|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:25:51 GMT 9
Kỷ niệm 18 năm ngày mất Nhà thơ Quách Tấn. ( 21/12/1992 - 21/12/2010)
* Quách Giao
Kính thưa quí vị ,
Cách đây 69 năm trong cuốn Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết:
Thế rồi một hôm nàng đến với chúng ta và ta thấy nàng khác hẳn. Vẫn khuông mặt cân đối ấy, vẫn cái dáng đi nghiêm chỉnh ấy, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ ấy, nhưng mặn mà, nhưng đằm thắm y như mấy trăm năm trước hồi nàng còn thơ. Nàng theo sau một người bạn mới. Người bạn trân trọng giới thiệu nàng. Ta vồn vã đón tiếp cả hai: Nhà thơ mới Chế Lan Viên, đề tựa Mùa Cổ Điển, một tập thơ cũ, đã khép lại một thời đại trong thi ca.
Một thời đại chẵn 10 năm.
Trong 10 năm ấy thơ mới đã tranh đấu gắt gao với thơ cũ, một bên dành quyền sống, một bên giữ quyền sống.
Người đã khép lại một thời đại trong thi ca đó là nhà thơ Quách Tấn.
Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1910 (tức ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu) tại Thôn Trường Định huyện Bình Khê tỉnh Bình Định.
Quách Tấn tự Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, tiểu hiệu Định Phong, Cổ Bàn nhân,Thi Nại Thị, Lão giữ vườn. Tác phẩm, cả văn lẫn thơ gồm 70 tập. Đã xuất bản được 30 tập. Năm 1987 bị hỏng mắt. Mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 ( 28 tháng 11 năm Nhâm Thìn).
Thơ văn Quách Tấn gồm nhiều thể loại:
1- Về Thơ
- Thất ngôn bát cú gồm các tập: Một Tấm Lòng (1939) Mùa Cổ Điển(1941) Tiếng Vàng Khô, Vị La Phù, Phấn Bướm Còn Vương, Trăm Thiên Đường Luật, Móc Đọng Tàu Cau, Áo Đắp Tâm Tư, Xuân Còn Rơi Rớt ... (còn tại cảo).
- Thất ngôn tuyệt cú gồm các tập: Đọng Bóng chiều (1965)
- Ngũ ngồn tứ tuyệt gồm: Mộng Ngân Sơn (1966), Giọt Trăng (1973)
- Ngũ ngôn bát cú: Cánh Chim Thu (có một số thất ngôn bát cú) (còn tại cảo)
- Lục bát tứ tuyệt gồm : Trăng Hoàng Hôn (1999), Giàn Hoa Lý (còn tại cảo)
- Lục bát nhiều câu : Nửa Rừng Trăng Lạnh, Nhánh Lục... (còn tại cảo)
- Tập Tuyển Thơ : Tuyển Tập Thơ Quách Tấn ( 2006)
2- Thơ Dịch và Biền Ngẫu
- Tố Như Thi Trích Dịch (dịch thơ Nguyễn Du xb năm 1973)
- Lữ Đường Thi Trích Dịch (dịch thơ Thái Thuận đời Lê xb năm 2001)
- Ngục Trung Nhật Ký (dịch thơ Hồ Chủ Tịch)
- Việt Nam Hán Thi Tuyển Dịch (dịch thơ cổ Việt Nam)
- Thơ văn Biền Ngẫu (văn tế)
- Tổng cọng: 10 tập thơ đã xuất bản, 25tập thơ chưa chưa xuất bản
3- Văn Xuôi
- Địa Phương Chí: Nước Non Bình Định (1968), Xứ Trầm Hương(1969), Bước Lãng Du (1998), Cảnh Cũ Còn Đây(còn tại cảo)
- Thi thoại: Thi Pháp Thơ Đường(1998) Trường Xuyên Thi thoại(2000) Hương Vườn Cũ (2007) Trong Vườn Hoa Thơ, Những Bức Thư Thơ, Hứng Phấn Nâng Hương Bát Canh Tập Tàn, Tà Bá Nạp, Luật Thơ Sơ Yếu, Bổ Túc Luật Thơ Sơ Yếu...(còn tại cảo)
- Hồi ký gồm: Đời Bích Khê (1971) Đôi Nét Về Hàn Mặc Tử (1988), Bóng Ngày Qua, Đời Văn Chương (1999) Bóng Ngày Qua, Bàn Thành Tứ Hữu (2001) Bóng Ngày Qua,Thầy và Bạn (2003) Bóng Ngày Qua (11 tập), Những Giấc Mộng Không Mê ...(còn tại cảo)
- Phỏng dịch gồm: Trăng Ma Lầu Việt (1942) Nghìn Lẻ Một Đêm 4 tập (1958) Nghìn Lẻ Một Đêm 4 tập tiếp, Duyên Tiên..(còn tại cảo)
- Giáo dục: Vui Với Trẻ Em (1994) Nét Bút Giai Nhân (1998) Những Tấm Gương Xưa (2001) Nguồn Đạo Trong Thơ Văn (2007)
- Danh nhân: Nhà Tây Sơn (1988), Họ Nguyễn Thôn Vân Sơn (1988) Võ Nhân Bình Định (2001) Hát Bội Bình Định (2007) Linh Phong Tam Kiệt, Phong Trào Cần Vương Khánh Hòa... (còn tại cảo)
- Tổng cọng: 25tập văn xuôi đã xuất bản, 27 tập văn xuôi chưa xuất bản
Cách đây 8 năm, nhân dịp tưởng niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ chúng tôi đã tìm thấy trong xấp thư của nhà văn Nguyễn Hiến Lê có một trang giấy nhỏ của thân phụ chúng tôi đã ghi: Sau này gặp cơ hội tốt nên phổ biến tập thư này. Và chúng tôi khởi công sưu tầm, những bức thư của hai nhà văn và nhà thơ. biên soạn thành tập"Những Bức Thư Đầm Ấm"
Hôm nay là ngày tưởng niệm lần thứ 18 ngày mất của nhà thơ Quách Tấn và cũng là ngày tập Những Bức Thư Đầm Ấm phát hành.Tập sách này gồm 180 bức thư của hai nhà văn Nguyễn Hiến Lê và nhà thơ Quách Tấn viết cho nhau trong 19 năm, từ năm 1966 đến năm 1984 (10 năm khi tổ quốc còn chia cắt và 9 năm khi thống nhất).
Chúng tôi xin được phép gởi đến quí vị một ít tư liệu giữa nhà văn Nguyễn Hiến Lê và nhà thơ Quách Tấn.
Quách Tấn và Nguyễn Hiến Lê biết tiếng nhau đã lâu song mãi đến năm 1966 mới liên lạc cùng nhau.
Nguyên năm 1966 Quách Tấn xuất bản tập thơ Đọng Bóng Chiều. Sách được gởi tặng và Nguyễn Hiến Lê có thư cảm ơn vào ngày 9/4/1966. Đó là bức thư đầu tiên.
Năm sau 1967 tập thơ Mộng Ngân Sơn ra đời. Và bức thư thứ hai của Nguyễn Hiến Lê gởi vào ngày 2/3/1967.
Năm 1968, Nguyễn Hiến Lê nhận được tập văn "Nước Non Bình Định" cùng với bức thư đầu tiên của Quách Tấn kèm theo, vào dịp Xuân Mậu Thân. Và từ đó hai nhà văn nhà thơ thư từ cho nhau thường xuyên cho đến năm 1984.
Bức thư cuối cùng Nguyễn Hiến Lê viết cho Quách Tấn vào ngày 11 tháng 12 năm 1984. Thư đến Nha Trang vào ngày sáng thứ bảy ngày 22/12.Vì vắng nhà nên Quách Tấn, sáng chủ nhật ngày 23/12 mới đọc thư của bạn. Đang đọc thư thì được nhà giáo Châu Hải Kỳ đến báo Nguyễn Hiến Lê đã mất hồi đêm 22/12/1984. Đây là một vài tư liệu giữa Quách Tấn và Nguyễn Hiến Lê
1- Về bút hiệu
Hai nhà văn nhà thơ đều có chung một quan niệm đặt bút hiệu cho mình. Lấy nơi mình sinh sống từ thuở ấu thơ có nhiều kỷ niệm để đặt bút hiệu.
- Quách Tấn với bút hiệu là Trường Xuyên vì sinh ra và lớn lên ở làng Trường Định quê hương của mẹ, nơi đầy ăm ắp kỷ niệm và hạnh phúc của thời ấu thơ. Nhà thơ, cha mất sớm đã được mẹ nuôi dưỡng nên người. Tại đây vẫn còn ngôi mộ song thân. Nhà thơ lấy từ Trường để nhớ đến tên làng Trường Định và từ Xuyên là sông. Quê nhà thơ bên ngoại có con sông Suối Bèo, bên Nội có con Côn dài nối ba huyện Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước ở Bình Định. Cho nên ước mơ và kỷ niệm luôn luôn thấp thoáng những dòng sông.
Trường Xuyên còn có nghĩa là con sông dài.
- Nguyễn Hiến Lê có bút hiệu là Lộc Đình. Vì sinh ra và lớn lên ở ngõ Phất Lộc, trông ra bờ sông Nhị Hà. Ngõ rộng độ hai thước, dài độ hai trăm thước, mươi căn nhà dồn vào ngõ hẹp thấp hơn mặt đường đến một thước mà ngày cũng như đêm đều tối om om. Đã không có gì đẹp mà còn ồn ào bẩn thỉu nữa. Tuy nhiên nơi đây nhà văn đã sống những ngày thơ có nhiều kỷ niệm, những người thân như bà ngoại và cha đã nằm xuống vĩnh viễn nơi này. Cho nên nhà văn lấy chữ Lộc là để nhớ đến cái ngõ còm cỏi ấy.
Bên ngoài, trên đường Bờ Sông, gần ngõ Phất Lộc có một cái đình hoang tàn, âm u nhưng lại len sâu trong tâm tư nhà văn. Mỗi khi nhớ đến bà ngoại, cũng như khi đến nơi đông người, ồn ào thì Lộc Đình lại nhớ đến ngôi Đình hoang sơ ấy.
Bút hiệu Lộc Đình là tập hợp hai hình ảnh kỷ niệm thân thương tuy không xinh đẹp mà mỗi khi nhớ đến lại làm ấm áp tâm hồn nhà văn
Lấy quê hương làm bút hiệu, là chí nguyện của nhà thơ, nhà văn.
Gần đây có một cuốn sách lại ghi bút hiệu của Lộc Đình ra Lộc Bình và nhà thơ Trường Xuyên ra Trường Xuân. Nhân đây chúng tôi xin có lời đính chính.
2- Về ngày tháng sinh và chết.
Trường Xuyên sinh ngày 4/1/1910 mất vào ngày 21 tháng 12 năm 1992
Lộc Đình sinh ngày 8/1/1912 chết vào ngày 22 tháng 12 năm 1984
Nếu kể ngày thì Trường Xuyên sinh trước 4 ngày, chết trước 1 ngày
Nếu kể tháng thì hai người sanh cùng tháng, chết cùng tháng.(tháng 12) Và viết thư cuối cùng cho nhau cũng vào tháng 12 (1984)
Nếu kể năm thì Lộc Đình chết trước Trường Xuyên 8 năm sinh sau 2 năm.
Lộc Đình chỉ có 1 con, Trường Xuyên có đến 9 con. Số chênh lệch con bằng số năm sống của Trường Xuyên sau khi Lộc Đình mất.(8 năm)
3 - Học hành và thi cử
Khi còn học Tiểu học cả hai đều là học sinh giỏi. Lộc Đình đứng đầu lớp Nhất được lảnh thưởng ở nhà hát Tây. Trường Xuyên ngoài việc đứng đầu lớp Nhất còn đậu đầu kỳ thi Tiểu học (Primaire Supérirer). Cả hai đều mang giải thưởng về làm quà dâng mẹ. (sự kiện này cả hai có ghi vào hồi ký)
Lên Trung học, Lộc Đình học trường Bưởi, Trường Xuyên học trường Qui Nhơn. Cả hai trường đều là trường Cao đẳng tiểu học danh tiếng (trường Bưởi ở miền Bắc, trường Qui Nhơn ở Miền Trung) Trường Xuyên học xong Trung học thi đậu ra trường đi làm việc nuôi em còn Lộc Đình được tiếp tục học lên đến Đại học.
Cả hai: cha mất sớm, đều được mẹ chăm lo nuôi ăn học. Mẹ Lộc Đình buôn bán tần tảo cho con ăn học. Mẹ Trường Xuyên bán dần ruộng đất gởi tiền cho hai anh em Quách Tấn Quách Tạo, tuy Quách Tấn luôn được học bổng và ở nội trú.
4- Nhớ ơn mẹ
Vì cha mất trước mẹ, nên Ơn cha Nghĩa mẹ tuy vẫn tràn đầy trong tâm khảm hai nhà thơ văn, song tình và nghĩa mẹ vẫn chan chứa nhiều hơn trong các tác phẩm của Lộc Đình và Trường Xuyên.
Với Lộc Đình thì chứa chan trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê mỗi khi nhắc đến mẹ và đằm thắm trong tác phẩm "Cháu Bà Nội, Tội Bà Ngoại". Quách Tấn cũng thế, công ơn mẹ tràn đầy trong tập Hồi ký Bóng Ngày Qua và tha thiết trong tác phẩm "Nét Bút Giai Nhân".
5- Công việc
Hai nhà thơ, nhà văn đều là công chức: Lộc Đình làm ở Sở Thủy Lợi Nam Việt và Trường Xuyên làm ở các Tòa sứ Huế, Đồng Nai, Nha Trang...
Sau Cách Mạng tháng 8 hai ông đều bỏ nghề công chức, đi dạy học....
Sau Hiệp định Giơ ne vơ Lộc Đình lên Sài Gòn viết văn còn Trường Xuyên thì trở lại nghề công chức cho đến khi về hưu.
6- Từ chối giải thưởng Văn chương toàn quốc ở miền Nam
Lộc Đình từ chối giải thưởng Văn chương toàn quốc của chế độ Nguyễn Văn Thiệu vào năm 1967(Sau giải này trao cho nhà thơ Vũ Hoàng Chương). Năm 1968 Trường Xuyên cũng đã từ chối giải thưởng này khi đoàn giám khảo ra Nha Trang tham khảo ý kiến để tránh như việc Lộc Đình.
7- Những nét đặc thù trong tình bạn
- Hai nhà văn nhà thơ quen nhau trong 19 năm mà chỉ gặp nhau có 4 lần, 2 lần trước 1975 và 2 lần sau khi đất nước thống nhất.
Lần đầu vào năm 1972 khi Lộc Đình bị té trặc chân, Quách Tấn vào thăm. Lần thứ hai, Quách Tấn vào để cảm ơn Lộc Đình và xin giữ lại mảnh sừng tê giác để làm kỷ niệm.( chuyện này Trường Xuyên có viết trong Hồi Ký)
Hai lần sau vào năm 78 và năm 81.
- Hai người chỉ có duy nhất một tấm hình chụp chung cùng với 2 người bạn là nhà khảo cổ Vương Hồng Sển và bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng trước nhà cụ họ Vương năm 1981.
- Cách xưng hô luôn luôn gọi nhau bằng Ông. Mãi đến năm 1977 mới bắt đầu gọi nhau bằng Anh. Quách Tấn ở Nha Trang, Nguyễn Hiến Lê ở Sài Gòn.(sau lại về Long Xuyên) .
- Bạn thân với hai người có Đông Hồ, Gián Chi, Vương Hồng Sển, Đông Xuyên, Nguyễn Đồng, Quách Tạo v.v..
- Khi được tin bạn mất Quách Tấn đã thấm lệ vào thơ:
Bốn trụ tinh thần gãy một rồi Thương lòng nhau quá Lộc Đình ơi! Còn đâu những bức thư đầm ấm Che bớt phong sương lúc trở trời Quạnh quẻ non xa gìn sự nghiệp Bẽ bàng nắng sớm đọng thư trai Xuân về thêm nặng canh thương nhớ Lịu địu ngàn sương hương lão mai... (Xuân Ất Sửu) Trên cõi đời này, tình bạn tri âm tri kỷ giữa các văn thi nhân có rất nhiều. Riêng nhà văn Nguyễn Hiến Lê và nhà thơ Quách Tấn mối tình văn chương còn để lại trong những bức thư viết cho nhau suốt mười chín năm qua.
Nếu đọc xong tập Những Bức Thư Đầm Ấm này, lòng quí vị cảm thấy bâng khuâng cảm khái trước tấm lòng tri âm tri kỷ giữa hai nhà văn nhà thơ Nguyễn Hiến Lê và Quách Tấn, thì chúng tôi cũng được vui lây vì đã góp được một chút tình vào việc thực hiện công tác sưu tầm, biên soạn, in ấn và phát hành tập sách tràn đầy tư liệu văn học tuy có phần riêng tư song hữu ích này.
Xin trân trọng cảm ơn quí vị. Thành phốHCM ngày 18/12/2010. Quách Giao
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 3:56:25 GMT 9
Tố Hữu, những vần thơ khó quên
Phan Kiến Quốc (LTS: Tác giả Phan Kiến Quốc bây giờ chính là tù nhân lương tâm Phạm Minh Hoàng. Xin trân trọng gửi đến độc giả bài viết vào ngày 30/12/2002 của nhà hoạt động dân chủ này.)
Ngày 9/12/2002, nhà thơ Tố Hữu qua đời. Trong vòng 2 ngày ngắn ngủi, các cơ quan thông tấn đều đăng tải tin này đồng thời có trích đăng vài tác phẩm tiêu biểu. Tuy nhiên trong "70 năm lao động thơ" với trên dưới 300 bài thơ lớn nhỏ, có nhiều bài mà rất ít người biết. Rất ít vì không được phổ biến, nhưng phải nói đúng hơn là nhà nước cũng không muốn nhắc tới và muốn cho nó đi vào quên lãng.* * * Trong ngày Tố Hữu mất, báo, đài đều cho đăng bài thơ Từ Ấy sáng tác năm 1938 như một tác phẩm tiêu biểu. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim (...) Lời thơ nhẹ nhàng, êm ái nhưng sâu sắc. Nhưng trong số trên dưới 300 bài thì thể loại và nội dung này rất hiếm. Nói về nội dung, thì chúng ta có thể chia các tác phẩm của Tố Hữu ra bốn loại: Tình cảm (hiểu là tình cảm lãng mạn), chống Pháp chống Mỹ, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, ca ngợi các lãnh tụ cộng sản mà đặc biệt là Hồ Chí Minh; và dĩ nhiên không phải bài thơ nào cũng êm ái như Từ Ấy, và đây chính là con người Tố Hữu mà nhà nước không muốn người dân biết đến: (...) Những quân cướp ruộng cướp nhà Những quân đè cổ lột da giống nòi Bọn địa chủ cắm vòi hút máu Phải vùng lên mà đấu thẳng tay! Thực dân địa chủ một bầy Chúng là thú vật ta đây là người. (...) (Quang vinh Tổ quốc chúng ta, 8/1955) Đấu tố, trù dập văn nghệ sĩ đặc biệt là Nhân Văn Giai Phẩm là những cơn ác mộng của đất nước trong thập niên 50. Hơn nửa thế kỷ sau - dù bất thành văn - nhưng chế độ cộng sản cũng ngầm xác nhận đó là những sai lầm của họ. Nhưng từ "ngầm hiểu" đến xin lỗi và phục hồi danh dự cho các nạn nhân còn xa, còn nhiều chuyện phải làm, và chuyện trước tiên là giấu kỹ hoặc "quên đi" những vần thơ sắt máu trên hoặc những lời lẽ thô tục: (...) Bọn cướp Mỹ với phường đĩ Diệm Phải ngừng tay gian hiểm sát nhân Bắc - Nam ruột thịt tay chân Nước non không thể phân chia một ngày (...) (Chị là người mẹ, 9/1956) Một trong những cái gai của CS là tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo cũng được Tố Hữu liệt vào các đối tượng công kích như một loại "thuốc phiện của dân tộc". Tất cả những căm thù này được gói ghém trong bài Rôm, hoàng hôn mà hầu như không có một cuốn sách nào trích đăng vì nó có nội dung đi ngược lại đường lối "dỗ ngọt" của nhà nước đối với các tôn giáo ngày hôm nay: (...) Đức giáo hoàng, trên khung vàng cửa sổ Sáng chúa nhật, ban phước lành cho con chiên dưới phố Ngài biết có bao nhiêu nước mắt chúng sinh Đã đông thành những lầu cao lóng lánh thủy tinh? Tất cả đồi nho không làm nên một cốc rượu vui Máu đổ nghìn năm, chưa được tự do một buổi Lẽ nào nhạc cầu kinh mang phép lạ cho đời? Và lũ vua thép, vua hơi không phải một lần rửa tội? (Rôm, hoàng hôn, 3/1972) * * * Tuy nhiên khối lượng thơ quan trọng nhất của Tố Hữu được dành để ca tụng ông Hồ Chí Minh (HCM). Đối với ông ta và của cả Đảng CSVN, HCM là vĩ nhân hàng đầu của dân tộc, vượt lên trên cả các bậc tiền bối như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Ta cứ xem cung cách đặt tên thành phố, tên đường hoặc so sánh ngân quỹ để duy tu các lăng tẩm, hình tượng của ông HCM với các di tích lịch sử hoặc cung cách xác định các ngày lễ thì thấy ngay. Đối với Tố Hữu và Đảng CSVN, giòng sử đấu tranh của người Việt chỉ bắt đầu từ khi có Bác, cũng như thế giới chỉ được khai hóa từ khi có Mác: Thuở Anh chưa ra đời Trái đất còn nức nở Nhân loại chửa thành người Đêm ngàn năm man rợ Từ khi Anh đứng dậy Trái đất bắt đầu cười Và loài người từ đấy Ca bài ca tháng mười. (...) (Bài Ca Tháng Mười, 1950). (...) Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại Bốn ngàn năm ta lại là ta. (Xưa... Nay, 1954) (...) Còn non còn nước còn người Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui (...) (Việt Bắc, 1954) Chính vì thế, đối với Tố Hữu, chỉ có chừng 3, 4 nhân vật trên thế giới mới có đủ "cân lượng" ngang với HCM trong đó phải kể đến Stalin. Và trong "quá trình" ca tụng ông Hồ, Tố Hữu đã nhiều lần liên kết tên ông ta với các nhân vật này. Đây chính là một trong những chi tiết mà ngày nay nhà nước Việt Nam cố tình tảng lờ không nhắc đến vì bây giờ thế giới đã biết đến Stalin như một bạo chúa ngang tầm với Hitler, Tần Thủy Hoàng. Ngày Stalin mất, Tố Hữu đã nức nở khóc và đã để lại một bài thơ "để đời". Nguyên văn bài Đời Đời Nhớ Ông - trong Tố Hữu tác phẩm do Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1979 như sau: Bữa trước mẹ cho con xem ảnh Ông Xta-lin bên cạnh nhi đồng Áo ông trắng giữa mây hồng Mắt ông hiền hậu miệng ông mỉm cười Trên đồng xanh mênh mông Ông đứng với em nhỏ Cổ em quàng khăn đỏ Một niềm tin Hướng tương lai hai ông cháu cùng nhìn Xta-lin! Yêu biết mấy nghe con tập nói Tiếng con thơ con gọi Xta-lin! Mồm con thơm sữa xinh xinh Như con chim của hòa bình trắng trong Đêm qua loa gọi ngoài đồng Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao! Làng trên xóm dưới xôn xao Ngôi sao sáng nhất trời cao băng rồi! Xta-lin ơi! Hỡi ơi Ông mất, đất trời biết không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương Ông thương mười Yêu con yêu nước yêu đời Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu... Ngày xưa khô héo quạnh hiu Bây giờ mới có ít nhiều vui tươi Ngày xưa đói rách tơi bời Bây giờ mới có được nồi cơm no Ngày xưa cùm kẹp giày vò Bây giờ mới có tự do tháng ngày. Ngày mai dân có ruộng cày Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai? Ơn này, nhớ để hai vai Một vai ơn Bác, một vai ơn Người Con còn bé dại con ơi Mai sau con nhé, trọn đời nhớ Ông! Thương Ông, mẹ nguyện trong lòng Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con Ông dù đã khuất không còn Chân Ông còn mãi dấu son trên đường... Trên đường quê sáng tinh sương Sáng nay nghi ngút khói hương xóm làng Ngàn tay trắng những băng tang Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời. (Đời Đời Nhớ Ông, 5/1953) Bài thơ đã nói hết. Thiết tường không còn gì để bình luận về nội dung và tấm lòng của Tố Hữu. Có lẽ cả thế giới mới thấy chỉ có mình Tố Hữu nức nở như vậy. Tuy nhiên ở đây có hai chi tiết cần đề cập: Trước tiên, câu: "tiếng con thơ con gọi Xta-lin" ở một vài bản có chép "tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin". Có lẽ lúc làm thơ tình cảm đã lấn hết lý trí, sau này đọc lại thấy "chướng", thấy "gia nô" quá nên sửa lại thành "tiếng con thơ". Nhưng cho dù "tiếng đầu lòng" hay "tiếng con thơ" thì cũng xuất phát từ cái "miệng thơm sữa xinh xinh", cũng không thể là điều bình thường. Chi tiết thứ hai: CS miền Bắc năm 1953 đã bắt cả nước phải để tang Stalin, cũng như năm 1994 để tang Kim Nhật Thành. Đây cũng là một biến cố độc nhất trong lịch sử 5000 năm của dân tộc: bắt cả nước để tang một người ngoại quốc và đều là những tay đồ tể thượng thặng. Điều này đã được Hòa Thượng Thích Quảng Độ vạch trần trong một lá thư gởi cho Đảng CSVN vào khoảng thời gian đó. Tôn sùng Stalin và HCM hết mực như thế nên chuyện liên kết hai nhân vật này là chuyện bình thường: (...) Bác bảo đi, là đi Bác bảo thắng, là thắng. Việt Nam có Bác Hồ Thế giới có Xta-lin Việt Nam phải tự do Thế giới phải hòa bình (...) (Sáng Tháng Năm, 5/1951) (...) Ơi người Anh dũng cảm Lũy thép sáng ngời ngời Đây Việt Nam Tháng Tám Em Liên Xô Tháng Mười Hoan hô Xta-lin Đời đời cây đại thọ Rợp bóng mát hòa bình Đứng đầu sóng ngọn gió Hoan hô Hồ Chí Minh Cây hải đăng mặt biển Bão táp chẳng rung rinh Lửa trường kỳ kháng chiến! (...) (Bài Ca Tháng Mười, 1950). Nhưng điều mà Tố Hữu cũng như cả Đảng CSVN không ngờ tới là chỉ sau khi Stalin mất 5 năm, Khrouthchev đã bắt đầu đưa ra ánh sáng những tội ác ghê tởm kinh hồn của Stalin. Người mà Tố Hữu tung hô là "cây đại thọ, là bóng mát hòa bình", người mà Tố Hữu thương hơn cha mẹ, phải "trọn đời nhớ ơn" đã là tên sát nhân của hai triệu người Liên Xô vào các năm 1934-1938 trong các goulag, các trại tập trung, các nhà thương tâm thần, trong đó có cả các đồng chí, các "khai quốc công thần" của Liên Xô như Trostky, Zinoviev, Kamenev. Năm 1961 Khrouthchev lẳng lặng đưa thi hài Stalin ra khỏi lăng Lenin. Đến lúc này Hà Nội mới chưng hửng và từ đó mới hết tung hô. Cũng may trong thập niên 60, chiến tranh ở VN leo thang cường độ cộng thêm tình hình căng thẳng với "bọn xét lại Mốts-cô-va" nên không ai để tâm đến đến cái sự liên kết Stalin-HCM ấy. Đến ngày hôm nay, càng đọc càng thấy thái độ tung hô này quá lố bịch và còn có vẻ "tô đen" cho thanh danh HCM nên Hà Nội một mặt chỉ đưa các bài thơ tình cảm kiểu Từ Ấy hoặc đấu tranh, hoặc tôn vinh HCM của Tố Hữu vào các sách giáo khoa, còn "Đời Đời Nhớ Ông" thì càng...quên càng tốt. Chính vì lý do ấy mà các sách viết về Tố Hữu hầu như không bao giờ nhắc đến "tiếng đầu lòng Xta-lin" và lại càng tránh cho "cây đại thọ" và "cây hải đăng" mọc cạnh nhau. Trong cuốn Thơ Tố Hữu - Những Lời Bình (Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin Hà Nội - 2002) dày 320 trang, trên dưới 40 nhà văn, nhà thơ nói về thơ Tố Hữu, không ai nhắc gì tới các vần thơ "bất hủ" trên, làm như chúng không có. Trong Nhớ Lại Một Thời (cùng nhà xuất bản) do chính Tố Hữu viết lời tựa cũng thế. Tuy nhiên, tệ hại hơn, có sách đã đăng những bài thơ này nhưng lại vụng về cắt đi những đoạn "tế nhị" như trong bài Bài Ca Tháng Mười, người ta đã cắt đoạn nói về Xtalin; rồi đến bài Sáng Tháng Năm, người bình thơ lại cắt hai câu "Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Xta-lin" (Thơ Tố Hữu, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hà Nội 2001). Vào thời điểm ấy chắc chắn Tố Hữu phải biết nhưng không hiểu sao lại không có phản ứng gì, và cuốn sách trên vẫn được bán tại khắp các hiệu sách trong nước. Đây quả là một cung cách ứng xử ấu trĩ, vì chỉ cần chịu khó tìm một tí là người ta thấy ngay nguyên văn của các bài này. Cuốn sách của Hội Nhà Văn kể trên cũng chỉ có một phạm vi phổ biến giới hạn (chỉ phát hành 800 cuốn mà hai năm bán không hết!) nên có vụng về thì cũng chẳng sao. Nhưng ngay cả trên trang web của báo Nhân Dân - là tiếng nói trung ương của Đảng, là những gì chính thống nhất - cũng làm cái việc che đậy ấu trĩ này: cắt mất hai câu "Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Xta-lin" trong bài Sáng Tháng Năm (www.nhandan.org.vn, mục Các số báo đã ra, ngày 11/12/02, Các tác phẩm tiêu biểu). * * * Tuy nhiên, Stalin là chuyện của quá khứ, còn biết bao "vấn đề" trong thơ Tố Hữu còn phải giải quyết. Một trong những vấn đề đó là vụ Ải Nam Quan và hiệp định biên giới mà dư luận gần đây đang xôn xao. Vào năm 1957, Tố Hữu sáng tác bài Mục Nam Quan với tiếng thơ bi thương, nhưng cũng rất... xã hội chủ nghĩa: Ai lên ải Bắc ngày xưa ấy Khóc tiễn cha đi mấy dặm đường Hôm nay biên giới mùa xuân dậy Núi trắng hoa mơ cờ đỏ đường Bài này đã chỉ rành rành hai sự thật hiển nhiên: Ải Nam Quan (mà sau này HCM sửa thành Mục Nam Quan rồi Mục Hữu Nghị), và suối Phi Khanh đánh dấu hình ảnh chia tay bi hùng của cha con Nguyễn Trãi là những di tích lịch sử nằm trên đất nước Việt Nam. Vậy mà sau khi hiệp định biên giới Việt Trung được ký ngày 30/12/1999 với hậu quả là hàng trăm cây số vuông bị mất trong đó có hai di tích lịch sử ngàn đời là Ải Nam Quan (Lạng Sơn) và thác Bản Giốc (Cao Bằng), nhà thơ Tố Hữu, người từng chiêm ngưỡng Ải Nam Quan, người đã vào tù ra khám, từng giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy Đảng và Nhà Nước và đặc biệt là tác giả của những vần thơ với ngôn từ vô cùng oai dũng, bất khuất như dưới đây mà lại câm miệng cúi đầu trước việc bán nước rành rành như thế! (...) Ta đi tới không thể gì chia cắt Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau Trời ta chỉ một trên đầu Bắc Nam liền một biển (...) (Ta đi tới, 8/1954) (...) Dù ai chia núi ngăn sông Cũng không thể cắt được lòng Việt Nam Chúng ta đã quyết thì làm Đã đi phải đến hoàn toàn thành công. (Quang vinh Tổ quốc chúng ta, 8/1955) Thật là oai phong lẫm liệt. Thật là bừng bừng chính khí. Vào thời điểm ấy Tố Hữu đã 35 tuổi, đã biết vào tù ra khám. Những vần thơ trên chắc hẳn đi từ con tim, ý chí của ông. Chẳng lẽ đến năm 1999 ông lại lú lẫn đến nỗi không còn biết phải trái, không còn nhớ những điều chém đinh chặt sắt ngày xưa? Hay là lại "mũ ni che tai" như đa số các trí thức Việt Nam? Tố Hữu ơi. Vong hồn ông ở nơi đâu? Bây giờ làm sao ông trả lời với Nguyễn Trãi?! Cái tội này không chỉ riêng Tố Hữu phải gánh, nhưng đây chính là trách nhiệm chung của giới trí thức Việt Nam ngày nay: chúng ta sẽ trả lời như thế nào cho các thế hệ mai sau? Bộ Giáo Dục có toàn quyền không đưa bài thơ Mục Nam Quan này vào sách giáo khoa y như đã che dấu kỹ những "Đời đời nhớ ông, Ta đi tới" nhưng cho đến muôn đời sau Ải Nam Quan và suối Phi Khanh vẫn còn mãi trong tâm tư của chúng ta, các con cháu Nguyễn Trãi, còn mãi như cái tội bán nước của Đảng CSVN. *** Ngày 13/12/2002, tang lễ Tố Hữu được cử hành trọng thể tại Hà Nội. Đông đủ các lãnh đạo đến dự. Nghiêm trang và long trọng lắm. Tuy nhiên mờ mờ qua những hình thức ấy người ta thấy có một cái gì là lạ. Ngày Tố Hữu mất, không một tờ báo nào đăng hình trên trang bìa, kể cả báo Nhân Dân - trong chế độ cộng sản, đây là một trong những cái tiêu chuẩn, cái "thước đo" sự thăng hoa hay thất sủng của một nhân vật. Các báo chỉ tóm tắt vài hàng tiểu sử, một vài bài viết về kỷ niệm xưa của các bè bạn trong chiến tranh và chỉ đăng ở trang trong - mà đôi khi lại đăng sai. Chôn xong, mọi chuyện đều chấm dứt. Người ta có cảm tưởng như nhà nước không chỉ chôn cái xác Tố Hữu mà còn vĩnh viễn chôn cả "70 năm lao động thơ" vào hố sâu quên lãng. Trăm năm bia đá thì mòn Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Sài Gòn, 30/12/2002 Phan Kiến Quốc
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:11:56 GMT 9
Kiên Giang : hoa trắng thôi cài trên áo tím Trần Hữu Dũng Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà là người làm thơ tình chân quê Nam bộ hiếm hoi còn sót lại ở thiên niên kỷ thứ ba nầy. Đọc thơ ông là thấy cả tuổi thơ ấu ở miệt vườn, gánh hát cúng đình, ngọn khói đốt đồng, nghe văng vẳng tiếng xe trâu lốc cốc…Có lần ngồi quán cóc ông buột miệng đọc bốn câu ca dao : Lồng đèn treo cột đáy Nước xoáy lồng đèn xoay Dĩa nghiêng múc nước sao đầy Lòng thương người nghĩa ba má rầy cũng thương Tôi reo lên : "Hay quá ! Sao không thấy in trong sách ?". Ông cười, nói nhỏ : "Bà già tao đọc, ngâm nga ru ngủ hồi nhỏ, riết rồi nhập tâm". Nhà thơ Kiên Giang sinh ngày 17-2-1929, tên thật là Trương Khương Trinh tại làng Đông Thái, huyện An Biên tỉnh Kiên Giang, cùng quê với nhà văn Sơn Nam. "Vốn liếng về từ ngữ người Kiên Giang rất ít, hàng ngày sống lân la với người Hoa bán tạp hóa và người Khơ-me làm ruộng. Ở đây có thể nói tiếng Việt không phát triển, lại thêm "tiếng lóng" mà người địa phương khác khó chấp nhận. Vốn duy nhất là ca dao được mẹ dạy cho, từ thuở ấu thơ. Vốn quan trọng hơn vẫn là cái tâm, lòng yêu nước, muốn giới thiệu tâm hồn người dân nghèo xóm mình với cả nước, cùng chia sẻ buồn vui (Sơn Nam-Cùng bạn đoc-Lời tựa tập Hoa trắng thôi cài trên áo tím NXB Văn Học 1/1995). Ông từng tự bạch : "Năm 1943 tôi học trường tư Lê Bá Cang (Sài Gòn). Ăn cơm tháng, ở nhà trọ trên một ốc đảo đường Hàn Sanh (nay là Bạch Đằng) gần chùa Long Vân. Khi thức đêm học bài, tôi thấy và nghe hình tượng nhạc xe bò. Đêm nào đoàn xe bò ấy cũng lăn bánh ngang cửa thảo trang. Một thứ nhạc khô khan và thắm thiết, triền miên mà nức nở ngân vang từ những móng sắt vành xe. Tôi thao thức vì ghiền nghe nhạc xe bò, cố tìm những nét sống đẹp để tô điểm thành thơ. Hình ảnh một chiếc võng giăng dưới dạ xe chở phân rác, bốn móng bò mòn lẵn, chiếc roi tơi tả, ngọn đèn chong leo lét nhất là mái tóc phong trần luôn rối tung chính là những nét sống - trong một nếp sống nghèo mà đẹp - của người mẹ đánh xe bò. Tất cả là thơ và nhạc. Tôi đã ôm ghì được vú sữa của nguồn hứng cảm nhưng chắc hẳn chỉ ghi lại được một vài góc cạnh mà thôi. 14 năm sau, kể từ năm 1943, khi trở lại xóm chùa Long Vân, tôi không tìm được nhà trọ năm nào. Nhà tường mọc lên, người cũ đi mất, chết hoặc bị xua đuổi. Năm 1993, xóm chùa, xóm Hàng Sanh đã bị xóa mất. Người cũ mất hết. Chiếc xe bò chỉ còn trong ký ức. Tình tang ! Lốc cốc ! Tang tình ! Nhạc vang hòa khúc viễn trình đắng cay (Nhạc xe bò) ". Bùi Giáng trong quyển "Đi vào cõi thơ" NXB Ca Dao 10/1969 viết : "'Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc', ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang. Ông Kiên Giang tuyệt nhiên "không cầu kỳ, không giả tạo" mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên. ….Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong Nước Việt như Kinh Thư nằm trong nước Tàu. Một Quê Hương bình dị thiết tha và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao". Thơ Kiên Giang có nhiều câu phổ biến rộng rãi như : - Ong bầu đậu đọt mù u Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn - Ngày mai đám cưới người ta Cớ sao sơn nữ Phà Ca lại buồn - Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương Và trong bài thơ "Tiền và lá" ông đề : "Kính tặng thi sĩ Nguyễn Bính để nhớ ngày tá túc ở xóm biển Kiên Giang", có lúc bị nhầm là thơ Nguyễn Bính. Bài thơ có những câu phảng phất tâm hồn chân quê cảm động : "Bây giờ những buổi chiều êm/Tôi gom lá đốt, khói lên tận trời/Người mua đã bị mua rồi/Chợ đời họp một mình tôi…vui gì !". Kiên Giang còn là soạn giả cải lương lừng danh cùng thời Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều Hoa Phượng, Quy Sắc…với nghệ danh Hà Huy Hà (Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới…). Ngoài ra ông là ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn trước 1975 như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện Tín, Tin Sáng…, tham gia phong trào ký giả ăn mày chống Mỹ - Thiệu ngày 10-10-1974. Chính vở tuồng đầu tay của ông là Người vợ không bao giờ cưới đã tạo bệ phóng cho nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm, lên hàng ngôi sao trong giới cải lương. Ông lang thang rày đây mai đó, vẫn với bộ vó giang hồ, vai mang túi xách, đầu đội chiếc nón trắng ngã mầu, cả đời lận đận với nghiệp thơ. Sống cuộc sống vất vả, lúc về hưu lui tới thường xuyên Ban Ái hữu Nghệ sĩ VC số 133 đường Cô Bắc, mở lớp dạy đờn ca tài tử miễn phí cho học sinh trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu, thật đúng là hình ảnh kẻ sĩ hiếm hoi trong thời buổi kinh tế thị trường. Nhắc đến thơ Kiên Giang nhiều người nhớ ngay đến bài thơ nổi tiếng là Hoa trắng thôi cài trên áo tím. Chị Hà Khánh Phương (chị bà con liệt sĩ CS Mai Thị Non-"anh hùng VC " lực lượng vũ trang tỉnh Long An) cho biết chị còn giữ bài thơ nầy in dưới dạng tờ bướm từ lúc 17 tuổi đến nay trên 40 năm. Nhạc sĩ Huỳnh Anh (con trai danh cầm Sáu Tửng) phổ nhạc, nhiều thế hệ ca sĩ hát bài này như Thanh Thúy, Hoành Oanh, Giao Linh, Trường Thanh và Hồ Điệp ngâm nhiều lần trong chương trình tiếng thơ Mây Tần do Kiên Giang phụ trách trên đài phát thanh Sài Gòn. Kiên Giang cho biết : "Đây là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm bụi trần. Năm 1944 tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH. -cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn :'Con Tám NH. vẫn chờ mày'. Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. tâm tình suốt đêm bên ánh đèn dầu huê kỳ. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Kết trước là : "Xe tang đã khuất nẻo đời/Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu/Từ nay tóc rũ khăn sô/Em cài hoa tím trên mồ người xưa" thành cái kết : "Lạy chúa ! Con là người ngoại đạo/ Nhưng tin có chúa ở trên trời/Trong lòng con, giữa màu hoa trắng/Cứu rỗi linh hồn con chúa ơi !"….Năm 1999 hãng phim TFS Đài truyền hình thành phố SG có làm phim "Chiếc giỏ đời người" về sự nghiệp hoạt động văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh trường cũ, mới hay tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH. ở nghĩa trang Cái Su. Đúng là 'Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh/Từng cài trên áo tím ngây thơ/Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng/Anh kết tình tang gởi xuống mồ". Nguyễn Văn Thức trong tờ bướm "Vài nhận định về thơ và các nhà thơ ở thành Hồ " có đoạn nhận xét về Kiên Giang : "Một nhà thơ chỉ còn giao lưu với Câu lạc bộ thơ Quận là chính, Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Trắng nay chỉ còn là kỷ niệm. Đôi khi tôi thấy nhà thơ buồn như sương giá, lạnh quanh đời". Tôi nghĩ một nhà thơ 76 tuổi, dời chỗ ở hơn chục lần, đấu tranh vì độc lập đất nước, làm thơ, soạn tuồng cải lương, viết báo tận tụy cống hiến cho đời, để lại nhiều câu thơ hay là một thành công về văn học, là một tâm gương sáng trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn Sơn Nam tinh tế khi viết : "Một cuộc đời lăn lóc, chẳng bao giờ khấm khá, về già làm chuyện ái hữu, tương tế, quả là thành đạt, không xấu hổ với đất nước. Đây là một người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi". Mới đây ngồi uống bia cùng ông ở quán cóc, trong một xóm lao động nghèo gần cầu Nhị Thiên Đường quận 8, ông bảo sắp bán nhà, giọng buồn buồn nặng trĩu tâm tư. Buổi chiều thành phố thường có những cơn mưa dông, gió giật mạnh, lạnh căm căm, thương Kiên Giang một đời tận tụy với thơ, với cuộc sống !. Hoa trắng thôi cài lên áo tím Kiên Giang I. Lâu quá không về thăm xóm đạo Từ ngày binh lửa xoá không gian Khói bom che lấp chân trời cũ Che cả người thương, nóc giáo đường Mười năm trước, em còn đi học Áo tím điểm tô đời nữ sinh Hoa trắng cài duyên trên áo tím Em là cô gái tuổi băng trinh Trường anh ngó mặt giáo đường Gác chuông thương nhớ lầu chuông U buồn thay ! Chuông nhạc đạo Rộn rã thay ! Chuông nhà trường II. Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông Làm thơ sầu mộng dệt tình thương Để nghe khe khẽ lời em nguyện Thơ thẩn chờ em trước thánh đường Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đỗ Hai bóng cùng đi một lối về E lệ, em cầu kinh nho nhỏ Thẹn thùng, anh đứng lại không đi III. Sau mười năm lẽ anh thôi học Nức nỡ chuông trường buổi biệt ly Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo Tiễn nàng áo tím bước vu quy Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình - Hoa trắng thôi cài lên áo tím Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh Em lên xe cưới về quê chồng Dù cách đò ngang, cách mấy sông Anh vẫn yêu em người áo tím Nên tình thơ ủ kín trong lòng IV. Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo Anh làm chiến sĩ giữ quê hương Giữ tà áo tím, người yêu cũ Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường Mặc dù em chẳng còn xem lễ Ở giáo đường u tịch chốn xưa Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh Nghe chuông truy niệm mối tình thơ Màu gạch nhà thờ còn đỏ thẫm Như tình nồng thắm thuở ban đầu Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy Áo tím tình thơ đã nhạt màu V. Ba năm sau chiếc xe hoa cũ Chở áo tím về trong áo quan Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt Khi anh ngồi kết vòng hoa tang Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh Từng cài trên áo tím ngây thơ Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng Anh kết tình chung gởi xuống mồ VI. Lâu quá không về thăm xóm đạo Không còn đứng nép ở lầu chuông Những khi chuông đổ anh liên tưởng Người cũ cầu kinh giữa thánh đường "Lạy Chúa con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ở trên cao Trong lòng còn giữ màu hoa trắng Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !" Bến Tre, 14-11-1958
Kiên Giang
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:16:00 GMT 9
Bài thơ Kỷ vật cho em của Linh Phương Linh Phương Khi giới thiệu Nhà Thơ LINH PHƯƠNG ,một số câu hỏi của bạn đọc về Bài thơ “ Kỷ vật cho em “ và chúng tôi đã đề nghị anh viết vài giòng và anh đã nhận lời,chúng tôi cũng mong nhận nhiều ý kiến liên quan,Tất cả những vấn đề này VCV xem như là tư liệu riêng và trong khi chờ đợi những đánh giá chúng tôi cho rằng bài thơ này là một trong những bài thơ phản chiến trong đô thị miền nam. VCV Nhận được e-mail anh Nguyễn Hòa vcv đề nghị viết về những sự kiện quanh bài thơ Kỷ Vật Cho Em ( KVCE) mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc gây xôn xao giới yêu thơ, yêu nhạc một thời trước năm 1975. Thực tình tôi không biết khởi đầu từ đâu, và viết những sự kiện gì , bởi rất nhiều sự kiện và mình có nên viết hay không ? Thôi thì kể lan man một vài chuyện về bài thơ đó vậy, Xuất xứ bài thơ của tôi đăng trên nhật báo Độc Lập vào năm 1970 với tựa đầu tiên " Để trả lời một câu hỏi " đề tặng một người con gái tên Hương. Trang sáng tác của tờ báo này do Ấu Lăng ( tức nhà thơ Trần Dạ Từ chồng của nhà văn nữ Nhã Ca ) phụ trách. Tôi thường xuyên đăng bài ở trang này, có thể nói một tháng 30 ngày thì bài tôi xuất hiện khoảng hơn 20 ngày với tên Linh Phương -Vương Thị Ai Khanh và Phạm Thị Au Cơ. Khi nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc với duy nhất tên ông, tôi không có phản ứng gì. Nhưng tôi có người bạn làm việc ở bản tin THT đã đưa vấn đề tác quyền lên trang tin tức của một tờ nhật báo với đại ý " Tác giả Kỷ Vật Cho Em sẽ kiện nhạc sĩ Phạm Duy ra tòa ".Tiếp theo là tờ tuần báo SÂN KHẤU TRUYỀN HÌNH , tác giả Phan Bảo Quân cho in một bài viết đề cập tác quyền và tên Linh Phương phải được để là đồng tác giả bản nhạc Kỷ Vật Cho Em. Thời đó ở Sài Gòn có trên 20 tờ nhật báo, 30 tờ tuần báo và rất nhiều tạp chí bán nguyệt san, nguyệt san…Và chuyện tác quyền giữa tôi và nhạc sĩ Phạm Duy đều có bài viết , thư nhạc sĩ Phạm Duy gởi tôi, thư tôi trả lời …hầu hết trên báo chí lúc ấy.Cuối cùng thì một người cháu của Phạm Duy là Phạm Duy Nghĩa tìm gặp tôi tại địa chỉ 104/23 đường Yersin nhà người bạn thân của tôi là nhà thơ Vũ Trọng Quang ( hiện là Hội viên Hội nhà văn Thành phố HCM ).Phạm Duy Nghĩa đưa tôi đến phòng trà ca nhạc ĐÊM MÀU HỒNG nơi Ban Thăng Long thường xuyên trình diễn. Ở đây, tôi và nhạc sĩ Phạm Duy đã có sự thông cảm với nhau về vấn đề bài thơ Kỷ Vật Cho Em. Nhạc sĩ Phạm Duy chở tôi trên chiếc xe Trắc-xông đen đến phòng trà Queen -Bee do nhạc sĩ Ngọc Chánh làm chủ xị. Ở Queen-Bee nhạc sĩ Phạm Duy .đã giới thiệu tôi trước công chúng về tác giả bài thơ KVCE. Sau cái bắt tay giữa tôi với nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Ngọc Chánh và quái kiệt Trần Văn Trạch , ca sĩ Thái Thanh đã trình bày bài thơ phổ nhạc này. Sáng hôm sau, tôi đến tư gia của nhạc sĩ Phạm Duy 215 E/2 đường Chi Lăng- Phú Nhuận ăn cơm và ký hợp đồng bài thơ KVCE tại đây. Trong bản hợp đồng tiền tác quyền là 30.000 đồng (thời điểm đó giá một lượng vàng nếu tôi nhớ không lầm là khoảng 10.000 đồng đến 12.000 đồng ), nhưng thực tế thì nhạc sĩ Phạm Duy trả tôi 50.000 đồng ( 30.000 đồng bằng Sec nhận ở Pháp Á ngân hàng- 20.000 đồng tiền mặt . Lúc bản KVCE được hát là cuộc chiến tranh Việt Nam trở nên dữ dội, nên đã gây những chấn động lớn lao vào tâm hồn của những quân nhân Sài Gòn cũng như mọi tầng lớp dân chúng.Như trong hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy phát hành ở hải ngoại đã dành chương hai mươi hai viết về KVCE và tác giả có đoạn : "…Tôi hát bài này trước tiên tại phòng trà RITZ của Jo Marcel với ban nhạc Dreamers, rồi hầu hết các ca sĩ từ Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly qua Thanh Lan, Nhật Trường đều thu thanh vào băng nhạc. Bài hát trở thành một hiện tượng lớn của thời đó. Ở phòng trà, khi ca sĩ hát bài đó lên, bao giờ cũng có sự náo động nơi khán thính giả. Nếu là thường dân thì phản ứng cũng vừa phải, nhưng vì hồi đó dân nhà binh ở bốn vùng chiến thuật về Sài Gòn là đi phòng trà và khi trong đám thính giả có một sĩ quan đi nghỉ phép hay một thương phế binh là có sự phản ứng ghê hồn nơi người nghe. Có thể nói bài này gây một không khí phản chiến, nhưng có một cái gì cao hơn chính trị. Nó nói đến định mạng của con người Việt Nam mà ai cũng phải chấp nhận…" Cuộc chiến tranh càng ngày càng trở nên khốc liệt, nhất là cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua bên kia Lào. Có nguồn tin tôi đã nằm lại ở vùng Hạ Lào ,không hiểu xuất phát từ đâu, và cái chết của Linh Phương tác giả KVCE còn có bài viết của tác giả Trần Tường Trình đăng trên nhật báo Sóng Thần của ông Chu Văn Bình ( tức nhà văn Chu Tử ): và một số phân ưu chia buồn trên các báo khác. Rồi mặt trận Kampuchea bùng nổ ,tôi lại được khai tử thêm lần nữa tại chiến trường này. Lúc đó, anh Thiện Mộc Lan ký giả báo Đuốc Nhà Nam đã cố công tìm sự thật về cái chết của tôi . Sau nhiều ngày tìm hết chỗ này đến chỗ khác qua nhiều nguồn, ký giả Thiện Mộc Lan đã đến nhà nhạc sĩ Phạm Duy như tác giả bài báo đã kể : " …Chúng tôi chợt nghĩ đến nhạc sĩ Phạm Duy, hy vọng rằng giữa nhạc sĩ và nhà thơ có nhiều liên hệ từ lúc KVCE ra đời, thế nào Phạm Duy cũng biết rõ về Linh Phương. Khi nghe chúng tôi báo tin Linh Phương đã chết, nhạc sĩ họ Phạm sửng sốt : - Linh Phương mới thăm tôi cách đây nửa tháng mà. Lẽ nào …như vậy được. Oi dzời ! Tôi nghĩ rằng anh ấy chưa chết đâu… ". Được nhạc sĩ Phạm Duy ghi cho địa chỉ , kí giả TML tìm đến tư gia nhà thơ Vũ Trọng Quang và gặp tôi tại đây . Báo ĐNN đã đăng loạt bài 4 kỳ báo qua những tít : 1- " Nhà thơ có nhiều huyền thoại, tác giả "Kỷ Vật Cho Em " Linh Phương còn sống hay đã vĩnh viễn ra đi ? 2-Liên lạc khắp nơi ĐNN mới tìm ra tông tích tác giả Kỷ Vật Cho Em . 3-Linh Phương đã nói gì với ĐNN . 4-Linh Phương thích làm thơ nhưng không mang danh thi sĩ ". Thực ra, không chỉ bài thơ Kỷ Vật Cho Em làm tốn nhiều giấy mực báo chí, mà còn có 2 bài thơ đăng cùng một số báo trên tờ tuần báo KHỞI HÀNH của Hội Văn nghệ sĩ quân đội Sài Gòn, đó là bài thơ " Bài cho chiến trường Đông Dương " nói về những cái chết của người Việt Nam trên đất Kampuchea, Hạ Lào…và bài " Từ giã bọn mày " nói về thân phận của những Lao công đào binh. Tôi chỉ còn nhớ 3 khổ thơ của bài này như sau : " Từ giã bọn mày mai tao lên núi Mặc áo lao công đập đá xây thành Làm bạn vắt mòng chung vui với muỗi Đắp lũy thông hào chờ cuộc giao tranh Từ giã bọn mày tao đi nhặt nốt Võ đạn đồng rơi rớt giữa quê hương Từ giã bọn mày tao đi nhặt nốt Dưới ruộng- dưới đồng- những máu- những xương … Từ giã bọn mày xin đừng đưa tiễn Dù một lần tao làm gã tội nhân Từ giã bọn mày mai tao xuống biển Tay ngoằn nghoèo vẽ trọn chữ Việt Nam " Khi báo phát hành khoảng một giờ sau thì bị cảnh sát tịch thu tất cả những số báo còn lại. Đấy là trường hợp có một không hai vì đây là tờ báo của Hội văn nghệ sĩ quân đội. Sau năm 1975, đúng hơn là 1978 tôi từ Côn Đảo lang bạt kỳ hồ về Cà Mau , ba chìm bảy nổi , bị người ta " đánh " tơi tả, không còn chỗ dung thân dạt về Kiên Giang cho đến bây giờ. Có những lúc tôi chảy nước mắt khi tự hỏi : tại sao người ta không sống với nhau bằng tấm lòng để cư xủ với nhau tử tế hơn ? Có lẽ tôi lan man hơi nhiều, dù còn có biết bao chuyện quanh bài thơ KVCE mà tôi chưa thể kể hết, chỉ hy vọng một ngày nào đó tôi viết một cuốn hồi ký , hoạ may mới dàn trải được số phận của bài thơ KVCE . Nguyên văn bài thơ : KỶ VẬT CHO EM Em hỏi anh bao giờ trở lại Xin trả lời mai mốt anh về Không bằng chiến thắng trận Pleime Hay Đức Cơ- Đồng Xoài- Bình Giả Anh trở về hàng cây nghiêng ngã Anh trở về hòm gỗ cài hoa Anh trở về bằng chiếc băng ca Trên trực thăng sơn màu tang trắng Mai trở về chiều hoang trốn nắng Poncho buồn liệm kín hồn anh Mai trở về bờ tóc em xanh Vột vã chít khăn sô vĩnh biệt Mai anh về em sầu thê thiết Kỷ vật đây viên đạn màu đồng Cho em làm kỷ niệm sang sông Đời con gái một lần dang dở Mai anh về trên đôi nạng gỗ Bại tướng về làm gã cụt chân Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân Bên người yêu tật nguyền chai đá Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ Em nhìn anh- ánh mắt chưa quen Anh nhìn em- anh cố sẽ quên Tình nghĩa cũ một lần trăn trối LINH PHƯƠNG ( 20/02/1970 )
