|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 6:33:55 GMT 9
Nguồn gốc ma cà rồng Báo Interfax của Nga cách đây không lâu đưa tin, một thanh niên ở tỉnh Kaliningrad dùng dao sát hại một cụ già, sau đó ngửa miệng hứng lấy dòng máu chảy ra từ vết thương. Đài BBC (Anh) trước đó cũng từng phản ánh sự việc tương tự: công dân Mathew Hardman 17 tuổi mưu sát người hàng xóm, hút máu hòng mong được... trường sinh. Báo chí các nước không ít lần được phen rùm beng bởi những câu chuyện rùng rợn như thế. Phải chăng, đó là bằng chứng sống về sự hiện diện có thật của ma cà rồng?
“Chắc chắn là không” - Sergei Vasilyev, giáo sư Viện khoa học Y khoa khẳng đinh. “Số trường hợp cá biệt này đơn thuần là những kẻ điên loạn được gọi chung bằng cái tên “Quỷ Sa-tăng”. Họ hút máu người để phục vụ nghi thức tín ngưỡng nào đó. Họ cũng không thuộc lớp người bệnh hoạn mà dựa theo đó hình tượng ma cà rồng thời Trung cổ bắt đầu được dựng lên”.
Theo truyền thuyết, ma cà rồng xuất hiện lần đầu tiên cách đây hàng nghìn năm có lẻ. Tư liệu của Tòa án dị giáo (do giáo hội Thiên chúa La Mã lập ra từ thế kỷ 15) còn ghi lại mô tả chi tiết về những sinh vật hút máu người: màn đêm buông xuống mới là lúc chúng rời hầm mộ đi tìm nạn nhân đang say ngủ, chúng sợ ánh sáng mặt trời, mắt trắng điên dại và răng nanh nhọn hoắt.
Bác sĩ người Anh Lee Eallis là người đầu tiên nghiên cứu ma cà rồng dưới góc nhìn của khoa học. Ông đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa “những sinh vật hút máu được quy chụp cái tên ma cà rồng” và bệnh porphyria - một triệu chứng rối loạn di truyền hiếm gặp, gây ra bởi sự xáo trộn trong quá trình biến dưỡng thực phẩm mang sắc tố đỏ tươi khi đưa vào cơ thể.
Năm 1963, Eallis gửi lên Hội Y khoa Hoàng gia Anh công trình nghiên cứu “Porphyria và nguồn gốc Ma cà rồng”. Đáng tiếc, tác phẩm này nhanh chóng bị các thành viên trong Hội bỏ quên, mãi cho đến giữa những năm 1980 mới được giáo sư Wayne Tikkanen, một đồng nghiệp của Eallis, chú ý và khôi phục lại giá trị.
Vậy, do đâu mà xuất hiện ma cà rồng?
Các nhà khoa học khẳng định, nguyên nhân chính là căn bệnh porphyria - một loại bệnh gen di truyền làm ảnh hưởng đến các sắc tố dưới da.
“Vào giai đoạn cuối, khuôn mặt bệnh nhân porphyria bị biến dạng một cách kỳ dị và hãi hùng, tới mức ngay cả chủ nhân của nó cũng không đủ can đảm soi gương. Nước da sạm lại, nướu răng bắt đầu tróc ra từng mảng khiến cho gốc chân răng càng chìa hẳn ra ngoài. Lợi chuyển sang màu đỏ quạch, ri rỉ máu máu, trông như thể hàm răng vừa cắm ngập vào... cổ ai.
Thêm nữa, những người này cũng rất sợ tiếp xúc với ánh sáng, bởi sẽ làm da phồng rộp và nhiễm trùng. Do đó họ chỉ dám ra ngoài vào ban đêm. Rối loạn tâm lý phát sinh từ hoàn cảnh tù túng ức chế này”. Không ít bệnh nhân porphyria rơi vào trạng thái cuồng loạn đã nảy ra ý nghĩ điên rồ: tìm hơi máu để làm dịu cơn đau đớn.
“Porphyria là căn bệnh bí hiểm nhất mọi thời đại” - giáo sư Vasilyev cho biết. Hiện nay các bác sĩ vẫn đang tiến hành tìm kiếm các phương thức điều trị bằng gen, kết hợp biện pháp trước mắt là truyền máu. Tuy nhiên việc truyền máu tỏ ra không hiệu quả khi bệnh bước vào giai đoạn cuối. Cũng may, số người mắc căn bệnh nguy hiểm này không nhiều, trên thế giới hiện mới chỉ ghi nhận được hơn 100 trường hợp.
Người ta đồn đại rằng, Hennelora Kohl - phu nhân cựu thủ tướng Đức Helmut Kohl cũng là một bệnh nhân porphyria. Không diễn tả nổi sự đau đớn của bà mỗi lần da tiếp xúc ánh sáng mặt trời. Suốt một thời gian dài bà đã phải giấu mình trong phòng kín, trước khi tự sát tại nhà riêng ở thành phố Ludwigshafen vào ngày 5/7/200.
Hải Minh Theo Pravda ****************** Linh miêu thường hay sống và chết ở ngoài đồng, hay nơi mồ hoang, mã lạc. Linh miêu có linh tánh, có ai muốn bắt nó, nó liền biết và trốn ngay. Muốn dùng linh miêu luyện phép, tốt nhất là dùng linh miêu đã chết, phần vì khó mà tìm và bắt được linh miêu sống. Phần vì gặp được xác linh miêu chết, thì xem như mình có duyên luyện được phép vậy.
HaiPhong đã trải qua một việc, khiến hai mươi mấy năm nay, mỗi khi nghe đến hai chữ ”linh miêu” là nhớ lại chuyện xưa, lòng vẫn còn thắc mắc.
Chuyện như sau, hồi đó, sau khi nghe các sư huynh kể về linh miêu, nghe rồi để đó, như nghe một truyền thuyết, không mong gì gặp hay bắt được con vật có linh tánh này. Cho đến một ngày… Cuối xóm của HaiPhong có một nghĩa địa lớn, mồ mã được xây lộn xộn, không theo hàng lối. HaiPhong cùng những người bạn lối xóm, lớn, nhỏ thường ra nghĩa địa này chơi vào buổi trưa, hay chiều. Buổi tối chỉ dám ra, khi tụ họp được một nhóm đông người. Một buổi trưa mùa hè, nắng gắt, không biết mắc chứng gì, HaiPhong lang thang ra nghĩa địa một mình, đi từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Đến một ngôi mộ xây rất thấp, lưng mộ bằng phẳng, thì bắt gặp một đống da, lông bầy nhầy, vài cái xương sườn, xương chân và một cái sọ. Nhìn vào cái đống bầy nhầy này, HaiPhong biết ngay là phần còn xót lại của một con mèo chết. Lòng nhủ thầm ”không biết con mèo này chết hồi nào, mà rã trơ xương như thế này? Hay là có quạ, chó gì xơi xác con mèo này?” Vừa nghĩ đến đây, HaiPhong chợt nhớ đến lời các sư huynh kể về linh miêu. Nhìn cái xương sọ trắng hếu, sạch trơn HaiPhong định lượm, nhưng chợt nghĩ ”Hay là chạy về gọi mấy anh luyện bùa ra đây lấy sọ linh miêu về. Không chừng mấy ảnh phải làm phép trước khi lượm về luyện phép”. Nghĩ vậy, HaiPhong liền chạy ù vào xóm và gặp ngay hai anh đang ngồi tán dóc trước thềm nhà hàng xóm. HaiPhong nói ngay ”Hai anh theo em mau, có cái này hay lắm, đang ở ngoài chòm mã”. Hai anh chàng nhìn bộ dạng hớt hơ, hớt hải, vừa chạy vừa nói của HaiPhong, thì tin là có chuyện gì lạ đây, nên liền đứng dậy chạy theo. Vừa chạy vừa hỏi ”Chuyện gì vậy?” HaiPhong nói nhỏ ”Hình như có xương sọ của con linh miêu ngoài chòm mã”. Hai anh chàng tự dưng như phát cuồng lên, vừa chạy vừa la ”mau lên, mầy chạy chậm quá vậy”. Ra tới nơi, thì lạ chưa, da, lông, xương sườn, xương chân còn đó, nhưng cái xương xọ thì đã biến mất! Hai anh chàng dòm tới, dòm lui, rồi hỏi ”Đâu, xương sọ đâu?”. HaiPhong giơ tay ra chỉ và nói ”Hồi nãy nó nằm chần dần ở đây, bây giờ đâu mất tiêu rồi, sao chỉ còn lại da, lông, xương sườn, xương chân không vầy cà!” Nhìn đống da, xương, hai anh chàng tin là HaiPhong không nói dóc, nên vừa lục tìm dáo dác sang các mả bên cạnh, vừa nói ”Mầy nhớ kỹ coi, có phải chổ này không”. HaiPhong trả lời ngay ”Thì ở đây chớ đâu. Da, lông, xương còn rành rành đây mà!”. Lục tìm một lúc không được gì, một trong hai anh xà vào một bụi cây gần đó, bẽ một nhánh, đếm lá trên nhánh cây, miệng lẫm bẫm ”Chắc nó biến mất rồi, không tìm được đâu”, nhưng vẫn tiếp tục tìm. Lục tìm thêm một lúc nữa, hai anh chàng đành chịu thua, đi lững thửng vào xóm, mặt mày tiu ngĩu như vừa đánh mất vật gì quí giá lắm. HaiPhong lẽo đẽo theo sau. Một trong hai anh quay lại nói với HaiPhong ”Mầy ngu quá, gặp không chớp liền, chạy về kêu tụi tao làm gì, lại còn nói tên nó ra nữa, nó nghe được nên… biến mất rồi. Chuyện này không được nói với ai, nghe mậy!”. HaiPhong thấy quê quê, nên ậm ừ cho xong chuyện. Khoảng một tuần lễ sau, HaiPhong đi la cà trong xóm, thấy thầy trò các anh ngồi nói chuyện, liền xà vào nghe ké. Nói hết chuyện đời, qua chuyện đạo, sang đến phần nói về các linh vật luyện phép, thì một trong hai anh đi tìm sọ linh miêu với HaiPhong hôm trước, chính là anh đã căn dặn HaiPhong không được nói ra chuyện tìm sọ linh miêu, nhịn không được bèn kể với thầy ”Hôm trước, thằng Phong thấy… ở chòm mã… sương sọ… ra đến… mất tiêu!” Thầy nghe xong im lặng ra chiều suy nghĩ, nét mặt phản phất chút nuối tiếc, ngẫn ngơ. Bất chợt thầy cười khà khà, có lẽ thầy cười cái tánh khờ khờ, trẻ con của HaiPhong, rồi nói ”Các linh vật luyện phép, phải có duyên may mới gặp được, gặp rồi không lấy, để cho duyên may đi qua, làm sao tìm lại được!”.
Hai mươi mấy năm qua, trong đầu HaiPhong luôn phân vân giữa hai giải đáp. Gải đáp thứ nhất là con linh miêu có thật. Và nó có tánh linh đến độ chết trơ xương, vẫn biết biến mất, không cho người ta lấy phần xương của nó luyện phép. Giải đáp thứ hai dễ tin và có vẽ khoa học hơn. Đó là sự biến mất của chiếc xương sọ chỉ là một sự trùng hợp. Trong lúc HaiPhong chạy vào xóm, rồi chạy trở ra, con chó nào đó đã thấy và tha cái sọ đi chỗ khác để xơi tái. Nếu quả thật cái sọ bị chó tha đi, thì con chó tinh quái nầy có biết chăng, việc nó chỉ tha chiếc sọ, bỏ lại xương sườn, xương chân, đã gieo một thắc trong lòng HaiPhong suốt hai mươi mấy năm qua?
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 6:35:42 GMT 9
Quỉ Nhập Tràng
--------------------------------------------------------------------------------
Quỷ nhập tràng là một hình thức của xác chết biết đi, mượn xác người chết mà đội mồ sống lại. Hình như ở châu lục nào cũng có những loài tương tự như quỷ nhập tràng. Phương Tây có ma cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cương thi, thi biến… còn ở VN thì gọi là quỷ nhập tràng. Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những người vừa mới chết, mượn thể xác họ sống dậy để làm những việc mà bình thường khả năng nó không làm được (vì không có thân tứ đại). Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của phương Tây, hy vọng có vị nào hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng phải chăng từ Rumani , gắn liền với tên tuổi của Bá tước Dracula- nhân vật có thực trong lịch sử quốc gia Rumani thời xưa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền thoại? Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan, Mônđavi… Tại sao những người chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn đang chờ câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phương Tây. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra chủng loại này. Ở những nghĩa địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng Rumani, Balan, người ta nghe có những tiếng động ở dưới đất. Khi mở những ngôi mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà đều hãy còn tươi tắn như đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng họ đã dùng máu để nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình, dân làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cư ngụ ở những làng khác, vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhưng tại sao không hề có hiện tượng này. Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker, ta thấy bá tước ma cà rồng Dracula khi đi sang đất nước khác đã cho chở theo những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất ấy là nguồn sống của chủng loại này? Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nước ta, có một số làng bản có người chết, họ không chôn xuống đất mà đục vách núi đặt quan tài vào hoặc đưa quan tài vào những động đá sâu thẳm trên dải Hòang Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở đó đã nhận ra điều gì bất bình thường từ trong đất? Cách chống ma cà rồng thường là nước Thánh, các vật đã được làm phép Thánh, Thánh giá, tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng xác chết và cuối cùng là thiêu hủy ( mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại, không phải do kinh nghiệm thật). Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xưa, Ấn Độ có phong tục quấn vải vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây hoặc để dưới gốc cây cho đến khi rữa nát. Nơi để xác chết được gọi là Thi Lâm Một loài quỷ sống ở đó đã mượn những xác còn mới để sống dậy trở thành Vêtala, ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay nhà buôn gần sạt nghiệp, được vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng đổi đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho đến khi nào xác chết cử động được và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện. Trì đến đêm thứ bảy, xác chết bổng mở mắt nói cười, anh nhà buôn hỏang hốt vọt mình bỏ chạy. Nhưng dù anh có đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt được từ trong sách vở dân gian của Ấn Độ trước đây mà thôi). Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa. Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng phép luyện cương thi để làm vật hại người, làm điều mờ ám như buôn bán thuốc phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng được dấu trong mình cương thi, thậm chí họ còn giả cương thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xưa dám ngăn chặn đạo sĩ để khám xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nước cấm đóan, phép luyện cương thi dần dần mai một… Quỷ nhập tràng xuất hiện trong các câu chuyện dân gian, xuất hiện cả trong các tác phẩnm văn học lớn. Sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng linh có câu chuyện “Thi biến”. Câu chuyện như sau: “Huyện Tín Dương – Trung Quốc có một người làm nghề buôn bán hàng quán, cho khách trọ đêm, cách thành đô năm sáu dặm. Một hôm trời tối, có bốn người khách buôn gõ cửa xin trọ, nhưng quán của ông đã không còn phòng. Bốn người khách không biết đi đâu nên mới van xin. Sau một lúc cân nhắc, ông chủ quyết định để các vị khách của mình vào nghỉ ở phòng trong. Nơi quàng xác đứa con dâu mới chết. Lúc ấy, con trai ông đi mua quan tài chưa về. Trong nhà trong còn đủ giường chiếu, xác chết được phủ chăn giấy nằm ở phía sau tấm trướng. Mấy người khách buôn mệt mỏi đặt mình xuống là ngủ ngay, chỉ có một người còn mơ màng. Chợt anh ta nghe phía linh sàng có tiếng động, mở mắt ra nhìn, anh thấy xác người phụ nữ lật chăn bò dậy, bước xuống đất tiến về phía giường ngủ bốn người. Anh ta sợ quá kéo chăn trùm kín đầu, nín thở lắng nghe. Xác chết lần lượt đến thổi vào từng người, sau đó quay trở lại linh sàng. Người khách buôn vội lay các bạn dậy nhưng họ đã lạnh cứng. Hỏang hốt, anh bò dậy tháo chạy ra ngoài, thây ma đang nằm liền vùng dậy đuổi theo. Anh chạy đến đâu, xác chết đuổi theo đến đó, chạy đến một ngôi chùa, phía trước có một cây bạch dương to đầy một ôm tay. Anh lái buôn liền chạy vòng quanh cây với xác chết như chơi trò cút bắt. Đuổi nhau mãi như thế đến khi anh ta mệt nhoài đứng thở hồng hộc, chợt thây ma bổng nhảy xổ lên vươn hai tay chộp qua cây, khách kinh hãi ngã vật ra bất tỉnh. Trong chùa nghe tiếng la hét vội đốt đèn chạy ra, nhìn thấy người khách nằm cứng đờ vội đưa vào trong cứu chữa. Đến trời tờ mờ sáng, khách tỉnh dậy kể đầu đuôi sự việc, mọ người ra ngoài xem, quả nhiên thấy xác người đàn bà đang đứng ôm vòng thân cây. Hai tay quắp chặt vào cây như móc câu, ngập cả móng. Đến khi kéo ra được, thân cây lủng sâu như đục lỗ…” Ở Việt Nam, quỷ nhập tràng thường xuất hiện ở những vùng quê hẻo lánh, vùng đồi núi Trung du vắng vẻ bóng người. Trước đây, khi dân cư còn thưa thớt, thỉnh thỏang người ta vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện nửa hư nửa thực về loài quỷ này. Học giả Toan Ánh cũng có một câu chuyện thật về quỷ nhập tràng ở vùng quê miền Bắc…. Cách nay hơn bảy mươi năm, ở làng Dũng Quyết, huyện Quế Dương xứ Kinh Bắc có người đàn ông tên Tòng bị bệnh chết. Trong khi đang chờ khâm liệm, ông chợt sống lại, không nói không cười, thân thể cứng đơ, đôi mắt trừng trừng như mất hồn không hề nhắm. Từ khi ông sống lại, gà vịt trong nhà mất tích một cách khó hiểu, cho đến khi con cháu trong nhà phát hiện ông đang xé xác con chó để ăn sống bộ đồ lòng. Gia đình rước ông Tự Xung ở huyện Vô Giang về chữa trị, nhưng ngay cả Tự Xung cũng bị ông Tòng cắn đứt miếng thịt vai. Bùa phép không hiệu quả, ông Tòng cứ sống như một thây ma… Cho đến một ngày, sư bà trụ trì chùa Nguyệt Giáng xuất hiện. Bà không chữa trị, chỉ lấy Phật Ấn dán ở hai đầu chái nhà, trên nóc nhà, sau đó lặng lẽ tụng kinh trì chú. Sau ba ngày đêm trì tụng, thây ma ngã gục xuống, thối rữa nhanh chóng, lúc nhúc dòi bọ… Còn đây là câu chuyện do thầy Tư Nhang kể lại… Năm 1957, ở huyện Bù Đăng Bù Đốp- tỉnh Sông Bé có đứa bé gái con dân tộc thiểu số. Khi sinh ra nó không có xương sống, không đi được, không nói được,chỉ trườn bò mà thôi. Nuôi đến 3 tuổi thì nó chết. Người ta đem xác nó để ngài rừng 1 ngày thì nó sống lại, bò về nhà. Ở nhà thấy kì lạ lại tiếp tục nuôi nấng. Từ đó, mỗi tối khi mọi người ngủ, nó lại bò đi bắt gà và gia súc để ăn bộ đồ lòng. Về sau cả làng rình phát hiện đòi giết ,ông Cai Tổng vùng đó theo Tây học nên không đồng ý. Cả nhà liền đóng chiếc cũi lớn, bỏ nó vào khiêng sâu lên núi bỏ cho mất tích. Từ đó về sau làng không xảy ra chuyện gì lạ nữa. Quê của Thanh ở miền Tây, ở đó dân Cái Bè vẫn còn truyền miệng nhau câu chuyện về bà cụ trên 70 tuổi bệnh chết nửa ngày rồi sống lại. Bà cũng không nói năng gì, thấy ai ăn gì là chạy đến giật lấy bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Có lúc bà ngồi tự gặm lấy tay mình đến tróc thịt bày gân xương ra trắng hếu, máu chảy ròng ròng mà bà ta còn tỏ vẻ ngon lành lắm. Cả nhà hoảng hốt băng bó cẩn thận, bà lại tiếp tục gặm đến tay kia. Đành phải trói bà lại vào thành giường và rước thầy pháp tới chữa. Rước đến cúng buổi sáng thì buổi tối trong nhà nghe tiếng khóc than rì rào không ai ngủ được. Quá sợ hãi, cả nhà bắt bà đem vào nhà thương điên, ba ngày sau bà chết… Đó là những câu chuyện truyền miệng trong dân gian, yếu tố thực hư chưa phân biệt rõ. Tuy nhiên, cái mà ta cần biết không chỉ là chuyện kể. Sâu xa hơn là sự nghiên cứu tìm tòi về chủng loại này. Theo sở học cá nhân Thanh, quỷ nhập tràng xuất hiện là do bởi những yếu tố sau: 1/ Linh miêu nhảy qua xác chết: Đây là giả thiết nhiều người truyền tụng nhất. Nhưng linh miêu là có thiệt. Nó là con của một con mèo mun cái bị rắn hổ ngựa quấn lấy vào ngày tết Đoan NGọ trong năm. Đặc điểm của linh miêu khác hẳn với những con mèo khác. Nó mình dài, đuôi dài, mõm dài hơn bình thường so với những con mèo khác. Cách bắt chuột của linh miêu cũng không bình thường. Nó thường leo lên xà nhà cao đứng trên đó nhìn xuống bằng đôi mắt sáng quắc như quan sát, nhìn ngó sinh hoạt của mọi người trong nhà. Nó không bắt chuột mà chuột tự bò ra nạp mạng như bị thôi miên. Từ trân xà nhà cao, nó lao xuống vồ chuột nhanh như chớp. Trong người linh miêu có một thứ từ điển ma mị, khi nó nhảy qua xác chết, sức mạnh ma quái của nó vô hình chung phá mở cánh cửa trung giới , lôi kéo các chủng loại nào đó về nhập xác mà sống dậy. Những người Chăm gốc Chà ở quận 8, khi nhà có tang thường bắt hết chó mèo trong nhà trói gô lại hoặc nhốt chúng vào lồng thật kỹ lưỡng. 2/ Do thầy bùa trục luyện : Ở vùng Trà Sư- Thất Sơn, có một số thầy tu luyện được pháp này. Không biết có giống với phép luyện cương thi bên Trung Quốc hay không nhưng hiện tượng thì không khác mấy. Nhửng chủng loại bên ngoài tá nhập vào thể xác đã chết rồi, làm việc theo sự sai luyện của thầy. Giống này, trong giới huyền thuật gọi là ĐUÔN. tại sao gọi là ĐUÔN? Giống như con đuôn ăn rỗng ruột đọt dừa , khi nhập vào xác chết, nó ăn lần trong ruột xác chết để kéo dài sự sống trên thế gian, ăn đến khi xác rỗng hoàn toàn thì người thầy tìm một xác mới để trục luyện chúng sang. Ph ép luyện này tàn độc, chỉ khi nào căm thù nhau lắm đến mức không đội trời chung,người thầy mới sử dụng. Buổi tối, thầy làm phép trục, ĐUÔN sẽ đến nhà kẻ thù của thầy để xé xác kẻ đó.Thanh có đọc được tài liệu trước 1975 về phép luyện này của một thầy phù thủy miền Bắc, muốn sai khiển được ĐUÔN, thầy phải giữ trái tim người chết thật kĩ, dùng trái tim ấy là vật sai khiến ĐUÔN. Chẳng may pháp đàn bị phá hủy, nạn nhân tiếp theo sẽ chính là người thầy tế luyện. Làm phép này, người thầy đã bước một chân vào địa ngục rồi đó. Trong một lần về núi, được nghe một thầy Chà kể lại rằng: Có một người bệnh nặng sắp chết, bác sĩ chẩn đóan ung thư đến giai đọan cuối không còn sống được quá 24 giờ. Cả nhà cuống cuồng, kẻ thì lo rước thầy, người thì lo hậu sự. Có một ông thầy đến xem và khẳng định sẽ kéo dài sự sống cho bệnh nhân đến khi con cháu ở nước ngoài về đủ. Sau khi làm phép, thầy lấy một số tiền rồi biến mất. Quả thật đúng như lời thầy, người bệnh khỏe mạnh trở lại, đi đứng như thường khác hẳn những ngày trước chỉ nằm 1 chỗ. Điều đặc biệt nữa là không nói không cười, ăn uống mạnh bạo chẳng khác gì thanh niên, lại thích ăn tiết canh, thịt bò tái. Đến khi con cháu nước ngoài về đầy đủ, người nhà cũng chẳng thấy vẻ gì là bệnh họan. Trải qua gần 1 tháng, một hôm có vị sư tu theo hạnh khất sĩ tình cờ khất thực ngang nhà, ông đứng ngó vào nhà chăm chú, không chịu bỏ đi cho dù người nhà đã cúng dường. Chờ đến giờ cơm, sư tự nhiên vào nhà hướng về người bệnh chắp tay lần thầm chú nguyện. Bỗng người bệnh bật ngửa ra đất chết tươi. Trong chốc lát, cả nhà bịt mũi chạy làng vì thân thể người bệnh chợt trường phình lên thối rữa nhanh chóng. Vị sư khi không gánh chuyện thế gian, bị người nhà bắt lại toan giải lên công an vì tội “giết người”… Ông thầy muốn lấy le với gia đình, chắc chắn đã trục binh hoặc những vị bên trung giới vào giữ xác. Vô hình chung thể xác người bệnh biến thành quỷ nhập tràng. Nếu không có vị sư khất thực thì … không biết hậu quả sẽ ra sao. 3/ Người chết có uất khí, khi chết lại nhằm ngày giờ linh: Trước khi chết, uất khí không tan, người chết không bao giờ chịu đi vào Âm Dương đạo. Thế nào cũng thành ma ở lại thế gian. Nếu chôn xác nhằm vào cuộc đất “có vấn đề” như đã trình bày ở trên, việc thành quỷ nhập tràng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, loại này ở VN ít thấy ( hoặc có mà Thanh không biết). Người chết đi vào ngày giờ linh nếu không bị thần trùng thì cũng làm quỷ, một trong những loại ấy là quỷ nhập tràng. Sự thật, hồn người chết đã đi mất từ bao giờ. Nhưng thể xác còn ở lại thế gian cho linh giới chiếm giữ. Người nhà không biết, cứ tưởng hòan dương, lo cung phụng tẩm bổ, chữa trị tiếp tục cho đến khi chân tướng thật của quỷ hiện ra. Quỷ nhập tràng có những đặc điểm khá rõ. Sau đây là kinh nghiệm bản thân về chủng loại này: - Xương sống của người nhập tràng thường cứng, nên thường ngồi không nằm. Đêm thức trắng không ngủ, mắt không bao giờ thấy nhắm dù ngày hay đêm. - Người bị nhập, bước lên kẽm gai, miểng chai đâm lthủng thịt vẫn không hề hay biết, cảm giác. - Ngồi nơi nào, thì sau khi rời đi, chỗ đó có nước vàng nhớt, hôi thối đọng vũng. - Lấy gương để trước mặt người bị nhập, thì nó quay đi không dám ngó vào gương. - Quỷ nhập tràng hay sợ tới gần bếp lửa đang cháy ( trong kinh nghiệm dân gian của Toan Ánh thì quỷ nhập tràng sợ nước), chúng ăn rất nhiều mà khi đi cầu vẫn còn nguyên tất cả vật thực. Có lẽ thể xác đã chết, các bộ phận không còn hoạt động nên không thển tiêu hóa được. - Nhà có người bị quỷ nhập tràng thì bao giờ cũng có cảm giác lạnh, thoang thỏang mùi hôi thối, cho dù ở nhà có lau dọn xông hương cỡ nào đi nữa. - Không giống các vị thần thường thích thể xác thanh tịnh, đồng nam đồng nữ, đối tượng nhập của quỷ nhập tràng thường là người lớn tuổi, có gia đình, thể xác bệnh họan uế trược. - Nhà nào có hiện tượng này thì giai đọan đó gia đình làm ăn suy sụp, đỗ vỡ. - Trong thời gian nhà có người bị, thức ăn rất mau thiu. Khi nấu nướng xong, khỏang 2 giờ sau là trở nên nhạt nhẽo, hư hoại, có mùi. - Lúc người bị nhập đã chết hẳn, thì đêm đ1o trong nhà nghe như là tiếng mèo đuổi chuột, tiếng bình bông bị vỡ hoặc chén bát để trong kệ cũng tự nhiên vỡ nứt. - Một điều quan trọng nhất là quỷ nhập tràng không sợ bùa chú, ngũ lôi hoặc binh gia. Chỉ có Mật chú của chư Phật hoặc có chư tăng đạo hạnh tụng kinh cầu nguyện nó mới xuất ra. Trước đây, Thanh và huynh đồng đạo Bửu Sơn đi chữa bệnh cho chị một đạo hữu. Đến nơi mới biết bà ta đã trở thành quỷ nhập tràng. Cứ kiếm xó tối mà ngồi, hai con mắt trong bóng tối sáng long lanh, không khí xung quanh hôi thối và lạnh lẽo…Hai đứa cứ làm phép trị tà nhưng chẳng thấy bà ta có động tĩnh gì. Thanh và huynh Bửu Sơn chuyển sang trì Đại Bi chú, công năng thấy rõ. Bà ta tỏ vẻ sợ hãi, bịt tai nép mình vào góc cầu thang… Một tuần lễ sau bà ta chết… Những câu chuyện trên đây có sưu tầm, có thực tế. Những điều trải nghiệm chưa hẳn là chính xác hòan tòan. Rất mong các vị cao nhân hiểu biết hơn bổ sung kiến thức ngõ hầu cho mọi người được học hỏi. _________________ THANH-PALI
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 6:39:27 GMT 9
Ma cà rồng - từ huyền thoại đến khoa học
Kể khi từ vampire (ma cà rồng, ma hút máu người) được tạo ra vào năm 1734, huyền thoại ma cà rồng cứ lan rộng ra mãi, bước vào văn hóa dân gian và sau đó là tác phẩm Dracula của Bram Stoker (năm 1897). Hình ảnh ma cà rồng Trong các cuốn sách, phim ảnh và tivi, ma cà rồng được thể hiện như là những sinh vật cực kỳ phức tạp. Theo truyền thuyết, mỗi ma cà rồng đều đã từng là một con người; sau khi bị con ma khác tấn công, chết đi rồi trỗi dậy từ nấm mồ để hóa thân thành con quỷ hút máu khủng khiếp. Từ khi thể xác được phục sinh - di hài sống của một người chết - ma cà rồng thường được xem như là ''bất tử''. Chúng cũng có thể biến thành một người bình thường khỏe mạnh và khó mà bị phát hiện giữa những người sống. Ngoài ra sinh vật khủng khiếp này cũng có thể mang hình thù một con thú, thường là dơi hay chó sói, nhằm lặng lẽ tiếp cận nạn nhân. Tuy vậy, ma cà rồng vẫn có một số nhược điểm. Chúng có thể bị tiêu diệt bởi cái cọc xuyên tim hay bởi lửa; chúng sẽ chết nếu bị chém đầu và bị phơi ra dưới ánh sáng mặt trời. Chúng rất sợ cây thập tự, nước thánh và củ tỏi. Ma cà rồng không có bóng và có sức mạnh siêu nhân. Hình ảnh ma cà rồng được sáng tạo theo nhiều cách tùy vào sức tưởng tượng của con người. Những con ma cà rồng đầu tiên Không ai biết hình ảnh ma cà rồng xuất hiện từ khi nào, nhưng truyền thuyết về nó đã có cách đây ít nhất 4.000 năm ở người Assyrie và người Babylone cổ, vùng Lưỡng Hà. Thời đó họ rất sợ Lamastu (còn gọi là Lamashtu), một nữ hung thần dữ tợn luôn tấn công con người. Theo truyền thuyết của Assyrie, Lamastu (con gái của thần bầu trời Anu) chuyên lẻn vào nhà dân lúc đêm khuya để bắt cóc hay giết chết trẻ con hoặc bào thai trong tử cung người đàn bà. Lamastu cũng tấn công cả người lớn, hút máu thanh niên và gây dịch bệnh, chứng vô sinh và những cơn ác mộng. Lamastu được mô tả có đôi cánh, vuốt chim và đôi khi có đầu sư tử. Để tự vệ, các phụ nữ mang thai phải đeo bùa vẽ hình Pazuzu - một hung thần khác, khắc tinh của Lamastu. Sinh vật tương tự mà người Hy Lạp cổ sợ phát khiếp là Lamia, một nữ quỷ nửa người nửa rắn. Trong một bản văn cổ về truyền thuyết, Lamia chính là một trong số các tình nương yêu quý của thần Zeus. Giận điên người vì ghen tuông, vợ cả của Zeus là nữ thần Hera đã hại Lamia đến mất trí, khiến Lamia ăn thịt luôn những đứa con của mình. Đến khi nhận thức được hành vi tội lỗi của mình, Lamia giận dữ đến mức tự biến mình thành một con quỷ chuyên hút máu trẻ con vì ghen tức với các bà mẹ của chúng. Ma cà rồng cũng hiện diện trong thần thoại châu Á. Văn học dân gian Ấn Độ có con quỷ Rakshasa đầu thú hoặc đầu người chuyên sát hại con nít. Trong văn học dân gian Trung Hoa cổ, người chết có khi đội mồ sống dậy và đi lang thang. Đó là những người chết khi chưa tới số. Dân du mục đã lan truyền rất nhiều truyền thuyết khác nhau về ma cà rồng khắp vùng châu Á, châu Âu và Trung Đông. Sau đó miệng truyền miệng làm cho các truyền thuyết này biến đổi và kết hợp với các truyền thuyết ma cà rồng mới. Ma cà rồng hiện đại Truyền thuyết Dracula và truyền thuyết vampire hiện đại được lấy cảm hứng trực tiếp từ văn học dân gian Đông Âu. Lịch sử ghi nhận hàng chục hình ảnh ma cà rồng truyền tụng trong khu vực này, cách đây hàng trăm năm. Nổi tiếng nhất là Upir của Nga và Vrykolakas của Hy Lạp. Còn ma cà rồng ở Moldavia, Wallachia và Transylvania (nay là Romania) được gọi chung là Strigoi. Không hồi sinh sau khi chết như Upir và Vrykolakas, con Strigoi này trải qua nhiều biến đổi khác nhau sau khi trỗi dậy từ nấm mồ. Đầu tiên nó có thể là một con yêu tinh (poltergeist) vô hình quấy rối gia đình bằng việc dời chuyển đồ đạc và đánh cắp thức ăn. Sau đó Strigoi hiện hình rõ ràng như người sống bình thường, rồi lại quay về gia đình quậy phá, xin ăn và gieo rắc dịch bệnh. Lúc này Strigoi bắt đầu tấn công con người, trước tiên là gia đình của nó và sau đến là bất cứ ai nó gặp trên đường. Ngoài ra người ta cũng sợ lũ ma cà rồng sống (không phải người chết đội mồ sống dậy) gọi là Strigoi Viu. Đó là những đứa bé sinh ra dị dạng, như là có đuôi hay có màng thóp bằng kim loại. Khi Strigoi Viu này chết đi, người ta phải thiêu hủy xác của nó để tiệt trừ hậu họa. Ở những vùng khác của Đông Âu, lũ quỷ dữ dạng Strigoi được gọi là Vampire, hay Vampyr, biến thể từ Upir của Nga. Các quốc gia Tây Âu sau đó đã vay mượn từ này và thế là Vampyr (sau là Vampire) chính thức bước vào tiếng Anh. Vào các thế kỷ 17 và 18, cơn sốt hoảng sợ ma cà rồng lan khắp Tây Âu. Người ta bảo họ nhìn thấy người chết sống lại đi khắp nơi tấn công người sống. Các chính quyền đã cho khai quật các phần mộ để thiêu hủy xác. Từ đó thế giới ma cà rồng gây kinh hãi khắp Tây Âu và đi vào thơ ca và hội họa. Sau đó các tác phẩm này gây cảm hứng cho nhà văn Ireland Bram Stoker viết nên tiểu thuyết nổi tiếng Dracula. Dracula của Bram Stoker Dracula của Stoker là một người có thật trong lịch sử - đó là hoàng thân Vladislav Basarab, cai trị xứ Wallachia (Valachie) vào giữa thế kỷ 15, thường được gọi là Vlad Dracula hay Vlad Tepes (nghĩa là “Vlad người đóng cọc”) do sự tàn bạo của ông ta đối với đối phương (đóng cọc nhọn xuyên qua thân người). Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy người ta tin rằng ông ta là ma cà rồng. Con quỷ của Stoker không phải là bản sao của Dracula, mà chủ yếu là Stoker mượn tên ông hoàng hung ác này để xây dựng hình tượng. Khác với con quỷ Strigoi vô gia cư, ma cà rồng của Stoker là nhà quý tộc sống trong lâu đài nguy nga hẳn hoi. Tại sao có hiện tượng ma cà rồng? Không có bằng chứng khoa học nào chứng tỏ ma cà rồng tồn tại, song tiến bộ y học đã chứng tỏ được hạnh kiểm quỷ dữ này. Một trong các “bệnh lý ma cà rồng” là chứng rối loạn chuyển hóa porphyrine (porphyria). Chứng bệnh cực hiếm này sinh ra do sự mất cân bằng trong sản sinh heme, một sắc tố giàu chất sắt trong máu. Người mắc chứng bệnh này rất sợ ánh sáng mặt trời, đau bụng nhiều và có thể bị mê sảng. Thời xưa người ta chữa trị bệnh này bằng cách cho bệnh nhân uống máu tươi để khắc phục tình trạng mất quân bình trong cơ thể (mặc dù không có bằng chứng rõ ràng nào về điều này). Một số bệnh nhân loại này thường có miệng và răng màu đỏ do hoạt động sinh sắc tố heme không ổn định. Porphyria có tính di truyền nên xưa nay người ta thường tập trung những bệnh nhân này vào một số khu vực nhất định. Nguyên do thứ hai làm phát sinh “bệnh lý ma cà rồng” là chứng giữ nguyên thể (catalepsy), một sự kết hợp giữa chứng động kinh, tâm thần phân liệt và các bệnh khác tác động đến hệ thần kinh trung ương. Khi bệnh nhân lên cơn, toàn bộ cơ thể sẽ cứng đơ, nhịp tim và hơi thở suy yếu. Đôi khi người ngoài tưởng lầm bệnh nhân catalepsy đang lên cơn dữ dội là... một xác chết! Ngày nay, y học đã có hiểu biết và đầy đủ phương tiện để kiểm tra xem một người nào đó còn sống hay đã chết thật sự. Tuy nhiên, ngày xưa con người chỉ dựa vào hiện tượng bên ngoài để phán đoán sinh mệnh một người, chính vì thế mà bệnh nhân catalepsy thường hay bị chôn lầm có thể “sống lại”. Giai đoạn bộc phát bệnh catalepsy có thể kéo dài nhiều giờ hoặc nhiều ngày - đủ thời gian để tiến hành một đám ma! Sau khi tỉnh lại trong phần mộ, nếu bệnh nhân còn mắc thêm chứng rối loạn tâm thần thì anh ta dễ bị coi là... ma cà rồng! Trong khi các hiện tượng này gây sợ hãi cho con người, căn nguyên của toàn bộ truyền thuyết và hiểu biết về ma cà rồng lại nằm ở tâm lý hơn là thể xác. Sự chết là một trong các khía cạnh bí ẩn nhất của cuôc sống và mọi nền văn hóa cổ kim đều quan tâm đặc biệt đến hiện tượng. Một cách để luận giải về cái chết là nhân cách hóa nó - mang lại cho nó một dạng hữu hình. Thế nên, các con quỷ dữ Lamastu, Lilith và lũ ma cà rồng tương tự thời xa xưa là những cách giải thích đối với một điều bí ẩn kinh khủng, cái chết đột ngột của một trẻ nhỏ và bào thai trong tử cung. Con quỷ Strigoi và các thi thể phục hoạt khác chính là các tượng trưng cuối cùng của sự chết - chúng là di hài thật sự của những người đã chết. Ma cà rồng cũng là ''hiện thân'' mặt tối của con người. Bằng cách vạch rõ cái ác thông qua các hình ảnh siêu nhiên, con người có thể luận giải tốt hơn về chính các xu hướng ác của mình. Sự biểu hiện quá nhiều con quỷ giống ma cà rồng trong xuyên suốt lịch sử, cũng như sự ám ảnh không dứt của chúng ta đối với lũ hút máu này, chứng tỏ rằng đó là một phản ứng tổng thể đối với thân phận con người. Nó đơn giản là bản tính con người nhằm loại trừ những sợ hãi. Theo Kiến thức Ngày nay
************* Ma cà rồng không thể tồn tại Một nhà nghiên cứu người Mỹ đã dựa trên vài phép toán để chứng minh rằng sự tồn tại của ma cà rồng là hoàn toàn bịa đặt. Điều này chứng tỏ những sinh vật vẫn ám ảnh con người bấy lâu nay là không thể có thực. Giáo sư vật lý Costas Efthimiou tại Đại học Central Florida đã phá bỏ những ý tưởng phi khoa học như ma cà rồng, hay những thây ma sống lại, nhằm tăng cường sự hiểu biết của dân chúng. Không chỉ người dân tin vào những câu chuyện ma quái này mà con số những người mê tín đang ở mức báo động, Efthimiou cho biết. Truyền thuyết cho rằng ma ca rồng hút máu người và một khi bị cắn, nạn nhân đó cũng biến thành một ma cà rồng và tiếp tục đi hút máu người khác. Và Efthimiou đã lý giải một cách logic như sau: Vào 1/1/1600, dân số thế giới là 536.870.911 người. Nếu con ma cà rồng đầu tiên xuất hiện vào ngày đó và cắn một người trong một tháng, sẽ có 2 con ma cà rồng vào 1/2/1600. Một tháng tiếp theo sẽ có 4 con ma cà rồng, cứ tiếp tục như vậy. Chỉ trong 2 năm rưỡi dân số thế giới ban đầu sẽ chỉ toàn là ma cà rồng mà không còn ai còn lại để hút máu. Nếu tính đến tỷ lệ tử vong thì dân số còn biến mất nhanh hơn. Kể cả một tốc độ sinh sản không tưởng cũng không thể đảo ngược lại được kết quả này. "Xét cho cùng, con người sẽ không thể tồn tại trong điều kiện như vậy, kể cả khi dân số thế giới tăng gấp đôi mỗi tháng. Và việc tăng gấp đôi rõ ràng là vượt quá khả năng sinh sản của con người", Efthimiou nói. Vì vậy cho dù bạn lo ngại bất kể điều gì vào lễ hội Halloween ngày 31/10 sắp tới, chắc chắn bạn sẽ không bị biến thành ma cà rồng. M.T.
Theo Livescience, Vnexpress **********************************
Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa.
Nhân bài viết về quỷ nhập tràng của huynh Thanh-Pali, tôi xin góp chút kiến thức cá nhân để mọi người rộng đường tham khảo... Ở một dải đất Bảo Khánh huyện Thường Đức tỉnh Hồ Nam trước đây, tập tục tương truyền về một phép gọi là di chuyển xác chết. Những vị đạo sĩ ở đây có một thứ chú ngữ đặc biệt bí mật dùng để trục gọi linh giới nhập vào giữ xác. Muốn cho xác chết di chuyển, họ cắm một cây phướng dẫn hồn lên xác chết rồi hướng về thây ma niệm chú. Xác chết bỗng cử động được như cái máy và di chuyển theo đạo sĩ. Ở đây, khác với kiến thức của huynh Thanh-pali, tôi biết những vị đạo sĩ có thể đưa xác di chuyển cả vào ban ngày. Khi đến quán trọ, họ đem thây ma đặt ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tường. Khi cần qua sông, họ đem thây ma đặt ở cuối khoang thuyền hoặc ở đầu thuyền. Như thế có thể bình an về tới quê hương... Sau này họ di chuyển vào ban đêm và ngủ ở đền miếu bỏ hoang chẳng qua là sợ mọi người để ý hoặc sợ hãi đó thôi. Dù cuộc hành trình kéo dài cả tháng, dù trời nóng bức hay mưa dầm, xác chết cũng không biến đổi chút nào và cũng không phát ra mùi hôi thối. Tuy nhiên, có một điều cấm kị là không được để xác ngã vật ra đằng sau, vì khi đó xác sẽ bốc mùi, giòi bọ lúc nhúc, không sao dựng xác trở dậy được nữa. Về đến nhà, người thân đã chuẩn bị áo quan sẵn sàng, đạo sĩ lập tức chỉ huy mọi người đưa xác vào quan tài, đóng nắp lại ngay. Nếu không, chừng hai giờ sau, xác chết sẽ nát rữa, không sao gom lại được. Phép chuyển xác này đã có từ mấy ngàn năm, nhưng nhiều người không rõ nguyên nhân từ đâu. Có một truyền thuyết để lại trong giới luyện đan (tu tiên gia) cho rằng phép này truyền lại từ Lý Thiết Quài, vị tiên trưởng trong Bát Tiên. Ông đã truyền phép này cho Huyền Châu Tử nhằm dễ dàng đưa xác Đông Phương Sóc về Hải Ninh... câu chuyện thế này... Đời vua Hán Vũ Đế, Đông Phương Sóc làm quan trong triều nhưng bí mật tu tiên. Sau này thành tựu các pháp, thần thông quảng đại nên thường giở trò du hí. Hán Vũ Đế muốn cầu trường sinh nên bắt Đông Phương Sóc hái cho một trái đào. Lịnh vua khó cãi, vả lại muốn hóa độ nhà vua nên Đông Phương Sóc lẻn lên thượng giới ăn trộm đào tiên. Việc này phạm luật trời vì vậy ông bị số chém đầu. Lúc ấy, Hán Vũ Đế say mê một thuật sĩ khác là Lý Thiếu Quân, vốn là rùa quạ thành tinh vào triều mê hoặc nhà vua. Thiếu Quân đã từng quây màn trướng, hóa sương mù triệu hồn Lý Phi nương nương về cho Vũ Đế gặp mặt... nhưng đó lại là một câu chuyện khác. Được trọng dụng, Thiếu Quân tìm cách hãm hại Đông Phương Sóc. Viện cớ ông này phạm tội khi quân, Lý Thiếu Quân mượn Thượng Phương bảo kiếm của vua chém đầu Đông Phương Sóc. Mỗi lần chém xong, đầu mới lại mọc lên... Cuối cùng Lý Thiếu Quân phải lấy ngọc tỉ của vua đóng vào vải vàng, đợi đầu Đông Phương Sóc vừa rụng là án ngay vào chỗ chém. Uy lực của vị vua nhân gian qua ngọc tỉ đã làm cho Phép thay đầu của Đông Phương Sóc vô dụng. Ông đành chịu chết. Sau, Huyền Châu Tử theo lời chỉ dẫn của Lý Thiết Quài, gắn đầu vào thân, giắt lá phù Cửu chuyển hòan hồn vào tóc, cắm lá phướng dẫn hồn vào người mà dẫn xác của Đông Phương Sóc về Hải Ninh để hòan tất duyên phần. Sau này, Huyền Châu Tử phạm luật trời, để dân bị ngập lụt chết nhiều nên bị hóa thành hạc trắng trong 500 năm lập một vạn công đức mà tu thành chánh quả. Tương truyền, phép dẫn thi chính là do Huyền Châu Tử truyền lại thế gian này...
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 6:43:44 GMT 9
Có hay không những con Ma cà rồng ở miền núi? (VietNamNet) - Vào những năm đầu của thế kỷ XX, những bản người dân tộc Thái vùng Tây Bắc luôn bị hoành hành dữ dội bởi "Pi pjồng" - "Ma cà rồng". "Ma cà rồng" trong tiếng Thái được gọi là "Pi pjồng". Đó là một con ma đáng sợ nhất của các cô gái Thái, nhất là các thiếu nữ xinh đẹp chưa chồng. Trong trí tưởng tượng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, "ma cà rồng" là một loại ma luôn luôn đói máu, cho nên nó hút máu người và máu động vật, chính vì vậy mà nó được hình dung như một bộ xương khô phủ chiếc áo choàng đen và đôi chân dài khẳng khiu. Trong thế giới phương Tây, không thiếu gì những huyền thoại kinh hoàng về "ma cà rồng", thậm chí con ma này còn giúp ngành điện ảnh phương Tây hốt bạc với những bộ phim kinh dị. Nhưng "ma cà rồng" thực sự chỉ tồn tại trong văn học, trong tín ngưỡng. Không một chứng cứ khoa học nào xác định sự tồn tại thực của nó.
