|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 8:16:04 GMT 9
Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ
Hứa Hoành Trong lịch sử chống ngoại xâm, chưa có cuộc chiến tranh vệ quốc nào kỳ cục như cuộc kháng chiến chống Pháp vào năm 1945 mà CS gọi là "Cách mạng tháng 8". Dùng thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, lừa bịp, gây chia rẽ, khủng bố, tàn sát để chiếm cho được chính quyền trong tay người quốc gia, Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến đi lòng vòng, phí biết bao nhiêu nhân lực, vật lực, tài lực, đến khi chiến thắng thì đất nước đã khánh tận. Kéo dài cuộc kháng chiến để họ có đủ thời giờ "hy sinh những người anh em" ngoài đảng. Nhờ những người này, đảng CS mới hưởng được vinh quang. Bài này kể lại những điều tai nghe mắt thấy của người trong cuộc. Có người theo suốt cuộc kháng chiến tới ngày thành công, có người bỏ cuộc vì thấy rõ dã tâm của người CS, có người là nạn nhân của những vụ ám sát hụt, có kẻ bàng quang. Dù ở cương vị nào, hoàn cảnh nào, ai cũng thấy rõ một điểm chung: tính chất lừa bịp của CS, sư lừa bịp vĩ đại hào nhoáng nhứt trong lịch sử của dân tộc VN. Chúng ta cũng nên nghiêng mình trước các anh hùng liệt sĩ đã xả thân chiến đấu và bị lợi dụng, không chết trước họng súng kẻ thù thực dân Pháp mà lại chết vì sự khủng bố tàn nhẫn của người Cộng Sản. Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu được thành lập vào ngày 24/8/45, thì hôm sau "Quốc Gia Tư Vệ Cuộc" ra đời. Trái ngược với tên gọi, Quốc Gia Tư Vệ Cuộc không phải là lực lượng kháng chiến chống quân thù, mà lại có nhiệm vụ đi lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu đồng bào bằng hình thức chặt đầu, mổ bụng, cho "mò tôm", móc mắt, cắt lưỡi, và nhiệm vụ khác là...bảo vệ sinh mạng của những kẻ đã ra lịnh tàn sát đồng bào, tức là lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ. Quốc Gia Tư Vệ Cuộc vào buổi đầu thâu dụng những thành phần sống ngoài vòng pháp luật, những tên dao búa, những tên trôi sông lạc chợ, đầu trộm đuôi cướp như Tô Ký, Ba Nhỏ, Đào Công Tâm, Kiều Đắc Thắng, Bửu Vinh, Hoàng Thọ... Sẵn hận thù chất chứa, nay có quyền sinh sát, lại quen nghề chém giết, nhóm Quốc Gia Tư Vệ Cuộc giết người tàn bạo còn hơn đối với thực dân Pháp. Lúc đó Lâm Ủy Hành Chánh đóng vai trò như một chính phủ của miền Nam, một chính phủ giành giựt của người khác, nhưng không có quân đội thì làm sao kháng chiến? 4 sư đoàn dân quân được Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (các hội đoàn chính trị và tôn giáo của Nam Bộ) thành lập hôm 17/8/45, trong khi đó thì Việt Minh không có sư đoàn nào. Vì thế CS phải tìm cách giải tán, tìm cách phá nát. Lựa trong "đám mặt rằng", Lâm Ủy Hành Chánh phong chức: - Kiều Đắc Thắng, nắm toàn quyền sinh sát với chức "Giám đốc Công an miền Đông". - Dương Bạch Mai (8/1929, đã từng qua Liên-xô học trường Stalin cùng lượt với Trần Văn Giàu, có bí danh là Bourov). Thanh tra chính trị miền Đông, cũng là 1 hung thần nhưng không có quân hành động trực tiếp. - Ba Nhỏ, Trưởng bọn ám sát, bắt cóc, thủ tiêu theo mật linh. Phạm vi của Ba Nhỏ là Saigon, Chợ Lớn. - Lý Huê Vinh, công an, cánh tay đắc lực của Trần Văn Giàu, chuyên hạ sát các lãnh tụ quốc gia. - Đào Công Tâm, trước là lính trong toán của Ba Nhỏ. Thấy Tâm giết người không gớm tay, Việt Minh nâng đỡ, cho làm Chính trị viên Tiểu đoàn 66 của Long Xuyên... Với những tay giết người chuyên nghiệp, say máu, mệnh danh là "Quốc Gia Tư Vệ Cuộc" do Nguyễn Văn Trấn (tác giả "Viết cho mẹ và quốc hội") chỉ huy, trong những năm kháng chiến, Việt Minh đã gieo kinh hoàng cho tất cả mọi người ở Nam Bộ. Ai giết Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ? Cuộc kháng chiến của toàn dân khởi đi trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi vô cùng. Tháng 9/45, hầu như tất cả dân chúng miền Nam đều ủng hộ Việt Minh. Nhưng chỉ vài tháng sau đó, với chính sách sắt máu như bắt cóc, cho "mò tôm", chặt đầu, móc mắt, cắt lưỡi, mổ bụng, những nạn nhân bị chụp mũ "Việt gian", "phản động", "phản cách mạng", đã tạo ra một làn sóng căm phẫn bao trùm đất nước. Cuộc kháng chiến do đó mà bị xẹp lép như trái banh xì hơi. Những người còn sống sót, con cháu của các nạn nhân đi tìm chỗ ty nạn, họ buộc lòng phải "về thành" để tránh bị Việt Minh tàn sát lần nữa. Họ đành chịu mang tiếng là "hợp tác với giặc Pháp". Sinh lực kháng chiến tiêu tan ngay, tạo đà cho quân Pháp chiếm lại các tỉnh miền Nam một cách dễ dàng chỉ trong vòng...4 tháng ! Chỉ trong vòng có 2 tháng trời, giành quyền đại diện dân chúng miền Nam, Việt Minh đã biến tình đoàn kết thành nội thù. Các vụ giết người mờ ám, các vụ khủng bố đẫm máu...đã làm cho dân miền Nam thức tỉnh. Phi nghĩa và làm mất thế đoàn kết ngay khi Việt Minh ra lịnh đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo tại Cần Thơ. Theo lịnh Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ để chống lại tình trạng độc tài của Việt Minh, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo các vùng lân cận tỉnh Cần Thơ và một số thị dân kéo về biểu tình rầm rộ với tay không và biểu ngữ. Cuộc biểu tình có xin phép Chủ tịch Ủy ban Hành chánh là ông Trần Văn Khéo. Sáng sớm ngày 8/9/45, khi đoàn biểu tình với 1 số "bảo an" với tầm vông vạt nhọn thì làm sao chống lại với súng đạn ! Trước đó, Việt Minh đã mời đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo ở Cần Thơ là các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy), Nguyễn Xuân Thiếp (anh họ nhà văn Nguyễn Hiến Lê) và Trần Văn Hoành (con trai ông Năm Lửa) đến thương thuyết nhưng thất bại. Nhiều người tham dự cuộc biểu tình này chỉ có tay không với bình nước uống, vừa từ dưới ghe cặp bến, đã bị Tự Vệ của Việt Minh bắn chết ngay tại bờ sông. Trong vụ thảm sát này, ông Hoàng Quốc Kỳ, một người kháng chiến tập kết về Bắc, gặp lại bạn cũ, là ngươi đã xả súng bắn vào nhóm biểu tình ấy, kể lại như sau: "Nguyễn Văn Nghệ, 1 tay súng tiểu liên đầu đàn của Vệ quốc đoàn miền Tây Nam Bộ (CS), kể lại trận "tắm máu đó": Tụi Hòa Hảo gan cùng mình ! Lớp này ngả xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến rung cả tay, máu loang đỏ hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần nhưng lịnh bắt phải bắn tiếp". Đàn áp xong, Việt Minh dùng xe có loa phóng thanh chạy khắp đường phố loan tin: Hòa Hảo dùng ghe vượt sông Cần Thơ, đổ bộ vào châu thành, bị "Vệ quốc đoàn" đẩy lui. Rồi Việt Minh kết án: Hòa Hảo âm mưu cướp chính quyền ở Cần Thơ ! Mới 2 hôm trước, vì bị chỉ trích độc tài, Lâm Ủy Hành Chánh xin cải tổ, đề Phạm Văn Bạch thay thế chức chủ tịch (hư vị), Trần Văn Giàu vẫn nắm quân sự. Ủy ban Hành chánh cố khẩn khoản mời Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ làm cố vấn đặc biệt. Trở mặt như chong chóng, đêm 9/9/45, Trần Văn Giàu mật lệnh cho Tự vệ, Thanh Niên Tiền Phong tới bao vây trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo tại góc đường Miche và Sohier (Phùng Khắc Khoan) để bắt Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nhưng chỉ bắt được mấy trăm tín đồ. Liên tục những ngày kế tiếp, Việt Minh mở chiến dịch khủng bố Phật Giáo Hòa Hảo. Họ ra lịnh truy lùng, bắt cóc, thủ tiêu các nhân sĩ có uy tín của Phật Giáo Hòa Hảo như Chung Bá Khánh, Lâm Thành Nguyên, Võ Văn Thời, Trương Đại Lượng, Lý Công Quận, Nguyễn Hữu Trinh... Cũng cần nhắc lại thêm rằng, hôm 5/9/45, Nguyễn Thành Sơn, Thanh tra chính trị miền Tây, có mời ông Chung Bá Khánh với tư cách đại diện cho Phật Giáo Hòa Hảo đi thuyết trình ở Sóc Trăng mà Dương Kỳ Hiệp (thân Cộng) làm chủ tịch và Tạ Bá Tòng (CS) làm phó. Một số lớn người bị bắt ở Cần Thơ như Chung Bá Khánh, Lâm Thành Nguyên, Võ Văn Thời, Đỗ Hữu Thiều bị đem giam ở Trà Vinh. Sau đó, Việt Minh đem họ xuống Ba Động, một làng ven biển, để trấn nước chết. Riêng ông Lâm Thành Nguyên, nhờ biết lội, bình tỉnh cởi trói, bơi vào bụi rậm ẩn núp, trốn thoát được. Một tháng sau cuộc biểu tình ở Cần Thơ, Việt Minh đem các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ), Nguyễn Xuân Thiếp, Trần Văn Hoành ra xử bắn tại sân banh Cần Thơ. Vì đại nghĩa quên thù nhà (em ruột là Huỳnh Thạnh Mậu bị Việt Minh xử bắn), lại mới thoát nạn đột kích của Việt Minh, nhưng Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, cũng lòng từ bi hỉ xả, 1 lần nữa lại chủ trương đoàn kết dân tộc, thành lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến, cho phép thành phần CS tham gia. Chính ông cũng nhiều lần kêu gọi mọi người hãy bỏ qua hiềm khích để bảo vệ tổ quốc lâm nguy. Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến ra đời vào ngày 20/4/46, gồm đại diện các đảng phái chính trị, tôn giáo, Bình Xuyên và CS nữa. Thành phần lãnh đạo gồm: - Chủ tịch: Hoàng Anh (bí danh của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ). - Phó chủ tịch: Vũ Tam Anh. - Thư ký: Mai Thọ Trân. - Tuyên truyền: Lê Trung Nghĩa (ký giả). - Ủy viên quân sự: Huỳnh Văn Trí (Mười Trí). Phía CS tham gia mặt trận này gồm có: Phạm Thiều, Mai Thọ Trân (chính trị), Phan Đình Công, Huỳnh Tấn Chùa (quân sự). Thâm tâm của CS khi gia nhập Mặt trận chỉ là để xâm nhập, lủng đoạn, phá hoại và lôi kéo Mặt trận ngả về phía CS. Âm mưu này thất bại, Tướng Nguyễn Bình (CS) tung ra 1 tổ chức khác, có tên gọi na ná giống nhau, tức Hội Liên Hiệp Quốc VN, gọi tắt là Hội Liên Việt. Từ đó, các phần tử CS trong Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến được lịnh rút khỏi mặt trận này. Cho tới nay, dư luận và nhiều sách báo xuất bản tại miền Nam, đều quy tội cho Bửu Vinh chính là kẻ sát nhân. Ông Nguyễn Long Thành Nam, được coi như người phát ngôn chính thức của Phật Giáo Hòa Hảo đã viết trong Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, trang 430: "...Hôm sau, Đức Thầy nhận được 2 văn thơ, 1 của Trần Văn Nguyên, đặc phái viên, kiêm Thanh tra Chính trị Miền Đông Nam Bộ, và 1 của Bửu Vinh, mời Ngài đến dự hội nghị, họp tại làng Tân Phú, để định liệu kế hoạch hòa giải Việt Minh và Hòa Hảo Dân Xã (sau ngày Hồ Chí Minh và Moutet ký Tạm ước 14/9/46 tại Paris, vào 21/9/46, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tức Dân Xã; lúc đầu đảng này có khuynh hướng hòa giải với Việt Minh). "Vào 7g sáng ngày 15/4/47 (24 tháng 2 nhuần), Đức Thầy xuống ghe đi với 3 người chèo, 4 tự vệ quân, ông Đại đội trưởng Đại đội 2 và người thơ ký văn phòng là ông Huỳnh Hữu Thiện. Lối 8g sáng, ghe tới chợ Ba Răng, có Trần văn Nguyên xuống đón Ngài lên chợ. Ngài đi diễn giảng trước đám dông người, kêu gọi đoàn kết chống xâm lăng, và gạt bỏ hận thù giữa Việt Minh và Dân Xã. Trưa lại, Ngài dùng cơm với Trần Văn Nguyên và 1 thơ ký xuống đi chung ghe với Ngài đến Đốc Vàng hạ, thuộc thôn Tân Phú. Đến đây, 1 bản hiệu triệu được công bố cho biết các cấp chỉ huy 2 bên bắt tay nhau lo việc hòa giải, và kêu gọi 2 bên đừng xô sát nhau. "Sau khi dùng cơm chiều, Đức Thầy lại nghỉ ở nhà 1 tín đồ gần đó. Hôm sau, ngày 16/4/47, lối 7g sáng, Đức Thầy trở lại hội đàm với Trần Văn Nguyên, rồi phái ông Ngô Trung Hưng cùng 1 nhân viên của Trần Văn Nguyên đi các thôn hòa giải. "Sau khi dùng bữa cơm trưa, Đức Thầy xuống ghe nghỉ, thì Bửu Vinh báo cáo rằng "Dân Xã giết Việt Minh ở Lấp Vò", và buộc Đức Thầy phải đi, nhưng Ngài tỏ ra cương quyết biện bác và đòi Bửu Vinh cùng đị Bửu Vinh khước từ và đòi phải có bộ đội võ trang theo phòng vệ thì mới dị Ngài trả lời 1 cách cứng cõi: - Tại sao tôi có 1 ít người, không có bộ đội ủng hộ, mà lại dám vào sào huyệt của các ông ? Như thế quí ông không thành thật. "Bửu Vinh không trả lời được, nên buộc lòng phải đi và yêu cầu Đức Thầy đến văn phòng của y để cùng đị Liền lúc đó, Trần Văn Nguyên đến trao cho Ngài 1 mảnh giấy nói rằng:"Có điện tín từ Ủy ban Hành Chánh Nam Bộ mời Đức Thầy trở vê miền Đông lập tức để dự phiên họp bất thường". "Đức Thầy trả lời "Không thể trở về dự phiên họp được, vì còn lo việc hòa giải". Chiều hôm ấy, Trần Văn Nguyên từ giả Ngài vào lúc nhá nhem tối. "Y hẹn, Đức Thầy xuống ghe, đến văn phòng Bửu Vinh, có 1 liên lạc viên dẫn dường. Trời tối đen như mực, bỗng có tiếng kêu: - Ghe ai đó ? Sao giờ này đã thiết quân lực mà còn dám đi ? Người liên lạc viên trả lời: - Đi lại văn phòng ông Bửu Vinh ! "Liền đó, có lịnh biểu ghe ghé lại. Rồi đèn chói rọi xuống, khi biết là ghe của Đức Thầy, chúng nói: - Ông Bửu Vinh mời Đức Thầy lên văn phòng. "Đức Thầy cùng 4 tự vệ lên 1 ngôi nhà ngói. Ngài vào ngồi bàn giữa, nói chuyện với Bửu Vinh, còn 4 tự vệ quân cầm súng đứng 2 bên, gần cửa. 10 phút sau, lối 7g30, có 8 người từ bên ngoài đi vào, chia làm 4 cặp, tràn tới đâm 4 tự vệ quân. 3 người bị đâm chết, chỉ còn người thứ tư là Phan Văn Tỷ lanh trí nên tránh kip., liền thoát ra ngoài, bắn 1 loạt tiểu liên. Trong lúc anh Tỷ né, thì 1 trong 2 tên Việt Minh bị đồng bọn của mình đâm chết. "Thấy chuyện chẳng lành, Đức Thầy lanh lẹ thổi tắt ngọn đèn, văn phòng trở nên tối đen, không ai nhận ra Đức Thầy đâu cả..." Chúng tôi may mắn được hầu chuyện cùng ông Lâm Quang Phòng, 1 nhân vật tên tuổi của miền Tây thời kháng chiến. Năm nay ông đã 81 tuổi, tinh thần vẫn còn khang kiện. Ông từ tốn, không muốn kể lại thành tích của bộ đội mình, nhưng chúng tôi tìm hiểu thêm trong các tài liệu thì bộ đội Lâm Quang Phòng ra đời trong hoàn cảnh mièn Nam vùng lên chống Pháp vào cuối năm 1945. Bộ đội Lâm Quang Phòng tự tuyển mộ, trang bị võ khí và lập nhiều chiến công vang dậy khắp miền Tây Thành tích lớn nhất là cướp được chiến xa của Pháp từ biên giới Miên tràn qua Hà Tiên, đem về triển lãm cho dân chúng Hà Tiên xem. Chiến lợi phẩm ấy còn vẻ vang hơn 2 cây súng đại bác 105 ly lấy được trong trận chiến thắng Tầm Vu (Cần Thơ) năm 1948, do Huỳnh Phan Hộ chỉ huy Thành tích này không bao giờ được CS nhắc tới trong các tài liệu, sử sách của họ, chỉ vì ông Lâm Quang Phòng không phải là đảng viên CS. Khi bác sĩ Việt Minh là Nguyễn Công Trung than rằng "Thiếu dụng cụ y khoa để mỗ xẻ cứu các thương binh" thì bộ đội Lâm Quang Phòng tình nguyện đánh vào Bạc Liêu, chiếm bịnh xá, tịch thu hết dụng cụ y khoa và thuốc men về cho họ. Năm 1947, ông Lâm Quang Phòng là Đại đội trưởng Đại đội 64 Hà Tiên, còn Bửu Vinh là Đại đội trưởng Đại đội 66 Long Xuyên. Ông Lâm Quang Phòng quả quyết rằng: "Chính Đào Công Tâm, Chính trị viên của Đại dội 66 (Việt Minh) chủ động hạ sát Đức Thầy vào họp, rồi ùa ra đâm loạn đã vào mọi ngươi (tự vệ quân của Đức Thầy) khi đèn tắt. Đào Công Tâm đã hạ sát Đức Thầy chớ không phải Bửu Vinh. Nói như vậy không phải Bửu Vinh là kẻ vô tội. Hắn đồng lõa, sắp đặt âm mưu như Trần Văn Nguyên. Chính Đào Công Tâm còn lấy được 1 cây súng nhỏ (6.65) của Đức chế tạo (?) do Ủy ban Hành chánh Nam