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:41:03 GMT 9
Vũ Anh Khanh : Một bài thơ sống mãi với đời Lê Ngọc Trác Trong công việc sáng tác thơ văn, có nhiều khi giống như công việc đồng áng của người nông dân. Có người cày sâu cuốc bẫm suốt cuộc đời, mới thu hoạch. Cũng có người chỉ gieo một mùa mà đã bội thu. Trong văn chương cũng vậy, có một số ít nhà thơ thành công và thành danh chỉ với một vài bài thơ (Dĩ nhiên sự thành công của số ít nhà thơ trong trường hợp này, còn phải kể đến tài năng, chất lượng nghệ thuật tác phẩm, bối cảnh xã hội, sự yêu thích và cảm nhận của người yêu thơ). Vũ Anh Khanh là một trong những trường hợp hiếm hoi ấy, với bài "Tha La xóm đạo". Vũ Anh Khanh là bút danh của Võ Văn Khanh. Ông sinh năm 1926 tại Mũi Né thuộc thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận, qua đời vào năm 1956. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm truyện dài: Nửa bồ xương khô (2 tập – Tân VN, Sài Gòn, 1949), Bạc xíu lìn (Tiếng chuông – 1949), Cây ná trắc (Tân VN, Sài Gòn, 1947), truyện ngắn có: Ngũ Tử Tư (Tân VN, Sài Gòn, 1949), Đầm ôrô (Tiếng Chuông – 1949), Sông máu (Tiếng Chuông, Sài Gòn, 1949), Bên kia sông (Tân VN, Sài Gòn, 1949). Tác phẩm của Vũ Anh Khanh có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Tha La xóm đạo: "Đây Tha La xóm đạo, Có trái ngọt, cây lành. Tôi về thăm một dạo, Giữa mùa nắng vàng hanh, Ngậm ngùi, Tha La bảo: - Đây rừng xanh, rừng xanh, Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh, Gió đùn quanh mây trắng, Và lửa loạn xây thành. Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng Đây Tha La một xóm đạo ven rừng. Có trái ngọt, cây lành im bóng lá, Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ! Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ? Ai đưa đón? Xin thưa, tôi lạc bước! Không là duyên, không là bèo kiếp trước, Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu! Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu, Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ. Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng. Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng? - Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng! - Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn? Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn. Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít, Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch: - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn! Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Đây mênh mông xóm đạo với rừng già Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách. Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch. Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần: - Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng, Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì nước Việt Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi, đau đất nước lầm than". Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng Ngày hiu quạnh. Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát, Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc. Tiếng hát rằng: Tha La hận quốc thù, Tha La buồn tiếng kiếm. Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh Ờ... ơ... hơ... Có một đám chiên lành Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy: - Lạy đức Thánh Cha! Lạy đức Thánh Mẹ! Lạy đức Thánh Thần Chúng con xin về cõi tục để làm dân... Rồi... cởi trả áo tu, Rồi... xếp kinh cầu nguyện Rồi... nhẹ bước trở về trần... Viễn khách ơi! Viễn khách ơi! Người hãy ngừng chân, Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé! Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ Trời Tha La vần vũ đám mây tang, Vui gì đâu mà tâm sự? Buồn làm chi cho bẽ bàng! Ờ... ơ... hơ... Ờ... ơ... hơ... Tiếng hát; Rung làm lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc, Buồn tênh hênh, não lòng lắm khách ơi! Tha La thương người viễn khách quá đi thôi! Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay... Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này: - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé! Hãy về thăm xóm đạo Có trái ngọt cây lành Tha La dâng ngàn hoa gạo Và suối mát rừng xanh Xem đám chiên hiền thương áo trắng Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh..." Vũ Anh Khanh viết bài thơ Tha La xóm đạo vào năm 1950, sau ngày ông đến thăm Tha La. Tha La là một làng thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Đây là một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời trên đất Tây Ninh. Nơi đây có một ngôi nhà thờ được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20. Và, là một làng quê hiền hòa, thơ mộng. Trong kháng chiến chống Pháp, người dân xóm đạo Tha La đã cùng đất nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Như nhiều làng quê khác trên đất nước thân yêu, Tha La cũng bị điêu tàn dưới gót giày của quân Pháp xâm lược. Bài thơ Tha La là một câu chuyện kể về xóm đạo trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ dung dị, gần gũi. Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình đã lay động tâm hồn bao người. Bài thơ vừa ra đời lập tức gây tiếng vang, được đông đảo người yêu thơ cũng như nhân dân đón nhận với tất cả yêu mến. Trước năm 1975, nhạc sĩ Dũng Chinh đã phổ nhạc bài thơ Tha La xóm đạo. Nhạc sĩ Sơn Thảo cũng phổ bài thơ thành ca khúc Hận Tha La. Viễn Châu, một soạn giả cải lương nổi tiếng cũng đã mượn ý và lời bài thơ của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên Tha La xóm đạo. Thành công của những ca khúc, tình khúc phổ từ bài thơ đã tạo cho bài thơ Tha La xóm đạo ngày càng bay bổng, vang xa, lan tỏa rộng hơn. Từ khi ra đời đến hôm nay, bài thơ Tha La xóm đạo đã được gần 60 năm. Qua thời gian, bài thơ còn đọng mãi trong lòng người yêu thơ và sống mãi với đời./. Tài liệu tham khảo: - Địa chí tỉnh Bình Thuận -Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng chiến chống Pháp (Nguyễn Văn Sâm) - Vũ Anh Khanh (Hồ Đinh – 2007) Lê Ngọc Trác ************************** Bến Hải, Thủy Mộ của Vũ Anh Khanh Viên Linh Trong số các nhà văn, nhà thơ miền Nam (sau vĩ tuyến 17), có một thi sĩ nổi tiếng mà sử sách cả hai bên Quốc-Cộng ít nói đến, là Vũ Anh Khanh, tác giả bài thơ khét tiếng ‘Tha La Xóm Ðạo’; kẹt vì ông đang ở miền Nam thì tập kết ra Bắc năm 1954; cái kẹt thứ hai là năm 1957 ông bơi qua sông Bến Hải trở về quê hương miền Nam, và nghe nói bị miền Bắc bắn theo, ông đã nằm sâu trong lòng sông biển. Sử sách miền Bắc chắc chắn không dám nói đến ông, còn sử sách miền Nam quá ngắn ngủi, lại còn bị thiêu hủy sau này, nên nếu người hải ngoại quên ông, là tất cả sẽ lãng quên thêm nhiều năm nữa, trước khi có một Việt Nam hưng phục trong nền Văn hiến cũ và mở mang xây dựng lại từ đầu.  Vũ Anh Khanh (1926-1957). (Hình: Theo tài liệu Nguyễn Văn Sâm) Nhà thơ Vũ Anh Khanh sinh năm 1926, tên khai sinh là Nguyễn Năm, quê quán thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, sinh sống tại thành phố Sài Gòn, có thơ văn đăng trên các báo ở thủ phủ miền Nam từ mấy năm chót của thập niên 40, nghĩa là trong khoảng thời gian ông trưởng thành, những năm hai mươi tuổi. Ðây là thời gian đất nước xáo trộn giữa các ảnh hưởng thời thế, chính sự, từ cuộc vận động của các tổ chức, đoàn thể, sự thức tỉnh tự thân tự nguyện của giới thanh niên trí thức trẻ, trong có các văn nghệ sĩ, đưa đến cuộc tranh đấu chống Pháp năm 1945 tới cảnh ra bưng, về thành, bên này bên kia một lằn ranh tù ngục hay máu lửa, nhưng được phủ lên bằng một làn sương lãng mạn, thi vị hóa, như con sông nào cũng có thể là Sông Dịch, và những Vũ Anh Khanh, Khổng Dương, Thẩm Thệ Hà... những nhà văn nhà thơ thao thức với chuyện non sông đất nước, bỗng trở thành những Kinh Kha nhập Tần, những Thái tử Yên hay Cao Tiệm Ly. Bản sắc thơ văn của giai đoạn này vừa bi hùng, vừa tràn đầy mỹ cảm được thấy ở khắp ba miền, song nổi bật ở trong Nam, được gọi quen thuộc là thơ văn Tranh đấu Nam bộ, có lẽ một phần là nhờ sinh hoạt báo chí ở Sài Gòn Gia Ðịnh trong giai đoạn đó phồn thịnh hơn sinh hoạt báo chí ở Huế hay Hà Nội. Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, một người miền Nam, lớn lên và sống tại Sài Gòn, đã có một nhận định chung về thời kỳ này, khá đúng về tổng quát: “Trong thời Nam bộ kháng chiến, cùng với một số nhà văn, lý thuyết gia như Tam Ích, Hồ Hữu Tường, Thiếu Sơn, Dương Tử Giang, với một số nhà thơ như Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Hoàng Tố Nguyên, Chim Xanh, v.v., đã tạo nên một thời văn nghệ chiến đấu thật rực rỡ. Văn nghệ miền Nam được sáng chói và góp công lao xây dựng một cuộc quật khởi chung trên tinh thần độc lập của dân tộc, họ là những người xây cất những nền móng vững chắc buổi đầu. Và cũng là những người đã công khai lên tiếng kêu gọi trực tiếp hoặc gián tiếp tinh thần yêu nước thật sự của người dân bị nô lệ.” (Trần Tuấn Kiệt, Thi ca Việt Nam Hiện Ðại, 1880-1965, Khai Trí, Sg, 1967) Như thế tạm thời ta hãy nhận giai đoạn đó là giai đoạn Thơ văn Tranh đấu lãng mạn miền Nam, hay tranh đấu mà vẫn rất lãng mạn, ra đi vì tự nguyện, vì đất nước đang dưới sự cai trị của người, có khác so với thơ văn kháng chiến của miền Bắc, đa số các thi sĩ cũng là tự vệ thành, hay là bộ đội ngoài mặt trận. “Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì đất Việt. Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi đau đất nước lầm than” (VAK, Hận Tha La)* Trong bối cảnh chung của văn chương miền Nam thời 1945-1954, Vũ Anh Khanh là nhà thơ nhà văn hàng đầu. Nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Sâm viết: “Nói đến văn nghệ miền Nam thế hệ 45-50, người ta nghĩ ngay đến cặp Lý Văn Sâm-Vũ Anh Khanh, cũng như nói đến nhà văn thế hệ 32 người ta nghĩ ngay đến Khái Hưng và Nhất Linh [...]Nếu có thể xếp các nhà văn theo thứ bậc, tùy theo kết quả những tác phẩm của họ ta phải xếp Vũ Anh Khanh rồi mới tới Lý Văn Sâm, Hồ Hữu Tường, Phi Vân, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Sơn Khanh...” (NVS, Văn chương Tranh đấu Miền Nam, Kỷ Nguyên, Sài Gòn, 1969) Trong số các nhà văn nhà thơ từ miền Nam đi tập kết ra Bắc vào năm 1954 có Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ. Xuân Vũ sau này, khoảng 1965, đã vượt Trường Sơn thành công về lại quê cũ, làng xưa, - quê hương Nguyễn Ðình Chiểu - và cầm bút trở lại để phơi bày cái giá mà ông và bạn hữu phải trả vì sự lầm lẫn của mình về Việt Minh Cộng Sản, thì nhà thơ Vũ Anh Khanh kém may mắn hơn nhiều. Xuân Vũ tới được bến bờ Tự Do, còn Vũ Anh Khanh, trong khi bơi qua sông Bến Hải, thì một mũi tên tẩm thuốc độc đã bắn theo. Xuân Vũ kể lại lúc Vũ Anh Khanh bơi qua sông Bến Hải để về Nam, là khoảng năm 1956. Nhưng Luật Sư Nhuệ Hồng Nguyễn Hữu Thống nói với người viết bài này, lúc ấy phải là năm 1957, hay có thể chậm hơn nữa, vì Giáng Sinh 1956 ông còn gặp Vũ Anh Khanh ở New Delhi, Ấn Ðộ, trong Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu. Nhà văn Xuân Vũ có kể: Vũ Anh Khanh mà được cử đi dự Ðại hội Tân Ðề Li là vì công an cộng sản không thấy tác giả bài thơ Hận Tha La trong cuộc tụ tập ở khu Trường Tiền Hà Nội để phản đối sự chỉ huy văn nghệ của đảng nhân phong trào “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng.” Ðó là cuộc mít-tinh của nhóm miền Nam tập kết ra Bắc phản đối những người Cộng Sản Hà Nội. “Sau khi dự hội nghị về, Vũ Anh Khanh được giấy đi công tác ở Vĩnh Yên. Vĩnh Yên phía trên Hà Nội ấy. Anh ta liền sửa giấy công tác, từ Vĩnh Yên thành Vĩnh Linh, chỗ gần sông Bến Hải. Từ Hà Nội, Vũ Anh Khanh đi bộ vào Vĩnh Linh và rồi bơi qua sông Bến Hải.” Chuyện ra sao, những người yêu bài thơ Hận Tha La có thể đã nghe biết. Là Vũ Anh Khanh bơi qua sông, khi tới giữa sông thì công an bộ đội cộng sản phát giác. Chắc rằng họ ra lệnh cho ông phải bơi trở lại, nhưng chuyện ấy không xảy ra. Họ bắn theo, không bằng súng, mà bằng cung tên, mũi tên có tẩm thuốc độc, nên tác giả Sông Máu không bao giờ còn được hít thở không khí tự do mà ông đã bỏ mất từ 1954, khi tập kết ra Bắc. Trong ghi chép hàng ngày của một học giả [Ðoàn Thêm] làm công việc của một sử gia biên niên, lại có cơ hội thuận tiện là làm việc trong Văn phòng Tổng thống phủ VNCH, có một số việc được ghi lại như sau: -4.10.1956: Ba người liều mạng bơi qua sông Bến Hải vào Nam. -19.11.1956: Mười chín người từ Nghệ An đi ghe vượt tuyến tới Ðà Nẵng. -8.4.1957: Bốn mươi mốt người dùng thuyền vượt tuyến vô Nam. -28.10.1957: Hai sinh viên vượt tuyến vào Nam. -11.2.1958: Mười bốn người vượt tuyến vô Nam xuyên qua Lào. -2.7.1958: Hai mươi sáu người vượt tuyến qua Lào tới Sài Gòn. ... Ta nhận thấy từ năm 1958, người ta vượt tuyến bằng đường bộ, xuyên qua Lào, không thấy ai bơi qua sông Bến Hải nữa. Nếu có, người ta đi đông, và dùng thuyền. Có thể đoán, người tìm tự do sau cùng bằng cách bơi qua sông là Vũ Anh Khanh. Cái chết của ông trên Sông Máu, bằng mũi tên tẩm thuốc độc bắn theo từ bờ phía Bắc, hẳn đã khiến vang dội cả hai bên bờ. Có thể yên tâm viết: Vũ Anh Khanh (1926-1957). [Viên Linh bổ sung, 7.2013] * Bài thơ Tha La được nhắc lại với vài tên khác nhau: Hận Tha La, Tha La Xóm Ðạo, hay Tha La. Vì người viết không có bản in lần đầu, nên cũng thể ghi là chép theo văn bản nào. Còn nhớ, hy vọng không lầm, khi chúng tôi mua được cuốn Thơ Mùa Giải Phóng trên lề đường Lê Văn Duyệt vào năm 1955, thì bài này có nhan đề Hận Tha La.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 3:30:57 GMT 9
Lần theo bước chân tài hoa Ðinh Hùng  Du Tử Lê Thi sĩ Ðinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7, 1920 tại làng Trung Phụng, ngoại ô thành Hà Nội. Ngôi làng này nằm ngay sau lưng khu phố Khâm Thiên. Nhà thơ Ðinh Hùng. Những ai đã từng ở Hà Nội, đều biết Khâm Thiên là khu ăn chơi nổi tiếng nhất. Ðây là nơi tập trung các nàng ca kỹ tài sắc bốn phương. Gia đình ông thuộc giai cấp trưởng giả. Thân phụ ông sinh được sáu người con, hai trai bốn gái. Ông là con út. Theo tập tục, cũng như theo tâm lý, người ta thấy hầu hết những đứa con út trong gia đình thường được nuông chìu (quan niệm giàu con út, khó con út) và sớm phát triển các tình cảm, kinh nghiệm trên nhiều mặt hơn các anh chị. Ðinh Hùng cũng rơi vào định lệ đó. Hơn nữa, ông còn được thừa hưởng dòng máu hào hoa, nghệ sĩ của thân phụ. Thuở đó, thân phụ ông là một trong những khuôn mặt thân quen, một khách chơi thường trực của khu phố Khâm Thiên. Không chỉ thế, thân phụ ông còn đem cả cô đầu về nhà, tổ thức thù tạc với bạn hữu thâu đêm, suốt sáng. Do đó tuổi thơ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí ẩm ướt tiếng ca, câu hò, tiếng sênh, tiếng phách. Trí óc non nớt của ông đã sớm in hằn thanh sắc của những nàng Kiều xóm Khâm Thiên, cùng cốt cách phong lưu tài tử của những tay ăn chơi lịch lãm. Cái cảnh trí mộng ảo quyến rũ mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương (cũng là anh rể của ông sau này,) đã ghi lại trong bài “Nghe Hát”: “Phách ngọt, đàn say nệm khói êm tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm canh khuya đưa khách lời reo ngọc mơ gác tầm dương thoảng áo xiêm dù lạ nghìn thu xa tám cõi sen vàng như động phía chân tiên nao nao khói biếc hài thương nữ trở gối hoa lê rụng trắng thềm.” Sống trong khung cảnh đó, bản chất nghệ sĩ, nòi tình nơi Ðinh Hùng như cá gặp nước, đã phát triển rất sớm. Năm lên 6, 7 ông đã chứng tỏ có năng khiếu về hội họa. Một người anh rể của ông là Ð/U, nhiếp ảnh gia Vũ An Ðạm cho biết, ngay từ tấm bé, Ðinh Hùng đã vẽ rất đẹp. Năm 13, 14 tuổi ông đã nghiện thuốc lào (một thứ kích thích cảm giác gấp trăm ngàn lần thuốc lá. Cái say của thuốc lào cũng ngất ngây, mê mẩn gần như thuốc phiện). Cũng tuổi này, ông mê một cô đào hát trẻ mới vào nghề, thường được thân phụ ông mời về nhà. Ta có thể coi đó là một hành vi hết sức táo bạo, liều lĩnh giữa một khung cảnh xã hội còn chịu ảnh hưởng sâu đậm đạo lý Khổng Mạnh. Giữa xã hội mà, người ta thường trực sống trong sự đề phòng miệng tiếng búa rìu. Mọi người hầu như không sống cho mình, mà sống cho cái khuôn mẫu ước lệ của xã hội ấy. Ngay khi bước chân vào trường Bưởi, ông đã cùng một vài người nữa, làm những tờ bích báo. Hoạt động văn nghệ đó, gây tiếng vang lớn trong trường, khiến Ðinh Hùng phải bỏ học sau này. Năm đệ tứ, Ðinh Hùng bắt đầu làm thơ. Nhưng ông giấu diếm không dám cho ai biết. Khi ấy, ông đã cảm thấy, thơ là một địa hạt của chữ nghĩa, kiến thức và kinh nghiệm. Bây giờ ông vẫn còn giữ nguyên quan niệm đó, và phủ nhận tất cả những trường hợp người ta gọi là thần đồng thi ca. Như cách đây khá lâu, ở Pháp, một thời dư luận xôn xao, bàn tán khi báo chí loan tin thần đồng thơ, cô bé Drouet 11 tuổi với những bài thơ nhỏ thật sâu sắc, trong sáng. (1) Tới năm dọn thi tú tài phần nhất, ông mới bắt đầu để mọi người biết tư cách thi sĩ của mình. Sau khi đỗ tú tài phần nhất, một lần nữa, ông bị ban giám đốc nhà trường cảnh cáo, nếu muốn tiếp tục việc học thì hãy thôi làm văn nghệ. Ngoài ra, ông còn bị nhiếc móc về mái tóc bù rối nghệ sĩ nữa. Chạm tự ái, ông làm đơn xin thôi học. Nhờ gia đình khá giả, ông tiếp tục sự học bằng cách tới thư viện. Nhưng cũng từ đó trở về sau, không bao giờ ông thi thêm một khóa nào khác. Sau khi rời bỏ học đường, Ðinh Hùng chính thức hoạt động văn nghệ, và bắt liên lạc với những văn nghệ sĩ đương thời. Tác phẩm đầu tiên của ông được đăng trong giai phẩm “Mùa Gặt Mới” của ông Lê Văn Văn, giám đốc nhà xuất bản Tân Việt, ấn hành năm 1940. Tùy bút ấy sau được chọn đăng trong cuốn “Việt Nam Văn Học Bình Giảng” của Phạm Văn Diêu. Song song với “Mùa Gặt Mới,” phê bình gia Vũ Ngọc Phan xuất bản tuần báo Hà Nội Tân Văn. Qua trung gian Nguyễn Ðức Chính, bạn học của Ðinh Hùng, ông đưa nguyên một tập thơ cho Vũ Ngọc Phan coi trước. (2) Ông Phan đồng ý nhận đăng dần dần những bài thơ có trong tập này. Vài số sau, Vũ Ngọc Phan giao hẳn trang thơ cho Ðinh Hùng phụ trách. Ông kể, thủa đó người làm thơ không bao nhiêu! Nên chẳng có ai gửi thơ tới. Chỉ có thi sĩ Vũ Hoàng Chương, lúc đó đang in cuốn thơ “Say,” đưa bản vỗ cho ông đăng dần, với lời giới thiệu của Mạnh Phú Tư. Sau hai tháng cộng tác, được 8 số, ông chấm dứt cộng tác với Hà Nội Tân Văn. Cũng từ đấy, ông không còn chỗ để đăng thơ. Nhưng bù lại Ðinh Hùng được quen biết nhà văn Thạch Lam. Ông nhớ lại rằng, hồi đó Thạch Lam cho xuất bản cuốn “Hà Nội 36 phố phường,” ông viết thư cho Thạch Lam, đại ý nói là một trong những người hâm mộ Thạch Lam từ lâu, nay viết thư xin góp ý về bài “Thịt Chó.” Nhà Thạch Lam ở sâu trong xóm làng Trung Phụng, mỗi khi xuống phố đều phải đi qua nhà Ðinh Hùng. Một hôm Thạch Lam ghé vào nhà Ðinh Hùng. Ông sửng sốt, kinh ngạc... Những tưởng thư viết gửi Thạch Lam, cũng chỉ như trăm ngàn trường hợp khác. Ông nói: “Ðây là một khích lệ lớn lao đối với tôi.” Nhờ Thạch Lam giới thiệu, Ðinh Hùng quen biết hầu hết các nhà văn trong nhóm T.L.V.Ð như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ... Và một số văn nghệ sĩ khác nữa, như Huyền Kiêu, Nguyễn Tuân... Riêng Thạch Lam, Huyền Kiêu và Ðinh Hùng, sau này kết nghĩa anh em... Ngoài ra, ông còn kết bạn với thi sĩ Trần Dần. Cùng Trần Dần, lập một nhóm thơ, lấy tên là “Nhóm Thơ Tượng Trưng.” Năm 1945, khi chiến tranh Việt Pháp lan tràn tới Hà Nội, theo lớp sóng tản cư, ông chạy vào Hà Ðông rồi Vân Ðình. Thời gian này ông bị V.M trưng dụng bắt làm việc cho Sở Thông Tin khu 2 (Liên khu 2). Thời gian này, ông bị khai thác triệt để ở lãnh vực hội họa. Họ bắt ông vẽ ảnh của những người đang cộng tác với Pháp tại miền Nam, như BS Nguyễn Văn Thinh, Lê Khắc Hoạch, rồi cho in vào truyền đơn, kèm theo ít câu vè sỉ nhục... Một trường hợp đau xót hơn cả là họ bắt ông vẽ lại chân dung nhà văn, lãnh tụ cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, rồi cho in vào truyền đơn đem phổ biến tất cả các khu, các vùng, với những lời chửi rủa thô bỉ... Làm việc cho thông tin khu 2 được chừng 3 năm, khi VM ngày càng siết chặt, ép văn nghệ sĩ vào con đường phục vụ chính trị, ông cảm thấy không thể kham nổi, bèn cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương bỏ trốn về Thái Bình. Ở Thái Bình, ông cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương mở ngôi trường nhỏ trong một làng tương đối còn yên ổn. Nhờ dân làng đa số trọng chữ nghĩa, ông sống êm thấm được chừng 1 năm. Tới đầu năm 1950, quân viễn chinh Pháp cùng quân đội Bảo Hoàng mở cuộc hành quân tảo thanh Thái Bình. Một số dân chúng không chạy kịp, bị lùa về vùng do quân Pháp kiểm soát. Trong số những người bị lùa, có cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương lẫn Ðinh Hùng. Từ vùng Pháp kiểm soát, còn được gọi là vùng “tề,” ông cùng họ Vũ tìm đường trở về Hà Nội. Với 5 năm lưu lạc gian truân, Ðinh Hùng đã sáng tác được hai tác phẩm. Thơ là tập “Tiếng Ca Bộ Lạc,” và văn là tập “Tiếng Ca Ðầu Súng,” loại bút ký. Ở Hà Nội, Ðinh Hùng cộng tác với một số anh em có mặt trong thành như Ngọc Giao, qua giai phẩm “Lửa Cựu,” “Hoa Sen.” Riêng giai phẩm “Kinh Ðô Văn Nghệ” thì do chính ông chủ trương. Kế tiếp, ông lại cùng hai nhà văn Kỳ Văn Nguyên và Thanh Nam trông nom tờ tuần báo “Hồ Gươm.” Năm 1951, ông lập gia đình. Các bút hiệu Thần Ðăng, Hoài Ðiệp Thứ Lang của ông ra đời trong khoảng thời gian này. Du Tử Lê
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 10:50:35 GMT 9
ĐINH HÙNG ( 1920-1967)- GIẢI QUÁN QUÂN THƠ” VĂN CHƯƠNG TOÀN QUỐC 1961 ”( miền Nam ).Đăng tải ngày: 26/03/2011 Đinh Hùng sinh năm 1920, con út môt gia đình trung lưu, gốc làng Phượng Dực ( tỉnh Hà Đông) – từ lâu ra lập nghiệp tại Hà Nội. Ông bà Phán, còn gọi ông bà Hàn, sinh được hai trai, bốn gái. Trưởng nam Đinh Lân, vá các chị Loan, Yến ,Hồng , và Thục Oanh- cô chị này hơn cậu em 1 tuổi và chiếm được trọn vẹn tin yêu của cậu em khó tính là Đinh Hùng. Thật vậy, Đinh Hùng từ nhỏ đã khó tính, lại ưa ĐINH HÙNG ( 1920-1967)- GIẢI QUÁN QUÂN THƠ” VĂN CHƯƠNG TOÀN QUỐC 1961 ”( miền Nam ). Đinh Hùng sinh năm 1920, con út môt gia đình trung lưu, gốc làng Phượng Dực ( tỉnh Hà Đông) – từ lâu ra lập nghiệp tại Hà Nội. Ông bà Phán, còn gọi ông bà Hàn, sinh được hai trai, bốn gái. Trưởng nam Đinh Lân, vá các chị Loan, Yến ,Hồng , và Thục Oanh- cô chị này hơn cậu em 1 tuổi và chiếm được trọn vẹn tin yêu của cậu em khó tính là Đinh Hùng. Thật vậy, Đinh Hùng từ nhỏ đã khó tính, lại ưa cô đơn. Sống trong 1 gia đình đông vui, mà Hùng vẫn tưởng đâu là đang sóng giữa chiếc đảo nhỏ nhoi giữa một quần đảo, tứ bề xa cách. Phải chăng vì bà Phán hoài thai nhà thơ của chúng ta ở Manila ( Philippines) – nơi ông Phán được bổ nhiệm sang đây làm Chánh văn phòng Tòa Lãnh sự Pháp từ 1918. ( theo Tạ Tỵ- sách đã dẫn) Chị ruột ông, Đinh Thị Thục Oanh ( sinh 1919 ở Manila) , còn Đinh Hùng sinh sau 1 năm – đích thị bà Phán đã hòai thai chàng thi sĩ bẩm sinh từ nơi quần đảo xa xôi ấy- sau này Vũ Hoàng Chương đã cho rằng thơ của cậu em vợ đã chịu ảnh hưởng này cách bất ngờ, rơi rớt lạc vào dòng t hơ, có câu: “…Hỏi bao quần đảo vừa ly tán Trần tục là đâu hỡi đất bằng ! “ ( Mê hồn ca ) Vẫn theo Vũ Hoàng Chương- Đinh Hùng bị cú sốc tinh thần vào lúc 11 tuổi - hoa khôi Đinh Thị Tuyết Hồng nhảy xuống hồ Trúc Bạch tự vẫn. Cái chết của người chị trước đó, kéo theo sau tang tóc từ cụ thân sinh thất lộc khi tuổi chưa tới 50 – rồi 3 năm sau Đinh Hùng lại phải từ biệt một người chị đã lập gia đình, mà tuổi còn rất trẻ. Người chị cả đó là chị Loan. Đinh Hùng tót nghiệp Tú tài bản xứ- vừa khi đó- ông lại bị cú sốc ái tình đầu – yêu đơn phương một chiều- nàng Kiều Hương . Nàng đi lấy chồng, hệt Tố của Vũ Hoàng Chương, và Đinh Hùng khắc họa chân dung nàng qua thơ: “ Tần Hương ôi Tần Hương Tên nàng như hoa đẹp Chàng là bướm tơ vương Nên chàng là Hoài Điệp…” ( Đường vào tình sử) Và chẳng ngạc nhiên gì, sau này Đinh Hùng dùng bút danh Hoài Điệp ( trước ) và sau là Hoài Điệp Thứ Lang trong tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên báo từ sau 1954 – kể cả bút danh trào lộng Thần Đăng - và ông còn phụ trách ban Tao Đàn trên Đài Phát thanh Saigon., tiếng thơ réo rắt, và giọng nói Đinh Hùng nhừa nhựa sắc như lưỡi gươm bén, phóng vào đêm tối âm vang. Thi sĩ Bàng Bá Lân, nhà thơ tiền chiến; khi phân tích thơ của nhà thơ trẻ Đinh Hùng- ông chú ý ngay từ khi “Bài ca man rợ”- được tập san “Giai phẩm”) Nxb Đời Nay của nhóm Tự lực văn đoàn, tâng bốc : “… trước hết là trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Ông tưởng tượng ra một con người nguyên lòng sơn dã, từ lâu ông sống một đời man rợ thiên nhiên trong núi sâu rừng thẳm, bỗng một ngày kia trở về đô thị”. Cùng đọc một số đoạn trong “ Bài ca man rợ”: “ Lòng đã khác ta trở về đô thị Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ Và chân bước nghe nghe chuyển rung đồi suối Lá cờ sắc vương đầy trên tóc rối Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng Rồi ta đi khí núi bốc trên lưng Mắt hung ác và hình dung cổ quái Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy Đường châu thành quằn quại dưới chân đi Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội Người và vật nhìn ta không dám nói Chân lảng xa, từng cặp mắt e dè Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả Và ta thấy hiện nguyên hình sơn dã …” Tôi trích 17/ 55 câu - một trong những bài thơ đầu đời Đinh Hùng - dường như đã quá đủ biểu hiện dòng thơ lãng mạn thời tiền chiến- mà không cần trích đủ toàn bài ,như Bàng Bá Lân xưng tụng, trích dẫn về Đinh Hùng .. Vậy bài thơ đầu tiên nào của Đinh Hùng được đăng báo ? Đó là “ Đám ma tôi “, Đinh Hùng ký Hoài Điệp , do Nguyễn Đức Chính đưa cho Nxb Tân Việt in – rồi Nguyễn Đức Chính lại đem thơ Đinh Hùng giới thiệu” ông Trùm coi sóc thi đàn Nxb Đời Nay- Thế Lữ”. chăng ? Tư liệu này do Vũ Hoàng Chương tiết lộ, và qua một nguồn khác, lại cho rằng : Thạch Lam mới là người giới thiệu Đinh Hùng ( tác giả cùng tác phầm) với “ ông Trùm Thế Lữ” ? Câu chuyện được kể lại : “…. Khi Thạch Lam xuất bản” Hà Nội 36 phố phường” , tác giả ở trong 1 ngõ rất sâu thuộc làng Trung Phụng ( ngoại ô Hà thành) – nơi này cũng là một nơi đất nhiều ma quái, đẫm lệ - nào có những bộ xương khô cùng lưỡi hái dài nanh ác luẩn quất trong lùm cây khế to đùng , cả cây cam âm u của trại Trung Phụng…” Lại nói về Thạch Lam- mỗi khi lên phố, phải đi qua nhà ông bà Phán ( cha mẹ Đinh Hùng). Biết vậy, Đinh Hùng nghĩ kế cách nào để làm quen được với nhà văn nổi danh nhóm Tự lực văn đoàn? Ông bèn viết một lá thư kèm bài văn có tựa đề” Thịt chó”- rồi chặn đường, gặp được Thạch Lam , trao cho đọc , xin ý kiến. Thế rồi, có một buổi, Thạch Lam ghé vào nhà Đinh Hùng thật - lần này” nhà thơ trẻ” sửng sốt, gây một ấn tượng tốt đẹp khó quên trong đời. Dần dà, Thạch Lam quen thân Đinh Hùng hơn, ông giắt đưa bạn trẻ đến trụ sở Nxb Đời nay ở phố Quán Thánh , rồi giới thiệu hết lời về Đinh Hùng với Thế Lữ, Khái Hưng, cả Nhất Linh nữa - toàn “ tay tổ” của nhóm Tự lực văn đoàn. Và sau, chính Thế Lữ- là người đầu tiên nâng đỡ đích thực nghiệp văn thơ đầu đời nhà thơ trẻ - và Đinh Hùng tự-sự- kể: ‘….Hồi đó mỗi khi làm xong bài thơ nào, tôi thường tìm Thế Lữ để đọc cho ông nghe. Lần nào cũng vậy, nghe xong, ông lắc đầu bảo: “ Chưa được, cậu cần phải chịu khó hơn nữa”. Tôi buồn quá vì tự ái nổi dậy, nghĩ thế nào cũng phải làm cho được 1 bài thơ hay. Không lẽ cứ để cho Thế Lữ chê hoài ?...”. Hồi ấy, Đinh Hùng đang yêu thầm nhớ trộm một cô đầu trẻ ở phố Khâm Thiên- khi tác giả làm xong bài thơ “ Kỹ nữ”,liền đem đến khoe nhắng với Thế Lữ. Thi sĩ “ ông Trùm thơ Đời Nay” thông cảm háo thắng bạn trẻ, đọc ngay , im lặng hồi lâu, chậm rãi, phán: “-…được lắm ! cậu nên làm theo thể loại này!” Thế là’ Mê hồn ca” được hình thành từ thời kỳ đó. Qua một thời gian tham gia Kháng chiến ở Khu IV - bỗng một ngày kia, khăn gói lẩn trốn về Thành ( Hà Nội- lại gặp được ngay Hồ Dzếnh ) lúc này đã là chồng bà Nhật- chủ một hiệu, sách Bình Minh ở góc Phố Huế + Reinach)- Hồ Dzếnh đọc xong, nhận in ngay ” Mê hồn ca”. Khi đang xúc tiến in, gần xong, thì Hội nghị Genève 1954 , Việt Minh và Pháp ký hiệp định chia đôi Việtnam - thì Mê hồn ca chịu chung số phận. Kẻ bỏ tiền in không có cơ hội phát hành ở ngoài Bắc, lại cũng không di cư vào Nam - Hồ Dzếnh giao cho tác giả cả ngàn tập Mê hồn ca cùng tác giả di cư vào Saigon- vừa phát hành ,vừa bán ,vừa tặng. Rồi Đinh Hùng làm ” chủ soái banTao Đàn” - từ 7 giờ tối hàng đêm réo rắt giọng ngâm thơ , nhiều tài tử, nghệ sĩ tài danh: nào những Quách Đàm, Hoàng Thư, Tô Kiều Ngân, cả ca sĩ Thái Hằng và Hồ Điệp- một giọng ngâm thơ thật đặc biệt sáng giá! . Vào đầu thập niên 1960, một chuyện như giai thoại thật trớ trêu xảy ra- khi chủ soái Tao Đàn mặc complet xám chững chạc ,vừa hoàn thành thâu thanh , bước ra khỏi Đài Phát thanh Saigon – một cô chặn lại hỏi: -…thưa ông, có phải ông là Đinh Hùng? -…Phải, chính tôi- Đinh Hùng đáp. Người vừa lên tiếng hỏi chủ soái ban Tao Đàn- một cô mặc đầm, nói năng lễ độ, miệng cười tươi. Nghe xong câu thứ 2, Đinh Hùng ngỡ ngàng: - Ông có nhớ 3 câu thơ mà ông vừa ngâm trên ban Tao Đàn tối thứ 2 không ? - -Nhớ chứ , 3 câu ca dao nói về Án sát, Tuần phủ chứ gỉ ? Đinh Hùng đáp.: - -Rất đúng thưa ông , và bắt đầu bằng : - “ Thứ nhất rắn hổ mang hoa - thứ 2 Trần Tán.. - thứ 3 là Bùi Bành “ - có phải không ạ ? - ..mà ông có biết Trần Tán… là ai không nhỉ ? - Đinh Hùng chưa kịp trả lời – nét mặt duyên dáng cô gái biến sắc , chuyển sang” tông” khác- cúi xuống lấy chiếc guốc dưới chân trái , rồi nện thẳng vào đầu nhà thơ. - : - Trần Tán là Trần Tán Bình, ông nội tôi. Bố tôi là con Cụ Tuần Bình : Trọng Lang- Trần Tán Cửu, chắc là ong có biết? - Nói xong, bỏ chiếc guốc vào chân trái, bước ra xe rất nhanh –một sĩ quan mặc đồ trận chờ ở ngoài lề đường - chở trên xe gắn máy đi mất. tăm. - Thấy Đinh Hùng lấy tay ôm đầu máu , Hoàng Thư ( thì phải) lại dìu vào quán phở 44 đối diện. Hỏi han, Hoàng Thư cho biết tên sĩ quan chở cô em phang guốc vào đầu Đinh Hùng – đó là trung úy Trần Tán Đ…- trưởng nam nhà văn tiền chiến Trọng Lang có tên thật Trần Tán Cửu. - Rồi tới một buổi trưa thứ 7, trước cửa nhà số 38 đường Tú Xương ( Saigon 3) là Trường Cán sự Xã hội Caritas- tôi đến để đón C.M.N. và gặp Đinh Hùng vẫn trong bộ cánh “ complet xám” tự khai :” ông đón ai, còn tôi đón nàng thơ có phương danh Hoài Diệu. “. Và Đinh Hùng kể tiếp: - Đáng lý” toa” phải lãnh nguyên cái guốc mới phải - thế mà “ moa” đã phải nhận thay” toa” rồi đấy ! “Toa” có nhớ không, chỉ vì 3 câu” vè” phải gió căn răng trong” Nhà văn tiền chiến. ..” của” toa” – “ moa” cho ngâm trên “ Tao đàn” – mà giờ này đầu “ moa” còn “ u” một cục ! - Năm 1961, Đinh Hùng được giải 1- Giải thưởng Thơ Toàn quốc - sách in tuyệt đẹp ( linograph) tại” Kim Lai Ấn quán”:- với lời tựa đính kèm rất trịnh trọng của “ thi sĩ” Đoàn Thêm”, . tay này đậu Cử nhân Luật thời tây- bây giờ là đương kim Phó Đổng lý Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông là tác giả đôi ba tập thơ, sách viết về lý luận thơ, dịch sách hội họa vv.. Dư luận “ phê” ngầm” : - Có “ ông Phó” Đoàn Thêm “đề’ tựa” thì ” Đường vào tình sử” của Đinh Hùng, “ bố” thằng giám khảo nào dám tự ý “ lắc đầu” không bỏ phiếu thuận. Cùng nghe Du Tử Lê , tác giả´Năm sắc diện, năm định mệnh: Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tô Kiều Ngân, Thanh Tâm Tuyền, Thế Phong – Saigon 1965) kể về giai thoại giải thưởng kia – với lý do nào Đinh Hùng “dễ “được bỏ phiếu thuận để “ ẵm” chót lọt Giải thơ Toàn quốc của Tổng thống Diệm ? Trước tiên, sách phải in đẹp, bây giờ chỉ có Nam Chi Tùng Thư ( Lãng Nhân giám đốc ), in đẹp nhất là Kim Lai Ấn quán , do tổng quản lý “ kỹ thuật” Nguyễn Doãn Vượng. mà thôi. Anh là thi sĩ, được lắm- thơ có hay” không; nhưng trước tiên còn phải có tiền in thơ cho đẹp vào – thì mới lọt mắt Ban Giám khảo .. Nếu không sẵn tiền cho lắm , - thì anh phải kiếm được người” sáng giá” viết” tựa”- cỡ ông Phó Đổng lý Tổng thống phủ Đoàn Thêm chẳng hạn thì mới” ăn giải” được ! Nhưng muốn có tiền để in thơ - sắp chữ linograph - tư nhân chỉ có Kim Lai Án quán , ắt phải có Bình Nguyên Quân;. nhưng là ai đây ? . Xin trả lời ngay -Ông Đoàn Thêm, tác giả thi tập” Nhạc dế”- chuyên viên hàng đầu viết diễn văn cho Tổng thống Diệm đọc. và Đinh Hùng muốn in thơ ở K.L.Â.Q., ắt phải” cậy ông ta đề tựa” . Vẫn theo Du Tử Lê- hồi đó Thế Phong gặp Đoàn Thêm, đã nói ngay: “ … Anh Đinh Hùng rất buồn khi phải cậy anh đề tựa…” Đoàn Thêm trả lời: -Đó là tự ý Đinh Hùng cậy nhờ tôi…” Thế Phong bồi thêm: - Thế mà.. thực sự anh ấy không cảm thấy sung sướng một chút nào ?!” Gần đây,khi hỏi về chuyện ấy, chính miệng Đinh Hùng tiết lộ với Du Tử Lê : “viết tựa kia là ngoài ý muốn Đinh Hùng. “ Thật ra, chẳng phải ông Đoàn Thêm bắt buộc phải có’ tựa”- nhưng muốn được in thơ ( tại Kim Lai Ấn quán) thì đành phải nhờ tới Đoàn quân thôi . Cùng năm, Đinh Hùng gửi” Đường vào tình sử’ dự giải Văn chương Toàn quốc- thì Ban giám khảo bộ môn Thơ là” học giả “ Đông Hồ và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, cả hai bỏ phiếu tán thành Đinh Hùng chiếm giải 1 “. Trước khi trình Phủ Tổng thống” ngự lãm”, theo tôn ti phép vua , phải qua ông Ngô Trọng Hiếu- Bộ trưởng Bộ Công dân vụ. Nhưng… Lại phải thêm chữ” nhưng” Ban Giám khảo Thơ gửi bản đề nghị đề cử Đinh Hùng xứng đáng chiếm giải 1 - thì giám khảo viên Phạm Đình Tân ( ở ban khác ) nhất nhất không đồng tình treo giải quán quân Bộ môn thơ cho Đinh Hùng . Bởi, Phạm Đình Tân còn là chủ soái” cái gọi là” Tinh Việt Văn Đoàn” , chủ nhiệm tuần báo” Văn đàn”- lại” ỷ” có bác sĩ Trần Kim Tuyến ( văn hữu xưa trong nhóm) nay Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị- Xã hội ( một tên khác: Mật Vụ) –từng là dịch sách” Định mệnh con người” do Nxb Văn đàn in ấn. Do vậy, Phạm Đình Tân muốn” cậy nhờ” ông Trần Kim Tuyến- “ kính chuyển tờ phúc trình mật” – ý kiến ‘Tinh Việt Văn đoàn” không đồng tình treo Giải 1 thơ về tay tác giả tác phầm” Đường vào tình sử” . Tổng thống Diệm đọc xong phúc trình- cho gọi ngay ông Lê Văn Thái ( tự Thái Trắng- phụ tá ông Trần Kim Tuyến) vào Dinh. Tổng thống Diệm phán: - Sao treo giải nhất Thơ cho một cuốn như ri …? - Ông Lê Văn Thái- cánh tay phải Bác sĩ Tuyến, Chánh sở Mật Vụ - hoảng hốt- vì đọc hay chưa hề đọc “ Đường vào tình sử” thì không biết:: - “…dù có đọc, tôi ( Du Tử Lê) chắc người ấy chả hiểu gì …? - Và ông Lê Văn Thái đành khất Tổng thống phúc trình đầy đủ sau. - Vẫn theo Du Tử Lê ( Năm sắc diện…. – sách đã dẫn) ), ông Lê Văn Thái bèn “ mò” ra ” La Pagode” ( ngã tư Lê Thánh Tôn + Tự Do) hy vọng gặp được Thế Phong, chàng ta thường ngồi cà phê cùng bạn bè tại đây. Tay này thường ăn sáng, với bánh kẹp nướng Croque Monsieur, và ly cà phê đen” tổ bố” ( ấy là khi rủng rỉnh quý kim ) – Du Tử Lê viết vậy. . - Từ lâu” Quán Cái Chùa” là nơi gặp gỡ của anh em làm văn chương. Tìm ai, chúng ta ( đây vẫn là Du Tử Lê )chỉ cần sáng sáng hoặc chiều chiều là gặp thôi. Và ông Lê Văn Thái, tự Thái Trắng đã gặp được Thế Phong thật . Rồi Thái Trắng dạm ý - thì T.P. trả lời đại để: - .. đem Bàng Bá Lân so với Đinh Hùng “ ai là người xứng đáng chiếm giải quán quân Thơ năm nay ư ? Kẻ xứng đáng thì không thể Bàng Bá Lân được , mà phải là Đinh Hùng- , bởi lẽ : ” Đinh Hùng trúng giải là làm vinh dự cho giải Thơ - còn giải thưởng thì không thể tạo vinh dự cho Đinh Hùng được !”