Đối với người Thái hồi đầu thế kỷ XX, "ma cà rồng" tồn tại thực sự và là nỗi khiếp đảm cho cả bản làng. Từ người Thái Đen ở Sơn La, người Thái Trắng ở Lai Châu, người Thái Mai Châu ở Hòa Bình đều có chung nỗi lo sợ. Những gia đình có con gái lớn luôn nớm nớp lo âu. Vi Thị Ẳm (Thái Đen, Sơn La) lấy chồng được hơn một năm. Cô có mang 6 tháng nhưng người gầy rộc, hai mắt trũng sâu, thân hình tiều tụy. Vì một lý do nào đó, chị bỗng đột nhiên rời nhà vào lúc chạng vạng tối và tìm bắt những con nhái núi. Khi bắt được, chị không ngần ngừ mà đút luôn cả con nhái sống vào miệng. Nỗi kinh hoàng đổ xuống bản làng. Vi Thị Ẳm đã trở thành "ma cà rồng". Gia đình chị phải cho chị ở riêng không thì chị sẽ hút hết máu tất cả mọi người. Vi Thị Ẳm ngơ ngác, hiền lành không phản ứng gì. Nhưng mỗi buổi chạng vạng là chị lại đi tìm bắt nhái núi.
Con "ma cà rồng" Mạt Thị Ý trái lại còn rất trẻ, mới 15 tuổi. Một bữa Mạt Thị Yý đeo ống đi lấy nước ở suối. Đám trai bản nhìn theo bước chân cô đi và thấy có những giọt máu tươi loang lổ. Cha mẹ Mạt Thị Ý phải mang con vào rừng và cất chòi cho con ở vì nếu không trai làng sẽ đến đốt nhà. Nhưng thực chất những giọt máu tươi đó là do không biết giữ vệ sinh cho nên Mạt Thị Ý đã bị "rong kinh".
Hầu như ở mỗi bản người Thái đều có một người phụ nữ, hay một cô gái trẻ chưa chồng biến thành "ma cà rồng". Họ là nỗi lo lắng, kinh sợ cho gia đình và bản làng dù họ rất hiền lành. Những tiếng đồn về Pi Pjồng như thế khiến chính quyền thực dân Pháp phải chú ý đến. Để "trấn áp" con "ma cà rồng", bác sĩ Chales Meriuac đã lặn lội lên bản Thái Mai Châu để nghiên cứu trực tiếp về loại ma kỳ lạ này. Trong tạp chí Đông Pháp, một tạp chí nghiên cứu của Pháp xuất bản bằng tiếng Việt ở Hà Nội, năm 1926, bác sĩ Chales Meriuac cho rằng, những biểu hiện của "ma cà rồng" ở những bản người Thái Tây Bắc là có thật! Nhưng không phải là một "con ma" linh thiêng ghê gớm, mà có thể phân tích nó dựa trên các cơ sở khoa học. Đây không phải là một loại "ma" mà là một loại bệnh "ma cà rồng". Chales Meriuac cho rằng, căn bệnh này xuất hiện chủ yếu do các cô gái và phụ nữ nhiễm phải một thứ vi trùng lạ vào mùa mưa. Hơn nữa, do người Thái sống gần những nơi ẩm thấp nên sức đề kháng rất kém. Chales Meriuac cho rằng, loại vi trùng khủng khiếp này tấn công vào hệ thần kinh của những người phụ nữ, chỉ hoành hành một thời gian rồi "tự động" biến ra khỏi cơ thể con người. Tác giả công bố nghiên cứu của mình và tuyên bố y học hiện đại thời bấy giờ chưa tìm được loại thuốc kháng sinh đề kháng loại vi trùng này. Rõ ràng bài báo chỉ mục đích duy nhất là trấn an người dân. Nhưng chính quyền thực dân vẫn không "trấn" nổi "ma cà rồng". Sau khi bài báo xuất hiện, những con "ma cà rồng" vẫn tiếp tục hoành hành ở những bản người Thái. Hơn nữa, nếu đó chỉ là do một thứ vi trùng lạ gây ra thì tại sao đàn ông, trẻ nhỏ không bị nhiễm mà chỉ có phụ nữ có chồng mới mắc phải? Bài báo không những không dẹp nổi căn bệnh "ma cà rồng", nó còn gây tác hại một cách không thể lường trước được. Dường như chỉ cần chính "quan Tây" công nhận là có căn bệnh "ma cà rồng" là ngay lập tức số lượng các thiếu nữ biến thành "ma cà rồng" tăng vọt lên. Nhiều gia đình sợ hãi mời thầy về dán bùa trấn ma ở ngay cầu thang, nhưng con gái họ vẫn cứ nhiễm phải căn bệnh "ma cà rồng".
Pi Pjồng - bóng ma nhiều mặt!
Lường Thị Ún lấy chồng đã được 2 đứa con, chị và 2 con đều khỏe mạnh không có biểu hiện khác lạ nào. Sự việc xảy ra khi Lường Thị Ún mang thai đứa con thứ 3. Người chị gầy rộc, mất ngủ liên miên. Một hôm, chờ cho 2 đứa con nhỏ ngủ, chị ra khỏi nhà và bắt đầu tìm bắt những con nhái núi, những con thằn lằn bỏ vào miệng. Tiếng đồn về con "ma cà rồng" Lường Thị Ún nhanh chóng xuất hiện. Hai đứa con bị bố cấm lại gần mẹ. Chị im lặng và tiếp tục bắt ếch nhái để ăn. Người chồng không dám ngăn chị và cũng không dám đuổi chị ra khỏi nhà vì sợ chị sẽ ăn thịt mình! Sau khi bắt hết những con nhái quanh nhà, chị đi xa hơn. Cái thai mỗi ngày một lớn nhưng người mẹ vì một lý do nào đó vẫn không thể ở yên được. Một đêm giá lạnh, khi chị đi cách nhà hơn 5 km để tìm nhái thì chị sinh con, mẹ con chị may mắn được dân bản ở đó cứu thoát. Lạ thay cùng với sự ra đời của đứa con bầu bĩnh, con "ma cà rồng" cũng biến khỏi người chị, Lường Thị Ún trở lại là một người mẹ tần tảo như bao người mẹ khác. Khi đêm xuống, chị không còn ra khỏi nhà để tìm nhái hay thằn lằn nữa.
Những trường hợp đi bắt nhái hay ăn lá rừng chỉ rơi vào những trường hợp phụ nữ đang mang thai. Theo con số thống kê của Meriuac thì 100% "ma cà rồng" hay đi bắt thằn lằn, nhái đều là phụ nữ có chồng và đang mang thai. Mạt Thị Ơn lấy chồng được hơn 10 năm nhưng mới mang thai lần đầu tiên. Gia đình phải mổ nhiều trâu, lợn, gà cho thầy cúng mới "xin" được đứa con này. Mang thai đến tháng thứ 2 thì Mạt Thị Ơn không thể ngồi yên một chỗ. Dịp nào gia đình mổ gà chị đều sấn đến và uống hết bát tiết vừa cắt ra. Buổi tối chị cũng ra khỏi nhà, nhưng không đi bắt nhái mà tìm xuống suối. Chị bắt những con cá nhỏ và nuốt sống.
Theo bài báo, những biểu hiệu của bà mẹ có mang như thế là do họ thiếu sức đề kháng vi trùng mạnh. Nhưng dù có phân tích khoa học đến đâu thì chính quyền thực dân cũng không thể giấu giếm được một điều là chất lượng cuộc sống của người dân bấy giờ quá kém, đời sống nghèo nàn kiệt quệ. Những người mẹ thiếu dinh dưỡng trầm trọng vừa do làm lụng vất vả, vừa do phải mang thai. Bản năng người mẹ đã thúc đẩy họ từ trong vô thức. Họ phải tìm mọi cách để kiếm nguồn dinh dưỡng để nuôi mình và nuôi bào thai. Không có con ma nào "tà ám" họ cả. Tất cả những phụ nữ này, sau khi sinh con đều trở lại cuộc sống bình thường. Dưới sự cai trị hà khắc và sự vơ vét tham lam của thực dân Pháp, một số người mẹ đã phải "biến" thành "ma cà rồng" để thực hiện trọn vẹn thiên chức làm mẹ của mình.
Đó là những phụ nữ mắc bệnh "ma cà rồng" thực sự. Nhưng có một số "ma cà rồng" là những thiếu nữ xinh đẹp, hay con nhà khá giả không ra khỏi nhà ban đêm, không bắt nhái, không hút tiết cũng biến thành "ma cà rồng"!
Khà Thị Ớt (Mai Hạ, Hòa Bình) là một thiếu nữ xinh đẹp nổi tiếng khắp các bản Thái trong vùng. Cô tròn 16 tuổi, nhiều trai bản ao ước có được cô trong nhà mình. Trong bản có một gia đình thường xuyên nhận muối của Pháp về bán. Ông ta muốn hỏi Ớt cho con trai của mình. Gia đình cô không đồng ý vì gia đình kia có quan hệ với Tây. Ông ta dọa: Mày không đồng ý sẽ bị biến thành "ma cà rồng". Một buổi sáng cả dân bản chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng. Xung quanh nhà cô gái có rất nhiều xác thú và gà vịt. Con vật nào cũng bị đứt ở cổ và máu chảy ra, tiếng đồn về con "ma cà rồng" Khà Thị Ớt loan ra. Người dân chứng kiến cảnh những con vật chết như thế cũng không hiểu thế nào. Gia đình buôn muối hò dân bản mang củi đến đốt nhà cô gái để xua ma đi. Khà Thị Ớt phải bỏ bản ra đi đến sống ở bản khác.
Những con "ma cà rồng" bị "rong kinh" như Mạt Thị Ý thì dễ sống hơn. Do đời sống thiếu thốn và điều kiện vệ sinh thấp kém nên những thiếu nữ "bị" như thế khá nhiều. Số cô gái này thường rơi vào những gia đình nghèo và họ có nhan sắc bình thường.
Nhưng còn một loại "ma cà rồng" được chính thầy cúng tạo ra. Khà Thị Ưng, 16 tuổi, là con một, cha mẹ cô mới mới tích cóp được một con trâu làm vốn. Khà Thị Ưng đang ăn cơm với bố mẹ thì nghe thấy tiếng léo nhéo ở đầu nhà. Đám thanh niên kéo đến đòi đuổi con "ma cà rồng" Khà Thị Ưng ra rừng không cho sống ở bản nữa. Cha mẹ sợ hãi lùi lại. Cô khóc lóc thanh minh. Cha mẹ thương con nhưng sợ đành bàn nhau đưa con vào rừng và cất chòi cho ở. Đúng lúc họ định đưa con đi thì thầy cúng xuất hiện. Ông ta bảo có thể đuổi con ma này đi được. Nếu mời thầy cúng tức là gia đình phải mổ trâu. Thương con gia đình quyết định mời thầy. Thầy cúng loay hoay một hồi rồi "múa may" rồi vác một đùi sau mang về. Khà Thị Ưng được "đuổi ma" đi. Cô sống yên ổn. Một con ma tưởng tượng nào đó đã khiến cho các thầy cúng trục lợi. Hơn nữa dù gia đình không tin con gái mình bị "ma cà rồng", nhưng để cho con gái có thể lấy chồng được thì họ vẫn phải mời thầy về trừ ma. Một số gia đình nghèo không có bạc, trâu bò để mời thầy về thì gia đình họ vừa khó sống trong bản, và con gái của họ cũng không thể lấy chồng được.
Thảo Phương
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 19, 2011 6:44:26 GMT 9
Ma cà rồng trong văn hóa cổ xưa Những câu chuyện về xác chết thèm khát máu thời xưa gần như giống nhau ở mọi nơi trên thế giới. Ma cà rồng tựa như linh hồn gọi là Lilu được đề cập tới trong khoa nghiên cứu ma quỷ Babylon, và kẻ khát máu Akhkharu trong huyền thoại Sume thậm chỉ còn sớm hơn cả. Người ta nói những con quỷ cái đó đi lang thang hàng giờ trong bóng tối, săn tìm và giết những đứa trẻ mới sinh cũng như phụ nữ có mang. Một trong những con quỷ đó, tên là Lilitu, đã được làm phỏng theo ở khoa nghiên cứu ma quỷ Do Thái tựa như Lilith. Lilitu/Lilith thỉnh thoảng còn gọi là mẹ của muôn loài ma cà rồng. Nữ thần Ai Cập Sekhmet trong một huyền thoại trở nên cuồng khát máu sau khi sát sinh một vài người và chỉ thỏa mãn sau khi uống rượu cồn màu máu. Trong Tây Du Ký, Bạch Cốt Tinh cũng hút máu người. Với bản lĩnh ấy, có thể xem cô như nữ hoàng ma cà rồng. Bạch Cốt Tinh sinh ra từ một bộ xương hấp thụ khí của càn khôn nhật nguyệt mà thành quái. Trong tác phẩm Odyssey của Homer, vong hồn mà Odyssey gặp trong chuyến đi qua địa ngục bị quyến rũ bởi máu tươi của cừu đực hiến tế, thực tế là Odyssey dùng lợi thế của mình để triệu tập vong hồn của Tiresias. Trong các câu chuyện La Mã có miêu tả strix, một con chim sống về ban đêm được nuôi bằng máu người tươi. Tranh cãi về ma cà rồng trong thế kỷ 18 Suốt thể kỷ 18, hoang mang về một con ma cà rồng phủ khắp đông Âu. Thậm chí các cơ quan phính phủ cũng bị thường xuyên lôi kéo vào cuộc săn lùng ma cà rồng để đóng cọc thiêu sống. Ma cà rồng là một loại sinh vật huyền thoại trong văn học, thường được mô tả là xác người chết sống dậy và tồn tại được là nhờ vào máu người và/hoặc máu động vật, chúng có sức mạnh siêu nhiên, nhiều khả năng biến đổi kỳ lạ. Một vài nền văn hóa có huyền thoại về ma cà rồng không phải sinh ra từ xác người chết, chẳng hạn quỷ hay một số loài động vật như dơi, chó và nhện. Người ta thường cho rằng ma cà rồng có sức mạnh kinh khủng, lắm đặc tính, biến hóa khủng khiếp, và đây là một chủ đề rất thường xuyên của văn học dân gian, điện ảnh, khoa học viễn tưởng đương thời. Những người mê tín vào ma cà rồng là những người đam mê thực hành việc uống máu người/động vật. Người ta cũng thường nói rằng ma cà rồng chủ yếu hay cắn vào cổ nạn nhân, hút máu từ động mạch. Trong văn học dân gian nói chung, luôn có niềm tin vào một đối tượng có được sức mạnh siêu nhiên nhờ vào việc uống máu người. Lịch sử của những người mê tín ma cà rồng nói chung xuất phát từ tục ăn thịt người. Uống máu (và/hoặc ăn thịt) người khác đã được sử dụng như một thủ đoạn tâm lý nhằm khủng bố tinh thần kẻ thù và phản ánh nhiều sự cuồng tín.
Ma cà rồng trong văn hóa cổ xưa Những câu chuyện về xác chết thèm khát máu thời xưa gần như giống nhau ở mọi nơi trên thế giới. Ma cà rồng tựa như linh hồn gọi là Lilu được đề cập tới trong khoa nghiên cứu ma quỷ Babylon, và kẻ khát máu Akhkharu trong huyền thoại Sume thậm chỉ còn sớm hơn cả. Người ta nói những con quỷ cái đó đi lang thang hàng giờ trong bóng tối, săn tìm và giết những đứa trẻ mới sinh cũng như phụ nữ có mang. Một trong những con quỷ đó, tên là Lilitu, đã được làm phỏng theo ở khoa nghiên cứu ma quỷ Do Thái tựa như Lilith. Lilitu/Lilith thỉnh thoảng còn gọi là mẹ của muôn loài ma cà rồng. Xem chi tiết ở Lilith. Nữ thần Ai Cập Sekhmet trong một huyền thoại trở nên cuồng khát máu sau khi sát sinh một vài người và chỉ thỏa mãn sau khi uống rượu cồn màu máu. Trong tác phẩm Odyssey của Homer, vong hồn mà Odyssey gặp trong chuyến đi qua địa ngục bị quyến rũ bởi máu tươi của cừu đực hiến tế, thực tế là Odyssey dùng lợi thế của mình để triệu tập vong hồn của Tiresias. Trong các câu chuyện La Mã có mô tả strix, một con chim sống về ban đêm được nuôi bằng máu người tươi. Dân gian châu Âu lưu truyền những câu chuyện rùng rợn về một giống ma hút máu có tên “ma cà rồng”, tiếng Pháp gọi là Vampire. nhiều chuyện về ma cà rồng rất ghê rợn, như chuyện một người hung ác xứ Galles đã chết từ lâu, bỗng đêm đêm sống lại trở về gọi tên từng người quen và hút máu họ đến chết. Năm 1746, Dom Augustin Calmet cho biết thấy đc những cuộc mục kích những người chết từ lâu bỗng đội mồ trở về, cắn xé, hút máu người thân của chúng. Bọn ma quỷ ghê tởm này đi lại, nói chuyện như người thường, xác của chúng chôn dưới đất nhiều năm vẫn nguyên vẹn không bị thối rữa. Tất cả những người bị chúng hút máu đều chết. Đến thế kỷ 19, truyện viết về ma cà rồng càng nhiều và trở thành một đề tài văn học. Nổi tiếng nhất là cuốn Dracula của Bram Stoker. Một đặc điểm nổi bật của ma cà rồng là rất thích máu,vào ban đêm thường xuất hiện dưới hình dạng của 1 con dơi hoặc 1 con sói hoặc là 1 đám mây màu đen bay đến cửa sổ gõ cửa và xin vào và nếu nạn nhân trong cơn mơ ko làm chủ đc mình thì sẽ mở cửa và rồi cũgn sẽ trở thành 1 ma cà rồng, và đặc biệt những nạn nhân này luôn có mối liên quan mật thiết với vampire gốc có nghĩa là có thể cảm nhận và xác định đc vampire gốc ở đâu Trong các cuốn sách, phim ảnh và tivi, ma cà rồng được thể hiện như là những sinh vật cực kỳ phức tạp. Theo truyền thuyết, mỗi ma cà rồng đều đã từng là một con người; sau khi bị con ma khác tấn công, chết đi rồi trỗi dậy từ nấm mồ để hóa thân thành con quỷ hút máu khủng khiếp. Từ khi thể xác được phục sinh - di hài sống của một người chết - ma cà rồng thường được xem như là bất tử. Chúng cũng có thể biến thành một người bình thường khỏe mạnh và khó mà bị phát hiện giữa những người sống. Ngoài ra sinh vật khủng khiếp này cũng có thể mang hình thù một con thú, thường là dơi hay chó sói, nhằm lặng lẽ tiếp cận nạn nhân. Tuy vậy, ma cà rồng vẫn có một số nhược điểm. Chúng có thể bị tiêu diệt bởi cái cọc xuyên tim hay bởi lửa; chúng sẽ chết nếu bị chém đầu và bị phơi ra dưới ánh sáng mặt trời. Chúng rất sợ cây thập tự, nước thánh và củ tỏi. Ma cà rồng không có bóng và có sức mạnh siêu nhân. Hình ảnh ma cà rồng được sáng tạo theo nhiều cách tùy vào sức tưởng tượng của con người. (ST)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 19, 2013 9:25:53 GMT 9
Giai thoại về Con Ma nhà Họ Hứa Tòa nhà tọa lạc tại số 97, đường Phó Đức Chính, Q1, Sài Gòn trải qua bao thời gian nhưng vẫn sừng sững với dáng dấp cổ kính, tĩnh lặng, thâm u, càng làm cho những giai thoại về chủ nhân và ngôi nhà thêm phần huyền hoặc. Dù hiện nay đã là trụ sở Bảo tàng Mỹ thuật thành phố nhưng ngôi nhà vẫn chất chứa rất nhiều điều bí ẩn, gợi tò mò bởi nó gắn liền với nhiều huyền thoại cùng tên tuổi một đại phú người Hoa lừng lẫy của Sài Gòn trăm năm về trước Chú Hỏa - Hui Bon Hoa, hay như nhiều người Sài Gòn cũ vẫn gọi thân mật là chú chệt Hứa Bổn Hòa, gốc người Minh Hương - nhóm người Hoa rời bỏ Trung Quốc di cư sang nước ta khi triều đình Mãn Thanh tiêu diệt nhà Minh - được chúa Nguyễn cho định cư ở Nam bộ từ thế kỷ 17. Tương truyền, từ hai bàn tay trắng với một gánh ve chai trên vai, chú đã tạo dựng nên sự nghiệp lừng lẫy khiến cho người đời sau còn nhắc. Là một trong tứ đại hào phú lừng lẫy của Sài Gòn xưa mà dân gian từng tôn vinh: "Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa" (Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt; Tổng đốc Phương - Đỗ Hữu Phương; Bá hộ Xường - Lý Tường Quan và chú Hỏa - Hui Bon Hoa). Tuy xếp thứ tư nhưng chú Hỏa là người có nhiều huyền thoại và để lại nhiều dấu ấn nhất, trong đó phải kể đến tấm lòng không chỉ thu vén cho riêng mình mà còn biết hướng tới cộng đồng của ông, theo sách ghi chép lại: "tuy làm giàu cho mình đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thịnh vượng kinh tế miền Nam". Mua ve chai nhặt được vàng Phía trên cổng vẫn còn logo với chữ "H.B.H" - Hui Bon Hoa. Sinh thời chú Hỏa làm nghề mua bán ve chai, theo nhiều người kể trong một lần thu mua ve chai, chú Hỏa nhặt được cả túi vàng nằm giấu trong một chiếc ghế nệm cũ; người khác nói chú mua được bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng. Còn theo một số người khác, khi lê la hầu như khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để thu mua những thứ bỏ đi của thiên hạ, chú Hỏa đã mua trúng đồ cổ, "chú thạo chữ Hán nên biết trong đám đồ người ta vứt ra có đồ cổ từ thời Nguyên, đời Thanh, thậm chí từ đời Hán". Nhưng có một thực tế ít ai đề cập đến đó là ngoài sự cần mẫn làm ăn, chịu khó, chú Hỏa còn có một đầu óc kinh doanh siêu hạng. Không chỉ nổi tiếng trong nước, bấy giờ, chú Hỏa còn lừng lẫy khắp Đông Dương không chỉ bởi gia sản kếch sù mà còn bởi sự thức thời. Chú có hơn chục người con thì hầu hết được cho đi du học tại các nước lớn như Anh, Pháp, Đức, Nhật... Được biết, các con chú ai nấy đều học hành thành đạt, mỗi người đều được nhập quốc tịch, được lưu lại làm việc ở nước sở tại. Theo nhiều người kể, nếu ai có dịp vào nhà chú Hỏa lúc trước giải phóng sẽ nhìn thấy đôi quang gánh đặt trong tủ kính, trưng giữa nhà như vật vừa trang trí, vừa là kỷ niệm thuở hàn vi. Trùm nhà đất Đi tàu chú Hỷ, ở nhà chú Hỏa : là câu truyền khẩu nổi tiếng của người Sài Gòn xưa. Nếu như chú Hỷ là ông "vua tàu bè" có tàu Thông Hiệp chạy khắp Nam kỳ - Lục tỉnh lúc bấy giờ thì chú Hỏa là ông "vua nhà đất" với gia sản ước trên 20.000 căn nhà phố khắp khu vực Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn. Ông thành lập Công ty Hui Bon Hoa và các con, cực thịnh vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có những đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng thành phố Sài Gòn. Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển: "Hui Bon Hoa có nhiều con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh, khi ấy ngân hàng mới phát bạc. Nhờ giữ gìn có phương pháp cho nên sự nghiệp Hui Bon Hoa ngày càng đồ sộ thêm mãi, không sứt mẻ mảy may nào. Sơ khởi, chú Hỏa nghe đâu hùn hiệp với một người Pháp bao thầu khuếch trương các tiệm cầm đồ (Mont de piété) trong Nam Kỳ. Hiện nay phố xá Sài Gòn một phần lớn là của Công ty Hui Bon Hoa làm chủ. Nhưng công ty này được tiếng là "rất biết điều và không eo xách, làm khó người mướn phố". Không chỉ xây các dinh thự hoành tráng cho gia đình mình, chú Hỏa còn xây những dãy phố, cùng hàng loạt các công trình dân dụng dành cho cộng đồng như bệnh viện, chùa chiền... Trong số các công trình tiêu biểu vẫn được sử dụng cho đến ngày nay có Bảo tàng Mỹ thuật thành phố, khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài Gòn, Nhà khách Chính phủ, chùa Kỳ Viên, khách sạn Palace - Long Hải... Majestic là khách sạn đồ sộ bậc nhất thời ấy, được thiết kế theo đồ án của một kiến trúc sư người Pháp. Cũng như Bảo tàng Mỹ thuật hay Nhà khách Chính phủ, Majestic xây dựng theo phong cách Baroque rất được ưa chuộng thời bấy giờ và ngay cả hiện nay, nó mang dáng vẻ kiến trúc cổ châu Âu thời phục hưng, cổ kính và sang trọng bậc nhất Sài Gòn ngay khi xây xong vào năm 1925. Dinh thự có 99 cửa !! Ảnh bên là cổng chính vào Bảo tàng Mỹ thuật Nằm ở khu tứ giác đắc địa của Sài Gòn là Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình, hiện tòa nhà được dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật thành phố. Từ trước 1975 đã có rất nhiều lời đồn đại, cho rằng ngôi nhà này có... ma! Nhiều người kể đã nhiều lần nhìn thấy bóng trắng thấp thoáng lướt đi qua các dãy hành lang trong đêm khuya, người khác khẳng định đã nghe hồn ma đêm đêm hiện về gào khóc. Giai thoại ngày càng nhiều, đến nỗi trước 1975 có cả một bộ phim tựa đề "Con ma nhà họ Hứa" (hãng phim Dạ Lý Hương, đạo diễn Lê Mộng Hoàng), gắn liền với tên tuổi của các ngôi sao màn bạc VN thời bấy giờ như Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Thanh Việt, Tùng Lâm, Năm Sa Đéc... Bộ phim gây tiếng vang lớn, là một trong những bộ phim ma đầu tiên của điện ảnh VN, dù kỹ thuật "nhát ma" của ta lúc ấy được xếp vào hạng... thô sơ. Tòa nhà vốn là dinh thự chính của chú Hỏa, được thiết kế rất đẹp và độc đáo theo phong cách Art - déco, kiểu dáng kiến trúc cổ hòa hợp giữa hai trường phái xây dựng Á-Âu, tường nhà được đúc kiên cố, dày từ 40-60cm. Ngôi nhà hiện đã trên trăm tuổi, được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ trước. Tương truyền khi thiết kế, dinh thự này có một trăm cửa lớn, cửa nhỏ và cửa sổ. Thế nhưng, Toàn quyền Đông Dương khi duyệt thiết kế đã bắt chủ nhân bỏ đi một cửa và không được mở cổng chính với lý do cổng này to hơn cổng Dinh toàn quyền, vậy nên hiện nay dinh thự chỉ có chín mươi chín cửa. Mặt bằng tổng thể khối nhà hình chữ U, cấu trúc bên trong tòa nhà hiện bao gồm: tầng hầm dành cho khối văn phòng làm việc; tầng trệt dành cho các gallery hoạt động triển lãm và kinh doanh tranh như Không Gian Xanh, Lạc Hồng, Nhật Lệ, Spring...; lầu 1 là nơi trưng bày tranh tượng mỹ thuật; lầu 2 trưng bày các đồ gốm sứ, thủ công mỹ nghệ truyền thống. Chính thức thành lập từ năm 1987, và đưa vào hoạt động năm 1992, cho đến nay số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật TP đã lên đến gần 20.000, trên diện tích hơn 4.000m2, đây là nơi lý tưởng để tổ chức các hoạt động triển lãm và sinh hoạt văn hóa nghệ thuật. "Hồn ma" trong ngôi nhà cổ Căn phòng này trước đây là phòng ngủ của con gái chú Hỏa.. Chú Hỏa có hàng chục người con trai nhưng con gái thì chỉ có một, lại rất xinh đẹp nên chú đặc biệt cưng chiều. Bỗng nhiên, không còn ai thấy cô con gái ấy xuất hiện nữa. Từ đó, vào những đêm khuya thanh vắng, từ trong tòa nhà vẳng ra tiếng kêu khóc thảm thiết. Rồi một sáng, người Sài Gòn giở nhật trình ra, ngỡ ngàng thấy có mẩu tin chú Hỏa đăng cáo phó báo con gái mất. Mẩu tin còn cho biết do con gái bị bạo bệnh ra đi bất đắc kỳ tử, lại nhằm vào giờ trùng nên tang lễ chỉ làm sơ sài, thi hài sẽ được đưa đi an táng tại khu đất thuộc Long Hải, cạnh ngôi biệt thự nghỉ mát của gia đình. Từ đó, dư luận bắt đầu đồn đại dữ dội, không ít người quả quyết đã tận mắt thấy "hồn ma" con gái chú Hỏa đêm đêm xuất hiện trong khu nhà gào rú, khóc than. Người khác bảo thấy có bóng áo trắng, tóc xõa, phất phơ lướt đi trong đêm, dọc hành lang, qua những cửa sổ để ngỏ (dinh thự chú Hỏa đặc biệt có rất nhiều cửa sổ). Một hôm, đám người hiếu kỳ vồ lấy một anh thợ được thuê vào dinh thự sửa chữa điện, rồi cùng toát mồ hôi lạnh khi nghe anh này kể về một căn phòng rất đặc biệt trên tầng cao nhất. Phòng rất đẹp và đầy đủ tiện nghi nhưng lại rất giống một phòng giam bởi sự kiên cố và bí hiểm bao trùm. Cửa ra vào phòng này có khoét một ô nhỏ và anh thợ điện quả quyết đã nhìn thấy người làm rón rén truyền khay thức ăn qua ô cửa nhỏ đó... câu chuyện được dịp bùng nổ. Người bảo con gái chú Hỏa còn sống, người bảo đã chết, người nói cô con gái ấy còn sống nhưng cũng như đã chết vì bị tâm thần... Thời gian sau, các tờ báo lá cải Sài Gòn lúc đó lại đưa tin: vì hám của (theo tập tục người Hoa thường chôn theo người chết nhiều của cải), nên vào một đêm, hai tên trộm lẻn vào quật mồ con gái chú Hỏa và họ thấy quan tài trống rỗng... Một quyển sách có tựa đề "Ngôi mộ cổ nhà họ Hứa" khá phổ biến trên văn đàn người VN tại hải ngoại, của tác giả Phạm Phong Dinh lại viết: cô con gái chú Hỏa tên thật là Hứa Tiểu Lan, mất vì bệnh nan y, được chôn cất trong ngôi mộ cổ cạnh nghĩa trang Biên Hòa. Một hôm có anh thương binh tên Tính, tình cờ đi lạc vào khu nghĩa trang. Đoạn này, sách mô tả: "Dưới ánh trăng mờ, Tính trông thấy một cái bóng trắng đang đi vòng quanh những nấm mồ, tà áo dài bay phất phới theo từng cơn gió đùa. Một con cú đang đậu trên chòm cây cao su rúc lên một tràng dài kinh dị. Có lẽ nó đã trông thấy chiếc áo trắng ma quái chập chờn giữa những nấm mồ hoang...". Sự thật ? Vào cái thời kỳ ấy nền Y học Tây Phương theo bước chân người Pháp du nhập vào Việt Nam, Sài Gòn là nơi Tây y phát triển nhất.... Nhưng cái bệnh độc ác nhất vẫn chưa có thuốc chữa đó là "Phong Cùi" giống như bệnh AIDS hiện nay... Cô con gái rượu của chú Hỏa mà ông cưng nhất đã mắc phải căn bệnh hiểm nghèo này, ông chạy chữa rất nhiều nơi Tây Y có bác sĩ riêng Đông Y cũng chẳng được vì mấy ông này nghe nhắc tới Phong Cùi là bó tay chạy làng đâu dám thí mạng mà ngồi chuẩn đoán (bởi vì Phong Cùi mức độ lây lan nó rất lớn) nên người nhà người hầu trong nhà cũng phải cách ly. Nên nhốt cô vào 1 căn phòng hằng ngày có người lo cơm nước qua cái khe cử sổ , mọi cánh cửa ra vào căn phòng bi khóa chặt hành lang đó cũng bi cách ly ko ai qua lại ở phía mặt sau ngôi nhà trên đường Phó Đức Chính hiện nay. Từ 1 cô gái xinh đẹp đã trở nên cùi lở tóc tai rối bời rồi xấu xí đến ghê rợn, cô gái tuổi còn thanh xuân bi bệnh nan y này quả là 1 cú sốc rất lớn lại bị người nhà cách ly giam cầm cho dù hiền cách mấy cũng trở nên "Hận đời" và lâu lâu la hét và chửi rủa nhưng không ai quan tâm... Họ chỉ sợ duy nhất 1 điều là lây bệnh. Rồi cái gì tới nó cũng tới cô bé ko còn sức chống chọi được căn bệnh ra đi trong sự im lặng của bao người . Người đau đớn nhất là chú Hỏa, mặc dù ông tài sản vô số cũng đành bất lực nhìn con gái ra đi trong sự chịu đau đớn về thể xác và tinh thần. Vì quá thương con nên chú Hỏa không an tán chôn con liền mà ông liệm đứa con gái vô 1 cái hòm bằng đá "loại đá giống Granic hiện nay" bên trên đậy kín bằng 1 tấm kính dày 5 phân, và để mãi ở giữa ngôi nhà của mình mà không chôn cất. Và cũng từ đó lâu lâu người ta lại nghe tiếng rên rĩ hờn ghét trách móc vọng ra từ căn phòng đó.... "Con ma nhà họ Hứa" trở lại ? Hôm đó đúng tròn vào ngày giỗ 1 năm của đứa con gái bất hạnh nhà cũng tổ chức cúng kiến và mời bà con ngươi quen bạn làm ăn tới dự, Chú Hỏa đặt may 1 bộ áo đầm trắng, mua 1 con Búp bê nháy mắt "có nghĩa là nằm xuống nó nhắm mắt đứng dậy nó mở mắt" và 1 đĩa cơm gà, chú Hỏa sai cô người hầu đem lên tận phòng và luồn vô khe cửa đặt 1 hộp đựng áo đầm, 1 con búp bê, 1 đĩa cơm để cúng cô chủ xấu số... Khi khách đã ra về hết lúc đó tầm cở 2 - 3 giờ trưa, cô người hầu lên phòng dọn đĩa cơm xuống khi mở cửa lòn tay cửa sổ thì chợt bất ngờ: "Đĩa cơm ai đã ăn hết phân nửa". Khi trong căn phòng mọi cửa sổ cửa ra vào đều được khóa chặt từ lâu, theo ánh sáng leo loét từ ô cửa chổ cô người hầu dội vào nhìn vào chiếc hòm kính đã mở hơn phân nữa con búp bê đứng sững trên lồng kính mắt chớp lia lia liên tục.. xa xa có 1 bóng người con gái thoát ẩn hiện sau chiếc váy đầm treo lơ lững phía cuối phòng.... Cô người hầu bật ra tung chạy xuống và bị té đến trẹo giò mặt trắng bệch y như ma ám "Giống như người ta nói lấy lưỡi lam cắt không ra miếng máu", mãi 1 lúc sau mới nói nên lời "Cô chủ về.... Cô chủ về !!" và sự việc này cũng xảy ra tương tự đối những cô hầu khác. Về sau mọi người nhận ra có điều không tốt xảy ra nên đã phá xác quấn vải liệm mấy lớp của cô và chuyển vô quan tài bàng gỗ và đưa đi an táng chôn cất trong êm xui và bí mật! Và, trong vô số các mẩu chuyện huyễn hoặc, câu chuyện trên có lẽ gần sự thật hơn cả. Thế nhưng, sự thật như thế nào về chú Hỏa và con gái chú thì cũng đã theo chú xuống mồ. Ngôi nhà có "hồn ma" con gái chú Hỏa nay đã được dùng làm nơi triển lãm, trưng bày các tác phẩm nghệ thuật, hàng ngày mở cửa đón khách trong và ngoài nước đến tham quan. Diện mạo mới cùng sự ngăn nắp, sang trọng và không khí nghệ thuật ngập tràn đã đẩy lùi vẻ thâm u của dinh thự và phần nào đẩy lùi những giai thoại huyền hoặc chất chứa đầy màu sắc mê tín vào quá khứ. (Source: tongphuochiep.com )
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 4, 2013 15:47:42 GMT 9
Bí ẩn chiêu dùng bùa ngải “giữ khách“ của gái làng chơiCác cô gái mại dâm đang truyền tai nhau về một vài loại Bùa ngải để "giữ khách" như: Bùa Yêu, Bùa Nhớ, Bùa Điên... Không yêu thì đã có...bùa Sử dụng các loại bùa này các cô cho rằng sẽ khiến khách chỉ biết đến mình. “Nếu người đó làm em cảm thấy yêu thương thì em sẽ có cách làm cho người đó tự động theo em đến khi nào em chán thì thôi...”, Vân, một cô gái kỳ công lên tận Hòa Bình xin bùa yêu về "hành nghề" tâm sự. (ảnh minh họa) Một cô khác tên Y hoạt động thường xuyên ở khu vực Trần Duy Hưng cũng kể rất "liêu trai": “Cách đây một năm bạn em người Lào Cai, vào nghề được mấy tháng thì bị một tên ma cô suốt ngày hành hạ. Bạn em ức chế quá thế là bỏ Bùa hắn rồi chuyển vô nam làm ăn, hắn bây giờ suốt ngày cứ lang thang chửi bới lung tung.” (ảnh minh họa) Theo lời kể của các cô thì Bùa ngải được mang về Hà Nội từ các gái mại dâm vùng cao có nguồn gốc là người dân tộc. Để dùng được Bùa không phải là điều đơn giản, phải mất công lặn lội lên tận nơi của các thầy phù thủy. Trình bày nội dung và người muốn bỏ bùa kèm theo vật dụng của người đó theo hướng dẫn của người cho Bùa ngải. Có thể là Tóc, quần áo, móng tay...Bùa là những thứ rất bình thường: lá cây, một miếng vải có mầu sắc, một tờ giấy có chữ nho...Và cách để yểm Bùa sẽ được các thầy cho Bùa hướng dẫn sử dụng. Các cô rỉ tai nhau nhiều chuyện rất đỗi hoang đường về tác dụng bùa ngải. Như chuyện một thiếu gia đất Hà Thành tháng nào cũng phải khăn gói lên Hòa Bình để gặp một gái bán dâm đang hoạt động ở đây vì đã bị bỏ Bùa. Bùa mà thiếu gia này bị bỏ có tác dụng trong 5 năm và tuần tự cứ vào giữa tháng là dù muốn hay không cũng phải tìm bằng được cô gái kia, sau đó họ sẽ ở với nhau một đêm thì thiếu gia kia mới được về Hà Nội. Không biết tính thực hư của câu chuyện kia thế nào nhưng tôi đã thấy nhiều cô lấy ra một túi nhỏ trong đó có những vật dụng xanh đỏ và khoe là Bùa. Ai muốn ăn oản thì năng lên chùa? Tư tưởng chung của những cô gái dấn thân vào nghề này là chỉ làm vài năm kiếm một ít vốn rồi xoay qua nghề khác và kiếm một tấm chồng ổn định cuộc sống. Kế hoạch là vậy nhưng cũng ít cô thực hiện được nó. Phần lớn gái mại dâm sau khi đã hết date hoặc quá lứa lỡ thì đều tiếp tục trở thành những tú bà hoặc "bèo" hơn thì dạt về các vùng hẻo lánh kiếm sống tiếp bằng "vốn tự có". Có một điều kỳ quặc, họ nghĩ rằng đi chùa nhiều sẽ giải thoát được những tội lỗi mình gây ra nên rất chăm chỉ đi lễ. Họ chọn kỹ lưỡng những phủ, đền linh thiêng rồi truyền tai nhau nơi đó hợp căn với những người đã dấn thân vào công việc tội lỗi này. Hầu thánh, cắt duyên âm để được lấy chồng.(ảnh minh họa) Các cô cũng rất chuộng hầu thánh và cắt duyên âm. Theo lời thầy phán thì mỗi một gái sẽ hợp với một thầy một mẫu nào đó. Việc hầu thầy hầu mẫu nghiêm túc và kiên trì thì sẽ giải được các hoạn nạn tai ương và thoát được những tội lỗi gây ra. Còn việc cắt duyên âm là điều cần thiết và càng làm sớm càng tốt. Các thầy đều phán rằng em có người âm theo nên phá hết những cuộc tình duyên mà em được gặp. Nếu không sớm cắt duyên âm thì cả đời em phải cô đơn một mình. Chỉ nghe thế thôi thì dù tốn kém thế nào, nhà thầy ở tận đâu thì các em cũng sẵn sàng lên đường hành lễ. Rẻ thì vài triệu, đắt thì vài chục triệu, hàng trăm triệu...kết quả tốt đẹp đâu chưa thấy, chỉ biết sau mỗi lần cắt duyên các em lại oằn mình ra mang thân xác của mình kinh doanh để lấy tiền trả nợ. “Có lẽ đây là số phận anh ạ, giờ em cũng chẳng biết phải làm thế nào nữa. Trước mắt chỉ biết chăm chỉ kiếm tiền để trả hết nợ cho bọn ma cô thôi chứ không thì nhừ đòn với chúng nó...”, Một cô vừa thổ lộ vừa nhả khói thuốc lá mắt nhìn theo từng làn khói mỏng.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 4, 2013 15:54:26 GMT 9
Cụ ông chữa hóc xương bằng ’thần chú’Chỉ cần cụ Giang lẩm nhẩm trong miệng một lúc thì khi bệnh nhân về nhà, dù xương gì trong họng cũng tự biến mất. Dù tận mắt chứng kiến cách chữa của cụ, người ta cũng khó tin đó là sự thật. Người dân trong vùng phong cho cụ Nguyễn Huy Giang (93 tuổi, trú tại thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) là “thần y” bởi cụ có khả năng chữa bệnh hóc xương bằng… những câu thần chú. Chỉ cần cụ lẩm nhẩm trong miệng một lúc thì khi bệnh nhân về nhà, dù xương gì trong họng cũng tự biến mất. Dù tận mắt chứng kiến cách chữa của cụ, người ta cũng khó tin đó là sự thật. Hơn 60 năm qua, người dân nơi đây được cụ Giang chữa khỏi bệnh mà không đòi một đồng thù lao nào. Tôi biết về cụ rất tình cờ qua một người bạn. Chính anh bạn tôi cũng được cụ ra tay cứu chữa trong một lần hóc xương cá. Theo sự chỉ đường của anh, chúng tôi đã về tận nơi cụ sinh sống để được “tận mục sở thị” khả năng chữa bệnh của vị "thần y" này. Lời thề chiến đấu vì dân tộc Có tài chữa bệnh nhưng cụ Giang lại là người nghèo khổ bậc nhất trong vùng. Căn nhà cấp 4 lụp xụp nằm khuất sau bụi chuối là nơi cụ gắn bó suốt mấy chục năm qua. Dù đã bước sang tuổi 93, nhưng trông cụ vẫn còn rất nhanh nhẹn, minh mẫn. Nâng chén chè nóng trên tay, cụ nhớ lại thời oanh liệt: “Trước đây tôi được bầu làm xã đội trưởng, chỉ huy dân quân tự vệ xã Bình Xuyên tham gia chiến đấu chống Pháp từ những năm 1945, chỉ huy 3 đội tự vệ ngày đêm đào đồn bốt để đánh du kích. Quân địch cử lính vào làng bắt tôi không được đã dỡ nhà, bắt vợ con tôi tra tấn dã man”. Cụ Giang nhặt que ở sân để đọc “thần chú” chữa hóc xương Căn nhà nhỏ được cụ Giang sắp xếp đồ đạc rất ngăn nắp. Chỉ tay về phía góc tường, cụ cho biết: “Tôi dành một góc trang trọng nhất trong nhà để đặt huân huy chương, bằng khen, giấy khen. Nhưng giờ nó chỉ để làm kỷ niệm thôi. Phòng chính sách xã hội của huyện cũng đến nhà nhiều lần khuyên tôi khai báo thời gian công tác và chiến công để hưởng chế độ của Nhà nước, nhưng tôi từ chối, cũng bởi một lời thề năm xưa…”. Cụ xúc động kể tiếp: “Trong thời điểm chiến đấu khốc liệt nhất, tôi cùng anh bí thư chi bộ, anh xã đội phó lấy dao lam cắt ngón tay để uống máu ăn thề. Chúng tôi thề chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược là tự nguyện, là nghĩa vụ nên sau này nếu sống sót sẽ không lấy quyền lợi gì cho mình”. Đã gần 70 năm trôi qua, cụ Giang vẫn nhớ như in lời thề đó. Giờ những đồng đội năm xưa đã về nơi suối vàng, còn cụ vẫn sống khỏe để cứu nhiều người bệnh khỏi cơn hoạn nạn. Là cách chữa mẹo? “Tôi không tin vào việc chữa bệnh mang tính "thần thánh" này song cũng không thể phủ nhận việc cụ Giang đã chữa khỏi cho nhiều người bị hóc xương nghiêm trọng. Tôi cho rằng đây là cách chữa mẹo rất hiệu nghiệm mà chưa nơi đâu có được và rất khó lý giải” Chị Nguyễn Thị Luyến (Trạm Y tế thị trấn Thanh Lãng) nhận định. Chữa hóc xương bằng “thần chú” Khoảng những năm 50, trong một trận càn quét, đội quân của cụ Giang bị bao vây 7 ngày 7 đêm trong đồn địch. Không chịu dừng bước trước quân thù, các chiến sĩ đã mở con đường máu và hành quân lên đèo Kháng Nhật (Sơn Dương, Tuyên Quang) để ẩn náu. Tình cờ cụ Giang gặp được bà lão người dân tộc Sán Dìu đã ngoài 70. Cụ Giang nhớ lại: “Dưới chân bà cuốn đôi xà cạp trắng, trên đầu cuốn chiếc khăn màu đỏ. Thấy tôi hiền lành, ít nói, bà ngỏ ý muốn truyền bài thuốc gia truyền chữa hóc xương cho tôi. Nhưng tôi đã từ chối vì đang lúc bom đạn như trút, sống nay chết mai, nếu học được chắc gì còn sống sót để chữa bệnh. Nhưng bà cụ nói rằng, tôi có duyên với phương thuốc bí truyền, nên học để cứu giúp mọi người". Chính vì câu nói đó của bà lão mà cụ Giang đã học bài thuốc lạ kỳ. “Dù hóc xương, hay hóc bất cứ vật gì trong miệng, đến đây tôi đều chữa khỏi được hết. Có người bị hóc xương đi bệnh viện chữa không được lại tìm đến tôi. Tôi chữa bệnh cho mọi người đến giờ cũng hơn 60 năm, chủ yếu chữa cho người nghèo trong làng, xã. Có nhiều người tận trong Cà Mau gọi điện muốn nhờ tôi chữa khi bị hóc xương. Tôi chỉ đọc câu thần chú là khỏi” - cụ Giang quả quyết. Khi được hỏi về “bí quyết” chữa hóc xương, cụ Giang không giấu nghề, cụ nói chỉ cần đọc họ tên, có thông tin về tuổi tác và quê quán càng tốt. Nói rồi cụ bước ra sân, ngồi xuống nhặt 3 chiếc que nhỏ, đặt chúng thẳng hàng nhau và chính giữa lối đi. Cụ lưu ý rằng không được để lộn đầu que rồi bắt đầu lẩm nhẩm đọc một câu thần chú. Cứ sau mỗi lần đọc, cụ lại cầm 1 chiếc que ném sang một bên. Cụ đọc 3 lần ứng với 3 chiếc que như vậy. Người bị hóc xương về nhà một, hai hôm là xương biến mất. Nhiều người không tin nhưng đến đây chữa khỏi thì đều "tâm phục, khẩu phục". Đi tìm nhân chứng Để có được niềm tin vào cách chữa bệnh mang đậm màu sắc bí hiểm này, chúng tôi tìm về gia đình chị Nguyễn Thị Huệ ở khu Đoàn Kết, thị trấn Thanh Lãng, Vĩnh Phúc. Chị Huệ kể, cuối tháng vừa rồi, sau bữa cơm trưa, anh Đông chồng chị nằm ngủ sơ suất để chiếc tăm trôi qua miệng và mắc ở cuống họng. Nghĩ rằng chiếc tăm nhỏ dần sẽ trôi, không ngờ 3 hôm sau họng anh sưng tấy, không ăn uống được gì. Chị Huệ đưa anh Đông lên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc để điều trị. Các bác sĩ nói không nhìn thấy vật gì trong họng. Anh Đông chỉ được kê thuốc viêm họng về nhà uống. Chị Huệ cho chồng uống cả tuần vẫn không khỏi. Họng anh càng ngày càng đau nhức. Chị đành đưa anh đến nhờ cụ Giang chữa. Cụ chỉ đọc 3 lần câu “thần chú”, thế rồi về nhà được 2 hôm, chiếc tăm trong miệng anh Đông biến đi đâu mất, họng anh không còn đau nữa. “Vợ chồng tôi mang lễ đến cảm tạ cụ nhưng cụ chỉ nhận vài ba nghìn mua quà bánh, hoa quả chia cho các cháu hàng xóm, còn tiền trăm trở lên cụ khước từ ngay”. Việc cụ Giang chữa hóc xương bằng câu “thần chú” khoa học chưa thể giải thích. Nhưng sự thật là cụ đã chữa khỏi cho rất nhiều người dân gặp nạn. Năm nay cụ Giang đã 93 tuổi, sức khỏe cụ cũng yếu hơn trước. Cụ rất lo lắng vì đến giờ chưa tìm được ai để cụ truyền lại bài thuốc này. Cụ sợ khi qua đời, câu “thần chú” chữa hóc xương cũng sẽ mất theo. “Thần chú” điều khiển cuống họng giãn nở? “Có thể cụ Giang điều khiển được cuống họng giãn nở nhờ câu “thần chú” để giải phóng vật bị mắc. Khi đọc "thần chú", người bệnh bị điều khiển từ xa một cách vô định, làm theo ý muốn của người đọc, cuống họng nở ra, xương sẽ được trôi xuống tiêu hóa. Đây chỉ là sự suy đoán của tôi, còn đâu vẫn phải chờ sự nghiên cứu và làm rõ của các nhà khoa học” - ông Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người) cho biết. Theo Dòng Đời
