|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 17:16:14 GMT 9
Tưởng niệm Cụ Trần Văn Hương nhân sĩ suốt đời giữ tiết tháo
Hứa Hoành "Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước..." (Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ đến nhà định làm lễ, quay phim "trả quyền công dân cho ông"). Hàng năm, cứ đến ngày oan trái 30 - 4, tôi lại bâng khuâng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đãbỏ mình vì nước. Làm tướng giữ thành, thành mất, tuẫn tiết theo thành, ngày xưa có Tổng đốc Hoàng Diệu (1828 - 1882), Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873)... Ngày nay có Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Thiếu tá quận trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) và hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác, đãtự sát để giữ tròn khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao quý, tiết liệt, lịch sử ghi nhớ muôn đời. Hai mươi năm chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ quốc sáng ngời chính nghĩa quân dân miền Nam đãhy sinh hàng triệu người, chỉ vì muốn bảo vệ một lý tưởng "Ðộc lập, tự dỏ và không muốn đất nước rơi vào tay CS. Nhưng cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất hận, nghẹn ngào. Năm nay, nhân ngày tang tóc đau thương của toàn thể dân tộc Việt Nam, chúng tôi muốn nhắc lại với thế hệ mới lớn lên, về những cái chết oai hùng. Trong phạm vi bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng của một chính khách thanh liêm, cương trực, suốt đời giữ được tiết tháo và lòng yêu nước: người đó là cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàigòn, hai lần làm thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ được 3 ngày. Cụ Hương mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu gương không bao giờ mất. Tuy là người đồng hương, vì nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần Văn Hương chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Ðức Khổng Tử và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng con cháu, nên tôi không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi là thành viên của một phái đoàn vận động thành lập Viện Ðại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong và Vĩnh Bình, có đến tư thất của cụ ở đường Phan Thanh Giản Sàigòn, để yết kiến và xin cụ giúp đợ Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống, có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ chấp nhận thành lập Viện Ðại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh ký trước mặt cụ. Mặc dầu rất nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ Hương sống cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư cách. Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu, nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long, trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Le Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đãtheo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943 - 1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn chương và luân lý tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi lên làm Ðốc học tỉnh Tây Ninh. Năm 1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm Việt Minh mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh được mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức. Tuy vậy cụ vẫn còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ mặt thật của Việt Minh là CS, tìm cách khủng bố, ám sát thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành bây giờ). Theo tài liệu của tình báo Mỹ, ông Hương có hai người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi (Giỏỉ). Hồi còn theo học trường "College de Can Thơ" kháng chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ gặp nhau nữa. Ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối Ðoái dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cho biết "Ông Trần Văn Giỏi (không phải Dõi) ở tại Sàigòn, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn." Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, tình báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nhìn nhận và cho biết từ đó cho đến nay, cụ không còn liên lạc gì với người con đó hết. Khi cụ tham chính, thì nguòi con lớn là Trần Văn Doi ở kế cận đóng vai người cố vấn thân tín. Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1986, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó tổng thống, và khi ông Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc tình thế đất nước lâm nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống dùng theo hiếp pháp. Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong những ngày tháng cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần gũi với cụ Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần lớn trong bài ấy: "Hương trà năm cũ" trong bài viết để đồng bào, đồng hương có dịp biết thêm về nhiều chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ còn sốt lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây lòng biết ơn của tác giả. "... Nhiều năm trước, khi tôi học trung học, một buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ "cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn cùng "khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia đình với đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng trò chuyện dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Thình lình, cụ Hương từ trong nhà bước ra, nhìn về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị tôi: - Ông cụ vừa mới la. - La về chuyện gì vậy? - Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào phòng khách nói chuyện đàng hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây. Ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi như vậy là không trọng bạn chút nào hết." Ðó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự nhiên nhen nhúm một cảm tình đầy quý trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương. Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong ngõ hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong biệt thự này đã đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau tìm cái chết. Họ vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Ðó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ là cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối "xin nhờ lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay kẻ thù." Ðôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai còn thơ dại, nhờ ông bà nội (em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ một bầu không khí ảm đạm và im lìm đó, nơi một căn phòng khác trên lầu, cụ Hương đóng cửa, im lặng, trầm mình trong nỗi đau khổ của một người đãtừng lãnh đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau khổ của cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ lộ. Nhưng ý định cùng chồng đi tìm cái chết của Mai Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai Hương đãđược các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ đó Mai Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng của cụ. Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự trên để thăm các con của Mai Hương, hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đãchứng kiến cảnh sống đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn của gia đình cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng nhỏ ở trên lầu.ăn phòng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại là hai chiếc ghế bành, một cái tủ đựng quần áo đãcũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng Phật Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận, săn sóc cụ là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong của khuôn viên biệt thự, có lẽ trước kia là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày cho các thân nhân gồm các em và cháu của cụ, vì phải gặp cảnh khó khăn dưới quê, tìm về Sàigòn nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đã cấp từ thời trước. Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng thống Thiệu đãchỉ thị phải sửa chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ từ chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc gì ích nước lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công qũy. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên chẳng phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh nhau giành giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ vở bung lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu, sơn quét. Hình ảnh cụ lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, gãy cánh mà vẫn cố giương đôi cánh mang thương tích của mình để bảo bọc chim non. Tôi được nghe kể lại cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ dưỡng, cụ hỏi xem mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người nhà thường trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự thật của chữ "có" nên thường cụ để dành lại thức ăn ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà cho con cháu. Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà nội các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi quay đầu nhìn lên sân thượng thấy cụ Hương, ngồi yên lặng trên đó. Mình cụ để trần, mái tóc bạc trắng, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương ngồi trên sân thượng như vậy nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe về nhà, hình ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc tôi. Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa một củ sâm Ðài Loan và nói với tôi: - Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Ðó là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ sang Ðài Loan, còn cất giữ mãi đến bây giờ. Ông nói chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong gạo cho sắp nhỏ. Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói đãcũ. Nhìn qua, ai cũng biết củ sâm được gói kỹ lưỡng, và bị lãng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm rồi, nay mới được nhớ lại. Tôi nhìn củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch, một người lãnh đạo quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân làm tài sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay giúp đỡ người thân đang tá túc trong nhà, những người đa ?37;t nhiều liên lụy vì các hoạt động chính trị của cụ. Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung với nhau trong một căn nhà nhỏ ở quận Tân Bình) kể cho chúng tôi biết là ông vừa làm theo ý cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste còn tốt của cụ ra chợ trời bán. Ðể an ủi người nhà bớt đau lòng, cụ Hương bình thản giải thích: - Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi chớ để làm chi! Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao lâu, vì ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ. Gia đình cụ Hương đa ?#7883;u chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh thần đến vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến, lòng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội (bịp) đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cu Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền, khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc "chính sách khoan hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với những "thành phần" như cụ, cụ dõng dạc nói: - Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã được nhận. Ðại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu hình. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà: - Bọn nó cũng chẳng cần phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà đâu mà cần phải quản thúc! Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi: - Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không thì Dượng chẳng yên tâm. Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đòi người nhà phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đã thuộc về tay chính quyền CS. Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người bạn, vì trong hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi nhận lời Dượng, hứa tìm một bác sĩ của "chế độ mình" để nhờ khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn mặt vì mắt cụ đa ?7901;. Cụ Hương hỏi nhà tôi: - Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không? Nhà tôi trả lời: - Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu không ngạị Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi tiếp: - Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và kiến thức hãy còn ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết, cháu sẽ về đọc sách lại. Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như để trấn an. Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không quan tâm lắm, mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn của bác sĩ. Ðiều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau: - Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới). Chú thương nó có tình, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không nỡ lấy. Nhưng nếu chú không nhận thì "sợ nỏ buồn tội nghiệp", nên chú chỉ nhận có 5 đồng, còn hộp sữa thì bảo nó đem về cho gia đình (lúc ấy sữa rất khó mua). Người mà cụ kể là "thằng em" một cách thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ. Cụ Hương còn tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy đã ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau khi Sàigòn bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ. Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống tại California. Anh có một đứa con bị bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm 1975. Ða ? lần anh muốn bảo lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi: - Trước kia đại sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú đãtừ chối. Bây giờ đời nào chú lại xin chính quyền CS để được đi.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 17:18:54 GMT 9
[img src="http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tvhuong/tvhuong-pix[1].jpg"] Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ đặc biệt quý mến như bác sĩ Bạch Ðình Minh. Cụ ngậm ngùi kể: - Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quý trọng. Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ hỏi nhà tôi: - Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không? Nhà tôi thưa: - Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y khoa. Cụ Hương tâm sự: - Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y bằng "thằng", vì chú thương nó như con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng như vậy không? Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn còn khỏe mạnh ở bên Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Ỵ Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói gì. Hai giòng nước mắt từ từ lăn trên má cụ. Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đa ?sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ giấc của sự kiện đãxảy ra. Cụ không quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng: - Chú nghĩ người làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên), trong một buổi họp quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin không ghi lại câu vô lễ nầy)... Vì dân biểu nầy đáng con chú. Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ "lễ", không tỏ ra có tư cách của người học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của họ. Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm muộn gì con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành công, nhưng không bao giờ con bỏ ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm manh áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một lý do viển vông nào. Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không nói gì. Mãi một lúc sau, cụ thở dài chép miệng: - Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn. Lúc nhà tôi từ giãcụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và nói: - Chú gặp con muộn quá! Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó, tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình do anh chị tôi bảo lãnh. Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một mình bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi lìa khỏi nơi đây. Cụ Hương vẫn là hình ảnh làm cho lòng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên dòng nước đang giao động của tâm hồn tôi. Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một giai thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm cụ Hương làm đô trưởng Sàigòn - Chợlớn, thì cụ đi làm việc hàng ngày bằng chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô tòa đô chính nhận việc, người lính gác cổng chận lại và không cho cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Ðô Trưởng" họ cũng không tin. Cụ phải trình sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới hoảng hồn, định chắp tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp vô làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng tháng chính phủ trả phủ cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, vì cụ nói "không có chuyện gì cần phải xài." Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong những ngày đen tối của đất nước chúng tôi thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ: Cuốn hồi ký "Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Mérillon kể lại: "Mãi tới tối 18 - 4 - 1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông (Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN." Ðại sứ Martin nói: - Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò tái lập hòa bình cho VN. Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương nói: - Ông Ðại sứ à! Tui đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này. Ðến ngày mất nước, đại sứ Martin còn đến gặp cụ Hương và nói: - Ngài đi với tôi sang Mỵ Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống mãn phần. Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp): - Thưa ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Ða ?73;ến nỗi như vậy, Mỹ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Ðại Sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Ðại sứ. Nhưng tôi đãsuy nghĩ kỹ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được Saigon, thì bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại chia xẻ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Ðại Sứ đãđến thăm tôi. Tới đây, tôi lại nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của một người lãnh đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân ta thường hay có thái độ coi thường. Ðó là ông hoàng Sirik Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh ấy (1975) khi quân Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom Penh, Ðại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean đến mời hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik Matak từ chối và trả lời bằng thư sau: "Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami)
Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế.
Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi không bao giờ ngờ rằng Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đãchọn tự dọ. Quý Ngài đa ?7915; chối bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho Ngài và quốc gia của Ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời của quý ngài.
Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, thì thôi mặc, bởi vì tất cả chúng ta đa ?73;ược sanh ra để rồi một ngày nào đó thì chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đa ? nơi Ngài và tin nơi những người Hoa Kỳ
Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm tình trung thực và thân ái của tôi.