. - - Sau cùng, Hội đồng Giám khảo Giải văn chương Tổng thống năm 1961 đề bạt Đinh Hùng chính thức nhận giải 1- lại còn được bầu làm đại diện viết diễn từ đọc trước quan khách vào ngày Tổng thống trao giải tại Dinh Độc Lập. Và “ gà thơ dự giải Bàng Bá Lân “– từ “ chuồng” Tinh Viêt văn đoàn”( Công giáo) - chủ xị Phạm Đình Tân “ thả, gà tranh giải thơ bay vụt “ ra – nhưng chẳng mấy chốc bị đánh bật ra ngoài lề một cách không thương tiếc ! - Bài thơ Kỳ nữ của Đinh Hùng được Thế Lữ khen từ thời mới vào nghề, liệu có thể gọi là một bài thơ hay ? Thật ra thì không hay lắm, nhưng ít ra cũng làm điểm tựa cho tác giả tin khả năng thi ca bước đầu không tệ lắm đâu ! Có những câu: . “ Có con đường sao mọc lúc ta đi Cả chiều sương mây phủ lối ta về Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ Vì người em có bao phép nhiệm mầu Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc Ta đặt Em lên ngai thờ Nữ sắc ….” hoặc rất” mô- nô -tôn”( monotonie ) , như trong” Thần Tụng “: “…. Mây lòng vương giả bơ vơ từ thuở suy vong nửa cuộc giao tranh sầy đến tâm tình gỗ đá, kẻ phong sương, người lữ quán đã chưa kinh kỳ ảo tưởng, đã xoay nghiêng gác phấn lầu son . Từng điểm tinh anh lang thang những chiều tái tạo, bốn mùa hôn phối hiện lên thanh sắc cỏ cây, màu quân tử, nét văn khô, tuy chẳng cơn mưa móc từ bi cũng bừng nở…”. Xu hướng thơ Đinh Hùng – đó là thơ viết theo hướng hoài vọng cá nhân. Và chưa có một thi sĩ nào có thể đem cái riêng tư sầu kín phản ánh qua thơ trung thực hơn Đinh Hùng- hoặc nói một cách khác - thì thơ ông đầy tính chất thần kỳ, ma quái, ý tưởng càng quái đản, nào hồn ma siêu phách, thế giới âm ty – nhưng thơ tình yêu lại rất cuồng nhiệt cụ thể ! Đôi khi thôi, đọc thơ Đinh Hùng, người đọc hình dung được trong đầu thế giới vàng son, cung ngà, điện ngọc- như phảng phát đâu đây: “ Gió trăng ngự uyển buồn sâu sắc Thử bước vào xem cung điện ma ..” Đinh Hùng thường bị ám ảnh, luẩn quẩn- thơ chàng thi nhân của lầu son, gác tía, xưa kia thích than mây, khóc gió – thì nay đã không còn ! Bây giờ thế kỷ XX, chàng đành chấp nhận mặc bộ complet từ phương Tây du nhập, dấn thân đời trần tục, ta bà- lại không thể dễ quên thế giới hồng hoang! Bùi Giáng- một thi nhân rất gần Đinh Hùng qua thi ca – lại rất khác biệt với con người ngoài đời. Đinh Hùng bình thường trong đời sống nhân sinh - còn Bùi Giáng nửa điên, nửa tỉnh- riệng lần đánh giá thi tài Đinh Hùng lần này lại rất tỉnh ( hoặc thời đoạn sống này Bùi Giáng chưa quá mê điên chăng ?) : “…Đinh Hùng là thi sĩ muốn khai phá một nẻo đường đưa tới thế giới hồng hoang, nơi đây con người trút bỏ hết hình hài, thể phách, tinh anh cũ; mà đắm mình trong một bầu không khí ảo huyền, trác tuyệt, đầy những sương lá phong thần. Thi sĩ quên mối lo eo sèo thế sự. Cuộc sống tủi buồn của nhân thế đã xa biết bao ! Tiếng cưới, tiếng khóc ở đây có những âm vang kỳ ảo: “ Trận cười tan hợp núi sông / Còn mơ kỳ thú lạ lùng cỏ hoa / Hý trường đổi lớp phong ba / Mượn tay ngụy tạo xóa nhòa bể dâu….” ). Nỗi buồn tiếc nuối thế giới hồng hoang từ thế kỷ nào vẫn lẩn quất mạnh mẽ trong tâm can Đinh Hùng- nét dị biệt khác hẳn thơ Vũ Hoàng Chương. : nỗi buồn trừu tượng mênh mang, siêu thực cách ảo hóa, ngông cuồng vô lối, “ sinh ra lầm thế kỷ “. Thơ V.H.C già cỗi, ảo mộng, người đọc dễ nhìn được tương lai sớm lụi tàn .Còn thơ tình Đinh Hùng trẻ trung, tươi , duyên dáng, ngây thơ , sâu sắc hồn nhiên, dung dị : “… Trời hồng chắc má em tươi Nước trong, chắc miệng em cưới thêm xinh Em đi hoài cản một mình Hai lòng riêng, để mối tình cô đơn …” Phút xuất thế đối với thi nhân- tuy tác giả muốn trốn chạy thế sự đa tạp, ngổn ngang để chui mình sâu trrong vỏ ốc – thi nhân sẽ không còn muốn sống hòa nhập với xã hội- nếu có- thi nhân muốn được nhìn là người từ một bộ lạc xa xôi, nay phiêu lãng về thăm: “ Qua xứ ma sầu ta mất trí Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền …” Với tình yêu- Đinh Hùng rất trân trọng- lại si mê cuồng dại tới mất trí, và chung thủy thì tới tận cùng ! Tỷ dụ bài” Gửi người dưới mộ” –nàng thơ ngoài đời tên Liên. Thời kỳ này ông đang theo học ở Trường Bưởi, Nàng Liên là mối tình đầu Đinh Hùng chăng ? Nàng qua đời vào mùa thu - khiến thi nhân nuối tiếc, nhớ thương, đêm đêm nguyện cầu , rồi khóc nàng : “ … Trời cuối thu rồi em ở đâu ? Nằm bên đất lạnh chắc em sầu Thu ơi ! đánh thức hồn ma dậy Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu Em mất về đâu , mộng về đâu ? Đêm đêm ta nguyện với ta cầu….. “ Ở một tác phẩm văn xuôi khác” Đốt lò hương cũ”( Saigon 1971- Nxb Nhân sinh thâu thập từ nhiều bài viết trên các báo cho xuất bản ( sau khi tác giả qua đời )- tác giả nhớ bạn văn thơ qua đời trước ông, với bài mang tựa:” Gửi người bạn bên kia trần lụy”: “ Cái tin” cả bầy văn tinh tối nay tụ họp tại nhà Bạch Liên “ ( không biết có phải Bạch Liên và Liên” mối tình đầu Đinh Hùng” là một chăng?) – với những tên tuổi như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam vv…”Thâm Tâm, Vũ Trọng Can, Tô Ngọc Vân , Lê Văn Trương, Vũ Xuân Tự vv... ( thời tiền chiến) và Chế Vũ ( Hồ Xuân Tịnh), Quách Thoại vv.. ( thời hậu chiến) . Theo tôi, một bài thơ viết theo lối” thơ xuôi “- bài “ thơ xuôi duy nhất của Đinh Hùng”- là “ Hoài niệm”. Có thể nói không sợ lầm, “ thơ tự do Đinh Hùng ” có ý tưởng thật phóng khoáng, lối diễn đạt không theo qui luật nào- mà cả đời thơ Đinh Hùng chỉ làm theo qui luật có sẵn : “ (…………………………………….) … Bạn là người chung tình Gần nhau không hẹn Lòng giữ nguyên hương hoa bình minh Bên đèn tâm sự Bạn với tôi như đôi hình viễn xứ Đôi bóng phù du Không dưng mà thương nhớ Không đâu mà ngẩn ngơ Rủ bướm chim theo vào giấc ngủ Thả sầu trên con thuyền mây đưa Trời giăng sao tỏ Đêm mùa thu Cửa phòng tôi bỏ ngỏ Giấc mộng tôi hững hờ Ta biết giăng buồn ngày ta còn nhỏ Ai biết ta buồn vì lòng ngây thơ ? Nhìn cuộc đời Tin rằng hạnh ngộ Bạn yêu giăng và tôi yêu gió Cười nụ cưới đơn sơ…” (………………………………………….) ( Hoài niệm bầy văn tinh ) Đinh Hùng qua đời lúc 5 giờ sáng 24 / 8/ 1967 tại Nhà thương Bình dân , và trước đó vài ngày, tôi có ghé lại thăm. Đinh Hùng ngồi trên đệm chiếc giường một, bụng trướng to chẳng khác thiếu phụ ôm bụng trống sửa soạn lâm bồn. Bệnh nhân được chuyển tới bệnh viện Bình dân - nhờ bác sĩ Phạm Biểu Tâm đích thân lái xe hơi đưa từ Bệnh viện Cộng Hòa sang đây , để chính bác sĩ giám đốc chăm sóc, theo dõi tình hình sức khỏe Đinh Hùng. Giáo sư bác sĩ Phạm Biểu Tâm rất tốt, hào sảng. có lòng với bạn văn chương, không chỉ với Đinh Hùng mà thôi. Bẩy năm trước , ông là bác sĩ điều trị ung thư gan cho chủ soái Nguyễn Đức Quỳnh ( nhóm Hàn Thuyên tiền chiến) một cách tận tình. Tôi còn nhớ như in- gặp tôi, anh hỏi: - …bao giờ ông vào Không quân ? nhớ là ngày đầu tiên mặc bộ đồ treilli, thì nhớ vào trình diện tôi đầu tiên nhé ! Giọng the thé- chỉ Đinh Hùng có -mà không thể lẫn bất cứ ai - từ âm vang, tiết tấu, giọng điệu, kể cà lời giới thiệu ’ chủ soái Tao đàn” ( tôi thường nối điêu đùa cợt: “ tao đàn, mày hát ,nó nghe”- đến lần đầu tiên tôi vô Saigon ( trước 4 ngày Điện Biên phủ thất thủ ) –chúng tôi cùng vào sàn nhảy “ Lệ Uyên” nằm trên đường Tổng đốc Phương ( Châu văn Liêm, quận 5 bây giờ )- vẫn là giọng the thé Đinh Hùng vang lên mừng rỡ gặp “ cô ca ve quen”. Đinh Hùng người nhỏ thó, mặc complet khiêu vũ, như quận tròn muốn bay lên, thì cô vũ nữ kềm lại. Hình như lần ấy Thái Thủy rủ đi, lẽ đương nhiên “ nhân viên trong ban Tao đàn chi “địa” ! Lại nhớ tới ngày đầu 1965 ngồi trong Câu lạc bộ Trại Huấn luyện Cát Lở ( Vũng Tàu) – thì đâu đây tiếng Đinh Hùng giới thiệu ;”… chương trình “ Tao đàn” bữa nay giới thiệu cô X (tôi quên tên ngâm sĩ”) với bài thơ “ Soi gương” của Thế Phong “. ( bài lục bát đăng trên tạp chí “ Tân Phong” – Nguyễn Thị Vinh chủ nhiệm). Vẫn là giọng the thé dễ nhớ của Đinh Hùng sau 11 năm. Có một lần nữa, tôi đến phòng anh chị thuê ở trên lầu 1- số 7 Trần Văn Thạch, Tân Định, Saigon 1 – (nay là Nguyễn Hữu Cầu) . Từ phòng cuối dẫy lầu 1, anh thong dong đi bộ ra tiếp tôi , dáng điệu bơ phờ, vì chưa đủ” cữ thuốc “ ( thuốc phiện). Cầm theo tập thơ” Đường vào tình sử”- lời đề tặng ký từ 1961- (năm anh được Giải thưởng thơ Tổng thống VNCH )- “ bản Liên Tài” nét chữ “ rồng bay phượng múa’ điệu nghệ- đặc biệt “ chữ đề tặng … ( mực mầu đen) Thế Phong ( mầu mực hồng) “. Đài Phát thanh Saigon loan tin Đinh Hùng qua đời- bạn văn đi đưa tang Đinh Hùng gần như đông đủ- nhưng thiếu” tên Thế Phong “ mặc đồ lính Không quân đang ” ắc ê” bài học quân sự căn bản.- không dám mạnh miệng xin cấp trên cấp phép xuất trại để đi đưa Đinh Hùng tới nơi an nghỉ cuối cùng! Không biết “nàng Hoài Diệu “- bữa nào mà anh đón vào một chiều thứ 7 - trước cửa nhà số 38 Tú Xương, có mặt đưa tiễn không đây ? Tạp chí Văn( N.Đình Vượng chủ báo- Trần Phong Giao thư ký gom bài) ra mắt một số đặc biệt về Đinh Hùng. Gồm nhiều bài chiêu niệm : Bàng Bá Lân, Vũ Hoàng Chương, ( 2 bài diễn thuyết các ngày 8/10 và 8/12/ 1967 / Saigon ) , Mai Thảo, Trần Tuấn Kiệt, Thanh Nam, Thái Thủy, Kiên Giang- Hà Huy Hà, Cao Tiêu, Huy Quang, Phan Lạc Phúc, Văn Quang, Tô Kiều Ngân, Tiểu Nguyên Tử vv… Chỉ một bài báo (potin) ngắn Dương Tấn Trương là” giá trị nhất”( theo tôi mà thôi) . Luật sư Trương viết báo, qua bút danh Tiểu Nguyên Tử từng sống ở Hà Nội , khoảng thời gian Tự lực văn đoàn hoạt động báo chí, văn chương rôm rả ( 1932-1942) – thì luật sư Trương quen biết nhiều bạn văn ,như Thế Lữ, Khái Hưng, Tchya, Lãng Nhân vv. mà lại không biết Đinh Hùng : “…Đinh Hùng nổi tiếng về sau. Và sau ngày di cư, dân chúng miền Nam mới biết được thi sĩ Đinh Hùng, qua Đài Phát Thanh. (…) Giọng ngâm hơi ngọng – vì lưỡi hơi ngắn, nhưng tứ thơ dồi dào, lời văn ngào ngạt, khiến cho tất cả thính giả, nghĩa là tòan dân đều biết Đinh Hùng. Tiểu Nguyên Tử chỉ quen với Đinh Hùng sau này, vì Đinh Hùng bị chủ đất đưa ra Tòa, đòi dỡ căn nhà lá một chái của nhà thơ . Đinh Hùng nhờ một luật sư thân với T.N.T. như bóng với hình, bênh vực. Và sau khi luật sư thành công, Đinh Hùng trả công, bằng một bức tranh vẽ… “ cái xóm nhà lá ấy” , do một bạn họa sĩ tạo nên, theo lời yêu cầu của thi sĩ. Bức tranh ấy hiện đang còn được treo tại phòng giấy luật sư, ngay cửa chánh. Rồi lại hay tin Đinh Hùng bệnh nặng, Đinh Hùng chết. Và là một đám tang long trọng…(…) Ở xứ người, một thi sĩ ở trong địa vị của Đinh Hùng, nghĩa là chẳng những nổi danh vì một tập thơ, mà lại còn… nổi tiếng qua Đài Phát Thanh – như “ Jean Cocteau” chẳng hạn - đã được giàu có trong lúc sống. Và sung sướng trọng đãi từ ngày nổi danh cho đến … mấy chục năm sau ngày chết. Xứ ta, thi sĩ hữu tài chỉ được trọng đãi sau ngày chết…. Nhứt là nhớ ngày chết ấy lại lọt trong thời kỳ bầu cử ….“ ( nhật báo” Dân Chúng “ số 1004/ngày 4/9/1967). Và quả thật khi giã từ cuộc đời- thì ra đi chỉ một mình- tất cả để lại sau lưng, có ai mang theo được gì ! Tôi lẩm nhẩm mấy câu thơ nhớ được- từ” Hoài niệm” tặng chính “ văn tinh Đinh Hùng ( chữ của Đ.H.- TP chú thích) – ngay ỡ bãi cỏ quân trường - nơi lính tráng bị cấm trại 100% - vào dịp bầu cử Tổng thống VNCH (1967)- liên danh Nguyễn Văn Thiệu & Nguyễn cao Kỳ: “… Mộng cung tần Xoay nghiêng mặt gối Ai cười? Ai nói? Ai xênh ca Lênh đênh nước biển trăng nhòa Những vì sao lạ đã xa xuống gần Trời buồn giáng điệu giai nhân Trái đất xoay vần - đứng lặng mà nghe Rạt rào sóng nhạc pha lê Đêm tàn, núi đổ - Ra đi một mình ..” Saigon 1997. (30 tết Canh Dần, chuẩn bị đón tân xuân Tân Mão - sao nhớ Đinh Hùng lạ thường !) ( trích từ “ Chiêu niệm 4 nhà văn Saigon / Thế Phong / Nxb Đồng Nai “. Bài này đọc lại có sửa chữa, thêm, bớt .)  Phạm công Thiện - Thế Phong - Đinh Cường. Đà Lạt 1963 thời Thiện 22 tuổi viết Ý Thức mới trong văn nghệ và triết học
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 10, 2012 5:06:53 GMT 9
Ðông Hồ (1906-1969), nhập thần Trưng Nữ Vương Wednesday, February 22, 2012 2:39:53 PM VIÊN LINH Trong những ngày tháng 2 âm lịch năm nay Nhâm Thìn, người viết bài này giở sách báo cũ, lục tìm thơ văn viết về hai vị nữ anh thư, và nhất là về Trưng Trắc, người Lĩnh Nam đầu tiên đã võ trang nổi dậy lật đổ cuộc đô hộ của giặc Tầu, kéo dài từ năm 111 trước Tây lịch tới lúc đó, năm 39 sau Tây lịch, tức là 150 năm, (sau này ta quen gọi là Bắc thuộc lần thứ nhất). Chân dung nhà thơ Ðông Hồ Lâm Tấn Phác, thi sĩ từ trần tại giảng đường Văn Khoa khi đang đọc bài thơ “Trưng Nữ Vương.” Sau vài ngày, chúng tôi chỉ tìm thấy có một vài bài đã cũ, thuộc các thế kỷ trước, nhưng bất ngờ là cùng một lúc, có hai ba nguồn tài liệu xuất hiện, nhắc đến bài thơ “Trưng Nữ Vương” của nhà thơ nữ Ngân Giang và cái chết của thi sĩ Ðông Hồ khi ông đang đọc bài thơ đó. Ðông Hồ (1906-25.3.1969) (1) là một tên tuổi lớn của thi ca Việt Nam, lại là người đã mở trường dạy chữ quốc ngữ tại Hà Tiên khi mới trên 20 tuổi. Theo tác giả “Dự báo bùng nổ thơ ca,” thì chi tiết về bài thơ và cái chết của thi sĩ Ðông Hồ, đã xảy ra như sau: “Trưng Nữ Vương của Ngân Giang là bài thơ hay nhất về vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc. Ðược sáng tác ở tuổi 23 (1939), ‘Trưng Nữ Vương’ đã đi vào huyền sử nền thơ Việt với sự ra đi thần thoại của người thầy - nhà thơ Ðông Hồ - trên bục giảng đường Văn Khoa Ðại Học Sài Gòn, ngày 28 tháng 3, 1969, nhân lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng.” (2) Ðoạn văn dưới đây tác giả in nghiêng, nhưng không ghi rõ lời của ai, tuy nhiên theo như câu thứ ba và câu cuối cùng, “thầy đọc các con nghe,” thì phải là lời của chính thi sĩ Ðông Hồ: “Thơ về Hai Bà kể rất nhiều. Nhưng có điểm chung các tác giả đều là đàn ông. Họ chỉ nhìn khía cạnh Hai Bà yêu nước, diệt xâm lăng. Cho đến ngày thầy được xem bài của một nữ sĩ tên là Ngân Giang trong tập 'Tiếng Vọng Sông Ngân' mới chợt thấy: Trời ơi, có một điểm mà từ trước tới nay chưa một ai nghĩ tới, mà tới nay mới có một người nhìn thấy! Ðó là khi đánh đuổi quân Tầu, thắng khắp nơi, Bà Trưng vẫn là một người góa bụa. Dù chiến thắng nhiều, dù quân thù kinh hãi, bà vẫn là một người đàn bà đang có tang chồng. Phần trên bài thơ tả chiến thắng của Hai Bà, đến bốn câu kết thì thật tuyệt. Ðể thầy đọc các con nghe; ai thích thì chép.” Ðọc xong khổ cuối “Trưng Nữ Vương,” Ðông Hồ đứng vịn vào tường, gục xuống...” (tr. 532) Bài thơ của Ngân Giang như sau: Trưng Nữ Vương Thù hận đôi lần chau khóe hạnh Một trời loáng thoáng ánh sao rơi Dồn sương vó ngựa xa non thẳm Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi. Ngang dọc non sông đường kiếm mã Huy hoàng cung điện nếp cân đai Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai. Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai! Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi. Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận Non Hồng quét sạch bụi trần ai. Cờ tang điểm trống nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời. Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi. Chàng ơi! Ðiện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi... (Ngân Giang, Tiếng Vọng Sông Ngân, Hà Nội, 1939) [Bản này bị chép khác ở cuốn “Thơ Mới, 1932-1945,” NXB Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội, 1998: Câu thứ 2 in là: “bóng sao rơi” thay vì “ánh sao rơi,” câu thứ 7 in là “gió bão dồn chân ngựa” thay vì “gió bãi lùa chân ngựa,” câu 9 in là “cốt xương” thay vì “cốt xong,” - câu 15 in là “Cờ tang điểm tướng,” thay vì “Cờ tang điểm trống,” câu 16 in là “ngắt mấy trời” thay vì “ngát mấy trời,” câu 18 in là “Giáp vàng khăn trổ” thay vì “khăn trở” (tức khăn tang). Các cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Nhà Văn Hiện Ðại của Vũ Ngọc Phan hay Việt Nam Thi Nhân Hiện Ðại của Phạm Thanh đều không nói đến Ngân Giang. Thi ca Việt Nam của Trần Tuấn Kiệt có mục về Ngân Giang, (đăng nguyên bài do Thẩm Thệ Hà viết thay), song lại không có bài Trưng Nữ Vương.] (3) Ngoài đời, nhà thơ Ðông Hồ Lâm Tấn Phác là một người mảnh khảnh, y phục trang nhã, phong thái ung dung, tươi cười. Khi tòa soạn Nghệ Thuật của chúng tôi (Mai Thảo, Thanh Nam, Anh Ngọc, Viên Linh) đặt tại Thư Lâm Ấn Thư Quán, chủ nhân là con rể thi sĩ, tôi có được gặp ông và nhà thơ Mộng Tuyết. Người thơ Ðông Hồ, khi đọc bài Trưng Nữ Vương, hẳn đã nhập thần với đề tài. Quả thật, chỉ có Ngân Giang đã nhìn “thấu hai cõi” khi làm thơ về Trưng Trắc, và chỉ có Ðông Hồ mới nhìn thấy “cái thấy” của Ngân Giang. “Ta cũng nòi tình...” Chú thích: 1. “Vào ngày 25 tháng 3, 1969 (tức ngày mồng 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu), trên một giảng đường ở lầu hai lộng gió của Ðại Học Văn Khoa [Sài Gòn], Ðông Hồ đã bất ngờ ngã xuống lúc đang bình bài thơ Trưng Nữ Vương của Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng, một tứ thơ rất độc đáo, rất nữ tính mà Ðông Hồ đã tinh tế chỉ ra. Ðược các học trò đưa vào bệnh viện, ông mất ngay ngày hôm đó.” (Võ Văn Nhơn, Ðông Hồ, thi sĩ yêu tiếng Việt, online). 2. Nguyễn Phan Cảnh, “Ngân Giang, hình hài tình tự thế hệ,” 347-371, La Giang Publishing, Toronto-Hong Kong, 2007. 3. Một bài thơ có 20 câu, Hội Nhà Văn Việt Nam chép sai 6 câu. Ðược biết trong niên giám Hội in xong tháng 4, 2007, dầy 1200 trang đóng bìa cứng, có lời giới thiệu của Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh, khoe hội có non 1000 hội viên là nhà văn. Thật ra không biết có bao nhiêu hội viên ngành xuất bản đọc thông thơ văn?
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 5:00:58 GMT 9
Bàng Bá Lân, chỉ một bài thơ Wednesday, October 03, 2012 Viên Linh  Mỗi khi ta nhắc đến tên một thi sĩ, người nghe thường hỏi lại, hay nói thêm, về sự đặc biệt của thi sĩ ấy, hay một điển hình nào đó, một tiêu biểu nào đó, để sự nhắc nhở có thêm ý nghĩa, thêm đậm đà. Thi sĩ Bàng Bá Lân (1913-10.1988). Chẳng hạn có người nhắc đến nhà thơ Tú Xương, người ta thường nói “Ông tú Vị Xuyên,” hay “Tác giả bài thơ trào phúng Chúc Tết phải không: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau.” Nhắc đến Tản Ðà, người ta nhắc đến nhà thơ “Núi Tản sông Ðà,” hay bài “Thề Non Nước,” bài dịch “Hoàng Hạc Lâu,” vì đó là bài lục bát nổi tiếng nhất của ông, và bài dịch kiệt xuất của sự dịch thơ Ðường sang tiếng Việt. Gần chúng ta hơn, nói tới Vũ Hoàng Chương, người ta nhắc đến Thơ Say, đến “Mười Hai Tháng Sáu;” nói đến Nguyễn Bính, người ta nhắc đến “Lỡ Bước Sang Ngang,” đến “Em ơi em ở lại nhà, vườn dâu em hái mẹ già em thương.” Thuở đất nước phân ly, Thơ hai miền của Việt Nam là hai thái cực, còn hằn đọng tới cả nửa thế kỷ sau. Miền Nam sau 54, nói đến Thanh Tâm Tuyền là có thể nhắc đến “Tôi không còn cô độc,” hay đọc vài câu thơ tự do điển hình của ông về tình yêu và thành phố: “Anh sợ những cột đèn đổ xuống, Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta, Bóp chết mọi hy vọng, Nên anh dìu em đi xa.” Nhắc đến thi sĩ Quách Thoại người ta nhớ đến “Như Băng trường tình” hay có thể đọc ngay thơ ông: “Mặt trời mọc! Mặt trời mọc! Rưng rưng màu hoa gạo, Lỡ một ngày mai tôi chết trần truồng không cơm áo!” (Còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo). Có một hai trường hợp lạ thường là có những câu thơ cả trăm người thuộc, mà không ai biết hai câu đó xuất xứ từ bài nào, không ai trưng dẫn được tên bài thơ, đó là hai câu nổi tiếng: Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi? Có người nghĩ đó là hai câu ca dao, tức là thơ do người dân vô danh làm ra, người dân ở đây không phải là một cá nhân, mà là nhiều người, mỗi người thêm thắt một ý, một chữ, cho đến khi nó trở thành toàn bích, nghĩa là không một ai là tác giả, mà tác giả là đám đông. Nhưng có một thi sĩ nổi danh nhận rằng hai câu ấy là do ông làm, đó là thi sĩ Bàng Bá Lân. Tôi tin ông, vì ông vốn là một người không vướng mắc gì vào những chuyện tầm phào. Ông lại từng có những bài thơ xuất sắc. Thi sĩ Bàng Bá Lân vốn họ Nguyễn - xuân, sinh tháng 11 Nhâm Tý (1913) tại Phủ Lạng Thương, song chính quán tại huyện Bình Lục, Hà Nam, nổi tiếng từ thời Tiền Chiến là một nhà thơ nồng nàn tình yêu đồng ruộng, mà thi phẩm đầu tay là Tiếng Thông Reo, xuất bản từ 1934 tại Hà Nội. Thơ ông mộc mạc, chất phác như tâm tình chân thật của ông với cuộc sống, bởi ông làm thơ từ cảnh từ tình trong cuộc sống của chính mình. Nếu nói về toàn thể, sự nghiệp thơ ông không đồ sộ, song nếu có thi sĩ chỉ cần một bài mà lưu danh hậu thế, thì ông chỉ cần bài “Ðói.” Bàng Bá Lân - và chỉ có ông, làm bài thơ cảm xúc nhất, dài nhất, kỹ nhất, về nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bản thân người viết có nhiều kinh nghiệm về nạn đói năm Ất Dậu 45, khi còn là một đứa trẻ 7 tuổi. Một buổi trưa, đang đứng trước nhà ở Ga Ðồng Văn, vừa đưa chiếc bánh nếp lên miệng, thì vèo một cái như con quạ đen từ giữa đường cái quan, một thiếu niên cỡ 14, 15 đã bay xẹt qua tôi và trở lại chỗ cũ, miệng nó đang nhai nuốt cái bánh của tôi, còn vướng một mảnh lá bọc bánh trên miệng, hai hàm răng trắng nhởn, hai tròng mắt trắng nhởn nhìn tôi trừng trừng, còn tôi thì tay phải vẫn giơ lên trong cử chỉ đưa chiếc bánh vào miệng mình. Tôi không buồn tiếc gì vì trong nhà còn cả rổ bánh nghi ngút trên nồi nước mà mẹ tôi vừa nấu xong, nhưng tất cả đã làm tôi ngơ ngẩn. Sau này trưởng thành, nghe nói và đọc sách báo, dường như trận đói ấy đã giết cả “hai triệu người” miền Bắc? Tôi chưa được đọc một tài liệu chính thức nào, nên chưa thể gọi là biết đúng sự việc ra sao, ngoài vài tấm hình. Chỉ một bài thơ Ðói, Bàng Bá Lân trên phương diện một tác giả, đã để lại cho đời sau ý thức về xã hội mà ông, một kẻ cầm bút, đã là một chứng nhân. ÐÓI Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương! Những thây ma thất thểu đầy đường Rồi ngã gục, không đứng lên, vì đói! Ðói tự Bắc Giang đói về Hà Nội, Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. Khắp đường xa những xác đói rên nằm Trong nắng lửa, trong bụi lầm, co quắp. Giữa đống giẻ chỉ còn là hố mắt Ðọng chút hồn sắp tắt của thây ma. Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa Như muốn bắt những gì vô ảnh Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh Một làn da đen sạm bọc xương đầu Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu. ... Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! Xương người chết đói năm Ất Dậu, 1945, trong một trại ở ngoại ô Hà Nội. Loạt ảnh của Võ An Ninh. Ðể nhớ thi sĩ, mất vào 21 tháng 10, 1988, xin chọn bài trên (dù chỉ vài đoạn vì bài thơ rất dài, đúng ra là một bài Trường Thi), như một điển hình cho Bàng Bá Lân, và một tiêu biểu trong Thơ Miền Nam, bài thơ mà ông làm sau khi đã vào Sài Gòn, hoàn tất vào tháng 5, 1957. Thế hệ cha anh chúng tôi và thế hệ chúng tôi chưa một ai viết được sự thật về nạn đói này. Chỉ nói chung chung là do quân Nhật gây ra. Tin tức kiểu truyền miệng, tệ hơn nữa là tin tức tuyên truyền có tính chính trị. Tôi hoàn toàn không tin. Thời đó nước ta ở dưới sự thao túng của ít ra là bốn thế lực: Pháp, Nhật, Việt Minh, Tầu, chứ không phải chỉ có Nhật. Và Mỹ, thế lực kết thúc Thế Chiến Thứ Hai, trong vòng vài chục ngày, đã đánh chìm hai trăm tầu bè của Nhật ngoài khơi Việt Nam, dĩ nhiên trong đó có chở lương thực cho quân Nhật ở Ðông Dương. Quân chiếm đóng đói, thì dân phải chết. (VL, trích đoạn Hồi Ký 60 Năm Làm Thơ Viết Văn Làm Báo)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 6:44:44 GMT 9
Ngô Tất Tố (1894 - 5.1954) và tình sử Viên Linh Một trong các danh sĩ của Việt Nam, được cả hai miền Nam Bắc trên hay dưới vĩ tuyến 17 trọng vọng, ca ngợi, là Ngô Tất Tố, người đỗ đầu xứ bằng ngọn bút lông, nhưng mưu sinh thành công bằng ngọn bút sắt, viết tiểu thuyết lịch sử “Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ” (1935), nhưng nổi tiếng về các bản dịch “Tình sử Trung Hoa,” dịch thơ Ðường, hay viết khảo luận về Thơ Văn Lý Trần...  Nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - tháng 5, 1954). (Hình: Tác giả cung cấp) Lý do giản dị, nhưng cũng đáng buồn, là vì ông không đứng về phe nào, vì không có dịp trình chính công khai: ông tử nạn vào tháng 5, 1954, trước khi đất nước phân đôi. Miền Bắc cố gắng chứng minh rằng ông đứng về phe kháng chiến chống Pháp, và tử nạn vì bị phi cơ Pháp bỏ bom trên Việt Bắc, hay từng tham gia phong trào Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ, song “kháng chiến chống Pháp” không có nghĩa là theo cộng sản, tham gia phong trào Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ không có nghĩa là Việt Minh. Có một đôi trường hợp chết sớm lại là may mắn, nếu nhà thơ Hàn Mặc Tử còn sống, có thể ông cũng đã như Chế Lan Viên, bạn thân của ông, người làm những bài thơ vong thân một thời. Nhà thơ, nhà biên khảo Ngô Tất Tố đã từ trần hai tháng trước Hiệp định Geneve, cho nên ông hoàn toàn là một danh sĩ Tiền chiến, nguyên vẹn là một học giả, nhà văn, nhà thơ của Việt Nam, với những tác phẩm để đời như Tắt Ðèn (1939), Ðường Thi (1940), Lều Chõng (1941), Thơ Văn Bình Chú (1941), và dịch Tình Sử Trung Hoa hay dịch Hoàng Lê Nhất Thống Chí... của Ngô Thì Sĩ trong Ngô Gia văn phái. Bài Tự Thán tương truyền là của Nguyễn Trãi, song người ta chỉ thấy qua bản dịch theo thể thơ lục bát của Ngô Tất Tố, tin trong Thơ Văn Bình Chú: Tự Thán Chiếc thuyền lơ lửng bên sông Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay? Chắc chi thiên hạ đời nay Mà đem non nước làm rầy chiêm bao? Ðã buồn về trận mưa rào Lại đau về mối rào rào gió đông. Mây trôi nước chảy xuôi dòng (dòng) Chiếc thuyền hờ hững trên sông một mình. Nguyễn Trãi (Theo Ngô Tất Tố trong Thơ Văn Bình Chú, Mai Lĩnh, 1952, tr. 17) Dịch Ðường Thi nổi tiếng nhất là hai người: Tản Ðà và Ngô Tất Tố, song dịch Tình Sử Trung Hoa thì dẫn đầu là Ngô Tất Tố. Một dịch giả thành công hay một bản dịch thành công, thì yếu tố thành công quan trọng hơn cả là “bản dịch” là quan trọng, còn nguyên bản không quan trọng. Một bản dịch Anh Việt, Pháp Việt hay Hoa Việt thì phần Việt quan trọng hơn phần Anh Pháp hay Hoa. Ngô Tất Tố ngoài sở học uyên bác (đỗ đầu xứ thi Hương), còn có tài văn xuôi, mà tiểu thuyết Tắt Ðèn của ông là một minh chứng; bản dịch cuốn lịch sử tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí của ông thì văn chương đối thoại thật là gần gũi với mọi người, nghĩa là ông dùng ngôn ngữ thời đại, ngôn ngữ mọi người dùng, thoát khỏi ngôn ngữ văn tự sách vở. Sau đây mời bạn đọc thưởng thức một truyện tình sử do ông dịch: Tình sử - Ngô Tất Tố dịch Cây ngọc vườn sau Hậu Chủ nhà Trần có tiếng là vị phong lưu thiên tử, hậu cung lúc nào cũng độ vài nghìn người. Người được ông ta yêu dấu hơn hết là Khổng Quý Tần và Trương Quý Phi. Quý Phi tóc đen như mun, có thể soi gương, hai mắt lóng lánh như hai làn nước, mỗi khi nhìn ngó, muốn xiêu cả người bên cạnh. Hậu Chủ sai người dựng ở trước điện Quang Chiếu ba tòa gác lớn, đặt tên là gác Lâm Xuân, gác Kết Ỷ và gác Vọng Tiên. Cửa lớn, cửa sổ của những gác ấy đều làm bằng gỗ trầm hương, dát toàn vàng ngọc, ngoài che rèm châu, trong có trướng gấm. Những đồ bài trí, đều là những thứ quý lạ, từ xưa chưa có. Dưới gác đều có chất đá làm núi, tháo nước làm ao, và trồng các thứ hoa thơm cỏ lạ ở khắp chung quanh. Hậu Chủ tự ở trong gác Lâm Xuân, cho Trương Quý Phi ở gác Kết Ỷ, còn gác Vọng Tiên thì là phần của Khổng Quý Tần. Những lúc Quý Tần trang điểm chải chuốt, đứng ở phía trong lan can trong cung trông ra, chẳng khác gì một nàng tiên. Mỗi lần Hậu Chủ họp các cung nhân uống rượu tại mấy nơi đó thường bắt phi, tần, học sỹ và các khách quen tức cảnh, ngâm thơ, tặng đáp lẫn nhau. Rồi thì ông ta lựa riêng những bài bóng bẩy, bay bướm, phổ vào đàn sáo, chọn độ hơn nghìn cung nữ bắt phải tập hát. Những khúc hát ấy, Hậu Chủ đặt tên là Nghênh Xuân Nhạc, Ngọc Thụ, Hậu Ðình Hoa, đại để đều là những lời tán dương vẻ đẹp của các phi tần. Mỗi lần yến ẩm múa hát, vua tôi say be say bét từ tối đến sáng. Hậu Chủ có chế ra khúc Hậu Ðình Hoa như vầy: Rừng thơm, lầu, gác chon von, Nghiêng thành là vẻ phấn son nuột nà. Lững lờ trong cửa bước ra, Ðón nhau, vén bức màn hoa mỉm cười, Người đâu móc đượm hoa tươi, Long lanh cây ngọc sáng soi sau vườn. Cách đó ít lâu quân Hán Cầm Hổ kéo vào Ðài Thành, Hậu Chủ toan chạy, quần thần có người khuyên ngài nên ra đầu hàng. Hậu Chủ không nghe và nói: “Ta đã có giếng!” Rồi ngài dắt luôn hơn chục cung nhân ra điện Cảnh Dương, cùng nhẩy xuống một cái giếng gần đó. Quân sĩ nghé vào trong giếng, gọi không thấy thưa, họ bèn bảo nhau lấy đá ném xuống. Chợt nghe dưới giếng có tiếng người kêu. Bọn quân tức thì lấy thừng gióng xuống, khi kéo thừng lên, thấy nặng, cả bọn đều lấy làm lạ. Thì ra cả Trương Quý Phi và Khổng Quý Tần cùng bám ở dưới đầu thừng. Vì vậy người ta mới gọi giếng ấy là giếng Son Phấn.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 6:47:07 GMT 9
20 nhà văn miền Nam trong ‘họp mặt’ chót ngày 15.4.1975 Viên Linh 1. Ðúng ngày 27 tháng 3, 2007, trong hộp thư của Khởi Hành tại 'Thị trấn Giữa Ðàng' có một chiếc phong bì xa lạ, từ khuôn khổ đến sắc màu: Bưu chính Việt Nam, gửi cho tôi một tài liệu cũ, Tạp chí Thời Tập số 23, ra ngày 15 tháng 4, 1975, chủ đề Văn chương trước tình thế mới, Tâm hồn và Ðất nước Tây nguyên-Trung Việt, số báo thực hiện ngay sau ngày 11 tháng 3 là ngày Ban Mê Thuột thất thủ.  Bìa tờ Tạp chí Thời Tập số chót (23) ra ngày 15 tháng 4, 1975 tại Sài Gòn. (Hình: Viên Linh) Ðó là số báo cuối cùng mà tôi thực hiện tại Việt Nam trước 75, và có lẽ là tờ tạp chí văn học cuối cùng của miền Nam xuất bản nửa tháng trước khi tất cả sụp đổ. Ở trang 86, là trang chót có ghi: Giấy phép xuất bản số 346/BDVCH/PBCXB/ALP/TP ra ngày 27 tháng 3, 1975... 3000 số. Gỡ phong bì, lật tờ báo xem ngày tháng phát hành, trong tôi có cái bồi hồi của một tái hợp, lẫn với cái xúc động của sự xa lạ: Tờ báo - tôi là chủ nhiệm, chủ bút - ra hàng tháng, số đầu tiên xuất bản trong năm 1973, số cuối cùng nó chết cùng cái chết của miền Nam. Và một đêm khuya trước ngày 30 tháng 4 chúng tôi leo lên một con tàu vĩ đại... và đêm ấy tôi từ giã quê hương ra đi cho tới bây giờ. (Cho nên một trong những người bạn đã bảo: “Ðời nhà văn của anh thiếu sót kinh nghiệm Việt cộng, vì anh chưa được sống một ngày nào với Việt cộng. Chưa cả nhìn thấy Việt cộng như thế nào. Thế mà sao anh chống họ nhỉ?”) Quả là tôi chưa thực tế nhìn thấy họ, cũng như tôi chưa từng tận mắt nhìn thấy con lang hay con sói, song tôi biết con sói tốt hơn con lang, vì con sói không ăn thịt đồng loại, còn con lang ăn thịt con lang. Anh có thấy con cái những người loạn luân không? Họ nhỏ người, da xanh tái, mắt nhút nhát. Con lang cũng tương tự: hai chân sau ngắn hơn hai chân trước, cái lưng nó, cái đuôi và hai chân sau chỉ là một đường cong, cái cổ to bằng cái bụng, trông lùn tịt, vì nó đã ăn thịt đồng loại nó. 2. Ba chục năm nay nhờ bạn bè có dịp về Việt Nam mua cho sách báo cũ giai đoạn 54-75, chưa bao giờ tờ Thời Tập hiện lên. Cho tới khi viết những dòng này tôi chưa từng nhớ đã có lần nào trông thấy số báo chót này. Nhưng nhớ chắc chắn là sau khi Ban Mê Thuột thất thủ tôi đã thực hiện ngay số Chủ đề Cao nguyên. Tôi biết rõ báo đã phát hành, nhưng không nhớ mặt mũi tờ báo ra sao, trong có bài vở của những ai. Bộ Thời Tập tại Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ thiếu số 1, và thiếu số chót đó. Bộ TT tại Thư viện Ðại Học Cornell ở Ithaca có đủ từ số 1, nhưng cũng thiếu số chót đó. Ðời sống của một nguyệt san là một tháng, nó ra đời mới được một nửa hạn kỳ thì đất nước đổi chủ, đường phố ào ào lang sói người ngợm, còn gì là chữ nghĩa. Nó sống được đúng mười lăm ngày, kể từ ngày phát hành chính thức in trên mặt bìa sau; cho đến nửa tháng sau là 30 tháng 4 đen. Nếu không từng sống ở đó, không rõ tôi có làm số báo “Tâm hồn và Ðất nước Tây Nguyên-Trung Việt không?” Tôi tin là có. Ngay ở trang đầu của số ra mắt hơn hai năm trước, tờ báo đã phi lộ: “Thời Tập dấn mình vào sinh hoạt, quan niệm tất cả những gì không va chạm đều ẻo lả, thụ động, có tồn tại cũng không hơn vai trò một tấm gương, phận sự là đẩy trả lại trước mặt thủy tất cả những ảnh và hình, sự việc sống hay chết, không ý kiến, không phát biểu thuận hay nghịch. Vai trò đó là vai trò một tuyển tập, không phải vai trò Thời Tập muốn đóng, cho dù một tuyển tập là có chọn lựa, nhưng là chọn lựa những giá trị đã thành, không chọn lựa chủ động tìm kiếm. Bởi thế, đây là một tập san đưa sự trao đổi lên hàng thứ nhất: đặt thành vấn đề thảo luận các sự việc và tác phẩm bất cứ khi nào được và cũng bởi thế, việc phê bình bút chiến tất phải xảy ra trên tập san này, kể từ những số tới.” Ngay khi quyết định làm một tờ Tạp chí Văn học, cái tên gần như thành hình rồi vì chủ trương đã ở trong đầu: nhà văn phải viết trong thời đại mình, viết về thời đại mình, viết về dân tộc mình, viết về đất nước mình, viết thật, viết cho đúng, và viết cho đẹp. Muốn thế trước hết phải theo dõi sinh hoạt, sống trong đời sống, nghe ngóng trào lưu và thẩm định tin tức. Vì báo không phải là tuyển tập hay đặc san. Ðời sống trước mắt, sinh hoạt xung quanh phải được biết đến, phải được nói đến. Cái biết vô cùng quan trọng cho sinh hoạt tinh thần, và đời sống. “Cái biết sẽ dẫn đến Thiên Ðàng,” chẳng phải có một con rắn cấp tiến từng nói thế sao? Hitler không muốn thanh niên Ðức biết nhiều: “Knowledge is ruin to my young men.” CS cũng thế. Nhưng biết mà không có thái độ thì sự biết chỉ đưa đến ù lì sa đọa. Anh không thể đang ở Chợ Lớn chằng chịt kinh rạch đen ngòm mà viết kiểu Tô Châu lớp lớp phù kiều như Hồ Dzếnh. Anh không thể đang ở Sài Gòn cúp điện hàng đêm mà viết về Paris kinh thành ánh sáng “vỡ òa” như là nơi anh đang sống. Mai Thảo có quyền viết “tôi là nhà văn là kẻ rong chơi giữa cuộc đời,” nhưng anh không phải Mai Thảo, vì anh đâu có bao giờ muốn rong chơi? Thì giờ của anh phải hữu ích. Xuân Diệu có quyền nói “là thi sĩ nghĩa là ru với gió” nhưng anh không phải Xuân Diệu, anh sức đâu mà ru với ai; nữa là với gió? Thế cho nên trên Khởi Hành cũng như trên Thời Tập - (tôi rời Khởi Hành không lâu sau thì xuất bản tờ báo của riêng mình) - đều có những mục như Nơi Tôi Ðang Sống, Một Nghìn Cửa Sổ, Tay Ðôi... Bởi thế không phải vì đã sống ở Ban Mê Thuột mà tôi làm số báo Chủ đề Ban Mê Thuột thất thủ; nó còn là một biến động thời thế nhà văn phải lên tiếng.  3. Các tác giả và bài tham dự chủ đề như sau, thứ tự theo số trang: -Viên Linh: Văn chương trước mỗi tình thế, tr.3. -Mặc Ðỗ, Trần Thị Tuệ Mai, Nguyễn Mộng Giác, Thạch Trung Giả, Phạm Thiên Thư, Bình Nguyên Lộc, Trúc Sĩ, Võ Phiến, Lê Tràng Kiều, Lệ Hằng, Xuân Vũ, trả lời phỏng vấn của Viên Linh Vai trò của Người cầm bút trước Tình thế Ðất Nước, trang 8. -Thích Ðức Nhuận: Giai phẩm Thời đại, tr.22. -Trần Hoài Thư: Thị trấn Cà phê hoa, tr.27. -Kim Tuấn: Kontum Kontum, 46. -Trần Quang Thiếu: Chuyến xe cao nguyên, tr.47. -Ðặng Phú Phong: Bài học cho các em khi di tản, tr.54. -Nguyễn Hàn Thư: Pleiku, mọi sự hầu như nhỏ, tr.60. -Nguyễn Kim Phượng: Chư HơDron và Plei-Lasơn, tr.63. -Trần Văn Nghĩa: Cho những cơn mưa chiều Blao, tr.76. -Dương Nghiễm Mậu: Một lời, tr. 77. Tác giả viết về chủ đề là hai mươi người. Cho tới hôm nay, trong số trên, chúng ta đã thấy vắng khuất: -Trần Thị Tuệ Mai, nhà thơ, (1928-1983), tác phẩm đầu tay Thơ Tuệ Mai, 1962. (Bà là con gái nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải.) -Thạch Trung Giả, giáo sư Ðại Học Vạn Hạnh, nhà biên khảo, thi sĩ, tác phẩm lớn Văn học Phân tích Toàn thư dầy 700 trang. Nghe nói tự tử sau khi CS làm chủ đất nước. -Bình Nguyên Lộc, (1914-1987), từ trần tại San Jose. -Trúc Sĩ, trong nhóm Thế Kỷ, Hà Nội, vào Nam 1954, mất tại Hoa Kỳ. Tác phẩm nổi tiếng Kẽm Trống. -Lê Tràng Kiều, có tiếng từ thời Tiền chiến. -Xuân Vũ (1930-2004). -Thích Ðức Nhuận, (Nam Ðịnh-Sài Gòn, 2004 [?]...),hòa thượng, nhà thơ, nhà luận thuyết. Tác phẩm Sáng Một Niềm Tin, thơ, 2000. -Kim Tuấn (1940-2003), có chỗ ghi sinh 1937. Nhà thơ, tác phẩm hay: Tạ Tình Phương Nam. Như thế ít nhất tám người đã khuất bóng; bốn người chúng tôi không rõ hiện nay ra sao là Nguyễn Kim Phượng, Trần Văn Nghĩa, Hàn Thư và Trần Quang Thiếu. (Có một điều, bây giờ đọc lại, người viết lấy làm kỳ. Thay vì viết Cao nguyên-Trung Việt, như nhóm chữ miền Nam vẫn dùng, không hiểu vì lẽ gì mấy chữ ấy lại biến thành Tây nguyên... lối nói của miền Bắc. Âu cũng là một cái điềm rớt.) Santa Ana, Tháng Tư 2007, bổ sung Tháng Tư 2012
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:49:41 GMT 9
Thể thơ Lục Bát Viên Linh Nhân ngày giỗ nhà thơ Tản Ðà, người có bài lục bát danh truyền Thề Non Nước, chúng tôi chọn đăng dưới đây bài viết về thể thơ đặc biệt Việt Nam này. Nếu Trung Hoa có thể thơ Ðường Luật (tám câu, 56 chữ), Nhật Bản có thể thơ Haiku, (ba dòng, 17 chữ, thì Việt Nam có thể Lục Bát (hai câu 14 chữ, dài bao nhiêu câu cũng được). I. Lục Bát có phải là một thể thơ hoàn toàn Việt Nam không? Câu hỏi này đã được nhiều nhà biên khảo văn học tìm cách trả lời. Bùi Kỷ trong Quốc Văn Cụ Thể viết: “Theo cách gieo vần mà xét các lối văn vần, có thể phân biệt được ngay lối nào là của ta, lối nào là của Trung Quốc mà ta bắt chước.  Nhà thơ Tản Ðà, từ trần ngày 7 tháng 6, 1939. Lối gieo vần của Trung Quốc bao giờ cũng để ở chữ cuối cùng câu. Lối riêng của ta gieo vần khác hẳn lối Trung Quốc, câu trên vần ở chữ cuối cùng, còn câu dưới thì vần không ở chữ cuối cùng.” Câu trên ở đây là câu lục. Còn câu dưới là câu bát. Dương Quảng Hàm trong Việt Văn Giáo Khoa Thư cũng tán đồng ý kiến này. (1) Theo Phạm Ðình Toái, tác giả Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca do Hoàng Xuân Hãn dẫn thì chính người Tàu đã ngạc nhiên khi đọc Nhật Trình Bắc Sứ của Nguyễn Huy Oánh (1722-1789) viết bằng Hán văn và bằng thể Lục Bát. Vậy Lục Bát không phải thể thơ Tàu, mà là đặc sản Việt Nam. II. Thể Lục Bát xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi này cũng chưa thể xác định. Bùi Kỷ viết: “Phát nguyên bởi ca dao, phương ngôn, ngạn ngữ đời cổ”... Nhưng những câu lục bát có thời điểm sáng tác được ghi nhận xuất hiện sớm nhất, là bài hát Chúc Làng của Lê Ðức Mao (1462-1529). (Theo Thi Văn Việt Nam của Hoàng Xuân Hãn, 1951). Hoàng Xuân Hãn viết: “Bài thơ này Lê Ðức Mao làm khi còn ở Ðông Ngạc, nghĩa là trước năm 1504” (2) Dưới đây là một đoạn của bài thơ đó: Hoan thanh ba tiếng hô tung, Hương nghi ngút khói, rượu nồng nàn hoa. Ðình tấu nhạc, miếu dâng ca, Vẻ thanh múa phượng, khúc hòa bay loan. Ngày xuân, xuân tịch thừa hoan, Thọ trăm chén thuốc, phúc ngàn câu ca. Phùng Khắc Khoan (1528-1613) có một tác phẩm toàn lục bát vài trăm câu là Ðào Nguyên Hành, có đoạn như sau: Bông lau, lông vịt* lấy bông, Làm chăn làm đệm mùa đông ngự hàn Trâu bò, gà lợn, dê ngan Ðầy lũ đầy đàn rong thả khắp nơi... Lục bát lên đến độ cao nhất về nghệ thuật và số lượng là với truyện Kiều của Nguyễn Du (3). III. Một thể thơ có nhịp chẵn Lục Bát như lối gọi tên là một thể thơ mà câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, gồm mười bốn chữ. Cũng có thể nói câu lục và câu bát, nếu nghĩ mỗi dòng là một câu. Mười bốn chữ này được xếp đặt thành hai dòng. Khác với thể ngũ ngôn, thất ngôn, hai câu mới ráp thành một vần, mỗi câu thơ lục bát phải tự ổn định trong vần riêng của nó, ở chữ thứ sáu và chữ thứ mười hai. Lục Bát dễ làm, ai cũng làm được, vì ngay từ thời thơ ấu đã được nghe nó, qua hình thức những bài ca dao. Ðó là một thể thơ mà vần điệu rất đỗi quen thuộc. Thơ Lục Bát không hay do ở âm điệu. Âm điệu lục bát đều quá. Cái hay của lục bát ở những chỗ khác. Cái hay của lục bát là ở ngôn ngữ lục bát. Ngôn ngữ lục bát là ngôn ngữ hình tượng. Nhịp lục bát là nhịp hình tượng. Ðọc một câu lục bát lên, người đọc phải thấy hình ảnh chuyển động rung rinh: Ải xa quằn quại bóng cờ, Phất phơ buồn tự ngàn xưa thổi về. (Huy Cận) Xập xè én liệng lầu không (Nguyễn Du) Thơ Lục Bát là những câu thơ chẵn. Từ sáu đến tám. Nhịp chẵn, thơ thường đều, gây buồn. Nhịp lẻ, thơ vui hơn. Nhịp chẵn gieo xuống những âm trầm đều đặn. Nhịp lẻ đưa lên những thanh cao, nhẹ nhàng. Hồ Dzếnh: Trời không nắng/ Cũng không mưa Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung. Phải đọc luôn 3 chữ “trời không nắng,” và 3 chữ “cũng không mưa.” Không ai đọc “Trời không / nắng cũng / không mưa,” vì như thế là vô nghĩa. Vậy tác giả đã đổi nhịp câu lục này, không cho người ta đọc khác. Trường hợp tương tự đã xảy ra khi Nguyễn Du viết: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. Người ta phải đọc luôn “Ôi Kim lang!” 3 tiếng, mà không thể đọc khác được. Nhịp lục bát là nhịp võng, đã lên thì phải xuống, không bỏ ngang được. Thơ lục bát sẽ trôi đi mất hình dạng, mất hiệu lực nếu chỉ là những dòng thơ không hình ảnh, những nhịp hai đều đặn, những câu mười bốn chữ không xong một ý nào. Ngôn ngữ hình tượng đòi hỏi trước hết sự quan sát. Trước hết hình tượng. Ðời sống là cảnh tượng trước mắt, tâm hồn là cảnh tượng bên trong. Mô tả cảnh tượng trong những câu thơ chẵn là chụp cảnh tượng rộng lớn qua một ống kính cố định, không khuếch đại được. Những nhịp hai của sáu chữ trên, những nhịp hai của tám chữ dưới, đọc lên, thành bảy nhịp hai hết sức rời rã. Trong cái nhịp âm thanh cố định ấy, hình ảnh trở thành một yếu tố không thể không có được. Hình ảnh là chính, trong thơ Lục Bát. Âm điệu chỉ là đẩy hình ảnh chuyển động, như hơi gió để đẩy những mặt của chiếc đèn kéo quân. Ngôn ngữ tượng hình là thứ ngôn ngữ bắt buộc phải có đời sống nơi thực tế. “Cổ cao, áo kín, đi về mình tôi.” Một câu lục của Cung Trầm Tưởng. Một hình ảnh có đường nét, có bóng tối và ánh sáng, có khung cảnh trong đó nhân vật lui tới. Thơ Lục Bát tiền chiến của ta thường được coi như có hai trường. Trường Huy Cận. Trường Nguyễn Bính. Những người làm thơ Lục Bát ở đây hoặc được nhìn từ cổng trên, hoặc được ngó từ cổng dưới. Nhưng, dùng một câu của Jean Cocteau, “trong văn chương không có trường này trường nọ, mà chỉ có bệnh viện,” thì chúng ta có rất nhiều bệnh viện. Như đã nói ở trên, thể lục bát là thể thơ có nhịp chẵn. Thông thường khi làm một bài lục bát, người thi sĩ sẽ cứ xuôi theo nhịp chẵn đó mà làm, và bài thơ sẽ đều đều như sau: “Trăm năm/ trong cõi/ người ta - Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau.” (Nguyễn Du) “Thôn Ðoài/ ngồi nhớ/ thôn Ðông - Một người/ chín nhớ/ mười mong/ một người.” (Nguyễn Bính) “Ta không/ muốn nắn/ cung đàn - Ðêm xưa/ dạo dưới/ trăng vàng/ đợi Em.” (Hồ Dzếnh) Với nhịp chẵn, đều đều như nhịp võng lên rồi xuống, kéo qua rồi lại kéo lại, thơ lục bát thường buồn. Tâm lý căn bản của lục bát là tâm lý buồn. Nó không bao giờ mạnh như thơ có câu lẻ và nhịp lẻ: “Thư tình không lạc/ trong tay mỏi - Ðã nản thêu thùa/ kim chỉ ôi.”( Xuân Diệu) “Hồn tôi/ như đỉnh hương - Bốc lên/ mình thánh giá” (Bích Khê). Ðể tránh sự đều đặn trầm trầm cân đối của lục bát, những người hay làm lục bát, và đuợc nổi tiếng với thể thơ này, đã tìm nhiều cách phá cái nhịp đó đi. Sau đây là vài cách dẫn chứng. Nai cao gót/ lẩn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. (Huy Cận) Trăng ơi đừng bỏ kinh thành Hồn cố đô/ vẫn thanh bình/ như xưa (Ðinh Hùng) Những gạch chéo (/) cho thấy người đọc không thể đọc một cách nào khác như đã gạch. Nghĩa là Huy Cận và Ðinh Hùng đã làm những câu trên với nhịp lẻ, dù đọc thế nào thì câu thơ vẫn có nhịp lẻ. Ví dụ đọc: Nai cao gót/ hay Nai/ cao gót Hồn cố đô/ hay Hồn/ cố đô thì toàn câu vẫn có cái bố cuc của nhịp lẻ. Sau đây là bài lục bát danh truyền của Tản Ðà: Thề Non Nước Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non. Nhớ lời nguyện nước thề non, Nước đi chưa lại, non còn đứng không. Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày. Xương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. Trời tây ngả bóng tà dương, Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non. Dù cho sông cạn đá mòn, Còn non còn nước hãy còn thề xưa. Non cao đã biết hay chưa? Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi. Nước kia dù hãy còn đi, Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui. Nghìn năm giao ước kết đôi, Non non nước nước chưa nguôi lời thề. Chú thích: (1) Có hai người trước đó cho rằng thể lục bát của ta bắt chước Tàu, là Kiều Oánh Mậu và Ðào Nguyên Phổ. Phó Bảng Kiều Oánh Mậu viết trong bài tựa sách Tỳ Bà Quốc Âm rằng lục bát bắt chước Tàu, vì trong Kinh Dịch có câu có dạng lục bát. Thật ra đó chỉ là câu duy nhất ngẫu nhiên như thế, nhưng có dạng bốn chữ, các câu khác bị cắt xén đi chứ không đúng nguyên văn. Trong tựa Truyện Kiều, Ðào Nguyên Phớ chỉ nhắc lại ý của Kiều Oánh Mậu. (2) Lê Ðức Mao người làng Ðông Ngạc, ngoại thành Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1505 đời Lê Uy Mục. (*) Cây lông vịt (3) Bài này từ trang đầu đến chỗ này là ghi theo tài liệu của NVH, có lẽ là Nguyễn Văn Hầu. (4) Viên Linh, Nhật Ký Văn Nghệ, Khởi Hành số 10, ngày 3 tháng 7, 1969.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 30, 2012 14:59:56 GMT 9
