|
Post by NhiHa on Jul 10, 2013 1:12:07 GMT 9
Một Vài Ký Ức Về Cụ Nhạc Phụ Tú Mỡ - Hồ Trọng HiếuTác giả : DOÃN QUỐC SỸ ( Bài này đã được nhà văn Doãn Quốc Sỹ nói trong buổi Hội Thảo Tự Lực Văn Đoàn hôm 6-7-2013 tại Người Việt, Westminster.) Kính thưa quí vị quan khách, Hôm nay tôi xin được kể một vài điều mà tôi con nhớ về cụ nhạc phụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ- Hồ Trọng Hiếu là thân phụ của bà nhà tôi-Hồ Thị Thảo. Cụ Tú Mỡ có 8 người con, mà cụ đã kể ra trong hai câu thơ: Năm trai ba gái tám tên Trung, Hiền, Thảo, Dũng, Hùng, Chuyên, Vĩ, Cường Bà nhà tôi là con gái thứ ba trong thứ tự này. Nhà cụ Tú Mỡ ở ngoại thành Hà Nội, thuộc làng Láng, nằm trên con đường Láng, chạy dọc theo con sông Tô Lịch, rất gần địa danh lịch sử Cầu Giấy. Làng Láng có đặc sản được nhiều người biết đến là rau húng Láng thơm đặc biệt. Về danh lam thắng cảnh thì có Chùa Láng, một trong những ngôi chùa cổ rất nổi tiếng của Hà Nội. Còn nhà của tôi thì thuộc làng Cót, cách nhà cụ Tú Mỡ chừng hơn một cây số, dọc theo con sông Tô Lịch. Tôi và bà nhà tôi quen nhau qua sự mai mối của cô em ruột của tôi là Doãn thị Chừng. Trong ngày cưới, tôi còn nhớ khi mình đứng trước bàn thờ chuẩn bị làm lễ gia tiên, cụ Tú Mỡ tiến đến gần tôi hỏi khẽ: “Có biết lễ không?...” Thì ra, cụ vẫn nghi ngờ là những thanh niên theo Tây học như tôi thời bấy giờ chắc là không biết lễ bái theo đúng truyền thống. Tôi trả lời là: “Dạ thưa có ạ!”. Thế là cụ đứng sang một góc, kín đáo nhìn tôi lễ trước bàn thờ, thấy tôi lễ bộ, lên gối xuống gối đàng hoàng, cụ mới yên tâm sau đó. Cụ Tú Mỡ là nhà thơ trào phúng nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam trong Tự Lực Văn Đoàn. Một trong những bài thơ của cụ mang tính chất ngụ ngôn mà tôi rất thích, đó là bài Tú Mỡ Đi Xe Bình Bịch như sau: Tú rửng mỡ cưỡi xe bình bịch Máy nổ vang xình xịch chạy như bay Bóp còi toe như quát tháo dương vây Khách đường cái vội giãn ngay tăm tắp Tú nhớ thuở còn đi xe đạp Một thứ xe chậm chạp hiền lành Trên đường đông dù chuông bấm liên thanh Khách đủng đỉnh làm thinh không chịu tránh Ồ ngán nhỉ ở trên cõi tục Con người ta bất độc bất anh hùng Nhà văn Doãn Quốc Sỹ trong buổi Hội Thảo Tự Lực Văn Đoàn. Một trong những bài thơ không có tính chất trào phúng nhưng nổi tiếng vào bậc nhất của cụ Tú Mỡ là bài Khóc Người Vợ Hiền, viết để tiễn đưa bà Tú Mỡ về nơi cõi vĩnh hằng. Có đoạn cuối mà tôi rất thích, và tôi cũng đã đọc lên trong ngày tiễn linh cửu bà nhà tôi về cõi Phật cách đây hai năm: Bà đi rồi nhưng tôi phải ở, Công việc đời còn dở chút thôi, Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi, Về nơi cực lạc, lại tôi với bà... Có một chi tiết mọi người ít biết đến, đó là cụ Tú Mỡ không hề vào đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghe nói là vì cụ cho rằng vào đảng thì không còn làm thơ châm biếm được nữa. Cụ có làm một bài thơ nói về việc này như sau: Đồng chí chết cũng ra ma, Quần chúng chết cũng đưa ra ngoài đồng. Miễn là làm việc gắng công, Vì dân, vì nước một lòng trung kiên. Cứ gì có thẻ Đảng viên, Kè kè giắt túi mới nên con người Không biết có phải vì thế mà mãi cho đến ngày hôm nay, Hà Nội vẫn chưa có con đường nào mang tên Tú Mỡ. Con cháu của cụ ở Hà Nội thì cho rằng cũng có thể tại gia đình không có ai “chạy chọt, lo lót” chính quyền về chuyện này. May sao, ở trong Sài Gòn, cách đây chừng 10 năm có một con đường nhỏ được mang tên Hồ Trọng Hiếu, nằm ở Ngã Ba Cây Thị, Quận Gò Vấp. Ngay tại ngã ba này có căn nhà của người em ruột của cụ Tú Mỡ là cụ Hồ Trọng Phú, mà tôi và bà nhà vẫn gọi là chú Tư Phú, người cũng di cư vào Nam đợt 1954 giống như gia đình tôi. Hy vọng sự sắp đặt cho dù là tình cờ này cũng an ủi phần nào cho con cháu của cụ Tú Mỡ, một nhà thơ trào phúng độc đáo của nền văn học Việt Nam. Xin trân trọng kính chào quí vị trong buổi họp mặt thân tình ngày hôm nay.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2013 3:01:27 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2013 15:50:42 GMT 9
LỜI TÌNH BUỒNHChu Tram Nguyen Minh Suu TamVideo Lời Tình Buồn (Lyrics) Cuối thập niên 1960, những tình khúc lãng mạn của Vũ Thành An xuất hiện ở miền Nam như một luồng gió mới, được nhiều người yêu thích, nhất là giới sinh viên học sinh, trí thức và quân đội… Nhạc Vũ Thành An sang trọng, nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người. Chất lãng mạn trong nhạc của ông có một cái gì đó rất gần gũi với tâm trạng của tuổi trẻ lúc bấy giờ: buồn vì chiến tranh, sợ hãi vì phải đối mặt với những hiểm nguy, đau khổ vì chia ly, mất mát. Ngoài những bài không tên và những tình khúc do ông tự viết nhạc và lời, Vũ Thành An còn có một ít ca khúc phổ từ thơ. Một trong nhừng ca khúc phổ từ thơ rất thành công của ông là bài “Lời Tình Buồn”. 4 Tinh buon 1“Lời Tình Buồn” là bài hát mà tôi nghĩ rằng dạo ấy những người yêu nhạc ai cũng đã từng nghe qua ít nhất một lần. Anh đi rồi còn ai vuốt tóc. Lời tình thơm sách vở học trò. Đêm xuống rồi em buồn không hở ? Trời sa mù tầm tay với âu lo. Bài hát ra đời năm 1967, cho đến nay đã được 45 năm. Trong 45 năm đó, “Lời Tình Buồn” đã được nhiều ca sĩ nổi tiếng thu âm và trình diễn, trong đó có những ca sĩ hàng đầu như Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Hà, Duy Quang, Họa Mi, Bằng Kiều… Khi nhắc tới bài hát này, người ta thường nhắc đến nhạc sĩ Vũ Thành An, ít nhắc đến tên tác giả của bài thơ đã được phổ nhạc là Chu Trầm Nguyên Minh, mặc dù trên bản nhạc khi in ra hay băng đĩa khi phát hành đều có ghi rõ : thơ Chu Trầm Nguyên Minh. Có thể do Vũ Thành An thường tự viết lời cho nhạc của ông nên nhiều người nghĩ bài hát này cũng vậy. Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh tên thật Phạm Minh Tâm, sinh năm 1943 tại Bình Thuận. Ông đã trải qua một thời tuổi thơ đầy tự hào nhưng cũng đầy bất hạnh. Cha ông đi kháng chiến, thỉnh thoảng mới tạt về thăm nhà. Ở nhà, chỉ còn lại người mẹ tảo tần nuôi dưỡng 5 người con : Phạm Minh Tâm, ba người chị, và một cậu em trai. Gia đình ông có một căn nhà gạch chắc chắn, nhưng cha ông quyết định đập bỏ, vì “nhà kiên cố Tây nó sẽ lấy để làm đồn bót, thà đập đi còn hơn”. Sau đó, mẹ ông đưa các con vào sống trong khu tam giác Phan Thiết – Ma Lâm – Mưòng Mán. Đây là vùng “xôi đậu”, thuộc khu “oanh kích tự do”, và em trai ông đã chết ở nơi này vì một quả đạn mọt-chê. Đầu năm 1953, Pháp mở cuộc càn quét dữ dội vào khu Tam Giác. Cả cha lẫn mẹ của ông đều bị giết trong cuộc càn quét này. Cha mẹ không còn, nhà cửa không còn, mấy chị em cùng một số người khác kéo nhau vào khu rừng Đá Bàn giáp ranh với Lâm Đồng, sống trong bụi cây như người rừng. Khu rừng này cây cối âm u, rắn rết rất nhiều. Một ngày kia ông bị rắn độc cắn, suýt bỏ mạng trong rừng. Mấy chị em sợ quá, không dám ở đó nữa. Đầu năm 1954, bốn chị em về Phan Thiết, chia ra mỗi người sống nhờ vào một người bà con. Lúc đầu, Phạm Minh Tâm ở với người cậu, sau chuyển sang ở với người chú ở Phú Bình, rồi bắt đầu đi học bậc trung học ở trường Phan Bội Châu (Phan Thiết). Chỗ ông ở cách trường khoảng 7 cây số, không có xe đạp, hàng ngày ông phải đi bộ đến trường. Đôi chân thì nhỏ, trường thì xa, hầu như ngày nào ông cũng phải chạy mới kịp giờ học. Gia đình tan nát vì chiến tranh, mồ côi cha mẹ sớm, sống nhờ vào người chú, ông có những nỗi buồn riêng, và chính những nỗi buồn này đã tạo ra nhiều cảm xúc, đưa ông vào con đường thi ca . Học hành trong một điều kiện hết sức khó khăn như vậy, nhưng với ý chí sắt đá và lòng kiên nhẫn, ông đã vượt qua khó khăn, theo đuổi ngành sư phạm, ra trường 1965, và được bổ nhiệm về dạy Toán tại một trường trung học ở Phan Rang. 4 Tinh buon 3jpgCũng từ đây, nhiều người biết đến Chu Trầm Nguyên Minh với những bài thơ xuất hiện đều đặn trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn: Văn, Văn Học, Ý Thức… Năm 1967, cường độ cuộc chiến gia tăng, nhiều giáo chức được gọi nhập ngũ. Chu Trầm Nguyên Minh nằm trong số đó. Ông nhập ngũ khóa 25 Thủ Đức, cùng khóa với nhạc sĩ Vũ Thành An. Chuyện nhập ngũ lại trở thành cái “duyên văn nghệ”, và bài hát “Lời Tình Buồn” (thơ Chu Trầm Nguyên Minh, nhạc Vũ Thành An) đã được Vũ Thành An viết vào năm đó. Điều đáng chú ý là tự thân bài thơ này đã là một bài thơ hay, lời bài thơ rất thật, chất nhạc đã có sẵn trong bài thơ, nên Vũ Thành An dễ dàng chuyển thành một trong những tình khúc hay nhất trong 45 năm qua. Hiện nay Chu Trầm Nguyên Minh sống ở Sài Gòn.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:15:26 GMT 9
Hồ Ðiệp (1930-1988), tiếng vàng trong không gian Viên Linh Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp - biệt danh do thi sĩ Ðinh Hùng đặt cho cô trong chương trình Thi Ca Tao Ðàn của đài phát thanh quốc gia từ 1954 - đã vĩnh viễn biệt tăm trong cuộc hành trình đường bộ rời xa tổ quốc qua ngả Cao Miên vào một ngày Tháng Năm âm lịch Mậu Thìn (1988) - để xa lánh cộng sản, không còn để lại chút gì của bản thân trong cát bụi, nhưng người hoa khôi ấy của Nghệ thuật Ca trù Việt Nam, giọng ngâm vàng ngọc ấy của thi ca đất nước, còn mãi mãi trong không gian, nếu thỉnh thoảng lại có người muốn “nghe sênh phách thời Hồ Ðiệp,” hay muốn “ngâm thơ kiểu Tao Ðàn.” Nữ sĩ Hồ Điệp (Hình: Nguyễn Phan Cảnh) Sáu bảy năm trước người viết bài này đã tổ chức một buổi Tưởng Niệm Tao Ðàn tại hội trường Người Việt, nơi chỉ có khoảng 300 ghế, mà người đến dự tới hơn 400, phải đứng vòng quanh các cửa bên ngoài. Một băng thơ Hồ Ðiệp đã được phát lại, dù chỉ nửa bài, thật ra dù chỉ nửa câu, người ta đã thấy bướm mộng bay về, không gian đã nghe giọng vàng lưu luyến. Ca trù, bị gọi nôm na là hát ả đào, người ngâm hát bị gọi nôm na là cô đầu, chính thực là kho báu, là quốc túy của ta. Ai làm ra những bài hát nói, những bài thơ cho các cô đào ấy hát? Ai đàn, ai trống, ai đệm nhịp “tùng tùng cắc cắc” cho những giai nhân nghệ sĩ kia giãi tỏ tâm tình? Thưa đó là các nhà trí thức, các nhà thơ danh vọng, đó là những Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương, Tản Ðà,... tác giả những từ khúc, thi phẩm cả thế kỷ qua được ghi vào chương trình giáo dục của quốc gia. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật, không Tiên, không vướng tục. (Nguyễn Công Trứ, Ngất Ngưởng) Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy Nửa chen mặt nước nửa từng mây... Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng Chén rượu bên đèn luống tỉnh say. (Nguyễn Khuyến, Tiệc Hát) Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đáo để vị thùy thương. (Chu Mạnh Trinh, Thúy Kiều Oan Trái) "Chính ở ca trù chúng ta không những thấy được cái chân tướng con người sống động của giới trí thức Việt Nam xưa, mà chúng ta còn thấy được cái tài dung hợp Việt hóa nào Ðường thi, nào Từ nào Phú, nào Lục bát nào Song thất,... và màu sắc phong phú trăm hoa.” (Nguyễn Ðăng Thục, Khoa trưởng Ðại học Văn khoa, đề tựa Ca Trù của Ðỗ Bằng Ðoàn, Ðỗ Trọng Huề) Cho nên nhiều người lầm lẫn cô đầu với nghệ sĩ ca trù, đã có thời vì thế ca trù bị quên lãng, người ca bị nhìn sai lệch. Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp là bạn quí của những tài danh như Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Hà Thượng Nhân, Cao Tiêu. Bà tên thật là Nguyễn Thị Tý, tự là Nhu, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ tức ngày 1 tháng 6, 1930 trong một gia đình nghệ sĩ tại làng Hiệp Lộc, tỉnh Sơn Tây. Gia đình bà nhiều người là các nghệ sĩ chầu Văn, ca ngâm tại các đền chùa, hội hè ở Phủ Giầy, đền Hai Bà, đền Ðức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Theo một bài viết của Vĩnh Tường đăng trên Khởi Hành, Hồ Ðiệp mất vào năm 1987, nhưng theo một bài viết của nữ sĩ Hoàng Hương Trang, có khác. “Di ảnh của Hồ Ðiệp hiện thấy được thờ ở chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão quận nhất thành phố Sài Gòn, trên di ảnh đề ngày mất 15 tháng 5 Mậu Thìn (1988). Có lẽ đó chỉ là ngày ra đi của Hồ Ðiệp chứ không phải là ngày mất thật sự.” (Hoàng Hương Trang, Nhớ Nghệ Sĩ Ngâm Thơ Hồ Ðiệp). Vẫn theo nhà thơ nữ thì Hồ Ðiệp được thờ ở đây là do lòng hâm mộ của một thính giả, một người say mê giọng ngâm của bà ở Sài Gòn. Một nhà thơ, tiến sĩ ngữ học Ðại Học Prague, Tiệp Khắc, mệnh danh Hồ Ðiệp là Nữ Hoàng Thanh Sắc với hai câu thơ: Thanh, sắc vọng mãi Ðất Trời Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ. (Nguyễn Phan Cảnh, Dự báo Bùng nổ Thi Ca) Giọng ngâm chính của Ban Tao Ðàn còn mãi trong không gian, trong lòng người, cụ thể là trong ba băng nhạc nhan đề Thi Nhạc Giao Duyên, Thục Vũ thực hiện năm 1971; băng Mây Hồng do Hồng Vân thu năm 1972; và băng Hồ Ðiệp do vài vị liên tài thực hiện cùng năm. Bài trên còn viết: “Theo cô Thái Hằng [bà Phạm Duy], thì khi còn nhỏ Hồ Ðiệp là một cô bé rất xinh đẹp. Thái Hằng và Hồ Ðiệp có cùng một ông ngoại. Hồ Ðiệp lớn lên ở quê ngoại, còn Thái Hằng theo bố mẹ ra Hà Nội. Mỗi lần Thái Hằng về quê, Hồ Ðiệp chạy thật nhanh từ cổng nhà lên đến tận bờ đê đón các anh các chị với quà Hà Nội... Hồ Ðiệp có giọng cười trong như một dòng suối tinh khiết và đôi mắt rất đẹp, ngày đó chưa u ẩn và chưa buồn viễn xứ.” Sau 1954 tại Sài Gòn, “Thỉnh thoảng, Hồ Ðiệp hay ra sân quét vạt sân rụng đầy lá trứng cá. Cô hay mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, cô hay đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Cô choàng tấm khăn san mỏng, chân mang hài cong. Cô trang điểm rất ít, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cô cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ. Cô có cái đẹp cổ kính của một thục nữ cõi Bắc Hà.” [...] Theo lời bà Hồ Liễu (nữ đại tá QLVNCH), sau 1975 Hồ Ðiệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các chùa, hay tại nhà bạn hữu... Như báo chí lâu nay vẫn loan tin, nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp vượt biên bằng đường bộ, và từ đó bặt vô âm tín. Không một nhân chứng nào xuất hiện, để thuật lại những gì đã xảy ra cho nữ nghệ sĩ; khác với trường hợp danh hài Khả Năng. Nghệ sĩ Khả Năng cũng vượt biên đường bộ, và một nhân chứng là nhà thơ Trần Bát Nhã, sau này là chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Louisianna, là chứng nhân, đã thuật lại cái chết của anh, bị bắn chết trong cuộc rượt đuổi cạnh biên giới, như bài tường thuật trên cùng tờ báo. Có thời người ta coi rẻ nhạc cải cách, có thời người ta coi nhẹ nhạc sến, có thời người ta cười vọng cổ, có thời người ta chê bai nhạc vàng, và có thời người ta ám chỉ “hát cô đầu.” Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục coi ca trù là quốc hồn quốc túy, nó cũng như ca dao, tục ngữ, đều là những thứ “do cái hồn chung của đất nước tự nhiên sản xuất ra,” cho nên biết gìn giữ kho báu ấy thì văn hóa đất nước mới phong phú được. Dương danh nghệ sĩ chân chính cũng chính là gìn giữ văn hóa chung vậy. Nhà thơ Tô Kiều Ngân với di cảo ‘Mặc Khách Sài Gòn’ Viên Linh Những ngày giữa tháng 3 này tôi nhận được hai ấn bản của cùng một cuốn sách từ Sài Gòn gửi qua: “Mặc Khách Sài Gòn” của Tô Kiều Ngân, một do con gái tác giả là cô Quỳnh Hương (hay bà Nguyễn Tôn Nhan), một do nhà xuất bản Nhã Nam-Hồng Ðức do anh Dương Thanh Hoài, gửi tặng. Một bản gửi bảo đảm qua bưu điện từ ngày 21 tháng 2, 2014, một bản cầm tay chuyển lại, hai bản đến tay người nhận xê xích nhau 3 ngày. Tôi đã đọc ngay, bởi vì Tô Kiều Ngân là người bạn vong niên quá cố mới cách đây hai năm, bởi vì nhan đề “Mặc Khách Sài Gòn,” bốn chữ gợi nhớ nhiều tới tâm tư tình ảnh về một thời đã qua, nơi tôi có mặt toàn thời gian 1954-1975, và bởi vì bản thân sản phẩm của Nhã Nam: sách trình bày mộc mạc khác thường, bìa in chỉ một màu đen trên giấy các-tông mỏng màu gỗ, có lai xếp trước sau, suốt cuốn sách 270 trang viết về 15 văn nghệ sĩ miền Nam, mà những người tên tuổi nhất trong sách là Nguyễn Vỹ, Lê Thương, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Giáng, Mai Thảo, in kèm với những hình ảnh đen trắng quí hiếm, những hình ảnh ít thấy trên báo chương từ mấy chục năm qua. Ít có những cuốn sách mà hình thức thể hiện một cách ý tứ và nhã nhặn đến thế, với tranh phác họa chân dung các nghệ sĩ bằng bút sắt (của Hữu Khoa) ở cả bìa trước lẫn bìa sau. Chỉ với bề ngoài, người đọc sách đã có thể tin: đây là sản phẩm được thực hiện bởi những người yêu sách, quí sách, tôn trọng tác giả, tôn trọng độc giả. Tô Kiều Ngân (1926-2012), bên trái, ngồi cạnh nhà thơ Ðinh Hùng thời Thi Văn Tao Ðàn của Ðài Phát Thanh Quốc Gia, những năm 60. (Hình trích trong hồi ký Mặc Khách Sài Gòn, Nhã Nam, 2014) Cuốn sách nữa cùng lúc đến từ nhóm anh em văn nghệ miền Thất Sơn Châu Ðốc, ký tên Ngô Nguyên Nghiễm, cũng viết về các văn thi sĩ miền Nam thành danh trước 75, đa số là lớp trẻ tuổi, là những người còn tiếp tục viết, với nhan đề Tác Giả Tác Phẩm-Người Ðồng Hành Quanh Tôi. Ðây là tập cuối cùng của bộ sách 6 cuốn, còn có tên là Viên Mãn, dày hơn 6,000 trang, lần lượt ra mắt từ tháng 2, 2010 tới tháng 1, 2014 thì xong hẳn. Rất nhiều tác giả miền Nam được đề cập, nổi tiếng trước 1975 có Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Hải Chí (CHÓE), Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Bá Thế, Viên Linh, Dương Hà, Nguyễn Tất Nhiên, Dương Trữ La, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trương Ðạm Thủy, Phạm Thiên Thư. Vì số tác giả trong bộ này rất đông, khoảng 200 người, nên chúng tôi sẽ viết riêng và viết thêm sau. Trở về với Tô Kiều Ngân, trong Lời Nói Ðầu, ký tên “Tác giả,” ông viết: “‘Mặc khách’ là từ chỉ các văn nhân, thi sĩ cùng những người hoạt động nghệ thuật, mong muốn đem tài hoa, tim óc ra tô đẹp cho đời. Chữ ‘khách’ hàm ý chỉ những người của đám đông, những người được lưu tâm hay ngưỡng mộ.” Cuốn sách có mục đích gì? Tác giả viết: “Gió bụi thời gian, chiến tranh chia cắt, khói lửa triền miên đã vùi dập, làm thất lạc không ít tác phẩm văn học của một thời tại miền Nam. Ðiều đó gây khó khăn không ít cho những ai muốn nghiên cứu văn học sử. Lớp hậu sinh có thể hoàn toàn không biết gì về diện mạo của mảng văn học nghệ thuật lúc họ chưa ra đời. Mong rằng tập sách này sẽ cung ứng cho họ một ít tư liệu giúp tìm đến với những mặc khách của Sài Gòn, để biết rằng có một thời, có những người đã sống như thế, suy nghĩ như thế và viết như thế.” Ðọc xong cuốn sách, người ta có thể kết luận khái quát: Tô Kiều Ngân chỉ muốn nói đến cái đẹp cái vui của những người ông viết, mà không phê bình, phán xét, hay cả khen ngợi các chủ đề, như ông đã minh định là ông không phê bình văn học, “mà chủ yếu là những kỷ niệm vui buồn mà tác giả có được.” Tuy thế, ngay trong chương thứ nhất, Nhà Văn An Nam Khổ Như Chó viết về Nguyễn Vỹ, Tô Kiều Ngân đã làm một việc rất phải, rất chính xác, phê bình hai ông Hoài Thanh Hoài Chân đã “thật ác” khi viết trong cuốn Thi Nhân Việt Nam như sau: “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, sập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì.” Tô Kiều Ngân phản bác ngay ở dòng thứ chín của bài viết đầu tiên, và trưng ra những tác phẩm cũng như con người đáng phục của Nguyễn Vỹ. Năm 1999 khi viết về thi sĩ Nguyễn Bính, [Trên Khởi Hành số 29, 3.1999], người viết bài này cũng đã viết rằng Hoài Chân Hoài Thanh “đã làm hại Nguyễn Bính” khi gọi thơ Nguyễn Bính là “lố lăng;” và Vũ Ngọc Phan đã “làm hại Nguyễn Bính nhiều hơn” khi nhắc đến một thi sĩ đã có 8 thi phẩm in ra với chỉ có 6 dòng trong tập Nhà Văn Hiện Ðại, trong đó lại có câu này: “nhiều câu của ông [NB] gần như vè.” Trong khi đó thì Vũ Ngọc Phan đã dành các tiết mục riêng để ca ngợi hai “thi sĩ” Nguyễn Giang (con trai Nguyễn Văn Vĩnh) và Nam Hương nức nở, nhưng không ai biết hai thi sĩ này là ai, trong khi hơn nửa thế kỷ qua, thơ Nguyễn Bính vẫn được tái bản, không ai gọi đó là vè cả. Tô Kiều Ngân viết rất chi tiết về Nguyễn Vỹ, nhất là câu sau đây: “Tôi chắc nhiều người quan tâm tìm hiểu đời sống xã hội những năm đầu thế kỷ XX thì khó có thể bỏ qua hai tập đặc sắc “Tuấn, Chàng Trai Nước Việt,” [của Nguyễn Vỹ], cuốn sách tuy được viết theo thể loại tiểu thuyết nhưng cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu lịch sử văn hóa giá trị không thua một cuốn sách biên khảo nào.” (tr. 10). Tiếp theo, “Mặc Khách Sài Gòn” còn viết về những văn nghệ sĩ thuộc nhiều bộ môn, như Ai Xuôi Vạn Lý (nhạc sĩ Lê Thương), Ðể Ta Tròn Một Kiếp Say (thi bá Vũ Hoàng Chương), Trời Cuối Thu Rồi Em Ở Ðâu? (thi sĩ Ðinh Hùng), Thương Về Năm Cửa Ô Xưa (họa sĩ Tạ Tỵ), Tấm Thân Với Mảnh Hình Hài (nhà thơ Bùi Giáng), Cho Tôi Về Ký Con (nhà văn Mai Thảo), Thôi Ngủ Gối Ðầu Lên Ðại Bác (nhà thơ Hoàng Trúc Ly), và một số tác giả trẻ hơn ông nhiều, như Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Phạm Thiên Thư, song với những người này, ông viết thoảng qua, không thể xếp cùng loại với những bài ông viết nơi chín chương đầu, như kể ở bên trên. Nhưng chỉ với chín chương đầu, “Mặc Khách Sài Gòn” là một cuốn sách hào hứng, và chắc chắn có một giá trị mà chỉ người trong cuộc mới viết được. Tuy sách mới ra, các sự việc kể lại chưa thể có dư luận phản bác tức thời, nhưng tôi tin rằng nếu có sai sót nào, thì không do chủ ý của người viết. Tô Kiều Ngân không phải là người cầm bút viết hồi ký để làm việc ấy. Những hình ảnh riêng tư được dùng trong cuốn sách cho thấy tác giả đã lưu giữ từ lâu, và lưu giữ với lòng ưu ái, trân trọng. Tô Kiều Ngân viết nhiều loại, song được biết tiếng nhiều như một nghệ sĩ thi sĩ ngâm thơ với sáo trúc trong ban Tao Ðàn của Ðinh Hùng bên cạnh Hồ Ðiệp, Quách Ðàm, Hoàng Thư, Thanh Nam, Thái Thủy. Ông từng cộng tác với nhà văn Thanh Nam từ những năm đầu thập niên '50 trong tờ tuần báo Thẩm Mỹ. Ông tên thật là Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế, viết cho nhiều báo và nhiều thể loại như thơ, văn, tạp luận trên Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Thứ Năm, và các báo của quân đội. Trong Ban Chấp Hành Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Ðội, cùng người viết bài này. Ông cũng là thư ký tòa soạn nguyệt san Khởi Hành nhưng ra được 8 số thì đình bản. Khi Khởi Hành chuyển qua tuần báo, nhằm vào độc giả cả trong lẫn ngoài quân đội, thư ký tòa soạn là Viên Linh, sống qua năm thứ tư, được 156 số. Trong sinh hoạt, Tô Kiều Ngân luôn luôn tươi cười, vui vẻ, và sẵn sàng hòa hợp với mọi người mỗi khi có chuyện phải thảo luận. Trong Lời Nói Ðầu của Mặc Khách Sài Gòn, ông đã tỏ ý ấy: “Ðây không phải là một tập sách phê bình, cũng không phải ‘chân dung văn học,’ mà chủ yếu là những kỷ niệm vui buồn... đôi chỗ tác giả có cao hứng mà múa bút lạm bàn thì cũng chỉ là để minh họa cho câu chuyện mà thôi.”
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:17:55 GMT 9
Nhóm Xuân Thu Nhã Tập và câu hỏi ‘Thơ Là Gì?’ Viên Linh Mục Văn Học Nghệ Thuật đã nhiều lần đăng thơ, đôi lần viết về các thi sĩ, có khi khen bài thơ này hay, câu thơ kia xuất sắc, nhưng chưa bao giờ giải nghĩa thơ là gì. Hẳn nhiên người viết có ý riêng của mình rằng thơ là thế này, thơ là thế kia, song không nói ra, vừa hay mục này trong hai tuần qua lại đăng mấy bài thơ của hai tác giả không phải là thi sĩ chuyên nghiệp, dù nhà văn Văn Quang hay học giả Thạch Trung Giả từng cầm bút suốt đời. Cho nên cũng có người lên tiếng, đại khái, Ồ, thơ của hai ông ấy hay đấy chứ. Ðâu phải cứ thi sĩ mới làm được thơ hay. Mà cứ gì thi sĩ mới làm thơ hay. Nhưng thơ là gì đã? Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh (sinh 1920-?) trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập (1939-?) đồng tác giả của bài Thơ Là Gì. Ảnh trong Từ Ðiển Văn Học Việt Nam, Thế Giới xuất bản, Hà Nội 2000). Người viết sẽ không tự mình trả lời câu hỏi ấy. Thứ nhất thơ có nhiều loại, nhiều hạng, nhiều thể cách, mà mỗi loại mỗi hạng mỗi thể cách lại hay khác nhau, có sở trường sở đoản khác nhau, vì thế có nhiều thi đoàn khác nhau, một câu trả lời không thể nào bao gồm cho hết các thứ. Thời Cao Bá Quát có Thi đàn Nghệ An, nếu Cao Bá Quát viết đúng: “Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An.” Thời Tản Ðà thơ bỏ vào trong túi đeo lên vai được, như trong câu thơ “Túi thơ đeo khắp ba kỳ,” vì tả như thế thì người đọc nghĩ thơ ấy có lẽ bỏ trong cái chai, cái hũ rồi bỏ vào trong cái túi đeo lên vai được, chứ thơ ấy không bỏ vào trong túi áo được, vì nếu bỏ vào trong túi áo được thì việc gì thi sĩ phải đeo lên vai? Nhóm Xuân Thu Nhã Tập đã hiện diện trong văn học sử nước ta, và họ đã cùng ký tên trong một bài viết nhan đề “Thơ Là Gì?”* bởi thế nhờ họ, ta có thể có câu trả lời thơ là cái này, thơ là cái kia, như nhiều người nhiều nhóm từng mệnh danh cho thơ của họ hình thức thế nào, hình thức cổ lỗ hay hình thức tân kỳ, âm điệu ra sao, gần vọng cổ Nam Bình Nam Ai hay gần nhạc Rock, nhạc Jazz, lời lẽ thê thiết nhắc nhở tới điệu Blue hay rộn ràng gợi nhớ tới bài Lambada, v.v... Nhóm Xuân Thu Nhã Tập thành lập năm 1939, gồm ba bốn nhà thơ, có nhạc sĩ, có họa sĩ, đó là Phạm Văn Hạnh, Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Nguyễn Lương Ngọc. Ðây là một nhóm nghệ sĩ tinh hoa, nhiều tài năng đặc biệt, dám làm dám nói, mà sau họ khoảng gần nửa thế kỷ, Miền Nam xuất hiện Joseph Huỳnh Văn, có cung cách làm nhớ đến họ. Người yêu thơ hẳn không quên trong quá khứ từng đọc những câu thơ bao la, bát ngát, những câu Xuân Thu Nhã Tập: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y Rượu hát bầu vàng cung ướp hương Ngón hường say tóc nhạc trầm mi Lẵng xuân Bờ giũ trái xuân xa Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà Nhài đàn rót nguyện vú đôi thơm Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa... (Nguyễn Xuân Sanh, Buồn Xưa) Sáng nay tiếng chim thanh Trong gió xanh Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình Ngày xưa không lạnh nữa Tần phi Ta lặng dâng nàng Trời mây phảng phất nhuốm thời gian Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngắt Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh... (Ðoàn Phú Tứ, Màu Thời Gian. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã phổ nhạc bài này) Sau đây mới là vấn đề của bài này: Thơ Là Gì? “Người ta đã thử và chưa từng giải nghĩa được thơ. Như giai nhân, như đẹp, như trời. Người ta cảm thấy một cái gì siêu thoát, ra ngoài ước lệ, ở trên lý trí, nó rung động ta theo điệu nhịp vũ trụ, hồn nhiên, nó hòa hợp ta trong cái Ðẹp, và ấp ta nằm trong sự Thật. Man mác của Ðẹp và sâu sắc của Thật. Do trong trẻo gạn nên. Còn lại “cái gì” mà ta gọi là Thơ. Một cái không giải thích được, mà không cần giải thích. Nó chiếm đoạt ta tất nhiên, hoàn toàn, tức khắc. Ðột nhiên ta nhảy đến cửa Trời như nhào vô lòng Mẹ, không xét suy. Bằng con đường thẳng hình ảnh, nhịp điệu, lễ nghi. Âm thanh, màu sắc, mùi giọng được hòa hợp thành những biểu hiệu nhịp nhàng để khêu gợi những rung động siêu việt của bản nhạc vô cùng. “Có rung động là có thơ. Phải cần và chỉ cần có rung động ấy. Thơm của hoa, trong của nước, thần của vạn vật, thơ của văn nghệ.” (Phạm Văn Hạnh, Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, trong Xuân Thu Nhã Tập, Thơ Là Gì? Tạp chí Thanh Nghị 1942). Viên Linh sao lục, 2014.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 7:07:33 GMT 9
Bằng hữu cuối trời: nhà thơ Hoài Khanh Viên Linh Cuối năm 2012, trang Văn Học này đã có hai bài “Bằng hữu cuối trời:” thi sĩ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt (Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012) và nhà thơ thiền giả Tuệ Sỹ (Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012). Nhà thơ Hoài Khanh, Giáng Sinh 1968. Kỳ này người bạn thơ ở nửa vòng trái đất phía Ðông xa vời vợi kia hiện ra trong tâm trí người viết là nhà thơ Hoài Khanh, người bạn từ thuở cho tôi xem bản thảo “Dâng Rừng,” sau này năm 1957 trở thành thi phẩm đầu tay của anh. Còn nhớ Dâng Rừng có cái tranh cắt giấy mầu tím của Phạm Hoán in trên bìa giấy trắng, và những bài thơ của thuở vào đời, mặc dù anh hơn tôi tới bốn năm tuổi. Không chỉ là nhà thơ, bảy tám năm sau Hoài Khanh là thư ký tòa soạn tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ của Sư Ông Nhất Hạnh. Lúc ấy, 1965, Văn Học Phật Giáo lên như diều, báo văn học mà in khổ lớn, ngang dọc 7 inch x 9 inch 1/2 (18cm x 25 cm), cỡ lớn nhất, bìa in nền màu trên giấy trắng (thay vì dùng giấy màu), dầy hơn một trăm trang (nói cách khác, dầy gấp đôi các tạp chí văn nghệ bình thường, vì cũng hơn một trăm trang nhưng khổ nhỏ - nhỏ bằng nửa - cỡ phổ thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ hay tạp chí Văn xuất bản năm trước, của Nguyễn Ðình Vượng). Ðã thế, tờ Giữ Thơm Quê Mẹ lại qui tụ những tác giả lớn viết thường xuyên, hầu như số nào cũng có bài, là Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích, Phạm Duy, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Bùi Giáng, và tiếp theo là Dương Nghiễm Mậu, Trụ Vũ, Nguyễn Ðức Sơn, Thành Tôn, Phạm Công Thiện. Tới số 5 mới có bài của Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Hữu Phương. Mặc dầu chủ nhiệm Nhất Hạnh có ảnh hưởng rõ rệt, song Hoài Khanh quen rộng, nên tờ báo gây tiếng vang đáng kể. Xuất hiện rất sớm, trong vòng 10 năm Hoài Khanh Võ Văn Quế in bốn năm tập thơ, dịch sách thiền, chủ trương nhà xuất bản Ca Dao, song con người thơ của Cà Ty Phan Thiết không được đón nhận đúng mức. Ðiều ghi nhận đầu tiên là khuôn mặt anh buồn bã quá, không phải nét buồn của lãng mạn hoài tình, mà nét âm u khắc khổ của nhịn nhục. Nó hiện ra với vẻ chủ bại rõ rệt, chẳng thế mà khi 29 tuổi anh cho xuất bản thi phẩm thứ hai mang nhan đề Thân Phận. Bài đầu tiên anh xác nhận chỗ đứng bị bỏ lại phía sau của mình, ngay ở nhan đề: Sau Lưng Ngày Tháng Rồi mai gió núi mưa trời Tôi đi cho lạnh hồn tôi một mình Ðời lê thê bước lênh thênh Lối âm u mãi buồn tênh mắt nào Lóng tay muôn thuở còn đau Trái tim nguyên thỉ vẫn nhầu nhớ thương (Hoài Khanh, Thân Phận, trang 11) Cũng có lúc chàng lộ vẻ quả quyết, nhưng không quả quyết sống hay quả quyết làm một cái gì, mà chỉ quả quyết sẽ buồn: Lạnh rồi tự buổi xanh non Búp măng tơ ấy đã tròn gió sương Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Hoài Khanh, Dòng sông của tôi) Người bạn thân nhất của Hoài Khanh là Phạm Công Thiện cũng tỏ ra bất mãn vì cái vẻ buồn bã cố hữu của bạn. Xa nhau rất lâu, một ngày tác giả Thân Phận từ Biên Hòa lên Ðà Lạt thăm bạn, gặp nhau bất ngờ, Phạm Công Thiết kể lại: “Vừa bước về nhà, chợt thấy Khanh, tôi rưng rưng ôm anh mà hôn... Chúng tôi dẫn nhau lang thang trên những đường phố tối tăm nhất, lắng nghe tiếng chó sủa và lắng nghe tiếng lòng mình rạo rực đau khổ vì quá bơ vơ, vì quá lạc lõng giữa sa mạc loài người. [...]Mấy ngày anh ăn Tết với tôi ở Ðà Lạt, anh chỉ im lặng và ít nói. Chúng tôi thương nhau lắm. Thế mà chỉ nhìn nét mặt của anh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi kinh hoàng đi. Tôi muốn đuổi anh đi ngay, tôi muốn đuổi một hình ảnh hãi hùng... Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự chết, tôi thấy bệnh hoạn, đau khổ, quằn quại, khắc khoải,...” (Phạm Công Thiện, Nỗi Cô Ðơn của Hoài Khanh & thay lời Tựa). Không gặp nhau bốn chục năm, song từ xa xưa còn nhớ Hoài Khanh không phải là con người của thành phố. Anh quá thận trọng, hay quá rụt rè. Anh xa lạ với tất cả xung quanh, ít ra là người ta cảm thấy thế. Ðoạn văn sau đây của Phạm Công Thiện đã cho người đọc thấy một khía cạnh mông lung mờ nhạt của người bạn thi sĩ: “Thế rồi cách đây một tuần, lúc về Sài Gòn, tôi có ghé lại Biên Hòa để gặp Khanh. Khanh chỉ ở một mình, trong một căn nhà tồi tàn, tôi nhìn lên vách và gặp những bức tranh của Michel Ange, của Van Gogh và Picasso, những bức ảnh của Pasternak, Evtushenko, Salinger, Hemingway và Camus, rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên tôi thấy tất cả sự vật ngừng lại, cả thế giới đứng lặng lờ và Hoài Khanh cũng đứng lặng lờ như một bức ảnh treo tường.” (bài trên) Nhưng Trần Tuấn Kiệt mô tả Hoài Khanh xác thực hơn, cụ thể hơn: “Viết đến Hoài Khanh, tôi lại nghĩ đến một người muốn an phận, không chịu đựng nổi cái đời sống văn... nghệ quá hỗn tạp. Anh sống trong một nông trại, nuôi gia súc, ở Biên Hòa. Thỉnh thoảng về Sài Gòn thăm bè bạn. Gặp Hoài Khanh, nhìn gương mặt khắc khổ của anh, nghe anh khuyên nên về vườn lập nông trại. Tôi rất ước ao một cuộc đời bình dị như vậy.” (Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại, 1880-1965, Khai Trí, Sài Gòn, 1967) Nhà thơ thiền giả Tuệ Sỹ phát hiện Hoài Khanh vừa đẹp, vừa vang vọng bi kịch của lịch sử: “Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân: Ngược xuôi bao kẻ đi về Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong Chuyện đời có có không không Phù vân một áng bụi hồng xa xa Cớ sao thiên hạ người ta Vẫn chưa tròn một Quê-nhà-bao-dung? Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng? Trong cơn-trường-mộng-hãi-hùng-thời-gian. (Hoài Khanh, Lục Bát & Tựa của Tuệ Sỹ, Phương Ðông xuất bản, Sài Gòn 2010) VL, đêm 19 tháng 2, 2013. 