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 17, 2013 17:54:44 GMT 9
Những lá bùa trừ ma của "thầy phù thủy""Thầy phù thủy" Quản yểm bùa chống trùng tang bằng cách cho con cóc ngậm lá bùa, sau đó bỏ vào ống tre, đóng xuống đỉnh mộ người mới mất. Bùa chú! Ai đã từng nghe và ai đã từng thấy? Một lần tình cờ, tôi có được mấy quyển sách hướng dẫn làm bùa được viết bằng chữ Nho do một ông thầy phù thủy đã mất cách đây 20 năm để lại. Nói đến bùa, tôi có biết người Thái có bùa của người Thái, người Mường có bùa của người Mường,… với các loại như bùa yêu, bùa ghét, bùa chữa bệnh,… còn bùa của nhà nho thì tôi đã thấy làm nhưng hiểu thì còn rất mông lung, mơ hồ. Và tôi quyết “khăn gói quả mướp” đi tìm người giải mã đống sách chữ nho cùng nắm lá bùa mà tôi đang có trong tay. “Khi thầy mất, con cháu đừng cất công đi tìm sách của thầy. Vì nó có sức mạnh vô biên, người có đức học được thì tốt bằng không thì họa hại. Một ngày nào đó thầy bắt gặp ai có căn số tốt hợp với thầy, thầy sẽ về báo mộng và truyền lại cho người đó và họ sẽ đến tìm”, – đó là lời cuối cùng trước khi nhắm mắt của thầy phù thủy Hà Kim Quản tự Kim Quản. Có duyên gặp sách Nói như nhà Phật thường nói, phải có duyên thì mới gặp. Nói thế thì chứng tỏ tôi có duyên với đống sách của nhà phù thủy Kim Quản rồi. Đó là dịp nghỉ lễ 30/4, thay vì về quê thăm gia đình tôi lại về nhà bạn chơi. Đang ngồi uống nước tại nhà ông Bùi Văn Triệu (trú xã Gia Thủy – Nho Quan – Ninh Bình) chả hiểu sao tôi lại ngẩng mặt lên nóc nhà và rồi thấy một cái gì đó rất khó hiểu. Buột miệng tôi hỏi ông luôn “có cái gì trên nóc nhà mà kỳ lạ vậy ông?”. Đáp lại, ông bảo: Làm gì có cái gì. Tôi có thấy gì đâu! Một số lá bùa trừ ma quỷ mà “ phù thủy” Hà Kim Quản để lại. Tôi tưởng ông biết đó là gì, ông nói khéo như vậy nên thôi, chuyển chủ đề khác. Nhưng sau khi đặt chén nước xuống ông bảo, hay cháu trèo lên xem là gì giúp ông. Khách đến nhà, tự ý thì không được tiện cho lắm nhưng được ông “ban chiếu” thì tôi đành nghe theo vậy. “Là một bọc sách ông ạ” – tôi nói. Ông nheo mày khẽ nói “Sách gì nhỉ. Cháu mở ra xem nào”. Được ông cho phép, tôi lật dở từng trang. Đó là những cuốn sách được viết bằng chữ nho với những hình vẽ kỳ quái kèm theo một số tờ giấy nhỏ được viết bằng mực tàu đen – đỏ. Cầm trên tay những quyển sách đang đi vào giai đoạn mục nát, ông run run, ngấn lệ “đã 20 năm nay có rất nhiều người tìm đến tự xưng là hậu duệ của ông ấy nhưng họ không tìm thấy sách, hóa ra những cuốn sách đó lại để ngay ở đây…”. Đặt những cuốn sách lên bàn, ông bảo “đó là sách hướng dẫn làm bùa và đây là những lá bùa đấy cháu à. Không thể tự tiện đem ra mở xem được đâu. Nhưng cháu là người duy nhất trông thấy đống sách này suốt ngần ấy năm thì chứng tỏ cháu có căn duyên rồi. Từ nay, cháu phải cất giữ đống sách này cẩn thận, nếu cháu có duyên thì cháu sẽ trở thành một thầy phù thủy, có pháp hiệu, đạo hạnh, bằng không sẽ có người tìm đến cháu mang đống sách này đi cho người khác…”. Đã từng trông thấy người Thái, người Mường, người Thổ làm bùa nên tôi cũng có đôi chút tin vào bùa ngải, hay đúng hơn là có đôi chút tin vào những điều kỳ diệu mà khoa học chưa thể giải đáp. Trưa hôm ấy tôi quyết định lên xe đi về Thanh Hóa – nơi mà thầy Kim Quản từng sống. Ngồi trên xe, ngẫm lại những gì ông Triệu kể mà lòng không khỏi lo lắng: Sách này là của ông Hà Kim Quản để lại, ông Quản là anh rể tôi, ông ấy đã mất cách đây 20 năm. Khi còn sống, ông đã đi khắp nơi từ Nam Định, Ninh Bình cho đến Thanh Hóa,… để diệt trừ yêu ma. Vậy nên đi đến vùng nào, người ta cũng đều biết đến tên ông. Một phần ông là người dễ gần, một phần vì cái khả năng siêu phàm của ông. Ông được các nhà nho, thầy cúng cùng thời phong là “thầy phù thủy” khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông là người kế nghiệp của những đời trước nhưng lại là người duy nhất không truyền lại bí quyết làm bùa cho ai. Vì ông sợ người ta làm điều ác nhiều hơn điều thiện …”. Bùa chú qua lời kể Giữa trưa nắng gắt, xe đưa chúng tôi vào đất Như Thanh – Thanh Hóa – nơi cụ Quản từng sống ngày xưa, ở đây có hai người con gái của cụ và một người em gái ruột ông. Bà Hà Thị Tuất – người con gái trưởng ông Quản cũng thật bất ngờ khi biết tôi là người duy nhất có những cuốn sách kia. Vì bà biết, ông cụ sẽ không truyền lại nếu không có người hợp căn số. Lá bùa này dùng để “hãm hại, bắt nhốt” linh hồn người khác – một trong những lá bùa tối kỵ tuyệt đối không được tùy tiện sử dụng. Đón nhận những cuốn sách trên tay, bà khẳng định đúng là nét chữ của ông Quản. Đồng thời bà lấy trong tủ ra một cuốn sách được viết bằng chữ Nho và chữ Quốc ngữ ra so sánh. Bà nói, trong số cuốn sách cháu có, có một sách hướng dẫn yểm bùa do ông cụ ba đời trước là Hà Kim Uy tự Kim Uy viết ra. Để trao đổi với chúng tôi, bà Tuất nhờ người sang lai bà cô – bà Hà Thị Chúc, em gái ruột ông Quản. Tiếp chúng tôi, bà Chúc kể: Tôi không biết khả năng cúng bái điều khiển thần thánh trong dòng họ có từ bao giờ. Khi lớn lên, tôi được thầy – bố kể lại rằng người giỏi nhất là ông tôi gọi bằng ông nội – Hà Kim Uy, có pháp hiệu là Kim Uy. Ông cụ có khả năng làm phép thuật rất đặc biệt. Theo lời kể thì có hôm bà cụ đi chợ mua lợn con về nuôi. Về đến nhà đặt gánh xuống thì thấy hai bên hai rổ khoai lang. Chưa hiểu thế nào, bà mếu máo khóc, còn ông thì ngồi trong nhà cười. Hóa ra ông làm phép biến lợn thành khoai lang để trêu chọc bà. Ông cụ cũng có một cái tài nữa đó là qua sông bằng cái … nón lá. Ông ngồi lên nón rồi sai thần thánh rước qua sông chứ không cần phải chèo lái gì (khả năng sai khiến thần quỷ này sẽ được một thầy phù thủy giải đáp ở bài sau). “Nhưng theo lời kể thì ông cụ mất rất sớm cũng bởi tại những lá bùa mà ông viết ra”, bà Chúc nói thêm. “Mùa hè nắng gắt, đồng lúa khô hạn. Đêm xuống, ông làm hai người rơm rồi yểm bùa sai thần Môi nhập vào hai người rơm và sai đi tát nước. Khi đến gần sáng, nước ruộng gần đầy, có người đi chợ sớm lúc gà mới gáy trông thấy hốt hoảng quẳng gánh chạy về và kêu dân làng đến xem. Thần Môi đang tát nước bỗng ngã gục xuống và ông cụ Kim Quy cũng đột tử luôn. Sau này thầy tôi bảo đó là do thần Môi làm phản, chống lại bùa pháp nên ông cụ mới bị đột quỵ và mất…”. Câu chuyện đang lúc ly kỳ thì ngoài ngõ thấy có một người phụ nữ tất tưởi chạy vào. Đó là bà Hà Thị Sửu – người con thứ hai của ông Quản, nghe tin có người tiếp nhận sách của thầy mình nên bà chạy lên xem. Giới thiệu xong, bà Chúc kể tiếp cho chúng tôi nghe “đến đời thầy chúng tôi là ông Hà Kim Hoãn tự Đạo Huyền Bách, chúng tôi có chứng kiến. Ông kể cho chúng tôi nghe rằng, sau khi ông nội bị thần Môi hại chết. Đêm đêm ông nằm nghe ông cố về báo mộng, rằng ở các trang sách có nội dung gì và những lá bùa đó dùng như thế nào đồng thời thuật xem tướng số vận mệnh con người. Ông là người có thể biết được tương lai và việc ông biết cái chết của mình từ 12 năm trước là một minh chứng”. Đến đời ông Quản, bà Tuất cho biết khi ông nội tôi mất, thầy tôi lúc đó còn chưa biết đọc chữ Nho là gì. Một buổi sáng ngủ dậy thầy tôi bảo đêm nằm mơ gặp ông cố, ông cố dặn “từ mai ngủ nhớ mang theo sách cùng”. Vậy là hôm sau ngủ, thầy tôi cứ để cuốn sách trên ngực, đêm đêm ông nội cố và ông nội tôi về truyền dạy cho thầy tôi. Nhiều hôm ngủ dậy nghe thầy tôi bảo u tôi “trưa nay có người đến cúng, các bài cúng được thầy truyền lại cho đêm qua rồi”. Cứ như thế, khi thầy tôi biết hết nội dung các cuốn sách thì không thấy thầy tôi nói đến ông cố nữa, thầy bảo “cố đã dạy hết cho thầy rồi nên cố không về nữa”. Với người không hiểu, không chứng kiến thì câu chuyện trên đó gần như là một câu chuyện mang tính huyễn hoặc, hoang đường. Liệu hiện tượng như hai người con cụ Quản kể đó có thực hay không? Câu trả lời là: Có. Còn cụ thể hơn chúng tôi sẽ viết ở bài sau. Điểm qua một số lá bùa Theo ông Trần Thanh Dưỡng – người được ông Quản viết tặng cuốn sách cúng: Ông Hà Kim Quản là một người rất giỏi. Có thể yểm bùa, giải bùa, có thể sai binh khiển tướng và đã đạt đến mức như người ta thường gọi là thầy phù thủy bậc cao. Bản thân tôi cũng đã về quê gốc của ông, thấy dân làng sùng bái ông lắm. Đặc biệt với những đời ông Quản có thể sai thần, sai thánh, có thể thay đổi vận mệnh con người bằng những lá bùa này đấy…”. Với người bị ốm, ông Quản có cách trị bệnh của riêng mình. Ông viết lên giấy với các hình vẽ khác nhau bằng 2 loại mực, đen – trắng. Khi viết, ông có đọc lời chú bằng tiếng Hán Việt. Mỗi một đường nét, ông đọc một lời chú khác nhau. Sau đó đốt tờ giấy và bỏ vào chén nước. Đưa chén nước đó cho người bệnh uống, còn cặn thì xoa lên đầu là khỏi. Ý nghĩa của loại bùa này là trừ tà, trừ ma chứ không phải là thuốc chữa bệnh. Thế nên người “trị bệnh” phải biết dùng lời chú chứ không cần phải biết bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc. Mặt khác, ông Quản chỉ đồng ý chữa bệnh cho bệnh nhân mà bệnh viện khám không ra bệnh và bị trả về. Khả năng của ông Quản, một lần nữa được ông Nguyễn Văn Hải khẳng định: Vợ tôi mất khi cô ấy mới 20 tuổi. Trước đó, ông Quản đã cảnh báo về số phận vợ tôi nhưng tôi không nghe. Khi vợ tôi mất tôi mới thực sự tin. Vợ tôi mất được ít ngày, đêm đêm trong nhà toàn nghe tiếng người đàn bà than khóc, giọng chất chứa sự sầu não, thương tâm, còn tôi thì ốm liệt giường. Ông Quản biết chuyện, mang bút mực lên, đọc bùa rồi yểm vào góc nhà, từ đó đến giờ gia đình tôi cũng được xem là luôn ổn định. Còn chuyện lạ kỳ nữa là ông có viết các lá bùa, sau đó bỏ vào miệng con cóc, cho vào ống tre rồi đóng xuống bốn góc nhà, bốn góc vườn. Ông bảo “nhà có mưa gió cỡ nào cũng không sập được. ma quỷ bốn phương cũng không thể vào”. Sau hàng chục năm người ta phá nhà cũ để xây nhà mới họ lấy ống tre lên vẫn thấy con cóc còn sống. Hay như chuyện ông yểm bùa chống trùng tang bằng cách cho con cóc ngậm lá bùa, sau đó bỏ vào ống tre, đóng xuống đỉnh mộ người mới mất. 3-4 năm sau, khi cải táng người ta vẫn thấy con cóc còn sống, thậm chí rất béo so với cóc sống bên ngoài. Khi chúng tôi đặt câu hỏi vì sao ông Quản không ở cố định một nơi, mà hết chuyển từ Ý Yên (Nam Định), Nho Quan (Ninh Bình), rồi đến Như Thanh (Thanh Hóa). Bà Chúc đáp, “ông là người có khả năng nhìn thấy ma quỷ”. Khi ông mới vào đây được một thời gian thì chị em chúng nó (chỉ bà Tuất, bà Sửu) lấy chồng trong này luôn. Dù biết xa các con ông sẽ buồn nhưng ông vẫn quyết định từ bỏ đất Thanh Hóa vì một hôm ông đang ngồi uống nước thì thấy bóng dáng một người đàn bà đi ra. Ông phán luôn rằng mảnh đất này sẽ có người đàn bà chết trẻ và ngay hôm sau ông gọi mọi người lên kế hoạch chuyển nhà về Ninh Bình. Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi đến mảnh đất mà trước đây ông Quản từng sống. Nay là đất của ông Lương Bá Toàn và quả thực rất bất ngờ. Sau khi gia đình ông Quản chuyển đi, gia đình anh Toàn đã chuyển đến. Được một thời gian sau, vợ anh Toàn mất khi mới chị mới ngoài 30 tuổi. Những lá bùa của thầy phù thủy Hà Kim Quản còn rất nhiều. Theo ông Trần Văn Thược (hiện đang trú tại Tiên Lãng – Hải Phòng), là người kế vị đời thứ 18 về khả năng làm bùa chữ Nho của họ Trần và là người có thể đọc những lá bùa của ông Quản cho rằng, những lá bùa và sách mà ông Quản để lại là một kho tư liệu quý giá không thể để cho người thất đức nắm được. Vì trong số những lá bùa đó, có bùa để hãm hại người khác, có bùa cứu nhân độ thế, trừ ma diệt quỷ,… Những lá bùa đó thâm sâu, huyền bí, gia đình tôi có 18 đời làm nghề này nhưng vẫn không có một số lá bùa đặc biệt ở tầng cao siêu như trong sách ông cụ để lại. Ông Quản không truyền lại cho đời sau vì ông ấy chưa tìm được người phù hợp. Tuy nhiên, dòng họ này cần phải có hậu duệ sớm, nếu không sẽ nhanh lụi tàn vì các thế lực ma quỷ cõi âm có mối hận muốn quay về trả thù với các ông thầy trong dòng họ nhà này…!!! Khám phá thế giới bùa ngải thời cổ đạiTrong thế giới của những thầy pháp thuật thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đã cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí. Bùa yêu của người Thái Lan Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để sai khiến vào thực hiện những nhiệm vụ như đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và họ tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí. Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời mình để luyện "công lực", họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đã luyện thành cao thủ, họ sẽ tìm và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền các "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là những tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp. Theo những câu chuyện lưu truyền về thế giới bùa ngải, loại ngải quý hiếm nhất phải kể đến là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống với hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ý đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, còn được gọi là "Phù phấn ngải" vì lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quý. Những cao tăng muốn tìm được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi tìm được phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào một chậu đất nung, sau đó cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển). Sau khi nuôi trồng ngải rồi, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện ngải bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp còn nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, luyện cách này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ thậm chí có thể tìm được người bị mất tích. Một loại ngải còn quý hiếm hơn và bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu thì các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện thì sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện thì sẽ trở thành một loại có thể giúp con người cải tử hoàn sinh. Những thầy pháp sư thiếu "nhân cách", chạy theo vụ lợi cá nhân hay rình rập để luyện một loại ngải hại người đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa tình". Ai bị trúng ngải đó tâm thần mê man, không biết gì về đạo lý, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái tình. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh. Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây Mê tâm lá màu xanh sẫm to bản hình cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân thì mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám. Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Loại ngải này mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn tìm được loại Huyết nhân ngải phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nhìn thấy và nhổ được vì ban ngày lá cây màu xanh như bình thường. Hoa của loài ngải này nhỏ ly ti và có màu đỏ như những giọt máu. Tương truyền rằng loài hổ báo sau khi ăn thịt những người tuổi Dần sẽ bỏ lại quả tim của nạn nhân, từ quả tim bỏ lại đó sẽ mọc lên loài Huyết nhân ngải. Khi nhổ loài ngải này cũng phải đọc thần chú, luyện để loài Huyết nhân ngải hội đủ khí âm dương phải mất hàng năm trời. Củ của Huyết nhân ngải nếu đem ngậm một lát nhỏ sẽ có đủ sức lực để nhịn đói 1 tuần mà sức lực không suy giảm. Ngải này giúp người dùng có thần giao cách cảm, đoán biết được những sự kiện nghìn trùng xa cách. Tại Trung Hoa có một loài thực vật rất quý hiếm mọc trong rừng sâu, trên những thân cây gỗ mục. Có những pháp sư cả đời đi tìm không thể thấy, nhưng nếu ai có duyên sẽ gặp được đó là loại Mai hoa xà vương ngải. Theo những tài liệu về bùa ngải thì loài này có thân mềm mại, lá xanh có đốm vàng trông như rồng cuốn. Hoa nở màu sắc vàng, hồng rực rỡ, có mùi hương vô cùng quyến rũ. Xung quanh cây ngải này có nhiều rắn chúa Mai hoa đến ở vì thế nên người ta lấy tên Mai hoa xà vương để đặt cho nó. Loại ngải này nếu luyện được thành công, khi ngậm vào miệng sẽ giúp thân thể cứng rắn như thép, dao chém không đứt. Nếu chẳng may ngải Mai hoa chết, người luyện ngải phải làm lễ ma chay rất trang trọng và đem chôn cây ngải trên vùng núi cao thoáng mát. Ngày nay, khoa học phát triển không còn đất cho các pháp sư hành nghề luyện ngải nữa. Tuy vậy những câu chuyện đậm màu huyền bí vẫn là đề tài hấp dẫn những người hiếu kỳ trong lúc "trà dư, tửu hậu". Mặt khác, các nhà Đông y học đang tiếp tục nghiên cứu những loài thực vật rất quý hiếm đó nhằm bảo tồn và phát hiện những dược chất giúp ích thực sự cho con người. Hoàng Lan
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 17, 2013 17:58:13 GMT 9
Những chuyện ghê người về bùa ngải (1) Thầy bùa dùng huyền pháp để hại người là phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn, có dòng huyền thuật sau 2.000 năm con cháu vẫn bị báo ứng. Hòn đá lạ ở Đền Hùng: Thủ tục giải trừ bùa chú (7) Huyền bí nguồn gốc của bùa chú và phép thuật Bùa ngải ở nước ta không phải là một khái niệm quá xa lạ. Hầu hết mọi người đều từng nghe đến việc dùng bùa ngải để mưu cầu điều tốt cho mình hoặc để ám hại người khác. Vậy bùa chú có thật sự mang công dụng vô biên hay không? Bùa ngải có nhiều dòng phái nhưng tựu trung lại là làm phép “gửi lệnh” điều khiển âm lực vào một vật cụ thể nào đó để trấn yểm, phục vụ mục đích người dùng. Việc khai triển bùa ngải vì vậy phải thông qua thầy bùa hay còn gọi là pháp sư. Pháp sư có pháp lực càng cao thì “thương hiệu” càng lớn và dĩ nhiên được nhiều người tin tưởng thỉnh bùa. Diện kiến thầy bùa Mất nhiều tháng thuyết phục, chúng tôi mới được diện kiến ông T., một pháp sư có tiếng ở Sài Gòn và được ông chia sẻ những sự thật về bùa ngải. Nhà pháp sư T. nằm ở mặt tiền đường trên địa bàn quận Bình Thạnh, TP HCM. Căn nhà rất rộng nhưng cửa đóng then cài quanh năm, chỉ một mình ông ở. Cả gia đình pháp sư đều định cư ở nước ngoài, riêng ông vẫn ở lại. Pháp sư T. năm nay 40 tuổi, từng tốt nghiệp cử nhân luật nhưng 20 năm qua chỉ chuyên tâm nghiên cứu bùa ngải. Ông gặp chúng tôi sau một chuyến “công cán” từ Tây Ninh trở về. Gia chủ ở đó xây cất nhà ở gần nghĩa địa, thường xuyên bị ma quấy quá. Thử mọi cách từ cúng kiếng, cầu siêu đều không được. Nghe danh thầy T., họ cất công lặn lội xuống Sài Gòn cậy nhờ. “Thực chất đó không phải hồn ma mà là những âm binh. Chỉ có người am tường huyền thuật mới có thể hóa giải” - ông T. nói. Phải thuyết phục ghê lắm, chúng tôi mới được ông T. cho phép vào tham quan căn phòng nơi ông nghiên cứu và thực hành bùa pháp. Căn phòng nhỏ đốt nhang trầm nghi ngút. Ở chính giữa là bàn làm việc có mực tàu và giấy vẽ bùa. Xung quanh bốn bức tường là 8.000 đầu sách đủ thứ tiếng chuyên về bùa ngải. Trên các bức tường treo nhiều ảnh mà theo ông là cao tổ của các trường phái bùa ngải. Tất cả đều là người Trung Quốc, Thái Lan hoặc Ấn Độ. Theo lời ông T., bùa ngải chỉ là một trong những hình thức khai triển huyền thuật, ngoài ra còn có trù ếm, thần thông, thôi miên… Huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất vẫn có thể kể đến các dòng Nam Tông (Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia…), dòng Tiên Đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh thế yếu nhưng trước đây dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau như bây giờ. Ảnh minh họa. Bùa ngải dùng đủ thứ chất liệu từ cây cỏ đến vật dụng, tùy phép yểm và mục đích. Lá bùa có loại nhỏ bằng ngón tay, có loại to như mặt bàn. Loại chôn, loại đốt, loại uống (trực tiếp hoặc đốt), cũng có loại vô hình vô trạng… Ở miền Nam, huyền thuật chủ yếu thịnh hành dòng Nam Tông, đặc biệt là bùa chú của Thái hoặc Miên (Campuchia). Trong đó, phương pháp “trù ếm” được sử dụng nhiều nhất với “hình nộm thế thân”, chiêu thức vô cùng tàn độc nhắm đến người bị sát hại (đâm, cắt, bẻ gãy, dìm nước…). Rất nhiều người bị hại không chỉ tán gia bại sản mà tinh thần, thể xác còn bị tổn hại ghê gớm. Huyền thuật tôn chỉ là điều chỉnh quan hệ giữa con người với cõi siêu nhiên. Vì vậy, xuất phát điểm của bùa ngải đơn thuần là vì mục đích tốt. Dòng huyền thuật nào cũng có “bùa hại”. “Bùa hại” từ sơ khởi cũng đã có nhưng chỉ mang tính chất để răn đe, trừng phạt những người xấu và giúp họ quay đầu chuyển ý. Dần dà, nhiều người tà tâm đã khuếch đại, phát triển bùa hại lên tầm cao mới. “Từ lâu, việc dùng bùa phép ám hại nhau là có thật, dù nhiều người chưa tin” - ông T. khẳng định. Đẳng cấp và trả giá Cũng theo lời ông T., huyền thuật sơ khai mang mục đích tốt đẹp nên pháp sư cũng vậy. Những người có khả năng khai triển huyền thuật là những người đức đạo, thành tâm. Tuy nhiên, ngày nay nhiều thầy bùa, pháp sư công khai dùng huyền thuật để kiếm tiền, khai sinh ra nhiều tà thuật. Ông khẳng định huyền thuật không phân biệt chánh tà, chỉ có người sử dụng huyền thuật vào mục đích tốt hay xấu. “Người khai triển huyền pháp với mục đích hại người đã phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn” - ông nói. Như trường hợp một thầy bùa ở Tây Ninh chuyên yểm bùa hại người theo yêu cầu. Ông này sống đến 60 thì bị điên rồi chết. Con cháu ông ta không hiểu vì sao đều bị điên cùng lúc. Ông T. khẳng định việc trả giá như vậy trong huyền giới không hiếm. Có những dòng huyền thuật hơn 2.000 năm vẫn báo ứng, nhiều thế hệ “chịu tội” là chuyện bình thường. “Đáng buồn là cuộc sống càng phát triển, dục vọng con người càng lớn. Thầy bùa hoạt động công khai, nhiều người chỉ học lỏm được ít kỹ năng đã xưng thầy hành nghiệp” - ông buồn rầu nói. Ông T. kể, có người bạn chuyên vẽ bùa ở Sài Gòn, khách đông đến nỗi, mỗi ngày ông “vẽ bùa” gần 10 tiếng đồng hồ. Mỗi khách như vậy lại “cúng tổ” ít nhất 100.000 đồng. Mỗi ngày ông này thu nhập trên dưới 10 triệu đồng. “Nghề” thầy pháp hấp dẫn đến mức con trai ông đang là sinh viên đại học cũng nghỉ ngang, theo cha học lỏm 3 năm và đến nay cũng đang xếp hàng vẽ bùa để làm giàu. Ảnh minh họa. Để minh chứng cho “đẳng cấp” thu nhập thầy bùa, ông T. dẫn chúng tôi đi gặp pháp sư N., một người có tiếng cao tay ở Sài Gòn. Trước khi đi, ông dặn kỹ không được quay phim hay ghi âm và không được nêu danh ông thầy này vì nếu huyền giới đạt ngưỡng cao như lời đồn thì người này sẽ dư sức yểm bùa hại người viết. Theo chân ông, chúng tôi đến nơi ông N. cho bùa nằm sâu trong một con hẻm ngoằn nghoèo ở quận Bình Thạnh. Căn nhà được canh gác cẩn mật, vòng trong vòng ngoài cả chục người và thường xuyên đổi địa điểm để tránh bị phát hiện. Phòng khách nhà thầy N. dù còn sớm đã nêm chặt vài chục người. Kỳ lạ là những người đến xin bùa phép đều ăn mặc sang trọng, có nhiều cô gái trẻ xinh đẹp. Theo “giá cả” mà mọi người dặn nhau, vào diện kiến thầy N. thì chí ít phải “đặt tổ” 500.000 đồng vì uy danh của thầy lừng lẫy. Vì vậy, thu nhập của thầy N. mỗi ngày vài chục triệu, thuộc loại đỉnh của giới cho bùa. “Phòng làm việc” của thầy N. nằm tiếp giáp phòng khách, sau lớp cửa kín như bưng. Vừa xong việc với một thân chủ trẻ, thầy N. bước ra ngoài. Khác với tưởng tượng của chúng tôi về những ông thầy pháp mặc áo vàng có vẽ hình bát quái trận đồ, thầy N. mặc thường phục, tay cầm chuỗi hạt bằng đá cẩm thạch. Thầy N. 60 tuổi nhưng nhìn thần sắc vẫn còn rất trẻ, dáng người phốp pháp, da dẻ hồng hào. Lướt mắt một vòng những người ngồi chờ ở phòng khách, bỗng mặt ông đanh lại phán: “Hôm nay đến đây thôi. Xin hẹn các quý chủ lúc khác”. Tôi tần ngần ra về, buồn vì nghĩ mình bị lộ khi cuộc thâm nhập vừa bắt đầu thì ông T. giải thích rằng vì thầy N. thấy ông nên không muốn làm việc tiếp. “Người học bùa chú nhận diện nhau rất dễ dàng và thường không khai triển khi có người cùng giới” - ông T. giải thích và nói thêm rằng người thẩm thụ huyền thuật có năng lượng thoát ra mà người phàm không thể biết, chỉ người cùng giới mới hiểu được. Chúng tôi nhác thấy bóng các vị khách giàu có và những cô gái trẻ trung xinh đẹp hồi nãy có vẻ thất vọng. Sau này chúng tôi mới biết khách của pháp sư N. toàn thương gia giàu có đến xin bùa giàu để làm ăn thuận lợi. Còn những cô gái thì xin bùa yêu, không ít trong số những cô gái xinh xẻo đó là gái bao, tìm đến thầy xin bùa mê để ếm vào các đại gia. Nghe đâu, không ít những nhân vật trong làng giải trí cũng là “khách quen” của pháp sư cao tay này. Rời nhà pháp sư N., ông T. hẹn chúng tôi vào dịp khác sẽ diện kiến thêm một vài pháp sư nữa. Ông cho biết thêm hiện tại có rất nhiều người xưng pháp sư, quảng cáo tràn lan, thậm chí công khai trên mạng. Thực chất, để học được huyền thuật, phải có duyên, người không được chọn thì suốt đời không học được. Tùy vào dòng phái mà thời gian cảm thụ huyền pháp dài hay ngắn. Ít nhất cũng phải mất 5 năm tu luyện. Bản thân ông T. dù chưa ở ngưỡng giới cao nhất nhưng để duy trì pháp lực, một năm phải mất một trăm ngày luyện công. Mỗi lần như vậy chỉ được ăn chay, ở một mình trong phòng và cắt hết liên lạc với thế giới bên ngoài. Phải làm như vậy thì huyền lực mới thẩm thấu, mới lưu giữ được. Làm pháp sư khổ ải nhiều như vậy nên ở Việt Nam hiện có 200 pháp sư và nếu nói là đạt đến huyền giới thì chỉ có 3 người. “Muốn đi đến ngưỡng huyền giới thì không thể dùng huyền thuật mưu sinh hay làm giàu”, ông nói. Hiện nay, chính người cho bùa chú cũng không hiểu mục đích chân truyền của huyền thuật. Còn người ham mê bùa chú thì tin mù quáng nên nảy sinh ra những “dịch vụ” không giống ai. Trong những cuộc “triển bùa” mà ông chứng kiến, người xin bùa yêu và mưu cầu giàu sang đã chiếm gần hết. Có những người mưu cầu những điều rất viển vông như bùa chống vợ giận, bùa học giỏi, bùa bán được hàng hóa... “Nói bùa ngải không tác dụng thì không đúng. Tuy nhiên, nó chỉ hiệu nghiệm khi con người đã dùng hết năng lực của mình, không thể cố nữa mới có thể nhờ linh giới giúp sức và không phải là cầu gì được nấy. Tin bùa chú đến mức phó thác cuộc sống mình vào nó thì chỉ là tự huyễn hoặc mình mà thôi” - ông T. khẳng định
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 17, 2013 18:05:51 GMT 9
Long mạch ở Sài GònVới thiết kế đài phun nước hình bát giác, có giai thoại cho rằng, hồ Con Rùa là sản phẩm trấn long mạch của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Kiến trúc thứ hai được cho là biểu tượng phong thủy trấn yểm Sài Gòn chính là khám Chí Hòa, cũng với thiết kế bát giác. Hai kiến trúc độc đáo này không chỉ nổi tiếng ở Sài Gòn mà còn có rất nhiều giai thoại mang màu sắc huyền bí, ly kỳ xung quanh. Con rùa lớn yểm đuôi rồng Hồ Con Rùa có tên chính thức là Công trường Quốc tế (trước là Công trường Chiến sĩ trận vong). Đây là nút giao của 3 con đường Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thạch và Trần Cao Vân. Tuy không chính thức được xác nhận, nhưng rất nhiều giai thoại cho rằng hồ Con Rùa được thiết kế thêm hồ phun nước hình bát giác, con rùa đội bia. Và trụ đứng vươn lên cao ở giữa hồ chính là biểu tượng bát quái đồ, Kim Quy cùng chiếc đại đinh đóng xuống đất là để yểm đuôi rồng. Các vị cao niên kinh qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của vùng đất này đã kể những giai thoại rằng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vốn là người đa nghi và cuồng tín. Bởi vậy, sau khi nhậm chức tổng thống, ông luôn trong tâm trạng bất an, lo lắng cho vị thế của mình. Vào năm 1967, nghe tin có thầy địa lý cao tay ở Hong Kong, Thiệu liền cho người mời sang Việt Nam để trấn yểm Dinh Độc Lập. Thầy địa lý nghiên cứu đến mấy ngày sau rồi phán: “Dinh Độc Lập được xây trên long mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng nằm cách đó non 1 km, rơi vào vị trí Công trường Chiến sĩ trận vong. Cần phải dùng một con rùa lớn trấn yểm đuôi rồng lại thì sự nghiệp của tổng thống mới mong bền vững”. Hồ Con Rùa năm 1972. T Thong Nguyễn Văn Thiệu lập tức tin theo, cho xây hồ nước theo hình bát giác, phỏng theo bát quái đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để trấn yểm của người xưa. Hồ có 4 đường đi bộ xoắn ốc đều hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội bia đá. Ngoài ra, khu vực trung tâm còn có một cột cao mang hình cánh hoa xòe phía trên. Cột cao này được xem như một chiếc đinh lớn đóng xuống giữa hồ để ghim đuôi rồng lại. Năm 1972, Công trường Chiến trị trận vong được đổi thành Công trường quốc tế. Vào đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ. Tuy con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen gọi là hồ Con Rùa, thay cho tên gọi chính thức. Lại có giai thoại khác liên quan đến việc hồ Con Rùa là sản phẩm trấn long mạch Sài Gòn. Giai thoại này gắn liền với nguồn gốc xây Dinh Độc Lập do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế, lấy núi giả trong Thảo Cầm Viên làm bình phong, sông Thị Nghè làm lưu thủy, tạo thế long chầu, hổ phục. Người Pháp biết rõ điều này, liền cho xây nhà thờ Đức Bà mặt trước bên phải Dinh, hòng phá vỡ thế chữ Vương (gồm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Pastuer – Phạm Ngọc Thạch hiện nay), thêm một chấm thành chữ Chủ nhằm phá luôn long mạch của Dinh. Do vậy phải xây thêm hồ Con Rùa để phá thủy, làm nước phun lên. Nhưng còn một điều rất huyền diệu về hồ Con Rùa mà rất ít người bình thường để ý đến, chỉ có các thầy phong thủy và các kiến trúc sư học thêm bộ môn trấn yểm mới hiểu tận tường những bí ẩn trong thiết kế tổng quan của Sài Gòn xưa. Đó là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh nằm ngay giữa ngã tư Võ Văn Tần – Lê Quý Đôn xưa chính là chùa Khải Tường. Chùa Khải Tường là nơi chúa Nguyễn Phúc Ánh trên đường bôn tẩu tránh sự truy đuổi của Tây Sơn có ghé qua tá túc. Và hoàng tử Đảm – sau này trở thành vua Minh Mạng - đã được sinh tại nơi đây. Tương truyền, khi hoàng tử Đảm - chân mệnh đế vương - ra đời, chùa Khải Tường đã phát ra hào quang đến 3 đêm liền. Nếu nhìn trên bản đồ chụp từ vệ tinh thì chùa Khải Tường thẳng trục với Dinh Độc Lập và vuông góc với hồ Con Rùa. Việc trấn yểm này còn liên quan đến ngũ hành, âm dương, phá thủy, giả sơn mà các thầy chiêm tinh, địa lý nào cũng phải biết. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà hồ Con Rùa nằm thẳng trục với nhà thờ Đức Bà trên đường Phạm Ngọc Thạch, còn chùa Khải Tường thẳng trục Dinh Độc Lập. Bốn công trình nổi tiếng này đều được xây dựng tại những địa điểm mà xưa kia ít nhiều đều dính dáng đến long mạch của Sài Gòn và càng không phải ngẫu nhiên mà tạo thành một hình vuông, nếu chiếu bóng sẽ trở thành một đường thẳng. Bát quái trận giam giữ linh hồn người đã khuất Một kiến trúc khác được cho là biểu tượng phong thủy thứ hai của Sài Gòn là trại giam Chí Hòa, mà người dân vẫn thường gọi là khám Chí Hòa. Toàn bộ khu trại giam này rộng khoảng 7 ha, được người Pháp xây dựng từ những năm 1943. Sở dĩ người ta cho rằng khám Chí Hòa là một biểu tượng phong thủy dùng để trấn yểm Sài Gòn là bởi kiến trúc của nó khá đặc biệt. Trại giam này được một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái. Khám Chí Hòa cao 3 tầng lầu, có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc A, B, C, D, E, F, G, H, tượng trưng cho 8 quẻ: càn, khôn, chấn, tốn, cẩn, khảm, đoài, ly. Đây là công trình được đánh giá khá cao, bởi nó hòa hợp được những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp, vừa mang nét huyền bím âm dương ngũ hành của phương Đông. Khám Chí Hòa nhìn từ trên xuống. Một vài tài liệu nghiên cứu cho rằng, khám Chí Hòa được xây dựng dựa trân bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín phía ngoài, còn phía trong toàn song sắt. Toàn khu trại giam chỉ có một cửa vào, người ta gọi đó là cửa Tử. Qua cửa này là hệ thống đường hầm. Điều đặc biệt nhất của khám Chí Hòa là tất cả các lối di chuyển bên trong đều được thiết kế theo cung vị. Chính vì thế, người bình thường khi bước qua cửa Tử sẽ mất hết phương hướng, như lạc vào một mê cung trận đồ, không thể tìm thấy lối ra. Chính giữa hình bát giác là một sân rộng cũng được thiết kế theo hình bát quái đồ, với 8 khu hình tam giác chụm vào nhau. Ngay tâm của bát quái trận đồ cũng có một đài phu nước như cột cao của hồ Con Rùa đã nói ở phần trên. Nhìn từ trên cao, đài phun nước này có hình dáng như một thanh gươm đâm thẳng xuống đất. Những giai thoại về khám Chí Hòa đều ghi lại vai trò mấu chốt của thanh gươm này và gọi tên nó là “tru tiên kiếm”. Tru tiên kiếm trấn yểm khám Chí Hòa, khiến những tên tội phạm dù có xảo quyệt, tinh ranh đến đâu cũng không thể trốn được. Nếu tru tiên kiếm bị nhổ lên thì toàn bộ bát quái trận đồ được thiết kế công phu sẽ tự vỡ. Chính lối kiến trúc áp dụng bát quái trận đồ nhuốm màu sắc huyền linh này mà người ta gọi lối vào duy nhất của khám Chí Hòa là cửa Tử. Nghĩa là đã vào rồi thì không có cách nào để nhận biết đường ra nếu không thông lý số, kinh dịch vốn là môn khoa học không phải bất kỳ ai cũng nghiên cứu và tiếp nhận được. Người ta xem khám Chí Hòa là một bát quái trận đồ giữa lòng Sài Gòn, bởi lịch sử khám Chí Hòa chỉ có 2 trường hợp vượt ngục thành công. Một là của người tù cộng sản vào năm 1945, và hai là của tên giang hồ khét tiếng Phước “tám ngón” sau đó 50 năm. Hiện tại, bát quái trận đồ đã bị san bằng một nóc nhà cũng bởi tính quá hoàn hảo của nó. Trước kia, các nhà nghiên cứu kinh dịch, lý số khi nhìn vào khám Chí Hòa đều lắc đầu bởi âm binh, chướng khí tại nơi này quá nặng. Vì những tù nhân chẳng may qua đời ở đây thì linh hồn bị bát quái trận đồ giam giữ, không tài nào thoát ra được. Không biết thật giả ra sao, nhưng chính tổng thống Ngô Đình Diệm cũng tin vào điều này. Ông Diệm đã cho mời một thầy địa lý cao tay nhằm hóa giải một phần trận đồ. Và sau đó, nóc nhà khu GF của bát quái trận đồ vô cùng hoàn hảo đã bị san bằng. Thuận theo ý trời, lòng người, ngoài cửa Tử, cửa Sanh đã được mở để cho các linh hồn được bay đi và sớm siêu thoát. Có thể những truyền thuyết, giai thoại nhuốm màu huyền linh, kỳ bí nhưng xét về khía cạnh khoa học ngày nay thì không có thật. Nhưng cũng phải thừa nhận, khám Chí Hòa là một bát quái trận đồ hoàn hảo, ở đó giống như một mê cung đồ khiến ta mất hết mọi khái niệm về phương hướng lẫn không gian và thời gian. Tiết lộ mối tình "thuở hàn vi" của Nguyễn Văn Thiệu Từ khi còn là một tay Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, Thiệu đã có cuộc tình thi vị, lãng mạn với cô gái quê lai Tây bên sông Cầu Phú Yên. Chuyện giới chóp bu của chế độ Sài Gòn có bồ nhí, có vợ nọ con kia không phải chuyện lạ, nên chuyện Nguyễn Văn Thiệu có những nghi án tình ái với những giai nhân thời đó cũng không phải chuyện gì đáng thắc mắc. Nhưng có điều Nguyễn Văn Thiệu không chỉ trăng hoa khi đã lên làm Tổng thống. Từ khi còn là một Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, Thiệu đã có một cuộc tình thi vị, lãng mạn với cô gái quê nghèo khó bên bến sông Cầu – Phú Yên. Vì cuộc tình này mà sau đó, khi biết nàng Oanh ở bến Sông Cầu thành bồ nhí của một tay cấp dưới của mình, Thiệu đã thẳng tay vùi dập công danh của tay cấp dưới dám “trêu gan Tổng thống”. Nàng Oanh, cô gái lai Tây ở bến sông Cầu Phú Yên Năm 1954, Nguyễn Văn Thiệu lúc đó là Thiếu tá, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn địa phương quân đóng tại Sông Cầu, Phú Yên. Mỗi ngày vị Thiếu tá tiểu đoàn trưởng bảnh trai, oai vệ đều có dịp đi ngang bến Sông Cầu và trong một lần rất tình cờ, Thiếu tá Thiệu đã gặp một cô gái rất đẹp, có gương mặt lai Tây, da trắng, dáng cao, rõ ràng là một hoa khôi trong vùng. Ngay lần gặp đầu tiên, Thiếu tá Thiệu đã “kết mô đen” cô gái lai Tây đẹp ngời ngời này. Cất công tìm hiểu gia thế cô gái, Thiệu được biết cô là con gái của một góa phụ, người địa phương, gia cảnh nghèo khổ. Cô gái tên Oanh nên thường được gọi là nàng Oanh. Sau vài lần lui tới viếng thăm, Thiếu tá Thiệu chiếm được cảm tình của người đẹp và bà mẹ nghèo lam lũ. Dưới mắt hai mẹ con, viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng oai vệ, đẹp trai, người Phan Rang nói được hai thứ tiếng Pháp, Anh lưu loát là một mẫu đàn ông lý tưởng. Do đó việc nàng Oanh từ chỗ cảm phục đi đến yêu say đắm viên Thiếu tá đẹp trai chỉ là “một việc phải đến đã đến”. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Ngược lại Thiếu tá Thiệu dù đã có vợ là Mai Anh ở nhà, nhưng là người lính trong thời chiến, rày đây mai đó chẳng biết sống chết thế nào, lại xa vợ con, thiếu thốn tình cảm nên trước một cô gái trẻ trung, xinh đẹp như nàng Oanh chẳng khác nào một thỏi nam châm có sức hút mãnh liệt trái tim hạn hán của chàng lính trẻ xa nhà, thiếu thốn tình cảm. Và chuyện gì phải đến đã đến, họ trở thành một đôi tình nhân hết sức lãng mạn của những đêm trăng đẹp tại bến Sông Cầu.Củng như mối tình của đồng chí có 5 cái bu gi Lê Duẫn , trong kháng chiến gian khổ nhưng vẫn kiên cường phấn đấu cướp người tình của những đồng chí dưới quyền mình ,để bồi dưỡng cho 5 cái bu gi nẹt lữa không mệt mõi. Giữa lúc cuộc tình của viên Thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cô gái lai Tây tại bến Sông Cầu ngày càng trở nên thắm thiết thì đùng một cái, Thiếu tá Thiệu được lệnh chuyển quân. Thời gian chia tay ngắn ngủi, nàng Oanh cũng chỉ biết tin theo những lời thề non, hẹn biển của viên Thiếu tá hứa chắc như đinh đóng cột rằng sẽ quay trở lại bến Sông Cầu một ngày không xa. Nhưng rồi không biết bao nhiêu mùa trăng treo trên bến Sông Cầu, có một người con gái vẫn luôn mong ngóng bóng hình viên Thiếu tá quay trở lại mà hình bóng ấy vẫn mãi mịt mù, chẳng khác nào bóng chim tăm cá. Cuộc chia tay đầy nước mắt Thời cuộc biến chuyển, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu cũng bị xoay theo những cơn lốc lịch sử và cuộc đời binh nghiệp nay đây mai đó theo những cuộc hành quân vạn dặm mà mỗi ngày mỗi xa hình bóng cô gái ở bến Sông Cầu đã từng khóc hết nước mắt trong ngày chia tay. Giờ đây, Thiếu tá Thiệu đã thăng Trung tá, có lẽ ông ta cũng chẳng còn nhớ gì đến ánh mắt của nàng Oanh, bom đạn chiến tranh đã xóa nhòa tất cả và trái tim của Trung tá Thiệu giờ là Trung đoàn trưởng chắc cũng không còn khoảng trống để chứa tình cảm của cô gái mà hình bóng đã nhạt nhòa ở tận cuối chân trời. Huống chi con đường binh nghiệp của Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang gặp thuận lợi, còn có cơ hội để tiến xa trong tương lai mà đối với Thiệu, công danh sự nghiệp là trên hết, tình cảm chỉ là chuyện gia vị của một bữa ăn đời thường trên bước đường binh nghiệp. Quả nhiên, thời cuộc biến chuyển rất nhanh sau năm 1954, Bảo Đại bị truất phế, Ngô Đình Diệm từ Thủ tướng lên làm Tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu cũng như nhiều sĩ quan binh lính của Pháp chuyển sang lính của Việt Nam Cộng Hòa và năm 1955. Thiệu thăng cấp Đại tá, giữ chức Chỉ huy trưởng trường Võ bị Đà Lạt, một trường “đại học” chuyên đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp mà sinh viên phải tốt nghiệp tú tài đôi mới được gọi vào học, khi ra trường được móc luôn lon Thiếu úy không qua cấp chuẩn úy như sĩ quan trừ bị Thủ Đức và có thể lên tới cấp Tướng. Năm 1962, Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 Bộ binh. Và chỉ 1 năm sau đó, 1963, Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào nhóm tướng lãnh đảo chánh kéo quân về vây Đinh Độc Lập lật đổ Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chánh thành công, anh em ông Diệm Nhu bị giết,ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đóng góp công lao vào vụ lật đổ này nên được phong Tướng rồi nhảy luôn vào chính trường và chỉ một thời gian sau, do biến chuyển của thời cuộc,ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Quốc trưởng của nền đệ nhị cộng hòa. Nấc thang danh vọng và quyền lực của ông Thiệu như vậy là đã lên đến tột đỉnh. Lúc này chắc chắn ông Nguyễn Văn Thiệu chẳng còn nhớ gì đến nàng Oanh ở bến Sông Cầu ngày xưa. Cơ hội gặp lại nàng Oanh Khi ông Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng thì thời đó (1965-1967) tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Hai, biệt danh Hai “trề”. Trần Văn Hai quê Cần Thơ, được tiếng là một sĩ quan thẳng thắn, không nịnh bợ, hết lòng vì nhiệm vụ. Phú Yên thuộc vùng 2 chiến thuật mà tư lệnh vùng 2 là Trung tướng Vĩnh Lộc - một sĩ quan thuộc hoàng tộc, anh em với Bảo Đại và rất thân cận với Bảo Đại, khi trở thành sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời ông Ngô Đình Diệm, cũng là một tướng lãnh thân ông Diệm và có nhiều thế lực. Là tư lệnh vùng 2, tức tướng vùng, Vĩnh Lộc chẳng khác nào một ông vua không ngai, chỉ đứng sau Phủ Đầu Rồng và chỉ huy tối cao Nguyễn Văn Thiệu. Vĩnh Lộc ỷ thế tướng vùng nên khi đi thăm thú đâu đó, nhất là các đơn vị đóng quân ở Tây Nguyên thường biểu lộ tính ngông nghênh không thèm đi ô tô mà… cưỡi voi cho nó “sốc”. Bởi vậy nên khi nói đến Vĩnh Lộc, người ta cũng kêu luôn biệt danh của viên tướng ngông nghênh này là “Anh cả Trường Sơn”. Một hôm Vĩnh Lộc bất ngờ gọi cho Trần Văn Hai, tỉnh trưởng Phú Yên đích thân mang “công xa” của tỉnh trưởng ra sân bay đón ca sĩ Minh Hiếu, “người yêu bé nhỏ” của mình rồi đưa về dinh tỉnh trưởng nghỉ ngơi, tiếp đãi trọng hậu để chờ Vĩnh Lộc vào sau do bận việc. Tỉnh trưởng Hai “trề” dư biết ca sĩ Minh Hiếu là ai, đóng vai trò gì với Trung tướng Vĩnh Lộc, cấp trên trực tiếp của mình. Nhưng Trung tá Hai “trề” cũng ngông nghênh không kém Vĩnh Lộc, khi nhận được lệnh đã nổi máu điên, chỉ chấp hành có một nửa lệnh trên. Thay vì dùng công xa của tỉnh trưởng ra sân bay đón người đẹp cho hoành tráng, Hai “trề” dùng xe riêng của mình ra đón, và thay vì đưa nàng Minh Hiếu thẳng về dinh tỉnh trưởng cho long trọng, lại cả gan vứt người đẹp ở một khách sạn sang trọng nằm trên đường Lê Thánh Tôn thị xã Tuy Hòa. Ca sĩ Minh Hiếu lúc đó đang nổi tiếng như cồn, bài tủ của cô ca sĩ này là bài “Quen nhau trên đường về” và là người yêu của ca sĩ Nhật Trường tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Chính vì bị ông tướng vùng 2 Vĩnh Lộc dùng uy quyền “cuỗm” mất người yêu nên Trần Thiện Thanh lúc đó chỉ là một hạ sĩ quan Tâm lý chiến vừa thất tình, vừa oán hận đã sáng tác bài “Hoa trinh nữ” để than thân trách phận, đồng thời trách luôn cả nàng Minh Hiếu đã tham tướng, bỏ lính… vì vậy trong bài “Hoa trinh nữ” đã có câu: “Tôi không phải là vua nên mộng ước thật bình thường”. “Vua” ở đây ám chỉ “vua” không ngai Vĩnh Lộc “Anh cả Trường Sơn”. Khi Vĩnh Lộc vào tới Phú Yên, gặp nàng Minh Hiếu, người đẹp liền tỉ tê, trách móc việc bị Hai “trề” xem thường sau đó rồi giận dỗi bỏ về Sài Gòn. Mất hứng, lại bị bẽ mặt với người đẹp, Vĩnh Lộc đã nổi điên lấy cớ Hai “trề” làm tỉnh trưởng chẳng được cái tích sự gì, để cho Việt Cộng đánh Phú Yên tơi bời rồi… cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, chuyển ra đơn vị chiến đấu ngoài mặt trận. Người thay thế Hai “trề” giữ chức tỉnh trưởng Phú Yên là Trung tá Trần Văn Bá. Và đây là cơ hội để Nguyễn Văn Thiệu tìm lại nàng Oanh, người đẹp ở bến Sông Cầu. Tìm lại người xưa Trung tá Trần Văn Bá chẳng phải ai xa lạ, lúc Nguyễn Văn Thiệu làm Tiểu đoàn trưởng, đóng quân ở bến Sông Cầu Phú Yên thì Trần Văn Bá mới là Trung úy Tiểu đội phó, thuộc cấp của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1971, sau khi xích mích với Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu “độc diễn” ứng cử Tổng thống. Màn độc diễn… có một không hai này thành công tốt đẹp, Nguyễn Văn Thiệu “lên ngôi”. Nhân lúc tỉnh trưởng Phú Yên còn khuyết người, Nguyễn Văn Thiệu đưa luôn Trần Văn Bá bấy giờ là Thiếu tá thăng luôn Trung tá lên ngồi ghế tỉnh trưởng Phú Yên. Bởi Trần Văn Bá là con của bác sĩ Trần Văn Chẩn - Giám đốc Bệnh viện Mỹ Tho, vừa là thuộc cấp cũ, vừa là họ hàng với bà Mai Anh, vợ của Nguyễn Văn Thiệu, không ai có đủ chuẩn để ngồi vào ghế này hơn Trần Văn Bá. Sau đó không lâu, Nguyễn Văn Thiệu có chuyến kinh lý Phú Yên. Khỏi phải nói, “đệ tử ruột” Trần Văn Bá đã tổ chức đón tiếp Nguyễn Văn Thiệu long trọng đến cỡ nào. Tại dinh tỉnh trưởng, đang trong buổi đại tiệc tiếp đón Tổng thống diễn ra tưng bừng, đầy khí thế bỗng dưng Nguyễn Văn Thiệu quay qua hỏi Trần Văn Bá một câu bất ngờ, khó đỡ: - Cô Oanh ở bến Sông Cầu bây giờ ra sao, có còn ở chỗ ngày xưa không? Trần Văn Bá đang nhậu, mặt đỏ như mặt trời mọc bất ngờ nghe câu hỏi trên bỗng dưng tái mét, xanh như đít nhái. Bởi hơn ai hết, khi còn là thuộc cấp của Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thiệu thủa đóng quân tại bến Sông Cầu, Trần Văn Bá biết mối tình thắm thiết giữa Thiệu và cô gái lai Tây thường được gọi thân mật là nàng Oanh. Nhưng rồi Thiệu chuyển quân ra mặt trận, bỏ nàng Oanh ở bến Sông Cầu vò võ đợi trông, chẳng biết bao giờ người xưa trở lại nên sau đó nàng Oanh đã lấy một anh lính địa phương quân làm chồng. Anh này tên Hoanh, chẳng may anh Hoanh tử trận. Thực hiện chính sách đối với gia đình thương binh, tử sĩ của chính Nguyễn Văn Thiệu ban hành, Trần Văn Bá tìm nàng Oanh vợ của tử sĩ đưa về dinh tỉnh trưởng làm điện thoại viên, trực điện thoại văn phòng tỉnh trưởng. Cô gái ở bến Sông Cầu vẫn đẹp rực rỡ, không chỉ là một bông hoa tươi thắm trang trí cho văn phòng tỉnh trưởng mà còn là thư ký riêng, nhân tình của Trung tá Tỉnh trưởng Trần Văn Bá. Rồi theo thời gian, từ vai trò nhân tình, tiến lên một bước thành “vợ bé”, cuối cùng thì nàng Oanh ở bến Sông Cầu, từng là người yêu của Nguyễn Văn Thiệu đã sinh cho Tỉnh trưởng Trần Văn Bá một cậu con trai kháu khỉnh. Thế mới rắc rối. Trần Văn Bá lo cuống cuồng, sợ chuyện đổ bể, tới tai bà vợ dữ dằn, máu ghen còn hơn Năm rado vợ của Trung tá Thức công binh tạt axít vũ nữ Cẩm Nhung thì ít mà sợ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phát hiện thì nhiều. Bởi nếu Thiệu phát hiện ra chuyện này thì cuộc đời, sự nghiệp của Bá chắc chắn sẽ tan thành mây khói. Trần Văn Bá cũng tiêu đời như Trần Văn Hai Nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại không ngây thơ, trong lúc Trần Văn Bá muốn ém nhẹm sự việc tày đình thì người đẹp lại muốn công khai hóa chuyện Trần Văn Bá ăn ở với mình để làm áp lực vòi vĩnh tiền bạc và quyền lợi. Nàng Oanh đi đâu cũng ẵm con theo, công khai nói đó là con của ông tỉnh trưởng và yêu cầu Bá làm khai sinh cho con trai đứng tên cha hẳn hoi. Ông tỉnh trưởng biết đã “vào tròng” thì đã muộn nên mọi yêu sách của nàng Oanh bến Sông Cầu đều được đáp ứng đầy đủ kể cả việc mua một ngôi biệt thự, đầy đủ tiện nghi cho hai mẹ con nàng Oanh ở chỉ với mục đích nàng Oanh đừng làm ầm ĩ chuyện Bá trót lỡ dại nên gây ra thảm họa khó lường mà thôi. Nhưng cái mà Bá không lường nổi là Nguyễn Văn Thiệu sau bao nhiêu năm tháng vật đổi sao dời, hoàn cảnh đổi thay, biến cố dồn dập, tưởng rằng khi lên đến tuyệt đỉnh danh vọng và quyền lực, Thiệu không còn tâm trí và thời gian để nhớ chuyện xưa, một mối tình qua đường với cô gái ở bến Sông Cầu xa lắc. Thế mà Thiệu vẫn nhớ và Trần Văn Bá biết ngày tàn của mình đã tới, nhưng với bản chất xảo trá, ham danh lợi và quyền lực, Trần Văn Bá không thể bó tay ngồi chờ chuyện xảy ra mà phải lật ngược tình thế. Thiệu đả hỏi thế tức là chưa biết mối quan hệ chết người giữa hắn và nàng Oanh ở bến Sông Cầu nên Bá còn hy vọng để lấp liếm. Thế là Bá tạm yên tâm, tìm cách nói cho qua chuyện với hy vọng trên cương vị Tổng thống, bây giờ Thiệu sẽ không tìm hiểu sâu chuyện này và nhanh chóng bỏ qua. Suốt những ngày sau đó, Trần Văn Bá cuống cuồng lo tìm đủ mọi cách để che mắt Thiệu và để Thiệu không còn những ý nghĩ bất chợt về nàng Oanh bên bến sông Cầu. Nhưng Bá đã lầm, câu hỏi của ong Nguyễn Văn Thiệu không phải một câu hỏi vu vơ.ong Thiệu cũng không bao giờ bỏ qua những nghi vấn trong đầu mình. Bằng quyền lực và nhiều tai mắt ở tại dinh tỉnh trưởng của ong Trần Văn Bá, ít lâu sau ong Thiệu đã biết tỏng mọi chuyện và nổi điên lên vì tay “đệ tử ruột” lại dám cả gan “phỗng tay trên” … đĩa mứt gừng của mình xơi lén. Bằng nhiều lý do có cơ sở, Nguyễn Văn Thiệu đã lần lượt đánh cho Trần Văn Bá tơi tả và cuối cùng cách chức tỉnh trưởng Phú Yên Trần Văn Bá khiến ong ôm hận mà chẳng biết làm sao để rửa hờn, bởi kình địch và tình địch của Bá lại là…Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Cuối cùng ong Trần Văn Bá chỉ còn cách ngước cổ lên trời bắt chước Chu Du của Đông Ngô mà than ai oán rằng: “Trời đã sinh Bá tại sao còn sinh Thiệu”?thiệt không thấm vào đâu với tài của anh 3 Duẫn , lúc nào củng nắm vững chuyên chính Một câu hỏi thậm ngu!. Đoạn kết của nàng Oanh ở bến sông Cầu Sau khi ong Trần Văn Bá bị cách chức tỉnh trưởng Phú Yên, bị ong Nguyễn Văn Thiệu chơi cho thân bại danh liệt, công danh sự nghiệp, kể cả con đường binh nghiệp cũng tiêu vong thì nàng Oanh ở bến Sông Cầu không còn lý do gì để yêu sách nọ kia với Trần Văn Bá nữa. Nguyễn Văn Thiệu hạ Trần Văn Bá vì tội dám trêu gan Tổng thống chứ chẳng phải vì mục đích muốn chiếm lại nàng Oanh ở bến Công Cầu. Bởi lẽ, trong mắt ong, nàng Oanh bây giờ không còn là nàng Oanh ngây thơ, trong sáng của ngày xưa lúc gạt lệ chia tay Thiếu tá Thiệu dưới bóng trăng huyền ảo nơi bến Sông Cầu lãng mạn, đầy tình tứ mà là một phụ nữ đã có con với một anh lính quèn, rồi còn sống “già nhân nghĩa non vợ chồng” với Trần Văn Bá - viên tỉnh trưởng thuộc quyền của mình. Kịch đã hạ màn thì vai diễn cũng chấm dứt. Chỉ khổ cho nàng Oanh, không còn là bồ nhí của Trần Văn Bá, lại không thể nào nối lại tình xưa nghĩa cũ với ong Nguyễn Văn Thiệu, cuộc đời nàng Oanh đang sống trong nhung lụa bỗng chốc mất tất cả. Về sau, nghe đâu nàng Oanh ở bến Sông Cầu lại lấy thêm một đời chồng nữa, đó là ông N.H.T, dân biểu chế độ cũ sống tại Phú Yên.Củng như mối tình vĩ đại của bác Hồ Chí Minh với nàng Xuân và ngài đồng chí Trần Quốc Hoàn. Đến năm 1990, ông dân biểu này cùng nàng Oanh xuất cảnh sang Mỹ theo diện HO nhưng qua Mỹ rồi thì đường ai nấy đi. Từ đó nàng Oanh ở bến Sông Cầu cũng mất tăm, biệt dạng. Theo PNTD
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 27, 2014 15:23:20 GMT 9
BÙA LỖ BAN VÀ THUẬT ẾM NHÀ NGÀY XƯA. BÀI 1. dienbatnblog.blogspot.com/2011/05/bua-lo-ban-va-thuat-em-nha-ngay-xua-bai.htmlLời giới thiệu : Ngày xưa, trong khi làm nhà , những người thợ và chủ nhà thường phát sinh những mâu thuẫn vì những người thợ lúc đó có địa vị rất thấp , chủ nhà không chỉ tiếp đãi họ qua loa sơ sài mà còn cắt giảm tiền công , thậm chí còn đánh , chửi họ. Để bảo vệ cho những lợi ích của mình và trừng trị những người chủ nhà bất nhân , trong những người thợ đó có những người học theo phép của Bùa Lỗ Ban,đã sử dụng Bùa Lỗ Ban để ếm căn nhà họ vừa xây dựng , kiến cho chủ nhà suy sụp , thậm chí chết tuyệt nọc cả nhà. Có những truyền thuyết nói rằng , những người thợ biết dùng Bùa Lỗ Ban , cứ 10 nhà họ phải ếm một nhà để nuôi Tổ nghề. Gặp phải nhà thứ 10 đối xử tốt với họ, những vị thày Lỗ Ban đó phải dựng một căn nhà giả và ếm vào đó , sau đó đốt đi mới khỏi bị Tổ hành. Có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian nói về việc các người thợ ếm nhà và hậu quả xảy ra vô cùng thảm khốc cho gia chủ. Thực hư sự việc như thế nào , dienbatn cùng các bạn tìm hiểu nhé. dienbatn. 1/ LỊCH SỬ CỦA LỖ BAN. Lỗ Ban (hoặc) được xem là ông tổ của nghề mộc và nghề xây dựng. Có vài thuyết về lai lịch của ông. Lỗ Ban là thợ mộc giỏi của nước Lỗ (nay là tỉnh Sơn Đông) thời Xuân Thu (770-476 TCN). Tên ông là Ban (hoặc), họ là Công Thâu (cũng đọc Công Du) . Lỗ Ban nghĩa là “ông Ban người nước Lỗ”. Tượng thờ Lỗ Ban ở Đài Loan. Chân tượng có khắc chữ Xảo thánh Tiên sư , tức là Lỗ Ban Công . (http://taipedia.cca.gov.tw). E.T.C. Werner (A Dictionary of Chinese Mythology) cho rằng Lỗ Ban sinh năm 506 TCN. Cha là Công Thâu Hiền. Công Thâu Ban thuở trẻ là thợ giỏi về các loại vật liệu như gỗ, đá, kim loại. Năm 40 tuổi ông ở ẩn trên núi Lịch Sơn, tu luyện pháp thuật. Một thuyết khác cho rằng Lỗ Ban là người Đôn Hoàng , Túc Châu (nay là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc), thời Chiến Quốc (475-221 TCN). Ông có tài nghệ tinh xảo, chế tạo diều gỗ cho người ngồi trên đó bay đi do thám thành trì nước Tống. Một thuyết khác lại cho rằng ông tên là Công Thâu Ban, thường gọi là Công Thâu Tử , vốn là con của Lỗ Mục Công (có sách chép là Lỗ Chiêu Công). Tương truyền Công Thâu Tử chế tạo nhiều loại máy móc, có thể dùng trong tác chiến, thí dụ như thang mây (vân thê) bắc lên tường thành để công phá thành. Mặc Tử là người chủ trương phản chiến, từng đánh bại Công Thâu Ban về kỹ thuật công phá thành. Sách Mặc Tử, thiên Công Thâu chép: “Công Thâu Ban làm thang mây cho nước Sở xong, sắp đem đi đánh Tống. Mặc Tử nghe tin, bèn đi suốt mười ngày mười đêm từ nước Lỗ đến kinh đô của nước Sở để yết kiến Công Thâu Ban. [...] Mặc Tử cởi đai lưng giả làm thành, lấy thẻ tre giả làm khí giới. Công Thâu Ban chín lần bày cách đánh thành giả ấy nhưng Mặc Tử chín lần cự lại. Công Thâu Ban dùng hết khí giới đánh thành mà Mặc Tử thì còn cách chống giữ. Công Thâu Ban chịu thua”. Theo các thuyết trên, từ điển Từ Hải nói nên xem Lỗ Ban và Công Thâu Ban là hai người khác nhau. Trong dân gian thường truyền tụng về sự linh nghiệm của bùa Lỗ Ban, thước Lỗ Ban, v.v... Thợ mộc và thợ xây dựng thờ Lỗ Ban làm tổ sư, ngày vía là 13 tháng 6 Âm lịch. LỖ BAN TỔ SƯ Lỗ Ban: Người thầy vĩ đại về kiến trúc và nghề thủ công * Tác giả: TÂN ĐỊCH Nền văn minh Trung Quốc không chỉ là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới, nó còn là nền văn minh đã trải qua mà không có sự gián đoạn. Từ thời cổ xưa, suốt các thời đại kế tiếp, bằng sự chuyển sinh làm người, các chư thần tiếp tục trao truyền sự kế thừa văn hóa phong phú cho người Trung Quốc. Tục ngữ dân gian Trung Quốc có câu, “Trong 360 nghề, nếu một nghề mà không có người sáng lập, thì nghề đó không thể đứng [tồn tại] với thời gian”. Người sáng lập của mỗi một nghề thật sự là sự chuyển sinh của chư thần, người mà đến xã hội [con người], trực tiếp hoặc gián tiếp, sáng tạo ra nghề đó. Ở Trung Quốc, văn hóa dân gian dần dần phát triển khái niệm mà mỗi một nghề đều suy tôn người sáng lập và xem ông ta như “thần bảo hộ”. Môi trường sống của người Trung Quốc, bao gồm nội thất, nhà cửa, thành phố và tất cả, có thể được nhận thức qua một phản ánh trực tiếp nền văn minh của họ. Văn hóa của kiến trúc truyền thống ở Trung Quốc phong phú và đa màu, rộng mở và uy nghi. Lịch sử Trung Quốc về văn minh được giảng dạy bởi nhiều chư thần trong thời cổ xưa, ví dụ như Hữu Sào và Đại Vũ, và vì thế có thể nói rằng kiến trúc cũng là phần của một văn hóa bán thần Trung Quốc. Trong số những bậc thầy kiến trúc, người nổi tiếng nhất là Lỗ Ban thời Xuân Thu. Nghề thủ công của ông đã lưu truyền hàng nghìn năm, giành được sự kính trọng. Thợ mộc, thợ xây, thợ nề, các nhà chế tạo công nghệ xây dựng và nội thất tất cả đều suy tôn Lỗ Ban như là người sáng lập của nghề này. Theo một sách từ triều nhà Đường tên là “Nghiên cứu của Lỗ Ban”, các công nhân xây dựng đã khấu đầu lạy tạ Lỗ Ban trước khi họ bắt đầu thiết kế xà trên của nhà. Trong đời nhà Tần, bất cứ khi nào khi chính phủ bắt đầu một dự án xây dựng to lớn, họ dâng quà và cúng [bái] Lỗ Ban, cầu nguyện chư thần sẽ ban phước lành cho dự án của họ. Điều này vẫn còn là một phong tục ở Đài Loan ngày nay. “Bậc thầy về thủ công” Lỗ Ban sinh ra ở nước Lỗ. Tên thật là Công Du (cũng đọc Thâu) Ban, cũng còn gọi là Công Du Tử. Tên cách điệu [đồng âm] là Ban Ban, nhưng ông được nhắc thường nhất [như] là Lỗ Ban. Ông là một kỹ sư xây dựng nổi tiếng và thợ thủ công trong lịch sử Trung Quốc và từng một lần làm quan trong bộ xây dựng. Lỗ Ban sinh vào buổi chiều ngày 7 tháng 5 năm 507 trước Công nguyên. Lúc ông được sinh ra, những con sếu tụ tập cùng nhau và mùi thơm kỳ lạ lan tỏa khắp ngôi nhà. Người dân tất cả đều ngạc nhiên bởi điều đó. Đó là [dấu hiệu] điềm lành mà một chư thần sắp chuyển sinh vào thân người. Khi ông còn trẻ, ông không thích đọc và viết. Thay vào đó, ông rất quan tâm đến thủ công như là điêu khắc. Vào khoảng 15 tuổi, ông đột nhiên tỉnh ngộ về mục đích cuộc sống của ông và đi học với Đoan Mộc. Sau nhiều tháng học hỏi thông suốt, ông đã tinh thông nghề này. Lỗ Ban lui tới nhiều nước khác nhau, muốn trông nhờ [hay chú ý đến] nước Chu (một nước lúc bấy giờ), nhưng những nước này không nghe lời ông. Vì thế ông từ giã [cuộc sống] xã hội và sống ẩn dật ở phía Nam Đái Sơn, cũng được biết như “Tiểu Dương Sơn”. Mười ba năm trôi qua. Một ngày nọ, ông ra ngoài và chạy đến chổ Cựu Bao. Họ hàn huyên với nhau khá lâu. Cuối cùng, Lỗ Ban nhận Cựu Bao làm thầy và học điêu khắc và vẽ. Lỗ Ban muốn mang đến một viễn cảnh hoàn toàn mới cho văn hóa Trung Quốc. Lỗ Ban học với sự tập trung mạnh mẽ, học làm mộc, chạm đá, và những kỹ năng khác. Ông sáng tạo nhiều công cụ kỳ diệu và dạy nhiều học trò. Những sách của Hàn Phi Tử, Hoài Nam Tử, Luận Hành, Mặc Tử tất cả đều ghi chép rằng Lỗ Ban đã làm một con chim gỗ. Sau khi Lỗ Ban thiết kế cho nó bay, con chim đã [bay] lên không trung trong vòng 3 ngày. Trong sách Hồng Thự, nói rằng chim gỗ đã mang một người lên không trung làm gián điệp bên quân địch. Thiết kể đơn giản này là bước mở đầu cho máy bay trinh thám ngày nay. Có ai biết rằng con chim gỗ này cũng sẽ dẫn đường cho Lỗ Ban làm những người gỗ bất tử? Theo sách “Nghiên cứu của Lỗ Ban”, Lỗ Ban làm ra chim gỗ bay đến nước Chu để tìm người chị của mình. Người cha của Lỗ Ban rất lo lắng đi tìm con gái của mình nên ông quyết định đi cùng chim gỗ mà không nói với Lỗ Ban. Vì cha Lỗ Ban không biết cách lái nó, con chim gỗ đã rơi vào nước Vũ. Người dân nước Vũ muốn giữ cha Lỗ Ban làm con tin để buộc Lỗ Ban làm cho họ một con chim gỗ. Cha Lỗ Ban từ chối đề nghị của chúng và đã bị giết. Lỗ Ban sau đó đã làm một người gỗ bất tử để trả thù cho cái chết của cha. Ngón tay của người gỗ bất tử chỉ đến nước Vũ. Điều đó tạo cho nước Vũ chịu một nạn hạn hán kéo dài 3 năm. Khi người dân nước Vũ hiểu ra điều này, họ ban tặng rất nhiều quà cho Lỗ Ban và xin lỗi về việc làm sai trái của họ. Lỗ Ban nhân từ đã tha thứ cho họ. Sau đó ông ta cắt cái ngón của người gỗ bất tử và làm những phép thần thông. Mưa lập tức rơi trên nước Vũ. Lỗ Ban cũng đã làm ngựa gỗ mà có thể đi bộ trên đất một cách tự động. Đây là một dạng thức sớm nhất của “xe máy” được ghi chép. Trong thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã sử dụng những con ngựa của Lỗ Ban để vận chuyển lương thực. Tuy nhiên, kỹ thuật này sau đó đã mất. Lỗ Ban chăm lo cho gia đình của mình rất nhiều, và điều này cũng tạo cảm hứng cho ông phát minh ra nhiều công cụ đáng quý. Ví dụ, khi Lỗ Ban lần đầu tiên vẽ một đường sử dụng modou (một vật đánh dấu bằng mực của thợ mộc), ông đã nhờ mẹ ông giữ đoạn cuối của sợi dây. Sau đó họ hoàn thành công việc cùng nhau. Sau này, ông không muốn mẹ ông mệt vì phải luôn giúp ông, vì thế ông làm một cái móc cuối sợi dây để mẹ ông không phải giữ nó thêm nữa. Để tưởng nhớ đến lòng hiếu thảo của Lỗ Ban, những người nối nghiệp đã đặt tên cái móc đó là Ban Mẫu (Ban Mu) hay là Mẫu Câu (Mu Gou) (Mu nghĩa là mẹ trong tiếng Hoa). Một ví dụ khác là khi Lỗ Ban lần đầu tiên bào gỗ, ông nhờ vợ ông giữ đoạn cuối của miếng gỗ để nó không bị trượt ra ngoài cái ghế dài. Để tạo điều kiện vợ ông lo sóc những việc nhà, ông đã đóng một miếng gỗ nhỏ trên ghế dài để ngăn thanh gỗ không trượt về phía trước. Vì thế những người nối nghiệp sau đó đặt tên thiết bị này là Ban Thê (Ban Qi) (Qi nghĩa là vợ trong tiếng Hoa) Lỗ Ban cũng làm ra nhiều công cụ mộc khác cho người Trung Quốc, ví dụ như móc khoan (drilling hook), máy xay đá, xẻng, dụng cụ đo góc, mudou và thước. Người ta nói rằng Lỗ Ban đã phát minh ra cái cưa sau khi tay của ông bị cắt bởi mảnh lá cỏ. Lỗ Ban cũng tạo ra thang [phá thành trong chiến tranh] và 9 dụng cụ sử dụng trong chiến tranh. Ông cũng làm ra bản đồ đo vẽ địa hình 3 chiều từ sớm - Cửu Châu Đồ - được đánh giá cao bởi các hoàng đế Trung Quốc trong lịch sử. Thông qua những phát minh của mình, Lỗ Ban đã mang những lợi ích to lớn cho người dân. Tuy nhiên, những đóng góp to lớn của Lỗ Ban không phải là những thứ mà ông đã xuất sắc trong việc tạo ra những công cụ này, kỹ năng và thiết bị cơ khí. Quan trọng hơn, Lỗ Ban đã đi theo Đạo. Lỗ Ban nói, “Trời và Đất không cần compa hay bảng đo góc để làm nên vòng tròn hay hình vuông. Nhưng khi đến thế gian, con người cần có compa để vẽ vòng tròn và cần bảng đo góc để vẽ hình vuông. Vũ trụ và những việc của nó đã ở trong Đạo rồi, nhưng loài người thì đi xa Đạo. Vì thế loài người cần compa và bảng đo góc để vẽ vòng tròn và hình vuông.” Vì chúng ta có thể nhìn thấy điều mà Lỗ Ban đã trải qua cùng với kỹ năng của ông, ông cũng cảm thấy mình đã không có lựa chọn. Con người cần công cụ vì họ xa Đạo. Dĩ nhiên, thông qua việc học những công cụ này, những gì Lỗ Ban dạy đã giúp con người quay về với tiêu chuẩn của con người. Nếu Lỗ Ban đã không tạo nên những công cụ này, và nếu những người nối nghiệp của ông cũng không có cũng những tư tưởng sáng tỏ như Lỗ Ban, thì những kỹ năng của Lỗ Ban có lẽ đã mất đi. Vì thế, Lỗ Ban phải phát minh những công cụ thủ công để họ có thể đi qua cùng với các thế hệ. Khoảng 40 tuổi, Lỗ Ban quay về sống ở núi, ở đó ông đã gặp một vị thần. Vị thần này đã dạy ông một vài điều huyền bí. Sau đó, Lỗ Ban đã đi khắp nơi trên thế giới. Cuối cùng, khi ông 70 tuổi, ông đã bay lên giữa bạch nhật. Cái rìu và cưa của ông để lại trên Bạch Dương Nham. Các bạn vẫn có thể thấy những di tích cổ xưa này. Sách “Nghiên cứu của Lỗ Ban” là cuốn sách truyền tay duy nhất qua các đời đến hôm nay đã ghi chép về nhà cửa, nội thất, nông nghiệp và nghề thủ công vào thời của Lỗ Ban. Khởi đầu, sách được lưu truyền bằng miệng giữa những thợ thủ công trong hình thức những công thức súc tích. Suốt đời nhà Minh, cuốn sách cuối cùng đã được viết xuống. Vì khung nhà cổ xưa được làm bằng gỗ, cuốn sách đã ghi chép rất nhiều kỹ thuật về nghề mộc. Nó cũng bao hàm nhiều thứ liên quan đến Phong Thủy và thuật tử vi của Đạo gia, mà thể hiện tư tưởng Trung Quốc nơi mà tự nhiên và con người nên hài hòa với nhau. Theo suốt thời gian, những thợ thủ công đã kế thừa những lời dạy của Lỗ Ban. Vào lúc sơ khai của việc đào tạo những người tập sự, ông chủ trương rằng việc quan trọng nhất không phải là làm sao học cách để sử dụng công cụ, thay vào đó, học những tiêu chuẩn đạo đức để cư xử đúng đắn, học trở nên tốt với người khác và nghiêm khắc với bản thân. Hơn nữa, một người nên học cách tập trung, học cách tu luyện lý trí của mình, để hài hòa trí của người đó với tâm của họ. Những yêu cầu cho tâm và trí sẽ giúp một người đạt được tư tưởng trong sạch và tinh khiết. Với một tư tưởng như thế, khi một người làm một dự án, anh ta có thể quên chính mình và tập trung vào công việc, hợp nhất công việc với Đạo. Dưới những nguyên lý chỉ đạo này, theo suốt thời gian đã xuất hiện nhiều thợ thủ công nổi tiếng. Ví dụ, một thợ thủ công sống trong thế kỷ thứ 2 trước công nguyên là học trò của Lỗ Ban. Ông ta đã sáng lập nên công nghệ lát gạch và phát minh công cụ cho việc lát gạch và dạy chúng cho người dân. Ông được gọi một cách kính trọng là “Bậc Thánh Liên Hoa”, hay là “Bậc Thánh [về] Đường Kẻ”. Theo một thần thoại, Bậc Thánh Liên Hoa [là một sự] chuyển sinh từ một vị thần. Lúc đầu, ông dạy người ta làm cách nào để làm ngói lợp nhà. Sau đó, càng nhiều người đến học ông. Hơn trên nữa về những kỹ năng vượt qua khỏi mức bình thường, họ đề nghị ông nhận họ làm những người học trò một cách chính thức. Bậc Thánh Liên Hoa nói “Nếu các chư vị muốn tôi làm thầy, hãy theo tôi”. Sau đó ông nhảy vào lò nung gạch và bay đi như một vị thần bất tử. Sau đó, người ta mới nhận ra rằng ông là một vị thần. Vì những lời dạy của Bậc Thánh Liên Hoa, trong lịch sử Trung Quốc, triều đại Tần và triều đại Hán đã rất nổi tiếng về gạch và ngói của họ. Các hoàng đế suốt các triều đại văn minh Trung Quốc đã ban tặng nhiều danh hiệu về Lỗ Ban. Ví dụ, trong triều đại Minh, hơn 10 nghìn người đã xây Long Phủ Bắc Kinh, một dự án khổng lồ mà chỉ có thể được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của những chỉ dẫn của Lỗ Ban. Người dân thời kỳ ấy đã xây một đền tưởng nhớ đến Lỗ Ban. Những ghi khắc trên bia trong đền đọc là “Lỗ Ban Quan”. Hoàng đế thời đó đề tặng câu “quý nhân phò [trợ] quốc.” Người dân dùng Thái Lao để tổ chức kỷ niệm Lỗ Ban 2 lần trong năm. Thái Lao nghĩa là họ sử dụng bò cái, dê, lợn cho buổi lễ. Nó giống như một lễ lớn như được tổ chức cho Khổng Tử. Có 2 mục đích xây dựng đền Lỗ Ban. Một là cảm ơn Lỗ Ban, còn lại là để khi các thợ thủ công khi có vấn đề trong công việc của họ, họ có thể đến đền để nhờ [hỏi] Lỗ Ban cho họ một chỉ dẫn. Lỗ Ban đã ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi người, và công cụ của ông vẫn còn được sử dụng ngay cả đến ngày hôm nay. Trong các triều đại sau thời của Lỗ Ban, các thành phố, nhà, cửa chính, cửa sổ tất cả đều “đúng trật tự”. Lỗ Ban giúp chúng ta sống an toàn và thoải mái. Hơn nữa ông dùng môi trường sống này để truyền đạt lại tiêu chuẩn và cách cư xử đến người dân Trung Quốc. Điều này giúp giữ được chuẩn mực đạo đức cho dân tộc Trung Hoa hơn 5 nghìn năm. Ngày nay, các quan chức Trung Quốc đang theo đuổi những thiết kế nhà cửa kỳ quái và quy hoạch hóa đô thị. Nó phản ảnh sự xáo trộn xã hội của Trung Hoa hiện đại ngày nay. Sự đổi mới không có nghĩa là từ bỏ những nguyên lý của một nghề. Chỉ có sự quay về với những nguyên lý được để lại bởi các chư thần, xã hội chúng ta [mới] có thể sống trong hòa bình, hài hòa và phồn vinh. Nguồn:http://www.zhengjian...9/22/54955.html 2/ BÙA CHÚ CỦA NGƯỜI THỢ. Người thợ thường dùng bùa chú ở những nơi không có người, để người khác không nhìn thấy được. Khi giở Bùa chú phải nhìn chăm chú vào lá bùa sau đó mới được thực hiện. BÙA ẾM ĐẤT. BÙA PHÁ CHO VỢ CHỒNG ĐÁNH LỘN. BÙA THƯ CHO ĐIÊN. 3/PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÙA CỦA CHỦ NHÀ. Khi làm nhà, thợ đá , thợ xi măng và thợ mộc thường làm các loại bùa để đầu độc , yểm ma hoặc làm hại chủ nhà. Để hóa giải , vào ngày bắc xà( gác đòn dông -dienbatn), phải dùng 3 thứ súc vật trâu, dê , lợn để làm đồ lễ tế, ngoài ra phải chuẩn bị một bức hoành phi, báo cáo lên các vị Tướng, Thần và vị Sư Tổ Lỗ Ban rồi bí mật viết nội dung một lá Bùa với câu niệm chú : " Ác tương vô tri, cổ độc yểm ma, tự tác tự đương, chủ nhân vô thương " Sau khi niệm thầm xong 7 lần, người thợ làm lá bùa hại người đó sẽ gặp tai họa. Ngoài ra còn phải niệm :" Ngã phụng Thái Thượng lão quân sắc lệnh, tha đích chế tác đối ngã một hữu phòng ngại, nguyện bách vật hóa vi cát tường, cấp cấp luật lệnh ". Sau đó đem lá bùa đốt ở chỗ không có người, không được để cho người khác nhìn thấy, giấu màu đen vàng và máu chó vào trong rượu, khi bắc xà , đem rượu này rắc lên đầu người thợ , rắc liên tiếp 3 chén, rượu còn lại chia cho thợ thuyền cùng uống. Như vậy người thợ yểm bùa, yểm ma sẽ phải chịu hậu quả từ chính hành động của mình, trong khi mọi việc của chủ nhà vẫn có thể gặp may mắn và thuận lợi. ( GIẢI THÍCH ) . Phép thuật do những người thợ thực hiện thường có thể khiến cho chủ nhà nảy sinh áp lực về tâm lý , vì vậy thời xưa khi xây nhà , sau khi chủ nhà và thợ phát sinh ra mâu thuẫn , chủ nhà sợ thợ cố ý dở trò ma mãnh trong quá trình xây dựng nên đã áp dụng biện pháp giải bùa như trên. Có một cách giải bùa khác nữa là : Chủ nhà vừa cầm một chiếc rìu gõ vào một thanh gỗ đặt giữa nhà và niệm chú : " Đảo hảo, đảo hảo , trụ thử trạch nội, thế thế ôn bão ". Sau khi xây xong toàn bộ ngôi nhà , chủ đặt một chậu nước ở trong phòng, tất cả mọi người ở trong nhà đều cầm một cành liễu, nhúng vào nước rồi vẩy quanh phòng, vừa đi vừa niệm thần chú : " Mộc lang mộc lang, viễn khứ địa phương, tác giả tự thụ, vi giả tự thường, sở hữu yểm ma, vu ngã vô can, Cấp cấp như Thái Thượng Lão Quân lệnh sắc ". Vào thời xa xưa, bùa chú bị cho là có sức cảm ứng, hoặc lệnh cấm đối với quỷ thần hoặc giới tự nhiên, Khi thực hiện bùa thuật, Đạo sĩ thường dựa vào một số vật môi giới nào đó, chẳng hạn như nước bùa. Người xưa cho rằng, những thứ đã qua làm phép thuật này, cũng có ma lực của bùa thuật. Bùa chú được vận dụng rông rãi trong Đạo giáo. Bùa chú của Đạo giáo thường dùng những từ ra lệnh như " như luật lệnh", "cấp cấp như luật lệnh". Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh ",... Nguyên nhân là do Đạo giáo được thành lập từ đời nhà Hán, các chiếu thư và bài hịch đời nhà Hán thường có các từ :"như luật lệnh". "như luật lệnh" có ý chỉ việc chấp hành pháp lệnh, về mặt ngữ khí , cụm từ này mang ý nghĩa " kẻ phạm luật phải bị truy cứu đến cùng ". Những cụm từ chính thức mô tả quyền uy của pháp luật và chính lệnh trước hết được tiếp nhận bởi các thày cúng dân gian, sau đó được truyền lại cho dân gian. Trong nghi thức thực hiện pháp lệnh của Đạo giáo, người ta thường đọc các câu bùa chú, bấm ngón tay niệm thần chú hoặc Bộ Cương....chúng cùng với thư phù trở thành một thủ đoạn cơ bản của Đạo pháp. Bản thân những phép thuật này , có tác dụng giúp đỡ con người duy trì được sự cân bằng về tâm lý và niềm tin vào cuộc sống, trước sức mạnh phi thường không thể khống chế. Trong " Đẩu pháp" giữa những người thợ và chủ nhà , ta có thể thấy rất nhiều yếu tố mê tín. Bách Giải Tà Pháp phù. Loại bùa này được viết bằng nguyên liệu màu hồng, sau đó được đem dán lên xà chính. Phương pháp vẽ bùa bằng chu sa: Trước tiên viết tên người trong nhà vào trong phần vòng tòn màu đen, sau khi viết xong lại dùng mực xóa sạch, dùng tay trái dán bùa , trèo thang lên dán vào xà chính, khi dán không được nói chuyện phiếm với người khác . Dán xong xuống thang , bày Thanh Long Thần vị và trà , gạo, thức ăn, tiếp đến là hoá vàng( đốt tiền giấy ), sau đó làm yên lòng các bậc Tiên , Thánh trong gia môn, đón Thổ địa, Táo quân về an vị, niệm :'An gia đường chân ngôn ". Trấn Trạch An Gia Pháp Khi mới chuyển đến 1 nơi ở mới hoặc căn nhà mới, nếu muốn tránh các loại pháp thuật của Tà Sư ( thầy mo ) có thể dùng “Đế Tổ Trấn Trạch An Gia Pháp ” để hóa giải Tà Sư pháp, đối với chủ nhân không hề có hại mà lại giúp cho gia đình vô cùng êm ấm. Trong phòng kín thắp hương bắt quyết Thỉnh Sư, để câu thông, sau đó dùng bút lông Dê vẽ “ Trấn Trạch An Gia Phù ” 1 đạo. Vẽ xong tay trái cầm Phù, sau đó dán lên giữa tường, đốt 3 nén hương, 2 tay chắp lại thành tâm khấn niệm “ An Gia Chân Ngôn ” An Gia Chân Ngôn. Thiên dương địa âm. Tam khí hóa thần. Tam quang phổ chiếu. Cát huy lâm môn. Hoa hương tán sắc. Thiên lạc diệu âm. Hoan thỉnh gia bảo. Tư mệnh lục thần. Vạn niên hương hỏa. Vĩnh trấn gia đình. Chư tà mạc nhập. Thủy hỏa nán xâm. Môn thần hộ vệ. Sa quỷ chư tinh. Thần uy quảng đại. Chính đại quang minh Thái ất sắc mệnh. Vĩnh bảo an môn. An thần kỉ bế. Vĩnh viễn đại cát. Chân ngôn niệm 3 lần xong, chân đứng Cương Bước, tay trái chắp Lôi Quyết, đặt vào eo trái, tay phải chắp Kiếm Quyết đối chuẩn với “ Trấn Trạch An Gia Phù ” để thư hiệu lệnh phù, hoàn thành việc thi hành pháp. Thái Tuế An Trạch Pháp “ Thái Tuế” tức là Tuế Tinh cổ đại thiên văn học, nhà xem tướng số cho rằng Thái Tuế tức là có Tuế Thần, các nơi sở tại và nơi tương phản, đều phải cấm kỵ, tránh nơi không may mắn. tinh mệnh gia cho rằng Thái Tuế là vận mệnh của người chủ, đem sinh niên thái tuế gọi là “ đương sinh thái tuế”. Lấy chủ làm sinh mệnh cuối cùng, thái tuế luân chuyển hàng năm gọi là “ du hành thái tuế”. Tai họa chính của một năm, tục ngữ có câu” thái tuế đương đầu tọa, phi tai biến là họa”, có thể thẩy hàng năm nếu như gặp thái tuế thì những năm này không cát lợi. dân gian thường có câu” thái tuế đầu thượng bất khả động thổ”, ý là nơi hung tàn mà thái tuế ở, nếu như động thổ hưng kiện thì sẽ tạo ra tai họa, xung phạm đến thần sắc, nhân đinh hại bệnh, gia trạch bất an, cách hóa giải tốt nhất là vận dụng ngũ tông “ Thái Tuế An Trấn Pháp” Phương Pháp Cung Phụng Thái Tuế. - Mặt quay về hướng Đông chân bước Cương Bộ, bắt Thỉnh Sư Quyết, dùng bút lông, mực đen viết lên giấy đỏ, trên đó vẽ “ Thái Tuế Phù ” 1 đạo, viết tên của Thái Tuế Tinh Quân năm nay, ở trên Phù bên trái ghi ngày, tháng, năm, sinh ( Chủ Hộ ) chọn lấy 1 ngày đại cát, đại lợi, trong tháng giêng mà dán vào giữa nhà, mỗi tháng vào ngày 15 âm lịch, dùng nước, hương, hoa, quả mà cúng lễ, trong lòng tâm niệm khấn. “ cẩn thỉnh thái tuế tinh quân xxx, đáo thử trấn trạch, thiên cung tứ phúc trấn trạch quang minh, chiêu tài tiến bảo, hợp gia bình an, tín sỹ xxx thành tâm cung thỉnh” niệm 3 lần, sau đó khấn 3 lễ. Tạ Thái Tuế Pháp. Hàng năm vào ngày 24 tháng 12 âm lịch, trước Thái Tuế Phù, đốt nhang, đốt nến, tâm thành kính tạ niệm chú “ cẩn tạ thái tuế tinh quân xxx, đáo thử trấn trạch, thiên cung tứ phúc, trấn trạch quang minh, chiêu tài tiến bảo, hợp gia bình an, tín sỹ xxx thành tâm cung thỉnh” niệm 3 lần, sau đó khấn 3 lễ. sau đó lấy bùa ở nơi thanh tĩnh thiêu đốt cùng với nhang, nến, tiền vàng. Công Dụng Cúng Lễ. Cúng lễ “ bùa thái tuế trấn trạch an gia”, có thể chiêu phúc nạp cát tường, hoang nghênh niềm vui, làm cho gia trạch an vui, trong nhà hòa hợp, ra vào bình an, làm ăn hưng lợi, ngũ tục phong đặng, gia súc đầy đàn, tiền tài đầy nhà, sức khỏe trường thọ. PHƯƠNG PHÁP GIẢI TRỪ TAI ƯƠNG CHO GIA TRẠCH CÓ NHIỀU QUỶ THẦN VÀ TAI HỌA. Khi trong nhà có nhiều quỷ thần , tai họa hoặc có tà thần dã quỷ do người ngoài từ nơi khác đem tới, người trong nhà có thể sẽ bị quỷ thần làm cho mê muội hoặc gây tai họa, tà quỷ ẩn dấu hình dáng , tác oai tác quái , thoắt ẩn thoắt hiện từ nơi này sang nơi khác , giả làm miệng người bệnh, đòi ăn , đòi uống. Nếu thấy xuất hiện tình trạng này có thể dán 12 lá bùa, tính theo phương của tinh bàn . Dán bùa theo phương pháp này , tai họa do ma tà gây ra sẽ nhanh chóng tự rời bỏ và bị loại trừ vĩnh viễn, từ đó, vật bị ma quỷ làm cho điên loạn sẽ không thể gây ra tai họa cho chủ nhà . Phương pháp xác định kết cấu và phương tinh bàn trên đều là phương pháp dán bùa. Giả dụ như trong một năm trước Lập xuân, chia thành tiết khí của 12 tháng, khi Lập xuân đi qua, tức là vào tháng Giêng, thì lá bùa đầu tiên sẽ được dán ở phương chính Đông.Nếu không gặp được Lập xuân thì bắt đầu dán ở phương Đông Bắc. Dán ở các phương chính Đông, chính Tây , chính Nam , chính Bắc mỗi phương 2 lá bùa, các phương Đông Nam , Đông Bắc, Tây Nam,Tây Bắc, mỗi hướng dán một lá , không được dán sai. Ner61u dán sai thì lá bùa dán không còn tác dụng. Ngũ lôi Địa chi linh phù được thu thập và biên soạn trong sách gốc sau : Vạn linh bảo phù - loại phù dùng để hóa giải những vật bị quỷ thần mê hoặc. Câu niệm chú : Hống hống ni am kha( ha) hạ ma ca mu khiếu thạch diệp cấp cấp như tát công chân nhân luật lệnh " Trong đó có thêm 5 bùa Ngũ lôi , với câu thần chú : Xuất ". BÙA TRỊ ĂN TRỘM.Dán cửa. TRỪ ĂN TRỘM. Chôn tại chỗ lỗ ăn trộm chui vào. Vái : Cửu Thiên Huyền nữ - Lỗ ban Tổ sư – Trương Thiên sư- Thập nhị thời thần và Tổ ăn trộm là Trần Thị Thiệt. BÙA DÁN CỬA AN GIA TRẠCH.dienbatnblog.blogspot.com/2011/11/nhung-ieu-can-biet-khi-cai-tang-mo-phan.html