Năm cụm núi quê hương “Năm Cụm Núi Quê Hương” của Thi sĩ Tường Linh và Nhạc sĩ Minh Kỳ. Thi sĩ Tường Linh tên thật là Nguyễn Linh, sinh ngày 12.12.1931 tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Quế Trung, Nông Sơn). Ông xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 thì ông vào ở hẳn tại Sài Gòn cho đến nay. Tường Linh thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “Chị Điện Hòa” (1950) và “Năm Cụm Núi Quê Hương” (1954) của ông được nhiều người thuộc lòng, mãi cho đến nay. Thơ Tường Linh đã xuất bản: “Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ” (in thạch bản, Tam Kỳ-1950) “Mùa Di” (in thạch bản, Bồng Sơn – 1953) “Mùa Hoa Cải” (Huế – 1955) “Mây Cố Quận” (Tao Đàn, Sài Gòn -1962) “Nghìn Khuya” (Tao Đàn, Sài Gòn – 1965) “Thu Ơi Từ Đó” (Tao Đàn, Sài Gòn – 1972) “Giọt Cổ Cầm” (Đà Nẵng-1998) “Về Hỏi Lại” (Đà Nẵng – 2001) “Thơ Tường Linh Tuyển Tập” (Văn học – 2011). Thi sĩ Tường Linh. Thi sĩ Tường Linh. Năm 1986, nhà văn Võ Phiến than thở: “Chọn thơ Tường Linh quả khó, chọn bài này e mất lòng bài kia”. Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt thì nhìn thấy “… nỗi buồn trong thơ anh không là nỗi buồn bi đát của thanh niên hôm nay mà là nỗi buồn thăm thẳm của quê hương, nỗi buồn đó là nguồn sống của dân tộc chúng ta cần phải có. ” (Thi ca Việt Nam hiện đại). Và trong bộ sách đồ sộ Văn Học Miền Nam nơi miền đất mới (2006), nhà biên khảo Nguyễn Q. Thắng cũng có cùng nhận xét với Võ Phiến: “… Thơ Tường Linh, phần lớn, bài nào cũng như bài nào, tuyển nhiều càng tốt, không bài nào đáng bỏ…”. Hoặc như nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ: “… Thơ Tường Linh ra đi từ gốc rạ, để cuối cùng quay về lại với gốc rạ, trở thành máu thịt của quê hương”. Trong một chuyên luận dài, nhà phê bình Hà Khánh Quân tổng kết: “Thơ hay là thơ đến và ở được lâu dài trong lòng người đọc. Người đọc tôi muốn nói ở đây là người-Việt-trung-bình của nhà văn Võ Phiến. Và Tường Linh là chủ nhân của một số thơ như thế”. GS Huỳnh Như Phương thì gọi ông là “con ngựa thồ văn chương, thồ nhân nghĩa và ân tình xứ Quảng”; và đã chính xác khi cho rằng, “phong vị cổ điển trong thơ Tường Linh còn thể hiện ở chỗ dường như nhà thơ làm nhòa đi hình ảnh chính mình mặc dù những điều ông nói đều bắt nguồn từ gan ruột. Phải chăng ông nghĩ rằng những “gió dập sóng nhồi” của cuộc đời ông có thấm gì so với những chìm nổi của đất nước quê hương…”. (theo Nguyễn Đông Nhật) Nhạc sĩ Minh Kỳ. Nhạc sĩ Minh Kỳ. Nhạc sĩ Minh Kỳ (1930-1975) là tác giả của ca khúc nổi tiếng Xuân Đã Về. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, gốc Huế, nhưng sinh tại Nha Trang, Khánh Hòa. Theo gia phả hoàng tộc triều Nguyễn, ông là hậu duệ đời thứ 5 của Vua Minh Mạng. Ông học nhạc từ năm 14 tuổi ở trường Gagelin (Qui Nhơn), sau đó du học ở trường “École Universelle” (Pháp). Tác phẩm đầu tay của ông là bài “Chị Hằng” viết năm 1949. Năm 1957 ông vào định cư tại Sài Gòn. Năm 1959, ông cùng với NS Anh Bằng và NS Lê Dinh lập nên nhóm Lê Minh Bằng. Trong quyển Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, tác giả nói đến việc khi nằm trong trại bệnh của khu cải tạo An Dưỡng (Biên Hoà) đã gặp lại bạn cũ là ông Động Đình Hồ (tức họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật). Hà Thúc Sinh được ông Động Đình Hồ cho biết khi nhạc sĩ Minh Kỳ đang ngồi ăn cơm cùng bạn tù trong sân thì bỗng dưng từ ngoài hàng rào có người ném vào một vật lạ (sau này được biết là lựu đạn) và phát nổ, “người chết cả chục, người bị thương cả mấy chục”. Nhạc sĩ Minh Kỳ cùng nhiều bác sĩ, y sĩ thiệt mạng trong vụ nổ đó. leminhbang1 Nhóm Lê Minh Bằng là một nhóm sáng tác nhạc được thành lập năm 1959 và hoạt động đến năm 1975, tên lấy từ nghệ danh của ba nhạc sĩ thành viên ghép lại: Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Đây là nghệ danh được dùng trong những ca khúc do họ cùng sáng tác, đa phần là Nhạc Vàng. Ngoài nghệ danh Lê Minh Bằng, nhóm này còn dùng các tên khác: Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường, Mặc Vũ… Từ trái sang phải: Anh Bằng, Minh Kỳ, Lê Dinh. Từ trái sang phải: Anh Bằng, Minh Kỳ, Lê Dinh. Nhóm gồm 3 thành viên, trước đó họ là những nhạc sĩ riêng biệt đến từ 3 miền Nam, Trung, Bắc: Nhạc sĩ Lê Dinh: tên thật là Lê Văn Dinh, sinh năm 1934 tại làng Vĩnh Hựu thuộc tỉnh Gò Công. Ông ghi tên học hàm thụ âm nhạc với trường Ecole Universelle de Paris khi còn học trung học ở Gò Công. Ông từng làm công chức cho Đài Phát Thanh Sài Gòn từ năm 1958 cho đến tháng 4 năm 1975. Nhạc sĩ Minh Kỳ (1930-1976): sinh tại Nha Trang. Ông thuộc dòng dõi hoàng tộc triều Nguyễn, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, ông là hậu duệ đời thứ năm của vua Minh Mạng và có vai vế ngang hàng với vua Bảo Đại. Nhạc sĩ Anh Bằng: tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1926 tại xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, gần ranh giới tỉnh Ninh Bình. Ông di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở Sài Gòn cho đến năm 1975. Tuy ký tên chung là Lê Minh Bằng nhưng không hẳn là ba người cùng ngồi vào bàn, cùng nhau sáng tác, cũng không phải mỗi người sáng tác riêng rồi mang vào tổ hợp ký tên chung nhau. Phần lớn các sáng tác, đều là của NS Anh Bằng, đôi khi có sự góp ý của NS Lê Dinh và NS Minh Kỳ trong việc sửa sang một vài lời ca, thêm bớt chi tiết, nhưng phần chính yếu trong việc sáng tác của nhóm là do NS Anh Bằng. Nhóm được thành lập năm 1966 với đường lối sáng tác là phục vụ cho mọi đối tượng. Ngoài sáng tác ca khúc, các hoạt động chính của nhóm diễn ra từ năm 1966 đến 1975 còn có: – Mở lớp dạy nhạc có tên là “Lớp nhạc Lê Minh Bằng” ở 102/8 đường Hai Bà Trưng, Tân Định, Sài Gòn (cũ). Họ thay phiên nhau giảng dạy về lý thuyết (nhạc lý, ký âm pháp) và thực hành (luyện giọng, xướng âm). Có khoảng một trăm học viên nam nữ theo học, sau này đã có những ca sĩ nổi tiếng như Kim Loan, Giáng Thu, Trang Mỹ Dung,… – Thành lập ban nhạc mang tên là “Sóng Mới” chuyên trình diễn trên Đài Phát Thanh Sài Gòn (số 3 đường Phan Đình Phùng). – Cố vấn cho ông Nguyễn Tất Oanh, giám đốc hãng dĩa hát Asia và nhà xuất bản “Sóng Nhạc” ở số 37 đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, trong việc lựa chọn bài hát và ca sĩ để thu thanh vào dĩa nhựa và ấn hành các bản nhạc rời để tung ra thị trường. – Phụ trách tổ chức chương trình tuyển lựa ca sĩ được tổ chức hàng tuần ở rạp hát Quốc Thanh, do Đài Phát Thanh Sài Gòn thực hiện và được trực tiếp truyền thanh trên toàn quốc vào mỗi sáng Chủ Nhật. Cuộc thi đã lựa chọn được những ca sĩ tên tuổi thắng giải như Tùng Lâm, Duy Khánh (Tăng Hồng), Hùng Cường, Vân Hùng, Hoàng Yến, Bích Thủy… Xen kẽ chương trình thi là các màn phụ diễn văn nghệ của các nghệ sĩ chuyên nghiệp của nhóm Lê Minh Bằng và vài nhóm khác. tuonglinh_ĐB3 Thi phẩm “Năm Cụm Núi Quê Hương” (Thi sĩ Tường Linh) Anh thương binh trở về nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Anh trở lại, với bàn tay còn lại Vẫy vẫy chào Non Nước quê hương. Quê hương anh mây dăng đèo Hải Chiều ấu thơ êm ả câu hò Nước mấy nguồn sông hẹn về cửa Đại Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ Anh lớn lên giữa bài ca châu thổ Những mùa thu ngọt trái nam trân Biển xa lộng gió Thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần. Mẹ thường kể anh nghe Chuyện mẹ cùng cha Ngày xưa đôi lứa Trai lành, gái đảm thương nhau Bến nước sông sâu Nhịp cầu, giếng xóm… Cô gái mười lăm hái hoa, bắt bướm Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên Cậu trai xóm duối ngoan hiền Đêm khuya khoắt học bài bên bếp lửa. Ngoại già thương “hai đứa” Ngoại già cho lấy nhau Vài buồng cau, mấy liễn trầu Đám cưới đi ngang bờ sông hoa gạo đỏ Biển lộng, buồm khơi ăm ắp gió Ngũ Hành năm cụm xanh xanh Cha mẹ chỉ tay thề với núi: Mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành Năm cụm núi không thể nào thiếu một Năm ngón tay không thể chia lìa Lời mẹ đều đều Sương rụng vườn khuya. Anh ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa Rừng xa, xa rồi những lứa nam trân Mẹ đã già và cha không còn nữa Mây dăng mờ trên đỉnh Hải Vân Chiều hôm nay anh trở về nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Mẹ già đón anh mừng vui, bỡ ngỡ Mẹ khóc, mẹ cười… mái tóc rung hoa sương. Không theo anh về bàn tay năm ngón Nhưng về theo anh nghìn chiến công Về theo anh : sông vẫn đầy mấy ngọn Mùa vui chim ca, cá trắng, cam hồng… Anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm: Màu núi thêm xanh Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành. Niềm vui hiện tại Bếp ấm ân tình Anh chép sử thi, viết thư cho người yêu… bằng tay trái Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh. (Tường Linh – Đà Nẵng, đêm 1-11-1954) tuonglinh_ĐB Thi khúc “Năm Cụm Núi Quê Hương” (Nhạc sĩ Minh Kỳ) Chiều nay có người thương binh Đi về thăm quê quán với một bàn tay còn lại Quê hương anh mấy ải đèo xa chiều xưa êm ả câu hò Ngũ Hành năm cụm núi xa mờ. Buồn vui Ngoại kể em nghe Ngày xưa Mẹ cùng Cha trai lành gái đảm thương nhau Vì nghèo duyên đôi lứa mẹ già cho lấy nhau Đám cưới nghèo buồng cau ly trầu. Rồi mai anh trở về Cha anh không còn nữa Mẹ anh bây giờ đã già Ngũ Hành năm cụm núi xanh xanh Xa rồi một trái Nam trần Mây giăng nhiều trên đỉnh Hải Vân. Chiều nay có người thương binh Đi về với bàn tay năm ngón như đi về với cuộc chiến chinh Anh mất đi bàn tay nhưng còn quê hương yên lành Một ngón tay dâng một cụm ngũ hành. Niềm vui chờ đón tương lai Thư gửi cho người yêu viết bằng tay trái không ngay Tình mình mong đẹp mãi như năm cụm núi quê hương Ôi năm cụm núi quê hương…!!!! Dưới đây mình có bài: – Vài Kỷ Niệm Với Nhóm “Lê Minh Bằng” (trích) Cùng với 4 clips tổng hợp thi khúc “Năm Cụm Núi Quê Hương” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức. Mời các bạn, Túy Phượng (Theo Wikipedia) leminhbang2 Vài Kỷ Niệm Với Nhóm “Lê Minh Bằng” (trích) (Lê Dinh – Montreal, Canada) Có rất nhiều vị yêu thích tân nhạc cũng như có rất nhiều độc giả của Nguyệt san Nghệ Thuật yêu thích nhạc của Lê Minh Bằng mà phần đông không biết Lê Minh Bằng là ai, người Nam, người Bắc hay người Trung, già trẻ bé lớn thế nào, hiện nay ở đâu? Ngoài ra, còn có những biệt danh như Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Vũ Chương, Dạ Cầm, Dạ Ly Vũ, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương… nghe rất quen thuộc mà cũng thật là xa lạ vì không một ai hình dung được Mạc Phong Linh là ai? Mai Bích Dung là ai? Đàn ông hay đàn bà? Trước 1975, những người thuộc lớp tuổi từ đôi mươi trở lên, có ít ai mà không nghe, không nhớ đôi ba câu lời trong nhạc phẩm “Đêm Nguyện Cầu” của Lê Minh Bằng: Hãy lắng tiếng nói vang trong tâm hồn mình người ơi. Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối. Tôi đi chinh chiến qua bao năm trường rồi miệt mài. Và lòng còn mang vết thương, vết thương trần ai… Rồi một bài hát khác cũng ghi đậm nét son trong lòng giới ngưỡng mộ từ thị thành đến thôn quê, đó là ca khúc “Truyện Tình Lan Và Điệp 1”: Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp, một chuyện tình cay đắng. Lúc tuổi còn thơ tôi vẫn thường mộng mơ đem viết thành bài ca… Hoặc vài lời ca của nhạc phẩm “Linh Hồn Tượng Đá” của Mai Bích Dung: Trên dốc đá, tôi tình cờ quen nàng. Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau… Thính giả tự hỏi, Lê Minh Bằng là ai? Mai Bích Dung là ai? Đôi khi cao hứng, thính giả cũng hát theo lời ca của ca sĩ trong băng nhạc: …Tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở, Nhưng nàng khen nhiều và thật nhiều. Làm tôi thấy trong tâm tư xôn xao. Như lời mặn nồng của đôi lứa yêu nhau… Ca khúc này có tên là “Cô Hàng Xóm” của Nhóm Lê Minh Bằng nhưng được ghi tên tác giả là Giang Minh Sơn, cũng là một trong những ca khúc được thính giả ưa chuộng, không kém những bài “Đêm Nguyện Cầu” (Lê Minh Bằng), “Linh Hồn Tượng Đá” (Mai Bích Dung). Lê Minh Bằng, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung hay Giang Minh Sơn… là những bút hiệu khác của Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng, tức Nhóm Lê Minh Bằng. Có người hỏi tại sao người ta muốn tạo một tên tuổi rất khó mà các anh lại đem đứa con mình sinh ra, bỏ nó vào viện mồ côi, không nhìn nhận nó? Như đã có đôi lần chúng tôi đã xin thưa cùng quý vị là trong thời gian đầu thành lập Nhóm Lê Minh Bằng, chúng tôi muốn thử nghiệm một loại nhạc hợp với đa số người thưởng thức, giản dị, nhạc dễ nhớ, lời dễ hiểu, dễ thuộc… nếu nó có được khán thính giả chấp nhận thì là một điều hay, còn nếu không thì cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến tên tuổi của 3 anh em chúng tôi. Nhưng chúng tôi không ngờ, thật không ngờ, những bài như “Chuyện Tình Lan và Điệp 1”, “Cô Hàng Xóm” và nhiều bài khác – cũng thuộc loại bài có lời ca hợp với đa số người bình dân – lại được phần đông mến chuộng. Bằng cớ là mỗi lần xuất bản 10,000 bài, chỉ trong vòng một tuần lễ là hết sạch, các đại lý yêu cầu tái bản tới tấp, chúng tôi phải có mặt suốt đêm trong nhà in Tương Lai, đường Trần Hưng Đạo, để lo in cho kịp, và có nhiều bài mức phát hành lên đến cả trăm ngàn bản. Chúng tôi đồng ý đi đến một kết luận là muốn một bài nhạc được phổ thông, được chấp nhận thật sâu trong dân chúng thì, ngoài nét nhạc dễ thuộc, dễ nhớ… còn phải thật dễ thương, nghĩa là âm điệu phải uyển chuyển, có hồn nhạc, mới nghe qua một lần, nhưng thính giả còn nhớ thoang thoáng âm điệu. Về phần lời ca, đừng quá giản dị (đại loại như «Ước gì mình đừng ngăn cách, nhà mình chung vách, hai đứa mình thức trắng đêm nay»), nhưng cũng đừng quá cầu kỳ, đừng bắt người ta nghe nhưng không hiểu gì hết, đừng hỏi «sỏi đá có buồn không»? Điểm này – tên tác giả lạ – có cái hay nhưng cũng có cái bất tiện của nó. Chẳng hạn như bài “Trở Về Cát Bụi”, vì tác giả không phải là Lê Dinh hoặc Minh Kỳ hay Anh Bằng (con vô thừa nhận) cho nên có một nam ca sĩ ở bên Pháp tự tiện in “poster” buổi đại nhạc hội do anh ta tổ chức mà trong đó có bài “Trở Về Cát Bụi” bảo rằng của chính anh ta sáng tác và cũng chính anh ta sẽ trình bày trong nhạc hội đó. Tưởng đâu là bài “Trở Về Cát Bụi” nào khác – do anh ta mới viết, nhưng trùng tên – nhưng té ra là một vụ đạo nhạc, vì đó là bài “Trở Về Cát Bụi” của chúng tôi: “Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người nghèo khó Trời đã ban cho, xin cám ơn Trời, cuộc sống hôm nay”… Về điểm trùng tựa bài – chỉ trùng tựa thôi – tôi nhớ có một lần, trước mặt tôi, cố nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, lúc đó là Chủ sự Phòng Văn nghệ Đài Phát Thanh Sài Gòn đang duyệt một bài nhạc của một nhạc sĩ trẻ, hỏi nhạc sĩ này tại sao anh lấy trùng tựa một bài nhạc đã nổi tiếng của một nhạc sĩ đàn anh, nhạc sĩ trẻ này trả lời tại anh không biết. Nhạc sĩ Võ Đức Tuyết mới nói: – Tại anh sinh sau đẻ muộn, làm sao anh biết được? Bắt đầu thành lập Nhóm Lê Minh Bằng, ngoài việc cố vấn cho ông Nguyễn Tất Oanh, giám đốc hãng Đĩa hát Asia – Sóng Nhạc ở số 37 đường Phạm Ngụ Lão (Saigon), trong việc chọn bài để thu thanh và xuất bản, cũng như phụ trách phần phụ diễn ca nhạc cho chương trình Tuyển lựa ca sĩ hàng tuần ở rạp Quốc Thanh do Đài Phát thanh Saigon tổ chức, chúng tôi còn mở lớp nhạc có tên là Lớp nhạc Lê Minh Bằng, (1966-1975) tại số 102/8, đường Hai Bà Trưng, Tân Định. Trong giai đoạn này, cũng có rất nhiều kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến tâm tính ở ngoài đời cũng như trong lớp nhạc, nói lên cá tính của mỗi ông thầy Minh Kỳ, Anh Bằng và Lê Dinh mà các em nhạc sinh như Kim Loan, Giáng Thu, Hải Lý, Trang Mỹ Dung, Nhật Thiệt Lan, Thu Thủy… chắc cũng không quên. Các em thường nói với nhau rằng thầy Kỳ nghiêm trang quá, thầy Bằng dễ dãi quá, thầy Dinh thì dung hòa giữa hai trạng thái nghiêm nghị và dễ tính. Mỗi lần các em gặp giờ thầy Kỳ thì trong lớp im phăng phắc tuy rằng thầy Kỳ cũng cười nói vui vẻ với các em, nhưng ở con người anh, xuất ra một nét gì đó làm các em sờ sợ. Trong giờ thầy Kỳ, đâu vào đó, nhạc lý ra nhạc lý, thực tập ra thực tập. Trong bộ môn nào cũng vậy, nhất là âm nhạc, phần lý thuyết là phần nhàm chán nhất đối với các em cho nên các em mong cho mau hết phần nhạc lý để sang phần thực tập, hát hò nhộn nhịp vui vẻ hơn. Vì sự luân phiên cho nên khi các em gặp giờ của thầy Bằng thì tất cả đều hớn hở, về nhạc lý thầy Bằng chỉ bảo những điểm cần thiết, phần căn bản để cho thầy Kỳ và thầy Dinh lo, vì các em muốn thực tập nhiều hơn lý thuyết. Thế nào là xuống ton, lên ton, thăng, giáng, một cung, nửa cung, âm giai trưởng, âm giai thứ, nhất là phần xướng âm… rắc rối quá. Thế là thầy Bằng làm cho các em vui vẻ lên, lớp học rộn rịp lên bằng cách cầm cây guitare, mở ampli, đưa micro cho các em, rồi thì tiếng vỗ tay hoan nghinh thầy Bằng vang dội từ trên lầu xuống dưới nhà. Riêng thầy Dinh, áp dụng thuyết trung dung của Khổng Tử làm kim chỉ nam. Mà chính các em cũng bảo thế, “Thầy Dinh là thầy Kỳ và thầy Bằng cọng lại rồi chia làm hai”. Mà quả thật vậy, ra khỏi lớp nhạc, ở ngoài đường phố, ở ngoài đời, cũng vì tính tình của mỗi ông thầy mà trong vấn đề tình cảm, mỗi người cũng có một đời sống tâm tình khác nhau. Năm bắt đầu thành lập Nhóm Lê Minh Bằng là năm tôi 32 tuổi, Minh Kỳ lớn hơn tôi 4 tuổi và Anh Bằng hơn Minh Kỳ 3 tuổi. Ở vào lứa tuổi bước vào đời, thời son trẻ bay bướm, nhất là trong địa hạt văn nghệ, làm sao tránh khỏi những chuyện tình ái giăng tơ. Nhìn vào cá tính của mỗi người, một phần nào chúng ta cũng đoán được chuyện bồ bịch của mỗi người trong nhóm chúng tôi. Minh Kỳ, theo chỗ tôi biết – tuy đây là chuyện riêng tư, nhưng trong vòng anh em, tất cả đều biết hết chuyện của nhau – với bản tính cứng rắn, là người không dính líu nhiều vào chuyện tình ái lăng nhăng. Còn Anh Bằng, như trên đã nói, cũng vì tính tình quá dễ dãi mà anh như con nhện mắc vào giữa màn lưới, đôi khi phải nhờ chúng tôi giải thoát mới ra được. Còn tôi, thuyết trung dung của đạo nho được áp dụng ở mọi trường hợp cho nên mọi việc phải được tính toán bằng cách cọng chung lại rồi chia làm hai để lấy trung bình giải quyết vấn đề. Tôi nhớ có lần, hết giờ dạy, chúng tôi ra về khi thành phố bắt đầu lên đèn. Ra tới chỗ đậu xe, tôi ngạc nhiên thấy một em – mà tôi biết mặt chứ không nhớ tên, vì lớp nhạc có trên một trăm em – đang đứng cạnh xe tôi. Tôi hỏi em sao em còn đứng đây chưa về, trời cũng bắt đầu mưa lăm răm rồi. Em bảo: – Em đợi thầy về để em xin thầy cho em quá giang. – Nhà em ở đâu? – Dạ ở ngã tư Phú Nhuận. Thấy nhà em cũng ở trên lối về nhà tôi, đường Ngô Tùng Châu (Gia Định) tôi bảo em lên xe và tôi lái từ đường Hai Bà Trưng về hướng ngã tư Phú Nhuận. Trên xe, tôi cũng không hỏi tên em và thầy trò chúng tôi cũng không nói với nhau một lời nào. Xe chạy trên đường Võ Di Nguy, gần đến ngã tư Phú Nhuận, tôi mới hỏi em: – Nhà em đâu, để thầy đưa em đến nhà cho, trời đã bắt đầu mưa to rồi. – Dạ em không muốn về nhà, thầy đưa em đi chơi một vòng được không? Thật quá bất ngờ, trong bụng tôi đã bắt đầu nổi sùng, thứ nhất là vì đã hơn 7 giờ tối, bụng cũng đã đói, thứ hai là tôi biết là giờ này, vợ và con tôi đang chờ tôi về để cùng ăn cơm. Không biết tính sao, tôi không trả lời mà quẹo xe về phía mặt trên đường Chi Lăng và nói với em rằng em phải về nhà kẻo ba má em lo. Nhưng em nhất quyết ngồi trên xe luôn và còn nói “thầy đưa em đi đâu, em đi đó”. Xe chạy chậm chậm trên đường Chi Lăng, hướng về phía dinh tỉnh trưởng Gia Định, đến ngã ba Chi Lăng và Ngô Tùng Châu là lối rẽ về nhà tôi, tôi dừng xe lại trước Ty Hiến Binh Gia Định và bảo em xuống xe để tôi đưa tiền em đi cyclo về nhà. Nhưng em cũng không chịu xuống và cuối cùng tôi phải dùng lời lẽ khi nhẹ, khi nặng em mới chịu bước xuống đường. Và kể từ hôm đó, tôi để ý thấy em không còn có mặt trong lớp nhạc nữa. Văn tức là người, hay nói về nhạc sĩ sáng tác, tâm tính con người được biểu lộ qua lời ca, và nhờ vậy, chúng ta biết tại sao Minh Kỳ ít viết lời ca cho nhạc của anh. Phần nhiều nhạc của Minh Kỳ, trước khi quen với chúng tôi, nhờ thi sĩ Hồ Đình Phương làm lời ca (Nha Trang, Nhớ Nha Trang…) hoặc Hoài Linh (Biệt Kinh Kỳ, Chuyến Tàu Hoàng Hôn, Nhớ Một Người, Mấy Độ Thu Về…) hay Y Vân (Chuyến Tàu Tiễn Biệt) và sau này khi chúng tôi biết nhau thì anh đưa cho tôi làm lời cho một số bài như Một Chuyến Xe Hoa, Đường Về Khuya, Tôi Đã Gặp, Cánh Thiệp Đầu Xuân, Hạnh Phúc Đầu Xuân, Mùa Xuân Gửi Em, Tiếng Hát Mường Luông, Đường Chiều Sơn Cước v.v…). Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc nhanh mà hay, nhưng anh không văn chương, bóng bẩy trong lời ca, không phải anh không làm được nhưng kém hay hơn nếu nhờ một người khác làm. Còn Anh Bằng thì hoàn toàn cả 2 phương diện, âm điệu cũng như lời ca, phần nào nói lên tâm tính lãng mạn của anh, sự mềm lòng của anh cho nên lời ca của anh thật trau chuốt, tình tứ và vô cùng êm ái, như nhung, như lụa. Riêng về phần tôi, cũng bởi thuyết trung dung, tôi ở vào giữa của hai thái cực, một bên nghiêm trang đến độ cứng rắn, một bên yếu mềm, một bên quá khô khan, một bên quá ướt át… tôi viết lời ca cũng trung dung, ở giữa, không quá sa mạc nắng cháy mà cũng không quá mưa dầm dề lầy lội. Cũng ở trong sự nhận xét này, chúng ta nhìn lại tổng quát gia tài sáng tác trước đây của Minh Kỳ, của Anh Bằng và của Lê Dinh, trước ngày chúng tôi thành lập Nhóm Lê Minh Bằng thì thấy rõ ngay. Minh Kỳ có những bản thuộc loại tuyên truyền mạnh dạn, hùng dũng như Biệt Động Quân, Cảnh Sát Hành Khúc…, Anh Bằng ít viết loại nhạc hùng, còn tôi, vì làm việc tại đài Phát thanh Saigon, cho nên cũng thỉnh thoảng có viết vài bài hành khúc cho chiến dịch. Về nhạc chiến dịch, tôi thích viết loại tình cảm, chẳng hạn như bài nhạc tố cáo CS pháo kích vào trường tiểu học ở Cai Lậy giết chết hơn 10 em bé học sinh: Hỡi bé thơ ơi, sao tội tình gì em lại bỏ đi, em lại bỏ đi. Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp, Bạn bè còn ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi… Và cũng song song theo tính tình như vậy ở ngoài đời, Minh Kỳ là Đại úy cảnh sát oai phong, khép mình trong khuôn pháp, Lê Dinh là một công chức bình thường, chừng mực, còn Anh Bằng sống cuộc đời phóng khoáng, cởi mở, như con chim bay nhảy tự do giữa bầu trời nắng đẹp. (Thời gian giải ngũ của anh dài hơn thời gian anh ở trong quân đội). Lê Minh Bằng, sự kết hợp của 3 miền đất nước, sự quy tụ của 3 trạng huống tính tình – nghiêm trang, ôn nhu và dễ dãi – bổ túc cho nhau, bù đắp cho nhau để tồn tại trong 9 năm dài, góp phần tô bồi cho gia tài âm nhạc Việt Nam thêm hương sắc. (Lê Dinh)    Anh thương binh về thăm nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Anh trở lại với bàn tay còn lại Vẫn vẫy chào Non Nước quê hương Quê hương anh Mây giăng đèo Ải Chiều ấu thơ êm ả câu hò Nước mấy nguồn sông hẹn về Cửa Đại Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ. Anh lớn lên giữa bài ca châu thổ Những mùa thu ngọt trái nam trân Biển xa lộng gió Thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần Mẹ thường kể anh nghe Chuyện mẹ cùng cha Ngày xưa đôi lứa Trai lành, gái đảm thương nhau Bến nước sông sâu Nhịp cầu, giếng xóm Cô gái mười lăm hái hoa bắt bướm Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên Cậu trai xóm dưới ngoan hiền Đêm khuya khoắt học bài bên bếp lửa Mẹ già thương hai đứa Mẹ già cho lấy nhau Vài buồng cau, mấy liễn trầu Đám cưới đi ngang bờ sông hoa gạo đỏ Biển rộng buồm xa ăm ắp gió Ngũ Hành năm cụm xanh xanh Cha mẹ chỉ tay thề với núi: – Mỗi ngón tay là một cụm Ngũ Hành Năm cụm núi không thể nào thiếu một Năm ngón tay không thể chia lìa Lời mẹ đều đều. Sương rụng vườn khuya. Anh ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa Rừng xa, xa rồi những lứa nam trân Mẹ đã già và cha không còn nữa Mây giăng nhiều trên đỉnh Ải Vân. Chiều hôm nay anh trở về nguyên quán Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường Mẹ già đón anh mừng vui bỡ ngỡ Mẹ khóc mẹ cười mái tóc rung hoa sương Không theo anh về bàn tay năm ngón Nhưng về theo anh nghìn chiến công Về theo anh sông đầy mấy ngọn Mùa vui chim ca, cá trắng, cam hồng Anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm Màu núi thêm xanh Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành. Niềm vui hiện tại Bếp ấm ân tình Anh viết thư cho người yêu bằng tay trái Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Minh Kỳ phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Nguồn: Nghìn khuya, NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1965 *********************************************************************************** Tường Linh Và Nhánh Thơ Quê Huơng Hà Khánh Quân Thơ là văn bản ghi lại xúc cảm của con người trước ngoại cảnh. Cảnh sắc cùng tình huống trong đời sống, luôn luôn là chất liệu và hiện diện thường trực trong diện tích mỗi bài thơ, mỗi câu thơ. Người làm thơ tùy theo những rung động bắt gặp, để viết ra những gì mình đã cảm nhận được. Mức độ nhạy bén tùy theo từng tâm hồn. Khả năng diễn đạt tùy theo tài nghệ. Đề tài của thơ cũng giống như nhiều bộ môn nghệ thuật khác, nói chung là phong phú. Gần như người làm thơ nào, cũng đã thả lòng mình, thả ngòi bút của mình qua nhiều chủ đề khác nhau. Mức độ thành công ở mỗi chủ đề thường không đồng đều. Ở nhà thơ Tường Linh, hẳn nhiều người đồng ý, anh là một kiện tướng trong thơ tình-quê-hương. Một quê hương nồng nàn hơi thở Việt Nam nói chung, tình nghĩa thắm thiết Quảng Nam nói riêng. Qua những thi phẩm đã ấn hành, khởi từ tập Nghìn Khuya, có mặt từ năm 1965, đến Thu Ơi, Từ Đó, Chung Dòng... cả trăm bài thơ của Tường Linh, gần như, đều có hương ruộng đồng, hương cỏ lá nông thôn, mặc dù anh cư ngụ tại phố thị gần suốt cả đời. Trong mỗi nguồn chữ viết của anh, như luôn luôn ẩn hiện những tàu cau, khóm chuối, những ao làng... cùng những hơi thở lam lũ, chân chất đậm mùi thuốc lá, chè xanh. Điểm đặc biệt của Tường Linh và cũng là điểm chung của nhiều nhà thơ xứ Quảng Nam, rất dễ nhận ra. Đó là, thơ tình-quê-hương của họ, thường tỉ mỉ đi từ những nét riêng của vùng quê mình. Những tên sông, tên núi, tên làng xã, thậm chí đến những tên người thân yêu riêng tư, đều được họ tha thiết mang vào thơ. Những hình ảnh đã mục kích, đã bắt gặp, không thuần túy chỉ là kỷ niệm, mà đã trở thành những tế bào trong thơ họ. Tất cả những nguồn tạo ra xúc cảm ấy, sống chan hòa và hổ trợ nhau, giúp cho những câu thơ trở nên sống động. Cái hồn vía của câu thơ từ đó mà có. Thơ tình-quê-hương hay gọn nhẹ hơn: thơ quê hương, là những bài viết dựa vào những địa danh, những kỷ niệm có từ một cảnh sắc nào đó mà thành hình. Hầu hết mọi tay thơ Việt Nam đều có viết qua. Mỗi người mỗi nét riêng. Những bài thơ về quê hương được xem là những bức họa, bức tranh, linh động hơn cả những tảng màu cụ thể. Xã hội Việt Nam vốn xuất phát từ nền tảng nông thôn, nên những bức tranh thơ trong kho văn học đang bảo quản, đa số lấy chất liệu từ những miền quê, trải dài từ bắc vào nam. Tính chất thuần hậu của người dân, cộng với cảnh sắc của thiên nhiên, đã thu hút những bàn tay thơ. Nhờ đó, góc thơ về quê hương rất phong phú. Thơ quê hương có thể chia làm hai nhóm. Một nhóm nghiêng nhiều về tả cảnh. Tình người lồng trong bức họa, chỉ là một vài nét đơn giản, cụ thể như bài Cổng Làng của Bàng Bá Lân, bài Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ, bài Làng Tôi của Vũ Quỳnh Bang. và nhiều bài khác của Nguyễn Bính, Anh Thơ vv... Năm khai sinh của ba bài tiêu biểu trích dưới đây khác biệt nhau. Nhưng nét chung, đặt nặng trong việc giới thiệu cảnh sắc, cảnh sinh hoạt, cuối cùng mới thòng thêm một chút cảm nghĩ riêng. Những câu thơ trong một bài thơ, vốn là anh chị em cùng máu mủ, nên tôi không muốn có sự chia lìa. Hơn nữa tôi muốn trích trọn vẹn ba bài này, để bạn có thể dễ dàng kiểm nghiệm nhận xét trên của tôi. Hơi dài một chút. Nhưng đọc thêm một bài thơ là tăng thêm một niềm vui. Rước bạn: chiều hôm đón mát cổng làng gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi đồng quê vờn lượn chân trời đường quê quanh quất bao người về thôn sáng hồng lơ lửng mây son mặt trời thức giấc, véo von chim chào cổng làng rộng mở, ồn ào nông phu lững thững đi vào nắng mai trưa hè bóng lặng nắng oi mái gà cục cục tìm mồi dắt con cổng làng vài chị gái non dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm những khi gió lạnh mưa buồn cổng làng im ỉm bên đường lội trơn nhưng khi trăng sáng chập chờn kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha ngày mùa lúa chín thơm đưa... rồi đông gầy chết, xuân chưa vội vàng mừng xuân ngày hội cổng làng là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ ngày nay dù ở nơi xa nhưng khi về đến cây đa đầu làng thì bao nhiêu cảnh mơ màng hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre (Bàng Bá Lân - Tiếng Sáo Diều) Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh Trên con đường viền trắng mép đồi xanh Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu Con bò vàng nghộ nghĩnh đuổi theo sau Sương trắng giỏ đầu cành như giọt sữa. Tia nắng tiá nháy hoài trong ruộng lúa Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh Người mua bán ra vào đầy cổng chợ Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ Để lắng nghe người khách nói bô bô Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ Tìm đến chỗ đông người ngồi dọn bán Một thày khóa gò lưng trên cánh phản Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuân Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ Nước thời gian gội tóc trắng phau phau Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu Áo cụ lý bị người chen lấn kéo Khăn trên đầu đương chít cũng bung ra Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà Quên cả chị bên đường đang đứng gọi Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa Những mẹt cau đỏ chót tựa son pha Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết Con gà trống màu thâm như cục tiết Một người qua cầm cẳng dốc lên xem Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh Trên con đường đi các làng hẻo lánh Những người quê lũ lượt trở ra về Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ (Đoàn Văn Cừ) làng tôi nằm dựa ven sông con đường đất đỏ ngăn dòng nước xanh lối vào mấy khóm nhà tranh bờ tre nhịp khúc yên lành từ xưa rẩy mì nghiêng xuống vườn dưa hàng cau nương bóng hàng dừa xanh xanh trầu sang với mướp chung giàn mạ xanh cùng với ngô vàng sớm trưa cuộc đời sớm nắng chiều mưa dòng sông vẫn chảy từ xưa đến giờ dâu già đợi mãn mùa tơ lúa ôm bờ cỏ nằm mơ thanh bình dầu cho thế cuộc xoay vần dân làng tôi vẫn làm lành với nhau trao tay điếu thuốc miếng trầu mối duyên ruộng cạn đồng sâu mấy mùa dân làng tôi sống hiền từ như khoai với sắn, như dừa với cau bốn mùa cuốc bẫm cày sâu đói no đắp đổi, sang giàu không ham chợ chiều hẹn chuyến đò ngang trai làng cùng với gái làng qua sông ngập ngừng câu chuyện bông lông hôm sau thành vợ thành chồng với nhau ví dầu mấy cỗ trầu cau gái làng tôi chẳng làm dâu xứ người đã quen tiếng nói giọng cười tình quê kết chặt duyên người yêu quê dòng đời năm tháng không về từ ngày giặc tới bờ tre tơi bời vườn khoai rẩy sắn thôi tươi và cô thôn nữ không cười trong nương dân làng tản mác mười phương xóm thôn hoang vắng, ruộng vườn xác xơ tôi đi từ bấy đến giờ đêm đêm tôi ngủ thường mơ thấy làng... (Vũ Quỳnh Bang ,1952 - Tạp chí Bách Khoa, số 49 Sàigòn, ngày 15.01.1959) Thơ Quê Hương thuộc nhóm thứ hai, phần giới thiệu cảnh sắc ít tỉ mỉ hơn, cái tình người được lồng vào những hình ảnh, mới là chủ yếu. Đa số những người làm thơ gốc Quảng Nam, trong đó có Tường Linh theo khuynh hướng này. Tôi đã may mắn được đọc khá nhiều thơ Tường Linh đăng trên các tạp chí Bách Khoa, Mai, Phổ Thông, Tin Văn...và thật hạnh phúc được nghe thơ anh, từ ban Tao Đàn của đài Phát Thanh Quốc Gia (Việt Nam Cộng Hòa) qua các giọng ngâm truyền cảm, tuyệt vời: Hồ Điệp, Quách Đàm, Hoàng Thư, Thái Thủy, Tô Kiều Ngân, Hoàng Oanh... Bài thơ đầu tiên, tôi mời bạn đọc dưới đây, mang tựa đề Quê Hương. Hai tiếng quê hương thường bao trùm tất cả mọi miền của đất nước. Có lẽ vì vậy, trong suốt bài, chúng ta không thấy Tường Linh, nêu lên một địa danh cụ thể nào. Điều này khá khác với thói quen của anh. Tuy vậy, bằng những nét tình ngậm ngùi, phủ lên từng hình ảnh, giúp chúng ta không khó nhận ra, mảnh đất nghèo khó miền Trung. Nơi vẫn còn cái nền nhà của người thi sĩ họ Nguyễn, trên con đất Trung Hạ, Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam. Ngoài ấy bây giờ chưa nắng lắm Nhiều hoa gạo đỏ nở bên sông Tháng giêng có tiếng chim tu hú Khung biếc trời mai én lượn vòng Mực nước vơi nhiều từ tháng chạp Bờ sông hiện rõ bóng lau xanh Nghiêng nghiêng bãi cát viền quê ngoại Xóm bến dàn xa khuất lối quanh Núi võ vàng mong ai nhớ ai Tỉ tê lệ suối buồn đêm dài Người đi từ mấy phương trời thẳm Núi biết sao chia nỗi cảm hoài Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa Xiêu xiêu quán nhỏ bên đường trưa Vườn cau của mẹ hoa cau rụng Giọt sáng rơi dường giọt nước mưa Nhà ta dựng lại trên nền cũ Một bức tường rêu kỷ niệm mờ Tường đứng mang linh hồn thuở trước Chở che hai mái lá bây giờ Bóng mẹ vào ra lối ngõ quen Tóc sương dần xóa tóc màu đen Nhớ con xa nhẩm lời kinh nguyện Khuya nối nghìn khuya một ngọn dèn Ngoài ấy... (nghe như xa cách lắm) Mà thành xa cách cố hương ơi Mỗi chiều ánh điện loang ngoài phố Trông chuyến tàu ra lại ngậm ngùi... Để giúp bài thơ quê hương, đứng vững với hơi thở lâu dài, có lẽ người làm thơ cần phải mát tay, thực hiện các việc tất yếu: 1. chọn hình ảnh thích hợp 2. từng có ít nhiều ràng buộc với hình ảnh, cảnh sắc để tình mình nương tựa 3. biết đặt cái tình vào hoàn cảnh đã hoặc đang xảy đến với không gian mình giới thiệu, nói đến. 4. cân nhắc và khéo léo trong việc chọn chữ 5. thông minh, linh hoạt trong sắp xếp ý tưởng 6. tạo ra hồn vía cho mỗi câu chữ. Biết tận dụng những xoàng xĩnh, tầm thường, vặt vảnh, và thổi vào đó cái hồn mến thương của mình, làm sao cho câu thơ có thịt da, có đời sống riêng. Tôi đang trường kỳ tập làm thơ. Những căn bản sáng tác trên chỉ suy ra, sau khi đọc những bài thơ quê hương xuất sắc, trong đó, thơ của Tường Linh chiếm số nhiều. Giản dị vậy thôi, không dám ba hoa, làm khôn. Cách đây khá lâu, vào một buổi tối, đi ăn cùng vài người bạn ở một quán người Việt, tại thành phố Toronto Canada. Chúng tôi tình cờ ngồi cạnh bàn một nhóm người đồng hương trung niên, đa số là đàn ông. Nhóm người này hình như là những người có tham gia vào sân chơi chữ nghĩa, hoặc ít ra họ rất sính văn thơ. Ngồi với bạn, nhưng tôi vẫn để tâm nghe lén. Sau đề tài hội họa với cuộc triễn lãm không mấy thành công của họa sĩ Võ Đình tại Montréal, họ chuyển sang chuyện văn thơ. Tôi lắng nghe cách xưng hô, để mong nhận ra một vài danh xưng thường đọc. Rất may, đám người ấy gọi nhau với tên chữ đôi, nên tôi có cơ hội thấy mặt mũi các ông Hoàng Xuân Sơn, ông Song Thao, ông Hồ Đình Nghiêm, ông Võ Kỳ Điền...và nhiều người khác tôi đã gặp tên trên tạp chí Hợp Lưu, Thế Kỷ 21... Trò nghe lén của tôi cuối cùng có một thu hoạch thú vị. Họa sĩ Võ Đình với mái tóc dài quá tai, đôi mắt kính khá dày, trọ trẻ giọng Huế, đề nghị một anh bạn trẻ hơn ngâm một bài thơ. Không khí bên bàn nhậu của họ thật sôi nổi, nhưng không ồn ào. Đêm cũng đã sắp chạm vào cái đỉnh đầu giờ Tý. Quán đã vắng khách. Giữa vài tiếng lẻ tẻ của những chiếc ly thủy tinh chạm nhau, không hiểu sao, tôi chợt rùng mình. Giọng ngâm thơ của người đàn ông mang tên Cường vang lên, rất lạ. Âm giọng rất Huế, rất Quảng Trị. Tôi không phân biệt được. Không tiếng sáo, tiếng đàn, nhưng giọng ngâm thật điêu luyện, càng lúc càng trôi nổi mênh mang. Trước mắt tôi, trong lòng tôi, bềnh bồng hình bóng một người lưu lạc giang hồ, xa xứ đã lâu. Không biết hà cớ gì, anh chợt nhớ về một dòng sông. Sông lạch thì có miền nào tại Việt Nam thiếu mặt. Ngay cả Tiên Phước, núi non trùng điệp, cũng hiển hách một dòng sông Tiên, Tứ Hòa. Nước, gió, lau sậy, lục bình, trời mây, bờ bãi, con đò, cô lái thuyền... đại khái những hình ảnh đó, nuôi sống mãi những dòng sông. Nhưng hình như dòng sông, qua lời thơ đang bay có một chút gì khác biệt. Không khác sao được, khi dòng sông của người thơ có đôi bờ đất mật, với những triền xanh, gành xám, bãi vàng. Chen chúc trên những tảng màu thơm ấy là những tên làng, tên xóm, không gọi mà vẫn nghe. Và lạ lùng, không nhìn mà vẫn thấy hai ngã của nguồn nước, nằm chung một lòng sông. Rồi khúc cạn, khúc sâu, phía lở, phía bồi cứ chập chờn hiện ra. Làm sao có thể không nhớ bóng dáng cái ổ tình một thời, đứng giữa những xiêu vẹo của cỏ cây. Từ những mùa trở gió bất nồm, con người xa xứ lâu năm, nhặt đầy tay mình những kỷ niệm. Con diều, con cá, con chim... rồi đến những dấu tích đáng buồn mở ra cuộc đời ly loạn. Bài thơ giàu hình ảnh. Mỗi hình ảnh lấp lánh những ân tình. Tôi tưởng chừng hụt hơi khi cố bám theo giọng ngâm. Từng chữ, từng câu, từng vần điệu đã nuôi thơm giọng trầm ấm của người diễn đạt. Tôi liếc nhìn những đôi mắt lơ mơ nhắm ở phía bàn bên cạnh, chợt nhớ một câu thơ đã đọc. “Quê hương nhắm mắt nhừ sờ được” (Luân Hoán). Và chợt tưởng như mình cũng đang chạm vào những nong tằm, những bãi dâu, bãi bắp, cả những bàn chân tuổi thơ . Dòng sông của tác giả, dù có tên là Thu Bồn hay không, dù nó có chảy trên con đất Quảng Nam hay không, qua thơ, tôi như tìm được những báu vật, những di sản của mình. “Thơ Dài Như Dòng Sông”, năm chữ của nhà thơ Triều Hoa Đại, dùng làm đề cho bài đối thoại giữa anh và người bạn thơ, thật thích hợp để mượn, gọi tên bài thơ tôi đang được nghe. Thơ đẹp và buồn nhưng vẫn ánh lên những thao thức, hy vọng. Bất tài không chuyển nổi bài thơ thành văn xuôi, tôi đành mời bạn cùng tôi, đọc lại tâm tình nhớ về một dòng sông quê nhà của Tường Linh. Bài thơ mang tên “Dòng Nhớ Thương Chảy Mãi Qua Hồn” Tôi nghĩ về một dòng sông dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật có những tên làng tôi yêu mến nhất có triền xanh, gành xám, bãi vàng những hàng cừ xe gió nước reo vang những thác xiết nhọc nhằn thuyền lên ngược nguồn hai ngã, lòng sông chung guồng nước khúc cạn, khúc sâu, phía lở, phía bồi sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi nhà tôi ở bên bờ sông đó mùa bấc, mùa nồm sông lồng lộng gió hàng tre, vườn chuối xiêu xiêu chiều nhẹ nâng cao vút cánh diều nắng phớt lưng sườn núi tím tháng tám nguồn về trái bòn bon ngọt lịm ghe biển đưa lên con nục, con sòng bè gỗ lềnh bềnh, đủng đỉnh xuôi sông trên bãi sớm, bủa tằm nghiêng hứng nắng điệu hát chèo ghe trong đêm bình lặng tỏa ân tình thêm mát ánh trăng khuya một thuở đao binh nguồn, biển chia lìa sông cau mặt vì bóng cờ ba sắc ròng rã chín năm, nước sông hòa nước mắt dòng thương đau đưa tiễn những thây người sông hiền lành chuyển động, sóng trào sôi người đứng dậy giành những gì sắp mất lửa tiếp lửa, lửa tràn lan, cao ngất tro đồn Tây xám xịt nước sông thơ tay chị, tay anh giữ vững đôi bờ dâu bát ngát, lô xô cờ bắp trắng sông lấp lánh một trời mai đẹp nắng buồm gió căng lên, phơi phới giọng hò ngấn lệ mừng trên mặt mẹ chưa khô chưa cào hết vụn bê tông đồn giặc trên đôi bờ sông để tìm lại đất cho tay người tái tạo những mùa xanh trời quê hương lại ngút lửa chiến tranh bờ sông xẻ thành hào ngang, lũy dọc măng vừa nhú, mảnh gang lìa sát gốc cau rạp mình, la liệt xác ngàn dâu những rặng thùy dương trụi lá, cụt đầu nguồn tới biển: hai vành đai trắng ! tiếng dệt cửi từ lâu im vắng về đâu người em gái Duyên Xuyên? có nhớ sông quê hãy phác lời nguồn với bông vải Ba Châu với nong tằm, bủa kén với bắp, với dâu, với mùa nước hẹn tất cả vươn lên góp lửa nhiệt thành trả lại dòng sông, trả lại cho anh từng vết bàn chân trên cát vàng tuổi nhỏ ai có về bên bờ sông đó đếm giùm tôi bao bến nước vắng thuyền còn sót đọt tre nào chấm mặt thủy triều lên mấy độ trăng tròn, trăng khuyết dòng sông trôi, dòng sông trôi biền biệt dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn ơi Thu Bồn, tôi biết nói gì hơn (tạp chí Tin Văn 1966) Sông Thu Bồn có lưu vực rộng đến 10.350 cây số vuông, nguồn bắt đầu từ núi Ngọc Linh (cao 2.598 mét) thuộc huyện Trà My đổ ra biển Cửa Đại, sau khi chảy qua các quận, huyện Tiên Phước, Quế Sơn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An. Những địa danh vốn từng sống lộng lẫy, trong nguồn thi ca của những người làm thơ xứ Quảng. Sông Thu Bồn mang đến cho người dân Quảng Nam, những nguồn lợi, những tự hào và cả những đau thương. Tôi không rõ có bao nhiêu nhà thơ đã trải lòng ra cùng dòng sông này. Riêng nhà thơ Tường Linh, ngoài bài trích dẫn trên, dòng sông còn cư ngụ trên rất nhiều dòng thơ của anh. Năm 1964, gia đình Tường Linh định cư tại Gia Định Sài Gòn, anh nhận được tin bão lụt tại quê nhà. Dù chẳng phải vì cơm áo, Tường Linh cũng bất lực, chỉ đành gói nỗi lo buồn của mình vào những dòng thơ: Nhà tôi ở bên sông trống gió Mái lá đơn sơ, cột gỗ gầy Mùa bấc bếp chiều không lửa đỏ Trưa nồm trở mạnh vách lung lay Năm năm, mỗi độ đông vừa chớm Xóm dưới làng trên ngại lụt nhiều Dòng nước Thu Bồn thành nỗi sợ Khi rừng xa vọng thác vang reo Mưa… những tuần mưa nối tiếp nhau Đôi bờ sông lớn nước dâng mau Nước dâng ngờm ngợp, trôi cuồn cuộn Nước ngập gần xa trắng một màu Đồng lúa, vườn cây nước xóa nhanh Nước xô nhà ngói, cuốn nhà tranh Nước ngâm cỏ chết, trâu bò đói Bốn hướng trời không chút nắng hanh Người ở miền Trung mùa lụt tới Nhắc nhau câu chuyện “bão năm Thìn” Năm nay lại cũng năm Thìn nữa Lụt đã tràn dâng, bão đã lên! Bão đã lên, ơi xứ ta nghèo Ai ra ngoài nớ gởi sầu theo Có bao nhà đổ, bao người chết Bao lúa, khoai, ngô... hóa bọt bèo! Nhà tôi ở đó mong manh lắm Tay mẹ làm sao chống gió cuồng? Con ở phương Nam chiều vẫn ấm Mà lòng như có nước sông tuôn... Sài Gòn 18-9-1964 (Giáp Thìn) Ngôn ngữ, vần điệu, chưa đủ vực dậy tinh thần suy sụp của người con xa xứ, Tường Linh thấy còn cần phải tiếp tục vịn vào thi ca. Và thảm cảnh trận lụt ngày 9-11-1964 (mùng 6 táng 10 âm lịch), đã được anh nhìn thấy từ trái tim bằng những nét rõ ràng, chua xót hơn: “... sáu mươi năm lại đến ‘họa năm thìn’ thảm nạn này biết thuở nào quên biết thuở nào quên ! một tối nước lên, nước tràn lên khủng khiếp cả trăm người, cả ngàn người không chạy kịp nước réo ầm ầm át tiếng kêu la chới với ngửa nghiêng, người cuốn theo nhà nhà theo sóng, người không thấy nữa nhìn con trôi, mắt cha máu ứa nhoai lên, tay vợ níu lưng chồng rồi hai người thành hai xác giữa mênh mông...” Dù vô cảm đến đâu, cũng có thể hình dung một cách dễ dàng, sự hung hãn điên cuồng của dòng nước bạc. Đêm tối, nước lên...