Sirik Matak, Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần được đọc trong một phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hộị (Trích bài biết của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998). Hứa Hoành
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 19, 2011 13:48:42 GMT 9
Huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận có núi Mặt Quỷ, Ðá Chồng, những cái tên nghe rất lạ. Người dân ở đây nói rằng những ngọn núi này gắn liền với những chuyện truyền khẩu về cuộc đời của Nguyễn Văn Thiệu. Có thể đó là những câu chuyện mang màu sắc tâm linh, hoặc là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa thiên nhiên và cuộc sống. Ðiềm báo hòn Ðá Dao Ông Trịnh Cường ở khu phố Khánh Giang, thị trấn Khánh Hải năm nay 76 tuổi dẫn tôi lên núi Ðá Chồng. Hiện nay khu vực này đã trở thành Thiền viện Trúc Lâm Viên Ngộ với một loạt các chùa uy nghiêm cùng không gian hữu tình đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ là khu du lịch tâm linh lớn nhất cả vùng. Nằm dưới chân núi có một tảng đá hình tam giác nhọn, màu đất sét, chiều ngang cỡ 6m, chiều cao 3m. Ðây được gọi hòn Ðá Dao bởi hình dáng tựa lưỡi dao. Ông Cường lại chỉ ngọn núi Mặt Quỷ đối diện cách đó chừng 1km, nơi có hòn đá tựa mặt quỷ. "Mặt Quỷ kị Ðá Dao", từ lâu người ta kháo nhau nhà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở sát núi Mặt Quỷ nhưng vẫn yên ổn lại thăng quan tiến chức nhanh là nhờ có Ðá Dao. Vậy mà năm 1974, nó bỗng đổ, cứ như ai dùng một sức mạnh cơ học nào bật xuống. Núi Mặt Quỷ ở Tri Hải, Ninh Hải. Ông Cường nhớ lại: "Cỡ 4 giờ chiều tôi ra sân bóng thì nghe một tiếng rền rất to. Ngước nhìn lên thấy rõ hòn Ðá Dao sụp xuống, chỉ còn trơ phiến đá làm đế. Mọi người chạy lên xem rất đông, xôn xao về một điềm báo gì đó. Ðiều dễ thấy nhất là không bao lâu Tổng thống Mỹ Ních-xơn từ chức. Trên địa bàn Ninh Hải lại xảy ra nhiều sự kiện lạ lùng khác. Sâu bọ ở đâu xuất hiện nhiều vô kể, băng qua đường nhựa và cầu Lăng Ông. Kế đến là vụ bướm bay từng đàn rợp trời. Ðây cũng là năm Tổng thống Thiệu có lệnh tổng động viên. Thanh niên, học sinh, sinh viên đều bị huy động ra trận. Con trai ông Tám Sinh gần nhà tôi làm lính tò te, chủ yếu canh gác trong làng, vậy mà đùng một cái bị đẩy ra trận, 3 ngày sau thì chở xác về. Không khí tang tóc bao phủ các nhà, tiếng khóc ai oán vang khắp nơi". Ðiều gì đến đã đến. Ngày 16-4-1975, Ninh Thuận mất - 21-4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 25-4, ông Thiệu rời khỏi đất nước, qua Ðài Loan, sau đó đến Anh và cuối cùng định cư ở Mỹ, chết năm 2001, lúc 78 tuổi. Khu mộ lạnh khói hương, ngôi nhà cũ xuống cấp Bà Trương Thị Thiềm (còn gọi là bà Mười Ngọc) ở thôn Tri Thủy, xã Tri Hải trước đây làm cán bộ hợp pháp, sau làm công an xã, ở gần nhà Nguyễn Văn Thiệu, chỉ dãy mộ xen cỏ lúp xúp, hoang vắng phía sau trường THCS Lý Thường Kiệt nói: "Ðây là mồ mả phía nhà ông Thiệu, gồm các cụ tổ, ông bà nội và các anh chị mất lúc trẻ. Trước giải phóng, khu này lúc nào cũng có hai lính canh, lăm le súng ống, nay cả nhà ra nước ngoài, ông bà không ai hương khói, bao nhiêu năm đất lấp gần hết. Trước đây thấy mười mấy mộ, nay chỉ đếm được vài cái". Ông Trịnh Cường kể chuyện về cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hôm tôi về Ninh Hải thấy có một vài người từ xa đến thăm ngôi nhà của Nguyễn Văn Thiệu ở Tri Thủy, chủ yếu họ đi thăm, tắm biển ở Ninh Chữ rồi nhân tiện đến đây. Anh Lê Văn Tiến, Phó chủ tịch xã Tri Hải cho biết: Thỉnh thoảng vẫn có người hiếu kì, kể cả nước ngoài đến hỏi han. Ngôi nhà tường xây, cột gỗ, lợp ngói theo kiểu xưa, trong nhà chẳng có gì đặc biệt, không chạm trổ hay điêu khắc để có thể chiêm ngưỡng. Nhà chính khá rộng rãi, ít hư hỏng hơn trong khi nhà dưới và nhà bếp xuống cấp nặng. Theo anh Tiến, sau tháng Tư 1975 , huyện tiếp quản làm nhà trẻ, sau đó cho các hộ khó khăn ở tạm, khi nào làm được nhà mới thì bàn giao lại cho người khác. Cứ thế mấy mươi năm nay, đã có nhiều hộ sử dụng ngôi nhà này, vừa ở vừa bảo quản, sửa chữa nhỏ, quét vôi ve, lợp lại ngói đã mục nát... Người Tri Hải đã khép lại quá khứ, dù nơi đây vẫn tồn tại một ngôi nhà của một cựu tổng thống một thời.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 4:25:51 GMT 9
TỔNG THỐNG TRẦN VĂN HƯƠNG, KẺ SĨ THỜI ĐẠI " Tôi xin hứa với anh em ... tất cả ở trong trong quân đội là ... ngày nào anh em còn chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em và ngày nào, chẳng may, mà đất nước không còn ... thì cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm bên cạnh đống xương của tất cả anh em chiến sĩ. Đó là cái nguyện vọng tha thiết của tôi, suốt cả đời tôi." Tran Van Huong
» Tác giả: Phạm Lễ 1. TỔNG THỐNG TRẦN VĂN HƯƠNG, KẺ SĨ THỜI ĐẠI Tổng Thống Trần Văn Hương và nhân viên tùy tùng. Tình cảm đầy lễ giáo tạo nên đạo đức của người kẻ sĩ thời đại là Cụ Trần văn Hương Tổng Thống dân cử thứ ba của thể chế Việt nam Cộng Hòa làm cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của một Chu Văn An,...bậc đại sĩ thời nhà Trần cách nay đã 700 năm là một biểu hiện của nhà nho, kẻ sĩ yêu nước, người đã vạch ra đường lối giáo dục để đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài lỗi lạc. Qua hình ảnh và đưòng lối của Kẻ Sĩ Chu Văn An làm hình ảnh tôn sư trọng đạo, thương nước yêu nòi… Thời của những kẻ sĩ đã lấy nhân đức để trị vì thiên hạ với ý niệm “Dân Vi Qúy”, thời điểm đó đã xuất hiện không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước. Rồi bước sang hậu bán thế kỷ thứ 19 chúng ta có kẻ sĩ tiết tháo Phan Thanh Giản đã sống vì dân, chết vì nước luôn coi sinh mệnh của toàn dân, an ninh bờ cõi của đất nước mới là quan trọng, coi cái chết của bản thân nhẹ tựa lông hồng… Tiến sĩ Phan Thanh Giảng là một sự phản chiếu từ hình ảnh của Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ với phương tram “Thắng không Vinh, thua không nhục”. Nhưng cũng trong miền đất ruộng đồng thẳng cánh cò bay, nơi có chín con rồng biểu tượng sự linh thiêng cho nòi giống Lạc Hồng, dọc theo bờ biển trù phú của đất nước Việt Nam. Ở thời điểm cuối thế kỷ thứ 20 chúng ta lại may mắn có một kẻ sĩ thời đại đầy tiết tháo, đầy sĩ khí và đức độ, bao dung sống cho dân, chết vì nước. Đó là vị Tổng Thống dân cử thứ ba của Việt nam Cộng Hoà: Cụ Tổng Thống TRẦN VĂN HƯƠNG – mà chúng tôi xin được mạn phép gọi Cụ là “ Người kẻ sĩ thời đại”. - Trước đó, tối ngày 18.4.1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin đã thông báo với đại sứ Pháp Mérillon rằng Hoa Kỳ sẽ buông Việt Nam. Ông đại sứ Mérillon đã chuyển lời nói này cho Phó Tổng Tổng Thống Trần Văn Hương. Cụ đã trả lời:- Ông đại sứ à, tôi đâu có ngán Việt cộng. Chúng nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tôi, tôi xin thề ở lại và mất theo nước này. Cuộc điện đàm sau cùng của Tổng thống Trần Văn Hương và Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ. Trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản. Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gập Tổng Thống Trần Văn Hương và nói với ông Cụ : « Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT trăm tuổi già» Tổng Thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời :«Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.» Trong phần mở đầu của bài diễn văn, Tổng Thống thứ ba của Việt Nam Cộng Hòa đọc trước quốc hội lưỡng viện vào sáng ngày 26 tháng 4 năm 1975 (Tức là chỉ có 4 ngày trước khi Việt nam Cộng Hòa bị rơi vào tay cộng sản bắc việt..)Tổng Thống Trần Văn Hương đã nhìn thấy những hiểm hoạ đang ụp xuống lên hơn 30 triệu đồng bào của Cụ sau 21 năm hy sinh chiến đấu dũng cảm của Quân- Dân- Cán- Chính để bảo vệ bốn chữ Việt Nam Cộng Hòa, ngõ hầu mang lại Tự Do – No Ấm cho toàn dân miền nam,với lời nói thật chân tình đầy quả cảm tự đáy lòng của một người lãnh đạo cả đời dấn thân hy sinh cho đại cuộc :“Tôi nhiệm chức hôm nay đã được năm ngày. Nói rằng ở đây để đọc một cái thông điệp, tôi không có cái táo bạo như vậy, bởi vì tình thế nghiêm trọng của đất nước. Vả lại như quý vị đã biết, tôi không quen nói những lời văn hoa mà không có ý nghĩa, cho nên tôi xin thưa trước quý vị đây không phải là một thông điệp. Đây chẳng qua là lời thành khẩn, thật tình của một người vì nước, đến trình bày mọi việc để quý vị rõ và quyết đoán. Thưa quý vị, tình trạng đất nước khó khăn như thế nào, có lẽ quý vị đã biết rõ rồi. Tổng thống trao quyền lại cho tôi chẳng những là khó khăn, mà còn rất là bi đát. Bởi vì như quý vị đã biết, trong bốn vùng của chúng ta, hiện giờ chúng ta đã mất hơn hai vùng rồi, còn lại vùng III và vùng IV thì đã sứt mẻ, và sứt mẻ này có thể một ngàymột lan rộng, và tình trạng khốn khổ, đau thương chẳng những là của toàn xứ mà của cả Sài Gòn và Chợ Lớn này trong những ngày gần đây.” Chính vì Tổng Thống Trần Văn Hương là người xuất thân từ giới bình dân nghèo trước khi trở thành người trí thức tiêu biểu của miền nam Việt Nam, với một ý chí cao cả, một trái tim nồng nàn yêu nước thương dân, một lý tưởng quốc gia chân chính, người kẻ sĩ “MỘC MẠC ĐẦY CHÂN TÌNH VỚI ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC” như ông. Nên Cụ đã chấp nhận định mệnh của chính mình. Đức tính lãnh đạo ấy của Tổng Thống Trần Văn Hương đã trở thành một biểu tượng “TRONG GIỚI SĨ PHU THỜI ĐẠI”đầy hào khí, đó là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc trong công cuộc chiến đấu một mất một còn chống lại đại khối cộng sản quốc tế. Nhiều chính khách, ký giả, nhà báo, giáo chức, cấp chỉ huy Quân Đội sinh trưởng tại miền đồng bằng nam bộ... rất tự hào khi nhận mình là học trò của cụ, và đều kính cẩn thưa với vị thày khả kính hằng dạy dỗ văn hóa và đạo đức cho mình bằng tiếng “THẦY” rất trân trọng.. Những người không phải là học trò của Tổng Thống Trần Văn Hương khi trước thì thưa với tổng thống là “CỤ”, để tỏ lòng cung kính nhà lãnh đạo tài đức song toàn của quốc gia. Trong bối cảnh đất nước ly loạn dầu sôi lửa bỏng nghiêng ngửa, giữa cơn hoạn nạn đày phong ba bão táp như vậy, giặc cộng đã và đang bao vây trùng điệp bên ngoài Thủ Đô Sài Gòn, ngày 21 tháng 4 năm 1975 Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã nhận trách nhiệm của một vị “ Tổng Tư Lệnh” TRONG THỜI CHIẾN từ tay người Tổng Thống tiền nhiệm Nguyễn Văn Thiệu một di sản quá nặng nề