|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:04:35 GMT 9
HÔN LỄ
Hôn lễ được xem như quan trọng hàng đầu, dính dấp trực tiếp đến việc nối dõi dòng họ, sanh con đẻ cháu, để rồi dân đông, nước mạnh. Không riêng gì người Việt Nam, các dân tộc trên thế giới đều đặt nặng việc “hôn lễ”. Sinh ocn cái để bảo đảm tư hữu tài sản, thừa kế huyết thống. Đó là quan niệm thời nông nghiệp, đánh dấu bước tiến quan trọng so với thời ở hang động mà nam nữ ăn ở chung đụng, sống với săn bắn, hái trái, đào rễ cây mà ăn, quần áo còn thô sơ, luật lệ không rõ ràng. Ở Đông Á, trên lý thuyết, việc “hôn lễ” ngày càng phức tạp, định hình bước đầu đời nhà Chu trước Tây lịch. Lại giải thích dài dòng về chữ Hán, chữ “Hôn” nguyên nghĩa là “tối”, trời tối, Âm đến, Dương (ban ngày) sắp quan, Âm và Dương gặp nhau. Lài bàn rằng thời xa xưa ấy, lễ hôn nhân cử hành vào buổi tối để hy vọng đạt kết quả, Âm gặp Dương. Ngày nay, các nước đều xem việc “động phòng” là trọng, phải cử hành vào ban đêm cho thuận lợi, đem chuyện âm dương ra để giải thích e cường điệu. Thời phong kiến , trong xã hội còn bị nông nghiệp chi phối nặng nề cuộc hôn nhân được qui định chặt chẽ, lại có luật hôn nhân, luật gia đình trừng phạt những ai vi phạm, thí dụ như vấn đề ly dị, lỵ thân , phân chia tài sản, thông gian. Nhu cầu to lớn thời nông nghiệp vẫn là tạo ra người nối dõi. Vợ hiền lành, đủ “dung” công”ngôn “hạnh” nhưng không sinh con, hoặc chỉ sinh con gái mà không sinh con trai thì quả là vi phạm chữ “hiếu” Thời nông nghiệp, sinh con đông là điều may mắn? Con cái phải chăng là một dạng “sức kéo” khi chưa có cơ giới? Con cái đông đúc, cha mẹ mặc nhêin được yên tâm khi về già, may racó được vài đứa giữ được chữ “hiếu”, phụng dưỡng cha mẹ. Con cái đông, quả là thứ “lương hưu trí” khá bảo đảm, thời xưa, không nêu ra vấn đề an sinh xã hội, trợ cấp người già, họa chăng vào dịp đầu năm, các quan hoặc nhà vua ban thưởng cho người già non trăm tuổi chút ít tiền bạc, chiếc áo, gọi là tưởng lệ. Việc ở rể là lợi dụng sức lao động, là dạng khai thác lao động. Ở thôn quê , ngày xưa, mặc nhiên bày ra lệ “tảo hôn” để người cha yên tâm sẽ có cháu. Cô dâu lắm khi lớn tuổi, hơn cậu trai vẫn là tốt, để tiếp sức cấy gặt. Nay thì khác. Hồi trước năm 1945, ở vài miền quê, thậm chí ở thành thị, nhiều người còn hãnh diện được làm ông nội hoặc ông ngoại khi mới 40 tuổi. Lại chụp ảnh, bày tiệc tùng, mừng rằng đã bảo đảm được sự nối dõi của dòng dõi, có phước hơn nhiều người. Ngày nay nhiều người, vì nhiều lý do, tuổi hơn 40 mà chưa chịu cưới vợ. Hậu quả này rất tai hại: Người cha làm ăn khá giả, sắm ruộng vườn, hoặc xây được nhà lầu, khi 60 tuổi, nhắm mắt lại, tủi thân, chẳng biết tin tưởng vào đâu vì vợ còn trẻ, con trưởng nam mới mươi tuổi, tương lai học hành về đâu? Tài sản về tay ai ? Có sự hãnh diện chánh đáng là sống dai, và sống chung trong một mái nhà gồm có ông cố, ông nội, cha, con cháu chắt. Bốn thế hệ đầy đủ, tương đối ấm no, chụp ảnh kỷ niệm, niềm vinh hạnh của “Tứ đại đồng đường”, cùng hiện diện trong một nhà, hoặc nhiều nhà ở gần nhau. Người cùng một họ được quyền cưới hỏi với nhau không” Phải chăng là loạn luân? Trên lý thuyết (thông dụng), trên bàn thờ của gia đình thường là thờ người quá cố từ ba đời trước, hoặc hai đời trước (cúng giỗ cho ông nội, ông cố ) là dứt. Ở những từ đường danh cho cả họ, thường là thờ trở lên đời thứ tư mà thôi. Qua đời thứ năm, (đời ông sơ) mặc dầu cùng họ Nguyễn, họ Lê nhưng xem như người dưng, cùng một họ vẫn có thể cưới hỏi nhau. Vả lại, trong thực tế, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, sau những cuộc khởi loạn chống vua chúa, để tránh nạn “tru di tam tộc” nhiều người đành thay đổi họ, dời chỗ ở thật xa để che giấu lý lịch. Việc cưới hỏi và nghĩ lễ mặc nhiên ngày càng thay đổi nhanh cho phù hợp với thực tế, để có thể gọi là “khả thi”. Kết hôn với người nước ngoài, ngày nay không thành vấn đề. Không cưới hỏi nhưng sống chung, sanh con vẫn là hợp pháp. Ở nước ngoài, lại sôi nổi chuyện cưới hỏi giữa người “đồng tình luyến ái”, khó giải quyết! Dưới đây, xin trình bày những gì đang diễn biến ở nước ta, trong sinh hoạt bình thường. Việc cưới hỏi trong những gia đình theo đạo Thiên chúa, đạo Hồi . . nằm ngoài thẩm quyền của người biên soạn. Thử duyệt qua những gì người xưa để lại, vận dụng và đơn giản hóa vào tình hình nước ta, để lấy đó làm chuẩn mục, tuân thủ những nguyên tắc cớ bản. Ở nông thôn, thời phong kiến, trong cơ chế của hương chức hội tề cai quản về hành chính, có một hoặc hai người đặc trách về nghi thức “quan” “hôn” “tang” “tế” gọi chung hương Lễ, ông hương Văn. Người Pháp không chánh thức chấp nhận những chức vị nầy, nhưng mặc nhiên ở vài miền quê, trước 1945 vẫn còn tồn tại, được nhiều người quí mến. Lại còn vài người chuyên xem tuổi tác, ngày giờ cử hành hôn lễ rồi bàn bạc, gây phức tạp về tâm lý. Thời phong kiến, chịu ảnh hưởng Trung Hoa, vài nhà lý luận bày lễ nghi rườm rà, rồi chê khen, gây tốn kém vô ích, dựa vào sách “Lễ Ký” của Chu Văn Công, tức Chu Hy, một danh nho đời nhà Tống. Chính ông Chu Hy này cũng đã giản lược những điều phiền phức từ trước đời ông, nhưng xem lại, ngày nay, ta vẫn còn thấy rườm ra, “bày lắm trò”. Theo sách của Chu Hy, lễ thành hôn gồm có sáu lễ chính, ngoài ra, còn nhiều lễ phụ. Xim chép lại cho vui: 1. Lễ Nạp thái – Đại diện nhà trai đến nhà gái, theo giao hẹn trước, mang theo một con chim nhạn, loài chi nầy sống có nghĩa ưng ý nhau thì không bao giờ phản bội; con này chết, con kia vẫn sống lẻ loi. Về sau, dùng hai con ngỗng, con đực và con cái , thay cho chim nhạn. Ở Nam Bộ, khó kiếm cặp ngỗng, thông thường dùng cặp vịt mập mạp, con trống con mái. Có người giải thích đó là biểu tượng chim uyên ương bay liền cánh, không bao giờ rời nhau. Trường hợp chàng trai ăn ở lén lút với cô gái, không cưới hỏi, đàng trai phải đem đến đàng gái một cặp vịt, gọi là “tạ lỗi”. Lắm khi đàng gái giận hờn, không chịu nhận. thế là mặc dầu tiếp tục ăn ở với nhau, chàng trai chẳng bao giờ được nhà gái xem như con rể. 2. Lễ Vấn danh – Lễ hỏi tên chính thức của người con gái và tên họ bà mẹ. Con gái có tính tình, đức tính giống mẹ vì mẹ là người đào tạo trực tiếp , “Cưới gái chọn dòng, nuôi heo chọn nái”. 3. Lễ Nạp cát – Đàng trai đến nhà gái để xác nhận sự quyết tâm của mình, sua khi nhờ thầy xem tuổi, chọn ngày lành tháng tốt. 4. Lễ Nạp trưng. – Còn gọi “Nạp tệ” . “Trưng” là chứng cớ, “Tệ” là tấm lụa, đem vóc lụa tốt tặng cho nhà gái. Về sau, thay vì vóc lụa, có thể nạp số tiền. 5. Lễ Thĩnh kỳ. – Xác định lần chót ngày giờ tửc hành hôn lễ, nạp cho nhà gái nữ trang, nhất là vải vóc, y phục cho cô dâu. 6. Lễ Thân nghinh – Rước dâu, đưa dâu. Gọi là lễ cưới chính htức. Thời xưa, còn bày ra nhiều lễ phụ như cúng Tơ hồng, lễ Động phòng sau khi cưới, đôi vợ chồng phải trở về thăm cha mẹ vợ, lạy bàn thờ, thêm quà cáp. Bao nhiêu ràng buộc nhằm nhắc nhở cô dâu chú rể và hai họ thấy tầm quan trọng, ràng buộc nhau. Muốn ly hôn, mặc nhiên hủy bỏ những gì đã tiến hành từ trước. Lễ cưới ngày xưa diễn ra nhiều ngày. Muốn đủ sáu lễ, cũng phải đôi ba tháng. Thời nông nghiệp, độc canh, sau vụ mùa, ai nấy rảnh rang chờ đến ăn Tết, hoặc sau Tết, chờ khi trời bắt đầu sa mưa mới nghĩ đến việc gieo trồng. Ngày nay, làm ruộng tăng vụ, họ hàng bận việc riêng tự, chẳng ai đủ thời tgiờ tham dự những lễ lộc tượng trưng như xua. Thời xưa, chịu sức ép về dư luận. Lắm khi cô dâu chú rể chỉ thấy mặt nhau một đôi lần, vì cách xa làng tổng, lại phân tích nào môn đặng hộ đối, theo dõi thói hư tật xấu của đôi vợ chồng tương lai. Lắm khi đàng trai hoặc đàng gái dùng chiến thuật hỏa mù, hủy bỏ, danh dự cho được. Trong dân gian, như đã nói để tiết kiệm thời giờ và tiền bạc lần hồi đơn giản hóa, chỉ còn ba lễ, nói chung, phổ biến hồi trước năm 1945, khi nhà nông còn rảnh rang, lương thông tin, phương tiện di chuyển còn chậm chạp khó khăn:
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:05:17 GMT 9
LỄ GIẠM
- Vai trò ông mai quyết định sự thành bại. Khi chàng trai và cha mẹ cậu ta đồng ý, bèn cậy người mai có uy tín đến nhà gái. Mặc dầu bên gái đã biết và đồng ý ở mức tương đối, lễ này rất cần thiết nhằm giữ thể diện cho nhà gái. Không mang theo qùa cáp gì cả, để tạo không khí thân mật, ông mai cùng đi với đôi ba người bạn của mình, từng quen biết nhà trái, lý tưởng nhất là cùng đi còn có đôi ba người bạn thân của nhà gái, để tạo ra sự thân mật từ lúc đầu. Dĩ nhiên, phải báo tin trước. Nếu là chỗ thân mật mang theo ít quà tượng trưng, như trái cây, hộp trà. Đã đến báo tin vui vẻ, xem như sự việc đạt yêu cầu được tám phần mười. Trong buổi sơ giao này, cha mẹ đàng tai không đi theo. Lễ Giạm còn gọi là lễ “Chạm ngõ”, “Coi mắt”, “Ra mắt” . . ngày nay gần như không còn nữa. Trước khi giao ứơc sẽ thành hôn, thanh niên nam nữ ngày nay đã chung đụng dễ dàng, quen sẵn nơi xí nghiệp hoặc cơ quan lân cận. Chưa kể đến dịp tiệc tùng, sinh nhật, đi chơi Vũng Tàu gặp tình cờ hoặc có hẹn trước, lại còn những tụ điểm như khu phố, gặp nhau khi giao thiệp cùng ngành nghề mua bán, trong lớp học nghề. Cha mẹ đôi bên có lắm dịp gặp mặt nhau khi giao thiệp, làm ăn, thường là cha mẹ đôi bên đã tạm ưng thuận, chỉ còn thắc mắc về sinh kế tương lai của đôi trẻ, về nhà cửa sau nầy, hộ khẩu . .. Ông mai chỉ còn vai trò tượng trưng, lắm khi đóng vai trò ông mai “bất đắc dĩ” cho vui vẻ giữa người lớn tuổi với nhau. Ngày xưa, có lệ ông mai được phần thưởng là cái đầu heo, nay nhắc lại cho vui. Luật lệ ngày nay tôn trọng thanh niên nam nữ đã thành niên, việc cưới hỏi đôi khi lại không được sự chấp thuận vui vẻ của cha mẹ. Vả lại, cha mẹ thích con cái ra riêng, sống tự lập, ai đâu còn ruộng vườn mênh mông mà sợ chia gia tài. Tiền bạc, nhà ở quan trọng hơn. Lễ Giạm hay Coi mắt này đã thay cho lễ gọi là “vấn danh” thời trước. Bỏ qua cũng không sao. LỄ HỎI Đây là lễ quan trọng, thay cho lễ “Nạp trưng” hay “Nạp tệ” thời trước. Lễ hỏi, gọi nôm na “Đám Hỏi”, còn được gọi là lễ “Đính Hôn”. Nếu hoàn cảnh cho phép, ngày nay ta có thể cử hành thật đơn giản, trong vòng một hai tiếng đồng hồ mà gieo được dư luận tốt cho gia đình, để rồi sau đó , đôi trai gái được khá nhiều tự do, nhưng cùng nhau xem xét, dạo chơi Thảo Cầm Viên, chơi vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, đi công khai mà chẳng sợ tiếng tăm dị nghị. Trong dân gian, gọi khôi hài là lễ “Bỏ hàng rào thưa”, chàng trai mặc nhiên đã đặt cái “hàng rào” không chặt chẽ lắm đối với người yêu, xem như đặc quyền cho mình, kiểu “khoanh vùng”, đất đã có chủ, nạp hồ sơ, chỉ còn chờ thời gian là được cấp giấy “xác nhận chủ quyền”. Trong gia đình nề nếp khá rộng rãi, lắm khi nhà trai cử hành lễ nhỏ, khiêm tốn, tại bàn thờ ông bà cha mẹ mình. Đại khái, người gia trưởng đốt nhang, khấn vái với nội dung: - Hôm nay dòng họ nhà mình đến hỏi đứa con gái tên X, con gái của dòng họ Y cho đứa con trai dòng họ mình là A. xin ông bà cha mẹ (gia tiên) chứng giám và vui lòng phò trợ cho đôi trẻ được may mắn. Nhà trai đến nhà gái, báo tin trước để nhà gái chờ đón. Lễ vật nhà trai mang theo gồm có (nếu đủ khả năng): - 1 khay rượu, phủ khăn đỏ. Màu đỏ là tượng trưng của Phước, may mắn. -2 cái quả (một đựng cau trầu, têm sẵn) một đựng đôi bông (hoặc hai chiếc nhẫn cưới). đây là loại quả nhỏ, cũng phủ khăn đỏ, thêm vài mâm (số chẵn) đựng rượu, mứt, bánh trà. Họ đàng trai sắp hàng khi gần đến nhà gái một đại diện lớn tuổi, thường là ông mai đi trước một mình, theo sau có người bưng khay trầu rượu (thường là thanh niên, chàng rể phụ cho vững tay). Đằng gái cử người ra mời vào nhà. Ông mai trình bày lý do, xin phép cho chàng trai đến làm lễ hỏi, xin đặt khay trầu rượu trên bàn, giữa phòng khách. Nhà gái cười vui, tỏ lời ưng thuận bèn cử một người đại diện (không nhất thiết là cha cô gái) ra tận cửa để mời đoàn nhà trai vào. Khi vào, nên tuân theo thứ tự: Lễ vật mang vào trước, như mâm rượu, bánh, trái cây, sau đó mới đến ông mai, rồi người trưởng tộc đàng trai, thường là lớn tuổi. Kế đến , chú rể, chú rể bưng cái quả đựng lễ vật (nhẫn cưới, hoặc đôi bông). Sau chú rể là rể phụ bưng khay trầu tượu. Đôi đèn sáp là quan trọng, tự tay chú rể bưng, đặt lên trên cái quả vừa nói, không được giao cho rể phụ. Kế đến là cha mẹ chú rể, rồi bà con gần xa. Người khó tánh, tin vào số chẳn. Số lẻ được kiêng cữ vì lẻ có nghĩa là lẻ bạn, lẻ đôi, vợ chồng sau nầy không ăn ở bền lâu. Đây là mức giản đơn ở thôn quê hoặc thành thị hồi trước 1945, Sài Gòn và Nam Bộ. Tục lệ khiêng con heo, cặp chóe đựng rượu quá cồng kềnh. Thời xưa, chẳng qua là muốn tạo khung cảnh đẹp mắt, cho vẻ vang dòng họ. Đáng lưu ý, theo cổ lệ, chỉ tặng đôi bông tai làm vật kỷ niệm. Đôi nhẫn cưới làp hỏng theo tục lệ châu Âu theo đạo Thiên Chúa nhưng gẫm lại gọn gàng, nên người Việt Nam sẵng sàng dung nạp, tiếp thu. Vả lại, các cô gái ngày này không thích kiểu bông tai thời xưa, sau nầy, nếu có tiền, các cô tha hồ thay đổi kiểu bông tai, theo thời trang có những hình dáng màu mè, với giá rẻ. Thời xưa, xem trọng đôi bông tai. Câu ca dao: “Một mai thiếp có xa chàng, đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin” ngụ ý đôi bông là lời nguyền danh dự của dòng họ. Trả đôi bông, đồng nghĩa với ly dị. Đôi bông của chàng, thiếp trả cho chàng, chẳng còn vướng mắc gì cả. Nhưng đôi vàng, thiếp xin, vì đôi vòng vàng là “của chồng công vợ”, do hai vợ chồng cùng nhau làm kinh tế mà sắm, là tài sản chung. Chẳng phải vì cô dâu tham làm; đôi bông cân nhẹ hơn đôi vàng (vòng đeo cườm tay) Thời xưa, nhà trai nếu khá giả thường mang thêm vài đôi vòng, dây chuyền, chiếc neo. Lắm khi số vàng này (ngoài bông tai) lại do đàng gái thương lượng trước, như là điều kiện tiên quyết. Lại bày chuyện phức tạp: Chàng rể phụ phải rót rượu vừa đầy, không nhểu ra ngoài, sau đó đại diện bên trai mời bên gái, và bên gái mời bên trai cùng uống, vì vậy, đặt sẵn trong khay hai chén rượu. Trầu thì têm sẵn bốn miếng, bốn miếng cau kèm theo dính vào nhau, không cắt rời. Ngày nay, vẫn tuân thủ mấy miếng trầu, tuy chẳng còn ai ăn, nhưng là nét bảo lưu bất di bất dịch, chứng tỏ từ Nam chí Bắc, ta vẫn nhớ đến tích Trầu Cau từ đời Hùng Vương xa xưa. Sau khi uống rượu (lễ vật vẫn còn đặt ở cái bàn giữa nhà) lại cử hành nghi thức quan trọng nhất, gọi là “Lên Đèn”, cũng như trường hợp lễ Gia quan (đội khăn cho con) Người trưởng tộc đàng gái đứng ngay ngắn trước bàn thờ, đặt hai ngọn đèn cầy màu đỏ sát bên, trước mặt, có người trợ lý đốt đèn, chờ hai ngọn lửa lên tương đối cao, bèn dang hai tay ra, mỗi tay cầm một ngọn. Hai bên bàn thờ, sẵn hai người trợ lý, gắn đèn vào chân đèn. Trước khi dang tay, xá ba xa. Gắn ngọn đèn vào chân đèn phải cẩn thận, để đảm bảo ngọn đèn không rơi, không ngã, tạo ra điềm xui xẻo. Xong xuôi, chàng rể bước vào lạy, theo lệnh của ông mai. Thông thường chàng rể lạy bốn lạy, lậy một mình. Sau đó, bày ra nghị thức lễ Công có: chàng rể lạy cha mẹ vợ, mỗi người lạy hai lạy, nếu còn ông bà thì lạy ông bà trước. Đôi bông taiđược đưa vào phòng, từ trước. Cô dâu bèn bước ra, đeo bôngtai, lạy ông bà chàng trai (nếu có) rồi xá chào (không lạy) cha mẹ chồng, tự xưng là “con” (con dâu”. Ông mai hoặc đại diện nhà trai đưa cô dâu đến giới thiệu bà con bên chồng, đi theo có chú rể. Xong xuôi, đại diện nhà gái đưa vài lễ vật như trà mứt, tượng trưng lên cúng bàn thờ, nếu đàng trai mang rượu thì dùng rượu ấy mà cúng tổ tiên, với lời kấhn vái, giới thiệu tên họ chàng rể, cầu được tổ tiên chứng giám. Tiệc đơn giản bàyra. Theo lời của ông mai, người đại diện đàng trai (hoặc chính ông mai) đứng lên, nói rõ: “Đôi bên đã vui vẻ, buổi lễ đạt kết quả, bênđàng gái như đã đồng ý rồi” Đại diện nhà gái đứng lên cảm ơn và nói rõ đã chấp thuận. Nếu có đôi nhẫn, dịp này trai gái đeo nhẫn cho nhau, hoặc nhờ người lớn tuổi đeo giùm. Ngày xưa, bày lễ dở mâm trầu, bố trí sẳn, do chàng trai đem đến. Nay phần lớn đã giản lược. Đáng lý ra, chàng rể phải “làm lễ”, chờ được phân công làm vài công việc lặt vặt. Lễ “ở rể” đã bỏ từ lâu. Trước khi ra về, nhà gái chú ý chia bánh mứt làm hai phần đồng đều, lấy một nửa, phân nửa kia đặt trở lại trong quả và trên mâm cho đàng trai mang về gọi là “dằn mâm”, “lợi quả”, “lợi mặt” (lợi phải chăng là “lại”, theo nghĩa trả lại phân nửa?) Theo lệ, từ đó, gặp dịp Trung Thu, ngày Tết, đàng trai tiếp tục đem quà, đàng gái cũng đáp lễ. Thông thường, để cộc hôn nhân thành đạt, cần tránh dư luận của dòng họ, của chòm xóm, bới lông tìm vết về lý lịch của cô dâu chú rể. Bởi vậy, đàng trai cho người đến bàn bạc, định ngày cưới càng nhanh chóng càng tốt, chọn lựa lúc thời tiết nắng ráo, rảnh rang việc đồng áng. Lại đề phòng trường hợp ông bà mất, chịu tang, đành đình hoãn, chờ mãn tang. Thảo luận tỉ mỉ về chi tiết lễ cưới, ngày giờ rước dâu, đàng gái đến bao nhiêu người để chuẩn bị tiệc tùng, phương tiện di chuyển như thế nào, sở phí tiệc tùng bên đàng gái do ai đảm nhận. Đáng lưu ý: để được cử hành nghiêm túc lễ: “Lên đđèn”, cần đoán trước khá chính xác ni tấc của đôi đèn, để gắn vào chân đèn cho chắc. Trên bàn thờ, thường đốt sẵn ngọn đèn trứng vịt nhỏ, tiêu biểu cho ngọn lửa “hương hỏa” của dòng họ. phải dùng ngọn nến nhỏ, đốt vào ngọn đèn dầu trên bàn thờ, rồi đốt ngọn nến lớn với ngọn lửa của nến nhỏ. Nếu vì lý do nào đó, dùng hộp quẹt “ga” mà đốt vào ngọn nến lớn thì mất hết ý nghĩa. Lửa tiêu biểu cho truyền thống, nối quá khứ của ông bà và hiện tại của con cháu. Người lên đèn giữ thái độ nghiêm túc, chấp hai tay lại cho hai ngọn nến gần sát vào nhau. Khi xá, phải vòng hai cánh tay cho xa, như hình tròn, đề phòng trường hợp ngọn lửa cháy sát vào mặt, vào tóc. Lúc lên đèn, lúc chàng rể lạy, mọi người giữ im lặng, không nói chuyện riêng. Ngày nay, lể Hỏi tuy cần thiết nhưng khó tổ chức. Chẳng ai đủ thời giờ, bỏ suốt một buổi, dầu là bà con, hoạ chăng người lớn tuổi thảnh thơi sống nhờ vả vào con cái. Ông mai, sui trai sui gái thường là người hoạt động kinh tế, làm ruộng, mua bán, làm việc ở cơ quan, bận rộn về tiểu thủ công nghiệp. Gặp nhau một buổi là xong, lúc rảnh rang thay cho lễ Hỏi. Nếu chưa quen biết nhau, đàng trai đến thăm đàng gái, nhờ người lanh lẹ nào đó làm mai mối, theo kiểu “ngoại giao lẻ”. Lại đỡ tốn thời giờ vận chuyển , cản trở lưu thông, bao thuê xe cộ. Quần áo, thậm chí những quả, mâ, bánh mứt đã có những hiệu chuyên làm dịch vụ. Quan trọng nhất vẫn là đám cưới để cho bà con vui vẻ, đồng thời sống trong không khí ấm áp của bạn bè ở chòm xón, chung xí nghiệp, hoặc những người dính líu gần xa đến sinh kế hằng ngày. Điều quan trọng vẫn là sinh kế, nơi ăn ở của cô dâu chú rể, nhất là sức khỏe, hợp tính tình, sở thích. Ở đô thị vợ chồng ăn ở không cưới hỏi, hoặc ăn ở một thời gian ngắn dài rồi ly tán không còn là biến cố lớn để cho chòm xóm bàn tán tháng này qua năm kia! Nhưng lễ nghĩa vẫn là quan trọng để thấy yêu đương cưới hỏi nào phải trò đùa. Cưới vợ, lấy chồng hợp ý là yếu tố quyết định cho cuộc sống, chưa nói đến tương lai con cái. Vả chăng, người Việt Nam vẫn trọng chữ “Hiếu”, làm hài lòng cha mẹ vẫn là yếu tố căn bản, dâu rể nên phấn đấu bản thân, nhờ vào sự xây dựng của bạn bè, bà con người lớn tuổi.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:06:19 GMT 9
LỄ THÀNH HÔN
Gọi nôm na là lễ Cưới, thời xưa phân biệt ra sáu lễ, đây là lễ thứ sau, lễ cuối cùng. Năm lễ kia có thể bãi bỏ, nhưng lễ này mới là lễ chính thức, tùy hoàn cảnh, có thể giản lược. Xin trình bày những chi tiết thời xưa. Nữ sinh ngoại tộc, người con gái về nhà chống thì được xem như không còn dính dấp với cha mẹ ruột. Cha mẹ ruột mất, người con gái lắm khi không được chia gia tài, nếu có, vẫn là ít hơn, tượng trưng, theo kiểu “chiếu cố”, “thương hại”, theo quan niệm phong kiến. Thời phong kiến, bày hỏi nhiều lễ, gây phiền phức cho đàng trai, đôi khi vì động cơ ích kỷ: nuôi con gái lớn, rồi con đi phụng dưỡng cho dòng họ khác, lao động hco dòng họ khác nhờ! Trên những bia mộ thời phong kiến, người vợ mất, chỉ ghi là người đàn bà họ Lê (thí dụ), không tên, về làm dâu cho dòng họ Nguyễn. Thế thôi. Họa chăng ghi thêm pháp danh, nếu đã là Phật tử. Việc ghi trên mộ bia tên thật của người vợ, (gọi là nhũ danh) chỉ mới bày ra sau này, khi tiếp xúc với Tây Phương. Tuy nhiên, cha mẹ cô gái vẫn vướng bận, lắm khi là tình cảm thiêng liêng, thương con gái mình làm dâu nơi xa lạ, thường là bị cha mẹ chồng, anh chị em chồng đối xử khắc nghiệt, một sự khắc nghiệt mà luân lý Khổng Mạnh cho phép. Lắm người mẹ thương con gái hơn con trai. Về phần cô gái sắp về nhà chồng, thường là tủi thân, chẳng còn dịp chăm sóc cha mẹ ruột của mình như trước. Cô gái chịu bao nhiêu may rủi. Rủi gặp người chồng, cha mẹ chồng khó tánh thì ốm o gầy mòn, lo việc trong nhà, lo việc đồng áng, lại còn cực khổ khi sanh đẻ, nuôi con. Bởi vậy, cô gái và mẹ ruột lắm khi khóc thật lòng, trứơc giờ gần như là ly biệt; thời xưa, phương tiện giao thông tốn kém, khó khăn, nếu gả đi xa. Thời xưa (cũng như thời nay), những người bàng quan không ngần ngại bàn tán về nghi thức làm đám cưới với đủ thứ ý kiến, khen chê. Làm đám nhỏ, chê là “keo kiệt”, làm lớn thì bảo là “vung tay quá trán”. Cũng là dịp để bàn tán to nhỏ nào không “môn đăng hộ đối”, nào dâu thì đẹp, rể thì xấu, làm không đúng cách, nửa Tàu nửa Tây! Vượt lên những dư luận vô trách nhiệm ấy, ta thử trình bày, theo sách vở xưa. Trong tình hình đất nước hiện nay trong thực tế cũng đã cải tiến, lắm khi người bảo thủ lại cải tiến nhanh vì nhiều sức ép của đồng tiền. Thời xưa, hai bên trai gái đã qui định ngày giờ, chi tiết cụ thể, số lượng người đi rước dâu, tiền bạc do ai gánh chịu, rồi viết lên giấy, thời xưa gọi là cái thiếp (thiệp, theo kiểu thiệp mời, thông báo) viết tay, gởi cho nhà gái, trên giấy mầu đỏ. Nay ta có thể gọi đó là “chương trình buổi lễ”. Trên lý thuyết, bày ra hai lễ gọi là: - “Cáo Từ Đường” Từ đường, lắm khi gọi nhà thờ. Họ (người cùng một họ, còn nhận ra Tông Chi, từ bốn đời hoặc năm đời trước), là nơi quan trọng hơn bàn thờ ông bà ở mỗi gia đình. Đem cau, trầu, rượu đến, thấp nhang. Cha mẹ người con trai hoặc con gái đến, cúng rượu, trầu cau. Khá giả thì bày mâm cơm, mời vài người trong dòng họ đến chứng kiến. Người gia trưởng khấn vái, theo công thức, đại khái xin dòng họ chứng giám cho con trai (hoặc con gái), tên họ gì được lấy chồng, lấy vợ. Ở những họ lớn, có người giữ Từ đường; bà con nhất là người lớn tuổi gặp nhau ăn uống thoải mái. Nhiều nơi bày ra lệ đến đình miễu trong làng, dâng rượu, thịt, với nội dung là xin thần thánh chứng giám việc người dân trong làng cưới vợ, hoặc lấy chồng. Thần là người cai quản lớn nhất về tinh thần trong làng, việc cưới hỏi cần được thần thông qua. Nội dung và hình thức, theo tôi bấy giờ vẫn là “xôi thịt”, dịp để người giữ đình hưởng chút ít thù lao, thêm hãnh diện với chức vụ khiêm tốn của mình. Chàng trai hoặc cô gái sắp lập gia đình lạy bốn lạy. Lại bày ra lễ “Tạ ơn cha mẹ”, cần thiết nhưng vẫn là hình thức. Mời ngồi ở bộ ván giữa nhà, với khay trầu rượu rồi rót rượu mời cha mẹ và ông bà uống. Con ngỏ lời tạ ơn sinh dưỡng, lạy tạ ơn cha mẹ chịu bỏ công sức lo gia thất hco con. Con hứa sẽ giữ lòng hiếu thảo, trứơc ân sâu như trời biển, vân vân. Rồi lạy hai lạy, xá ba xá. Lại bày ra nghi thức gọi là lễ “mệnh Tiểu”, cũng đặt cái bàn ở ngoài hiên, không cử hảnh trước bàn thờ tổ tiên. Cha mẹ uống rượu, con trai hoặc con gái đến khoanh tay hầu, nghe cha mẹ dạy dỗ, khuyên lo làm ăn, gìn giữ đạo lý. Đứa con được cha mẹ ban cho chút rượu, con uống rồi lạy hai lạy. Trong thực tế, thời phong kiến, người cha vẫn lo lắng. Sớm muộn gì cha mẹ cũng mất, gia tài để lại, nếu đứa con ham chơi, phóng đãng, tài sản của dòng họ lọt vào tay con dâu hung ác, lấn lướt chồng, hoặc lọt vào tay chàng rể khác họ vào xâm chiếm thì còn gì đau lòng hơn. Riêng về nhà gái, cô gái lạy cha mẹ, nghe cô bác dạy dỗ cách cư xử, dự báo những thuận lợi và khó khăn ở gia đình bên chồng, khuyên gìn giữ “tam tòng tứ đức” vân vân. Cô gái lạy hai lạy, có thể uống trà. Lễ “Chính thức”: gồm nhiều chi tiết phức tạp mà ít ai tuân thủ, vì quá phức tạp, lại tùy theo địa phương mà thay đổi về chi tiết. Người ở Nam Bộ nói chung phần lớn là dân nghèo từ Quảng Bình trở vào, nhiều nhất là Bình Định, Phú Yến, phần lớn học hành chữ Hán kém cỏi, vị Hương lễ trong làng chữ lắm khi lôi thôi. Lại là dân khẩn hoang, phóng khoáng đã tiếp xúc với người Hoa (cũng không rành chữ Hán, nghèo nàn) nên thay đổi tùy làng xã, người bảo nên làm thế này, kẻ bảo phải làm thế kia, lắm khi bắt bẻ về chi tiết. Đối với dân địa phương đến tham dự, từ xưa đến nay, vẫn là thái độ thực tiễn: Đi tiền bạc để trả lễ từ trước (một kiểu đóng hụi), hoặc dịp chủ nhà trả “nợ miệng”. Cơ bản vẫn là ăn uống. Sau lễ cưới, hoặcđang lúc cử hành lễ cưới, ngoài sân (có che rạp) hoặc ở góc vườn cứ ăn nhậu, vượt ngoài dự chi tài chánh của gia đình, ngoài sự kiểm soát của gia trưởng. Có như vậy mới vui! Lai còn tổ chức đờn ca, thức thâu đến khi chờ sáng rước dâu, ca Vọng cổ, hoặc nhạivài lớp hát bội, uống rồi uống. Lắm khi chủnhà lại thích thú; chú rể tương lai cũng tham gia để chứng tỏ rằng mình tuy cưới vợ nhưng tình cảm bạn bè vẫn như cũ, trái lại, có thể vui vẻ hơn. Nhiều người lớn tuổi không chê trách sự ngỗ nghịch của lứa trẻ, trại còn khuyến khích, lễ cưới cũng là dịp “nổi đình nổi đám, miễn là đừng chửi rủa, đánh đấm. Ai say thì nằm ngủ tại chỗ! Sống phóng khoáng, ở miền quê, thời trước 1945, dịp giải trí tập thể ít có, thiếu báo chị, thiếu đoàn hát bội, cải lương, thiếu băng nhạc (bấy giờ chưa có kỹ thuật thâu băng) . May mắn lắm, ở gia đình khá giả, có người dám mua máy hát đĩa, hàng chục người xúm lại nghe. Đám rước dâu do nhà trai chủ động gồm thành phần như sau: - Đi dẫn đầu là ông Mai và vị Trưởng tộc - Vợ chồng sui gia. - Chàng rể và một hay hai rể phụ. Chàng rể đi tay không, rể phụ tỉnh táo hơn, bưng khay trầu rượu. Ta thấy khác hơn lúc đám hỏi, lần này cha mẹ đi trước, bà con gần xa, chọn người vui vẻ, mặc chỉnh tề, đối đáp giỏi, tránh người neo đơn. Theo sau là người bưng mâm, lễ vật, phủ vải đỏ, tổng cộng là số chẵn. thêm hai cái quả, tượng trưng ,bên trong là tiền và nữ trang (gói giấy đỏ). Lắm người bày biện nhiều mâm trà mứt, trong thực tế, giới thương gia đã cung cấp sẵn , về hình thức: Trà đựng hộp thiếc, trà rất ít bên trong, nhưng hộp thì khá to, gói giấy đỏ. Lắm khi bày ra một mâm đựng cặp áo cưới (lát nữa cô dâu mặc vào), mâm trầu cau phía trên phủ một búp sen vừa nở, bằng giấy, khá to. Trong khay trầu rượu mang đến nhà gái, thay vì bốn miếng, lần này là sáu miếng trầu, sáu miếng cau chẻ ra nhưng còn dính, với nội dung đây là lễ thứ sau, lễ sau cùng của sáu lễ thời xưa Vẫn phải đến trứơc vài phút, chưa đến giờ chẳng được vào, mặc dầu mưa gió. Đúng giờ, ông mai vào xin phép, đàng gái cho người ra đón vào. Thường bày ra lệ đốt pháp. Ông chủ hôn đàng gáy làm lễ “lên đèn:, khi đàng trai tiến vào là đèn đã cháy lên, cắm sẵn vào chân đèn. Không lên đèn quá sớm vì biết đâu, do cơ trời, vào phút chót xảy ra “sự cố kỹ thuật”. Lên đèn quá sớm còn ngụ ý đàng gái đang cần đến đàng trai, đàng gái đứng vào thế bị động. Lắm khi dùng đèn to, có vấn hình con rồng, con phụng. rồng là trai, phụng là gái thì cắm theo lệ “Nam tả” “Nữ hữ” (tính từ bàn hờ nhìn ra ngoài). Đàng gái đem hộp nữ trang đặt lên bàn thờ, người trưởng tộc làm lễ, xin ông bà chứng giám, sau khi kính cẩn đột nhang, trình với tổ tiên cho đàng trai làm lễ. Đàng gái lạy trước, ông và bà sui gia lạy sau (bốn lạy, ba xá), đến lượt cô dâu chàng rể lạy, cũng bốn lạy ba xá. Sau đó, đôi vợ chồng mới bèn đứng hơi xa, nhìn nhau, người nầy xá người kia hai xá, một lượt. Ngụ ý hai vợ chồng kính trọng lẫn nhau, bình đăng về mặt tinh thần. “Chồng chúa vợ tôi”, đồng bào thường nói nhưng đây là sự kính trọng âm thầm. Ta khiểu khi vợ chết, chồng phải để tang và lạy kính cẩn, mặc dầu vợ trẻ hơn năm mười tuổi. Chồng chết, vợ lạy là lẽ tự nhiên. Trong khi cử hành hôn lễ, bạn bè gần xa bên ngoài tha hồ nhập tiệc, miễn là đừng quá ồn ào. Lại giới thiệu hai họ cho cô dâu chú rể kính chào. Lắm khi dịp này cha mẹ, bà con cô dâu trao tặng số tiền, gọi là của “hồi môn”. Lại chuẩn bị quần ao, va li xách, do bạn bè mang giùm, chờ đưa cho cô dâu về nhà chồng. tùy phương tiện, nhiều cô dâu được bạn bè, bà con tặng cho nào là quần áo, nệm , bàn ghế càng nhiều càng tốt. Nơi sông rạch, có thuyền chở những món ấy, trông vui vẻ xóm giềng, như biến cố quan trọng trong địa phương. Sau khi trà nước, tùy tình hình (lắm khi nàh chàng rể ở gần), đàng trai xin ra về. Xem như đã chấm dứt buổi lễ bên đàng gái; bắt đầu giai đoạn mới do nhà trai làm chủ tình hình. Ở Nam Bộ, nhiều nơi bày lệ “Lui đèn”, tức là thổi cho tắc đôi nến trên bàn thờ ông bà, ngay sau đó. Đàng gái đã thỏa thuận với đàng trai về số người đưa dâu. Rồi lên đường. Gần đến nhà trai, xe dừng lại, đi vào theo thứ tự, có đốt pháo nghinh đón. Vài người lớn tuổi trong nhà đã chuẩn bị, đốt nên trên bàn thờ cho trang nghiêm. Lắm khi, bày cuộc diễu hành, đoàn người rước dâu đi bộ hàng trăm thước, trứơc khi vào nhà. Theo thứ tự, gồm có: - Ông mai, hoặc người chủ hôn, trưởng tộc đàng trai. - Chàng rể, rễ phụ (rể phụ mang cái mâm trầu rượu. - Cô dâu, một hoặc hai dâu phụ để bưng các quả đựng bánh, mà nhà gái trả lại phân nửa. - Vợ chồng sui trai - Vợ chồng sui gái - Họ hàng bên trai - Họ hàng bên gái. Ta thấy lần nầy, khi trở vền hà, bên trai nắm quyền chủ động, vai trò bên gái bị lấn lướt. Vào nhà trai , cô dâu được đưa đến bàn thờ. Lạy tổ tiên nhà trai, rồi vợ chồng bên trai, đến vợ chồng bên gái lần lượt lạy bàn thờ. Kế đến là mục giới thiệu cho cô dâu chào bà con bên trai. Số lạy được qui định, giống như lúc chàng trai lạy ở nhà đàng gái. Cha mẹ, bà con bên trai dịp này có thể tặng cho cô dâu, chú rễ một số tiền. Ăn uống xong (thường là ăn uống lấy lệ ) đàng gái và thân nhân đàng gái xin ra về, được họ nhà trai tiễn đưa tận ngoài ngõ. Kế đó, tùy hoàn cảnh, bà con họ đàng trai có thể ra về, hoặc ở lại tiếp tục uống rượu với bạn bè quen biết, việc ăn uống này ngày xưa cứ kéo dài. Cô dâu có thể lập tức thay quần áo lễ, mặc quần áo bình thường cho ra vẻ thân mật, để lo phục vụ bạn bè, người lớn tuổi, gọi là gây ấn tượng tốt về đức khiêm tốn. Thời xưa, bày lễ cúng Ông Tơ, Bà Nguyệt (Tơ Hồng Nguyệt Lão) nhắc nhở sự tích ông Vi Cố cưới người vợ do ông Tơ ghi chép sẳn, không tránh khỏi. Chiều hôm rước dâu, bày cái bàn nhỏ giữa nhà, trước thềm, nhang đèn, hoa quả với 12 miếng cau, 12 miếng trầu. Vợ chồng trẻ có mặt, khăn áo chỉnh tề, mời ông lão đứng tuổi đến khấn vái, tạ ơn Ông Tơ, Bà Nguyệt, với lời văn vui tươi, ca ngợi nào “duyên Tấn Tần, loan phụng hòa minh, nhiệp cầu Ô thước, lá thắm đề thơ” Lạy ba lạy, ba xá. Chưa hết. Đến lễ “động phòng”, con gọi là “hợp cẩn giao bôi”: đốt hai ngọn nến đỏ, trong phòng ngủ, lễ vật cũng là trầu cau, rượu, thêm hai chén chè bún, lại có muối, có gừng. Vợ chồng chắp tay khấn nguyện nhắc đến Ông Tơ, hứa gìn giữ lòng chung thủy . .. đặc biệt là hai người ngồi đối diện, lấy hai ly rượu nhỏ hòa làm một, rồi lại chia đôi, uống cạn (“bội” là cái chén rượu). Lại ăn chè bún (cầu mong đông con. Như chén chè có nhiều cọng bún), lấy một hai lát gừng chấm với muối, cùng ăn, ngụ ý “Tay bưng dĩ muối chấm gừng, gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” Sau ba ngày, bày lễ “ phản bái”, vợ chồng trẻ vui vẻ trở về thăm cha mẹ vợ, với chút ít quà. Tóm lại, vài tục lệ xem ra lẩm cẩm, thời phong kiến ưa dùng lời lẽ sáo mòn, làm nhiều lễ để chứng minh kỷ cương phức tạp của giới quan lại, điền chủ khá giả. Chỉ riêng người quyền quí mới thay mặt cho văn hiến, còn giới nghèo nàn, không sao theo kịp họ, phải vói lên cho kịp, vói không kịp thì nên an phận làm kẻ tôi đòi! Tục lệ xưa phiền phức, rủi như sắp làm lễ cưới mà có ông bà cha một bên trai hoặc gái chết, thì nên cấp tốc làm lễ cưới, bất chấp ngày đêm, thật đơn giản, trong vòng đôi ba ngày, từ khi người thân vừa tắt thở đến trước khi cử hành lễ phát tang. Vì đã mặc quần áo tang thì không được cưới hỏi nhau, chờ mãn tang hơn hai năm, tình thế có thể thay đổi. Bên trai hoặc bên gái có thể sa sút về kinh tế, hoặc bà con thay đổi ý kiến, tráo trở . .. Quả là làm nô lệ cho hình thức một cách thái quá.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:07:09 GMT 9
Đời Hồng Đức (nhà Lê) theo cơ chế xã hội quân chủ và kiểu sản xuất nông nghiệp, ban hành bộ luật nay gọi “Luật Hồng Đức”, đã nêu ra nhiều điều khoản quá nghiêm khắc. thử nhắc lại vài chi tiết, để ta dễ thấy. “Về nguồn” không đồng nghĩa với bảo thủ, ôm những gì trống rỗng, không hợp thời, làm cản bứơc tiến triển của xã hội mà đến nay những người cực kỳ bảo thủ chắc cũng không dám “tồn cổ” . “Thất xuất”, tức là bảy điều mà nếu vi phạm vào một điều thôi, người chồng có quyền ly dị vợ, hoặc cha mẹ chồng được phép lập tức đuổi nàng dâu, trong tức khắc: 1) không có con 2) Vợ chồng còn nghèo hèn, mà vợ lại bày thói ghen tuông. 3) Bị ác tật ,thí dụ như ngọng nghịu, bổng dưng mắc bệnh phong cùi, trở nên què quặt. 4) Dâm đãng (nghĩa lý không rõ, phải chăng là ngoại tình lén lút?) 5) Không kính cha mẹ (điều này không ghi rõ về chi tiết) 6) Không hòa thuận với anh em bên chồng. 7) Phạm tội trộm cắp (mức độ nào? Tóm lại, rất mơ hồ, thiếu tiêu chuẩn, vì vậy người vợ nghèo, không ai giúp vốn, thiếu sức khỏe có thể bị đuổi, bị ly dị tùy hứng, do lý luận quanh co của bên chồng. Vài điều khoản có vẻ nghiêm khắc, chẳng hiểu được thi hành hay ? Hoặc là nêu lên vì đạo đức giả, ví dụ: - Các quan ty ở trấn ngoài (xa kinh đô) mà lấy người con gái trong hạt mình phải phạt 70 trượng, biếm 3 tư (hiểu là xuổng bậc phẩm hàm và lương bổng) và . . bị bãi chức. ! - Các quan lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ, làm hầu, đều bị phạt 70 trượng, hạ xuống 4 bậc phẩm hàm. - Những nhà quyền thế mà cưỡng hiếp lấy con gái người lương dân, thì phải phạt điếm hay đồ (ở tù khổ sai) . . Tuy nhiên, trên lý thuyết, người con gái phạm bảy điều phải lý dị vẫn có thể tiếp tục ở chung với chồng nếu có điều kiện: - Người vợ đã chịu tang cho cha mẹ chồng, nghĩa là cha mẹ chồng mất sau khi cô gái về làm dâu. - Khi mới cưới, vợ chồng nghèo, sau trở nên giàu sang thì chồng không được ly dị vợ (không nói rõ thế nào là nghèo, thế nào là giàu sang) . - Khi về nhà chồng, cha mẹ cô gái có mức sống tương đối, có nhà cửa, sau đó, cha mẹ cô gái nghèo túng, bán nhà đi xứ khác thì chồng không được ly dị, vì cô gái ra hỏi nhà chồng không còn nơi nương tựa. Về sau, đời Gia long, cũng bổ sung và điều chỉnh luật giá thú. Thực dân Pháp đến, ngày 3 tháng 10 năm 1888 ra sắc lệnh qui định về hôn nhân: - Con trai chưa đủ 16 tuổi, con gái chưa đủ 14 tuổi không thể kết hôn (đề phòng trường hợp tảo hôn, cưới vợ lớn tuổi cho con trai để cô dâu này ra sức cấy, gặt trong gia đình) - Trong khu vực do người Pháp trực tiếp quản lý như Sài gòn, Hà Nội, Hải Phòng, khi có tang, không cấm cưới vợ gả chồng, đối với thanh niên chưa cưới hỏi lần nào. Đàn bà chồng chết, chờ 10 tháng sau thì được tái giá. - Trường hợp cha mẹ còn sống, chỉ cần một người cha chấp thuận là được, mặc dầu mẹ vợ hoặc mẹ chồng tương lai phản đối. Ý kiến của cha là quyết định tối hậu. Luật đời Gia Long qui định về từ ngữ cho thống nhất: - Trai lấy vợ gọi là Thú . . - Cưới vợ cho con gọi là Hôn. - Gả chồng cho con, gọi là Giá. Điều kiện sinh hoạt kinh tế, xã hội ngày nay thay đổi quá nhiều, chẳng ai muốn lãng phí thời giờ, người nhàn rỗi cũng vậy. Đám cưới, đám hỏi xảy ra trong xóm, nhất là thành thị, gần như ít ai chú ý, như là sinh từ những năm chiến tranh kháng Pháp, chống Mỹ đến nay, phố phường chật hẹp, người đông đúc, còn các thị trấn (chợ huyện) thậm chí chợ làng đã đô thị hoá, rất nhanh (Cai Lậy, tuy là thị trấn nhưng sầm uất còn hơn một chợ tỉnh trước kia). Nào xe đò, tàu đò, phương tiện di chuyển cá nhân có xe đạp, rồi xe gắn máy nhiều loại. Quán cà phê, quán ăn ngày càng mở thêm, người ta ăn uống dài dòng, chịu mất thời giờ với nhiều lý do riêng. Lắm khi là “không ăn thì bị hiểu lầm”, khi nâng ly, tuy không ưa thích nhưng vẫn mỉm cười với người đối tác. Về nhà nhanh, để lo công việc khác, hoặc nằm nghỉ, hoặc giải trí xem báo, nghe nhạc, liếc xem truyền hình. Máy ảnh phát triển, rồi ảnh màu, quay vidéo, người bậc trung có thể mướn xe hoa. Thậm chí người thủ cựu đôi ba năm sau cũng theo chân người gọi là “tân tiến” hồi mấy năm trước. Khăn đen áo dài chẳng còn là thời trang dành cho người ở thôn quê, lần hồi. với sự giao thiệp hàng ngày ở quán, tới lui các cơ quan, lên Sài gòn hoặc tỉnh lỵ làm dịch vụ, mặc nhiên dùng áo sơ mi, quần Tây, đôi guốc trở thành món mà ngày nay giới trẻ hai mươi tuổi chẳng bao giờ nghe thấy, cũng như đôi giày hàm ếch. Ở nhà, mặc áo pi-ra-ma vừa gọn vừa đẹp, áo bà ba đã cải tiến (ráp ở vai cũng như áo dài cổ truyền), chưa kể đến những kiểu uốn tóc mà các bà khoảng 50 tuổi vẫn ưa thích. Nói chung, quần áo ngày càng rẻ, may sẵn, trừ những người sa cơ thất thế mới mặc áo vá. Hoặc mặc áo cũ như kiểu bảo hộ lao động mà thôi. Đồng hồ đeo tay chẳng còn là xa xí phẩm. Trở lại vấn đề cưới hỏi. Trai gái ngày nay, đầu ở vùng kinh tế mới vẫn lanh lẹ, với kinh tế thị trường, những hàng tiêu dùng của giới bình dân thành thị lan tràn nhanh chóng đến miền quê, lắm khi, ở vùng kinh tế mới, lại tân tiến hơn, vì phần lớn là dân từng ở thành thị. Tìm đâu ra cái khăn đen, áo dài, và ở vùng kinh tế mới, chẳng ai tháy có như cầu lập đình làng; chỉ sau này, hoạ chăng khi đời sống lên cao hơn, người lớn tuổi mới hoài vọng “về nguồn”. Đi qua những vùng gọi là “thôn quê” phía Cái Bè, Cai Lậy, Chợ Mới, quanh thị trấn Long Mỹ . . .ta còn gặp nhiều đám cưới trông đẹp mắt, rất hài hòa, vừa dân tộc, vừa hiện đại. Dọc theo con đường đê nhỏ, vùng lúa cao sản hoặc đặc sản, tất đất, tấc vàng, mùa nắng ráo thường là dịp đám cưới để . . .ăn Tết! Dịp tương đối rảnh rang, không mưa gió bất trắc, ta gặp vài người không già cho lắm đi dẫn đầu, theo sau vài bà lão, kế đến chàng rể mặc Âu Phục, rể phụ, rồi họ hàng, bạn bè theo sau, mặc sơ mi, có người thắt cà vạt. Thiếu nữ gồm nhiều thanh nữ áo dài, màu mè, vài cháu trẻ hơn, mặc đầm, trông lanh lẹ. Ngày xưa, dẫn đầu là hai cây lọng, nay dù thay cho lọng, trông khá vui và trang nghiêm. Những quả sơn đỏ tân chế, phủ vải đỏ đem sư may mắn. Ai cũng biết ngày nay không dễ tìm ra một cái quả bằng cây kiểu xưa sơn mài, đen phía ngoài, cẩn thêm xà cừ, trong lòng qủa thì sơn đỏ, cũng sơn mài (họa chăng còn thấy ở những hiệu mua bán đồ cổ) Ở tận thôn quê, thiệp mời đám cưới có in sẵn, với bao thư, tốt hay xấu tùy theo túi tiền người mua. Công thức đơn giản, đại khái theo xưa, trước 1945: Kính thỉnh, “Nhơn dịp làm lễ Thành hôn cho con trai tôi tên là . . Xin kính mời . . vui lòng dời gót ngọc đến dùng một tiệc rượu, trước là lấy thảo, sau là chúc mừng cho đôi trẻ được sắc cầm hảo hiệp”. Bên dưới, đề tên người mời. Người mua cứ điền vào, đàng trai cũng như đàng gái dùng một kiểu, thường là đàng trai mua, đem tặng nhà đàng gái. Sau năm 1945, công thức đã cải tiến, thiệp hình chữ nhật, giấy tương đối cứng. Để cho vui mắt, lắm khi giữa tấm thiệp, phía trên, in đôi chim bồ câu, chim én, hoặc hoa hồng, hoặc chữ đứng đầu của họ trai và họ gái được vẽ quấn quít vào nhau, như một kiểu dấu ấn. Bên dưới, thường phân biệt: Nếu do đàng trai mời, góc bên trái dành cho tên họ, địa chỉ ông bà (lắm khi còn trẻ) sui trai, góc bên phải phía trên, dành cho tên họ ông bà sui gái, địa chỉ. Rất cần thiết về địa chỉ vì lắm người khi nhận không biết do ai mời, vì lắm khi tên thật trong chứng minh nhân dân của bạn rất thân những ta lại không biết. Nhờ có địa chỉ, ta sực nhớ ngay. Khoảng giữa ghi: “Trân trọng báo tin lễ Thành hôn của con chúng tôi”. Lắm khi nhà gái đứng tên mời (bên góc trái) thì ghi lễ “Vu qui của con chúng tôi”. Bên dưới như ta thường thấy, là tên con đứng dưới tên cha mẹ. Chỉ thêm “Hôn lễ được cử hành tại tư gia, trong vòng thân mật nhằm ngày âm lịch (chú thích dương lịch)” Nhận được thiệp trên, ta hiểu chỉ là “báo tin”, chớ không mời dự tiệc. Nếu mời dự, có tấm thiệp nhỏ kèm theo, ghi giờ, ngày, địa chỉ hiệu ăn. Một việc khá phức tạp mà ta khó tra cứu để biết xuất hiện vào khoảng nào? Thời xưa, đàng trai và đàng gái bày lễ nhóm họ riêng cho bên mình, bà con họ hàng gom lại, trong vòng thân mật, kẻ giúp tiền. Có người giúp những món khác, thí dụ như vòng vàng thường mà trước khi cha mẹ cô gái đã cho con cái họ mượn từ trước, nay họ trả lại. Hôn lễ cử hành tại gia đình là gọn nhất, nếu không đông đảo thì dễ mượn bàn ghế. Về việc khánh tiết, ở xóm lao động nội thành, ta vẫn thấy các thanh niên trong xóm tiếp tay, che rạp, dùng lá dừa, lá đủng đỉnh uốn vòng nguyệt quanh khung cửa. Một nét độc đáo về trang trí cấp thời của ta. Buổi tiệc ở nhà hàng dành cho bạn bè của hai bên trai gái, thường liên quan đến công việc làm ăn, với ít nhiều “ân oán giang hồ”. Lại cũng là hình thức “đóng hụi”. đã từng nhận thí dụ như một ngàn của đàng trai thì trả lại ít nhất là một ngàn, nhiều hơn càng tốt. Lại có lệ tặng quà, gói cẩn thận, tránh khoe khoang. Cái lệ cô dâu chú rể, hai họ lên “sân khấu “ để trình diện, với người xướng ngôn và dẫn dắt chương trình gẫm lại khá khoa học. Cần rút ngắn thời giờ. Có nhạc làm nền để che lấp tiếng cười nói ồn ào của bạn nhậu. Thường là họ hàng hai bên, bà con gần xa ngồi chung, với số bàn hạn chế. Cái động tác chú tể, cô dâu cùng người trưởng tộc đến từng bàn ăn để bạn bè gọm “bao thư” lại rồi trao cho người lớn tuổi nhất nói vài lời chúc mừng dường như chỉ xuất hiện từ khoảng 1960 trở về sau. Nên gom bao thư, kín đáo, vì có những bạn đã tặng quà, hoặc đến dự mà . . không tiền. Không khéo, lại gây mặc cảm khó chịu. Tiệc đãi tại nhà được ưu điểm là tuân thủ thời gian quy định, nhà hàng lắm khi dành bàn ăn cho nhiều tiệc tùng khác. Không âm thành, buổi tiệc kém vui. Nên có đờn ca, song ca, ít nhất cũng có nhạc phóng thanh, hoặc nhạc sống. Về phía khách mời, nên dè dặt, thời buổi khó khăn, gặp hai họ không khá giả, nên bớt người trong gia đình, lắm khi đi tiền chẳng bao nhiêu, nhưng đi theo hai vợ chồng còn hai đứa trẻ, chiếm hết bốn phần ăn (trừ trường hợp đặc biệt). Một trường hợp lãng phí ghê gớm: dọn ít, nhiều người chê khen, nhưng dọn dư đến dư quả là buồn cười! Đến món vịt tiềm, cơm chiên Dương Châu, dường như nhiều người chỉ ăn một muỗng. Uống rượu bia non một lít, còn bụng dạ nào chứa thức ăn? Nửa ăn, nửa để lại chẳng hiểu chủ nhà hàng có giảm bớt tiền ăn chăng? “chẳng ai chê đám cưới. Chẳng ai cười đám ma” Tổ chức đám cưới tùy khả năng là tốt hơn hết. Dư luận tốt xấu gì rồi cũng nhanh chóng bị lãng quên. Miễn là có sự thân mật, bạn bè nên thông cảm cho hoàn cảnh của đôi tân hôn, không nên “quậy phá” chơi để lãng phí một cách vô tình. Dịch vụ đám cưới, với “Áo cưới cô dâu”, “Trang điểm cô dâu “giúp bớt tốn kèm, nhưng tránh lố lăng. Vừa vừa phải phải, giống như thiên hạ là tốt nhất.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:08:06 GMT 9
TANG LỄ
Đây là biến cố lớn trong đời người. Vì lòng hiếu thảo, người sống nên tích cực lo lắng cho người chết. “nghĩa tử là nghĩa tận”. Nội dung là vậy. Theo quan niệm Á Đông ngày xưa, lấy câu này làm trọng: “sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn” “Sự” là kính thờ. Kính người chết giống như kính người ấy khi còn sống. Nhiều nghi thức rườm ra bày ra vì trong thực tế, người đã chết đâu còn ăn uống, đau còn tới lui quanh quẩn trong nhà. Đã tắt thở Đành chịu tẩm liệm, “cát bụi trở về cát bụi”. “Lòng đây tưởng nhớ đo mất như còn, câu thơ của Đồ Chiểu điếu liệt sĩ Phan Công Tòng ở Bến Trẻ mãi gây xúc động. Cụ Đồ muốn nhắc đến truyền thống, tinh thần tranh đấu. Nghĩa sĩ trận Cần Giuộc tuy mất, thân xác không trọn vẹn, nhưng cụ Đồ vẫn “Nhớ linh”, “kẻ đâm ngang, chém ngược làm cho mả tà, Ma ní hồn kinh”, hoặc khi điếu chiến sĩ vô danh ở Nam Kỳ, tuy mù lòa mà ông vẫn thấy “binh ma chèo dưới vực.