10.1966: Ðêm đọc thơ tự do tại Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn Viên Linh Làm sao mang thơ tới được đám đông, làm sao đánh tan trong văn chương chúng ta cái cảm hoài sướt mướt, làm sao phá vỡ không khí thơ như sản phẩm của sênh phách, trong khi thơ là ngôn ngữ của tinh thần? Ðêm đọc thơ chủ đề “Chiến tranh và tình yêu” Chủ Nhật, 9 tháng 10, 1966 tại sân Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, theo chiều kim đồng hồ: nghệ sĩ và các nhà thơ Hoàng Thư, Trần Dạ Từ, Viên Linh, Ðỗ Quí Toàn (ngậm ống vố), Nhã Ca, Kim Ninh, Thanh Thoại, Tú Kếu và Trần Tuấn Kiệt. Ảnh bìa của Tạp chí Nghệ Thuật. Chủ Nhật, 9 tháng 10, 1966: Từ 8 giờ tới 10 giờ 30 tối, một số những người làm thơ trẻ ở Sài Gòn đã mang thơ lên sân khấu, mang thơ ra đám đông, và hẳn nhiên những gì gọi là “thơ bây giờ” phải là thơ tự do. Rất vội vàng, một bục gỗ đã được dựng lên tại trụ sở CPS (Chương trình Phát triển Sinh hoạt Học đường), đặt tại phía sau trường Ðại Học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực. Cũng rất vội vàng, đề tài, cho tới phút chót mới tạm gọi là phác họa xong: Ðêm thơ chiến tranh và tình yêu. Hồi 13 giờ trưa, mọi sự chưa đâu vào đâu, những người quyết định góp mặt trong đêm đọc thơ đầu tiên này đã quyết định cứ làm. Có Tú Kếu, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Ðỗ Quí Toàn và tôi. Các nghệ sĩ trình diễn có Hoàng Thư, Thanh Thoại, Tuyết Hằng, Ðỗ Kim Ninh. Thanh Thoại đệm dương cầm - (chiếc dương cầm vào lúc sau đã chết - theo các anh Ðỗ Ngọc Yến, Lê Ðình Ðiểu, Phan Văn Phùng trong CPS thì dường như phải thuê nó cơ đấy). Trong ban tổ chức cũng còn có Ðằng Giao, tổng thư ký tòa soạn nhật báo Sống, anh Hà Tường Cát, trưởng quản trị CPS, hai phó nhòm và máy chụp tối tân. Buổi đọc thơ, dù được loan tin trên báo Sống và đài phát thanh quốc gia, tưởng cũng làng nhàng thôi, vì không kịp phổ biến rộng. Nhưng 800 tờ chương trình tại cửa vào đã được phát hết. Khi đêm đọc thơ bắt đầu, ngó qua 4 khung cửa sổ của phòng trình diễn ở giữa khu đất trống còn thấy chen chúc những người là người, người nghe, người hâm mộ thi ca nghệ thuật. Ðứng trên bục gỗ ngó xuống, thấy những khuôn mặt thanh niên cởi mở, những vừng trán phẳng phiu, những con mắt chăm chú tươi cười, hầu hết là sinh viên học sinh. Có cả các chị, những người nếu chỉ gặp thoáng qua tưởng là cánh bướm màu hay bông hoa tươi, nhưng đã ngồi đó, ngồi xuống nền gạch, chen chúc nhau, vây thành vòng, nhiều vòng quanh bục gỗ ở giữa, và không phải là bướm màu hay hoa tươi mà thôi, còn là hoa penseé đấy. Ðầu tiên là Hoàng Thư, người nghệ sĩ 40 tuổi còn đùa giỡn, bước lên bục gỗ, trước micro và ngọn đèn lồng màu đỏ; anh trình bày một bài thơ của Tú Kếu Trần Ðức Uyển. Sau đến Trần Dạ Từ trình bày một bài thơ của Ðỗ Quí Toàn. Bài thơ làm cho một người xa quê hương, không hiểu nổi nơi này sáng ăn điểm tâm nghe súng nổ, trưa ăn cơm nghe tin người chết, tối đi ngủ nghe nhạc hoài tình. Ngâm xong, tiếng vỗ ta rào rào như sóng (chữ của Trần Thanh Hiệp đấy). Rồi lại có tiếng vỗ tay nổi lên. Xướng ngôn viên vừa giới thiệu có các nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa và nhạc sĩ Phạm Ðình Chương vừa tới. Trần Dạ Từ nói, và nói, và đọc thơ nữa: “Em có vú vê mông miếc, anh có tí tiền còm, đi cùng chuyến xe ngựa 3 đồng 5 cây số. Và con ngựa có chiếc bọng đái. Tiếng vỗ tay, tiếng la, tiếng cười. Anh, ngoài tí tiền còm, còn có bổn phận và có Tổ quốc nữa.” Sau đến Trần Tuấn Kiệt: “Tôi chỉ làm thơ thái hòa thôi, vậy trong đêm thơ chiến tranh và tình yêu này, tôi chỉ nói tới cái thái hòa trong chiến tranh với các bạn thôi.” Cười ồ. Ra ngoài chủ đề đấy, nhưng thi sĩ cứ ngâm. Ðại khái có chú mục tử cưỡi trâu ngoài đồng ngước nhìn trăng sáng. Thưa hết. Cười ồ. Thơ gì mà dài quá thế, có những 3 câu thôi. Micro gọi tên Viên Linh. Tôi lách đám đông đến gần bục gỗ. Chương trình là thơ chiến tranh và tình yêu, thơ chiến tranh chưa hết đã gọi thơ tình yêu... Ðến phần ái tình rồi, lên đi. Thế thì được. Tôi không thuộc thơ mình, phải cầm cả tờ báo Nghệ Thuật. Vừa trình bày vừa ngó nhìn xuống mấy trăm người nghe ngồi san sát vòng quanh. Thấy thân mật và tin tưởng, ấm áp. Ðọc loàng xoàng, thế mà cũng được vỗ tay. Còn Nhã Ca ở nhà thì la lớn lắm, ra trước micro lại nói yểu điệu thấy ghê: “Tôi nói tiếng Huế, tôi không đọc thơ được. Tôi ra trình diện vậy thôi.” “Tú Kếu đồ mặt mẹt! Tú Kếu thằng nói khoác! Tú Kếu đồ nịnh bợ. Tú Kếu đồ luồn cúi an thân! Tú Kếu cút cha mày ra khỏi đất nước này!” Ðó là một đoạn thơ của tác giả Thơ Chua chính anh đọc, được anh em hợp tấu. Anh chửi mình để chửi người. Thơ Chua mới vừa nghe đã thấy nể rồi. Ðọc thơ khác ngâm thơ là như thế. Ðiều ghi nhận rõ rệt nhất trong tôi khi ra về là tuổi trẻ chúng ta cần phải gặp nhau nhiều lắm. Họp nhau trong hội trường, chúng ta nói, nghe, và nghe, nói. Có nhiều điều phải nói, phải nghe. Riêng với một người làm thơ, tôi nghĩ rằng “Ðêm thơ chiến tranh và tình yêu” là một thành công ngoài điều mong ước. Các anh các chị sinh viên học sinh, với con số hơn 800 người, vừa ngồi chật trong phòng triển lãm tranh, vừa đứng kín trước 4 cửa sổ mở ra bốn mặt, vừa đi lại rải rác trong khu đất trống của Ðại Học Văn khoa, là một khích lệ cho thơ hôm nay. Thơ hôm nay đã đến với đám đông, điều ấy cho thấy làm thơ lúc này, về chúng ta, về cuộc sống gần và cuộc sống sâu, hoạt cảnh xã hội và trí tuệ tuổi trẻ, đã được khẳng định như một con đường chắc chắn phải đi tới mạnh hơn nữa. (VL, Nghệ Thuật tháng 10, 1966)
|
|
|
Post by Can Tho on May 8, 2014 5:51:35 GMT 9
Vũ Hữu Định – đường đi chưa tớiTừ độ Nguyễn Bính bị “giam mình“ bởi Trăm Hoa đua nở, để rồi phải chết trong cái tận cùng của sự đói khổ vào một đầu ngày xuân, nơi bè bạn. Cứ tưởng rằng, văn học sử Việt Nam không phải viết tiếp những cái bi thương đó. Nhưng đúng mười lăm năm sau (1981) thi sĩ Vũ Hữu Định ra đi, trong cái khốn cùng ấy, đã lặp lại y trang bóng hình Nguyễn Bính. Tuy không cùng một thế hệ, nhưng Nguyễn Bính và Vũ Hữu Định đều là hai thi sĩ đích thực nhất, lấy thơ, rượu và rong chơi bạn bè, giang hồ làm thú vui của cuộc đời. Nếu như Lỡ Bước Sang Ngang hay đến độ trùm cả lên tên gọi của Nguyễn Bính, thì Còn Một Chút Gì Để Nhớ đã làm nên tên tuổi nghệ sĩ Vũ Hữu Định. Tôi không có ý so sánh, nhưng quả thật, Nguyễn Bính và Vũ Hữu Định có những cá tính, thân phận khá trùng hợp nhau. Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung, sinh năm 1942 tại Thừa Thiên Huế, trong gia cảnh nghèo túng. Cuộc đời lang bạt nhiều nơi, nhưng Đà Nẵng mới là chốn đi về, cũng là nơi dừng chân cuối cùng của ông. Vũ Hữu Định bộc lộ năng khiếu văn thơ khá sớm. Những năm đầu thập niên sáu mươi, của thế kỷ trước, ông đã có thơ đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn. Nhưng phải đến chục năm sau,(1970)thơ của ông mới thật sự bước vào độ chín. Dù trước khi dừng bước giang hồ (chết) Vũ Hữu Định chưa có một tập thơ riêng nào, nhưng thơ của ông đã được in một cách trân trọng, sâu đậm nhất, trong lòng bạn bè và người đọc, từ suốt mấy chục năm qua. Tôi nghĩ, Vũ Hữu Định đã chinh phục được nhiều thế hệ người đọc như vậy, bởi sự trong sáng trong thơ, trong tư tưởng, chứ không hẳn chỉ vì tài năng của ông. Thơ Vũ Hữu Định nhẹ nhàng không chỉ trong tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, tình bằng hữu, mà khi viết về thân phận con người dù trong xã hội, hoàn cảnh bi đát nhất, đắng chát nhất, ta vẫn cảm thấy lời thơ, nỗi buồn ấy, man mát, dìu dịu, dường như thoảng qua thôi. Chứ tuyệt nhiên không thấy nó bùng, hoặc gợn lên một chút hằn học, đắng cay. Nên đọc thơ ông, không gây cảm giác nặng nề, dù người đọc khó và kỹ tính nhất. Cũng như Nguyễn Bính, cuộc đời Vũ Hữu Định là chuỗi ngày dài khao khát tìm kiếm, trong men say với những bước chân giang hồ. Nhưng nó lại là chiếc vòng luẩn quẩn, Vũ Hữu Định không bao giờ đi tới đích. Cho nên, bốn mươi năm rong chơi, cuộc đời ông chỉ là những áng mây, bồng bềnh trong buổi chiều đông xám ngắt, buồn hay vui cũng chẳng thể giãi bày: “Chiều dựng mùa đông mây xám ngắt núi cao trời thấp có ta về giang hồ đâu có ai phong ấn mà nghĩ từ quan trở lại quê ——————————- Ta đi, có những ngày trú quán lòng mốc tình khô như lá bay ngồi quán suốt ngày trông thiên hạ ta có sầu không ta cũng chẳng hay…“ (Chẳng Hay) Thật là kỳ lạ, thoáng đọc qua Vũ Hữu Định, ta cứ ngỡ, trong những lúc bồng bềnh tỉnh say ấy, thi sĩ bất chợt viết ra những câu thơ, làm nao lòng đến như vậy. Nhưng khi bình tâm, đọc ông kỹ hơn, ta mới cảm được, cái lung linh, tinh túy đó, chỉ có thể được chiết, vắt ra từ cái quằn quại trong tâm hồn sâu thẳm, tỉnh táo hơn ai hết của thi sĩ. Biết là thế và rất tĩnh tâm đọc ông, nhưng đôi khi ta vẫn phải giật mình tự hỏi. Thi sĩ vờ? Hay Vũ Hữu Định đang say: “Anh là một gã giang hồ tới/ Lòng hoang như con lộ không đèn/ Ngồi với hồn sầu ly rượu cạn/ Sao mới vài ly mà đã say?”. Vâng! Vũ Hữu Định đã vờ say, để vắt ra những câu thơ rất tỉnh. Chỉ một chút hương tinh túy của đất trời, thi sĩ đã chưng cất lên bức tranh Quê Rượu, yên bình tuyệt đẹp. Trước cũng như sau Vũ Hữu Định, có nhiều thi sĩ đã dùng hương, khói bay để diễn tả tâm trạng, hay một nỗi nhớ quê xa…Như câu thơ Huy Cận “ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà“. Huy Cận bảo, không có khói. Thật ra hương khói ấy, đã có thường trực trong lòng thi sĩ, trong lòng người đọc rồi. Nhưng viết lạ như Vũ Hữu Định, có lẽ chúng ta ít gặp. Thi sĩ bảo, dường như đã say men, say rượu, nhưng đâu phải vậy (ông đang đùa đấy). Ông đang say cái đẹp, cái hương đầu mùa trong làn khói hoàng hôn xuống: “Tới đây thấy lúa vàng đang chín Đứng lại nhìn thôn xa khói bay Không biết nhà ai đâu nấu rượu Thoảng thoảng hương mùa đã muốn say“ (Quê Rượu) Có lẽ, không thể thơ nào ép nén ngôn từ, ý tưởng của người thi nhân, như thơ tứ tuyệt. Nó chỉ được(nở) bung ra, khi người thưởng ngoạn chạm đúng vào cái van nén đó. Cấu trúc thơ tứ tuyệt nhỏ là thế, nhưng lại dung tải những điều lớn lao khôn cùng. Thông qua hình tượng cụ thể, nhà thơ gửi vào đó cảm xúc, tư tưởng của riêng mình và đôi khi nó còn là của cả một xã hội đương thời hay chế độ xã hội đã qua…(Nói vui, làm thơ tứ tuyệt cứ như công việc của người thợ nén và nổ bỏng ngô vậy). Vũ Hữu Định cũng thế, ông có nhiều bài thơ tứ tuyệt hay, nhưng hai bài: Màu Trời Cũ, Cảm Mà Viết 3, được viết trước và sau 1975, tôi thích hơn cả. Có một điều kỳ lạ, cả hai bài đều có nội dung tư tưởng trùng lặp nhau. Nó như là khúc hát u hoài, mang mang niềm tiếc nuối. Dường như người thi sĩ cố giấu đi cái xót xa đau đớn đó. Nhưng trong cơn say, cơn mê, sự thật lại trở lại và nỗi đau kia đã vỡ òa trong ông. Đọc hai bài thơ này, ta chợt ngộ ra cái mâu thuẫn ngay trong nội tâm của thi sĩ. Và cả cuộc đời ông luôn phải đi tìm, giải quyết mâu thuẫn ấy: “Sáng hôm nào ngó lại Màu xanh trên trời cao Màu của trăm năm cũ Mà sao lòng ta đau“ (Màu Trời Cũ) “Khi tỉnh chẳng bao giờ ta khóc Lúc say mê khúc hát người xưa Một ý cũ như là trái đất Ngấm trong ta bật tiếng khóc òa“ (Cảm Mà Viết 3) Trong hành trình tìm kiếm đó, lúc nào Vũ Hữu Định cũng cảm thấy cô độc, dù xung quanh ông đầy ắp bạn bè. Và ông luôn luôn là người đi ngược lại những con đường. Để rồi khi thành phố về đêm, ông chỉ còn là người lỡ hẹn. Rồi những bước chân vô định ấy, in lên thành phố, một tiếng lặng câm, dù ông đang nghe thấy hàng nghìn tiếng động. Vâng! Đó là những bước chân đã lỗi nhịp. Dù không tiếng vọng, nhưng nó như ngàn nhát búa gõ vào hồn người. Bài “Tạm Trú“ là một bài thơ hay. Tôi nghĩ, có nhiều người chung hoàn cảnh, đau và thấm thía, khi đọc bài thơ này: “…trong đám đông anh lại càng cô độc bởi một nơi đâu cũng ăn tạm ở nhờ sợ cả lời chia vui thành thật bạn bè thì đông sao anh vẫn bơ vơ buổi tối xe lam muộn màng ế khách lại tới một nơi không hẹn không tìm anh đi ngược lại con đường xe chạy mỗi bước chân rời mỗi nhịp đau tim thành phố lặng là khi nghìn tiếng động không xô tan được khối lòng sầu chân anh bước, mắt chỉ nhìn phía trước tai nghe hoài một câu hỏi về đâu…” Bước chân đã lỗi nhịp, Vũ Hữu Định chơi vơi trong khoảng không rách nát. Sự cô đơn cùng cực trong cái hoang vắng của linh hồn, nhà thơ tìm đâu ra một tri kỷ? Thời chẳng còn những Thi Thánh, Thi Tiên, cùng với rượu thi sĩ tìm về với Thi Qủi Lý Hạ trong cõi u hoài. Đêm Mưa Thiếu Rượu Nhớ Lý Hạ, là một bài thơ như vậy. Vũ Hữu Định đã mượn Lý Hạ, để giãi bày sự cô đơn trong tận cùng nghèo khổ về cả vật chất lẫn tâm hồn của người thi nhân: “…Cứ tưởng nằm kề bên họ Lý Gác chân nhau nói chuyện biển dâu Ma quỷ sợ tâm hồn ướt rượu Gối chai không mà thương nhớ nhau Thời đại thánh thần đi mất biệt Còn lại bơ vơ một giống sầu Rót mãi, bao nhiêu tình cũng cạn Nâng ly, nhìn thấy tóc bạc mau…“ Bốn mươi năm trên cõi tạm của Vũ Hữu Định là vòng tròn luẩn quẩn. Cái luẩn quẩn ấy, có ngay từ trong tâm thức nhà thơ. Do vậy, bao khát khao, khi đi cũng như lúc trở về của ông đều mờ mờ, nhạt nhạt. Và con đường cuối của nhà thơ là con đường lang thang về lại cõi ao tù. Tuy hoang mang cay đắng là thế, nhưng ta vẫn thấy lời thơ nhẹ nhàng, như chính con người ông: “Bờ chiều sắc cỏ sông xanh Mây bay anh đứng lại nhìn mây bay Nỗi niềm vui với đắng cay Theo sông nước chảy theo ngày phù du Lang thang về cõi ao tù Lạ quen ai đó nghìn thu nhớ gì!“ (Không Đề) Đọc Luân Hoán và Hoàng Cát, thấy hai ông thi sĩ này, tử vì thơ đã thấy kinh, nhưng khi nghiên cứu Vũ Hữu Định, tôi còn thấy thất kinh hơn. Nói như từ ngữ thời nay, của mấy ông bà nghệ sỹ trẻ: Vũ Hữu Định đã cháy hết mình cho thi ca. Qủa thật, cháy hay đốt thế nào thì chưa biết, nhưng cứ để vợ con nheo nhóc, nhiều bạn bè dù rất thương Vũ Hữu Định, cũng phải phàn nàn về ông. Nói là như vậy, nhưng từ một khía cạnh nào đấy trong tâm hồn thi sĩ mới hiểu và cảm thông được cho ông. Nói như nhà thơ Đinh Trầm Ca: “Tôi không thích những người vô trách nhiệm, thiếu bổn phận…Hai mươi năm nay tôi lại giống anh lúc trước, tôi mới hiểu được và thương anh. Khi tôi hiểu được thì không còn Định nữa để mời một chén rượu cảm thông. Tôi không nghĩ anh là người ham danh, hay nhẹ nhàng hơn, có chút ưu ái hơn các bạn tôi rằng anh là người say đắm thơ, rượu. Tôi biết rằng những tháng năm đen tối đời anh không nhờ thơ, rượu thì không biết con người anh sẽ ra sao? Và cuối cùng thơ rượu đã cứu rỗi anh.“ Cuộc sống Vũ Hữu Định là những chuyến đi dài, ngắn. Trách nhiệm gia đình chắc chắn dồn lên vai người vợ trẻ. Tôi cho rằng, không phải Vũ Hữu Định ít nghĩ đến trách nhiệm gia đình, mà có thể ông còn nghĩ nhiều hơn đã tưởng. Nghiên cứu về Vũ Hữu Định, tôi thấy có nhiều bài thơ, ông viết về vợ con gia đình, đọc cảm thấy rưng rưng. Vâng! Cũng có lẽ, từ những vần thơ đắng chát này, không những bạn bè mà vợ con gia đình cảm thông cho thi sĩ phần nào chăng? “…Lần nào em sinh nở ta cũng phải vắng nhà tháng này em sinh nở ta lại trên đường xa …cám ơn người vợ khổ chiều nay ta khóc thầm uống những giọt rượu đắng ngày xa quê long đong…“ Cũng như nhiều nhà thơ khác, Vũ Hữu Định là người gắn bó, yêu quê hương, đất nước hơn bao giờ hết “ Mùa lúa năm nay đòng đòng đã trổ/ Anh yêu mùa yêu đất yêu quê“. Dường như, bài thơ nào viết về quê hương đất nước, của ông cũng hay. Lời thơ nhẹ nhàng, giầu hình tượng, tưởng như những nốt nhạc rót thẳng vào lòng người. Và có lẽ, chỉ có tình yêu trong sáng, chân thực người nghệ sĩ mới làm rung động lòng người đến như vậy. Có khi chỉ là làn khói bếp bay lên trong chiều hoàng hôn, bên đồng lúa vàng đang vào mùa gặt, hay một tiếng gọi đò trưa cũng làm tâm hồn ông thổn thức bồi hồi. Và có cơn bão về làm cho lòng ông quằn quại, đớn đau: “cơn bão lớn về bình nguyên giục giã run theo cây mùa lúa rạp buồn rầu cát bụi lộn đường bay tản về đâu khung cảnh dựng mùa nguyên sơ man dã con sông nước về tràn mọi ngả thuyền bè đi, đi mất tự bao giờ những bến chiều tấp nập mộng ban sơ đã hun hút trong triều lên trắng xoá…“ (Thời Tiết) Có thể nói bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ là chiếc đinh, đã đóng dính tên tuổi Vũ Hữu Định vào trang, thế kỷ hai mươi với những bài thơ hay của văn học đất Việt. Nó cũng giúp cho nhạc sỹ Phạm Duy, để lại cho đời một nhạc phẩm (cùng tên) mãi ru hồn người. Có người cho đây là bài thơ tình. Tôi nghĩ, không hẳn như vậy. Và câu chuyện bắt đầu, từ người lính chiến trên đồn biên giới, lần đầu làm thân lữ khách. Có phải người lữ khách đó là Vũ Hữu Định, hay thi sĩ đã hóa thân làm anh lính chiến ấy? Trong tâm trạng buồn tênh, trước khoảng trời xanh dường như đang thấp xuống, thi sĩ chợt thấy em đi trong sương khói mông lung huyền ảo, giữa cái lạnh chiều đông. Để rồi, chợt một phút xuất thần và có lẽ giây phút xuất thần đó đến với Vũ Hữu Định chỉ có một lần? Thi sĩ đã kịp vẽ lại. Thật là kỳ lạ, chỉ có bốn khổ thơ ngắn gọn đơn giản, thế mà dáng vóc, thần thái của phố núi hiển hiện lên rất hoang sơ mà lãng mạn. Nó như là bức tranh hai mặt, thành phố đã tạc vào em, hay em đã tan trong thành phố, làm người lữ khách phải ngất ngây. Cho nên, dù quen, hay người lần đầu đến với Pleiku, trong hoàn cảnh, tâm trạng nào, khi đọc(nghe) cũng cảm thấy gần gũi và không khỏi bồi hồi xúc động. Và tôi tin rằng, chắc chắn mai này, sẽ có một con đường Vũ Hữu Định mờ mờ sương khói, được gắn với với bài thơ này, trên dáng hình em phố núi Pleiku. Không hiểu do vô tình hay cố ý, ở trong nước, khi viết, đọc và hát, người ta đã đổi từ TRÊN ĐỒN trong câu thơ nguyên bản: Mai xa lắc trên đồn biên giới, là một câu thơ sống, nó sẽ hiển hiện ra sự sống, hình bóng người lữ khách, người lính trên đồn biên cương, bằng từ BÊN ĐỒI, làm cho câu thơ trở thành câu thơ chết, vô nghĩa vô hồn: Mai xa lắc bên đồi biên giới. Hay câu: Đi dăm phút đã về chốn cũ. Từ Dăm trong câu thơ bị thay bằng con số đếm NĂM (5) làm cho câu thơ bị đóng khung, gò bó. Từ dăm, ba mang tính ước lệ, làm cho câu thơ thoáng đạt và hay hơn rất nhiều. Thật vậy, trong một bài thơ chỉ bị thay một từ, một câu ý nghĩa của cả bài sẽ khác đi nhiều lắm. Và thật kỳ lạ, trên bia mộ thi sĩ Vũ Hữu Định cũng thấy khắc câu thơ vô nghĩa “Mai xa lắc bên đồi biên giới“ này? Tôi nghĩ, nếu như vì lý do gì đó, không được sử dụng nguyên bản, nên đổi câu thơ, đoạn thơ khác của thi sĩ. Vũ Hữu Định không thiếu những câu thơ hay. Nghe nói, bia mộ này, do các nhà thơ bạn của thi sĩ cùng với gia đình dựng lên? Chúng ta hãy đọc(nghe) bài thơ này, để cảm lại tài năng của thi sĩ Vũ Hữu Định nhé: “phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật buồn anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần phố xá không xa nên phố tình thân đi dăm phút đã về chốn cũ một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng em Pleiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt da em mềm như mây chiều trong xin cảm ơn thành phố có em xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc trên đồn biên giới còn một chút gì để nhớ để quên.