|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:06:21 GMT 9
Phần III – Đất nước và con người LÀNG TÔI T/G: Tran Van Chi Thuở xưa, người mình lúc Tây chưa vô thì đa phần sống ở thôn quê. Bấy giờ nước ta chưa có thành thị. Người dân đâu ở đó, trao đổi hàng hóa sản phẩm ở chợ quê. Nền kinh tế của mình là nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Làng Việt Nam là đơn vị hành chánh cơ sở nhỏ nhất, nhưng nó là cơ bản của xã hội. Làng còn là chỗ tập hợp sinh hoạt của cộng đồng dân chúng; nơi đó ngoài trụ sở hành chánh, trong Nam gọi là Nhà Việc (như ở Mỹ gọi là Civic Center) còn có Đình và Chùa. Mọi sinh hoạt của người dân đều xoay quanh đình và chùa. Làng nào trong Nam cũng đều có đình. Đình là nơi thờ thần của làng. Sắc thần do vua ban, được giữ kỹ trong một hộp gỗ do một kỳ lão cất giữ, hàng năm vào ngày hội cúng đình, sắc mới được thỉnh đem về Đình làm lễ cúng. Đình do quỹ chung của làng đóng góp xây dựng, gọi là quỹ công nho (1). Trái lại, chùa do cá nhân xây dựng nên, rồi thỉnh sư về trụ trì. Thuở xưa, trong xứ Nam Kỳ các nhà giàu thường dựng chùa để làm phước và còn hiến cho chùa đất vườn, đất ruộng để làm tịnh tài lo cho chùa. Phật giáo trong Nam hình thành như vậy, chớ có giáo hội gì đâu. Tùy hoàn cảnh, tùy duyên mà chùa, đình được xây dựng, nên không có kế hoạch, và không tập trung xung quanh Nhà Việc. Đình và Chùa còn là nơi giải quyết hầu hết những mâu thuẩn, vướng mắc tình cảm, pháp lý của dân làng. Tuy chế độ Việt Nam xưa là phong kiến trung ương tập quyền, nhưng làng ở Việt Nam mang tính tự trị, không như làng ở Châu Âu . Phép vua thua lệ làng Câu nói trong dân gian xưa nay nói lên xã thôn Việt Nam mình ngày xưa là dân chủ cấp cơ sở rất cao. Pháp vào cai trị mình coi đó là nét độc đáo và duy trì ở xứ Nam Kỳ thuộc Pháp; các nhà luật pháp cũng lấy đó mà viết sách, dạy học trong các trường luật Việt trước đây. Trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng (lớp nhứt trường làng) có bài “Làng Tôi” xin trích : Làng tôi gần ở tỉnh, xung quanh làng có lũy tre, đứng ngoài không nom thấy nhà cửa. Đầu làng cuối làng có cổng xây bằng gạch. Mấy ông biên soạn (2) tả cái “làng tôi” ở miền Bắc; nên rất xa lạ với học trò Nam Kỳ Lục Tỉnh. Cái lũy tre đi vào thi ca văn chương, mà sự thực người ở Nam Kỳ không có khái niệm gì về lũy (3) tre cả. Giống như thanh niên Việt Nam thế hệ thập niên 50, 60 thích nói về “”dòng sông Seine” về “gare Lyon đèn vàng!” (4). Cũng giống như trường hợp Tự Lực văn Đoàn. Số là khi ”nước nhà độc lập”, cụ Hoàng Xuân Hãn soạn ra chương trình giáo dục đầu tiên, cụ đưa mấy tác phẩm trong Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình Trung Học. Sự thể làm cho cả thế hệ học trò miền Nam tưởng rằng trong lục tỉnh cũng có cô Loan hoặc các ông bà Phán ! Thật tình trong xứ Nam Kỳ xưa, xã hội đâu có phong kiến như thế, nên đâu nhứt thiết phải “đoạn tuyệt” như cố gái Loan đoạn tuyệt gia đình chồng! Bài ”Làng tôi” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tả cảnh “làng tôi” êm đềm thơ mộng, cuộc sống bình dị,in đậm trong trí mọi người. Xin trích : “Trong làng có nhà cửa phần nhiều là nhà lá. Nhà nào cũng có sân có vườn, hoặc có ao nữa, xung quanh có hàng rào tre. Ngoài vườn thì trồng rau, khoai cùng các thứ cây có quả . Đường sá thì chỉ có con đường chạy thẳng qua làng là rộng, còn thì những lối đi hẹp, khúc khuỷu quanh co”. Cuối bài ”Làng tôi”, tác giả toát yếu bằng câu: Sống ở làng, sang ở nước.” Đây là chủ đích của Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nên bài nào tác giả cũng tóm bằng một câu tạo ấn tượng và giáo dục học trò. Đúng là cái tâm cảnh người Việt ta xưa kia là như thế, mà ngay cả ngày nay cũng còn. Làng là nơi thể hiện tình cảm gắn bó, tương lân xóm chòm, khi”tối lửa tắt đèn” (5) vui buồn, hoạn nạn có nhau. Những biểu hiện tiêu cực, xấu xa, vô đạo đức không thể tồn tại. Do vậy vì “sống ở làng” nên mọi người phải tử tế với nhau làm cho cộng đồng, làng xóm an cư thịnh vượng, mọi người thấy bình an. Từ ở làng con người vươn ra xã hội xung quanh lớn hơn, để thi thố, hun chí nam nhi mà đóng góp cho nước. “Sang ở nước” là ý đó. Đem chí tang bồng trả ơn vua, lộc nước, mới làm cho con người nam nhi sang. Chữ “Sang” ở đây không phải sang vì của, vì tiền, vì ruộng đất; mà ”sang vì nước” là hiểu theo nghĩa góp đền nợ nước, ơn vua. Do vậy, con người ta, đặc biệt Việt Nam ly hương, ai cũng muốn đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng “”quê hương xứ sở”; nếu không thì cảm thấy cuộc đời vô nghĩa, như cây cỏ vô tri vậy ! Năm mươi năm, đọc lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nhân bài ”làng tôi” với câu : Sống ở làng, sang ở nước khiến thắm thía làm sao, nhứt là càng về già. Giá trị của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mãi mãi ở trong lòng thế hệ của chúng ta, ngoài những kỷ niệm về thời thơ ấu, nó còn có giá trị cao về giáo dục, mãi tới ngày nay. (1) Công nho : do đọc trại chử “ công nhu” là quỹ dành cho việc chung, nhu cầu chung (2) Ô. Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận (3) Lũy : bờ đất tre trồng làm hàng rào ( giải nghĩa của Quốc Văn Giáo Khoa Thư) (4) Sông Seine chảy qua Paris, ga xe lửa Lyon ở thủ đô Paris bên Pháp (5) Ý nói khi gặp hoạn nạn khẩn cấp cần giúp ( emergency)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:08:45 GMT 9
Phần III – Đất nước và con người
CÔNG VIỆC NHÀ NÔNG QUANH NĂM T/G: Tran Van Chi
Vác cuốc ra thăm ruộng
(ảnh Quốc Văn Giáo Khoa Thư)
Nước Việt ta từ xưa lấy nghề nông là chủ yếu. Trong nghề nông thì trồng lúa là chánh, các loại nông phẩm hoa màu khác là phụ. Dân mình xưa nay ăn cơm là chủ yếu, có vùng thiếu lúa, dân phải ăn kèm khoai mì, khoai lang, bắp. Nên ông bà ta có câu:
Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
Hột gạo, hột cơm được cha mẹ dạy ta quí trọng kêu bằng hạt ngọc; vua chúa luôn có chính sách khuyến nông, khuyên dạy dân không nên bỏ ruộng hoang :
Ai ai đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tất đất, tất vàng bấy nhiêu.
Suốt lịch sử dân mình gắn liền với nông nghiệp, công việc đồng án không ai dạy, trong gia đình cha mẹ tập tành con cháu ra đồng làm lụng quanh năm, tập tành theo lối “cha truyền con nối”.
Chúng ta hãy xem Quốc Văn Giáo Khoa Thư tả “công việc nhà nông quanh năm:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng ca.ø
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sáng ngày, đem lúa ra ngâm(1)
Bao giờ mọc mầm, ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta(2)
Đến khi lên mạ, thì ta nhổ về.
Sắp tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong thì mới trở về nghỉ ngơi...”
Công việc nhà nông quanh năm trích trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng (Lecture Cours Elémentaire). Công việc nhà nông được mô tả theo sự tuần hoàn của ngày tháng trong một năm, thích ứng với sự biến chuyển của thời tiết. Nước ta ở vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, độ ẩm cao. Miền Bắc có 4 mùa, Trung và Nam chỉ có 2 mùa mưa và nắng. Qua bài ta biết đây là công việc nhà nông Miền Bắc. Tháng giêng ( tháng âm lịch) là tháng ăn Tết vui chơi, lễ chùa, dân mình ai cũng không muốn đi làm.
Miền Bắc, trồng nhiều hoa màu phụ để tự túc về lương thực gia đình. Khi khoai là thức ăn phụ trộn với cơm gọi là ăn độn, dân Miền Nam sau năm 75 mới biết phương cách ăn độn nầy.
Ở Miền Nam nông dân ngoài trồng lúa, còn trồng các loại khác nhưng chủ yếu là để bán, họ biết chuyên canh, do đất rộng người thưa. Nên trong Nam có Bến Tre xứ dừa, Cổ Cò xứ dưa hấu. Trung Lương xứ mận, Hóc Môn rau cải, Bà Điểm xứ trầu cau v… v... Các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn Bính, Nguyễn Hiến Lê vô Nam đã viết nhiều về đời sống, ruộng vườn miền Nam nói lên xứ Nam Kỳ đã có chuyên canh từ lâu.
Con trâu trong câu ”Tháng tư đi tậu trâu bò” cũng nêu lên nét đặc thù trong đời sống nông thôn ta xưa. Trâu là phương tiện chánh của sản xuất, người chủ có trâu phải đăng bộ ở làng xã, được cấp sổ trâu cũng như sổ bộ ghe. Khi Tây vô chiếm Nam Kỳ thì lập ra sở thú y chủ yếu bảo vệ đàn trâu hầu khai thác các vùng đồn điền miền Tây. Ngoài việc đăng bộ ghi sổ, trâu còn được đóng dấu vào mông (dấu bằng đồng, nướng đỏ, đóng vô mông trâu) đề phòng trâu bị trộm. Luật ta xưa phạt người ăn trộm trâu rất nặng, có lúc phải lưu đày biệt xứ.
Việc cấy lúa cần nhiều nhơn công, trong Nam thường thì người ta cấy vần công, chỉ có các nhà điền chủ lớn mới mướn công cấy. Người đứng ra lãnh bao cấy cho chủ điền gọi là đầu nậu. Sáng sớm đầu nậu thổi tù và tập hợp công cấy rồi phân bổ đến ruộng. Chủ điền thường bao ăn cho thợ cấy.
Công việc nhà nông, Quốc Văn Giáo Khoa Thư tả tiếp như sau :
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười, cỏn độ một hai . . .”
Ruộng cao đóng một gàu giai(3)
Ruộng thấp thì phải đóng hai giàu sòng(4).
Chờ cho lúa có đòng đòng(5)
Bây giờ ta sẽ trả công cho người
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái(6) ra ngoài ruộng ta
Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô, quạch sạch ấy là xong công.”
Sau khi cấy công việc nhà nông chuyển sang giai đoạn hai, chăm sóc nước, cỏ, chờ lúa trổ và thu hoạch.
Trong Nam có 2 loại ruộng lúa : một là loại ruộng đồng, cây lúa chỉ sống nhờ nước mưa; loại thứ hai là ruộng rẫy (đa số) chủ yếu lấy nước sông; loại 2 này thấy ở Hậu Giang, còn miệt Tiền Giang xen kẻ có đồng có rẫy.
Ruộng rẫy thường dùng hệ thống kinh, mương dẫn thủy hoặc xã nước nên không dùng gàu tát. Ruộng đồng gặp khi nắng hạn phải dùng gàu để đưa nước vào ruộng. Trong Nam ruộng phẳng, không có triền, dốc nên thường tát bằng gàu sòng. Ở quê gàu giai thường dùng tát ao, tát đìa bắt cá vào mùa khô gần Tết âm lịch, vì ao đìa rất sâu. Lúa chín được thu hoạch bằng vòng hái (Bắc gọi là liềm hái), sau khi gặt xong lúa được bó và chở về sân nhà bằng ghe, cộ, gánh bằng đòn sóc như cây đòn gánh nhưng hai đầu nhọn để sóc (đâm) vào bó lúa. Có người gánh mỗi đầu 1 bó, có người mạnh gánh 2 bó mỗi đầu. Do vậy dân Nam Kỳ thường dùng hình tượng cây đòn sóc để chỉ người không có kiên định, đầu nào cũng theo nhẳm thủ lợi ( Đòn sóc hai đầu). Lúa được tách hột ra khỏi rạ bằng cách cho trâu đạp, sau đó đem phơi khô, dùng quạt (loại xa quạt lúa), quạt cho sạch, cũng có nơi dùng gió để “dê””cho sạch.
Lúa hột được chứa trong bồ ở nơi khô ráu, người làm ruộng nhiều, lúa được dựa trong kho lớn đóng bằng ván gọi là lẩm lúa. Tóm lại công việc nhà nông, chủ yếu trồng lúa, suốt năm từ lúc gieo mạ đến gặt lúa. Lúa sớm kết thúc vào tháng 10 ta, lúa mùa vào tháng 11, tháng chạp.
Lúa nuôi sống dân, ai có nhiều lúa là nhà giàu. Xã hội ta xếp hạng : Sĩ -Nông - Công- Thương. Nông dân chỉ đứng sau Sĩ (giai cấp quan lại người có học) mà thôi.
Xem ra mới thấy nông nghiệp là nghề chánh của dân mình cho đến thế kỷ 21 nầy. Đời sống nông dân một nắng hai sương, vất vả nhưng nói chung vẫn nhàn nhạ hơn xã hội công nghiệp ở Mỹ này. Nên những ai ở độ tuổi lục tuần không quên được câu : “Tháng giêng là tháng ăn chơi” trong bài ca dao “Công việc nhà nông quanh năm” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư, như tiếc rẽ thuở nhân hạ ngày xưa ! ! !
(1) Trong Miền Nam gọi là ngâm giống.
(2) Trong Nam gọi là gieo mạ
(3) Loại gàu có cột dây 2 bên có 2 người cầm tát
(4) Loại gàu có cáng, treo bằng 3 cọc, do một người tát
(5) Bông lúa non chưa trổ ra
(6) Vòng hái dùng gặt lúa ngày xưa, bằng loại cây quau nhẹ, hình cùi chỏ, một đầu làm cán cầm, đầu kia để quở lúa, có tra lưỡi liềm để cắt.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:11:52 GMT 9
SƯƠNG NGUYỆT ANH
Tấm gương nữ lưu Nam Kỳ
Nam Sơn Trần Văn Chi
Đem chuông lên đánh Sài Gòn
Để cho nữ giới biết con cụ Đồ
(Ca dao Bến Tre)
Sau Mậu Thân, chung cư Ấn Quang, Minh Mạng được xây tại khu vực Ngã Sáu Chợ Lớn, và cũng tại đây, Trường Nữ Trung Học Tổng Hợp Sương Nguyệt Anh đầu tiên của Việt Nam cũng được xây dựng với sự bảo trợ của Huê Kỳ. Trường khánh thành năm 1971, ngoài chượng trình phổ thông trung học, trường còn dạy thêm môn nữ công gia chánh, may vá nấu ăn, kế toán đánh máy, âm nhạc, hội hoạ, nghệ thuật cắm hoa, võ thuật… Nữ sinh từ lớp 6 được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp với phòng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng…
***
Bà Nguyễn Thị Khuê (1864-1922), bút hiệu là Nguyệt Anh, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, nên ở nhà gọi là cô Năm Hạnh, gọi theo cách gọi Miền Nam. Tên của bà có sách ghi là Nguyễn Xuân Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Khuê, Nguyễn Thị Xuân Khuê, nhưng theo Nguyễn Chi Thế Phổ của gia đình Nguyễn Đình Chiểu ở Bến Tre thì ghi bà tên là Nguyễn Thị Khuê. Sau khi chồng chết, Bà thủ tiết, thêm chữ Sương vào bút hiệu của mình thành ra Sương Nguyệt Anh, có nghĩa là Nguyệt Anh goá chồng. (Sương là giột nước ban đêm rơi đọng trên lá cây ngọn cỏ. Chữ Sương còn chỉ người đàn bà ở góa, Sương khuê chỉ cái bóng của người phụ nữ ơ góa.)
Bà Nguyễn Thị Khuê sanh ngày 8/3/1864 tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; cha là cụ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ là bà Nguyễn Thị Điền. Khi Nguyễn Thị Khuê sanh ra thì cụ Nguyễn Đình Chiểu đã từ Cần Giuộc dời về ở Ba Tri Bến Tre. Bà cùng người chị tên Nguyễn Thị Kim Xuyến được cha truyền dạy chữ Hán, chữ Nôm. Cả hai chị em đều rất thông minh, nổi tiếng tài sắc, được người trong làng ca tụng là Nhị Kiều. Từ nhỏ bà đã chịu ảnh hưởng của dòng máu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà” của người cha khí phách hiên ngang, yêu nước thương dân…
Chữ Hán của Nguyễn Thị Khuê từ thời con gái, có thể làm thơ xướng họa được với các Nho sĩ hay chữ đương thời. Bà cũng làm thơ Nôm, nhắc nhở mọi người hãy nhớ đến cảnh nhà tan, nước mất, phải sống sao không hổ với đất nước...
Nhưng “Hồng nhan gian truân”, con đường tình duyên của Nguyễn Thị Khuê không may mắn!
Năm 1888, cụ Nguyễn Đình Chiểu mất, Nguyễn Thị Khuê được 25 tuổi. Bấy giờ có một ông Tri phủ đến hỏi bà làm vợ không được, bèn đem lòng oán hận, tìm cách hãm hại. Bà cùng gia đình của người anh ruột phải bỏ xứ về ở Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi sau lại dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà của ông nghè Trương Văn Mân.
Tại đây, bà kết duyên với ông Phó Tổng sở tại, góa vợ, tên Nguyễn Công Tính, và sanh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết thờ chồng nuôi con, và mở trường dạy chữ Nho để sanh sống.
[Sau nầy Nguyễn Thị Vinh lấy chồng là ông Mai Văn Ngọc, sanh một cô con gái đặt tên Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba. Mai Huỳnh Hoa sau kết duyên với nhà hoạt động chánh trị, nhà yêu nước nổi tiếng là Phan Văn Hùm (1902-1946), tác giả cuốn sách Ngồi Tù Khám Lớn (1929)].
Chồng chết, Nguyễn Thị Khuê thủ tiết lấy bút hiệu Sương Nguyệt Anh. Nhưng ngươi “mẹ-goá-con-côi” tài hoa hương sắc nào có được yên, luôn bị những đấng mài râu làm thơ vở trò ong bướm. Chuyện thơ văn xướng hoạ của bà trong thời gan nầy để lại nhiều giai thoại văn chương tới nay:
Đối (Ông Bảy Nguyệt ở Mỏ Cày):
Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô
Chẳng biết lòng cô nghĩ thế mô?
Không phải vãi chùa toan đóng cửa
Đây lòng gấm ghé bắc cầu Ô
Đáp (Sương Nguyệt Anh):
Chẳng phải Tiên cô, cũng đạo cô
Cuộc đời dâu bể biết là mô?
Lọng sườn dẫu rách còn kêu lọng
Ô bịt vòng vàng cũng tiếng ô
Phải thời cô quả chịu thời cô Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?
Dòm thấy bụi trần toan đóng cửa
Ngọc lành chi để thẹn danh ô
Sau đó Bà Sương Nguyệt Anh lên Sài Gòn, làm thơ, viết báo đăng trên tờ Nữ Giới Chung-Tiếng Chuông Nữ Giới, do ông Trần Văn Chim làm chủ bút. Rồi những năm 1906-1908 phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu nổi lên rất mạnh ở Sài Gòn bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học. Tư tưởng của Sương Nguyệt Anh so với phụ nữ đương thời thật tiến bộ, văn chương mạnh mẽ qua những lời kêu gọi mọi người hưởng ứng Đông Kinh Nghĩa thục và phong trào Duy Tân. Tiếng tăm của bà ngày càng được nhiều người biết, đến năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ Nữ Giới Chung.
Chủ nhiệm Nữ Giới Chung là ông Henri Blanquière, số báo đầu tiên ra mắt độc giả ngày 1/2/1918 tại Sài Gòn, toà soạn đặt tại số nhà 15 đường Taberd (nay là đường Nguyễn Du, quận 1, Sài Gòn). Báo phát hành định kỳ hàng tuần vào ngày Thứ Sáu, có 8 trang quảng cáo, 18 trang nội dung bao gồm xã thuyết, văn nghệ, gia chánh, học nghề, lời hay ý đẹp, vân vân.
Cũng trên tờ Nữ Giới Chung này, còn có những bài thơ đề cao tinh thần quật khởi của các nữ anh hùng dân tộc như bà Trưng, bà Triệu, hoặc đăng những bài thơ đề cao nữ quyền, đặc biệt có nêu hai câu thơ như là khẩu hiệu kêu gọi phụ nữ:
Vang lừng nữ giới những hồi chuông,
Thúc bạn quần thoa thoát cửa buồng...
(Số 8 ra ngày 22-3-1918)
Tờ báo tập hợp được những nhà báo tiến bộ, lên tiếng đòi nam nữ bình quyền, thúc giục, vận động giới phụ nữ hãy học hành, đấu tranh cho được ngang hàng với nam giới như phụ nữ ở các nước tiên tiến Châu Âu, châu Mỹ.
Ngoài khẩu hiệu thúc dục phụ nữ: Vang lừng nữ giới những hồi chuông/Thúc bạn quần thoa thoát cửa buồng , bà Sương Nguyệt Anh cũng đích thân viết bài đòi hỏi nữ quyên:
“Thời thế bể dâu, cục diện đã khác... Chị em ơi!... Muốn có cái địa vị ngang hàng với nam giới thì (chẳng những) việc tề gia nội trợ phải thuộc lòng, tình thế trong ngoài cũng nên ghé mắt, tuy chưa được như người Âu Mỹ song cũng đừng phụ tiếng Lạc Hồng” (Số 8 ngày 22-3-1918)
Bà là người mạnh dạn và công khai viết báo kêu gọi thanh niên Việt Nam không nên đi lính cho Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhứt 1914-1918, qua bài thơ Chinh Phụ:
Cỏ rạp sân thềm liễu rủ tơ,
Chàng đi bao thuở lại quê nhà? Nửa đêm trăng xế, lòng ngao ngán,
Chiếc gối quyên gào lụy nhỏ sa.
Ải Bắc mây giăng che bóng nhạn,
Vườn Xuân nắng tắt rẻ mày nga
Nhớ nhau mấy lúc chiêm bao thấy
Ngàn dặm lang quân biết chẳng là? (Chinh Phụ Thi, Nguyễn Đình Chiêm dịch)
Chủ trương của Sương Nguyệt Anh khiến cho mật thám Pháp e ngại, các mạnh thường quân bị áp lực phải ngưng bảo trợ Nữ Giới Chung ! Đến tháng 07 năm 1918, sau gần một năm có mặt , Nữ Giới Chung buộc phải đình bản do khó khăn tài chánh.
Cũng ngay lúc nầy, người con gái độc nhứt của bà tên Nguyễn Thị Vinh qua đời sau khi sanh nở. Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc chồng, nay bà lại phải khóc con, khiến đôi mắt bà bị đau rồi bị mù lòa hẳn.Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dạy học và sáng tác thơ văn.
Bà mất ngày 12 tháng chạp năm Tân Dậu (tức 9 tháng 1 năm 1922) lúc 58 tuổi. Mộ Bà lúc đầu ở Mỹ Nhơn, sau năm 1959 được đồng bào địa phương cải táng dời về chôn cạnh mộ phần của song thân, trong khu mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
***
Sanh ra giữa lúc tiếng súng xâm lăng của giặc Pháp nổ trên mảnh đất quê hương Nam Kỳ Lục Tỉnh, lớn lên Nguyễn Thị Khuê đã từng chứng kiến những cảnh thống khổ của đồng bào và bà cũng thấy rõ bộ mặt thật của giặc Pháp bấy giờ. Bà và cả gia đình Nguyễn Đình Chiểu cũng cùng chung số phận ấy với người dân. Do đó, thơ của Sương Nguyệt Anh, bên cạnh tính chất trang nghiêm, nho nhã vẫn hàm chứa nỗi niềm thiết tha, ưu tư sâu lắng đối với dân với nước.
Khi Vua Thành Thái vào Nam, Bà làm thơ nhắc nhở vua trong lúc bên yến tiệc xa hoa, ngựa xe đón rước, chớ quên dân chúng trong tay giặc, lầm than, nghèo đói, lam lũ... Lời thơ bình dị, kín đáo mà nghĩa khí tràn đầy, nam nhi đương thời cũng khó bề sánh nổi:
“Ngàn thu nay gặp hội minh lang,
Thiên hạ ngày nay chí mở mang
Tấc đất ngọn rau tràn dưới mắt,
Đai cân bầu nước chật ven đàng!
Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa
Xót dạ thần dân chốn lửa than
Nước mắt cố cùng, trời đất biết
Biển dâu một cuộc nghĩ mà thương”.
(Thơ tiễn ông Kinh Hối nhậm chức ở Sa Đéc)
Phong cảnh mặc dầu chia đất khác Nắng mưa đâu cũng đội trời chung
Quê người tạm gửi nhành dương liễu,
Đường hoạn xin tròn phận kiếm cung..
Bên cạnh sự đoan trang, nền nếp, bà vẫn có một tác phong giao du phóng khoáng, có quan hệ rộng rãi với nhiều tầng lớp xã hội. Thời con gái cũng như khi đã có chồng con, hay lúc góa bụa, bà vẫn giữ cung cách giao tiếp tự nhiên.
Năm canh thức nhấp,năm canh những
Nửa gối so le, nửa gối chờ
Vườn én rủ ren trên lối cũ,
Canh gà xao xác giục tình xưa...
(Tự Thán khi chồng chết)
***
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng vì không được tập trung in thành sách nên nay chỉ còn tản mác một số bài thơ, như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự , Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến...Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề ...
Thơ của Sương Nguyệt Anh thường là thơ Nôm, theo thể Đường luật. Thơ của bà là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Kỳ Lục Tỉnh bấy giờ. Như:Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Họa thơ Bảy Nguyên, Họa thơ Phủ Ngọc, Họa thơ Bái Liêu, Thưởng Bạch Mai, Vịnh ni cô...
Cuộc đời Sương Nguyệt Anh đã trải qua biết bao đau khổ, nhưng nói đến Sương Nguyệt Anh, là nói đến Nữ Giới Chung, nói đến một tấm gương hoạt động cho nữ lưu Nam Kỳ buổi giao thời vào thế kỷ 19-20.
Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong, tên Bà xứng đáng được đặt tên trường và tên đường ở Sài Gòn và cả nước.
Ngày 10 tháng 10 năm 2008
tranvannamson@gmail.com
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:13:17 GMT 9
Phần I: Luân Lý Giáo Khoa Thư
GIA TỘC LÀ GÌ?
Tran Van Chi
Cha dạy con
(ảnh Quốc Văn Giáo Khoa Thư)
Bài ”Gia Tộc””là bài mở đầu nói về ”bổn phận đối với gia tộc” trong Luân Lý Giáo Khoa Thư, có tánh cách khai tâm, vỡ lòng.
Gia tộc là gì ?
Tác giả Luân Lý Giáo Khoa Thư dạy rằng :
“Người ta ai cũng có gia tộc, nghĩa là có ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, anh em, chị em. Ta khôn lớn lên, ta học tập được thành người, cũng nhờ có gia tộc””.
Gia tộc nói chung là họ hàng cùng huyết thống, mà tác giả đã kể ra thật dễ hiểu, dễ nhớ, trẻ con dễ hình dung. Tuổi thơ khó phân biệt chú bác, cô dì. Lớn lên người học trò qua thực tế cuộc sống sẽ phân biệt ra : chú là em của cha, bác là anh của cha (nói theo miền Nam); cô là chị hay em gái của cha, dì là chị hay em gái của mẹ. Tiếng xưng hô của người mình xem ra rõ ràng và thứ bậc quá. Ở Âu Mỹ họ không có được như ta, có lẽ do họ không có nếp sống, cấu trúc dựa vào nền tảng gia đình, mà nặng nề về cá nhân(?).
Ra hải ngoại, tinh thần gia tộc của người mình do hoàn cảnh, khác hẳn lúc ở quê nhà. Nhưng nói gì thì nói, người Việt mình thành công nhiều ở hải ngoại nhờ biết dựa vào nền tảng gia đình, gia tộc.
Gần một thế kỷ trước, tác giả Luân Lý Giáo Khoa Thư khẳng định: ”Ta học tập được thành người cũng nhờ gia tộc”. Xem ra giờ nầy còn đúng, nhứt là đối với người hải ngoại. Cha mẹ Việt Nam quan niệm chữ ”thành người””không phải là đủ 18 tuổi, mà phải có vợ có chồng, sanh con đẻ cái, có nhà cửa cơ ngơi... Những ai là cha là mẹ chắc chia sẻ được với tác giả của Luân Lý Giáo Khoa Thư.
Con hơn cha là nhà có phước
Người cha trong xã hội Việt Nam luôn là căn bản, có tánh cách quyết định tương lai con cái. Nên mới có câu :
Con không cha như nhà không nóc.
Con có cha như nhà có nóc
Vai trò người cha luôn tiêu biểu, gương mẫu, vạch đường cho con cái. (Trường hợp gia đình tổng thống Kennedy, tổng thống Bush ... gần giống như phong cách Việt Nam).
Tác giả Luân Lý Giáo Khoa Thư, tiểu dẫn một gia tộc như sau :
”Nhà tôi có ông bà, cha mẹ, anh em và chị em tôi. Cha tôi thì đi làm để nuôi cả nhà. Mẹ tôi thì trông nôm dạy bảo chúng tôi và coi sóc việc trong nhà. Chúng tôi lúc nào cũng nết na dễ bảo, để cho ông bà cha mẹ được vui lòng””.
Luân Lý Giáo Khoa Thư mô tả gia tộc thời xưa chỉ có người cha đi làm, nay thì khác, cả cha mẹ phải đi làm, nhứt là ở Mỹ, mới có đủ lo cho gia đình. Và may mắn thay các gia đình Việt Nam nào còn ông bà, ở nhà trông nôm cháu, đóng vai ”nội tướng”. Cái nầy người Mỹ khác ta, họ không có cảnh bà trông cháu.
Việc dạy dỗ con cái ở nhà thường là nhiệm vụ của người mẹ, nên tánh tình, nếp sống, ăn ở đối xử, nói chung của con cái chịu ảnh hưởng nơi người mẹ rất nhiều.
Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà
Người mình dạy con cái trước hết là phải vâng lời, nết na, dễ bảo, lễ phép.
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cải cha mẹ trăm điều con hư.
Hay
- Áo mặc sao qua khỏi đầu.
Giáo dục ở đây, Huê Kỳ, khuyến khích trẻ con ”phát triển tự do”. Ở một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa như thế mà người Việt Nam mình biết sống dựa vào gia tộc nên gia đình bền vững.
Trong phần kết Luân Lý Giáo Khoa Thư viết :
“Kể cả trong họ thì có chú bác, cô dì, anh em, chị em họ, là những người cùng máu mủ với tôi””.
Gia tộc kết nối với nhau bằng máu mủ tức là huyết thống.
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Qúi báu thay là tình nghĩa do huyết thống gia đình, gia tộc, và quý hơn nữa là tình nghĩa đồng hương, đồng bào của người Việt Nam.
Nhưng nếu cái gì cùng ”đồng hương ủng hộ đồng hương” hay ”người Việt bầu cho người Việt””thì xem chừng quá đáng chăng ?
Tinh thần gia tộc là tốt, nhưng nếu quá đáng sẽ thành hẹp hòi, cuộc bộ, địa phương !
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:15:58 GMT 9
Phần I: Luân Lý Giáo Khoa Thư
HỌC HÀNH CỐ CHÍ LẬP THÂN NÊN NGƯỜI
Xưa nước ta lệ thuộc Tàu trên 1000 năm. Họ đem chữ Hán dạy ta nên gọi là Hán tự. Đời này qua đời khác, ta dạy lẫn nhau ... Lâu ngày người mình đọc trại theo giọng Nam, không đúng giọng Tàu, viết thì hình thù như chữ Hán ...
Lối học riêng đó của dân ta gọi là học Chữ Nho. Vì lối học thời ấy, mạnh ai nấy học, nấy dạy, triều đình cử quan Đốc Học để quản lý học trò ở mỗi tỉnh, và quan Giám Thọ hay huấn đạo ở các phủ, huyện sắp đặt sĩ tử đi thi Hương, chọn nhân tài ra giúp đất nước.
Lúc Tây chưa vào, cả xứ Lục Tỉnh từ Bình Thuận trở vào chỉ có một trường thi Gia Định, cụ Nguyễn Đình Chiểu đâu Tú Tài ở Gia Định năm 1843, đời Thiệu Trị năm thứ 3(1).
Khi Tây chiếm Gia Định, rồi 3 tỉnh miền Đông họ bắt đầu dùng chữ quốc ngữ (loại chữ lấy mẫu tự la-tin a,b,c ... phiên âm tiếng Việt) thay thế chữ Hán, trong giao dịch và giáo dục.
Đến 18-9-1924 Toàn Quyền Đông Dương là Merlin ra quyết định đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở cấp Sơ Học trên toàn nước Việt Nam ta. Bài ”Trường học” trong Luân Lý Giáo Khoa Thư là nói về trường học trong bối cảnh sau 1924; dạy và học chữ quốc ngữ.
Ở trong Nam, Tây thiết lập hệ thống làng xã rất sớm; xây dựng nhà việc, lập trường Sơ Học, chợ và phố xá ...
Mỗi trường Sơ Học thường có 3 phòng cho ba lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Sơ Đẳng. Trường xây dựng bằng gạch, lớp ngói cao ráo, sạch sẽ, vững chắc. Trường học xây dựng ở khu thị trấn gần chợ, phố, cạnh sông ... thuộc khu phố, thị tứ, đông dân cư.
Trường học là một hình ảnh của văn minh Tây Phương, rực rỡ giữa làng mạc, nhà cửa đơn sơ, lạc hậu của ta, có giá trị chinh phục lòng người không ít.
Tác giả tả cảnh trường học ở làng như sau :
“Đồng hồ sắp đánh tám giờ. Học trò tấp nập đi học , lũ năm lũ ba, tay cặp sách, vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Đến trường ai nấy vào học, các lớp học rộng rãi, mát mẻ".
Hồi đó học trò đi học ngày hai buổi, nghỉ ngày thứ Năm và Chủ Nhựt. Bấy giờ, ít ai có đồng hồ. Làm việc gì cũng canh tiếng gà gáy, nhìn con nước lớn nước ròng, dòm mặt trời . . . mà đoán định thời gian. Chùa thì có giờ công phu. Trường học thì có trống báo giờ. Tây vào họ đem đến cho mình một dụng cụ đo thời gian gọi là cái đồng hồ. Cái đồng hồ xưa treo trên vách , có quả lắc gọi là “trứng dái” đưa qua đưa lại kêu tíc tắc. Mặt đồng hồ có hai cây kim chỉ giờ và phút. Đồng hồ chạy được nhờ có cuộn dây thiều. Kim đồng hồ quay hết 24 tiếng gọi là một ngày, một đêm bằng vòng quay của trái đất là : 23 giờ , 56 phút, 4 sao (tính tròn là 24 giờ) . Mỗi giờ đồng hồ gõ một tiếng (trong Nam không kêu là đánh) và cứ 15 phút có tiếng nhạc nên gọi là đồng hồ đờn.
Ngày nay trẻ con sanh ra đã nhìn thấy cái đồng hồ : nào là đồng hồ báo thức (reo) , đồng hồ đeo tay, bỏ túi ... nên không có được cái cảm xúc của học trò thời Luân Lý Giáo Khoa Thư.
Hồi nhỏ học trò đến trường rất sớm để chơi đánh đáo, đá cầu, bắn cu li; con gái thì chơi nhảy dây, đánh tên (đánh đũa), nhảy cò cò. v . v. . .
Nghe trống đánh ba hồi , lại ba dùi, thì chạy ùa về trường, xếp hàng mà mặt mũi còn mồ hôi, còn luyến tiếc cuộc chơi...
Cái trường Sơ Học của tôi hồi nhỏ ở làng Tân Hòa, quê hương kháng chiến của Trương Công Định , nền cao tới bụng, tam cấp bước lên bề thế, cửa cái có hai cánh to, cửa số lá sách mở rộng, sáng sủa. Mái lợp ngói đỏ, nền lót gạch Tàu màu đỏ đậm . . .
Trong khi đó trường học trong xóm mà bọn tôi học vở lòng , học ráp vần xuôi, vần ngược thì nghèo nàn, thầy trò nhố nháo ...
Hình ảnh trường làng thời xưa, luôn luôn là một chút gì thơ mộng, không sao tả hết và có lẽ mỗi người
trong chúng ta, ai đã từng trải qua, từng sống mới cảm, thông nổi ...
Hình ảnh ấu thơ êm đềm dưới ngôi trường làng có bóng cây to, cạnh ao làng, nay không còn tìm lại được nữa !
Chúng ta nghe Luân Lý Giáo Khoa Thư viết tiếp :
“Thầy giáo hết lòng dạy các cậu, mà các cậu học hành rất chăm chỉ. Sự học hành cần lắm. Ta phải rủ nhau đi học. Có học mới khôn được”.
Hồi xưa học trò trong Nam ôm cặp bằng đệm, đội nón đệm, mặc áo bà ba, quần cụt, chân đi đất. Sau này mới có áo sơ mi trắng, cặp da, nón nỉ.
Giấy viết hồi đó là giấy manh, mua về phải gạch hàng, sau này có tập vở cahier khổ nhỏ :32, 50, 100 trang.
Học trò xưa viết chữ rất đẹp. Thầy giáo dạy nắn nót từng nét. Viết bằng cây viết có ngòi, mực tím, nét chữ do đó rất sắc sảo.
Thầy giáo xưa rất chăm chỉ là mẫu mực cho xã hội. Thầy rất gần gũi với cha mẹ, làng xóm.
- Không thầy đố mày làm nên.
hoặc
- Muốn sang thì bắt cầu kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
Hồi đó thầy giáo được đào tạo thế nào ?
Ban đầu được chọn từ những người đậu Tiểu Học, hoặc nếu không đậu thì phải có chữ viết tốt. Họ ăn lương làng xã hoặc ăn lương tỉnh. Cả hai loại quyền lợi đều thua các thầy ký, thầy thông mặc dầu xuất thân như nhau.
Hồi Tây mới mở trường làng, dân không ai chịu cho con đi học; sợ triều đình hoặc sợ Tây bắt con đi Tây luôn ...
Do đó ban đầu làng bắt buộc, cưỡng bức cha mẹ đem con đi học; Dù vậy cũng không đủ số học trò cho mỗi lớp.
Kết luận bài ”Trường học” tác giả Luân Lý Giáo Khoa Thư viết :
”Khuyên con, con sớm chuyên cần.
Học hành có chí lập thân nên người””.
Học hành quả là cần thiết. Nó là chìa khóa mở cửa trí tuệ con người.
Cha mẹ Việt Nam ta xưa , dầu ít học, nhưng ai ai cũng lo toan cho con mình đi học, dù học chữ Hán, Chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Tây ...
Thế mới thấy rằng dân tộc mình xưa nay vốn hiếu học và rất coi trọng người trí thức, người có chữ nghĩa.
Sĩ nông công thương.
Trong nếp thang nghề nghiệp, sĩ xếp đầu, người trí thức, kẻ sĩ luôn được đề cao.
Nói về thứ bậc trong xã hội thì người Thầy chỉ đứng sau Vua mà thôi.
Quân, Sư, Phụ.
Sang hải ngoại cái tinh thần hiếu học của người mình cũng đã được khẳng định, làm rạng danh dân Việt vậy.
