|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 4:15:11 GMT 9
Thừa tướng nhà Hán - Gia Cát Lượng có thuộc loại chính khách “thủ dâm” chính trị? Nguyễn Cao Thiên ( 12/7/2008 7:32:58 AM ) hnv.vn/News.Asp?Cat=28&SCat=&Id=660Khoa học về tâm sinh lý xác định thủ dâm là hành động tự tạo cảm giác khoái cảm, tự làm mình “sướng”; hành vi này xuất phát từ hoàn cảnh, tình thế bế tắc của chủ thể hành vi, không tìm được sự đối giao tương hợp hoặc đơn thuần do khả năng của chủ thể hành vi bất lực, không có khả năng chiếm đoạt, chinh phục, giao kết được đối tác để có thể đối giao nên đành phải sử dụng biện pháp “ thủ dâm”. Trong các quan hệ xã hội nhất là trong lĩnh vực chính trị, một lĩnh vực thiên biến vạn hoá do bởi đó cũng là chốn đầy ắp những sự thôi thúc, quyến rũ của các lợi ích, của đủ loại libido nên chúng ta dễ dàng bắt gặp những hành vi chính trị rất giống như các hành vi thủ dâm trong sinh hoạt tình dục. Theo chúng tôi, Gia Cát Lượng là nhà chính trị, là chính khách theo đường lối “thủ dâm” ( tự làm mình sướng chứ không do tài lực mình mà chinh phục được cái sướng). Để đi đến nhận định trên tất nhiên chúng tôi phải căn cứ vào chuỗi hệ thống hành vi chính trị, quân sự của ông, mổ xẻ và phân tích nó bằng con mắt duy vật biện chứng, duy vật lich sử, có kế thừa các thành tựu của phân tâm học của bác sĩ Freud chứ không quy chụp vu vơ… Phân tâm học tình dục đã chỉ rõ: thủ dâm là loại hành vi tình dục bình thường đối với lớp trẻ vị thành niên; theo các nhà phân tâm thì có tới 40% bé trai và tới 50-60% bé gái thường có các hành vi thủ dâm. Các nhà tâm sinh lý cũng đồng thời chỉ ra, hành vi thủ dâm nếu quá mức sẽ gây hại cho chủ thể thủ dâm: nặng có thể dẫn đến chứng bệnh vô sinh, chứng bất lực, lãnh cảm, làm suy nhược đời sống sinh lý; chưa kể các hành vi thủ dâm có khả năng gây biến chứng, gây tổn thương cục bộ cơ quan sinh dục. Sự tổn thương này có thể dẫn đến các hệ luỵ giây chuyền tán phát các mầm bệnh khác lây lan vào trong cơ thể. Nghiên cứu tiến trình và đồ thị phát triển thịnh suy của tập đoàn quân phiệt Thục Hán dưới cái “ gậy chỉ huy” của “nhạc trưởng” Gia Cát Lượng, chúng ta dễ dàng nhận thấy những tác nhân làm cho tập đoàn này nhanh chóng bị sụp đổ, “chưa đánh đã xìu”, “chưa đi đến chợ đã tiêu hết tiền” không xuất phát từ sự thiên vị của ông Trời: quá ngán cái gia tộc họ Lưu cứ lê la mãi trên chính trường Trung Quốc hơn 400 năm mà chính bởi các hành vi chính trị quân sự của nhà cầm quân Gia Cát Lượng. Vậy những hành vi, những chính sách, những biện pháp quân sự, chính trị nào của Gia Cát Lượng có thể ví với hành động thủ dâm trong hoạt động tình dục, loại hành vi tự tạo cái sướng giả tạo? Những chiến dịch quân sự đã được Gia Cát Lượng dốc sức gần như toàn lực mà không nhằm thu thành, đoạt đất, chiếm dân- những mục tiêu thường thấy trong các chiến dịch quân sự xưa nay mà đơn thuần chỉ mưu cầu các lợi ích chính trị tầm thường: xua quân đi đánh để lấy le, đánh để chứng tỏ ta đây giỏi, để ra oai là nhà quân sự giỏi việc quân... Sự khoa trương thanh thế bằng các chiến dịch quân sự được đầu tư “trả giá” bằng sự phung phí xương máu của ba quân chỉ nhằm lập những chiến công giả, phù phiếm, một thứ phép thắng lợi tinh thần này của Gia Cát Lượng chỉ có thể ví với các hành vi thủ dâm, tạo sướng giả trong các hoạt động tình dục. Lợi ích của các chiến dịch quân sự, các chính sách chính trị loại này là tạo được sự hưng phấn nhất thời, cái uy phù phiếm, sự ổn định cân bằng giả tạo nhưng sẽ gây tác hại: làm cho cơ thể của chủ thể nhanh chóng bị suy nhược, lịm ga dần. Vậy những chiến dịch quân sự, chính trị nào của Gia Cát Lượng có thể xếp vào loại “thủ dâm” chính trị? Chúng tôi muốn dừng lại chiến dịch bình Man, bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch. Để đánh bại Mạnh Hoạch, theo chúng tôi dưới trướng của Gia Cát Lượng có hàng chục viên tướng có khả năng hoàn thành nhiệm vụ đối với chiến dịch quân sự mang ý nghĩa chiến thuật, cục bộ này. Tại sao Thừa tướng nhà Thục Hán lại mang cái thân đáng giá ngàn vàng thân chinh cầm quân vào nơi lam chướng. Hành vi này danh nghĩa là thảo phạt quân sự nhưng bản chất là để đầu cơ chính trị. Gia Cát Lượng muốn tạo dựng cho được một chiến thắng quân sự mà đích thân mình là tư lệnh để để gây vốn chính trị với Lưu Thiện, để trấn an lòng quân, để lấy le với các chiến tướng Thục Hán. Khi đang còn sống Lưu Bị chỉ sử dụng Gia Cát Lượng như một anh giúp việc, một cán bộ tham mưu, Gia Cát Lượng chưa bao giờ được Lưu Bị giao cầm quân, làm tư lệnh một chiến dịch quân sự có tầm cỡ nào. Trong khi đó cả Quan Vũ, Triệu Vân, Trương Phi, Hoàng Trung, Nguỵ Diên... đều đã nhiều lần đảm trách những tư lệnh chiến dịch. Sau khi Lưu Bị mất, Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm là 2 cố mệnh đại thần được phó thác con côi. Qua lời trối của Lưu Bị tại Bạch Đế cho thấy: Lưu Bị tin và gửi gắm cho Lý Nghiêm việc quân cơ chứng tỏ Lưu Bị tin Lý Nghiêm hơn. Gia Cát Lượng đã dùng mẹo và lợi thế là người gần Lưu Thiện, một ông vua “con nít” chưa quyết được gì, nhanh chóng vô hiệu hoá và gạt ra rìa Lý Nghiêm, một danh tướng, một nhà quân sự có thực tài được Lưu Bị cố mệnh. Gia Cát Lượng giam lỏng Lý Nghiêm ở nơi khỉ ho cò gáy, gạt ra khỏi trung tâm chính trị Thành Đô để cho một mình Gia Cát Lượng thao túng triều chính. Để lấy le với hậu chủ một ông vua “con nít” chẳng hiểu biết gì về quân sự lẫn chính trị này, Gia Cát Lượng mượn chiến dịch quân sự bình Man để loè Lưu Thiện: bệ hạ cứ yên lòng kê cao gối ở Thành Đô mà em út, mọi chuyện chính trị quân sự cứ để cho một mình Lượng tôi lo liệu, chẳng cần đến cái anh Lý Nghiêm võ biền ấy làm gì cho thêm lắm thầy thối ma. Gia Cát Lượng vốn la kẻ thích chuyên quyền độc đoán. Việc xử phạt từ 20 roi trở lên cũng phải nhúng tay vào, mọi khi cử binh tướng ra trận lại dúi vào tay người ta cái cẩm nang, được La Quan Trung tâng bốc như một thứ cẩm nang thần kỳ. Chỉ nhưng ai không có các kiến thức sơ đẳng về chính trị, quân sự, hành chính mới đi ca ngợi những việc làm vớ vẩn đó của Gia Cát Lượng. Một thủ trưởng biết làm việc, biết điều binh khiển tướng không bao giờ lại đi cầm tay chỉ việc cho cấp dưới; giao cẩm nang thực chất là một hành vi cầm tay chỉ việc. Một kẻ lõi đời trong chính trường như Tào Tháo chúng ta chỉ thấy ông chỉ một vài lần sủ dụng biện pháp cẩm nang bất đắc dĩ: đó là khi ông giao Phàn Thành cho Tào Nhân; quân tướng của Tào Tháo phần lớn đều được ông hoàn toàn giao quyền tự quyết. Hành động đầu cơ và “thủ dâm” chính trị này của Gia Cát Lượng đã được Mã Tốc là kẻ duy nhất đã đọc vị ra, do vậy nên Gia Cát Lượng khoái cái anh bạch diện thư sinh này: suy nghĩ, nói giỏi và hay hơn làm. Nếu phân tích dưới góc độ tình dục học thì Mã Tốc là anh chàng Homosexual chính trị; Gia Cát Lượng quý Mã Tốc và sau này giao đại quyền cho anh ta dẫn đến sự trả giá: đó là trận thua bại thảm hại trong trận Nhai Đình bởi anh chàng này chỉ có cái tư chất làm cho Gia Cát Lượng sướng; Mã Tốc và sau này là Dương Nghi là những kẻ có khả năng và biết “maxa trí tuệ và uy tín chính trị” cho Gia Cát Lượng hơn là có tư chất của một kẻ có tài cầm quân. Những dũng tướng có thực tài quân sự như Nguỵ Diên làm sao lại chịu đi vuốt ve, đi nịnh Gia Cát Lượng để lấy lòng được để được thưởng công... Rõ ràng Gia Cát Lượng xuất chinh đi đánh Mạnh Hoạch là sử dụng giao mổ trâu để giết gà; đánh nhưng tập trận, như người ta bày quân xanh quân đỏ để chơi. Chiến dịch quân sự này được ngòi bút của La Quán Trung tâng bốc lên tận mây xanh; thổi, tô vẽ Gia Cát Lên như một thứ thiên tài, siêu nhân trong lĩnh vực quân sự. Trong chiến dịch quân sự này bao nhiêu binh sĩ dũng tướng hao tổn sức lực vì bị đày vào nơi rừng thiêng nước độc này chỉ cốt để giúp Gia Cát Lượng loè hậu chủ và tạo cái cảm giác ngây ngất giả tạo, chiến thắng giả, tô vẽ tài năng quân sự giả. Thế nhưng Gia Cát Lượng vẫn tự huyễn hoặc mình, rỏ nước mắt các sấu làm lễ tế thương khóc binh sĩ chết trận. Chiến công trong chiến dịch quân sự này đối với nhà Thục Hán và Gia Cát Lượng giá trị không hơn một liều heroin, giống như một sự sướng do thủ dâm mang lại... Đối thủ của Gia Cát Lượng là Tào Tháo, Tôn Quyền; đem quân đi đánh Mạnh Hoạch khác nào việc đưa đội Brazilia sang đá với đội Việt Nam. Đội Brazilia sang Việt Nam đá là để đá tập, đá chơi cho khỏi cuồng cẳng và để tập làm quen với khí hậu châu Á, khán giá châu Á chứ không phải đá ở Việt Nam để lấy thành tích, để diễu võ dương oai với các “anh hùng” sân cỏ khác đang đợi họ tại Olimpic Bắc Kinh. Cất quân khó nhọc làm việc này Gia Cát Lượng nhằm tạo ra được những chiến thắng quân sự ( về bản chất là không xứng tầm với ông ta) để trấn an nội bộ Thục Hán đang ê chề sau trận Hào Đình vì thua đau quá, tổn thất lớn quá trước một anh chàng vô danh tiểu tốt của Đông Ngô là Lục Tốn. Chiến dịch quân sự thứ hai mà Gia Cát Lượng phát động, theo chúng tôi cũng chỉ nhằm đạt mục đích chính trị là chính, đó là chiến dịch Bắc Phạt, bảy lần ra Kỳ Sơn. Nhận định như vậy không có nghĩa Gia Cát Lượng không muốn, không thích những chiến thắng quân sự lẫy lừng, tạo dựng lịch sử. Gia Cát Lượng muốn nhưng thừa biết mình không đủ sức làm. Ông thừa biết nếu đem tài trí quân sự sòng phẳng ra mà chọi nhau thì ông làm sao đương đầu nổi với nhữg nhà quân sự Nguỵ và Ngô dạn dày trận mạc. Gia Cát Lượng thừa biết khả năng ông không đủ sức đăng đàn bái tướng như Hàn Tín: đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông nên không dám nghe theo Nguỵ Diên. Đó là kế sử dụng lại sơ đồ quân sự mà trước đây Hán Tìn từng thu được thành công, chiến thắng ngoạn mục, đó là đi tắt qua hang Tý Ngọ nhanh chóng chiếm lấy Tràng An của Nguỵ. Theo chúng tôi đây là một miếng võ nốc ao trước đây Hàn Tín đã dùng và Nguỵ Diên với tư cách là một chiến tướng có thực tài thấy có thể kế thừa, áp dụng. Chỉ có những võ sĩ cảm thấy mình đủ sức cho đo ván đối phương mới dùng đến thế võ nốc ao; bởi khi đã dùng đến thế võ này, nếu anh không làm cho đối phương bị đo ván thì bản thân anh sẽ bị đối phương cho đo ván. Nguỵ Diên là một dũng tướng có thực tài, có thực lực ông tin vào chính bản thân mình nên mới dám tham mưu cho Gia Cát Lượng dùng miếng võ nốc ao, đi tắt qua hang Tí Ngọ. Theo chúng tôi đó là miếng võ nốc ao, được ăn cả ngã về không. Gia Cát Lượng là nhà chính trị, giỏi mưu mẹo chốn cung đình hơn là một nhà cầm quân quyền biến trên chiến trường. Xem những lần xuất quân ra Kỳ Sơn của ông hết sức đơn điệu không có một yếu tố bất ngờ, thần tốc nào, chưa ra quân ngươì ta đã đoán được ý đồ. Do biết sở đoản của mình nên Gia Cát Lượng không dám lên võ đài tỷ thí miếng võ nốc ao này. Gia Cát Lương tính toán được rằng, nếu theo mưu của Nguỵ Diên có thể chớp nhoáng chiếm được Tràng An; vấn đề là nếu chiếm Trường An rồi, quân Nguỵ đổ về vây lấy thì liệu Gia Cát Lượng có đủ sức chống cự hay không hay lại không còn đường mà về. Gia Cát Lượng chọn giải pháp an toàn đánh ra Lũng Hữu: đánh chắc tiến chắc, lối đánh tằm ăn rỗi, nếu không thắng còn có đường rút chạy. Trong binh pháp khi vận động chiến đem quân đánh thành thì một là phải có được yếu tố thần tốc, bất ngờ; nếu không ầnỉ có lực lượng áp đảo, theo các sơ đồ chiến thuật chiến tranh cổ đại Trung Hoa, để vận động chiến đánh thành thành công phải đảm bảo quân hùng tướng mạnh hơn; về quân số phải đảm bảo 50/1 trở lên thì mới tính được chuyện đem quân đánh thành người ta. Các yếu tố này Gia Cát Lượng thừa biết là không có, do vậy đem vài chục vạn quân đi chẳng khác gì một cuộc hành quân dã ngoại, một cuộc pinic cho quân đội. Những hành động như vậy khác nào hành vi thủ dâm... Do Gia Cát Lượng tự thấy chưa đủ sức và cũng chưa thấy cần chiến thắng về quân sự ngay theo đúng nghĩa đối với một nhà cầm quân đích thực; ông cầm quân đi cố để có được một vài chiến thắng quân sự tượng trưng để loè chính trị là chủ yếu. Với lối đánh này có thể giúp Gia Cát Lượng thu được những chiến thắng về chính trị nhằm tử thủ cái ghế Thừa tướng của ông ta. Gia Cát Lượng cố sống cố chết ra Kỳ Sơn, và ông đã ngã bệnh và chết ở Kỳ Sơn chủ yếu là để thi thố ta đây với Lý Nghiêm, với bao nhiêu nhân tài đất Thục chưa chịu phục ông và cả với bản thân Lưu Thiện để cho cái ghế Thừa tướng mà ông ta đang ngồi không bị “mô ve”, bị “chập điện” vì các luồng xung điện chập về sẽ thiêu cháy cái ghế và cả bản thân người ngồi trên ghế là ông ta. Một nhà quân sự có thực tài, hiểu binh pháp, có tầm khi thấy thời cơ chưa đến, lực mình chưa đủ thì nuôi quân đợi thời cơ, huấn rèn binh mã, xây dựng lực lượng để lúc cần sẽ tung ra những quả đấm thép làm nốc ao đối phương. Rõ ràng do nhận bừa uỷ quyền của Lưu Bị, gạt Lý Nghiêm, Nguỵ Diên và nhiều nhân tài khác ra rìa, trọng dụng những kẻ tiểu nhân bất tài như Dương Nghi như Mã Tốc, nếu Gia cát Lượng không đem quân ra Kỳ Sơn, cứ ở Hán Trung coi chừng ăn không ngon ngủ không yên vì bị bao kẻ lườm nguýt vì Gia Cát Lượng là kẻ tài mỏng, uy tín thì thấp, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm được gì. Hán Trung khi Lưu Bị đang còn sống đã giao cho Nguỵ Diên cai quản, Khổng Minh ngồi ở Hán Trung vô hình chung đã đẩy Nguỵ Diên vào tình thế ngồi chơi xơi nước làm sao Nguỵ Diên không căm hận Gia Cát Lượng được. Như vậy, thực chất chiến dịch 7 lần ra Kỳ Sơn và 7 lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch cùng nhiều việc làm ba lăng nhăng khác của Gia Cát Lượng mà La Quán Trung không đưa vào trong Tam Quốc diễn nghĩa thực chất là một bản “tụng ca” Lưu Bị- Gia Cát. Dù văn tài siêu việt của La Quán tiên sinh có cao siêu đến đâu vẫn không che dấu nổi là những hành vi “thủ dâm” chính trị của Gia Cát Lượng, những hành vi xuất phát từ thế yếu, sự bất lực do tài mỏng, phận hèn, nhân cách kém và tiểu nhân... Theo chúng tôi, đó chính là nguyên nhân đẩy nhà Thục Hán vào tình cảnh nhanh chóng bị suy nhược toàn thân và bị sụp đổ. Qua sự sụp đổ của đường lối chính trị “thủ dâm” của Gia Cát Lượng cho thấy trong sinh hoạt tình dục hành vi thủ dâm nguy hại như thế nào thì trong chính trị nó cũng nguy hại không kém hơn. Sự nguy hại và nguy hiểm của nền chính trị thủ dâm đó là: Thực chất là vào tình thể khổ nhưng lại cảm tưởng là sướng; thực chất là đang ở thế yếu và suy, là bất lực, là bất tài nhưng lại tự huyễn hoặc mình là giỏi, là tài, là sung, là đang chiến thắng, là đang cưỡi lên trên đầu thiên hạ, đối phương... Thương thay cho Gia Cát tiên sinh: tài thì mỏng, phận lại hèn nhưng lại muốn ngồi ngôi cao?! Không làm cách nào làm chủ và chinh phục được “ hoa hậu” quyền lực, tiên sinh đành phải chơi cái trò “thủ dâm” chính trị để loè thiên hạ! N.C.T
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:16:19 GMT 9
GẪM SỰ ĐỜI CÁI CƯỜI CỦA TRANG TỬ
Ngu Ý SagantPhan
Lão Tử và Trang Tử cùng đưa ra một triết thuyết nói về cái Đạo của con người. Cái Đạo của hai ông về sau này được mọi người hưởng ứng và gọi là Đạo Gia và cũng còn gọi là thuyết của Lão Trang.
Hai tiếng Đạo Gia là cách nói tắt hay viết tắt của từ Đạo Đức Gia mà ra. Triết thuyết của Lão Trang cao rộng uyên thâm, có ảnh hưởng đến đời sống con người. Lão Tử tức Lão Đam người nước Sở, sinh ra giữa thời Xuân Thu Chiến Quốc. Xu hướng của ông là "Vị Ngã" mà khinh vật trọng sinh, tức là coi thường mọi vật trong đời sống của con người.Tư tưởng này ông chịu ảnh hưởng của Dương Chu mà sáng lập ra phái Đạo Gia này. Còn Trang Tử là họ Trang tên Chu, ông là người ẩn sĩ, thường bảo là mình chỉ lội trong dòng suối mà tìm sự vui thú, không chịu khuất mình trước vòng danh lợi để bị ràng buộc bởi cái bã phù vinh danh lợi.
Lão và Trang đều kinh qua bao nhiêu cuộc bể dâu trong trường đời. Hai ông cùng chống lại cái thấp hèn của hạng người: "lấy cái mình ăn làm vui, coi cái mình mặc làm đẹp, yên tâm với nơi mình ở, vui lòng với thói tục... thấp hèn"! Với ông thì không vậy. Ông đặt phú quí, bần tiện, đắc thất, vinh nhục ra một bên, mà chủ trương đi tiêu dao, tìm chốn thanh tịnh, sống cuộc sống đạm bạc, vui với cái vô vi lặng lẽ... Theo Lão Trang đời chẳng là cái gì cả. Ông không coi trọng cái sống mà cũng chẳng run sợ trước cái chết.
Như câu chuyện dưới đây nói lên điều ấy :
"Trang Tử gần chết, nhìn thấy các đệ tử của mình lăn xăn lo việc hậu táng. Trang Tử gọi lại hỏi:
- Các ngươi làm gì thế?
- Thưa, chúng con lo việc tang ma cho Thầy...
Trang Tử không cho:
- Ta chết đi có trời đất làm quan quách, có nhật nguyệt là ngọc bích, có tinh tú là ngọc châu, có vạn vật làm lễ táng... Há đám tang như thế chẳng đủ lắm sao? Bày chi lắm việc.
Đệ tử thưa:
- Chỉ vì chúng con sợ diều quạ ăn mất xác thầy!
Trang Tử cười nói:
- Trên thì có diều quạ ăn, dưới thì có dòi kiến rúc rỉa. Cướp đây cho đó, sao lại có thiên lệch thế?!
Nói xong, Trang Tử cười lên rồi chết.
Câu nói bất hủ đó, lại thêm có tiếng cười khinh mạng của một thánh nhân chẳng thiết tha gì cái với cái tham vọng của hạng người khi chết vẫn còn màng tưởng đến tiếng tăm để nêu cao cái thanh thế hảo của mình!
Cũng nhờ tiếng cười của Trang Tử mà thức tỉnh được một số người, không còn chạy theo cái dục vọng thường tình mà chính họ đã góp phần làm ô nhiểm đời sống đạo đức trong xã hội. Ông Paul Claudel đã kêu lên khi đọc đến cái triết thuyết của Trang Tử: “Hả? Ông nói thế nào? Thật là kinh tởm. Thật là ngu ngốc.Thật là vô sỉ. Quá lắm rồi, đó nha! Đằng ấy đã đi xa lắm lắm rồi! À! Thì ra ông đã dua mị những thiên tính xấu nhất của tôi, ông cũng đã khám phá một cách trắng trợn những ý nghĩ thầm kín mà chính tôi đã không dám thú nhận! (Ôi!) Khi nghe ông nói khiến lương tâm tôi bị giày vò, ray rức, nhưng mà (ông ơi! thú thật với ông rằng là... ) tôi cảm thấy nó đê mê, (và) sảng khoái làm sao! *
Ngu Ý SP
*... "Comment dis-tu? Horrible! Idiot, scandaleux! C'est trop! Tu vas trop loin! Ah, tu d'évoiles cyniquement mes pensées inavouables! Je t'écoute avec remords et ravissement!" (L'Oiseau noir dans le soleil levant).
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 3:36:20 GMT 9
Gẫm Sự Đời VÔ ĐỊCH "CHỬI"
Lâm Trương
Ba anh chúng tôi gồm có Sơn, Bình và Nghĩa, năm ấy vừa xong trung học, vì cùng ở chung nhà ngụ nhiều năm, khi lên đường ra Huế vào đại học, chúng tôi nguyện sẽ ở một nhà để có gì hôm sớm. Ở đâu cũng không yên vì ồn ào bất tiện, dời nhà trọ đến ba bốn lần, sau cùng nhờ người mách bảo, chúng tôi dời vào khu vực hồ Tịnh Tâm thành nội, nơi mà vua Duy Tân ngày xưa thường ra ngồi câu cá, nghĩ chuyện quốc gia, ngang con đường vào Cầu Kho xứ Huế. Chị chủ nhà tên Mai bằng lòng ngay nhưng lại báo trước rằng chị sợ các chú ở không ổn và chẳng học hành gì được. Chúng tôi hỏi lý do, chị cho biết: ồn. Chúng tôi ngạc nhiên hỏi sao nhà vắng vẻ thế này mà chị bảo ồn, chị Mai đáp: bà "O" ở sát cạnh nhà có cái đài phát thanh 24/24, tức là bà ấy chửi suốt ngày đêm và cả xóm Cầu Kho này ai cũng đầu hàng bà ấy, có người muốn bỏ nơi đây tìm chỗ khác ở. Sau khi bàn với nhau, ba anh em chúng tôi không ngán, chấp nhận cứ ở lại đây, nhà chị Mai. Từng là người xứ Quảng, ở ba quận khác nhau, ra Huế chúng tôi cũng học khác ngành. Sơn học văn chương, Nghĩa (cũng là tôi) học luật, còn Bình thì theo ban Toán, Lý Hóa, hợp với ước vọng của anh. Sau hai tuần điên đầu nhức óc, chúng tôi xin phép chủ nhà ra quân: "Chửi". Theo thứ tự bốc xăm, Sơn chửi trước, tiếp theo là Nghĩa và sau cùng sẽ đến lượt Bình. Chúng tôi đồng thuận với nhau rằng nếu cả ba cùng thua bà ấy thì tức khắc dọn nhà, tìm nơi khác mà ở. Để mở màn cho cuộc chiến tranh bằng lời, chị Mai ân cần căn dặn chúng tôi: Các chú dù có chửi nhưng cũng phải giữ thái độ ôn hòa, từ tốn và lễ phép của kẻ sĩ nước nhà, không được bắt chước bà ta mà hỗn, người ta sẽ chê cười các chú đó. Chị tiếp, tính bà là vậy, chúng tôi ở được vì thực tình bà ấy không có ác tâm, lại ưa giúp người và dù chửi nhưng rất có lòng với hàng xóm ở đây. Chúng tôi vâng lời, và lần nào cũng mời chị Mai ra làm chứng. Từ bên này bờ rào, Sơn gây sự trước, bà cũng bằng lòng là vì có đối thủ bà vui. Để tỏ ra là có lễ độ, Sơn mời bà mở đầu trận chửi. Sau một hồi ù tai loạn mắt, lại bị bà mắng chửi là thứ đồ ranh con, làm sao địch lại với bà. Không bỏ cuộc ngang xương vì mới là hiệp đầu, Sơn bằng dùng năng khiếu là sở học văn chương của mình, anh xổ một tràng thế này: tôi nói cho bà biết"Thiên địa phong thần, hồng nhan đa truân". Bà hỏi lại mi nói cái chi chi ta đâu có hiểu. Thay vì đọc đúng nguyên văn lời dịch trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm là "Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi chuân chuyên" thì, Sơn lại bảo: câu này có nghĩa là từ ngày đó "O" ở đây, thiên hạ đau đầu nhức óc, xốn đến tai trời. Sau đó anh tiếp tục dựng nào là thơ Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... để chửi. Nhưng quả thật, tất cả đều vô hiệu, đến phút cuối cùng, chẳng những bà không rút lui mà lại tấn công tới tấp, phủ đầu. Kết quả: Sơn đành chịu thua, lủi thủi chị em kéo nhau vào nhà. Hôm sau tới phiên Nghĩa, lần này Nghĩa mở màn trước trận đấu bằng cách anh dùng toàn bộ danh từ luật học trong danh luật, hình luật, trích dẫn luật Hồng Đức, Gia Long, luật hàng không, hàn hải, luật thuế vụ, luật thương mại hành chánh... đủ thứ bà già. Nghĩa lớn tiếng: bà bị trọng tội chứ không phải khinh tội, tội đại hình, ít ra cũng bị chém treo ngành và dùng công pháp, tư pháp quốc tế kết tội bà diệt chủng, bà không thua gì Hitler của Đức, Pol Pốt của Miên, và Stalin bên Nga... Hết vũ khí bằng luật, anh kết tội bà là không tặc, hải tặc, sau cùng bà là cái mụ Cầu Kho ghê gớm! Dù Nghĩa đã đem tất cả khả năng hùng biện và những tân kỳ của ngành luật học ra chửi, cuối cùng, với đòn sau cùng của bà: "Tổ cha tiên sư nhà bay, cút đi.” như Sơn lần trước, Nghĩa đành trở lại vào giường nằm nuốt hận. Đến phiên Bình, chị Mai chủ nhà bảo: các em không ăn kỹ thuật "đai đen" của bà ấy đâu, theo chị nên chịu thua và bái phục bà, đó là lối thoát tốt hơn cả: nhịn bà là yên thân. Bình nhất quyết ra quân, không chấp nhận đầu hàng. Chị Mai nhắn lại: nếu lần này Bình thắng chị hứa sẽ đãi các em một tháng bún bò bà Lưu ở Ngã Năm Quảng Ngãi, hoặc ăn ram Võ Tánh, chim mía Thu Phổ cùng quê các em hoặc là tiết canh Trà Khúc hay cà phê Chị Lợi nổi tiếng ở đây, ngoài ra chị sẽ miễn riêng cho Bình một thánh tiền nhà trọ. Đối lại, các em thua, phải quét nhà, lau cầu cho chị suốt năm. Tất cả hợp đồng xong xuôi, hôm ấy nhằm ngày nghỉ, bốn chị em dẫn nhau ra sau nhà, cạnh bức tường bà "O" ở, chị Mai lại mời gọi ơ ớ hàng xóm đến nghe trận chung kết ly kỳ có một không hai tại xóm Cầu Kho chị ở. Bình tư thế sẵn sàng, anh lễ phép và từ tốn bảo: xin mời O đá trái banh đầu tiên, O chửi trước đi. Eo ơi! Không ai chịu nổi cái giọng đanh đá, đầy chua chát và kỳ lạ của bà, những chiêu độc đáo nhất lần này bà tận dụng hết, đế ngút thở, bà gắng dùng câu: "Tiên sư nhà mi" của người miền Bắc, bà lại bảo: Mi chửi đi. Đến phiên mình, anh ôn tồn đáp lại bằng lấy toàn những danh từ khoa học, toán học của Hoàng Xuân Hãn ra đề tống về phía bà, nhưng coi bề không ăn vì bà chưa chịu đầu hàng. Sau cùng, Bình xổ mấy câu, hi vọng cú phạt đền sau cùng, Bình bảo: O nghe tôi nói đây: O với tôi là hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau được, là hai tam giác cân không đồng dạng, chắc phải dùng acit sulfuhydric tạt vào O là con lắc đơn không đồng bộ, phải dùng hình chiếu chiếu thẳng O xuống diêm vương dùng cơ học nghiền nát O, dùng hóa phân chất O, và dùng lượng giác học để đo tọa độ của O đứng. Chưa chịu ngưng, Bình tiếp: O là quỹ tích củamột vòng tròn qua điểm, O là một hàm số bậc hai vô nghiệm, là quỹ tích của hai vòng đồng tâm, là phương trình bậc ba không lấy được đạo hàm, chắc phải dùng hai chất độc là Oxy và Hydro tắm gội tội ác của O, phải triệt tiêu O để hàm số có nghiệm và tìm ra quỹ tích về dẫn độ O và, nếu cần tôi sẽ đưa O về chầu quỉ sứ diêm vương, vân vân và vân vân... một loạt các danh từ toán, lý hóa lôi ra tận dụng. Nghe một hồi, bà tía tai, tím mặt, đứng sững người và bảo: thôi thôi, ta chịu chua mi, xin mi đừng nói nữa, mi bảo cái chi chi mà ta nghe ớn lạnh, nào cái gì mi bảo là quỹ tích, là triệt tiêu, là hàm số là đạo hàm, mi trù ta chết, mi ém ta bằng các thứ độc hại. Ta thua. Mi đỗ Tú Tài, cái Tú của mi sao gàn quá vậy, ta thua tất cả mọi người luôn và để phục tài mi, người trong Quảng của mi, tối ni, ta mời bốn chị mi cùng O đi ăn cơm Âm Phủ, rồi về Sông Hương ta thuê đò cho ngủ, được chưa? Từ đó về sau cả xóm vắng lặng yên lành, người xung quanh và cả chị Mai, ai nấy đều khâm phục tài năng của người học trò xứ Quảng ra kinh về kỹ thuật chửi bới mới lạ, ngộ nghĩnh, bịp bà già bằng những thứ danh từ toán, lý hóa, thứ mà một đời bà chưa hề nghe đến, lại cũng chẳng ai hơn một lần dùng để chửi với bà. Lâm Trương ************************** Phong Hóa chửi Thật ra thì Phong hóa đã làm gì để có được danh tiếng và tiếng tăm như vậy trong lịch sử báo chí Việt Nam? Ở đây tôi trích lục lại một số bông hoa tươi thắm nhất trong kho tàng chửi của Phong hóa, trích lục từ phần trích lục của Thanh Lãng trong Phê bình văn học thế hệ 1932, làm thế cho nhanh vì ngồi lục lại Phong hóa để chép thì ngại lắm. Nước Nam có hai người tài Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh Một sừ béo núng rung rinh Một sừ lểu đểu như hình cò hương Không vốn liếng chẳng ruộng nương Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu Bây giờ đang sỉa sói nhau: Người câu “lập hiến”, kẻ câu “trực quyền” - “Thưa các ngài, thực vi tiên Muốn xem chiến đấu quẳng tiền vào đây” “Báo Phong-Hóa ra buổi sớm, buổi chiều đi chơi rong phố, nghe thấy trẻ con hát: Nước Nam có hai người tài Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh Hai câu phong dao có lọt vào tai hai ông lãnh tụ hai đảng lập hiến và trực trị, chắc hai ông tài cũng… mát dạ. Ông Quỳnh có lẽ chưa vừa lòng. Ông có giận, xin đừng giận người làm thơ, nên giận cái người đặt ra điệu thơ sáu tám. Chả nhẽ lại viết, thứ nhất sừ Uỳnh, thứ hai sừ Ĩnh.” “Mừng cụ Hoàng Tăng-Bí tăng phúc, tăng lộc, tăng thọ, tăng… bí. Mừng cụ Huỳnh-Thúc-Kháng dùng chữ nho nhiều bằng năm bằng mười năm ngoái. Mừng ông Nguyễn-Khắc-Hiếu say bằng năm bằng mười năm ngoái. Mừng ông Nguyễn-Trọng-Thuật sinh thêm được năm bảy người An-Nam mới. Mừng ông Dương-bá-Trạc đầu năm học xong tiếng Ăng-Lê, giữa năm học xong tiếng Quảng-Đông, cuối năm nói truyện ông Đinh-bộ-Lĩnh. Mừng búi tó ông Nguyễn-văn-Tố năm nay được vào viện Bác-cổ Hà-Nội.” “Trứng vịt khó tiêu, không biết còn cái gì khó tiêu hơn nữa không? Hỏi thế tất ai cũng buồn sắc mặt mà đáp lại rằng: Có văn của cụ Hoàng-tăng-Bí. Nhưng văn cụ bảng tuy có bí, nhưng chưa đến nỗi bí như văn ông cử Dương-bá-Trạc, tự là Tuyết-Huy, văn cụ Hoàng bí vì thể văn cụ dài lướt thướt như cái áo thụng nhưng cụ còn có tư tưởng. Đến như ông Dương-Bá-Trạc, văn ông giống như cái thùng sắt tây, ngoài bóng trong rỗng không có tư tưởng gì. Vì thế văn ông lại bí hơn một bực mà bí lại bí “rỗng”. Ngày xưa, Chu Du 3 lần hộc máu, ngẩng cổ lên giời mà than rằng: “Giời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?” Độc giả báo chí nước Nam mấy lần ngủ gật cũng nên ngáp mà than rằng: Giời đã sinh ra cụ bảng Hoàng, sao còn sinh ra ông cử Dương?” “Bà Tương Phố xưa làm bài thơ “giọt lệ thu” đăng trong Nam-phong, ai cũng khen là lâm ly, sầu thảm, thảm thiết, ảo não, và buồn rầu. Tính ra bài văn đó có 61 chữ vừa “than ôi”, “ôi”, và “lệ”, chia ra như sau này: 29 chữ “than ôi” 18 chữ “ôi” 14 chữ “lệ” Một bài độ bốn trang, mà có những 61 những ấy chữ, thì than ôi! Làm gì mà chẳng bi thương!” “Báo “Annam” của ông Vĩnh đã là báo “Annam mới” thì báo “Annam” của ông Hiếu hẳn là báo “Annam cũ”. Ông Vĩnh mới ít, mà ông Hiếu cũ nhiều. Nên báo ông Vĩnh phải đặt là “Annam mới và cũ” mà báo ông Hiếu là “Annam cũ cũ” hay “cũ cũ” không cho xong chuyện.” Làm thơ chửi Tản Đà (họa nguyên vận một bài thơ của Tản Đà chửi trước): Anh lên giọng rượu khuyên Phong-hóa Sặc sụa hơi men khó ngửi quá Đã dạy bao lần tai chẳng nghe Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu Lưỡi ngắn thì nên co lại nhé Phong-hóa mà không hóa nổi anh Túy nhân quả thực là nan hóa “Trong nước Nam tưởng chỉ có một tờ báo cổ là báo Nam-Phong. Dè đâu lại có báo Đông-Thanh. Báo Nam-Phong không định cổ mà thành ra cổ, báo Đông-Thanh định tâm cổ mà cổ thật.” --------------- Cuộc đối đầu thế hệ bao giờ cũng diễn ra ở bất kỳ nền văn hóa nào có một chút độc lập tính, có lúc nó cũng âm thầm, nhưng vài lúc nó bùng phát. Cuộc tranh luận (đúng hơn là cãi cọ) mang tên La Querelle des Anciens et des Modernes trong văn học Pháp cuối thế kỷ XVII là một ví dụ: thủ lĩnh bên “cựu” là Boileau, thủ lĩnh bên “tân” là Perrault. Việt Nam đến đầu những năm 1930 có một cuộc như vậy. Ngay Nhân văn-Giai phẩm giai đoạn sau theo tôi cũng có nhiều phần là như vậy. Lúc nào cũng có đối đầu giữa thế hệ này và thế hệ kia, sẽ có lúc nó trở thành một cuộc chiến thực thụ. Sở dĩ các nhân vật Nhân văn bị đàn áp như vậy, theo tôi, cũng một phần là vì họ đã thắng thế. Điều hay là trong những cuộc chống chọi, khi có độ lùi thời gian để nhìn lại, thì ta sẽ thấy rằng không hẳn phe nào thắng hẳn như trận Waterloo. Cuộc tranh cãi giữa Picard và Barthes xung quanh Racine đầu những năm 1960 cho thấy rằng khi viết Critique et Vérité để trả lời pamphlet của Picard, nhiều lần Barthes đã cố cãi chứ không thực sự có lý. Phe cựu cũng có lý, phe tân cũng có lý, nhưng điều quan trọng hơn hết là trong những cuộc tranh cãi ấy, phe già có lý ít.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 3:58:45 GMT 9
ÔN CỐ TRI TÂN
Trọng Kỳ Nhân ghi lại