Thời xưa, tang lễ với nghi thức được qui định trong sách “Văn Công Gia Lễ” của Chu Hy đời nhà Tống. Ông Hồ Sĩ Dương, đời nhà Lê, hiệu Thọ Mai cư sĩ đã giãn lược, soạn ra bộ sách “Thọ Mai Chi Lẽ” còn truyền tụng. Tuy đời Lê đã giải lược, nhưng đến nay ta thấy quá rườm rà. Vài nghi thức tên gọi khác nhau nhưng trùng lặp, lắm khi không cần thiết, nhất là trong hoàn cảnh nước nhà còn khó khăn không ai rảnh rỗi, nhà cửa chật hẹp, mạng sống con người lần hồi như là hình bóng phù du. Cảm tưởng ấy rất sâu đậm ở xứ ta nơi chịu nhiều chết chóc qua ba mươi năm chiến tranh.
Xin ghi lại vài nét theo “Thọ Mai Gia Lễ” để tham khảo, có lẽ ta sẽ thấy còn dấu ấn vài dạng (mê tín cổ sơ), hiểu đơn giản con người là khí Âm, khí Dương hòa hợp lại, có hồn, có vía. Người chết rồi vẫn có thể lưu lại ảnh hưởng tốt hoặc xấu đối với người sống. Thậm chí, nơi chôn của người chết vẫn liên quan đến sông núi, đồi nông vùng phụ cận. Nhưng vấn đề “phong thủy” vượt ra ngoài khả năng của người biên soạn.
Lúc hấp hối. Dĩ nhiên, đây là trường hợp người chết bình thường vì bệnh già, ở gia đình, có con cái săn sóc thường trực bên giường.
Đoán chừng thân nhân đang hấp hối, hết bề chạy chữa, lập tức bố trí một chiếc giường ở giữa nhà, đưa ra nằm, đầu day ra ngoài sân, con cháu đứng xung quanh, im lặng, đau xót. Dời ra giữa nhà là động tác gọi “Thiên chính tẩm”. Đứa con trưởng nam hoặc người mà bình thường người sắp quá cố thương yêu nhất đến gần, quì xuống hỏi khẽ, để biết người sắp mất muốn trăn trối điều gì không? Nếu có thì ghi nhớ, tuân thủ nghiệm khắc về sau này, gọi là “Di ngôn”. Lại đặt tên Thụy, tên riêng sau khi đã chết (còn gọi là tên hèm), đại khái, ca ngợi đức tính như tên Khắc Cần, Chính Trực đối với đàn ông, còn đối với đàn bà thì ca ngợi nết na nào Đoan Ý, Thuần Hạnh, nói chung, dùng chữ Hán. Nếu bình sinh đã qui y tại gia, sẵn pháp danh. Như Thiện, Từ Thành . . thì thôi đến nghi thức Gia Tân Y . Thừa lúc người vừa mất, tay chân còn mềm, thì thay quần áo lập tức, chọn y phục đẹp và trang nhã mà bình thời người chết ưa mặc. Lắm khi đã từ lâu vài giờ trước, hồi khuya mà chẳng ai hay thì phun rượu cho gân cốt trở nên mềm mại, động tác thay y phục này quả là : “hành hạ” người quá cố. Cạy miệng người chết, đặt chiếc đủa ngang miệng, cho miêng hở ra, chờ khi làm lễ “phạm hàm” (sẽ giải thích), gọi Khiết Xỉ. Bắt đầu nghi thức Hạ Tịch: Trải chiếc chiếu dưới đất, khiêng thi thể đặt lên chiếu, còn gọi nôm na “Hạ Thổ”, cầu mong người quá cố khi gặp khí Âm của đất may ra sống lại! Biết không xong, nhưng vẫn chờ vài phút, sua đó đem lên giường, đắp kin, lấy miếng giấy hoặc miếng vải đậy mặt. Trên nguyên tắc, từ đó về sau, chỉ khi nào cần thiết mới dở miếng vải này ra. Hồi xưa, bày ra công việc gọi là “Thiết hồn bạch”, phải chăng “thiết” là kiểu thiết kế, “bạch” là lụa. Dùng một giải lụa đặt trên ngực người đang hấp hối, khi tắt thở thì tưởng như hơi thở (sức sống) của người quá cố gom vào miếng lụa. Bèn thắt miếng lụa nọ như hình con người, đại khái phần đầu, hai tay, hai đầu giải lụa để lòng thòng như hai chân, sau khi tẩm liệm thì đặt lên bàn thờ, hoặc treo gần bàn thờ.
Một tục lệ chẳng còn thấy nữa là ở miền quê, có người lấy cái áo của người quá cố cầm trong tay, trèo lên nóc nhà mà kêu hú ba hồn chín vía (đàn bà) hoặc ba hồn bảy vía (đàn ông). Việc làm chiếu lệ để may ra, hồn vía người quá cố tạm thời “rong chơi” đâu đó có thể trở vào xác, làm sống lại cái tử thi đã lạnh.
Người đã chết, không còn hy vọng sống trở lại. Lắm khi, gặp lúc dịch tể, thí dụ như thổ tả, người chết bổng dưng cựa quậy, vì chết quá nhanh. Vài người lớn tuổi, giàu kinh nghiệm, thỉnh thoảng nhìn thi thể, sờ vào ngực, nghe hơi thở ở ngực, hoặc dùng ngọn nến nhỏ mà đốt thử vào đầu ngón chân. Nếu thấy da thịt phồng lên, là điềm còn hy vọng. Lắm khi, tuy chết rồi nhưng tay chân dương như cựa quậy. Trường hợp này, nên bình tĩnh, không được truy hô lên làm náo động, ngỡ con quỉ nào đó nhập vào rồi xác có thể ngồi dậy, “rượt” theo bất cứ người nào để bắt chết.
Trong dân gian, bày ra lệ tìm nải chuối còn xanh đặt trên bụng người quá cố, bảo là “rút hơi độc” cho thi thể lâu hư. Lại còn kinh nghiệm thiết thực là dùng dầu lửa (dầu hôi) rưới chung quanh chân giường, để phòng trường hợp kiến bu lại. Ruồi bu kiến đậu là có thật, ở xứ nhiệt đới, ẩm thấp. Kiến đánh hơi rất nhanh, chưa chi, ruồi đến bay vo ve chung quanh miệng và mắt.
Ở gia đình trung lưu, bà con gom lại, cử ra người đi báo tin cho dòng họ, chòm xóm, thông gia . . Đúng ra thì tàng chủ cử đại diện đến từng nhà. Lại chỉ định một người đứng ra tiếp khách, thường là lớn tuổi, nhưng đóng vai tang chủ vẫn là con trưởng nam. Con trưởng nam nếu mất thì đứa con của trưởng nam tuy nhỏ tuổi vẫn là tang chủ (cháu đích tôn). “Phu tử tòng tử”, thời xưa gặp trường hợp này, người vợ của kẻ chết lại đóng vai thứ yếu vì về lý thuyết, mẹ vẫn dưới quyền của đứa con hoặc đứa cháu, tuy nó còn nhỏ.
Ngày nay, để công việc được gọn gàng, có thể thông báo cho kịp thời trên báo, trên truyền hình. Vài người nhờ bà con đi báo tin cho nhanh, quan trọng nhất là cho những người thân đang ở tỉnh xa, lại dùng điện thoại, điện tín. Khi tẩm liệm xong, trước cửa, hay ở góc nhà, ghi tên người quá cố, năm sanh, hưởng thọ bao nhiêu tuổi, ngày động quan. Khách đến, xem thì biết, không cần hỏi han lôi thôi. Lại còn chuyện phân biệt hưởng thọ là trên “bốn mươi tuổi”, nếu trẻ hơn, bày ra từ ngữ “hưởng dương”! Việc “thiết hồ bạch”, thắt vóc lụa như người ngày nay được mọi người thay thế bởi bức ảnh, chọn bức nào trông nghiêm trang, nhằm gợi không khí thuở nào, bớt vẻ bi ai, dễ gợi những kỷ niệm êm đẹp.
Đến tiết mục Trị quan, chuẩn bị quan tài, chờ tẩm liệm.
Thời xưa, khi đã lớn tuổi, ít ai sợ chết. Điều tự nhiên, sống gởi thác về. Chết là đi đến xứ quen thuộc, “theo ông theo bà”. Sẽ gặp gỡ những người thân đã chết, sẽ được đón rước niềm nở vì từ lâu những người quá cố đã chờ đợi ta. Lại còn quan niệm rất thoải mái, xem chết là “qui tân gia”. Sống, mình ở ngôi nhà quen thuộc, lâu ngày nhàm chán với người lân cận. Chết là kiểu dời về ngôi nhà khác, sung sướng hay chăng, chưa đoán được, nhưng điều chắc chắn là sẽ gặp môi trường mới và lạ, như kiểu đi du lịch vậy thôi!
Cái quan tài sắm lúc còn sống gọi là lo “hậu sự”, tránh tiếng chết, ngụ ý “nay mai dầu có bao giờ” ta vẫn yên tâm, bớt phần bận rộn, rủi con cháu gặp lúc làm ăn không khá. Lại gọi cái “thọ” dán vào quan tài hai chữ trên giấy đỏ “sanh thọ”, cái quan tài của người còn đang sống, nhất định người ấy sẽ sống dai, chưa cần dùng lập tức. Ở miền quê thời xưa, mỗi nhà nếu dư dả thường sắm đôi ba bộ ván tốt (bộ ngựa), khi cần thì sẵn có vật tư, gọi thợ trong xóm đến đóng cái quan tài, đỡ tốn kém tiền bạc, thời giờ . . Kỹ thuật trét những kẽ hở của quan tài, người lớn tuổi đã biết, nay có hoá chất vừa gọn vừa bảo đảm (thời xưa thường dùng ổ mối, đâm nhỏ, trộn với cháo nếp), kỹ thuật ráp một của quan tài cũng khá độc đáo, sở hở là sẽ “xì hơi”, đôi khi “bứt néo”: nắp quan tài văng lên gây mùi hôi hám, lại là điềm xui xẻo, tưởng chừng người chết đang “tức giận” điều gì đó.
Thời xưa, người khá giả muốn gìn giữ sao cho thi thể được bảo quản càng lâu càng tốt. Thi thể còn, anh linh còn, như phảng phất phò hộ con cháu. Khi cải táng, ta gặp tình cờ nhiều người chết trăm năm nhưng thân xác tuy đen đúa nhưng còn hình dạng, không tan rả, nhờ phần lớn dùng tòng hương, tức là nhựa cây thông, đổ dươi đáy, lâu ngày toát ra mùi dầu gió. Trên lớp tòng hương này, theo lý thuyết, đặt tấm ván mỏng, khoét bảy lổ tượng trưng cho hình dáng chòm sao Bắc đẩu. Lắm khi tang chủ không làm chuyện tỉ mỉ này. Từ xưa, ta muốn cho người chết được yên thân (chết nhưng thi thể vẫn ngay ngắn), không nghiêng ngửa khi xác thịt biến đổi. Đó là “trở mình dưới mộ”, con cháu sẽ làm ăn không khá. Việc tẩm liệm gồm nhiều vật tư, ém thật chặt bốn phía, với vãi, gòn. Mục đích trước mắt vẫn là tránh “xì hơi”, gây ô uế cho người đến phúng điếu. Lại thêm vài chi tiết nhỏ: Cắt móng tay người quá cố. Quả thật móng tay tiếp tục mọc thêm, cũng như râu. Cắt nút áo ra, e nút áo làm bằng chất cứng sẽ rơi xuống, khi áo mục, lọt vào be sườn, khiến con cháu mang “bệnh tức ngực”. Lại rửa ráy thi thể với nước có lá thơm, nhằm sát trùng. Cử hành lễ phạm hàm: lựa gạo trắng, vo thật sạch bỏ vào miệng người quá cố (đã được cạy ra với chiếc đũa), lắm khi thêm ba đồng tiền, bỏ vào giữa giữ bên tả và bên hữu miệng, nhằm ngăn cản người chết không khát vọng tầm thường: phá rồi , thù oán người còn sống. Lúc lau thi thể, dĩ nhiên là dỡ miếng khăn đắp mặt, có nơi vẫn đắp mặt khi rửa ráy. Lại bày ra vào lời lẽ theo công thức khấn vái khi tẩm liệm, khi nhập quan.
Sau đó, đặt quan tài giữa nhà, đầu day ra ngoài sân. Thắp nến trên nắp quan tài, dưới quan tài thường đặt thếp đèn hoặc thắp ngọn đèn trứng vịt, tạo hơi nóng ấm, xua đuổi ruồi kiến, lại cẩn thận thoa dầu lửa ở bốn chân kê quan tài, đề phòng kiến bu.
Linh sàng, linh tọa: Xem người chết như người sống: Bên cạnh hoặc phía trước quan tài, thời xưa, nhà cửa còn rộng, trên nguyên tắc là phải khiêng cái giường ngủ thường lệ của người quá cố đem ra xếp đặt có thứ tự nào gối, mền, giăng mùng rồi vắt lên. Không được chưng bày đồ quá mới, e người chết thấy lạ, không quen hơi. Vì vậy, ở miền quê, vẫn còn gọi “cái giường thờ”, quả thật là cái giường để nằm ngủ. Trước giường thờ này, đặt cái bàn thờ nhỏ, thường gọi “bàn thờ tang”, với chân đèn, lư cắm nhang, bình bông, ngày hai bữa, vẫn phải dâng cơm như khi còn sống miếng vải gọi “hỗn bạch” để trên giường nầy, lần hồi, đơn giản hơn, bỏ cái giường thờ, chỉ còn để cái linh tọa, gọi nôm na (bàn thờ tang”, phía trướcp hủ cái quần bàn (còn gọi là tiền bàn, nghe thanh tao hơn). Dùng vải tang che phủ phía trước thòng xuống gần mặt đất, phía trên viết mấy chữ “Tang tri kỳ ai” bên dưới vẽ cái vòng tròn to đóng khung cái hình ảnh ít ai chú ý, như con hạc đậu trên cây tùng, cực đá to, bông mẫu đơn, thường là do vài thầy cúng đảm nhận, thêm câu đối, đại khái người chết ra đi vĩnh viễn, để lại nỗi thương nhớ khôn nguôi cho người ở lại. Thay vào hồn bạch, bày bức ảnh. Nghi thức ngày xưa rườm ra, mời người thầy cúng đến trước bàn thờ tang, rồi cả gia đình đứng trước bàn thờ theo thứ tự vai vế. Thầy cúng xướng: (kiểu học trò lễ dịp cúng đình làng). Cử ai (tất ả khóc lên một lượt) , rồi xướng các động tác như thuế cân (lau tay cho sạch), Nghệ linh tọa tiền (chủ tang đến quì trứơc bàn thờ) rồi quì, đốt nhang, châm tửu (châm rượu) ba lần rót rượu, lại ra lệnh khóc một lượt, rồi quí, đọc văn, đại khái đọc giọng “Ai”, kéo dài, như than khóc. Thời xưa, dùng sáo ngữ, dùng điển tích trong kinh Thi, đại khái: “Trèo lên núi Dĩ mà ngóng mẹ”, ngược lại, nếu cha mất thì gọi là núi Hổ, nơi trẻo lên để trông cha. Hai ngọn núi này ở Trung Hoa, núi Hổ hoặc núi dĩ mây mờ, sương phủ. Nào tưởng nhớ, đau lòng.
Mọi người cùng khóc, lạy hai lạy, đốt bài vãn. Đồng ý là có lòng thành, nhưng mất thời giờ và làm mất sức khỏe, nhất là đối với những thân nhân lớn tuổi. Còn nhiều công việc bận rộn sắp cử hành, có lẽ quan trọng hơn.
Tấm triệu, động tác này còn gọi “Thiết minh tinh”, “Minh” là ghi khắc để nhớ, “tinh” là một loại cờ xí. Chọn tấm vải hay lục, nhất định phải màu đỏ, hình chữ nhật, khádài, đại khái có thể phủ suốt cái quan tài, theo bề dàim một kiểu tóm tắt lý lịch, chức vụ để cáo với Đất, sẽ chôn dưới huyệt. Trong thời gian ngắn, khi tấm lụa chưa mục, khi cải táng lắm khi còn đọc được, không lầm lẫn với quan tái người khác, mặc dầu mộ bia không còn. Ghi họ, tên thật (huý), bao nhiêu tuổi, làm chức vụ gì. Chết rồi, vẫn xem trọng địa vị xã hội. thời xưa, trọng địa vị, đẳng cấp, bày ra ni tấc, quan to được dùng tấm triệu dài hơn quan nhỏ, hơn người thường dân. Phải tuân thủ nguyên tắc về số chữ: “Nam linh, nữ thính”. Nếu là đàn ông, cứ đếm số chữ, mỗi đơn vị gồm bốn chữ. Vừa nhìn vào chữ, vừa đếm.Nếu người quá cố thuộc phái nam, chữ chấm dứt trên tấm triệu nhằm vào tiếng “Linh”, nghĩa là 11 chữ, nếu là phái nữ, chữ chấm dứt phải trùng hợp với “Thính”, thí dụ như 12 chữ mà thôi. Về tuổi tác, ghi đúng tuổi ta, nhưng lắm khi cho phép thêm hai tuổi, mất năm 72 tuổi, ghị 74 tuổi, cho ra vẻ sống dai, hiểu ngầm là “xin thêm” Trời hai tuổi! Bởi vậy, những chi tiết này là dịp để các thầy đồ miền quê bàn cãi, tìm “khổ chủ” để bày vẽ, “xôi thịt”, trong khi khổ chủ bối rối trăm chuyện. Trong bài thơ cụ Đồ Chiểu điếu Phan Thanh Gian, câu “Minh tinh chính chữ lòng son tạc. Trời đất từ rày mịt (mặc) gió thâu” thoạt xem quan, thấy cụ Đồ Chiểu, hoặc cụ Phan (khi trăn trối) không rành cái lệ sơ đẳng là “Nam linh, nữ thính”, lời ghi trên minh tinh phải là mười một chữ, nếu chín chữ thì lọt nhằm chữ “Quỉ”. Sử thật như thế nào? Ta tạm hiểu “chín chữ” trong bài điếu là nói cho xuôi tai, không phải chín chữ thật sự.
Viết xong tấm triệu, căng ra trên cái khung với vài khúc tre hoặc trúc cho ngay ngắn, khách đến phúng điếu có thể đọc dễ dàng. Khi đưa quan tài lên đường an tán, cái minh tinh được chưng bày riêng, có người cầm, hoặc trên bàn khiêng, với đứa cháu đích tôn ngồi trên bàn hoặc đi bên cạnh.
Thành phục, còn gọi là lễ phát tang, thời xưa, đám ma nhà quyền quí để lâu ngày, lắm khi quàn hàng tháng nên theo lệ bôn ngày sau khi chết mới “phát tang”. Ngày nay, lệ ấy chẳng ai tuân theo, có thể phát tang lập tức sua khi linh cữu vừa đặt giữa nhà. Áo tang ngày xưa may theo công thức. Nguyên tắc chung là mặc lôi thôi, thô sơ, may với loại vải bố xấu xí, rẻ tiền nhất. Cha mẹ chết, con trở thành kẻ khốn cùng trên đời, mặc dầu đang làm quan hoặc giàu sang. Có lệ con cháu không lau mặt, ngồi ăn cơm dưới đất, không cạo râu, không cắt móng tay. Phụ nữ bỏ son phấn, tóc để rối cho ra vẻ tiều tuỵ, lắm khi không dám chùi mũi khi sổ mũi, mặt mày dơ dáy. Người tôi đòi trong nhà, không là thân nhân gần xa cũng mặc lôi thôi.
Quá nhiều chi tiết trong việc may áo tang, đại khái chia ra làm năm hạng. Xin ghi lại sơ lược:
- Áo “trảm thôi”, dùng để tang cha, may thứ vải thật xấu, đúng ra may bằng gai (loại gai dệt lưới), hoặc vải sô, thứ xấu nhất. Áo “sổ gấu” (lai), để vậy, không nên lên lai, dùng cho con để tang cha, đường sống lưng áo may lộn ra mép ngoài.
- Áo “tề thôi”, cũng vải thô, viền lai dùng để tang mẹ lúc cha còn sống, hoặc cha mất rồi, để tang mẹ.
- Ba kiểu áo kia là “đại công”, “tiểu công” và “ty ma”, dùng cho bậc thấp hơn, vải tốt hơn, người chịu tang hiểu ngầm là ít đau xót, ít chịu ơn hoạn dưỡng của người quá cố, tang từ 9 tháng đến 3 năm. Tang cha, tang mẹ, thì con trai dùng dây thắt lưng bằng bẹ chuối, bẹ dừa, trên đầu vấn kiểu khăn cũng làm với rơm rạ, bẹ chuối, bẹ dừa. Đi chân đất, hoặc đi dép rơm, vỏ dừa. Con trai chống gậy trúc, gậy cao ngang ngực (hiểu là ngang trái tim), gậy trúc dùng cho cha, hình tròn tiêu biểu cho trời (trời tròn). Cây trúc bốn mùa lá vẫn xanh, lòng thương nhớ không dời đổi. Để tang mẹ thì chống gậy bằng cây vông, đầu gậy tròn (trời tròn), chọt gậy, nơi chống đất hình vuông (trời tròn đất vuông). Cây vông mềm, sơ không chắc cứng, gợi lòng nhân hậu, khoan dung của mẹ.
Chống gậy, ngụ ý quá thương xót, mang bệnh, đi đứng không vững bước vì cơ thể suy nhược.
Như đã nói, áo tang là kiểu mô phỏng theo áo dài đen cổ truyền, gài nút, hoặc buộc dây một bên. Đáng chú ý chi tiết: mặc quần trắng, nếu có, nhưng cái quần không cần thiết, không nằm trong qui chế. Ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa và nhiều nước khác, thuở xưa mặc cái áo rộng, phủ khỏi chân khá kín đáo. Cái quần bên trong không thành vấn đề. thi đậu trạng nguyên, vua ban cho áo và mão, không có quần. Ông Táo được cúng hằng năm, dịp gần Tết với cái áo, không quần. Rõ ràng là những gì cổ sơ vẫn còn bám sát con người thời đại nguyên tử mà họ không hay biết.
Điều đáng chú ý: Con rể bịt khăn trắng; không quần áo tang, mặc áo màu trắng là đủ. Phải chăng vì con rể chưa từng chịu ơn nhiều, đối với cha mẹ vợ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:08:51 GMT 9
Xưa kia, lễ phát tang cần một thầy cúng chỉ huy về nghị thức, cũng ra lệnh “cử ai” (khóc to lên), phần hương (đốt nhang), châm tửu (rót rượu), đọc bản văn cáo với lời lẽ trở thành sáo mòn, nào là “cuộc thương hải tang điền, kiếp phù sinh thấm thoát, khôn tỏ mối tình thường”.
Lại bày ra lệ dùng áo tang cho đứa con ở xa chưa kịp về, treo gần quan tài. Nếu là đứa con chết trước cha mẹ thì vắt cái khăn tang dài phủ lòng thòng ngang quan tài.
Cha mẹ quá cố mãi được xem như người còn sống! Ban đêm, rủ mùng (màn) xuống, đặt cái “hồn bạch” vào trong ,thay cho thân xác cha mẹ, hừng sáng, rót nước đặt bên giường, khóc lên rồi cuốn mùng, đem cái “hồn bạch” thắt bằng lụa ra ngoài. Tối thì đặt “hồn bạch” lên giường, bỏ mùng xuống. Mỗi lần cúng cơm, dâng cơm cho người chết lại phải xướng lên, quì lạy.
Vì đám tang kéo dài, chờ ngày tốt, hoặc với lý do thầm kín như chờ người phúng điếu (trường hợp quan to có viên chức cấp dưới đem tiền đến . . ) nên thần kinh mọi người căng thẳng, muốn thư giãn, thì rước ban nhạc đến thổi kèn, đánh trống, bảo là chầu chực người quá cố. Vài người trong tang quyến, hoặc bạn bè yêu cầu trỗi lên bản nào đó (nhất định là bản điệu Ai) rồi thưởng chút tiền.
Ở Nam Bộ, thời xưa, người khá giả rước vài kép hát Bội đến, múa hát một chặp, không cần hóa trang, có thể dùng điệu bi hùng. Hoặc từ sau đệ Nhất Thế chiến, chơi nạhc tài tử, đầu hôm cử nhạc buồn, giữa khuya, để đánh thức mọi người cho bớt ngủ gục, cứ chơi nhạc vui, nhưng không lố lăng. Nhiều thấy cúng tổ chức hát bội, lấy sự tíhc liên quan đến Tam Tạng thỉnh Kinh, Mục Liên Thanh Đề, với kèn trống, thu hút người hàng xóm đến thưởng ngoạn.
Khách đến điếu tang. Thời xưa, trọng người chết nên không tiếc lời lẽ để ca ngợi. Khổ chủ tuy nghèo nhưng cố giữ thể diện để khỏi bị chê cười, tha rằng vay nợ để mua chút danh dự! Khách đến, mời trà, nước, lát sau, khách xin phép làm lễ điếu. Tuỳ tuổi tác, địa vị xã hội mà sự đón tiếp có thể thay đổi. Gặp người nghèo ,trẻ tuổi, lắm khi tang chủ (giàu có, với chút thể diện) trao việc đón tiếp cho người thấp hơn. Gặp kháhc quí, nấht là bạn thân của người quá cố, thường bày nghi thức long trọng. Có lễ sanh xướng, nhất là trường hợp một tập thể đến viếng (ban hương chức hội tề cùng rủ nhau đến). Đại khái, “quanh quẩn mãi vài ba dáng điệu”, nhưng thiếu vài chi tiết thì bắt bẻ. Lễ sinh mời quan khách đến, một vài người thay mặt khổ chủ khóc lên, sau lời xướng, rồi khách lên trước quan tài thắp hương, châm rượu , đọc lời chia buồn (văn tế hoặc vài bài thơ bát cú), rồi qùi, lạy hai hoặc bốn lạy, tùy tình thế. Sau rốt, người đại diện cho khách nạp cho gia chủ bài thơ, bài văn tế để làm kỷ niệm (không đốt).
Về số lạy và xá, tùy địa phương, (có một mục riêng ở phần phụ lục).
Nhắc đến một tục lệ ở miền quê thường thấy là rót chút rượu xuống đất, sau đó mới dâng lên. Đây là rót rượu xuống “sa mao”, nắm cỏ tranh, phía đầu nắm cỏ thắt lại với sợi dây (như bó mạ để cấy), ý nghĩa là lọc rượu đểm ong những vị thần khuất mặt chứng giám, ở cõi Âm. Không cỏ tranh, dùng rơm. Tục lệ rót rượu xuống đất hãy còn trong tiệc nhậu của người lớn tuổi phía đồng bằng sông Cửu Long, với ý nghĩa cúng những người bạn nhậu đã quá cố! Sách xưa không đề cập đến trường hợp đặt bàn thờ Phật gần quan tài, phía bên vách, để nhà sư tụng kinh cầu siêu tùy theo tiền thù lao mà gia chủ đã mặc nhiên thỏa thuận trước, kèm theo cơm nước. Trước khi lạy hặoc xá quan tài, khách nên lưu ý thắp nhang , xá trước ở bàn phật, như gởi gắm linh hồn người quá cố cho Phật. Sau khi lạy quan tài, nên nhớ xá bàn thờ Phật. Ban nhạc lễ đóng vai trò quan trọng, dịp khách đến. Nếu là người rất thân, rất kính với người quá cố, hoặc thuộc vào hàng viên chức thì bày lễ long trọng, trước khi lạy. Khách đem đến trái cây, hoa tươi, rượu tùy hoàn cảnh, thêm cặp đèn (nến). nhờ người trong nhà đốt nến, khách chắp hai tay , cầm cặp đèn sát nhau (như lễ “Lên đèn” dịp cưới), rồi xá, chậm rãi, sao cho ngọn lửa đừng quá lay động, dang tay ra, người nhà tiếp tay cắm nến lên mặt bàn (thường là sát chân đèn, vì đã đốt sẵn nến rồi, không còn trống chỗ, nếu nến nhỏ, có thể cắm vào đĩa tròn ở lưng chừng chân đèn (nơi để hứng những giọt sáp). Bắt đầu khách làm lễ, nhạc cử hành với trống, kèn, chập chỏa. Những lời chia buồn Nói miệng, trên nguyên tắc thì phải nói lúc khách đang uống trà với chủ nhà. Nhưng khi cử hành lễ, với tiếng nhạc, ánh sáng ngọn nến, làn khói hương bốc lên thì những động tác nghiêm túc của người xá hoặc lạy đã chứa đựng nhiều ý nghĩa, thay cho lời nói phân ưu với nội dung sâu sắc hơn. Mong trời đất làm nhân chứng! May ra, có thể làm xúc động trời đất và linh hồn người quá cố được cơ may siêu thoát. Ban nhạc lễ ở nông thôn đã tồn tại và còn tồn tại trong thời gian dài, chừng nào dân ta còn quí trọng truyền thống nhân nghĩa. Nhiều ban nổi danh trở thành chuyên nghiệp, lãnh dịch vụ ngoài địa bàn thôn xóm. Lúc rảnh rang, họ tập dượt những bài hát vui, trữ tình, để cung ứng nhu cầu của sinh hoạt nông thôn (dịp ăn tân gia, dịp cưới hỏi) nhưng dịch vụ lớn và đòi hỏi tay nghề cao vẫn là tế lễ ở đình miếu. Ta không ngạc nhiên khi thấy bản Vọng cổ được khia sáng từ một nghệ nhân của ban nhạc lễ ở tận Bạc Liêu. Xuất xứ nầy cũng giải thích tại sao bản Vọng cổ được phát triển và sống mãi, nhờ nét linh động và tự bản thân của nó đã là dân tộc rồi.! Ngày nay, theo Tây Phương, đã phổ biến lệ đem tràng hoa để phúng điếu, khá gọn. nhưng ta vẫn thấy sự thích ứng của văn hóa Việt, ngay ở thành thị, dùng hoa sen làm cốt lõi cho tràng hoa đám tang, ngụ ý sự siêu thoát. Thời xưa, phổ biến nhất là đi điếu với tâm vãn, dùng nét chữ để ca ngợi hoặc thương tiếc: “Giá hạc qui thiên” (cởi hạc về trời), lắm khi ca ngợi tài hoa của người quá cố. Thí dụ như gặp tấm vãng để “Biển Thước tái thế”, ta hiểu là tạ ơn người thầy thuốc đã cứu giúp ta. Lễ động quan, còn gọi là “di quan”, chuyển cữu quả thật có nội dung, không phù phiếm. người quá cố phải ra khỏi nhà, lần cuối cùng , xem như không bao giờ trở lại, hoạ chăng là trong viễn mơ của người thân. Vào buổi sáng lễ di quan, chuyển quan tài ra trước nhà, nơi trang trọng nhất, thường là hàng ba, hoặc thảo bạt. nhà chật thì khiêng quan tài lên, xoay tròn một vòng, hoặc nhấc lên, để xuống, nhẹ nhàng trong ba lần như đi vòng quanh nhà lần chót. Những người chịu tang lạy hai lạy, sau đó, nhà sư tụng kinh, đúng giờ thì khiêng bàn thờ tang, hoặc cái giường thờ qua một bên.Ở thôn quê, ngày xưa luôn luôn có tổ chức thao tác cho vài thanh niên chuyên khiêng quan tài, sao cho êm ái, ngay thẳng, không chao đải, ít nhất là từ trong nhà ra sân. Gọi Nhà vàng, Âm cong. Người khiêng là đồ tùy (hoặc đạo tỳ, chẳng rõ tiếng nào đúng) , nhưng có lẽ là đạo, bằng cớ là khi điều khiển, lắm khi người “nhưng quan” theo nghĩa người “bớ đạo hò”, tôi hiểu “nhưng quan” theo nghĩa người đạo diễn; “ông nhưng” trong gánh hát Bội, còn gọi “thầy tuồng”. Nghi thức của đạo tỳ phải chăng là nét độc đáo của người Việt? Khi khiêng quan tài, muốn cho bớt mệt nhọc, lắm khi hò hát theo làn điệu riêng, gọi “hò đưa linh”, có từ đời nhà Trần hoặc sớm hơn. Phía Nam, thường giải thích đó là diễn tập sự tích Văn Lía, khởi nghĩa chống chúa Nguyễn thời Nguyễn Phúc Chu. Khi lên núi, ẩn vào Truông Mây, Văn Lía bị đặt ngoài vòng pháp luật bỗng hay tin mẹ mất. Để báo hiếu, chàng nghĩ đến việc đánh cắp cái quan tài, và rất cảnh giác bọn quan quân chúa Nguyễn đang rình rập. Chàng bố trí một số tay em đến lúc nửa khuya, tuyệt đối im lặng, ngậm thẻ (ngậm tăm). Quả thật, nhờ tinh thần kỷ luật cao mà bọn tay em này đem cái quan tài về Truông Mây, trong khi quân sĩ chúaNguyễn đang ngủ say. Vì vậy, thời trước 1945, đạo tỳ thường mặc quần áo đen, nai nịt hẳn hòi, như bọn lâu la của chàng Lía, thuở nào. Người nhưng quan làm lễ trước quan tài, sau đó, bịt khăn tang, kính cẩn, mặc dầu người quá cố lắm khi còn trẻ, tuổi tác đáng con cháu. Đạo tỳ bước vào, đi theo thứ tự, tay cầm nhang, qùi xuống lạy. Vì cầm nhang nên động tác phải thích hợp sao cho cây nhang không đụng xuống chiếc chiếu. gọi lễ “bái quan”. Theo tôi, việc lạy người chết này mang tính nhân bản. Người làm nghề động quan mang mặc cảm là trông chờ có nhiều người chết để được làm dịch vụ, với thù lao. Lạy như để tạ ơn, xin lỗi người quá cố rằng đây là chuyện phải làm, do nghề nghiệp. Theo hiệu lệnh, lắm khi người nhưng quan nói khẽ, hoặc dùng hai mếing gỗ ngắn mà gõ nhẹ. Thân nhân theo sau, trong khi người con trưởng nam đi trước, với cái lư hương, hoặc có người thân bưng giúp (vài nơi, phải ra ngoài sân rồi mới gõ sanh làm hiệu lệnh). Có lệ hò hát, lời lẽ thương tiếc người quá cố, buồn bã cơn ly biệt, đành rằng ai cũng “sống gởi thác về” Lại bày lệ “phá quàn”, một người ăn mặc kiểu thầy phù thầy pháp, cầm ngọn nến hoặc cây đuốc mà múa nhảy chung quanh quan tài, ngụ ý trong lúc quàn tại nhà, bao nhiêu mà quỉ loại ác ôn đến quyền rũ, người chết có thể ngu dại tuân lời chúng, không chịu đi chờ khuấy rối thân nhân. Sau này, ở vài miền quê còn bày ra người phá quàn cầm máy vi âm, tóc tai như cao bồi, đeo đồng hồ vàng để múa may kiểu cổ động, tiếp thị. Vì tuân thủ kỷ luật không để cho quan tài chao đảo, người chết có thể rời khỏi nhà một cách êm ái nên chủ nhà đặt cái lý đầy rượu ngay đầu quan tài, bên dưới lót sẵn tiền, hoặc tấm giấy vàng bạc, ngụ ý nếu ly rượu không đổ thì được thưởng. Lắm khi ở nhà lầu nhiều tầng, thời trước, đưa quan tài xuống đất không dễ, vì thang lầu chật hẹp, vả lại chủ nàh và đạo tỳ đồng ý trình diễn kỹ thuật với giá thù lao cao. Quan tài được khiêng thẳng ra cửa cái của tầng lầu cao, khi hạ xuống thì dùng tre làm giàn giáo, khá nguy hiểm. Lại thử đặt cái quan tài sát nền gạch bông, như là sự thách thức. Muốn nhấc quan tài lên, đạo tỳ phải tìm nơi nào có thể đặt ngón tay vào, nhưng quá nặng nề. Chỉ còn kỹ thuật duy nhất, kiểu thủ công, là năm ba người lực lưỡng kê vai vào, bên vách quan tài, nhấc lên một lượt, quan tài vừa nhấc lên khoảng vài ly (mi-li-mét), một người đã nhanh tay lót sát nền gạch một đồng xu bằng đồng . kiểu tiền thời Pháp. Nhờ cái thế ấy, họ tiếp tục nhấc lên, từng đợt, để chêm vào khoảng năm đồng xu bằng đồng, rốt cuộc, tạo đủ khe hở để thò ngón tay vào. Lát sau, họ khiêng quan tài dễ dàng, ai cũng biết, khiêng với sức mạnh của mười ngón tay. Nhờ đó, người nhưng quan và đô tùy nổi danh, có thừa uy tín để chào hàng. Nhưng gia đình trọc phú thời xưa dám tung tiền ra để làm công việc “báo hiếu” Dọc đường, vừa ra khỏi nhà, người con trai phải day mặt trở lại, dùng hai tay mà đẩy ngược tượng trưng, ngụ ý trì hoãn việc chuyển quan tài, thà rằng cha mẹ được quàn ngày nào hay ngày ấy, khi ra đi thì nên ra chậm chậm. Gặp nơi lồi lõm, hoặc nơi bằng phẳng như cứ tưởng tượng nơi gập ghềnh, con dâu nằm xuống đất, ngảnh đầu trở vào nhà, con gái thì nằm nhìn ra đường về huyệt. Gọi là tìm mọi cách để cho linh cữu cha mẹ bớt nghiêng qua nghiêng lại, càng êm ai càng tốt, kiểu lót đường ,tượng trưng, chứng tỏ con cái cố gắng “làm những gì có thể làm được” lần cuối cùng để báo hiếu, tự xem mình như một thứ vật dụng. Theo lệ xưa, ở đâu cũng có thần thánh ma quỷ. Ngoài đường, suốt lộ trình mà linh cữu sẽ đi ngang qua, có “thần lộ” ngủ phương, phải cáo tế với rượu, từ sáng sơm, cầu mong đi dọc đường được yên ổn. Lại cần báo tin trước cho Thổ địa, vị thần đất cai quản nơi đã đào huyệt sẵn, sẽ đặt quan tài xuống. Lại váo với: cái nhà vàng khi đặt quan tài lên, bày lễ Khiển điện xin Dư thần phò hộ cho nhà vàng được vững chắc, không gẫy đổ dọc đường ,cầu cho đô tùy đi đường không té, không sụp nơi đất khập khiểng. Mỗi lần cáo tế linh tinh như thế, thầy cúng, với thân nhân đi theo, đọc lên công thức viết sẵn (liểu đơn từ). Nghi lễ thời xưa bày ra nhiều dịch vụ cho thầy cúng và cho những người biết chút tí chữ Hán làm việc, để rồi được thưởng, vì khổ chủ phải tạ ơn họ. Nhà vàng bắt đầu di chuyển. Dẫn đầu là một vị pháp sư, mặc áo ngắn, đầu đội da thú, cầm gươm bằng cây múa men, xua đuổi ác quỉ. Theo sau, khi khổ chủ dám tiêu xài còn năm bảy đệ tử (của pháp sư) cầm gươm múa men, đeo mặt nạ hoặc hóa trang, vẽ chân mày, vẽ mặt cho đen đúa, như vị hung thần. Việc nói trên ít thấy; thông thường có thể bày ra hai hình nộm, sườn tre, phất giấy, với cái lưỡi thật dài và đen, gọi ông Tiêu. Dẫn đầu là nhà sư tụng gõ mõ. Kế đến cái bàn, với tấm vãi tang, treo hai chữ ca ngợi đức tính người quá cố, như “Cang Trực”, hoặc “Trinh Thuận” (nếu là đàn bà). Kế đến, một cái bàn, có người khiêng, với tấm triệu (minh tinh, đã nói), giới thiệu lý lịch người quá cố. Phía sau, nếu nhà khá giả, còn bàn hương án đặt trái cây, cơm, chén đũa, hoặc con heo quay. Bàn vong theo sau, đặt cái bài vị, hoặc bức ảnh người quá cố. Thời xưa, muốn cho lộ trình được êm ái, bày ra người cầm lá cờ khá to, gọi “công bố”, với nhiệm vụ phất cờ, làm hiệu lệnh khi sắp qua cầu nhỏ, gần đến khúc quanh, đường xấu, để phía sau người khiêng chuẩn bị bước từng bước cẩn thận. Lắm khi đưa quan tài từ nhà ra giữa đồng ruộng, không đủ tiện nghị (như ngày nay xe ô tô làm dịch vụ) thì khiêng quan tài trên vai, cái quan tài nhà giàu làm với gỗ quí, quá nặng! Quan tài đặt trên một mặt bằng thường lót ván dày, hai bên có hai cây đòn dài, để đạo tỳ đặt lên vai, gọi “đòn rồng” vì chạm hình con rồng với đầu và đuôi rõ rệt. Người dẫn đầu cầm lá cờ “công bố” nói trên, đứng trên cái bàn khá cao, với người khiêng, để quan sát kỹ phía trước. Thêm người đánh trống nhỏ, đánh chiêng làm hiệu lệnh theo công thức (sắp sửa quẹo trái, đất lún sinh . . ) Sau cái Bàn vong (nghĩa là vong hồn) là nhà Vàng. Nhiều nơi bày ra kiểu nhà Vàng sang trọng, với cái nhà nhỏ đi trước thay cho Bàn vong, Kế đến nhà Vàng chính thức. Vàng là gi? Theo Tựvị Huỳnh Tịnh Của thì “nhà Vàng” được giải thích là “đồ âm công, có sơn thếp vàng”. Như vậy đã rõ nghĩa. Người chết được quí trọng, di chuyển trong ngôi nhà tạm, vàng son tráng lệ. Thời xưa, quen gọi nhưng dụng để mai táng là “đồ âm công” nay còn quen gọi tất cả lcà “Nhà Đồ”. Nhà sang trọng, thếp vàng, như trường hợp của trọc phú hay vị quan to. Bốn phía nhà Vàng thường treo nhửng kiểu bao lam chạm trổ, nào mẫu đơn, trỉ, bầu linh dược, nhiếu nhất là cảnh Bát tiên Tám vị tiên tử sống thênh thang, no ấm rong chơi nơi chốn Bồng Lai Tiên Cảnh. Bày lệ rải giấy tiền vàng bạc dọc theo đường , như lo “hối lộ” cho ma qủi. Phía trứơc nhà Vàng, ban nhạc kèn trống, đàn dây, trống cơm trỗi bản bi ai. Ở thị thành, ta thường gặp (phổ biến trong giới người Hoa) những bản nhạc Tây khá huyên náo, thêm cậu nhạc trưởng cầm đũa nhip hiệu lệnh, thỉnh thoảng quăng cây đũ ấy (trong thực tế là cây gậy ngắn) lên cao rồi chụp gọn gàng, tiếp tục đánh nhiệp, múa men, nên hiểu là người Hoa ở Chợ Lớn từ lâu có tổ chức những ban tân nhạc, ai ủng hộ cứ đóng lệ phí, để rồi sua khi mất, mặc nhiên được ban nhạc đến phục vụ miễn phí. Giàn nhạc Tây, phảng phất kiểu ban quân nhạc của lính Tây thời Pháp thuộc, người nhạc trưởng khi diễu hành cần khoa trương động tác. Theo lệ người Hoa nếu cha mẹ đã mất được xem như còn sống thì vẫn được cung phụng và hưởng thụ những gì ngon nhất, hợp thời trang nhất, thậm chí, trình diễn những bản trữ tình ,hoặc ca ngợi ái tình, theo thời trang. Cũng như cúng những món bánh kẹo đắt tiền, theo thời trang, không cần món cổ truyền. Thời xưa con cháu đi theo sau, mặc tang phục được cô lập trong bốn bức màn vải trắng. Theo sau còn bà con xa, chòm xóm quen thuộc. Lắm người vì lý do riêng, chỉ đi một quãng đường rồi rút lui. Người Á Đông ta đôi khi vô ý bàn riêng việc làm ăn, khi đi sau quan tài, thậm chí chế giễu kín đáo, nói xấu người quá cố (mặc dầu trong thực tế người quá cố có nhiều nét tiêu cực) theo ý nhiều người , nên tránh những hành vi vô trách nhiệm. Nếu không thích, nên đi một đỗi, hoặc không đưa đám. Người Tây Phương rất thận trọng việc nầy. Nhiều khi, nhất là ở miền quê, bày tiệc ăn uống suốt thời gian quàn tại nhà, không bày thì kẻ chê người trách. Lắm khi, lợi dụng lúc tang gia bồi rối còn bày mưu vặt, đánh cắp hoa trái trong vườn. Lễ hạ huyệt cử hành đơn giản, đến nơi, đặt gần miệng huyệt, thắp nhang, nhà sư tụng kinh. Lắm khi cho pháp sư cầm ngọn kiếm (bằng cây, múa nhềiu vòng, ngụ ý trừ ma quái). Từ trước, thầy địa lý đã xem kỹ, khi đặt quan tài xuống rồi, thầy địa lý dùng địa bàn kiểm soát cho đúng hướng. Con cháu lạy lần cuối cùng. Lệ mỗi người thân hoặc bạn bè đưa đám lượm cục đất hoặc nắm cát bỏ xuống huyệt, ngụ ý tạo sự ấm áp cho người quá cố có tự bao giờ? Nhiều người cho rằng thời xưa chẳng thấy lệ “bỏ đất”, chỉ lúc sau này, chịu ảnh hưởng Tây Phương, “cát bụi trở về cát bụi” . Lắm khi tang chủ yêu cầu chỉ ném đất chứ không ném cành hoa xuống, e cành hoa sẽ héo, về sau, tạo ra khoảng trống dưới huyệt. Lại tế Thổ địa, khá phiền phức; thông thường, người trong dòng họ đốt mớ nhang đem cắm ở những phần mộ kế bên, hoặc cắm khắp bốn phương, ngụ ý gởi gấm kẻ quá cố cho những người đã nằm trước, cho có bạn. Lắm nơi, bày lễ “để chủ”, đại khái kiểu ghi tên người mất, chữ “chủ” được viết sẵn như chữ Vương thiếu một chấm trên đầu. Muốn chấm thì bày lễ nghị phức tạp, nàroửa tay, sửa khăn áo, quì lạy, đọc thêm bài văn, lời lẽ khách sáo, kể lể nỗi đau xót. Miếng ván ghi lý lịch nói trên, sau khi được chấm thêm cho đúng chữ “chủ”, lại đặt trong cái hộp trên bàn thờ sau này. Sau đó, lễ “mở cửa mả”, làm tuần bảy cái bảy, tức 49 ngày, rồi lễ “tốt khóc”, không khóc nữa, đúng 100 ngày. Giỗ đầu, gọi “tiểu tường” được tổ chức chu đáo, đến lễ “đại tường”, chết đúng hai năm. Rồi “trừ phục”, đúng 27 tháng, tức mãn, mãn khó. Thời xưa, bày lễ bốc mộ, đúng ba năm sau khi chôn, nếu con cái thấy có điềm gì không tốt, qua việc làm ăn. Những điều bất ổn, gọi là triệu xấu (triệu chứng) được qui định cụ thể: - Nấm mộ sụp xuống, mặc dầu được đắp đất kỹ lưỡng. - Cỏ trên nấm một hoặc nơi kế cận héo khô, không lý do. - Sau khi chịu tang, trong nhà xảy ra nhiều tai nạn, như cháy, sụp vách, trẻ con chết đặc biết là xảy ra loạn luân. - Con cháu mắc chứng bệnh tâm thần, không thích làm ăn, sống hoang đàng, gặp tai nạn. - Tiêu hao tài sản bất ngờ, bị kiện tụng, thất kiện. - Khi tống táng, vì gia đình nghèo nên quan tài đóng với gỗ tầm thương, đã mục nát, thi hài không được yên. - Nước lụt vì môi trường thay đổi, phần mộ quá ẩm thấp. - Theo qui hoạch, lắm khi đắp lộ, đào kinh xe ngang hoặc gần phân mộ, dời nhanh cho yên ổn người quá cố. Vì tin rằng “mạch đất” là nơi giao lưu, tác động thường trực giữa những “khí”, lắm khi xảy ra nhềiu hiện tượng lạ khi bốc mộ: - Thấy có chút gì xuất hiện, cửa quậy, rồi tan biến đi vừa dở nắp quan tài bèn cho đó là tinh khí của con rồng, tinh khí vừa kết, nếu quấy động thì đứt hoặc tan, nên bảo quản, để may ra con cháu phát quan, phát tướng, được phước lộc thọ. - Có những dây có màu đỏ bò ngang nắp quan tài, như màu máu tươi, đó là chôn nhằm huyệt tốt, mạch đất vượng lên. - Có khi bốc lên trong thoáng mắt, rồi tan, mặc dù hai cốt khô ráo. Điềm tốt đang thành hình, không nên lay động. Gặp “điềm tốt”, nên lấp lại ngay, khấn vái, chờ đợi kết quả bất ngờ. Lễ cải táng phổ biến nơi ruộng đất eo hẹp. Người chết, nói chung, đông đúc hơn người sống, choán quá nhiều chỗ, làm sao đủ đất để cày cấy, cất nhà, trong khi dân số càng đông đúc thêm. Lễ cải táng diễn ra, phiền phức, với nhiều nghi lễ. Nghi lễ thời xưa phức tạp, điều quan trọng vẫn là tiết kiệm, phụng sự cha mẹ ông bà ngay khi còn sống. Nghi lễ bày ra, nhằm nhắc nhở con cái giữ hiếu thảo, cố làm ăn cho khá giả, học hành siêng năng. Ở thôn quê thời xưa, người hàng xóm thường rình rập nhau, chê khen, lãng phí cũng cười, tằn tiện cũng chê. Phiền nhất là số người không nhỏ, chờ có dịp “quan”, “hôn”, “tang”, “tế là xúm lại, tìm xôi thịt, đóng một vai trò mà họ cho là quan trọng. Họ là kẻ “nhàn rỗi”, chữ nghĩa không nhiều, học thuộc năm bảy kiểu vãn tế là xong. Khổ chủ bận rộn, đành nhờ họ, họ cứ đòi hỏi rượu thịt, trầu rượu, lại suy bì lẫn nhau, chưa nói đến việc đặt câu đối, đặt điếu văn, người này tranh cãi với người kia về danh từ, điển tích, lại quấy rầy, cải vã, phô trương kiến thức! Quàn trong nhà lâu, ngoài việc chứng tỏ lòng hiểu thảo, lắm khi còn có nội dung thầm kín là chờ phân chia của cải. Nhất là vàng bạc mà người quá cố để dành rồi bí mật trao cho đứa con mà họ thương mến nhất. Lại còn chờ người đến trả lễ, dĩp doanh thu đáng kể. Nội dung hiếu thảo bị xuyên tạc, kẻ sĩ và khổ chủ lắm khi bị tha hoá mà không hay. Nhiều gia đình khá giả, con cái thi nhau khóc, nhưng mãi cãi vã gia tài, hoặc chia phần tiền bạc điếu tang. Đôi khi xảy ra trường hợp tẩm liệm không kỹ, nắp quan tài bung ra, điềm cha mẹ giận hờn, trở mình. Mất vệ sinh, đành mướn người tẩm liệm, sửa chữa lại, đây nắp lần thứ nhì. Người Hoa lắm khi bày lệ ban đêm ngồi uống rượu, đánh bài giải trí bên quan tài, ngụ ý sung sướng, “hoan hô” người quá cố đã tích cực xây dựng, để lại cho con cái một sản nghiệp xứng đáng. Chắc người quá cổ đã vui vẻ khi nhắm mắt. Ngày nay, vì tiết kiệm thời giờ, mặc nhiên đám tang cử hành nhanh, khách đến điếu xong là về, chẳng còn ai muốn ở lại để ăn uống. Các công ty mai táng lần hồi có tay nghề, tiền nào của nấy, làm việc gọn, “bao trọn gói”, từ việc tìm huyệt, hoặc đăng ký hỏa táng, hoặc “khai tử” với chính quyền. Người trong khu phố tường đi viếng tập thể, đỡ mất thời giờ. Nếu hỏa táng, thường là thân nhân đến, vào phút chót trong phòng chờ hỏa thiêu, chờ giờ phút châm lửa. Bầu không khí ảm đạm, không như lúc còn để bên ngoài, sáng sủa hơn. Nhiều người đã giải quyết hợp lý. Khói đen bốc lên, dễ gây cảnh tượng đau xót. Chết là hết. Những người thân phần lớn ra về, mệt mỏi, vả lại thần kinh đã căng thẳng từ những ngày trước. Làm lễ khấn vái, thỉnh cái lư nhang trước quan tài, ra về là được. Cần một người thân, đáng tin cậy, sức khỏe đầy đủ, ở lại coi chừng từ khi quan tài đưa vào lò đến khi lượm mớ tro và xương. Hốt tượng trưng đựng trong cái hũ, đặt trên bàn thờ tại nhà. Thông thường, người Việt cũng như người Hoa không chuộng việc gìn giữ hài cốt đã thiêu trong nhà. Không phải bất hiếu, vì qui luật Âm Dương. Người quá cố và cái hũ cốt thuộc về Âm, người sống trong gia đình thuộc về Dương. Âm Dương cách trở, xung khắc nhau, để hũ cốt trong nhà thì làm ăn không khá, lắm khi sinh ra chuyện xui xẻo. Bởi vậy, sua một thời gian, làm lễ tại chùa, gởi hũ cốt, thỉnh thoảng thăm viếng, cúng tiền cho nhà chùa là xong. Thời buổi sinh kế bận rộn, dễ thay đổi, lần hồi mọi việc đều bị lãng quên, chỉ lắng đọng trong tiềm thức, thỉnh thoảng hệin lên dịp đám giỗ, thanh minh hoặc khi thăm viếng người thân còn sống. Ta có thể tự an ủi: Nhiều người mất tích ngoài mặt trận, nhiều tay triệu phú đi máy bay, gặp nạn, mất xác. Qui luật của cuộc sống thời công nghiệp. Việc để tang cũng được giải quyết hợp lý. Khăn áo tang không quá luộm thuộm, miễm là có lòng, với hình thức tối thiểu. quên để mà sống. Nay ta còn gặp nhiều ngôi mộ xưa, rất kiên cố, chứng tỏ người quá cố thuộc vào hàng khá giả , dòng họ không phải là vô danh. Ấy thế mà người địa phương chẳng rõ là của ai, nói chi những phần mộ to lớn mà ta còn thấy – may mắn thay – rải rác ở Sài Gòn và ngoại ô. Để giải quyết gọn, hợp tình hợp lý, nhiều gia trưởng tổ chức lễ “xả tang”, lắm khi bảy ngày hoặc ba ngày sau khi chôn cất, lúc bà con gần xa còn đang tụ hợp. Chờ một hai năm sau chuyện gì sẽ xảy ra? Hoàn cảnh ra sao?