(1) Xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh ban đầu chỉ có trường thi Tú Tài ở Gia Định và Văn Thánh Miếu ở Bình Dương. Năm 1863, ba tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm, cụ Phan Thanh Giản là Khâm Sai Đại Thần, được vua Tự Đức cử làm Kinh Lược 3 tỉnh Miền Tây, đồn trú tại Vĩnh Long. Cụ cho lập :
- Trường thi Tú Tài tại An Giang (Châu Đốc)
- Văn Thánh Miếu tại Long Hồ (Vĩnh Long)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:19:38 GMT 9
Nấm mộ ông Thầy Quảng
BS Trần Nguơn Phiêu
Trong số báo Xuân Ất Dậu 2005 của Thế Kỷ 21, tác giả Trần Đông Phong có bài “...Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm”. Trên hai trang 95-96, tác giả tường thuật về việc Bộ Trưởng Bộ Kiến Thiết, Hoàng Hùng, năm 1956, đã nhận được chỉ thị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho sửa sang “đàng hoàng tươm tất” một nấm mộ vô chủ ở vùng Cái Tôm, Cao Lãnh. Người phụ trách việc trùng tu đã được các bô lão địa phương cho biết, đó là ngôi mộ của Phó bảng Huy, được chôn cất từ năm 1929.
Thật ra, Bộ trưởng Hoàng Hùng không phải là người đầu tiên đã đứng ra sửa sang lại ngôi mộ này. Dân địa phương cũng đã biết từ lâu gốc tích của người nằm dưới mộ, được gọi là ông Thầy Quảng. Thân hào nhân sĩ thông hiểu sự việc gọi: đây là mộ thân sinh ông Nguyễn Ái Quốc.
Người viết bài này vốn thuộc vùng Cao Lãnh, muốn nhân cơ hội, góp thêm vài chi tiết liên quan đến nấm mộ mà một số người đã tưởng là vô chủ. Bài viết có thể sẽ không làm vừa lòng những người hiện nay đang tô rồng vẽ phượng để mong xây dựng một loại triều đại Hồ Chí Minh, nhưng mong rằng đây là một vài dữ kiện để làm tài liệu cho các nhà biên khảo trong tương lai.
Cao Lãnh thường được người miền Nam biết là một quận thuộc tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp vốn chỉ là một tỉnh nhỏ, nằm bên sông Tiền Giang. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vốn một quan chức miền Trung, là người đầu tiên đã có nhiều quyết định phân chia lại vị trí các tỉnh miền Nam theo các kinh nghiệm hành chánh của ông, khiến những người cố cựu vùng sông Cửu đã lắm khi bàng hoàng kinh ngạc. Cao Lãnh, một địa danh có tiếng hào hùng cách mạng chống Pháp, nhờ vị trí ven biên Đồng Tháp Mười rộng lớn bát ngát. Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, quận được tách ra thành tỉnh Kiến Phong. Tỉnh Sa Đéc nhỏ bé lại bị chia năm xẻ bảy, các quận khi được sát nhập vào tỉnh Vĩnh Long, khi được hoàn trở lại, lận đận một thời!
Vào thời khoảng các thập niên 1920 -1940, thực dân Pháp đã lưu đày, đưa một số các nhà cách mạng từ Bắc hoặc Trung vào các tỉnh miền Nam. Cụ Dương Bá Trạc bị an trí ở An Giang, Phan Châu Trinh ở Định Tường... Cụ cử Vũ Hoành làm Thủ quỹ cho Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục nên bị Pháp bắt và lưu đày ở tỉnh lỵ Sa Đéc. Dân Sa Đéc đều biết tiếng ông và thường gọi tắt là ông Cử Hoành. Ông sống thanh bạch, làm nghề hốt thuốc Bắc và cư ngụ tại đường Rue des Pêcheurs, bây giờ là đường Nguyễn Trãi. Nhà ông thường có nhiều khách ra vào, phần lớn là những người đến xem mạch xin toa nhưng cũng là nơi nhiều nhà hoạt động cách mạng đến liên lạc. Gần cổng nhà ông, thực dân Pháp thành lập một quán nước nhỏ, cốt để nhân viên mật thám hằng ngày có nơi theo dõi các hoạt động của ông.
Ông bác của người viết bài này là Trần Hàm Trung vốn người Hà Tỉnh vì tham gia Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, cũng bị Pháp lưu đày ở Nha Mân, Sa Đéc. Ông nội tôi, thuộc hạ của Phan Đình Phùng, sau khi phong trào bị tan rã, trở về nhà thì thôn làng đã bị đốt phá . Ông quyết chí rời bỏ quê, đi bộ vào Nam tìm gặp lại người anh. Ôâng đã gầy dựng cơ nghiệp, vừa dạy học vừa làm ruộng vườn ở xã Mỹ Long, trong quận Cao Lãnh. Vào thập niên 1920-1930, ở Mỹ Long, cấp Tiểu học chỉ có trường dạy đến lớp Ba. Muốn tiếp tục học, phải qua Sa Đéc. Các chú của tôi vì vậy đều được ông nội tôi gởi tá túc ở nhà ông Cử Hoành để đi học. Các cụ cách mạng bị lưu đày ở miền Nam đều rất khắng khít với nhau, coi nhau như ruột thịt.
Có một năm, gần ngày Tết, ông nội tôi sai hai chú tôi đem trái cây, cam quít của vườn nhà và gạo, nếp, qua Sa Đéc để tặng ông Cử Hoành là nơi hai chú đã có thời được lưu trú và dạy dỗ. Được cho tháp tùng ra tỉnh lỵ, thằng bé nhà quê là tôi lúc ấy mới có được dịp, lần đầu tiên, biết bánh chưng, thịt đông, chả cá... là những món chưa từng được nếm qua. Vì thích khẩu nên tôi ăn một mạch đến gần ba chén cơm. Chú thứ Sáu của tôi thúc cùi tay nhắc: “Ba chén thôi nghe không?”. Hai chú tôi đã từng sống trong gia đình ông Cử nên biết thông lệ ở gia đình này. Vì nhà luôn luôn tiếp nhiều khách mà khả năng tài chánh lại hạn hẹp nên nhà bếp thường hay hỏi trước mỗi thực khách : trong các buổi ăn, thường dùng bao nhiêu chén cơm để lo liệu nấu cho vừa đủ! Ông Cử là một nhà nho, có nếp sống rất chững chạc. Ngồi vào bàn ăn của ông, lúc nào cũng phải ăn mặc tươm tất. Riêng ông có cái thế ngồi đặc biệt: lúc nào cũng giữ lưng thẳng đứng, ngay ngắn. Ông thường nói: “Tôi không luồn cúi ai nên lưng lúc nào cũng thẳng”.
Sau buổi ăn ngày hôm đó, ông ra lịnh cho hai chú tôi: “Chúng mày trước khi về nhà, phải nhớ ghé giẫy mả Cụ Phó bảng như mọi năm. Tập thêm cho thằng cháu nhỏ này phụ việc. Mà phải làm cho tươm tất. Nếu làm cho lấy có. không đàng hoàng, tao sẽ “róc xương” chúng mày”.
Đó là lần đầu tiên tôi dược biết về nấm mộ đơn sơ gần Miễu Trời Sanh, cạnh nhiều ngôi mộ hoang khác, ở xã Hòa An, Cao Lãnh. Hai chú tôi cho tôi biết đó là mộ ông thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Trên đường lưu lạc vào Nam sau khi mất chức ở triều đình Huế, ông đã được ông Cử Hoành rước về Sa Đéc, tìm cho nơi tá túc để hành nghề thuốc. Năm 1929, ông qua đời và được chôn cất tại đây. Hằng năm, nếu ông Cử Hoành không đánh tiếng, ông nội tôi vẫn bắt các chú tôi làm công việc chỉnh trang lại mả này mà dân chúng địa phương gọi là mả ông Thầy Quảng. Các chú tôi cũng lo phát cỏ luôn cho các mả hoang khác, thắp hương cho mỗi mả trước khi về lại nhà.
Năm 1945, khi khởi đầu cuộc Kháng Chiến Nam Bộ, Tướng Nguyễn Hòa Hiệp đã rút quân Đệ Tam Sư Đoàn về trú đóng Cao Lãnh. Được ông Cử Hoành chỉ dẫn, Nguyễn Hòa Hiệp thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã đưa các nhân viên bộ tham mưu đến chào kính, viếng mộ thân phụ Hồ Chí Minh. Ông Cử Hoành đã cùng gia đình rời thị xã Sa Đéc, tản cư trên một chiếc ghe và đã qua đời năm 1946 ở Rạch Tân Trường thuộc Xã Mỹ Hội, Cao Lãnh.
Sau này, do sự tình cờ và cũng do liên hệ gia đình bên vợ của tôi nên tôi được biết thêm về những ngày thân sinh ông Nguyễn Ái Quốc khi ông đến trú ngụ ở Sa Đéc. Như nhiều người đã viết trên báo chí, sách vở, tên ông là Nguyễn Sinh Sắc, quê Nghệ-Tĩnh, đỗ Phó bảng và được Triều đình Huế cử làm quan phụ trách một địa phương ở Bình Định. Trong một cơn say rượu, ông đã lỡ tay đánh chết một can phạm nên bị Triều đình cách chức. Nguyễn Ái Quốc lúc ấy đang trên đường bôn ba ở hải ngoại, đã có viết đơn bằng Pháp văn gởi cho Khâm sứ Pháp ở Huế xin can thiệp để cha được trở lại quan trường nhưng việc đó không có kết quả.
Ông Nguyễn Sinh Sắc đã lưu lạc vào Nam và đã có nhiều lần có những cơn say rượu trên đường phố Sài Gòn. Nhà báo Diệp Văn Kỳ đã nhiều phen giúp đỡ khi ông bị khó khăn vì say rượu nơi công cộng. Khi biết được tin ấy, cụ Cử Hoành đã cho người tìm đưa ông về Sa Đéc. Nơi đây, ông Nguyễn Sinh Sắc được giới thiệu đến tá túc ở gia đình một người có hằng sản ở thị xã là ông Võ Tôn Lập. Ông Cử Hoành có người vợ kế. Bà này là cháu của bà Hồ Thị Xuyến, vợ lẽ của ông Võ Tấn Lập. Ông Nguyễn Sinh Sắc được cho nương náu ở phần sau của căn nhà, ngày nay mang số 17/7 đường Lê Lợi, Thị xã Sa Đéc. Sau 30-4-1975, có thể vì gia chủ căn nhà này là một sĩ quan quân đội VNCH đang bị đi “cải tạo”, chánh quyền địa phương thời đó lại ghi nơi ông Nguyễn Sinh Sắc từng trú ngụ là nhà Bà Chín Đường, nằm ở góc đưởng Rue des Pêcheurs và Quai Tân Quy Đông(?). Về sau, phối kiểm lại, chánh quyền có ý định lấy nhà 17/7 đường Lê Lợi làm nhà “Truyền thống” và định gắn Bảng Tri Ân. Nơi đây, ông Nguyễn Sinh Sắc đã từng hành nghề coi mạch. hốt thuốc Bắc và cũng luôn thể, dạy chữ Nho cho con cháu gia chủ. Trong gia đình này, con cháu có lệ gọi cha mình là Thầy. Vì thế nên ông Sắc được mọi người gọi là Thầy Quảng vì ông từ xứ Quảng vào Nam. Người vợ chánh của gia chủ có tên là Trương Thị Sắc nên ông Nguyễn Sinh Sắc đã đổi tên thành Nguyễn Sanh Huy. Tên này ông dùng để tiện cho các tiệm thuốc Bắc ghi trong sổ để hưởng tiền hoa hồng khi các bịnh nhân đem toa thuốc của ông đến các tiệm này để hốt thuốc. Đó là một thông lệ thương mãi của các tiệm thuốc người Tàu. Tiệm thuốc Quản Hòa Sanh ở chợ Sa Đéc có giữ một sổ ghi chú nhiều lần tên ông Nguyễn Sanh Huy.
Ông Nguyễn Sanh Huy có chấm một số tử vi cho cháu gia chủ khi người cháu này ra đời trong thời gian ông Huy đang trú ngụ. Người cháu này tên Võ Ngọc Lang, khi lớn lên là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp khóa 4 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức năm 1953. Tuy đã được giải ngũ vào tháng 11 năm 1974, sau 30-4-1975, ông Lang vẫn bị bắt phải đi “học tập”cho đến tháng Tư năm 1982 mới được thả! Qua Mỹ theo diện HO, ông đang cư ngụ ở Torrance, California và hình như vẫn còn giữ được lá số tử vi viết tay của ông Thầy Quảng.
Tuy được trú ngụ trong gia đình ông nội của ông Võ Ngọc Lang, nhưng ông Nguyễn Sanh Huy lại thân thích, tâm đầu ý hợp với ông ngoại của ông Võ Ngọc Lang tên Hà Văn Ngọ. Nhà ông Ngọ ở miệt Chợ Cồn, tỉnh lỵ Sa Đéc. Ông Nguyễn Sanh Sắc thường đến Cao Lãnh để xem mạch, hốt thuốc cho các gia đình nghèo ở đó. Các gia đình khá giả khác thường chọn các Thầy có gia sản ở địa phương và ít khi mời ông Thầy Quảng. Vào thời đó và cả cho đến cuối thập niên 1940, sự giao dịch giữa Sa Đéc, Cao Lãnh thường được thực hiện bằng loại đò đạp. Đây là một loại đò khá lớn, chuyên chở được trên hai mươi hành khách và hàng hóa. Đò di chuyển do sức đẩy của một bánh xe nước. Bạn đạp đò ít nhất cũng phải đến bốn người. Chợ Cồn là bến đò quan trọng. Ông Nguyễn Sanh Huy thường lên, xuống đò ở bến này và thường nhân dịp, ghé đàm đạo, đánh cờ với ông ngoại của ông Lang. Thêm nữa, mỗi khi đi Cao Lãnh, ông Thầy Quảng thường chỉ ở một vài ngày và khi về thường đem các loại dược thảo ông tìm hái được ở Cao Lãnh, giao lại nhờ ông ngoại của ông Lang phơi sấy để làm thuốc cho thân chủ nghèo.
Một hôm, ông ngoại của ông Lang nhận được thơ do chủ đò đạp đem về từ Cao Lãnh. Ngươi đem thơ đã lơ đãng quên đưa thơ khi cập bến Chợ Cồn nên đã đưa trễ khi về đến bến chót ở chợ Sa Đéc. Trong thơ, người cho ông Nguyễn Sanh Huy tá túc mỗi khi ông đến Cao Lãnh, báo cho ông Ngọ biết tin ông Huy đang bị bịnh nặng. Vì không biết dùng xe đạp, ông ngoại của ông Lang đã đi bộ đến Cao Lãnh để thăm bạn. Vào chiều tối, lúc ông đến nơi thì ông Thầy Quảng đã chết rồi, thân mình còn ấm! Ông cùng chủ nhà tri hô lên, trình cho Hương Quản. Lục giấy tờ trong mình, thấy tên là Nguyễn Sinh Sắc, với số tiền hơn một đồng bạc Đông Dương Ngân Hàng, một số tiền khá lớn thời bấy giờ nhưng chưa đủ để tống táng. Bà con lối xóm đã quyên góp thêm để đủ tiền mua một hòm rẻ để liệm. Ông ngoại ông Lang đã vào Miễu Trời Sanh, xin ông Chủ Chùa cấp cho một mảnh đất nhỏ, mượn luôn đòn và dây luột để khiêng đi chôn cất. Theo tục lệ cổ truyền, đầu hòm đã được chôn hướng về phía mặt trời lặn để hồn sớm được siêu thăng.
Nấm mộ được chôn gần với nhiều mộ vô danh khác nhưng mộ Thầy Quảng đã được nhiều gia đình trong giới cách mạng Sa Đéc chăm lo. Có một giai thoại lý thú ít người biết là vào khoảng 1946, sau khi Thỏa Hiệp Án (Modus Vivendi) được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet sau Hội nghị Fontainebleau ở Paris, viên Quận trưởng quận Cao Lãnh là Trung úy người Pháp tên Menut đã cho người đắp đất, làm cỏ cho ngôi mộ!. Trước đó, một nông dân tên Tư Quyết, có việc đi từ Sa Đéc về Cao Lãnh bằng xe ngựa. Cùng đi trên có một lính Lê Dương. Anh lính này có trang bị một súng máy. Khi gần đến vùng Cao Lãnh là nơi tương đối an toàn, anh lính lơ đĩnh bỏ súng xuống trên sàn xe. Tư Quyết nhân cơ hội, giựt súng lủi nhanh vào xóm và đem nạp cho ủy ban kháng chiến địa phương. Để chứng tỏ tinh thần tôn trọng thỏa ước vừa được ký, ủy ban cho người đánh tiếng với viên Quận trưởng và cho người đem trả lại súng. Việc Trung úy Menut cho người sửa sang ngôi mộ đã chứng tỏ ông ta cũng biết ngôi mộ là mộ của thân phụ Hồ Chí Minh.
Sau ngày 30-4-1975, vào khoảng 1976, tất cả các nấm mồ phía sau Miễu Trời Sanh, nơi an nghỉ cuối cùng của những người tứ cố vô thân được chôn cất nơi đây đã được chánh quyền mới bốc lên đem cải táng nơi khác. Riêng mộ ông Thầy Quảng giờ đây được xây cất huy hoàng bằng đá hoa theo mô hình một lăng tẩm rộng lớn. Cây kiểng quý được chăm sóc từ nhiều đời của dân chúng đã được đem cốâng hiến để trang trí trong lăng. Băng ghế công viên do các Công ty ghi tặng là để khách tứ phương có nơi dừng lại nghỉ chân. Cơ quan địa phương trong xứ đều đem sản phẩm quý báu về đây chưng làm kỷ niệm. Cây cối, thư viện, nhà cửa, đường đi... đã được bố trí rất mỹ thuật để nơi đây được xứng đáng vớùi danh xưng mới: Lăng Cụ Phó Bảng.
Từ một nấm mộ đất nhỏ đơn sơ, không bia, không tường vôi, đá chắn, giữa những nắm mồ vô chủ, mộ ông Thầy Quảng giờ đây đã trở thành một lăng tẩm uy nghi, rộng lớn, một công trình kiến trúc mỹ thuật. Các nấm mộ vô danh đã được dời đi cải táng nơi xa nào đấy để lấy đất xây lăng Cụ Phó Bảng. Tuy vậy, cầu mong sao cho hương linh của những nấm mộ hoang trước kia, nếu chưa được siêu thoát và hiện đang còn vất vưởng quanh Lăng, đã được Cụ Phó Bảng cho họ được tá túc trong lăng của Cụ, như ngày nào Cụ đã được những tấm lòng người miền Nam cho tá túc, trên bước đường lưu lạc của Cụ.
Trần Nguơn Phiêu
Amarillo, Texas
Tết Ất Dậu, 2005
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:23:14 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:24:53 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:25:59 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:27:33 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:28:39 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:29:39 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:30:30 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 2:31:46 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 17:57:04 GMT 9
Sài Gòn: Hỏi – Đáp
· Bưu cục đầu tiên của Việt Nam ở đâu?
Ngày 14-4-1859, đại tá hải quân Pháp D’Ariès thành lập tại Sài Gòn một bưu cục để liên lạc với chính phủ Pháp và nhận chuyển một số thư từ của binh lính Pháp về nước. Và đó cũng là bưu cục đầu tiên ở nước ta.
· Con tem đầu tiên ở Việt Nam ấn hành năm nào?
Năm 1863, chính quyền Pháp phát hành ở Sài Gòn con tem hình vuông, giá 0,1 đến 0,4 franc. Trên tem vẽ hình chim diều hâu, biểu tượng của hoàng đế Napoléon.
· Người phụ nữ Sài Gòn đầu tiên được in hình lên tem năm nào?
Như chúng ta đã biết, năm 1863 ngành bưu hoa ở Nam Kỳ mới phát hành con tem đầu tiên, hình vuông. Theo nghiên cứu của ông Thái Văn Kiểm trong quyển Lịch sử bưu hoa Việt Nam (Sài Gòn 1964) thì mãi đến năm 1920 mới phát hành loại tem có hình phụ nữ miền Nam, tóc búi cao, giá 0,04 đồng.
Trong cuốn Catalogue Thiaude - Timbres - Post ngoài bìa có ghi rõ: 24, rue du 4 - Septembre, Paris 2e-Ric. 14-27, trong mục về tem Indochine, tr. 230 và 231 có in hình ba con tem vẽ phụ nữ miền Nam. Con tem thứ nhất giá 1 cent là chân dung một phụ nữ hình nghiêng và con tem giá 40 cent vẽ chân dung trực diện, hai con tem này in năm 1907, rồi mãi đến năm 1919 mới có con tem phụ nữ hình nghiêng giá 4 cent. Theo tác giả Sài Gòn năm xưa, thì đó là hình của cô Ba, con thầy thông Chánh.
· Điện báo hoạt động lần đầu tiên năm nào?
Đường dây điện báo Sài Gòn - Biên Hòa dài 28km hoàn thành ngày 27-3-1863 là loại đường dây hữu tuyến đầu tiên; có hai đoạn cáp ngầm qua sông Sài Gòn (ở Bình Triệu) và sông Đồng Nai (gần Biên Hòa) Ngày 17-4-1863, đường dây Sài Gòn - Chợ Lớn dài 7km cũng làm xong.
Năm 1884, bắt đầu liên lạc Sài Gòn - Huế - Hà Nội bằng điện báo qua dây cáp ngầm Vũng Tàu - Đồ Sơn.
· Người Sài Gòn dùng điện thoại từ khi nào?
Năm 1878 bốn chiếc máy điện thoại đầu tiên theo kiểu Bell được mua từ Singapore về, đặt đường dây liên lạc giữa dinh Thống đốc với Sở Điện tín Sài Gòn. Lúc bấy giờ chưa hình thành hệ thống phục vụ công cộng. Mãi tới ngày 1-7-1894 hệ thống điện thoại nội hạt ở Sài Gòn mới được lắp đặt, phục vụ cho dân chúng. Sau đó phát triển nối liền với Chợ Lớn - Biên Hòa - Bà Rịa - Vũng Tàu.
Năm sau (1895), hệ thống điện thoại ở Chợ Lớn cũng khai trương (tại Hà Nội hệ thống điện thoại công cộng đến năm 1903 mới có). Tuy nhiên, chưa có hệ thống điện thoại tự động, mỗi máy thuê bao có một số. Ở trung tâm điện thoại luôn luôn có nhân viên thường trực cắm phích liên lạc giữa hai số máy theo yêu cầu.
Đường dây điện thoại Đông Dương liên lạc giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia được đưa vào sử dụng năm 1889.
Mãi đến năm 1936 mới có điện thoại tự động đầu tiên. Trên mỗi máy đều có một bộ phận để quay hoặc bấm số. Người Pháp đã mang điện thoại tự động 2.000 số, kiểu R6 lắp đặt, sử dụng ở Sài Gòn. Như vậy người dân Sài Gòn đã biết sử dụng điện thoại trên 100 năm.
· Vài nét về bốn nhân vật trong “Tứ đại gia” của Sài Gòn xưa?
Dân gian còn lưu truyền câu “Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”.
1. Sĩ là Lê Phát Sĩ, thuở nhỏ được các linh mục người Pháp cho đi học trường dòng Penang (Mã Lai). Học xong, trở về nước, Sĩ không thành tu sĩ mà làm công chức cho chính quyền Pháp. Sau đó Sĩ gia nhập làng Tây lấy tên là Philippe và làm việc tại Tân An (Long An). Trận bão năm Giáp Thìn (1904) tàn phá miền Tây Nam Kỳ, người chết nhiều, ruộng ngập nước bỏ hoang không ai cày cấy, Pháp đem bán rẻ, không ai có tiền mua. Sĩ bỏ tiền ra mua vài chục ngàn mẫu tây. Khi hưu trí Sĩ được Pháp phong cho chức “Huyện hàm” vì vậy người đời gọi là Huyện Sĩ. Khi trở nên giàu có nhất vùng, Sĩ đã bỏ tiền ra xây nhà thờ họ đạo Chợ Đũi (góc đường Nguyễn Trãi - Tôn Thất Tùng, Quận 1) mà nhiều người hiện nay vẫn gọi là nhà thờ Huyện Sĩ. Con gái út của Sĩ là Lê Thị Bình lấy Nguyễn Hữu Hào sinh Nguyễn Hữu Thị Lan. Lan sau khi du học về lấy hoàng đế Bảo Đại và trở thành Nam Phương hoàng hậu.
Phương là Đỗ Hữu Phương, gốc người Minh Hương, làm Tri phủ Chợ Lớn dần dần leo lên tới chức Tổng đốc. Phương biết chữ Hán, nói bập bẹ được tiếng Tây, trong nhà có treo câu đối hoành phi sơn son thếp vàng: Đất Chợ Lớn có nhà họ Đỗ. Đỗ một nhà: ngũ phúc tam đa.
Y khoe năm con trai đều hiển đạt. Tương truyền rằng, nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị khi nghe Phương thách đối, ông bèn đối lại rằng:
Cù lao Rồng có lũ thằng phung. Phung một lũ: cửu trùng bát nhã.
Phương đọc xong giận tím người, đỏ mặt tía tai nhưng cũng phục tài của ông Cử Trị. Phương cũng là người bỏ tiền ra xây trường Collège de Jeunes files Indigènes vào năm 1915 - mà dân Sài Gòn thường gọi là trường Áo Tím (trường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay). Trước đây, tại quận 5 có con đường mang tên Tổng đốc Phương, ngày 14- 8-1975 đổi lại thành đường Châu Văn Liêm.
Xường tên thật là Lý Tường Quan. Vốn là người Minh Hương lánh nạn nhà Thanh sang Nam kỳ, gia nhập Việt tịch, theo đạo công giáo. Xường học trường thông ngôn ra làm việc cho nhà nước Pháp. Sau khi về hưu buôn bán thịt, xuất khẩu, đầu tư đất đai xây biệt thự trở nên giàu có nhất trong vùng, dân chúng còn gọi là “bá hộ Xường”. Sau khi chết tài sản để lại con cháu tiêu xài phung phí hết.
Định là Trần Hữu Định người Việt, gốc điền chủ ở Chợ Lớn, làm giàu bằng nghề mở tiệm cầm đồ, kinh doanh đất đai, xuất nhập vải sợi. Giàu lên nhanh chóng vì biết chụp thời cơ những lúc hàng hóa khan hiếm. Có biệt thự ở nhiều nơi. Cũng như bá hộ Xường, danh xưng bá hộ Định là do dân Chợ Lớn thấy Định giàu có nứt đố đổ vách nên gọi như vậy. Khi chết đi, con cháu không biết giữ của đã tiêu xài xoá sạch vết tích của nhà triệu phú này.
· Cảng biển lớn nhất Việt Nam?
Được xếp hàng thứ 8 trong số các cảng của nước Pháp, hàng thứ 3 trong số các cảng của thuộc địa Pháp (sau cảng Oran và cảng Alger, đều thuộc Algérie) và hàng thứ 12 trong số các quân cảng của Pháp về mặt trọng tải, cảng Sài Gòn đã từng có một vị trí trọng yếu đối với nền kinh tế của Đông Dương. Ngày nay, nó lại càng giữ vai trò đặc biệt, trở thành đầu mối giao thông quan trọng của Đông Nam Bộ với thế giới. Mỗi năm lượng hàng hóa lưu chuyển qua cảng Sài Gòn khoảng 10 triệu tấn, chiếm 10% GDP của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 22-2-1860, ở Sài Gòn đã bắt đầu có hoạt động xuất nhập khẩu các loại hàng hóa do một số tư sản người Hoa ở Singapore sang nhận thầu. Một hệ thống cầu tàu bằng gỗ dài 1.800m trên bờ sông Sài Gòn được xây dựng để bốc xếp hàng hóa, xuất khẩu lúa gạo.
Tháng 2-1861, hãng vận tải Hoàng gia (Messageries Impérial) được chính phủ Pháp chỉ định phụ trách tuyến đường Viễn Đông đã quyết định xây dựng cơ sở ở Sài Gòn. Hãng cử người sang khảo sát và tìm địa điểm xây dựng cảng. Ngày 14-10-1861, kết quả được gửi về Pháp và một kế hoạch thực hiện được đề ra. Ngày 31-12-1866, Doumergue, tổng đại diện của hãng đã làm đơn xin lô đất ở góc đường Stratégique (nay là đường Lê Thánh Tôn và đường Nguyễn Thị Minh Khai). Ngày 5-2-1882, hãng lại xin thêm ba lô đất khác: một lô ở phía bắc của rạch Thị Nghè, sát sông Sài Gòn; một lô ở bờ nam rạch Thị Nghè (khoảng Sở Thú ngày nay); một lô ở ngã ba sông Sài Gòn với rạch Bến Nghé (cột cờ Thủ Ngữ).
Ngày 28-3-1862, Ginette, Tổng thanh tra của hãng xin đổi lô đất ở phía bắc rạch Thị Nghè lấy lô đất nhỏ hơn nhưng có vị trí thuận lợi hơn, là khu vực bến Nhà Rồng hiện nay. Ngày 22-5-1862, Phó Đô đốc Bonard ký quyết định nhượng lô đất này cho hãng vận tải Hoàng gia. Khoảng giữa năm 1862, hãng đã tiến hành xây dựng ngôi Nhà Rồng. Ngày 15-8-1862, khánh thành hải đăng Vũng Tàu. Tiếp đó, việc lắp đặt đường dây điện tín Sài Gòn - Vũng Tàu và cột cờ Thủ Ngữ để hướng dẫn tàu ra vào cảng Sài Gòn cũng được tiến hành.
Ngày 23-11-1862, con tàu hơi nước của cảng đã khai trương tuyến đường biển Pháp - Sài Gòn. Đầu năm 1864, thương cảng Sài Gòn được hoàn thành, bao gồm ba công trình lớn. Đầu tiên là hệ thống cầu tàu gồm ba cầu bằng gỗ, mỗi cầu dài 50m, riêng cầu số 3 nằm về phía nam dài 80m. Kế đến là dãy nhà kho chứa hàng nằm trên bờ, dọc theo ba cầu dài 350m (kinh phí gần 3 triệu franc trong khi dự trù chỉ có 1 triệu franc), từ ngã ba sông Sài Gòn - rạch Bến Nghé xuôi về phía nam. Riêng các xưởng thợ và kho đã phải lợp trên 18.000m2 mái ngói. Sau cùng là trụ sở làm việc của hãng vận tải Hoàng gia với tên gọi Hôtel des Messageries Impériales (Hôtel des MI).
Trụ sở chính của hãng vận tải Hoàng gia là Nhà Rồng, ngôi nhà có kiến trúc độc đáo, chủ yếu là kiến trúc phương Tây, riêng phần mái mang dấu ấn kiến trúc Trung Hoa. Toà nhà cao 3 tầng, hình chữ nhật, dài 35m, rộng 27m, mỗi tầng có hành lang rộng 4m chạy bao bọc xung quanh. Mái nhà lợp bằng ngói, tường sơn màu gạch đỏ. Trên nóc nhà gắn hai con mắt rồng ghép bằng những mảnh sành nhiều màu đang uốn lượn, châu đầu vào nhau theo thế “lưỡng long chầu nguyệt”. Đến năm 1899, khi hãng Messageries Impériales đổi thành hãng Messageries Maritimes thì hình mặt trăng được thay bằng phù hiệu của hãng: một vương miện hoàng hậu, một mỏ neo và một đầu ngựa. Vương miện tượng trưng cho Hoàng gia, mỏ neo tượng trưng cho tàu biển, đầu ngựa tượng trưng cho vận tải trên bộ. Hai con rồng quay đầu ra hai phía. Vì thế, nhân dân Sài Gòn gọi là “Nhà Rồng” hay hãng Đầu Ngựa. Người cai quản toà nhà này là một quan năm người Pháp nên địa điểm này còn gọi là sở Ông Năm. Ngày nay, trên nóc ngôi nhà vẫn còn giữ lại bảng hiệu của hãng giống như trên ống khói của các tàu thuộc hãng MI.
Đến đầu thế kỷ XX, cảng Sài Gòn trở nên quá tải. Năm 1902, hãng Chargeur Réunis (còn gọi là hãng Năm Sao) đầu tư xây dựng thêm một bến đậu (không xây dựng cầu tàu) nữa trên đoạn sông từ đường Paul Blanchy (đường Hai Bà Trưng nay) chạy về phía Arsenal de Saigon (xưởng Ba Son), dài 250m. Hãng Chargeur Réunis được thành lập năm 1872 tại thành phố cảng Dunkerque ở miền bắc nước Pháp. Năm 1902, hãng chính thức đăng ký chạy tuyến Dunkerque - Hải Phòng. Tại Việt Nam, hãng có ba bến đỗ: Hải Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn.
Ngày 5-6-1911, tại bến Nhà Rồng, chàng trai Việt Nam tên Văn Ba (sau này là Hồ Chí Minh) đã lên tàu Amiral Latouche Tréville, ra đi tìm đường cứu nước.
Năm 1911, cảng Sài Gòn chia làm hai cảng chính: quân cảng và thương cảng. Quân cảng dài 600m, từ xưởng Ba Son đến bến Primauguet (công trường Mê Linh nay). Thương cảng Sài Gòn cũng dài 600m, từ bến Primauguet đến cầu Quay (xây 1904, nay là cầu Khánh Hội). Bến Nhà Rồng ở bên kia rạch Bến Nghé là phần nối tiếp của thương cảng.
Do nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách tăng cao nên chính phủ Pháp mở thêm bến Khánh Hội vào năm 1912, mặc dù có quyết định xây dựng từ năm 1900 nhưng do hoàn cảnh còn nhiều khó khăn nên đến năm 1912 mới hoàn thành. Bến Khánh Hội được hoàn thành, thương cảng Sài Gòn kéo dài đến ngã ba Kinh Tẻ (cầu Tân Thuận nay). Bến tàu dài 1.100m, từ Nhà Rồng đến đồn Nam (pháo đài Hữu Bình dưới thời Nguyễn), đủ chỗ cho 9 chiếc tàu lớn đậu, mỗi chiếc dài 120m. Các kho hàng được dựng cách bờ sông 15m, tổng cộng là 24.225m2, 16 phao nổi được đặt làm chỗ cho tàu đậu tạm cả hai bên Khánh Hội và Thủ Thiêm.
Tháng 6-1922, chính thức sát nhập giang cảng Chợ Lớn với thương cảng Sài Gòn do sự thông thương thuận tiện qua ngõ kinh Tẻ, tạo thành một hệ thống đường thủy và cửa khẩu hoàn chỉnh để đẩy mạnh xuất khẩu gạo được quy tụ từ các tỉnh Nam Kỳ về Chợ Lớn. Tại Chợ Lớn, giang cảng dài trên 4.250m, có bể sửa tàu Lanessan, cơ sở đóng ghe thuyền quan trọng.
Theo Annuaire des Etats Associés (1953), cảng Sài Gòn (không kể quân cảng 537,02m), gồm ba phần:
- Hải cảng Sài Gòn dài 4.000m nằm ở hữu ngạn sông Sài Gòn, từ ranh giới quân cảng (bến đò Thủ Thiêm đầu đường Hai Bà Trưng), cũng chia làm ba đoạn. Từ ranh giới quân cảng đến vàm rạch Bến Nghé (đường Tôn Đức Thắng nay), có ba cầu tàu dài 81m, 64m và 43m cho tàu chạy đường sông. Từ rạch Bến Nghé đến kinh Tẻ (dọc đường Nguyễn Tất Thành), có hai bến: bến Nhà Rồng (ba cầu tàu, dài 380m) và bến Khánh Hội (9 cầu tàu, dài 1.032m). Trên sông có 21 phao neo tàu (5 phao bên phải và 16 phao bên trái).
- Hải cảng Nhà Bè: nằm trên sông Nhà Bè, cách Sài Gòn 16km, dành cho các tàu chở hàng dễ cháy nổ, gồm năm cầu tàu cho tàu dầu và ba phao neo tàu.
- Giang cảng Sài Gòn-Chợ Lớn dài 26.500m, nằm trên các rạch Tàu Hũ, Lò Gốm, kinh Tẻ, kinh Đôi, có nhiều cầu tàu công và tư. Kho hàng gồm 7.600m2 thuộc hãng Nhà Rồng, 34.200m2 thuộc bến Khánh Hội, 36.000m2 thuộc bến Tân Thuận Đông (dành cho quân đội), tổng cộng là 77.800m2.
Từ sau năm 1954, quân cảng dài 2.000m với 11 cầu tàu; thương cảng dài gần 2.000m, có 14 cầu tàu và 6 bến. Khi Mỹ đổ quân vào miền Nam xây thêm 6 cảng mới dọc trên sông Sài Gòn - Nhà Bè để tăng khả năng tiếp nhận hàng quân sự.
Năm 1976, khi mới tiếp quản, cảng Sài Gòn có tổng diện tích 475.000m2 với 1.600m cầu tàu, cơ sở vật chất nghèo nàn, cũ kỹ, khả năng bốc xếp chỉ hơn 1 triệu tấn hàng. Đến tháng 4-2000, cảng Sài Gòn được nâng cấp hiện đại. Ngày nay, cảng Sài Gòn đã trở thành cảng biển quốc tế lớn nhất miền Nam, một cụm cảng trọng điểm quốc gia, có diện tích 560.000m2, gồm 2.977m cầu tàu, 34 bến phao, 276.094m2 bãi chứa hàng và 75.050m2 các kho bảo quản hàng hóa. Cảng Sài Gòn đang tiếp tục củng cố để trở thành cảng biển hiện đại nhất Việt Nam, có tầm cỡ khu vực Đông Nam Á.
Kể từ ngày 1-8-2002, cảng Cần Thơ được sáp nhập vào cảng Sài Gòn để loại bỏ sự cạnh tranh không cần thiết giữa hai cảng và khơi dậy tiềm năng, phát huy đúng mức vai trò của một khu cảng đa dụng tại thành phố trung tâm đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 1992, cảng Sài Gòn được kết nạp là hội viên thường trực Hiệp hội Cảng biển quốc tế. Năm 1994 là thành viên Hiệp hội cảng biển Việt Nam, quan hệ hơp tác với cảng Osaka (Nhật), Trạm Giang (Trung Quốc). Năm 1996 là đại biểu thường xuyên tham gia hoạt động Hiệp hội Cảng biển các nước Đông Nam Á. Đến năm 1999 đặt quan hệ hợp tác với cảng Los Angeles (Hoa Kỳ).
Ngay năm đầu tiên mở cảng (1860) đã có 111 tàu các nước châu Âu và 140 ghe thuyền Trung Hoa với tải trọng 80.000 tonneaux cập bến Sài Gòn, xuất khẩu 60.000 tấn gạo đi Hồng Công và Singapore. Năm 1865 có 254 tàu buôn từ nhiều nước châu Âu cập cảng Sài Gòn, trong đó 92 tàu của Pháp. Từ 1-10-1865 đến 1-10-1866 đã có 348 tàu buôn các nước châu Âu, trong đó có 89 tàu Pháp (tải trọng 63.000 tonneau) và 119 tàu của Anh (tải trọng 44.627 tonneaux) cập bến Sài Gòn.
Năm 1885, cảng Sài Gòn đã tiếp nhận tàu buôn của nhiều công ty, thuộc nhiều quốc tịch. Ngoài tàu buôn của Pháp chiếm tỷ lệ quan trọng nhất, còn có các tàu của Anh, Đức, Mỹ, Hà Lan, Bỉ, Na Uy...
Năm 1904, tổng trọng tải tàu bè ra vào cảng Sài Gòn đạt 900.000 tấn. Mười bốn năm sau (1918) con số này đã lên đến 2,6 triệu tấn. Nếu tính thêm cả giang cảng Chợ Lớn thì đạt 5 triệu tấn.
Năm 1920, cảng Sài Gòn tiếp nhận 1.500 lượt tàu ra vào thuộc nhiều quốc tịch; mười năm sau (1930) tăng lên 1.800 lượt với trên 4 triệu tấn hàng hóa.
Năm 1969, số lượng hàng hóa xuất nhập ở cảng Sài Gòn là 7.962.000 tấn với số tàu ra vào là 6.245 chiếc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975), hơn 80% vũ khí, hàng hóa, phương tiện chiến tranh của Mỹ được đưa vào Việt Nam bằng đường biển. Trong số 3 cảng (Cam Ranh, Đà Nẵng, Sài Gòn ) thì Sài Gòn giữ vị trí hàng đầu với trên 70% số hàng hóa, vũ khí.
Năm 1976, cảng Sài Gòn chỉ mới bốc xếp 1,1 triệu tấn hàng. Năm 1996 đã tăng lên 7,3 triệu tấn. Năm 2002, có 12 triệu tấn hàng thông qua cảng Sài Gòn.
Để phù hợp với quy hoạch phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, hiện đã có dự án di dời cảng Sài Gòn, Tân Cảng và nhà máy Ba Son ra khu vực Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) hoặc Gò Da (Cần Giờ). Gần 1,5 thế kỷ qua, thương cảng Sài Gòn đã gắn liền với sự hình thành và phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành sứ mệnh là cơ sở “hậu cần” của một đô thị dựa trên hoạt động thương mại chính là cảng.
· Ở thành phố Hồ Chí Minh, quận nào có tên phường được đặt bằng chữ?
Hiện nay trong thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 8 quận trên tổng số 19 quận có các tên phường đặt bằng chữ. Đó là các quận 1, 2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Tân Phú và quận Bình Tân.