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:25:08 GMT 9
Đi tìm sự thật về bùa ngải làm từ xác ngườiRất nhiều trường phái sử dụng hài cốt người chết để làm thành những loại bùa chú huyền bí. Sự linh nghiệm thần kỳ của các loại bùa chú này thường chưa ai nhìn thấy, chỉ là đồn đoán truyền miệng. Tuy vậy, không ít kẻ hiếu kỳ, mù quáng và tham lam vẫn tin và bằng mọi giá để có được những thứ bùa ngải rợn người ấy. ĂN TRỘM TAY NGƯỜI CHẾT VÌ SÉT ĐÁNH Có thời, ở các vùng quê ở Thanh Hóa và Nghệ An rộ lên nạn săn tìm mộ người sét đánh để đào trộm. Cho đến nay, những cuộc khai quật như vậy vẫn âm ỉ, thỉnh thoảng lại bùng phát. Từ trong dân gian, hàng trăm năm nay người ta vẫn lưu truyền những lời đồn thổi huyền bí kiểu như: Những kẻ hành nghề trộm cướp muốn phát tài, đánh đâu thắng đó thì đào trộm mộ người chết vì sét đánh, chặt một bàn tay đem về yểm, vậy là ung dung đi khuân đồ nhà người khác mà không sợ bị bắt. Có bàn tay ấy, kẻ trộm trước khi hành sự chỉ việc cho lên bàn thờ khấn, bàn tay đó chỉ về hướng nào thì đi ăn trộm hướng đó sẽ thành công. Thậm chí, người ta còn đồn đại đến uy linh của bàn tay sét đánh, khi vào nhà giơ bàn tay huơ huơ mấy vòng là chủ nhà ngủ ly bì như chết. Chẳng may, trong lúc hành sự nhỡ bị chủ nhà phát hiện, kẻ trộm chỉ cần cầm bàn tay đảo qua vài vòng chủ nhà chỉ có nước đứng im bất động. “Bàn tay sét” màu nhiệm vậy nên nhiều kẻ liều mạng đã cất công tìm kiếm và khai quật mồ mả người chết để có được bửu bối ấy. Ông Nguyễn Văn Sơn 60 tuổi ở Thuần Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa kể: "Tôi từng có đứa cháu qua đời vì bị sét đánh. Theo tục lệ ở chúng tôi từ hàng trăm năm nay, người bị sét đánh chết không chôn cất ở nghĩa trang, phải chôn cất ở trong vườn nhà mình. Vì đã có trường hợp bị kẻ xấu đào mộ, lấy một số bộ phận của cơ thể”. Ông Sơn đã từng nghe kể về gia đình xã bên, có người bị chết do sét đánh, nhưng do gia đình chủ quan canh giữ mộ không cẩn thận mà người mất không được yên. Gia đình mới làm 3 ngày cho người xấu số, đến sáng hôm sau lên thăm mộ đã bị đào bới tung tóe. Kẻ xấu vào khu nghĩa trang đào xác lên và lấy một số bộ phận như xương bánh chè, cánh tay, ức. Tại sao chỉ ở những làng quê Thanh Hóa, Nghệ An mới lưu truyền về sự kỳ bí của “bàn tay sét”? Thực chất, ở trong Nam cũng không hiếm gặp. Nó là một loại bùa ngải xuất phát từ Campuchia, còn gọi là bùa Miên. Bàn tay sét muốn linh nghiệm phải được tẩm yểm, cúng viếng rất công phu. Ngày trước, ở các vùng quê Củ Chi, Hóc Môn của Sài Gòn cũng từng có nạn đào trộm mồ mả của người bị sét đánh. Nạn đào trộm mộ người bị sét đánh từng khuynh đảo các vùng quê Ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ - Tin học ứng Dụng (UIA) khẳng định: “Việc kẻ xấu đào mộ, lấy một số bộ phận của người bị sét đánh là có thật. Vì thế, các gia đình có người thân bị sét đánh chết, khi chôn cất phải canh chừng nghiêm ngặt. Đó chỉ là do người ta đồn thổi, hư cấu xuất phát từ quan niệm "Thiên lôi chỉ đâu đánh đó" của người xưa. Vì những người chết do sét đánh xưa kia người ta hay gọi là "thiên lôi đả". Còn nhà nghiên cứu tâm linh Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người) khẳng định: "Tôi cũng đã nghe nhiều lời đồn về sự mầu nhiệm như phép thuật của những bộ phận trên thi thể người bị sét đánh. Nhưng tôi chưa từng biết đến một trường hợp nào được "thụ hưởng" từ sự thần bí này. Ngay cả việc người bị sét đánh chết hụt có khả năng đặc biệt gì không cũng chưa được biết rõ". Ông Hải cũng đã bỏ công tìm hiểu nhiều tài liệu nhưng cũng không ở đâu nói về những tác dụng kỳ bí của người chết do sét đánh. Tất cả đều chỉ là tin đồn. BÍ MẬT CỦA “TIỂU QUỶ” Gần đây, lại nghe phong thanh việc một số đại gia đang thi nhau thờ “quỷ nhi” hay có cách gọi khác là “tiểu quỷ”. Thứ bùa ngải thần bí này nếu có dùng cũng ít ai nói ra, thậm chí với cả người thân. Những lúc các ông trà dư tửu hậu, nếu có buột miệng lỡ nói thì cũng lập tức khựng lại. Bùa “quỹ nhi” được sử dụng rất rộng rãi bên các nước Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan... Còn ở xứ ta chưa thấy ai dùng (hoặc chưa bị lộ). Nhà nghiên cứu huyền thuật N.H.T mà tôi có dịp giới thiệu với độc giả trong bài viết trước cho biết: Bùa quỹ nhi xuất phát từ Thái Lan còn gọi là bùa Xiêm. Ở Thái rất phổ biến loại này nên người nổi tiếng, thương gia khắp Á Đông thường xuyên qua đó mua về thờ. Chúng được làm từ những thai nhi đã chết, tẩm ướp đặc biệt. Người dùng thường để ở nơi kín đáo, giấu biệt cả người thân trong nhà cũng khó biết. Theo quan niệm, muốn làm được bùa, nhất thiết phải có thi thể sinh linh nhỏ bé đó để điều khiển linh hồn chúng. Vì vậy, nhiều kẻ mù quáng nạo phá thai, dùng chính giọt máu của mình để có được loại bùa này. Nếu là song thai thì phúc càng lớn. Bùa quỷ nhi thường được dùng để sinh tài lộc, người kinh doanh buôn bán dùng bùa thì được nhiều khách hàng, đối tác. Những kẻ tà tâm thường dùng loại bùa này để quấy phá đối thủ của mình, nhẹ thì thất bát, nặng thì lâm bệnh. “Tuyệt nhiên, thứ bùa này không thể dùng để đoạt mạng người. Vì năng lực của trẻ con có hạn, không thể dùng vào việc đó” - ông H. nói. Về sự linh nghiệm của loại bùa này ông cũng chưa từng được chứng kiến bao giờ, chỉ nghe qua chuyện kể. Bùa chú có thể dùng để giết người? Ông H. khẳng định là có. Trong hầu hết các trường phái huyền thuật đều lưu hành một thứ bùa gọi là “Thiên Linh Cái”. Loại này là hình thức “thỏa hiệp” với vong hồn người chết. Người sống được vong hồn này giúp đỡ, ngược lại vong hồn được yêu thương, chăm sóc. Loại bùa này được biết đến với chức năng “thám tử”, tức là thu thập tin tức từ nơi mà người sử dụng muốn biết. Cao hơn, có thể xui khiến vong hồn đoạt mạng đối thủ. Có trường phái chỉ cần thuyên luyện, kêu gọi vong hồn. Nhưng cũng có trường phái phải thông qua công cụ để giữ vong hồn đó chính là chiếc sọ người chết. Bùa tiểu quỷ 14 năm trước, ở Đồng Tháp từng xảy ra vụ giết người hàng loạt gây chấn động dư luận cả nước xuất phát từ việc luyện loại bùa này. Ở cù lao xã Tân Bình (huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp), xuất hiện một người đàn ông tên Phạm Văn Tân (54 tuổi) tự xưng hành nghề thầy thuốc danh xưng Hai Tưng rất được người dân cảm tình vì bốc thuốc không lấy tiền. Sau đó, thầy Hai Tưng còn vẽ bùa giải hạn cho dân làng và nhiều lần ứng nghiệm nên ngày càng được tin tưởng. Dân xã không ngờ ông thầy bùa ấy đang mộng luyện thành bùa phép Thiên Linh Cái bằng cách giết người lấy sọ. Đêm cuối tháng 5/2000, một cô gái Trần Thị Phương, 25 tuổi, đến nhà thầy Hai Tưng để xin bùa. Thầy Hai Tưng dặn trước phải chui vào một chỗ thủng ở tường rào vào nhà thầy mới thiêng. Tin lời, cô gái trẻ tìm đến. Vừa chui đầu qua lỗ thủng, ông thầy đã cầm sẵn khúc cây vụt liên tiếp vào đầu cô gái. Nạn nhân chết, thầy Hai Tưng cắt thủ cấp và chôn xác cô sau vườn. Sau khi vụ việc vỡ lở, công an phát hiện ở căn mật thất trong nhà lá của ông này thêm 3 chiếc đầu lâu khác đặt trên bàn thờ nghi ngút khói nhang và một mớ những giấy bùa ma giáo. Tên thầy bùa mê muội và khát máu bị tử hình không lâu sau đó. “Đã nghiên cứu huyền thuật, không ai không biết câu chuyện đó” - ông H. nói. Ông thầy bùa đã chết nhưng cái giá ông này phải trả trong thế giới tâm linh và hậu quả để lại cho con cháu là cực kỳ ghê gớm. “Bùa ngải không phải xấu, cái xấu nằm ở kẻ tà tâm” - ông H. chiêm nghiệm. Thực ra, bùa ngải là công cụ kết nối con người với cõi âm. Vong hồn con người cũng như khi sống, làm gì cũng xuất phát từ sự thiện nguyện, nếu ép buộc họ thì sẽ phản tác dụng, tự làm hại chính mình. Như ông thầy bùa nọ tước đoạt mạng sống của người khác để mong vong hồn họ giúp mình thì quả là ngu xuẩn và bệnh hoạn. Cũng như nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã nhiều lần nói với người viết bài này: Con người sống với thông điệp từ bi thì nhân quả tốt, được vong hồn phò trợ. Còn tham lam, độc ác, gieo thông điệp hận thù để đạt được mục đích đen tối thì quả báo đến sẽ là tất yếu.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:26:52 GMT 9
Văn khấn cúng Lễ động thổ, cất nóc - Xem tuổi xây nhàLàm nhà là một trong những việc quan trọng nhất của một đời người. Để những người sống trong ngôi nhà mới xây cất được khỏe mạnh, gặp mọi sự may mắn tốt lành thì khi tiến hành làm nhà nhất thiết phải chọn giờ Hoàng Đạo. Theo Phong thủy , những người có tuổi phạm vào năm Kim Lâu và Hoang Ốc thì không nên làm nhà. Do điều kiện cấp bách những người này khi làm nhà phải mượn người có tuổi không phạm vào hai điều trên để làm lễ động thổ, khởi công dựng nhà. Khi bắt đầu khấn và lúc làm lễ động thổ, gia chủ phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trở lên. Sau khi hoàn tất lễ động thổ xong, mới trở về. Văn khấn cúng Lễ động thổ Ý nghĩa của lễ động thổ: Theo ông bà ta xưa làm nhà là một trong những việc quan trọng nhất của một đời người. Để những người sống trong ngôi nhà mới xây cất được khỏe mạnh, gặp mọi sự may mắn tốt lành thì khi tiến hành làm nhà nhất thiết phải tuân thủ một số nghi thức quy định về mặt phong thuỷ, chọn ngày tốt (Hoàng đạo, Sinh khí, Lộc mã, Giải thần. ...) tránh ngày xấu (ngày Hắc đạo, Sát chủ, Thổ cấm, Trùng tang, Trùng phục.....) và phải chọn giờ Hoàng Đạo để làm lễ động thổ (lễ cúng Thần Đất) và xin được làm nhà trên mảnh đất đó. Sắm đồ lễ khởi công: (Động thổ, sửa chữa, mở cổng, cất nóc) - 1 bộ tam sinh (1 miếng thịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 trứng vịt luộc) - Một con gà. - Một đĩa xôi hoặc bánh chưng. - Một đĩa muối - Một bát gạo, Một bát nước. - Nửa lít rượu trắng. - Bao thuốc, lạng chè. - Một bộ quần áo Quan Thần Linh, mũ, hia tất cả màu đỏ, kiếm trắng. - Một đinh vàng hoa. - Năm lễ vàng tiền. - Năm cái oản đỏ. - Năm lá trầu, năm quả cau. (hoặc 3 miếng trầu cau (đã têm) - Năm quả tròn (ngũ quả: 5 loại trái cây). - Chín bông hoa hồng đỏ. - 1 đĩa muối gạo, - 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước. Trong lễ động thổ ngày xưa phải cúng tam sinh, ngày nay đơn giản hơn, nhưng phải là con gà, đĩa xôi, hương, hoa quả, vàng mã… Cách thức tiến hành: Chọn ngày giờ tốt. Lễ vật được đặt ở một cái mâm nhỏ. Nếu động thổ đào móng nhà, xưởng sau khi dọn mặt bằng, đặt mâm lễ lên một cái bàn con (hay ghế cao) ở giữa khu đất sẽ được đào móng. Gia chủ quần áo chỉnh tề, thắp đèn nhang vái bốn phương, tám hướng rồi quay vào mâm lễ mà khấn. Sau khi cúng xong, khi hương gần tàn gia chủ hoá tiền vàng, đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ tự tay cuốc mấy nhát vào chỗ định đào móng. Ngay sau đó tốp thợ đào móng có thể tiến hành công việc. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp, nơi thờ cúng Táo Quân. (Nhớ mỗi kỳ đổ mái - đổ thêm tầng đều phải sắm lễ cúng vái). (Nếu mượn tuổi làm nhà: trước đó phải làm giấy tờ bán tượng trưng khu đất đó cho người mượn tuổi lấy 99.000 đồng có làm giấy tờ (chủ nhà giữ). - Khi động thổ: người mượn tuổi thay gia chủ khấn vái và động thổ như trên. Lúc này gia chủ phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trở lên, sau khi hoàn tất việc động thổ xong mới trở về. - Các kỳ đổ mái tầng 1, tầng 2… và tầng cuối cùng, người mượn tuổi vẫn tiếp tục dâng hương, khấn lễ, gia chủ vẫn phải lánh mặt lúc làm lễ. - Khi nhập trạch: người mượn tuổi làm mọi thủ tục dâng hương, khấn thành lời bàn giao nhà cho gia chủ. Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà với giá 100.000 đồng và khấn cầu, lễ theo phần nhập trạch.) - Sau khi làm lễ động thổ gia chủ là người cầm cuốc bổ những nhát đầu tiên, trình với Thổ thần xin được động thổ, tiếp sau đó, mới cho thợ đào. Văn khấn cúng lễ động thổ, cất nóc: Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! - Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. - Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần. - Con kính lạy Quan Đương niên. - Con kính lạy các Tôn phần bản xứ. Tín chủ (chúng) con /à:……………. Ngụ tại:…………………… Hôm nay là ngày… tháng….năm….. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng: Hôm nay tín chủ con khởi tạo…. (nếu cất nóc thì đọc là cất nóc, nếu xây cổng thì đọc là xây cổng, nếu chuyển nhà thị đọc là chuyển nhà) ngôi đương cơ trụ trạch để làm nơi cư ngụ cho gia đình con cháu. Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được động thổ (hoặc cất nóc). Tín chủ con lòng thành lễ vật dâng lên trước án thành tâm kính mời: ngài Kim Niên Đường Thái tuê’ chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa Long Mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần linh cai quản trong khu vực này. Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con được vạn sự tốt lành, công việc hanh thông, Chủ thợ được bình an, ngày tháng hưởng phần lợi lạc, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh, cô hồn y thảo phụ mộc, phảng phất quanh khu vực này, xin mời các vị tới đây thụ hưởng vật, phù trì tín chủ, cũng như chủ thợ đôi bên khiến cho an lạc, công việc chóng thành, muôn sự như ý. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:33:34 GMT 9
Rùng rợn chuyện bùa ngải hại nhau ở làng giải trí Việt Chuyện mới nhất liên quan đến siêu mẫu Hoàng Yến trong tai nạn hy hữu giữa trung tâm TP.HCM ngày 4-11 vừa qua. Theo chính Hoàng Yến cho biết, lúc đi xe từ quán ăn ra đường thì Hoàng Yến cầm lái. Nhưng khi bất ngờ xảy ra tai nạn thì theo lời kể của người dân chứng kiến, thấy người đi cùng xe bò ra khỏi xe, bỏ đi, mặc cho Yến bất tỉnh nằm trong xe lộn ngược. Khi được cứu, người ta thấy Hoàng Yến đang ngồi ở ghế phụ chứ không phải ghế lái. Thêm vào đó, siêu mẫu mơ hồ không hiểu việc gì đã xảy ra trước khi tai nạn mà khiến cô từ người cầm lái chuyển thành người ngồi ghế phụ. Điều lạ là Hoàng Yến và người đi cùng xe không phải bạn bè mà chỉ gặp trong buổi tiệc. Cô nhớ rõ tất cả mọi chuyện, chỉ trừ việc tại sao người đó lên xe và lái xe của cô. Qua lời kể về sự mơ hồ của nữ siêu mẫu trong quá trình tai nạn xe của mình, chính cô cũng ám chỉ cô bị người đàn ông ngồi trong xe “chơi ngải” khiến cô bị mất ý thức trong hành động lúc đó. Trước đó, năm 2010, chuyện bị trù ếm đã xảy ra với ca sĩ nổi tiếng Phương Thanh. Những tiết lộ của chị trong một bài phỏng vấn đã thật sự làm rúng động làng giải trí vốn dĩ đã lắm chuyện: “Đầu tiên là xương bả vai của tôi nhức mỏi liên tục gần một tháng, tôi ngồi vai cứ rút lại, uống thuốc cũng chẳng đỡ. Sau đó, đầu tôi đau như ai cầm đinh đóng vào, mắt tự dưng mờ và hai tai thông nhau, lúc nào cũng ù ù trong đầu. Ngay trước khi diễn ra “Mưa show”, tôi thấy vòng một của mình to ra một cách bất thường và không thể ngủ được vì tức ngực. Có lúc giọng khản đặc không hát được ra hơi, toàn tiếng gió, một nốt cao cũng không lên được...”. Sau đó, cô đi gặp thầy mới phát hiện đã bị một người trong nghề ca sĩ chơi bùa ngải, đây cũng là một người bạn, đồng nghiệp thân cận của cô trong sự nghiệp lẫn cuộc sống. “Các thầy khuyên tôi phải tịnh tâm và ngồi thiền kết hợp uống thuốc nam. Càng tịnh tâm mình càng không sợ, nếu mình manh động sẽ trúng kế của họ. Tôi chỉ muốn nói gieo nhân nào gặt quả nấy. Sống cho đi nụ cười sẽ gặt được nụ cười, làm điều ác sẽ nhận lại được điều ác hơn”. Khi câu chuyện bùa ngải vẫn còn là câu hỏi lớn với mọi người thì nó cũng đặt dấu chấm hết cho mối quan hệ thân tình giữa Phương Thanh và người đồng nghiệp kia sau bao nhiêu năm gắn bó. Ca sĩ - diễn viên Tinna Tình từng thổn thức lên báo nói: “Có người bỏ bùa hại tôi” và biết rất rõ chủ mưu cũng như động cơ ra tay của người đó. Cô khẳng định: “Sẽ khó có người tin những chuyện như thế này trừ khi chính họ phải trải qua rồi như tôi”. Cô như kể… chuyện ma rùng rợn vì bị tranh vai chính trong phim Để Mai tính. Gần đến ngày bấm máy, cơ thể cô suy nhược, thường xuyên mắc chứng đau bụng, khi đi hát bị ngất xỉu trên sân khấu, nhưng đi khám rất nhiều bệnh viện đều không thể tìm ra nguyên nhân. Cuối cùng, đạo diễn đã cắt vai vì cô không đảm bảo đủ sức khỏe. Sau đó, cô tìm đến một người được coi là có khả năng giải bùa chú và được biết cô đã dính “bùa ngải Trà Vinh” - ám chỉ một diễn viên quê Trà Vinh. Vị thầy đã dùng một quả trứng gà để lấy ra những cái móc như móc câu từ cơ thể Tinna Tình. Sau khi phá bỏ được bùa yểm, nữ ca sĩ tự dưng thấy mình nhẹ nhõm và những cơn đau bụng không còn xuất hiện. Cô còn chứng minh câu chuyện là thật với hình xăm ngay sau gáy là tên vị sư nhằm tri ân người đã cứu sống cô lần gặp nạn lớn này. Khi thực hiện bộ phim Scandal, đạo diễn Victor Vũ cũng đã trò chuyện với cô về bùa ngải để “xào nấu” chuyện này trên phim. Và chuyện bị ngải quật Năm 2011, ca sĩ Việt Quang bất ngờ tái xuất sau 5 năm ở ẩn và khẳng định việc mình bị chơi ngải: “Tôi hiện đại lắm, mỗi lần ai nói chuyện bùa ngải là không tin. Thế nhưng tôi đột ngột bị mất sức khỏe, dường như mọi sức lực đều biến mất. Từ một thanh niên khỏe mạnh, tôi bỗng dưng ốm o gầy mòn, từ gần 70 kg chỉ còn dưới 50 kg. Ai cũng đồn tôi nghiện ngập, bệnh tật này nọ dù tôi không hút thuốc, không uống rượu. Tôi ngủ không được, ăn không vào, ru rú trong phòng suốt ngày suốt đêm không ra đường. Cứ thấy ánh sáng là tôi bỏ chạy như người bị bệnh dại và mỗi lần tôi định quay trở lại sân khấu là mỗi lần bị phá”. Cũng vì bùa ngải mà sự nghiệp ca hát đang ở đỉnh cao bỗng chốc tiêu tan, công việc kinh doanh cũng gặp nhiều trắc trở. Bùa ngải cũng là nguyên nhân khiến Việt Quang mất tích 5 năm, công việc ca hát xuống dốc và kinh doanh thua lỗ… Cuộc sống và sự nghiệp của Đàm Vĩnh Hưng chưa bao giờ thôi thu hút sự quan tâm của truyền thông như hai năm 2011, 2012. Những album ra mắt liên tục kèm theo đó là những show diễn hoành tráng được tổ chức định kỳ trên những sân khấu ca nhạc lớn, sự xuất hiện của Đàm Vĩnh Hưng luôn là đề tài nóng bỏng, thu hút lượt quan tâm của báo giới lẫn người hâm mộ… Cái tên Đàm Vĩnh Hưng cũng gắn liền với danh hiệu “Ông hoàng nhạc Việt”, những phát ngôn của anh cũng đi vào những câu nói bất hủ có một không hai… Tuy nhiên, khi sự nghiệp đang trên đỉnh cao thì một năm trở lại đây, Đàm Vĩnh Hưng bỗng chốc xuống phong độ và liên tiếp đưa mình vào những rắc rối liên quan đến phát ngôn, cách hành xử. Đầu tiên chính là việc chủ động hôn môi nhà sư Pháp Định vào cuối năm 2012 và gần đây là việc lộng ngôn với nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, hóa trang làm bác sĩ Cát Tường - vị bác sĩ máu lạnh trong vụ giết người gây chấn động dư luận mà đến thời điểm hiện tại vẫn chưa tìm được xác nạn nhân, cùng với đó là hàng loạt những phát ngôn thiếu suy nghĩ đang gây xôn xao dư luận từ sau dịp lễ halloween vừa qua. Và với những sự cố liên tiếp xảy ra trong khoảng một thời gian ngắn đã khiến người khác tin rằng Mr. Đàm đang bị ngải quật, không làm chủ được bản thân nên mới xảy ra những scandal lạ đời gây phẫn nộ trong dư luận thậm chí còn nhận được sự nhắc nhở của Cục Nghệ thuật Biểu diễn với lời cảnh cáo: Nếu còn tiếp tục sẽ đối diện với lệnh cấm biểu diễn. Ngải là gì mà kinh sợ đến vậy? Theo các thầy pháp chuyên về bùa ngải, người nào dùng bùa ngải để làm việc thất đức là phạm vào đại kỵ và quả báo là rất lớn. Không thiếu các thầy pháp đã trở nên điên dại vì thi triển pháp thuật hại người. Có một thầy pháp rất nổi tiếng ở Đông Nam bộ đang làm ăn phát tài bỗng nổi cơn điên, lạ nhất con cháu mấy năm sau cũng điên cả. Bao nhiêu tài sản kiếm được chẳng mấy chốc tan vào mây gió. Bùa ngải cùng những chiêu luyện ngải kinh sợ và những chuyện đồn thổi ghê gớm về năng lực huyền bí của nó là một phần của những niềm tin tâm linh, tin vào những thế lực siêu nhiên. Bùa ngải có nhiều dòng phái, nhưng tựu trung lại là làm phép “gửi lệnh” điều khiển âm lực vào một vật cụ thể nào đó để trấn yểm, phục vụ mục đích người dùng. Việc khai triển bùa ngải vì vậy phải thông qua thầy bùa, hay còn gọi là pháp sư. Pháp sư có pháp lực càng cao thì “thương hiệu” càng lớn và dĩ nhiên được nhiều người tin tưởng thỉnh bùa. Bùa ngải chỉ là một trong những hình thức khai triển huyền thuật, ngoài ra còn có trù ếm, thần thông, thôi miên… Huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất có thể kể đến các dòng Nam tông (Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia…), dòng Tiên đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh, thế yếu nhưng chủ yếu dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau. Bùa ngải dùng đủ thứ chất liệu từ cây cỏ đến vật dụng, tùy phép yểm và mục đích. Lá bùa có loại nhỏ bằng ngón tay, có loại to như mặt bàn. Loại chôn, loại đốt, loại uống (trực tiếp hoặc đốt), cũng có loại vô hình vô trạng… Ở miền Nam, huyền thuật chủ yếu thịnh hành dòng Nam tông, đặc biệt là bùa chú của Thái hoặc Miên (Campuchia). Trong đó, phương pháp “trù ếm” được sử dụng nhiều nhất là với “hình nộm thế thân”, chiêu thức vô cùng tàn độc nhắm đến người bị sát hại (đâm, cắt, bẻ gãy, dìm nước…). Những người ếm bùa ngải cho rằng người bị ếm sẽ không chỉ tán gia bại sản mà tinh thần, thể xác còn bị tổn hại ghê gớm. Tuy nhiên khoa học ngày nay đã khẳng định, chẳng có thế lực siêu nhiên nào tồn tại ngoài thế giới này. Và con người với những hoạt động của mình sẽ phải chịu trách nhiệm với pháp luật và chất vấn đạo đức từ chính trái tim mình. Bí mật chưa tiết lộ về bùa ngải Đẳng cấp “thầy bùa” và cái giá phải trả Bùa ngải có nhiều dòng phái nhưng tựu trung lại là dùng phương pháp làm phép “gửi lệnh” điều khiển âm lực vào một vật cụ thể nào đó để trấn yểm, phục vụ mục đích người dùng. Việc khai triển bùa ngải vì vậy phải thông qua thầy bùa hay còn gọi là pháp sư. Pháp sư có pháp lực càng cao thì “thương hiệu” càng lớn và dĩ nhiên được nhiều người tin tưởng thỉnh bùa. Bùa yêu có rất nhiều loại và rất "thịnh hành" trong giới bùa chú hiện nay Mất nhiều tháng thuyết phục, người viết bài mới được diện kiến ông T., một pháp sư có tiếng ở Sài Gòn và được ông chia sẻ những sự thật về bùa ngải. Nhà pháp sư T. nằm ở mặt tiền đường trên địa bàn Q.Bình Thạnh. Căn nhà rất rộng nhưng cửa đóng then cài quanh năm, chỉ một mình ông ở. Cả gia đình ông đều định cư ở nước ngoài, riêng ông vẫn ở lại. Ông năm nay 40 tuổi, từng tốt nghiệp cử nhân luật nhưng 20 năm qua ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu bùa ngải. Phải thuyết phục lắm, chúng tôi mới được ông T. cho phép vào tham quan căn phòng nơi ông nghiên cứu và thực hành bùa pháp. Căn phòng nhỏ đốt nhang trầm nghi ngút. Ở chính giữa là bàn làm việc có mực tàu và giấy vẽ bùa. Xung quanh bốn bức tường là 8.000 đầu sách đủ thứ tiếng chuyên về bùa ngải. Trên các bức tường treo nhiều ảnh mà theo ông là cao tổ của các trường phái bùa ngải. Tất cả đều là người Trung Quốc, Thái Lan hoặc Ấn Độ. Theo lời ông, bùa ngải chỉ là một trong những hình thức khai triển huyền thuật, ngoài ra còn có trù ếm, thần thông, thôi miên… Huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có huyền thuật. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất vẫn có thể kể đến các dòng Nam Tông (Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia…), dòng Tiên Đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh thế yếu nhưng trước đây dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau như bây giờ. Pháp sư phù phép “yểm bùa” Bùa ngải dùng đủ thứ chất liệu từ cây cỏ đến vật dụng, tùy phép yểm và mục đích. Lá bùa có loại nhỏ bằng ngón tay, có loại to như mặt bàn. Loại chôn, loại đốt, loại uống (trực tiếp hoặc đốt), cũng có loại vô hình vô trạng… Ở miền Nam, huyền thuật chủ yếu thịnh hành dòng Nam Tông, đặc biệt là bùa chú của Thái hoặc Miên (Campuchia). Trong đó, phương pháp “trù ếm” được sử dụng nhiều nhất với “hình nộm thế thân”. Chiêu thức vô cùng tàn độc nhắm đến người bị sát hại (đâm, cắt, bẻ gãy, dìm nước…). Rất nhiều người bị hại không chỉ tán gia bại sản mà tinh thần, thể xác còn bị tổn hại ghê gớm. Huyền thuật tôn chỉ là điều chỉnh quan hệ giữa con người với cõi siêu nhiên. Vì vậy, xuất phát điểm của bùa ngải đơn thuần là vì mục đích tốt. Dòng huyền thuật nào cũng có “bùa hại”. “Bùa hại” từ sơ khởi cũng đã có nhưng chỉ mang tính chất để răn đe, trừng phạt những người xấu và giúp họ quay đầu chuyển ý. Dần dà, nhiều người tà tâm đã khuếch đại, phát triển bùa hại lên tầm cao mới. “Từ lâu, việc dùng bùa phép ám hại nhau là có thật, dù nhiều người chưa tin” - ông T. khẳng định.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:40:36 GMT 9
7 sai lầm trong phong thủy có thể hại bạn7 sai lầm trong phong thủy có thể hại bạn Trên thực tế, rất nhiều yếu tố phong thủy bị hiểu sai và vận dụng sai gây ra những tác hại không mong muốn. Hiện nay, phong thủy trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều người hiểu rằng khi gia đình và công việc không thuận lợi, bất hòa thì có thể tạo ra những điều không may mắn đến các mối quan hệ cũng như sự nghiệp. Chúng ta thừa hiểu rằng năng lượng là một yếu tố thực. Chúng chuyển động bên trong cơ thể của chúng ta, trong các ngôi nhà và cả vũ trụ. Vì thế, không có gì là ngạc nhiên khi năng lượng cũng có mặt lợi và mặt hại. Bởi năng lượng không phải là một thứ gì đó để “chơi” mà không cần quan tâm đến kết quả. Thực tế thì có rất nhiều yếu tố phong thủy bị hiểu sai và vận dụng sai gây ra những tác hại không mong muốn. Kiểm tra lại ngôi nhà của bạn để xem nó có phạm phải một trong những sai lầm sau đây không. Một điều tuyệt vời về phong thủy bạn nên biết, đó là bạn dễ dàng sửa chữa những sai lầm phong thủy một khi hiểu rõ về nó. Sai lầm 1: Treo một chiếc gương đối diện với cửa ra vào để mang lại năng lượng tốt Điều này có thể gây ra sự suy giảm về tài chính và các cơ hội kinh doanh liên quan. Cho dù là văn phòng hay nhà ở, một chiếc gương treo ở phía đối diện với cửa ra vào sẽ đẩy năng lượng ra ngoài. Về cơ bản là chặn đứng nguồn năng lượng đi vào nhà khi gặp chiếc gương. Bởi vì cửa ra vào là miệng của các chi, nhà ở hoặc văn phòng sẽ trở nên “nghèo đói” hoặc cạn kiệt năng lượng. Do đó, không nên treo một chiếc gương đối diện cửa ra vào. (vietinfo.eu) Gương treo đối diện cửa ra vào thực chất là đẩy năng lượng Sai lầm 2: Sơn cửa ra vào màu đỏ Đỏ là một màu sắc mạnh mẽ, và nó có thể gây ra ảnh hưởng không tốt, thậm chí là thiệt hại nặng nề đối với một số không gian. Điều này đặc biệt đúng với cánh cửa ở hướng Tây Bắc. Hướng Tây Bắc có mối liên hệ trực tiếp với bầu trời, tượng trưng cho người cha hoặc người đàn ông trụ cột của gia đình. Vì vậy, góc này không nên có các ngọn lửa hoặc màu đỏ. Nếu làm như vậy tức là tạo ra “ngọn lửa trên bầu trời”, có thể khiến người cha hoặc người đàn ông trụ cột gặp phải tai nạn nghiêm trọng, bệnh tật, phá sản, mất việc làm. Nếu cửa ra vào ở hướng Tây (tượng trưng cho trẻ em) hoặc hướng Tây Bắc (tượng trưng cho người cha/người đàn ông) thì bạn nên sơn cửa màu trắng, xám, vàng hoặc màu be. Sai lầm 3: Treo một tấm gương phía sau bếp Bếp nấu là một phần của yếu tố Hỏa và khi có quá nhiều lửa thì nó sẽ thiêu rụi ngôi nhà. Sai lầm này xuất phát từ việc vị trí đặt bếp nấu khiến bạn không thể quan sát phía sau lưng, không biết được mọi người đang làm gì, ra vào như thế nào sau lưng mình. Cũng có một số ý kiến cho rằng việc đặt gương sau bếp nấu sẽ tăng gấp đôi sự giàu có của bạn vì gương nhân đôi số thức ăn bạn nấu trên bếp. Sự thật thì việc khuếch đại năng lượng của lửa quá mức là rất có hại. Treo gương đối diện bàn ăn tăng sự sung túc, dư dả. Nếu bạn muốn tăng sự sung túc, dư dả bằng cách sử dụng gương, tốt nhất bạn nên treo nó ở phòng ăn hoặc khu vực bố trí bàn ăn. Thức ăn bày trên bàn được nhân đôi tốt hơn là những ngọn lửa trên bếp. Một điều bạn nên lưu tâm là đối với hai yêu tốt nước và lửa thì cần sử dụng một cách điều độ, đúng và đủ. Sai lầm 4: Sử dụng gương bát quái hoặc gương phong thủy để đẩy năng lượng tiêu cực đi. Gương bát quái thường được sử dụng để xua đuổi năng lượng tiêu cực, tạo ra một ngã ba ở cửa ra vào hoặc ngôi nhà hoặc chống lại năng lượng xấu đến từ các hướng không mong muốn. Những chiếc gương này sử dụng bát quái âm, phát ra nguồn năng lượng rất mạnh và có hại nên không được tùy tiện sử dụng. Bạn chỉ nên sử dụng gương bát quái nếu gặp trường hợp bất khả kháng và phải có lời khuyên của người am hiểu về phong thủy hoặc người tư vấn phong thủy. Gương bát quái không nên sử dụng tùy tiện Sai lầm 5: Mang cây xanh và nước vào trong phòng ngủ Theo phong thủy, cây xanh và nước cần được sử dụng một cách hợp lý. Để cây xanh trong phòng ngủ sẽ gây hao tổn sức lực cho chủ nhân của căn phòng khi ngủ vì ban đêm cây nhả khí CO2. Đối với phòng ngủ của vợ chồng thì cây xanh còn làm giảm đi sự lãng mạn giữa hai người. Về phần nước, nếu nước chuyển động (tiểu cảnh) sẽ gây ra sự thất thoát tiền bạc, các vấn đề về hô hấp, bệnh xoang, sự trầm cảm hoặc trạng trái tinh thần mê man cho người ở trong căn phòng đó. Tránh để cây xanh và hoa cảnh, trừ khi một ai đó bị bệnh và không bao giờ mang nước vào trong phòng ngủ. Trong phòng ngủ của trẻ nhỏ, các bức tranh hoặc giấy dán tường có họa tiết về cảnh biển hoặc đại dương có thể gây ra bệnh tật và thiếu sáng kiến cho trẻ. Sai lầm 6: Treo pha lê trên cửa ra vào và cửa sổ Treo pha lê trên cửa ra vào hoặc cửa sổ được cho là lưu chuyển năng lượng nhưng thực chất là ngăn chặn dòng chảy năng lượng bên trong ngôi nhà. Pha lê mang năng lượng của đất. Khi treo chúng lên một ô cửa thì nó mất đi ý nghĩa vốn có. Nó khiến cho người sống trong ngôi nhà đó thiếu tính quyết đoán, khó tiến về phía trước, sống lộn xộn và gặp các vấn đề về chuyển hóa như tăng cân. Nếu bạn chỉ treo một viên pha lê trên một ô cửa sổ nhất định thì nó lại trở thành một biểu tượng. Cần phân biệt rõ việc treo chúng trên một hoặc hai cửa sổ trong nhà để đón ánh nắng là điều tốt. Nhưng treo pha lê ở tất cả các ô cửa trong nhà lại trở thành không tốt. Lạm dụng phong thủy sẽ gây ảnh hưởng xấu Sai lầm 7: Nhà vệ sinh luôn luôn xấu Một điều chắc chắn là bất kỳ ngôi nhà nào cũng phải có hệ thống đường ống nước. Nhà vệ sinh không mang sắc thái đen hoặc trong theo phong thủy mà chúng có màu xám. Bồn cầu cần phải có nắp đậy và nhớ đóng cửa phòng vệ sinh sau khi sử dụng. Vì nhà vệ sinh nằm trong một khu vực nhất định của ngôi nhà, bạn nên quan tâm đến việc tăng cường các yếu tố trong góc phòng khách tương ứng với góc phòng vệ sinh. Ví dụ, nếu phòng vệ sinh ở hướng Tây Nam thì bạn cần thêm các yếu tố có màu đỏ ở hướng này trong phòng khách. Tuyệt chiêu phong thủy cho toàn diện ngôi nhàTuyệt chiêu phong thủy cho toàn diện ngôi nhà Mọi người tin rằng phong thủy có thể làm các mối quan hệ trở nên tốt hơn, công việc trở nên thuận lợi hơn, và mang lại sự an khang thịnh vượng cho gia chủ. Sau đây là một số mẹo nhỏ để căn nhà của bạn thành một nơi tốt hơn và góp phần thay đổi cuộc sống. Cổng nhà Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà. Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào. Cổng nhà phải luôn sạch sẽ và tạo cảm giác thân thiện Nhà bếp Bạn nên đặt một tấm gương lớn sau bếp, nếu không bạn có thể đặt một bức hình của tấm gương. Điều đó sẽ mang lại sự thịnh vượng mà bạn không ngờ. Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại. Phòng tắm và nhà vệ sinh Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến. Giữ toilet sạch sẽ. Dùng thùng đựng rác để giữ sàn luôn sạch và khô ráo. Phòng khách Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa). Nếu đó là lựa chọn duy nhất thì nên đặt một chiếc gương để bạn có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra sau lưng. Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn. Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt hoặc một bể cá. Sẽ rất sống động. Phòng khách nên sắp xếp gọn gàng và ngăn nắp Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng. Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà. Đồ đạc Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy. Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà. Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà. Cửa và cầu thang Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau. Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên. Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc gương phản chiếu hoặc một chiếc chuông hòa âm. Phòng ngủ Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy. Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn. Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ. Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ. Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường. Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự. Theo Lyhocphuongdong.org.vn
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:55:26 GMT 9