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:09:32 GMT 9
LỄ GIỖ
Nhiều nơi, nhất là vùng đất địa hình từ xưa, bày nhà thờ Tổ, còn gọi nhà thờ Họ, do người tộc trưởng chăm sóc rồi đến con người tộc trưởng, trong khi ở gia đình, vùng đất mới, hoặc ở đô thị, nếu có hoàn cảnh thì thờ ông bà tại nhà riêng tạm gọi Từ đường. Ở nhà thờ Tổ, thường là thờ thần chủ, kiểu bài vị, thờ bốn đời trước gọi Cao, Tằng, Tổ, Khảo. Cha mình chết, gọi là “”Khảo”, một bia ghi Hiển Khảo. Thần chủ làm bằng cây, chính giữa khắc hoặc viết chữ nếu chức tước, họ tên, hai bên ghi ngày tháng năm sinh, năm mất. Hễ đến đời thứ năm thì đem ông “Cao” (cũ) mà chôn (chôn cái thần chủ) rồi đôn lên, đại khái ông “Tằng” trở thành ông “Cao”. Không thờ quá bốn đời, đời thứ năm, xưa hơn, xem như chẳng còn dấu ấn. Nếu thờ như vậy, nhà thờ Tổ sau thời gian dài chẳng còn chỗ nào để đôn lên, quá đông đúc. Như đã nói ở phần “Hôn lễ”, người cùng họ, đến đời thứ năm thì xem như người dưng, có thể cưới hỏi nhau bình thường, chẳng mắc tội loạn luân. Đồ thờ được chọn lọc (sẽ nói ở phần Bàn thờ ông bà), đáng chú ý nhất là những tấm biển lớn, thếp vàng, hoặc nền đỏ chữ đen, chúc tụng dòng họ, như Đức Lưu Phương, hoặc lan Quế Đằng Phương, thêm những liễn đối ca ngợi công đức người đi trước, mong con cháu sau nầy gìn giữ và phát huy, cho dòng họ vẻ vang hơn. Ba ngày đầu năm, con cháu tề tựu đến nhà thờ Tổ, mang theo lễ vật, tuy giàu nghèo; cúng xong, bày cỗ, cùng ăn. Thay vì cơm, thường dùng xôi. Nếu là dòng họ từng có học vị, khá giả, bày ra xướng “Cúc cung bái” rồi cũng đọc một bài Chúc, theo công thức “cây cội nước nguồn”. Ngày rằm tháng Bảy, có thể bày cúng ở nhà thờ Tổ, hoặc rằm tháng Chạp âm lịch, cuối năm, gần trùng hợp với lễ “Dẩy mả”. Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn. Thờ người chết như người sống. Đi vào thực tế, ta thử quan sát vài nét điển hình ở bàn thờ tổ tiên, của gia đình cá thể, miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long. Nếu nhà rộng rãi, dùng tranh thờ, ít khi thờ ảnh; nếu có thì để ảnh bên dưới tranh thờ. Về nguồn gốc loại tranh thờ hiện nay, quả là theo quá trình biến đổi về hình thức, nhưng nội dung vẫn đồng nhất. Cuối thế kỷ thứ XIX, trước khi thực dân Pháp đến, người ở Nam Bộ thờ tranh sơn thuỷ, mơ hồ để làm nền để ghi hai chữ “Từ Đường” thật to. Hoặc gốc tre già, bên cạnh là mụt măng (tre tàn măng mọc). Hoặc 100 chữ Phước (chữ Hán). Nhiều tranh từ hương Cảng đem qua, khá đẹp và giá rẻ, bấy giờ Hương Cảng là nhượng địa của anh, máy in khá tối tân. Tranh bên Hương Cảng đưa qua lấy đề tài cũng là “cây cội nước nguồn”, với ngọn núi cao, dòng suối chảy, cây tùng bên sườn núi mọc cheo leo, lá xanh tười. Lại còn tranh vẽ phía sau tấm kiếng, nền sơn đen, chữ Hán sơn vàng, vẽ chữ Tho, chữ phước. Bấy giờ, ở Lái Thiêu (Sông Bé) nghề mộc đang phát triển, với thợ cẩn, đóng tủ thờ, bàn ghế. Người thợ Lái Thiêu nghĩ ra sáng kiến vẽ tranh thờ cũng phía sau tấm kiếng to nhưng với màu sắc vui tươi. Tranh kiếng dễ bảo quan, đem rửa với nước là sáng lên, màu sắc như nguyên vẹn, mới mẻ, trong rất nhiều năm. Bám vào tình hình đất mới với kinh tế thị trường, dễ giao lưu, mức sản xuất lúa gạo phía đồng bằng đang phát triển, người thợ ở Lái Thiêu bày ra kiểu tranh thờ với đề tài vừa dân tộc, vừa hiện đại để thỏa mãn giấc mơ của trung nông hoặc phú nông. Con rạch hiền lành, không sóng gió, với người chèo thuyền, chiếc cầu bằng cây, bên bờ là cây to (cây cội) hoặc rải rác vài cây điệp (phượng, nhập từ châu Phi, thời Pháp) Đặc biệt là ngôi nhà lợp ngói, nền đúc cao ráo, cửa lá sách (loại cửa này do người Pháp du nhập, theo kỹ thuật Tây Phương). Phía chân trời, tiếp với dòng sông là vùng biển, hiền lành, không sóng gió, va xa, vài hải đảo, lại có đàn chim bay. Hai bên bức tranh, vẽ hai câu liễn đối (cũng viết sau tấm kiếng đại khái: “Sơn thủy hữu tình thiên lý ngoại”…) phía trên là chữ đức Lưu Phương, vẽ thêm bông mẫu đơn hoặc trái đào (tiêu biểu cho Thọ). Màu mè vui mắt, không còn nhà lá cổ truyền ,cô gái chèo thuyền yểu điệu, thường là mặc áo bà ba trắng. Ở miền quê, quen gọi “cái giường htờ”, vì như đã nói ở phần trước, lấy cái giường ngủ của người quá cố đem ra thờ (như khi còn sống). Phía trước giường thờ đặt cái tủ thờ. Cái giường, vì nhu cầu thâu hẹp, lần hồi được thay thế với cái bàn thấp, đặt sát vách, khi làm đám giỗ, thức ăn chưng bày trên đó, trước giường là cái tủ thờ (hoặc bàn thờ) khá cao che khuất. Cái tủ thờ vẫn là sáng kiến mới sau khi Pháp đến, cuối thể kỷ XiX. Thời phong kiến, đặt trước giường thờ là cái “bàn thờ” với bốn chân cao hơn cái giường thờ. Trên bàn là mặt bằng, chân cao lỏng khỏng, chỉ ở đình miếu dịp lễ hội mới bô trí cái “quần bàn che bốn chân” . Bên Pháp, nghề mộc phát triển cao, nhiều mặt bàn ghế, đồ mộc gọn và dẹp. Ta bắt chước cái “tủ” của Pháp, theo mô thức thời vua Lu-I XVI, bề đứng cao hơn bề ngang, bốn phía bít bùng với vách ván. Mặt trước kín, không mở ra, cửa bố trí hai bên hông, phía sau lưng có thể là ván xấu vì che khuất. Mặt trứơc của tủ, theo công dụng bên Pháp là để trang trí, thường là miếng ván hình bầu dục ở giữa, bốn bên là hồi văn. Hai bờ của tủ, từ trên xuống dười, thường chạm “mô típ” những hạt chuỗi khít nhau, sẳn cây ván thừa thãi hồi đầu thế kỷ nhờ cây rừng miền Đông và cây nhập từ Campuchia, người bậc trung thời xưa có thể sắm cái tủ thờ bằng cây gò, cây trắc hoặc cẩm lại, để lại đến đời cháu nội mà vẫn còn tốt và cứng. nhất là tấm ván to, nguyên một khối, hình hột xoài ở giữa tủ nếu làm bằng cây “nu” thì quí giá vô cùng, thuộc vào loại đỉn cao về gỗ quí, nhệit đới. Nu là thứ bệnh tật của cây, thớ cây xoáy lại nhiều cục tròn, gân kề nhau, cây gõ, cây cẩm lai đều có nu. Bền và bình binh dân nhất là tủ đóng với cây thao lao (bằng lăng), bền và chắc, chịu đựng ẩm ướt của thời tiết. Ngành mộc phát triển, về sau, khoảng 1925, thợ cẩn xả cừ từ đồng bằng sông Hồng vào Nam, bày ra cẩn mặt trước của tủ thờ với kiểu thức Á Đông , và đó là nét rất độc đáo của mỹ nghệ Việt Nam. Nào mẫu đơn, cúc dây, chữ thọ, đặc biệt trên mặt bầu dục của tủ bày ra điển tích “Cầu hôn Giang Tả” trong truyện Tam quốc, hoặc “ngủ tử đăng khoa”, (năm đứa con đi thi và đậu) hoặc mẫu đơn và con trĩ, cục đá quái dị, hoặc vách núi cheo leo với cây tùng, cái thảo am dành cho kẻ ẩn dật. Lại bày ra chơi chữ “phú quí Hồng Công”. Sang như người quí phái ở Hương Cảng, với mẫu đơn (biểu tượng của phú quí) vài đóa hoa hồng, và con công đang múa. Người nghèo , tự an ủi với cái bàn thờ bốn chân, lêu khếu, trống trước trống sau. Cái giường thờ xưa đã mât, vì choán chỗ; khi làm đám giỗ, dọn thức ăn ra bộ ván giữa nhà. Ước mơ thầm kín của người miền quê vẫn là chờ khi làm ăn khá giả để mua sắm bức tranh thờ, với cái tủ bằng cây thao lao, cho rạng rỡ nhà cửa; dịp đám giỗ, cưới gả, cái tủ thờ đem lại thể diện cho người chí thú làm ăn, thành công trên đường đời, nhờ cần cù và tiết kiệm. Có giả thiết đáng tin cậy: Đầu tiên, người thợ mộc ở Gò Công, (vùng Hòa Đồng) nghĩ ra sáng kiến đóng cái tủ Pháp thay cho cái bàn thờ xưa, nhưng không cẩn xa cừ, còn gọi tủ Gò Công. Về sau, ở Chợ thủ (gần Chợ Mới, tỉnh An giang) đòng tủ nầy nhờ gỗ đưa từ Camphuchia về, khá thuận lợi, gỗ kết lại, đặt trên bè kết với tre rừng, thả trôi theo dòng nước, không tốn kém như gỗ đưa về từ Tây Ninh. Việc bố trí trên bàn thờ tổ tiên thống nhất từ Bắc chí Nam nhưng tùy hoàn cảnh giàu nghèo mà khác nhau về chi tiết. Trước bàn thờ, quan trọng nhất vẫn là “tam sự” gồm: Lư đốt trầm hương, phần lớn đúc bằng đồng, rỗng, để chứa tro than, mồi lửa cho trầm hương. Trên nóc, có cái nắp đậy lại, khoét lỗ nhỏ chung quanh để khói trầm xông lên, lan tỏa ra đều đặn bốn phía, nắp thường nhô lên, với trái đào hoặc con kỳ lân. Nghệ thuật đúc đồng của ta đặt trình độ khá cao, lắm khi bày kiểu cây tre, chân của lư với những mắt (đốt) như thân cây trẻ, lại bày ra lư đồng mắt cua, (đồng đỏ), hoặc đồng đen. Theo tôi, loại đồng đen nầy do các chuyên gia người Pháp phổ biến ở Hà Nội và Biên Hòa hồi đầu thế kỷ, vẫn là đồng htường lệ, tẩm vào công thức hóa chất, thêm phèn chua. Ở đồng quê Nam Bộ, nói chung, không ai đủ tiền mua trầm, vì vậy cái lư chưng bày cho đẹp, tạo thế ổn định, gọi nôm na là “lư hương”, nhằm trang trí. Người trung lưu hoặc nghèo nàn sắm cái gọi là “lư nhang”, để cắm nhang (hương). Hoặc có cái lư đốt trầm rồi mà vẫn sắm cái lư nhỏ cắm nhang (vùa hương), thiết thực hơn. Để cho đủ “tam sự”, thêm hai chân đèn, mỗi chân đen có bánh xe tròn ở khoảng giữa, hứng những giọt sáp từ ngọn lửa chạy xuống; hai cái chân đèn là Âm và Dương. Thời trước 1945, thợ tiện miền Quảng Ngãi hằng năm, vào dịp gần Tết dùng ghe bầu đưa vào phía đồng bằng những bộ “tam sự” xinh xắn, toàn bằng gỗ, tiện khéo léo. Lắm khi bày ra “ngủ sự”, cũng như “tam sự” thêm hai cái vùa hương, bảo là một dành cho ông, một dành cho bà. Lại thêm hai cái lọ độc bình để sát vách, dành cắm hoa, không lọ sành hoặc gốm thì dùng lọ bằng cây. Nhiều người bảo là “lộc bình”, nói trại “lục bình”, bình để cắm bông hoa, một dạng lộc, đem hy vọng. theo cụ Nguyễn Văn Tố thì đó là “độc bình”, chẳng giải thích vì sao gọi là “độc”? Phải chăng trên bàn thờ không nhất thiết hai bên đặt hai cái bình, nhiều nơi chưng một cái “độc bình”, bên kia để cho cân đối chưng cái ống to, bằng cây, để dự trữ nhang, từng thẻ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:10:05 GMT 9
Nếu bàn thờ rộng, bày ra cái “kỹ tam sơn”, đại khái, cái đế cao, khá vững, hình dài, chính giữa có phần nhô lên dành cho cái lư cắm nhang. Hai bên đặt ra cái kỹ trầu rượu, thêm cái tô đựng nước. Nhiều nơi. Khá giả, chưng hai cái tô khá to (gọi to con Rồng, thường vẽ hình con Rồng, thế kỷ XIX, qua XX) trên hai cái đài, trong tô, thêm cái muỗng, cán muỗng hình thù quăn queo, thường là dùng nhánh dây tầm gởi. Ta hiểu đây là kiểu tô dùng uống trà Huế (chè tươi, nấu trong om). Bình sinh, ngày xưa ông bà quen thói ăn trầu, trước khi ăn miếng trầu mới thì súc miệng với nước lạnh, phun vào ống nhổ, sạch miệng rồi bắt vào miếng trầu mới. Lắm khi , lúc còn sống, cha mẹ nghèo, sau nầy làm ăn khá, con cháu mua cặp tô, gọi là báo hiếu. Trên bàn thờ ông bà, ngày xưa chưng bày cái “thần chủ” chữ khắc trên mếing gỗ, như kiểu lý lịch, thường nêu lên chức tước, đầu lớn đầu nhỏ, cấp bằng. Lại còn những đôi đũa, dựng đứng. Người khá giả thờ trọn cái giường, chưng làm kỷ niệm tại phòng khác. Ở viện bảo tàng, trước 1975, chưng bày cái giường, nguyên là cái Long đỉnh ở núi Tượng, thờ thần thánh khuất mặt. Con của Trần Bá Lộc dẹp cuộc khởi nghĩa núi Tượng (An Giang) tịch thâu về mà sử dụng hằng ngày, khi mất đem tặng Viện bảo tàng. Ta thấy ngày xưa giường ngủ, chỗ làm việc, nơi uống trà, hút thuốc phiện, đánh cờ tướng, đọc sách . . .thường gom một chỗ, lớn và rộng cỡ cái đi văn. Bốn gốc là bốn cây trụ, sơn son thếp vàng, với kiểu bao lam (cửa vòng) chạm nào mẫu đơn, sen, chim trĩ, trái đào. Ban đêm, giăng mùng tại đấy mà ngủ. Trên giường nào gối thấp để nằm; gối vuông và cứng, mặt gối thụt vào trong, với những ô vuông, nhiều màu sắc (gọi gối mặt thụt) để dựa tay, khi gia chủ nữa nằm nữa ngồi mà đọc sách. Lại còn cây quạt lông chim để khi cần, gọi đứa tớ đến hầu hạ. theo bốn cây trụ nói trên, treo lủng lẳng nào đàn tì bà, đàn kìm. Tóm lại, ta thấy nho sĩ thời xưa chậm chạp, ung dung tự tại, muốn tóm thu trời đất vào cái giường, không thích cử động, khinh lao động tay chân, lười biếng khoa trương. Không là thói xấu của cá nhân nào, nhưng phong kiến là vậy, đối lập với nộng dân tảo tần, tay lấn chân bùn, chịu nắng lửa mưa dầu để tìm sanh kế tạm. Cái nhà Vàng của đám tang phảng phất cái giường sang trọng vừa mô tả. Lúc khoa học kỹ thuật Tây Phương lủng đoạn cõi Á Đông, nhỏ sĩ giật mình, nhiêu người tích cực ủng hộ phòng trào Duy Tân.
Lễ giỗ tổ tiên tổ chức bàn thờ, với hương đăng hoa quả cần thiết. Ngày đầu, gọi “tiên thường” , hiểu là trù bị, thao tác nội bộ, đơn giản nhưng khá đầy đủ để cho người còn sống hiểu đó là ngày giỗ, chỉ kém ngày chánh giỗ mà thôi. Thời trước, bà con ở xa gom về, tuỳ khả năng đóng góp, trên nguyên tắc, gánh nặng thuộc về người gữ hương hỏa vì người này đã hưởng đặc quyền thu huê lợi do cha mẹ để lại, thí dự như chút ít ruộng rường hoặc vài căn phố cho mướn. Cúng nội bộ với sự ấm cúng và thân mật cần htiết vì “tiên thường” nặng về đối nội. Bà con, anh em, con cháu nghèo nhất phải được giúp đỡ phương tiện đến, đối xử bình đẳng. Việc ăn uống tự do, chú trọng người già cả, trẻ con. Thời xưa, ở nông thôn , chưa có nhà máy xay xát và bếp dầu. Làm thịt heo sẵn, dành cho hôm sua, gánh nước dự trữ, chuẩn bị tô chén, đũa cho đầy đủ, phơi củi, chọn gạo trắng, làm dưa chua, phân công tỉ mỉ, vì hôm sau là chánh giỗ, nhằm “đối ngoại” nhiều hơn. Thời phong kiến, đây cũng là dịp thu vén, bóc lột nhưng mang hình thức “đạo đức”. Tá điền cần đem đến cho chủ điền những thúng gạo, nếp ngon, cặp vịt., hoặc đặc sản hư đuôn chà là, con cá sấu (ở Nam Bộ thời xưa, cá sấu làm ón ăn sang trọng nhất). Rượu, là sự đóng góp, gần như bắt buộc. Tá điền đem gạo trắng, hai chai rượu thứ ngon cho người quản gia, chính người này lại đưa ra ngoài, bán lại chỗ cho người đến sau, rồi đưa vào lòng vòng (dịp tết cũng vậy). Quả là lợi dụng uy thế của kẻ làm chủ đất, viện cớ chính người điền chủ quá cổ đã trưng khẩn, đền ơn người quá cố là sự công bình.
Ngày chánh giỗ, cả gia đình tề tựu, mặc nghiêm chỉnh. Mâm cỗ do các cô dâu, con cháu trổ tài nấu nướng (hoặc mang về), thêm bánh khéo (như bánh qui, bánh thuẩn) Giờ cúng do người giữ hương hỏa quyết định, vì chính ông ta đựơc sự ủy thác của người quá cố hoặc được anh em bầu ra. Lắm khi giữ hương hỏa là con trai út, con thứ. Người giữ hương hỏa lắm khi khó tính, đòi hỏi có món đặc biệt nào đó, thí dự như cá nướng, như mắm sống, vì thuở sanh tiền cha mẹ thích ăn món đó! Có khi phải chờ một người nào đó, ở hàng xóm, có thể là nghèo hơn, nhưng dạo trứơc từng là bạn thân, thích đánh cờ tướng hoặc cùng đi đá gà với cha. Hoặc mời bà lão mua thúng bán bưng nghèo, nhưng là bạn của mẹ, khi mẹ còn nghèo túng. Thờ cúng ông bà phải chăng là một tôn giáo? Nhiều người bảo rằng không,vì tôn giáo cần người trụ trì, người chức sắc nào đó làm chủ tế, chủ lễ. Người cho thờ cúng ông bà là một tôn giáo (chớ không là tập tục bình thường) đã trả lời dứt khoác: - Người chức sắc của đạo “thờ cúng ông bà” chính là người thừa kế hương hỏa, được ủy thác. Người giữ hương hỏa tùy ý quyết định khi bắt đầu lễ giỗ, khi sớm, khi trễ, lắm khi do cao hứng .Ông này ra lệnh cho thân nhân tụ tập đến, và không cần chờ đợi bất cứ ai, mặc dầu còn người anh em rất giàu, địa vị xã hội cao, có học vị to. Đứng trứơc bàn thờ, theo đúng lễ, ông ta chắp hai ngọn nến, đốt cháy từ ngọn đèn nhỏ trên bàn thờ (lửa thiêng của dòng họ, tượng trưng) rồi dang tay, trao cho hai người bên cạnh bàn thờ cắm vào chân đèn, sua đó, lại thắp nhang, khấn vái lâm râm, nội dung như thến ào, khấn to hay khấn nhỏ, tuỳ ý. Sau khi xá và lạy, người giữ hương hỏa bước lui, để anh em mình, hoặc các cháu làm lễ xá lạy, kế đến người quen thân. Bắt đầu có thể nói chuyện qua lại nhắc nhở chuyện xưa. Lát sau, theo ngẫu hứng hoặc theo nguyên tắc về thời gian, (khoảng mươi phút hoặc một giờ) người giữ hương hỏa ra lệnh hành động dọn cỗ xuống và mời ăn uống. Trên nguyên tắc, người trong dòng họ phải ăn, đặng hưởng lộc của người quá cố, cũng là lời thề đoàn kết. Người lớn tuổi, chủ cũng như khách được mời ăn mâm riêng, với thực phẩm chọn lọc, ngon, mềm vì người lớn tuổi có bộ răng yếu. Tuy nhiên, cái phao câu, đầu cánh, đôi chân vẫn là ưu tiên dành cho người già, họ ăn phần thịt, thích gặm nhấm chân gà. Thêm cái đầu gà, đầu vịt, cũng dành ưu tiên, thích nhất là bộ đồ lòng heo hoặc gà vịt. Người trẻ chăm sóc xới cơm cho người lớn tuổi. Buổi tiệc kéo dài, lứa trẻ thích dọn riêng một vài mâm, ở góc sân, góc vườn. Phần lớn đàn bà chờ ăn sua, ở nhà bếp. Trẻ con được chia phần, ăn bánh, trái cây, tha hồ chạy tới chạy lui. Lắm khi ở miền quê, tiệc kéo dài. Dịp đám cưới cũng như đám giỗ, mãi đến nay, vài nơi uống quá nhiều rượu, hàng năm bảy chục lít, hoặc hơn, từ sáng đến chiều, xảy ra nhiều trận cải vã. Người trong dòng họ, lắm khi giữ kín bao nhiêu thắc mắc lớn nhỏ (nợ nần qua lại, chia phần gia tài không đồng đều) thừa dịp này, lợi dụng ngôi thứ để tha hồtranh cải, lớn tiếng hoặc giận hờn, ra về sớm, ăn lấy lệ. Lại còn tệ đoan cờ bạc, dây dưa, rủ ren người quen hàng xóm vào, gọi là “thủ tục.” Theo lệ, bà con đi dự được hưởng phần thực phẩm, bánh trái tượng trưng, đem về cho người vì hoàn cảnh không đến được. ai rảnh rang, ở lại tiếp dọn dẹp. Dĩ nhiên , sau khi lên đèn thắp nhang, người chủ lễ rót rượu trên bàn thờ, đúng ra là ba tuần rượu, rồi xới cơm trong chén, tượng trưng, thêm một tuần trà, đốt giấy tiền vàng bạc. Đáng chú ý: Trong từ ngữ của ta, không có tiếng “ăn tráng miệng” (gọi theo Pháp, ăn đết-xe). Trong món cúng, đã nêu lên: hương đăng hoa quả. Bởi vậy, ở đình làng, nhiều bô lão không nhìn nhận động tác “dâng món ăn tráng mệing” Học trò lễ (lễ sinh) thời xưa, trong nghi lễ chính thức về tế tự chẳng có lời xướng “ăn tráng miệng”, như một tiết mục riêng, tạm gọi dâng bánh. Thật ra, bánh và trái cây đã dọn lên cúng ngay từ đầu rồi. Ngày nay, trong hoàn cảnh đời sống “đô thị hóa, chẳng ai dám nghĩ đến bày đám giỗ ông bà ở cửa hàng ăn uống, họa chăng lứa trẻ đặt thức ăn ở tiệm quá rồi đưa thức ăn về cúng ở nhà. Túng cùng, có thể đặt thức ăn, nhưng trong gia đình phải chế biến một món đặc biệt, gọi là sự chăm sóc của con cháu đối vơi người quá cố, để báo hiếu. Gọn nhất là thắp nhang ở nhà, rồi hẹn nhau đến ngôi chùa nào rộng rãi, cúng món chay cho gọn. Thêm tiếng tụng kinh, gõ mõ khá ấm cúng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:10:51 GMT 9
VIỆC TẾ LỄ
Trước tiên, không đi sâu vào vấn đề, ta thử định nghĩa vài danh từ thông dụng: - Thiên là Trời. Đã có sự tranh cãi từ hồi thế kỷ XVII, do những người truyền đạo Tây Phương. “Trời”, theo Á Đông là một người có tay, chân, mặc quần áo, bằng xương bằng thịt, theo trí tưởng tượng, hay là khái niệm mơ hồ? Tâm kêt luận, theo Á Đông, trời là khí Dương, nóng, đối lập với lạnh là đất. Dương và Âm tác động với nhau, tạo ra vạn vật, như vậy, khí Dương (Trời) là một dạng vật chất. Đất cũng là khí, Âm là lạnh đồng nghĩavới thấp. Đã xuất hiện hình tượng “trời tròn”, “đất vuông”, ở Đàn Nam giao. Lại có hình tượng một vòng tròn, bên trong chia ra như hai trái xoài, bên đen bên tắng (hoặc màu đỏ), thường vẽ ở mặt trống chầu đình làng, hoặc trên mũi ghe thuyền cỡ to, để trang trí. Thần, theo Huỳnh tịnh Của, là vị “thần linh, tài phép, phép thiêng, phép mầu”. Thiêng, cũng theo tác giả trên là đồng nghĩa với linh, linh thiêng là “không hình ảnh, không tiếng tăm, không ai ngó thấy, về phép thần linh”. Ông P. của đã theo Thiên Chúa Giáo Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh “Thần” là tinh khí, việc biến hóa bất trắc cũng gọi là Thần. Thường gọi “quỉ thần”, theo Đào Duy Anh, “người chết còn cái hồn, hồn ở dương gian là thần, hồn ở âm phủ là quỉ”. Quỉ không mang nghĩa là xấu như ma quỉ, tùy hoàn cảnh mà xấu tốt. - Thánh, “người hiểu thấu mọi việc, người học thức và đạo đức rất thâm cao, tôn xưng ông vua, cũng gọi là thánh”. Thí dụ như Khổng Tử là bậc thánh. Bậc thánh (nhân vật lịch sử có thật) hóa ra thần, linh thiêng (Trần hưng Đạo). Vị thần, nhân vật lịch sử, lắm khi nguồn gốc tầm thường, học hành ít nhưng khi chết có thể biến thánh với những điều linh ứng được dân gian truyền tụng. - Đền, Miếu (nói trại là Miễu) dành để thờ những nhân vật có thật, hoặc của huyền thoại. Miếu là cơ ngơi, rất tôn nghiêm, đồ sộ (như Thế Miếu ở Huế). Đền cũng vậy. Ở Nam Bộ, lắm khi miễu là nơi nhỏ bé, lần hồi nhờ doanh thu , nâng cấp về kiến trúc. Lăng Lê Văn Duyệt thời xưa ở kề cận ngôi miếu nhỏ là nơi thờ cúng, gọi (Lê Công Miếu). Nay nâng cấp, chẳng còn ai gọi là miễu Lê Văn Duyệt cả. - Đình thường là nơi thờ thần Bổn cảnh Thành hoàng (thành, theo nghĩa thành quách để giữ an ninh cho thị trấn, sau mở rộng phạm vi đến thôn xóm, với lũy nhỏ bao bọc, dễ tuần phòng). Từ là nơi thờ những vị thần, không phải thành hoàng Bổn Cảnh. Trong Nam, chữ Chùa được áp dụng cho chùa Phật, (gọi Tự, Quan Âm tự), nhưng đền miễu cũng gọi chung Chùa. Nơi thờ bà Thiên Hậu, ông Quan Công đáng lý gọi Miếu nhưng nhân gian cũng quen gọi Chùa Ông, Chùa Bà. Nên chú ý, Thần (chữ viết khác) như thần dân nghĩa là vị quan lại. Đình lắm khi là tiếng thông tục, khách ghé vào ăn uống, giải trí (Ngọc Lan Đình). Việc tế tự ở Đình miếu khác với Điện, hoặc Cung, nơi thờ các vị linh thiêng, nặng tính chất bùa phép, như Ngọc Hoàng Điện, Kiến An Cung. Điện cũng là nơi có thể chầu văn. Đối với nữ thần, ban tế lễ gồm người thuộc phái nữ. Tùy bối cảnh lịch sử, tùy xu hướng của người viết, từ xưa đã có nhiều quan niệm khác nhau, khi tán thưởng, khi bài xích. Thật ra là bài xích sự tha hóa của buổi tế tự nào đó không có nội dung, nặng về xôi thịt, khoa trương, (lắm khi còn là tham những), đặc biệt vào giai đoạn suy thoái của phong kiến. Mỗi tôn giáo, tùy địap hương, gặp khi thịnh khí suy do người hành đạo, vì vậy, người lãnh đạo tinh thần, thỉnh thoảng phải chấn hưng, như phong trào “chấn hưng Phật giáo”. Đình miếu tùy giai đoạn lịch sự cũng phải chấn hưng, vì sách xưa đã dạy: Luôn luôn đổi mới, ngày càng mới. Phạm Đình hổ, tác giả vũ Trung Tùy bút viết vào cuối đời lê, là nhà Nho, có óc thực tế, tin vào Khổng Tử nên đã có ý kíên vào buổi phong kiến suy vong: “Kinh thư nói: “ Có lúc tế thần thượng đế, lại nói “Duy Hoàng Thượng Đế”, nghĩa là “nghĩ đến đấng Hoàng Thượng Đế” . . nghĩa là vị thiên rhần rất tôn thì gọi là Thượng đế, tôn hơn cả thì gọi là “Thượng”, chủ tể khắp cả thì gọi là “đế”. Đã tôn không ai hơn thì chỉ có một Đế thôi. Phạm Đình Hồ phàn nàn cho rằng trong thực tế, vài chùa miếu lại bày ra nhiều vị cao hơn Thượng Đế, qúa nhiều tầng cao hơn, vô cùng tận cao, như vậy là hoang đường. chúng ta là người trần mắt thịt mà muốn phân tích những việc trên Trời, không tiếng không hơi , thì là chỉ dè chừng bắt bóng, mơ màng không sao đích xác được. Vì vậy những đức Khổng Tử mới không bàn đến việc “quỉ thần’. Thật ra, Khổng tử không bài xích việc cúng tế, nhưng khuyên đừng để mất thời giờ mà bàn bạc những gì không cụ thể. Ngài chú trọng tế lễ nhằm nhắc nhở tôn ti trật tự. Môn đệ nếu tò mò hỏi, ngài bảo nên lo chuyện của người đang sống, rồi hay nghĩ chuyện quỉ thần. Ngài khuyên “Qui thần kính nhi viễn chi”. Nghĩa là kính trọng thần thánh, người khuất mặt, không phủ nhận sự hiện diện của họ, nhưng la không lại gần. Phải chăng ngài khuyên đệ tử nên bớt thời giờ nghiên cứu chuyện viễn vong, vô ích cho xã hội mà cũng vô ích cho đạo làm người. Nên lo đối phó với bao nhiêu việc đối nhân xử thế, về sinh kế cấp bách. Trong tập tùy bút nói trên, Phạm Đình Hổ liên tục công kích những kiểu thờ cúng đáng gọi là mê tín dị đoan. Đến ngày giỗ ông bà ở gia đình, điều quan trọng là nhớ thương trọn đời, trong tâm can. Ông chấp nhận việc “xá” và “lạy” lẫn nhau, để giữ tôn ti, phép tắc trong việc giao tiếp, dầu là giữa người thân trong gia đình. Thực dân Pháp đến, mang theo nếp sống, nếp suy nghĩ Tây Phương, Phải chăng vì muốn giữ bản sắc dân tộc nên Phan Kế Bính ra công sưu tầm, soạn tập “Việt Nam Phong Tục”, viết có hệ thống, từng bài đăng báo, từ năm 1914. Vì đề tài của tập biên soạn này là “quan”, “hôn”, “tang”, “tế”, xin trích lục những đoạn liên quan đến việc thờ cúng thần Thành hoàng vẫn phổ biến, còn nhiều người hưởng ứng từ thành thị đến nông thôn. - “Xét về cái tục thờ Thành hoàng, từ đời Tam Quốc trở về vẫn đã có; nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu thành hoàng, ở Thành Đô, kế đến đời nhà Tống, nhà Minh thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. - “Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang bên nầy, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỉ thần đã thịnh hành rồi. “Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước thì mỗi phương có danh sơn đại xuyên, triều đình lập miếu thờ thần Sơn xuyên ấy để làm chủ tế cho việc ấm tí một phương mà thôi. Kế sau đó, triều đình tinh biểu những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đâu thờ đấy. từ lúc dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng thờ một vị để làm chủ tế trong làng mình. Làng nào sẳn có người anh hùng hào kiệt mất đi rồi thì thờ ngay người ấy, làng nào không có thì đi cầu lấy một vị thần linh khác, rước về mà thờ. Hoặc nơi thì vì một sự ngẫu nhiên cho là linh thiêng mà xin duệ hiệu để thờ. Té ra làng nào cũng có đền, xã nào cũng có Miếu. Đến cả những xã mới lập trước hết cũng nghĩ ngay đến việc thờ thần”. Theo đoạn văn trên, ta thấy đời xưa, đời Tam Quốc, chỉ bày ra cúng tế thần thánh khi cầu đảo, khi nắng, hạn, lũ lụt bịnh dịch tể . . Việc thờ Thành hoàng ngay ở bên Trung Hoa chỉ phát triển mạnh vào đời nhà minh trở về sau, đại khái từ 500 năm nay mà thôi. Phan kế Bính viết tiếp: “Qủi thần là việc u minh huyền viễn, cũng chưa dám chắc thế nào mà nói được. Nhưng xét hai chữ “quỉ thần” cũa thánh hiền đặt ra, thần là gì? Thần nghĩa là thần diệu. Qủi là gì? Quỉ nghĩa là quỉ tàng. Chỉ là nói cái lẽ tạo hóa huyền diệu, lúc đượng không tự nhiên hóa có, tự nhiên quá không, thế là về, cho nên gọi là “qủi”. Vậy thì nói cái lẽ như thế mà thôi ,chớ không phải có quỉ thần htực. Và thánh nhân có dạy rằng: “Vị tri sinh, yên tri tử. Vị trí sự nhân yên tri sự quỉ”. Nghĩa là sự sống còn chưa biết hết, đã biết thế nào được sự chết. Việc ăn ở với người còn chưa xong đã biết thế nào được sự chết. Việc ăn ở với người còn chưa xong, đã biết thế nào mà thờ quỉ thần”. Tác giả khuyên đừng thờ cúng nhảm nhí. Nhìn qua Tây Phương, tác giả ca ngợi tinh thần khoa học và sự hạn chế thờ cúng, cho rằng đó là lý do khiến họ có sức mạnh vật chất để xâm lược các nước khác. “Không có thờ thần thánh nào, không phải nhờ đến sức âm phù mặc hộ bao giờ, vậy sao mà nước nào (bên Âu Châu) cũng thịnh vượng, dân nào cũng phú cường. Mà Á Đông này thờ thần thành kính là thế, sao “thần” lại không phù hộ cho giàu mạnh bằng các nược đi? . ..Thiết tưởng chỉ những miếu trung thần nghĩa sĩ và miếu những bậc anh hùng hào kiệt thì mới đáng nên thờ. Mà thờ thì là để tỏ lòng kỷ niệm, không thờ mà để cầu phúc. Ta nên coi cái mếiu đó (của ta) như một tượng đồng của người Âu Châu. (Có lẽ tác giả muốn đề cập đến những pho tượng trưng bày nơi công viên, quảng trường thuở ấy bên Âu Châu) Những ý nghĩa dường như quả khích, vào giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ có lẽ ít được người ở nông thôn và ngay cả thành thị tán thành. Thực tế đã diễn biến. đình miếu vẫn tồn tại, nếu ta sử dụng vào mục đoàn kết toàn dân, đừng để tốn kém thời giờ, gây niềm tin vào truyền thống văn hóa. Tổ quốc ta vẫn là thống nhất từ xưa; thực dân Pháp đến, muốn chia ra ba nước, nhưng khó làm được vì cơ bản là chung một phong tục mà việc thờ thần ở đình làng phải chăng đã đóng vai trò quan trọng, với sức nặng về chiến lược. Tuy mỗi nơi mỗi khác, nhưng nội dung vẫn là một. Ngay ở Bắc, Trung, Nam Bộ, trong một khu vực nhỏ như tổng, huyện, việc thờ cúng, trang trí nghi thức tế lễ vẫn mang vài điểm dị biệt, những là về chi tiết mà thôi, không đáng tranh cãi vì mọi hình thức văn hóa phải linh động. Ngay trong những gia đình trong xóm, mỗi nhà bày kiểu bàn thờ ông bà hơi khác nhau, hoặc bàn ông Thiên. Về cơ bản, ta có tư liệu bậc nhất của học giả Nguyễn Vắn Tố nói về Đồ Thờ Cổ, đăng báo Trí Tân 1944. Vẫn là nguyên tắc “thờ người chết như phụng sự người sống”. Mỗi nhà với cái bàn thờ tổ tiên là một vũ trụ nhỏ. Tổ tiên ta cùng có nhu cầu thờ phượng gần giống như một vị thần. chẳng qua vì nhà cửa chật hẹp, tài chánh không cho phép. Nghèo mà phát lên làm giàu, có thể xuất tiền ra mua chức tước để trong nhà có bàn thờ với lọng, với cái khám sơn son thiếp vàng, bức hoành phi to, liễn đối rực rỡ; có tiền là cứ sắm, ngoại trừ vài nghi thức nhỏ chỉ dành cho vua chúa. Cụ Nguyễn Văn Tố phân biệt vài chi tiết ấy: - Có nhiều thứ hình hành dạng giống nhau mà ở đình và ở nhà có khác nhau ở chỗ nét vẽ đường chạm ít người để ý đến. Thí dụ cùng một câu đối ở một bức hoành, thờ ở đình thì chung quanh chạm rồng hoặc tứ linh, ở nhà thì chỉ chạm triện hoặc bộ đồ chiết chì. - “tứ linh” (ở đình làng) là long, lân, qui, phụng. Bộ đồ chiết chì ở nhà thường chạm là “bát bửu” (tám món quí), tức là bút ,sách, quạt, gươm, lẳng hoa, bầu rượu, đàn và ống sáo, túi thơ. Nhưng mỗi nơi một khác có nơi chạm pho sách, như ý, cuốn thư, lẳng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt vải, phất trần. Như ý là thanh ngọc, hình dài, giống như cái nấm linh chi mà các quan dùng để che mặt khi vào chầu. Hầu hết những món này, tượng trưng cho sự phong lưu, siêu thoát, nhàn rỗi của thế giới thần tiên, là món tiêu biểu cho mỗi vị trong “Bát tiên”. “Chiết chì” nghĩa đen là cành cây đã bẻ, mỗi món của bát bửu vừa kể (đàn, sáo, quạt . . ) vài vào một cành cây đã bẻ, cho nên gọi chiết chì bộ đồ . . - Một phân biệt khác: Ở đình thì chạm “Lưỡng long triều nguyệt”, hai con Rồng chầu hai bên mặt trăng hoặc chạm “Lục long ngự thiên” (sáu con Rồng bay lên trời). Phải chăng những con Rồng này tượng trưng cho lời mong ước cầu mưa thuận gió hòa, Rồng đem mưa, chống hạn hán. Lại có sự giải thích của những nhà khảo cứu rằng ngày xưa, gốc con Rồng là con thuồng luồng hoặc con cá sấu, khi cá sấu rống lên, nằm trên bãi phơi nắng là điềm sắp có trời mưa. Từ con sấu, con thuồng luồng (loại rắn biển, không có vẩy khác với Rồng) những họa sĩ thời xưa tượng tưởng ra con Rồng. Và hình tượng con Rồng được phổ biến khắp Đông Nam châu Á, đặc biệt ở xứ nhiệt đới, gió mùa, thí dụ như Ấn Độ với con rắn thần là hình dáng cong queo của sông Hằng, hoặc chiếc ghe đua khá dài, chạm trỗ khéo léo ở đầu và đuôi của Thái Lan hoặc Campuchia. (Chú thích của S.N) . Ở đình làng, chạm chim phụng (phụng hoàng) là điển “ngũ phụng hàm thư”, năm con phụng ngậm tờ thư. Cũng vài nàh nghiên cứu cho rằng chim phụng bắt nguồn từ chim trĩ của dãy Trường Sơn, ngày xưa đem cống qua Trung Hoa, họa sĩ lấy dáng con trĩ, mỏ nhọn, đuôi dài để vẽ ra con phụng được cách điệu hóa. Thông thường nhà chỉ đượcchạm năm con dơi (thay vì năm con phụng); Dơi là con “biên bức “ (theo chữ Hán) người Hoa phát âm là “phức”, gần đồng âm với tiếng “phước”, một kiểu chơi chữ. ở gia đình thường chạm phù dung và chim trĩ, hoặc hoa mẫu đơn với chim trĩ hoặc vịt lội ao sen, (gọi liên áp), hoặc mai điểu (chim sẻ đậu cành mai đang trổ hoa). Rồng, phụng tượng trưng cho vua và hoàng hậu ở cung điện; Đình làng (thần ở đình thay mặt cho nhà vua) không được thờ. Trong thực tế, cụ Nguyễn Văn Tố đã nhận xét, trong giai đoạn cuối nhà Nguyễn hoặc khi người Pháp đến thường không phân biệt, nhà dân tiếm dụng những biểu tượng “rồng phụng” của nhà vua, chẳng hề hấn gì (về pháp lý). Những “môtíp” trên đây chưa nói về cửa võng (bao lam), cái khung hình chữ U lật ngược, ở chính điện, hoặc đường vào chính điện, nối lên hai cây cột cho đẹp mắt. Cửa võng gây tác dụng, theo luật viễn cận, là thu hẹp không gian, khiến người từ ngoài nhìn vào thấy bàn thờ thần thánh oặc bàn thờ ông bà như ở tận trong sâu thẳm, gây cảm giác huyền bí thời hang động tiền sử với ngọn lửa thiêng mà dòng họ, bộ lạc phải thờ và gìn giữ, lửa tắt thì bộ lạc lâm nguy, thiếu ánh sáng, thiếu lửa để sưởi, nướng thịt . . Ngoài nguyên lý thờ người chết như thờ người sống, còn nguyên lý khác là “hữu công tắc tự chi”, thần có công đức với dân nên dân nhớ ơn, htờ cúng. Nhưng lắm khi, những đình thờ xưa nay vẫn còn dấu ấn thờ những thần bất chính, như thần ăn trộm, thần tà dâm (các thần này là người, nhưng chết hoang, bất đắc kỳ tử), oan hồn cứ quậy phá. Ta có thể lấy sự thờ cúng tế lễ ở đồng bằng sông Hồng làm chuẩn để so sánh với Nam Bộ. Ở vùng sông Hồng, mỗi làng thờ một vị Thành hoàng nhưng có làng thơ năm bảy vị, gọi “Phúc thần”. Cũng theo Phan Kế Bính (phúc) thần chia ra ba hạng. 1. Thượng đẳng thần là những thần núi, thần sông, hoặc các bậc Thiên thần, như phù Đổng thiên vương, Liễu Hạnh công chúa, các vị này có “sự tích linh dị”, mà “không rõ tung tích ẩn hiện thế nào” , còn gọi Thiên Thần. Đứng chung hàng với các thần nói trên, cũng được nhà vua phong “Thượng đẳng thần”, còn những vị thần có thật, như Trần hưng đạo, lý Thường Kiệt dày công gìn giữ đất nước, sử đã ghi chép. 2. Trung đẳng thần gồm những người làng thờ đã lâu, “có họ tên mà không rõ công trạng”, hoặc có chức tước mà không rõ họ tên “hoặc những vị thần có chức:” linh dị, tới khi nhà vua gặp lúc thời tiết tiết bất thường, bày “đảo võ thì thấy ứng nghiệm”, thì cũng được cứu xét, xem như “Trung đẳng thần”. 3. Hạ đẳng thần là những thần “không rõ sự tích ra sao, nhưng thuộc vào bậc chính thần” thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong vào bậc thứ ba. Như thế, từ xưa đã thờ nhiều vị thần mà chẳng ai rõ tung tích, lý lịch! Ngày nay, nếu chất vấn, ở Nam Bộ ta gặp rất nhiều trường hợp thờ một ông Thành hoàng “chung chung”. Ta chẳng nên thắc mắc vì thời xưa, triều đình phải ẫn theo lòng dân mà phong sắc, gần như ít thấy trường hợp do cấp trên áp đặt. Đại khái, muốn được dân cúng tế, vị thần ở bất cứ cấp bậc nào cũng phải được xem linh ứng, người dân đến, để “cầu được ước thấy”. Trường hợp Trần Hưng Đạo , ta đã biết, ngoài công trạng chống ngoại xâm còn được truyền tụng như giỏi về trừ tà ma. Nam Bộ là đất mới không có thần ăn trộm, chết hoang . . Nhưng chỉ là thần đại diện cho quyền uy, nhân nghĩa. “Thượng đẳng thần” ít thấy, có Nguyễn Hữu Cảnh người tổ chức hành chánh đầu tiên ở đất Đồng Nai, “Trung đẳng thần”, có Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên . phải đem “điềm linh ứng” thì cúng tế mới đông, khói nhang không dứt. Nguyễn Hữu Cảnh ở làng Châu Phú (thị trấn Châu Độc, An Giang) nổi danh linh ứng, nhưng Nguyễn Hữu Cảnh thờ chung với Trần Thắng Tài ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ Lớn) thì ít người cúng vái, mặc dầu Trần Thắng Tài chính là người Hoa nhiều thế lực, cầm đầu nhóm “bài Mãn, phục Minh” đến Biên Hòa vào thế kỷ thứ XVII. Lắm danh nhân tùy dày công giúp nước ít được đông đảo bá tánh đến. Ta không nên ngạc nhiên khi thấy mếiu Thủ Khoa huân, Nguyễn đình Chiểu ít được giới thương gia đến , vì giới thương gia chỉ cầu mong “tài lộc”, “mua may bắn đắt” mà thôi. Cụ Nguyễn Văn Tố nhận xét về đình làng cổ truyền, xin trích và tóm lược: Thường thì ở thôn quê xứ ta mỗi làng có một ngôi đình để thờ thần Thành hoàng và để hội họp dân làng, ngoài ra còn Miếu để thờ thần linh, Chùa và Am để thờ Phật. Ta lưu ý: Từ đời Minh Mạng về sau, thần Thành hoàng mới là thần chính thức ở công sở, tuy nhiên có vài trường hợp ngoại lệ. Lắm xã có chỗ riêng để gìn giữ, bảo quản sắc thần, gọi là Nghè. Khi cúng ở Đình thì đến Nghè thỉnh sắc, tế xong, đưa sắc từ đình trở về Nghè. Chức năng chính Đình làng là làm nơi hội họp, cứ mùng một hoặc ngày rằm, người lớn tuổi trong làng họp dân để nghe giảng về đạo đức, đặc biệt là những chỉ thị, chủ trương mới của nhà nước, các bản sao lục của huấn lệnh, do nhà vua ban ra được treo tại đình cho dân xem. Về sau, để đơn giản hóa, nhất là trường hợp làng nghèo, bày ra kiểu Đình bên trong là “Miếu” để thờ thần, và cúng thần dịp lễ hội, bên ngoài làm nơi hội họp. Hai cơ ngơi nhập một. Bên trong của Đình, đặt cái sập gỗ khá to, phía trên là cái ngai, trên ngai đặt cái “long vị”, tức là bài vị để chức tước vị thần. Trước cái long vị này, thường có một tấm kiếng hình tròn, tượng trưng cho cái “hốt” mà ngày xưa vị thần dùng che mặt, khi tâu lên vua. Phía trước ngai, đặt cái giá, dựng đứng ba thanh gươm, gọi “gươm vía” hay “gươm cẩn”. Việc thờ con ngựa một trắng một đỏ không phải dành riêng cho Quan công trong truyện Tàu, nhưng là nhắc nhở vị thần ngày xưa đã bày ra trận, đánh Nam dẹp Bắc. Ngoài Bắc, bày ra lệ đặt con ngựa gỗ trên bốn cái bánh xe, khi diễu hành rước sắc thắc thì đôi ngựa kéo theo, nếu thờ Hai Bà Trưng, bày ra hai con voi. Hai bên gian giữa đình, bày “lỗ bộ” và “bát bữu” “Bát Bửu” và “Chiết chì” đã giải thích ở phần trước, nay chỉ bàn về “lỗ bộ” mà có nơi gọi sai là “lễ bộ” (lễ nghĩa). Theo cụ Nguyễn Văn Tố, “bộ” là nhiều món gom lại cho đủ, mỗi món rời là bộ phận. “lỗ” là cái mộc, tức là cái khiên mang ra mặt trận nhằm chống đỡ gươm giáo, Khi diễu hành, cái khiên đi đầu. Lỗ (viết theo chữ Hán, khác chữ với “lỗ” là cái mộc, cái khiên) lại có nghĩa là nước mặn. Thời xưa, trước khi xe của nhà vua đi ngang qua, có quân sĩ đi trước để rảy nước mặt đường cho bụi cát đừng bay tung lên, làm dơ bẩn. Lỗ dẫn đâu đám rước nhà vua. Chi tiết này khá quan trọng. Lỗ bộ dành cho nhà vua, quân sĩ cầm những món tượng trưng đi theo hai bên. Thường là dẫn đầu, có biển “Tỉnh túc” (hoặc Túc tỉnh) và “Hồi ty”, nghĩa là người hai bên đường cần lưu ý, đi đứng cho nghiêm trang, và những ai cưỡi ngựa phải xuống ngựa, người tàn tật, ăn mặc lôi thôi phải tránh xa, bằng không, quân sĩ sẽ quất roi. Đời Lê Thánh Tôn, “lỗ bộ” gồm : “Qua (giáo), phủ (rìu), việt (búa), trang, phan , tinh, kỳ, mao, tiết (đại loại, sáu thứ cờ hình thức khác nhau) thêm quạt , lọng và quân sĩ. Ở đình, thường có hai thanh mác trường, hai ngọn cờ tiết mao, hai cái chùy (dùi bằng đồng) hai cái phủ việt (búa hoặc rìu), hai cái biển Tỉnh túc, Hồi Ty. Tùy theo đình mà bố trí lỗ bộ khác nhau, thí dụ lắm nơi bày gươm, tay văn (bàn tay cầm bút), tay võ (bàn tay nắm lại), thêm xà mâu, hoặc đau tứ nhi (kiểu có bốn nanh nhọn) hoặc đinh ba. Lại còn những tấm biển khắc chức vị, cấp bậc vị thần. Tùy theo đình giàu nghèo mà giữa sân cắm một hoặc hai lá cờ khổ to, gọi cờ đại, thêm cờ ngũ hành, gồm năm hoặc mười lá, mỗi lá đủ năm màu, thêu rồng. Ở chùa Phật, điện hoặc Cung theo đạo Lão, đồ thờ có khác (vì nặng về lên đồng lên bóng, xin không bàn đến)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:11:44 GMT 9
BÀN VỀ NGUỒN GỐC CỦA TẾ LỄ Ở ĐÌNH XƯA
Theo Phan Kế Bính, ở đoạn trên, chúng ta thấy có nhiều vị thần có sắc phong hoặc không sắc phong nhưng lý lịch mơ hồ, ấy thế mà được thờ cúng. Trường hợp này khá phổ biến ở vùng đất mới, Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long nhiều sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng là chức năng của vị thần, nhưng không ghi tên họ, thành tích lúc còn sống. Vài đình khoe là thờ Võ Tánh, nhưng xem sắc thần thì chẳng thấy tên chi, chỉ là chức vụ suông, đa số loại sắc phong vào năm Tự Đức thứ năm. Thần không tên, chỉ có chức năng tì làm sao mà thỉnh về để cúng tế? Chiến công thành tích giúp dân dựng nước như thế nào? Tại sao tế thần vô danh mà lại thỉnh mời, tùy địa phương, còn mời thêm khách như thần Mộc Trụ, bà Chúa Xứ, thần Giếng nước, Nam Hải Tướng quân (thần Cá ông) và quá nhiều vị thần khác, ông Quan Công được mời về cùng hưởng. Trong đình dành riêng một bàn, gọi bàn Hội Đồng, dành cho các vị nói trên, như là khách danh dự của làng. Muốn giải đáp, ta trở lại việc cúng tế ở một giang san nhỏ. Phép vua thua lệ làng. Triều đình cúng Trời Đất ở đàn Nam Giao thì làng xóm cũng tế “sơn hà xã tắc” (tiêu biểu cho tổ quốc) ở đình. Điều khác nhau là nhà vua, gọi Thiên Tử, con Trời, được quyền đứng trên đàn Nam Giao, nhìn lên Trời mà lạy, trong khi dân làng không được tế trực tiếp lên Trời, mà phải qua sự trung gian của người đại diện, được ủy quyền của nhà vua, là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Chỉ cần sự ủy quyền trên tờ sắc, phong chức vụ, đóng ấn là xong. Nói thô thiển hơn, dân làng tế Trời nhờ trạm Bưu điện, với người trưởng trạm được ủy quyền là giám đốc Bưu cục, người dân không tò mò tên tuổi của người giám đốc ấy. Ta chẳng thấy nhiều đình được sắc phong “Đại Càn”, thần đàn bà, hoàng hậu và công chúa, ấy thế mà dân gian cứ xem là “ông thần”. Ông thần là trưởng ngành bưu điện. Nơi đất mới, được sắc thần là điều quí vô cùng, nhưng thời xưa, với lối làm việc quan liêu, đơn thỉnh nguyện của làng xã mới thành lập khó chuyển đạt nhanh chóng ra triều đình Huế. Chờ ngày lành tháng tốt, các quan mới tâu lên, sắc gọi về làng qua nhiều giai đoạn phức tạp, tốn thời giờ, lại thêm tiền đút lót. Đã từng nghe nhiều làng xin sắc thần, chờ nhiều năm, đành cử đại diện ra thẳng ngoài Huế khiếu nại gian truân và tốn kém. Trường hợp đặc biệt, vị thần chưa có sắc phong dân làng vẫn thờ phượng trước, chờ đợi kiên nhẫn. Thoại Ngọc Hầu trấn thủ Vĩnh Thạnh, cai quản vùng An Giang xưa, đất đại rộng, gồm An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Trẻ, đã góp phần đào kinh Vĩnh Tế, vậy mà đợi đến sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, vua Khải Định (do Pháp dựng lên) mới phong sắc. Lý do: Vua Tự Đức không phong thần là phải, vì Thoại Ngọc Hầu có con rể dính líu trực tiếp vào cuộc khởi binh Lê Văn Khôi. Trường hợp Tả quân Lê Văn Duyệt, từng là Tổng trấn Gia Định thành (thành là đơn vị hành chánh to, gồm nhiều trấn, cả Nam Bộ và Bình Thuận), ngày nay hiển linh. Theo lời truyền tụng nhưng chẳng có sắc gì cả! Tả quân bị bản án tử hình , sau khi mất, không bị Minh Mạng đào mả là may. Tự Đức chỉ dám làm công việc là xóa tội cũ. Như vậy là can đảm rồi, nên nhớ Minh Mạng là ông nội của Tự Đức! Lại còn trường hợp Phan Thanh Giản. Dân làng vẫn thờ torng khu vực thuộc chủ quyền của người Pháp, nhưng Phan Thanh Giản mặc dầu đã chết vẫn bị tước đoạt chức vụ hồi đời Tự Đức. Phải chờ đến Khải Định, Bảo Đại, đời sau mới dám phong thần, tạm gọi là “sửa sai” sự quá khích của ông cha thời trước. Đây là trường hợp thần không có sắc phong, vì nhiều lý do, nhưng không vì đó mà bảo việc tế lễ không có nội dung. Dân ta dùng từ ngữ “thờ thần Vọng”, ngửng mặt về phía vị thần sắp được phong. Còn gọi mạnh dạn là do “dân phong”. Dân với sự ngưỡng vọng, hâm mộ là điều kiện quyết định. Cần điềm linh ứng “cầu được ước thấy” vị thần gián tiếp giúp dân trong việc làm ăn , tìm sinh kế, nhất là qua giai đoạn chiến tranh dai dẳng. Đình mà thoát nạn bọm đạn phá hủy thì dân bảo ông thần quá linh thiêng. Nếu như hư nát vì bom đạn thì bảo vì đình bị sập nên ông thần đi nơi khác “tạm trú”, không còn ở địa phương, chừng nào cơ ngơi chỉnh đốn lại thì thần họa chăng mới “trở về” Lý do thầm kín nhất, theo tôi vẫn là người dân trong cộng đồng thôn xóm muốn có biểu tượng, chứng minh tư cách của xã mình, nói đúng hơn là phẩm cách của xã. Như trường hợp người đứng tuổi, con cái bắt đầu lớn khôn, muốn thấy bàn thờ ông bà của mình, tại nhà, dầu đẹp dầu xấu. Không thể dùng bàn thờ của người khác dòng họ để thay thế bàn thờ cho nhà mình. Vả lại, người dân không thể lập bàn thờ Trời Đất trong nhà mình, phải thờ ở đơn vị nhỏ nhất là đình. Nên giải thích về trường hợp trước sân nhà, mỗi gia đình đặt cây trụ, bên trên là tấm gạch to, ) nếu sẳn cây cổ thụ, đặt bàn thờ nhỏ) với cái lư nhang tượng trưng, Gọi bàn thờ “ông Thiên” (nói trại là Thông Thiên) để thờ “Thiên quan Tứ phước”, vị sứ giả, cấp bậc nhỏ, dạng “nhân viên liên lạc” của nhà Trời thỉnh thoảng xuống trần gian để kiểm soát những hành vị tốt hoặc xấu của từng gia đình mà thôi. Chức vụ khiêm tốn thì chỉ xứng đáng với ơc ngơi đơn giản. Chẳng ai bất kính đến mức thờ Trời quá đơn sơ. Còn miễu Thổ địa đặt ở góc sân, khiêm tốn, với cái mái che nhỏ bé (hoặc ở ngoài ruộng) nhằm thờ ông Thổ địa, ông này chẳng phải là Đất, theo nghĩa rộng, nhưng là vị thần nhỏ cai quản cái nền nhà hoặc mấy sào ruộng mà chủ nhà làm chủ, cá thể, nhưng liên quan đến những nhà hoặc phần đất của chủ khác. Sự linh thiêng là điều nên đặt ra không né tránh được. Thử giải thích theo giả thuyết của đạo Nho, vốn trọng thực tế. Qủy thần, tức Âm và Dương cứ tương giao tương khắc, thấy cụ thể quỷ thần là điềm linh ứng là do tấm lòng từng người. Thần thánh biến hóa, huyền dịu “mặt nhìn không thấy, tai lắng không nghe” (thị chi nhi phất kiến, thính chi nhi phất văn) vật trừu tượng nhưng luôn luôn vẫn có. Trong bài văn tế đọc ở đình làng, đã đặt vấn đề, để tùy người cảm thông. Thí dụ như bài văn tế Bổn Cảnh Thành hoàng ở xã Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre), từ năm 1902, theo bản dịch của Thái Hữu Võ: - Càn Khôn dồn khí tốt, sông biển đúc người tài, chịu tinh hoa trong Trời Đất, mắt nhìn dường chẳng thấy, tai lóng cũng chẳng nghe, được khí tốt nơi máy âm dương, chói rạng như thấy tượng thấy hình. Đạo tuy cách, chốn mờ chốn tỏ, hễ dốc lòng cầu thì ứng hiện liền. Thành thì dễ thông, dầu sáng, dầu tối, đã có lòng thì thấy linh thiêng. Không nghe, không thấy được, khi mờ khi tỏ, khi sáng khi tối, nhưng nếu “được khí tốt” thì thấy tượng thấy hình. Điều kiện tiên quyết là Lòng Thành. Có lòng thành thì thấy sự linh thiêng, điềm linh hiện ra chập chờn. Không lòng thành thì không thấy gì cả. Tóm lại, “Thần” l2 khí Âm khí Dương hòa hợp, có thể hiện ra chập chờn với kẻ cầu khẩn với lòng thành. Lòng thành là gì? Theo cụ Phan Bội Châu, torng quyển Khổng Học Đăng, “thành” là có lòng nhân, “thương người như thể thường thân”, lòng vị tha. Người giàu lòng vị tha, giữ lòng nhân ái thì nhất định cảm thông, trong phút giây với thần thánh. Hữu cầu tắc ứng – Không cầu thì không có ứng. Đây là hình tượng của kẻ thật lòng muốn bắt làn sóng điện, từ đài phát thanh. Vặn cho đúng tần số, chịu lắng nghe thì có thể nghe, nghe thấy. Muốn hiểu thế nào cũng được. Tế lễ nhằm tạo điều kiện, cùng nhau “vặn đài thu thanh” đúng giờ, không sai lệch, chú ý kỹ, có lòng thành thì dường như nghe, và có thể còn nhắn gởi nguyện vọng lên Trời. Cấp Triều đình bày tế Nam Giáo, ở thôn xã thì tế thần Thành Hoàng, cũng theo một hình thức, nhưng với triều đình thì long trọng, với nhiều chi tiết, tốn kém, còn ở thôn xã thì đơn giản hơn. Nội dung vẫn là một. Con người là Nhân, Trời là Thiên, Đất là Địa. Thiên – Địa – Nhân là hình ảnh của vũ trụ. Như đã nói, vua là con Trời, vua tế Trời chẳng khác nào con cung kính tế cha, thừa ủy quyền của cha mà chăm lo việc nước. Khi xảy a điềm bất tường như thiên tai, dịch tể, nguy cơ chiến tranh, vua phải tự nhận tội là thiếu tài thiếu đức, khiêm tốn với Trời. Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, giữa khoảng trống không, “Giao” là tế Trời. Trời hình tròn, Đất hình vuông. Không xây tòa nhà to rồi vào đó mà tế (như ngôi đình), nhưng đứng trên một cái đàn, đắp bằng đất, ở phía Nam kinh thành, vì vậy, gọi “Đàn Nam Giao”, dưới hình vuông, trên hình tròn. Trên hai tầng vuông rồi tròn này, đặt ra nhiều bàn thờ dành thờ các vì sao, mặt trời, mặt trăng, mưa, gió, sấm sét, thêm bàn thờ núi, thờ lăng tẩm của các vì vua trước. Lại qui định màu sắc của tô chén đựng rượu. Cúng Trời, chén màu sanh; cúng Đất, chén màu vàng. Trong dân gian, dùng giấy màu, khổ to để thay thế cho vải lụa nhưng đối với tế Nam Giao, dùng toàn lụa thứ tốt, nhuộm màu theo qui định. Nhạc vụ cũng phức tạp hơn, với chuông, khánh. Thêm đội múa văn, đội múa võ. Bản nhạc cũng qui định sẳn. Vật hy sinh, để tế, gồm trâu, heo dê. Con trâu là quan trọng nhất, như trường hợp con heo ở đình làng, lựa con đen tuyền, cho ăn sạch sẽ từ ba tháng trước. Cạo lông, mổ bụng rửa sạch sẽ, thụi trâu với lá quế, đốt củi thông cho đỡ hôi khói. Nếu ở đình làng bày lễ Túc Yết thì trước khi lễ Nam Giáo, các quan lo diễn tập trước, một hình thức phúc khảo. Áo mão được các quan mặc vào, làm vệ sinh, phủi bụi bậm. Diễn tập vào buổi sáng, để rồi đên đến sẽ cử hành lễ chính thức. Cử hành nhạc, vũ sinh múa như thật, các quan chịu trách nhiệm cũng “xướng” như thật. Trâu làm thịt sẵn, đặt trong tư thế quì xuống. Các bàn thờ cúng cũng chuẩn bị đủ những tế phẩm, kiểm soát kỹ kẻo sơ sót. Lễ cử hành vào khoảng nửa đêm. Quân sĩ mặc lễ phục màu đỏ cầm đèn sáp, đứng hầu hai bên đường. Về đêm, bầu không khí trở nên trang nghiêm, màu sắc của lễ phục như hài hòa, lung linh qua ánh ến. Trên nguyên tắc, nhà vua là chánh tế, nếu vua còn nhỏ hoặc vì lý od khác thì ủy quyền cho một vị quan lớn tuổi, cấp bậc cao. Trước đó, nhà vua vào phòng riêng, ăn chay ba ngày, giữ thân xác trong sạch, không được gần cung phi mỹ nữ. Các quan đứng vào vị trí, đặt lễ vật, rồi làm lễ như ở đình làng đã mô phỏng theo, nào rửa mặt, rửa tay, theo lời xướng. nhà vua từ từ đi bộ, bước lên đàn, nhạc trỗi lên, nhà vua nhìn lên Trời rồi day về phía sau, giấy lát, như để thỉnh mời vong linh của đấng tiên vương. Vẫn là dâng va tuần rượu, nhạc trỗi lên rồi có lời ca hát của các ban múa hát. Sua rốt, đem lông trâu và máu trâu chôn xuống đất (như ở đình làng) . đáng chú ú ở buổi lễ quan trọng này, vẫn dùng lời xướng quì lạy giốngn hư ở đình làng, riêng nhà vua thì tay cầm hốt bằng ngọc, có một vị quan đứng gần, hô lời xướng riêng, với tiếng “Tâu” đứng đầu (ngụ ý lời xướng của lễ sinh chỉ dành cho các quan, vua thì trân trọng hơn, có người xướng riêng). Sau khi kết thúc, gọi Lễ Thành, vua ra về, các ngọn nến trên bàn thờ lần hồi tắt, hàng rào danh dự của binh sĩ cũng giải tán, tắt nến. Buổi tế Nam Giao diễn ratrong phạm vi hẹp. Tuyệt đối cấm không cho người không phận sự đến dự, hoặc nhìn từ phía xa. Ta hiểu nhà vua thay mặt cho thần dân làm phận sự rồi, dân đến cũng vô ích, lại gây mất trật tự, bầu không khí kém trang nghiêm. Giải thích như thế cũng chưa đúng hẳn. Điều cốt lõi phải chăng là nhà vua bày ra tế lễ Nam Giao nào phải nhằm đóng kịch, khoa trương uy thế với dân ! Tế là để dành cho Trời chứng giám. Vì chỉ như thế. Khác hăn ngày nay, vì tâm lý đồng bào thôn xóm biến đổi theo chiều hướng tốt là việc tế lễ bớt pầhn khép kín, một số đồng bào, nâhn sĩ vẫn có thể đến chứng kiến. Quay video cũng cần, để “bình dân hòa” nghi lễ ở đình làng, nhưng lắm khi người quay video lại lạm dụng chức năng, trở thành người … gầnn hư đạo diễn. Ở nhiều đình, vì tôn trọng lệ xưa, việc tế lễ diễn ra vào giờ Tí (khoảng nửa đêm) như nhà vua tế Nam Giao; vài người đến chứng kiến là được, không cần bá tánh. Lắm khi trong lúc tế lại đóng cửa cái, xua đuổi bớt những người muốn quan sát, cùng thông cảm. Hạn chế số người dư là đúng, nhưng không nên thái qua. Vì vậy, ngày nay khi thôn xóm, chợ làng được đô thị hóa, lắm nơi làm công việc hợp lý là bắt đầu tế vào buổi sáng, để quan khác đến tham dự dễ dàng, miễn là giữ trật tự. Đáng chú ý đối với họ Mạc ở Hà Tiên, sắc phong “Trung đẳng thần” cho Mạc Thiên Tứ. Và được phong liên tục, từ đời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức , ban đầu là xã Minh Hương Lạc Thiên , sau đến xã Mỹ Đức đời thiệu Trị (xã đã thay tên gọi). Xã Hạnh Thông Tây ở Gò Vấp quả là thành lập sớm, ở đất xưa, ấy thế mà sắc phong Đương Cảnh Địa Thần, cũng cấp vào năm Tự Đức thứ năm, như những làng khai thác trễ hơn. Trước đời Gia Long đã có xã này rồi. Bởi vậy có lẽ theo lời thỉnh cầu của địa phương, không muốn đổi chức vụ vị thần, vẫn giữ như hồi trước đời Minh Mạng, phong là “Đương Cảnh Địa Thần”. Ta hiểu đây là đợt phong sắc cuối cùng, về sau, thêm sắc phong đời Khải Định, Bảo Đại. Vua Tự Đức phải chăng thấy nguy cơ mất Nam Kỳ Lục Tỉnh vào tay Pháp nên phong từng loạt, và đổi những sắc phong cũ, để cho dân phía Nam nếu mất nước vẫn còn giữ được tinh thần nhớ vua tự Đức, giữ truyền thống tế tự, chờ ngày phục thù. Và qua lịch sử ta thấy việc làm đời Tự Đức qủa là có hiệu năng tốt. Nhiều đình làng khoe nhiều sắc phong, trường hợp những làng xã sát nhập, không đủ khả năng xây cất lại và bảo lưu. Vì là đất mới của nhà Nguyễn, người dân lần hồi chẳng ai rành chữ Hán, miễn là sắc có đóng cái ấn hình vuông của ông vua là được. Người Pháp đóng dấu tròn mà người dân không thích. Nhiều tờ giấy đóng ấn vuông, nhưng thật ra là những bằng khen tặng cho người có công thời xưa, hoặc cha mẹ vị công thần nào đó. Tự bản thân nó, sắc là công văn, là lệnh của nhà vua, nhưng nội dung của lệnh ấy là gì? Ghi là phong chức vụ Bổn cảnh Thành hoàng, có tên người càng tốt, đa số là không tên người, quí hơn hết vẫn là danh nhân, nhân vật lịch sử được phong “Trung đẳng thần.” Và sau này sắc ấy không bị thu hồi (trường hợp con cháu vị công thần nầy về sau tham gia phản loạn chống Triều đình)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:12:18 GMT 9