A.- Vua Thổ Phồn có công nhất trong việc dựng nước.Tùng Tán Can Bố (Songten Gampo) (615-650) là dòng dõi bộ tộc giàu sang nhất nước Thổ Phồn. Trước đó xứ Thổ Phồn chưa có vua, là một vùng đất hoang vu bạt ngàn. Quanh là núi cao hiểm trở, kế đó là đèo sâu hun hút. Con đường giao thông với nước láng giềng là đường mòn, thuộc loại đường dành cho dê lừa di qua từng con một mà thôi. Người ngoại quốc cũng không ưa thích lưu ngụ tại đây, vì độ cao nên không khí loàng và hơi thou rất khó khăn. Nhiều lần trong năm thì bị gió lạnh thổi từ trên núi xuống. Sắc dân du mục rày đây mai đó, da dẽ bị cháy nắng vì ánh sang từ trời rọi xuống và ánh phản chiếu từ tuyết vạn niên chiều về. Tùng tán Can Bố thuộc dòng Tán Phổ (một dòng giàu có nhất). Trước đó giòng họ này chuyên nuôi gia súc như: dê, cừu, trâu Yak. Buôn bán ven biên. Sau lần lần tích tụ tài sản nên giàu có dư ăn dư để. Nhờ giàu có lần lần, nên bộ tộc này không còn sống nghề du mục lang thang như lối xóm nữa, giàu có thì thêm nhiều nhân công, rồi nhiều nhân công thì lập nên đạo quân an ninh lúc đầu canh giữ gia súc, gia đình ông chủ... sau thì canh chừng giùm xóm làng. Nên nhớ ngày xưa tệ nạn ăn cướp rất nhiều. Nhóm du mục lang thang bên kia núi, thường tràn qua bên đay mà cướp vật, bắt người v.v... Đời đó chưa có chánh quyền, nghĩa là mạnh được yếu thua. Bộ tộc Bố Đại Cũng Giáp giàu có và láng giềng lối xóm tin cậy. Họ này phát triển thành một triều đại. Trước đó, bên kia núi hướng Tây có bộ tộc tên là Tô Tỳ (nhóm Nepal ngày nay). Cha của Tùng Tán Cương Bố mạnh lên và đánh bại xứ Tô Tỳ lên ngôi vua Thổ Phồn. Hai năm sau thì ông bị đánh thuốc độc chết hộc máu trên bàn tiệc (năm 619 A.D). Bên Nội và bên Ngoại nắm đại quân đều phản Thổ Phồn. Lúc đó Tùng Tán mới 16 tuổi, binh lực còn yếu. Nhưng với tài dùng binh, anh đã đánh thắng lần lượt những loạn thần sứ quân thuộc tộc của mình. Lôi ngôi 18 tuổi trẻ nhất. Lúc đó bền Trung Hoa, vua Đường nổi danh là Đường thái Tông, biên giới nhà Đường đến sát hướng Đông và hướng Tây, những bộ lạc Mông Cổ nổi dậy đều bị binh lực hùng mạnh nhà Đường đánh tan sạch bách. Họ gọi vua Đường là Thiên Tử (danh từ gọi là Thiên Khả Hãn). Nước Trung Hoa được vị minh quân, tài thao song lược, nên dân chúng rất thích tự xưng: “Đường mỗ” (nghĩa là tôi dân nhà Đường, tương tự như ngày nay người ta xưng là: I am an American citizen vậy). Bởi vậy chúng ta không lấy làm ngạc nhiên lúc Saigon còn tên thì biết bao nhiêu tiệm quán Trung Hoa đều lót tên Đường, như Vạn Kim Đường, Phát Lộc Đường, Vạn Sanh Đường, Hòa An Đường... tại Chợ Lớn của Saigon. Họ bán thuốc Bắc, bán Tạp Hóa Bazar hay lò võ vv.vv... Trở lại chuyện Tây Tạng, Tùng Tán Cương Bố dẹp hết mọi sứ quân nghịch tặc, thì biên giới của anh rộng nhất Tây Tạng bấy giờ. Anh sai sứ thần đến Trường An mà cầu hôn với Đường Thái Tông, vua Đường tuy thân với Thổ Phồn nhưng vẫn chưa thích Thổ Phồn lắm, vì họ gọi là dân Tây Di (dân hướng Tây có nên văn hóa kém) còn Nam Man (dân hướng Nam là rừng rú mọi rợ). Vua Đường cự tuyệt làm chàng trai trẻ phật lòng. Tùng tán Can Bố liền đem đạo quân đến đánh dằn mặt xứ Tùng Châu (nay thuộc huyện Tùng Phan, tỉnh Tứ Xuyên). Binh Bộ Thượng Thư nhà Đường là Hầu quân Tập đem gần 5 sư đoàn đến dẹp (ngày xưa họ gọi là 5 vạn quân, ta xem tạm là 5 sư đoàn vậy) đánh tan đạo quân của Thổ Phồn. Nhưng thắng Thổ Phồn một cách rất khổ sở. Năm sau Tùng tán Can Bố sai một sứ giả đến cầu hôn vua Đường. Đường Thái Tông lúc này binh lực tuy mạnh, nhưng vì chinh chiến vừa xong, nên nền kinh tế tài chánh nhất là kho vàng quốc khố đang bị thiếu hụt. Vua nhận lời Tùng Tán can Bố làm rể. Vua Thổ Phồn liền đem rất nhiều vàng bạc châu báu đến làm của sính lễ chàng trai, đến 5 ngàn lượng vàng, 10 ngàn lượng bạc cùng vô số dê cừu... Năm 641 Đường Thái Tông chọn ngày lành tháng tốt gã công chúa hiền lành nhất của mình cho Tùng tán Can Bố. Vua cho đại thần Lý đạo Tông hộ giá công chúa Văn Thành đến Thổ Phồn. Đồng thời công chúa Văn Thành là người rất thích văn chương thi phú, nên vua Đường cho chở theo hàng ngàn sách Tàu, cùng những máy móc cơ khí tinh xảo của vua Đường làm của hồi môn cho công chúa, bề gì đại quốc cũng phải rộng lượng và phô trương nên văn minh cực thịnh nhất của mình cho tiểu quốc kính nể. Có thâm ý là vua Đường muốn Thổ Phồn phải tâm phục khẩu phục thì Thiên Tử mới hài lòng. Vua cho cả thợ thuyền giỏi của Trung Hoa sang Thổ Phồn xây cung điện. Hoàng Hậu Văn Thành liền cho người xây trường học, xây dựng nhà thương, tổ chức đạo pháp cho Thổ Phồn. dân chúng Thổ Phồn rất lấy làm cám ơn công đức của Hoàng Hậu nhà Đường vạn phần. Hiện nay tại mấy ngôi chùa lớn củaTây Tạng có hình ảnh cổng chúa Văn Thánh lồng trong hình ảnh của Quan Thế Aâm Bồ Tát. Còn vua Tùng Tán Can Bố nghe lời quân sư nhà Đường cho tổ chức binh bị rặc chính thái của nhà Đường, phân đội ngũ rõ ràng, Dinh cơ phủ soái rành mạch. Quân phục tề chỉnh. Tùng Tán Can Bố muốn nước Thổ Phồn có một văn tự, nghĩa là có chữ viết riêng cho xứ mình nên vua phái nhiều đoàn du học sinh sang tận thành phố nổi danh nhất là Kashmir (Nepal) mà học chữ nghĩa. Rồi nhà vua và Hoàng Hậu sáng chế ra chữ quốc ngữ dành cho Thổ Phồn. Rồi vua lập trường Quốc Tữ Giám, bắt buộc con cái đại Thần phải biết viết và đọc chữ Thổ Phồn mới này (tương tự dân Việt chúng ta bỏ chữ Hán mà học chữ Quốc Ngữ gốc Latin làm chuẩn). Sau 5 năm thì vua sai những sinh viên này sang Trường An học thêm những tiến bộ văn mình Nhà Đường này, nhất là về canh nông, kỳ nghệ làm giấy làm thuốc súng, hệ thống đo lường, cah dẫn thủy nhập điền... NHờ hoàng Hậu Văn Thánh một mặt trợ giúp hững sinh viên nghèo và một mặt phát triển đạo Phật, nên sử gia Tây Tạng xem như công đức của Văn Thánh công chúa làm dân Thổ Phồn thoát khỏi đời sống đen tối, chữ viết không có chỉ biết cách thắt nút làm văn tự mà thôi. Nhưng trời không thuận người tốt. Tùng tán Can Bố mất vào năm 34 tuổi. Nhưng Hoàng hậu Văn Thành vẫn còn giúp vua con mà khia hóa Thổ phồn. Lịch nhà Đường (Hán) được dùng khắp nơi để cày cấy, luyện kim, làm giấy, làm mực... đồng thời Thổ Phồn xuất cảng sang Trung Hoa nào là ngựa, vàng bác, xạ hương, thú rừng. Nơi thông thương chánh từ Thổ phồn sang Trung Hoa phải qua Lũng tây ... Bạn còn nhớ truyện thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc nói đến câu: “ Hẹn cùng nhau Lũng tây Nham ấy ...” Sau đó cháu của Tung tán Can Bố được vua Đường Trung Tông gã công chúa Kim Thành, lên ngôi Hoàng hậu. Năm 680 A.D Hoàng hậu Văn Thánh mất, thọ 70 tuổi. Hoàng Hậu Văn Thánh trở thành hình bóng hóa thân của Lục Đô Mẫu (Đô Mẫu tiếng Tạng gọi là Trác mã, một hoa thấn của Quan Âm trong truyền thuyêt Tây Tạng.hiện nay Đài Truyền Hinh Trung Ương Trung Quốc đang cho trình chiếu bộ phim Văn Thành Công Chúa, trên 120 tập (120 hồi) phát hình hàng ngày sau giờ cơm tối, độ 2 tiếng. Nhưng trong truyện phim Văn Thành Công Chúa thì người viết phim cho rằng Công chúa thật sự không phải con vua Đường Thái Tông, mà là con ruột của Thượng thơ Lý đạo Tôn, người có công trận quân sự triều Đường thái Tôn, được phong Giang hạ Quận Vương, một tước vị cao nhất cho người ngoaì tộc nhà vua. Vua thấy con gái Quận Vương nhan sắc xinh đẹp, nên vua nhận làm con nuôi, phong làm công chúa lấy tên Văn Thành. Khi Tùng tán Cam Bố (Sonteng Gampo) cầu hôn lần thứ nhì, thì vua Đường mới nghĩ đến công chúa Văn Thành này. Dĩ nhiên cha ruột là Thượng Thơ Bộ Binh là Giang Hạ Quận Vương Lý đạo Tôn hô vệ công chúa cùng là con ruột của mình sang nước Thổ Phồn. Phim này do Đàm Lực và Huỳnh chí Long biên soạn, đạo diễn nổi danh Trung Quốc là Thái Hiển Tinh (người từng dàn dựng bộ phim Tam Quốc Tranh Hùng, Uu Sầu phân bôi, Gia Giáo Truyện tình...). Còn vai Văn Thành công chúa thì giao cho nữ minh tinh khã ái của màn bạc Trung Quốc là Tào Dĩnh, cô từng đóng vai Võ tắc Thiên hùng quyền. Còn Tùng tán Can Bố vua Thổ Phồn thì giao cho tài tử gốc Hongkong tên Nhân Tuân, còn Hồng vụ Trụ đóng vai Đường thái Tông, vai cha ruột và Giang Hạ Quận Vương Lý đạo Tôn thì cho Trương chí Trung dóng diễn. Phim được quay tại Tây Tạng và một phần đất Tân Cương, Thiễm Tây cùng kinh đô Tràng An. Sự dàn đựng lại kinh đô lẫy lừng nhất thế giới thời đó là Tràng An tốn rất nhiều chi phí. Có lúc đang quay thì cực Bắc Thiểm Tây bị động đất, thế là đoàn quay phim chuyển thành đoàn cứu trợ nạn nhân, rồi máy quay phim của đoàn được Bộ Ytế mượn đở để quay những cảnh cán bộ cao cấp Trung Ương đến từ Bắc Kinh cứu trợ. Quay xong trả máy, nhưng chánh phủ quên trả phim blank (phim chưa quay), nên đoàn hết sức khốn khổ phải vội chạy xuống Thượng Hải mà ký mượn đỡ đoàn phim bạn. Nhưng Thượng Hãi thì lại có phim màu Technology Color II khác với màu của đoàn. Vì loại phim thuộc lịch sử nên màu sắc phim ảnh không thể nào quá xanh tươi như mùa xuân đám cưới được. Đoàn cầu cứu đến hãng phim Tokyo Movies. Những loại phim như Tây Tạng rất khó chọn đào vì các cô đào đều từ chối. Lý do họ mặc áo quần phụ nữ Thổ Phồn thì xem phim thấy mình... mập ú như thùng lu. Vì phụ nữ Thổ Phồn quấn nhiều áo quần, cao độ nhất thế giới, gió lạnh từ Hy mã lạp Sơn thổi về. Ăn uống khổ sở, phải chịu chế độ ăn uống như người đân tây Tạng vậy, nghĩa là sáng uống sữa loại Trâu Yak núi, mà sữa loại trâu này rất nhiều chất mỡ béo ngậy. Uống riết không mập... cũng uổng. Rồi nước nôi thiếu thốn, chẳng lẽ ra suối mà tắm, nước suối nào mùa hè cũng lạnh như nước đá lạnh trong tủ lạnh mà trên ngăn đá sắp sữa đặc sệt vậy. Khi đoàn quay đến phần quan trọng thì dân tây Tạng lúc đó tình hình chính trị quá căng thẳng. Người Tây Tạng họ biểu tình đòi tự trị. Nên đoàn phim phải phân tán mỏng, chẳng lẽ quay ngay cảnh ngoài đường phố người ta đang biểu tình rồi cảnh sát đến rượt bắt nhốt người biểu tình. Thật sự quay xong, đạo diễn Thái hiển Tinh mới nói với phóng viên báo chí trong buổi tiệc ra mắt phim tại Đại Sãnh Đường Bắc Kinh, ông nói: “ Phim này đúng là phim của Tùng Tán Cương Bố, hai lần cầu hôn mới được, mà phải động binh đao nữa mới xong”. Còn cô đào thủ vai chánh Văn Thành Công Chúa là Tào Dĩnh thì hơi mắc cở nói với báo chí: “Em khổ sỡ hết sức, vì em... bị mập lên gần 15 kílô, trị hoài chưa hết. Có lẽ tại sữa trâu nó thấm vào máu rồi.” B.- Mỗi Kỳ một trang Quốc Văn Giao Khoa ThưQuốc Văn Giáo Khoa Thư được soạn bởi Trần trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận. 1915. Sách này do Nha học chính Đông Pháp giao cho các ông làm ra. Học Trò biết Ơn Thầy: Ông Carnot ngày xưa là một ông quan ti nước Pháp, một hôm nhân lúc rãnh việc về chơi quê nhà. Khi ông đi ngang qua tràng học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bây giờ đã đầu tóc bạc phơ, đang ngồi trong lớp dạy học. Ông ghé vào thăm tràng và chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà nói rằng : “ Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ không?” Rồi ông ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng: “Ta bình sinh, nhất là ơn cha mẹ, sau ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay.” Góp Ý của sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư: Không quên người thầy dạy mình từ khi còn bé thơ là điều đáng quý. Chẳng những ghé lại thăm Thầy, còn khuyên học sinh phải biết ơn thầy là một thái độ có nghĩa có tình, có trách nhiệm với bản thân cũng như đối với xã hội. Ở Việtnam ta, truyền thống biết ơn thầy còn sậu đậm hơn vì ngày xưa, sau vua là đến thầy dạy rồi mới đến cha mẹ (quân, sư, phụ). Nhiều người sau khi thầy dạy qua đời, không chỉ để tang mà còn cất chòi ở bên mộ thầy để được gần gũi chăm sóc mộ phần. Góp Ý ngày nay: Dân tộc Việt chúng ta lâu đời có truyền thống trọng thầy dạy học của mình. Thầy dạy lại có một bổn phận liêng thiêng tahy cha mẹ mà dạy học trò. Có nhiều vị Thày rất dữ đòn với học trò, nhưng lại thương học trò vô tận . Học trò thi đậu vào kỳ chung tuyển các trường cao cấp hơn, thì người mừng nhất là Thầy sau mới đến cha mẹ. Chúng tôi đã từng thấy ngày xưa có một thầy giáo dạy tại trường Tiểu học tỉnh lỵ Châu Đốc, thầy về hưu từ lâu. Ngồi trên ghế đá ngoài sân vườn ngó vài cây chậu kiểng, thì có một anh xích lô đạp xe ngang, anh xích lô tụt xuống xe, đẩy ngang nhà Thầy và cất tiếng chào Thầy thật to. Chúng tôi thầm hỏi thì vị thầy giáo nói: “ngày xưa nó từng học lớp tiểu học của ta, thường đi ngang đây và xuống xe chào thầy rồi leo lên xe đạp tiếp ra ngoài đường.” Anh xích lô đó tuổi cũng đã trọng rồi, còn vị Thầy đang ngồi đó thì tóc đã bạc, mắt đã mờ nhiều. Tại Âu Mỹ chúng ta thấy quá nhiều học trò rất mất dạy với Thầy Cô, vứa rồi tại một thành phố lớn miền Đông Hoakỳ, một tên học trò da den, giỡn trong lớp không chịu nghe lời Thầy giảng, thầy đuổi tên này về nhà. Tên này về nhà lấy súng Colt 45 ly, đem vào trường bắn thẳng vào mặt Thầy. Bị bắt, thì người mẹ mất dạy ráng chạy luật sư thật giỏi mà nói với báo chí là tuổi nó còn quá trẻ mà...17 tuổi mà thôi. Nhưng dù bào chữa cách nào đi chăng nữa thì cũng là cha mẹ kẻ sát nhân, làm sao hãnh diện với lối xóm được? Khi chúng ta tị nạn qua đây, tiếng Anh không biết một tiếng, nhưng thời gian sau học vượt bực. Người ra kỹ sư, người ra bác sĩ... Sự vượt bực nầy đã làm các nhà giáo dục Hoakỳ ngạc nhiên... Nhưng họ thấy một điều... đa số những học trò mà trọng thầy giáo... đều thành tài hết. Còn những tên mất dạy với Thầy đa số đều... không ra gì. Bảo đảm như vậy. Nên giáo dục Hoakỳ rất tốt dành cho học trò từ lớp 1 đến lớp 6, nhưng sau đó là một sự hỗn độn trong lớp. Học trò nữ ăn mặc hết sức... tục tĩu gần như lõa lồ, học trò nam thì ăn nói rất dâm đảng. Thầy giáo lại không dám nói nặng học trò. Nhưng nếu toàn thể học trò Hoakỳ đều ráng học như học trò Nhật Bản thì chúng ta rất khó được con em học giỏi tại đây. Học trò Hongkong và ĐàiLoan rất siêng năng nhưng đụng tới học trò Nhật thì... chạy dài dài. Có nhiều sự thử nghiệm thi thế giới, cùng một trình độ được cho bài mẫu của đại học Stanford gởi cho thi thử tại các nước văn minh thế giới. Có đến 76 quốc gia tham dự. Chấm điểm tại Hoakỳ. Kết quả: Nhật hạng nhất, Hongkong, Đàiloan theo sau. Còn Hoakỳ được chấm hạng 4 trên thế giới, nhưng đếm ngược từ dưới lên trên, hơn những xứ như Ethopia, Sudan và Maroc. Thấy hình ảnh trên báo chí như National Geography tại lớp thi của Nhật, học trò ăn mặc đồng phục tề chỉnh, đầu quấn một băng vải trắng có chữ Nhật ghi như sau: Phải đậu cao. Còn một hình ảnh tại lớp thi Hoakỳ thì thấy học trò ăn mặc bằng quần jeans áo thun in chữ: Happy hay chữ Hawaii... vào thi một cách miễn cưỡng. Rồi niêm yết thì... rất tủi nhục. Đại đa số những lớp cao học, sắp ra trường với bằng cữ nhân 4 năm, hay Master 6 năm hay Ph.D 7 năm... đa số là dân thuộc đệ tam quốc gia. Học trò Trung học Hoakỳ ngày nay rất giỏi về sự nhớ dai: họ nhớ dai ngày sanh tháng đẻ của những cầu thủ football hay basket ball, hay các ca sĩ ... mà những người này họ gọi là... Heroes. Trọng Kỳ Nhân
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 5:32:02 GMT 9
BỮA TIỆC LỊCH SỬ Trước sức mạnh quân sự hùng hậu của 8 nước phương Tây cùng liên minh đánh Trung Quốc, Từ Hy Tây Thái Hậu nhà Thanh (Trung Quốc) tự hiểu rằng con đường tốt nhất là dùng ngoại giao để giải quyết. Thái thú Lý Hồng Chương được giao sứ mạng gặp gỡ các sứ thần Tây phương. Mở đầu cho mối giao hảo này, một yến tiệc linh đình nhất đời nhà Thanh được tổ chức vào Tết Nguyên Đán năm 1874 có mời sứ thần nước ngoài tham dự tại Duy An Cung. Thực khách gồm 400 người, thực đơn có 140 món, khai tiệc đúng 12 giờ đêm giao thừa năm 1874, kéo dài đến giờ Tý đêm mồng 7 Tết, chi phí 98 triệu hoa viên Trung Quốc, tương đương 374 ngàn lượng vàng, được chuẩn bị trước 11 tháng 6 ngày, cần đến 1750 người phục dịch. Ngay từ rằm tháng 2 năm Quý Dậu (1873), mỗi tỉnh Trung Quốc được lệnh cử 10 đầu bếp xuất sắc nhất về kinh đô hội ý thảo thực đơn. Sau gần hai tháng hội ý, các đầu bếp đã thống nhất một thực đơn gồm 140 món, trong đó có 7 món cực kỳ đặc biệt . Trong 7 ngày đêm yến tiệc ấy, mỗi ngày chỉ dùng 1 món. Quan khách nhận được thiệp mời ngay từ 23 tháng Chạp năm 1873, gồm 212 vị trong phái đoàn bát quốc liên minh nước ngoài cùng 188 công thần được tuyển chọn của triều Thanh. Đêm 30 Tết, tất cả tề tựu tại Duy An Cung, cùng lúc ấy, Thái Hậu Từ Hay dự lễ Trừ tịch ở Tôn Long Miếu. Sau 3 hồi chiêng trống long phụng vang lên, là hồi khánh ngọc báo tin Thái Hậu xuất cung. Quan khách đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu - nơi Tây Thái Hậu ngự - do 8 vệ sĩ lực lưỡng khiêng. Lý Hồng Chương khom mình tới vén rèm long kiệu. Thái Hậu Từ Hy khẽ lách mình ra, gật chào quan khách. Thái Hậu rực rỡ trong chiếc áo bào đỏ, có thêu rồng vàng uốn khúc, đầu đội mũ bình thiên, đến chỗ ngồi, phẩy nhẹ phất trần mời quan khách an toạ. 3 hồi chiêng trống vang lên, thay mặt triều đình nhà Thanh, thái thú Lý Hồng Chương phát biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà thành với các nước phương Tây. Thay mặt 8 nước, sứ thần nước Anh đáp từ. 3 tiếng ngọc khánh báo hiệu đại yến bắt đầu. Quan khách ngồi cách nhau khoảng thước tây. Sau lưng mỗi người có 2 nô tỳ nam và nữ phục dịch. Món ăn thứ nhất được dọn lên. Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một bản. Dùng đúng 5 món, thực khách được uống một chén rượu thuốc nước có tác dụng tiêu thực. Rượu đãi khách cũng là rượi đại bổ. Nhà bếp dọn lên mỗi ngày 20 món, trong đó có một món đặc biệt nhất như đã nói trên. Cứ mỗi lần dùng một món mới là Thái Hậu lại gõ ngọc khánh, một viên nội giám lại vòng tay xướng tên món ăn. BẢY MÓN ĂN ĐẶC BIỆT TRONG BỮA TIỆC CỦA TỪ HY THÁI HẬU 1 :Cỏ Phương Chi Cỏ Phương Chi mọc trên đá, mở ngọn núi Thái Hàng. Cỏ này chỉ vào những năm nhuận mới mọc, mọc một lần trong năm ấy, vào ngày Trung thu, sống rất ngắn ngày (khoảng từ 1 tháng đến tháng rưỡi), gặp phải ngọn gió bắc đầu mùa là khô héo liền. Muốn lấy cỏ, trước đó một ngày phải dắt lên núi một con ngựa đực trắng tuyền. Mặt trời vừa mọc, dẫn ngựa tới phiến đá có cỏ, đợi ngựa ăn xong, chém ngựa chết ngay, sau đó, mổ bụng lấy dạ dày đem về chế thuốc, phơi khô. Tương truyền, cỏ này mát, trừ bách bệnh. Trong bữa tiệc đãi khách, cỏ Phương Chi được nấu với Long Tu, người ăn vào sẽ sảng khoái tinh thần, suốt cả tháng không thấy mệt mỏi. 2: Chuột Bao Tử Chuột đồng được bắt về nuôi cho ăn toàn gạo trộn trứng gà và các vị thuốc bổ, uống nước sâm và lê ép. Mỗi ngày chuột được tắm rửa 2 lần bằng nước trầm thơm và dầu hương liệu hảo hạng. Món chuột bao tử lấy từ lứa con, cháu của các con chuột trên. Đầu bếp rất khéo, bọc chuộc bên ngoài bằng lớp bột như bánh bao, khi người ăn đưa bánh lên miệng sẽ nghe được tiếng kêu của chuột còn sống bên trong. Món này bổ tì, vị, bổ mắt. Trong bữa ăn, sứ thần Bồ Đào Nha đành khiếm lễ từ chối món này khi thấy đuôi chuột ngọ nguậy trong miệng sứ thần các nước bạn. 3: Tinh Tượng Nhà bếp lựa chọn những tai yến to, tốt tại bờ biển phía Nam, nấu với nước nhân sâm và đường Cao Ly. Sau đó nhồi bột phấn Kiết Châu với nước lê Vân Nam, nấu khô lại, nặn thành từng hình voi nhỏ, bỏ vào lò nung chín, cứng đặc lại. Người ta khoé trên lưng các con voi ấy một lỗ nhỏ cho vừa một bong bóng cá đã ngâm thuốc bắc phơi khô nhét vào được. Tượng tinh (khí voi) được bỏ vào bong bóng cá này, đem đi hấp. Trong bữa tiệc, quan khách lấy kim vàng chọc thủng rồi cho chất ấy chảy vào chén bạc mà uống. Món này bổ lục phủ ngũ tạng, trị dứt các chứng nhức mỏi. 4: Trứng Công Công làm nem đã là món quý, món trứng chim công lại càng quý hơn vì khó lấy được trứng công (khó gần ổ trứng vì công sẽ chống cự dữ dội để bảo vệ trứng, nhiều khi công phá vỡ ổ trứng, không cho người lấy). Muốn đãi khách món này, cần 100 con khỉ được huấn luyện để trộm trứng công. Kết quả thu được 500 trứng đãi khách, nhưng khỉ chết mất một phần ba. 5: Óc Khỉ Gần núi Thiên Hoa ở Sơn Đông có rừng lê được gọi là Lê Ngọc Căn, trị được các bệnh cam, thận, nhiệt uất, ho kinh niên. Rừng lê này bị một bầy khỉ ở đó chén sạch, vì vậy thịt khỉ ở đây thơm, ngon, đại bổ, ăn vào trị được bệnh bán thân bất toại. Tương truyền óc khỉ này lại bổ hơn cả. Số khỉ Thiên Hoa Sơn đem đãi khách là 80 con, toàn loại choai choai, chưa thay lông, cứ 5 người ăn một bộ óc khỉ. 80 con khỉ này được tẩm bổ hàng ngày. Trước giờ đãi khách, mỗi con khỉ trên được đặt vào một lồng nhỏ - trông giống như cái trống con - có thể mở, khép dễ dàng, một đầu khoét lỗ vừa đủ cho đầu khỉ ló lên được; lồng có gông đặc biệt để khỉ không nhúc nhích được. Khi ăn, người phục dịch cầm chiếc chày ngà giáng xuống đầu khỉ, cái đập này đã được luyện tập, đủ khiến con khỉ chết ngay, không kịp kêu lên một tiếng. Sau đó, rưới nước sâm nóng lên đầu khỉ để óc tái đi một chút. Quan khách sẽ dùng muỗng bạc múc óc khỉ ra ăn. 6: Heo Sữa Phúc Châu Vùng Phúc Châu (Trung Quốc) có giống heo quý, thịt thơm, ngon, chuyên ăn một loại củ (giống như củ Hoành Tinh) mọc ở đồi Châu Tịch Xương. Bữa tiệc đãi khách gồm 100 con heo sữa, là giống heo 2 tháng của giống heo Phúc Châu này. Những con heo đó được đập chết (không chọc tiết, làm lông), thui qua một lượt cho chóng hết lớp lông. Xong, mổ bụng bỏ hết ruột gan rồi ướp các loại thuốc bổ quý trong 3 ngày, đem chưng cách thủy. Lúc ấy thịt heo vô cùng thơm ngon, xương rất mềm. 7 :Sơn Dương Trùng Được lệnh của Tây Thái Hậu, các thợ săn Hồ Bắc - sau gần một tháng lặn lội rừng sâu núi thẳm - bắt được 6 con dê núi đang có chửa tại một cánh rừng vùng Thiên Tân. Đàn dê này được chăm sóc cẩn thận, hàng ngày ăn toàn cỏ Vân Nam và Quảng Tây tải về. Đây là cỏ "Đông trùng hạ thảo", loại cỏ quý, là vị thuốc bổ can thận (cỏ này mùa hạ mịn màng, đến mùa đông, từ ngọn cỏ xuất hiện một loại sâu như sâu dâu, ăn rất bổ). Ăn cỏ quý này, lại ăn thêm các lá cây thuốc bổ khác, 6 con dê núi ngày càng mập mạp, đẻ ra lứa con cũng mạnh khoẻ, to lớn hơn so với đồng loại. Dê con này vừa đúng 2 tháng tuổi, được chọn lấy 14 con giao cho nhà bếp làm lông, moi ruột. Sau đó, chúng được ngâm vào thùng gỗ to đựng nước gừng và rượu quý. Sau ngày thứ 2, dê được vớt ra bỏ vào bể bằng sứ chứa sữa dê tươi và nước sâm nhung. Tiếp 2 ngày ngâm nữa, người ta lấy hoa sen trắng (đã được tách nhánh hoa và ghim kim vàng xuyên từ hương sen đến cuống hoa) cắm đầy mình dê. Để vậy, ngâm đến ngày thứ 10 (đúng hôm mông 7 tiệc tàn), xuất hiện những con trùng trắng muốt đầy trong hoa sen. Nhà bếp nhặt lấy trùng sơn dương này chế biến thành món ăn, có tác dụng bổ, khoẻ, trị các bệnh lao phổi, tê bại, bán thân bất toại.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 8:04:28 GMT 9
Vũ khí cổ Việt Nam Nguyễn Thị Hậu Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí. Nước ta trong suốt các triều đại Lý – Trần – Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết “ Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi”. Như vậy, “sửa sang binh khí” là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV – XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính. Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có: - Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự. - Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang. * Bạch khí. Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba… - Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 – 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 – 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 – 40cm, nặng 100 – 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán. - Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 – 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 – 520gr. - Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 – 66cm, nặng từ 580 – 1000gr. - Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 – 61cm, nặng từ 500 – 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn. Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học. - Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 – 26cm, nặng khoảng 100 – 120gr. - Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn. - Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 – 13cm, thân mũi tên dài từ 4 – 8cm. Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh… Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy… hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích. * Hỏa khí. Gồm có súng lệnh và súng thần công. Sử cũ còn ghi ngay từ thời Trần đã có pháo đặt trên thuyền tấn công vào chiến thuyền của quân đội Champa. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho con trai là Hồ Nguyên Trừng nghiên cứu sáng chế súng thần công “thần cơ sang pháo” để chống quân xâm lược Minh. Sau này khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt sang Trung quốc, nhà Minh đã bắt ông chế tạo loại vũ khí này. Súng ông chế ra có 3 loại: loại lớn đặt trên lưng voi, loại vừa hai người khiêng và loại nhỏ 1 người vác trên vai. Ông được coi là ông tổ của súng thần công. Từ thế kỷ XIII - XIX ở Việt Nam đã có nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là súng lệnh, súng thần công và một số khẩu đại pháo đúc vào thời Nguyễn. - Súng lệnh: dùng để bắn phát lệnh. Thân súng chia làm 3 phần rõ rệt: nòng súng, bầu nạp thuốc súng phình to ở gần đuôi và phần đuôi súng. Mỗi phần đều có đai rộng ngăn cách. Trên thân bầu có 2 chi tiết: Hai trụ nổi như đường rãnh ngắm của súng, nằm giữa hai đường là một gờ nổi, có lỗ nhỏ để tra dây cháy chậm mồi nổ cho thuốc súng chứa trong bầu. Bên trong phần bầu đúc hình răng cưa cho thành của bầu nòng vững chắc không bị phá vỡ khi thuốc súng nổ. Trên thân súng còn hay khắc chữ số ký hiệu súng, như “Công tự tam bách thập phân thất hiệu”, nghĩa là “hiệu chữ công số 317”… Kích thước của súng lệnh không lớn, dài khoảng 30 - 40cm, đường kính miệng khoảng 2,5 – 3cm, đường kính nòng khoảng 1,5cm, nặng khoảng 2,2 – 3,5kg. Thường được đúc nguyên khối. Súng lệnh thời Nguyễn còn có các chữ trên thân súng như “Lôi uy tả sở nhị bách lục thập hiệu”, “Báo Vĩnh Hưng”… Nhiều khẩu súng lệnh làm đơn giản, không có ký hiệu, dài ngắn khác nhau từ 30 – 40cm. - Súng thần công. Thường có tên gọi như Đại Tướng quân, Thượng Tướng quân, Thần Cơ doanh…phổ biến hơn vào thời Nguyễn. Phần lớn súng thần công dài từ 40cm trở lên đến khoảng hơn 100cm. Đường kính ngoài của nòng súng từ 14 – 16cm, đường kính trong từ 3 – 8 cm, đường kính thân nơi lớn nhất từ 13 – 22cm, là phần chứa thuốc súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành miệng nòng có đai dày, ngoài ra trên thân còn một vài đai khác nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra ngòi ở vào khoảng 1/3 thân từ đuôi súng, giáp đó có tay xách hình vòng cung nhô cao (súng nhỏ có 1 tay xách ở giữa, còn súng lớn có hai cái đối xứng nhau. Súng thường không có tai chống giật mà có một rãnh cắt ngang đuôi súng, khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho nòng không giật khi bắn. Đuôi súng là khối tròn. Trên súng thần công hay ghi tên súng, kích thước, cân nặng. - Đạn súng lệnh, súng thần công: thường bằng đá hay đúc bằng gang, sắt. Hình cầu. Đạn đá đường kính từ 2,5 – 5,5cm, nặng từ 50 – 200gr, có viên lớn hơn. đạn sắt, gang kích thước lớn thường hơn, trung bình trên 10cm, là loại đạn của các khẩu thần công lớn. Ngoài ra thời Nguyễn còn có loại đạn bướm “hồ điệp…” có cấu tạo hai nửa cầu nồi kiền với nhau bởi 1 sợi dây xích dài khoảng 25 – 30cm. Khi bắn đạn bay ra giống đàn bướm bay, tính sát thương cao hơn nhiều. * “Cửu vị thần công” thời Nguyễn. Theo sử sách, trước ngày Kinh đô Huế thất thủ (5.7.1885) tại Huế có 850 khẩu súng thần công. Nhưng sau sự kiện ấy, Pháp đã ra lệnh phá hủy và thu hồi kim loại. Đến nay Huế chỉ còn lưu giữ khoảng 60 khẩu thần công, đây là những cổ vật quý hiếm được đúc dưới thời Gia Long và Minh Mạng. Trong số này có “Cửu vị Thần công” - 9 khẩu đại bác vĩ đại bằng đồng được đúc vào đầu triều Nguyễn (1804) do những người thợ Phường Đúc Huế chế tác. Ngay sau khi hoàn thành chúng được đặt phía trước Hoàng Thành, phía trong hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức. Cửu vị thần công được chia làm hai nhóm: nhóm bên tả phía cửa Thể Nhơn có 4 khẩu đặt tên theo 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông; nhóm bên hưũ phía cửa Quảng Đức có 5 khẩu đặt tên theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Cả 9 khẩu đều được phong là “Thần oai vô địch thượng tướng quân” (được khắc bằng chữ Hán trên thân súng) dù cho đến hết thời Nguyễn chúng chưa tham gia trận mạc bao giờ! Hình thức và cấu tạo: Đầu miệng súng hơi loe, phần đuôi phình ra được đúc kín gọi là khối hậu (chỗ chứa thuốc súng). Trên thân súng có 6 gờ nổi, trang trí 8 dải hoa văn chạy quanh thân. Giữa súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân uốn cong hình dấu ngã. Cách quai 14cm có gờ nổi, trên gờ này khắc chữ Hán cẩn bạc, nội dung ghi công trạng toàn ban đốc công chế tạo súng. Ngoài ra trên thân mỗi súng khắc một bài minh nêu rõ lý do đúc súng vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Quy mô Cửu vị thần công: 9 khẩu đại bác đều dài 5,10m, chu vi vòng thân nơi lớn nhất đến 2,16m, đường kính nòng rộng 0,51m (khẩu kính 230mm), trọng lượng khẩu nhỏ nhất là 17.100 cân, lớn nhất là 18.400 cân. Súng được trang trí các dải hoa văn tinh xảo ở phần thân, quai. Cả 9 khẩu đều đặt trên hệ thống giá đỡ bằng gỗ lim có bánh xe (thường gọi là bệ súng). Giá súng dài 2,75m, cao 0,73m, bánh xe bằng gỗ có viền sắt đường kính 0,62m, dày 0,22m. Mặt ngoài giá súng chạm khắc hình rồng, đầu rồng chạm nổi mắt lồi trông dữ tợn, nét chạm không cầu kỳ nhưng tinh tế. Riêng các trục quay có hình trụ dài 0,18m, đường kính 0,22m. mặt ngoài có ghi: bên phải là trọng lượng của súng, bên trái ghi cách nạp thuốc và sử dụng súng. Việc bắn súng rất phức tạp nên mỗi khẩu thần công phải có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng, đạn phải nạp qua miệng pháo, mất nhiều thời giờ mà tính sát thương không cao, chỉ có tác dụng phá vở công sự kiên cố và thành lũy. Bên cạnh Cửu vị Thần công, ở Huế còn có 2 khẩu thần công đúc vào thời Minh Mạng (1834). Đây là hai khẩu đại pháo có khẩo kính 310mm, được đặt trên bệ xi măng. Súng dài 1,06m, thân súng có3 gờ chia làm 4 khoang không đều nhau, không có hoa văn. Trên gờ cuối cùng có lỗ điểm hỏa ghi hàng chữ Hán Ngự chế thần uy phá địch Đại tướng quân đệ nhất vị và cuối núm gờ nổi khắc hàng chữ Minh Mạng thập ngũ chú niên. So với Cửu vị Thần công hai khẩu đại pháo thời Minh Mạng không có chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn cũng như ghi kích thước trọng lượng súng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn tròn bằng đá đường kính 290mm. Để đúc những khẩu Thần công lớn và nặng hàng ngàn cân cần có một hiệp thợ đúc có kỹ thuật hoàn thiện ở tất cả các khâu và sự phối hợp đồng bộ. Kỹ thuật đúc súng Thần công thời Nguyễn còn nổi tiếng về trình độ cao trong việc pha chế kim loại, trang trí hoa văn chữ khắc rõ ràng, sắc sảo, mang tính biểu tượng mạnh mẽ. Vũ khí cổ Việt nam cho biết trang bị vũ khí cho quân đội thời phong kiến, loại bạch khí chiếm tỷ lệ áp đảo so với hỏa khí, vũ khí đánh gần là chính, bộ binh là quân chủ lực mang tính chất quyết định trên chiến trường. Các loại vũ khí bằng sắt chiếm số lượng lớn được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thô sơ nhưng tỏ ra có hiệu quả “lấy đoản binh chế trường trận”. Những loại vũ khí này còn phản ánh một cách sinh động nghệ thuật quân sự Việt Nam là Chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Từ thời Lê Trung hưng và nhất là thời Nguyễn, hỏa khí loại lớn như súng thần công bắt đầu có mặt và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên chức năng của chúng thường để báo hiệu lệnh hay để “phô trương”, thị uy chứ không hoặc ít sử dụng trong thực tế. Nguyễn Thị Hậu
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2011 3:29:22 GMT 9
Cách đây 140 năm : Công xã Paris