BÙA NGÃI Ở SAN JOSESuu TamHãy đọc bài nầy rất hay. Ở thời đại bây giờ mà có chuyện bùa ngãi, bạn có tin không ? Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111 vào lúc 03:00 giờ chiều ngày 26/11/2002 thì một người đàn bà đứng tuổi, có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà. Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa, tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà đã gọi điện thoại cho tòa soạn Việt Báo để mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta. Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn 10 thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, và đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ. Coi vo hinh 3Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhaụ Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt dán lên như những ngăn tủ thuốc có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như “Bùa đem chồng con về”, “Phép uống thương”, “Bùa hộ mệnh bình an”, “Phép sang bán xe nhà tiệm quán”, “Phép đốt móng”, “Giải bùa thư yếm”, “Phép đốt”, “Bùa lớn”, “Nàng Quốc”, v.v… Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà. Sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ bên ngoài đề các tên khác nhaụ Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói: - Đây là 100 loại Ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam đoan chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại Ngãi quý hiếm nầy. Người đàn bà nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nào. Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ Việt Báo đã cũ và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn Việt Báo và số điện thoại : - Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên Việt Báo rất vô tư và xây dựng. Có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc nhưng tôi phải đi về Thái-Lan thỉnh phép một thời gian. Nay trở lại San Jose, tôi mạnh dạn gọi điện thoại mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm. - Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì ? Việt Báo chỉ giới thiệu người thật, việc thật, Thien Accông việc hợp pháp mà thôị Sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí. Người đàn bà đưa ra Giấy Phép Hành Nghề và nói : “Xin gọi tôi bằng Cô là được rồi”. Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi. Việc làm chính của tôi hiện nay là “Làm phúc, là cứu người”. Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết… Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà : - Cô xem chỉ tay, tướng số, bói bài phải không ? - Không, tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho ai. Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về Bùa Ngãi chuyên nghiệp nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng Bùa Ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc. Những người bỏ vợ, bỏ chồng đi lang chạy theo người khác tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau. Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất ; giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc; giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách… Nói tóm lại, tôi chỉ muốn giúp người. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở. Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối 15 phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối 3 lần mới hết. Trong khi nói chuyện với bà thầy Bùa Ngãi, phái viên Việt Báo nghe điện thoại của bà hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa, thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà : - Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền ? - Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh Bùa, Ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô-La. 3- Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục. Ngưới đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam như Báo Lao-Động, báo Tuổi Trẻ, báo Công An, báo Phụ Nữ và cả báo viết bằng tiếng Anh có tên là Saigon Times. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng 9 năm 2000 có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề “US. Family Gives Food Parcels to The Poor” đã viết rằng “SGT-HCMC) A Vietnamese family living in the ỤS. town of San Jose have donated 2,000 food parcels valued at VND40,000 each for distribution among poor residents of HCMC’s District 4 during the family matriarch’s annual Vietnam visit…” (Tạm dịch: Một gia đình ở San Jose đã tặng 2,000 gói lương thực trị giá 40,000 đồng VN mỗi gói cho dân nghèo Quận 4, Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm…) Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèo. Dưới tấm hình ghi là “Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman”. Trong khi đó tờ báo Kinh Doanh & Tiếp Thị trong một bài khác có đăng hình ảnh của bà LỆ KHANH đang trao quà cho những gia đình nghèo tại Quận 4 Sài-gòn vào ngày 04/9/2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose đã về Việt Nam tặng quà lần thứ 13 cho 2.000 gia đình nghèo mỗi gia đình một phần quà gồm gạo, bột ngọt, mì gói, dầu ăn, nước tương, muối bột. Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng 300 phần quà tại Quận 8 Sài-gòn trong dịp Tết Trung Thu và cho các Hội Bảo Trợ, các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh dày và thiếu nhi ngoài đường phố mỗi nơi 100 Mỹ-kim. Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng đây là lần thứ 13 bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài-gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài-gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho 1,000 hộ gia đình nghèo tại Phường 12 Quận 4 Sàigòn. Người đàn bà chuyên nghề Bùa Ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi : 2- Tôi không được ăn thịt. Hằng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng, trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi Ngãi xong là cũng bỏ đi. Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn. Tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ, tạ ơn thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèo. Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được 13 lần. Những lần đầu thì chỉ tặng cho 1.000 gia đình nghèo thôi, nhưng những lần sau thì 2.000 gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn. Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả Công An đến kiểm soát. Tôi chỉ giúp người nghèo mà thôi. Và vì vậy, tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy như thư yếm hại phá người nào. Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh 68 tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà, bà kể : - Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là LỆ KHANH, nhưng tôi không phải là người Việt. Tôi là người Thái-Lan, thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái-Lan. Bộ tộc tôi theo Mẫu Hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy Bùa Ngãi Kha-Mắt-Kham Bi-Rô kiêm Già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là KHA-LAY-MAỴ Chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi để tính tuổi của mình. Lúc tôi được 8 viên sỏi thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh. Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại làm con Ma Lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan đã bàn với ông Ngoại tôi và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. 9 Thai LanKhi ra đi, ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên 3 viên sỏi. Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế. Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng ở khu vực Mai Thôn gần Đà-Lạt. Khi tôi được 12 tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà-Lạt bán và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là LỆ KHANH, đã đưa tôi về nhà ở chung để giúp đỡ tôi. Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi 16 tuổi và tên thật của tôi là KHA-LAY-MAY nên cả nhà gọi tôi là MAY. Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài-gòn sinh sống vào khoảng năm 1970. Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép Cải Lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại Đoàn Cải Lương Hoa Anh Đào – Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái-Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy Bùa Ngãi cấp đẳng cao cường và được truyền lại các bí quyết trong nghề Bùa Ngãi nhưng tôi phải thề không được dùng Bùa Ngãi để ếm hại người khác. Đến năm 1971 thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho 5 có 3 đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh. 9 Da LatSau ngày 30/4/75, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh gần Trại giam K3 tức Z30D. Tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em Sĩ quan cải tạo đi qua rách rưới và đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhau. Bà Kha-Lay-May kể tiếp : “Khi ra khỏi tù, tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam vì sống với chế độ xã hội chủ nghĩa thì các con của chị Lệ Khanh chẳng thể nào có được tương lai. Thế rồi, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh tại Sài-gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy Oxy Già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái và Cán bộ Công An ở Sài-gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ. Rồi sau ngày Giải Phóng 30/4 thì chồng tôi trở về lại nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành người. Nhờ đó, khi đi phỏng vấn thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Jose. 4Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại Garden Avẹ, San Jose, Tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài-gòn. Ở San Jose, nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác. Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm và tôi đã cứu họ được sống. Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của, hãy mang theo một đứa bé trai từ 8 tuổi đến 10 tuổi. Ðứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy. Việt Báo viết bài nầy như một chuyện lạ để đọc giả tìm hiểu. Giữa thời đại văn minh tại sao có những hiện tượng bùa ngãi lạ lùng nầy. Những ngày kế tiếp sau đó, phái viên Việt Báo bất chợt đến xem một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và $30,000 tiền mặt vào trong một chiếc giày ống cao cổ để định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho trai. Người vợ được bạn giới thiệu đến xem và đã dắt theo một đứa cháu trai 9 tuổi của bên chồng và không cho đứa bé biết trước chuyện gì. Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha-Lay-May, nó nói : “Cô ơi, con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó… và… chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho Cô Út”. Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo : “Trời ơi, ông chồng tui. thế mà cứ chửi tui hoàị. lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây !” Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ 30 Mỹ-kim và bước ra ngoài. Người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng ! Chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ. Yên Huỳnh post Thỉnh bùa cầu tài, mua ngải câu tìnhSau những lần diện kiến nhiều thầy bùa và các “tín đồ” bùa chú, tôi nhận ra một điều: Bùa chú chưa nhiều người tin nhưng người đã tin thì không khác gì một “con nghiện”, phó thác tất cả vào chúng. Ồ ạt xuất ngoại thỉnh bùa cầu tài, mua ngải câu tình Bùa chú ở nước ta chủ yếu là phát sinh và du nhập, nhiều người không tiếc công sức, tiền bạc xuất ngoại để tìm mua bằng được bùa “gốc” với hy vọng thỉnh được bùa thiêng thật sự. Một làn sóng ồ ạt xuất ngoại thỉnh bùa đã manh nha từ lâu và đang ngày càng lan rộng. Sau nhiều ngày tiếp xúc với pháp sư T., khi đã thân thiết, ông không ngại khoe với tôi “danh sách khách hàng” của mình. Nhiều người trong số đó là đại gia giàu có, không kinh doanh vài cửa hàng thì cũng là giám đốc doanh nghiệp lớn nhỏ. “Cầu tình sang Đài, cầu tài sang Thái” Ông T. cho biết, trong giới kinh doanh thì việc cúng bái lễ lạt nhiều lần trong năm không hiếm. Ngoài các lễ cúng đất, cúng mở hàng... theo tín ngưỡng, nhiều người phải thường xuyên thỉnh pháp sư tổ chức một loạt các nghi lễ huyền thuật để giao thiệp với âm binh bằng bùa chú để hóa giải hoặc mưu cầu gì đó. Pháp sư T. giúp tôi gặp ông H. giám đốc một công ty xây dựng ở Q.Tân Bình, TP.HCM mà theo lời ông, vị này là một “tín đồ” hạng nặng của bùa chú. Ông này xưa khởi nghiệp là thợ hồ, sau làm thầu các công trình nhỏ rồi phát triển dần thành doanh nghiệp. Giám đốc H. ở một căn nhà lớn tại P.13, Q.Tân Bình, thoạt nhìn kiến trúc không có gì đặc biệt. Nhưng được pháp sư T. thuyết phục, ông cho tôi “tham quan” phòng riêng của mình, nơi có đặt một chiếc tủ kính lớn nhiều ngăn. Tôi ngẩn ngơ với chiếc tủ cao rộng, đựng hàng trăm loại bùa ngải. Có lá bùa nhỏ như ngón tay, có cái lớn đúc thành tượng hình thù kỳ quái. Trên các thứ bùa là nhằng nhịt chữ đủ thứ tiếng. Ông H. cho biết hầu hết các loại bùa này có xuất xứ từ Thái Lan hoặc Đài Loan do chính ông bỏ ra nhiều năm, nhiều lần cất công đi mua về. Hỏi về giá trị, ông khoát tay nói: “Cái rẻ nhất chỉ vài chục đô-la, đắt thì vài ngàn đô la. Tuy nhiên, giá trị về quyền năng thì vô giá, không thể nào nói được”. Ông H. không sưu tầm bùa, mỗi thứ ông mua về đã hoặc đang sử dụng cho mục đích riêng mà ông không thể chia sẻ được, vì nếu làm thế bùa sẽ... hết phép. Giám đốc H. cho biết đa phần bùa ngải của ông thuộc dòng phái Kumanthong ở Thái Lan. Mỗi năm ông đi Thái 2-3 lần để thỉnh bùa, chủ yếu phục vụ việc làm ăn. Lôi từ trong ngăn tủ nhỏ một chiếc tượng bằng ngón tay cái, ông cho biết vừa mua ở Thái về, với giá 100USD. “Linh lắm! Thỉnh bùa về lập tức có ngay hiệu quả” - ông nói chắc mẫm. Tình hình làm ăn khó khăn, một loạt các công trình xây dựng ông nhận thầu bị đình đốn vì chủ đầu tư không thanh toán tiền. Thế là ông lại cất công sang Thái thỉnh bùa Kumanthong để khai mở tiền tài. Chỉ vài tháng, hiệu quả thấy rõ, công việc làm ăn vô cùng thuận lợi. “Bỏ ra chưa tới hai ngàn đô đi Thái vừa du lịch vừa mua bùa. Khi về thu lại gấp vài chục lần, dại gì không làm”-ông nói. Thấy tôi có vẻ ngờ vực về “quyền năng” của bức tượng nhỏ xíu, ông H. chia sẻ: “Bí mật thực sự nằm ở bên trong nó”. Thì ra, Kumanthong là loại bùa “quỷ nhi” của người Thái, làm từ... xác thai nhi. Mỗi thứ bùa đều bắt buộc có một bộ phận của hài nhi dù lớn hay nhỏ thì mới phát huy tác dụng. Kumanthong có rất nhiều quyền năng, từ cầu an, cầu duyên cho đến hại người. Tuy nhiên, hầu hết các loại bùa được bán đều chỉ mang mục đích chiêu tài và tạo hòa khí trong sinh hoạt, làm ăn sinh tài. Bùa Kumanthong làm từ thi thể hài nhi đủ kích cỡ Ông H. cho biết để mua bùa Kumanthong ở Thái Lan không khó. Loại này bán công khai ở khắp nơi trên nước bạn. “Ở Thái có hẳn các đường dây tuồn hài nhi do nạo phá thai ra ngoài để làm bùa” - ông H. khẳng định. Bùa có đủ hình dạng, từ móc khóa, mặt dây chuyền cho đến tượng lớn. Giá cả tùy thuộc vào năm sản xuất và tùy vào uy tín nơi bán. Thái Lan có hàng vạn ngôi chùa, nhưng chỉ có 210 ngôi chùa bán bùa Kumanthong rải khắp đất nước, nhưng tập trung đông nhất vẫn là Bangkok và Chiang Mai. Tuy nhiên, vì là bùa chú nên thật giả khó biết, chỉ người thân quen với nhà chùa mới chắc chắn mua được hàng thật. Bản thân ông là “khách ruột” của hai ngôi chùa bán Kumanthong, mỗi lần xuất ngoại đặt hàng đều được đích thân các pháp sư cao tay làm. “Người Việt sang Thái mua bùa trước đây rất hiếm nhưng nay là chuyện thường. Mỗi năm có vài ngàn người sang Thái thỉnh bùa, đông nhất vẫn là giới cò đất và bảo hiểm vì nghề này cần nhiều sự may mắn. Nhiều người cùng đi thỉnh bùa mà quen nhau, nhẵn mặt” - ông H. kể. Theo lời ông, những người sành và tin vào bùa ngải, nhất là cánh thương gia, ngoài các loại bùa khác nhau, đặc biệt phải có bùa Kumanthong để cảnh báo nguy hiểm hoặc bảo hộ thân chủ. Vì nếu không cẩn thận sẽ bị đối thủ cạnh tranh dùng bùa ngải hại mình, có thể vướng vào đủ thứ rắc rối khác. Ông H. chia sẻ câu chuyện của bạn mình, chủ một doanh nghiệp bất động sản giàu có, vợ con đề huề. Trong những lần tiếp khách với đối tác, ông thường đến quán Đ. ở P.22, Q.Bình Thạnh vì “kết” cô L. có dáng cao ráo, ăn nói nhỏ nhẹ. Dần dà, ông mê luôn cô L. Từ chỗ cặp bồ vui chơi, ông bỏ luôn vợ con để sống với cô L.. Nhiều người biết chuyện tin chắc cô L. đã dùng bùa yêu dụ ông nhưng ông này nhất mực không tin. “Nhiều trường hợp như vậy rồi. Nhưng bị ếm bùa thì đâm ra lú lẫn, không thể nào thuyết phục được” - ông H. nói. Lâu nay, một loạt đại gia dính bẫy của chân dài không phải là chuyện hiếm. Những người trong giới buôn hương bán phấn vẫn truyền tai nhau và tìm mua loại bùa tên là Hồ Ly. Bùa này được rao bán rất nhiều trên mạng. Tuy nhiên, rất nhiều cô gái sẵn tiền sẵn sàng qua tận Đài Bắc (Đài Loan) tìm mua bùa tận gốc cho linh nghiệm. Bùa này được bán đầy rẫy bên Đài, giá cả vô chừng, từ vài chục đến vài ngàn USD. Bùa Hồ ly vốn dùng để tạo hòa hợp cho chồng vợ nhưng dần dà được phát triển thêm nhiều công năng hắc ám. Nguy hiểm nhất là chúng được dùng để chiêu dụ tình cảm. “Đi Đài Bắc nhiều lần, tôi gặp nhiều người Việt qua tìm mua bùa Hồ ly. Có rất nhiều cô gái trẻ đẹp mua để câu các đại gia lắm tiền nhiều của” - ông H. khẳng định. Sự thật kinh động Cùng pháp sư T. rời nhà ông giám đốc “nghiện” bùa, tôi thật sự mông lung trước những câu chuyện hư hư thực thực lần đầu được nghe đến. Đánh liều hỏi ông T. những điều vị giám đốc kia nói có đúng không thì ông gật đầu. Hai mươi năm trong nghề huyền thuật, ông khẳng định tất cả những công dụng của bùa chú đều có thật. Nhưng điều ông quan tâm lại nằm ở mặt trái của nó. “Bùa ngải là thứ linh thiêng và có quy luật của nó. Nhưng nó cũng là con dao hai lưỡi. Người chưa hiểu biết mà lạm dụng sẽ đem lại những hậu quả khôn lường”- ông phân tích. Bùa ngải muốn có tác dụng, người sử dụng phải tuân thủ những quy định về cúng tế rất nghiêm ngặt, tùy vào từng trường phái. Người sử dụng bùa ngải mà cúng tế sai hoặc làm thất lạc thì phạm vào điều cấm kỵ và trả giá rất đắt. Nhẹ thì thất bại bệnh tật, nặng thì nghiệp chướng tai nạn, có khi mất mạng. Tùy vào công năng của bùa lớn hay nhỏ mà phải trả giá tương ứng. Cũng theo ông, bùa ngải là một cách thỏa hiệp hoặc điều khiển âm binh. Về năng lực, không có bất cứ người dùng nào có thể làm được việc này. Đặc biệt, người điều khiển bùa ngải chỉ có thể là người tạo ra chúng. Bùa cũng có hạn định, không thể dùng mãi được. Đến khi hết hạn dùng, người thỉnh bùa phải trả về đúng gốc để người cho bùa thu về, giải phóng âm binh bên trong chúng. Nếu không giải phóng đúng hạn thì người giữ bùa chắc chắn sẽ gặp điều không may. Nhất là đối với loại bùa Kumanthong vốn dùng linh hồn hài nhi nên thường theo chủ quấy quá. Khi không dùng đến mà thải loại ra ngoài, chúng trở thành những con “ma đói”, nếu không được thỏa mãn, chúng không hại thân chủ thì cũng đi tìm cách hại người khác. Những người nghiên cứu huyền thuật lâu năm như ông gọi đó là “rác tâm linh” vô cùng nguy hiểm. Ở Việt Nam số pháp sư cao tay có thể hóa giải mọi loại bùa chú chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Đối với các loại bùa từ nước ngoài, việc thỉnh về rất dễ nhưng khi tiễn đi lại cực khó. Loại “rác tâm linh” này dồn ứ lâu ngày càng nguy hại. “Bùa ngải hay cái gì cũng vậy. Nếu không cẩn thận thì lợi bất cập hại. Người dùng bùa ngải nhất thiết phải rành rẽ về chúng. Nhiều năm nghiên cứu, tôi gặp không ít người phải trả giá đắt vì chính bùa ngải của mình. Buồn là nó không đủ sức răn đe, cảnh tỉnh những người mù quáng và thiếu hiểu biết" - ông buồn rầu kết luận. Theo Trường Tiến
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 6:10:46 GMT 9
BÙA NGÃI THÁI LANKính thưa Quý Vị, xưa nay Ông Bà Ta có câu: Đường Lên Xứ Thái Xứ Hời diển tả chuyện kỳ bí ma quỷ Huyền Thuật… rất kinh dị hấp dẩn… những Kinh Nghiệm Giai Thoại Điển Tích Buà Phép hấp dẩn của TháiLan. JaTuKham {Tổ Sư Chà Kha} Khăn Ấn Nô Mô Puốs Thia Dắ, Mảnh Hổ Hàng Phục… NangWak {Mẹ Đất Cầu Tài Phú…} Tổ Sư Cái Ban Thần Hầu Hindu Kỵ Kì Lân Hồ Điệp Ái Tình Phù Trấn Trạch Phù. Đa Lợi Bá Sự Khăn Ấn BÙA PHÉP THÁI LAN ! Còn được gọi là Bùa Xiêm , nôm na gọi như vậy nhưng thực ra có rất nhiều trường phái , môn phái huyền thuật trên đất Thái ở các miền Nam , Bắc ! Thông dụng được nhiều người biết và tín ngưỡng cao là Pháp : NÔ MÔ BÚD THIA DẮ (Ngũ Phương Phật) , HINDU , JATUKHAM MARATHEP , KHUNPAEN v.v...... Mỗi năm tổng số tiền thâu nhập được từ các dịch vụ bán Bùa , cho thỉnh phép (Amulet , Charm) trên Mạng của Thailand có năm lên tới hơn 300 triệu Mỹ Kim . Trong đó bao gồm tâ't cả các loại Bùa Phù , tình yêu , công danh , ăn nói , lên chức v.v........ với nhiều hình thức mang , đeo , nuôi , thờ , luyện ..... . Ví dụ như Gumanton (Ma con , Bé Linh Vàng) , (Binh rừng , tướng núi), Lõ Lườn (Bùa hình dương cụ) v.v..... Dĩ nhiên những loại Bùa Phép do các Acharn (Sư Phụ) thiệt làm ra thì có số lượng và chất lượng rất là linh ứng , thừong là làm để qây quỉ xây Chùa , cứu tế . Cũng không hiếm những loại Bùa , Phép dõm mà người thỉnh tốn tiền cũng chẳng thấy kết quả gì . Vì do thỉnh trên mạng , tiền bạc thanh toán qua thẻ tính dụng hay ngân phiếu và do xuyên quốc gia nên việc đòi tiền lại cũng mong manh lắm khi gặp Bùa giả , điều này coi như là hên xui mà thôi ! Xin giới thiệu câu Hội Phép thông dụng của Bùa Thái sau đây , trước khi xài Phép Phật 5 Ông thì đọc câu này trước 3 lần , câu này có thể dùng với khăn Ấn hình Mảnh Hổ và NangWak Thánh Cô (Mẹ Đất) bên trên . Á HÍ MẮC MẮC , NẮC MÔ BÚT THA DẮC , NẮC MẮC PẮC TẮC . Pháp Lỏ Lườn (Buà Thờ Dương Cụ) Thái (Thái Lan) gọi là Padlakig, Ấn (Ấn Độ) gọi Lingam. Theo Huyền Thoại của Ấn Giáo một vị Thánh Sĩ Bà La Môn muốn lên tham khảo về giáo lý pháp thuật quan trọng nơi cung trời nên xuất hồn lên cõi cuả Ngài SHIVA, khi đến cung điện của Ngài SHIVA vị Tu Sĩ kia gỏ cửa nhưng không ai trả lời, Ông lại gỏ cửa to hơn nhưng vẩn không trả lời. Ông lại tiếp tục gỏ lại chờ đợi sau cùng gỏ trở thành đập dộng đùng đùng như trống, cuối cùng thì Ngài Thiên Đế ShiVA cũng xuất hiện, nhưng với giáng đệu chậm rãi tay trái ôm quàng vai vợ là bà PARVATI ân ân ái ái để bước ra gặp vị Giáo Sĩ Bà La Môn. Dĩ nhiên đều đó tỏ rỏ Ngài SHIVA đã chú tâm vào chuyện ân ái với vợ hơn chuyện chú tâm tới vị Thánh Sĩ kia. Thấy được tâm ý của ngài Shiva, và sự đối sử thiếu tương kính, vị thánh tu tuyên cáo vì ngài Shiva thích làm tình, nên vị thánh tu sẽ tôn thờ dương vật của ngài Shiva thay vì hình tượng. Vì vậy cho đến ngày nay Ấn giáo dùng dương vật để thờ ngài Shiva. Dương vật dựng đứng từ Âm hộ của phái nữ. Dương vật biểu tượng cho Shiva có tên gọi là lingam . Lingam có nghĩa là “dấu hiệu” (sign). Phallus hay lingam là biểu tượng cho Shiva cũng như sức sống, tái tạo. Không chỉ riêng Ấn giáo , thời thượng cổ ở Greek cũng có thờ Lingam, tuy khác về truyền thống, nhưng cùng chung một ý nguyện như, sức khỏe, cầu con, bảo vệ thai nhi, bảo vệ trẻ con, hạnh phúc gia đình. Có một truyền thống cổ tại Greek, ngươi vợ mới cưới trước đêm tân hôn thường phải qua một lễ, do một vị đạo sĩ, dùng lingam để chứng tỏ sự trong trắng và đồng thời ban phép cho người nữ dễ thụ thai. Nhưng sau một số vị đạo sĩ không dùng lingam mà dùng dương vật của mình nên gây nhiều tai tiếng và từ đó tập tục này không còn nữa. Tượng đeo Phallus thời cổ của Greek. Một truyền thuyết khác, một vị thánh tu rừng ghen giận khi người phối ngẫu của mình quá si mê ngài Shiva. Trong cơn giận vị thánh tu rừng đã cắc bỏ dương vật của Shiva và ném xuống trần thế. Khi lingam rơi xuống trần bể thành 12 đoạn, những nơi đoạn lingam này rơi xuống trở thành thánh địa. Thánh địa có tên gọi là 12 Jyotirlingas, Jyotirlingas có nghĩa là quang minh lingam, hay hào quang lingam. Là 12 nơi thường được hành hương tế lễ của các tín đồ Ấn giáo. Lại một truyền thuyết dựa trên truyền thuyết trên, khi lingam Shiva rớt xuống trần. Sức sống và lực của lingam còn quá mạnh, nên lingam chuyển động đi khắp nơi. Khi di động sức nóng của lingam đốt cháy và tàn phá chốn đó. Chư thánh thần hợp sức nhưng không khắc phục được. Cuối cùng mẹ đất, Dharti Mata, hàng phục được lingam khi lingam chuôi vào âm hộ người. Có lẽ truyền thuyết này là một để giải thích tại sao lingam dựng đứng trong âm hộ. Ngày nay lỏ lường, Padlakig, tại Thái có sự liên quang mật thiết đến đạo Ấn giáo, là một phép môn cổ. Đạo Ấn giáo được truyền vào Thái lan và thịnh thành lâu đời trước Phật giáo. Tuy Phật giáo chiếm đa số tin ngưỡng của dân Thái, cũng như những nhu cầu và linh hiển vẫn còn ứng, phép môn này vẫn còn được lưu truyền, các hầu hết các pháp sư, tăng hay tục, đều biết về pháp môn này. Chỉ khác biệt là các tăng khi cho phép thường pha lẫn với phép phật. Bùa KHUNPAEN Buà Phép Miên Thái (tức là KHUNPAEN) để tham khảo thêm về những Bùa làm bằng xương lóng tay, các bùa Nàng tình ái...v.v. Thông thường các Thầy Miên Thái muốn làm bùa cho linh thì hay ra nghĩa điạ để cúng và thu âm linh cho Buà mạnh lên. Dưới đây là những Buà được sên từ các Thầy Miên Thái cấp qua dịch vụ internet toàn cầu và có cả giá thành theo dollars. Amulets’ Ajarn Min Nangrub – Bùa tình ái phía sau khăn bùa là thịt bụng của một người đàn bà. Bùa này tên là Nang rub, có lẽ người bán chế ra tên, vì trong hình Nàng cầm lỏ lường để gần âm hộ mình. Bùa này có dùng âm linh. (800USD) Khun paen amulet Khunpaen bồng vợ. Tượng khắc và vẽ bằng tay, hình Khum paen không giống như các Khumpaen thường thấy. Theo truyện tích Khumpaen có một người vợ lẻ, trẻ đẹp, v.v. được Khumpaen rất yêu mến. Khi được lệnh vua xuất quân đánh trận, Khunpaen mang nàng theo. Nên hình Khunpaen bồng nàng là làm theo truyện tích này. Bùa làm hoàn toàn bằng xương người, ngâm trong dầu âm linh (nam man prai) (800 USD) Bùa Rahu Bùa này làm riêng cho người nào muốn thỉnh. Sau có hai takrut. Tên tuổi người thỉnh được viết vào Takrut trước khi làm bùa. Amulets Ajarn Wara Lóng xương ngón tay của Ajarn Wara – làm bùa tình ái (800USD). Người bán có 7 bùa loại này. (Ajarn Wara cũng có người anh cũng hành nghệ này) Bùa xương lóng tay và hai bùa xương người của Ajarn Ming ở trên chỉ trong vòng vài tuần là bán hết. Người mua đều ở mỹ và âu châu. Phayant Nang Riek Rak Khăn phù Nàng kêu tình – Riek = kêu hay gọi, Rak = tình yêu. Nàng một tay cầm nữ trang và tiền, một tay cầm vật gì, không rõ hình, để gần âm hộ. So với hình trên, khăn phù của Ajarn Ming, tuy có khác, nhưng có lẽ chỉ là một. Hình phù của Ajarn Min, Nang rub cầm lỏ lường để gần âm hộ. Có lẽ bùa Ajarn Min hiệu nghiệm hơn vì có âm linh. Các phù trên khăn này thường thấy vẽ cho các bùa tình ái. Hình như phía dưới hết là tên phù và số thứ tự của bùa. Theo tra cứu, âm linh những người nữ chết vì tình, hay thất tình tự tử người Thái gọi là Hong Prai. Hay dùng loại linh này để làm bùa tình yêu. Âm linh bị chồng ruồng bỏ hay bị chồng đánh chết cũng gọi là Hong prai. Kruba Kiewma và Ajarn Neng Praitong Kruba Kiewma rất nổi tiếng về phép miên (bùa Khun paen). Bùa âm linh này làm chung với Ajarn Neng. Ajarn Neng có lẽ là người trung hoa nên được tiếng ở Singapor, Malaysia, HK. Bùa âm linh có tính làm bá sự cho chủ và có tài khiển các âm linh khác. Theo thông thường bùa loại âm linh theo người đeo bùa, thì có hình Khunpaen ngồi thiền và ở dưới là hình tượng âm linh. Bùa này âm linh, hình nhân sọ người, hai tay để trên đầu một sọ người, và ngồi trên 5 sọ người, để diễn ý âm linh trong bùa này có thể khiển các âm linh trợ cho chủ. Sau lưng bùa là một miếng xương người, và có phù Nắc & Nắc Mắc Pă’c Tắc . BÙA JATUKHAM RAMATHEP. Dùng hộ thân,hộ mạng,cầu tài lộc,sức khỏe và nhiều công năng khác,đây là loại bùa được sử dụng khá nhiều ở thái lan.giá khoảng 300 USD. Những chuyện bí ẩn, rợn người, khó lý giải về bùa ngải (kỳ 1) Bùa ngải ở nước ta không phải là một khái niệm quá xa lạ. Ảnh minh họa Thầy bùa dùng huyền pháp để hại người là phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn, có dòng huyền thuật sau 2.000 năm con cháu vẫn bị báo ứng. Lý giải khoa học về những ngôi nhà ma rùng rợn giữa lòng Hà Nội Bí ẩn hồ băng lổn nhổn hàng trăm bộ xương người ở Ấn Độ Rùng rợn những xác chết "đội mồ sống dậy" diễu khắp làng Bùa ngải ở nước ta không phải là một khái niệm quá xa lạ. Hầu hết mọi người đều từng nghe đến việc dùng bùa ngải để mưu cầu điều tốt cho mình hoặc để ám hại người khác. Vậy bùa chú có thật sự mang công dụng vô biên hay không? Bùa ngải có nhiều dòng phái, nhưng tựu trung lại là làm phép “gửi lệnh” điều khiển âm lực vào một vật cụ thể nào đó để trấn yểm, phục vụ mục đích người dùng. Việc khai triển bùa ngải vì vậy phải thông qua thầy bùa, hay còn gọi là pháp sư. Pháp sư có pháp lực càng cao thì “thương hiệu” càng lớn và dĩ nhiên được nhiều người tin tưởng thỉnh bùa. Diện kiến thầy bùa Mất nhiều tháng thuyết phục, chúng tôi mới được diện kiến ông T- một pháp sư có tiếng ở Sài Gòn và được ông chia sẻ những sự thật về bùa ngải. Nhà pháp sư T nằm ở mặt tiền đường trên địa bàn quận Bình Thạnh, TPHCM. Căn nhà rất rộng nhưng cửa đóng then cài quanh năm, chỉ một mình ông ở. Cả gia đình pháp sư đều định cư ở nước ngoài, riêng ông vẫn ở lại. Pháp sư T năm nay 40 tuổi, từng tốt nghiệp cử nhân luật nhưng 20 năm qua chỉ chuyên tâm nghiên cứu bùa ngải. Ông gặp chúng tôi sau một chuyến “công cán” từ Tây Ninh trở về. Gia chủ ở đó xây cất nhà ở gần nghĩa địa, thường xuyên bị ma quấy quả. Thử mọi cách từ cúng kiếng, cầu siêu đều không được. Nghe danh thầy T, họ cất công lặn lội xuống Sài Gòn cậy nhờ. “Thực chất đó không phải hồn ma mà là những âm binh. Chỉ có người am tường huyền thuật mới có thể hóa giải” - ông T nói. Phải thuyết phục ghê lắm, chúng tôi mới được ông T cho phép vào tham quan căn phòng nơi ông nghiên cứu và thực hành bùa pháp. Căn phòng nhỏ đốt nhang trầm nghi ngút. Ở chính giữa là bàn làm việc có mực tàu và giấy vẽ bùa. Xung quanh bốn bức tường là 8.000 đầu sách đủ thứ tiếng chuyên về bùa ngải. Trên các bức tường treo nhiều ảnh mà theo ông là cao tổ của các trường phái bùa ngải. Tất cả đều là người Trung Quốc, Thái Lan hoặc Ấn Độ. Theo lời ông T, bùa ngải chỉ là một trong những hình thức khai triển huyền thuật, ngoài ra còn có trù ếm, thần thông, thôi miên… Huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất vẫn có thể kể đến các dòng Nam tông (Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia…), dòng Tiên đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh, thế yếu nhưng trước đây dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau như bây giờ. Bùa ngải dùng đủ thứ chất liệu từ cây cỏ đến vật dụng, tùy phép yểm và mục đích. Lá bùa có loại nhỏ bằng ngón tay, có loại to như mặt bàn. Loại chôn, loại đốt, loại uống (trực tiếp hoặc đốt), cũng có loại vô hình vô trạng… Ở miền Nam, huyền thuật chủ yếu thịnh hành dòng Nam tông, đặc biệt là bùa chú của Thái hoặc Miên (Campuchia). Trong đó, phương pháp “trù ếm” được sử dụng nhiều nhất với “hình nộm thế thân”, chiêu thức vô cùng tàn độc nhắm đến người bị sát hại (đâm, cắt, bẻ gãy, dìm nước…). Rất nhiều người bị hại không chỉ tán gia bại sản mà tinh thần, thể xác còn bị tổn hại ghê gớm. Huyền thuật tôn chỉ là điều chỉnh quan hệ giữa con người với cõi siêu nhiên. Vì vậy, xuất phát điểm của bùa ngải đơn thuần là vì mục đích tốt. Dòng huyền thuật nào cũng có “bùa hại”. “Bùa hại” từ sơ khởi cũng đã có nhưng chỉ mang tính chất để răn đe, trừng phạt những người xấu và giúp họ quay đầu chuyển ý. Dần dà, nhiều người tà tâm đã khuếch đại, phát triển bùa hại lên tầm cao mới. “Từ lâu, việc dùng bùa phép ám hại nhau là có thật, dù nhiều người chưa tin” - ông T khẳng định. Đẳng cấp và trả giá Cũng theo lời ông T, huyền thuật sơ khai mang mục đích tốt đẹp nên pháp sư cũng vậy. Những người có khả năng khai triển huyền thuật là những người đức đạo, thành tâm. Tuy nhiên, ngày nay nhiều thầy bùa, pháp sư công khai dùng huyền thuật để kiếm tiền, khai sinh ra nhiều tà thuật. Ông khẳng định huyền thuật không phân biệt chánh-tà, chỉ có người sử dụng huyền thuật vào mục đích tốt hay xấu. “Người khai triển huyền pháp với mục đích hại người đã phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn” - ông nói. Như trường hợp một thầy bùa ở Tây Ninh chuyên yểm bùa hại người theo yêu cầu. Ông này sống đến 60 thì bị điên rồi chết. Con cháu ông ta không hiểu vì sao đều bị điên cùng lúc. Ông T khẳng định, việc trả giá như vậy trong huyền giới không hiếm. Có những dòng huyền thuật hơn 2.000 năm vẫn báo ứng, nhiều thế hệ “chịu tội” là chuyện bình thường. “Đáng buồn là cuộc sống càng phát triển, dục vọng con người càng lớn. Thầy bùa hoạt động công khai, nhiều người chỉ học lỏm được ít kỹ năng đã xưng thầy hành nghiệp” - ông buồn rầu nói. Ông T kể, có người bạn chuyên vẽ bùa ở Sài Gòn, khách đông đến nỗi, mỗi ngày ông “vẽ bùa” gần 10 tiếng đồng hồ. Mỗi khách như vậy lại “cúng tổ” ít nhất 100.000 đồng. Mỗi ngày ông này thu nhập trên dưới 10 triệu đồng. “Nghề” thầy pháp hấp dẫn đến mức con trai ông đang là sinh viên đại học cũng nghỉ ngang, theo cha học lỏm 3 năm và đến nay cũng đang xếp hàng vẽ bùa để làm giàu. Để minh chứng cho “đẳng cấp” thu nhập thầy bùa, ông T dẫn chúng tôi đi gặp pháp sư N - một người có tiếng cao tay ở Sài Gòn. Trước khi đi, ông dặn kỹ không được quay phim hay ghi âm và không được nêu danh ông thầy này, vì nếu huyền giới đạt ngưỡng cao như lời đồn thì người này sẽ dư sức yểm bùa hại người viết. Theo chân ông, chúng tôi đến nơi ông N cho bùa nằm sâu trong một con hẻm ngoằn ngoèo ở quận Bình Thạnh. Căn nhà được canh gác cẩn mật, vòng trong vòng ngoài cả chục người và thường xuyên đổi địa điểm để tránh bị phát hiện. Phòng khách nhà thầy N dù còn sớm nhưng đã nêm chặt vài chục người. Kỳ lạ là những người đến xin bùa phép đều ăn mặc sang trọng, có nhiều cô gái trẻ xinh đẹp. Theo “giá cả” mà mọi người dặn nhau, vào diện kiến thầy N thì chí ít phải “đặt tổ” 500.000 đồng vì uy danh của thầy lừng lẫy. Vì vậy, thu nhập của thầy N mỗi ngày vài chục triệu, thuộc loại đỉnh của giới cho bùa. “Phòng làm việc” của thầy N nằm tiếp giáp phòng khách, sau lớp cửa kín như bưng. Vừa xong việc với một thân chủ trẻ, thầy N bước ra ngoài. Khác với tưởng tượng của chúng tôi về những ông thầy pháp mặc áo vàng có vẽ hình bát quái trận đồ, thầy N mặc thường phục, tay cầm chuỗi hạt bằng đá cẩm thạch. Thầy N 60 tuổi nhưng nhìn thần sắc vẫn còn rất trẻ, dáng người phốp pháp, da dẻ hồng hào. Lướt mắt một vòng những người ngồi chờ ở phòng khách, bỗng mặt ông đanh lại phán: “Hôm nay đến đây thôi. Xin hẹn các quý chủ lúc khác”. Tôi tần ngần ra về, buồn vì nghĩ mình bị lộ khi cuộc thâm nhập vừa bắt đầu thì ông T giải thích rằng vì thầy N thấy ông nên không muốn làm việc tiếp. “Người học bùa chú nhận diện nhau rất dễ dàng và thường không khai triển khi có người cùng giới” - ông T giải thích và nói thêm rằng người thẩm thụ huyền thuật có năng lượng thoát ra mà người phàm không thể biết, chỉ người cùng giới mới hiểu được. Chúng tôi nhác thấy bóng các vị khách giàu có và những cô gái trẻ trung xinh đẹp hồi nãy có vẻ thất vọng. Sau này chúng tôi mới biết khách của pháp sư N toàn thương gia giàu có đến xin bùa giàu để làm ăn thuận lợi. Còn những cô gái thì xin bùa yêu, không ít trong số những cô gái xinh xẻo đó là gái bao, tìm đến thầy xin bùa mê để ếm vào các đại gia. Nghe đâu, không ít những nhân vật trong làng giải trí cũng là “khách quen” của pháp sư cao tay này. Rời nhà pháp sư N, ông T hẹn chúng tôi vào dịp khác sẽ diện kiến thêm một vài pháp sư nữa. Ông cho biết them, hiện tại có rất nhiều người xưng pháp sư, quảng cáo tràn lan, thậm chí công khai trên mạng. Thực chất, để học được huyền thuật phải có duyên, người không được chọn thì suốt đời không học được. Tùy vào dòng phái mà thời gian cảm thụ huyền pháp dài hay ngắn. Ít nhất cũng phải mất 5 năm tu luyện. Bản thân ông T dù chưa ở ngưỡng giới cao nhất nhưng để duy trì pháp lực, một năm phải mất một trăm ngày luyện công. Mỗi lần như vậy chỉ được ăn chay, ở một mình trong phòng và cắt hết liên lạc với thế giới bên ngoài. Phải làm như vậy thì huyền lực mới thẩm thấu, mới lưu giữ được. Làm pháp sư khổ ải nhiều như vậy nên ở Việt Nam hiện có 200 pháp sư và nếu nói là đạt đến huyền giới thì chỉ có 3 người. “Muốn đi đến ngưỡng huyền giới thì không thể dùng huyền thuật mưu sinh hay làm giàu”- ông nói. Hiện nay, chính người cho bùa chú cũng không hiểu mục đích chân truyền của huyền thuật. Còn người ham mê bùa chú thì tin mù quáng nên nảy sinh ra những “dịch vụ” không giống ai. Trong những cuộc “triển bùa” mà ông chứng kiến, người xin bùa yêu và mưu cầu giàu sang đã chiếm gần hết. Có những người mưu cầu những điều rất viển vông như bùa chống vợ giận, bùa học giỏi, bùa bán được hàng hóa... “Nói bùa ngải không tác dụng thì không đúng. Tuy nhiên, nó chỉ hiệu nghiệm khi con người đã dùng hết năng lực của mình, không thể cố nữa mới có thể nhờ linh giới giúp sức và không phải là cầu gì được nấy. Tin bùa chú đến mức phó thác cuộc sống mình vào nó thì chỉ là tự huyễn hoặc mình mà thôi” - ông T khẳng định.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 6:26:17 GMT 9