“ Sinh ra và lớn lên, rồi phải sống cùng chiến tranh, nên Vũ Hữu Định nhận ra sự tàn khốc của nó. Đọc bài thơ Trên Đoạn Đường Về Quê của ông, được viết vào năm 1972, làm tôi chợt nhớ đến câu thơ, của Nguyễn Duy “nghĩ cho cùng/mọi cuộc chiến tranh/phe nào thắng thì nhân dân đều bại“ Tôi nghĩ, đây là bài thơ rất hay, viết về chiến tranh trong kho tàng thi ca đất Việt. Nó không những hay về nội dung nghệ thuật, mà còn bộc lộ rõ tư tưởng, cái nhìn khách quan của nhà thơ về chiến tranh. Cuối bài thơ là một câu hỏi, đọc lên ta cảm thấy đau đến xé lòng “Những dòng máu đã thấm tràn mạch đất/Có làm tương lai con cháu huy hoàng?“. Huy hoàng sao được khi con cháu chúng ta cũng là nhân dân. Đã là nhân dân thì sự thất bại là điều không tránh khỏi. Và tương lai, đã thấy những gì từ mấy chục năm qua? “Lửa đã cháy đường ra quê em Lửa đạn, lửa trời đốt người nghiệt ngã Lửa đã cháy trong lòng anh hóa đá Giữa biển người thành thú bò ngổn ngang Trong hai lằn đạn giữa đồng hoang Máu chảy ngập chân lúa gầy cỏ dại Máu đã đỏ con đường anh đi lại Của những ngày xưa yêu dấu vô cùng Ôi con trẻ cũng biết tìm sự sống Bò giữa hôn người vừa chết nát thân Đêm ngã xuống vô tình con trăng bạc Những tiếng gọi gào sao không động từ tâm Lửa rực đỏ treo trăm đường sinh tử Trong đêm cay, đêm địa ngục hãi hùng Mẹ thét tìm con tóc dài điên dại Xiêu vẹo giữa đường chết đuổi sau lưng Lửa đã cháy đường ra quê em Lửa đã cháy một đoạn lòng của mẹ Ôi cái chết có còn chăng lý lẽ Có lý lẽ nào đã giết anh em Ðường ra quê em trăm ngàn cay đắng Lửa hạ đạn gào trăm tiếng kêu la Những dòng máu vô tình vô tội Ðã chảy lên nhau thành suối chan hòa Lửa Quảng Trị lửa rượt về Mỹ Chánh Rải những thây người gục giữa đồng khô Những dòng máu đã thấm tràn mạch đất Có làm tương lai con cháu huy hoàng?” Với tôi, một số bài thơ viết về tình bạn, tình yêu đôi lứa, tôi đã đọc, không phải là những bài thơ hay của Vũ Hữu Định. Viết về tình bạn, tình yêu của ông thường nặng tính kể lể, liệt kê. Chứ hoàn toàn không triết lý sâu sắc viết về tâm trạng, thân phận con người như trong thơ tứ tuyệt. Hay trữ tình, giầu hình tượng như viết về quê hương đất nước. Hôm rồi, có một nhà thơ gửi cho tôi tập Thơ Vũ Hữu Định Toàn Tập, do nhóm nhà thơ Trần Hoài Thư sưu tầm, nhà in Thư Ấn Quán, Hoa kỳ. Đây là tập thơ thứ hai của Vũ Hữu Định. Nhưng tôi tin chưa đầy đủ, thơ của thi sĩ vẫn còn luẩn quất đâu đó. Trong tập thơ này, có bài Một Chiếc Gương Soi, rất dở. Lời thơ sên sến, nhạt nhạt. Không biết Vũ Hữu Định viết bài thơ này vào thời gian nào?(có sự nhầm lẫn khi sưu tầm hay không?) Nếu xóa tên tác giả đi, tôi tin, không ai nghĩ, đó là thơ của Vũ Hữu Định: “Với số tiền còn lại ngày ở Sài Gòn Em sẽ soi gương mỉm cười rẽ tóc Em sẽ nhìn để nhớ anh hôn Mua cho em chiếc gương tròn bỏ bóp Quà Sài Gòn về tặng người yêu Buổi trưa nắng trong vườn xanh Đại Nội Em sẽ vì anh tô lại môi thơm Để em nhớ hàm răng em có ngọc Mắt em đa tình, em sẽ soi gương Để nhớ anh những ngày xa cách Tập lại duyên cài lại tóc hoa hường Anh còn lại năm mươi đồng trong túi Không mua được gì ngoài một chiếc gương Bởi anh nghĩ xa nhau còn để nhớ Trong gương soi anh hôn hết nỗi buồn“ Cứ tưởng mới đây thôi, thế mà đã trên ba mươi năm, Vũ Hữu Định từ bỏ hành trình “đi học làm thơ, xin phần rượu tặng“ trong nhân gian, để về đối ẩm, ngâm thơ cùng Thi Qủi Lý Hạ. Bốn mươi năm cuộc đời là bốn mươi năm thi sĩ Vũ Hữu Định khao khát, mải miết đi tìm. Tuy nó ngắn ngủi và đường đi chưa tới…nhưng hình ảnh ông, thơ văn ông để lại cho đời, vẫn mãi đậm sâu trong lòng bạn bè và người đọc. Leipzig 10-4-2014 Đỗ Trường
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2014 5:28:24 GMT 9
Thơ Kháng Chiến Dân Tộc Một phân định mới: (1945-49) Viên Linh Bài ghi chép dưới đây là một phần cuộc nói chuyện về Thơ Kháng Chiến Dân Tộc theo phân định mới (1945-1949). Bốn câu hỏi của nhà văn Phan Nhật Nam đã được tác giả Viên Linh trả lời như dưới đây: Tình quân dân thời kháng chiến theo tranh vẽ của Ng. V Hiến trên bìa tờ Vui Sống, cơ quan truyền bá vệ sinh và y học của Cục Quân Y xuất bản tại Hà Nội năm 1946. (Hình Viên Linh cung cấp) Phan Nhật Nam: Thêm một lần, chương trình VHVN hân hạnh giới thiệu một danh tính thân quen, vị khách quý được lòng mến mộ tin cậy của khán thính giả đài SBTN trong thời gian qua với những thảo luận nghiêm túc, phong phú chuyên đề văn hóa, văn nghệ: nhà văn, thi sĩ Viên Linh, chủ nhiệm chủ bút nguyệt san Khởi Hành, một trong những người hàng đầu bền bỉ duy trì, phát triển nguồn mạch văn hóa dân tộc suốt hơn 30 năm qua tại hải ngoại - Dòng văn hóa sinh động, nhân bản của Miền Nam (thành hình từ 1954). Còn hơn thế nữa, đấy cũng là ngọn nguồn sinh mệnh linh diệu của chung dân tộc Việt. Câu chuyện trình bày hôm nay xác chứng giá trị của chữ, nghĩa, lời thơ đã một lần vang dội núi sông, giữ lại trong lòng người giá trị muôn thuở của tình yêu: yêu nước và yêu con người dân tộc. Giá trị ấy hôm nay người chủ biên Khởi Hành quảng diễn với lòng thắm thiết qua chuyên đề: Thơ Kháng Chiến Dân Tộc giai đoạn 1945-54, được hưởng ứng nồng nhiệt của độc giả khắp nơi qua tờ báo ông chủ trương. Mời anh VL nói về chủ trương tổng quát của Khởi Hành và nay là cuộc “Phỏng vấn ngỏ về Thơ Kháng Chiến Dân Tộc giai đoạn chín năm 1945-54.” Viên Linh: Sinh hoạt VHNT một nước nào, một cộng đồng nào mỗi năm đều có những mùa, những thời điểm tổng kết, trước khi sang năm mới, mùa mới. Nó tới cao điểm bằng các giải thưởng. Không một quốc gia nào không có giải văn chương, giải kịch nghệ, giải ca nhạc. Vì cộng đồng tị nạn VN là một cộng đồng lưu vong, mà cộng đồng lưu vong nào thầy thợ cũng lẫn lộn, và trong lưu vong, vào một xã hội mới mà giá trị thường bị đánh giá lầm lẫn bằng tiền bạc, một người lính kiếm được 15 đồng một giờ đã có thể coi thường cấp chỉ huy cũ chỉ vì ông thầy kiếm có 10 đồng một giờ. Sự đảo lộn ấy cũng tương tự nơi giới báo chí, xuất bản: cứ có một ngàn là có thể in một tập thơ, tập truyện, nhưng in rồi không ai mua cả, nhưng cũng tứ thành nhà văn nhà thơ, trong sự hỗn độn. Chúng tôi thành lập Giải Văn Chương là muốn nhắc nhở những người vô tâm rằng, cái gì cũng có giá của nó. Một năm có hàng ngàn cuốn sách in ra, mà chỉ có vài cuốn có giá trị thôi. Nhưng với một tờ báo văn học như Khởi Hành, giải thưởng của chúng tôi có một ý nghĩa khác: Ðất nước đã hết chiến tranh mà sao nhà văn không được tự do cầm bút? Vì thế, mục đích đầu tiên của Giải Văn Chương Khởi Hành là trao cho những nhà văn chân chính không còn được cầm bút trên quê hương mình. Năm 2005 chúng tôi trao cho Nguyễn Thụy Long: nhà văn nổi tiếng của miền Nam phải sống bằng nghề sửa xe đạp ở đầu phố. Năm 2007 chúng tôi đã tuyên bố trao Giải cho nhà thơ Hữu Loan, một thi sĩ tài ba, một ông tú tài Tây nhưng phải làm nghề thồ đá để mưu sinh nuôi gia đình. Chúng tôi muốn mọi người nhớ rằng Việt Nam chưa có tự do, VN chưa phục hồi được các giá trị văn hiến của ông cha, của một nước có trường đại học đầu tiên, có Văn Miếu, có Quốc Tử Giám từ thế kỷ XI. Việt Nam chưa biết trọng giá trị trí thức, nhân văn, để những tài ba như Hữu Loan bị đày đọa trong tăm tối. Nó hỗn độn trên mọi lãnh vực, ta cần nhìn cho rõ mọi việc, và mỗi người đóng góp phần mà mình có khả năng hơn cả, để cho sự việc tốt đẹp dần lên. Phan Nhật Nam: Trước khi đi vào chi tiết của chủ đề câu chuyện Thơ Kháng Chiến với những tác giả tiêu biểu, mời anh cho nhận định tổng quát về người và việc của giai đoạn “1945-54” dựa trên những dấu mốc lịch sử quan yếu. Mà từ đấy, không những chỉ riêng đối với người làm công tác văn hóa, văn nghệ, sáng tác thi ca, nhưng vận mệnh đất nước cũng chuyển động, thay đổi mạnh mẽ mà hệ quả tác động kéo dài đến tận hôm nay đối với mỗi người Việt trong nước cũng như hải ngoại. Viên Linh: Tài ba không được tưởng thưởng, trọng dụng, cũng như tội ác không bị trừng phạt sẽ dẫn xã hội tới chỗ bất công, u minh, nghịch tặc, vô luân, vô văn hóa. Ở các nước văn minh, trong các xã hội công dân, cứ vài chục năm người ta bạch hóa các hồ sơ mật. Ðể làm gì? Ðể không cái gì có thể ém nhẹm được mãi. Ðến hồ sơ KGB của Liên Xô dần dần cũng được phổ biến, nhờ thế người ta biết được trùm công an Liên Xô là Béria đã ngồi xe hơi mui kín ra phố bắt cóc phụ nữ về hãm hiếp ra sao, rồi Béria bị thanh toán như thế nào... Cũng nhờ sự bạch hóa ấy, người ta biết bà Nguyễn Thị Minh Khai là vợ Lê Hồng Phong, hai vợ chồng dự Ðại Hội 7 của Quốc tế Cộng sản ở Mạc Tư Khoa vào năm 1934. Thế rồi trên giấy tờ thì bà Minh Khai cũng là vợ ông Hồ, cũng ở Mạc Tư Khoa... Cho nên phải nhìn lui dĩ vãng, phải phán xét dĩ vãng cho công minh để làm gương cho hiện tại và tương lai. Gần đây Hà Nội phục hồi tư cách công dân cho một số nhà văn nhà thơ từng tham gia cuộc nổi dậy đòi tự do sáng tác, tách rời chính trị khỏi văn nghệ, ta quen gọi là vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Thế nhưng họ không có một lời xin lỗi các nạn nhân hay gia đình họ, những người đã bị ức chế hà hiếp bị giam hãm tù tội và sách nhiễu khủng bố ba bốn chục năm trời, thiếu gì người như nhà thơ Trần Dần đã cắt mạch máu tự tử. Bởi thế Khởi Hành đưa ra chủ đề Thơ Kháng Chiến Dân Tộc giai đoạn chín năm 1945-1954. Ðể làm gì? Thưa để đăng lại nói lại những bài thơ hay những thi sĩ yêu nước như Hữu Loan, Văn Cao, Nguyễn Bính, Quang Dũng... Tại sao thơ yêu nước như thế, sống thanh bạch như thế, mà lại bị hành hạ như những phạm nhân tội hình như thế. Chúng ta hãy công bình với họ. Nhưng khổ một nỗi các thế hệ sau không biết tới sự bất công họ và gia đình họ đã trải qua. Cho nên phải phơi bày sự bất công ấy ra. Cho nên cần cho những người chưa biết, những thế hệ sau hiểu rằng: họ phải biết, nên biết, hãy tìm hiểu lại lịch sử văn học cũng như lịch sử dân tộc, để xem ai là tội nhân, ai là thủ phạm. Thủ phạm vẫn còn đó. Hãy nhìn lại chín năm Thơ Kháng Chiến Dân Tộc để biết ai là dân tộc, ai là yêu nước. Phan Nhật Nam: Trong bài viết chủ lực ở Khởi Hành H số 130 tháng 8.2007 nhằm trình bày quan điểm tổng quát về “Thơ Kháng Chiến/Giai Ðoạn 1945-54,” anh đã có một phân định quan trọng về hai thời đoạn “1945-50; 1950-54.” Xin anh nói rõ hơn về sự phân định căn cứ trên hai thời điểm này... Viên Linh: Chúng ta cứ quen nói tới Chín Năm Thơ Kháng Chiến mà không nhìn vào tình hình chính trị lúc ấy, để thấy rằng trên thực tế, Thơ Kháng Chiến Dân Tộc thực sự chỉ có từ 1945 kháng chiến chống Pháp tới hết năm 1949. Cũng tương tự ở Việt Nam, trong năm cuối cùng của Thế Chiến Thứ Hai, Trung Hoa bị phát xít Nhật chiếm đóng. Khi Nhật đầu hàng quân Ðồng Minh, thì trong khi quân Anh vào giải giới quân Nhật ở miền Nam VN, quân Tàu đại diện Ðồng Minh vào giải giới quân Nhật ở miền Bắc VN, thì quân Liên Xô đại diện Ðồng Minh vào Trung Hoa giải giới quân Nhật. Ðến khi quân Nga rút ra, họ trao những phần đất Trung Hoa họ kiểm soát cho quân của Mao Trạch Ðông. Lúc ấy thủ phủ của Mao ở Diên An, và thủ phủ của quân Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Staline, Mao hoàn toàn làm chủ Trung Hoa vào tháng 10, 1949. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tức là Trung Cộng chính thức thành lập từ 1 tháng 10, 1949. Nga công nhận ngày hôm sau. Và Nga-Hoa ký với nhau một hiệp ước liên minh 30 năm. Những gì xảy ra chúng ta có thể đoán được: ấy là từ tháng 10, 1949, cố vấn TC đã tới Việt Bắc, Thơ Kháng Chiến Dân Tộc VN phai nhạt dần, những Hữu Loan, Quang Dũng, Hoàng Cầm mờ nhạt dần trên diễn đàn văn nghệ, và nổi lên những Tố Hữu, Xuân Diệu, Ng Ðình Thi. Thơ Kháng Chiến Dân Tộc thực sự im lặng từ 1950 cho tới 1954. Giai đoạn 4 năm sau này là thơ cộng sản núp danh kháng chiến, hay lấy dữ liệu kháng chiến để tuyên truyền cho nhân sự đảng. Phan Nhật Nam: Trong số báo vừa kể, anh có gởi đến quý văn hữu, bạn đọc lời ngỏ về “Thơ Kháng Chiến/Giai Ðoạn 1945-54” để người đọc theo dõi và trình bày ý kiến. Anh có thể nhắc lại ý kiến ngỏ này, đồng thời nói cùng quí khán thính giả SBTN vài ý kiến tiêu biểu của độc giả KH, để từ đấy, khán thính giả SBTN chúng tôi có thể tham gia với Khởi Hành một cách rộng rãi, tích cực hơn... Vì giai đoạn “1945-54” không phải chỉ quan trọng riêng đối với quá trình sáng tác thi ca mà đã một giai đoạn vô cùng trọng đại của lịch sử dân tộc, nhưng đến nay, vẫn chưa có một giải đáp đồng bộ, chung nhất (nhất là đối với những độc giả trẻ lớn lên từ hải ngoại, hoặc ngay cả những người trong nước cũng có lắm điều ngộ nhận do bị nhồi nhét lâu dài bởi những giải thích cưỡng ép từ phía nhà cầm quyền cộng sản). Có thể bằng chứng liệu thi ca, chúng ta sẽ giúp họ có được cách nhìn chính xác, sát với sự thật, thuận tình người hơn chăng. SBTN Thơ kháng chiến và vài dấu mốc Viên Linh Giai đoạn 1945-49, tinh túy của thơ kháng chiến là lòng yêu nước, đến khi cộng sản thắng Quốc Dân Ðảng ở Tầu, từ 1949-54, thơ kháng chiến Việt đỏ bầm màu Máu Ðấu Tố. (Bài này có hai phần, phần A: viết về bối cảnh của đề tài giai đoạn chín năm kháng chiến; Phần B: Thơ và thi sĩ kháng chiến chính thống.) Thanh Niên Sinh Viên Tự Vệ Thành Hà Nội, là thanh niên sinh viên trí thức trẻ, đa số chỉ có gậy gộc, có người còn mặc đồ lớn, đội mũ phớt. (Hình trong “A Chronicle of The War,” Tess Press, N.Y., 2003) I. Thơ Việt Nam 1945-54: một thời kỳ, hai giai đoạn Viết về một giai đoạn thi ca của một nước là công việc của một ban nghiên cứu, một bộ phận chuyên ngành, một nhóm sưu tầm phân loại thơ, một viện văn học; nhưng ban nào, bộ phận nào, nhóm nào, viện nào trên tiêu chuẩn thành lập và sinh hoạt cũng nhất thiết cần qui tụ được những cây bút mà lương tri, sự nhận thức tối thiểu phải hiển lộ sự công bằng, đạt mức đạo đức nghề nghiệp, tiêu chuẩn văn-học-sử căn bản, và đặt quyền lợi đất nước lên trước hết; trên bất cứ một đảng chính trị nào. Ðiều này chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam từ sau 1954, và chưa từng có ở Việt Nam từ sau tháng 4, 1975. (Do đó, xin nhắc nhở các bạn trẻ khi cầm bút nghiên cứu về văn học Việt Nam, trước tiên là cần sưu tầm tài liệu liên hệ ở ngoài nước: những gì đang có trong sách vở xuất bản tại miền Bắc từ sau 1954 phần lớn là không đáng tin. Hãy kiếm tìm tài liệu trong dân dã, những bản thảo chưa in, những sách vở cũ trong thư viện nước ngoài, và nhất là những tài liệu nơi gia đình hay thân hữu các nạn nhân. Thế hệ sau phải sửa lại, phẩm bình lại văn học sử - ở đây chỉ nói tới thơ - bằng tất cả các nguồn như vừa nói, hầu nói ra được sự thật như sự thật tại thân, sự thật khoa học, sự thật ở trên mọi cương lĩnh ý thức hệ.) Trước hết, Thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1954, Thơ Kháng Chiến, có phải là sản phẩm của cuộc kháng chiến do sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam mà có, như họ tự nhận? Tự nhận mình lãnh đạo, nhưng những bài thơ kháng chiến hay nhất lại chỉ được phổ biến ở dưới vĩ tuyến 17, còn rất ít người ở miền Bắc được đọc, vì bị cấm. Những bài thơ ấy không có một chút ảnh hưởng nào của lãnh đạo, hay nói cách khác: lãnh đạo không công nhận những bài thơ ấy, chỉ có quần chúng chấp nhận những bài thơ ấy. Có sự mâu thuẫn ấy là vì kháng chiến có hai giai đoạn: I (45-49) và II (50-54). Giai đoạn I là lúc chưa có các cố vấn Tầu; giai đoạn II là sau khi Mao Trạch Ðông đuổi được Quốc Dân Ðảng Tưởng Giới Thach ra Ðài Loan, Trung Cộng ép HCM chặt hơn, đẩy miền Bắc sâu hơn vào quỹ đạo đỏ, đấu tố xảy ra ngay cả khi