Nói chung, ta nhìn trong thực tế thấy: - Người dân bình thường, nhất là dân lao động, (ít biết chữ Hán, hoặc không biết) khi vào đình miếu không cần hiểu nội dung những câu chữ trong liễn đối, bài vị, hoành phi, thậm chí chẳng lắng tai tìm hiểu bài văn tế mà lắm khi các cụ sao chép, tam sao thất bổn, cãi vã từng chữ. Về cách bố trí những bàn thờ, nào tả ban hữu ban đến bạch mã, thái giám, thần nông (miếu ngoài sân), ít ai chú ý, phân biệt vị này với vị kia như thế nào. Bá tánh nói chung vào thời buổi bận rộn sinh kế và tâm thần không mấy yên ổn, cứ tin vào truyền thóng của đình, linh thiêng hay không linh thiêng, theo kiểm chứng của bản thân mình hoặc do ông bà người lớn tuổi kể lại, theo dư luận. Lắm khi họ đến nơi nào đó để cúng tế chỉ vì nghe đồn nơi ấy có nhiều người từ xa đã đến. Bá tánh tin vào truyền thống của đình miếu mà các cụ lớn tuổi thời trước hoặc hiện nay đang chăm sóc từng chi tiết. Vì vậy uy tín của ban tế lễ rất quan trọng. Cần nghiên cứu đình miếu qua khía cạnh mỹ nghệ như kiến trúc, chạm trỗ, hoặc giá trị tồn cổ (cái chuông, cái trống, cây đa xưa mấy trăm năm . .) để đến kết luận về chuyên môn. Nhưng lắm đình có cổ vật mà bá tánh không tới lui. Cổ vật lắm khi là những món không hồn, trong khi vài ngôi đình mới tạo lập sau này, chẳng có hiện vật xưa nhưng bá tánh thích đến, để cúng tiền bạc. Quan trọng bậc nhất của sinh hoạt Lễ hội theo tôi vẫn là lúc diễn xướng, phải thao tác để đánh giá cái bối cảnh và bầu không khí sống động. Muốn hiểu một đoàn hát, một đội bóng đá nào phải chụp ảnh, giới thiệu lý lịch từng cầu thủ. Phải là hoạt náo với kỷ luật, múa đao, ca hát, là giành bóng, đá cho lọt lưới, là chạy theo đối phương. Cây đàn cò, đàn kìm, cái trống tự nó xem nhàm chán. Nó chỉ là cái trống, cây đàn khi có nghệ nhân khởi động, phát ra âm thanh trầm bổng, theo kỷ luật chớ không bừa bãi. Màu vàng son tráng lệ của hoành phi, liễn đối chỉ lung linh, nói lên được điều gì khi ánh sáng của nến, khói hương bao phủ để sáng tạo ra một thế giới nửa hư nửa thực, hài hòa, trong tiếng nhạc, với sức sống cụ thể thuần nhất. Các nhà dân tộc học ngày nay đã nhất trí rằng muốn tạo sự sống động cho đền miếu, thậm chí cho một khu giải trí thì cần Âm thanh và Ánh sáng, (tôi thêm Màu sắc). Gẫm lại, đó là sự đúc kết để tìm nhưng mẫu số chung cho lễ hội từ xưa đến nay, của bất cứ dân tộc nào. Đó là nét linh động, độc đáo của từng nền văn hóa trong kho tàng văn hóa của cả nhân loại. Tìm nét gọi là nhân bản, phân biệt sinh hoạt con người khác với sinh hoạt của chim muông cầm thú, cây cỏ, sỏi đá. Ánh sáng, yếu tố ấy người xưa đã biết mà không dùng lý luận dông dài. Ánh sáng của ngọn nến trên chân đèn, những đốm lửa đỏ ở đầu cây nhang, thêm làn khói bay lan tỏa từ thấp lên cao. Cũng là ánh lửa và khói của giấy tiền vàng bạc. Phải là ánh sáng của lửa (lửa thật), không phải ánh sáng của ngọn đèn điện. Đèn điện chỉ là thứ ánh sáng tạm thay thế, dùng trong việc cúng tế để tiết kiệm, những ngày thường, sáng và chiều. Âm thanh của trống, của chiêng, hoặc chuông, của cái mõ bằng cây, của nhạc lễ với trống cơm, đàn dây, kèn thổi, chụp chõa, tiếng gõ của sanh, phách. Lại thêm tíêng xướng ê a của lễ sinh. Màu sắc của lễ phục, ta thích nhất màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn. Tồn cổ, bảo quản cổ vật, để cho nó đóng ten, phai mờ là quan niệm của Tây phương. Càng ten rỉ, càng đẹp, nhất là những pho tượng đồng. Ở xứ ta, đối với dân gian, phải mới mẻ, với nét hiện đại, thí dụ như nền gạch bông, bộ lư, con hạc được lau chùi, liễn đối sơn phết thì mới là đẹp, mới đem sự may mắn dịp cầu an, cầu phước . . Bầu không khí trong gia đình phải toát lên sự nghiêm túc, tươi sáng, lạc quan vì người đến lễ hội ai cũng cầu mong sức khỏ, may mắn, thịnh vượng về vật chất. Thời xưa cũng như thời nay, cúng tiền để trang trải sở phí của lễ hội, để trùng tu cơ ngơi, thậm chí cúng một cách hồn nhiên. Với sự hiện diện của mình, như góp phần đông đảo cho lễ hội. Người giàu đến, người nghèo, ăn mày cũng đến, gợi hình ảnh sinh động cả thôn xóm. Phân tích từng chữ nghĩa của sắc thần, sự khéo léo của bức hoành phi, ý nghĩa cao siêu hoặc nội dung sáo mòn của câu đối là phận sự riêng của nhà nghiên cứu. Một sự nghiên cứu công phu, biệt lập, lắm khi do người không thích lễ nghi cúng bái đã dày công tổng kết. Các vị này “dị ứng” với việc quì lạy trước bàn thờ thần, lắm khi lại chế giễu. Lại còn việc phân tích thứ tự từng tiết mục, nơi này có “ế mao huyệt” rồi đem chôn ở góc sân, nơi kia đổ xuống sông. Hoặc Quán tẩy (rửa tay, rửa mặt) trước hay sau tiếng chiêng, thời gian cúng, nửa khuya hoặc tám chín giờ sáng. Lại bắt bẻ đọc văn tế trật chữ Hán. Hoặc chê bai trình độ học thức của người đánh trống đánh chiêng…”Đình nào, thầy nấy”, những sai trái quá đáng thì cần điều chỉnh lại. Đồng bào đến, vái lạy, lắm người ra về lập tực, vì còn dành thời giờ lo sinh kế. Đem lễ vật quá khiêm tốn mà còn rề rà, chờ nhập tiệc thì khó ổn cho lệ xã giao, nói chi đến lương tâm. Trở lại vấn đề: Ta khẳng định là Âm thanh, Ánh sáng, Màu sắc quen thuộc, hoặc đã quen từ torng tiềm thức vẫn có thể gây tác động tâm lý, điều mà các nhà dân tộc học gọi là “ký ức tập thể” của dân tộc hoặc của nhân loại. Nó không bao giờ xoá được, chỉ là chìm lắng. Dịp nào đó, nhất là khi con người trở về già, cái chết gần kề, hoặc khi đắc tài đắc lợi bất ngờ, hoặc gặp việc “họa vô đơn chí” thì dấy lên. Ánh sáng, đối với con người khi chưa phát minh ra điện thì xuất phát từ ngọn lửa, hoặc từ tia sét trên bầu trời, với âm thanh lúc ấy là tiếng sấm. Ta nghĩ tới người tiền sử, trong hang động nhảy múa quanh ngọn lửa thần: Lửa đem sự sống, lửa tắt là điềm nguy vong, đói rét. Đứng về lịch sử nhân loại mà xét, việc phát minh ra lửa đã đánh dấu sự tiến hóa vượt bậc, lửa tạo ra văn minh. Trước khi có lửa, con người lượm hái trái cây, ăn tươi nuốt sống, dùng dụng cụ bằng đá đẽo. Với lửa, con người được sưởi ấm, trong hang động và có thể rời hang động cất chòi, đốt lửa trong chòi để nướng thịt, tìm quặng, rèn khí giới rồi tha hồ săn thú, đánh giặc giữa người và người vì quyền lợi. Lại nhờ lửa mà làm ra đồ gốm thô, uốn cây cho cong, làm cung rồi rèn tên, chế ra nhạc khí. Âm thanh do con người tạo ra vì nhu cầu, bước đầu là tiếng hú của người cùng đi trong rừng. Rồi tạo ra cái trống, bịt da thú, xem như phương tiện truyền thông. Lửa đốt lên, làm tín hiệu cứu giúp, báo nguy. Trống phải chăng là nhạc khí đầu tiên, thúc đẩy và điều tiết điệu ca múa? Nhiều nhà dân tộc học khẳng định: Mọi lễ hội, trong thời đại nào cũng dùng đến lửa để gây hào hứng, khiến con người trở về nguồn (Thế vận hội bày ra lễ chạy đuốc từ đỉnh núi Olympe của Hy Lạp đến nước đăng cai). Ngày tết, đêm giao thừa có nhang, đèn, pháo, (lửa, âm thanh và ánh sáng). Đêm giao thừa cả gia đình quây quần bên nồi bánh chưng đang sôi, với bếp lửa, thanh niên đốt lửa trại, ban đêm. Đây cũng là lửa của ngọn nến làm lễ “Lên đèn” của đám cưới, lễ Gia quan, hoặc nghi thức đám tang. Còn một thứ vật tư cụ thể khác đi đôi với Âm thanh., Ánh sáng trong lễ hội, mà tế lễ ở đình miếu gọi là “Hy sinh”. Mãi đến nay, ta vẫn quen nói “hy sinh, tế thần” Từ điển Đào duy anh nêu rõ: “hy là súc vật để tế thần. Sắc thuần tuý, không tạp, cũng gọi là “hy” (hy sinh, súc vật dùng để tế trời đất). Bỏ cả tự do, quyền lợi sinh mệnh của mình làm một việc gì (se sacrifier)” Ta lưu ý đến con thú có sắc thuần túy, không tạp. Việc tế thần, với một sinh vật không phải là chuyện riêng ở nước ta, thời buổi này. Ta nhớ bên Hy Lạp, thời xưa, vẫn bày ra lễ tế thần, giết một người, một con thú. Nhiều bộ lạc lại bày ra động tác rưới máu con thú hy sinh, xem như dòng máu thiêng. Hãy còn lệ rưới máu dê, khi đúc quả chuông đồng, hoặc lấy máu con bò, con dê rưới vào men đồ tốm, để đạt được màu sắc kỳ lạ cho sản phẩm, làm biến đổi chất men.
Việc tế lễ ngày nay, tuy thần ở vài đình miếu mới được phong sau này, vẫn theo công thức đời nhà Châu bên Trung Hoa, trước Tây lịch xa xưa. Chẳng qua là về sau thêm bớt với chi tiết hợp lý. Nghĩa là việc tế tự đã có trước nhà Chu, khi chế độ phong kiến chưa định hình rõ nét, đời Huỳnh Đế với chăn nuôi súc vật. Âm thanh, Ánh sáng, Màu sắc tự nó không đủ để trở thành lễ hội ở đình làng mà đối tượng về tâm linh của bá tánh là cầu mong uy lực của vị thần Thành Hoàng, không tên, nhưng dường như có thật, ẩn hiện trong giây lát. Lễ hội, nhưng cốt lõi là lễ tế, vui chơi, như ăn uống, vui đùa với bạn bè là việc phụ. Muốn cho thần chứng giám, ngoài hình thức áo quần chỉnh tề, nhang đèn, chiêng trống còn con “hy sinh”, nay thường dùng là con heo, khá giả hơn là con bò, thường là bò con, bảo đảm tinh khiết. Ai cũng khẳng định: Heo tuyền sắc, nghĩa là không lai tạp về giống (nay thì dễ dãi hơn về con heo). Chọn heo, nuôi cho ăn đầy đủ, tắm rửa sạch sẽ trong nhiều ngày. Rồi gần nửa đêm (tùy đình, tùy thời gian), làm lễ gội là “Tỉnh Sanh”, (hoặc Tịnh Sanh) theo nghĩa “gạn cho trong sạch”. Muốn hạ sát con heo ấy, tối thiểu người chủ lễ phải mặc khăn đen áo dài, con heo được khiêng tới, vài thanh niên phụ lực. Chủ lễ dùng rượu đổ vào đầu, vào miệng con heo, tượng trưng, thắp cho nó vài cây nhang, đốt vài lá vàng bạc, sau đó, thọc huyết, liệu thấy yếu sức, đâm không ngọt thì trao cho một thanh niên làm công việc ấy, dưới sự chứng kiến của chủ lễ. Sau đó, lấy chút máu, chút lông gáy (tiêu biểu cho toàn thể con heo), đựng trong cái tô, lấy giấy vàng bạc đậy lại, đem lên bàn thờ thần. Ta thấy có sự trân trọng đặc biệt đối với con heo “hy sinh”. Lắm nơi, ngoài việc tuyển chọn con heo tuyền sắc, còn đòi hỏi điều kiện con heo có bộ lông gáy thật cao và cứng. Theo sự suy luận của các nhà dân tộc học sự kiện nầy là dấu ấn còn rơi rớt lại của thời bộ lạc, khi phát minh ra lửa. Tình cờ gặp lửa khi cháy rừng rồi mồi lửa đem về (hoặc được lửa khi sét đánh vào thân cây mục) người trong bộ lạc mừng rỡ, gìn giữ trong hang động, có người chuyên môn canh chừng, lửa tắt là đời sống của bộ lạc gặp khó khăn lớn trong sinh hoạt. Rồi con người tìm ra lửa, muốn là có ngay, với nhiều thứ dụng cụ: dùng sơi dây cứa vào gốc tre, bên cạnh là mớ bùi nhùi: hoặc đập hai cục đá nhỏ, thứ đá cứng gọi là đá lửa. Tạo ra lửa với tư thế chủ động. Khoa học. Rời hang động, con người bắt đầu chăn nuôi trên đồng cỏ thay vì rượt bắt từng con thú, huy động nhiều người. Thử trồng tỉa, để thu hoạch, trồng với hạt giống, thay vì hái lượm, gặp đâu bứt đó. Lại còn câu cá. Bộ lạc có xu hướng ly tán, mỗi người một người, dân số ngày càng đông. Để gìn giữ chủng tộc của bộ lạc nguyên thủy, hàng năm gom lại, bày ra lễ tế. Họ phải nhớ nguồn gốc là vật tổ và người tù trưởng. Vài nhà nghiên cứu đã đi vào giả thuyết nghe khó tin, nhưng có thể tin: Bấy giờ, trong buổi tế lễ bày ra đánh trống, hò hét, múa nhảy quanh ngọn lửa thần, sau đó, người tù trưởng sẳn sàng chịu hy sinh. Người trong bộ lạc làm lễ, giết tù trưởng, chia mỗi người một miếng thịt sống, uống chút máu, nhằm mục đích giữ cho thuần giống, không lai tạp. Thịt và máu của tù trưởng trở lại un đúc sự sống của bộ lạc. Về sau, lại thay đổi. Người tù trưởng muốn được sống để hưởng thụ, bèn cho pháp sư làm lễ, hỏi thần linh, thần linh cho phép bắt một người trai mạnh khỏe của bộ lạc mà tế, làm món “hy sinh” chịu xả thân. Rồi lần hồi cải cách, bắt một tù binh rồi dùng con thú thay thế con người. Lễ “Tỉnh sanh” phảng phất sự tôn trọng con heo, vì nó thay mạng cho con người . Ở Châu Phi, cách đây không lâu, ta nghe nói đến việc giết người để tế thần, nay không còn nữa. Thay vì ăn thịt, uống máu tươi, sau này bày ra lệ
đem huyết con heo tế thần mà chôn quanh miễu Thần Nông, nhằm gây kích thích, cho mùa màng sung túc, như một thứ phân bón, tượng trựng. Dấu ấn việc dùng con người để đóng vai “hy sinh” thời xưa hãy còn thấy rõ trong tư thế con heo tế thần ngày nay. Con heo đặt trên cái tợ, bốn chân dang ra, thẳng thớ, như tư thế người đang quý lạy, ngang miệng con heo cầm khúc cây ngắn, hai bên gắn ngọn đèn cầy. Hoặc tư thế con gà luộc cúng chư vị nào đó, hai cánh gà tréo lại, như chấp tay, hai chân gà như quý. Lại còn dấu ấn ở co dao phay, cắp thẳng xuống lưng con heo trước bàn thần, chứng tỏ là sinh vật , còn sống, được giết để dành riêng cho buổi tế chớ không nơi nào khác. Con heo quay, lắm khi cũng được cắm vào lưng một ngọn dao phay, tượng trưng, Theo Phan Kế Bình (Việt Nam phong tục, đã dẫn), ta lưu ý chi tiết, sách viết kohảng 1914, bài đã đăng báo: “Còn như việc hiến tế đồ vật, ngoài Bắc Bộ chỉ hiến rượu chớ không hiến các món đồ ăn , vì ta hay để toàn sinh mới là thành kính. Ở về Nam Bộ, thì món đồ ăn gì cũng có hiến”. Ta hiểu, ở Bắc Bộ vào đầu thế kỷ thứ 20, không dọn cỗ trên bàn thờ, món ăn nấu nướng rồi, mà để con heo sống trước bàn thờ chính, Phan Kế Bính giải thích: Làm như vậy để tỏ lòng thành kính (hiểu và giữ tục lệ xa xưa). Nhưng để bảo lưu chút ít vang bóng xa xưa, torng Nam Bộ, nhiều đình bày ra lệ nấu cháo lòng, cháo huyết và lòng của con heo “hy sinh” nấu cho ban tế lễ ăn, cháo lòng chủ yếu vẫn là huyết và lòng, hai món tượng trưng cho toàn thân con heo. Đến khi lệ kiếng thịt tùy theo ngôi thứ trong làng, người này được cái đầu, người kia được cái nọng, đùi. .. thường là thịt sống, để đem về nhà, cho người trong gia đình tùy ý pha chế, ai được hưởng phần thịt kiếng ấy, quả là những người dân danh dự của làng xóm. Cúng tế xong, bày ra cỗ, tiệc tùng, ăn uống, lắm khi làm thêm ở bếp hai ba con heo, gà vịt, nếu hoàn cảnh cho phép. Dân làng đến ăn, như là quyền lợi chánh đáng của mình, chia sẻ vinh dự với mọi người, xin tạm dùng một từ ngữ, theo nghĩa bóng, là kiểu “uống máu ăn thề”. Ăn để thề nguyền đoàn kết với mọi người trong thôn xóm. Mọi người torng làng được hưởng “lộc” của thần thánh, để tăng cường sinh lực, thêm may mắn, trong việc làm ăn, không ăn là không hứa hẹn gì cả với thôn xóm. Theo chủ quan củatôi, sau khi tham khảo vài tư liệu, việc tế lễ có nội dung tượng trưng là thề nguyền mãi đoàn kết, vì cùng chung một nguồn gốc, từ thuở hoang sơ. Dùng âm thanh, ánh sáng, màu sắc là điều mà Á Đông ta mặc nhiên đã làm nhưng không thể giải thích, vả lại, các tôn giáo khi hành lễ vẫn chú ý đến các yếu tố trên để gây không khí tôn nghiêm. Nhìn lại cách bố trí của đình làng, dầu lớn dầu nhỏ, ta vẫn còn thấy sự tinh tế của người xưa. Những cửa võng (bao lam, có đình bố trí đến hai cửa võng) nhằm đóng khung, tạo ra chiều sâu như một dạng hang động trong chánh điện.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:13:15 GMT 9
DIỄN TIẾN CỦA LỄ KỲ YÊN
Ở đồng bằng sông Hồng, hồi đầu thế kỷ,sinh hoạt ở đình làng đa dạng. Đọc Phan Kế Bính, ta thấy nào Kỳ Yên, Kỳ Phúc (cầu an, cầu phước), Nhập Tịch. Ở Nam Bộ, nói chung không nghe đến Cầu Phước, tùy truyền thống để lại, do nguyên quán của dân địa phương hoặc của ban Tế tự mà bày ra cúng lớn, cúng nhỏ, thêm vấn đề « tiếp thị », nơi tập trung nhiều bạn hàng, tiểu thương… Đình Bình Tân, trước chợ Bình Tây (Chợ Lớn) có thể tạm làm điển hình. Ngoài ra, còn đình Minh Hương Gia Thạnh (quận 5, đườnh Trần Hưng Đạo) thời trước đã tập trung nhiều thân hào am hiểu sinh hoạt cổ truyền, nay đang trên đà phục hồi. Ban Quí Tế, hiểu là cúng tế dịp Tam Ngyên, Tứ Quí (ba ngày rằm và bốn mùa) lo chắm sóc phần trùng tu, tổ chức tế lễ. Xưa, ở đình, gọi Hương hội, Hương chức đình, với từng chức vụ trong hội, Ban tuy khác nhưng gần giống nhau, ở các đình. Xưa kia, đứng đầu là ông Hương Nhất, thành viên gồm Hương Nhì, Hưong Ba, Hương Tư, ĐạI Tổng Lý chấp sự, Chánh Hồi, Phó Hồi, Đông Hiến, Tây Hiến, Tổng Lý, Hiệp Lý, Hương trưởng. Công việc của ban Tế lễ khá bề bộn, nhất là ở đình qui tụ đông đảo khách và bá tánh. Đây là những ngày lễ của đình Bình Tiên, thời trước (theo âm lịch) : - Tháng Giêng : Tết Nguyên Đán, mùng 1, mùng hai, mùng ba. Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân (Quan Công). Ngày rằm, 16, 17,lễ Kỳ Yên (cúng Thần). - Tháng Hai : mùng 2, vía Phưóc Đức Chánh Thần, một dạng, ông Bổn, Thần Tài. - Tháng Ba : Thanh Minh. Ngày 19, vía Hậu Thổ. - Tháng Năm: Mùng 5 và 6, vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu. Bà nầy , theo truyền thuyết, được phong cho thần núi Bà Đen (Tây Ninh). Mùng 10 và 11, tế Bổn Cảnh Thành Hoàng (thần sở tạI). Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân. - Tháng Sáu: ngày 24, vía Quan Thánh Đế Quân. - Tháng Bảy: ngày 17 và 18, Vía Ngũ Hành Nưong Nương. - Tháng Chín: mùng 9, vía Quan Thánh Đế Quân. - Tháng MườI: Mùng 10, cúng Thần, cử hương chức đình nhiệm kỳ mới. - Tháng Chạp: 25, đưa Chư vị. Ngày 30, rước Chư vị. Đại khái, tùy địa phương. Nhiều nơi, ở nông thôn, bày lễ Hạ Điền, Thượng Điền, hoặc Cầu Bông (cầu lúa trúng mùa, bông trái xum xuê). Nhiều đình nặng về cúng Quan Thánh,dấu ấn, có lẽ thời trước của “Hội kín” chống Pháp, suy tôn Quan Công là vị Thần linh ứng nhất. Có nơi bài thêm lễ vào mùng 7 tháng Giêng, dịp tiệm quán khai trương đầu năm. Hoặc mùng 9, mùng 10 tháng Giêng (mùng 9 vía Trời, mùng 10 vía Đất). Rằm tháng Giêng là rằm đầu năm, Thượng Nguyên, cúng lớn. Đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ lớn), thời trước 1945 vì sung túc, gồm nhiều thân hào nhân sĩ nên dịp cử Ban Tế lễ cuối năm khá long trọng. Bàn cãi sôi nổi, biểu quyết, không ai đủ phiếu thì bầu lại trong vòng nhì, vòng ba. Mở đầu, buổi trưa ăn bánh Hỏi (ngụ ý hỏi han, xem chừng ai ứng cử). Nếu bầu chưa xong, bàn cãi tốn thì giờ, bày ra ăn bánh Xèo (xèo, nghĩa đen là xẹp, héo, xì hơi như trường hợp quả bóng mất hơi). Bầu xong, bày lệ ăn Suông (kiểu báng canh, con bánh co nhồI thịt, tôm). Suông, hiểu là suôn sẽ. Phần việc nặng nề không kém là tiếp đón các hội của đình bạn, lắm khi từ xa đến. Đón nhận lễ phẩm, mời ban đạ diện hội đình bạn vào chánh điện để tế. Nói chuyện vui, mới ăn cỗ, rồi sau đó, khi đình bạn gặp dịp cúng tế, phải cử đại diện đến mà đáp lễ, thường là bằng hoặc là trội hơn món lễ của bạn, trường hợp đình chủ nhà khá giàu (nhang đèn, tiền mặt). Trong số bá tánh, thường cử vài phụ nữ đứng tuổi phụ giúp về giao tế, hoặc làm trưởng ban lo thết đãi. Theo cỗ lệ, trừ trường hợp đình thờ nữ thần, trong ban Tế lễ chọn toàn là đàn ông. Nhưng từ nhiều năm, việc phân biệt ấy lần hồi trở nên linh động, họa chăng tỏ thái độ dè dặt, đề nghị những phụ nữ có uy tính, đứng tuổi vào ban Tế lễ, nhưng không cho trách nhiệm niệm hương hoặc làm Chánh tế, Bồi Tế. Đình Thần Hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Tuy theo đạo Khổng, ăn mặn, uống rượu nhưng dịp Kỳ Yên, để làm vui lòng bá tánhvá cũng để đoàn kết dân trong xóm, vã lại, những vị trong ban Tế lễ thường « kính Phật, trọng Tăng « nên cũng rước một nhà sư đến tụng kinh cầu an. Trước ngày lễ, bày bàn thờ Phật, thường vào buổi tối, trên bàn thờ chưng bày hoa, trái cây, nước trà thỉnh nhà sư tụng kinh. Vị Chánh tế hoặc Bồi tế phải quỳ xuống nghe kinh, ít nhất cũng vài đoạn. Lắm nơi, đủ phương tiện, thường là buổi chiều, bày cúng Thần Nông, với xôi, thịt, bánh qui trước miễu. Cúng luôn ông Hổ, nếu có thờ, thường là cái bệ gạch, không nóc. Đáng lưu ý : Thần thánh, chư vị ngày xưa không quen những thức ăn quá mới, bởi vậy, cúng với rượu đế. Trước khi tế, lấy vãi đỏ phủ cái mõ, cái chiêng, cái trống ; bên cạnh ba nhạc khí nầy, cắm ngọn nến, đốt cháy, phải chăng gợi sự quan trọng lửa thời xưa, âm thanh và ánh sáng rất cần thiết. Kiểm soát các người trực tiếp lãnh trách nhiệm xem khăn áo chỉnh tề chưa. Ngoài việc trang trí thường lệ, ở làng, thậm chí ở thành phố, cần trình con heo « hy sinh » trên cái tợ nhỏ, tợ có dáng đặc biệt, như hai mái nhà chính giữa cao, hai bên hơi thấp, nhờ vậy tư thế con heo (đã thọc huyết trong lễ Tỉnh sanh) trông trang nghiêm hơn. Lắm khi,nếu giữ tục xưa thì khoét bên vai con heo một cục thịt nhỏ,tượng trưng thịt sông, đặt trên cái dĩa, cúng trên bàn thờ chính. Đề phòng hôi hám, lắm khi đem con heo trụng sơ trong nước sôi có không luộc. Nhiều nơi còn giữ lề đặt miếng sườn heo sống (gói trong bao giấy hoặc ny lông) kế bên những món đã nấu chín, ở bàn thờ phụ. Việc Tế lễ gồm nhiều tiết mục, tùy miếu hay đình làng, miếu thờ danh nhân không có mõ vì mõ thuộc về Thành Hoàng, chăm sóc trực tiếp việc làng thời xưa. « Mõ« , chữ Hán gọi là Thác, theo Đào Duy Anh, là miếng gỗ để đánh canh ban đêm. Đọc Phan Kế Bính, thấy chiêng và trống mà thôi, không thấy ghi cái mõ. Đình ở Nam Bộ, đánh mõ gọi là Kích thác. Phải chăng đây là bảo lưu một lệ hồi xưa, nghe tiếng mõ thì dân làng hiểu là họp dân hoặc báo động trôm cướp, chức năng ấy khi Pháp đến, giao cho hương chức hội tề, về hành chánh ; đình làng còn giữ vai trò tinh thần tượng trưng mà thôi. Diễn biến của buổi cúng đình ở Nam Bộ được đơn giản hóa lần hồi, đại khái là vẫn ba tuần rượu, sau đó « Thụ tộ « hoặc « Ấm tộ « , hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đã cúng mà uống, thay cho dân làng. Buổi lễ lớn, quan trọng nhất là « Đàn Cả « , trước đó có lệ Túc Yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diẽn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên thưòng. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc Yết cho bớt kinh phí. Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi : Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chọ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lâp đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. « Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính tóm tát những chi tiết và lời xướng của lễ tế vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quyển « Non Nước Khánh Hòa «, Nguyễn Đình Tư đã ghi nghi thức ở Nam Trung Bộ. Gần đây, cụ Đỗ Văn Rỡ đã ghi lại nghi thức (đã cải biến) ở Lăng Ông Bà Chiểu. Đây là ngôi miếu có cơ ngơi rộng, với kinh phí tế lễ tưong đối đầy đủ, giữ vài nét chính để gây không khí tôn nghiêm, trong hoàn cảnh Sài Gòn - Chợ Lớn đô thị hóa. Xin ghi lại để tham khảo. Về cơ bản, trong cả nưóc, nghi thức nhau nhưng « đại đồn tiểu dị « . Những lời xướng sau đây do lễ sanh (học trò lễ) « xướng » lên, theo giọng riêng của hát bội (ta còn gọi đờn ca hát xướng). - Bài ban ban tề, đứng vào vị trí của mình. - Tịnh túc thị lập, giữ im lặng. - Chánh tế tựu vị, Chánh Tế bước đến trưóc bàn nghi. - Bồi tế tựu vị, Bồi Tế (trợ lý) bước đến bàn nghi. - Củ sát tế phẩm, đích thân xem xét nhũng lễ phẩm trên từng bàn, cho biết đủ thiếu, sơ sót chi tiết nào chăng. - Ế mao huyết, đếnhai cáitô đựn huyết tươi và lòng heo, nâng lên, đưa ra ngoài mà chôn.Nếu không làm tịt heo, trường hợp « tế chay « , không xướng mục này. Nhưng theo ý tôi, khó chấp nhận việc giải thích như thế. Món « hy sinh « không có, thì lấy gì thay thế cho « tam sinh « . Tế thần, dùng rượu, không gì thay thế được. Phải chăng rượu là món mặn ? Có thể giải thích vì lý do vệ sinh nên không chưng bài con heo đã cạo lông trước mặt quan khách, có thể gây ấn tượng « hôi hám ». - Thiểu thối , hoặc lễ nhượng, hai vị chánh và bồi tế xá, lui ra ngoài. - Chấp sự viên tựu vị, mấy vị chấp sự xếp hàng đi đế chánh điện. Chấp sự là người thi hành những công tác qui định, thí dụ như đánh trống, đánh chiêng. PhảI là người trong ban Tế lễ, khăn đen áo dài. - Nghệ quán tẩ sở, lễ sinh cầm ngọn đèn đi trước, hướng dẫn các vị trong ban đén cái giá, sẵn thau nước và cái khăn. Giữ mặt mày, tay chân sạch sẽ trở thành nguyên tắc. - Quán tẩy, thò tay vào thau nước, rửa mặt tượng trưng. - Thuế cân, lấy khăn mà lau mặt tuợng trưng. - Chỉnh y quan, sửa lại khăn áo cho chỉnh tề, tượng trưng. - Phục vị, trở lại vị trí cũ,trong chánh điện. - Chấp sự viên chấp kích, lễ sinh đưa cái mâm trong đó đặt sẵn cái dùi trống, dùi đánh chiêng, mõ. Chấp sự viên lãnh cái dùi, xá kính cẫn. - Chấp sự viên giả các tư kỳ sự, chấp sự viên đến vị trí, gần cái chiêng, cái trống hoặc cái mõ. - Khởi cổ lịnh, đánh ba hồi trống lịnh, hiểu đây là cái trống nhỏ, cầm tay, có cán. Thời xưa, vua hoặc quan đại thần đi ngoài đưòng,có tên quân hầu cầm loại trống nầy, chạy phía trước , mở đường. Tiếng trống nầy giúp ta tưởng tuợngvị thần đang ở trên đưòng vào đình miếu, đã tới ngoài cổng rồi. - Khai Thái bình thanh (thinh), đánh mõ ba hồi. Tôi hiển « Thái bình thinh « là những hồi mõ thongthả, bình thuờng, báo hiệu những ngày thái bình trong địa phhưong, khác với nhịp điệu của tiếng mõ báo động thời chiến. - Khởi minh chính, đánh ba hồi chiêng. - Khởi đại cổ, đánh ba hồi trống. - Chinh cổ tề thinh, chiêng và trống đánh ba tiếng, hết chiêng rồi trống. - Nhạc sanh tựu vị, đem hai cái trống lễ, loại trống đẹp, đặt trên cái giá ba chân, có thắp nến trên cái giá, trước cái trống. Hai trống nầy đặt bên tả, bên hữu ban nghi. - Nhạc sanh tác nhạc, đánh trống lễ, hai trống ăn rặp với nhau, trong khi những nhạc công ở bên vách thổi kèn, đánh đàn dây, bản Nghinh Thiên Tiếp Giá, dành tiếp rước nhà vua, tưởng tượng như vị thần đang ngự trên bàn thờ, thay mặt cho nhà vua để nhận lời thỉnh cầu của dân làng. Bản nầy khá dài, dứt một hồi, có tiếng trống cơm vỗ đơn chiếc, nghe độc đáo, rồi kèn, đàn, chập chõa lại hòa tấu. - Niệm hương viên tựu vị, người niệm thya mặt cho ban Tế lễđến trước bàn thờ, đ&ung ra, phải làm lễ quán tẩy, rữa mặt, chùi mặt tượng trưng, chỉnh đốn lại khăn áocho ngay ngắn, - Phục vị, người niệm hương quì xuống. - Phần hương, lễ sinh đốt ba cây nhang cung kính đưa lên trán, xưóng lên : tạ Thiên, tạ Địa, cầu chúc những vị lãnh đạo dân tộc mạnh khỏe, tạ Thánh Thần, nguyện gìn giữ nhang khói trong đình miếu, lễ tế mãi phát huy trang trọng.Thời xưa, ngươì lãnh đạo dân tộc là nhà vua. - Thượng hương, trao ba cây nhang cho lễ sinh cắm lên bàn thờ. - Phủ phục hương bình thân, bỏ tư thế quì, đứng thẳng người. - Cúc cung bái, xá rồi , quì lại. - Hưng, rồi bái ba lần. - Hưng bình thân, đứng thẳng người. - Lễ nhượng, lui ra ngoài, rới chiếc chiếu giữa điện. - Chánh tề tựu vị, viên chánh tề vào chiếu, đứng thẳng người xá. - Bồi tế tựu vị, viên bồi tế bước vào chiếu. - Đông hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bàn thờ phía Đông bưóc vào chiếu, trình diện. - Tây hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bán phía Tây đến trình diện , cả hai trở lại chỗ củ. - Đông tây các tư kỳ phận, hai viên chấp sự đến bán thờ phía Đông và phía Tây. - Nghệ hương án tiền, học trò lễ bưng đài đựng lư hương nhỏ đến chiếu giữa. - Giai quỳ, chánh tế, Bối tế và hai vị Đông, Tây hiến quì xuống. - Phần hương, hai tay nâng nén hương lên, bỏ vào cái lư nhỏ. Hiểu đây là dót trầm hương, trong lư nhỏ sẵn than đỏ rực, không trầm hương thứ thiệt thì dùng trâm hương vụn, gói lại với giấy, từng thỏi nhỏ. Hương cháy lên, rồi nâng ngang trán. - Thượng hương, Lễ sinh nhận cái lò hương, lui trở lại vị trí phía sau, rồi tiến vào chánh điện. - Phủ phục hưng bình thân, chánh, bồi tếĐông hiến, Tây hiến đứng dậy, rồi hưng bái, lại bốn lần. - Hành sơ hiến lễ, dâng tuần rượu thứ nhất. học trò lễ đem đến một khay rượu, với cái nhạo và chén trong khi xướng Nghệ tửu tôn sở. - Chước tửu, châm rượu vào chén, nửa chén. - Tấn tước, nâng chén rượu lên ngang trán. - Hiến tước, học trò lễ lui về phía sau rồi theo nhịp trống, tiến lên bàn thờ. « Tước » là kiểu chén đựng rưọu bằng đồng, thời cổ, thời đại đồ đồng, tước có ba chân ngắn và hai cánh ngạnh ; vị thần (hoặc quan to) cầm tước với ba cái chân, đứ lên miệng, ngữa mặt mà uống,nhờ hai cái ngạnh chỏi vào má mà rượu không đổ… Kế đến phần đọc văn chúc, hiểu là văn tế, ca ngợi công đức, cầu xin ơn của vị thần. Trước đây, có ngưởi chuyên đọc chúc văn, với lời lẽ ê a, rất khó nghe, như là kiểu đọc kinh. Nay thì caỉ cách, đọc dễ nghe hơn. Nghi lễ cứ diễn tiến, đến tuần rượu thứ nhì, gọi « Á hiến « , rót rượu nâng chén ngang trán, rồi « Hiến tưóc « . Đến tuần rượu thứ ba, gọi « Chung hiến lễ « . Có thể bài ra việc dâng bánh, dâng trái cây, dâng trà. Để chấm dứt, còn một lễ quan trọng là « Ẩm phước « , uống phần rượu trên bàn thờ, cúng nãy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi « Thụ tộ « ăn phần thịt đã cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhãn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh. Xong rồi, đốt văn tế, tuyên bố « Lễ Thành », tức là bế mạc. Học trò lễ xếp hàng, lạy thần, bá tánh lạy sau. Nói chung, khi đa số dân làng sống với nông nghiệp, sau vụ mùa hoặc chờ vụ mùa, chờ trời mưa, ai nấy rảnh rỗi, cúng ba tuần rượu (sơ hiến, á hiến , chung hiến) kéo dài hơn tiếng đồng hồ, với những động tác trang nghiêm,chậm rãi đưa rượu đến Chánh tế, rót rồi, lui ra phía đằng xa, để chậm rãi tiến lên bàn thờ, cứ lặp đi lặp lại dễ nhàm chán đối với người tham dự đang bận rộn sinh kế, thời nay. Nhưng không thể nào rút ngắng được, phải đúng ba tuần rượu ! Và mỗi tiết mục dâng rượu, trà, phải lạy bốn lạy, không bớt được, quá nhiều lần quì lại. Nếu rảnh rang, khi lớn tuổi, người tham dự có tể thư giãn tinh thần, trong bầu không khí đầy ánh sáng lung linh của nến, giọng thoi thúc liên tục của nhạc lễ, thêm màu sắc và bước đi cách điệu của học trò lễ. Ở đồng bằng sông Hồng, lễ sinh mặc khăn đen áo dài, đi chậm rãi, nhưng ở phía Nam, lễ sinh tiến tới, thối lui như vũ điệu, lắm khi lễ sinh cắm cờ sau lưng (điệu võ, khác với văn). Học trò lễ lần hồi cải cách dáng đi, đại khái mỗi hàng gồm hai người, người đi trước nâng ngọn đèn sáp, người thứ nhì nâng khay rượu, chân đá, nhún nhảy theo những bài bản xuất hiện từ sau năm 1930, thí dụ như chân đặt theo chữ Đinh (chữ Hán), rồi mở ra chữ Bát, kết thúc, đá chân lên, như chữ Tam. Lễ sinh mặc áo, đội mão như người thi đậu tú tài ngày xưa, chân mang giày ủng như võ tướng, trong khi nhạc trỗi, nhịp trống hướng dẫn bước đi cho rập ràng. Phải chăng điệu đi đứng của học trò lễ ở đình làng mô phỏng phần nào dáng đi của vũ sinh, trước kia, múa dành cho ông hoàng, bà chúa thưởng thức riêng ở cung điện, rồi du nhập vào phía đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Nai, trở thành món ăn « bình dân« cho dân gian, khi khẩn hoang. Những người cố cựu, bảo lưu truyền thống xưa, bảo đó là sáng kiến của Tả Quân Lê Văn Duyệt, khi ngài làm Tổng Trấn cai quản toàn Nam Bộ. Như ta biết, Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng không thích nhau, vì mối thù riêng : Là công thần, họ Lê đứng về phía hoàng tử Cảnh (đã chết), chọn con hoàng tử Cảnh lên ngôi, khi Gia Long mất, không đồng ý chọn Minh Mạng. Minh Mạng trù dập bằng cách đưa họ Lê vào Nam, không cho ở Huế, e gây bất trắc về quân sự và chánh trị. Vào Nam, họ Lê mở mang đất đai, tổ chức cho dân khẩn hoang. Lại ban hành chính sách ngoại thương rộng rãi, như lấn quyến thách thức Minh Mạng. Ở Huế, có múa hát riêng cho vua chúa và hoàng tộc thưởng thức như là đặc quyền, đặc lợi ; vào Nam Bộ, Lê Văn Duyệt với quyền hạn lớn như vị Phó vương cũng trự xem mình đặc quyền đạc lợi không kém, và bình dân hóanhững thứ giải trí của giới quý tộc. Tham khảo « Nhưng đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam » do Đỗ Băng Toàn và Đỗ Trọng Huề biên soạn, thấy có múa Lục Cúng, ghi lại kiểu đi theo hình các chữ Hán. - Dâng bình hương, hcân đi theo kiểu chữ Nhật. - Dâng bình hoa, đi theo kiểu cái hoa nồi, một cánh (không rõ chi tiết hoa một cánh nầy – S.N) - Dâng đèn, chân đi theo hình chữ Á. - Dâng trà, theo hình chữ Thủy. - Dâng quả, theo hình chữ Vạn. - Dâng thực (thực phẩm) theo kiểu chữ Điền. Về các bản nhạc dùng trong dịp tế lễ ở đình, có sự cải cách cho hợp với tình huống, trang nghiêm ra trang nghiêm, vui tươi ra vui tươi, dùng nhạc tài tử, nhạc hát bội và làn điệu hát dân gian. Dịp cúng tổ ngành nghề (thợ Bạc, hát Bội), thậm chí cúng cá Ông (cá Voi), vẫn tuân thủ nguyên tắc ba tuần rượu, không ai dám làm khác hơn, họa chăng thêm thắc chi tiết nhưng gọi với từ ngữ khác. Lễ Tất hoặc lễ Thành, lắm khi nói trại hoặc nói sai. Lại bài ra cúng những hội viên trong ban Tế quá cố, học trò lễ đi thật chậm, nhạc cử điệu Ai. Ở Nam Bộ, lễ hội lớn vẫn là Kỳ Yên, những lễ khác diễn ra ở đình thường nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu của đồng bào địc phương, như mùng Bảy tháng Giêng, hoặc đêm Giao Thừa. Ở đồng bằng sông Hồng, theo Phan Kế Bính ghi lại có : - Tế Kỳ Phúc, với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở Nam Bộ, làm lễ cáo yết(Túc Yết ở Nam Bộ), rồi Tỉnh sanh để giết con « hy sinh ». Tế chủ, Bồi Tế tựu vị đọc chúc văn, Thụ Tộ, nhạc sinh tựu vị, sơ hiến, tiến tưóc, đọc chúc, Lễ Tất, cũng như quán tẩy, thuế cân, vân vân. Đáng lưu ý vì mang tính thống nhất đến tận mũi Cà Mau. - Trà Nhập tịch, các bô lão lau thần vị,rước thần vị về đình, cử hành đại tế rồi xướng ca, có ả đào, kép hát chúc mừng, reo vang tỏ ý khoái trá, với đám đông phụ họa, reo ba lần, hát chèo mãi đến hôm xuất tịch, gọi « rã đám » (giải tán). Nội dung lễ « Nhập Tịch » được nêu rõ : « Lễ nầy cũng đồng nghĩa với cách ăn Tết đầu năm, nghĩa là dân mình khó nhọc, vất vã quanh năm thì phải có một dịp ăn uống vui chơi. Vậy nhân cái tục sùng thượng quỉ thần, bày ra trò nầy trò nọ, nhưng rút lại chỉ để cầu vui mà thôi… Xét ở luật lệ bản quốc (có lẽ luật Gia Long – S.N.), trong làng hát xướng thờ thần chỉ được phép làm một ngày một đêm, nếu là quá thì lấy luật vi chế mà luận tội. « Đã có luật cấm như thế, sao mà không thấy mấy nơi tuân hành đưọc ». - Đại hội. Nếu Nhập tịch mỗi năm mở một lần thì Đại Hội cứ năm muời năm,hoặc năm bảy mươi nămmới mở một lần. Nếu đúng như lời Phan Kế Bính, có lẽ những người 50 tuổi lắm khi suốt đời không được thấy lễ Đại Hội ! Lễ nầy chỉ cử hành khi dân trong làng liên tục trúng mùa, hoặc được phong sắc thần (như vậy là có nhiều đình không có sắc thần) hoặc là tu sửa đình miếu (đại tu). Cũng là một kiểu nhập tịch nhưng qui mô lớn hơn, vui chơi suốt tháng mới dứt, « Tháng Giêng là tháng ăn chơi «. Đình miếu sửa sang cho đẹp, mỗi người giàu hay nghèo sắm bộ quần áo mới, đường cái trong làng treo đèn. Trướ nửa tháng, người đồng văn mỗi đêm dạy cho đàn em kỷ thuật đánh trống, điệu trống rước, đổ hồi, trống tế ; tập tành khiêng kiệu , đánh thanh la. Đến lễ rước nước, tìm giếng nước tốt, hoặc ra giữa sông, múc thức nước tinh khiết nhất để lau chùi tấm thần vị, dùng nấu nước pha trà khi cúng. Lễ Gia quan cử hành, nhằm bắt buộc nhưng người khiêng kiệu và lãnh trách nhiệm khiêng trống, chiêng (gọi đô tùy) phải giữ thân thể sạch sẻ, ăn chay từ mấy ngày trước, họ vào phòng mặc quần áo riêng, với màu sắc rực rỡ, đặc biệt là mang một thứ khẩu trang, đề phòng mùi ô uế tứ miệng có thể làm ô uế cái thần vị. Lễ Phụng nghinh hồi đình cử hành vào hừng sáng, nưng chuẩn bị trước khá lâu, tiếng trống thúc giục liên hồi để ai nấy đủ thời giờ sẳn sàngkhiêng kiêẹu từ miếu ra cổng. Kiệu dừng ở cổng tam quan để chờ các xã kết nghĩa đến, sắp hàng rồi cùng đi, đường kha xa từ miếu đến đình, cần thay đổi ngươì khiêng kiệu. Bọn đô túy mang nhiều thứ cờ đủ máu sắc tiêu biểu cho tứ ling (long, lân, qui, phụng) , cho bốn phưong Đông, Tây, Nam, Bắc, thêm trống chiêngtượng con ngựa bằng gỗ, lắm khi có voi trận (đan bằng mây)với lọng tán, gươm giáo. Các nữ nhạc côngvỗ tróng cơm. ỗi kiệu có tám người khiêng và tám người trù bị để tiếp sức. Đây là trường hợp một làng có một đình nhưng có bảy, tám đền miếu thờ thần thánh khác nhau. Ta thấy đô tùy mà trong Nam gọi trại ra « đạo tỳ « là người khiêng vác, không riêng gì cho đám tang, nhưng cũng cho lễ hội. Khiêng kiệu đòi hỏi kỹ thuật riêng, khi lên dốc, qua đồi cần được giữ thăng bắng. Mục hát xướng đưọc trình diễn linh động, kèm theo ăn uống, mâm cỗ đưa đến, do những người nhá giả, nào cỗ chay, cỗ mặn. Bách hí là nhưng trò giải trí như hát Bội với người cầm chầu đánh trống khen chê cách diễn xuất. Phải chăng hát Bội nầy là dạng mà trong Nam gọi « tuồng đồ « , lờì lẽ bình dân, pha trò để gây cười cho khán giả. Loại hát tuồng nhằm diễn lại những sự tích trong truyện Tàu như Tam Quốc… Trò quỷ thuật (nay gọi ảo tuật) đã có từ xưa, như thả câu vào chậu nước không có gì, nhưng khi giật lên thì được con cá tươi, hoặc căng dây ngoài trời, có đi trên dây hát múa, ném và chụp những quả cầu nhỏ mà không để rớt. Dưới ao to, mọI người xúm nhau xem mua rối nước. Tiết mục bắt bài (trong Nam gọi bắt bài Phiên) với nhiều cô gái cầm đèn, đội mão cài trâm, phấn son xinh đẹp, tới lui nhịp nhàng, múa hát theo bản »bắt bài« . Múa bông, theo Phan Kế Bính, « trò ấy ở Nam Kỳ thường có« . Ta hiểu đây là nhưng « bà bóng múa rối « , họ bái tró xiếc, trên đầu chiếc đũa, đặt cái dĩa, cử động nhẹ khiếng cái dĩa quay tròn, không rớt, hoặc cắn vào mồm một cái chân bàn nhỏ, ba chân kia nằm nghiêng, hàm răng cắn quá chặt khiếng cái bàn khôngrơi, hoặc cắn khúc cây ngắn, ở đầu khúc cây đạt cái ve chai dựng đứng. Ở trong Nam, những bà bóng nổi danh thường là « ái nam ái nữ « , lúc trình diễn, họ múa tay để giữ thăng bằng cho cái dĩa hoặc cái ve chai vừa nói ; thiếu âm nhạc đàn, sáo, hoặc thiếu tiếng vỗ tay để đánh nhịp của đồng bọn thì không trình diễn có kết quả được. Tổ tôm điếm, bái phu điếm là trò cờ bạc may rủi, trong rạp, ở mỗi gốc cất một cái chòi khá cao (gọi điếm, như điếm canh). Một hiểu Bài chòi ? Lại còn đánh cờ người, bên nam, bên nũ, ai muốn đánh thì đăng ký trước, đánh trên bàn cờ nhỏ, nhưng phất cờ, để những quân cờ (nam hay nữ) di chuyển. Trò đô vật, với kiện tướng đống khố. Lại đốt pháo bông (đốt cây bông), pháo bắng ra nhiều màu sắc, hình ảnh, hoặc chữ Hán ca ngợi sự thái bình, thạnh trị. Bơi chải, gọi nôm na là đua thuyền, mỗi thuyền ngắn, nhỏ gồm chín mười người bơi, thi nhau đến mức trưóc. Lại còn trò chọi trâu (ở vùng Hải Dương), chọi chim họa mi, thi thả diều, leo côt thoa mỡ (phải chăng tục leo cột để giật phần thưỏng treo ở chót ngọn cờ do Tây phương du nhập ?). « Nấu cơm thi « đòi hỏi khả năng ứng phó trước khó khăn bất ngờ, như thiếu củi, chỉ có cây mía, phải ăn mía cho nhanh, lấy xác mía ẩm ướt ấy mà chụm bếp. Rồi đến buổi rã đám, tức là giải tán, bế mạc, sau non một tháng vui chơi. Thật tốn kém thời giờ, tốn sức khỏe, tiền bạc, lãng phí quá đáng, thí dụ như chọi gà ăn tiền. Phan Kế Bính cực lực lên án kiểu hội hè nói trên. « Tiên chi lực ư dân nhi hậu thần giáng chi phúc « . Con người nên gắng sức làm việc, rồi sau đó, họa may thần ban phước cho. Đọc Phan Kế Bính, ta còn thấy lễ Kỳ An (Kỳ Yên) ở đồng bằng sông Hồng lắm khi mang nội dung tôn giáo, đúng ra là đạo Lão suy thoái , với ít nhiều phù phép, nhằm đuổi ma đuổi quỉ. Khác với nội dung Kỳ Yên ở Nam Bộ. Hồi đầu thế kỷ nầy, Theo Phan Kế Bính, buổi lễ dùng toàn đồ hàng mã, mời nhà sư (hiểu là thầy cúng) và các pháp sư đến, lập hai đàn, dành cho môn phái nhà Phật và các pháp sư. Pháp sư múa gươm, mặt mày hoá trang cho ra vẻ hung hăng. Phía đạo Phật, nhờ thầy cúng đến bái lễ « Lục cúng », cúng sáu món như hương, đăng, hoa, trà, quả thực. Phap sư giăng dây, treo quần áo giấy, rồi cắt đứt sợi dây, tượng trưng cho việc cắt đứt sợi dây oan nghiệt hòng giải cứu chúng sanh. Lại lập đàn Mông Sơn, bên dưới bày cơm, cháo, mìa, khoai, kẹo, bánh, rồi thì dân trong xóm, trẻ con, người ăn mày tha hồ giành giật, chia phần. Lại bài lễ tống ôn do pháp sư bắt ấn, tay cầm nhang, tiễn đua ơn dịch ra khỏi làng. Ở Nam Bộ, lễ nầy hồi xưa cử hành đơn giản, lắm nơi kết bè chuối, để trên bè con gà luộc, cái đầu heo, trên bè cắm cờ ; cúng xong thả bè cho trôi, chẳng ai muốn vớt. Theo lệ, chỉ có trẻ con chăn trâu, gốc là con, cháu vua Thần Nông mới được quyền vớt mà ăn. Các nhà dân tộc học phương Tây đã phân tích : Món dân cúng có hai yêu cầu khác nhau : - Ở đình làng, với con heo, con bò làm vật « hy sinh », món cúng tưọng trưng cho phần thưởng quí giá ; Thần thánh đã hưỏng rồi, ta xin được cùng hưởng với Thần thánh để được phước, do ân trên ban cho.Những món cúng trở thành sạch sẽ, thiêng liêng, vô giá, « một miếng thịt làng bằng môt sàng thịt chợ « . - Dịp tống ôn, tống quái là lo lót cho những hung thần ác độc, xấu xa, món cúng đã bị ô uế sau khi thần ôn dịch hưởng, nó trở thành ô uế, xui xẻo, không đem phước đúc, trái lại còn gây tai họa, phải vất bỏ. Với sự phát triển vế phòng bịnh, tiêm chủng, những bịnh không cứu chửa được như dịch tả, đậu mùa lần hồi khó hoành hành, nếu không là trừ tuyệt Vói nước sạch, vệ sinh cá nhân. Lần hồi, việc tống ôn không còn chỗ đứng trong tâm tư của những người bình thường, thậm chí những người bảo thủ, hoài cổ !