Quận 1 gồm các phường: Bến Nghé, Bến Thành, Cầu Kho, Cầu Ông Lãnh, Cô Giang, Đa Kao, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngũ Lão, Tân Định.
Quận 2 gồm các phường: An Khánh, An Phú, An Lợi Đông, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm.
Quận 7 gồm các phường: Bình Thuận, Phú Mỹ, Phú Thuận, Tân Hưng, Tân Kiểng, Tân Phong, Tân Quy, Tân Phú, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây.
Quận 9 gồm các phường: Hiệp Phú, Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long A, Phước Long B, Tân Phú, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Trường Thạnh.
Quận 12 gồm: An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Hiệp Thành, Tân Chánh Hiệp, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân, Thới An, Trung Mỹ Tây.
Quận Thủ Đức gồm các phường: Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Bình Chiểu, Tam Bình, Bình Thọ, Truờng Thọ, Linh Đông, Linh Tây, Linh Trung, Linh Xuân, Linh Chiểu.
Quận Tân Phú gồm các phường: Hiệp Tân, Hòa Thạnh, Phú Thạnh, Phú Thọ Hòa, Phú Trung, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Sơn Nhì, Tân Thành, Tân Thới Hòa, Tây Thạnh.
Quận Bình Tân: An Lạc, An Lạc A, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Tân Tạo, Tân Tạo A.
· Đường Đồng Khởi là một trong những con đường xưa nhất của thành phố, bạn hãy cho biết con đường này có mấy lần đổi tên. Vì sao?
Sau khi thực dân Pháp chiếm Sài Gòn, con đường này mang số 16, rồi đổi thành Catinat - tên một Thống chế dưới thời Louis 14. Lúc đó đường dài từ bờ sông đến Hồ Con Rùa ngày nay.
Sau khi nhà thờ Đức Bà xây xong (1880) đường bị cắt ngang thành hai đoạn. Từ 24-12-1897 đoạn từ nhà thờ trở đi được gọi là đường Beanscube, đường Catinat chỉ còn 630m.
Sau Cách mạng tháng Tám (1945) chính quyền cách mạng đổi tên Catinat thành Balê Công xã. Nhưng không bao lâu Pháp chiếm lại thành phố, đường trở lại tên cũ cho đến ngày đội quân viễn chinh buộc phải rời khỏi Việt Nam sau thảm bại ở Điện Biên Phủ.
Năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi thành đường Tự Do.
Bót Catinat khét tiếng thời thực dân ở ngay đầu đường được dùng làm trụ sở Bộ Nội vụ, nơi tra tấn những người yêu nước. Hiện nay nơi đây là trụ sở Sở Văn hóa Thông tin Tp.HCM.
Thành phố giải phóng, đường được mang tên Đồng Khởi cho đến ngày nay. Đây là một trong những con đường đẹp nhất thành phố với những tòa nhà lần lượt vươn lên tầm cao mới.
· Có phải đường Nguyễn Huệ xưa từng là một con kênh? Ngôi chợ nào gắn liền với con kênh đó?
Đường Nguyễn Huệ ngày nay từng là kênh đào lớn đi dọc theo hai con đường Charner và Rigault de Genouilly thông với thương cảng, kênh đào này phục vụ cho các vựa hàng của chợ Charner vốn là một trong những chợ quan trọng nhất của thành phố.
Năm 1860, việc lấp kênh đào này đã phát sinh cuộc tranh cãi ngay giữa Hội đồng thành phố. Một nhóm người đấu tranh cho vệ sinh công cộng - họ xem kênh đào như một ổ nhiễm khuẩn thật sự ở cửa ngõ của thành phố. Nhóm khác là những thương nhân ca ngợi tính hữu dụng của kênh đào. Do đó, dự án lấp kênh đào lớn bị dời lại đến năm 1887 kinh đào mới bị lấp để xây dựng một đại lộ cùng tên “đường Kinh Lấp” nối liền tòa thị chính đến các bờ sông. Ngày nay đó là đại lộ Nguyễn Huệ.
Chợ gắn liền với kênh Lớn là chợ Charner, được xây dựng năm 1860, các vựa hàng tạo nên chợ đầu tiên của thành phố Sài Gòn. Hàng hóa được cung ứng từ con kênh đào lớn mở ra trên thương cảng. Toàn bộ không gian chợ được chia làm ba vùng riêng biệt, đặt dưới sự kiểm soát của viên trị sự thương mại thành phố - người chịu trách nhiệm kiểm tra việc thu thuế môn bài và việc sử dụng hệ thống trọng lượng và đo lường của Pháp. Sau khi lấp con kênh đào năm 1887, hoạt động của các vựa hàng dần dần ngừng hẳn, các vựa hàng này được thay thế bằng chợ Bến Thành xây dựng năm 1912.
· Sao gọi là “Nhà Bè nước chảy chia hai”?
Sông Nhà Bè hình thành từ chỗ hợp lưu của sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, cách trung tâm thành phố khoảng 5km về phía đông nam, rồi chảy ra biển Đông bằng hai ngả chính: ngả Soài Rạp dài 59km, rộng trung bình 2km, lòng sông cạn, tốc độ dòng chảy chậm; ngả Lòng Tàu đổ ra vịnh Gành Rái, dài 56km, rộng trung bình 0,5km, lòng sông sâu, là đường thủy chính cho tàu bè ra vào cảng Sài Gòn.
· Về nguồn gốc tên gọi Củ Chi?
Huyện Củ Chi của thành phố Hồ Chí Minh: bắc và đông giáp tỉnh Bình Dương, tây giáp hai tỉnh Tây Ninh và Long An, nam giáp huyện Hóc Môn. Diện tích 428,6km2, dân số 248.044 người (1995) gồm có một thị trấn và 20 xã.
Củ Chi trở thành địa danh hành chính từ năm 1956. Huyện Củ Chi vốn là hai quận Củ Chi (Hậu Nghĩa) và quận Phú Hòa (tỉnh Bình Dương) nhập lại. Củ Chi là tên gọi dân gian của cây mã tiền có nhiều ở vùng này vào thời đó. Cây mã tiền, một loại cây ở rừng, leo bằng móc, lá mọc đối có ba gân, hoa trắng, quả tròn, hạt dẹt như khuy áo, dùng làm thuốc.
· Vì sao có tên gọi Thị Nghè?
Nhiêu Lộc - Thị Nghè là một trong ba tuyến sông tự nhiên cổ nhất (cùng với sông Sài Gòn và sông Bến Nghé), ăn sâu vào lòng thành phố với nhiều chi lưu và đi qua các quận: 1, 3, 10, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình. Toàn tuyến kênh chính có chiều dài 9.470m. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt đã đóng vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu và giao thông vận tải.
Rạch Thị Nghè bắt nguồn từ Bàu Cát (quận Tân Bình nay), chảy qua kênh Nhiêu Lộc, rồi đổ ra sông Sài Gòn chỗ nhà máy đóng tàu Ba Son. Khúc ngọn này mang tên Nhiêu Lộc, xưa gọi là Hậu Giang, nơi Nguyễn Ánh thường chọn làm nơi đóng binh trước khi đánh Sài Gòn. Con rạch chính từ cầu Nguyễn Văn Trỗi đến sông Sài Gòn dài 4,5km, tuy ngắn nhưng quan trọng, có giá trị như một hào hố thiên nhiên, bao quanh thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ.
Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí đã miêu tả về con sông này: “Sông Bình Trị tục gọi sông Bà Nghè ở địa phận tổng Bình Trị về phía bắc trấn, từ sông Tân Bình quanh sau trấn lỵ đến cầu Ngang, ngược dòng lên tây độ 4 dặm rưỡi đến cầu Cao Miên (cầu Bông), chảy về tây bắc độ 2 dặm đến chợ Chiểu (chợ Bà Chiểu nay), chảy về phía nam độ 4 dặm đến Phú Nhuận, 6 dặm rưỡi đến cầu Huệ là cùng nguyên, nơi đây có những ao vũng tản mạn”.
Người Pháp gọi đây là rạch Avalanche, tên chiếc pháo hạm đầu tiên vào thám sát rạch Thị Nghè vào một ngày trước khi mở màn trận đánh thành Gia Định vào năm 1859, vì thành Phụng nằm sát bờ sông Thị Nghè.
Bà Nghè, Mụ Nghè, Thị Nghè là những danh xưng thân mật và kính trọng gọi bà Nguyễn Thị Khánh, con gái đầu của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân. Trương Vĩnh Ký trong sách Souvenirs historique sur Saigon et ses environs (1885) lại ghi là Nguyễn Thị Canh vì phiên âm Latinh từ chữ Khánh.
Trịnh Hoài Đức cũng ghi chép về nhân vật này: “Có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do khi đầu bà khai hoang đất ở, bắc cầu ngang qua để tiện việc đi lại, nên dân gọi là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè (Gia Định thành thông chí).
Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì chú: “Trên cầu qua làng Phú Mỹ, ở gần thành cũ Gia Định, lấy trước một bà làm nên cây cầu ấy mà đặt”.
Thái Văn Kiểm cũng gọi là “rạch Thị Nghè” hay “rạch Bà Nghè” (Đất Việt trời Nam)
Huỳnh Minh trong Gia Định xưa và nay chép: “Dân chúng địa phương gọi là Bà Nghè theo chức tước của chồng bà là một vị quan văn trong Phiên trấn”
Theo Lê Trung Hoa, vào đầu thế kỷ XIX về trước, địa danh này được gọi là Bà Nghè (Gia Định thành thông chí; Gia Định phú, bài 1). Từ giữa thế kỷ XIX về sau, địa danh này đổi thành Thị Nghè (Gia Định phú, bài 2; Đại Nam quấc âm tự vị), nhưng chưa rõ lý do đổi tên. Năm 1714, Nguyễn Cửu Vân chinh phục Chân Lạp. Năm đó ông khoảng 30 tuổi và cô Khánh khoảng 10 tuổi. Đến khoảng năm 1725, cô Khánh lập gia đình và bắt đầu khẩn hoang, xây cầu. Theo ông, có thể đoán định địa danh này ra đời trong khoảng thời gian 1725-1750 (Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh). Riêng Vương Hồng Sển cho rằng: “... gọi cầu và sông Bà Nghè, hưng các quan không chịu xưng hô như vậy và đổi lại là “cầu và sông hay rạch Thị Nghè” (Sài Gòn năm xưa). Kiến giải này là hợp lý, vì nó biểu thị sự kính trọng của người dân đối với một phụ nữ có công.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 17:58:41 GMT 9
· Các địa danh mang tên động vật ở thành phố Hồ Chí Minh?
Theo số liệu sưu tập, trên địa bàn thành phố, từ thế kỷ XVII đến nay, có 153 địa danh mang tên động vật. Trong đó có 89 địa danh chỉ sông rạch.
Có khoảng 50 loài động vật khác nhau đã đi vào địa danh thành phố: chợ Chuồng Bò (quận 10), rạch Đĩa, rạch Cá Trê, rạch Cá Tra (Nhà Bè), Bàu Cò, rạch Kiến Vàng (Bình Chánh), rạch Tôm Càng, mũi Gành Rái, rạch Gành Hàu (Cần Giờ)...
Mặt khác, qua địa danh, ta biết được trước đây đã có một số cầm thú ở địa bàn này, nay không còn hoặc rất hiếm: Hố Bò (bò rừng, Củ Chi), rạch Gò Công (Thủ Đức), ấp Bàu Nai (Hóc Môn), mũi Nai và sông vịnh Sấu và giồng Sấu (Cần Giờ), ấp Bàu Trăng, rạch Bàu Trăng (Củ Chi), rạch Tượng, vàm Tượng, cù lao Tượng (Cần Giờ), rạch Voi (Nhà Bè), xóm Đồng Voi (Bình Chánh).
Có 13 địa danh có từ tố cá tập trung ở Nhà Bè và Cần Giờ: rạch Cá Cấm, doi Cá Bông, rạch Cá Cúm, tắt Cá Đôi, sông Cá Gâu, rạch Cá Ngay Bé, rạch Cá Ngay Lớn, rạch Cá Ngang, rạch Cá Nháp, sông Cá Nháp, rạch Cá Nháp Lớn, rạch Cá Nháp Bé.
· Các địa danh mang tên cây cỏ ở thành phố Hồ Chí Minh?
Trên địa bàn thành phố, trong ba thế kỷ qua, có tất cả 271 địa danh mang tên cây cỏ. Trong số này có khoảng 132 địa danh chỉ sông rạch.
Tất cả có gần 100 loại cây cỏ khác nhau đã đi vào tên địa danh.
Ga Hàng Sao (quận 1), chợ Vườn Chuối (quận 3), cầu Dừa (quận 4), chợ Bàu Sen (quận 5), cầu Cây Gõ (quận 6), đường Cây Sung (quận 8), Vườn Lài (quận 10), Đầm Sen (quận 11), cầu Kiệu (quận Phú Nhuận), gò Dầu (quận Tân Phú), rạch Cầu Sơn, chợ Cây Thị (quận Bình Thạnh), Vườn Trầu (huyện Hóc Môn), Bưng Tre (huyện Củ Chi), rạch Chà Là (huyện Cần Giờ), bến đò Cây Bàng (huyện Thủ Đức), rạch Mương Chuối (huyện Nhà Bè), cầu Bàu Môn (huyện Bình Chánh).
Có một số tên cây ở miền Bắc và miền Trung cũng có, nhưng người Nam Bộ gọi một cách khác: củ chi - mã tiền (huyện Củ Chi), điều - đào lộn hột (Vườn Điều - quận Tân Bình; Bàu Điều, huyện Củ Chi), điệp - phượng (hẻm Cây Điệp, quận 1; cầu Cây Điệp, huyện Củ Chi)
Một số cây khác là đặc sản Nam Bộ: thai thai: tên một loại bắp (cầu Thai Thai, huyện Củ Chi); thiền liền: tên một loại ngải thấp (rạch Thiền Liền, huyện Cần Giờ); nhum: tên một loại cây giống cây cau (rạch Nhum, huyện Hóc Môn); quao: một giống cây lá có chất nhuộm màu đen (gò Quao, huyện Cần Giờ; rạch Quao, huyện Thủ Đức); trôm: loại cây to, lá giống lá gòn (giồng Trôm, huyện Cần Giờ); bàng: một loại cỏ bộng ruột (rạch Bàng ở các huyện Thủ Đức, Nhà Bè, Cần Giờ); bần: loại cây to mọc ven sông rạch (Hố Bần, quận 8; rạch Bần Bộng, huyện Nhà Bè); cám: loại cây lớn, trái có phấn nhám như cám (rạch Cây Cám, quận 1); cui: giống cây to, lá đơn một phiến, cứng và giòn (xóm Cui, rạch Cui, quận 8); chiếc: thứ cây thấp mà lớn lá, hay mọc hai bên mé sông, có thể ăn như các loại rau (cầu Rạch Chiếc, quận 9); ráng: tên một số cây cỏ (rạch Ráng, huyện Cần Giờ), sộp: loại cây to, lá xanh đậm, mọc chùm dày, đọt trắng (ấp Cây Sộp, huyện Củ Chi); trĩ: một loại cây sác, nhỏ và dài (xóm Trĩ, quận 5); vắp: loại cây lim (Gò Vắp, bị nói chệch thành Gò Vấp).
Hai tên cây có nguồn gốc Khmer: cần duột (hay cần giuộc), tức cây chùm duột, do tiếng Khmer kamtuôt đọc thành (sông Cần Giuộc); tầm vông: một loại tre đặc ruột, do tiếng Khmer ping pong (bót Tầm Công, quận Phú Nhuận).
Rạch Cây Tri (huyện Bình Chánh) có lẽ gọi tắt của tên cây tri mẫu hay cây tri phong thảo.
· Những đặc sản nổi tiếng của Sài Gòn - Gia Định?
Nói đến những đặc sản nổi tiếng của Sài Gòn - Gia Định, người ta hay nhắc đến: thuốc Gò Vấp; nem Bà Điểm, nem Thủ Đức; rượu đế, heo quay Hóc Môn, cá chìa vôi sông Nhà Bè; con hồ da tử (con đuôn chà là).
- Thuốc Gò Vấp
Trồng toàn bằng phân trâu, phân bò trộn với bánh dầu đập nhỏ để bón vào gốc nên thuốc được tốt, lá lớn.
Thuốc bắt đầu gieo hột rồi cấy vô bầu đem trồng. Kể từ ngày trồng đến ngày bẻ lá đúng bốn tháng, là thời kỳ thuốc già. Bẻ xong đem về ủ 7 ngày, lá thuốc chín vàng, xắt nhuyễn đem phơi.
Thuốc Gò Vấp tàn trắng, khói thơm không phèn, để lâu không bị mốc. Loại thuốc này trồng nhiều nhất ở xã Hạnh Thông, vì đất cao ráo, không phèn, nước ngọt giếng sâu tới 14,15 mét.
- Nem Thủ Đức - nem Bà Điểm:
Thủ Đức, Xuân Trường là hai địa danh của Gia Định gắn liền với nhau qua câu truyền tụng “nem Thủ Đức, suối Xuân Trường”. Nem là một món ăn chơi của người Việt chế biến, làm bằng thịt heo sống quết nhuyễn, rồi gia vị tiêu, tỏi, bột ngọt, rượu Absithe, Cognac... đoạn gói với lớp lá vông, lớp ngoài thì gói bằng lá chuối hột, cột dây ràng chặt để chừng hai, ba ngày thì nem vừa chua là ăn được.
Ngày xưa, ở Sài Gòn, Chợ Lớn, hay các tỉnh xa hơn nữa thường đến Thủ Đức ăn nem và tắm suối Xuân Trường. Nem ăn nhiều cách. Để vậy ăn sống với tỏi, uống rượu, còn kỹ thì nướng cho chín, hoặc cắt nhỏ ra gói với rau sống bánh tráng.
- Rượu đế, heo quay Hóc Môn
Loại rượu này do người vùng Hóc Môn nấu toàn bằng chất nếp, ủ cho đúng ngày giờ để vô chõ, bên hông chõ kháp với một ống tre dưới có đặt một cái chai. Khi đun lửa, nước cơm rượu bốc hơi đọng lại chảy xuống ống tre, nhỏ từng giọt vào chai. Rượu đế Hóc Môn nấu nguyên chất, có mùi thơm, bọt nhiều, uống không gắt, có hậu ngọt, nổi tiếng khắp xa gần.
Heo quay Hóc Môn nổi tiếng không đâu sánh bằng. Người Hóc Môn quay heo rất chuyên nghiệp, heo chín đều, chỗ nào cũng vàng, không nứt, chặt ra thịt dính với da giòn rụm, mùi thơm ngon nhờ hương vị ướp khéo.
- Cá chìa vôi sông Nhà Bè
Ở sông Nhà Bè - Gia Định có loại cá mình dẹp màu vàng, giống loại cá chim, trên lưng có một kỳ chĩa lên giống cái chìa vôi, nên người ta gọi là cá chìa vôi. Thịt cá này rất dai, giòn, làm ra các món nhậu rất hấp dẫn. Có thể hấp lên ăn với bánh tráng, rau sống, làm gỏi, nấu cháo, thịt rất ngọt ăn không ngán.
- Con hồ da tử
Hồ da tử chính là con đuôn chà là. Đuôn chà là ngày xưa ở vùng rừng sác miệt Cần Giờ, Quảng Xuyên nổi tiếng ngon, được triều đình Huế chú ý. Hàng năm đến mùa đông các quan trấn thủ Gia Định ra lệnh cho quan địa phương bắt đem thượng tiến cho nhà vua.
Đuôn chà là bắt đem về ngâm nước muối cho sạch, rút ruột dồn đậu phộng, lăn bột chiên bơ vàng cặp với rau thơm nhậu rất hấp dẫn và có nhiều chất bổ.
· Trịnh Hoài Đức đã từng nhận xét về người dân Sài Gòn như thế nào?
Trịnh Hoài Đức (1765-1825) là một nhà văn hóa lớn của đất Gia Định xưa, là quan đại thần triều Nguyễn nổi tiếng thanh liêm và hay chữ. Tác phẩm Gia Định thành thông chí là một tài liệu quý báu cho chúng ta khi tìm hiểu Sài Gòn - Gia Định xưa. Về người dân nơi đây, ông nhận xét:
“Đất Gia Định rộng lớn, phì nhiêu, sản xuất đủ mọi sản phẩm, dân cư phong phú, không bao giờ lâm vào cảnh thiếu ăn thiếu mặc. Người Gia Định quen ăn tiêu phung phí, trong miền Gia Định rất ít có người giàu có, vì cớ không ai chịu dành dụm để làm giàu cả.
Nhân dân ở đây khinh rẻ tiền của, nhưng rất mộ công lý. Đàn bà thì yểu điệu và phần nào có nhan sắc. Từ Bắc chí Nam họ có tiếng là đẹp hơn cả. Họ phần nhiều thọ hơn đàn ông. Những người cao tuổi phần nhiều vẫn tráng kiện.
Người Gia Định rất thuần hậu với khách lạ. Khi có người lạ tới nhà, chủ bao giờ cũng mời ăn trầu, uống trà và sau cùng dùng cơm. Mà bữa cơm đãi khách bao giờ cũng thịnh soạn, bất luận khách thân hay sơ, hay chỉ là một người lạ mặt. Miễn là khách lạ đến chơi nhà, là chủ nhà ân cần tiếp đãi. Vì thế cho nên một người viễn phương tới đây rất ít khi phải lo ăn. Tuy nhiên phong tục thuần túy này vẫn có một điểm không hay: bọn vô lại, bất lương, vô gia cư hầu như được mọi người ủng hộ, khuyến khích thành ra chúng càng ngày càng tệ nhũng.
Các nhà Nho ở Gia Định có tiếng là hay chữ”...
Xin có một nhận xét nhỏ về ý kiến của Trịnh Hoài Đức, người dân Sài Gòn - Gia Định hiếu khách bởi lẽ nơi đây thời xưa đồng ruộng phì nhiêu, sông nhiều tôm cá. Hơn nữa họ vốn là người từ miền ngoài xiêu tán vào lập nghiệp nơi vùng đất mới, do đó, đối với người đồng hương từ phương xa đến, họ rất quý.
· Bạn có biết về tính cách của người Sài Gòn?
Trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu - đạo làm người (Sở VHTT Long An, 1983), giáo sư Trần Văn Giàu đề cập đến lòng chung thủy của nhân vật rất Sài Gòn là Lục Vân Tiên:
“Lòng chung thủy trong tình duyên đôi lứa hẳn không phải là một tín điều cũ kỹ, hóa đá, một vật của bảo tàng văn hóa phong tục thời trung cổ. Trong cuộc kháng chiến dài 30 năm vừa qua, lòng chung thủy là một nét sinh hoạt xã hội đặc sắc của ngàn vạn cán bộ và nhân dân ta, vừa lãng mạn, vừa cách mạng, nó vừa củng cố gia đình ở chất lượng mới, vừa hình thành một nét lớn của đạo đức chính trị dân tộc. Vợ Nam chồng Bắc mà thủy chung với nhau thì cũng có nghĩa là tin tưởng sắt đá vào sự chiến thắng của chính nghĩa thống nhất nước nhà, cũng có nghĩa là không khi nào tuyệt vọng trước thế lực vô cùng to lớn của phản động quốc tế và quốc gia trong kế hoạch thâm độc của chúng chia cắt vĩnh viễn đất nước ta, và cũng có nghĩa là thề quyết đấu tranh đến toàn thắng. Cha mẹ, chồng vợ, con cháu đều một lòng như vậy dù vượt qua gian khổ hết sức lâu dài. Sau 20 năm ly biệt, các gia đình lại đoàn tụ, “Nam Bắc một nhà”. Vậy lòng chung thủy đâu phải đã lỗi thời, duy ở mỗi lúc nó biểu hiện những hình thái riêng biệt.
Vả chăng, chung thủy không chỉ có trong tình duyên đôi lứa. Vân Tiên chung thủy với Nguyệt Nga (chồng vợ) mà cũng chung thủy với tiểu đồng (thầy trò), với Hớn Minh (bạn bè), với Ngư Tiều (người ơn)
Đỗ trạng rồi, dẹp Phiên xong, Vân Tiên vinh quy bái tổ đi qua đất Đại Đề, nơi mình lâm nạn hồi nào, nhớ đến chú tiểu đồng xấu số của mình, bèn truyền quân bày tế lễ. Nhưng tiểu đồng không phải bị cọp ăn mà được cọp cứu, ba năm trung thành giữ mồ hoang! Hai thầy trò lại gặp nhau. Tiểu đồng chung thủy. Vân Tiên chung thủy. Câu chuyện chung thủy này hẳn có thể làm suy nghĩ những ai giàu thay bạn sang đổi vợ, những ai hiển đạt rồi quên ân nhân của mình thuở hoạn nạn, hàn vi, hạng người này cho đến nay đâu phải không còn?
Khỏi Đại Đề, tới Hàn Giang, quốc trạng Vân Tiên nhớ đến Ngư Tiều.
Bạc vàng, châu báo (báu), áo quần.
Trạng nguyên đem tạ đáp ân Ngư Tiều.
Lần này Ngư Tiều nhận của đền ân không từ chối như trước kia. Hẳn là tác giả muốn cho phép Vân Tiên thực hiện lòng chung thủy của mình.
Đẹp thay lòng chung thủy! Gớm ghiếc thay tính bội bạc thay lòng...
Còn một thứ thay lòng khác, phản bội lý tưởng, phản bội màu cờ, phản bội nước nhà, đổi bạn thành thù, xem thù là bạn: Bọn ấy đời nay nhan nhản ra đó thì lòng “chung thủy” đâu phải là chuyện lỗi thời?...”
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khi viết tổng luận trong bộ Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 1987) đã phân tích:
“Phát triển thường xuyên và đệm từng lúc các đợt đột xuất gây bất ngờ lớn đối với kẻ thù - đó là nét đặc sắc của phong trào thành phố. Sài Gòn là một trong những thành phố lớn mà sự động tịnh của phong trào bản thân ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cục. Cái vĩ đại của Sài Gòn chính là ở chỗ nó vốn là sào huyệt của kẻ thù, nơi lực lượng kẻ thù bao giờ cũng áp đảo, lại thường trực bùng nổ các hành động đối kháng to lớn và rất mãnh liệt của quần chúng... rõ ràng, cội nguồn góp phần quan trọng trong khí phách con người Thành phố. Những người “tha phương cầu thực” lại thiết tha đặc biệt với nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Họ hiểu rằng chế độ vua chúa bạc đãi họ, còn quê hương thì không bao giờ quên những hòn máu dù phiêu dạt tận đâu. Trong những hoài bão lớn nhất của người Thành phố - và người Nam bộ - thống nhất quốc gia, sum họp đại gia đình dân tộc là hoài bão thiêng liêng. Ngay một việc nhỏ cũng mang ý sâu: dân lưu tán không dùng hàng thứ “Cả” để gọi con trưởng - mà gọi thứ hai - vì theo một số nhà dân tộc học, thứ “Cả” dành cho miền quê tổ. Bởi vậy, bọn thực dân cũ và mới phạm một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất là ngỡ rằng chúng hội đủ các tiền đề tách Nam bộ, miền Nam ra khỏi cộng đồng quốc gia như chúng thành công ở nhiều nơi. Chế độ trực trị 85 năm dành cho Nam kỳ không ngăn nổi cuộc Cách mạng Tháng 8 tuyên cáo nước Việt Nam thống nhất. Những người đấu tranh đổ máu chống cái quái thai “Nam kỳ quốc” năm 1946 chính là cư dân Thành phố, cư dân Nam bộ. Những người hiên ngang bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống chia rẽ Bắc Nam qua cuộc di cư cưỡng bức ồ ạt 1954 cũng là cư dân Thành phố, cư dân Nam bộ.
Cội nguồn được các nhân tố mới bồi dưỡng. Dân lưu tán tự tổ chức lấy đời sống của mình, ý thức dân chủ cắm rễ như cây dừa cắm rễ trên nền phù sa màu mỡ giữa một không gian khoáng đạt. Lễ giáo Khổng Mạnh rơi rớt dọc đường Nam tiến, phép nước còn lại ở tấm lòng đối với quê cha đất tổ.
Mọi cái đều cần sửa đổi cho thích hợp với điều kiện tạo lập cuộc sống mới, không do chiếu chỉ nào cả mà tự dân bàn bạc, cam kết. Tính năng nổ sáng tạo vốn là truyền thống thuở dựng nước một thời gian dài bị phong kiến triều đình và thực dân đế quốc chèn ép nay có cơ hội sống dậy, phát huy”.
Và đây là ý kiến của nhà văn Sơn Nam về sở thích ăn uống (Chuyên đề: Tản mạn người Sài Gòn trong tác phẩm Sài Gòn- thành phố Hồ Chí Minh, 300 năm địa chính - Sở Địa chính, 1998):
“Trong bữa ăn, người Sài Gòn dầu mới đến cũng làm quen khá nhanh với những món hoang dã nhưng “sang trọng”. Hồi xưa, ông bà đi khẩn hoang lo phá rừng, giết sấu dữ, rảnh rang đâu mà nuôi gà, nuôi heo nái để nhân giống? Lươn, rùa, ếch, rắn thêm chim đồng nội, chuột... gặp con gì ăn con nấy. 12 con giáp: tý, sửu, dần, mẹo... con gì cũng ăn, trừ con rồng, không ăn vì chưa gặp! Thức ăn phải dự trữ. Thời xưa, nơi hẻo lánh, khó kiếm muối và cái hũ để bảo quản cá; dư cá thì làm cá khô, làm mắm. Mùa hạn, lúc trời sa mưa khó tìm cá vì đồng ruộng còn khô cạn, cá con chưa sinh sôi nảy nở, lắm khi tìm con mắm không ra. Mắm ăn ngon vì con cá, thí dụ như cá lóc, chỉ tiết ra vị ngọt thâm trầm khi đã lên men. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí đã nhấn mạnh việc người đất Gia Định thích ăn mắm, khi rảnh rang thì thách thức nhau ăn mắm, ai ăn được nhiều thì cử tọa tán thưởng, mặc dù bây giờ cá rất nhiều. Mắm kho lấy nước ăn với các loại rau rừng mà trước kia ông cha ta gặp đâu hái đó, nào đọt bần, trái bần chua, kèo nèo, bông súng, đọt ổi, đọt cây cơm nguội, đọt chiết, đọt vừng, rồi bày thêm nào là mào của dừa non, xoài rụng... kể không hết. Một bô lão mách rằng, trước khi ăn thứ rau lạ nên nếm thử, rau nào chát hoặc đắng là ăn được, bổ gan, trị bệnh kiết lị. Còn như loại nào vị ngọt thì đừng ăn, có thể bị ngộ độc. Nói nghe hữu lý, nhưng chưa dám tin. Ngày nay, món lẩu mắm bán giá cao ở các cửa hàng đặc sản tại Sài Gòn, hấp dẫn thực khách. Lẩu là lô (cái lò, tiếng Quảng Đông) để mắm sôi lên, xem hợp vệ sinh. Xắt thịt bò, cá basa bỏ vào mắm, dồi dào chất dinh dưỡng. Ăn lẩu mắm vui thích vì quy tụ được bạn bè.
Thú vui thuần vược bén mùi. Giếng vàng thu đã rụng vài lá ngô. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ... (Nguyễn Du). đời nhà Tấn, có vị quan nhớ món ăn rau thuần và con cá vược mà hồi bé thơ ông đã ăn ở quê nhà, bèn xin nghỉ hưu lập tức về vườn.
Người Sài Gòn cũng như phần lớn người ở phía Nam bề ngoài xem như bừa bãi nhưng giữ kỷ cương về ăn uống. Món ăn lý tưởng vẫn là canh chua cá kho, canh chua phải chăng là món của người Khmer, cải biên lại. Vị chua làm giải khát, giải cảm mạo. Trời oi bức, húp chút canh chua dễ nuốt cơm. Cá kho còn gì ngon hơn, cá đồng kho với tinh chất của cá biển là nước mắm còn dư để dành, nguội lạnh cũng ăn được. Cúng ông bà vẫn là bốn món cơ bản như đồng bào ở đồng bằng sông Hồng, ngoài Bắc gọi giò, nem, ninh, mọc; ở Nam bộ là giò heo hầm măng tre, cá và thịt kho nước dừa, thịt ba chỉ luộc, xắt mỏng (thịt phay) và món xào. Tuyệt đối không cúng với thịt rừng. Cúng thần thánh cũng lấy bốn món ấy làm căn bản, món khác như chả giò, nem chua, gỏi là phụ. Đã là nhậu với bạn bè, cơ bản là một món đặc biệt thôi, như lẩu bò hoặc thịt vịt luộc, hoặc thịt chuột. Nhiều món là lạc đề. Vài người quê ở đồng bằng nhớ món của người Triều Châu như củ cải muối chiên trứng vịt hoặc con khô biển, lấy xương nấu với bắp chuối (kiểu Xiêm, gọi là Xiêm Lo). Chỉ khi nào ăn cơm tấm, mới dùng cái dĩa bàn, muỗng, nĩa (mô phỏng kiểu ăn Tây phương). Không cần dao lúc ăn.
Ngày nay, vài món điểm tâm sáng đã định hình, mặc nhiên xem như thế mạnh của mọi miền: Phở Bắc, bún bò Huế, cơm tấm Sài Gòn, thêm hủ tiếu, bánh bao, xíu mại của người Hoa hoặc bánh mì dồn thịt, dồn chả lụa, hoặc cá hộp thịt xá xíu...”
· Người Sài Gòn xưa ăn Tết như thế nào?
Trong Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, về phong tục của tỉnh Gia Định có đoạn viết: “Đất nhiều sông ngòi, nên người nào cũng giỏi bơi lội. Nhân dân đủ người bốn phương, mỗi nhà mỗi tục. Dân nông thôn thì hầu như chất phác, dân thành thị thì chơi bời. Việc tang chế cưới gả cũng có người theo lễ chế, người thờ phật cũng có. Ngoài ra những việc tiễn năm cũ mừng năm mới, các tiết Nguyên đán, Đoan dương, thờ cúng tổ tiên cho đến khi gặp sinh nhật thì mời khách, gặp tiết tốt vui mừng, đại khái các tỉnh Nam Kỳ đều giống nhau cả” (Nxb. Thuận Hóa, 1992, trang 209).
Tuy đời sống kinh tế có khá hơn trước, công nghệ mở mang nhưng đến Tết, người dân Sài Gòn vẫn không quên phong tục cổ truyền. Tết đến là dịp để mọi người sửa soạn lại bàn thờ tổ tiên, trong nhà ngoài ngõ đều có dán đôi liễn đỏ. Vậy trên những đôi liễn đỏ ấy, thời xưa người ta đã viết những dòng chữ gì để nói lên khát vọng của lưu dân trên vùng đất mới? Trong một bài vè xưa có ghi lại khá trung thực:
Ăn mừng năm mới
Chữ an, chữ thới
Dán trước hàng ba
Phú quới vinh hoa
Dán vô trước cửa
Tài lợi lộc phước
Dán trước hàng nhì
Vạn trực duy tân
Dán vô trước cửa.
Ngay cả ông Táo - một “nhân vật” quen thuộc đối với tất cả người Việt - trong ngày Tết cũng được bài trí:
Trên trang ông Táo
Đề chữ hiển linh
Còn ra ngoài ngõ, trên cây nêu bằng tre đuổi tống tà ma thì bài vè này còn ghi:
Lấy câu thái bình
Dán ngoài cửa ngõ
Còn nhớ ngày xưa, trước tết, mấy đứa trẻ trong nhà ngồi chùi bộ lư đồng, o bế cho đến bóng loáng. Nhân đây, xin trích một đoạn trong bài viết Vài cảm tưởng về tết trong Nam của cụ Vương Hồng Sển: “Lối năm 1920, bộ lư đồng năm tấc bề cao, giá độ năm chục bạc lớn. Có thứ lư thau trơn dễ chùi, ở trên chóp đỉnh có đặt hai con lân giỡn trái châu, đứng nhe răng cười “cầu phúc”. Có thứ lư gồ ghề chùi cho bóng, vì lư làm theo kiểu “lư mắt tre”, lư “trúc hóa lân”. Và cũng theo cụ Sển thì “hóa chất” chùi lư thời xưa là “miễn có khế chua đập dập lấy nước chua chấm với tro bếp thật mặn, chấm với “cậc bần” cọ xát thật mạnh thì bao nhiêu ten rỉ cũng sạch” (Tập san Sử Địa - 1967). Trên bàn thờ tổ tiên, những người dân Nam kỳ thời xưa chủ yếu “có chi cúng nấy”, miễn là đầy đủ lòng thành đối với người đã khuất. Thông thường chưng cúng trái cây trong ngày Tết đủ “ngũ quả” tượng trưng cho “ngũ phúc” là lê, lựu, đào, mai, phật thủ. Dần dần, người dân ước mơ về một đời sống cụ thể hơn và cũng giản dị chỉ cần “cầu vừa đủ xài” mà thôi. Do đó, họ đặt mâm quả thấy có mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, thì rõ ràng, những trái cây ấy đã nói lên tâm niệm của người dân lương thiện.
· Ý nghĩa về mâm ngũ quả mà dân Sài Gòn thường chưng trong những ngày tết?
Theo học giả Trương Vĩnh Ký thì “ngũ phước” là ngôn ngữ của “ngũ quả”: phú quý, thọ, khang ninh, khảo, chung mạng (giàu sang, sống lâu, mạnh khỏe, bình yên, chết lành khi về già). Vì lẽ đó người ta đã lựa chọn những loại trái cây có tên đồng âm với ý nghĩa tốt. Ở Nam Bộ dựa vào giọng phát âm tương tự, đồng bào đã chọn mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung. Với mâm trái cây như thế thì ta hiểu rằng: “cầu sung vừa đủ xài”. Sung là sung túc, dừa phát âm như vừa, và xoài là xài!
Thế nhưng, để mâm ngũ quả sinh động, màu sắc rực rỡ thì người ta còn thêm nhiều loại trái cây khác nữa như quýt (đồng âm với kiết có nghĩa là cát, là tốt lành) hoặc trái tắc (đồng âm với đắc là đắc lợi) hoặc bông mai (đồng âm với may, là may mắn) hoặc trái thơm (gợi sự thơm tho) hoặc thêm cả trái lê viết từ chữ lợi (chữ Hán) có thêm chữ mộc v.v... Điều này cho thấy mâm ngũ quả của dân Sài Gòn không chỉ phong phú về các loại trái cây mà còn chú trọng về mặt ý nghĩa như một lời cầu mong tốt đẹp cho năm mới.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 18:00:37 GMT 9
· Nnhạc tài tử lần đầu lên sân khấu ở Sài Gòn lúc nào không?
Vào năm 1915 Nguyễn Tống Triều và ban nhạc tài tử ở Mỹ Tho lên trình diễn ở nhà hàng Cửu Long Giang bên cạnh chợ Sài Gòn. Đây lần đầu tiên nhạc tài tử lên sân khấu chuyên nghiệp ở Sài Gòn.
· Cải lương xuất hiện ở Sài Gòn lúc nào?
Ngày 11-9-1917, vở kịch mô phỏng kịch hài phương Tây Vì nghĩa quên nhà của Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh được công diễn ở rạp Eden (Sài Gòn). Ngày 12-9-1917, vở được diễn ở rạp Cô Tám (Chợ Lớn).
Vở kịch tạo ra cuộc tranh luận giữa hai phe bảo tồn hát bội và phe cải lương kịch nghệ, báo hiệu sự ra đời của ca kịch cải lương.
Sau đó, gánh hát Lê Văn Thận đã diễn vở Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều. Năm 1919, gánh hát Thầy Năm Tú diễn các vở Hạnh Nguyên cống Hồ, Trang Tử cổ bồn ca ở rạp Moderne (Sài Gòn).
· Sài Gòn - Gia Định xưa từng là một trong những nơi phát triển nghệ thuật hát bội. Giới thiệu sơ nét về Nhà hát Nghệ thuật hát bội TP.HCM?
Hát bội là loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, manh nha từ đời Lý trong dân gian rồi tiến vào cung đình và được hoàn thiện vào đời Trần dưới đời vua Trần Nhân Tông. Đến đời Lê, hát bội bị cấm đoán, chỉ còn tồn tại trong dân gian.
Đầu thế kỷ XVII, hát bội theo chân các đoàn lưu dân vào Nam và phát triển tột bực dưới thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Riêng ở Gia Định, Tả quân Lê Văn Duyệt đã tạo điều kiện phát triển loại hình nghệ thuật này. Không chỉ dinh tổng trấn có một đoàn hát bội mà các quan xa gần thuộc trấn Gia Định đều tranh nhau lập đoàn hát bội, nuôi con hát trong hàng ngũ quân đội. Nghệ thuật hát bội đã lập cứ địa vững chắc và giao lưu với nghệ thuật hát Trung Quốc của người Minh Hương, người Cao Miên.