Vietsciences-Đặng Đình Cung Ngày 28 tháng năm 1871, Công xã Paris kết thúc sau một tuần lễ kháng cự dữ dội gọi là "Tuần Lễ Đẫm Máu" (Semaine Sanglante). Nhân tuần lễ tưởng niệm lần thứ 140 vụ thảm sát này chúng tôi xin kể lại diễn biến cuộc khởi nghĩa này của nhân dân Paris.Ngày 19 tháng bảy 1870, Napoleon III (Nã Phá Luân Đệ tam) tuyên chiến với nước Phổ nhằm ngăn chặn trào lưu thống nhất nước Đức. So với quân đội Phổ thì quân đội Pháp thiếu quân nhu, không được tập luyện kỹ càng và không được chỉ huy nghiêm chỉnh. Mặc dù có nhiều cá nhân và đơn vị chiến đấu dũng cảm, quân đội Pháp tan rã rất nhanh. Ngày 2 tháng chín, hoàng đề Napoleon III đầu hàng ở Sedan. Ngày 19, một số cứ điểm bảo vệ Paris lần lượt thất thủ. Cuộc vây hãm Paris bắt đầu. Ngày 29 tháng mười, thống chế Bazaine mở cửa thành Metz đầu hàng và trao cho Phổ 180.000 binh lính tướng tá và quân nhu vũ khí. Về chính trị thì, ngày 4 tháng chín 1870, trong một cuộc đảo chính không đổ máu ở Paris, các nghị sĩ quyết định truất phế hoàng đế Napoleon III, thiết lập Đệ tam Cộng hòa Pháp và thành lập một Chính phủ Quốc phòng với nhiệm vụ kháng cự quân Phổ. Ngày 18 tháng giêng 1871, những quốc vương Đức họp ở điện Versailles, tuyên bố thống nhất nước Đức và bầu vua nước Phổ làm hoàng đề Đức. Mười ngày sau thì Chính phủ Quốc phòng Pháp ký hiệp ước đình chiến với đế quốc Đức. Tuy nhiên Vệ quốc binh (Garde Nationale) và công nhân Paris không chấp nhận sự đầu hàng này. Họ trách Chính phủ Quốc phòng bảo thủ không biết tổ chức kháng chiến một cách hữu hiệu. Ngày 18 tháng ba, họ tuyên bố thành lập Công xã Paris (Commune de Paris). Thực ra công nhân và đảng cộng hòa ở Paris đã có ý đồ thành lập Công xã Paris từ ngày 31 tháng mười 1870 khi được tin Chính phủ Quốc phòng đang nghiên cứu phương án đầu hàng Phổ. Trưa hôm đó, nghĩa quân chiếm Tòa Thị chính (Hotel de Ville), trụ sở của Chính phủ Quốc phòng, bắt giữ các thành viên chính phủ để phản đối chính sách quân sự yếu hèn của họ. Ba giờ sáng hôm sau thì họ tự động thả những thành viên chính phủ bị bắt và bình tĩnh giải tán sau khi được Chính phủ Quốc phòng hứa sẽ tổ chức tổng tuyển cử để quyết định hòa hay chiến và cũng vì không động viện được cư dân những quận giầu có của thủ đô. Sáng ngày 22 tháng giêng 1871, khi được biết Chính phủ Quốc phòng quyết định xin hàng, một nhóm người tụ họp trước Tòa Thị chính để phản đối. Lúc ba giờ chiều, bỗng nhiên Đoàn Vệ binh (Garde Mobile), lính của chính phủ, được lệnh khai hỏa để giải tán đám biểu tình. Vệ quốc binh bắn trả. Một số người chết và bị thương. Chính phủ ra lệnh bắt hơn tám chục người cầm đầu, cấm báo chí không được phát hành và các hội đoàn chính trị không được họp. Cuộc bầu cử ngày 8 tháng hai được tổ chức một cách vội vã chỉ có mục đích để có một Quốc hội thông qua thỏa ước đình chiến với nước Phổ, từ nay là Đế quốc Đức. Đa số nghị sĩ thuộc giai cấp (bây giờ trong nước gọi là thành phần xã hội) tư bản và giai cấp quý phái theo dòng họ Bourbon trị vì trước Cách mạng Pháp 1789. Những người này thuộc phe chủ hòa và muốn tái lập quyền chuyên chính xưa của giai cấp họ. Giai cấp công nhân, tiểu thương và thợ thủ công các thành thị công nghiệp tự coi đã bị phản bội và nổi lên thành lập những công xã, một hình thức chính phủ tự trị : Marseille, Lyon, Saint Etienne, Narbonne, Saint Etienne, Toulouse, Le Creusot,... Chỉ sau vài ngày được thành lập, chính quyền hợp pháp dùng bạo lực giải tán các công xã này. Ngày 28 tháng ba Công xã Paris được tuyên bố thành lập. Trước đó, chính phủ hợp pháp do Adolphe Thiers lãnh đạo đã quyết định một số khiêu khích : cấm các báo khuynh tả, bắt nhà lãnh đạo khuynh tả Auguste Blanqui, không cho hoãn nợ, ngưng không trả lương cho Vệ quốc binh. Ngày 18 tháng ba, Thiers ra lệnh tước đại bác của binh chủng này. Khi Paris bị quân Phổ bao vây, người dân Paris đã tuyển mộ và bảo dưỡng Vệ quốc binh và đã góp tiền mua các cỗ đại bác này để tự vệ. Vì thế họ coi Vệ quốc binh là quân đội của họ và những cỗ pháo là tài sản của họ. Những quân nhân được lệnh đến tước súng của Vệ quốc binh ngả theo nhân dân Paris. Trước tình hình rối ren đó, chính phủ Thiers rút khỏi thủ đô và đóng trụ sở ở Versailles. Những người thượng lưu và quý phái sống ở phía Tây Paris cũng chạy theo để lại nội thành cho những người lao động sống ở trung tâm và phía Đông. Phe Versaillais có nhiều lính chuyên nghiệp, thiện chiến và có nhiều vũ khí. Quân số tấn công Paris lên đến 120.000 người. Trên giấy tờ thì phe Công xã có đến 194.000 người trong các đoàn Vệ quốc. Những người này đầy nồng nhiệt cách mạng, quân khí có đầy đủ, nhưng thiếu kỷ luật và kinh nghiệm quân sự. Thực ra chỉ có 10.000 đến 45.000 người, tùy người ước tính, là có khả năng chiến đấu. Khi xưa, Thiers đã chỉ huy công trường xây dựng chiến lũy bao quanh Paris để bảo vệ thủ đô khi có quân địch ngoại quốc tấn công. Chiến lũy đã chứng minh công dụng của nó khi quân Phổ còn bao vây Paris trước đây. Hồi cách mạng 1848, Thiers đã đề nghị với vua Louis Philippe giam hãm nghĩa quân trong vòng chiến lũy để tiện đánh dẹp phong trào công nhân cách mạng. Nhưng nhà vua đã chọn thoái vị để tránh gây tội ác đó. Bây giờ không còn ai ngăn cản nữa, ông ta mang phương án cũ ra thực hiện và thành phố Paris bị vây hãm lần thứ hai. Lần này là lính của chính phủ hợp pháp, thường gọi là Versaillais, bao vây với sự đồng loã của quân đội Đức. Trong gần hai tháng, hai phe giằng co không phân giải thắng bại. Ngày 21 tháng năm, một tay phản bội mở cửa một pháo đài ở phiá Tây Paris để cho lính Versaillais ùa vào. Sự kiện này mở màn cho một tuần lễ thảm sát chưa từng có mà sau này người đời gọi là Tuần Lễ Đẫm Máu. Lính Versaillais lần lượt chiếm những quận phía Tây Paris và tiến dần về phía Đông và phía Bắc. Tiến tới đâu thì chúng bắt và hạ sát không xử án những Vệ quốc binh bị bắt. Thương binh và bác sĩ tháp tùng cũng bị giết. Thường dân già trẻ có vẻ nghèo khó hay có bàn tay chai như tay công nhân chẳng may bị bắt là cũng chung số phận đó. Các cửa phía Đông và phía Bắc Paris bị quân Đức ngăn chặn. Không còn lối thoát, lính Vệ quốc mỗi người rút lui về xóm mình ở để chiến đấu bảo vệ gia đình riêng của mình. Một số dinh thự như là Điện Tuileries, Tham chính viện, Thanh tra viện,... bừng cháy không ai biết do pháo của phe Versaillais hay do những cá nhân nào đó châm lửa. Theo sử sách thì chỉ có Tòa Thị chính, Sở Cảnh sát và Tòa án là đã bị nghĩa quân Công xã đốt cháy trước khi rút lui. Ngày 27 tháng năm, hai phe huyết chiến kịch liệt ở nghĩa trang Père Lachaise. Nghĩa quân Công xã bị bắt tới đâu thì bị bắn chết tới đó ở một bức tường sau này gọi là Mur des Fédérés (Bức Tường Những Nghĩa quân). Ngày 28, chướng ngại cuối cùng của Công xã thất thủ. Ngày 29, lính trong pháo đài Vincennes đầu hàng quân Đức bao vây. Tất cả các sĩ quan bị bắn chết ngay. Bức "Tường nghĩa quân" trong nghĩa trang Père Lachaise Tổng kết số nạn nhân của cuộc đàn áp này thực sự khủng khiếp. Chính quyền Versailles thú nhận đã tài trợ áo quan cho 17.000 người đã bị xử bắn. Nhưng các học giả ước lượng số người bị giết không xử án có thể lên tới 30.000 người. Để trả đũa, ngày 24 tháng năm nghĩa quân Công xã bắn chết tổng giám mục Paris và năm con tin khác, ngày 25 họ giết 14 người khác bị cáo buộc làm chỉ điểm cho phe Versaillais và ngày 26 họ giết thêm khoảng 100 người tình nghi đã làm gián điệp cho địch. Theo báo cáo trình quốc hội năm 1875 thì có 43.500 người bị bắt, 7.700 người được thả ngay vì bị bắt nhầm, 300 tù nhân bị bắn chết vì muốn trốn thoát, 15 tòa án quân sự đã xử hơn 46.800 người và tuyên án 10.137 người trong đó có 95 án tử hình, 251 án khổ sai và khoảng 4.600 án đày. Về phía Versaillais thì có 900 lính tử trận và 6.500 bị thương trong những trận diễn ra vào tuần lễ cuối cùng của Công xã. Đó là không kể đến những công xã ở các tỉnh khác. Trên phương diện xã hội, Công xã Paris đã lấy những quyết định cấp bách giúp đỡ người nghèo : miễn đòi nợ tiền thuê nhà, không được đuổi người nợ tiền thuê nhà, không được bán những vật cầm ở Hiệu Cầm Đồ (Mont de Piété), những vật cầm có giá trị dưới 20 franc được rút ra miễn lãi, hoãn trả nợ trong ba năm,... Những quyết định chính trị của Công xã Paris rất là tiến bộ so với thời đại : quyền nhân dân tham chính trực tiếp, người ngoại quốc được quyền bầu cử, bầu các công chức, sĩ quan và lãnh đạo xí nghiệp, nam nữ bình quyền về chính trị và về lao động, Nhà Nước pháp quyền, giáo hội tách rời khỏi Nhà Nước, giáo dục phi tôn giáo,... Lẽ cốt nhiên, khi chính quyền hợp pháp Versaillais được tái lập thì những quyết định đó đã bị hủy bỏ. Nhưng chúng đã làm kiểu mẫu cho những thế hệ cách mạng sau này, đặc biệt các chính phủ Xô viết Nga (1917), Cộng hòa Tây Ba Nha (1936), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946) và Cộng hòa Cuba (1959). Về văn hóa, Công xã Paris đã để lại những bài ca nổi tiếng mà người ngày nay vẫn còn hát như : "L'Internationale" (Quốc tế ca) và "Elle n'est pas morte" (Em chưa chết đâu) của Eugene Pottier, "Le Temps des cerises" (Mùa anh đào) và "La Semaine sanglante" (Tuần lễ đẫm máu) của Jean Baptiste Clément,... Nhiều ký giả và văn sĩ như là Lissagaray, Jules Valles, Emile Zola, Victor Hugo, Arthur Rimbaud,... đã viết những hồi ký, tập thơ hay tiểu thuyết đầy tâm huyết về giai đoạn lịch sử này. Về phân tích chính trị thì nhiều vị như Karl Marx và Lenine đã bàn đến, chúng tôi không dám chua thêm. Đặng Đình Cung Nghe "Le temps des cerises" (ca sĩ: Yves Montand) Sách đã tham khảo Prosper Olivier Lissagaray: "Histoire de la Commune de 1871", Editions La Découverte, 2004 (tái bản) Jacques Duclos: "A l'Assaut du Ciel", Editions Sociales, 1961 Jacques Rougerie: "Paris insurgée, la Commune de 1871", Découvertes/Gallimard, 2009 Lissagaray là một nhà báo đã tham gia cuộc khởi nghĩa Công xã Paris. Duclos là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp sau Đệ nhị Thế chiến. Rougerie là một sử gia chuyên về Công xã Paris.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 3:53:59 GMT 9
Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh Nguyễn Dư Tuy sách vở không kê khai rõ ràng nhưng có thể nói rằng nước ta vốn có nhiều nghề. Đời Lý, có thợ bách tác (làm trăm thứ). Thời Pháp có trường dạy bách nghệ ( trăm nghề). Ngày nay có 3 trường đại học bách khoa (dạy trăm môn). Có hàng trăm nghề khác nhau. Cửa hàng bách hoá bán cả trăm thứ. Khó mà biết, mà đếm hết được các nghề của ta. Người xưa trọng nghề vì nghề nuôi sống được thợ. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có nghề là đời sống được đảm bảo. Tay nghề giỏi là thân được sướng. Như vậy là ta cũng nghĩ rằng không có nghề nào xấu ( il n'y a pas de sot métier) như người Pháp à? Ấy chết ! Pháp là Pháp, ta là ta chứ ! Ta có nhiều " nghề hạ tiện " xấu xa lắm ! Nghề hạ tiện là nghề gì ? " Đó là những nghề làm mất nhân phẩm con người như " bé đi câu, lớn đi hầu, già đi làm khách nợ ", làm nho lại tại các công đường, làm mõ, xướng ca..." (Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai Trí, 1968, tr. 426-430). Lạ nhỉ ! Nhất sĩ nhì nông...Nho lại cũng từ sách vở chui ra kiếm ăn sao lại bị coi là làm mất nhân phẩm, ngồi cùng chiếu với mõ ? Một đời làm lại, bại hoại ba đời ! (Tục ngữ) " Nghề làm lại xoay ngọn bút, sửa tờ giấy, ăn không nói có, làm những điều thất đức có hại tới con cháu " (Toan Ánh, sđd). Người xưa khinh ghét đám nho lại công đường, đám " xui nguyên giục bị ", vì bọn này sinh sống bằng nghề viết lách giấy tờ kiện tụng. Vẫn chưa hết. Bên cạnh nghề cao quý, nghề hạ tiện, còn một số nghề bị bỏ quên, không có tên trong bảng xếp hạng. Đứng đầu là nghề... ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp. Nhầm to rồi ông ơi ! Ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, không phải là nghề! Không nhầm đâu ông ạ. Con ơi học lấy nghề cha Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm (Ca dao) Rõ ràng ăn trộm là một nghề đã được các cụ công nhận đàng hoàng. Ông vẫn chưa tin à ? Theo ông, làm quan có phải là một nghề không ? Nhất định rồi ! Làm quan là nghề vinh hiển nhất của sĩ ! Nếu vậy thì nhất định ăn trộm, ăn cướp cũng là một nghề ! Con ơi, mẹ bảo con này Cướp đêm là trộm, cướp ngày là quan (Ca dao) Quan làm ca một, trộm làm ca ba, cùng sở đấy ông ạ. Thời phong kiến ngày xưa, làm quan chỉ dành riêng cho các ông. Trải qua mấy cuộc bể dâu. Ngày nay có cả quan đàn bà. Văn chương gọi mấy ông, mấy bà quan tân thời có tật hay cầm nhầm, ăn cắp, ăn trộm của công là biển thủ công quỹ. Ăn cướp của dân được thuật ngữ chính trị gọi là tiêu cực. Toàn là người có nghề, thạo nghề cả đấy chứ. Sông có nguồn, nghề có tổ sư. Sách vở không cho biết tổ sư của nghề ăn cắp, ăn trộm tại nước ta là ai ? Có thể đoán mò là anh chàng Trọng Thuỷ, chồng cô Mị Châu. Truyện kể rằng : " Thời xửa thời xưa, An Dương Vương xây thành Cổ Loa gặp nhiều khó khăn, được thần Kim Quy (Rùa Vàng) giúp đỡ. Xây xong thành, thần còn tặng nhà vua một móng chân làm kỉ niệm, dặn rằng lúc cần thì đem ra mà dùng. An Dương Vương sai người lấy móng rùa làm lẫy, lắp được một chiếc nỏ thần để phòng vệ thành Cổ Loa. Triệu Đà đem quân sang xâm lược nước ta. An Dương Vương đứng trên thành dùng nỏ thần bắn bắn xối xả, giặc chết như rạ. Triệu Đà thua to. Biết là dùng quân sự không xong, Triệu Đà ghé tai con trai là Trọng Thuỷ thì thầm... như vầy, như vầy. Trọng Thuỷ gật đầu lia liạ. Triệu Đà sửa soạn phong bì đi gặp An Dương Vương. Đề nghị anh cho thằng nhỏ Trọng Thuỷ nhà tôi được vinh dự nâng khăn móc túi cho con Mị Châu nhà anh. Cuộc gặp gỡ thương thuyết đạt thắng lợi to lớn. Mị Châu được tấm chồng ngoại kiều. An Dương Vương được thằng rể để sai vặt. Trọng Thuỷ vừa được cơm no bò cưỡi, vừa được xuất ngoại. Triệu Đà vừa đỡ một miệng ăn vừa gài được thằng con trong lòng địch. Trọng Thuỷ lên xe ngựa về nhà vợ. Men tình ngào ngạt, lai láng gối chăn. Trọng Thuỷ tỉ tê thăm dò Mị Châu. Mị Châu đê mê. Có gì đem hết ra khoe. Khoe luôn cả bí mật của nỏ thần. Trọng Thuỷ tìm cách đánh tráo, ăn trộm được lẫy nỏ. Rồi kiếm cớ trở về quê hương thân thương, thăm gia đình và tham quan. Muốn biết kết cục của Một đôi kẻ Việt người Tần Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương (Tản Đà) ra sao, xin đọc hồi sau sẽ rõ... Trọng Thuỷ về tới nhà bèn ghé tai cha thì thầm báo cáo... như thế, như thế. Triệu Đà cất tiếng cười sang sảng. Lũ chim non ngoài vườn hoảng sợ, vụt bay cao. Ngay hôm sau Triệu Đà chuẩn bị cất quân đánh An Dương Vương. Trời đất lại một phen nổi cơn gió bụi ! An Dương Vương ung dung xách nỏ thần, leo lên thành, vừa hát vừa bắn. Bắn hết cả tên mà quân địch vẫn tiếp tục vừa đùa vừa tiến. Than ôi thời oanh liệt nay còn đâu (Thế Lữ) ! An Dương Vương quăng nỏ, kéo Mị Châu lên ngựa chạy trốn. Mị Châu y theo lời dặn của Trọng Thuỷ, rắc lông ngỗng làm dấu, để chồng biết đường đi tìm mình. Cha con Triệu Đà được chỉ đạo, hướng dẫn, vừa cười tủm vừa đuổi theo. Cùng đường, quay lại thì thấy con gái đang nối giáo cho giặc, An Dương Vương nổi giận, rít lên một tiếng như ngựa hí, rút gươm chém Mị Châu, rồi tự vẫn. Trọng Thuỷ thương vợ cũng tự tử chết theo. Chỉ còn Triệu Đà, người (gian) hùng cô đơn. (Đời sau sao chép, nhầm lẫn " gửi rể kế" của Triệu Đà thành " đào mỏ kế "). Ngày nay, nước nào cũng mở trường đào tạo ăn cắp, ăn trộm... tài liệu, tin tức. Học viên tốt nghiệp cấp thấp là chú công an, bác lính kín, cấp cao là tay tình báo, tên gián điệp. Chỉ nghe phẩm hàm của các vị tân khoa thôi mà đã rùng mình, nổi da gà. Người ta đồn rằng cái nghề quốc tế này đã cống hiến nhiều anh hùng vô danh cho lịch sử thế giới. Anh hùng nào háo danh, được thiên hạ biết mặt biết tên trong lúc hành nghề thì chỉ còn nước xin nghỉ phép, sắm vàng hương đi chầu ông bà ông vải là vừa. Hành nghề song song với bọn ăn cắp, ăn trộm theo bài bản nhà trường, là bọn ăn cướp ồn ào, nhốn nháo. Dọc ngang chả thèm biết trên đầu có ai. Cướp có nhiều loại, nhiều thứ bậc. Cướp biển, cướp cạn, cướp vặt, cướp chính quyền, cướp hợp pháp và cướp phạm pháp v.v.. Riêng cướp biển, xưa kia nước Pháp phân biệt hai loại. Bọn thứ nhất là đám " pirates ", cướp biển tư nhân. Đứa thì chột mắt đứa thì sứt răng. Phất phơ lá cờ sọ người, lênh đênh kiếm ăn độ nhật. Cướp của giết người không gớm tay...như xi nê ma. Bọn thứ nhì là lũ " corsaires ", cướp biển quốc doanh. Bọn này tương đối lành lặn hơn, giết người... âm thầm hơn. Nhiệm vụ của các công nhân viên nhà nước này là đi lùng và cướp các thuyền buôn, mang chiến lợi phẩm về hiến dâng cho thủ trưởng và các quan. Cướp biển quốc doanh, có biên chế, được vua chúa đặt ra từ thế kỉ 15, đến sau cách mạng 1789 vẫn tiếp tục tồn tại thêm một thời gian dài. Đại ca Surcouf (1773-1827) danh bất hư truyền, chiến công chói lọi sử vàng, được dựng tượng bên bờ biển Saint Malo, chỉ cách mộ văn hào Chateaubriand vài con sóng vỗ. Ngoài hai hạng ăn cướp cho mình, ăn cướp cho chính quyền, còn có nhiều vị hành nghề... từ thiện, vô vị lợi. Rơi vãi chút đỉnh thôi. Tiêu biểu là hiệp sĩ Robin des Bois với lời hịch " Lấy của người giàu chia cho người nghèo ". Anh hùng hảo hán bốn phương hưởng ứng, tụ về núi rừng cùng nhau mưu đại sự. Tiếc rằng đời sau, con cháu các vị dần dần hủ hóa, biến chất. Học hành chưa xong, bằng giả đút túi, rủ nhau lập băng đảng, hạ sơn kiếm chác. " Lấy của người giàu ", kể cả người giàu làm ăn lương thiện, hợp pháp. " Chia cho người nghèo ", chia cho cả bọn làm thuê gánh mướn, chuyên..." gánh tiền đi rửa sông Ngô ". Đám nghèo rớt mồng tơi, cần tiền để nộp cho...trường công, nhà thương thí...há hốc mồm đứng xem chia chác. Hậu sinh khả uý ! " Cướp lung tung, chia bừa bãi ". Chả khác gì đám giặc cỏ. Các cụ ơi, con cháu đang bêu riếu các cụ như thế đấy. Lỗi các cụ đã đẻ ra chúng nó. Các cụ có linh thiêng thì bóp cổ chúng nó cho làng xóm được nhờ. Cướp biển, cướp cạn, cướp ngày, cướp đêm, ngày nay vẫn còn. Lúc ẩn lúc hiện. Triều đình, chính quyền quyết tâm tuyển người đi đánh dẹp. Quan chức được tuyển mộ, khoác quần áo mới, trang bị máy móc tối tân. Các quan tung hoành lập công. Cướp được của cướp nhiều của nổi của chìm. Lấy lại được nhiều tiền...Tiền hô hậu ủng ! Tiền đồ nhá nhem ! Dẹp cướp thật là phức tạp, khó khăn. Mất mạng như chơi. Trên trướng gấm có hay chăng nhẽ ? (Chinh phụ ngâm). Giết người đi thì ta ở với ai ? (Phạm Duy). Hết cướp thì lính dẹp cướp cũng hết đất sống. Chi bằng lập tổ đổi công, dựa vào nhau mà sống. Cung cầu của kinh tế thị trường là như vậy, phải không ? Ông tổ của nghề ăn trộm bên Tàu là chú Chích đời Xuân Thu. Chú xuất sắc lắm, được người đời tấn phong là giáo chủ của " đạo chích ". Đạo (ăn trộm) dễ tu, tín đồ hành đạo khắp năm châu, bất kể ngày đêm. Giang hồ kiếm khách trước khi được kết nạp vào đạo, phải cam kết tôn trọng lời thề " thà đói chứ không ăn bẩn ". Thế mà vẫn còn nhan nhản những thằng đốn mạt " ăn cướp cơm chim ". Loanh quanh phường xóm. Sau nghề đặc biệt của các ông là nghề cũng không kém đặc biệt của các chị em. Nghề " bán trôn nuôi miệng ", màu mè gọi là nghề mại dâm. Theo truyền thuyết thì mại dâm là nghề xưa nhất của loài người. Số đông các ông tán thành, ủng hộ nghề này. Nhưng trước mặt vợ, trước đám đông, ông nào cũng lải nhải chửi bới, lên án nó. Cứ như là tự mình xỉ vả chính mình vậy. Phải chờ đến tận cuối thế kỉ 20 cái nghề làm ăn trong bóng tối này mới được một số nước công nhận. Chị em được chính thức hành nghề giữa ánh sáng chói loà. Liên doanh, hợp tác, làm ăn to thì tủ kính đèn màu, hàng chưng lồ lộ. Em ngồi trong quầy, tủ Anh phố cũ lang thang Nhìn nhau thèm, chẳng nói... Làm ăn cá thể tuy thu nhập thất thường, nhưng được tự do hơn. Giỏi xoay xở thì cũng đủ tiền son phấn, ma tuý lai rai. Có bằng khen, danh hiệu như (cựu) Miss France thì phất như diều gặp gió. Khéo ăn khéo nói thì chờ thời vận, ra tranh ghế... đại biểu quốc hội Ý! Chị em làm ăn có khai báo, đóng thuế lợi tức hàng năm. Nhà nước che mặt, chấm mút mồ hôi của giai cấp lao động. Bù lại, nhà nước có bổn phận chăm sóc sức khoẻ cho mấy " con gà đẻ trứng vàng ". Bọn ma cô, bố già bố trẻ của xã hội đen, xã hội đỏ, chuyên sống lén lút bằng cách bóc lột chị em đến tận da tận thịt, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, bị truy nã không ngừng. Chị em ý thức được vai trò, vị trí xã hội của mình, thỏ thẻ hô hào đấu tranh. Bầu người lãnh đạo. Lập nghiệp đoàn. Họp báo. Biểu tình. Tranh luận công khai. Mỗi lần lên truyền hình, ai cũng phải công nhận điểm mạnh, điểm thu hút của chị em ăn sương là... ăn ảnh. Mặt hoa da phấn, trông dễ thương hơn các ông các bà làm chính trị một trời một vực. Chao ôi ! Sao mà quyến rũ thế! Thương mại bước vào thời kì toàn cầu hoá ! Hàng hoá Đông Âu đổ sang Tây Âu. Chị em được giải phóng, ồ ạt chạy sang miền đất hứa hành nghề. Nhiều khu trù mật, kinh tế mới mọc lên. Phố xá thay da đổi thịt, nhộn nhịp sầm uất. Con trai con gái choai choai nửa đêm thức giấc, ngứa ngáy. Các ông đổi mới, thích đi dạo nửa khuya. Các bà lo ngại, đi mách cảnh sát. Chính quyền bắt buộc phải can thiệp. Nhưng can thiệp bằng cách nào ? Hành nghề hợp pháp cơ mà. Cấm chỗ này, chợ người chuyển sang chỗ khác. Nước Pháp không có dầu lửa nhưng có nhiều ý hay ! Trị bịnh phải trị tận gốc ! Cứ nhè đầu các ông đi bắt bò lạc mà phạt. Không có lửa sao có khói ! Các ông bị một vố đau hơn hoạn nhưng vẫn chứng nào tật ấy. Từ xưa đến nay, nước ta luôn luôn nhân danh đạo lí, trừng trị thẳng tay, hay nói một cách dễ hiểu hơn là quyết tâm xoá bỏ cái nghề đồi phong bại tục này ! Khắp nơi rầm rộ... Khốn nỗi... Bộ binh, bộ hộ, bộ hình Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi (Ca dao) Đứng trước cái lả lơi dịu mềm kia chả ai cứng rắn mãi được. Rốt cuộc, những ông được giao trách nhiệm ông nào cũng mệt phờ râu, chả còn đầu óc đâu để xoá với bỏ cái nghề đồi bại kia. Từ ngày con người có mặt trên trái đất, tại miền Đông Á, các thế hệ đàn anh đàn chị không ngừng đúc kết kinh nghiệm truyền lại cho đàn em. Này, con thuộc lấy làm lòng Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề... (Kiều). " Bảy chữ, tám nghề " là một bộ kinh, có thể đã được soạn trước cả Ngũ kinh của Nho giáo. Một pho sách dạy nghề, hướng nghiệp, được biên tập công phu như những bài mẫu luận văn tốt nghiệp đại học. " Bảy chữ, tám nghề " là của quý, đáng được nhét vào chỗ kín trong mọi tủ sách gia đình. " Bảy chữ " là bảy mẹo quyến rũ khách làng chơi, gồm có : khấp (khóc), tiễn (cắt tóc), thích (xâm tên), thiêu (đốt hương thề), giá (hẹn hò), tẩu (đi trốn), tử (doạ chết). " Tám nghề " là tám cách gãi đúng chỗ ngứa của khách hàng, gồm có : Kích cổ thôi hoa (dùng cho khách nhỏ con), kim liên song toả (khách to béo), đại xiển kì cổ (khách nóng tính), mạn đả khinh khao (khách chậm chạp), khẩn thuyên tam trật (khách mới vỡ lòng), tả trì hữu trì (khách thạo đời), toả tâm truy hồn (khách si tình), nhiếp thần nhiệm toả (khách lạnh lùng). (Nguyễn Tử Năng, Điển hay tích lạ, Khai Trí, 1974, tr. 43-44). Không phải là nhà nho thì khó mà thuộc lòng được bộ cẩm nang. Cô Kiều của cụ Nguyễn Du được Tú Bà cho thực tập " bảy chữ, tám nghề ". Các cô Kiều thời nay năng động hơn, sáng tạo thêm nghề đặc sản thứ chín là " phu thê hợp đồng ". Không giống nhưng cũng không khác hẳn tám nghề kia. Dở dở ương ương. Đối tượng của " phu thê hợp đồng " là khách bơ vơ, lưu lạc góc bể chân trời. Thả mồi đã lâu mà chả có cá vàng, cá kiểng nào cắn câu. Khách phải nhờ mấy ông mấy bà chuyên dẫn khách đi chơi tìm cho một bến để thuyền ghé nghỉ. Bên kia trái đất, các cô Kiều tương lai được người môi giới bật đèn xanh, ngồi chờ khách dưới chân cầu mười hai bến nước. Một sáng đẹp trời, vừng hồng vừa ló, khách nghênh ngang đi chọn mặt gửi vàng. Đôi bên liếc mắt đưa tình. Sấm sét ái tình nhằng nhịt, ngoằn ngoèo, rạch nát bầu trời. Thuận mua vừa bán rồi, đôi ta kí hợp đồng nghe anh. Anh lo cho em thẻ xanh, giấy xanh. Em lo cho anh bếp hồng, ngựa hồng. Ngày nào đủ lông đủ cánh em sẽ giã từ anh. Kín đáo, thẹn thùng không nói ra thì cứ tạm ngậm bồ hòn, chờ ngày mai tươi sáng hơn. Chờ cái ngày tình cờ móc được khách khác rủng rỉnh, cao ráo hơn. Ngày đó nói cho anh biết cũng chưa muộn. Tương lai bấp bênh. Cười gượng còn hơn mếu, phải không anh ? Mong anh thông cảm ! Mọi chuyện cuối cùng rồi cũng đâu vào đấy. Bái biệt mẹ cha. Xin mẹ cha cầm đỡ chút của làm tin. Từ nay nghìn trùng xa cách. Nhưng mấy ai học được chữ ngờ... Thời đại vệ tinh, di động, chuyện gì cũng có thể xảy ra được. Kể cả chuyện cọc đi tìm trâu, hoa đi tìm bướm. Mình chờ dịp đi Tây, đi Mĩ, đi Úc...Đi đâu cũng được. Mình sẽ mải vui sơ ý...quên mất ngày về. Mình sẽ...như đã dự tính trước khi lên máy bay. Mình sẽ... Thân gái dặm trường, lặn lội gió mưa. Thả một chùm giây câu nơi đất khách quê người, may ra có con cá nào đớp chăng ? Con săn sắt cũng xong, con thia thia cũng tốt. Bắt tạm cho yên bề hộ khẩu. Mai mốt cố chài con sộp, con voi...Đời còn dài, mới ngoài hai mươi... " Phu thê hợp đồng " có thể dùng cho nhiều loại khách. Khách biên đình sang chơi, hay khách sang chơi biên đình vớ được. Không phân biệt...Khỏi cần, khỏi cần, thế nào cũng được. Đũa lệch, nĩa vênh, ấm sứt vòi, đĩa hỏng men...Thượng vàng hạ cám. Hàng gì chợ trời cũng có. Nhằm dịp khuyến mại, tha hồ lục, chọn, thử. " Gìn vàng giữ ngọc " chẳng lẽ lại đến nước này sao, hỡi các cô Kiều ? (Kiều : tên gọi các cô quyết kiếm chồng...Việt kiều hay ngoại kiều, bằng bất cứ giá nào). Nguyễn Dư (Lyon, 3/2005)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 3:51:14 GMT 9
Các công trình văn học quốc ngữ miền Nam Huỳnh Ái Tông Trước hết là Báo Chí, khởi đầu là tờ Gia Ðịnh Báo ra ngày 15-4-1865, kế đó là Phan Yên Báo ra năm 1868, Nông Cổ Mín Ðàm 1901... Sau đó đến thời kỳ thơ như Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu do Trương Vĩnh Ký phiên âm ra quốc ngữ năm 1880, sau đó là dịch truyện Tàu vào khoảng năm 1904, còn quyển tiểu thuyết được viết đầu tiên in năm 1887, là quyển Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, rồi quyển Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Trần Chánh Chiếu ra đời năm 1910, nó mới nhen nhúm gây thành phong trào viết tiểu thuyết sau nầy. Các giai đoạn ấy đã tạo thành trào lưu văn học quốc ngữ, nó có sắc thái và truyền thống đặc biệt mang cá tính của người miền Nam. Chúng ta đi sâu vào chi tiết ở phần sau, tưởng cũng cần nhắc lại chữ quốc ngữ ở miền Bắc được chính thức sử dụng từ năm 1913, sau khi miền Nam đã chính thức sử dụng chữ quốc ngữ trên 20 năm và đã gần nửa thế kỷ truyền bá chữ quốc ngữ. A. Gia Ðịnh Báo Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lý (1). Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Ký được cử làm Chánh Tổng Tài. Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đình bản vào năm 1909 (2) Tờ báo nầy trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 thì cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số. Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ. - Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Ðồng Quản Hạt (3)... - Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Ðồng xét lại ... Ðơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Ðịnh Báo (4) : "...Kể từ ngày hôm nay, việc biên-tập tờ báo An-nam Gia Ðịnh Báo được giao cho ông Pétrus Trương-Vĩnh-Ký với tư cách Chánh-tổng-tài tờ báo nầy, ông sẽ lãnh một bổng-cấp hàng năm 3.000 phật-lăng (5). Tờ báo tiếp-tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công-vụ gồm các văn-thư, quyết-định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội-trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ An-nam; phần tạp-vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử-học, luân-lý, thời-sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An-nam chú ý." Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau : Trường Hậu-bổ Sàigòn Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền. Trường Khải Tường Trương Minh Ký, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nhì, đồng niên ăn 1.400 quan tiền. Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870: Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc.Người bên Tàu thường kêu mình là Ðường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Ðường nhà Thanh.An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi. Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy. Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ... Còn tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Ðịnh Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870: ... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc-môn. Tối 12 tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi... Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Ký muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Ðịnh Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đã có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870 Lời cùng các thầy thông-ngôn, ký-lục, giáo tập vân vân đặng hay: Nay việc làm Gia Ðịnh Báo tại Sàigòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như: Ăn cướp, ăn trộm. Bệnh-hoạn, tai-nạn. Sự rủi-ro, hùm tha, sấu bắt. Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào. Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt-trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gửi về cho Gia Ðịnh Báo Chánh tổng-tài ở Chợ-quán. Trong tờ báo, như đã nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rõ xuất xứ. Trương Vĩnh Ký giải thích phần nầy: Những kẻ coi nhựt-trình phải có ý cũng hiểu điều nầy là: Thường những chuyện Tạp-vụ các nơi trong đất Nam-kỳ gửi về cho kẻ coi Gia-Ðịnh Báo, thì có kẻ coi lại, có trắc thì sửa lại cho xuôi cho dễ nghe vì các thầy gửi cho nhựt-trình thì cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy ký lấy vì là của các thầy ấy viết và gửi. Còn như phần công-vụ, các bài nghị-luận quan lớn Nguyên-Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt-trình làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham-biện hay là trả lời cho kẻ quì đơn, việc nọ việc kia thì của Hội-đồng quan Thống-soái Nam-kỳ luật-vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia-Ðịnh Báo, có tên người đứng ký vô đó, thì hể gửi thế nào thì in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều gì không được cho rõ mấy thì xin kẻ coi nhựt-trình chớ trách-cứ kẻ coi việc ấy ... Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883: Nồi Ðất Với Nồi Ðồng Nồi đồng tính việc đi đàng, Rủ ren nồi đất cùng trang đang thì. Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi, Ở an xó bếp, không ly góc lò. Vì e sẩy bước rủi ro, Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy. Rằng da đấy cứng hơn đây, Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan. Ðáp rằng: rủi gặp dọc đàng, "" Vật chi cứng cát cảng ngang không vì. Ðể ta qua bửa lo chi, Bên thì vật ấy bên thì nhà ngươi. Tai nghe nói ngọt tin lời, Chìu lòng bạn hữu bèn dời chân đi. Bước khua lộp cộp dị kỳ ! Xa nhau e sợ, gần thì đụng nhau. Hai nồi đi chẳng đặng mau, Chưa đầy trăm bước đụng nhau rã rời. Hởi ôi Nồi đất rồi đời, Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than. Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang, Ở đời giao kết kẻ ngang vai mình. Diễn quốc âm Trương Minh Ký B. Phan Yên Báo Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Ðịnh Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, vì có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không còn, cũng không rõ nó là nguyệt san hay tuần san. Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Ðịnh và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm. Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, còn Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, vì nó là tờ báo chữ Hán. C. Nhựt Trình Nam Kỳ Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883 D. Thông Loại Khóa Trình Nó giống như Gia Ðịnh Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Trình ở trên, bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang. Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Ký viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Ký làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc lòng, sau đó mới có bài của những người khác. Về nội dung gồm có : Dạy chữ Nhu (chữ Hán) Dạy chữ Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa) Giảng nghĩa về luân lý Khảo cứu về thi ca, phong tục. Nhơn vật (danh nhân) Sau đây là các bài trích dẫn: a ) Câu Chữ Nhu(8) ( x x x x x x x x x x x x x x ) (9) Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn (x x x x x x x x x x x x x) Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân Nghĩa đen: Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Ðể lại lấy năm phần cho con cháu; Mười phần rành rành đều mình dùng hết, Ðời sau con cháu chẳng như người ta. Nghĩa là: Như mình có đặng giàu sang rõ-ràng cả mười phần thì hãy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: vì nếu như mình được mười phần mình hưởng hết đi cả mười, thì đời sau con cháu mình còn gì mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta. Trương-Minh-Ký diễn ra ca Nôm rằng: Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Ðể lại năm phần trẻ gái trai, Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Ðời sau con cháu dám bì ai. b ) Một hai câu tiếng Phangsa(10) ( Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông Bonjour (Madame,( ----""------ madăm) = chào bà (Mademoiselle,(--""--madơmoaxel) = chào cô Comment cela va-t-il? (Còmăng xa va ti) = mạnh-khỏe thế nào ? Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe. Où allez-vous ? (u alê vú) = anh đi đâu ? Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo c) Tam Cang Là Những Cang Nào ?(11) là (x) (x) quân thần = vua tôi (=vua với tôi) "" (x) (x) phụ tử = cha con (= cha với con) "" (x) (x) phu phụ = vợ chồng (= vợ với chồng) (x) (x) (x) (x) quân vi thần cang (vua là giềng tôi) (x) (x) (x) (x) phụ vi tử cang (cha là giềng con) (x) (x) (x) (x) phu vi thê cang (chồng là giềng vợ) Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có tình, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận hòa với nhau. Ấy là ba giềng cả. Giềng là mối dây bìa giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới. Về Tam Cang(12) Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị, gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước. Vì vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận thì bằng-an. Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngãi nữa. Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền. d) Hát Nhà Trò(13) Hát nhà trò là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ-An, Hà-Tỉnh chí sông Gianh. Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều. Ngoài Bắc hể khi có đám-tiệc, hội-hữu, hôn-tế, kì-yên, chạp-miễu, thì thường có hát nhà trò. Tùy theo ý chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ý mình. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên. Thường đào là con-gái có xuân-sắc, chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm-nga, múa hát,bắt-bộ v.v. tục kêu là cô-đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân-nga hay và êm tai lắm. Hát thì hát những là Ca-trù, hoặc giậm Túy-kiều, câu hát rời, Tần cung-oán, Chinh-phụ-ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào quình tương (14) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan- thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp tình ưa ý khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng. Cung giọng nhà-trò thường là những cung giọng nầy Mẫu dựng Thiệt nhạc Ngâm vọng Tì bà Tắc phản Hát hói Gửi thư Huình Hãm Cung bắc Cửa quyền Non mai Nường hạnh Chữ khi Thơ Thỏng e) Ca kiêng giống độc(15) Rượu để bình đồng ấm thiết lâu, Gan bò một lá, với gan trân. Giải (ba-ba) ba chơn, cá lân không vảy, Dê một sừng, tôm chẳng có râu. Chó bốn đề, lương vàng cất cổ, Gà năm sắc, ngựa trắng đen đầu. Cua sinh một mắt, lệch sao điểm. Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu. g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (16) Nhứt quân tử, ăn mứt gừng, uống nước chè tàu, ngồi chiếu bông, nằm nhà trong, đánh cờ tiên. Nhì quân tử, ăn thịt trâu, uống nước chè huế, ngồi chiếu kế, nằm nhà giữa, đánh cờ tướng Tam quân tử, ăn cơm nguội, uống nước lạnh, ngồi chiếu manh, nằm nhà ngoài, đánh cờ chó. h) Lý-Thường-Kiệt (x) (x) (x) (17) Lý-thường-Kiệt người tỉnh Hà-Nội, huyện Vĩnh-Thuận làm quan tướng nhà Lý. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương-an-Thạch mà khinh dị Annam, vua Lý-nhơn-Tông mới sai Lý-thường-Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâm, châu Liêm giết Thương-thủ-Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta. Sau Tống sai binh tướng qua đánh Annam, khi đóng binh tại bờ sông Như-nguyệt, thì Lý-thường-Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách-quì với Triệu-tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngã lòng, thì dụng mưu mà làm cho vững lòng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn-thờ miễu ông Tương-tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây. Nam quốc sơn-hà nam đế cư, Tiệt nhiên phân-định tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lý-thường-Kiệt là người nhiều mưu-lược, có tài tướng-soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm-thành, huân-nghiệp công-trận lớn lắm. Ðược tặng là Việt quốc công. Ðời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch-đại đế vương. Tóm lại, Thông Loại Khóa Trình được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có hình ảnh trang trí.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 3:52:36 GMT 9