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:14:35 GMT 9
LỄ XÂY CHẦU
Nét đặc trưng của đinh miếu Nam Bộ (kể luôn của Trung Bộ, là địa bàn của Gia Định Thành do Tả quân Lê-Văn Duyệt cai quản) là dịp cúng tế Kỳ Yên phải có lễ Xây Chầu, Đại Bội rôi đến Hát Bội. Vì vậy, người điều khiển ban Tế tự cần hiểu khái quát (nếu không nói là về chi tiết) về lễ nhạc, về Xây Chầu và hát Bội. Căn cứ vài lời lẽ chúc tụng, ta có thể đoán chắc việc Xây Chầu bắt nguồn từ đời Gia Long. « Chầu « là chầu hát, « Xây « phải chăng là khai, theo nghĩa khai mạc buổi hát. Tế lễ mà thiếu hát bội và phần mở đầu là Xây Chầu thì quả là thiếu sót lớn, chẳng qua vì thiếu tiền bạc nên đành chịu vậy thôi.Tế lễ rồi, lại nghĩ đến việc cầu an, nhăc nhở dân làng phận sự làm người, tôn kính Trời Đất để mong gió thuận, mưa hòa, nước mạnh, ổn định, dân mạnh khỏe, kinh tế phát triển, nghề nông phát đạt. Nông nghiệp phát đạt là yếu tố căn bản để cho nhà vuangồi vững trên ngôi báu, dân không nhiễm tật xấu, nảy sanh trộm cướp, nghe lời xúi giục kiểu « sấm truyền » dị đoan mê tín. Từ ngữ xưa gọi là « dân khương (khang), vật phụ « , phụ nghĩa là dồi dào (của cãi vật chất dồi dào). Muốn ổn định thời tiết, ổn định trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ Nam là Kinh Dịch, với thuyết Âm Dương, Bát Quái (càn, khảm, cấn, chấn…), ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Việc Xây Chầu nhắc nhở nguyên tắc ấy. Làng xã nằm trong vũ trụ lớn.Xây Chầu, nói đơn giản, là dùng tiếng trống chầu, đánh rõ từng tiếng, đểa khuyấy động, nhắc nhủ hòng đổi mới Trời Đất. Vẫn là âm thanh và ánh sáng. Phải có ngọn nến cháy nên giá đặt cái trồng (gọi trống nầy là Thái Cực), Trống phải sơn màu đỏ, mặt trống vẽ hình tròn Âm Dương. Người đánh trống, gọi vị cổ quan (cổ là trống, quan là quan chức) thay mặt cho dân làng, phải hội đầy đủ tư cách về tinh thần,thể chất, gia cảnh : Mạnh khỏe, tuổi 50 trở lên, hạnh kiểm tốt không mang tiếng về tửu sắc, không có tang (như cha, mẹ, vợ vừa mất). Trước khi dựng Xây Chầu, giữ mình trong sạch, ăn chay càng tốt, không được gần vợ. Trở lại nguyên tắc : - Từ lúc « càn khôn hổn độn « đến mở đầu Thái Cực (là một) tượng trưng là « cái trống « . - Thái Cực sinh Âm và Dương (Lưỡng Nghi) với Thiếu Âm, Thiếu Dương(là hai rồi bốn), gọi « tứ tượng « . - Tứ tượng sinh Bát quái (càn, khảm, cấn, chấn…) - Bát quái sinh Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) - Ngũ hành tát động qua lại, sinh ra vạn vật muôn loài (mặt trăng, mặt trời, tinh tú, sông núi…) trong đó có con người. Những câu nhữ Nho mà người Xây Chầu đọc lên nhằm nhắc nhở những nguyên tắc ấy. Dĩ nhiên, có ít chút « bùa phép « , như việc chữ Thạnh « (thịnh vượng) trên mặt trống, chân thì viết tuợng trưng chữ « sát quỉ « (giết ma, qủi đem xui xẻo) người xây chầu viết với ngón chân rồi đạp lên như để xóa, trấn áp. Có trường hợp dùng roi chầu (dùi trống) vẽ bùa Tứ tung ngũ hoành của ông Khương Thượng ngày xưa. Lắm khi người chấp sự (trực tiếp đánh trống) xá bàn thờ thần, trở ra sân khấu, nơi đặt cái trống, bày ra lễ nhỏ, thí dụ như dùng nhánh cây, nhúng vào tô nước lạnh, rảy nước, tượng trưng cho sự tẩy uế sân khấu, gọi tẩy uế đàng tràng, kiểu pháp sư). Sau khi vẽ bùa, viết chữ « sát quỉ « , bắt đầu đánh dùi thứ nhất, gọi Nhất kích cổ, trong thực tế là nhịp ba nhịp không to tiếng lắm, gần rìa mặt trống. Đến Nhì kích cổ, đánh lần nhì, nhịp ba nhịp, sau khi ngưới xây chầu nói to : « Khôn trung khương thới ! «, Khôn là đất. Rồi Tam kích cổ, xướng lớn rằng : » Lê thứ Thái bình « , nhịp ba nhịp với roi trống. Rồi đánh vào trung tâm mặt trống, lần nhất, lần nhì, lần ba … Đại khái, ít ai hiểu, nhưng thủ tục là thế ; làm sai thì người trong nghề chê rằng dốt, làm sai thì Thần thánh không chứng giám, buổi lễ mất hiệu năng. Những chi tiết trên, gọi « Đệ nhất cấp », mới vào đề, chỉ là điểm nhẹ từng roi vào mặt trống, ở rìa, ở chính giữa. Khán thính gỉa bên dưới phập phồng chờ đợi phần thứ nhì, quan trọng hơn, theo chuyên môn gọi là « Đệ nhị cấp ». Lệ xưa, việc đánh tất cả ba hồi trống, đòi hỏi sức khỏe của người chấp sự. Mỗi tiếng trống phải tròn, rõ, đánh theo điệu « tiền bần hậu phú « , mấy roi đầu đánh nhỏ, lơi, đến mấy roi gần chót càng to, to hơn, nhanh hơn. Như tình hình làm ăn của dân, trước còn nghèo, nhờ Thánh thần phò hộ, lần hồi gần cuối năm lại giàu. Như nhà ông nông hồi đầu mùa túng thiếu, gieo cấy xong, lúa lên tươi tốt, lạc quan nhìn đám ruộng, đến lúa chín vàng đồng, hăm hở gặt hái, ăn Tết. Theo lệ xưa, hồi đánh thứ nhất đánh 80 roi, hồi thứ nhì 100 roi, hồi thứ ba 120 roi, tổng cộng 300 roi. Không đánh từ tên xuống dưới, như giọt mưa, nhưng là đánh cho ngọn roi bạt từ bên phải qua bên trái (đánh xéo). Người chấp sự vừa đánh, vừa đếm, nếu dư hay thiếu là sai, có lỗi với Thánh thần. Vì đòi hỏi nhiều sức khỏe ở cánh tay và sự tập trung tinh thần ở từng roi, ngày nay ít ai dám baỏ đảm về kỹ thuật, nên số roi được giảm xuống còn không đến phân nửa : 20, 40 và 60, tổng cộng có120 roi. Như vậy đã đuối sức, trường hợp người chấp sự hơn 60 tuổi. - Hồi thứ nhất, đánh 20 roi, khi dứt, đánh thêm hai dùi nhỏ tiếng hơn, như là dư âm. Người đánh xướng thật to : » Trừ hung thần ác sát », ngụ ý đuổi ma quái ra khỏi làng. - Hồi thứ nhì đánh 40 roi, dứt rồi điểm hai dùi nhỏ tiếng. Không xướng khẩu lịnh. - Hồi thứ ba, đánh 60 roi, dứt thì điểm hai tiếng nhỏ, rồi ngưới chấp sự la lớn : » Không trung Hội viên nam nữ đồng thọ phước ». (Ở mặt đất, người hội viên của đình được hưởng phước). Các hội viên của ban tế lễ, thân hào lớn tuổi đồng « dạ « lớn lên. Vừa dứt, đánh ba hồi ba dùi, mỗi hồi đuợc nhạc công trong buồng , đanh chuẩn bị hưởng ứng theo, như giáo đầu, để rồi bắt vào nhạc, chuẩn bị lập tức vào lễ Đại Bội. Lễ Xây Chầu nầy nhằm trước là dâng cho linh thần, vì vậy nhạc trỗi bản « Nghinh Thiên tiếp giá « . Nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam phải chăng phảng phất đâu đây, ta nhớ đến Trống Đồng Ngọc Lũ (Đông Sơn), những hồi trống của Nhạc đời Tây Sơn. Dùng triếng trống để tế Thần, đồng thời huy động thần lực, trí tuệ của dân tộc. Tư liệu nói trên mô phỏng theo bài của ông Thân Văn, Nguyễn Văn Quí viết từ năm 1957, ông là người sành hát bội và nghi lễ cúng đình miếu. Nếu không có gì là bất kính, ta có thể dung tục hóa điệu đánh trống trên đây, trình diễn dịp liên hoanVăn hoá dân tộc, cũng như lễ Đại Bội kế tiếp. Đại Bội nhằm trình diễn một số hoạt cảnh, giải thích nguồng gốc của con người trên trần thế, không phân biệt dân tộc. Một dạng « Về nguồn » mà không nói ra, tìm những mẫu số chung, dĩ nhiên trong xã hội nông nghiệp. Vì đòi hỏi kỹ thuật múa hát, gồm những động tác và điệu nhạc quen thuộc với diễn viên hát Bội nên phần nầy không thể giao cho người » nghiệp dư « . Nhằm đề cao đạo Trời Đất (Âm Dương), con người được may mắn ở giũa Trời Đất, cùng với hoa trái, chịu ảnh hưởng gió mưa sấm sét, cầu mong gió thuận mưa hòa. - Mở đầu trình bày ông Bàn Cổ múa điệu đặc biệt, tay cầm nắm nhang, làm động tác gọi là « Điềm Hương », gợi ý nhờ phát minh ra lửa, nhờ âm dương, nóng lạnh mà bắt đầu có sự phân chia ra Trời Đất, khí Âm và Dương tương giao, tương khắc, sinh ra muôn loài. Múa một mình không có hát điệu riêng. - Xoang nhật nguyệt. Phải chắng đây là chữ Hán, « Xoang » (điệu hát, điệu đàn cũng gọi là xoang – Đào Duy Anh). Trong thực tế của Đại Bội, lớp nầy không có hát, chí múa theo nhạc. Một nghệ nhân Nam tay cầm cái mặt Nhật (mặt trời) màu đỏ ; một nghệ nhân Nữ tay cầm cái mặt Nguyệt (mặt trăng) màu trắng, múa rồi nhìn trực diện nhau ba lần. Mặt trời, mặt trăng được cách điệu hóa với hai cái chén khá to, miệng chén bịt vải đỏ và vải trắng, buộc miếng vải đỏ và trắng ấy ở dưới đít chén, nhờ vậy hai nghệ nhân nắm phần dư của miếng vải mà múa. Khi nhìn mặt nhau, gương mặt tình tứ, hai cái chén Âm, Dương nầy đụng vào nhau. Màn trình diễn gợi ít nhiều nhục cảm mà không thô, như cảnh « giao hợp » tượng trưng. - Lễ Tam Tài, hoặc Tam tinh, nhằm chúc thọ. Con người sống giữa Đất Trời, ba vị Phước, Lộc, Thọ nầy gốc là ngôi sao trên trời. Để thêm duyên dáng, gây vui tươi cho khán giả, thay vì hình tượng Thiên, Địa, Nhân quá trừu tượng và khô khan, lại đổi ra (cũng là số ba) Phước , Lộc, Thọ xem vui mắt, gần gũi hơn, với hình ảnh quenthuộc : -Ông Phước mặc áo xanh, râu dài, bồng đứa bé con. Phước thời xưa là đông con cháu để nối dõi, gìn giữ gia sản cha mẹ. - Ông Lộc mặc áo quan lại, tay bưng hoa quả tươi. Lộc là làm quan huởng lương bổng, nhưng ngụ ý là được dân đền, quà cáp, lương bổng thời xưa không nhiều, quà cáp là món mà vị quan có thể đón nhận hợp pháp ! - Ông Thọ sống dai, còng lưng, chống gậy. Còn gọi là « ba ông Hiền », hát một mưôt theođiệunói lối và hát khách, rất tiếc là lời hát toàn là chữ Nho, gần như chẳng ai hiểu. Lễ thứ ba của Đại Bội là Tứ Thiên Vương, bốn nghệ nhân mặc y phục như quan võ, múa nhiêu bộ linh động mà không hát. Đây là huyền thoại Ấ Độ, bốn vị nầy tượng trưng cho mưa gió sấm sét, họ thử hòa hợp với nhau, đúng lìèu lượng, tạo mưa thuận gió hòa. Múa đủ bốn cửa rồi trụ lại, dâng bốn tấm liễn ngắn, nào « Thiên hạ thái bình », « Phong điều Vũ thuận », « Quốc thái dân an », tùy theo đình. Ban tế lễ đến gần sân khấu mà nhận bốn tấm liễn nầy, sau khi thưởng cho nghệ nhân số tiền tượng trưng, đem liễn vô bàn thờ thần. - Vui tươi, ngoạn mục, linh động nhất mà mọi người đều ưa thích là lễ Đại Bội chính thức, gọi nôm na là « Đứng Cái « . Bốn cô đào Thài xuất hiện, mặc xiêm y sang trọng, tay cầm quạt phe phảy, yểu điệu, tượng trươgn cho Xuân, Hạ, Thu, Đông, hoặc Kim, Mộc, Thủy , Hỏa. « Thài « là ca theo giọng bình dân, ngân nga, nương theo tiếng trúc, với nụ cười. Bốn cô hát bài dài, có những câu như : « Âu vàng vững đạt báu ngôi, Trên vua khai rạng, dưói tôi trung thần »… « Làu làu tiết chói Nghiêu thiên, Hây hây Thuấn nhật, vua Lê trị đờỉ… Ca ngợi đời Nghiêu - huấn thái bình, có vua Lê, ta hiểu đời hậu Lê, khi chúa Nguyễn vào Nam mở nước. Bốn cô nầy (gọi con) đã kính cẩn lạy linh thần trưóc khi hát điệu Nam Xuân dụng, gần như hai tay cầm quạt phải cử động không ngừng, hát xong phân ra bốn gốc sân khấu. Người Cái bước ra, mặt trắng, đội mão, tương đối còn trẻ, chứng tỏ dồi dào sinh lực, pghải trang nghiêm, không cười lả lơi, khi xuất hiện thi động tác đầu tiên là lạy linh thần rồi duyệt qua các cô đào Thài (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Đứng cái tượng trưng cho Thổ, là đất, làm ruộng có đất ruộng. Xuân, Hạ, Thu, Đông tuy quan trọng nhưng phục vụ cho Đất. Bốn mùa luân chuyển, nếu thiếu Đất thì làm sao sản xuất lúa gạo được. Cái đứng giữa (trung ương), hát điệu Nam Xuân. Xong rồi, các đào Thài là con phụ họa theo, ca ngợi sự hân hoan của dân, của đất nước. Cái hát chúc thọ vị lãnh đạo Dân tộc, lạy tạ thần linh, kích chúc ban Tế lễ, rồi đaò Thài múa lượn, vẫn cầm quạt ca ngợi Tỗ quốc đổi mới, với nụ cười duyên dáng. Đào hát theo điệu gọi là Nhịp Một, có trồng đệm theo, gây phấn khỏi, lạc quan. Để chấm dứt, trống chầu đánh chín tiếng, với ý nghĩa Đại Bội thành công rực rỡ. Xây chầu và Đại Bội, bắt đầu từ những hồi trống, kế đến múa hát, nội dung cầu mong đất nước mỗi năm càng mới hơn, so với năm đã qua. Lại giải thích nguồn gốc vạn vật muôn loài theo thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, gẫm lại mang tính khoa học, dễ chấp nhận. Rất tiếc, lúc trình diễn, đối với khán thính giả trẻ tuổi, vì thiếu lời, thuyết minh nên khó hiểu, chỉ là hiểu với trực giác, cảm tính nên tác dụng có giảm bớt phần nào. Nếu thêm phần thuyết minh, kiểu « tiếng vang hậu trường » do một xướng ngôn viên riêng thì kết quả sẽ nhân lên. Người biên oạn xin nêu lên mấy nhận xét sau : - Điệu múa quạt gọi « Vũ phiến » phải chăng do dào Duy Từ đạt ra, khá độc đáo. Không múa với cây quạt giấy như ở những đoàn « nghiệp dư « là múa với cườm tay ; nhưng theo Đại Bội là múa với cánh tay, xem yểu điệu, động tác khoáng đạt hơn. Điệu múa quạt của Đào Duy Từ chỉ dành riêng cho ông hoàng bà chúa xem, ngăn cách với dân gian. - Trong Đại Bội, với ba ông Phước, Lộc, Thọ chính là vũ khúc trong cung vua chúa, riêng biệt lại đưòng bình dân quá. - Điệu múa Tứ Thiên Vương (mưa gió, sấm sét, dâng bốn câu liễn) quả là điệu Trình Tường Tập Khánh (xem Đỗ Bằng Đoàn, sách đã dẫn) dành cho ông hoàng bà chúa xem, trong nội bộ cũng trở thành dân gian,cho đại đa số công chúng thưỏng ngoạn, một dạng dân chủ hóa thời Tả quân Lê Văn Duyệt để gây ra phấn khởi cho lưu dân đi khẩn hoang phía Nam. Điệu hát « Nhịp một » của Cái vá Con (đào Thài)mang tính dân tộc rõ nét, vẫn hiện đại, dễ hiểu. Dân gian gọi khôi hài đây là hoạt cảnh « một ông, bốn bà « , hiểu ngầm là chế độ đa thê thời phong kiến. Về lời lẽ trong bài hát, nhất là ở hoạt cảnh « Ngũ Hành » với Cái , Con, người trong ban hát Bội đã sửa đổi sao cho lời nói thích hợp với tình hình đất nước. Ban tế lễ luôn luôn mời đại diện của chánh quyền đến, ngoài ra còn thân hào nhân sĩ. Nếu sơ sót, sẽ bị trừng phạt tại chỗ (thời xưa) hoặc bị lên án nặng nề. Từ mấy năm qua, mặc nhiên các ban tế tự đình miếu đã tự giác sửa đổi, do lòng thành của mình, nhiều nơi làm rất tốt. Nghệ nhân trình diễn cũng muốn hòa mình vào niềm vui của dân tộc, sau nhiếu thời gian bị ngoại bang đô hộ. Thí dụ như Cái hát, với lời hát mới : Khắp nơi phất phới quốc kỳ Tự do, độc lập, không gì quí hơn… Con hát : Giải phóng thành công, Giải phóng thành công, Rày mừng thấy vinh quang minh chánh, Dẹp tan mầm xâm lược, khử tà qui chánh đòi nơi, Việt Nam nay ổn định, thiên hạ vui tươi thái bình, Thành, tỉnh, huyện, xã, ấp bón mùa hải yến hà thanh, Vuệt Nam rày thống nhất, giàu mạnh, kỷ cương muôn đời. Cái ở giữa bốn Con, bước tới hai bước, lui một bước, rồi quì xá một xá. - Dạ, dạ, dạ, Nhân rày chầu hát diễn khai Lễ kính thành tâm thượng thọ. Trước tôi xin kính chúc Hồ Chủ Tịch : Miên miên vĩnh thọ Đức hóa dân sinh Vạn thế tôn vinh Anh minh lãnh đạo... Lạy một lạy, trống chầu đánh chín tiếng, lúc đánh, người chấp sự phải đứng ngay thẳng (không ngồi trênghắ) để tỏ lòng tôn kính. Cái chúc tụng tiếp theo : - Tiếp đây , tôi xin kính chúc Chánh quyền nhân dân Trung ương cũng như địa phương, Đắc hội long vân ThờI khương trường thọ Văn võ hưng long… Hát Bội phãi gắn bó hữu cơ vớI tế lễ. Nếu tế lễ là lời cầu nguyện được ban phước, dân làng hứa tuân thủ kỷ cương, giữ thuần phong mỹ tục thì hát Bội phải minh họa những lời hứa ấy với hình tượng cụ thể, không là từ ngữ mơ hồ, sáo mòn.? Bởi vậy cần lựa chọn những tuồng thích hợp. Thí dụ như tuồng Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ. Phàn Lê Huê là nữ tướng soái, cho con là Tiết Ứng Luông cầm quân đánh dẹp ngoại xâm. Nhung Ứng Luông bị bùa phép của Thần Nữ, rồi bị bắt sống. Thần Nữ đam mê Ứng Luông vừa giỏi võ, vừa đẹp trai, vì vậy bèn giải cứu cho chàng. Chàng trai trở về năn nỉ mẹ xin được kết hôn với Thần Nữ, vừa giải quyết được tình cảm cá nhân của mình, cũng là một kiểu thắng trận. Phàn Lê Huê tức giận, đòi xử tử đúa con vế tội bất tài, tu thông với kẻ thù! Tiết Đinh San đến, giải thích cho vợ là Phàn Lê Huê nghe phải trái, rốt cuộc, Thần Nữ đến quì lạy. Phàn Lê Huê vui vẻ chấp nhận cuộc hôn nhân. Ta thấy tinh và lý được giải quyết rất ổn. Tình chông vợ, tình mẹ con vẫn còn, việc lớn là chống ngoại xâm vẫn đạt được mục tiêu. Tình người mà ngày nay ta thường nói được thể hiện qua tuồng tích, không giáo điều, không vì nhân bản mà con người trở nên mềm yếu. Nghệ thuật đánh trống chầu (cầm chầu) thời xưa khá tinh tế, người cầm chầu cần trìng độ cao, thuộc bài bản, nhờ vậy mới đủ tư cách khen chê sự diễn xuất của nghệ nhân. Đành rằng có sự thiên vị tùy cách thưởng thức cá nhân, nhưng cần phê phán tại chỗ những động tác sai, thô kệch, những chữ hát trật, hoặc vì muốn tiết kiệm thời giờ nên “nhận lớp”, tụ ý rút ngắn một vài đoạn. Thời xưa, ở Nam Bộ, dịp tế lễ Kỳ Yên thường bày ra đấu xảo bánh khéo (bánh men, bánh bông lan,bánh thuẩn) đấu xảo mâm xôi ngon nhất, ráo nhất. Lại chưng bài vài sản phẩm tượng trưng cho sự bội thu: củ khoai mì nặng cân ít thấy, trái bí rợ to đếnmức kỳ dị, con trăn, con rùa to, khó gặp. Nhưng vui nhất có lẽ là “Thai đố “,đã thu hút mọi giới. Chủ trì là một ông kỳ lão đầu bịt khăn đỏ, ngồi ghế, giữa sân, bên cạnh là thúng đầy cam, quít, bưởi. Trước mặt ông là mõ và thanh la, với dùi. Thoạt đầu, ra những câu Thai dễ, thí dụ như: - Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Xuất bỉnh. Đáp là: tên một thứ bánh. Câu thai dễ, ai cũng đáp được. NgướI có trình độ không lên tiếng, dành cho trẻ con lấy phần thưởng.. Đại khái , có đứanhạy bén hô lớn: Đáp là: “bánh ướt”. Ngụ ý cầu khó đi, có tể té, quần áo ướt mem. Vì gần đúng, ông kỳ lão gõ một tiếng « beng » vào cái phèng la. Cậu khác đáp là « bánh tét ». Ông kỳ lão gõ một tiếng « cốc », ngụ ý quá sai lời giải. Rốt cuộc, một cậu đáp to : « Cái bánh bò ! « Tiếng phèng la đổ dồn, khá to, xác nhận cậu ta trúng giải. Câu khó đi thì phải bò, khom lưng. Nói chung, đối với câu dễ thì thưởng một trái quít nhỏ. Lắm khi, ông kỳ lão nêu câu hỏi khó, mới sáng tác, chưa ai từng nghe. Thí dụ : - Mẹ thằng cùi ! Xuất mộc. Vài người thử dò dẫm, nhưng được lãnh tiếng « cốc, cốc « (hoàn toàn sai), hoặc tiếng « beng » thật nhỏ (lạc đề, nhưng có suy nghĩ) để rồi rốt cuộc , ông lão thai tự giải đáp : - Mẹ là mẫu theo chữ Hán. Đơn là bịnh phong, người nổi đon, da thịt sung lên, sần sùi, gọi là bịnh cùi. Mẹ thằng cùi là « bông mẫu đơn ! ». Cử tọa lắm khi phản đối, cho rằng câu thai tối nghĩa, nhưng nếu có người đóan trúng, lập tức người ra thai không tiếc công, gõ « beng » năm, sáu tiếng thật to, như tán thưởng tối đa, rồi được lãnh một trái bưởi tượng trưng, vì trái bưởi to hơn trái quít. Lần hồi, bày ra những câu thai mới, thí dụ như : - Trồng hường, bè lá che hường. - Nắng che mưa đậy cho hường trổ bông. Xuất : tự một chữ trong Quốc ngữ. Đáp là chữ O viết hoa, tứ là « o bế « cho hoa nở. Vì chậm chạp trong động tác, lần hồi trò giải trí nầy không thu hút nhiều khan giả. Ta nhớ hồi những năm 1910-1935, trong khoảng thời gian dài, các tuần báo thường ra « thai đố « , đọc giả trả lời bằng thư, trúng giải được thưỏng sáu tháng báo. Việc giải trí khi cúng đình Kỳ Yên lần hồi rút ngăn, họa chăng bày ra đua ghe, nhưng tốn công tập đượt. Đua xe đạp hợp thời hơn., nhưng thời phong kiến trong bối cảnh đinh làng, làm gì có phương tiện bán cơ giới. Cũng như bức tranh sơn mài chỉ thích hợp với khung cảnh sông nước, cây cỏ, nguời đẹp ; đem chiếc xe gắn máy, chiếc ô tô hoặc máy cày, máy bay vào là hỏng, không thích hợp với tâm trạng người thưởng ngoạn. Ngày nay, vài nơi bài ra trinh diễn các bộ môn võ Nhật, võ Tàu, võ Việt Nam, gây không khí mạnh khỏe, vui tươi. Ở đồng bằng sông Hồng, trong thời gian dài, đình là nơi gây hứng cho hát Quan họ, hát Ả đào. Ngày cúng tế, trời đất đổi mới, khí âm dương sung mãn hơn, hát với nội dung ca ngợi hoa cỏ tốt tươi, trai gài yêu đưong để rồi nên vợ, nên chồng, sinh nở, như hạt giống gieo xuống ruộng sẽ nẩy mầm, tình xuân sôi động. Rất kỵ những gi buồn thảm, không có hậu, như hát những tuồng bi ai, tuyệt vọng, hoặc những câu than thân trách phận, buồn thảm không lối thoát. Truyền thống xưa là vậy. Ta nên gạn lọc, tìm những gì tinh túy, sống động, hợp vớitình cảm chủ quan của đa số. Được đa số chấp nhận tức là khách quan phần nào. Nhiều người không thích việc quì lạy, nhang khói, cầu khẩn, đó là sở thích riêng, nhưng theo Hiến pháp, đây là dạng tính ngưỡng dân gian, đáng đưọc tôn trọng, tuy tốn thời giờ nhưng mỗi năm chỉ mở hội một hai ngày mà thôi. Dịp cúng tế ở đình nhắc nhở truyền thốngđoàn kết thôn xóm, dịp các cụgià, bà lão gặp nhau hỏi han súc khỏe. Ngày xưa, đình là Nhà văn hóa, là dạng bàn thờ Tổ quốc, là nhà hát , sân vận động. Giới thương gia, nhất là tiểu thương, dễ gặp may rủi từng ngày thích đến đình dịp rằm, mồng một, không tốn kém bao nhiêu nhưng gây tin tưởng. Làm ăn hùng hạp vớI nhau mà không đi đình miếu dịp Kỳ Yên thì dễ gây thắc mắc. Đến như Thần thánh mà ngườI hùn vốn vớI ta còn không tin cậy thì làm sao hắn tin cậy vào ta ! Vả lạI, trong đờI sống bình thường, ai mà không cần những phút thư giản. Già thì thư giản để vui vẻ đón nhận cái chết, vì ai cũng chết, không thể tham lam tuổi trời. Người kinh doanh lắm khi thư giãn vói việc nuôi cá kiểng, trồng lan thứ đát tiền, hoặc chơi thể thao vì trong thể thao như bóng đá, vẫn có may rủi. Lắm khi giò lan chăm sóc kỹ nhưng không đơm bông được, ngược lại, nhiều giò bị bỏ quên lại nẩy hoa tươi tốt. Sự ngẩu hứng của thiên nhiên. Việc đô thị hóa từng bước lan tràn đến nông thôn với hàng tiêu dùng. Dịch vụ chở chuyên, điện thoại, bưu điện, hoặc thông tin với máy thu thanh, thuyền hinh lam bận rộn từng người, giàuhay nghèo. Đình đám hội hè vẫn còn, nhưng lần hồi sẽ rút ngắn thời giờ. Ta không cần giảng dạy vì những người dân bình thường đã thấy quyền lợi của họ tong ngày. Cúng lạy cho nhanh rồi về lo chuyện làm ăn, khiông la cà, họa chăng người dư ăn dư mặc, nhà rỗi, hoặc người đang thất nghiệp ! Nói chung, đồng bào nông thôn cần hưởng phúc lợi vế văn hóa. Nhiều đình làng vì không có doanh thâu gì cả, gặp năm mùa màng kém thịnh vượng mà cũng cố gắng cúng Thần, không dám bỏ lệ xưa. Khách đến ít, người dân mất mùa đến lai rai, khi dọn cỗ, số người ăn rất ít, thịt cá thiếu thốn. Không đủ tiên mướ nhạc lễ, áo dài khăn đen của các vị trong bàn tế lễ đã cũ. Lễ sinh (học trò lễ) lắm khi không có giày, đành mang dép, quần áo lội thôi. Không Xây Chầu, không Đại Bội, nói chi đến hát Bội. Trẻ con jkéo về đình , ngơ ngác, thèm khác điều gì? Đêm trưóc hki cúng cũng như sau khi cúng, bầu hkông khí vắng tanh. Thiết tưởng trong khoảng thời gian bỏ trống nầy, các ban văn nghệ nghiệp dư nên tiếp tay, giải trí cho dân làng. Hoặc mướn video, chiếu những băng nhắc lại truyền thông, tăng gia sản suất, thậm chí như Tây Du Ký cũng còn hơn là không có. Ngày nay, nỗi lo của mọi người là sản xuất, mua bán như thế nào cho sinh lợi, nám lượng thông tin, dự báo tình hình. Lám ruộng ở vùng sâu, trồng tiêu, trồng điều ở tận ruột rừng miền Dông cần dự báo về giá cả, phân bón, vận chuyển hàng hóa ;việc tế lễ nên cử hành sao cho khoa học, sao cho đồng bào vui, không lo vế trật tự an ninh. Nên nghĩ đến phòng cháy chữa cháy, đừng khinh thường, rủi xẩy ra, hậu quả không đo lường được, kẻ có ý xấu bảo rằng « Thần thánh nổi giận «, hoặc ban tế tự làm sai điều gì ấy. Ngoài cổng, dĩ nhiên treo lá quốc kỳ ; cột cờ, màu sắc cua lá cờ phải xem cho được. Giữ xe đạp, xe gắn máy cho đồng bào là chuyện ngày xưa không thành vấn đề ; giữ miễn phí hoặc góp lệ phí tự nguyện, có cái thùng nhỏ, muớn bỏ vào bao nhiêu cũng được. Những thầy bói , thầy bùa, ngồi ở vị trí nào, hoặc cấm, thuộc quyền xử lý của ai ? Nhưng vị trong ban tế lễ chẳng nên xen vào, viẹc ở ngoài khuôn viên đình miếu thuộc vế chánh quyền ấp, xã chịu trách nhiệm Lại còn bán vé số, bán hoa, bán nhang, thậm cjí những người an xin. Nên tổ chức ban trật tự. Ở gần chợ đông đúc, khách đến nhiều, cần bố trí nhân viên an ninh, theo dõi những kẻ móc túi, giựt dây chuyền, đánh cắp xe đạp.. v.v… Kinh nghiệm các nước Á Đông, dường như lễ hội là nhân tố không bỏ qua được, đễ gây niềm tin cho mọi giới cùng nhau đoàn kết để làm kinh tế. Phong trào « Về nguồn » cần cho dân trong vùng, lại còn nhu cầu phát triển du lịch, giới thiệu nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam cho các nước bạn thông cảm hơn. Mặt bằng của đình miếuphải tạo được không khí trang nghiêm, khoảng khoát. Điểm mà du khách thường đến, nên bố trí sẵn người có trinh độ tương đối để giải thích vài điều sơ đẳng về những nét đặc trưng của địa phương. Tóm lại, sự tồn tại của đình miếu là qui luật khách quan. Gần đây, chánh phủ đã ra quyết định nghiêm cấm việc thâu lệ phí khi ra, vào cổng , dịp lễ hội. Nếu hướng dẫn khéo léo, lễ hội cũng là dịp để các thanh thiếu niên tham dự, tìm hiểu thêm phong xưa của ông, cha. Dầu sao đi nữa, trong nội thất đình mìếu, dịp cúng tế, điều dễ nhận rõ nhất là chẳng còn ai dám ăn mặc quá xốc xếch, ăn nói thô bạo. Việc chen lấn, khi quá đông người, vẫn xẩy ra trong nề nếp, ai đến trước thi khấn trước, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Một dân tộc với nền văn hiến hơn ngàn năm chẳng lẽ không có hội đặc trưng của mình? Lễ hội kích thích việc làm kinh tế, xưa là nhà nông, nay là thương gia, công kỹ nghệ gia. Lễ hội có chỗ đứng quan trọng. Lễ hội ở đình làngtrùng hợp với ý chí thống nhất dân tộc, dài tứ sông Hông đếm sông Cửu Long và các hải đảo như Phú Quốc, Lai Sơn (Vịnh Thái Lan) vân vân…
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:15:42 GMT 9
PHỤ LỤC
(Một số góp nhặt bổ túc cho phần Thuần Phong Mỹ Tục Việt Nam của Sơn Nam biên soạn)
Xá và Lạy Đây là những góp nhặt của người biên soạn, để tham khảo. Xá, theo Huỳnh Tịnh Của, là chắp hai tay đưa xuống, làm dấu cung kính. Khấu, cũng theo học giả trên, là cúi, khấu đầu, cúi đầu. Khấu bái, là lạy. Như vậy, ta suy luận: “Xá”, chỉ đơn thuần động tác của hai tay, còn “khấu”, là động tác của đầu. Nhưng trong thực tế, khi chắp hai tay xá thì mặc nhiên, theo quán tính, phải cúi đầu, không sâu cho lắm. “Vái” đồng nghĩa với Xá, trong ngôn ngữ phía Nam. Vái van là cầu khẩn với thái độ khiêm tốn. Lạy (Bái) là kiểu lạy thông thường nhưng đi sâu vào chi tiết, thì rắc rối, nhất là kiểu giải thích theo Bát Quái, Aâm Dương. Có người gọi đó là qui tắc “Ngũ thể đầu địa” tức là hai tay, hai chân và cái đầu phải đụng mặt đất. Các nhà sư Phật giáo lạy theo kiểu riêng, ngồi xếp bằng, hoặc quì nhưng đầu không nhất thiết phải đụng đất; cũng khơng đứng dậy thẳng lưng sau mỗi lạy. Người Trung Hoa ở miếu thường qùi rồi lạy luôn, khơng đứng dậy sau mỗi lạy; lạy cúi đầu sát đất nhưng hai tay buông xuôi, không chấp lại. Về động tác, thật khó nói. Mỗi người, mỗi địa phương, do ảnh hưởng cha mẹ, hoặc chòm xóm thì cũng “Ngũ thể đầu địa” nhưng người thì lạy với những động tác gãy gọn, có người lại thong dong, yểu điệu, đại khái. Đàn bà Việt Nam thời trước mặc quần lá nem, ngồi co hai chân qua một bên mà lạy, gọi là “Tọa cốt đầu địa”, ngồi trên xương mông rồi cúi đầu sát đất; không đứng dậy sau mỗi lạy như nam giới. Ngày nay, lắm khi mặc quần Tây, vải cứng, khó ngồi như xưa. Cứ quì rồi lạy liên tục, không đứng dậy sau mỗi lạy. Khi lạy Phật, đàn ông quì rồi lạy luôn, dứt lạy mới đứng dậy. Khi lạy Thần ở Đình Miếu, người trong ban tế lễ tuân thủ nguyên tắc: - Qùi thẳng lưng, gọi “qùi Xuân”, trong tư thế mạnh khỏe , tự tin (không quì lom khom như quì trước bàn Phật, hoặc trước quan tài của thân nhân, kiểu quì Ai, trông bi thảm dịp cầu an) - Hai tay nắm chặt, như quả đấm, biểu lộ quyết tâm lớn. Phải chăng đó là nguyên tắc dành riêng cho người trong ban tế lễ, còn bá tánh thì lạy kiểu nào cũng được, tùy thói quen, khơng nên chê khen người này lạy đúng, người kia lạy sai (vì khác với mình). Lạy Thần, thông thường, gồm bốn lạy, mỗi lạy kèm theo một xá, xá theo kiểu nắm hai tay, ngón tay co lại. Về số lạy, quá nhiều ý kiến, theo tôi, tùy tập quán của gia đình, địa phương mình, đừng làm điều gì lập dị. Ở đình làng, khi lạy Thần thánh, kiểu lạy chuẩn mực nhất là của Thầy Lễ, người điều khiển nhóm học trò lễ. Tiến tới ba bước dài, đứng xá rồi lui lại một bước. Qùi xuống lạy. Thẳng lưng, đưa hai tay lên đầu gối, lấy thế, rồi đưa hai tay vào ngực, (hai tay vẫn nắm lại), đưa qua phải, đưa qua trái rồi vịn vào đầu gối, đứng dậy, lập tức lui ba bước. Xong một lạy. Rồi bắt đầu lạy thứ nhì, bước trới ba bước dài, lụi một bước như trước. Dứt cái lạy thứ tư, xá một xá, lui một vước, xá lần thứ nhì thật sâu, là dứt. Ở đám tang, hoặcđám cưới, kiểu lạy nên bình dị hơn, bớt động tác. Đám tang, đám giỗ là ở gia đình, nội tâm và bối cảnh khác, có thể lạy mà không cần bước tới nếu mặt bằng quá chật. Hai bàn tay chắp lại, ngón tay thẳng ra, như van vái khiêm tốn. Trong dịp phúng điếu đám tang, khách lạy thông thường hai lạy, hiểu ngầm rằng mình sẽ trở lại lúc di quan. Nếu lạy bốn lạy, hiểu rằng lúc di quan sẽ không trở lại tiễn đưa. Lắm khi lạy ba lạy, hiểu là bốn, một lạy chừa cho cha mẹ còn sống. Tùy nơi, số lạy nói trên có thể thay đổi. LỄ TỈNH SANH Ở GIA LỘC (Trảng Bàng – Tây Ninh) - Viên chức, chức sắc tựu vi. Nghệ quán tẩy sở – Quán tẩy – Thuế Cân – Phần hương – Niệm hương – Thượng hương – Nghinh thần cúc cung bái (4 lạy) – Hưng bình thân. Thiểu thối. Chánh bái, Bồi bái tựu vị – Nghệ quán tẩy sở .. Phần hương, niệm hương, thượng hương . . .Tham thần cúc cung bái (4 lạy), hưng bình thân – Qùi – Châm tửu – Phủ phục hưng (2 lạy), hưng bình thân – Giai qùy (Chấp sự nội nghi qùi xuống – Chấp sự ngoại nghi xướng): chúc cáo từ (chấp sự nội nghị quì rồi cung tay xuống năm câu) Kỳ Yên túc yết Quyên vĩ tĩnh sanh Ngưỡng lại thần ân Mặc thùy chiếu giám Phục vị cẩn cáo Bài chúc thỉnh sanh – Cùng xã Gia Lộc. Chúc cáo từ có hai phần: phần lễ Túc Yết và lễ Đàn Cả. Phần lễ Túc Yết thì xướng Kỳ Yên Yết Túc. Phần lễ Đàn cả thì xướng KỲ Yến chánh tế. Đổi lại có một câu đầu thôi, đoàn sau y vậy. Ngoài nghi xướng: phủ phục hưng bình thân. Cúc cung bái (4 lạy) =- Hưng bình thân – Thiểu thối. . Nghệ thỉnh sanh vu án tiền. Tể sanh tựu vị – nghệ quán tẩy sở – pầhn hương – niệm hương – thượng hương – cúc cung bái (4 lạy) – hưng bình thân – nghệ thỉnh sanh sở. (Chấp sự nội nghi cầm một cây đèn sáp, hai cái chén chung để đựng mao huyết và vàng bạc, và ông chánh bái bưng khay hộp lễ với ông tể sanh cầm đao cùng đi đến con vật). Chấp sự xướng: Tỉnh sanh (chấp sư ïviên đốt vàng bạc rọi con vật). Ông Chánh bái vỗ con vật ba cái rồi ông tể sanh hươi dao cắt lông gáy, bỏ vô chén chung hay là rthọc huyết, hoặc đem ra nhà trù phòng thọc huyết tùy theo địa phương. Còn chén chung đưng huyết, hai chung mao và huyết, lấy giấy vàng bạc bịt lại đem để trên bàn thần). Chấp sự xướng: Sát sanh, tỉnh sanh tất, phụng trư sanh xuất vu trừ ngoại. Chấp sự ngoại nhi xứơng: phục vị. (Chấp sự và ông chánh bái cùng đi trở lại y như cũ) giai qùy, châm tửu, phủ phục hưng bái (2 lạy), hưng bình thân. Điểm trà: Cúc cung bái (4 lạy), hưng bình thân, thiểu thối, lễ thành. (Đỗ Văn Rỡ sựu tầm)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:16:40 GMT 9
Lễ Đầu Xuân 1991
Niệm hương: ngày 07 tháng Giêng năm Tân Mùi (1991) Hương tạ Thiên tạ Địa Tạ Đức tối cao lãnh đạo Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạ Đức Thượng Công, tạ Chư vị Thánh Thần. Nhất niệm đạo Hương, Thượng thấu Thiên Quan. Nguyện Vĩnh Bảo San Hà Xã Tắc. Nhì niệm Đức Hương, Trung Đại Địa Quan, nguyện quốc Thới Dân An, Vật phụ. Tam niệm Thanh Tịnh Hương, Hạ Triệt Thủy Quan, nguyện tự Hải Phong Điều Võ Thuận. Hôm nay mùng 7 tháng Giêng năm Tân Mùi ngày Hạ Nêu, Khai Ấn mở cửa Công Sở, ngày khai sơn, khai hạ, để trở lại Lao Động bình thường, kẻ ra đồng áng, xuống ruộng nương, lên rừng núi, người xuống sông ra biển theo kế sanh nhai thường nhật, sau bảy ngày Dựng Nêu, mừng tuổi nghỉ ngơi, vui chơi ăn Tết. Tưởng nhớ ngày trở lại Lao Động theo truyền thống lâu đời. Tưởng niệm Công Đức cá vị Anh hùng Liệt sĩ từ khi Lập quốc đã dày công mở mang bờ cõi, dựng nước, giữ nước đặt nền móng cho Đạo Lý, Kỷ cương, tranh đấu cho Việt Nam được rạng rỡ trên Năm Châu Bốn Biển, nhờ sức tự lực tự cường, theo đà văn minh tiến bộ. Chúng tôi kính dân Một nén tâm hương Cúi đầu đãnh lễ Nguyện giữ Truyền thống Cầu an cho bá tánh Cầu Thạnh cho Quốc gia Thạnh nước thạnh nhà Đắc Nhân, đắc Lợi Hòa bình thế giới Nhân loại tương thân Ngưỡng vọng Anh linh Đức Thượng Công, cùng Anh linh các bậc Anh hùng dân tộc. Nương theo mấy khói Cảm ứng lòng thành Hộ trì chúng sanh Xuân cầu Thu hưởng Niên niên hưng vượng Nhật nhật thời tân 15/2/1991 Thay mặt Ban Quí Tế Lăng Ông Bà Chiểu Trưởng ban Đỗ Văn Rỡ.