Bộ tặng Đức Thầy khi ông nhậm chức cố vấn đặc biệt trước đây Cây súng ấy, bá súng có nạm vàng, và Đào Công Tâm đã trao cây súng lại cho Phan Trọng Tuệ, lúc đó là Chính ủy Khu 9". Theo ông Lâm Quang Phòng thì Bửu Vinh là người thuộc hoàng phái, trước làm thơ ký kho bạc tại 1 tỉnh miền Trung, thụt két, bỏ trốn vào Nam. Vinh làm đủ mọi nghề lao động chân tay, trốn tránh ngoài vòng pháp luật. Có lúc Vinh trôi dạt tới Phú Quốc, gia nhập bộ đội Lâm Quang Phòng của ông. Vinh đánh giặc gan lì, hiếu sát, nên được cử là Tiểu đội trưởng. t tháng sau, Vinh ngả theo Việt Minh. Với khả năng giết người chuyên nghiệp, Vinh như người tìm được vận hội mới. Đầu năm 1947, Vinh làm Đại đội trưởng Đại đội 66 Long Xuyên của Việt Minh. Còn Đào Công Tâm là người Hải Phòng vào Nam sinh sống khá lâu. Từ chỗ làm phu đồn điền ở Hớn Quản (như Lê Đức Anh), Tâm bỏ trốn xuống Saigon làm phu khuân vác và đủ các nghề chân tay để sống. Khi Việt Minh cướp chính quyền, dung nạp các thành phần bất hảo, Tâm liền gia nhập "Quốc Gia Tự Vệ Cuộc", tức công an. Vốn hận thù những người may mắn, giàu có hơn, nên Tâm say máu giết người. Từ chức Tiểu đội trưởng Tự Vệ, Tâm tiến lên Trung đội trưởng và được đề bạc làm Chính trị viên Đại đội 66 của Bửu Vinh. Đầu trộm đuôi cướp gặp nhau, họ làm việc rất tương đắc. Đại đội này đánh Pháp thì ít, mà chận đánh các bộ đội của người quốc gia thì nhiều. Tâm có vóc người ốm, dong dỏng cao, lưng hơi khom, mắt ti hí, người Nam gọi mắt lươn, môi chì, mặt mét. Nghề rình rập, truy lùng, ám sát, thủ tiêu rất hợp với khả năng của Tâm. Nhưng ai đã từng ở trong kháng chiến thời đó tại Miền Tây Nam Bộ chắc đều biết vụ Việt Minh ngụy tạo vụ án "Hòa Hảo ăn thịt người" để tuyên truyền lừa bịp. Sau vụ đàn áp cuộc biểu tình của Hòa Hảo đẫm máu tại Cần Thơ, dân chúng, tín đồ Miền Tây xa lánh họ. Việt Minh lại trình diễn luôn 2 màn lừa bịp mới. Thứ nhứt, để lợi dụng các tôn giáo, năm 1949, theo chỉ thị của Lê Duẩn, tổ chức "Đại Hội Liên Tôn Quốc Doanh" ở xã Tân Duyệt, Bạc Liêụ Tôn giáo nào cũng có đại diện, trừ Hòa Hảo. Ông Hoàng Quốc Kỳ kể lại vụ lừa bịp không tiền khoáng hậu ấy như sau: "...Sau Đại Hội Liên Tôn, hắn (Duẩn) sai những tên đảng viên CS ác ôn, thân tín nhất, chọc tiết cả chục tù nhân rồi chặt đầu, xẻ thịt y như người ta ra thịt heo, bày bán giữa ban ngày trên bờ sông Vịnh Chèo, thuộc tỉnh Cần Thợ Ghe xuồng nào đi ngang qua cũng bị chặn lại, dí súng, dao găm vào cổ, bắt phải mua thịt...người. Đến khúc sông vắng, người ta vội vàng vứt xuống sông để khỏi ói mữa. Rồi các ty tuyên truyền khắp Nam Bộ đem triển lãm hàng trăm tấm ảnh cở 18-24 chụp thớt thịt trên sông Vịnh Chèo, với những chiếc đầu lâu, những cánh tay còn nguyên ngón, kèm lời "thuyết minh": "Bọn Hòa Hảo man rợ ở Cần Thơ đã giết cán bộ và thường dân không chịu theo chúng, rồi xẻ thịt bày bán trên sông Vịnh Chèo, bắt dân chúng mua về ăn. Ai không chịu bỏ tiền ra mua, chúng liền giết ngay tại chỗ, rồi xẻ thịt người ấy bày lên thớt..." Tuy xảo quyệt và gian trá như thế, nhưng Việt Minh không lừa bịp được aị Người dân địa phương đã vạch mặt nhóm giết người dã man ấy, nếu nói Hòa Hảo thì cả quận này người ta đều quen biết nhau hết, và họ đâu có thấy dân địa phương đứng bán thịt...người. Nhưng đó là những người có giọng nặng trịch, khó nghẹ.. Với chiến dịch tuyên truyền lừa bịp này vừa tung ra, tự nó đã xẹp ngay vì nó lộ liễu quá...." ("Ma Đầu Hồ Chí Minh, Hoàng Quốc Kỳ, trang 128). Trong thời kháng chiến, Việt Minh giết người, mổ bụng, trói thúc ké xuống cho "mò tôm". Mấy hôm sau, thây ma sình thúi, trôi lều bều. Việt Minh lại đi rỉ tai dân chúng:"Hòa Hảo giết người đấy !". * Việt Minh phá nát sư đoàn Việt Nam Quốc Dân Đảng: Nguyễn Hòa Hiệp xuất thân trong 1 gia đình điền chủ tại Phú Long, tỉnh Thủ Dầu Một (tức Sông Bé). Sau khi đậu Diplome (Trung học Đệ nhất cấp), ông làm Tham tá Bưu điện. Năm 1929, Nguyễn Hòa Hiệp cùng Nguyễn Phương Thảo, tức Nguyễn Bình sau này, cũng gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, hệ phái miền Nam. Giữa tháng 8/1945, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ra đời, tập họp toàn dân kháng Pháp, quyết định lập 4 sư đoàn dân quân. Nguyễn Hòa Hiệp được cử làm Chỉ huy trưởng Đệ tam sư đoàn, Lý Hồng Chương làm phó. Thấy tình hình Nam Bộ còn nhiều đơn vị kháng chiến không chịu nhận mệnh lệnh CS, Hồ Chí Minh cử Ngyễn Bình vào "thống nhứt các lực lượng quân sự" ấy. Những ai đầu phục, họ thu nhận, rồi tìm cách ám sát.. Những đơn vị nào không hợp tác, Bình tìm cách phá nát. Ăn không được thì phá cho hôi chính là chủ trương của Việt Minh. Đệ Tam sư đoàn có lực lượng "Dân Quốc Quân" làm nồng cốt, nên có kinh nghiệm chiến đấu. Nhiều lần Việt Minh chiêu dụ, mua chuộc không được, họ tìm cách tiêu diệt. Nguyễn Bình ra lịnh: Khi các sư đoàn dân quân di chuyển tới đâu, các Ủy ban Hành chánh địa phương cấm giúp đỡ. Dân địa phương bị cấm liên lạc, tiếp xúc với họ. Đệ Tam sư đoàn lâm vào tình trạng bị phong tỏa, cô lập. Để tránh tan rã, Nguyễn Hòa Hiệp quyết định cùng 1 số đơn vị chiến đấu khác, phải bỏ Khu 7 (các tỉnh miền Đông), rút về Hậu Giang. Trên đường di chuyển, đơn vị này đụng độ với 2 đại đội của Việt Minh: Chi đội 18 của Nguyễn Văn Xuyến và Chi đội 12 của Nguyễn Tấn Chùa chận đánh... Do sự chỉ điểm của Nguyễn Bình, Pháp oanh tạc nhiều lần, binh sĩ của Đệ Tam sư đoàn tử thương rất nhiều, trong số đó có thi sĩ Khổng Dương (Trương Văn Hai) tử nạn ở Xẻo Rô, trên đường về Long Xuyên. Tội ác của Việt Minh đối với Cao Đài Tiêu diệt tôn giáo, đảng phái là chủ trương của người CS ngay khi họ nắm được chính quyền ở Nam Bộ bằng cái "Lâm Ủy Hành Chánh". Nếu Trần Văn Giàu đã gieo tang tóc cho Nam Bộ đang lâm chiến bao nhiêu, thì tội ác của Tướng Nguyễn Bình đối với tôn giáo, đảng phái cũng tày trời bấy nhiêu. Thủ đoạn của Việt Minh là mua chuộc, lôi kéo về phe họ, phục vụ quyền lợi của họ, làm viên gạch lót dường, làm con chốt hy sinh. Ai ngoan ngoãn thì lợi dụng có giai đoạn, sau đó tìm cách ám sát, gọi là "tử trận", "hy sinh",... Biết rõ âm mưu này, Cao Đài bất hợp tác, bị Việt Minh đánh phá, phải kéo về Tây Ninh để khỏi bị tiêu diệt. Thất bại, Việt Minh lập 1 kế hoạch lừa bịp mới: lập nhóm Cao Đai ly khai ở Bạc Liêu, chiêu dụ họ đứng về "phe kháng chiến". Việc chống xâm lăng là 1 nghĩa vụ của người dân, 1 tín đồ, nhưng phục vụ riêng cho quyền lợi của CS thì tôn giáo nào cũng từ chối. Phái Cao Đài Minh Chơn của ông Cao Triều Phát và Trần Đạo Quang ở Bạc Liêu đã bị lừa vào cái bẩy sập đó. Cao Triều là 1 dòng họ lớn, nhiều người là đại điền chủ, có con cái ăn học bên Tây Cao Triều Phát là 1 trong những cự phú xứ "công tử coi tiền như rác". Giàu có lớn, Cao Triều Phát là người có tâm đạo, làm việc nghĩa, tính tình hiền lành. Từ khi biết mình bị lừa vào hang cọp, ông âm thầm chịu đựng, đóng trọn vai trò lừa bịp do CS dàn dựng. Từ khi khai đạo tại Tây Ninh, Cao Đài lần lượt chia nhiều hệ phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre của Lê Kinh Ty, Nguyễn Ngọc Tường, và Cao Đài Minh Chơn Hậu Giang của ông Cao Triều Phát và chưởng pháp Trần Đạo Quang. Năm 1932, Thánh thất Cao Đài Minh Chơn đặt tại Giồng Bướm, làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, lấy tên là Thánh thất Ngọc Minh. Rùn ép, đe dọa, Việt Minh dùng thủ đoạn bắt ông Cao Triều Phát làm bình phong để có danh nghĩa cho họ lập "Đại Hội Liên Tôn Quốc Doanh". Trước đó, với sự dàn dựng của Việt Minh, "Cao Đài Cứu Quốc Họp Nhứt 12 Chi Phái" để lôi kéo tín đồ ủng hộ kháng chiến do họ lãnh đạo. 1 giai đoạn khá ly kỳ được dân chúng Bạc Liêu thường nhắc tới là việc CS dùng thủ đoạn moi tiền ông Cao Triều Phát 1 cách thô bỉ. Người miền Tây còn nhớ việc này rành rành như sau (Theo thư nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh gởi cho tác giả ngày 2/2/94): "...Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, có 1 lá thơ của "bác Hồ" gởi Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ, trong đó nhắc tổ chức trao chiếc áo và thư "của Bác" cho ông Cao Triều Phát. Đó là chiếc áo lụa, do các em thiếu nhi Hà Đông tặng khi bác Hồ còn ở Hà Nội. Trong "tuần lễ vàng", Việt Minh lại đem chiếc áo ấy bán đấu giá, buộc ông Cao Triều Phát phải mua với giá 50 vạn đồng (50,000 đồng) 1 chiếc áo lụa nhàu nát như miếng giẻ rách..." Từ đó, ông Cao Triều Phát đã lọt vào quỹ đạo của CS, sẵn sàng làm bù nhìn để Viêt Minh mặc tình sai khiến đóng trò.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 8:17:03 GMT 9
Riêng hệ phái Cao Đài Tây Ninh, cũng bị mua chuộc, dụ dỗ, nhưng không thành công. Tiếp đó, Việt Minh giở trò vu khống, rồi khủng bố, ám sát nhắm vào các ông Trần Quang Vinh, Giáo chủ Phạm Công Tắc, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Vạn Nhả, nhưng thất bại. Ông Dương Đình Lôi đã kể lại rằng, "Trong 2 năm 1946-1947, Việt Minh đã đưa cả 1 Trung đoàn về ẩn náu tại vùng Long Sơn, núi Nứa (Cần Giờ), có mục đích đánh phá đạo Cao Đài. Vùng rừng Sác có 1 họ đạo Cao Đài tại Cần Giờ. Trung đoàn 300 của Việt Minh vẫn thường xuyên đột nhập, gọi là "tảo thanh", gặp tín đồn Cao Đài là cứ bắn giết, nhà cửa thì đốt sạch. Mỗi lần như vậy, dân đạo Đao Đài phải chạy vào đồn bót Tây để được Tây che chở..."
Cũng theo bức thư của nhà văn An Khê thì:
"...Ở Củ Chi, thời đó có các Trung đoàn 306, 312 cũng tảo thanh Cao Đài ở vùng Cổ Ống, Cầu Xe, Sốc Lào, rồi họ bắt theo 1 số tín hữu, đập đầu, chôn xuống các giếng trong những nhà chứa mũ cao sụ Mối hận này không bao giờ rửa sạch trong lòng dân đạo Cao Đài".
Ông viết tiếp:
"Vào năm 1947, Việt Minh gởi cán bộ Khu 7 (miền Đông) lên họp với các lãnh tụ tôn giáo và đảng phái quốc gia, trong đó có giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Buổi họp kéo daì từ sáng tới chiều, thì Việt Minh vi phạm cam kết. bất thần xua quân tấn công Tòa thánh. Súng nổ từ phía ngoài rào. 3 gã đại diện quân khu (Việt Minh) run rẩy, nói như muốn khóc:
- Chúng tôi không chủ trương như thế. Các anh xét lại cho !
"Ông Trần Quang Vinh và Nguyễn Văn Thành trấn an họ:
- Các anh đừng sợ. Các anh đến đây, chúng tôi có bổn phận bảo vệ sinh mạng cho các anh.
"Khi ấy Tòa thánh được bố phòng kỹ lưỡng. Tại các ngã đường dẫn vào Tòa thánh, đều có công sự phòng thủ. Người chỉ huy lực lượng phòng thủ khi ấy là Trịnh Minh Thế. Việt Minh tấn công vào cửa chính nhằm lúc đổi phiên gác (6g chiều). Lính gác chưa kịp phản ứng gì. Tức thì 1 bộ phận khác núp trong mé rừng gần đó xông ra con đường lớn vừa chạy vừa bắn vào Tòa thánh. Lợi dụng khi ấy chung quanh Tòa thánh còn nhiều rừng, Việt Minh điều động 1 số quân đến gần. Nhưng số quân ấy được lực lượng phòng thủ bên ngoài của Nguyễn Thành Phương chận lại. Toán đặc công Việt Minh hạ sát toàn lính gác, ồ ạt xung phong qua cổng chính. Mặc dù bị thương, người chỉ huy rút chốt lựu đạn, quăng về phía Việt Minh. Lựu đạn nổ tung, báo động cho các vọng gác tiếp viện và sẵn sàng chiến đấu. Mấy tên tiền phong của Việt Minh ngã gục. Bọn sau chậm lại. Nhờ thế, lính Cao Đài phản công quyết liệt, đẩy lui địch ra ngoài và đóng cổng sắt lại. 1 Trung đội Việt Minh bắn giết và đốt nhà dân cách đó 100 m. Ông Trịnh Minh Thế vừa thổi kèn thúc quân. Nghe tiếng kèn, Việt Minh tưởng có tiếp viện, vội vàng tháo lui, rút vào rừng.
"Sáng hôm sau, nhiều phóng viên báo chí từ Saigon lên Tây Ninh, đã chứng kiến 1 cảnh tàn sát man rợ hãi hùng. Họ nhìn tận mắt đồng bào vô tội bị Việt Minh hạ sát: đàn ông, đàn bà, trẻ con đều bị chém, đâm và bắn trong những chòi lá cháy rụi. Có 1 bà mẹ ôm con nhỏ đã bị bắn chết..." (Thư của nhà văn An Khê, đề ngày 2/2/94).
Một nhân vật quan trọng của Cao Đài Bến Tre là ông Lê Kim Ty. Ông Ty từng hoạt động chống Pháp, bị bắt giam ở Tà Lài mấy năm. Lê Kim Ty hoạt động chung với các ông Dương Văn Giáo, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và vợ là bác sĩ Nguyễn Thị Sương (1910-1945; bác sĩ Nguyễn Thị Sưng là lãnh tụ Thanh Nữ Tiền Phong, bị Việt Minh hạ sát tháng 10/1945), luật sư Huỳnh Văn Phương, Lâm Ngọc Đường. Vào tháng 10/1945, những người này đều bị Việt Minh bắt và hạ sát hoặc trấn nước tại sông Lòng Sông (Mường Mán), Phan Thiết... Tình đồng chí
Tôi (tác giả Hứa Hoành) có dịp đàm đạo với 1 vị cao niên, quen nhau từ hồi ở bên trại ty nạn, mới đây gặp lại trong 1 tiệc cưới. Ông nhận xét về thàn phần dao búa tham gia kháng chiến năm 1945, kể lại những chuyện thật, xin giấu tên:
Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, kêu gọi toàn dân kháng chiến. Chúng tôi, dân gian hồ sống ngoài vòng pháp luật từ lâu, nghĩ rằng đây là dịp đoái công chuộc tội. Hơn nữa, chúng tôi có người còn chút lương tri, muốn ngoi lên ánh sáng làm người lương thiện và làm người yêu nước trong thời loạn. Đó cũng là tâm trạng các tướng cướp khét tiếng như Bảy Viễn, Mười Trí, Thomas Phước (tướng cướp hào hoa nổi tiếng 1 thời ở Saigon). Đầu tiên, chúng tôi xin gia nhập Tự Vệ của Lâm ủy Hành chánh. Nhóm này chia làm 2 phe: 1 phe lo bảo vệ an ninh cá nhân trong Lâm ủy, còn 1 nhóm khác nhận mật linh thi hành các vụ giết người "Việt gian", "phản động". Tôi thuộc nhóm thứ haị Qua mấy tháng nhúng tay vào máu, chúng tôi, có người tỉnh ngộ và đổi thái độ. Một hôm, Trần Văn Giàu họp chúng tôi và nói:
- Cách mạng nào mà không đổ máu ? Chúng ta hãy tiêu diệt bọn "phản động", "Việt gian" với bất cứ giá nào.
Những lời kết tội đó chỉ chung chung, không nói rõ tội trạng một ai. Rồi cứ mỗi tối, chúng tôi lại nhận mật lịnh đi lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu nhiều nhân vật tên tuổi mà Lâm ủy có sẵn tên trong "sổ bìa đen".
Một người trong nhóm chúng tôi thắc mắc:
- Tại sao độc lập rồi mà còn giết nhiều người tài đức, có uy tín ?
Trần Văn Giàu trả lời:
- Cách mạng làm gì có đức ? Ai làm cách mạng mà không giết người ?
Từ trong tiềm thức chúng tôi, hận thù dược khơi dậy, nhiều người say máu, muốn trả thù. Tuy nhiên, cũng có người chùng bước, không nở nhúng tay, nhưng cũng không dám cải lịnh. Chúng tôi lào vào công việc chém giết và được khuyến khích như "nhiệm vụ cách mạng".
Mấy tháng sau chúng tôi tỉnh ngộ. Kẻ còn chút lương tri như bọn tôi, tự động rã ngũ, về thành để bảo vệ mạng sống 1 cách nhục nhả. Có người "đâm lao thì phải theo lao". Lại có người tiếp tục "đánh đu với tinh, đùa giởn với rắn độc", chỉ trong 1 thời gian ngắn, họ "sanh nghề tử nghiệp". Đó là trường hợp của Ba Nhỏ, Hoàng Thọ, Giang Minh Lý và ngay cả Trung tướng Nguyễn Bình. Còn lại những kẻ mù quáng, tiếp tục vay máu đồng bào, cuối cùng cũng bị "hy sinh". Họ chết không phải vì lằn tên mũi đạn của kẻ thù mà chết vì dao găm, mã tấu của "đồng chí" họ như Tưởng Đàn Bảo, Vũ Đức, Sư Muôn..." Sau đây là vài trường hợp thương tâm ấy.