Trong thế kỷ XX, ở Sài Gòn có những ban hát bội sau: ban hát Thầy Chánh, ban hát cô Ba Ngoạn, ban hát Cô Tám, ban Tân Thành, ban Bầu Thắng, ban Công Thành, gánh Tân Hưng, ban Kim Thành, đoàn Kim Cương, đoàn Phước Thành, đoàn Minh Tơ, gánh Đại Nghĩa, đoàn Bầu Vàng, ban Biện Vực, nhóm nghệ sĩ Hội khuyến lệ cổ ca...
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, đến năm 1975, ở thành phố hầu như không còn đoàn hát bội nào. Sau khi đất nước thống nhất, Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập Đoàn Nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 -1977. Đến năm 2001, được nâng cấp lên thành Nhà hát Nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh (234 Lý Tự Trọng, quận 1) theo Quyết định số 5652/QĐ-UB của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 5-9-2001.
Nhà hát có nhiệm vụ: tổ chức nghiên cứu về nghệ thuật, phong cách biểu diễn nghệ thuật hát bội truyền thống Nam Bộ nhằm kế thừa, giữ gìn và phát huy nghệ thuật truyền thống dân tộc. Tổ chức biểu diễn phục vụ giao lưu giữa các đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra còn tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ diễn viên trẻ làm nguồn kế thừa, bổ sung cho nhà hát.
Nhà hát có trên 30 vở diễn gồm các thể loại: tuồng thầy, tuồng đồ, tuồng lịch sử dân tộc, dân gian và thiếu nhi. Một số vở diễn đoạt giải của đoàn như: Trần Quốc Tuấn (đạt hai huy chương vàng, ba huy chương bạc trong Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985), Bông hồng núi Nưa (đạt ba huy chương vàng, ba huy chương bạc, hai giải đặc biệt trong Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985), Chất ngọc không tan (đạt huy chương bạc tại Liên hoan Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1995), Dũng khí Đặng Đại Độ (giải B giải thưởng sân khấu 1998 của Hội Nghệ sĩ Việt Nam), Tiếng hát nàng Huyền Cơ (Hội diễn Sân khấu tuồng - Dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc đợt 2 tháng 7-1997)... Ngoài ra còn xây dựng một số vở diễn được yêu thích khác như: Trảm Trịnh Ân, Phụng Nghi Đình, Nữ tướng Mộc Quế Anh...
Đoàn biểu diễn cố định thường kỳ tại Nhà hát Thành phố, Nhà Văn hóa Thanh niên trong chương trình Hát bội và công chúng, Trung tâm Văn hóa Hóc Môn, rạp hát Hưng Đạo, Trung tâm Văn hóa Long Phụng, Trung tâm Văn hóa các quận Phú Nhuận, Bình Thạnh, quận 1.
· Vào những năm giữa thế kỷ XX, có một nữ nghệ sĩ đã là thần tượng của khán giả bộ môn nghệ thuật hát bội. Bà là ai?
Đó là nghệ sĩ Ba Út. Bà tên thật là Nguyễn Thị Út (1911-1989), sinh tại Gia Định. Từ nhỏ, bà đã có năng khiếu về hát bội, chuyên đóng các vai phụ ở gánh bà Tám Xá, gánh cô Tư Châu.
Năm 20 tuổi, bà về đoàn Vĩnh Xuân của bầu Thắng. Do có sắc đẹp và giọng hát trong, cao và ấm, bà được giao đóng các vai đào chánh, đóng cặp với bầu Hai Thắng, Minh Tơ, Thành Tôn, Hữu Thoại, Chín Luông, Mười Sự. Bà nổi tiếng trong các vai đào văn: Điêu Thuyền (Phụng Nghi Đình), Giả Thị (Hoàng Phi Hổ quy Châu), Tạ Huê Đàng (Xử Bá Đao Từ Hải Thọ), Tôn phu nhân (Triệu Tử Long đoạt ấu chúa), Dương Thanh Anh (Tống tửu Đơn Hùng Tín)... và các đào võ có tâm trạng như Đào Tam Xuân (Trảm Trịnh Ân), Tiêu Anh Phụng (Tiêu Anh Phụng loạn trào), Phàn Lê Huê (Tiết Đinh San chinh tây)...
Nghệ sĩ Ba Út là diễn viên lâu năm nhất trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong ban Hát bội Vân Hạc. Bà còn là diễn viên của nền điện ảnh miền Nam, từng đóng vai trong các phim Hồn trinh nữ, Đứa cháu nội, Mục Liên Thanh Đề, Lâm Sanh Xuân Nương...
Trước năm 1975, bà làm việc ở Hội Khuyến Lệ Cổ Ca, sau năm 1975, bà làm việc ở Đoàn Nghệ thuật Hát bội thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 60 năm phục vụ ngành sân khấu truyền thống miền Nam, Ba Út nổi tiếng là một nghệ sĩ thanh sắc song toàn, có tài, có đức, được đồng nghiệp nể nang, khán giả yêu mến.
· Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há được xem là “cây đại thụ” của nghệ thuật cải lương Sài Gòn. Bạn biết gì về người nữ nghệ sĩ này?
Phùng Há tên thật là Trương Phụng Hảo, sinh năm 1911 tại Mỹ Tho (Tiền Giang), lên sân khấu từ 13 tuổi. Mới vào nghề, nhưng đã đóng những vai chính cùng với các nghệ sĩ nổi tiếng như: Năm Châu, Ba Du.v.v...
Tài năng của Phùng Há rất đa dạng, đặc biệt thành công trong các vở tuồng Tàu, đóng cả tuồng văn và tuồng võ, đóng đào rất hay và đóng kép cũng giỏi. Vì bà có thể ca được các bài hát Quảng rất đúng điệu, cho nên nghệ sĩ PhùngHá đóng tuồng Tàu thì khó ai hơn được. Tất cả các gánh đã được cô cộng tác, từ Tái Đồng Ban đến Huỳnh Kỳ - Phùng Há và Phụng Hảo, thường xuyên diễn các tuồng Tàu. Để lôi cuốn khán giả, đoàn Tái Đồng Ban có chủ trương “hát có đánh đồ thiệt” dùng gươm, giáo kiếm, kích bằng sắt mạ kền sáng loáng chứ không phải gỗ đẽo như trước kia. Như vậy đào kép phải luyện tập võ thật sự do võ sư chỉ dạy.
Phùng Há tinh thông võ nghệ nên đóng đào võ rất đàng hoàng (như vai Mộc Quế Anh trong vở kịch Mộc Quế Anh dâng cây). Với tài đóng kép, Phùng Há khi đóng cặp với Năm Phỉ như trong vở Sĩ Vân công chúa (Năm Châu phóng tác theo truyện Tristan và Jseult).
Khi gánh Huỳnh Kỳ - Phùng Há khai trương vở Giọt máu chung tình của Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Phùng Há đóng vai Bạch Thu Hà cùng kép Năm Thiên (vai Võ Đông Sơ) và Ba Thâu (vai Triệu Tuấn), Phùng Há được khán giả đánh giá cao.
Về nghệ ca, những người trong nghề cho rằng nghệ sĩ Phùng Há biết cách thu xếp trang trải câu ca, biết để những nhịp ngoại cho già dặn tiếng ca mới biểu lộ cái tài của cô ra được. Tài của cô còn ở chỗ biết vận dụng mối quan hệ ở giữa ca và nói, tức đương nói chuyện rồi vào bài ca (nói lối gối bài ca) một cách tài tình.
Phùng Há sở trường về diễn tuồng Tàu nhưng diễn tuồng xã hội và tuồng Tây cũng thành công chẳng kém. Những vai khắc sâu hình ảnh của nữ nghệ sĩ Phùng Há vào kí ức công chúng mấy chục năm không chút mờ phai là vai Tô Ánh Nguyệt và nhất là vai cô Lựu (trong vở Đời Cô Lựu, cũng của Trần Hữu Trang). Phùng Há đã thể hiện nhân vật người vợ oan ức, người mẹ đau khổ, hết sức cảm động, người xem không cầm được nước mắt.
· Ai là người sáng lập giải thưởng cải lương Thanh Tâm?
Trần Tấn Quốc (1914-1987) ngoài tư cách là một nhà văn, nhà báo, còn là một chuyên gia về sân khấu cải lương. Chính ông là người sáng lập, tổ chức ra Giải cải lương Thanh Tâm nổi tiếng tại Sài Gòn. Giải này từng trao cho một số nghệ sĩ cải lương thời danh hồi đó như Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích Sơn, Bạch Tuyết, Diệp Lang...
Trần Tấn Quốc tên thật là Trần Chí Thành; bút hiệu: Chí Thành, Trần Chí Thành, Cao Trần Lãnh, Thanh Tâm, Trần Tích Lương, Trần Tử Văn, Thanh Huyền, Anh Thành, Chang Ba, Nghệ Sĩ Mù, Cô Hạnh.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại Cao Lãnh (Đồng Tháp). Trong thời gian theo học chương trình Pháp - Việt, Trần Tấn Quốc còn học thêm chữ Hán. Năm 1930, thi đậu tiểu học, gia đình chuẩn bị cho ông lên Sài Gòn thi lấy bằng thành chung, nhưng chưa kịp đi thì ông tham gia vào cuộc biểu tình bị Pháp đàn áp. Trần Tấn Quốc bị Pháp bắt đưa ra toà và kết án 5 năm tù về tội “hoạt động phá hoại chống nhà nước” và đày ra Côn Đảo. Đến 1933, ông được trả tự do về lại Cao Lãnh. Sau đó ông bỏ lên Sài Gòn làm báo, cộng tác với các báo Thần chung, Đuốc nhà Nam, Việt Nam của Nguyễn Phan Long, Nam Đình, Đào Trinh Nhất và được các bậc đàn anh này dìu dắt. Trong thời gian tập sự làm báo, Trần Tấn Quốc theo học một lớp báo chí hàm thụ tại Paris. Năm 1936, ông tham gia Đông Dương Đại hội tại Sài Gòn. Ngoài các tờ báo trên, ông còn cộng tác với báo Công luận, Truyền tin, Điện tín cho đến Cách mạng tháng Tám 1945. Sau 1946, ông tản cư một thời gian ngắn rồi lại trở về Sài Gòn theo nghiệp báo. Thời gian này ông mở rộng quan hệ với các báo Dân chủ mới, Tiếng dội, Dân quyền... Sau năm 1975, ông lui về quê và qua đời trong căn nhà lá bên bờ sông Đình Trung.
Các tác phẩm của Trần Tấn Quốc: Saigon Septembre 1945 (1948), Nam Bộ kháng chiến (1948), Việt Nam trong lịch sử (1948), Ba tháng khói lửa đô thành (1955), Cô Ba Trà (báo Tiếng dội), Cô gái Côn Đảo (báo Buổi sáng), Kỷ niệm làm báo 1936-1975 và một số vở tuồng cải lương.
· Soạn giả của vở cải lương nổi tiếng Đời cô Lựu là ai?
Trần Hữu Trang (1906-1966) là nhà soạn giả cải lương nổi tiếng. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân ở xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Học hết tiểu học, ông học chữ Nho và tự học rất nhiều. Thuở trẻ ông làm nghề hớt tóc. Năm 1930, ông theo các gánh hát làm thư ký chép vở. Được Đặng Công Danh (tức Mười Giảng) hướng dẫn trở thành nhà soạn kịch bản cải lương nổi tiếng, cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Phụng Hảo, Năm Phỉ, Năm Châu. Khi thực dân Pháp quay lại xâm chiến Nam Bộ, ông là Chủ tịch Ủy ban Hành chính xã Phú Kiết. Năm 1947, được phái vào hoạt động nội thành Sài Gòn trong tổ chức Liên Việt, làm công tác vận động văn nghệ sĩ và trí thức. Lập gánh hát Con tằm, sau hợp tác với đoàn Việt kịch Năm Châu. Sau 1954, tiếp tục hoạt động trong Phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn, đòi hòa bình thống nhất nước nhà. Năm 1960, ông ra vùng giải phóng tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông mất tại căn cứ khu giải phóng. Được truy tặng Huân chương Thành đồng. Năm 1996, được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Ông là tác giả nhiều kịch bản cải lương, trong đó có: Tô Ánh Nguyệt, Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Lan và Điệp, Đời cô Lựu... Tên ông đã được Hội sân khấu thành phố đặt làm giải thưởng Trần Hữu Trang để trao tặng cho những nghệ sĩ cải lương triển vọng, xuất sắc. Một con đường ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh cũng mang tên ông.
· Cho biết những đặc sản nổi tiếng của Sài Gòn - Gia Định xưa?
Nói đến những đặc sản nổi tiếng của Sài Gòn - Gia Định, người ta hay nhắc đến: thuốc Gò Vấp; nem Bà Điểm, nem Thủ Đức; rượu đế, heo quay Hóc Môn, cá chìa vôi sông Nhà Bè; con hồ da tử (con đuôn chà là).
- Thuốc Gò Vấp
Trồng toàn bằng phân trâu, phân bò trộn với bánh dầu đập nhỏ để bón vào gốc nên thuốc được tốt, lá lớn.
Thuốc bắt đầu gieo hột rồi cấy vô bầu đem trồng. Kể từ ngày trồng đến ngày bẻ lá đúng bốn tháng, là thời kỳ thuốc già. Bẻ xong đem về ủ 7 ngày, lá thuốc chín vàng, xắt nhuyễn đem phơi.
Thuốc Gò Vấp tàn trắng, khói thơm không phèn, để lâu không bị mốc. Loại thuốc này trồng nhiều nhất ở xã Hạnh Thông, vì đất cao ráo, không phèn, nước ngọt giếng sâu tới 14,15 mét.
- Nem Thủ Đức - nem Bà Điểm:
Thủ Đức, Xuân Trường là hai địa danh của Gia Định gắn liền với nhau qua câu truyền tụng “nem Thủ Đức, suối Xuân Trường”. Nem là một món ăn chơi của người Việt chế biến, làm bằng thịt heo sống quết nhuyễn, rồi gia vị tiêu, tỏi, bột ngọt, rượu Absithe, Cognac... đoạn gói với lớp lá vông, lớp ngoài thì gói bằng lá chuối hột, cột dây ràng chặt để chừng hai, ba ngày thì nem vừa chua là ăn được.
Ngày xưa, ở Sài Gòn, Chợ Lớn, hay các tỉnh xa hơn nữa thường đến Thủ Đức ăn nem và tắm suối Xuân Trường. Nem ăn nhiều cách. Để vậy ăn sống với tỏi, uống rượu, còn kỹ thì nướng cho chín, hoặc cắt nhỏ ra gói với rau sống bánh tráng.
- Rượu đế, heo quay Hóc Môn
Loại rượu này do người vùng Hóc Môn nấu toàn bằng chất nếp, ủ cho đúng ngày giờ để vô chõ, bên hông chõ kháp với một ống tre dưới có đặt một cái chai. Khi đun lửa, nước cơm rượu bốc hơi đọng lại chảy xuống ống tre, nhỏ từng giọt vào chai. Rượu đế Hóc Môn nấu nguyên chất, có mùi thơm, bọt nhiều, uống không gắt, có hậu ngọt, nổi tiếng khắp xa gần.
Heo quay Hóc Môn nổi tiếng không đâu sánh bằng. Người Hóc Môn quay heo rất chuyên nghiệp, heo chín đều, chỗ nào cũng vàng, không nứt, chặt ra thịt dính với da giòn rụm, mùi thơm ngon nhờ hương vị ướp khéo.
- Cá chìa vôi sông Nhà Bè
Ở sông Nhà Bè - Gia Định có loại cá mình dẹp màu vàng, giống loại cá chim, trên lưng có một kỳ chĩa lên giống cái chìa vôi, nên người ta gọi là cá chìa vôi. Thịt cá này rất dai, giòn, làm ra các món nhậu rất hấp dẫn. Có thể hấp lên ăn với bánh tráng, rau sống, làm gỏi, nấu cháo, thịt rất ngọt ăn không ngán.
- Con hồ da tử
Hồ da tử chính là con đuôn chà là. Đuôn chà là ngày xưa ở vùng rừng sác miệt Cần Giờ, Quảng Xuyên nổi tiếng ngon, được triều đình Huế chú ý. Hàng năm đến mùa đông các quan trấn thủ Gia Định ra lệnh cho quan địa phương bắt đem thượng tiến cho nhà vua.
Đuôn chà là bắt đem về ngâm nước muối cho sạch, rút ruột dồn đậu phộng, lăn bột chiên bơ vàng cặp với rau thơm nhậu rất hấp dẫn và có nhiều chất bổ.
· Trịnh Hoài Đức đã từng nhận xét về người dân Sài Gòn như thế nào?
Trịnh Hoài Đức (1765-1825) là một nhà văn hóa lớn của đất Gia Định xưa, là quan đại thần triều Nguyễn nổi tiếng thanh liêm và hay chữ. Tác phẩm Gia Định thành thông chí là một tài liệu quý báu cho chúng ta khi tìm hiểu Sài Gòn - Gia Định xưa. Về người dân nơi đây, ông nhận xét:
“Đất Gia Định rộng lớn, phì nhiêu, sản xuất đủ mọi sản phẩm, dân cư phong phú, không bao giờ lâm vào cảnh thiếu ăn thiếu mặc. Người Gia Định quen ăn tiêu phung phí, trong miền Gia Định rất ít có người giàu có, vì cớ không ai chịu dành dụm để làm giàu cả.
Nhân dân ở đây khinh rẻ tiền của, nhưng rất mộ công lý. Đàn bà thì yểu điệu và phần nào có nhan sắc. Từ Bắc chí Nam họ có tiếng là đẹp hơn cả. Họ phần nhiều thọ hơn đàn ông. Những người cao tuổi phần nhiều vẫn tráng kiện.
Người Gia Định rất thuần hậu với khách lạ. Khi có người lạ tới nhà, chủ bao giờ cũng mời ăn trầu, uống trà và sau cùng dùng cơm. Mà bữa cơm đãi khách bao giờ cũng thịnh soạn, bất luận khách thân hay sơ, hay chỉ là một người lạ mặt. Miễn là khách lạ đến chơi nhà, là chủ nhà ân cần tiếp đãi. Vì thế cho nên một người viễn phương tới đây rất ít khi phải lo ăn. Tuy nhiên phong tục thuần túy này vẫn có một điểm không hay: bọn vô lại, bất lương, vô gia cư hầu như được mọi người ủng hộ, khuyến khích thành ra chúng càng ngày càng tệ nhũng.
Các nhà Nho ở Gia Định có tiếng là hay chữ”...
Xin có một nhận xét nhỏ về ý kiến của Trịnh Hoài Đức, người dân Sài Gòn - Gia Định hiếu khách bởi lẽ nơi đây thời xưa đồng ruộng phì nhiêu, sông nhiều tôm cá. Hơn nữa họ vốn là người từ miền ngoài xiêu tán vào lập nghiệp nơi vùng đất mới, do đó, đối với người đồng hương từ phương xa đến, họ rất quý.
· Bạn có biết về tính cách của người Sài Gòn?
Trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu - đạo làm người (Sở VHTT Long An, 1983), giáo sư Trần Văn Giàu đề cập đến lòng chung thủy của nhân vật rất Sài Gòn là Lục Vân Tiên:
“Lòng chung thủy trong tình duyên đôi lứa hẳn không phải là một tín điều cũ kỹ, hóa đá, một vật của bảo tàng văn hóa phong tục thời trung cổ. Trong cuộc kháng chiến dài 30 năm vừa qua, lòng chung thủy là một nét sinh hoạt xã hội đặc sắc của ngàn vạn cán bộ và nhân dân ta, vừa lãng mạn, vừa cách mạng, nó vừa củng cố gia đình ở chất lượng mới, vừa hình thành một nét lớn của đạo đức chính trị dân tộc. Vợ Nam chồng Bắc mà thủy chung với nhau thì cũng có nghĩa là tin tưởng sắt đá vào sự chiến thắng của chính nghĩa thống nhất nước nhà, cũng có nghĩa là không khi nào tuyệt vọng trước thế lực vô cùng to lớn của phản động quốc tế và quốc gia trong kế hoạch thâm độc của chúng chia cắt vĩnh viễn đất nước ta, và cũng có nghĩa là thề quyết đấu tranh đến toàn thắng. Cha mẹ, chồng vợ, con cháu đều một lòng như vậy dù vượt qua gian khổ hết sức lâu dài. Sau 20 năm ly biệt, các gia đình lại đoàn tụ, “Nam Bắc một nhà”. Vậy lòng chung thủy đâu phải đã lỗi thời, duy ở mỗi lúc nó biểu hiện những hình thái riêng biệt.
Vả chăng, chung thủy không chỉ có trong tình duyên đôi lứa. Vân Tiên chung thủy với Nguyệt Nga (chồng vợ) mà cũng chung thủy với tiểu đồng (thầy trò), với Hớn Minh (bạn bè), với Ngư Tiều (người ơn)
Đỗ trạng rồi, dẹp Phiên xong, Vân Tiên vinh quy bái tổ đi qua đất Đại Đề, nơi mình lâm nạn hồi nào, nhớ đến chú tiểu đồng xấu số của mình, bèn truyền quân bày tế lễ. Nhưng tiểu đồng không phải bị cọp ăn mà được cọp cứu, ba năm trung thành giữ mồ hoang! Hai thầy trò lại gặp nhau. Tiểu đồng chung thủy. Vân Tiên chung thủy. Câu chuyện chung thủy này hẳn có thể làm suy nghĩ những ai giàu thay bạn sang đổi vợ, những ai hiển đạt rồi quên ân nhân của mình thuở hoạn nạn, hàn vi, hạng người này cho đến nay đâu phải không còn?
Khỏi Đại Đề, tới Hàn Giang, quốc trạng Vân Tiên nhớ đến Ngư Tiều.
Bạc vàng, châu báo (báu), áo quần.
Trạng nguyên đem tạ đáp ân Ngư Tiều.
Lần này Ngư Tiều nhận của đền ân không từ chối như trước kia. Hẳn là tác giả muốn cho phép Vân Tiên thực hiện lòng chung thủy của mình.
Đẹp thay lòng chung thủy! Gớm ghiếc thay tính bội bạc thay lòng...
Còn một thứ thay lòng khác, phản bội lý tưởng, phản bội màu cờ, phản bội nước nhà, đổi bạn thành thù, xem thù là bạn: Bọn ấy đời nay nhan nhản ra đó thì lòng “chung thủy” đâu phải là chuyện lỗi thời?...”
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 18:06:27 GMT 9
Nhà "nghiên cứu" Trần Bạch Đằng khi viết tổng luận trong bộ Địa chí văn hóa thành phố hcm (Nxb. thành phố hcm, 1987) đã phân tích:
“Phát triển thường xuyên và đệm từng lúc các đợt đột xuất gây bất ngờ lớn đối với kẻ thù - đó là nét đặc sắc của phong trào thành phố. Sài Gòn là một trong những thành phố lớn mà sự động tịnh của phong trào bản thân ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cục. Cái vĩ đại của Sài Gòn chính là ở chỗ nó vốn là sào huyệt của kẻ thù, nơi lực lượng kẻ thù bao giờ cũng áp đảo, lại thường trực bùng nổ các hành động đối kháng to lớn và rất mãnh liệt của quần chúng... rõ ràng, cội nguồn góp phần quan trọng trong khí phách con người Thành phố. Những người “tha phương cầu thực” lại thiết tha đặc biệt với nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Họ hiểu rằng chế độ vua chúa bạc đãi họ, còn quê hương thì không bao giờ quên những hòn máu dù phiêu dạt tận đâu. Trong những hoài bão lớn nhất của người Thành phố - và người Nam bộ - thống nhất quốc gia, sum họp đại gia đình dân tộc là hoài bão thiêng liêng. Ngay một việc nhỏ cũng mang ý sâu: dân lưu tán không dùng hàng thứ “Cả” để gọi con trưởng - mà gọi thứ hai - vì theo một số nhà dân tộc học, thứ “Cả” dành cho miền quê tổ. Bởi vậy, bọn thực dân cũ và mới phạm một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất là ngỡ rằng chúng hội đủ các tiền đề tách Nam bộ, miền Nam ra khỏi cộng đồng quốc gia như chúng thành công ở nhiều nơi. Chế độ trực trị 85 năm dành cho Nam kỳ không ngăn nổi cuộc Cách mạng Tháng 8 tuyên cáo nước Việt Nam thống nhất. Những người đấu tranh đổ máu chống cái quái thai “Nam kỳ quốc” năm 1946 chính là cư dân Thành phố, cư dân Nam bộ. Những người hiên ngang bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống chia rẽ Bắc Nam qua cuộc di cư cưỡng bức ồ ạt 1954 cũng là cư dân Thành phố, cư dân Nam bộ.
Cội nguồn được các nhân tố mới bồi dưỡng. Dân lưu tán tự tổ chức lấy đời sống của mình, ý thức dân chủ cắm rễ như cây dừa cắm rễ trên nền phù sa màu mỡ giữa một không gian khoáng đạt. Lễ giáo Khổng Mạnh rơi rớt dọc đường Nam tiến, phép nước còn lại ở tấm lòng đối với quê cha đất tổ.
Mọi cái đều cần sửa đổi cho thích hợp với điều kiện tạo lập cuộc sống mới, không do chiếu chỉ nào cả mà tự dân bàn bạc, cam kết. Tính năng nổ sáng tạo vốn là truyền thống thuở dựng nước một thời gian dài bị phong kiến triều đình và thực dân đế quốc chèn ép nay có cơ hội sống dậy, phát huy”.
Và đây là ý kiến của nhà văn Sơn Nam về sở thích ăn uống (Chuyên đề: Tản mạn người Sài Gòn trong tác phẩm Sài Gòn- thành phố hcm , 300 năm địa chính - Sở Địa chính, 1998):
“Trong bữa ăn, người Sài Gòn dầu mới đến cũng làm quen khá nhanh với những món hoang dã nhưng “sang trọng”. Hồi xưa, ông bà đi khẩn hoang lo phá rừng, giết sấu dữ, rảnh rang đâu mà nuôi gà, nuôi heo nái để nhân giống? Lươn, rùa, ếch, rắn thêm chim đồng nội, chuột... gặp con gì ăn con nấy. 12 con giáp: tý, sửu, dần, mẹo... con gì cũng ăn, trừ con rồng, không ăn vì chưa gặp! Thức ăn phải dự trữ. Thời xưa, nơi hẻo lánh, khó kiếm muối và cái hũ để bảo quản cá; dư cá thì làm cá khô, làm mắm. Mùa hạn, lúc trời sa mưa khó tìm cá vì đồng ruộng còn khô cạn, cá con chưa sinh sôi nảy nở, lắm khi tìm con mắm không ra. Mắm ăn ngon vì con cá, thí dụ như cá lóc, chỉ tiết ra vị ngọt thâm trầm khi đã lên men. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí đã nhấn mạnh việc người đất Gia Định thích ăn mắm, khi rảnh rang thì thách thức nhau ăn mắm, ai ăn được nhiều thì cử tọa tán thưởng, mặc dù bây giờ cá rất nhiều. Mắm kho lấy nước ăn với các loại rau rừng mà trước kia ông cha ta gặp đâu hái đó, nào đọt bần, trái bần chua, kèo nèo, bông súng, đọt ổi, đọt cây cơm nguội, đọt chiết, đọt vừng, rồi bày thêm nào là mào của dừa non, xoài rụng... kể không hết. Một bô lão mách rằng, trước khi ăn thứ rau lạ nên nếm thử, rau nào chát hoặc đắng là ăn được, bổ gan, trị bệnh kiết lị. Còn như loại nào vị ngọt thì đừng ăn, có thể bị ngộ độc. Nói nghe hữu lý, nhưng chưa dám tin. Ngày nay, món lẩu mắm bán giá cao ở các cửa hàng đặc sản tại Sài Gòn, hấp dẫn thực khách. Lẩu là lô (cái lò, tiếng Quảng Đông) để mắm sôi lên, xem hợp vệ sinh. Xắt thịt bò, cá basa bỏ vào mắm, dồi dào chất dinh dưỡng. Ăn lẩu mắm vui thích vì quy tụ được bạn bè.
Thú vui thuần vược bén mùi. Giếng vàng thu đã rụng vài lá ngô. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ... (Nguyễn Du). đời nhà Tấn, có vị quan nhớ món ăn rau thuần và con cá vược mà hồi bé thơ ông đã ăn ở quê nhà, bèn xin nghỉ hưu lập tức về vườn.
Người Sài Gòn cũng như phần lớn người ở phía Nam bề ngoài xem như bừa bãi nhưng giữ kỷ cương về ăn uống. Món ăn lý tưởng vẫn là canh chua cá kho, canh chua phải chăng là món của người Khmer, cải biên lại. Vị chua làm giải khát, giải cảm mạo. Trời oi bức, húp chút canh chua dễ nuốt cơm. Cá kho còn gì ngon hơn, cá đồng kho với tinh chất của cá biển là nước mắm còn dư để dành, nguội lạnh cũng ăn được. Cúng ông bà vẫn là bốn món cơ bản như đồng bào ở đồng bằng sông Hồng, ngoài Bắc gọi giò, nem, ninh, mọc; ở Nam bộ là giò heo hầm măng tre, cá và thịt kho nước dừa, thịt ba chỉ luộc, xắt mỏng (thịt phay) và món xào. Tuyệt đối không cúng với thịt rừng. Cúng thần thánh cũng lấy bốn món ấy làm căn bản, món khác như chả giò, nem chua, gỏi là phụ. Đã là nhậu với bạn bè, cơ bản là một món đặc biệt thôi, như lẩu bò hoặc thịt vịt luộc, hoặc thịt chuột. Nhiều món là lạc đề. Vài người quê ở đồng bằng nhớ món của người Triều Châu như củ cải muối chiên trứng vịt hoặc con khô biển, lấy xương nấu với bắp chuối (kiểu Xiêm, gọi là Xiêm Lo). Chỉ khi nào ăn cơm tấm, mới dùng cái dĩa bàn, muỗng, nĩa (mô phỏng kiểu ăn Tây phương). Không cần dao lúc ăn.
Ngày nay, vài món điểm tâm sáng đã định hình, mặc nhiên xem như thế mạnh của mọi miền: Phở Bắc, bún bò Huế, cơm tấm Sài Gòn, thêm hủ tiếu, bánh bao, xíu mại của người Hoa hoặc bánh mì dồn thịt, dồn chả lụa, hoặc cá hộp thịt xá xíu...”
· Xin cho biết người Sài Gòn xưa ăn Tết như thế nào?
Trong Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, về phong tục của tỉnh Gia Định có đoạn viết: “Đất nhiều sông ngòi, nên người nào cũng giỏi bơi lội. Nhân dân đủ người bốn phương, mỗi nhà mỗi tục. Dân nông thôn thì hầu như chất phác, dân thành thị thì chơi bời. Việc tang chế cưới gả cũng có người theo lễ chế, người thờ phật cũng có. Ngoài ra những việc tiễn năm cũ mừng năm mới, các tiết Nguyên đán, Đoan dương, thờ cúng tổ tiên cho đến khi gặp sinh nhật thì mời khách, gặp tiết tốt vui mừng, đại khái các tỉnh Nam Kỳ đều giống nhau cả” (Nxb. Thuận Hóa, 1992, trang 209).
Tuy đời sống kinh tế có khá hơn trước, công nghệ mở mang nhưng đến Tết, người dân Sài Gòn vẫn không quên phong tục cổ truyền. Tết đến là dịp để mọi người sửa soạn lại bàn thờ tổ tiên, trong nhà ngoài ngõ đều có dán đôi liễn đỏ. Vậy trên những đôi liễn đỏ ấy, thời xưa người ta đã viết những dòng chữ gì để nói lên khát vọng của lưu dân trên vùng đất mới? Trong một bài vè xưa có ghi lại khá trung thực:
Ăn mừng năm mới
Chữ an, chữ thới
Dán trước hàng ba
Phú quới vinh hoa
Dán vô trước cửa
Tài lợi lộc phước
Dán trước hàng nhì
Vạn trực duy tân
Dán vô trước cửa.
Ngay cả ông Táo - một “nhân vật” quen thuộc đối với tất cả người Việt - trong ngày Tết cũng được bài trí:
Trên trang ông Táo
Đề chữ hiển linh
Còn ra ngoài ngõ, trên cây nêu bằng tre đuổi tống tà ma thì bài vè này còn ghi:
Lấy câu thái bình
Dán ngoài cửa ngõ
Còn nhớ ngày xưa, trước tết, mấy đứa trẻ trong nhà ngồi chùi bộ lư đồng, o bế cho đến bóng loáng. Nhân đây, xin trích một đoạn trong bài viết Vài cảm tưởng về tết trong Nam của cụ Vương Hồng Sển: “Lối năm 1920, bộ lư đồng năm tấc bề cao, giá độ năm chục bạc lớn. Có thứ lư thau trơn dễ chùi, ở trên chóp đỉnh có đặt hai con lân giỡn trái châu, đứng nhe răng cười “cầu phúc”. Có thứ lư gồ ghề chùi cho bóng, vì lư làm theo kiểu “lư mắt tre”, lư “trúc hóa lân”. Và cũng theo cụ Sển thì “hóa chất” chùi lư thời xưa là “miễn có khế chua đập dập lấy nước chua chấm với tro bếp thật mặn, chấm với “cậc bần” cọ xát thật mạnh thì bao nhiêu ten rỉ cũng sạch” (Tập san Sử Địa - 1967). Trên bàn thờ tổ tiên, những người dân Nam kỳ thời xưa chủ yếu “có chi cúng nấy”, miễn là đầy đủ lòng thành đối với người đã khuất. Thông thường chưng cúng trái cây trong ngày Tết đủ “ngũ quả” tượng trưng cho “ngũ phúc” là lê, lựu, đào, mai, phật thủ. Dần dần, người dân ước mơ về một đời sống cụ thể hơn và cũng giản dị chỉ cần “cầu vừa đủ xài” mà thôi. Do đó, họ đặt mâm quả thấy có mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, thì rõ ràng, những trái cây ấy đã nói lên tâm niệm của người dân lương thiện.
· Xin cho biết ý nghĩa về mâm ngũ quả mà dân Sài Gòn thường chưng trong những ngày tết?
Theo học giả Trương Vĩnh Ký thì “ngũ phước” là ngôn ngữ của “ngũ quả”: phú quý, thọ, khang ninh, khảo, chung mạng (giàu sang, sống lâu, mạnh khỏe, bình yên, chết lành khi về già). Vì lẽ đó người ta đã lựa chọn những loại trái cây có tên đồng âm với ý nghĩa tốt. Ở Nam Bộ dựa vào giọng phát âm tương tự, đồng bào đã chọn mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung. Với mâm trái cây như thế thì ta hiểu rằng: “cầu sung vừa đủ xài”. Sung là sung túc, dừa phát âm như vừa, và xoài là xài!
Thế nhưng, để mâm ngũ quả sinh động, màu sắc rực rỡ thì người ta còn thêm nhiều loại trái cây khác nữa như quýt (đồng âm với kiết có nghĩa là cát, là tốt lành) hoặc trái tắc (đồng âm với đắc là đắc lợi) hoặc bông mai (đồng âm với may, là may mắn) hoặc trái thơm (gợi sự thơm tho) hoặc thêm cả trái lê viết từ chữ lợi (chữ Hán) có thêm chữ mộc v.v... Điều này cho thấy mâm ngũ quả của dân Sài Gòn không chỉ phong phú về các loại trái cây mà còn chú trọng về mặt ý nghĩa như một lời cầu mong tốt đẹp cho năm mới.
· Bạn có biết nhạc tài tử lần đầu lên sân khấu ở Sài Gòn lúc nào không?
Vào năm 1915 Nguyễn Tống Triều và ban nhạc tài tử ở Mỹ Tho lên trình diễn ở nhà hàng Cửu Long Giang bên cạnh chợ Sài Gòn. Đây lần đầu tiên nhạc tài tử lên sân khấu chuyên nghiệp ở Sài Gòn.
· Cải lương xuất hiện ở Sài Gòn lúc nào?
Ngày 11-9-1917, vở kịch mô phỏng kịch hài phương Tây Vì nghĩa quên nhà của Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh được công diễn ở rạp Eden (Sài Gòn). Ngày 12-9-1917, vở được diễn ở rạp Cô Tám (Chợ Lớn).
Vở kịch tạo ra cuộc tranh luận giữa hai phe bảo tồn hát bội và phe cải lương kịch nghệ, báo hiệu sự ra đời của ca kịch cải lương.
Sau đó, gánh hát Lê Văn Thận đã diễn vở Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều. Năm 1919, gánh hát Thầy Năm Tú diễn các vở Hạnh Nguyên cống Hồ, Trang Tử cổ bồn ca ở rạp Moderne (Sài Gòn).
· Sài Gòn - Gia Định xưa từng là một trong những nơi phát triển nghệ thuật hát bội. Bạn hãy giới thiệu sơ nét về Nhà hát Nghệ thuật hát bội TP.HCM?
Hát bội là loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, manh nha từ đời Lý trong dân gian rồi tiến vào cung đình và được hoàn thiện vào đời Trần dưới đời vua Trần Nhân Tông. Đến đời Lê, hát bội bị cấm đoán, chỉ còn tồn tại trong dân gian.
Đầu thế kỷ XVII, hát bội theo chân các đoàn lưu dân vào Nam và phát triển tột bực dưới thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Riêng ở Gia Định, Tả quân Lê Văn Duyệt đã tạo điều kiện phát triển loại hình nghệ thuật này. Không chỉ dinh tổng trấn có một đoàn hát bội mà các quan xa gần thuộc trấn Gia Định đều tranh nhau lập đoàn hát bội, nuôi con hát trong hàng ngũ quân đội. Nghệ thuật hát bội đã lập cứ địa vững chắc và giao lưu với nghệ thuật hát Trung Quốc của người Minh Hương, người Cao Miên.
Trong thế kỷ XX, ở Sài Gòn có những ban hát bội sau: ban hát Thầy Chánh, ban hát cô Ba Ngoạn, ban hát Cô Tám, ban Tân Thành, ban Bầu Thắng, ban Công Thành, gánh Tân Hưng, ban Kim Thành, đoàn Kim Cương, đoàn Phước Thành, đoàn Minh Tơ, gánh Đại Nghĩa, đoàn Bầu Vàng, ban Biện Vực, nhóm nghệ sĩ Hội khuyến lệ cổ ca...
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, đến năm 1975, ở thành phố hầu như không còn đoàn hát bội nào. Sau khi đất nước thống nhất, Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập Đoàn Nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 -1977. Đến năm 2001, được nâng cấp lên thành Nhà hát Nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh (234 Lý Tự Trọng, quận 1) theo Quyết định số 5652/QĐ-UB của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 5-9-2001.
Nhà hát có nhiệm vụ: tổ chức nghiên cứu về nghệ thuật, phong cách biểu diễn nghệ thuật hát bội truyền thống Nam Bộ nhằm kế thừa, giữ gìn và phát huy nghệ thuật truyền thống dân tộc. Tổ chức biểu diễn phục vụ giao lưu giữa các đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra còn tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ diễn viên trẻ làm nguồn kế thừa, bổ sung cho nhà hát.
Nhà hát có trên 30 vở diễn gồm các thể loại: tuồng thầy, tuồng đồ, tuồng lịch sử dân tộc, dân gian và thiếu nhi. Một số vở diễn đoạt giải của đoàn như: Trần Quốc Tuấn (đạt hai huy chương vàng, ba huy chương bạc trong Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985), Bông hồng núi Nưa (đạt ba huy chương vàng, ba huy chương bạc, hai giải đặc biệt trong Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985), Chất ngọc không tan (đạt huy chương bạc tại Liên hoan Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1995), Dũng khí Đặng Đại Độ (giải B giải thưởng sân khấu 1998 của Hội Nghệ sĩ Việt Nam), Tiếng hát nàng Huyền Cơ (Hội diễn Sân khấu tuồng - Dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc đợt 2 tháng 7-1997)... Ngoài ra còn xây dựng một số vở diễn được yêu thích khác như: Trảm Trịnh Ân, Phụng Nghi Đình, Nữ tướng Mộc Quế Anh...
Đoàn biểu diễn cố định thường kỳ tại Nhà hát Thành phố, Nhà Văn hóa Thanh niên trong chương trình Hát bội và công chúng, Trung tâm Văn hóa Hóc Môn, rạp hát Hưng Đạo, Trung tâm Văn hóa Long Phụng, Trung tâm Văn hóa các quận Phú Nhuận, Bình Thạnh, quận 1.
· Vào những năm giữa thế kỷ XX, có một nữ nghệ sĩ đã là thần tượng của khán giả bộ môn nghệ thuật hát bội. Bà là ai?
Íó là nghệ sĩ Ba Út. Bà tên thật là Nguyễn Thị Út (1911-1989), sinh tại Gia Định. Từ nhỏ, bà đã có năng khiếu về hát bội, chuyên đóng các vai phụ ở gánh bà Tám Xá, gánh cô Tư Châu.