Việt Minh chưa chiếm được nửa đất nước. Những bài thơ kháng chiến hay nhất, tồn tại cho tới giờ, và mãi mãi là những bài làm trước 1950. Ða số các tác giả những bài thơ ấy không còn được cầm bút, và đã /hay còn/ nếu không ở trong các nhà tù, các trại tập trung lao động, thì vẫn bị công an văn hóa theo dõi, hạch hỏi, ngay trong thế kỷ XXI. Những người cầm quyền hiện nay không thể hãnh diện cái mà họ không có, cái mà họ đã tàn phá hủy diệt, như họ tàn phá hủy diệt thơ kháng chiến chính thống, người kháng chiến chính thống thuộc giai đoạn 45-49. Vì thế mà trong năm bảy bộ tuyển tập thơ đồ sộ đã xuất bản ở Việt Nam, không có tuyển tập nào về Thơ Kháng Chiến 45-54. Thơ ấy được tồn tại phổ biến là do độc giả miền Nam, báo chí miền Nam, trong văn học văn chương miền Nam từ 45 tới 54, và tại hải ngoại sau 75. Thơ ấy không thuộc về chế độ hiện tại, mà thuộc về Việt Nam từ lúc nó được sáng tác cho tới bây giờ, ở ngoài chế độ và thể chế hiện hữu. Những bài kháng chiến in trong sách vở Hà Nội phần lớn là những bài đã có chỉ đạo, làm từ 1950 về sau. Hãy nhớ hàng chục năm nhục nhằn đói khổ và bị bẻ bút của những Quang Dũng, Hữu Loan, Trần Huyền Trân, Văn Cao, Trần Dần, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Hoàng Tố Nguyên, Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Yên Thao... Hãy nhớ hàng chục năm bị quên lãng, bị cấm phổ biến của những bài thơ nhan đề Ðôi mắt người Sơn Tây, Tây Tiến, Màu Tím Hoa Sim, Ðèo Cả, Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc, Tỉnh Giấc Chiêm Bao, Trường Ca Sông Lô, Ðêm Liên Hoan, Tống Biệt, Tha La Xóm Ðạo, Phạm Thái, Nhà Tôi... Hãy nhớ sự việc đã xảy ra cho những bài thơ kháng chiến và tác giả những bài thơ ấy sau 1954 cũng đã và đang xảy ra cho thơ văn miền Nam sau 75. Cho nên vấn đề thẩm định thơ văn ngoài chế độ luôn luôn cần phải nhìn lại, phải trải ra, và mỗi người một chút, góp phần mình vào sự bảo tồn văn học sử chính thống của dân tộc, không phải chính thống với đảng cộng sản. Trả lại và lưu lại cho người dân, những thế hệ sau, những tinh hoa của chủng tộc, dù ở miền nào, phía nào của lãnh thổ. Văn hiến ngàn đời không một triều đại, một chế độ nào - nhất là tạo lập bằng dối trá và vũ lực - có thể nhân danh gì để sửa đổi, thêm bớt. Văn hóa văn chương nghệ thuật của một thời đại là hoa trái phong vận của thời đại đó, những thế hệ tinh hoa của xã hội cộng đồng đó, kẻ cầm quyền - nhất là kẻ cầm quyền về từ rừng núi đầm bãi - có phán-định đánh giá thu-dụng hay phá hủy tận tình đến đâu, cũng chỉ là những vó ngựa gươm giáo Mông Cổ giữa các kinh thành văn minh nhân loại: vó ngựa dày xéo và gươm giáo tàn sát sẽ lặng lẽ biến mất hay bị đồng hóa, và những kinh thành rực rỡ của nhân loại mãi mãi còn, và càng ngày càng nhiều thêm. Trong khi tìm hiểu Chín Năm Thơ Kháng Chiến Dân Tộc, sẽ còn được nói tới bởi tác giả này, chúng tôi gửi quí văn hữu, quí bạn đọc một câu hỏi, mong ước trong tương lai chúng ta sẽ có thêm nhiều tiếng nói, nhiều góp ý, nhiều tài liệu đóng góp, và một đúc kết vô tư, và đúng với tiến trình hình thành tự nhiên của dòng thơ ấy. Câu hỏi gửi tới các văn hữu, bạn đọc, như sau: -“Xin anh chị một phát biểu về Thơ Kháng Chiến Dân Tộc giai đoạn 1945-1954: Tinh túy trong thơ của giai đoạn này với các thanh niên thi sĩ (*) là lòng yêu nước, tình quê hương, hay ý thức hệ chủ nghĩa, hay gì khác? Anh chị nghĩ thế nào, tìm thấy gì về vai trò (hay vị trí) của thơ (hay thi sĩ) trong vận động của cách mạng, của thời thế, của đời sống?” Câu trả lời gửi cho chính bạn. Khi bạn trả lời rành rọt câu hỏi ấy cho chính mình, bạn đã nắm vững vấn đề “Thơ Kháng Chiến Dân Tộc.” (* Chú thích câu hỏi: Gọi “thanh niên thi sĩ” vì khi bắt đầu giai đoạn chín năm kháng chiến, 1945, họ đều vừa qua hai mươi tuổi, trừ Trần Huyền Trân sinh 1913, Hữu Loan sinh 1916. Những người khác: Quang Dũng sinh 1921, Nguyễn Bính sinh 1918, Thâm Tâm sinh 1917, Trần Dần sinh 1924, Hoàng Cầm sinh 1921, Vũ Anh Khanh sinh 1926, Hoàng Tố Nguyên sinh 1929.) 2. Một vài dấu mốc thời sự Ðã hơn nửa thế kỷ qua, nhiều sự việc đã bị phai mờ trong trí nhớ, mặt khác đối với thế hệ đương thời, có nhiều sự việc mà hai ba thế hệ sau chưa từng một lần đọc biết, nên chúng tôi thấy cần phải tóm tắt lại dưới đây một số ngày tháng ấy, như để cùng ôn lại chuyện cũ mà chúng ta đang nói tới: 9 tháng 3, 1945: “Từ 20 giờ, Nhật đã nổ súng dữ dội ở Hà Nội và khắp Ðông Dương, đánh quân đội Pháp. [*Lúc ấy Ðông Dương, trong có Việt Nam, là thuộc địa của Pháp; toàn quyền Pháp ở Ðông Dương là Decoux. Nhật, một trong ba nước thuộc phe phát xít, quân phiệt với Ðức và Ý, đang xâm lăng thế giới.]... Decoux bị Nhật giam giữ tại dinh Norodom, Sài Gòn. Ở rất nhiều nơi, quân Pháp hàng ngay. Nội đêm nay, Nhật làm chủ tình thế.” (Ðoàn Thêm, 1945-1964, Hai Mươi Năm Qua. Các trích dẫn ở dưới cũng từ cuốn sách này.) 11 tháng 3, 1945: “Viện Cơ Mật của triều đình Huế tuyên bố: Hiệp Ước Bảo Hộ 1884 bị bãi bỏ, Việt Nam khôi phục chủ quyền.” 19 tháng 8, 1945: “Quân Nhật vẫn canh gác trên nhiều ngả đường ở Hà Nội. Biểu tình lớn trước Nhà Hát Lớn, để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc của Việt Minh.” 2 tháng 9, 1945: “Các đại biểu Nhật ký văn kiện đầu hàng trước Tướng Mac Arthur trên chiến hạm Missouri của Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh ra mắt dân chúng tại bãi Cột Cờ Hà Nội...” 6 tháng 9, 1945: “Phái bộ quân sự Anh [đại diện phe Ðồng Minh] tới Sài Gòn giải giáp quân Nhật.” 9 tháng 9, 1945: “Quân đội Trung Hoa [đại diện phe Ðồng Minh] bắt đầu tới Hà Nội để giải giáp quân Nhật.” 15 tháng 9, 1945: “Rất nhiều quân Tầu tới Hà Nội; tổng số sẽ là 180,000 người, thuộc các lộ quân Vân Nam và Quảng Tây. Một phần bộ đội của Việt Nam Quốc Dân Ðảng [nghe nói trong có nhà thơ Quang Dũng] và của Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, cũng từ Trung Hoa về Hà Nội. 28 tháng 9, 1945: “Lễ đầu hàng của quân đội Nhật tại Ðông Dương, trước Tướng Lư Hán và đại diện đồng minh, ở dinh toàn quyền cũ.” 30 tháng 9, 1945: “Theo nhiều tin đồn, Tướng Tiêu Văn và Tướng Lư Hán đã nhận nhiều quà tặng như bộ đồ hút thuốc phiện bằng vàng. [của HCM, để làm lơ cho CSVN dễ bề hoạt động.] 5 tháng 10, 1945: “Tướng Leclerc [Pháp] tới Sài Gòn với một số quân, và tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ.” [Mồng 6: Pháp đổ bộ Vũng Tầu. Mồng 9: Pháp chiếm Tây Ninh. 25 tháng 10: Pháp chiếm Mỹ Tho. 28: chiếm Gò Công. 29: chiếm Vĩnh Long. 30: chiếm Cần Thơ.] 11 tháng 11, 1945: [Dưới nhiều áp lực, và để đánh lạc lối dư luận, HCM làm một chuyện chỉ Mạc Tư Khoa có quyền làm:] Ðảng Cộng Sản Ðông Dương tuyên bố tự giải tán.” 28 tháng 1, 1946: “Tướng Anh Douglas Gracey [đại diện Ðồng Minh] chuyển giao quyền hành cho quân đội Pháp và rời khỏi Sài Gòn.” [Trong khi đó Pháp đã chiếm thêm rất nhiều tỉnh, kể cả ở miền Trung, và Pháp đòi đưa quân ra Bắc, nhưng các tướng Tầu [đại diện Ðồng Minh] nói còn đợi lệnh Tướng Mac Arthur.] 16 tháng 2, 1946: “HCM tiếp Sainteny và nhận nguyên tắc điều đình với Pháp: Việt Nam có thể đứng trong Liên Hiệp Pháp.” 2 tháng 3, 1946: [Thấy tình hình nguy kịch, HCM đành thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia để lập một Chính phủ Liên hiệp chống Pháp.] Chủ tịch: HCM, cộng sản. Phó chủ tịch: Nguyễn Hải Thần (Việt Cách). Nội Vụ: Huỳnh Thúc Kháng. Ngoại vụ: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (Ðại Việt). Cố vấn: Vĩnh Thụy (Bảo Ðại). 6 tháng 3, 1946: “HCM ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, cho Pháp đổ bộ lên trên vỹ tuyến 16 để thay thế Tầu giải giáp quân Nhật.” [Sau hiệp định này, các đảng phái quốc gia tổ chức biểu tình phản đối HCM, và Pháp.] 19 tháng 5, 1946: “Cao ủy D'Argenlieu tới Hà Nội gặp HCM. Có lịnh treo cờ, vì nghe nói hôm nay là ngày sinh nhật chủ tịch.” [Những ngày tiếp theo, Pháp tiếp tục chiếm đóng nhiều tỉnh thành khách của Việt Nam, trong khi ấy vệ quốc quân (đa số là quân Việt Minh của Võ Nguyên Giáp) tấn công bộ đội Việt Cách ở các nơi. Ông Nguyễn Hải Thần lại cùng một số bộ đội Việt Quốc, Việt Cách lánh sang Trung Hoa. Việt Minh đánh Việt Quốc ở Phủ Lạng Thương và Lạng Sơn. 11 tháng 7, 1946: các đảng viên các đảng phái Quốc Gia bị quân Võ Nguyên Giáp lùng bắt khắp nơi, ngay cả ở Hà Nội.] 1 tháng 11, 1946: “Theo báo Cứu Quốc, hơn 300 người bị bắt ngày 29.10 và đa số sẽ bị án trí.” 20 tháng 11, 1946: Nổ súng tại Hải Phòng giữa Pháp và Việt Minh. 3 tháng 12, 1946: Lính Nhảy Dù Pháp phá phách Phòng Thông Tin Hà Nội. 19 tháng 12, 1946: Nổ súng tại Hà Nội giữa Thanh Niên Tự Vệ Thành và quân Pháp. [Bộ đội Việt Minh đã ngầm rút hết từ hôm trước, theo lệnh Võ Nguyên Giáp.] Ðêm 19 tháng 12, 1946, Hà Nội nổ súng Thanh Niên Sinh Viên Tự Vệ Thành Hà Nội, đa số chỉ có gậy gộc, nhưng chiến đấu hăng hái vì nhiệt tình yêu nước. Họ chết nhiều vì xông vào khu nhà của người Pháp ở, và người Pháp đã biết trước, từ trong bắn ra trong khi xe tăng thiết giáp của họ chạy ruồng trên đường phố bắn rà. Sau khi Tự Vệ Thành rút lui, cuối tháng 2, 1947, Pháp trả thù người Việt, bắt giết la liệt khắp nơi trong thành phố. Theo Hoàng Văn Ðào, trong sách Việt Nam Quốc Dân Ðảng, nội trong một căn hầm cạnh Tòa án Hà Nội có vài ngàn cái xác. Ða số Tự Vệ Thành là thanh niên sinh viên trí thức trẻ, còn bộ đội cộng sản ở vòng ngoài và ngay trưa hôm sau đã lên xe rút hết vào rừng sâu. Hoàng Cơ Thụy trong Việt Sử Khảo Luận trích cuốn sách của anh bộ đội tên Ngô Văn Chiêu cho biết “quân đội chính qui được lệnh rút khỏi Hà Nội từ ngày 25 tháng 11, để chỗ cho Tự Vệ thay thế.” (VSKH, trang 2136). Cũng VSKL trích theo sách Cao Thế Dung “Quân số Tự Vệ khoảng 8000 người đại đa số là thanh niên sinh viên và học sinh với lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chết cho nền độc lập của Tổ quốc.” Thiệt hại nhân mạng trong trận Hà Nội, theo VSKH: “Về phía Pháp, từ 18 tháng 12, 1946 tới 8 tháng 3, 1947 có 1300 người bị chết hay mất tích, 2500 người bị thương (Yves Gras, tr.173). Về bên Việt: Tự Vệ và thường dân chết vô kể, quân đội chính qui [của Võ Nguyên Giáp] đã không tham chiến để được bảo toàn lực lượng.” (tr 2146). Giáo Sư Dương Quảng Hàm từ trần trong khoảng thời gian này. Hôm sau mới có lệnh Toàn Quốc Kháng Chiến của Việt Minh ban hành từ Nam Bộ.] 20 tháng 12, 1946: “Lịnh kháng chiến từ Hà Nội, ban hành ở Nam-bộ.” (Ðoàn Thêm, 1945-1964, Hai Mươi Năm Qua) 3. Tình hình văn nghệ trong vùng kháng chiến Tinh thần kháng chiến yêu nước bột phát những năm '45, '46 không kéo dài được bao lâu vì dần dần người ta biết được Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, một đảng viên cộng sản. Một vài cuộc đấu tố “khuôn mẫu” cũng đã được dựng nên trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất, ví dụ như cuộc đấu tố gia đình cô Nhu ở Thanh Hóa: cha mẹ cô từng nuôi bộ đội đánh Tây, nhưng bị qui kết là địa chủ, hai ông bà bị chôn sống, chỉ để lộ cái đầu trên mặt đất, rồi các cán bộ hò hét đám bần cố nông chửi rủa, và cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu của hai con người yêu nước và yêu bộ đội ấy, cho đến khi họ bị răng bừa cào nát. Cán bộ cộng sản ra lệnh dân làng không được cho cô con gái địa chủ ăn uống, khiến cô phải đi mót đồ ăn thừa trong các đống rác ngoài chợ. Phẫn nộ vì việc ấy, nguyên chính ủy Sư Ðoàn 304 Hữu Loan đã cởi bỏ binh phục bộ đội, đi tìm gặp cô Nhu, và lấy cô làm vợ, để cưu mang. Ðó là bà Hữu Loan ngày nay, đã 75 tuổi. (Khi bài này được viết ra). Việc làm của nhà thơ là hành động phản kháng cực kỳ quyết liệt, cực kỳ thách đố. Việc làm này - và những hành vi hay thái độ tương tự, ở những tầm mức nhỏ hơn - đã phân chia “giới văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến làm hai phái.” [Xin xem bản chụp từ cuốn Trăm Hoa Ðua Nở trên đất Bắc.] Cuộc kháng chiến đã bị phản bội từ trong trứng nước. Dân tộc, tổ quốc ngay từ đầu và cho đến bây giờ, chỉ là cái bình phong của đảng cộng sản, và của cán bộ cao cấp cộng sản, cũng như của các cơ chế, kể cả chính phủ, mặt trận, quốc hội, cộng sản. Nhân bản (ở đây là tình cảm về còn người trong thơ,) phải bị cán bộ CS, như cán bộ Tố Hữu, lên án. Không phải các trí thức văn nghệ sĩ kháng chiến không biết như thế sớm, nhưng hầu như họ đành phải chọn một thái độ: cắn răng chịu đựng cho tới khi đánh thắng thực dân Pháp. (Họ cũng cắn răng chờ đánh thắng Mỹ sau này.) Họ đã bị nhiều thứ vũ khí độc hại khác nhắm vào, chết một cách khác: chết âm ỉ hay chết dần mòn, bởi những người thuộc nửa bên kia, những Tố Hữu, Xuân Diệu, tác giả những câu văn vần dưới đây: Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin bất diệt. (Tố Hữu) Tiếng đầu lòng con gọi Sít ta lin. (Tố Hữu) Khen ngợi Liên Xô, Tố Hữu viết: Thuở anh chưa ra đời Trái đất còn nức nở Nhân loại chửa thành người Ðêm ngàn năm man rợ. (Tố Hữu, Bài Ca Tháng Mười, 1950) Anh ở đây là Liên Xô. Liên Xô ra đời năm 1917. Nhưng giấy mực đâu để viết về những “tài thơ” và về tâm địa một con người cỡ ấy? Anh em ơi! Quyết chung lưng Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù Ðịa hào đối lập ra tro Lưng chừng, phản động, đến giờ tan xương Lôi cổ bọn nó ra đây Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi (Xuân Diệu) Bởi vậy, viết về Thơ Kháng Chiến Dân Tộc Chín Năm 1945-1954, chủ yếu là viết về bốn năm đầu, 45-49; không thể viết về những người như Tố Hữu, Xuân Diệu, và những người đã chọn ý thức hệ yêu-nước-là-yêu-xã-hội-chủ-nghĩa, tiêu đề hiện nay, 2007, vẫn in trên bìa báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn ở Hà Nội.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 20, 2019 2:22:37 GMT 9
bài thơ Động hoa vàng (Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long)
1 Mười con nhạn trắng về tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
2 Xe lên bụi quán hoa đường Qua sương trắng dậm phố phường úa thu Tiếng chim ướt sũng hai mùa Hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua
3 Dế buồn dỗ giấc mù sa Âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay Người về sao nở trên tay Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ
4 Con khuyên nó hót trên bờ Em thay áo tím thờ ơ giang đầu Tưởng xưa có kẻ trên lầu Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa
5 Tóc dài cuối nội mây xa Vàng con bướm nhuỵ lẫn tà huy bay Dùng dằng tay lại cầm tay Trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa
6 Từ chim thuở núi xa xưa Về đây rớt lại hạt mơ cuối rừng Từ em khép nép hài xanh Về qua dục nở hồn anh đoá sầu
7 Ừ thì mình ngại mưa mau Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi Sông này chảy một dòng thôi Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông
8 Ngày xưa em chửa theo chồng Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi Mùa thu áo biếc da trời Sang đông em lại đổi dời áo hoa
9 Đường về hái nụ mù sa Đưa theo dài một nương cà tím thôi Thôi thì em chẳng yêu tôi Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
10 Sao em bước nhỏ ngập ngừng Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ Đêm về thắp nến làm thơ Tiếng chân còn vọng nửa tờ thơ tôi
11 Đôi uyên ương trắng bay rồi Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
12 Con chim chết dưới cội hoa Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao Mai anh chết dưới cội đào Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
13 Tường thành cũ phiến bia xưa Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay Chiều xanh vòng ngọc trao tay Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha
14 Đêm dài ươm ngát nhuỵ hoa Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia Em ơi rủ tóc mây về Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay
15 Đợi nhau tàn cuộc hoa này Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ Tìm trang lệ ố hàng thơ Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di
16 Mây xưa cũng bỏ non về Em xưa cũng giã câu thề đó đây Nhớ đành biết mấy tầm tay Lông chim biển bắc hoa gầy bãi đông
17 Đợi ai trăng rõi hoa buồn Vắng em từ thuở theo buồm gió xuôi Chiều chiều mở cổng mây trôi Chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm
18 Thế thôi phố bụi xe hồng Hồ ngăn ngắt đục đôi dòng nhạn bay Đưa nhau đấu rượu hoa này Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm
19 Xuống non nhớ suối hoa rừng Vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây Về thành nhớ cánh chim bay Xa thành thương vóc em gầy rạc hoa
20 Hạc xưa về khép cánh tà Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần Em về hong tóc mùa xuân Trăng trầm hương toả dưới chân một vành
21 Em nằm ngó cội thu xanh Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi Về em vàng phố mây trời Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
22 Thì thôi tóc ấy phù vân Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương Thì thôi mù phố xe đường Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