Khi Pháp chiếm lại các công sở trong thành phố Saigon đêm 22 rạng 23/9/45, Ủy ban Hành chánh đã chạy thụt mạng vô Chợ Đệm mấy hôm trước, bỏ lại bọn Tự Vệ (Tự Vệ Cuộc, tức công an Việt Minh), Thanh Niên Xung Phong như rắn mất đầu. Võ khí thô sơ làm sao đương đầu với quân Pháp khí giới tối tân ? Từ chỗ ẩn náo an toàn, Ủy ban Han`h chánh ra lịnh tàn sát bất cứ người da trắng nào họ gặp. Ba Nhỏ, 1 đầu đảng cướp hoàn lương, chỉ huy 1 toán Tự Vệ thành, được lịnh ấy. Nửa đêm 25/9/45, Ba Nhỏ dẫn 1 đám lâu la, đột nhập cư xá He'rault (He'rault City) dành riêng cho gia đình Pháp kiều tại Tân Định, Phú Nhuận tàn sát 1 số đàn bà, trẻ con tại đây Rồi họ bắt theo độ 50 người làm con tin, nhưng rồi cũng giết nốt. Tổng số nạn nhân lên tới khoảng 200 người. Nhiều quân lính Pháp, nóng lòng vì thân nhân bị giết, nên ra đường gặp ai đều bắn bừa bãi để trả thù. Dư luận tức giận, quay lại kết án Việt Minh là bọn mọi rợ. Nổi sùng, mấy ngày kế tiếp, Ba Nhỏ, Tô Ký, Kiều Đắc Thắng, Kiều Tấn Lập của Việt Minh được lịnh lùng sục, bắt bớ, chém giết man rợ. Chỉ trong vòng 1 tháng, có hàng trăm nhân vật tên tuổi, người quốc gia yêu nước đều bị giết.
Cũng như lớp CS đàn anh, Ba Nhỏ xuất thân từ băng du côn Bà Chiểu, Cầu Bông, Thị Nghè; 3 năm cầm đầu dân dao búa, Ba Nhỏ thạo nghề chém giết. Được Lâm ủy Hành chánh trọng dụng, hắn "làm việc cần mẫn". Nạn nhân của hắn không 1 ai sống sót. Vậy mà khi Pháp xua quân chiếm lại Thủ Đức, Ba Nhỏ theo bộ đội kháng chiến rút ra trước tới Biên Hòa. Biên Hòa thất thủ, bộ đội Ba Nhỏ rút về Bà Rịa, Long Thành. Để xoa dịu dư luận bất mãn đối với Việt Minh, Tướng Nguyễn Bình được lịnh dàn dựng tội trạng để xử tử Ba Nhỏ "làm gương" vì tội "vô kỷ luật".
Giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, giặc Pháp thập thò trước cửa, tàu chiến xập xình trên sông Lòng Tảo hàng ngày, mà Việt Minh ngụy tạo tội trạng cho Ba Nhỏ "đã giết người đàn mà mang 2 kg thịt tiếp tế vùng tạm chiếm" để tử hình đồng đội.
Khi Ba Nhỏ bị kêu án, Ba Dương (Ba Dương là lãnh tụ Bình Xuyên trước Bảy Viễn) và đồng đội giang hồ cũ, đều ký tên xin ân xá hoặc giảm án, nhưng Nguyễn Bình được lịnh phải hành quyết tức khắc. Quá ức vì biết mình bị làm con vật hy sinh, Ba Nhỏ liều giựt cây súng lục của đội hành quyết định tự sát cho rõ khí phách 1 tay anh chị, nhưng toán hành quyết giựt lại và bắn Ba Nhỏ chết liền tại chỗ.
Kiều Đắc Thắng là 1 tên du thủ du thực, từ miền Trung lưu lạc vào Nam trước năm 1945. Thắng làm đủ nghề từ phu đồn điền, khuân vác, thợ hớt tóc. Kiều Đắc Thắng ăn cướp bị bắt giam vào khám ở Vũng Tàu. Ở đây, Thắng cùng 1 bạn đồng tù tên Năm Bé móc nối với 1 tên coi ngục để vượt ngục. Lúc đó đúng vào cơ hội Việt Minh cướp chính quyền, Thắng xin làm Tự Vệ. Từ Tiểu đội trưởng Quốc Gia Tự Vệ Cuộc (công an Việt Minh), Kiều Đắc Thắng lên lên chức quyền Giám đốc công an các tỉnh miền Đông chỉ hơn 1 năm, nhờ khả năng bắt cóc và ám sát. Những ai bị Lâm ủy Hành chánh kết tội "Việt gian, phản động", Thắng hạ sát không gớm tay Nạn nhân của Thắng dài sọc. Ông Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng ám sát tại quê nhà Bún, Lái Thiêu, tháng 10/1945. Về sau, thấy Thắng có quyền hành quá lớn, muốn qua mặt Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn, nên Tướng Nguyễn Bình "gởi Thắng ra gặp bác Hồ". Có nguồn tin nói rằng Hồ Chí Minh cho Thắng gặp mặt, phủ dụ mấy câu theo công thức, rồi đổi tên Thắng là Vũ Tùy Nhàn để khỏi mang tiếng. Tuy nhiên, trên đường về Nam, Kiều Đắc Thắng chết 1 cách mờ ám.
Một nhân vật độc đáo khác cũng xuất thân từ giới gian hồ, đánh giặc rất gan lỳ, đó là Hoàng Thọ. Hoàng Thọ là người Hải Phòng cũng do lò ba búa đào tạo, lưu lạc vô Nam từ năm 1939. Thọ có thân hình cao lớn, khá điển trai, râu quai nón. Khá hơn những tên trước, Thọ từng làm thợ máy quấn dây điện. Khi Nhật đảo chánh Pháp (3/1945), Thọ theo Nhật làm lính hải quân, nên được gọi là "Thọ Mạch lô". Việt Minh nắm chính quyền mở ra cho Thọ 1 con đường mênh mông vì hợp khả năng. Khi Tướng Nguyễn Bình vào Nam, nghe tiếng Thọ, lại người cùng quê, nên Nguyễn Bình chọn bộ đội Thọ để bảo vệ cho mình. Mộ năm sau, bộ đội của Hoàng Thọ được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ, đánh nhiều trận tiếng tăm lừng lẫy. Địa bàn hoạt động của Thọ là vùng Gò Dầu, Trãng Bàng, Tây Ninh. Tuân lịnh Việt Minh, Thọ từng gây nhiều tội ác đối với giáo phái Cao Đài. Những người quen biết với Hoàng Thọ có kể lại rằng, mỗi lần phục kích, Thọ chọn hướng gần mé sông. Binh sĩ chỉ có tiến chớ kho^g có lùi. Khi Nguyễn Bình chính quy hóa quân đội kháng chiến, bộ đội Hoàng Thọ trở thành Tiểu đoàn 303. Đó là đơn vị chủ lực của Quân khu 7. Nguyễn Bình gài 1 tên CS, tên Kính, vào làm chính trị viên thì Tiểu đoàn 303 bắt đầu chia rẽ nội bộ và trở nên suy yếu. Có lần Hoàng Thọ bắt gặp 1 số bộ đội sinh hoạt riêng rẽ, bí mật. Khi Thọ điểm danh, thì vắng mặt. Lúc đó, tên chính trị viên Kính cố thuyết phục, rùn ép, dụ dỗ Thọ vô đảng CS. Bất mãn, Thọ bỏ đi, rồi cạo đầu để phản đối. Lúc trở về, Thọ thấy vật dụng cá nhân đều bị lục soát, anh ta bực tức không dằn được:
- ĐM. Hoàng Thọ này đi kháng chiến vì dân vì nước, đâu có ngờ ngày nay có đảng này đảng nọ. Đem mà bắn cha nó cái đảng CS cho rồi !
Sau đó, Thọ bị kiểm điểm, phê bình và thế là 1 bản án tử hình bí mật đã định sẵn. Tháng sau, Tướng Nguyễn Bình "giới thiệu" Hoàng Thọ ra Bắc "gặp bác Hồ". Biết rõ âm mưu của Việt Minh định giết mình, Hoàng Thọ đi vài chặng, rồi đổi ý quay về Mỹ An mở quán lá bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp trong Đồng Tháp Mười làm sinh kế. Hoàng Thọ có tiền, tiếp đãi bạn cũ có dịp công tác đi ngang qua đó rất hậu chẳng khác gì Mạnh thường quân.
Đầu năm 1950, văn phòng Trung tướng Nguyễn Bình dời về Cá Lóc, quận Long Mỹ. Bị Tây phát giác, họ chuyển đến Ông Dèo, ấp Cầu Đúc, quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá. Trong 1 đêm tối trời, Hoàng Thọ bị bắt, đem đi hành quyết tại 1 địa điểm gân Cạnh Đền. Bọn sát nhân đập đầu Hoàng Thọ như đập đầu con cá lóc. Trước khi chết, Thọ rống như bò và chửi rủa Việt Minh thậm tệ.
Cùng thời gian đó, ông Giang Minh Lý bị giết rất dã man. Lý con nhà đại điền chủ bỏ theo kháng chiến, lập nhiều công trạng, làm chính trị viên 1 đại đội đóng ở Cần Thợ Lý bị rùn ép, đe dọa phải vào đảng CS và phục tùng mệnh lệnh của họ. Lý từ chối nên bị nghi ngờ, theo dõi. Lý bất mãn ra mặt. Có lần Lý tuột quần, chỉ vào con c. và điểm mặt Hoàng Dư Khương, Chính ủy Khu 9, nói:
- Tao sợ mày cái con c. tao nè !
Mấy hôm sau, Lý bị bắt đem đi hành quyết tại Cạnh Đền. CS căng 2 tay ông ra, rồi dùng dao găm đâm túi bụi vào mắt, vào tim...
Sau đây là 1 vụ hành quyết tập thể các "đồng chí" của mình (Việt Minh) mà tác giả Dương Đình Lôi có thấy hoặc nghe kể lại trực tiếp (qua 1 bức thơ ông Dương Đình Lôi gởi riêng cho tác giả Hứa Hoành):
...Tất cả độ 20 người thuộc bộ chỉ huy, tham mưu và hậu cần, chính trị của Tiểu đoàn 300 Dương Văn Dương, có cả Trương Văn Phụng và anh Tám Sơn đều bị trói thúc ké, đem xuống bờ biển Đông Hòa, rồi chặt đầu hết. Trong số nạn nhân có Bảy Nghiệp, nguyên Chi đội trưởng Chi đội 21 từ nhóm Bình Xuyên qua, phụ trách đảng vụ của Trung đoàn và chị Hai Sương được "hưởng ân huệ" khi xử tử. Đó là dùng súng bắn vào đầu thay vì bị chăt đầu.
Về cái chết của chị Hai Sương, ông Dương Đình Lôi không chứng kiến, nhưng được nghe chính người hành quyết kể lại:
Tôi nghe anh Năm Triệu, Đại đội trưởng chỉ huy cuộc hành quyết đó về vă phòng trung ương báo cáo lại. Năm Triệu gốc lính Nhật, to lớn con, mang gươm dài chấm đất. Năm Triệu kể:
"Tao thấy con Sương rụng rời tay chân. Tới phiên nó, nó xin đi đái. Tới lúc nó đứng dậy sau bụi cây mưạ Nó lột trần truồng dưới ánh trăng lờ mờ, làm tao trân trối nhìn nó chậm rãi đi trước miệng hố. Tao biết tội nó chỉ là liên lạc đưa thơ về Saigon mà sao họ cũng giết đành đoạn ? Khi tới gần tao, nó nói:
- Anh Năm ! Em muốn hiến cho anh rồi em chết.
"Tao bàng hoàng định tha cho con nhỏ. Nhưng thằng mắc dịch Bảy Mầu đi tới (Bảy Mầu cũng là Đại đội trưởng, chồng chị Dưỡng, rễ của Ba Dương, bị Tướng Nguyễn Bình sai Từ Văn Ri ám sát chết ở Bến Tre). Thằng Mầu nó bảo:
- Bộ hỏng mạnh dạn xuống gươm hả ? Để tao tặng cho em viên đạn.
"Thế là kết liễu 1 đời hồng nhan bạc phận. Chị Sương là 1 người đẹp nhất của Trung đoàn, con nhà giàu, học sinh ở Saigon, bỏ theo kháng chiến và rước lấy cái chết thê thảm.
"Những người bị chặt đầu, chôn, hoặc thả trôi sông Lòng Tảo hôm ấy tôi được biết gồm có:
- Hai Điều, Trưởng ban quản trị, bị bắt ở An Thành.
- Tám Son, Trưởng văn phòng Trung đoàn.
- Bảy Nghiệp, Tiểu đoàn trưởng, Trưởng ban đảng vụ. >BR>- Năm Son, Trưởng ban quân nhụ
- Bác sĩ Năm Ngà, Trưởng bịnh xá Trung đoàn.
- Chị Sương, 1 thiếu nữ xinh đẹp, thuộc ban quân báo Trung đoàn.
- Chín Lá, Trưởng đài vô tuyến điện. Sau đây là chuyện của Sư Muôn.
Sư Muôn là 1 nhà tu mang nhiều tai tiếng xấu, báo chi phanh phui những hành động lem nhem với phụ nữ. Lý lịch sư Muôn cũng ít người biết, nhưng nhắc tới sư Muôn, những người lớn tuổi ở miền Tây không ai không nghe tiếng. Tôi (Hứa Hoành) may mắn được ông Xuân Tước và 1 vị cao niên khác chỉ dẫn nhiều chi tiêt.
Hồi những năm từ 1936-1939, sư Muôn có chùa ở quận Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá. Sát bên chùa có 1 cái am nhỏ, nơi đây những phụ nữ, những bà hiếm muộn muốn cầu tự, thường tìm đến sư Muôn để nhờ làm phép và nhiều người mãn nguyện. Nhờ vậy tiếng ông đồn rất xa.
Sư Muôn tên thật là Nguyễn Kim Muôn, người ở Gia Định, trước làm công chức Sở hỏa xạ. Luc đó, ông có mướn căn phố tại đường Hamelin (Hồ Văn Ngà sau này). Ông xuất tiền và lạc quyên thêm để cất ngôi chùa Long Vân Tự tại đường Hàng Xanh, Thị Nghè. Bây giờ Long Vân Tự vẫn còn. Trong khi tu, sư Muôn có nhiều chuyện bất chánh với phụ nữ khiến dân chúng căm phẫn. Ông bỏ chùa xuống Giồng Riềng, Rạch Giá, tiếp tục lập chùa, lừa gạt phụ nữ hiếm muộn. Báo chí Saigon đã tố cáo ông thậm tệ.
Đầu năm 1946, Pháp chiếm trọn các tỉnh miền Nam. Hết đất dụng võ, nhóm CS đầu não của Khu 9 gồm Tỉnh ủy Nghiêm Cai Cơ, Bí thư Tỉnh ủy Dương Quang Đông (tức Năm Đông), Phan Trọng Tuệ, Lâm Ngọc Minh phải bôn đào ra Phú Quốc. Sẵn thấy chùa sư Muôn có cơm gạo do bá tánh dâng cúng, nên bọn này ghé ăn dầm nằm dề tại chùa để ăn chực. Để lợi dụng sư Muôn, họ bèn phong cho ông làm "Ủy viên Xã hội" bằng miệng. Năm 1948, CS bao vây chùa bắt sư Muôn đem giết ven mé rừng, giữa Dương Đông và Hàm Ninh. Phong trào "Thổ dậy" ở miền Nam vào năm 1945
Miền Nam là đất cũ của Chân Lạp, tức lãnh thổ Miên (sau khi Chân Lạp bị suy tàn). Dân Nam Kỳ gọi người Miên là "Thổ". "Thổ dậy" là phong trào những người Miên trả thù (cáp Duồng) giết người Việt. Trong thời Pháp thuộc, người Miên, người Việt sống đề huề, thuận hòa với nhau trong gần 1 thế kỷ. Bình thường, bản tính người Miên rất hiền lành. Họ ăn uống cực khổ (thường ăn mắm) làm việc nặng nhọc như chèo ghe, vác lúa... Người Miên theo Phật giáo Tiểu thừa. Tuy nhiên, bị khích động, họ thịnh nộ, giết người dã man.
Sau khi cướp chính quyền ở Cà Mau (lúc đó là 1 quận), Ủy ban Hành chánh quận này đã giết hàng loạt thường dân và các nhà sư Miên 1 cách dã man. Thừa gió bẻ măng, khi Pháp ruồng bố tới, Thổ nhứt tề nổi lên theo Pháp để trả thù người Việt, gặp ai giết nấy. Võ khí của họ là chiếc phảng phát cỏ, kèo ngay, xử dụng như mã tấu. Những ai từng sống ở Hậu Giang vào các năm ấy, chắc không khỏi hãi hùng vì những tin "Thổ dậy". Thảm cảnh đó do 1 tnhóm Việt Minh CS khơi nguồn, nhưng nhiều người dân vô tội sau đó đã trở thành nạn nhân.
Chứng kiến cuộc hành quyết dã man , ông Văn Nguyên Dưỡng , trong hồi ký "Tết Chạy Giặc Sau Mùa Thu Nhiễu Nhương", đã thuật lại cuộc giết các thường dân và sư sải Miên ở Cà Mau năm 1945 như sau:
"...Rồi không lâu, sau ngày "Mừng độc lập", cuộc tao loạn bắt đầu. Ngoài danh từ mới "Việt Minh" được biết vào ngày đó, tôi còn biết thêm 1 danh từ nữa là "Việt gian". Dân chúng, ai cũng sợ danh từ ấy. Ai cũng có thể bị kết tội là Việt gian với những chứng cớ mơ hồ, hay những việc làm trong dĩ vãng, rồi đem ra bắn hoặc cho "mò tôm". Người đầu tiên bị xử bắn dưới dạ Cầu Quay bên kia sông là cậu Bảy Mầu, "ông Cò Cà Mau". Mắt tôi mở rộng thêm khi biết rằng "có độc lập rồi" mà Việt Minh vẫn đem người ra xử bắn hàng loạt. Nhứt là các sư sãi ngươi Miên bị lôi từ trong chùa Miên ra, hoặc bị bắt ở đâu đó trong quận.
"Cách xử tử quá dã man: Họ trói tay hay bịt mắt bắn hoặc chặt đầu. Cho rằng các sư Miên có "cà tha" (bùa), có ngải, súng đạn không lủng, chém không đứt, Việt Minh nghĩ ra các xử tử bằng tầm vông vạt nhọn, đâm vào hậu môn rồi thả trôi sông. Xử tập thể trước mắt công chúng, trông thật khủng khiếp.
"Cầu tàu dưới bến, nơi họp lưu của sông Cà May và kinh xáng Đội Cường, thường là nơi diễn ra cuộc hành quyết đó. Mỗi lần như vậy, dân chúng tò mò kéo nhau đi coi rất đông. Hàng loạt sư sãi Miên bị cột chặt vào 3 đòn tre cứng, dài, mỗi người cách nhau 1 bước, thành 1 hàng ngang, xoay mặt ra phía sông. Quần bị lột bỏ. Đòn tre thứ nhứt đặt trên cổ, sau ót hàng người bị xử tử. Đòn tre thứ hai đặt ngang thắt lưng. 2 tay mỗi nạn nhân bị trói thúc ké, bẻ quặc ra sau lưng, buộc chặt vào đòn. Đòn tre thứ ba đặt ngang mắt cá, phía trước hàng chân dạng ra của họ. 1 đoạn dây buộc vào cổ mỗi người dính vào đòn tre thứ nhứt, kéo thẳng xuống buộc 2 chân họ vào đòn tre thứ bạ 6 du kích khoẻ mạnh giữ cứng 6 đầu của 3 đòn tre, kèm cho hàng người tù tội đứng ở thế cúi người xuống, chổng mông hướng vào mép trong cầu tàu.