LỄ GIỖ ĐỨC THƯỢNG CÔNG 1992 NIỆM HƯƠNG
Hương tạ Thiên tạ Địa Tạ Đức tối cao lãnh đạo Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tạ Đức Thượng Công Tả Quân Tạ Đức Kinh Lược Tạ Đức Thiếu Phó Quận Công Tạ Chư vị Thánh Thần và anh hùng dân tộc. - Nhất niệm Đạo Hương, Thượng thấu Thiên Quan, nguyện Vĩnh bảo San Hà Xã Tắc. - Nhì niệm Đức Hương, Trung Đạt Địa Quan, nguyện Quốc thới dân an, vật phụ. - Tam niệm Thanh Tịnh hương, Hạ Triệt Thủy quan. Nguyện Tứ Hải điều Võ Thuận. Hôm nay hai mươi chín tháng 7 thiếu, Tân Mùi, ngày Tiên thường lễ giỗ Đức Thượng Công, tức là ngày Túc Yết, cũng là ngày Cầu An thường niên cho nhân dân và đất nước. Chúng tôi: Một dạ chí thành – cung trần lễ vật Tưởng nhớ ngày quy tiên cỡi hạc. Đồng thời Cầu an cho Bá tánh. Cầu Thạnh cho Quốc gia Thạnh nước thạnh nhà – Đắc Nhân, Đắc Lợi. Cầu hỏa bình thế giới – Cầu Nhân loại tương thân. Thành khẩn kính dâng - Một nén tâm hương. Cúi đầu đãnh lễ - Nguyện giữ truyền thống . Khói nhang nghi ngút – Chiêng trống lệ thường. Ấm cúng MIếu đường – Mộ lặng tĩnh túc. Ngưỡng vọng anh linh Đức Thượng Công Đức Kinh lược, cùng Anh linh các vị Thánh thần anh hùng dân tộc. Nương theo làn mây khói – cảm ứng tấm lòng thành. Hộ trì cho chúng sanh – quốc nội như Quốc ngoại. Niên niên hưng thạnh - Nhật nhật thới tân. Đỗ Văn Rỡ (Niệm hương Viên) Ngày 27 tháng 1 thiếu Tân mùi và ngày mùng 1 tháng 8 Tân Mùi. (Tiên thường và Chánh Giỗ Túc Yết và Đàn Cả) 20 tháng 8 năm 1992. (Từ năm 1991 đến 1992 – Lễ Giỗ có sửa thêm chút ít).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 8:17:32 GMT 9
BẢN BÀI CHÈO DÙNG ĐỂ HÁT TRONG KHI TẾ ÔNG NAM HẢI
Các vai: Tổng Thương Tổng Lái Bá Trạo TỔNG THƯƠNG TRUYẾN – Nhất nhân nhân nhất trạo, đăng chúc huy hoàng, phân tả hữu lưỡng ban, tựu án tiền hậu lễ. TỔNG THƯƠNG NÓI LỐI: Kim trung thiên chánh tiết, lễ hầu yết bàng quan, truyền trạo phu giang khẩu khai thuyển, thỉnh chư vị lễ lai yết kiến. (Hát nam): Chư vị lễ lai yết kiến, nguyện lạch làng đại tiểu bình an. TỔNG LÁI TRUYỀN: - Sao mai đà ló mọc, truyền Bá Trạo gạy chèo, trước mũi khá kéo neo, sau Tổng ta luôn bánh. TỔNG THƯƠNG TRUYỀN: - Buồn cột đã sẵn sang, nghe sanh ba mơn mơn tới. (Nhưng bắc): Kể từ trời đất định phận, quốc vương thủy thổ, thánh thần hiển linh. Đêm nay các thợ kinh thành, sửa sang lăng miễu giữ gìn đèn hương. TỔNG THƯƠNG TRUYỀN: - Đệ nhất khứ hành thuyền, đệ nhất hồi tấn trạo. BÁ TRẠO ĐÁP: Thừa mạng (hát bắc): Phiêu phiêu nhất trạo ba, khinh khinh trục lang ba, thừa luôn hành phất phất, quơi trạo nhập miễu môn, quơi trạo nhập miễu môn. TỐNG THƯƠNG HÁT NAM: - Miễu môn phăng phăng lướt tới, cất mái chèo phơi phới thuyền lan. (Chuyển sang hát bắc): Án tiền làm lễ cúc cung, chèo hầu một độ tửu châm tam tuần. Tiêu thiều nhạc vũ xướng ca, hiền lương lễ rước ông bà về dinh. (Lại nói lối): Nay rước Bà về chốn miễu môn, truyền bá trạo chèo hầu cho cẩn thận. (Lại hát nam): Cẩn thận rước Bà tới trước, chốn ba đào nhờ đức thần linh. (Lại hát bắc): Rước Bà xe giá hồi dinh, lạch làng trông đợi dân tình vẻ vang. Đức Bà như núi Thái san, bổn lạch bổn xã cung tam phụng thờ. TỔNG THƯƠNG TRUYỀN: - đệ nhất khứ hành thuyền, đệ nhị hồi tấn trạo. BÁ TRẠO ĐỒNG THANH: - Thừa mạng. (Hát Bắc): Thăng thăng bình hởi dương dương (?), Giang lộ hướng thương thương, bài khai thuyền linh thỉnh, quơi trạo nhập âu ca, quơi trạo nhập âu ca. TỔNG THƯƠNG HÁT NAM: - Âu ca rước Bà về an tọa, bổn lạch làng đại tiểu đồng tâm (Nói lối): Án nội thu sương thống niệm, thanh hương hường chức nhứt tiên, thương hạ các cùng kiền, truyền bá trạc chèo hầu cho cẩn thận. nước một màu biển phụng, ba năm vẻ non sông, hội thái bình trăng rạng gió trong, ơn tế độ vàng ghi đá tạc, mảnh cơm bọc đua tình đạm bạc, lời trân châu phụng đức cao thâm, các thợ rày hoàn nguyệt nhất tâm, dâng một lễ cầu ngư hoàn nguyện. Tổng thương hát nam: Hoàn nguyện tấm lòng hà hải, cúng tế rồi mãn tải ngư đa, lòng thành các thợ bôn ba, sửa sang lăng miễu chèo ca cho Hội đồng. ĐỒNG HÁT BẮC: - Sơ canh tách dặm binh linh đằng vân quá vũ phỉ tình phong ba. (Nhưng hát lối): Thấy phong ba lòng đà bát ngát, dặn Tổng tàu kiểm soát thuyền lan. TỔNG THƯƠNG NÓI: -Dạ dạ nghe, nhưng trước dặn tôi rằng kiểm soát, vâng lệnh truyền dời gót quang huy, âu là ta nổi đăng chúc một khi, đặng ra đi kiểm soát (Hát nam): Kiểm soát dò lòng quân lính, cho hết tình biển vịnh hầu nghinh, trải qua bể rộng mênh mông, thuyền lan phới nhẹ qua gành nghỉ ngơi. (Nhưng bắc); tiểu thiều nhạc vũ xướng ca, hiền lương lễ rước Ông Bà về dinh. Chúc cho chủ tế lạch ta, giàu sang muôn hộ để phòng hương yên. Giữa trời nổi tiếng sấm vang, bỗnng cơn mưa gió chẳng yên đến đài. Bấy lâu dựa chốn tiên đài, này mừng kiến tạo rước Bà về dinh. TỔNG THƯƠNG HÁT NAM: - Về dinh tam tinh cộng chiếu, nguyện lạch làng đại tiểu bình an. TỔNG THƯƠNG NÓI LỐI : - Nay lập thành làng mới, thỉnh trạo phu làm lễ ca ngâm, nguyện cùng giáng hưởng lai lâm, ngưỡng lại nhất khương nhất htới. (Hát nam): Ngưỡng lại nhất khương nhất thới, bổn lạch làng đại nguyện đa ngư. ĐỒNG HÁT BẮC: - Nhị canh Bà mới sang chơi, sông ngân cầu nguyện rước Bà về dinh. (Hát nam): Về dinh phụng điếu, nguyện lạch làng đại tiểu an khương. TỔNG THƯƠNG TRUYỀN: - Đệ nhất khứ hành thuyền, đệ tam hồi tấn trạo. BÁ TRẠO NÓI: - Thừa mạng : (Hát Bắc): Thiên thời đổi thanh vân, nhật nguyệt chiếu tinh thần, ngưỡng mong ơn thánh trước, thần dân tại âu ca, thân tại âu ca (Hát nam): Rước Bà về an tọa, lạch làng đại nguyện cầu ngư (Nhưng): Bà bay khắp hết bốn phương, coi trong bổn trạch đầm trì ấm no. Ai bay giống dạng bà bay, quần hồng áo trắng hướng Tây bay về. Ai đi giống dạng Ông đi, bọt bèo trôi nổi một khi giữa vời. ĐỒNG BẮC: - Tam canh sao nhảy tưng bừng, thuyền lan phới nhẹ tách chừng nhanh không. TỔNG THƯƠNG NAM: - Thấy thanh không nước trong dàn dạn, ráng mà chèo bãi Rạng tìm Ông, (Bà trạo ơi), ngó qua biển cả phía Đông, thấy Ông lên vọi tấm lòng xôn xao. TỔNG LÁI HÁT THÁN: -Bá trạo ơi, Ông nằm vịnh bắc Ông trừng, tai nghe sóng gió đùng đùng ra đi, cứu người dương thế một khi, ngày sau ta sẽ hồi qui lâm đền. (Nhưng bắc): Làu làu bóng chói trăng thanh, trăm năm bia tạc chín chủ danh đề. Ơn ông phù hộ đem ngư, lạch làng sung sướng vui cười ấm no. TỔNG LÁI HÁT NAM: - Linh tiêu cho xiêu lễ tế, chứng tấm lòng dương thế mới ưng. Cầu xin chư Thánh chư Thần, trầm hương dâng lễ đầm trì ngư đa. TỔNG LÁI NÓI LỐI: - Ngó xuống nước dạ đà khoan khoái, nhớ Lịnh Ông biết thuở nào nguôi. Nước mắt tuôn lụy ứa sụt sùi, cơn đoạn thảm đưa sầu miếu võ. (Hát nam): Đoạn thảm đưa sầu miếu võ, cúi lạy Ngài phù hộ thôn thường. (NHưng Bắc): Ai vui chài lão ra chài , ra chài lại gặp đem về cất lên. Cất lên an táng mộ tiền, giữa trời sương sương tuyết chịu miền nắng mưa. Lập đăng lập miễu ra thờ, ngàn năm quý tế phụng thờ đèn hương. TỔNG LÁI HÁT THÁN: - Cúi lạy đưa Ông một lạy, trở lộn về phụng thủ đèn hương. Nhờ Ông rộngl ượng đoái thương, lạch làng bình phục nhân dân an lành. (Nhưng bắc): Sắc phong trợ hiểm gian nguy, nguyền cơn diệu dụng hộ ngay lạch làng. Ông xưa linh hiển đời đời. Ông nay linh hiển suốt đời như xưa. Ơn Trời ơn Phật ơn Ông, ơn Ông dưới nước lại đùa người vô.
TỔNG LÁI HÁT NAM: - Ra đi con khóc cháu than, bấy giờ thiêm thiếp trong quan một mình. (Nhưng bắc): diêu diêu dãi yến hà thanh, trên non hoa nở dưới gành sóng xao. Trong gành sóng bổ lao xao, dưới sông cá nhảy trên trời nhạn sa. Ngậm vòi phun nước biển Đông, cảm thông hài cốt tạc phong miễu thờ. ĐÔNG BẮC: - Canh năm trời đã sáng ra, hào quang rạng chói lưỡng biện hội hàm. (Hát nam): Hội hàm người phàm nào thấy, cúng tế rồi Thần lại qui thiên. TỔNG THƯƠNG TRUYỀN: Đình thuyền tạm nghỉ xông (?) thiên, lặng gió sẽ chèo qua bể ải. TỔNG LÁI KÊU: Bớ Tổng thương, Tổng thương, Phú Tổng thương, gìn giữ nội thuyền, coi săn sóc nước non mà tát. TỔNG THƯƠNG: Dạ dạ, chú Tổng dặn tôi rằng tát nước, phải lo bề gìn giữ thuyền thuyền lan. Âu ta kịp gàu nọ tay sang, đặng dỡ khoang ra tát nước. TỔNG THƯƠNG HÁT NAM XUÂN: - Tát nước giữa miền giống gió, gẫm sự đời có khó mới nên. (hát bắc): Ta cầm gàu nước tát ra, chờ khi giông gió phong ba bất kỳ. (Hát nam): Thấy phong ba lòng đà thảm thiết, khổ cực này mới biết mình nên (Bắc bài): Một mình tay lái: Bắc, Nôm, đã xem sao tạc lại giòm sao cơ. (Hát nam): Lên yên thì phải lâm nguy, ắt là khổ trước ắt thì sướng sau. (Bắt bài): Bóng trăng vừa xế qua đầu, bóng trăng dọi trước nắng lâu mấy hồi. TỔNG THƯƠNG BẮC: - Cả kêu cùng bớ Thiên hoàng, giúp cho biển lặng phong đông im cùng. TỔNG THƯƠNG BẮC: - Chú Tổng, chú Tổng, trời đà mịt mịt, mấy ấp Tân gia, nay trở lại thưa qua chú Tổng. TỔNG LÁI NGỦ TỔNG THƯƠNG NÓI: - Tôi nghĩ lại cũng phải, e chú Tổng tôi, nhiều ngày mỏi mệt, nên việc thuyền lan bị gió không hay. Thôi, tôi trở lại thưa ngay chú Tổng. (Thưa lại lần nữa). TỔNG LÁI NÓI: - Bớ chú Tổng, chú Tổng, trước mũi kia có chú, sau lái nọ có tôi, giữ thuyền lan đừng có sụt sùi, lặng gió sẽ lần qua bể ải. TỐNG THƯƠNG HÁT: - Làm người quân tử lao tâm, tiểu nhơn lao lực trong lòng vô lo. Bây giờ trời đã im rồi, chúng ta cất bước nhổ thời neo lên. (Kéo neo và hết). Nguyễn Đình Tư sưu tầm Non nước Khánh Hòa, 1969) (Hoàn tất Nói về Miền Nam - Cá Tính Miền Nam - Thuần phong Mỹ Tục Việt Nam do Sơn Nam biên soạn)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 21, 2009 5:15:17 GMT 9
Áo lục bình Thứ Hai, 26/1/2009, 14:32 (GMT+7)
Áo lục bình
(TBKTSG Online) - Bà nội tôi sống với chú út tôi ở mảnh vườn nhỏ cách phố chợ thị trấn nhà tôi ở chừng mươi phút đi bộ. Những sáng, những trưa, những chiều... nghĩa là những khi không có giờ học tôi thường hay sang khu vườn này chơi cùng mấy đứa em họ.
Chiều ba mươi tết năm đó, tôi qua vườn chơi, thấy bà lụi hụi quạt bàn ủi than con gà rồi lấy quần áo trong chiếc va li mây ra ủi. Chiếc va li đan bằng mây ấy nhỏ, thô mộc, không được đánh bóng, chỉ đựng chừng vài ba bộ quần áo mỏng. Mấy bộ đồ bà tôi lấy từ va li ra sực nức mùi long não. Cái mùi này, trong hơi nóng bàn ủi, thơm thoảng vào mũi tôi rất dễ chịu khi bà ủi.
Nhưng rồi công việc nhàm chán của bà cũng khiến tôi đi tìm mấy đứa em họ chơi trò chơi tuổi nhỏ ưa thích...
Sáng mồng một tết, ba má và anh chị em tôi qua vườn chúc thọ tuổi bảy mươi của bà. Bà vui vẻ nhận lời chúc của các con các cháu. Bà ngồi trên chiếc ghế đay, hai bàn tay đặt ngay ngắn trên đầu gối, bên cạnh chiếc bàn thấp. Bà mặc chiếc áo dài bằng the bên ngoài chiếc áo túi lỡ cùng chiếc quần lãnh mỹ a đen bóng ngời, chiếc khăn the quấn choàng ngang cổ, trong tư thế rất trịnh trọng.
Gia đình tôi chúc thọ bà xong, bà đứng dậy lấy tiền lì xì anh em chúng tôi. Tôi hết sức bất ngờ khi thấy chiếc áo dài bà đang mặc. Đó không phải chiếc áo dài mà bâu áo cao chừng một đốt ngón tay, trong khi lúc bấy giờ bâu áo các cô thiếu nữ cao kín tận cổ. Đặc biệt, hai tà áo không dài tới chân như mốt lúc bấy giờ mà chỉ lưng lửng dài ngang đầu gối bà.
Tôi tò mò hỏi, bà cười bảo đó là áo lục bình. Cái tên rất xa lạ mà tôi mới nghe lần đầu, giống như chiếc áo tôi mới nhìn thấy trong đời lần thứ nhất từ bà, hồi những năm 1950.
PHÙ SA LỘC
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 9, 2009 4:24:10 GMT 9
Tết Việt Nam kể chuyện mắm Hoàng Tiểu Ca
Mắm, món ăn khó quên Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm "Rừng Mắm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hề. Nhưng thật sự không phải vậy. Truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự tích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau:
"Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng...
Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong sao cứ chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài đến đây." (Bình Nguyên Lộc)
Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta duuu`ng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm, những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dỉ nhiên trong tầm hồn yêu mắm.
Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu Ðốc, tôm chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi nhé.
Ba khía:
Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là ba khía. Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng tám trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt ba khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, ba khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía thì tháng năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm ba khía mập mạp, đô con va chắc thịt. Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị ba khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn ba khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng - huhu... để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía.
Mắm còng:
Bàn về món mắm còng, theo Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm... Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ. Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột. Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh. Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi... Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào. Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon.
Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng như sau: Người ở vùng sông Cửu Long thường hát:
"Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng, Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa."
Rẫy là một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại còng... Mắm Còng món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng đáng giá nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều còng đỏ hơn Bến Tre. Không phải mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà thôi. Và mỗi năm còng chỉ lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm còng: -Còng lột được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt. -Còng lột được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt. Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ, mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh.. trộn với một chút mắm còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương.
Mắm tôm chà:
Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hòang thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã chào đời vào khoảng 200 năm. Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắc lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn màng thơm dịu. Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát. Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau. Trong Thú ăn chơi Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon". Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
*Mắm cá linh:
Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được. Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím.
* Mắm cá trèn:
Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống.
* Mắm thái:
Mắm thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1 năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
* Mắm ruột:
Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích.
* Mắm xé:
Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được dịp ghé thăm các tỉnh miền tây, bà conn hay ba`nn bè mời ăn món bình dân nhưng độc dáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa mleo, xoài bằm, dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá. * Mắm kho: Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, soài sống,... Mắm kho ăn với cơm hoặc bún.
* Lẩu mắm:
lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối,... và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, soài chua. Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
* Mắm ruốc:
Mắm ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt.
oOo
Trong suốt bài này, mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương.
Hoàng Tiểu Ca
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:21:48 GMT 9
Vĩnh Phúc 05/04/2009 Dân ca Nam bộ qua báo chí hậu bán TK XX
Nghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
Sự thiên di của văn hóa nghệ thuật từ cội nguồn miền Bắc gắn với lịch sử Nam tiến của dân tộc. Nam bộ, xét theo mối tương quan với các vùng đất cũ trong tiến trình phát triển mở mang bờ cõi của đât nước, là một vùng đất mới. Văn hóa nghệ thuật Nam bộ, do đó không hẳn xuất phát trực tiếp từ cội nguồn mà thông qua trạm trung chuyển là Thuận Hóa xưa, nơi đã định hình một nền tảng văn hóa mới trên cơ sở hội nhập văn hóa nghệ thuật thiên di của dân tộc với văn hóa bản địa. Hoặc nói như Gs. Tô Vũ trong bài khảo cứu Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ [1]: " Âm nhạc Nam Bộ, là sự kế thừa truyền thống người Việt từ cái nôi châu thổ sông Hồng, qua chuyển giao ở một khâu trung gian là âm nhạc miền Ngũ Quảng, với trung tâm là Thừa Thiên - Huế”.
Hai thể loại dân ca tiêu biểu là Hò và Lý của Thuận Hóa xưa theo bước chân của những người lưu dân cấy vào vùng đất mới này tỏ ra hợp với "thổ nhưỡng", đã phát triển mạnh mẽ và phong phú hơn nhiều so với cội nguồn thứ hai của nó là Thuận Hóa. Nguyễn Văn Hầu trong bài nghiên cứu Hò miền Nam [2] cho là Hò từ miền Trung theo đoàn người của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi khai phá vùng đất mới. Nhưng "tiếng hò ở đây không còn giống hệt tiếng hò ở chân đèo Hải Vân hay trên dòng sông Hương hôm nào nữa. Nó tha thiết não nùng hơn. Giọng hò miền Trung từ ấy vì biến thái địa lý và hoàn cảnh kinh tế, dần dần chuyển hóa, sai chạy...” Về thể loại Lý, nhạc sĩ Ngô Huỳnh trong bài Dân ca Nam bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú [3] cũng nhấn mạnh về sự phát triển này: " Từ bài Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình hoàn chỉnh hơn”.
Hai chuyên khảo về Hò sưu tập được đều không phải của giới nghiên cứu âm nhạc, nhưng đây là những khảo cứu nghiêm túc về văn hóa dân gian.
Nguyễn Văn Hầu trong Hò miền Nam đã cho thấy vị trí quan trọng của Hò trong đời sống tinh thần của người dân miền Nam trong buổi đầu đi khai phá. Tác giả tỏ ra là người rất sành hò qua những tiếng dùng mà ông gọi là trong điệu nghệ hò, như: bắt-bỏ, buông-đối, đứt-nối... Mặc dù công bố trên tạp chí năm 1962 nhưng văn phong vẫn nặng nề theo lối cổ, sử dụng nhiều từ Hán Việt. Đây cũng là một đặc điểm trong các bài nghiên cứu ở miền Nam trước năm 1975; trong lúc, cùng thời điểm, thì văn phong nghiên cứu ở miền Bắc đã hiện đại hơn nhiều.
Một vài suy nghĩ về Hò Nam Bộ của Nguyễn Hữu Thu [4], rõ ràng là một khảo cứu đầy đặn về thể loại này. Mặc dù vẫn là khảo cứu trên góc độ văn hóa dân gian, dân tộc học nhưng đã có những dẫn chứng, thí dụ bằng bản ký âm ngũ tuyến. Đặc biệt, tác giả đã dẫn ra 4 môtip điển hình quán xuyến trong Hò Nam Bộ mà theo ông, như những cung bậc riêng để nói lên đặc điểm của ngôn ngữ địa phương được phản ánh trong âm nhạc hò. Dù rằng, những môtip điển hình ấy chỉ nêu mà không hề được lý giải triệt để theo hướng nghiên cứu âm nhạc, nhưng cũng đã là một điều đáng quý trong lĩnh vực nghiên cứu này.
Vấn đề xếp loại, hai tác giả Nguyễn Hữu Thu và Nguyễn Văn Hầu không thống nhất về tiêu chí. Nguyễn Văn Hầu căn cứ vào cách sử dụng văn chương, chia Hò Nam Bộ làm ba loại chính : Hò mép (hay hò môi), Hò văn (hay hò sách) và Hò truyện. Nguyễn Hữu Thu thì căn cứ vào phương thức diễn xướng của nghệ thuật Hò mà chia thành Hò mép và Hò huê tình. Riêng việc giải thích Hò mái ba là 3 mái chèo thì chưa thỏa đáng và không khác gì mấy cách giải thích của Lê Văn Hảo về Hò mái nhì Bình-Trị-Thiên đã nêu ở trước.
Nhạc sĩ Ngô Huỳnh và Trần Kiết Tường cũng có đề cập đến Hò trong bài viết về dân ca Nam Bộ [5]. Mặc dù có một vài nhận xét âm nhạc trong hò nhưng chưa thể là một bài nghiên cứu âm nhạc mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu.
Tản mạn quanh những điệu Lý [6] là một khảo cứu gọn gàng nhưng súc tích của Gs. Tô Vũ. Được biết đây chỉ là một bài Tựa cho sưu tập 150 điệu Lý của 2 nhà nghiên cứu Lư Nhất Vũ và Lê Giang nhưng rõ ràng đã vượt qua ranh giới của kiểu lời tựa thông thường, mà trở thành một khảo cứu âm nhạc nghiêm túc, sắc sảo về thể Lý Nam Bộ.
Ngoài việc phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của Lý, ông đã đưa ra những nhận xét quan trọng, chính xác về thể loại này như : " Lý là một thể hát dân gian đã có từ cái nôi xa xưa của truyền thống dân gian và được phát triển (rộng) ở miền Trung và (mạnh hoặc rất mạnh) ở miền Nam". Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào các điệu hát Quan họ trong khối giọng vặt, nơi mà theo tác giả cho là thuộc thể điệu Lý để xác định Lý có từ cái nôi xa xưa của truyền thống, thì có phần chưa hết nhẽ. Bởi vì, theo các nhà nghiên cứu Quan họ và kể cả các nghệ nhân Quan họ, thì khối giọng vặt là những làn điệu được thu nhận từ dân ca của các vùng miền ngoài Quan họ do nhu cầu về bài bản để đối giọng trong các cuộc hát thi, mà trong đó có cả Lý của miền Trung và miền Nam.
Có thể thấy thể loại Lý phát triển rất mạnh ở Nam Bộ qua bài nghiên cứu: Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ [7]. Vì rằng trong 36 thí dụ dẫn chứng về đặc điểm âm nhạc dân ca Nam Bộ thì đã có 32 thí dụ là các điệu lý. Tất nhiên không phải hoàn toàn vì Lý có số lượng nhiều hơn hẳn các thể loại khác mà vì một lý do khác: Đó là sự hoàn chỉnh về âm nhạc của bản thân các điệu Lý. Bởi vậy, nên các vấn đề tác giả đặt ra như nghệ thuật phổ nhạc, phổ lời; các thủ pháp dân gian trong tiến hành giai điệu; phương pháp phát triển chủ đề âm nhạc trong dân ca Nam Bộ, chủ yếu là được nhặt ra từ các điệu Lý. Hoặc nói cách khác, không thể loại nào đầy đủ để dẫn chứng cho các vấn đề trên bằng thể loại Lý.
Đây là một bài nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng, nhất là tác giả là người đã thực sự tiếp cận tư liệu tại nơi sinh ra nó, không thông qua những bản ký âm của người khác. (Điều này để nói rằng, vẫn có một số người viết bài nghiên cứu về dân ca nhưng chẳng bao giờ cần nghe, cần biết. Chỉ tập hợp qua sách báo, rồi tán !) Những nhận xét, phân tích âm nhạc rõ ràng không quá lệ thuộc vào Lý thuyết Âm nhạc cơ bản như một số bài nghiên cứu dân ca Nam Bộ thời kỳ trước đó. Chẳng hạn: “Hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc “át âm”, nhưng trong lúc ấy, tuy cùng một điệu thức “son”, nhưng hò Miền Đông...thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn” như trong bài Dân ca Nam Bộ một kho tàng âm điệu dân gian phong phú của nhạc sĩ Ngô Huỳnh.
Trong Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ: Lý ngựa ô [8] nhạc sĩ Tô Đông Hải "khuyến cáo" không nên chỉ cảm thụ bài Lý ngựa ô qua dáng vẻ bên ngoài, là lời hát huênh hoang, hợm hĩnh của một anh công tử nhà giầu; mà : toàn bộ vấn đề dường như nằm ở một phía khác, mà người nghe chỉ có thể cảm nhận khi biết “nghe” cả phần nhạc lẫn phần lời trong bài hát. Nhạc sĩ cho đây là giấc mơ hạnh phúc của người nông dân ngày xưa tồn tại trong tâm tưởng một chàng trai nghèo, nên khi nghe kết hợp cả lời ca và giai điệu mới thấy nó mang một dư vị cay đắng, xót xa đến vậy. Bởi thế giai điệu bài hát mới chứa đựng cả sự "gập ghềnh" trong tâm tư người nghe lẫn sự hài hước đến chua xót...chứ không thấy sự hợm của hợm mình như câu chữ ở phần lời ca.
Những bài bình luận có giá trị như thế này không phải là nhiều. Để khơi gợi và hướng người nghe tới những ý tưởng đẹp đẽ của dân ca bao giờ cũng là việc làm cần thiết của những người nghiên cứu phê bình. Nhưng đối với điệu Lý ngựa ô thì xưa nay dường như mọi người đều cảm nhận nó chứa đựng một tinh thần lạc quan yêu đời của người nông dân trên bước đường đi mở cõi, chứ chưa bao giờ cho đó là lời lẽ hợm hĩnh của một cậu công tử nào đó. Hơn nữa, với đường nét giai điệu đẹp như của Lý ngựa ô thì khó lòng buộc mọi người cảm nhận cái dư vị cay đắng, xót xa và sự gập ghềnh trong tâm tư lẫn sự hài hước đến chua xót được ! Đến như điệu Lý ngựa ô xứ Huế, một vùng dân ca được xem là thấm đẫm chất buồn thương mà điệu Lý này vẫn phơi phới tính chất lạc quan, duyên dáng và trữ tình.
Vấn đề Điệu thức trong dân ca Nam Bộ [9] đã được nhạc sĩ Ngô Đông Hải đề cập dưới hình thức một chuyên khảo từ năm 1965. Trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, nguồn tư liệu về dân ca chủ yếu là từ các cán bộ, bộ đội Nam Bộ tập kết ra Bắc mà tác giả đã hoàn thành và công bố một chuyên khảo nghiêm túc, khoa học về điệu thức quả là một sự nổ lực vượt bậc.
Có thể nói một số kết quả nghiên cứu trong chuyên khảo này đến nay vẫn còn nguyên giá trị về mặt học thuật. Ít nhất là trong phương pháp, cách nhìn nhận về tính đặc thù trong truyền thống âm nhạc dân gian của mỗi vùng, miền; không quy đồng toàn bộ dân ca Việt Nam vào hệ thống thang 5 âm không bán cung. Vì như thế thang 5 âm nào cũng đều là dân tộc, đều là Việt Nam cả. Chẳng hạn, trong mục II, mà tác giả gọi là Điệu thức 5 âm đặc biệt có thể đã làm tiền đề cho cách đặt vấn đề trong các khảo cứu về thang âm một số tác giả thời kỳ sau này, như Oán 1, Oán 2 ...rất đặc trưng của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
Tuy nhiên, nếu cứ chuyên chú xem xét, phân tích trên cơ sở dạng thang âm điệu thức được tác giả tạm gọi là 5 âm đặc biệt thì giá trị khoa học của chuyên khảo càng cao hơn. Bởi vì trong mục I, dù gọi là Điệu thức 5 âm không bán cung trong dân ca Nam Bộ và phân chia thành thành 5 dạng từ Điệu thức I đến Điệu thức V thì thực chất vẫn là xem xét trên hệ thống 5 âm Trung Hoa; dù gọi thế nào thì sự sắp xếp thứ tự trong chuyên khảo cũng vẫn là: Điệu thức I = Chủy; Điệu thức II = Vũ; Điệu thức III = Cung; Điệu thức IV = Thương; Điệu thức V = Giốc. Như vậy, nội dung của mục I và mục II đã tạo ra sự không nhất quán trong cách thức lựa chọn phương pháp khảo cứu, nếu không muốn nói là có thể bị hiểu khác đi: cái chính trở thành cái phụ; cái tất nhiên trở thành cái ngẫu nhiên, ngoại lệ, mà còn làm rối rắm thêm cho phần cuối, phần C: Sự kết hợp điệu thức trong dân ca Nam Bộ; là nơi tỏ ra tác giả đã bỏ nhiều tâm huyết để hệ thống, phân tích một cách công phu, cẩn trọng. Với nhãn quan ngày nay có thể còn nhiều vấn đề cần luận bàn, nhưng giữa thời điểm năm 1965 mà một tiểu luận khoa học âm nhạc được công bố như Điệu thức trong dân ca Nam Bộ thì không phải là nhiều.
TẠM KẾT
Do điều kiện, hoàn cảnh của nước ta trong giai đoạn này, nhất là từ những năm 50 đến 70, đội ngũ nghiên cứu lý luận âm nhạc đang từ không có đến có với số lượng chỉ như đếm đầu ngón tay. Các bài viết về dân ca Việt Nam đa phần do các tác giả là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, dân tộc học sưu tầm nghiên cứu, dù sâu sắc về lịch sử, tổ chức xã hội, đời sống vật chất và phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo...nhưng lại thiếu yếu tố âm nhạc học. Tuy vậy, các khảo cứu trên lĩnh vực này đã góp phần không nhỏ cho lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc dân tộc (và sau này là dân tộc nhạc học). Đó là tạo tiền đề, cơ sở, tư liệu và kể cả cảm hứng, hứng thú cho các nghiên cứu âm nhạc học về sau.
Trong lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc, ngoài một số nghiên cứu có giá trị nhưng khá hiếm hoi của các nhạc sĩ tên tuổi, còn lại phần nhiều là các bài viết nặng về sưu tầm, giới thiệu mang tính chất điểm mặt một số thể loại dân ca của một số địa phương hoặc như một báo cáo tư liệu điền dã nên yếu tố nghiên cứu tỏ ra khá bị mờ nhạt (ngoại lệ trường hợp một số bài nghiên cứu sau đó đã được tác giả hoàn thiện lại và in thành sách).
Đầu thế kỷ XX Việt Nam mới bắt đầu tiếp xúc với âm nhạc phương Tây, tiêu chuẩn thẩm mỹ âm nhạc với hệ thống lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu được xem là thước đo chuẩn mực để các nhạc sĩ soi xét, đánh giá trong nghiên cứu âm nhạc dân gian nước ta. Đây là một thực trạng tồn tại phổ biến trong nghiên cứu lý luận âm nhạc cổ truyền thời kỳ này. Việc đứng trên quan điểm thẩm mỹ của một truyền thống âm nhạc này để nhận xét, đánh giá một truyền thống âm nhạc khác thường sinh ra những trường hợp kiểu như nhạc sĩ Pháp Hector Berlioz nhận xét nhạc Trung Hoa là giống tiếng "chó ngáp mèo mửa", trái lại một ông hoàng ở Lahore thì rất sành nhạc Ấn Độ, còn nhạc Âu đối với ông chỉ là "tiếng sói tru giữa sa mạc" 1. Hoặc như ý kiến của Gs. Trần Văn Khê phê phán một nhạc sĩ khi ông này đặt hợp âm cho bài Trống cơm dân ca quan họ v.v... Hiện tượng nghiên cứu, phân tích âm nhạc cổ truyền như trên, kể cả nhiều trường hợp chúng tôi đã nhận xét trong các chương là sự áp đặt, là kinh viện hóa âm nhạc dân gian, nếu không muốn nói là đánh đồng truyền thống, đánh đồng ngôn ngữ cấu trúc âm nhạc phương Tây cổ điển với dân ca dân gian Việt nam, chưa kể đến một số bài nghiên cứu nhưng rất sống sượng khi lấy đối tượng dân ca Việt nam để “tiêu hóa” kiến thức âm nhạc phương Tây đã học ở trường Âm nhạc.
Mặc dù còn những tồn tại về phương hướng, phương pháp trong một số bài nhưng nhìn chung những khảo cứu dân ca Việt Nam trong thời kỳ này đã để lại một hệ thống, một kho tàng tư liệu quý giá các thể loại dân ca khắp mọi miền đất nước, giới thiệu cho công chúng biết được giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc, điều mà trước 1945 chưa biết đến và chưa làm được bao giờ. Điều quan trọng trong khoa học âm nhạc là đã giải quyết được một số vấn đề về dị bản, cải biên, ký âm, bảo tồn, phát triển và nhất là đã đúc kết có hệ thống về giai điệu, thang âm điệu thức... Chính những điều này đã tạo cơ sở, phương hướng mang ý nghĩa “mở lối, dẫn đường” cho các nhà nghiên cứu âm nhạc thế hệ kế tiếp của thế kỷ XXI.
Do điều kiện không cho phép, chúng tôi chỉ liệt kê danh mục tài liệu được tuyển chọn để tổng lược và nhận xét vào cuối bài viết, mà không thể in trọn vẹn các bài nghiên cứu đó để tiện đối chiếu trực tiếp.
DANH MỤC TÀI LIỆU TUYỂN CHỌN
[1] Tô Vũ. Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
T/c VHNT số 3/1996.
[2] Nguyễn Văn Hầu. Hò miền Nam.
T/c Bách khoa số 135, 136/1962.
[3] Ngô Huỳnh. Dân ca Nam Bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú.
T/c NCNT số 4/1977.
[4] Nguyễn Hữu Thu. Một vài suy nghĩ về Hò Nam Bộ.
T/c Dân tộc học số 4/1975.
[5] Trần Kiết Tường. Dân ca Nam Bộ.
T/c VHNT số 7/1974.
[6] Tô Vũ. Tản mạn quanh những điệu Lý.
T/c VHNT số 12/1995.
[7] Lư Nhất Vũ. Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ.
T/c NCNT số 2/1983.
[8] Tô Đông Hải. Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ: Lý ngựa ô.
Văn hóa dân gian số 4/1990.
[9] Ngô Đông Hải. Điệu thức trong dân ca Nam Bộ.
Những vấn đề Âm nhạc và Múa số 7, 8/1965.
SÁCH THAM KHẢO
Âm nhạc Đông Nam Á. Trần Văn Khê. Viện Âm nhạc. Hà Nội, 1998 Dân ca Việt Nam. Nguyễn Hữu Ba. Tập 1,2. Bộ QGGD, Sài Gòn, 1961 Dân ca Việt Nam. Phạm Phúc Minh. Nxb Âm nhạc, 1994 Dân ca người Việt. Tú Ngọc. Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1994 Đặc khảo dân nhạc ở Việt Nam. Phạm Duy. Nxb Hiện Đại. Sài Gòn, 1972 Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền Việt nam. Nguyễn Viêm. Viện Âm nhạc.Hà Nội,1996 Những vấn đề cơ bản trong âm nhạc Tuồng. Lê Yên. Nxb Thế Giới. Hà Nội, 1996 Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Tô Vũ. Nxb Âm nhạc. Hà Nội, 1996 Lý Huế. Dương Bích Hà. Nxb. Viện Âm nhạc
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2011 7:47:01 GMT 9
Đi tìm bản sắc văn hóa miệt vườnSuu Tam Nhà văn Pháp Ed.Herriot viết: Văn hóa là những gì còn lại khi người ta đã quên đi tất cả những điều đã học. Định nghĩa sâu sắc này hoàn toàn phù hợp với tuệ giác phương Đông: Bốn mùa hoa đều nở Chẻ cây hoa ở đâu! Đó là bình diện tiềm ẩn (bản môn). Tuy nhiên trên mặt biểu hiện (tích môn) chiếc bàn văn hóa có bốn chân: vật chất, xã hội, tinh thần, tâm linh. Trong đó ta thấy rõ hai mối quan hệ vật chất ố xã hội (đại vũ trụ ố quần thể) và tinh thần ố tâm linh gắn bó mật thiết với thân và tâm làm nên bản sắc văn hóa của một cộng đồng. Bài viết này dựa trên những tư liệu thực tế thu thập trong nhiều năm dưới cái nhìn của khoa văn hóa học (culturology) nhằm khẳng định quan điểm của chúng tôi về sự tồn tại một bản sắc văn hóa Nam Bộ độc lập trên tất cả mọi bình diện: 1. Đồng bằng hay châu thổ: Châu thổ là vạt cát bồi ở cửa sông, là tam giác do phù sa bồi đắp (hoàn toàn không có núi (lũ) hay đồng bằng (lụt) mà chỉ có chế độ nhật triều, nguyệt triều và niên triều, nghĩa là mỗi ngày có hai con nước là con nước lớn/con nước ròng, mỗi tháng có hai nước là con nước rong/con nước kém và mỗi năm có một mùa nước nổi tràn ngập các cánh đồng. Do vậy, gọi Nam Bộ là đồng bằng sông Cửu Long là không chính xác, càng không chính xác khi sử dụng cụm từ sống chung với lũ. Lũ (chỉ có ở miền núi) và lụt (chỉ có ở vùng đồng bằng núi / sông đứng kề nhau). Những thiệt hại do lũ và lụt gây ra hoàn toàn khác với những lợi ích do mùa nước nổi mang đến ố “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, dùng sai tên gọi sẽ dẫn đến sai lầm về đối sách! Những tổn thất về người hàng năm vào mùa nước nổi là do bất cẩn, nạn nhân phần lớn là trẻ em. Mùa nước nổi là một nhịp điệu tuần hoàn hàng năm hoàn toàn có thể phòng tránh không phải là thiên tai (xảy đến bất ngờ không báo trước). 2. Thiết chế xã hội: Do điều kiện địa lý tự nhiên phân bố ở một vùng tam giác châu rất thuận lợi về mặt giao thông đường thủy, nên xuất phát điểm của văn hóa miệt vườn là văn hóa đi thuyền: Con nước lớn cha chống xuồng Con nước ròng mẹ nhóm bếp cà ràng đợi gió Con nước rong chảy tràn mùa nước nổi Vàng bông điên điển Châu Giang Ai đến Văn Lang, ai về Nam Phố Con nước kém ai dừng lại bên bờ châu thổ Gác dầm nghe câu hát lao lung. Người Pháp khi thiết lập bộ máy hành chánh ở Nam Bộ đã hoàn toàn dựa vào điều kiện tự nhiên. Khoảng cách phù hợp tối ưu giữa các thị xã là khoảng 60 km, và giữa hai thị xã bao giờ cũng có một thị trấn sầm uất để xe cộ dừng lại nghỉ ngơi. Điều đáng chú ý ở đây là khoảng cách được tính từ nhà bưu chính trung tâm vì giao thông liên lạc là huyết mạch của thiết chế xã hội. Ta biết rằng mỗi guồng máy đô thị được cân bằng bởi hai nền tảng: hành chánh và thương mại. Trong đó chức năng hành chánh là chủ đạo. Mất chức năng hành chánh, đô thị sẽ bị suy thoái. Kinh nghiệm nhập tỉnh đã chứng minh điều ấy: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh... trong một thời gian dài mất chức năng hành chánh (đơn vị hành chánh tập trung về Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long...) đã không thể phát triển đồng bộ được. 3. Thiết chế ngôn ngữ ố địa danh Cứ mỗi lần qua đèo Hải Vân hùng vĩ hướng về Nam, tôi lại nhớ đến điệu hát bài chòi nao lòng, bi tráng. Điệu hát đã ăn vào máu thịt của những người Nam Trung Bộ, của một vùng đất địa đầu, mở đầu cho cuộc khẩn hoang lập nước ố một vùng phương ngữ bình dân, khẳng khái, rắn rỏi, chênh vênh. Những nhà ngôn ngữ học thường có cái nhìn theo phân kỳ địa lý, chia đất nước làm ba miền: Bắc, Trung, Nam. Rồi gọi tên giọng nói của mỗi miền theo cách phân chia ấy: giọng Bắc, giọng miền Trung, giọng Nam Bộ. Sự thực thì chỉ có hai phương ngữ mà thôi: Từ Thuận Hóa trở ra Bắc là phương ngữ Bắc Bộ, từ Quảng Nam về đến Cà Mau là phương ngữ Nam Bộ. Một ngàn năm Bắc thuộc và một ngàn năm sử dụng chữ Nho làm quốc tự đã để lại những địa danh gắn với lịch sử giữ nước hào hùng: Văn Lang, Giao Chỉ, Hoa Lư, Đông Đô, Hải Phòng, Thăng Long, Hà Nội, Thanh Hóa, Thừa Thiên... Cho đến vua Trần Nhân Tông, sau khi toàn thắng Nguyên ố Mông đã gả công chúa Huyền Trân về làm dâu Chiêm quốc ố một trang sử mới bắt đầu, mở màn cho sự hình thành một vùng phương ngữ hòa bình, đa dân tộc. Người ta bắt đầu gọi bên ni, bên tê thay cho bên này, bên kia (ni và tê vốn là tiếng của người Chăm: cà ni, cà tê). Từ đây những tên đất bắt đầu rời khỏi cung đình, rời khỏi cách đặt tên từ chương của những nhà nho lập thân chính trị. Và Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Cam Ranh... những nốt nhạc không lời cất lên từ sự kết hợp hài hòa giữa hai tiếng nói Việt ố Chăm! Nha Trang ngày về Mình tôi trên bãi khuya... Không thể nói hết sự xúc động của tôi về tên đất, tên biển mỗi lần dừng chân ghé lại nơi này ố có lẽ Nha Trang là nốt nhạc tuyệt vời nhất trong những nốt nhạc của bản trường ca trầm hùng ven dải đất miền Trung! Có một số nhà tầm nguyên học, suốt đời mạy mọ đi tìm nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh. Họ đâu biết rằng đó là một việc làm vô ích ố đặt lời ca cho những bản nhạc không lời bí ẩn quyến rũ, cao sang: Trà Kiệu, Đồ Bàn, Faifo, Sài Gòn, Mỹ Tho, Phong Dinh, Hà Tiên, Rạch Giá... Ghe ai đỏ mũi, xanh lườn Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em Bỏ lại hành trình đi bộ nhọc nhằn trường kỳ ven biển, giờ đây đoàn người mở đất đã có sẵn những con đường thủy thênh thang do đất trời ban tặng. Từ Sài Gòn, tàu thuyền có thể thông thương chín cửa Cửu Long! Trên đường về Trà Vinh ố mảnh đất cuối trời Nam Bộ, tôi mời bạn đi qua một cây cầu có tên là Mây Tức. Vì sao Mây Tức? Mây là mây, còn Tức là gì? Tức tiếng Khmer là nước. Ngôn ngữ bình đẳng đến lạ lùng! Ở đây cư dân Khmer và Việt chung sống. Cái tên cầu cũng được chia hai: anh một chữ và tôi một chữ! Mây Tức nghĩa là mây nước, nhưng nó hay hơn mây nước rất nhiều vì nó bí ẩn! Xe lên dốc cầu, bạn hãy nhìn xuống dòng sông: Mây trời soi trong lòng nước. Đẹp lắm! Đẹp lạ lùng như tên gọi. Người về giồng dứa qua truông Bóng in Mây Tức để buồn cho ai! Bây giờ bạn cùng tôi ngược thuyền về Châu Đốc, theo bước chân khẩn hoang của danh tướng Thoại Ngọc Thầu. Nơi ngã ba đầu nguồn châu thổ chia dòng Mê-kông làm hai nhánh sông Tiền, sông Hậu: người Việt, người Khmer và người Chăm sống quần tụ bên nhau: Anh lấy chèo móc quai chèo Em ở trên bờ cất tiếng dặn: Anh ơi, anh đi đừng có ở lâu E rằng anh đau ốm không ai chăm sóc Em ơi đừng lo Khi con giun sống xa đất thì anh mới sống xa em Qua phà Châu Đốc, trên đường về An Phú, bạn sẽ ngạc nhiên bắt gặp những câu nói, những thành ngữ dí dỏm, lạ đời: Sáng say Chiều xỉn Tối xà quần. Say, xỉn, xà quần là đồng nghĩa say là của người Việt, xỉn của người Hoa và xà quần của người Khmer Nam Bộ. Thật tuyệt vời! Rượu uống chung ly, bốn biển chung nhà! Một ly rượu chia đều cho ba dân tộc! Sẽ còn nhiều, không biết bao nhiêu điều thú vị nữa, nhưng thôi, xin hẹn bạn ở đất phương Nam. Bớ chiếc ghe sau Chèo mau tôi đợi Kẻo giông khói đèn Bờ bụi khó qua. 4. Thiết chế âm nhạc Trên đường Nam tiến mưu sinh, những lưu dân cùng khổ miền Trung mang theo ca Huế, bài chòi, hát bội, hô thai... Những trí thức bất mãn với triều đình thì mang theo Hành vân, Lưu thủy, Kim tiền, Bình bán... Những sắc thái trang nghiêm của âm nhạc cung đình hóa với chất dân dã của bài chòi, xuân nữ cùng tâm trạng của người rời bỏ quê hương: làn điệu vọng cổ đã hình thành. Những lưu dân giờ đây không còn được quyền làm người quân tử ngồi nhấn nhá từng nốt nhạc thẳm sâu trên phím đàn kìm, họ tụ họp lại cùng nhau kẻ ca người hát để vơi bớt nỗi lòng người xa xứ, và sáng tạo ra cây đàn sến khoan nhặt, rộn ràng. Cây đàn sến về sau này hợp cùng cây đàn ghi-ta phím lõm và chiếc song lang đã trở thành một bộ tam không thể thiếu trong bất kỳ một ban hát tài tử nào! Dự một buổi hát tài tử, bạn sẽ thấy tính điệu đàng và lịch sự đến tuyệt vời của nó qua tiếng vỗ tay của người thưởng lãm khi ca sĩ hát dứt một câu. Chắc hẳn không có một loại hình âm nhạc nào trên thế giới có nét độc đáo, đáng yêu như vậy! Hiện nay, chúng ta vẫn còn nhầm lẫn về chữ vọng cổ. Ở đây, cổ là (tiếng) trống: Vọng cổ là Mong được nghe (tiếng) trống, do rút gọn từ “Dạ cổ hoài lang” (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng), chứ không phải cổ là xưa. Tôi ủng hộ ý kiến của GS.Huỳnh Minh Đức nên gọi chèo, hát bội, cải lương (trong đó có vọng cổ) là Quốc nhạc. Điều đáng nói nhất đối với âm nhạc tài tử là nó không phải chỉ để mua vui, mà chính là nguồn đạo lý ở đời. Vì sao? Vì bản thân nó thoát thai từ nhạc lễ cung đình. Khi vào Nam, thích ứng với môi trường mới, Đạo làm người ở đây không có trường để dạy, chỉ có thể truyền qua lời ca, tiếng hát mà thôi. Chức năng giáo dục của âm nhạc đến đây mới thực sự thực hiện trọn vẹn lời dạy của Khổng Tử: “Hứng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc” (Hứng khởi trước điều thiện là nhờ ở thi ca, đứng vững trước mọi thiện ác là nhờ ở lễ và hàm dưỡng được nội tâm chính đáng trong chiều sâu cung cách làm người, chính là nhờ ở sự hài hòa của âm nhạc). Chữ thành (trong thành ư nhạc) là hoàn thành, là trọn vẹn. Đó là lý do vì sao người Nam Bộ sống rất chân thành. 5. Thiết chế tín ngưỡng Khác với những ngôi chùa của Phật giáo Bắc tông ở miền Bắc và miền Trung uy nghiêm, hoành tráng, chùa Nam Bộ ẩn mình trong những rừng cây với lối kiến trúc mềm mại, chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa Phật giáo Nam truyền. Mỗi ngôi chùa là một rừng cây bát ngát, diện tích rừng lớn gấp mười lần diện tích chùa. Tôi đã đi thăm hầu hết những ngôi chùa ố bảo tàng sinh thái như thế ở Nam Bộ. Từ hệ thống chùa bao quanh đô thị, mà những cư dân ở miền này gọi là những lá phổi của thành phố đến những ngôi chùa ố nơi nương náu của những loài chim như chùa dơi Mahatup nổi tiếng ở Sóc Trăng, chùa cò Trà Cú, chùa Samrông Ek, chùa Hang ở thị xã Trà Vinh... Ngày nay, trong tiến trình đô thị hóa và nguy cơ hủy diệt môi sinh ố hệ thống chùa Nguyên thủy Phật giáo Theravada phải chăng là bài học quý giá cho con người biết tìm về nương tựa thiên nhiên. Bài học đã được Đức Phật dạy cách đây hai nghìn sáu trăm năm ở vườn Benares: Hàng Sa môn đi vào xóm làng khất thực ví như con ong đi kiếm hoa, chỉ lấy mật rồi đi chứ không làm tổn thương về hương sắc. Chỉ khi con người biết thờ phụng là con người đã lớn lên. Con người xa xưa ấy đã hơn chúng ta rất nhiều bởi họ đã biết thờ phụng cả chim muông, cây cỏ... Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy một đứa trẻ không dám treo quần áo của mình trên những cành cây, huống gì là chặt phá; người ngư dân cúi đầu trước mỗi khúc sông trong mùa Cúng biển. Từ dải đất phù sa của bà mẹ thiên nhiên châu thổ, những chiếc thuyền lênh đênh trên sông biển, những chiếc xuồng tam bản luồn sâu vào những khu kinh rạch điệp trùng, con mắt thuyền của cư dân Nam Bộ không phải để dọa nạt cá ngạc, cá kình, hay trang trí ố mà để biết mình đang đi đến đâu, đang dừng lại ở đâu... Có cái ăn, có cái mặc, dạy cho cháu con đạo lý làm người và lòng kính tín với thiên nhiên... bản sắc của người Nam Bộ đã hình thành từ đó. Lê Đình Bích
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 19, 2011 13:32:16 GMT 9