E. Nông Cổ Mín Ðàm Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Ðồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, còn có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Ðỗ Thanh Phong. Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo. Sau đây là một số bài trích dẫn: Bão lụt phía Tây-Nam(18) Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam (19) dân Tây-Nam bình tịnh, đến đêm 26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên, cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình-hài làm mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi Ðã biết rằng: Trời còn có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong điều võ-thuận. Xãy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên-tri cũng khó thở-than, vì dân-vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời khiến tai-nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam-phân đảnh túc; bởi Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ, nên người đành tận-tụy cúc-cung. Vì một người, chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên phân trái-phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy. Thương ôi ! Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ. Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt-trình xem chơi. Chủ bút Ðọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, còn chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam. Trường Tabert(20) Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh-nhật, thì trường học Taberd phát phần thưởng học trò rồi đặng bãi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học trò đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục lòng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Ðến lúc làm điều vui, cũng còn kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn-nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ý khuyên người làm phải, dạy trẻ lòng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, lòng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách. Lời Rao Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn-Hữu-Phước làm tri huyện tại hạt Gò Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rõ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy-dỗ , cứ theo hoang-đàng phóng-tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến. Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ. Tri huyện Nguyễn-Hữu-Phước Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn còn dùng : Rồi trái oan Một phu-nhân ở đường d" Espagne (21) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch còn cái giây oan trái buộc ràng. Bởi vì không rõ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rõ vì sao mà tự tận, có phải vì tình trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp. Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây : Lê-văn-Búp ở Thủ-Dầu-Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên thì thấy anh Lê-văn-Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng. Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Ðàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, ký kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh. Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt : Chuyện mộ Tào Tháo Phía ngoài thành Hứa-Ðô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên thì bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên-hạ thất-kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi thì thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Ðức. Quan phủ bèn dạy phá hòm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. Còn những ngọc ngà châu báu liệm trong hòm, thì lấy hết mà bỏ vào kho. Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mã nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại còn một cái nầy nữa. Ấy vậy thì gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng còn gian trá. Song đã ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn còn chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, thì gian trá cho lắm lại có ích gì. Rút trong LIÊU TRAI CHÍ DỊ dịch ra Tân Châu, NGUYỄN CHÁNH SẮT Và sau đây là phần Nhàn Ðàm đăng vào năm 1908 (không rõ số mấy) CON VOI VỚI CON TRÂU (tranh công) Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xãy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, thì con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, thì con trâu trả lời rằng: Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong lòng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài. Con voi nói lại rằng: Nè còn công cán tao cao dày lắm, nhơn vì trước tao giúp cho vua Thuấn đã cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết. Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe mình nên người ta gọi là ông tượng, và hình thù thì lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một mình ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông-tượng là vậy đó. Nguyễn Quang Trường Tự Cửu Viễn Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có đăng những quảng cáo như sau : NHÀ ÐÓNG SÁCH J. VIẾT-LỘC & CIE ở đường d"Ormay số 61, Sàigòn LÊ-VĂN-NGÀN, kế vị Kính cùng chư quý vị đặng rõ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty. Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng tình anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương mãi. Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quý vị ai còn thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi thì xìn từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê-văn-Ngàn. Còn nhà J. Viết-Lộc & Cie có thiếu của ai thì hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà tính. Bằng quá hạn nầy rồi thì chúng tôi chẳng biết tới nữa. Saigon, le 16 Juin 1908 Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàigòn. Ðây là một mẫu quảng cáo hàng: Tiệm Bán Hàng Hoá Ông Courtinat và Công-Ty ở đường Catinat, Saigon Số 96-98-100-102-104-106-108 Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu; Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng; Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ; Ghế Thonet mặt cây tốt lắm; Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ; Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lý; Máy nói hiệu Pathé; Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ; Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng; Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi. Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ. Tóm lại Nông Cổ Mín Ðàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Ðàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng còn ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đã đình bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo nầy. Tờ Nông Cổ Mín Ðàm ra mắt, mặc dù sau Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình, nhưng hiện tình báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Ðàm mà thôi, mãi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn. Dù sao thì tờ Nông Cổ Mín Ðàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay. Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ý sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét nầy cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay. Tờ Nông Cổ Mín Ðàm không những phổ biến tư tưởng Ðông phương, mà còn phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Ký đã làm từ trước. F.- Nhật Báo Tỉnh Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912. G.- Lục Tỉnh Tân Văn Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc. Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút. Bước sang thập niên 20 còn có những tờ báo như : H.- Nữ Giới Chung Do Lê Ðức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Ðình Chiểu làm Chủ Bút. I.- Công Luận Báo Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra 1 cột gọi là Văn Uyển. II.- Trung Lập Báo Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Ðồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết "" Châu Về Hiệp Phố "" của nhà văn Phú Ðức, tiểu thuyết nầy sau vẫn còn đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Ðình, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, tuần báo Bình Dân của chính tác giả Phú Ðức Báo chí đã đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, vì lúc ấy báo chí đã thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đã được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam. Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (22), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Ðại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán . Năm 1907, tờ Ðại Nam Ðồng Văn Nhật Báo có thêm Ðăng Cổ Tùng Báosố ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút. Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là vì theo Ðạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương trình học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư ký, Ðịa dư,Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (23). Tiến trình báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt trình thời bấy giờ, đọc Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam. ( 1 ) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Ðốc Nha Y Tế Học Ðường thuộc Bộ Giáo Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm 1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN). ( 2 ) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Tòng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Ðông Phương (L"École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày 15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42, phát hành ngày 25-10-1909 ( 3 ) Hội Ðồng Tỉnh. ( 4 ) Phan Long Ðiền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974 ( 5 ) Franc: Ðơn vị tiền tệ Pháp. ( 6 ) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia Ðịnh, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn quyền Paul-Bert chú ý, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách việc dạy học cho vua Ðồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa, con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong Nam vào thập niên 30. Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau : Recueil de morale annamite (1917) Syllabaire quốc ngữ (1919) Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ ( 7 ) Ðã trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Ký. ( 8 ) Số 10, trang 5 và 6. ( 9 ) Chữ x trong ngoặc là thay cho chữ Hán ( 10 ) Số 2, trang 11 ( 11 ) Số 1, trang 4 ( 12 ) Số 2, trang 3 ( 13 ) Số 4, trang 13 ( 14 ) Quình tương là tích chén nước Vân-anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải trong Túy-Kiều) - Tài liệu chú - ( 15 ) Số 1, trang 9 ( 16 ) Số 3, trang 4 ( 17 ) Số 3, trang 3 ( 18 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 166 ngày 17-11-1904 ( 19) Hai trận bão nầy xãy ra vào năm Thìn, nên người ta hay nói "" Năm Thìn Bão Lụt"", trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận bão nầy : Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc, Gió nào độc cho bằng ngọn gió Gò Công. Thổi ngọn Ðông phong lạc vợ xa chồng, Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi. ( 20 ) Nông Cổ Mín Ðàm số 173 ngày 5-1-1905 ( 21 ) Ðường Lê Thánh Tôn Sàigòn. (22) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Ðại Pháp mới lập sở Ðại Nam Nhật Báo. (23) Ðề thi Hội cuối cùng năm 1919: Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tình thế khác nhau, nên sửa sang những điều gì trước ? Luận. Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn Lâm dịch các sách vở. Luận Nước ta việc hình luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế nào ? Luận Khoa thi nầy, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:07:31 GMT 9
Mồ mả Francis Garnier Nguyễn Dư Francis Garnier là người chỉ huy đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, ngày 20/11/1873. Một tháng sau thì xảy ra "sự cố" : Tháng chạp năm Quý Dậu, Sáng ngày mồng tám ta. Ngạc Nhi thằng tướng giặc Thừa thắng phía Tây ra. Giong ngựa qua Cầu-giấy Tiếng súng nổ khói loà... (Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ 19, Văn Học, 1970, tr. 403) Ngày 21/12/1873, được tin báo thành Hà Nội đang bị quân Cờ Đen bao vây. Garnier và Balny dẫn một đoàn quân gồm 28 lính Pháp và thêm một số lính Việt, đi bộ ra giải vây. Garnier dẫn 9 người lính chạy băng qua một cánh đồng. Lúc leo lên một con đê gần Cầu Giấy thì Garnier bị vấp ngã. Quân Cờ Đen nấp gần đấy liền xúm lại đâm chết, chặt đầu, moi tim Garnier. Garnier bị giết. Xác Garnier được chôn ở đâu ? Hỏi gì mà vớ vẩn thế. Các cụ vẫn nói " chết là hết chuyện " cơ mà. Xin lỗi các cụ. Garnier chết, chuyện mới bắt đầu... " Gác Nhe (Garnier) hầm hè đánh ra ngoại thành thì bị ta chém chết ngay ở làng Giảng Võ. Nay mả nó vẫn còn đó ". (Hoàng Đạo Thuý, Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, tr. 68). Du khách tò mò đến thăm viếng vùng Giảng Võ, Cầu Giấy. Hỏi thăm bên phải, bên trái. Chả ai thấy mả nó nằm đâu. Ối dào, lại cái thói chửi đổng cho hả giận đấy mà! " Chỗ (Cầu Giấy) đó sau này Tây thực dân dựng bia kỷ niệm Gác-ni-ê mà nhân dân quanh vùng vẫn gọi là mả Ba Hoanh ". (Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Văn Lê, Hà Nội, con đường, dòng sông và lịch sử, Giao Thông Vận Tải, 1984, tr. 76). Hoàng Đạo Thuý nhìn cái bia tưởng là cái mả chăng? Garnier còn nhiều lận đận, chưa được nằm yên như Hoàng Đạo Thuý nghĩ đâu. " Chiếc xác mất đầu của Francis Garnier được trung sĩ Champion mang về thành cùng với xác của hai lính thuỷ cùng bị giết. (...) Sau buổi lễ cầu hồn do đức cha Puginier thực hiện vào lúc 8 giờ sáng ngày 23/12 (năm 1873) trước sự có mặt của các cha Sohier và Colomer, các thi thể được đóng trong các áo quan bằng gỗ rất dày và được chôn gần Hoàng cung ở chân hai gốc đa lớn ". ( André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Bản dịch của Lưu Đình Tuân, Hải Phòng, 2003, tr. 58). Theo thoả thuận được kí kết, mấy cái xác chỉ được chôn tạm gần Hoàng cung. Bao giờ tìm được đất khác thì phải rời đi. 1- Hình vẽ trong sách của Albert de Pouvourville (Mộ F.G. tại Sài Gòn, 1931) Ngày 31/8/1875, triều đình nhà Nguyễn kí thoả ước nhường đất (nhượng địa) cho Pháp. Khu Nhượng địa nằm phía bờ đê sông Hồng, quanh nhà thương Đồn Thuỷ (Bệnh Viện Hữu Nghị ngày nay). Có đất, Pháp xây nghĩa địa. Garnier được cải táng. 7 giờ 30 sáng ngày 3/11/1875 bác sĩ Jardon cho khai quật tử thi Garnier để khám nghiệm, viết báo cáo pháp y. Công việc kéo dài đến 4 giờ chiều mới xong. Đám tang được cử hành đưa về một nhà thờ nhỏ của Hà Nội. 7 giờ sáng hôm sau (4/11/1875) đức cha Puginier làm lễ cầu hồn. Sau đó, đám tang được đưa về nghĩa địa mới trong khu Nhượng địa (sđd, tr. 59). Masson không kể tiếp " hậu vận " của Garnier. Nằm trong khu Nhượng địa nhưng Garnier vẫn chưa được mồ yên mả đẹp. Gia đình Garnier đòi chôn Garnier trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. Lại cải táng. Ngày 16/12/1875, chiếc áo quan đựng hài cốt Garnier cập bến Sài Gòn. Garnier được đem về chôn tại nghĩa địa Tây (cimetière européen) (địa điểm công viên Lê Văn Tám ngày nay). (Albert de Pouvourville, Francis Garnier, Plon, 1931, tr. 234). Ngôi mộ của Garnier tại Sài Gòn (Tombeau de Francis Garnier à Saigon) được vẽ lại trong sách của de Pouvourville (tr. 192-193). Nhưng tiếc rằng mộ vẽ lại không phải là ngôi mộ được đại uý Charles Peyrin chụp ảnh, năm 1928. Mộ Garnier nằm cạnh mộ de Lagrée ! Lí do của sự gần gũi này như sau : Trước khi được phái ra Hà Nội năm 1873, Francis Garnier sống tại Sài Gòn và đã từng là phụ tá đắc lực của Doudart de Lagrée trong đoàn thám hiểm sông Cửu Long (từ 5/6/1866 đến 29/6/1868). De Lagrée hơn Garnier 16 tuổi. Hai người tin cậy lẫn nhau. Đặc biệt, Garnier rất mến phục vị trưởng đoàn. Sang đến Trung quốc thì de Lagrée bị bịnh gan, chết tại Vân Nam, ngày 12/3/1868. (De Pouvourville chép là ngày 26/3/1868) (sđd, tr. 120). Garnier quyết định mang thi hài của de Lagrée đi tiếp đến Thượng Hải, lấy tàu trở về chôn ông trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. (Francis Garnier, Voyage d'exploration en Indochine, Jean-Pierre Gomane giới thiệu và chú giải, La Découverte, 1985, tr. 224-226). 2- Toàn cảnh Mộ F.Garnier và D. de Lagrée, ảnh của Peyrin, 1928 Tình cảm sâu đậm của Garnier đối với de Lagrée được mọi người trân trọng. Năm 1875, hài cốt Garnier được mang từ Hà Nội vào Sài Gòn. Người Pháp chôn Garnier cạnh de Lagrée. Cho " thầy trò " gặp lại nhau. Tấm ảnh của Peyrin cũng cho thấy tác giả sách Francis Garnier đã chép sai ngày chết của de Lagrée. 3- Mộ F. G. và D. de Lagrée Tháng 7/1976 Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Vài năm sau, nghĩa địa Tây bị giải toả. Nước Pháp cho Bá Đa Lộc, Doudart de Lagrée, Francis Garnier... " hồi hương ". Lại cải táng. Hài cốt các ông đáp máy bay sang Singapour, rồi được chuyển lên tàu Jeanne d'Arc, đưa về Pháp. Tàu cập bến Brest ngày 26/4/1983. De Lagrée được an nghỉ tại quê nhà vùng Dauphiné. Garnier được táng tại đài kỉ niệm dựng tại ngã tư Saint Michel - Observatoire, quận 5, Paris. (J.P. Gomane, sđd, tr. 17). Francis Garnier (1839-1873) lập được thành tích... ba lần cải táng. Một kỉ lục ! Nguyễn Dư (Lyon, 3/2010)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 3:46:29 GMT 9
Đăng Khoa Lục Sưu GiảngCUỐN SỔ NHÂN VĂN-CUỐN SỔ TRĂM NĂM
Nguyễn An Tiêm biên soạn Những sự việc xảy ra trong tháng tư có ảnh hưởng xa gần, trực tiếp hay gián tiếp, tới sinh hoạt văn hóa nhân gian. Các sự việc dưới đây đã xảy ra trong một tháng 7 của quá khứ. Trang sổ này được ghi chép vào tuần lễ thứ hai của tháng 7, 2011, phổ biến trên trang Thời Sự Nhân Văn, Nhật báo Người Việt ra ngày Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011 -nhằm ngày 14 Tháng Sáu đủ, năm Tân Mão. 14 tháng 7, 1789 Hôm nay là ngày quan trọng nhất trong lịch sử nước Pháp, cũng là ngày kỷ niệm rầm rộ tại những nước thuộc Liên Hiệp Pháp, như Ðông Dương, trong có Việt Nam, cho đến 1954: đó là ngày phá ngục Bastille, hay Ngày Cách Mạng Pháp. Tại điện Verseilles, ngành phân quyền thứ ba của nước Pháp hội họp, tự tuyên bố là Quốc Hội nước Pháp, sẽ ở lại trong phòng họp cho đến khi nào một bản Hiến Pháp được soạn xong. Mirabeau trở thành một khuôn mặt quốc gia. Các tù nhân bị giam giữ tại ngục Bastilles trong thành phố Paris nổi dậy, và với đám đông biểu tình phía ngoài đánh vào, ngục bị phá vỡ. Năm 1789 diễn ra những biến cố chưa từng thấy cho nước Pháp: Lafayette trở thành tổng tư lệnh Vệ Binh Quốc Gia; hệ thống sứ quân bị hủy bỏ; công bố Tuyên Ngôn Quyền Con Người; nhà vua và triều đình bỏ Versailles, di chuyển lên Paris. Quốc hữu hóa các tài sản của Giáo hội. Pháp phát hành tiền giấy. Báo Journals des debats được thành lập tại Paris. Trà hoa cúc được đưa vào nước Anh. Thi sĩ Anh xuất bản “Songs of Innocence.” Triết gia, nhà văn Ðức Goethe xuất bản “Torquato Tasso.” Tại Việt Nam, mồng 5 Tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ tiến vào Hà Hồi, Ngọc Hồi, đại phá quân Thanh, đuổi Tầu ra khỏi đất nước. 4 tháng 7, 1826 Hai vị tổng thống Hoa Kỳ chết vào ngày kỷ niệm lần thứ 50 Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập: 1. Thomas Jefferson (sinh 1743) là vị tổng thống thứ 3 trong thời gian 1801-1809, là tác giả bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. 2. John Adams (sinh 1735) là vị tổng thống thứ hai vào thời 17971801. 31 tháng 7, 1886 Nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary Franz Liszt qua đời. 29 tháng 7, 1890 Ngày mất của họa sĩ trường phái ấn tượng Vincent Van Gogh, sinh năm 1853, mặc dù bây giờ tranh Van Gogh được bán với giá hàng triệu Mỹ kim, nhưng sinh thời ông chỉ bán được có mỗi một bức mà thôi. Các nghệ sĩ mẫn cảm, cảm thấy và có tầm nhìn (vision) xa hơn người đương thời, thường sống trong tăm tối (vì lúc ấy người đương thời phần lớn còn đang hâm mộ những thứ trung bình, thường thường bậc trung, dễ hiểu; đó cũng là những lý do ta thường nghe những bản nhạc “thời thượng” được hát đi hát lại bên tai, những bài thơ lẩm cẩm được ngâm nga rên rỉ trong khi những bản nhạc giá trị, những thi phẩm ý nghĩa chỉ sau này người đời mới biết đến. 13 tháng 7, 1923 Bảng hiệu “Hollywood” định mốc thành phố Los Angeles chính thức được dựng lên, tên gốc nó là “Hollywood Land.” 7 tháng 7, 1930 Sir Arthur Conan Doyle, người Anh, qua đời. Ông sinh năm 1859, là bác sĩ, nhà văn nổi tiếng đã khai sinh ra nhân vật bất hủ trong các truyện trinh thám được dựng thành phim rất ăn khách: Sherlock Holmes. 4 tháng 7, 1960 Lá cờ Hoa Kỳ được chính thức tung bay lần đầu tiên với hình ảnh mới có 50 ngôi sao biểu tượng 50 tiểu bang. 17 tháng 7, 1966 Một binh sĩ đốt thư tình, làm cháy 100 mẫu rừng thông tại Toulon, Pháp. Tháng 7, 1967 Ngày 3, tháng 7: Hai vợ chồng Mỹ, Michael Joyce mở một tiệm bán sản phẩm Việt Nam, đặc biệt là áo dài, tại Nữu Ước. Ngày 10, tháng 7: Khánh thành giang cảng New Port cạnh xa lộ Sài Gòn-Thủ Ðức, phí tổn 50 triệu Mỹ kim, có thể tiếp nhận nhiều tầu biển và 150,000 tấn hàng mỗi tháng. Ngày 15, tháng 7: Tại một hội đồng thi Tú Tài I ở Nha Trang, một hiệu trưởng Trung học, Giáo Sư Trần Vinh Anh, làm phó chủ tịch Hội Ðồng Giám Khảo, bị đâm chết do 6 học sinh phạm lỗi gian lận trong phòng thi. Lễ truy điệu được tổ chức tại trường Gia Long Sài Gòn. Hội Giáo Chức Luật Khoa, cùng 8 hội đồng thi Sài Gòn Gia Ðịnh ngưng chấm thi, yêu cầu trừng trị bọn tội phạm và ban hành sắc luật bảo vệ giáo chức. Ngày 21, tháng 7: Tòa Án Quân Sự Vùng II kết án xử tử thủ phạm, và khổ sai 3 tên tòng phạm. Ngày 24, tháng 7: Trao đổi văn kiện Việt-Pháp thu lại các trường Pháp: tiểu học được chuyển ngay sang chương trình Việt từ đầu niên khóa 1967-68. Cử các giám đốc Việt. Chương trình Pháp vẫn áp dụng cho thiếu niên Pháp và ngoại quốc. 22 tháng 7, 1967 Ðại hội người da đen nhóm họp tại New Jersey tuyên bố: người da đen có quyền nổi loạn; yêu cầu Liên Hiệp Quốc mở cuộc điều tra về vấn đề da đen tại Hoa Kỳ. Nhiều vụ bạo động xảy ra tại Harlem, Alabama, ngoại ô Nữu Ước... có đến 37 thành phố ở Hoa Kỳ bị náo loạn vì các cuộc xung đột giữa da đen và da trắng. (Lê Thảo Minh sao lục)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 6:50:06 GMT 9
Nghề đúc chuông bắt đầu có ở Việt Nam vào khoảng năm 1220 đời nhà Lý. Lúc ấy, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ông Khổng Lồ xuống giúp dân Việt. Ban đầu, ông Khổng Lồ vào chùa tu. Một hôm, ông tâu với vua nhà Lý rằng: -Xin bệ hạ cho phép bần tăng qua bên Tầu, lấy ngọc ngà châu báu. Vua nhà Lý bằng lòng. Ông Khổng Lồ bèn mang bị, mang gậy đi qua nước Tàu, đến đâu ăn xin đến đó. Ngày nọ đi tới kinh đô, ông nài nỉ vào bái yết vua Tàu. Vua Tàu hỏi: -Hòa Thượng vào đây có việc chi? Ông Khổng Lồ đáp: -Tâu bệ hạ, bần tăng xin phép được vào kho tàng để thỉnh chút ít đồng đen đem về đúc chuông thờ Phật. Bần tăng không lấy nhiều, chỉ xin đầy bị nhỏ này. Thấy cái bị của ông Khổng Lồ không lớn mấy, vua bằng lòng cho phép ông vào kho. Trước cửa kho, có tượng một con trâu to lớn đúc bằng vàng ròng. Quan Tàu giữ kho nói với ông Khổng Lồ, giọng mỉa mai: -Tôi cho Hòa thượng con trâu vàng này, nếu Hòa thượng vác nổi đem về An Nam. Biết rằng quan giữ kho khinh khi mình, ông Khổng Lồ đáp: -Bần đạo làm sao vác nổi nó. Là người tu hành, bần đạo chỉ muốn thỉnh chút ít đồng đen đem về đúc chuông. Vào tới kho đồng đen, ông Khổng Lồ hốt đồng bỏ vào bị. Bỏ vào rất nhiều mà không thấy đầy vì bị của ông có phép. Chừng đầy bị thì kho của vua Tàu đã lưng hơn phân nửa. Quan giữ kho hoảng sợ biết ông Khổng Lồ là kẻ dị thường, bèn cấp báo cho vua hay. Lập tức, vua Tàu sai quân sĩ tới vây. Vì số đồng đen mang nhiều quá, ông Khổng Lồ không thể nào hóa phép thành con chim để bay được. Ông phải chạy rất nặng nhọc, vất vả. Quân Tàu đuổi theo gần kịp, nhờ họ cưỡi ngựa. Nguy hiểm làm sao, ông Khổng Lồ chạy tới sông Hồng Hà. Lập tức, ông lấy cái nón thả xuống nước, đứng trên nón. Nón ấy hóa ra chiếc thuyền chở ông và bị đồng đen đến bên kia sông. Quân Tàu hoảng sợ, không dám đuổi theo. Thành Hà Nội thuở ấy gọi là Bắc Thành. Về tới đó, ông Khổng Lồ nhờ mấy người thợ rèn thụt ống bể lên để rèn một cái chuông thật lớn. Ông căn dặn: rèn thế nào cho chuông này giống hình cái bông sen nở, khi đánh vào thì kêu rền lên khắp nơi, khắp chốn ai cũng nghe. Vì họ là thợ rèn không chuyên môn đúc đồng nên cái chuông không được như ý muốn. Rốt cuộc ông Khổng Lồ dùng đất sét nắn kiểu khuôn trước, rồi đổ đồng vào sau. Nhờ vậy, cái chuông hoàn thành. Ông Khổng Lồ bèn sửa sang cuộc lễ tạ ơn Phật Trời. Đúng ngày ông đánh chuông. Mấy tiếng đầu vang rền ngân nga Đông, Tây, Nam, Bắc ai nấy đều hay biết … Đến đỗi con trâu bằng vàng đứng giữ kho bên Tàu cũng giật mình. Ngỡ rằng trâu mẹ gọi mình, tượng trâu vàng nọ chạy một mạch từ kinh đô nước Tàu qua tới kinh đô nước Việt Nam thời ấy. Ông Khổng Lồ vừa mừng, vừa sợ hãi. Mừng vì thấy của cải mà người Tàu vơ vét của dân Việt Nam bấy giờ trở về Việt Nam. Sợ vì e vua Tàu cử đại binh qua xâm chiếm nước nhà phen nữa. Bởi vậy, ông liệng cái chuông nọ xuống Hồ Tây. Con trâu vàng nọ cũng nhảy xuống nước theo mẹ. Đời sau, ông Khổng Lồ được tôn thờ là Thần đúc chuông.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 6:53:01 GMT 9
Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình Chuyện Xưa Tích Củ nguồn: e-thuvien.com CÂY MẮC CỠ
Ngày xưa, có một cô gái rất đẹp. Xóm làng ai cũng trầm trồ khen ngợi. Cô nàng tên là Trinh, hình vóc mảnh mai, tướng đi yêu điệu. Đặc biệt cô có đôi mắt đen huyền che khuất sau đôi hàng lông nheo vừa dài, vừa sậm. Hàng ngày cô Trinh phải buôn tảo bán tần, gánh rau ra chợ bán để nuôi mẹ già, em dại. Hễ gặp cậu trai nào dòm ngó, cô luôn luôn e thẹn cúi đầu. Hai hàng lông nheo sụp xuống che khuất đôi mắt. Đã có sắc đẹp lại có hạnh kiểm tốt ai mà không yêu! Trong xóm có cậu công tử nọ tên Xinh. Cậu Xinh đem lòng yêu mến cô Trinh, mỗi ngày đón đường để mong thốt với cô vài lời tâm sự. Cô Trinh từ chối: -Trăm sự, phải nhờ sự ưng thuận của mẹ tôi ở nhà. Nhuốm bệnh tương tư, một hôm cậu Xinh đi tò tò sau lưng cô mà trộm ngắm. Thừa lúc vô ý, cậu chạy lại nắm tay cô. Cô nói: -Cậu đừng làm vậy mà thất giáo. Tôi đây thà chết chớ không bao giờ để hoen ố … Bệnh tương tư của cậu Xinh ngày càng thêm trầm trọng. Ông bá hộ, cha của cậu, biết rằng con trai mình lớn tuổi, cần phải cưới vợ. Ông tìm nơi môn đăng hộ đối để định gia thất cho con. Cậu Xinh không giải được cơn sầu. Phải chi cô Trinh là con nhà giàu có thì cậu cưới được. Ngặt cô rất nghèo khó. Sống với người vợ không vừa ý, cậu vô cùng phẫn chí, đi tới đi lui như xác không hồn. Sau đó cậu đi học phương xa. Thời gian thấm thoát không biết mấy thu qua xuân lại rồi mà hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm não của cậu. Một hôm trở về làng cũ, cậu Xinh đi thẩn thờ ra sau vườn mé sông. Bỗng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Cậu đứng nhìn, kìa cô Trinh cất tiếng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt thấy câu, cô Trinh run rẩy, day mặt lại toan chạy trốn. Cậu Xinh vội nắm tay cô rồi ôm vóc ngọc vào lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền ngày xưa khuất sau hai hàng lông nheo dài sậm. Cậu cúi mặt xuống để hôn. Nhưng hỡi ôi nàng tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nãy giờ mình đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu hường 1, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá xếp lại khi có hơi gió, hoặc hơi thở nào động tới. Hỏi ra thì cô Trinh đã tự tử từ hai năm nay, vì có kẻ tham quan ô lại dùng quyền lực toan cưỡng bức cô. Cho hay! Chữ Trinh đáng giá biết mấy. Dẫu chết xuống âm cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ được sự trong sạch của tâm hồn mình. -------------------------------- 1 Hường: hồng.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 6:57:00 GMT 9
NGƯỜI CHỒNG BẤT NGHĨA
Đời nhà Đường, người Tàu đến ở thành Đại La (Hà Nội) rất đông.