Cô Ba Trà thoát y luyện ngải, hút tiền đại gia ngân hàngBa Trà gián tiếp hoặc trực tiếp đẩy hàng chục những tay trọc phú, những tỷ phú đương thời vào con đường sa đọa, dẫn họ tới chỗ phá sản không thể nào hình dung được trong con mắt những người bình thường. Ở đất Sài Gòn khoảng thời gian từ 1925 cho đến 1945 nổi lên bốn người phụ nữ được liệt vào hàng "tứ đại mỹ nhân" gồm có: Ba Trà, Tư Nhị, Sáu Hương và Lucie B. Một trong những người thuộc hàng "tứ đại mỹ nhân" này nổi trội nhất là cô Ba Trà. Chính người phụ nữ chân đất, con nhà nghèo ấy sau một thời gian đặt chân lên đất Sài Gòn, đã gây ra không biết bao nhiêu chuyện tình đẫm nước mắt. Ba Trà gián tiếp hoặc trực tiếp đẩy hàng chục những tay trọc phú, những tỷ phú đương thời vào con đường sa đọa, dẫn họ tới chỗ phá sản không thể nào hình dung được trong con mắt những người bình thường. Bí ẩn hoa khôi Sài Gòn dùng bùa ngải làm tiêu đời mười tỷ phú - Ảnh 1 Quyền năng nhan sắc Người phụ nữ ấy được phong là hoa khôi của Sài Gòn thời ấy, một hoa khôi không mang vương miện trên đầu, nhưng quyền năng của sắc đẹp khuynh đảo với sức tàn phá ghê gớm mà với bất cứ người nào từng biết về thời điểm ấy đều phải lắc đầu ngao ngán. Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, một cô gái khi đặt chân lên đất Sài Gòn chỉ mới mười sáu tuổi từ làng quê nghèo Cần Đước (Long An). Từ khi sinh ra và lớn lên cho tới tuổi mười sáu Ba Trà chỉ biết đi chân trần và bắt ốc, hái rau, hoặc gánh nước. Do hoàn cảnh gia đình không được êm ấm: Người cha mất sớm để lại cô con gái thứ ba của mình tên là Ngọc Trà cho một bà mẹ cũng ít học và nghèo khó nuôi nấng. Ba Trà sở dĩ không sống được ở chốn nhà quê của mình là do bên nội của cô hắt hủi, đuổi xua, hầu như là không nhìn nhận mẹ góa con côi của cô, cho nên gia đình mới gởi Trà lên Sài Gòn, chỉ mong cô sẽ đi làm người giúp việc, hoặc đi gánh nước mướn. Mà thời ấy người ta hay gọi cái nghề đó là cái nghề "Mari phong-tên" (nghĩa là các cô gái đi gánh nước mướn ở các phong - tên cấp nước công cộng trên các hè phố Sài Gòn). Nhưng cuộc đời của cô gái mười sáu tuổi không bằng phẳng trôi theo cái kiếp làm thuê làm mướn, mà lại sớm vướng vào một bi kịch cuộc đời ngay những ngày đầu đời. Ba Trà tuy còn ở tuổi vị thành niên nhưng đã bị ép gả cho một tên Tây lai nhiều tiền của, để rồi mất đời con gái chỉ với vài chục đồng bạc thời ấy. Nhưng không ngờ chính nhờ cái bi kịch bán đời con gái cho một tên lang sa lớn tuổi ấy, đã giúp cho Ba Trà sớm trổ mã con gái. Cô bé mười sáu tuổi sau nửa năm bị làm vợ hờ của một người lớn tuổi bỗng dưng đẹp ra khiến nhiều người ngẩn ngơ. Có lẽ cái kiếp hồng nhan nó đánh đố cuộc đời một cô gái bất hạnh, nên đã nhanh chóng biến Ba Trà thành một bông hoa nổi tiếng. Trong số này có vài người sành đời, nhất là sành đời trong chốn ăn chơi trác táng đã xúi Ba Trà bỏ khu ổ chuột để bước ra chốn ánh sáng phù hoa. Kết quả là Ba Trà được một mụ nạ dòng chấm điểm rồi dẫn dắt đi vào con đường bán sắc buôn hương sau này. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ba Trà nổi lên như là một hoa khôi, khiến cho giới công tử, trọc phú Sài Gòn thuở ấy ngẩn ngơ trước nhan sắc lạ thường và hiếm có như cô Ba. Thời ấy là thời "hoàng kim" của những bạch công tử Phước Georges, hắc công tử Ba Quy, vua cờ bạc Sáu Ngọ hay các ông phủ, ông hội đồng giàu nứt đố đổ vách của Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam bộ. Nổi lên vào thời điểm thiên hạ sống lấy đồng tiền làm gốc, và lạm dụng đồng tiền để trèo cao hay để vừa vinh thân vừa phì da, cho nên tiếng tăm của cô Ba Trà nổi lên như cồn. Hầu như thế giới của Sài Gòn đêm hoặc là Sài Gòn ăn chơi thuở ấy, cái tên nằm lòng và nằm ở cửa miệng của mọi người đàn ông là Ba Trà hoặc Sáu Hương, Tư Nhị v.v. Hắc, Bạch công tử, hai công tử ăn chơi số một của đất Nam kỳ thời ấy đã sớm là những tình nhân đầu ấp tay gối của Ba Trà. Đồng thời những ông phủ, ông hội đồng và các ông quan tòa, các tay cộm cán trong chính quyền thực dân thời ấy chết mê chết mệt vì nhan sắc của cô gái được mệnh danh là hoa khôi không vương miện ấy. Theo ước lượng ngầm của dân Sài Gòn xưa, thì chỉ trong vòng mười năm nhan sắc nở rộ của Ba Trà, một mình cô đã nướng của khoảng mười tỷ phú thời ấy với số tiền nếu quy ra vàng thì khoảng trên mười ngàn lạng. Quyền năng nhờ bùa ngải? Thời ấy nhiều người đặt câu hỏi rằng Ba Trà quyến rũ đàn ông phải chăng chỉ bởi cái nhan sắc của cô thôi hay còn cái bí quyết gì khác? Câu hỏi ấy chưa nghe ai trả lời chính xác, chỉ khi đến giai đoạn gần cuối đời Ba Trà thì mới có một kết luận sơ khởi: Ba Trà sở dĩ khuyến dụ được đàn ông, khiến cho các tay chơi lừng lẫy như Bạch công tử, Hắc công tử và những trọc phú mà tiền của họ có thể mua được hàng chục, hàng trăm những cô gái trẻ thuộc bất cứ hạng nào vậy mà vẫn cứ làm con thiêu thân của cô Ba là do bởi một thứ..., mà thứ này nói ra ngay thời ấy có người tin, người không và luôn bị bày bác đó là bùa ngải. Để chứng minh cho lời đồn này thì báo chí thời ấy cũng đã đưa ra những câu chuyện có thật về cô Ba Trà chơi bùa chơi ngải: Vào khoảng thập niên ba mươi (1930 - 1940) Ba Trà bằng nhiều cách đã đi về xứ Xiêm la (tên gọi Thái Lan vào thời ấy). Mà cô Ba đi qua Xiêm để làm gì thời ấy, bởi cô không hề buôn bán, cũng không phải là viên chức Nhà nước nên nói rằng đi công vụ, mà chỉ đi qua xứ Xiêm là cho một mục đích duy nhất: Đi chuộc bùa, chuộc ngải. Người hiểu chuyện của Sài Gòn xưa đã biết rằng sở dĩ Ba Trà phải cần tới bùa ngải là vì có vài người đã tư vấn cho cô nàng rằng, muốn được đàn ông mê mệt và đắm say mình mãi mãi không rời thì không chỉ đơn giản là dùng nhan sắc và nghệ thuật yêu đương thôi, cái cần thiết phải là bùa ngải. Mà thời ấy hễ nói tới bùa ngải thì người ta nghĩ tới bùa Xiêm, ngải Miên. Ý là để chỉ ở Xiêm La đang thịnh hành các loại bùa chú rất hiệu nghiệm, còn ở xứ Miên (tức Campuchia ngày nay) là hai nơi có lợi thế, có những ông thầy bùa thầy ngải thuộc loại lừng danh không nơi nào bì được. Bởi vậy người ta đã không ngạc nhiên khi hay tin cô Ba Trà đã qua tận Xiêm La nhiều lần để tìm thầy ngải. Lúc cuối đời, lúc nhan sắc đã tàn phai thì chính Ba Trà đã thuật lại những chuyến đi thỉnh bùa, rước ngải ấy một cách cụ thể, không hề giấu giếm. Chính cố học giả Vương Hồng Sển đã xác nhận lại chuyện này trong một số hồi ký của ông xuất bản trước khi ông mất rằng ông đã được cô Ba Trà thuật lại chuyện ly kỳ quanh những chuyến đi thỉnh bùa thỉnh ngải "Muốn thỉnh được bùa mê ngải yêu thì phải tìm đúng được thầy mà phải là thầy Xiêm và nhờ họ giúp cho mình chuộc ngải bằng cách ngậm ngải vào thân thể theo hình thức: Đích thân Ba Trà đã khoe thân trong một phòng riêng với lão thầy ngải để vừa nghe lão đọc thần chú vừa để cho lão xông hương, mà hương ấy chính là ngải đốt lên để cho hương thấm vào da thịt. Phải làm lặp đi lặp lại cả chục lần như vậy trong suốt quá trình thỉnh ngải, để rồi sau đó khi được thầy cho là đã đạt yêu cầu, tức là ngải đã nhập vào người thì đem nó về áp dụng theo ý muốn". Cũng theo lời thú nhận của cô Ba Trà thì chính cho ngải nhập vào thân thể như vậy cho nên bất cứ người đàn ông nào dù bản lĩnh tới đâu một khi đã ôm ấp cô, đã được cô trao thân gửi phận thì y như rằng tất cả đều mê đắm và sẵn sàng biến thành những con cừu non, hay những con thiêu thân biết lao vào ánh đèn hay ánh lửa sẽ chết mà cứ làm. Hiệu quả của bùa ngải mà Ba Trà thỉnh về từ xứ Xiêm La đến đâu thì chúng ta sẽ bàn tới sau qua hồi kết của cuộc đời Ba Trà, nhưng có một biến cố mà có lẽ Ba Trà cũng không ngờ tới được đó là qua những chuyến đi tìm bùa thỉnh ngải ấy ở xứ Xiêm La của cô Ba, đã khiến cho cô vướng vào một mối tình, để thêm vào vài chục mối tình mà cô đã có ở Thủ đô của nước Xiêm là Vọng Các (tức Băng Cốc). Bùa yêu phát huy tác dụng cực điểm Người thời đó đồn rằng mối tình mà cô Ba vướng ở Vọng Các là với một cựu hoàng nước Xiêm La. Ông này là một tay trọc phú có nhiều quyền lực ở nước Xiêm nhưng cũng không tránh khỏi cơn lụy tình khi diện kiến với hoa khôi đất Sài thành, cho nên ông ta muốn lưu Ba Trà ở lại ở xứ sở chùa vàng ấy. Nhưng Ba Trà chẳng khác nào một con ngựa bất kham, nên làm sao cô chịu dừng chân và ghìm hãm cuộc đời mình chỉ với một người đàn ông. Dẫu người đàn ông ấy tiền muôn bạc vạn thuộc loại tỷ phú, trọc phú ở nước Xiêm. Do vậy cuối cùng Ba Trà đã khăn gói trở về Sài Gòn, để rồi tiếp tục những cuộc trác táng thâu đêm với những tay chơi, những trọc phú xứ Nam kỳ thời ấy. Tương truyền rằng, sau chuyến trở về từ Xiêm ấy thì ngay như tay vua cờ bạc của Sài Gòn lúc bấy giờ là Sáu Ngọ vốn chỉ mê cờ bạc và tiền hơn đàn bà, vậy mà cũng đã lụy tình với cô Ba. Người ta đồn rằng ngải mê, bùa yêu trong Ba Trà đã phát huy tác dụng đến cực điểm của nó! Nhà văn Người Khăn Trắng Sở hữu vẻ đẹp “chết người” cô Ba Trà còn cất công đi chu du thiên hạ, sưu tầm bùa ngải khiến đàn ông theo cô cả đàn, và chỉ tỉnh ngộ khi đã đốt cả núi tài sản cho người đẹp. “Hớp hồn” con trai người giàu bậc nhất Nam Kỳ Thói quen xài tiền như nước và cờ bạc thâu đêm như một thứ bùa ngải khiến Ba Trà không thể dứt nổi. Nhiều phen điêu đứng vì vỡ nơ, cô nghĩ cách đi chuộc ngải để có tiền. Cô Ba Trà, thoát y, luyện ngải, đại gia, ngân hàng Những loại giấy bạc 100 đồng của Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc Nằm gác tay lên trán, cô nhớ tới người bạn gái năm xưa là chị Hai Tóc đỏ, chị này thường khoe nhờ bùa ngải mà làm ăn phát đạt, ngồi chơi không đụng móng tay mà tiền vô như nước. Theo chị này kể, muốn cầm ngải thì phải là ngải Xiêm (tên của Thái Lan thời đó) hiệu quả cao hơn bùa ngải Miên. Vì vậy cô quyết tìm chị để nhờ dẫn đi Xiêm chuộc ngải. Hỏi thăm, cô được biết bây giờ chị Hai Tóc Đỏ có chồng đang ở bên Xiêm, nên quyết qua bên ấy, níu lưng chị cầu cứu. Một mình sang Xiêm chuộc ngải, vừa qua biên giới cô bị lính biên phòng bắt, giải giao cho Toà lãnh sự Pháp ở đây. Vừa bị giải giao tới Lãnh sự Pháp tại Bangkok, cô Ba Trà được một thanh niên Việt cao lớn đẹp trai niềm nở tiếp đón như người quen lâu ngày mới gặp lại. Người đó là anh Đỗ Hữu Trí, con thứ của ông Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, người giàu thứ nhì ở Nam Kỳ thế kỷ trước. Gặp cô Ba Trà, Đỗ Hữu Trí như bị hớp hồn. Gái đẹp gặp trai đa tình như cá gặp nước. Vụ án nhập cảnh lậu bị xếp lại gọn hơ, chỉ mấy ngày sau cô Ba Trà trở thành khách du lịch đầy đủ giấy tờ hợp pháp, nhờ sự lo lắng của Đỗ Hữu Trí. Chính Đỗ Hữu Trí tự mình lái xe đưa cô Ba Trà du lịch, xem hoàng cung, thắng cảnh quanh châu thành Bangkok. Cuối cùng, sau khi cô Ba Trà tìm được chị Hai Tóc đỏ, đi chuộc ngải xong, thì Đỗ Hữu Trí lấy xe riêng đưa cô Ba Trà về biên giới Thái - Miên, để cô đi xe lửa về Nam Vang. Công tử “dại gái” cho không 400 lượng vàng Về Sài Gòn nguồn tin báo với cô rằng Nguyệt Tiên Cung đang bị con nợ bao vây. Họ định cho cô vào khám “giam”, chờ chừng nào trả đủ tiền thì mới được tự do. Nếu sự việc xảy ra như vậy, còn gì thể diện của Nguyệt cung tiên chủ? Cô đành tạm lánh mặt trong Hôtel des Nations ở đường Charner (Lê Lợi ngày nay). Mấy hôm sau khi về nước, cô đang ngồi dùng cơm trưa tại phòng ăn của khách sạn Hôtel des Nations, trong lúc vắng khách, thình lình một người lạ mặt xuất hiện, đi lại gần bàn, trao cho cô một danh thiếp và một bao thơ đựng tiền. Đọc danh thiếp, thấy đề mấy dòng chữ: “Lâm Ngọc Bích tự Lâm Kỳ Xuyên, compredore Banque de l’Indochine (đại diện Ngân Hàng Đông Dương), chi nhánh Cần Thơ”. Trong bao thơ có 100 tờ giấy xăng (giấy 100 đồng). Cô thắc mắc, không biết số tiền này là tiền gì, tại sao có người đem cho cô, trong khi tên người in trong danh thiếp hoàn toàn xa lạ với cô? Hồi tưởng lại, lúc ở bên Xiêm, cô “luyện phép” và van xin sư tổ phò hộ cho cô được các công tử nhà giàu mê cô, cho tiền xài. Bây giờ, tự nhiên có tiền vô. Cô thắc mắc có phải do tác dụng của bùa ngải, hay do công tử họ Lâm mê nhan sắc cô? Số tiền ấy có thể gọi là tiền lễ ra mắt. Có tiền rồi, cô đường hoàng trở về Nguyệt Tiên Cung, trả nợ nần và lại sống xa hoa như trước. Sau đó một tuần, cô đi đổ hột “xí ngầu” tại tiệm vàng bác Năm Hy, số 108 đường Bonard (Đồng Khởi hiện nay). Sau một giờ, cô thua sạch túi. Cô sai đứa bồi thân tín gọi điện thoại xuống “Banque de L’Indochine” ở Cần Thơ để xin công tử Bích 5000 đồng. Cô không nói chuyện với công tử họ Lâm này, vậy mà 4 giờ đồng hồ sau, có người tài xế trên cổ áo có phù hiệu “Banque de L’Indochine, Annexe de Cần Thơ”, đem lên một bao thơ lớn, lễ phép trao cho cô. Mở ra cô đếm trước mặt: 50 tờ giấy xăng (100) còn mới tinh, thơm mùi mực in. Sau này cô mới biết rõ lai lịch họ Lâm này. Cha cậu là một nhà triệu phú nhờ có óc kinh doanh. Đương thời cha cậu làm chủ hãng rượu lớn nhứt Nam Kỳ tên Hóc - Tchai Châu đốc. Bất ngờ, sau lần đó, công tử họ Lâm im hơi lặng tiếng. Cô thắc mắc, gọi điện thoại, viết thư tạ lỗi cũng không thấy cậu trả lời. Cuối cùng cô mới hiểu ra sở dĩ nguồn tiền do cậu họ Lâm cung cấp cho cô bị gián đoạn vì cậu thấy cô ngồi chung xe ô tô với thầy Sáu Ngọ đi tới các sòng bạc Chợ Lớn. Đi Xiêm lần 2, gặp thầy ngải bị cụt 10 đầu ngón tay Số tiền của công tử họ Lâm bay vèo vào sòng bạc. Cô Ba Trà lại lâm cảnh nợ nần. Cô quyết đi Xiêm lần thứ hai để chuộc ngải. Trong chuyến đi này, cô Ba đã được ông hoàng Luang Pradit chiều chuộng như khách quý. Còn cho cả người đi theo trả tiền cho mọi chi phí của cô. Trở lại việc chuộc ngải Xiêm, cô tìm gặp vị sư cũ, giải bày cặn kẽ ý muốn của cô. Cô làm lễ chỉ cột tay cho thầy một sợi tim đèn bằng vải, có quấn một khoang vàng y, trị giá chừng 30 đồng bạc. Vị thầy này dẫn cô ra mắt vị tổ sư của ông ta. Tổ sư là một người dị tướng. Không mắc bệnh cùi mà hai bàn tay và mười ngón chân đều rụng trụi lủi vì bị ngải quá mạnh ăn mòn các ngón tay, chân? Sau khi biết ý định của cô, sư bắt đầu làm phép. Sư dẫn cô lạy trước bàn thờ tổ, rồi thoát y múa trước bàn thờ. Sau đó sư trao cho cô đủ số ngải cần thiết, và cho đệ tử chính là ông thầy ngải mà cô gặp đầu tiên cùng cô đi về Việt Nam để luyện ngải đến hoàn thành. Việc đưa ông thầy ngải về Việt Nam với cô cũng không khó khăn gì, tất cả thủ tục đều do anh Trí lo. Chính anh đích thân lấy xe đưa cô về biên giới Xiêm - Miên. Về tới Sài Gòn, cô tá túc trong nhà đầy tớ gái trung thành, nằm trong một con hẻm. Hàng ngày cô đóng kín cửa để luyện ngải. Ông thầy ngải hướng dẩn cô thoát y, ăn chay nằm đất đủ bảy ngày bảy đêm. Mỗi đêm ông thầy ấy bảo cô lại quỳ trước bàn tổ do ông mới lập ra, ông đọc thần chú lâm râm, ông này cầm nhang đang cháy vẽ bùa trước mặt cô thổi ba hồi dài. Ma lực của ngải cực mạnh, cô đang khỏa thân quỳ trước bàn tổ, hoàn toàn tỉnh táo nhưng khi thầy thổi nhang vào mặt, tự nhiên cô chóng mặt, rồi khuỵu xuống, một lúc sau mới tỉnh dậy? Làm phép đúng một tuần, ông thầy ngải cuốn gói về Xiêm, còn cô tự tin bùa phép cùng mình, ngải mê quyến rũ, cô quyết “xuống núi” để thực hành xem bùa ngải có tác dụng tới đâu. Sau này khi đã vào độ luống tuổi hết thời phải sống lay lắt bằng nghề cho vay bạc góp cò con ở Đại thế giới, cô Ba Trà đã ân hận kể lại câu chuyện thử ngải với học giả Vương Hồng Sển như lời ăn năn sám hối: “Ngày nay chuyện cũ nhắc lại, tôi lấy làm hối hận cho cử chỉ thiếu đẹp của tôi lúc ấy. Lâm công tử là người rất tốt, thế mà tôi trả ơn bằng hai chữ “đoản hậu” thiệt vô duyên. Tôi xuống tới nơi, ngỡ ngàng bỡ ngỡ, viết thơ mời ông lại phòng, trong khi nói chuyện bằng lời nói trổng điệu đánh dây thép (lối nói cộc lốc khô khan): “Xuống hồi nào?”, “Mới tới”, “Xuống chi vậy?”, “Thua quá, thiếu nợ nhiều, xuống kiếm anh”, “Nhiều bao nhiêu”, “Bốn chục ngàn”, “Chớ một giờ nữa được không?”, “Được”. Rồi anh ra về, xuống lầu, quá nửa giờ sau, tôi nóng ruột sợ anh quên nên sai tài xế cầm thơ tay viết mấy chữ vắn tắt nhắn nhe anh. Hút chưa tàn điếu thuốc, bác tài xế xách về một bao bố nhỏ. Mở ra, mẹ ôi, giấy một trăm la liệt đầy bàn, đếm đúng 40.000 đồng, giá trị đúng 1000 cây vàng thời đó. Ngải Xiêm có hiệu lực hay anh yêu tôi thật lòng tôi cũng không hiểu được nhưng số tiền quả thật làm tôi choáng váng”. Ngải hành hay bản chất bạc bẽo của bông hoa độc Cô Ba Trà đã có lần ân hận kể lể: Bây giờ, nhớ lại việc cũ, không biết tại tôi thiếu tình thương hay tại ngải hành (ngải này làm cho ra tiền chớ không đẻ ra tình yêu), tôi đểu giả và tàn nhẫn quá, không xứng đáng là có máu giang hồ khí phách, đành lòng nào nuốt của anh Lâm ngót 70 ngàn đồng: 10.000 ra mắt, 20.000 gầy lại Nguyệt tiên cung, 40.000 nói láo thua bài. Trụ sở Ngân hàng Đông dương Sài Gòn ngày xưa Một người "ngọt" đến thế, quân tử đối với tôi đến thế mà tơ duyên ngắn ngủi chỉ một lần giao hoan, nhắm lại sao Ngưu sao Chức có một lần mỗi năm, tệ bạc trời dành hay tôi thiếu sót không hiểu chữ ân chữ nghĩa? Anh Lâm tha tội cho tôi”. Nghe nói, sau lần cuối cho cô Ba 40.000 Công tử họ Lâm đã nằm chờ cô hai ngày ròng rã ở Nguyệt Tiên Cung. Trong lúc ấy cô Ba vẫn tiếp tục la cà các sòng bài. Ôm 40.000 đồng về Sài Gòn cô chỉ trả nợ được một phần. Chỉ hơn một tuần sau, cô nướng hết 1000 lượng vàng anh Lâm đã cho vô các sòng bài. Cô tự hối và từ đó không dám tìm gặp Lâm công tử nữa. Thua sạch túi, cô lại nằm nhà đóng cửa để trốn nợ. May mắn lúc ấy công tử Bích, con ông chủ rạp chiếu bóng ở Trà Vinh vừa mới quen cô ở các sòng bài tìm đến cung phụng cho cô để bắt đầu một thiên tình sử cay đắng mới đưa cô về làm vợ của chủ nhà hàng Continental nổi tiếng ở Sài Gòn. Đại mỹ nhân dùng bùa ngải bắt đàn ông quỳ gối cung phụng(ĐSPL) - Nhân vật thứ hai trong nhóm tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa là Tư Nhị, người được xem như đệ nhất bùa yêu ở đất Sài Gòn vào thập niên 1940. Ngay như những nhân vật lừng lẫy cỡ Bạch công tử cũng từng là nạn nhân của bùa ngải, để rồi tàn đời vì nó. Nhưng nhân vật gọi là cô Tư Nhị này không dừng lại ở đó mà chuyện kể về cô này còn rất ly kỳ mà phải tốn nhiều bút mực thì mới tả hết. Đại mỹ nhân dùng bùa ngải bắt đàn ông quỳ gối cung phụng - Ảnh 1 Qua mặt đàn chị Ba Trà Xin nói đôi chút về Tư Nhị: Cô này xuất thân trong một gia đình nghèo ở Nam Vang (tên gọi xưa kia của Phnom Penh ngày nay) có hai dòng máu Miên và Việt, cha người Miên, mẹ người Việt. Cô nàng được sinh ra ở Thủ đô Nam Vang lúc bấy giờ, rồi khi lớn lên ở tuổi mười bảy thì từng cặp kè với một hoàng thân thuộc hoàng tộc xứ chùa Tháp lúc ấy. Khi nghe đồn đất Sài Gòn thời ấy là hòn ngọc viễn đông, nơi "thiên đàng" của tao nhân mặc khách, cho nên nàng ta đã "mò" về. Cô nàng tuy nhỏ tuổi hơn nhân vật đệ nhất của tứ đại mỹ nhân thời đó là Ba Trà nhưng lại nhiều mưu mô hơn và khôn lanh hơn. Cho nên sau khi núp bóng chịu lép vế và nhận là đàn em của cô Ba Trà, đã ngoi lên trở thành một tiểu tinh (ngôi sao nhỏ) trong bầu trời đầy ánh sáng tinh tú của Sài thành hoa lệ. Tiếng đồn về nhan sắc của Tư Nhị thì ít mà những chuyện kể về các thủ thuật bùa ngải của cô nàng lại nổi hơn bất cứ ai vào thời ấy. Đến nỗi những người chạy theo nhan sắc của cô gái tuổi mười tám mười chín này thời ấy, chỉ sau một giai đoạn ngắn cặp bồ với cô nàng đã phải sững sờ rồi tìm cách tránh xa! Họ lánh mặt Tư Nhị không phải vì cô nàng kém hấp dẫn theo kiểu có thanh sắc mà không quyến rũ bằng Ba Trà. Nguyên nhân chỉ vì sức hấp dẫn quá mạnh khiến cho những con mồi từng bị hút vào vòng xoáy nhan sắc và dục tình của Tư Nhị một cách chóng vánh, mãnh liệt thì tất cả đều ngộ ra một điều rằng, cái sức hút ấy không phải từ sắc hay dục của cô nàng, mà chính là do bởi một điều thần bí nào đó mà thời ấy người ta chỉ có thể thốt lên rằng: Tư Nhị có bùa ngải cực cao! Bằng chứng là ngay như đàn chị của cô là cô Ba Trà cũng phải sửng sốt kêu lên khi thấy chỉ mới chân ướt chân ráo đặt chân lên đất Sài thành, vậy mà Tư Nhị đã hốt gần hết những gã nhân tình nhiều bạc, lắm tiền thời ấy của Ba Trà: Từ Bạch công tử, công tử B xứ Trà Vinh cho đến một anh chàng mắt xanh mũi lõ nổi tiếng là hào hoa phong nhã bậc nhất trong giới Tây kiều thời ấy tại Sài Gòn là Franchini. Tay này là một triệu phú thời ấy, nổi tiếng đẹp trai và hào hoa phong nhã bậc nhất lúc bấy giờ. Tay này ngoài tiền muôn bạc triệu lại có vai vế rất lớn trong giới Pháp kiều, nằm ngoài bộ máy cầm quyền của Pháp lúc ấy. Là vì anh ta vốn là anh em của một tay chủ giàu sụ người Pháp đang làm chủ một khách sạn loại lớn nhất nằm trên đường Catinat thời ấy (đường Đồng Khởi ngày nay). Anh chàng này ngoài ra còn quan hệ rộng, quen hầu hết với những tay trọc phú thời bấy giờ, đặc biệt là các tay chủ đồn điền người Pháp. Bởi vậy khi nghe tin Tư Nhị nắm thóp được lão tây tên là Franchini, thì nhiều người đã vô cùng ngạc nhiên lẫn thán phục. Bởi khi ấy lão Franchini này chỉ mới quen biết với cô Ba Trà, và cô Ba đã rất tự hào khi nắm được lão Tây nổi danh là chịu chơi bật nhất đó. Nhiều người vẫn cho rằng chỉ cỡ như Ba Trà thì mới mong tiếp cận được anh ta mà thôi, chớ các người đẹp khác trong nhóm tứ đại mỹ nhân thì chắc không có ai làm được điều đó. Bởi vậy khi thấy Tư Nhị thành công trong việc tóm gọn Franchini, thì ngay như cô Ba Trà cũng phải giật mình và phục lăn! Thời ấy sau khi khám phá ra chuyện đàn em Tư Nhị phỗng tay trên lão tây Franchini thì Ba Trà đã phải giãy nảy lên rồi thề, sẽ không để mất người tình mắt xanh mũi lõ ấy! Nhưng Ba Trà cũng không ngờ rằng ở đời chuyện gì cũng có thể xảy ra cả, đặc biệt trong đó có yếu tố bùa mê ngải yêu nữa! Bắt đàn ông quỳ gối cung phụng Tìm hiểu kỹ hơn thì Ba Trà cũng phải giật mình, bởi chính Tư Nhị đã công khai tuyên bố với cô đàn chị rằng ả ta không cần phải lặn lội qua tận Xiêm La để thỉnh ngải mê bên đó, mà chỉ cần ở một chỗ tại Sài thành cũng đủ sức quyến rũ tất cả đàn ông nào, kể cả anh chàng Pháp kiều Franchini kể trên. Tư Nhị hé lộ rằng cái thứ "bùa tình" mà Bạch công tử thường dùng vẫn còn kém xa thứ bùa tình mà ả ta đang có, bởi Tư Nhị vốn là người sinh ra rồi lớn lên ở đất chùa tháp. Mà nơi đó chuyện bùa yêu, ngải tinh vốn là thứ người ta thường dùng chẳng khác nào sức nước hoa mỗi ngày. Cô đệ nhị tứ đại mỹ nhân này lên như diều, quyến rũ đàn ông nhanh như chớp và đúng như lời cô ta tuyên bố, đố đàn ông nào không quỳ gối trước cô để rồi dâng hết của cải đang có, cung phụng cho con đường ăn chơi mà cô ta đã vạch ra sẵn. Chỉ trong vòng một năm thì Tư Nhị đã được Franchini đưa đi khắp nơi, giới thiệu với hết tay triệu phú cỡ bự này tới những trọc phú lừng lẫy khác, nhất là trong giới chủ đồn điền cao su thời ấy. Thậm chí cô nàng còn được Franchini đưa qua các đồn điền cao su ở Chúp tận bên đất Cao Miên để trải qua những đêm thác loạn bên ấy. Để rồi chỉ trong vòng một tháng thì đã có đến bốn năm tay chủ đồn điền người Pháp nơi đó tình nguyện về tận Sài Gòn rồi sẵn sàng móc hầu bao ra chi cho Tư Nhị những số tiền lớn chưa từng thấy. Mặc cho cô nàng ăn chơi thoải mái, đặc biệt là mua sắm từ nữ trang cho đến xe ô tô hạng sang nhất thời bấy giờ. Thời ấy Sài Gòn trong lúc những quan chức cỡ bự cũng chỉ đi xe hơi hiệu Delage, hay là Panhage hay Citroen thì đùng một cái một hôm người ta thấy Tư Nhị ngồi chễm chệ trên một chiếc xe hơi hiệu Hotchkisss, rồi Alpha - Roméo là hai loại xe thuộc loại đắt tiền nhất thời ấy. Một chiếc Alpha - Roméo trị giá đến mười một ngàn đồng (nên nhớ thời ấy vàng chỉ khoảng hai trăm đồng một lạng) vậy mà một cô gái tuổi chưa tới hai mươi đã ngự trên chiếc xe với giá trên một vạn bạc thì không khiến cho thiên hạ sửng sốt cũng là chuyện lạ! Người ta bảo rằng nếu chỉ cậy vào nhan sắc không thì Tư Nhị không làm sao để "lên đời" nhanh như vậy. Lúc này cái tên Tư Nhị được chính cô Ba Trà đặt cho đã hầu như thoát ra khỏi cái bóng của đàn chị Ba Trà, để trở thành một ngôi sao sáng độc lập, với một cái tên Tây mới toanh đó là Marianne đi kèm theo cái tên Tư Nhị mộc mạc ở trước. Cô nàng còn nổi hơn cái tên Yvette Ba Trà của đàn chị mình mà trước đây Ba Trà hay hãnh diện xưng với mọi người. Người ta kinh ngạc về tốc độ phất lên của Tư Nhị bao nhiêu thì họ lại càng bàn tán và sợ sệt về ảnh hưởng cái gọi là bùa mê ngải yêu của cô nàng này. Thời ấy giới ăn chơi tuy mê nhan sắc của Tư Nhị nhưng họ cũng đã bắt đầu sợ sức quyến rũ kỳ lạ khó cưỡng nổi của cô ả. Người ta rỉ tai nhau rằng ai mà lọt vào mắt xanh của Tư Nhị rồi thì chẳng chóng thì chày cũng sẽ tàn đời với cô ta! "Con mồi" không thể gỡ bùa Người thời đó còn đồn rằng chính lão Tây Franchini đã phải thừa nhận rằng lão không thể nào dứt ra khỏi sức quyến rũ của Tư Nhị được. Mặc dù đôi ba lần lão cũng đã có ý định ấy khi bắt gặp Tư Nhị cho lão ta mọc sừng khi cô nàng bắt cá hai ba tay với nhiều tay trọc phú khác, ngay cả với những người bạn Pháp kiều chủ các đồn điền cao su mà lão đã dẫn Tư Nhị tới giới thiệu. Một lão Tây giàu sụ lại phải chấp nhận cảnh cô vợ trẻ người Việt cắm sừng mà chỉ biết lắc đầu chào thua kể cũng hơi lạ. Nghe nói ở vài phút giây chợt tỉnh ngộ thì Franchini đã có ý định tìm cách "gỡ bùa". Lão ta đã phải nhờ tới một người bạn Tây làm chủ đồn điền ở Chúp môi giới để làm, sang tận Nam Vang để nhờ thầy hóa giải bùa chú đã mắc phải mà lão biết chắc những thứ bùa tình, bùa yêu ấy là do chính Tư Nhị ám lão. Nhưng hình như là mọi cố gắng của Franchini là vô ích. Bởi sau chuyến qua đồn điền Chúp trở về thì lão này càng mê ám hơn với người tình nhỏ Tư Nhị. Đơn lặng lẽ bỏ đi theo lệnh để rồi qua ngày hôm sau nữa Sáu Ngọc Sương biết chắc là Đơn đã chấp nhận về làm ở văn phòng của Bạch công tử đặt trong Chợ Lớn. Có nghĩa là giữa họ khó có sự liên lạc với nhau. Đó là khúc quanh định mệnh của cô nàng quê miền biển Phan Thiết, Phan Rang. Và phải chăng cũng gắn bó luôn với cuộc đời của anh chàng côi cút phiêu bạt chẳng khác gì cô là anh chàng Tèo có tên mới là Đơn. Bởi vì từ hôm ấy Đơn chính là sợi dây liên lạc giữa Sáu Ngọc Sương và Bạch công tử. Anh ta hằng ngày cầm thơ qua lại mà phần nhiều là thư từ Sáu Ngọc Sương gửi cho Bạch công tử chớ hình như Bạch công tử cũng không rảnh lắm để mà thư từ cho mất công... Ảnh minh họa. Tình câm của chàng Đơn Anh chàng Tèo được đặt tên mới là Đơn đó, đã hàng ngày liên lạc với Sáu Ngọc Sương qua lệnh của chủ mình là Bạch công tử. Cô Sáu được chủ gánh cải lương Trần Đắc thu nhận vô tập tành hát cải lương, mà chính ông thầy tuồng của gánh hát lúc ấy đã nói thẳng rằng: "Chẳng qua là có sự giới thiệu của Bạch công tử cho nên chủ gánh mới nhận, chớ cô chưa biết gì về nghề hát thì làm sao cạnh tranh được với các đào kép khác đang thành danh. Nhưng mà cô cứ yên chí ở đây, bởi lời gởi gắm của Tư Phước thì khác nào là bản hợp đồng giúp cho cô thành danh! Cô tên là Sáu phải không? Như vậy đâu thể nào lấy đó làm nghệ danh đi hát cho được, bởi vậy đây nè, thầy Tư Phước đã có viết sau tờ danh thiếp mới gửi qua cho ông bầu rằng cậu Tư đặt cho cô cái tên mới là Ngọc Sương, và để phân biệt với một số đào hát khác có thể tên là Sương này nọ, thì cô kèm luôn cái tên Sáu luôn vô nghệ danh của mình là Sáu Ngọc Sương". Chính anh chàng Đơn đã có lần nói với cô Sáu rằng, chỉ có cô thì Bạch công tử mới chịu khó gửi danh thiếp qua lại, đôi khi viết vài câu chứ xưa nay ổng chưa hề viết thư tình cho bất cứ phụ nữ nào. Thậm chí với cô Ba Trà là đệ nhất hoa khôi thời ấy, mà mỗi khi hẹn hò thì họ cũng chỉ do tài xế đưa đón để gặp nhau ở sòng bài, khách sạn hoặc nhà hàng mà thôi. Thật ra, cô Sáu Ngọc Sương cũng đâu có đủ ngôn từ để viết thư tình cho Bạch công tử, bởi trình độ học vấn của cô rất hạn hẹp, cho nên hầu hết những dòng thư cô viết cho Tư Phước đều là do anh chàng Đơn viết giùm. Bởi vậy tình chàng ý thiếp qua những dòng thư tình, thật ra là do Đơn viết, và chính Đơn là người đã hiểu hết tâm can của Ngọc Sương. Và hình như anh chàng đã bắt đầu có những biểu hiện tình cảm khá đặc biệt với cô gái bé nhỏ mà mình đang đóng vai trò liên lạc viên, làm cánh nhạn đưa thơ… Bởi vậy mọi chuyện rắc rối là ở chỗ đó, để rồi nó đưa đẩy tới một cuộc tình đầy oan trái và bi thảm về sau này. Một năm sau thì cái tên Sáu Ngọc Sương đã nổi lên như cồn. Thời ấy đào hát có hương sắc không nhiều, cho nên việc một bông hoa mới lộ diện nổi tiếng như cồn ngay là điều cũng dễ hiểu. Lại càng dễ hiểu hơn là người ấy lại do chính Bạch công tử đỡ đầu và lăng-xê, và cũng từ đó thì việc Bạch công tử công khai đưa đón Sáu Ngọc Sương sau mỗi đêm hát về sống chung với mình ở một căn phố lầu vùng Chợ Lớn hầu như ai cũng biết. Duy chỉ có một người là không biết, mà thật ra anh chàng này cố tình không biết chớ không phải là không rõ. Người đó chính là anh chàng Đơn tội nghiệp. Anh ta không tự dối lòng mình nữa mà đã có một lần khi đưa thơ liên lạc cho cô Sáu, đã nói mà như muốn khóc một câu ngắn ngủn: "Tôi sẽ chết mà thôi!". Nghe câu nói xanh dờn đó cô Sáu Ngọc Sương đầu tiên không hiểu ý là gì, nhưng sau đó nhìn thấy đôi mắt đỏ hoe rớm lệ của Đơn thì cô chợt hiểu và vừa gọi Đơn lại bên cạnh vừa hỏi thẳng: "Có phải anh nói vậy là muốn nói em hay không?". Đơn không kịp đáp mà đã quay lưng bỏ chạy đi một nước! Anh ta chạy đi rồi lúc ấy cô Sáu mới chợt nhìn thấy từ tay anh ta chẳng hiểu vô tình hay cố ý để rơi một tờ giấy nhỏ kích cỡ như tờ danh thiếp nhưng hai mặt trắng trơn chỉ có đúng một dòng chữ viết tay bằng tiếng Pháp, mà dòng chữ ấy đúng là dòng chữ của Đơn rồi: Je t'aime. Tuy không rành tiếng Pháp nhưng những ngày gần gũi với Bạch công tử thì cô đã được anh chàng công tử hào hoa dạy cho đôi chút tiếng Pháp, nên cô hiểu chữ đó có nghĩa là "anh yêu em". Cô Sáu Ngọc Sương đã ngẩn người rất lâu rồi đọc đi đọc hoài cái chữ ấy thành thuộc lòng luôn. Để rồi qua ngày hôm sau thay vì nằm ngủ nướng để dưỡng sức cho buổi tối lên gánh hát, thì cô đã dậy thật sớm để ra ngồi quán cà phê cóc phía sau gánh hát có ý đợi Đơn tới để hỏi cho ra lẽ ý nghĩa của chữ mà anh ta viết. Nhưng chẳng hiểu sao mãi đến tối, khi đã bắt đầu giờ hát rồi mà Đơn vẫn không thấy xuất hiện. Rồi hai ngày hôm sau nữa vẫn chẳng thấy mặt Đơn. Đến khi Bạch công tử đưa xe qua đón sau giờ hát để về ngủ với anh ta ở nhà riêng thì cô Sáu mới bạo dạn hỏi xem sao không thấy Đơn, thì Tư Phước mới đáp rằng Đơn có việc gì ở nhà quê anh xin nghỉ một tuần. Điều đó thật lạ bởi qua một năm quen biết đôi lần cô Sáu Ngọc Sương đã hỏi thăm Đơn và biết được rằng anh chàng này mồ côi cha mẹ, không có quê hương gì cả vậy về quê nào và về để làm gì? Bước đi khác người của Bạch công tử Bắt đầu trong đầu của cô Sáu đã có một nghi vấn, và cô cảm giác tim mình hơi bị nhói đau nhè nhẹ, có phải chăng là do tác động của chữ Je t'aime như trên? Tình cờ hôm đó Bạch công tử phát hiện được mảnh giấy của Đơn viết nằm trong xách tay của Sáu Ngọc Sương thì anh chàng ngạc nhiên hỏi: "Ai viết cho em cái chữ này?". Sáu Ngọc Sương đã ăn nằm như tình nhân, thậm chí có thể là vợ của Bạch công tử gần cả năm nay cho nên cô đâu lạ gì tánh ghen tuông bốc trời của anh chàng này. Bởi vậy không dám giấu mà đành phải nói thiệt rằng, cô nhặt được từ tay của Đơn, mà chẳng biết là anh ta viết cho ai? Bạch công tử lặng người đi một lúc mà không nói gì, để rồi qua ngày hôm sau anh ta đã có một quyết định thật bất ngờ khi gọi Đơn tới trước mặt mình và có cả sự hiện diện của cô Sáu Ngọc Sương rồi nói như ra lệnh: "Từ bữa nay mày đừng hầu hạ tao nữa, mà tao cho tiền sắm chiếc xe đạp mà chạy và đổi qua làm ở văn phòng giao dịch của tao, nơi tao có phần hùn với "Má-chín Lương" (má chín là tên gọi của người Hoa để chỉ một người chuyên làm đại diện thương mãi loại lớn của người Hoa, mà tiếng Pháp gọi là Compradore tức là đại diện thương mãi). Cô Sáu Ngọc Sương phải ngày đêm phục vụ anh chồng trăng hoa là Bạch công tử, cho nên cô cũng không còn thời gian để theo dõi cuộc sống của anh chàng Đơn, mà trong thâm tâm cô lúc nào cũng dành cho một thứ tình cảm gì đó gọi là đặc biệt. Thỉnh thoảng cô có ngồi xe kéo chạy qua trước cửa văn phòng đại diện của Tư Phước để lén nhìn xem coi Đơn có còn làm việc ở đó không, nhưng ít khi cô gặp. Rồi đến một hôm cô nghe chính Tư Phước nói rằng Đơn đã được một người bạn của anh ta kéo về làm thư ký riêng cho công ty thương mãi, bởi Đơn giỏi tiếng Pháp lại siêng năng làm việc. Sau đó, Tư Phước còn hình như cố ý nói rõ hơn về cuộc sống hiện tại của Đơn, để cho Sáu Ngọc Sương không còn quan tâm tới anh chàng trẻ tuổi tội nghiệp kia nữa: "Thằng Tèo coi vậy mà tốt số, nó chẳng những được má chín Lương kêu về làm thư ký riêng, mà còn cho ăn ở ngay trong nhà của má Chín, rồi hằng ngày làm gia sư cho cô em gái cưng của tay má chín này nữa. Không chỉ là cách ly Đơn lặng lẽ bỏ đi theo lệnh để rồi qua ngày hôm sau nữa Sáu Ngọc Sương biết chắc là Đơn đã chấp nhận về làm ở văn phòng của Bạch công tử đặt trong Chợ Lớn. Có nghĩa là giữa họ khó có sự liên lạc với nhau. Chưa khẳng định là mình có tình cảm gì với Đơn hay không, nhưng dẫu sao trước sự chia ly đột ngột này cô Sáu vẫn ngậm ngùi và bị hụt hẫng… Đúng là Bạch công tử Tư Phước đã đánh hơi được tình cảm mà Đơn dành cho cô người yêu bé bỏng của mình, cho nên đã kịp ra tay ngăn chặn. Đúng ra với quyền lực như Tư Phước thì anh ta đã có thể đuổi việc ngay anh chàng Đơn chứ không còn duy trì bằng cách chuyển qua làm công việc khác nhủ vậy. Nhưng hình như Tư Phước còn có cách tính toán khác... Không khóc sao được khi nghe một tin bi thảm như vậy, nhưng biết mình có hỏi thêm thì Tư Phước cũng không chịu nói, cho nên cô Sáu đành nuốt nước mắt ngược vào trong. Lời nói của Bạch công tử đã được chứng minh, bằng việc một hôm có một chiếc xe hơi dừng lại ngay trước rạp hát nơi đoàn hát Trần Đắc của Sáu Ngọc Sương đang diễn tuồng, mà người ngồi trên xe bước xuống lại là Đơn trong bộ đồ Tây toàn trắng khá sang trọng. Anh chàng chẳng phải bước xuống một mình mà bên cạnh còn có một cô gái trẻ khoảng mười bảy, mười tám tuổi nữa. Sự mất tích bí ẩn của chàng tài tử "phải lòng" mỹ nhân Sài thành - Ảnh 1 Ảnh minh họa. Cuộc gặp mặt kỳ lạ Nhìn qua có thể đoán đó là cô gái gốc Hoa nhưng sắc đẹp thì rất Tây và rất dễ thương khi đứng bên cạnh Đơn. Rồi sau đó khi Đơn đi thẳng vô rạp hát hỏi thăm Sáu Ngọc Sương, rồi khi cô Sáu từ hậu trường bước ra thì đã sững sờ khi thấy cô gái đang ôm một bên tay của Đơn, chứng tỏ rằng hai người không phải là đôi bạn bình thường! Điều đó khiến cho cô Sáu nghe quặn thắt con tim, nhưng chưa kịp lên tiếng hỏi thì ông chủ gánh Trần Đắc lúc ấy đã kịp có mặt và chính ông đã lên tiếng giới thiệu với cô Sáu: "Đây là thư ký Trần Đơn, người đại diện cho má Chín Lương, từ nay quan hệ thường xuyên với gánh hát mình qua tư cách là người đại diện cho bên bỏ tiền đầu tư vào gánh hát. Trước sự kinh ngạc của Sáu Ngọc Sương thì ông Trần Đắc đã nói tiếp rõ hơn: Đây là do Tư Phước giới thiệu để cho má Chín Lương có phần hùn vào gánh hát này. Mà đúng ra vai trò này là của cậu Tư Phước, nhưng hiện giờ cậu ấy đang chuẩn bị để lập gánh hát Huỳnh Kỳ lớn hơn, cho nên nhường cho má Chín Lương hùn hạp vô gánh Trần Đắc. Cậu Trần Đơn đây hiện là thư ký riêng của má Chín Lương cho nên đóng vai trò liên lạc thường xuyên với gánh hát ta, mà hình như con Sáu mày có quen với cậu Đơn vậy thì cũng tiện, bởi mày (tức cô Sáu) lại quen thân thiết với Tư Phước cho nên sợi dây liên lạc ba bên từ nay sẽ rất tiện lợi... Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi đó như là một cách để cho Đơn giới thiệu người đang đi bên cạnh mình là fiancé (ý trung nhân), hoặc là bạn bè vượt quá tính cách bạn bè thông thường. Khi anh ta lên xe đi rồi thì cô Sáu ở lại thẫn thờ một lúc. Nhưng rồi cô chỉ biết nhẹ lắc đầu, bởi cô hiểu dẫu cho Đơn có dẫn người đẹp tới để ra mắt mình thì cũng đúng mà thôi, cô có chút cảm tình với anh ta nhưng dẫu sao bây giờ cô cũng là người của Bạch công tử thì Đơn làm như vậy đâu có gì đáng trách. Câu chuyện rắc rối đó rồi cũng chấm dứt, bởi sau đó nhiều tuần, nhiều tháng đột nhiên cô Sáu không còn gặp mặt hay nghe tin gì về Đơn nữa. Cô đôi lần có ý muốn hỏi thăm Tư Phước nhưng anh ta hình như muốn né tránh. Cho đến một ngày kia, đột ngột Tư Phước trong lúc nằm bên Sáu Ngọc Sương đã hỏi cô rằng cô có nhớ thằng Tèo hay là Đơn theo cách gọi của cô hay không? Nghe hỏi vậy thì cô Sáu linh tính như có điều gì đó liền hỏi lại là anh hỏi vậy là có ý gì? Thì Tư Phước đã nói gọn bằng một câu rất lạ: Thằng đó bạc phước quá! Cô Sáu quá đỗi kinh ngạc nên phải hỏi cho ra lẽ thì Tư Phước đã nói rõ hơn: "Nó bị tai nạn mà mất rồi!". Thông tin ấy khiến cho cô Sáu thẫn thờ, sửng sốt rồi không cầm được nước mắt nữa, cô khóc òa lên càng khiến cho Tư Phước khó chịu và nói: "Bộ em thương thằng đó thiệt hay sao mà vừa nghe tin đã khóc ngon lành như vậy?". Cái chết bất ngờ Không khóc sao được khi nghe một tin bi thảm như vậy, nhưng biết mình có hỏi thêm thì Tư Phước cũng không chịu nói, cho nên cô Sáu đành nuốt nước mắt ngược vào trong. Suốt đêm đó cô nằm bên Bạch công tử mà như khúc gỗ… mãi đến sáng hôm sau, khi Tư Phước mặc quần áo xong đang chuẩn bị lên xe đi thì anh ta đã nói rõ hơn: "Thằng đó coi vậy mà đào hoa không kém gì tui. Hồi đó nó mới gặp em buổi ban đầu vậy mà em đã có cảm tình với nó, để rồi tôi muốn chấm dứt câu chuyện rắc rối ấy mới đưa nó qua làm việc cho má - Chín Lương, để rồi nó rị mọ, cưa cẩm thế nào đó, mà con nhỏ em gái rượu của thằng má Chín Lương lại khoái nó, để rồi hai đứa trở thành tình nhân với nhau! Con nhỏ em của má Chín Lương đang học trường đầm, lại có sắc đẹp hơn người, vậy mà chẳng hiểu sao lại mê thằng học trò nghèo như thằng Tèo, để rồi nghe nói đã thất thân với nó, lại còn đòi bỏ nhà ra đi theo thằng Tèo nữa chớ! Cô Sáu Ngọc Sương không còn e dè nữa cho nên hỏi cho rõ mọi chuyện thì Tư Phước đã kể rõ đầu đuôi: "Khi má Chín Lương phát hiện ra mọi chuyện thì đã quá trễ rồi, bởi nghe nói là thằng Tèo ấy đã ăn nằm với con em gái thằng Lương và nghe đâu đã có bầu được mấy tháng!". "Nhưng sao anh nói nó bị chết hay vắn số gì đó là sao?". Tư Phước nói gọn một câu trước khi bước ra ngoài: "Nó lén đưa con nhỏ em gái má Chín Lương bỏ trốn, và bị má Chín Lương biết được đuổi theo, nghe nói ra tận miền Trung, ra Huế gì đó mới bắt gặp và mọi chuyện đã xảy ra ngoài đó... Tiết lộ của Tư Phước tới đó thì dứt, anh ta không hề nói thêm gì nữa cho nên sau đó Sáu Ngọc Sương đành phải hỏi ông chủ gánh Trần Đắc để biết thêm, thì ông này cho biết một số chi tiết thêm nữa rằng đúng là Đơn đã yêu cô em gái của má Chín Lương, và khi bị phát hiện và ngăn cản thì hai người đã quyết định bỏ trốn để xây tổ uyên ương. Nhưng chẳng biết sao không đi nơi nào khác mà lại rủ nhau ra tận ngoài Huế, để rồi nghe nói má Chín Lương cho người đuổi theo để bắt lại và xảy ra thảm kịch ngoài đó! Nhưng thảm kịch ra sao thì ông này không nói rõ. Sau đó cô Sáu quá nài nỉ nên ông chủ gánh hát mới cho biết thêm, trong khi bị ngăn chặn cuộc bỏ trốn thì Đơn đã quyết liệt chống cự cho nên đã gặp tai nạn, nghe nói chiếc xe anh chàng đang ngồi cùng với cô người yêu đã rơi xuống vực sâu ở đèo Hải Vân mất xác luôn! Nghe kể lại tới đó thì Sáu Ngọc Sương đã một lần nữa khóc ròng. Lúc này thì cô đang mang bầu đứa con đầu lòng với Bạch công tử Tư Phước, cho nên cũng không tiện tìm hiểu sâu hơn về câu chuyện bi thảm của Đơn nên đành phải gạt lệ về ngôi nhà do Tư Phước mướn cho ở để dưỡng thai chờ ngày sinh nở. Và có lẽ do đó cho nên mọi tin tức về cái chết bi thảm của Đơn cũng không còn ai đưa tới thêm nữa cho cô Sáu, cô đành buồn khổ ngậm ngùi với những giọt nước mắt khóc thầm từng đêm... Lần đầu tiên ngồi xe lửa đi ra Huế với tâm trạng bồi hồi khó tả, Sáu Ngọc Sương nhiều lần hỏi Tư Phước ngồi bên cạnh về mục đích của chuyến đi này nhưng vẫn chưa được anh ta nói rõ. Khi ra tới Nha Trang rồi thì cô Sáu mới vỡ lẽ ra, là chuyến đi đã được Tư Phước cùng với một người nữa mà cô không ngờ tới xếp đặt từ lâu, người đó chính là má Chín Lương. Sự xuất hiện của người này đã khiến cho Sáu Ngọc Sương càng ngạc nhiên hơn khi cô và Tư Phước vừa bước ra khỏi ga xe lửa Nha Trang, thì đã có sẵn chiếc xe hơi tân kỳ của má Chín Lương đợi sẵn bên ngoài, rồi họ trân trọng mời cả hai lên xe với lời giải thích từ chính họ Lương: "Sợ phu nhân Phước bị mệt khi đi xe hơi đường dài, cho nên tôi mới để cho hai người đi xe lửa ra tới đây rồi mới đón lên xe hơi, mình vượt qua vài cái đèo để ra Huế vừa ngoạn cảnh vừa đỡ mệt hơn". Biệt thự trên đồi cao Lúc ngồi trên xe qua đèo Rù Rì thì Tư Phước mới giải thích: "Ngài Lương có nhã ý mời chúng ta ra Huế để ăn khánh thành ngôi biệt thự mới của ông ấy, cho nên đã cất công sắp xếp chuyến xe này. Nên dẫu anh đang bận chuẩn bị khai trương gánh hát Huỳnh Kỳ, mà vẫn phải có mặt để cùng em đi cho ngài Lương vừa lòng, nhân tiện để cho em biết xứ Huế. Nhất là biết ngôi biệt thự trên núi của ông ấy nữa. Má Chín Lương giải thích thêm: "Ngôi biệt thự này đúng ra tôi đã mua lại của một người Tây từ cách nay hơn một năm mà chưa về ở. Mà đến hôm nay mới làm lễ khánh thành. Nhân dịp này tôi muốn mời mông-xừ Phước và phu nhân ra đó cho biết để rồi ở lại cùng tôi vài hôm. Nhân tiện mình đi thăm phong cảnh Huế, rồi nếu muốn ngồi xe hơi về luôn thì cùng về với tôi. Còn nếu không thì tui mua vé phi cơ để hai người trở lại Sài Gòn cũng được. Sau khi má Chín Lương bỏ đi rồi thì cô Sáu Ngọc Sương hết sức ngạc nhiên khi trở vào phòng mà không thấy Bạch công tử. Cô loay hoay tìm một lúc lâu và lên tiếng gọi nhưng Tư Phước vẫn bặt vô âm tín. Bí quá, cô Sáu đành phải bước trở ra ngoài tìm lão quản gia, nhưng chẳng biết lão ta đi đâu mà tìm khắp chung quanh nhà vẫn không thấy bóng. Cô Sáu Ngọc Sương lúc về già. Gặp lại cố nhân Loanh quanh một lúc cô Sáu bước trở về chỗ lúc nãy, tức là nơi cô nghe những âm thanh dị kỳ. Cô lưỡng lự chưa biết có nên bước tiếp vào cái nơi mà lúc nãy chính ông quản gia bảo là chỗ cấm, nhất là nhớ lại khuôn mặt vừa dữ dằn, vừa tỏ ra sợ hãi của má Chín Lương. Cô Sáu nửa muốn bước lui, nhưng lại nửa muốn tò mò tìm hiểu thêm... Vốn là người rất lì lợm, ít khi biết sợ những chuyện vu vơ, cô Sáu sau một lúc ngần ngừ và nhìn quanh chẳng thấy ai nên đã theo hướng phía trước mắt mà bước và chỉ độ hơn ba chục bước chân thì cô đã nhìn thấy ngay trước mắt mình là bức tường xám xịt mà đêm qua cô nhớ đã thấy nó qua cái ô tròn của bức tường trong phòng. Lúc này giữa ban ngày ban mặt vậy mà sau khi căng mắt nhìn thật kỹ dọc theo bức tường khá rộng phẳng phiu, nhưng cô Sáu vẫn chẳng thể nào thấy những dòng chữ ghi mấy câu thơ mà đêm qua mình đã đọc được. Chẳng lẽ khuya hôm qua cô đã bị hoa mắt và nhìn lầm hay sao? Cô Sáu Ngọc Sương tuy học không cao nhưng được cái trí nhớ thì rất minh mẫn, đặc biệt là nhớ dai bất cứ chuyện gì dẫu chỉ quan sát qua một lần. Bởi vậy cô tần ngần đứng trước bức tường một lúc khá lâu để cố tìm cho bằng được dấu tích của những chữ mà cô còn nhớ rõ cái tên Tuyết Liên... Đúng rồi tên Tuyết Liên mà hình như mới lúc nãy cô nghe cái âm thanh kỳ lạ nào đó đã lặp lại! Vừa nghĩ tới đó đột nhiên cô Sáu buột miệng kêu lên hai tiếng "Tuyết Liên!". Và thật bất ngờ khi cô vừa thốt ra tiếng đó thì đột nhiên có một tiếng thét khiến cô phải giật mình bước lùi rồi loạng choạng ngã xuống bậc thềm đầy rêu phong. Cú ngã khá đau đối với cơ thể yếu đuối của cô Sáu Ngọc Sương, nhưng bỗng mắt cô trợn trừng nhìn về phía trước, tức nơi phát ra tiếng thét. Và hầu như quên hết đau đớn, cô vụt đứng dậy, nửa muốn chạy đi nhưng nửa lại muốn lao tới phía trước. Bởi vì… ngay trước mặt cô lúc này đang sừng sững một bóng người giống như con quái vật với quần áo rách rưới, đầu tóc rối bù. Đặc biệt là cả hai chân và hai tay của người ấy đều đeo gông xiềng trông kỳ dị làm sao! Cô Sáu thét lên, có lẽ bởi quá bất ngờ trước một hình ảnh dị kỳ cách mình chưa đầy mười thước. Hình như trong tiềm thức của cô Sáu đang trỗi dậy một hình ảnh gì đó mà vừa thoáng nhìn thấy quá nhanh trước mặt, cô đã nghĩ ngay tới một ai đó mà nhất thời cô chưa thể nhận diện chính xác... Tuy nhiên chỉ mất vài giây thôi, thì dẫu hình hài con người trước mặt cô hoàn toàn biến đổi khác thường, song tiềm thức vẫn khiến cô thốt lên một tiếng kinh hãi: "Đơn!". Con người trước mặt cô Sáu Ngọc Sương nửa giống người, nửa giống ma, lại có phần giống với một con quái vật. Vậy mà chẳng hiểu sao vừa thoáng nhìn qua ánh mắt đờ đẫn của người ấy thì cô Sáu đã thốt lên một tiếng "Đơn" rồi cô run run giọng hỏi tiếp: "Có phải anh là...". Câu nói của cô Sáu chưa kịp dứt thì người kia bỗng quay bước rồi chạy như bay về phía bên hông nhà, nơi hình như có một lối nhỏ dẫn vào một dãy phòng tối tăm... Quyết tìm ra sự thật Linh tính mách bảo cho cô Sáu một chuyện kinh khủng gì đó, mà nhất định cô phải tìm hiểu xem nó là chuyện gì. Cho nên không kịp suy nghĩ thêm, cô đã khập khiễng bước theo bóng con người kỳ dị vừa chạy mà xích xiềng ở chân tay của anh ta khua rổn rảng. Cũng may là lúc ấy chung quanh không có ai khác, nhất là ông già quản gia, cho nên cô Sáu Ngọc Sương đã có thể ráng nhịn đau do cổ chân bị trật bởi cú té vừa rồi, và bám theo gót cái bóng người đang cố chạy vào trong dãy phòng tối. Cho đến khi đứng đối diện cánh cửa sắt đóng kín thì cô Sáu phải khựng lại. Cánh cửa sắt đóng sầm lại. Chẳng một chút dè dặt cô Sáu cất tiếng gọi lớn: "Đơn! Có phải anh là Đơn không?". Không có tiếng trả lời, vừa lúc đó có một giọng nói nhừa nhựa cất lên phía sau lưng cô: "Sao cô vô đây làm gì, nguy hiểm lắm, đi ra ngay!". Người vừa xuất hiện đó chính là ông lão quản gia. Rồi không đợi cô nói lời gì, lão ta đã nhanh tay kéo cái chốt sắt gài chặt lại cánh cửa mà hình như lúc nãy nó chỉ khép hờ, rồi nhanh tay vừa dìu cô Sáu bước trở ra vừa run run giọng nói: "Ông chủ mà biết cô vô đây thì chắc tui chết mất! Cô mau ra ngoài, hình như chồng cô đang đi tìm". Lúc này Tư Phước đang dáo dác tìm và khi nhìn thấy Sáu Ngọc Sương bước ra, anh ta lo lắng hỏi: "Nãy giờ em đi đâu, anh đợi để rời khỏi đây mà tìm mãi không thấy?”