"Ở mép trong cầu tàu, đã có sẵn 1 đội du kích bằng với số tử tội, đứng sắp hàng ngang, tay giữ tầm vong vạt nhọn đầu, dựng ngọn lên trời, chờ đợi.
"Đến giờ xử, có lịnh hành quyết do 1 người chỉ huy phất lên. Những tên du kích này hạ tầm vông ngang thắt lưng, chỉa mủi nhọn ra trước mặt, cùng 1 lượt chạy nhanh ra mép cầu, dùng hết sức mạnh, đâm thẳng mũi nhọn vào hậu môn của mỗi tử tội, đẩy cả hàng tù tội này xuống sông và buông luôn cả cây tầm vông....
"Cách xử như vậy là xong. Bọn du kích Việt Minh bình thản kéo nhau ra về mang đầy máu me của những người bị xử phọt ra. Chúng bỏ cho những người đi coi mặc tình tràn ra cầu tàu nhìn xuống nước, xem những người này sống chết ra sao. Dĩ nhiên không 1 ai sống sót. Nếu họ không chết vì vết đâm thấu ruột gan, thì cũng chêt vì ngộp nước không lâu sau đó. Những cán tầm vông sẽ chổng lên trời hoặc ngã nghiêng xiêng xọ, rồi những đàn diều, quạ, kên kên lượn vòng khu vực đó. Vài con đậu trên cán tầm vông. Năm bảy con chúi xuống rỉa thịt xác chết. Cả 1 vùng nồng nặc hôi thúi, gieo sự kinh hoàng tột đỉnh cho mọi người.
"Người dân lành trong quận đã bắt đầu câm nín. Cuộc sống của họ bị đe dọa và bị ám ảnh bởi những cuôc hành quyết man rợ...".
Hứa Hoành
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 13, 2011 3:37:24 GMT 9
Đức thầy Huỳnh Phú Sổ và món nợ chưa trả của Việt Minh
Nguyễn Văn Lục Sắp sửa đến ngày lễ giỗ Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa Hảo. Người viết bài này muốn tháo gỡ một phần bức màn bí mật bao trùm chung quanh cái chết của vị lãnh đạo Phật giáo Hoà Hảo cách đây hơn 60 năm bị Việt Minh bắt ngày 16-4-1947. Năm sinh và ngày mất đều không được chính xác. Trước tiên nên biết như một niềm hãnh diện và tự hào rằng Phật giáo Hòa Hảo cũng như đạo Cao Đài mang tính chất bản địa đặc sản của vùng đất mới trong công cuộc Nam tiến do những nhu cầu địa phương đẻ ra. Nó cùng một mô thức hình thành như Bửu Sơn Kỳ Hương hay Ông Đạo Dừa. Về đạo Cao Đài Đạo Cao Đài là sản phẩm pha trộn giữa những yếu tố văn hóa, xã hội, tôn giáo, chính trị và quân sự. Đạo Cao Đài xuất hiện ở Sài gòn năm 1926 là biểu trượng cho sự tổng hợp đạo Khổng, đạo Lão và Phật giáo cộng với Ky tô giáo. Nó là một hiện tượng thuần túy Nam Kỳ đáp lại những nhu cầu tinh thần bản địa về địa lý-chính trị. Chính cái tinh thần bản địa là điểm tựa cho sự lớn lên và kiên trì tồn tại của hai tôn giáo này khi phải đương đầu với các thế lực chính trị như người Pháp và nhất là Việt Minh. Louis Marty, trùm mật thám đã viết, Le Cao Dai, volume 6, 1926-1934, contribution à l’histoire des mouvements politiques de L’Indochine, Louis Mary, direction des affaires politiques et de la sureté générale. Nội dung cuốn sách của Louis Marty, ông coi đạo Cao Đài cũng như Hoa Hảo là một phong trào chính trị hơn là một tôn giáo. Đó là tính chất đặc thù nhất của hai đạo này. Về Hòa Hảo (1919-1947) Nguồn: OntheNet -------------------------------------------------------------------------------- Phật giáo Hòa Hảo xuất phát từ làng Hòa Hảo, thuộc tỉnh Châu Đốc, một tỉnh Biên giới Việt Miên vì thế lấy địa danh đó đặt tên cho đạo. Căn bản là đạo Phật, nhưng là Phật giáo cải biên và thoát xác từ làng Hòa Hảo mang tính chất cá biệt bản địa. Chính từ nơi hẻo lánh, xa xôi này dựng lên ngọn cờ tôn giáo. Một tôn giáo đã được canh tân, rũ bỏ được tính cách nghi thức phiền đa không thích hợp với dân tình, canh tân trong việc đơn giản hóa, phù hợp với thực tế địa phượng. Và nhờ đó thu phục được khoảng 2 triệu tín đồ vào thời điểm đó, một thành công kinh ngạc, ngoài sức tưởng tượng. Hai triệu tín đồ đó chẳng những là một sức mạnh tinh thần mà còn là sức mạnh võ trang bảo vệ an ninh cho người dân vùng lục châu học chạy dài tản mát trên một số tỉnh miền Tây. Xin trích dẫn một đoạn trong Ban Biên Tập truyền thống Tây Nam Bộ viết về Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và đạo hữu theo cách diễn giải của Việt Minh trong những ngày lịch sử đen tối của Châu Đốc đưới gọng kìm Việt Minh cộng sản như sau: “Ngày 5-9-1945, bộ tham mưu của Huỳnh Phú Sổ vạch kế hoạch cướp chính quyền ở thị xã Cần Thơ… huy động tín đồ mang theo cây roi, gậy gộc “đi rước đức Giáo chủ,” nhưng thực chất dùng lực lượng đông đảo tín đồ để cướp chính quyền tỉnh dự định vào ngày 9-9-1945. Các lực lượng vũ trang của chúng ở các tỉnh phía Bắc sông Hậu, tập trung tại Tổng Hành dinh Cái Vồn. Số tín đồ phía Nam sông Hậu thì tập trung sớm ở thị xã Cần Thơ. Ngày 7-9-1945, Tỉnh ủy Cần Thơ đã nắm được kế hoạch này. Ta chủ trương kiên quyết trấn áp bọn phản động đầu sỏ, còn đối với tín đồ thì giáo dục, thuyết phục, làm chọ thấy được âm mưu và hành động của bọn cầm đầu phản động. Chúng đã dự định huy động 15.000 tín đồ tiến vào thị xã Cần Thơ ngày 9-9, nhưng chúng thất bại. Lực lượng vũ trang của chúng ở Cái Vồn đã bị ta đánh tan khi chúng dự định vượt sông Hậu sang thị xã Cần Thơ. Ta bắt Nguyễn Xuân Tiếp (bút hiệu Việt Châu), người chuyên thảo kịch sấm cho Huỳnh Phú Sổ,Trần Văn Hoành (con của Năm Lửa), Huỳnh Phú Mậu (em của Huỳnh Phú Sổ). (…) Cuộc bạo động ở Phụng Hiệp, Ô Môn cũng bị dẹp tan. Qua những ngày điều tra, thành lập tòa án nhân dân (nhiều thành phần). Tòa tuyên án tử hình: Huỳnh Phú Mậu, Trần Văn Hoành, Nguyễn “văn” Thiệp. Chưa kể 3 người chết và 27 người bị thương, không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối. (Lớn lên với đất nước, Vy Thanh, trang 417) Đã bao nhiêu người Phật giáo Hòa Hảo đã bị thảm sát dưới tay Việt Minh? Thật sự không có con số chính thức, chỉ là dự đoán có thể lên đến 10 ngàn người trải dài trong suốt hai cuộc chiến! Người Pháp tuy có lo sợ uy tín của Huỳnh Phú Sổ cũng đưa ông giam ở Cần Thơ, rồi sợ dân chúng thăm hỏi, họ đưa ông đi an trí ở nhà thương Chợ Quán là cùng. Nhưng dười tay Việt Minh thì họ tìm cách thủ tiêu các lãnh đạo giáo phái và lãnh tụ Quốc gia. Lần lượt họ bị ám sát, không mấy người thoát khỏi Những cha ông của người dân vùng đất mới thuộc giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã bị coi là những tên phản động và đã bị người cộng sản giết cách đây hơn nửa thế kỷ. Và ngày hôm nay, có điều gì khác biệt với trước đây? Hay cảnh cũ lại đang tái diễn? Xin giới trẻ suy nghĩ để phòng thân. Trích dẫn đoạn tài liệu này có mục đích để kính gửi đến ông Lê Quang Liêm, 92 tuổi, thuộc Giáo Hội Trung ương Phật giáo thuần túy qua lời Hiệu triệu số 75/TB/TƯvà đến 7 triệu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong nước cũng như ngoài nước. 7 triệu người nếu đồng một lòng thì đó là sức mạnh bão táp lấy gì cản nổi? Và nếu nhân lên 10 lần thì đó là một cuộc cách mạng nhân dân - không lãnh tụ- không bạo lực- chỉ có vũ khí là lòng yêu nước! Và đặc biệt phần trích dẫn như một lời cảnh báo nỗi hiểm nguy cộng sản vẫn tồn tại đến gửi đến “phong trào tuổi trẻ yêu nước”. Mong mỏi rằng các em bảo trọng. Đồng thời gửi đến Tổng đoàn trưởng và các đoàn trưởng tỉnh An Giang, đoàn trưởng tỉnh Đồng Tháp, đoàn trưởng tỉnh Hậu Giang và TP Cần Thơ, đoàn trưởng tỉnh Vĩnh Long, đoàn trưởng tỉnh Kiên Giang, đoàn trưởng tỉnh Sóc Trăng. Cách đây 45 năm, người viết đã có dịp diện kiến những cô thôn nữ, mặc quần áo chẽn bà ba, vai đeo súng của Phật giáo Hòa Hảo để giữ an ninh làng xóm thời đệ nhị cộng hòa. Hình ảnh ấy gợi đến hình ảnh các thanh thiếu nữ thuộc giáo hội Phật giáo Hòa Hảo bây giờ giữ được truyền thống cha ông mình. Chỉ có một điều khác biệt là các thanh thiếu nữ bây giờ vai không đeo súng mà chỉ có một nguyện vọng duy nhất: đòi hỏi được yêu nước Vận số Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ Sự khác biệt giữa Phật giáo và Phật giáo Hòa Hảo có thể là khác biệt về lối sống đạo, lối dấn thân vào đời, lối tranh đấu, nghiêng về chính trị và quân sự. Họ vừa là Phật tử vừa là một chiến sĩ. Hãy ghi nhớ điều này. Thầy Huỳnh Phú Sổ khi vừa 19 tuổi, vào năm 1939 đã chính thức khai sinh ra đạo bằng những phương thức kệ giảng có tính cách tiên tri về thời cuộc đồng thời thực hành cứu đời như chữa bệnh bằng phương thức riêng đậm nét siêu phàm. Cái cách rao giảng ấy, cách hành xử ấy thích hợp cho một thời kỳ nhất định. Thầy Huỳnh Phú Sổ nằm trong danh sách Mặt trận Quốc Gia Liên hiệp, nhóm họp ngày 20-4-1946, tại Bà Quẹo, dưới quyền chủ tọa của ông Phạm Thiều. Đứng đầu danh sách là: - Huỳnh Phú Sổ, chưởng giáo Phật giáo Hòa Hảo - Trần Văn Lắm, Quốc dân đảng - Lê Văn Tý, đại diện Cao Đài - Lâm Văn Hậu, chủ tịch Tịnh Độ cư sĩ, Mai Thọ Trấn, thay mặt Hà Huy Giáp, đại diện kỳ bộ Việt Minh - Phạm Đình Công, thay mặt Nguyễn Bình, khu trưởng khu 7 - Tướng Huỳnh Văn Trí, đại diện Bình Xuyên, Phạm Huy Đức, chỉ huy Vệ quốc đoàn - Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn, lãnh tụ VN Quốc gia độc lập - Nguyễn Văn Nhân, đại diện Huỳnh Long đảng - Linh mục Nguyễn Bá Sang, đại diện công giáo Mặt trận này đặt trụ sở ở đường Léon Combes và mỗi đêm đều có nhóm họp. Sau đó Việt Minh đã cài Nguyễn Bình và chính tướng Nguyễn Bình đã thủ tiêu ở mặt trận! Khi Phan Văn Hùm (nhóm Tranh đấu) có ý định đi liên lạc với Việt Minh để tiếp xúc làm việc chung, Huỳnh Phú Sổ thản nhiên cười và nói nửa chơi nửa thiệt: “.. thì Việt Minh có đâu đây, chớ cần gì đi kiếm. Té ra có Trần Văn Giàu, đứng trong hàng ngũ đảng Quốc Gia độc lập mà không ai ngờ Giàu là đại biểu Việt Minh ở Nam Bộ. Và mọi người đều biết rõ dĩ vãng của Trần Văn Giàu. Mặc dù Giàu tuyên bố ”tôi bỏ hàng ngũ cộng sản để về với Quốc gia”. Và cũng chính giáo chủ Huỳnh Phủ Sổ đã trực tiếp tố cáo Trần Văn Giàu trong các phiên nhóm. Huỳnh Phú Sổ tố cáo, “Tôi có đủ tài liệu chứng minh rằng Trần Văn Giàu đã thông đồng với Pháp.” Cho nên trong nhiều phiên nhóm, Huỳnh Phú Sổ thường gay gắt hỏi, “ Ai Việt Minh thiệt? Ai Việt Minh giả? Và ai là Việt gian?” Trần Văn Giàu, chủ tịch Lâm Ủy hành chánh rơi mặt nạ trong những phiên nhóm này, nên về sau, Huỳnh Phú Sổ bị thủ tiêu, không ai lấy làm lạ nữa! (Trích Hồi ký 1925-1945, Nguyễn Kỳ Nam, từ 27-29) Cộng sản! Họ đổi chiến lược, họ thay tên đổi họ. Họ gài người và gạt gẫm đồng bào cả nước tùy mỗi giai đoạn. Xin hãy cảnh giác. Thật sự cảnh giác để khỏi rơi vào bẫy họ giăng ra. Cũng xin ghi lại cuộc nói chuyện giữa ký giả Nam Đình và Tạ Thu Thâu nói về Huỳnh Phú Sổ trước khi Tạ Thu Thâu lên đường ra Bắc, lúc về lại có ghé Quảng Ngãi và bị Việt Minh ám sát ở đó. Tạ Thu Thâu cũng ghi lại một vài kỷ niệm về con người Huỳnh Phú Sổ như sau do Nguyễn Kỳ Nam, tức Nam Đình ghi lại: -Anh có nghe nói Phật giáo Hòa Hảo chớ? - Trước khi lên đường, tôi có ghé lại biệt thự ở đường Miche thăm ông Huỳnh Phú Sổ. Thâu gật đầu nói: -Ông Huỳnh Phú Sổ còn nhỏ mà rất thông minh. -Phải. Tôi có nghe ông đọc qua rất nhiều bài thơ có giá trị lắm. (độc giả có thể vào Web Phật giáo Hòa Hảo để đọc những bài thơ này). - Anh có nghe ông kể chuyện về mái tóc của ông không. - Có - Đó là tóc của hùynh Phú Sổ . Trước kia ông để tóc dài . Không biết ông “xuống” tóc hồi nào mà khi tôi hân hạnh được ông tiếp, ông lấy ra cho tôi coi một gói tóc, ngoài bọc giấy mỏng. Ông nói: - Đây không biết tại sao mà gói tóc tôi cuộn lại, thành một con rồng . Tôi nhìn kỹ.. Quả thật hình một con rồng có đầu, có đuôi trông rất đẹp. Đó là tự nhiên. Vì không bao giờ tay người ta có thể sắp mớ tóc thành hình con rồng được .. Thâu cũng nói : Đó là một việc lạ. Tôi thừa dịp hỏi Thâu: - Về Phật giáo Hòa Hảo, anh có ý kiến gì không? - Thâu đáp: - Một lực lượng đáng kể. Để coi .. . - Tôi không biết Thâu nói vậy là có ý gì. Nhưng lúc bấy giờ, đầu óc tôi đang nghĩ về việc ra Huế, nên nói sang chuyện khác. (Trích Hồi ký 1925-1964, Ký giả Nguyễn Kỳ Nam, trang 39) Nói về cái chết của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thì Việt Minh cộng sản đều đổ cho trách nhiệm sai lầm địa phương. Đó là luận điệu của Trần Văn Giàu trong các vụ án Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm cũng như vụ giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. Sergei Blagov, giáo sư người Nga chuyên khảo cứu về Á Châu, tác giả các cuốn sách Honest Mistakes: The Life and Death of Trinh Minh The (1922-1955), South Vietnam’s Alternative Leader và dịch giả cuốn Hoa Hao Buddhism in the course of Viet Nam History của Nguyễn Long Thành Nam đã có dịp phỏng vấn Trần Văn Giàu; ông Giàu đổ cho là trách nhiệm địa phương. Chỉ có một điều chắc chắn là giáo chủ Huỳnh Phú Sổ bị bắt ở kênh Đốc Vàng Hạ, Kiến Phong (1). Ông Đã bị Việt Minh bắt và kể từ đấy, không ai được biết số phận ông ra sao (2). Chắc là bị thủ tiêu rồi mất tích. Nay là lúc yêu cầu cộng sản Hà Nội trả lời về vụ mất tích này và hàng ngàn vụ khác. Kể cũng chưa lấy gì làm muộn.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 13, 2011 3:44:02 GMT 9
Thánh Địa Hòa HảoUyển Mai – Tháng 2 vừa qua Đạo Tràng Phật Giáo Hòa Hảo Minh Thiện và Huệ Thọ tại quận Ô Môn, TP Cần Thơ cho biết họ bị chính quyền điạ phương sách nhiễu. Khoảng 90 công an và Thượng tá Bùi Đức Hồng đã tới đạo tràng đòi các tu sĩ mở cổng. Tín hữu Đặng Văn Nhàn ôm can xăng 20 lít chế từ trên đầu xuống hết phân nửa, sau đó tu sĩ Huệ Thọ cầm nửa can xăng còn lại, nói: “Anh Hồng ơi, đừng xúi lực lượng công an tràn vào, vì mấy anh kia vô tội, còn anh là người chỉ đạo. Anh có ngon thì vô đây, còn can xăng này tôi với anh ‘cưa hai’. Anh nhiệt tâm về Đảng, tôi nhiệt tâm về Đạo, hai anh em mình cưa hai”. Cuối cùng, Thượng tá Hồng và toán công an phải bỏ đi (1).
Từ khi chiếm được miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản không ngừng khống chế giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo bằng nhiều thủ đoạn như kiểm soát thánh lễ, cắt bỏ thánh huấn cổ truyền, đàn áp bắt bớ tín đồ, thành lập giáo hội quốc doanh, và mưu toan phá đi An Hòa Tự, thánh tích của PGHH tại tỉnh An Giang. Nếp sống thanh bình yên ả của những tín đồ PGHH bị xáo trộn và tàn phá từ 1975 cho tới tận nay(2).
Để thấy lại cảnh sống nền nếp hiền hòa của miền đồng bằng sông Cửu với những tín đồ PGHH chất phác nhưng đầy lòng can đảm, mời bạn đọc ngược dòng thời gian thăm Chợ Mới, An Giang, qua ngòi bút của tác giả Phan Lạc Tiếp.
Vài hàng về Phan Lạc Tiếp - Phan Lạc Tiếp sinh năm 1933 tại Sơn Tây, là một cựu sĩ quan Hải Quân VNCH. Ông từng giữ chức vụ Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến BTL/HQ và Hạm Trưởng tàu HQ-601. Sau đó được Tư lệnh HQ giữ lại Sài Gòn “để cho tiện, khi cần viết lách gì…” nên về Khối Thanh Tra. Ðêm 29, rạng ngày 30 /4/ 1975, ông đã hỗ trợ vị Hạm Trưởng chiến hạm HQ-502 rời bến, đem theo trên 5 ngàn đồng bào thoát được ra khơi (3).