Quan Tàu thấy một thiếu nữ Việt Nam tên Liên Anh có nhan sắc nết na bèn cưới cho con trai của mình.
Về nhà sống chung với cậu công tử nọ, Liên Anh tỏ ra đảm đương, hiền hậu. Đôi vợ chồng trẻ năm sau có đứa con trai đầu lòng.
Hai năm qua, đời sống gia đình họ rất hạnh phúc.
Nhưng bỗng đâu có người bạn học cũ tới thăm. Anh chồng bèn thết tiệc linh đình cùng với vài vị quan Tàu khác. Buổi tiệc sắp đặt tại vườn hoa.
Họ uống rượu rất nhiều. Chừng ai nấy ngà ngà say, người bạn nọ có ý nghĩ trớ trêu: -Bần cùng mới biết hiếu tử. Nước loạn mới rõ tôi trung. Có gặp sự cám dỗ, ve vãn của bạn bè, mình mới biết vợ mình có thiệt lòng yêu mình không?
Anh chàng nọ gật đầu: -Phải! Phải lắm. Như vợ tôi đây thương tôi lắm. Ngặt chưa bạn bè nào tới cám dỗ để tôi dò xét thử …
Người bạn rót rượu thêm: -Vậy thì ông nên cho phép anh em ở đây tới cám dỗ thử. Nếu không xong thì rõ ràng là người đàn bà tốt.
Anh chồng nọ say rượu không kịp nghĩ suy bèn cho phép bạn bè tới ve vãn vợ mình.
Nàng Liên Anh đang ngồi trong phòng the ru con ngủ. Bỗng nhiên một vị quan trai trẻ đến, buông lời đường mật.
Nàng từ khước đuổi ra.
Lại một vị khác bước vào, buông ra bao nhiêu là giọng kèn tiếng uyển 1. Nàng Liên Anh không đồng ý. Lại có vị quan thứ ba, thứ tư bước vào.
Sau cùng nàng Liên Anh nhìn đứa con trai mà khóc: -Hồi nào đến giờ, mẹ là người nết na đoan trang. Nay bỗng dưng nhiều người tới đây toan làm điều bất nhã. Chắc mẹ có sơ sót điều gì về hạnh kiểm nên thiên hạ mới suồng sã như vậy. Hay là họ khinh khi người đàn bà Việt Nam không biết giữ lòng chung thủy?
Nàng thắt cổ tự tử.
Sau đó quan trên điều tra chuyện này, ra lệnh xử tử người chồng nàng Liên Anh. Chính hắn mới là chánh phạm trong vụ giết người vợ hiền. -------------------------------- 1 Trong sách viết sai chữ quyển, phải là uyển mới đúng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 22, 2011 8:18:43 GMT 9
Ba ước nguyện cuối cùng của Alexander Đại Đế (VienDongDaily.Com - 20/12/2011) Sau đây là câu chuyện Thanh Hằng sưu tầm, xin gởi đến quý bạn đọc.
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng:
1. Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị bác sĩ giỏi nhất của thời đó. 2. Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và... 3. Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đỗi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế. Ngài Alexander đã giải thích như sau: 1. Ta muốn chính các vị bác sĩ giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối diện với cái chết, thì chính họ, là những người tài giỏi nhất, cũng không có tài nào để cứu chữa. 2. Ta muốn vàng, bạc, châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ không mang theo được một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời. 3. Ta muốn bàn tay của ta đong đưa bên ngoài chiếc hòm, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế gian này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế gian này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:46:41 GMT 9
Quan sát văn minh Tây PhươngCHUYỆN PHAN CHÂU TRINH, HUỲNH THÚC KHÁNG VÀ TRẦN QUÝ CÁP ĐI XEM CHIẾN HẠM NGA CẬP BẾN Ở VỊNH CAM RANH, THÁNG 4, 1905 Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đang làm cuộc Nam du từ tháng 2 năm 1905, bắt đầu từ Quảng Nam (…) Vào đến Nha Trang thì đã tháng 4, nghe tàu Nga đang ghé ở Cam Ranh, ba chí sĩ bèn giả làm người bán thức ăn rồi thuê ghe ra tận nơi nhằm quan sát văn minh Tây phương cho thỏa chí. Chúng ta thử phác họa bức tranh toàn cảnh của cuộc đi “thám hiểm” đó. Vạn dân nô lệ cường quyền hạ, Bát cổ văn chương túy mộng trung. Phan Châu Trinh, “Chí thành thông thánh”, 1905 Văn chương tám vế mơ màng, Muôn dân nô lệ dưới chân cường quyền. V.S. dịch Hạm đội Baltic đang cập bến ở Madagascar Lời dẫn nhập: Chiến tranh Nhật-Nga chính thức bắt đầu từ đầu ngày 10 tháng 2, năm 1904.1 Sau khi Nga thất thủ hai cảng Đại Liên (Port of Dalny) và Lữ Thuận (Port Arthur) trên bán đảo Liêu Đông, Nga yếu thế rõ rệt. Không thể dựa vào hạm đội Thái Bình Dương (Pacific Fleet) để lật đảo thế cờ, Nga phải trông chờ vào hạm đội Baltic. Rời cảng Liepaja vào giữa tháng 10 năm 1904, hạm đội Baltic phải đi vòng Phi châu rồi đi qua Ấn Độ Dương trước khi ngược lên Thái Bình Dương. Dọc đường vừa đi vừa tránh sự nhòm ngó của hải quân Anh – bởi Anh là đồng minh của Nhật. Madagascar và Việt Nam là hai thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ, bởi vậy Nga có thể cập bến ở Madagascar và Cam Ranh để lấy thêm than đá và lương thực. Đến cuối tháng 3 năm 1905, hạm đội Baltic cập bến Cam Ranh. Mặt khác, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đang làm cuộc Nam du từ tháng 2 năm 1905, bắt đầu từ Quảng Nam. Nam du nói nôm na là “đi vào Nam”, Nam đây gồm cả Nam bộ, nhưng giữa đường vì Phan Châu Trinh bị ốm nặng ở Phan Thiết nên đành phải quay về. Trong ba người, Phan Châu Trinh thi Hội đỗ phó bảng khoa Tân Sửu (1901) nhưng đã quải ấn từ quan từ đầu năm 1905; còn Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp vừa đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) nhưng cả hai đều không ra làm quan. Mục đích của cuộc Nam du là xem xét dân tình và tình hình, đồng thời chiêu mộ những người cùng chí hướng để vạch đường cứu nước. Đến Bình Định, vừa gặp ngày tỉnh mở khoa thi, “người hội hạch đông có năm, bảy trăm” .2 Phan nghĩ rằng “cái học khoa cử làm hại người nước ta đã lâu,… ngày nay còn chun đầu vào như kiến, giấc mộng mê say này không cho một gậy ngang đầu không thể nào thức dậy được” .3 Cả ba giả dạng vào trường thi rồi làm một bài thơ và một bài phú, ký tên chung là Đào Mộng Giác. Kỳ thật, bài thơ do Phan Châu Trinh làm, có đầu đề là “Chí thành thông thánh” (Lòng thành thông đạt đến thánh hiền); còn bài phú “Lương ngọc danh sơn” (Ngọc tốt tìm ở núi danh tiếng) do Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp cùng làm chung. Đó đúng là “tiếng sét rầm vang cả trong nước, học giới ta trong hai mươi năm nay, lấy văn tự cổ động để mở mang phong khí, thì bài thi bài phú đó cũng là một bài có ảnh hưởng trong lúc đầu tiên” .4 Vào đến Nha Trang thì đã tháng 4, nghe tàu Nga đang ghé ở Cam Ranh, ba chí sĩ bèn giả làm người bán thức ăn rồi thuê ghe ra tận nơi nhằm quan sát văn minh Tây phương cho thỏa chí. Chúng ta thử phác họa bức tranh toàn cảnh của cuộc đi “thám hiểm” đó. I Tảng sáng ngày 31 tháng 3, 1905, từng chiếc khu trục hạm Nga từ từ ló dạng ở cửa biển vịnh Cam Ranh còn quyện sương mù. Những chiếc tàu này vượt cửa Bé vào vịnh trước để kiếm nơi thả neo an toàn cho đoàn tàu 45 chiếc của hạm đội Baltic .5 tức hạm đội Thái Bình Dương II, dưới quyền chỉ huy của đề đốc Rozhestvensky. Chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ sau đó, hạm đội Baltic thả neo, “đậu thành 5 hàng song song với những chiến hạm bọc sắt lớn nằm án ngữ cửa vịnh” .6 Sau 28 ngày trường vượt trùng dương từ đảo Madagascar thuộc Pháp, Cam Ranh là bến cảng nghỉ chân đầu tiên sau một hải trình dài 4.500 hải lý. Cam Ranh cũng là trạm tiếp tế nhiên liệu và lương thực cuối cùng trước khi đoàn tàu này lên đường đi Vladivostock nhằm trợ chiến cho hạm đội Thái Bình Dương I đang tranh hùng với hải quân Nhật trên vùng biển Bắc Á từ hơn một năm ròng. Cam Ranh còn là điểm hẹn với hạm đội Thái Bình Dương III của đề đốc Nebogatoff hãy còn lẽo đẽo theo sau. Trước đó Cam Ranh đã một thời là bến cảng khá nhộn nhịp của hải quân Pháp. Vào thời điểm năm 1905, quân cảng này đã “đượm vẻ hoang vắng điêu tàn” .7 Nhưng dù sao Cam Ranh vẫn nổi danh là một “hải cảng thiên nhiên toàn bích, an toàn, rộng rãi, mặt nước phẳng lặng như tờ” .8 Chiến hạm Nga tuy đã lỗi thời, nhưng những giàn cự pháo 12 ly và 10 ly trang bị trên tàu là lý do khiến nhiều quan sát viên cho rằng hải quân Nga “chỉ có thể thua trận trong trường hợp khả năng pháo kích của họ quá tồi”. .9 Bởi vậy, sau khi hạm đội Baltic vào hạ neo ở Cam Ranh, dư luận báo chí ở Singapore, Manila, Malacca, Sài Gòn, Hồng Công và những thành phố nhiều người Hoa ở ven biển Thái Bình Dương không ngớt chào xáo về một trận hải chiến không tiền khoáng hậu sắp diễn ra trong nay mai. .10 Sĩ phu nước ta chắc hẳn cũng nhờ vậy mà theo dõi được những diễn tiến của chiến tranh Nhật-Nga. Ngày 2 tháng 4, đề đốc Pháp de Jonquières, phó tư lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, dẫn tuần dương hạm Descartes ghé thăm xã giao hạm đội Nga. Nhưng khi de Jonquières trở lại ngày 22 tháng 4, tuy vẫn giữ thái độ hòa nhã bặt thiệp, đề đốc Pháp yêu cầu hạm đội Nga phải nhổ neo trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Tai sao Pháp lại có thái độ lạnh nhạt với Nga? Lý do dễ thấy nhất là lục quân Nga đang bị lục quân Nhật do danh tướng Nogi Maresuke chỉ huy phản đòn tới tấp trên chiến trường Mãn Châu. Nhưng lý do chính yếu vẫn là áp lực của Nhật và đồng minh là Anh. Bằng mọi cách, hai nước này đòi Pháp phải ngưng chỉ những “hành động có tính cách dung túng” (indulgent attitude) đối với hạm đội Nga. Thêm vào đó, chính quyền Hoa Kỳ cũng cảnh giác cực độ trước sự xuất hiện của hạm đội Nga ở một địa điểm không cách bao xa thuộc địa mà họ mới chiếm từ Tây Ban Nha là Phi Luật Tân. Nhật báo Evening Sun ở New York bình luận: “Nếu không có sự dung túng” của Pháp và “tệ hơn nữa là sự vô ý” của chính phủ quyền Đông Pháp đã cho phép hạm đội Nga ghé vào Cam Ranh lâu hơn thời hạn 24 tiếng đồng hồ theo luật quốc tế, thì Rozhestvensky không tài gì có thể chuẩn bị giao chiến với hạm đội Nhật. Bài báo kết luận là “ai cũng thấy rằng nếu không có sự che chở của Pháp”, toàn bộ hành trình 18.000 hải lý của Rozhestvensky từ biển Baltic, xuống Đại Tây Dương, vòng châu Phi qua Ấn Độ Dương, rồi ngược lên miền Bắc Thái Bình Dương “bất quá chỉ là một kế hoạch vô vọng, điên khùng” (a hopelessly mad enterprise)”. .11 Cần nói thêm là hạm đội Baltic phải vừa đi vừa tránh sự nhòm ngó của hải quân Anh, nhưng nhờ có căn cứ hải quân của Pháp ở Madagascar và Việt Nam cung cấp than đá và lương thực nên cuối cùng mới có thể tham chiến, mặc dù sau đó sẽ bị hải quân Nhật của đề đốc Tôgô Heihachirô (mà sách ta thường gọi là Đông-hương Bình-bát-lang 東郷平八郎) tập kích ở eo bể Tsushima và tiêu diệt sau 24 giờ giao tranh. Trước yêu sách đột ngột của chính quyền Đông Dương, đúng 1 giờ trưa hôm sau, Rozhestvensky ra lệnh nhổ neo và cho hạm đội Baltic “dàn thành đội ngũ ngoài cửa vịnh Cam Ranh”. Quang cảnh hoành tráng của hạm đội Nga lúc bấy giờ được mô tả trên báo The Times của Anh như sau: “Các chiến hạm Nga dàn thành một hình cánh cung dài như vô tận, trải dài từ mũi Valera sang tận mũi bên này của bán đảo Cam Ranh”. .12 Sau khi de Jonquières đã trịnh trọng đưa tiễn chân soái hạm của Rozhestvensky ra đến cửa vịnh, nhằm tránh trách nhiệm cho Pháp là đã cho phép hạm đội Nga vào lấy thêm nhiên liệu và lương thực trong một thời gian khá lâu, ông đánh điện về sở chỉ huy với lời lẽ khôn khéo, tựa hồ như chẳng hay biết gì cả về tình hình chiến sự Nhật Nga: “Hạm đội Nga đã rời bờ biển An Nam và đang tiến về hướng Đông. Không rõ sẽ đi đâu”! .13 Sự thật thì sau khi tuần dương hạm của de Jonquières vừa đi khuất, Rozhestvensky lại đưa hạm đội của mình vào ẩn náu, lần này ở vịnh Vân Phong, không cách cửa Bé bao xa. Trên thực tế Rozhestvensky chỉ ra khỏi bờ biển Việt Nam vào ngày 14 tháng 5, sau khi hạm đội Thái Bình Dương III của đề đốc Nebogatoff đã bắt kịp và đã lấy thêm than đá nhằm chuẩn bị cho cuộc hành trình định mệnh. Ngoài ra, trước khi rời Cam Ranh, Rozhestvensky cũng đã khôn khéo dàn xếp để de Jonquières mặc nhận cho một số tàu tiếp tế của hạm đội Baltic khỏi di chuyển ngay nhằm có đủ thời gian để bốc xếp hết than đá. Cần nói thêm là trước đó, vào ngày 15 tháng 4, bốn chiếc tàu vận tải của hãng Hamburg-Amerika (Đức) chở 30.000 tấn than đá đã cập bến Cam Ranh để cung cấp nhiên liệu cho hạm đội Baltic. Vì không biết cuộc thư hùng với hải quân Nhật sẽ kéo dài bao lâu, mọi chiến hạm được lệnh đổ than tới mức tối đa. Những chỗ trống trên tàu hầu như đều trở thành nơi chứa than. Than đổ bừa bãi ngay cả trên boong tàu, chỉ có sàn pháo đài được chừa trống nhằm khỏi vướng vít khi lâm chiến. .14 Tàu chở than cũng mang theo thư tín gia đình cho thủy thủ gửi qua một địa chỉ trung gian ở Sài Gòn. Hôm đó cũng là ngày đầu tiên sau mấy tuần lễ lênh đênh trên đại dương, thủy thủ trên tàu được ăn xúp cải bẹ và rau tươi chở từ Sài Gòn. Những thương nhân người Pháp cung cấp lương thực đủ loại cho hạm đội, từ trái cây, rau tươi, cho đến bột mì, đồ hộp hay thịt gà, thịt bò. Những hàng này bán “với giá cao kinh khủng, chưa nói những mặt hàng xa xỉ có lời lớn như rượu vang hay rượu mạnh”. Bởi vậy, có thể hiểu tại sao chính phủ Đông Pháp đã chần chừ không muốn nhanh chóng chấp hành lệnh trục xuất. .15 Thương nhân người Việt cũng thường mang thực phẩm ra bán bằng ghe. .16 Đặc biệt vào đêm 16 tháng 4, 1905, biết thủy thủ Nga sẽ ăn mừng lễ Phục Sinh, ghe thuyền của các thương nhân người Việt chở gà vịt, rượu đế ra bán cho tới khuya. Thủy thủ Nga nhận xét là các mặt hàng do người “An Nam” chở ra bán giá phải chăng, đặc biệt họ tấm tắc tán thưởng món rượu đế, khen là “mỹ tửu” giống rượu của người Nga. .17 – ý chừng muốn so sánh với rượu Vodka. II Có ai ngờ trong những ghe ra bán thực phẩm trên tàu Nga lúc ấy lại có chiếc ghe chở ba người giả dạng thương nhân để quan sát tận mắt văn minh cơ khí của phương Tây! Ba thương nhân giả dạng này không ai khác hơn là ba nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp trong chuyến Nam du. Trong tự truyện, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại về việc lên xem tàu Nga qua mấy dòng đơn giản như sau: “Lúc đi ngang qua Nha Trang, được tin chiến hạm Nga đậu tại Cam Ranh, bèn giả khách buôn, thuê thuyền đánh cá, mua trứng gà cùng trái cây các thứ, lên thuyền Nga xem rất khoái. Đấy chẳng qua vì tính thiếu niên hiếu kỳ, chứ không có ý gì”. .18 Trong ba nhà chí sĩ nói trên, chỉ có Huỳnh để lại chứng từ về cuộc “thám hiểm” độc đáo này. Cũng dễ hiểu thôi, vì Trần Quý Cáp thì mất sớm – ba năm sau (1908), khi phong trào Dân biến ở miền Trung bột phát, cụ bị án sát Khánh Hoà là Phạm Ngọc Quát sát hại, còn Phan Châu Trinh thì ít khi đề cập đến việc riêng tư trong các trước tác văn xuôi (hầu hết là chính luận), hay nếu có nhắc tới chuyện riêng chăng nữa thì cũng để làm sáng tỏ những công việc chung có liên hệ tới đồng bào và đất nước mà thôi. Hơn nữa, người nước ta hầu như không có truyền thống biên chép chi tiết về mọi sự việc. Các đây khá lâu, khi đọc những dòng chứng từ trên đây của Huỳnh Thúc Kháng, người viết không khỏi lấy làm lạ. Đã đành Huỳnh Thúc Kháng là người có trí nhớ tuyệt vời, hầu như chẳng bao giờ lẫn lộn các chi tiết, bởi vậy chúng tôi tin việc các cụ tự mình “tạo điều kiện” để lên quan sát chiến hạm Nga hơn 100 năm trước đây phải là chuyện có thật nên Huỳnh mới ghi lại trong tự truyện cho hậu thế biết. Tuy nhiên, người viết không khỏi thắc mắc vì sao một việc kỳ thú và có ý nghĩa như vậy mà từ trước tới nay ít thấy ai nhắc đến. Thắc mắc ấy cứ lởn vởn trong đầu. Chuyện mạo hiểm của các cụ xui chúng tôi nhớ lại một mẩu chuyện tương tự xảy ra ở Nhật Bản vào giữa thập niên 1850. Khi chiến thuyền của đề đốc Matthew Perry (Hoa Kỳ) đến Nhật lần đầu tiên vào năm 1853, nhà chí sĩ Yoshida Shôin (người mà Phan Bội Châu thường gọi là Cát-điền Tùng-âm 吉田松陰) nhận thấy cần phải tìm hiểu về Tây phương nên đã táo bạo chèo thuyền nhỏ ra biển rồi tìm cách đột nhập lên tàu của Perry để tìm đường du học. Kế hoạch không thành, Shôin bị bắt và bị giao trả lại cho cơ quan hữu trách Nhật, rồi bị giam lỏng một thời gian trước khi bị hành quyết. Qua những hành động quả cảm trong cuộc đời vỏn vẹn 29 năm, sau khi mất Shôin được người Nhật xem là “người đi tiên phong của phong trào dẫn đến Minh Trị Duy tân”. Một chi tiết rất ít được biết tới, nhưng cụ Ngô Đức Kế có thuật lại rằng khi quan tỉnh lên án đày Huỳnh Thúc Kháng ra Côn Đảo (1908) “có dẫn việc đi xem thuyền Nga mà bắt tội”. Nhớ lại chuyện cũ, gần đây chúng tôi tìm đọc các sách nói về hạm đội Baltic thử xem có cuốn nào ghi lại thời gian hạm đội cập bến ở Cam Ranh hay chăng. May mắn thay, chúng tôi tìm được hai cuốn sách tiếng Anh, một cuốn đặc biệt nghiên cứu về hạm đội Baltic và một cuốn là hồi ký của một sĩ quan Nga trên hạm đội Baltic còn sống sót sau trận hải chiến với hải quân Nhật ở eo bể Đối Mã. Cả hai cuốn thuật lại khá chi tiết những sự việc xảy ra khi hạm đội vào đậu ở Cam Ranh. Hai cuốn sách đó là : The Fleet That Had to Die (Hạm đội phải bị tiêu diệt) của Richard Hough và Tsushima (Eo bể Đối Mã) do A. Novikoff-Priboy trước tác. Những thông tin về hạm đội Baltic trong thời gian cập bến ở Cam Ranh trong phần đầu của bài viết này phần lớn dựa theo hai nguồn tài liệu đó. Căn cứ vào những thông tin này chúng tôi mới biết chắc là có khá nhiều ghe thuyền của các thương nhân người Việt ra bán thực phẩm cho thủy thủ và việc lên tàu của các thương nhân này cũng khá dễ dàng – một phần có lẽ do nhu cầu khẩn thiết của thủy thủ người Nga về lương thực, đặc biệt là các thức ăn tươi. Do đó, chúng ta có thể suy luận là việc giả dạng làm thương nhân của ba nhà chí sĩ chắc hẳn cũng không mấy khó khăn, điều cốt yếu là cần phải có óc quả cảm, táo bạo và liều lĩnh thì họa hoằn mới dám nghĩ tới kế hoạch đó. Vậy trong bộ ba Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp, ai là người khởi xướng việc này? Chắc hẳn người đó không phải là Huỳnh Thúc Kháng, vì đúng như nhà nghiên cứu Huỳnh Lý đã nhận xét, Huỳnh Thúc Kháng “nhanh nhạy chốn trường ốc nhưng chất phác ở ngoài đời”. .19 Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp tính tình đã hăng say mà còn có tầm nhìn sâu rộng, đặc biệt Phan là người “từng trải và nhạy bén” .20 và chắc hẳn là nhân vật có đầu óc táo bạo nhất trong bộ ba. Chỉ cần xem một vài hành tung của Phan thì rõ. Ví dụ, chẳng bao lâu sau chuyến Nam du, khi nghe tin Phan Bội Châu đã đi Nhật, Phan Châu Trinh đã tìm cách lặn lội sang Quảng Đông là chỗ Phan Châu Trinh hẹn với Phan Bội Châu, rồi từ đó sang Nhật chừng 2 tháng (vào năm 1906) để nhìn tận mắt đất nước mới canh tân sau Minh Trị Duy Tân. Chính vì Phan Châu Trinh đã quan sát hạm đội Baltic tại Cam Ranh mà chẳng bao lâu sau đó bị Nhật Bản đánh tan tành, Phan chắc hẳn lại càng muốn nhìn nước Nhật bằng chính mắt của mình. Rồi cũng chính Phan Châu Trinh, sau khi được phóng thích từ lao tù Côn Đảo vào năm 1910, đã tìm đường sang ngay chính nước Pháp để tìm con đường giải cứu cho đồng bào. Tư tưởng “Nhiều tay vỗ nên bộp” và “Không vào tận hang hùm sao bắt được cọp” được thể hiện suốt cuộc đời xả thân vì đồng bào, vì nước quên mình của Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh từng nói: “Việc đời không thể ngồi một xó mà nói được; huống chi thời cuộc chừ gió mây biến đổi, trăm dạng nghìn hình, có đi tới tận nơi mới thấy rõ được”.21 Bởi thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu trên thực tế, giữa Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, chính Phan Châu Trinh là người đầu tiên ngỏ ý về cuộc đi quan sát văn minh Tây phương táo bạo ngay ở vịnh Cam Ranh hơn 100 năm trước đây. Vĩnh Sính
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 11:00:44 GMT 9
Cột đồng Mã Viện: huyền thoại và lịch sử.
“Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy “Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương” Đó là hai câu thơ vịnh sử của một nhà thơ Việt thời sau cảm khái về Hai Bà Trưng. Cột đồng, tục truyền do Mã Viện dựng sau khi đánh bại cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để làm biểu tượng cho chiến thắng của người Hán và sự khuất phục của người Việt, đã là đề tài của biết bao nhiêu bài thơ và câu đối giữa hai phe. Thời Trần, khi sứ thần Đại Việt sang Thượng Đô (Bắc Kinh hiện nay) đã bị quan nhà Nguyên đưa ra câu đối xách mé “Đồng trụ chí kim đài vị lục” (Cột đồng đến nay rêu vẫn còn chưa xanh) và ông đã trả lời một cách hào hùng “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng đến nay máu vẫn còn đỏ) để chứng tỏ rằng nếu cột đồng bày tỏ cái nhục thua trận của dân Đại Việt thì cái nhục đó đã được rửa bằng hai lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng liệu huyền thoại về cột đồng có thực hay không? Đại Việt Sử Ký toàn thư chép “(Thắng được Hai Bà Trưng) Viện bèn dựng cột đồng để làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm châu. Viện có câu thề ‘Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt’ người Việt đi qua thường lấy đá chất vào thành như gò đống vì sợ cột ấy gãy. Mã Tổng nhà Đường lại dựng hai cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi công đức của Mã Viện để tỏ ra mình là dòng dõi của Viện. Hiện hai sông Tả Giang và Hữu giang mỗi nơi có một cột.” Truyền thuyết được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký toàn thư có nhiều mâu thuẫn. Nếu Viện dựng cột đồng để làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán thì phải đặt tại phía nam chỗ biên giới huyện Tượng Lâm, huyện cực nam của quận Nhật Nam (nay là vùng Quảng Nam của ta) chứ không thể nào tại Khâm châu được vì lúc đó nước ta và vùng Lưỡng Quảng của Trung Quốc hãy còn bị sáp nhập lại thành Giao châu chưa phân ra. Vả lại nhà Hán, cũng như các triều đại sau của Trung Quốc, chưa bao giờ chấp nhận nước ta là một nước riêng biệt mà chỉ cho là một tỉnh phản loạn. Mỗi khi có dịp là họ lại tìm cách xâm chiếm. Thành ra việc đặt cột đồng tại Khâm châu là một chuyện hoàn toàn vô lý. Nhưng làm sao lại có huyền thoại về cột đồng Mã Viện để còn được lưu truyền đến nay? Hậu Hán thư - Mã Viện truyện, cuốn sách chép chi tiết nhất về Mã Viện đã không hề nhắc đến việc dựng cột đồng này. Thủy Kinh chú, một cuốn sách khác viết nhiều về những hoạt động của Mã Viện cũng chỉ chép rằng “Viện đến Đồng Cổ thuộc Cửu Chân, ở đấy có nhiều trống đồng. Viện lấy trống đồng ở đó đúc ngựa đồng dâng lên Quang Vũ” chứ không nhắc đến việc đúc cột đồng. Phải đến cuốn Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm. Ngô lục viết “ở Tượng Lâm (nay là Quảng Nam), ngoài biển có một bãi nhỏ, sản xuất ra vàng mềm. Đi 30 dặm từ Bắc xuống Nam thì đến nước Tây Thuộc. Dân ở đó tự xưng là con cháu người Hán. Có cột đồng người ta nói là để phân cương giới cho nhà Hán”. Sau đó, Quảng châu ký cũng viết “Mã Viện đến Giao chỉ, dựng cột đồng làm biên giới phía nam cho nhà Hán”. Nói rõ nhất về chuyện này là Du Ích Kỳ được chép trong Thái Bình Quảng Ký “Ngày xưa Mã văn Uyên (tên tự của Mã Viện) chất đá làm bờ để đi đến Tượng phố dựng cột đồng để làm giới hạn miền cực nam. Tiên biểu của Du Ich Kỳ nói rằng ‘Mã văn Uyên dụng hai cột đồng ở phía bắc bờ sông Thọ Linh. Ở đấy cón có hơn mười nhà là những binh lính còn sót lại. Họ ở bên bờ phía nam mà đối với cột đồng. Họ tự lấy họ là Mã và thông hôn với nhau. Nay có hai trăm nhà. Người Giao châu lấy lẽ họ là người lưu ngụ nên gọi họ là Mã lưu’. Tiếng nói ăn uống vẫn như người Hoa. Núi sông rời đổi, nay cột đồng mất vào trong biển chính nhờ dân ấy mà biết được chỗ cũ.” Như vậy là phải đến thế kỷ thứ tư, khoảng ba trăm năm sau cuộc chinh phục của Mã Viện, huyền thoại cột đồng mới bắt đầu xuất hiện. Cần lưu ý tại đây rằng tất cả những đoạn văn đầu tiên viết về cột đồng này đều đặt cột tại vùng cực nam của nước ta chứ không phải giữa biên giới ta và Trung Quốc. Ngoài ra vị trí của cột đồng thay đổi tùy theo biên giới phía nam của đế quốc Trung Hoa thời đó. Nếu trong Ngô lục vị trí của cột đồng còn ở huyện Tượng Lâm tức là vùng Quảng Nam hiện nay thì đến Du Ích Kỳ đời Tấn thì vị trí của cột đồng đã lên tuốt phía Bắc, đến vùng Quảng Bình (sông Thô Linh là sông Gianh hiện nay). Đó là vì triều Tấn, nước Lâm Ấp thành lập cuối thời Hán đã lấy mất toàn bộ vùng phía nam sông Gianh rồi. Càng về sau, vị trí của cột đồng càng dời lên phía bắc. Man thư đời Đường đặt vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện An Ninh tỉnh Vân Nam. Trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống đặt cột đồng tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu. Chính thuyết của Chu Khứ Phi này đã được Đại Việt Sử Ký toàn thư của ta lấy lại mà đặt cột đồng Mã Viện bên Trung Quốc. Việc Mã Viện dựng cột đồng như vậy có vẻ là một huyền thoại. Nhưng vì sao mà huyền thoại này xuất hiện, chúng ta cần phải tìm chứng tích không những trong sử mà còn trong khảo cổ học nữa. Trong sử Trung Quốc có hai cuộc chinh phục phương nam lớn nhất và để lại dấu ấn sâu đậm nhất cho đời sau là cuộc chinh phục Việt Nam của Mã Viện và cuộc chinh phục xuống vùng Vân Nam và Quý châu của Gia Cát Lượng. Chính những truyền thuyết về cột đồng đã bắt đầu xuất hiện sau những cuộc chinh phục này, đặc biệt là sau cuộc chinh phục của Gia Cát Lượng vào cuối thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên. Theo các nhà khảo cổ, vùng Tấn Ninh thuộc Vân Nam vốn là một trong những vùng hiếm hoi của Trung Quốc có trống đồng. Và chính nơi đây người ta cũng tìm được những cột đồng. Tuy rằng trên đất nước Việt Nam hiện nay người ta không tìm thấy được một cột đồng nào cả, nhưng trong quá khứ người ta cũng tìm thấy một vài cột đồng trong nội bộ nước ta. Sách Lĩnh Biểu lục dị chép “Đời Đường Vy Công Cẩn làm thứ sử Ái châu (Thanh Hóa) thấy trong hạt mình có cột đồng, muốn chiếm đem bán. Nhân dân xem là vật thiêng, nếu bị hủy, họ sẽ bị diệt nên đã kiện lên đô hộ Hàn Uớc. Công Cẩn phải thôi”. Lại ở huyện Nam Đàn, Nghệ An tương truyền là có cột đồng trên núi Lam thành vì vậy nhân dân ở đó gọi là núi đồng trụ. Nếu những cột đồng này không phải do Mã Viện và Gia Cát Lượng dựng thì chúng do ai tạo ra? Theo các nhà khảo cổ thì cột đồng này là những biểu hiện của một tôn giáo thờ tự nhiên giống như những công trình đại thạch khí (megalith) như Stonehenge của Anh mà theo lời của A.W. McDonald thì “Tại châu Á gió mùa. chúng liên hệ với chu kỳ tuần hoàn tự nhiên của sự phồn thực trên thế giới. Chu kỳ tuần hoàn này được coi như là kết quả của những tương tác giữa nước (mưa) và đất mà ra, tức là một quan hệ hài hòa giữa trời, đất, và thế giới dưới lòng đất, giữa người chết và người sống và giữa những giòng nước trên trời và giòng nước duới đất”. Thành ra, cột đồng cũng như các tảng đá của người tiền sử ở Anh, là những biểu tượng tôn giáo của dân tộc Lạc. Nói cách khác, như các nhà khảo cổ đã tìm ra thì cột đồng cũng như trống đồng là tập tục của dân tộc Lạc. Khi quân Trung Quốc chinh phục phương nam, họ đã tìm cách chiếm những biểu tượng thiêng liêng của tôn giáo người nam này thành ra của họ để củng cố sự thống trị của họ. Cột đồng trở thành biểu tượng của sự thống trị phương bắc. Lê Mạnh Hùng
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 3:10:01 GMT 9
Suu Tap Anh VN XuaĐệ nhất Hoa khôi Sài Gòn hai đời chồng khi mới 15 tuổi 28 April 2012 Được mệnh danh là “Ngôi sao Sài Gòn”, “Hoa Khôi Nam Kỳ”, sắc đẹp của cô Ba Trà (Trần Ngọc Trà) đã trở thành niềm mơ ước của tất cả người Sài Gòn, lục tỉnh. Thế nhưng, cô Ba Trà chỉ thích chia cho mỗi người một mảnh tình gặm chơi đỡ buồn. Nổi tiếng xinh đẹp khắp đất Sài Gòn năm xưa, cô Ba Trần Ngọc Trà cũng đồng thời nổi tiếng về danh sách những mối tình dài bất tận của mình. Và những cuộc tình ấy bắt đầu từ khi tuổi đời của cô Ba còn rất trẻ. Sau khi cha Trà và bà nội mất để lại nghi ngờ về sự chung thủy của mẹ, cô Ba Trà, khi đó mới lên 5 tuổi phải trở về sống cùng với mẹ ở quê ngoại. Ngày Trà lên 9 tuổi thì bà ngoại mất. Cô Ba Trà Mẹ Trà đem con từ quê ngoại Cần Giuộc lên Sài Gòn, ở gần chợ Bến Thành trong một hẻm nhỏ đường D'Espagne, chính là đường Lê Thánh Tôn ngày nay để sinh sống. Hằng ngày, mẹ Trà đi bán hàng rong trên chuyến xe lửa từ Sài Gòn đi Phan Thiết còn Trà đi bán chả giò. Cuộc sống của hai mẹ con khó khăn khi phải kiếm tiền lo ăn ở từng bữa một. Đến năm Trà được 14 tuổi, nhan sắc đã bắt đầu rõ nét hơn. Đôi mắt to đen, làn da mịn màng dù cuộc sống nhiều vất vả khiến không ít người phải ngỡ ngàng vì vẻ đẹp ngây thơ, thiếu nữ ấy. Để cuộc sống bớt khó khăn, mẹ Trà đã đem gả con cho một quan ba người Pháp tuổi đã trên 30. Tuy nhiên, chỉ một năm sau đó, người quan ba này về nước và không mang theo Trà. 15 tuổi, Trà trở về sống với mẹ sau khi đã có một đời chồng và tiếp tục làm nghề bán hàng rong. Thế nhưng, cũng chính trong lúc bán hàng rong mà Trà đã gặp được người con trai đầu tiên mà cô yêu. Đó chính là Toàn, con trai của một tỷ phú người Hoa sống tại Sài Gòn. Bố Toàn là người Hoa, đã có một đời vợ bên Trung Quốc, khi sang lập nghiệp trên đất Việt ông lấy thêm 3 người vợ nữa trong đó có một người phụ nữ ở đất Quy Nhơn. Đó chính là mẹ của Toàn. Do mẹ và bố Toàn sống ở Phan Rang lại chuyên nghề mua bán hải sản đắt tiền như yến sào, vi cá, bào ngư với chi nhánh đặt tận Chợ Lớn nên Toàn thường xuyên đến Sài Gòn. Trong một chuyến đi đến Sài Gòn, Toàn tình cờ gặp Trà đang bán hàng rong ở ngoài đường. Ngay lập tức, Toàn bị vẻ đẹp của Trà chinh phục. Toàn tìm hiểu được về cuộc sống và chỗ ở của Trà. Từ đó, công tử của gia đình giàu có thường xuyên viết thư tình, gửi người mang đến cho Trà. Mỗi lần nhận được thư của Toàn, Trà đều đưa cho mẹ đọc. Mẹ Trà cũng dò hỏi ra được thân thế của Toàn nên có ý chấp nhận. Bị vẻ đẹp của Trà hớp hồn nên trong một thời gian rất ngắn, Toàn đã vô cùng si mê cô gái này và quyết định bảo bố mẹ mang sính lễ đến hỏi Trà về làm vợ. Được sự đồng ý của mẹ Trà, một lần nữa, Trà lại cưới chồng. Lấy được Trà, Toàn vô cùng sung sướng vì đã có một người vợ xinh đẹp. Về phía Trà thì cô cũng hạnh phúc hơn do đã thoát được cảnh đói nghèo. Hơn nữa, trong cuộc sống chung, Trà cũng dần có tình cảm với Toàn và ngày càng thêm yêu chồng mình. Thế nhưng, người ta vẫn bảo “cả thèm chóng chán”, cái gì có được thì không khiến người ta si mê nữa. Trong trường hợp của Trà và Toàn cũng vậy. Là con nhà giàu, muốn gì được nấy, nên chỉ sau 2 năm cưới Trà, Toàn đã không còn quá tha thiết với người vợ xinh đẹp của mình nữa. Thậm chí, Toàn còn ra ngoài, tìm kiếm những nguồn vui thú mới. Việc có những người con gái bên ngoài của Toàn khiến Trà khổ tâm và cũng ghen tuông bởi lúc này, Trà đã có tình cảm khá sâu đậm với chồng mình. Nhiều lần khuyên răn rồi chăm sóc, chiều chuộng chồng nhưng Toàn vẫn không thay đổi, không ít lần Trà đã trốn khỏi nhà chồng. Tuy nhiên, lần nào cũng bị gia đình nhà Toàn bắt về. Rất may là mẹ chồng Toàn cũng là người đàn bà hiền hậu nên đối xử tử tế với Trà. Mẹ chồng cũng khuyên Trà không nên bỏ đi nữa. Không biết làm cách nào hơn, lại quá mệt mỏi vì cuộc sống với người chồng chơi bời, Trà đã viết thư kể chuyện cho mẹ. Mẹ Trà nhận được thư của Trà liền viết thư gửi lại gia đình nhà chồng Trà rằng mình nhớ con gái, mong gia đình chồng cho con gái về thăm nhà. Trà trở về Sài Gòn sống với mẹ, nhưng cuộc sống của hai mẹ con vẫn tiếp tục khó khăn. Không có điều kiện dư dả nên mẹ Trà thường xuyên cáu gắt. Không ít lần, bà đánh Trà bằng cả đòn củi. Không chịu được cuộc sống nghèo khổ cũng như những đòn roi của mẹ, Trà muốn trở về gia đình chồng. Cô lên tàu đến Phan Rang, nhưng bước lạc xuống ga Mường Mán. Do không có tiền trong người nên Trà đành ghé vào xin ở tạm tại một gia đình đang trông coi cửa hàng cho gia đình nhà chồng. Chủ gia đình đã báo lại với bên gia đình nhà Toàn, Toàn liền đến đón Trà. Gặp nhau, như để chuộc lại lỗi lầm đã gây ra với Trà, Toàn đưa Trà đi ăn những đồ ăn ngon, đắt tiền rồi lại đưa đi mua rất nhiều đồ quần áo, trang sức. Lúc này đã nguôi giận chồng nên Trà muốn tiếp tục cuộc sống với Toàn. Hai người bàn nhau là quay về Sài Gòn xin mẹ Trà. Tuy nhiên, khi trở về Sài Gòn, Toàn nhận lỗi, mẹ Trà vẫn kiên quyết không đồng ý cho Trà tiếp tục cuộc sống với Toàn. Không những thế, bà còn nói rằng, nếu Trà quay trở lại sống với Toàn thì bà sẽ giết luôn Trà. Không thể thuyết phục được mẹ Trà, Toàn đã để lại cho Trà đôi bông tai nhẫn hột xoàn rồi buồn bã quay về Phan Rang một mình. Sau này, cô Ba Trà đã từng tự bạch về mối tình với vị thiếu gia giàu có này: “Tôi gặp không biết bao nhiêu người đàn ông, nhưng anh Toàn, tôi nhớ mãi không quên”. Mối tình khỏa lấp buồn đau với nhà văn Diên Hương Người đàn ông tiếp theo trong cuộc đời của cô Ba Trần Ngọc Trà chính là nhà văn Diên Hương Trần Ngọc Án, tác giả cuốn Thành ngữ điển tích và Thi pháp. Ông Diên Hương vốn học trường thuốc Hà Nội và trở thành một trong những người Việt Nam đầu tiên vào ngạch bác sĩ ngang hàng với bác sĩ Pháp. Mặc dù học và làm việc trong ngành y nhưng Diên Hương lại có sở thích làm thơ, viết sách. Cũng chính bởi niềm đam mê trái ngành này mà Diên Hương đã có mối tình lãng mạn với đệ nhất hoa khôi Sài Gòn, Trần Ngọc Trà. Diên Hương và Trần Ngọc Trà gặp nhau lúc Trà 18 tuổi. Khi đó, Trà vẫn đang đau khổ vì cuộc chia tay với Toàn. Hắc công tử và cô Ba Trà Biết được nỗi buồn của người đẹp, Diên Hương đã cho tài xế lái xe riêng của mình chiều chiều đón Trà đánh một vòng qua phố. Cứ như vậy, mối tình của Trà với người bác sĩ gốc Hà Nội lớn lên từng ngày mặc cho sự chênh lệch tuổi tác. Cũng trong thời gian này không ít những người thanh niên giàu có, những vị công tử ăn chơi đều theo đuổi Trà. Vậy nhưng, mối tình của Trà với Diên Hương không vì thế mà bị chia cắt. Tình yêu với Trà ngày càng lớn, bác sĩ Diên Hương thuê nhà cho Trà ở đường Richaud sát trung tâm Sài Gòn để sinh sống. Đồng thời, để Trà đỡ khó khăn, vất vả trong cuộc sống, Diên Hương còn gửi gắm Trần Ngọc Trà cho một người phụ nữ có tên là dì Tư chăm sóc. Dì Tư là người sành điệu, lão luyện, quen biết rộng rãi trong giới phong lưu ở Sài Gòn và cả những ông Hội đồng hiếu sắc, những tay ăn chơi vượt rào từ lục tỉnh lên. Để đón họ, dì Tư đứng ra mở sòng bạc tại nhà mình. Và chính từ đây mà Diên Hương đã mất Trần Ngọc Trà vào tay người khác. Georges Lê Văn Phước, con trai một ông đốc phủ giàu nức tiếng, đã sang Pháp du học, về nước không theo đường công danh hoạn lộ, chỉ thích ăn chơi bay bướm, người lại trắng trẻo hào hoa nên được giới phong lưu thời ấy tặng cho mỹ danh là Bạch công tử. Với phong độ đang lên, Bạch công tử không thiếu gì người đẹp vây quanh nhưng vẫn thấy hụt hẫng vì đeo đuổi bao lâu mà chưa chinh phục được hoa khôi Trần Ngọc Trà. Trong khi đó, Hắc công tử, chính là công tử Bạc Liêu, nổi danh về độ giàu có đương thời. Biết được tiếng tăm về vẻ đẹp lẫy lừng của cô Ba Trần Ngọc Trà nên Hắc công tử và Bạch công tử đều tìm đến để tìm cách chinh phục được Trà nhưng đều chưa thành công. Kể về công cuộc chinh phục của Bạch công tử và Hắc công tử đối với cô Ba Trà có lưu lại một câu chuyện về sự ganh đua mức độ giàu có và chịu chi cho người đẹp của hai vị công tử. Chuyện là một lần, Georges Phước lái một chiếc xe bốn bánh thuộc loại lộng lẫy đương thời đến đón Trà xuống Cần Thơ đổi gió. Khi hai người vào khách sạn Bungalow, Georges Phước lột chiếc nhẫn kim cương trị giá hơn 3.000 đồng đặt lên bàn để vào phòng tắm. Khi bước ra thấy cô Trà đang lấy chiếc nhẫn của mình đeo thử vào tay ngắm nghía, Georges Phước liền buột miệng nói chiếc nhẫn coi vừa ngón tay Trà quá. Vậy là Trà đeo luôn chiếc nhẫn. Biết chuyện, công tử Bạc Liêu lúc ấy cũng đang theo đuổi cô Ba Trà, liền đến gặp và tặng cô một chiếc nhẫn khác trị giá gấp đôi chiếc nhẫn của Georges Phước. Lúc này, cô Ba Trà đã bắt đầu biết thích thú đánh bạc. Vậy nên, Bạch công tử và Hắc công tử thường mượn cớ dẫn Trà xuống Cần Thơ để chơi bạc. Tại đây, cả hai đều cố gắng thua bạc để đổi lại bằng những nụ hôn trên tay người đẹp. Trở về Sài Gòn với số tiền lớn mà Bạch công tử và Hắc công tử đã giả thua để lấy lòng người đẹp, cô Ba Trà vung ra tiêu xài, mua rất nhiều đồ đạc, chất đầy trong nhà. Điều này đã khiến cho ông Diên Hương đem lòng nghi ngờ. Diên Hương tra hỏi cô Ba rằng cô đã đi đâu cả 3 tuần qua không thấy mặt ở nhà dì Tư. Cô không trả lời. Ông Diên Hương lại nhắc lại: “Em đi đâu? Ở đâu?”. Cô Ba Trà đáp: “Không đi đâu hết”. Tức giận, ông Diên Hương nói: “Bộ em ngủ ngoài trời hay sao?”. Ông Diên Hương hỏi đi hỏi lại nhưng cô Trà cứ lấp lửng là mình ngủ ở nhà người bồi của dì Tư để trốn chủ nợ đang truy đòi 3.000 đồng do cô đánh bạc thua phải vay. Ông Diên Hương đáp lời: “Em trốn chủ nợ rồi trốn anh nữa sao em? Hay là em có mèo? Em lỡ thương ai cứ nói thiệt cho anh biết đi”. Lúc này, cô Ba Trà cũng đã giận dữ, cô đáp: “Tôi có đi chơi với họ mà không thương ai hết!”. Đúng lúc đó thì có tiếng xe dừng ở ngoài cửa, ông Diên Hương liền nói: “Xe của cậu Tư Georges Phước đến!”. Vừa nghe thấy thế, cô Ba Trà bật dậy chạy đến cửa nhìn ra. Nhìn hành động đó của cô Ba Trà, ông Diên Hương không những không nổi giận hay ghen tức mà còn dịu giọng nói với cô: “Không sao đâu em. Hai ngày nữa anh sẽ đem tiền đến để em trả nợ” rồi ông Diên Hương lặng lẽ ra về. Hai ngày sau, ông Diên Hương cho người đem tiền đến đủ 3.000 đồng để Trà trả nợ. Món tiền này theo thời giá lúc bấy giờ ước chừng bốn mươi mấy, năm mươi cây vàng. Mọi việc trở lại bình thường. Tình cảm của cô Ba Trà và ông Diên Hương vẫn được tiếp tục. Cho đến một dịp, Diên Hương chở cô Ba Trà ra Vũng Tàu tắm biển. Đang ngồi trên bờ, nhìn xung quanh, bỗng cô Ba Trà bật khóc. Ông Diên Hương liền hỏi vì sao cô Trà lại khóc. Cô Trà đáp rằng cô đang nhớ nhà. Trước câu trả lời của cô Ba, ông Diên Hương không khỏi ngạc nhiên. Ông hỏi cô Ba nhớ nhà ai, ở đâu. Lúc này, dường như không kìm nén được cảm xúc, cô Ba Trà đã trả lời rằng mình nhớ đến người chồng cũ tên Toàn của mình, sinh sống ở Phan Rang. Cô bảo, cảnh biển ở Vũng Tàu khiến cô nhớ đến người chồng của mình. Nghe tâm sự của cô Ba Trà, ông Diên Hương đã rất buồn. Sau đó, ông lặng lẽ chia tay với cô Ba Trà, kết thúc một mối tình đẹp nhưng buồn. Và những mảnh tình Sau khi kết thúc mối tình với Diên Hương, nghe lời của dì Tư, Trần Ngọc Trà sang lại nhà hàng Đông Pháp lữ quán ở đường D'Espagne để bán cơm với các món ăn Việt Nam. Và chính ở quán cơm này, với sắc đẹp đầy ma lực của mình, Trần Ngọc Trà đã thu hút thêm rất nhiều những trái tim si tình khác. Trong số khách phương xa lặn lội tìm tới Đông Pháp lữ quán do cô Ba Trà làm chủ, có cả ông hội ở Rạch Giá và cậu chủ của một rạp chiếu bóng ở Cần Thơ. Cả hai người này đến lữ quán không chỉ vì mấy món ăn khoái khẩu như cua xào giấm hoặc mắm kho thịt ba chỉ ăn với cơm gạo nõn thơm phức khiến Tây vô cùng thích thú, mà chủ yếu để được ngắm dung nhan đẹp tuyệt trần của cô Ba Trà. Cả hai người đều mê cô Ba Trà tới nỗi bỏ cả công việc ở quê nhà, ở miết Sài Gòn đến cả tháng trời để ngày ngày được ghé qua quán của cô Ba Trà. Họ còn đến quán cô Ba cả vào ban đêm, vì được biết nơi đây ngoài bán cơm còn có những thú ăn chơi nổi tiếng như uống rượu đuông nướng, nhộng chiên và đặc biệt có tổ chức cờ bạc, hút xách tới khuya. Khi đã quen biết như người trong nhà, cả ông Hội đồng và cậu chủ rạp bóng đều rút lưng một số tiền lớn đến quán xin dì Tư mở bài đánh tứ sắc để ăn thua. Và luật lệ đưa ra cũng chỉ là nếu cô Ba thua thì họ được hôn tay cô mà thôi. Rồi cả hai người còn nhờ dì Tư sắm lễ mai mối để xin cưới cô Ba Trà. Đáp lại tình yêu nồng nhiệt của cả hai người, cô Ba Trà đáp rằng họ chỉ nên giữ tình bạn đêm đêm trên chiếu bạc mà thôi. Một trong những chuyện tình nổi tiếng của cô Ba Trà là chuyện tình với Lâm Kỳ Xuyên. Khi bị các chủ nợ truy đòi bén gót, cô Ba Trà phải lánh mặt ở khách sạn không dám ra ngoài. Đang lúng túng cùng đường và chưa biết phải giải quyết ra sao với số nợ nận lớn thì bỗng một ngày, cô Ba Trà bất ngờ nhận được phong bao đựng tiền dày cộm do một người không quen biết tên Lâm Kỳ Xuyên gửi biếu, gọi là chút lễ “ra mắt” hoa khôi. Anh chàng này cũng thuộc loại si tình, coi tiền như lá úa. Lâm Kỳ Xuyên chính là con trai của một tỉ phú chủ hãng rượu lớn đặt cơ sở sản xuất chính tại Châu Đốc. Từ đó, trong suốt một thời gian dài, Lâm Kỳ Xuyên tự nguyện làm người tình cung cấp tiền bạc cho cô Ba Trà mà chưa hề cầm được bàn tay hoặc nói một lời âu yếm. Nhờ có sự giúp đỡ của Lâm Kỳ Xuyên, cô Ba Trà đã có đủ tiền bạc để trang trải nợ nần, vực lại Nguyệt Tiên Cung đang trong bờ vực phá sản. Không những thế, với số tiền mà Lâm Kỳ Xuyên cung cấp, cô Ba Trà còn đường hoàng quay trở lại những sòng bạc vũ trường lớn nhất nhì đất Sài Gòn lúc bấy giờ. Có những lần, cô Ba Trà đánh thua to ở chiếu bạc mở trong nhà của chủ tiệm vàng Năm Hy trên đường Bonard, nay là đường Lê Lợi, cô còn không trực tiếp mà sai em út gọi điện thoại đến ngân hàng Cần Thơ cho Lâm Kỳ Xuyên để Lâm cung cấp số tiền là 5.000 đồng, tương đương với khoảng hơn 80 cây vàng thời điểm lúc bấy giờ. Và chỉ vài tiếng đồng hồ sau số tiền khổng lồ đó đã được người của Lâm Kỳ Xuyên mang từ Cần Thơ lên Sài Gòn, đến tiệm vàng Năm Hy theo địa chỉ mà em út của cô Ba Trà đã nhắn. Một nhân viên có mang trên cổ áo mấy chữ BIC, viết tắt của Banque de L'Indo-Chine de Can Tho - Ngân hàng Đông Dương chi nhánh Cần Thơ đã lễ phép trao cô Ba Trà đúng 5.000 đồng, gồm 50 tờ loại 100 đồng mới nguyên. Không chỉ có những lần trao tiền to tay này mà Lâm Kỳ Xuyên còn bỏ ra 20.000 đồng tức hơn 330 cây vàng để giúp cô Ba Trà tu sửa Nguyệt Tiên Cung lộng lẫy hơn, cho cô Trà kinh doanh được tốt hơn. Tuy nhiên, với thói quen, vung tiền như cỏ rác của cô Ba Trà, số tiền khổng lồ mà Lâm Kỳ Xuyên cung cấp dường như chưa thấm vào đâu. Đã có lần, cô ba Trà phải đích thân lặn lội xuống Cần Thơ để tìm Lâm Kỳ Xuyên vì số tiền thua bạc quá lớn. Cô Ba Trà đi với một chị bạn người Pháp là Madame Pit. Cô Ba Trà chọn một phòng ở khách sạn de L'Ouest rồi viết thư mời Lâm Kỳ Xuyên đến. Lâm Kỳ Xuyên khi biết được cô Ba Trà đã đến Cần Thơ liền vội vàng đánh xe tới hỏi cô Trà xuống Cần Thơ khi nào và tại sao không báo trước? Rồi Lâm Kỳ Xuyên cũng hỏi cô rằng có việc gì gấp gáp không? Không úp mở dài dòng, cô Ba Trà bảo cô bị thua bạc số tiền lớn, nợ rất to, cần có Lâm giúp đỡ. Lâm Kỳ Xuyên hỏi nợ lớn là bao nhiêu và cần chừng nào tiền? Cô Ba Trà nói: “Bốn chục ngàn đồng”. Số tiền 40.000 đồng trị giá thời bấy giờ là hơn 660 cây vàng. Thế nhưng, Lâm Kỳ Xuyên nhìn cô Ba Trà đáp một tiếng duy nhất: “Được”. Rồi Lâm Kỳ Xuyên bảo cô Ba Trà chờ một chút để về lấy. Chưa đầy một giờ sau, tài xế của Trà đến chỗ Lâm và quay lại mang theo một bao tiền, cũng giấy loại 100 đồng, bày lên bàn, đếm đủ chẵn chòi 40.000 đồng. Vừa cất tiền xong thì Bạch công tử Georges Phước đột ngột xuất hiện. Hóa ra, Bạch công tử hay tin cô Ba Trà thua bạc đang ở Cần Thơ nên đến tìm. Xa cách lâu ngày không gặp, cô Ba Trà và Georges Phước sà vào lòng nhau, ôm nhau thắm thiết. Đúng lúc này thì Lâm Kỳ Xuyên quay lại, đẩy cửa bước vào trông thấy. Mặc dù thấy người con gái mình yêu vừa được mình cho một số tiền lớn lại đang trong vòng tay người khác, Lâm Kỳ Xuyên vẫn giữ bình thản, bắt tay Georges Phước và mời Trà cùng đi Rạch Giá với mình. Cô Ba Trà từ chối, bảo về Sài Gòn gấp để trả nợ không thì người ta xiết Nguyệt Tiên Cung, rồi ôm bao tiền quay lên Sài Gòn. Trà đi rồi, Lâm Kỳ Xuyên ngẫm nghĩ thế nào lại lên xe phóng theo đến Nguyệt Tiên Cung song không thấy cô Ba Trà. Hóa ra, cô Ba Trà có tiền tiếp liền lao vào sòng bạc mất dạng. Lâm Kỳ Xuyên phải đợi suốt hai ngày ở Nguyệt Tiên Cung. Tan sòng bạc, cô Ba Trà cũng không đến với Lâm Kỳ Xuyên mà cùng vua cờ bạc Sáu Ngọ (Paul Daron) lên xe phóng ra phố. Lâm Kỳ Xuyên tình cờ trông thấy hiểu rằng mình là người đứng bên ngoài những cuộc tình của cô Ba Trà. Lâm Kỳ Xuyên lặng lẽ trở về Cần Thơ. Nói về mối tình “tần nhẫn” với Lâm Kỳ Xuyên, nhiều lần cô Ba Trà đã trách mình đã quá vô tình với người đàn ông này. Theo Phunutoda
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 27, 2013 18:48:06 GMT 9
Phong tục Tết xưa của người Việt qua tranh dân gian- Nhiều phong tục Tết xưa của người Việt qua tranh dân gian được lưu giữ trong cuốn sách Kỹ thuật của người An Nam - Technique du peuple Annamite của Henri Oger. Viết câu đối - một phong tục rất quen thuộc trong ngày Tết truyền thống của người Việt Nam để cầu an, cầu tài lộc cho năm mới. Lau đồ thờ đón Tết. Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà. Giã giò. Giò dường như là món không thể thiếu với người Việt dịp Tết. Bưng cá chép cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Bàn thờ ông Táo. Súc sắc súc sẻ là một tục lệ rất phổ biến ở thôn quê ta ngày xưa. Vào những ngày đầu năm, từng đoàn trẻ em nghèo kéo nhau đi đến các nhà giàu, bỏ những đồng tiền trong ống tre và lắc lên kêu “súc sắc súc sẻ” để chúc mừng và để xin tiền. Cúng Giao thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày mùng một. Tết bắt đầu từ giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”. Đốt pháo là một phong tục truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam và một số dân tộc châu Á. Trước đây, người dân thường đốt pháo đêm Giao thừa với ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi những điều xui xẻo, đưa tiễn những cái cũ để đón những điều mới, may mắn, tốt đẹp. Dựng nêu, đốt pháo. Cây nêu là cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc... có ý nghĩa trừ tà, xua đuổi ma quỷ. Du xuân nghe hát ả đào đầu năm mới.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 8:22:34 GMT 9