Năm 20 tuổi, bà về đoàn Vĩnh Xuân của bầu Thắng. Do có sắc đẹp và giọng hát trong, cao và ấm, bà được giao đóng các vai đào chánh, đóng cặp với bầu Hai Thắng, Minh Tơ, Thành Tôn, Hữu Thoại, Chín Luông, Mười Sự. Bà nổi tiếng trong các vai đào văn: Điêu Thuyền (Phụng Nghi Đình), Giả Thị (Hoàng Phi Hổ quy Châu), Tạ Huê Đàng (Xử Bá Đao Từ Hải Thọ), Tôn phu nhân (Triệu Tử Long đoạt ấu chúa), Dương Thanh Anh (Tống tửu Đơn Hùng Tín)... và các đào võ có tâm trạng như Đào Tam Xuân (Trảm Trịnh Ân), Tiêu Anh Phụng (Tiêu Anh Phụng loạn trào), Phàn Lê Huê (Tiết Đinh San chinh tây)...
Nghệ sĩ Ba Út là diễn viên lâu năm nhất trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong ban Hát bội Vân Hạc. Bà còn là diễn viên của nền điện ảnh miền Nam, từng đóng vai trong các phim Hồn trinh nữ, Đứa cháu nội, Mục Liên Thanh Đề, Lâm Sanh Xuân Nương...
Trước năm 1975, bà làm việc ở Hội Khuyến Lệ Cổ Ca, sau năm 1975, bà làm việc ở Đoàn Nghệ thuật Hát bội thành phố Hồ Chí Minh. Hơn 60 năm phục vụ ngành sân khấu truyền thống miền Nam, Ba Út nổi tiếng là một nghệ sĩ thanh sắc song toàn, có tài, có đức, được đồng nghiệp nể nang, khán giả yêu mến.
· Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há được xem là “cây đại thụ” của nghệ thuật cải lương Sài Gòn. Bạn biết gì về người nữ nghệ sĩ này?
Phùng Há tên thật là Trương Phụng Hảo, sinh năm 1911 tại Mỹ Tho (Tiền Giang), lên sân khấu từ 13 tuổi. Mới vào nghề, nhưng đã đóng những vai chính cùng với các nghệ sĩ nổi tiếng như: Năm Châu, Ba Du.v.v...
Tài năng của Phùng Há rất đa dạng, đặc biệt thành công trong các vở tuồng Tàu, đóng cả tuồng văn và tuồng võ, đóng đào rất hay và đóng kép cũng giỏi. Vì bà có thể ca được các bài hát Quảng rất đúng điệu, cho nên nghệ sĩ PhùngHá đóng tuồng Tàu thì khó ai hơn được. Tất cả các gánh đã được cô cộng tác, từ Tái Đồng Ban đến Huỳnh Kỳ - Phùng Há và Phụng Hảo, thường xuyên diễn các tuồng Tàu. Để lôi cuốn khán giả, đoàn Tái Đồng Ban có chủ trương “hát có đánh đồ thiệt” dùng gươm, giáo kiếm, kích bằng sắt mạ kền sáng loáng chứ không phải gỗ đẽo như trước kia. Như vậy đào kép phải luyện tập võ thật sự do võ sư chỉ dạy.
Phùng Há tinh thông võ nghệ nên đóng đào võ rất đàng hoàng (như vai Mộc Quế Anh trong vở kịch Mộc Quế Anh dâng cây). Với tài đóng kép, Phùng Há khi đóng cặp với Năm Phỉ như trong vở Sĩ Vân công chúa (Năm Châu phóng tác theo truyện Tristan và Jseult).
Khi gánh Huỳnh Kỳ - Phùng Há khai trương vở Giọt máu chung tình của Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Phùng Há đóng vai Bạch Thu Hà cùng kép Năm Thiên (vai Võ Đông Sơ) và Ba Thâu (vai Triệu Tuấn), Phùng Há được khán giả đánh giá cao.
Về nghệ ca, những người trong nghề cho rằng nghệ sĩ Phùng Há biết cách thu xếp trang trải câu ca, biết để những nhịp ngoại cho già dặn tiếng ca mới biểu lộ cái tài của cô ra được. Tài của cô còn ở chỗ biết vận dụng mối quan hệ ở giữa ca và nói, tức đương nói chuyện rồi vào bài ca (nói lối gối bài ca) một cách tài tình.
Phùng Há sở trường về diễn tuồng Tàu nhưng diễn tuồng xã hội và tuồng Tây cũng thành công chẳng kém. Những vai khắc sâu hình ảnh của nữ nghệ sĩ Phùng Há vào kí ức công chúng mấy chục năm không chút mờ phai là vai Tô Ánh Nguyệt và nhất là vai cô Lựu (trong vở Đời Cô Lựu, cũng của Trần Hữu Trang). Phùng Há đã thể hiện nhân vật người vợ oan ức, người mẹ đau khổ, hết sức cảm động, người xem không cầm được nước mắt.
· Ai là người sáng lập giải thưởng cải lương Thanh Tâm?
Trần Tấn Quốc (1914-1987) ngoài tư cách là một nhà văn, nhà báo, còn là một chuyên gia về sân khấu cải lương. Chính ông là người sáng lập, tổ chức ra Giải cải lương Thanh Tâm nổi tiếng tại Sài Gòn. Giải này từng trao cho một số nghệ sĩ cải lương thời danh hồi đó như Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích Sơn, Bạch Tuyết, Diệp Lang...
Trần Tấn Quốc tên thật là Trần Chí Thành; bút hiệu: Chí Thành, Trần Chí Thành, Cao Trần Lãnh, Thanh Tâm, Trần Tích Lương, Trần Tử Văn, Thanh Huyền, Anh Thành, Chang Ba, Nghệ Sĩ Mù, Cô Hạnh.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại Cao Lãnh (Đồng Tháp). Trong thời gian theo học chương trình Pháp - Việt, Trần Tấn Quốc còn học thêm chữ Hán. Năm 1930, thi đậu tiểu học, gia đình chuẩn bị cho ông lên Sài Gòn thi lấy bằng thành chung, nhưng chưa kịp đi thì ông tham gia vào cuộc biểu tình bị Pháp đàn áp. Trần Tấn Quốc bị Pháp bắt đưa ra toà và kết án 5 năm tù về tội “hoạt động phá hoại chống nhà nước” và đày ra Côn Đảo. Đến 1933, ông được trả tự do về lại Cao Lãnh. Sau đó ông bỏ lên Sài Gòn làm báo, cộng tác với các báo Thần chung, Đuốc nhà Nam, Việt Nam của Nguyễn Phan Long, Nam Đình, Đào Trinh Nhất và được các bậc đàn anh này dìu dắt. Trong thời gian tập sự làm báo, Trần Tấn Quốc theo học một lớp báo chí hàm thụ tại Paris. Năm 1936, ông tham gia Đông Dương Đại hội tại Sài Gòn. Ngoài các tờ báo trên, ông còn cộng tác với báo Công luận, Truyền tin, Điện tín cho đến Cách mạng tháng Tám 1945. Sau 1946, ông tản cư một thời gian ngắn rồi lại trở về Sài Gòn theo nghiệp báo. Thời gian này ông mở rộng quan hệ với các báo Dân chủ mới, Tiếng dội, Dân quyền... Sau năm 1975, ông lui về quê và qua đời trong căn nhà lá bên bờ sông Đình Trung.
Các tác phẩm của Trần Tấn Quốc: Saigon Septembre 1945 (1948), Nam Bộ kháng chiến (1948), Việt Nam trong lịch sử (1948), Ba tháng khói lửa đô thành (1955), Cô Ba Trà (báo Tiếng dội), Cô gái Côn Đảo (báo Buổi sáng), Kỷ niệm làm báo 1936-1975 và một số vở tuồng cải lương.
· Soạn giả của vở cải lương nổi tiếng Đời cô Lựu là ai?
Trần Hữu Trang (1906-1966) là nhà soạn giả cải lương nổi tiếng. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân ở xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Học hết tiểu học, ông học chữ Nho và tự học rất nhiều. Thuở trẻ ông làm nghề hớt tóc. Năm 1930, ông theo các gánh hát làm thư ký chép vở. Được Đặng Công Danh (tức Mười Giảng) hướng dẫn trở thành nhà soạn kịch bản cải lương nổi tiếng, cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Phụng Hảo, Năm Phỉ, Năm Châu. Khi thực dân Pháp quay lại xâm chiến Nam Bộ, ông là Chủ tịch Ủy ban Hành chính xã Phú Kiết. Năm 1947, được phái vào hoạt động nội thành Sài Gòn trong tổ chức Liên Việt, làm công tác vận động văn nghệ sĩ và trí thức. Lập gánh hát Con tằm, sau hợp tác với đoàn Việt kịch Năm Châu. Sau 1954, tiếp tục hoạt động trong Phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn, đòi hòa bình thống nhất nước nhà. Năm 1960, ông ra vùng viet cong tham gia Ủy ban Trung ương " Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam", được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ "Giải phóng". Ông mất tại căn cứ khu "giải phóng". Được truy tặng Huân chương Thành đồng. Năm 1996, được truy tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
Ông là tác giả nhiều kịch bản cải lương, trong đó có: Tô Ánh Nguyệt, Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Lan và Điệp, Đời cô Lựu... Tên ông đã được Hội sân khấu thành phố đặt làm giải thưởng Trần Hữu Trang để trao tặng cho những nghệ sĩ cải lương triển vọng, xuất sắc. Một con đường ở quận Phú Nhuận, thành phố SG cũng mang tên ông.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 18:09:22 GMT 9
Phú Quốc không xa
Anh Động
Xa nhất về phía tây Việt Nam có một nhóm đảo mà người phương Tây gọi là trân châu của Đông Nam Á. Phú Quốc như tên gọi là một dãy đất lớn, còn hai nhóm đảo phụ cận cũng thuộc phạm vi hành chánh Phú Quốc, đó là quần đảo An Thới và Thổ Châu. Những đảo đẹp giàu, không thiếu yếu tố để phát triển. Quần đảo An Thới với vẻ đẹp trữ tình, rất thích hợp cho du khách đến viếng. Quần đảo Thổ Châu xa tít mù giữa trùng khơi, sừng sững dáng đứng Việt Nam, có rất nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử.
Đây là vùng biên cương trùng dương sóng gió, nên người dân có một phong cách phóng khoáng, ngang tàng của vùng trời biển bao la. Tâm hồn họ mở rộng và dữ dội của kẻ “đứng trên đầu sóng ngọn gió”, ý chí kiên quyết, thông minh khắc phục thiên nhiên, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ để tạo nên một môi trường, cuộc sống mới ở một chân trời, góc biển mới.
Những dải núi hoang vu, những hòn đảo trơ lạnh, những khu rừng rậm rạp dưới sức lao động của con người, các đảo khơi đã trở thành những vườn tiêu xanh tươi, những hàng dừa mát rượi, những liếp sầu riêng thơm phức. Những bãi cát vàng hoang phế, cây cỏ um tùm đã trở thành những xóm thôn yên ả, những triền núi cằn cỗi khô khan trở thành những vườn cây ăn trái xum xuê, mượt mà; những cửa sông chập chùng ghềnh thác đã trở thành những khu chợ sầm uất, những bến cảng đông vui tấp nập tàu thuyền...
Đến Phú Quốc, Thổ Châu ta không thể không nhận thấy những ánh mắt hãnh diện, những nụ cười đầy tin tưởng của những con người góc biển chân trời. Họ mang trong huyết quản dòng máu phiêu lưu, quyết chí của một dân tộc khai sơn phá thạch, đưa biên giới quốc gia đến tận nơi đây, và tinh thần mở nước, giữ nước kiên cường bất khuất.
Đối với dân đất liền, tên Phú Quốc không mấy gì xa lạ, vì người ta liên tưởng đến những thổ sản trứ danh có tầm cỡ thế giới: tiêu Phú Quốc, nước mắm Phú Quốc. Nhưng nhiều năm trước đây có rất ít người đặt chân đến khắp các đảo nầy. Mặc dù đó là một vùng giàu có bao la, biết bao tài nguyên thiên nhiên dành sẵn cho ta từ trên đỉnh cao của núi xuống đến quanh triền, vào các khu rừng nguyên thủy, ở trên những bãi cát vàng trải rộng, quanh co theo những con rạch, mé ghềnh đến trong lòng biển, dưới đáy biển sâu và tận trong lòng đất thềm lục địa, Phú Quốc chậm được đầu tư phát triển mang tầm cỡ lâu dài.
Trước hết chúng ta rảo qua một vùng đất lớn mang tên Phú Quốc. Dải đất nầy nằm đối diện với dải duyên hải tỉnh Kampốt (Campuchia), cách nhau lối 14 hải lý. Giữa Phú Quốc và nước Campuchia có hai hòn Nầng trong và hòn Nầng ngoài làm bình phong. Cách Mũi Nai (Hà Tiên) khoảng 60 km, cách Rạch Giá 115 km, Phú Quốc là một huyện của Kiên Giang, chia ra nhiều xã. Trước đây có: An Thới, Dương Tơ, Hàm Ninh, Cửa Dương, Cửa Cạn, Thổ Châu và thị trấn Dương Đông. Đảo có hình dạng giống như con cá vẫy đuôi lội về phía bắc, miệng há rộng. Diện tích đảo 593,05 km2, với nhiều dải núi chạy song hành bắc nam và những đồi độn. Truyền thuyết cho rằng Phú Quốc có tất cả chín mươi chín ngọn núi. Điều chắc chắn là núi non Phú Quốc được coi như nối dài theo dải núi Voi (Kampốt), ngăn cách bởi con kinh Tà Lỳ. Ngoài những nhánh bắc nam còn có nhiều nhánh đâm ngang.
Về phía bắc, vì gần núi Voi, là gốc, nên núi cao hơn. Tuy nhiên cao độ núi ở Phú Quốc thuộc dạng trung bình. Đỉnh cao nhất trong dải Hàm Ninh là núi Chùa 603 mét. Về mạn nam, đỉnh cao nhất trong dải Dịnh Cựu chỉ đến 158 mét.
Đảo Phú Quốc dài 49 km, từ vĩ độ 10o01’ (tính nơi mũi Ông Đội) lên đến vĩ độ 10o27’ bắc (tại mũi Kvala). Bề rộng lối 27 km, từ kinh độ 103o51’ (mũi Gành Dầu) cho đến kinh độ 103o50’ đông. Nơi hẹp nhất ở phía nam đảo vùng An Thới độ 3 km.
Phú Quốc có thị trấn Dương Đông, nằm về phía tây đảo, là một cảnh đẹp, cụ Đông Hồ đã từng viết: “Người du khách mới đến Dương Đông cảm được cái đẹp nhất là cảnh ở cửa nầy. Một bên là bãi cát trắng, bóng dương tha thướt, một bên là ghềnh đá những đồi con, chắn ngang vàm sông, hình gồ ghề kỳ kỳ, quái quái. Khi mặt trời xuống, trèo lên ghềnh mà trông cửa biển chiều hôm, nước mây man mác, bên kia bóng dương bãng lãng, bên nầy chiếc thuyền trong vàm sông xuôi ra, cánh buồm trắng phất qua ghềnh đá biếc, mũi rẽ nước, thì đẹp biết chừng nào!”.
Bây giờ chúng ta hãy làm một cuộc du lịch lên phía bắc ở mũi Kvala, rồi theo bờ tây đi dần xuống nam. Đầu tiên chúng ta gặp núi Chảo 371m chiều cao, chân nhô ra biển thành hai mũi: mũi Trâu Nằm và mũi Đá Bạc. Từ Đá Bạc trở đi là một bãi cát dài 2.400 mét do rạch Tràm đổ ra đây. Bên trong là một cánh đồng, hay nói đúng hơn là một diện tích khá bằng phẳng, thấp nhỏ, ngập nước, giới hạn bởi ba khối núi: núi Chảo ở phía bắc, núi Hàm Rồng cao 365m ở phía nam và núi Chùa ở phía đông.
Rạch Tràm là đường xâm nhập thiên nhiên vào nội địa bắc đảo. Nơi đây thuở xa xưa máu người đã chảy thành suối vào những thời kỳ các nơi cạnh tranh khai thác mỏ huyền. Họ đánh nhau, giết nhau để trở thành kẻ mạnh trong khai thác. Và sau đó lại đổ máu khi cướp biển phục kích các đoàn phu vận tải chất huyền ra biển. Vì đường này dẫn vào mỏ huyền nổi danh khắp Á Châu nhờ nước huyền đen óng ánh. Vào khoảng thế kỷ XVII, người Mã Lai, Thái Lan, Indonêxia và Quảng Đông (Trung Quốc) mở nhiều cuộc tranh chấp giết chóc lẫn nhau, bỏ lại những hài cốt trôi đầy những vực xoáy, khúc khuỷu của dòng sông, hốc đá. Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay chưa ai đầu tư khai thác mỏ huyền ở đây nữa.(1)
Khối núi Hàm Rồng theo bắc nam dài 10km. Chỉ có phía bắc nhô ra biển nơi có tên mũi “Hàm Rồng”, phần còn lại là ranh giới bên trong của cánh đồng Suối Vạn, cùng phụ lưu của rạch Cóc, rạch Cây Nhum đổ ra.
Từ đó trở đi là dải núi Bãi Dài, một phần nhô ra thành mũi Gành Dầu, mũi Ba Trại, suốt mùa sóng vỗ vào chân. Ngoài khơi lố nhố vài đảo con, mỗi đảo diện tích không đầy 300m2. Đó là hòn Bàng, hòn Thầy Bói, cách bờ chừng vài km, về phía bắc hòn Nầng, lãnh thổ Việt Nam đã bị quân hoàng gia Campuchia cưỡng chiếm năm 1958.
Bắt đầu từ đó bờ biển chạy theo hướng chính nam, qua Bãi Dài 8.000m, rồi chuyển hướng đông Nam, cho đến bãi Cửa Cạn. Trong suốt đoạn này nhiều hòn núi đơn độc nằm sát biển và ngoài khơi của đảo Đồi Mồi nổi danh.
Rạch Cửa Cạn, ở vào phía bắc đảo, phát xuất từ triền tây của dãy núi Hàm Ninh, tiếp nhận nước của hàng trăm con suối định kỳ chảy khúc khuỷu quanh cánh đồng rừng Cấm và đồng Cây Sao, đồng Bà, rồi đổ ra biển. Hải lưu và gió mùa đã tạo dựng một lưỡi cát dài theo sông chảy ra. Lưỡi cát nầy khiến cho nghẽn sông khi chảy ra biển. Mùa nồm, sóng biển đem cát lấp cửa sông, do đó mà có tên Cửa Cạn. Ghe muốn vào sông phải hợp năm bảy chiếc đợi sẵn trước cửa. Khi triều xuống người ta đem cuốc, leng đào một lối thoát nước xuyên qua lưỡi cát, nhờ đó nước sông đổ ra biển, làm cho đường nước rộng nhanh. Rồi ghe tàu mới có thể vào được. Khoảng một tuần sau, vài đám giông lại làm cho Cửa Cạn lấp lại như cũ.
Cửa Cạn là một con sông nho nhỏ, đem phù sa từ vùng núi Hàm Ninh bồi đắp thành một bình nguyên, chưa được khai thác đúng mức. Thượng nguồn sông Cửa Cạn có cánh đồng Bà, người địa phương gọi là “Đồng Bà Kim Giao”. Tục truyền rằng bà Kim Giao là một phụ nữ khởi xướng việc làm ruộng lúa nước ở Phú Quốc đầu tiên. Bà đưa trâu từ đất liền ra, khai thác và phát triển ruộng lúa trên cánh đồng nầy. Hiện giờ còn nhiều dấu vết nông cụ và còn những con trâu hoang của bà Kim Giao sống trong vùng rừng Hàm Ninh. Men theo dòng sông Cửa Cạn, cây cỏ nguyên thủy còn nhiều ở rừng sác, có cả loại cây tràm lâu đời. Tại cửa sông, xóm dân cư Cửa Cạn êm đềm sinh hoạt về nghề đánh cá và làm nước mắm. Đối diện ở phía nam là một bãi cát dài 1.000 mét. Rồi một mũi đá nhô ra. Mũi Gành Lớn, phía nam của mũi là bãi biển Dương Đông.
Cửa Cạn như ta biết, vào mùa nồm cửa sông thường bị cát bồi lấp, do đó mà có một truyền thuyết rằng vào năm 1868, trong lúc nghĩa quân của ông Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp bao vây thắt ngặt, bà vợ của ông từ Ba Trại được tổ chức vượt đường trốn ra. Bà đi bằng ghe theo dòng sông Cửa Cạn để ra biển, có ý vượt biển vào đất liền. Nhưng vào mùa cửa sông bị cát lấp, ghe của bà phải mắc kẹt tại đây. Bà đang có mang, vì đường sá vất vả, vận động quá sức, bà sanh thai non giữa một đêm mưa gió hãi hùng tại vàm Cửa Cạn. Biển động thét gào. Giặc Pháp bao vây, bà không còn phương kế thoát thân, dân chúng các xóm đều bị giặc Pháp bắt gom hết về thị trấn Dương Đông, không ai đến chăm sóc cho bà được. Sức bà cùng kiệt giữa đêm mưa. Bà bị băng huyết mà chết. Hài nhi non ngày lại thiếu sữa mẹ, cùng chết theo. Có mấy ngư dân gan góc, lần mò qua mắt quân thù, cốt tìm theo bảo vệ bà. Nhưng khi tìm gặp, thì hai mẹ con bà không còn sống được. Họ lén mang thi hài hai mẹ con bà giấu vào một bọng cây. Sau đó tạm yên, dân chúng đem hài cốt hai mẹ con bà chôn cất tử tế tại bãi Ông Lang (Cửa Cạn).
Rạch Dương Đông dài 15 km, đem nước từ dải núi Ông Thầy, từ phía đông của đảo đổ ra Cửa Dương. Cửa rạch hẹp, phía bắc là bãi cát dài, phía nam là ghềnh Dinh Cậu đá nổi lô nhô. Mùa gió nồm thổi, ghe tàu vào cửa khó khăn, tuy cửa không bị cát lấp như Cửa Cạn nhưng gió thổi mạnh liên tục, muôn ngàn lượn sóng từ ngoài biển đùa vào, nước tung tóe trên ghềnh, sóng đưa thuyền vào cửa sông, người thủy thủ phải vững tay lái nếu không sẽ bị va chạm vào ghềnh. Cửa Dương Đông là một cảnh đẹp tuyệt vời! Dương Đông còn là một thị trấn trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội và thương mại của Phú Quốc, cũng là nơi có nhiều nhà thùng sản xuất nước mắm trứ danh lớn nhất của nước ta.
Phía ghềnh Dinh Cậu, ven biển là một vùng cát chạy dài hướng chính nam qua những ấp, xóm dân cư trù phú cho tới Mũi Hạnh, vùng An Thới mới chấm dứt. Thật ra bờ biển không mấy liên tục, các mũi chỉ là những khối núi mồ côi, không hợp thành sơn hệ ngăn cách, như mũi Tàu Rũ, Mũi Xép, mũi Đất Đỏ, mũi Ông Bốn. Các bãi biển như bãi Dương Tơ rất đẹp, bãi cát rộng - hẹp khác nhau. Cát thật trắng, nước thật trong, người lội xuống sâu đến cổ vẫn nhìn thấy bàn chân.
Từ Mũi Hạnh, bờ biển Cây Dừa đổi hướng tây đông qua các bãi Cây Dừa, Bãi Xép của khu vực An Thới, rồi chấm dứt ở mũi Ông Đội. Từ đó bờ biển theo hướng nam bắc. Các bãi cát trắng, nước trong, nhiều rêu nối tiếp nhau chạy dài suốt vùng An Thới và nam Hàm Ninh, chỉ gián đoạn với những mũi sa thạch màu hồng bị nước biển xâm thực, tác tạo thành những hình thù kỳ dị. Bãi Khem, Bãi Sao, Bãi Đầm đều là những thắng cảnh, cát trắng sâu xuống từ từ, bên trên cây rừng chạy ra gần đến tận mé nước. Du khách tắm biển xong có thể lên trú ẩn trong các lùm cây bóng mát mà chuyện trò tâm sự. Vùng nầy có Rạch Đầm là con suối quan trọng, có nước ngọt quanh năm. Trước kia có một xóm nhỏ nép mình dưới bóng Mũi Chùa.
Các bãi thuộc An Thới chấm dứt ở đây, dưới chân núi Đồn Phách. Bên kia núi là vùng Hàm Ninh, có con rạch Hàm Ninh đem phù sa ra biển. Hàm Ninh, nằm ở cửa rạch, có tỉnh lộ 47 dài 14 km nối liền với Dương Đông. Hai bên lộ có khu rừng già 565 và khu rừng sác bảo hộ bờ rạch Hàm Ninh. Đây là một vùng thảo mộc nguyên thủy còn lại lâu và nhiều nhất của Phú Quốc.
Trước kia, khi gió mùa tây nam thổi, tàu bè không vào cửa Dương Đông được, cặp bến Hàm Ninh khuất gió. Còn mùa bấc thì biển Hàm Ninh động. Từ Hàm Ninh trở về bắc có một dải núi khá cao chạy song song với bờ biển và gần kề nhau. Bên ngoài, không mấy xa, có một dải cồn cát ngầm, khiến cho sóng lớn khi chạy vào đây gặp đáy biển, chợt cạn, tạo nên hiện tượng chao động rất nguy hiểm cho tàu thuyền.
Quan sát các vùng chung quanh đảo Phú Quốc, bên trong là một môi trường của những đồi độn, không cao cho lắm, giới hạn những vùng thấp hơn, khá bằng phẳng, cỏ dầy, nước ngập vào mùa mưa vì không lối thoát nước. Đây là những giang sơn của muỗi và vắt cùng cỏ rậm, lau sậy hoang vu. Tóm lại, bên trong của Phú Quốc là một vùng còn nê địa. Với những rừng già có các danh mộc như cẩm lai, kiền kiền, cam, thị, bời lời, vên vên... Trên các sườn núi xa xôi còn lại một số cây trầm hương quý giá. Còn ở những nơi tập trung dân, chỉ cần đi xa chừng một ngàn mét là có đầy đủ gỗ tạp để làm củi chụm. Người xưa có câu về Phú Quốc rằng: “Sơn vô thượng, thủy vô thâm”.
Bờ biển chung quanh đảo rất đẹp! Nước tùy theo cạn, sâu từ trên cao nhìn xuống tựa như những vết loang khổng lồ màu xanh nhạt ngọc thạch rồi đậm dần như ngọc bích. Mặt biển đổi màu liên tục theo từng cơn nắng rọi xuống xuyên qua các áng mây trôi. Biển và bờ biển ở đây rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Ngoài những bãi biển trải dài như bãi Cây Dừa, bãi Vông, bãi Dài, bãi Cửa Cạn, bãi Dương Đông, bãi Xép, bãi Khem... còn lại đều là triền núi hay ghềnh đá. Hàng năm, từ tháng sáu đến tháng mười dương lịch biển thường hay động.
Vì bờ biển cạn nên lập hải cảng rất khó khăn. Tàu đánh cá luồng sâu hai mét chỉ có thể vào cửa rạch Cửa Cạn và Dương Đông vào lúc thủy triều lên. Tàu lớn phải đậu trong quần đảo An Thới. Quanh Phú Quốc nhiều nơi còn có những dải san hô, khiến cho việc đổ bộ vô cùng khó khăn.
Sông rạch Phú Quốc đều ngắn. Biên độ triều rất bất thường. Từ một mét sâu vào mùa nắng tăng vọt lên đến năm, bảy mét vào mùa mưa. Những cơn nước lụt, nước chảy như thác đổ làm bật gốc cây cỡ lớn. Các sông nầy ghe xuồng chỉ lưu thông được khoảng 1.000 mét ở hạ lưu, và chỉ loại nhỏ mới sử dụng được. Phần lớn các rạch đều chảy từ hướng đông sang tây. Đáng kể nhất là rạch Dương Đông, dài chừng 15 km, phát xuất từ khối núi Ông Thầy, nước cũng chảy từ đông sang tây, suốt trung bộ của đảo. Nơi rạch đổ ra biển gọi là Cửa Dương, cửa cạn hẹp lại bị ghềnh đá làm cho tàu thuyền vào khó khăn. Tuy nhiên ghe nhỏ có thể đi sâu vào nội địa khoảng 7 km. Thị trấn nằm trên cửa sông. Nơi đây có nhiều thắng cảnh. Dinh Cậu nằm trên một ghềnh đá. Chùa nầy được xây dựng từ lâu và là một thắng cảnh thơ mộng trên đồi giữa khoảng bãi cát vàng chảy rẽ hai, phía về Dương Tơ, phía về Gành Gió. Đứng trên chùa Dinh Cậu đưa mắt nhìn bao quát được cả chợ Dương Đông. Phú Quốc đẹp như một hòn ngọc lấp lánh giữa đại dương muôn trùng sóng nước. Đằng kia, bên ghềnh đá chênh vênh, một vài chàng trai, cô gái sau những buổi lao động ở rừng, ở vườn tiêu, ở các xí nghiệp chế biến hải sản hoặc sau những ngày ra khơi đánh bắt về, họ rủ nhau ra đây tìm câu những con cá tràm, cá chỉ, cá bóng để giải trí, để tiếp nối hẹn hò.
Sắc thái nhân văn và kinh tế của Phú Quốc có bề dầy giàu tính truyền thuyết, giai thoại; nguồn văn học dân gian nổi bật qua các địa danh, con người trong đấu tranh, xây dựng. Dân số Phú Quốc trước năm 1975 trên 30.000 người.
Hiện nay trên đảo Phú Quốc có rất nhiều nhà thùng sản xuất nước mắm và một số nhà máy nước đá sản xuất cho nhu cầu của ngư phủ. Ngư nghiệp trên đảo phát triển mạnh, có hàng ngàn tàu thuyền đánh cá. Ngoài cá, mực, tôm Phú Quốc còn có một số hải sản đặc biệt như mai, điệp, hải sâm, vi cá, tổ yến...
Ngoài tài nguyên thủy sản, Phú Quốc còn có nhiều khoáng sản đáng lưu ý. Bắc đảo (Bãi Dài) có mỏ đá mài, nam đảo có sét trắng, mỏ mangan, sắt và nhất là huyền ở Rạch Tràm, một loại quí thạch dùng làm trang sức cho phụ nữ và dùng vào công nghiệp. Trung tâm đảo có oxit đồng màu đen, than đá...
Ở tận phía nam đảo còn một nhóm đảo thuộc vùng An Thới, xếp hàng theo hướng bắc nam. Từ trên cao nhìn xuống, chúng ta có thể mường tượng là một nắp vung bể ra nhiều mảnh và một phần đã sụp xuống sâu. Vì biển ở đây sâu một cách đột ngột. Vùng sâu độ 29 mét cách bờ không xa. Gần đó, về phía nam có những trũng sâu, hố sâu đến 40 mét. Điều nầy rất đặc biệt, ở vịnh Thái Lan chung qui là một môi trường cạn. Có tất cả lối mười mấy đảo ở vùng nầy. Vì vấn đề địa danh chưa xác thực, ta dễ hiểu lầm tên đảo được ghi trên bản đồ và tên đảo được người địa phương gọi. Đây là tên một số đảo theo cách gọi của người địa phương: Hòn Dầm, Hòn Dứa, Hòn Rỏi, Hòn Thơm, Hòn Đụng, hòn Móng Tay, Hòn Buồm, Hòn Giông Ngang, hòn Mây Rút Trong, hòn Mây Rút Ngoài, Hòn Rơi, Hòn Kim Qui, Hòn Xưởng, Hòn Tranh, Hòn Khô.
Nhóm quần đảo trên rất quan trọng về phương diện chiến lược, là những pháo đài thiên nhiên quốc phòng của đảo.
Tóm lại, Phú Quốc là một vùng trời Tổ quốc, một vùng biển quê hương đầy hy vọng chứa chan về sự giàu đẹp. Một vùng có rất nhiều khả năng phát triển, vì nó đa dạng tài nguyên mặt nổi, mặt chìm và tận dưới lòng đất sâu của thềm lục địa l
----------------------------------------------------------
(1) Theo “Vịnh Thái Lan” của Sơn Hồng Đức, 1973.
(2) Nội dung nghị định ngày 12-12-1892, trích lại của Portrou Ka Lian, trang 29.
(vanchuongviet.org)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2009 18:15:25 GMT 9
CÀ MAU, VỚI CÁI NHÌN
300 NĂM TRƯỚC
Hồng Hạnh
Trong lúc đi tìm mọi cứ liệu liên quan đến 300 năm khai phá, khẩn hoang miền Tây, chợt nghĩ - Cà Mau cách Sài Gòn hơn 300 cây, nghe nói mỗi năm mũi đất chót vót này được bồi thêm vài chục thước nữa. Vậy liệu 300 năm trước khi Sài Gòn đã định hình phố xá? Cà Mau đã có trong bản đồ chưa? Liệu hồi đó mũi đất này ra sao?
CÀ MAU vốn được xem là xứ sở của những lưu dân đi khai khẩn, mở đất. Mọi người gắn cho Cà Mau những danh xưng - “vùng đất trẻ”, “bãi phù sa mới bồi tụ”... Trong “Tiểu giáo trình địa lý xứ Nam Kỳ” (Petit cours Géographie de la Basse - Cochinchine) của Trương Vĩnh Ký ấn hành năm 1875, có đoạn: “... đa phần đất đai miền này là thứ đất phù sa gồm bùn và cát do tác động của dòng nước đem tới, rồi bị ngăn chặn hoặc giữ lại bởi rễ của các thứ cây đước, vẹt, dà, bần...”. Thế nhưng, qua những giai thoại, những câu chuyện dân gian thì nào chỉ có vậy. Tất cả đã phủ lên vùng đất vốn bí hiểm này những dấu hỏi đậm chất sử thi. Liệu lịch sử của vùng đất này sẽ bắt đầu từ đâu.
Từ những trang địa bạ hiếm hoi
Đã có lần tôi đặt câu hỏi này với nhà sử học Nguyễn Đình Đầu - tác giả công trình “Nghiên cứu địa bạ Triều Nguyễn” – ông đã không trả lời ngay. Ông cho rằng, khi nghiên cứu lại lịch sử, nhất thiết phải đi theo dòng lịch sử của cha ông đi khẩn hoang với những di tích lịch sử cụ thể. Điều đặc biệt, những di tích ở đây không chỉ là những giá trị vật chất như đình chùa, miếu mạo. Di tích đó còn là những giá trị tinh thần như mô hình làng xã, mối dây ràng buộc các thế hệ. Có vậy mới có một cái nhìn về lịch sử khách quan nhất.
Theo những tư liệu hiếm hoi để lại thì “công cuộc đạc điền” quy mô nhất vài ba trăm năm trước được tiến hành suốt 31 năm, từ Gia Long năm thứ tư (1805) đến Minh Mạng năm thứ 17 (1836) mới hoàn thành. Triều đình Huế còn giữ 10.044 tập địa bạ, gồm 16 ngàn quyển trong tổng số 18 ngàn xã, thôn lúc bấy giờ - điểm đáng quý những bản này đều là bản chép tay, không có bản thứ hai. Địa bạ quyển sổ ghi chép và mô tả từ tổng quát đến chi tiết địa phận của làng. Theo đó, chúng ta có thể hình thành được một bản đồ địa lý thật sự cho làng, xã đó. Qua những tài liệu hiếm hoi đó cho thấy, nước Đại Việt lúc bấy giờ là một xứ nông nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Từ đầu thế kỷ thứ 19, thống nhất về mặt hành chính từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, gồm 18 ngàn làng với các tên gọi như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách... Riêng Nam Kỳ, đến năm 1835 được chia làm 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (nay là Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu). Rất may là Địa bạ tỉnh Hà Tiên vẫn còn đủ 35 tập gồm 144 quyển, đều được lập năm 1836. Qua địa bạ, lúc này Hà Tiên là một tỉnh đất rộng mà thưa dân nhất nước, chưa được “khẩn hoang, lập ấp triệt để”. Hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu nằm trên toàn bộ huyện Long Xuyên (tổng Long Thủy có 23 làng và tổng Quảng Xuyên có 9 làng) và trên một phần đất của huyện Vĩnh Định thuộc tỉnh An Giang cũ.
Riêng Cà Mau, lúc bấy giờ tuy là vùng đất mới bồi tụ nhưng đã có nhiều vị trí, nhiều tài nguyên rất đáng chú ý và được liệt kê cụ thể ở các địa bạ. Hòn Khoai (Pulo Obi) lúc bấy giờ có tên gọi là Đảo Vu, dân dã thì gọi là Ba Tiêu Viên (vườn chuối - có lẽ nơi đây chuối mọc bạt ngàn). Đảo Vu rộng ước vài mươi dặm, có suối treo, nước ngọt, bốn màu không khô cạn, thuyền buôn các nước qua lại phải đậu ở đây để lấy củi, nước. Thông thường thuyền nào đến trước rồi chạy đi nơi khác buôn bán phải khắc chữ vào một thẻ cây để lại cho thuyền khác đến sau biết tin tức. Cũng theo Địa bạ, biển Cà Mau lúc bấy giờ có nhiều cồn, vực sâu và rất nổi tiếng với những sản vật như: hải sâm, đồi mồi, hàu, sò, tôm, cá cơm, ốc tai voi... Cà Mau cũng có rất nhiều bảo lũy, cửa tấn. Thủ sở Bình Giang (theo ông Nguyễn Đình Đầu có lẽ ở ngay thành phố Cà Mau bây giờ) là nơi quan yếu, có đặt thủ ngự trú phòng.
Các cửa tấn quan trọng như Bồ Đề, Tam Giang, Hiệp Phố (tục danh Phú Cáp - gọi Bảy Háp hay Bảy Hợp thì đúng hơn), Hoàng Giang (nguyên tên Đốc Huỳnh - vàm Ông Đốc). Lúc đó, cả tỉnh Hà Tiên chỉ có 3 chợ lớn, quan trọng.
Điều lạ là ngoài 2 chợ Mỹ Đức (nay thị xã Hà Tiên) và Sái Phu (tục danh là chợ Rạch Giá) chợ còn lại là chợ Hoàng Giang (chợ Sông Đốc hiện nay). Cách đây mấy trăm năm, nơi đây thường xuyên có thuyền buôn tụ tập, quán xá đông đúc. Tên Ông Đốc lấy từ tên Đốc Huỳnh, dân thường gọi là Đốc Binh. Tương truyền đây là Tân Khánh Huỳnh - một vị tướng của Nguyễn Ánh, không thấy tên họ trong chính sử. Từ đó mà có tên sông Đốc Huỳnh, Huỳnh Giang, chợ Hoàng Giang. Vào năm 1929 có tên xã Tam Khánh (Khánh An, Khánh Lâm, Khánh Bình) có lẽ có liên quan đến những danh xưng kể trên.
Cũng theo địa bạ thì lúc bấy giờ ở Cà Mau có rất nhiều lâm tẩu (rừng chằm, rừng sác), rộng nhất là rừng U Minh có nhiều đước, sú, nhất là tràm. Dân địa phương làm nghề ăn ong, những làng làm nghề đó gọi là “thuộc hoàng lạp” được miễn các loại thuế khác nhau chỉ nộp sáp ong vàng. Có đến 33/44 làng thuộc huyện Long Xuyên phải chịu nộp thuế hoàng lạp “bản huyện lệ trưng phong sào thuế ngạch” (huyện nhà ra lệ ngạch thuế khai thác tổ ong). Có vậy cũng đủ thấy sản vật lúc bấy giờ như thế nào. Một điểm đáng chú ý khác, 44 xã của huyện Long Xuyên lúc đó có diện tích thực canh gần 2 ngàn mẫu nhưng chỉ có 4 chủ điền, Cà Mau bây giờ có một đó là Nguyễn Văn Cường (thôn Tân Hưng, tổng Quảng Xuyên). Hà Tiên, nhưng ngoài chủ điền kể trên, các chủ điền khác chỉ sở hữu khoảng độ 10 - 20 mẫu. Hãy thử xem một mẫu địa bạ xưa: “Tân Đức thôn, ở xứ Thị Huy: Đông giáp địa phận các thôn: Tân Thuộc, Tân Xuyên, Tân An. Tây giáp thôn Đại Hữu có rạch Thủy Liễu làm giới. Nam giáp các thôn Tân Xuyên, Tân An và sông Khơ Mao. Bắc giáp địa phận thôn Tân Ngãi. Sơn điền mới khẩn 47.3.1.0 (47 mẫu, 3 sào, 1 thước). Dân cư thổ (đất để dân chúng ở) 2.8.5.0. Đất hoang nhàn 2 khoảnh, rừng chằm 3 khoảnh có chịu lệ thuế tổ ong của huyện. Thôn trưởng: Nguyễn Văn Bình (ấn ký). Dịch mục: Huỳnh Văn Nghĩa (điểm chỉ)”.