ầm ầm thô bạo. Chảy, cuốn, vùi dập. chới với ngửa nghiêng, người cuốn theo nhà liên tục, vội vã. Chúng ta phải làm gì trong cương vị người cha, ngoài chuyện ứa máu mắt, quýnh quáng trong bất lực ? Từ con người chuyển sang thây xác thật dễ dàng mau lẹ. Thảm kịch cảnh xảy ra, được thuật lại như những thước phim linh động nhất và dài đến vô cùng. Tường Linh đã làm cho đồng bào cả nước rúng động, chết lặng. Tính chất xác thực, không cường điệu, cộng theo cách diễn tả, tài dùng chữ của anh giúp chúng ta thấy rõ từng góc cạnh của thiên tai, của nỗi khốn khổ của người dân miềm Trung: “... cây nước tràn lên – cây nước phủ đầu một “dây xác” trôi về đâu ai biết...” Con sông không còn là dòng. Nước không còn là giọt, là sợi, hay một hình ảnh mền mại nào khác, mang bản chất của nó, mà chợt trở thành một cây, hình ảnh một thứ vũ khí. Để tạo ra người này ngột hơi, tiếp liền người kia mất dưỡng khí, nối liền nhau thành “một dây” xác. Trận lụt năm Thìn, có lẽ vẫn đang giữa kỷ lục mức tàn phá và tàn bạo nhất của thiên nhiên trên đất nước Việt Nam. Trận lụt mà dân địa phương cho rằng nước đã nhậm chìm hòn núi Kẽm và làm xê dịch tảng đá Dừng, để chen vào giữa cuốn phăng phăng bao nhiêu sinh mạng. Riêng làng Đông An, Quế Phương Quế Sơn đã mất 1.700 người. Trong số 19 dân làng còn sống sót, không biết, về sau có ai đọc được bài thơ Thảm Nạn Quê Hương của Tường Linh ? Nhìn ngắm, suy ngẫm rồi phóng bút theo xúc cảm, Tường Linh đã bao giờ bắt gặp những nét đẹp bình an ở nơi chôn-nhau-cắt-rún ? Tuy không nhiều lắm, nhưng cũng có đó, thưa bạn. Theo chân người thương binh trở về thăm nguyên quán, Tường Linh dung dị trong những nét thanh bình: “... quê hương anh mây giăng đèo Hải chiều ấu thơ êm ả câu hò nước mấy nguồn sông hẹn về Cửa Đại Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ anh lớn lên giữa bài ca châu thổ những mùa thu ngọt trái Nam Trân biển xa lộng gió thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần ... cha mẹ chỉ tay thề với núi - mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành năm cụm núi không thể nào thiếu một năm ngón tay không thể chia lìa lời mẹ đều đều, sương rụng vườn khuya... anh ra đi từ mùa thu bốc lửa ... không theo về bàn tay năm ngón nhưng về theo anh nghìn chiến công về theo anh vẫn đầy mấy ngọn mùa chim vui ca, cá trắng, cam hồng anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm màu núi thêm xanh mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành niềm vui hiện tại bếp ấm ân tình anh viết thư cho người yêu bằng tay trái đời vẫn xanh và núi vẫn xanh (Năm Cụm Núi Quê Hương) Thú thật, hơn ba mươi năm về trước, khi được đọc bài thơ này, tôi đã ứa nước mắt. Lệ tràn ra không phải vì thương cảm người chiến binh, mà bất ngờ cảm thấy hạnh phúc, khi tưởng mình trong vai người thương binh của anh Tường Linh. Thật không ngờ... “từng hẹn cùng về như kẻ hành hương/ thua nhẵn tuổi hoa giữa sòng nhân thế...- TL” Nhan sắc Quảng Nam trong thơ Tường Linh, quả thật không cụ thể bằng những nét thơ Vũ Quỳng Bang, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Còn nhân ảnh, tâm tình của đồng bào ruột thịt, anh phác họa thế nào ? “... men xuân vui rào rạt đến bao giờ âm điệu cũ tuôn qua hồn bỏ ngỏ thảm lúa xanh rờn trên quê ta đó mầm tương lai ghim thớ đất hồi sinh cánh đồng quen như cánh tay mình bè bạn, anh em bao người gửi máu máu đã phai, hố bom không còn dấu đợi mùa vàng mong được chút nguôi quên chịu ơn người, đâu dễ kể từng tên nhiều tha thiết, không đủ lời để tỏ...” “...Trời vẫn cứ xanh, trăng vẫn sáng Đêm thanh bình lúa nếp hong sương Thế hệ già ngân mãi điệu quê hương Thế hệ trẻ uống từng lời sữa ngọt Tiếng hát truyền lưu, thiết tha, cao vút Cầu tre, lối sỏi mấy kẻ đi về Hẹn mùa xuân trầu cau, cheo cưới Đất Tự do ngọt bưởi, thơm hồng Nắng hạ, mưa đông Bóng núi, giòng sông Của chồng, công vợ Hát thương, hát nhớ Lời vắn, tình dài Ơi những người mặc áo vá vai Những chàng trai tuổi cằn công nợ Những cô gái duyên tình dang dở Những mảnh đời đói rách, long đong...” (Dân Ca) Quảng Nam không phải là tỉnh duy nhất của miền Trung. Nhưng nhắc đến mùa hè thiếu ăn, mùa đông thiếu áo, người dân hai miền bắc nam thường nghĩ ngay đến đất Quảng Nam. Một con đất sinh sản rất nhiều hào kiệt trong nhiều lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa... Để nhìn nhận cái yếu kém về kinh tế của xứ sở mình, Tường Linh vẽ hẳn ra thơ: “... đất Quảng thân yêu, một thời tuổi nhỏ mẹ thèm cơm, con thiếu áo long đong nhà bên sông năm tháng nước xuôi dòng vách nứa lung lay trưa nồm gió mạnh bếp lửa sàn khó ngăn chiều bấc lạnh chiếu chăn nào xua nổi rét khuya đông bao mồ hôi cha mẹ tưới trên đồng thân lúa vẫn như thân người thiếu máu ... tôi trở lại với niềm đau cố xứ bến sông chiều Vĩnh Điện hắt hiu mưa muốn đi lên nhưng súng vọng đôi bờ nguồn với biển trở thành xa cách quá...” (Vọng Tình Chim) Nét họa trong nét chữ chân chất của Tường Linh, đã làm nhà văn Võ Phiến phải ngạc nhiên lẫn thích thú: “...Tường Linh nói thế nào mà cảnh nghèo gần thành một cảnh thi vị, đáng yêu... một cảnh dễ chịu quá...” Sự bình thản lẫn lộn chút ít tự hào, khi Tường Linh nói về quê cha đất tổ của mình có lẽ do tình yêu làng quê của anh. Đây cũng là nhận xét của nhà văn Võ Phiến. Tác Giả Văn Học Miền Nam viết cặn kẽ hơn: “... Nhớ làng mạc, gốc gác thì chắc ai cũng có nhớ. Nhưng hiếm người nhớ quê như Tường Linh nhớ làng Trung Phước (họa chăng có thêm Tạ Ký, bạn ông). Có lần (hồi 1965) Tường Linh đoạt giải thưởng Bút Việt nhờ một thiên truyện ngắn đề là “Làng”. Đó là truyện một người, một ông lão mê làng, tha thiết say sưa với làng mình, dù chiến tranh khiến phải xiêu bạt về đâu ông lão cũng hướng tất cả tâm hồn về làng xưa. Sức thu hút của làng trong trường hợp này có phảng phất chút gì thần bí. Cái làng ấy trong truyện, Tường Linh không gọi hẳn tên ra, mà cũng không giấu hẳn tên đi, không dùng một tên bịa đặt nào để xóa lấp nó. Ông ghi tắt là làng Tr.P.... ... Trong thế giới nhân vật giả tưởng, chỉ được biết có ông Tư Xích Lô mê làng Trung Phước. Ngoài đời, trong thế giới văn nhân thi sĩ, chúng ta bắt gặp ít nhất hai người: Tường Linh và Tạ Ký...” Trong 6 sáu trang viết về Tường Linh, trước khi giới thiệu tiêu biểu bốn bài: Vọng Tình Chim, Gặp Lại Vũ Hữu Định, Trời Xưa Áo Lục, Giòng Nhớ Thương Chảy Mãi Qua Hồn. Nhà văn Võ Phiến đã đặc biệt nói về con người Tường Linh. Xin được phép trích dẫn, để trình diện một chút Tường Linh cùng bạn đọc: “... Thời cuộc bắt người thanh niên hiền lành nọ phải làm lính. Thì làm lính. Nhưng Tường Linh là thứ lính miễn cưỡng, yếu xìu. Nghe ông nói chuyện đánh nhau mà ngán ngẩm. Không phải ông ngờ vực chính nghĩa, hay ông non gan run sợ, hay ông thấm đạo vô vi. Không phải thế. ... Tường Linh thì ông là người lính thích quanh quẩn bên... mẹ già, thích nhấm nháp lai rai, tụ tập bạn bè, thích loanh quanh chỗ xóm làng, cảnh sống yên lành, thỉnh thoảng làm dăm ba câu thơ. Giữa thời bom nguyên tử, khi bất đắc dĩ phải nói tới chiến tranh thì ông thích chuyện... mài kiếm dươi trăng... (Trời Xưa Áo Lục:)” Với một người chân chất, hiền lành cục bột, Tường Linh không chỉ “mê làng”, mà còn mê cả thơ. Chẳng phải “thỉnh thoảng làm dăm ba câu”, tôi nghĩ, anh đã làm thơ, hoặc nghĩ về thơ hằng ngày. Ngoài cái tình dành cho Trung Phước, dành cho Quảng Nam, Tường Linh còn cho phép tâm hồn mình ở đậu trên nhiều vùng đất khác. Tỉ như với Huế, nơi anh từng trọ học, từng yêu và thất tình, anh không quên dành những dòng nhớ thương: “... tôi nhớ về đất Huế xinh xinh có người em nghiêng nghiêng vành nón lá áo tím, áo lam rập rờn nắng hạ em hiền lành như dáng trúc Kim Long An cựu triền miên nắng đục mưa trong chùa văng vẳng tiếng chuông chùa Thiên Mụ dòng Hương giang ngày nay, chuyện cũ duyên nào trao qua mấy nhịp Tràng Tiền những bình minh chấp chới cánh chim hiền ai nỡ cấm thơ ca tình Vỹ Dạ ? trang ký ức giờ đây còn rõ quá những chiều buồn bước ngược dốc Nam Dao ngày tôi đi đường rải xác hoa đào ai thỏ thẻ: trông anh ngày trở lại...” (Hai Miền Thương) Và con đất miền Nam, nơi dung nạp gần trọn đời đã thành danh, thành gia thất của nhà thơ, anh ghi lại: “... tôi yêu miền Nam yêu những cánh đồng cò bay mỏi cánh yêu những dòng sông chở nặng phù sa buổi sơ giao quen điệu lý Biên Hòa ngọt ngào duyên xứ bưởi bến Sài Gòn gió chiều vời vợi ai ngóng chờ ai bên Thủ Thiêm đường về Hóc Môn Bà Điểm quê em xinh xinh dáng rúc ao cá đêm thanh mảnh nguyệt chìm tôi rời Sài Gòn, như một cánh chim tình Hậu Giang ngọt lắm ước có nhiều lá thắm đề thơ mà thả xuôi dòng lá sẽ dừng trăm bến nước Cửu Long lời thăm hỏi trao người chưa biết mặt quê bạn Sóc Trăng mùa đông không gió bấc nắng hanh vàng cho lúa trổ đòng tơ chiều vơi, sóng lúa không bờ có chàng thi sĩ làm thơ, đợi mùa xa Trà Vinh nhớ dưa hấu đỏ (sau về trung biết có hay không ?) Vĩnh Long măng cụt rám hồng sữa căng vú sữa, hương nồng sầu riêng tóc bồng gội gió Hà Tiên còn xe lục tỉnh, còn duyên, còn người phù sa lúa tốt, vui đời sáu câu vọng cổ chở lời hoài hương miền nam không nhớ mà thương chim xa ấm nắng chung vườn quê Nam (1958 – Chung Dòng) Giới thiệu thơ, chỉ là cách nói để tránh hai chữ có tầm vóc: đọc thơ. Công việc này quả thật nằm ngoài khả năng của tôi. Biết vậy, nhưng vẫn thực hiện chỉ vì lòng yêu thơ. Hy vọng sẽ có rất nhiều bạn, vui vẻ đi bên cạnh nhắc nhở, hướng dẫn. Trong chủ đề Tường Linh và nhánh thơ Quê Hương, tôi cũng đã bỏ sót khá nhiều điểm son của anh. Khó khăn này, mong thông cảm, bởi chính những người quen tay đãi sạn tìm vàng cỡ Võ Phiếm cũng đã than: “ Chọn thơ Tường Linh quả khó, chọn bài này e mất lòng bài kia. Đại khái suýt soát nhau” . Lời tình thật này, được Võ Phiến ghi chú vào tháng 10 năm 1986 (Văn Học Miền Nam – thơ). Hai mươi hai năm sau, nhà biên khảo Nguyễn Q.Thắng, trong bộ Văn Học Miền Nam Nơi Miền Đất Mới (5.600 trang) cũng bày tỏ tương tự: “... Thơ Tường Linh - phần lớn – bài nào cũng như bài nào, tuyển nhiều càng tốt, không bài nào đáng bỏ, vì chọn thi đề này e làm thất vọng bài kia...” Giữa ông Phiến và ông Thắng thật ra có ít nhiều khác biệt khi đánh giá thơ Tường Linh. Tác giả Văn Học Miền Nam, có một nhận xét chung về hai nhà thơ đất Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam, Tường Linh và Tạ Ký: “... Cả hai thi sĩ, họ buồn cái buồn của người Việt trung bình, đau cái đau của người Việt trung bình. Làm thơ, họ thường sử dụng những luật quen thuộc, thông dụng. Thơ họ không xuất sắc, cũng không làm bừa bãi” Với ông Nguyễn Q. Thắng, chắc các bạn chỉ cần đọc lại câu đã trích trên. Trước năm 1975, những cảm nhận đánh giá về nhánh thơ Quê hương của Tường Linh, có khá nhiều . Rất tiếc, thiếu tài liệu dẫn chứng đầy đủ, tôi chỉ xin trích một số nhỏ, tìm được: “... Tường Linh đã dùng tâm thành để trở về với quê hương với đất mầu nội cỏ và đơn sơ mộc mạc của ca dao. Ông là một trong vài ba nhà thơ hôm nay đã đưa nguồn thi hứng về quê hương nên tiếng thơ ông đã tỏa ngát niềm trong sáng của ca dao và nỗi buồn mênh mang trên xứ sở cùng sự cơ hàn của thân phận... ... Tường Linh đã lựa chọn một môi trường rất thích hợp với thể chất của thơ ông vốn đầu thai từ những điệu buồn man mác - nếu có vui thì nguồn vui cũng chỉ thoáng qua ... Tìm đến cái đẹp trong thơ Tường Linh chỉ có thể tìm trong những bài thoảng lời ca quê hương với nhịp sáu tám. Trong loại thơ này, Tường Linh quả là một thi nhân có tâm hồn thơ bén nhậy, thiết tha” (VHHĐ trang 180 và 183) Trước khi kết thúc bài viết về Tường Linh trong cuốn Văn Học Hiện Đại – Thi ca và Thi nhân, nhà biên khảo, Cao Thế Dung có trích thêm bài Hồn Nhỏ Chim Linh sau đây: con chim từ buổi xa ngàn nằm ngơ giữa mọi thiên đàng chưa quen lối về núi tiếp non chen phương tây rừng rực chiều nhen lửa chiều nghìn khuya chiêm chiếp chim kêu tiếng sương khắc khoải lạc chiều chân âm bỗng dưng cát mịt bụi lầm mưa phong vũ ngắt bao mầm xuân sơ chim non xõa cánh bơ phờ chiều mây xuống thấp mưa mờ không gian (Nghìn Khuya) Tôi có chút thắc mắc ... “... Tìm đến cái đẹp trong thơ Tường Linh chỉ có thể tìm trong những bài thoảng lời ca quê hương với nhịp sáu tám...” như vậy, với những nhịp bảy chữ, tám chữ... nhánh thơ quê hương của Tường Linh chưa đủ đẹp. Tường Linh có những câu lục bát xinh xắn, nhưng đa số thơ làm nên tuổi Tường Linh, nằm ở những thể loại khác sáu tám, với nội dung quê hương. Điều này tưởng không cần phải trích dẫn thêm. Đồng hành với Cao Thế Dung còn có Trần Tuấn Kiệt, Uyên Thao, Phan Thanh... Tác giả của Triền Miên Ngâm Khúc, đưa nhận xét của mình về Tường Linh, trong cuốn Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, viết về giai đoạn 1880 – 1965: “... Nỗi buồn trong thơ anh không là nỗi buồn bi đát của thanh niên hôm nay mà là nỗi buồn thăm thẳm của quê hương, nỗi buồn đó là nguồn sống của dân tộc chúng ta cần phải có. Trong cái buồn có niềm hy vọng, ánh nắng tươi, có hoa cỏ, có sông núi, có tình người. Anh thi sĩ ở chỗ đó.” (Trần Tuấn Kiệt) Gần đây, sau 1975, tôi tìm thấy từ mặt hình máy vi tính, vài cảm nghĩ về Tường Linh: “... Thơ Tường Linh ra đi từ gốc rạ, để cuối cùng quay về lại với gốc rạ, trở thành máu thịt của quê hương” (nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ) “... Hóa ra chú Linh, tức là nhà thơ Tường Linh rất nổi tiếng trên văn đàn miền nam. Thơ về quê hương, trong tôi ông là số một. Số hai, số ba, số bốn, tôi chưa biết ai. Nhưng số năm mới đến ông gì ở Khánh Hòa có bài quê hương được đưa lên chiếu trên liền. Thơ Tường Linh giản dị như lời nói người nhà quê nói ra, chẳng có chi uốn éo lươn lẹo trong tâm tình chữ nghĩa. Đọc xong thấy rất gần. Chẳng chữ nào mang nhà họ Giả trong Hồng Lâu Mộng...” (Lê Minh Sơn)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 11, 2013 12:37:45 GMT 9
Dòng thơ, nhạc Nguyễn Đình Toàn: Câu Kinh Sử Cho Tuổi Trẻ Việt Nam BY UYENNGUYEN · NOVEMBER 18, 2011 ·  Một góc nhìn riêng vào thế giới thơ nhạc của tác giả Nguyễn Đình Toàn. 1. Đêm nghe lại nhiều lần những ca khúc của tác giả Nguyễn Đình Toàn, như bị thôi miên, cuốn hút theo, và thèm nghe thêm nhiều lượt nữa, cõi nhạc Ông réo rắt, thăm thẳm, buồn hiu! Có phải vì đêm nay, đêm tái hiện trong cơn mê sảng thời đại, những ‘oan hồn điên cuồng còn chảy tuôn máu chưa hề quên, khăn tang nào che ngang đầu, những kiếp người một đời giông bão…,’ và có thật một nỗi buồn gan thắt nữa, trùm lấp vào ‘đêm thao thức trông trời, xa vắng tin người âm u tiếng đời vui… Sao rơi rớt lưng trời hay nước mắt đưa người…!’ Đêm nay, ngồi chong màn hình máy vi tính để kịp thấy những hình ảnh từ quê nhà, chảy dài theo nỗi buồn hôi hổi, lồng ngực rân ran nóng vì máu đã chảy dồn hết lên tim, ngộp thở! Người đi giữa Hà Nội, trên đôi chân bé bỏng xuân thì, chợt biết tuổi trẻ vừa đánh mất quê hương, ngay chính trên quê hương mình. Rồi người ra đi tìm vết tích sông núi, giữa hai hàng phố xá đã dựng thành những tòa cao ốc rét căm mùa lạnh, hun hút ngã đường dẫn đi tìm tình người, của thời vô cảm!  Trịnh Kim Tiến (con ông Trịnh Xuân Tùng)(bên phải), Nguyễn Thị Thanh Tuyền (vợ Nguyễn Công Nhựt)(giữa), và mẹ nạn nhân Nguyễn Công Nhựt trên đường đến trước trụ sở Tòa án Hà Nội đòi công lý cho người thân. (Hình: Trinh Kim Kim's Facebook)  Cô Trịnh Kim Tiến (con ông Trịnh Xuân Tùng), đi giữa phố Hà Nội vô cảm, tìm lại chút tình người 2. Hầu hết những ca khúc Nguyễn Đình Toàn tôi yêu thích, là những bài tiết tấu không hối hả, nhịp phách từ tốn khoan thai như bãi sương lân là đà trên mặt sông, huyền ảo đóm lửa ngọn đèn treo leo lét, chong đêm. Có tiếng khua mái dầm đẩy nước mở đường con xuồng lướt tới và bầy ễnh ương rộn rã hai bờ lau lách. Nhạc Ông có bóng quê hương hiền lành, người dân cũng hiền hậu, nhưng sống giữa tai ương! Gần nửa thế kỷ, tuổi trẻ, tình yêu, và tình đồng loại, trong dòng nhạc của nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, nghe ‘đã thành thiên tai’ Nhạc Nguyễn Đình Toàn, gần nửa thế kỷ và thế hệ tôi hôm nay, người nghe có chung một nỗi lòng để mường tượng trong thế giới nhạc của Ông lấp loáng những cuộc tình vỡ, nhưng đầy thơ mộng, từ cuộc tang thương triền miên trên quê hương, người trước rồi sau những trận đổi thay, vẫn ‘đổ mồ hôi, đổ máu tươi để mong ở lại,’ để ‘cố bám lấy đất nước mình,’ ‘Ba mươi năm cuộc tương tàn chưa đủ? Người giết người, không kịp mở mắt trông Ba mươi năm mạng người như rác cỏ Dây hòa bình, còn thắt cổ người tin…’ (Tôi Cố Bám Lấy Đất Nước Tôi) Phận người như loài Chim Đắng Đót bỏ xa rừng, trên đường bay câu kêu khan, lạc lõng lạnh buốt đêm trường tiếng đập cánh trổ nhánh hơi đèn nhang. Nhạc Nguyễn Đình Toàn hầu hết là những tấu khúc của nỗi buồn lay lắt nhiều hơn niềm vui hiếm hoi thoáng, chừng mực nghe thấy, dù không đến nỗi khiến lòng người rượi rã, nhưng âm ỉ ngấm, đau. Trong thế giới nhạc Ông, những câu thơ đem trải tình thành tấu khúc của gần nửa thế kỷ thời gian đã còng trên đôi cánh chim bay, vọng hải đài câu tang thương của bóng quê nhà, xa ngái: ‘Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết* Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt Chảy về đâu những nước mắt đưa tin’ (Mai tôi đi) Quê hương có mấy cuộc ra đi, triệu người đi từ đầu non về; và triệu người ùa nhau đi ra biển, ‘đổ về một phương nhớ’ mông mênh. Nhưng rồi gần nửa thế kỷ sau, lại có hằng hằng triệu người ở lại hụt hẫng, bơ vơ bước chân trần đi tìm quê hương, mấy lúc kiệt sức khuỵu trên bóng mình, chợt so lại nắm tro cốt Tiền Nhân đang trở nặng cơn đau. ‘Quê hương tôi, đã bao ngày chìm trong lửa khói đến bây giờ chiến tranh tan rồi nhưng người vẫn giết người nhưng người vẫn khóc người Những đêm dài ai thương nhớ ai…’ (Quê hương tôi) Trong thế giới Thơ Nhạc của Nguyễn Đình Toàn, nỗi buồn như cơn mưa vừa tạnh, chỉ rả rích đôi giọt buồn, nhẹ lâng. Người đau sẽ không đau lắm, nhưng niềm đau vì một nỗi nhớ dài, không chỉ là một cuộc tình vỡ, mà kéo, đuổi nhau theo suốt, làm trùng trùng thêm mối sầu kinh sử Việt Nam. ‘Ôi, lịch sử Việt Nam xót xa đã xui người ngày thêm cách chia người bỏ đi xa, người còn đây, chịu tội thay trên thánh giá đời Ôi, hận thù đã che kín mây đã treo người trên đỉnh đắng cay Đời dù xoay trăm chiều ngược xuôi Tuổi trẻ tôi vẫn lạnh lùng phai. Vâng, tuổi trẻ tội như phúc âm…’ (Kinh cầu cho tuổi trẻ) Đêm đã sâu hơn, ngồi chong mắt lên màn hình vi tính, quê hương thu về một cõi lòng đau đáu, kịp nhận ra còn có những anh em đang ‘lẻ loi như cây rừng đông, từng phen chết trong bão bùng’, mà vẫn dìu nhau qua hết những con đường đi tìm lại chút hơi người. Thơ Nhạc Nguyễn Đình Toàn, từ cõi xưa rồi kéo về bây giờ, bỗng thành nức nở hơn, vì: ‘tuổi trẻ tội như phúc âm ………………..vẫn lạnh lùng phai Vâng, tuổi trẻ tội như lá thu đã nửa vàng từ cơn gió đưa’ (Kinh cầu cho tuổi trẻ) Thơ Nhạc Nguyễn Đình Toàn đã vì thế mà thành kinh sử, người bây giờ đọc hoặc nghe dẫu thấy buồn, nhưng cứ tin vào đó, để sống! … Hãy thắp cho anh một ngọn đèn Dù mịt mùng xa xăm Một ngọn đèn trong đêm mờ ám … Cố thắp cho em một ngọn đèn Dù mệt nhoài trông ngóng Để nhủ lòng gắng nuôi niềm tin… (Hãy thắp cho nhau một ngọn đèn) 3. Đêm sẽ còn sâu hơn, những giấc mơ chập chờn hiện, tan vào ‘cõi trăng lạnh riêng mình,’ như bóng oan hồn xao xác trên những nhành cây đen đủi trong mảnh vườn sau, cũng kịp nhắc mình thêm một câu kinh nhạc nữa: ‘Xin khấn nguyện cả mười phương tám hướng Cho quê hương u mê ngày thức tỉnh Để dù xa có chết cũng vui mừng.’ (Mai tôi đi) Bấy giờ, mỗi câu đọc lên nghe buồn bã, mà người vẫn trọn tin, tin để mà sống! California, 17/11/2011 Những chữ viết nghiêng là lời nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. * Hai câu đầu của bài là thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, dẫn tiếp đọan sau là của tác giả Nguyễn Đình Toàn. Feature pict.: Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn (by Uyên Nguyên/Người Việt) Nhạc sĩ Nguyển Đình Toàn (Ảnh: Uyên Nguyên/Người Việt) **************** Tạp Ghi Văn Nghệ Trần Yên Hòa Nhớ những lần, nghe nhạc, đọc thơ, đọc truyện của Nguyễn Đình Toàn Năm 1966, tôi đang học đại học ở Sài Gòn thì cha tôi ở quê viết thư vào bảo: “Quê mình mất an ninh rồi, cha mẹ phải bỏ quê mà tản cư xuống quận lỵ tỵ nạn. Trong một đêm, địch về làng bắn giết, đốt phá nhà cửa của cán bộ làm việc bên phe quốc gia nhiều lắm, cha mẹ sợ quá nên phải tản cư xuống quận lỵ tạm trú, chứ ở quê không yên. Con cố gắng tự túc đi học nghe con.” Tôi đọc thư mà nghe buồn bã quá. Tìm đọc trên mục rao vặt trên các báo Chính Luận, Công Luận, tôi đi dạy kèm, đi giặt đồ cho một công ty thầu giặt đồ cho lính Mỹ, mà lương lậu chẳng đâu vào đâu. Tôi học không vô nữa, bèn nộp đơn xin đi dạy theo một thông cáo tuyển lựa giáo sư tư nhân dạy giờ của Bộ Giáo Dục. Sau đó mấy tháng, tôi được giấy của bộ Giáo Dục bổ nhiệm về dạy ở trường trung học Mộ Đức, Quảng Ngãi. Với nỗi buồn vui lẫn lộn. Buồn vì phải bỏ giảng đường đại học mới tập tểnh bước vào mấy năm. Vui vì mình sắp bước vào con đường mới, con đường dạy học. Đó cũng là mộng ước của tôi thời niên thiếu. Với lại, Quảng Ngãi tôi chưa biết đến bao giờ. Và cả Mộ Đức, một quận lỵ, vẫn nghe đồn rằng, đó là vùng xôi đậu, ban ngày quốc gia, ban đêm “giải phóng”. Nhưng tôi lại nghĩ, mình chỉ là thầy giáo quèn, gỏ đầu trẻ, có gì đâu mà sợ, nên tôi cũng vững tâm đến đó. Mộ Đức là một quận lỵ buồn, không có phố xá, chỉ có con đường quốc lộ một chạy qua. Bộ chỉ huy chi khu và văn phòng quận hành chánh đóng chung bên kia đường, đối diện trường trung học, do một trung úy bộ binh làm quận trưởng kiêm luôn chi khu trưởng. Tôi đã dạy học ở đó với những em học sinh tóc cháy vàng vì nắng gió và nhờ đó mà tôi vui. Những buổi chiều quận lỵ thật buồn. Chênh chếch phía bên kia đường có một loa phóng thanh của chi thông tin bắt trên ngọn cây, hàng ngày thường mở đài Sài Gòn hay đài Quảng Ngãi cho dân chúng nghe tin tức. Một buổi chiều, cũng như mọi buổi chiều khác, tôi được nghe từ loa phóng thanh, một bài hát có tên Tình Khúc Thứ Nhất được xướng ngôn viên giới thiệu tác giả là Vũ Thành An, lời Nguyễn Đình Toàn, bản nhạc này, nhạc đã hay mà lời cũng quá hay: Tình vui theo gió mây trôi Ý sầu mưa xuống đời Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi Mấy tuổi xa người Ngày thần tiên em bước lên ngôi Đã nghe son vàng tả tơi Trầm mình trong hương đốt hơi bay Mong tìm ra phút sum vầy Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài Lời nào em không nói em ơi Tình nào không gian dối Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say Lá thốt lên lời cây Gió lú đưa đường mây Có yêu nhau xin ngày thơ ngây Lúc mắt chưa nhạt phai Lúc tóc chưa đổi thay Lúc môi chưa biết dối cho lời Tình vui trong phút giây thôi Ý sầu nuôi suốt đời Thì xin giữ lấy niềm tin dẫu mộng không đền Dù trời đem cay đắng gieo thêm Cũng xin đón chờ bình yên Vì còn đây câu nói yêu em Âm thầm soi lối vui tìm đến Thần tiên gẫy cánh đêm xuân Bước lạc sa xuống trần Thành tình nhân đứng giữa trời không Khóc mộng thiên đường Ngày về quê xa lắc lê thê Trót nghe theo lời u mê Làm tình yêu nuôi cánh bay đi Nhưng còn dăm phút vui trần thế Lúc này, Vũ Thành An và Nguyễn Đình Toàn chứa nổi, tác giả chỉ là cái tên, nhưng bản nhạc quá hay nên có tôi cảm tình với tác giả ngay, nhất là tác giả viết lời. Lúc đó, tôi cứ nghĩ Vũ Thành An đã phổ từ một bài thơ nào đó của Nguyễn Đình Toàn. Nhưng sau này, khi tôi đọc trên một tờ báo nào đó, mới biết là nhạc phẩm này của Vũ Thành An, Nguyễn Đình Toàn viết lời. Chúng ta hãy đọc lại mấy câu, ông dùng ngôn ngữ rất lạ mà rất thơ: Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi Mấy tuổi xa người Ngày thần tiên em bước lên ngôi Đã nghe son vàng tả tơi Trầm mình trong hương đốt hơi bay Mong tìm ra phút sum vầy... Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài Bản nhạc này, tôi nghe (sau đó được nghe lại mấy lần) và tự nhiên thuộc lời, rồi tôi đã đem lời nhạc này đọc cho học sinh trong lớp tôi dạy (vì tôi dạy môn Việt văn nên tôi tha hồ mà bình luận, bốc phét, thêm nhưn nhị vào bài thơ, những ý tưởng mà có lẽ tác giả cũng không nghĩ ra. Có thể nhờ bản nhạc này mà tôi có một (vài) mối tình rất thơ với (một, hai) cô gái Mộ Đức, một cô gái có tên là Nề, mà sau này tôi có viết trong một truyện ngắn, truyện Nề xưa. Bây giờ tất cả đã xa lắc lơ, chỉ còn là kỷ niệm. Cám ơn nhà thơ Nguyễn Đình Toàn. * Sau này, cũng thời gian năm 66 hay 67 gì đó, tôi có đọc một bài thơ của Nguyễn Đình Toàn ở đâu đó, và rất mê. Nhưng lâu rồi cũng quên nhan đề, sau khi tìm kiếm, lục lọi, mới biết đó là bài Khi Em Về. Tôi xin ghi lại như sau: Khi em về Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng Đi qua dần khi nước mắt buông theo Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi hoa ngâu Rồi Tết đến, rồi lòng anh nhớ quá Khi em về bước chân chừng xa lạ Và cỏ hoa tất cả đã lắng im Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa Cứ cúi đầu cứ thế rồi ra đi Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết Và dấu giầy mai sẽ lá sương che Nguyễn Đình Toàn còn có bài thơ Khúc Ca Phạm Thái cũng rất nổi tiếng. Bài thơ ghi lại hình ảnh chàng tráng sĩ Phạm Thái yêu Trương Quỳnh Như, em ruột của người bạn thân là Trương Quang Ngọc, mối tình đó đã trở thành tình sử trong văn học Việt Nam mà Khái Hưng đã viết thành tiểu thuyết Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Bài thơ với ngôn ngữ mang mang hào sảng, nói lên chí khí của người tráng sĩ mang gươm đi cứu nước, nhưng thất bại, phải dẹp bỏ cuộc tình riêng, giọng thơ hào khí ngất trời. (hơi thơ giống bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác). Cho nên trong những cuộc vui chơi với bằng hữu, những người thích thơ, biết làm thơ hay cảm thơ, mỗi khi ngồi uống rượu với nhau thường ngâm bài thơ này: Ta tráng sĩ hề, lòng không mềm bằng kiếm, Ta anh hùng hề, sự nghiệp có đầy đôi mắt Trương Quỳnh Như. Chí nhỏ lòng kiêu, đổ thưà vận rủi, Tài sơ sức mỏi, trách với thời cơ . Lòng chua cay uống mãi rượu giang hồ, Nâng chén lửa đốt tàn dần năm tháng. ... Em ơi tám hướng sông hồ, Mười năm ngang dọc, bây giờ là đây .. Sự đời chừ đã trắng tay, Ngủ vùi một giấc, cho đầy gối tham . Ta say hay ta tỉnh? Nàng buồn hay nàng vui? Ngọc châu pha vỡ tiếng cười , Lược gương xin chải ngậm ngùi cho nhau . Và Bản Nhạc viết về Sài Gòn Từ lâu, nghĩa là từ trước năm bảy lăm, tôi nghĩ là Nguyễn Đình Toàn chỉ làm thơ và viết văn thôi, nếu cùng lắm thì ông đặt lời cho nhạc như bài Tình Khúc Thứ Nhất. Nhưng sau này tôi biết ông còn sáng tác nhạc, ông viết rất nhiều ca khúc. Trong những ca khúc của ông tôi thích đâu 3, 4 bài, như bài Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên, mà nhiều người biết đến, sau đây: "Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên - như dòng sông nước quẩn quanh buồn - như người đi cách mặt xa lòng ta hỏi thầm em có nhớ không... Sài Gòn ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn xao - trong niềm vui tiếng hỏi câu chào - sáng đời tươi thắm vạn sắc màu - còn gì đâu..." Theo tôi, bản nhạc này là bản nhạc hay nhất của nhạc Việt Nam viết về Sài Gòn sau khi mất nước và lúc Sài Gòn đã thay đổi tên. Bản đứng thứ nhì đồng hạn là bài Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng và bài Đêm Nhớ trăng Sài Gòn nhạc ...thơ Du Tử Lê. Sau rót mới đến bản Sài Gòn Vĩnh Biệt của Nam Lộc. Bản nhạc Sài Gòn Vĩnh Biệt được mọi người biết đến nhiều có lẽ nhạc phẩm này ra đời sớm, khoảng đâu sau bảy lăm một hai năm, trong lúc đó, lòng người Việt Nam, nhất là những người di tản từ ba mươi tháng tư bảy lăm, luôn luôn khắc khoải trong lòng nổi nhớ quê hương, mà Sài Gòn là biểu tượng một quê hương trong lòng mọi người, nên mất đi Sài Gòn, rời xa Sài Gòn, ai cũng tưởng tiếc, cũng nhớ về. Kể cả những người đi ở tù cộng sản như chúng tôi, khi nghe bản Vĩnh Biệt Sài Gòn (được đưa chui vào trại tù), chúng tôi nghe cũng thật bùi ngùi, cảm động (lúc đó tôi ở Long Khánh, có tin truyền miệng nhạc phẩm Vĩnh Biệt Sài Gòn là của một sĩ quan sư đoàn 5 bộ binh sáng tác). Đến khi qua Mỹ, tôi mới biết tác giả là Nam Lộc, và theo tôi đánh giá về nghệ thuật, bản nhạc này lời rất giản dị, bình thường, ca từ không có gì mới lạ, có nhiều câu, suy cho kỹ thì phản ý của người di tản hay người vượt biên, ví dụ như câu bây giờ tôi như con thú hoang lạc đàn, sao lại là con thú hoang? Nếu nói về đất nước Việt Nam Cộng Hòa trước bảy lăm và những người sống trong đất nước đó là đàn thú hoang sao? Lời nhạc rất phản ý của người Việt tỵ nạn cộng sản. Và sau đó có những câu như Sài Gòn ơi ta xin hứa là ta sẽ về? Sao đã vĩnh biệt rồi, như theo đề tựa, vĩnh biệt là không bao giờ gặp lại, mà sao hứa sẽ trở về? Cho nên, bản nhạc này được nhiều người nghe là do tâm trạng thương nhớ Sài Gòn có sẳn trong lòng, chứ không phải là bản nhạc hay. * Nguyễn Đình Toàn sáng tác nhạc rất nhiều, sau khi ra hải ngoại ông đã cho ra mắt 2 CD, đó là: Hiên Cúc Vàng với chỉ một giọng ca Khánh Ly, và Tình Ca Việt Nam với Duy Trác, Khánh Ly, Sĩ Phú, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu. Nhạc Nguyễn Đình Toàn mang hơi hám của một người lưu vong luôn luôn nhớ về những kỷ niệm cũ, một hoài niệm không rời với hồi ức, thường buồn hơn vui, đã đưa người nghe vào một không gian âm thanh sâu lắng, không sôi nỗi xáo động, nó trầm lắng, dịu dàng, nên lớp người cũ đã sống trước bảy lăm ở miền Nam rất thích nghe. Từ Giờ Ra Chơi đến Áo Mơ Phai Truyện Giờ Ra Chơi của Nguyễn Đình Toàn do nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng in năm 1970. Tôi mua quyển truyện này tại một tiệm sách ở khu Hòa Bình trong một chủ nhât đi phép. Đời SVSQ/CTCT ngày phép thường ra bát phố Đà Lạt, sau khi đã vào tiệm tắm nước nóng tắm để rũ sạch bụi đỏ quân trường, sau đó đi ăn phở Bằng hay vào quán Tùng uống cà phê hay ra bờ Hồ Xuân Hương vào Thủy Tạ ăn kem. Nhưng tôi thì hay đi loanh quanh mấy tiệm sách để tìm mua những tác phẩm mới xuất bản của các nhà văn mình yêu thích. Thời điểm đó, truyện dài Giờ Ra Chơi của Nguyễn Đình Toàn mới phát hành nên tôi nhìn thấy là chộp mua ngay. Giờ Ra Chơi kể lại mối tình của cô gái học trò Đà Lạt tên Thục và tình yêu của tuổi mới lớn của Thục. Truyện nhẹ nhàng êm dịu, thơ mộng như trời mây non nước xứ Đà Lạt. Lúc này tôi có một người bạn gái là một cô học trò trường Hồng Đức, Đà Nẵng, tôi liền mua thêm một cuốn gởi về tặng cô gái và tả tình tả cảnh Đà Lạt, cũng như mối tình đẹp của cô học trò tên Thục trong truyện. Tôi cố rũ người bạn gái lên Đà Lạt học trường Chính Trị Kinh Doanh để được gần tôi, cuối cùng cô gái nghe lời “dụ dỗ” của tôi mà lên Đà Lạt theo học. Rất tiếc là khi cô lên Đà Lạt thì tôi cũng xong hai năm thụ huấn. Tôi đổi đi xa nên mối tình cũng bay theo sương khói. * Áo Mơ Phai, tập truyện dài của Nguyễn Đình Toàn đăng “phơidơtông” ở Nhật Báo Tiền Tuyến, được nhiều người đón nhận, theo dõi say mê từng ngày. Sau này in thành sách và được giải văn chương toàn quốc năm 1972. Truyện Áo Mơ Phai kể lại những mối tình thơ mông ở Hà Nội trước ngày di cư năm 1954, khi Hà Nội còn là ngàn năm văn vật đất Thăng Long, cùng với một Hà Nội thơ mộng trữ tình là sự dùng dằng, ra đi hay ở lại của những người Hà Nội trong giai đoạn lịch sử năm 1954, chia đôi đất nước. Chúng hãy đọc một đoạn ngắn trong Áo Mơ Phai khi tác giả tả những cái đáng yêu của Hà Nội: “Những tiếng động nhỏ ấy, những hương vị mờ nhạt ngửi thấy, cây cối trong mùa mưa, phấn hương của người quen thuộc, những món ăn, thức uống, những câu thơ, những bài hát, Hà Nội giống như một cái chuông và những tiếng kêu ấy là những cách khua động, người ta tự gõ vào trí tưởng mình, tự xé lòng mình, để nhẹ bớt nỗi nhớ mong, ám ảnh của Hà Nội, Hà Nội đã biến thành khuôn mặt người tình đầu tiên, khi người ta ghé môi hôn thì cũng là lúc cái hình ảnh ấy khắc sâu vào tâm khảm. Những khu phố dịu dàng dưới sương đêm, sáng cái ánh sáng của vầng trăng lúc nào cũng giống như, trăng khi còn thơ ấu, và những cơn gió nhẹ thổi trên các lối đi, thổi lên các cành cây, chẳng khác những hơi thở nồng nàn tình ái, người ta không thể biết rõ cái vẻ dịu dàng của Hà Nội được tẩm đẫm nhan sắc, dáng vẻ của những người đàn bà, những cô gái Hà Nội, hay chính những người này thừa hưởng cái không khí êm đềm đó, những trận gió mang đầy hơi phù sa của sông Hồng, mùi cỏ của con đê Yên Phụ, mùi rượu ngang, rêu phong của những mái nhà cũ kỹ, của những bức tường thành của ngày Hà Nội bị xâm chiếm xa xưa, của các xưởng máy, của hoa đào, hoa sấu, sắc đỏ của những bông gạo vừa tàn rụng hết trong ngày hè với muôn ngàn tiếng chim kêu hót...” * Truyện, thơ, nhạc của Nguyễn Đình Toàn là ta đọc từ tâm thức nhẹ nhàng. Suốt hành trình trên 50 năm làm văn nghệ, Nguyễn Đình Toàn đã cho ra đời những tác phẩm sau: Văn: Chị em Hải, nhà xuất bản Tự Do, 1962 Những kẻ đứng bên lề, nhà xuất bản Giao Điểm, 1964 Con đường, nhà xuất bản Giao Điểm, 1967 Ngày tháng, nhà xuất bản An Tiêm, 1968 Phía ngoài, nhà xuất bản Hồng Đức, 1969 Giờ ra chơi, nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng, 1970 Đêm hè, nhà xuất bản Hiện Đại 1970 Đêm lãng quên, Văn Uyển, 1970 Không một ai, nhà xuất bản Hiện Đại, 1971 Đám cháy, Văn Uyển 1971 Áo Mơ Phai, 1972. Thơ: Mật Đắng. Nhạc: Hiên Cúc Vàng (CD)với giọng ca Khánh Ly. Tình Ca Việt Nam (CD) với giọng ca Duy Trác, Khánh Ly, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu. Và nhiều nhạc phẩm khác. * Nguyễn Đình Toàn đã hiến cho đời những tác phẩm hay, với riêng với tôi, tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn đã theo bước chân thời gian của cuộc đời đeo đuổi tôi, qua những cuộc tình học trò, sinh viên, thơ mộng, dịu êm. Còn ngoài đời, tôi chỉ gặp ông đâu có hai, ba lần gì đó, cũng chẳng được dịp nói chuyện lâu, nhưng trong lòng tôi, lúc nào cũng mến mộ Nguyễn Đình Toàn. Rất cảm ơn nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. Trần Yên Hòa Khi Em VềTác giả: Nguyễn Đình Toàn Khi em về trời xanh và gió mát Con đường mòn thơm lá mục quê hương Vườn cải ngồng đỗ ong bướm về sân Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng Mặt đất mềm bước chân em chợt nặng Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi Luống huệ ấy xòe những vồng hoa trắng Và đầy thềm lá rụng liếp phên che Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng Đi qua dần khi nước mắt buông theo Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi, hoa ngâu Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá Khi em về bước xưa chừng xa lạ Và cỏ hoa tất cả đã vắng im Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa Cứ cúi đầu, cứ thế, rồi ra đi Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết Và dấu giầy mai sẽ lá sương che
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2013 18:30:49 GMT 9
Nguyễn Đình Toàn: Tình Yêu & Tuổi Trẻ trong Thơ Văn
Nguyễn Mạnh Trinh
Nói đến Nguyễn Đình Toàn, là phải đề cập đến ba chân dung nghệ sĩ: văn sĩ , thi sĩ và nhạc sĩ. Ba chân dung này có nhiều khi ở ba lãnh vực khác nhau nhưng lại có những quan hệ mật thiết với nhau. Một điều rõ ràng là bất cứ trong lãnh vực nghệ thuật nào, cũng đều thấy một con đường khác lạ với mọi người.
Thơ, văn, hay nhạc, cũng đều là một cách thế để suy tư, để sống bằng cảm quan của mình. Đời sống như dệt ra bằng những nỗi buồn và ở nơi ông , với một sức khỏe mong manh lại làm cho cuộc nhân sinh như bị u ám thêm. Suốt từ lúc còn trẻ tuổi, đi vào văn chương với cái bút hiệu Tô Hà Vân của thời Hà Nội xa xưa đến lúc vào Sài Gòn, viết tác phẩm đầu tay là Chị Em Hải đăng từng kỳ trên nhật báo Tự Do, rồi đến các tác phẩm sau này, cũng đều là những tác phẩm về tình yêu & tuổi trẻ, tuy hình thức có khác đi, vẫn là biểu hiện của một cách thế sống, một suy nghiệm sống.
Nguyễn Đình Toàn được kể như một người viết chịu ảnh hưởng nhất của phong trào Tân Tiểu Thuyết, một phong trào viết tiều thuyết mà còn được gọi là anti-roman, với chủ trương mới lạ đi ngược lại cách viết tiểu thuyết cổ điển như đã hiện hữu trong văn chương từ trước. Chủ trương của những nhà văn như Alan Robble Grillet, Claude Simon, Nathalie Sarraute,.. là nhà văn phải xóa bỏ chủ quan khi cầm bút. Cách viết phải rất khách quan, như ống kính của người chụp ảnh, ghi chép lại nguyên vẹn sự việc và không có xúc cảm hoặc nhận định chủ quan chen vào. Tân tiểu thuyết ( nouveau roman) còn có tên mệnh danh khác là trường phái của cái nhìn, nghĩa là y hệt một cặp mắt, nhìn, quan sát trung thực sự vật không bị biến tướng biến dạng bởi sự cảm nhận cá nhân.
Nhưng khi được hỏi về phong trào tân tiểu thuyết ở Việt Nam trong thời kỳ thập niên 60 thì Nguyễn Đình Toàn trả lời rằng ông nghĩ sao thì viết vậy mà thôi . Câu hỏi tiếp là liệu có chính xác không khi nói ông và một số bạn đồng hành chịu ảnh hưởng của tân tiểu thuyết như Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân,…? Thì Nguyễn Đình Toàn trả lời là đó là những nhóm bạn viết trẻ hơn ông thường gặp nhau ở quán cà phê La Pagode chứ không phải là cố tình tạo ra một phong trào văn học mới lạ ở Miền Nam lúc ấy.
Có một điều khi ông là một trong ba người lựa chọn bài vở cho tạp chí Văn thời mà Trần Phong Giao làm chủ biên, thì bài vở được lựa chọn nhất là ở bộ nôn văn đã có nhiều khám phá và các người cầm bút trẻ đã có bước khởi đầu tốt đẹp. Cũng như các trào lưu văn học cũng như các tác giả nổi tiếng trên thế giới được viết thành những chủ đề như những cánh cửa mở ra nền văn chương quốc tế.
Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Toàn có cách tạo dựng nhân vật khá độc đáo. Những nhân vật ấy sống ơ hờ trong một không gian, thời gian mỏng mảnh, của bàng bạc những suy tư và nội tâm là những rối rắm phức tạp. Ông mang tuổi trẻ đi vào tình yêu và mỗi một nhân vật là mang theo một định mệnh mà ở đó con người bị lôi cuốn đi trong những mê thức chập chùng mà cuộc sống đã sẵn dành.
Đọc trong các tiểu thuyết của ông như Con Đường, như Ngày Tháng, như Không Một Ai, như Đồng Cỏ, .. hoặc một số truyện ngắn như trong tập Đêm lãng Quên chẳng hạn, thì thấy rõ cung cách của một người viết tạo ra một chỗ đứng cho tác phẩm của mình. Cùng với những cây bút khác, quả thực ông có tạo ra thành một phong trào mà nhà văn Mai Thảo gọi là có một chút thành công và thất bại.Thành công là phong trào này đã đem lại cho văn chương tiểu thuyết một chân trời mới mà kỹ thuật và ngôn ngữ là những khai phá bất ngờ đầy hứng thú. Nhưng thất bại vì không thể làm thay đổi được cảm quan của người đọc về tiểu thuyết truyền thống. Trước sau, tiểu thuyết vẫn là biểu hiện của đời sống qua ý nghĩ chủ quan người viết.
Nguyễn Đình Toàn có lẽ sáng tác cũng không hề để ý đến những thành tựu hay mất mát thua được của tân tiểu thuyết mà ông chỉ viết theo ý thích của mình. ông có niềm tin vào công việc mình làm và xác tín một thái độ rất trí thức nên tiểu thuyết của ông được kể đến như những thành tựu và rõ ràng ông đã có địa vị của một nhà văn đáng kể trong hai mươi năm văn học miền Nam…
Đọc Con Đường, để thấy được định mệnh của một người đàn bà sẵn dành riêng một góc tối đau khổ.Nhân vật ấy có một cuộc đời bị bủa vây bời tất cả những điều khốn khó nhất mà lại bất thường với khuôn mặt có vết chàm khó coi. Cha mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng, thân thể thì dị dạng nên con người sống gần với bản năng hơn là lý trí. Cô ta không có một chọn lựa nào khác là đầu hàng nghịch cảnh và sau chuyến đi thăm người mẹ trở về đã dễ dàng ngả vào bàn tay của một người đàn ông xa lạ và trở thành đàn bà từ đêm dọc đường ấy cùng với sự khám phá về nỗi sung sướng vô biên của nhục cảm. Nhân vật xưng tôi trong Con Đường đã bị trôi vào một bi kịch cũng như người mẹ mười năm trước cũng đã lang chạ ngoại tình và rút cuộc chỉ là một dòng lệ rớt trên mi khi đưa tiễn đứa con trở về từ bến xe.