Áo dài xưa và nay – Những ngộ nhận… (I) Nguyễn Thị Chân Quỳnh Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”, “chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt” và “trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ. Họa sĩ Cát Tường có phải là cha đẻ ra chiếc áo dài hiện đại? Trang phục người Saigon năm 1961. Nguồn: Tạp chí LIFE. Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”, “chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt” và “trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ. Rõ ràng mẹ tôi (sinh năm 1900) và bà ngoại, bà nội tôi đều chưa bao giờ xỏ tay vào chiếc áo tứ thân, toàn mặc áo hai vạt, mà mãi đến 1934 ông Cát Tường mới đưa ra “bản tuyên ngôn” về vấn đề cải cách y phục, nói rõ quan niệm căn bản của ông trong báo Phong Hóa. Ngoài ra, trong tay tôi ngay lúc ấy còn có mấy bằng chứng cho thấy áo dài hai vạt đã xuất hiện từ trước năm 1934: - Ảnh năm 1922 của Busy, đen trắng, chụp một thiếu nữ đóng vai quân cờ người ở vùng phụ cận Hà Nội (tôi đã cho in lại trong bài “Tết Nguyên Đán và Lễ Nghênh Xuân” , “Lối Xưa Xe Ngựa…”, tập II, 2002). Thiếu nữ mặc áo dài hai vạt không nối sống, cổ áo không gài khuy, quần đen; - Ảnh khoảng 1915-20, chụp bẩy thiếu nữ cũng đóng vai quân cờ người tại vùng ngoại ô Hà Nội, mặc áo hai vạt mầu hồng, cổ áo không gài khuy, vấn khăn xanh lam hoặc xanh nõn chuối, quần đen. Đấy là những chiếc ảnh mầu đầu tiên trên thế giới, của A. Kahn; - Tranh của bà de Bassilan vẽ một phụ nữ miền Nam mặc áo hai vạt trông rõ cả đường khâu nối hai thân ở chính giữa vạt trước, in kèm bài “ Des habitants de la Cochinchine” viết ngày 8/1/1859, không đề tên tác giả, được in lại trong L’Indochine, Illustration. Như vậy đủ chứng tỏ trước ông Cát Tường phụ nữ Việt Nam không phải ai cũng mặc áo tứ thân và người biến cái áo tứ thân ra áo hai vạt không phải là ông Cát Tường. Vậy ông Cát Tường đã đem lại những gì cho chiếc áo dài để được hầu hết những người tôn vinh áo dài khẳng định ông chính là “ cha đẻ” ra chiếc áo dài hiện đại? Trước hết chúng ta cần tìm hiểu y phục phụ nữ Việt Nam thời xưa qua sử sách. I. Sơ lược các kiểu y phục trước áo Lemur Không ai biết áo dài xuất hiện từ bao giờ và những chiếc áo dài đầu tiên hình dáng ra sao. Có truyền thuyết nói “Khi hai Bà Trưng ra trận đã cưỡi voi, mặc áo hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy…” Nhưng trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ chỉ viết “Khi Bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, mặc quần áo đẹp, các tướng thắc mắc, bà trả lời: ‘Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ khiến dung nhan xấu xí là tự làm giảm nhuệ khí nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng, lũ kia thấy thế tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu thì ta dễ có phần thắng.’” Không có câu nào nhắc tới áo vàng, lọng vàng. Có lẽ người đời sau nghĩ là vua tất phải mặc áo vàng. Song trong Lịch Triều Hiến Chương – Quan Chức Chí (tr 103) Phan Huy Chú lại viết: “Từ đời Lý, Trần về trước, mũ áo của vua thế nào không thể khảo cứu được. Còn như sắc áo thì hình như trước không có quy chế nhất định. Lê Đại Hành (980-1005) dùng thứ vóc đỏ, đến Lý Cao Tông (1176-1210) mới cấm nhân dân trong nước không được mặc áo sắc vàng, thế thì hoàng bào trước kia chưa phải là đồ dùng riêng của vua chúa.” Huống chi, nếu tôi nhớ không lầm, thì ở Trung quốc mãi đến đời Tùy, thế kỷ VI, mới ấn định mầu vàng dành riêng cho vua dùng mà Hai Bà đã mẩt từ thế kỷ I. Lại có người cho áo tứ thân có từ đời nhà Lý, nhưng không đưa ra bằng chứng. Đến mũ áo vua chúa đời Lý mà Phan Huy Chú còn không tra cứu nổi thì làm thế nào biết dược y phục của dân đen? Đời xưa viết sử chỉ chú trọng đến vua chúa, các danh nhân và những biến cố quan trọng, không mấy ai lưu tâm đến y phục nhân dân. Thế kỷ 17 – những chi tiết ghi chép trong sách sử xưa nhất tìm được về y phục thường dân là từ thế kỷ 17 * Áo mớ ba, mớ bẩy.Thuở nhỏ tôi từng nghe nhắc đến áo mớ ba, mớ bẩy song chỉ được thấy mẹ tôi mặc áo mớ đôi hoặc mớ ba, chưa bao giờ trông thấy áo mớ bẩy. Đó là những chiếc áo dài mặc lồng vào nhau, áo ngoài thường mầu sẫm như nâu, đen, có thể là hàng trơn hay dệt hoa bóng trên nền mờ hoặc ngược lại, những chiếc áo mặc trong toàn mầu tươi vui như hồ thủy, hồng phấn, hoàng yến… Phong tục muốn dân chúng phải tỏ ra khiêm tốn trong cách ăn mặc, áo ngoài phải dùng những mầu nhã nhặn, không được khoe khoang, lộ liễu, áo mầu lòe loẹt thì phải giấu bên trong. Sau này, tình cờ tôi đọc Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine (1631) của Giáo sĩ C. Borri mô tả y phục phụ nữ miền Nam gồm nhiều áo khác mầu lồng vào nhau nên đoán có lẽ chính là loại áo mớ ba, mớ bẩy. Tuy vậy, có những chi tiết khiến tôi ngờ ngợ không chắc là áo dài, không rõ vì tác giả thiếu minh bạch hay người dịch sang tiếng Pháp không hiểu rõ tiếng Ý nên đã dịch sai bậy: “Y phục phụ nữ có lẽ nhã nhặn, kín đáo nhất so với (y phục) toàn thể Ấn độ vì nó không để hở một chỗ nào trên thân thể, ngay cả những khi trời nóng bức nhất. Họ mặc có đến năm, sáu lớp áo chồng lên nhau, mỗi cái một mầu. Cái ngoài cùng dài chấm đất, kéo lê đi một cách trang trọng, quý phái, không ai có thể trông thấy ngón chân họ. Lớp áo thứ nhì nằm dưới, ngắn hơn lớp trước chừng 4 hay 5 ngón tay (“ngón tay” đo theo chiều ngang), lớp thứ ba lại ngắn hơn lớp thứ nhì, cứ đều đặn như thế… khiến cho tất cả các mầu áo dều được trông thấy. Đây là phần dưới từ bụng trở xuống. Nửa trên là những chiếc áo ngắn ôm thân người, gồm các ô trắng và mầu xen kẽ nhau như bàn cờ, mỗi lớp một mầu khác (1), bên ngoài phủ một thứ hàng mịn và thưa khiến ta có thể dễ dàng trông suốt qua được. Tất cả những mầu sắc hỗn độn ấy tiêu biểu cho mùa xuân tươi thắm, duyên dáng, đồng thời lại cũng rất trang trọng và nhũn nhặn. Nam giới cũng mặc năm, sáu lớp áo dài và rộng bằng lụa mịn đủ các mầu, ống tay dài và rộng (…). Từ thắt lưng trở xuống xung quanh cắt lôi thôi (2) thành thử khi ra đường gập cơn gió nhẹ, tất cả các mầu sắc tung bay, quyện vào nhau trông chẳng khác gì những con công xòe đuôi khoe bộ lông sặc sỡ.” Ngày nay ta còn thấy vết tích kiểu áo này ở những bộ áo tế của nam giới, áo ngoài bằng sa mỏng mầu lam hay đen trông suốt qua thấy rõ chiếc áo lót bằng vải trắng bên trong, và chiếc áo kép (đã có từ trước 1776, theo Lê Quý Đôn), mặt ngoài vẫn mầu đen hay nâu…, áo trong biến thành cái lót (doublure) vẫn dùng những mầu sặc sỡ. * Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính chép là năm 1665 có sắc lệnh: “Áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân, áo đàn bà con gái thì không có thắt lưng, quần không có hai ống, từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế. Bọn hát xướng ở hý trường thì không theo cấm lệnh này. Ai trái lệnh (…) bắt được quả tang sẽ phạt năm quan cổ tiền, nộp vào công khố.” Tavernier trong Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin (1681) tả y phục phụ nữ miền Bắc là “trang trọng và nhã nhặn. Nam nữ mặc tựa như nhau. Áo dài chấm gót, giữa có buộc thắt lưng bằng lụa, xen lẫn kim tuyến và ngân tuyến, mặt trái mặt phải đều đẹp như nhau (…) Họ sản xuất rất nhiều tơ tầm, dân chúng giầu cũng như nghèo đều mặc tơ lụa.” Ông còn vẽ cả tranh minh họa. Tavernier đã đi du lịch nhiều nơi nhưng chưa đặt chân đến Bắc kỳ, những chi tiết viết trong sách dựa vào sự hiểu biết của người em ông đã nhiều phen đến Đàng Ngoài, và những lần ông nói chuyện với người Bắc mà ông gập ở Batavia. Thế kỷ 18 – cũng vì thế nên S. Baron, sinh trưởng ở Kẻ Chợ (Thăng Long), trong Description du Royaume de Tonquin, dịch sang tiếng Pháp năm 1751, tuy công nhận dân Việt thời ấy, giầu hay nghèo, đều mặc tơ lụa vì giá rất rẻ, nhưng chỉ trích Tavernier là viết sai sự thật. Theo Baron thì y phục người Việt là những chiếc áo dài, tựa như áo Trung quốc, hoàn toàn khác với áo Nhật bản. Tranh của Tavernier vẽ cho thấy người Việt có dùng thắt lưng, đó là điều hoàn toàn xa lạ đối với họ. Baron là con lai, mẹ người Việt, tất hiểu rõ phong tục Việt Nam hơn. * Một số người viết về lịch sử áo dài đại khái như sau: “Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-65) được coi là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam… Cho đến thế kỷ 18 người Việt thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc (Trung quốc)… Để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương ban hành sắc dụ về ăn mặc, lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài, cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong theo đó thi hành.” Đại Nam Thực Lục Tiền Biên có chép sắc dụ này: “Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn, ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép.” Và còn thêm là Lê Quý Đôn, trong Phủ Biên Tạp Lục, chép rằng Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy. Do đó có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cổ truyền, cố định đã ra đời.” Tôi thấy không ổn ở chỗ Chúa Nguyễn muốn giữ “bản sắc văn hóa riêng”, bắt dân cải sửa lối ăn mặc cho khác người Trung quốc mà lại lấy mẫu quần áo từ Tam Tài Đồ Hội của Trung quốc thì không hợp lý. Tôi không còn hai bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Phủ Biên Tạp Lục trong tay nên có nhờ người tìm hộ trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên đoạn nói về sắc dụ của Chúa Nguyễn nhưng không tìm ra. Tôi đến hiệu sách đọc bản dịch khác nhưng cũng không tìm thấy nên chỉ mua Phủ Biên Tạp Lục. Tuy nhiên, tôi lại thấy trong Lịch Sử: Xứ Đàng Trong của Phan Khoang những chi tiết khác hẳn: tr 616-17: Hoàng Ngũ Phúc, năm 1776, sau khi chiếm Thuận Hóa, đã ra lệnh: “Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay dẹp yên biên phương, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Khách thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. May y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hẹp hay rộng tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuông phải may kín, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho, Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen vải trắng tùy nghi. Còn viền cổ hay kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng.” tr 615: tương truyền Đào Duy Từ (1572-1634) bầy mưu chống đối họ Trịnh, khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác dân Bắc như bỏ áo bốn thân, phô bầy yếm, mà mặc áo năm thân gài khuy, bỏ váy mặc quần v.v… Và tác giả cũng cho biết là chép theo Vũ Biên Tạp Lục (Vũ hay Phủ cùng có nghĩa là “ vỗ về” (yên dân). Tôi tìm trong Phủ Biên Tạp Lục, lại thấy có sự bất ngờ khác: tr 241: “Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu. Áo mão chế theo sách Tam Tài Đồ Hội (…)” bắt con trai con gái hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam phải đổi cách ăn mặc, dùng áo quần như người Trung quốc, cốt tỏ cho thấy sự thay đổi hẳn lề lối ăn mặc của người xưa. Đàn bà con gái hai xứ phải mặc áo ngắn, chật ống tay như áo của đàn ông (…). Chỉ trong khoảng hơn 30 năm thành thói quen, quên cả phong tục cũ” (tức phong tục miền Bắc). tr 242: “Năm Bính Thân (1776) (3), lập Nha môn Trấn Phủ, quan Hiệp trấn (Lê Quý Đôn) hiểu thị cho dân:”Y phục nước nhà xưa nay vốn đã có chế độ. Địa phương này trước kia đã tuân theo quốc tục (…) chính trị, phong tục phải thống nhất. Những ai hiện nay còn mặc y phục theo người Khách thì phải thay đổi theo quốc tục (…) Áo quần may bằng vải lụa thông thường. Quan chức mới được mặc xen sa, trừu, đoạn (…) Thường phục thì đàn ông đàn bà chỉ mặc áo ngắn tay, cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu liền vào cho kín, không được hở hang. Đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và cửa ống tay hẹp để tiện làm việc cũng được phép. Lễ phục phải dùng áo cổ đứng và ống tay dài hoặc dùng thứ may bằng vải mầu xanh chàm, mầu đen hay trắng tùy nghi. Những ai được dùng áo viền cổ và áo kép đều phải tuân theo hiểu thị từ năm trước mà chế dùng.” Sở dĩ Lê Quý Đôn, Trấn thủ Thuận Hóa năm 1776, phải ra hiểu thị này vì dân chúng Thuận Hóa giầu có, bắt chước nhau ăn mặc xa xỉ, dùng các mầu tươi đẹp. tr 13- Trong bài Tựa Phủ Biên Tạp Lục. Lê Quý Đôn cho biết thêm những điều ông đã thực hành khi cai trị Thuận Hóa, đặc biệt về y phục: “Chuyển đổi cách ăn mặc dị dạng cũ để theo phong hóa chung của quốc triều (…) Khoan thứ cho một thời hạn trước khi bắt buộc ai nấy cùng phải thay đổi hẳn kiểu ăn mặc cũ.” Tôi tin Lê Quý Đôn hơn vì không những ông là người đương thời, người trong cuộc, mà các chi tiết đưa ra có đầu có cuối: vì Chúa Nguyễn bắt dân ăn mặc theo Trung quốc (1744) nên hơn 30 năm sau (1776) khi Lê Quý Đôn vào trấn thủ Thuận hóa mới cải sửa bắt dân trở lại quốc phục. Hoàng Ngũ Phúc là võ tướng chỉ đánh dẹp, việc cai trị là phận sự của quan văn. * Louis-Gabriel MULLET DES ESSARTS tả trong Voyages en Cochinchine 1787-1789: “Áo của phụ nữ xẻ đằng trước từ trên xuống dưới, bắt tréo trước ngực và để lộ chiếc quần lụa. Tôi không dám chắc là họ không có giầy nhưng tất cả những người tôi gập đều đi chân đất, đàn ông cũng như đàn bà.” Thế kỷ 19 * 1828 Vua Minh Mệnh xuống chiếu bắt phụ nữ bỏ váy mặc quần, đã làm đề tài cho bốn câu thỏ giễu cợt ai cũng biết: Tháng tám có chiếu vua ra: Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng. Không đi thì chợ không đông, Đi thì bóc lột quần chồng sao đang? Rành rành “chiếu vua” như thế mà cũng còn có người dậy học trò là lệnh này do thực dân Pháp ban hành! * Michel Đức Chaigneau là con lai, mẹ người Việt, cha là một trong hai người Pháp làm quan với nhà Nguyễn thời Gia Long, Minh Mệnh [Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003). Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003) – DCVOnline]. Sinh trưởng ở Phú Xuân, Chaigneau Đức viết trong Souvenirs de Huê khá tỉ mỉ về y phục phụ nữ Miche Đức Vanier. Nguồn: Jacques-Philippe Potteau chụp năm 1863 nhân dịp Đoàn sứ giả Việt Nam sang Paris. “Vợ những người buôn bán hay công chức nhỏ thì mặc một áo vải ngắn, mầu đen hay chocolat, quần lụa đen hay vải trắng. Dân chúng, thợ thuyền giới hạ lưu, đàn ông như đàn bà, ăn mặc rât tồi tệ. Đàn ông chỉ đánh một cái quần vải trắng hay mầu cháo lòng, dài tới đầu gối, buộc ngang lưng bằng một cái giải rút dài, buông thõng hai đầu ở trước bụng… Có người mặc áo vải ngắn mầu trắng hay nâu, thường là rách rưới, vá víu, dài chưa tới đầu gối, để lộ ống chân rám nắng. Phụ nữ ăn mặc cũng tựa như thế, chỉ khác áo dài hơn, ống tay áo rộng, quần và nón rộng hơn. Từng lớp trưởng giả sang trọng thì mặc áo mớ đôi bằng tơ lụa trông suốt qua được, quần lụa đến bụng chân.” * Thái Đình Lan (1801-1859), người Đài Loan, năm 1835 đi thi Hương rồi về bằng đường thủy, gập bão tố, trôi dạt tới Quảng Ngãi, năm sau mới theo đường bộ trờ về. Đi từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau mới về đến Phúc Kiến, qua 14 tỉnh nước An Nam như Phú Xuân, Nghệ An, Thanh Hóa, Thường Tín, Lạng Sơn, Thái Bình… qua Trung quốc rồi mới về được quê nhà. Ông viết quyển Hải Nam Tạp Trứ, ghi chép những điều mắt thấy tai nghe ở nước Nam. Về y phục ông cho biết: tr 171: “Có hai quan chức đến áp mạn thuyền chúng tôi (để kiểm tra). Họ đều chít khăn lụa đen, mặc áo tay hẹp, quần lụa điều, đi chân trần (các quan Việt Nam đi đâu đều đi chân đất), áo mặc không phân biệt nóng lạnh, ngay giữa mùa đông cũng mặc áo quần lụa mỏng. Người quyền quý phần nhiều dùng hai mầu xanh lam và đen; khăn chít đầu cũng thế, quần thì đều mặc quần lụa điều.” tr 243: “Đàn bà ra ngoài buôn bán, để búi tó, chân đất, dùng vải đũi vấn quanh đầu, đội nón bằng đấu, mặc áo lụa đỏ thẫm, ống tay áo hẹp, áo dài chấm đất, không mặc váy, không thoa son phấn, tay đeo chuỗi ngọc, hạt mã não hoặc vòng đồng.” * Áo giao lĩnh – Chưa rõ xuất hiện từ bao giờ, tôi tạm xếp vào thế kỷ 19 vì được coi là “xưa nhất”, đã ra đời trước áo tứ thân, tuy không ai đưa ra bằng chứng cụ thể. Áo giao lĩnh giống áo tứ thân, chỉ khác hai vạt đằng trước buông thõng, giao nhau chứ không buộc vào nhau ở trước bụng. Có lẽ người ta thấy áo giao lĩnh “lụng thụng”, bất tiện cho người làm việc lao động nên đoán sau đó mới chế ra kiểu áo tứ thân gọn ghẽ hơn. Một phụ nữ miền Bắc trong áo tứ thân, thời kỳ 1919 – 1926. Nguồn: OntheNet. * Áo tứ thân – Là kiểu áo có bốn thân, hai thân của vạt sau nối sống theo chiều dọc, hai thân đằng trước buộc vào nhau ở trước bụng, để hở cho thấy yếm bên trong. Thắt lưng các mầu tươi thắm như hồng đào, hồ thủy, hoàng yến, xanh nõn chuối, lá mạ… luồn dưới vạt sau, buộc múi trước bụng rồi thả xuống. Cái thắt lưng này có thể là cái “ ruột tượng” hay “ hầu bao” hình cái ống dài, ngoài tác dung trang trí và giữ áo cho khỏi lòe xòe còn dùng để đựng tiền, bằng cách thắt một nút rồi đút tiền vào, lại thắt một nút khác để giữ cho tiền khỏi tuột ra, buộc vào lưng thì không sợ tiền rơi hay bị kẻ cắp. Có người giảng “tứ thân” tượng trưng cho phụ mẫu đôi bên, hai thân trước buộc vào nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết, quấn quýt lấy nhau… Thú thật bây giờ tôi mới được biết những lời giảng giải uyên bác này. Thoạt nghe cũng thấy hữu lý nhưng tôi ngờ là do người đời sau bịa đặt thêm vào cho văn vẻ chứ không chắc người sáng chế ra áo đã nghĩ thế, trừ phi là bắt chước Trung quốc. Nếu hai thân trước buộc vào nhau tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết thế thì khi hai vạt áo (giao lĩnh) buông thõng, rời nhau ra, chắc hẳn tượng trưng cho hai vợ chồng đã ly thân? Thế thì áo giao lĩnh phải xuất hiện sau áo tứ thân, không ai ly dị trước khi yêu nhau thắm thiết! * Áo đổi vai – Gần giống áo tứ thân, khác ở chỗ vạt sau không phải chỉ giản dị nối hai thân, mà mỗi thân lại gồm hai mảnh: phía trên vai mỗi thân có chắp một mảnh vải dài độ vài gang tay, nhưng đôi bên so le cái dài, cái ngắn chứ hai mảnh vai trái và vai phải không đều nhau, và thường là vải mầu đậm hơn thân áo, thí dụ áo mầu nâu non thì mảnh trên vai mầu nâu sẫm hay đen. Thời tôi, cũng như áo tứ thân, áo đổi vai đều bằng vải, do người miền quê mặc chứ không phải người thành thị. * Áo ngũ thân – Hai vạt trước và sau đều do hai thân nối sống, dưới vạt cả đằng trước còn một vạt con nhỏ hẹp, dài bằng vạt cả. Ổ lưng chừng vạt con khoảng ngang đầu gối, có đính một cái giải để buộc vào vạt cả, chỗ đường nối sống. Thuở nhỏ tôi đã từng mặc áo “ ngũ thân” mà không biết, chỉ biết gọi là “ áo dài”, mầu áo thế nào cũng không nhớ nhưng nhớ như in là phải “ vất vả” buộc giải vạt con vào vạt cả mỗi khi mặc áo. Có người đoán áo ngũ thân xuất hiện từ thời Gia Long vì mặc nó thì phải mặc với quần chứ không mặc với váy. Nhưng theo Phan Khoang thì loại áo ngũ thân gài khuy mặc vói quần đã do Đào Duy Từ (1572-1634) khuyên Chúa Nguyễn nên bắt dân mặc để khác với tập tục miền Bắc của Chúa Trịnh. Ý nghĩa của áo ngũ thân: bốn thân tượng trưng cho đôi bên phụ mẫu, vạt con tượng trưng cho người mặc áo, năm cái khuy tượng trưng cho ngũ thường của đạo Nho (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Sinh cha mẹ (tứ thân) rồi mới sinh con là hợp lý. Có điều chiếc vạt con này về sau bị cắt ngắn đến thắt lưng, rồi bây giờ biến mất chỉ giữ lại cái mép đủ chỗ để đính khuy thì phải giảng ý nghĩa thế nào cho hợp lý? Tôi đề nghị là tại người mặc áo đã ngả theo đạo Phật nên “có cũng như không” mà “không cũng là có”, “sắc sắc không không”. (Còn tiếp) 1. Nguyên văn câu tiếng Pháp: “Pour le corps elles le couvrent de certains corps de côte, fait en échiquier, tous diversifier en couleur…” Câu này không minh bạch, tôi tạm dịch nhưng không ưng ý.
2. Tiếng Pháp: “Ces habits de la ceinture en bas tout autour tailladez et déchiquetez à belles mouchetures. Si bien qu’allant par la ville ils font parades de toutes ces couleurs mêlées ensemble: que si quelque doux ventelet vient…” Câu này rất tối nghĩa nên tôi bỏ không dịch.
3. Phủ Biên Tạp Lục chép là năm Bính Dần (1746), dịch giả đoán là bản sao chép sai nên đã sửa thành năm Bính Thân (1776) hợp lý hơn vì 1776 Lê Quý Đôn mới làm Hiệp trấn Thuận Hóa và nhận xét: “Trong khoảng hơn 30 năm phong tục đã thay đổi…” trỏ thời gian từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát bắt dân mặc kiểu Trung quốc (1744) đến khi Lê Quý Đôn ra huấn lệnh cải sửa lại,theo quốc phục.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 8:34:34 GMT 9
Áo dài xưa và nay – Những ngộ nhận… (Kết)Nguyễn Thị Chân Quỳnh Áo dài dẹp nhưng chỉ khi đi tha thướt, ung dung chứ đem nó lên sân khấu nhẩy múa, giơ chân lên cao hay chạy nhanh, chân một nơi, áo một nẻo thì không đẹp chút nào. II. Thế kỷ xx – áo Lemur và áo “tân thời” * Áo Lemur – Năm 1934, họa sĩ Cát Tường Lemur đã đưa ra ‘bản tuyên ngôn’ nói rõ quan niệm căn bản của ông về cải cách áo dài, trên tờ Phong Hóa: “Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý dến cái sang cái đẹp của nó làm gì (…). Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu. Y phục của người các nước Âu Mỹ không những rất gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ mà kiểu mẫu lại rất nhiều và rất đẹp. Như thế đủ tỏ rằng họ có một cái trình độ trí thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ. Y phục của các bạn gái, tôi xem thấy có nhiều điều bất tiện mà lại không có vẻ chi là mỹ thuật. Tuy rằng vài năm gần đây cũng có một vài phần sửa đổi (…) chẳng qua chỉ ở mấy cái mầu sắc sặc sỡ, mấy thứ hàng lạ nước ngoài (…) còn thì vẫn kiểu áo lòe xòe ấy, vẫn cái quần lụng thụng đen ngòm ấy. Hoặc giả cũng có người ưa mặc quần trắng song tiếc rằng số đó vẫn rất ít (…). Cần sửa đổi dần:Trước hết phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, mực thước của thân hình mỗi bạn. Sau nữa phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ thuật và lịch sự (…) cũng phải có tính cách riêng của nước nhà.” Cô Nguyễn Thị Hậu – người đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur (Phong Hóa). Nguồn: afamily.vnĐó là phần thuyết lý. Xin sơ lược sau đây những đặc điểm cụ thể của áo dài Lemur. 1. Cổ áo - Cổ bẻ ra theo kiểu tây phương, góc nhọn thì gọi là “cổ lưỡi dao”, tròn gọi là “cổ bánh bẻ”, cổ khoét hình quả tim, buộc giây…, đều mở ở giữa ngực, duy cổ lọ vai bồng mở ở vai bên phải, gài khuy từ cổ tới vai. Hồi nhỏ, khoảng đầu thập niên ’40, tôi đã từng mặc áo cổ lọ vai bồng bằng len đỏ, khuy nhựa của Tây, hình vuông cùng mầu đỏ như áo . 2. Khuy áo - bằng nhựa của Tây, hình vuông, tròn, bầu dục… và có hoa nổi hay chìm, đủ các mầu để chọn tùy theo mầu áo. Loại khuy bằng vải tết lại như Trung quốc không dùng nữa nhưng tôi đã từng mặc áo loại khuy này, gài hay tháo rất khó vì vải rít chặt chứ không trơn như khuy nhựa. Khuy nhựa sau bị thay thế khoảng thập niên ’50 bằng khuy giả ngọc trai do bà Lê thị Lựu vẽ kiểu. 3. Tay áo – Ông Cát Tường nhận xét là tay áo cổ truyền chật hẹp rất bất tiện mỗi khi co tay, và không hợp với khí hậu nóng bức…Tuy nhiên ông có vẽ một kiểu áo dạ hội tay cắt ngắn ở khoảng giữa cánh tay rồi đeo bao tay (gants) dài đến tận giữa cánh tay. Có người khen là trông “rất sang trọng”. Với tư cách là người mặc áo dài tôi cảm thấy thay thế cái tay áo dài bằng cặp gants dài còn nóng bức và bất tiện hơn. 4. Thân áo - Ông Cát Tường cho áo cổ truyền lụng thụng quá, cần phải ôm sát thân người mặc áo thì mới đẹp. Song quần áo không phải chỉ có mục đích che mưa nắng, nóng lạnh và có mỹ thuật như ông nói. Thời xưa, nó còn để che thân, người phụ nữ không được để thân thể lộ liễu cho người ngoài nhìn thấy. Chị cả tôi còn phải nịt ngực, lấy vải quấn quanh ngực mấy vòng, ép xuống cho ngực phẳng lì. Bà Bùi thị Xuân, khi bị Gia Long giam trong ngục trước khi đem hành hình, đã nhờ người mua lụa trắng quấn hết chân tay để khi bị tử hình (voi tung) thân thể có mỗi nơi một mảnh cũng khg bị bộc lộ (Lemonnier de la Bissachère). Nguồn: Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Trên thực tế, áo Lemur chỉ ôm hờ thân người mặc chứ không ôm sát, cứ xem ảnh cưới của chính ông Lemur (1936) cũng thấy rõ cả cô dâu lẫn các cô phù dâu đều mặc áo Lemur nhg nó không ôm sát thực sự như áo dài ngày nay, mà chỉ bớt lụng thụng nhờ cắt lượn theo thân hình chứ xếp nếp (plis) không sâu, có khi không có cả plis nữa. Năm 1952, tôi và các bạn vẫn còn mặc áo không chiết plis. Có thể vì ông Cát Tường chỉ vẽ kiểu yếm chứ chưa nghĩ đến vẽ soutien (có người dịch là “ nịt ngực” e không đúng vì “nịt” có nghĩa là nén ép xuống trong khi soutien nâng ngực cho cao lên). Từ áo Lemur đến áo dài hiện đại có một khoảng xa cách không kém gì từ áo dài lụng thụng tới áo Lemur. 5. Viền tà - Tà áo cổ truyền phải mất 3 đường khâu và một cái nẹp dài để viền tà cho cứng cát, vạt áo sẽ đứng chứ không cong queo. Ông Cát Tường tung ra lối viền tròn như con giun bằng một thứ hàng và mầu khác hẳn mầu áo, giống kiểu viền quần áo ngủ pyjamas, đỡ tốn công hơn và lạ mắt. Mầu viền tà cũng như mầu khuy giống nhau. Tôi cũng có một chiếc áo mầu vàng chanh, hàng Bombay mỏng và mịn, khuy nhựa hình bầu dục và viền tà cùng mầu xanh lá cây. Áo dài Lemur rất được hoan nghênh, thậm chí có cô (?) Phan thị Nga ở Hội An ca tụng không tiếc lời:” Kiểu quần áo Cát Tường đã làm cho chị em thêm diễm lệ ở nét mặt…” (Ngày Nay, số 13, 1935) tôi bội phục trí tưởng tượng của cô. Chắc là khi “ thoa son dồi phấn” kiểu Cát Tường cô sẽ thấy thân hình chị em nở nang, “ có những đường cong tuyệt mỹ” hơn? * Áo Lê Phổ - Áo Lemur tuy được hoan nghênh nhưng cũng bị chê là “lai căng”. Theo Wikipedia thì ông Lê Phổ, cũng năm 1934, “đã sửa bớt những nét lai căng, đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn, dung hợp hài hòa. Áo dài đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó.” Phụ nữ trong tà áo dài, những năm 1930. Bức ảnh chụp “Tứ đại mỹ nhân” nức danh Hà Nội một thời, cô Síu Cột Cờ, cô Phượng Hàng Ngang, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy. Nguồn: ttvn.vn/Như vậy có nghĩa là hai vạt dưới của áo Lemur không được tự do bay lượn? Nếu không phải thế thì khác ở chỗ nào? Tôi thấy ảnh cưới ông Cát Tường, rõ ràng hai tà áo phụ nữ đều “ tự do bay lượn”. Theo Hoàng Huy Giang thì Lê Phổ “ bỏ đi những nét Tây phương như không tay, tay phồng, cổ hở, không viền tròn vạt dài v.v… Nhưng đến đầu thập niên ’40, chính tôi còn mặc áo cổ lọ vai bồng và tà áo viền tròn. Tóm lại, tôi vẫn chưa rõ sự khác biệt giữa áo Lemur và áo Lê Phổ, chỉ biết gọi theo mọi người là “ áo tân thời”. Mốt năm 1952, khi tôi sang Pháp, là áo rộng và ngắn đến đầu gối nhưng ngực vẫn xẹp. Mãi khoảng giữa thập niên ’50, mới có cô ca sĩ từ Saigon sang Pháp, lên sân khấu mặc áo dài thực sự ôm sát người, ngực nở nhờ có đeo soutien nâng cao lên và áo chiết plis sâu nên bụng thon. Chúng tôi đều suýt soa là đẹp và… bạo! III. Từ áo Lemur đến áo dài hiện đại (Sau đây phần lớn tôi chép theo người khác vì sống ở Pháp). * Áo dài có thắt lưng. Khi tôi sang Paris được xem bà Anh Trần (sau này làm điêu khắc) mới chế ra kiểu áo dài có thắt lưng sau khi học một lớp dậy cắt quần áo Tây phương. Kiểu áo này không mấy người biết có thể vì không gập cơ hội thuận tiện. Áo dài kiểu Bà Nhu (1963). Nguồn: Tạp chí TIME. * Áo dài kiểu bà Nhu tức bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Năm 1958 bà Nhu xuất hiện trước công chúng với chiếc áo dài cổ hình thuyền (bateau) và tay ngắn. Đấy cũng là một cải cách quan trọng đáng kể vì trời nóng bức mặc áo cổ đứng rất khó chịu. Áo dài tay raglan (1961). Nguồn: Tạp chí TIME. * Áo tay giác lăng (raglan) Khoảng thập niên ’60, hiệu may Dung Dakao ở Saigon tung ra kiểu áo dài tay giác lăng, ráp tay xéo vai khiến cho chỗ nách không còn những đường nhăn nhúm như trước… hàng may áo dầy nhưng tay với ngực lại bằng hàng mỏng hoặc thân áo và hai tay là hai mầu, nút cài từ cổ xéo xuống ôm sát thân hình người mặc từ nách đến eo. Sau đó còn kiểu mini va maxi raglan nữa. * Áo ba tà. Một số nhà may ở Saigon tung ra vào thập niên ’70 kiểu áo ba tà gồm một vạt sau và hai vạt trước với nút gài từ cổ xuống eo mặc với quần ống voi. * 2010. Việt Nam hiện nay cũng có những nhà thiết kế vẽ các kiểu áo dài “mới” như áo không cổ hoặc mình một thứ hàng, hai tay dùng hàng mỏng trông suốt qua được. Phần nhiều mặc áo trơn hay thêu chứ không dùng áo vẽ, và thêu gần kín ngực không còn chỗ để đeo nữ trang. Cũng có kiểu áo dài chui đầu, không khuy… Quần đồng mầu với áo hay mầu khác hẳn như đỏ, vàng, xanh… Kết luận Ông Cát Tường – Lemur có nhiều sáng kiến và tài năng, song những cải tiến mà ông đã thực hiện chưa hẳn theo sát ‘bản tuyên ngôn’ năm 1934 của ông và trừ ý kiến áo dài phải ôm sát thân người thì những cải tiến khác của ông không để lại dấu vết gì nữa. Áo hai vạt, quần trắng, áo mầu đều đã xuất hiện từ trước 1934, ông không phải là người đầu tiên đã “biến cái áo từ thân ra áo hai vạt” hiện nay. Các thí sinh trong cuộc thi Miss Áo dài 2012. Ảnh: BTC. Cái áo hiện nay có vẻ đẹp riêng của nó nhưng ta cũng không nên quá tôn vinh nó, các nước khác cũng có áo đẹp và nhiều áo đẹp. Áo dài dẹp nhưng chỉ khi đi tha thướt, ung dung chứ đem nó lên sân khấu nhẩy múa, giơ chân lên cao hay chạy nhanh, chân một nơi, áo một nẻo thì không đẹp chút nào. Người ngoại quốc khen áo dài vì thực sự thích nó cũng có và cũng có khi vì họ rất lịch sự, hễ gập là khen bất cứ áo gì mình mặc chứ không chê bao giờ. Ông Cát Tường nói “quần áo là tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước. Nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ cũng đủ hiểu…” Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông. Người mặc áo đẹp chưa hẳn đã là người có văn hóa. Tôi nghĩ là ông sống ở thời người Việt đang chán văn minh “cũ rích” cổ truyền và đang ngưỡng mộ văn minh mới lạ của Tây phương nên ông chịu ảnh hưởng của thời đại và đôi khi quá thán phục nên đi quá đà. Cái “mề đay” nào cũng có mặt phải mặt trái. Nếu ông sống khoảng thập niên ’80 ở Pháp ông sẽ thấy giới trẻ đua nhau mặc jean nhưng mua quần mới về lại đem mài, cắt cho rách bươm và giặt đủ mọi cách cho cũ bạc đi mới đem ra mặc. Áo thì lục tìm trên gác xép những áo cũ của cha ông để lại, những cái sơ mi đàn ông vừa dài vừa rộng thùng thình, làm gì có eo có ngực, có những “đường cong tuyệt mỹ”? Chẳng lẽ nó cũng phản ánh sự tiến bộ, văn minh của Pháp? Còn “mỹ thuật”? Ông Cát Tường chê áo Việt Nam lòe xòe, lụng thụng, không “mỹ thuật”, nhưng tôi lại thấy áo tứ thân, áo giao lĩnh cũng như áo dài đều đẹp cả, mỗi cái một vẻ. “Nhân tâm tùy thích”, khó mà tranh cãi. Tóm lại, ông Cát Tường không phải là người đã biến cái áo tứ thân thành áo hai vạt, ông thực sự có công đóng góp cho áo dài hiện đại song ông chỉ là một mắt xich trong chuỗi dài những người không để lại tên tuổi nhưng cũng góp phần cải sửa, giúp cho cái áo dài mang hình dáng hiện nay. Chúng ta “ tri ân” ông nhưng chúng ta cũng không quên những người “vô danh” ấy. Hà Nội, tháng 12, 2010 Nguồn: ÁO DÀI XƯA VÀ NAY – NHỮNG NGỘ NHẬN… Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Chim Việt Cành Nam. DCVOnline minh họa thêm. Sách báo tham khảo - BARON, Samuel, Description du Royaume de Tonquin. Traduction de l’anglais par H. Deseille. Reproduite par la Revue Indochinoise (première traduction publiée par l’abbé Prévost en 1751). - BORRI, Christoffe, Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine. Traduite de l’italien du Père C. Borri, Milanais, qui fut un des premiers qui entrent en ce Royaume, par le Père Antoine de la Croix, de la même Compagnie. Rennes, Jean Hardy, M DC XXXI (1631). - CHAIGNEAU, Michel Đức, Souvenirs de Huế. Paris, M DCCC LXVII (1867). - Forum Diễn Đàn sách xưa (net) 1-8-2009, “ Họa sĩ NGUYỄN CÁT TƯỜNG – LEMUR” - HOÀNG HUY GIANG, Tà áo bay trên trời quê đất khách: chimviet.free.fr/quehuong/chung/hhgn050.htm- LÊ QÚY ĐÔN, Phủ Biên Tạp Lục, Phần 1 & 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007. Bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần. - Pierre Jacques LEMONNIER de la BISSACHÈRE, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine,d’après les manuscrits des Archives des Affaires Etrangères, 1807. - Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính – Dịch giả Nguyễn Sĩ Giác. Saigon: Trường Luật khoa, 1961. - Louis-Gabriel MULLET DES ESSARDS, Voyage en Cochinchine 1787-1789. Retranscrit par son descendant Bruno BIZALLION. Les Editions de Paris, 1996. - NGÔ THÌ SĨ, Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu. Saigon, 1960. San Jose, Hoa Ký: Văn Sử tái bản, 1991. - NGUYỄN CÁT TƯỜNG. Y phục của phụ nữ, Thế Kỷ 21 số 201 &202, tháng giêng và tháng hai, 2006, in lại báo Phong Hóa, 1934. - NGUYỄN TẤT ĐẠT, “ Bố tôi, họa sĩ “ Lemur-Nguyễn Cát Tường”. Xuân Bính Tuất, 20-1-2006. Forum Diễn Đàn 01/08/2009 - NGUYỄN TRỌNG HIỀN, Tiểu sử và sự đóng góp vào văn hóa Việt Nam của họa sĩ Nguyễn Cát Tường-Lemur. Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006. - PHAN KHOANG, Lịch sử: Xứ Đàng Trong (1558-1777), tập 1 & 2. Houstan, Texas: Xuân Thu tái bản, 1991 (?). - TAVERNIER, J.B., Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin. Texte de 1681, reproduit par la Revue Indochinoise, Octobre, 1908. - THÁI ĐÌNH LAN, Hải Nam Tạp Trứ. Dịch giả Ngô Đức Thọ. Nhà xuất bản Lao Động, 2009. - VŨ NGỌC TRUY, Áo dài Lemur, Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006. - WIKIPEDIA (Bách Khoa Toàn Thư mở), Áo dài – Lịch sử.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 2, 2013 10:21:49 GMT 9