Cuối năm 1979, khi làn sóng người vượt biển lên cao và thảm nạn thuyền nhân trở nên khủng khiếp nhất, Phan Lạc Tiếp đã cùng Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương thành lập Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People SOS Committee). Liên tục trong 11 năm hoạt động, Ủy Ban đã hợp tác với những tổ chức nhân đạo thế giới, đem tàu ra biển Ðông, cứu vớt hơn 3 ngàn thuyền nhân, và xin định cư cho hàng ngàn đồng bào tại các quốc gia đệ tam.
“Thánh Địa Hòa Hảo-Miền đất hứa” nằm trong tập bút ký “Bờ Sông Lá Mục” do nhà Xuất Bản Hồng Đức in lần thứ nhất năm 1969 (Saigon). Nhà xuất bản Kẻ Nủa in lần hai năm 1997 (San Diego). An Hòa Tự - Thánh tích của Phật Giáo Hòa HảoNguồn: hoahao.org -------------------------------------------------------------------------------- © DCVOnline Thánh Địa Hòa Hảo-Miền đất hứa Phan Lạc Tiếp Rời quận Chợ Mới để đến công tác tại Thánh Địa Hòa Hảo, lòng tôi vẫn còn phân vân. Biết đâu ông Quận Chợ Mới chẳng nói quá đi như thế. Mình cứ nên cẩn thận là hơn. Tàu đến vào buổi chiều. Giòng sông mênh mông. Tôi đứng trên đài chỉ huy, lấy ống nhòm nhìn sang hai bên bờ. Nhà cửa thưa thớt nhưng thật khang trang. Độ một vài ba trăm thước, lại có một cái nhà nhỏ ở ven sông, có tấm bảng ghi đẹp đẽ: “Phòng Đọc Giảng” và có hệ thống loa chĩa ra bốn phía. Những chiếc ghe tam bản chạy dọc theo mé sông. Máy đuôi tôm kêu lè xè. Trên đó, các ông già mặc áo trắng, cầm ô đen, các bà đội nón, nhai trầu bỏm bẻm. Các cô gái thì nghiêng nghiêng đầu, chỉ chỏ, cười. Càng đến gần khu Thánh Địa thì khu nhà cửa càng nhiều hơn, nhưng phần nhiều vẫn chỉ là những mái nhà tranh, đơn sơ, nhưng rất khang trang, thơ mộng. Tàu chạy chầm chậm để tránh gây sóng lớn cho ghe xuồng hai bên. Trên đường dọc theo bờ sông, từng đàn trẻ nhỏ chạy theo tàu cười đùa. Nhìn kỹ hơn, trước mỗi nhà đều có bàn thờ lộ thiên, đơn giản thì là một tấm ván mỏng đóng trên đầu một khúc gỗ cao. Cầu kỳ thì là một bàn thờ xây bằng gạch. Song trước bàn thờ đều có một cột cờ khá cao. Phía trước cột cờ là một mảnh gỗ hình lưỡi dao chĩa ra, và là nơi lá cờ màu nâu, có bốn chữ Phật Giáo Hòa Hảo được kéo lên tại đó. Tàu dừng máy, bỏ neo và ủi mũi vào bờ. Đồng bào xúm tới đông nghẹt. Hệ thống phóng thanh từ trên bệnh viện hạm trình bày rõ mục đích của chiến dịch Cửu Long Giang và công tác Dân Sự Vụ sẽ được thi hành tại đây. Sau mỗi đoạn trình bày, đồng bào trên bờ vỗ tay cười, hoan hô ào ào. Bên kia sông là Tổ Đình. Tôi quan sát kỹ, chẳng có gì đặc biệt. Ngoài cùng là một cầu tàu bằng xi măng nhỏ, chỉ có thể để các tàu nhỏ, chiến đỉnh hoặc ghe xuồng cặp vào mà thôi. Phía trong qua con lộ đất là một căn nhà tranh tầm thường nằm ẩn nấp trong cây. Các nhà đọc giảng thấp thoáng. Xa về phía mặt của Tổ Đình là một nhà tranh to lớn, có bảng đề: “Nhà Cơm”. Trước sự bình an của toàn vùng Hòa Hảo, tôi vẫn tưởng Tổ Đình phải là to, tốt, uy nghiêm lắm. Nay thấy cảnh trí đơn sơ vậy, tôi bỗng lại hoài nghi. Chiều đã xuống, mặt sông như rộng hơn. Phái đoàn chúng tôi từ bệnh viên hạm dùng chiến đỉnh nhỏ sang bên kia bờ vào thăm Tổ Đình. Vị Hạm Trưởng hướng dẫn phái đoàn, mang theo một món quà của Thiếu tướng Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ tặng bà thân sinh đức Huỳnh Giáo Chủ. Đó là một củ hồng sâm, vì được tin cụ bà yếu mệt đã lâu. Bác sĩ y sĩ trưởng cũng mang theo các y cụ và các thứ thuốc cần thiết để khám bệnh cho Cụ Bà. Tất cả phái đoàn chúng tôi đều mặc tiểu lễ, quần áo trắng tinh, lon vàng óng ánh, huy chương cuống và bảng tên trên nắp áo. Bỗng bốn phương bùng lên những âm thanh réo rắt. Vị đại diện ông Quận vội giải thích ngay: “Dạ... đấy là giờ đọc giảng.” Các loa từ các nhà đọc giảng cùng một lúc ngân ngan qua các lời kinh của Đức Thày. Chiều êm ả, gió hiu hiu, lời thơ êm đềm. Tất cả vũ trụ như bồng bềnh trôi đi thật nhẹ. Chiến đỉnh ghé vào cầu tàu xi măng. Cậu Năm, vị Tế Tử của Cụ Bà và là người giữ nhiệm vụ coi sóc Tổ Đình, trong quần áo lục trắng tinh, đón tụi tôi tại đó. Phái đoàn được hướng dẫn vào Tổ Đình. Một số chức sắc cũng đã có mặt tại đây. Ai nấy đều khăn áo chỉnh tề. Qua mảnh sân đất là một căn nhà ba gian. Những cánh dại chắn gió cũng bằng tre. Trên đó có dán một số hình ảnh của phái đoàn đã đến đây thăm viếng. Bàn thờ được trần thiết tuy tranhg nghiêm nhưng phải nói là đơn sơ, như một bàn thờ tổ của nhà trung lưu nào đó mà thôi. Đèn nến lung linh, tất cả phái đoàn chúng tôi đều làm lễ trước bàn thờ Tổ Đình. Sau đó bác sĩ y sĩ trưởng xin phép vào thăm bệnh Cụ Bà. Tôi ngồi nhìn mọi góc, đơn sơ quá. Bữa ấy có sự hiện diện của cụ Lương Trọng Tường, là hội trưởng Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo và một số chức sắc khác. Do đó tôi có trình bày một vài thắc mắc khác của tôi với các vị ấy. Tôi hỏi: “Thưa... như tôi biết thì Giáo Hội ta có trên 2 triệu tín đồ, đặc biệt là đa số đều quy tụ quanh Thánh Địa. Vậy chúng tôi nghĩ quý vị có ý định xây cất một Tổ Đình đồ sộ xứng đáng với sự to lớn của Giáo Hội không?” Cụ Lương Trọng Tường nói: “Vâng, ông nói thật hợp lẽ. Chúng tôi có hơn 2 triệu tín đồ. Nếu mỗi tín đồ chỉ đóng 2 đồng, chúng tôi có trên 4 triệu bạc để xây Tổ Đình. Vậy mà chúng tôi đã không làm như vậy, cớ sao? Vì như vầy. Thứ nhất đây là Tổ Đình nguyên thủy, nơi mà Đức Thày đã được sinh ra và lớn lên tại đây. Nó là một vật vô giá cần được bảo tồn y nguyên như vầy. Hai là bổn đạo coi việc hoằng dương đạo pháp, theo như Đức Thày đã dạy là trọng, không coi cái hình thức là trọng. Do đó có lẽ chúng tôi không bao giờ cất Tổ Đình to cao, mà ngược lại cố duy trì Tổ Đình này. Chẳng những thế, cả con đường trước mặt, khúc sông ngoài kia, chúng tôi cũng gắng giữ nguyên như khi Đức Thày còn có mặt, vì thế nào Đức Thày cũng còn trở lại.” “Nghĩa là quý vị chờ Ngài từ năm 1947 và vẫn còn chờ đến bây giờ?” “Vâng, Đức Thày chỉ tạm thời khuất mặt mà thôi. Thế nào Đức Thày cũng trở lại với bá tánh. Ngày đó chắc cũng không xa đâu. Và khi ấy, Đức Thày cũng lại cư ngụ trong căn nhà này. Căn nhà tranh đơn sơ như đại đa số bá tánh chúng sanh...” Tổ đình PG Hoà Hảo - Nơi sinh của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ Nguồn: hoahao.org -------------------------------------------------------------------------------- Tôi chịu lời trình bày trên của cụ Lương và tôi hỏi tiếp: “Đại úy Quận trưởng Quận Chợ Mới, ông Lâm Hồng Thời, có cho chúng tôi hay là chung quanh vùng Thánh Thất 50km suốt ngày đêm thật bình an, tụi Việt cộng không hề có mặt tại đây được. Điều ấy đúng không?” Cụ Lương cười vui vẻ và nói: “Tôi xin giới thiệu với ông đây là ông...(một người tôi không nhớ tên). Người đã theo hầu Đức Thày. Ông này cũng đã từng là một chỉ huy trưởng, của một đơn vị lớn của Dân Xã ngày trước, một vị quân sự thứ "gắt" của chúng tôi...” Người được cụ Tường giới thiệu, cũng khăn áo chỉnh tề, ngoài năm chục, vẻ quắc thước, khoẻ mạnh, vị này nói: “Dạ, trước là vậy, sau này lực lượng của chúng tôi giải tán để nhập vào Quân Đội Quốc Gia mình. Nay cũng không cần nữa. Lúc đầu tụi Việt Minh làm quá, nên phải có lực lượng mà trị nó. Dạ bây giờ khác. Ngoài kia sao tôi không dám nói, chứ nội địa phận quanh Tổ Đình đây, 50km, ông cứ cho anh em lính tráng đi lại đêm ngày, có gì xảy đến lông chân quý vị, xin lấy mạng tôi mà bảo đảm...” Vị này nói quyết liệt. Mặt đỏ, tay dơ cao, toát ra một khí phách lẫm liệt như một nhân vật nào đó trong các truyện Tàu. Nhìn vị ấy, tôi thấy sợ thế nào. Vị này lại tiếp: “Tụi nó cũng nhiều phen mò về đây chớ. Khi thì ngon ngọt kêu xí xóa sự hiểu lầm xưa, khi thì gian manh trà trộn vào đám đạo hữu... Ôi thiên hình vạn trạng đó chớ. Riết rồi đạo hữu chúng tôi đồng một lòng một dạ... Vì thế đã bao nhiêu người bị chúng chặt, bỏ bao bố trôi sông... Biết bao nhiêu mà nói.” Tôi nghĩ đến những lời đồn đãi kinh khiếp về các chiến sĩ Hòa Hảo, nên rụt rè hỏi: “Dạ, tôi có nghe nói nhiều thảm cảnh lắm. Như có khúc sông nào đó, hễ ghe xuồng của dân qua đó, là phải ghé vào bờ để mua thịt... người. Khi thì cái chân, khi thì cái đầu. Trả bằng tiền để rồi ra thả xuống sông.” Một vị khác vội trả lời tôi ngay: “Chiến tranh thì biết bao nhiều điều đau khổ. Đức Thày cũng đã có cho hay: Mèo kêu bá tánh lao xao, Đến chừng rồng, rắn máu đào chỉnh ghe. Con ngựa lại đá con dê, Khắp trong thiên hạ nhiều bề gian lao. Khỉ kia cũng bị xáo xào, Canh khuya gà gáy, máu đào mới ngưng. “Dà... Đức Thày thấy trước chớ. Có điều ai gây nên cảnh tang thương thì phải nói là tụi Việt Minh nó vừa ăn cướp vừa la làng. Tụi nó là giỏi cái vụ này lắm. Tụi nó vô thần. Mình là người có đạo làm sao được. Cùng lúc ấy bác sĩ y sĩ trưởng đã khám bệnh cho Cụ Bà xong từ trong buồng bước ra. Không khí bỗng trở nên khác hẳn. Mọi người hỏi vị bác sĩ về tình trạng sức khoẻ của Cụ Bà, sau đó là một tuần nước trà và cùng nhau bàn định chương trình công tác tại đây. Để mở đầu cho chương trình Dân Sự Vụ ngay tối hôm ấy toán văn nghệ đã được ban Quản Trị Tổ Đình yêu cầu trình diễn tại Nhà Cơm. Tất nhiên là chúng tôi thi hành ngay. Nhà cơm tuy làm bằng tre, lợp lá, nhưng rộng quá, có thể chứa nổi cả ngàn người. Khi văn nghệ trình diễn, tôi có hỏi một vị chức sắc tại đây về lai lịch của nhà cơm như sau: “Thưa, tại sao lại gọi là ‘nhà cơm’?” “Dà... nhà cơm là để ăn cơm.” “Ai ăn?” “Dà, hàng năm cứ đến ngày kỷ niệm lễ Khai Sáng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là biết bao nhiêu người đổ về. Đạo hữu đã đành, người thập phương còn đông hơn nữa, họ đến để lễ Tổ Đình, để xem thuyền rồng thắp sáng trên sông... Ôi đẹp biết bao mà nói. Khi ấy thì nhà cơm đã sẵn. Ai đói cứ đến ăn. No rồi lại ra bờ sông coi.” “Mà ai lo cơm nước?” “Dà, cái đó chúng tôi có các đạo hữu tình nguyện. Làm lấy phước. Gạo, nước, cá, mắm cũng vậy. Hễ thiếu là tự khắc có người mang đến à... Mà có khi dư. Dư thì chúng tôi thiếu gì cách cho. Do đó nói là ngày Đại Lễ to quá xá mà bổn đạo đâu có tốn một đồng xu. Muốn gì là có, mà đó là đạo hữu muốn là chúng tôi làm. Thành ra của như của chung. Tình đạo hữu cũng vì thế mà khăng khít hơn.” Hôm sau, đoàn văn nghệ trình diễn cách Tổ Đình hơi xa, có đến trên mười cây số. Chúng tôi đi bằng bốn chiếc đỉnh nhỏ, vừa chở nhân viên, vừa chở lực lượng bảo vệ. Đoàn tàu đi từ lúc chiều còn chưa tắt nắng. Qua mấy khúc kinh nhỏ, nước nôi mênh mông. Tàu chỉ căn cứ vào hai dãy cây ven kinh mà đi. Chỗ nào cũng nước trắng xóa. Nơi trình diễn là một nhà lồng chợ. Âm thanh của cuộc trình diễn khởi đầu ngay khi trời vừa tối. Sau khi ngỏ mấy lời cùng bà con cô bác cho phải lẽ, tôi và Davis đi ra ngoài mé chợ nhìn ra dòng nước lấp lánh. Davis nói với tôi: “Nơi đây nước nhiều quá. Ngập thế này làm sao họ sống?” Tôi cũng chưa biết trả lời ra sao. Lát sau có một vị đâu như xã trưởng gì đó đến tìm tụi tôi. Tôi đem điều thắc mắc của Davis ra hỏi: “Dạ thưa bác, chứ nước lụt như vầy làm sao sinh sống được?” “Dà... chỉ mấy tuần là qua à.” Nói rồi ông xã trưởng mở thuốc mời tụi tôi. Davis nhận ngay một điếu cầm tay, không hút. Ông xã lại tiếp: “Cứ như mấy tờ nhật trình trên Sài Gòn nói thì chắc tụi tôi chết hết. Còn tụi tôi, sống cả đời ở nơi đây, quen rồi, mà nhiều khi tụi tôi cầu mong có lụt nữa...” “Sao vậy bác?” “Dà, thì có gì đâu. Lâu lâu mình nghỉ chơi một kỳ. Bạn bè lại gặp nhau tại nơi lồng chợ này chẳng hạn. Vui chớ!” “Tôi chỉ biết “dà” cho qua. Rồi ông lại tiếp: “Nói cho ngay, nước lụt có cái hại lúc đầu nhưng sau lại là cái lợi vô cùng.” “Bác cho biết thêm cái lợi?” “Dà nhiều chứ. Thứ nhất là cá tôm trên Biển Hồ đổ về biết bao nhiêu mà kể. Giờ nước đã bắt đầu rút hết rồi nè. Các nơi ruộng cao, nước đã mỏng, cá chịu nóng đâu có thấu. Đó… ta cứ việc làm phên be bờ cho các chạy vô rọ của ta. Ôi quá xá là cá tôm. Rồi nước rút hết. Các hồ ao của mình đặc là cá tôm. Sài Gòn đâu có tiêu thụ hết, tụi tôi phải làm mắm. Có khi phải dùng cá làm phân bón.” “Vâng, thế thì hay quá.” “Dà... còn cái lợi khác gấp bội cái lợi của cá tôm.” “... Là cái chi?” “Là đất màu phủ hết trơn mọi nơi. Năm sau vụ lụt là được mùa vô số kể.” “Nhưng năm lụt thì chắc lạ kẹt lúa gạo?” “Cũng có chút đỉnh thôi. Sống lâu mình biết chớ. Đề phòng chớ. Ngoài ra còn có thứ lúa "ma". Loại lúa hoang đó mấy ông. Đâu có ai trồng cấy đâu. Lúa trời cho đó mà.” “Sao?” “Thì loại lúa mọc theo con nước. Nước cao tới đâu nó ngoi tới đó. Tuy hạt cơm không được ngon như gạo nàng hương, nhưng cũng ăn được. Chịu khó bơi xuồng ra ruộng nước vớt lên. Một buổi là ăn cả nhà.” “Chà... ” “Rồi cá đó mấy ông... ” “Còn gì nữa bác? ” “Còn chớ…” “Xin bác cho biết thêm. ” “Dà, khi mùa nước nổi, cái lo của tụi nhà nông tụi tôi là làm sao giữ cho con trâu được an toàn. ” “Sao... ” “Dà. Con trâu là bạn thiết của nhà nông. Nước cao ngập hết, nhà cửa cũng ngập hết, cả nhà lên ghe, tìm được chỗ đất cao nào đó. Còn con trâu, xuồng ghe nào chở được nó. Để nó ngâm nước lâu nó cũng chết. Để nó đứng trong nước, lâu quá chân trâu thối móng, cũng chết. ” “Vậy làm sao?” “Dà, trời sanh lạ lắm. Lúc nước cao, lục bình từ các con rạch đổ ra, vô số kể. Loại lục bình già, cành dài cả thược Chúng tôi làm một vuông chuồng, dùng cây cao đóng cọc chắc, xem lại cho vững, rồi ẩn lục bình vào. Một lớp lục bình lại có một lớp phên tre, và trên chót là mấy bộ ngựa ken lại, để trâu đứng trên đó. Nước cao tới đâu, lục bình nổi tới đó. Trâu đứng trên đó, kho rang, khoẻ ru bà rù. Cứ tiếp tế rơm cho trâu. Sau mùa nước nổi, trâu béo thấy rõ, mà lười cũng thấy rõ... ” “Dà, cái này tụi trẻ đâu có thấy. Chỉ có tụi già này mới thấy rõ đó mấy ông.” Tôi dịch qua loa cho Davis nghe. Anh ta nói: “Ông này giỏi quá.” Tôi chỉ ừ hử cho qua và xin ông ta kể tiếp. Hút một hơi thuốc dài, thở khói nồng nặc, ông xã kể tiếp: “Mấy ông có thấy hàng cây đen đen thẳng tắp kia không? Đó là dãy cây điên điển. Các ông nhờ nó mà biết đâu là bờ kinh, đâu là ruộng để mà đi tàu, đi ghe. Thứ cây này lạ lắm. Như khi tui còn nhỏ, cái cồn tui ở có một xẻo à. Ông già tui chặt cây điên điển này về, cắt khúc cặm xuống cù lao phía hạ giòng. Chỉ ít lâu là ra lá xanh um. Rễ ra tua tủa, bết lại đặc nghẹt. Cứ thế qua mấy năm chỗ mép cù lao thành đất, mà đất tốt quá xá chứ!” “Hay quá nhỉ.” “Dà... ông già tui còn nói khi Tây nó mới qua đây dân