Nhân vật xưng tôi trong truyện và nhân vật “người viết kịch” đã đóng một vai kịch của những cuộc đời mà ở đó đã sẵn mầm chứa của những điều tối tăm ẩn sâu trong nội tâm con người. Thêm một nhân vật “bà ở chung” đã làm thành một vở kịch tay ba mà ở đó người đàn ông đã giương một cái bẫy để cho hai người phái nữ vào sụp hố. Và sâu khấu kịch không là chỗ nào khác hơn là cái giường, nơi tình yêu có khi là hỗn hợp của sự ngu ngốc khờ dại và lòng đam mê nhục dục cao độ.
Con đường với cô bé xấu xí bây giờ giống như con đường mà mẹ cô đã đi xa vĩnh viễn đứa con gái của mình. Một con đường định mệnh mà sự gian truân là hành trang mang theo. Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn, đầy dẫy những nghịch cảnh và con người luôn luôn thủ vai người thua bại. Họ đi trên những con đường mù mịt mà không cưỡng lại được những cảnh trớ trêu bày sẵn…
Trong Con Đường, tác gỉa bắt nhân vật phải xuôi theo định mệnh và chầp nhận tất cả những hậu quả bi đát dù có phi lý đến đâu chăng nữa. Cuộc đời sẵn dành cho mỗi con người một phận số và sẽ chẳng thể phản kháng được mà phải giơ tay đầu hàng trước những trớ trêu nghiệt ngã của cuộc đời…
Đọc một tác phẩm khác, Ngày Tháng, lại thấy được một số phận của người đàn bà bị lôi vào những mảnh sống đầy khúc mắc mà sự bó tay bất lực đã làm đời sống tưởng như bị triệt hủy thối rữa. Tiểu thuyết của ông là ray rứt nôi tâm, là những cảnh ngộ bị lôi cuốn vào, là sự tranh đấu giữa dục vọng và thánh thiện để rồi bản năng đã dẫn dắt con người .Nhân vật nữ tên Hà sống trong nỗi mòn mỏi cuộc sống, không dám liều bước sợ bị vấp ngã, nên cứ đành trôi theo cuộc đời. Nhân vật ấy như được treo lơ lửng bằng những chán chường và người đàn ông chỉ có giá trị như là một sự kềm hãm, một sự cho phép ngấm ngầm kể cả chuyện làm tình. Thân phận của một người đàn bà 30 tuổi góa chồng sống một mình cô đơn thảm thiết dầy vò kể cả việc tự sờ mó thân thể mình trong cơn dục vọng.Người chồng đã chết vẫn ám ảnh nàng với hình ảnh của bộ đồ bay phi công và những ngày tháng sống ở thành phố biển đã là một ám ảnh không nguôi.
Hà gặp Vinh, một phóng viên chiến tranh và một mối tình bắt đầu với đam mê nhưng lại kéo theo những khúc mắc của đời sống, Hà sợ cô đơn nhưng cô đơn lại như một ám ảnh khiến đời sống như cứ dài ra nỗi khắc khoải.. Hai người yêu nhau nhưng tự biết khó thể gần nhau vì mỗi người đều có cuộc sống riêng, có phận đời riêng. Nhưng dục vọng và sự ân ái cứ như sợi dây trói buộc và con người như không thoát ra được. Cuộc sống như một chọn lựa bắt buộc. Có lúc Hà muốn bắt cặp với một người Mỹ say mê nàng nhưng rồi vẫn chỉ là những nửa vời của mê đồ không ngõ thoát.
Ở Nguyễn Đình Toàn và tiểu thuyết Ngày Tháng, nhân vật như lúc nào cũng ở trong trạng thái chiếu đấu khốc liệt giữa bản năng và sự hướng thiện. Khi nằm ôm người tình để ngày mai đi vào quân trường, sự cô đơn như nỗi chết cứ chập choạng vây quanh đời sống.
Nhân vật của Con Đường và Ngày Tháng là đàn bà thì trong tiểu thuyết Không Một Ai thì nhân vật lại là một người thanh niên bị thương trong một cuộc hành quân giải ngũ trở về thành phố làm một công việc văn phòng. Vết thương về thể xác vẫn còn trong khi về tâm não thì cũng bị khủng hoảng theo. Nhân vật ở đại danh từ ngôi thứ nhất xưng tôi là một người có ý hướng muốn thay đổi cuộc sống mình, quên và bỏ đi những ký ức cũ, và cả hiện tại cũng đầy vết thương. Nhưng tất cả chỉ ở trong ý nghĩ thôi, và đời sống cứ như thế một mực chán chường của những vết thương không lành miệng.
Tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn thường xuất hiện rất ít nhân vật và những nhân vật thường hay độc thoại, ít fối thoại và thường là những khám phá đi sâu vào nội tâm con người. Ở trong tiểu thuyết Không Một Ai, cũng chỉ có bốn nhân vật, gồm chàng thanh niên xưng tôi, người nư õlúc bỏ đi lúc trở lại tên Ph., Trang , người đàn bà đau khổ có số phận không may và Kế , người đàn ông đứng tuổi nhưng lại có đam mê của thời mới lớn. Những nhân vật ấy chia xẻ với nhau những định mệnh , mà sự bất hạnh dường như lúc nào cũng lẩn khuất và hạnh phúc là những giây phút chen lẫn ngắn ngủi. Chàng trai xưng tôi trong truyện thì người tình vừa bỏ đi, đời sống thì đầy những cơn đau về thể xác lẫn lộn về những ảo tưởng của tâm trí nêncuộc sống ấy như phủ đấy những bóng tối. Trang , người đàn bà làm chung sở cũng chẳng may mắn hơn , cũng chuyện tình cảm gãy đổ, sống với bà mẹ và hai đứa con và trong lòng luôn khao khát một cuộc tình , để lấp cho đầy khoảng trống. Chàng trai thì lại nhìn Trang để nghĩ tới người tình đã bỏ đi , ân ái với Trang để tưởng tới những thỏa mãn nhục dục từ Ph., người tình lang chạ.
Tình yêu trong phần đông tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn phần đông đều có những gãy đổ và thường là những nửa vời trong cuộc sống họ. Có y chỉ là ý nghĩ, rất mong manh và thoảng qua. Nó phác họa một thế giới khác, một không gian thời gian khác mà rất ít chất cụ thể. Nó gần như của một con người khác luc 1nào cũng tự đi kiến mình và đời sống mình dù con người ấy, ngày tháng ấy, khung cảnh ấy vẫn sờ sờ trướcc mặt. Họ vong thân trong chính cuộc sống của họ. Trong Không Một Ai, nhân vật nào cũng đều có một thế giới riêng . Ngay cả Kế, một người lớn tuổi cũng làm việc chung với nhân vật xưng tôi và Trang cũng là một nhân vật lạ lùng. Khi nghe người con là trung úy Quân y bị chết ở chiến trường, cũng là lúc vừa được lên chức, Kế như người bị phân đôi và chẳng biết làm gì nên rủ người bạn trẻ đi hút. Chiến tranh, hiện hữu với vết thương của nhân vật xưng tôi, hay cái chết của con trai Kế, chỉ là một nhắc nhở về cơn dông bão mà thôi.
Rồi những phức tạp, những xếp đặt của định mệng để Trang ngủ với Kế, rồi tính phá thai rồi nhân vật tôi lại muốn cứu vớt, rồi Ph. Người tình trở về , rồi trang chết. Tất cả những diễn tiến ấy là đoạn kết của Không Một Ai. Một câu truyện rất hiện sinh , của những người hiện hữu trong cái phút giây hững hờ của cuộc sống. Mà, tiểu thuyết ấy cũng chính là một hành trình của những cuộc viễn du vào thế giới nội tâm, mà những con đường hình như đầy ngõ rẽ và nhiều bóng tốii, của chính cuộc sống và những cảm nghĩ về cuộc sống.
Trong văn chương, Nguyễn Đình Toàn đã có định kiến về cõi sống, một định kiến mà chiều sâu của sự u ám bi quan đã làm khuất lấp đi bề mặt của cuộc sống hiện hưũ. Ông muốn đi sâu vào ý thức, để từ đó soi rọi thêm những nhận định, nhìn rõ thêm chân dung con người và đôi khi cả mặt sau của chân dung ấy. Ông viết như một cách thế để “kể về “hoặc “nói về” mà không phải là “viết về”. Và cách nói hay kể cũng đềutrầm lắng , mà cảm quan thì được dấu đi những phẫn nộ hay phản kháng, thành ra tiểu thuyết của ông có nét riêng của một sự chấp nhận. Chấp nhận cã những hữu lý và vô lý của cuộc đời. Những nhân vật ấy, tuy đầy dẫy trong thế giới chúng ta nhưng lại được nhìn và tả khác đi thnah những nhân vật của riêng Nguyễn Đình Toàn với tất cả cá tính của một cuộc sống bề trên thì có vẻ tĩnh lặng nhưng bề sâu là đầy những cuộc sóng lớn. Và, dù ở trong một đất nước hciến tranh, cuộc chiến vẫn là những bề sau khuất lấp, tuy nhiều ảnh hưởng nhưng lại có mặt như một nỗi tình cờ…
Đọc văn Nguyễn Đình Toàn, thấy thấp thoáng những khuôn trời thơ mộng. Và với Aùo Mơ Phai, xuất bản năm 1973 đã đoạt giải thưởng văn học toàn quốc.
Sống ở hải ngoại, ông viết mục phác họa chân dung tác giả cho các báo và sau đó ông chọn lại và in Bông Hồng Tạ Ơn.
Suốt một hành trình văn chương dài hơn nửa thế kỷ, tác giả “ Bông Hồng Tạ Ơn” đã có thật nhiều dịp tiếp xúc, làm việc, hoặc thân tình với nhiều nghệ sĩ trong nhiều bộ môn nghệ thuật. Thành ra những cảm nhận của ông về người, về thơ, về văn, về nhạc .. đều có nét chính xác cũng như sâu sắc và khiến người đọc hình tượng được những cá tính của những khuôn dáng nghệ sĩ ấy. Với 190 tác giả Việt Nam được phác họa trong bộ sách 2 tâp, độc giả có thể mường tượng được một thời kỳ văn học nghệ thuật có nhiều khai phá, Với cách viết ngắn gọn nhưng cô đọng và khá đầy đủ, từng tác giả và từng tác phẩm được biểu hiện trung thực. Đây có lẽ là một công trình làm phong phú hơn sinh hoạt văn học ở hải ngoại và là những tài liệu cho những người còn yêu ngôn ngữ Việt và văn chương Việt. Có nhiều tác giả khá lạ với người đọc cũng như có nhiều bài nhạc bài thơ tưởng đã quên lãng thì với cái trí nhớ gần như xuất thần , tác giả ghi chép lại khá chính xác và đó chính là điểm rất đặc biệt của tác phẩm “ Bông hồng Tạ Ơn”…
Hình như, những chân dung nghệ sĩ được đề cập đến được chọn lựa tùy cảm hứng và không có một tiêu chuẩn nào. Và tác giả cũng không muốn làm công việc chọn lọc những vóc dáng nghệ sĩ tiêu biểu trong tập sách này. Ông yêu thích và nhớ được tác giả và tác phẩm rồi viết ra với cảm tình của mình.
Nguyễn Đình Toàn cũng là một nhà thơ nổi tiếng. Những tập kịch thơ như Phạm Thái Trương Quỳnh Như hay tập thơ Hồi Sinh, hoặc tập thơ đầu Mật Đắng tạo cho ông có một vóc dáng hti sĩ mà về sau này ông đã mang ngôn ngữ của thi ca hòa hợp cùng với cung bậc của âm nhạc thành những ca khác có sức lôi cuốn thính giả.
Ở trong những tập sách bìa dầy chép thơ của các cô cậu học trò thường có nhiều bài thơ được chép với sự nâng niu trìu mến. Khi tuổi đã lớn, đọc lại những bài thơ ấy, như có một chút vọng động nào ngân nga. Có thể là bước đi về của thuở hoa niên ngày cũ..
Thơ Nguyễn Đình Toàn, nhẹ nhàng như bài thơ Khi Em Về:
Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng rủ ong bướm về sân
Anh nằm đây buổi trưa và tiếng nắng
Mặt đất mềm bước chân em chợt nhẹ
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vầng hoa trắng
Và dầy thêm lá rụng lớp phên che
Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều qua 1lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo..”
Có khi là thơ buồ , thơ của những lời ru từ xa xưa vọng lại, từ hiện tai thổi về, Thơ của lời ru cuối cùng cho một cuộc tình xa cách:
Ru em lần cuối cùng này
Bằng hơi mát của một ngày sắp xa
Bằng giờ phút sắp chia xa
Rồi thôi rồi chẳng bao giờ nữa đâu
Giòng kinh năm ngón son cầu
Với môi mặn với hồn trao nghẹn lời
Với sầu xưa ngút trên vai
Tóc xanh non với khuy cài áo thơm
Hàm răng mát tuổi má tròn
Đường thêu chỉ đã hao mòn đây em
Gió trời xin ngủ bình yên
Coi như giấc mộng ưu phiền đấy thôi
Mây cao với mắt trông vời
Soi gương trán bỏng quên người tôi đi”
Có khi thơ lại là những bước đi về. THƠ Nguyễn Đình Toàn đấy nhữngchỗ đi và nơi về , nơi chốn mà không gian thời gian ngưng đọng từ nỗi buồn chia xa của sẵn thiên cổ riêng dành:
Khi em trở về
trời mùa đông đen
căn nhà không người
và mùi ẩm mốc
Khi em trở về
Tay đầy nước mắt
Trên thành cửa bụi
Tuổi thơ đi qua
Khi em trở về
Mộ người yêu đó
Hoa trên phiến đá
Cỏ buồn ngón chân
Và cơn gió rét
Que diêm bật lên
Que diêm bật lên
Những mơ ước cũ
Sáng lên một lần
Những hình ảnh cũ
Tắt đi một lần
Khi em trở về
Bàn tay khói hương
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em!”
Viết về văn sĩ và thi sĩ Nguyễn Đình Toàn như vậy vẫn chưa đủ.tôi muốn viết nhiều hơn về nghà nghệ sĩ của tình yêu tuổi trẻ một thời. Nhưng xin hẹn một bài khác. Để tiếp tục , tôi viết về phần tới sẽ đăng tiếp ở kỳ tới. Chân dung nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn và chương trình Nhạc Chủ Đề lẫy lừng ngày xưa, một chương trình của những người trẻ thời ấy. Bây giờ, đã thành những người muôn năm cũ hướng vọng về một thuở nào sống mãi trong ký ức của đời người…
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 7, 2013 3:07:33 GMT 9
Hàn Mạc TửTiểu truyện sơ lược Đặng Tiến Hàn Mạc Tử - Thi sĩ thiên tài của "loài thi sĩ", nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo không quá lời trong bài viết nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn thi sĩ, một nhà thơ mà Chế Lan Viên đã tỏ lòng cực kỳ kính phục với nhận xét mà Nguyễn Trọng Tạo cho rằng "xuất thần", ngay sau khi ông mới qua đời : "Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mạc Tử". Sau bao nhiêu thăng trầm của thời thế, năm nay Hàn Mạc Tử được xã hội trả lại vị trí đích thực của ông trên văn đàn : những đêm thơ Hàn Mạc Tử được tổ chức ở Huế, Quy Nhơn, tập thơ Gái Quê thất truyền báo nhiêu năm, mới được tìm lại cũng sẽ được tái xuất trong một bản in mới, phát hành vào đúng những ngày kỷ niệm này... Về phần mình, Diễn Đàn trân trọng giới thiệu với bạn đọc một "hồ sơ đặc biệt Hàn Mạc Tử" : ngoài bài "Tiểu truyện" này, bài trao đổi giữa nhà thơ Thanh Thảo và nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhân dịp tập thơ Gái Quê "tái xuất giang hồ", 4 bài thơ trong tập thơ, bài của Phạm Đán Bình về các bút hiệu của Hàn Mạc Tử, bài Hàn Mạc Tử và bài thơ thôn Vỹ của Đặng Tiến, chúng tôi cũng sẽ đăng lại trong "hồ sơ" này một số bài viết khác trong những ngày tới.  Ký hoạ của Thanh Trí Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, lần lượt, có khi cùng một lúc, lấy bút hiệu Minh Duệ Thị, Phong Trần, PT, Lệ Thanh, hay Hàn Mặc Tử, thỉnh thoảng trên báo còn dùng dăm ba bút danh khác. 1912 : Nhà thơ ra đời khoảng 8 giờ sáng ngày 22 tháng 9. Âm lịch, nhằm giờ Thìn, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tý, tại làng Lệ Mỹ, nơi cửa biển Nhật Lệ, thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Gia đình công giáo thuần thành, ông có tên thánh Phanxicô (François) không phải Phê-rô (Pierre) như nhiều tư liệu ghi nhầm. Thân phụ làm công chức thương chánh (quan thuế), gốc Thanh Hóa, tên Nguyễn Văn Toản, nguyên họ Phạm. Mẹ tên Nguyễn Thị Duy. 1921 : Thân phụ thuyên chuyển đi làm việc nhiều nơi có cửa khẩu : Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Quy Nhơn, Bồng Sơn, rồi trở lại Sa Kỳ. Tử di chuyển theo gia đình, việc học không ổn định. 1926 : Cụ Nguyễn Văn Toản bị bệnh, qua đời. Gia đình dời về Quy Nhơn, số nhà 20 đường Khải Định ; ở cùng người con cả là Nguyễn Bá Nhân, làm thầu khoán, yêu văn thơ, dưới bút danh Mộng Châu, cùng em xướng họa. Hàn Mạc Tử làm thơ từ đấy, bút hiệu Minh Duệ Thị, thường là thơ theo luật Đường. Tử học tiểu học tại Quảng Ngãi ; khi dời vào Quy Nhơn học hai lớp cuối cùng bậc tiểu học, và thi không đỗ. 1928 – 1930 : Ra Huế, theo học trường dòng Pellerin (Bình Linh), ngoại trú, lớp Nhất niên B, tức lớp 6 bây giờ. Không phải là lớp Premiere áp cuối bậc trung học thời ấy. Phải ở lại lớp, đỗ bằng Tiểu học, thời ấy gọi là Pháp Việt Sơ học, rồi thôi học. 1930 – 1931 : về lại Quy Nhơn. Dưới bút danh Phong Trần, đã có thơ đăng báo. Xướng họa và giao tiếp với cụ Phan Bội Châu, được cụ đề cao. 1932 – 1933 : Làm thư ký sở Đạc điền (Địa chính) Quy Nhơn. Đọc sách, nghiên cứu ; có thơ đăng nhiều báo : Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, … Đơn phương yêu Hoàng Cúc (Hoàng Thị Kim Cúc) và bắt đầu liên lạc thư từ với Mộng Cầm (Huỳnh Thị Nghệ). 1934 – 1935 : Thôi việc, theo bạn bè vào Sài Gòn làm báo. Phụ trách trang văn chương báo Sài gòn, viết cho báo Công luận, Trong khuê phòng. Lấy bút hiệu Lệ Thanh và Hàn Mạc Tử. Dưới bút hiệu Lệ Thanh, được một giải thưởng thơ gì đó. 1936 : Anh ruột là Nguyễn Bá Nhân qua đời vì tai nạn. Cảm thấy sức khỏe suy giảm và trở về Quy Nhơn. Chấm dứt quan hệ tình cảm, sau hai năm giao du thân mật với Mộng Cầm, cư ngụ tại Phan Thiết. Xuất bản tập thơ Gái quê, ký Hàn Mặc Tử, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội, xong ngày 23.10.1936, 48 trang, khổ 12,50 x 19,40, gồm 34 bài. Tự phát hành. Về Huế, bán tác phẩm tại Hội chợ, gặp lại Hoàng Cúc, vẫn là sơ giao. 1937 : Bệnh phong (cùi) phát lộ rõ, nhưng vẫn sinh hoạt văn nghệ tại nhà. Gặp gỡ bạn bè văn nghệ, đứng tên xuất bản đặc san Nắng xuân. Thành lập Trường Thơ Loạn, mà tuyên ngôn là bài tựa thi tập Điêu tàn của Chế Lan Viên. Khi bệnh phát nặng thì rời nhà, sống lẩn tránh nhiều nơi ngoại vi thành phố, có khi về nhà. Cắt đứt liên lạc thư từ với bạn bè. Mai Đình (Lê Thị Mai) đến thăm nhiều lần, trong quan hệ văn chương. Tài chánh khó khăn, phải nhờ cậy bè bạn, nhất là Quách Tấn. 1938 : tập hợp tác phẩm thành tập Thơ điên, sau đổi tên là Đau thương, nhưng không tìm ra được nhà xuất bản, và cũng không còn khả năng tự xuất bản như với tập Gái quê trước đó. 1939 : Tiếp tục sáng tác trong hoàn cảnh quẫn bách. Đề tựa cho Tinh huyết của Bích Khê, viết bạt cho Một tấm lòng của Quách Tấn. Tập hợp bản thảo tập thơ Xuân như ý rồi Thượng thanh khí. Liên lạc thư từ với Thương Thương (Trần thị Thương Thương), một nữ sinh Huế 15 tuổi, qua liên hệ của bạn văn là Trần Thanh Địch, chú ruột cô gái, muốn an ủi người bệnh. Quan hệ này, chỉ qua thư từ, và cái tên Thương Thương, đã gây cảm xúc và cảm hứng cho Hàn Mạc Tử sáng tác tập Cẩm châu duyên gồm một số bài thơ và hai kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội ; tác phẩm cuối cùng này nửa chừng đã đình chỉ theo lời gia đình cô gái yêu cầu ngưng sử dụng tên cô.. 1940 : Bệnh tình nguy kịch, gia đình đưa vào bệnh viện Quy Nhơn, ngày 8 tháng 9 ; rồi chuyển vào trại cùi Quy Hòa, ngoại thành Quy Nhơn, ngày 20 tháng 9. Qua đời về bệnh kiết lỵ lúc 5 giờ 45 sáng, ngày 11 tháng 11 năm 1940, và được mai táng ngay buổi chiều ngày hôm đó tại nghĩa địa của bệnh viện, theo thông lệ của trại cùi ; người trong viện không biết bệnh nhân quá cố là nhà thơ Hàn Mạc Tử ; gia đình không được thông báo. Mộ phần Hàn Mạc Tử sẽ được cải táng, dời về Gành Ráng, Quy Nhơn, năm 1959. Trùng tu 2008. Ngày nay, thơ Hàn Mạc Tử được nhiều nơi in lại và phổ biến rộng rãi. Đặng Tiến Đối chiếu và thiết lập, Orléans ngày 10-7-2012 ******************************************************************************************* Hàn Mặc Tử: Tác GiảHàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử (1912-1940) Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22 tháng 10 năm 1912 ở Lệ Mỹ (Đông Hới), mất ngày 11 tháng 11 năm 1940. Trú ngụ ở Qui Nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo, cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc Điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn. Kế đó mắc bịnh hủi, đưa vào nhà thương Quy Hòa rồi mất ở đó. Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh). Đến năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mặc Tử. Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo,Ng Người Mới. Đã xuất bản: Gái Quê (1936). * * * Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: "Hàn Mặc Tử? Thơ với thẩn gì! Toàn là nói nhảm." Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!" Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mạc Tử trong khi viết đoạn này: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên đây! tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống." Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mặc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã khúc mắt mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng, họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vì giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết: "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử." Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mặc Tử nói trong bài tựa Thơ Điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh. Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi. Thơ Đường Luật: Theo Ông Quách Tấn, Phan Sào Nam hồi trước xem Thơ Đường Luật Hàn Mặc Tử có viết trên báo đại khái nói: "Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp được bài nào hay đến thế... Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó." Thơ Đường Luật Hàn Mặc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như: Nằm gắng đã không thành mộng được, Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi. Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện cho sử nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mặc Tử. Gái Quê: Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Kỳ đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái Quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục. Thơ Điên: Thơ Điên gồm có ba tập: 1) Hương Thơm 2) Mật Đắng 3) Máu Cuồng và Hồn Điên Hương Thơm: Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào. Mật Đắng: Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồn sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu. Máu Cuồng và Hồn Điên: Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cái thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì chung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một người hay đúng hơn một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử. Ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mặc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ Điên. Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương Thơm, hấp hối với tập Mật Đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn tỏa lên nghi ngút. Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu Cuồng và Hồn Điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay. Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu: Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ Đầy mình lốm đốm những hào quang. Lên chơi trăng có câu: Ta bay lên! Ta bay lên! Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm. Ta ở côi cao nhìn trở xuống: Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm. Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mặc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra: Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng Trôi thây về xa tận cõi vô biên. Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng trở nên điên cuồng và đau đớn dị thường: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút; Mỗi lời thơ đều dính não cân ta Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt, Như mê man chết điếng cả làn da. Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết, Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh; Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết, Cả lòng ta trong nhớ chữ rung rinh. Tôi chỉ trích ra vào đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mặc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm. Xuân Như Ý: Mùa xuân Hàn Mặc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy dẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mặc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để ban ơn phước cho cả và thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng - sao lại há miệng? - cho thơ trào ra, làm chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người sẽ thấy: Đường thơ bay sáng láng như sao sa Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa. Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo khôngcó có gì giống như vậy. Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân Như Ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử. Với Hàn Mặc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật Giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với di thảo của thi nhân. Huống chi thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể. Thượng Thanh Khí: Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh đã thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia Đại khái không khác cảnh Xuân Như Ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không thiêng liêng. Cẩm Châu Duyên: Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mặc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khải ái: nàng Thương Thương. Nàng Thương Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử hình như cũng không biết gì hơn ngoài hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng đủ để thi nhân đưa nàng vào tháp thơ. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người mơ thấy mình là Tư Mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ: Đã mê rồí! Tư Mã chàng ôi! Người thiếp lao đao sượng cả người. Ôi! ôi! hãm bớt cung cầm lại, Lòng say đôi má cũng say thôi. Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy: Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả? Trơ vơ buồn và không biết kêu ai! Bức thư kia sao chẳng viết cho dài, Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa. Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận. Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn. Hàn Mặc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng. Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội: Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mặc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần Tiên Hội viết chưa xong và không có gì. Duyên Kỳ Ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mặc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này. Nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca. Trong thi phẩm Hàn Mặc Tử có lẽ tập thơ này là trong trẻo hơn cả. Còn từ Thơ Đường Luật với những câu: Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối; Gió thu lọt cửa cọ mài chăn. Cho đến Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục. * * * Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mặc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã... Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn. Hoài Thanh - Hoài Chân
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 7, 2013 3:12:28 GMT 9
Gọi Tên NgườiPhạm Đán Bình  Hàn Mạc Tử, Tạ Tỵ vẽ Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 October 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu” . Báo Người Mới: số 4 (16.11.1940) kết thúc tin buồn “Hàn Mạc Tử đã qua đời” bằng một lời tương tự: “Chúng ta đã mất một người” Đơn giản mà thấm thía. Một ý nghĩa nảy từ hai cuộc đời, hai sự nghiệp. Tưởng chừng “cách nhau ngàn vạn dặm”. Mà lại gặp nhau trong chí hướng trong thân phận hẩm hiu nhưng đã phát huy mọi khả năng tâm não. “Đã sống mãnh liệt và đầy đủ... Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn… Đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu”. Mối thần giao giữa Phan Bội Châu và Hàn Mạc Tử Trong cùng số báo Tin Tức nói trên lại có bài “Trút linh hồn” của Hàn Mạc Tử với câu còn ngân dài, ngân dài mãi “như hình nhớ thương”: Ta còn trìu mến biết bao người… Và trong Tin Tức trước đó một kỳ (27.10.1940), Phan Sào Nam đã cảm tạ không kém thiết tha những người điếu sống cụ: Những ước anh em đầy bốn biển Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian. Trùng hợp trước hơi thở cuối cùng. Như đã trùng hợp ở bước đầu trên “Mộng Du thi xã”. Trong thần giao cách cảm. Tờ Phụ nữ tân văn (số 97 ngày 28.8.1931, tr.5) không ngờ đã xe mối duyên văn nghệ cho một nhà chí sĩ với một nhà thi sĩ. Bài “Phan Bội Châu tiên sanh mở hàng dạy thi” in ở trang trước, kèm bài thơ mẫu mượn hình ảnh chùa Phật để nói lên niềm non nước: Ba chén xong rồi ai ấy bạn Một pho kinh Phật một cây đèn. Thì ở ngay trang sau đã có bài “Chùa hoang” của P.T (Qui Nhơn) tức Phong Trần (Hàn Mạc Tử sau này) vọng lại: Tiếng chuông tế độ rày đâu tá Để khách trầm luân luống đợi chờ ! Mối thần giao kia chính cụ Phan đã nhìn nhận trong “một bức thơ” viết cho “P.T tiên sanh”, sau khi nhận được ba bài của thi sĩ gởi qua Thực Nghiệp Dân Báo (11.10.1931): “Kính thưa tác giả P.T tiên sinh, Tác giả cho tôi đọc ba bài thơ, tôi lấy làm hân hạnh cho “Mộng Du Thi Xã” lắm; xem trong u oán cao tình, thanh tân nhã điệu, tôi chỉ phàn nàn rằng người xướng quá cao tất nhiên người họa phải ít, cho nên tôi chỉ tục điệu ba bài thơ mà thôi, còn như nói rằng tôi nối thơ được với tác giả thì tôi không dám. Ôi! Hồn giao nghìn dặm biết làm sao bắt tay nhau mà cười lớn một tiếng mới là thỏa hồn thơ đó”. (theo Tin Tức Chúa Nhựt đăng lại trong mục tin Hàn Mạc Tử qua đời, ở số 9, 24.11.1940, tr.3) Trong lúc chưa được biết văn bản đầu tiên về lời cụ Phan khen Hàn, đây là lời trích sớm nhất hiện tìm được, sớm hơn và có phần khác với lời trích của Quách Tấn trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ đường luật”, trong Người Mới số 6 (30.11.1940, tr.4): “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều song chưa gặp được bài nào hay đến thế… Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ, để bắt tay nhau, cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó.” Các Bút Hiệu Một điều đáng chú ý trong toàn văn bài này là Quách Tấn viết “Hàn Mạc Tử” và tuy nói về các bút hiệu của Hàn nhưng chưa có giai thoại “vạch vành trăng non lên đầu chữ ‘a’ như trong Đôi nét về Hàn Mặc Tử, sau này. Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử, Hàn Mạc Tử: chừng ấy vẫn chưa hết các bút hiệu của Phanxicô-Nguyễn Trọng Trí! Còn Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ và cả… “Mlle Mộng Cầm” nữa, như Hàn đã ký cuối bài “Vô tình” trong báo Sài Gòn (7.12.35) rồi được đưa vào tập Gái Quê của Hàn Mạc Tử! Ấy là chưa kể những “tên đẹp” khác hay “tên tếu” như Trật Sên, Cụt Hứng, Foong-Tchan v.v… Gọi làm sao hết tên người? Và dù không biết gọi thi sĩ Hàn Mạc Tử, nhưng chỉ biết sống với người sống bên mình, như anh Nguyễn Văn Xê hồi ở Qui Hòa thì cũng đã sao? Nhưng chứng tích của nhà thơ và nhà báo mệnh yểu danh thọ còn đó để giúp xác định lại những điểm mà trí nhớ trung thực của những người thân nghĩa nhất vẫn có thể vô hình không đúng với thực tế khách quan. Sự kiện tiêu biểu nhất là chính Hàn Mạc Tử, khi đăng lại hai bài Chùa hoang và Gái ở chùa cùng những bài họa của cụ Sào Nam và các bạn thơ trong phụ trương văn chương tờ Công Luận (9.3.1935 tr.5) cũng đã ghi chú lầm: “Hai bài này chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp dân báo năm 1930…”. Kỳ thực là năm 1931, số ra ngày 11 tháng 10. Đấy là mới chỉ cách non 4 năm. Huống hồ những hồi ký viết hàng chục năm sau. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận giá trị của những tang chứng quý báu đã giúp gần gũi thực tế. Vậy đối chiếu các tư liệu với những lời Quách Tấn viết theo trí nhớ về các bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí , sẽ thấy những sự kiện sau đây: 1. Minh Duệ Thị: còn thấy xuất hiện năm 1935-1936, cuối những bài đường luật: - Cảm tác (Thường thường trâu cột ghét trâu ăn), báo Sài Gòn, 12.10.35, tr.3 - Ban mai uống nước trà và Cây đàn nguyệt, báo Sài Gòn, 30.12.35 tr.3 - Xuân về (Ba vạn giang sơn khác hẳn rồi), báo Sài Gòn 3.2.36 tr.7 2. Phong Trần: ngoài thơ ra, còn ký 22 bài văn xuôi trong báoTân tiến (1936-1938) và 16 bài văn xuôi trong báo Tiến bộ (1938-1939) thuộc đủ loại: phóng sự, thời đàm, xã thuyết, bình luận văn chương, truyện dài nghệ thuật… 3. Lệ Thanh: vẫn ký song song với Hàn Mặc Tử trong các báo Công Luận (1934-1935), Tân thời (1935), Sài Gòn (1935-1936). Và còn ký ở Trong khuê phòng (1939) đồng thời với Hàn Mạc Tử. 4. Hàn Mặc Tử: xuất hiện từ ngày 29.3.1934 trên phụ trương phụ nữ của tờ Công Luận, dưới hai bài đường luật Gái chửa hoang và Vô đề. Và thường xuyên trên các báo vừa kể trừ Trong khuê phòng. 5. Hàn Mạc Tử: ký thường xuyên các bài đăng Trong khuê phòng (1939), Người Mới (1940), Tin Tức Chúa Nhựt (1940). Chính Quách Tấn, tác giả Hàn Mặc Tử với thơ đường luật trong số Người Mới đã kể ở trên, đã viết không dấu “ă” trên chữ “Mạc” trong toàn bài. Bài tựa cho Tinh Huyết của Bích Khê, do Trọng Miên xuất bản năm 1939, cũng ký Hàn Mạc Tử. Và các bạn của Hàn như Bùi Tuân, Trần Thanh Địch, Trần Tái Phùng, Hoàng Trọng Quỵ, Hoàng Trọng Miên, Bích Khê, Hoàng Diệp lúc đó trong các báo vừa kể, cũng như Trần Thanh Mại, Hoài Thanh, và Hoài Chân sau này trong tác phẩm của mình, đều viết không có dấu “ă” trên chữ “Mạc”. Những dữ kiện trên cho phép xác định lại đôi điểm có liên hệ đến niên biểu và việc sáng tác của Hàn: 1. Không có sự tuần tự bỏ bút hiệu cũ, khi lấy bút hiệu mới, như Quách Tấn viết: “Khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy hiệu là Minh Duệ Thi. Sau đổi là Phong Trần. Lại đổi là Hàn Mạc Tử. Sau cùng mới lấy hiệu Hàn Mặc Tử” (Đôi nét về Hàn Mặc Tử: Văn số 73-74 (7.1.67) tr.48; Quê mẹ, Paris, 1988 tr.12). Điển hình là trên cùng một trang Sài Gòn văn chương (phụ trương văn chương của báo Sài Gòn) có bài của Minh Duệ Thị như đã dẫn trong mục 1, thì đồng thời cũng có những bài ký Lệ Thanh và Hàn Mặc Tử. Như vậy là ba bút hiệu một trật! 2. Không thấy có bài nào ký Hàn Mạc Tử trước Hàn Mặc Tử về thời gian, mà chỉ thấy ngược lại. 3. Không phải “mãi đến năm 1935 (hay 1936) vào chủ bút tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn thi sĩ mới lấy hiệu Hàn Mặc Tử,và cũng từ báo đó thi sĩ mới bước qua làng “thơ mới”, như Quách Tấn trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ đường luật”, làm những người dựa vào đó như Hoài Thanh, Hoài Chân cho đến Từ điển văn học (KHXH, Hà Nội, 1983) cũng rập theo.Thực sự thì ngay từ 29.3.1934 và trên Công Luận đã có bút hiệu Hàn Mặc Tử (có dấu ‘ă’) như đã dẫn ở số 4 đoạn trên. Và cũng trên Công Luận đã có những vần thơ mới đầu tiên, mở đầu và kết thúc của bài văn “Giấc mộng đêm thu” ký “Lệ Thanh nữ sĩ”: Ôi trăng thu Ôi trăng thu Bóng nhạn tím sương đã mịt mù Mối sầu tư Bồng con nhọt lụy năm canh nhỏ Cơn mưa gió Tê tái lòng em mấy điệu từ Mảnh trăng thu. (Công luận 22.3.1934, tr.3: Phụ trương phụ nữ) Còn nếu kể bài thơ mới riêng biệt hẳn, thì cũng trên Công luận (6.4.1935, tr.5: Phụ trương văn chương) có bài Sống khổ và phấn đấu ký Hàn Mặc Tử, trước các bài thơ mới trên tờ Sài Gòn: Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng, Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn. Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than Dưới bóng mặt trời đầy dẫy hào quang… 4. Sở dĩ bút hiệu “Hàn Mặc Tử”: được biết nhiều hơn là nhờ các tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử đã phổ biến rộng hơn. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các văn kiện cuối đời và liền sau cái chết của nhà thơ, từ khoảng 1939 đến 1941 thì “Hàn Mạc Tử” là tên hiệu sau cùng theo người vào cõi thiên thu. Đối với bút hiệu cũng như đối với bản thân và cuộc đời – qua các sáng tác của Hàn, những phần đã xuất bản và những phần chưa thành tập, một số thơ và khoảng 90 bài văn xuôi, trên gần 20 tờ báo ở cả Trung Nam Bắc hình như nhà thơ không khai trừ đường lối gì, nhưng đón nhận muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống và lòng người để khai phóng “hết những anh hoa huyền bí” và “quy tụ, thâu về một mối”. Cái “mối” mà cụ Phan Sào Nam, chủ nhân “Mộng Du thi xã” đã gợi lại trong hai câu đối tặng khách hưởng ứng bốn phương, trong Thực Nghiệp Dân Báo, 23.8.1931: “Duyên văn tự lai láng nước biếc non xanh, Mối tinh thần có có không không trời cao bể rộng” Phạm Đán Bình (1936-2011) Trích từ báo Tin Nhà, số 3, 1992, Paris *********************** Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử
TRĂM NĂM, VÀ LÂU HƠN NỮAthanh thảo “ Thành phố thi ca ” Qui Nhơn — cái nôi sinh ra và nuôi dưỡng thơ Hàn Mặc Tử cùng thơ của những nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, và cả Bích Khê — đã trân trọng và nhớ thương thắp những nén hương trước mộ Hàn Mặc Tử trên “ đồi thi nhân ” vào buổi sáng ngày 21/9/2012 — ngày hôm trước của một trăm năm sinh Hàn thi sĩ. Đúng như TS Nguyễn Đăng Điệp — Viện trưởng Viện Văn học đã nói trong hội thảo : “ Rất cần đọc và khám phá thơ Hàn Mặc Tử từ nhiều góc độ khác nhau, trong đó có góc nhìn sinh thái học văn hóa, vì 'sinh quyển Qui Nhơn' là một tác nhân rất quan trọng khiến thơ Hàn Mặc Tử đi tới tận cùng những ám ảnh kỳ lạ.” Chỉ sống trên đời đúng 28 năm, chỉ có 10 năm để làm thơ, nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một di sản thơ độc đáo, phi thường và từ hơn 70 năm qua đã không ngừng thu hút, mời gọi những cuộc tranh luận, những kiến giải, nghiên cứu, bình xét từ rất nhiều góc độ, kể cả những ý kiến rất trái chiều nhau. Đó chính là sức sống từ những sáng tạo phẩm của một nhà thơ mà sinh thời đã chịu vô vàn đau đớn vì bệnh tật, đã khát khao, tuyệt vọng và hy vọng, đã bằng thi ca ghi lại những yêu thương đau khổ của kiếp nhân sinh, đã không ngừng hướng thơ mình và đời mình tới sự trong trẻo toàn triệt. Nhiều tham luận trong hội thảo này đã không ngần ngại gọi Hàn Mặc Tử là nhà thơ kỳ diệu, đã ví ông với những nhà thơ lớn trên thế giới như Essenin hay Lorca. So sánh này đến từ sự đối chiếu những văn bản thơ, chứ không phải từ tình cảm cá nhân “ yêu nên tốt ”. Quả thật, phải qua rất nhiều trải nghiệm sống, nhiều từng trải, nhiều kiến văn, người ta mới càng thấy giá trị của thi ca Hàn Mặc Tử. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều — Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam — đã khẳng định : “ Một bài thơ như Mùa xuân chín có thể sánh ngang với những bài thơ hay nhất trên thế giới mà không một chút mặc cảm.” Cũng như thế, những bài thơ vật vã trong khổ đau cuối đời của Hàn Mặc Tử cũng đã được giải mã một cách thuyết phục. Đó là những bài thơ bất thường, lạ thường, phi thường chứ không phải những bài thơ điên loạn. Bởi những bài thơ ấy, dù không dễ đọc, vẫn được tất cả những người yêu thơ cảm nhận được. Nhà thơ lớn không chỉ làm thơ cho đối tượng những người đọc tinh tuyển, mà còn làm thơ cho tất cả mọi người. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ như vậy. Thơ ông đã giải phóng không chỉ là vô thức hay tiềm thức khỏi những trói buộc của duy lý, mà còn khiến thơ tự do tìm được con đường ngắn nhất đến với người đọc. Những nỗi đau mà Hàn Mặc Tử thể hiện tới tận cùng trong thơ ông đều được người đọc chia sẻ và cảm thông. Nếu Hàn Mặc Tử, từ cõi xa xăm nào đó, nhận thấy điều này, hẳn ông sẽ yên lòng biết bao ! Thơ ông đã được đón nhận, không chỉ ở Quy Nhơn Bình Định, không chỉ ở Việt Nam, mà còn rộng xa ở nhiều vùng trên thế giới. Nhưng trước hết, thơ Hàn thi sĩ thuộc về quê hương Việt Nam, thuộc về người yêu thơ Việt Nam. Một trăm năm và lâu hơn thế nữa, người Việt Nam vẫn tiếp tục đọc thơ Hàn Mặc Tử, vẫn tiếp tục khám phá thơ ông, vẫn tiếp tục để lòng mình thổn thức cùng những câu thơ được viết ra từ máu huyết của ông. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử, tập thơ Gái quê — tập thơ đầu tiên và duy nhất được in với số lượng rất khiêm tốn khi tác giả còn sống — đã tìm được “ đường về ” với người yêu thơ Việt Nam sau bao lưu lạc thăng trầm. Dù được in lại từ một bản đánh máy chứ không phải từ tập thơ gốc, nhưng với ngành văn bản học Việt Nam, đó cũng là một thành công lớn. Bởi lần đầu tiên, rất nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử có cơ hội được đọc tập thơ Gái quê với trọn vẹn 34 bài thơ cùng lời tựa của nhà văn Phạm Văn Ký. Có một bài thơ trong tập Gái quê này, bài Hát giã gạo sinh thời khi Hàn thi sĩ mới in tập thơ đã phải đón nhận sự bình phẩm không mấy thiện cảm của một vài nhà nghiên cứu phê bình nổi tiếng thời đó. Người bây giờ chỉ được đọc những lời phẩm bình, mà chưa được đọc trực tiếp bài thơ để tự mình nhận xét. Với văn bản tập thơ Gái quê in lại lần này, người đọc đã được đọc bài thơ ấy, cùng nhiều bài thơ khác. Khi lần đầu được đọc bài thơ Hát giã gạo tôi đã sửng sốt, không phải vì giọng thơ “ suồng sã ” như có nhà phê bình ngày trước đã nói, mà bởi ngạc nhiên vì sự am tường của Hàn thi sĩ về văn học dân gian, về tình yêu của thi sĩ với những câu hò điệu hát trong lao động của người nông dân Việt Nam. Mộc mạc, hồn nhiên, hóm hỉnh, những lời thơ đối đáp trong bài Hát giã gạo đã thực sự chinh phục tôi, đã cho tôi một bài học quý giá : mỗi tác phẩm thơ, dù tân kỳ hiện đại tới đâu, cũng đều phải bắt nguồn từ bầu sữa của văn học nhân dân. Và nhà thơ càng gắn bó với cội nguồn nhân dân của mình, thì càng giải phóng thơ mình khỏi những trói buộc ngoài thơ. Hàn Mặc Tử đã bay thênh thang tới cõi vô cùng với những bài thơ đầy thân phận, những bài thơ bắt nguồn từ nỗi đau, niềm hy vọng, và cả những bài thơ bắt nguồn từ những câu hò điệu hát của nhân dân, ẩn kín sau những câu thơ tự do và được giải phóng. Một trăm năm và lâu hơn nữa, thơ Hàn Mặc Tử mãi là niềm tự hào của nền thơ Việt Nam. Và của những người yêu thơ Việt Nam, dù ở Quy Nhơn hay ở bất cứ đâu trên trái đất này. THANH THẢO
|
|
|
Post by nguyendonganh on May 7, 2013 3:14:35 GMT 9
Tưởng niệm 100 năm Hàn Mạc Tử
Đặng Tiến
Hàn Mạc Tử là nhà thơ lớn, đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cách tân thơ Việt Nam qua nhiều giai đoạn hiện đại hóa, đồng thời đã trải qua một đời sống vật chất bi thiết. Đã nhiều người đề cập đến đời sống mà không mấy ai quan tâm vào những đóng góp lớn lao của Hàn Mạc Tử cho nền thi ca Việt Nam.
Nhà phê bình lý luận Phan Cự Đệ trong một biên khảo 1993, đã «xét lại» giá trị của thơ Hàn Mạc Tử, và tổng lược đồng thời đánh giá : «trong khoảng trên dưới một chục năm trời hoạt động trong thi đàn, Hàn Mạc Tử đã từ cổ điển, lãng mạn tiến nhanh sang tượng trương, siêu thực, góp một phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam» (1).
Một nhận định như thế, đến từ một cây bút phê bình nổi tiếng, và nổi tiếng chính thống, tưởng cũng là một bước «đổi mới», tiến đến thái độ công minh đối với một tác gia văn học, có tác dụng tốt, dù muộn màng, là trả văn học về cho văn học.
Tuy nhiên, trong biên khảo công phu, dài 70 trang nói trên, Phan Cự Đệ chưa kịp đề cập đến những cái mới nơi Hàn Mạc Tử, vượt qua biên giới phong trào Thơ mới 1932-1945. Ngày nay, độc giả và người làm thơ thế kỷ XXI, đọc lại một số câu, hoặc bài thơ Hàn vẫn còn sửng sốt trước vẻ tân kỳ, sáng tạo. Yếu tố mới thì nhiều lắm, nhưng điều chính là Hàn Mạc Tử đã dâng hiến đời sống chân thành, thảm khốc, ngắn ngủi của mình cho thi ca, đã để «hồn trào ra đầu ngọn bút / mỗi lời thơ đều dính não cân ta». Ông đã làm thơ bằng cuộc sống thực, đau đớn, bi thương, bệnh hoạn, khốn cùng.
«Tôi làm thơ?
- Nghĩa là tôi yếu đuối quá ? Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên…
Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt cuộc sống».
Tấm lòng chân thực và thành khẩn ấy, tự nó đã tạo giá trị nhân bản cho tác phẩm. Huống chi nhà thơ còn là bậc tài năng lớn, hoàn toàn làm chủ kỹ thuật điêu luyện, ngôn ngữ phong phú, hình tượng độc sáng, đi từ lối Đường luật cổ điển chuyển sang nguồn thi hứng hoàn toàn hiện đại, gần với trường phái siêu thực phương Tây thời đó – vẫn còn mới mẻ đến ngày nay.
Cuộc sống nghiệt ngã của tác giả, rồi lịch sử dân tộc đa đoan, đã giới hạn âm vang của tài thơ. Trong một thời gian dài, tác phẩm Hàn Mạc Tử chỉ được phổ biến rộng rãi tại các thành phố, ở nửa phần đất nước. Từ cuộc Đổi mới, cụ thể là từ 1987, tác phẩm Hàn Mạc Tử đã được truy tầm, phổ biến. Đặc biệt là Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã cố gắng in lại những tập thơ ấn hành trước 1945 theo đúng nguyên bản, và không tị hiềm chính trị. Tuy nhiên, nhà xuất bản không tìm ra tác phẩm Gái quê của Hàn Mạc Tử, do tác giả tự xuất bản, in tại Nhà in Tân dân, Hà Nội, xong ngày 23-10-1936. Để cho đủ bộ sưu tập, và in ấn kịp thời toàn bộ 12 cuốn, nhà xuất bản năm 1992 đã phải đành lòng in lại tập thơ theo bản chép tay của Chế Lan Viên, mà nhà Văn học đã xuất bản 1987, gồm có 21 trên 34 bài trong nguyên tác; trong phần chọn in lại, có bài bị cắt xén. Từ bấy đến nay, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã có lời hứa cố công tìm lại Gái quê, bản in 1936, nhưng vô hiệu.
Chúng tôi lưu cư tại nước ngoài non nửa thế kỷ, nhưng vẫn quan tâm đến văn học nước nhà. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Hàn Mạc Tử, chúng tôi thử tìm lại thi tập Gái quê, bản in Tân dân, năm 1936, dọ hỏi những gia đình thân thuộc với nhà thơ, trong và ngoài nước, thì họ cho biết đã từng sở hữu, nhưng hiện thời lạc mất. May mắn được bà Hoàng Thị Quỳnh Hoa, ở Maryland, Mỹ, có lưu giữ một bản sao trong tư liệu người cô là Hoàng Thị Kim Cúc (Huế, nhân vật «áo trắng» trong bài thơ Thôn Vỹ, có gìn giữ kỷ niệm về nhà thơ), do Trần Như Uyên đánh máy lại năm 1969, từ một bản đánh máy khác của nhà thơ Phan Văn Dật, cùng ở Huế.
Sau khi đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu sẵn có, thì chúng tôi nhận thấy bản đánh máy đáng tin cậy.
Ví dụ bản Gái quê của Chế Lan Viên 1987, sau này Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1992 và 1998 lấy lại, đều không có bài Hát giã gạo mà Vũ Ngọc Phan chê «suồng sã» và ghi trang 31(2); so sánh với bản mục lục mà ông Nguyễn Đình Niên(3) đề xuất trong luận văn cao học đệ trình tại Sài Gòn, tháng 7.1973, thì đúng số trang.
Bài Nụ cười (trang 7), Bẽn lẽn (trang 10), cũng đúng số trang. Ngoài ra bài Tình quê, trang 35, nổi tiếng, có hai câu :
Dầu ai không mong đợi Dầu ai không lóng nghe
Bản đánh máy, cũng như nhiều bản đang lưu hành, ghi «lắng nghe». Đối chiếu với văn bản của những tác gia uy tín, chắc chắn đã từng đọc Gái quê từ bản gốc in 1936, như Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, thì đúng là «lóng nghe». Để nói rằng bản đánh máy chúng tôi có dưới tay, vì chỉ là bản sao, nên chưa chắc đã chính xác từng chữ một, nhưng lỗi đánh máy thì có thể phục chế. Quý hồ là nó gồm đủ 34 đề thơ, thay vì 21 theo bản Chế Lan Viên; và gồm cả lời tựa của Phạm Văn Ký. Chưa kể bài Em lấy chồng, tr. 47, gồm 4 khổ thơ, bản Chế Lan Viên gạt bỏ 3 khổ, chỉ chừa đoạn cuối. Theo ông chủ trương, thì trong một tuyển tập, «mình có quyền cắt»(4).
Nói tóm lại, văn bản Gái quê chúng tôi đề xuất, không dám nói là trung thực tuyệt đối so với bản in tại Nhà in Tân dân 1936, nhưng chắc chắn là đầy đủ, không bị cố tình đục bỏ, cắt xén.
Toàn tập 34 bài không phải bài nào cũng hay. Và «nhiều bài có thể là của ai cũng được» như lời phê phán công bình của Hoài Thanh(5), nhưng toàn tập không thể thiếu trong việc khôi phục sự nghiệp Hàn Mạc Tử, trong đồng bộ phong trào Thơ mới 1932-1945.
Mai kia mốt nọ, có ai tìm ra được ấn bản 1936, thì phục chế lại bản in lần này, cũng không phải khó khăn.
Niềm vui là cơ duyên tìm được văn bản thất tung lâu nay, đúng vào dịp kỷ niệm một trăm năm ngày sinh nhà thơ, 22 tháng Chín 1912.
Cũng là nén hương xa, từ ngoài nước, gửi về quê hương, tưởng niệm một nhà thơ lớn lao và bất hạnh của đất nước.
Orléans, Pháp, 21.9.2012
Đặng Tiến
Ghi chú :
Trong bài này chúng tôi dùng chính tả Hàn Mạc Tử – bút danh cuối cùng của nhà thơ, theo những phát hiện mới đây – thay vì Hàn Mặc Tử.
Bút danh Hàn Mặc Tử được lưu truyền vì đã được sử dụng trong nhiều tuyển tập được phổ biến rộng rãi trước đây.
(1) Phan Cự Đệ, Thơ văn Hàn Mạc Tử, tr.22, NXB Giáo dục, 1993, Hà Nội.
(Nói là «trên dưới một chục năm trời », kỳ thật Hàn Mạc Tử chỉ sáng tác thơ mới trong năm năm cuối đời, từ bài «Sống khổ và phấn đấu» trên báo Công luận, ngày 6.4.1935. Mười năm sau Phan Cự Đệ có điều chỉnh : «chỉ trong mấy năm, từ 1935 đến 1940 ông đã làm cuộc hành trình văn học dài bằng một thế kỷ… ông là người tiên phong đưa thơ vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng thơ hiện đại thế giới», trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tr 454, NXB Giáo Dục, 2004, Hà Nội.