Tìm lại dấu xưa
Không chỉ ở những trang địa bạ hiếm hoi được tìm thấy, nhiều tư liệu khác cũng nói rất nhiều về xứ Cà Mau những ngày mới khẩn khoang, lập ấp. Ngược dòng lịch sử một chút, sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ, ngày 5-1-1876, Đô đốc Duperrae ra nghị định phân chia 6 tỉnh Nam Kỳ thành 19 tiểu khu hành chính. Và đến 18-12-1882, Thống đốc Le Myre Vilers ra nghị định lấy một phần đất của hai tiểu khu Sóc Trăng, Rạch Giá lập thêm tiểu khu Bac Liêu với viên chủ tỉnh đầu tiên là Lamothe de Carrier. Đến ngày 20-12-1889, toàn quyền Paul Doumer lại Chủ điền này được xem là sở hữu ruộng đất nhiều nhất cả tỉnh Hà Tiên với 80 mẫu. Cần nói thêm toàn tỉnh Hà Tiên chỉ có 5 chủ điền ngoài 4 của huyện Long Xuyên (3 ở Bạc Liêu, 1 ở Cà Mau) chỉ có 1 ở đổi khu thành tỉnh - lúc bấy giờ tỉnh Bạc Liêu chỉ có hai quận Vĩnh Lợi và Cà Mau. Và còn rất nhiều lần tách nhập khác, mãi đến năm 1947, quận Phước Long thuộc tỉnh Rạch Giá cũ nhập vào Bạc Liêu và quận Cà Mau thành tỉnh mới. Cà Mau lúc bấy giờ có 6 quận: Quản Long, Thới Bình, Sông Ông Đốc, Cái Nước, Đầm Dơi, Năm Căn. Đến ngày 25-10-1956 đổi tên thành tỉnh An Xuyên.
Theo một tài liệu khác của hai tác giả biên khảo khá nổi tiếng trước đây là Nghê Văn Lương và Huỳnh Minh - cuốn “Cà Mau xưa” - đã đề cập đến mốc thời gian sớm hơn. Theo đó, vào cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu dẫn một số người Trung Hoa bài Thanh phục Minh đến xứ Hà Tiên, tụ hội những lưu dân khẩn hoang lập nên 7 xã dọc theo bờ biển và 2 xã cực Nam là Rạch Giá và Cà Mau. Đến năm 1714, Mạc Cửu đã dâng phần đất này cho chúa Nguyễn và Mạc Thiên Tứ - con trai Mạc Cửu - đã vâng lệnh triều đình để lập ra đèo Long Xuyên (ở vùng Cà Mau nay) mang tính chất tổ chức quân sự. Năm Gia Long thứ 7 (1808) đã đổi ra huyện Long Xuyên. Lúc bị Tây Sơn đánh đuổi, vua Gia Long đã trú ngụ tại đây. Theo ông Huỳnh Minh, thì tại Cà Mau có rất nhiều địa danh gắn với tích xưa. Như Cái Tàu (xã Khánh An) có “Nền công chúa” - chôn cất một nàng công chúa chạy theo Nguyễn Ánh. Tại Cái Rắn (xã Phú Hưng) có “Ao ngự” - gần đồn dựng binh của vua Gia Long và nghi là nơi cung cấp nước ngọt cho vua. Kế đó vẫn còn những địa danh mang tên rạch “Long Ẩn”, xóm “Long Ẩn”.
Nhưng dù có đổi tên gì đi nữa thì dân các xứ vẫn rất ấn tượng với miền cuối đất qua danh xưng Cà Mau. Cà Mau hiểu theo một nghĩa nào đó là đọc trại từ “Khơ Mau” - xứ nước đen. Dân cố cựu diễn giải, hồi đó ở xứ này đước, tràm, vẹt rụng xuống đầy sông mục nát tạo nên màu đen cố hữu cho các kênh, rạch. Đường từ Sài Gòn về Cà Mau lúc bấy giờ dài 346 cây số nhưng chỉ có 6 thước bề ngang. Mãi đến lúc đó cửa biển Sông Đốc vẫn là một xứ rất phồn thịnh và được đánh giá là phồn thịnh nhất miền Hậu Giang. Tàu đánh cá nước ngoài thường đến mua cá chở qua Tân Gia Ba (Singapor). Nhưng hồi đó cá đồng vẫn chiếm một lượng đáng kể nhất. Theo ước tính, hàng năm Cà Mau bắt được 1.500 tấn cá biển, với 3 ngàn miệng đáy bắt tôm tươi ở sông sẽ có khoảng 2.000 tấn tôm khô. Thế nhưng lượng cá đồng lại lên đến 10 ngàn tấn và 8 ngàn tấn mắm khác. Ở xã Thới Bình còn có một “khoáng sản” gọi là “than đất” nhưng chưa được khai thác đúng mức.
Một vị trí địa lý khác cũng được nhắc đến nhiều - quận Năm Căn. Vào khoảng năm 1802 vùng này còn chưa có nhà cửa nhiều, chỉ có một thiểu số làm nghề săn thú, hạ bạc rải rác ở các rạch, xẻo. Ở con đường duy nhất đi Cà Mau từ vàm con Rạch Tắt đi ngang sông Bảy Háp chỉ có một trại đáy có 5 căn - có lẽ tên Năm Căn từ đó mà thành. Có một giai thoại bà mụ Trời đỡ sanh cho cọp ở Rạch Bần, quận Cái Nước gần đó. Dân gian lưu truyền cọp biếu thịt rừng cho bà mụ đến khi mãn phần. Loại đi yếu tố hoang đường thì rõ ràng thiên nhiên và con người ở đây vốn rất gần gũi, quen thuộc. Thiên nhiên đã hào phóng cung cấp sản vật cho người dân ở đây đến mức “hào phóng”. Năm Căn bấy giờ được coi là mỏ “vàng đen”, cung cấp than đước cho cả Nam Kỳ lục tỉnh. Với lối 71 ngàn mẫu rừng ở 4 khu (354, 353, 355, 534) Năm Căn đã cung cấp khoảng 240 ngàn steres củi hầm than, 50 ngàn steres củi vẹt đốt, 720 ngàn tạ than.
Một nguồn lợi khác của Cà Mau xưa vài trăm năm trước thấy được nhắc đến là “điểu đình”. Đại Nam nhất thống chí có đoạn: “Những chim ở ngoài biển đến đậu từng bầy không biết muôn ngàn nào mà kể. Thường năm, đến kỳ đẻ trứng có trà hộ ngạch bao lãnh nạp thuế ấy, gọi là thuế điểu đình và lấy cánh lông bán cho người Trung Hoa”. Những vườn chim lớn nằm ở Rạch Thứ Nhứt, Kinh Dài, Thầy Quơn, Chắc Băng, Đầm Dơi, Cổ Cò. Lớn nhất là sân ở Cái Nước rộng hơn 7 hecta (Bà Hính dọc theo sông Bảy Háp). Bấy giờ người ta bắt chim chỉ để nhổ lông bán, mỗi bó 30 lông lớn hoặc 35 lông nhỏ dùng bó quạt. Mỗi năm người ta giết chim 3 lần (cuối tháng Giêng, tháng 3 âm lịch) mỗi kỳ khoảng từ 1 - 5 ngàn con. Dân lúc đó chỉ ăn thịt rừng, cá, tôm chứ ít khi ăn thịt chim, đôi lúc họ nướng một hai con chim ra ràng để chỉ nhậu chơi. Do vậy, dân khai thác chim ngán nhất là... chở thịt chim đi đổ sông sau khi nhổ lông (!) - bởi lẽ, họ sợ xác chim thối rữa tại sân, chim sẽ không về. Phân chim lúc bấy giờ ngập đến 4, 5 tấc tây, cá, tôm chim tha về người coi sân chim lượm mỗi ngày chỉ non... năm bảy giạ, riêng trứng phải lượm hàng ghe (!). Rồi nhiều sản vật được gắn liền với địa danh như: than Năm Căn, chiếu Tân Duyệt, mật U Minh, ba khía Rạch Gốc, sấu Đầm Bà Tường, choại Cà Mau, cá thác lác Cái Tàu, than Tân Bằng, rau cải Cái Keo. Mỗi một sản vật, mỗi một địa danh được nghe tiếng đều nhờ vào công sức khai khẩn rất sớm của những lưu dân từ cách đây mấy trăm năm. Tiếng là lưu dân nhưng ở trong dòng máu của họ pha rất nhiều nghĩa khí, hiếu để.
“Kẻ sĩ biết chữ, dân siêng làm ăn, ở gần biển thì làm nghề lưới đáy, cắm đăng để bắt cá, ở gần núi, rừng thì bắt chim và tổ ong để bán. Người quân tử hay thích điều nghĩa, siêng năng việc công. Kẻ tiểu nhân (ý nói người bình dân) thì an thường, thủ phận, không gian tham trộm cướp... Đàn ông ra đường hay che dù, đàn bà, con gái trùm đầu bằng khăn vải dài, con trai bới tóc cho khỏi sổ, con gái trang sức sơ đạm, bới tóc thả thòng ra đằng sau. Tính người mau lẹ, nữ công tinh xảo, hay đi thuyền, giỏi nghề bơi nước, ưa nóng, ghét lạnh... Gặp tang chế, lễ nghi theo Nho và cũng theo Phật” (Theo Đại Nam nhất thống chí).
Trải qua hàng trăm năm dâu bể, Cà Mau bây giờ đã khác xưa. Chót mũi đã được bồi tụ hơn xưa, người dân các nơi đổ về sinh sống. Có một điều đau lòng nhất là sản vật, thiên nhiên không còn như xưa. Những chuyện rất thật kể trên, nếu không có những số liệu xác thực, có lẽ, đến thêm một hai thế hệ nữa chỉ còn là những chất liệu đẫm chất “thần thoại”. Duy có điều, khí chất của người đất Mũi vẫn vậy. Hậu duệ của những lưu dân đi khẩn hoang mấy trăm năm trước vẫn hào sảng, vẫn phóng khoáng như cha ông. Phải chăng, đó chính là bản sắc đã tạo nên sức hút cho một Cà Mau tươi trẻ bây giờ.
NHỮNG SẢN VẬT CỦA XỨ CÀ MAU:
- Nước ngọt của Hòn Khoai. - Mắm ruột (mắm lòng) ở Tân Điền, Phú Mỹ và Tân Hưng Đông.
- Mắm lóc, mắm trê.
-Cá dầy và lươn ở xã Tân Hưng.
- Cá bông ở Cái Tàu.
- Khô bẹ, khô cá chét, khô gộc và nước mắm ở Vàm Sông Đốc.
- Cá vược, cá bống mú, cá dứa, cá buôi ở Năm Căn và Ông Trang.
- Vi cá, bong bóng cá mè đường ở Rạch Gốc và Vàm Sông Đốc.
- Cá bống kèo, bống dừa ở các trại đáy.
- Sò huyết, mực tươi ở Ông Trang.
- Nghêu ở Rẫy Chệc (Viên An).
- Vọp ở Rạch Vọp và Ông Tự.
- Hàu ở Hòn Đá Bạc và Thọ Mai.
- Ba khía, ốc len ở Rạch Gốc.
- Cua gạch son (cua đầm) ở Đầm Dơi.
- Tôm khô, tôm luội ở Năm Căn, Xóm Lớn, Hàng Vịnh.
- Tép mòng, con ruốc ở Rạch Gốc.
- Kỳ đà ở Xóm Thủ và Đầm Chim.
- Sấu ở Dày Chảo và sông Cửa Lớn.
- Rùa vàng ở đồng Cái Rắn và Rau Dừa.
- Cần đước ở Cái Tàu và Khánh Lâm.
- Khỉ ở khắp các rừng cấm.
- Lọ nồi ở Năm Căn, Nhưng Miên, Xóm Thủ và Cái Bát.
- Đuôn chà là ở Cái Keo và Đầm Dơi.
- Sân chim ở dớn Rạch Giếng.
- Mật ong và sáp ở rừng cấm Thới Bình, Tân An, và Khánh An.
- Chiếu lẫy ở Đầm Chim, Cái Rắn, Cái Nhút và Rạch Nhà.
- Cây mốp (làm nón), cây vông rừng (làm guốc), cây kè (làm liễn) ở Trèm Trẹm và Tân Bằng.
- Than đước và vẹt, vỏ dà, vỏ dước ở rừng cấm Năm Căn, Tân An và Nhưng Miên.
- Dây choại ở miệt dớn Rạch Giếng, Thới Bình.
- Lá tàu, lá bó, lá chằm, lá cần đóp ở khắp các rừng cấm, bờ sông lớn.
- Bồn bồn, môn nước ở nơi đất thấp.
- Sầu riêng, trầu vàng ở Cái Tàu.
- Khóm ở Trèm Trẹm.
- Dưa hấu ở Rẫy Chệc.
Tài liệu của Nghê Văn Lương và Huỳnh Minh sưu khảo vào lối những năm 50 - in trong cuốn “Cà Mau xưa”. Trải qua bao dâu bể cuộc đời, hai tác giả đã hóa thành người thiên cổ.
Riêng những sản vật vừa kê dẫn, rất nhiều thứ chỉ còn trong ký ức của những bậc lão niên vốn sống chết cả đời với đất rừng phương Nam.
Chép lại để tự hào mà cũng để hoài nhớ, tiếc nuối một ngày xưa
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 5:25:11 GMT 9
Sơn Nam
Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam
Nhận xét tổng quát
Đồng bằng sông Cửu Long, Ménam và Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo, có dư để xuất cảng, quan trọng nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm đa số dân sống bằng nghề nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió mùa với những nét lớn giống nhau : — Lãnh thổ phát triển lần hồi từ Bắc xuống Nam. — Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, nhờ đó mà sản lượng đạt mức cao so với ruộng tỉa ở đất khô. — Mức sống thấp kém. Nam tiến không phải là mãnh lực huyền bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn đạt được kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước ta. Việc tôn thờ rắn thần và rồng để cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều, trai gái đối đáp nhau nào phải chỉ xảy ra ở Việt Nam. Dân Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính khá cao. Vào thế kỷ 13, người Miên đã tìm ra giống lúa và dẫn thủy nhập điền thích ứng giúp họ thâu hoạch 3 hoặc 4 vụ trong một năm. Cuộc Nam tiến của người Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn cảnh khá tốt về địa lý, hai con sông Ménam và Irraouaddi thuận lợi cho việc thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long có nhiều thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng nhỏ bé dọc theo bờ biển Đông nhiều giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai, sông Cửu Long. Tuy là đặt chân trên đất Cao Miên nhưng đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn hoang lại là người Xiêm đang nuôi tham vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Mã Lai. Xiêm quốc lúc bấy giờ đang thời hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có kinh nghiệm về chiến đấu đường bộ và đường thủy. Người Việt đã giữ được thế chủ động trong hoàn cảnh gay go. Khi đặt chân ở đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh, công trình khẩn đất và giữ đất lúc đầu chỉ do một số dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy giờ, ưu thế của người Việt khong là kỹ thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức chính trị và quân sự. Bộ mấy hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình hình ở những địa phương xa xôi, quân đội có thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả năng tự trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị về kinh tế và an ninh. Quân đội Xiêm hùng mạnh, nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ quá suy nhược, vua chúa kém năng lực chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân chúng thì ly tán : người Xiêm thường lùa bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ để làm nông nô phục dịch. Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc khẩn hoang vì những lý do sau đây : — Mở rộng địa bàn thống trị, đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn. — Thuế điền và thuế đinh gia tăng nhanh chóng. — Nạn đói kém được giảm thiểu, nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn. — Dân số gia tăng, thêm lính tráng, thêm dân xâu. Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu cụ thể cho nhân lực, tài lực. Với binh sĩ giữ gìn bờ cõi và trấn áp nội loạn, với tiền bạc và nhân công làm xâu, vua chúa tha hồ phung phí, sống xa hoa, xây đắp cung điện lăng tẩm, ưu đãi người trong giòng họ, mua chuộc quan lại, để ngôi vị được ổn định, chống các âm mưu ly khai ở địa phương. Về phía dân chúng, khẩn hoang là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận. * Phải có yếu tố thiên nhiên tương đối thuận lợi, đất quá thấp thì lúa dễ bị ngập, quá cao thì gặp nạn thiếu nước. Từ nơi cư trú đến thửa ruộng, đường đi phải gần để khỏi phí thì giờ lui tới, lúa đem về nhà không mất nhiều công lao và phí tổn chuyên chở. * Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm và cho trâu bò uống. * Gia đình đủ vốn liếng, đủ lúa gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo, tu bổ nhà cửa, thuốc uống, trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ. Thêm vào đó, còn yếu tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết : — Sức một người, một gia đình chỉ có giới hạn. Một khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất hoang thì hoa mầu sẽ bị chim chuột từ các vùng lân cận tập trung lại phá nát. Năm bảy gia đình góp sức canh tác liên ranh nhau thì sự tổn thất vì chim chuột được giảm thiểu. — Mùa cấy tuy là co giãn, xê xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định. Cấy quá sớm, thiếu nước, cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người chỉ có thể cấy chừng 4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này thì đàn ông lo dọn đất ở nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn thì nước trong ruộng lên cao, không dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm bảy ngày là hư hao. Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi hỏi sự tập trung nhân công, mướn hoặc đổi công, theo lịch trình không được bê trễ. Phải nhờ người lân cận hoặc ở địa phương khác đến. Ngay trong một khoảnh đất nhỏ, mặt đất chưa bằng phẳng, nơi cao nơi thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn là công trình của nhiều người. Vùng định cư để khẩn hoang cần liên lạc với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết vấn đề nhân công. Trong một ấp, nhà này không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp, phải có nơi bán tạp hóa, có người cho vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới hỏi, may chay đòi hỏi các phương tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân phải được bảo vệ, chống trộm cướp, loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về tâm linh với đình, chùa, miễu, hát xướng. Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn là một làng. Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu tố căn bản. Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long là cuộc vận động lớn, toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Vua chúa quy định chính sách điền địa, thuế khóa, quân dịch và thưởng phạt. Tùy nhu cầu mà có khi quân sĩ, lưu dân và tù nhân phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở nơi mất an ninh. Đất kém mầu mỡ, khó canh tác nhưng chính quyền lại cưỡng bách đến định cư. Có những giai đoạn, những khu vực mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc khẩn hoang, nhưng cũng có lúc người dân được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy người Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho ta nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn hoang phế. Cuộc vận động phối hợp quân sự, chính trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng thời kỳ : 1) Từ các chúa Nguyễn đến những năm cuối đời Gia Long : Khai khẩn vùng đất phù sa tốt, đất giồng ven sông, đất cù lao theo nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia. Còn lại các vùng nước ngập sâu vào mùa mưa, đất quá phèn, rừng Sác. Vùng người Miên tập trung, trên nguyên tắc thì để nguyên vẹn (Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc). Thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh. 2) Từ cuối đời Gia Long tới cuối đời Minh Mạng : Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu Giang, nối qua vùng đồi núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên. Khai khẩn vùng đồi núi, vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo, giữa vùng nước ngập lụt. Thành lập tỉnh An Giang, tách ra từ trấn Vĩnh Thanh. 3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự Đức : Khai khẩn những điểm chiến lược, nhằm đề phòng nội loạn ở phía Hậu Giang, chánh sách đồn điền được thúc đẩy mạnh. Thực dân Pháp đến, nhằm mục đích bóc lột nhân công rẻ tiền, và xuất cảng tài nguyên, đã thực hiện được vài việc đáng kể : 1) Cho đào kinh để chuyên chở lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng thời rút bớt nước vào mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm gọi là phù sa mới, không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về Sài Gòn ít tốn kém hơn trước. Thành lập các tỉnh mới : Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở thành nơi dư lúa gạo, nhờ dân ít mà mức sản xuất cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng cỏ. 2) Thúc đẩy việc làm ruộng sạ, nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng đất thấp ở Long Xuyên, Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là vùng rừng Sác Cần Giờ, rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều phèn chung quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười. 3) Lập đồn điền cao su ở miền Đông.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 5:26:31 GMT 9
Chương 1 - 1
Nhu cầu phát triển xứ đàng trong, phục quốc và củng cố quốc gia
Những hành động quyết định Từ lâu, các chúa Nguyễn đã biết về vùng đất ở Đồng Nai và Cửu Long, nhưng cơ hội chưa thuận lợi để đẩy mạnh cuộc phát triển về phía Nam. Năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prei Nokor (vùng Sài Gòn) để thu thuế hàng hóa. Năm 1658, khi còn bận rộn giao tranh với chúa Trịnh ở phương Bắc, chúa Hiền cho quan Khâm mạng đến Trấn Biên dinh (Phú Yên) đem 2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài) để đánh phá, bắt vua Nặc Ông Chân giải về Quảng Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà Rịa ngày nay) và ở Đồng Nai, “đã có lưu dân của nước ta đến sống chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết cả đất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì”. Năm 1672, tình hình vô cùng thuận lợi cho Hiền Vương, ngài đã thắng chúa Trịnh, lấy sông Gianh làm ranh giới. Năm 1764, Cao Miên có loạn, thêm lý do để quân chúa Nguyễn can thiệp, lần này phá luôn được các đồn binh Cao Miên ở Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang sau khi thắng ở Mô Xoài. Bảy năm sau, 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh biền và gia quyến hơn 3000 người và chiến thuyền hơn năm chục chiếc đến gần kinh đô. Hiền Vương cho phép bọn di thần nhà Minh vào Nam. Chi tiết đáng chú ý là đoàn chiến thuyền này được đưa vào Nam có người hướng dẫn. Đây là cuộc hướng dẫn thần tình, chứng tỏ thời chúa Nguyễn bản đồ và khung cảnh ở đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long được nghiên cứu khá tường tận. Chúa Nguyễn và người hướng dẫn đã đánh giá đúng mức giá trị chiến lược của vùng Mỹ Tho và vùng Biên Hòa — nơi bọn di thần nhà Minh được phép đến định cư — sự đánh giá ấy mãi đến sau này vẫn còn là đúng. Miền Nam vẫn còn hai nơi quan trọng khác ở phía Tây và Tây Nam. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp về quân sự. Chuyến về vào khoảng tháng tư năm canh thìn (1700), ông cho quân sĩ theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên) “Ba quân bị phát bịnh dịch và ông cũng bị nhiễm bịnh”. Thời gian trú quân ở đây là hơn nửa tháng, binh kéo đi hai ngày sau là ông mất. “Ông có công dẹp yên Cao Miên rồi khai thác đất này”. Ai trực tiếp khai thác ? Chắc chắn là số binh sĩ bị bịnh, hoặc một số tình nguyện ở lại vùng Cái Sao mà khai thác trước khi đất đai này được vua Cao Miên nhượng cho. Bấy giờ nhóm này sống cheo leo bên kia sông Tiền. họ được gọi là dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ xưa. Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân thừa lịnh hành quân lên Cao Miên để đánh quân Xiêm, khi trở về lại cho trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An) lập đồn điền, “làm thủ xướng cho quân dân”, đắp đồn và đào kinh cho rạch Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông với nhau, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang. Về phía Vịnh Xiêm La, khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác. Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền Giang), Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mặc Cửu (Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước tiên phong trong thời gian ngắn. Nhóm di thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm ruộng và định cư nơi đất lạ. Bao nhiêu khó khăn dồn dập xảy tới : cuộc tranh chấp về quân sự với người Cao Miên, người Xiêm. Mãi đến 134 năm sau (1834), vùng đất mà ông Nguyễn Hữu Cảnh khai sáng còn gặp chinh chiến với quân Xiêm, mặc dầu cuộc Nam tiến hoàn tất vào năm 1759. Lại còn việc tranh chấp dằng dai với anh em Tây Sơn, khiến việc khẩn hoang bị đình trệ hoặc hư hại. Chúa Nguyễn nắm nguyên tắc căn bản là phát triển các đơn vị hành chính liền ranh nhau. Thoạt tiên dinh Trấn Biên đóng ở vùng Phú Yên. Năm 1698, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra Gia Định phủ gồm có : — Xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên. — Xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn; Rồi lần hồi, vùng Long Hồ nối vào đất Gia Định, vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định, vùng An Giang nối vào Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời Gia Long) dinh Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) cai quản từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch Giá, Cà Mau, tức Vịnh Xiêm la để rồi năm 1810 trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ. Từ ngàn xưa, dân Việt học được kinh nghiệm về định cư : miền rừng núi bao giờ cũng bất lợi, ít đất thịt, nhiều sỏi đá, nhứt là bịnh rét rừng (sơn lam chướng khí) nguy hại có thể gây nạn diệt chủng. Nhà cửa nên cất nơi đồng bằng, nhưng đất phải cao ráo, gần sông rạch càng tốt, tránh nơi nước đọng ao tù. “Sông sâu nước chảy” là cuộc đất lý tưởng về phong thủy (tài lợi dồi dào) nhưng trong thực tế là ngừa được bịnh rét, giao thông thuận lợi, có nước để làm ruộng, có nước để uống, nếu là nơi nước mặn gần biển thì trên giồng cao vẫn đào giếng được. Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đặt hai huyện đầu tiên, tình hình khẩn hoang được mô tả như sau : — Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số được hơn 40000 hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở về Nam đến ở khắp nơi, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch. Nhóm di thần nhà Minh đến ở cù lao Phố và vùng Mỹ Tho gồm 3000 người khi tiên khởi. Hai mươi năm sau, con cái của họ lớn lần. Một số người Trung Hoa khác lần hồi đến làm ăn buôn bán, rồi định cư luôn. Ta thấy còn lại trên ba chục ngàn gia đình Việt Nam gồm có : — Những người lập nghiệp từ trước ở Mô Xoài (Bà Rịa). — Những người từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào đến lập nghiệp. Số người này sống rải rác từ Bà Rịa đến cù lao Phố (Biên Hòa), vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Địa danh Trấn Biên bao gồm một vùng rộng rãi từ ranh Bình Thuận đến tận Nhà Bè. Phiên Trấn bao gồm Tân Bình đến phía Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An. Phủ Gia Định thuở ấy ăn đến tận vùng Cái Bè (tả ngạn Tiền Giang) sau này là châu Định Viễn. Đây là những lưu dân. Nhưng nên chú ý số người “có vật lực” từ miền Trung đến. Không vốn liếng thì không làm ruộng được, người có chút ít vốn nếu chịu mang vào “đất mới” sẽ dễ trở thành điền chủ, phú hào. Lỵ sở thường đặt ở những nơi quan trọng, dân đông, kinh tế dồi dào, thuận lợi cho việc thương mãi và là vị trí có giá trị chiến lược quân sự. ở lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long, dân ta thiết lập được : Vùng cù lao Phố : nòng cốt của Biên Hòa Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu (Trấn Biên) với đường bộ đường thủy nối liền về miền Trung, đường bộ lên Cao Miên và đường thủy ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân Trung Hoa theo chân Trần Thắng Tài gây cơ sở lớn ở cù lao Phố, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông. Năm năm sau khi định cư, chùa Quan Đế dựng lên. Trần Thắng Tài chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liên lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ, nhai lớn giữa phố Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam — Trang 6/6 lát đá trắng, nhai ngang lát đá ong, nhai nhỏ lát đá xanh, đường rộng, bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội. “Đại Phố” bấy giờ là đệ nhứt thương cảng ở miền Nam, phồn thịnh nhờ lý do sau đây : — Việc thương mãi tổ chức khéo léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết, đây là bọn thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu kinh nghiệm, đến sau chớ không phải là người đi theo Trần Thượng Xuyên trong đợt tiên phong (số người đi đầu gồm đa số là quân sĩ, tức là nông dân nghèo, không vốn). — Sông sâu có chỗ thuận lợi cho tàu biển đậu (đây là vực sâu gần đền thờ ông Nguyễn Hữu Cảnh). — Việc tồn trữ và phân phối hàng hóa được điều hành hợp lý. Nhà lầu, phố xá bên các nhai lộ lát đá là kho hàng và cũng là nơi nghỉ giải trí của chủ tàu và thủy thủ. Tàu chạy buồm gặp gió thuận thì mới đến hoặc đi được. “Xưa nay thuyền buôn đến hạ neo xong là lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là “hồi đường”, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người chủ buôn ấy cũng chiếu y ước đơn mua dùm chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã được nước ngọt tắm rửa sạch sẽ lại không lo sự trùng hà ăn lủng ván thuyền, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”. Chưa thấy tài liệu cụ thể về các sản phẩm mua bán lúc ấy, nhưng ta đoán là thương gia Huê kièu nắm độc quyền về xuất nhập cảng từ khi bắt đầu khẩn hoang, ngoài những sản phẩm đất Đồng Nai như gạo, cá khô, còn một số sản phẩm từ Cao Miên đem xuống : các loại thảo dược, ngà voi. Sản phẩm nhập cảng gồm tơ lụa, vải bô, dược phẩm cho đến những xa xí phẩm. Người Tàu thích dùng đồ bên Tàu : gạch ngói, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy tiền vàng bạc. Họ cưới vợ Việt Nam, bày ra những thói ăn xài, phung phí vào dịp Tết. Những địa điểm định cư lúc ban đầu là vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, những cánh đồng ở hai bên bờ sông Đồng Nai gần cù lao Phố. Đất Trấn Biên lúc bấy giờ ăn đến Thủ Đức, Giồng Ông Tố, vùng Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì ăn qua vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu. Vùng Bến Nghé Sài Gòn : nòng cốt của Gia Định Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng Chợ Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh; Gò Đen, nối liền đến Cần Đước, Cần Giuộc, những giồng thuận lợi để làm ruộng và làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố được ưu thế là có nước ngọt quanh năm, thì vùng Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào, giồng cao ráo, đào giếng có thể gặp mạch nước ngọt, phần còn lại là đất quá thấp. Vùng Sài Gòn là Prei Nokor (chùa Cây Mai được gọi là Vat Prei Nokor) nằm trên giồng, phía Chợ Lớn ngày nay. Năm 1739, đồn Dinh đóng ở thôn Tân Mỹ, có tài liệu ghi là Tân Thuận, phải chăng vì quân sĩ muốn ở gần bờ sông lớn (gần Nhà Bè) để dễ di chuyển và kiểm soát an ninh ? Thoạt tiên từ cù lao Phố đến Bến Nghé — Sài Gòn chỉ dùng đường thủy, chợ Nhà Bè thành hình, ứng dụng vào nhu cầu như một chợ nổi ở giữa ngã ba. Hanh Thông xã (Gò Vấp) trở thành đơn vị hành chánh từ năm 1698, Phú Thọ năm 1747, Tân Sơn Nhứt năm 1749. Ngay từ năm 1698, người Hoa kiều lập xã Minh Hương ở vùng Sài Gòn, nơi đây họ cũng nắm việc thương mãi. Năm 1770, sử chép chuyện ông Tăng Ñn đánh cọp tại chợ Tân Kiểng (Tân Cảnh), năm 1774 chùa Giác Lâm dựng lên, trên gò đất cao ráo (do người Minh Hương là Lý Thụy Long quyên tiền), chùa Kim Chương lập năm 1775. Phú Lâm, vùng Bình Điền là đất giồng. Nhưng nơi thuận tiện cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc, Cần Đước. “Gạo Cần Đước nước Đồng Nai” nổi danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển Nam kỳ (trừ ra rừng Sác — Cần Giờ và rừng Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên kia Cần Đước là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở thành vựa lúa quan trọng đời Gia Long). Đất đã tốt lại ở ven biển, lưu dân có thể đi ghe bầu từ miền Trung vào vàm mà lập nghiệp, ngoài huê lợi ruộng nương còn huê lợi cá tôm. Đánh lưới ngoài biển vốn là sở trường của dân Việt. Làm ruộng ở những nơi xa lỵ sở thì dễ trốn thuế, tha hồ chọn lựa đất tốt. Nhờ đường biển, việc liên lạc về quê xứ miền Trung được thuận lợi. Trấn Biên và Phiên Trấn khi mới khẩn hoang tuy đất không tốt bằng phía Cửu Long nhưng vẫn là phì nhiêu so với vùng Bình Thuận. Vì ở gần lỵ sở, gần thương cảng nên lúa gạo bán có giá. Về mặt an ninh vì xa sông Tiền sông Hậu nên khỏi sợ nạn chinh chiến khi chúa Nguyễn và Xiêm La gây hấn. Vùng Ba Giồng : nòng cốt của Định Tường Sông Cửu Long khác hơn sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi nước lụt tràn bờ. Đất giồng ven bờ sông, đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở gần Đồng Nai. Vùng Cửu Long đất thấp, đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc trồng cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch lên nhà, lên rẫy lại ít tốn công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh chóng, đất cù lao lan ra trong vài năm là thấy cuộc biển dâu. Việc vận tải, giao thông dùng ghe xuồng thay vì dùng xe bò hoặc đi bộ, khiêng gánh. Kỹ thuật cày bừa cùng là ngày tháng cấy hái phải thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh mới. Dương Ngạn Địch “đem binh lính ghe thuyền chạy vào cửa Soi Rạp và Đại Tiểu hải khẩu rồi lên đồn trú ở xứ Mỹ Tho”. Đây là cuộc định cư có sắp đặt, “xá sai Văn Trinh và tướng thần lại Văn Chiêu đưa dụ văn sang Cao Miên bảo Thu Vương chia đất để cho bọn Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và đưa ghe thuyền đến đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh, người Thượng (người Miên) kết thành chòm xóm”, “sau này mới lập dinh trấn, đều là tùy thời dời đổi, hoặc hướng Nam, hoặc hướng Bắc, hoặc đem tới, hoặc rút lui cũng chẳng ngoài địa cuộc ấy”. Trên 1000 binh sĩ của Dương Ngạn Địch làm ăn tại đâu ? Họ không rời khỏi “địa cuộc” tốt chọn lựa lúc ban đầu như tài liệu trên cho biết. Chúng ta có thể xác nhận là giồng Cai Yến ăn đến vùng Ba Giồng, khởi đầu là Tân Hiệp (nay còn gọi là giồng Trấn Định) đến Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, giữa Tiền giang và Đồng Tháp Mười. Lúc mới khẩn hoang, hai lỵ sở chính là Biên Hòa và Phiên An ở gần nhau phía Đồng Nai. Các quan thì muốn cho dân chúng phân tán ra chiếm cứ đất phía Tây Nam nên đặt quy chế rộng rãi, không câu thúc. Về nguyên tắc, người khẩn hoang ở Vũng Gù (Tân An, sông Vàm Cỏ) hoặc Mỹ Tho, đều là dân của hai huyện Phước Long và Tân Bình. Để khỏi chuyên chở đường xa khi đóng thuế bằng lúa và bằng tiền mặt, họ có thể nạp tại các kho thuế ở địa phương, vừa thuận lợi cho dân, cho các quan cũng khỏi lo sợ nạn thất thâu. Một số người làm nghề rừng, nghề biển hưởng quy chế riêng khỏi lập thôn ấp, chỉ cần đôi người thay mặt đứng ra chịu trách nhiệm để kết họp thành trang trại, man, thuộc, nậu. Họ sống định cư hoặc lưu động, với người cai trại hoặc người bộ trưởng, người đầu nậu cầm đầu. Chín kho thâu thuế (cửu khố trường) dành cho các trại, các nậu, mang tên sau đây (đặt ra từ năm 1741) : — Quy An — Quy Hóa — Cảnh Dương — Thiên Mụ — Gian Thảo — Hoàng Lạp — Tam Lịch — Bả Canh — Tân Thạnh Ba kho Tân Thạnh, Cảnh Dương, Thiên Mụ, làm chỗ cho dinh Trấn Biên trưng thâu tô thuế để nạp tải về Kinh, đều ở phía bắc Hậu giang tức là sông Cát, phía đông cù lao Phố. Kho Tam Lạch (Tam Lịch) ở vùng Mỹ Tho (theo cha Jean de Jésus thì Tam Lạch là nơi mà quân Đông Sơn khởi sự xưng danh tánh), ta hiểu là vùng Ba Giồng. Kho Bả Canh ở vùng Cao Lãnh ngày nay. Kho Gian Thảo ở cách phía nam thành Gia Định 4 dặm rưỡi, sau sửa lại gọi là kho Bốn Trấn. Kho Hoàng Lạp ở huyện Phước Long (Biên Hòa). Phải chăng kho này dùng để thâu sáp ong và lâm sản do thợ rừng phía biên giới Việt Miên đóng góp ? Kho Quy An và Quy Hóa ở đâu ? Có nên suy luận là vùng An Hóa ở cửa Đại ngày nay, lấy hai tiếng sau chót nhập lại ? Nguyễn Khoa Thuyên ghi rằng ở Quy An có hơn 100 thôn, tên Quy An được nhắc tới theo thứ tự sau Tam Lạch và Tân Bình. Bả Canh được Nguyễn Khoa Thuyên ghi lại như là một trại, cùng với hai trại khác là Ba Lai và Rạch Kiến. Trên bản đồ, ta thấy có đến 4 kho tập trung ở cù lao Phố và Bến Nghé để thuận đường chở chuyên về kinh đô Huế và các tỉnh miền Trung khi chúa Nguyễn còn nắm chủ quyền. Mấy kho kia ở Ba Giồng (Tam Lạch), Cao Lãnh (Bả Canh), Qui An có lẽ gần một vàm sông nhánh của Cửu Long, hoặc Ba Lai, hoặc cửa Đại. Đời vua Hiển Tôn (1691—1725), lập phủ trị ở phía bắc chợ. Năm 1772 lập Trường Đồn đạo, năm 1779, lấy phần đất nằm giữa trấn Biên, Phiên trấn và Long Hồ đặt làm Trường Đồn dinh có Lưu thủ, Ký lục và Cai bộ coi việc quân sự, hành chánh, thuế vụ và bãi bỏ các kho trên. Trường Đồn dinh đóng ở giồng Cai Yến (giồng này bắt đầu từ vùng Khánh Hậu thuộc Tân An ngày nay), rồi lại đổi tên là Trấn Định, đóng ở Tân Hiệp. Hai tiếng Định Tường chỉ xuất hiện từ năm Gia Long thứ 7 (1808). Vùng Long Hồ : nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa Nguyễn quan tâm nhứt, về mặt quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao miên, phải cho chiến thuyền đi ngược dòng Tiền giang để đến Ba Nam rồi Nam Vang. Tiền giang là sông nhiều nhánh, gần vàm biển mỗi nhánh khá rộng với bờ đất phù sa cao ráo, thuận lợi để trồng đậu, trồng khoai, đặc biệt là trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, trồng trầu, trồng dừa, các loại cây ăn trái. Đất còn lại là ruộng tốt. Đây là cuộc đất lý tưởng “sông sâu nước chảy”. Thoạt tiên, hai tiếng Long Hồ phát xuất từ tả ngạn Tiền giang. Năm 1732 chúa Nguyễn sai quan khổn súy Gia Định chia phần đất của Gia Định (sau này là của Định Tường) lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ tại Cái Bè, gọi là Cái Bè dinh. Năm 1756 và 1757, cuộc Nam tiến hoàn tất về mặt chính trị. Trước mặt dinh Cái Bè — ở vàm rạch Cái Bè phì nhiêu, bên cạnh rạch Cái Thia nhiều phù sa — là những cù lao lớn giữa các sông Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, chưa kể đến mấy cù lao tuy nhỏ nhưng quan trọng ở giữa Tiền giang. Bên kia Tiền giang là nơi tập trung nhiều sốc Miên, vùng Trà Vinh. Có thể là trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, lưu dân đã đến làm ăn rải rác nhưng cuộc khẩn hoang được xúc tiến quy mô hơn từ khi trở thành lãnh thổ Việt Nam, danh chánh ngôn thuận. Hai địa danh cù lao Bảo, cù lao Minh xuất hiện sau này, xứng danh là trái châu của Cửu Long. Phía cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có 11 giồng. Đặc điểm của những giồng này là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do thủy triều, nhưng không bao giờ bị ngập vào mùa lụt của sông Cửu Long. Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du xin dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua đất Tầm Bào, tức là vùng chợ Vĩnh Long ngày nay, đồng thời đặt những đồn ở Tây Ninh, Hồng Ngự, cù lao Giêng, Sa Đéc, Châu Đốc. Dinh Long Hồ kiểm soát Tiền giang và hai bên bờ Hậu giang. Đồng thời dinh này cũng bao trùm luôn vùng biên Vịnh Xiêm La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên Giang đạo (Rạch Giá). Riêng về vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc về họ. Dụng ý của chúa Nguyễn là dùng nơi này để khống chế Cao Miên. Sông Cửu Long là biên giới Việt Nam ở miền ba biên giới. Năm 1779, chúa Nguyễn duyệt xem bản đồ, nâng vùng Mỹ Tho làm dinh (Tường Đồn dinh) đồng thời cũng thử bày một chuyến phiêu lưu : dời dinh Long Hồ đến cù lao Hoằng Trấn, ở giữa Hậu giang. “Đương thời có người bàn rằng địa thế Hậu giang rộng lớn, rừng núi mù mịt, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sốc của Cao Miên mà cách xa dinh Long Hồ, nên đặt một đai trấn để khống chế, mộ dân đến khai khẩn ruộng đất”. Dinh Long Hồ dời đến Hoằng Trấn năm trước là năm sau (1780) lại lui về chỗ cũ (tức là vùng chợ Vĩnh Long), đổi tên là Vĩnh Trấn dinh. Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường từ Hậu giang lên Cao Miên quá xa, không thuận bằng đường Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai thác sớm, còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi lại hình ảnh của dinh Long Hồ ngày trước. Giữa Tiền giang và Hậu giang, có s≥n nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc nhau lại còn nhiều giồng đất tốt, quanh năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập (vùng Sa Đéc). Những cù lao trên sông Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao vừa rộng vừa dài, đất biền chung quanh cù lao rất màu mỡ, năng xuất cao : cù lao Dung, cù lao Trâu, cù lao Dài, cù lao Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù lao Năng Gù. So với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) luôn cả sông Đồng Nai thì Tiền giang và Hậu giang đất tốt hơn, khí hậu khá lành. Dân cư còn thưa thớt, đòi hỏi nhiều đợt lưu dân đến khai thác. Duy có điều bất lợi là xa Gia Định, người Miên sống tập trung tại nhiều vùng lớn rộng có thể khuấy rối an ninh ; vùng Thất Sơn chưa thám hiểm được, lại còn cánh đồng bát ngát (Rạch Giá, Cần Thơ) nằm giữa hữu ngạn Hậu giang và vịnh Xiêm la. Nước Xiêm đang hồi hăng sức, có thể đột nhập miền biên giới — một biên giới chưa rõ rệt, khó định cư vì nước ngập quá sâu, không thích hợp với lối cày cấy đương thời (đồng Châu Đốc, Láng Linh, Tháp Mười). Những chuyến đi về “tẩu quốc và phục quốc” của vua Gia Long được thực hiện dễ dàng là nhờ ngài am hiểu địa thế của vùng đất rộng ấy hơn quân Tây Sơn. Nào là sông Mân Thít nối ngang Ba Kè tới vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sống tập trung. Nào vùng Nước Xoáy tấn thối dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ với rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi sông Cái Lớn với vùng U Minh. Sông Gành Hào, sông Ông Đốc ở tận mũi Cà Mau. Thời thạnh trị của họ Mạc quá phù du vì không đủ dân và không đủ quân để kiểm soát một vùng Hậu giang quá rộng mà trên danh nghĩa thì họ Mạc được chúa Nguyễn giao cho cai quản. Sơ kết thành quả : Thương cảng Sài Gòn thành hình và phát triển Người Hoa kiều nắm nội và ngoại thương ngay từ buổi đầu, họ lại có thế lực quân sự. ở cù lao Phố, Trần Thắng Tài sống thuận hòa với chúa Nguyễn, năm 1700, ông cùng quân sĩ tùy tùng tham gia trận đánh quyết định, chiến thắng tại Nam Vang. Con Trần Thắng Tài là Trần Đại Định cưới con gái Mạc Cửu, tức là em gái của Mạc Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu là người Việt Nam, quê ở Đồng Môn, thuộc Biên Hòa), về sau Trần Đại Định vì bị hiểu lầm nên buồn tủi, chết trong ngục. Dương Ngạn Địch chết vì phó tướng là Hoàng Tấn làm phản, Hoàng Tấn lại bị quân sĩ Việt Nam trừng trị. Họ Mạc ở Hà Tiên được chúa Nguyễn cho hưởng quy chế tự trị. Dòng họ này trung thành với chúa Nguyễn nhưng lại bị Xiêm Vương là Phi Nhã Tân quấy rối (ông vua Xiêm này gốc người Triều Châu). Một viên tướng Triều Châu tên là Trần Liên đã đem binh qua đốt phá Hà Tiên, quyết sanh tử với Mạc Thiên Tử. Hai tên cướp Triều Châu khác là Hoắc Nhiên và Trần Thái cũng gây khá nhiều rắc rối cho họ Mạc ở Hà Tiên. Có người cho rằng người Trung Hoa hải ngoài thường tự tôn, ôm ấp giấc mơ làm bá chủ một cõi. Nếu có thật vậy, thì những giấc mơ ấy không bao giờ thực hiện được ở đất Đồng Nai, ít ra là về mặt chánh trị và quân sự. Chỉ một lần hồi năm 1747 khi có thương gia người Phước Kiến là Lý Văn Quang đến cư ngụ tại cù lao Phố, nhân thấy việc phòng bị lơ là nên cấu kết với hơn 300 bè đảng, xưng là đại vương. Cuộc khởi loạn bị dập tắt, Lý Văn Quang và đồng bọn bị áp giải về Phước Kiến (bấy giờ, ta ngại rắc rối về ngoại giao với nhà Thanh).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 5:27:30 GMT 9
Năm 1772, chúa Nguyễn suy yếu, Trương Phúc Loan lộng quyền nhưng quân sĩ Đàng Trong vẫn còn mạnh, 10000 quân ở dinh Bình Khương, Bình Thuận cùng 300 chiến thuyền hợp với quân ở dinh Long Hồ kéo lên Cao Miên đánh thắng một trận lớn để cứu vãn tình thế nguy ngập ở Hà Tiên, cứu Mạc Thiên Tứ khi quân Xiêm chiếm cứ thành này ; Tình thế ở Đàng Trong trở nên bi đát khi anh em Tây Sơn khởi nghĩa. Tháng hai năm 1776, Nguyễn Lữ léo vào đất Gia Định. Tháng năm năm ấy, Nguyễn Lữ rút lui sau khi cướp lấy lúa kho, chở hơn 200 thuyền chạy về Quy Nhơn. Con số này giúp chúng ta thấy phần nào thành quả của việc khẩn hoang ở Đồng Nai và Cửu Long. Một viên cai bộ ở phủ Gia Định là Hiến đức hầu Nguyễn Khoa Thuyên báo cáo lại những con số cụ thể về lực lượng quân sự và tình hình chánh trị, kinh tế. Sau đây là vài chi tiết về xứ Đồng Nai : — Huyện Phước Long (vùng Trấn Biên) có hơn 200 thôn, dân số 8000 người, lệ thuế ruộng hơn 2000 hộc. Các thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có phỏng 40 thôn nậu, dân số 1000 người phải nạp thuế. Thuộc Ô Tất gồm phỏng 30 nậu, dân số ước 500. — Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 dinh, thuế ruộng hơn 3000 hộc. Quy An có hơn 100 thôn, số dân 3000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa. Tam Lạch có hơn 100 thôn, số dân 4000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa. Các trại Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến, có 100 thôn, dân 4000 đinh, ruộng hơn 4000 thửa. — Châu Định Viễn có lối 350 thôn, dân 7000 đinh, ruộng 7000 thửa. Nhìn con số trên, ta thấy Cửu Khố (còn gọi 9 trường biệt nạp), dành cho vùng đất ở xa Trấn Biên và Phiên Trấn (sau này là Trấn Định, trở thành Mỹ Tho), gồm các thuộc : Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp, Ô Tất (đóng thuế về Phước Long). Tam Lạch, Quy An, Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến (đóng thuế về huyện Tân Bình, vùng Sài Gòn). Tài liệu của Nguyễn Khoa Thuyên cũng nêu rõ quân số, các nơi trú quân của chúa Nguyễn. Nhiều thủ ngự đặt ở Tiền giang và Hậu giang gần vàm rạch mà ta tin rằng ở vùng phụ cận có thôn xóm khá sung túc : vàm Ông Chưởng, Tân Châu, chợ Thủ, Sa Đéc, Vũng Liêm, Láng Thé, Lấp Vò, Trà Ôn, Cần Chung (Cần Chong nay là Tiểu Cần), cù lao Tân Dinh, Bắc Trăng (thuộc Trà Vinh). Thành tích này khá lớn lao : những vùng đất phù sa ven sông rạch, những cù lao thuận lợi cho việc canh tác cổ truyền (ruộng cày, mỗi năm một mùa gặt) đều có người chú ý đến, không bỏ sót. Đồng bằng Cửu Long hơn đồng bằng Đồng Nai rõ rệt về mặt canh tác, sản xuất lúa gạo, với nhiều triển vọng tươi sáng hơn. Trước 1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù lao Phố. Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố “chiếm dỡ lấy phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy Nhơn”. Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa kiều bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng thành hình từ trước 1770. Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển nhanh từ năm 1778. “Từ khi Tây Sơn nổi lên, quan quân hội cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng dời đậu ở sông Tân Bình (sông Sài Gòn)”. Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18 thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm bại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn ánh. “Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”. Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu. Suốt thời gian tẩu quốc và phục quốc, Sài Gòn được xem là kinh đô của Nguyễn ánh (1779—1801). Sài Gòn được ưu thế là gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Việc chuyên chở lúa gạo và sản phẩm từ Tiền giang tuy khó khăn nhưng lúc bấy giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận lợi cho loại ghe có sức trọng tải nhẹ. Nhìn trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng chịt ; vào mùa mưa nước sông tràn đầy, nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu thông được, hoặc lưu thông khó khăn phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người hoặc sức trâu, sông rạch lại quanh co, không đủ nhân công để vét. Công trình đào kinh khởi đầu với sáng kiến của Nguyễn Cửu Vân để cố gắng nối liền sông Vũ Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ Tho tức là Vàm Cỏ Tây qua Tiền giang, sau lại đào sâu thêm. Tuy nhiên, vì có giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào nên bị cạn, thuyền to phải chờ khi nước lớn mới qua lại được. Đã có tạm đường thông thương từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo đường nước đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm (con của Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm mà trước kia ghe thuyền không qua lại được, chỉ có “một đường nước đọng móng trâu”. Phía Gò Công, Cần Giuộc cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu giang, khi tranh chấp bằng quân sự với Tây Sơn, Nguyễn ánh vẫn tấn thối theo đường sông từ Sài Gòn Gia Định đến tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá. Dời đến Sài Gòn thì thể thức phân phối và tích trữ hàng hóa không được thuận lợi như lúc ở cù lao Phố : “Khi thuyền cặp bến, không có chủ lớn bao trữ nên phải gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, kịp khi muốn mua thổ hóa đem về, thì đi tìm đông hỏi tây rất nhọc sức. Lại có bọn thổ côn giả dạng làm người giàu có nói dối, mua xong rồi tìm nơi trốn tránh, nếu mất số vốn một ít thì còn gắng chịu mà về, thảng hoặc mất vốn quá nhiều thì phải cầm ghe lấy tiền ở đến mùa đông để truy tầm bọn ấy, làm cho kẻ viễn thương ngày càng cực khổ”. Tệ đoan xảy ra vì địa bàn hoạt động của Sài Gòn rộng hơn cù lao Phố, nhưng chỉ là lúc giao thời. Về sau, cũng chính thương gia Huê kiều đứng ra tổ chức hệ thống mua bán hoàn hảo hơn. ở vàm Hậu giang, từ lâu người Miên sống tập trung tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) trên đất giồng cao ráo, làm ruộng khéo léo, gạo nổi tiếng là ngon. Thay vì chở lên Sài Gòn, thương gia địa phương đứng ra chịu mối với các ghe buôn từ nước ngoài đến. Một thương cảng thành hình từ xưa, phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng này mang tên là Bassac thành lập ở mé sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá. ở đây dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt Nam) ; một đồng bạc Con ó trị giá 5 quan tức là 3000 đồng. Chợ bán gạo, nhiều loại trái cây, rau, gà vịt, heo. Phải chờ nước lớn ghe thuyền mới vào được. Thuyền chủ toàn là Trung Hoa, dân ở chợ đa số là người Trung Hoa, quan cai trị là người Cao Miên. Thuyền buôn đều của người Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến 150 chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu họ đem tới đây bán những món gì. Nên nhắc đến thương cảng Hà Tiên mà các thương gia ngoại quốc thường đề cập tới, được phồn thịnh một thời nhờ xuất cảng sản phẩm của Cao Miên phần lớn, khi Mạc Cửu và Mạc Thiên Tử còn hưng thời. Việc tổng động viên năm 1789 Cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh làm nguy hại cho nông nghiệp. Nói chung thì quân Tây Sơn không thâu phục được nhân tâm, trừ một trường hợp là cuộc chiến thắng quân Xiêm ở rạch Gầm, Xoài Hột vào năm 1874. Quân Xiêm do hai tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương với lực lượng hùng hậu kéo đến nhưng Trịnh Hoài Đức, người viết sử thiên vị rõ rệt về phe Nguyễn ánh cũng đã thú nhận : “Binh Tiêm đến đâu đều cướp bóc khó bề hạn chế nên vua (Nguyễn ánh) lấy làm lo. Đã vậy mà binh Tiêm lại kiêu hãnh, lòng dân bất phục”. ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”. “Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”. Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Cửu Long, chận các vị trí chiến lược nối Tiền giang qua Hậu giang, Hậu giang đến vịnh Xiêm La, từ vùng Long Xuyên (Cà Mau) ra Phú Quốc, qua Xiêm. Thủy quân của Tây Sơn đồn trú hoặc tuần tiểu tới lui vùng Băng Cung, Ba Thắc, Phú Quốc, vàm sông Mân Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, sông Ba Lai. Khi chiếm đóng, chính sách kinh tế và việc tổ chức hành chính thay đổi như thế nào ? Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm từ Huế ra Bắc phần. Nguyễn Lữ, phò mã Trương Văn Đa, lưu thủ Hóa ở đất Gia Định khong biểu dương được tài năng gì lạ ngoài những hàng động quân sự. Quân Tây Sơn bị cô lập ở đất Gia Định vì những lý do sau đây : — Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn, họ được khá giả hơn lúc ở miền Trung, đất tốt còn nhiều, chưa cần một chánh sách điền địa mới, hoặc một sự thay trào đổi chúa. — Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều (đốt chợ cù lao Phố, đốt chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn ánh. — Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu giang) đều có cảm tình và tích cực ủng hộ Nguyễn ánh, nhờ đường lối chính trị mềm dẽo. Lúc bấy giờ quân Tây Sơn nặng lo những vấn đề ở Bắc hà (cựu thần nhà Lê) và còn lo đối phó với quân nhà Thanh. Quân Tây Sơn đánh giá quá thấp sức chịu đựng của Nguyễn ánh, nhứt là chuyện Nguyễn ánh cầu viện với nước Pháp. Pháp quốc lúc bấy giờ đang nuôi nhiều tham vọng, việc tổ chức quân đội của Pháp đạt kỹ thuật cao, với hải quân mạnh và võ khí tốt. Hành động của Bá Đa Lộc tuy phiêu lưu nhưng gây nhiều hậu quả trầm trọng. Tháng 9 năm 1788, chiến thuyền và sĩ quan Pháp đến trong khi Nguyễn Huệ lo ứng phó với Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long. Tháng 8 năm 1788, Nguyễn ánh thâu phục thành Gia Định. Tại Gia Định năm ấy lập ra kho Bốn Trấn làm kho chung cho cả bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp bổng hướng. Tháng sáu năm 1789, Nguyễn ánh đưa ra chánh sách rõ rệt, lấy việc tăng gia sản xuất làm trọng, đặt ra các điền toán gồm 12 người (trong đó có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh) đi khắp bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc xuất dân chăm làm việc ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai làm ruộng đất tốt được 100 thúng lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa trở lên thì được tưởng thưởng, nếu là phủ binh (binh lính phục vụ tại các công sở) được miễn một năm khỏi làm việc quan (làm xâu). Những người dân lậu (không vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới quyền chăm sóc của các quan điền toán, xem như là lính, nếu thiếu vốn thì được vay trước, sau sẽ trả. Vào tháng 10 năm 1890, ngài đặt thêm sở Đồn Điền nhằm khuyến khích quân sĩ tại ngũ tích cực cày cấy, bấy lâu vì chiến tranh nhiều vùng đất phải bỏ hoang. Binh sĩ thuộc dinh Trung quân và quân các vệ thuyền đến khẩn ruộng tại Tháo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ) gọi là trại Đồn Điền, nhà nước cấp ngưu canh điền khí và lúa giống, đậu, bắp giống, hễ cắt hái xong rồi đem nạp vào kho, chánh cơ Nguyễn Bình coi việc ấy. Các quan địa phương phải lập đội đồn điền, mỗi năm một người trong đồn điền nạp 6 hộc lúa, ai mộ được 10 người trở lên cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng (khỏi đi lính). Về mặt quân sự, ngài sai lựa quân chiến tâm, tức là quân tinh nhuệ, hết lòng đánh giặc, tập luyện kỹ càng được cấp lương và tiền rất hậu. Để tích trữ thêm lúa gạo phòng khi hành quân tái chiếm các thành ở miền Trung, ngài đặt ra lúa thị túc, thị nạp, tức là thứ thuế phụ thu (ngoài thuế điền). — Năm 1792, mỗi người nộp thuế thị túc từ 1 đến 5 phương. — Năm 1799, vùng Bình Định, Phú Yên mỗi mẫu ruộng nộp 17 thăng gạo. — Năm 1800 ở Gia Định, mỗi người nạp 2 phương, người già tàn tật nộp phân nửa. Ruộng một mẫu nộp một phương gạo; một phương gạo bấy giờ trị giá 7 tiền 30 đồng. Những năm dùng binh, số thuế và số thị túc phụ thu vẫn không đủ để chi tiêu, nhà nước thu trước thuế năm tới. Về thuế ruộng, mỗi năm nhà vua thâu hai kỳ. Nhà nước giữ độc quyền mua những hóa hạng liên hệ tới nhu cầu quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu hoàng. Năm 1791, đặt thêm lệ về việc khẩn hoang : sau khi khẩn, 3 năm mới thâu thuế, ai muốn khẩn thì nộp đơn trong thời hạn ngắn là 20 ngày, quá thời gian ấy, đất hoang sẽ giao cho quân sĩ cày cấy, dân không được giành nữa. Lúa gạo đất Gia Định tích cực góp phần vào việc phản công của Nguyễn ánh. năm 1795 và 1796, chở tiền gạo ở Gia Định ra trữ tại thành Diên Khánh. Năm 1799 lúc ngài ra Quy Nhơn, quân lính lại chở thêm quân lương, “chẳng hề thiếu thốn”. Năm 1802, sử chép là Gia Định đói lắm, ngài sai quan trấn phát gạo kho cho dân mượn, cùng ra lịnh giảm thuế ruộng cho tỉnh Gia Định. Phải chăng vì lúa gạo dùng vào việc quân quá nhiều ? Tháng 2/1790, Nguyễn ánh cho xây thành Sài Gòn, theo hình bát quái (còn có tên là Quy Thành) kiểu thành Vauban của Pháp (do Olivier de Puymanel vẽ kiểu và coi xây cất). Đây là Gia Định kinh, Nguyễn ánh xem như kinh đô của mình, với thái độ tự tin. Từ thành này có đắp quan lộ lên Biên Hòa, và quan lộ xuống Trấn Định (Mỹ Tho) đến Cai Lậy, đường rộng 6 tầm, hai bên đường có trồng cây mù u và cây mít là thứ cây thổ nghi. Nguyễn ánh tự tin là phải. Bấy giờ lúa gạo Gia Định có nhiều, quân sĩ đang thừa thắng, một số sĩ quan Pháp lại trực tiếp giúp đỡ. Ngài ra lịnh tấn công Quy Nhơn lần thứ nhất (1790). Nguyễn Huệ băng hà, lại có cuộc tấn công lần thứ hai, lần thứ ba để rồi năm 1801, đến Huế. Về sau, năm 1814, vua Gia Long còn nhắc nhở : “Gia Định là nơi trung hưng, ngày xưa chỉ có một đám đất và một toán quân mà khôi phục đất cũ”. Nên nói thêm rằng đó là “đám đất” tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng tốt, gồm đất giồng và đất cù lao của Đồng Nai và Cửu Long, và toán quân không quá đông đảo nhưng gồm toàn những nông phu đã chịu cực khẩn hoang, đến khi đi lính cầm gươm rồi mà còn phải cày cấy, phải đóng thuế. Đó là hình ảnh của Võ Tánh với 10000 quân ở vựa lúa Gò Công xin theo chân ngài. Nguyễn ánh vĩnh viễn rời đất Đồng Nai để về Huế đô, nhưng đất Đồng Nai, Gia Định vẫn còn giữ vai trò cũ : vai trò vựa lúa, vai trò tiền đồn của nước Việt. Vua Cao Miên và vua Xiêm càng thèm thuồng vùng đất phì nhiêu này. Những năm thái bình đời Gia Long Gia Long xưng Hoàng đế ở Huế, vùng Gia Định dứt nạn binh đao trong khoảng thời gian ngắn, nhưng là khá dài so với thời chúa Nguyễn và các trào vua kế tiếp. Từ Bình Thuận trở vào, về mặt hành chánh đặt ra Gia Định thành với quan Tổng trấn cầm đầu, nắm khá nhiều quyền hạn, lãnh coi các việc binh dân, xâu thuế và hình phạt của năm trấn : Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Lại coi luôn trấn Bình Thuận về mặt quân sự. Dân số lần hồi đông đúc, các tổng trước kia đa số đều thăng làm huyện, huyện thăng làm phủ. Việc phồn thịnh của thương cảng Sài Gòn và lỵ sở của các trấn được ghi khá đầy đủ qua Gia Định thành Thông chí do Trịnh Hoài Đức, người đương thời biên soạn. Đường giao thông vận tải nắm ưu thế vẫn là đường thủy. Du khách Hoa Kỳ là John White năm 1819 có đến Sài Gòn, ghi lại trong quyển sổ tay như sau : — Thành lũy Sài Gòn xây bằng đá ong, kế bên một cơ thủy trại, gần đó là xóm nhà của dân cư gồm những lều lụp xụp, thấp hẹp. Xóm buôn bán ở về hướng Đông. Khi đức Gia Long dẹp yên giặc Tây Sơn thì dân chúng tụ về thành rất đông. Họ sửa sang nhà cửa lại mới, một phần lớn các gia đình này dồn về hướng Tây của thành lũy nhà vua”. ... “Thời buổi ấy, dọc theo hai bên bờ sông và bờ kinh rạch có vài chỗ đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ càng, chạy nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ, có đường đã lót đá nguyên miếng lớn dễ coi, nhưng phần nhiều vẫn quanh co uốn khúc và không được săn sóc tu bổ nên không được sạch”. Về nhân số thì thành Sài Gòn phỏng độ lối : — 180 000 dân bổn thổ — 10 000 người Trung quốc. Năm 1822 “lại có một thú y sĩ qů danh là ông Finlayson tháp tùng phái đoàn Crawfurd cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson viết : Sài Gòn gồm hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm La, ấy là : — Sài Gòn. — Pingeh. Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn ngày nay. Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế nào ? Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm 1804, vua Gia Long sai các quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho Đồn Điền của Gia Định thành dựng năm 1805 gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu gian, trữ số lúa đồn điền để làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các trấn. Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân) đói, xin đong gạo Gia Định, vua cho đong 500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ, Sa Đéc đủ sức bán cho Cao Miên, nhân nạn đói đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có lịnh cấm thuyền buôn không được chở lúa gạo ra nước ngoài. Đường thủy cũng được tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ sông Cửu Long lên Sài Gòn : năm 1819, sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối liền từ Vũng Gù (Tân An) đến rạch Mỹ Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm 1705, dùng non 10000 dân phu trong trấn Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo Định Hà. Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào con kinh nối liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh Ruột Ngựa đào từ năm 1772), vua đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền giang lên Sài Gòn “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng, thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, thật là tiện lợi”. Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc chiến tranh, nhiều cường hào lợi dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định lệ quân cấp công điền công thổ (1804), và công điền công thổ không được bán vì bất cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn lậu, không khai báo để đóng thuế thì có thể mất đất, đất giao cho người tố giác. Vấn đề cho vay được đặt ra, trên nguyên tắc một vốn một lời (tức bất quá bổn), người cho vay trái phép và con nợ lường gạt đều có tội. Từ năm 1806, khi mất mùa vì thiên tai, hạn hán, lụt lội thì có lệ là chủ ruộng phải khai báo trước khi gặt để được miễn thuế. Khai báo gian hoặc quan lại mà giấu không chịu khai báo thì tội đồng nhau. Khi thâu thuế có người đáng tin cậy ngồi coi, đề phòng nạn người coi kho làm khó dân, chê lúa xấu tốt, đong ít đong nhiều để ăn hối lộ. Trịnh Hoài Đức ghi chép rằng người địa phương ít dùng những địa danh về hành chánh. Họ dùng tên của “những lỵ sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu” mà gọi đại khái, tổng quát. Trong dân gian gọi trấn Biên Hòa là Đồng Nai Bà Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé Sài Gòn, trấn Định Tường là Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc, trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch Giá. Trong một trấn tại sao chỉ chọn lựa hai vị trí, và tại sao lựa vị trí này mà không lựa vị trí khác ? Dân gian nói thành thói quen ắt có lý do riêng. Theo chúng tôi nghĩ đó là họ muốn xác nhận nơi làm ăn sung túc, “làm ăn“ có nghĩa là mua bán, cày cấy. Sài Gòn là thành phố của người Trung Hoa dựng lên lúc ban đầu, nặng về bán sỉ, trong khi thành phố Bến Nghé do người Việt xây dựng về sau, nặng về bán lẻ và là khu hành chính. Vũng Gù tức là chợ Tân An ngày nay, tuy không có chợ lớn nhưng đáng chú ý nhờ khẩn hoang lâu đời, đất khá tốt. Sa Đéc nằm trong trấn Vĩnh Thanh, là nơi sung túc dân cư trù mật, sống nhờ huê lợi ruộng tốt và vườn cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với lỵ sở nổi danh là đẹp nhưng nghèo, không thể sản xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ có vùng chung quanh chợ Cà Mau và chợ Rạch Giá là dễ đánh lưới và làm ruộng dễ trúng mùa, tàu buồm Hải Nam ra vào chở cá khô, gạo. Gia Định thành Thông chí (trong mục Cương Vực Chí) đã nêu rõ danh sách các huyện, tổng, thôn ở toàn cõi Gia Định thành hồi đời Gia Long. Vùng nào tập trung nhiều làng xã trên diện tích nhỏ thì nhứt định là đất tốt, khẩn hoang có kết quả. Vùng nào có quá ít làng xã trên diện tích quá rộng thì đất xấu. Nguyên tắc lập làng xã là có người, tức là dân bộ. Dân bộ phải nhiều đến mức nào đó (thường là 10 người) mới lập được một làng. Mục Cương Vực Chí giúp ta thấy hình ảnh khá rõ rệt về tình hình khẩn hoang lúc bấy giờ. Một thí dụ cụ thể là vùng Kiến Hòa ngày nay (tức là khái quát vùng cù lao Bảo và cù lao Minh của Bến Tre thời Pháp thuộc) tuy diện tích nhỏ nhưng là một huyện, lấy tên là huyện Tân An với hai tổng Tân Minh 72 thôn và An Bảo 63 thôn. Riêng tổng Hòa Bình (vùng Gò Công, Chợ Gạo và An Hóa) có đến 86 thôn, không kém vùng đông dân Sài Gòn, Chợ Lớn. Trong khi ấy, một huyện ở vùng khó khẩn hoang với diện tích to rộng chỉ có 37 thôn : huyện Vĩnh Định, bao gồm phía hữu ngạn Hậu giang, từ biên giới Châu Đốc đến vàm Ba Thắc ở biển Nam Hải và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên; Một nơi khác, đất phèn và nước mặn là mũi Cà Mau (nay là An Xuyên và một phần của Bạc Liêu) chỉ có 40 xã thôn. Vùng Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay, trừ Hà Tiên) gồm một huyện với 2 tổng, tổng thứ nhứt là Kiên Định có 7 thôn, tổng thứ nhì là Thanh Giang có 4 thôn. Trong số này lại có những nậu, những thuộc, tức là xã thôn chưa thành hình đầy đủ. Đồng ruộng ở Sài Gòn gồm dân số đông đúc, lúa bán cao giá, hoa màu phụ dễ khai thác: Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, hoặc phía Phú Lâm, Bình Tiên, Bình Tây, Bình Đông. Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người Việt Nam thành lập. Phía Hậu giang, ruộng nương chưa đến đổi ít oi, dân số không quá thưa thớt, chỉ vì phần Cương Vực Chí không ghi lại nhân số, diện tích các sốc Cao Miên, tập trung ở vùng Trà Vinh, Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng. Riêng về vùng gần chợ Hà Tiên ghi 6 phố, sở của người Tàu, 26 sốc Cao Miên và 19 xã thôn Việt Nam (trong số này có 12 thôn ở đảo Phú Quốc). “Huyện Kiến Hòa đất ruộng phì nhiêu, mênh mông bát ngát. Nhiều người lo việc canh nông làm gốc, trong nhà có chứa vựa lúa gạo đầy dẩy”. Mục Phong Tục Chí của Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường hợp huyện Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường lúc bấy giờ khá rộng rãi, huyện Kiến Hòa nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công, vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng đất giữa sông Ba Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt, gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn, Định Tường (với Gò Công làm nòng cốt) là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định. Về đất ruộng, ở nơi có núi đồi và có đồng bằng như miền Trung, theo lệ từ lâu, cứ phân chia ra sơn điền và thảo điền. Sơn điền có năng xuất kém, thảo điền năng xuất cao, vì vậy mà trong việc quy định thuế điền, luôn luôn thảo điền chịu thuế cao hơn. ở vùng đồng bằng Cửu Long, để tiện việc thuế khóa, nơi nào đất mới trưng khẩn thì khai là sơn điền (mặc dầu không có núi) để chịu thuế nhẹ, vài năm sau khi đất đã thành thục (trở thành đất thuộc) thì nâng lên làm thảo điền. Ruộng ở đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long chia ra hai loại, đứng về mặt kỹ thuật cày bừa mà xét (sự phân biệt này qua thời Pháp thuộc vẫn còn) : — Đất cày — Đất phát Ruộng đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới cày, thường là khai thác lâu năm, nếu không cày thì mặt đất quá cằn cỗi thiếu chất màu mỡ, cày để trộn đất lên. Vùng Phiên An, Biên Hòa gồm loại ruộng cày. Ruộng đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác, mặt đất còn nhiều cỏ và phân, nếu cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm hư lúa (Trịnh Hoài Đức ghi là “trạch điền” để chỉ loại đất phát này). Muốn làm ruộng đất phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba tấc tây thì phát cỏ (Trịnh Hoài Đức dùng chữ trảm phạt, nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì). Theo ý kiến chúng tôi, nông dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ trước. Phãng giống như cây mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi phãng dài cỡ bảy, tám tấc tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng cây cù nèo gạt cỏ qua một bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa cào thứ to mà dọn cho đất trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày nếu dùng tay mà cấy thì không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được). Ruộng đất phát (trạch điền) ở Vĩnh Thanh một hộc giống thâu được 300 hộc, trong khi ruộng cày ở Phiên An, Biên Hòa một hộc lúa giống chỉ đem lại 100 hộc. Giống lúa sạ (lên cao theo nước lụt) tuyệt nhiên không thấy nhắc tới. Lúc bấy giờ, việc mua bán, liên lạc với Cao Miên cũng khá thường xuyên. Lúa sạ có nhiều ở Cao Miên, tại sao ta không cho du nhập để giải quyết việc trồng tỉa ở phần đất rộng mênh mông phía Đồng Tháp Mười và phía Châu Đốc ? Theo thiển ý chúng tôi, bấy giờ đất giồng ở bờ sông còn nhiều, chưa cần khai thác quá xa tận vùng Châu Đốc và Đồng Tháp. Vả lại, lúa sạ không ngon cơm, bán thấp giá trên thị trường. Trong Gia Định thành Thông Chí, không lời lẽ nào đề cập đến lối canh tác một năm hai mùa ruộng (khi người Pháp chiếm nước ta hồi cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn chưa làm một năm hai mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi đất cao ráo, để có thể đắp bờ mà giữ nước hoặt tát nước vào ruộng cạn. Đắp bờ và tát nước đòi hỏi nhân công, các thửa ruộng phải liền lạc, gần nhau. Người nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt và rộng nên chưa nghĩ đến cách khai thác thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu, bắp khao dễ sinh lợi và ít tốn công hơn. Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 (sau làm đến Tổng đốc An Hà) ghi lại vài chi tiết về cách làm ruộng : “Việc trồng lúa thì cứ phát rạp lau sậy, bừa cỏ hai ba lần rồi cấy, không phí sức nhiều. Như đã cấy rồi thì không cần trông nom tới, cũng khỏi phải lo nước hạn. Vào những tháng 7, 8, 9 lục tục cày cấy, đến những tháng 11, tháng chạp mới lần lượt gặt hái, rồi gom nhóm lại để ngay ngoài ruộng, tới ra giêng lối tháng 2, tháng 3 mới cho trâu đạp lấy lúa hột”. “Cổ nhân nói : Xuân canh, hạ vân, thu thâu, đông tàng xét ra không thể hoàn toàn đúng với mọi vùng, hoặc thổ ngơi không điều hợp, thổ tục thì theo thói quen mà làm, hoặc giả khí hậu có sớm có tối khác nhau, riêng tôi cũng chưa thấu đạt được vậy. Cũng như nói về hoa quả, tại nhiều tỉnh dưa đều đại khái chín vào mùa hạ, mà Nam Kỳ lại chín vào đông xuân. Tại Bắc kỳ, sen nở mùa hạ, mà Kinh kỳ (Huế) lại trỗ bông vào giữa thời gian giao mùa đông xuân, còn Nam kỳ thì bốn mùa sen đều có hoa cả”. Về phong tục ở miền Nam lúc bấy giờ, Trịnh Hoài Đức ghi lại khá nhiều chi tiết, xin lược kê vài đoạn, chứng tỏ việc khẩn hoang đem lại mức sống sung túc : “ở Gia Định, có khách đến nhà đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có nhiều người lậu xâu, trốn thuế đi đến xứ này ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy”. “Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên trong 10 người đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo”. Lại có thói đùa cợt, bằng cách thách đố nhau ăn hoặc uống thật nhiều. Doãn Uẩn chép : “Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều có mùng màn riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng”. Họ rất thích ca hát, không ngày nào là không có múa hát. Người Tàu còn khai thác ruộng muối ở vùng biển Sóc Trăng (Ba Thắc). Biên Hòa nổi danh với nghề trồng mía, làm đường. Rừng Tây Ninh sản xuất nhiều gỗ tốt, đặc biệt là dầu rái để trét ghe, làm đuốc.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 5:28:42 GMT 9
Chương 1 - 2
Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt Miên