mình chạy về U Minh, sống trong đám điên điển này nhiều lắm. Hoa nó vàng đẹp, hái xuống nấu với cá lóc, ôi ngon biết mấy. Thân nó phơi khô, đốt lên lấy than pha với ít diêm sinh làm thuốc súng... Tự dó mà mình cầm cự với tụi nó biết bao lâu.” “Vâng, vậy ra đây là thứ cây làm nên đồng ruộng miền Nam ta.” “Dà, nói thế nghe hay quá há! Mà thật chứ không giỡn đâu a, mấy ông...” Lúc này chương trình văn nghệ đã hết. Tiếp theo là phần chiếu phim, loại phim toàn ca sáu câu vọng cổ. Đồng bào nghe đã chiếu bên Chợ Mới, nên nóng lòng lắm lắm. Khi sửa soạn chiếu phim mới hay là ống kính đã bị bỏ quên trên tàu lớn. Làm sao đây? Đi bằng tàu thì lâu quá, vừa đi vừa lại mất mấy tiếng, còn gì là đêm. Ông xã biết vậy bảo tôi: “Dà, để tui cho thằng em đưa anh nào đi về tàu bằng đường bộ.” “Đường bộ liệu được không bác?” “Được chớ. Nó quen đường đất rồi. Lấy cái xe mobilette chạy mấy hồi.” Tôi gọi một nhân viên tới bảo đi với anh nghĩa quân về tàu lấy ông kính. Trong khi anh ta đi, lòng tôi không khỏi lo âu. tôi nghĩ đến sự bất an như ở Trà Ôn, Việt Cộng giả làm đám cưới, vây toán Dân Sự Vụ của tụi tôi, chỉ cách quãng đường chưa tới một cây số, bắn lòi ruột một anh nghĩa quân, nhưng thấy ông xã nói “Được mà” nên tôi đành ngồi chờ đợi. Lúc ấy bà con mang đủ thứ quà bánh cho các anh chị em ca sĩ. Có người cứ nhìn chầm chầm vào mặt các cô ca sĩ. Họ mang theo mía nướng, bánh ú, bánh bột lọc. Có người mang ra một nồi cháo cá thơm lừng. Họ đơn giản nói “Mời các anh chị ăn lấy thảo mà”. Cuộc ăn uống vừa xong thì anh lính nghĩa quân đã chở nhân viên của tôi về, mang theo cái ống kính chiếu phim. Mọi người biết phim xắp chiếu la ó rầm trời, rồi vội vã dọn đồ ăn đi thật nhanh. Ai nấy ngồi im như thóc. Màn ảnh được chiếu sáng. Sáu câu vọng cổ ngân nga xuống “xề” khiến khán giả vỗ tay ào ào từng đợt. Sau những ngày công tác tại Thánh Địa Hòa Hảo, tụi tôi nhổ neo đi Hồng Ngự và Tân Châu. Trước khi chấm dứt công tác, ông Quận Trưởng Chợ Mới Lâm Hồng Thời đánh điện lên yêu cầu phái đoàn trở lại Chợ Mới thêm hai ngày. Tụi tôi dàn xếp để chiều lòng ông Quận. Tại đó hai con bê làm sẵn của dân địa phương đón chúng tôi. Dầu salad oil của chúng tôi tưới lên những mảnh ngói để rửa, thịt bò thái mỏng cháy thơm lừng. Bánh tráng, rau húng, mắm nêm... cả mấy trăm anh em dưới tàu và trên Quận hả hê, hân hoan ăn mừng công tác đã hết. Giáo chủ PG Hoà Hảo Huỳnh Phú Sổ Nguồn: nammoadidaphat.orgt -------------------------------------------------------------------------------- Tàu nhổ neo trở lại Saigon. Riêng tôi được một tặng phẩm đặc biệt: cuốn Sấm Giảng Thi Thơ Toàn Bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ, dày hơn năm trăm trang, có chữ ký của Ban Trị Sự Tổ Đình. Tàu chạy qua các khu vực Thánh Địa Hòa Hảo. Nước lớn dâng cao, êm đềm. Bắc cái ghế vải ra sân sau chiến hạm, nằm mở cuốn kinh ra đọc. Gió nhè nhẹ thổi ở bên tai. Hai bên bờ, những hàng cây điên điển thấp thoáng, những mảnh tam bản mỏng manh lướt đi. Trên đó, những cô gái áo bà ba trắng, quần đen, óng ả nghiêng nón bên mái chèo. Tôi thấy như tôi vừa mới đi cắm trại về. Bao nhiêu là ngày vui. Nơi đây, đất thiêng, nơi phát xuất ra một người rất lạ, Đức Huỳnh Phú Sổ. Dưới niềm tin của Đức Thày, bao nhiều đạo hữu đã sống những ngày thật thanh bình giữa lúc đất nước đang chìm đắm trong chiến tranh. Davis hỏi tôi: “Sao các nơi không bắt chước nơi này?” “Cái đó đâu có dễ. Đối với Cộng Sản, ở xa thấy nó hay, đẹp lắm. Sống với nó mới thấy cái kinh khiếp giảo quyệt của nó. Giáo Hội Hòa Hảo đã kinh qua những thử thách máu xương với Cộng Sản, đặc biệt tất cả các đạo hữu của họ đều có một lòng tin sắt đá vào vị Giáo Chủ, nên họ đã làm được.” -------------------------------------------------------------------------------- Nguồn: (1). Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục bị đàn áp, Thanh Quang, RFA, 03/02/2011 (2). Đập phá hay sửa chữa chùa An Hòa Tự PGHH?, Thanh Quang, RFA, 12/03/2009 Tín đồ PGHH bị đàn áp nặng tại vùng ĐBSCL, Thanh Quang, RFA, 04/07/2009 (3). Thư Gửi Bạn Bè, Phan Lạc Tiếp, 10/01/2001
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 24, 2011 1:28:14 GMT 9
TIỂU SỬ CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦVÀ CÔNG ĐỨC CỦA NGÀI ĐỐI VỚI ĐẠO PHẬT GIÁO HÒA HẢO VÀ TỔ QUỐC VIỆT NAM Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập ra Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, sinh vào ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, nhằm ngày 15 tháng giêng năm 1920 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang) gần biên giới Việt - Miên. Ngài là người con trai cả của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm, một hương tộc nổi tiếng và được tôn kính bởi dân chúng khắp vùng . Sau khi đậu cấp bằng Tiểu học tại Tân Châu, Đức Giáo Chủ vì đau yếu liên miên, đã phải thôi học . Với sự khá giả của gia đình, Ngài có thể có đủ điều kiện học đến cấp cao, nhưng vì sự bệnh hoạn nói trên, khiến ngài không tiếp tục được . Năm 15 tuổi, nhiều cơn sốt rét dữ dội phát sanh, làm cho Đức Giáo Chủ ngày càng gầy yếu, mất ăn mất ngủ . Chứng bịnh nầy còn thỉnh thoảng biến sanh nhiều hiện tượng khác làm cho thân hình Ngài trở nên tiều tụy da dẻ xanh gầy . Đau lòng vì bịnh của con, Đức Ông và Đức Bà (thân phụ và thân mẫu của Đức Giáo Chủ) hết lòng lo phương cứu chữa . Nhưng bịnh vẫn hoàn bịnh . Trong mấy năm từ 15 đến 21 tuổi , Đức Giáo Chủ mắc phải chứng bịnh trầm kha mà không một thầy thuốc Đông Y hay Tây Y nào trị được . Thì ra đó là cơ hội mà các đấng Thiêng Liêng dọn sửa phần xác thịt để Đức Giáo Chủ tiếp nhận những điển quang tinh anh mạnh mẽ sau nầy . Kịp đến ngày 18 tháng 5 năm Kỹ Mão (1939), một ngày dáng ghi nhớ trong lịch sử cách mạng và đạo giáo nước nhà, một cuộc lễ vô cùng tôn nghiêm được cử hành tại Tổ Đình để cho Đức Giáo Chủ "Đền Linh Khứu sơn trung thọ mạng" . Bấy giờ Đức Giáo Chủ được 21 tuổi . Mặc dù còn bịnh hoạn dây dưa, gương mặt Ngài trông vẫn đẹp đẽ khôi ngô và trí huệ Ngài trở nên dị thường tỏ ngỏ . Bắt đầu từ đó Ngài chữa bịnh thuyết pháp và sáng tác Thi Văn Kệ Giảng . Từ tháng 5 năm 1936, nhiều bịnh tà, bịnh điên nan y, đã được đưa đến tận làng Hòa Hảo và được chữa khỏi, không khác nào Đức Chúa Giê Su hay Phật Thầy Tây An thuở trước đã chữa khỏi muôn vạn dân lành . Vì vậy mà số người đến xin trị bịnh càng lúc càng đông . Kẻ ở xa xôi tận miền Trung hoặc Sài Gòn, Chợ Lớn, cũng như người ở gần gũi miệt Sa Đéc, Cần Thơ đua nhau đến nhờ Ngài cứu chữa . Phương pháp của Đức Giáo Chủ rất đơn giản . Tùy theo triệu chứng của bịnh nhân, Ngài khi thì nước lã, giấy vàng, lúc thì đưa bông trang, lá bưởi ....Một điều đáng để ý là mỗi khi trị bịnh cho người nào là Ngài khuyên họ nên niệm Phật tưởng Trời và vái van Thần Thánh bởi vì : Thành lòng nước lã nên hồ, Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban. Số người được cứu sống kể sao cho xiết . Nhờ sự cứu bịnh đó của Ngài, Đức Giáo Chủ trong một thời gian ngắn khoảng một năm (1939-1940), đã thu hút được một số đông quay về ngưỡng mộ . Thế mới hay Ngài đã thực hành phương pháp dự định trước kia là "dùng huyền diệu của Tiên Gia độ bịnh cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của Chư Vị với Trăm Quan" . Người ta đã cảm đức và ghi ân, nên đã trùng trùng quy y Phật Pháp . Sau ngày "chịu lịnh Tây Phương thọ ký", tức 18-5 Kỷ Mão, Đức Giáo Chủ ít trầm mặc và nói nhiều hơn xưa . Gặp ai Ngài nói nấy . Ngài nói về sắc diện, tính tình và tương lai của người đối thoại để gần cuối câu chuyện, Ngài khuyên làm lành, lánh dữ và nên tin Phật, xem Kinh . Ngài luôn luôn khiêm tốn trong cử chỉ, văn từ và rất mực bình dân, nhũn nhặn với bất cứ người thân sơ, cao thấp . Nhứt là đối với hạng người quyền thế Đức Giáo Chủ không hề có cử chỉ khúm núm hoặc dùng những tiếng "bẩm", tiếng "ngài" như thời lệ . Biết bao người có khuynh hướng Cộng Sản đến chất vấn Giáo Chủ . Họ lấy làm khâm phục vì đã nói thấu ruột gan, và còn giải thích, biện luận rõ ràng để đánh đổ cái học thuyết Mácxit - Lênin mà người ta đang theo ấy . Thế là trong số thập phương thiện tín tới viếng Giáo Chủ ngoài những người xin bùa, thỉnh thuốc, từ ấy lại có thêm nhiều người đến để, hoặc nghe Ngài giảng giải giáo lý nhiệm mầu, hoặc đọ sức thử tài xem coi sở kiến của Ngài có áp phục được họ chăng . Trong số những tay cự phách của làng nho, cùng những tay quyền quý tân học đang làm việc cho Pháp đến với Ngài, ta có thể kể Chủ Quận Tân Châu, Chủ Quận Chợ Mới, y sĩ Nguyễn Kỳ Trân, thi sĩ Huỳnh Hiệp Hòa, Hương cả Đào-thành Đô và nhiều học giả đương thời khác . Những vị nầy sau một lần gặp Đức Giáo Chủ thì đều phục tài kính đức . Một ký giả ở Sài Gòn, ông Hiên Sĩ, khi viết về Đức Giáo Chủ trong hơn 30 bài báo, có diễn tả tài hùng biện của Ngài bằng câu "thao thao bất tuyệt" và kết luận rằng Ngài đã "chiếm giải quán quân về phương diện diễn thuyết ". Lại nữa, lời văn của Đức Giáo Chủ có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách lạ thường nên thính giả nhiều khi mủi lòng rơi lụy, liền phát tâm tu hành theo Đạo . Ai đã từng dõi gót theo Ngài trong cuộc khuyến nông năm 1945, trong vòng 2 tháng với không biết bao nhiêu lý luận khác nhau, đều phải công nhận Ngài là bậc "mồm sông bút sấm" . Những cuộc thuyết pháp kể trên, nếu cộng với 107 lần chu du khuyến nông thuyết giáo trên gần khắp miền Nam năm 1945, chúng ta có thể nói Ngài đã trải qua trên một ngàn lần khuyến thuyết quan trọng với hằng ngàn đề tài khác biệt . Và nhờ những cuộc thuyết pháp này mà người mộ đạo quy căn, ngày càng đông thêm không xiết nói. Nhưng công đức vĩ đại lớn nhất của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong việc truyền giáo là việc viết ra Kệ Giảng . Nhờ Kệ Giảng đó mới được phổ truyền một cách sâu rộng chủ trương canh tân Phật Giáo của Ngài và nhờ đó mà hằng triệu người mộ đạo và quay về với chân tính, tự tâm . Những tác phẩm của Đức Giáo Chủ viết ra, phần nhiều thuộc thể văn vần . Ngài viết, dầu tản văn hay vận văn, điều đáng để ý là khi cầm bút thì cứ viết thẳng một mạch, không dùng giấy nháp . Có thể kể những tác phẩm trường thiên sau đây của Đức Giáo Chủ: 1. Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm , tức quyển nhứt, văn lục bát, dài 910 câu xuất bản lần đầu năm 1939. 2. Kệ Dân của Người Khùng , tức quyển nhì, văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939. 3. Sám Giảng , tức quyển ba, văn lục bát dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm 1939. 4. Giác Mê Tâm Kệ , tức quyển thứ tư, văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939. 5. Khuyến Thiện , tức cuốn thứ năm, đoạn nhứt và đoạn chót viết bằng lối lụt bát, đoạn giữa viết bằng lối thất ngôn, dài 756 câu, xuất bản lần đầu năm 1942. 6. Tôn-Chỉ Hành Đạo. Quyển này viết bằng văn xuôi, xuất bản lần đầu năm 1945 . Tuy văn xuôi, quyển này có một đặc sắc là giản dị mà lưu loát, âm hưởng du dương nhịp nhàng. Ngoài sáu quyển vừa kể, Đức Giáo Chủ còn viết ra rất nhiều bài thi, bài văn gom góp để in thành một quyển nhan đề "Sưu Tập Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ". Nhìn qua công đức truyền giáo của Đức Giáo Chủ, ta thấy trong một thời gian tuy không dài nhưng những điều Ngài đã thực hiện, bắt buộc những người dù cho khó tính tới đâu, cũng phải công nhận là vô cùng phong phú và vĩ đại . Đó là đối với công cuộc truyền giáo . Đối với sự nghiệp Chánh Trị và công cuộc cứu quốc : Trong khoảng thời gian từ 1940 đến 1942, vì sự tập hợp của các tín đồ thiện nam tín nữ đến nghe các cuộc thuyết pháp của Ngài và quy y theo đạo ngày càng đông , thực dân Pháp đã nhiều lần bắt giam Đức Giáo Chủ để theo dõi và giám sát ngôn ngữ, hành vi của Ngài . Năm 1942, Ngài được hiến binh Nhật giải thoát và tạm thời được an toàn để tiếp tục công cuộc liên lạc với các nhà ái quốc chân chính . Năm 1943, Ngài nhận làm cố vấn cho Thanh Niên Ái Quốc Đoàn, sau đổi tên thành Việt Nam Ái Quốc Đảng . Cuối năm 1944, Ngài bí mật chỉ thị cho thanh niên PGHH thành lập Bảo An Đoàn ở một số tỉnh miền Tây . Tháng 3 năm 1945, Ngài thành lập VN Độc Lập Vận Động Hội vì Ngài nhận thấy thái độ chưa dứt khoát của người Nhật về vấn đề độc lập và thống nhất của VN . Tháng 10 năm ấy , Ngài liên kết với các lãnh tụ tôn giáo và đảng phái quốc gia thành lập Mật Trận Quốc Gia Thống Nhất . Mặt trận này quy tụ hầu hết các lực lượng tôn giáo, chánh trị, và trí thức Miền Nam, nên đã bị Trần Văn Giàu, lúc bấy giờ là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ cùng đồng bọn Cộng Sản bao vây văn phòng PGHH ở góc đường Miche và Sohier . Tất cả nhân viên tại đây đều bị bắt . Đức Giáo Chủ cùng một số tín đồ thân cận vượt khỏi vòng vây lên xe đi về ngoại ô châu thành Biên Hòa, sau đó đến rừng chồi Long Thành, cuối cùng băng rừng vượt suối đến Cỏ Nay, thuộc tỉnh Bà Rịa , rồi rút sâu vào rừng chà là . Đến năm 1946, Ngài bí mật trở về ẩn trú tại vùng Chợ Lớn, và sau tết nguyên đán năm Bính Tuất các tín đồ PGHH bắt đầu nối được liên lạc với Ngài . Tháng 4 năm 1946 Mặt trận quốc gia liên hiệp ra đời mà Đức Giáo Chủ là Chủ Tịch , trong đó quy tụ rất đông các lãnh tụ quốc gia . Nhưng sau đó không lâu, Việt Minh lại dở ngón độc tài hạ lệnh giải tán mặt trận . Ngày 21 tháng 9, năm 1946 Đức Giáo Chủ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng để có danh nghĩa tranh đấu cứu quốc, đồng thời kết nạp các phần tử quốc gia chân chính . Tháng 10 năm 1946, sau nhiều lần Phạm Thiều theo chỉ thị Việt Minh, mời Đức Giáo Chủ tham chánh, Ngài đứng ra lãnh nhiệm vụ Ủy Viên Đặc Biệt trong Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ . Điều này chứng tỏ thiện chí của Ngài lúc nào cũng nghĩ tới quyền lợi tối thượng của Tổ quốc mà dẹp bỏ hiềm riêng . Nhưng Việt Minh đã phản bội, cho tái diễn những cuộc xô xát giữa họ và tín đồ PGHH tại miền Tây . Được tin nầy Đức Giáo Chủ đã rời miền Đông về miền Tây dàn xếp . Ngày 16 tháng 4 năm 1947 (tức ngày 25 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi), chi đội trưởng Vệ Quốc Quân Bửu Vinh và Thanh Tra Chánh Trị miền Tây Nam Bộ Trần Văn Nguyên, âm mưu mời Ngài đến họp và hãm hại Ngài tại ngọn rạch Đốc Vàng Hạ, nay thuộc xã Tân Phú, tỉnh Đồng Tháp . Trong lúc họp, Bửu Vinh đã cho quân của Việt Minh phục kích và giết các tự vệ quân của Đức Giáo Chủ . Trong lúc rối loạn, Đức Thầy vẫn bình tĩnh , thổi tắt ngọn đèn và ra đi trong đêm tối . Sau biến cố này , không một ai rõ tin về Ngài . Liền ngày sau, Việt Minh đã phát động một chiến dịch đại quy mô nhằm tiêu diệt tất cả các chức sắc PGHH và cán bộ VN Dân Chủ Xã Hội Đảng . Kể từ ngày Đức Giáo Chủ ra đi cho đến nay 1947 - 2001 là đã 54 năm tròn, PGHH phải liên tục tự vệ để sống. Đoàn thể PGHH vẫn một lòng tin tưởng rằng Cộng Sản không thể nào hãm hại được Đức Giáo Chủ và Ngài sẽ trở về để hoàn tất sứ mạng thiêng liêng tại Hội Long Hoa đúng như những lời tiên tri trong kinh giảng. Và với công đức phi thường đó của Đức Giáo Chủ trong công cuộc truyền giáo và cứu quốc, trái tim của người tín đồ PGHH đã và đang luôn hướng về Ngài và sẵn sàng xã thân vì đạo nghĩa. Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng, Đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 24, 2011 1:30:02 GMT 9