23 Gầy em vóc cỏ mây dời Tay em mai nở chân trời tuyết pha Ngày dài ngựa soải cầm ca Trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương
24 Xe lăn bánh nhỏ bụi hường Lao xao vó rụng trên đường phố mây Mưa giăng ráng đỏ hao gầy Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa
25 Chim nào hát giữa thôn hoa Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay Lụa nào phơi nắng sông tây Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông
26 Con chim mùa nọ chưa chồng Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu Từ em giặt áo đông tơ Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm
27 Thuyền ai buông lái đêm rằm Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào Cửa sương nhẹ mở âm vào Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca
28 Lên non cuốc sỏi trồng hoa Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương Vớt con cá nhỏ lòng đòng Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ
29 Vào non soi nguyệt tầm rùa Đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư Thả rùa lại đứng ưu tư Muốn qua hang động sống như nguyệt rùa
30 Em nghiêng nón hạ cầu mưa Sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về Hoa sầu cỏ cũng sầu chia Lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha
31 Đất nam có lão trồng hoa Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông Lại đem bầu ngọc ra trồng Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
32 Người vui ngựa chợ xe thành Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi Theo chân chim gặp mây trời Lại qua khói động hỏi người tu non
33 Bông hoa trắng rụng bên đường Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng Con ong nhỏ mới ra giàng Cũng nghiêng đôi cánh nhuỵ vàng rụng rơi
34 Mùa xuân bỏ vào suối chơi Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa Múc bình nước mát về qua Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa
35 Chim từ bỏ động hoa thưa Người từ tóc biếc đôi bờ hạ đông Lên non kiếm hạt tơ hồng Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay
36 Người về đỉnh núi sương tây Ta riêng nằm lại đợi ngày mướp hoa Bến nam có phố giang hà Nghiêng nghiêng nậm ngọc dốc tà huy say
37 Tình cờ anh gặp nàng đây Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương Qua sông có kẻ chợt buồn Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu
38 Mốt mai em nhớ bao giờ Bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không Chân chim nào đậu bên cồn Ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim
39 Đợi người cuộc mộng thâu đêm Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhoà Anh nằm gối cỏ chờ hoa Áo em bạch hạc la đà thái hư
40 Em từ rửa mặt chân như Nghiêng soi hạt nước mời hư không về Thâu hương hiện kính bồ đề Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi
41 Ta về rũ áo mây trôi Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan Rằng xưa có gã từ quan Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
42 Ngựa xưa qua ải sương này Còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông Nước xuôi gờn gợn mây hồng Tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò
43 Hoa đào tưởng bóng đào xưa Thuyền sang bến nọ dòng mờ khói vơi Hoa dương vàng nhạt sầu người Ta về uống nước sông khuây khoả lòng
44 Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say
45 Khăn trăng từ độ trao tay Nửa tan cát suối nửa mài nghiên sương Mốt mai lòng có nghe buồn Mảnh trăng hiện hoá thiên đường cõi chơi
46 Nhện cheo leo mắc tơ trời Dòng chim qua hỏi mộ người tà dương Đánh rơi hạt mận bên đường Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa
47 Nụ vàng hương rộ tháng ba Nửa đêm dậy ngó trăng tà tiêu tương Chẳng như cội liễu bờ dương Tóc xanh mướt giữa vô thường sắc không
48 Mai nào thơm ngát thu đông Lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh Đôi chim hồng yến trên cành Ngẩn ngơ quên rỉa lông mình điểm trang
49 Mùa xuân mặc lá trên ngàn Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư Động nam hoa có thiền sư Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
50 Nến khuya lửa hắt hiu vàng Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa Ý nào hoá hiện ngàn hoa Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
51 Dỗ non suối giọng thầm thì Độ tam thế mộng xá gì vóc hoa Ni cô hiện giữa ta bà Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng
52 Tiếng chim trong cõi vô cùng Nở ra bát ngát trên rừng quế hương Tiếng em hát giữa giáo đường Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng
53 Đố ai nhớ hết hoa vàng Đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu Đố ai tát cạn mạch sầu Thì ta để tóc lên cầu đón ai
54 Em về sương đẫm hai vai Dấu chân là cánh lan dài nở đêm Từ em hé nụ cười huyền Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa
55 Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca Sư về chống gậy trúc qua cầu này Ngó bờ suối lạnh hoa bay Thương sao giòng nước trôi hoài thiên thanh
56 Có con cá mại cờ xanh Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân Nửa dòng cá gặp phù vân Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi
57 Dù mai lều cỏ chân trời Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ Em còn ửng má đào tơ Tóc xưa dù có bây giờ sương bay
58 Lên non ngắt đoá hoa này Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhoà Nom hoài chẳng rõ là ta Tắm xong khoác áo hát ca về làng
59 Tay đeo vòng ngọc xênh xang Áo em bay giải tơ vàng thiết tha Bước chân tìm chán ta bà Ngừng đây nó hỏi: đâu là vô minh
60 Hỏi con vạc đậu bờ kinh Cớ sao lận đận cái hình không hư Vạc rằng: thưa bác thiên thư Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ
61 Nước đi từ thủa bao giờ Dòng xuôi người đứng trên bờ ngó xuôi Chừng đâu dưới bến hoa tươi Buộc thuyền xưa đã có người ngó sông
62 Từ hôm em bỏ theo chồng Áo trắng em cất áo hồng em mang Chiều nay giở lại bàng hoàng Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh
63 Đôi chim nho nhỏ trên cành Giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường Nửa đời mây nước du phương Thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân
64 Gò chiều ùn bụi sương lên Hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng Bên mồ chồn cáo đùn hang Chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga
65 Cuối xuân ta lại tìm qua Tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn Sớm thu ta đánh đò sang Bên đường cỏ mộ lại vàng cúc hoa
66 Trúc thưa cổng gió ơ hờ Em ra tựa cửa nghĩ chưa lấy chồng Sông ơi xanh nhé một dòng Mùa xuân cắp rổ ra đồng vớt hoa
67 Đường dài xao xác chim ca Người còn khoác nón theo tà dương nao Ván cờ bày trắng bông đào Sao lên núi thẫm trăng vào chén không
68 Đồi thu vắt suối mây hồng Chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên Bấc sầu lửa lụn chờ em Lệ xưa ai đã đổ nên dầu này
69 Đón em như ngóng chim trời Bãi xuân sớm đậu chiều dời khói thu Em còn áo trắng ngày xưa Trong anh muôn thủa bao giờ lệ hoen
70 Khơi trầm thơm tụng kinh hiền Máu xuân mạch lạnh trong miền xương da Vườn chùa có nụ hàm ca Sương khuya: pháp bảo trăng tà: vô môn
71 Mai tươi cánh nở bên cồn Mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời Thu đông tàng ẩn kho trời Hạt rơi rụng ngọc cánh rời rã hoa
72 Cổng làng mở cánh sao sa Nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai Lên chùa dâng dĩa hoa nhài Chợt viền trăng lạnh trên hài tổ sư
73 Chuông ngân chiều lặng trầm tư Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng Điệu về tay giấu chùm bông Gót chân đất phật trổ hồng hằng sa
74 Bóng trăng tịch mặc hiên nhà Thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương Gió thu từ độ tha phương Về trên hốc gỗ bên đường lặng im
75 Áo em vạt tím ngàn sim Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ Yêu nhau từ độ bao giờ Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay
76 Tình cờ như núi gặp mây Như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao Tỉnh ra thì giấc chim bao Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng
77 Cành sen lá chĩu sương trong Áo ni xám vạt trời hong buồn về Tay nào nghiêng nón thơ che Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao
78 Đôi mày là phượng cất cao Đôi môi chín ửng khoé đào rừng mơ Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây
79 Tóc em rừng ngát hương say Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà Mắt xanh bản nguyện di đà Bước trầm hương nhẹ lẫn tà dương chim
80 Mắt nàng ru chiếc nôi êm Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời Em là hoa hiện dáng người Tôi là cánh bướm cung trời về say
81 Một đêm nằm ngủ trong mây Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời Cây bưởi trắng ngát hương đời Nụ là tay phật chỉ người qua sông
82 Non xanh khoác áo sương hồng Con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay Tiếng kêu lạnh buốt lòng tay Ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa
83 Em bên cửa chuốt tay ngà Cội lan đông mặc nở qua mấy nhành Ngày em ướp áo hồ xanh Con uyên tha thiết trên cành gọi thu
84 Ni về khép cửa chùa tu Sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng Thu vương ngọn chổi đôi bông Thoảng dâng hương lạ bướm vòng cánh duyên
85 Sư lên chót đỉnh rừng thiền Trong tim chợt thắp một viền tà dương Ngón tay nở nụ đào hương Cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời 86 Một dòng hoa nổi trên trời Một dòng hoa nở trong người trầm tư Cánh nào mở cõi không hư Phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang
87 Thư em ướp nụ lan vàng Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa Áo em phất cõi di đà Ngón chân em nở cánh hoa đại từ
88 Chênh vênh đầu trượng thiền sư Cửa non khép ải sương mù bóng ai Non xanh ướm hỏi trang đài Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
89 Ngày xưa bên dậu vàng hoa Chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời Năm sau em bỏ đi rồi Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn
90 Trên nền gạch nẻ rêu phong Xưa phơi nhã điệu giờ hong đoá quì Trẻ đào bãi cỏ xanh rì Được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han
91 Non đem nhạn nhốt trong thành Cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu Người còn dệt lụa tằm dâu Đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn
92 Núi nghiêng suối vắt tơ đàn Nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa Nghiêng bình trà nhớ hương xưa Từ vàng hoa nọ bây giờ vàng hoa
93 Sáng nghe lan rụng mái nhà Chừng như mưa nhẹ núi xa mùa này Đường về mù mịt ngàn mây Về nam đôi cánh chim bay xạc xào
94 Mây dù chẳng chất non cao Đường về dù chẳng sông đào nông sâu Đêm đêm lòng dục nẻo sầu Thềm trăng ngỡ tưởng hoa cau rụng thầm
95 Nhớ cha giọt lệ khôn cầm Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh Nghiêng ly mình cạn bóng mình Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay
96 Gối tay nệm cỏ nằm say Gõ vào đá tụng một vài biển kinh Mai sau trời đất thái bình Về lưng núi phượng một mình cuồng ca
97 Gây giàn thiên lý vàng hoa Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây Xuống đầm tát cá xâu cây Bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim
98 Khách xa nhớ đến nhau tìm Lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà Hứng nước suối thết bình trà Hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn
99 Vào hang núi nhập niết bàn Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe Mai sau thí chủ nào nghe Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh
100 Hoa vàng ta để chờ anh Hiện thân ta hát trên cành tâm mai Trần gian chào cõi mộng này Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát Đưa em tìm động hoa vàng.
Nguồn: Phạm Thiên Thư, Động hoa vàng, Cảo Thơm xuất bản, 1971
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 22, 2019 2:11:51 GMT 9
Lưu Trọng Lư: Đôi dòng tiểu sửLưu Trọng Lư Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn. Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973). Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu. Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc. Nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân: "... thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta". Đôi mắtLưu Trọng Lư Có hoa nào qua mùa không héo? Có tiếng nào giàu đẹp hơn không? Mắt em là một dòng sông Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em. Đàn "nguyệt dạ" hương đêm bay lạc Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng? Phép gì khỏi nhớ đừng trông Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi. Hôm quaLưu Trọng Lư
( vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/5009.html ) Hôm qua bạn ạ! Ta chiêm bao: Gò ngựa bên sông, dưới gốc đào Sớm ấy, đông qua đào chín ửng Ta trèo vin hái trên cành cao. Đàng xa bỗng thấy đò em lại Sông lặng em bơi nhẹ mái chèo. Lộng lẫy trong màu xiêm áo biếc Như nàng tiên nữ động Quỳnh Diêu Em ca theo điệu người sơn nữ Cắt cỏ bên đồi, giọng líu lo Vùn vụt gió lên: tà áo nhẩy Sóng xô, vỗ nhẹ dưới khoang đò. Thấy ta ngừng hát, em cười lả Ta thưởng vất em một quả đào Ta ngỏ nhờ em đưa quá bến Em cười, ta vội xuống cây mau. Than ôi! ngoảnh lại, biến đâu rồi! Còn vẳng bên đồi giọng hát thôi. Sao chẳng em ôi! Chầm chậm lại Cho duyên tình ấy gửi đôi lời... Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh: Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi! Muốn gọi tên nàng nhưng ái ngại Ngoài thềm lác đác bóng hoa rơi. Nàng còn lưu lại chút hương xa Tạ lòng, ta tặng mấy vần thơ Thơ ta cũng giống tình nàng vậy Mộng, mộng mà thôi! Mộng hão hờ. ************************************************** Bâng khuângLưu Trọng Lư Ta còn thấy bóng kẻ thơ ngây, Xe chồn gối mỏi trở về đây, Trên đường hiu quạnh khách đau mỏi, Chán nản hung hăng nện gót giày; Ngàn liễu xanh xanh con cò trắng, Lạnh lẽo xa vời ủ rũ bay. Ta còn thấy bóng kẻ thơ ngây, Rẽ lau vạch suối tới am mây, Nắng trần chan chát, lòng trần héo, Mịt mù dặm cát một chòm cây, Dừng lại đây bóng im cửa Phật, Dừng lại trong làn khói biếc bay, Dừng lại đây là nơi hiu quạnh, Là nơi nghe thấy tiếng cỏ cây, Là nơi quên những mùi trần sự, Là nơi quên những nỗi chua cay. Nghe thấy tiếng ngọt ngào cõi Phật, Rũ bụi trần, chàng dừng lại ngay Trước Phật đài, chàng lâm râm nguyện "Tình xưa theo gửi, nước, trời, mây!" Một hôm thiền định dưới gốc mai Bỗng thấy lòng vơi chốc lại đầy, Thẫn thờ tay lần tràng chuỗi hạt Mà như lần những hạt chua cay... Vì vừa nghe tiếng chuông chùa nện Lạnh lùng từng tiếng não bên tai, Lạnh lùng như người trong cung Quảng, Bâng khuâng chợt nhớ cảnh trần ai. ******************************************************************
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 22, 2019 2:13:45 GMT 9
Bông hoa rừngThế Lữ ( vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/7891.html ) Tặng Đoàn Phú Tứ Trèo lên trên đỉnh non cao Nghe lời chim gọi, gió dào dạt thưa... Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ, Cô nàng cao váy ỡm-ờ đứng trông, Tóc cô gió lẳng lơ chòng, Nắng vàng rỡn cặp má hồng hồng tươi. Mắt như nước lặng in trời, Cánh đào thắm nét miệng cười trong mơ. Khiến ta lòng những say sưa: "Phải người ta vẫn đợi chờ, đây chăng?" Trái tim đếm bước ngập ngừng, Lại gần ta hỏi ai rằng: "Ai ơi! Theo đường nước chẩy mây trôi. Để lòng ra khắp phương trời, ta xem Ở đây nhắn gió đưa chim, Ở đâu thiếu-nữ trông tìm người yêu. Tới đây thấy cảnh đìu-hiu, Phải chăng người ở trên đèo mong ta?" Bồi hồi, ta đợi lời thưa, Nhưng cô sơn-nữ hững hờ trông mây... Sóng rờn đôi mắt lung lay, Tình xuân nồng đượm đôi mày thanh thanh, Cười duyên đắm đuối trời tình Lòng ta như muốn tan thành hư không. Ta ôm thiếu-nữ trong lòng: Người yêu thoắt biến thành bông hoa rừng. Bông hoa nay vẫn còn hương, Lòng ta còn vết đau thương, không cùng, Đính hoa ở một bên lòng, Ngàn năm tiếc giấc mơ mòng khi xưa.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 15, 2019 2:41:42 GMT 9
Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn Viết Khi Theo Hầu Vua Quang Trung TS Phạm Trọng Chánh
Ngược lại với Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do Nguyễn Y ghi chép; “Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Nguyễn Du khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Quỳnh Hải”. Ông anh vợ Nguyễn Du cùng các bạn thân Nguyễn Nể, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn.. ra làm quan Tây Sơn được vua Quang Trung trao chức Hàn Lâm học sĩ cùng một lần với Ngô Vi Quý (Ngô Dụng Hoà) và tiếp sứ cùng Nguyễn Nể (Nguyễn Đề), anh cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Du và đi sứ trong phái bộ Phan Huy Ích năm Canh Tuất 1790 lúc ông 40 tuổi.