Rủ nhau đi cầuNguyễn Dư Nói chung, dân ta thích... đi cầu. Đi nhiều kiểu, dùng nhiều cầu khác nhau. Cái thì bắc qua sông, qua lạch để lối xóm qua lại thăm hỏi nhau. Cái thì dựng trên mặt nước để ngồi ngắm mây bay rác nổi, buông xả chất chứa trong lòng. Có cái dẫn dắt vào cổng hậu công đường để thầm thì bàn tính đại sự. Xưa kia, ta chỉ làm được cầu bé và ngắn. Xây bằng đá, bằng gạch hay đóng bằng gỗ, bằng tre. Gặp khúc sông rộng khó bắc cầu thì dùng thuyền để qua. Lâu lắm rồi, tôi được nghe 2 câu hát ru em: Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Mấy chục năm sau, đọc sách Tục ngữ, phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1), gặp lại 2 câu hát trong một bài thơ 4 câu: Bồng bồng mẹ bế con sang, Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo. Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Đọc một lần thấy hơi ngang tai. Đọc hai lần thấy bực mình như nhai phải sạn. Bài thơ kể chuyện bà mẹ bế con sang nhà một ông thầy để xin học cho con. - Về mặt hình thức, câu thơ thứ ba lạc vận, không đi với câu thứ nhì. - Nội dung không trình bày đúng tình trạng xã hội phong kiến. Ngày xưa học trò phải hầu thầy, làm việc nhà cho thầy, trước khi được học chữ. Đứa bé trong câu chuyện còn phải bế ẵm, đi đái đi iả phải có người lau chùi thì thầy nào dám nhận? Một điều vô lí khác là mẹ phải lo chuyện chữ nghĩa thánh hiền cho con. Ới cụ Khổng ơi, cái khuôn vàng thước ngọc nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô của cụ mất thiêng rồi. Bố thằng cu Tu thân, tề gia kiểu này thì làm sao mà bình thiên hạ được? May quá, nỗi bực mình của tôi được sách 6 truyện-thơ nôm đầu thế kỷ XX(2) giải toả giùm. Sách này chỉ chép: Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Rõ ràng Nguyễn Văn Ngọc đã ghép mấy câu thơ có nội dung khác nhau thành một bài ca dao ngớ ngẩn, đầu Ngô mình Sở. Bây giờ xin bàn về hai câu hát ru em. Câu thứ nhất hơi khó hiểu. Sang và Kiều nghĩa là gì? - Sang có thể được hiểu theo hai nghĩa: sang trọng hay đi sang thăm nhau. Chữ nôm phân biệt 2 cách viết chữ Sang. Sang (sang trọng) = chữ Cự + chữ Lang. Sang (đi sang) = bộ Sước + chữ Lang. Chữ Sang của câu thơ nghĩa là đi sang. Xin lợi dụng trường hợp chữ Sang để thỏ thẻ rằng không phải lúc nào cũng Nôm na là cha mách qué, trái lại đôi khi Nôm na là cha quốc ngữ. - Kiều, ngoài nghĩa thông thường là cái cầu còn có nghĩa là cây cao (Thiều Chửu), cây cao cành cong (Đào Duy Anh). Cầu kiều là cầu cao, cầu cong. Một kiểu cầu đẹp của ngày xưa. Câu thơ thứ nhất muốn nói: - Đấy muốn sang đây thì phải bắc cầu cao, cầu cong mà sang. Anh ơi, bố mẹ em muốn nhắn anh cái mục môn đăng hộ đối đấy! Anh có đủ sức, đủ điều kiện thì hãy sang chơi! Câu thơ thứ nhì nhắn nhủ: - Ai muốn cho con được học hành tử tế thì phải yêu thầy. Gợi ý như vậy mà vẫn chưa hiểu à? Bố mẹ chậm hiểu như vậy thì làm sao mà con thông minh cho được? Thầy muốn bồi dưỡng, phong bì đấy! Yêu thầy như thể... yêu ma. Mau lên! Hai câu hát của những năm đầu thế kỉ 20 cho thấy tư duy của một lớp người Việt Nam chỉ biết trọng tiền bạc, giàu sang, hành xử bằng thói quen đút lót. Chắc chắn lớp người này thời nào cũng có, kể cả thời nay. Cũng may, từ xưa đến giờ dân ta luôn có nhiều tình cảm sâu đậm hơn: - Ai về cầu ngói Thanh Toàn / Đợi đây về với một đoàn cho vui - Ước gì sông rộng một gang / Bắc cầu giải yếm, để chàng sang chơi - Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu / Cầu tre vững dịp hơn cầu thượng gia. Cầu giải yếm là cầu hẹp. Cầu thượng gia, tên đầy đủ là cầu thượng gia hạ trì (trên là nhà dưới là ao), còn gọi là cầu (lợp) mái hay cầu (lợp) ngói. Huế có cầu Thanh Toàn, Hội An có cầu Nhật Bản... Hai bên vào chùa Thầy (Hà Tây) mỗi bên có một cầu thượng gia hạ trì. Đáng tiếc là người viết bài giới thiệu lịch sử chùa Thầy lại gọi là cầu thượng gia hạ kiều (trên là nhà dưới là cầu). Dưới cái cầu là... cái cầu ! Ngày xưa ta không có cầu... hai tầng như vậy. Thôn quê có cái cầu ao gần gũi, gắn bó với mọi người. Giã ơn cái cối cái chày Đêm đêm giã gạo có mày có tao Giã ơn cái nhịp cầu ao Đêm đêm giã gạo có tao có mày Cầu ao không bắc từ bờ này sang bờ kia để qua lại mà chỉ bắc từ bờ nhô ra mặt nước độ một, hai mét để ngồi rửa rau, vo gạo, giặt giũ, tắm gội. Ta có một kiểu cầu tre đặc biệt là cầu khỉ. Tên nghe ngộ nghĩnh. Tự điển Génibrel dịch là: Pont de singes. Pont difficile à passer. Cầu khỉ khó đi thì ai cũng đồng ý. Nhưng nói rằng cầu khỉ là cầu của khỉ, hay được khỉ dùng để qua lại thì nước ta từ xưa đến nay chưa hề có. Làng quê Việt Nam chưa được thấy khỉ... đi cầu bao giờ. - Khỉ (hay Khởi, bộ Tẩu), nghĩa là đứng dậy (khởi nghĩa, quật khởi), bắt đầu (khởi hành, vạn sự khởi đầu nan). Con vật đứng dậy được được ta gọi là con khỉ. Cái cầu có từng cặp thân tre bắt tréo nhau, trông như người đứng dạng chân, được ta gọi là cầu khỉ. Cầu khỉ không dính dáng gì với con khỉ. Miền Nam có một kiểu cầu độc đáo là Cầu tiêu. Thuở ban đầu, cầu tiêu là một bộ phận của nhà sàn trên sông lạch, được dùng làm chỗ đi đại tiện, đi iả, đi cầu. Ngày nay, cầu tiêu được hiểu theo nghĩa rộng. Máy bay trên trời, xe lửa dưới đất, nhà cao tầng ngất ngưởng, chỗ nào cũng dùng cầu tiêu. Cho mãi đến những năm 1965-1970, xóm Thị Nghè vẫn còn cầu tiêu công cộng lộ thiên. Trên là trời, dưới là... rau muống. Văn học có cầu Ô Thước tưởng tượng trên trời. Tục truyền, Chức Nữ là cháu trời, làm nghề dệt vải rất siêng năng. Trời đem gả cho Khiên Ngưu làm nghề chăn trâu. Hai vợ chồng quá âu yếm nhau, không giữ được đúng phép trời. Trời phạt, đem đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà. Mỗi năm trời chỉ cho phép hai vợ chồng qua sông gặp nhau một lần vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch do cái cầu của chim ô thước bắc. Vợ chồng gặp nhau khóc than về cảnh li biệt. Nước mắt chan chứa, rơi xuống trần gian thành mưa dầm tầm tã, tục gọi là "mưa Ngâu tháng bảy" (3). - Nọ thì ả Chức, chàng Ngâu Tới trăng thu, lại bắc cầu qua sông (Chinh phụ ngâm) - Đưa thơ tính đã nhiều lần, Cầu Ô rắp bắc sông Ngân cùng nàng (Phạm Tải Ngọc Hoa) Tỉnh Thiểm Tây bên Tàu có cầu Lam (Lam kiều). Tục truyền nơi đây Bùi Hàng được gặp tiên. Do đó, cầu Lam thường được thơ văn dùng để ám chỉ việc trai gái gặp nhau. - Chày sương chưa nện cầu Lam Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng (Kiều) - Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang (Kiều) Nước ta cũng có cầu Lam (La Sơn, Nghệ An). Cầu Lam của ta không phải là nơi trai gái hẹn hò. Sử nhà Lê, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều chép: Năm 1413, mùa hạ, tháng 4, bọn Trương Phụ nhà Minh đánh vào Nghệ An. Vua (Trần Quý Khoáng) chạy về châu Hoá, sai đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, mang sản vật địa phương tới Nghệ An. Trương Phụ giữ lại. Biểu tức giận mắng Phụ rằng : "Trong bụng thì mưu đánh lấy nước, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa ; đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện không những chỉ cướp lấy vàng bạc châu báu, lại còn giết hại nhân dân, thực là giặc tàn ngược". Phụ giận lắm đem giết (4). Sách Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng (cháu ngoại của Nguyễn Biểu) cho biết thêm nhiều chi tiết: "Khi tới trước quan Trương Phụ bọn giặc bảo Ngài lạy. Ngài đứng trơ không nhúc nhích. Nhân thế giặc đặt tiệc thết, nấu một đầu người mà mời, cốt để dò cho rõ ý Ngài. Ngài tức thì lấy đũa khoét hai mắt, hoà với giấm mà nuốt (trong bản chép có chua thêm rằng: Lúc tiệc bày ra, Ngài cười mà nói: đã mấy lúc mà người Nam lại được ăn đầu người Bắc). Trương Phụ than rằng: "Thực là một tráng sĩ, thấy thế mà không kinh sợ". Giặc biết ngài không chịu khuất, lấy lễ phép mà mời Ngài về. Ngài về tới cầu Lam. Có tên Phan Liêu là con Phan Quý Hựu, người làng Bàn Thạch, huyện Thạch Hà, trước đã hàng với giặc, được làm tri châu Nghệ An và hay cùng giặc vào ra bàn bạc. Nhân đó, Trương Phụ hỏi Liêu rằng Ngài là người thế nào ? Liêu vốn cùng Ngài không thích hợp, nên nói rằng: "Người ấy là một người hào kiệt nước An Nam. Nếu Ngài muốn lấy nước An Nam mà lại thả người ấy ra thì việc làm sao xong được". Trương Phụ cho là phải, tức thì sai người đuổi bắt trở lại (...) . Trương Phụ trói Ngài vào dưới cầu Lam, trước chùa Yên Quốc, rồi đánh chết. Dân gian còn truyền rằng lúc cỗ đầu người đã dọn ra, ông nói đùa một câu (người Nam được ăn đầu người Bắc) và ngâm bài thơ này : Ngọc-thiện, trân-tu đã đủ mùi, Gia-hào thêm có cỗ đầu người. Nem cuông chả phượng còn thua béo, Thịt gũ gan lân hẳn kém tươi. Ca lối lộc-minh so cũng một. Vật bày thỏ-thủ bội hơn mười Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn, Tráng-sĩ như Phàn tiếng để đời (5). Sử không chép truyện Nguyễn Biểu "ăn cỗ đầu người" và làm bài thơ nôm như sách Nghĩa sĩ truyện và truyền thuyết dân gian. Nhiều người khen truyện "ăn cỗ đầu người" hay. Đảm lược đến thế là cùng. Nhưng cũng có nhiều người chê. Không tin chuyện Trương Phụ nuôi người để ăn thịt. Không tin chuyện trước khi nhâm nhi món "giò thủ" xào nấu kiểu Yên Kinh, Nguyễn Biểu còn trêu tức Trương Phụ bằng một bài... thơ nôm! Nghi ngờ cả chuyện người hầu bàn vô danh nào đó chỉ nghe qua một lần mà thuộc lòng được bài thơ để kể lại, chép lại cho đời sau. Con cháu viết gia phả, kể truyện để ca tụng cha ông thì nhiều khi chỉ có chính cha ông mới kiểm chứng được. Lịch sử còn có cầu Giấy (Hà Nội) là nơi ghi 2 chiến công : giết Francis Garnier năm 1873, giết Henri Rivière năm 1883. Các bạn ơi, chắc trong đám tụi mình đứa nào cũng còn nhớ dăm ba câu : - Đây sông Gianh, đây biên cương thống khổ Đây sa trường, đây nấm mộ trời Nam Đây dòng sông, dòng máu Việt còn loang Máu dơ bẩn muôn đời không rửa sạch... (Hận sông Gianh) Chia cắt, chết chóc. Cầu Hiền Lương (Ảnh Văn Bảo) Có ai ngờ mấy trăm năm sau, lịch sử lại có thêm sông Bến Hải, thêm cầu Hiền Lương. Lại chia cắt, chết chóc suốt 21 năm trời (1954-1975). Vợ nhớ chồng: - Cách một con sông mà đó thương đây nhớ Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa Chồng nhớ vợ: - Cầu nối nhịp duyên ta tròn vẹn Dòng Hiền Lương mát bến xuôi đò Con sông vẫn đẹp đôi bờ Tấm lòng có một, cơ đồ không hai (Nguyễn Bính, Gửi người vợ miền Nam, 1956) Nam Bắc cùng mơ ngày: - Con sông Bến Hải xoá mờ ranh giới Non sông nước Việt ngày hết chia đôi Tình Trung Nam Bắc thống nhất giang san Nắm tay kết đoàn niềm vui hân hoan... Vào những năm 1960, chương trình Nhắn qua Bến Hải của đài phát thanh Sài Gòn réo rắt Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Bố nói với mẹ: Ngày về của Hoàng Giác nghe thật thấm thía. Bà còn nhớ Hoàng Giác, con rể bác Thanh Hàng Lọng không ? Chả biết hai bác bây giờ ra sao, có còn xưởng làm đồ chơi cho trẻ con không? Mẹ chép miệng, thở dài... Một chiếc cầu lịch sử khác của thời kì chia cắt thỉnh thoảng được nhắc tới: Năm 1964, Nguyễn Văn Trỗi mưu tính gài mìn cầu Công Lý (Sài Gòn), chờ lúc xe hơi chở bộ trưởng bộ quốc phòng Mỹ McNamara đi qua thì cho nổ. Nhưng chuyện không thành, Nguyễn Văn Trỗi bị chính quyền Việt Nam Cộng Hoà bắt và xử bắn tại khám Chí Hoà. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, hơn nửa thế kỉ rồi mà hình ảnh 2 cái cầu Thị Nghè năm xửa năm xưa vẫn còn chập chờn trong trí nhớ. Cái cầu Thị Nghè thứ nhất nằm trên đường Hồng Thập Tự (Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày nay). Suốt năm học đệ thất trường Trần Lục, tôi đi bộ qua lại không biết bao nhiêu lần trước cái cổng có lính gác, được người ta "ghi nhớ mãi hình ảnh của em Lê văn Tám tự tẩm dầu xăng châm lửa đốt thành cây đuốc sống xông thẳng vào thiêu huỷ kho xăng, đạn của giặc (Pháp) ở Thị Nghè" (6). Một vài sử gia đã lên tiếng đính chính, sửa sai chuyện này. Không biết đã ngã ngũ chưa? Dân Thị Nghè ngày xưa được chứng kiến nhiều biến cố. Mỗi lần đảo chính, quân đội từ Biên Hoà, Thủ Đức ầm ầm qua cầu Thị Nghè, tiến về Dinh Độc Lập. Máy bay bỏ bom Dinh Độc Lập cũng bay qua đây. "Phụ nữ bán quân sự" của bà Nhu cũng chọn Thị Nghè làm chỗ đóng trại, tập luyện. Cái cầu Thị Nghè thứ hai toạ lạc trong sở thú (thảo cầm viên). Tuy chẳng đóng vai trò gì quan trọng nhưng cầu cũng nổi tiếng... kinh khủng! Cầu nối sở thú với làng Thạnh Mỹ Tây, nằm gần trường tiểu học của làng. Nhớ lại những lần tan học, đi vòng sang sở thú. La cà. Thủng thẳng. Thú ơi là thú! Nhưng một ngày kia, một tai nạn khủng khiếp, thảm thương đã xảy ra tại cầu Thị Nghè này. Năm đó, không nhớ rõ năm nào, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức Hội chợ Thị Nghè tại khu vực trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây. Quảng cáo rầm rộ cả tháng trời. Ngày khai mạc, rất đông người đi xem. Lối vào hội chợ được đặt tại đầu cầu phía Thạnh Mỹ Tây. Người đi xem bắt buộc phải vào sở thú, đi qua cầu. Anh em tôi len lỏi mãi mới tới được chân cầu. Nghển cổ nhìn, bốn phía chỉ thấy người. - Không lên được đâu. Chờ cho bớt người... Nhưng người đi xem cứ ùn ùn đến. Chẳng bao lâu, cả trên cầu lẫn dưới chân cầu đều chật cứng người. Cười đùa vui nhộn. Nhạc vang trời. Bỗng có tiếng kêu, tiếng hét phía trên cầu. Dường như có người bị ngạt thở. Nhưng dưới cầu vẫn tiếp tục cười đùa, chen lấn lên cầu. - Trời đất ơi! Có người bị dẫm chết! Có người rớt xuống sông! Đừng lên! Đi xuống! Kêu gào, xô đẩy mãi mới chặn được dòng người chen lên cầu. Người ta khiêng người chết, người bị thương xuống, đặt nằm cạnh chân cầu. Tôi hoảng sợ, nắm tay anh đòi đi về. Hôm sau, báo chí cho biết nguyên nhân chỉ vì ban tổ chức chỉ cho mở một cửa nhỏ để dễ kiểm soát người ra vào. Báo chí không cho biết số người chết và bị thương. Tín ngưỡng dân gian có cầu Vòng, cầu giải oan. Những kẻ độc ác, giết người lúc chết hồn bị đày xuống âm phủ, phải đi qua cầu Vòng. Cầu trơn, ai ngã xuống sẽ bị thuồng luồng, chó ngao cắn chết. Cầu giải oan là cầu làm cho hồn người chết đuối dùng. Cầu gồm 2 phần: - Một chiếc cầu bằng vải, bắc từ bàn thờ đặt trên bờ ra đến chỗ người bị chết đuối. - Một cái thang bằng thân chuối, bắc từ dưới nước lên đến chiếc cầu vải. Pháp sư, thầy cúng làm lễ. Hồn người chết đuối, chết oan, sẽ leo thang chuối, lên cầu vải, đến trước bàn thờ để được cầu siêu, được giải oan. Thời bình, cầu được bắc để đi. - Qua cầu dừng bước trông cầu / Cầu bao nhiêu dịp em sầu bấy nhiêu Cầu là nơi trai gái hẹn hò, gặp gỡ : - Yêu nhau cởi nón trao nhau / Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay Nhiều người táo bạo hơn, cởi cả áo, cả nhẫn trao nhau. Về nhà mẹ hỏi, thưa rằng qua cầu gió bay. Bà mẹ nào ngây thơ mới tin cô con gái... phải gió, để bay cả áo, cả nhẫn. Cứ đà này thì coi chừng có ngày bay cả quần đấy. Mẹ con chỉ còn nước nhìn nhau cười trừ. Thời chiến, phải phá cầu để địch không tải lương, chuyển quân được. Ngày diệt quân Pháp tan ... Dân tưng bừng chặt tre, phá cầu Đào hào đắp luỹ xây hầm sâu Giặc chưa tan chiến đấu chưa thôi Đồng quê chào đón ngày mai (Văn Cao, Làng tôi) Cầu Hàm Rồng (làm năm 1904) bắc qua sông Mã của tỉnh Thanh Hoá chiếm một vị trí rất quan trọng. Thời bình thì : Ai xui ta nhớ Hàm Rồng, Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây. Từ ta trở lại Sơn Tây, Con đường Nam, Bắc ít ngày vãng lai. Sơn cầu còn đó chưa phai ? Non xanh còn đối ? sông dài còn sâu ? Còn thuyền đánh cá buông câu ? Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa ? (...) (Tản Đà, Nhớ cảnh Hàm Rồng) Thời chiến, cầu cần thiết cho vận chuyển quân sự. Vì vậy mà cầu lập được "kỉ lục" bị bom đạn đánh phá nhiều lần nhất, và lần nào cũng được sửa chữa nhanh chóng nhất để việc chi viện quân sự không bị gián đoạn. Rất nhiều cầu bị bom đạn, chiến tranh tàn phá. Nhưng bom đạn không huỷ diệt được sức sống và niềm tin của người Việt. Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, Tôi sẽ đi thăm, cầu gãy vì mìn Đi thăm hầm chông và mã tấu... (Trịnh Công Sơn, Tôi sẽ đi thăm) Hố bom rộng toang hoác được dân làng "thời kì đồ đá" chứa nước mưa thay cái ao làng. Bắc cầu hố bom để ngồi rửa bát. Tất cả các cầu to lớn bằng sắt thép bắc qua sông Hồng, sông Hương, sông Sài Gòn... đều là do thực dân Pháp làm vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Năm 1954, tôi được qua cầu Gia Lâm (cầu Doumer, Long Biên, làm năm 1903). Sau ngày kí kết hiệp định Genève, sở Vô tuyến điện Hà Nội tuyên bố sẽ chuyển vào Sài Gòn. Nhân viên ai đi theo sở thì sẽ được bảo đảm tiếp tục công việc đang làm. Bố mẹ và anh Ph. bàn tính, không cho trẻ con biết, cuối cùng quyết định cả nhà di cư vào Nam. Anh Ph. sẽ đi trước với tổ chức của học sinh, sinh viên. Bảy đứa từ anh D. trở xuống sẽ đi với bố mẹ. Còn lại anh Đ. chờ giải ngũ, sẽ đi sau. Tôi chưa hiểu được những lo buồn của người lớn. Chỉ thấy từ Bờ Hồ xuống phố Huế, từ Lò Đúc sang chợ Hôm đến tận hồ Ha-Le (Halais, hồ Thiền Quang) mọc lên nhiều chợ trời. Hà Nội... vui quá ! Người qua lại ồn ào, nhốn nháo. Tối tối xe nhà binh chạy qua nhà, rẽ sang phố Trần Hưng Đạo. Có tối thấy cả lính tây, lính ta tụ tập trên vỉa hè gần nhà. Sáng ra, thấy nhiều viên đạn còn mới toanh vứt ở gốc me, có viên rơi xuống miệng cống. Một hôm tôi được bố chở bằng xe đạp Peugeot ghé vào chợ trời, xì xào với mấy người lạ. Đến ngã năm Gia Long, bố lại ngừng xe, nói chuyện với một người. Rồi bố đưa xe cho người này. Hai bố con đi bộ về nhà. Bố nói xe bán rồi. Tôi được mẹ dắt về Hoàng Mai thăm bà nội và hai bác dưới làng. Mẹ nói sở đổi bố đi xa một thời gian. Bà nội vừa khóc vừa bù lu bù loa. - Bà biết vợ chồng chúng mày dắt nhau vào Nam. Chúng mày đưa cháu bà vào "bãi cháy" cho mà chết hết. Mẹ nói lảng sang chuyện khác. Hỏi thăm hai bác độ này ra sao. Trước khi ra về, mẹ đưa tiền cho bà. Độ một tuần sau, hôm ấy trời chưa tối mà bố mẹ đã đóng cửa. Bố mẹ và anh D. lục đục lôi hai cái hòm, mấy cái gói, từ phòng trong ra xếp vào một góc phòng khách. Sau bữa cơm chiều bố mẹ dặn tối nay không đứa nào được đi ngủ, phải sẵn sàng chờ ôtô đến đón. Tôi nôn nao, thấp thỏm chờ được đi ôtô. Thích quá! Chưa bao giờ được đi ôtô. Tối khuya, một chiếc ôtô nhà binh che bạt xịch đỗ trước cửa. Gia đình tôi khuân đồ đạc, leo lên. Trên xe có nhiều người cùng đi. Tôi bị nhét lọt thỏm giữa đám người lớn. Xung quanh được nêm chặt, có bị xô đẩy cũng không ngã. Chiếc xe chật ních người được lệnh chạy. Thỉnh thoảng lại lắc lư như người say rượu. Mấy tấm bạt bị gió thổi, đánh phần phật. Tôi nghển cổ nhìn nhưng không thấy rõ đường phố. Mẹ lẩm bẩm nói một mình. Phố Ngô Quyền nhà mình... Sắp tới bờ sông... Cầu Gia Lâm... Chịu, không biết đây là đâu... Một lát sau, xe ngừng. Có tiếng nói: - Đến sân bay Gia Lâm rồi. Ai muốn iả đái thì xuống xe, đi cho nhanh, rồi về ngay kẻo lạc. Nhớ, xe mình là xe số 4. Bạt xe được vén lên. Trời tối om. Không thấy nhà cửa, chỉ thấy lấp ló ôtô. Gần sáng bỗng mọi người nhốn nháo. Có lệnh xuống xe để ra máy bay. Tôi lại được một phen khấp khởi mừng vì sắp được đi máy bay. Ồ ! Máy bay to quá. Bên trong có hai hàng ghế vải hai bên nhưng cái nào cũng bị móc lên, không cho ai ngồi. Lòng máy bay rộng thênh thang, tha hồ chất người và đồ đạc. Người ngồi, nằm, đứng. Đồ chất lộn xộn, ngổn ngang. Máy bay cất cánh. Chóng mặt, buồn nôn. Chẳng hiểu tại sao thỉnh thoảng máy bay lại bình bồng, tụt xuống, ngoi lên làm nhiều người nôn oẹ, khạc nhổ, mật xanh, mật vàng. Tiếng quát mắng trẻ con, tiếng khóc mếu đòi đi tè... Thế rồi... máy bay chúc đầu, hạ cánh. Mọi người thở phào, mặt mày bơ phờ. Ngoài trời nắng chang chang. Nhiều người, nhiều xe dưới sân... Gia đình tôi được đưa về "trại di cư Phú Mỹ" (Thị Nghè). Lần đầu tiên tôi được đi ôtô, được qua cầu Long Biên, được đi máy bay. Tháng 7 năm 1990, tôi mới được tận tay sờ thành cầu Long Biên. Cầu hư hỏng nhiều, nhưng xe cộ và người đi bộ vẫn qua lại tấp nập. Hà Nội xây thêm cầu Chương Dương. Đứng trên cầu Chương Dương nhìn cầu Long Biên, nhìn nước lũ dâng cao xấp xỉ mái nhà ven sông. 36 năm trời xa cách. Hà Nội ơi! Học trò năm xưa rỉ tai nhau một... giai thoại. Thời còn trường Pháp. Trong một kì thi vấn đáp, thầy Lang Sa hỏi trò An Nam : cầu dài nhất Đông Dương do Pháp xây là cầu nào ? Trò lầm bầm: "Đ.M...". Vừa buột miệng thì biết là lỡ lời, trò bỏ dở câu nói. Thầy đập tay xuống bàn, trò giật mình, hết hồn. "Très bien! Le pont Doumer" (Giỏi ! Cầu Đu Me). Ra khỏi phòng thi, trò phấn khởi khoe bạn bè: - Đ.M. hên thiệt ! Định chửi thề "Đ.M. hỏi gì mà khó dzậy". Chưa nói hết câu đã được khen ! Cầu Tràng Tiền (1899) bắc qua sông Hương, Ở đây có nước sông Hương Có cây núi Ngự có đường Nam Giao Bồng bồng sáu nhịp cầu cao Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh Thâm u một dải hoàng thành Đình suông con én không đành bay đi (Nguyễn Bính, Vài nét Huế) Huế đẹp, Huế thơ... Đẹp quá! Nhưng cái đẹp còn tuỳ vào cách nhìn của thi nhân, nghệ sĩ. Cô gái sông Hương văng vẳng điệu hò: - Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch, Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng. Tháp bảy tầng, Thánh miếu, Chùa Ông, Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam toà. Cầu Trường Tiền mười hai nhịp bắc qua, Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, đợi khách âu ca thái bình. (Hò Huế) Chàng trai hờn trách người yêu: - Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp Anh theo không kịp Tội lắm em ơi Bấy lâu mang tiếng chịu lời Em có xa anh đi nữa Cũng tại ông trời nên xa. Huế có 2 cầu Tràng Tiền à ? Ai chưa đến Huế thì khó mà hiểu nổi. Cầu Tràng Tiền do Pháp làm năm 1899, ngày nay vẫn còn đó. Nguyễn Bính đếm được sáu nhịp. Nhưng dân gian vùng sông Hương núi Ngự đếm đi đếm lại vẫn thấy mười hai nhịp. Nói có sách, mách có chứng. Nhưng sách nào đúng, chứng nào sai ? Nguyễn Bính không biết đếm hay dân gian "nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ" đã nhìn một hoá hai ? Xem ảnh, nhìn tận mắt thì rõ ràng cầu Tràng Tiền chỉ có sáu vòm sắt thép uốn cong. Đang phân vân thì được nghe Bách Khoa Toàn Thư giải thích: - Nhịp là khoảng cách giữa hai mố cầu hay khoảng cách của một đoạn cầu, vài vốn là "vì" (nghĩa là kèo) đọc trại mà thành (...). "Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp" là câu nói tu từ của tác giả dân gian, không nên hiểu đơn thuần theo nghĩa tường minh là cầu có sáu vài mười hai nhịp (câu này ít nhiều có ảnh hưởng của triết lý Phật Giáo) (7). Tu từ, tường minh, triết lý... Nói tóm lại, dân gian hò, hát "mười hai nhịp" nhưng không nên hiểu mười hai nghĩa là... mười hai. Câu hò, câu hát có vần có điệu, lãng mạn du dương là đủ rồi. Lại còn vẽ vời, đòi hỏi phải đúng sự thật làm gì cho mệt ! Tu từ, tường minh, triết lý... chỉ biết là Nguyễn Bính nói đúng, dân gian hò hát sai. Xưa kia, thỉnh thoảng bọn trẻ chúng tôi rủ nhau đạp xe qua cầu Bình Lợi (1902), rẽ vào chơi núi Châu Thới, suối Lồ Ồ. Rồi thong dong vào thành phố Biên Hoà. Ngồi bờ sông ngắm nhìn thuyền bè... Năm 1990, con tàu Thống Nhất khởi hành từ Hà Nội từ từ qua cầu Bình Lợi... Lữ khách bùi ngùi, cảm động... Thiên nhiên nước ta nhiều sông lạch. Gây khó khăn, trì trệ cho giao thông. - Xe lửa, ôtô chạy ầm ầm như vậy mà ông còn chê là trì trệ à ? Ông thử chạy bộ xem có nhanh hơn không ? Khó khăn à? Xây cầu cho nhiều là xong tuốt! - Vái trời cầu đừng sập, đừng lún... Cầu xiêu, cầu đảo, cầu tài Cầu tiêu vung vãi, cầu khai thật nồng Đi cầu gặp phải quan ông Phân trần không đủ, vỗ mông cười trừ. Nguyễn Dư Lyon, Tết Nhâm Thìn 2012 ________________ (1) - Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ, phong dao, Mặc Lâm tái bản, 1967. (2) - 6 truyện-thơ nôm đầu thế kỷ XX, nxb Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006, tr. 89. (3) - Đinh Gia Khánh, Điển cố văn học, KHXH, 1977, tr. 105. (4) - Đại Việt sử kí toàn thư, tập 2, KHXH, 1967, tr. 246. (5) - Hoàng Xuân Hãn, tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 565-598. (6) - Sài-Gòn thành phố Hồ Chí Minh, nxb Sài-Gòn Giải Phóng tái bản, 1975, tr.40. (7) - Internet, Wikipedia, tháng 7 năm 2011. Cầu Giấy (Ảnh Hocquard) Cầu Long Biên Cầu Bình Lợi - Sài Gòn Cầu Mái - Phát Diệm (Ảnh Võ An Ninh) Cầu Ngói - Huế Cầu Tràng Tiền - Huế Cầu khỉ Cầu treo Lao Chai (Ảnh Võ An Ninh ) Cầu Đá - Hát Giang (Ảnh: Võ An Ninh) Cầu Hiền Lương (Ảnh Văn Bảo) Cầu Hàm Rồng - Thanh Hóa Cầu hố bom - Quảng Trị (Ảnh Văn Bảo) Cầu Thượng Gia Hạ Trì Cầu Giải Oan (Nguyễn Văn Khoan)
|
|