ĐỨC GIÁO CHỦ HUỲNH PHÚ SỔĐỨC GIÁO CHỦ HUỲNH PHÚ SỔ VÀ CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG ĐỘC LẬP TỰ DO CHO VIỆT NAM (Trình bày tại Toronto trong Đại lễ Kỷ niệm 70 năm Ngày Khai sáng Nền Đạo Phật Giáo Hòa Hảo) (Bài viết, Sử gia Trần-Gia Phụng) I.- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ Theo hòa ước Giáp Tuất ( 15-3-1874 ), toàn thể sáu tỉnh Nam Kỳ bị nhượng cho Pháp. Từ đây Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, nghĩa là Pháp trực tiếp cai trị Nam Kỳ, chứ Nam Kỳ không còn thuộc quyền triều đình Việt Nam Mười năm sau, tức vào năm 1884, Pháp bảo hộ toàn cõi Việt Nam, nghĩa là khác với Nam Kỳ, Bắc và Trung Kỳ vẫn do triều đình Việt Nam cai trị, nhưng dưới sự điều khiển của người Pháp. Dân chúng Việt Nam ở khắp nước liên tục nổi lên chống Pháp. Tuy nhiên, tất cả đều thất bại trước sức mạnh quân sự của Pháp. Tuy nhiên, tình hình thay đổi khi thế chiến thứ hai xảy ra vào tháng 9-1939. Tại Âu Châu, Pháp bị Đức xâm lăng. Tại Á Châu, đồng minh của Đức là Nhật Bản, bắt đầu tiến quân vào Đông Dương từ năm 1940 để xuống Đông Nam Á. Nhật Bản vẫn để Pháp cai trị Đông Dương, và dùng nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương nhằm phục vụ những quyền lợi Nhật Bản, nhất là phục vụ nhu cầu lương thực cho quân đội viễn chinh Nhật Bản. Khi Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ tại Trân Châu cảng ngày 7-12-1941, Hoa Kỳ liền tuyên chiến với Nhật Bản và Đức, đứng trong khối Đồng minh. Nhờ thế khối Đồng minh càng ngày càng thắng thế. Đức đầu hàng Đồng minh ngày 7-5-1945 . Điều nầy làm cho quân Nhật ở Đông Dương lo ngại. Nguyên từ khi Nhật đến Đông Dương, chính phủ Pháp tại Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Pétain là chính phủ bị Đức khống chế. Nay Đức đầu hàng, chính phủ Pétain sụp đổ. Chính phủ lâm thời Pháp do De Gaulle lãnh đạo. Vì vậy quân Nhật ở Đông Dương lo sợ chính phủ Đông Dương vâng lệnh De Gaulle bất ngờ phản công Nhật. Nhật tổ chức cuộc hành quân Meigo ngày 9-3-1945 , lật đổ chính phủ Pháp tại Đông Dương, trao trả độc lập cho Việt Nam . Vua Bảo Đại uỷ cho Trần Trọng Kim thành lập chính phủ Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Nhật cũng thất trận, đầu hàng Đồng minh ngày 14-8-1945 . Lúc đó, tại Đông Dương, tình hình rất lộn xộn; 1) Thứ nhất, quân đội Nhật buông súng. 2) Thứ hai, các đảng phái chính trị nổi lên tranh đấu giành độc lập. 3) Thứ ba, đảng Cộng Sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh nhanh tay cướp chính quyền ở Hà Nội và ở Sài Gòn. 4) Thứ tư, vua Bảo Đại thoái vị ở Huế, chính phủ TrầnTrọng Kim sụp đổ. 5) Pháp đưa quân trở lại Đông Dương. Chính trong hoàn cảnh xáo trộn đó, Đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) và dấn thân hoạt động chính trị. II.- CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG TỰ DO DÂN CHỦ Đức giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 25 tháng 11 năm kỷ mùi (15-01-1920), là con trai đầu của ông Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm, một gia đình nông dân trung lưu. Ngày 18 tháng 5 năm kỷ mão (4-7-1939), Đức thầy Huỳnh Phú Sổ thành lập tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), một tông phái Phật giáo mới là Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH). Từ khi khai đạo, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ vừa thuyết pháp, vừa sáng tác nhiều kệ giảng, dựa trên giáo lý nhà Phật, khuyên người gắng sức tu hành để thoát qua những tai ương do thời cuộc đưa đến. Những kệ giảng của Đức thầy thuần túy bằng tiếng Việt, rất giản dị, lại có vần điệu, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ và dễ lập lại hằng ngày trong cuộc sống, nên rất dễ phổ biến. Trước sự phát triển mạnh mẽ của PGHH, người Pháp rất lo ngại. Ngày 18- 5-1940 , tức khoảng một năm sau ngày khai đạo, Pháp giải Đức thầy Huỳnh Phú Sổ từ làng Hòa Hảo về Châu Đốc để điều tra. Sau đó, Pháp đưa Ngài về Sa Đéc, rồi về làng Nhơn Nghĩa, rạch Xà No, tỉnh Cần Thơ, quản thúc từ ngày 23-5-1940. Nhiều tín đồ PGHH được tin, liền tìm đến thăm. Vì vậy, sau ba tháng ở Cần Thơ, người Pháp đưa Đức thầy Huỳnh Phú Sổ lên Sài Gòn, an trí tại nhà thương điên Chợ Quán. Ngày 5-6-1941 , người Pháp lại dời Huỳnh giáo chủ về Bạc Liêu. Do sự can thiệp của quân đội Nhật, Huỳnh giáo chủ được thả và được đưa về sống ở Sài Gòn từ tháng 10-1942. Do hoàn cảnh chính trị và đời sống, từ đó (năm 1942), Đức thầy Huỳnh Phú Sổ bắt đầu tiếp xúc với các nhân vật chính trị Nam phần, và bắt đầu dấn thân vào con đường họat động chính trị. Huỳnh Giáo chủ là một nhà yêu nước đã hết lòng tranh đấu cho nền độc lập dân tộc. Năm 1944, Đức thầy thành lập Bảo An Đoàn PGHH tại một số tỉnh miền Tây. Vào năm 1945, Huỳnh giáo chủ lập Việt Nam Vận Động Hội để tranh đấu đòi độc lập và thống nhất cho xứ sở. Từ đây, có thể nói Đức thầy Huỳnh Phú Sổ tham gia tích cực vào cuộc vận động cho nền tự do dân chủ của đất nước. Khuynh hướng nầy được Đức thầy bày tỏ trong bốn câu đầu bài “Quyết rứt cà sa”, thơ thất ngôn liên hoàn, sáng tác năm 1946 như sau: “Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau, Quyết rứt cà sa khoác chiến bào, Đuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước, Ngọn cờ độc lập phất phơ cao…” (Thơ Huỳnh Giáo chủ) Khi dấn thân hoạt động chính trị trong thời đại loạn, hai chủ trương chính trị rõ nét nhất của Đức Huỳnh Giáo chủ là ĐOÀN KẾT và DÂN CHỦ. Khi được tin vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945, Huỳnh giáo chủ đã ra huấn lệnh ngày 15-3-1945 (mồng 2 tháng 2 năm ất dậu) cho tín đồ như sau: “Đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh, khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi. Vậy hãy coi toàn dân như anh em một nhà, mong họ liên kết với chúng ta để kiến thiết lại quê hương cùng nền Đạo nghĩa…” (Ban Trị sự Trung ương Hải ngoại, Sấm giảng thi văn toàn bộ của Đức Huỳnh giáo chủ, 2004, tr. 481.) Chẳng những ra lệnh cho tín đồ, Đức Huỳnh giáo chủ còn đưa ra lời kêu gọi tinh thần đoàn kết đến toàn thể đồng bào Việt Nam như sau: “Vậy tôi xin khuyên tất cả đồng bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự do thì chúng ta hãy nên đoàn kết chặt chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hiềm ganh ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt…”(Ban Trị sự Trung ương Hải ngoại, sđd. tr. 490.) Do chủ trương đoàn kết, trong Tuyên ngôn ngày 21-9-1946 thành lập Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội, Đức Huỳnh Giáo chủ viết: “Đặc điểm của Việt Nam Dân Xã Đảng là, trong giai đoạn hiện tại, không chủ trương giai cấp đấu tranh giữa dân tộc Việt Nam vì lẽ ở xã hội Việt Nam hiện thời, trên 80 năm bị trị, chỉ có một giai cấp bị “tư bản thực dân” bóc lột.” (Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo Hải ngọai, sđd. tt. 533-534.) Chủ trương chính trị lớn thứ hai của Huỳnh Giáo chủ là vận động thiết lập chế độ dân chủ cho Việt Nam sau thế chiến thứ hai. Trong tuyên ngôn của Dân Xã Đảng, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ nhấn mạnh: "Việt Nam Dân Xã Đảng là một đảng dân chủ, chủ trương thiệt thi triệt để nguyên tắc chánh trị của chủ nghĩa dân chủ: "chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân". Đảng Dân Xã chủ trương "toàn dân chánh trị, thế tất đảng [Dâ n Xã ] chống độc tài bất cứ hình thức nào."(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo Hải ngọai, sđd. tr. 533.) Đồng thời với bản Tuyên ngôn, chương trình hành động của Dân Xã Đảng do Đức Huỳnh Giáo chủ đưa ra, nhấn mạnh thêm một lần nữa đến việc bảo đảm tự do dân chủ cho toàn dân, và chống bất cứ hình thức độc tài nào. Chủ trương của Đức Huỳnh Giáo chủ rõ ràng đi ngược với chủ trương đảng trị độc tài của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Vì lòng yêu nước, vì tinh thần đoàn kết, vì tôn trọng dân chủ, tôn trọng tất cả các đoàn thể khác, kể cả mặt trận Việt Minh (VM) và đảng CSĐD, Huỳnh Giáo chủ luôn luôn sát cánh với các đoàn thể khác để tranh đấu giành độc lập và tự do cho dân tộc. Ngài nhiều lần bị VM cộng sản ám hại. Lần đầu, VM tung người bao vây để bắt Đức Huỳnh Phú Sổ tại văn phòng ở Sài Gòn ngày 9-9-1945 , nhưng Ngài thoát được. Việt Minh ra lệnh tìm bắt giết những nhân vật quan trọng của PGHH. [Như Huỳnh Thạnh Mậu (em ruột Đức thầy Huỳnh Phú Sổ), Nguyễn Xuân Thiếp, Trần Ngọc Hoành tại Cần Thơ; Chung Bá Khánh, Đỗ Thiều, Võ Văn Thời tại Trà Vinh, Vĩnh Bình.] Dầu vậy, Đức giáo chủ vẫn sẵn sàng thương thuyết với VM để duy trì sự đoàn kết trong nội bộ người Việt, nhằm tạo tổng lực dân tộc chống các thế lực ngoại xâm. Khi xảy ra sự xô xát giữa lực lượng PGHH và VM tại Sa-Đéc, ngày 16-4-1947, VM mời Đức Huỳnh Giáo chủ đến họp để giải quyết. Nhân cơ hội đó, VM tấn công và đưa Huỳnh Giáo chủ đi mất tích. KẾT LUẬN Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là một tu sĩ Phật giáo, đã có công khai sáng tông phái PGHH. Bên cạnh đó, Ngài còn là một nhà hoạt động chính trị. Sự nghiệp chính trị của Ngài đang còn dang dở, chưa hoàn tất, nhưng đã để lại cho chúng ta những bài học quý giá thật đáng nhớ. Bài học thứ nhất là tình yêu nước vô bờ bến của Huỳnh Giáo chủ, luôn luôn đặt quyền lợi tổ quốc lên trên hết, trên hẳn quyền lợi cá nhân, quyền lợi của tổ chức, hay quyền lợi của đảng phái. “Ta có tình yêu rất mặn nồng, Yêu đời, yêu lẫn cả non sông…” Huỳnh Giáo chủ hoạt động không mệt mỏi, không đòi hỏi một địa vị hay quyền lợi nào cho cá nhân hay cho tổ chức PGHH. Bài học thứ hai là tinh thần đoàn kết. Bài học đoàn kết của Huỳnh Giáo cho chúng ta hai kinh nghiệm cùng một lúc. Kinh nghiệm thứ nhất là muốn tranh đấu có kết quả, thì phải đoàn kết nhằm tạo sức mạnh tổng lực của dân tộc. Kinh nghiệm thứ hai, là Đức Huỳnh Phú Sổ đã hết sức rộng rãi, vận động đoàn kết tất cả các đoàn thể chính trị, kể cả đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), nhưng người cộng sản vẫn âm mưu tấn công Ngài. (Đã trình bày ở trên.) Chẳng những tấn công một tu sĩ như Huỳnh Cháo chủ, CSVN luôn luôn tìm cách tiêu diệt tất cả những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, không chấp nhận cộng sản. Việc CSVN không ngừng tấn công Huỳnh Giáo chủ là một kinh nghiệm cho thấy rõ là DỨT KHOÁT KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ ĐOÀN KẾT VỚI CỘNG SẢN; KHÔNG BAO GIỜ HÒA GIẢI HÒA HỢP VỚI CỘNG SẢN. ĐOÀN KẾT, HÒA GIẢI HÒA HỢP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT. Bài học thứ ba là tinh thần dân chủ của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ. Chúng ta hiện đang sống trong thế kỷ 21. Có thể nói thế kỷ 21 là thế kỷ của trào lưu dân chủ trên thế giới. Tuy nhiên nước Việt Nam chúng ta hiện nay vẫn còn chìm ngập trong chế độ độc tài toàn trị, không có bất cứ một thứ tự do nào, không có tự do bầu cử và ứng cử, không có tự do báo chí, không có tự do tôn giáo… Người Việt Nam ở trong nước hiện nay như ở trong một nhà tù lớn, chỉ được tự do nghèo đói, tự do đĩ điếm, còn cán bộ cộng sản thì tự do tham nhũng. Vì vậy, bài học dân chủ hiện rất cần thiết với Việt Nam hiện nay. Phải có tự do dân chủ cho toàn dân thì toàn dân mới đóng góp xây dựng đất nước. Như thế, câu viết của Huỳnh Giáo chủ trong tuyên ngôn thành lập Dân Xã Đảng vẫn còn nguyên giá trị với dân tộc Việt Nam : "… Toàn dân chánh trị, thế tất đảng [Dân Xã ] chống độc tài bất cứ hình thức nào." Để tiếp tục thực hiện tuyên ngôn của Huỳnh Giáo chủ, chống lại chế độ độc tài bất cứ hình thức nào, vận động tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam, tốt nhất hiện nay là NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI CHÚNG TA HÃY YỂM TRỢ CÁC PHONG TRÀO DÂN CHỦ QUỐC NỘI BẰNG TẤT CẢ CÁC PHƯƠNG TIỆN, ĐỂ ĐỒNG BÀO QUỐC NỘI ĐỨNG LÊN GIẢI TRỪ CHẾ ĐỘ BẠO QUYỀN CỘNG SẢN TRONG NƯỚC. Đó là con đường duy nhất để mở cửa cho sự phát triển đất nước. TRẦN GIA PHỤNG ( Toronto , 7-6-2009 ) 10 tội ác nặng nề nhất của cộng sản Việt Nam10 tội ác nặng nề nhất của cộng sản Việt Nam 01- Bán nước cho Tàu cộng là tội lớn nhất - Hoàng Sa- Trường Sa, Thác Bản Giốc- Ải Nam Quan v.v..
02- Đào mồ cuốc mả, san bằng các nghĩa trang, phỉ báng tổ tiên là loài khỉ vượn, ca ngợi thuyết tiến hóa của Darwin. Lừa đảo quốc tế, bôi nhọ danh dự dân tộc Việt Nam.
03- Âm mưu tiêu diệt tôn giáo, giết hại, giam cầm quản chế các bậc tu hành. Sát hại HT Thiện Minh, giam giữ HT Quảng Độ, HT Huyền Quang, Cha Lý. Đem tượng sa tăng đặt chung với tượng Phật và quốc tổ Hùng Vương.
04- Giam cầm, bắt bớ trù dập, đày đọa các nhà đấu tranh dân chủ.
05- Đưa đất nước, xã hội Việt Nam đi vào chỗ thụt lùi, đạo đức băng hoại. ma túy, hút xách, đĩ điếm tràn lan.
06- Tham nhũng tài nguyên quốc gia. Ăn cướp trắng trợn, Buôn dân qua các hình thức xuất khẩu lao động, cô dâu xứ người, bán trẻ em làm nô lệ tình dục
07- Ngu đần hóa thế hệ trẻ, hệ thống giáo dục khập khiển, hàng trăm ngàn trẻ em bỏ học.
08 -Thảm sát vô số dân lành, vụ Cải Cách Ruộng Đất và Tết Mậu Thân, thủ tiêu, ám sát, pháo kích vào nhà dân vô tội.
09- Hành hạ, đày đọa dân quân cán chính các cấp VNCH bằng hình thức trại tù cải tạo.
10- Bênh vực Tàu cộng, hành hạ đánh đập dân lành, giam cầm, bắt bớ các nhà đấu tranh dân chủ.