với tình trạng quân lực và tinh thần của quân dân đầy tơi tả sau khi rút từ vùng I và vùng II về cố thủ sau vĩ tuyến 13 từ Phan Rang trở vào đến mũi Cà Mâu.. Ở tuổi 71, sức khỏe suy kém, đôi chân phải nhờ đến chiếc gậy chống, vị Tổng Thống thứ ba của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hùng hồn và dứt khoát khẳng định cùng với quân dân Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu. Ngày 22.4.1975, trong cương vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Trần Văn Hương đã ký ngay một nghị định tăng lương thêm 10,000 đồng phụ cấp cho tất cả quân nhân tác chiến để xác định rõ tấm lòng thương mến của cụ dành cho người quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để nâng cao tinh thần chiến đấu của Quân Đội, sẵn sàng quyết chiến với giặc trong cuộc tử sinh cuối cùng. Đồng thời Tổng Thống Trần văn Hương cũng ra lệnh tức khắc ngừng việc cấp giấy xuất ngoại cho bất cứ công dân Việt Nam Cộng Hòa nào được ra khỏi nước trong giờ phút thập tử nhất sinh, nếu không có sự chuẩn thuận của Tổng Thống. Không vì bất cứ lý do gì trong lúc những người chiến sĩ đang ngày đêm gian nan hy sinh sẵn sang đổ máu ngoài tiền tuyến để ngăn chống giặc cộng đang tấn công vũ bão khắp các chiến tuyến, mà cụ lại có thể ban “đặc ân” cho một số người chạy trốn cuộc chiến để được vinh thân phì da một cách hèn mạt như vậy!!! Đích thân Tổng Thống Hương duyệt xét từng hồ sơ xuất ngoại một, để bảo đảm rằng không có sự lo lót hối lộ trong đó (?)Mặt khác , trên cương vị Tổng Tư Lệnh Tổng Thống Trần Văn Hương ngợi khen chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Ngày 25.4.1975, Tổng Thống Hương đã dùng trực thăng đến Căn Cứ Long Bình vinh thăng Thiếu Tướng tại mặt trận cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, cũng như ân thưởng cấp bậc và huy chương cho tất cả chiến sĩ có công trong việc ngăn chặn địch quân.. Trước đó vài ngày, Cụ cũng đã bay xuống Thủ Thừa để tuyên dương công trạng của Trung Đoàn 12, thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh và đặc cách thăng cấp Đại Tá tại mặt trận cho Trung Tá Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng. Không chỉ chăm lo việc binh bị và đời sống của chiến sĩ, Tổng Thống Trần Văn Hương còn góp tay vào tất cả mọi lãnh vực xã hội khác trong quyền hạn của mình… Cụ Tổng Thống Trần Văn Hương là một chiến sĩ quốc gia chân chính, là một kẻ sĩ đạo đức thiết thực dầy lòng nhân ái, thanh liêm và nghiêm minh trong vai trò Chủ Tịch Ủy ban Bài Trừ Tham Nhũng, cụ đã chọn Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu một vị tướng nổi tiếng là thanh liêm trong vai trò phụ tá để bảo đảm trong công việc trong sách hoá guồng máy chính quyền. Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu thuộc quận châu thành Vĩnh Long trong một gia đình thanh bạch, thuở nhỏ rất thông minh và hiếu học, nên song thân đã tằn tiện chắt mót hy sinh cho người con để có thể gửi cụ ra tận Hà Nội học Trường Cao Đẳng Sư Phạm. Chúng ta phải hiểu rằng, thời Pháp thuộc, một học sinh lấy được bằng Cao Đẳng Tiểu Học đã quá khó khăn, rồi phải vất vả đến như thế nào để đậu được bằng Thành Chung (Diplome), tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhất cấp sau này. Người Pháp chủ trương hạn chế trí thức Việt Nam, và mở mang dân trí thuộc địa một cách nhỏ giọt, nên những học sinh phải thật xuất sắc mới có thể đậu được bằng Tú Tài II (Baccalaureat). Để được nhận vào Trường Đại Học Y Khoa hay Cao Đẳng Sư Phạm thời thập niên 30-40 là một con đường dốc thẳng đứng không biết bao nhiêu gian nan mới có thể đạt được ước nguyện. Sau khi tốt nghiệp Cao Đảng Sư Phạm tại Hà Nội, người giáo sư trẻ Trần Văn Hương thời đó được bổ nhiệm về dạy Trường Le Myrle de Vilers ở Mỹ Tho. Người thầy giáo bồi hồi trong niềm hãnh diện và sung sướng khi được trở về đứng trên bục giảng ngay tại ngôi trường xưa mà ông đã theo học từ những năm trước để có thể dìu dắt các thế hệ đàn em có thể tiến bước theo ông.. Trong những năm 1943 – 1945, giáo sư Trần Văn Hương dạy môn văn chương và luân lý. Vài năm sau ông được đổi lên làm Đốc Học tỉnh Tây Ninh, một chức vụ đầu tỉnh về ngành giáo dục. Dù có được đào tạo trong môi trường giáo dục của chính quyền bảo hộ Pháp, là một giáo sư trong môi trường có quá nhiều cạm bẫy ân sủng do người Pháp đưa ra. Nếu cứ chiụ khuất phục giống như nhiều người để con đường hoạn lộ được thong dong thì chắc chắn sẽ không có danh thơm là một kẻ sĩ uy vũ bất năng khuất Trần văn Hương sau này. Mùa thu năm 1945, Việt Minh, tổ chức cộng sản trá hình của cộng sản Việt Nam đã nổi dậy cướp chính quyền khắp ba miền bắc-trung-nam của Việt Nam. Trần Văn Giàu, một Xứ Ủy cộng sản tại miền Nam trong vai trò Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, đã tiếp xúc và xin cử giáo sư Trần Văn Hương làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng tỉnh Tây Ninh, một chức vụ tương đương với Tỉnh Trưởng sau này. Nhưng làm việc với Việt Minh không được mấy tháng, giáo sư Trần Văn Hương đã nhận thấy ngay bộ mặt thật của cộng sản được che bởi chiếc mặt nạ kháng chiến. Vì thấy cộng sản chủ trương khủng bố, ám sát và thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc gia, giáo sư Trần Văn Hương xin từ chức, và tìm cách bỏ về thành phố chọn cho mình một con đường kháng chiến khác. Ban đầu ông giữ một chân bán thuốc Tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị nhóm quân phiệt hạ sát chết ngày 2.11.1963, thời gian kế tiếp là một loạt biến động và hỗn loạn trong chính trường Việt Nam Cộng Hòa, Quốc Sách Ấp Chiến Lược do ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu khởi xướng đã bị nhóm quân nhân đảo chánh dẹp bỏ, Hà Nội nhân cơ hội đó cho tăng cường xâm nhập bộ đội lên đến hàng trăm ngàn người, đồng thời đẩy mạnh kế hoạch phá hoại chính trị Miền Nam. Tháng 11..1964, chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đã mời cựu giáo sư Trần Văn Hương lập nội các, sau khi được Hội Đồng Tướng Lãnh trao trách nhiệm lèo lái quốc gia lại cho giới dân sự .Thủ Tướng Trần Văn Hương với chính sách không nhân nhượng những yêu sách vô lý của Phật giáo mà ông biết rõ đã có sự nhúng tay của các phần tử cộng sản trà trộn, đã vấp phải sự chống đối của nhiều tăng ni. Chính quyền của Thủ Tướng Hương đã rất kiên nhẫn chịu đựng những công kích các kẻ hở của thời kỳ chuyển tiếp đầy u ám từ phía đối lập và Phật giáo, để dồn nỗ lực đối phó với cuộc xâm lược trước mắt của cộng sản. Thủ Tướng Hương chủ trương tôn giáo không dính líu đến chính trị nên đã cương quyết không đáp ứng thỏa đáng những đòi hỏi có tính cách chính trị của nhóm Phật giáo. Nhiều người đã không nhận ra rằng những việc cấp thiết nhất phải là cùng góp tay ngăn chống làn sóng cộng sản trước đã. Những tay tình báo chiến lược cộng sản giả dạng nhà tu đã khai thác, kích động tăng ni xuống đường chống phá chính quyền quốc gia. Đương đầu với giặc ngoài chiến trường không khó, nhưng khó là ở chỗ đề phòng những cú đâm lén từ phía sau lưng. Dưới áp lực đó, nên đến ngày 28.1.1965 Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đành phải thay thế ông Trần Văn Hương bằng bác sĩ Phan Huy Quát. “Thủ Tướng Phan Huy Quát không xa lạ gì với ông Trần Văn Hương, vì cả hai vị đều là những nhân sĩ đồng chí trong nhóm Caravelle năm 1960, còn được gọi là nhóm Tự Do Tiến Bộ. Năm 1960, nền Đệ Nhất Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định tình hình chính trị, khi dân chúng bắt đầu ta thán những sự lạm quyền quá đáng từ những anh em của ông. Tình trạng này ít nhiều đã khơi thêm hố ngăn cách giữa dân chúng và chính quyền, mà chỉ có lợi cho cộng sản Hà Nội. Chiến tranh du kích do cộng sản phát động đã ngày càng lan rộng, cán bộ cộng sản luôn tìm dịp móc nối và thuyết phục những nhóm chống đối chính quyền. Băn khoăn trước tình thế nguy hiểm đó, một nhóm trí thức, nhân sĩ quốc gia đã họp lại với nhau tìm một phương cách mềm dẽo và hợp lý khả dĩ thuyết phục được chính quyền lắng nghe nguyện vọng từ phía đối lập, trong đó gồm những chính khách nặng lòng với đất nước như : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Ngọc An, Trần Văn Tuyên, Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Văn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỉ, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, linh mục Hồ Văn Vui. Đặc biệt hơn cả là sự tham gia của ông Trần Văn Đỗ, chú ruột của bà Trần Lệ Xuân phu nhân cố vấn Ngô Đình Nhu. Ngày 26.4.1960, tất cả là 19 vị nhân sĩ đối lập của nhóm “Tự Do Tiến Bộ” đã họp tại nhà hàng Caravelle, nên còn được gọi là Nhóm Caravelle. Một bức thư tâm huyết được soạn thảo và gửi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Những thuật ngữ gửi cho vị nguyên thủ quốc gia đã được cẩn thận viết với lối văn hòa nhã, cung kính và lễ độ, đưa ra những nhận xét về tình hình đất nước và đề nghị chính phủ một số biện pháp để cải thiện tình hình, mở rộng nền tự do dân chủ. Một khi người dân được hưởng những quyền lợi đó, họ sẽ nỗ lực để bảo vệ chính phủ Miền Nam chống lại chế độ độc tài Miền Bắc. Chính là nhân dân sẽ tranh đấu bảo vệ một chính phủ dân chủ và cho những quyền lợi tự do thực sự của họ. Thật đáng tiếc, bức thư được gửi đi đã không được trả lời.. Vài ngày sau có lệnh bắt giam 19 nhân sĩ Caravelle, một số trốn thoát, nhưng nhà giáo Trần Văn Hương, cựu Đô Trưởng Sài Gòn thời Thủ Tướng Diệm năm 1954, thì bị bắt và tống giam, trong đó có ông Trần Văn Đỗ cũng bị nhốt vào Trại Võ Tánh. Tập thơ “Lao Trung Lãnh Vận” nổi tiếng của nhà giáo Trần Văn Hương đã hình thành trong thời gian này. Mãi đến tháng 7.1963, Tòa Án Quân Sự Sài Gòn đã tuyên bố tha bỗng cho tất cả người tham dự nhóm Tự Do Tiến Bộ. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy sự chuyển mình và nhượng bộ của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cụ Trần Văn Hương trở lại tham chính lần nữa trong chức vụ Thủ Tướng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, khi cụ được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời lập nội các, đó là chưa kể cụ đã hai lần làm Đô Trưởng Sài Gòn. Thủ Tướng Hương làm việc từ 28.5.1968 đến 1.9.1969 thì nhường văn phòng lại cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Mặt khác Cụ Trần văn Hương với tư cách Thượng Nghị Sĩ, với cái dũng khí của một kẻ sĩ và dòng máu kiên cường uy vũ bất năng khuất của dân tộc Việt Nam đã đứng ra tổ chức một cuộc họp báo có đông đủ ký giả trong và ngoài nước chỉ trích MACV đã không hành xử đầy đủ cam kết của mình thậm chí đã làm rúng động đến tận Hoa Thịnh Đốn bằng cuộc họp báo Lam Sơn 719 Hạ Lào của Cụ.Quan tâm theo dõi tình hình tiến quân và những tổn thất của đại quân Việt Nam Cộng Hòa trên đất Hạ Lào từ những ngày đầu tháng 2.1971, Cụ đã rất đau lòng đọc những báo cáo bất lợi dồn dập gửi về Sài Gòn cho biết Không Lực Hoa Kỳ nại cớ thời tiết xấu đã không yểm trợ đầy đủ hỏa lực theo đúng kế hoạch hành quân mà đã do chính MACV (Military Assistance Command, Vietnam : Bộ tư Lệnh quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam) dành quyền soạn thảo. Những phi công gan dạ thuộc Không Quân Việt Nam vì tình chiến hữu, quá xót xa đã cất cánh xuất kích, bất chấp nhiều tổn thất. Con số chiến thương và tử trận của quân ta càng lên cao mà thiếu phương tiện yểm trợ và tải thương. Đứng trước một sự thật như thế, MACV đành phải ra lệnh cho Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ đáp ứng yểm trợ hỏa lực tích cực hơn nữa. Cũng nhân câu chuyện này, xin được dành vài hàng vinh danh các phi công Hoa Kỳ đã anh dũng hy sinh hay bị thương trên chiến trường Hạ Lào để yểm trợ cho những người bạn huynh đệ chi binh Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi cuộc hành quân Lam sơn 719 kết thúc, số lượng trực thăng khả dụng của sư Đoàn 101Không Kỵ Hoa Kỳ bị hao hụt 92 chiếc, 102 nhân viên phi hành tử trận, 215 chiến thương và 53 mất tích. Nhờ có sự can thiệp của Nghị Sĩ Hương và lệnh phi yểm của MACV nên quân ta đã rút về được Việt Nam cuối tháng 3.1971 với những tổn thất nhẹ. Sư Đoàn Nhảy Dù đã trao tặng Nghị Sĩ Trầ n Văn Hương danh hiệu “HẠ SĨ DANH DỰ”, Cụ rất vinh dự nhận danh hiệu lính Mũ Đỏ này. Đối với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và dân chúng, thì Cụ Trần Văn Hương còn có một mỹ danh khác thân thiết hơn: “Ông Già Gân”.(1)(Trích quan điểm của bài viết về Tổng Thống Trần văn Hương đã được phổ biến trên diễn đàn) Nơi đây chúng tôi xin mượn những vần thơ với tựa đề nếu của Tô Vũ để nói lên những nỗi niềm ona khiên trước thời cuộc trong dai đoạn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh của những ngày cuối cùng trước khi nước Việt Nam Cộng Hòa bị rơi vào tay cộng sản. NẾU Nếu giữ được tinh thần sáng suốt , Giữa những người hoảng hốt ghét con. Nếu giữ được lòng son bền vững, Mặc những người nghi hoặc lòng con. Nếu chờ đợi lâu dài không nhụt chí Dù miệng đời ác độc, cũng không sờn. Nếu bị đời ghen ghét, chẳng thiệt hơn Chẳng khoe mẽ, khoe khôn khoe khéo Cứ mơ ước, đừng để Giấc Mơ níu kéo Cứ xét suy, đừng viễn vọng tư duy Khi thành công, khi thất bại suy vi Coi May Rủi là lẽ thường trong sự sống. Lời thành thực con ngỏ cùng công chúng Đứa xấu xa xuyên tạc để gạt người. Nếu sản nghiệp một thời con xây dựng, Bỗng vỡ tan, Chẳng than van, con tái tạo cuộc đời. Đặt tất cả cơ đồ sự nghiệp Hy sinh vào thực hiện mục tiêu. Gặp lúc thắng, hân hoan bày trận khác Khi bị thua, nuốt hận ván cờ thua. Nếu có dịp được gần nơi vua chúa, Con chớ quên xuất xứ tầm thường. Nếu có dịp ngỏ lời cùng đại chúng, Chẳng nên quên đức tính khiêm nhường.. Và hơn nữa, hơn cả bạc tiền danh vọng Hơn mọi điều quan trọng thế gian Hơn Rủi May, phú quý giàu sang Nếu con giữ dược tinh thần toàn mỹ Nếu con giữ được can trường bền bỉ Trái với phường ích kỷ tiểu nhân Thì con ơi ! Con đã trở nên ‘Người’, Trở nên người ‘Thành nhân chi mỹ’ Tô Vũ phỏng dịch Năm 1977, chánh quyền Cộng Sản đem giấy tờ trao trả quyền công dân lại cho ông. Ông đã khẳng khái khước từ. Ông dõng dạc tuyên bố với chánh quyền Cộng Sản rằng ông sẽ là người sau cùng nhận lãnh sự trao trả đó khi nào tất cả các dân quân cán chánh đang bị giam cầm đều được trao trả quyền công dân.“Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước…” Tính khí cương trực đầy hào hùng của một vị lãnh đạo đất nước như Tổng Thống Trần Văn Hương hành xử của người kẻ sĩ trước những áp lực chính trị, trước những kẻ thù đầy nguy hiểm, Cụ vẫn khẳng khái từ chối tất cả mọi phủ dụ dành cho cá nhân mình từ người bạn đồng minh Hoa Kỳ hay từ kẻ địch khi chưa tròn bổn phận của người lãnh đạo đối với dân với nước, không bao giờ bỏ chạy khi gập nguy nan để hưởng thụ cá nhân. Cụ Trần Văn Hương đã biểu hiện được đầy đủ tính khi của Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản và Nguyễn Khuyến của thời trước. “Ông đã sống hết sức thanh bần trong những ngày còn lại của ông. Tuy rất nghèo nàn, thiếu thốn, ông vẫn muốn sống, để sống hơn Hồ Chí Minh một tuổi thôi. Ông đã được thỏa mãn với ước nguyện của ông. Ông mất hồi 4 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mùng ba Tết năm Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.”(Trích đăng) Uy Vũ Bất Năng Khuất mà Tổng Thống Trần Văn Hương nói với đại sứ Pháp, Đại Sứ Hoa Kỳ từ chối việc dời bỏ quê hương khi đất nước lâm nguy đã khác xa với những khuôn mặt thuộc loại “Sĩ Khí như gà thấy cáo” ù té bỏ chạy trước ba quân. Vị Tổng Tư Lệnh Trần văn Hương của chúng ta đã thể hiện lối sống chân thành đối với quốc dân của Cụ hơn hẳn loại người giả dối, khiếp nhược trước hiểm nguy. Thanh danh của một vị lãnh đạo cả đời tận tụy cho quê hương và dân tộc đã in đậm trong những trang sử oai hùng của giòng giống Lạc Hồng. Một nén hương lòng dâng lên Cố Tổng Thống Trân Văn Hương.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 26, 2012 2:53:11 GMT 9
Cụ Hương Miền Nam
Mai Thanh Truyết Thưa Quý vị, Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27 tháng 1 năm 1982 tại Sài Gòn. Cụ mất đi để lại cho chúng ta nhiều tiếc nuối. Hôm nay nhân ngày lễ tưởng niệm Cụ, tôi xin chia xẻ vài suy nghĩ về Cụ: Về sự nghiệp chánh trị Cụ Trần văn Hương đã hai lần được mời và bổ nhiệm đảm trách chức vụ Ðô Trưởng Saigon, đây là chức vụ đứng đầu quán xuyến điều hành bộ máy hành chánh thủ đô, bảo tồn bộ mặt của thể chế Việt Nam Cộng hòa đang trong giai đoạn củng cố xây dựng và phát triển với những khó khăn chồng chất về mọi mặt. - Lần đầu vào năm 1955 sau khi Hiệp định Genève chia hai đất nước VN được ký kết, do cố Thủ Tướng Ngô Đình Diệm; - Lần thứ hai,, sau khi chánh quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào năm 1963, cụ Trần Văn Hương lại được bổ nhiệm Ðô Trưởng Sài Gòn . Tháng 11 năm 1964, cụ Trần Văn Hương được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bổ nhiệm làm Thủ Tướng Chánh Phủ và lập nội các. Năm 1971, cùng đứng tên trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu, cụ Trần Văn Hương đã đắc cử Phó Tổng Thống VNCH và đến 21/4/1975, sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương đã đãm nhiệm chức Tổng Thống VNCH trong thời gian ngắn ngủi 7 ngày và trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh đầu hàng Cọng sản. Qua các tình huống được liên tiếp giao phó vào các chức vụ hàng đầu kể trên, xét ra, không phải thinh không mà cụ Trần Văn Hương đã được chiếu cố như vậy. Trong bối cảnh chánh trị miền Nam, cụ Trần Văn Hương đã lần lượt dấn thân vào sinh hoạt chánh trị đại chúng với danh nghĩa là một nhân sĩ miền Nam do nhu cầu của đất nước, có thể kể: - Việc thành lập Đảng Phục Hưng nhưng thực tế, không có nhân sự và phương tiện hệ thống hóa cơ cấu đảng, trong bối cảnh chánh, trị phần lớn các đảng phái hiện tồn còn với tính cách là đảng cách mạng, sinh hoạt thích ứng với nhu cầu đảo chánh, lật đổ, chưa đạt điều kiện hoạt động đấu tranh đối lập nghị trường như cố Giáo sư Nguyễn văn Bông chánh thức phác họa soi sáng về sau qua bài phát biểu tại Ðại học Luật khoa. - Việc cùng 17 nhân sĩ hình thành Nhóm Caravelle, để phải chịu cảnh tù đày ngoài Côn Đảo. - Việc phải chọn giải pháp vận dụng hậu thuẫn quần chúng miền Nam, cùng đứng chung liên danh với Nguyễn Văn Thiệu trong kỳ bầu cử Tổng Thống sau khi đã ở trong vị thế đối lập để tạo một lối thoát tích cực cho đất nước. Về mẫu con người và phong cách nhân sĩ miền Nam Nhân cách con người miền Nam: Trong hoàn cảnh tù đày ngoài Côn đảo, cụ Trần văn Hương đã kiên trì nhận chịu xem thường những thiếu thốn và ràng buộc vật chất trong khi giữ vững tinh thần qua câu thơ bất hủ biểu tỏ thái độ bình thản bộc trực sắc thái miền Nam qua câu thơ bất hủ để đời ghi trong tập thơ “Lao trung lãnh vận” đọc lên ai cũng thấy thương cho ông già trong cảnh tù đày: “Ngồi buồn gải háng, dái lăn tăn” Tính can trường về nhân cách của con người miền Nam của cụ Trần Văn Hương còn được biểu lộ qua sự kiên trì dấn thân, không bỏ cuộc, mà trái lại, vẫn chấp nhận trách vụ được giao phó tiếp đó do nhu cầu của tình hình đất nước. Phong cách xử lý tình huống trong sáng của con người miền Nam: Đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương đã vì quyền lợi đất nước thực hiện thủ tục trao quyền cho Tướng Dương văn Minh, nhưng vẩn tôn trong quy định của Hiến pháp Việt Nam Cọng hòa qua việc triệu tập buổi họp khoáng đại lấy quyết định của Quốc Hội. Nhân dịp này, cụ Trần Văn Hương đã có những lời phát biểu sâu sắc xác định lập trường giữ vững căn bản pháp lý của quyền lực trên cơ sở Hiến pháp. Với đôi chút mỉa mai về Tướng Dương Văn Minh, cố Trần Văn Hương đã xác định quyền lực lãnh đạo quốc gia “không phải là cái khăn mouchoir”, “đây không phải là một tờ giấy bạc từ trong tay tôi, tôi móc ra đưa cho Ðại tướng”. Vô cùng tiếc nuối, do trùng hợp với một sinh hoạt cộng đồng đã sắp xếp trước nên không đến dự buổi lễ giổ tại San Jose được, tôi là Mai Thanh Truyết, xin cùng ban tổ chức và quý anh chị tham dự chia xẻ một số cảm nghĩ soi sáng ghi trên về cụ Trần Văn Hương cùng phát huy niềm tự hào về một nhân sĩ miền Nam để cùng nắm tay nhau xông tới nhằm đúng mục tiêu đấu tranh diệt Cọng sản bạo tàn trên đất nước Việt Nam thân yêu. Thưa Quý vị, Mỗi năm, nhân mùa Tết đến, hình ảnh Cụ Hương lại về, hình ảnh cúa một ông Già gân miền Nam, bình dị, nhẹ nhàng nhưng rất dứt khóat trong quyết định và hành động. Cụ Hương đã sống trọn vẹn cho Đất và Nước, từ buổi giao thời sau thời thực dân cho đến Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng hòa. Cụ sống và thể hiện tròn trách nhiệm của người con Việt trong những giai đoạn nghiệt ngã nhứt của đất nước. Ngay từ thuở thiếu thời và xuân thời, làm giáo viên, rồi làm Đô trưởng, Cụ luôn