VĨNH LONG - VĂN THÁNH MIẾUNguyễn Bá Hoa Cổng Tam quan của Văn Thánh Miếu - Vĩnh Long Trong kho tàng văn hoá, sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hoá rất đặc trưng ở Việt Nam. có mặt khắp mọi miền đất nước, giúp con người nhớ về cội nguồn, hướng thiện, tạo dựng cho mỗi người chúng ta một cuộc sống yên vui, nhất là về mặt tinh thần được an lành , lạc quan. Lễ hội đem đến cho con người sự thanh thản tâm linh, loại bỏ hay quên đi những lo toan thường nhật để hướng về cội nguồn, nhớ ơn các bậc tiền nhân có công với tổ quốc, các bậc tiền hiền khai khẩn nơi mình đang sống, Thành hoàng bổn cảnh… Chúng tôi xin nhắc đến VĂN THÁNH MÌẾU - Vĩnh Long. Vaì nét về lịch sử tỉnh Vĩnh Long : là vùng đất đa dạng màu mỡ và trù phú do hai sông lớn Tiền Giang và Hậu Giang bù đắp phù sa hằng năm, với hệ thống sông rạch chằng chịt, thuận tiện giao thông, có thể nói Vĩnh Long là trung tâm và là hĩnh ảnh thu nhỏ của của đồng bằng sông Cửu Long. A- VỊ TRÍ TỈNH VĨNH LONG Phía bắc giáp tỉnh Tiển Giang (Định Tường), tây bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía đông giáp Bến Tre, đông nam giáp Trà Vinh , phía nam giáp, Sóc Trăng và Cần Thơ. Thị xã Vĩnh Long cách thành phố Sài Gòn 136 km , có quốc lộ 1 và quốc lộ 53 đi ngang qua, nơi đây là cầu nối giao thông quan trọng giữa Sài Gòn - Cần Thơ và các tỉnh miền Tây. -2- Nhắc lại trước kia, năm 1732, chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chánh mới là dinh Long Hồ, châu Định Viễn (tỉnh Vĩnh Long ngày nay). Thủ phủ của dinh Long Hồ lúc mới thành lập đóng ở thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, được gọi là dinh Cái Bè. Đến năm Đinh Sửu (1757) (a) thì chuyển đến xứ Tầm Bao (thuộc địa phận thôn Long Hồ, nay là thành phố Vĩnh Long). Nhờ đất đai phì nhiêu, giao thông thuận lợi, cư dân đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt … dinh Long Hồ trở thành trung tâm quan trọng thời bấy giờ. Chúa Nguyễn đã thiết lập nơi vùng đất nầy nhiều đồn binh như Vũng Liêm, Trà Ôn… Đến năm 1813, thời vua Gia Long, dinh Lonh Hồ được đổi là Vĩnh Trấn. Năm 1832, tỉnh Vĩnh Long được chính thức thành lập. Vĩnh Long là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hoá như: thành xưa Long Hồ, miếu Công thần, đình Long Thanh (được xây dựng năm 1720), chùa Phước Hậu (được xây dựng vào nữa cuối thế kỷ 18 ) chùa Kỳ Sơn (được xây dựng khoảng năm 1812)… Đặc biệt là là Đền Văn Thánh hay Văn Thánh Miếu.. B- VĂN THÁNH MIẾU Văn Thánh Miếu Vĩnh Long cùng với Văn Thánh Miếu Biên Hòa (thuộc tỉnh Đồng Nai), Văn Thánh Miếu Gia Định thành, là ba Văn Thánh Miếu của vùng đất Nam Kỳ có từ thế kỷ 19 được xây dựng nhằm đề cao Nho giáo. Theo sử liệu , dưới triều vua Tự Đức có nhiều cuộc nổi dậy đánh phá dử dội ở Bắc Kỳ mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm nhiều nơi : - Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã kéo chiến hạm đến dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng. Sáng ngày 1-9-1858, chúng cho tàu chiến bắn đại bác lên các đồn Điện Hải, An Hải … mở đầu cho cuộc xâm lược nước ta. - Thành Gia Định thất thủ ngày 17-2-1859 Pháp lần lượt chiếm các tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Định Tường và Vĩnh Long Thực dân Pháp đã dùng áp lực quân sự buộc triều đình nhà Nguyễn phải đầu hàng với hiệp ước bất bình đẳng năm Nhâm Tuất (1862). Vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng hoà với thực dân, để triều đình có thể đem quân dẹp an các cuộc nổi dậy ở đất Bắc. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đành phải cầu hoà ký hiệp ước bất bình đẳng , hoà ước năm Nhâm Tuất ký tại Sài Gòn ngày 5- 6-1862 cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp : Biên Hoà, Gia Định , Định Tường và các đảo Côn Lôn . Hoà ước Nhâm Tuất được ký trên chiến hạm Duperré của Pháp đậu trên sông Sài Gòn. (Có ý kiến cho rằng trên chiến hạm Duperré chỉ là trao đổi ủy nhiệm thư, còn việc ký hoà ước của hai phái đoàn được thực hiện tại Trường Thi – nay là Nhà Văn Hoá Thanh Niên, số 4 đường Phạm Ngọc Thạch, quận 1 Sài Gòn). Hoà ước có 12 điều khoản , trừ các điều khoản có tính cách ngoại giao, thì 8 điều khoản được coi là quan trọng, trong đó có khoản 11 có liên hệ đến tỉnh Vĩnh Long .: Khoản 11 : Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi có lệnh mới mà không ngăn cản bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại Nam. Thành nầy sẽ được trao trả cho Hoàng đế nước Đại Nam ngay khi Ngài đình chỉ cuộc khởi nghĩa do lệnh Ngài ra tại các tỉnh Gia Định và Định Tường và những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa nầy ra đi và xứ sở được yên tĩnh và qui phục như một xứ bình yên. (Wikipedia) Năm Tự Đức thứ 14 (1862), ba tỉnh miền Đông đã lọt vào tay thực dân Pháp. Lúc bấy giờ tỉnh Vĩnh Long cũng đã nằm trong tay quân viễn chinh Pháp, nhưng theo điều 11 của hoà ước Nhâm Tuất -3- (1862), thì Pháp phải trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế . Do đó, các sĩ phu ở các tỉnh Biên Hoà, Gia định và Định Tường đã phải “vượt biên”, “vượt tuyến “ về “tỵ địa” tại Vĩnh Long. Quan đốc học là Nguyễn Thông đã chọn nơi rộng rãi an toàn gần thành Vĩnh Long xây dựng nơi cư ngụ để tập hợp họ lại ôn nhuần kinh sử để chờ ngày ứng thí Xây dựng Văn Thánh Miếu Mặc dầu đang trong cảnh chiến tranh dầu sôi lửa bỏng nhưng giới sĩ phu thời bấy giờ với tinh thần yêu nước tôn sư trọng đạo đã gấp rút vận động và xây dựng Văn Thánh miếu bên cạnh nơi ôn tập. Người chủ xứơng xây dựng công trình nầy là Kinh lược sứ Nam Kỳ Phan Thanh Giản và quan Đốc Học Vĩnh Long Nguyễn Thông.Tuy danh nghĩa là đề cao Nho giáo nhưng thực chất là xây dựng một nơi hoạt động văn hóa đề cao các bậc tiền hiền, các gương anh hùng chiến đấu chóng ngoại xâm và giáo dục lòng yêu nước cho người dân. Công trình khởi công từ mùa đông năm Giáp Tý (1864) và hoàn thành vào mùa thu năm Bính Dần (1866). Sau khi hoàn thành, giới quan lại, sĩ phu đã thành lập hội Văn Thánh Miếu để trông nom việc tế lễ hằng năm. Hội cũng lo tạo cơ sở lâu dài, ruộng đất hương hỏa cho văn miếu nầy. Thế nhưng tấm lòng yêu nước của giới sĩ phu không qua được con mắt mật thám của bọn Việt gian tay sai đế quốc xâm lược , chỉ ít lâu sau thì quân viễn chinh Pháp lại đem chiến thuyền uy hiếp thành Vĩnh Long lần thứ hai. Kinh lược sứ Phan Thanh Giản tuẫn tiết Những tưởng một lời an bốn cõi, Nào hay ba tỉnh lại chầu ba ! PTG. Kinh lược sứ Phan Thanh Giản trấn nhậm Vĩnh Long chẳng được bao lâu, vào trung tuần tháng 6, nhận được tối hậu thơ của De Lagrandière buộc phải nhượng luôn cho họ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Phan Thanh Giản trả lời :” Tôi có quyền giữ đất, chớ không có quyền nhượng đất”. Ngày 20-6-1867, Phan tiên sinh cùng quan Án sát Vĩnh Long tìm gặp De Lagrandière để hội đàm. Pháp yêu sách quá đáng, phái đoàn ta yêu cầu chờ thỉnh ý triều đình Huế; De Lagrandière cũng chấp thuận. Nhưng khi Phan Thanh Giản trở về thành thì thấy quân đội Pháp đã chiếm đóng thành Vĩnh Long. Tiếp theo là Châu Đốc thất thủ vào lúc nửa đêm 21 rạng ngày 22, Hà Tiên mất sáng ngày 24-6-1867. Năm ngày mất 3 tỉnh ! Toàn thể lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh đã lọt vào tay quân cướp nước. Sứ mạng không thành, Phan Thanh Giản đành chịu chết để đền nợ nước. Sau khi viết một tờ sớ lời lẽ cực kỳ lâm ly thống thiết, Phan Thanh Giản xếp đồ triều phục và các đạo sắc phong, cho người đem về Kinh, rồi tuyệt thực. Nhịn ăn 17 ngày mà không chết, Phan tiên sinh uống thuốc độc để kết liễu đời mình , ông mất ngày mùng 5 tháng7 năm Đinh mão (4-8-1867) . Khi Nam Kỳ Lục tỉnh lọt vào tay quân cướp nước, Nguyễn Thông đang giữ chức Đốc Học Vĩnh Long, để tỏ ý bất khuất phục, liền dời cả gia quyến đến “tỵ địa” tại Bình Thuận (Trung Phần). Bảo vệ Văn Thánh Miếu Sau khi chiếm Vĩnh Long, bọn thực dân Pháp lấy cớ thiếu gỗ xây dựng dinh tham biện (dinh tỉnh trưởng) định phá Văn Thánh Miếu để lấy gỗ. Bá tánh, đồng bào bàn nhau đề cử ông Trương Ngọc Lang (tức Bá hộ Non) đứng ra thương lượng với quân viễn chinh giữ lại công trình văn hoá nầy. Và từ ngày đó đến nay Văn Thánh Miếu được trùng tu nhiều lần và xây dựng thêm các công trình phụ . Văn Thánh Miếu tọa lạc tại phường 4, thị xã Vĩnh Long, ngày trước thuộc làng Long Hồ, tổng Long An, tuy đã trãi qua các lần trùng tu , nhiều giai đoạn lịch sử nhưng vẫn giữ được nét cổ kính rợp bóng cây xanh bên cạnh bờ sông Long Hồ. Phía trước, mặt tiền là cổng tam quan xây theo lối cổ lâu có ba tầng mái, nằm sát vệ đường lớn. Qua cổng tam quan là.thần đạo đi thẳng vào điện Đại Thành. Mặt trước chánh điện là ba tấm bia đá. Đáng chú ý nhất là tấm bia do Phan Thanh Giản viết trước khi tuẩn tiết. do ông Trương Ngọc Lang lập năm 1874 . Tấm bia thứ hai kỷ niệm ông Tống Hữu Định và giới trí thức trùng tu ngôi miếu năm 1903. Tấm bia thứ ba ca ngợi lòng hảo tâm của bà Trương thị Loan (con gái -4- của ông Trương Ngọc Lang) đã hiến đất làm hoa lợi hương hoả. Hai tấm bia sau do ông Nguyễn Liên Phong thành lập. Tuỵ Văn lâu Trong khuôn viên miếu có hai cái ao (hồ) trồng sen gọi là hồ Nhật Tinh và hồ Nguyệt Anh. Trong văn bia do Phan Thanh Giản viết có nói đến “Thơ lầu” (lầu sách) ở bên tả Văn Thánh Miếu (từ trong nhìn ra). Do đó, sau khi Phan Tiên sinh tuẩn tiết, các con của ông hưởng ứng phong trào kháng chiến chống Pháp, những người trong giới sĩ phu, trong đó có người Minh hương, đứng đầu là ông Trương Ngọc Lang đã lập sổ lạc quyên kêu gọi mọi người đóng góp hiện kim, hiện vật để xây dựng một “Tân Đình” phía tả Văn Thánh Miếu để thờ Phan Thanh Giản. Công trình bắt đầu xây dựng năm 1869 và hoàn thành vào năm 1872, Trương Ngọc Lang dựng bia đặt tên là Tuỵ Văn Lâu (b) (lầu nhóm họp văn nhân tài tử). Tuỵ Văn Lâu được trùng tu năm 1914 và khoảng năm 1920 – 1923 được đổi tên là Văn Xương Các . Trên gác là Thơ lầu, nơi cất giữ sách và thờ Văn Xương Đế Quân - vị tinh quân chủ quản việc thi cử học hành (c). Nhưng từng dưới Văn Xương Các mới là nơi quan trọng nhất. Gian giữa là nơi các văn nhân thi si nhóm họp đàm đạo. Phía trong là khánh thờ Gia Định Sử sĩ Sùng Đức Tiên sinh Võ Trường Toản ( danh hiệu được Nguyễn Vương ban cho) và Khâm sai Kinh Lược sứ Phan Thanh Giản. Khánh thờ chạm trỗ tinh vi, trong đặt hai bài vị, có câu đối ca tụng hai bậc sĩ phu đứng đầu đất Gia Định: Hoàng phong “Sử sĩ ” thanh cao lão, Tự hiệu “thư sinh” tiết liệt thần. ( Vua phong “Sử sĩ ” thanh cao lão Tự hiệu “ thư sinh” tiết liệt thần.) (d) Đến khoảng năm 1933, Tiên sinh Phan Thanh Giản được vua Bảo Đại nhà Nguyễn phong thần. Từ đó tại khánh thờ nầy có thêm một hòm sắc phong và một bức chân dung của Phan Thanh Giản do hoạ sĩ Philippe Trần vẽ rât công phu. Và các nhân sĩ đã hiến tặng nhiều câu đối ca tung công đức của Phan Tiên sinh. Bên tả khánh thờ chính là khánh thờ các quan đại thần có công khởi xướng xây dựng Văn Thánh Miếu : - Tổng đốc Vĩnh Long Trương văn Uyển - Bố chánh Vĩnh Long Nguyễn văn Nhã - Án sát Vĩnh Long Võ Doãn Thanh - Bố chánh Quảng Ngãi Nguyễn Thông (nguyên đốc học Vĩnh Long) Gian bên hữu thờ các quan đại thần : - Tuần phủ Hà Tiên Lê Quang Nguyên - Án sát Hà Tiên Nguyễn Toán - Án sát An Giang Phạm Hữu Chánh - Tri phủ Định Viễn Lê văn Khiêm - Tri phủ Định Viễn Nguyễn Tống Minh - Giáo thọ Hoằng tự Nguyễn Tu Mẫn - Tổng đốc Thuận Khánh Nguyễn Mục Như (Nguyễn văn Phong) - Bá hộ Trương Trọng Tiên ( Trương Ngọc Lang) Nguyễn Mục Như người Vĩnh Long, là cha chồng bà Trương Thị Loan, hai ông Trương Ngọc Lang và Nguyễn Mục Như được thờ tại Văn Thánh Miếu là do bà Trương thị Loan gởi hậu. Riêng ông Trương Ngọc Lang là người có công lớn trong việc trùng tu và bảo vệ Văn Thánh Miếu. (Sách di tích lịch sử- văn hoá tỉnh Vĩnh Long) -5- Khánh thờ Phan Thanh Giản Điện Đại Thành trong Văn Thánh Miếu và Võ Trường Toản Khu vực chánh của Văn Thánh Miếu gồm Đại Thành Điện và hai ngôi miếu trước sân đâu mặt nhau gọi là Tả vu và Hữu vu. Khu vực nầy có tường hoa bao bọc, chỉ có thể vào bằng cửa Kim Thanh và Ngọc Chấn. Chánh điện xây theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Bên trong bài trí trang trọng, giữa khánh thờ bài vị “Đại Thành Chí Thánh Tiên sư Khổng Tử ” và bài vị bốn vị đứng vào hàng đệ tử của ngài gọi là “Tứ Phối” . Sau nầy , khi họa sĩ Philippe Trần hoạ chân dung Phan Thanh Giản có vẽ chân dung bán thân của Khổng Tử. Bức chân dung nầy thay thế bức tượng cũ. Cũng trong chánh điện hai bên tả ban và Hữu ban là khánh thờ “Thập nhị hiền triết”. Còn hai bên nhà Tả và Hữu vu thờ “Thất thập nhị hiền “, mỗi bên ba mươi sáu vị. Đồ tự khí trong ba gian thờ phượng nầy bằng gỗ, bàng sành sứ hay đồng thau, tuy được chạm trỗ, sơn son thếp vàng nhưng mỹ thuật đơn giản . Trong Văn Miếu có rất nhiều hoành phi, câu đối do các nhân sĩ, các nhà hảo tâm ở khắp nơi hiến cúng, Đời vua Duy Tân, năm 1913, Thượng thư bộ Học Cao Xuân Dục có đến viếng Văn Thánh Miếu và đã đề hai đôi liễn : Xuân thu hà đẳng càn khôn, đạo tại ngũ kinh song nhật nguyệt; Thù, Tứ biết thành võ trụ, đồ qua lục tỉnh nhất cung tường. Nghĩa: (Đời Xuân Thu trời đất bậc nào, đạo ở năm kinh đôi nhật nguyệt; Sông Thù, Tứ, cõi bờ riêng đó, đường qua sáu tỉnh một cung trường.) Mỗi năm tại Văn Thanh Miếu có các ngày lễ lớn : - Tế Khổng Tử và các vị Thánh hiền vào ngày Xuân Đinh và Thu Đinh (ngày Đinh đầu tháng hai và ngày Đinh cuối tháng tám). - Tại Văn Xương Các có lễ giỗ Phan Thanh Giản (mùng 4 và mùng 5 tháng bảy, ngày giỗ các quan đại thần (ngày 12 và 13 tháng mười ) tất cả các ngày lễ giỗ đều tính theo ngày âm lịch. Nếu so sánh lễ hội với các đình miếu khác ở Vĩnh Long thì lễ hội tai Văn Thánh Miếu thu hút khách hành hương chưa đông lắm nhưng khách đến đây đều với tấm lòng nhiệt thành với văn hoá và yêu kính các bậc tiền nhân. -6- Tụy Văn Lâu trong Văn Thánh Miếu Vĩnh Long Kề bên Văn Xương Các vẫn còn hai khẩu súng thần công đại bác, tương truyền là súng đã dùng để bảo vệ thành Vĩnh Long từ năm 1860. C - THAY LỜI KẾT LUẬN Đến đây xin kết lại, nơi cổng chánh, trên cao có ba chữ Hán đại tự Văn Thánh Miếu: , hai cột hai bên có đôi câu đối cũng chữ Hán, đấp nổi thể chân phương: (xem ảnh trang 1) Khổng môn truyền đạo thiên ban thưởng Thánh miếu sùng văn vạn đại tôn Tạm dịch : (Cửa Khổng truyền đạo, ngàn lớp quý chuộng Miếu Thánh trọng văn , muôn đời tôn sùng. )./- NGUYỄN BÁ HOA Ghi chú: (a) - Năm 1757 , chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát phong cho Nặc-Tôn làm vua xứ Chân Lạp. Nặc-Tôn dâng đất Tầm Phong Long (Sa đéc) để đáp lễ. (b)-Tụy Văn Lâu hay Văn Xương Các là một công trình nhỏ đẹp nằm bên phải lối thần đạo, trong khuôn viên rộng rãi của Văn Thánh miếu Vĩnh Long. Lúc xây Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, ý của Phan Thanh Giản đã muốn xây thêm một thơ lầu phía bên trong Văn Thánh Miếu. Nhưng vì Pháp đến đánh chiếm và Phan tiên sinh tử tiết, nên công việc đành bị dở dang. Năm 1869, Trương Ngọc Lang đứng ra quyên tiền để xây một cái lầu, theo ý định của Phan Tiên sinh. (c) -Văn Xương Các có nghĩa là một tòa lầu gác thờ Văn Xương Đế quân, các vị thần trông nom về văn học, cũng như đền Ngọc Sơn, Hà Nội đã có thờ. (d) -Câu trên nói về cụ Võ Trường Toản, là một người thanh cao, ở ẩn dạy học, không chịu ra làm quan, được vua Gia Long cho là "Sùng Đức sử sĩ". Câu dưới nói về cụ Phan Thanh Giản, vốn là bề tôi tiết liệt, khi sắp chết, dặn ghi trong tấm triện là "lão thư sinh" mà thôi. Tài liệu tham khảo: - Non nước Việt Nam - Viêt Nam Danh nhân Tự điển - Tư điển bách khoa Wikipédia - Chín đời Chúa mười ba đời vua Nguyẽn
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:44:32 GMT 9
Đình làng Nam BộBùi Thụy Đào Nguyên Đình làng hay đình thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. Kiểu thức Không như ngôi đình làng ngoài Bắc là một kiến trúc gỗ đồ sộ, gồm 5-7 gian; ngôi đình Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi nhà sát liền nhau theo kiểu sắp đọi [1]; và thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, tiện việc đi lại, ít bị chi phối bởi thuật phong thủy. Ngày nay, đình thần Nam Bộ có lối kiến trúc khá đa dạng, bởi sau khi bị hư hại bởi thời gian & chiến tranh; kiểu thức truyền thống chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy đã ít nhiều thay đổi, nhưng một ngôi đình ở Nam Bộ, lần lượt từ ngoài vào trong đại để như sau: - Cổng đình có kiểu dáng không chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái lợp ngói, hoặc trên hai trụ có đặt cặp lân bằng sành tráng men. - Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp. - Sân đình thường có đàn thờ Thần Nông (tức Tắc thần), có nơi lập đàn tế chung với thần Thần Đất (tức Xã thần) gọi là đàn Xã Tắc [2]. Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân), miễu thờ Hội đồng hoặc miễu thờ nữ thần (có thể là một trong các nữ thần sau: Năm Bà ngũ Hành, Chúa Xứ Nguyên Nhung, Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Tiên, Chúa Ngọc...). - Ngôi đình chính thường là ba hoặc nhiều nếp nhà tứ trụ (tức nhà vuông có 4 cột cái, một gian, hai chái), cùng kiểu cùng cỡ, bố trí theo kiểu "trùng thềm điệp ốc". Mái đình thường lợp ngói âm dương hoặc ngói ống kiểu Trung Quốc, ngói kiểu vảy cá (kiểu Pháp, có sau năm 1920); trên nóc thường gắn những hình sành tráng men màu như Lưỡng long tranh châu, chim phượng ngậm cuốn thư, lân mẹ dạy lân con, cá hóa long, bát tiên, ông mặt trời, bà mặt trăng, con nạ (một loài thủy quái theo truyền thuyết); nhằm tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng. Bên trong mỗi đình có cách phân chia hơi khác nhau, nhưng thường là có ba gian chính: -Vỏ ca (gian trước), dành làm nơi xây chầu & hát Bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên. -Vỏ qui còn gọi vỏ cua hay nhà chầu (gian giữa), có nơi như Đình Phú Nhuận (thành phố Hồ Chí Minh), đặt bàn thờ Hội đồng ngoại [3]; có nơi như Đình Mỹ Phước (Long Xuyên, An Giang) đặt bàn thờ 18 đời vua Hùng, bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; và cũng có nơi dùng làm chỗ cho các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát Bội) hoặc hội họp. -Chính điện hay Chính tẩm (gian cuối), là gian được coi là mỹ thuật nhất ở đình, gồm hoành phi, câu đối, khám thờ, các bao lam và các mảng phù điêu...Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, tinh tế. Ở gian này, đối tượng thờ chính là Thành Hoàng làng; ngoài ra có nơi như Đình Mỹ Phước có thờ thêm Hội đồng nội. Ngoài ra, ở hiên phụ (cất dọc theo các gian chính), có thờ thêm Tả ban, Hữu Ban, Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền...Và tùy theo diện tích đình, mà có thể có thêm: -Nhà hậu hay nhà hội, để hương chức, ban tế tự hội họp; để dân làng qui tụ chuẩn bị lễ cúng tế. -Nhà trù (nhà bếp) và nhà ở của ông Từ giữ đình v.v... Bày trí Tuy mỗi nơi có đôi chút dị biệt, nhưng việc bày trí thờ thần ở đình phải tuân thủ mấy nguyên tắc sau. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì: - Câu đối ở đình chỉ trạm triện rồng hoặc tứ linh (long, lân, qui, phụng). - Bát bửu là 8 món quí báu gồm: bút, sách, quạt, gươm, lẵng hoa, đàn và sáo, bầu rượu, túi thơ. Có nơi là: pho sách, ngọc như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt, phất trần. - Cửa võng (bao lam) thường chạm lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trăng), hoặc là: lục long ngự thiên (sáu con rồng bay về trời), ngũ phụng hàm thư (năm con phụng ngậm tờ thư). - Bàn thờ thần Thành hoàng có ngai chạm hai con rồng, với cái long vị hình chử nhật (thần vị) mô phõng dáng người ngồi, ghi tên hiệu của thần...Trước long vị, đặt cái gương nhỏ, tượng trưng cho cái hốt mà vị quan cầm che trước mặt mỗi khi vào chầu vua. Ngoài ra, ở đây còn có tráp đựng sắc phong[4], tam sự hoặc ngũ sự (Tam sự là cái lư để đốt trầm và hai cái chân đèn. Ngũ sự thì có thêm hai ống cắm nhang), bình, khay, kỷ tam sơn là ba khối vuông (khối giữa nhô lên) dùng để lư hương, trầu, rượu, gợi bóng dáng ba ngọn núi. Ở đây còn có vài tàn lọng, cờ vía, đồ lỗ bộ, mũ cùng quần áo thờ. Hai bên hương án thường là đôi hạc đứng trên lưng rùa. Nếu thần là quan võ, có nơi còn có chưng cái giá, trên để ba thanh gươm cán dài, gọi là gươm vía hoặc gươm cẩn và ngựa...Chiêng trống là dụng cụ cần thiết khi tế lễ. Cái mõ là một khúc cây dài khoét bọng, dấu ấn của thời xưa, dùng để đánh lên báo động khi trong làng xảy ra hỏa hoạn, hoặc có giặc cướp... Tế lễ Tùy theo tập quán của từng địa phương, không nơi nào giống hệt nơi nào, nhưng nhìn chung ở đình làng Nam Bộ thường diễn ra các cuộc lễ như sau: - Lễ Niêm ấn & lễ Khai sơn [5]: Xưa, vào ngày 25 tháng Chạp, hương chức làm lễ rửa con dấu, bỏ vào hộp niêm kín. Kể từ ngày này, công việc hành chính trong làng đều đình chỉ cho đến mồng 7 tháng Giêng. Lễ Khai sơn (hay Khai hạ, Khai ấn), được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Xưa ngày này có lễ Hạ nêu và lễ Khai ấn. Hương chức làm lễ làm lễ Khai sơn xong, thì lấy cuốc bổ vài nhát tượng trưng gọi là động thổ, cho dân theo đó mà khởi sự cày cấy, trồng trọt; và các công việc hành chính trong làng trở lại bình thường. - Lễ Bầu ông: Thuở Nam Bộ còn hoang vu, nhiều người sợ cọp nên mỗi làng chỉ cử đến Hương chủ, vì chức Hương cả phải nhường cho cọp (tục lệ này có ghi trong Minh điều hương ước ban hành năm 1852). Và bởi cọp là hương chức đứng đầu, nên hàng năm, tùy theo đình chọn ra một ngày [6] để làm lễ "Bầu ông": cúng một con heo trắng, kèm theo một tờ cử hương chức. Gần đây, tục cúng Cả cọp vẫn còn nhưng chỉ nhằm cầu an cho bá tánh. - Lễ Tam Nguyên (hay Tam Ngươn): là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn: tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười. - Lễ Hạ điền và Thượng điền: Đây là hai lễ lớn trong năm (Xuân Thu nhị kỳ). Hai lễ này chính là sự biến đổi từ tập tế xuân (Xuân tế) và tế thu (Thu tế). Ở Nam Bộ, lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai trương việc cày cấy, trồng trọt. Lễ Thượng điền, được cử hành vào cuối mùa mưa, lúc mùa màng đã có kết quả. Hai lễ này mang tính chất lễ nghi nông nghiệp rõ rệt. Bên cạnh việc cầu Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình; là lễ cúng Thần Nông, Hậu Tắc, Vũ Sư, Phong Bá, Điển Di...Thông thường, lễ Hạ điền long trọng hơn lễ Thượng điền. Ngoài ra ở đình Nam Bộ còn có các lễ nhỏ khác, như: Giỗ hậu và Giỗ các anh hùng lịch sử; lễ vía Bà (các nữ thần được phối tự); và các lễ khác gọi chung là Tứ thời tiết lạp, gồm: Nguyên Đán, Hàn Thực (3 tháng Ba âm lịch), Thanh Minh (trong khoảng tháng Ba âm lịch), Trung Thu (rằm tháng Tám âm lịch), Trùng Cửu (mồng 9 tháng Chín âm lịch), Trùng Thập (mồng 10 tháng Mười âm lịch), Trừ Tịch (30 tháng Chạp âm lịch)... - Lễ Kỳ yên Đây là lễ chính trong năm. Lệ phổ biến là 3 năm cúng lớn một lần, gọi là Đại lễ Kỳ yên (Tam niên đáo lệ Kỳ yên). Sách Gia Định thành thông chí chép: Mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu, cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy. Ban quí tế Tên cũ là Ban Hương chức hội tề, hay Ban tế tự, gồm nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì đại khái chia ra làm ba loại hương chức: - Hương chức loại 1: tức hương chức Hội chánh, gồm có: Kế hiền (Hội trưởng); Chánh bái (hay Chánh niệm hương), Phó bái, Bồi bái, Tiên bái (bốn chức chung lo việc ngoại vụ); Chánh tế, Phó tế, Bồi tế (ba chức chung lo việc nội vụ). - Hương chức loại 2: tức hương chức Hội tề, gồm có: Giáo sư (cố vấn mọi mặt), Hương quan (cố vấn nghi lễ, tục lệ), Hương lễ (chỉ huy ban lễ sinh), Hương nhạc (chỉ huy ban nhạc lễ), Hương văn ( soạn thảo văn tế), Hương ẩm (tổ chức tiệc tùng), Thủ bổn (lo việc sổ sách và kiểm tra lễ vật), Thủ từ (giữ đình, lo việc đèn nhang mỗi ngày). - Hương chức loại 3: tức hương chức Hội hương hay Ngoại hội tề, gồm những người phụ giúp việc đình miếu. Một điều khác lạ là ở Nam Bộ, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quí khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Một điều khác nữa là ở Nam Bộ không hề phân biệt dân cố cựu, dân ngụ cư. Dân mới cư ngụ đôi ba năm, vẫn có thể được cử làm hương chức. Và ở đây cũng không hề có trường hợp bắt họ phải làm "thằng mõ". Có thể nói Ban quí tế đình miếu ở Nam Bộ là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn. Tuy có nơi, họ bị mang tiếng là bọn xôi thịt; nhưng đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác; bổn phận nhiều hơn quyền lợi. [7] Ý nghĩa Đình là thiết chế văn hóa tín ngưỡng của làng xã thời xưa, là nơi thờ thần Thành hoàng, được sắc phong theo ý nghĩa là thần phù hộ cư dân một làng. Ngoài ra, ngôi đình còn là nơi thờ các vị phúc thần, thần linh, danh nhân lịch sử, Tiền hiền, Hậu hiền (những người có công thành lập và xây dựng làng xã); là nơi dân làng đến lễ bái cầu mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn, là nơi tụ họp dân làng, yến ẩm, vui chơi... Trong một giai đoạn ngắn của lịch sử hành chánh, ngôi đình còn là trụ sở hành chánh của làng xã. Trích thêm nhận định của các nhà nghiên cứu. - Sơn Nam: Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng "lưu dân tập thể", mặc dù làng lắm gạo nhiều tiền...[8] Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch: Ngôi đình ở Nam Bộ gần như thống nhất từ đầu với lịch sử ngôi làng ngay từ lúc mới thành lập. Công trình này là nhân chứng và là một lực lượng (ít nhất là về tinh thần) vào sự hình thành, phát triển của vùng đất mới này. Ngoài ra, đình còn biểu hiện sinh hoạt luân lý, đoàn kết, hội hè của những kẻ tha phương...[9] Nguyễn Đăng Duy: Đình Nam Bộ không có ruộng công. Kinh phí cho hoạt động thờ thần, hội làng đều do các các nhà hảo tâm, do dân làng tự nguyện đóng góp. Đặc biệt, ở đây việc ăn uống, chỗ ngồi không bị phân ra ngôi thứ quá khắt khe như ở các đình đền ngoài Bắc. Cái khác nữa, là các đình ở ngoài Bắc, thường chỉ thờ một nhân thần hoặc một nhiên thần; còn ở Nam Bộ, đình là trụ sở của một tập hợp thần linh đa tạp. Tất cả được hỗn dung tổ hợp từ nhiều nguồn, nhiều phía. Có thể tạm phân ra như sau: - Từ ý thức biết ơn, biểu dương các người có công giữ nước, dựng làng. - Từ ý thức hiếu nghĩa đối với tổ tiên. - Từ ý thức nhớ về cội nguồn vẻ vang. - Từ ý niệm thiêng liêng phong sắc cho thần. - Từ ý niệm thờ thần gắn với không gian nghề nghiệp.[10] Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích [ 1 ] - Đọi: từ cổ, tương đương chữ chén bát ngày nay. [ 2 ] - Xã thần (Thần Đất,社) và Tắc thần (tức Thần Nông, 稷 ) là hai vị thần của nền văn minh lúa nước. [ 3 ] - Hội đồng nội và ngoại, theo Sơn Nam gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi v.v...(Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 28). [ 4 ] - Nhiều đình không để sắc phong ở tráp, mà để ở nhà một hương chức có uy tín để tiện bảo quản. Khi có lễ, mới cử đoàn đi rước sắc về đình. [ 5 ] - Có thể tục có nguồn gốc từ các thôn làng ở gần núi nên có tên là lễ Khai sơn. [ 6 ] - Đình làng Trà Tân ở Cai Lậy, làm lễ "Bầu ông" ngày 17 tháng Ba (âm lịch), Đình làng Tân Tĩnh ở Mỹ Tho làm lễ ngày 16 tháng Giêng (âm lịch). [ 7 ] - Lược theo Trương Ngọc Tường, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, in kèm trong Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 80-83. ở sách Kiến thức phục vụ thuyết minhdu lịch, tên chức danh trong Ban quý tế có hơi khác. [ 8 ] -Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 21 [ 9 ] -Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr. 351. [ 10 ] - Lược theo Văn hóa tâm linh Nam Bộ, tr. 103-117. Tài liệu tham khảo - Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. - Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam , Nxb Trẻ, 2005. - Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. - Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. - Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002. Thần Thành hoàngBùi Thụy Đào Nguyên Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Tên gọi Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam trong sách "Thuần phong mỹ tục Việt Nam" đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).(1) Nguồn gốc Sách "Việt Nam phong tục" chép: Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình...Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh... Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài Chuyện thần Tô Lịch trong sách Việt điện u linh (2). Sách này chép: Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó...Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần sông Tô Lịch) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng...Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng...(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay... Các thứ hạng Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có ba hạng: *Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương(3), Sóc thiên vương, Sử đồng tử[4], Liễu Hạnh công chúa...Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. *Trung đẳng thần là những vị thần ân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. *Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết...Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì... Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ. Nơi thờ phụng Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lịnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu... Vai trò & ý nghĩa Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành...Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng. Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổn của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc "Quốc điển hóa" sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên. Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích 1.Thần Thành hoàng ở các tỉnh phía Nam, đa phần không có tượng thờ, trừ một vài đình như Đình Tân Lân ở Biên Hòa có tượng Đô đốc Trần Thượng Xuyên, Đình Châu Phú ở Châu Đốc có tượng Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh... 2. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của Việt điện u linh là Lý Tế Xuyên, người đời nhà Trần. Ông soạn sách này vào năm 1329 3. Đông Thiên vương là Trì quốc thiên ( , sa. dh?tara???ra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh. 4. Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến Chử Đồng Tử hay không. Tài liệu tham khảo *Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992. *Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, 2005. *Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb TP. HCM in lại năm 1990. *Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995. *Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997. *Sổ tay Hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002. *Võ Thành Phương, Thờ Thần Hoàng - biểu tượng tâm linh của nông dân An Giang, tạp chí Thất Sơn số 57, 2000. *Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Ngọc Hồ dịch, Nxb Cửu Long, 1992.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2013 9:17:24 GMT 9
THEO DÕI CUỘC KHẢO CỨU VĂN HÓA ÓC EOVõ Quang Yến Bếp cà ràng cào than dúm lửa, Nhắn chị Hai mày hé cửa anh chun Bài hát dân gian (*) Hôm 18 tháng mười hai năm 2012 vừa qua, cô Béatrice Wisniewski bảo vệ ở Nhà Á Đông, 22, Đại lộ Président Wilson, Paris 16, một luận án tiến sĩ về khảo cổ học trong khuôn khổ Trường Cao cấp Thực hành EPHE trên đề tài : Đồ gốm cổ điển Việt Nam trong nghìn năm thứ nhất kỷ nguyên ta. Từ sự phát hiện những lò nhiệt độ cao đến sự xuất hiện một cuộc sản xuất có tổ chức : khảo cứu khảo cổ. Chủ nhiệm đề tài là ông Pierre-Yves Manguin, Giám đốc nghiên cứu tại Trường Viễn đông Bác cổ EFEO. Kỷ sư Pierre-Yves Manguin sinh năm 1945 ở Lisbonne (Portugal). Sau khi tốt nghiệp Truờng Viễn Đông sinh ngữ INALCO, tốt nghiệp trường Cao đẳng Thưc hành EPHE, năm 1977 ông bảo vệ luận án Tiến sĩ đệ tam cấp Đại học Paris IV, đồng thời đi học thêm dân tộc học và ngôn ngữ học ở Sorbonne. Năm 1970, ông được tuyển vào EFEO, gởi qua làm nhiều lần ở Indonexia. Giảng viên ở EPHE, ông điều khiển từ năm 2002 một se mi ne hằng tuần trên đề tài Khảo cổ học lịch sử mặt ngoài bờ biển Đông Nam Á. Thành viên sáng lập và Chủ tịch Phòng thí nghiệm Đông Nam Á và giới ngôn ngữ austronésien LASEMA ở Trung tâm Quôc gia Khảo cứu Khoa học CNRS, ông cũng là thành viên sáng lập và Chủ tịch Hội Khảo cứu về Đông Nam Á (Pháp), Chủ tịch Hội Khảo cổ Đông Nam Á (châu Âu), chịu trách nhiệm nhóm Đông Nam Á : Trao đổi, Tôn giáo, Nhà nước ở EFEO. Vào những năm 1965-1977, trong gần hai năm, ông tìm kiếm trong tài liệu lưu trữ Portugal châu Âu và châu Á những dữ kiện lịch sử bờ biển Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Kết quả được trình bày trong hai cuốn sách do EFEO xuất bản. Ông cũng còn thu lượm được một số tư liệu dồi dào chưa từng xuất bản về các đảo Đông Nam Á thế kỷ XVI dẫn đưòng ông lại sự nghiên cứu về những thành phố cảng và về lịch sử những kỹ thuật đóng tàu trong xã hội Mã Lai tiền cận đại. Phòng bảo vệ luận án Ban giám khảo - Bên măt : ông PY.Manguìn Sau một thời gian nghiên cứu ở Sumatra từ 1980 đến 1996, ông được cử điều khiển chương trình Khảo sát khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long. Chủ yếu chương trình nầy là khảo cứu về nước Phù Nam, từ thế kỷ I đến thế kỷ VII, trong một cuộc hợp tác giữa EFEO và viện Khoa học Xã hội Tp Hồ Chí Minh. Phù Nam, tức Fou Nan theo cách gọi của Trung Quốc, hay Bonam - b’iu nậm có nghĩa là ‘’núi’’ trong tiếng Môn-Khmer, hiện đại là phnom, cổ đại là vnam (1). Năm 2002, sau sáu đợt khai quật hằng năm tại vị trí phức hệ Óc Eo ở làng Vọng Khê, tỉnh An Giang, chương trình khai quật tạm dừng để bước qua đợt khai thác những dữ liệu đã thu lượm được. Thật ra, từ năm 1944, Louis Malleret đã bắt đầu khai quật ở đây sau khi phát hiện những di vật có cấu tạo xưa trên thị trường cổ vật. Nằm giữa phía tây sông Cửu Long và vịnh Xiêm La, di chỉ Óc Eo rải rác giữa một miền đồng bằng ngập nước và hoành sơn Ba Thê, rộng khoảng 1100 ha. Vùng sình lầy hồi ấy nay trở thành một vựa lúa phù nhiêu. Ông Malleret đã phát hiện ra những đền đài bằng gạch và đá, nhiều di vật như đồ trang sức bằng vàng, bằng thiếc hay bằng đá quý, đồ gốm trang trí hoa lá, tiền vàng, tiền bạc, tượng Phật, tuợng Ấn giáo như Vishnu, Ganesh. Phần lớn những di vật nầy được lưu trữ ở viện Bảo tàng An Giang. Điều lạ lùng là sự hiển diện những đồng tiền La Mã, mang hình Antoine le Pieux hay Marc Aurèle, chứng minh cuộc trao đổi thương mãi đường biển đã vượt quá Mã Lai, Ấn Độ và đạt đến miền Ba Tư, La Mã xa xôi. Những khám phá nầy đưa Óc Eo lên hàng những địa điểm quan trọng nhất trong thời gian nghìn năm thứ nhất kỷ nguyên ta ở Đông Nam Á. Ngay sau đó những hình ảnh chụp từ máy bay cho thấy đô thị gồm có một bức tường vây quanh dài 2,5km với những cạnh mặt bằng không đồng đều, đứng dưới đất không thấy được. Chạy ngang đô thị nầy là những kênh xưa nối liền một bên với biển cả, bên kia với thành phố cũ Angkor Borei nước Cam Pu Chia, cách xa 90km. Chiến tranh không cho phép ông Malleret tiếp tục cuộc khai quật, tuy nhiên ông cho xuất bản giữa 1959 và 1963 một tác phẩm đồ sộ Khảo cổ đồng bằng sông Cửu Long. Trong cuốn sách nầy, ngoài bản tường trình cuộc khai quật, ông còn trình bày tất cả những kết quả lượm lặt được trong khoảng ba trăm địa điểm khác và vạch ra lịch sử của vùng. Đồng bằng Óc Eo – Núi Ba Thê Vùng Óc Eo-Thất Sơn-Angkor Borei Bắt đầu từ 1979, những nhà khảo cổ Việt Nam tiếp tục cuộc khảo cứu nầy qua tên nền văn hóa Óc Eo, củng cố những kết quả của Malleret. Lần lượt những di tích được tìm ra ở Gò Công Trung (An Giang), Đồng Tháp, Vĩnh Hưng (Minh Hải), Bình Thạnh (Tây Ninh), những đồi cao su ở Long An, ngay cả Tp Hồ Chí Minh. Hai nhà nghiên cứu Võ Sĩ Khải và Lê Trung Khá, sau khi tìm thấy hai sọ cổ (cư dân của nền văn hóa Phù Nam) ở Gò Tháp (Đồng Tháp) và Óc Eo năm 1984, đã cho biết hai sọ cổ này mang những đặc điểm thường gặp ở số đông người Thượng hiện nay; và thường được xếp vào tiểu chủng hay loại hình nhân chủng Indonésien. Năm 1985, hai nhà khảo cổ Đinh Thị Nga và HồThị Thanh Bình khám phá ra cả một mảnh đất thiêng với 20 tháp và đền đài ở Cát Tiên miền thượng lưu sông Đồng Nai, mở rộng vùng văn hóa Óc Eo. Năm 1987 Lê Trung Khá phát hiện ở Bình Tả (xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), một di vật Bhavavarman (tên một hoàng thân Phù Nam) viết bằng chữ Phạn cổ,…Những khám phá nầy vạch trần một phần nào tiến triển của nền văn hóa Óc Eo qua những thời đại khác nhau, phát xuất từ những nguồn gốc khác nhau. Cát Tiên tồn tại đến thế kỷ VII thì bị Chân Lạp (Chen La, trở thành Cam Pu Chia ), nằm về phía nam Lâm Ấp (Lin Yi trở thành Champa), một chư hầu của Phù Nam thôn tính. Theo những văn bản Trung Quốc thì chính một phần Phù Nam đã bị Chân Lạp sáp nhập. Dù sao, chắc chắn Chân Lạp là một nước Khmer còn Phù Nam thì không. Chỉ qua những tài liệu Trung Quốc, nền văn hóa nầy đã được biết trước đây là di tích của một nước mang tên Phù Nam. Nước nầy chiếm toàn miền nam bán đảo Đông Dương, từ Miến Điện, Phi Luật Tân qua Nam Dương, miền nam Việt Nam rồi đến cả một phần bán đảo Thái Lan - Mã Lai, giữa hai thế kỷ I và VII. Sáng lập từ thuở tiền sử, Phù Nam chịu ảnh hưởng văn minh, đạo giáo, kiến trúc, chữ viết, ngay cả tư tưởng chính trị Ấn Độ bắt đầu từ các thế kỷ III, IV, đồng thời giao lưu buôn bán thường xuyên với nước láng giềng nầy. Rất có thể là kinh đô nước Phù Nam, Óc Eo, trở nên thịnh vượng nhờ vị trí trên đường thương mãi giữa bán đảo Thái Lan - Mã Lai một bên, Cửu Long -Trung Quốc bên kia. Hồi ấy tàu bè chưa di chuyển được đường xa mà chỉ chạy được từng chặng ngắn dọc bờ biển nên Óc Eo được xem như là một địa điểm chiến lược. sen voi Hiện vật Gò Xoài - Viện Bảo tàng Long An : Hoa sen và Voi Chương trình Khảo sát khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long, do ông Manguin hợp tác với Tiến sĩ Đào Linh Côn ở Viện Khoa học Xã hội (Tp Hồ Chí Minh), được dựng lên để tìm hiểu quá trình tiến triển phức tạp nền văn hóa Óc Eo. Cần thiết nhất là thiết lập một niên đại chính xác, rõ ràng, dựa lên dữ kiện xác định ngày, tháng tuyệt đối. Kế đến là phải đo lường phần trao đổi thương mãi trước kia với Ấn Độ và Trung Quồc, xác định ảnh hưởng riêng biệt những nền văn hóa địa phương và Ấn Độ lên quá trình hình thành xứ sở đồng thời quá trình đô thị hóa. Những khảo cứu nầy cần phải định hướng làm sao để có thể phân tích quá trình cấu tạo không gian đô thị trong thời kỳ Phù Nam, tách riêng mặt kinh tế những trao đổi hàng hải và phần khai khẩn nông nghiệp. Đằng khác, cũng cần tìm hiểu sự biến đổi căn bản cảnh quan để có thể kiểm tra nền thủy văn học một vùng hằng năm thường bị ngập lụt qua cuộc đào kênh : khảo sát sự vận hành những kênh xưa có thể dẫn đến sự hiểu biết các cách dẫn nước, tưới nước, tiêu nước, dẫn lưu, các phương tiện vận tải. Từ những kết quả cuộc khai quật các địa điểm trên sườn núi Ba Thê và trong đồng bằng sông Cửu Long, đem so sánh với những cứ liệu những địa điểm ở Đông Nam Á, dựa lên cuộc khảo cứu địa tầng học (stratigraphie), với những xác định bằng C14, một bản niên đại đã được hình thành. Từ đây có thể xác định rõ ràng hệ thống loại hình các nhóm vị trí địa hình, đền đài cũng như những di vật đã thu lượm, đặc biệt những đồ gốm. Hệ quả đầu tiên quan trọng là góp phần chỉnh đốn những dữ liệu gom góp từ 1944 rất phong phú nhưng riêng biệt với bối cảnh khảo cổ. Thứ đến là sử dụng thêm những ảnh chụp từ máy bay những năm 1950, những dữ liệu nầy giúp xác định chính xác những vị trí, những cấu tạo di tích như thành luỹ đô thị, kênh đào,… Để hiểu biết sâu rộng môi sinh của vùng từ đấy cách sinh sống của dân cư, còn cần phải khảo cứu thêm mặt địa mạo học (géomorphologie) và phân tích các phấn hoa (palynologie),…Chương trình khảo cứu nầy là một cuộc hợp tác giữa các Viện Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long (Tp Hồ Chí Minh), Phòng thí nghiệm Phân tích phấn hoa của Trung tâm Khảo cứu Tiền sử, Cổ đại, Trung cổ (CNRS-Sophia-Antipolis), Trung tâm Khảo cứu Địa chất học (CNRS-Viện Đại học Aix-Marseille) và Phân khoa Địa lý học Viện Đại học Liège. Tượng Vishnu Trong thời gian 12 thế kỷ (từ thế kỷ I đến thế kỳ XII), có thể xem 7 thế kỷ đầu là lịch sử Phù Nam, ăn khớp với thời gian chương trình khảo cứu nền văn hóa Óc Eo. Pierre-Yves Manguin (2) tạm thời tập hợp những vị trí khai quật thành ba kỳ khảo cổ chính : Kỳ I là phần trước lịch sử Phù Nam (từ thế kỷ I đến thế kỷ II/III) : sự chiếm đóng lần thứ nhất địa điểm Óc Eo. Vào lúc nầy vùng đồng bằng châu thổ đã hình thành, tuy ven biển cách xa khoảng 20km về phía tây nam chưa được biết rõ thấu đáo. Còn cần những kết quả phân tích trầm tích (sédimentologie), động vật học (faunistie), thực vật học (floristie) để xác định rõ ràng. Đây cũng là lúc dân cư lại ở những mô đất nhô ra khỏi nước trong đồng bằng và trên những sườn thấp núi Ba Thê : nhà sàn bằng gỗ, nhiều nhà lợp ngói bằng hay đất nung. Nhiều nhà nầy để lại những vật liệu để chế tạo đồ nữ trang như những cái khuôn bên trong còn lại kim loại đã được nấu chảy, lắm khi cả những đồ nữ trang chưa hoàn thành. Trang trí trên những viên gạch thường là thú vật như lân, sư tử hay rắn mang bành. Sự mai táng trong chum, rất thịnh hành ở Đông Nam Á vào thời tiền sử chậm hay thời sơ sử, còn được thông dụng. Cuộc trao đổi thương mãi với Ấn Độ và miền Đông Nam Á đã thành thường xuyên. Vào cuối kỳ nầy bắt đầu thấy những hào đào quanh vách tường đô thị. Sự vắng mặt những đền miếu tôn giáo, những hình tượng Bà la môn và Phật giáo biểu thị Phù Nam chưa chịu ảnh hưởng Ấn Độ. Cũng vào lúc nầy bắt đầu những công trình xây dựng mạng lưới thủy văn, đặc biệt kênh đào cắt ngang thành phố, nối liền với biển cả, sông Cửu Long và di tích Angkor Borei. Hệ quả là một phần đồng bằng tiêu nước, nhường chỗ ở cho dân cư, lấy hào thành làm chu vi đô thị. Những vết lúa chứng tỏ dân cư đã biết trồng và dùng trong kỹ nghệ đồ gốm làm gạch. Tượng Phật Tượng Surya Kỳ II là phần sau lịch sử Phù Nam (từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII). Trong thời kỳ nầy, nhà sàn rời mô đất dời về vùng đồng bằng ngập nước và trên các sườn núi Ba Thê, nhường chỗ cho những đền miếu Bà la môn và Phật giáo, biễu thị sự Ấn hóa trong vùng. Thương mãi tiếp tục phát triển qua Ấn Độ, Đông Nam Á và cả Trung Quốc bắt đầu tứ thế kỷ V. Kỳ III (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII) chứng kiến sự tàn lụi Phù Nam, một phần vì tàu bè có khả năng đi xa, không cần dừng lại ở Óc Eo, một phần không có nhiều hàng hóa để buôn bán. Thế vào là những hệ thống chính trị dẫn đến sự hình thành quốc gia khmer. Những khu nhà ở, đền miếu đạo giáo và tuồng như cả cuộc bồi đất hệ thống thủy lợi bị bỏ rơi. Cuộc xây dựng những đền miếu chỉ trên các sườn núi Ba Thê chỉ rõ mối liên lạc với chính thể Angkor. Châu thổ trở nên ngoại vi, trọng tâm toàn vùng xa dần bờ biển để tiến lại gần vị trí địa hình thành phố tương lai Angkor rất xa trong đất liền. Để dễ phối hợp những cứ liệu, nhiều bản đồ đã đuợc thiết lập trong một hệ thống thông tin Espace khmer ancien (Không gian Khmer cổ) tập trung ở EFEO : bản đồ khảo cổ di chỉ Óc Eo ; bản đồ môi sinh cổ ‘’tứ giác Long Xuyên’’ lấy Óc Eo làm trọng tâm, góp phần khảo cứu hệ thống cổ những kênh hào dẫn tới một mô hình thủy lợi hòng giải thích cách bố trí phức hệ ; bản đồ tất cả các vị trí trong thời kỳ Phù Nam (từ thế kỷ I đến thế kỷ XII) góp phần phân tích trong không gian những vị trí ấy với những tham biến niên đại, hệ thống loại hình, tôn giáo… Trong chương trình khảo cứu của Eric Bourdonneau, có mặt trong ban giám khảo, một bản đồ hệ thống thủy lợi cũ đồng bằng sông Cửu Long, bắt đầu từ những thế kỷ đầu tiên kỷ nguyên ta, biểu thị một trong những phương diện thực hiện một hệ thống thông tin địa lý đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ bản đồ nầy, đã phát hiện ra tầm rộng mật độ hệ thống thủy lợi cũ của châu thổ sông Cửu Long đến nay không dè, từ đấy phác thảo suy nghĩ đầu tiên về chức năng nông nghiệp của hệ thống. Ngày 17 tháng giêng 2010, Giáo sư Phạm Đức Mạnh và các nhà cộng sự đã được tặng giải Trần Văn Giàu trên công tác khảo cứu về Những di tích khảo cổ văn hóa Óc Eo ở tỉnh An Giang. Vì tài liệu về Óc Eo ngày càng phong phú, Giáo sư Phạm Đức Mạnh và các nhà nghiên cứu Phạm Thị Ngọc Thảo, Đỗ Ngọc Chiến, Nguyễn Công Chuyên trước phải lập thành hệ thống những dữ kiện sẵn có, sau xuống tận An Giang khảo sát tại chỗ ba lần, giữa 2006 và 2008. Họ chọn những địa điểm Gò Tư Trâm (Thoại Sơn), Gò Cây Tung (Tịnh Biên) là những nơi dòng sông rất quan trọng. Những di vật văn hóa tiêu biểu thời tiền sử và cổ sơ ở An Giang cần phải khảo sát sâu rộng để đi sâu vào văn hóa Óc Eo. Đáng để ý trong vị trí Thoại Sơn là những cái cuốc bằng đá ở bưng Đá Nổi, những cái rìu, vòng kiềng trong hang Núi Sập, những dụng cụ, đồ trang trí ở Ba Thê, xương súc vật, dụng cụ sản xuất ở Châu Đốc. Gò Cây Tung cống hiến nhiều đồ vật bằng đá, sành, kim loại cùng những sọ, răng, cốt động vật, cốt thực vật. Về mặt đạo giáo, đã được tìm ra một số lớn hình tuợng Phật giáo bằng gỗ hay bằng đá, hình tuợng Ấn giáo như Brahma, Shiva, Vishnu. Thợ kim hoàn Óc Eo rất khéo tay đã chạm trổ nhiều tượng trưng Bà la môn bằng vàng hay bằng bạc. Thợ khắc đá cống hiến những linga bằng đá đủ kích thước, những văn tự bằng chữ Phạn trên đá góp phần hiểu biết đời sống tinh thần và vật chất của người Phù Nam. Ngoài những vật liệu chế biến và dùng tại chỗ, chẳng hạn bếp cà ràng, vật dụng tiện lợi cư dân vùng sông nước, còn có rất nhiều hàng hóa, đá quí, đồ vật bàng vàng hay bằng bạc nhập cảng tỏ ra một nền thương mại phát đạt. Thường cuộc trao đổi hàng hóa tỷ lệ với cuộc sản xuất, trong trường hợp những đồ gốm, sản xuất càng nhiều khi năng suất các lò càng cao. Ảnh D. de Miscault Béatrice Wisniewski Cô thí sinh và tác giả Công tác của cô Béartrice Wisniewski, song song với cuộc khai quật ở Tuần Châu, nhắm phát hiện nét đặc trưng của truyền thống đồ gốm Việt Nam trong nghìn năm thứ nhất kỷ nguyên ta. Vào thời điểm lịch sử đó, dấu vết ảnh hưởng Trung Quốc là một sự canh tân trọng đại kỹ thuật : cách dùng lò nhiệt độ cao để đun nóng vật liệu. Thành quả là những đồ gốm sản xuất mang những đặc tính mới phản ánh một đằng những tiên tiến của thủ công nghiệp, đằng kia sự xuất hiện một xã hội lai Trung-Việt với những nét đặc trưng không thấy ở các nước Đông Nam Á khác. Di tích những lò miền bắc Việt Nam tuy ít cũng chỉ rõ sự chiếm hữu tuần tự của những thợ gốm cuộc ứng dụng những lò nhiệt độ cao liên kết với cuộc sản xuất những ‘’đổ gốm men trong’’ (glaçure) đầu tiên. Kỹ thuật các nghệ nhân, trí sáng tạo, bàn tay khéo léo, kết hợp với cuộc cải tổ phương pháp sản xuất làm nền móng cho sự phát triển phong phú kỹ nghệ đồ gốm. Loại hình nghệ thuật dân gian sâu sắc nầy, gắn bó mật thiết với cuộc sống nhân dân, xuất hiện trong các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn,… dẫn đường sau nầy đến ngành gốm sứ thời cực thịnh các triều đại Lý Trần thế kỷ XI-XIV. Luận án tiến sĩ của cô Béartrice Wisniewski (3) chiếu một tia sáng vào sự tìm hiểu văn hóa Óc Eo đồng thời là một ngọn đèn soi sáng nghệ thuật tiền sử Việt Nam. Luận án được chấm hạng Danh dự cao nhất "Mention très honorable avec félicitations du jury". Xô thành mùa xuân 2013
Võ Quang Yến Huế Xưa và Nay số 117 (5-6/2013) (có sửa chữa và bổ sung)
(*) Bếp cà ràng đã được tìm ra trong các cuộc khai quật ở Gò Tháp, Ba Thê di chỉ Óc Eo
Ảnh minh họa và di vật lấy trên internet.
(1) Tục truyền có một người tăng lữ Bà La Môn tên là Kaundinya (Hỗn Điền) từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai, hay các đảo phương nam lại, nằm mộng được trao một cung thần thông và dong buồm ra đi. Cập bến ở Cam Pu Chia, ông gặp thủ lĩnh là bà Liễu Diệp (Liu Yi). Bà chống cự nhưng không đối địch nỗi chiếc cung thần thông nên chịu quy phục. Hai người cưới nhau, thành lập vương triều đấu tiên nước Phù Nam, theo thư tịch cổ Trung Quốc tồn tại 150 năm Tiếp đến,tướng Phạm Man lên nối ngôi lập ra vương triều họ Phạm cho đến giữa thế kỷ IV thì quyền cai trị vào tay Ấn Độ. Giữa thế kỷ V, nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp tấn công chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ mà sau này Việt Nam chiếm được từ Chân Lạp vào đầu VII). Vua Chân Lạp hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp, nhà vua Phù Nam bỏ chạy, Phù Nam diệt vong.
(2) Pierre-Yves Manguin
- Recherches en cours dans le delta du Mékong : le site de Oc Eo, Bulletin de l'AEFEK n°1, Septembre 2006
Références :
-Bourdonneau, E., « The ancient canal system of the Mekong Delta. A Preliminary Report », in A. Karlström & A. Källén (éd.), Fishbones and Glittering Emblems. Southeast Asian Archaeology 2002. Stockholm: Museum of Far Eastern Antiquities, 2004, sous presse. - Dao Linh Côn, « The Oc Eo burial group recently excavated at Go Thap (Dong Thap Province, Viêt Nam) », in P.-Y. Manguin (éd.), Southeast Asian Archaeology 1994 : Proceedings of the 5th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Paris, October 1994. Hull: University of Hull, Centre of Southeast Asian Studies, vol. 1, p. 111-117. Khoo, C.M. James (ed.), Art & Archaeology of Fu nan, Pre-Khmer Kingdom of the Lower Mekong Valley. Bangkok : The Southeast Asian Ceramic Society, Orchid Press, 2003. - Lê Xuân Diêm, Dao Linh Côn et Vo Si Khai, Van hoa Oc Eo: nhung kham pha moi [La culture de Oc Eo : Quelques découvertes récentes]. Ha Nôi : Viên Khoa Hoc Xa Hoi tai Thanh Phô Hô Chi Minh, 1995. - Malleret, L., L'archéologie du Delta du Mékong. Paris : École française d'Extrême-Orient, 1959-63, 4 tomes en 7 vols.
- Manguin, P.-Y. & Vo Si Khai, « Excavations at the Ba Thê / Oc Eo complex (Viêt Nam): A preliminary report on the 1998 campaign », in W. Lobo (éd.), Southeast Asian Archaeology 1998.- Hull/Berlin : University of Hull, Centre for Southeast Asian Studies / Ethonologisches Museum, Staatlich Museen zu Berlin, 2000, p. 107-122.
(3) Béatrice Wisniewski
-Les fours à céramique du nord du Vietnam de la fin de l'occupation chinoise et du début de l'indépendence (VIIIe-XIe siècles), Maîtrise (2004), Université Paris-Sorbonne, Jury : Flora Blanchon et Pierre-Yves Manguin. Mention Très bien.
-La tradition céramique vietnamienne du premier milinénaire de nottre ère. De l’apparition des fours à haute température à l’émergence d’une production organisée : étude archéologique, Thèse de doctorat en archéologie (2012), EPHE, Paris, Jury : ZHAO Bing, BOURDONNEAU Eric, HARDY Andrew, PAPIN Philippe, POISSON Emmanuel, MANGUIN Pierre-Yves "Mention très honorable avec félicitations du jury".
Notre thèse a pour objectif d’identifier les traits distinctifs de la tradition céramique vietnamienne du premier millénaire de notre ère. Cette période historique particulière de la colonisation chinoise du Viêt Nam est marquée, dans le cadre de la céramologie, par une innovation technologique majeure : l’utilisation des fours à haute température pour la cuisson des objets. Il en résulte la production de pièces aux caractéristiques nouvelles reflétant aussi bien les avancées techniques de l’artisanat de la céramique que l’émergence d’une société métissée aux traits caractéristiques : la société sino-vietnamienne.
Les sites de fours de la région Nord du Viêt Nam, bien que peu nombreux, se révèlent particulièrement actifs à une période où, en dehors de la Chine, aucun pays d’Extrême-Orient n’emploie la technologie des fours à haute température. Les signes de l’appropriation progressive par les potiers vietnamiens de l’usage de ces fours s’associent donc à la production des premières céramiques à glaçure sur le territoire.
À la fin du millénaire, l’amorce de changements dans les pratiques allie l’augmentation visible des rendements des fours au développement de la production de céramiques à glaçure. Cette réaffirmation de la maîtrise technique des artisans s’accompagne d’une réorganisation de la production, préalable aux développements de la céramique des dynasties Lý et Trần.