. Lúc này chiếc xe hơi chở họ và Tư Phước lại ấn kèn giục lần nữa nên Tư Phước hối thúc: "Mình ra xe xuống núi ngay để kịp chuyến xe lửa về Sài Gòn, kẻo phải đến sáng mai mới có chuyến khác. Tư Phước không hỏi thêm gì nữa mà nhanh tay, nhanh chân dìu Sáu Ngọc Sương lên xe. Trên xe ngoài hai người và một tài xế lạ ra thì không thấy bóng dáng má Chín Lương đâu, cho nên Sáu Ngọc Sương vẫn chưa hết bàng hoàng định hỏi. Nhưng do người tài xế rồ máy xe hơi mạnh cho nên Bạch công tử nghe không rõ câu hỏi của cô. Mà hình như anh ta cũng không muốn nghe những gì cô Sáu nói lúc này cho nên quay sang người tài xế dặn lớn: "Chạy xuống TP. Huế ngay may ra còn kịp xe để về!". Cô Sáu Ngọc Sương bỗng trở nên ngang bướng nói lớn: "Cho tui xuống. Tôi không về!"... Rồi cô định mở cửa xe thì Tư Phước hốt hoảng ngăn cô lại. Chiếc xe đang đổ dốc xuống núi Bạch Mã cho nên hành động của cô Sáu sẽ rất nguy hiểm nếu cửa xe bật ra. Bởi vậy người tài xế hốt hoảng thắng xe lại rồi cảnh cáo: "Đây là đường đèo nguy hiểm lắm phu nhân đừng làm như vậy". Bạch công tử định nói thêm gì đó, có lẽ là giải thích để cho cô Sáu không hành động nông nổi, nhưng lúc này Sáu Ngọc Sương đã như người quẫn trí nên cô bắt đầu gào thét như người tâm thần. Mà trong những câu gào thét đó thỉnh thoảng cái tên "Đơn" lại vang lên khiến cho Tư Phước hốt hoảng, để rồi cuối cùng anh ta phải ra lệnh cho tài xế dừng hẳn xe lại bên đường. Lúc này cô Sáu Ngọc Sương bất kể hiểm nguy đã mở cửa xe rồi nhảy xuống khập khiễng chạy trở lên đèo. Thông thường Tư Phước là người lanh lẹ và có sức khỏe nhưng lúc này chẳng hiểu sao anh ta không thể đuổi theo kịp người tình nhỏ của mình. Cho nên khi đuổi kịp thì cô Sáu Ngọc Sương đã quay trở lại ngôi biệt thự, rồi cô chạy thẳng vào trong gào to: "Đơn! Đúng là anh rồi Đơn ơi!". Rồi mọi việc sau đó diễn ra ngoài vòng kiểm soát của Tư Phước. Bởi anh ta cố nói gì thì mặc, cô Sáu Ngọc Sương vẫn chạy thẳng vào chỗ lúc nãy cô bị lôi trở ra. Lần này chính lão quản gia là người đã chặn Bạch công tử lại rồi nói gì đó với anh ta. Để rồi ngay sau đó Bạch công tử lẳng lặng bỏ vô phòng để mặc cho Sáu Ngọc Sương làm gì thì làm... Lão quản gia muốn tiết lộ sự thật Lão quản gia hình như không còn muốn ngăn cản cô Sáu nữa, bởi thái độ quyết liệt của cô đã làm cho lão chùn bước và thay đổi cách ngăn cản, không còn quyết liệt như lúc nãy. Lát sau khi cô Sáu trở lại cánh cửa sắt mà bên trong vẫn còn tiếng rên ư ử của con người quái dị kia... để rồi sau cùng chính lão quản gia đã nhẹ giọng nói với cô Sáu: "Có lẽ tôi không nên giấu cô nữa, bởi tôi đã hiểu rồi, cô và cậu ấy quen nhau và cô biết rõ nguyên do nào đưa cậu ấy tới đây và chuốc lấy thảm kịch này...". "Đơn bị họ khống chế, đánh đập tàn nhẫn để rồi đưa vào căn phòng biệt lập giam cầm nhằm bóp chết tình yêu giữa anh chàng với cô gái tên Tuyết Liên!". Tư Phước hình như đã rõ đầu đuôi câu chuyện, cho nên anh ta ở miết trong phòng không hề trở ra suốt thời gian cô Sáu Ngọc Sương nghe lão quản gia kể lại cái bi kịch mà bất cứ ai nghe cũng phải rợn mình, kinh sợ! Theo lời kể của lão quản gia thì người bị xiềng xích và mang hình hài quái dị kia được đưa tới đây hơn một năm trước trong tình trạng toàn thân bê bết máu, tay chân vị trói gô. Và anh ta tới đây cũng không chỉ có một mình, khi ấy anh ta và một cô gái đẹp tuyệt trần cùng tới, nhưng chỉ có anh ta thương tích đầy người, còn cô gái thì nguyên vẹn. Lời nguyền dưới ánh trăng và cái chết đầy bi thảm - Ảnh 1 Ảnh minh họa. Bức tử tình yêu Tuy nhiên cô gái khóc lóc thảm thiết đôi lần đã chạy xuống đường dốc và suýt gieo mình xuống vực để tự tử! Nghe tới đó thì cô Sáu Ngọc Sương đã hiểu phần nào câu chuyện nên chặn lời lão quản gia để hỏi: "Cô gái đó có phải tên là Tuyết Liên hay không?". Nghe cô Sáu hỏi như vậy thì lão quản gia hiểu là không thể giấu được nữa cho nên ông đã gật đầu xác nhận rằng, chính cô gái đó tên là Tuyết Liên và cô ta là em gái của má Chín Lương! Nghe tới đó bỗng dưng cô Sáu Ngọc Sương ù chạy vào trong nhà tìm Tư Phước, và cô đã gào lên hạch hỏi Tư Phước những điều mà cô nghĩ rằng Tư Phước biết rõ. Quả nhiên sau đó chính Tư Phước đã xác nhận với cô rằng, con người đang bị giam giữ trong phòng tối đó chính là Đơn. Nhưng lý do anh ta bị giam giữ thì khá ly kỳ mà cô Sáu phải khóc lóc và hỏi mãi cuối cùng Tư Phước mới chịu nói rõ chi tiết. "Người gây ra vụ này không phải là má Chín Lương mà là một người có thế lực khác. Họ là người đáng lý ra đã cưới em gái của má Chín Lương là Tuyết Liên. Nhưng bởi do Tuyết Liên vì quá yêu anh chàng Đơn, rồi hai người nắm tay nhau bỏ trốn định đi xây tổ uyên ương thì người có thế lực kia đã vượt mặt má Chín Lương, ra tay hành động tàn ác bằng cách cho thuộc hạ đuổi theo và bắt được đôi tình nhân bỏ trốn kia, để rồi áp giải họ về ngôi biệt thự trên đỉnh Bạch Mã này: "Đơn bị họ khống chế, đánh đập tàn nhẫn để rồi đưa vào căn phòng biệt lập giam cầm nhằm bóp chết tình yêu giữa anh chàng với cô gái tên Tuyết Liên! Cô gái tất nhiên là không bị đụng chạm tới mà trái lại còn được nuông chiều, vỗ về để chuẩn bị đưa trở về Sài Gòn. Và theo dự tính của họ thì khi cô ta về tới nơi, một đám cưới sẽ được cử hành ngay, coi như chấm dứt cuộc tình mà họ cho là tội lỗi giữa cô ta với chàng Đơn! Nhưng… Bạch công tử vừa kể tới đó thì ngừng lại thở dài, khiến cho cô Sáu Ngọc Sương hốt hoảng hỏi dồn: "Cô ta ra sao?". Tư Phước lặng người đi khá lâu để rồi cuối cùng vừa buông tiếng thở dài vừa đáp: "Một kết thúc bi thảm!". Mặc dù Sáu Ngọc Sương cố hỏi thêm nhưng Tư Phước vụt đứng dậy bước ra khỏi phòng rồi anh ta một mình đi bộ xuống đường đèo Bạch Mã. Đáng lý ra cô Sáu Ngọc Sương cũng chạy theo, nhưng hình như cô bị một cái gì đó ghì chặt lại khiến cho đôi chân lê đi không được và rồi như có ai sai khiến, cô đã bước ra khỏi phòng và đi trở lại nơi cô biết chắc là Đơn đang vẫn còn khóc trong căn phòng cửa sắt đóng kín kia... Đứng bên ngoài gọi mãi mà không nghe lời đáp từ bên trong, cô Sáu Ngọc Sương đành phải nói rõ vọng vào trong: "Đơn ơi em xin lỗi anh! Đúng là tại em quá vô tình nên đã đẩy anh vào đoạn đường bi thảm này, vậy thì em sẽ ở lại đây để đến khi nào gặp được anh mới thôi...". Nhưng cô Sáu đã không làm được điều đó, bởi ngay sau đó có lẽ vì quá xúc động và phần nữa do cú té lúc nãy đã khiến cho người cô đau nhức, ê ẩm đến gần như tê liệt một bên chân. Cô bị ngất đi sau một lúc gào to nói vọng vào trong mà không nghe được câu trả lời... Đến khi cô tỉnh lại thì mới phát hiện là đã được ai đó dìu trở vào phòng. Cô được lão quản gia trấn an liền sau đó rằng chính lão ta đã đưa cô vào đây và khuyên cô nên nghỉ ngơi, bởi thuốc giảm đau mà lão cho cô uống sẽ khiến cô an thần, sẽ ngủ được một giấc đến sáng mai... Tuy nhiên khi phát hiện ra lúc ấy đêm đã khuya và cái lỗ tròn nhìn từ trong phòng ra ngoài vẫn còn đó, mà trời ngoài kia hình như đang sáng trăng cho nên cô Sáu đã bàng hoàng ghé mắt nhìn qua cái ô tròn ra ngoài, rồi bất chợt kêu lên khi nhìn thấy những dòng chữ mà đêm qua mình đã đọc được! Những câu thơ bị yểm bùa Cô vội hỏi thì được lão quản gia nói rõ hơn: "Những dòng chữ đó phải có ánh trăng thì mới hiện lên và đọc được. Ban đầu tôi cũng không nghĩ là cái cậu bị nhốt trong kia đã viết nó, bởi cậu ấy bị trói tay chân và không bao giờ bước ra được khỏi cánh cổng sắt đang khóa kín kia, nhưng sau này chính tôi hiểu rằng do chính cậu ấy viết mà chẳng biết bằng cách nào, nhưng rõ ràng là chữ của cậu ta... Tôi nghĩ đó là cậu ấy viết bằng tiềm thức, bằng tâm linh gì đó, cho nên cứ mỗi khi trăng lên chữ nổi bật, và từ trong căn phòng khóa kín ấy hình như cậu ta nhìn ra thấy và lần nào cũng vậy cứ đọc vang giống như âm thanh của một oan hồn... hình như cậu ấy đang tụng kinh hay cố nói để vọng tới tai người tình...". Cô Sáu Ngọc Sương ngạc nhiên hỏi dồn: "Nhưng bác chưa nói cho cháu biết cô người yêu tên Tuyết Liên của Đơn ra sao rồi?". Tới lượt lão quản gia vừa thở dài vừa đáp: "Chắc cô chưa biết chuyện cô Tuyết Liên ấy đã chết, khi cậu kia bị nhốt vô phòng kín. Mà chết thảm lắm... Ở ngoài kia kìa!". Ông lão ngừng lại trước sự nôn nóng muốn biết đoạn kế tiếp của cô Sáu thì một lúc liền đó ông đã nói mà như khóc: "Cô Tuyết Liên ấy đã chết bằng cách treo cổ trên cây hạnh ngoài kia!". Đến lúc này thì cô Sáu chợt kêu lên khi vừa nhìn ra dòng chữ hiện rõ trên tường, bởi ánh trăng càng lúc càng sáng: "Khi nào cây hạnh trổ hoa!". Lão quản gia bàng hoàng kêu lên: "Sao cô biết chuyện đó?". Cô Sáu Ngọc Sương vừa lẩm bẩm vừa vụt bước ra khỏi phòng trước sự kinh ngạc của lão quản gia. Ông vội bước theo vị khách nữ mà hình như ông linh tính có chuyện chẳng lành sẽ xảy ra... Mà quả thật vậy, cô Sáu Ngọc Sương đi như người bị mộng du hay ma ám. Cứ nhắm chỗ hướng tay chỉ vừa rồi của lão quản gia. Cho đến khi cô dừng lại dưới gốc một cái cây hiện lờ mờ dưới ánh trăng thì bỗng lão quản gia hốt hoảng kêu lên: "Cô đừng lại gần cây hạnh đó, hãy bước trở lại đây, đi cô!". Thì ra ngay trước mặt của cô Sáu Ngọc Sương là cây hạnh. Cô nói như trong mơ: "Khi nào cây hạnh trổ hoa...". Chẳng hiểu cô ngất lịm và mê đi lúc nào, mãi cho đến sáng hôm sau, khi cô choàng tỉnh thì thấy Tư Phước đang đứng bên cạnh vừa nhẹ nhàng, âu yếm bế cô lên tay vừa bước ra sân, nói: "Bây giờ thì em phải về, chúng ta về bằng ô tô thẳng Sài Gòn luôn chớ không đi xe lửa nữa. Em đừng cãi anh, bởi rồi em sẽ rõ mọi chuyện khi về tới Sài Gòn... Đoạn kết của câu chuyện này có lẽ cô Sáu Ngọc Sương không nên biết bởi nó bi thảm vô cùng! Mãi về sau này khi cô và Bạch công tử Tư Phước không còn sống chung với nhau nữa thì cô mới rõ đoạn kết câu chuyện đó: "Chính cái đêm trăng mà cô sững sờ đứng trước bóng cây mà lão quản gia gọi là cây hạnh đó, thì chính cũng là thời khắc nó trổ hoa. Mà hình như nó ứng với câu thơ trên vách đá. Câu thơ đó theo lời lão quản gia sau này viết lại trong một lá thơ gởi cho cô Sáu, thì chẳng phải do chàng Đơn viết, mà hình như do một kẻ ác độc nào đó thuê một tay thầy bùa tới viết bằng một loại sơn lân tinh hay bằng một thứ nhựa cây ngải nào đó, để mỗi khi ánh trăng chiếu lên nó, coi như ánh trăng làm cái việc lập lại lời nguyền hay trù yểm. Mà theo nội dung mấy câu thơ kia, thì cuối cùng nó sẽ ứng với ai đọc được nó, và cũng lặp đi lặp lại nhiều lần giống như ánh trăng soi vào nó qua nhiều tháng năm... Cái kết đầy bi thảm Để rồi cuối cùng khi cô Sáu Ngọc Sương được Bạch công tử đưa về Sài Gòn, thì ngay đêm hôm sau lão quản gia đã phát hiện là anh chàng Đơn chẳng biết bằng cách nào đó đã lẻn ra được khỏi căn phòng kín, để rồi treo cổ lên cành hạnh, chết âm thầm lặng lẽ đầy bi thảm... Phải chăng hành hạ một con người đáng thương chỉ vì yêu mà phải trả giá đến thê thảm như vậy, mới vừa lòng những người có tiền bạc và quyền thế?
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 6:38:26 GMT 9
Bùa ngải điều khiến linh hồn người chết ở Thái Lan, có thật hay không?Ngải cùng với bùa chú (tạm gọi là tà thuật) của giới pháp sư đã xuất hiện trong xã hội nước ta từ thuở xa xưa khẩn hoang lập ấp và đã trở thành một phần của văn hóa tâm linh dân tộc Việt. Trải qua bao biến cố thời cuộc, cho đến tận bây giờ, tà thuật vẫn âm thầm tồn tại trong xã hội hiện đại. Không ít người vẫn tin rằng, tà thuật là một phần không thể thiếu trong cuộc sinh tồn.Họ tin rằng, tà thuật có thể điều khiển thánh thần hoặc sai khiến những linh hồn người chết tác động vào người sống để đẩy lùi mọi thứ tật bệnh và kéo dài tuổi thọ. Họ cũng tin rằng, tà thuật có thể biến một loại thực vật (cây ngải) hoặc côn trùng (trùn ngải) trở nên có linh hồn như con người.Rất nhiều năm, PV đã tiếp cận và hòa nhập với giới pháp sư để tìm hiểu về thế giới dị biệt này nhằm giải mã những bí mật của tà thuật.Vì nhiều lý do tế nhị, trong loạt bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến một góc nhỏ trong thế giới ngầm của giới tà thuật, đó là ngải ăn thịt.Cuộc săn lùng vô vọngGiữa năm 2012, nghe tin Chau Som, Hòa thượng trụ trì ngôi chùa Pnom Pi Lơ trên núi Nam Vy thuộc huyện Tri Tôn (An Giang) có nuôi loại ngải này, một nhóm pháp sư 5 người do thầy Tư Ẩn (vì lý do tế nhị, chúng tôi đổi tên nhân vật này) cư ngụ ở quận Bình Thạnh, Tp. HCM dẫn đầu tìm đến. Người viết bài này được Tư Ẩn cho tháp tùng.Theo lời đồn, vị sư trụ trì ngôi chùa đó thuộc hệ phái Tiểu thừa – Pà Li – Phật giáo Nam Tông. Ngoài đạo hạnh cao, ông còn là một cao thủ về bùa, chú, ngải thuật. Ông đã dùng tà thuật cứu chữa được rất nhiều người bị rắn độc cắn trong tình trạng thập tử nhất sinh. Có người đã sùi bọt mép, tim mạch ngưng nhịp, ông đọc thần chú, dập ngải đắp vào vết thương, chỉ sau ít phút nạn nhân có thể tự ngồi dậy ra về(?) Thánh sư Chau Som, người đã từng sở hữu cây huyết ngải độc thần tướngThầy Tư Ẩn vạch kế hoạch táo bạo: Đích thân ông để cho rắn lục cắn. 4 người còn lại khiêng ông lên chùa để cho sư cứu chữa đồng thời quan sát tìm vườn ngải. Khi đã chấm được tọa độ, chờ cho Tư Ẩn khỏe mạnh, cả bọn sẽ chọn một đêm tối trời đột nhập vườn ngải. Thầy Tư Ẩn sẽ dùng tà thuật của mình “trục” ngải về. Khi đến chùa Pnom Pi Lơ, Tư Ẩn và nhóm bạn hữu hoàn toàn thất vọng vì vị sư Chau Som đã qua đời. Vị sư cả truyền nhân là Chau Kim Sa chỉ mới 25 tuổi cho biết, ngày xưa ông ngoại (sư Chau Som) có “nuôi” một vườn huyết ngải trong hốc đá bí mật giữa rừng trên đình Pnom Pi Lơ. Đó là loại ngải ác nên ông ngoại không truyền thụ cho con cháu bí quyết nuôi, luyện. Ông chỉ truyền bí pháp dùng ngải trị rắn cắn cứu người. Ông qua đời mang theo cả vị trí bí mật vườn huyết ngải. Tư Ẩn cùng nhóm bạn hữu bỏ hẳn 2 ngày leo núi lùng sục và hỏi han dân địa phương nhưng vô vọng. Trong giới tà thuật khu vực miền Nam, thầy Tư Ẩn khá nổi tiếng. Ông sinh năm 1940 ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Năm 1960, Tư Ẩn về Bình Thành (Đồng Tháp) thọ giáo một huyền thoại tà thuật là thầy Ba Cao Lãnh. Tên khai sinh của thầy Ba Cao Lãnh là Lê Văn Khẩn. Năm 1963, Tư Ẩn bị chính quyền chế độ cũ bắt quân dịch. Khi chia tay, Tư Ẩn được sư phụ Ba Cao Lãnh tặng một sợi dây đeo cổ có chiếc nanh heo nạm bạc đã được “tươm bùa” để đạn… tránh né. Năm 1965, kết thúc một trận giao tranh với du kích Củ Chi, Tư Ẩn phát hiện ngực mình đau. Khi nhìn xuống thì thấy ngực áo rách bươm, sợi dây bùa không còn nhưng da còn in hằn dấu bầm tím hình chiếc nanh heo. Và Tư Ẩn suy đoán là chiếc nanh heo đã đỡ 1 viên đạn găm đúng ngực mình. Chết hụt, Tư Ẩn đào ngũ trở về Cao Lãnh tiếp tục theo thầy học đạo tà thuật. Nhờ tà thuật, Tư Ẩn dùng phép “ẩn thân” thoát được rất nhiều cuộc săn lùng đào binh của quân cảnh chế độ cũ cho đến khi đất nước thống nhất. Nhờ trốn quân dịch, Tư Ẩn đã học hết bài của sư phụ Ba Cao Lãnh. Năm 1989, thầy Ba Cao Lãnh qua đời, thọ 99 tuổi, Tư Ẩn mới trở về Sài Gòn mưu sinh. Ở một góc Đồng Tháp, danh tiếng thầy Ba Cao Lãnh tạo thành một luồng giai thoại ly kỳ dân gian cho đến tận bây giờ. Tư Ẩn kể rằng, khi còn sống, thầy Ba Cao Lãnh có nuôi một vườn ngải tổ gọi là “huyết ngải độc thần tướng”. Chỉ có đích thân thầy Ba Cao Lãnh và Tư Ẩn mới được phép tiếp cận vườn ngải. Mỗi khi vào vườn ngải, Tư Ẩn phải niệm chú hộ thân. Thầy Ba Cao Lãnh cho rằng những người yếu pháp thuật, khi đến gần sẽ bị ngải ăn thịt dẫn đến lở loét dần cho đến chết. Thức ăn của ngải là thịt gà và… máu Việc chăm sóc vườn huyết ngải này là một kỳ công. Ngoài việc xây tường thấp có dán bùa cách ly ngải với môi trường bên ngoài, đúng giờ ngọ mỗi trưa và mỗi đêm, sư phụ dùng nước “dạ thủy” ngậm vào mồm phun sương để “tắm” cho ngải. Để lấy nước dạ thủy, Tư Ẩn dùng một tấm vải thưa giăng 4 góc giữa trời đêm. Ở giữa tấm vải găm 1 cây đinh để tạo thành vùng trũng. Mũi chiếc đinh hướng vào miệng 1 cái chai đặt dưới tấm vải. Hơi sương thấm vào tấm vải thành nước, chảy vào vùng trũng qua chiếc đinh rơi vào chai. Một phần nước sương pha với 10 phần nước mưa tạo thành nước tắm cho ngải. Để có đủ nước “tắm” ngải quanh năm, sư phụ dành hẳn một cái chum lớn để dự trữ nước mưa. Sau mỗi lần “tắm”, ngải phải được “sưởi ấm” bằng hơi nhang và “nghe” thần chú. Mỗi năm chỉ cho ngải ăn 2 lần vào ngày xá tội vong nhân, rằm tháng 7 âm lịch và giờ giao thừa đầu năm. Thức ăn cho ngải là… gà trống thiến hoặc trứng gà. Một cây thuộc chủng họ huyết ngải huyền thoại .Chính Tư Ẩn là người được sư phụ giao nhiệm vụ cho ngải ăn. Trước khi cho ngải ăn, con gà phải được tắm rửa thật sạch rồi chờ khô lông mới đưa vào vườn ngải. Đến tận bây giờ Tư Ẩn vẫn còn sởn gai ốc mỗi khi nhớ tới cảnh ngải ăn thịt gà. Con gà được thả vào vườn ngải đang ung dung thư thái đi sục thức ăn. Những cây ngải có vẻ hiền lành như cỏ, bất chợt rùng mình như đang ngủ ngon bị đánh thức. Những nhánh nhỏ nằm sát đất quắp lấy chân gà rất nhanh rồi co duỗi liên tục. Mỗi lần con gà giẫy giụa, đám ngải lại lao xao co duỗi những sợi nhánh để siết chặt hơn. Khoảng 1 phút sau, toàn bộ con gà bị quấn chặt nằm sát đất, cổ bị siết cứng không kêu được một tiếng. Đến lúc này, hầu như toàn bộ vườn ngải đều hướng về phía con gà để hưởng thụ. Những sợi lông dài, ướt vươn ra bám vào da thịt con gà. Sau vài ngày, con gà chỉ còn trơ lông và xương. Thỉnh thoảng Tư Ẩn lại thấy một chú chuột vô phúc nằm bó xác trong vườn ngải. Trứng gà ném vào, đám ngải cũng lao xao rồi quấn lấy. Vài ngày sau, vỏ trứng còn nguyên nhưng lòng trứng không còn. Khi sai khiến ngải thực hiện một “phi vụ” cúng tế nào đó, sư phụ hoặc Tư Ẩn phải thưởng cho ngải một bữa tiệc máu. Sư phụ và Tư Ẩn dùng dao trích huyết của mình vào một cái chén rồi rưới lên đám ngải. Nó cũng lao xao đón nhận lấy máu như mừng rỡ, vui sướng. Những sợi lông ngải chụm đầu vào những giọt máu tươi, say sưa hưởng thụ. Theo mô tả của Tư Ẩn, loại ngải độc này cao khoảng nửa mét, gần như không có lá chỉ có hoa và những sợi nhánh. Những cánh hoa có nhiều sợi lông màu đỏ như máu. Đầu mỗi sợi lông đều long lanh một giọt nước. Điều đặc biệt là khi no, ngải héo, khi đói ngải vươn thẳng đài hoa tua tủa ra khắp nơi. Ban ngày hoa tỏa hương thơm nhưng ban đêm lại hắt ra một thứ mùi thối rất khó chịu.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 7:56:39 GMT 9
BÙA CHÚ, NÉT TÂM LINH CỦA NGƯỜI VIỆTChủ nhật, ngày 4 tháng 1 năm 2015 - 1:15 Bùa chú là sản phẩm của xã hội thời phong kiến, đồng thời là sản phẩm sinh ra từ ma thuật nguyên thủy từ khi con người chưa chế ngự được thiên nhiên. Bùa chú khởi nguồn từ văn hóa Trung Hoa. Bùa chú bắt nguồn từ từ Hán - Việt là: Phù chú, phù phèn, thần phù, các từ ngày được các đạo sỹ chia ra hai phần " phù" và "chú". Trong đó, theo từ điển Hán - Việt, "phù" có nghĩa là bùa để trừ tà ma, "chú" có nghĩa là thần chú. Khi du nhập vào Việt Nam, hai từ này được gọi là bùa chú, bùa hay bùa ngải. Thời xưa, việc sử dụng bùa thường nổi lên vào những giai đoạn xã hội có nhiều bất ổn như: Dịch bệnh, hạn hán, chiến tranh... Ngày nay, bùa chú lại trở nên thịnh hành vào thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường mở rộng, con người có nhiều bất an do công việc quá tải, bất an về sức khỏe do ảnh hưởng của chế độ ăn uống dẫn đến bệnh tật. Bất an về môi trường sống, sự gia tăng tai nạn giao thông cùng với chính sách của nhà nước cho đồng bào tự do tôn giáo tín ngưỡng, vì thế bùa chú được sử dụng nhiều trong đời sống xã hội như một vật thiêng để cầu mong sức khỏe, bình an... Trong thực tế có nhiều loại bùa chú, cụ thể có thể chia thành các loại như sau: Bùa hộ thân: Là loại bùa được sử dụng cho những người già, trẻ nhở hay bị ốm đau, mất ngủ, giật mình, những người hay đi lại xa, người kinh doanh, học sinh, sinh viên... Loại bùa này dùng đeo ở cổ tay hoặc để trong ví, túi áo, để ở trong nhà sẽ khiến người dùng bùa cảm thấy được an toàn, che chở, trong lòng thoải mái, giải hung thành cát. Bùa trấn trạch: Loại bùa này dùng dán ở trong nhà, ở bốn góc phòng, cửa ra vào hay chôn dưới đất để trừ tà ma, đuổi quỷ, cầu bình an, được cát lợi. Bùa ấn: Loại bùa này phổ biến ở thời nhà Trần, chịu ảnh hưởng của phật giáo theo phái Mật Tông. Bùa ấn được làm từ gỗ đàn hương hay cây lê, cây đào, ngà voi, đá quý hoặc kim loại, được khắc theo lối chữ triện lên mặt ấn. Bùa ấn dùng vào việc trừ tà ma, quỷ ám vào trong người hay bệnh nan y lâu ngày không chữa khỏi. Bùa nuốt: Dùng để trừ bệnh, giải độc, trừ tà ma cho người hoặc vật nuôi. Bùa nuốt thường được làm bằng ngũ cốc, thực vật, dược liệu. Người dùng bùa bằng cách uống với nước hay tự nuốt rồi ngồi khoanh chân, nhắm mắt, chắp hai tay lại để ngang ngực cho chất độc, tà ma xuất ra ở mười đầu ngón tay. Bùa chữa mắt: Dùng để chữa bệnh liên quan đến mắt cho người và động vật. Loại bùa này được làm bằng thực vật và nước lã do các thầy cúng, thầy phù thủy làm. Họ cầm thẻ hương vẽ vào cốc nước hay chiếc lá hình mắt người hoặc mắt con vật cần chữa bệnh rồi đọc thần chú, đưa cho người hay con vật nhìn vào sẽ khỏi. Cách chữa bệnh bằng bùa này còn gọi là chữa mẹo hay chữa dấu. Trên đây là một số loại bùa mang ý nghĩa cầu mong sức khỏe và sự bình an cho con người. Ngoài ra, trong dân gian còn xuất hiện một loại bùa gọi là "bùa yêu". Loại bùa này thường xuất hiện ở một số dân tộc ít người, được sử dụng khi một người muốn lấy được một người mà không được sự đồng ý của người đó, người ta dùng bùa yêu để đạt mục đích có được người mình muốn lấy. Loại bùa này ít được sử dụng vì nó không mang tính nhân văn tích cực. Người có khả năng làm bùa chú có tính thiêng và được sử dụng phải là thầy cúng. Thầy có điện thờ để thờ tổ sư và nuôi âm binh phù giúp việc làm bùa. Những thầy cúng được coi là người hiểu biết và tín ngưỡng dân gian cần rất cẩn trọng trong việc hành lễ, họ phải kiêng kỵ nhiều trong ăn uống và sinh hoạt vợ chồng. Các thầy cúng thường ngồi đọc thần chú, mật chú, bắt quyết và làm thiêng bùa chú. Trong quá trình học tập và làm bùa chú, họ thừa hưởng những tri thức về bùa từ đời nọ truyền sang sang đời kia theo hình thức cha truyền con nối. Hiện nay, bùa chú được coi là vật thiêng được sử dụng nhiều trong đời sống tâm linh của người Việt. Lá bùa đối với người sử dụng được coi như thần hộ mệnh đem đến bình an, sức khỏe và sự thanh thản cho họ. PHAN NHẠ Nhà Ngoại Cảm, Người Cộng Sản & Blogger Nguyễn Ngọc GiàNhà Ngoại Cảm,Người Cộng Sản& Blogger Nguyễn Ngọc Già L.T.Đ: Theo tin tức vừa nhận được thì vào ngày 16 tháng 10 vừa qua, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Thúy (aka cậu Thủy) vừa bị tuyên án chung thân, bà Mẫn Thị Duyên 25 năm tù, ông Mẫn Đức Phương 18 năm tù, ông Nguyễn Anh Chiều 5 năm tù, ông Nguyễn Trường Sơn 15 năm tù, ông Nguyễn Văn Hoành 23 năm tù. Tất cả đều cùng chung tội danh là lừa đảo, và xâm phạm mồ mả hài cốt. Trước sự kiện trên, chúng tôi xin được ghi lại nơi đây một bài báo cũ (đã xuất hiện trên trang RFA vào ngày 6 tháng 11 năm 2013) nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự của blogger Nguyễn Ngọc Già.Ông bị bắt giữ, không xét xử, từ ngày 27 tháng 12 năm 2014 đến nay. Tựa đề do chúng tôi đặt lại. Tưởng Năng Tiến————————————————– Câu chuyện “đồng cô cốt cậu” dưới lớp áo “nhà ngoại cảm” như một cú trời giáng mang tên “quả báo” vào chính thể luôn đàn áp dã man tôn giáo. Sự việc này tạo nhiều cung bậc cảm xúc cho nhiều phía. Riêng người cộng sản, có lẽ chưa bao giờ cay đắng và nhục nhã bằng cú lừa quá đỗi tào lao như thế! Nhà ngoại cảm Có một điều rất… kỳ lạ, khi tìm trên google, cho ra kết quả, tuyệt đại đa số những tên tuổi đình đám, họ trưởng thành từ “cái nôi XHCN” như: Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Phúc Giác Hải, Nguyễn Thanh Thúy, Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Văn Lư, Đỗ Bá Hiệp, Lê Trung Tuấn, Nguyễn Thị Nghi, Nguyễn Ngọc Hoài, Nguyễn Quốc Thắng, Nguyễn Ngọc Quyết, Nguyễn Quang Phú, Nguyễn Mạnh Quân, Phạm Thị Phú, Nguyễn Hữu Mẫn, Vũ Thị Hòa v.v… và có cả một “nhà ngoại cảm” mặc quân phục hẳn hòi với tên Vũ Thị Minh Nghĩa (!). Trả lời phỏng vấn [1] của MC Bình Minh, bà Nghĩa cho biết trong 14 năm, bà ta đã tìm ra hơn 12.000 hài cốt được cho là “liệt sĩ”. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết [2]: *” Tôi rất ân hận vì khi còn làm bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, tôi đã ký vào bằng khen cho những nhà ngoại cảm. Sau khi có tấm giấy đó, họ về phóng to để thành lập trung tâm tìm mộ liệt sĩ”*. Lời trần tình cấp bằng khen cho 38 người được gọi là “nhà ngoại cảm” đã biến bà Kim Ngân trở thành một “nạn nhân đáng thương” vào ngày ký quyết định 07/1/2011 trong trò lừa đảo của các tay chơi, tuy thế, còn một “nạn nhân vô tội” [3] khác và “uy tín” cao hơn bà Ngân, người đã từng trao bằng khen cho “nhà ngoại cảm” Nguyễn Thị Nghi vào tháng 12 cùng năm, cũng chịu chung số phận mang tên “nạn nhân ngoại cảm” (!). Nói thẳng ra, chính tay bà cựu bộ trưởng Bộ LĐ – TB – XH và ông Thủ tướng đã đóng dấu* “chất lượng”* cho “nhà ngoại cảm” đàng hoàng “hành nghề”. Con dấu và chữ ký của Bộ trưởng Bộ LĐ – TB – XH và của Thủ tướng nghiễm nhiên trở thành* “bảo chứng”* đối với những người, vì quá mong ngóng nhìn thấy di vật hay “xương tàn cốt lạnh” nào đó của thân nhân mà lao theo mù quáng. Con đường quan lộc bà Ngân, ông Dũng ngày càng thăng tiến, đồng nghĩa với uy tín của “nhà ngoại cảm” ngày càng lên cao. Đó có lẽ là “mảnh đất màu mỡ” cho “nhà ngoại cảm” làm giàu bằng trò lừa đảo mà mới đây, nhiều gia đình ở Mỹ Đồng, Thủy Nguyên, Hải Phòng xôn xao và hoang mang vì mất hàng trăm triệu đồng [4] cho “cậu Thủy” vừa xộ khám với con số hơn 7,9 tỉ được cung cấp từ Ngân hàng chính sách xã hội, do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đảm nhiệm chức Chủ tịch HĐQT[5]. Trong HĐQT của ngân hàng này, các Thứ trưởng của bộ: KHĐT, Tài Chính, NN&PTNT, LĐ-TB-XH và nhiều chức vụ thuộc Quốc hội, như: Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc, Phó Chủ tịch Hội nông dân, Phó chủ tịch HLHPN VN, Phó chủ tịch Hội CCB VN… cùng “sắm vai” Ủy viên HĐQT. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng Chắc chắn những “nhà ngoại cảm” không những “ngoạm cả” tiền dân, mà còn “cạp” nốt chút “uy tín” sót lại của ĐCSVN. Giờ, bộ mặt “giả nhân giả nghĩa” của người cộng sản đã phơi trần, khi tiếp tay cho “nhà ngoại cảm” bỡn cợt, lừa đảo những người trằn trọc, dằn vặt trong từng giấc ngủ bất an, sau hàng chục năm qua chưa tìm ra một chút gì sót lại của thân nhân họ rải rác đâu đó, nay phải đối diện sự thật phũ phàng đến tê tái với xương động vật và những nắm đất vô tri vô giác mà họ mang về chôn cất và thờ cúng một cách thiêng liêng (!). Quả là vở bi hài kịch lố lăng có một không hai, kể từ ngày “đời ta có đảng” (!). Cũng chưa bao giờ nghe UIA [6] – một tổ chức ngoại vi của ĐCSVN – tìm thấy bất kỳ hài cốt nào của những người chết trong cuộc “cải cách ruộng đất” 1953 – 1956 như là một hành động “sám hối” đối với người chết oan do cộng sản gây ra. Đó là một câu hỏi lớn mang tính chính trị. Khoảng thời gian không quá 10 năm trở lại đây, ngày càng rộ lên nhiều người tự xưng và được gọi là “nhà ngoại cảm”, có khả năng siêu nhiên để tìm hài cốt lâu năm mất tích. Điều này chứng tỏ công việc “kinh doanh” của họ ngày càng khấm khá (!). Có cầu tất có cung. Người cộng sản Một câu hỏi cũng cần đặt ra: tại sao những người được gọi là “nhà ngoại cảm” lại có đủ hấp lực khiến nhiều người khó cưỡng như thế? Ngoài phong tục thờ cúng người thân tại nhà, ngoài vấn đề mê tín dị đoan phủ trùm trong xã hội ngày nay, ngoài việc tỏ ra “cao tay ấn” của những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp khoác áo “ngoại cảm”, phải chăng nguyên nhân chính dẫn đến tai họa mê muội khó dứt ra, xuất phát từ nạn “sùng bái cá nhân” ăn sâu và ăn lan trong nhiều chục năm qua từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội? Bằng chứng sống động mới nhất thông qua cái chết của ông Võ Nguyên Giáp, với đám tang được biến thành một thứ “thánh lễ” “linh thiêng” mà nhiều người không ngại gọi ông ta đã “hiển thánh”? Đã gọi là “di họa “, thì thường ít xảy ra ngay lập tức. Trong khi các “nhàcảm bên ngoài” đang cãi nhau kịch liệt với những người bị “nội thương” qua vụ việc do phóng viên Thu Uyên phanh phui, thì lăng Hồ Chí Minh bị một trang báo lớn của Trung Cộng so sánh với nhà xí thời La Mã cổ đại [7] – thời chắc chắn chưa có… “xí bệt” (!). Đó không chỉ là sự sỉ nhục đối với những ai tôn sùng, kính yêu Hồ Chí Minh mà nó còn là sự báng bổ tri thức, thẩm mỹ kiến trúc người Việt Nam, dù không muốn nhưng đương nhiên phải gánh chịu lây. Nếu người cộng sản Việt Nam làm theo đúng di chúc ông Hồ thì đã không xây lăng. Đã không có lăng nghĩa là không có sự sỉ nhục nói trên. Tất nhiên, “khi ghét bồ hòn cũng méo”, do đó “người anh em” “4 tốt” có thể còn nhiều điều khác (có thể là bí ẩn) đang nắm trong tay để tiếp tục phỉ báng dân tộc Việt Nam, dù cho không có lăng ông Hồ. Điều này không có nghĩa, trong tương lai bảo đảm Trung Cộng không hạ nhục “vị tướng huyền thoại”, bằng cách này hay cách khác, khi “người anh Cả của quân đội” đã… “hiển thánh”. Những gì càng đáng “sùng bái” càng làm người ta dễ nổi giận khi bị xúc phạm. Người Việt có câu “giận mất khôn”. Các “chính trị gia” Việt Nam đương thời chưa cho thấy “tài ba” của họ trong ứng phó với những chiêu trò “khích tướng kế” của Trung Cộng – khá nhẹ nhưng rất đau. Lăng Hồ Chí Minh bị Trung cộng sỉ nhục cũng đồng nghĩa dân tộc Việt Nam càng bị chia rẽ với “bên hả hê” và “bên gục mặt”. Đó chẳng phải thủ đoạn thâm hiểm nhưng bẩn thỉu của “người bạn vàng” mà chúng đang vui sướng chứng kiến một lần nữa, khi người Việt tiếp tục rơi vào bẫy “ly gián kế”? “Sùng bái cá nhân” trở thành “con dao hai lưỡi” trong những trường hợp như thế này, chưa chắc người cộng sản và những ai mê muội “sùng bái” chấp nhận. Có lẽ cũng nên cho họ thêm thời gian, dù không còn nhiều lắm, để nhìn thẳng vào sự thật của “di họa” này, bởi trang RFA dự cảm chẳng lành khi điều tra *”Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”* [8]. Nội dung bài viết như báo động khẩn để Việt Nam tránh việc mất kiểm soát lượng người gọi là “thường dân” mà không ai biết thực chất họ mang tư cách gì khi vào Việt Nam làm ăn, ngày càng đông đảo tại nhiều tỉnh thành(!). Rất đáng lo ngại. Còn cách gì mềm mại hơn, lại không đổ máu để xâm lược một quốc gia rệu rã về kinh tế, một dân tộc bạc nhược về tinh thần và chứa đầy đố kỵ, hợm hĩnh, nghi ngờ, rẻ khinh lẫn nhau? Một lần nữa, những ai hay đổ lỗi nước Việt ốm o gầy mòn là do “dân trí thấp”, do “chống cộng cực đoan” hãy ngẫm lại, một khi Trung Cộng cùng bọn bán nước, gián điệp, tham nhũng tiếp diễn những “chiêu trò” tương tự trong tương lai gần, nhằm để người Việt không còn thời gian làm việc gì khác ngoài việc loay hoay đổ lỗi và chửi bới lẫn nhau! Cuộc chiến của những người đồng chí? Chiều ngày 4/11/2013, ông Nguyễn Thiện Nhân – Phó Thủ tướng, vừa nhậm chức Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “… yêu cầu thời gian tới, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và Công nghệ cần tiếp tục sự phối hợp hiệu quả giúp Ban Chỉ đạo; đồng thời xác định thời gian tổ chức Hội nghị trực tuyến về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ” [9]. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân và ông Nguyễn Thiện Nhân cũng được biết là hai nhân vật vừa đắc cử vào Bộ Chính trị hồi tháng Năm vừa qua, trong khi ông Nguyễn Bá Thanh và ông Vương Đình Huệ, hai người được kỳ vọng nắm hai ghế Ủy viên Bộ chính trị lại thất cử. Trong một diễn biến khác, tin Tuổi Trẻ cho hay [10], một mảnh đất hơn 1.700m2 đã có lệnh cưỡng chế vào ngày 01/11/2013 vừa qua. Trong mảnh đất này, ngoài một biệt thự còn một gian nhà lớn gọi là nhà thờ với màu vàng chóe cùng toàn bộ tường rào cũng mang sắc vàng nổi bật cùng “tông”, cho thấy việc xây dựng không phép như báo nói quả đáng nghi ngại. Tuy nhiên nội dung tin đưa ra, chỉ quy sai phạm cho Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (INDECO) về quy định xây dựng, lại không đả động gì đến chủ đầu tư. Đó là điều gây đồn đoán trong dân chúng trong mấy hôm vừa qua. Quả thật, với mảnh đất lớn, được nói là *”…thực hiện dự án đầu tư xây dựng tòa nhà văn phòng kết hợp nhà ở cao 23 tầng theo quy hoạch được duyệt”,* trên thực tế lại biến thành nhà riêng với kiểu dáng xây dựng “nửa quê, nửa tỉnh”, màu sắc lòe loẹt, nhưng lại không thấy chỉ rõ chủ đầu tư là ai hay tổ chức nào, lại ngang nhiên bất chấp luật pháp. Điều này càng khó thuyết phục lòng dân, bởi không ai ở Việt Nam không biết, khi chỉ cần một xe ba gác chở gạch hay cát đổ trước nhà dù là sửa chữa nhỏ, nó cũng được thanh tra xây dựng xuất hiện ngay lập tức để kiểm tra (!), nói gì đến một công trình lớn như thế. Trong khi bà Phan Thị Bích Hằng đang bị lên án cố tình sử dụng tên tuổi lừng danh của ông Phùng Chí Kiên để đánh lừa nhiều người thì RFI cho biết [11]: “Dù bị chỉ trích, Việt Nam vẫn ứng cử Hội đồng Nhân quyền“, trong đó cho hay: ngày 28/7/2013 Việt Nam đã nộp đơn ứng cử chính thức để dự cuộc bầu cử tổ chức vào 12/11/2013. Dù chưa biết vụ các “nhà ngoại cảm” có bị ghép vào điều 258 hay không (vì trong đó có đề cập nội dung “lợi dụng tự do tín ngưỡng”) nên sẵn đây cũng nên nhắc về “tội danh” này để bộ ba tam giác: Công an – Viện Kiểm sát – Tòa án nhớ mà “khoanh vùng” trị cho “đúng người, đúng tội”, bởi lợi dụng tên tuổi của ông tướng đầu tiên do Hồ Chí Minh phong tặng, có lẽ khó tránh mức độ nghiêm trọng với án tù 7 năm. Kết Người cộng sản là “vua lừa đảo”. Nay đòn giáng trả chí mạng từ vụ “nhà ngoại cảm” và vụ lăng Hồ Chí Minh, xem ra là bài học đích đáng cho “tình đồng chí” của họ đối với nhau? Với HĐQT thuộc Ngân hàng Chính sách xã hội gồm hầu hết nhân sự thuộc về Chính phủ và Quốc Hội cộng thêm ngôi biệt thự đồ sộ không rõ chủ nhân, vừa bị cưỡng chế, kết liên với việc cấp bằng khen cho “nhà ngoại cảm” từ cựu Bộ trưởng Bộ LĐ – TB – XH, cùng quyết định mới toanh [12]* “Thành lập ban chỉ đạo quốc gia về tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo”* do Thủ tướng Việt Nam ban hành ngày 30/9/2013, dường như cho thấy phát lộ một “cuộc chạy đua” quyết liệt đang diễn ra rất căng trong những tháng giáp năm với Hiến pháp đang mắc kẹt “giữa hai làn đạn” mà không có tín hiệu gì sáng sủa hơn cho một cải cách chính trị đáng kể với triển vọng gia nhập TPP, kèm lời hứa 5 năm để kiện toàn sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp như dấu ấn người cộng sản quyết rũ bỏ những lạc hậu, trì trệ? Thông tin cuối cùng, năm 2013, ông Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc Trung tâm dự báo Khí tượng và Thủy văn Trung ương cho hay [13]: *”…số lượng bão và áp thấp nhiệt đới trên biển Đông có thể lên tới 18 cơn, vượt kỷ lục năm 1964 có 16 cơn bão và áp thấp nhiệt đới. Đây là điều hiếm gặp trong 49 năm qua”.*Bão thiên nhiên và “bão lòng” như đan xen? Việt Nam đang đi gần hết năm 2013 – Quý Tỵ với ngổn ngang tơ vò trăm mối. Năm 2014 – Giáp Ngọ đang chờ trước mắt là những gì?! Nguyễn Ngọc Già, Việt Nam 06-11-2013
|
|