bình dị với chiếc áo sơ mi trắng, chiếc quần kaki xanh bên cạnh chiếc xe đạp củ kỹ. Nhiều đối thủ chánh trị Bắc kỳ và Trung kỳ đàm tiếu rằng hành động của Cụ nhằm mục đích làm dáng, phô trương tánh liêm khiết và che mắt thiên hạ. Nhưng Cụ chẳng cần cải chánh, vì con đường Cụ đi…thẳng băng. Đó là con đường phục vụ dân tộc bằng tất cả tâm và sức của mình. Cụ không cần được xưng tụng là…kẽ sĩ Nam kỳ. Cụ cũng không màn đến danh lợi, vật chất…và khi nào thấy không còn có thể hợp tác được với “chánh quyền” ở thời điểm nào đó …Cụ ngang nhiên phủi áo ra đi, chấp nhận ngồi tù hay bị trù dập. Trong giai đoạn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, cũng có nhiều người trách Cụ tại sao ham quyền cao chức trọng mà nhận lãnh nhiệm vụ Tổng thống hiến định khi cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thoái vị. Đứng trước cơn hồng thủy của dân tộc, tôi cho rằng đây là một động can đảm nhứt của Cụ, nghĩa là chấp nhận hy sinh sanh mạng cá nhân để hy vọng mưu tìm một lối thoát cho quê hương. Và hành động của Kẽ sĩ Nam kỳ cuối cùng của Cụ là không chấp nhận quyền công dân do bạo quyền trao trả khi mà Quân Dân Cán Chánh còn kẹt trong lao tù cộng sản. Xin đan cử một vài ước muốn cuối đời của Cụ: • Ước nguyền của Cụ Hương vào năm 1974 là cố gắng xây dựng Đại học Long Hồ tại Vĩnh Long. Nhiều giáo sư gốc gác địa phương được mời phụ trách chức vị Viện trưởng như GS NVT, GS TKN…nhưng việc thực hiện không thành vì những biến động thời cuộc dồn dập trong giai đoạn nầy. Có lẽ đây là một tiếc nuối của Cụ nhiều nhứt. • Khi Cụ qua đời, đám tang được tổ chức tại nhà do chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp trong hẽm 210 đường Phan Thanh Giản bên cạnh trường Marie Curi. Có một sự kiện thú vị cũng cần nên kể ra nơi đây nhân ngày giỗ cũa Cụ. Số là anh con trai trưởng của Cụ là Thượng tá CS đi ra phường để xin phép mua một cai hòm quốc doanh, nhưng bị người tài xế trung thành của Cụ chận ngang, và anh nầy chạy vào Chợ Lớn mua một cổ quan tài gỗ với giá 10.000 Đồng (tiền VC bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho Tổng thống VNCH cho nên bớt xuống còn 5.000 mà thôi. • Một trong những ước nguyền của Cụ là khi chết được chôn ở Nghĩa trang Quân Đội với lễ nghi quân cách của một binh nhì; nhưng việc nầy cũng không thành. Tuy nhiên một an ủi cho Cụ là Cụ được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Đức, xéo bên cạnh bức tượng Tiếc Thương, trước sự hiện diện đông đủ của học trò cùng hầu hết thân hào nhân sĩ miền Nam không quản ngại mạng lưới công an chằng chịt chung quanh lò thiêu. Hôm nay, nhân ngày giỗ Cụ Trần Văn Hương, cúi xin đốt một nén hương lòng tưởng niệm một người con Việt chân chánh miền Nam. Tuổi trẻ miền Nam chắc chắn sẽ tiếp nối bước đường Cụ đi và chắc chắn sẽ thành công trong công cuộc dành lại quê hương từ tay bạo quyền. Thành kính mong Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ miền Nam. Mai Thanh Truyết Người con Việt miền Nam
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 30, 2020 6:16:22 GMT 9
CỤ TRẦN VĂN HƯƠNG TRƯỚC NGUY CƠ MẤT NƯỚC
( Nguyễn Chánh Trực K.20)
Là một quân nhân, vào những ngày cuối cùng của miền Nam, tôi được cái may mắn gần gũi với Cụ Hương, nhất là những lúc dầu sôi lửa bỏng khi thủ đô Saigon đang bị cộng quân vây hãm, trong những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1975. Tình hình thật cấp bách sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào ngày 21-4-75 và bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Cụ Trần Văn Hương theo hiến pháp. Ông đã nhận lấy chức vụ tối cao để lãnh đạo đất nước trong hoàn cảnh thật khó khăn. Một mặt, dưới áp lực nặng nề từ người bạn đồng minh Hoa Kỳ muốn sớm rút chân ra khỏi Việt Nam, mặt khác, về phía địch, cộng sản Bắc Việt biết rõ sự suy yếu hoàn toàn của chính quyền miền Nam bị Mỹ bỏ rơi, nên càng gia tăng áp lực, đưa quân uy hiếp thủ đô Saigon. Thêm vào đó, thành phần thân cộng có mặt trong guồng máy miền Nam cũng luôn tạo áp lực để đòi hỏi lật đổ chính quyền miền Nam và thay thế bằng một chính quyền do cộng sản kiểm soát. Bảy ngày sau khi bàn giao với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Cụ Trần Văn Hương phải chấp nhận bàn giao cho tướng Dương Văn Mình theo diễn tiến như sau :
2 - Ngày 21-4-75 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Cụ Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. - Ngày 26-4-75 Đại Sứ Martin yết kiến và thông báo cho Cụ Hương về áp lực của cộng sản Bắc Việt và khả năng của cộng quân tấn công vào Saigon. - Ngày 27-4-75 Quốc Hội VNCH họp và biểu quyết việc trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh. - Ngày 28-4-75 vào lúc 5:00 chiều, Cụ Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh theo quyết định của quốc hội. Trong bài diễn văn Tổng Thống Trần Văn Hương đọc trước quốc hội ngày 26-4- 75, chúng ta thấy rõ ràng Cụ không thoát khỏi áp lực quá mạnh của người bạn đồng minh Hoa Kỳ, và của cộng sản Bắc Việt mà Tướng Dương Văn Minh được sắp xếp như là một con cờ chính trị để làm nhiệm vụ xóa bỏ chính quyền VNCH. Chúng ta hãy nhớ lại những gì Cụ Hương đã phát biểu có tính cách lịch sử trong bài diễn văn tại Quốc Hội dưới sự hiện diện đầy đủ dân biểu và thượng nghị sĩ. Cụ Hương đã cho biết rằng Cụ chỉ muốn chỉ định Đại Tướng Dương Văn Minh trong vai trò thủ tướng, nhưng Tướng Dương Văn Minh vẫn khăng khăng đòi Cụ Hương phải trao quyền Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh để ông thương thuyết với đối phương. Cụ Trần Văn Hương đã yêu cầu Tướng Dương Văn Minh chấp nhận vai trò Thủ Tướng để đứng ra thương thuyết với phía bên kia. Nhưng Đại Tướng Dương Văn Minh vẫn nhất quyết đòi chức vụ Tổng Thống chứ không nhận vai trò Thủ Tướng. Đại Tướng Minh nói: - Thầy đã hy sinh đến nước nầy, nay xin thầy hy sinh một lần nữa để trao trọn quyền cho tôi. Trước áp lực từ mọi phía, Cụ Hương vẫn cố giữ chủ quyền của một chính thể miền Nam, theo hiến pháp của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Cụ Hương phát biểu như sau: - Nước Việt Nam chúng ta mặc dù mất đi rất nhiều rồi, nhưng căn bản pháp lý vẫn còn. Quốc Hội vẫn còn đây, Hiến Pháp vẫn còn đây, tôi không thể làm một chuyện qua mặt Quốc Hội, và vi phạm Hiến Pháp. Vả lại, quyền hành hiện tại ở trong tay tôi, là một quyền do nơi Hiến Pháp ấn định. Đây không phải là cái khăn mouchoir…. Không phải là một tờ giấy bạc từ ở
3 trong tay tôi, tôi móc đưa cho Đại Tướng lúc nào cũng được. Tôi không thể làm như vậy được. Tôi phải trình cho Quốc Hội để quyết định .” Trước khi trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh, Cụ Hương đã tỏ ra nghi ngờ về vai trò của Tướng Minh khi đứng ra thương thuyết, cụ nói: - Thưa quý vị, Đại Tướng cho rằng Ông có thể nói chuyện với đối phương vì họ chấp nhận nói chuyện với Đại Tướng. Chuyện nầy tôi không thể tin được cho đến khi nào tôi nắm được bằng cớ chính xác. Nhưng tôi thiết nghĩ, trong cuộc thương thuyết nầy, Đại Tướng phải là một người được sự ủy nhiệm của Quốc Hội đứng ra thương thuyết. Nếu mà Đại Tướng tự nhiên đi nói chuyện với phía đối phương. Xin lỗi, Đại Tướng đến nói chuyện với danh nghĩa gì? đại diện cho ai, và với những điều kiện gì? Cụ Hương nhấn mạnh: - Tôi không thể chấp nhận điều kiện tiên quyết của đối phương là cử người đối thoại theo ý của họ. Sau khi vạch rõ cho Quốc Hội thấy nguy cơ mất nước nếu Quốc Hội chấp thuận Đại Tướng Dương Văn Minh. Nếu Quốc Hội không chấp nhận thì Cụ khẳng định Chinh quyền Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục chiến đấu, Cụ Hương nói như sau: - Nếu quý vị không chấp nhận, vì đây là một điều kiện quá đáng, một điều kiện của người thắng trận áp đặt cho người bại trận, thì chúng ta không còn cách gì khác hơn là lúc đó phải chiến đấu tới cùng mặc dầu thành phố Saigon này sẽ biến thành biển máu.” Nhưng cuối cùng, theo đa số phiếu của nhóm chủ hòa trong Quốc Hội, Cụ Hương đành phải trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi trao quyền, Cụ Hương trở về phủ Phó Tổng Thống và sau đó Cụ trở về tư thất trong ngõ hẻm đường Phan Thanh Giản. Trong thời gian 7 ngày với chức vụ Tổng Thống, với bao áp lực dồn dập từ mọi phía, tôi nghĩ rằng Cụ không còn thời giờ nào nghỉ ngơi yên lành, không còn một sự thanh thản trong tâm hồn vì vận nước. Những người làm việc kề cận đều lo lắng cho sức khỏe của Cụ. Sau khi bàn giao chức vụ cho ông Dương Văn Minh, Cụ không bao giờ được yên. Ngày 29-4-75 Cụ vẫn còn tiếp kiến Đại Sứ Mỹ Martin..v..v..
4 Trước tình hình biến chuyển dồn dập về áp lực quân sự, Võ Phòng phủ Phó Tổng Thống đặt trong tình trạng cấm trại 100%, như phần lớn các cơ quan quân sự nằm trong thủ đô Saigon. Ngày 29/4/75, tôi là một sĩ quan chịu trách nhiệm trong phiên trực. Lực lượng phòng thủ tại phủ Phó Tổng thống lúc bình thường là một đại đội phòng vệ của Liên Đoàn An Ninh Danh Dự. Ngoài ra thỉnh thoảng được tăng cường một, hoặc hai trung đội cảnh sát dã chiến tùy theo tình hình. Lực lượng cơ hữu thì có Võ phòng phủ Phó Tổng Thống quân số bao gồm nhiều lắm là khoảng 100 quân nhân các cấp. phủ Phó Tổng Thống tọa lạc trên một khuôn viên vuông vức bao quanh bởi các đường Tú Xương, Công Lý, Hiền Vương và Lê Qúy Đôn, chung quanh là những biệt thự sang trọng. Vào những ngày cuối tháng tư, các gia đình cư ngụ tại các khu biệt thự xung quanh, nằm trên các con đường bao quanh phủ Phó Tổng Thống lần lượt di tản. Trong khi ấy trên bầu trời, trực thăng từ đệ thất hạm đội liên tục ngày đêm di tản nhân viên của Mỹ và dân sự liên hệ đến chính phủ Mỹ. Trong bối cảnh chính trị trong nước, thành phần chánh quyền chuyển tiếp Dương Văn Minh bắt đầu làm việc với những lời kêu gọi quân dân trong nước nên bình tĩnh, được phát thanh trên các đài phát thanh Quốc Gia, chờ đợi một giải pháp hòa hợp hòa giải với Bắc Việt.Trong khi đó, áp lực địch càng ngày càng tiến sát vào Saigon. Quân đoàn 3 còn có sư đoàn 18 bộ binh đang quần thảo trước các sư đoàn Bắc Việt được chiến xa hổ trợ đang tiến về cận cửa ngõ Saigon. Trước áp lực của địch, tôi liên lạc trực tiếp với Biệt Khu Thủ Đô (Chuẩn Tướng Lý Bá Hỷ), ông ấy nói như sau: - Thật tình, tôi không biết nói với anh như thế nào hơn là chúng ta đang chuẩn bị đánh nhau với địch tại Saigon trong những giờ sắp tới với đà tiến quân như thế nầy. Tôi liên lạc với Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn 3, họ cũng cùng một tâm trạng rối bời. Chỉ còn ở Quân Đoàn 4, tình hình còn trong giai đoạn sẵn sàng ứng chiến và bình tĩnh hơn. Từ khi Tướng Dương Văn Minh lên thay thế Cụ Hương, tôi phải lo thêm một người nữa là Cụ Nguyễn Văn Huyền trong chức vụ Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Trung Tá Lâm Phước Tăng chánh sự vụ Sở Quân Vụ tại Phủ Phó Tổng Thống đang liên lạc với cụ Huyền tại tư thất của Cụ Huyền và theo yêu
