn vậy, tây hay ta gì cũng chỉ ba hộp. Cuối tháng, lãnh lương trả lại không thiếu một đồng. Nếu bà ra tiền trạm hành quân thăm ông cũng chỉ ăn như thế mà thôi, muốn ăn cái gì khác thì đi chợ mua nấu mà ăn, tự biên, tự diễn. Đừng đụng đến nguyên tắc của ông. Trung úy Am, Đại Đội 73 giải thích.
- Rồi bà có phải trả tiền quân tiếp vụ hay không?
Một chuẩn úy hỏi với giọng đùa cợt.
- Ai bảo không phải trả, anh hỏi tôi thì được, chứ nói để ông ấy nghe là vỡ mặt cả đám. Trung úy Trần Trọng Hợp, đại đội chỉ huy tiểu đoàn giật phắt ống tẩu đang ngậm, nói mau như thể vừa bị xúc phạm. Hợp tiếp lời:
- Mấy anh ở khóa tôi (khóa 14 Đà Lạt), năm 1960 lúc mới ra trường, về tiểu đoàn 8 đều phải vác ba lô đi theo trung sĩ, thượng sĩ học nghề trung đội trưởng cả nửa năm mới được chỉ huy trung đội coi hai mươi trự. Thiếu úy trung đội trưởng đi hành quân phải mang ba lô cá nhân, đúng cấp số đạn, lựu đạn như khinh binh, chỉ khỏi phải mang thức ăn vì đã có tà lọt 3, trong túi luôn có cuốn sổ ghi rõ họ, tên binh sĩ, địa chĩ cấp báo, số súng, loại máu của từng người. Làm gì có chuyện miễn trừ đối với Trung Tá Trương Quang Aân bao giờ. Không bao giờ!
Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một Người Lính thuần thành cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất. Ngày Thiếu Sinh Quân Trương Quang Ân tốt nghiệp Thiếu úy Khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952.
Thiếu Uùy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc xảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị sẵn cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng Bắc Trường Sơn, dọc biên giới Lào - Việt.
Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do Tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền Bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của trung đoàn cộng sản có ý hướng tiến về Thủ Đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ). Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù Hải Ngoại (BEP- Bataillon Étranger Parachutiste) đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống trận địa với hai đại đội Tiểu Đoàn 7 Dù tăng phái (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC - Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên Đoàn Không Vận Số 3 (GAP/3è- Groupe Aéroporté) của Quân Đội Liên Hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu Đoàn 5 Dù nơi Miền Nam mới có danh hiệu Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN).
Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số vượt trội, chuẩn bị, chọn lựa, và chiếm giữ trận địa, nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhẩy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường, lập lại thế phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bắc. Thành quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu Đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía Bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu Đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ320) để những đồn bót thuộc tả ngạn Sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953). Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp -Việt thấy rõ một yếu tố mới: Những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi.
Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính quy của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân lực Cộng Hòa được tuyên công Bảo Quốc Huân Chương - Kỳ hiệu đơn vị mang "Giây Biểu Chương Tam Hợp Vàng - Xanh - Đỏ" do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh...
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn Viễn Chinh Pháp với cấp cán bộ nhà nghề cũng nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những thiếu úy de Gaulle, de Lattre của Học Viện Quân Sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia, quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy mặt trận.
Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt, ở Bộ Tham Mưu Liên Đoàn Không Vận Số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên, hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại Đội Xung Kích Lê - Dương Đầm San cho chiến trường Algérie bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên Hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu. Trung úy Trương Quang Ân đậu thứ hạng thủ khoa mà không hề có tỵ hiềm từ những học viên, bởi qua bản Tự Đánh Giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy.
Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn nhảy dù còn lại ở Miền Bắc, đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoặch tái trang bị, bổ sung họ sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu Đoàn 3 Nhẩy Dù biên chế trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úùy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam với phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một thiếu sinh quân khác, Người Anh Cả của toàn quân, Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ, vị Tổng Tham Trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi Miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954.
Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại Thủ Đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 Tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp, và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ Miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia yêu cầu Thủ Tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội cát, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: Thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị.
Thành phần mặt trận gồm ba khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến, và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê Văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba. Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kinh Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng Tư, cách chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát và Công An của Lai Văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu Tướng Viễn.. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên Đoàn Nhảy Dù với bốn Tiểu Đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đở nền móng quốc gia, nên chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhẩy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc Kinh Đôi, bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ đối với những tiểu đoàn Nhẩy Dù thiện chiến, nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự.
Tháng 9, lực lượng chính phủ mở Hành Quân Hoàng Diệu truy quyét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam, cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia quy về một mối.
Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu. Hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương, cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ, và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn... cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai.
Năm 1957, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại Tá Đỗ Cao Trí giữ chức Tư Lệnh Liên Đoàn Nhảy Dù, Đại úy Trương Quang Ân cùng lần với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu Tá Phan Trọng Chinh rời Tiểu Đoàn 3 Dù về Bộ Tư Lệnh với chức vụ mới, Trưởng Phòng Ba (Phòng Hành Quân, Huấn Luyện) và Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn. Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu.
Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biễu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân đội. Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương Thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của Binh Chủng Nhẩy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhân đính hôn cho Nữ Chuẩn úy Dương Thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù 4 nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Củ Chi. Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của Hai Người Lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc.
Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu tính của hai người suốt quảng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương.
Năm 1959, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại Uùy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng Tây - Bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945 - 54, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của ba tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (Chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy).
Tiểu Đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ Miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của mặt trận giải phóng Miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 nơi Miền Nam, dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm, và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù tiếng lời đơn giản, khiêm nhượng.
Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên Đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang  đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên Đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù vẫn giữ nguyên phong độ, khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu Tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn.
Năm 1962, ông di chuyển từ Trại Trần Quý Mại của Tiểu Đoàn 8 nơi khuôn viên Căn Cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ Đoàn Nhảy Dù, trong phi cảng Tân Sơn Nhất về Trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu Đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến Đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu Đoàn 5, 6, 7. Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu Tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ.
Vào một buổi hội của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 Giờ. Giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu Tá Ân, cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí Miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay, và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh. Thiếu Tá Chiến Đoàn Trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường, sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp:
- Xin lỗi quý vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi!
Thiếu Tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà Người Chỉ Huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của Kẻ Sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của Người Lính.
Hằng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu Đoàn 6 Nhẩy Dù của Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh, người bạn cũ cùng trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với hai tiểu đoàn 5, 7 cùng trong trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn.
Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Chiến Đoàn:
- Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới tiểu đoàn 6 nghe!
- Nhưng thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (Máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi thiếu tá!
Đại úy Hợp vội vã trả lời.
- Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố?
Thiếu Tá Ân hỏi gấp.
- Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau!
Vậy đại úy phải nói liền với thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc!
Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu Đoàn 6 ở Vũng Tàu..
- Đường đi xa hơn trăm cây số, thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mõi!
Người tài xế ái ngại nhắc nhở.
- Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em!
Thiếu Tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm:
- Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày, và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa?
Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời:
- Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách Chủ Tịch Gia Đình Binh Sĩ Chiến Đoàn 2 thì mình xử dụng, và ngồi vào ghế trưởng xa (bên cạnh tài xế). Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi!
Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tỵ hiềm, khó chịu dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.
Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng Tham Mưu tuyển chọn Trung Tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên Hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: Luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và xử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung Tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường: Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến nay. Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ.
Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm Tỉnh Trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn, và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm hai pâté-chaud, hai bánh ngọt và một xăng-wích; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân Tiếp Vụ. Trung Sĩ Đâu, Ban 2 Chiến Đoàn (Ban Tình Báo, Trận Liệt) vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rỗn rãng:
- Trung Tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã!
Trung Tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu:
- Trung Sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu!
Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười:
- Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm!
Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại.
Nhưng nếu có một lần Người Chỉ Huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa Tỉnh Trưởng Gia Định.
Vào một ngày của năm 1967, Đại Tá Tỉnh Trưởng Gia Định nhận danh thiếp Thiếu Tá Chánh Văn Phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hoá tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những quy định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại Tá Tỉnh Trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định:
- Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: "Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các quy định hành chánh cho phép một tỉnh trưởng, nhưng, lô đất nầy dẫu thuộc về Tỉnh Gia Định, nhưng cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được!"
Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại Tá Tỉnh Trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần:
Công Thổ, Công Điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.
Kết quả.Đại Tá Tỉnh Trưỏng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu, và tham nhũng.
Đại Tá Trương Quang Ân rời Tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân Ấp Vĩnh Lộc, Xã Tân Sơn Nhì, Quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu Đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt Khu Thủ Đô vào thời điểm 1966-1967):
- Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!
Nếu Đại Tá Tỉnh Trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh).. để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi Người Lính đã ra đi. Vị Tỉnh Trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.
Phi Trường Phụng Dục Ban Mê Thuộc hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với đoàn quân nhạc của Sư Đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh, phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và Tiểu Khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến Thuật. Chiếc máy bay C47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình: Tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thâu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắc hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac-marin (túi đựng quân trang, quân dụng của binh sĩ) đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách.
- Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!
Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán. Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ "ÂN" đen trên nắp túi áo, và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến... Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng..
- Vào hàng... vào hàng! Vào hàng! Phắc!
Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát:
- Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận!
Và khi đứng hẳn trước đoàn người, Tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích:
- Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới, và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn giành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh!
Ông lên một chiếc jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi-đông nước, khẩu súng colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định. Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi có đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng, không người ngồi chạy theo giữa bụi mù.
Ngay sau khi nhậm chức, Tướng Quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công Miền Nam mà Thị Xã Ban Mê Thuộc với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị những tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 33 cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ Giao Thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968 bốn tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 33 tăng cường hai Tiểu Đoàn 401 và 301 cơ động tỉnh, và bốn đại đội địa phương, cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã cần phải chiếm lãnh, tràn ngập.
Sở Hành Chánh Tài Chánh, Tòa Hành Chánh, Dinh Tỉnh Trưởng, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Đại Đội 514 Vận Tải, mà trại gia binh đại đội trinh sát, cư xá sĩ quan, và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy (bộ tư lệnh), khốâng chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (đại đội trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng.
Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại, và âm mưu lùa dân vào thị xã biễu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23, Tướng Quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, các Tiểu Đoàn 2, và 3 thuộc Trung Đoàn 45 Bộ Binh, và Đại Đội 45 Trinh Sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng.
Sáng ngày 30 (mồng Một Tết Âm Lịch) lực lượng Thiết kỵ và Bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.
Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê thuộc bị đập tắt từ giờ phút đầu tiên chỉ trừ những cơ sở như Ty Ngân Khố, Sở Hành Chánh Tài Chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích, lấy lại.
Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuộc hoàn toàn được giải tỏa, Trung Đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường, và 143 bị bắt sống.
Nhưng mĩa mai thay, có một (1)Vào hàng... Phắc!: Khẩu lệnh chào kính sĩ quan cao cấp "lạnh nhạt cố ý" rất đáng chê trách: Suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững Miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuộc "hình như" được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết "Cuộc Tổng Công Kích- Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968", danh tính vị Tướng Quân Tư Lệnh Sư Đoàn 23, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của Người cùng viên tư lệnh quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại (Trang 264 TCK-TKN, Khối Quân Sử Phòng 5/ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, 1968).
Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những Người Lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng.. nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70 thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 Tháng Tư, 1975.
Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng Anh Linh Chiến Sĩ-Tướng Quân
Một ngày Hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại Trung Tâm Hành Quân, Chuẩn Tướng Tư Lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng Ba ra bãi đáp trực thăng cạnh Bộ Tư Lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập. Theo thường lệ, Tướng Quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng H::22a147:: của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định xử dụng trực thăng H 34 của Không Quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ. Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị thăm hỏi đến mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân.. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị, và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan:
- "Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chửa."
Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, đoàn sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuộc; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng.. - Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!
Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H. 34 bắt đầu quay, Tướng Quân đỡ Phu Nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần.. Do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc. Người dưới đất đưa tay ngoắt từ biệt... Bỗng như tia chớp cực mạnh loé sáng... Con tàu bùng vỡ khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng.. Chết rồi...Chết rồi trời ơi.. Ông bà tướng chết rồi trời ơi.. Trời ơi là trời ơi!! Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực loáng sáng khoảng trời.
Tướng Quân Trương Quang Ân cùng Phu Nhân Dương Thị Thanh trở về cùng mặt Đất Quê Hương như trong tuổi thanh xuân Hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu Trời Tổ Quốc.
Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm:
53.000 Đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng Quân, và tám chiếc áo dài nội hóa của Phu Nhân.
Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với Nước Việt Miền Nam:
Thiếu Sinh Quân Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Aân.
Để nhớ Ngày Hè Lẫm Liệt Ba mươi năm trước trên Quê Hương, MÙA HÈ ĐỎ LỬA - 1972.
BẮC MỸ, Tháng 6, 2002 Phan Nhật Nam
° ° °
Date: Wed, 11 Dec 2002 01:49:24 – 0800 ( PST) From: "tu y duc bo"/NSVN..@yahoo.com Subject: Thu VN To: nsvietnam@yahoo.com
NSVN vàđích thân PNNam thân mến
Khi tôi gọi PNNam là đích thân thì chă‘c hẳn các bạn biết tôi là ai rồi. Đã 27 năm qua, lưng chúng ta đã còng đi, tóc chúng ta đ~a bạc, nhu +ng những gì chúng ta đã mất sao vẫn chưa tìm lại được, nơi đây, quê hương như anh Nam nói, những người phế binh vẫn bao lâu nay rách nát đợi chờ, ngày ngày vẫn khổ nhọc mưu sinh, những đứa con của những người lính VNCH ở lại và bị 'tru di tam tộc'. Cha mẹ chúng nó vẫn sống lặng căm trong tủi hờn của những người bị mất nước. Đất nước nghèo đói và tụt hậu không tượng dược, những đe dọa vẫn lơ lững trước mă‘t bọn tôi, những người đã từng đánh trận QTrị kiêu hùng va tan thưon+g, Đồng Ông DO,căn cứ Met Moi Ra[barbara],đồn điền cao su An lộc. Những người lính mũ đỏ ngày xưa gan lì và dũng cảm mà bây giờ ngồi viết cho các bạn mà tâm trạng vẫn lo, lo thì vẫn lo nhưng viết cho các bạn được nối kết với các bạn dù chưa biết mặt nhau vẫn thấy lòng mình vui sướng và thỏa lòng vì mình biết bọn mình chưa... chết, như những ngày xưa mình còn như nhau vậy.
Anh Nam thân mến. Ngày tôi gặp anh, nếu tôi nhớ không lầm thì lúc đó anh chỉ có 3 hot thôi, lúc đó ở tiền trạm cây số 17 thì phải năm 1972, tôi rất thích anh, yêu những bài viết của anh, gan nhu không có quyển sách nào của anh mà tôi không có, hiện nay tôi còn Tua lung vao noi chet. Dau binh luạ Mua he do luạ Tôi vẫn hằng đọc đi đoc lại hoài [nhung den ngay hom nay toi khong dam coi tiep lai nua vi sach da vang va muc nhieu so xem tiep se pha hong sach mau chong thoi]. Phải nói hỏa tiển Tow ngày xưa tụi này bă‘n xe tăng cs nó không cháy nòng bằng giọng văn của xếp Nam tôi. Bởi thế, sau cái ngày tai ương 30/4/75 khi biết anh bị đưa ra Bă‘c, thú thật tôi lo lă‘ng quá, không biết anh có còn về nữa không? Mãi một thời gian sau khá lâu mới biết anh đã về và 'di tan' qua Mỹ tôi rất mừng, sợ mất anh lấy đâu ra ai để chơi bọn này hay như anh đâu... Thôi vài hàng thăm các bạn. Có nhiều điều muốn nói, muốn tâm sự với các bạn lă‘m nhưng lai sợ, do 27 năm trong chế độ cs đã làm bọn này còn ở lại như thế đó các bạn ơi! Nhưng trái tim chúng tôi vẫn còn đầy nhiệt huyết ...
Thân thương. Cựu SQ TD3DU
Ghi chú:
Bức thư cảm động của một người lính Dù miền Nam, gửi ra từ trong nước qua Nguyệt San Việt Nam, nhờ chuyển đến Phan Nhận Nam, nhân khi anh đọc thông báo của NSVN về tập truyện "Những Trận Đánh Không Tên Trong Quân Sử" trên hệ thống internet. Thư được anh em forward/chuyển tiếp đến PNN sau đó.
Chúng tôi chạy thư anh như một phụ chú sau bài PNN trong tập truyện, để anh em hiểu là những người lính miền Nam bất hạnh còn lại trong nước của chúng ta vẫn nhìn và mong đợi chúng ta, những người lính lưu vong còn viết cho quê hương, xuyên qua đại dương.
Thư viết từ VN đa phần không bỏ dấu. Nhóm chủ trương NSVN đã thực hiện việc bỏ dấu để mạch văn của thư được đọc và hiểu dễ dàng/ LKAH
-------------------------------- 1 Trung Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Liên Đoàn NDø (1957-1960) Đại Uùy Ngô Xuân Soạn, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 ND (1957-1960) 2 Thời điểm 1963-1965, phiên hiệu của đơn vị nhảy dù là "Lữ Đoàn Nhẩy Dù" 3 Lính cần vụ: Nói trại từ chữ "lạc đà"- do mang qua nhiều đồ trên lưng. 4 Nhẩy dù điều khiển: Kỹ thuật nhẩy dù cao cấp, người nhẩy tự quyết định thời điểm mở dù.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2018 15:26:03 GMT 9
Vĩnh Phú Trương
Chín nén nhang cho gia đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh
Ảnh chụp thi thể phủ quốc kì của trung tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia VNCH đã tự sát cùng vợ và 7 con tại số 98/39 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định, thuộc Ấp Hòa Bình (nay là 98/39 Cách Mạng Tháng Tám, P5, Tân Bình) vào ngày 30/4/1975 sau khi Sài Gòn thất thủ.
Cuối tháng Tư năm nay, ba mươi năm sau ngày Sàigòn sụp đổ. Đối với tôi, ở tuổi 11 vào năm 1975, tôi còn nhỏ. Xã hội quanh tôi cũng nhỏ: gia đình, vài đứa bạn tiểu học, hàng quán quanh nhà, chợ Ông Tạ, nhà thờ An Lạc, nhà thờ Nam Thái, trường Bắc Hải… Vậy thôi! Thế nhưng cái xã hội nhỏ và đơn giản của tôi phải mang một dấu ấn sắc, nhọn, nhầy nhụa, dã man. Ba mươi năm sau “ngày ấy”, tôi viết lại câu chuyện này để một lần nhìn vào dấu sẹo trong tâm hồn mình. Viết để lý giải về nó một cách bình tĩnh và trưởng thành hơn. Viết để nói với những người đã đem đến cho tôi kinh nghiệm kinh khủng đó. Nói chung, viết là lối giải tỏa tâm lý ẩn ức của người viết.
Ngày 30/4/1975, lời tuyên bố đầu hàng đã truyền đi. Lá cờ tai họa đã bay trên Dinh Độc Lập. Bố tôi từ Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị về nhà. Mắt ông đỏ tia máu. Trước nhà tôi, những người lính cởi trần ngồi lề đường khóc. Họ chửi rủa rằng họ bị phản bội, bị bỏ rơi. Họ nói đến chuyện tự tử để không thẹn với hồn thiêng sông núi. Có cái gì đó khủng khiếp khi những người đàn ông khóc. Hàng xóm súm lại an ủi họ.
Trời chang chang nắng đổ. Súng ống quân phục đầy đường từ Ngã Tư Bẩy Hiền vào Lê Văn Duyệt. Tiếng súng do bọn thanh thiếu niên hoang loạn bắn từ vũ khí vương vãi trên hè phố nổ rền suốt mấy giờ liền. Đến khoảng 2 giờ chiều chỉ còn lác đác tiếng súng ở xa. Nỗi hoang mang tiếp tục gia tăng khi người ta bắt đầu nhìn thấy những người lính miền Bắc đeo ba-lô, đi dép râu, mặt mũi lơ láo, lạ lẫm bắt đầu đi vào con đường hẻm. Bất thình lình, trong cái oi bức, ngột ngạt của không gian, trong cái căng thẳng kinh hoàng của đầu óc, có những tiếng súng nhỏ vang lên trong một căn nhà.
Những tiếng súng ấy nhỏ và không vội vã như người ta bắn qua lại khi giao tranh. Những tiếng súng ấy bình tĩnh, cách nhau đều đặn. Chúng vang lên một cách chắc chắn, chắc chắn như quyết định của người nổ súng. Đó chính là tiếng súng mà Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh đã nổ để kết liễu mạng sống của cả gia đình gồm vợ với bảy người con và chính bản thân ông.
Tôi nhớ, trước đó, khoảng cuối năm 1974, Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh bán căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải và dọn về ngôi nhà nhỏ xinh cách nhà tôi khoảng mười căn. Ngôi nhà màu xanh lá cây, cổng gạch trắng, không có garage đậu xe, mang số 98/39 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định, thuộc Ấp Hòa Bình, quận Tân Bình. Đường hẻm lớn này thường được gọi là Hẻm Con Mắt, Khu Ông Tạ. Ngôi nhà nay là 98/39 Cách Mạng Tháng Tám, P5, Tân Bình.
Trung Tá Vĩnh thường mang xe sang gởi tại sân nhà ông Năm Châu xế cửa. Đó cũng là nơi tôi nhìn thấy Trung Tá lần cuối khi ông còn sống.
Bà Trung Tá Vĩnh tên tục là Trần Ánh Nguyệt, chị kế của phu nhân lão thi sĩ Hà Thượng Nhân. Ông bà từng làm chủ một nhà in. Ông tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953. Năm 1954, theo vận nước, ông bà Vĩnh vào Sài Gòn.
Ông bà có tất cả bảy người con. Người con cả, anh Đặng Trần Vinh, sinh năm 1948. Hai cô con gái út là một cặp sinh đôi, khoảng 15 tuổi vào năm 1975.
Trung Tá Vĩnh tùng sự tại Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu và sang làm việc tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia từ cuối thập niên 1960. Theo thi lão Hà Thượng Nhân, ông Vĩnh là người rất hiền từ. Một số quí vị đã có dịp làm việc với ông Vĩnh cũng đồng ý như vậy. Theo các vị này, ông Vĩnh không hề cau có, cãi cọ với ai bao giờ. Ông điềm tĩnh và nhân hậu.
Trong ký ức tuổi thơ của tôi, ông Vĩnh lúc ấy 56 tuổi mà còn phong độ. Gặp bố tôi, ông trao đổi một vài câu chuyện với giọng thật hiền hòa, thân thiện. Anh Vinh, con ông lúc ấy 27 tuổi. Hai cô em gái sinh đôi của anh thường đùa nghịch cười rúc rích. Họ đồng tuổi với chị Trang của tôi. Da trắng, tóc dài, đen nhánh, buộc bằng nơ đỏ và xanh dương.
Âm thanh và hình ảnh của gia đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh, nếu chỉ có thể trong tôi, đã không trở thành ký ức kinh hoàng. Ký ức đó chỉ một thời gian ngắn sau, đã bằng những tiếng súng chuyển thành kinh hoàng.
Bố tôi nói buổi trưa ngày 30/4/1975, khi nghe tiếng súng: “Chắc bác Vĩnh tự tử rồi!”. Mắt ông vẫn đỏ tia máu. Tôi dư biết ông có khẩu súng lục và một trái lưu đạn trong ngăn kéo trên lầu. Bố tôi không nói gì nữa. Ông ngồi đó mà không ăn trưa, hai mắt lừ lừ.
Tôi không tin lời bố tôi nói. Một đứa 11 tuổi chưa đủ khả năng để lượng định những áp lực tinh thần đang đè nặng trên vai kẻ sĩ trong lúc đất nước rơi vào tay giặc. Thật sự, dù có tin, tôi cũng không nghĩ đến cái chết của người khác vào lúc đó. Nhưng tôi sợ cái chết của bác Vĩnh và cả nhà sẽ khiến bố tôi quyết định cùng gia đình chọn cái chết hơn là sống với chế độ Cộng Sản.
Mẹ tôi lo ngại, lén lấy súng lục và lựu đạn của bố gói trong bao vải ném xuống kinh Nhiêu Lộc. Mẹ tôi chỉ nói ngắn gọn với bố: “Anh muốn làm gì cũng phải bàn với cả nhà, nhất là với mẹ, người sinh ra anh trên đời này”. Bà tôi thấy vậy cũng sợ, bắt chúng tôi bốn đứa âm thầm thay phiên nhau canh chừng bố. May thay sau đó bố tôi đã thoát được những ám ảnh từ gia đình bác Vĩnh.
Những tiếng súng trong căn nhà Trung Tá Vĩnh vang lên như vậy rồi lặng đi. Mãi đến ngày hôm sau, hàng xóm mới phá cửa vào nhà. Tôi chạy theo, hối hả chen vào, để rồi chết lặng khi thấy mình đứng cách những xác chết không đầy một thước. Bố tôi nói không sai. Gia đình bác Vĩnh tự tử thật. Ngoài phòng khách, bác treo bộ quân phục đại lễ oai nghi. Nơi trong phòng, quạt máy trên trần vẫn chạy. Những tấm nệm lấy từ trên lầu xuống được xếp ngay ngắn. Xác của bảy người con bác Vĩnh cũng ngay ngắn. Họ nằm cạnh nhau trên nệm, đầu quay ra cửa. Anh Vinh lớn nhất nằm phía ngoài cùng, bên phải. Hai cô gái sinh đôi nằm ngoài cùng bên trái. Bác Vĩnh gái nằm quay ngang dưới chân các con. Mỗi người có một vết đạn duy nhất ở thái dương. Những vũng máu đông đặc. Bác Vĩnh trai nằm trong tư thế như không được ai sắp xếp cho.
Từ nơi tôi đứng có thể nhìn thấy bàn ăn. Thức ăn còn đầy trong đĩa, trong bát. Những ly nước trên bàn còn một nửa. Mỗi ly đều có một lớp đầy cặn màu trắng. Bác Vĩnh có để lại một lá thư cho ông Đặng Sĩ Toản, anh trai của bác. Trong một lá thư ngắn khác, bác có lời xin lỗi hàng xóm vì quyết định của gia đình bác có thể làm phiền lòng họ. Bác còn xin họ giúp báo tin cho thân nhân của bác để lo chôn cất. Bác cho biết bác còn một ít tiền để trong ngăn kéo.
Ngay buổi tối hôm bác Vĩnh cùng gia đình ra đi, bọn du thủ du thực trong ấp đã cạy cửa vào lục lọi khắp trong nhà bác và lấy hết tiền bạc cùng những gì chúng tìm thấy trước khi thân nhân đến nơi.
Hàng xóm đã làm theo lời bác yêu cầu. Họ báo với ông Đặng Sĩ Toản. Ông Toản báo với bà Hà Thượng Nhân. Chính bà Hà Thượng Nhân đã cùng chị là bà Chấn, chị dâu là bà Tâm, em gái là bà Viên, làm tang lễ vội vàng tiễn đưa gia đình bác Vĩnh ra nghĩa trang Chí Hòa ngày hôm sau.
Quanh xóm tôi, người ta đoán gia đình bác Vĩnh đã uống thuốc ngủ hoặc một chất độc vì nhìn thấy nhiều cặn màu trắng trong những ly nước. Người ta đoán bác Vĩnh là người cuối cùng ra khỏi cuộc đời vì xác bác nằm không ngay ngắn.
Còn tôi, tôi lạnh người trong nhiều năm mường tượng về giây phút cuối cùng của gia đình bác Vĩnh. Tôi thắc mắc đủ điều. Ai là người xướng ra đề nghị cả gia đình cùng tuẫn tiết? Tôi cứ cho rằng chỉ có thể là bác Vĩnh hay anh Vinh. Nhưng bác Vĩnh hay anh Vinh? Người hiền như bác Vĩnh sao đi đến quyết định như vậy? Bác Vĩnh hay anh Vinh có bàn thảo với bác Vĩnh gái trước không? Có nói gì với những người còn lại trong gia đình không? Nói thế nào? Nếu có nói, làm sao có thể thuyết phục người khác cùng chết với mình? Thuyết phục bằng nỗi sợ Cộng Sản? Thuyết phục bằng tình gia đình sống chết có nhau? Thuyết phục bằng lý tưởng không đội trời chung với Cộng Sản? Nếu bác Vĩnh là người ra đi cuối cùng, bác nghĩ gì vào giây phút ấy?
Sau này, người ta lấy nhà bác Vĩnh làm hợp tác xã, rồi phường đội, v.v… Những ai ngủ tại đó không bao giờ dám tắt đèn. Tôi nghĩ bác Vĩnh hiền thế, dọa họ làm chi. Tôi lại ước bác Vĩnh hay các anh chị con bác trở lại thế gian này khóc lóc như những vong hồn thác oan. Với riêng tôi, nếu có thể, hình ảnh gia đình bác không ám ảnh tôi. Thì ít nhất họ cũng thường tình: chết mà không muốn chết nên hiện về phá phách. Nhưng không, chẳng có ai hiện về. Chín thành viên gia đình bác Vĩnh tự tử mà như bằng lòng với chọn lựa của mình. Họ chết cái chết can đảm và chính trực.
Nhưng tại sao người chính trực phải chết thảm cả gia đình? Tiếng súng của gia đình bác Vĩnh từ đó cho tôi cái nhìn trần tục hơn về xã hội chung quanh. Lý giải về người hiền người ác không chỉ có trong cổ tích trời giúp kẻ hiền lương. Nếu trời luôn giúp kẻ hiền, sao cả gia đình bác Vĩnh chỉ còn một đường chết? Niềm tin của tôi không có chỗ dựa vững chãi: Thượng Đế tạo ra con gà, con thỏ xinh xinh, rồi lại tạo ra con cọp, con cáo làm gì? Tôi xét đoán về người đối diện một cách dè dặt hơn, bởi có ai đoán nổi quyết định của bác Vĩnh? Bác Vĩnh hiền còn dám thế, người hung hãn sẽ bán cả trời khi uất hận!
Tôi gõ cửa nhà ông bà Hà Thượng Nhân tìm một giải tỏa cho nỗi ám ảnh của mình. Tôi viết như viết tâm sự của mình khi kể lại chuyện thương tâm của gia đình Trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh. Hình ảnh anh Vinh và hai chị sinh đôi cùng bốn anh chị em còn lại mặt trắng bệch, mắt nhắm nghiền, máu chảy thành vũng từ thái dương, tóc bay lơ thơ dưới quạt trần, từ nay xin là những đau thương của quá khứ. Chính từ những đau thương ấy, xin cho hiện tại được chăm chút trân trọng hơn. Xin cho tương lai được coi là quan trọng hơn hết khi kính mến những hy sinh, khổ sầu của người đã chết vì vận nước.
Xin thắp một nén nhang cho mỗi người trong gia đình trung Tá Đặng Sĩ Vĩnh. Xin gửi lời người đã khuất cầu nguyện cho đất nước, và cho chính tôi được nhẹ nhàng.