** Ngã Quỷ Hảy Mau Sám Hối để được Dân Tộc Việt Nam sẽ tha thứ và thương yêu, trước khi quá muộn !!! Không chạy khỏi Luật Trừng THIÊN.Thiên Địa Nhân
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 7:05:25 GMT 9
Hồi tưởng ngày Đức Thầy thọ nạnMiền Trung không ảnh hưởng Phật giáo Hòa Hảo. Đạo Hòa Hảo phát triển ở 15 tỉnh miền Tây: Châu Ðốc, An Giang, Sa Ðéc, Kiến Phong, Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiên Giang, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên, Ðịnh Tường, Long An, Kiến Hòa, Kiến Tường, và Sài Gòn-Gia Ðịnh. Các tỉnh như Châu Ðốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Ðéc, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo lên đến 90% dân số; ở các tỉnh khác tỷ số này thay đổi từ 10 đến 60%. Miền Tây đất đai phì nhiêu, ruộng đồng rộng mênh mông như Đồng Tháp Mười „cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi”. Mùa nắng đất khô cỏ cháy Mùa mưa nước ngập lan tràn Cò trắng nghìn năm bay chẳng dứt Chân trời bốn mặt rộng thênh thang… Nguyễn Bính 1949 Đồng Tháp Mười là vùng đất của Đồng bằng sông Cửu Long diện tích 697.000 hecta, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp. Nhờ sông Cửu Long mang phù sa về bồi đắp ruộng vườn phì nhiêu „làm chơi ăn thiệt“ nên đời sống người dân sung túc, tính tình cỡi mở hồn nhiên, chất phát thật thà, giọng nói cũng ngọt ngào dễ mến (khác với giọng Quảng Nam khô khan, rắn rỏi,). Họ xây nhà theo mô hình „trước là nhà, sau là vườn cây ăn trái“. Trong khi đất miền Trung khô cằn sỏi đá, chiến tranh tàn phá cao độ hơn miền Nam. Giữa tháng 3 năm 1975 tôi đi công tác có dịp tham dự đại lễ ngày Đức Thầy thọ nạn, do tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tổ chức tại Đốc Vàng Hạ xã Tân Phú nơi Đức Thầy bị nạn 25/2 âm lịch 1946, thuộc quận Thanh Bình, tỉnh Kiến Phong. Nơi nầy còn có địa danh Đốc Vàng Thượng với dinh ông Đốc Vàng ở ấp Nam xã Tân Thạnh, lúc sanh tiền ông lập được nhiều công lao chống giặc ngoại xâm, sau khi qua đời vua Minh Mạng truy tặng tước vị và được người dân xã Tân Thạnh lập đền thờ. Chùa Tây An Hồi tưởng lại chuyến đi Cao Lãnh Kiến Phong, tỉnh Kiến Phong nằm phiá bắc Tiền Giang các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc. Kiến Phong bắc giáp với Campuchia, đông và đông bắc giáp hai tỉnh Định Tường và Kiến Tường, nam giáp tỉnh Vĩnh Long tây và tây nam giáp hai tỉnh Châu Đốc và An Giang, xe từ Sa Đéc phải đi qua chuyến phà từ Tân Mỹ (thuộc quận Lấp Vò Sa Đéc nơi sinh trưởng của Phật Thầy Tây An). Quận Thanh Bình nằm trên quốc lộ 30, cách Cao Lãnh khoảng 25km về hướng tây bắc. Địa giới của huyện Thanh Bình ở phía bắc giáp huyện Tam Nông, phía nam và phiá tây giáp sông Tiền Giang, phía đông giáp huyện Cao Lãnh. Trên đồng ruộng máy cày tạo nên những luống cày thẳng tắp, đất khô phơi màu bùn xam xám, những con kinh nước lên xuống trong ngày, nước xuống để trơ những cành cây không lá rong rêu, người ta gọi là chà, là nơi cá tôm sinh sống, lúc nước xuống cạn họ dỡ chà dài khoảng 10 m, bùn non nước sền sệt người ta tìm bắt vô số cá, tôm đủ loại cả giạ, họ bán hoặc phơi khô làm mắm tích trữ cho mùa nước lên. Những con rắn bông súng, rắn nước cũng bị bắt, cá lóc (cá tràu) to bằng bắp chuối nướng trui không cần sơ chế, nghĩa là không đánh vảy, không cạo nhớt, không mổ bụng, không tẩm ướp gia vị. Cá lóc vừa bắt dưới sông lên, rửa sạch, được xuyên bằng một que dài từ miệng đến đuôi, sau vùi cá vào đống rơm khô rồi châm lửa đốt hoặc cắm que xuống đất lấy rơm phủ lên và đốt lửa cho đến khi tro tàn. Khi cá chín, cạo bỏ lớp vẩy đã cháy xém để lộ ra thịt cá trắng, thơm ngon là món khoái khẩu của dân nhậu, chấm với nước mắm me dốt, khề khà với rượu Đế, dân miền Nam miệt vườn quanh năm thưởng thức thơ rượu, hát hò… Chúng tôi đến chợ Thanh Bình buổi trưa nước ròng, trên kinh vắng bóng ghe đò, hai bên bờ kinh từng đoàn xe honda chạy về hướng Đốc Vàng Hạ. Thiếu tá Lộc quận trưởng cho biết tình hình an ninh ở đây khả quan vì giáo dân là những người rất chống cộng. Đại lễ Đức Thầy thọ nạn tưởng nhớ ngày CS sát hại Giáo chủ, ngày lễ sẽ có nhiều Chính khách, Dân biểu về tham dự… Nắng chiều trải rộng trên kinh tràn ngập những cánh hoa lộc bình (Eichhornia crassipies) màu tím trang điểm thêm nét đẹp của thiên nhiên mây nước, ghe đò chạy vô ra náo nhiệt lo cho ngày lễ Hội, chúng tôi quá giang ghe vào Đốc Vàng Hạ, hai bên kinh nhà cửa khang trang lợp ngói đỏ, xây cao hơn mặt đất 1 vài mét, sàn nhà bằng gỗ, dưới những gốc cây cau có lu đựng nước mưa, nhà giàu xây những bể chứa nước mưa to lớn, phương tiện chính duy chuyển ở đây là ghe xuồng nên nhà nào cũng có ghe gắn máy đuôi tôm. Gần đến điạ điểm tổ chức là khoảng đồng trống có đồn Nghiã quân, lô cốt bằng đất chung quanh rào sơ sài hai lớp mỏng kẽm gai concertina, là đồn nhưng gọi trạm thì đúng hơn, quân số một tiểu đội chưa đủ 12 người. Anh trung đội trưởng vui tính luôn phì phà điếu thuốc trên môi, anh rất lạc quan vì tình hình nhiều năm ở đây bình an, CS chỉ hoạt động mạnh ở các vùng Kiến Tường Mộc Hoá, Sầm Giang, Cai Lậy…Trung đội anh phụ trách hai đồn nhỏ trong và ngoài giữ an ninh chống kinh tài VC về thâu thuế. Sân khấu đài tưởng niệm dựng trên vùng đất rộng bao la bằng phẳng mượt mà cỏ xanh, chung quanh là nhà dân sầm uất. Người về càng đông hàng quán ì xèo bán thức ăn, nhạc vàng, cải lương vọng cổ vang trong gió chiều từ những dàn nhạc âm thanh lớn, Stero Radio cassette của các quán nhậu đặc sản của Đồng Tháp Mười về đêm đèn Manchon sáng chói. Chúng tôi được chính quyền địa phương giới thiệu về địa lý và di tích lịch sử của Đốc Vàng, tôi hân hạnh gặp cụ Phan Văn Mười (Mười Tỷ) cận vệ Đức Thầy là người có duyên may thoát chết trong vụ án Đốc Vàng. Sau biến cố Đốc Vàng, cụ tiếp tục con đường hành đạo theo giáo lý của Đức Thầy kể lại biến cố lịch sử. „Đức Thầy ngồi bàn giữa, nói chuyện với Bửu Vinh, còn 4 cận vệ cầm súng đứng 2 bên gần cửa. 10 phút sau có 8 người từ bên ngoài đi vào, chia làm 4 cặp, tràn tới đâm 3 cận vệ chết tại chỗ, ông nhảy xuống bờ kinh thoát nạn, ngôi nhà ngói bị tắc đèn chìm vào bóng đêm âm u, Đức Thầy vắng mặt từ đó…„ Tín đồ Hòa Hảo tin Đức thầy còn sống ngài sẽ trở lại trong vinh quan, nhưng theo các tài liệu của Việt Minh thì Đức thầy bị sát hại thủ tiêu mất xác. (do Đào Công Tâm và Bửu Vinh thi hành). Việt Minh chủ trương tiêu diệt tín đồ PGHH cố Thi Sĩ Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp (anh em chú bác với nhà văn Nguyễn Hiến Lê), ngày 08.9.1945 thừa lệnh Đức Thầy thi sĩ Việt Châu đi Cần Thơ hòa giải việc tín đồ PGHH bị bắt giữ sau cuộc biểu tình, bị VMCS tráo trở bắt tử hình tại Cần Thơ ngày 07.10.1945 (02.9 Ất Dậu) chung với hai ông Trần Ngọc Hoành và Huỳnh Thạnh Mậu em phần xác Đức Thầy. Các lực lượng vũ trang của Dân Xã đã đồng loạt tấn công vào lực lượng vũ trang và các cơ sở của Việt Minh tại các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ với danh nghĩa để trả thù cho Giáo chủ. a/ Nhóm Trần Văn Soái, tức Năm Lửa, mang danh nghĩa Quân đội Hòa Hảo, hoạt động tại Cần Thơ, Vĩnh Long, đặt bản doanh tại Cái Vồn. b/ Nhóm Lâm Thành Nguyên, tức Hai Ngoán, hoạt động tại 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc, bản doanh đặt tại Cái Dầu. c/ Nhóm Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt, mang danh nghĩa Nghĩa quân Cách mạng, kiểm soát vùng rạch Giá, Long Xuyên, đóng bản doanh tại Thốt Nốt. d/ Nhóm Nguyễn Giác Ngộ tức Ba Gà Mổ, mang danh nghĩa Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, đóng tại một vài khu vực trong tỉnh Long Xuyên, đặt bản doanh tại Chợ Mới. Đến Đốc Vàng tình cờ tôi gặp ông Tưởng khi nghe ông nói giọng Quảng Nam, ông định cư ở Mộc Hóa nhưng con gái lấy chồng về Đốc Vàng, ông đến thăm cháu ngoại và dự đại lễ. Năm 1957 thời TT Ngô Đình Diệm ông đi theo chương trình di dân, đến các khu trù mật, dinh điền được chính phủ trợ cấp để khai phá lập nghiệp. Chú An con rể ông là lính sư đoàn 9 bị thương được giải ngũ nhưng còn khỏe, nhà có máy cày đầy đủ tiện nghi, phản bằng gỗ mít dày bóng loáng, bộ ghế salon gỗ trên bàn kính có lộng hình con cháu… Con gái ông nói giọng Nam, đời sống gia đình thuộc hạn trung lưu, con rể lịch thiệp hiếu khách vồn vã mời chúng tôi ở lại ăn tối và ngủ đêm có mền mùng không sợ muỗi cắn. Buổi tiệc làm nhanh gồm các món: lươn um với bắp chuối, cá nướng rơm, canh chua cá lóc, cá trê kho tộ, tôm chua, bia 33 nước đá lạnh…Ông Tưởng nhắc lại những ngày ngoài quê nghèo, làm mướn cuối ngày được chủ trả mấy lon gạo (lon sữa bò dùng để đo luờng), cơm độn khoai sắn quanh năm mưa nắng làm gì có thịt cá hả hê như ngày nay, ông luôn nhớ kỷ niệm tình hàng xóm nơi chôn nhau cắt rún Quãng Nam. Con cháu ông sinh trưởng miền Nam đời sống sung túc không khổ như đời cha, phải đổ mồ hôi để đổi lấy miếng cơm. Đồng hương gặp nhau ở xứ người là một niềm vui „ôn cố tri tân“ dù thế hệ tuổi tác tôi với ông cách xa nhau, nhưng bổng dưng có một sự thắm thiết chân tình. Tôi ở lại với gia đình con cháu ông như gia đình mình, chuyện xưa được gợi lại như một kỷ niệm đẹp trôi theo giòng đời…càng về khuyua thanh vắng vòm trời cao có những ánh sao đêm, mọi người ngủ say, tôi giật mình lo sợ nghe tiếng súng, lựu đạn nổ ở hai đồn nghiã quân kéo dài khoảng 20 phút, chú An từng kinh nghiệm tác chiến cho biết tiếng súng AK và đạn B40 là của VC, nên bình tĩnh trong nhà không nên đốt đèn, chờ sáng để biết tình hình, thời gian chờ đợi, lo sợ trôi qua rất chậm. Trời vừa hừng sáng chú An ra bờ kinh nhìn về phiá đồn nghiã quân lô cốt không còn mái tôn, bộ đội VC đội mũ cối ở trong đồn, những nghiã quân sống sót bỏ đồn nương theo bờ kinh chạy thoát hiểm, hai nghiã quân hy sinh xác còn trong lô cốt đất, cả hai đồn nghiã quân bị chiếm. Đại đội chủ lực quân VC về đánh phá ngày đại lễ. Mặt trời lên cao ghe đò chờ nước lên để di tản, chúng tôi phải băn ngang cánh đồng vì hai đầu nơi tổ chức đều bị VC chiếm và đóng chốt. Đoàn người như đàn cò trắng trên cánh đồng khô tìm lối thoát thân, VC bắn theo, tiếng đạn kêu vèo vèo đầu đạn cắm xuống những luống cày khô bụi bay ngay trước mặt, may mắn không ai bị thương. Đây là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng tôi chạy toát mồ hôi dưới làn đạn giết người của VC, ông Tưởng chửi luôn miệng „Tiên sư giặc Hồ không để cho dân chúng sống bình an…” Ngày đại lễ cuối cùng của Phật Giáo Hòa Hảo miền Nam không thể thực hiện. Sau 1975 Phật Giáo Hòa Hảo không được phép nhắc tới ngày Đức Thầy thọ nạn vì đó là điều bị nhà cầm quyền cộng sản cấm kỵ Phật Giáo Hòa Hảo trải qua những biến đổi của lịch sử, từ thời kháng chiến chống Pháp, chống Việt Minh và thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cũng lắm thăng trầm và chua xót. Trước năm 1975 các Tôn giáo tại miền Nam đều có quyền tự do hoạt động, có các sở văn hóa, truyền giáo, từ thiện… Viện Đại Học Hòa Hảo thành lập năm 1970, tại Long Xuyên chương trình học nhằm đào tạo cho giới trẻ sinh trưởng tại miền Nam có cơ hội tiến thân không cần phải đi học xa ở Sài Gòn và cạnh tranh với các Viện Đại học Vạn Hạnh (Phật giáo 1964), Viện Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà lạt (Công giáo1957) Viện Đại học Cao Đài Tây Ninh (1971)… Đại học Hòa Hảo gồm có các phân khoa - Thương mại Ngân hàng - Khoa học Quản trị - Giao dịch và Ban giao Quốc tế - Nông nghiệp - Văn khoa và Sư phạm - Trung tâm sinh ngữ - Đông y. Tóm lược lịch sử Đạo Hòa HảoÐức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo tại làng Hòa Hảo tức là sinh quán của Ðức Huỳnh Giáo Chủ, Đức Thầy sinh 15.01.1920 (25.11 Kỷ Mùi) tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc, (nay huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Ngài là người sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo, làng nầy có nếp sống thanh bình an lạc. Thuở nhỏ ông thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược Pháp-Việt nhưng thường bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học. Lên núi Sam còn có tên là Vĩnh Tế Sơn hay Ngọc Lãnh Sơn cao 284 m có chu vi 5.200m, là một núi nằm trong vùng Bảy Núi, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay là phường Núi Sam, Châu Đốc. Tu theo Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được khai sáng năm 1849 bởi ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, tổng An Thạnh Thượng, Lấp Vò Sa Đéc. Ông Đòan Minh Huyên đến tu tại chùa Tây An hay Tây An cổ tự được tín đồ tôn kính gọi là Phật Thầy Tây An. Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000m m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh, mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa. Nơi nầy ông Huỳnh Phú Sổ được trị lành bệnh và luyện chí tu hành. Năm 1937 Huỳnh Phú Sổ về làng, chữa bệnh cho dân, viết kinh, giảng sấm, được dân gian gọi là Phật Thầy. Từ đó đạo Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng tại làng Hòa Hảo. Tín đồ PGHH không buộc phải cạo đầu vào chùa, bỏ mọi việc ngoài thế gian, họ ở tại gia đình sống như mọi người công dân khác với nếp sống bình dị trong nông nghiệp, tu hành theo giáo lý Tứ Ân Hiếu Nghiã: a/ Ân Tổ Quốc Cha Mẹ b/ Ân Đất Nước c/ Ân Tam Bảo ( Phật Pháp Tăng) d/ Ân Đồng Bào Nhân Loại Tín đồ PGHH là cư sĩ tu tại gia sửa thân tâm, đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp trù phú miền Nam. Trên bàn thờ, không có tượng Phật, chuông mõ. Chỉ có tấm Trần bằng vải màu dà, tượng trưng cho sự hòa hợp nhân loại, và cho màu sắc nhà thiền. Ðó là bàn thờ Chư Phật. Dưới bàn thờ Phật là bàn thờ Cữu Huyền Thất Tổ thờ ông bà cha mẹ đã khuất. Trước nhà có bàn thờ lộ thiên (gọi là bàn Thông Thiên) để người tín đồ cảm thông với Trời Ðất, bốn phương trời, mười phương Phật. Họ chỉ dùng nước lạnh, bông hoa, và nhang để cúng Phật. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng mùi hương thơm tẩy ô uế . Mỗi ngày người tín đồ PGHH làm lễ cúng Phật, ít nhất hai lần, sáng và tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày vía Chư Phật, họ đến chùa hay hội quán hành lễ, nghe kinh giảng, thuyết pháp. Lúc đãnh lễ họ không dùng mõ chuông, mà chỉ lâm râm tâm niệm. Khi nào bận việc thì đến giờ hành lễ họ quay mặt về hướng Tây mà cúng Phật, và khuyến khích nhau ngồi đâu, ở đâu cũng tụng niệm trong tâm. Ngoài ra trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy phóng thanh, để mỗi ngày trong những giờ nhất định, có những giảng viên đến đọc kinh giảng hay thuyết pháp cho người chung quanh. Ðộc Giảng Ðường Phật Giáo Hòa Hảo là những ngôi chùa thâu hẹp để truyền đạo, không phải để cư trú nên nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia. Hệ thống sinh hoạt của Phật Giáo Hòa Hảo trước 1975 gồm có: 1/ Các Ban Trị Sự Tỉnh: An Giang, Sa Đéc, Kiến Phong, Kiên Giang, Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, An Xuyên, Ba Xuyên, Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Bình, Kiến Hòa, Kiến Tường, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Định và Long An Định Tường. 2/ Các Ban Trị Sự Thị Xã: Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho, rạch Giá, Vũng Tàu, Đà Lạt. 3/ Các Ban Trị Sự trực thuộc Trung Ương: Thánh Điạ Hòa Hảo xã Thiện Từ, 82 Ban Trị Sự cấp quận, 476 Ban Trị Sự cấp xã, 3100 Ban Trị Sư cấp ấp 4/ Cơ Sở Tự Viện: 231 chuà và Tự viện; 468 Độc giảng đường; 452 Hội quán; 2876 Văn phòng. 5/ Nhân sự: 36500 Trị sự viên các cấp; 2679 Tu sĩ và nhân viên tại các tự viện; 10.000 nhân viên và khóa sinh ngành phổ thông Giáo Lý.… Sinh hoạt chính trị tại miền Nam còn có chính đảng: Đảng Dân Chủ Xã Hội Việt Nam còn được gọi là Đảng Dân Xã hay Dân Xã Đảng Hòa Hảo là một đảng chính trị lớn hoạt động ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1946-1975 rất mạnh, có Dân biểu, Thượng nghị sĩ đại diện cho PGHH, Người miền Trung đến làm việc tại các tỉnh miền Tây “nhập gia tuỳ tục“ phải tế nhị trong vấn đề giao tế với đại diện tín đồ PGHH đàn ông lớn tuổi họ còn bới tóc. Sau 30.4.1975 Dân Xã đảng và các đảng phái khác dưới thời VNCH bị cấm hoạt động. Một số thành viên của Dân Xã đảng sau năm 1975 tập hợp tái hoạt động tại hải ngoại đấu tranh, hổ trợ cho Phật Giáo Hòa Hảo trong nước bị nhà cầm quyền CS đàn áp, đánh đập bắt giam cấm hành đạo. Hàng năm ở hải ngoại tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo làm kỷ niệm ngày Đức Thầy thọ nạn. Nhìn lại 37 năm qua CSVN luôn đàn áp tôn giáo, không riêng gì PGHH bị nạn, cả nước biến thành nhà tù của chế độ CS vô thần. Trong chuyến viếng thăm Cuba Đức Giáo Hoàng nói: “Ngày nay đã rõ ràng là ý thức hệ mác xít tỏ ra không thích hợp với thực tại” và ngài kêu gọi “Cuba cần phải có tự do của lương tâm và tự do tôn giáo cho mọi người”. Các Quốc gia còn theo chủ nghiã Cộng sản trong đó có Việt Nam cần phải sớm từ bỏ chế độ CS để người dân được sống hoà bình, tự do dân chủ… ————– © Nguyễn Quý Đại www hoamunich.wordepress.com Tài liệu, hình ảnh tham khảo trên Internet
|
|