5 cầu của Trung Tá Lâm Phước Tăng, tôi cử một trung đội của Liên Đoàn An Ninh danh dự đến giữ an ninh tại tư gia của Cụ Huyền. Như vậy lực lượng phòng thủ phủ Phó Tổng Thống chỉ còn là một đại đội trừ dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Hội. Nhìn thấy áp lực địch đang tiến về Saigon, các lực lượng Quân Đoàn 3 đang co cụm, một vài đơn vị thiết giáp của Quân Đoàn 3 đang rút về Saigon. Tôi nghĩ sẽ có cuộc chiến đấu trực diện với quân chính quy của cộng sản Bắc Việt, với chiến xa yểm trợ, chúng sẽ bắn phá các vị trí then chốt, các cơ quan đầu não của VNCH khi chúng đã vào được thủ đô Saigon. Tôi lo lắng khi nhìn lại lực lượng còn lại trong phủ Phó Tổng Thống, với các loại vũ khí không đủ khả năng đối phó khi địch dùng chiến xa tấn công vào phủ Phó Tổng thống. Trước tình hình nghiêm trọng này, tôi trình bày với vị chỉ huy trực tiếp cao cấp nhất của chúng tôi Trung Tá Chánh Võ Phòng. Sau khi nghe tình hình như thế, Trung Tá Chánh Võ Phòng không nói năng gì và hai mươi phút sau tôi nghe chiếc trực thăng còn lại trong phủ Phó Tổng Thống nổ máy. Như thường lệ, mỗi khi trực thăng của Phó Tổng Thống cất cánh là truyền tin gọi máy liên lạc. Tôi hơi ngạc nhiên vì trực thăng mới nổ máy không được bao lâu thì vội cất cánh một cách khẩn cấp. Trong khi truyền tin gọi máy theo danh hiệu của Trung Tá Chánh Võ Phòng thì không được trả lời như bình thường. Linh tính cho tôi biết rằng Trung Tá đã dùng chiếc trực thăng cuối cùng này để ra đi. Tôi biết rằng sự ra đi của vị chỉ huy đầu đàn của Võ Phòng sẽ làm cho tinh thần các quân nhân còn lại sẽ bị giao động. Để tránh tình trạng nầy, tôi gọi máy báo với truyền tin rằng Trung Tá đi công tác đặc biệt và không mang theo máy nên không cần phải liên lạc. Tôi nói truyền tin thông báo tất cả các sĩ quan còn lại vào phòng họp và tôi xuống phòng họp làm việc. Trong khi đó tôi cố gắng liên lạc với Trung tá Lâm Phước Tăng đang công tác tại tư thất của Cụ Nguyễn Văn Huyền, Trung tá Tăng nói với tôi là đang bận nên không về được. Mọi việc bây giờ nhờ tôi lo liệu. Khi tôi xuống phòng họp thì gặp Đại Úy Phan Hữu Cương, trưởng phòng an ninh đã có mặt và một số sĩ quan cấp úy. Đại Úy Cương cho tôi biết chắc Trung Tá Chánh Võ Phòng đã dùng chiếc trực thăng còn lại của ông Cụ để ra đi một cách vội vã. Trong phủ Phó Tổng Thống còn lại có một mình tôi là Thiếu tá. Tôi vào phòng họp và thông báo cùng anh em tình hình bây giờ đang vào những giờ phút
6 chiến đấu với địch cận kề. Tôi kêu gọi tất cả hãy giữ vững tinh thần để làm tròn trách nhiệm của một quân nhân. Tôi và Đại Úy Cương thảo luận phương cách tốt nhất để bảo vệ an toàn cho Cụ Trần Văn Hương vì thật sự ra tôi nhìn thấy rằng với lực lượng và vũ khí hiện tại trong tình huống nầy không hữu hiệu để chống trả khi đụng độ với địch quân. Quân chánh quy cộng sản Bắc Việt được trang bị với vũ khí hữu hiệu hơn, cộng thêm chiến xa yểm trợ, chắc chắn khó mà bảo vệ an toàn cho Cụ Hương được. Tôi đề nghị một kế hoạch, hy vọng sẽ bảo vệ Cụ Hương an toàn hơn. Tôi bàn với đại úy Cương nên tìm một vị trí bí mật chỉ có Đại Úy Cương và tôi biết và đưa Cụ về đó và sẽ chuyển Cụ về miền Tây trước khi Saigon bị tấn công. Trước khi có ý định nầy tôi đã liên lạc với Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh nhảy dù, và một người bạn cùng khóa là Trần Tấn Hòa làm Tiểu Đoàn Trưởng nhảy dù. Hòa đang nắm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 nhảy dù. Tôi mới vừa gặp Hòa trên đường Lê Qúy Đôn, khi tiểu đoàn của Hòa về đóng trong vườn Tao Đàn, hai đứa trao nhau danh hiệu truyền tin. Tướng Lưỡng cùng quê Bình Dương với tôi và coi tôi như một đứa em, Tướng Lưỡng nói với tôi: - Em cứ liên lạc với anh Hai, và cho anh Hai biết ý định của Cụ, anh Hai và Hòa sẽ đưa Cụ về miền Tây sát cánh với Tướng Nguyễn Khoa Nam. Em cho anh Hai hay gấp khi có quyết định của Cụ. Cần nói thêm Tướng Lưỡng khi còn nhỏ là bạn học cùng lớp với anh tôi và coi tôi như một đứa em. Được sự hổ trợ của Tướng Lưỡng, tôi như vớ được một cái phao, tôi nói với Cương về điều quan trọng nầy. Cả hai chúng tôi vào gặp Cụ Hương. Đại Úy Cương là cháu ruột gọi Cụ Hương bằng cậu. Hai chúng tôi vào gặp Cụ Hương một cách bất thường trong đêm 28-4-75. Đại úy Cương trình với Cụ Hương là tôi muốn gặp Cụ để trình bày một kế hoạch bảo vệ an ninh cho cụ. Cụ Hương mời tôi vào và ngồi nghe tôi trình bày. Sau khi nghe xong Cụ Hương đứng dậy vỗ vào trán tôi nhè nhẹ, Cụ nói: - Em là người chịu trách nhiệm chỉ huy, em có quyền quyết định mọi thứ, nhưng với bản thân của Qua, em đừng lo cho Qua gì hết. Cụ nói thêm:
7 - Đất nước như thế này Qua biết các em là những quân nhân, thật là rất vất vả nhưng Qua rất buồn vì qua không làm gì hơn được nữa. Qua cầu mong mọi việc không đến nỗi bất hạnh hơn…” Tôi thấy không làm sao được hơn đành đứng dậy trở về công việc của mình. Tôi liên lạc với Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và cho Tướng Lưỡng biết sự việc không thành. Tướng Lưỡng cũng rất quý trọng Cụ Hương. Ngày 29-4-75 đến ngày 30-4-75, tôi vẫn túc trực tại đơn vị, trong thời gian hai ngày này, tình hình quân sự càng thêm căng thẳng trước áp lực của cộng quân. Trên không phận Saigon, trực thăng của Mỹ từ đệ thất hạm đội đã liên tục bay vào ra Saigon để đón những người di tản. Riêng Cụ Tổng Thống Trần Văn Hương tuy đã bàn giao cho Đại Tướng Dương Văn Minh, Cụ phải trở lại phủ Phó Tổng Thống để tiếp đại sứ Martin, đây là lần cuối cùng mà Đại Sứ Martin thuyết phục Cụ ra đi, nhưng Cụ đã nói thẳng vào Đại Sứ Martin như sau: - Thưa ngài Đại Sứ, tôi biết tình trạng hiện nay là nguy hiểm. Đã đến đổi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong tình trạng nầy. Nay ông Đại Sứ mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông Đại Sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng sản chiếm Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn và tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại Sứ đã đến viếng tôi. Riêng phần tôi và Đại Úy Cương vẫn túc trực tại phòng trực và chờ đợi môt tình huống chiến đấu khi cộng quân tiến đánh Saigon. Để tiện theo dõi tin tức, tôi bảo người tài xế về nhà lấy cái radio hiệu Sony 10 band mà tôi mới mua để tôi theo dõi diển biến qua chương trình của đài phát thanh Saigon. Cho đến 10:00 sáng ngày 30-4-75, những gì phải tới đã tới, tướng Dương Văn Minh đọc lời kêu gọi đầu hàng. Dù rằng tôi cũng đoán được kết quả cuối cùng sẽ như thế, nhưng tôi không ngờ nó quá nhanh và dễ dàng như vậy, tôi lặng người khi nghe tin Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tôi nghẹn ngào khi nghe tin nầy! Tôi thật sự là môt chiến binh bại trân! Một ý nghĩ đen tối chợt đến, nhưng vừa lúc đó
8 tiếng phone reo lên, giọng nói của vợ tôi khẩn thiết trong phone và tiếng các con tôi lao xao: - Anh ơi! Em đây. Anh hãy về sớm nha anh, em và các con đang chờ anh đón mẹ con em về. Em và các con đang ở dưới nhà anh chị Hai chờ đây. Nhớ thu xếp và về sớm nha anh! Tôi trả lời với vợ tôi: - Ờ ! ờ anh sẽ về ngay sau khi từ giã anh em trong đơn vị. Khi buông điện thoại, tôi tập họp tất cả anh em quân nhân trong đơn vị, tôi nghẹn ngào nói những lời chia tay với tất cả anh em. Tôi nói với anh em như sau: - Chúng ta đã bị bại trận rồi, thật là đáng buồn, nhưng chúng ta đã làm trọn vẹn nhiệm vụ của một quân nhân tới giờ phút cuối cùng. Anh em cũng như tôi, tương lai sau nầy sẽ không biết như thế nào, tôi chúc tất cả anh em mọi sự may mắn. Bây giờ trong phủ Phó, những gì anh em có thể sử dụng được, như gạo, lương thực anh em có thể mang về mà sử dụng… Dù cố bình tĩnh như thế nào lòng tôi vẩn thấy như một cái gì đó đè nặng trong tâm can, tôi bắt tay từng người, từ giã các chiến hữu của tôi. Tôi vẫn còn mang quân phục và ra lái chiếc xe jeep. Trung sĩ Nhất Trầm Trung Nghiệp, người tài xế của tôi vội chạy theo định lái xe, nhưng tôi nói với anh: - Thôi anh về lo cho bà xã anh đi, vì vợ anh đang chờ ngày sanh nở đứa con đầu tiên. Trung sĩ Nghiệp ôm chầm lấy tôi và khóc, tôi cũng không kềm được nước mắt, tôi nói trong nghẹn ngào: - Thôi chú sắp xếp rồi đi về đi, kẻo chị ấy trông chú. Tôi lái xe qua tư thất Cụ Hương, mấy người bảo vệ an ninh tại tư thất của Cụ Hương mở cửa cho tôi vào. Đại úy Cương vừa trong nhà Cụ ra gặp tôi ôm chầm lấy tôi, tôi không cầm nước mắt, Cương cũng vậy và cả anh em quân nhân bảo vệ. Tâm trạng của mọi người bây giờ đang giây phút giao động nhất của những người thua cuộc mất hết tương lai. Cương nói với tôi: - Ông Già suốt đêm qua tới giờ không ngủ, đang ngồi trầm ngâm trong phòng, nãy giờ nhiều cú điện thoại reo, nhưng Ông Gìà nói thôi không cần phải bắt phone nữa. “Ông Già” là hai tiếng thân thương mà chúng tôi nói
9 với nhau dành cho Cụ Hương. Có lẽ Cụ nghĩ giờ nầy tình thế đất nước không còn cách gì thay đổi được nữa. Cũng có thể phe thắng trận đang tìm cách liên lạc với Cụ, nên Cụ không còn muốn nghe. Tôi nói với Cương: - Thôi Cương hãy bình tĩnh, hãy chờ đợi những gì đang đến với mình, mình đã thật sự mất nước rồi, số phận đã an bài, có lẽ mình sẽ mất tự do và tương lai đen tối. Cố gắng để mà lo gia đình chứ không còn cách nào hơn… Cương nói với tôi: - Thiếu Tá cũng vậy, em chúc Thiếu Tá gặp mọi sự bình an và nhiều may mắn trong tương lai, nhưng em không biết em có thể chấp nhận cuộc sống trong tương lai sắp tới được hay không. Bây giờ em cũng không biết chính tâm trạng em như thế nào… Thời gian từ biệt cấp bách, tôi nói với Cương tôi phải vào từ biệt Cụ Hương vì tôi nghĩ rằng trong tương lai chắc khó có thể gặp lại Cụ. Cương nói: - Thiếu Tá cứ vào, Cụ ở trong nhà một mình không có ai. Khi nghe Cương vào trình, Cụ bước ra khỏi phòng. Tôi thấy Cụ và đứng nghiêm chào. Cụ bắt tay tôi và mời tôi ngồi. Tôi nhận thấy Cụ rõ ràng đang trong trạng thái mỏi mệt. Tôi rất hiểu thời gian vừa qua, những biến chuyển dồn dập của tình hình đất nước, Cụ phải làm việc một cách liên tục. Hệ thống an ninh của phủ Phó Tổng Thống cũng bận rộn theo sự duy chuyển liên tục của Cụ, nhất là sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao chức vụ trực tiếp điều hành đất nước cho Cụ. Tôi nhìn Cụ và nói: - Thưa Cụ, hôm nay Cụ có khỏe hay không? Như thường lệ Cụ vỗ vào vai tôi và nói chậm rãi: - Qua vẫn khỏe, không sao đâu em.” Cụ nói tiếp: - Mấy hôm nay mấy em rất vất vả, nhưng bây giờ đất nước không còn, trong tương lai cuộc sống các em và gia đình càng vất vả hơn. Không biết rồi