Nhà phê bình Hà Minh Đức cũng đã có nhận định đại khái như vậy : «Hàn Mạc Tử đã thổi vào thơ sinh khí của tuổi trẻ và hơi ấm của cuộc đời, để tạo nên những câu thơ có dáng vẻ riêng». Trong Thơ Hàn Mạc Tử, khổ bỏ túi, tr. 7, NXB Giáo Dục, 1994, Hà Nội.
Chúng tôi nhớ lại: Hai ông Đệ và Đức là những bậc thẩm quyền trước đây đã nhiều lần phê phán nặng nề Hàn Mạc Tử, làm cho người ta... e nể.
(2) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập III, 1942, tái bản nhiều lần, tr.707, NXB Khoa Học Xã Hội, 1989, Hà nội.
(3) Nguyễn Đình Niên, Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử, tr 53, NXB Seacaef, California, 2009.
(4) Chế Lan Viên, Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Tựa, tr 25, NXB Văn Học, 1987, Hà Nội.
(5) Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, 1942, tr 205, in lại 1967, Sài Gòn. Lê Tràng Kiều trên Hà Nội Báo tháng 11- 1936, trong mục điểm sách, cũng có dè dặt như thế.
Phụ lục 1
Xem: Tiểu truyện sơ lược
Đặng Tiến Đối chiếu và thiết lập, Orléans ngày 10-7-2012
Phụ lục 2
Hàn Mạc Tử, những điểm tồn nghi
Đặng Tiến
Trước tiên là bút danh: Hàn Mạc hay Hàn Mặc?
Giới nghiên cứu gần đây đã đồng thuận về bút hiệu sau cùng trong sinh thời nhà thơ, chính thức là Hàn Mạc Tử. Lúc đầu ông ký Hàn Mặc Tử (có dấu ă trên chữ Mặc) trên báo Công luận, ngày 29.3.1934; và ở trang 3 tập Gái quê, 1936, là tác phẩm duy nhất được xuất bản lúc sinh tiền. Do đó, Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, cuốn III, đã ghi tên Hàn Mặc Tử(1) và trong bài phê phán Trần Thanh Mại(2) đã nêu bằng chứng, từ tập Gái quê, và cho rằng chữ Hàn Mạc Tử, mà Trần Thanh Mại(3) đã dùng trong sách mình là sai và vô nghĩa. Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam(4), cũng đồng tình rằng «chữ Hàn Mạc Tử không có trong từ điển», tuy nhiên vẫn ghi Hàn Mạc Tử theo Trần Thanh Mại.
Về tên người, vấn đề không phải là ý nghĩa, mà là cách sử dụng của đương sự trước khi qua đời, là Hàn Mạc Tử, bắt đầu trên Sài Gòn tiểu thuyết, 21.9.1937, và thường xuyên, nhiều nơi, từ 1939. Ngày nay, bia mộ mới nhất của nhà thơ ghi Hàn Mạc Tử.
Về bút hiệu Lệ Thanh, các tư liệu nghiêm chỉnh nhất, từ Võ Long Tê, Phan Cự Đệ, Phạm Đán Bình, đều cho rằng tác giả sử dụng từ 1934, khi vào Sài Gòn làm báo. Thật sự là trước đó: trên Phụ nữ tân văn, đã có tên Lệ Thanh dưới các bài thơ Cảm hứng, số báo 163, ngày 11.8.1932, hay bài Vợ chồng đi thuyền, số tiếp theo(5).
Dưới bút danh Lệ Thanh, tác giả được một giải thưởng thơ gì đó của Thi xã Gia Định, có lẽ khoảng 1934.
Thứ đến là tên thánh (nhận được khi rửa tội) của người Công giáo Nguyễn Trọng Trí (tên thật của Hàn Mạc Tử), là Phanxicô (François) chứ không phải là Phêrô (Pierre) như người em ruột Nguyễn Bá Tín đã ghi(6) và nhiều người khác cứ thế mà ghi tiếp vì không nghi ngờ gì. Thậm chí, tại Gành Ráng, nơi mộ phần xây 1959, trên tấm bia cẩm thạch khắc tên «Hàn Mặc Tử tức Phero Phanxico Nguyễn Trọng Trí», do chính tay Nguyễn Bá Tín (sđd, tr. 121) vẽ mẫu chữ để khắc vào bia đá. Nhưng bên cạnh đó, lại có một thánh giá bằng xi măng cốt sắt, làm 1957, dời từ nghĩa địa Quy Hòa về, ghi rõ tên thánh François Nguyễn Trọng Trí.
Bút tự (chữ ký) cuối cùng của nhà thơ, một ngày trước khi qua đời, tại trại cùi Quy Hòa, là François Trí.
Gần đây, một nhà biên khảo nghiệp dư, vì trân trọng Hàn Mạc Tử, đã tìm ra được chứng chỉ rửa tội của Nguyễn Trọng Trí, ngày 25-9-1912, tại họ đạo Tam Tòa, Giáo xứ của nhà thơ tại Đồng Hới, sau 1954 dời vào Đà Nẵng và còn lưu giữ hồ sơ. Tác giả Phanxipăng, trong một bài báo gần đây, cũng đã trình bày rành rẽ việc tên rửa tội của nhà thơ là Phanxicô(7).
Ngoài ra, theo thông tin từ Giáo phận Quy Nhơn, tên thêm sức, theo nghi thức Công giáo, tại Nhà thờ chính tòa Quy Nhơn, năm 1933, của nhà thơ là Phanxicô-Xa viê. Nhưng nay chưa tìm ra giấy tờ.
(Ngoài đề 1: người làm việc nghiên cứu văn học Việt Nam thật vất vả: một chi tiết nào nhỏ nhặt đều phải rà soát: gian nan một cách phù phiếm).
Việc sinh thành Hàn Mạc Tử cũng thành vấn đề: Trần Thanh Mại trong một tài liệu cơ bản, cho rằng Hàn sinh thiếu tháng vì thân mẫu uống rượu (sđd, tr. 27), gia đình nhà thơ đã cải chính(8). Nhưng có thể là Hàn Mạc Tử lúc sơ sinh sấu nhược, lớn lên vóc dáng nhỏ bé, như nhiều nhân chứng ghi nhận, chủ yếu là bạn thiếu thời là Bùi Tuân(9): «Hàn Mạc Tử là một đứa trẻ bạc nhược, cằn cỗi, tưởng chừng không thể lớn lên được» Không biết tình trạng này có liên hệ gì đến việc, về sau, nhà thơ yểu mệnh hay không.
* Về học trình, vì thân phụ làm quan thuế thuyên chuyển nhiều nơi, nên việc học hành của cậu bé dễ bị gián đoạn. Học lớp Ba tại Quảng Ngãi, lớp Nhì và lớp Nhất tại Quy Nhơn (1926 - 1928). Theo hồi ký đáng tin cậy của Bùi Tuân (sđd, tr. 28) thì Tử không đậu «ri-me» (tiểu học). Nguyễn Bá Tín ghi lại «hai chúng tôi cùng vào học Trường trung học Quy Nhơn. Đến lớp Nhất anh Trí ra Huế học Trường Pellerin (sđd, tr. 20) là không hợp lý, có lẽ ý ông Tín là «sau lớp nhất» nhưng nhiều người theo đó mà sai lầm; ngày nay nhà trường còn lưu chiểu học bạ của nhà thơ(10) xác nhận hồi ký Bùi Tuân: «Nguyễn Trọng Trí vào lớp Nhất niên B Trường Pellerin ngày 5.9.1928. Cuối năm học 1928-1929 chàng không được lên lớp, có lẽ vì chưa có bằng tiểu học. Cuối niên học ấy, tháng 6-1930, Trí thi đậu bằng tiểu học» (tr. 33). Và thôi học (Bùi Tuân, sđd, tr. 33).
«Nhất niên» là lớp đầu tiên bậc trung học, bây giờ gọi là lớp 6, không phải là «lớp nhất» bậc tiểu học (cours supérieur) hay «lớp đệ nhất», cuối bậc trung học trước kia. Điều này đã tạo ra nhầm lẫn vì có người hiểu, và dịch «nhất niên» thành Première(11) theo chương trình Pháp.
Pellerin, tên Việt là Bình Linh, là một trường trung học lớn, do các sư huynh dòng La-san cai quản; trường Công giáo, có nội trú, nhưng theo Bùi Tuân (sđd, tr. 29), Hàn ở trọ bên ngoài, nhà ông bà Phan Thiện Tuần, và đi học đều đặn, chứ không «học hai ngày nghỉ một» như Trần Thanh Mại đã ghi (sđd, tr. 25). Học trình chăm chỉ, học lực trung bình, giỏi luận quốc văn, theo học bạ nhà trường còn lưu trữ.
Từ học vấn sang học bổng. Nhiều tư liệu, có lẽ bắt nguồn từ Quách Tấn, ghi lại rằng Hàn vì xướng họa, rồi tiếp xúc với nhà cách mạng Phan Bội Châu đang bị an trí tại Huế từ 1926, nên bị xóa tên trong danh sách học sinh được học bổng đi Pháp. Điều khó tin vì nhà thơ học lực tầm thường, mà cũng không có tư liệu cụ thể nào chứng tỏ điều này. Nhưng cơ quan cấp học bổng là Hội như Tây du học, do Thượng thư Nguyễn Hữu Bài sáng lập và chủ trì. Ông này quen biết với gia đình Hàn Mạc Tử, cho nên dù giả thuyết không đáng tin, nhưng cũng không nên loại trừ. Duy nó không quan trọng, và không chứng minh được gì. Nhiều người nhắc lại, thổi phồng vì muốn chứng tỏ ông là nhà thơ yêu nước. Và lấy thêm minh chứng khác: trong tập Gái quê, tr. 42, có bài Lòng quê tả tâm sự một nhà cách mạng bị tù, Chế Lan Viên đã thổi phồng, gắn huân chương cách mạng cho bạn(12); khổ nỗi bài này không phải của Tử mà là do ông «lược dịch» thơ Tàu của Uông Tinh Vệ, một chính khách Trung Quốc, đăng trên báo Sài Gòn hai số 18 và 25 tháng 11.1935, ký bút hiệu Lệ Thanh.
Phan Cự Đệ, vì chưa bao giờ thấy toàn tập Gái quê, 1936, nên cho rằng Tuyển tập 1987 ghi nhầm(13), kỳ thật là in đúng, Chế Lan Viên chỉ bỏ sót, hay đã cắt bỏ 1/3 tập thơ khi công bố năm 1987, chứ không thêm vào. Điều này thêm một chứng minh việc phát hiện và tái bản tập thơ Gái quê theo nguyên bản 1936 là cần thiết.
* Sinh thời ngắn ngủi, và yêu đương thật sự cũng không bao nhiêu, nhưng cuộc đời tình ái của Hàn Mạc Tử đã gây ra dư luận và tranh luận. Điều này tự nó «cũng vui thôi», nhưng mải lo lập thuyết hay giả thuyết về tiểu tiết đời tư, ít người bình luận đến sự nghiệp văn học của Hàn Mạc Tử, chính ra phải là đề tài thiết yếu.
Bài này cũng không thoát khỏi vòng luẩn quẩn kia, nhưng mục tiêu là cố tình minh định đôi sự tồn nghi, để độc giả an tâm đi vào tìm hiểu sự nghiệp văn học của Hàn, mà không cần thắc mắc về tiểu truyện và huyền thoại.
* Bài thơ được phổ biến nhất của Hàn Mạc Tử là Đây thôn Vỹ Dạ, đã tạo nên nhiều giai thoại nhất. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1939, lúc tác giả ở Quy Nhơn, bệnh đã trầm trọng, nhận được một tấm bưu ảnh phong cảnh Huế của cô Hoàng Thị Kim Cúc, từ Huế, gửi lời thăm chúc sức khỏe; Hàn trả lời, cảm ơn bằng bài thơ này, dưới tên Ở đây thôn Vỹ Giạ, ngày nay còn bút tích nhờ đương sự Kim Cúc tồn trữ.
Hoàn cảnh và thời điểm sáng tác đã nhiều người biết qua nhiều tư liệu, như của Quách Tấn, viết từ 1959, đăng trên báo Lành mạnh, Huế, từ ấy, in lại trên báo Văn(14) và nhiều nơi khác. Thế mà Chế Lan Viên, cuối 1986 trong bài tựa tuyển tập Bài thơ thôn Vỹ, in 1987, tại Huế đặt nó vào đặc san Nắng xuân (Quy Nhơn), chỉ ra được một số 1937, khiến nhiều người nhầm theo, kể cả danh gia Hà Minh Đức(15) đã bình giảng cho học sinh, sinh viên, hay các vị Mã Giang Lân, Vũ Quần Phương, v.v.
Tập Nắng xuân, «sách chơi Xuân Đinh Sửu», 1937, là tập san, đứng tên Chủ biên Nguyễn Trọng Trí, 32 trang, có 2 bài thơ ký Hàn Mặc Tử, là Mùa xuân chín, tr. 4 và Thi sĩ Chàm, tr. 14, đề tặng Chế Bồng Hoan là… Chế Lan Viên !
Chuyện tình thôn Vỹ, tóm tắt như sau: Năm 1932 Hàn Mạc Tử 20 tuổi, vào làm Sở Đạc điền, Quy Nhơn, đơn phương yêu thầm một thiếu nữ tên Hoàng Thị Kim Cúc, thường được gọi tắt là Hoàng Cúc, thuộc gia đình gia thế ở cùng đường Khải Định. Yêu mơ mộng vậy thôi, chỉ có bày tỏ cùng một bạn thơ là Hoàng Tùng Ngâm, em họ cô Cúc. Sau đó Tử thôi việc vào Sài Gòn làm báo. Về lại Quy Nhơn, xuất bản tập Gái quê, 1936. Cuối năm, ra Huế tặng Gái quê cho các em cô Cúc nhưng không tặng cô – dường như cô không muốn nhận. Có đến nhà cô, ở Vỹ Dạ nhưng chỉ đứng ngoài vườn nhìn vào. Năm 1939, khi bệnh đã trở nặng, thì Hoàng Tùng Ngâm có mách chị. Bà chị cảm động, gửi một tấm bưu ảnh 4x6 cm tả phong cảnh Huế cổ điển: con đò, dòng sông, ánh sáng, khóm trúc. Phía sau có dòng chữ thăm hỏi và chúc sức khỏe, không ký tên, không đề ngày tháng, do cậu em chuyển đi. Sau đó, tháng 11.1939, cô nhận được, vẫn do cậu em chuyển lại, bài thơ chép tay dưới tựa đề chính xác: Ở đây thôn Vỹ Giạ. Câu chuyện đơn giản và đơn phương như vậy, không như người đời thêu dệt về sau: rằng Hàn Mạc Tử muốn tiến đến hôn nhân nhưng nhà gái chê «không xứng mặt đông sàng» (Quách Tấn, sđd, tr. 93). Rằng Kim Cúc đã gửi một «phiến ảnh 6x9, chị mặc áo dài lụa trắng, đứng trong vòm cây cây xanh mát» (Nguyễn Bá Tín, sđd, tr. 50). Hai tác giả là thân cận với thi nhân mà còn lệch lạc như thế, trách chi kẻ khác lắm điều thêu hoa dệt gấm. Bà Kim Cúc (1913-1989) là một cư sĩ Phật giáo, sống tại Huế, hy sinh trọn đời độc thân cho Phật sự và sự nghiệp giáo dục, qua đời tại Huế, sau một tai nạn lưu thông xảy ra tại Sài Gòn.
Tình sử Mộng Cầm, thì ít gây tranh luận hơn, và vì vậy cũng mơ hồ hơn. Tư liệu chủ yếu là bài phỏng vấn của Châu Hải Kỳ. Bà ấy cho biết: năm mười bảy tuổi, học lớp Nhất, đã làm thơ và có thơ đăng báo Công luận (1933), từ đó giao thiệp thư từ với Hàn Mạc Tử, đang làm Sở Đạc điền. Khi Hàn vào Sài Gòn làm báo, thì có tìm địa chỉ và đến thăm lúc bà đang học nữ hộ sinh tại Mũi Né, Phan thiết, khoảng tháng 4-1934. Và hai bên đi đến «giao du thân mật», khoảng hai năm, khi bà về Phan Thiết dạy học và mỗi cuối tuần nhà thơ đi tàu lửa từ Sài Gòn ra thăm chơi, có hôm đi thăm Lầu Ông Hoàng mắc mưa. Có lúc Hàn đề nghị đi đến hôn nhân, nhưng bà từ chối, theo bà vì biết Hàn Mạc Tử mắc bệnh hiểm nghèo, rồi lấy lý do tôn giáo bất đồng, bà còn cho biết : «đó là mối tình văn thơ, còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới»(16). Hai bên ngưng «giao du thân mật» (chữ của bà) vào giữa năm 1936, nhưng vẫn liên lạc đến cuối năm. Sáu tháng sau đó bà lấy chồng, và bị nhiều người trong giới văn chương chê trách: Quách Tấn, Trần thanh Mại… Và Bích Khê.
Bà tên Huỳnh Thị Nghệ (1917-2007), không phải họ Lê như trong một số tư liệu, cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu, nhưng Hàn MạcTử chỉ gặp và kết bạn với Bích Khê sau khi quen Mộng Cầm.
Cùng làm thơ như Mộng Cầm là Mai Đình, tên thật là Lê Thị Mai (1917-1997), sinh trưởng trong một gia đình công chức, gốc Thanh Hóa, định cư tại Phan Thiết; theo Võ Long Tê «làm nghề cô giáo nữ công ở các trường tư thục Sài Gòn Chợ Lớn, đồng lương có thể nói là gấp đôi gấp ba lương công chức trung cấp, do vậy mà thường thấy Mai Đình chạy vô chạy ra trục Sài Gòn Quy Nhơn» (17), hoàn toàn trái ngược với hình ảnh phổ biến, do Trần Thanh Mại đưa ra, một cô gái «đi giang hồ… Gió đời cứ đưa tấp nàng tới bến kia ghềnh nọ» (sđd, tr. 141). Họ Trần còn mô tả một «cốt chuyện ly kỳ làm sao! một nhà thơ phung với một cô gái đi giang hồ» (sđd, tr. 148). Cuốn sách nổi tiếng, đã kéo theo nhiều tác phẩm hư cấu, nào truyện, kịch, tuồng, cải lương. Sự thật là: bà Mai Đình đến thăm nhà thơ năm 1937; về sau trở lại dăm ba lần, có lần ở lại hai hôm, chứ không có chuyện «tuần trăng mật kéo dài đến hai tháng. Nàng đi chợ, nấu ăn, sắc thuốc, giặt quần áo cho nhà thi sĩ» (sđd, tr. 146-148) khiến gia đình nhà thơ đã quyết liệt cải chính(18). Thậm chí, nhiều lần, Trần Thanh Mại đã thẳng thừng xem bà như là gái giang hồ «ong qua bướm lại đã thừa xấu xa» (sđd, tr. 146).
Bà Mai Đình làm thơ hay, có gia đình ổn định, tham dự kháng chiến chống Pháp, lập nghiệp tại Hà Nội, làm ngân hàng; về sau dời vào TP Hồ Chí Minh, trong nhà vẫn có bàn thờ Hàn Mạc Tử.
Tình sử cuối cùng của Hàn là Thương Thương, sinh 1924, con gái Thượng thư Trần Thanh Đạt, nữ sinh Huế, một mối tình tưởng tượng, do bạn nhà thơ là Trần Thanh Địch, chú ruột cô gái bịa đặt để an ủi nhà thơ, khi ông đã bệnh nặng, năm 1939. Về chuyện này, tư liệu đã ghi đúng, trừ việc cô gái lúc ấy 15 tuổi, chứ không phải 12 như Trần Thanh Mại, cũng là chú ruột, đã viết (sđd, tr.184).
Cuộc tình tưởng tượng, qua thư từ này, và cái tên cô gái, đã tạo cảm hứng cho Hàn Mạc Tử, năm 1940 viết tập thơ, lúc đầu có tựa đề Thương Thương, sau đổi thành Cẩm châu duyên, gồm một vài bài thơ và 2 vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội, là tác phẩm dài cuối đời, phải bỏ dở theo lời gia đình cô gái yêu cầu ngưng sử dụng tên Thương Thương.
* Cuối cùng, về bệnh trạng Hàn Mạc Tử, cũng có đôi điều cần thống nhất.
Sau bốn năm ẩn lánh đó đây tại nhiều địa điểm ngoại vi thành phố Quy Nhơn, để chữa bệnh theo đông y, như Gò Bồi, Xóm Động, Thôn Tấn, có khi về nhà, cho đến cuối 1940 thì bệnh tình nguy kịch.
Ngày 8.9.1940 phải nhập viện Quy Nhơn là do quyết định của gia đình, chủ yếu là theo lời khuyên của người anh rể lả Bửu Dõng, y tá bệnh viện Quy Nhơn chứ không phải do chính quyền bắt ép, hay do có người chỉ điểm. Phòng thí nghiệm bệnh viện tìm ra vi trùng Hansen gây bệnh phong cùi, nên ngày 20.9.1940, Hàn Mạc Tử được chuyển vào Viện cùi Quy Hòa, do các dì phước dòng tu Phanxicô trông nom, dưới tên Nguyễn Trọng Trí, không ai biết là nhà thơ nổi tiếng; rồi qua đời vì bệnh kiết lỵ gia trọng, ngày 11.11.1940, lúc 05.45 giờ, chớ không phải 11 giờ trưa như Trần Thanh Mại đã ghi chắc nịch (sđd, tr. 258) khiến nhiều người, kể cả Quách Tấn nhầm theo.
Tìm hiểu sai lầm sơ đẳng này, thì nghe nhiều người giải thích: vì nhà thơ qua đời ngày 11 tháng 11, nên ghi giờ 11… cho có ý nghĩa (!!!)(19). Theo thông lệ của Viện, việc chôn cất được cử hành ngay buổi chiều ngày hôm đó.
Và bệnh nhân François Nguyễn Trọng Trí được mai táng tại nghĩa trang của Viện, chớ không phải lại Đèo Son như Chế Lan Viên đã ghi trong tiểu sử «Tuyển tập» đã dẫn.
Trong Nhà văn hiện đại tập 3, viết 1942, chương Hàn Mạc Tử, Vũ Ngọc Phan đã nhận định công minh và thực tế:
«Từ ngày Hàn Mặc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mặc Tử. Chứng bệnh của thi sĩ, cuộc đời đầy đau thương của thi sĩ, lời thơ thành thực của ông, khi nghẹn ngào, khi hoạt bát, nhưng bao giờ cũng chứa chan tình tứ hay một tin tưởng cao xa, đã làm cho nhiều người chú ý đến đời ông và thơ ông.
Song dư luận bao giờ cũng rất kỳ, đã chú ý đến người và đến thơ, thì dư luận gần như trộn lẫn người với thơ làm một. Cho nên nói một cách công bình, thì gần đây «người» của Hàn Mặc Tử đã làm quảng cáo cho thơ của Hàn MặcTử rất nhiều. Đến nỗi về ông, người ta đã viết một giọng say sưa, ông là một thi sĩ mà trên thế giới không một thi sĩ nào sánh kịp» (sđd, bản 1989, tr. 706).
«Người ta», trong câu cuối, ám chỉ Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử mà chúng tôi, trong bài này đã nhiều lần tham chiếu.
Nhận định của Vũ Ngọc Phan, từ thời điểm 1942 cho đến nay – tròn 70 năm – đã «cổ lai hy», nhưng vẫn chưa chịu già: cho đến nay «người ta» vẫn tiếp tục nói nhiều, viết nhiều, nhất là trên các mạng, «… trộn lẫn người với thơ làm một… Người đã làm quảng cáo cho thơ…» Không những nói hay viết, người ta còn dựng kịch, làm tuồng, phim ảnh, ca hát. Mộ phần nhà thơ trở thành nơi du lịch, thương mại náo nhiệt, hấp dẫn bằng giai thoại ly kỳ.
Nhưng có một việc tối thiểu, là tìm lại tập thơ Gái quê, bản gốc, tác phẩm duy nhất được in ấn, xuất bản năm 1936, sinh thời tác giả, thì không ai làm. Bắt đầu từ gia đình, đến thân bằng quyến thuộc trong làng văn chương hay giới sưu tập, có người có địa vị trọng vọng. Gì đến nỗi không tìm ra được một ấn phẩm đã xuất bản chưa lâu?
Chúng tôi ở ngoài nước, cũng vì tò mò thôi, tìm thử, cũng không công khó gì lắm, thì có được bản Gái quê in 1936; tuy chỉ bản đánh máy, nhưng sau khi đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu thì thấy chính xác, đầy đủ hơn những bản hiện lưu hành in theo bản chép tay của Chế Lan Viên từ 1987.
Niềm vui, có thể nói là cơ duyên, là tìm ra được tác phẩm nguyên gốc đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm sinh Hàn Mạc Tử. Do đó, nhân tiện, chúng tôi rà soát lại những tư liệu về nhà thơ, rải rác từ 70 năm nay. Nhân thấy lắm điều bất nhất, chúng tôi so sánh và tìm căn cứ hợp lý nhất đề xuất trong bài này.
Phần nào, chúng tôi cũng có học tập biên khảo của Giáo sư, nhà văn Pháp, Etiemble khi ông bỏ ra non một đời người để nghiên cứu «Huyền thoại Rimbaud» (Le Mythe de Rimbaud), một nhà thơ thiên tài người Pháp, đã có cuộc đời ly kỳ và ngắn ngủi (1854 - 1891).
Bộ «Huyền thoại» này gồm 5 tập, đặc biệt là cuốn 2: Sự hình thành của huyền thoại, hơn 500 trang, ấn hành năm 1954, kỷ niệm bách niên ngày sinh của Rimbaud, như chúng ta tưởng niệm Hàn Mạc Tử năm nay.
Dĩ nhiên là công việc chúng tôi hôm nay, vội vàng và hời hợt, chưa đáng là hạt bụi so với công trình đồ sộ và uyên bác của Etiemble; nhưng vẫn phải nói ra, tựa hồ giọt nước nhớ đầu nguồn.
Việc sưu khảo của chúng tôi chỉ giới hạn ở những tư liệu, sách báo may mắn có sẵn dưới tay, chốn tha hương, nên nhất định còn nhiều thiếu sót; phương tiện đối chiếu hạn chế, nên những đề xuất chưa chắc đã chính xác, cho nên tạm gọi bài này là những điểm tồn ghi.
Mong mai kia, ngày tiên tháng Phật rộng dài, thời gian sẽ có lời giải đáp thỏa đáng.
Orléans, Pháp, 02.8.2012
Đ.T.
(1) Vũ Ngọc Phan, NXB Tân Dân, 1942, Hà Nội, ấn bản Vĩnh Thịnh, tr 326, 1951, Hà Nội, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội in lại 1989, tr. 706
(2) Vũ Ngọc Phan 1989, nt, tr. 480
(3) Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, NXB Võ Doãn Mại, 1942. Tái bản nhiều lần.
(4) Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, 1942, in lại nhiều lần, bản 1967, tr. 203
(5) Nguyễn đình Niên, Kinh nghiệm về thân phận người làm thơ trong Hàn Mạc Tử (luận án cao học Sài Gòn 1973), tr 41, NXB SEACAEF, 2009, California.
(6) Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, tr 13, NXB Tin, 1990, Paris.
(7) Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm chân dung Hàn MạcTử, NXB Văn học, Hà Nội, 1997, tr. 60-61.
Phanxipăng trên báo Nghiên cứu và phát triển, số 6-2010.
(8) Nguyễn thị Như Lễ (chị ruột), báo Lành mạnh, Huế, ngày 1-11-1959. Nguyễn Bá Tín nhắc lại, sđd, tr. 17)
(9) Bùi Tuân, Một tình bạn thanh cao, tr 21, tủ sách Bùi Gia, 2010, TPHCM, đã đăng trên tạp chí Vinh Sơn, Huế, ngày 1.2.1952.
(10) Văn (tạp chí), số 179 ra ngày 1-6-1971, tr. 86, Sài Gòn
(11) H.Peras et VT Bích, Hàn MặcTử Le Hameau des Roseaux, NXB Arfuyen, 2001, Paris
(12) Chế Lan Viên, Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Tựa, tr. 18, NXB Văn học, 1987, Hà Nội.
(13) Phan Cự Đệ, Thơ văn Hàn Mạc Tử, tr. 108, NXB Giáo dục, 1993, Hà Nội.
(14) Tạp chí Văn, tr. 94 ; số 73 - 74, ngày 7-1-1967, Sài Gòn.
(15) Hà Minh Đức, Tổng tâp Văn học Việt Nam hiện đại tr. 41-45 ; NXB Hà Nội, 1998; Hà Nội
(16) Báo Văn số 179, đd, tr. 89-92. Đã đăng trước trên Phổ thông số 63, ngày 15-8-1961, Sài Gòn. In lại nhiều nơi.
(17) Trích theo Chế Lan Viên, tựa Tuyển tập Hàn MạcTử, tr. 21, NXB Văn Học, 1987, Hà Nội.
(18) Nguyễn Thị Như Lễ, Những điểm sai lầm về Hàn Mạc Tử, báo Lành mạnh, 1-11-1959. Huế. In lại nhiều nơi.
(19) Phạm Xuân Tuyển, sđd, tr. 153, Phạm Đình Khiêm và Võ Long Tê, Như hương trầm bay lên, tr. 173 và 179, NXB Tôn giáo, 2010. TPHCM.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 10:36:55 GMT 9
Hoàng Thị – ngày xưa, ngày nayPhanxipăng Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971, được nhiều ca sĩ lần lượt thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng. Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã xảy ra khá nực cười.  Thơ bay bằng cánh nhạc Phạm Thiên Thư có họ tên Phạm Kim Long, chào đời năm Canh Thìn 1940 tại Hải Phòng trong một gia đình Đông y mà cha gốc Thái Bình, mẹ gốc Bắc Ninh. Giai đoạn 1943 – 1951, Phạm Thiên Thư sống ở Hải Dương, rồi theo gia đình vào Nam, cư ngụ tại Sài Gòn từ năm 1954. Lớp đệ tam (tương đương lớp 10 hiện thời), Phạm Thiên Thư học trường Trung học tư thục Văn Lang ở khu Tân Định, quận 1, chung lớp với một nữ sinh gốc Hải Dương là Hoàng Thị Ngọ tuổi Nhâm Ngọ 1942. Phạm Thiên Thư kể: “Hoàng Thị Ngọ dáng người thanh mảnh, tóc thả ngang vai. Xếp hàng vào lớp, nàng đứng đầu hàng nữ, tôi đứng cuối hàng nam. Vào lớp, nàng ngồi bàn đầu, tôi ngồi bàn cuối. Ngọ học giỏi, còn tôi thì giỏi… đánh lộn. Thế mà tôi yêu nàng. Yêu đơn phương. Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân. Nhà Ngọ ở đường Trần Quang Khải. Mỗi lần tan trường, nàng ôm cặp đi bộ về nhà, tôi cứ lẽo đẽo theo sau.” Phạm Thiên Thư thi đỗ tú tài bán phần (1) rồi trở thành sinh viên phân khoa Phật học thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh (2). Từ năm 1964, Phạm Thiên Thư trở thành tu sĩ Phật giáo với pháp hiệu Thích Tuệ Không, trải qua các chùa Kỳ Quang(3), Từ Vân (4), Vạn Thọ(5). Mặc dầu ăn chay và khoác nâu sồng, những mỗi lần đi về khu Tân Định, Phạm Thiên Thư lại bâng khuâng luyến nhớ mối tình đơn phương thuở học trò. Xúc cảm, Phạm Thiên Thư sáng tác bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị, âu yếm gọi rõ tên nàng trong khung cảnh mây đỏ, cây đỏ, hoa đỏ, bụi đỏ:  Hoàng Thị Ngọ do Etcetera vẽ theo lời mô tả (3/8/05) Em tan trường về Cuối đường mây đỏ Anh tìm theo Ngọ Dáng lau lách buồn (…) Mười năm rồi Ngọ Tình cờ qua đây Cây xưa vẫn gầy Phơi nghiêng dáng đỏ  Phần đầu bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị trong thi tập Ngày xưa người tình của Phạm Thiên Thư (NXB Văn Chương, Sài Gòn, 1974). Phạm Thiên Thư cho biết: “Năm 1968, tôi ấn hành cuốn sách đầu tay Thơ Phạm Thiên Thư(6) với số lượng ít ỏi, chỉ 500 bản. Lúc đó, tôi là tu sĩ, ngại bất tiện nên chỉ in bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị theo dạng trích. Đến năm 1971, gặp nhạc sĩ Phạm Duy, tôi trao trọn vẹn bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị. Ít lâu sau, Phạm Duy phổ bài thơ này thành bài hát. Năm 1974, tôi in đầy đủ bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị trong thi tập Ngày xưa người tình (6).” Phạm Duy viết trong hồi ký Nhớ (NXB Trẻ, 2005): “Sự gặp gỡ của tôi với Phạm Thiên Thư – mà thi sĩ gọi là của một ngọn núi với một đám mây – là do hai chúng tôi vô tình cùng đi thăm một người quen đang nằm trong một bệnh viện. Gặp Phạm Thiên Thư ở đó, tôi yêu mến anh ngay. Sau đó, thi sĩ luôn luôn tới nhà tôi đàm đạo. Lúc bấy giờ, tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi. Đọc được bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị mà anh bạn trao cho, tôi như bắt được viên ngọc quý và xin phổ nhạc ngay.” Trong “nhạc tập 2” Đưa em tìm động hoa vàng (NXB Trẻ, 2006), trước ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, Phạm Duy ghi: “Sài Gòn 1971. Tôi gặp Phạm Thiên Thư vào lúc tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi. Tôi được vị tu sĩ vừa cởi áo nâu sồng đưa cho một bài thơ cũng nằm trong đề tài này để phổ nhạc, chỉ khác có một điểm là cô bé trong bài thơ không mang những cái tên diễm lệ như Tuyết Nhung hay Dạ Thảo, mà mang một cái tên rất bình dị là Ngọ, Hoàng Thị Ngọ. Tôi dùng một âm giai ngũ cung và một thể nhạc kể truyện để đưa ra tình khúc rất bụi đỏ đường mơ này.” Ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị được Phạm Duy soạn nhịp ¾, tiết tấu valse (7), âm giai chủ chuyển từ si thứ trưởng sang đô trưởng, tôn vinh kỷ niệm tình yêu học trò tương ứng mạch thơ của Phạm Thiên Thư. Thế nhưng, khi trở thành ca từ trong bài hát cùng nhan đề, lời thơ Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư đã được Phạm Duy linh hoạt chuyển biến khá nhiều về từ ngữ và bố cục. Với ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, thoạt tiên, Phạm Duy ghi: “Allegro” (8). E rằng thuật ngữ tiếng Ý kia chưa diễn tả đủ sắc thái cần thiết, nên nhạc sĩ chua nghĩa: “Nhanh mà buồn”. Sau này, nhạc sĩ chỉnh lý: “Kể chuyện”. Giữa năm 1971, nhạc phẩm Ngày xưa Hoàng Thị liền được in rời với bức ảnh Rừng thu của nhiếp ảnh gia Nguyễn Xuân Tính, rồi tái bản ngay với tranh màu nước tươi trẻ sinh động của hoạ sĩ ViVi (9). Năm 1974, Phạm Duy ấn hành tập nhạc Con đường tình chúng ta đi (NXB Gìn Vàng Giữ Ngọc) gồm 16 ca khúc, trong đó có Ngày xưa Hoàng Thị. Cũng từ năm 1971, qua làn sóng phát thanh và truyền hình, đồng thời qua băng từ, ca sĩ Thái Thanh ngân vang Ngày xưa Hoàng Thị. Sau đó, trên các nền hoà âm phối khí khác nhau, Ngày xưa Hoàng Thị được lần lượt thể hiện bởi bao chất giọng: Thái Hiền, Julie Quang, Thanh Lan, Hoạ Mi, Hương Lan, Quang Linh, Đức Tuấn, Quốc Đại, Nguyễn Hoàng Nam, Thái Hạnh Quyên, Thu Hiền, Thu Thuỷ, Mai Hương, Quỳnh Hương, Đoan Trang, Phương Vy, Kim Ánh, Khánh Linh, Thuỳ Dung, Mỹ Huyền, Thanh Ngọc, Thanh Thuý, v.v.  Phần đầu bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị, Phạm Duy phổ nhạc thơ của Phạm Thiên Thư. Tổng Phát Hành: Mỹ Hạnh, Saigon, 1971 Đừng đổi thay nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ! Tìm hiểu về nguyên mẫu nhân vật trong các tác phẩm văn nghệ (thơ, văn, nhạc, hoạ, múa, điêu khắc, nhiếp ảnh, điện ảnh, v.v.) là nhu cầu của đông đảo công chúng cùng các nhà nghiên cứu tự ngàn xưa đến mai sau. Tác phẩm càng nổi tiếng, nhu cầu đó càng cao. Bài hát phổ thơ Ngày xưa Hoàng Thị được phổ biến rộng khắp, trở thành “hiện tượng”, tất nhiên thiên hạ càng muốn biết nguyên mẫu người phụ nữ mang họ tên mộc mạc chân chất Hoàng Thị Ngọ. Tôi hỏi: - Hoàng Thị Ngọ đang ở đâu? – Nàng hiện định cư tại Hoa Kỳ, Phanxipăng ạ. Phạm Thiên Thư đáp thế, đoạn tiếp: “Báo chí miền Nam trước đây, gồm tờ Bách Khoa và tờ Sống, đã thực hiện đề tài: nhân vật chính trong Ngày xưa Hoàng Thị là ai? Hình như giai đoạn đó, đồng bào quá hoang mang vì chiến sự ác liệt nên ít đọc, hoặc đọc xong thì quên béng, bởi thế sau này mới xảy ra những ngộ nhận nực cười.” Hà Đình Nguyên ghi chép lời của Phạm Thiên Thư rồi đăng báo Thanh Niên 6-6-2011, sau đưa vào tập 1 Những bóng hồng trong thơ nhạc (NXB Thời Đại, 2011): “Sau khi bản nhạc ra đời, ca sĩ Thái Thanh là người hát đầu tiên. Không những thế, bài hát còn lan rộng trong quảng đại quần chúng, đi đâu cũng nghe người ta hát, nhất là trong giới sinh viên học sinh. Rồi có vài ba cô gái tự nhận mình là cô Ngọ trong Ngày xưa Hoàng Thị. Nổi đình nổi đám nhất là cô bạn gái của nhà thơ Du Tử Lê tên là Thảo nhưng nhất quyết “đòi” quyền làm… Hoàng Thị Ngọ, đến đỗi nhạc sĩ Phạm Duy phải đến gặp tôi để hỏi cho ra nhẽ.” Kỳ thực, Thảo chẳng phải tên thật, mà tắt hoá bút hiệu / bút danh: Hoàng Dược Thảo, chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Sài Gòn Nhỏ, toà soạn đặt tại California, Hoa Kỳ. Hoàng Dược Thảo có họ tên tiếng Việt là Huỳnh Thị Châu, họ tên tiếng Pháp là Brigitte Lauré Huỳnh. Năm 1971, tại Sài Gòn, học lớp đệ nhị (tương đương lớp 11 hiện thời); Châu lấy nhà thơ Du Tử Lê (10), rồi sinh 2 con. Năm 1975, Du Tử Lê sang Hoa Kỳ. Năm 1978, nhờ có quốc tịch Pháp, Châu đi Pháp rồi qua Hoa Kỳ. Ly dị Du Tử Lê năm 1980, sau đó Huỳnh Thị Châu mấy lần tái giá. Viết văn và làm báo, Huỳnh Thị Châu ký các bút danh Hoàng Dược Thảo, Đào Nương, Thuỵ Châu, Nghé Ngọ, v.v. [1) Năm 1971 mới học lớp đệ nhị (lớp 11 ngày nay) thì khó có thể là bạn cùng lớp với Phạm Thiên Thư (ông sinh năm 1940). 2) Nếu cô nữ sinh nhận là Ngọ mới học đệ nhị vào năm 1971 ắt là người lớn tuổi (đã 29) và học rất chậm vì Ngọ sinh năm 1942. 3) Hơn nữa, Phạm Thiên Thư trong tập thơ đầu tay năm 1968 đã trích thơ Ngày xưa Hoàng Thị (sáng tác trước khi ông đi tu năm 1964), thì cô nữ sinh đệ nhị năm 1971 mới là học trò lớp nhất (lớp 5) năm 1964 hẳn cũng không thể xếp hàng chung lớp với Phạm Thiên Thư để ông lấy hứng làm thơ mơ mòng con nít. - DCVOnline.] Dư luận gần xa vụt râm ran khi Hoàng Dược Thảo tuyên bố rằng bản thân mình chính là nguyên mẫu nhân vật Hoàng Thị Ngọ trong bài thơ lẫn bài hát Ngày xưa Hoàng Thị. Phản ứng với vụ việc này, tuần báo Việt (11) số 24 phát hành ngày 9-7-2005 tại California, Hoa Kỳ, đăng bức thư của thi sĩ Phạm Thiên Thư do nhạc sĩ Phạm Duy chuyển. Thư nọ cho biết: Hoàng Dược Thảo tức Huỳnh Thị Châu chẳng phải là Hoàng Thị Ngọ. Mọi chuyện tưởng đã hai năm rõ mười, ai ngờ vừa qua, tháng 3-2012, tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng do trường trung học phổ thông cùng tên ở Huế ấn hành dịp kỷ niệm 95 năm thành lập cơ sở giáo dục này có đăng bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang trình bày những suy tư quá ư sai lệch: “Không hiểu sao, cứ mỗi lần nghe Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư – Phạm Duy phổ nhạc), tôi cứ nghĩ hình như khúc thánh ca tình yêu tuổi học trò nầy là riêng dành cho Đồng Khánh, cho Huế và cho những Áo tà nguyệt bạch của một thời niệm khúc ngày xưa. Nhưng cũng không thể nghĩ khác hơn. (…) Và nữa, ngoài cái đường mưa nho nhỏ ướt rượt cả không gian Huế, lại còn Áo tà nguyệt bạch / Ôm nghiêng cặp sách / Vai nhỏ tóc dài... Chao ơi, ai cũng có thể ôm nghiêng cặp sách nhưng với style vai nhỏ tóc dài thì đó là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm thức Huế. (…) Rồi thì, sau cái vai gầy rất Đồng Khánh kia đó là dáng. Dáng Ngọ. Ngọ của Phạm Thiên Thư. Và Ngọ của Huế, của lau lách Vĩ Dạ buốt lạnh cả thơ Hàn trong một đêm trăng sông mộng mị. Anh đi tìm Ngọ / Dáng lau lách buồn / Tay nụ hoa thuôn / Vương bờ tóc suối. (…) Vâng, đường mưa nho nhỏ, áo tà nguyệt bạch, vai nhỏ, dáng gầy lau lách… là hình, là diện. Đồng Khánh nhất trong Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm là cái tình ơi, tình ơi. Đồng Khánh là vậy. Tan trường, biết có người theo sau vẫn Bước em thênh thang / Áo tà nguyệt bạch. Quá lắm là cả một lặng im với cái mím môi rất chi là Huế. Em tan trường về / Đường mưa nho nhỏ / Trao vội chùm hoa / Ép vào cuối vở / Thương ơi! Vạn thuở / Biết nói chi nguôi / Em mím môi cười / Anh mang nỗi nhớ. Biết làm sao được. Hoàng Thị là vậy. Muôn đời vẫn có một Đồng Khánh ẩn mình trong tâm hồn Huế để cho đời một thứ tình mà Hà Huyền Chi gọi là tình… nấp. (…) Chàng Tư Mã họ Phạm (mà không riêng gì họ Phạm) trước thứ tình nấp đó chỉ biết Anh đi theo hoài / Gót giày thầm lặng rồi Anh đi theo Ngọ / Dáng lau lách buồn. (…) Đến đây thì không thể nghi ngờ gì nữa, có một Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho Đồng Khánh.”(12)  Phạm Thiên Thư. Nhắc một bài hát quen thuộc, nhưng Bạch Lê Quang không dẫn ca từ mà dẫn thơ, trong khi hai khoản này có những khác biệt nhất định. Dẫu khác biệt, song nữ nhân vật duy nhất trong thơ lẫn ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị vẫn cùng một người là Hoàng Thị Ngọ. Oái ăm thay, với lối gán ghép cực kỳ khiên cưỡng và trá mị của Bạch Lê Quang, nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ gốc Hải Dương ở Sài Gòn bị biến thành nữ sinh trường Đồng Khánh có liên quan hoặc cư ngụ nơi thôn Vĩ, bây giờ là phường Vĩ Dạ, thành phố Huế. Mà sao lại làng Vĩ Dạ, chứ không phải làng Nguyệt Biều, bây giờ thuộc phường Thuỷ Biều, thành phố Huế, nổi tiếng với bao giai nhân dòng Hoàng Trọng, nhỉ? Cụm từ “cái vai gầy rất Đồng Khánh” thể hiện thói tật ba hoa một tấc đến trời. Vai nhỏ tóc dài há lẽ “là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm thức Huế”, chứ không thể mô tả phần nào vóc dáng nữ sinh của mọi trường trung học thuở trước lẫn bây giờ trên toàn đất nước Việt Nam ư? Còn Tình ơi! Tình ơi! (ghi đúng theo nguyên tác của Phạm Thiên Thư) chẳng chất chứa đặc điểm gì “Đồng Khánh nhất”, nếu gắn chặt với bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị chắc chắn phải “Văn Lang nhất”, bằng không thì bất kỳ nơi chốn nào trong cõi-người-ta cũng được. Tại quận 10, TP.HCM, đọc xong bài Ngày xưa Đồng Khánh, nhà thơ Phạm Thiên Thư bị “sốc toàn tập”. Không thể kìm nén nổi nỗi bất bình nên Phạm Thiên Thư nói lớn giữa quán cà phê Hoa Vàng: “Tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng ghi rõ rằng Bạch Lê Quang là giáo viên tổ trưởng tổ Văn trường trung học phổ thông Phan Đăng Lưu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thế thì đáng buồn thật! Chẳng rõ kiến thức đâu, tư duy đâu mà Bạch Lê Quang đổi trắng thay đen, tán rằng Hoàng Thị Ngọ là nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế, lại còn bốc rằng Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho trường Đồng Khánh, hả?” Đã đăng trên Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 790 (20-07-2012) Nguồn: Hoàng Thị – ngày xưa, ngày nay. Phanxipăng. Trang Chim Việt Cành Nam.  Chân dung Phanxipăng do hoạ sĩ Lưu Đức Dũng vẽ bằng sơn dầu dịp Tết Nuhâm Ngọ 2002 DCVOnline: Phanxipăng là bút danh của tác giả Trần Ngọc Tĩnh. Ông là tác giả viết nhiều thể loại: lịch sử, tín ngưỡng, văn học, ngôn ngữ, giáo dục, âm nhạc, sân khấu, và ông còn làm thơ, viết phóng sự. Phanxipăng có nhiều bài viết đăng ở trang Chim Việt Cành Nam. (1) Tú tài bán phần / tù tài đơn / tú tài I thi cuối lớp đệ nhị / lớp 11. Tú tài toàn phần / tú tài kép / tú tài II thi cuối lớp đệ nhất / lớp 12. Từ niên khoá 1971 – 1972, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành Nghị định 939GD/KHPC/HV/NĐ bãi bỏ tú tài bán phần tại miền Nam Việt Nam. (2) Là đại học tư thục đầu tiên tại Việt Nam, Viện Đại học Vạn Hạnh được Phật giáo đầu tư và hoạt động từ năm 1964 đến năm 1975 do tỉ khâu Thích Minh Châu làm Viện trưởng, tỉ khâu Thích Mãn Giác làm Viện phó. Mới thành lập, Viện Đại học Vạn Hạnh tạm đặt tại chùa Xá Lợi và chùa Pháp Hội; tới năm 1966 thì dời đến cơ sở biệt lập tại 222 đường Trương Minh Giảng, nay là đường Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM. Với chủ trương “duy tuệ thị nghiệp”, Viện Đại học Vạn Hạnh thuở ấy có các phân khoa: Phật học, Văn học và Khoa học nhân văn, Khoa học xã hội, Giáo dục, Khoa học ứng dụng. (3) Đây là chùa Kỳ Quang I, hiện có địa chỉ 22B Nguyễn Thị Huỳnh, P.8, Phú Nhuận. Trên địa bàn TP.HCM còn có chùa Kỳ Quang II tại 154/4A Lê Hoàng Phái, P.17, Gò Vấp; và chùa Kỳ Quang III tại 73 xa lộ Hà Nội, phường Thảo Điền, Q.2. (4) Chùa Từ Vân còn được gọi chùa Bà Đầm, chùa Lý Dương Sanh, được Lý Thị Ly sáng lập năm 1932. Chùa này hiện có địa chỉ 62 Phan Xích Long, P.1, Phú Nhuận, TP.HCM. (5) Nằm bên bờ kênh Nhiêu Lộc, chùa Vạn Thọ hiện có địa chỉ 212/158 Nguyễn Văn Nguyễn, phường Tân Định, Q.1, TP.HCM. Các vị hoà thượng trụ trì chùa này: Thích Huệ Nhựt giai đoạn 1942 – 1951, Thích Thiện Tường giai đoạn 1951 – 1966, Thích Bửu Tuyền giai đoạn 1966 – 1980, Thích Thanh Sơn từ năm 1980 đến nay. Chùa Vạn Thọ đang đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo Q.1 và cơ sở chữa trị bong gân, trặc khớp xương. (6) NXB Văn Chương, Sài Gòn. (7) Tiếng Pháp: valse. Tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch, Na Uy: vals. Tiếng Bồ Đào Nha, Latinh: valsa. Tiếng Ý: valzer. Tiếng Hà Lan: wals. Tiếng Anh: waltz. Tiếng Ba Lan: walc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ Walzen trong tiếng Đức cổ (tiếng Đức hiện đại ghi Walzer), nghĩa gốc là uốn, xoay, lướt đi. Tiếng Hoa: 圓舞曲 mà bính âm phát yuánwǔqǔ , âm Hán-Việt phát viên vũ khúc. (8) Theo Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng do Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thường, Đức Bằng hợp soạn (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1984) thì thuật ngữ tiếng Ý allegro mang nghĩa: “Nhanh, vui, sôi nổi”. (9) ViVi là một nghệ danh của hoạ sĩ Võ Hùng Kiệt, chào đời năm Ất Dậu 1945 tại Vĩnh Long, tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1968, vẽ bìa, vẽ truyện tranh cùng minh hoạ trên các tờ Tuổi Xanh, Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông, Bạn Trẻ, Tinh Thần, Trái Tim Đức Mẹ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Dân Chủ, Độc Lập, v.v., trình bày một số sách giáo khoa và vẽ tem bưu chính. (10) Du Tử Lê có họ tên Lê Cự Phách, chào đời năm Nhâm Ngọ 1942 tại tỉnh Hà Nam, di cư vào Nam năm 1954, từng làm thư ký toà soạn nguyệt san Tiền Phong, được trao giải Văn chương toàn quốc bộ môn thơ năm 1973, sang Hoa Kỳ năm 1975. Du Tử Lê có nhiều vợ. Với vợ kế Huỳnh Thị Châu / Thuỵ Châu, Du Tử Lê từng sáng tác các bài thơ Khúc Thuỵ Du (đã được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc cùng nhan đề), Khi trông thư Thuỵ Châu, v.v. (11) Việt Weekly. (12) Có thể đọc trọn bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang khi truy cập Ngày xưa Đồng Khánh. Bạch Lê Quang-tổ trưởng tổ Văn trường THPT Phan Đăng Lưu.12/04/2012.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 21, 2013 8:15:22 GMT 9
Thơ Hồ Xuân Hương Thu Tứ
Người thật nhưng việc không... Đâu phải chỉ dân gian mới... Hình dung một quá trình sáng tạo Một loại ca dao "nho gian"... * Người thật nhưng việc không... Thơ Hồ Xuân Hương dĩ nhiên độc đáo. Nhưng ai là tác giả?
Cho đến cuối thập kỷ 1950, đa số cho rằng chùm thơ ấy cơ bản là sáng tác của một nữ sĩ. Xuân Diệu từng viết Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ nôm.
Một trong những người bất đồng mạnh mẽ nhất với hướng nghĩ trên là Hoàng Xuân Hãn. Như đối với những đề tài khác, ông "khảo" chuyện này rất kỹ, rồi đưa ra kết luận: quả thực đã có một nữ sĩ tên Hồ Xuân Hương, nhưng bà không phải là tác giả chính của những bài thơ nổi tiếng kia. Nữ sĩ họ Hồ có thể đã góp vài bài, số còn lại là do "những người đàn ông đặt ra (...) rồi gán cho".(1)
Lời vừa dẫn của Hoàng Xuân Hãn phát biểu năm 1993, coi như lời chót của ông về một nghi vấn văn học. Năm 1999, Đào Thế Tôn in sách Hồ Xuân Hương - tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa, nội dung chủ yếu chia xẻ ý kiến của Hoàng Xuân Hãn.(2)
Đâu phải chỉ dân gian mới...
Hoàng Xuân Hãn đã đến rất gần sự thực.
... Thế vẫn còn đường để đi nữa hay sao?
Thiết nghĩ còn một chút đấy.
Học giả Hoàng bảo một số bài Hồ Xuân Hương phổ biến là "thơ dân gian hóa".(3)
E rằng không thể!