Hà Nhân (Bút ký của Nguyễn Hà Tường Anh)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2018 16:44:38 GMT 9
Kỷ Niệm Với Tướng Nguyễn Ngọc LoanBồ Đại Kỳ Kỷ Niệm Với Tướng Nguyễn Ngọc Loan Tướng Loan và vợ tại nhà hàng pizza “Les Trois Continents” do Ông Bà làm chủ ở vùng ngoại ô D.C. thuộc Burke, Virginia trong khu mua sắm Rolling Valley Mall. Thấm thoát mà đã 50 năm rồi, tròn một nửa thế kỷ. Nhưng tôi vẫn không thể quên được lần anh Loan - tôi gọi là anh Loan không phải vì "chơi trèo", mà vì chúng tôi có tình đồng môn và anh thuộc khóa đàn anh của tôi trong Trường Sĩ Quan Không Quân Pháp dặn dò tôi khi tôi đến thăm anh tại bệnh biện Grall. Tôi không quên được câu nói đã thật tình gây "sốc" vì tôi bỗng phải đối diện với một tình huống không bao giờ tôi nghĩ có thể xảy ra. Tôi quá ấu trĩ trong chính trường hay quá ngây thơ vì là quân nhân chuyên nghiệp? Chắc là cả hai.... Do Việt Báo yêu cầu viết một bài về biến cố Mậu Thân 1968, xin được ghi lại một kỷ niệm lạ với người hùng Nguyễn Ngọc Loan.... *** Sáng hôm đó, tôi đang tham dự buổi thuyết trình hàng ngày thì nghe tin Thiếu Tướng Loan bị thương trong khi dẫn lính đi hành quân truy kích bọn Việt cộng, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Hiện ông đang nằm tại bệnh viện Grall. Nghe nói đến bệnh viện Grall là tôi liền xin phép rời buổi họp, và xách xe chạy thẳng ra nhà thương. Tôi biết là anh phải năm ở khu "Post Operatoire" +vì bạn bè tôi đã chẳng từng nói bệnh viện này là của tôi sao? nhưng nên đến thẳng nơi đó thì thấy lực lượng an ninh canh gác rất "dầy". Khi thấy tôi muốn vào thăm anh Loan, họ không cho vào. Và nói là không ai có thể vào được, trừ gia đình của anh. Những người này rất lạ, chắc là thuộc Cục An Ninh Quân Đội hay Cảnh Sát Dã Chiến, tôi không quen nên chẳng muốn năn nỉ. Nhưng vẫn không chịu thua, tôi vào văn phòng của một Bác Sĩ gần đó gọi Y Sĩ Đại Tá Alexis Chevallard, một người bạn khá thân của tôi, và cũng là một Bác Sĩ Phẫu Thuật. Alex bảo tôi chờ và chỉ vài phút sau anh chàng đến, thế là hai chúng tôi cùng sánh vai vào khu Hậu Giải Phẫu. Lần này tôi không bị ai ngăn lại cả, có lẽ họ nghĩ tôi là Bác Sĩ Không Quân, vì thấy BS Chevallard có vẻ quen thuộc và thân thiện với tôi. Khi vào tới bên trong thì tôi thấy anh Loan đang nằm trên giường, và mắt nhắm như ngủ. Lợi dụng thời gian đó, tôi nói với Alex về những liên hệ giữa anh Loan và tôi, vừa lúc đó tôi thấy anh mở mắt, nên chạy lại bên giường. Câu đầu tiên anh hỏi tôi là "Làm sao mày vào đây được?". Có lẽ là anh, hoặc các người có trách nhiệm bảo vệ anh rất nghiêm túc trong việc không cho người ngoài gia đình thăm viếng. Tôi muốn anh yên tâm rằng lực lượng bảo vệ an ninh của anh rất có lỷ luật, nên cho anh biết là tôi bị cấm vào, phải nhờ người bạn là BS Chevallard đi cùng. Và tôi giới thiệu hai người với nhau, rồi để cho Alex khám và nói chuyện với anh. Trong câu chuyện tôi cũng hiểu sơ về thương thế của anh, và khi xong tôi hỏi anh là tôi muốn ở lại với anh một chút anh có mệt không? Anh lắc đầu, và khi bạn tôi đi khỏi, anh hỏi tôi "Mày quen làm sao với ông toubib này mà có vẻ thân nhau vậy?" Qua câu hỏi, tôi hiểu ngay là anh muốn biết liệu có thể tin người BS sẽ săn sóc và làm phẫu thuật cho anh khi cần không. Tôi kể cho anh nghe trường hợp nào chúng tôi quen nhau, và mặc dù Alex có vợ con theo qua Việt Nam, nhưng nhiều thì mỗi tuần một lần, ít thì hai lần mỗi tháng, chúng tôi đi ăn tối với nhau. Lẽ dĩ nhiên là có nhậu nữa. Tôi không muốn làm rườm tai và để anh nghỉ, nhưng anh có vẻ muốn nghe thêm, nên tôi cho anh biết là có nhiều khi hai đứa vừa xong chầu "apéritif (khai vị)" là Alex bị "paged" vì có trường hợp phải mổ khẩn cấp, và tôi phải đưa cậu ta vào phòng mổ vì hai đứa đi chung xe. Rồi cậu ta hỏi tôi có thích xem mổ không, rồi bảo tôi mặc quần áo vào xem cậu hành nghề. Hôm đó là một trường hợp làm "césarienne", mổ để lấy em bé ra, vì xương chậu của thai phụ quá nhỏ, nên cũng không khó. Alex là một người chu đáo, nên trong lúc mổ, anh ta đã nói mình đang làm gì để tôi hiểu, nên tôi rất thích. Bèn xin là lần sau có "cas" mổ nào vào bữa tối thì gọi cho tôi vào xem và "học hỏi". Và như vậy, tôi đã xem được nhiều "cas" mổ và biết thêm được rất nhiều về nội tạng con người. Sau khi biết được tình thân của tôi với Alex, đi về làm việc đi, không có ông V.D ổng phạt thấy mẹ mầy thì ráng mà chịu. Tao không có dính dáng chuyện của Không Quân tụi bây đâu". Trước khi tôi về, anh còn nói thêm: "Có rảnh thì ra đây chơi với tao. Đừng rủ thằng nào hết vì chúng nó không có cho vô đây đâu". Rồi anh còn cẩn thận gọi một nhân viên túc trực bên anh lại, nói "dặn tụi nó là thấy mặt ông này thì cứ cho vào". Tôi đi ra khỏi phòng Post-op nhưng không về sở, mà đến văn phòng của Alex, để hỏi về tình trạng thương thế của anh, vì suốt trong thời gian bên cạnh anh tôi không có thì giờ làm việc đó. Bạn tôi cho biết anh bị thương vi đạn làm hư hỏng nặng một mạch máu chính. Nếu không chữa được có lẽ phài cắt khúc dưới của chân. Trả lời câu hỏi của tôi là có bệnh viện nào trong nước, như bệnh viện dã chiến của Hoa Kỳ có thể làm "greffe" mạch máu được không thì Alex trả lời là anh không biết chắc, nhưng chắc chắn là họ có kỹ thuật và khả năng làm việc đó. Ngoài ra, việc bị thương như thế rất thường xảy ra cho người lính chiến nên Alex nghĩ là có nhiều hy vọng họ làm được. Điều này làm tôi cảm thấy nhẹ người và hy vọng sẽ nói cho anh Loan biết trong lần thăm viếng sắp tới. Và tôi vui vẻ đi về sở làm. Ngày hôm sau tôi tới thăm, tinh thần anh Loan có vẻ cao hơn hôm qua. Khi tôi hỏi BS nói tình trạng cái chân anh ra sao thì anh nói là tình trạng không có gì đáng lo, nhưng bác sĩ không khẳng định được vì tình trạng cái mạch máu chưa ổn định. Đại loại như Alex đã nói với tôi hôm qua, nhưng anh ta lại không nói với anh Loan về giai đoạn hai, rằng nếu không cứu được mạch máu thì phải cưa chân. Nói dăm ba câu chuyện tầm phào vì tôi tránh tối đa không hỏi chi tiết của tai nạn, và anh than là "Tao thấy cái khó nhất của tao hiện giờ là phải pipi trong thế nằm, chỉ sợ nó tuột ra khỏi cổ con rùa (dụng cụ dùng để bệnh nhân tiểu tiện) thì còn gì là giường chiếu nữa nên đi không thoải mái một mạch được. Bây giờ nằm một chỗ mới biết lúc trước mình sung sướng vô cùng". Rồi anh văng một câu chửi thề cố hữu và đặc thù của anh để chấm dứt câu chuyện. Không muốn làm anh mệt thêm, tôi chào anh đi về và hứa sẽ đến thăm anh hôm sau. Trước khi về tôi lại ghé văn phòng của Alex để thăm và cũng để dò la tin tức về cái mạch máu, thì thấy Alex có vẻ bi quan hơn vì chắc không chữa được mạch máu, và không cứu được cái chân. Một lần nữa tôi yêu cầu anh ta hỏi thăm xem bên Third Field Hospital của Hoa Kỳ có làm được việc ghép mạch máu không, đề còn có dữ kiện khi nói chuyện với anh Loan. Nhưng khi thấy Alex có vẻ trầm ngâm, suy nghĩ thật nhiều và ngần ngại như có điều gì khó nói, tôi không muốn làm khó bạn mình nên tôi chào anh ta rồi về. Khi tôi đến thăm lần sau, anh Loan có vẻ bi quan, và tinh thần rất xuống. Anh hỏi tôi "Bạn của mày có nói gì về tao không?" Tôi muốn tránh cho Alex nên trả lời "Nếu có điều gì thì nó nói thẳng với anh chứ đời nào lại nói với tôi, conscience professionelle của tụi Santé Navale nặng ký lắm, nên nó không dám vi phạm đâu. Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị bắn. Mãi về sau, sau một lúc im lặng khá dài mà mắt anh lại nhắm nên tôi nghĩ anh mệt, định lặng lẽ ra về thì anh mở mắt ra nói với tôi "Tên bác sĩ bạn của mày nói có lẽ cái artère của tao foutue rồi (chúng tôi vẫn giữ tật xấu hay dùng tiếng Pháp thay thế những từ Việt Nam khó dịch). Nếu ngày mai mà không có tiến bộ thì phải cắt bỏ phần chân dưới, hoặc chuyển qua Third Field Hospital với hy vọng là bên đó nó có cơ phận và dụng cụ để ghép mạch máu". Anh ngưng một lúc lâu mới gọi tôi đến gần để nói tiếp "Mày chịu khó nói với bạn mày nếu ở đây cứu được cái chân thì tốt, nếu không thì tant pis! Kệ mẹ nó! Đừng bao giờ đưa tao qua Third Field Hospital. Ngay cả khi bị complications mà nguy hiểm tới tính mạng thì mày bảo tụi nó cứ để tao chết ở đây. Cest ma volonté. Tôi xin viết chữ in để nhấn mạnh đoạn này theo tinh thần của anh: "TRONG BẤT CỨ TRƯỜNG HƠP NÀO CŨNG ĐỪNG ĐƯA TAO QUA THIRD FIELD HOSPITAL HAY DI TẢN TAO QUA NHÀ THƯƠNG CỦA MỸ BÊN PHILIPPINES. Cest ma volonté." "Mày nên nhớ và hứa với tao là mày sẽ làm mọi cách để làm đúng theo lời tao dặn. Thôi tao mệt rồi mày đi về đi, Tao cám ơn mày". Tôi bước ra khỏi phòng Post-op như một người máy, mắt nhòe nhoẹt không thấy rõ đường đi. Tôi không ngờ anh Loan, một người lúc nào cũng bất cần nhân thế và coi trời bằng vung, mà lại có một khổ nạn lớn chừng ấy. Tôi cảm thấy thương anh vô cùng, và tôi kính phục sự can đảm tinh thần của anh, thà chết chứ không muốn phải nhờ vả đến tất cả những gì dính dáng đến Hoa Kỳ. Năm chục năm trời! Những gì tôi viết bên trên đã xảy ra năm mươi năm trước đây. Nửa thế kỷ rồi, anh Loan đã là người thiên cổ, Alex Chevallard cũng đã về cõi vĩnh hằng, nhưng tôi vẫn còn nhớ từng chi tiết như sự việc vừa xả ra hồi tuần qua. Điều này đủ để quí vị thấy cái "sốc" tôi đã nhận được, khiến đầu óc u tối của tôi bật sáng, và tôi đã hiểu là tôi ngây thơ và ấu trĩ biết mấy. Bồ Đại Kỳ . *********************************************************************** KỶ NIỆM 21 NĂM NGÀY MẤT CỦA THIẾU TƯỚNG NGUYỄN NGỌC LOAN - MONDAY, OCTOBER 21, 2019 Hôm nay kỷ niệm đúng 21 năm ngày mất của tướng Nguyễn Ngọc Loan (1930–1998), đây là những hình ảnh mới nhứt về ông, ông nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng, xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị do Quốc gia Việt Nam được sự cố vấn và hỗ trợ huấn luyện của Quân đội Pháp, mở ra tại miền Nam Việt Nam vào đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, ra trường, ban đầu ông phục vụ đơn vị Bộ binh. Nửa năm sau trúng tuyển chuyển sang Không quân, hơn mười năm phục vụ ở Quân chủng Không quân, ông đã từ một phi công Khu trục, tuần tự đảm trách những chức vụ chỉ huy Phi đội, Phi đoàn, sau lên đến Tư lệnh phó Quân chủng, giữa thập niên 60, chuyển về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Giám đốc một Nha thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, một năm sau, biệt phái sang Bộ Nội vụ đảm nhiệm chức vụ đứng đầu ngành An ninh Nội chính kiêm phụ trách bộ phận Tình báo Quốc gia, năm 1968, ông bị thương vì mĩ ám sát hụt trong trận Mậu thân đợt 2, trở lại quân đội phục vụ ở Bộ Quốc phòng, ông là người đã cầm súng bắn thẳng vào đầu một người chưa rõ danh tính được cho là Bảy Lốp (Nguyễn Văn Lém) hoặc Bảy Nà (Lê Công Nà) ở trận Mậu thân 1968 gây xôn xao thế giới. Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1930 tại Huế, Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam, trong một gia đình khá giả. Cha ông nguyên là một Công chức trung cấp tùng sự tại Chi nhánh Hỏa xa ở Huế. Thời niên thiếu, ông học phổ thông các cấp ở Huế. Năm 1951, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại trường Khải Định với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau đó ông thi lên Đại học, là sinh viên năm Dự bị Đại học Y khoa Sài Gòn. Cuối tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh đông viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia (thành phần trong Quân đội Liên Hiệp Pháp), mang số quân: 50/600.198. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 cùng năm. Ngày 1 tháng 6 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy, ra trường, ông được đi phục vụ ở Tiểu đoàn 62 với chức vụ Trung đội trưởng. Thời gian phục vụ ở đơn vị này, ông được theo học lớp Huấn luyện Biệt kích. Mãn khóa Biệt kích, ông được chuyển nhiệm vụ sang Lực lượng Xung kích. Hạ tuần tháng 12 cùng năm, ông trúng tuyển vào Quân chủng Không quân, đầu năm 1953, ông sang Pháp thụ huấn khóa Huấn luyện Hoa tiêu Khu trục tại trường Võ bị Không quân Salon de Provence, đầu năm 1955 mãn khóa về nước, ông được thăng cấp Trung úy chỉ huy Phi đội trong Phi đoàn Vận tải ở Tân Sơn Nhứt. - Quân đội Việt Nam Cộng hòaTháng Giêng năm 1956, sau một thời gian từ Quân đội Quốc gia biên chế vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa, chuyển sang đơn vị tác chiến, ông giữ chức vụ Phi đội trưởng trong Phi đoàn 1 Khu trục ở Biên Hòa do Đại úy Huỳnh Hữu Hiền làm Chỉ huy trưởng đầu tiên. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp Đại úy giữ chức vụ Chỉ huy phó Phi đoàn 1 Khu trục. Giữa năm 1958, chuyển ra Duyên hải miền Trung, ông đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn 2 Quan sát tại Nha Trang thay thế Đại úy Nguyễn Hữu Tần. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, nhận lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn 2 Quan sát lại cho Đại úy Võ Công Thống, cùng ngày ông được thăng cấp Thiếu tá chuyển về Bộ Tư lệnh Không quân để giữ chức vụ Tham mưu trưởng. Tháng 6 năm 1960, ông được cử vào chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Kiểm soát Không chiến, đầu tháng 11 năm 1963, tham gia cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11). Ngày 3 tháng 11, ông được cử làm Tham mưu trưởng Không quân, thay thế Đại tá Đỗ Khắc Mai lên làm Tư lệnh Quân chủng thay cho Đại tá Huỳnh Hữu Hiền bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng buộc giải ngũ. Trung tuần tháng 12 cùng năm, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tá Phạm Long Sửu, cùng ngày ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh phó Không quân, do Đại tá Nguyễn Cao Kỳ làm Tư lệnh. Đầu năm 1965, trong chiến dịch "Mũi Tên Lửa" (Flaming Dart). Ngày 11 tháng 2, ông chỉ huy các Phi tuần Bắc phạt A.1E Skyraider vượt qua vĩ tuyến 17 để oanh tạc các doanh trại của quân Bắc Việt tại Chánh Hòa, Hà Tĩnh và Chấp Lễ, Quảng Bình. Tiếp đến vào ngày 2 tháng 3, ông chỉ huy hai Phi đội A.1E bay ra oanh tạc căn cứ Hải quân Bắc Việt tại Quảng Khê, Quảng Bình. - Quân Lực Việt Nam Cộng HòaNgày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, Quân đội Việt Nam Cộng hòa được đổi danh thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu để giữ chức vụ Tổng Giám đốc Nha An ninh Quân đội thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị thay thế Đại tá Trang Văn Chính. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm, ngày 29 tháng 4 năm 1966, biệt phái sang Bộ nội vụ ông được bổ nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia, thay thế Đại tá Phạm Văn Liễu. Ông vẫn kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc Nha An ninh Quân đội thêm 2 tháng, cho đến ngày 24 tháng 6 bàn giao Nha này lại cho Đại tá Vũ Đức Nhuận để kiêm thêm chức vụ Đặc ủy trưởng Trung ương Tình báo Quốc gia. Cũng trong thời điểm này, ông sáng kiến thành lập 8 Biệt đoàn Cảnh sát Quốc gia. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm, cũng trong năm 1966, ông được Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương cử ra miền Trung bình định vụ Biến động Phật giáo trong cuộc bạo động ly khai, được xem là có sự hậu thuẫn của tướng Nguyễn Chánh Thi Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật, ông được xem như là cánh tay mặt của tướng Kỳ, giữa năm 1967, ông được làm Trưởng đoàn, hướng dẫn Phái đoàn công du thăm viếng Nam Hàn. - Biến cố Tết Mậu Thân 68 và vì sao CIA ra lệnh thủ tiêu ông cùng với Di tản sang Hoa Kỳ cho tới khi ông qua đời. Ông từng phát hiện Hoa Kỳ đi đêm với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) nên khi biết được Hoa Kỳ cấm ông đến các cơ quan nào của họ, vì vậy nên ông đã rút hết 1 tiểu đội Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi toà Đại Sứ Mỹ nên tòa Đại Sứ Mỹ mới bị tấn công, cộng thêm hình ảnh ông bắn tên khủng bố bảy lốp đã làm tăng dư luận Mỹ và giảm uy tín Mỹ nên ông bị Mỹ ám sát hụt, nhưng không chết, đứt gân chân phải qua Úc và Mỹ điều trị và coi như kết thúc binh nghiệp. Ông cùng tướng Nguyễn Cao Kỳ ra Đồng Hới ném bom, ra Huế dẹp bàn thờ phật của cộng sản, dẹp loạn Sư Đoàn 1 bộ binh và bắt Phạm Ngọc Thảo...ông rất gan dạ. Trở lại chiến trường năm 68 ,sau nhiều lần giải phẫu không thành công, cuối cùng phải cưa chân, ngày 3 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tướng và bốn ngày sau, tức ngày 7 tháng 6, ông bàn giao chức vụ Tổng Giám đốc Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia lại cho Đại tá Trần Văn Hai nguyên Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Biệt Động Quân Trung ương, tháng 12 cùng năm, ông chuyển sang Bộ Quốc phòng với chức vụ Chánh Thanh tra và đầu năm 1969, ông được cho giải ngũ và được hưởng chế độ phụ cấp dành cho tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa về hưu. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông cùng gia đình di tản khỏi Sài Gòn, sau đó sang định cư ở Springfield, thuộc Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, thiếu tướng Loan cùng vợ di tản qua sinh sống và mở một quán ăn nhỏ và sống một cuộc sống nghèo khó với chiếc chân tàn tật vì chiến cuộc Mậu Thân. Quán tên là ''LES TROIS CONTINENTS'' ở thành phố Springfield, tiểu bang Virginia và ở đó, ông và gia đình bị người Mỹ sĩ nhục và làm khó khăn rất nhiều, rất nhiều người Mỹ hung hăng đã xịt sơn lên tường nhà ông : “Ta đã biết ngươi là ai rồi !” ... và ông đã phải sống với những lời cay đắng và tủi nhục cho tới ngày 14 tháng 7 năm 1998, ông từ trần vì bệnh ung thư vòm họng tại Burke, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 68 tuổi, và sau khi ông qua đời thì sự thật mới được phơi bày với Eddie Adams: - Xin tỏ lòng tôn kính tới ông Tướng "NGUYỄN NGỌC LOAN'' .
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 17, 2018 0:47:09 GMT 9
Thiếu Tướng Trần Bá Di: Niềm hãnh diện của QLVNCHHương Nam March 27, 2018 Cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Nguyên Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4, Nguyên Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông là một trong những vị tướng sau cùng rời khỏi Viet Nam sau khi bị Việt cộng cầm tù hơn 17 năm khổ sai, vừa từ trần lúc 4:30 ngày Thứ Sáu 23 tháng 3 năm 2018 tại TP Orlando, Tiểu bang FLORIDA. Hưởng thọ 88 tuổi. Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong bốn vị Tướng sau cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà Cộng Sản Việt Nam đã thả sau 17 năm giam cầm trong lao tù. Nói đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, những người đã từng biết ông, ai cũng thương mến và ca ngợi đức tánh xuề xòa, chân thật, bình dị, hết lòng với anh em nhưng rất kiên cường, bất khuất trước địch quân của ông. Xuất thân trường Võ Bị Đà Lạt khoá 5, ông làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ từ năm 1962 đến 1964. Sau đó, ông đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và trở về làm Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 9. Sau Tết Mậu Thân, ông được vinh thăng làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Năm1970, ông lại trở về Sư Đoàn 9 với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn. Cho đến năm 1974, trước khi đổi về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và làm Chỉ Huy Trưởng đến ngày mất nước, ông phụ trách Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4/ Quân khu 4. Dưới quyền lãnh đạo của ông, Sư Đoàn 9 đã mang lại rất nhiều chiến công hiển hách cho quân sử của QLVNCH và cho lịch sử của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Đặc biệt, Tết Mậu Thân, Việt Cộng tràn ngập tỉnh Vĩnh Long. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Trần Văn Thì vắng mặt trong lúc Trung Tá Tỉnh Trưởng Huỳnh Ngọc Diệp bị thương mấy ngày trước Tết và Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa tân Tỉnh trưởng còn đang trên dường chưa đến nơi nhậm chức được. Thời gian này Thiếu Tướng Trần Bá Di làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, ông đã đơn thân độc mã dùng trực thăng đáp xuống giữa vòng lửa đạn tự tay xách theo một máy truyền tin PRC 25 mà không có người lính hay tùy viên cận vệ nào đi theo tháp tùng cả, để điều động các đơn vị phản công và giải cứu Vĩnh Long, trong đó có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 15 từ Măng Thít kéo về, tiếp tục kháng cự cho đến khi Cộng quân rút lui. Là một vị trí chiến lược rất quan trọng, Tỉnh Vĩnh Long nối liền Sa Đéc với Bắc Mỹ Thuận. Chiếm được Vĩnh Long, Cộng quân sẽ chiếm được Mỹ Tho, Long An, cắt đứt đường tiếp viện từ miền Tây và sẽ tiến chiếm dễ dàng Saigon và Tổng Tham Mưụ. Do đó, giữ được tỉnh Vĩnh Long, ông đã tạo nên chiến công oanh liệt. Thời gian không lâu sau ông được vinh thăng Chuẩn Tướng”. Từ trái: Cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di Cuối năm 1970, Sư Đoàn 9 là Sư Đoàn đầu tiên hành quân lưu động khắp vùng 4, không còn lãnh trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ khu 41 chiến thuật (gồm các tỉnh Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình). Do đó, Trung Đoàn 14 thuộc Sư Đoàn 9 được điều động xuống quận Kiên Long, tỉnh Chương Thiện là vùng trách niệm của Sư Đoàn 21 Bộ Binh để ngăn chặn ý đồ xâm nhập vùng đồng bằng Cửu Long, triệt tiêu đường vận chuyển của Việt Cộng. Năm 1973, một lần nữa, Trung Đoàn 14 Sư Đoàn 9 đã tạo nên chiến công hiển hách, đánh tan một Trung Đoàn Công Trường 9 của Việt Cộng tại Đồng Tháp mười thuộc tỉnh Kiến Phong cũ, tịch thu một số lượng lớn vũ khí và lương thực lúa gạo của chúng. Chiến thắng oanh liệt này đã khiến Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cùng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH phải đáp trực thăng xuống tận trận địa để thị sát chiến trường và xem xét chiến lợi phẩm do các chiến sĩ Sư Đoàn 9 mang về. Năm 1970, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tướng Trần Bá Di chỉ huy Sư Đoàn 9 Bộ Binh đã vượt biên giới, tấn công tận sào huyệt của Cộng quân ở Mật Khu Ba Thu trên lảnh thổ Campuchia, tạo an ninh cho suốt vùng lãnh thổ hai bên bờ biên giới từ Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong đến Kiến Tường nối tiếp với Quân đoàn 3, vùng 3 Chiến Thuật Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó, Sư Đoàn 9 được mệnh danh Sư Đoàn Mũi Tên Thép. Các chiến sĩ Sư đoàn 9 được mang dây biểu chương màu Tam Hợp Bảo Quốc. Năm 1971, Trung Đoàn 16 Bộ Binh của Sư Đoàn 9 đã ổn định vùng Thất Sơn Châu Đốc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh đã đánh đuổi Cộng Quân, tái lập an ninh cho vùng Ba Hòn gồm Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Sóc. Mùa hè đỏ lửa 1972, Trung Đoàn 15 Bộ Binh là một trong những lực lượng giải tỏa chiến trận tử thủ An Lộc. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975,Thiếu Tướng Trần Bá Di trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông ở lại tử thủ đơn vị, chống lại xâm nhập của Cộng Quân từ Hậu Nghĩa cho đến giây phút cuối cùng. Mặc dù dưới tay là những tân binh quân dịch không có kinh nghiệm chiến trường nhưng ông vẫn chỉ huy tài giỏi bảo vệ được đơn vị, không cho Việt Cộng xâm nhập Trung Tâm và bắn hạ được 4 chiến xa của Cộng quân. Là Tư Lệnh của một Sư Đoàn đã mang về rất nhiều chiến công lừng lẫy, Thiếu Tướng Trần Bá Di luôn sát cánh cùng các chiến hữu trên khắp các mặt trận và hài hòa với anh em trong mọi hoàn cảnh. Ông thường xuyên ngồi trực thăng thị sát các mặt trận để quan sát và điều động các đơn vị thuộc Sư Đoàn. Phi công trực thăng nghe nói phải lái cho Tướng Di là điều ngao ngán bởi vì mỗi ngày ông chỉ mang theo một gói bắp nấu hoặc bánh mì để bay trực thăng không biết mệt. Ông đã xin Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng để được huấn luyện và cấp phát bằng lái trực thăng, phòng ngừa trường hợp người phi công mỏi mệt, ông sẽ tự tay lái. Vì sự can đảm và bền bỉ này của Tướng Di, nên đã nhiều lần Cộng quân tìm các mưu sát ông như có lần chúng cho gài chất nổ ở bãi đáp trực thăng Núi Sam, Châu Đốc năm 1970, một lần khác trực thăng của ông bị chúng bắn sẻ phải đáp khẩn cấp giữa đồng ruộng vùng Đức Tôn, Sa Đéc, nhưng nhờ ơn trên ông đã an toàn. Trong lao tù Cộng Sản, Thiếu TướngTrần Bá Di nổi tiếng là một tù nhân không khuất phục Cộng Sản, xứng danh là Tư lệnh của Sư Đoàn 9 Mũi Tên Thép. Ông chống đối lao động cải tạo, không nói chuyện với quản giáo, quản chế. Nếu muốn nói chuyện với ông phải từ cấp Trưởng Trại trở lên. Ông tuyệt đối không ca hát nhạc Việt Cộng dù bị bắt buộc. Ông đã giữ đúng tư cách một vị tướng anh hùng của Quân Lực VNCH. Nhắc đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, không ai không cảm mến con người rất mộc mạc, bình dị, hòa đồng với thuộc cấp, chân thật với đồng đội như ông. Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong các vị Tướng trong sạch, đáng kính mến của miền Nam Việt Nam, là niềm hãnh diện cao quý của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hương Nam *************************************************** ÔNG LÃO BÁN KEMMarvin Tran Thời gian: năm 1994 Địa điểm: Khu Giải Trí Splendid China, Orlando. Trời nắng chang chang, với cái nóng nung người của tiểu bang Florida vào mùa hè lối 90 độ F (32 độ C). Trước cửa tiệm bán hàng lưu niệm (Gift Shop) đông người, một ông lão người Việt Nam đứng bán kem cho du khách. Xe bán kem có hình dáng như cái thùng vuông dài, bên ngoài có sơn chữ và hình vẽ mấy bịch kem đông lạnh. Khách khá đông, ông tươi cười với mọi người. Cách đó không xa, một du khách Việt Nam khác, đứng tuổi, nhìn ông bán kem một cách chăm chú, nghĩ mình đang gặp lại một người quen biết từ khi còn ở quê nhà mấy mươi năm về trước. Khách lạ bước đến gần xe kem trong khi ông bán hàng đang bận rộn với khách. Nhìn bảng tên gắn trên áo ông lão bán kem, khách lạ mừng thầm vì đúng tên người mình quen biết. - Chà! "Tha hương ngộ cố tri", còn gì quý cho bằng? - ông suy nghĩ. Đợi đến khi xe kem vắng khách, người khách lạ lên tiếng: - Xin lỗi ông, có phải khi xưa ông làm tỉnh trưởng tỉnh Cần Thơ không? Ông bán kem giật mình, phản ứng ngay: - Không phải đâu, chắc ông lầm người rồi! Người khách lạ "cụt hứng" rồi tự trách: - Mình hấp tấp quá, không lẽ khi xưa ông làm tỉnh trưởng, giờ nầy lại đứng ở đây? Suy tới suy lui, khách lạ chưa chịu thua, nghĩ thầm: - Rõ ràng tên ông trên thẻ trước ngực, sao lầm được? Dáng vóc cũng cao ráo như xưa, nét mặt, cũng vậy, tuy phong trần hơn trước? Khách lạ trở lại ông lão bán kem: - Thưa ông, tôi không lầm đâu, tôi nhớ ơn ông lắm, nhờ ông mà anh em nhà thầu chúng tôi làm ăn rất thoải mái dưới thời ông về làm đầu tỉnh Cần Thơ. Thấy người khách lạ quả quyết, ông bán kem mỉm cười: - Đúng là tôi, nhưng đó là chuyện xa xưa rồi, nhắc làm gì? Từ đó, người khách lạ kết thân với ông bán kem, vì thương mến một công bộc liêm chính mà giờ này sa cơ thất thế. Trong mấy lần gặp gỡ sau đó tại tiệm ăn ngoài Splendid China, khách lạ tâm tình với ông bán kem: - Em thường đấu thầu xây cất cho tỉnh, đời mấy ông tỉnh trước, tụi em gặp khó khăn nhiều, nhưng từ khi ông về làm tỉnh trưởng mấy năm 63 tới 65, tụi em dễ thở hơn nhiều, người nào làm đúng luật lệ thi được trúng thầu, tụi em làm ăn thoải mái, bởi vậy, tụi em nhớ ơn ông hoài... Gặp người tri kỷ, ông lão bán kem thổ lộ: - Tôi có giúp gì ông đâu, đó chẳng qua là nhiệm vụ của tôi thôi. Tổng Thống tín nhiệm tôi, giao chức vụ tỉnh trưởng là để tôi lo an ninh cho người dân, công tác chánh của tôi là về mặt quân sự, dẹp CS quấy rối đồng bào. Dưới quyền tôi, có ông phó tỉnh trưởng dân sự, mọi việc về hành chánh, tôi giao cho ông phó làm hết, nhưng tôi có đặt tiêu chuẩn làm việc, là phải hết sức liêm chánh, không được ăn lối lộ hay có hành vi tham nhũng, v. v... thì ta mới được lòng dân. Trong thời gian ông bán kem tại khu giải trí SC, cũng có một số du khách người Việt Nam nhận ra ông, tỏ lòng thương mến, "tội nghiệp" ông. Ông khẳng khái trả lời: - Cám ơn quý vị đã còn nhớ tới tôi, có cãm tình với tôi nhưng xin quý vị đừng tỏ ra tội nghiệp cho tôi, tôi không thích như thế. Có gì đáng phải tội nghiệp đâu ? công sản nhốt tôi, giam cầm mấy mươi năm tù, ra được xứ tự do, làm nghề gì đi nữa, miễn chính đáng, vẫn còn sướng hơn ở với CS mà! Nhắc đến việc CS giam cầm, ông nhấn mạnh: - Không nên dùng chữ "tù cải tạo" đối với chúng tôi, nhà tù CS là nơi chúng hành hạ, trả thù, hạ nhục người Quốc Gia, tù là tù chớ không có "cải tạo" gì hết. Ông bán kem trong khu giải trí Splendid China nói trên là cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di. Vinh danh một bậc đàn anh gương mẫu. Bài viết ngắn hôm nay chỉ nêu vài sự kiện nổi bật, chớ không thể nói lên hết sự nghiệp to lớn của ông trên chiến trường. Lúc còn là tỉnh trưởng Cần Thơ, cấp bực ông là Thiếu Tá, sau lên Trung Tá. Ông nổi tiếng trong các trận đánh như sau: - Giải tỏa tỉnh Vĩnh Long trong Tết Mậu Thân 1968. Sự việc diễn tiến như dưới đây: Gần Tết Mậu Thân, (tháng 1/1968), hai ông đầu tỉnh là Trung Tá Huynh Ngọc Diệp và Phụ Tá đi hành quân. Trên đường về, hai ông bị VC phục kích và bị thương, phải chở vào bệnh viện điều trị. Tỉnh Vĩnh Long như rắn không đầu. Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 9, chỉ định Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tạm thời phòng thủ Vĩnh Long. Khi tiếng súng Tết Mậu Thân bùng nổ, Thiếu Tá Nghĩa đã về Sài Gòn thăm gia đình và bị kẹt lại đó. Tướng Thi chỉ thị Đại Tá Trần Bá Di, đang là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, vào Vĩnh Long để nghiên cứu tình hình và đối phó với Việt Cộng. Vào chiều tối, một mình với máy truyền tin trên lưng, ông được trực thăng chở đi, dự định đáp vào khuôn viên của tỉnh, nhưng trực thăng bị VC bắn rát quá, phải thả ông tại cầu tàu, rồi từ đó, ông chạy bộ vài chục bước vào được dinh tỉnh trưởng. Tại đây, ông bắt đầu liên lạc với các đơn vị chiến đấu để lo việc phòng thủ, chỉ dẫn trực thăng, pháo binh... bắn vào các điểm tập trung của VC. Nhưng VC vẫn cầm cự, quyết tâm đánh úp tỉnh lỵ, ông phải xin tướng Thi cho tăng viện, nhờ vậy, mấy ngày sau, một Trung Đoàn của ta mở đường tiến vào căn cứ của tỉnh. Sau cùng, ông chỉ huy phá tan lực lượng VC, chúng bị giết hay đầu hàng gần hết. - Trận đánh vào đất Miên Danh ông càng nổi lên năm 1970, khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đánh vào mật khu Ba Thu của VC trên đất Miên (tỉnh Tà Keo), phá hủy cơ sở của chúng, tịch thu vô số chiến lợi phẩm... Ngoài ra, quân ta còn tìm thấy nhiều nhà in và máy in tiền của Mặt Trận Giải Phóng, tiền này chúng tính đem ra thay thế tiền VNCH nếu chúng thắng Miền Nam năm 1968. Ông được thăng cấp đặc biệt tại mặt trận này. Anh hùng sa cơ Đến năm 1975, khi VC vào chiếm miền Nam, chúng bắt ông và đày ải vào các trại tù trong hơn 17 năm trời. Hai năm sau khi VC thả, ông qua Mỹ năm 1993 theo diện HO (Humanitarian Operation: Chương trình định cư tại Mỹ dành cho người bị CS giam cầm sau 1975). Ba tháng sau khi hoàn tất thủ tục nhập cư, y tế, bằng lái xe, ông bắt đầu đi làm tại hãng Dobbs, hãng chuyên cung cấp thức ăn cho hành khách trên máy bay. Làm việc tại đây hơn 6 tháng, ông qua khu du lịch Splendid China như có nói trên. Thời gian sau, ông xin vào làm tại Disney World với nhiệm vụ "trưmg bày hàng lên kệ” (floor stacker). Ông làm việc tại đây trong 12 năm trời, từ 1999 đến 2011, chỉ thôi việc vì bị đau nhức vào tuổi 80. Tổng cộng thời gian làm việc tại Dobbs, Splendid China và Disney World, ông đã đóng thuế Liên Bang Hoa Kỳ 18 năm, quá tiêu chuẩn 10 năm để được tiền hưu. Có lần, một giám thị ở Disney World khuyên ông: - "You" lớn tuổi rồi, sao "you" không ở nhà nghỉ cho khỏe? - Tuy tuổi đã cao nhưng sức khỏe còn tốt là tôi không nghỉ!- ông đáp ngay. Cũng có người thấy ông cao tuổi, hỏi ông: - Cụ đi làm chi cho khổ, ở nhà lãnh tiền trợ cấp có sướng hơn không? Câu trả lời: - Tôi không "chơi" mấy thứ đó. Tôi rất tự hào không "ăn" một ngày tiền an sinh xã hội, tiền già, tiền tàn tật... Đối với anh em chúng tôi ở tù CS, người Mỹ dành một chương trình đặc biệt để đem chúng tôi đến xứ tự do, hưởng được cuộc sống an toàn trong công bằng, chừng đó thôi đủ để mình biết ơn chính phủ và nhân dân Hoa kỳ rồi, vì lẽ đó, tôi không muốn ngồi chơi để lãnh tiền cấp dưỡng, tạo thêm gánh nặng xã hội cho đất nước này trong khi tay chân còn lành lặn, còn đủ sức khỏe để đi làm. Theo trên, tướng Trần Bá Di là một người rất đặc biệt. Khi còn trong Quân Đội, ông là một công bộc liêm chính, một cấp chỉ huy tài ba, gan dạ, bình dân, yêu thương lính. Đến tuổi cao niên, ông vẫn giữ khí phách của một người hùng. Thiếu Tá Nguyên Kim Sơn, cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, từng làm việc dưới quyền của tướng Trần Bá Di, có viết trong tuyển tập "Cái Chết Của Một Dòng Sông" như sau: "Thiếu Tướng Trần Bá Di có tấm lòng hiền hòa đức độ nên được thuộc cấp kính trọng và thương mến. Ngày ông rời khỏi Sư Đoàn 9 Bộ Binh, quân dân tỉnh Vĩnh Long đã giăng biểu ngữ khắp đường phố trong tỉnh lỵ để tỏ lòng thương mến và luyến tiếc ông". Mặt khác, trong phúc trình 6 trang giấy gởi về chánh phủ Hòa Kỳ ngày 5 tháng 12 năm 1973, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Graham Martin, có ca ngợi cuộc đời và binh nghiệp của tướng Trần Bá Di trải qua mấy mươi năm chỉ huy các đơn vị tác chiến trên chiến trường miền Nam, từ cấp Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, đến Sư Đoàn... Nhắc đến sự liêm chính của tướng Di, phúc trình của Đại Sứ Martin có ghi một đoạn như sau: “Gia đình có 4 con, ba trai một gái từ 17 đến 8 tuổi. Báo cáo cho biết là gia đình ông sống bằng lương bổng nhà binh của ông và không có ghi nhận hành vi tham nhũng nào của ông hay của phu nhân ông”. Nguyên văn Anh văn như sau: “They have four children, three boys and a girl from 17 to 8. The Di’s reportedly live on his military income and there has been no mention of corrupt activities on his or his wife part” Tài liệu trên được chánh phủ Hoa Kỳ giải mật ngày 13 tháng 8, năm 2009. Thiếu Tướng Trần Bá Di mất ngày 23 tháng Ba, năm 2018, tại Orlando, Florida, hưởng thọ 87 tuổi. Người đời có câu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”, Tướng Trần Bá Di ra đi để lại danh thơm muôn đời! Marvin Tran
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 15, 2018 4:01:01 GMT 9
Sự thật Đời Tôi – Trung Tướng Trần Văn Minh Để tôi kể bạn nghe về sự thật của tôi. Đó không phải là sự thật về bất cứ sĩ quan hay ông tướng ông tá người Việt nào. Nó không phải là sự thật về một chính khách người Việt nào. Nó chẳng là sự thật về gia đình tôi hay bạn bè tôi. Nhưng nãy giờ tôi đang nói về sự thật của tôi. Đó là những gì tôi đã thấy và tôi đã tin. Đó là sự thật của tôi. Câu trả lời cho thảm kịch thất trận của miền Nam Việt Nam thật đơn giản. Nó có thể tóm gọn với hai chữ “không đủ”. Chúng tôi không có đủ tiếp liệu trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến. Và chúng tôi không có đủ lính. Chỉ có thế. Đó là toàn bộ vấn đề. Không đủ. Báo chí Mỹ nói là chúng tôi thất trận vì chúng tôi tham nhũng. Tôi không chối là đã có tham nhũng tại Việt Nam. Có. Có tham nhũng trên thị trường, trên chính trường và trong một vài đơn vị quân đội. Nhưng dứt khoát không có tham nhũng trong Không Quân. Những người lính Không Quân tin vào Tổ Quốc Không Gian, và họ tin cậy cấp chỉ huy. Không có chuyện tham nhũng nơi các sĩ quan quanh tôi. Vấn đề sinh tử là chúng tôi không còn cơ phận và cũng không có nhiên liệu. Chúng tôi bị thiếu hụt nhiên liệu trong những ngày cuối cuộc chiến. Vì vậy mà chúng tôi không thể cất cánh. Không lực chúng tôi bị nằm ụ dưới đất. Thế mà người Mỹ, có máy điện toán với đầy đủ dữ kiện. Họ nói rằng chúng tôi có đủ. Họ cả quyết là chúng tôi có đủ nhiên liệu và đồ phụ tùng. Họ cả quyết trên cơ sở chính trị. Họ không cả quyết trên cơ sở thực tế. Tất cả những gì chúng tôi cần đến là Tiếp Vận. Có tiếp liệu mới đánh đấm được. Khi mà hàng tiếp liệu không được chuyển giao, thì tinh thần chiến đấu của sĩ quan và binh lính chúng tôi sẽ xuống thấp. Ai cũng thấy là đồ tiếp liệu đang cạn kiệt. Họ biết chúng tôi sẽ hết sạch. Và khi họ thấy như vậy, họ sẽ biết là chúng tôi đang bị đồng minh thân thiết bỏ rơi. Và rồi họ sẽ mất sạch tinh thần chiến đấu. Tôi chưa bao giờ nghĩ là đồng minh sẽ lừa dối và bỏ rơi chúng tôi. Tôi nghĩ đến Bá Linh và Đại Hàn khi nghĩ đến các giải pháp của người Mỹ. Và tôi thấy người Mỹ đã bảo vệ họ. Tôi nghĩ là chúng tôi, là tiền đồn của thế giới tự do, rồi cũng được bảo vệ như thế. Đại Sứ Graham Martin nói đi nói lại là Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng tôi. Ổng nói là chúng tôi nên tin như thế. Những gì đã xảy ra vào phút cuối đã như một vài người Mỹ đã nói trước. Chúng tôi thua trận nhanh hơn Bắc quân có thể thắng. Đúng vậy. Tôi coi như sách lược của Tổng Thống Thiệu là bỏ rơi vùng Cao Nguyên sau khi mất Ban Mê Thuột là một chiến thuật hay. Nhưng nếu chúng ta được tiếp vận hợp lý, thì tinh thần chiến đấu của chúng ta vẫn còn, và chúng ta có thể tái phối trí quân đội để tiếp tục chiến đấu. Khi Tổng Thống Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng Tư, tôi đã nghĩ đó là dấu hiệu lạc quan. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ có những thỏa ước mới, những chế độ mới. Phó Tổng Thống Hương trở thành tổng thống. Ông là một nhà giáo lão thành đáng kính. Ông là một người trung thực. Nhưng rồi ông giao quyền tổng thống cho Tướng Dương Văn Minh. Một vài người chúng tôi tin rằng Tướng Minh có thể đạt được những thỏa ước hòa bình. Nhưng chúng tôi cũng nghĩ tình hình đang diễn ra là một bóng đen hắc ám. Chúng tôi tin rằng người Việt sẽ không còn tự quyết một điều gì. Bất cứ điều gì, chúng tôi tin chắc rằng, phải được quyết định sau bức màn siêu quyền lực. Người Mỹ, người Nga, người Tàu _ chúng tôi tin chắc là thế _ sẽ quyết định số phận của Việt Nam. Chúng tôi đã chờ đợi ngày này qua ngày khác mới thấy những điều họ đã âm mưu. Chúng tôi nghĩ một phần trong những âm mưu đó là người Mỹ sẽ ngưng cung cấp hàng tiếp liệu cho chúng tôi. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Trong những ngày cuối cùng của VNCH nhiều lần tôi đã có nói chuyện với Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Và nhiều lần ông đã yêu cầu tôi làm đảo chánh. Ông nói, “Hãy cẩn thận. Người Mỹ đang bảo vệ Tổng Thống Thiệu. Đừng để họ biết kế hoạch của các anh”. Rồi khi tôi gặp ổng vài ngày sau đó, ổng lại yêu cầu tôi, “Khi nào thì anh cầm đầu cuộc đảo chánh? Khi nào thì đảo chánh?”. Tôi nói với ổng là tôi không muốn cầm đầu đảo chánh. Tôi hỏi ông ấy là ông có muốn đảo chánh không? Và ổng nói không, không muốn. Ông nói là ông nghĩ tôi muốn. Ổng quá cẩn thận. Ông muốn tôi cầm đầu đảo chánh để ông trở thành người lãnh đạo mới của đất nước. Nhưng điều mà Tướng Kỳ không thể nào hiểu được là tôi và binh lính của tôi sẽ không trung thành với ai cả. Chúng tôi chỉ trung thành với Tổ Quốc. Chúng tôi trung thành với Việt Nam, chúng tôi yêu Việt Nam. Rất nhiều người lính chúng tôi đã chết cho Việt Nam. Họ đã chiến đấu và chết không vì bất cứ ai, mà cho Việt Nam. Trong một cuốn hồi ký Tướng Kỳ nói là tôi đã đến nhà ổng và nói là tôi sẽ trung thành với ổng bằng bất cứ giá nào. Ông nói tôi đã nói với ổng là người của Tòa Đại Sứ Mỹ đang đút tiền cho tôi để thăm dò ông cho Mỹ. Không có điều nào đúng cả. Không hề có ai đưa tiền cho tôi cả – đặc biệt là người của Tòa Đại Sứ Mỹ. Và tôi không hề có chuyện đàm phán nào với tướng Kỳ. Đọc nó rất buồn cười. Tại sao ổng lại bịa ra những điều này trong cuốn hồi ký? Ông moi những chuyện này ở đâu ra vậy? Có thể là ông đang nhắm tới một ai đó chớ không phải tôi. Ông không được bịa chuyện về tôi. Gần trưa ngày 29 tháng Tư, tôi nhận một cuộc điện gọi từ cơ quan DAO nói rằng sẽ có một cuộc họp giữa Mỹ và các cấp chỉ huy của Vietnam Air Force (VNAF). Tôi qua cơ qua DAO với nhiều người nữa. Chúng tôi được đưa vào một gian phòng. Rồi người ta để chúng tôi ngồi đó một lúc lâu. Chúng tôi nghĩ Đại Sứ Martin hoặc Tướng Homer Smith (tùy viên quân sự) hoặc ai đó sẽ thuyết trình một kế hoạch đẩy lui Cộng quân. Nhưng chẳng có ai thuyết trình cả. Không có ai thuyết trình cho tới xế trưa. Sau khi chúng tôi đi vào khu vực cơ quan DAO thì một người lính gác đã tước vũ khí của chúng tôi. Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đó. Rồi cuối cùng cũng có một người, mặc đồ sĩ quan, bước vào phòng và nói, “Đã kết thúc rồi, Thưa Tướng Minh. Một trực thăng đang đợi ngoài kia sẽ đưa ông đi”. Chúng tôi bước ra chiếc trực thăng. Nó đưa chúng tôi bay ra chiếc Blue Ridge ngoài biển Đông. Một đại tá Không Quân Mỹ đang ngồi trên tàu với tôi. Ông ta ngồi kế bên tôi. Ổng khóc suốt chuyến bay. Ổng không nói được. Nhưng ông ấy đã viết gì đó lên một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. Tôi đọc, “Thưa tướng quân, tôi rất tiếc”. Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy đó cho tới ngày hôm nay. Tôi sẽ giữ mảnh giấy đó suốt đời. Tôi sẽ luôn nhớ tới chuyến bay buồn thảm ra chiến hạm Blue Ridge. Đối với những người theo đạo Phật như chúng tôi, chúng tôi tin rằng thượng đế đã an bài mọi sự. Chúng tôi tin rằng chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ trong cuộc đời này bởi vì kiếp trước chúng tôi đã tạo nhiều ác nghiệp. Tôi tin rằng trong cái kiếp trước mà tôi không nhớ nổi chắc là tôi đã phạm nhiều điều sai quấy. Đó là lý do tại sao chuyện ác lai này lại báo ứng với tôi và với quê hương tôi. Đôi khi chúng ta có thể cưỡng lại số phận nếu chúng ta hành thiện và chỉ làm những điều lương tâm sai bảo. Đó là những gì tôi đang cố tu thân. Tôi phải cố tu thân và làm những gì hợp với lương tâm. Nhưng từ khi đất nước tôi sụp đổ, tâm hồn tôi đã hóa ra tan nát. Trong 20 năm qua thâm tâm tôi đã cảm thấy trĩu nặng nỗi buồn đau và trống vắng. Nó vẫn không phai đi. Tôi cảm thấy nó hằng ngày. Không một ngày nào trôi qua trong đời mà tôi không nhớ về Việt Nam. Bạc lòng nhưng chẳng cam lòng Mang theo nhục nước vào trong mộ phần” Hà Huyền Chi ************************************************** Thiếu Tá Võ Đằng PhươngThiếu Tá Võ Đằng Phương: Biểu Tượng Bất Khuất Kiêu Hùng Của 1 Sĩ Quan Vnch - Nói đến cuộc bạo-động trong tù, chúng ta không thể quên được "vụ 20 tháng 04 năm 1979" xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung-tâm trại "cải-tạo" Bình-Điền tại tỉnh Thừa-Thiên. Vụ này do một ban tham-mưu gồm 9 Sĩ-quan của QLVNCH chỉ-huy toàn thể 500 tù-nhân trong trại vùng dậy đòi cải-tổ chế-độ lao-tù. 9 sĩ-quan trong ban-tham-mưu đó là: -Trung-tá Nguyễn tri Tấn: Trung-đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB -Thiếu-tá Vũ ngọc Tụng: Quân-Trấn Đà-lạt -Thiếu-tá Phạm-Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC -Thiếu-tá Lê quang Liển: Sĩ-quan TQLC -Thiếu-tá Hoàng Hưng: Sĩ-quan Bộ- Binh -Thiếu-tá Phan văn Lập: Chi-đoàn trưởng Thiết-giáp. -Đại-uý Trần-Biên: Sĩ-quan truyền-tin SĐ5/BB -Đại-uý Nguyễn thuận Cát: Sĩ- quan Biệt-động quân -Đại-uý Nguyễn đình Khương: Tiểu đoàn phóTĐ120 Địa pương quân, tiểu-khu Quảng-trị.. Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo-tàn đến gãy xương, trào máu, bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ-quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã-man vô nhân đạo như Đại-uý Nguyễn văn Báu, Đại-uý Nguyễn thuận Cát, Thiếu-uý Trần hữu Sơn. Còn tất cả 9 sĩ-quan trong ban tham-mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung -tâm trại "cải - tạo" Bình-Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công-an từ dưới ty công an thuộc tỉnh Bình trị Thiên lên tàn sát tù-nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã-man, bạo-tàn đánh đấm liên-tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn công-an "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la-liệt, rên la quằn-quại trên những vũng máu như anh Nguyễn văn Thiện, anh Nguyễn văn Vy, anh Nguyễn hữu Ai, anh Đôn, anh Nguyễn trung-Việt, anh Nguyễn hữu Tứ v.v…giống như cảnh ở ngoài chiến-địa hoang tàn chờ trực-thăng đến bốc xác chết và những người bị thương vậy. Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù-nhân trong trại đều căm thù đến uất-nghẹn. Có một sĩ-quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người giòng máu bất-khuất và anh-hùng của Lê-Lợi, Quang-Trung, giòng máu kiên-cường và dũng-cảm của Trần hưng Đạo, Trần bình Trọng cũng như ý-thức được Trách-nhiệm, Danh-dự vàTổ-quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục-tù Cộng-sản; Tiếp-tục nuôi-dưỡng ý-chí đấu-tranh đến giọt máu cuối cùng, ngõ hầu mang vinh-quang về bồi-đắp cho quê mẹ, tô-thắm cho non sông. Bởi vì anh ta biết rằng, chân-lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời-gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ-đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nữa, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên-ngang bảo-vệ chân-lý đến cùng không một chút nao-núng trong lòng: đó là Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC/QLVNCH. Nhận thấy Cộng-sản đã đối xử quá tàn-nhẫn vơí tù-nhân qua chế-độ lao-tù trong các trại "cải-tạo", nhận thấy Cộng-sản đối xử tàn-tệ với vợ con của tất cả các sĩ-quan cũng như cuả các viên chức thuộc chính-phủ Việt nam Cọng hoà trước đây, nhận thấy Cộng-sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ-xuý chiến-tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người, nhận thấy Cộng- sản không chịu thực thi những lời cam-kết mà vẫn làm cho nhân-dân Việt-nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam, Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG mặc dầu đang ở trong ngục tù Cọng-sản, quyết-định viết một bức thư gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để yêu-cầu tên thủ-tướng nầy giải-toả những vấn đề nêu trên. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt-khoát viết một bức thư gởi tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để đại diện cho nhân-dân Việt-nam yêu-cầu chính-phủ Hà-nội xét lại chính-sách cai trị nhân-dân cuả đảng Cộng-sản Việt-nam. Chính Đại-uý Nguyễn đình Khương, Tiểu-đòan phó TĐ 120 Điạ-phương quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 04, bị Cộng-sản cùm gần 5 năm mới được thả ra, đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ phân trại 2 về phân trại 1 thuộc trung tâm trại Bình-Điền, anh Khuơng ngủ sát chỗ nằm với anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG. Lúc bấy giờ, mỗi người chỉ được 45cm chiều ngang để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ nên theo lời thuật lại của anh Khương, hai người đã cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng như sau: Xét rằng: 1-Sau khi Cộng-sản chiếm miền Nam Việt-nam vào ngày 30 tháng 04 năm 1975, tất cả sĩ-quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại "cải-tạo" mà không xét xử, không tuyên án. Đây là một hành-động vi-phạm trắng trợn hiệp-định Paris năm 1973 mà chính các ông đã ký kết. 2-Tất cả sĩ-quan QLVNCH trong những trại "cải-tạo" trên khắp lảnh thổ Việt-nam đều bị đối xử quá tồi-tệ, vô nhân-đạo. Đó là một sự trả thù hèn-hạ, thấp kém, điên-cuồng, mất cả tình người, không đếm xỉa gì đến bản tuyên- ngôn quốc tế nhân -quyền. 3-Gia-đình vợ con của tất cả sĩ-quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi-tệ: -Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là kinh-tế mới. -Tất cả những nhà cửa, tài-sản của nhân- dân miền Nam bị tứơc đoạt một cách công khai, trắng trợn. -Con cái của các sĩ-quan trong chế-độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường vì bị coi là con của Nguỵ. Lý-lịch 3 đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc gì để sinh-sống được. 4-Sau hơn 10 năm đất nước Việt-nam đã thống nhất, nhân-dân Việt-nam vẫn còn đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Chiến-tranh vẫn chưa chấm dứt, hoà-bình vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt-nam. Sự tự-do dân chủ vẫn chưa được thực-thi. Nhân-dân Việt-nam vẫn sống trong lo-âu sợ-hãi. Điều này chứng tỏ Đảng và nhà nước đang thi-hành một chính sách sai lầm hoàn-toàn. Nay yêu cầu Đảng và Nhà nước: -Thả ngay lập-tức tất cả sĩ-quan và những nhân-viên của chế-độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân-đạo theo bản tuyên- ngôn nhân-quyền quốc-tế. -Hãy đối xử nhân-đạo và bình-đẳng với vợ con, gia-đình của tất cả sĩ-quan và những viên-chức trong chế-độ cũ trước đây. -Xét lại toàn bộ đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hoà-bình, độc-lập, tự-do, dân-chủ thực sự : -Thực thi hoà-giải hoà- hợp dân-tộc. -Phục hồi lại nền kinh-tế -Chấm dứt chiến-tranh -Giải toả lệnh bế-quan toả- cảng để thông thương với nước ngoài. Làm tại Bình-Điền ngày 19 tháng 6 năm 1985 Ký tên VÕ ĐẰNG PHƯƠNG, Chủ-Tịch Lâm-Thời Phong-Trào Thiết-Lập Nền Đệ-Tam Cọng-Hoà. Sau khi viết xong bức thư, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG có mời một số sĩ-quan đã tham-gia vụ 20 tháng 04 cùng ký vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh nầy vừa tham-dự một trận chiến trong ngục-tù quá khốc-liệt nên để cho các anh ấy nghỉ dưỡng quân một thời gian đã. Thế rồi anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết định ký tên một mình. Sau đó anh ghi lại thành 3 bản, một bản anh gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho tên trưởng trại cải-tạo Bình-Điền nhờ cán bộ trực trại chuyển giao, và một bản lưu. Sau khi tên trại trưởng trung-tâm trại cải-tạo Bình-Điền là trung-tá Trần văn Truyền nhận được bức thư nói trên, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG liền bị cùm ngay rồi bị đưa vào ở trong nhà kỷ-luật khoảng 3 tháng trước khi đưa ra toà xét xử. Dĩ-nhiên bức thư của anh PHƯƠNG là một bản án chống lại chế-độ Cộng-sản Hà-nội một cách rõ-rệt nên ban tham mưu cán-bộ trại "cải- tạo" sau nhiều ngày họp với ty công-an Bình trị Thiên đã quyết định đưa anh ra toà án nhân-dân để xét-xử . Đứng trước vành móng ngưạ, thiếu- tá TQLC VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đã trả lời một cách khẳng-khái và hùng hồn khiến ai nấy đều cảm phục. Một số nhân- viên làm việc trong toà án đã bỏ dở công việc để chạy vào xem vì thấy "bị-cáo" là một mẫu người thật khí-khái. Cứ mỗi lần quan toà hỏi câu nào, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG không trả lời trực-tiếp, anh giả-bộ nói loanh-quanh để chưởi chế- độ độc-tài đang tác-oai tác quái trên đất nước Việt-nam. Có đoạn anh PHƯƠNG đã nói: - Tôi nói đây với tư-cách của người dân thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân-dân Việt- nam, không dám nói. Tôi nói có tình có lý, chứ không phải sử-dụng biện-pháp quân sự để đàn-áp. Nghe anh PHƯƠNG nói vậy, tên quan tòa nói ngay: - Anh là một thằng sĩ-quan nguỵ không hơn không kém, anh là cái thá gì? Một triệu nguỵ-quân và chư hầu còn thất- bại nói gì một mình anh. Nhưng rồi qua một đoạn khác anh PHƯƠNG vẫn hiên-ngang: - Các ông làm gì có luật-pháp. Luật-pháp của các ông là luật rừng. Tôi đã ở trong tay các ông thì do các ông quyết-định. Thấy những lời nói hùng-hồn của "bị-cáo" bất lợi cho phiên-toà, tên quan-toà liền chỉ-thị cho "bị-cáo" nói câu cuối cùng. Biết chúng cố-ý không cho nói nhiều, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết-định cô-đọng lại những tư-tưởng quan-trọng rồi tiếp-tục ngẩng đầu cao và dõng-dạc trước toà: - Ai là kẻ vi-phạm hiệp-định Paris 1973? - Ai là kẻ đã gây ra chiến-tranh và nghèo đói ? - Phạm văn Đồng phải chịu trách -nhiệm hoàn-toàn về việc xé bỏ hiệp-định Paris. Rồi đây nhân-dân Việt-nam cũng như nhân-dân thế-giới đều được biết lời nói của tôi trước toà-án này. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đang nói thao-thao bất-tuyệt thì tên quan toà đứng lên tuyên-bố chấm dứt phiên-toà để vào nghị-án. Sau khi nghị án, toà tuyên-án anh PHƯƠNG 10 năm tù ở sau khi thi-hành xong án tù "cải-tạo" vì phạm tội "âm-mưu lật đổ chính-qyuền dân-chủ nhân-dân." Theo anh Nguyễn kim Chung (đại-uý TQLC, cũng đã xuất-hiện trong phiên-toà này như một "bị-cáo" vì bị nghi-ngờ có liên-hệ đến vụ này), khi nghe đọc bản án, anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước vì nó giống như một bài luận văn trong Quốc văn giáo-khoa thư của chương trình Bộ giáo-dục cho học-sinh học. Còn việc đưa anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ra toà xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách hình-thức để đánh lừa quần chúng mà thôi. Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra toà, anh PHƯƠNG đã ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh toà-án anh PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa là 20 năm . Sau khi rời toà-án và bị còng tay đưa lên lại trại "cải-tạo" Bình- Điền để ở tù tiếp, tên trại trưởng trung-tá Trần văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh PHƯƠNG nên nhún-nhường và phải biết điều hơn, anh PHƯƠNG đã quát vào mặt tên trại trưởng: - Ông đừng có dạy đời tôi nữa, ông biết Trần bình Trọng trong lịch-sử Việt-nam chứ! Tôi muốn sống như Trần bình Trọng! Dĩ-nhiên sau đó thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa trong sự uất-ức và hận thù triền-miên. Mãi đến năm 1995, anh VÕ ĐẰNH PHƯƠNG mới được Cộng-sản trả tự do khỏi trại cải-tạo Hàm-tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành-hạ do những trận đòn tra tấn dã-man và ác-độc qua những năm tháng quằn-quại trong ngục-tù Cộng-sản để rồi sau đó, anh đã vĩnh-biệt cõi đời trong tức-tưởi và uất- nghẹn vì thù nhà chưa trả, nợ nước chưa đền . Qua những hành-động đầy kiên-cường và bất-khuất của Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG nói trên, ta thấy rằng Sĩ-quan của QLVNCH là thành phần ưu-tú của dân-tộc Việt-nam. Ngay trong ngục-tù Cộng-sản, họ vẫn luôn luôn biểu-lộ tinh-thần Danh-dự, Tổ-quốc, Trách-nhiệm. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đúng là một Sĩ-quan gương -mẫu đã vị quốc vong thân Tổ-quốc và Quân-Lực Việt-Nam Cọng-Hoà vinh-danh anh. DƯƠNG VIẾT ĐIỀN
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 9:50:07 GMT 9
DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . . Ý NGA thiếp lập danh sách này =========================== TT HỌ TÊN Cấp bậc-chức vụ -đơn vị Ngày tự sát ========================== Ý Nga tin chắc là ngoài danh sách dưới đây, còn có rất nhiều quân nhân QLVNCH đã tuẫn tiết trong ngày 30- 4-1975 âm thầm mà chúng ta không hoặc chưa biết đến 1 Lê Văn Hưng Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV 30/4/1975 2 Nguyễn Khoa Nam Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV 30/4/1975 3 Trần Văn Hai Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB 30/4/1975 4 Lê Nguyên Vỹ Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB 30/4/1975 5 Phạm Văn Phú Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII 30/4/1975 43 Hồ Ngọc Cẩn Đại Tá 6 Đặng Sỹ Vinh Thiếu tá BTL CSQG 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con 7 Nguyễn Văn Long Trung tá CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon 2 8 Nguyễn Đình Chi Trung tá Cục ANQĐ 30/4/1975 9 Phạm Đức Lợi Trung tá 30/4/1975 10 Mã Thành Liên( Nghĩa) Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêukhoá 10 Đà Lạt 30/4/1975 tự sát cùng vợ 11 Lương Bông Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh 30/4/1975 12 Vũ Khắc Cẩn Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi 30/4/1975 13 Nguyễn Văn Cảnh Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8 30/4/1975 14 Đỗ Công Chính Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản 15 Trần Minh Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM 30/4/1975 16 Tạ Hữu Di Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện 30/4/1975 17 Vũ Đình Duy Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat 30/4/1975 18 Nguyễn Văn Hoàn Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM 30/4/1975 3 19 Hà Ngọc Lương Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang 28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng) 20 ………….Phát Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975 21 Phạm Thế Phiệt Trung tá 30/4/1975 22 Nguyễn Văn Phúc Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa 29/4/1975 23 Nguyễn Phụng Thiếu úy CS đặc biệt 30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon 24 Nguyễn Hữu Thông Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BBkhóa 16 Đà Lạt 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn 25 Lê Câu Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB Tự sát 10/3/1975 26 Lê Anh Tuấn HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang) 30/4/1975 27 Huỳnh Văn Thái Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn 28 Nguyễn Gia Tập Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ 29 Trần Chánh Thành Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa 4 Tự sát ngày 3/5/75 30 Đặng Trần Vinh Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh Tự sát cùng vợ con 30/4/1975 31 Nguyễn Xuân Trân Khoá 5 Thủ Đức Tự tử ngày 1/5/75 32 Nghiêm Viết Thảo Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa 33 Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen ) Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 ) Tự sát chiều 30/4/1975 34 Phạm Đức Lợi Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh : Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975 35 Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau ) Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau 36 Phạm Xuân Thanh Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu 37 Bùi Quang Bộ Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu 38 Nguyen Hoa Duong Dai uy truong Quan Canh Vung Tau Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC. 39 Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước DaiUy - Khoa III/TD - ANQD Tu tu tai nha o Hoc Mon 5 40 Cao Hoài Cải Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận. Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận. -9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đã xã súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất, đáng kính nhất của QLVNCH. -7 người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời mình sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành vòng tròn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi vì danh dự. Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 .. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh "Tia Sét Miền Tây". Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã đƯợc ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại 6 Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau: - Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB. - Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB. Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường. Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân "Cọp Ba Đầu Rằn", và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân "Cọp Xám". Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự 7 thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: "Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi". Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: "Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn"! Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái "miệng ve" để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái "miệng ve" nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn "ăn" từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật "cò ỉa miệng ve" của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba chục chiến sĩ. Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ. 8 Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang. Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát. Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh. Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: "Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A". Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi. Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: "Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không"? Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: "Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua". Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh 9 đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái. Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: "Chết thì chết chứ không lùi". Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này. Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chỉa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng: "Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi". Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời. Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975. Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: "Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm" đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn vào sang dãy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam. Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử 10 tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: "Sống chết nằm trong tay Chúa". Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng. Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử. Trước lúc bị hành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội không thì ông trả lời như sau: “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm”. Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: "Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối". Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi. Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại. Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản"! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn. Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về ... và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa ... mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà. Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi. Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục. Phạm Phong Dinh 11 Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Trai hùng uất hận mất non sông ! NgũTướng hiên ngang tuẫn tiết cùng. Tá, Úy buồn lòng không muốn sống, Tôi Trung tủi dạ cũng từ trần. (không thờ 2 Chúa) Quê hương đổi mới ôi không khá, Ðất nước thay mau vẫn cứ bần. Chẳng đội trời chung cùng Cộng Việt, Hiến dâng Tổ Quốc quyết vong thân. Gilbert, April 2, 2011 Lê Ðắc Anh Lính Cộng Hòa anh Lính ơi*Bao năm khói lửa đã qua rồi* Em vẫn còn mơ mầu áo trận*Chìm trong lửa khói rất tuyệt vời !* (không rõ tác giả) -Lê Nguyên Vỹ: tướng -Lê Văn Hưng: tướng -Nguyễn Khoa Nam: tướng -Nguyễn văn Long: trung tá -Phạm Văn Phú: tướng -Trần văn Hai: chuẩn tướng > một chiến sĩ Biệt Động Quân (BĐQ) trong hàng chục năm dài – và cũng là một Chỉ Huy Trưởng thanh liêm trong sạch nhưng đầy vẻ hào hùng tự trọng, gan dạ và quả cảm của Binh Chủng Mũ Nâu, khiến mỗi khi nhắc đến, không phải chỉ có đa số Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan trong đại gia đình Binh Chủng ngưỡng phục, mà đến cả hàng Binh Sĩ cũng kính trọng vô vàn. -9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đã xã súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất, đáng kính nhất của QLVNCH. -7 người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời mình sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành vòng tròn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi vì danh dự. -Ðặng Sĩ Vinh: đại tá -Trần Chánh Thành: Bộ trưởng -Trần Minh: Trung Sĩ I Quân Cảnh, Thuộc đại đội I Quân Cảnh đảm trách khu vực cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc 10 giờ sáng 30 tháng 4-1975, sau khi nghe Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, Trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu. xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx 12 Mỗi năm cứ đến ngày oan trái Thắp nén hương lòng tưởng nhớ ai. (Vô danh) Trong kỳ hội ngộ 30 năm của Trại Trần Hưng Đạo, Bộ Tổng Tham Mưu tại Thủ đô Hoa Thịnh đốn, Trung tướng Đồng Văn Khuyên tóc bạc phơ đã đi đến chào bàn và chắp tay xá từng chiến hữu. Gặp anh em cựu tù cải tạo trên 10 năm nhắc chuyện các tướng lãnh tự vẫn, vị Tham mưu trưởng Liên quân 30 năm về trước chợt nói ra cả gan ruột của mình. Và như vậy là ông đã thực tâm nói hộ cho tất cả anh em. Các nhà lãnh đạo dù đảm lược can trường qua bao năm chinh chiến, nhưng dễ gì mà làm được người hùng tuẫn quốc như tiền nhân Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Và cũng tại Thủ đô Hoa Kỳ, tướng Ngô Quang Trưởng suốt bao năm không lên tiếng, nhưng trong chỗ riêng tư cũng đã nói rằng được nếu được làm lại thì năm 75 ông sẽ không thi hành lệnh rút quân ở Huế. Các niên trưởng của tôi một thời tuổi trẻ như ông Khiêm, ông Thiệu, ông Viên. Lúc đó còn là Trung úy Cao Văn Viên, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và đại úy Trần Thiện Khiêm gặp nhau ở Secteur Hưng Yên vào đầu thập niên 50. Quý vị không biết rằng sau này sẽ làm tổng thống, thủ tướng và tổng tham mưu trưởng. Nếu bây giờ được sống lại tuổi hoa niên, ta sẽ làm lại từ đầu với bao nhiêu điều tốt đẹp hơn, cho bản thân, cho gia đình và cho đất nước. Kể cả các hành động anh hùng lẫm liệt. Và biết bao nhiêu tướng lãnh tư lệnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nay còn sống đều có chung một kỷ niệm đau thương. Chiêm nghiệm lại, việc rút quân đau thương hoảng loạn tại Quân khu I và Quân khu II đã trở thành một thảm kịch ghê gớm như một bệnh dịch, như ngọn sóng thần, như cơn hồng thủy vượt qua mọi sức đề kháng của con người. Vào cái thời điểm đó, trong một sáng một chiều, chúng ta không phải là những chiến sĩ anh hùng mà đã trở thành những con người khác. Không cần địch tấn công, các đơn vị cứ tan ra như một dung dịch hóa học được thử nghiệm. Vì vậy các tư lệnh chiến trường của miền Cao nguyên, Hỏa tuyến, Duyên hải khi về được miền Nam thì đa số đều tìm đường di tản. Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn. Các Tư lệnh Tổng trừ bị và các Sư đoàn. Tất cả hoàn toàn mất hết sức đề kháng kể cả Lục quân, Không quân, và Hải quân. Tất cả đều tin rằng Mỹ bỏ Việt Nam và mọi thứ coi như cáo chung. Không thể tiếp tục cuộc chiến. Riêng mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh và khi cộng sản đi vòng qua phòng tuyến Sư đoàn 5 tại Lai Khê để tiến về Sài Gòn thì coi như một phần của miền đông vẫn bình yên. Và chính ở các vùng đất hoàn toàn chưa nổi sóng đó đã sản xuất ra các vị lãnh đạo sẵn sàng vị quốc vong thân. Trong suốt 55 ngày cuối cùng của miền Nam năm 75 đã có biết bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh và gồm cả quân nhân các cấp đã tự sát. Một số đã tự vẫn tại mặt trận hoặc tại nhà. Có các trường hợp tự tử chết cả gia đình. Chúng tôi ghi nhận rằng có nhiều anh em binh sĩ đã tự tử tập thể bằng lựu đạn tại chiến trường. Sau đây là một số trường hợp điển hình thường được nhắc nhở trong các năm qua. Thiếu tướng Phạm Văn Phú : Sau cuộc rút quân tại Cao Nguyên hỗn loạn trở thành thảm họa, tướng Phú, Tư Lệnh Quân Khu II đã uống thuốc độc tự tử tại Sài Gòn. đó là vào ngày 29 tháng 4-1975. Thân nhân đưa vào nhà thương Grall để cấp cứu nhưng không kịp. Ông đã qua đời tại đây. 13 Trung sĩ I Quân Cảnh Trần Minh : Thuộc đại đội I Quân Cảnh đảm trách khu vực cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc 10 giờ sáng 30 tháng 4-1975, sau khi nghe Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, Trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Long, Cảnh Sát Quốc Gia : Sau khi nghe tin đầu hàng sáng 30 tháng 4-1975, Trung Tá Long, Cảnh Sát Quốc Gia đã đến đứng chào tượng Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn rồi rút súng tự sát. Báo chí ngoại quốc đã đăng hình của ông nằm ngay trước pho tượng. Hình chụp vào khoảng 12 giờ trưa 30 tháng 4-1975. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ : Khoảng 1 giờ trưa 30 tháng 4-1975, khi nghe lệnh đầu hàng, ông đã họp các sĩ quan tại Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê. Sau khi dùng cơm với anh em, ông lui vào phòng riêng dùng súng lục tự vẫn. Vợ và 4 con nhỏ của ông di tản qua Hoa Kỳ ngày 28 tháng 4-1975 đến hai tháng sau mới biết tin. Chuẩn tướng Trần Văn Hai : Chiều 30 tháng 4-1975 vị Tư Lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh đã uống thuốc độc tự tử tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho. Bà mẹ của tướng Hai đã đem xác con về chôn cất tại Nghĩa Trang Gò Vấp. Căn cứ Đồng Tâm là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 7 Bộ Binh. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng : Tư Lệnh Phó Quân đoàn 4 đã dùng súng tự sát tại Cần Thơ tối ngày 30 tháng 4- 1975. Lúc đó vợ và các con cũng có mặt cùng với các sĩ quan cận vệ thân tín. Tướng Hưng là vị tư lệnh nổi tiếng đã tử thủ tại trận An Lộc tỉnh Bình Long năm 1972. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam : Tư Lệnh Quân đoàn 4 đã dùng súng lục tự sát vào lúc 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5-1975. Ông là người đã sống một ngày dài nhất từ lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng sáng 30 tháng 4-1975 cho đến sáng 1 tháng 5-1975. Ngay sau khi có lệnh đầu hàng ông đã gặp các đại diện phía cộng sản hai lần khi họ vào Dinh Tư Lệnh tại Cần Thơ tiếp xúc nhưng cả hai lần đại diện phía cộng sản đều ra đi. Cũng trong chiều 30 tháng 4, tướng Nguyễn Khoa Nam đã đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản lần cuối cùng. Ông cử Đại Tá Thiên vào chức vụ Tỉnh Trưởng Cần Thơ thay cho người đã ra đi. Ông ra lệnh không được phá cầu Long An và chấm dứt giao tranh để bảo toàn tính mạng các binh sĩ và dân chúng. Trước khi quay vào phòng tự vẫn, sĩ quan tùy viên kể lại tướng Nam đã thắp nhang trên bàn thờ Phật, thỉnh chuông rồi đứng lên lan can tòa lầu nhìn xuống thành phố Cần Thơ lúc đó vắng lặng. Lúc đó vào sáng sớm ngày 1 tháng 5-1975. Vùng 4 chiến thuật gồm toàn thể miền Tây Nam Phần với 3 sư đoàn, Sư đoàn 21 (Bạc Liêu), Sư đoàn 9 (Sa đéc) và Sư đoàn 7 (Mỹ Tho) cùng với 16 tiểu khu. Cho đến ngày 30 tháng 4-1975 miền Tây vẫn còn gần như nguyên vẹn. Vị Tư Lệnh Quân đoàn vẫn liên lạc hàng ngày với các đơn vị gồm cả Hải Lục Không Quân thuộc Vùng 4. Toàn thể quân số chính quy và địa phương trên 200 ngàn quân đã tan hàng trong trật tự. Một số lớn hiện đã có mặt tại hải ngoại. Nếu tướng Nguyễn Khoa Nam tiếp tục chiến đấu có thể sẽ nhiều trận đẫm máu kéo dài thêm từ 3 đến 6 tháng. Cộng sản với quân số 20 sư đoàn cùng với kho vũ khí của miền Nam để lại sẽ trở thành một lực lượng quân sự mãnh liệt nhất Đông Nam Á. Toàn thể miền Tây sẽ trở thành cuộc chiến đau thương nhất trước khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Dứt khoát là Hoa Kỳ và thế giới tiếp tục quay mặt đi. Bao nhiêu người kể cả quân và dân hai phía sẽ chết thêm cho cuộc chiến bi thảm này. Với ba tiếng chuông thỉnh Phật. Vị tư lệnh vùng 4 đã theo gương tiền nhân Phan Thanh Giản dọn mình tự vẫn để chết thay cho hàng vạn sinh linh của sông Tiền sông Hậu vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Trong buổi sáng cuối cùng 1 tháng 5-1975, tướng Nguyễn Khoa Nam đã đứng trên lan can của Dinh Tư Lệnh cùng với hai sĩ quan tùy viên cấp úy. Con đường Phan Thanh Giản trước mắt trong buổi bình minh vắng lặng của thị xã Cần Thơ. Vị Tư lệnh vùng 4 trở thành cấp chỉ huy cuối cùng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã 14 đứng khóc. Nước mắt chan hòa làm hai sĩ quan tùy viên trung thành với ông thầy cũng khóc theo. Cái khung cảnh bi tráng tại Dinh Tư Lệnh vắng vẻ vào ngày đầu tháng 5-1975 của ba thầy trò Tư lệnh mới xúc động dường nào. Sau đó ông quay vào phòng tự sát bằng súng lục. Hành động vừa can trường vừa nhân đạo của tướng Nguyễn Khoa Nam đã nêu cao gương trách nhiệm uy dũng đồng thời cũng đã cứu cho sinh mạng của dân chúng và binh sĩ tại miền Tây không bị chết đau thương hỗn loạn như đã diễn ra tại Quân Khu I và Quân Khu II. Ngày 30 tháng 4-2005 ba mươi năm sau, trên bàn viết của tôi có một cái gạt tàn thuốc là bằng đồng vốn là đầu đạn đại bác được gò lại. đây là quà tặng của Pháo binh Quân đoàn 4 tặng cho vị Tư lệnh. Khi ông chết, đại úy Lê Quang Nghĩa thu dọn di vật đem về Sài Gòn. Ba mươi năm sau nhờ người đem tặng cho Viện Bảo Tàng tại San Jose. Đặt tay lên cái gạt tàn thuốc giá lạnh 30 năm không còn hơi ấm. Nghe như có tiếng chuông thỉnh Phật năm xưa. Cuộc chiến đã tàn từ lâu rồi mà sao lòng người vẫn còn lạnh giá. * Như đã ghi lại ở phần trên, khi chiến tranh chấm dứt, tại khắp nơi có nhiều anh hùng Việt Nam Cộng Hòa đã tự quyết định đời mình không chịu sa vào tay giặc. Tuy nhiên chúng tôi không thể ghi lại được đầy đủ. Nhân ngày 30 tháng 4 - xin thắp một nén hương lòng gửi về cho tất cả các anh hùng tử sĩ. Chúng ta còn sống đến ngày nay, hãy sống sao cho xứng đáng với những đồng đội đã chết vì 30 tháng 4. Giao Chỉ – San Jose __________________ Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bãy người con đã tự tử bằng súng lục. Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long Anh hùng Nguyễn Văn Long, trung tá Cảnh Sát Quốc Gia VNCH tuẫn tiết trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài TQLC đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên. Người sĩ quan Cảnh Sát này đã đến đứng chào bức tượng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà rồi rút súng bắn vào đầu tự tử thay vì để bị bắt. Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 trước Hạ Viện, dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến. Ông là người luôn tận tụy với công việc, cả đời lấy phương châm chí công vô tư và quan niệm Cảnh Sát là công bộc của dân. Có phải chăng Ông nằm xuống là tạ tội với dân tộc thay cho bọn "nửa người nửa ngợm nửa đười ươi" quyền cao chức trọng hưởng quá nhiều bổng lộc, thời bình thì hách dịch kiêu căng cậy quyền thế làm đủ chuyện xằng bậy nhưng đến khi quốc nạn thì học theo lủ chuột chui rút xuống cống rãnh chuồn ra ngoại quốc. Ông đã nằm xuống, "Anh ngã xuống giữa Sàigòn để lại không đủ họ tên, nhưng lịch sử nghìn năm sau vẩn nhớ Trung Tá Long". "Tổ quốc nghiêng mình tiển biệt một người con". The Seven Samurai in VietNam : Theo tài liệu 30-04 trong kho dữ liệu của hãng Thông tấn Nhật bản Kyodo về "Bảy Hiệp Sĩ Việt Nam ". Ngày 30-04-1975 là ngày đau thương vì QLVNCH bị bức tử, người lính bị bẻ gãy súng bởi chiến lược toàn cầu của 15 Mỹ thay đổị Bảy người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự khi tự kết liễu đời mình sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành vòng tròn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ chát chúa tiễn biệt họ ra đi vì danh dự. Sự tự sát tập thể của 9 quân nhân Nhảy Dù , theo lời tường thuật của anh Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Đình định cư ở Houston chứng kiến tại hiện trường sự tự sát tập thể của 9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đã xã súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất, đáng kính nhất của QLVNCH. CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI Qua hơn 4.000 năm dựng và giữ nước, lịch sử Việt Nam đã có không biết bao nhiêu là những bậc hùng anh dũng cảm, hiên ngang, kiên cường, bất khuất. Họ đã không tiếc xương máu của mình để tài bồi cho tổ quốc non sông ngày một hùng cường vững mạnh, đến nỗi giặc Bắc phương với 1.000 năm đô hộ, cuối cùng rồi cũng phải ngã đầu kinh sợ trước giống Lạc con Hồng. Hỏi ai trong chúng ta không có lần ngậm ngùi thương cảm và kính phục Trần Bình Trọng với câu : “Thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc”, hoặc một Võ Tánh, một Hoàng Diệu quyết chết theo thành để giữ tròn danh tiết mà mãi mãi ngàn đời cháu con vẫn hằng tưởng nhớ. Lại còn biết bao những anh hùng liệt nữ khác, mà sự trung trinh tiết liệt sáng ngời như Bắc Đẩu giữa trời Nam ! Những vị đó rất xứng đáng được lưu danh thiên cổ với câu “SINH VI TƯỚNG TỬ VI THẦN”, sống làm Tướng, chết được làm Thần. Nhưng không phải hễ ai được phong Tướng lúc sinh thời, rồi khi chết đều được thành Thần tất cả, mà còn phải xứng đáng là kẻ tài ba dũng lược với tấc lòng thiết thạch vì nước quên mình, hoặc không tham sống sợ chết, không đầu hàng quân giặc, không sống vinh thân phì da trên xương máu của người dân, và khi chết phải với “da ngựa bọc thây” ngoài chiến địa, hay tuẫn tiết theo thành, hoặc sừng sửng hiên ngang dẫu đầu rơi máu đổ nếu chẳng may thất trận thua binh bị bắt. Chứ không khiếp nhược đầu hàng quân giặc, không bỏ chạy khi quốc biến gia vong, hoặc không thể bị lụy thân vì tửu sắc như Lã Bố hay là chết vì sự nóng nảy hồ đồ, say sưa hung hãn như Trương Dực Đức đời Tam Quốc, và không phải chết nhục nhã nơi cửa ải mỹ nhân như rất nhiều những tướng quân Đông Tây kim cổ, mà vết nhơ còn để đến muôn đời ! ! Ôi lịch sử ô nhục của ngày 30-4-1975 vừa qua với lệnh đầu hàng của Đại Tướng Dương Văn Minh, đã làm cho toàn Quân Lực miền Nam Việt Nam phải đi vào tử địa, khiến kẻ bị bắt, người bị tù đày khốn khổ, hoặc chết thảm thương nơi bờ lũy bờ hào mà uất khí oan hồn còn vất vưởng nơi rừng cây nội cỏ. Có lẽ trong cõi vô hình họ đang căm hờn phẫn hận, nguyền rủa những kẻ mạt tướng bội vong dâng mảnh dư đồ cho Búa Liềm Cộng Sản ! Thế nhưng, bên cạnh đó, cũng còn có những tướng lãnh anh hùng, mà dòng máu của Trần Bình Trọng, Hoàng Diệu… vẫn còn luân lưu trong huyết quản, nên những vị đó đã tự sát giữa cơ binh, hoặc trong doanh trại… mà đền ơn Tổ Quốc. Đáng kính phục thay ! Những anh hùng vị quốc vong thân ! Dù đã chết mà anh linh còn đó, hòa nhập với hồn của núi sông, muôn đời và mãi mãi làm một vị “THẦN” của dân tộc Rồng Tiên. Đó là Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ… mà ở đây, chúng tôi muốn đặc biệt nói về cái chết của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai – một chiến sĩ Biệt Động Quân (BĐQ) trong hàng chục năm dài – và cũng là một Chỉ Huy Trưởng thanh liêm trong sạch nhưng đầy vẻ hào hùng tự trọng, gan dạ và quả cảm của Binh Chủng Mũ Nâu, khiến mỗi khi nhắc đến, không phải chỉ có đa số Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan trong đại gia đình Binh Chủng ngưỡng phục, mà đến cả hàng Binh Sĩ cũng kính trọng vô vàn. Chẳng những thế mà người dân ở Tỉnh Phú Yên, các chiến sĩ trong Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia, các cấp chỉ huy cho đến tân binh thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn (Dục Mỹ), và sau cùng là chiến hữu các cấp của Sư Đoàn 7 Bộ Binh, cũng đều mến mộ tiếc thương cho một anh hùng khi ngã ngựa – mà ngã ngựa trong vinh dự của một Tướng lãnh thà tự sát chết đi, còn hơn đầu hàng những kẻ “chăn vịt đội nón tai bèo”. Theo người thân kể lại thì Chuẩn Tướng Trần Văn Hai sinh tại Cần Thơ năm 1926 (tuổi Bính Dần), xuất thân là nhân viên Công An thời Pháp thuộc, sau đó theo học Khóa 7 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt… rồi với 16 các cấp bậc Thiếu Úy, Trung Úy, Đại Úy, ông đã phục vụ một cách đắc lực cho Quân Đội Việt Nam từ lúc phôi thai cho đến mãi về sau này, và cũng từng được đưa đi đào tạo tại Mỹ Quốc… Ở cấp bậc Đại Úy, Trần Văn Hai là một trong những người đầu tiên thành lập Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ vào ngày 1-8-1961, và cũng là người khai sáng ra các lớp Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy và Hành Quân Viễn Thám – mà hễ ai từng được tham dự khóa này cũng đều công nhận câu “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” là đúng. Hình ảnh một Đại Úy Trần Văn Hai giữa trưa hè nắng gắt, quần trận, giày sô, áo thun màu cứt ngựa, chỉ huy xe ủi đất hùn hụt suốt ngày đêm làm bằng phẳng cả khu vực của Trung Tâm Huấn Luyện, xẻ đường ngang lối dọc một cách vất vả, mồ hôi nhễ nhại cho kỳ đạt được sự khang trang đẹp mắt mới thôi. Sự hăng hái làm việc của ông trong giai đoạn này, được các Cố Vấn Mỹ thời đó, vừa mến phục vừa thân thương đặt cho danh hiệu là “Hai Highway”, ngụ ý khen tặng cái khả năng hiếm có của ông, mặc dù với phương tiện thô sơ kém cỏi, mà chỉ trong một thời gian kỷ lục, ông đã hoàn tất sự xây dựng rất khó nhọc cho Trung Tâm một cách tuyệt hảo như những kỹ sư xây dựng xa lộ cao tốc vậy. Đồng thời cũng để nêu cao sự tận tụy của một Sĩ Quan mang cấp Đại Úy, mà Đại Úy của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở thời điểm năm 1961 thường có thể giữ những chức vụ khá cao trọng như : Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Tỉnh Trưởng.. vv… trái lại đàng này, ông chỉ làm cái công việc chỉ huy xe ủi đất rất tầm thường và khiêm tốn, nhưng không hề bất mãn hay bỏ bê nhiệm vụ. Rồi cũng với hình ảnh một Đại Úy Trần Văn Hai giữa cái gió cát từng cơn hắt vào da thịt, vẫn giày sô, quần trận, áo thun màu cứt ngựa chuyên tâm lo huấn luyện lớp Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy..vv… mà cái cực nhọc của những lớp học này nói sao cho hết. Từ Cán Bộ Huấn Luyện Viên cho đến Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan khóa sinh, và chính ông là người chịu trách nhiệm Trưởng Lớp huấn luyện trực tiếp… đều cùng chung gian khổ với nhau. Đằng đẳng nhiều năm dài như vậy, ông không nề nguy hiểm gian lao đem hết khả năng đào luyện những cán bộ nồng cốt, cho hầu hết các đơn vị Bộ Binh Quân Lực VNCH. Nếu ai đã từng học qua một lớp Căn Bản Biệt Động Quân, hoặc lớp Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy, hay lớp Hành Quân Viễn Thám ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, chắc cũng cho những điều nêu trên là đúng, mà Đại Úy Trần Văn Hai đã trực tiếp chịu trách nhiệm thực thi, hết lớp học này đến lớp học khác, đạt mức thành công theo tiêu chuẩn đòi hỏi của Bộ Tổng Tham Mưu. Điều đáng nói thêm về ông ở đây, là ngoài việc theo dõi một cách kỹ lưỡng từng môn học, bận bịu suốt cả ngày đêm mà cuốn sách tự học trên tay không lúc nào thiếu vắng nơi ông. Có lần ông tâm sự : “Con đường binh nghiệp của chúng ta hãy còn dài, cấp bậc của chúng ta hiện giờ tuy còn nhỏ, nhưng lần lần sẽ được nâng cao hơn. Nếu bây giờ chúng ta tự mãn với hiện tại, không cầu tiến, không lo học hỏi trau dồi thêm sinh ngữ, đọc nhiều về binh thư binh thuyết, một mai cấp trên giao vào tay ta cả Đại đơn vị thì làm sao chu toàn được nhiệm vụ”. Lời tâm sự đó, có lẽ là để tự rèn luyện cho bản thân ông chuẩn bị một ngày nhận lấy chức vị Tướng Lãnh về sau này, và cũng để khuyên nhủ các thuộc cấp phải trau dồi thêm tinh thần đó nữa. Đáng trân trọng thay ! Lời nói tuy bình dị, không ẩn chứa một triết thuyết nào cao diệu, nhưng cũng là lời : “Nói Được Làm Được” của chính bản thân ông – đã minh chứng rõ ràng về sau này. Thế rồi ông được thăng cấp Thiếu Tá, và được bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên (Tuy Hòa). Thời gian này ông đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một các đầy đủ, được DânQuân-Cán-Chính địa phương mến phục. Ông cũng đã đem lại một thắng lợi chói ngời cho Tỉnh nhà qua trận chiến tại vùng biển Vũng Rô, tịch thu hầu hết những khối lượng vũ khí đáng kể của Cộng nô. Bởi vì chúng đã xâm nhập bằng hải lộ từ miền Bắc, lén lút đưa vào cất giấu ở địa điểm hiểm trở này, để mong thiết lập một kho vũ khí tiếp liệu, ngỏ hầu trang bị cho các cán binh của chúng đánh phá miền Nam. Chính Thiếu Tá Trần Văn Hai đã phối hợp với các đơn vị quân sự trong vùng bẻ gãy hoàn toàn những kế hoạch về người, cũng như về trang cụ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở địa phương này, khiến từ đấy về sau “Mật Khu Vũng Rô” nằm dưới chân Đèo Cả (Tuy Hòa) đã bị vô hiệu hóa. Có một giai thoại xảy ra khi ông còn làm Tỉnh Trưởng Phú Yên mà không biết nên cười hay khóc, hoặc cảm thương cho cái tính thẳng thắn chống lại sự “dĩ công vi tư” của ông, mà phải đột nhiên giã từ chức vụ đang làm. Đó là có một vị Tướng Lãnh cao cấp trên quyền ông, mà bà vợ của y cũng thuộc vào hàng có đôi chút nhan sắc và tiếng tăm trong giới nghệ sĩ Sàigòn thời đó, bà ta nổi hứng thế nào không biết, hoặc có một công việc riêng tư nào chẳng hiểu, đi phi cơ ghé lại qua đêm ở Tuy Hòa. 17 Lệnh từ trên đưa xuống cho Tỉnh Trưởng nơi đây phải đem xe ra đón, và chuẩn bị một chỗ nghỉ ngơi cho “Lệnh Bà” trong Dinh Tỉnh Trưởng. Nhận lệnh thì phải thi hành, nhưng thay vì đem công xa ra đón, ông đã mướn một chiếc xe du lịch của tư nhân thế vào, và thay vì phải dọn một “biệt phòng” dành cho yếu nhân ngủ lại trong Dinh Tỉnh Trưởng, thì ông thuê khách sạn cho Bà Tướng qua đêm, đương nhiên là có đầy đủ tiện nghi và an ninh cẩn mật. Việc làm của ông xét ra thì rất đúng với đạo của cấp dưới, vừa tránh miệng tiếng dèm pha không tốt cho ông Tướng khỏi mang danh chiếm dụng của công, và ngay cả bản thân mình nữa. Đồng thời cũng để cho “Lệnh Bà” thoải mái nghỉ ngơi dạo phố ngắm cảnh, hơn là ngủ ở “Biệt phòng” có lính túc trực canh gác mất tự nhiên. Ý nghĩ của ông rất tốt đẹp và chu đáo, tiếng lành được dân chúng địa phương khen tặng. Còn vị Tướng cao cấp kia thì sao ? Và không biết “Lệnh Bà” nói thế nào, mà trong vài ngày sau vị Tướng kia lại đích thân bay đến Tuy Hòa, ngồi trên phi cơ gọi Tỉnh Trưởng ra trình diện. Quả thật ! Đúng là phong cách của một vị Tướng Lãnh cao cấp có khác ? ! Khi ông gặp vị Tướng đó ở phi cơ, sau cái chào tay cứng người theo quân kỷ, ông được vị Tướng “ban lệnh” với nội dung chê trách ông, nào là ngồi đầu Tỉnh mà để cho Việt Cộng xâm nhập quá nhiều ở địa phương, không làm tròn trách nhiệm đem lại an ninh cho dân chúng và… cần phải thay thế người khác !? Ông khiêm tốn trả lời trước khi quay về nhiệm sở để chuẩn bị bàn giao cho người khác thay thế. : – Xin tuân lệnh ! và nếu ai cũng lo cho dân như Thiếu tướng, thì “Đất nước ta rồi đây sẽ khá !” Về sau, các vị bô lão và Dân-Quân-Cán-Chính của Tỉnh lỵ này – thường hay kể cho nhau nghe về câu chuyện “Đất nước ta rồi đây sẽ khá” của ông, coi như một bài học để đời. Bởi vì đất Tuy Hòa trong suốt thời gian ông làm Tỉnh Trưởng được tiếng là bình yên, giặc Cộng ít khi dám bén mảng đến, thế mà cấp trên lại lấy lý do bất an ninh để thay thế, chỉ vì ông dám coi rẻ “Lệnh Bà”… Câu chuyện của người dân Tuy Hòa kể lại đúng sai thế nào, nếu những kẻ hậu sinh về sau này muốn tìm hiểu thêm một đôi chút bề trái của sự việc, thì có thể tìm đọc về cái chết dũng cảm của Tướng Trần Văn Hai, mà nhiều sách báo từ sau ngày 30-4-1975 của những người Việt di tản viết ra, hoặc của một vài cây bút ngoại quốc tường thuật lại, thì cũng tự đánh giá được về ông. Còn vị Tướng Lãnh kia, nghe đâu trước ngày 30-4-1975 đã trốn chạy ra nước ngoài “có lẽ là mưu cầu một kế sách nào đó, tái phản công cứu nguy cho dân tộc hay không thì không biết ?” chỉ nghe người ta nói ông ta không có tên trong danh sách các vị “Sinh Vi Tướng Tử Vi Thần” như những Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.. vv… và đang tiếp tục sống cuộc sống lưu vong nơi xứ lạ quê người, để ôn lại quãng đời làm Tướng… “nhưng chết không được làm Thần”…. của ông. Mất nhiệm vụ Tỉnh Trưởng Phú Yên một ít lâu, và với cấp bậc Trung Tá, Trần Văn Hai lại được bổ nhiệm về Binh Chủng cũ với chức vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương. Ở cương vị này, ông càng biểu lộ thêm về ý chí và tài cán của mình một cách khéo léo năng động, mặc dù chức vụ chỉ thuần túy về Hành Chánh, Tham Mưu và Tuyển Mộ các binh sĩ Biệt Động Quân cho các Liên Đoàn, Tiểu Đoàn tác chiến trực thuộc mà thôi. Còn quyền điều động và chỉ huy các “đứa con” của mình đánh giặc thì không có. Bởi vì các đơn vị BĐQ tác chiến này chỉ có nhiệm vụ là “tăng phái” cho các Sư Đoàn Bộ binh, hoặc các đơn vị hành quân tác chiến khác theo lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH lúc bấy giờ. Mang tiếng là Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng, nhưng chỉ biết nhìn các “đứa con” ruột thịt thân yêu của mình, lần lượt đặt dưới quyền của các vị Tư Lệnh chiến trường này đến các vị Tư Lệnh chiến trường khác, rồi tha hồ cho các vị ấy bóp méo vo tròn, hay ho gì cũng chỉ là thân phận của những đứa “con ghẻ” không hơn không kém. Ấy thế mà lòng thương đồng đội, yêu mến kẻ dưới quyền – nhất là hàng binh sĩ phải ngày đêm gian khổ xông pha vào các chiến trường dầu sôi lửa bỏng – đã thôi thúc ông luôn tìm các hổ trợ và an ủi họ. Ông đã đi thăm viếng hết các đơn vị BĐQ tác chiến này, đến các đơn vị khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật, hầu như ít khi ngừng nghỉ… mà nổi bật nhất và cảm động nhất là hai sự kiện sáng chói : đó là nhảy vào vùng bão lửa của Mặt Trận Khe Sanh, và cùng chiến đấu với các Tiểu Đoàn BĐQ trong hai lần Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của giặc Cộng vào thủ phủ Sàigòn-Chợ Lớn. 1.