10 trong tương lai nước mình sẽ như thế nào. Qua không còn biết làm sao hơn nữa vì nó vượt qua mọi ý muốn của mình. Thật là một sự bất hạnh cho dân tộc Việt Nam của mình! Ngừng một lát Cụ nhìn tôi nói tiếp: - Thời gian qua em và một số các anh em quân nhân cũng đã rất mệt lo cho Qua. Xin cho Qua gởi lời cám ơn đến các em. Qua cầu chúc cho em và tất cả quân nhân cùng gia đình được bình an và mọi sự may mắn trong tương lai… Tôi nhìn Cụ và cảm thấy thương Cụ vô cùng, cả tôi và Cụ không cầm được nước mắt. Tôi thấy Cụ cố nén nỗi buồn, thỉnh thoảng lấy khăn ra chậm giọt nước mắt cho nó khỏi rơi xuống. Cụ muốn nói nhiều, nhưng giọng nói ngắt quãng vì xúc động. Trong khi nhìn qua Cương thì nước mắt tuôn trào. Tôi nhìn Cụ và nói: - Thưa Cụ, xin Cụ yên tâm, là quân nhân việc gian khổ là chuyện bình thường, xin Cụ chớ bận tâm. Con cầu xin mọi sự an lành đến với Cụ vì Cụ là người lãnh đạo của đất nước. Con sợ mọi sự không lành đến với Cụ.” Cụ ân cần nói với tôi: - Em đừng lo cho Qua, Qua chọn việc ở lại với đất nước là Qua chấp nhận tất cả mọi việc không may xảy ra đối với Qua. Qua hiểu rằng khi cộng sản chiếm đất nước thì dân tình sẽ bất hạnh và khốn khổ khôn lường. Cái chết, đối với qua là việc rất bình thường. Qua chỉ thương sinh linh thống khổ…” Thấy đã lâu, tôi đứng dậy từ biệt Cụ, tôi ôm Cụ và nói: - Con cầu chúc cho Cụ mọi sự bình an… Quá mười hai giờ ba mươi trưa ngày 30-4-75, hai giờ sau khi thành phố Saigon đổi chủ, Cương tiễn tôi ra cổng, Cương ôm tôi khá lâu và chúc tôi được bình an và nhiều may mắn. Tôi cũng chúc Cương như vậy và tôi lên chiếc xe jeep lái về đường Sư Vạn Hạnh để đón vợ con từ nhà người chị Hai của vợ tôi về nhà. Đường phố Saigon rối loạn, xe chạy vội vã không còn luật lệ lưu thông. Tôi lái chiêc xe jeep từ nhà Cụ theo đường Phan Thanh Giản, Công Lý, Hiền Vương, Trần Quốc Toản, chạy vòng qua Lý Thái Tổ đã thấy một xe lam gắn cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam xuất hiện với loa phóng thanh hô hào tiêu diệt bọn “Mỹ Ngụy”. Tôi lái xe vượt lách vào đường Cộng Hòa và chạy về đường Thành Thái
11 mà lòng đau như cắt. Cuối cùng lái về đường Sư Vạn Hạnh đón vợ con về nhà trên đường phố rối loạn trong thời gian đổi chủ. Thả vợ con xuống con hẻm trên đường Trần Quốc Toản để đi bộ vào nhà tôi lái chiếc xe jeep quẹo vào đường Cao Thắng và đậu lại bên đường, bỏ lại chiếc xe jeep trên đường Cao Thắng góc đường Phan Thanh Giãn…Tuần lễ sau, tôi có dịp đi ngang đường Cao Thắng, tôi thấy chiếc xe jeep đã bị đập phá, tôi nhìn thấy mà đau lòng. Sau khi cộng sản Bắc Việt vào dinh Độc Lập bàn giao với Tướng Dương Văn Minh, đài phát thanh VNCH biến thành đài phát thanh của “ giải phóng”, chương trình phát thanh của chính quyền mới kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng và tuân thủ luật lệ của chính quyền mới. Tại Saigon, Uỷ Ban Quân Quản thành phố Saigon Chợ Lớn được thành lập, người đứng đầu là Thượng Tướng Việt Cộng Trần Văn Trà…. Theo lệnh, sáng hôm sau tôi đến trình diện tại Nha Tổng Thơ Ký/ Phủ Phó Tổng Thống cũng nằm trên đường Lê Qúy Đôn. Tại đây sau khi làm thủ tục khai lý lịch trích ngang với người bộ đội đến nhận phủ Phó Tổng Thống. Tôi bị giữ lại gần hai tiếng. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ bị giữ lại luôn. Tuy nhiên, sau đó tôi được thả ra về. - Tôi cho anh về, nhưng nhớ khi có lệnh là anh phải trình diện ngay, các anh không trốn khỏi chúng tôi đâu.” Tôi nghĩ rằng tôi sẽ bị giữ lại luôn vì khi xem lý lịch của tôi, tên bộ đội tiếp quản tỏ ra gay gắt. Hắn nói: - Cấp bậc của anh có đúng là thiếu tá hay không?” Tôi trả lời với hắn: - Tôi đã ghi rõ ràng trong tờ giấy mà anh đưa cho tôi đó, cấp bậc của tôi là thiếu tá. Hắn hỏi tiếp: - Có phải anh là thiếu tá ở tới giờ phút cuối cùng phải không? Tôi nói với hắn: - Đúng rồi, tôi ở tới giờ phút cuối cùng với anh em thuộc quân đội của chúng tôi.
12 Thì ra trước khi làm việc với tôi, hắn đã làm việc với anh em quân nhân thuộc phủ Phó Tổng Thống nên khi thấy lý lịch của tôi, hắn mới kiếm chuyện hạch hỏi thêm. Hắn nhìn tôi và buông ra một câu nói trịch thượng của đám quân chiến thắng, hắn nói: - Trông anh thật bướng bỉnh, tại sao anh không bỏ chạy như thằng Thiệu, thằng Kỳ và thằng Khiêm? Tôi cảm thấy đau nhói trước câu nói của hắn, nhưng cố bình tỉnh trả lới: - Anh là một quân nhân và tôi là một quân nhân, thì anh phải hiểu rõ quân nhân phải tuân lệnh như thế nào.” Hắn nhìn tôi và nói tiếp: - Bây giờ anh nghĩ như thế nào, có còn dám chống lại nữa hay không? Tôi vẫn cố bình tỉnh trả lời: - Các anh là kẻ chiến thắng, chúng tôi là kẻ bại trận, các anh muốn làm gì chúng tôi thì các anh cứ làm, tùy vào các anh. Tôi thấy hầu như mọi người đều có mặt trong buổi sáng hôm đó, nhưng đặc biệt tôi không thấy sự hiện diện của Đại Úy Phan Hữu Cương. Tôi hỏi, nhưng mà chẳng ai biết. Khi tôi ra về, bên ngoài đường còn khoảng năm, sáu anh em quân nhân, các ông thượng sĩ già trong ban truyền tin vẫn còn lóng ngóng xem tôi có được thả ra về hay không, tôi nhớ Thượng Sĩ Chí, Thượng Sĩ Ngỗng thuộc ban truyền tin, và môt vài anh em khác, họ thấy tôi bị giữ lại khá lâu nên tưởng tôi bị bắt luôn, nhưng khi thấy tôi ra, họ thở phào nhẹ nhỏm. Họ nói: - Tụi em cứ tưởng Thiếu Tá bị giữ lại rồi, Nghiệp tài xế của Thiếu Tá dự định về nhà cho bà xã Thiếu Tá hay, nhưng tụi em nói cứ đợi một chút coi chúng nó có chở Thiếu Tá đi hay không rồi hãy về cho hay. Thật may, Thiếu Tá được về. Hồi sáng nầy anh em chưa ai ăn gì nên rất đói, vậy mời Thiếu Tá lại quán phở cạnh đường Lê Qúy Đôn ăn luôn rồi mình chia tay vì biết bao giờ mới có thể gặp lại nhau.” Chúng tôi ăn phở lần cuối cùng rồi chia tay trong tâm trạng buồn bã.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 30, 2020 6:18:53 GMT 9
Khi chia tay, tôi nhớ tới Cương, không biết tại sao, sáng tới giờ không thấy Cương, lòng tôi thật sốt ruột, như một thứ tình cảm đặc biệt đối với Cương thúc giục tôi đi bộ đến tư thất của Cụ Hương để tìm Cương và luôn tiện xem hiện giờ Cụ Hương ra sao? Khi tôi đến, một người cận vệ cũ vẫn còn chạy ra mở cửa cho tôi vào mà nước mắt anh còn chảy tràn trề với đôi mắt đỏ hoe. Linh tính cho tôi biết một điều không lành, tôi chưa kịp hỏi thì người cận vệ òa lên khóc và cho tôi hay Đại Úy Phan Hữu Cương đã chết rồi! Anh ta nói: -Thiếu Tá ơi!, Đại úy Cương đã tự sát đêm qua, hiện xác đang còn để trên divan trong nhà! Tôi thật bàng hoàng trước cái tin sét đánh ngang tai nầy, tôi hỏi lại: - Thật sự như vậy sao? Người cận vệ trung thành nói: - Dạ, ông thầy của em không còn nữa! Khi tôi bước vào, một hình ảnh đập vào mắt tôi như sau: Trên chiếc divan, xác của Cương hầu như nguyên vẹn, vẫn còn ấm, đôi mắt chưa nhắm lại hoàn toàn. Cụ Hương mang kính đen, ngồi phía trên đầu cái divan, có lẽ lòng Cụ đang trong niềm đau tột cùng vì sự ra đi của đứa cháu ruột, một đứa cháu hết lòng lo cho sự an nguy của mình. Tôi cúi đầu nghiêm trang chào Cụ và nhìn xác Cương xá một cách đau xót. Có lẽ trưa ngày hôm qua, Cương ôm chầm tôi mà khóc vì hình như Cương đã có quyết định trong đầu, và có lẽ Cương biết rằng Cương không còn gặp lại tôi. Tôi lấy tay vuốt mắt cho Cương nhắm hẳn lại mà giọt nước mắt tuôn tràn, tôi không thể nào cầm được nước mắt. Là một quân nhân tôi chứng kiến rất nhiều cảnh chết chóc, nhưng cái chết nầy của Cương, tôi thấy lòng mình xót xa quá. Hỏi ra, tôi được biết hai vợ chồng quyên sinh, nhưng bà xã của Cương còn đang hấp hối, không biết có qua được hay không? Tôi biết đối với Cụ Hương, vào lúc nầy Cụ đã chịu đựng nhiều nỗi đau tột cùng. Cụ mang mắt kính đen như để che giấu một cặp mắt quầng thâm vì đất nước tan nát dưới ách thống trị của cộng sản Việt Nam, cụ đau đớn vì nỗi mất mát đứa cháu thương yêu, gần gũi với Cụ. Còn cái đau nào hơn vào lúc nầy đối với Cụ khi
14 mà chứng kiến bao nhiêu tang tóc xảy ra cho đất nước và cho gia đình mà mình đành bất lực với thân phận cá chậu, chim lòng hiện tại! Thấy tôi mãi trầm ngâm khi nhìn vào thân xác của Cương, Cụ nói: - Cương nó đã bỏ Qua nó đi rồi, Qua chỉ tiếc nó cũng như em, tuổi còn trẻ tương lai còn dài, tình hình ngày hôm nay rồi đây nó cũng phải thay đổi, cái gì mất lòng dân thì sẽ không tồn tạị được…” Ngừng một lát Cụ nói tiếp: - Đáng lý ra chúng ta thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc, chứ không phải từ Bắc vào Nam, nhưng vận nước không như mình mong ước được. Nước mình chiến tranh đã dài nhưng khi chấm dứt, trời đã khiến dân tộc nầy còn tiếp tục khổ đau, bản thân Qua không tiếc, chỉ thương cho dân mình. Em đừng làm như Cương, em hãy can đảm lên nha em…” Cụ ngừng một lát rồi Cụ nói tiếp: - Con đường em đi sau nầy sẽ rất chông gai, dân tộc nào còn nằm trong chế độ cộng sản thì còn đau khổ, nhưng chế độ cộng sản nào rồi cũng sụp đổ vì sẽ không còn thích hợp sau nầy. Tương lai dân tộc mình rồi cũng có ngày tốt đẹp, vậy em hãy can đảm đi trong con đường sắp tới đừng ngã lòng trước nghịch cảnh như Cương. Thấy không tiện ở lâu, tôi đứng dậy từ biệt Cụ, từ biệt Cương lần cuối cùng trong nỗi buồn miên man…! Mãi sau này, khi qua đến Mỹ, tôi biết chị Cương rất may còn sống. Chị Cương bây giờ đang sống ở Mỹ và đứa con trai, cháu Phan Trần Hiếu thì nay đã thành tài và là môt phóng viên của tờ báo Orange County Register. Cháu đã có lần về Việt Nam thăm bà nội và ông Cậu là Cụ Hương. Cháu đã viết một phóng sự rất hay sau chuyến về Việt Nam nầy với tựa đề cuốn sách bằng song ngữ như sau: Cội Nguồn Bất An “Roots of Unrest”, cháu có gởi tặng tôi một quyển
15