Hải Ông thi tập *của Đoàn Nguyễn Tuấn nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1982 còn ghi chép những bài thơ quý báu viết bên cạnh vua Quang Trung, thơ viết về triều Tây Sơn, thơ xướng họa với các bạn đồng triều, thơ viết về sứ bộ Ngô Dụng Hòa sứ bộ này mang sang quà cáp Tể tướng Hòa Thân (1750́́̉-1799) nhà Thanh, việc hối lộ này đóng góp vào thành tích tham nhũng một gian thần bậc nhất Trung Quốc, tài sản bằng mười năm thu thuế triều đình Trung Quốc, khiến Hòa Thân từ một người tín cẩn của vua Càn Long bị vua Gia Khánh cách chức xử tội chết và tịch thu gia sản. Và quý nhất là hai bài thơ gặp gỡ văn nhân họ Nguyễn (Nguyễn Du) tại Hoàng Châu, trong thời Mười năm gió bụi, Nguyễn Du đi giang hồ ba năm: “Giang Bắc Giang Nam một túi không” khắp Trung Quốc.
Trong bài viết này tôi dịch thơ các bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn làm bên cạnh vua Quang Trung. Các bài thơ tả cảnh hùng tráng quân Tây Sơn và ca ngợi tài điều khiển quân vua Quang Trung.
Trong cung vua Quang Trung làm bài thơ do vua chỉ định. Đoàn Nguyễn Tuấn viết : Gió nổi từ núi Nam (Tây Sơn), xe ngọc ruổi gấp. Quân hùng như mây đùn chiếm lĩnh bên thành Thăng Long. Ban ngày cờ quạt cuốn nắng ba đông. Sáng sớm lửa hiệu khói bốc thẳng từ muôn hốc. Mưu chước đánh dẹp nhờ vua Quang Trung mắt nhìn tay trỏ, câu thơ này ca ngợi chiến lược chiến thuật vua Quang Trung. Thú vị an nhàn thu vào nhịp sắt cung cầm. Khi an nhàn triều đình cùng thưởng thức ca hát, Nguyễn Du trong bài Long Thành cầm giả ca, còn ghi lại cảnh hát xướng tiêu khiển vua tướng Tây Sơn tại dinh Kim Âu còn hào hoa hơn các công từ Vương Lăng. Theo tôi vua Quang Trung có mặt tại Thăng Long trong lúc vua giả Phạm Công Trị sang Trung Quốc trong sứ bộ Phan Huy Ích, ngày ngày nhà vua gióng ngựa quý sang dinh Kim Âu đ̉ Bích Câu đàm đạo chuyện quốc sự tâm đắc cùng Nguyễn Nể.. Ý câu này còn nói lên sự hòa hợp của nhà vua và các quan tướng trong triều. Thị thần quan văn theo hầu vua Quang Trung ngoài việc nhúng bút không bận gì khác. Thường lên đài cao ngắm trông trời biển.
TRONG CUNG VUA (QUANG TRUNG) KÍNH GHI
Thể ứng chế
Gió nổi núi Nam xe ngọc dong,
Quân hùng mây nổi chiếm bên thành.
Ban ngày cờ xí ba đông nắng,
Sáng sớm lửa tin muôn đóm tung.
Mưu chước dẹp yên tay mắt trỏ,
An nhàn thú vị nhập cung cầm.
Thị thần vung bút không gì khác,
Đứng vọng đài cao ngắm biển xanh.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
NGỰ DINH CUNG KỶ
Ứng chế thể
Phong khởi Nam sơn ngọc giá suyền,
Vân đồn tì hổ chiếm thành biên.
Tinh kỳ trú quyển tam đông nhật
Phong hoả triêu xuy vạn hác yên.
Đăng định mưu mô qui chỉ phán,
An nhàn thú vị nhập đàn huyền.
Thị thần nhiễm hãn vô dư sự,
Thời thướng cao đài vọng hải thiên.
Bài Lại vâng lệnh vua làm một bài thơ khắc vào đá. Ông viết : Một đêm sấm gió bỗng thành cảnh Phật. Sau trận đánh sấm sét vào đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi của vua Quang Trung nay đất nước lại thái bình như cảnh Phật. Ngàn thu sông núi gìn giữ đài cao. Hai dòng suối tuôn xuống bay từ sông Ngân biếc. Đôi bờ đá tách ra thông hợp với nắng ráng hồng chiều tà. Đạo Phật không mất theo một chiếc giày. Theo Truyền đăng lục chép : Ngài Bồ Đề Đạt Ma thời nhà Tùy từ Tây Trúc (Ấn Độ) sang Trung Quốc truyền đạo Thiền đời nhà Tùy, tu ở chùa Thiên Thánh, khi tịch táng tại núi Hùng Nhĩ thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sau Tống Vân người nước Ngụy đi sứ Tây Vực về gặp Đạt Ma, thiền trượng vác một chiếc giày ở vùng núi Thông Lĩnh thuộc Tân Cương. Vân hỏi : Nhà sư đi đâu ? Sư nói : Về Tây Trúc. Vân về thuật lại với vua. Vua sai đào mộ mở áo quan ra xem thì chỉ còn một chiếc giày thôi. Ý câu này nói đất nước sau cuộc xâm lăng Tôn Sĩ Nghị không mất, mà trở thành thanh bình vẻ vang muôn thuở. Tiếng vượn thường buông từ lưng chừng mây. Âm vang cuộc chiến thắng vang dội trời mây xanh. Nay theo xe vua, bỗng như lên đường vàng. Theo xe vua là con đường thái bình thịnh trị an lành. Muôn ánh hào quang tỏa ra quanh góc núi. Câu này ý nói : Uy đức nhà vua tỏa sáng khắp núi sông.
VÂNG LỆNH VUA (QUANG TRUNG)
LÀM MỘT BÀI THƠ KHẮC TRÊN ĐÁ
Sắm sét một đêm thành cảnh Phật,
Non sông muôn thuở vững đài sen.
Suối chia hai ngọn sông Ngân xuống,
Đá dựng đôi bờ, nắng đỏ thông.
Đạo chẳng đi theo giày để lại.
Tầng mây vượn hú vọng âm vang.
Đường vàng bỗng hiện theo xe ngự,
Sườn núi quanh co tỏa ánh quang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
HỰU ỨNG CHẾ́ NHẤ́T THỦ PHÓ THẠCH
Nhất dạ phong lôi thành hóa vực,
Thiên thu lưu trĩ hộ tầng đài.
Tuyền phi Bích Hán song điều hạ,
Thạch hội đan hà lưỡng ngạn khai.
Tượng giáo bất tùy đan lý khứ,
Viên thanh thường tự bán vân lai.
Hỗ tùng hốt thướng kim thiên lộ,
Vạn đạo tường quang nhiễu khúc ôi.
Đoàn Nguyễn Tuấn theo hầu vua Quang Trung nhân dịp nhà vua về thăm Tây Sơn (Quy Nhơn, Bình Định) vâng lệnh vua làm bài thơ: Rỡ ràng đất cực Nam tỏa điềm lành. Ngọn cờ vua Quang Trung về thăm Tây Sơn uy nghi như vua Hán Cao Tổ Lưu Bang về thăm quê hương đất Bái. Sông núi đón chào hành cung và lều trại dựng đón tiếp nhà vua, đình thần và đoàn quân hộ giá. Ấ́p thang mộc là quê hương nhà vua. Đời Chiến Quốc chư hầu đến chầu thiên tử vua nhà Chu, được thiên tử cho hẳn một nơi để tắm gội trước khi bệ kiến gọi là ấp thang mộc. Đời sau các nhà vua đặt ấp riêng thường là quê hương mình là ấp thang mộc. Phần du rung rinh, mùi hương lò ngự. Phần du là hai loại cây thời xưa hay trồng làng quê về sau dùng để chỉ làng quê. Hương quê hương thơm tỏa nơi vua ngự. Sáng tỏa lều tranh, ngợi ơn nhuần tưới. Muôn nhà nhân dân vùng Tây Sơn ca tụng nhà vua đã ban ơn nồng hậu. Núi Tây cũng ấm áp nhờ dương khí thịnh vượng của nhà vua về. Thẹn mình hộ giá theo vua không đủ tài thơ phú. Đời người mấy khi được đến “ao trời”, thiên hoàng nơi phát tích nhà vua..
VÂNG MỆNH VUA (QUANG TRUNG ) LÀM THƠ
NHÂN DỊP HỘ GIÁ VỀ THĂM Ấ́P THANG MỘC
Rỡ ràng Nam Cực tỏa tường quang,
Vua Hán lộng cờ về Bái thôn.
Sông núi đón chào cung trại dựng.
Phần du phản phất ngự lò hương.
Lều tranh sáng tỏa ơn nhuần tưới,
Núi lạnh ấm nồng dương khí lên.
Hộ giá thẹn mình thơ phú kém,
Đời người mấy thuở đến ao vàng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
NGỰ GIÁ HỒI THANG MỘC Ấ́P
PHỤNG HỘ TỐNG ỨNG CHẾ
Hoàng hoàng Nam Cực thốc tường quang,
Hán đế tinh kỳ phản Bái hương.
Sơn thủy phùng nghinh hành diện sắc,
Phần du phi phất ngự lô hương.
Minh sinh bổ ốc ca minh trạch,
Noãn nhập hàn nhai báo phục dương.
Từ phú phi tài tàm hộ tụng,
Nhân sinh kỷ đắc đáo thiên hoàng.
Nhân dịp theo vua Quang Trung hỏi tội Nguyễn Bảo con Nguyễn Nhạc làm phản. Đoàn Nguyễn Tuấn viết bài thơ : Vâng mệnh hầu giá thân chinh kính ghi. Một gợn mây đen giữa vùng núi biển. Cờ vua thẳng trỏ phương Nam hỏi tội Lưu An. Lưu An là người tôn thất nhà Hán, vua phong làm Hoài Nam Vương. Tính ông ham đọc sách, chiêu tập các văn sĩ soạn thuật được nhiều trong đó có cuốn Hoài Nam Tử. Vua Hán Vũ Đế rất tôn trọng ông, không bắt vào chầu. Sau mưu phản, vua bèn sai quan Tông Chính đi trị tội, chưa đến nơi thì ông đã tự sát rồi. Sáu quân hùm gấu nuốt cả búa rìu. Ngàn dậm non sông phù trì yên ngọc. Chồng chất hiểm trở khôn dấu Giáp Hán. “Chồng chất hiểm trở”: (Tập khảm) Lời Thoán ở quẻ Kinh Dịch nói: “Tập khảm trùng hiểm dã, vương hầu thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc “(Tập khảm là hiểm trở, bậc vương hầu đặt hiểm để giữ nước.) Giáp Hán tích Cung Toái nói với Hán Tuyên Đế rằng : “ Dân bị đói rét mà bọn quan lại không thương đến, cho nên những đứa con đỏ của bệ hạ trộm đùa áo giáp và vũ khí ở trong ao Hoàng trì của bệ hạ mà thôi.’ Ở đây tác giả mượn điển ấy để nói việc nổi loạn của Nguyễn Bảo như chuyện con trẻ đùa chơi. Đánh kẻ ngu muội sớm thấy Khiên Nghiêu. “Đánh kẻ ngu muội”: Hào Thượng Cửu, quẻ Mông Kinh Dịch nói “Kích mông, lợi ngự khấu”(Đánh dẹp đứa ngu muội, lợi cho việc ngăn chận bọn cướp) Khiên Ngu: Kinh Thư, thiên Đại Vũ mô: Vua Nghiêu Thuấn múa lá chắn ở hai bên chái, trong ba tuần mà rợ Hữu Miêu phải đến chầu. Câu này ý : Đánh đứa ngu muội Nguyễn Bảo sớm nhìn thấy uy danh vua Quang Trung. Kẻ thư sinh cầm bút ca bài chiến thắng, để khắc vào đỉnh tháp đá ở phía trong thành (Bình Định.)
VÂNG LỆNH THEO XE HẦ̀U THÂN CHINH KÍNH GHI
Một đám mây đen biển núi xanh,
Nam chinh vua hỏi tội Lưu An.
Sáu quân hùm gấu thu rìu búa,
Ngàn dậm xuyên non hộ ngọc an
Nổi loạn ao trời đùa Hán giáp,
Trỏ đường ngu muội thấy Nghiêu can.
Thư sinh cầm bút ca công trận,
Để khắc vào trên đỉnh tháp thành.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
NGỰ GIÁ THÂN CHINH
PHỤNG HỖ TỤNG CUNG KÝ
Nhất điểm hôn vân hải lĩnh gian,
Tiết tinh nam chỉ vấn Lưu An.
Lục sư hùng hổ thôn nhung phủ,
Thiên lý xuyên sơn hộ ngọc an.
Tập khản vô năng tàng Hán giáp,
Kích mông tảo kiến vũ Ngu can.
Thư sinh xanh hấn ca hoàn sở,
Lặc hướng thành trung thạch tháp đoan.
Paris 10-12-2019
*Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục .Viện ĐH Paris V Sorbonne.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 15:36:50 GMT 9
TIỂU SỬ CHU VĂN AN(朱 文 安) (Tượng thờ Chu Văn An tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám) chimviet.free.fr/vanco/Avanhocco.htm#cactruyenom Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). Ông là một nhà giáo, một thầy thuốc và cũng là một đại quan nhà Trần, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi Ông là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Sau khi thi đậu Thái học sinh, là người chính trực nên Ông không ra làm quan, chỉ ở nhà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Học trò theo học Ông rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát, khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại. Một huyền thoại vẫn được lưu truyền là khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu, ông bèn cho người dò xem thì trò đó cứ đến khu đầm Đại là biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: “Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho”. Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Ông được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Đây chỉ là một giai thoại về ông để nói rằng tài đức của ông có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của ông lúc đương thời là rất lớn. Năm Khai Thái đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329) Ông mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho thái tử Trần Vượng học (thái tử là vua Trần Hiến Tông trong tương lai). Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), ban đầu vì Dụ Tông còn ít tuổi nên có thượng hoàng Trần Minh Tông lo việc triều chính. Sau khi thượng hoàng Minh Tông mất (1357), Dụ Tông tự mình cầm quyền chính. Nhưng Dụ Tông không có tài trị nước. Nhà vua mải mê chơi bời, thích tửu sắc hát xướng, bỏ bê việc nước. Tình cảnh xã hội rất nhiễu nhương, chính sự càng thối nát. Bọn quyền thần cận thần nhiều người bất tài, o bế vua để lộng quyền, hà khắc, tham nhũng, làm nhiều điều vô đạo. Dân tình đói khổ. Chu Văn An vốn là người điềm đạm, thẳng thắn, cương trực, có uy tín cao trong triều. Nhìn trung thần nghĩa sĩ bị hãm hại, các quan ngự sử chuyên việc can vua giờ chỉ biết ngồi im ăn lộc (ai có ý định can vua, gia đình phải phát tang làm ma sống rồi mới vào triều) Ông đã dũng cảm dâng “Thất trảm sớ” xin chém bảy tên nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Nhưng vua không nghe. Sớ thất trảm ấy bị thất truyền, không rõ nội dung như thế nào, ngay đương thời cũng ít người được biết Ông đã xin chém những ai. Có thể Dụ Tông muốn tránh rắc rối cho triều đình và giữ yên cho Chu Văn An nên đã hủy đi. Dù thế, thất trảm sớ đã gây chấn động dư luận, nói như người xưa "làm kinh động quỷ thần" và trở thành biểu tượng chói sáng của thái độ trí thức trước thời cuộc. Do “Thất trảm sớ” không được thực hiện ông bèn “treo mũ ở cửa Huyền Vũ” rồi từ quan lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, lấy hiệu là Tiều Ẩn (người đi hái củi ẩn dật). Ông dạy học và viết sách cho tới khi qua đời tại đây. Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất đời Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên thụy là Văn Trinh. Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” bằng chữ Nôm và “Tiều ẩn thi tập” bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề “Tứ thư thuyết ước”. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển “Y học yếu giải tập chu di biên” gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Nhưng cho tới nay người ta mới chỉ sưu tầm được có 12 bài thơ của ông chép trong “Toàn Việt thi lục” do Lê Quý Đôn sưu tập, còn hầu như bị thất lạc cả. Phan Huy Chú nhận xét: “lời thơ trong sáng u nhàn”. Đây là thơ Chu Văn An viết khi lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh. Nói chung thơ các ẩn sỹ thường có phong vị u nhàn, nhưng với Chu Văn An u nhàn chỉ là ở cái giọng thơ. Thơ ông chịu ảnh hưởng của đạo Phật như nhiều nhà thơ thời ấy, nhưng chủ yếu hơn, ông rất trọng hiện thực, tin vào sự chiêm nghiệm của mình, không thiên kiến, không theo những nếp nghĩ có sẵn. Tuy thơ ông ca ngợi sự lánh đời, chúng ta lắng nghe vẫn thấy ở phía sau một nỗi niềm chưa hẳn thoát tục “Thốn tâm thù vị như hôi thổ” (lòng đâu đã nguội như tro đất). Sau thất trảm sớ làm sao ông còn ở kinh đô được nên Ông ở ẩn là do tình thế bắt buộc, mang theo một chí nguyện không thành, muốn giúp đời mà không giúp được, chứ đâu phải vì ham thú tiêu dao hạc nội mây ngàn. Ông lánh thân nhưng lòng vẫn ở giữa đời. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của Ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: “học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”. Câu đối thờ Chu Văn An mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục: Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong. (Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh dong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn núi sông vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân.) NGÔ TẰNG GIAO Xuân Canh Dần 2010 Tài liệu tham khảo: 1) Thơ Văn Lý Trần (nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978) 2) Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam 3) Thivien.net 4) Wikisource.org 5) VietSciences.org
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 29, 2022 1:06:28 GMT 9
Tôi Đã Biết Gì Về Nhất Linh Đông Hồ