- Nhảy vào Khe Sanh : Nói đến Khe Sanh, với một căn cứ quân sự nằm sâu trong vùng rừng núi hiểm trở miền Trung Việt Nam sát ranh giới Hạ Lào, mà bất cứ một quân nhân nào nghe qua cũng đều rùng mình hãi sợ. Bởi vì nó chính là một vùng thung lũng nhỏ, chung quanh toàn là núi rừng san sát đầy vẻ lam sơn chướng khí, đường bộ đi vào không có chỉ dùng đường hàng không duy nhất mà thôi. 18 Người ta còn nhớ các địa danh Khe Sanh, Lao Bảo, Đường 9 Nam Lào của Vùng I Chiến Thuật thời đó, đã diễn ra không biết bao nhiêu là những trận đánh kinh hồn giữa ta và giặc Cộng, mà các báo chí trên toàn thế giới đã nhiều lần nhắc đến. Trong đó, trận chiến Khe Sanh hầu như nổi tiếng hơn hết, vì là nơi thử lửa của một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) tinh nhuệ của Hoa Kỳ và hàng mấy Sư Đoàn của Cộng Sản Bắc Việt đang vây hãm bên ngoài. Mà điểm đáng nói ở đây là có một Tiểu Đoàn BĐQ + 01 Đại Đội BĐQ được tăng phái cho Khe Sanh, đó là Tiểu Đoàn 37 BĐQ và 01 Đại Đội của Tiểu Đoàn 21 BĐQ do Thiếu Tá Hoàng Phổ chỉ huy – một trong những Tiểu Đoàn và Đại Đội con cưng của Binh Chủng – đã khiến cho Trung Tá Trần Văn Hai, người anh đầu đàn BĐQ ở Bộ Chỉ Huy Trung Ương tại Sàigòn ăn ngủ không yên. Thật vậy, làm sao ăn ngủ cho yên được, khi Binh Chủng của mình đang có một bộ phận quan trọng bị vây hãm sống còn nơi chốn đèo heo hút gió, khó khăn về sự tiếp vận và tiếp liệu này. Đến nổi các báo chí Tây phương đã có lần ví von “nơi đây là một Điện Biên Phủ thứ hai”, nhưng kẻ bị vây là Lữ Đoàn TQLC Mỹ và một Tiểu Đoàn BĐQ (+), chứ không phải là các đơn vị “Phú Lang Sa” đô hộ trước kia. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại của giặc Cộng cứ thi nhau mỗi ngày rót vào căn cứ, với quyết tâm san bằng nơi đây làm cho TQLC Mỹ và BĐQ Việt Nam phải khiếp sợ đầu hàng. Nhưng không, họ đã lầm ! vì với sự thiện chiến và tinh thần chiến đấu can trường của hai đơn vị Việt-Mỹ này, đã thừa sức bẻ gãy ý đồ của bọn chúng ! Có điều là người lính TQLC Hoa Kỳ và nhất là người lính BĐQ Việt Nam phải chịu 70 ngày đêm gian khổ, ăn ngủ đi lại đều ở dưới hầm sâu bằng các địa đạo chi chít thông thương với nhau, mà sự tử sanh chỉ nằm trong gang tấc. Lính TQLC Hoa Kỳ giàu có, đương nhiên là đỡ khổ hơn vì với phương tiện tiếp tế dồi dào của họ, chỉ tội cho người lính BĐQ Việt Nam nhà nghèo càng lâm vào hoàn cảnh bi đát nhiều hơn. Phát xuất từ lòng yêu thương đó, Trung Tá Trần Văn Hai đã xin phép Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH để bay ra Vùng I Chiến Thuật ở Đà Nẵng, rồi tìm cách tháp tùng theo một chiếc phi cơ C.123 tiếp tế của Hoa Kỳ đáp xuống Khe Sanh, mục đích là để thăm viếng, an ủi cũng như nâng cao tinh thần chiến đấu của những người lính Mũ Nâu dũng cảm thân yêu – tức Tiểu Đoàn 37 BĐQ (+) như đã nói trên Đi theo ông vỏn vẹn chỉ có 2 Sĩ Quan Tham Mưu trong Bộ Chỉ Huy BĐQ, đó là Đại Úy Trần Đình Đàng đại diện cho Phòng 1, và Thiếu Tá Ngô Minh Hồng đại diện Phòng 3. Hành trình khi đáp xuống Khe Sanh thật muôn vàn nguy hiểm, sự sống chết cũng ở trong lằn ranh chớp nhoáng. Bởi vì Việt Cộng đã vây chặt nơi đây, và hễ có bất cứ một loại phi cơ nào xuất hiện xa xa trên bầu trời, là “pháo bầy” của giặc Cộng được tăng cường nện xối xả vào căn cứ này, chưa nói là lúc phi cơ đáp xuống mặt phi đạo thì sự pháo kích càng ghê khiếp nhiều hơn. Chiếc C.123 chở 3 thầy trò Trần Văn Hai cũng không thoát khỏi thông lệ. Khi bánh xe của phi cơ vừa chạm mặt phi đạo, là mọi người bên trong đã ở vào tư thế sẵn sàng, và khi cửa sau phi cơ được mở ra, phải lập tức nhảy xuống rồi lăn mình trên mặt đất cho đến khi rơi vào các giao thông hào cặp theo hai bên phi đạo. Có làm như vậy một cách nhanh nhẹn thì mới tránh được mảnh đạn pháo và kể cả đạn bắn thẳng nữa. Còn chiếc phi cơ cứ theo đà lăn bánh đến cuối phi đạo rồi quay đầu lại cất cánh, người thì cứ tiếp tục nhảy ra lăn xuống giao thông hào, đồ tiếp liệu cũng được đạp nhầu xuống hai bên thân phi cơ. Khi phi cơ quay đầu lại là lúc những kẻ bị thương nhẹ chạy ùa vào, họ phải mang theo những băng ca chứa người bị thương nặng tống đại vào bên trong cho kịp đà phi cơ cất cánh bay về. Trong hai ngày đêm giữa cái ốc đảo đầy máu lửa đạn bay đó, ông đã đi thăm từng Trung Đội BĐQ của Tiểu Đoàn 37 và một Đại Đội của Tiểu Đoàn 21BĐQ, mà nếu muốn từ Trung Đội này sang Trung Đội kia, thì phải khom lưng cúi đầu chạy lúp xúp trong giao thông hào, dưới lằn hỏa lực yểm trợ của các Trung Đội khác bắn ào ạt vào rừng để đánh lạc hướng địch quân. Bởi vì địa điểm đóng quân của Tiểu Đoàn 37 lại nằm nơi “tiền đồn tuyến đầu” của căn cứ Khe Sanh, nên sự đi lại giao thông giữa các Trung Đội mới gian truân dường ấy ! Ôi cao quý thay ! với tấm lòng yêu thương binh sĩ một cách thân thiết, đã thúc đẩy ông lăn thân vào vùng nguy hiểm nói trên, chứ ông không có môt trách nhiệm nào trong trận Khe Sanh này cả. Nếu có thương Tiểu Đoàn 37 BĐQ, và với tư thế của ông lúc bấy giờ, chỉ cần ở Phòng Hành Quân Bộ Chỉ Huy BĐQ Trung Ương Sàigòn mà theo dõi thì cũng được. Hoặc muốn chứng tỏ sự quan tâm của mình hơn, cứ bay ra Đà Nẵng rồi vào Trung Tâm Hành Quân của Quân Đoàn I mà theo dõi trận đánh cho xác thực rõ ràng, cũng đáng để cho đàn em trong Binh Chủng ca ngợi lắm rồi ! Đằng này ông lại đích thân lăn vào tử địa để nhìn mặt từng người lính, an ủi và khích động lòng can đảm của họ, cùng chịu chung với cái rét lạnh của sương mù giá buốt, chia mặn xẻ nồng với binh sĩ từng bữa cơm đạm bạc thiếu thốn, ăn bốc ăn hốt, ăn vội vàng bên cạnh chiến hào dưới từng cơn mưa pháo, quả thật là chưa có một vị chỉ huy “cao cấp” nào xứng đáng hơn được. 19 Nếu một Ngô Khởi đời Chiến Quốc, đã kê miệng hút mũ nơi bàn chân “sưng tấy” của một tên lính dưới quyền để biểu lộ lòng thương kẻ thuộc hạ, xét ra thì cũng chỉ để mua lòng người phục vụ dưới tay sống chết vì mình, chứ không mang một ý nghĩa đậm tình thương lính như con, mà người xưa thường hay răn dè các bậc Tướng quân. Ngay như mẹ của tên lính đó ở quê nhà nghe được, cũng đã biết cái dụng ý của Ngô Khởi một cách rõ ràng, bà khóc nói với người hàng xóm : “Thôi rồi, từ đây tôi sẽ không bao giờ gặp lại đứa con thân yêu này được nữa !”. Và, với sự ngạc nhiên của người hàng xóm, bà kể lể tiếp : “Nó sẽ cảm cái ơn vì nó mà hút máu mũ nơi chân, ắt phải liều thân khuyển mã mà đáp đền !”. Quả thật, chỉ một thời gian sau, tên lính đó đã dũng cảm hy sinh đỡ mũi giáo cho Tướng quân Ngô Khởi mà bỏ xác ở chiến trường ! Hay như Tào Tháo đời Tam Quốc đã chôn cất, cúng bái, tế tự Điển Vi – kẻ hộ vệ đã hy sinh vì ông ta mà tử trận – cũng là nhằm mua chuộc những tên hộ vệ khác hết lòng phục vụ cho mình mà thôi. Vẫn có ý đồ giả trá ở bên trong, và cũng chẳng che mắt được ai. Còn hành động của Trung Tá Trần Văn Hai, lăn mình vào vạn lần nguy hiểm với Tiểu Đoàn 37 BĐQ thì lại khác. Bối cảnh chiến trường, địa vị từng cá nhân trong vai trò chỉ huy, mà nhất là ở mặt trận Khe Sanh này, đâu có giống thời đại xa xưa như đã kể, cho nên ý đồ giả trá của ông tuyệt nhiên là không có, mà chỉ thuần là một tấm lòng biết thương đồng đội, biết làm tròn câu “huynh đệ chi binh” một cách đáng khâm phục hơn người. Sở dĩ đưa hình ảnh Ngô Khởi, Tào Tháo ra đây, để thấy cái “điếm lận” và cái “chân tình” của kẻ làm Tướng. Hẳn nhiên với những chức vị như Đại Nguyên Nhung của Ngô Khởi và chức vị Thừa Tướng lấn át quyền Thiên Tử như Tào Tháo, thì chức vị Chỉ Huy Trưởng một Binh Chủng nhỏ nhoi của Trần Văn Hai nào đâu sánh được. Nhưng tinh thần và lòng dạ thương kẻ thuộc quyền một cách chân thành và vô vị lợi ở ông, lại có phần trội hẳn hơn lên. 2.- Hai Trận Công Kích Tết Mậu Thân : Nhắc đến Tết Mậu Thân (1968), chắc hẳn người dân miền Nam Viêt Nam đã từng sống trong thời điểm đó, khi nghe qua không khỏi ngậm ngùi thương nhớ đến những người thân đã mất do Việt Cộng tàn sát. Hay chính họ đã từng mục kích những trận ác chiến kinh hồn, của quân dân miền Nam Viêt Nam đập tan mộng cuồng ngông của giặc Cộng hồi lúc bấy giờ. Chính bọn độc tài Đảng trị miền Bắc đã xua hàng trăm ngàn những con thiêu thân, gồm toàn những thiếu niên mặt còn non choẹt vào bỏ xác tại miền Nam VN. Tội ác của bọn chúng với mồ chôn tập thể tại Huế, với sự đổ nát hoang tàn máu loang thây ngã của bao nhiêu những dân lành vô tội, cùng những thành phố phải chìm ngập trong cái mịt mù khói lửa đạn bay giữa ngày Tết thiêng liêng của dân tộc, đã khiến cho Thế Giới Tự Do hết lòng căm phẫn và lên án. Ở đây, chúng tôi muốn nhắc đến hai trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của giặc Cộng vào Sàigòn-Chợ Lớn, một mặt trận gay go và máu lửa nhất, mà trong đó có công lao không nhỏ của một số các Tiểu Đoàn BĐQ và Đại Tá Trần Văn Hai, đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang cho Binh Chủng Mũ Nâu.
Muốn nói gì thì nói, nhưng hiển nhiên là trong cái hỗn loạn quân tình của miền Nam VN lúc đó, với hơn phân nửa quân số của toàn Quân Lực đang nghỉ phép Tết, mà trận đánh lại diễn ra bên cạnh Bộ Chỉ Huy đầu não của BĐQ, thì hình ảnh của Đại Tá Trần Văn Hai gan dạ xông xáo, vẫn là cái “xương sống” cho các đơn vị BĐQ noi theo trong nhiệm vụ giành lại từng góc đường khu phố, và từng căn nhà do Việt Cộng chiếm giữ. Ông đã có mặt từ Tiểu Đoàn BĐQ này đến Tiểu Đoàn BĐQ khác trong tư thế một mất một còn với giặc Cộng, để thị sát mặt trận và chỉ thị cho thuộc cấp những mệnh lệnh kịp thời, cũng như nâng cao tinh thần chiến đấu của họ. Các đơn vị BĐQ này, lúc đó đặt dưới quyền hành quân của các cấp chỉ huy khác trong tư thế tăng phái, nhưng dù cho đặt dưới quyền chỉ huy của bất cứ một tướng lãnh tài ba nào đi nữa, mà nếu không có đích thân vị “anh cả” trong Binh Chủng đốc thúc ngay tại mặt trận trực chiến, thì xác xuất chiến thắng tuy có thành công, nhưng không nhanh chóng và lừng lẫy cho bằng. Tâm lý các chiến sĩ ngoài chiến trường là thế, trước mặt đơn vị trưởng tối cao của Binh Chủng mình, thì sự chiến đấu gan dạ chắc chắn sẽ được khích động nhiều, hơn là trước mặt một đơn vị trưởng tối cao khác mà mình tăng phái tới. Bởi vì nếu mình có hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc đi chăng nữa, thì sự đề bạt của “cha ghẻ” vẫn có phần hạn hẹp hơn “cha ruột” của mình ! 20 Đó là một trong những lý do chính yếu, mà các đơn vị BĐQ trong hai trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của giặc Cộng, đã giành được nhiều chiến thắng lẫy lừng – bởi chính Đại Tá Trần Văn Hai, vị anh cả thân thương của họ thường xuyên có mặt ngay bên cạnh. Riêng trong trận Mậu Thân đợt II, có một sự việc đau lòng xảy ra, tưởng cũng xin sơ lược một vài nét ra đây, để quý độc giả hiểu thêm một chút của vấn đề. Chúng tôi không nhớ rõ chi tiết về ngày tháng, nhưng biết chắc vào thời điểm Mậu Thân II. Có một chiếc trực thăng võ trang của Quân đội Hoa Kỳ bay từ hướng chợ Kim Biên phía nhà máy Xà Bông Cô Ba bắn Rocket lầm vào mục tiêu là trường Tiểu học Phước Đức ở Quận 5 Chợ Lớn, trong đó có Bộ Chỉ Huy Phản Công của phe ta đang họp để hoạch định phương cách tìm và tiêu diệt bọn cán binh Cộng Sản, vì chúng đang còn lẩn khuất trong các khu phố tại vùng này. Kết quả là Đại Tá Đào Bá Phước Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 5 BĐQ, Trung Tá Lê Ngọc Trụ Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 5, ông Phó Quốc Chụ thuộc Nha Thương Cảng Đô Thành vv… đều bị tử thương, mà Đại Tá Trần Văn Hai đang trên đường đi đến nơi để họp Nếu Đại Tá Hai tới sớm hơn vài ba phút, thì chính ông cũng đã phải làm mồi cho Rocket của Mỹ tại ngôi trường có tên là Phước Đức, mà lại kém phước đức kia rồi. Được biết trên đường di chuyển từ Bộ Chỉ Huy BĐQ Trung Ương ở Sàigòn vào trường Phước Đức để hội họp, xe Jeep của Đại Tá Hai đã nhiều lần bị trở ngại vì dân chúng chạy hỗn loạn từ Chợ Lớn ra Sàigòn lánh nạn làm gián đoạn giao thông. Thật “Phước Đức” chỉ có riêng mình ông hưởng mà thôi ! Theo tin điều tra sơ khởi thì đây là một vụ bắn lầm của trực thăng võ trang của Hoa Kỳ, vì chiến đấu trong thành phố tầm đạn đạo khó lòng điều khiển một cách chính xác được, nhất là khi bắn : trực thăng phải chúi đầu bấm nút nhả đạn. Đồng thời cũng có tin đồn, đây là một vụ thanh toán lẫn nhau giữa các phe phái trong hàng tướng lãnh cao cấp lúc bấy giờ (?). Việc này hiện nay vẫn còn chưa có tài liệu công bố rõ ràng, nên chúng tôi xin dừng sự việc ở đây, để nhường lại cho hồi ký của những nguời trong cuộc kể lại về sau, chỉ nhấn mạnh ở lý do vì sao Đại Tá Trần Văn Hai thoát chết mà thôi. Phải chăng xe của ông bị cản trở một cách bất khả kháng trên đường đến trường Phước Đức – khiến ông không bỏ xác dưới đạn Rocket – là Thượng Đế muốn dành cho ông một cái chết anh hùng hơn, tỏ rõ chí khí hơn ở 7 năm sau này ? Và các chữ “SINH VI TƯỚNG TỬ VI THẦN”, nếu có dành cho ông cũng như các vị Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ… mới đúng cái nghĩa khí của nó hơn, và cũng được lòng người kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ nhiều hơn ! Hoặc phải chăng lịch sử còn muốn dành cho ông, về sau này nói lên tiếng nói trung thực và đáng để đời khi ông làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, trong một buổi tuyên bố trên Đài Truyền Hình Sàigòn một cách thẳng thừng rằng : “Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ phản chiến đang được nhiều người ái mộ kia, chính là Cộng Sản nằm vùng, là kẻ đâm sau lưng chiến sĩ”, mà đáng tiếc thay thời đó người ta chưa nhận diện ra được, cho mãi đến sau ngày 30-4-1975, người dân miền Nam mới thấy lộ rõ nguyên hình. Hay phải chăng… trong lúc thanh sát các Tiểu Đoàn BĐQ tại tuyến đối đầu trong các trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của giặc Cộng, ông đã ra nghiêm lệnh cấm triệt để quân nhân các cấp trong Binh Chủng không được “thừa nước đục thả câu” như : hà hiếp dân lành đang chạy loạn, hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến đấu giành lại từng khu phố từng căn nhà cho dân mà “hôi của”, lén lấy vàng bạc tư trang bỏ túi riêng, hoặc làm nhiều điều khuất tất vô kỷ luật khác. Điển hình nhất là sau mỗi lần diệt xong các “chốt” của địch quân, ông đều bắt lục soát tại chỗ từ trong người cho đến ba lô của Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ tham dự ngay lúc đó để bảo toàn tối đa tài sản của người dân… đã làm cảm động lòng người cho đến quỉ thần chăng ? mà có được cái “phước đức” tràn đầy cứu mạng cho mình cũng chưa biết chừng !? Người xưa thường nói, nếu lòng người thẳng ngay chính trực thì trời đất luôn phò trì cứu đỡ, thần quỉ cũng phải nễ vì, có lẽ đem áp dụng vào trận thoát chết này của ông cũng không phải là không có nguyên do. Nhưng điều mà mọi quân nhân trong Bộ Chỉ Huy BĐQ Trung ương phải công nhận, là do tấm lòng trong sạch cùng sự mẫn cán của ông trong lúc thi hành nhiệm vụ, đã được Phó Tổng Thống Trần Văn Hương chú ý. Cho nên sau khi dẹp yên giặc Cộng trong Tết Mậu Thân đợt II, ông được bổ nhiệm cấp tốc sang làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, mà chính ông và cả Bộ Chỉ Huy BĐQ Trung ương cũng không ai có thể ngờ tới được. Bởi vì Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia luôn là một chức vị vô cùng quan trọng trong chế độ, và phải là người tuyệt đối được tin tưởng mới cất nhắc vào chức vụ này. Nhiều người thấy ông họ “Trần Văn” lại sinh trưởng ở miền Tây Nam Việt và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cũng thế, cho nên ngộ nhận Trần Văn Hai là con cháu hoặc có dây mơ rễ má trong hàng bà con với Trần Văn Hương, mà được đưa vào chức vụ béo bổ này ! 21 Sự thật thì không phải, giữa ông và Phó Tổng Thống không hề có một sợi dây hệ tộc nào, chỉ là sự trùng họ không hơn không kém. Chính ông cũng đã xác nhận nhiều lần với những người thuộc quyền thân cận như vậy. Nói đến Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thì không ai có thể phủ nhận được ông ta là một người trong sạch, và quốc dân đồng bào cũng đã tán đồng với Chính phủ khi chọn mặt gởi vàng, phó thác trách vụ thủ lĩnh thành trì diệt tham nhũng trong thời Đệ II Cộng Hòa vào tay “ông già gân” này nắm giữ. Việc Phó Tổng Thống cất nhắc bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Hai vào chức vị Tổng Giám Đốc như đã nói trên, có lẽ có dụng ý qua hai điều hợp lý sau đây : - Một là Lực Lượng Công An Cảnh Sát Quốc Gia – công cụ chính của chế độ trong việc kiểm soát, duy trì an ninh trật tự cho dân chúng – phải cần người có đức liêm chính, có tài chỉ huy và nhất là sự cương quyết bênh vực công lý và lẽ phải, thì mới giúp cho chế độ thu phục được lòng dân. - Hai là tình hình sau các trận Tết Mậu Thân, sự tang hoang của nhiều thành phố cần phải được xây dựng lại, và sự cảm nhận về Chánh Thể Cộng Hòa trong lòng người dân rất cần được củng cố tối đa. Nếu một hành động hà hiếp nhũng lạm nào của bất cứ ai, bất kỳ ở nơi đâu nhất là của những nhân viên Công An Cảnh Sát Quốc Gia xảy ra, cũng đều gây bất lợi không nhỏ cho chế độ va làm bia cho sự tuyên truyền của đối phương. Bởi thế việc bổ dụng Đại Tá Trần Văn Hai vào chức vụ này, trong thời điểm này, có thể yên lòng rất nhiều cho Chính Phủ, cũng như nâng cao thêm ý chí chiến đấu dũng cảm, và tinh thần hy sinh cao độ của người chiến sĩ Công An Cảnh Sát Quốc Gia – một lực lượng bán quân sự trọng yếu đang cần. Cụ Phan Bội Châu, một học giả mà cũng là một nhà ái quốc đáng kính của nước ta đã từng nói : “Nếu cuộc đời bằng phẳng thì anh hùng hào kiệt có ra chi !”. Quả thật là như vậy, vì kẻ viết bài này đã có nhiều thời gian biết về cuộc đời của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai – cũng như một số lớn các bậc đàn anh khác trong Binh Chủng BĐQ biết nhiều về ông – đều cùng công nhận đường binh nghiệp của ông không mấy gặp điều bằng phẳng. Và… có lẽ mỗi bước thăng trầm đưa đến đã khiến ông nhận rõ về chân giá trị của cuộc đời hơn, nhất là cuộc đời của một võ quan trong thời đại hỗn loạn về binh quyền xảy ra thường xuyên ở miền Nam trước đây, mà chính đó đã un đúc nên một Trần Văn Hai hào kiệt về sau này ! Sự kiện ông về nhận nhiệm vụ Chỉ Huy Trưởng Yếu Khu Dục Mỹ kiêm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, là một ví dụ về bước đi xuống của ông, mà cái chân giá trị của cuộc đời… đã khiến ông có tư tưởng quay về với nẻo Chân Như của Phật pháp đậm nét khá nhiều. Thời gian này ông thường tịnh khẩu và hướng về Thiền Định, bữa ăn trưa của ông rất đơn giản đạm bạc phần lớn là rau trái nhiều hơn. Có lần tôi (tác giả), vào năm 1974, nhân dẫn Tiểu Đoàn 95 BĐQ (Căn Cứ Benhet) về Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục Mỹ để tái trang bị và huấn luyện, với tình nghĩa thầy trò cũ, đã đến Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn cùng trong Yếu Khu để thăm ông. Hôm đó có sự hiện diện của Đại Tá Nguyễn Văn Đương, Chỉ Huy Phó của ông và cũng là một Sĩ quan BĐQ trước đây. Trong lần thăm viếng ngắn ngủi này, ngờ đâu đó là lần sau chót tôi được diện kiến với ông, được nghe một vài lời khuyên bảo chân tình và về sau này nghiệm lại, tôi mới bàng hoàng nhận ra là lời trăn trối của ông : “Bây giờ “toa” cũng là Tá, cũng là Tiểu Đoàn Trưởng rồi, và “moa” bây giờ cũng mang “sao”. Nhưng mình hãy xét mình và làm sao cho xứng đáng với cái “lon” của mình. “Moa” đã già rồi, tóc cũng đã bạc nhiều, rồi mai kia cũng phải ra đi. “Toa” hãy còn trẻ, tre tàn măng mọc mà “toa”, thời gian là như vậy. “Moa” mong “toa” sống cho đáng sống, đừng để binh sĩ dưới tay mình khổ sở vì sự kém tài bất đức của mình. Cũng như “moa” đây, bây giờ được về đây dưỡng già, nhưng nhà binh mà “toa”, lúc lên voi xuống chó là chuyện thường tình, chỉ cần ta sống không thẹn với mình là đủ…” Sau khi tái huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục Mỹ xong, cuộc chiến đã ném tôi trở về trận địa vùng cao, còn ông thì lại “lên voi” một lần nữa, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho. Ôi ! có ngờ đâu với chức vị này, ông đã cùng với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư Lệnh Quân Đoàn 4 kiêm Vùng IV Chiến Thuật đi vào vĩnh cửu, mà hào khí còn để lại nghìn thu ! Tưởng cũng xin được thắp một nén hương lòng mà ngưỡng phục ông, và viết ra đây một vài chi tiết trong giờ phút sau cùng của cuộc đời ông, do người thân kể lại. … Ngày 30-4-1975, sau khi có lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh, Vùng IV Chiến Thuật tuy chưa bị áp lực nặng nề của Việt Cộng, nhưng lòng quân và dân đã hoang mang cực độ. Còn tại Đô thành Sàigòn-Chợ Lớn, giặc Cộng tuy mới có một vài nhóm lẻ tẻ vào chiếm thành phố, nhưng đám Cách Mạng 30 thì đổ ùa ra thừa nước đục thả câu, càng lúc càng gây nên những cảnh hỗn loạn đáng nguyền rủa khôn cùng. 22 Chỉ cần một “miếng vải đỏ” cột nơi cánh tay, vai đeo khẩu súng mà người ta vất bỏ bên lề đường cũng như một dây túi vải đạn cột ngang hông, thì có thể xưng mình là “Giải phóng quân” đi nghinh ngang trên đường phố như một kẻ… anh hùng !! Thế rồi một đám thanh thiếu niên xúm lại, bu quanh những vị anh hùng “nứt ngang” kia mà trầm trồ tâng bốc. Nơi này một đám, nơi kia một đám rải rác khắp các đường phố mà dân chúng gọi là bọn “Cách mạng 30”, chứ bộ đội chính quy của Bắc Việt thì không có là bao ! Đám bộ đội chính quy này cũng rất buồn cười, vì hầu hết toàn là những thiếu niên miền Bắc ngơ ngơ ngác ngác, tay ôm chặt khẩu AK.47 nhìn dân chúng và xe cộ tấp nập xuôi ngược trên đường phố, với đủ màu sắc văn minh tân tiến của miền Nam Việt Nam thời bấy giờ, làm “các cu cậu lính già Hồ” choáng ngộp như rơi vào một thế giới xa lạ không ngờ. Một số các “cu cậu” khác đang ngẩng đầu nhìn lên ngây ngất vào các ban-công của những tòa buynh-đinh, mà trên đó có một vài bóng hồng mặc “mini jupe” đang nhìn xuống mặt đường. Tội nghiệp, vì mãi ngẩng đầu làm rơi cái “nón cối” đánh bộp xuống nền xi-măng trên hè phố… mà cũng chẳng buồn nhặt lên… Nhưng hùng hổ xông xáo nhất vẫn là “đám 30”, vì bọn chúng chính là những tên du thủ du thực của thành phố, hoặc những tên chuyên nghiệp trốn quân dịch trước đây. Bọn này có thành tích vĩ đại là chuyên chui vào “lu nước”, đội lên đầu những tờ giấy bạc loại “một ngàn đồng” khi có Cảnh sát vào trong xóm bố ráp để bắt lính. Nay lợi dụng tình hình ùa ra xưng mình là có thành tích “chống chế độ cũ”, hoặc xưng mình có chú bác mà mười mấy năm về trước đang lúc chăn trâu, chăn vịt ngoài đồng, được “cách mạng” móc nối và giác ngộ bỏ vào “bưng” chiến đấu nay đang trở về bàn giao thành phố Sàigòn… vv… và rồi bọn họ chiếm dụng những chiếc xe Jeep của quân đội vất bỏ bên lề đường, đẩy xe đến cây xăng gần đó đổ “chùa” đầy bình. Thế là dăm bảy tên leo ngồi lên xe chạy dọc chạy ngang ngông nghênh trên đường phố một cách loạn xạ. Tình trạng của thành phố Mỹ Tho cũng có những cảnh tương tự như thế, đầy dẫy những cái bát nháo của một thị trấn bỏ ngỏ không kỷ cương… Tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh của Tướng Hai, ảnh hưởng bởi lệnh đầu hàng trên Đài Phát Thanh Sàigòn đã làm cho binh sĩ nản lòng không ít. Có một số đã bỏ súng bỏ ngũ trà trộn làm dân trở về nhà với vợ con. Số còn lại quyết định phòng thủ bản doanh Bộ Tư Lệnh cho đến hơi thở sau cùng. Tướng Hai biết rằng tình thế đã đến lúc không còn làm gì hơn được nữa, ông đã khuyên các sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ nên tìm về với vợ con là tốt. Nhưng một số đông thấy ông không bỏ chạy, họ cương quyết tử thủ. Khoảng xế trưa, có một tốp lính Cộng Sản Bắc Việt đến Bộ Tư Lệnh yêu cầu Tướng Hai bàn giao. Ông ra điều kiện là phải có cấp chỉ huy ngang hang với ông đến… thì mới chịu bàn giao. Với lời lẽ cương quyết, với thái độ bình tĩnh nghiêm nghị đã khiến bọn Việt Cộng kiêng dè nễ sợ. Chúng không còn làm gì khác hơn là đành phải nhượng bộ bằng lòng với yêu cầu. Sau một thời gian khá lâu, chúng đưa đến một tên Việt Cộng có vẻ là cấp chỉ huy, và nói với Tướng Hai là “Sư Trưởng” (tức Sư Đoàn Trưởng) của bọn chúng đến nhận bàn giao. Sau một thời gian khá lâu, chúng đưa đến một tên Việt Cộng có vẻ là cấp chỉ huy, và nói với Tướng Hai là “Sư Trưởng” (tức Sư Đoàn Trưởng) của bọn chúng đến nhận bàn giao. Tướng Hai cho mời hắn ta vào văn phòng để nhận bàn giao, và khi hắn bước vào, bất thần ông rút súng lục bắn y trước mặt mọi người… Hắn bị thương, vội cùng một vài tên tùy tùng tháo chạy ra ngoài mà không dám chống trả vì quá hãi sợ. Từ đó hai bên bắt đầu ghìm nhau, và một trận xung chiến sắp sửa xảy ra… Tướng Hai ung dung bước vào bên trong văn phòng… rồi tự kết liễu đời mình bằng độc dược để giữ tròn khí tiết ! Thế là cuộc diện đã xoay chiều, bản doanh của ông cũng từ đây đổi chủ… ! Bọn Việt Cộng tàn nhẫn không cho gia đình mang xác Tướng Hai về chôn, như có ý muốn trả thù về hành động trước khi tuẫn tiết của ông. Nhưng rồi gia đình cũng đã bằng mọi cách đưa được thi hài ông về chôn cất ở Gò Vấp. Thật xúc động lòng người khi nghe đến sự quyên sinh tuẫn tiết của ông, và nhất là hành động “mạng đổi mạng” như vừa nêu ! Dẫu biết rằng tên Việt Cộng đó được may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, và cũng chưa chắc hắn ta thật sự là cấp ngang hàng với ông, nhưng trong tình thế đó ông hành động như vậy là đích đáng. Bởi lẽ, bọn Việt Cộng ma mãnh không bao giờ mang cấp bậc khi xuất trận, cũng như cách xưng hô giữa bọn chúng với nhau chỉ gọi bằng đồng chí, hoặc anh hai, anh ba để… ngụy trang. Hơn nữa bọn sĩ quan Việt Cộng mà ta thừa hiểu, là chúng có xuất thân ở một trường Quân sự chính quy nào đâu ? Ngay như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đầu sỏ của bọn chúng kia, cũng chỉ là hạng xuất thân ở “trường bụi rậm” mà thôi. 23
Do đó, một tên nào ở hạng người nào bất kể, nếu bọn chúng đưa đến nói rằng ngang cấp “Sư Đoàn Trưởng” để bàn giao, thì Tướng Hai bắn nó, cũng là hành động bắn kẻ ngang hàng với mình vậy.