. Tôi biết Cương khi Cương là chuẩn úy mới ra trường và về làm trung đội trưởng cho đại đội 1 thuộc Tiểu Đoàn 1 Công Vụ trực thuộc Biệt Khu Thủ Đô. Lúc ấy tôi là trung úy đại đội phó của đơn vị nầy. Cương là người sĩ quan bản tính cương trực, khi làm công việc nào được giao thì làm tới nơi tới chốn. Cương ở chung một đơn vị với tôi một thời gian thì về phủ Thủ tướng khi Cụ Hương làm Thủ Tướng. Lúc ấy Cương muốn xin tôi về làm việc với Cương tại phủ Thủ Tướng nhưng tôi từ chối. Mãi đến sau nầy khi tôi về phòng 3 Biệt Khu Thủ Đô làm việc một thời gian khá dài thì Cụ Hương ra đứng chung liên danh với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Cương xin tôi về làm việc tại Phủ Phó Tổng Thống cho đến ngày mất nước. Ngày tôi đến tư thất của Cụ Hương, ăn sinh nhật cháu Phan Trần Hiếu, Cương đã giới thiệu tôi với Cụ Hương. Trong bữa cơm tại tư thất, diện kiến lần đầu tiên với Cụ Hương, tôi nhớ như sau: Tôi được Cương dẫn vào giới thiệu, Cụ Hương ân cần mời tôi vào bàn ăn sau khi tôi đứng nghiêm trang chào Cụ và xưng danh theo một lễ nghi nhà binh đối với một thượng cấp, Cụ Hương tiến đến bắt tay tôi và thân mật mời ngồi vào bàn ăn cơm trưa. Cụ lấy chén và chính tay Cụ đơm cơm và trao cho tôi, Cụ nói một cách ân cần: - Chào em, em cứ dùng cơm tự nhiên như trong nhà, Cương nó có nói với Qua về em. Cương nó muốn em về đây làm việc, ý em như thế nào? Trước sự ân cần của Cụ Hương, tôi thật vô cùng cảm động. Từ lâu rồi, qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, hình ảnh của Cụ qua những vai trò Cụ Hương đảm nhiệm như Đô Trưởng, Thủ Tướng tôi đã thầm khâm phục tư cách liêm khiết và đạo đức của Cụ, nay được diện kiến lần đầu tiên con người ấy bằng xương, bằng
16 thịt qua bữa cơm gia đình thịnh soạn, ấm cúng. Tôi nhận thấy Cụ thật là một con người đáng kính. Tôi thấy không còn cách nào khác hơn là nhận nhiệm vụ mới tại Phủ Phó Tổng Thống, tôi nói với Cụ: - Thưa Cụ, tôi xin cám ơn Trung Úy Cương đã tín nhiệm tôi và đề cử tôi về làm việc tại phủ Phó Tổng Thống, và tôi xin cám ơn Cụ đã chấp nhận cho tôi về làm việc. Tôi sẽ cố hết sức mình để hoàn thành trách nhiệm của một quân nhân được giao phó”. Sáng thứ hai, ngày hôm sau theo lệnh của Biệt Khu Thủ Đô, tôi qua trình diện tại Phủ Phó Tổng Thống và làm việc tới ngày mất nước 30-4-75. Thật tình, tôi hoàn toàn hơi ngạc nhiên vì tôi thật sự chưa được Cương cho biết trước về việc Cương muốn xin tôi về làm việc tại phủ Phó Tổng Thống. Từ lâu rồi Cương vẫn thường liên lạc với tôi từ khi Cương về làm việc với Cụ khi Cụ Hương làm Thủ tướng. Cương vẫn thường hay mời tôi đến tư thất của Cụ, nơi Cương ở chung và làm việc với Cụ, nhưng tôi chưa một lần nào bước chân tới vì tôi rất ngại đến những nơi như vậy. Một hôm, khi đi làm về nhà, tôi nhận được một lá thư viết vội vã bằng tờ giấy nhỏ quăng vào nhà như sau: -Thưa Đại Úy, ngày hôm nay em có đến nhà Đại Úy mấy lần mà Đại Úy vẫn chưa về nên em viết lá thư nầy, em khẩn khoản kính mời Đại Úy đến nhà em ăn sinh nhật đứa con đầu lòng của em, em mong Đại Úy chớ chối từ. Trung Úy Phan Hữu Cương ”. Thấy lá thư với lời tha thiết như vậy, tôi nói với bà xã mua một món quà và ngày chủ nhật hôm đó tôi mang quà đến cho con của Cương. Cương ra mở cửa đón tôi vào và cười: - Thật ra hôm nay không phải là ngày sinh nhật của con em, em lấy lý do nầy để Đại úy đến với em và ăn cơm trưa với gia đình em. Sự việc là do sự xếp đặt của Cương, vì Cương muốn tôi về làm việc tại phủ Phó Tổng Thống với Cương. Cương ơi, khi viết đến đây, tôi bỗng nhớ vanh vách cái ngày hội ngộ đặc biệt nầy và tôi vẫn nhớ ơn Cương một quân nhân mà tôi rất quý trọng. Tôi nhớ cái phong
17 cách quá ân cần và thật gần gũi của Cụ Hương. Tôi nhớ một bữa ăn thật đơn giản của một vị Phó Tổng Thống với cơm rau và cá kho bình thường. Trong công việc mà tôi phụ trách, thật tình tôi không phải là người có cơ hội được gần với Cụ Hương, chỉ đến khi những ngày dầu sôi lửa bỏng, những ngày sau cùng của tháng tư đen, tôi mới thật sự có dịp đến bên Cụ. Tuy nhiên, đối với tất cả mọi người có cơ hội làm việc tại phủ Phó Tổng Thống đều nhìn thấy Cụ là một con người bình dị, hiền hòa, đáng kính… Trong thời gian làm việc tại phủ Phó Tổng Thống, vấn đề bảo vệ an ninh cho Cụ Hương là một vần đề hàng đầu, nhưng Cụ lại không muốn cơ quan an ninh tại phủ Phó Tổng Thống phải làm rềnh rang khi Cụ di chuyển, Cụ không muốn thấy quá nhiều quân nhân an ninh, hoặc quá nhiều cảnh sát lo toan trên lộ trình, hoặc nơi Cụ đến làm việc. Khi Cụ di chuyển hay nơi Cụ đến chủ tọa, hoặc làm việc. Cụ sợ làm phiền hà dân chúng, cụ thường lên tiếng nhắc nhở như vậy. Tuy rằng đã có lần địch đã nhấm vào việc sát hại Cụ khi Cụ làm Thủ Tướng.. Nhiều dư luận không đúng khi cho rằng Cụ Hương hiện nay lớn tuổi rồi nên không còn đủ sáng suốt điều hành việc nước. Tôi đã nhiều lần quan sát một vài lần, những buổi hội họp quan trọng đáng lý đặt dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng vào giờ chót, bên phủ Tổng Thống gọi qua cho hay : Tổng Thống Thiệu nhờ Cụ Hương đi thay vào giờ phút chót, chúng tôi phải lo an ninh cho Cụ di chuyển trong vòng 10 phút. Tôi có dịp chứng kiến trong phòng họp, Cụ Hương đã trả lời đâu ra đó và đúng trọng tâm của vấn đề, nghĩa là trong vai trò Phó Tổng Thống Cụ đã chứng tõ Cụ có một khả năng điều hành đất nước rất sáng suốt. Cụ nắm rất vững tình hình của từng vấn đề. Trong cương vị Phó Tổng Thống, đối với tất cả nhân viên, Cụ thật rất gần gũi và bình dị. Nhiều khi, tôi thấy phòng an ninh mở cửa cho một xe mì gõ vùng quanh phủ Phó Tổng thống vào phủ. Một lát sau, thế nào phòng tùy viên cũng gọi điện thoại thông báo: - Ông Già mời ăn mì . Thế là tất cả quân nhân và công chức đều quay quần đến xe mì, ăn chung với Cụ. Hình ảnh nầy tôi thấy Cụ thật gần gũi với mọi người. Cụ nói chuyện hết sức thân mật, đi bắt tay từng người, hỏi thăm ân cần. Nhiều khi trong phủ phó, tôi thấy Cụ
18 ngồi với chiếc áo thun sờn vai, hoặc rách một vài chỗ. Tôi được người nhà cho biết quần áo của Cụ đã cũ mà Cụ không cho bỏ đi. Cụ nói: - Nhiều người còn không có áo mặc, có giày dép để đi, mình có thì không nên phí phạm, mặc như vầy có rách chút không sao. Đây là lời bà cô trong gia đình nói lại. Đối với quân đội, Cụ luôn luôn quan tâm đến những khó khăn mà anh em quân nhân đang sống và theo dõi rất sát tình hình chiến sự. Có lần đích thân tôi được giao nhiệm vụ mang một số quà của Cụ trao cho các cô nhi quả phụ tại sư đoàn 5 bộ binh nhân ngày kỷ niệm 10 năm thành lập Sư Đoàn 5 Bộ Binh, lúc ấy Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch là tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê. Rồi, khi được tin Tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn trực thăng, Cụ không cầm được nước mắt, Cụ nói: - VNCH vừa mất đi một tướng tài trong tình thế nghiêm trọng của đất nước trước sự xâm nhập từ miền Bắc của địch quân. Tôi nhớ đại úy Cương đã nói với tôi: - Nghe tin ông Tướng Trí chết bất ngờ, khi Quân Đoàn 3 đang mở cuộc hành quân vây hãm cộng quân khi chúng dùng lãnh thổ Lào và Campuchia xâm nhập miền Nam, ông Già khóc và buồn lắm. Ngoài việc bận tâm trong công việc lãnh đạo đất nước, hiểu rõ chiến tranh là tàn bạo và đời sống binh sĩ còn nhiều khó khăn, Cụ Hương còn một tấm lòng nhân ái đến những người bất hạnh trong xã hội. Cụ rất quan tâm đến những người bị bệnh phong cùi tại trại cùi Di Linh, Cụ hiểu rõ đến công sức của những người tận tụy phục vụ những người bị bệnh nầy. Điển hình là công đức và lòng bác ái của Đức cha Jean Cassaigne, một người cả một cuộc đời dành trọn sự thương yêu đối với những người mang bệnh phong cùi tại trại nầy. Cụ Hương đã đề cử hai nhân viên cao cấp đến trao tặng một huy chương cao quý của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cho đức cha Jean Casaigne vào ngày 12-4-1973 Khi chấp nhận ở lại đất nước, Cụ hiểu rất rõ các đòn trả thù của cộng sản vào thành phần Quân, Cán, Chính lên Việt Nam Cộng Hòa. Cụ đã thẳng thắn từ chối nhận quyền công dân khi chính quyền cộng sản Việt Nam dự định trao lại cho Cụ
19 như là một hình thức tuyên truyền. Cụ từ chối và nói trong bức thư đến cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam như sau: - Hiện nay vẫn còn hàng trăm ngàn nhân viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng đến tổng, bộ trưởng, các tướng lãnh, quân nhân, công chức các cấp, các chánh trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung trong các trại cải tạo, rĩ tai ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới, hãy thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thứa hành mệnh lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi. Cuộc đời của Cụ Hương, từ một nhà mô phạm dấn thân vào các cương vị lảnh đạo, từ hai lần làm Đô Trưởng Saigon, hai lần làm Thủ Tướng, một lần trong chức vụ Thượng Nghị Sĩ, làm Phó Tổng Thống và trong giai đoạn cuối cùng của đất nước và làm Tổng Thống, Cụ Hương đã thể hiện một ý chí kiên quyết, một tấm lòng sắt son, thủy chung với đất nước và dân tộc. Cụ đã thể hiện như một kẻ sĩ với đầy đũ ý nghĩa với đức tính thanh liêm, thương dân, yêu nước mà tới bây giờ khó có ai làm được. Nay thì Cụ đã không còn, nhưng lúc nào tấm gương trong sáng của một kẻ sĩ suốt đời tận tụy với dân với nước, sống thanh bần, liêm chính trong mọi hoàn cảnh.Tấm gương của Cụ về lòng yêu nước thương dân, đức độ của Cụ làm cho những người từng làm việc với Cụ ngưỡng mộ. Cụ đã ra đi vào ngày vào ngày 27-1-1982 năm Nhâm Tuất. Trong niềm thương tiếc Cụ Trần Văn Hương, hàng năm, chúng tôi, những quân nhân một thời làm việc tại phủ phó Tổng thống thường tập trung tại nhà của Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, một sĩ quan tùy viên luôn luôn cận kề bên Cụ trong mọi hoàn cảnh. Đại uý Nhựt thờ Cụ trên bàn thờ của gia đình và thương yêu Cụ như chính là thân phụ của mình. Chúng tôi thương kính Cụ Hương vì chúng tôi hiểu rất nhiều về Cụ, một con người tận tụy với đất nước. Cụ đau cái đau chung của dân tộc khi phải sống dưới sự độc tài áp bức. Nhưng bên cạnh niềm đau đó, Cụ còn cái đau riêng vì mình chưa hoàn thành được trách
20 nhiệm của một kẻ sĩ trước cơn quốc biến. Nhưng trước lịch sử, Cụ đã để lại cho hậu thế một tấm gương trong sáng của lòng yêu nước chân chính. Chúng tôi luôn cầu nguyện cho Cụ Hương, người cháu của Cụ, Đại Úy Phan Hữu Cương được sống trong cõi an bình với lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Thiếu Tá Nguyễn Chánh Trực Cựu Trưởng phòng Quân vụ Võ Phòng Phủ Phó Tổng Thống
|
|