Anh Nguiễn-Ngu-i, Chắc rằng anh muốn hỏi tôi về Nhất-Linh; chớ không hỏi tôi về Nguyễn-Tường-Tam. Có như thế thì tôi mới trả lời anh được. Nói như vậy là tôi muốn nhận định phân minh hai lãnh vực trong một nhân-vật. Là tôi chỉ có biết về nhà văn - sĩ Nhất-Linh mà không được biết về nhà chính trị Nguyễn-Tường-Tam. Tôi có cảm tình với Nhất - Linh, tôi có yêu mến Nhất-Linh, tôi có phán đoán về Nhất-Linh, là tôi nhìn Nhất-Linh ở trong địa hạt văn chương, vì bút hiệu đó xuất hiện nhú một ngôi sao chói lọi trên nền trời văn học. Trừ ra hai tác phẩm đầu tay khi mới tập viết để vấn thế là Nho Phong và Người Quay Tơ, ký tên là Nguyễn-Tường-Tam, còn tất cả tác phẩm năm 1932-1933 trở về sau, đều ký bút hiệu là Nhất-Linh, trong sách cũng như trong báo, từ Phong-hóa Ngày-nay ở Hà-nội cho đến Văn-hóa Ngày-nay, & Sài-gòn hồi gần đây. Phán đoán về văn nghiệp Nhất-Linh, tôi có hai nhận định này: 1.- Văn trào phúng của báo Phong-hóa, Ngày-nay. 2.- Văn tiểu thuyết của Tự-lực văn-đoàn. * ** 1.- Muốn cải cách, muốn canh tân một xã hội mà theo quan niệm Nhất-Linh - tôi lặp lại là theo quan niệm Nhất-Linh cho là bão thủ, là hủ lậu, thì phải mở một phong trào đả kích mạnh mẽ bằng lối trào phúng. Những phong tục hủ lậu, những cử chỉ ngốc nghếch làm cho xã hội vì đó mà chậm tiến, tượng trưng bằng hai nhân vật điển hình Lý Toét và Xã Xệ, hàng tuần được trình bày trên báo Phong-hóa Ngày- nay, làm mục tiêu để chế giễu trong bảy tám năm trời, đã gây một ảnh hưởng lớn mạnh, một ấn tượng sâu đậm trong ý thức quần chúng nhân dân Việt-Nam. Kết quả không biết có được như ý người chủ trương nó mong muốn hay không, tôi không dám chắc. Duy có một điều biết được là đã gây nên một phong trào cười cợt vui vẻ trong một xã-hội đang bị đè nặng bởi nột không khí trang nghiêm già cỏi. Điều đó, tôi cho là một điều cười cợt vui đùa vô tội, có thể chấp nhận được. Đến như việc đem các nhân vật đương thời ra giễu cợt, như đem các ông Nguyễn Văn-Tố, Tản-Đà, Nguyễn Trọng-Thuật, Nguyễn Công-Tiễu, Phan-Khôi, Nguyễn Văn-Vĩnh, Phạm Quỳnh làm trò đùa thì tôi cho là có ác ý, muốn hạ thế lực các nhân vật đó để giành ảnh hưởng cho nhóm mình. Lắm lúc đùa dai đến vô duyên, thiếu cả phong độ lich sự của giới cầm bút. Như giằng cái búi tó của nhà học giả Nguyễn Văn-Tố, hay vẽ chó thừa hưởng bả rượu của thi-sĩ Tản Đà nôn ra, rồi cả chó và thi-sĩ nằm say chung với nhau, thì thiệt tệ quá. Chắc nhiều người còn nhớ bài về: «Ong giẳng đưa giăng, ông giằng búi tó... chế ông Nguyễn Văn-Tố, và bài thơ đề tranh tứ bình : No say một bãi thừa ân chủ, chủ cũng say mà chó cũng say. .. cười ông Tân-Đà. Từ bao giờ tôi vẫn không chấp nhận điều thiếu lễ độ và thiếu phong nhã đó. Về sau, sau năm 1951. Khi tiếp xúc gần với Nhất-Linh, tôi thấy anh không phải là người thích trào lộng ua cười cợt. Trong khi xử thế tiếp vật vẫn phong nhã khả ái. Có lẽ trong khoảng thời gian mười năm khói lữa, trải qua bao nhiêu biến cố lớn của lịch-sử làm cho tâm tính con người thay đổi khác xưa. 2.-Về văn tiểu - thuyết tôi lập lại, văn tiểu thuyết - của Tự Lực Văn đoàn. Công trạng to lớn của Nhất-Linh là điểm này. Sự-nghiệp của Nhất-Linh ở đây thật là một sự nghiệp đáng kể mà tôi tưởng đương thời và hậu thể cũng đều công nhận. Chủ trương Tự-Lực văn-đoàn, kết nạp những tay bút cùng khuynh-hưóng, đã gây nên được một trào lưu văn-học mới-mẻ, sáng tạo nên được một lối văn vui vẻ nhẹ nhàng sáng sủa chấm dứt lối văn trang nghiêm trịnh trọng của văn phái Nam-phong là văn phái đại biểu cho lối văn kinh điển nho gia, nền nếp có thừa, mà sinh khí thì chưa đủ làm cho xã hội phấn khởi. Từ sau khi Tự-lực văn-đoàn xuất hiện, chẳng những văn học Việt-Nam sinh sắc trẻ trung, mà mọi người trong xã hội đều thay cảm hứng bừng dậy, tâm hồn cởi mở theo các nhân vật trong truyện. Lỗi văn tiểu thuyết này, trước Tự-lực văn-đoàn, không phải tuyệt nhiên là không có. Đã có một hai nhà bắt đầu, như Tố-Tâm của Hoàng Ngọc-Phách, như Cảnh-thu di-hận của Dương-Tự-Nguyên, thêm một số truyện ngắn, truyện dài đăng rải rác ở các báo chí chẳng hạn; nhưng mà không gây thành một văn phái một tu trào phổ biển rộng rãi như Tự lực văn-đoàn. Anh hưởng Tự-lực văn-đoàn thật là to lớn. Giới giáo dục đã nhìn nhận. Và ai cũng bằng lòng sự nhìn nhận đó là xứng đáng. Cứ xem một viec sách của Tự-lực văn-đoàn in đi in lại rất nhiều lần, cho đến hiện nay, số tiêu thụ vẫn còn trội hơn những sách mới sáng tác, thi biết. Từ xưa đến nay, ở Việt-Nam, chưa có Văn phái nào chinh phục được nhiều cảm tình chung thuỷ của đọc- gia đông đảo, trước sau như một, cho bằng Tự-lực văn-đoàn. Công trạng sự nghiệp đó phải qui cả về cho người chủ trương chỉ huy nó là Nhất-Linh. Bất kỳ ở thời kỳ nào, ở giai đoạn nào, trong nước cùng có nhân tài lỗi lạc, có những tay bút xuất sắc nhưng mà chung qui bị rời rạc bị phân tán hết, bởi vì thiếu tập hop, thiếu nâng đỡ, thiếu "tri-kỷ" để cho văn học có tính cách công tác tập thể như Tự-lực văn-đoàn. Chẳng nói chi xa xưa, cứ nhìn tình trạng văn hóa hiện thời. Trong nước, giữa đây, hiện diện có biết bao nhiều Văn-đoàn, bao nhiêu Tao-đàn, bao nhiêu thi-ca, bao nhiêu trường phái, bao nhiêu nhóm, bao nhiêu hội, đoàn thể nọ, câu lạc bộ kia không phải là không có, nhưng có lẻ vì thiếu « điều kiện tri kỹ » mà chưa có nhóm nào gây thành một trường-phái có ảnh hưởng, có thế lực như Nam-phong, như Tự-lực văn-đoàn ngày trước. Mà tôi nghĩ rằng về phương tiện cũng sẳn sàng, mà về tài chánh cũng dồi dào, có lẽ còn hơn thời kỳ Pháp thuộc nhiều lắm. Điều này cũng là một sự kiện bất thường để cho chúng ta đặt thành vấn đề nghiên cứu thử. Tôi chưaa dám chắc điều tôi nghĩ trên đây là đúng. Tôi chỉ nêu vẫn đề theo nhận xét quản-kiến của tôi mà thôi. Giữa năm 1951, Nhất-Linh từ Hải-ngoại về, đến thăm tôi ở Yiễm-Yiễm thư trang, ở số 115 đường Nguyễn-Thái-Học. Năm đó, tôi vừa thành lập nhà xuất bản Bốn-phương được hơn một năm. Nhất-Linh đến để mượn tôi các ấn phẩm cũ của Tự-Lực văn đoàn xuất bản thời tiền-chiến mà ít nhà còn giữ được, và bàn việc hợp tác với nhau. Anh định giao cho nhà xuất-bản Bốn-Phương in lại tất cả sách nọ. Cũng đã bắt đầu được vài cuốn. Nhưng rồi sau cũng không thành Anh tự chủ trương nhà xuất-bản Phượng-giang của anh. Từ đó, thinh-thoảng gặp nhau. Vì luôn luôn trong mấy năm, cứ gần Tết thì Nhất-Linh phải đến để thăm chừng coi tôi đã làm xong bài thơ Năm-mới và đã in xong chưa những cánh thiếp Tết xinh xinh . Ban đầu, tôi cũng không hiểu tại sao Nhất-Linh lại có cái vui thích được nhìn cánh thiếp Tết của Yiễm Yiễm thư-trang vừa in xong chưa kịp gởi, để tự tay cầm về một tấm, trong mấy ngày áp Tết. Mãi lâu về sau, tôi mới nghe anh nói rằng từ khi còn ở nước Tàu, trong một dịp Tết xa nhà, tình cờ được nhìn thấy cánh thiếp của Yiễm-Yiễm thư-trang ở phòng khách một đồng chí xuất-bôn. Chắc là ở nhà anh Trương Bảo-Sơn. Mấy dòng chữ đẹp in trên cánh hoa-tiên, trong dịp Đầu-năm, đã cho Nhất-Linh có một niềm hoài vọng quê-hương. Rồi lòng cứ còn giữ mài ấn tượng thân yêu và mỗi cảm-tình êm đẹp đó. Có năm, thơ tôi làm trễ mà Nhất-Linh đến chơi sớm quá, gặp lúc nhà-in đưa ấn-cão đến, thì anh lại góp phần thay đổi vài chữ trong bài thơ mới của tôi. Có khi chúng tôi đồng ý, có khi chúng tôi không đồng ý, nhưng đều lấy làm thú-vị quá. Nhất-Linh ít hay nói chuyện chính trị, chuyện cách mạng với tôi. Nhưng có một lần, nhân thưởng văn mà dính chút câu chuyện cách mạng. Về cuối năm 1953, ông Trần-Trọng-Kim từ trần. Các đoàn thể văn-hóa ở Sài-gòn có thiết lễ truy điệu. Ban tổ chức ủy tôi soạn và đọc bài văn tế trong buổi lễ. Sáng chủ nhật 13. XII. 53 là ngày hành lễ. Thì sáng thứ hai 14. XII. 53, Nhất-linh đến chơi với tôi rất sớm để hỏi thăm. Anh nói rằng : Mặc dầu anh không đồng chính kiến với ông Trần Trọng Kim, nhưng anh cũng nên đến dự lễ mới phải. Anh không nói ra vì lý do gì mà anh không đến được nhưng mà nghe trong câu chuyện, hình như anh tự phàn nàn và tiếc là sao anh vắng mặt. Huống chi, ngoài đường lối chính trị thì hai đàng cũng đều là hai người văn hóa có văn nghiệp to lớn cả. Rồi thì anh đòi tôi cho anh coi bài văn tế. Anh đọc rất kỹ, như có ý tìm một điểm gì trong lòng bài văn. Sau cùng, anh vui vẻ khen là tác giả làm văn-tế dùng chữ biết cân nhắc đắn đo. Tôi hỏi lại anh. Anh chỉ mấy chữ mà anh bằng lòng hơn hết : Đoạn tán tụng người quá vãng có câu : Trí dõi sáng mặt trời Học noi sâu lòng bể Anh Nhất-linh chỉ vào tiếng dõi và tiếng noi mà bảo rằng: Nếu không có hai tiếng này thì hỏng, vì rơi vào khuyên sáo cổ văn rồi. Đến câu : Đàn xưa văn-hóa nghề từ chương từng tỏ dạ ưu thời; Hội mới vũ-đài, tài chính trị thử ướm tay khuông thế. Nhất-linh tỏ ý thưởng thức và khuyên ba tiếng « thử ướm tay », Anh cho rằng ba tiếng thử ướm tay chẳng những đối với ba tiếng « từng tỏ dạ » rất đắt mà còn phán đoán rất đúng công việc chính trị của Lệ-thần tiên sinh. Xong, Nhất-linh nghiêm trang như nói với tôi, và cũng như nói với mình: «Có lẽ vì thế mà thất bại cũng nên !» Khi đó tôi đã nghĩ, mà đến bầy giờ tôi cũng còn nghĩ : Bao nhiêu người nước mình xưa nay làm cách mạng làm chính trị, đã có ai dám tự phụ và chắc chắn rằng mình không phải là người « thử ướm tay ». Nhưng mà, ai nấy cũng biết rằng và quốc dân cùng đều biết rằng: Tay ai cũng là tay thử ướm mà can trường ai cũng đều là can trường son sắt ca. Ướm tay thì có khi thất bại, nhưng sắt son nào mà lại chẳng thành công, và lòng son dạ sắt nào mà chẳng vi-đại huy hoàng. Tôi lại nhớ đến việc sát thên thành nhân của Nhất-Linh rồi! Điều tôi nhớ về Nhất-Linh gần đây là việc chơi hoa phong-lan. Việc chơi phong-lan của Nhất-Linh khoảng năm 1956-1958 đã gây thành phong trào, gần bành trướng như phong trào Tự-lực văn-đoàn thuở nọ. Hình như con người đó có tay làm lãnh tụ và dẫn khơi trào lưu nghệ thuật. Lạ lùng lắm. Mấy năm đó, từ Dalat về Saigòn, ai cũng nói đến chuyện chơi phong-lan. Nhà nào cũng treo lủng lẳng vài ba chòm phong-lan. Có nhà gây thành một vườn lan nho nhỏ. Rồi còn triển lãm, còn chưng bày, bán giá thật cao cho thiên hạ tranh nhau mua bán giữa chợ đời phong nhã. Thiệt la lùng ! Năm đó, tôi lên chơi Dalat, đến thăm Nhất-Linh. Anh cho tôi thưởng thức cảnh lan thất của anh. Anh đã tập hợp hàng ngàn gióng phong-lan khác nhau, mà tự anh đi vào rừng sâu lấy về. Anh kể lại bao nhiêu công trình khó nhọc, khi tìm được một chòm phong-lan. Anh kể rằng càng ở những nơi suối đá rừng sâu, càng thích hợp cho loài cọp, thì lại càng thích hợp cho loài hoa lan giống lạ. Nếu ngại đến các nơi nguy hiểm đó, thì đừng hòng lấy dưoc dị phẩm kỳ-hương của loài hoa u-cốc. Anh đã vén chân lên khoe những vết thẹo rướm máu, thâm đen, trong khi lội vào rừng núi bị gai góc, bị muỗi đốt, bị đỉa bám, bị vắt đeo, bị mối đốt tàn nhẫn. Nhưng mà say mê vẫn cứ say mê. Tôi nghĩ, trong lãnh vực nghệ thuật văn chương, với nhiệt độ say mê đó, Nhất-Linh thành công là phải. Anh có rũ tôi chơi phong- lan, nhưng mà tôi từ chối, vi một lẽ rất giản dị là tôi vốn lười, chịu cực không nổi; không làm sao thức đêm thức hôm để chăm chút săn sóc nâng niu gin-giữ một chòm lan. Tôi đã đưa cho Nhất-Linh một bài thơ "Đề Vương giả hương đình" nói về chí thú của tôi đối với việc chơi lan. Bốn chữ Vương giả hương-đình cũng từ đó mà có. Đề Vương giả hương đình. Đâu đây thoang thoảng gió hương ngàn Hương gió ngàn chăng hương gió lan Cho mực đượm vào hương sực- nức Cho thơ hòa với gió mơn man. Phương tám tìm được trong vương-giả U-cốc gần nhau giữa thế gian Dầu chẳng đá rêu dầu chẳng suối Lòng tiên cõi tụ cũng thanh nhàn Bây giờ đám phong-lan của Nhất-Linh đã chết khô rồi, túp lan thất thảo lư của anh ở bờ suối Đa-mê cũng đã sập để rồi, bài thơ lan của tôi lạc lõng còn đây. Đang khi gió mưa hiu quạnh, nhắc lại chuyện cũ đọc văn thơ xưa, kẻ mất với người còn, xiết hao là nỗi trù trướng thê lương. Đã lâu lắm, từ năm 1959, tôi không gặp Nhất-Linh nữa. Anh cũng bịnh mà tôi cũng bịnh. Gặp nhau mà nái với nhau những bismusth, những gas-tropansement, những carbonésie thì chán quá. Nhưng mà, có một lần, cách đây ba năm, nhân buổi nhóm họp của Bút-Việt, tôi được gặp anh thì anh đã tiều tụy nhieu quá. Có lẽ tôi cũng tiều tụy không kém anh. Anh khoe tôi đôi câu-đôi Hán-tự, chữ của một tay bút thiếp Tàu viết khá đẹp. Anh nói rằng câu đối này, người bạn tặng anh hồi anh gây cảnh trại hoa phong - lan ở Phi-nôm. Câu đối rằng: Địa phân thành thị lâm tuyền bán Nhơn dữ kỳ sơn tú thủy tam Tôi nói rằng tác-giả câu đối này muốn gò chữ Tam tên anh, nhưng mà thiếu chữ Nhất thì tôi chưa lấy làm thú, bởi vì tôi yêu chữ Nhất hơn chữ Tam. Lại nữa, chữ bán đối với chữ tam không cân. Anh nói khó mà chữa cho ổn vì chữ bán ở vế trên đó là chữ đúc của câu có sẳn « bán thành thị bán lâm tuyền" Nay muốn bỏ chữ bán thi thật khó. Tôi nghĩ một chút rồi chữa vế đối lại rằng : Địa kiêm thành thị làm tuyền nhất Nhân dữ kỳ sơn tú thủy tam Câu nguyên-văn nghĩa là: Đất chia (phân) một nửa thành thị và một nửa lâm tuyền. Câu chữa thì nghĩa là : Đất gồm (kiêm) cả thành thị cả lâm tuyền chung vào một cuộc. Nghĩa câu văn vẫn thế mà gò được chữ Nhất tức là Nhất-Linh, để đối với chữ Tam, tên anh ở vế dưới. Nhân đó mà chúng tôi nói lan-man đến thú chơi câu đối. Chúng tôi cho rằng trong thế giới, duy chỉ có nước Tàu và nước ta mới biết thú chơi câu đối, và biết thưởng thức văn-chương câu đối. Đem nét chữ câu văn mà điểm nhiềm cho cảnh lâu đài ; nét kiên trúc nhờ câu đối mà thêm phần ý nhị. Chỗ thư trai khách thính nhờ có câu đối mà thêm thanh thú trang nhã; chỗ viêm lâm đình ta nhờ có câu đối mà thêm tĩnh mịch u nhàn. Câu đối biểu lộ niềm vui nỗi buồn trong tính giao tế. Trong văn học sử Việt-Nam, câu đối đã chiếm một địa vị khá quan trọng. Quan trong nhất là những câu đối phúng, nhiều câu thâm trầm tha thiết lắm. Tôi nói rằng, từ thời kỳ cận kim cho đen thời kỳ Trung-hoa dân quốc cách mạng, người Tàu thích làm câu đối dài hàng trăm chữ. Anh hưởng đó sang Viet-nam. Các nhà nho cách mạng nước ta, như các cụ Mai-Sơn, cụ Sào-Nam, làm nhiều câu đối rất dài. Như câu đối của các văn thân Nghệ Tĩnh viếng cụ Phan-Đinh-Phùng dài đến 160 chữ. Như câu đối điệu nội của cụ Mai-sơn Nguyễn-Thượng-Hiền làm trong lúc xuất bổn ở Tàu, gởi về nhà, dài đến 88 chữ. Nhú hồi năm 1934, cụ Phan-Sào-Nam, cũng đã làm một câu đối viếng Toàn quyền Pasquier tử nạn tàu bay, dài đến 98 chữ. Tôi khoe với Nhất-Linh và Vi Huyền-Đắc, là tôi đã từng làm một câu đối dài đến 174 chữ, viếng cụ Minh-viên Huỳnh Thúc-Kháng mất ở Quảng Ngãi năm 1946 trong thời kỳ quốc biến. Câu này còn dài hơn câu đối viếng cụ Phan-Đinh-Phùng những 14 chữ. Anh Vi Huyền-Đắc cười bảo: « Các nhà làm câu đối dài như vậy là tham chữ, chớ hay gi mà hay!» Anh Nhất-Linh nói rằng : Dài một chút cũng không hay, mà ngắn một chút cũng không hay, có ai làm được câu đối vừa đúng 100 chữ chẵn, nghĩa là mỗi về có 50 chữ không hơn không kém thì mới lạ. Câu nói có ve trào phúng đó của Nhất-Linh làm cho ai nay vui cười rồi bỏ qua. Chuyện đã cách đây hơn ba bởn năm rồi. Hôm Nhất-Linh tuẫn tiết, tôi nghĩ câu đối bằng điếu người thung-dung tựu nghĩa. Viết ra kiểm điểm lại, tự nhiên vừa đúng 100 chữ, vế trên 50, vế dưới so không hơn không kém. Câu đối này có lẽ muốn thêm ít chữ nữa cũng được mà muốn bớt đi ít chữ nữa cũng được, nhưng tôi cứ muốn để y số 100 chữ như vậy. Tôi chép y nguyên văn ra đây để chút lưu niệm về giai thoại câu đối trăm chữ nhớ người xưa. 100 CHỮ ĐỐI VIẾNG NHẤT LINH MỘT thời còn nức thanh danh, nền xã-hội chí canh tân sắp sẳn, mở trào lưu khơi rộng ngõ tâm tình, trước rồi sau Phong-hóa Ngày-nay, đoàn Tự-lực gây nên, bút tài hoa lỗi lạc, mũi thép sắc ngòi, làng báo dân văn tay lãnh-tụ. NẤM đất không chôn sự nghiệp, tòa cường quyền án chuyên chế dừng tuyên, xét công tội để cho phần ljch-sử, khinh với trọng lông hồng non Thái, nghĩa thành-nhân chọn lấy, tiệc chánh khí huy hoàng, rượu dời cạn chén, đường mây nẻo giớ bước thung dung. ĐÔNG-HỒ 18-7/1963 (Văn cảo Tang thương tap ký) Trích tạp chí Bách Khoa số 180
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 31, 2024 21:47:17 GMT 9
Huy Cận và bài thơ Tràng giang .
Chuyện rằng, khi Huy Cận vừa làm xong bài thơ Tràng giang, ông gửi cho Xuân Diệu xem trước. Xuân Diệu vội vàng chép tay, rồi gửi theo đường bưu điện cho Thế Lữ. Đọc xong, Thế Lữ khen hay và hỏi: "Huy Cận là tay nào mà làm thơ hay thế!". Xuân Diệu bảo: "Huy Cận là bạn tôi". Thế Lữ lại hỏi: "Là bạn sao không đưa thẳng cho tôi mà lại gửi thư?". Xuân Diệu đáp: "Tôi muốn gửi thế để kiểm tra xem thử thơ có hay thật không?" Mấy ngày sau, Huy Cận ra Hà Nội, Xuân Diệu đưa ông đến báo Ngày nay giới thiệu với Ban biên tập. Đó là lần đầu tiên Huy Cận tiếp xúc với giới văn chương, báo chí. Từ đó, họ rất quý ông, đăng thơ ông đều đặn trên báo Ngày Nay. Tuần ấy, báo đăng bài Tràng giang của Huy Cận. Ngay ngày hôm sau, mới 6 giờ sáng, Lưu Trọng Lư đã đến đập cửa phòng Huy Cận tại số 40 Hàng Than (lúc ấy Lưu Trọng Lư ở dưới nhà, Huy Cận và Xuân Diệu ở trên gác), mà rằng: "Trời, Tràng giang hay quá Cận ơi! Hôm nay cụ Ngô Tất Tố hỏi tôi: "Huy Cận là thằng cha nào mà làm bài thơ hay thế? Bài thơ này hồn thơ Đường mà hay hơn thơ Đường”...mình phải khao cậu mới được. Thế là hai nhà thơ đến hiệu phở Nghi Xuân (ở Hàng Quạt) nổi tiếng. Lưu Trọng Lư chiêu đãi Huy Cận nhưng lại... quên mang tiền vì ông nổi tiếng là người lơ đãng. Rốt cuộc, Huy Cận lại mời phở Lưu Trọng Lư.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. H.C. Tặng Trần Khánh Giư Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, Ngữ văn 11 từ 2007. Nguồn: 1. Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, 1940 2. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007 4. SGK Văn học 11 (tập 1), NXB Giáo dục, 2005
|
|