Trước khi chết ông vẫn hạ được kẻ thù ngang chức vị, có lẽ ông cũng được phần nào ngậm cười nơi chin suối !! *** Sự việc Tướng Hai tự kết liễu đời mình ngay tại bản doanh là có thật, người viết bài này chỉ nghe một vài người thân kể lại mà thôi. Chắc rằng tình tiết diễn biến trong thời gian ngắn trước khi ông chết và sau đó, còn nhiều những nét đặc biệt khác nữa. Mong rằng quý vị Tùy viên, Chánh văn phòng, hoặc Tham mưu hay Cận vệ có chứng kiến được những giây phút sau cùng này, xin vui lòng công bố để có thêm sử liệu chính xác hơn. Điều mà chúng tôi xin kết luận là suốt cuộc đời của ông, chỉ biết chính trực với lòng mình cũng như với tất cả mọi người; thương lính như anh em, thanh liêm trong sạch, quyết một lòng vì nước quên mình. Ông chết trong nỗi tiếc thương của đồng đội, dù không có lá Quốc Kỳ phủ trên nắp áo quan, dù không có lễ nghi quân cách đưa tiễn trong giờ phút sau cùng, nhưng từ đó đến nay qua mấy chục năm đằng đẳng, lòng của các chiến sĩ Sư Đoàn 7, các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và toàn thể Binh chủng Biệt Động Quân nói riêng đều ngưỡng phục, cũng như toàn dân miền Nam Việt Nam nói chung đều thương tiếc vô cùng. Đó chính là Lá Quốc Kỳ vĩnh cửu, tiếng Quân nhạc muôn đời đưa tiễn và tiếc thương cho con người bất khuất của ông. Anh linh còn đó, non nước còn kia, chắc chắn một ngày mai rạng rỡ sẽ trở về với dân tộc Rồng Tiên, và trong Quân Sử oai hùng của nòi giống, sẽ không quên khắc ghi : “CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI VỊ QUỐC VONG THÂN” vậy. 24 30 Tháng 4 – Viết Cho Người Tuẫn Tiết
Trong kỳ hội ngộ 30 năm của Trại Trần Hưng Đạo, Bộ Tổng Tham Mưu tại Thủ đô Hoa Thịnh đốn, Trung tướng Đồng Văn Khuyên tóc bạc phơ đã đi đến chào bàn và chắp tay xá từng chiến hữu. Gặp anh em cựu tù cải tạo trên 10 năm nhắc chuyện các tướng lãnh tự vẫn, vị Tham mưu trưởng Liên quân 30 năm về trước chợt nói ra cả gan ruột của mình. Và như vậy là ông đã thực tâm nói hộ cho tất cả anh em. Các nhà lãnh đạo dù đảm lược can trường qua bao năm chinh chiến, nhưng dễ gì mà làm được người hùng tuẫn quốc như tiền nhân Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Và cũng tại Thủ đô Hoa Kỳ, tướng Ngô Quang Trưởng suốt bao năm không lên tiếng, nhưng trong chỗ riêng tư cũng đã nói rằng được nếu được làm lại thì năm 75 ông sẽ không thi hành lệnh rút quân ở Huế. 25 Mỗi năm cứ đến ngày oan trái Thắp nén hương lòng tưởng nhớ ai. (Vô danh) Các niên trưởng của tôi một thời tuổi trẻ như ông Khiêm, ông Thiệu, ông Viên. Lúc đó còn là Trung úy Cao Văn Viên, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và đại úy Trần Thiện Khiêm gặp nhau ở Secteur Hưng Yên vào đầu thập niên 50. Quý vị không biết rằng sau này sẽ làm tổng thống, thủ tướng và tổng tham mưu trưởng. Nếu bây giờ được sống lại tuổi hoa niên, ta sẽ làm lại từ đầu với bao nhiêu điều tốt đẹp hơn, cho bản thân, cho gia đình và cho đất nước. Kể cả các hành động anh hùng lẫm liệt. Và biết bao nhiêu tướng lãnh tư lệnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nay còn sống đều có chung một kỷ niệm đau thương. Chiêm nghiệm lại, việc rút quân đau thương hoảng loạn tại Quân khu I và Quân khu II đã trở thành một thảm kịch ghê gớm như một bệnh dịch, như ngọn sóng thần, như cơn hồng thủy vượt qua mọi sức đề kháng của con người. Vào cái thời điểm đó, trong một sáng một chiều, chúng ta không phải là những chiến sĩ anh hùng mà đã trở thành những con người khác. Không cần địch tấn công, các đơn vị cứ tan ra như một dung dịch hóa học được thử nghiệm. Vì vậy các tư lệnh chiến trường của miền Cao nguyên, Hỏa tuyến, Duyên hải khi về được miền Nam thì đa số đều tìm đường di tản. Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn. Các Tư lệnh Tổng trừ bị và các Sư đoàn. Tất cả hoàn toàn mất hết sức đề kháng kể cả Lục quân, Không quân, và Hải quân. Tất cả đều tin rằng Mỹ bỏ Việt Nam và mọi thứ coi như cáo chung. Không thể tiếp tục cuộc chiến. Riêng mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh và khi cộng sản đi vòng qua phòng tuyến Sư đoàn 5 tại Lai Khê để tiến về Sài Gòn thì coi như một phần của miền đông vẫn bình yên. Và chính ở các vùng đất hoàn toàn chưa nổi sóng đó đã sản xuất ra các vị lãnh đạo sẵn sàng vị quốc vong thân. Trong suốt 55 ngày cuối cùng của miền Nam năm 75 đã có biết bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh và gồm cả quân nhân các cấp đã tự sát. Một số đã tự vẫn tại mặt trận hoặc tại nhà. Có các trường hợp tự tử chết cả gia đình. Chúng tôi ghi nhận rằng có nhiều anh em binh sĩ đã tự tử tập thể bằng lựu đạn tại chiến trường. Sau đây là một số trường hợp điển hình thường được nhắc nhở trong các năm qua. Thiếu tướng Phạm Văn Phú : Sau cuộc rút quân tại Cao Nguyên hỗn loạn trở thành thảm họa, tướng Phú, Tư Lệnh Quân Khu II đã uống thuốc độc tự tử tại Sài Gòn. đó là vào ngày 29 tháng 4-1975. Thân nhân đưa vào 26 nhà thương Grall để cấp cứu nhưng không kịp. Ông đã qua đời tại đây. Trung sĩ I Quân Cảnh Trần Minh : Thuộc đại đội I Quân Cảnh đảm trách khu vực cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc 10 giờ sáng 30 tháng 4-1975, sau khi nghe Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, Trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Long, Cảnh Sát Quốc Gia : Sau khi nghe tin đầu hàng sáng 30 tháng 4-1975, Trung Tá Long, Cảnh Sát Quốc Gia đã đến đứng chào tượng Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn rồi rút súng tự sát. Báo chí ngoại quốc đã đăng hình của ông nằm ngay trước pho tượng. Hình chụp vào khoảng 12 giờ trưa 30 tháng 4-1975. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ : Khoảng 1 giờ trưa 30 tháng 4-1975, khi nghe lệnh đầu hàng, ông đã họp các sĩ quan tại Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê. Sau khi dùng cơm với anh em, ông lui vào phòng riêng dùng súng lục tự vẫn. Vợ và 4 con nhỏ của ông di tản qua Hoa Kỳ ngày 28 tháng 4-1975 đến hai tháng sau mới biết tin. Chuẩn tướng Trần Văn Hai : Chiều 30 tháng 4-1975 vị Tư Lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh đã uống thuốc độc tự tử tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho. Bà mẹ của tướng Hai đã đem xác con về chôn cất tại Nghĩa Trang Gò Vấp. Căn cứ Đồng Tâm là nơi đặt bản doanh của Sư đoàn 7 Bộ Binh. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng : Tư Lệnh Phó Quân đoàn 4 đã dùng súng tự sát tại Cần Thơ tối ngày 30 tháng 4- 1975. Lúc đó vợ và các con cũng có mặt cùng với các sĩ quan cận vệ thân tín. Tướng Hưng là vị tư lệnh nổi tiếng đã tử thủ tại trận An Lộc tỉnh Bình Long năm 1972. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam : Tư Lệnh Quân đoàn 4 đã dùng súng lục tự sát vào lúc 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5-1975. Ông là người đã sống một ngày dài nhất từ lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng sáng 30 tháng 4-1975 cho đến sáng 1 tháng 5-1975. Ngay sau khi có lệnh đầu hàng ông đã gặp các đại diện phía cộng sản hai lần khi họ vào Dinh Tư Lệnh tại Cần Thơ tiếp xúc nhưng cả hai lần đại diện phía cộng sản đều ra đi. Cũng trong chiều 30 tháng 4, tướng Nguyễn Khoa Nam đã đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản lần cuối cùng. Ông cử Đại Tá Thiên vào chức vụ Tỉnh Trưởng Cần Thơ thay cho người đã ra đi. Ông ra lệnh không được phá cầu Long An và chấm dứt giao tranh để bảo toàn tính mạng các binh sĩ và dân chúng. Trước khi quay vào phòng tự vẫn, sĩ quan tùy viên kể lại tướng Nam đã thắp nhang trên bàn thờ Phật, thỉnh chuông rồi đứng lên lan can tòa lầu nhìn xuống thành phố Cần Thơ lúc đó vắng lặng. Lúc đó vào sáng sớm ngày 1 tháng 5-1975. Vùng 4 chiến thuật gồm toàn thể miền Tây Nam Phần với 3 sư đoàn, Sư đoàn 21 (Bạc Liêu), Sư đoàn 9 (Sa đéc) và Sư đoàn 7 (Mỹ Tho) cùng với 16 tiểu khu. Cho đến ngày 30 tháng 4-1975 miền Tây vẫn còn gần như nguyên vẹn. Vị Tư Lệnh Quân đoàn vẫn liên lạc hàng ngày với các đơn vị gồm cả Hải Lục Không Quân thuộc Vùng 4. Toàn thể quân số chính quy và địa phương trên 200 ngàn quân đã tan hàng trong trật tự. Một số lớn hiện đã có mặt tại hải ngoại. Nếu tướng Nguyễn Khoa Nam tiếp tục chiến đấu có thể sẽ nhiều trận đẫm máu kéo dài thêm từ 3 đến 6 tháng. Cộng sản với quân số 20 sư đoàn cùng với kho vũ khí của miền Nam để lại sẽ trở thành một lực lượng quân sự mãnh liệt nhất Đông Nam Á. Toàn thể miền Tây sẽ trở thành cuộc chiến đau thương nhất trước khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Dứt khoát là Hoa Kỳ và thế giới tiếp tục quay mặt đi. Bao nhiêu người kể cả quân và dân hai phía sẽ chết thêm cho cuộc chiến bi thảm này. Với ba tiếng chuông thỉnh Phật. Vị tư lệnh vùng 4 đã theo gương tiền nhân Phan Thanh Giản dọn mình tự vẫn để chết thay cho hàng vạn sinh linh của sông Tiền sông Hậu vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. 27 Trong buổi sáng cuối cùng 1 tháng 5-1975, tướng Nguyễn Khoa Nam đã đứng trên lan can của Dinh Tư Lệnh cùng với hai sĩ quan tùy viên cấp úy. Con đường Phan Thanh Giản trước mắt trong buổi bình minh vắng lặng của thị xã Cần Thơ. Vị Tư lệnh vùng 4 trở thành cấp chỉ huy cuối cùng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã đứng khóc. Nước mắt chan hòa làm hai sĩ quan tùy viên trung thành với ông thầy cũng khóc theo. Cái khung cảnh bi tráng tại Dinh Tư Lệnh vắng vẻ vào ngày đầu tháng 5-1975 của ba thầy trò Tư lệnh mới xúc động dường nào. Sau đó ông quay vào phòng tự sát bằng súng lục. Hành động vừa can trường vừa nhân đạo của tướng Nguyễn Khoa Nam đã nêu cao gương trách nhiệm uy dũng đồng thời cũng đã cứu cho sinh mạng của dân chúng và binh sĩ tại miền Tây không bị chết đau thương hỗn loạn như đã diễn ra tại Quân Khu I và Quân Khu II. Ngày 30 tháng 4-2005 ba mươi năm sau, trên bàn viết của tôi có một cái gạt tàn thuốc là bằng đồng vốn là đầu đạn đại bác được gò lại. đây là quà tặng của Pháo binh Quân đoàn 4 tặng cho vị Tư lệnh. Khi ông chết, đại úy Lê Quang Nghĩa thu dọn di vật đem về Sài Gòn. Ba mươi năm sau nhờ người đem tặng cho Viện Bảo Tàng tại San Jose. Đặt tay lên cái gạt tàn thuốc giá lạnh 30 năm không còn hơi ấm. Nghe như có tiếng chuông thỉnh Phật năm xưa. Cuộc chiến đã tàn từ lâu rồi mà sao lòng người vẫn còn lạnh giá. * Như đã ghi lại ở phần trên, khi chiến tranh chấm dứt, tại khắp nơi có nhiều anh hùng Việt Nam Cộng Hòa đã tự quyết định đời mình không chịu sa vào tay giặc. Tuy nhiên chúng tôi không thể ghi lại được đầy đủ. Nhân ngày 30 tháng 4 - xin thắp một nén hương lòng gửi về cho tất cả các anh hùng tử sĩ. Chúng ta còn sống đến ngày nay, hãy sống sao cho xứng đáng với những đồng đội đã chết vì 30 tháng 4. Giao Chỉ – San Jose __________________ "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng Căm giặc cộng (BÁN) non sông Hồng Lạc" (YTKCPQ) "Cộng sản còn thống trị quê hương - Ta còn phải đấu tranh" Blog #2 03-31-2009, 09:14 PM Tình Quê Người khách #2 của 2008 (top posters) Join Date: Dec 2007 Posts: 1,275 Thanks: 0 Thanked 3 Times in 3 Posts Re: 30 Tháng 4 – Viết Cho Người Tuẫn Tiết Ngũ Hổ Tướng, Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần Vào ngày 30-04-1975, khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam, quân dân miền Nam đã không chấp 28 nhận sự hiện diện của CSVN, nên đã có rất nhiều chiến sĩ thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng tuẫn tiết theo gương của tiền nhân : thà chết theo thành quyết không hàng giặc. Sự hy sinh can trường này đã được ghi vào sử xanh của dân tộc Việt Nam. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương. Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Đến tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn phòng tại trại Lê Lợi. Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã đứng nghiêm chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ. Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu IV đã tự sát trong văn phòng Tư Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Hòa Bình, Cần Thơ, trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng được biết đến từ khi ông còn là một sĩ quan chiến đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là một trong những con mãnh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ 29 chức vụ Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ông được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972. Định mệnh đã chọn Chuẩn Tướng Hưng làm người tử thủ An Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến sử thế giới. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với người chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn phòng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ bà Chuẩn Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người, nói cho chúng biết về người cha đã chết như thế nào cho tổ quốc. Người cũng trân trọng từ biệt các chiến hữu: “Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc. Tôi cũng không thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có.” Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây súng thân thương vào lòng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ tướng đã điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, bình thản đóng kín cửa văn phòng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngã người tựa vào giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn, đôi mắt còn mở to uất hờn. Người đã bắn vào tim để tỏ rõ tiết tháo một người Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Máu từ trong tim người thấm ướt mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với vận nước. Thiếu Tướng Phú đã đảm trách những chức vụ như sau : Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II . Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ Đại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. 30 Sau chiến thắng An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấụ Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao. Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đã khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắt như những hạt sỏi. Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở cửa thì thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên tay còn cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu. Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lê.nh. Ít lâu sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây. Chuẩn Tướng Trần Văn Hai. Cũng với tấm lòng của những người mẹ thương con bao la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã mưu trí gạt được quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung úy thuộc cấp, trong đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người còn cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn sống Chuẩn Tướng Hai nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất gì đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối với dân tộc và tổ quốc. Tài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy những loại sách học hỏi khác nhau. Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng. 31 Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của họ. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng ghìm nhau. Mãi lâu sau mới có một người gõ cửa xin vào rụt rè tự nhận là sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch biết, rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh. (sưu tầm) Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân Ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành tuẫn tiết Tác Giả: Bạch Diện Thư Sinh Thứ Sáu, 30 Tháng 4 Năm 2010 10:09 Nhân kỉ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư lần thứ 35, chúng tôi xin đúc kết một số tài liệu để vẽ phác chân dung cựu Bộ trưởng Trần Chánh Thành và cái chết lẫm liệt của ông như một nén hương tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ ông. Mỗi năm, vào dịp kỉ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư, lại thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông khắp nơi hình ảnh các vị tướng tá đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết hi sinh mạng sống để bảo vệ danh dự, tiết tháo của một cấp chỉ huy. Các vị ấy xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, xứng đáng được lưu danh muôn thuở. Cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do suốt 20 năm là cuộc chiến đấu chống Cộng sản của toàn dân, mà trọng trách giao vào tay quân, cán, chánh. Khi nước mất, thành đổ, nếu đã có những vị tướng tá quyết tự chọn lấy cái chết oai hùng để đền nợ nước thì đồng thời cũng ghi nhận có những viên chức bên phía chính quyền dám tuẫn tiết, không chịu để bị lọt vào tay bọn Cộng sản. Trong số các vị ấy, nổi bật lên sáng chói là cái chết bi dũng của cựu Bộ trưởng Trần Chánh Thành. Ông đã an nhiên chọn lựa một cách chết trước quân thù, để gióng lên một lời tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về những hiểm họa sẽ giáng xuống dân tộc VN, một khi đất nước bị đảng Cộng Sản nắm trọn quyền thống trị. Nhân kỉ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư lần thứ 35,chúng tôi xin đúc kết một số tài liệu để vẽ phác chân dung vị cựu Bộ trưởng này và cái chết lẫm liệt của ông như một nén hương tỏ lòng thành 32 kính, ngưỡng mộ ông.
Những bước đầu tiên Ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành gốc miền Bắc, do cha tùng sự tại Huế cho nên ông học và tốt nghiệp Trung học tại đây; sau đó, trở ra Hà Nội học lấy Cử nhân Luật. Ông học rất giỏi, đã đậu đầu kì thi ngạch Tri huyện Tư pháp cho toàn cõi Bắc và Trung kì, rồi được cử làm Chưởng lí các tòa án Trung kì. Khi chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, ông được bổ làm Chánh văn phòng Bộ Tư pháp cho Tổng trưởng Trịnh Đình Thảo. Không bao lâu sau, nổ ra cuộc ‘Cách Mạng Tháng Tám’ đưa ông Hồ Chí Minh lên nắm chính quyền. Dưới bình phong mặt trận Việt Minh (tên tắt của Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, ngày 19.5.1941), đảng Cộng Sản đã thu hút được các thành phần ái quốc với khẩu hiệu đánh Pháp đuổi Nhật. Ông Trần Chánh Thành đã được mời ra Hà Nội trong thời kì này và được trọng dụng trong chức vụ Giám đốc Tư pháp Liên khu 3 (trong 3 năm), rồi Giám đốc Kinh tế Liên khu 3 (trong 2 năm sau đó). Song, cũng như trường hợp nhiều trí thức trẻ khác vào thời đó, sau khi đi theo Việt Minh tham gia kháng chiến một thời gian, ông Thành đã hiểu ra bộ mặt thật của Việt - Minh - Cộng - Sản cho nên ông khéo léo cáo bệnh từ chức, để trở về Diễn Châu, Nghệ An (Liên khu 4), trú tại nhà ông Cao Xuân Vỹ. Từ Nghệ An, cùng người em con ông chú là nhà báo Mạc Kinh, ông vượt biển ra vùng quốc gia. Sau vài tháng ở Hà Nội, ông vào Sài Gòn làm nghề luật sư trong văn phòng của Luật sư Trương Đình Du. Vào tháng 10. 1952, ông Ngô Đình Nhu chủ trương tạp chí Xã Hội, anh em ông Trần Chánh Thành và Mạc Kinh đã cộng tác với tờ tạp chí và trở thành chỗ thân tình với ông Ngô Đình Nhu. Mối giao tình này đánh dấu một khúc rẽ quan trọng trong cuộc đời chính trị của ông. Bậc lương đống của nền Cộng Hòa Có thể nói ngay ông Trần Chánh Thành cùng với các ông Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu…là những bậc lương đống ‘khai quốc công thần’ của nền Đệ nhất Cộng hòa. Trong bài báo nhan đề Ông Ngô Đình Diệm Lên Cầm Quyền Như Thế Nào (Thông Luận Số 191, ra ngày 04.4.2005), tác giả Nguyễn Gia Kiểng chứng minh chính ông Ngô Đình Nhu đã bí mật đạo diễn một vở kịch chính trị lớn để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền chứ không phải là người Mĩ hay Vatican. Trong vở kịch này, ông Trần Chánh Thành được giao cho thủ một vai và ông đã đóng xuất sắc. Duyên do bắt đầu từ mối liên hệ thân tình giữa ông Ngô Đình Nhu với ông Trần Chánh Thành. Tác giả Nguyễn Gia Kiểng thuật lại, vào tháng 11.2004, ông được ông Trần Minh Châm trao cho 2 bức thư viết tay bằng tiếng Pháp: Một của ông Jacques Bénet, bạn của ông Trần Minh Châm, viết ngày 18.10.2004 gửi cho bà Ngô Đình Nhu và một của ông Ngô Đình Nhu viết ngày 20.4.1955 gửi cho ông J. Bénet. Ông J. Bénet và ông Ngô Đình Nhu là bạn học rất thân khi còn tại trường Ecole des Chartes. Trong thư gửi cho bà Ngô Đình Nhu, ông J. Bénet xác nhận 2 điểm quan trọng: một là ông (J. Bénet) có đóng vai môi giới trong việc vận động các nhà lãnh đạo nước Pháp để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền; hai là ông ca ngợi ông Ngô Đình Nhu đã có một ý kiến ‘thiên tài’ vì đã nắm bắt đúng vào lúc (3.1954) chính quyền Pháp đang lúng túng do viễn ảnh thất trận tại Điện Biên Phủ để mở chiến dịch thuyết phục họ (Thủ tướng Laniel – Ngoại trưởng Bidault – Reynaud) nên mau chóng đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền. Để thực hiện sáng kiến này, ‘Ông Nhu đã cử bạn ông là ông Trần Chánh Thành sang Paris và nhờ ông Jacques Bénet giúp đỡ để tiếp xúc và thuyết phục chính quyền Pháp về đề nghị này. Ông Bénet đã làm được việc này nhờ một người bạn tên là Antoine Ahond quen thân nhiều nhân vật quan trọng trong chính quyền Pháp, đặc biệt là các ông Germain Vidal, chánh văn phòng thủ tướng, ông Bourgenot, bộ trưởng tại phủ thủ tướng, và ngoại trưởng Bidault. Mặt khác, chính ông Trần Chánh Thành cũng tỏ ra xuất sắc. Nhờ thế mà ông Diệm đã được chính quyền Pháp chấp nhận và ép buộc ông Bảo Đại phải chấp nhận’. Ông Trần Chánh Thành được giao nhiệm vụ vận động các yếu nhân trong chính quyền Pháp, tuy được khen là đã hoàn thành ‘xuất sắc’, nhưng có lẽ ông chỉ biết phần đầu của vở kịch chính trị lớn của ông Ngô Đình Nhu. Chính trong lá thư thứ hai của ông Ngô Đình Nhu viết gửi ông J. Bénet mới cho biết phần hai của vở kịch chính trị này. 33
Trong thư viết ngày 20.4.1954 gửi cho ông J. Bénet, ông Ngô Đình Nhu yêu cầu ông Bénet giúp đỡ trong việc ‘vận động để chính quyền Pháp thực hiện khẩn cấp một kế hoạch đã được dự trù. Ông Nhu viết : "Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao(NGK: họ quá thân nhau) chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn". Theo tác giả Nguyễn Gia Kiểng, "chiều hướng này" được hiểu là một loạt các việc cấp bách yêu cầu chính phủ Pháp làm ngay. Đó là giúp cho ông Ngô Đình Diệm nắm được quân đội quốc gia từ tay Tướng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh, dẹp các giáo phái vũ trang và sau đó tiến tới tổng tuyển cử. Tất cả đã diễn ra thành công mau chóng, suông sẻ, khiến cho các nhà quan sát quốc tế lúc ấy phải lấy làm ngạc nhiên và đánh giá ông Ngô Đình Diệm như là một lãnh tụ đầy tiềm năng mới ở Á châu. Chưa hết, ông Ngô Đình Nhu chỉ khéo léo than phiền nhẹ nhàng là tướng Ely, Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Việt Nam, ‘ là một con người tiêu cực và thiếu quả quyết’, cũng đủ làm cho chính phủ Pháp triệu hồi tướng Ely trong thời gian chưa đầy hai tháng! Do thành tích trước đây, lại là chỗ thân tình với ông cố vấn Ngô Đình Nhu, cho nên ông Trần Chánh Thành rất được Thủ tướng Ngô Đình Diệm tin dùng trong nhiều chức vụ quan trọng: Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng 06.7.1954 Tổng trưởng Thông tin ngày 10.5.1955 Chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia, đã đề ra kế hoạch Tố Cộng (Nguyễn Trân. Hồi Ký Công Và Tội. Xuân Thu, 1992. Trang 176). Khi kế hoạch được phát động, chính ông nắm vai trò Chỉ đạo Chiến dịch Tố Cộng Trung ương bao gồm liên bộ Thông tin, Tư pháp, Quốc phòng và Nội vụ. Chiến dịch này được phát động nhằm tiêu diệt các tổ chức cán bộ Cộng sản nằm vùng, đồng thời triệt hạ những lực lượng thực dân, phong kiến (bài phong, đả thực), trọng điểm là việc truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Ngoài ra, ông còn là một Dân biểu Quốc hội và là một trong 14 vị thuộc Ủy ban soạn thảo Hiến Pháp. Nhìn thoáng qua như thế đủ biết ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã trở thành ngôi sao sáng vào thời khai mở nền Đệ nhất Cộng hòa. Tuy nhiên có nghi vấn, đang khi ông được Sài gòn tin dùng thì, ngoài Huế, ông Ngô Đình Cẩn lại muốn tách ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành và cả ông Cố vấn Ngô Đình Nhu (?) ra khỏi vòng quyền lực (Thomas L. Ahern Jr. Hai tài liệu của CIA về các tướng lãnh VN và gia đình họ Ngô. Nguyễn Kỳ Phong lược dịch. Nam Úc Tuần Báo, Số 718 ra ngày 30.10.2009). Thêm vào đó, nếu chiến dịch Tố Cộng triển khai thắng lợi lúc ban đầu, khiến cho khoảng 200 ngàn cán binh Cộng Sản được cài lại ở miền Nam có nguy cơ bị tiêu diệt thì, tại các địa phương, phát sinh tệ nạn chụp mũ Cộng sản lên đầu những người từng có thành tích kháng chiến chống thực dân Pháp. Mà theo ông Nguyễn Trân, ‘…không phân biệt kháng chiến với Cộng sản là đi ngược lại lòng dân’ (Nguyễn Trân. Hồi ký Công Và Tội. Sđd. Trang 177). Những lực đối kháng này một khi đã nuôi ý đồ, sẽ dễ dàng tạo ra được một mối nghi ngờ trong dư luận về lòng trung thành với phe quốc gia của ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành, căn cứ vào việc ông đã nắm giữ những vị trí tư pháp quan trọng ở Liên khu 3, thời Việt Minh. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn tiếp tục tin tưởng ông cho tới cuối tháng 10 năm 1960. Đó là thời điểm xẩy ra việc 4 ông bộ trưởng đồng loạt từ chức; gồm có các ông Trần Chánh Thành (Bộ Thông tin), Trần Trung Dung (Bộ Quốc phòng), Lâm Lễ Trinh (Bộ Nội vụ) và Nguyễn Văn Sĩ (Bộ Tư pháp). Có dư luận cho là vì các ông bất đồng về sự lạm quyền của đảng Cần Lao? Chỉ 2 tuần sau đó, ngày 11.11.1960, nổ ra cuộc phản loạn của Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông. Năm 1962, Tổng thống cử ông Trần Chánh Thành đi làm đại sứ tại Tunisie (ở Bắc Phi châu). Ngày 01.11.1963, Tướng Dương Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chánh thành công, chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ đã giao công tác cho ông Trần Chánh Thành đi Nam Vang tiếp xúc thiện chí với Quốc vương Shianouk (18.12.1963). Trong những năm chính trường miền Nam hết sức rối ren sau đó, ông Trần Chánh Thành rút lui vào bóng tối sống ẩn dật. 34 Khi nền Đệ nhị Cộng hòa được thành lập, ngày 01.4.1967, một bản Hiến pháp mới được ban hành đưa đất nước trở lại trật tự, quy củ. Rồi ngày 03.9.1967, diễn ra cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Ông Trần Chánh Thành ra ứng cử trong liên danh Đoàn Kết Để Tiến Bộ, dấu hiệu con voi trắng (Bạch Tượng) đứng chung với các ông Trần Văn Lắm (thụ ủy liên danh), Trần Trung Dung, Đào Đăng Vỹ, Bà Phan Nguyệt Minh (Nguyễn Văn Thơ), Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Phượng Yêm, Phạm Như Phiên, Đoàn Văn Cừu, Trần Ngọc Oành. Liên danh ‘Bạch Tượng’ đã đắc cử với 550,157 phiếu (Nguyễn Văn Chức. Việt Nam Chính Sử. Tiền Phong, 1989. Trang 163). Sau trận đánh Tết Mậu Thân 1968, ngày 28.5.1968, Cụ Trần Văn Hương lại được mời thành lập chính phủ mới thay cho chính phủ của Ls. Nguyễn Văn Lộc. Đây là thời điểm cuộc hòa đàm Paris khởi sự, sắp bước sang giai đoạn công khai, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tín nhiệm Nghị sĩ Trần Chánh Thành vào chức vụ Tổng trưởng ngoại giao. Đây là chức vụ cao cấp cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông. Sau khi Tướng Trần Thiện Khiêm trình diện nội các mới vào ngày 01.9.1969, chức vụ tổng trưởng ngoại giao được chuyển sang cho Nghị sĩ Trần Văn Lắm, cũng thuộc Liên danh Bạch Tượng. Ông Trần Chánh Thành trở về giảng dậy môn báo chí tại Trường Luật cho tới ngày ‘trời sập’ 30.4.1975. Những dòng lược thuật trên đây cho thấy ông Trần Chánh Thành là nhân vật hiếm hoi được lãnh đạo tin dùng ở những vị trí cao cấp và rất quan trọng trong cả 3 giai đoạn chính trị của đất nước: thời toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, thời Đệ nhất Cộng hoà và thời Đệ nhị Cộng hòa. Điều đó chứng tỏ ông là một người có thực tài, tận tụy phục vụ. Đặc biệt là ông đặt lợi ích và lí tưởng quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân: khi biết rõ Đảng Cộng sản nắm trọn quyền lèo lái mặt trận Việt Minh, ông từ chức và tìm cách đào thoát; đang khi được TT Ngô Đình Diệm trọng dụng, ông sẵn sàng từ chức bộ trưởng để phản đối phe cánh Cần Lao lạm quyền; và khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập, ông gạt bỏ mặc cảm là người của ‘chế độ cũ’, chấp nhận trọng trách được giao phó. Cuối cùng, theo gương các bậc tiền bối xưa, hết ‘làm quan’ ông vui vẻ về làm thầy truyền thụ sở học qúy báu cho môn sinh. Chọn lựa một cách chết lẫm liệt Từ khi chiến dịch Tây nguyên do Cộng quân mở ra đầu tháng 3.1975 cho tới ‘ngày sập trời’ 30.4.75 vỏn vẹn chỉ có 55 ngày đêm. VNCH đang đi những bước thụt lùi vội vã, tất tưởi cuối cùng tới bờ vực thẳm. Đương nhiên ông Trần Chánh Thành phải là người tiên đoán được tình hình bi đát và tuyệt vọng ấy và ông đã gửi vợ con đi Pháp trước. Theo nhà báo Đặng Văn Nhâm, ông và hai bạn thân là cựu Thủ tướng Phan Huy Quát và Nghị sĩ Trần Trung Dung được Tòa đại sứ Pháp hứa sẽ bốc đi vào lúc 10 giờ sáng ngày 29. Nhưng vừa khi Tướng Dương Văn Minh ra nhận chức tổng thống lúc 5 giờ 30 chiều 28.4 thì giờ phi trường Tân Sơn Nhất bị CS oanh tạc và chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Sài Gòn lên cơn sốt mạnh . Manh ai nấy chạy thoát thân. Sáng 29.4, tân Tổng thống Minh gửi thư cho Đại sứ Martin yêu cầu quân Mĩ triệt thoái trong vòng 24 giờ. Yêu cầu này cũng được tân Thủ tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố công khai. Trong tình hình ấy, kế hoạch người Pháp hứa giúp ông Trần Chánh Thành và các bạn ông di tản bằng phi cơ không còn có thể thực hiện được. Cả ba ông bị kẹt ở lại. Nhất thời, ngày 30.4, các ông tạm lánh mặt tại nhà thương Grall của Pháp. 24 giờ sau, bệnh viện yêu cầu các ông ra khỏi nơi này. Rời bệnh viện Grall, ông Trần Chánh Thành tạt vào một cao ốc trên đường Gia Long sát góc đường Tự Do. Khoảng 4 giờ chiều ngày 02.5, nhà báo Mạc Kinh, người em thúc bá rất thân thiết với ông đến đón ông về nhà trên đường Duy Tân. Nhà ông lúc này chỉ còn lại mẹ ông, bà chị tên Nhơn và ba bốn người làm. Suốt buổi chiều hôm ấy, anh em ông bộ trưởng đã trút hết nỗi niềm tâm sự lần cuối cùng với nhau. Sắp tới 7 giờ chiều là giờ giới nghiêm, khi chi tay với ông Mạc Kinh, ông bộ trưởng nói lời cuối cùng: ‘Chúng ta đều đã hiểu CS quá rõ. Với anh, chỉ có một lựa chọn cuối cùng. Anh phải tự xử lấy anh thôi...Em về đi. Giờ giới nghiêm đã tới rồi. Sáng sớm mai em lên với anh nhé!’ Ông Mạc kinh nghe lời nói đó mà ngỡ như lời trối trăn. Ông chỉ có thể van vỉ ông anh: ‘Dù thế nào chăng nữa, xin anh cũng đừng quyết định gì vội. Hãy cố chờ đến sáng mai anh em ta gặp lại nhau’. Tuy nói như thế, nhưng thâm tâm ông MK vẫn không tin vào hiệu quả của lời mình nói. Linh tính đã báo cho ông biết rằng kể từ giây phút này, ông đã mất hẳn, mất vĩnh viễn ông Thành ... Hôm sau, khi trời vừa sáng, ông Mạc Kinh phóng xe lên nhà ông bộ trưởng. 35 Cho tới nay, duy nhất chỉ có nhà báo lão thành Đặng Văn Nhâm có thể thuật lại tỉ mỉ, sống động cái chết bi tráng của ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành: ‘Vừa đặt chân vào phòng khách. Khác hẳn mọi khi, nơi đây bỗng trở nên vắng lặng như tờ, như không còn một hơi thở nào nữa. Không khí trong căn phòng này đã bao phủ một màu thê lương, ảm đạm. Bà Nhơn lẻ loi, đôi mắt đỏ hoe, đang ngồi thu mình nơi bực cầu thang, lối dẫn lên phòng ngủ của ông Thành . Bà Nhơn bảo ông MK: "Em lên ngay đi. Thành an nghỉ rồi! Hồi hôm, Thành đã nói chuyện lâu với chị...dặn trao tập giấy màu vàng cho em đó... Thành nằm ở phòng ngủ nhỏ lầu hai... Em ở bên Thành đi. Chị phải tới sứ quán Pháp ngay bây giờ để làm sẵn thủ tục. Chị sẽ quay về thật gấp..." Lập tức ông MK phải lo giải quyết ngay một số việc cần kíp. Trước hết, mời bà cụ thân mẫu của ông Thành đi theo bà Nhơn đến tạm trú tại nhà một thân nhân khác, và phải nói dối là cụ cứ đi trước, còn ông Thành sẽ được tòa đại sứ Pháp cho xe đến đón ra phi trường sau. Ông MK sợ bà cụ mà biết chuyện ông Thành tự tử thì sẽ lôi thôi to. Mọi việc lo cho ông Thành bây giờ phải thật kín đáo, không để lộ một chút tin tức hay nghi hoặc nào ra ngoài vòng ruột thịt. Mặt khác, ông MK dặn gia nhân hãy để cho ông Thành ngủ yên, đừng ai quấy rầy, không cần đem sữa sáng như thường lệ, vì đêm qua ông đã thức khuya...Sáng nay ông Thành cũng không muốn tiếp khách nữa!... Khi còn lại chỉ có một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, ông MK mới đẩy nhẹ cửa phòng ngủ, tiếng máy lạnh vẫn sè sè nho nhỏ. Ông Thành đang nằm đó, bất động như người đang ngủ mê. Nét mặt bình thản. Nhưng hai bên cánh mũi có hai vệt thuốc nhỏ màu nâu nhạt lẫn chút máu đỏ đọng lại, dài bằng hai đốt ngón tay. Ông MK ôm nhẹ mặt ông Thành, thấy vẫn còn ấm, ngực và chân tay vẫn hãy còn ấm. Ông thầm nghĩ chắc ông Thành chỉ mới vừa từ giã cõi đời thôi. Nhì trên mặc chiếc bàn ngủ, một hộp thuốc ngủ 50 viên chẳng còn sót một viên nào. Nơi bàn giấy góc phòng, mọi thứ đều ngăn nắp. Có một tập giấy 18 trang. Ông MK liếc thoáng qua, biết ngay là những lời trăn trối cuối cùng của ông Thành. Ông Thành lên tiếng tố cáo hiểm họa CSVN trước thế giới tự do, sau khi chúng đã cưỡng chiếm miền Nam. Ông Thành cũng tiên liệu để kêu gọi thế giới dân chủ , nhân đạo phải có trách nhiệm tinh thần ngăn chận bàn tay máu trả thù trút lên mạng sống của toàn thể quân nhân và quần chúng miền Nam. Ngoài ra, ông Thành còn phác họa cho mọi người thấy trước thảm trạng của miền Nam, đồng thời phơi bày âm mưu gây chiến tranh loạn lạc đối với các nước láng giềng trong bán đảo Đông Dương và Thái Lan. Cuối cùng ông Thành minh xác, ông đã lấy cái chết để phản đối CSBV xâm chiếm miền Nam.… Bên cạnh tập giấy đó, ông Thành còn viết sẵn vài dòng chữ trên một tấm danh thiếp, nhằm gửi thẳng cho cơ quan an ninh, xác định cái chết của ông là do chính ông tự chọn, đừng gây phiền nhiễu cho ai hết! Trong vòng một tiếng đồng hồ sau, bà Nhơn đã trở về. Lúc này, toàn thân ông ông Thành mới bắt đầu trở lạnh, lạnh ngắt. Một mặt ông MK phải lo canh chừng đám gia nhân, vài người còn lại. Mặt khác bà Nhơn lo liên lạc báo tin cho vài người bà con trong thân tộc nội, ngoại (bên bà Thành). Nhưng không một ai lui tới. Dường như ai cũng lo ngại, muốn trốn tránh. Không khí thành phố Sài Gòn lúc ấy căng thẳng đến tột độ. Ai cũng có chuyện để phải lo và để sợ. Một tiếng động mạnh cũng đủ làm cho người ta giật mình kinh hoảng, nhớn nhác... Trong hoàn cảnh đó, một mình ông MK phải lo hết mọi việc rửa ráy thi hài và tẩn liệm cho ông Thành. Lúc ấy, khoảng ba giờ chiều , bỗng gia nhân báo tin có ban Quân Quản đến khám nhà. Gồm ba cán bộ đeo súng ngắn bên hông, băng đỏ trên cánh tay, và một tên bộ đội mang tiểu liên đi theo hộ vệ. Trong trường hợp này, dù muốn dù không, ông MK vẫn phải ra mặt tiếp đón. Ngay câu đầu tiên bọn cán bộ CS đã nói thẳng, chúng đến tiếp thu ngôi nhà, và ra lệnh đưa chúng đi xét nhà. Chúng đi thẳng một mạch lên lầu 4, rồi từ đó mới trở xuống, vào từng phòng một, quan sát soi mói và khám xét cẩn thận. Không bỏ sót một phòng nào. Vào đâu chúng cũng ngắm nhìn, để ý kiểm điểm từng ly từng tí, rồi xẵng giọng hạ lịnh: "Đồ đạc ở đâu để nguyên đấy. Cấm tuyệt không được di chuyển!" Khi xuống đến lầu 2, nơi có phòng thi hài của ông Thành nằm đó, bỗng nhiên đầu óc ông MK trở nên căng thẳng tột độ. Tinh thần ông bấn loạn. Nếu bọn cán bộ CS bất chợt thấy thi hài ông Thành đang nằm trơ trơ ở đó, ông sẽ trả lời như thế nào? Một điều chắc chắn nhất, không thể nào tránh được là bọn cán bộ CS sẽ hạch hỏi mọi người hiện diện trong nhà. Rồi thì mọi sự sẽ phải khai trình 36 tỉ mĩ, từ tên tuổi, chức phận cũ, rồi đến nguyên nhân cái chết... Nhưng liệu bọn CS ác ôn này có cho phép chôn cất ngay không, hay sẽ đem thi hài đi mổ xẻ, khán nghiệm...? Lại còn vấn đề sấp giấy ông Thành đã viết di ngôn tố cáo CSVN nữa chứ. Ông MK bối rối vô cùng, không biết sẽ phải ăn nói ra sao, và rồi những gì sẽ xảy ra cho bản thân ông ngay sau đó, ông không thể lường được. Trong tình cảnh nguy nan đó, ông MK chỉ còn kịp nghĩ đến việc cầu nguyện vong hồn ông Thành, sống khôn, thác thiêng, xin ông phù hộ cho gia đình thoát qua được cơn hiểm nghèo nghiệt ngã này, để còn có cơ hội chôn cất di hài ông êm thắm! Không ngờ một chuyện lạ của đời người đã xảy đến, chẳng khác nào như lời khấn vái của ông MK linh ứng , như linh hồn ông Thành hãy còn lẩn khuất đâu đó, để lôi chân bọn cán bộ CSBV đi qua căn phòng đó. Chúng vừa đi vừa chuyện trò với nhau, và vẫn ra lệnh mở từng cửa phòng, nhưng không còn vẻ tích cực soi mói như vài giây đồng hồ trước đó. Khi chúng đến trước cửa phòng ông Thành nằm, lồng ngực MK tưởng chừng sắp nổ tung. Nhưng chẳng khác nào như một phép lạ, chúng cứ thế đi luôn, không dừng lại, cho đến phòng cuối của từng lầu 2, rồi chúng đi luôn xuống dưới nhà... Nơi đây, chúng dừng lại, ghi vội biên bản, coi như ngôi nhà này vô chủ. Chủ nhân đã bỏ đi ngoại quốc! Thì ra bọn cán bộ này cũng ngờ ngệch lắm.Trong đầu chúng đã bị nhồi chặt cứng một mớ lý thuyết Mác Xít, với những giáo điều rẻ tiền, đâu còn chỗ nào để chứa thêm một thứ hiểu biết gì khác! Nhưng chúng đặc biệt quan tâm đến mọi thứ đồ đạc vật chất trong nhà. Cuối cùng, trước khi ra đi, chúng ra lệnh: Mọi người trong nhà chỉ được phép quây quần ở tầng trệt, không được bén mảng lên lầu. Đồ đạc trong nhà không được tơ hào suy suyển. Sau đó bà Nhơn và ông MK phân công mỗi người một việc cần kíp. Bà Nhơn chạy vội ra phường khai tử cho ông Thành, với lý do bịnh tim. Còn ông MK phóng thẳng về nhà tìm giấy chủ quyền ngôi mộ của bà thân mẫu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi [còn một tầng trên], đem trình ban Quân Quản Nghĩa Trang, để xin đóng dấu cho mai táng. Đến lúc này xét ra cái chết của ông Thành chẳng còn gì cần phải che giấu nữa, nên gia nhân đều được biết hết. Tiếng khóc không còn bị đè nén ấm ức, nghẹn ngào nữa, mà được tự do vang lên, khiến các nhà hàng xóm không khỏi ngạc nhiên. Cách nhà ông Thành chừng hai, ba ngôi biệt thự là trụ sở của "Hội Trí Thức Yêu Nước" thành phố HCM của đám Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Trương Đình Dzu, Trần Thúc Linh v.v...Vì thế nên tin ông Thành qua đời đã mau chóng đến tai những người trong hội ấy. Ngày hôm sau, 2.5.1975, lèo tèo vài thân nhân đến viếng. Trong đám bạn bè, người ta chỉ thấy một mình ông Trần Trung Dung. Ngày 4.5.75, khoảng vài mươi người đã đến tiễn đưa di thể ông Thành đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không khí lo sợ, ngại ngùng lặng lẽ bao trùm hết cả vẻ "tử biệt sinh ly" của một đám tang’… (Đặng Văn Nhâm. Ls. Trần Chánh Thành Đã Coi Cái Chết Nhẹ Như Lông Hồng Để Phản Đối Hành Động Xâm Lăng Của CS Và Cảnh Giác Thế Giới Tự Do. Daichung.com). Ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã chọn cho mình một cái chết can trường để bảo vệ sĩ khí và tiết tháo của một nhân vật chính trị, của một viên chức cao cấp từng mang trọng trách. Khi biết tình thế không còn có thể cứu vãn được, bản thân không mong thấy được thành quả tốt đẹp của lý tưởng đời mình nữa thì ông an nhiên, thanh thản ra đi, quyết không chịu để bị lọt vào tay Cộng quân. Trên chính trường nước ta thời cận đại, một nhân tài, một nhân cách như ông Trần Chánh Thành, rõ ràng là không có nhiều. Ôi cám cảnh thay! Anh hùng mạt lộ! Khi tàn cuộc chiến, nước mất thành đổ, mới rõ mặt anh hùng, bất kể vị anh hùng ấy là võ hay là văn. 37 ----- Forwarded Message ---- From: thanhly <huynhthly@gmail.com> Sent: Tue, January 11, 2011 12:07:11 AM Subject: : Một nén hương cho người nằm xuống
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU: Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia đình dọn về Saigon, Việt Nam . Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với cấp bậc thiếu uý. Hai mươi năm sau, thiếu uý Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày 9-6- 1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005). Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng. Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để “giết người bịt miệng” lúc ngọn sóng Đỏ đang tràn tới. Nhưng cũng có người cho rằng một thế lực khác đã gây ra cái chết nầy. Thế lực đó đã biết được một kế hoặch bí mật giữa các tướng Nguyền văn Hiếu, Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai ở QĐIV/ QKIV, là các vị nầy sẽ tái phối trí và tổ chức lực lượng quân sự tử thủ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu thủ đô Sài gòn rơi vào tay quân Cộng Sản. Và thế lực đó không muốn cuộc chiến kéo dài thêm nữa khi họ đã công khai bắt tay với Việt Cộng vì quyền lợi của họ.
CÁI CHẾT ĐAU LÒNG CHUẨN TƯỚNG TRƯƠNG QUAN ÂN: Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày 24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Nhân dịp bà đi thăm và tặng quà cho các chiến sĩ và gia đình đang đồn trú tại vùng biên giới tây bắc tỉnh Pleiku, ngày 8-9-1968, Ông cùng bà đi chung một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm các căn cứ tiền đồn. Sau khi thăm được vài nơi, trực thăng chở ông bà lại cất cánh để đến nơi khác thì máy bay phát nổ ngay trước mắt các binh sĩ và gia đình. Tất cả những người trên trực thăng đều tử thương, trong đó có Chuẩn Tướng Trương quang Ân và vợ là bà Dương thị Kim Thanh.
NHỮNG TAI NẠN TRỰC THĂNG THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VIẾT THANH: Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968. Hành quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân 38 đoàn vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh Kiến Tường. Tất cả số người có mặt trên hai chiếc trực thăng đều tử nạn. CHUẨN TƯỚNG PHAN ĐÌNH SOẠN: Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến 31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày 1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về, trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm. Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn Trà, quận ba thành phố Đà Nẳng. Toàn bộ người trên máy bay đều chết và tìm được thi hài. Cùng đi với tướng Phan đình Soạn có đại tá Ngô hân Đông, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QĐI/ QKI. CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN HUY ÁNH: Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày 27-2-1972. CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN ĐIỀM Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, năm 1973. Ông được hăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông bị rơi gần bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vào 8giờ tối ngày 28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam . NHỮNG VỊ TƯỚNG TỰ SÁT CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ: Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày 30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh Bình Dương. THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ: Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum, Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi thở cuối cùng của ông. CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI: Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày 1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972). 39 Trong ngày 30-4-1975, khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của mình. Vị sĩ quan tuỳ viên sau khi phát giác chủ tướng của mình đã quyên sinh, đã đưa ông qua Tiểu đoàn 7 Quân Y mong cứu được ông, nhưng mọi nổ lực đều quá muộn. Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc độc chuẩn tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.
CHUẨN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG: Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/ QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973).
Khoảng 19:30 giờ ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ, Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp, dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975. THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM : Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy, tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5 Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng 11-1974) với cấp thiếu tướng. Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
CHẾT TRONG TÙ CỘNG SẢN THIẾU TƯỚNG ĐOÀN VĂN QUẢNG: • Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam . • 1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật) • 1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu. • 1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB. • 7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB. • 1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt. • 1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng. • 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984. CHUẨNTƯỚNG BÙI VĂN NHU Sinh ngày 26-12-1920 tại quận Bến Lức tỉnh Long An, bắt đầu phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia năm 1939 từ ngạch Thư Ký phiên dịch. • Từ 1949 đến 1952, Biên Tập Viên Chánh Sở Trung Ương Tình Báo. • 1952-1958: Quận Trưởng Hạng 4 Thanh Tra Tổng Nha CSQG • 1958-1960: Quận Trưởng Hạng 3 Giám Đốc TTHL/CS & CA • 1960-1962: Quận Trưởng Hạng 2 Phụ Tá Khối CS Đặc Biệt Tổng Nha CS • Đến năm 1966-1971, ông lên đến ngạch Quận Trưởng Thượng Hạng và đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng Giám Đốc Tổng Nha CS. 40 • 1971-1975: Đại tá CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha • 01-2-1975: Chuẩn tướng CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha CS. Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.
CÁC VỊ TƯỚNG MỸ TỬ THƯƠNG TẠI VIỆT NAM
THIẾU TƯỚNG WILLIAM JOSEPH CRUMM: Sinh ngày 20-9-1919, Scarsdale New York, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Không Quân thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Lược, Mỹ. Ngày 7-7-1967, tướng W. J. Crumm đích thân lái một chiếc B.52 dẫn đầu một hợp đoàn gồm 3 chiếc B.52 đến yểm trợ chiến trường ở miền Nam Việt Nam. Lúc còn cách ngoài khơi tỉnh Vĩnh Bình (vùng 4 chiến thuật) khoảng 32km, tai nạn xảy ra khi hai chiếc B.52 chạm cánh vào nhau và rớt xuống biển đông VNCH. Có sáu người bị chết (không tìm được xác) và bảy người được cứu sống. Trong số người tử nạn có thiếu tướng W. J. Crumm. Ông là sĩ quan cấp tướng đầu tiên của quân đội Mỹ chết tại chiến trường Việt Nam . THIẾU TƯỚNG ROBERT FLANKLIN WORLEY: Sinh ngày 10-10-1919, Riverside California . Nguyên Tư Lệnh Phó Không Lực 7, Không Lực Thái Bình Dương. Ngày 23-7-1968, tướng R.F. Worley tự mình lái chiếc máy bay phản lực loại RF-4C Phantom, đến yểm trợ một đơn vị bạn ở hưóng tây-nam Huế thì máy bay bị trúng đạn phòng không của Cộng sản Bắc Việt. Chiếc Phantom được ghi nhận đâm vào một sườn núi, khoảng 85km tây-bắc phi trường Đà Nẳng. THIẾU TƯỚNG BRUNO ARTHUR HOCHMUTH: Sinh ngày 10-5-1911 Houston, Texas, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Thuỷ Quân Lục Chiến, hoạt động trong hai tỉnh Thưà Thiên và Quảng Trị. Vào ngày 14-11-1967, tướng B.A. Huchmuth đang trên đường đến thăm chuẩn tướng Ngô quang Trưởng, Tư Lệnh SĐI/BB thì trực thăng của ông bổng dưng phát nổ trên không tại hướng tây bắc thành phố Huế. Trong số những quân nhân Mỹ tử nạn trên chiếc trực thăng còn có thiếu tá Nguyễn ngọc Chương là sĩ quan liên lạc SĐI/BB cạnh Bộ Tư Lệnh SĐ3/ TQLC Mỹ. Thiếu tướng B.A.Hochmuth là vị tướng duy nhất của TQLC Mỹ chết tại chiến trường Việt Nam . THIẾU TƯỚNG KEITH LINCOLN WARE: Sinh ngày 23-11-1915, Denver Colorado , nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Sư đoàn Anh Cả Đỏ, The Big Red One Division). Ngày 13-9-1968, trong lúc đang chỉ huy đơn vị cơ hữu chạm súng với VC, chiếc trực thăng chỉ huy của ông bị trúng đạn phòng không của VC, và bị rơi ở địa điểm khoảng 6km tây-bắc Lộc Ninh tỉnh Bình Long. CHUẨN TƯỚNG WILLIAM ROSS BOND: (Chúng tôi tạm dịch chức vụ Brigadier General, tướng một sao của quân đội Mỹ là chuẩn tướng) Sinh ngày 4- 12-1918, Portland , Maine , nguyên Tư Lệnh Lữ Đoàn 199 Bộ Binh. Ngày 1-4-1970, lúc nhận được tin một đơn vị của mình là Chi đội 2, Chi đoàn D, Thiết đoàn 17 Kỵ Binh bị địch tấn công khi đang hộ tống một đoàn xe tiếp tế trên tỉnh lộ 15, phía nam Võ Xu tỉnh Long Khánh. Tướng W.R. Bond đã đáp trực thăng của mình xuống ngay trận địa để đôn đốc chiến sĩ. Khi ông chạy khỏi máy bay độ vài thước thì bị trúng đạn ngay vào ngực. Trực thăng khẩn cấp đưa ông khỏi trận địa, nhưng ông đã tắt thở lúc còn trên không. Chuẩn tướng W.R. Bond là vị tướng thứ nhất của quân đội Mỹ tử trận ngay trên mặt đất Việt Nam , không phải trên máy bay. 41 THIẾU TƯỚNG ALBERT BROADUS DILLARD, JR: Sinh ngày 1-9-1919, Lake Charles , Louisiana , nguyên Tư Lệnh Công Binh Mỹ ở Việt Nam . Ông bị tử thương ngày 12-5-1970 lúc từ Pleiku bay trực thăng dến trại Biên Phòng Plei D’Jreng để thám sát Tỉnh lộ 509. Trực thăng của tướng J.B. Dillard bị trúng đạn phòng không của CS và phát nổ. Địa điểm xảy ra khoảng 16 km hướng tây-nam thị xã Pleiku. THIẾU TƯỚNG GEORGE WILLIAM CASEY: Sinh ngày 9-3-1922, Allston Massachusetts , nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn I Không Kỵ (The First Air Calvary Division). Ngày 7-7-1970, tướng G.W. Casey từ Phước Vinh tỉnh Tuyên Đức, dự tính đến thăm thương binh ở bệnh viện dã chiến Cam Ranh. Trên đường bay, trực thăng chở ông bị trúng đạn phòng không của CS Bắc Việt và đâm xuống đất. Hải Quân Đề Đốc (THIẾU TƯỚNG) REMBRANDT C. ROBINSON: Sinh ngày 2-10-1924 Clearfield Pennsylvania . Nguyên Hạm Trưởng (Soái Hạm) Khu Trục Hạm USS Flotilla 11, kiêm Tư Lệnh Chiến Đoàn Khu Trục Hạm thuộc Hạm Đội 7. Vào buổi tối ngày 8-5-1972, sau khi dự họp trên một chiến hạm gần đó, ông dùng trực thăng trở về soái hạm thì tai nạn xảy ra lúc máy bay không đáp đúng vị trí trên tàu. Trực thăng lao xuống biển và vở tan làm chết tất cả những người trên trực thăng. Nơi xảy ra tai nạn nằm ngoài khơi biển đông Việt Nam , gần bán đảo Đồ Sơn thành phố Hải Phòng, Bắc Việt. Đề đốc R.C. Robinson là vị tướng Hải quân duy nhất của quân đội Mỹ bị chết trong chiến cuộc Việt Nam . CHUẨN TƯỚNG RICHARD JOSEPH TALLMAN: Sinh ngày 28-3-1925, Honesdale Pennsylvania , nguyên Tư Lệnh Phó Bộ Tư Lệnh Vùng 3 Yểm Trợ (Third Regional Assistance Command: TRAC). Ngày 9-7-1972, tướng R.J. Tallman đáp trực thăng xuống An Lộc, tỉnh Bình Long để họp với thiếu tá Joe Hallum thuộc toán cố vấn Trung đoàn 48/BB và đại uý Willbanks, toán cố vấn Trung đoàn 43 SĐ 18/BB. Cuộc họp bàn thảo về sự phối hợp yểm trợ cho lực lượng phòng thủ ở thị xã An Lộc. Lúc trực thăng sắp cất cánh thì quân VC tập trung pháo kích dữ dội vào khu vực bải đáp làm chết tại chổ bốn người. Chuẩn tướng Tallman bị thương nặng, được tản thương về bệnh viện 3 dã chiến tại Saigon, và chết lúc còn trên bàn mổ. Có tất cả 11 vị tướng Mỹ chết ở Việt Nam . Ngoài ra còn 2 vị tướng chết vì bạo bệnh.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2019 16:18:09 GMT 9
𝐓𝐡𝐢𝐞̂́𝐮 𝐓𝐮̛𝐨̛́𝐧𝐠 𝐍𝐠𝐮𝐲𝐞̂̃𝐧 𝐊𝐡𝐨𝐚 𝐍𝐚𝐦 - 𝐇𝐚̀𝐨 𝐊𝐢𝐞̣̂𝐭 𝐏𝐡𝐮̛𝐨̛𝐧𝐠 𝐍𝐚𝐦 𝑽𝒊́ 𝒑𝒉𝒐̉𝒏𝒈 đ𝒖̛𝒐̛̀𝒏𝒈 đ𝒐̛̀𝒊 𝒃𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒑𝒉𝒂̆̉𝒏𝒈 𝒄𝒂̉ 𝑨𝒏𝒉 𝑯𝒖̀𝒏𝒈, 𝑯𝒂̀𝒐 𝑲𝒊𝒆̣̂𝒕, 𝒄𝒐́ 𝒉𝒐̛𝒏 𝒂𝒊 !
Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời, cựu SVSQ khóa III Thủ Đức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khóa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Đức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. (Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Đến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệm. Đó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chỗ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù khổ sai của bọn cộng sản man rợ, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh. 1. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại thành phố Tourane (Đà Nẵng) ngày 23 tháng 9 năm 1927.(Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sài Gòn, anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Đà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương. 2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường École des Garcons thành phố Đà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Định và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Đến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Đệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế. Năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Đức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2. 3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sài Gòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam. Chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau. Chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Đức.(Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó. Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thì không thay đổi được. Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sài Gòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Úy, tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không. Anh cười và nói: "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm." Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi. Năm 1955, anh làm Đại Đội Trưởng thuộc TĐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sài Gòn. Sau đó anh được thăng Đại Úy và Sư Đoàn cử anh đi học kỹ thuật ở Pau (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Đua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-1975. Thật ra thì ít khi về đây, phần lớn thời gian ở trong đơn vị, vả lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này, nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn. Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Đại Đội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang lon Đại Úy từ 1955-1964. Qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá. Từ lúc nắm TĐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. (Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Năm 1966, khoảng tháng 3, TĐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 22 BB tổ chức, anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tắm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi. Đây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá. Vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ." Lần đó, anh được ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau đó tháng 5 năm 1966, TĐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.(Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND. Lữ Đoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Đại Tá với Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Năm 1968, LĐ3ND về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn Chợ Lớn. Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SĐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Đến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức. Tháng 10 năm 1973, được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ. Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.(Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh, Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sài Gòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nửa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000 đồng tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến Hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975. Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.(Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sài Còn về Cần Thơ xin hốt cốt, lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning. Bộ xương đã được thiêu liền khi đó. Khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ, đem về Sài Gòn ngay hôm đó. Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lâm với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lâm, đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Định. Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi cách xa nhau. Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu. Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì. (Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước) Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm, nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SĐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp. Các Cha, các Thày cũng vậy thôi. Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ. Hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc trung học, đã là một họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bày ở triển lãm. Trong các năm tản cư 1946-1947, suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại: sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật Giáo. Ông luôn luôn lẩm bẩm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi. (Sài Gòn trong tôi - Nguyễn Khoa Phước)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 8, 2020 15:58:23 GMT 9
VỊ TƯỚNG TÀI ĐỨC SONG TOÀN Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu
Trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chống lại làn sóng đỏ xâm lăng của khối cộng quốc tế, mà quân đội cộng sản Bắc Việt chính là con tốt, ngụy quyền Hà Nội là tay sai, xua người Việt giết người Việt, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nỗ lực chính đã nhận trọng trách bảo vệ phần đất còn lại của nước Việt Nam Cộng Hòa dù còn non trẻ, vũ khí thiếu thốn, đã chận đứng được những đợt sóng cuồng chiến quá hung hãn của binh đội Bắc Việt, nhiều lúc tưởng chừng phải ngã quị, rồi cũng đứng lên được và đánh những trận long trời vang danh chiến sử. Để có thể làm được những điều kỳ diệu đó, QLVNCH đã hun đúc và cống hiến cho tổ quốc không biết bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, mà đã đem máu xương viết thành những trang lịch sử chói lọi. Những vị tướng lãnh xuất sắc nhất của QLVNCH đã chứng minh với thế giới, với những nhà viết quân sử và với những người có thiên kiến khắt khe với Việt Nam Cộng Hòa lẫn thân cộng, rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi đã được chỉ huy bởi những anh hùng kiệt xuất, thì quân đội đó trở nên một quân đội thiện chiến, có khả năng bảo vệ được đất nước. Một trong những vị Tướng mà đã nhận được sự nể phục của đồng ngũ và của cả các giới chức quân sự cao cấp Hoa Kỳ tại Việt Nam chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong QLVNCH, từng làm Tư Lệnh các Sư Đoàn 22 Bộ Binh và Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tham Mưu Trưởng tại các Quân Đoàn và làm Tư Lệnh Phó phụ tá cho những danh tướng khác của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng của Thiếu Tướng Hiếu không chỉ hạn chế trong chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn hay Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, nếu cấp chỉ huy cao nhất Việt Nam Cộng Hòa không vì bè phái, tín nhiệm Thiếu Tướng Hiếu vào những vị trí Tư Lệnh Quân Đoàn, thì chắc chắn Thiếu Tướng Hiếu còn đóng góp được nhiều việc to lớn và có ý nghĩa hơn nữa cho đất nước. Tên tuổi của Thiếu Tướng Hiếu và những đóng góp thầm lặng cho tổ quốc không được dân chúng biết đến nhiều. Chỉ mãi đến khi ông được Phó Tổng Thống Trần Văn Hương tin cẩn trao cho trách vụ Phụ Tá Đặc Trách œy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Phủ Phó Tổng Thống. Với bản tính thanh liêm, trung trực, ông kiên quyết phanh phui và vạch trần vụ tham nhũng lớn nhất của tập đoàn tướng tá Bộ Quốc Phòng ra ánh sáng, về tội đục khoét, ăn chận tiền xương máu của chiến sĩ QLVNCH trong Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội. Ông làm mạnh quá, thẳng quá, Tổng Thống Thiệu trước sự đã rồi, mặc dù ông muốn dàn xếp nhận chìm xuồng vụ án này, buộc phải cách chức Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Văn Vỹ và nhiều nhân vật khác. Cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hiếu chỉ lên đến mức cao nhất là làm Tư Lệnh Phó rồi đứng chựng lại, bởi vì ông không được lòng cấp lãnh đạo. Tuy nhiên nếu chúng ta biết rằng Thiếu Tướng Hiếu từng làm Tư Lệnh Phó cho lần lượt ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn III là Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, điều đó chứng minh tài năng của Tướng Hiếu, một nhân vật chiến lược không thể thiếu được trong bộ máy điều hành cấp quân đoàn, mà lại là Quân Đoàn III quan trọng nhất. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu không có cái may mắn được sanh ra trên đất mẹ Việt Nam. Ông chào đời trên đất Trung Hoa và lớn lên tại Thượng Hải, sinh sống cùng gia đình trong phần đất tô giới của người Pháp. Tuy nhiên chàng thanh niên Nguyễn Văn Hiếu lại có cái may mắn hấp thụ nền giáo dục phương Tây lẫn phương Đông, giúp ông thông thạo nhiều sinh ngữ quan trọng như Anh, Pháp, Đức và Quan Thoại. Ông cũng hướng niềm tin của ông vào Chúa và hấp thụ rất nhiều nền giáo dục tâm linh thánh thiện của Dòng Tên. Năm 1949, quân Trung Cộng vào tiếp thu Thượng Hải, ông đang học năm đầu ngành kỹ thuật tại đại học Aurore do các linh mục Dòng Tên (Jesuit) Pháp điều hành, thì phải tạm thôi học theo gia đình hồi hương về Sài Gòn trên một chiến hạm Pháp. Kiến thức về khoa học trong trường Aurore và trong thời gian học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt hai năm sau đã giúp cho ông có một căn bản vững chắc về các loại kỹ thuật áp dụng trong quân sự, từ truyền tin, công binh, pháo binh, cơ giới, chiến xa. Vì vậy khi đề cập tới bất cứ loại súng lớn nhỏ nào, bất cứ loại máy bay nào, loại máy truyền tin nào, loại xe tăng nào, ngay cả những máy dĩa hát hay những máy chụp hình Polaroid mới sáng chế hồi đó, Tướng Hiếu đều có thể chỉ vẽ tường tận cho người nghe mọi ưu khuyết điểm kỹ thuật của từng loại một. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Văn Hướng khi về đến Sài Gòn ở được vài tháng lại dọn ra Hà Nội và được tín nhiệm trao giữ chức Phó Giám Đốc Công An Bắc Phần. Về sau khi trở vào Nam, trong những thập niên 1950, cụ Hướng lại được cất nhắc làm phó cho Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Năm 1950, chàng thanh niên Hiếu ghi tên xin học Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ông được nhập học Khóa 3. Thuở đó các quân trường vẫn do hầu hết các sĩ quan và huấn luyện viên người Pháp giảng dạy. Sinh Viên Sĩ Quan Nguyễn Văn Hiếu đỗ điểm nhất, nhưng ông phải nhường chức thủ khoa cho một đồng đội gốc miền Trung đồng hương với Quốc Trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên sau khi ra trường tân Thiếu Úy Nguyễn Văn Hiếu vướng phải bệnh lao, vì trong thời gian hoạt động thể dục thể thao ở trường ông đã cố quá sức và bị nhiễm lạnh, nên ông được cho nghỉ dưỡng bệnh. Các bạn đồng khoá một số lớn được gửi ra tham chiến tại Điện Biên Phủ và trên các chiến trường khác. Năm 1954, Đại Úy tân thăng Nguyễn Văn Hiếu lập gia đình, ông cùng với gia đình lần lượt di cư vào Miền Nam. Chính thức phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, chính là ở môi trường này, tài năng quân sự và tham mưu của ông mới được dịp nảy nở và phát triển. Ông là một trong số vài vị Tướng đi lên chức vụ cao trong quân đội không phải vì những chiến công ngoài chiến trường, mà là do tài năng tham mưu từ cấp thấp và từ đơn vị nhỏ đi dần lên. Trung Tướng Đỗ Cao Trí lúc còn làm Tư Lệnh ngoài Vùng I Chiến Thuật đã sớm nhận ra tài năng của Thiếu Tá Nguyễn Văn Hiếu, đã thăng cấp cho ông lên Trung Tá, sau khi Thiếu Tá Hiếu vừa mới đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp từ Hoa Kỳ về hồi tháng 6.1963, và cử Trung Tá Hiếu làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I. Một vị Tướng năng nổ xông xáo và dũng cảm ngoài chiến trường, nổi danh tài hoa trong giới thượng lưu là Tướng Đỗ Cao Trí, và một vị Tướng có cuộc sống đơn giản thanh bạch, không khoa trương ồn ào, điềm tĩnh và khiêm nhường trong bóng tối, lại là một cặp chiến tướng kiệt xuất hết sức ăn ý và tri kỷ. Hai vị Tướng đều nể trọng tương kính nhau và đã đưa quân đội Việt Nam Cộng Hòa gặt hái nhiều chiến thắng vang dội. Thiếu Tướng Hiếu hai lần được tín nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, một sư đoàn thiện chiến mà đã cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa những sĩ quan trẻ ưu tú và nhiều triển vọng như các vị Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Nguyễn Hữu Thông, Lê Cầu. Trong thời gian làm Tư Lệnh SĐ22BB, bản tính trung trực thẳng thắn và kính nể sĩ quan thanh liêm, Tướng Hiếu đã bày tỏ quan điểm bất phục về việc Trung Tướng Vĩnh Lộc thuyên chuyển Trung Tá Trần Văn Hai, Tỉnh Trưởng Phú Yên về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Trung Tá Trần Văn Hai rất được lòng quân dân tỉnh Phú Yên, dưới sự chăm sóc tận tụy của ông, toàn tỉnh Phú Yên đã hưởng được những ngày thái bình. Bọn Việt Cộng địa phương không dám ngóc đầu dậy quấy phá, vì bị ngăn chận bởi những cuộc hành quân bình định rất hiệu quả của Trung Tá Hai. Trung Tá Hai chỉ có một "lỗi" là dám cưỡng lệnh vị Tư Lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật, không chịu đem công xa chở người thân của ông này và dùng công ốc để cho người này lưu trú trong thời gian ở Phú Yên. Thiếu Tướng Hiếu có mối giao hảo rất tốt đối với các vị chỉ huy trưởng Mỹ trong vùng trách nhiệm của SĐ22BB và các vị Tư Lệnh quân đội Đại Hàn tại Bình Định. Có một lần, một Thiếu Tướng Tư Lệnh một sư đoàn Đại Hàn sang thăm Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Trong cuộc nói chuyện với Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, ông này luôn tỏ vẻ tự hào là đã từng tốt nghiệp khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ, vì quân đội Đại Hàn rất ít người có khả năng theo học khóa này. Ông Tư Lệnh Đại Hàn hỏi Thiếu Tướng Hiếu trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa có được bao nhiêu sĩ quan đi học khóa này. Thiếu Tướng Hiếu nhã nhặn trả lời, rằng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông không được rõ có bao nhiêu sĩ quan được gửi đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, nhưng trong Sư Đoàn 22 Bộ Binh có ông và Trung Tá Lê Khắc Lý đã tốt nghiệp khóa này. Vị Tư Lệnh Sư Đoàn Mãnh Hổ ngạc nhiên cực kỳ, bỏ hẳn thái độ kiêu ngạo. Từ đó ông tỏ vẻ rất kính nể Thiếu Tướng Hiếu và các sĩ quan tham mưu SĐ22BB, mối giao tình giữa hai vị Tướng trở nên rất tốt đẹp. Cho nên trong cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi có khoảng 200 tên Việt Cộng khuấy phá thị xã Qui Nhơn, nhận được lời yêu cầu giúp quân của Tướng Hiếu, vị Tư Lệnh Sư Đoàn Mãnh Hổ đã gửi ngay quân tới thanh toán nhanh chóng các vị trí VC. Một chiến công lớn khác nữa của Thiếu Tướng Hiếu mà đã làm vị Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ nể phục tài chiến lược chiến thuật và cung cách chỉ huy rất mực binh thư bài bản trong cuộc hành quân Đại Bàng 800 phối hợp Việt-Mỹ-Hàn trong năm 1967. Theo kế hoạch thỏa thuận giữa các lực lượng, thì sư Đoàn 22 Bộ Binh nhận nhiệm vụ bình định bốn quận phiá Bắc đông dân cư nhất tỉnh Bình Định là: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ và Phù Cát. Khu vực phiá Nam gồm các quận: Qui Nhơn, Tuy Phước, Phú Phong và Văn Canh thuộc vùng hành quân của Sư Đoàn Mãnh Hổ. Bốn quận phiá Tây là An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão và Hoài Ân là vùng núi non hiểm trở, Sư Đoàn 1 Không Kỵ nhận trách nhiệm lùng và diệt địch. Lực lượng Hoa Kỳ rất xông xáo và hành quân trong ba ngày đầu và đã phá được rất nhiều kho lúa gạo dự trữ và khu hậu cần kiên cố của VC trong vùng Vĩnh Thạnh và Hoài Ân, nhưng Sư Đoàn 3 Sao Vàng của Bắc Việt đã tránh né đụng độ với quân Mỹ. Vị Thiếu Tướng Hoa Kỳ yêu cầu Thiếu Tướng Hiếu chuyển quân Sư Đoàn 22 về vùng An Lão bao vây SĐ3BV với SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tướng Hiếu cương quyết từ chối, vì ông biết Sư Đoàn 3 Sao Vàng đang di chuyển về khu vực giữa quận Hoài Ân và Phù Mỹ. Trung Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã khéo léo dùng tiền bạc mua chuộc được một người du kích VC để người này cung cấp tin tức cho Trung Tá Tiếu. Nhờ đó quân ta biết chắc SĐ3 Sao Vàng đang lảng vảng trong khu vực hành quân của SĐ22BB. Thiếu Tướng Hiếu rất sở trường về chiến thuật nhử địch lộ diện để đập. Những con chuột rất sợ ánh sáng và tiếng động, cho nên nhử chúng ra ngoài để giết là chuyện cực kỳ khó khăn. Thiếu Tướng Hiếu lệnh cho Trung Tá Bùi Thạch Dzần, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 41 Bộ Binh chỉ đem hai tiểu đoàn bộ binh và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn vào vùng hành quân thật sớm. Khi vào đến vị trí lúc gần 3 giờ chiều thì Trung Tá Dzần cho binh sĩ đóng quân, nấu ăn rùm beng và đào công sự ra vẻ ở đêm. Đây là vùng xôi đậu, bọn VC nằm vùng sẽ bò vào quan sát lấy phiên hiệu Trung Đoàn và bò trở ra báo cáo cho gã SĐ3 Sao Vàng. Từ đó gã sẽ điều quân tới đánh tiêu diệt Trung Đoàn. Thực ra, Thiếu Tướng Hiếu đã ém một tiểu đoàn và hai Chi Đoàn Thiết Vận Xa tại một địa điểm cách đó 10 cây số, chờ khi địch tấn công quân Trung Đoàn 41, ông sẽ điều lực lượng này đánh bọc hậu, bao vây và tiêu diệt địch. Đúng như tiên liệu của Tướng Hiếu, lúc 2 giờ sáng, một trung đoàn cộng quân tấn công vị trí của Trung Tá Dzần dữ dội, tưởng chừng có thể đánh tan tành Trung Đoàn 41. Lực lượng tăng viện của ta liền thần tốc tiến quân dưới ánh sáng hỏa châu sáng rực như ban ngày của SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ thả yểm trợ và pháo binh của Sư Đoàn 22 Bộ Binh bắn dội lên đầu giặc. Quân SĐ22 áp dụng chiến thuật nội công ngoại kích, Trung Đoàn 41 đánh ép từ trong ra, lực lượng tăng viện đánh thốn từ ngoài vào, trung đoàn cộng quân bị kẹt ở giữa đành chịu chết. Chiến sĩ Trung Đoàn 41 đã canh súng chờ giặc từ lâu, nên khi những đợt biển người của giặc tràn lên ngoài đồng trống, đã là những cái bia sống rất tốt cho quân ta bắn hạ. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 5 giờ sáng thì địch quân rút chạy tán loạn, bỏ lại trên chận địa hơn 300 xác, vũ khí gãy nát vì đạn và pháo cùng đạn dược nằm ngổn ngang ngoài chiến trường. Mười lăm phút sau, Tướng Hiếu và Tướng Hoa Kỳ đáp xuống trận địa quan sát. Đến lúc đó vị Tướng Hoa Kỳ mới thật sự thán phục con mắt chiến lược và tài điều binh thần sầu của tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ còn cần phải học hỏi rất nhiều ở người Việt Nam trên các chiến trường. Vị Tướng Mỹ cũng bắt tay khen ngợi Trung Tá Trịnh tiếu đã gài người và cung cấp tin tức tình báo thật chính xác. Như vậy chính Trung Tá Tiếu đã góp công rất lớn đưa SĐ22BB đến chiến thắng lớn vang dội này và làm cho Tướng Lãnh Hoa Kỳ khâm phục tài năng của sĩ quan Việt Nam. Người anh hùng Nguyễn Công Trứ ngày xưa khi đem quân đi đánh Nùng Văn Vân cũng đã cố ý cho quân sĩ lộ mục tiêu, ăn nhậu ngày này qua ngày khác, còn cụ thì rước ả đào lên ca múa inh ỏi suốt đêm dụ cho Nùng Văn Vân chường mặt dẫn quân đến đánh. Rất khó bắt Nùng Văn Vân vì ông này lủi trốn giỏi hơn cả chuột. Quân phục kích nhà Nguyễn đổ ra bao vây đánh tiêu diệt quân Nùng và bắt được Nùng Văn Vân. Tướng Hiếu nổi danh là người nghiền ngẫm binh thư Đông Tây, chắc ông rất thích thú và ngưỡng mộ tài hành binh thần sầu của cụ Nguyễn Công Trứ. Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí khi về nắm Quân Đoàn III đã dám cách chức vị Tư Lệnh tiền nhiệm Sư Đoàn 5 Bộ Binh và trao cho Thiếu Tướng Hiếu chức Tư Lệnh này. Một sự trùng hợp lý thú khác mà đã nâng cao tinh thần chiến sĩ Quân Đoàn III lên cao, góp phần dẫn đến những chiến thắng lừng lẫy trong chiến dịch tấn công qua đất Kampuchea năm 1970. Đó là sự có mặt của hai Vị Tướng xuất sắc cũng cùng Khóa 3 Đà Lạt với Thiếu Tướng Hiếu. Tướng Trí bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Cả ba sư đoàn đều lần lượt gửi quân tham chiến bên xứ Chùa Tháp và đều đạt chiến thắng. Trong khoảng đầu tháng 1.1971, khi nhận lệnh Tổng Thống Thiệu ra thay Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy mặt trận Hạ Lào, Trung Tướng Trí đồng ý với điều kiện TT Thiệu bổ nhiệm Thiếu Tướng Hiếu lên làm Tư Lệnh QĐ III, vì ông biết Thiếu Tướng Hiếu có đầy đủ khả năng thay thế ông tiếp tục dẫn dắt đoàn quân Tây chinh của ta. Lời yêu cầu không được đáp ứng, Trung Tướng Trí bị tử nạn trực thăng trên không phận Tây Ninh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh lên thay. Những chiến thắng huy hoàng của QĐ III bắt đầu có chiều hướng đi xuống. Tiếng nói của các vị Tướng Hiếu, Thịnh và Thơ không được Tướng Minh coi trọng. Hơn thế nữa, Tướng Minh còn tự tiện giải tán Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Xung Kích, một lực lượng đột phá hữu hiệu và kinh khủng lên các tuyến địch quân trong thời Tướng Trí. Quân Việt Nam Cộng Hòa mất đi một quả đấm mạnh để làm cho địch quân kiêng sợ. Đoàn quân Tây chinh của ta lục tục được điều động về gần biên giới. Trung Tướng Trí mất đi, Thiếu Tướng Hiếu mất một người chiến hữu tri kỷ và mất một người đỡ đầu để ông thực hiện kế hoạch dụ địch, đánh một trận long trời lở đất và quyết định để tiêu diệt khối sinh lực địch. Theo như kế hoạch mà đã được Trung Tướng Trí đồng ý, cuộc hành quân Toàn Thắng 02/71 sẽ được tổ chức từ tháng 3.1971 đến tháng 6.1971, Thiếu Tướng Hiếu sẽ dùng Trung Đoàn 8 Bộ Binh của SĐ5BB nhử địch trong khu vực Snoul. Nếu Sư Đoàn 5 Bắc Việt chấp nhận giao tranh và tung các Trung Đoàn 174 và 275 đánh Trung Đoàn 8, Quân Đoàn III sẽ sử dụng lập tức từ một đến ba sư đoàn bao vây tiêu diệt SĐ5BV. Kế hoạch đang tiến triển thuận lợi, sau nhiều lần đánh thăm dò, SĐ5BV có dấu hiệu lọt bẫy Tướng Hiếu, chúng điều quân bao vây Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Nhưng không may cho ông và cho QĐ III, Tướng Trí tử nạn, Tướng Minh không mặn mà với kế hoạch. Ông do dự giữa áp lực của phiá cố vấn Mỹ đòi thay đổi kế hoạch, vẫn nhử cho SĐ5BV lộ diện bao vây Trung Đoàn 8 rồi dùng B52 trải thảm tiêu diệt, thay vì dùng ba Sư Đoàn 5, 18 và 25. Thiếu Tướng Hiếu lưu ý Tướng Minh, rằng dùng B52 rải bom không những giết chết SĐ5BV mà còn tàn sát luôn Trung Đoàn 8, như vậy cái giá của chiến thắng là sinh mạng của hàng ngàn chiến sĩ Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Đánh giặc theo cái kiểu giết người hàng loạt như vậy thì dễ quá, ấu trĩ quá và tàn nhẫn quá. Một người Tướng có tài là khi mà ông ta dùng một số ít chiến sĩ thiện chiến cộng với mưu lược mà có thể tiêu diệt được một quân số lớn của giặc, thì vị Tướng ấy mới xứng đáng được kính trọng là tướng tài. Thiếu Tướng Hiếu nhắc nhở nếu như Trung Tướng Minh không dứt khoát chọn được một giải pháp nào, thì nên rút ngay Trung Đoàn 8 về, kẻo khi SĐ5BV bao vây trùng điệp thì đã quá muộn. Tướng Minh vẫn lừng khừng không quyết, cho đến khi tình hình suy sụp trầm trọng, Trung Đoàn 8 bị bao vây tại Snoul và sắp sửa bị tràn ngập, ông đã phủi tay nói với Tướng Hiếu: "Anh muốn làm gì thì làm đi." Thiếu Tướng Hiếu không còn chọn lựa nào khác, ông và các sĩ quan tham mưu sư đoàn đã dũng cảm đáp trực thăng bay vào Snoul, hạ xuống bản doanh Trung Đoàn 8, trong lúc ngoài vòng rào quân giặc đang mở những đợt tấn công dứt điểm. Một buổi họp chớp nhoáng được tổ chức, Tướng Hiếu trực tiếp ban lệnh và vạch kế hoạch triệt thoái ra khỏi Snoul. Sự có mặt của vị Tư Lệnh Sư Đoàn khả kính đã nâng tinh thần chiến sĩ Trung Đoàn 8 lên cao, thêm nữa hai vị Trung Đoàn Trưởng và Trung Đoàn Phó sẽ cùng rút theo đường bộ với các đơn vị. Các sĩ quan cao cấp của SĐ5BB đã nêu tấm gương quả cảm, không bỏ chạy trước và quyết sống chết với chiến sĩ. Cho nên quân sĩ Trung Đoàn 8 đã giữ vững kỷ luật không quăng súng đạp lên nhau chạy, theo kế hoạch rút, các đơn vị bình tĩnh yểm trợ nhau di tản. Cuộc rút quân của Trung Đoàn 8 giữa vòng vây áp sát và hỏa lực kinh khủng của địch dội xuống là cả một trang sử đẫm máu và bi tráng. Để về được bên này biên giới Bình Long, Trung Đoàn 8 Bộ Binh hy sinh 1/3 quân số, vị Trung Đoàn Phó bị tử trận. Thiếu Tướng Hiếu đã giữ được mức thiệt hại tối thiểu cho Trung Đoàn 8 Bộ Binh, nhưng ông vẫn bị đưa ra quốc hội chất vấn về cuộc bại trận của SĐ5BB. Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Đôn hiểu nỗi lòng của người Tư Lệnh cô đơn và đã bênh vực hết lòng cho Thiếu Tướng Hiếu. Tuy vậy Tướng Hiếu cũng bị cách chức Tư Lệnh và được điều động về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đó ít lâu, Bộ Tổng Tham Mưu bổ nhiệm ông ra Miền Trung làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật, phụ tá cho Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm. Thiếu Tướng Hiếu có dịp trở lại chiến trường Miền Đông thi thố tài năng và đóng góp nhiều chiến thắng cho QLVNCH sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết ngày 27.1.1973. Trong năm 1974, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần được Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm làm Tư Lệnh quân Đoàn III và Quân Khu III thay thế Trung Tướng Minh. Tự biết khả năng hạn chế của mình, Trung Tướng Thuần hơn hẳn Trung Tướng Minh về con mắt nhìn người, ông quyết định xin cho bằng được Thiếu Tướng Hiếu về làm Tư Lệnh Phó cho mình. Tại sao ông không xin người khác cùng phe cánh mà lại xin đích danh Tướng Hiếu, điều đó chứng tỏ ông đánh giá rất cao tài năng của Tướng Hiếu. Trung Tướng Thuần cần một vị tướng chiến lược có khả năng chỉ huy quân đoàn để chống ngăn giặc. Ông không cần tướng tham nhũng bất tài, mà sẽ làm cho Quân Khu III đi đứt và đi luôn cái ghế Tư Lệnh Quân Khu của ông. Sự tín nhiệm đó còn được thể hiện thời kỳ Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Nguyẽn Văn Toàn tiếp nối lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trong thời kỳ phục vụ dưới quyền Trung Tướng Thuần, Thiếu Tướng Hiếu đã giúp Trung Tướng Thuần đánh thắng hai trận lớn. Sư Đoàn 18 và Sư Đoàn 5 của ta tiến quân đánh phá và hủy diệt mật khu Tam Giác Sắt và trận Svayrieng với SĐ5BB, Biệt Động Quân, Kỵ Binh đánh tan nát SĐ5BV. Cả hai trận đánh thắng vang dội này, Tướng Hiếu đều dàn quân tấn công theo nhị thức Bộ Binh-Thiết Giáp. Tuy nhiên nhị thức này thành công lớn trên địa thế rộng rãi ít chướng ngại vật trên lãnh thổ Miên hơn là trên địa thế rậm rạp của khu Tam Giác Sắt. Trong trận Svayrieng, được sự hỗ trợ và tin cậy của Trung Tướng Thuần, Thiếu Tướng Hiếu đã tung vào chiến trường toàn bộ 20 tiểu đoàn bộ binh và Mũ Nâu, 3 Chi Đoàn Thiết Kỵ bao vây các đơn vị của SĐ5BV trong vùng Mỏ Vẹt và đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy SĐ5BV, với hơn 1.000 cán binh bị giết, trong khi quân ta chỉ bị tổn thất dưới 100 chiến sĩ. Thiếu Tướng Hiếu đã có được cơ hội dụng võ trên chiến trường rộng lớn bên đất Kampuchea, thay vì bị gò bó bởi những khu vực nhỏ hẹp bên Việt Nam. Trung Tướng Vĩnh Lộc, từng là Tư Lệnh Thiết Giáp của QLVNCH, có nhận xét sau đây về việc sử dụng chiến xa trên chiến trường:
Địa thế và vị trí của nước ta trong phương vị hành quân tìm địch để tảo thanh không tạo được cơ hội để dàn trận một lúc đồng thời cả ba Trung Đoàn cùng các đơn vị yểm trợ. Xét lại từ khi thành lập Sư Đoàn cho đến ngày thất thủ Vùng Cao Nguyên, chưa thấy Khu Chiến Thuật nào hành quân sử dụng toàn thể sư đoàn, nghĩa là cả 3 Trung Đoàn Bộ Binh, Tiểu Đoàn Pháo Binh, Công Binh và Thiết Giáp v.v. Dù muốn cũng không có môi trường để dàn ra cả Sư Đoàn nếu không muốn nói đến hiếm hoi sĩ quan chỉ huy được huấn luyện nghiêm túc điều khiển Đại đơn vị."
Theo quan điểm của Tướng Hiếu thì chiến thuật Kỵ Binh xung kích đạt được thành quả to lớn hơn chiến thuật trực thăng vận "Diều Hâu". Với "Diều Hâu", các đơn vị địch có thể tản quân chạy trốn từ khi nhác thấy hợp đoàn trực thăng của ta từ phiá chân trời. Nhưng với nhị thức Thiết Giáp-Bộ binh, quân ta tấn công thọc sâu vào tận đầu não địch, từ đó tỏa rộng ra bốn phiá đánh phá và tê liệt hóa hậu tuyến địch. Trong nhị thức Bộ Binh-Thiết Giáp, các đơn vị cơ giới có nhiệm vụ tập trung chọc thủng các tuyến phòng thủ chính của địch, trong lúc các đơn vị bộ binh đánh phá tạo hỏa mù và tập trung lực lượng đánh ngang hông địch. Không Quân được tận dụng tối đa để đánh phá các vị trí chiến đấu, các điểm tiếp vận của địch. Trong những ngày đầu tháng 4. 1975, khi các quân đoàn của Bắc Việt rầm rộ theo các trục đường quốc lộ tiến vào lãnh thổ Quân Khu III, thoạt đầu Tổng Thống Thiệu định cử Thiếu Tướng Hiếu ra Phan Rang chỉ huy quân Dù, Mũ Nâu và Sư Đoàn 2 Bộ Binh, nhưng không hiểu sao ông đổi ý và điều Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Trong lúc quân Bắc Việt tràn xuống vùng Long Khánh, Thiếu Tướng Hiếu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III đang nghiền ngẫm kế hoạch dùng chiến xa phản công. Thật đáng tiếc, kế hoạch chưa được vị tướng tài năng này thực hiện thì ông đã bị tử nạn một cách bí mật trong văn phòng của ông tại Biên Hòa ngày 8.4.1975. Cái chết của Thiếu Tướng Hiếu vào thời điểm sôi bỏng của đất nước đã chìm dần vào lãng quên trong những tin tức chiến sự ngày càng bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Người ta vẫn còn nhắc lại nhiều câu chuyện về ông, trân trọng ông như là một vị Tướng thanh liêm trong sạch, có một cuộc sống giản dị và đạo đức. Như câu chuyện của Đại Tá Trịnh Tiếu lúc còn phục vụ dưới quyền Tướng Hiếu tại Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tướng Hiếu đã bảo anh tài xế đem trả thùng sữa Quân Vụ lại cho kho và chỉ nhận đúng tiêu chuẩn sáu hộp cho mỗi chiến sĩ mà thôi. Câu chuyện kể của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng SĐ22BB trong những năm 1966-1969. Đại Tá Lý cho biết Tướng Hiếu sống như một nhà khổ tu. Tướng Hiếu rất trân trọng hạt cơm và thực phẩm của Chúa ban cho, ông thường xuống câu lạc bộ sĩ quan dùng cơm chung với mọi người và không nhận những biệt đãi của nhà bếp, lính ăn cái gì thì ông ăn cái đó, ông không hề khen chê món ăn. Dù có hôm món ăn nấu dở ông vẫn điềm nhiên ăn hết, luôn luôn không để mứa lại một thức gì. Có hôm ông ăn canh, thấy có một con ruồi trôi lềnh bềnh, ông im lặng lấy đũa gắp nó ra và ăn hết tô canh. Câu chuyện khác về sự ngoan đạo và kiến thức sâu sắc về Kinh Thánh của Tướng Hiếu. Trong thời còn làm Tư Lệnh SĐ22BB, một chúa nhật nọ, trong khi ông ngồi xem lễ trong nhà thờ, Cha chủ lễ bất ngờ mời Tướng Hiếu lên bục giảng nói vài lời cùng cộng đồng giáo dân. Thiếu Tướng Hiếu đã ứng khẩu một bài nói chuyện trôi chảy, khúc triết, với đầy đủ những đoạn trích dẫn Thánh Kinh, Tân Ước lẫn Cựu Ước. Câu chuyện kể về tấm lòng nhân đạo của Thiếu Tướng Hiếu dành cho những người cùi bất hạnh ở Trại Cùi Di Linh, ông thường đến thăm viếng trại cùi và an ủi những người bạc phước đáng thương ấy. Ngày 12.4.1972 Thiếu Tướng Hiếu đại diện Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đến Trại Di Linh vào phòng nằm bệnh của Đức Cha Gioan Sanh (Jean Cassaigne) người Pháp, sáng lập viên Trại Cùi Di Linh, trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho người. Cùng với những vị Tướng Lãnh, những sĩ quan các cấp và những chiến sĩ vô danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tử tiết báo đền ơn nước, thà chết không hàng giặc, cái chết oan khuất và bí ẩn của Thiếu Tướng Hiếu đã gây cho tổ quốc và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một tổn thất lớn không gì bù bắp nổi. Giờ đây, anh linh của những vị thần tướng nước Nam Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Nguyễn Văn Hiếu, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Trần Văn Long, các vị Trung Đoàn Trưởng, các cấp sĩ quan, các chiến sĩ vô danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có hiển linh, hãy xin xót thướng cho nỗi khổ đau của dân tộc Việt Nam và ban phép màu cho những người còn đang sống trong nỗi khắc khoải triền miên và trong đêm đen mù mịt. Xin cho được một ngày, ánh sáng lại trở về với những người công chính, xua tan màn u tối của dối trá và bạo lực, để dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu đi vào kỷ nguyên mới của hạnh phúc, tiến bộ và no ấm.
Phạm Phong Dinh Chiến Sử QLVNCH
|
|