Bởi lẽ thơ Hồ Xuân Hương toàn làm theo luật Đường, là thứ luật thơ sau bao nhiêu thế kỷ rút cuộc vẫn chưa đi được nửa bước vào chốn dân gian Việt Nam.(4) Hoài Thanh từng nhận xét: "trong văn học dân gian không thấy có một bài thơ nào làm theo luật Đường".(5)
... Nhưng cái ý thơ Hồ Xuân Hương là thơ dân gian hóa, nó từ đâu ra?
Chắc từ cái nội dung "tục".
Thực ra, tục là một đặc điểm văn hóa Việt Nam bền đến mức sau bao nhiêu thế hệ theo Nho giáo kỵ tục, giới trí thức ở ta vẫn cứ thấy thoải mái với nó chẳng kém người bình dân là mấy. Trước Hồ Xuân Hương lâu lắm, ông Nghè Nguyễn Bá Lân đã làm bài phú Ngã Ba Hạc rất đậm đà mùi dân tộc rồi.
Tưởng không thể vì thơ Hồ Xuân Hương tục mà tự động gán nó cho dân.
Hình dung một quá trình sáng tạo
Đọc những kết quả nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn v.v., và đọc lại thơ nôm của các danh sĩ trong thế kỷ 19, thấy có thể hình dung chuyện xẩy ra đại khái như sau:
Trong nước Việt Nam, vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, có một người đàn bà biết chữ và có tài làm thơ. Người ấy rất đa tình, hay làm thơ tình, tính tình lại hết sức bạo dạn, khi còn trẻ có làm chơi mấy bài thơ phóng túng, dám đả động đến sinh hoạt tình dục...
Thứ văn chương cởi mở ấy, sau đó một số nho sĩ có sáng tác. Chẳng hạn Nguyễn Khuyến từng làm ít nhất bốn bài. Đọc những Gái Góa Than Lụt, Gái Rửa Bờ Sông, Cò Mổ Trai, Bỡn Cô Tiểu Ngủ Ngày ta nghĩ ngay đến thơ Hồ Xuân Hương. Nếu xưa ai đấy đã đem bỏ nhầm chúng vào với Bánh Trôi Nước, Đèo Ba Dội, Thiếu Nữ Ngủ Ngày, Sư Bị Ong Châm v.v., e nay chửa chắc có ai giành chúng lại được cho Tam Nguyên Yên Đổ!
Không ai bỏ nhầm được, là bởi Nguyễn Khuyến làm thơ rồi ký luôn tên mình chứ không như đa số nho sĩ khác vì ngại thành kiến của Nho giáo mà rủ nhau cứ hễ sáng tác loại thơ ấy xong là "ký giả" tên Hồ Xuân Hương!
Nữ sĩ họ Hồ vốn chỉ mấy bài, nhưng nhờ quần nho cùng xúm trút vào mà gánh thơ nàng dần hóa nặng!
Hoàng Xuân Hãn bảo tác giả thơ Hồ Xuân Hương cơ bản là "những người đàn ông".
Tưởng có thể nói rõ hơn: đó là một đám nho sĩ. Toàn nho sĩ thôi, vì người bình dân Việt Nam không làm thơ luật Đường.
Một loại ca dao "nho gian"...
Nho cùng nhau xây dựng sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương, xong nho lại cùng nhau thêu dệt một huyền thoại tiểu sử tác giả cho xứng với sự nghiệp!
Năm 1892 khi người Pháp Landes bỏ tiền ra thuê kẻ đi nhặt, chép thơ nôm, những người nào đó nhận làm việc ấy dĩ nhiên có nhớ đến thơ Hồ Xuân Hương vì cả tác phẩm lẫn huyền thoại tác giả bấy giờ trong rừng nho đã gây được nhiều chú ý lắm rồi. Người đi nhặt những thơ Bánh, thơ Mít, thơ Quạt v.v. được truyền tụng là của một nữ sĩ lừng danh ưa nghịch ngợm, chắc chắn họ đã nhặt từ mồm nho nọ nho kia chứ không phải từ miệng người bình dân đâu, vì người bình dân Việt Nam không nhớ thơ luật Đường, bất kể của ai.
Thơ Hồ Xuân Hương thực ra là tác phẩm khuyết danh. Và vì khuyết danh nên chắc chắn nó mang luôn cả tính tập thể: ai đó sáng kiến "nặn" ra Bánh Trôi Nước, rồi ai ai đó tự ý nặn lại theo ý mình v.v., y như cái lối ca dao sinh ra, lớn lên trong quần chúng!
Do hai đặc điểm ấy, có thể gọi đùa nó là một loại ca dao nho gian!
Ca dao dân gian gồm cả câu đố. Ca dao nho gian cũng hay đố.
Một đằng đố tục giảng thanh:
"Ba bà mà dạng chân ra, Một ông đứng giữa mà tra c. vào".
Một đằng đố thanh giảng tục:
"Chành ra ba góc da còn méo, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa".
____________ (1) Xem bài phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện đầu tháng 5-1993, đăng trên tạp chí Hợp Lưu, Mỹ, số 13, tháng 10&11-1993, in lại trong sách Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 2002, tr. 225-244.
(2) Nxb. Hội Nhà Văn, VN, 1999.
(3) Hoàng Xuân Hãn, Thiên tình sử Hồ Xuân Hương, nxb. Văn Học, VN, 1995, tr. 280. Tên sách này đặt không chính xác, vì sách gồm ba công trình nghiên cứu không có liên hệ gì với nhau: về Nguyễn Biểu, về Thái hậu Ỷ Lan và về Hồ Xuân Hương. Nhà xuất bản chọn đặt tên như thế hẳn vì xem phần viết về Hồ Xuân Hương là quan trọng nhất. Phần này vốn được công bố lần đầu trong tập san Khoa Học Xã Hội bên Pháp năm 1983.
(4) Xem bài Thơ Ta, Thơ Tàu (1) của TT.
(5) Hoài Thanh, Chuyện thơ, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1978, tr. 59.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 21, 2013 8:16:39 GMT 9
Thơ Hồ Xuân Hương Thu Tứ
Người thật nhưng việc không... Đâu phải chỉ dân gian mới... Hình dung một quá trình sáng tạo Một loại ca dao "nho gian"... * Người thật nhưng việc không... Thơ Hồ Xuân Hương dĩ nhiên độc đáo. Nhưng ai là tác giả?
Cho đến cuối thập kỷ 1950, đa số cho rằng chùm thơ ấy cơ bản là sáng tác của một nữ sĩ. Xuân Diệu từng viết Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ nôm.
Một trong những người bất đồng mạnh mẽ nhất với hướng nghĩ trên là Hoàng Xuân Hãn. Như đối với những đề tài khác, ông "khảo" chuyện này rất kỹ, rồi đưa ra kết luận: quả thực đã có một nữ sĩ tên Hồ Xuân Hương, nhưng bà không phải là tác giả chính của những bài thơ nổi tiếng kia. Nữ sĩ họ Hồ có thể đã góp vài bài, số còn lại là do "những người đàn ông đặt ra (...) rồi gán cho".(1)
Lời vừa dẫn của Hoàng Xuân Hãn phát biểu năm 1993, coi như lời chót của ông về một nghi vấn văn học. Năm 1999, Đào Thế Tôn in sách Hồ Xuân Hương - tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa, nội dung chủ yếu chia xẻ ý kiến của Hoàng Xuân Hãn.(2)
Đâu phải chỉ dân gian mới...
Hoàng Xuân Hãn đã đến rất gần sự thực.
... Thế vẫn còn đường để đi nữa hay sao?
Thiết nghĩ còn một chút đấy.
Học giả Hoàng bảo một số bài Hồ Xuân Hương phổ biến là "thơ dân gian hóa".(3)
E rằng không thể!
Bởi lẽ thơ Hồ Xuân Hương toàn làm theo luật Đường, là thứ luật thơ sau bao nhiêu thế kỷ rút cuộc vẫn chưa đi được nửa bước vào chốn dân gian Việt Nam.(4) Hoài Thanh từng nhận xét: "trong văn học dân gian không thấy có một bài thơ nào làm theo luật Đường".(5)
... Nhưng cái ý thơ Hồ Xuân Hương là thơ dân gian hóa, nó từ đâu ra?
Chắc từ cái nội dung "tục".
Thực ra, tục là một đặc điểm văn hóa Việt Nam bền đến mức sau bao nhiêu thế hệ theo Nho giáo kỵ tục, giới trí thức ở ta vẫn cứ thấy thoải mái với nó chẳng kém người bình dân là mấy. Trước Hồ Xuân Hương lâu lắm, ông Nghè Nguyễn Bá Lân đã làm bài phú Ngã Ba Hạc rất đậm đà mùi dân tộc rồi.
Tưởng không thể vì thơ Hồ Xuân Hương tục mà tự động gán nó cho dân.
Hình dung một quá trình sáng tạo
Đọc những kết quả nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn v.v., và đọc lại thơ nôm của các danh sĩ trong thế kỷ 19, thấy có thể hình dung chuyện xẩy ra đại khái như sau:
Trong nước Việt Nam, vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, có một người đàn bà biết chữ và có tài làm thơ. Người ấy rất đa tình, hay làm thơ tình, tính tình lại hết sức bạo dạn, khi còn trẻ có làm chơi mấy bài thơ phóng túng, dám đả động đến sinh hoạt tình dục...
Thứ văn chương cởi mở ấy, sau đó một số nho sĩ có sáng tác. Chẳng hạn Nguyễn Khuyến từng làm ít nhất bốn bài. Đọc những Gái Góa Than Lụt, Gái Rửa Bờ Sông, Cò Mổ Trai, Bỡn Cô Tiểu Ngủ Ngày ta nghĩ ngay đến thơ Hồ Xuân Hương. Nếu xưa ai đấy đã đem bỏ nhầm chúng vào với Bánh Trôi Nước, Đèo Ba Dội, Thiếu Nữ Ngủ Ngày, Sư Bị Ong Châm v.v., e nay chửa chắc có ai giành chúng lại được cho Tam Nguyên Yên Đổ!
Không ai bỏ nhầm được, là bởi Nguyễn Khuyến làm thơ rồi ký luôn tên mình chứ không như đa số nho sĩ khác vì ngại thành kiến của Nho giáo mà rủ nhau cứ hễ sáng tác loại thơ ấy xong là "ký giả" tên Hồ Xuân Hương!
Nữ sĩ họ Hồ vốn chỉ mấy bài, nhưng nhờ quần nho cùng xúm trút vào mà gánh thơ nàng dần hóa nặng!
Hoàng Xuân Hãn bảo tác giả thơ Hồ Xuân Hương cơ bản là "những người đàn ông".
Tưởng có thể nói rõ hơn: đó là một đám nho sĩ. Toàn nho sĩ thôi, vì người bình dân Việt Nam không làm thơ luật Đường.
Một loại ca dao "nho gian"...
Nho cùng nhau xây dựng sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương, xong nho lại cùng nhau thêu dệt một huyền thoại tiểu sử tác giả cho xứng với sự nghiệp!
Năm 1892 khi người Pháp Landes bỏ tiền ra thuê kẻ đi nhặt, chép thơ nôm, những người nào đó nhận làm việc ấy dĩ nhiên có nhớ đến thơ Hồ Xuân Hương vì cả tác phẩm lẫn huyền thoại tác giả bấy giờ trong rừng nho đã gây được nhiều chú ý lắm rồi. Người đi nhặt những thơ Bánh, thơ Mít, thơ Quạt v.v. được truyền tụng là của một nữ sĩ lừng danh ưa nghịch ngợm, chắc chắn họ đã nhặt từ mồm nho nọ nho kia chứ không phải từ miệng người bình dân đâu, vì người bình dân Việt Nam không nhớ thơ luật Đường, bất kể của ai.
Thơ Hồ Xuân Hương thực ra là tác phẩm khuyết danh. Và vì khuyết danh nên chắc chắn nó mang luôn cả tính tập thể: ai đó sáng kiến "nặn" ra Bánh Trôi Nước, rồi ai ai đó tự ý nặn lại theo ý mình v.v., y như cái lối ca dao sinh ra, lớn lên trong quần chúng!
Do hai đặc điểm ấy, có thể gọi đùa nó là một loại ca dao nho gian!
Ca dao dân gian gồm cả câu đố. Ca dao nho gian cũng hay đố.
Một đằng đố tục giảng thanh:
"Ba bà mà dạng chân ra, Một ông đứng giữa mà tra c. vào".
Một đằng đố thanh giảng tục:
"Chành ra ba góc da còn méo, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa".
____________ (1) Xem bài phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện đầu tháng 5-1993, đăng trên tạp chí Hợp Lưu, Mỹ, số 13, tháng 10&11-1993, in lại trong sách Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 2002, tr. 225-244.
(2) Nxb. Hội Nhà Văn, VN, 1999.
(3) Hoàng Xuân Hãn, Thiên tình sử Hồ Xuân Hương, nxb. Văn Học, VN, 1995, tr. 280. Tên sách này đặt không chính xác, vì sách gồm ba công trình nghiên cứu không có liên hệ gì với nhau: về Nguyễn Biểu, về Thái hậu Ỷ Lan và về Hồ Xuân Hương. Nhà xuất bản chọn đặt tên như thế hẳn vì xem phần viết về Hồ Xuân Hương là quan trọng nhất. Phần này vốn được công bố lần đầu trong tập san Khoa Học Xã Hội bên Pháp năm 1983.
(4) Xem bài Thơ Ta, Thơ Tàu (1) của TT.
(5) Hoài Thanh, Chuyện thơ, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1978, tr. 59.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 10, 2013 0:40:01 GMT 9
Nguyễn Ðăng Thục (1908-1999), Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam Viên Linh Ðầu Tháng Sáu, 1999, gió bão cấp 10 và 11 kéo vào thành phố Sài Gòn và các vùng lân cận với những trận mưa to gió lớn, thế nhưng tang lễ Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục, từ trần tại nhà riêng hôm mồng 2, đã diễn ra đông đảo, tôn kính chưa từng có. Một nhà báo miền Nam tường thuật rằng “những người tham dự đám tang ghi nhận, đây là đám tang chiếm kỷ lục người tiễn đưa với ‘một rừng tóc bạc,’ bởi người sinh viên học giáo sư tại Ðại Học Văn Khoa Hà Nội hồi 1950 lúc này đã giữa tuổi bảy mươi, là giáo sư đại học Nguyễn Trí Tài, và người trẻ nhất, khi Ðại Học Vạn Hạnh đóng cửa năm 1975, cũng khoảng năm mươi.” (1)  Nhà tư tưởng Nguyễn Ðăng Thục (1908-1999). (Nguồn: Từ điển Văn Học Thế Giới) Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục trước 1954 giảng dạy tại Ðại Học Văn Khoa Hà Nội, trước 1975 từng là khoa trưởng Văn Khoa Ðại Học Sài Gòn và khoa trưởng Nhân Văn Ðại Học Vạn Hạnh. Ông sinh năm 1908 tại làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh, hồi trung học là học sinh Albert Sarraut Hà Nội, năm 19 tuổi ông đi du học ở Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ, học ngành kỹ nghệ và khoa học tại L'Ecole Nationale des Arts, đậu kỹ sư hóa học. Trong thời gian ở ngoại quốc ông đã nghiêng về nhân văn và đạo học, theo các lớp Triết Văn tại Ðại Học Sorbonne ở Paris, cho nên khi về nước năm 1933, ông xuất bản tờ báo Tương Lai Thanh Niên bằng tiếng Pháp: L'Avenir de la Jeunesse. Ông cũng viết cho báo khác như tờ Le Travail (Lao Ðộng). Về sở học, ông là kỹ sư trông coi nhà máy dệt Nam Ðịnh. Người ta được biết cũng trong thời gian này, ông nghiên cứu Ðạo học Ðông phương. Tác phẩm sớm sủa nhất của ông là “Tinh thần Khoa học và Ðạo học,” cái nhan đề sách ấy cho thấy tác giả Nguyễn Ðăng Thục đã song hành tôi luyện sở học từ phương Tây và tâm hồn Việt Nam trong cuộc sống. Sau năm 1954 tại Sài Gòn, tờ tạp chí nổi tiếng nhất thời ấy, và giá trị còn tồn tại tới bây giờ, là Tạp chí Văn Hóa Á Châu do giáo sư chủ trì. Giáo sư cũng được mời làm trưởng tiểu ban Văn Hóa UNESCO Việt Nam. Thời gian kháng chiến bùng nổ, Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục trông coi công binh xưởng ở Liên Khu Ba (Thanh Hóa). Có lẽ với liên hệ này đã khiến ông quen biết một số nhân vật khác lý tưởng, và tương tự nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, ông có cảm tình phần nào với họ, nên đã bị liên hệ trong một vận động của Tả phái hồi giữa thập niên 60, và phải rời Ðại Học Văn Khoa một thời gian. Một mặt, hoạt đồng cùng lúc trong cả hai phần thực dụng và nghiên cứu, và trong cái rủi có cái may, Nguyễn Ðăng Thục dồn nhiều nỗ lực cho công việc trước tác, ông đã cho xuất bản những tác phẩm nghiên cứu vừa công phu, vừa theo các phương pháp chuẩn mực của Tây phương, để lại cho đời sau một kho tàng văn triết quan trọng, có thể kể: -Dân Tộc Tính (Văn Hóa Vụ, 1956), Triết Lý Văn Hóa Khái Luận (Văn Hóa Á Châu, 1956), Triết Học Ðông Phương Nhập Môn (Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1958), Văn Hóa Việt Nam và Ðông Nam Á (1961), Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, nhiều tập (1958-1964), và nhất là Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, in nhiều lần, nhiều tập, từ 1967 cho tới sau này. (2) Nội dung bộ sách này như thế nào? Trước khi nói đến Tư Tưởng Việt Nam, người đọc đã có thể thấy tác giả Nguyễn Ðăng Thục ngay từ tuổi ba mươi, đã tìm học Triết học và Tinh thần Phương Ðông như thế nào qua những tác phẩm của ông. Sau một thời gian trước tác khoảng hai mươi năm, ông nghiên cứu và viết về Dân Tộc Tính Việt Nam. Khoảng mười năm sau nữa, từ những gì đọc và tìm hiểu, tác giả Nguyễn Ðăng Thục đã hệ thống hóa các kiến thức và tài liệu, suy luận, đi đến hình thành một tập đại thành có căn bản: Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam. Nói ông là một học giả, một giáo sư, một khoa trưởng là cách nói quá sơ sài, và phiến diện. Người ta không gọi ông là một triết gia, có lẽ Nguyễn Ðăng Thục không bao giờ vận dụng tới ngôn ngữ một cách cầu kỳ, mà dùng những tiếng, những chữ giản tiện, để ai cũng có thể hiểu được. Ông không sáng tác ra những danh từ ghép nhiều hàm xúc kiểu Hán Việt, mà dùng những tiếng dung dị bình dân. Giống như trên văn đàn, một cây bút mới thường có tật tung ra những chữ những tiếng ngổn ngang góc cạnh, nghe tưởng tân kỳ, trong khi cũng thi sĩ ấy vài chục năm sau, nếu còn thấy trên văn đàn, đã dung dị hơn nhiều. Nhà tư tưởng Nguyễn Ðăng Thục ngay từ đầu đã là nhà tư tưởng, văn phong ông không nổi bật vẻ khai phóng, chỉ nổi bật vẻ quảng bá, không phải một đám khói, mà là một vầng mây. Ngay câu đầu của “Lời Mở Ðầu” năm 1963, tác giả Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam đã cho thấy thực trạng qua một câu hỏi của một vị “đại trí thức:” “Việt Nam cũng có tư tưởng ư?” Câu ấy được nêu lên đầu tiên trên đầu sách, cũng hàm ý rằng tác giả Nguyễn Ðăng Thục không nằm trong “giới đại trí thức đó.” Ông chỉ trả lời: “Ngớ ngẩn!” Những câu viết tiếp theo cho thấy những gì ông phơi bày trong sách đến từ cuộc sống, từ truyền thống, trong một “triết lý vĩnh cửu.” Triết lý vĩnh cửu không do một cá nhân nào đặt ra được, phát minh ra được. Triết lý vĩnh cửu đến từ truyền thống của một cõi nhân sinh. Sách ông viết cũng ít chú thích viện dẫn, nếu bộ “Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam” cũng viện dẫn chú thích dầy đặc, thì với 3000 trang sách, chỉ đọc chú thích viện dẫn cũng đủ đui mù. 1. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 1, dầy 484 trang. Tiêu đề chính: Ý thức Thần thoại và Triết học; Tiêu đề thứ hai: Hai nguồn gốc Tư tưởng Việt Nam. Các tiết mục: Văn minh Ðông Sơn, Văn minh Lạc Trường, Tư tưởng Bình Dân, Phật Giáo Bình Dân, Từ Vật Linh đến Tam Giáo. 2. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 2, 448 trang. Tiêu đề chính: Thời Bắc thuộc và thời Ðinh Lê (Từ thế kỷ II trước CN đến thế kỷ X). Bối cảnh Văn hóa Việt Nam trước thời Tần Hán. Ảnh hưởng Ấn Ðộ với Phật giáo Giao Chỉ. Thiền học Việt Nam với Văn hóa giao lưu. 3. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 3, dầy 360 trang. Thời Lý. Vạn Hạnh. Từ chùa Một Cột tới Thiền học Thảo Ðường. Ý thức Ðại Việt. 4. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 4, 600 trang. Tư tưởng Việt Nam thời Trần. Quốc học, tinh thần Quốc gia với Trần Thủ Ðộ. Trần Thái Tông với Quốc học. Trúc Lâm Yên Tử. Ðạo làm tướng với Binh pháp đời Trần. 5. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 5, dầy 270 trang. Tư tưởng Việt Nam thời Hồ. Nho Phật xung đột. Tư tưởng Pháp trị của Hồ Quí Ly. Nghĩa sĩ với Ý thức Dân tộc. 6. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 6, dầy 310 trang. Nguyễn Trãi và Khủng hoảng Ý thức hệ. Tam giáo trong Lâm Tuyền Kỳ Ngộ. 7. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 7, dầy 180 trang. Tư tưởng tổng hợp của Lê Quí Ðôn. Triết học biện chứng lý khí. Nhân sinh quan - Ðạo đức Chính trị học. Với 3,000 trang sách được viết trong nhiều năm, Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam trước hết là lịch sử truyền thống của dân tộc ta; cụ thể và thu nhỏ, đó là triết học nhân văn được sưu tập và phân tích, hệ thống hóa của nhà tư tưởng Nguyễn Ðăng Thục. Nhân ngày giỗ của vị giáo sư bậc thầy của ba phần tư thế kỷ môn sinh triết học Việt Nam, Nguyễn Ðăng Thục, người viết bài hôm nay xin được dùng những trang viết sơ khai này như ba nén nhang, thắp lên trong phòng sách, để kính cẩn tưởng niệm người. (12.6.2013) Chú thích: (1) Theo bài báo của phóng viên Cao Sơn, Việt Nam Mới, Seattle, June 1999. (2) Theo Từ Ðiển Văn Học, Ðỗ Ðức Hiểu chủ biên, Thế Giới, 2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 10, 2013 0:51:12 GMT 9
Thơ Việt, từ 4 chữ qua 3 câu Viên Linh Nói về thơ, nếu kể về số chữ, ta có thơ tứ tự, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, lục bát và song thất lục bát. Nếu kể về số câu, ta có tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, hay trường thiên, dài bao nhiêu câu cũng được.  Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1909-1971), người thành lập Trường thơ 2 chữ Bạch Nga. (Hình: Viên Linh cung cấp) Thơ tự do không kể mỗi câu bao nhiêu chữ, và mỗi bài bao nhiêu câu. Hồi tiền chiến, nhà thơ Nguyễn Vỹ làm một bài thơ mỗi dòng chỉ có 2 chữ, ông gọi là thơ Bạch Nga. (Sương rơi / Nặng trĩu / Trên cành / Dương liễu / Nhưng hơi / Gió bấc / Lạnh lùng / Hiu hắt / Thấm vào / Em ơi / Trong lòng/ Hạt sương / Thành một / Vết thương - Bài Sương Rơi.) Hồi trước 75, nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan (mất năm ngoái) xuất bản một thi phẩm nhỏ chỉ có lục bát, và mỗi bài chỉ có ba câu, gọi là “Lục bát ba câu” (hiểu một cách khác: bài thơ phải gói ghém ý tình trọn vẹn trong 20 chữ - tức là hai câu lục 12 chữ, và một câu bát 8 chữ) - một hạn chế tương tự thơ Haiku của Nhật: bài thơ phải trọn vẹn trong “ba câu tổng cộng 17 chữ,” nhưng tự do ở mỗi dòng: có dòng 3 chữ, có dòng 5 chữ, có dòng 7 chữ. Hơn ba mươi năm sau qua Mỹ thăm bằng hữu, khi hết hạn phải về, ông để lại một bài lục bát ba câu tức cảnh: Ma tru quỉ khóc trưa nay Ôm em nửa một vòng xoay lỏng lề Sài Gòn buồn mửa, đành về. (Nguyễn Tôn Nhan, Lá bùa số 7) Luật gia, nhà văn Mặc Ðỗ, một trong ba cột trụ của Nhóm Quan Ðiểm từ 1950 ở Hà Nội và hiện chỉ một tháng nữa sẽ bước vào tuổi 96 (ông sinh năm 1917), đã xuất bản một thi phẩm hoàn toàn viết bằng thể thơ Haiku, do Khởi Hành xuất bản năm 2002, ở bìa sau có bài sau đây: Tự nhiên thành núi băng Lục địa lạnh một ngày tách biệt Lênh đênh vào có không. (Mặc Ðỗ, haiku Ba Câu Ở Biển Ngoài) Nói về thơ, song nếu kể về vần điệu, thơ Việt có vần lưng và vần chân, tức là vần ở giữa câu và vần ở cuối câu, sách vở giáo khoa thường viết là “yêu vận và cước vận.” Ðiển hình nhất là thơ lục bát của ta, vần ở cuối câu 6 và vần ở giữa câu 8, như bài sau đây người thi sĩ có khuôn mặt hồng nhan đã làm trong lúc trí tưởng tràn đầy vẻ đẹp của danh ca Thanh Thúy, trong khi nàng đang hát: Từ em tiếng hát lên trời Tay xao dòng tóc tay mời âm thanh Sợi buồn chẻ xuống lòng anh Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau. (Hoàng Trúc Ly, Ca Sĩ I) Và một bài lục bát của người viết bài này, trong khi một ca sĩ khác đọc thơ: Bài thơ em đọc hôm nay Thực ra anh viết tự ngày hôm qua Câu trên làm ở trong nhà Còn câu dưới lúc đã ra ngoài đường. (Viên Linh, Mai Sau) Các loại thơ tứ tự, ngũ ngôn hay thất ngôn của Trung Hoa, vần phải gieo ở cuối câu, tức là cước vận. Không thấy Trung Hoa có vần ở giữa câu (ta còn gọi là vần eo) như lục bát của Việt Nam, và của Chàm. Cổ phong của Trung Hoa tự do hơn, là chỉ có vần mà không có niêm luật. Dưới đây là một vài đoạn thơ gieo vần ở cuối câu: Tứ tự (bốn chữ): Chi chi chành chành Cái đanh nổi lửa Con ngựa chết trương Ba vương ngũ đế. (Ðồng dao Việt Nam) Năm chữ: Giỏi thay Trần Bình Trọng Dòng dõi Lê Ðại Hành Ðánh giặc dư tài mạnh Ðền vua một tiết trinh. (Phan Kế Bính, Vịnh Trần Bình Trọng) Hai đoạn trên 4 chữ và 5 chữ, nhưng trong phương cách của Cổ phong, tức là chỉ cần âm điệu mà không cần bó buộc niêm luật chặt chẽ. Nếu làm thơ 4 chữ, 5 chữ cần niêm luật, có thể kể hai đoạn dưới đây. Thơ tứ tự rất ít người làm, có lẽ vì quá ngắn, đọc lên không thấy du dương, nên không thích hợp lắm với nhiều người. Bài bốn chữ theo thể “tứ tuyệt” hay bài năm chữ theo thể “ngũ ngôn tuyệt cú” thì trong 4 câu, câu thứ 3 vần trắc, ba câu còn lại phải vần bằng, cùng một vần: Mùa xuân qua đây Chiều trên phố này Em về với nắng Thương tà áo bay. (Kim Tuấn, Mùa xuân qua đây) Em hát trong rừng sao Tôi ngủ dưới cội đào Chợt mùa đông tuyết phủ Biết tìm em phương nào? (Trần Tuấn Kiệt, Hát thầm) Làm thơ cho đúng niêm luật hẳn nhiên là khó, ít ra là khó hơn loại thơ phóng bút. Nhưng khó mà hay cũng hẳn nhiên là tốt hơn dễ mà chỉ đọc tạm được. Làm thơ được xuất bản bởi những nhà xuất bản danh tiếng, cũng khó hơn là tự biên tự diễn tự xuất bản. Thời tiền chiến Việt Nam có những nhà xuất bản giá trị như Tân Việt, in sách của Trần Trọng Kim, Ðào Duy Anh, còn văn nghệ hơn thì có nhà xuất bản Tân Dân, Ðời Nay, in sách của những Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, hay Yễm Yễm (đọc là Diễm Diễm) Thư Trang, in sách của Ðông Hồ ở trong Nam. Miền Nam sau 1954 có các nhà xuất bản Tự Do, Nguyễn Ðình Vượng, Nam Chi Tùng Thư, Cảo Thơm, hay của các tạp chí có tiếng như Văn, Sáng Tạo, Văn Nghệ hay vài nhà có định hướng tôn giáo như Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao... Ở hải ngoại chưa thấy một nhà xuất bản có tầm vóc, có chủ trương định hướng, và có bản sắc nghệ thuật đặc thù xuất bản thơ. Sách do tác giả tự in đa số là đáng khuyến khích, song cần chọn lựa kỹ. Qua thể thơ Bảy chữ, cũng có nhiều loại: từ “thất ngôn tứ tuyệt” - nghĩa là cả bài chỉ có 4 câu, tới thất ngôn trường thiên thường gọi là “Bài hành.” Bài hành Việt Nam không nhiều lắm, có tính chất phức tạp và đặc thù mà không giản dị chỉ là thơ bảy chữ, có dịp sẽ nói đến sau. Xin mời đọc một bài bảy chữ đặc sắc của thi ca Việt Nam: Phật rằng: trong lửa có hoa sen Lửa mách người: trong nước có tiên Nước réo: trong cây đều có quỷ Làm yêu làm quái để tìm quên. Lời yêu: quên được đã quên rồi! Thánh vẫn than trong Vàng đấy thôi. Uổng có miệng thêu lòng nở gấm Dao vung lên cũng đứt làm đôi. Còn trong đất chẳng có gì sao? Nghe hỏi, cây trên bến nghẹn ngào Cuội chợt khóc vang, người chợt tỉnh: Có mầm đau rắc tự trời cao! (Vũ Hoàng Chương, Có gì ở trong, 1973) [VL, bài viết tối 27 tháng 11, 2012) 10.1966: Ðêm đọc thơ tự do tại Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn Viên Linh Làm sao mang thơ tới được đám đông, làm sao đánh tan trong văn chương chúng ta cái cảm hoài sướt mướt, làm sao phá vỡ không khí thơ như sản phẩm của sênh phách, trong khi thơ là ngôn ngữ của tinh thần?  Ðêm đọc thơ chủ đề “Chiến tranh và tình yêu” Chủ Nhật, 9 tháng 10, 1966 tại sân Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, theo chiều kim đồng hồ: nghệ sĩ và các nhà thơ Hoàng Thư, Trần Dạ Từ, Viên Linh, Ðỗ Quí Toàn (ngậm ống vố), Nhã Ca, Kim Ninh, Thanh Thoại, Tú Kếu và Trần Tuấn Kiệt. Ảnh bìa của Tạp chí Nghệ Thuật. Chủ Nhật, 9 tháng 10, 1966: Từ 8 giờ tới 10 giờ 30 tối, một số những người làm thơ trẻ ở Sài Gòn đã mang thơ lên sân khấu, mang thơ ra đám đông, và hẳn nhiên những gì gọi là “thơ bây giờ” phải là thơ tự do. Rất vội vàng, một bục gỗ đã được dựng lên tại trụ sở CPS (Chương trình Phát triển Sinh hoạt Học đường), đặt tại phía sau trường Ðại Học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực. Cũng rất vội vàng, đề tài, cho tới phút chót mới tạm gọi là phác họa xong: Ðêm thơ chiến tranh và tình yêu. Hồi 13 giờ trưa, mọi sự chưa đâu vào đâu, những người quyết định góp mặt trong đêm đọc thơ đầu tiên này đã quyết định cứ làm. Có Tú Kếu, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Ðỗ Quí Toàn và tôi. Các nghệ sĩ trình diễn có Hoàng Thư, Thanh Thoại, Tuyết Hằng, Ðỗ Kim Ninh. Thanh Thoại đệm dương cầm - (chiếc dương cầm vào lúc sau đã chết - theo các anh Ðỗ Ngọc Yến, Lê Ðình Ðiểu, Phan Văn Phùng trong CPS thì dường như phải thuê nó cơ đấy). Trong ban tổ chức cũng còn có Ðằng Giao, tổng thư ký tòa soạn nhật báo Sống, anh Hà Tường Cát, trưởng quản trị CPS, hai phó nhòm và máy chụp tối tân. Buổi đọc thơ, dù được loan tin trên báo Sống và đài phát thanh quốc gia, tưởng cũng làng nhàng thôi, vì không kịp phổ biến rộng. Nhưng 800 tờ chương trình tại cửa vào đã được phát hết. Khi đêm đọc thơ bắt đầu, ngó qua 4 khung cửa sổ của phòng trình diễn ở giữa khu đất trống còn thấy chen chúc những người là người, người nghe, người hâm mộ thi ca nghệ thuật. Ðứng trên bục gỗ ngó xuống, thấy những khuôn mặt thanh niên cởi mở, những vừng trán phẳng phiu, những con mắt chăm chú tươi cười, hầu hết là sinh viên học sinh. Có cả các chị, những người nếu chỉ gặp thoáng qua tưởng là cánh bướm màu hay bông hoa tươi, nhưng đã ngồi đó, ngồi xuống nền gạch, chen chúc nhau, vây thành vòng, nhiều vòng quanh bục gỗ ở giữa, và không phải là bướm màu hay hoa tươi mà thôi, còn là hoa penseé đấy. Ðầu tiên là Hoàng Thư, người nghệ sĩ 40 tuổi còn đùa giỡn, bước lên bục gỗ, trước micro và ngọn đèn lồng màu đỏ; anh trình bày một bài thơ của Tú Kếu Trần Ðức Uyển. Sau đến Trần Dạ Từ trình bày một bài thơ của Ðỗ Quí Toàn. Bài thơ làm cho một người xa quê hương, không hiểu nổi nơi này sáng ăn điểm tâm nghe súng nổ, trưa ăn cơm nghe tin người chết, tối đi ngủ nghe nhạc hoài tình. Ngâm xong, tiếng vỗ ta rào rào như sóng (chữ của Trần Thanh Hiệp đấy). Rồi lại có tiếng vỗ tay nổi lên. Xướng ngôn viên vừa giới thiệu có các nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa và nhạc sĩ Phạm Ðình Chương vừa tới. Trần Dạ Từ nói, và nói, và đọc thơ nữa: “Em có vú vê mông miếc, anh có tí tiền còm, đi cùng chuyến xe ngựa 3 đồng 5 cây số. Và con ngựa có chiếc bọng đái. Tiếng vỗ tay, tiếng la, tiếng cười. Anh, ngoài tí tiền còm, còn có bổn phận và có Tổ quốc nữa.” Sau đến Trần Tuấn Kiệt: “Tôi chỉ làm thơ thái hòa thôi, vậy trong đêm thơ chiến tranh và tình yêu này, tôi chỉ nói tới cái thái hòa trong chiến tranh với các bạn thôi.” Cười ồ. Ra ngoài chủ đề đấy, nhưng thi sĩ cứ ngâm. Ðại khái có chú mục tử cưỡi trâu ngoài đồng ngước nhìn trăng sáng. Thưa hết. Cười ồ. Thơ gì mà dài quá thế, có những 3 câu thôi. Micro gọi tên Viên Linh. Tôi lách đám đông đến gần bục gỗ. Chương trình là thơ chiến tranh và tình yêu, thơ chiến tranh chưa hết đã gọi thơ tình yêu... Ðến phần ái tình rồi, lên đi. Thế thì được. Tôi không thuộc thơ mình, phải cầm cả tờ báo Nghệ Thuật. Vừa trình bày vừa ngó nhìn xuống mấy trăm người nghe ngồi san sát vòng quanh. Thấy thân mật và tin tưởng, ấm áp. Ðọc loàng xoàng, thế mà cũng được vỗ tay. Còn Nhã Ca ở nhà thì la lớn lắm, ra trước micro lại nói yểu điệu thấy ghê: “Tôi nói tiếng Huế, tôi không đọc thơ được. Tôi ra trình diện vậy thôi.” “Tú Kếu đồ mặt mẹt! Tú Kếu thằng nói khoác! Tú Kếu đồ nịnh bợ. Tú Kếu đồ luồn cúi an thân! Tú Kếu cút cha mày ra khỏi đất nước này!” Ðó là một đoạn thơ của tác giả Thơ Chua chính anh đọc, được anh em hợp tấu. Anh chửi mình để chửi người. Thơ Chua mới vừa nghe đã thấy nể rồi. Ðọc thơ khác ngâm thơ là như thế. Ðiều ghi nhận rõ rệt nhất trong tôi khi ra về là tuổi trẻ chúng ta cần phải gặp nhau nhiều lắm. Họp nhau trong hội trường, chúng ta nói, nghe, và nghe, nói. Có nhiều điều phải nói, phải nghe. Riêng với một người làm thơ, tôi nghĩ rằng “Ðêm thơ chiến tranh và tình yêu” là một thành công ngoài điều mong ước. Các anh các chị sinh viên học sinh, với con số hơn 800 người, vừa ngồi chật trong phòng triển lãm tranh, vừa đứng kín trước 4 cửa sổ mở ra bốn mặt, vừa đi lại rải rác trong khu đất trống của Ðại Học Văn khoa, là một khích lệ cho thơ hôm nay. Thơ hôm nay đã đến với đám đông, điều ấy cho thấy làm thơ lúc này, về chúng ta, về cuộc sống gần và cuộc sống sâu, hoạt cảnh xã hội và trí tuệ tuổi trẻ, đã được khẳng định như một con đường chắc chắn phải đi tới mạnh hơn nữa. (VL, Nghệ Thuật tháng 10, 1966)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 10, 2013 0:55:08 GMT 9
Tô Thùy Yên, thi sĩ lớn của Nhóm Sáng Tạo Viên Linh  Ngày đầu tuần trong giờ làm việc, nhà văn Ngô Thế Vinh từ một bệnh viện ở Long Beach gọi điện thoại cho người viết bài này, nói chuyện về người thứ tư còn sót lại của nhóm Sáng Tạo, đó là nhà thơ Tô Thùy Yên. Một cảnh trong Ðêm Thơ Tô Thùy Yên do Trầm Tử Thiêng, Viên Linh và Lâm Tường Dũ tổ chức tại Quận Cam vào Tháng Giêng năm 1994, một thời gian ngắn sau khi thi sĩ tới Hoa Kỳ. Mai Thảo đang giới thiệu Tô Thùy Yên trên diễn đàn. (Hình tài liệu của Viên Linh) Trong câu chuyện, tác giả Mặt Trận ở Sài Gòn và Vòng Ðai Xanh, giải Văn Chương Toàn Quốc VNCH, 1971, tin rằng Nhóm Sáng Tạo còn nhiều người vẫn đang hoạt động, chứ không phải chỉ có “ba người còn sót lại” như một tờ báo vừa mới loan tin sai. Tôi lưu ý anh rằng lớp viết báo, làm báo hiện nay còn trẻ, không có bao người đọc văn chương Việt thời trước 75, còn những người trong văn giới thời đó nay đã nhiều tuổi, trí nhớ đã ngắn đi, nếu họ có đọc Sáng Tạo, bên cạnh nhiều người mặc dù xuất hiện từ trước 75, nhưng chưa bao giờ viết Sáng Tạo, vì khi họ đặt được bước chân đầu tiên lên bến văn chương, thì con tầu Sáng Tạo đã rời ga từ năm bảy năm trước. Nhân thể, tôi cho người bạn biết: số chót của Sáng Tạo ra vào năm 1961, và Tô Thùy Yên có mặt ngay trên Sáng Tạo vào cuối năm 1956, và đăng thơ liên tục trên tờ tạp chí văn học đó. Trong tòa soạn của chúng tôi có khoảng 10 số Sáng Tạo, số nào cũng có thơ Tô Thùy Yên. Tô Thùy Yên là thi sĩ nòng cốt của Phong trào Thơ Tự Do của miền Nam, và là thi sĩ lớn của Nhóm Sáng Tạo. Tôi chỉ có khoảng 15 bài thơ đăng trên Sáng Tạo, song Tô Thùy Yên có nhiều gấp đôi. Hai bài thơ có tính tuyên ngôn của anh là bài Tôi Lên Tiếng (số 8) và bài Tôi (số 11). Tôi Lên Tiếng Tôi gật đầu trước mặt ái tình Như một loài cỏ ngoan vâng lời gió dạy Kìa máu chảy ngoài đường* Kìa máu chảy Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan Nhân loại ngây thơ đời đời chịu tội Sắt đỏ cày nhăn trán mịn màng Lúa đầy đồng người thiếu gạo ăn Chúng nó đòi thủ tiêu thi sĩ Tôi là thi sĩ tôi yêu Chúng ta góp tay đẩy đời đi tròn Hỡi những người chỉ dám khóc trong giấc mơ Tôi đáp lời bình minh tuổi trẻ Ðược nhìn mặt trời sung sướng thay... (Tô Thùy Yên, Sáng Tạo số 8, 5.1957 *Thi sĩ có ghi chú một câu thơ của Pablo Neruda nhân nhắc đến “máu chảy ngoài đường.”) Tôi Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ là người chép sử tương lai Vốn học hành dang dở nên ra đứng bờ cuộc đời ngó xuống hư vô ... Có sống ngoài chiến khu nên rồi bỏ Việt Minh Ðến ngợi ca cuộc đời xứ sở anh em ái tình thịnh trị Và chỉ cất lời ngợi ca cho kẻ sành điệu muốn nghe. (TTY, Sáng Tạo số 11 - tháng 8, 1957) Bộ Biên Tập Sáng Tạo có ghi tên Tô Thùy Yên, bên cạnh bảy người khác, theo thứ tự abc: Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp. Anh có mặt trong các cuộc Thảo Luận Bàn Tròn quan trọng của Nhóm: Thảo luận về “Nhân vật trong tiểu thuyết,” tháng 7, 1960; “Nói chuyện về Thơ Bây Giờ,” tháng 8, 1960; “Ngôn ngữ mới trong hội họa,” và sau cùng: “Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam.” Trong cuộc thảo luận về Thơ, Tô Thùy Yên xác định: “Thơ biến cái thật thành không thật... Bất cứ nhà thơ nào cũng sử dụng và đồng thời chối nhận ngôn ngữ. Sự mới mẻ độc đáo trong thơ trái với các bộ môn khác trong văn chương là không nằm trong đề tài (đề tài trong thơ thường khi rất thông thường và được coi như hằng cửu).” Tô Thùy Yên còn là một trường hợp đặc biệt trong Văn học Miền Nam: mặc dù có thơ đăng báo trước tuổi hai mươi nhưng anh chưa có thi phẩm, hay bất cứ một cuốn sách nào, được xuất bản trước 1975, tuy vậy, anh được coi là một tác giả, một nhà thơ quan trọng của Văn chương Miền Nam. (Anh là người Nam duy nhất trong Nhóm Sáng Tạo.) Thi phẩm đầu tay của anh được in ở hải ngoại, và do nhà xuất bản “edition lmn” (không viết hoa - là chữ đầu của ba người họ Lê, họ Mai và họ Nguyễn) in ở Ðức năm 1994. Lmn đặt trụ sở ở Bonn, vì người chủ chốt là anh Mai Vi Phúc, thuộc Nhà Việt Nam ở Frankfurt. Năm đó nhân dịp Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại mang một phái đoàn tới 9 người đi dự Ðại Hội Văn Bút Quốc Tế ở Prague, Tiếp Khắc, tôi đề nghị với Nhà Việt Nam, và được anh em đồng ý, là in 5 thi phẩm mỗi cuốn khoảng 150 trang, cho 5 thành viên chính trong đoàn, để cùng ra mắt ở Bonn, ở Frankfurt, ở Ðông Berlin và nói chuyện Thơ Miền Nam với người Việt ở Ðông Âu. Không những họ trả cho các thi sĩ bản quyền tập thơ, mỗi người còn được một vé máy bay khứ hồi Hoa Kỳ-Prague sau đó qua Ðức, Pháp, khoảng tháng 11 năm đó. Ðó là Nguyễn Sỹ Tế với Tiếng Hát Gia Trung, Cung Tầm Tưởng với Lời Viết Hai Tay, Viên Linh với Hóa Thân, Mai Vi Phúc với Viết Từ Phương Ðông và Tô Thùy Yên với Tuyển Tập Thơ. Nhưng giờ chót, Tô Thùy Yên đã không có mặt trong phái đoàn, tuy rằng tập thơ của anh vẫn được phát hành ở Ðức. Lúc ấy anh mới rời Sài Gòn sau nhiều năm bị cộng sản cầm tù trong các trại tập trung, chưa kịp có thẻ xanh, hoặc mới có thẻ xanh song không thể đi phó hội quốc tế trong tình trạng còn nhiều khó khăn. Cả các anh Nguyễn Sỹ Tế, Cung Trầm Tưởng cũng chỉ mới có thẻ xanh. Anh Tế còn ở tù lâu nhất, khoảng 13 năm, dù chỉ là một nhà giáo, không từng phục vụ trong quân đội như hai anh Tưởng và Yên. Chúng tôi đã phải nhờ văn phòng Dân Biểu Dornan (Cộng Hòa, Calif.) can thiệp với Sở Di Trú bằng điện thoại, nên hai anh xuất ngoại được, riêng anh Yên trục trặc, mặc dù anh cũng ở Minnesota như anh Tưởng. Tập thơ của anh được anh in ở Hoa Kỳ sau đó có nhan đề hơi khác là Thơ Tuyển, dày tới 224 trang. Trong tập này có những bài tuyệt tác: Chiều Trên Phá Tam Giang, Ta Về, Trường Sa Hành. Trước khi mang cấp bậc thiếu tá ở Sài gòn, Yên đã đóng quân ở đó: Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng! Thăm thẳm sầu vây trăng bốn bề. Lính thú mươi người lạ sóng nước, Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi. Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi Khiến cả lòng ta cũng rách tưa. Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn Mà Hiu Quạnh lớn cũng làm ngơ... Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế. Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi? Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời. Tô Thùy Yên sẽ còn sót lại, có thể là sót lại tới giây phút cuối cùng của Nhóm Sáng Tạo. Thơ anh trổi bật, lóng lánh kim cương, sắc cạnh va chạm, chữ nghĩa như lân tinh nhấp nháy trong đêm giông bão khiến thế giới bên kia có thể tưởng là tín hiệu từ trần thế, hay phía sau cả trần thế, gửi cho họ. Có lẽ họ nghĩ đúng, Tô Thùy Yên thi sĩ đã gửi những tín hiệu ấy từ hơn nửa thế kỷ rồi, và rất nhiều người ở hải ngoại không nhận được. Người trần gian có thể ở xa trái đất hơn là những kẻ ở hành tinh khác. (VL-1.2013)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 10, 2013 0:58:18 GMT 9
Bằng hữu cuối trời: Thi sĩ Trần Tuấn Kiệt Viên Linh Cứ mỗi cuối năm, người làm báo chuyên ngành của miền Nam cũ thường phải làm một công việc tuy là ước lệ, mà phải có, đó là “tính sổ một năm qua.” Làng báo Sài Gòn có những tờ riêng về ca kịch sân khấu cải lương, tân nhạc điện ảnh, văn học nghệ thuật, ký gia nào phụ trách bộ môn của mình, thường phải có một bài “tổng kết sinh hoạt sân khấu năm qua,” “tổng kết sinh hoạt ca nhạc năm qua,” hay như người viết bài này, phải có bài “tổng kết sinh hoạt văn học nghệ thuật năm qua.” Ở hải ngoại dường như không có may tờ báo làm việc ấy, vì sinh hoạt không thu vào một thủ đô, mà tản mạn năm châu bốn biển, không thể nào và không một ai có thể tổng kết một cách chi tiết được; song tự dưng, tôi vẫn thấy phải viết một bài gì đó, có tính niên lịch như thế này. Tự nhiên tôi thấy can phải bắt đầu từ số này bài tổng kết thứ nhất, có tính hoài cổ và hoài cảm: Bằng hữu cuối trời, năm hết Tết đến, ai còn ai mất?  Trần Tuấn Kiệt, thi sĩ của miền Nam. (Hình: Trần Cao Lĩnh) Ở cuối trời, ngay khi đặt ra câu hỏi ấy, hình bóng người thi sĩ tài danh nhất của miền Nam hiện lên: nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc Việt Nam Cộng Hòa, bộ môn Thơ, năm nay ít thấy viết, nhưng vẫn viết, và một trong những bài gần nhất của anh là “Lục bát, thể thơ quí phái của Việt Nam.” Tôi mường tượng thấy anh ngửa mặt lên trời mà cười, tiếng cười sảng khoái của một ngòi bút thiên nhiên, một tinh thần thơ bát ngát, một bập bềnh sông Tiền sông Hậu, một bao la Tân Qui, Bảy Núi, một mình một trường phái thổ ngơi Nam kỳ Lục tỉnh mặc cho xung quanh ồn ào và xách mé những bộ điệu canh tân kệch cỡm của tự do nửa mùa, của thơ mới quá cũ. Xin hãy nghe thơ của danh sĩ: Em hát trong rừng sao Tôi ngủ dưới cội đào Chợt mùa đông tuyết phủ Biết tìm em phương nào? (Trần Tuấn Kiệt, Hát Thầm) Em đi trong bão Em lượm lúa đồng Khúc ca đồng nội Xa vút hư không (Trần Tuấn Kiệt, Vợ) Lòng ta vì quá đỗi nhớ thong Cành hoa bụp cũ khóc bên đường Bến khuya Sa Ðéc trăng mười sáu Mấy độ chìm theo sóng lớp lang. Hỡi người con gái bến Tân Qui Nàng hát ta nghe tiếng hát gì? Tóc xõa bốn trời trăng gió tụ Mây vờn âm điệu nét phương phi. (Trần Tuấn Kiệt, Ngày Về) Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, còn có bút hiệu là Sa Giang, sinh ngày 1 tháng 6, 1939 tại Sa Ðéc, từng theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sài Gòn, sống bằng nghề viết báo, cộng tác với hầu hết các báo ở Sài Gòn, (hầu hết đối với ông có nghĩa là vài chục tờ, mọi thể loại, từ nhật báo tới tạp chí, kể cả những tờ báo văn chương sớm sủa nhất hồi thập niên '50 như Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh), cho đến những tờ hiện diện vào mấy năm cuối cùng trước 1975: Văn của Trần Phong Giao, Khởi Hành, Thời Tập của Viên Linh. Ông xuất bản nhiều thi phẩm, lần lượt thì có thể kể: Thơ Trần Tuấn Kiệt (1963), Nai (1964), Bài Ca Thế Giới (1964), Cổng Gió (1965). Và Triều Miên Ngâm Khúc, bài thơ dài ông làm để khóc con, là một tuyệt tác thi ca. Biên khảo có một cuốn đồ sộ: Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại, 1880-1965, do Khai Trí xuất bản năm 1967, dày tới 1154 trang. Nhà xuất bản uy tín của miền Nam là Nguyễn Ðình Vượng đã xuất bản cho ông cuốn truyện rất xuất sắc: Tiếng Ðồng Nội, 1967. Và may mắn thay, trong khi các cuốn biên khảo thi ca bỏ quên ông, như Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại của Phạm Thanh, Thơ Miền Nam của Võ Phiến, thì bộ sách giá trị nhất về tuyển tập, nhan đề Tuyển Tập Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta (1954-1973) của Nguyễn Ðông Ngạc (đã mất ở Canada), lại chọn Trần Tuấn Kiệt như một tác giả điển hình. Cho tới giờ phút này, tháng 12 của năm 2012, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt không còn viết nhiều nữa, dù rằng viết cho các báo hải ngoại. Nhưng cách đây hai năm, ông viết một số bài bình luận thế cuộc, ký một tên khác, rất mạnh mẽ lên án chế độ hiện hành. Trong những bài ấy người ta thấy con người ông hiện hình: mái tóc dựng ngược, đôi khi bay tung, dáng đi ngang tàng, bước dài, khuôn mặt rạng rỡ. Ðó là diện mạo người thi sĩ yêu đồng đất non sông, yêu đồng bào xuôi ngược, yêu sóng Cửu Long và yêu phù sa sông Tiền sông Hậu. Yêu quê hương như thế, hẳn nhiên ông chống chiến tranh, nhưng chống theo cung cách của thi sĩ: Một con chim én Nằm gục bên đồi Từng đàn quạ lửa Vươn vút trên trời. (Trần Tuấn Kiệt, Ðiêu Linh) Nếu có ai hỏi tôi, hãy chọn một thi sĩ miền Nam đáng trọng đáng quí nhất, và thi sĩ nhất, tôi chọn Sa Giang Trần Tuấn Kiệt. Xuân đang đến, nhớ bạn, và nhớ miền Nam thao thiết: Con chim cu ngói Về hót một lần Bên bờ Cửu Long Một người thôn nữ Gieo mạ trên đồng Bên bờ Cửu Long Những làn sóng biếc Thao thiết muôn trùng Bên bờ Cửu Long (Trần Tuấn Kiệt, Bờ Cửu Long)
|
|