Đời Gia Long, vấn đề biên giới ở Gia Định thành được tạm ổn định. Các hải đảo quan trọng đều có người Việt đến khai thác. Tại đảo Côn Lôn lúa, bắp, khoai, đậu tuy không đủ dùng nhưng dân ở đảo kết đoàn làm binh sĩ, gồm 3 đội, khai thác hải sản, trồng cau. Giặc cướp Mã Lai chỉ đến khuấy rối tạm thời. Đảo Phú Quốc phía vịnh Xiêm La được bố trí phòng thủ cẩn thận, dân Phú Quốc đã từng hết lòng ủng hộ lúc Gia Long tẩu quốc, gồm 12 thôn xã và thuộc. Hòn Sơn Rái có dân, lập thành một thôn. Riêng về Hà Tiên thì không còn quan trọng, từ khi bị giặc Xiêm đốt phá năm 1771. Hậu duệ của họ Mạc tuy được Gia Long chiếu cố nhưng thiếu tài kinh bang tế thế, vả lại, trọng tâm việc thương mãi đã nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng ; việc mua bán với Cao Miên thì đã có Sa Đéc, Cái Bè. Vua Gia Long cho các tàu buôn và ghe buôn ở hạt Hà Tiên được miễn thuế (1810), đồng thời di chuyển một số quan lại, viên chức ở bốn trấn miền trên đến tăng cường cho trấn Hà Tiên, gia tăng binh sĩ để lo việc tuần phòng giặc biển. Năm sau (1811) vua cho Trương Phước Giáo và Bùi Đức Mân đến Hà Tiên để tu chỉnh thành phố, chiêu dụ lưu dân : người Trung Hoa, người Cao Miên, ngườiChà (gọi là chà Châu Giang), đều có dành khu vực cư trú riêng, khá phân minh. Tuy nhiên, thương cảng Hà Tiên không sao hưng thịnh được như trước. Vua Gia Long đặt quan bảo hộ ở Cao Miên, nhưng như đã nói, đối thủ của dân Việt Nam vẫn là vua Xiêm với chính sách hung hăng đang tìm cách mở rộng biên giới. Từ năm 1795, Xiêm chiếm cứ luôn vùng Battambang và Siemrap của Cao Miên. Năm 1814, lấn luôn vùng Mélouprey và Stungtreng thuộc tả ngạn sông Cửu Long, thọc sâu giữa lãnh thổ Lào và Miên. Vua Xiêm còn có tham vọng “Nam tiến” xuống bán đảo Mã Lai. Về mặt nội an, từ lúc tẩu quốc, Gia Long nắm được tình thế đối với các vùng tập trung sốc Miên. Năm 1780, người Miên ở Trà Vinh làm loạn, nhưng tướng Đỗ Thanh Nhân dẹp được với chiến thuật khá tinh vi. Năm 1757, nhờ lãnh tụ Miên là Nguyễn Văn Tồn theo chúa Nguyễn nên vùng Trà Ôn sống yên lành, chẳng có mầm mống phản loạn. Người Miên trở thành dân binh giữ an ninh, đóng đồn tại địa phương, họ hưởng chế độ tự trị khá rộng rãi, nhờ đó mà “những chỗ gò hoang đất trống đã được khai khẩn thành ruộng vườn trồng tỉa”. Vua Gia Long cũng ra lịnh cho quân và dân trong đất Gia Định trả lại những phần ruộng đất chiếm của người Cao Miên và không tán thành việc dùng người Miên làm đầy tớ (1816). Việc bảo vệ biên giới Việt Miên Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên không kém Bắc thành. Vua Gia Long đã quan niệm rõ rệt như thế. Bắc thành để ngăn ngừa nạn xâm lăng của Trung Hoa; Hà Tiên, Châu Đốc để ngăn ngừa giặc Xiêm và giặc Cao Miên. Giữa ta và Cao Miên, biên giới có phần giáp vào trấn Phiên An và Đồng Tháp Mười, nhưng con đường chiến lược bấy lâu vẫn là sông Cửu Long, cụ thể là Tiền giang, nơi đối phương có thể từ Nam Vang đổ xuống nhanh chóng rồi thọc vào Định Tường. Về phía vịnh Xiêm La, còn Rạch Giá, Hà Tiên ở sát mé biển. Đồn lũy ở Hà Tiên và Châu Đốc đã có từ lâu, kể cả đồn Tân Châu, đồn Sa Đéc. Lằn ranh biên giới giữa ta và Cao Miên khi Cao Miên dâng đất Tầm Phong Long là vùng người Miên gọi là Méat Chruk (tức là mõ của con heo, ta âm lại là Ngọc Luật, Mật Luật), đại khái lấy sông Châu Đốc làm ranh giới. Đồn Châu Đốc ở phía tây sông Châu Đốc, thủ sở phủ Mật Luật Cao Miên ở bờ phía đông sông Châu Đốc, ấy là địa đầu quan ải trấn Vĩnh Thanh và nước Cao Miên. Vua Gia Long đặt tên vùng Châu Đốc là Châu Đốc Tân Cương, đặt chức Quản đạo. Từ đồn Châu Đốc đến vịnh Xiêm La, đường ranh giới quá mơ hồ : Vàm sông Châu Đốc (ngược về phía bắc) tiếp đến vùng Thất Sơn và rạch Giang Thành. Năm thứ 14 (1815), Gia Long ra lịnh cho trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường đem dân binh trong trấn hạt 3000 người để xây đồn, chung quanh có hào thông với sông cái, xây vào tháng chạp. Ngài giải thích với vua Cao Miên rằng đắp đồn Châu Đốc là để giữ yên trấn Hà Tiên, làm nơi tiếp ứng cho thành Nam Vang. Ngài muốn nói đến việc quân Xiêm sẽ can thiệp vào Cao Miên. Ngài ra lịnh xây đồn cho nhanh kẻo bận rộn đến việc cày cấy của đám người đi làm xâu. Đồn Châu Đốc vừa xây xong, vua Gia Long xem địa đồ, nêu ý kiến : “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên thời nông thương đều lợi cả, ngày sau dân ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to”. Nhưng Nguyễn Văn Nhân tâu can nên ngài bỏ ý kiến ấy. Tuy nhiên đó chỉ là bỏ tạm thời. Ngài muốn lập một trấn mới, tách ra khỏi trấn Vĩnh Thanh quá dài (trấn Vĩnh Thanh ăn từ biên giới Cao Miên đến biển Nam Hải). Ngài muốn cho lưu dân quy tụ để mở đất. Một người Tàu làm quan cho ta bên Cao Miên tên là Diệp Hội được gọi về, bấy lâu Diệp Hội được tiếng là mẫn cán “xử việc gì dân cũng bằng lòng”. Diệp Hội được cử làm Cơi phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập người ta, người Thổ và người Tàu vào đó cho đông, hễ có biết nghề trồng cây, nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy nghề nghiệp làm ăn, người nào thiếu vốn thì nhà nước cho vay. Lại truyền dụ quan Tổng trấn Gia Định rằng : dân mới phủ tập, nên dạy làm các việc lợi ích khiến dân được an cư lạc nghiệp, chờ các việc thành rồi sẽ tâu lên. Vua Gia Long hiểu rõ tình hình vùng biên giới Châu Đốc ; xứ này có đồi núi, chăn nuôi súc vật dễ dàng ; từ xưa, người Miên giỏi về nghề làm đồ gốm, nên thử cải tiến lại. Rất tiết là đất ở vùng Thất Sơn quá xấu, chỉ có thể làm nồi, cà ràn, gạch ngói, chớ không làm tô chén được. Việc quy dân lập ấp lúc bấy giờ cũng khó vì dân Việt thưa thớt ; ở phía nam, gần Cần Thơ và gần Vĩnh Long còn nhiều đất tốt chưa khẩn hết, đi làm ăn ở tận biên giới Châu Đốc là chuyện phiêu lưu. Người Tàu, người Cao Miên với nghề làm đồ gốm, nghề chăn nuôi, trồng cây được nhắc tới là phải. Trước khi muốn khơi động sinh hoạt kinh tế cho vùng Châu Đốc, ngài ra lịnh cho Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) đào con kinh sau này gọi là Thoại Hà (gọi nôm na là kinh Núi Sập) trong năm 1817, vào tháng 11, dùng 1500 dân xâu gồm người Việt và người Cao Miên, đào hơn một tháng mới xong. Đây là con đường mà trước kia dân gian thường đi, nhưng chật hẹp, nay đào nới rộng thêm. Thoại Hà đã có sẵn ở khúc đầu và đoạn chót, chỉ vét lại phần giữ để nối liền từ Hậu giang qua Rạch Giá bên bờ vịnh Xiêm La (ngọn của Rạch Giá là rạch Sốc Suông, địa danh Miên, sử ghi là Khe Song). Mục đích trước tiên của việc đào kinh vẫn là quân sự. Ngài nghĩ : chỗ ấy gần Chân Lạp, địa thế rậm rạp lắm, đàng thủy đi qua Kiên Giang thì lắm bùn và cỏ. Ngài ra lịnh cắm dân không được chặt cây trên núi Sập, nơi con kinh này đi ngang qua, chắc vì muốn giữ phong thủy. Nhưng việc đào kinh nối liền Châu Đốc qua Hà Tiên ở biên giới vẫn là mối bận tâm của ngài. Kinh Thoại Hà đào xong ở phía Nam cũng như con kinh Vĩnh Tế sắp đào ở phía Bắc vẫn nhằm mục đích đưa thủy quân của ta từ Hậu giang ra vịnh Xiêm La thật nhanh, để giữ Kiên Giang và chợ Hà Tiên, ngừa quân Xiêm đem binh đến thình lình. Khi vỗ về và động viên dân trong trấn Vĩnh Thanh, ngài nói thẳng là “công trình đào sông ấy (nối Châu Đốc qua Hà Tiên) rất khó. Việc nhà nước và cách phòng giữ bờ cõi quan hệ rất lớn. Bọn ngươi tuy là khó nhọc một lần mà ích lợi cho muôn đời về sau, phải bảo nhau biết, chớ nên sợ nhọc”. Trước khi đào kinh, ngài cũng trấn an sứ giả của Cao Miên. Kinh Vĩnh Tế đào năm năm mới xong, ngưng rồi lại tiếp tục. Có đoạn dễ đào vì nhằm nơi đất ruộng, sình lầy (khúc kinh này qua vùng Bến Đổi), nhưng có khúc ở đất cứng, có đá, sát chân núi. Mùa nắng phải ngưng lại vì thiếu nước uống cho dân phu. Vua Minh Mạng tiếp tục công trình do Gia Long đề xướng. Lê Văn Duyệt huy động đến 55000 dân công, gồm người Việt ở Vĩnh Thanh, Định Tường và người Miên ở đồn Uy Viễn (Trà Ôn do Nguyễn Văn Tồn cầm đầu). Mãi đến nay, dân gian còn nhắc lại những khó khăn khi đào con kinh này, lớp thì chết vì bịnh, lớp thì trốn về dọc đường bị sấu ăn thịt. Nói đến kinh Vĩnh Tế, vua Minh Mạng không che giấu mục đích quân sự : “Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta (Gia Long) mưu sâu, nghĩ xa, chú ý việc ngoại biên...”. Việc ấy (việc đào kinh) không lợi gì cho Chân Lạp. Những thành quả đầu tiên Nên nhớ trấn Vĩnh Thanh đời Gia Long và đầu Minh Mạng bao gồm các tỉnh thời Pháp thuộc : Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ. Nói chung thì phía Nam đã có dân cư, đất không bị ảnh hưởng ngập lụt hằng năm của sông Cửu Long và Hậu Giang, phía Bắc thì quá thưa thớt, trừ vùng Sa Đéc, Tân Châu. Vùng ngày nay thuộc Cần Thơ (Phong Dinh), Long Xuyên, Châu Đốc chưa có người Việt đến định cư nhiều. Tại Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt đất khá cao và tốt, dân ta đến lập thôn xóm, nhưng người Miên còn chen chúc gần đấy. Hữu ngạn Hậu giang, phía biên giới hầu như không người ở, trừ mấy cù lao trên sông. Đây là vùng bị ngập lụt quá sâu, cấy lúa không được, ai siêng năng thì chỉ có thể chọn vài giồng đất nhỏ, vài gò ở ven sông hay giữa đồng mà làm ruộng kiểu “móc lõm” tức là theo hình thức “da beo”, nhưng lối làm ăn này quá phiêu lưu, khi nước sông lên quá mức bình thường là bị lụt, hoặc mùa màng bị chim chuột cắn hại, đầu hôm sớm mai. Kinh Vĩnh Tế đào chưa xon glà Thoại Ngọc Hầu cho phép dân lập làng với quy chế rộng rãi, từ cù lao Năng Gù đến Bình Thiên theo sông Hậu, và dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế, từ Châu Đốc đến Thất Sơn. Người khẩn đất cứ dâng đơn, Thoại Ngọc Hầu lúc bấy giờ được trọn quyền ở biên giới (với chức vụ Khâm sai thống chế, án thủ Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ), phê vào đơn rồi đóng ấn son “Bảo hộ Cao Miên quốc chi dương” là xong. Tờ đơn được đóng dấu này có giá trị như tờ bằng khoán. Dọc theo kinh Vĩnh Tế, nhiều người thử làm ruộng trên phần đất phía Nam, bờ kinh đắp cao, dễ cất nhà. Kinh rút bớt nước, lại thuận lợi giao thông. Một số lưu dân đến mấy vùng đất cao ở chân đồi, chân núi phía Thất Sơn mà canh tác. Rải rác trên bờ kinh, quân sĩ xây nhiều đồn bão nhỏ, giữ an ninh, lại còn đường lộ đắp từ bờ kinh chạy vòng quanh, liền lạc nhau (gọi là xa lộ). Để tiện việc di chuyển và để khi mùa lụt nước ruộng rút nhanh, người khẩn hoang lúc bấy giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kinh ngắn (gọi là cựa gà) đổ ra kinh Vĩnh Tế, bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc chở lúa từ ruộng về nhà dễ dàng hơn. Lịnh của triều đình cấm ngặt không được khẩn vào phần đất hiện có người Cao Miên làm chủ. Núi Sam, gần Châu Đốc nối liền vào chợ với con lộ đắp đất. Làng Vĩnh Tế thành lập (gọi là Vĩnh Tế Sơn thôn, làng ở núi Vĩnh Tế tức là núi Sam). Thoạt Ngọc Hầu tỏ ra xứng đáng, làm đúng lời dụ mà vua Minh Mạng đưa ra vào năm thứ hai (1821) “Châu Đốc là một vùng xung yếu, nhà ngươi phải khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ nhân dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho đinh số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng được khai khẩn thêm”. Thoại Ngọc Hầu mất năm 1829, thống chế Nguyễn Văn Tuyên thay thế, rồi năm 1832 người lãnh bảo hộ Chân Lạp, giữ đồn Châu Đốc là Ngô Bá Nhân. Tính đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), dọc theo kinh Vĩnh Tế qua phía Thất Sơn, các thôn sau đây thành hình, lần hồi dân chúng xin khẩn thêm đất, đa số là vu đậu thổ, tức là đất làm rẫy : — Vĩnh Tế Sơn thôn (từ Châu Đốc vào) — Nhơn Hòa thôn — An Qů thôn — Thân Nhơn thôn (giữa An Qů và Vĩnh Bảo) — Vĩnh Bảo thôn (giữa Thân Nhơn và Long Thạnh) — Long Thạnh thôn (giữa Vĩnh Bảo và Vĩnh Nguơn) — Toàn Thạnh thôn (giữa Nhơn Hòa và An Thạnh) — Vĩnh Gia thôn (giữa Vĩnh Điền và Vĩnh Thông) — Vĩnh Lạc thôn (giáp với An Nông)... Từ biển Nam Hải trở lên Châu Đốc, tức là hữu ngạn sông Hậu giang có vài khu vực đáng kể không chịu ảnh hưởng nước lụt. Vùng Ba Thắc, Sóc Trăng đã có người Miên khai khẩn từ lâu rồi. Phía Sóc Trăng từ đời Gia Long thấy ghi làng Tân An (rạch Cần Thơ), làng Thới An (Ô Môn), làng Thới Thuận, Tân Thuận Đông (vùng Thốt Nốt), làng Bình Đức ở rạch Long Xuyên, làng Bình Lâm ở Năng Gù. Làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng đất gò, đất giồng. Các thôn xóm này đều bám sát vào bờ Hậu giang. Cù lao ngoài bờ sông cái thì phì nhiêu hơn : ven cù lao là đất cao ráo, thích hợp để trồng khoai, trồng đậu. Nhìn các bản đồ kèm theo đơn xin khẩn đất đời Minh Mạng ở vùng này, ta thấy đa số đồng bào khẩn theo lối móc lõm, ở ngọn, ở ngay ngả ba rạch. Đông đúc nhất là vùng Năng Gù, Chắc Cà Đao, đất khẩn liên ranh nhau. Tiếp giáp vào phần đất làm ruộng làm rẫy là đất lâm (ở vùng mé sông là rừng tre, thanh trúc lâm). Vì là bờ sông cái nên chim cò bay tới lui, đáp xuống bãi sông, tre chịu được ngập lụt hằng năm mà không chết. Ta có thể đoán rằng mực nước ở đồng ruộng vùng Cần Thơ, Thốt Nốt, Ô Môn hồi đời Minh Mạng tương đối cao hơn bây giờ. Vào mùa lụt (bấy giờ chưa có nhiều kinh đào đổ nước ra vịnh Xiêm La như sau khi người Pháp đến). Rạch Cần Thơ nổi danh là phì nhiêu, đất tốt, không bị ngập. Vùng Cái Răng trở thành làng vào đời Minh Mạng rồi phát triển thêm. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), làng Thường Thạnh của Cái Răng tăng thêm dân cư, tách ra một làng mới lấy tên là Trường Thạnh. Rạch Bò ót được dân khẩn hoang chú ý. Rạch Cái Côn đã có làng từ đời Gia Long (làng Phú Mỹ), ấy thế mà năm Minh Mạng thứ 19 (1838) còn đến năm khoảnh rừng rậm hoang vu. Làng Bình Mỹ cũng thành lập từ đời Minh Mạng, ăn tới rạch Cái Dầu. Vùng Thốt Nốt, đời Gia Long chỉ có làng Thới Thuận, qua Minh Mạng thêm các làng Tân Thuận Đông, Vĩnh Trinh. Những làng vừa kể trên trở thành phần đất của các tổng mới lập : Châu Phú, Định Thành, Định Phước, thuộc huyện Tây Xuyên (có nghĩa là bờ phía Tây của Hậu Giang). Từ Cần Thơ trở xuống thuộc về huyện Vĩnh Định với các tổng Định Thới, Định An, Định Khánh. Phía Sa Đéc, vùng Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ, Nha Mân và những cù lao trên Tiền giang đã đông đúc dân cư từ đời Gia Long. Đời Minh Mạng còn lưu lại vài văn kiện xác nhận việc xúc tiến khẩn hoang ở huyện Vĩnh An, với nhiều đơn xin khẩn đất : — Năm Minh Mạng thứ 12, khẩn thêm ở các thôn Tân Dương, Tân Đông, Tân Phú Đông, Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý, Tân Thuận. — Năm Minh Mạng thứ 19 và 20, khẩn thêm ở các tổng An Thới, An Thạnh, An Mỹ, An Trường, những vùng Nha Mân, cù lao Tòng Sơn, rạch Cái Vồn được chú ý nhứt. Từ đời Minh Mạng về sau, phần đất phì nhiêu, nhiều huê lợi của An giang vẫn là phía Tiền giang với Sa Đéc và các vùng phụ cận. Việc lập làng — Sự phân chia điền địa Vua Minh Mạng đặc biệt khuyến khích việc lập ấp ở vùng Châu Đốc. Năm 1830, thành thần trấn Gia Định tâu : Hạt Châu Đốc là vùng biên cương mới mẻ, ruộng đất chưa được khai khẩn hết, xin triển hoãn việc thâu thuế. Vua phán : “Đó là vùng biên giới quan trọng của quốc gia, trẫm muốn vì nhân dân mà gìn giữ cho nên phải đặc biệt chú ý tới việc cai trị. Đó chính là kế hoạch biên phòng. Còn vấn đề thuế khóa đinh điền, đâu phải là việc cần tính toán trước”. Rồi ngài cho miễn thuế ba năm. Ba năm sau, thành thần Gia Định tâu xin thâu thuế. Ngài ra lịnh : “Những xóm làng tân lập được miễn thuế thêm ba năm nữa. Riêng thuế thân, thuế điền thổ được hoãn thêm một năm nữa”. Một tài liệu khác cho biết thêm con số : đồn Châu Đốc mới lập được 41 xã, thôn, phường; dân đinh chỉ mới được hơn 800 người. Nhưng năm sau (1831), Tổng trấn Gia Định thành lại tâu với lời lẽ bi quan : “Đồn Châu Đốc xã dân mới thiết lập, địa thế ruộng đất khó khai khẩn”. Vua cho bộ Hộ biết : “Đồn ấy là nơi địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh sống. Đó là ý niệm quan trọng của ta trong việc củng cố vùng ngoại biên cương. Nhất sơ việc khai khẩn còn khó khăn nên đã được triển hạn nhiều lần. Năm ngoái đây, quan trấn thành đã có lời xin, lần thứ hai trẫm đã khoan miễn cho ba năm tiền dung (tiền xâu) cùng dịch vụ, và đã phán bảo phải dùng nhiều phương pháp để chiêu dụ thu nạp, để cho đồng áng ngày càng mở mang, sinh sống dồi dào, đã hơn một năm nay mà vẫn chưa thấy thi thố phát triển điều gì, liền vội cho là vì tình trạng khó khăn. Đó phải chăng là lối làm việc tắc trách cho xong chuyện ? Nay truyền chỉ cho thành thần (quan trấn Gia Định) phải nghiêm sức các công chức của đồn phải tất tâm thi thố, hầu làm cho đất rộng đông dân, hạn đúng ba năm phải có đủ hồ sơ về triều đình khen thưởng, không thể đổ cho là tại tình hình khó khăn mãi được”. Vua quan tâm đến vấn đề biên giới Châu Đốc, và tiên đoán những rắc rối sắp xảy ra giữa Việt Nam và Xiêm La, không riêng ở mặt trận Cao Miên mà còn ở cả mặt trận Lào. Ngài muốn quy dân gần như vô điều kiện, miễn thuế hai đợt. Hai năm sau, cuối năm 1833, quân Xiêm tràn qua. Làng ấp ở vùng kinh Vĩnh Tế và Thất Sơn lúc bấy giờ thành lập với quy chế dễ dãi, như trường hợp làng Phú Cường, tách ra từ làng An Nông. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vào tháng 3, Trương Văn Nghĩa đứng đơn, xin khẩn vùng đất hoang từ núi Chân Tầm Lon tới núi Trà Béc, bấy lâu thuộc làng An Nông. Lúc đầu, Trương Văn Nghĩa và đồng bọn 11 người đến khai phá, sau chiêu mộ thêm được 4 người nữa, đã có nền tảng để lập làng mới lấy tên là Phú Cường. Cả bọn xin đến năm thứ 17 (1836) sẽ đóng đủ thuế, khi mộ được thêm dân và lập hộ. Đơn được phú hồi cho Tuy Biên phủ để tra khám và chuẩn cho vào tháng 11, năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Qua văn kiện trên, ta thấy việc cứu xét kéo dài từ 1831, khi Trương Văn Nghĩa khẩn đất, xin sẽ lập bộ và đóng thuế; quan địa phương thâu đơn, chờ đến ba năm sau mới chánh thức chấp nhận. Trong thời gian chờ đợi, bọn người khẩn hoang tha hồ làm ăn, khỏi đóng thuế, khỏi khai báo gì cả. Làng Trường Thạnh tách ra từ làng Thường Thạnh, rạch Cái Răng (Cần Thơ) lập vào năm Minh Mạng thứ 15 (1834) do hai người đứng đơn. Làng tân lập này gồm 8 người dân có tên trong bộ làng Thường Thạnh, 8 người dân lậu và một niên lão 67 tuổi. Họ chịu đóng thuế 5 khoảnh đất, hạng sơn điền (thuế nhẹ). Đây là vùng có an ninh, đất tương đối tốt, cách xa Châu Đốc hàng trăm cây số ngàn, nên không thấy ghi những điều khoản dễ dãi dành cho vùng biên giới. Sử thường nhắc tới việc cho phép tù nhân đi khẩn hoang. Chúng tôi gặp tài liệu về một hộ thợ săn, tập trung thợ săn thú rừng, gọi là “Thuộc Tỉnh Biệt Nạp Lạp Hộ” được hưởng quy chế của một làng, nhưng không có đất đai. Cầm đầu là Hộ trưởng tên Nguyễn Văn Luật, người ở kinh Vĩnh Tế, 55 tuổi. Hộ trưởng phải chịu trách nhiệm về thuế vụ cho 7 người do ông ta bảo lãnh, thuế đóng bằng ngà voi, 150 mỗi năm. Gia nhập hộ thợ săn, có mọt người quê ở Cái Thia (Định Tường), 1 người ở vùng Chợ Gạo (Định Tường), đặc biệt là 1 người quê ở Vĩnh Tế can tội đồng lõa ăn cướp, đang bị phát vãng (lưu đày) lên Trấn Tây (Cao Miên) để làm đồn điền binh. Về sự phân chia đất sai, đặc biệt là vùng Thốt Nốt, nhiều điền chủ khẩn đất rộng tới 26, 28 hoặc 60 mẫu, trong khi tính trung bình mỗi phần đất của dân khẩn hoang là 2 hoặc 3 mẫu. ở đất tốt mé sông Cái hoặc cù lao, việc phân khoảnh nhỏ bé hơn, trung bình từ 1 đến 2 mẫu. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 19 (1839) tỉnh An Giang vẫn còn được triều đình nâng đỡ so với các tỉnh khác. Tỉnh thần dâng bộ sổ, ghi rõ số dân đinh, vì dân đinh có phần tăng, nên xin tăng thêm ngạch lính giản. Vua xuống dụ rằng : Hạt ấy lâu nay mong được dìu dắt dạy dỗ, hộ khẩu mỗi năm một tăng, nay lại nhân được thái bình nên cùng với dân nghỉ ngơi, khiến cho cùng lo việc cày cấy, đào giếng mà an nghiệp, để dân chúng ngày càng thêm đông đảo, thịnh vượng, hà tất phải xin thêm ngạch lính giản làm chi. ý vua muốn nói tới việc xâm lăng của Xiêm mà vùng Châu Đốc hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, trong thời gian vừa qua...
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 5:31:05 GMT 9
Vài vấn đề nội an : Loạn Lê Văn Khôi. Các vùng người Miên đông đảo Tháng 7 năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành mất. Vì có thù hằn lâu đời với Tả quân, vua Minh Mạng thừa cơ hội này đưa toán vệ binh Minh Nghĩa về Quảng Ngãi. Sau khi chôn cất Tả quân xong, vua Minh Mạng còn ra lịnh đưa cơ An Thuận về Kinh. Tháng 10 năm ấy, Gia Định thành không còn là đơn vị quan trọng nữa. Vua bãi bỏ chế độ Tổng trấn, tất cả đổi là tỉnh, trực thuộc vào triều đình Huế. Tháng 11 năm ấy, vua cho nguyên Tổng đốc tỉnh Sơn Tây là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An Hà kiêm lãnh ấn Bảo hộ Chân Lạp. Việc thuyên chuyển một viên chức từ Sơn Tây vào Nam không là điều lạ nếu ta biết rõ chính sách của vua Minh Mạng là triệt hạ uy thế và nhân tâm mà Tả quân Lê Văn Duyệt đã gây được ở kinh Vĩnh Tế do ngài đốc xuất đào ra trong hoàn cảnh khó khăn. Tỉnh An Giang chánh thức thành hình với hai phủ Tuy Biên và Tân Thành, năm 1835 lấy thêm đất Ba Thắc lập thành phủ Ba Xuyên. An Giang chiếm trọn miền hữu ngạn của Hậu giang, phía Bắc thì gồm luôn vùng Vĩnh an (Sa Đéc) cắt ra khỏi trấn Vĩnh Thanh lúc trước. Lê Văn Khôi nổi loạn, thành công nhanh chóng trong đợt đầu, chiếm lần hồi 6 tỉnh, nhưng giữ không được lâu. Dân chúng tuy mến một công đức Tả quân Lê Văn Duyệt, nhưng cá nhân Lê Văn Khôi không đủ uy tín. Hơn nữa ngày qua tháng lại, dân chúng thấy Lê Văn Khôi không tin vào dân trong nước, lại còn trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc cõng rắn cắn gà nhà. Lê Văn Khôi có chút ít tinh thần tiến bộ, chống lại chế độ tập quyền hà khắc của vua Minh Mạng ? Một tài liệu cho biết là khi được hỏi về ruộng nương và tình hình an ninh tại các tỉnh, tỉnh thần Vĩnh Long tâu rằng : “Trước đây bọn giặc (Lê Văn Khôi) chiếm cứ tỉnh thành, các thôn ấp đều bị chúng đốt phá rồi chúng còn chiếu theo nóc nhà dân, đem tiền trong kho ra tán cấp đến hơn một ngàn quan, nay dân tình nguyện y số đem nạp lại”. Vua ra lịnh miễn cho. Việc lấy tiền trong kho chia đều cho dân, lúc đang xảy ra, chắc là được dân hoan nghinh. Và dân đem nộp lại cho quan khi bọn phản loạn bị dẹp, chưa chắc vì tình nguyện, vì sợ đúng hơn. Loạn Lê Văn Khôi chỉ là một trong những mối lo sợ của vua Minh Mạng, vì lúc bấy giờ ở Bắc kỳ loạn lạc nổi lên với cường độ đáng kể, lý do chánh là nạn đói kém, là quan lại tham nhũng. Nhưng cuộc khởi loạn Lê Văn Khôi tạo cơ hội cho quân Xiêm đánh ta trong đó có mặt trận Lào, riêng mặt trận An Giang là quan trọng hơn cả. Từ lâu, vua chúa nhà Nguyễn lo lắng về các vùng người Miên định cư tập trung, nhiều nhứt là ở địa phận trấn Vĩnh Thanh ngày xưa : — Vùng Trà Ôn được yên ổn nhờ có Nguyễn Văn Tồn (một người Miên hữu công, trong thời gian phục quốc, được mang họ Việt Nam) nắm được nhân tâm. Nguyễn Văn Tồn chết, con là Nguyễn Văn Vị được trưng dụng và có ra tận Huế đô bái kiến vua. — Vùng Lạc Hóa (Cầu Kè, Tiểu Cần). Năm 1835 đặt ra xã thôn, tùy theo sốc lớn nhỏ, quan đến tận nơi khám xét, để định rõ thuế khóa. — Vùng Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách). Vua Gia Long khi còn ở đất Gia Định thì cho người Miên ở địa phương lập đồn điền mỗi năm nạp lúa sưu thuế. Năm 1792, Nặc ấn ở Xiêm về, vua đem đất ấy cho lại ; năm 1835, các quan lại người Miên ở địa phương yêu cầu ta giúp đỡ, vua Minh Mạng cho người Miên hưởng chế độ tự trị rộng rãi với quan phủ coi việc nội an, mãi đến khi người Pháp đánh nước ta, quan phủ vẫn là người Miên. — Vùng Ô Môn (phía bắc Cần Thơ) là nơi người Miên tập trung đáng kể. Về sau, họ phân tán, rút về phía hậu bối, xa bờ Hậu giang (Đại Nam Nhứt thống chí ghi là “thổ huyện Ô Môn”). — Vùng chợ Hà Tiên, rạch Gianh Thành, vùng Thất Sơn là những trung tâm gần biên giới, nơi mà vấn đề an ninh không được toàn hảo, mặc dầu triều đình đã chú ý từ đời Gia Long, Hà Tiên đất nhiều phèn, quá xấu, trừ vài lõm nhỏ ở sườn đồi mà người Trung Hoa đến làm rẫy, người Việt đến đánh cá ven biển. Vị trí chợ Hà Tiên tuy “tốt” về phong thủy, trên lý thuyết, nhưng quân Xiêm đánh chiếm chớp nhoáng. Người Miên ở Thất Sơn và ở Hà Tiên thường liên lạc với họ, hễ cơ hội đến là nổi loạn, vào cuối đời Minh Mạng. Năm 1835, theo lịnh nhà vua, tuần phủ Trần Chấn lập đồn điền ở núi Đá Dựng (chữ gọi là Châu Nham) sát biên giới, binh sĩ vừa cày ruộng, vừa luyện tập. Chánh sách của vua Minh Mạng đối với người Miên (luôn cả người Lào, người Mường...) là “nhứt thị đồng nhân” (xem tất cả cùng là người), nghe qua thì như là dân chủ, nhưng thực chất là muốn bắt buộc các sắc dân phải theo luân lý, theo cách tổ chức thôn xóm, cúng tế của Việt Nam và Tàu, lại buộc lấy họ (như họ Sơn, Thạch, Kim, Kiên...) Biến cố quân sự ở An Giang và ở Cao Miên Tháng 6, Lê Văn Khôi nổi loạn thì tháng 11 quân Xiêm đem binh đánh nước ta (1833), bề ngoài như để cứu Lê Văn Khôi nhưng bên trong là quân Xiêm chọn lựa đúng thời cơ để thủ lợi. Quân sĩ ta lúc bấy giờ bị tiêu hao và bị cầm chân khá nhiều, một số vào trong thành Phiên An theo Lê Văn Khôi, một số thì bao quanh chờ cơ hội tái chiếm. Trong đợt tấn công đầu tiên, quân Xiêm làm chủ tình thế, tướng Xiêm chỉ huy cuộc hành quân cấp tốc này là tay có tài, tên là Phi Nhã Chất Tri (sử gia Tây phương gọi là tướng Bodin, Phi Nhã chỉ là chức tước). Tháng 11 năm 1833, Hà Tiên mất, tháng 12 thành Nam Vang rồi đến đồn Châu Đốc cũng mất theo. Nhưng vua Minh Mạng bình tĩnh đối phó, bố trí cẩn thận và giữ bí mật. Quân Xiêm thừa thắng, từ Ba Nam cho chiến thuyền đổ xuống theo Tiền giang. Đây là con đường chiến lược vô cùng quan trọng, nếu cứ tiến thêm thì đến Sa Đéc, rạch Gầm, Định Tường, thọc vào trung tâm miền Nam, nơi nhà cửa đông đúc, nhiều tài nguyên. Quân ta liền phản công. Tại Tiền giang, nơi Vàm Thuận (sử ghi là Thuận Cảng, Thuận Phiếm cửa của Vàm Nao phía Tiền giang) ta chiến thắng. Giặc phải dừng lại rồi tạm rút lui về Ba Nam với dụng ý đánh theo đường bộ đến Tây Ninh, nhưng mặt trận này không mở ra được. Vài mươi ngày sau, qua tháng giêng năm 1834, thủy quân Xiêm lại theo đường cũ, đến vùng mà chúng đã thu hôm nọ để quyết chiếm yết hầu Tiền giang, đến Vàm Thuận không thấy gì xảy ra, chúng thử tiến thêm đến rạch Củ Hủ (vùng chợ Thủ). Khi ấy, giặc nhân lúc nước xuống, theo bờ sông phóng hỏa đốt bè, ngăn trở thủy quân ta rồi chúng lại sấn tới đánh, Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng nhau, giặc liền lui. Đây là trận đánh kéo dài từ ba bốn giờ khuya đến chín mười giờ trưa, giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Trận này khiến ta nhớ tới trận rạch Gầm ở dưới Mỹ Tho vào năm 1784 Nguyễn Huệ đã thắng quân Xiêm. Từ Vàm Thuận đến chợ Thủ thuộc huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang, bao nhiêu tàn phá diễn ra. Nhưng quân ta lại thừa thắng thâu phục đồn Châu Đốc, thâu phục thành Hà Tiên rồi chiếm thành Nam Vang từ tay quân Xiêm. Giặc Xiêm đồng thời cũng đánh ta theo mặt Quảng Trị và Nghệ An trên đất Lào, nhưng bị chặn lại. Ta rượt theo đến vùng Biển Hồ (Tonlé Sap) tận căn cứ địa của quân Xiêm. Cũng năm 1834 này, vào tháng tư, Trương Minh Giảng (bấy giờ là Tổng đốc An Giang, Hà Tiên) từ Nam Vang trở về ra lịnh tu bổ đồn Châu Đốc, rồi nghĩ đến việc dời tỉnh lỵ Hà Tiên qua phía Giang Thành (xa bờ biển, dễ phòng thủ hơn). Vừa lúc ấy, lại hay tin quân Xiêm cũng do Phi Nhã Chất Tri cầm đầu đang kéo qua Cao Miên với lực lượng là 5000 quân. Quân ta đến nơi trấn áp, đóng đồn tại Vũng Xà Năng (Kompong Chnang). Năm thứ 16 (1835), vua Minh Mạng cho đổi đồn An Man ở Nam Vang làm thành Trấn Tây, định chế độ cai trị, đứng đầu là một vị tướng quân, hai vị tham táng, quan lãnh binh, quan đồn điền. Việc này chỉ gây thêm mệt nhọc cho quân dân ta. Từ năm trước, nước Chân Lạp bị đói kém đến đổi có người phải ăn các thứ tấm cám nên phải xuất ra từ các kho hai tỉnh Định Tường và Vĩnh Long chở lên Cao Miên một vạn vuông gạo để phát chẩn cho dân khỏi xiêu tán. Chánh sách đồn điền được ban hành ở Trấn Tây, người đi đồn điền gồm tù phạm của Nam kỳ lục tỉnh. Ai trốn về thì bị tập nã gắt gao. Theo lời Trương Minh Giảng năm 1839 thì ở Trấn Tây, dân tâu của Việt chiêu tập thành lập được 25 xã thôn, với 470 dân binh, 340 mẫu điều, theo quy chế thì ba năm sau mới đóng thuế. ở Trấn Tây, người Tàu cư ngụ khá đông, số người có sản nghiệp là 220, xin thành lập 5 bang. Năm 1837, Trương Minh Giảng mở rộng thêm ảnh hưởng, lấn sát vùng mà người Xiêm chiếm đóng ở Biển Hồ. Biển Hồ (Tonlé Sap) được gọi là Hồ Hải (vì hình dáng có eo giống như cái bầu đựng rượu). Đây là khu vực nhiều huê lợi. Trương Minh Giảng xin lập ba phủ Hải Đông, Hải Tây và Sơn Định ở phía đông, phía tây Biển Hồ và ở núi Đậu Khấu (dãy Cardamomes), đồng thời lập đồn điền, tập lính, trử lương, cho người Việt và người Miên đến khẩn hoang, tìm cách dạy tiếng Việt, dạy chữ cho người địa phương để việc cai trị được dễ dàng. Một ngàn người Xiêm trốn khỏi vùng quân Xiêm kiểm soát để theo ta năm 1837 ; năm 1839 dân Miên ở vùng Battambang do Xiêm kiểm soát cũng trốn về, tạo thêm nhiều gánh nặng cho quan quân đến bảo hộ, như cấp phát gạo muốn cho họ. Nhưng một số người Miên thích nếp sống lưu động. Vua Minh Mạng bắt buộc họ phải có gia cư để dễ lập số bộ. Lính Miên thì chia nhau cày ruộng, phân nửa ở tại ngũ, phân nửa về quê, mỗi năm chỉ tập trung đầy đủ vào tháng mười, mùa nắng. Lúa gạo sản xuất ở Cao Miên lúc bấy giờ không đủ cung cấp cho việc binh, vua Minh Mạng hiểu thị cho dân sáu tỉnh Nam kỳ : Ai nạp lúa xay gạo để làm quân nhu lên thành Trấn Tây thì được thưởng phẩm hàm, miễn thuế thân, miễn đi lính và làm xâu, ai cấp 2500 hộc lúa thì được thưởng chánh cửu phẩm. Cuối đời Minh Mạng (1840) xảy ra cuộc tranh tài giữa Phi Nhã Chất Tri và Trương Minh Giảng. Nếu từ lâu Trương Minh Giảng thắng thì phen này lần hồi lâm vào thế yếu. Nhân tâm ở Cao Miên lúc bấy giờ rất bất lợi, loạn lạc nổi lên đối phó không kịp, phần lớn do các quan của ta cai trị không công bình lại thêm tham nhũng. Việc đóng quân ở Cao Miên có thể tạm tổng kết như sau : — Về chánh sách, vua chúa phong kiến Việt Nam cũng như Xiêm là cứ luôn luôn mở mang bờ cõi. Đất Cao Miên là nơi tranh chấp. Đánh qua Cao Miên, đưa các quan cai trị là phiêu lưu, nhưng thử hỏi nếu không làm việc ấy để cho Xiêm chiếm đóng ở Cao Miên sát Châu Đốc, Hà Tiên, sát Tây Ninh, liệu lãnh thổ ta có được yên ổn, vẹn toàn ? Đây là cuộc tấn công để phòng ngự. — Về quân sự, khi nào quân Xiêm tiến vào lãnh thổ của ta thì họ thua. Hễ nắm vững đường thủy chiến lược từ Nam Vang đến Tân Châu là ta thắng. Cứ điểm quan trọng nhứt là Ba Nam (Ba Cầu Nam) trên sông Tiền giang. Ngược lại, khi nào quân ta phiêu lưu đến vùng Biển Hồ, sát căn cứ của quân Xiêm La là ta bị khó khăn, nếu không nói là thua. Nguyễn Công Trứ từng dẹp giặc Nồng Văn Vân ở Bắc kỳ đã dâng sớ và so sánh : So với sự thế đảng giặc Nồng Văn Vân thời việc dẹp yên giặc Thổ (Cao Miên) này hơi khó mà chậm... Nay, giặc Thổ dậy khắp nơi, trong chỗ hoang mảng, trông bốn mặt đều là tre gai rậm rạp, nước sâu bùn lầy, không phải như cây lớn, núi cao có thể đốn phá tìm đường đi băng được... Huống chi đường đem lương từ Trấn Tây (Nam Vang) đến chỗ quân thứ, một lần đi tám ngày đường mà chỉ đủ ăn một tháng... Chúng tôi trộm nghĩ trước phải đánh được giặc Xiêm rồi sau đó giặc Thổ mới dẹp yên được. Tình hình năm 1840 thật bi đát. Cũng theo lời tâu trên của Nguyễn Công Trứ, thời bấy giờ từ An Giang đến Trấn Tây, từ An Giang đến Hà Tiên, quân giặc đóng đồn cả. — Về chính trị, có sự kỳ thị rõ rệt, nhưng nặng nhứt là vì lý do văn hóa. Người Cao Miên chịu ảnh hưởng văn hóa ấn độ với những tập tục địa phương, thích sống rày đây mai đó. Vì còn tàn tích mẫu hệ, việc cưới gã của người Miên hơi khó hiểu, không giống người Việt theo phụ hệ, vì vậy bị hiểu là loạn luân. Cách mặc, cách ăn (ăn bốc, mặc sà rong) của người Miên không hợp với cảm quan của nho sĩ Việt, cùng là tục lệ hỏa thiêu. Ngay đến đạo Phật, người Miên theo hình thức Tiểu Thừa, nghĩa là khác với cách tụng niệm, cách ăn uống của chùa theo Đại Thừa. Và quyền hạn của giai cấp tăng lữ ở Cao Miên cũng khá rộng. Quan lại Cao Miên, dưới thời đô hộ của vua Minh Mạng phải mặc áo, đội mão như quan lại Việt Nam. Từ việc tuyển chọn quan lại, cách thu thuế, nói chung công việc hành chánh ở Cao Miên ngày xưa rất khác với Việt Nam. Doãn Uẩn viết trong Trấn Tây Kỷ Lược: Họ cũng chưa biết đạo dựng nước, ta chỉ còn mong ở sau này ngày càng củng cố mở rộng thêm chánh thể duy tân dần, chắc sẽ không còn phác lậu như trước nữa vậy. Trong khi ấy, giới bình dân Việt Nam và người Miên sống chung đụng nhau dễ dàng. Lúc canh tác, bắt cá, chế biến thức ăn, ta cũng bắt chước vài kỹ thuật của người Miên; việc người Việt cưới vợ Miên không phải là không có. Lập địa bộ năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Đây là lần đầu tiên mà ở đất Gia Định lập địa bộ với quy mô lớn, lưu lại bằng chứng cụ thể. Mỗi thôn vẽ bản đồ các sở đất, loại đất, diện tích, ranh giới bốn phía, ghi tên chủ điền. Lịnh vua ban ra vào tháng 2, phái đoàn này do Trương Đăng Quế cầm đầu, với Nguyễn Kim Bảng, cả hai đều sung chức Kinh lược đại sứ (nhưng Nguyễn Kim Bảng mang bịnh, Trấn tây đại tướng là Trương Minh Giảng thay thế). Trương Đăng Quế là Binh bộ Thượng thư, Nguyễn Kim Bảng là Lại bộ Thượng thư. Hai vị Phó sứ là Tôn Thất Bạch và Nguyễn Khắc Trí. Tháng 7 năm ấy, phái đoàn trở về, công tác hoàn thành. Vua ban thưởng và xuống dụ cho nội các : Trương Đăng Quế là người công bằng vô tư nên việc làm đến chỗ thành tựu, đúng như mệnh lệnh của trẫm, tuy không thể sánh với việc đi dẹp biên cương, mở rộng bờ cõi được phân minh, so với việc mở đất đai cho rộng biên giới có khác gì ? Sử chép tiếp : Sau đó 6 tỉnh Nam kỳ không phải tăng thuế ruộng mà tiền tài vẫn bội thu. Thuế điền thổ Nam kỳ được định lại, sau khi đạc điền. Kết quả là tăng thuế cho công quỹ, nhưng người khẩn đất chịu thiệt thòi nhiều là không được giữ ruộng đất ẩn lậu như trước. Năm 1836 rồi 1839, vua Minh Mạng quy định về thể lệ thưởng phạt dành cho các viên chức địa phương, đất khẩn thêm thì thưởng, bỏ hoang thì phạt. Hậu quả đi tới đâu ? Việc đạc điền có lẽ đã làm cho dân khẩn hoang mất hào hứng phần nào, vì thuế vụ. Năm 1837, liền sau khi đạc điền và ban hành lệ khen thưởng, theo báo cáo của “các tỉnh Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường thì con số khẩn thêm không được bao nhiêu, riêng tỉnh Biên Hòa lại càng thấy vắng vẻ. Đến như Gia Định An Giang tới nay vẫn còn chưa tâu báo... Làm việc không đứng đắn như vậy thiệt nên trị tội xứng đáng... Hãy dặn Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, án sát mấy nơi ấy nhắc nhở các phủ huyện sở tại hãy hết lòng khuyến khích, làm cho nông dân vui vẻ quay về việc nông, đem những ruộng đất hoang phế trong hạt mà khai khẩn cho hết”.
|
|