Les sources archéologiques incitent à replacer la tradition céramique vietnamienne dans un contexte plus large, celui d’un unique dialogue avec la Chine, et permettent de réaffirmer son inscription dans les réseaux d’échange régionaux et interrégionaux actifs de la grande économie marchande
Đọc thêm
- Michael Vickery, (Hà Hữu Nga dịch) Phù Nam nhìn lại Giải cổ tác gia I, II, III, IV, V, Archaeological Highlights kattigara-echo.blogspot.com/2012/12/phu-nam-nhin-lai-giai-co-tac-gia-v.html
- Arnaud Bernadette, Viêt-nam. 50 ans après, les fouilles françaises reprennent dans le delta du Mékong. Oc-éo, la cité perdue des rois khmers, Libération 1.05.1999
- Civilisation Oc Eo : une recherche recompensée par le prix Trần Văn Giàu, Le Vietnam, aujourd’hui (Hoàng Phương, Le Courrier du Vietnam) 17.01.2010
- Mang, La Culture d’Oc Êo est une liaison avec l’Occident depuis l’époque romaine, Vietnam, 14.12.2012
- Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa, Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê, Cục Di sản Văn hóa, 07.01.201
- Phù Nam Civilisation Văn hóa Óc Eo – Royaume du Phunan www.vietnammonpeysnatal.fr
- Đăng Huỳnh, Thương nhớ cà ràng, www.vaocantho.com.vn 02.03.2013
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 7:28:09 GMT 9
Nguyễn Văn TrungThụy Khuê Như vậy triết lý là thái độ sống, thì có thể là của một cá nhân hay một cộng đồng; còn triết học là một tri thức có hệ thống thì bao giờ cũng chỉ là của một cá nhân, như Triết học Aristote, triết học Kant, triết học Khổng Tử… Kết luận: người Việt Nam có triết lý mà không có triết học. Tiểu sử Ngyễn Văn Trung. Nguồn: DCVOnline Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26/9/1930, là nhà giáo, nhà văn – triết Việt Nam, bút hiệu khác: Hoàng Thái Linh, Phan Mai. Sinh tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, trong một gia đình công giáo đông con. Cha là Nguyễn Văn Tuynh, thầy thuốc Bắc và mẹ là bà Thiệu Thị Tốt. Thuở nhỏ học trường dòng Puginier ở Hà Nội. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tản cư về Hà Đông học ở chủng viện Hoàng Nguyên. Đến 1950, trở lại Hà Nội theo ban tú tài văn chương ở trường Chu Văn An. Năm 1951, đỗ tú tài I, được nhà dòng cấp học bổng du học ở Âu Châu. Đến Toulouse rồi sang Bỉ học đại học Louvain, đậu cử nhân triết học, theo ban tiến sĩ triết học phần I. Cuối năm 1955 về Sài gòn, dạy triết ở trường Chu văn An. 1956 kết hôn với cô Trần Thị Minh Chi. Từ 1957, dạy triết tại đại học Huế. 1961 trở lại đại học Louvain trình luận án tiến sĩ và lấy bằng Tiến sĩ triết học, về nước (1961) dạy triết và văn ở đại học Văn Khoa Sài gòn. Khoảng 63-64, dạy đại học công giáo Đà Lạt. Một thời gian sau, ông bị “đuổi” khỏi đại học công giáo vì ảnh hưởng “độc hại” của cuốn Ca tụng thân xác trên sinh viên. Sau 1975, ông ở lại Đại học Văn khoa, nhưng các giáo sư miền Nam cũ không được dạy ba môn Văn, Triết, Sử nữa, ông chuyển sang nghiên cứu. Năm 1993, sang định cư ở Montréal, Canada. Sách đã xuất bản Sách giáo khoa: Luận lý học (tủ sách Á Châu, 1957). Đạo đức học (tủ sách Á Châu 1957). Luận triết học tập I (nhà xuất bản Nam Sơn). Phương pháp làm luận triết học (nxb Nam Sơn). Tiểu luận: Nhận định I (nxb Nguyễn Du, 1958). Nhận định II (nxb Đại học 1959). Nhận định III, (nxb Nam Sơn, 1963). Nhận định IV ( Nam Sơn, 1966).Nhận định V (Nam Sơn, 1969). Nhận định VI (Nam Sơn, 1972) . Lý luận văn học: Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962). Lược khảo văn học tập I (Nam Sơn 1963). Lược khảo văn học II (Nam Sơn, 1965). Lược khảo văn học III (Nam Sơn 1968). Văn học và chính trị: Chủ nghiã thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại (Nam Sơn 1963). Chữ và văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (Nam Sơn, 1974). Trường hợp Phạm Quỳnh (phỏng vấn những người viết sách báo đương thời với Phạm Quỳnh, Nam Sơn 1974). Chủ đích Nam Phong (Trí Đăng, 1975). Vụ án truyện Kiều (tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, in 1972). Triết học: Triết học tổng quát (Vĩnh Bảo, 1957). Ca tụng thân xác (Nam Sơn 1967). Hành trình trí thức của Karl Marx (Nam Sơn 1969). Đưa vào triết học(Nam Sơn 1970). Góp phần phê phán giáo dục và đại học (Trình Bày, 1967).Ngôn ngữ và thân xác (Trình Bày, 1968). La conception bouddhique du Devenir(Xã Hội, 1962). Danh từ triết học (làm chung với LM Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM Xuân Corpet (nxb Đại học 1958). Tôn giáo: Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (nxb Đại học Huế, 1958).Người công giáo trước thời đại (nhiều tác giả) (Đạo và Đời, 1961). Lương tâm công giáo và công bằng xã hội (Nam Sơn, 1963). Sau 1975: Câu đố Việt Nam (nxb TP Hồ Chí Minh, 1986). Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1987; nxb Hội Nhà Văn tái bản). Về sách báo của tác giả công giáo thế kỷ XVII- XIX (nhiều tác giả, nxb TP Hồ Chí Minh 1993). Bản thảo soạn sau 75, chưa in: Lục châu học, Ngôn ngữ và văn học dân gian,Ăn mặc theo truyền thống Việt Nam, Đạo chúa vào Việt nam, Hồ sơ về hàng giám mục Việt Nam, Trương Vĩnh Ký con người và tác phẩm, Nhận định VII, VIII. [Nxb Trẻ đã in tháng 1, 2015, sách gồm 644 trang khổ giấy 15,5 x 23,5 cm – DCVOnline] Ở hải ngoại, viết thêm Nhận định IX và X. Ngoài những tác phẩm liệt kê trên đây còn hàng trăm bài báo đủ mọi thể loại, in trên các báo hàng ngày như Tin sáng, Dân chủ mới, Hoà bình… hoặc các tạp chí như: Văn học, Bách khoa, Đại học, Sáng tạo, Thế kỷ XX, Đất nước, Nghiên cứu văn học, Văn, Sống đạo, Hành trình, Thái độ, v.v… chưa in thành sách. * Sau 54, ở miền Nam một số giáo sư đại học như Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan (Nguyên Sa) v.v… đã thực sự dựng nền móng cho môn triết học Tây phương. Để giảng dậy, họ phải dịch những danh từ triết ra tiếng Việt và viết sách. Trần Thái Đỉnh và Nguyễn Văn Trung là hai người đã có công lớn trong việc phổ biến triết học hiện đại trong đại học và trong tác phẩm văn học, với lối viết trong sáng, dễ hiểu. Trần Thái Đỉnh giới thiệu các lý thuyết triết học, chủ yếu là triết học Kant và triết học hiện sinh. Nguyễn Văn Trung áp dụng triết học vào các địa hạt như phê bình văn học, phê bình xã hội học, nhận định tôn giáo, nhận định lịch sử. * Về mặt triết học thuần túy, Nguyễn Văn Trung có hai cuốn tiêu biểu: Ca tụng thân xác(1967) và Ngôn ngữ và thân xác (1968). Ca tụng thân xác được viết dưới ngòi bút của một triết gia. Ông dùng hiện tượng luận để phân tích vấn đề thân xác, xưa nay vẫn bị khinh miệt, đặc biệt trong tôn giáo: Theo ông, đời sống tu trì có ba kẻ thù chính: “Satan, Ma quỷ cám dỗ thế gian và xác thịt”. Trong ba kẻ thù này xác thịt nguy hiểm nhất vì là nội thù. Cách đề phòng hữu hiệu nhất là phải khủng bố thường xuyên xác thịt bằng cách hãm mình, ăn chay và đánh tội. Một đức tu như thế nằm trên quan niệm nhị nguyên về con người: phân biệt tinh thần với thể xác, có từ thời cổ Hy Lạp; coi trọng đời sống tinh thần, còn vật chất và thân xác bị coi như những chướng ngại vật ngăn cản con người hướng thượng. Sự khủng bố thể xác là một thứ “sa đích đạo đức”. Thân xác bị lãng quên, bị bỏ quên, con người đâm ra không biết gì về thể xác của mình: Con người xa lạ với thể xác của mình. Triết học hiện đại (hiện sinh) cho rằng không thể tách rời thể xác với tinh thần: Khi ốm đau, đói khát, thì tinh thần cũng chịu, không thể minh mẫn mà suy nghĩ được, cho nên: Tôi là thể xác tôi. Do đó có thể nói: con người hiện diện ở đời bằng thân xác, nhưng lại ở trong một tình trạng vong bản vong thân thường xuyên, nghiã là quên mình vì tâm trí lúc nào cũng ở nơi khác, ở đâu đó, chỉ chăm chú đến những đối tượng ngoài mình. Vì vậy con người cần phải “khám phá” lại mình, khám phá thân xác, lúc ốm đau đói rét, lúc soi gương, lúc xấu hổ e thẹn… để thấy rằng “thân xác là một thực tại mở”. Biện chứng mở giải thích vấn đề dục tính và đưa đến kết luận: thân xác là một giá trị. Ca tụng thân xác là ca tụng con người. Không chỉ có tinh thần mới thiêng liêng, thân xác cũng thiêng liêng. Vấn đề không phải là chối bỏ hay hủy diệt thân xác, nhưng phải làm sao đảm nhiệm được một cách đích thực sứ mệnh làm người trong thân phận của mình, là một vật có thân xác. Nguyễn Văn Trung viết Ca tụng thân xác với chủ đích tố cáo những nền văn minh, những chủ nghiã duy thần, duy linh, duy tâm giả dối nói chung trên trái đất và tiếp theo đó ông viết Ngôn ngữ và thân xác để trình bày vấn đề thân xác nhìn từ hoàn cảnh riêng biệt của Việt Nam. Trước hết ông nêu vấn đề: Có tư tưởng Việt Nam hay không? Nếu có thì nó nằm ở chỗ nào? Để tìm hiểu tư tưởng Việt Nam, ông nêu câu hỏi: Chúng ta có triết học hay không? Và ông đề nghị: nên dùng chữ triết lý để chỉ định triết lý như một thái độ sống bao hàm một quan niệm sống, và triết học để chỉ định triết lý như một tri thức có hệ thống về cuộc đời. Như vậy triết lý là thái độ sống, thì có thể là của một cá nhân hay một cộng đồng; còn triết học là một tri thức có hệ thống thì bao giờ cũng chỉ là của một cá nhân, như Triết học Aristote, triết học Kant, triết học Khổng Tử… Kết luận: người Việt Nam có triết lý mà không có triết học. Tại sao? Ông giải thích: Vì sự lệ thuộc văn hoá ngoại bang trong nhiều thế kỷ: Sĩ phu Việt chống Tàu, nhưng chấp nhận và sùng bài ý thức hệ Nho giáo, trọng sách thánh hiền, không dám tự nghĩ, tự sáng tạo. Đến thời Pháp thuộc, vần đề cũng lại như thế: Trí thức Việt chống Pháp nhưng lệ thuộc vào văn hoá tư tưởng của Pháp. Và đó cũng là vấn đề chung của các nước nhỏ bên cạnh nước lớn như Bỉ, Thụy Sĩ, Luxembourg bên cạnh Pháp, Đức. Cho nên, chúng ta chỉ có triết lý dân tộc. Vậy triết lý ấy nằm ở đâu? – Ở trong ngôn ngữ. Những triết gia theo hiện tượng luận như Heidegger, coi ngôn ngữ như “cái nhà, đền thờ của hữu thể”. Con người hiện diện bằng thân xác, do đó, ngôn ngữ và thân xác là hai yếu tố cấu thành nên tư tưởng dân tộc Việt Nam và ông đã dùng hiện tượng luận để phân tích vị trí của thân xác trong hệ thống ca dao, tục ngữ và ngôn ngữ tục của người Việt. Về lý luận phê bình, Nguyễn Văn Trung là một trong những người đầu tiên đã giới thiệu và xử dụng lý luận văn học Tây phương một cách có hệ thống. Tác phẩm tiêu biểu của ông trong địa hạt này là bộ ba cuốn Lược khảo văn học. Lược khảo văn học, Tập I: Những vấn đề tổng quát, sườn dựa trên những câu hỏi mà Sartre đề ra trong tác phẩm Qu’est- ce – que la littérature (Văn chương là gì?): Viết là gì? Viết cái gì? Tại sao viết? Viết thế nào? Viết cho ai? Sartre đặt câu hỏi và trả lời những câu hỏi ấy trong bối cảnh ngôn ngữ và xã hội phương Tây. Nguyễn Văn Trung trả lời những câu hỏi ấy trong bối cảnh Việt Nam. Ông tìm cách định nghiã văn chương, lấy ngôn ngữ văn chương Việt Nam làm đối tượng, và giải thích cho độc giả Việt Nam, chưa quen với lối phê bình dựa trên nền tảng triết học. Lược khảo văn học, Tập II: Ngôn ngữ văn chương và kịch, (1965), bàn về công dụng của văn chương, giới hạn địa bàn trong các thể loại: thơ, tiểu thuyết và kịch, và Nguyễn Văn Trung xác định: muốn tìm hiểu văn chương một cách quy mô, thì phải dựa trên những phương tiện ngữ học. Tiếc rằng ở miền Nam, thời ấy, ngữ học chưa thực sự phát triển, cho nên khó có thể đi đến việc tìm hiểu sâu sắc các tác phẩm văn học. Lược khảo văn học, Tập III: Nghiên cứu và phê bình văn học, (1968), Nguyễn Văn Trung trình bày quan niệm tìm hiểu tác phẩm như một kiến trúc ngôn ngữ. Đối chiếu những quan niệm phê bình cũ với những quan niệm mới và nói lên giới hạn của phê bình văn học. Lý luận phê bình của Nguyễn Văn Trung thật sự cần thiết cho nền văn học miền Nam và đã mở cửa cho một phương pháp phê bình hoàn toàn mới lạ, so với lối phê bình tiền chiến, như phê bình giáo khoa của Vũ Ngọc Phan, phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, kể cả lối phê bình mác-xít của Trương Tửu. Đặc biệt Nguyễn Văn Trung giới thiệu các trường phái phê bình mới như phê bình ý thức, phê bình mác-xít, phê bình phân tâm học, vv… Tuy nhiên, ở thập niên 1960-1970, Nguyễn Văn Trung cũng chỉ cập nhật được những dòng tư tưởng đương thời, tức là dừng lại ở trường phái hình thức Nga qua phương pháp phân tích ngữ học của Roman Jakobson. Những khám phá của các trường phái triết ngữ học Đức, mỹ học Bakhtine, ký hiệu học (Roland Barthes), vv… dường như chưa có mặt tại miền Nam, trước 1975. Bộ sách Nhận định, vừa là tên sách (10 tập) vừa nói lên chủ đích của tác phẩm là “phản ảnh những chặng đường tìm kiếm suy tư”. Nói khác đi: nhận định có nghiã là nói lên những suy nghĩ của mình về vấn đề này hay vấn đề khác. Và Nguyễn Văn Trung đã dùng hiện tượng luận để mổ xẻ và đưa ra những ánh sáng mới về các đề tài như: Thông cảm, E lệ, Hối hận, Cái nhìn, Tự tử, v.v… Vì thế, những nhận định của ông trên nhiều lãnh vực: văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị… luôn luôn có tính thuyết phục cao. Nhận định phản ảnh tư tưởng và phong cách của Nguyễn Văn Trung -dù đồng ý hay không đồng ý với ông- cũng phải công nhận ông có ba đặc điểm: óc phê bình, óc sáng tạo và cái nhìn triết học đào sâu tới nguồn cội của vấn đề. Chính ở óc phê bình và tranh luận mà Nguyễn Văn Trung có lắm “kẻ thù” trong mọi địa hạt chính trị cũng như tôn giáo. Phần văn học và chính trị, chủ yếu đặt trên vấn đề phê bình nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh. Nguyễn Văn Trung cho rằng: Vì Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đề cao truyện Kiều, cho nên Ngô Đức Kế mới phản bác truyện Kiều. Sự phản bác này là để chống chủ trương theo Pháp của Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong. Nếu Phạm Quỳnh không đề cao truyện Kiều mà đề cao Hoa Tiên, thì Ngô Đức Kế cũng sẽ công kích Hoa Tiên. Do đó vụ án truyện Kiều, theo Nguyễn Văn Trung, là một vụ án chính trị chứ không phải văn học. Cuốn Chủ đích Nam Phong, mục đích tố cáo Phạm Quỳnh chủ trương theo Pháp trong khi các trí thức khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường… đã khẳng khái chống Pháp. Người ta có thể đồng ý hay không đồng ý với ông trên lập luận này, nhưng một mặt khác, dù Nam Phong có nhận tiền trợ cấp của Pháp và do Pháp chỉ định đường lối, cũng không thể gạt bỏ những đóng góp tích cực của Nam Phong trong giai đoạn đầu của văn học quốc ngữ. Và Phạm Quỳnh như chúng tôi đã có dịp chứng minh, là một nhà ái quốc, đã sang Pháp cảnh báo chính sách thực dân, định bỏ hẳn tiếng Việt trong các trường tiểu học để chỉ dạy tiếng Pháp, như họ đã áp dụng ở châu Phi. Phạm Quỳnh thành công qua bốn bài diễn văn tâm huyết đọc trước cử toạ trí thức tại Paris năm 1922, nhắm vào trọng điểm truyện Kiều. Ông nói về cái hay của ca dao và truyện Kiều, hai kho tàng vô giá của dân tộc, không thể dịch sang tiếng Pháp mà không mất đi phần lớn giá trị và người Pháp thực dân không đọc, không hiểu. Phạm Quỳnh giới thiệu bản dịch truyện Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh, để nếu in ra được, người Pháp có thể đọc để hiểu một phần nhỏ cái hay của tiếng Việt qua một nhà thơ lớn, mà công lao đối với quốc âm không khác gì công lao của Rabelais đối với chữ Pháp. Đó là chứng từ không thể chối cãi được về lòng yêu nước của học giả Phạm Quỳnh, nhất là việc giữ cho tiếng Việt được trường tồn trong hoàn cảnh chúng ta có thể mất tiếng nói bất cứ lúc nào trước chính sách thực dân, và đó là một trong những yếu tố chủ chốt khiến 2 năm sau (1924) người Pháp cho mở những trường tiểu học ở Bắc và Trung, học thuần túy tiếng Việt trong ba năm, để thi bằng Sơ học yếu lược. Sau 1975, Nguyễn Văn Trung chuyên hẳn sang nghiên cứu. Năm 1987, ông tìm thấy đoản thiên tiểu thuyết viết theo lối Tây phương sớm nhất: Thày Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Khám phá này đặt lại hoàn toàn vấn đề từ trước đến nay giới nghiên cứu vẫn coi Tố Tâm (1922) của Hoàng Ngọc Phách là tiểu thuyết đầu tiên viết theo lối Tây phương. Bộ Lục châu học là một công trình nghiên cứu đồ sộ. Nguyễn Văn Trung khai quật trình bày và giới thiệu những tác phẩm văn học và sử học viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện ở Lục châu (Lục tỉnh Nam Kỳ) từ 1865 đến 1930 (phần lớn đi trước ngoài Bắc). Lục châu học là công trình nghiên cứu cuối cùng của Nguyễn Văn Trung ở trong nước, chủ tâm đặt lại miền Nam vào quỹ đạo tiên phong của nền văn học quốc ngữ. Tập bản thảo quý giá này được lưu truyền trong giới nghiên cứu trong Nam, ngoài Bắc trong nhiều thập niên, đã ít nhiều thay đổi cái nhìn của những nhà nghiên cứu văn chương quốc ngữ, nhưng người ta thường trích dẫn hoặc diễn lại ý của ông mà không đề xuất xứ. Cho đến nay Lục châu học vẫn chưa được in thành sách, nhưng đã có bản điện tử trên Internet, trên mạng nguyenvantrung.free.fr 5/2007; bổ sung ngày 30/7/2014 Hồ sơ về Lục châu học – Tìm hiểu con người ở vùng đất mới dựa vào tài liệu văn, sử bằng Quốc ngữ ở miền Nam từ 1865-1930. Nguofn: NXB Trẻ (Tháng 1, 2015)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:08:13 GMT 9
Lan man về từ kỵ húy và ngôn ngữ của người Nam Bộ Thiếu Khanh
Tiếng nói không những là phương tiện giao tiếp mà còn là một thứ "căn cước" cho biết mình là người miền nào. Nghe tiếng nói người ta phân biệt được người Bình Định với người người Phú Yên, người Gò Công cũng nói không giống người Rạch Giá. Tuy vậy, không cần phải là một nhà nghiên cứu, ai cũng có thể thấy người Việt, nói chung, có chung một đặc tính kỳ diệu: từ Bắc xuống Nam cùng nói một thứ tiếng Việt phổ thông; sách vở cũng dùng chung một thứ chữ Việt phổ thông. Nếu trong 9 thôn bản của người Mông, Lô Lô, Tày, Pu Péo ở xã Lũng Cú, một xã cực bắc Việt Nam, thuộc huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, mà có người Việt sinh sống, thì người Việt ở đó, cho đến những người Việt ở Xã Đất Mũi, một xã cực Nam, thuộc Huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cùng đọc hiểu chung một thứ chữ viết, nói chung một thứ tiếng Việt.
Nhưng người ở mỗi địa phương, mỗi miền có cách nói khác nhau, thậm chí có cả từ vựng khác nhau. Thứ tiếng khác nhau đó được coi là phương ngữ: ngôn ngữ "đặc sản" của một địa phương. Chính cái khác nhau của ngữ âm và từ vựng "đặc sản" làm nên tính chất đặc biệt của con người ở vùng miền đó.
Phương ngữ của một địa phương được thể hiện ở hai mặt: ngữ âm (phonectic sounds), và từ đặc trưng của địa phương (local words/phrases).
Về mặt ngữ âm, ngoài sự biến âm tự nhiên (natural change) mang đặc tính vùng miền còn có sự biến âm cưỡng bức (forced change) một cách giả tạo.
Nói một cách sơ lược, sự biến âm tự nhiên của người miền Nam [1] nói chung được thấy rõ trong cách phát âm của một số phụ âm đầu, chủ yếu là hoạt động của âm đệm (hay cũng gọi là âm phụ) /-w-/ (mà chữ viết là o, u như trong các từ ngoan ngoãn, quán quân...).
1. Âm đệm biến phụ âm [Kh-] thành [Ph-] Ví dụ: "ăn khoai" thành ra "ăn phai," "khoan khoái" thành "phan phái" "khuây khỏa" thành "phây phả" "Ông ấy phứt núi rồi" (khuất núi). 2. Âm đệm thay thế phụ âm đầu: Ví dụ: "hoàn toàn" được phát âm "wàntàn(g)", "Ngoan ngoãn" thành ‘wan wãn" "Nguyễn" thành "wĩễn" "Hoa quả" thành "wa wả,"v.v... Mà "qua" cũng thành "wa". ("Hoa" và "qua" cùng được phát âm "wa" nhưng được hiểu theo ngữ cảnh: "Mua một ít "wa wả" (hoa quả) về cúng," và "Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra / Bậu ra cho khỏi tay "wa")
3. Âm đệm biến đổi phụ âm xát hữu thanh G /g/ thành phụ âm tắc xát Gi- /j/ Ví dụ: "ở góa" thành ra "ở giá," (nhưng "guồng máy" thì vẫn là "guồng máy")
4. Âm đệm biến mất sau phụ âm [Nh-]: Ví dụ: "Nhuyễn" được phát âm thành "nhiễn"
Ngoài ra, người miền Nam nói chung không phân biệt được các phụ âm cuối "-n" và "-ng", "-t" và "-c" Ví dụ: "than lửa" và "cái thang", "mặt mũi" và "mặc kệ". Và người ở một số địa phương ở Nam bộ [2] không phát âm được những từ có phụ âm đầu là R /r/, một âm rung đầu lưỡi. Trong khi vài địa phương ở miền Trung nói rõ âm /r/, một số địa phương ở Nam Trung Phần [3] phát âm âm /r/ thành âm tắc xát /j/ (Rõ ràng = jõ jàng), người miền Bắc phát âm âm /r/ thành âm hữu thanh /z/ (Rõ ràng = zõ zàng), thì nhiều người ở một địa phương Nam bộ có khuynh hướng biến âm rung đầu lưỡi /r/ thành một âm xát hữu thanh G /g/. Đó là nguyên nhân đưa đến câu nói đùa phổ biến: "Con cá gô bỏ trong gổ quậy gộtgột!"
Nói thì nói vậy, nhưng khi viết thì ai cũng viết: Con cá rô bỏ trong rổ quậy rột rột.
Người miền Nam chỉ phát âm được 4 trong 5 dấu giọng: sắc, huyền, nặng, và hỏi/ngã. Các từ ngả (trong ngả nghiêng) và ngã (trong ngã lòng) được phát âm giống nhau.
Nếu quá trình biến đổi ngữ âm tự nhiên, rất phức tạp, trong suốt lịch sử phát triển của ngôn ngữ mà chỉ các nhà ngôn ngữ học, tức người có chuyên môn, mới có thể xác định được, thì sự biến âm cưỡng bức xuất hiện một cách đơn giản và dễ được nhận thấy hơn. Đó là những từ kỵ húy phát sinh trong ngôn ngữ Việt, ít nhất là từ thời người Việt tiếp thu văn hóa Tàu và bắt chước thói "kỵ húy" của họ, tức là tránh viết và nói những từ là tên của vua chúa.
Thời xưa chữ Hán được viết theo hàng dọc từ trên xuống dưới, từ phải qua trái. Khi gặp một chữ tên húy, người viết "đài" chữ đó lên đầu dòng, tức là một cách "xuống hàng" thình lình bất kể văn mạch, và đưa chữ đó lên đầu hàng (dọc) mới, và cao hơn các hàng khác một chữ, và điều quan trọng là chữ đó phải được viết thiếu đi một nét. Quên các điều này là phạm húy, có thể là tội chết, hoặc nhẹ nhất là bị đánh hỏng và cấm thi, nếu là sĩ tử.
Còn trong lời nói thì để tránh từ tên húy, người ta phát âm trại đi một chút, hoặc thay bằng một từ khác, hay tránh hẳn nói tiếng đó.
Có phải chính vì cái tập quán kỵ húy tai hại của người xưa mà chúng ta đánh mất tên một ông vua quan trọng trong lịch sử? Ngay các sử gia cũng không biết tên thật của Tiên hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh là gì. Bộ Lĩnh chỉ là một chức quan mà sứ quân Trần Minh công (Trần Lãm) phong cho ông, để ông nắm giữ binh quyền chớ không phải tên thật [4].
Khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam gầy dựng Xứ Đàng Trong, ông mang theo tập quán kỵ húy từ miền ngoài vào. Nhưng ở Xứ Đàng Ngoài, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, với nhiều biến cố lên xuống của các triều đại, lòng người tan hợp thăng trầm theo mệnh nước, nhiều tiếng kỵ húy của triều đại trước bị triều đại sau xóa bỏ, và chúng đã mai một đi trong trí nhớ người dân, còn để lại rất ít dấu vết trong ngôn ngữ những lưu dân theo chân Nguyễn Hoàng vào Nam. Mà đã vào vùng đất mới này tức thoát khỏi vòng cương tỏa của triều đình, họ chẳng thèm sợ húy gì của vua chúa cũ nữa. Bản thân vị Chúa Tiên cũng chỉ áp đặt tập quán đó cho thần dân của mình ở vùng đất mới chớ chẳng bận tâm đến những từ húy kỵ nơi "cố quốc". Có lẽ vì thế mà trong ngôn ngữ người dân miền Nam chỉ có những từ húy từ tên các vua chúa nhà Nguyễn.
Trong khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của các vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì họ bị quy định hết sức ngặt nghèo trong viết hay nói các từ trọng húy của vua chúa nhà Nguyễn. Vì vậy trong ngôn ngữ xuất hiện những từ rất oái oăm: Kỷ ngươn, Rằm thượng ngươn, thay vì kỷ nguyên, rằm thượng nguyên (để kiêng tên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên); can đởm, thay vì can đảm, đởm lược thay vỉ đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Đảm), Thới bình, tên một huyện ở Cà Mau, thay vì Thái bình (kiêng tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái); các tên thôn (hiện nay là xã) như Thới Tam, Thới Tứ, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn... thuộc khu vực Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, là tuân theo sự kỵ húy đó. Làng Tân Kiểng xưa (Bây giờ còn Đình Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng ở Phường 2, quận 5, Sài Gòn) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng tên húy Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long). Từ Hoàng được đổi thành Huỳnh vì kỵ tên của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Gọi màu hồng thành màu hường, nói nhiệm chức thay vì nhậm chức để tránh tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức. (Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Thì Nhậm, Ngô Tòng Châu thay cho Ngô Tùng Chu cũng vì vậy. (Chu là tên Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu). Người miền Nam quen nói Tôn giáo, thay vì tông giáo để kiêng tên vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng vì tránh tên ông vua thứ ba của nhà Nguyễn này mà tất cả các chữ Tông trong các đế hiệu như Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Trung Tông, v.v... đểu được đổi thành Tôn: Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn...
Có thời người miền Nam nói cúng kiếng thay vì cúng kính, kiếng lễ, thay vì kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều công lao hiển hách trên gần suốt cả đất nước xứ Đàng Trong. Tên ông là Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người ta nói trại ra là Cảnh. Khoảng một trăm năm sau, vì kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại gọi trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì vậy, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên kỵ húy chớ không đúng tên thật [5]. Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn Thuận Thành, hiện nay là vùng đất từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận và trấn giữ Dinh Bình Khang, nay là vùng đất từ tỉnh Ninh Thuận ra đến Khánh Hòa; vào năm 1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam củng cố và mở rộng đất Sài Gòn Gia Định. Tuy không phải mà một vị chúa, nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền Trung vào đến miền Nam, nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.
Người miền Nam nói Sơn là núi mà không nói San, vì đó là tên vua Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người miền Nam bắt chước người miền Bắc nói phản ánh thay vì trước đó họ nói phản ảnh (ảnh dấu hỏi) để tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Ngay chữ Phúc trong tên các vua chúa nhà Nguyễn cũng phải nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có các tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành lập năm 1956) mà theo sách Phương Đình Dư Điạ Chí vốn là Phúc-Long- phủ và Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Hòa.
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có một bài hát Lên Đàng. Đàng là từ người miền Nam nói trại từ Đường (tên vua Đồng Khánh Nguyễn Phúc Ưng Đường). Tuy nhiên Đàng không phải là một từ mới đặt mà người ta lấy một từ cũ có sẵn. Từ Đàng đã có ghi trong An Nam Dịch Ngữ, một loại "tự điển" Tàu Việt do người Tàu soạn từ Thế kỷ 15, với nghĩa tương đương là Đường (đi).
Sự kỵ húy của nhà Nguyễn không chỉ giới hạn trong tên các vua chúa mà mở rộng đến tên hoặc thậm chí cung điện của các bà vương hậu (tức hoàng hậu, vì các vua nhà Nguyễn không đặt hoàng hậu, trừ ông vua cuối cùng là Bảo Đại). Người miền Nam nói nhơn ngãi thay cho nhân nghĩa, chắc vì kiêng tên của các bà vợ vua nào chăng? Tuy sách Phương Đình Dư Địa Chí viết tỉnh Quảng Nghĩa (廣義) nhưng người dân đều vì kỵ húy mà nói trại thành Quảng Ngãi. Những người dịch sách Đại Nam Nhất Thống Chí [6] cũng viết Quảng Ngãi, dù chữ nho trong sách là Quảng Nghĩa.
Nhiều người miền Nam tầm tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn Lê Huê (Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花– Phàn Lê Hoa), vợ của Tiết Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy gọi là Tiết Đinh Sơn, trong tiểu thuyết dã sử Tàu về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi Liang). Huê là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, vì đó là tên bà Hồ Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng [7]. Từ Hoa không chỉ được nói trại là Huê mà còn được thay bằng một từ khác là Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng bắc qua Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài Gòn vốn có tên là Cầu Hoa.
Các từ tên húy khác chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa này thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành Cầu Bông, tỉnh Thanh Hoa bị đổi thành tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở đất thần kinh thì lại được đổi thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao: "Thủng thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người trèo cao." (ba = hoa)
Trong bộ Bài Chòi của người Quảng Nam có con Bạch Huê; không biết Bạch Huê này có phải là nói trại tên nàng công chúa Bạch Hoa, con vua Hùng Vương thứ 18, kết hôn với chàng Sơn Tinh khiến Thủy Tinh oán giận gây lụt lội hàng năm, hay bà Bạch Hoa, vợ của danh tướng Đinh Lễ (cháu ngoại vua Lê Lợi), là bà tổ của nghề đàn hát (cô đầu) mà vì kỵ húy người ta nói trại đi, như được kể trong Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế.
Cũng như từ đàng, huê là một từ cũ trong số 716 từ tiếng Việt được ghi trong An Nam Dịch Ngữ (từ thế kỷ 15), chớ không phải từ mới đặt như những ngươn, ngãi, kiểng, huỳnh... trên kia.
Những từ nói trại vì kỵ húy còn nhiều nữa. Võ thay cho Vũ, Đờm thay cho Đàm, Thời thay cho Thì, Tùng thay cho Tòng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt Quế, Quới nhơn thay cho quý nhân, vân vân. Chúng là một dạng từ biến âm cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam, tức Xứ Đàng Trong, từ Quảng Trị, nhưng rõ nhất là từ Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc "miễn nhiễm" với sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: "Nước" Đàng Ngoài chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của "nước" Đàng Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục cũng chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với vương triều nhà Nguyễn nữa.
Ferdinand von Humboldt (1767-1835), triết gia, nhà ngôn ngữ học người Phổ (Prussa) cho rằng ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc. "Linh hồn" của dân tộc Việt chịu những ràng buộc ngôn ngữ quái đản như thế, bảo sao đất nước chẳng lận đận mãi không ngẩng đầu lên được.
Người dân Nam bộ là tổng hợp của con cháu những người từng theo chân chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) vào Thuận Hóa từ năm 1558, và các đợt di dân về sau, hợp cùng với hậu duệ của người dân bản địa của các quốc gia cổ Chiêm Thành, Chân Lạp, và một số người Cao Miên ở lại. Trong cuộc sống chung hòa bình, họ tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau, trong đó có tiếng nói, từ đó, cùng với bối cảnh sinh hoạt thực tiển và đặc thù, tiếng nói của người dân Nam bộ có nét đặc trưng, cả về ngữ âm lẫn từ vựng, không giống với miền nào khác trong cả nước. Mà vùng đất Nam bộ của ba tỉnh Miền Tây trong "Nam kỳ Lục tỉnh" [8] khá rộng lớn, cho nên không phải tất cả người dân Nam bộ đều nói như nhau về mặt ngữ âm, nhưng người Nam bộ có một "kho" từ vựng riêng rất phong phú phản ảnh cuộc sống vật chất mà trong đó cái ăn tương đối dễ tìm, và phản ảnh tinh thần phóng khoáng của khối di dân trên vùng đất mới "làm chơi ăn thiệt". Cái chất dân dã kiểu "Hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua; hôm nay qua hống nói qua qua mà qua qua" cứ lừng lững đi vào văn học qua các nhà văn "đặc sản" Nam bộ như Hồ Biểu Chánh [9], Lê Xuyên [10], Bình Nguyên Lộc [11], học giả Vương Hồng Sển [12], và hiện nay với Nguyễn Ngọc Tư [13]...
Với Hồ Biểu Chánh (1884–1958), nhà văn tiên phong và tiêu biểu của tính chất Nam bộ từ đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ còn mang đậm tính mộc mạc dân dã, hầu như nguyên chất văn nói. Với một bút lực rất "ghê gớm," ông để lại hơn một trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại mà gần một nửa là tiểu thuyết (64 cuốn).
Đây là một đoạn văn ngắn trong tiểu thuyết Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh phóng tác tác phẩm Les Miserables của văn hào Pháp Victor Hugo:
"Lê- văn- Ðó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi thâm tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên tối mò, mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van- vầy 7, thì tức- tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy 8 chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà trả lại.
Nhà nầy là nhà ông Bá- hộ Cao ở Vồng- Nâu. Bữa ấy là bữa ông nhóm họ đặng cưới vợ cho con, nên mới dọn cỗ bàn mà đãi thân bằng quyến thích. Lê- văn- Ðó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười, không ai để ý tới ngoài sân, nên không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá- hộ dòm ra, thấy có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia- dịch ra hỏi coi đi đâu. Lê- văn- Ðó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt thê thảm mà động lòng nhơn từ của người, lại nói xẳn- xớn rằng: - Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn đỡ."
Sắp gia- dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá- hộ không biết, mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá- hộ sai người ra đuổi Lê- văn- Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau."
Đến các nhà văn Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, ngôn ngữ Nam bộ trong tác phẩm đã bớt phần mộc mạc, và có âm hưởng của ngôn ngữ văn học hơn. Một đoạn trong tiểu thuyết Chú Tư Cầu nổi tiếng của nhà văn Lê Xuyên:
"Tư Cầu chẳng nói chẳng rằng gì nữa hết, xốc thúng lúa lên nách bưng đi. Anh ta ghé qua mái nước múc một gáo uống ừng ực. Rồi như để trút nổi bực tức, anh ta hắt tẹt nước còn dư vào đám rau om, móc gáo vào cây đinh nghe một cái cộp, lấy tay quẹt miệng rồi bưng thúng lúa thẳng ra bờ xẻo trước nhà. Để thúng lúa xuống xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây sào vừa đưa chơn tống xuồng ra và chống sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước. (...) Đôi lúc lườn xuồng, be xuồng cọ rào rào vào những đám rau muống, những đám lục bình, những nhánh điên điển. (...) Ra giữa khoảng đồng trống, gió thổi mát rượi. Tư Cầu cũng thấy thơi thới trong lòng chớ không còn bực bội như hồi nãy nữa. Và như cảm hứng, anh ta vừa chống vừa ca vài câu vọng cổ, cái bài vọng cổ "văng vẳng tiếng chuông chùa..." mà anh ta nghe ở cái máy hát của ông Xã Tám. Có mấy cái dĩa hát đi hát lại hòai anh ta nghe riết rồi cũng thuộc lòng hết. Thuộc lòng rồi anh ta sang qua bắt chước cho đúng cái giọng ngân ư.. ử... của Năm Nghĩa, cái giọng mà anh ta cho là "mùi bạt mạng". "
Một đoạn văn của Bình Nguyên Lộc trong tiểu thuyết Cuống Rún Chưa Lìa:
"Chợt một bữa kia không biết nhờ gì gợi ý bà nhà tôi đi mua chậu, đi tìm đất, ra đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng mà sân trong không còn chỗ để chơn nữa vì chậu cứ được sắm thêm hoài, thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có bao nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai xu, cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai xu chỉ bằng hai đồng bạc ngày nay. Bà ấy lại không còn thì giờ nghỉ ngơi nữa, hễ sáng, vừa bét mắt thì lo săn sóc ba chậu rau không đáng giá đó, trưa cũng vậy, chiều cũng vậy. Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa hết, mãi cho tới bây giờ mà tôi đã có cháu ngoại rồi."
Còn đây là giọng khề khà của cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa:
"Tiện đây tôi yêu cầu các học giả nên thận trọng lời diễn luận chẳng khá làm tàng bịa đặt tên "nhà thương Đầm Đất" (như trong một tờ tạp chí kia), trong lúc dưỡng đường Grall được cât xây trên một đồn đất thật sự, ai ai cũng rõ biết, và cũng không nên vì thấy gần Sài Gòn có những chợ: "Ông Lãnh", "Bà Chiểu", "Bà Điểm", "Bà Hom", "Bà Rịa", "Bà Đen" rồi đề quyết Năm Bà vốn là thê thiếp của ông Lãnh binh nọ. Tội chết đa! Tuy người mất rồi không nói được, chớ còn người cố cựu nữa chi? Bạn thân tôi, ông Sơn Nam có kể cho tôi nghe gần Cái Bè, trên con đường đi về Hậu Giang, có một khúc quanh gọi "Khúc quanh ông Cọp". Nhiều học giả chưa gì vội nói hớt, cắt nghĩa: "Xưa ở vùng ấy, cọp rất nhiều, nên dân bản xứ lấy đó đặt tên". Theo ông Sơn Nam chịu khó điều tra kỹ càng; rõ lại mấy chục năm về trước hãng bán tủ sắt hiệu "BAUCHE" có quảng cáo cho thứ tủ này bằng một bảng lớn dựng tại khúc quanh đó; trên bảng vẽ hình một con hổ to ngồi chồm hổm trên đầu tủ, một tay thò xuống cố cạy nắm tủ "BAUCHE" (nhãn hiệu "con cọp") cạy hoài mà không sao cạy được, đủ biết tủ sắt kiên cố bực nào. Dân quê trong vùng qua lại thấy bảng vẽ cọp nhan nhản tại khúc quanh, trong khi nói chuyện bèn gọi tắt chỗ ấy là "khúc quanh ông Cọp". Chuyện chỉ có bấy nhiêu, không nên lắm sự!"
Khoảng gần hai mươi năm trước, khi tái bản cuốn Sài Gòn Năm Xưa này, một nhà xuất bản trong nước đã "làm ơn cho tác giả" bằng cách "biên tập" gọt đẽo nhẵn nhụi văn phong trong sách – thực sự là "viết lại" – theo một "chuẩn" ngôn ngữ văn học chung áp dụng trong cả nước, khiến tác giả phẫn nộ và người đọc cũng hết sức thất vọng.
Trước năm 1975, không một nhà xuất bản nào ở Miền Nam có biên tập viên (editor), hoặc có ghi tên biên tập viên vào sách như cách làm của tất cả các nhà xuất bản trong nước hiện nay. Phần lớn tác phẩm thời đó chỉ ghi tên người sửa lỗi morasse mà từ quen dùng lúc bấy giờ là "Thầy cò" (correcteur).
Do không phải qua tay biên tập viên như hiện nay mà các tác phẩm văn học từ Hồ Biểu Chánh tới Lê Xuyên, và Bình Nguyên Lộc còn giữ được nguyên chất ngôn ngữ Nam bộ.
Biên tập là một công việc văn học được nhiều nước thực hiện từ lâu đời chớ không phải chỉ ở Việt Nam mới có. Ở một số quốc gia Âu – Mỹ tên người biên tập tác phẩm đôi khi quan trọng hơn và "bảo chứng" cho tên tác giả và giá trị tác phẩm, nếu tác giả là người mới. Trong nước hiện chưa có một biên tập viên nào đạt được trình độ như thế.
Nhưng không có người biên tập không có nghĩa là tác phẩm được in bừa bãi mà người xuất bản chẳng cần biết nó là gì. Thật ra, bản thảo nào cũng được nhà xuất bản đọc kỹ trước khi đưa in; tác phẩm có thể được hiệu đính hoặc nhuận sắc (revised) nếu cần phải thế, có sự thảo luận với tác giả, chớ không được "biên tập" (edited) theo cách hiểu và làm ngày nay là gọt sửa cấu trúc câu và sửa đổi chữ dùng của tác giả theo một "chuẩn" nào đó không rõ ràng, nếu không phải theo ý chủ quan của người biên tập. Vì tôn trọng sự tự do tư tưởng của tác giả, tôn trọng cách hành văn đặc trưng phản ảnh cá tính, và ngôn ngữ mang tính vùng miền của tác giả nên các nhà xuất bản trước kia không bao giờ tự ý "thò tay ngọc, thọc tay vàng" vào đứa con tinh thần của người viết để sửa chữa theo ý mình, buộc tác phẩm khoác một "đồng phục" ngôn ngữ chung nào đó. Người Pháp nói văn phong thế nào phản ảnh con người thế ấy, "le style, c’est l’homme - The style reflects the man himself" – Đẽo gọt trơn tru cho hết những cái rề rà trong văn phong của Vương Hồng Sển thì còn gì cụ Vương Hồng Sển nữa! Tục ngữ Pháp cũng nói: Ce n’est pas ce qu’il a dit, mais la façon il l’a dit." Vấn đề đâu phải là điều họ nói mà là cách họ nói thế nào kia. Điều họ nói thì ai nói ra cũng vậy thôi, chỉ cái cách họ nói mới cho thấy họ là ai, tính cách của họ thế nào.
Tuy cho đến nay chưa có một chỉ thị hay qui định lấy ngôn ngữ của một địa phương nào làm chuẩn cho ngôn ngữ văn học, nhưng hầu như tất cả các nhà xuất bản trong nước mặc nhiên biên tập tác phẩm theo ngôn ngữ miền Bắc, cụ thể là ngôn ngữ Hà Nội. Trong sách vở nhan nhản những từ miền Bắc, bất kể tác giả là người miền nào [14].
Hà Nội là thủ đô của đất nước, lấy tiếng nói của thủ đô làm chuẩn cho ngôn ngữ văn học cả nước cũng phải thôi. Nhưng tiếng Hà nội có nhiều điểm không chuẩn: không phân biệt các âm "iu" và "ưu", "iêu" và "ươu", chẳng hạn, như trong câu nói: "Về hiu rồi tha hồ uống ziệu." Ngôn ngữ của người Hà Nội cũng không phân biệt các cặp phụ âm CH và TR, S và X, R và D / Gi. Cái "bánh Trưng" từng xuất hiện trên biểu ngữ và trên mặt báo. Các phụ âm CH và TR lẫn lộn nhau là chuyện hà rầm. Một lần đọc thấy trong một bài báo viết "Vậy mà Hải Phòng mưa rầm rề...," tôi ngạc nhiên, gõ thử vào google hai chữ "rầm rề" (trong ngoặc kép). Và thật là trên mức kinh ngạc: hàng loạt kết quả cho thấy hầu như người ra đã "chính thức" dùng hai từ này thay cho "dầm dề"! Thậm chí trên một tờ báo ở Hà Nội từng xuất hiện một tiêu đề in chữ lớn : "DOANH NGHIỆP NÓNG NÒNG CHỜ HỖ TRỢ."
Sự lẫn lộn giữa các phụ âm L và N dĩ nhiên không phải là "đặc trưng" trong tiếng nói người Hà Nội. Nhưng điều này cho thấy hiện tượng "nước chảy vào chỗ trũng" trong ngôn ngữ của thủ đô. Tiếng Hà Nội không những không "chuẩn" mà cũng không mang đủ nội lực để "cảm hóa" và đồng hóa những cá nhân bên ngoài thâm nhập vào thế giới chữ nghĩa của thủ đô, để đến nỗi tiếng nói ngọng nghịu của một địa hương choán vào chỗ trũng đó. Lấy tiếng Hà Nội làm "chuẩn ngữ văn học" cho cả nước liệu có an toàn không? Vậy mà trên thực tế tiếng miền Bắc/tiếng Hà Nội giành được ưu thế trong hầu hết tác phẩm văn học và báo chí cả nước; ngay đến một nhà văn Nam bộ như Nguyễn Ngọc Tư, những tưởng ngôn ngữ Nam bộ phải trở thành hơi thở, máu thịt trong chị, nhưng không phải, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên sử dụng ngôn ngữ miền Bắc trên những trang văn tài hoa và rất xúc động của chị về con người và cuộc sống đất Nam Bộ nơi chị sinh ra và lớn lên. Những con người Nam bộ nói tiếng Bắc nghe lấn cấn thế nào ấy. Ví dụ Nguyễn Ngọc Tư dùng từ "bảo" thay cho từ "biểu" của người miền Nam. "Rồi dì bảo, mai mốt chế Ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này..." "Con Điềm thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó." "Rồi họ và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi." Thật ra Nguyễn Ngọc Tư có dùng cả biểu lẫn bảo. Có lẽ 50/50.
Tỷ lệ của chứ thay vì chớ có lẽ cao hơn. "Má cãi: hỏng tới đâu ông ơi, chừng nửa ký là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ." "Bây giờ Nhà nước cho nuôi tôm thì mừng chứ." "Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ chẳng phải chuyện chơi."
Nhưng hạt thay hột, và chân thay chơn/chưn thì có lẽ 100%. "Tôi lấy dao phay băm cho đất tơi ra để kịp lúc ba về gieo hạt cải." "Tôi học từ má rằng gạo Một Bụ dài, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt ngắn, đục như nếp..." "Tôi ăn hạt gạo má tôi làm ra mà không giúp gì cho má tôi."
"... một đám người chen nhau đứng đàng sau cánh cửa, quà trên tay chất vượt mặt, gõ cửa bằng chân." "Con Tư mầy phải sống trên ghe thím vài năm mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang hai thước mới thấy buồn chân." "...mỗi lần ghé bến tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quýt rượt đuổi nhau, những đôi chân trần trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến gồ ghề đất."
Rồi còn đĩa thay dĩa, nhặt thay vì lượm, thóc thay lúa, hoa thay cho bông nữa: "Tôi mua cho em cái đĩa người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh." "... rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm từ hồi năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh... trên bìa đĩa coi trẻ măng..." "Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ..."
"Đó là lúc tôi thấy má tôi tội nghiệp như nàng Tấm bị mẹ con mụ dì ghẻ cay nghiệt bắt nhặt thóc trong gạo khi làng đang vào hội..." "Lượm nhớ quay quắt cái xóm cũ, nhà cũ, lau sậy cũ, nhớ ông ngoại lúc giận quá nhặt cây sậy gãy đánh cháu." "... tôi chưa làm được việc gì coi được một chút, một chuyện mang hơi hướng vĩ đại, như nhặt của rơi trên đường trả lại người bị mất chẳng hạn."
"... đằng trước chỉ một khoảng sân nhỏ trồng mấy chậu hoa nhỏ." "Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia." "Trên những con đường chi chít hoa dại hiếm hoi mới thấyvài trẻ con chơi."
Chị nói đấy thay vì đó. "... hồi nhỏ nó vị vỏ ốc cắt đứt chân hoài mà nó vẫn chân không ngạo nghễ đấy thôi." "... cái rễ cây đấy mà cũng làm chân nó đau đâu." "Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về."
Chị gọi cái mền của người Nam bộ là chăn, gọi cái bánh tráng là bánh đa. "... nhà này không thấy nhà kia, thị trấn này sẽ trùm chăn nằm ngủ?" "... lúc nào mới được ngã lưng trên chiếc giường chăn nệm ấm." "Qua một con dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm ngồi nướng bánh đa..."
Chị nói nhạt thay vì lạt, và nhợt nhạt thay vì lợt lạt. "... cùng những cánh đồng, mảnh vườn xanh xanh đậm nhạt bọc quanh." "Bông cũng không níu kéo bất cứ cái nhìn nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt." "Cái nắng kỳ lạ không nhànnhạt như nằng chiều hè..."
Chị nói cái rốn thay vì rún. "không còn kịp nữa như một cái rốn nước sâu hoáy, ðiên cuồng hút tôi vào." "... có cái rốn to nhãn rúm, như cái mặt người , cái rốn 21 ngày mới rụng..."
Chị nói gửi thay vì gởi. "Hạt gửi mùa sau." "Bảy năm trước, lúc ông Mười gom hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi dì Thắm đốt hết." "Người ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thư."
Chị nói "đảm đang" thay vì "đảm đương" "... má vén khéo đảm đang chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn...". Và khi Nguyễn Ngọc Tư nói "... lại làm con mệt mỏi đến nhường này," thì người đọc nếu không biết chị sẽ nghĩ chắc mười mươi chị là người Bắc!
Đúng là ngôn ngữ miền Bắc đã "tìm được chỗ đứng" và rất phổ biến trong tiếng nói của người miền Nam, không chỉ từ sau đợt di cư vĩ đại năm 1954, mà lâu trước đó nữa, chớ không phải mới theo chân cán bộ và bộ đội miền Bắc trong đợt "người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng" bốn mươi năm trước đây. Chẳng vậy mà từ thời thủ tướng Nguyễn Văn Thinh của Nam Kỳ Quốc người ta đã xua đuổi những người nói "Tân Sơn Nhất" về Bắc, chỉ những người nói "Tân Sơn Nhứt" mới là công dân của nước Nước "Cộng hòa Nam kỳ Tự trị." Nhưng hiện nay ngay cả người ở cạnh cái phi trường sắp hết đát này cũng đã nói Tân Sơn Nhất chớ hầu như không còn ai nói Tân Sơn Nhứt nữa. Thế cho nên nếu một anh hay chị nông dân Nam bộ mà nói mấy tiếng "Sầu riêng hạt lép," nghe cũng không buồn cười cho lắm. Sầu riêng là sản vật của miền Nam, hạt là một từ miền Bắc. Và cụm từ "sầu riêng hạt lép" Nam Bắc đề huề đã phổ biến khắp miền Nam rồi đó. Nhưng một nhà văn Nam bộ mà cả tâm hồn và văn nghiệp đều thấm đẫm chất Nam bộ mà lại nói, viết về cuộc sống nơi quê hương Nam bộ của mình bằng ngôn ngữ miền Bắc thỉ... nghe chẳng ra sao cả. Thật tiếc.
Đọc tập thơ "Gọi Khan Giọng Tình" của thi sĩ Trần Phù Thế, người Thạnh Lộc tỉnh Sóc Trăng xưa, tôi cảm động khi bắt gặp đoạn thơ này trong đó có từ "nhửng" mà gần năm mươi năm trước tôi đã từng nghe:
Ta ghét mười năm ở xứ này Mười năm đủng đỉnh lục bình quay Như con nước nhửng dòng sông Hậu Thương cả lần đi ứa máu đầy
Ngày trước, vào giửa những năm 1960, trong bước "giang hồ" ở vùng sông chia chín nhánh tôi từng nghe người địa phương nói từ "nhửng" này, cũng trong ngữ cảnh về sông nước như trong câu thơ trên. Tôi hiểu nước nhửng là con nước "đứng", lờ đờ trên dòng sông không lên không xuống – nhưng không chắc lắm. Triết gia người Anh gốc Áo Ludwig Wittgenstein cho rằng ý nghĩa của một từ là cách dùng của từ đó. Nói như thế cũng quá mơ hồ. Nhưng một người Nam Bộ tha hương mang theo mình hình ảnh con nước nhửng trên dòng sông quê nhà chắc phải làm cho những người xa quê như mình cảm động lắm. Tôi đã cảm động như gặp lại người quen cũ.
Tập thơ của thi sĩ Trần Phù Thế được in ở nước ngoài. Nghĩa là nó không phải qua tay một "biên tập viên" nào, nên những từ như thế còn "sống sót" được, như các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, và của học giả Vương Hồng Sển nữa, còn "truyền lại" ngôn ngữ tinh ròng Nam bộ trong đó đến nay.
Muốn thấy lại tiếng nói Nam bộ rặc ri chắc phải đọc lại Lê Xuyên hay Bình Nguyên Lộc, nếu không phải là đọc lại lối văn đậm chất văn nói dân dã mộc mạc thủơ ban đầu phát triển văn học miền Nam của Hồ Biểu Chánh.
Thiếu Khanh.
[1] - Từ "Miền Nam" vừa mang khái niệm một trong ba miền trên đất nước: Miền Bắc, Miền Trung, và Miền Nam, vừa để chỉ miền đất nửa nước từ Vĩ tuyến 17 trở vào trong thời kỳ đất nước bị chia cắt. Trong bài viết này, từ "Miền Nam" được dùng uyển chuyển với nghĩa thứ nhất, hoặc với nghĩa thứ hai, tùy theo ngữ cảnh.
[2] - Để thay cho các tên gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thời Pháp thuộc, chánh phủ VNCH đặt ra các từ tương ứng: Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, còn chánh phủ VNDCCH thì gọi Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, mà Nam Bộ này gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tương ứng với ba tỉnh miền Đông và ba tỉnh miền Tây của Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa. Tuy nhiên với nhiều người Miền Nam từ "Nam Bộ" (hoặc "Nam bộ”) được dùng chỉ khu vực "Miền Tây Nam bộ," tức vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay. Từ "Nam bộ” ở đây được dùng theo nghĩa đó.
[3] - Vào đầu thời Đệ Nhất Cộng Hòa của VNCH, người ta sáng tạo khái niệm "Phần", Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, thay cho các khái niệm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ thời Pháp thuộc, trong đó Trung Phần từ Thanh Hóa tới Bình Thuận, Nam Phần từ tỉnh Bình Tuy trở vào.
[4] - Ở một chú thích trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: "Có sách chép rằng Đinh Tiên-hoàng tên là Hoàn 桓, chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong " Khâm-định Việt-sử " và các sách khác thì thấy chép Đinh bộ Lĩnh chứ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm-định mà chép." (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Tân Việt Sai Gòn, cuối trang 88)
[5] - Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên), và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đều viết tên Nguyễn Hữu Kính, với chữ Kính (鏡). Sách Đại Nam Thực Lục cũng ghi phẩm tước của ông là Lễ Tài hầu.
[6] - Viện Sử học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1969. Tôi không có bản dịch của cụ Cử nhân Hán học Tu Trai Nguyễn Tạo xuất bản trong miền Nam, nên không biết cụ có kiêng húy như thế không.
[7] - Bà là con gái của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định, nay là thành phố HCM. Bà vào cung làm vương phi của thái tử Nguyễn Phúc Đảm năm bà mới 15 tuổi. Vua Gia Long băng, thái tử Đảm nối ngôi tức Vua Minh Mạng. Về sau bà là mẹ của vua Thiệu Trị.
[8] - Sau khi khai phá xong miền Nam, năm 1698 chủa Nguyễn Phúc Chu lập Gia Định Phủ. Vua Gia Long thống nhất xong đất nước, đổi Gia Định Phủ thành Gia Định Trấn, rồi lại đổi thành Gia Định Thành. Năm 1832, Vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành, và chia thành sáu tỉnh, gồm ba tỉnh miền Đông: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, và ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, và Hà Tiên. Năm 1834, cả sáu tỉnh này được gộp lại thành Nam Kỳ, (người Pháp gọi là Basse-Cochinchine), từ đó xuất hiện danh từ "Nam Kỳ Lục Tỉnh.” Ba tỉnh miền Đông lúc đó nay trở thành các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, và Thành phố Hồ Chí Minh. Ba tỉnh miền Tây xưa nay phát triển thành các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, và Thành phố Cần Thơ.
[9] - Hồ Biểu Chánh, (1884–1958) người làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
[10] - Nhà văn Lê Xuyên (1927 – 2004), tên thật là Lê Bình Tăng, người huyện Phong Điền - Tỉnh Cần Thơ.
[11] - Bình Nguyên Lộc, (1914 - 1987), nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc, người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (tức tỉnh Biên Hòa xưa trong ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ), nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ngoài bút hiệu Bình Nguyên Lộc ông còn ký nhiều bút hiệu khác. Tuy quê quán của ông không nằm trong vùng Nam bộ (theo nghĩa hẹp, tức trong ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ), nhưng tác phẩm của ông mang phong cách và ngôn ngữ của người Nam bộ.
[12] - Vương Hồng Sển (1902-1996), sinh tại Sóc Trăng, mang ba dòng máu Việt, Hoa, Khmer.
[13] - Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Là một nhà văn Nam bộ tài hoa, đau đáu tình người trên từng trang tác phẩm, nhưng Nguyễn Ngọc Tư không dùng ngôn ngữ Nam bộ tinh ròng như các nhà văn kia. Trong các tác phẩm rất cảm động về con người và cuộc sống ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long chị dùng nhiều từ ngữ của ngôn ngữ Bắc bộ, đọc rất lấn cấn, khó chịu. (xem ở dưới.)
[14] - Sau năm 1975, chánh quyền mới ở thành phố Huế đổi ngay tên cầu Trường Tiền quen thuộc của người miền Nam thành cầu Tràng Tiền.
|
|